Chương 4 Vào lúc hoàng hôn cùng cái ngày dài lê thê ấy, một người lạ mặt xuất hiện, đủng đỉnh từ dưới làng đi lên rồi dừng chân trước cổng nhà Foster. Winnie lại một lần nữa ở trong sân, lần này đang định chơi trò bắt đom đóm, và thoạt tiên cô bé không để ý thấy gã. Nhưng sau một hồi quan sát cô bé, gã lên tiếng, “Chào con!”
Gã rất cao và khẳng khiu, cái người lạ đang đứng đó ấy. Chiếc cằm dài của gã mờ dần đi dưới mớ râu lưa thưa gọi là có, nhưng bộ đồ của gã thì vàng chóe đến gần như hơi rực lên trong nắng nhạt. Một tay gã treo toòng teng chiếc mũ đen, và khi Winnie tiến lại, gã đưa tay kia lên vuốt lại mái tóc khô xám cho mượt. “Chà,” gã nói bằng giọng nhỏ nhẹ. “Con đang bắt đom đóm đấy à?”
“Dạ,” Winnie đáp.
“Bắt đom đóm vào một buổi chiều hè như thế này thật là đáng yêu,” người lạ tán dương. “Một trò chơi dễ thương làm sao. Hồi bác bằng tuổi con bác cũng thường chơi như vậy lắm. Nhưng tất nhiên là lâu lắm lắm rồi.” Gã vừa cười vừa đưa mấy ngón tay mảnh khảnh lên che miệng. Thân hình lênh khênh của gã động đậy liên tục; một chân gõ nhịp, một bên vai giật giật. Nó chuyển động xiên xẹo, khá nhát gừng. Nhưng đồng thời ở gã có một kiểu duyên dáng, như một con rối được điều khiển khéo léo. Quả thực nom gã gần như lơ lửng ở đó trong bóng chiều nhá nhem. Nhưng Winnie, dù đã gần như mê mẩn, bỗng giật mình sực nhớ đến mấy dải băng đen lạnh lùng trên cửa nhà từ hồi đám tang ông nội. Cô bé cau mày rồi nhìn người lạ kỹ hơn. Nhưng nụ cười của gã trông vẫn hết sức tự nhiên, dễ mến và thân thiện.
“Đây là nhà con phải không?” người đàn ông hỏi, hai tay giờ đã khoanh lại và tựa mình vào cổng.
“Dạ phải.” Winnie đáp. “Bác có muốn vào gặp ba con không ạ?”
“Có lẽ có. Một chút thôi,” gã nói. “Nhưng bác muốn nói chuyện với con trước. Con và cả nhà ở đây lâu chưa?”
“Dạ lâu rồi “ Winnie trả lời. “Con và cả nhà đã sống ở đây từ ngày xửa ngày xưa.”
“Từ ngày xửa ngày xưa,” người đàn ông trầm ngâm lặp lại.
Đó không phải là một câu hỏi, nhưng Winnie lại quyết định dù sao cũng phải giải thích.
“À, tất nhiên không phải là từ ngày xửa ngày xưa, nhưng cũng phải từ khi có người sống ở đây. Bà nội con sinh ra ở đây. Bà nói có thời ở đây toàn cây không à, khắp quanh đây chỉ là một cánh rừng lớn, nhưng mà giờ người ta chặt gần hết rồi. Còn có mỗi khu rừng kia thôi.”
“Bác biết rồi,” gã vừa nói vừa ngắt râu. “Vậy là chắc con quen hết mọi người, và biết hết mọi chuyện xảy ra quanh đây phải không?”
“Dạ cũng không hẳn,” Winnie nói, “Ít nhất thì con không biết. Nhưng mà sao ạ?”
Người lạ nhướng mày. “À, bác đang kiếm một người, một gia đình.”
“Con không biết nhiều người lắm,” Winnie vừa đáp vừa khẽ nhún vai. “Nhưng mà chắc ba con quen. Bác hỏi ba con thử xem.”
“Phải hỏi chứ,” gã nói. “Bác chắc là phải hỏi rồi.”
Ngay lúc ấy cánh cửa nhà xịch mở, và bà của Winnie xuất hiện trong ánh đèn hất lên bãi cỏ. “ Winnifred, đang nói chuyện với ai đó con?”
“Bà ơi có một ông,” Winnie đáp với lại. “Ông ấy nói là đang kiếm người.”
“Cái gì?” bà cụ nói. Bà nhấc váy lên rồi bước xuống lối đi ra cổng. “Con nói ông này muốn gì?”
Lúc này người đàn ông đứng bên ngoài hàng rào khẽ cúi đầu. “Chào bà ạ,” gã nói. “Thật vui khi thấy bà vẫn khỏe mạnh.”
“Vì lý do gì mà tôi lại không khỏe cơ chứ?” bà độp lại, săm soi nhìn người lạ qua làn ánh sáng lờ mờ. Bộ đồ màu vàng của gã hình như khiến bà ngạc nhiên, và bà nheo mắt ngờ vực. “Tôi nhớ chưa gặp ông bao giờ. Ông là ai? Ông đang tìm ai?”
Người đàn ông không trả lời câu nào. Thay vì vậy gã nói, “Quý cô trẻ tuổi này cho tôi hay là bà sống ở đây lâu lắm rồi cho nên tôi nghĩ chắc là bà biết hết những người đến và chuyển đi ở đây.”
Bà cụ lắc đầu. “Tôi không quen hết mọi người,” bà nói, “mà tôi cũng không muốn biết. Và tôi không đứng ngoài trời tối nói tới nói lui ba cái chuyện này với người lạ. Winnie cũng vậy. Nên là…”
Nói đến đây bà đột nhiên ngừng lại. Vì, xuyên qua tiếng dế buổi chiều và tiếng hàng cây thở dài, một điệu nhạc kỳ lạ, mơ hồ văng vẳng đến chỗ họ, và cả ba người đều ngoái đầu về phía nó phát ra, về phía khu rừng. Đó là một giai điệu nhẹ nhàng pha lẫn những tiếng leng keng, vang lên vài phút rồi dừng lại.
“Trời đất quỷ thần ơi!” bà nội Winnie thốt lên, tròn xoe mắt. “Chắc là nó quay trở lại rồi, qua bao nhiêu năm trời!” Bà ấn mạnh hai bàn tay nhăn nheo vào nhau, quên khuấy đi mất người đàn ông mặc bộ đồ màu vàng. “Con có nghe thấy không, Winnifred? Nó đó! Khúc nhạc yêu tinh mà bà kể cho con nghe đó. Sao vậy trời, phải lâu lắm rồi bà mới được nghe lại. Còn con mới nghe lần đầu phải không? Đợi đó để kể cho ba con nghe mới được!” Nói rồi bà túm lấy tay Winnie quay vào trong nhà.
“Xin chờ chút!” người đứng ở cổng nói. Gã đã ngây cả người, và giọng nói thì thật hào hứng. “Bà nói là trước đây từng nghe bản nhạc đó rồi phải không ạ?”
Nhưng trước khi gã kịp nhận câu trả lời thì điệu nhạc ấy lại cất lên và tất cả họ đều dừng sững lại lắng nghe. Lần này tiếng leng keng mơ hồ vang lên trong giai điệu nhẹ nhàng ba lần rồi lụi tắt.
“Nghe giống như phát ra từ hộp nhạc ấy,” Winnie nói sau khi nhạc đã tắt.
“Vớ vẩn. Là yêu tinh đấy!” bà của cô kích động reo lên. Rồi bà quay qua nói với người lạ vẫn đứng ở cổng, “Còn giờ thì xin phép ông nhé.” Nói xong bà cài cái then cửa lại ngay trước mũi gã, xem đã khóa kỹ chưa rồi vừa nắm tay Winnie vừa rầm rập đi vào nhà, đóng sập cửa sau lưng.
Nhưng người đàn ông trong bộ đồ vàng vẫn đứng đó một mình rất lâu sau đó, chân nhịp trên đường, nhìn về phía khu rừng. Gã vẫn đứng đó khi những vệt nắng cuối cùng của buổi hoàng hôn đã tan biến, và ánh tà dương cũng đã tắt lịm, dù tàn dư của nó vẫn lưu luyến vương trên mọi thứ nhạt màu - những viên đá sỏi, con đường lầm bụi, và thân hình của gã đàn ông - biến chúng thành màu thiên thanh mờ ảo.
Sau đó trăng lên. Người đàn ông sực tỉnh và thở dài. Vẻ mặt gã hết sức hài lòng. Gã đội mũ lên, và dưới ánh trăng sáng mấy ngón tay dài của gã trở nên thanh mảnh, trắng bệch. Rồi gã quay người đi khuất xuống con đường tối, lúc đi gã còn huýt sáo, rất khẽ, theo cái điệu nhạc nhẹ nhàng leng keng phát ra từ khu rừng ấy.
Chương 5 Sáng hôm sau Winnie thức dậy thật sớm. Mặt trời chỉ mới vừa hé mắt nơi đường chân trời phía Đông và ngôi nhà vẫn im phăng phắc. Nhưng cô bé nhớ ra là suốt đêm qua đôi lúc cô đã quyết định: hôm nay sẽ không bỏ trốn nữa. “Rốt cuộc rồi mình sẽ đi đâu cơ chứ?” cô tự nhủ. “Đâu có chỗ nào khác mình thật sự muốn đi đâu.” Nhưng tại một phần khác trong đầu cô bé, cái phần tăm tối nơi những nỗi sợ hãi xa xưa nhất của cô trú ngụ, cô biết rằng còn có một lý do nữa khiến cô muốn ở lại: cô sợ phải đi xa một mình.
Mong muốn được ở một mình, được làm những việc trọng đại là một chuyện, còn có gan làm chuyện đó khi có cơ hội hay không lại là chuyện khác. Nhân vật trong những câu chuyện cô đọc đều rũ áo ra đi mà không cần suy tính hay vướng bận, nhưng ngoài đời thì… ừm, thế gới bên ngoài đầy rẫy hiểm nguy. Mọi người luôn nói với cô như vậy. Cô sẽ chẳng thể nào xoay sở nếu không được che chở bao bọc. Họ cũng luôn nói với cô điều đó nữa. Chẳng ai chịu nói rõ cho cô biết những chuyện cô không thể tự mình xoay xở là chuyên gì. Nhưng Winnie cũng chẳng cần hỏi. Tự mình cô bé đã tưởng tượng ra biết bao nhiêu điều kinh khủng rồi.
Dù vậy, thật là bực mình khi phải thú nhận rằng mình sợ. Rồi cô cảm thấy còn nản lòng hơn nữa khi nghĩ đến con cóc. Nếu ngày hôm nay nó lại đến bên hàng rào nữa thì sao? Nếu nó âm thầm cười nhạo và cho rằng cô nhát gan thì sao chứ?
Thôi được, kiểu gì thì ít nhất mình cũng có thể vù ra ngoài, ngay bay giờ, cô quyết định, và đi vào rừng. Để xem cô có thể khám phá ra cái gì thật sự phát ra điệu nhạc tối hôm qua không. Chắc phải có cái gì đó chứ. Cô không cho phép mình xem xét cái ý tưởng muốn làm nên đôi chút khác biệt trên thế giới thì cần phải liều lĩnh mạo hiểm. Cô chỉ đơn giản tự an ủi bản thân rằng, “Dĩ nhiên, lúc ở trong rừng nếu mình quyết định không bao giờ quay trở lại nữa thì mới phải mạo hiểm thế.” Cô tin được điều đó vì cô cần như vậy; và, niềm tin ấy lại một lần nữa trở thành người bạn đường chân thật, đầy hứa hẹn.
Lại là một buổi sáng nặng nề nữa, chưa gì đã nóng bức và ngột ngạt rồi, nhưng không khí trong rừng thì mát mẻ hơn và có vẻ ẩm ướt khó chịu. Winnie mới rụt rè đi dưới những cành lá đan xen chưa đầy hai phút thì đã tự hỏi sao trước kia mình chưa từng vào đây bao giờ. “Tại sao vậy nhỉ, ở đây dễ chịu quá mà!” cô kinh ngạc nghĩ.
Cả khu rừng ngập tràn ánh nắng, khác xa thứ ánh nắng mà cô từng biết. Nó có màu xanh lá và vàng hổ phách, sống động, rung rinh từng vệt lấp loáng trên đất mềm, luồn vào khe hở giữa những thân cây khỏe khoắn. Đây là những bông hoa bé nhỏ cô chẳng biết tên, màu trắng và phớt xanh; kia là hằng hà sa số dây leo xoắn xuýt; và đây đó lại có một cành cây gãy đã mục nát phân nửa nhưng mềm mại với hàng mảng rêu nhung xanh mướt mượt mà.
Và ở đó chỗ nào cũng có sinh vật. Những hoạt động lúc tinh mơ của chúng khiến bầu không khí trong rừng chộn rộn hẳn lên: bọ hung, chim chóc, sóc, kiến, và còn vô vàn những sinh vật khác không nhìn thấy được, tất cả chúng đều hiền lành, cắm cúi vào việc của mình và chẳng hề đáng sợ chút nào cả. Ở đó thậm chí còn có, cô sung sướng khi trông thấy, chú cóc đó. Nó đang ngồi chễm chệ trên một gốc cây cụt và đáng lẽ cô đã không nhận ra, vì trông giống cây nấm hơn là một sinh vật sống đang ngồi đó. Tuy nhiên, khi cô đi đến bên nó, cóc ta liền chớp mắt và cử động đó khiến cô trông thấy nó.
“Mày thấy chưa?” cô reo lên. “Tao đã nói với mày là ngay sáng nay tao sẽ đến đây mà.”
Chú cóc lại chớp mắt và gật đầu. Hoặc cũng có thể chẳng qua nó đang nuốt một con ruồi. Nhưng chú ta bỗng lùi dần ra ngoài gốc cây và mất dạng trong tầng cây thấp.
“Chắc là nó chờ mình nãy giờ đây, “ Winnie tự nhủ, trong lòng cảm thấy hết sức vui.
Cô bé đi vơ vẩn loanh quanh một lúc lâu, nhìn ngắm mọi thứ, lắng nghe mọi thứ, tự hào vì đã quên được cái thế giới chật chội bị tỉa tót ở bên ngoài, miệng khe khẽ ư ử theo trí nhớ điệu nhạc hồi tối. Và rồi, ngay trước mắt, ở một chỗ nơi ánh sáng dường như rực rỡ hơn và mặt đất dường như thoáng đãng hơn, có cái gì đó đang động đậy.
Winnie dừng ngay lại và thụp người xuống. “Nếu đó là yêu tinh thật,” cô nghĩ, “thì mình có thể xem chúng.” Thế là, dù bản năng mách bảo hãy quay lui và bỏ chạy, cô hài lòng nhận ra trí tò mò của mình còn mạnh hơn cả nỗi sợ hãi. Cô bắt đầu rón rén tiến lên phía trước. Sẽ chỉ đến gần vừa đủ nhìn thôi, cô tự nhủ. Chỉ đến gần vừa đủ trông thấy thôi. Và sau đó cô sẽ quay lại và chạy. Nhưng rồi khi đã đến gần, núp sau một thân cây, và hé mắt nhìn ra, miệng cô há hốc kinh ngạc còn mọi ý nghĩ chạy trốn đều tan biến đi đâu mất.
Một khoảng rừng quang trải ra trước mắt cô, chính giữa là một cây cổ thụ khổng lồ, đám rễ mập mạp của nó làm nhàu mặt đất xung quanh đến gần ba mét về mọi hướng. Đang ngồi thư thả đó, lưng tựa vào thân cây là một cậu con trai, gần như đã là một người đàn ông. Và Winnie thấy cậu ta tuấn tú đến nỗi cô bé phải lòng ngay lập tức.
Cậu trông gầy và rám nắng, cái chàng trai tuyệt vời ấy, với mái tóc nâu quăn bù xù rậm rạp. Cậu mặc cái quần cũ kỹ hơi tả tơi và chiếc áo sơ mi cáu bẩn, rộng thùng thình nhưng dáng vẻ thì trông tự tin thoải mái như thể đang mặc đồ bằng lụa hay xa tanh vậy. Dây đeo quần màu xanh của cậu ta, để trang trí hơn là để xài, là phụ kiện cuối cùng trên bộ trang phục, vì chân cậu không mang giày, và giữa các ngón chân thò lên một mẩu cành. Cậu ngồi đó lơ đễnh phe phẩy nhánh cây, mặt ngửa lên đăm đăm nhìn tán lá trên cao. Nắng sớm vàng óng như rực sáng xung quanh cậu, và khi cành lá trên đầu câu rung rinh, bóng nắng rơi xuống đậu lên đôi bàn tay nâu rắn rỏi, lên mái tóc và khuôn mặt cậu.
Cậu lơ đễnh xoa xoa tai, ngáp, và vươn vai. Khi dịch chuyển vị trí, cậu để ý thấy một đống đá cuội nhỏ kề bên. Trong khi Winnie vẫn nhìn đến nín cả thở, cậu ta cẩn thận dời đống đá sang bên, từng viên từng viên một. Bên dưới đóng đá, nền đất lộ ra ướt loáng. Cậu nhấc viên đá cuối cùng lên và Winnie trông thấy một dòng nước trào ra, tuôn vồng lên rồi trở lại thấm ngược vào trong lòng đất, giống như một đài phun nước vậy. Cậu cúi xuống, ghé môi vào dòng nước, lặng lẽ uống, rồi ngồi dậy đưa ống tay áo lên quệt ngang miệng. Khi làm thế, cậu day mặt về phía Winnie – và mắt họ gặp nhau.
Họ im lặng nhìn nhau một hồi lâu, tay cậu ta vẫn đang đưa lên miệng. Không ai nhúc nhích. Sau cùng cậu bỏ tay xuống. “Em ra ngoài đây được rồi đấy,” cậu nói, cau mày.
Winnie đứng dậy, xấu hổ, và vì xấu hổ nên bực bội ra mặt. “Em không cố ý nhìn anh đâu,” cô quả quyết nói khi bước ra khoảng rừng trống. “Em không biết là lại có người ở đây.”
Cậu lom lom nhìn cô bước tới. “
Em làm gì ở đây vậy?” cậu lạnh lùng hỏi.
“Đây là rừng nhà em.” Winnie đáp ngạc nhiên vì câu hỏi. “Em có thể vào đây bất cứ khi nào em muốn. Trước đây em chưa đến đây bao giờ, nhưng
đáng lẽ em phải vào rồi mới phải, lúc nào mà chẳng được.”
“À,” cậu nói, nghe thoải mái hơn một chút. “Vậy em là con nhà Foster.”
“Em tên là Winnie,” cô nói. “Còn anh là ai?”
“Anh là Jesse Tuck,” cậu nói. “Chào em.” Rồi cậu chìa tay ra.
Winnie bắt bàn tay ấy và nhìn cậu chằm chằm. Nhìn gần trông cậu còn đẹp trai hơn nữa.
“Anh sống gần đây à?” sau cùng cô mới nặn ra một câu, miễn cưỡng buông tay cậu. “Trước đây em chưa từng gặp anh. Anh có thường đến đây không? Nhưng mà đâu có ai được phép vào đây. Đây là rừng nhà em mà.” Rồi cô thêm vào thật nhanh, “Nhưng
anh đến đây thì không sao. Ý em là với
em thì không sao.”
Cậu cười toe toét. “Không, anh không sống gần đây và cũng không đến đây thường xuyên. Anh chỉ đi qua đây thôi. Và cám ơn em, anh mừng là với em thì không sao.”
“Tuyệt lắm,” Winnie nói, không ăn nhập lắm. Cô lùi lại và đoan trang ngồi xuống cách xa cậu một chút. “Mà anh bao nhiêu tuổi vậy?” cô hỏi, nheo mắt nhìn cậu.
Yên lặng một chút. Sau cùng cậu lên tiếng, “Tại sao em muốn biết vậy?”
“Em chỉ băn khoăn thế thôi,” Winnie nói.
“Được rồi, anh một trăm lẻ bốn tuổi,” cậu nghiêm trang đáp.
“Không phải, ý em là tuổi thật của anh kìa,” cô khăng khăng.
“Vậy thì,” cậu nói, “nếu em cứ khăng khăng muốn biết, anh mười bảy tuổi.”
“Mười bảy à?”
“Đúng rồi.”
“Ôi,” Winnie thất vọng nói. “Mười bảy tuổi. Già thật.”
“Em không tưởng tượng nổi đâu,” cậu gật đầu đồng ý.
Winnie có cảm giác là cậu đang cười nhạo mình, nhưng rồi cô lại tự cho rằng đó là một kiểu cười nhạo thật đáng yêu. “Anh lấy ai chưa vậy?” cô hỏi tiếp.
Lần này thì cậu cười phá lên. “Chưa, anh chưa. Còn em?”
Giờ đến lượt Winnie bật cười. “Dĩ nhiên là chưa rồi,” cô nói. “Em mới mười tuổi. Nhưng sẽ lên mười một sớm thôi.”
“
Sau đó em sẽ lấy chồng,” cậu gợi ý.
Winnie lại cười nữa, đầu cô nghiêng sang một bên, ngưỡng mộ nhìn cậu. Rồi cô chỉ vào dòng nước. “Cái đó uống có ngon không vậy anh?” cô hỏi .”Em khát.”
Khuôn mặt của Jesse Tuck đột nhiên nghiêm trang. “Ồ, nước đó hả? Không, không, không ngon đâu,” cậu nói thật nhanh. “Em không được uống nước đó. Phun thẳng từ dưới đất lên. Chắc là dơ lắm.” Và cậu bắt đầu lấp đá lên che lại.
“Nhưng anh uống nó mà,” Winnie nhắc.
“Ơ, em thấy rồi à? “ Cậu nhìn cô lo lắng. “À, anh thì cái gì cũng uống được hết. Ý anh là anh quen rồi nhưng mà nó không tốt cho em đâu.”
“Sao lại không?” Winnie nói. Cô đứng bật dậy. “Dù sao đi nữa, nước đó là của em, nếu nó ở trong rừng. Em muốn uống. Em khát khô cả cổ rồi nè.” Và cô đi đến chỗ cậu ngồi, quỳ xuống bên đống đá cuội.
“Tin anh đi mà Winnie Foster,” Jesss nói, “em mà uống một chút xíu nước này thôi là kinh khủng cho em lắm. Kinh khủng thật mà. Anh không để em uống đâu.”
“Nhưng mà em không hiểu sao lại không được,” Winnie rầu rĩ nói. “Càng lúc em càng khát. Nếu anh uống được thì em cũng uống được. Ba em mà có ở đây thì ba sẽ cho em uống ngay.”
“Em sẽ không kể cho ba em biết chứ?” Jesse nói. Mặt cậu tái nhợt đi dưới lớp da rám nắng. Cậu đứng dậy và kiên quyết đặt một bàn chân trần lên đống đá. “Mình biết việc này sớm muộn gì cũng xảy ra mà. Giờ mình phải làm gì đây?”
Cậu nói đến đây thì một tiếng ầm vang lên giữa những hàng cây và có tiếng gọi, “Jesse à?”
“Nhờ trời!” Jesse nói, thở phào nhẹ nhõm “Mẹ và anh Miles tới rồi. Họ sẽ biết phải làm gì.”
Ngay lúc đó một người phụ nữ to lớn nhưng trông có vẻ dễ chịu xuất hiện, dẫn theo sau một con ngựa già mập mạp, bên cạnh bà cũng là một thanh niên cũng tuấn tú như Jesse. Đó là bà Mae Tuck và đứa con trai còn lại, anh trai của Jesse. Vừa nhác thấy bóng hai người, Jesse đang đứng đạp chân lên đống đá còn Winnie thì quỳ gối bên cạnh, bà đã lập tức hiểu ra ngay. Cánh tay bà vung lên ngực giữ chặt chiếc ghim cài áo cũ kỹ trên tấm khăn choàng còn khuôn mặt trở nên u ám.” Mấy đứa à,” bà nói, “nó đây rồi. Điều tồi tệ nhất cuối cùng đã đến.”
Chương 6 Sau này, cứ mỗi lần hồi tưởng lại, Winnie thấy những gì diễn ra mấy phút sau đó dường như chỉ còn là một khoảng mờ. Đầu tiên cô nhớ mình đang quỳ trên đất, khăng khăng đòi uống dòng nước ấy, và điều tiếp theo cô biết là cô bị ai đó túm lấy và ném đi, trong khi vẫn đang há hốc mồm kinh ngạc, rồi thấy mình đang ngồi trên cái lưng nhấp nhô của con ngựa già béo ú đó. Miles và Jesse lóc cóc chạy theo hai bên, còn bà Mae thì hổn hển nắm dây cương chạy đằng trước.
Trước đó Winnie thường bị ám ảnh với những giấc mơ cô bị bắt cóc. Nhưng chưa từng có giấc mơ nào giống như thế này, khi mà những kẻ bắt cóc trông cũng hãi hùng không khác gì cô cả. Cô lúc nào cũng tưởng tượng ra cảnh một đoàn gồm toàn gã đàn ông lực lưỡng để ria mép dài đen nhánh cuốn cô vào một cái chăn rồi vác đi như vác một bao khoai tây trong khi cô van xin cầu tha mạng. Nhưng thay vì thế, người cầu xin đây lại chính là họ, bà Mae Tuck, Miles và Jesse.
“Làm ơn, con… cưng, cưng à… đừng sợ.” Đó là tiếng bà Mae vừa chạy vừa ngoái đầu gọi với ra sau. “Chúng ta… sẽ không làm hại con đâu… dù có đổi cả thế giới này cũng vậy.”
“Nếu em… gào lên hay làm gì đó” tiếng Jesse “Ai đó sẽ nghe thấy và… nguy hiểm lắm.”
Và Miles nói, “Tụi anh sẽ giải thích cho em biết… nhưng phải đi xa đã.”
Winnie không nói nổi nên lời. Cô bé bám chặt vào yên ngựa kinh ngạc nhận ra rằng dù tim mình đang đập thình thịch còn sống lưng thì cứng đờ và lạnh toát như một cái ống đầy nước đang chảy, tâm trí cô vẫn bình tĩnh phát sợ. Những suy nghĩ rời rạc lần lượt nối đuôi nhau xuất hiện, cứ như nãy giờ chúng vẫn đang xếp hàng chờ đến phiên mình vậy. “Thì ra cưỡi ngựa là như vậy - đằng nào thì mình cũng định bỏ nhà đi hôm nay - cả nhà sẽ nói gì khi thấy mình không xuống ăn sáng nhỉ - mình ước gì con cóc đó thấy mình lúc này - bà ấy đang lo lắng cho mình - Miles còn cao hơn cả Jesse - mình cúi xuống thì hơn nếu không muốn bị cành cây kia quật ngã.”
Lúc này họ đã đến được bìa rừng, nhưng không có vẻ gì là sẽ đi chậm lại cả. Con đường, đoạn nó bẻ góc cắt qua đồng cỏ, đã ở ngay trước mặt, sáng lóa mắt trong ánh nắng tràn trề, Và đứng đó, ngay trên đường, là gã đàn ông tối hôm trước, người mặc đồ vàng chóe, đội mũ đen.
Nhác trông thấy gã, thấy vẻ ngạc nhiên trên khuôn mặt gã và lập tức được đặt trước sự chọn lựa, tâm trí cô lại đột nhiên trống rỗng một cách ngang ngạnh. Đáng lẽ phải kêu gào cầu cứu thì cô bé chỉ cứ giương mắt nhìn khi họ đi ngang qua chỗ gã đang đứng. Mỗi mình bà Mae Tuck lên tiếng, và cái cớ khá nhất bà có thể bịa ra là: “Dạy con gái út... cách cưỡi ngựa!” Chỉ sau đó Winnie mới nghĩ ra mình phải la lên, vẫy tay, hay làm một cái gì đó. Nhưng lúc bấy giờ gã đàn ông đã biến mất sau lưng rồi, và cô bé sợ phải buông yên ngựa ra, sợ quay người lại sẽ bị ngã. Lại một lát nữa trôi qua, quá trễ rồi. Họ đã tăng tốc lên đồi rồi xuống đến mé sườn bên kia, cơ hội đã vụt đi mất.
Vài phút sau, con đường dẫn họ đến một nơi mé trái có con suối nông quanh co chảy gần kề, xung quanh là bóng liễu rủ và những bụi cây rậm rạp um tùm. “Dừng lại!” bà Mae la lên. “Mình dừng lại ở đây!” Miles và Jesse vội chộp lấy dây cương khi con ngựa đột ngột lồng lên suýt chút nữa là hất Winnie lộn nhào qua cổ nó. “Mang đứa trẻ tội nghiệp xuống đây,” bà Mae thở hổn hển, ngực bà phập phồng. “Mình lại chỗ con suối ngồi nghỉ lấy hơi và nói cho rõ mọi chuyện trước khi đi tiếp.”
Thế nhưng lời giải thích, khi họ loạng choạng tới bên bờ suối, không đến dễ dàng. Bà Mae có vẻ bối rối, còn Miles và Jesse thì bồn chồn không yên liếc nhìn mẹ. Chẳng ai biết phải bắt đầu thế nào. Về phần mình, giờ đây khi cuộc trốn chạy đã kết thúc, Winnie mới mường tượng được việc gì đang diễn ra, và việc hiểu ra điều này khiến cổ họng cô thít chặt còn miệng khô khốc. Đây không phải là giấc mơ. Đây là chuyện thật. Những người lạ mặt này đã bắt cóc cô; họ có thể làm bất cứ điều gì; có thể cô sẽ không bao giờ được nhìn thấy mẹ nữa. Nghĩ đến mẹ, cô thấy mình mới nhỏ bé, yếu ớt và vô dụng làm sao, thế là cô bé chợt òa lên khóc nức nở, nửa buồn bực nửa choáng váng đến tuyệt vọng.
Khuôn mặt tròn trịa của bà Mae Tuck nhăn nhó khổ sở. “Chúa ơi, xin con đừng khóc! Làm ơn xin đừng khóc mà cưng!” bà nài nỉ. “Chúng ta không phải là người xấu, chắc chắn không phải. Chúng ta buộc phải mang con đi - con sẽ hiểu tại sao ngay thôi mà - và chúng ta sẽ đưa con về ngay khi có thể. Ngày mai. Bác hứa đấy.”
Vừa nghe bà Mae nói, “Ngày mai,” Winnie càng thổn thức to hơn nữa. Ngày mai! Tiếng đó nghe như thể cô sẽ bị bắt đi mãi mãi vậy. Cô muốn về nhà, ngay bây giờ, muốn được lao trở vào khoảng an toàn bên trong cái hàng rào ấy và nghe giọng nói của mẹ vọng ra từ cửa sổ. Bà Mae dang tay về phía cô, nhưng cô quay ngoắt đi, hai tay che mặt, và cô lại nấc lên nức nở.
“Kinh khủng quá!” Jesse nói. “Mẹ không thể làm gì sao? Tội nghiệp con bé.”
“Đáng lẽ mình phải nghĩ ra cái cách nào khá hơn cách này rồi mới phải chứ,” Miles nói.
“Đúng vậy,” bà Mae nói trong vô vọng. “Chúa biết rằng chúng ta có quá đủ thời gian nghĩ ra cách giải quyết vì chuyện này chẳng chóng thì chầy cũng xảy ra. Trước giờ chưa có là phúc đức lắm rồi. Nhưng mẹ chưa từng nghĩ đó là một đứa trẻ.” Nói rồi bà lơ đãng thò tay vào túi váy lấy ra chiếc hộp nhạc, rồi không cần suy nghĩ bà vặn dây cót bằng mấy ngón tay run rẩy.
Khi cái giai điệu ấy lanh canh nhẹ nhàng ấy vang lên, tiếng nức nở của Winnie chợt dịu đi. Cô bé đứng bên con suối, mặt vẫn úp vào hai bàn tay, và lắng nghe. Đúng rồi, đó chính là bản nhạc mà cô nghe thấy tối hôm trước. Bằng cách nào đó nó khiến cô bình tĩnh trở lại. Nó giống như một dải băng vô hình ràng buộc cô với những thứ thân thương. Cô nghĩ, “Về nhà mình sẽ kể cho bà biết đó chẳng phải là nhạc yêu tinh gì cả.” Rồi cô lấy hai bàn tay ướt mèm chùi mặt cho thật sạch và quay về phía bà Mae. “Đó là điệu nhạc con nghe tối qua,” cô cố nói nên lời giữa những tiếng sụt sịt trước khi nín khóc hẳn. “Lúc con ở trong vườn. Bà nội nói đó là yêu tinh.”
“Cưng à, không phải đâu,” bà Mae nói, chăm chú nhìn cô bé đầy hy vọng. “Chỉ là cái hộp nhạc của bác ấy mà. Bác không biết là có người lại nghe thấy.” Rồi bà đưa nó cho Winnie. “Con muốn xem thử không?”
“Đẹp quá,” Winnie nói, tay cầm lấy hộp nhạc và lật nó lên. Chìa khóa lên dây cót vẫn xoay tròn, nhưng càng lúc càng chậm lại. Giai điệu lụi tàn dần. Vài nốt nhạc nữa vang lên cách quãng rất xa, rồi tắt.
“Con thích thì cứ vặn nó lên,” bà Mae nói. “Theo chiều kim đồng hồ.”
Winnie vặn chìa khóa. Nó khẽ kêu lách cách. Và rồi, sau vài lần vặn như thế nữa, nhạc lại cất lên, rộn rã vì mới được lên dây cót, và tươi vui. Chẳng ai sở hữu một vật như thế này lại đáng ghét cả. Winnie vừa nghĩ vừa ngắm nghía hình vẽ hoa hồng và hoa lan chuông, rồi bất giác mỉm cười. “Nó đẹp quá,” cô lặp lại, trả nó cho bà Mae.
Chiếc hộp nhạc ấy đã khiến tất cả mọi người nhẹ nhõm. Miles lấy từ túi sau ra chiếc khăn tay lau mặt, còn ba Mae thì nặng nhọc ngồi phịch xuống một tảng đá, giật chiếc mũ rơm xanh trên đầu xuống làm quạt mát.
“Nhìn đây, Winnie Foster,” Jesse lên tiếng. “Chúng ta là bạn, thật sự là như vậy. Nhưng em phải giúp bọn anh. Lại đây ngồi xuống đi, và bọn anh sẽ giải thích cho em hiểu tại sao.”
Chương 7 Đó là câu chuyện lạ kỳ nhất mà Winnie từng nghe. Cô nhanh chóng ngờ rằng họ chưa kể chuyện này cho ai nghe ngoại trừ trò chuyện với nhau - có nghĩa cô chính là vị thính giả thật sự đầu tiên của họ; vì họ quây quần quanh cô như trẻ con bu quanh gối mẹ, người nào cũng cố làm cô chú ý, đôi khi cả ba còn nói cùng một lúc, cướp lời nhau một cách hào hứng.
Tám mươi bảy năm về trước, gia đình nhà Tuck đã đi một quãng đường dài tới miền Đông để tìm nơi định cư. Ngày ấy khu rừng không như bây giờ, nó là một cánh rừng rộng lớn như lời bà nội kể vậy: trải dài xa tít mù tắp. Họ tính sẽ dựng một nông trại ngay khi đến chỗ cánh rừng kết thúc. Nhưng cây cối chẳng có vẻ gì là sẽ hết cả. Lúc đến được chỗ khu rừng ngày nay và rời khỏi đường mòn đi tìm nơi cắm trại, họ vô tình đứng trên dòng suối ngầm ấy.
“Nơi đó đẹp lắm,” Jesse nói cùng tiếng thở dài, “Trông giống hệt như bây giờ. Một khoảng rừng trống, ngập tràn ánh nắng, với cái cây to có những đốt rễ sần sùi ấy. Cả nhà dừng lại đó và mọi người cùng uống nước suối, cả con ngựa nữa.”
“Không hẳn,” bà Mae lên tiếng. “Con mèo không uống nước. Chuyện này quan trong lắm đấy.”
“Đúng vậy,” Miles nói, “đừng bỏ đi chi tiết đó. Tất cả chúng ta đều uống, trừ con mèo.”
“Được rồi, dù sao đi nữa,” Jesse tiếp tục, “nước đó có vị hơi lạ. Nhưng bọn anh vẫn cắm trại qua đêm ở đó. Rồi ba anh khắc một chữ T lên thân cây để đánh dấu chỗ đã đến. Rồi cả nhà anh tiếp tục lên đường.”
Sau cùng họ cũng ra được khỏi cánh rừng và cách đó hàng dặm về phía Tây, họ tìm thấy một thung lũng vắng người và bắt tay vào dựng nông trại. “Bọn anh dựng một căn nhà cho ba mẹ,” Miles kể, “và một căn lều gỗ cho Jesse và anh. Tụi anh đã nghĩ đến chuyện sớm lập gia đình nên cần phải có nhà riêng.”
“Lần đầu tiên mọi người nhận ra có điều gì đó bất thường,” bà Mae nói, “ là lúc Jesse bị té khi trèo cây…”
“Anh đang trèo lên đến khoảng giữa,” Jesse xen vào, “cố gắng cưa đứt mấy cành cây lớn trước khi chặt cả cây thì bị mất thăng bằng và anh té…”
“Nó rớt xuống u một cục trên đầu,” bà Mae vừa nói vừa rùng mình. “Chúng ta chắc là nó gãy cổ rồi. Nhưng lại xem mới thấy là nó chẳng bị sây sát tẹo nào.”
“Không lâu sau đó,” Miles tiếp tục, “có mấy người thợ săn đi ngang qua nhà lúc sẩm tối. Con ngựa này đang gặm cỏ dưới mấy gốc cây thì họ bắn nó. Nhầm nó là nai, họ nói vậy. Em tin nổi không chứ? Nhưng vấn đề là họ không giết được nó. Viên đạn xuyên qua mình nó mà không để lại một vết xước.”
“Rồi ba bị rắn cắn…”
“Và Jesse ăn phải nấm độc…”
“Rồi mẹ bị đứt tay nữa chứ,” bà Mae nói “Nhớ không? Lúc cắt bánh mì ấy.”
Nhưng thời gian trôi qua mới chính là yếu tố khiến gia đình Tuck lo lắng hơn cả. Họ đã dựng nên nông trại, định cư ở đó và kết bạn với mọi người xung quanh. Nhưng mười năm, rồi hai mươi năm, họ buộc phải đối diện với sự thật rằng đã có điều gì đó cực kỳ không ổn đã xảy ra. Chẳng ai trong gia đình họ già đi cả.
“Lúc đó anh đáng lẽ ngoài bốn mươi rồi,” Miles buồn rầu nói, “Anh đã lấy vợ, có hai con. Nhưng bề ngoài thì trông vẫn như hai mươi hai. Vợ anh cuối cùng cũng cho rằng anh đã bán linh hồn cho quỷ. Cô ấy bỏ anh đi. Cô ấy bỏ đi mang theo cả hai con.”
“Anh mừng là mình chưa từng lấy vợ,” Jesse chêm vào.
“Bạn bè nhà bác cũng vậy,” bà Mae tiếp lời. “Họ xa lánh gia đình bác .Có tin đồn về trò phù thủy. Phép thuật hắc ám. Thật ra cũng không trách họ được, nhưng cuối cùng rồi thì nhà bác cũng phải rời bỏ nông trại. Cả nhà không biết phải đi đâu về đâu nên đành trở lại con đường đã đến, chỉ đi lang thang vô định thế thôi. Giống như là dân Digan vậy đó. Lúc đến được tận đây thì mọi thứ dã thay đổi, dĩ nhiên. Cây cối bị chặt gần hết. Có người dọn đến ở và cả một ngôi làng mới xuất hiện - đó là Treegap. Con đường vẫn còn đây nhưng ngày trước nó chỉ là lối mòn do bò tạo ra mà thôi. Cả nhà đi vào khu rừng nhỏ còn sót lại để cắm trại, rồi khi đến chỗ khoảng rừng trống có cái cây và con suối đó, gia đình bác nhớ lại hết mọi chuyện.”
“Nó chẳng thay đổi gì cả. cũng giống như bọn anh vậy,” Miles nói. “Và cũng nhờ đó mà bọn anh khám phá ra mọi chuyện. Ba anh đã khắc một chữ T lên thân cây, nhớ chứ, hai mươi năm về trước, nhưng chữ T đó vẫn nằm ngay vị trí mà ba anh đã khắc. Cái cây đó chẳng cao thêm được chút xíu nào trong suốt quãng thời gian dài. Trông nó vẫn y hệt như vậy. Còn chữ T thì mới nguyên như thể chỉ vừa mới được khắc lên đó .”
Rồi họ nhớ lại chuyện đã uống nước. Cả nhà họ - và con ngựa. Còn con mèo thi không. Con mèo sống thật lâu và hạnh phúc ở nông trại, nhưng đã chết khoảng mười năm trước rồi.Thế là sau cùng họ nhất trí rằng con suối chính là nguồn gốc mọi sự trẻ mãi không già của họ.
“Khi chúng ta rút ra kết luận này,” bà Mae tiếp tục. “Ông Tuck - chồng bác, Angus Tuck - nói ổng muốn biết chắc một lần cho dứt khoát. Ổng lấy ra khẩu súng ngắn và nhằm thẳng vào mình, và trước khi mọi nhười kịp can ngăn, ổng bóp cò.” Bà Mae dừng lại một lúc lâu, mấy ngón tay đặt trên lòng đan vào nhau, xoắn chặt cùng sự tập trung căng thẳng vì cố nhớ. Sau cùng bà lên tiếng, “Phát đạn vật ổng ngã xuống. Xuyên qua tim. Nhất định phải thế vì ổng cố tình nhắm như vậy mà. Rồi viên đạn bay xuyên qua người ổng. Nó thậm chí chẳng để lại một vết xước. Giống như là - con biết đấy - như viên đạn vô nước. Và trông ổng không hề suy suyển, như thể ổng chưa từng bắn mình vậy .”
“Sau chuyện đó nhà anh giống như phát điên lên vậy,” Jesse vừa nói vừa cười toe toét nhớ lại. “Quỷ quái thiệt, chúng ta sẽ sống bất tử. Em có hình dung ra nổi bọn anh cảm thấy như thế nào khi khám phá ra chuyện đó không?”
“Nhưng rồi tụi anh lai ngồi xuống và bàn bạc…” Jesse lại chêm vào.
“Và chúng ta nhận ra mọi chuyện rồi sẽ tệ hại vô cùng nếu mọi người biết về con suối đó,” bà Mae nói “Chúng ta bắt đầu thấy trước thế nghĩa là sao.” Bà nhìn Winnie dò hỏi “Con hiểu không cưng? Thứ nước đó - nó làm cho con ngưng lại ngay tại chỗ. Nếu con mà uống nó ngày hôm nay thì con sẽ mãi mãi là một cô bé gái. Con sẽ không bao giờ lớn lên được, không bao giờ.”
“Bọn anh không hiểu nổi nó hoạt động như thế nào, hay thậm chí tại sao lại như vậy,” Miles tiếp.
“Ba anh nghĩ đó là thứ còn sót lại - ừm, từ một kế hoạch khác về cách thế giới này nên trở thành,” Jesse nói “Một kế hoạch đem lại kết quả không mấy tốt đẹp. Và thế là mọi thứ đều bị thay đổi. Chỉ có điều con suối đó đã bị bỏ quên. Có lẽ là ông đúng. Anh cũng không biết nữa nhưng mà em thấy đó, Winnie Foster, lúc mà anh nói với em anh một trăm lẻ bốn tuổi là nói thật đó. Nhưng nhìn anh thật sự chỉ mới mười bảy và theo chỗ anh biết thì chắc anh sẽ mười bảy tuổi cho đến ngày tận thế.”
Chương 8 Winnie không tin vào cổ tích. Cô bé chưa từng khao khát có được cây đũa thần, không hề ao ước sánh duyên cùng hoàng tử, và còn coi thường - hầu như lúc nào cũng vậy - những con yêu tinh của bà nội. Vì thế mà giờ cô ngồi đây, miệng há hốc, mắt mở to, không biết bình phẩm gì về câu chuyện hoang đường này. Chuyện này không thể nào - một chút cũng không - là sự thật.
“Thật dễ chịu khi kể được với ai đó!” Jesse reo lên. “Nghĩ mà xem, Winnie Foster, em là người duy nhất trên đời này ngoài bọn anh ra, biết được chuyện này!”
“Từ từ đã nào,” Miles thận trọng nói. “Cũng có thể không phải thế. Có thể có cả đống người khác nữa, có thể thế lắm, từng lang thang qua đây giống tụi mình.”
“Có thể. Nhưng mình đâu biết họ đâu,” Jesse chỉ ra. “Tụi mình chưa từng biết ai ngoài chính tụi mình mà kể chuyện này cho nghe. Winnie - em thấy chuyện này có kỳ quặc không? Và tuyệt vời nữa chứ? Hãy nghĩ đến tất cả những thứ bọn anh từng nhìn thấy trên thế giới này! Cả những thứ mà mình sắp được thấy nữa chứ!”
“Em nói kiểu đó sẽ khiến cô bé muốn quay ngay trở lại để uống cả thùng thứ nước đó đấy,” Miles cảnh báo. “Em biết đấy, có nhiều thứ nảy sinh từ đó hơn là mấy lúc vui vẻ của Jesse Tuck.”
“Ôi giời, lại ba cái chuyện đó nữa,” Jesse vừa nói vừa nhún vai. “Đã không thay đổi được gì thì cứ vui sống đi. Anh đừng có lúc nào cũng như cha đạo nữa.”
“Anh chẳng phải cha đạo gì cả,” Miles nói “Anh chỉ cho rằng em nên nghiêm túc hơn thôi.”
“Thôi đuợc rồi, mấy thằng bây,” bà Mae nói. Lúc này bà đang quỳ gối bên cạnh con suối, té nước mát lên rửa mặt và tay. “Úi chà! Thời tiết gì vậy trời!” bà la lên, lại ngồi xổm xuống. Bà mở đồ cài áo ra, tháo khăn choàng lau khuôn mặt tong tỏng nước. “Thế đấy, cưng à,” bà vừa nói với Winnie vừa đứng dậy. “Giờ con đã biết bí mật của nhà bác rồi đó. Một bí mât lớn và nguy hiểm. Chúng ta cần con giúp giữ bí mật này. Con chắc là còn nhiều chuyện cần phải hỏi lắm, nhưng mình không thể ở lại đây lâu hơn được nữa.” Nói rồi bà cột chiếc khăn choàng quanh thắt lưng, và thở dài. “Nghĩ đến ba mẹ con phải lo lắng thế nào mà đau lòng, nhưng thiệt tình không còn cách nào khác. Phải đưa con về nhà chúng ta thôi. Kế hoạch là như vậy. Ông Tuck - ổng chắc là sẽ muốn nói cho con rõ để con hiểu tại sao mà không được kể chuyện này cho ai biết hết. Nhưng ngày mai chúng ta sẽ đưa con về. Được không?” Và cả ba người họ nhìn cô tràn trề hy vọng.
“Dạ được,” Winnie đồng ý. Vì cô biết rằng mình chẳng còn chọn lựa nào khác cả. Cô phải đi theo họ thôi. Vả lại họ cũng có thể bắt cô theo, bất kể cô nói gì. Nhưng cô cảm thấy chẳng có gì đáng sợ, thật là như vậy. Bởi họ trông có vẻ hiền lành. Hiền lành và - theo một cách kỳ lạ - thật trẻ con. Họ làm cô cảm thấy mình lớn bổng lên. Và cái cách họ trò chuyện cùng cô, cách họ nhìn cô, làm cô bé thấy mình thật đặc biệt. Quan trọng. Đó là một cảm giác ấm áp và lan tỏa, hoàn toàn mới lạ. Cô thích cái cảm giác đó và dù có tin hay không vào câu chuyện ấy thì cô vẫn thấy thích họ, đặc biệt là Jesse.
Nhưng Miles mới là người nắm lấy tay cô và nói, “Thật tuyệt khi có em bên cạnh, dù chỉ một hay hai ngày thôi cũng được.”
Lúc này Jesse chợt reo to lên một tiếng rồi nhảy ùm xuống suối, tạt nước bắn tung tóe cả lên. “Mẹ đem đồ ăn sáng gì vậy?” cậu la lên “Mình ăn trên đường đi được không? Con sắp chết đói rồi nè!”
Thế là giờ khi mặt trời đã lên cao trên bầu trời, họ lại khởi hành, vừa đi vừa ăn bánh mì với pho mát, làm náo động cà không gian tĩnh lặng tháng Tám. Jesse hát ầm ĩ mấy bài hát xưa vui nhộn và còn đu như khỉ trên mấy cành cây, khoe mẽ không biết ngượng trước mặt Winnie, gọi với theo cô, “Ê, Winnie Foster, xem anh nè!” và “Xem anh làm được gì này!”
Và Winnie, khi cười trước trò đó, đã xóa tan nỗi sợ hãi sau cùng của mình. Họ là bạn, bạn của cô. Cuối cùng cô cũng đã bỏ nhà ra đi, nhưng không hề cô đơn. Khi đóng sập cánh cửa ngăn những nỗi sợ hãi xa xưa nhất như vẫn đóng cổng hàng rào, cô đã khám phá ra đôi cánh mà mình hằng ao ước. Và ngay lập tức lòng cô ngập tràn vui sướng. Đâu rồi những điều kinh khủng mà người ta bảo cô sẽ gặp phải? Cô chẳng nhận ra bóng dáng chúng ở đâu cả. Mặt đất đầy hương thơm cỏ ngọt trải rộng bốn phương trời trước mắt cô như cánh một bông hoa đang chờ bàn tay người hái, tất cả lung linh đầy ánh sáng và cơ hội làm cô choáng váng. Giọng nói của mẹ, cảm xúc về mái ấm gia đình, trong phút chốc bỗng lùi xa, và suy nghĩ của cô hướng về phía trước. Tại sao lại không nhỉ, cả cô nữa cũng có thể bất tử trong cái thế giới tuyệt vời mà cô chỉ vừa mới khám phá ra chứ! Câu chuyện về con suối - có thể là sự thật! Vì thế mà khi cô không còn ngồi lắc lư trên mình con ngựa già béo ấy nữa - lần này là do tự nguyện - cô vừa chạy vừa hét vang trên đường, hai cánh tay vung lên, ồn ào hơn hết thảy.
Thật là tuyệt. Tuyệt thật đấy chứ vì trong suốt thời gian đó, chẳng ai trong số họ để ý thấy người đàn ông họ đã gặp trên đường, ngưòi mặc đồ màu vàng, đã rón rén nấp vào mấy bụi cây bên bờ suối và nghe thấy hết, toàn bộ câu chuyện hoang đường này. Cũng chẳng ai trông thấy gã giờ đây đang bám theo họ, bên lề đường tít phía sau, cái miệng trên bộ râu xám mỏng khẽ nhếch thành một nụ cười.
Chương 9 Mặt trời tháng Tám leo lên treo mình ở chính giữa bầu trời suốt một giờ chói lóa, nhưng cuối cùng lại lăn bánh về phương Tây trước khi cuộc hành trình của họ kết thúc. Winnie thì đã kiệt sức từ trước đó lâu rồi. Miles bế cô đi được một đoạn. Hai má cô bé ửng hồng vì cháy nắng, mũi cô đỏ au trông đến buồn cười, nhưng cô đã thoát khỏi cơn nắng như đổ lửa ấy nhờ chiếc mũ rơm xanh mà bà Mae cứ khăng khăng bắt cô phải đội. Chiếc mũ phủ qua tai làm cô giống như một chú hề, nhưng bóng râm tỏa ra từ vành mũ mời gọi đến độ Winnie gạt tính tự cao sang một bên và thiếp ngủ thật biết ơn trong vòng tay mạnh mẽ cùa Miles, hai tay cô bé choàng qua cổ anh.
Những đồng cỏ, cánh đồng và những lùm cây rậm rạp mà họ đi qua tưng bừng dập dìu ong lượn, lũ dế búng tanh tách trước họ như thể cứ mỗi bước nhảy lại nhả một lò xò ra và hất chúng lên như những hòn sỏi. Nhưng mọi thứ khác tĩnh lặng, khô rang như sắp sửa bốc cháy đến nơi, dè sẻn nguồn dự trữ nhựa sống cuối cùng, cố cầm cự đến khi cơn mưa trở lại, và những đóa hoa cà rốt dại phủ bụi nằm trên đồng cỏ như đám bọt tung trắng xóa trong một bức
tranh cảnh biển.
Sau đó thì, thật kinh ngạc khi leo lên một quả đồi chạy dài, nhìn thấy phía trước lại một ngọn đồi nữa, xa xa tiếp đó là màu xanh thẫm của khoảng rừng thông thưa thớt, và khi lên cao nữa sẽ cảm thấy không khí thanh khiết và dịu mát đi. Winnie như được hồi sinh, khụt khịt mũi và lại có thể cưỡi ngựa, vắt vẻo ngay sau lưng bà Mae. Và sau câu hỏi liên miên của cô bé, “Chúng ta sắp tới chưa ạ?” câu trả lời mong đợi rốt cuộc vẫn là, “Chỉ còn vài phút nữa thôi.”
Một vạt lớn rừng thông xanh thẫm vươn lên cao, hiện ra mỗi lúc một gần, và thình lình Jesse hô to, “Đến nhà rồi! Nhà bọn anh đây nè, Winnie Foster!” Nói xong cậu và Miles phóng đi và biến mất giữa những hàng cây. Con ngựa chạy theo sau, ngoặt vào lối nhỏ hằn vết bánh xe và lùm xùm rễ cây, và cô cảm tưởng như họ đã lạc bước vào một chiếc rây khổng lồ. Nắng chiều vàng rực chỉ xuyên xuống tản mát vài tia, và vạn vật đều tĩnh lặng và hoang sơ, mặt đất êm ái cuộn mình trong tấm mền rêu và lá thông rơi, những nhành thông duyên dáng vươn xa đầy che chở về tất cả mọi hướng. Không khí dìu dịu, mát mẻ và xanh tươi dễ chịu vô cùng. Chú ngựa thận trọng nhích từng bước một, sau đó lối đi trước mặt đổ xuống một đường đê dốc: và xa xa kia, Winnie, ló mặt từ sau thân hình to lớn của bà Mae quan sát, trông thấy một chớp màu và một tia lửa lấp lánh chói lọi. Họ lắc lư đi hết con đường đê dốc, và kia rồi, một ngôi nhà nhỏ bé đơn sơ màu đỏ xuất hiện, và bên dưới nó lóe lên chớp nắng muộn trên một mặt hồ nhỏ lăn tăn gợn sóng.
“Ôi, trông kìa!” Winnie reo lên. “Nước!”
Cùng lúc đó họ nghe thấy hai tiếng ùm thật lớn vang lên cùng hai tiếng hét vui sướng.
“Chúng không thể chờ thêm phút nào nữa để được nhảy xuống hồ,” bà Mae nói, cười tươi. “Cũng chả trách, trời nóng như vậy mà. Con muốn thì cũng xuống đi.”
Rồi thì họ cũng đến trước cửa ngôi nhà nhỏ, ông Tuck đang đứng đợi ở đó. “Đứa nhỏ đâu rồi?” ông gặng hỏi, không nhận ra vì Winnie lúc này đang nấp sau lưng bà Mae “Hai đứa kia nói bà đưa về đây một đứa nhỏ bằng xương bằng thịt, bình thường và thật thà!”
“Đúng vậy,” bà Mae nói, tụt xuống khỏi mình ngựa. “Con bé đây nè.”
Sự nhút nhát của Winnie bỗng chốc trở lại khi cô nhìn thấy người đàn ông to lớn có khuôn mặt buồn rầu mặc chiếc quần tây rộng thùng thình ấy, nhưng khi ông chăm chăm nhìn cô thì cảm giác ấm áp dễ chịu lại một lần nữa lan toả khắp người cô. Đầu ông Tuck ngoẹo sang một bên, đôi mắt ông trở nên thật dịu dàng và nụ cười dễ mến nhất trần đời dường xóa nhòa những nếp nhăn muộn phiền nơi hai gò má. Ông bước tới đỡ cô bé trên lưng ngựa xuống và nói, “Không lời nào có thể tả xiết nỗi vui mừng của bác khi được gặp con. Đây là điều tuyệt vời nhất từng xảy ra trong vòng...” Ông đột ngột tự ngắt lời, đặt Winnie xuống, và quay qua bà Mae. “Nó có biết không vậy?”
“Dĩ nhiên là biết rồi,” bà Mae đáp, “Thế nên tôi mới mang nó về nhà. Winnie, đây là chồng bác, Angus Tuck. Anh Tuck, làm quen với Winnie Foster đi.”
“Chào con, Winnie Foster,” ông Tuck nói, bắt tay Winnie hơi trịnh trọng một chút. “Được rồi!” Ông đứng thẳng dậy và chăm chú nhìn cô, còn Winnie, khi nhìn lại mặt ông, bỗng trông thấy một vẻ khiến cô có cảm giác mình giống như một món quà bất ngờ, bọc trong giấy đẹp có buộc ruy băng, dù lúc này chiếc mũ xanh của bà Mae vẫn còn trùm kín đầu cô. “Được rồi,” ông Tuck lặp lại, “biết là con biết rồi, bác sẽ nói tiếp câu lúc nãy, rằng đây là điều tuyệt vời nhất xảy ra trong vòng - ừm - ít nhất là tám mươi năm qua.”
Chương 10 Winnie từ nhỏ đã lớn lên trong trật tự và ngăn nắp. Cô bé đã quen sống như vậy rồi. Trước những nỗ lực không thương tiếc của bà và mẹ gộp lại, ngôi nhà nơi cô sống đành miễn cưỡng chào thua để bị quét dọn, lau chùi, chà rửa luôn luôn đến khi sạch bóng mới thôi. Nơi ấy không có chỗ cho tính bất cẩn hay bê tha trì hoãn công việc. Phụ nữ gia đình Foster đã dựng nên cả một pháo đài từ những bổn phận. Sống trong đó, họ trở nên bất khả chiến bại. Và Winnie cũng được huấn luyện để trở nên như vậy.
Thế nên cô chưa từng được chuẩn bị để sống trong ngôi nhà nhỏ đơn sơ bên bờ hồ ấy, chưa hề sẵn sàng đối mặt với bụi bặm theo gió thổi tốc lên từng cơn nhè nhẹ, với mạng nhện trắng xóa giăng đầy nhà, với chú chuột - được chào đón! - cư ngụ trong ngăn kéo bàn. Nhà chỉ có ba phòng. Đầu tiên là bếp, với chiếc tủ chén mở toang nơi chén dĩa chất đầy thành những ngọn tháp ngất nghểu bất chấp kích cỡ lớn bé lộn xộn của chúng. Có cả một bếp lò to đùng đen sì, một bồn rửa bằng kim loại, và trên mọi mặt phẳng, mọi bức tường đều chất chồng hay vương vãi hay lủng lẳng treo đủ mọi thứ trên đời mà bạn có thể tưởng tượng ra, từ củ hành tây đến lồng đèn, từ muỗng gỗ đến chậu giăt đồ. Và kia bị bỏ trong xó bếp là khẩu súng ngắn ngày nào của ông Tuck.
Kế đến là phòng khách, nơi bàn ghế, lung lay và xiêu vẹo vì năm tháng, bày biện tán loạn vô trật tự. Chiếc sofa cỗ lỗ màu xanh nhung bơ vơ lẻ loi ở giữa phòng, trông giống một cành cây rụng rêu phong nữa, đối diện với cái lò sưởi bám đầy bồ hóng vẫn còn ngập ngụa trong đống tro từ mùa đông năm ngoái. Chiếc bàn có cái ngăn kéo nơi trú ngụ của chú chuột bị kéo ra, cũng nằm chơ vơ ở tuốt một góc xa, còn ba cái ghế bành và chiếc xích đu già cỗi thì thơ thẩn mỗi cái một góc, như những kẻ xa lạ trong một buổi tiệc, chẳng thèm ngó ngàng gì đến nhau.
Qua phòng khách là đến phòng ngủ, ở đó chiếc giường lớn bằng đồng hơi liêu xiêu độc chiếm phần lớn không gian, nhưng vẫn chừa chỗ bên cạnh cho chiếc giá rửa mặt cùng cái gương cô đơn, đối diện là tủ quần áo bằng gỗ sồi lớn thoang thoảng mùi long não. Phía trên những bậc thang hẹp và dốc là cái gác xép đầy bụi bặm - “Đó là chỗ mấy thằng nhỏ ngủ lúc tụi nó ở nhà,” bà Mae giải thích - và tất cả chỉ có vậy.
Mà không, không hẳn chỉ có vậy. Vì chỗ nào trong nhà cũng đầy những dấu ấn về những hoạt động thường ngày của bà Mae và ông Tuck. Đồ may vá của bà: miếng vá và vải vụn sáng màu; chăn bông và thảm tết mới hoàn thành được một nửa; một túi bông đang thả những làn bông trắng như tuyết trôi vào các vết nứt và góc nhà; chiếc ghế sofa chăng đầy kim chỉ và ghim đầy kim nguy hiểm. Đồ chạm gỗ của ông: vỏ bào quăn tít chất nghẽn cả sàn nhà; đây đó những đống nhỏ những mảnh vụn và dằm gỗ; mùn cưa phủ mờ trên mọi thứ; rải rác tay chân chưa lắp vào của mấy con búp bê và lính gỗ; mô hình một chiếc tàu đang nằm chờ khô keo dán dựng trên cái bàn có chú chuột; và cả một chồng chén gỗ được bào nhẵn thín, trong chiếc chén trên cùng là đống muỗng nĩa bự bằng cũng bằng gỗ như những khúc xương khô đã ngả màu.
“Hai bác làm đồ để bán,” bà Mae vừa nói vừa nhìn quanh đống lộn xộn trước mặt vẻ hài lòng.
Thế cũng vẫn chưa hết. Vì, trên trần nhà cũ kỹ của phòng khách, còn có những vệt nắng đang ngụp lặn, nhảy múa và lả lướt như một ảo ảnh rực rỡ, phản chiếu mặt hồ tràn ngập ánh nắng qua cửa sổ. Những chậu cúc được đặt ở khắp nơi, màu trắng sáng và vàng. Và bao trùm lên tất cả là hương thơm ngọt ngào, trong lành của hồ nước và cỏ dại, tiếng quang quác chói tai của chim bói cá bổ xuống săn mồi, tiếng vang rền ríu rít của hàng chục loài chim, và đôi khi chen vào một nốt trầm đột ngột của chú ếch điềm nhiên đang thư thả đâu đó dọc bờ hồ lầy lội.
Cô bé Winnie lạc giữa cảnh ấy, mắt mở to đấy kinh ngạc. Chuyện người ta có thể sống trong mớ hỗn độn như thế này là điều hoàn toàn mới lạ nhưng cũng thật thú vị đối với cô. Mọi thứ thật là dễ chịu. Vừa theo bà Mae leo lên gác xép cô vừa nghĩ thầm: “Có lẽ vì họ sẽ còn cả thời gian vĩnh cửu phía trước để dọn dẹp nhà cửa.” Và liền sau đó là một ý nghĩ mới, tiến bộ hơn nhiều: “Hay có lẽ là họ chẳng thèm quan tâm!”
“Mấy thằng nhỏ không mấy khi ở nhà,” bà Mae nói khi họ đã ở trên căn gác tôi tối ấy. “Nhưng mỗi khi về nhà là tụi nó ngủ ở đây. Còn nhiều chỗ lắm.” Căn gác xép cũng chất đầy đồ đạc lặt vặt, nhưng còn có thêm hai tấm nệm đã trải sẵn trên sàn, trên mỗi cái là mền và ga trải giường sạch sẽ gấp khá ngay ngắn, chờ được giở ra.
“Rời khỏi nhà mấy anh đi đâu vậy hả bác?” Winnie hỏi. “Mấy ảnh làm gì vậy?”
“À,” bà Mae nói, “tụi nó đi nhiều nơi lắm, làm nhiều việc nữa. Việc nào tìm được thì tụi nó làm, ráng kiếm ít tiền mang về nhà. Thằng Miles nó biết nghề mộc, nghề rèn nó làm cũng khá lắm. Còn thằng Jesse thì đến giờ cũng chưa ổn định nữa. Cũng phải thôi, nó còn trẻ mà.” Nói đến đây bà dừng lại và mỉm cười. “Nghe hơi kỳ cục phải không? Nhưng mà vẫn đúng. Cho nên hiện thằng Jesse nó làm những việc mà nó thích như là làm đồng hay là phục vụ trong quán bar, những việc đại loại như vậy đó, bất cứ việc gì nó gặp. Nhưng mà con biết đó, tụi nó không thể ở lâu hoài một chỗ được. Cả nhà bác đều như vậy. Ở lâu hàng xóm láng giềng lại thắc mắc.” Bà thở dài. “Nhà bác ở trong căn nhà này đến chừng nào hết dám nữa thì thôi, cũng được hai mươi năm rồi. Ở đây cũng dễ chịu lắm. Ông Tuck ổng thực sự gắn bó với nơi này. Mà nó cũng thuận tiện nữa, trong hồ có nhiều cá, lại không xa làng mạc chung quanh. Mỗi khi cần mua đồ thì mình lúc đi chỗ này lúc đi chỗ khác, nên người ta cũng không để ý lắm. Và chỗ nào được thì hai bác cũng bán đồ nữa. Nhưng mà nhà bác chắc là sẽ dọn đi nữa, một ngày nào đó gần đây thôi. Cũng gần đến lúc rồi đó.”
Với Winnie, chuyện không bao giờ được gắn bó với bất kỳ nơi nào nghe buồn làm sao. “Tệ quá ha bác,” cô nói, rụt rè liếc nhìn bà Mae. “Lúc nào cũng phải đi lang thang và chẳng bao giờ có bạn bè hay là gì cả.”
Nhưng bà Mae gạt phăng lời bình luận này. “Bác trai và bác có nhau,” bà nói. “Vậy là nhiều rồi. Còn mấy thằng con trai thì giờ tụi nó đã có con đường riêng. Hai đứa nó hơi khác tính nhau nên cũng không được hòa thuận cho lắm. Nhưng khi nào thích là tụi nó về nhà, và cứ mười năm một lần, vào tuần đầu tiên của tháng Tám, tụi nó hẹn nhau ở con suối đó rồi cùng nhau về nhà đoàn tụ gia đình trong một thời gian ngắn. Vì vậy mà sáng nay chúng ta mới ở đó. Dù gì thì đến giờ vẫn tốt.” Bà khoanh tay lại rồi tự gật đầu, với chính mình hơn là với Winnie. “Đời là phải sống thôi dù dài hay là ngắn,” bà bình thản nói. “Phải đón nhận những điều sẽ đến. Nhà bác cũng sống như mọi người vậy thôi, qua ngày nào biết ngày đó. Cũng lạ thật - nhà bác chẳng thấy mình có gi khác biệt. Ít nhất thì riêng bác thấy thế. Có lúc bác quên luôn những việc xảy ra với nhà mình, quên hết luôn. Rồi lại có lúc những chuyện đó chợt tràn về và lại tự hỏi sao nó lại xảy đến với nhà bác. Cả nhà bác ai cũng bình thường thôi, nên chắc không xứng đáng được ân trên ban phước - nếu coi đó là ân phước. Mà bác cũng không thấy mình đáng bị nguyền rủa - nếu đó là bất hạnh. Nhưng cũng chẳng tích sự gì khi cố tìm hiểu tại sao sự việc lại như vậy. Việc xảy ra thì cũng xảy ra rồi, có làm ầm lên cũng chả thay đổi được gì. Còn bác trai giờ đã suy nghĩ khác, nhưng bác mong là ổng sẽ kể cho con nghe. Kìa! Mấy thằng ở dưới hồ lên rồi.”
Lúc này Winnie nghe thấy tiếng nói ầm ĩ dưới cầu thang và loáng một cái Miles và Jesse đã sắp sửa leo lên đến gác.
“Nè, con,” bà Mae vội nói. “Nhắm mắt lại đi. Còn hai thằng bây? Tụi bây có phải người đàng hoàng không vậy? Tụi bây mặc đồ gì để bơi? Winnie ở trên này nè, hai đứa có nghe mẹ nói không?”
“Vì Chúa, mẹ à,” Jesse nói, thò đầu lên khỏi cầu thang. “Bộ mẹ nghĩ có Winnie trong nhà thì tụi con lại không mặc đồ đi diễu vòng vòng hả?”
Và Miles, đằng sau lưng Jesse, nói, “Tụi con mặc nguyên đồ nhảy xuống hồ luôn mà. Nóng và mệt quá hết lột nổi đồ luôn.”
Đúng là vậy thật. Hai người họ đứng cạnh nhau, quần áo ướt nhem dán chặt vào người, nước đọng lại thành vũng nhỏ dưới chân.
“Thế chứ!” bà Mae nói, thở phào nhẹ nhõm. “Được rồi, kiếm đồ khô mặc vào đi. Ba tụi bây làm bữa tối xong rồi kìa.” Nói rồi bà giục Winnie mau bước xuống những bậc cầu thang hẹp ấy.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.07.2009 10:49:15 bởi buihongvan >