Tuyên phi Đặng Thị Huệ
rongxanhag 22.07.2009 04:41:58 (permalink)
Đặng Thị Huệ (? - ?) là vợ chúa Trịnh Sâm thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Quê bà ở làng Trà Hương, huyện Phù Đổng, trấn Kinh Bắc, nay thuộc huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
 
Bà xuất thân nghèo khổ, vốn là cô gái hái chè, sau về với chúa Trịnh Sâm, được lập làm Tuyên Phi, nhưng người đời vẫn quen gọi là Bà Chúa Chè. Theo Từ điển Lịch sử nhân vật Việt Nam, thì bà là một người đã gây ra nhiều tai ác trong phủ chúa Trịnh và triều đình Hậu Lê, ảnh hưởng xấu đến tình hình chính trị, xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
 
Được sủng ái
Nguyên trước đây, Dương Ngọc Hoan[2], được vào hầu chúa Trịnh Sâm, sinh hạ một nam là Trịnh Khải (tên cũ là Tông, 1763-1786).
Một hôm, Tiệp dư Trần Thị Vịnh sai nữ tỳ Đặng Thị Huệ bưng một khay hoa đến trước nơi chúa ngồi. Trịnh Sâm nhìn thấy rất bằng lòng, bèn ân ái với bà. Từ đó bà ngày càng được Trịnh Sâm yêu quí.
 
Mưu phế lập
Năm Đinh Dậu (1777), Đặng Thị Huệ lại sinh hạ một người con trai, tên là Trịnh Cán (1777-1782), nên càng được chúa sủng ái, lập làm Tuyên Phi. Nhân đó, Đặng Thị Huệ bèn hỏi con gái chúa là Công nữ Ngọc Lan cho em trai mình là Đặng Mậu Lân, vốn là người có tính hung bạo, dâm dật và càn rỡ. Nhưng chúa cũng nghe theo, khiến Sử trung hầu bị Mậu Lân chém chết trong việc bảo vệ Ngọc Lan.
 
Biết chúa rất sủng ái mình, Đặng Thị Huệ ngày đêm mưu tính việc giành lấy ngôi vị Thế tử cho con trai.
 
Đề cập đến ngôi vị vương giả này, sách Hoàng Lê nhất thống chí có đoạn:
Theo lệ cũ, người con trai nối ngôi chúa hễ đến mười hai tuổi thì phải ra ở Đông cung. Bấy giờ các quan cũng có tâu trình việc ấy; song chúa không cho, chỉ cho Thế tử (Trịnh Khải)[3]đến ở nhà riêng của Hân quận công (Nguyễn Đĩnh). Như vậy, ngôi Đông cung vẫn bỏ trống, như có ý chờ đợi người khác.
Đến năm Thế tử mười lăm tuổi, thì con nhỏ là vương tử Cán ra đời, chúa hết sức yêu dấu đứa con nhỏ đó. Ba năm sau, Thế tử đúng mười tám tuổi, đáng được mở phủ riêng; nhưng bấy giờ các quan chẳng ai dám tâu bày, mà chúa cũng không hề nhắc tới việc ấy. Như thế là người nối ngôi vẫn chưa định, nên lòng người rất phân vân. Hễ ai thuộc về Thế tử Tông (tức Trịnh Khải) thì hùa theo Thế tử Tông, ai thuộc đảng Thị Huệ thì vào phe vương tử Cán. Trong phủ chúa dần dần sinh ra bè nọ cánh kia.[4].
 
Kể từ đó, một mặt bà bí mật sai thuộc hạ thân tín, sớm tối thêu dệt đủ mọi chuyện xấu vu cho Trịnh Khải; mặt khác, bà liên kết với Huy Quận công Hoàng Đình Bảo để cùng mưu sự. Hậu quả của cuộc tranh giành quyền lực này đã gây ra hai vụ biến động lớn nơi triều đình Lê - Trịnh như sau:
 
Vụ án năm Canh Tý
Tháng 8 năm Canh Tý (1780)[5], lúc ấy có tin đồn rằng chúa Trịnh Sâm bị bệnh rất nặng, Trịnh Khải bèn bàn mưu với gia thần là Đàm Xuân Thụ, Thế Thọ, Thẩm Thọ và Vĩnh Vũ bí mật sắm sửa vũ khí, chiêu tập dũng sĩ, để chờ thời cơ. Ngoài ra, Trịnh Khải còn ngầm liên kết với Trấn thủ Sơn Tây là Hồng lĩnh hầu Nguyễn Khản [6], Trấn thủ Kinh Bắc là Tuân sinh hầu Nguyễn Khắc Tuân để sẵn sàng hỗ trợ.
 
Việc mưu sự, bị Cấp sự trung Nguyễn Huy Bá biết được, ngầm kể với Tuyên Phi. Chớp lấy thời cơ, bà liền đem việc đó bàn với Quận Huy (tức Hoàng Đình Bảo). Quận Huy bảo Huy Bá viết bức kín, rồi ông tự ý bỏ vào tay áo, đi đến phủ chúa, đuổi hết những người chung quanh, đem thư ra trình…[7]
 
Kết cuộc, phe Đặng Thị Huệ thắng thế. Theo sách Hoàng Lê nhất thống chí,  thì có ba đại thần theo phe Trịnh Khải đều phải mất mạng: Khê trung hầu [8], Tuân sinh hầu (Nguyễn Khắc Tuân) đều uống thuốc độc tự tử, Nguyễn Quốc Tuấn (thuộc hạ của Khắc Tuân) bị án chém; còn Trịnh Khải bị quản thúc ngặt trong một ngôi nhà ba gian.
 
Theo sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (gọi tắt là Cương mục) thì: Đàm Xuân Thụ bị giết, Nguyễn Lệ và Nguyễn Khắc Tuân [9] bị tống giam vào ngục, hoạn quan Nguyễn Phương Đĩnh (hoặc Định) bị kết tội nuôi dưỡng Trịnh Khải không nên người, bị lột hết chức tước và đuổi về làng; còn Trịnh Khải bị giáng xuống làm con út và bị quản thúc trong nội phủ.
 
Ngay trong năm này, mặc dù Trịnh Cán chỉ mới 4 tuổi vẫn được lập làm Thế tử, và Quận Huy được cử làm A phó để phò tá. [10] Tháng 9 năm Nhâm Dần (1782), Trịnh Sâm mất, Trịnh Cán được nối ngôi chúa. Thuận theo lời tâu của Quận Huy, Vua Lê cho Tuyên Phi được tham dự việc quyết đoán chính sự. Kể từ đó, liên minh Tuyên Phi – Quận Huy nắm hết mọi việc trong ngoài.
 
Do vua mới là Trịnh Cán tuổi hãy còn thơ ấu, sức khỏe lại ngày càng tồi tệ; trong khi đó, mối quan hệ của Tuyên Phi và Quận Huy có phần không minh bạch, nên người trong nước không khỏi có ý ngờ, bởi vậy ở đầu đường xó chợ lúc bấy giờ có câu:
Trăm quan có mắt như mờ,
Để cho Huy quận vào sờ chính cung.
Quận Huy nghe tin, sai quan đề lĩnh đem móc sắt và kéo sắt treo khắp các chợ, dọa rằng những ai còn dám tụ họp nói xằng thì sẽ cho móc lưỡi cắt đi. Dân chúng kinh kỳ thảy đều nơm nớp sợ.
 
Lính tam phủ nổi dậy
Sự kiện này, sử cũ gọi là loạn kiêu binh, xảy ra vào tháng 10 năm Nhâm Dần (1782), nghĩa là đúng một tháng sau khi chúa Trịnh Sâm mất, và cũng đúng một tháng sau khi Trịnh Cán được đưa lên ngôi chúa.
 
Sách Lê quý dật sử chép vắn tắt chuyện như sau:
Chính cung (Đặng Thị Huệ) mưu toan đoạt ngôi của con cả, vì thế vu khống tội trạng cho Thế tử (Trịnh Khải). May có Thánh từ quốc mẫu (tục gọi là bà Sét, mẹ của chúa Trịnh Sâm) thường che chở, Thế tử mới được bảo toàn. Đến khi Tĩnh vương (Trịnh Sâm) mất, lệnh cho con là Cán nối ngôi, quân sĩ hai xứ Thanh Nghệ đều ngấm ngầm phẩn uất kêu ca. Lính trong phủ ước hẹn cùng vào núi bí mật toan định ngày giờ phế lập. Bèn bên trong theo ý quốc mẫu, bên ngoài dựa vào sự chi viện của Phan quận công (Nguyễn Phan), và nhờ tiến triều[11] Nguyễn Nhưng làm bài (hịch) khích lệ quân lính, phù chính nghĩa. Lại có Thư lại đội quân Tiệp Bảo là Nguyễn Bằng (Hoàng Lê nhất thống chí ghi tên Bằng Vũ) tự xin lên gác phủ đánh trống làm hiệu.
...(Nghe có biến) Quận Huy sai đội quản voi chỉnh đốn bành voi. Huy lên voi tuần hành để răn đe quân sĩ..Quân sĩ đập phá gạch ngói ném bừa vào Huy. Huy bị thương ngã gục trên mình voi, quân sĩ lại lấy kiếm dài đâm lên, làm Huy bị thương tiếp. Rồi (họ) lấy câu liêm lôi (Huy) xuống, băm ra từng khúc, tranh nhau ăn gan Huy...Khi đó, lính trong phủ đã rước Thế tử Trịnh Tông (tức Khải) lên nối nghiệp chúa, và dời Trịnh Cán đến ở một cung khác. Ngày hôm đó, nhà cửa dinh thự của các quan lại trong kinh đô đều bị lính phá hủy gần hết. Đình thần im hơi lặng tiếng, đứng yên một chỗ. Kể từ đó quyền hành lọt hết vào tay lính tam phủ.[12]
 
Bị giam và qua đời
Hôm việc biến xảy ra, Đặng Thị Huệ khiếp sợ quá, phải thay đổi quần áo, nấp ở hậu cung. Riêng chúa Trịnh Cán, được Quận Diễm bế đi lánh nạn. Đến đêm, được Thánh mẫu (bà Sét) sai người tìm rước về. Hôm sau, bị giáng xuống làm Cung quốc công, rồi hơn tháng sau thì bị bệnh qua đời.
Và theo sách Hoàng Lê nhất thống chí thì quãng đời cuối của Đặng Thị Huệ như sau:
Khi chúa nhỏ bị bỏ, Thái phi (Dương Ngọc Hoan) liền sai người bắt Tuyên phi hài tội, rồi buộc bà phải lạy tạ. Tuyên phi không chịu lạy, Thái phi bèn sai hai thị nữ đứng kèm hai bên, níu tóc Tuyên phi rập đầu xuống đất, nhưng bà vẫn nhất định không chịu lạy, mà cũng không nói nửa lời. Thái phi giận quá, đánh đập một hồi, nhỏ nước bọt vào đầu vào mặt, rồi đem giam vào nhà Hộ Tăng ở vườn sau. Tại đây, Đặng Thị Huệ bị làm tình làm tội cực kỳ khổ sở. Một bữa, bà trốn ra khỏi cửa Tuyên Vũ, chạy đến bến đò phố Khách thì bị quân lính đuổi kịp...
Sau một thời gian giam giữ ngặt, Thị Huệ được cho làm cung tần nội thị, vào Thanh Hóa hầu hạ lăng tẩm chúa Trịnh Sâm. Ở đây, bà ngày đêm gào khóc xin được chết theo chồng. Đến ngày giỗ của chúa Trịnh Sâm, Tuyên phi uống thuộc độc mà chết, được táng cách Vọng lăng (lăng Trịnh Sâm) một dặm.[13]
 
Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn.
 
Chú thích
1. Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế, Từ điển Lịch sử nhân vật Việt Nam, Nxb. KH-XH, 1992, tr. 145.
2. Người làng Long Phúc, huyện Thạch Hà, Nghệ Tĩnh. Chép theo Hoàng Lê nhất thống chí. Ở sách Lê quý dật sử người dịch ghi chú thêm hai tên nữa là: Nguyễn Thị Bốn hoặc Dương Thị Hoan. Nhờ chị là một Cung tần của chúa Trịnh Doanh mà bà được tuyển vào cung.
3. Hoàng Lê nhất thống chí chép vậy, nhưng thực tế Trịnh Khải chưa bao giờ được chính thức được phong làm Thái tử.
4 và 5 Chép theo Hoàng Lê nhất thống chí. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép sự kiện xảy ra vào tháng 9 năm Canh Tý.
6.Cương mục chép là Nguyễn Lệ.
7.Hoàng Lê nhất thống chí, tập I, tr. 21.
8.Hoàng Lê nhất thống chí không ghi tên thật.
9.Sau, Nguyễn Khắc Tuân và Chu Xuân Hán đều uống thuốc độc chết.
10.Bấy giờ trong dân gian có câu: Đục cùn thì giữ lấy tông - Đục long , cán gẫy, còn mong nỗi gì?. Chữ tông và cán theo nghĩa đôi để chỉ Trịnh Tông (Khải) và Trịnh Cán.
11. Những người không đỗ Tiến sĩ mà được làm quan ở sáu bộ, gọi là “tiến triều”. Chú thích trong sách Lê quý dật sử (tr. 23).
12. Lê quý dật sử, tr. 48-50.
13. Theo Hoàng Lê nhất thống chí (tr.95-96). Cương mục cũng viết: Tuyên phi uống thuộc độc mà chết. Riêng sách Từ điển Lịch sử nhân vật Việt Nam chép khác: Sau, đám kiêu binh tam phủ nổi loạn giết Trịnh Cán năm 1782, bắt bà giam vào ngục. Được hai năm, trong lễ tế Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm, bà mới được thả ra làm lễ tế chồng. Tế xong, bà đâm cổ tự vẫn chết (tr. 145). Nếu căn cứ sử liệu này, thì bà mất năm Giáp Thìn (1784).
 
Tài liệu tham khảo
*Bùi Dương Lịch, Lê quí dật sử.Bàn dịch của Phạm Văn Thắm. Nxb KHXH, Hà Nội, 1987.
*Khâm định Việt sử thông giám cương mục (chính biên, quyển 45). Nguyễn Khắc Thuần dẫn lại trong Việt sử giai thoại tập 7. Nxb Giáo dục, 1988.
*Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê nhất thống chí,tập I, Nxb Văn học, Hà Nội, 1984
*Nguyễn Q. Thắng & Nguyễn Bá Thế, Từ điển Lịch sử nhân vật Việt Nam. Nxb KH-XH, Hà Nội, 1992.
*Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược. Nxb Tân Việt
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9