Căn bệnh này khiến mồ hôi ra nhiều ở bàn tay, hố nách và bàn chân. Đa phần bệnh nhân than phiền rằng họ gặp rắc rối trong khi làm việc và giao tiếp, ví dụ như khi bắt tay, cầm bút, đánh máy và nắm tay người yêu. Tuy nhiên, căn bệnh này có thể chữa khỏi nhờ mổ nội soi ngực cắt hạch giao cảm.
Rất nhiều chức năng của cơ thể được kiểm soát bằng hệ thống thần kinh giao cảm và phó giao cảm. Chúng có vai trò cạnh tranh và đối lập đối với nhiều chức năng của cơ thể như nhịp tim, bài tiết mồ hôi. Tuy chưa biết rõ nguyên nhân gây tăng tiết mồ hôi nhưng các bác sĩ biết rằng nó chịu sự kiểm soát của hệ thần kinh giao cảm. Ngoài ra, các yếu tố như stress, cảm xúc, việc luyện tập... cũng góp phần làm tăng tiết mồ hôi. Ở những người bị bệnh nặng, triệu chứng này có thể xuất hiện một cách tự nhiên, không cần yếu tố kích thích. Khoảng 1% dân số Mỹ bị chứng tăng tiết mồ hôi.
Tất cả các phương pháp điều trị không phải ngoại khoa đều chỉ là tạm thời. Trong khi đó, mổ nội soi ngực cắt hạch giao cảm (ETS) đơn giản mà lại đạt hiệu quả cao
{*}, làm ngừng sự ra mồ hôi quá mức ở tay, và đôi khi cũng giúp giảm một phần sự ra mồ hôi nhiều ở chân và hố nách.
Một ống nội soi và các dụng cụ nhỏ xíu được đưa vào lồng ngực qua những lỗ có kích thước bằng đầu sợi rơm. Thông qua những chiếc lỗ gần phía dưới nách, bác sĩ sẽ cắt bỏ dây thần kinh kích hoạt việc tiết mồ hôi.
Mổ nội soi có ưu thế hơn hẳn so với phương pháp mổ phanh cổ điển. Các ca mổ phanh thường kéo dài hơn và gây tổn thương nhiều hơn (bác sĩ phải mở một đường lớn ở ngực, cắt cơ, tách xương sườn để tiếp cận dây thần kinh giao cảm). Phần lớn bệnh nhân phẫu thuật ETS được ra viện trong cùng ngày hoặc ngày hôm sau và có thể bắt đầu các hoạt động của mình gần như ngay lập tức.
Bác sĩ Dan Meyer, Trường Y thuộc Đại học Texas ở Dallas (Mỹ), cho biết, đã thực hiện các ca mổ loại này trong 5 năm và kết quả là 95-98% bệnh nhân không bị ra mồ hôi nữa.
Tuy nhiên, phương pháp này có nhược điểm là gây ra một số biến chứng và hiệu quả phụ:
- Ra mồ hôi bù: Vì người bệnh không thể làm lạnh cơ thể nhờ ra mồ hôi ở tay nên phải bù lại bằng cách tăng tiết mồ hôi ở lưng dưới và bụng. Khoảng 40-60% người đã qua phẫu thuật bị hiệu quả phụ này. Tuy nhiên, nó thường mất đi trong vòng 4-6 tháng.
- Ra mồ hôi ruột: Bệnh nhân ra mồ hôi khi ăn một số thức ăn. Tuy nhiên, điều này là rất hiếm.
- Tăng tiết mồ hôi tái phát: Khoảng 1-2% bệnh nhân bị ra mồ hôi nhiều trở lại. Điều này không phụ thuộc vào kỹ năng của bác sĩ.
- Hội chứng Horner: Một bó dây thần kinh bị tổn thương trong khi phẫu thuật, dẫn tới sụp mi mắt, đồng tử co nhỏ, mất khả năng ra mồ hôi ở một nửa mặt. Hội chứng này đôi khi có thể tự mất đi nhưng có thể tồn tại vĩnh viễn. Biến chứng này rất hiếm gặp.
Các bác sĩ thực hiện việc phẫu thuật trên bệnh nhân mọi lứa tuổi, nhưng chủ yếu là trẻ vị thành niên và thanh niên. Theo bác sĩ Mayer, đối với những bệnh nhân nhỏ tuổi hơn, trước khi quyết định phẫu thuật, nên thử điều trị bằng các thuốc mỡ làm se da có trên thị trường. Bệnh nhân trẻ tuổi nhất mà bác sĩ này đã phẫu thuật là một cậu bé 14 tuổi.
Bác sĩ Patrick Reardon, chuyên gia phẫu thuật ngực bụng tại Trường Y Baylor ở Houston (Mỹ), cũng cảnh báo các bệnh nhân là vận động viên rằng, việc phẫu thuật có thể làm giảm tới 40% khả năng tiết mồ hôi của họ. Điều này có thể gây rắc rối vì ra mồ hôi là biện pháp giúp cơ thể duy trì thân nhiệt ở mức bình thường khi tập luyện và khi trời nóng. Tuy niên, theo ông Reardon, điều này không có ý nghĩa nhiều với những người sống ở miền nam, vì ở đó độ ẩm quá cao khiến mồ hôi tiết ra không thể bay hơi được. Khi đó, ra mồ hôi không phải là cách hạ thân nhiệt hữu hiệu. Trái lại, uống nhiều nước lại là cách duy trì thân nhiệt tốt nhất.
(theo WebMD)
Chú ý hình dưới đây chỉ ra vị trí tiết mồ hôi ở người
[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/upfiles/80/Ca81259.jpg[/image]
< Edited by: casanova -- 9/16/2003 2:43:47 AM >