Bệnh viêm gan B
Asin 25.08.2003 04:23:15 (permalink)
Làm sao biết cơ thể có kháng thể chống virus viêm gan B?

" Theo lời khuyên của một số người, tôi đã tiêm vacxin phòng viêm gan B. Xin hỏi làm sao biết được cơ thể tôi đã có kháng thể chống virus B hay chưa?" .

Trả lời:

Muốn đánh giá hiệu quả bảo vệ của vacxin chống virus B, bạn có thể làm xét nghiệm tìm kháng thể chống HbSAg. Ngưỡng bảo vệ được đa số các nhà khoa học công nhận là 10 mUl/ml. Ở 95% số người có khả năng đáp ứng miễn dịch, thời gian đạt được miễn dịch là khoảng 1 tháng sau 3 mũi tiêm.

Do hiệu quả của vacxin đã được chứng minh rõ nên việc xét nghiệm kháng thể chống HbSAg hiện chỉ đặt ra đối với các đối tượng có nguy cơ cao, cần khẳng định chắc chắn đã miễn dịch với bệnh


Tiêm phòng - cách ngừa bệnh viêm gan B tốt nhấtViệt Nam nằm trong khu vực có tỷ lệ người mang virus viêm gan B cao, cứ 8 người thì có 1 bị nhiễm. Họ có khả năng chuyển sang bị viêm gan mạn tính, tiến triển tới xơ gan và ung thư gan, dẫn đến tử vong sớm do không phát hiện và điều trị đúng cách.

Hơn 80% người mang virus viêm gan B không có triệu chứng rõ ràng, họ vẫn cảm thấy hoàn toàn khỏe mạnh. Chỉ khoảng 20% có những dấu hiệu ban đầu như mệt mỏi, chán ăn, nôn ói... kéo dài trong vài ngày, rồi chuyển sang giai đoạn vàng da, vàng mắt... Viêm gan quá nặng có thể dẫn đến hôn mê và tử vong.

Viêm gan B thường lây qua các con đường sau:

- Truyền máu.

- Tiếp xúc với máu hay các chất dịch của bệnh nhân trong khi da hoặc niêm mạc bị trầy sướt, bị đâm thủng như trong các trường hợp: tiêm chích xì ke, châm cứu, xăm mình, xỏ lỗ tai, dùng chung bàn chải đánh răng, dao cạo râu...

- Qua dụng cụ y tế không đảm bảo vô trùng khi chữa răng, nội soi hoặc nạo thai... ở những cơ sở y tế không đảm bảo.

- Tiếp xúc tình dục với người bệnh mà không dùng bao cao su.

- Đường truyền mẹ con.

Tiêm chủng phòng viêm gan B có thể đạt hiệu quả trên 95% ở trẻ em. Nên cho các cháu tiêm càng sớm càng tốt và tiêm đủ ba mũi. Đối với người lớn, cần làm xét nghiệm trước khi chủng ngừa. Nếu chưa bị bệnh cũng chỉ cần tiêm 3 mũi. Trường hợp quên mũi thứ ba thì trong thời gian 3 năm (kể từ khi thực hiện mũi thứ hai) có thể tiêm tiếp mà không cần lặp lại từ đầu. Khi phát hiện đã bị bệnh, nên theo dõi và điều trị, không cần tiêm chủng.

Thử nghiệm thuốc điều trị viêm gan B từ cây nhân trần

Đó là viên nang Abin, thuốc điều trị viêm gan B cấp tính do Viện Dược liệu (Bộ Y tế) sản xuất. Các thử nghiệm trong vòng 3 năm qua cho thấy, Abin giúp làm giảm các triệu chứng lâm sàng (chán ăn, mệt mỏi, rối loạn tiêu hoá, vàng da, đau tức hạ sườn, gan to) nhanh hơn so với thuốc điều trị cơ bản.

Ở những người dùng loại thuốc chiết xuất từ cây nhân trần kể trên, các chỉ tiêu xét nghiệm sinh hoá phục hồi sớm hơn, thời gian điều trị cũng ngắn hơn so với nhóm đối chứng (dùng thuốc điều trị cơ bản). Riêng chỉ tiêu mất HBs-Ag không khác nhau giữa 2 nhóm. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu chưa phát hiện tác dụng phụ nào đáng kể ở bệnh nhân được điều trị bằng Abin.

Các thử nghiệm này được thực hiện trên 180 bệnh nhân (phần lớn ở tuổi dưới 40) viêm gan B ở mức nhẹ và vừa tại Viện quân y 103, 108 và 109.

[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/upfiles/80/Mk26172.jpg[/image]
Attached Image(s)
#1
    Asin 28.08.2003 06:32:03 (permalink)
    DIỄN TIẾN TỰ NHIÊN BỆNH VIÊM GAN B
    1. Nhiễm trùng cấp tính

    Nhiễm SVVG B cấp tính có biểu hiện giống cảm cúm, thỉnh thoảng có cảm giác buồn nôn, ói mửa. Ðôi khi, nhiễm trùng cấp có thể nặng hơn với triệu chứng vàng da, vàng mắt, đau bụng, nước tiểu sẫm màu.

    2. Nhiễm trùng mạn tính

    90% trường hợp nhiễm SVVG B ở tuổi trưởng thành sẽ hồi phục hoàn toàn và không bao giờ bị siêu vi quấy rầy lại. Chỉ có 10% chuyển thành " người mang trùng mạn tính" .

    Tuy nhiên, ở trẻ nhiễm siêu vi B từ lúc mới sinh, bệnh diễn biến khác hẳn. Khoảng 90% số trẻ này sẽ trở thành người mang bệnh mạn tính. Giai đoạn này kéo dài nhiều năm, có thể không có biểu hiện lâm sàng, cuối cùng dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng như xơ gan, có nước trong ổ bụng, chảy máu đường tiêu hóa do vỡ mạch máu bị giãn, ung thư gan.

    Nói chung, khi bệnh đã tiến triển đến giai đoạn xơ gan, chức năng gan khó có thể hồi phục, ngay cả khi tình trạng viêm gan được cải thiện. Vì vậy, các thầy thuốc thường điều trị bệnh sớm nhằm ngăn ngừa hoặc làm chậm quá trình xơ gan.

    CHẨN ÐOÁN VIÊM GAN SIÊU VI B
    XÉT NGHIỆM MÁU

    Bệnh viêm gan B có thể chẩn đoán bằng xét nghiệm máu tại bệnh viện hoặc phòng khám bệnh. Cũng có thể tình cờ phát hiện bệnh tại Trung Tâm Truyền Máu-Huyết Học khi Bạn tới cho máu. Xét nghiệm HBsAg dương tính có thể do:

    1. Nhiễm siêu vi B mạn tính tiến triển: Siêu vi đang nhân đôi, đang tăng sinh, gây ra phản ứng viêm kéo dài trong gan.

    2. Nhiễm trùng đã qua: Một số người hiện tại không có viêm gan, nhưng đã tiếp xúc với SVVG B trong quá khứ, tạo ra đáp ứng miễn dịch và thải trừ hoàn toàn siêu vi B.

    3. Người lành mang mầm bệnh: Ðó là những trường hợp không có bằng chứng viêm gan, nhưng cũng không đào thải hết siêu vi ra khỏi cơ thể. Họ mang siêu vi B trong người và có thể truyền sang người khác, mặc dù bản thân họ không có biểu hiện bệnh.

    KHÁM CHUYÊN KHOA GAN
    Nếu xét nghiệm máu HBsAg dương tính, bạn nên đến gặp Bác Sỹ có kinh nghiệm để được khám bệnh và phân tích kỹ hơn. Lúc này, cần xác định liệu có tình trạng viêm gan đang tiến triển hay không. Nếu có, cần làm thêm:

    1. Xét nghiệm đánh giá chức năng gan

    2. Siêu âm gan: Phân tích cấu trúc của gan và các bộ phận xung quanh, tìm dấu hiệu xơ gan hoặc biểu hiện bất thường khác.

    3. Nên làm thêm xét nghiệm sinh thiết gan, đồng thời tìm HBV DNA trong máu.
    LỜI KHUYÊN CHẾ ÐỘ ĂN VÀ LỐI SỐNG
    Chế độ ăn

    Nếu Bạn là người lành mang mầm bệnh, Bạn nên hạn chế uống rượu. Người nghiện rượu mắc bệnh viêm gan B thường hay bị xơ gan hơn. Chế độ ăn bình thường là thích hợp với hầu hết trường hợp viêm gan siêu vi B. Khi có xơ gan, Bác Sỹ khuyên Bạn nên giảm muối trong chế độ ăn.

    Lối sống

    Người bị nhiễm SVVG B thường lo lắng về nguy cơ truyền bệnh sang những người xung quanh. Mối lo này hoàn toàn hợp lý bởi vì siêu vi B lây nhiễm qua tiếp xúc với máu hoặc dịch tiết của bệnh nhân, cũng như do quan hệ tình dục. Hiện nay, đã có vắc-xin chủng ngừa cho những người tiếp xúc với người mang mầm bệnh (bạn tình, trẻ em, cha mẹ, người chăm sóc.).

    Dù sao, người mang mầm bệnh cần có biện pháp đề phòng thích hợp, ví dụ nếu Bạn bị đứt tay, hãy lau sạch máu bằng thuốc sát trùng. Nên sử dụng biện pháp bảo vệ khi quan hệ tình dục.
    Ðiều trị

    Tùy theo quyết định của Bác Sỹ, một số trường hợp cần điều trị sớm và tích cực. Mục đích điều trị nhằm:

    (a) Loại trừ hoặc giảm thiểu tình trạng viêm gan, do đó ngăn ngừa, làm chậm tiến triển sang giai đoạn xơ gan, ung thư gan.

    (b) Ðào thải toàn bộ, hoặc một phần lượng siêu vi B trong cơ thể, đặc biệt ở trong gan.

    ÐIỀU TRỊ ÐẶC HIỆU:
    Thuốc điều trị chủ yếu là Interferon alpha
    Interferon alpha là một chất tự nhiên có trong cơ thể người, được sản xuất bởi một số tế bào khi cơ thể nhiễm virut. Chức năng của Interferon alpha là diệt trừ tác nhân gây bệnh. Như vậy, khi dùng Interferon, siêu vi B sẽ bị loại bỏ giống như cơ chế đào thải tự nhiên của cơ thể.

    Interferon alpha (RoferonỊ-A) được đóng sẵn trong bơm tiêm có kèm kim nhỏ, tiêm dưới da hoặc bắp thịt. Khi bắt đầu điều trị, hầu hết bệnh nhân đều có cảm giác sốt nhẹ, mệt mỏi trong vài giơ,?ọi là hội chứng giả cúm. Những biểu hiện này là do Interferon khởi động đáp ứng của cơ thể chống lại siêu vi giống như khi Bạn mắc bệnh cúm vậy. Về sau, tác dụng phụ này sẽ bớt dần. Uống Paracetamol nửa tiếng trước khi tiêm thuốc sẽ hạn chế biểu hiện đó. Nên tiêm thuốc vào buổi tối để hôm sau Bạn có thể làm việc bình thường.

    Trong thời gian điều trị, Bạn nên làm xét nghiệm máu để đánh giá đáp ứng. Sau khi kết thúc điều trị, cần tiếp tục theo dõi thêm 6 tháng nữa, bởi vì một số bệnh nhân có thể bị tái phát sau khi ngưng thuốc.

    Một số thuốc kháng sinh chống siêu vi hiện đang được nghiên cứu phối hợp với Interferon alpha.

    [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/upfiles/80/Ay75824.jpg[/image]
    Attached Image(s)
    #2
      Asin 16.09.2003 06:06:59 (permalink)
      Việt Nam nằm trong vùng dịch tể cao của siêu vi viêm gan B, ước tính có khoảng 10 triệu người mang HBsAg nên viêm gan siêu vi B là vấn đề quan trọng của sức khoẻ cộng đồng. Tỷ lệ mang HBsAg cao nhất là lứa tuổi từ 41-50 chiếm 18,7% trong khi lứa tuổi có tỷ lệ thấp nhất từ 0-10 là 10,7 %. Nhưng tỷ lệ HBeAg(+) /HBsAg(+) của lứa tuổi 0-10 là 91 %. Theo diễn biến tự nhiên, tỷ lệ mất HBsAg hàng năm là 1-2%, và chuyển đổi huyết thanh HBeAg chung là 9,6%.

      Về lây truyền dọc, nếu thai phụ có HBsAg(+), nguy cơ con bị nhiễm là 40-50%, còn thai phụ có cả HBsAg(+) và HBeAg(+), nguy cơ con bị nhiễm là 90%.

      Về bệnh lý của gan liên quan với siêu vi viêm gan B, GS Phiệt cho biết tỷ lệ viêm gan cấp ở bệnh viện có dấu ấn siêu vi viêm gan B là 40-50%, bệnh xơ gan trên người mang HBsAg(+) là 30-40%. Ung thư gan chiếm 38/100.000 người dân, đứng thứ hai sau ung thư phổi, HBsAg(+) trong ung thư gan là 80-90%. Ðiều trị viêm gan siêu vi B mạn tính hiện nay tại Việt Nam còn khó khăn, do vậy vấn đề quan trọng là dự phòng bao gồm chủng ngừa, giáo dục đại chúng phòng chống lây truyền và sàng lọc siêu vi viêm gan B trong truyền máu và ghép cơ quan.

      Về mặt điều trị viêm gan siêu vi B mạn tính, GS BS. Hie-Won L. Hann, Giám đốc Trung tâm Phòng chống bệnh gan bệnh viện Ðại học Thomas Jefferson, Philadelphia, Hoa Kỳ trình bày.

      Trong số các siêu vi viêm gan được biết trên người (siêu vi viêm gan A, B, C, D và E), thì HBV và siêu vi viêm gan C (HCV) là những siêu vi quan trọng nhất gây viêm gan mạn tính, xơ gan và ung thư gan. Trong khi ung thư gan hiếm gặp tại Hoa Kỳ, thì có lẽ đây là loại ung thư phổ biến nhất ở châu Á và Tây Phi. Nói chung, 80 đến 85% số trường hợp ung thư gan có kết hợp căn nguyên với HBV và phần lớn số ung thư gan không có HBV đều được quy cho HCV.

      Số liệu gần đây về ung thư tại California, tiểu bang có dân số người Mỹ gốc Á đông nhất, chỉ ra rằng ung thư gan được xếp hạng từ thứ hai đến thứ năm trong số các ung thư thường gặp nhất đối với nam giới người Hoa, người Triều Tiên, người Lào, người Căm-pu-chia, người Phi-lip-pin và người Việt.

      Trên thế giới, có hơn hai tỉ người bị nhiễm HBV, với ước lượng 350-400 triệu người bị nhiễm HBV mạn tính. Khoảng 25 đến 40% số người bị nhiễm HBV mạn tính này chết sớm vì xơ gan và/hoặc ung thư gan.

      Ba phần tư số người mang HBV sống ở châu Á; tỷ lệ người mang HBV mạn tính ở Trung Quốc và Ðông Nam Á ở mức cao từ 8% dân số trở lên. Nhiễm HBV cũng phổ biến ở châu Phi hạ Sahara. Tỉ lệ lưu hành HBV ở mức trung bình tại vùng Ðịa Trung Hải, Nhật Bản, và một phần Ðông Âu. Nhiễm HBV tương đối ít gặp, ảnh hưởng dưới 2% dân số, tại phần lớn Tây Âu, châu Úc và châu Mỹ. Mặc dù vậy, hàng năm có khoảng 300.000 người tại Hoa Kỳ và có đến một triệu người châu Âu bị nhiễm bệnh.

      Sự khác biệt về tỉ lệ lưu hành toàn cầu là do khác biệt về các đường lây truyền HBV chính. Ở các vùng bệnh lưu hành địa phương như châu Á và Tây Phi, lây truyền HBV thường xảy ra trong thời kỳ chu sinh, với tỉ lệ lây truyền cho trẻ sơ sinh cao đến 90% từ các bà mẹ có HBsAg và HBeAg dương tính (HBeAg (+) có nghĩa là siêu vi nhân đôi nhiều).

      Cách lây truyền này cũng xảy ra ở những vùng có tỉ lệ lưu hành thấp, chủ yếu là ở những người nhập cư từ các vùng có bệnh lưu hành địa phương. Hơn nữa, nhiễm bệnh ở tuổi càng nhỏ, thì cơ hội trở thành người mang HBV mạn tính càng cao.

      Các chương trình tiêm chủng tuy thành công, nhưng vẫn thường gặp các trường hợp mới nhiễm HBV tại nhiều nước có mức độ lưu hành địa phương cao, và có hàng triệu người đã nhiễm siêu vi mà đối với họ những văc-xin hiện dùng không có tác dụng. Do đó, can thiệp điều trị là phương án duy nhất đối với những người có bệnh gan thật sự do nhiễm HBV.

      Ðáng chú ý là trong phần lớn các trường hợp ung thư gan, thời gian từ khi nhiễm HBV đến khi phát triển ung thư gan phải mất từ 20 đến 40 năm. Vì viêm gan B mạn tính và/hoặc xơ gan hiện diện cùng với hoặc xảy ra trước ung thư gan trong đa số trường hợp, nên liệu pháp kháng siêu vi hữu hiệu trong những giai đoạn này có thể ngăn ngừa hoặc làm chậm phát triển ung thư gan.

      Liệu pháp kháng siêu vi có mục đích chặn đứng sự nhân đôi siêu vi. Trị liệu thành công đối với nhiễm HBV được định nghĩa là mất HBeAg và DNA HBV trong huyết thanh (cả hai đều chứng tỏ ức chế sự nhân đôi siêu vi) đi kèm với bình thường hóa các enzym gan.

      Interferon-alpha (IFN-a) đã được dùng trong thập niên vừa qua để điều trị viêm gan B mạn tính. Kết cục thuận lợi đối với liệu pháp IFN-a khi kèm theo các yếu tố như mắc bệnh ở tuổi trưởng thành, nồng độ ALT cao từ đầu, DNA HBV thấp từ đầu, không có xơ gan, và giới nữ. Ða số bệnh nhân viêm gan B mạn tính, đặc biệt là ở các vùng bệnh lưu hành, không có đủ các yếu tố đó và kém đáp ứng với IFN-a. Thuốc này đắt tiền và thường kém được dung nạp, và bị chống chỉ định trên bệnh nhân xơ gan tiến triển, những người rất cần một điều trị hữu hiệu.

      Một vài thuốc kháng siêu vi đầy hứa hẹn đối với HBV đã được phát triển trong những năm gần đây. Trong số đó, lamivudin là thuốc kháng siêu vi dùng đường uống có nhiều hứa hẹn nhất. Lamivudin là một chất đồng đẵng nucleosid (đồng phân đối ảnh (-) của 2?3?-dideoxy-3?-thiacytidin) và đã được dùng điều trị HBV từ tháng 12/1998 do GlaxoSmithKline nghiên cứu và phát triển, được lưu hành trên thị trường dưới tên Epivir-HBV tại Hoa Kỳ và Zeffix tại châu Á.

      Lamivudin được triphosphat-hóa trong tế bào và thời gian bán hủy nội bào của dạng triphosphat từ 17-19 giờ. Lamivudin triphosphat ức chế hoạt động của DNA polymerase (enzym phiên mã ngược) lệ thuộc RNA của HBV, làm chấm dứt chuỗi DNA mới tạo thành của HBV. Vì vậy, lamivudin là chất ức chế mạnh sự nhân đôi HBV. Những thử nghiệm lâm sàng đa trung tâm giai đoạn III mới đây ở châu Á và Hoa Kỳ cho thấy lamivudin có hiệu quả cao trong viêm gan B mạn tính, được chứng minh bởi khả năng thải trừ DNA HBV, bình thường hóa ALT và cải thiện hiện tượng viêm-hoại tử ở gan.

      Ðiều trị lamivudin một năm cho tỉ lệ đáp ứng HBeAg (có nghĩa là chặn đứng sự nhân đôi siêu vi) tương tự như kết quả của một liệu trình chuẩn với IFN-a. Quan trọng hơn nữa, không giống với IFN-a, đáp ứng trị liệu với lamivudin trên người châu Á và người da trắng cũng tương tự nhau

      Kết quả của liệu pháp lamivudin kéo dài đến 4 năm gợi ý rằng tỉ lệ dồn chuyển đổi huyết thanh HBeAg (HBeAg trở nên âm tính và anti-HBe dương tính, chứng tỏ sự nhân đôi siêu vi bị ức chế) tiếp tục tăng theo thời gian kéo dài điều trị lamivudin (Hình 1).??

      Tương tự, tính an toàn và hiệu quả của lamivudin gần đây đã được báo cáo trong xơ gan mất bù do viêm gan B mạn tính ở Canada và Hoa Kỳ. Trong thử nghiệm đa trung tâm tại Hoa Kỳ, 70 bệnh nhân xơ gan mất bù được điều trị lamivudin 100 mg/ngày trong tối đa là 142 tuần (trung bình là 53 tuần). Ðối với bệnh nhân được điều trị trên 6 tháng, albumin huyết thanh tăng dần, và giảm nồng độ bilirubin huyết thanh đi kèm với cải thiện điểm số Child-Pugh.

      Sự xuất hiện biến thể YMDD của HBV đã được biết rõ. Những biến thể này được tạo ra khi methionin ở phân đoạn YMDD (tyrosin, methionin, aspartat, aspartat) trên chuỗi polymerase của HBV bị thay thế bởi iso-leucin hoặc valin, trở thành YIDD hoặc YVDD và ít nhạy cảm hơn với lamivudin. Biến thể YMDD bắt đầu xuất hiện trên một số bệnh nhân vào khoảng tuần 36 khi điều trị lamivudin. Khi kết thúc một năm điều trị lamivudin, biến thể YMDD xảy ra ở 14 - 32% số bệnh nhân và lên đến 67% sau bốn năm điều trị. Tuy nhiên, tất cả các bệnh nhân có biến thể YMDD trên hai năm đều có nồng độ DNA HBV thấp hơn mức trước điều trị.

      Về mặt mô học, bệnh nhân có biến thể YMDD trên hai năm có mức độ cải thiện tương tự như những người không có biến thể YMDD. Ảnh hưởng lâm sàng lâu dài của biến thể YMDD chưa được xác định rõ, nhưng trong thời gian theo dõi lên đến 4 năm, những bệnh nhân có biến thể YMDD có xu hướng duy trì một phần đáp ứng vi-rút học và lâm sàng.

      Với sự ra đời của lamivudin, cũng như các thuốc kháng siêu vi sắp tới, việc trị liệu có thể đem lại lợi ích cho bệnh nhân viêm gan B mạn tính. Sự khả dụng của nhiều phương án trị liệu làm tăng nhu cầu tìm hiểu của thầy thuốc về cách sử dụng lamivudin và các thuốc kháng siêu vi hiện có được dùng để điều trị

      Các yếu tố nguy cơ ung thư gan trên bệnh nhân nhiễm HBV

      Khi theo dõi người mang siêu vi có HBsAg(+) hoặc bệnh nhân, bác sĩ lâm sàng cần xem xét những yếu tố nguy cơ kết hợp với sự phát triển ung thư gan sau đây. Các yếu tố nguy cơ đó là xơ gan, nam giới, tuổi >40, gốc châu Á (nhũng người có nhiều khả năng nhiễm bệnh chu sinh hoặc từ thời thơ ấu), dự trữ sắt toàn thân cao (được thể hiện bằng nồng độ ferritin ?300 ng/ml kéo dài), viêm gan mạn và nghiện rượu.

      Bệnh nhân có một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ cần được theo dõi thường xuyên hơn để phát hiện sớm ung thư gan bằng cách đo AFP mỗi 3-6 tháng và chẩn đoán hình ảnh ổ bụng hàng năm hoặc sớm hơn, tùy theo chi phí cần dùng và chỉ định khẩn.

      Cách dự phòng cơ bản những bệnh kết hợp với HBV, kể cả ung thư gan, là tiêm chủng đại trà chống HBV. Bằng cách chủng ngừa tất cả những người chưa nhiễm siêu vi bằng vắc-xin HBV, chúng ta có thể thanh toán thành công đa số các trường hợp ung thư gan trên thế giới. Tuy vậy, đối với những người đã nhiễm HBV, lamivudin và các thuốc kháng siêu vi khác là những tiến bộ có ý nghĩa trong điều trị và có hy vọng ngăn ngừa được ung thư gan

      [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/upfiles/80/Wt58925.gif[/image]
      Attached Image(s)
      #3
        Chuyển nhanh đến:

        Thống kê hiện tại

        Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
        Kiểu:
        2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9