Giống như cái đế tròn của bức tượng Bồ Đề Đạt Ma, trở lại trung tâm của nó, thiền trình bày nền tảng của vũ trụ đến điều mà tất cả sẽ trở lại, như trong cái tĩnh lặng của màn đêm tĩnh mịch nhất, cái tĩnh lặng giữa thủy triều và gió, cái tĩnh lặng trong chốc lát trước khi Tạo Hóa. Trong sự “trống rỗng”này, thể trạng năng động tĩnh lặng này, không có trở ngại, nằm ở thực tại tối hậu, và ở đây tính bản nhiên của chúng ta được tái sinh, trong sự trở lại từ những gì mà người Phật tử nói như “cái chết lớn” (Đại Niết Bàn). Đây là Chân Lý của điều Milarepa đã nói.
Khi trời tảng sáng tiếng lộp độp nhẹ nhàng của cơn mưa rơi trên lều vài, mặc dù đêm qua trời đầy sao, và George, người không thường báng bổ, đang nguyền rủa bên trong lều của ông ta. Ngay khi trời dứt cơn mưa, chúng tôi dẹp nơi đóng trại. Bắt đầu cất bước lên đường. Tôi lập tức gặp con chim đầu rìu, thuần hóa lạ kỳ…Sự gần gũi dạn dĩ ấy phải là một dấu hiệu tốt mà chúng tôi cần đến, vì con chim đầu rìu ấy đi quanh quẩn chung quanh phía trước chân tôi trên cỏ ướt dưới cây sồi giống như nó chờ đợi để hướng dẫn chúng tôi xa hơn.
Lối mòn đi vào một hẽm núi hẹp leo lên một khe nứt giữa hai vồ núi, và khe nứt để lộ tia sáng mặt trời, phủ đầy cánh cổng thiên nhiên với một ánh sáng lờ mờ. Tôi hiện ra trong một thế giới mới và rành rành lộ ra với tôi. Một cung mê của thung lủng đưa tới núi tuyết, vì Hy mã lạp sơn xoắn lại như bộ não, đỉnh Churen Himal lờ mờ trong sương dày đặc rồi biến mất. Một con gà lôi mái và rồi ba con nữa bay xuống khỏi một tảng đá địa y, đối diện với một tràng âm thinh dòn nắc nẻ ngọt ngào; con gà trống đỏ thẳm vẫn đang dấu mình. Xa hơn phía dưới, qua hẽm núi tối thẩm nơi mà ánh sáng mặt trởi không thể rọi tới, một con chó griffon đang khoanh tròn trong cảnh im lặng. Rừng trên đỉnh núi này là cây sồi và cây phong, và một bức màn lá vàng mờ ảo làm dịu những hẽm núi chung quanh: trên một làn gió vàng kim bay đến một mùi đất mùn giàu có của mùa thu.
Bây giờ, George đến, và chúng tôi leo đến 12.000 bộ một cách nhanh chóng. Những lối mòn chung quanh ngọn núi này thì hẹp, không có chỗ cho một bước sai lầm, và tại độ cao này, người ta phải thở ra một hơi dài một cách nhanh chóng. Dần dần, tôi đã học được cách bước đi nhẹ nhàng hơn, đôi chân thả lỏng, hầu như lướt đi, và điều này đã giúp đở rất nhiều trong những lúc chóng mặt. Một số lối mòn men vách đá hẹp hơn hai bàn chân – tôi lượng định nó – và đi dọc bở vực dốc thẳng đứng; và tốt hơn cũng không nên nghĩ ngơi nhiều, vì những triền núi lấp lánh cỏ này quá dựng đứng, vì trống rỗng cây cối hay ngay cả bụi cây, nên một người vấp ngã có thể rơi xuống và lăn tròn hàng nghìn bộ, và rồi rớt vào trong bóng tối nơi mà mặt trời không thể viếng thăm, vì muốn bất cứ thứ gì để nắm bắt và giữ lại.
Cảm giác sợ hãi của tôi bị tệ hại hơn bởi cơn mơ còn rơi rớt lại tối hôm qua. “Cơn mơ…những hiện tượng và tâm thức được thấy như là một là một vị thầy: Ông không hiểu chứ?” tôi không thật hiểu ý tưởng này – thế giới của con người, giấc mơ của con người cả hai đều là những thể trạng của giấc mơ – nhưng Milarepa đã được sự giúp đỡ bằng nhiều cách khác. Trở lại làng sau nhiều năm (ngài được sinh ra khoảng năm mươi dặm về phía Bắc của Kathmandu, về phía Tây Tạng của biên giới hiện nay), Mila khám phá ra xác chết thối rửa của mẹ ngài, không có gì hơn một đống bụi và những mãnh vụn tả tơi trong túp lều sụp đổ, xúc động vì nổi sầu khổ và kinh khủng, ngài nhớ lại những lời dạy bảo của thầy ngài, Lạt Ma Marpa, để ôm ấp tất cả những gì mình sợ hãi nhất hay thấy những gì mình gớm ghiếc không ưa, tốt hơn hãy nhận thức rằng mọi thứ trong vũ trụ, liên hệ không tách rời với nhau, và vì thế là thiêng liêng. Và vì thế ngài đã làm một vật gối đầu với những nổi sầu còn lại của Tràng Hoa Trắng ngày xưa của Nyang và nằm trên ấy trong bảy ngày, trong một thể trạng sâu xa, trong sáng của tam muội. Sự rèn luyện Mật tông này để vượt thắng những ý tưởng ‘kinh khủng’, thường thực hiện trong khi ngồi trên một xác chết hay trong nghĩa địa giữa đêm tăm tối, được biết như ‘cắt ngang tự ngã’ (Chöd). Từ sự tin tưởng sự sống cuối cùng có nghĩa là thực hiện hòa bình với sự chết, tôi thực hiện một số Chöd trung bình của chính tôi, thúc đẩy tôi nhìn lên vách núi thẳng đứng bất cứ khi nào tôi có thể thực hiện được. Những ngày tiếp tục trong tuần lại vây lấy với những tệ hại nhất, và việc làm tôi cứng rắn hơn có thể làm bớt sự sợ hãi đến một sự căng thẳng xấu ác của gờ đá trong những rặng núi cao hơn. Nó giúp để chú ý từng giây phút đến những chi tiết – một mãnh vở của thạch anh hồng, cây dương xỉ màu nâu vàng với bào tử, một đống phân của con ngựa nhỏ pony. Khi con người chú ý đến hiện tại, có một niềm vui lớn trong tỉnh thức của những vấn đề nhỏ; tôi nghĩ đến cảm giác thoãi mái mà tôi có hôm qua trong canh lỏng và những cái bánh cũ mà anh chàng mắc mở Dawa đã đem tới lều tôi.
Cây cối chết trong vườn đá của những cây đổ uyên lùn, cây bạch dương, và màu tro lửa cháy, bắt đầu với dương xỉ dây, cỏ hỏa nhung, hoa trên núi không biết tên, màu xanh khoáng sản. Rồi thì một con chim gõ kiến màu lục sặc sở xuất hiện, và mặc dù tôi biết rằng tôi đang thức, rằng tôi thật sự thấy một con chim như thế, những bông hoa màu xanh dương và con gõ kiến màu xanh lá cây không có thực tại nhiều hay kém hơn con chồn cổ vàng trong giấc mơ của tôi.
Mặt trời đến và đi. Mùa mưa chưa chịu buông tha chúng tôi, đấy gió và thời tiết của miền Đông, nhưng ở miền Nam, bầu trời của Ấn Độ trong xanh. George nói, “Anh có nhận thấy rằng chúng ta chúng ta thậm chí không nghe một tiếng động cơ đằng xa từ tháng Chín hay không?” Và điều ấy đúng. Không có phi cơ bay ngang qua những vùng núi già cỗi này. Chúng tôi đã lạc vào một thế kỷ khác.
Đi bộ du lịch trong thế giới thay đổi của mặt trời, trong tuyết, và mây, quá gần gũi với thời tiết, làm tôi vui; cảm giác không lành mạnh của buổi sáng nay đã qua đi. Tôi muốn đến Tu viện Pha Lê, tôi muốn thấy con beo tuyết, nhưng nếu tôi không thể, cũng tốt thôi. Trong giây phút này, có những con chim – những con quạ chân đỏ, những con chim nhỏ kỳ dị của vùng núi cao này, và một chim ưng nhỏ, làm đen bầu trời, và những con chim sẽ phương Nam hướng xuống chiều gió, trong sự thức tỉnh của chúng là một bài hát rơi rãi. Một con chim chền chện, một con chim én, một con chim kên kên lớn, và một con chim ưng: những con kên kên bay ngang tầm mắt, trên đôi cánh kẻo kẹt.
Phía dưới đường thấp sừng sừng một ụ đá dựng trên đỉnh với những que cây và những giẻ rách, và mở ra một cảnh tượng ở phía Đông cho những sự cúng dường: những giẻ rách hay lá cờ cầu nguyện mang đến may mắn cho người du hành những người đi qua đó lần đầu tiên. Có lẽ bởi vì chúng tôi quên bẳng ụ đá, sơn thần chào đón chúng tôi với một tràng mưa đá rồi nắng, rồi cả hai. Tiếng lộp độp của mưa đá tan dần khi những đám mây chuyển hướng. Chúng tôi chờ. Tukten, một giờ đồng hồ đằng sau chúng tôi, là nửa giờ tốt lành trước những người còn lại, vì cái đau của cậu ta, bị George đánh, như đại diện cho những người khuân vác. Một cách chậm chạp, cậu ta đặt hành lý mà cậu ta đã mang hai nghìn bộ lên đồi, quán sát George một cách điềm tĩnh trong cái quán sát mọi thứ của cậu ta: cảm ơn cho sự đến nơi, và cậu ta đặt một hòn đá trên ụ đá.
Những người Tamang đến, rồi thì những người Tarakot, và chúng tôi đi xuống một thung lũng nhỏ dốc, lởm chởm như bàn chày, nơi mà những người khuân vác quẳng hành lý của họ xuống và bắt đầu nhóm lửa để chuẩn bị buổi ăn đầu tiên trong hai bửa ăn của họ. Sau cuộc leo núi khổ nhọc, điều này dễ hiểu, nhưng sau khi chúng tôi chờ đợi một giờ rưởi, đấy là một sự nãn lòng dễ sợ; trong một cuộc đình hoãn dài, chúng tôi nghĩ rằng họ phải ăn uống. Chúng tôi đã làm khổ họ khi chúng tôi, mỗi ngày, không ăn bửa chính này trước khi khởi hành, khi lửa đã đỏ, và nước sôi; đây là hai giờ dừng lại, nhiều ngày hơn thế, có nghĩa là phí phạm những giờ trởi nắng ấm trên lối mòn và hạ trại trong cơn mưa, lạnh, và gần tối.
Sự trì hoản mới này làm George chán nãn: chúng ta chắc là không gặp những con cừu màu xanh dương nếu chúng ta không di chuyển nhanh hơn. Nhưng những người khuân vác có thể thấy tuyết đang phủ cuối phía Bắc của thung lủng này; rượt bắt chúng khi chúng ta có thể, chúng sẽ không thể đi xa hơn làn tuyết ấy buổi chiều này.
Đi tới và đi lui, George rầy la Phu-Tsering về việc lãng phí đường và nấu cơm quý giá thay vì dùng khoai tây, là những thứ nặng và vẫn có thể tìm thấy ở địa phương. Kiểu nấu vô tư lự có thể đang bực bội, mặc dù George đã học ở Đông Nepal rằng nụ cười vui vẻ của ông hơn hẳn việc đền bù cho bất cứ sự thất bại nào. Và người Sherpa chấp nhận lời khiển trách của ông ta trong một tâm trạng tốt, vì George ân cần một cách trung thực với cảm giác của họ và quan tâm đến lợi ích của họ, và hiếm khi cho phép bản tính trẻ con hồn nhiên của họ chọc tức ông.
Vì không có bụi rậm ở giữa điểm này và phía đằng xa của Jang La, chúng tôi dọn dẹp những bụi cây phong và đổ quyên và gom lại những đống tre, mà nó ra hoa mỗi mười hai, mười ba năm rồi chết đi cả vùng rộng. Trong chiếc động cạn tôi thấy những bó củi chảy dở bởi những người du hành khác, và cột chúng lại ngang ba lô của tôi với những thứ còn lại.
Lối mòn đi xuống một dòng nước chảy xiết gọi là Seng Khola, dưới mõm đá lờ mờ, trong cái cảnh u huyền này, trong tiếng gầm thét của dòng nước xám, tôi đoán nửa già nửa non rằng nét mặt của thần núi đã nhòm ngó sắc mẽm như dao. Những đám mây rón rén sau chúng tôi , trên hẽm núi, và cho một lần bầu trời trông đầy hứa hẹn phía trước: tia sáng mặt trời chiếu trên tuyết phía đầu của Seng Khola là một mốc hiệu. Rồi thì những giọt mưa xám đầu tiên rơi xuống, cơn mưa lạnh này với làn gió buốt phía sau nó xãy đến cho chúng tôi mỗi buổi chiều. Dòng sông ảm đạm với dòng thác nhấp nhô và đá bọt, trong một vùng đất hoang vu của gốc cỏ úa và đá bạc màu, và tôi tự hỏi tại sao trong nơi ngột ngạt này, tôi cảm thấy quá tràn đầy sự tốt lành cát tường, sãi bước qua cơn mưa, và biết ơn trong một cách không biết gọi thế nào – đến điều gì? Trên lối mòn, bóng cái đầu tóc ngắn gần như đầu của một thầy chùa và quả đấm trong đoạn thơ của tôi vang trong rặng núi tĩnh mịch: tôi cảm thấy được truyền cảm hứng bởi Milarepa như được diễn tả bởi một trong những đệ tử của ngài, bước đi “tự tại như con sư tử tung tăng trên những rặng núi tuyết.”
Ngay lối rẽ của khe núi, người thủ lĩnh của Tarakot đứng đấy, người quấn xà cạp và không mang gì theo trên người. Ông chỉ vào dốc đá mòn qua dòng nước . “Na!” ông hét. “Na!” rồi thì ông đi tiếp. Một hình thể xanh tái nhảy qua rảnh nước, nhanh chóng tiếp theo sáu con nữa; những con thú di chuyển lên dốc đứng đến một vùng lờ mờ màu lá cây giữa những tảng đá và tuyết. Tôi nhìn chúng leo, cho đến khi tại làn tuyết, chúng bị làn mây bao phủ và nuốt mất, những làn mây đã xâm chiếm thung lũng từ phía Nam: tạo vật kỳ diệu màu xanh dương xám bạc là con cừu màu xanh dương với cặp sừng uốn về phía sau, loài cừu của Hy mã lạp sơn - con bharal, trong tiếng Tây Tạng, na – mà chúng tôi bây giờ đã thấy chúng.
Chúng tôi cắm trại trên một mãnh đất bằng gần bờ sông, ngay bên dưới làn tuyết. Một con chim bói cá lặn sâu vào dòng nước lạnh, và một cặp chim đỏ đuôi theo đuổi một con côn trùng chậm chạp nào đó trên tảng đá cuội màu đen. Độ cao gần 13.000 bộ, George nói khi ông ta đi đến; trời tối và lạnh. George cũng đã thấy cừu xanh, và sau này khi lều đã dựng lên, ông đi ra ngoài để tìm thêm. Ông trở lại lúc sẩm tối, vui vẻ - “Dữ liệu đầu tiên trong một tháng rưởi!” ông la lên. Và tôi nói với ông điều khám phá nho nhỏ của tôi. Trở lại phía dưới lối đi có một dấu vết đơn độc, hình như một con chó đã đi qua lối mòn và biến đi mất, không để lại dấu vết gì trên nền đá của cả hai bên. Không có dấu vết gì của con người đã đến đây, trên vùng đất ẩm ướt, và dấu vết ấy vẫn còn tươi. Do thế, một con chó dường như không giống thế, phải nói đấy là con sói, mà vẫn còn hiện diện trên một vùng rộng của Tây Tạng, tôi vẫn chưa xem xét những ngón chân trước trên dấu chân. “Đây là một xứ sở tuyệt diệu cho loài beo tuyết,” George nói. Thủ lĩnh của người Takarot tuyên bố rằng loài beo tuyết hiện hữu ở đây trong vùng Jang, những người biết tất cả Tukten lắc đầu, “Chỉ bên phía Dolpo,” Tukten nói, “không ở Nepal.” Dolpo nằm trên cao nguyên Tây Tạng, và nó làm thôi thích thú khi cậu ta xem nó như một vùng đất ngoại quốc.
Trong cung cách thô thiển của ông ta, chứa chan tình cảm hơn là bất lịch sự, người bạn của tôi, ném đôi mắt trợn tròng qua vành lều của tôi, để bảo vệ đôi mắt của tôi khỏi mặt trời và tuyết ngày mai. Thích thú, tôi nằm thức giấc gần cả đêm, đầu tôi để bên ngoài chiếc lều. Đêm trong vắt, trong thật trong, và rất lạnh. Trước khi trời sáng, màu đen biến thành màu xanh đen qua rặng núi, và rồi ánh sáng rực lửa trên bầu trời.