Jerri Nielsen
(Sinh năm: 1952)
THỬ THÁCH Ở NAM CỰC Trước khi quyết định từ bỏ công việc tại một bệnh viện ở Ohio để đến Nam Cực, Jerri Nielsen đã biết rằng Nam Cực là một nơi quanh năm băng phủ, là nơi khô cằn nhất, lạnh giá nhất, và trống vắng nhất trên địa cầu, nhưng chỉ khi đặt chân lên mặt băng ở đó cô mới hiểu thế nào là khô cằn nhất, lạnh giá nhất, và trống vắng nhất. Tuy nhiên cũng giống như khi đến văn phòng của Hội nghiên cứu Nam Cực ở Denver để đăng kí xin tới Nam Cực, Jerri không hề hối tiếc. Cô chỉ không lường hết được thử thách cam go đang chờ cô ở phía trước.
Trạm nghiên cứu nằm giữa một vùng băng trắng xoá với những cái trại dựng bằng các tấm kim loại. Nhiệt độ bên trong các trại không chênh lệch bao nhiêu so với nhiệt độ ngoài trời và ngay cả trong mùa hè nhiệt độ thường là âm 37 độ còn vào mùa đông nhiệt độ thường xuống tới âm 100 độ.
Nhiệm vụ của Jerri là chăm sóc sức khoẻ cho bốn mươi người của trạm. Không có đồng nghiệp để bàn bạc, không có y tá phụ trợ, cô phải tự làm tất cả từ học sử dụng máy X-quang, đến pha chế các loại thuốc. Công việc của cô thường kéo dài từ sáng sớm đến nửa đêm và có ngày cô phải khám và điều trị cho mười lăm lượt bệnh nhân. Có lúc cô không thể tin nổi cô lại có thể giải quyết tất cả những việc ấy, không thể tin nổi cô lại có thể quen và bắt đầu yêu cuộc sống khắc nghiệt đó. Trong thư gửi gia đình cô viết: “Chúng con đến đây để tìm hiểu xem chúng con có thể dựa vào bản thân mình, vào khả năng của chính mình nhiều đến đâu. Chúng con thường xuyên phải đối mặt và thường phải đánh bại những ý nghĩ về ma quỷ, sự nhu nhược, sự ích kỷ,…”.
Không may thay, ít ngày sau khi Jerri tổ chức sinh nhật đầu tiên ở Nam Cực cô phát hiện ra mình có một khối u ở vú bên phải. Trong khi cô phải chịu trách nhiệm về sức khoẻ của bốn mươi người thì cô không thể làm gì khác hơn là đợi xem khối u của mình có tự biến mất hay không.
Hai tháng sau cô phát hiện thấy một khối u khác ở cánh tay và cô biết mình có thể đã bị u ác tính. Rời Nam Cực là cần thiết nhưng lại là điều không thể thực hiện được bởi chuyến bay tiếp tế cuối cùng vừa mới rời đi và cô phải đợi tới bốn hoặc năm tháng nữa cho qua thời kỳ lạnh nhất ở Nam Cực mới có thể hy vọng có chuyến bay tiếp theo. Chờ đợi có thể đồng nghĩa với cái chết.
Cô đến gặp người phụ trách trạm nghiên cứu và ông khuyên cô lập tức liên lạc với tiến sĩ Katz, người chịu trách nhiệm về y tế ở trung tâm Denver. Cô gửi email cho tiến sĩ Katz, đưa ra một câu hỏi mà chính cô phải thừa nhận là khó trả lời: “Ông biết về Nam Cực rồi đấy. Tôi nên ngồi đây đợi thêm năm tháng hay tự mổ cho mình để loại bỏ khối u đi?” Katz và các chuyên gia y tế khác đều nhất trí rằng Jerri phải hút dịch từ khối u ra. Từ xa tiến sĩ Katz hướng dẫn cho cô cách thức tiến hành hút dịch,. Hai ngày sau cô chọn Paul Kindh một người bạn thân của cô ở trạm giúp cô làm việc đó. Cô vừa phải cắn răng chịu đau vừa phải cùng Paul tiến hành thao tác. Sau bốn lần cố đưa kim vào khối u họ không những không lấy được chút dịch nào mà còn làm cho vú của cô sưng tấy. Một dấu hiệu không khả quan.
Ba ngày sau lần hút dịch không thành cô nhận được email của Kathy Miller, chuyên gia điều trị ung thư tại bệnh viện của trường đại học Indiana. Cô viết thư giải thích cho Kathy biết những hạn chế của phương tiện điều trị của cô. Kathy muốn cô tiến hàng sinh thiết tế bào và gửi hình ảnh về trung tâm nghiên cứu ung thư và muốn gửi thuốc làm dừng quá trình sản sinh hoóc môn sinh dục tới cho cô. Nhưng nhiệt độ ở Nam Cực lúc đó là âm 70 độ và với thời tiết lạnh như thế chắc chắn bộ phận hạ cánh của máy bay sẽ không hoạt động được.
Bạn bè cô ở trạm gửi email xin câp trên gửi phương tiện y tế đến giúp cô. Gia đình cô liên tục gửi lời động viên cô. Cô quyết định làm một việc chưa từng có: Thiết lập một đường truyền hình ảnh tới các bác sĩ ở Denver, lấy mô tế bào từ khối u, phóng mô tế bào qua kính hiển vi và gửi hình ảnh về Denver. Thật rủi, hình ảnh được gửi vể Denver không đủ rõ để các bác sĩ có thể đưa ra kết luận về khối u của cô. Những ngày ấy hàng triệu độc giả ở tờ New York Times đã lo lắng cho cô khi đọc bài báo “Mắc kẹt ở Nam Cực, bác sĩ trở thành bệnh nhân”.
Trung tâm Denver đã sẵn sàng gửi một chuyến bay mang phương tiện thuốc men tới cho Jerri từ đầu tháng Bảy, nhưng nhiệt độ ở Nam Cực luôn ở khoảng 56 độ âm trong khi máy bay chỉ có thể hoạt động an toàn ở nhiệt độ ấm hơn 50 độ âm. Ngày 7 tháng Bảy một chiếc máy bay từ căn cứ không quân McChord đã vượt qua Thái Bình Dương đến Nam Cực và thả đồ tiếp tế xuống cho trạm nghiên cứu. Jerri nhận được thuốc cô cần.
Với hoá chất nhuộm do máy bay chuyển tới, những người ở trạm giúp Jerri tiến hành lấy mô tế bào lần thứ hai. Lần này hình ảnh truyền về Denver vẫn chưa đủ rõ và họ phải làm lại lần nữa. Ngày 22 tháng Bảy, Lisa Beal chuyên gia kỹ thuật của trạm thông báo cho Jerri biết những hình ảnh gửi về Denver cho thấy cô bị ung thư vú.
Jerri cảm thấy mình ngừng thở khi biết tin đó.
Jerri bắt đầu dùng hoá chất Taxol với sự hướng dẫn và theo dõi sát sao từ Denver. Bác sĩ Kathy động viên Jerri bằng mọi cách có thể. Bác sĩ kể cho cô biết thành công của hoá trị liệu đối với trường hợp của nhà vô địch đua xe đạp vòng quanh nước Pháp Lance Amstrong. Với sự động viên của Kathy, của bạn bè ở trạm và gia đình, Jerri quyết tâm vượt qua đau đớn.
Điều trị hoá chất khiến Jerri cảm thấy người rất mệt mỏi. Cô bị chóng mặt, bị nổi u ở bàn tay, và bị rụng tóc. Tuy nhiên cho tới lần điều trị hoá chất thứ ba cô vẫn cố gắng đảm đương nhiệm vụ của mình ở trạm.
Mặc dù đã dùng hoá chất được vài tuần nhưng khối u của cô vẫn ngày một phát triển. Cô bắt đầu bị đau lưng, bị ho kéo dài, và có hiện tượng thần kinh không ổn định. Bác sĩ Kathy bảo cô ngừng hoá chất Taxol và chuyển sang một phương pháp dùng hoá chất hỗn hợp.
Đầu tháng Mười, Jerri bắt đầu áp dụng phương pháp trị liệu mới. John, người bạn của cô ở trạm, đã viết cho bác sĩ Kathy như sau: “Tôi viết cho bác sĩ bởi vì cô ấy không dậy được. Cô ấy mệt lắm. Tôi cảm thấy có vẻ như có gì nhầm lẫn thì phải”. Kathy an ủi rằng tác dụng phụ của việc điều trị bằng hoá chất là không thể tránh khỏi.
Một mặt tiếp tục theo dõi và động viên Jerri điều trị bằng hoá chất, mặt khác Kathy thúc giục trung tâm ở Denver đưa Jerri rời khỏi Nam Cực để cô có cơ hội được phẫu thuật cắt bỏ khối u. Vậy là trong khi điều trị hoá chất, Jerri chuẩn bị gói gém hành lý đợi thời tiết cho phép máy bay đến đón cô.
Ngày 16 tháng Mười chiếc máy bay cứu hộ LC-130 đã bay tới Nam Cực. Thời tiết chỉ cho phép máy bay có khoảng ba phút dừng sát mặt băng để Jerri lên khoang. Các bạn của Jerri ở trạm làm hết sức mình để Jerri có thể rời Nam Cực.
Cuối cùng Jerri đã trở về Mĩ và mau chóng được phẫu thuật. Sau cuộc phẫu thuật cô nhận được những tin tuyệt vời: Ung thư không tấn công vào bạch cầu của cô. Tháng Tư năm 2000, Kathy thông báo cho cô biết cô đã chiến thắng căn bệnh ung thư. Jerri vô cùng sung sướng khi biết tin này. Cô muốn làm tất cả để được trở lại Nam Cực.
Sau khi đọc câu chuyện của Jerri trên tạp chí Reader’s Digest, một cô gái mắc bệnh ung thư đã nói: “Tôi cảm thấy mình như vừa được biết một phương pháp trị liệu mới. Tôi sẽ chiến đấu và sẽ chiến thắng như cô ấy”.
Jessica Stern
CẦN PHẢI LẮNG NGHE Nếu bạn đưa ra câu hỏi: “Vấn đề gì nóng bỏng nhất đối với thế giới kể từ khi chúng ta bước sang thế kỷ XXI?” thì chắc chắn bạn sẽ nhận được câu trả lời từ đa số là “Khủng bố”. Vụ khủng bố ngày 11 tháng Chín ở Mĩ không chỉ cướp đi sinh mạng của hơn ba nghìn dân thường, phá huỷ toà tháp đôi, niềm tự hào của nước Mĩ, mà còn tạo ra mối đe doạ khủng khiếp đối với cảm giác an toàn của mọi người dân trên khắp hành tinh và thách thức hệ thống an ninh của các quốc gia dù là quốc gia hùng mạnh nhất và, tệ hơn, nó kéo theo những hệ luỵ đáng tiếc như cuộc chiến tranh ở Afghanistan, cuộc chiến ở Iraq v.v…
Trước khi nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới thực sự ý thức được tầm quan trọng của hiểu biết về các tổ chức khủng bố, một người phụ nữ Mĩ có tên là Jessica Stern đã tập trung nghiên cứu vấn đề này và đã có những phát hiện hữu ích mang tính gợi mở những biện pháp giải quyết vấn đề khủng bố từ gốc rễ.
Jessica Stern đã từng sợ cái ý nghĩ phải học lên đại học. Cô đã từng làm việc trong quán cà phê, trong các lớp dạy khiêu vũ và chúi đầu vào các cuốn tiểu thuyết của các nhà văn Nga. Khi vào trường đại học cô đinh ninh rằng mình sẽ theo học viết văn hoặc nghiên cứu văn học Nga. Thế nhưng cô lại bắt đầu sự nghiệp như một nhà hoá học và trong những ngày làm việc tại Nga cô nhận thấy rằng công việc ở phòng thí nghiệm thực sự cuốn hút cô. Trở về Mĩ cô bắt đầu nghiên cứu về vũ khí huỷ diệt và những luật quốc tế liên quan đến vũ khí huỷ diệt. Sau đó cô làm luận án tiến sĩ tại đại học Harvard với đề tài về sự gia tăng của việc sử dụng vũ khí hoá học. Cô được mời vào uỷ ban nghiên cứu các chính sách an ninh quốc gia à tại đó cô cùng với các đồng nghiệp phát triển các chính sách an ninh quốc gia và tại đó cô cùng các đồng nghiệp phát triển các chính sách chống buôn bán vũ khí hạt nhân. Thời gian làm việc ở Nhà Trắng đã khiến cô hướng sự quan tâm tới vấn đề chống khủng bố. Cuối cùng cô quyết định rời uỷ ban an ninh để thực hiện những nghiên cứu của riêng mình. Stern đã đi đến các trại giam giữ khủng bố, các trại tị nạn, tiếp xúc với những kẻ trực tiếp thực hiện các vụ khủng bố. Cô đã phỏng vấn nhiều kẻ khủng bố, từ những kẻ khủng bố do quá khích đến những kẻ khủng bố có tổ chức.
Tại sao những kẻ khủng bố lại chịu nói chuyện với cô? Jessica Stern cho biết có nhiều lí do trong đó có lí do cô là phụ nữ và lí do những tù nhân phạm tội khủng bố muốn cô chuyển thông điệp của họ ra thế giới bên ngoài. Cô nói: “Họ muốn thế giới hiểu họ định làm gì. Trong một số trường hợp, họ muốn sử dụng tôi bởi họ cứ nghĩ tôi làm việc cho chính phủ Mĩ. Có lúc tôi cho rằng lí do họ nói chuyện với tôi đơn giản chỉ vì họ cô đơn, hoặc tò mò; họ thích một người phụ nữ ngồi đó, lắng nghe họ nói, không ngắt lời họ…”. Cô đã từng nói chuyện với Ja’far Thalid một trùm khủng bố ở Indonesia. Cô cũng đã từng có cuộc nói chuyện dài với kẻ cầm đầu nhóm khủng bố Jihad ở Pakistan, bạn của Bin Laden. Cô cũng đã tiếp xúc với nhiều tên khủng bố người Do Thái, những kẻ khủng bố theo đạo Hồi và những tên khủng bố theo đạo Cơ đốc ở Mĩ.
Năm 1999 Jessica Stern xuất bản cuốn The Utimated Terrorists (Những kẻ khủng bố sau cùng). Bắt đầu cuốn sách với viễn cảnh toà nhà Emprise State bị phá huỷ bằng bom hạt nhân tự chế, Stern đã đặt ra tình huống xảy ra khủng bố ở quy mô lớn để mô tả những hành động giết hại dân thường hàng loạt của bọn khủng bố. Đó là những gì xảy ra ở Mĩ vào ngày 11 tháng Chín hai năm sau đó. Trong cuốn sách này Jessica cũng chỉ ra rằng bản thân hoạt động khủng bố đã thay đổi. Nếu như trước đây các hoạt động khủng bố được thúc đẩy bởi các động cơ chính trị thì giờ đây các nhóm khủng bố tiến hàng các vụ khủng bố với rất nhiều những nguyên nhân cực đoan khác nhau. Các nhóm khủng bố bây giờ cũng được trang bị tốt hơn, có kiến thức hơn, và với Internet chúng dễ dàng tuyên truyền, lôi kéo kẻ khác và dễ dàng điều khiển mạng lưới của chúng hơn.
Năm 2003 khi những nguy cơ về các vụ khủng bố quy mô lớn được cảnh báo trên các phương tiện thông tin đại chúng nhắc người dân Mĩ nhớ đến nỗi kinh hoàng từ vụ 11/9, cuốn Terror in the name of God (Nỗi kinh hoàng mang danh Thánh thần) của Jessica Stern được xuất bản và lập tức thu hút được sự chú ý đặc biệt từ độc giả Mĩ cũng như độc giả ở nhiều nước. Với những gì thu được từ những cuộc nói chuyện với những kẻ khủng bố ở Indonesia, Pakistan, Trung Đông và ở Mĩ, Jessica Stern đã cung cấp cho độc giả một cái nhìn tổng quát về mưu đồ, lí lẽ, và những nổi ám ảnh của những kẻ khủng bố thuộc các tôn giáo khác nhau. Jessica Stern khẳng định cô không có ý định thông qua cuốn sách để mưu cầu bất kỳ mục đích chính trị nào mà chỉ mong muốn cải thiện sự hiểu biết về động cơ của những kẻ khủng bố. Song, sau khi đọc cuốn sách này người ta nhận thấy một điều rõ ràng rằng việc thực thi các chính sách chống khủng bố của chính quyền Bush không những không làm giảm những hoạt động khủng bố, mà ngược lại, càng tạo thêm nhiều kẻ khủng bố hơn bởi theo phân tích về những hoạt động khủng bố liên quan đến tôn giáo của Stern thì tổng thống Bush đã phản ứng theo cách những kẻ khủng bố mong muốn ở người đứng đầu nhà Trắng, và như vậy thì những kẻ khủng bố là những kẻ điều khiển cuộc chơi.
Trong một bài viết đăng trên một tờ báo lớn ở Mĩ, Jessica đã phân tích nước Mĩ tạo ra một thiên đường cho những kẻ khủng bố ở Iraq như thế nào. Bài viết có đoạn: “Việc Mĩ đánh bom các trụ sở của các cơ quan Liên hiệp quốc tại Baghdad là bằng chứng mới nhất cho thấy rằng nước Mĩ đã biến một nước không phải là mối đe doạ khủng bố trở thành một nước đúng như vậy”. Cô đưa ra nhiều bằng chứng cụ thể chứng minh sự gia tăng của các vụ khủng bố kể từ khi quân đội Mĩ bắt đầu chiến dịch chống khủng bố ở nước này. Cô dẫn ra kết quả của cuộc điều tra của Trung tâm nghiên cứu chiến lược về Iraq cho thấy một nửa số người Iraq được hỏi cho biết rằng họ liên quan đến các hành động tấn công do sự khiêu khích của lính Mĩ hoặc do phản đối sự chiếm đóng của quân đội Mĩ ở nước họ.
Lắng nghe và hướng tới những giải pháp lâu dài và hiệu quả, đó là những gì các nghiên cứu của Jessica Stern gợi mở. Nhiều độc giả đồng tình với cô bởi dù sao thế giới cũng cần một cách tiếp cận mới để giải quyết vấn đề khủng bố, khi mà quá nhiều biện pháp chống khủng bố đã được áp dụng chỉ cho thấy sự nóng vội và tính kém hiệu quả.