Yamamoto - Con Rồng Thái Bình Dương - Nguyễn Vạn Lý - HẾT
Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 16 đến 23 trên tổng số 23 bài trong đề mục
Sun Ming 07.08.2009 01:57:45 (permalink)
16. Tiến Tới Ðiểm Xuất Quân Tại Hawaii

Ngày 1-12, khi nội các phê chuẩn quyết định khai chiến của thủ tướng Ðông Ðiều thì đô đốc Nagumo đã dẫn lực lượng xung kích tiến vào hải phận Hawaii được năm ngày rồi. Ngày hôm sau, tiếp theo Huấn Lệnh Khai Chiến bất đắc dĩ của Nhật Hoàng, bộ Tổng Tư Lệnh Hoàng gia ra một mật lệnh cho biết trận đánh đầu tiên mở màn cuộc chiến sẽ bắt đầu ngày 7-12 tại Hawaii.

Trên soái hạm Nagato trong biển Inland, Yamamoto cho phát thanh mật hiệu lịch sử: "Nagata Yama Nobore", có nghĩa là "Trèo Ngọn Núi Nagata". Ðây là tên ngọn núi cao tại Ðài Loan đang thuộc quyền cai trị của Nhật Bản. Khi nhận được mật hiệu này, các chiến hạm của Nagumo đã tới điểm hẹn và chiến tranh sắp xảy ra. Trong khi đó tình báo Mỹ vẫn tin tưởng sức mạnh hải quân của Nhật vẫn còn bỏ neo tại các quân cảng Nhật Bản. Một bản tin tình báo tóm tắt cho biết Nhật Bản đang chuẩn bị một cuộc hành quân rất lớn, nhưng không tin Hawaii sẽ là mục tiêu, và nhấn mạnh mục tiêu sẽ là Phi luật tân hoặc đảo Guam.

Người Mỹ đặt tin tưởng vào những tín hiệu giả của hải quân Nhật, nhất là các phi đội tuần thám của Mỹ không hề bắt gặp bất cứ một phi cơ hoặc một chiến hạm nào của Nhật tại đường tiến quân về phía bắc Thái Bình Dương. Không những thế, các khu trục hạm của Nhật đi tiên phong sẽ đánh chìm bất cứ một tàu chiến hoặc một thương thuyền nào bị bắt gặp.

Phó lãnh sự Nhật tại Hawaii vẫn chăm chỉ cung cấp những bản tin vào giờ chót về mẫu hạm Lexington của Mỹ. Tình báo Mỹ bắt được một số tín hiệu từ Honolulu của một người mang tên là Mori, gửi cho một người nào đó tại Nhật Bản, báo cáo về những chuyến bay hàng ngày của phi cơ Mỹ, đặc biệt là những phi cơ lớn xuất phát từ Honolulu, số lượng chiến hạm trong quân cảng và quân trú phòng Mỹ có dùng những đèn pha chiếu rọi không. Tuy nhiên trong những bản tin này, các danh từ quân sự được thay thế bằng tên các loài hoa. Nhân viên tình báo Mỹ cho rằng đây là những tin tức về một cuộc tấn công của hải quân Nhật, nhưng không cho là quá khẩn cấp. Tình báo Mỹ cũng tìm ra manh mối tới một gia đình họ Mori tại Hawaii. Gia đình này cũng đang bị FBI điều tra và họ phủ nhận không hề có liên lạc với Nhật Bản. Thực ra Mori có thể là tên phó lãnh sự Morimura viết ngắn lại.

Cho tới ngày thứ sáu, hai ngày trước cuộc tấn công, tòa lãnh sự tại Honolulu đã đánh điện thẳng về Ðông Kinh một tín hiệu: "Các chiến hạm không có màng lưới chống thủy lôi. Không có dấu hiệu đề cao cảnh giác tại hải phận." Ðến đây thì phó lãnh sự Morimura không cần phải dè dặt nữa, một phần vì cuộc chiến sắp xảy ra rồi, và một phần vì bị thúc bách phải nói rõ chi tiết.

Những tin tức như thế phải được coi là sinh tử, nhưng hầu như các tư lệnh Mỹ đều bị các tín hiệu từ biển Inland ru ngủ và tin tưởng vào một cuộc hành quân quy mô của Nhật vào Ðông nam á. Người Mỹ tin rằng đây sẽ là một cuộc hành quân rất lớn và quan trọng của Nhật Bản, nhưng tin rằng cuộc hành quân này cách xa hàng ngàn dặm tại Ðông nam á, và không một ai nghi ngờ hải quân Nhật dám táo bạo tới tận Hawaii tấn công hạm đội Mỹ.

Trong lúc giới quân sự tại Trân châu cảng sống trong trạng thái bình thản thì các mẫu hạm của đô đốc Nagumo vẫn tiến song song hàng sáu, nhắm hướng Hawaii. Các chiến hạm lớn Kirishima và Hiei cũng chạy song song với các mẫu hạm, và tất cả được hai tuần dương hạm lớn Tone và Chikuma hộ tống hai bên, cách khoảng vài dặm. Khi hạm đội Nhật tới gần Hawaii thì biển động và gây rất nhiều khó khăn. Những cờ tín hiệu bị gió mạnh phá rách bươm. Nhiều thủy thủ bị gió và sóng cuốn xuống biển, nhưng hạm đội không thể nào dừng lại để tìm vớt những thủy thủ không may này. Tất cả phải tiến tới điểm hẹn đúng thời hạn.

Rồi sương mù buông xuống bao trùm tất cả vùng biển, nhưng các mẫu hạm vẫn không giảm tốc độ. Trong tình trạng ấy, các sĩ quan chỉ huy rất lo sợ các mẫu hạm và chiến hạm có thể đụng nhau, vì họ không thể trông thấy gì xa quá vài chục thước. Nhưng sương mù cũng có lợi điểm là bảo vệ cho hạm đội không bị phi cơ thám thính Mỹ khám phá. Trong khi đó, bên dưới khoang tàu, các phi công cố ôn lại các đồ hình về địa thế Trân châu cảng và đảo Oahu. Các phi công này thông thuộc đường lối tại Hawaii hơn chính người dân bản xứ. Tòa lãnh sự Nhật tại Honolulu báo cáo hàng giờ về tình hình tại Trân châu cảng. Các sĩ quan Nhật chuyên về thông tin luôn luôn theo dõi các đài phát thanh tại Hawaii xem cuộc hành quân có bị bại lộ không.

Càng gần tới Hawaii, các mẫu hạm bắt đầu nhận được các tín hiệu của các phi cơ thám thính Mỹ. Các chuyên viên về tín hiệu của Nhật Bản đã biết được con số phi cơ tuần tiễu của Mỹ từng lúc một. Nhưng những phi cơ thám thính Mỹ chỉ bay tại phía tây nam đảo Oahu, trong khi lực lượng Nhật tiến tới từ phía bắc, do đó phi cơ Mỹ không thể khám phá được hạm đội Nhật đang tiến tới. Ðô đốc Nagumo không dám cho phi cơ thám thính của Nhật bay lên. Trong khi các mẫu hạm của Nagumo tiến tới cuộc tấn công lịch sử này thì các tiềm thủy đỉnh Nhật đã bố trí tại phía nam Hawaii từ trước. Chính vì thế lực lượng tiềm thủy đỉnh của Nhật được gọi là Lực Lượng Tiền Phương.

Ðô đốc Nagumo và các đô đốc thuộc bộ tư lệnh hải quân Nhật vẫn hoài nghi về sự thành công của kế hoạch Yamamoto tấn công Trân châu cảng bất ngờ. Họ vẫn tin rằng các phi công của Nagumo chỉ có hy vọng thành công năm mươi phần trăm. Chính vì thế bộ tư lệnh hải quân Nhật cho rằng việc tấn công của các tiềm thủy đỉnh cùng một lúc với các phi cơ cũng rất cần thiết. Khi tới gần Hawaii, các tiềm thủy đỉnh trồi lên mặt nước về ban đêm. Ban ngày các tiềm thủy đỉnh lại lặn xuống nước và dùng kính tiềm vọng để quan sát. Khi năm tiềm thủy đỉnh cuối cùng đem theo mười tiểu tiềm thủy đỉnh Target-A tới nơi thì lệnh cuối cùng của họ là:

1. Phải canh chừng mọi hoạt động của hạm đội Mỹ quanh Trân châu cảng.
2. Phải thả các tiểu tiềm thủy đỉnh xuống và quan sát kết quả.
3. Nếu gặp chiến hạm Mỹ phải tấn công ngay.
4. Phải cứu vớt các tiềm thủy đỉnh và các phi công Nhật bị bắn rơi.

Ngay tối thứ sáu, các tiềm thủy đỉnh đã chiếm các vị trí thám thính quanh Trân châu cảng. Vị trí gần nhất là tám dặm và vị trí xa nhất là 100 dặm cách Trân châu cảng. Ba tiềm thủy đỉnh làm thành một hàng trước các mẫu hạm của Nagumo một trăm dặm. Nếu thấy bóng dáng phi cơ hoặc chiến hạm Mỹ, các tiềm thủy đỉnh phải lặn ngay, và khi đã an toàn để trồi lên thì họ phải báo tin về cho Nagumo biết ngay.

Trong cuộc hành quân tấn công Trân châu cảng, lực lượng Nhật may mắn không gặp một trở ngại nào. Ngay cả thời tiết cuối cùng cũng trở nên thuận lợi. Một điều bận tâm duy nhất của các tư lệnh Nhật Bản là không biết các mẫu hạm Mỹ có mặt tại Trân châu cảng hay không. Người Nhật tin rằng ít nhất có bốn mẫu hạm Mỹ tại Trân châu cảng là những chiếc Yorktown, Hornet, Lexington và Enterprise. Thực ra hai chiếc Yorktown và Hornet đã được chuyển sang Ðại Tây Dương, còn hai chiếc Lexington và Enterprise thì rời Trân châu cảng khi hạm đội của Nagumo tới nơi. Ðó là sự không may cho hải quân Nhật, vì mục đích chính của Yamamoto là tiêu diệt cho bằng được các mẫu hạm Mỹ.

Tuy nhiên tại Trân châu cảng vẫn còn những mục tiêu khá hấp dẫn cho các oanh tạc cơ của Nagumo. Tại Trân châu cảng lúc đó có Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ gồm có 8 chiến hạm, 2 tuần dương hạm lớn, 6 tuần dương hạm nhẹ, 29 khu trục hạm, 5 tiềm thủy đỉnh, 1 thuyền máy, 8 khu trục giải mìn, 1 tàu thả mìn, 4 khu trục hạm vớt mìn, 6 tàu vớt mìn và 24 tàu đủ loại khác.

Ngày Yamamoto gửi tín hiệu "Trèo Núi Nagata" thì biển Hawaii bình lặng trở lại và hạm đội của Nagumo dùng cả ngày để tiếp tế nhiên liệu. Khi tất cả mọi chiến hạm được tiếp tế nhiên liệu xong, các mẫu hạm gia tăng tốc lực lên 26 hải lý một giờ, và lướt trên một vùng biển bình lặng tới Trân châu cảng. Nhưng cũng đúng lúc đó, mẫu hạm Mỹ Enterprise cũng rời đảo Wake để trở về Trân châu cảng.

Ngày thứ bảy, một ngày trước cuộc tấn công, là một ngày gay cấn nhất cho đô đốc Nagumo. Trên sàn các mẫu hạm, các phi cơ đậu sát cánh nhau, và các nhân viên bảo trì tận lực kiểm soát các phi cơ để bảo đảm mọi sự được tốt đẹp. Sáng sớm hôm đó, bộ Tổng tư lệnh Hoàng gia tại Ðông Kinh loan báo những tin tức cuối cùng từ Trân châu cảng cho các mẫu hạm của Nagumo. Tin cuối cùng khá chính xác. Thiếu úy Yoshikawa đã làm nhiệm vụ do thám Trân châu cảng cho tới phút cuối cùng. Bản tin cuối cùng xác nhận có 7 chiến hạm và 7 tuần dương hạm Mỹ trong quân cảng, nhưng không có một mẫu hạm nào. Các phi công Nhật lập tức thay đổi chi tiết tấn công cho phù hợp với bản tin cuối. Tuy thế họ vẫn hy vọng trong 24 giờ nữa có thể có mẫu hạm Mỹ vào bến. Tối thứ bảy, Nagumo nhận được bản tin nữa của bộ Tổng tư lệnh Hoàng gia cho biết Trân châu cảng có 8 chiến hạm và 15 tuần dương hạm địch.

Ðêm thứ bảy, những tiềm thủy đỉnh Nhật nằm ở những vị trí gần nhất đã có thể trông thấy các đèn nê-ông sáng trưng trên bãi biển Waikiki, và nghe thấy các đài phát thanh tại Hawaii chơi các điệu nhạc khiêu vũ. Một pháo thủ trên chiếc I-24 đã từng đến Hawaii trước kia, đứng trên boong chỉ trỏ cho đại tá Sasaki biết những lối đi vào Trân châu cảng. Tối hôm đó tất cả 27 tiềm thủy đỉnh Nhật đã bao vây Trân châu cảng. Trung tá Ono phụ trách tình báo cho Nagumo thu thập các báo cáo cuối cùng thì vẫn không thấy có mẫu hạm nào của địch, trừ chiếc Enterprise rời Trân châu cảng tuần trước, và hy vọng sẽ trở về khi cuộc tấn công bắt đầu.

Cũng trong đêm đó, Hoa Thịnh Ðốn nhận được một bản tin đặc biệt. Ðó là bản trả lời của người Nhật cho người Mỹ. Tổng thống Roosevelt tha thiết kêu gọi Nhật Hoàng cố gắng giữ hòa bình cho thế giới. Lời kêu gọi này của Roosevelt không được người Nhật đáp ứng lại. Ðêm đó Nagumo nhận được tin của Bộ Tư lệnh Hoàng Gia bày tỏ lòng tin tưởng cuộc tấn công sẽ chiến thắng, nhưng Nagumo thì lại không tin như vậy. Chỉ có một điều được chính thức xác nhận là đô đốc Kimmel đem tất cả hạm đội Thái Bình dương vào trong quân cảng như thường lệ, ngoại trừ các mẫu hạm. Không may cho Nagumo là bản tin này không cho biết chiếc mẫu hạm lớn của Mỹ là Lexington đang ở gần vùng chiến trường. Ngay sáng sớm ngày thứ bảy, chiếc Lexington chỉ cách bờ biển Oahu về phía tây có 200 dặm.

Nagumo triệu tập các sĩ quan vào phòng hành quân và cho họ biết tình hình chiến trường như sau:

1. Sức mạnh của địch trong khu vực Hawaii gồm có 9 chiến hạm, 2 mẫu hạm, khoảng 10 tuần dương hạm nặng và nhẹ. Các mẫu hạm và tuần dương hạm hạng nặng có lẽ ở ngoài khơi, nhưng các chiến hạm khác đều ở trong quân cảng.

2. Không có dấu hiệu địch quân cảnh giác đề phòng, nhưng không phải vì thế mà chểnh mảng việc an ninh.

3. Trừ phi có những biến chuyển bất ngờ, cuộc tấn công của Nhật sẽ nhắm vào Trân châu cảng.

Ngay sau đó, thiếu tá Shibuya, sĩ quan tham mưu về cuộc hành quân tiềm thủy đỉnh, giải thích cho các sĩ quan trên soái hạm Akagi về kế hoạch hành quân của tiềm thủy đỉnh. Shibuya ra lệnh cho các tiềm thủy đỉnh loại chữ I phải đưa các tiểu tiềm thủy đỉnh Target-A vào trong quân cảng nhờ đêm tối. Shibuya còn nhấn mạnh rằng dù cơ hội tấn công thuận lợi thế nào mặc lòng, các tiềm thủy đỉnh sẽ không được phép tấn công trước các phi cơ. Chính lệnh này đã cứu chiếc mẫu hạm Lexington của Mỹ. Chiếc tiềm thủy đỉnh I-74 của Nhật bắt gặp mẫu hạm Lexington, nhưng đã tuân lệnh cấp trên nên không tấn công ngay. Suốt đêm thứ bảy, chiếc tiềm thủy đỉnh I-74 của Nhật chỉ hết sức theo dõi chiếc mẫu hạm Lexington để chờ tấn công, sau khi phi cơ Nhật đã bắt đầu cuộc tấn công. Nhưng đến sáng sớm ngày hôm sau, đúng lúc Nagumo ra lệnh cho các phi công xuất quân thì chiếc I-74 lạc mất chiếc mẫu hạm Lexington vì đêm tối.

Ðêm thứ bảy là một đêm dài cho đô đốc Nagumo. Ông ngồi chăm chú nhìn những bản tin cuối cùng để quyết định tấn công hay lui quân. Bây giờ ông là người cô đơn tại chiến trường, phải dùng sự phán đoán riêng của mình để quyết định. Yamamoto hoặc bộ tư lệnh tại Ðông Kinh không thể giúp gì cho ông được nữa. Khi không thấy có mẫu hạm Mỹ, ông có quyền lui quân, nhưng một số lớn chiến hạm Mỹ tại Trân châu cảng cũng là miếng mồi ngon, một cái giá đáng mở cuộc tấn công. Cuối cùng ông quyết định thi hành cuộc tấn công, với hy vọng mong manh các mẫu hạm Mỹ sẽ xuất hiện vào lúc các phi công của ông đang oanh tạc Trân châu cảng.

Vào khoảng 9 giờ tối thứ bảy thì hạm đội của Nagumo chỉ còn cách Hawaii 400 dặm thôi. Nagumo triệu tập tất cả binh sĩ lên boong mẫu hạm. Hàng ngàn sĩ quan và binh sĩ đứng nghiêm để nghe đọc huấn lệnh của Yamamoto: "Sự hưng vong của đế quốc Nhật tùy thuộc vào trận đánh này. Mọi người phải tận tụy gắng sức chu toàn sứ mạng." Toàn thể binh sĩ trên boong mẫu hạm Akagi đều òa khóc và reo hò khi một lá cờ trận vĩ đại được kéo lên và bay tung trên soái hạm Akagi. Chiếc cờ cũ đó chính là lá cờ của đô đốc Togo treo trên soái hạm Mikasa của Togo 26 năm trước, khi ông chiến thắng hạm đội Nga tại Ðối Mã. Ý kiến kéo lá cờ này lên trước khi ra quân là của một cựu thiếu úy hải quân đã từng chiến đấu bên cạnh đô đốc Togo, và bị cụt mất hai ngón tay trong trận hải chiến Ðối Mã. Người thiếu úy ấy bây giờ là đại đô đốc Yamamoto.

Các tư lệnh đọc những bài diễn văn ái quốc và người ta nghe thấy những tiếng tung hô "Banzai" nghẹn ngào trong nước mắt cảm động. Tất cả đều tin tưởng rằng cuộc tấn công sắp tới là giây phút lịch sử quan trọng cho lịch sử hải quân Nhật hơn là cuộc chiến của Togo tại eo biển Ðối Mã trước kia. Rồi soái hạm Akagi ra lệnh tất cả chiến hạm và mẫu hạm phải mở hết tốc lực tiến về phía nam. Trong lúc các thủy thủ reo hò, và các mẫu hạm mở hết tốc lực tới 27 hải lý một giờ thì các phi công xuống phòng hành quân để nghe thuyết trình lần cuối cùng. Mỗi phi công mang theo một tấm hình của Trân châu cảng có đánh dấu vị trí mới nhất của các chiến hạm Mỹ.

Sáng sớm ngày chủ nhật, Nagumo nhận được một bản tin ngắn cuối cùng của bộ Tư lệnh Hoàng Gia: "Không có mẫu hạm, nhắc lại, không có mẫu hạm tại Trân châu cảng." Lúc đó là một bầu trời tối thui, mây đen bao phủ khi các mẫu hạm chạy đua tới điểm xuất phát cuộc tấn công, 270 dặm cách bờ biển Hawaii. Cuồng phong dấy lên và sóng biển dữ dội đập vào thành tàu. Mọi người tưởng rằng hạm đội sẽ gặp điềm không may, vì trong tình trạng thời tiết như thế rất khó cho phi cơ cất cánh. Lúc đó hạm đội vẫn còn phải chạy 5 giờ nữa mới tới điểm xuất quân, trong khi các tiềm thủy đỉnh mẹ đã lặn xuống để phóng các tiểu tiềm thủy đỉnh Traget-A ra. Các tiểu tiềm thủy đỉnh tìm cách lẻn vào Trân châu cảng để chờ dịp tấn công địch. Các tiểu tiềm thủy đỉnh vẫn có cơ hội trở lại tiềm thủy đỉnh mẹ, nhưng tất cả các sĩ quan điều khiển tiểu tiềm thủy đỉnh biết rằng họ sẽ không bao giờ có dịp nhìn lại tổ quốc và gặp lại gia đình một lần nữa. Một sĩ quan cẩn thận để lại các vật tùy thân, tiền bạc và một lá thư tuyệt mạng gửi về cho cha mẹ. Các sửa soạn thận trọng của viên sĩ quan này không phải là vô ích, vì người ta không bao giờ gặp lại anh ta nữa.

Cửa dẫn vào Trân châu cảng rất hẹp và có màng lưới chống tiềm thủy đỉnh. Các tiểu tiềm thủy đỉnh phải nằm nấp bên ngoài, chờ khi nào cổng mở cho chiến hạm Mỹ ra vào thì sẽ lẻn vào. Ðúng 3:45, chiếc tàu vớt mìn Antares của Mỹ đang chờ đợi bên ngoài cửa vào Trân châu cảng thì trông thấy tiềm vọng kính của một tiểu tiềm thủy đỉnh Nhật nhô lên cách khoảng 140 thước. Có lẽ chiếc tiểu tiềm thủy đỉnh này đi theo chiếc Antares về hướng Trân châu cảng. Ngay gần lúc bình minh, chiếc tàu vớt mìn Condor cũng trông thấy một tiềm vọng kính của một tiểu tiềm thủy đỉnh khác. Vì biết rằng các tiềm thủy đỉnh Mỹ không hoạt động ngầm dưới nước trong khu vực này, các thủy thủ của chiếc Condor vội báo ngay cho khu trục hạm Ward đang đi tuần ngay ngoài cửa lối vào Trân châu cảng. Ngay lập tức phi cơ tuần thám Mỹ và chiếc khu trục hạm Ward mở cuộc tấn công ngay tại chỗ các tiềm thủy đỉnh Nhật bị khám phá. Ðây chính là những phát khai hỏa đầu tiên của cuộc chiến tại Thái Bình Dương.

Mặc dù khu trục hạm báo cáo về bộ chỉ huy về việc xuất hiện của tiềm thủy đỉnh Nhật, nhưng không ai quan tâm. Người ta chỉ bàn tán về sự việc này cho tới phi cơ Nhật nhào xuống tấn công. Cổng vào quân cảng được mở ra vào lúc 4:58 để cho chiếc tàu vớt mìn của Mỹ vào. Cửa cứ tiếp tục để ngỏ như vậy cho mãi tới 8:40. Ngay buổi sáng lịch sử đó, cổng vào quân cảng bỏ ngỏ tới gần 4 tiếng đồng hồ. Hải quân Nhật tin chắc rằng ít nhất ba tiểu tiềm thủy đỉnh Nhật đã vào được bên trong quân cảng một cách an toàn.

Khoảng 5 giờ sáng trong bầu trời tối đen như mực, trong khi các mẫu hạm tiếp tục nhào mình vào những đợt sóng lớn của một biển động để tiến tới điểm xuất quân, thì hai chiếc tuần dương hạm hạng nặng Chijuma và Tone mỗi chiếc phóng ra một phi cơ nổi để dò thám Trân châu cảng. Khi hai chiếc phi cơ nổi trôi đi thì trên các mẫu hạm, các phi cơ đã sẵn sàng vào hàng để cất cánh. Lúc đó sóng biển cao đến nỗi tràn qua cả boong mẫu hạm, khiến các phi công và nhân viên bảo trì phải ôm chặt cánh máy bay để khỏi bị cuốn trôi xuống biển.

Một giờ sau đó, biển tối sầm lại và những làn sóng biển lớn dường như mỗi lúc một hung dữ hơn. Trong hoàn cảnh ấy phải mất nhiều thì giờ hơn phi cơ mới cất cánh được. Mặc dù không nhận được tin tức của phi cơ thám thính, Nagumo vẫn quyết định phải tung phi cơ lên ngay, nếu không yếu tố bất ngờ sẽ không còn nữa. Bằng quyết định này, Nagumo đã đạt được yếu tố bất ngờ hơn trước. Thay vì phải cho chính phủ Nhật 30 phút để tuyên chiến với Hoa Kỳ mà bộ Tư lệnh hải quân đã đồng ý. Nhưng quyết định mở cuộc tấn công ngay của Nagumo đã không có thì giờ cách biệt giữa lệnh tuyên chiến của chính phủ Nhật và cuộc tấn công nữa.

Nagumo triệu tập trung tá Fuchida vào phòng thuyết trình của soái hạm Akagi. Fuchida là một phi công nhiều kinh nghiệm, với 25 năm thâm niên trong hải quân, sẽ hướng dẫn cuộc tấn công. Khi Fuchida trình diện Nagumo và đại tá Hasegawa chỉ huy soái hạm Akagi, thì tất cả phi công trên các mẫu hạm tiến vào phòng hành quân để nghe lệnh cuối cùng. Trên một tấm bảng đen, vị trí của các chiến hạm Mỹ trong quân cảng được vẽ rõ ràng theo đúng tin tình báo cuối cùng nhận được vài giờ trước đó, từ những tiềm thủy đỉnh thám thính và các điệp viên tại Honolulu. Khi không còn tin tức nào nữa, và không còn gì để nói nữa, đô đốc Nagumo bắt tay trung tá Fuchida và nói, "Hãy cất cánh theo đúng kế hoạch."

Khi Fuchida bước lên chiếc oanh tạc cơ sơn màu vàng và đỏ cùng với áo giáp mặc bên trong, một sĩ quan bảo trì cao cấp trao cho Fuchida một mảnh vải trắng để quấn ngang đầu, một biểu tượng sẵn sàng chết cho tổ quốc. Trong lúc Fuchida buộc chặt chiếc nón sắt của phi công thì các mẫu hạm chạy vòng theo hướng gió bắc và lá cờ lệnh của Nagumo phất phới song song với lá cờ cũ của đô đốc Togo trên đỉnh cột cờ của soái hạm Akagi. Một ngọn đèn màu xanh nhạt làm thành một vòng tròn nhỏ trong bóng đêm, đánh dấu chiếc phi cơ đầu tiên sửa soạn cất cánh. Khi chiếc phi cơ đầu tiên bốc lên vào bầu trời đen thẫm, tất cả thủy thủ trên mẫu hạm nức lòng xúc động và cất tiếng reo hò vang dội, át cả những âm thanh cuồng nộ của biển động.

Các phi cơ dường như cũng nức lòng vì nhiệm vụ cao cả, cũng gào thét nối đuôi nhau chờ đến lượt tung cánh bay. Trông thấy cảnh tượng hào hùng phấn khởi đó, đô đốc Nagumo đứng trên cầu soái hạm quan sát cuộc xuất quân cũng không còn cảm thấy e ngại như trước nữa. Mặc dù đêm tối và biển động, trong vòng 15 phút, tất cả 183 chiến đấu cơ, oanh tạc cơ và phi cơ phóng thủy lôi đã cất cánh hết từ sáu mẫu hạm. Các phi cơ bay vòng quanh các mẫu hạm, rồi bắt đầu nhắm hướng Trân châu cảng phóng tới. Lúc đó là 6:15 sáng ngày chủ nhật 7-12-1941.
#16
    Sun Ming 07.08.2009 02:20:15 (permalink)
    17. Trận Ðánh Trân Châu Cảng

    Vì biển động phong ba bão táp dữ dội trong lúc các phi cơ Nhật phải cất cánh rời mẫu hạm, nên đô đốc Nagumo nghĩ rằng ít nhất cũng phải có một số phi cơ lâm nạn, nhưng tất cả các phi cơ đều cất cánh rất tốt đẹp hơn sự mong đợi của Nagumo. Sự thành công khởi đầu này chứng tỏ kế hoạch huấn luyện của Yamamoto có kết quả tốt và các phi công Nhật đạt được kỹ thuật bay rất cao. Các tư lệnh Nhật ước tính rằng đợt phi cơ tấn công đầu tiên của Nhật sẽ tới bờ biển Hawaii trong khoảng hơn một giờ bay. Toán phi cơ do trung tá Fuchida chỉ huy lập tức bốc lên độ cao 10,000 bộ, bên trên những lớp mây dầy đặc. Trong lúc các phi cơ tiếp tục chuyến bay sinh tử này thì mây tan dần và mặt trời xuất hiện, báo trước một bình minh hồng.

    Mối lo ngại của Nagumo về mẫu hạm Mỹ suýt nữa gây tai hại cho sứ mạng của ông. Nagumo phái hai phi cơ thám thính bay về phía Hawaii để dò xét một lần nữa. Trong khi đó tại một địa điểm kiểm soát không phận tại Opana, hai binh nhì Joseph Locard và George Elliot phải trực từ 4 tới 7 giờ sáng. Khoảng 6:45 sáng, hai người trông thấy một phi cơ lạ bay về hướng đảo Oahu. Ðó chính là một trong hai chiếc phi cơ thám thính từ các tuần dương hạm Chikuma và Tone, đang bay một chuyến bay thám thính nguy hiểm cuối cùng để tìm xem có mẫu hạm Mỹ hay không.

    Thoạt đầu binh nhì Locard cho rằng đây là một phi cơ bị trục trặc, nhưng quan sát kỹ, anh ta thấy đó là một phi cơ rất bình thường. Khoảng 7.02, máy radar của Mỹ khám phá nhiều phi cơ đang bay về hướng đảo Oahu, cách xa khoảng 130 dặm về hướng bắc. Hai binh nhì này hoảng sợ và sau một hồi bàn cãi, cả hai báo cáo về trung tâm kiểm soát không phận những khám phá của họ. Lúc đó viên sĩ quan trực duy nhất tại trung tâm là trung úy Kermit A. Tyler. Tyler là một sĩ quan không quân được gửi tới trung tâm radar để huấn luyện và quan sát. Khi Locard gọi điện thoại cho Tyler, Tyler cho rằng Locard hoảng hốt quá đáng và khuyên Locard nên quên sự hoảng hốt đi. Tyler cho rằng những phi cơ đó đúng là những phi cơ tuần thám của phi trường Hickam, hoặc có thể là một đoàn phi cơ B-17 từ lục địa bay ra.

    Toán phi cơ mà trung úy Tyler đoán là các phi cơ B-17 đó chính là toán phi cơ tấn công của trung tá Fuchida. Ðây là những phi cơ tấn công đầu tiên của Nhật. Fuchida bay dẫn đầu đoàn phi cơ gồm 49 oanh tạc cơ. Bay bên dưới đoàn oanh tạc cơ của Fuchida là một đoàn 40 phi cơ phóng thủy lôi do trung tá Murata chỉ huy, cũng thuộc mẫu hạm Akagi như trung tá Fuchida. Bên trên Fuchida là một đoàn 51 phi cơ nhào xuống thả bom cất cánh từ mẫu hạm Shikoku dưới quyền chỉ huy của trung tá Takahashi. Mỗi phi cơ của toán Takahashi mang theo một trái bom nặng 500 cân. Bên trên tất cả ba đội hình phi cơ này là 43 chiến đấu cơ loại Zero có nhiệm vụ bảo vệ ba đoàn phi cơ Nhật nếu bị phi cơ Mỹ tấn công. Ðoàn chiến đấu cơ Zero do trung tá Itaya chỉ huy và cũng cất cánh từ soái hạm Akagi.

    Trong lúc hai binh nhì Mỹ vẫn theo dõi đoàn phi cơ Nhật thì Fuchida mở radio nghe đài Honolulu. Ông điều chỉnh ăng-ten của radio về hướng đài phát thanh và nhận thấy ông đã bay sai 5 độ. Ông liền điều chỉnh lại hướng bay và tất cả các phi cơ còn lại đều chuyển hướng theo ông. Ngay lúc đó radio báo tin thời tiết: "Trời hơi u ám, nhưng phần lớn u ám trên núi." Ðây là một tin mừng cho các phi công Nhật, vì như vậy trời sẽ quang đãng và các phi công có thể trông thấy rõ mục tiêu. Càng đến gần Hawaii, các phi cơ Nhật đều cố bay lẩn vào những đám mây.

    Có hai kế hoạch tấn công. Nếu yếu tố bất ngờ đạt được tối đa thì đoàn phi cơ phóng thủy lôi của trung tá Murata phải mở đầu cuộc tấn công. Sau đó là đoàn phi cơ thả bom của Fuchida tấn công đợt thứ hai, trong lúc đó đoàn phi cơ của Takahashi sẽ nhào xuống oanh tạc phi trường Hickam và Ford Island. Nếu có sự kháng cự của lực lượng phòng thủ Mỹ thì đoàn phi cơ của Takahashi phải nhào xuống oanh kích trước. Khi các phi cơ này nhào xuống sẽ gây hoảng hốt và hỗn loạn cho quân trú phòng Mỹ và các đội phòng không Mỹ sẽ khai hỏa. Như vậy đoàn phi cơ thả bom của Fuchida sẽ trông thấy vị trí của các ổ phòng không của Mỹ và lập tức thả bom xuống triệt hạ ngay. Và trong cơn hỗn loạn ấy, các phi cơ phóng thủy lôi sẽ ào tới tấn công các chiến hạm Mỹ.

    Fuchida sẽ là người quyết định dùng kế hoạch tấn công I hoặc II. Fuchida sẽ dùng pháo sáng ra hiệu lệnh. Nếu kế hoạch vẫn còn giữ được bí mật thì Fuchida sẽ bắn pháo sáng lóe một lần, trái lại các phi cơ sẽ theo kế hoạch II nếu Fuchida bắn pháo hiệu sáng lóe tới hai lần. Cuộc tấn công bất ngờ theo kế hoạch I sẽ dự trù lâu khoảng 10 phút và theo thời biểu sau đây:

    Ðúng 7:55 các phi cơ phóng xuống oanh kích phi trường Hickam và Wheeler.
    Hai phút sau đó, các phi cơ phóng thủy lôi sẽ nhào xuống các chiến hạm Mỹ.
    Ðúng 8 giờ, nghĩa là đúng 5 phút sau khi các phi cơ nhào xuống oanh kích các phi trường rồi thì các chiến đấu cơ Zero bắn phá hai phi trường.
    Năm phút sau nữa, các oanh tạc cơ của Fuchida sẽ chấm dứt cuộc tấn công bằng cách thả bom xuống các chiến hạm Mỹ.

    Một giờ 40 phút sau khi cất cánh khỏi các mẫu hạm, các phi công của Fuchida trông thấy, qua khe những đám mây, một đường dài uốn khúc bên dưới. Ðó là bờ biển đảo Oahu với những làn sóng chồm lên bãi cát. Lúc đó là 7:40 sáng. Vài phút sau nữa Trân châu cảng và thành phố Honolulu hiện ra trước mắt họ, giống như những khối hình mầu xám nổi bật trong làn sương hồng buổi sáng. Nhìn xuyên qua lớp sương mờ mỏng, các phi công Nhật có thể trông thấy các chiến hạm của hạm đội Thái bình dương. Các chiến hạm này đậu cạnh nhau từng đôi giống như các binh sĩ đang diễn hành. Khi các phi công vươn cổ ra để đếm các chiến hạm Mỹ, họ không trông thấy một làn khói nào bốc lên từ quân cảng hoặc từ một chiến hạm nào. Tất cả quân cảng và chiến hạm dường như đang trong một giấc ngủ lười biếng của một buổi sáng chủ nhật, sau một đêm thứ bảy vui chơi. Fuchida và các phi công Nhật rất kinh ngạc trước sự chểnh mảng của quân trú phòng Mỹ. Sau này Fuchida mô tả lại quang cảnh buổi sáng sớm hôm đó như sau:

    "Bên dưới tôi, tất cả hạm đội Thái bình dương của Hoa Kỳ nằm trong một đội hình lý tưởng để tấn công mà tôi không hề dám mơ ước trong những giấc mơ lạc quan nhất của tôi. Tôi đã được chứng kiến hạm đội Ðức tập trung tại hải cảng Kiel. Tôi đã được thấy hạm đội của Pháp tại quân cảng Brest. Tôi cũng thường thấy các chiến hạm của chúng tôi tập họp lại để Nhật Hoàng duyệt binh, nhưng tôi chưa bao giờ được trông thấy các chiến hạm, dù trong thời bình, bỏ neo gần nhau đến như thế, chỉ cách nhau khoảng vài trăm thước. Một chiến hạm trong thời chiến phải luôn luôn đề cao cảnh giác một cuộc tấn công bất ngờ có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Nhưng hình ảnh bên dưới kia thực là khó hiểu. Phải chăng người Mỹ chưa bao giờ nghe thấy trận tấn công bất ngờ tại Lữ Thuận?"

    Khi các phi công Nhật bay quanh đảo Oahu để tấn công từ phía nam, họ mở radio để nghe các báo cáo từ các phi cơ nổi, báo cho họ biết các mục tiêu cuối cùng của họ. Thiếu úy Yoshikawa chuyển máy radio bắt đài Ðông Kinh và hai lần các phi công nghe thấy tín hiệu "Mưa Ðông Phong" - một tín hiệu cho biết phải tấn công hạm đội Hoa Kỳ. Sau đó Yoshikawa bắt đầu đốt hết các dấu hiệu mật mã và các tài liệu tình báo khác. Nhiệm vụ tình báo của viên thiếu úy trẻ đến đây là chấm dứt. Liền sau đó Yoshikawa nghe thấy tiếng bom nổ. Lúc nhân viên FBI tới bắt Yoshikawa thì viên thiếu úy trẻ này chỉ có một bản vẽ phác khu vực Trân châu cảng thôi.

    Buổi sáng chủ nhật ấy là giờ ăn trưa tại Hoa Thịnh Ðốn. Bộ trưởng chiến tranh Stimson, ngoại trưởng Cordell Hull và thứ trưởng hải quân Knox họp tại bộ ngoại giao để thảo luận về vấn đề Nhật Bản. Ngoại trưởng Hull xác quyết người Nhật đang âm mưu một việc gì; ông nhấn mạnh, "Người Nhật muốn khai chiến. Chúng ta phải sửa soạn để đối phó." Khi ba ông bộ trưởng tạm nghỉ để dùng bữa trưa thì các phi công của Fuchida đã tiến tới bờ biển đảo Oahu rồi. Lúc đó là 3 giờ sáng tại Ðông Kinh và đèn trong bộ tham mưu hải quân vẫn còn bật sáng, và đô đốc Nagano vẫn đang lo lắng chờ đợi tin tấn công mà ông bất đắc dĩ phải chấp thuận.

    Trong khi đó Yamamoto ngồi chờ đợi trong soái hạm Nagato, thỉnh thoảng lại cúi xuống coi đồng hồ đeo tay. Ðây là cử chỉ duy nhất chứng tỏ Yamamoto đang lo lắng chờ đợi. Ông dường như là người bình tĩnh nhất trong phòng hành quân, trong đó các sĩ quan khác đều có vẻ căng thẳng. Họ biết rằng số phận của Nhật Bản tùy thuộc rất nhiều vào đoàn phi cơ của Fuchida đang bay xa cách họ hàng ngàn dặm, trong sứ mạng tiêu diệt hạm đội Mỹ.

    Một buổi bình minh đẹp rực rỡ đang bắt đầu tại Hawaii. Ngoài căn cứ Trân châu cảng nằm êm đềm bên dưới, Fuchida còn trông thấy những phi cơ dân sự lượn vòng tại phi trường dân sự John Rodgers gần Honolulu. Fuchida quyết định không thể chờ thêm báo cáo của các thủy phi cơ nữa, vì đây là cơ hội tấn công bất ngờ lý tưởng. Fuchida liền bắn pháo hiệu "Một Con Rồng Ðen" - báo hiệu cho các phi đoàn khác biết lệnh tấn công bất ngờ bắt đầu.

    Ngay khi trong thấy hiệu lệnh của Fuchida, trung tá Takahashi và 51 phi cơ oanh tạc của ông bốc lên cao độ 15 ngàn bộ và chia làm hai toán, như những con đại bàng sẫn sàng lao xuống những con mồi bên dưới. Takahashi hướng dẫn một toán nhắm hướng các phi trường quân sự Ford Island và Hickam Field. Trung úy Akira Sakamoto hướng dẫn toán thứ hai lao xuống căn cứ không quân Wheeler.

    Những phi cơ phóng thủy lôi của Murata vượt lên từ phía sau, xuất hiện bất ngờ sau những đám mây trắng dầy đặc, nhào xuống bay sát mặt biển để bắt đầu cuộc tấn công phóng thủy lôi vào các chiến hạm Mỹ. Ðồng thời các chiến đấu cơ của Itaya bốc mình bay lên thật nhanh và thật cao để có thể bao quát toàn thể chiến trường, và sẵn sàng phóng xuống đánh chặn bất cứ một phi cơ Mỹ nào bay lên. Toán phi cơ thả bom của Fuchida vẫn giữ cùng một cao độ bên dưới đám mây để quan sát mục tiêu một cách rõ ràng hơn.

    Trong lúc đó viên sĩ quan tư lệnh căn cứ không quân Kaneohe đang bình thản ngồi uống cà phê và nghe thấy tiếng động ì ầm của đoàn phi cơ Nhật. Khi các phi cơ Nhật tiến lại gần hơn nữa, viên tư lệnh Mỹ trông thấy rõ ràng nhưng lại lơ đãng coi đó là những phi cơ của Mỹ từ bờ biển phía tây Hoa Kỳ tới. Nhưng khi ông ta trông thấy các phi cơ bay vòng về phía trái thay vì bay về phía tay phải như luật định của khu vực này, thì ông ta biết ngay là có chuyện chẳng lành. Ông ta vội nhẩy lên xe và lái vào nhà hầm chứa phi cơ. Ông ta còn kịp nhìn vào đồng hồ tay. Lúc đó là 7:48 sáng.

    Trân châu cảng bây giờ nằm phơi mình thật rõ ràng trước mắt các phi công Nhật. Mục tiêu thật ngon lành! Fuchida soi ống nhòm và đếm thấy đủ tám chiến hạm lớn bỏ neo tại quân cảng. Các phi cơ của Fuchida bây giờ ở vị trí sẵn sàng thả bom. Fuchida quay lại ra lệnh cho sĩ quan truyền tin bấm lệnh bắt đầu tấn công. Lúc đó là đúng 7:49. Mặc dầu viên tư lệnh Mỹ thấy sự bất thường, nhưng tất cả căn cứ không quân đều im lặng, không một phi cơ Mỹ nào bay lên nghênh chiến, và cũng không có một khẩu súng phòng không nào lên tiếng.

    Hạm đội Mỹ vẫn nằm bình yên như trong thời bình. Một vài binh sĩ cũng bắt đầu công việc hàng ngày, như lau chùi sương đêm khỏi các ổ súng. Các sĩ quan thì đang ăn điểm tâm trong phòng. Tại căn cứ hải quân Vịnh Kaneohe, ba phi cơ thuộc phi đội 14 đã bay lên làm công việc thám thính thường lệ. Số phi cơ còn lại của phi đội và phi đội 11 cũng đang sẵn sàng, nhưng đúng lúc đó các phi cơ của Takahashi đã nhào xuống.

    Ðợt tấn công đầu tiên là của trung úy Akira Sakamoto xuống căn cứ Wheeler, nơi tình báo Nhật cho biết là trung tâm của các chiến đấu cơ Mỹ tại Hawaii. Nhiệm vụ của Sakamoto là hủy diệt tất cả các chiến đấu cơ của Mỹ ngay trên sân bay. Tiếp theo ngay sau toán của Sakamoto, trung tá Takajashi dẫn đầu 26 phi cơ mở cuộc tấn công phi trường Hickam Field; tại đây tập trung những phi cơ oanh tạc hạng nặng của Không lực Mỹ. Một vài oanh tạc cơ khác của Nhật bay sang tấn công phi trường Ford Island.

    Chỉ hai phút sau khi viên tư lệnh Mỹ trông thấy đoàn phi cơ của Fuchida bay vòng trái chiều tại Hawaii thì những trái bom đầu tiên của Nhật đã nổ tại phi trường Wheeler. Một vài giây sau đó, các phi cơ của Takahashi tràn tới phi trường Hickam Field và trông thấy những oanh tạc cơ hạng nặng của Mỹ nằm phơi mình dưới nắng như mời gọi. Từng chiếc một, các phi công của Takahashi nhào xuống. Trong vòng một phút, những ngọn lửa bốc lên kèm theo những tiếng nổ long rời lở đất từ những oanh tạc cơ của Mỹ bốc cháy. Từng cột khói đen khổng lồ bốc lên từ các phi trường Hickam Field, Wheeler Field và Ford Island.

    Khoảng 7:55, đề đốc Furlong, tư lệnh Lực Lượng Mìn tại Thái Bình Dương bắt đầu nhiệm vụ hàng ngày trên chiếc U.S.S. Ogalalla. Ông trông thấy một toán 9 phi cơ của trung úy Sakamoto bay trên phi trường Ford Island, nhưng ông cho rằng đó là phi cơ của Mỹ. Ngay cả khi một tiếng nổ làm rung rinh của chiếc Ogalalla, ông vẫn cho đó là một tai nạn khiến một trái bom của Mỹ nổ. Nhưng tiếng nổ đó là trái bom đầu tiên của Nhật ném xuống lãnh thổ Hoa kỳ. Mãi tới lúc đó các sĩ quan vẫn còn như mê ngủ của Mỹ mới bắt đầu trông thấy lá cờ Mặt Trời trên cánh những phi cơ tấn công. Họ kinh hoàng nhìn nhau, và vẫn chưa tin hẳn phi cơ Nhật dám tới tận Trân châu cảng để tấn công hạm đội Mỹ.

    Lập tức đô đốc Kimmel vội loan báo Trân châu cảng bị địch không tập chứ không phải là không quân Mỹ thực tập. Khi được thông báo, thứ trưởng hải quân Knox tại Hoa Thịnh Ðốn bàng hoàng kêu lên: "Trời Ðất! Không phải như thế! Người Nhật định tấn công Phi Luật Tân cơ mà!" Trong khi đó đô đốc Nagumo ở cách xa chiến trường 200 dặm và đô đốc Yamamoto đứng trên soái hạm tại biển Inland đang hồi hộp đợi chờ tin chiến thắng. Ðúng lúc đó trung tá Fuchida ra lệnh cho sĩ quan truyền tin phát tín hiệu: "Tora, Tora, Tora." Trong tiếng Nhật Tora có nghĩa là Con Hổ. Tín hiệu này dựa vào một câu nói của người Nhật: "Một con hổ đi xa 2 ngàn dặm và trở về thành công". Tín hiệu này cho biết lực lượng tấn công của Nhật đã thành công trong sứ mạng giao phó.

    Yếu tố bất ngờ đã đạt được hoàn toàn. Không một phi cơ nào của Mỹ bay lên được. Hầu như binh sĩ Mỹ tại Trân châu cảng đang ngủ khi cuộc tấn công diễn ra. Ngay cả khi bom nổ rung chuyển cả đảo Hawaii mà các đài phát thanh vẫn tiếp tục chơi những bản nhạc khiêu vũ.

    Khi nhận được tín hiệu chiến thắng của Fuchida, đô đốc Nagumo vội truyền ngay tin đó về Ðông Kinh. Nhưng tin chiến thắng đã nhận được tại Ðông Kinh rồi. Soái hạm Nagato của Yamamoto và Ðông Kinh đã nhận được trực tiếp từ phi cơ của Fuchida. Tín hiệu này đã mở màn cho cuộc chiến khắp Thái Bình Dương và Ấn Ðộ Dương. Ngay khi nhận được tín hiệu "Tora, Tora, Tora", các toán phi công Nhật Bản liền tung ra các cuộc tấn công tại khắp nơi trong vùng Ðông Nam Á. Về phần các sĩ quan trong phòng hành quân của Yamamoto, họ đều reo mừng hứng khởi trước tin chiến thắng, nhưng Yamamoto vẫn bình tĩnh và quay lại nói với viên sĩ quan phụ tá: "Hãy kiểm lại giờ tấn công thực cẩn thận. Biết được rõ giờ khởi đầu của cuộc tấn công rất là quan trọng. Dường như cuộc tấn công xảy ra trước giờ chúng ta ấn định."

    Thoạt đầu các sĩ quan tham mưu không hiểu Yamamoto muốn nói gì. Mãi sau họ mới hiểu rằng Yamamoto muốn tôn trọng công pháp quốc tế và chỉ muốn cuộc tấn công phải bắt đầu một thời hạn nào đó, sau khi Nhật đã trao tối hậu thư khai chiến cho Mỹ rồi. Hai đại sứ Nhật tại Hoa thịnh đốn nhận được bản tối hậu thư để trao cho chính phủ Mỹ sau cả các chuyên viên mật mã của Mỹ. Bản tối hậu thư đó đại ý cho biết chính phủ Nhật rất tiếc phải báo cho chính phủ Hoa Kỳ biết Nhật Bản thấy rằng hai bên không thể đạt được tới một thỏa hiệp, dù có tiếp tục thương thuyết nữa. Thực ra hai đại sứ Nomura và Kurusu biết trước rằng chiến tranh thế nào cũng xảy ra giữa Mỹ và Nhật, nhưng không biết rõ bao giờ và ở đâu. Chính phủ Nhật e sợ rằng nếu thông báo trước cho hai đại sứ thì người Mỹ có thể đọc được tin và cuộc tấn công sẽ mất yếu tố bất ngờ.

    Ðại sứ Kurusu dự định thông báo quyết định của chính phủ Nhật cho bộ ngoại giao Mỹ vào lúc 1 giờ chiều, thế mà mãi tới 2.20 chiều đại sứ Nomura mới tới nơi. Như vậy Fuchida đã ra lệnh tấn công 35 phút sớm hơn kế hoạch. Nếu tối hậu thư của Nhật tới bộ ngoại giao Nhật đúng giờ thì người Mỹ sẽ có 35 phút trước để sửa soạn, theo như ý định của Yamamoto. Nhưng đại tá Fuchida đã dẫn Nhật Bản vào một cuộc chiến tranh không được chính thức thông báo trước. Nhưng dẫu sao đây cũng không phải là lần đầu tiên Nhật Bản đã hành động như vậy trong lịch sử Nhật Bản.

    Trong khi Fuchida báo cáo chiến thắng thì bốn chục phi cơ phóng thủy lôi của Murata bắt đầu tấn công các chiến hạm Mỹ. Trung úy Goto lái chiếc phi cơ đầu tiên qua căn cứ không quân Ewa và trông thấy hàng loạt chiến đấu cơ của Mỹ đậu trên sân bay. Khi lướt qua phi trường Hickam Field, Goto trông thấy hàng loạt oanh tạc cơ hạng nặng của Mỹ đang nằm chờ phi đoàn của Takahashi. Hôm đó là một ngày quang đãng. Murata và Goto chia đoàn phi cơ phóng thủy lôi làm hai toán. Toán của Goto tấn công đại chiến hạm Arizona trước. Khi hạ thấp xuống vị trí tấn công, Goto thận trọng kiểm soát lại cao độ và tọa độ trước khi phóng ra chiếc thủy lôi đầu tiên. Bỗng nhiên Goto trông thấy vài bóng đen vượt qua trước mặt. Ðó là những oanh tạc cơ của Nhật. Các phi công trong đoàn oanh tạc cơ này tưởng lầm lệnh của Fuchida và cho rằng yếu tố bất ngờ đã mất và họ sẽ là những phi công đầu tiên mở cuộc tấn công vào các chiến hạm. Goto rất tức giận cho rằng các phi công oanh tạc muốn chiếm công đầu. Tuy nhiên Goto vẫn cố bình tĩnh tiếp tục bay tới chiếc Arizona và phóng trái thủy lôi đầu tiên xuống. Chiếc Arizona dường như không có người. Goto không thấy một thủy thủ Mỹ nào trên boong cả.

    Sau khi phóng trái thủy lôi rồi, Goto bay vọt phi cơ lên cao để tránh đạn phòng không từ trên chiếc Arizona. Khi quay lại Goto trông thấy một tia lửa lóe lên tiếp theo là một tiếng nổ kinh hồn và một cột nước khổng lồ bắn lên. Goto sung sướng la to vào máy liên lạc: "Trúng rồi!". Khi quay lượn một vòng trở lại, Goto thấy từng loạt súng bắn lên. Thủy thủ đoàn trên chiếc Arizona quả thực sẵn sàng chiến đấu hơn là người Nhật tưởng, mặc dù họ bị bất ngờ. Mori, một phi công khác trong đoàn phi cơ phóng thủy lôi, mô tả lại quang cảnh cuộc tấn công các chiến hạm Mỹ như sau:

    "Tôi không tin sẽ sống sót trong cuộc tấn công này. Vì những đợt tấn công của các phi cơ từ các mẫu hạm Akagi và Kaga đã xong rồi, cuộc tấn công của các phi cơ từ mẫu hạm Soryu gặp phải một màng lưới đạn phòng không rất ác liệt từ phía hạm đội địch. Phi cơ của tôi bị rung chuyển vì bị trúng đạn phòng không của địch."

    "Tôi bay ngay bên trên các chiến hạm địch ngay tại Ford Island. Tôi chọn mục tiêu là một chiến hạm bỏ neo cách xa hẳn các chiến hạm khác đang bị các phi cơ phóng thủy lôi từ mẫu hạm Soryu tấn công. Chiến hạm tôi chọn dường như chưa bị tấn công. Tôi phải phóng thủy lôi thật đúng phương pháp và thật chính xác. Tôi được báo cho biết trước hải cảng này không sâu quá 45 bộ. Một tốc độ hoặc độ cao hơi sai trật sẽ khiến thủy lôi cắm xuống đáy biển hoặc nhảy lên trên mặt nước. Và như thế thì nỗ lực của chúng tôi chẳng có kết quả gì."

    "Vào lúc đó tôi không biết tôi sẽ phải làm gì. Tôi chỉ hành động theo phản ứng mà tôi có được trong các cuộc huấn luyện, và tôi hành động như một cái máy. Tôi hạ xuống 200 bộ và bất thần tôi trông thấy chiến hạm lừng lững trước mắt như một trái núi. Tôi ngả người lại để lấy hết sức mạnh. Tôi biết rõ rằng địch quân đang xử dụng hệ thống súng phòng không và đạn của địch đến từ tứ phía. Tôi sợ đến nỗi mồ hôi ướt đẫm quần áo."

    "Bỗng nhiên một phi cơ địch xuất hiện ngay trước mặt tôi. Vì phi cơ của tôi trang bị súng máy 7.7 ly chỉ bắn được về phía sau nên tôi không có khả năng không chiến. Tôi liều phóng phi cơ của tôi nhắm thẳng vào phi cơ địch. Tên phi công địch hoảng hốt bay vọt đi. Tôi tự hỏi: "Có phải đây là cái người ta gọi là chiến tranh không?"

    Các phi cơ phóng thủy lôi đã gây nên nhiều tiếng nổ kinh hoàng. Nước như sủi bọt lên và những cột khói đen bốc lên từ những chiến hạm. Từ bên trên, các khu trục Zero của Itaya không tìm được một phi cơ địch nào. Ðến đó Itaya quyết định cho các khu trục Zero nhào xuống và oanh kích các mục tiêu trên mặt đất. Các toán sửa chữa của Mỹ đang đưa ra được bốn chiếc thủy phi cơ tại vịnh Kaneohe thì các khu trục Zero xà xuống. Một giây sau, từng cột nước vọt lên và tất cả 4 thủy phi cơ của Mỹ bốc cháy, ném tung các quân nhân Mỹ bị thương hoặc đã chết ra ngoài. Các khu trục cơ làm chủ cả khu vực, bay dọc theo vịnh tìm mục tiêu, rồi tấn công căn cứ Thủy quân lục chiến Ewa. Trong vòng 15 phút, tất cả phi cơ của Thủy quân lục chiến đều bị bắn cháy hết. Trong tổng số 49 phi cơ Mỹ thuộc căn cứ Thủy quân lục chiến thì 35 chiếc bị bắn cháy, và 16 chiếc còn lại bị hư hại không thể bay được nữa. Sau đó đoàn phi công của Itaya quay lại tấn công chính các Thủy quân lục chiến Mỹ.

    Thủy quân lục chiến Mỹ cố gắng phản công lại, nhưng cuộc phản công tuy rất anh hùng gan dạ nhưng hoàn toàn thất bại thảm thương. Các thủy quân lục chiến Mỹ dùng cả súng lục lẫn súng máy bắn lại phi cơ Zero. Phần lớn tổn thất về phía Mỹ xảy ra là vì các cố gắng cứu vãn che chở cho các phi cơ chưa bị tổn hại. Chỉ có 9 phi cơ trong số 36 chiếc tại Kaneohe là không bị tiêu hủy, trong đó 6 chiếc bị hư hại. Ba chiếc may mắn còn nguyên vẹn là những chiếc đã bay đi tuần thám trước khi cuộc tấn công của Nhật khởi sự.

    Tuy nhiên tinh thần chiến đấu của quân trú phòng Mỹ trong suốt cuộc tấn công rất là đáng khen ngợi. Nếu các binh sĩ Mỹ không can đảm thiết lập những ổ súng máy chống lại phi cơ Nhật thì quân Mỹ đã không phải hy sinh nhiều đến thế. Nhờ sự kháng cự quá liều lĩnh can đảm của quân Mỹ, hai khu trục cơ của Itaya đã bị bắn rơi, và nhiều chiếc khác bị trúng đạn phải rời bỏ chiến trường hoặc biến mất, có thể là bị rơi xuống biển.

    Ðã đến lúc mở cuộc đại oanh tạc của phi đoàn dưới quyền chỉ huy của Fuchida. Fuchida phân các oanh tạc cơ của mình thành 10 phi đội, và bay thành một hàng duy nhất cách nhau khoảng 600 bộ. Lúc này quân trú phòng Mỹ đã lấy lại được bình tĩnh sau cơn xúc động thất thần lúc đầu. Vì thế các oanh tạc cơ của Fuchida gặp phải sức kháng cự mãnh liệt của hệ thống phòng không Mỹ. Các phi công của Fuchida giật mình trước sự phản công mau lẹ của quân Mỹ. Cuộc phản công của Mỹ bắt đầu khoảng năm phút sau những trái bom đầu tiên. Bản chất của quân sĩ Nhật thì rất mau lẹ khi tấn công, nhưng khi phải ứng phó phòng vệ thì lại rất chậm chạp, vì thế các loạt súng phòng không của quân Mỹ đã gây khó khăn cho các phi công của Fuchida.

    Thoạt đầu Fuchida dẫn 49 oanh tạc cơ của mình tiến về phía chiếc chiến hạm Nevada đang bỏ neo tại phía cực bắc của của dàn chiến hạm tại Ford Island. Khi các phi cơ này quần vòng tròn quanh mục tiêu thì súng phòng không của Mỹ đã làm các phi công Nhật lo ngại. Một vài phi cơ bay vọt đi tránh hàng loạt đạn từ bên dưới, một số phi công khác gan dạ hơn, bay lượn ba vòng quanh mục tiêu mới thả bom. Một phi công khác cuống quýt thả bom quá sớm không trúng mục tiêu. Fuchida nhận thấy thế và bất kể bầu không khí tối đen vì khói súng phòng không, Fuchida bay nhào xuống sát chiếc phi cơ ấy và viết câu hỏi "Sao vậy?" lên một tấm bảng đen và giơ ra hỏi người phi công. Người phi công cũng viết lên một tấm bảng đen trả lời Fuchida: "Bình xăng bị trúng đạn."

    Fuchida ra lệnh cho viên phi công phải quay về mẫu hạm ngay, nhưng viên phi công từ chối, và đòi tiếp tục cuộc oanh tạc. Fuchida đành miễn cưỡng vẫy tay đồng ý, nhưng ông biết rằng lái một chiếc oanh tạc cơ đã bị trúng đạn giữa rừng đạn phòng không của Mỹ thì thực là tối nguy hiểm. Viên phi công phóng mạnh phi cơ về phía các chiến hạm Mỹ, hy vọng đánh trúng được một mục tiêu trước khi bị hạ, nhưng ngay lập tức phi cơ nổ tung khi trúng đạn phòng không của Mỹ.

    Fuchida kể lại cuộc oanh tạc như sau:

    "Tôi nằm sát xuống sàn phi cơ để quan sát những trái bom của chúng tôi qua một cửa nhìn. Bốn trái bom đang lao xuống theo một hình thể thật hoàn toàn. Mục tiêu thì ở xa quá đến nỗi tôi tự hỏi không biết bom có tới tận nơi được không. Bốn trái bom càng lúc càng nhỏ hơn cho tới khi tôi không còn nhìn thấy rõ nữa. Tôi quên hết mọi chuyện khác trong cơn mê say nhìn bom rơi xuống mục tiêu. Những trái bom cuối cùng biến mất khỏi tầm mắt của tôi và tôi chợt trông thấy những cột khói bốc lên. Tôi sung sướng la lên: "Hai trái trúng" và nhỏm dậy khỏi sàn phi cơ."

    Súng phòng không của Mỹ ngày mỗi lúc một hoạt động mạnh hơn. Nhưng bỗng nhiên Fuchida nghe thấy những tiếng nổ dữ dội tại dẫy chiến hạm Mỹ và hàng loạt ánh lửa đỏ bốc lên cao hàng ngàn bộ. Tiếng nổ quá mạnh đã làm phi cơ của Fuchida chao đi. Một vài trái bom hạng nặng của Nhật đã trúng và nổ ngay trên chiếc chiến hạm Arizona. Khói cũng bắt đầu cuộn lên từ chiến hạm Maryland, tuy nhiên chiến hạm này không bị hư hại nhiều, mặc dầu bị trúng tới hai trái bom.

    Trong lúc các phi công của Fuchida làm nhiệm vụ thì các tiềm thủy đỉnh Nhật cũng lâm trận, và tại các mẫu hạm, các phi cơ thuộc đợt tấn công thứ hai đã bắt đầu cất cánh. Các tiềm thủy đỉnh lớn của Nhật tiến vào Trân châu cảng và dùng thủy lôi để tấn công bất cứ chiến hạm nào của Mỹ định chạy trốn. Nhiệm vụ của các tiềm thủy đỉnh bỗng khó khăn hơn trong những cơn sóng biển vĩ đại vì hàng loạt bom tấn công của phi công Nhật. Mặc dù ẩn sâu dưới đáy biển, các tiềm thủy đỉnh nặng hai ngàn tấn này vẫn cảm thấy sức dội của sóng.

    Ðợt tấn công thứ hai của trung tá Shimazaki khởi đầu với 170 phi cơ cất cánh từ mẫu hạm Zuikaku. Ðoàn phi cơ này tới Trân châu cảng vào lúc 8:40, nhưng các phi công của Fuchida vẫn chưa thả hết bom và vẫn tiếp tục cuộc oanh tạc nên các phi cơ của Shimazaki phải bay lượn trên cao trong một thời gian 15 phút để tránh đụng phải các phi cơ của Fuchida. Ngay trong lúc còn bay cao mà các phi cơ của Shimazaki cũng cảm thấy chấn động vì những tiếng nổ trên chiến hạm Arizona.

    Ðợt tấn công của phi đoàn Fuchida kéo dài khoảng một giờ, và Fuchida ra lệnh cho các phi cơ quay trở về mẫu hạm. Tổng kết tổn thất của Nhật trong đợt tấn công đầu gồm có ba chiến đấu cơ, năm phi cơ phóng thủy lôi và một oanh tạc cơ. Khi bắt đầu quay trở về mẫu hạm, đoàn phi cơ Fuchida nghiêng cánh vẫy chào đoàn phi cơ của Shimazaki đang chờ tới lượt tấn công. Riêng Fuchida không quay về mẫu hạm ngay. Không còn bom nữa, Fuchida bay vọt lên cao để quan sát cuộc tàn sát của đợt tấn công thứ hai. Trung úy Suganami, chỉ huy đoàn khu trục cơ Zero hộ tống phi đoàn của Fuchida cũng nán lại tại chiến trường để xem cuộc tấn công của đoàn phi cơ Shimazaki. Hành động của trung úy Suganami thực là liều lĩnh vì khu trục cơ Zero chỉ có một tầm hoạt động nhỏ thôi. Khi chiếc Zero của Suganami trở về tới mẫu hạm thì bình nhiên liệu chỉ còn vài ga-lông xăng.

    Khi đợt tấn công của Fuchida chấm dứt, đô đốc Nagumo gửi tín hiệu về cho Yamamoto, xác nhận một điều mà Yamamoto đã biết: không có một mẫu hạm nào của Mỹ tại Trân châu cảng. Ðề đốc Kuroshima, sĩ quan hành quân của Yamamoto đề nghị với Yamamoto cho lực lượng của Nagumo phải đi tìm mẫu hạm Mỹ để tiêu diệt. Yamamoto không đồng ý và trả lời: "Nagumo ở xa chúng ta hàng ngàn dặm. Ông ta có thể có được những tin tức mà chúng ta không biết. Ðể mặc ông ta chỉ huy trận đánh này. Tôi hoàn toàn tin tưởng ở ông ta." Thực ra Yamamoto không thể làm gì hơn là phải tin hoàn toàn vào Nagumo, người đang trực tiếp chỉ huy trận đánh tại chỗ.

    Fuchida đã rời chiến trường Trân châu cảng, và các căn cứ không quân bên dưới đã bị tàn phá đang bốc cháy, và không một phi cơ Mỹ nào bay lên được. Nhưng lực lượng phòng không của Mỹ trở nên rất mạnh mẽ vào lúc 9 giờ sáng, khi mà trung tá Shimazaki bắt đầu ra lệnh cho 170 phi cơ của ông mở đợt tấn công thứ hai. Nhiệm vụ của Shimazaki khó khăn nguy hiểm hơn của Fuchida, vì bây giờ quân phòng thủ Mỹ đã tập hợp được và chiến đấu rất dũng mãnh. Không giống như phi đoàn của Fuchida, Shumazika không có phi cơ phóng thủy lôi, mà chỉ gồm có phần lớn là các oanh tạc cơ loại Kate, chuyên dùng để oanh tạc các phi trường.

    Ðợt phi cơ nhào xuống dội bom do trung tá Egusa chỉ huy thì mạnh hơn, bao gồm 80 phi cơ ném bom ở độ thấp. Các phi cơ của Egusa trang bị những bom 500 cân và các phi công của Egusa là những con đại bàng thuộc loại thượng thặng đã dầy dạn kinh nghiệm bay và chiến đấu. Tất cả những phi công này đã được huấn luyện đặc biệt để có thể tiêu diệt các mẫu hạm Mỹ trong một trận tấn công. Bây giờ không có mẫu hạm, các phi công này đành nhào xuống các chiến hạm vậy. Trong đợt tấn công đầu tiên của Fuchida, các chiến hạm Mỹ bị thiệt hại rất ít.

    Egusa hướng dẫn các phi công của mình bay về phía núi như để lấy trớn, rồi quay vọt trở lại tạo một hàng hỏa lực khủng khiếp. Egusa chọn tấn công những chiến hạm nào có súng phòng không dữ dội nhất vì những chiến hạm này là những chiến hạm ít bị thiệt hại nhất trong đợt tấn công đầu tiên của Fuchida. Những cột khói đen khổng lồ bốc lên từ quân cảng đã gây khó khăn cho các phi công Nhật vì họ khó trông thấy các mục tiêu. Nhưng Egusa ra lệnh cho các phi công bay theo mình, lấy cái đuôi phi cơ sơn mầu đỏ của Egusa làm chuẩn như hồi còn tập luyện tại Kagoshima. Egusa hướng dẫn các phi công dưới quyền tới các mục tiêu một cách rất chính xác. Thế là hết tiếng nổ này tới tiếng nổ khác, và lửa đỏ bốc lên và những khối khói đen tỏa khắp quân cảng.

    Trong lúc các phi công thượng thặng của Egusa phá hủy các chiến hạm còn lại thì phần lớn các oanh tạc cơ của Shimazaki tập trung tại phi trường Hickam. Số còn lại tấn công Ford Island và căn cứ không quân Kaneohe. Không một phi cơ nào của Shimazaki bị hạ, mặc dù rất nhiều chiếc bị trúng đạn. Các khu trục cơ bảo vệ đợt tấn công thứ hai này gồm có 36 chiếc Zero. Không một chiến đấu cơ Mỹ nào lên nghênh địch vì đợt tấn công đầu của Fuchida đã bắn hạ tất cả phi cơ Mỹ ngay trên sân bay rồi.

    Phi công Zero Fujita bay lên cao 18 ngàn bộ cùng với Iida, sĩ quan chỉ huy toán phi cơ Zero, để quan sát và tìm phi cơ Mỹ. Hai người bay lượn quanh đảo hai lần nhưng không thấy một phi cơ địch nào. Nhưng hỏa lực phòng không của Mỹ quả thực ác liệt hơn người Nhật tưởng, và hai người có cảm tưởng đang bay trong giữa một bầu trời bắn pháo bông vậy. Iida là một trung úy 27 tuổi và là một phi công cừ khôi đã chiến đấu hai năm tại Trung Hoa. Trong trận Trân châu cảng, Iida hướng dẫn các phi công Nhật thiếu kinh nghiệm trong đợt tấn công đợt hai. Bất kể đạn súng máy bắn lên, Iida lao xuống các nhà chứa máy bay và bắn phá đốt cháy các phi cơ. Khi đợt tấn công chấm dứt, Iida bay lượn quanh phi trường Kaneohe để kiểm soát xem các tất cả phi cơ có trở về thành đội hình không thì một viên đạn từ bên dưới bắn trúng phi cơ của Iida. Dầu chảy ra và khói bốc lên từ phi cơ. Iida bay sát vào phi cơ của Fujita và lấy tay bụm miệng ra dấu cho biết bị ngạt khói. Rồi Iida nghiêng cánh và lấy tay chỉ xuống dưới đất. Sau đó Iida bổ nhào phi cơ xuống đất. Fujita trông thấy tình trạng tuyệt vọng của Iida mà không làm gì được. Phi cơ của Iida nổ tung dưới đất và trở thành một trong những binh sĩ Nhật tử trận đầu tiên tại Trân châu cảng.

    Cuộc tấn công đợt hai của Shimazaki cũng chỉ lâu khoảng một giờ như đợt của Fuchida. Ðợt này đã thành công tấn công tiêu hủy được những chiến hạm chưa bị tổn thất trong đợt đầu. Vì đạn phòng không bắn lên như mưa nên đợt tấn công của Shimazaki bị nhiều thiệt hại hơn: sáu khu trục cơ và 14 oanh tạc cơ của Egusa bị bắn rơi. Trong lúc phi đoàn của Shimazaki quay trở về mẫu hạm thì Fuchida vẫn ở lại để kiểm điểm kết quả chiến trường. Fuchida đếm được bốn chiến hạm Mỹ chìm hẳn, ba chiếc khác bị tổn thất nặng, nhiều chiến hạm khác cũng bị tổn thất khá nhiều và chỉ một chiếc bị tổn thất sơ sài. Các căn cứ không quân Ford Island và Wheeler đang cháy dữ dội.

    Mặc dầu các tổn thất của Nhật tương đối rất nhẹ so với những tổn thất của Mỹ, nhưng nhiều phi cơ Nhật trong lần tấn công đợt hai bị trúng đạn, nhưng phần lớn cố gắng bay trở về được mẫu hạm. Trường hợp của Fujita thật là hãn hữu. Trên đường về, Fujita bay bảo vệ cho một nhóm oanh tạc cơ của Egusa và gặp một phi cơ Mỹ chặn đầu. Fujita cố phóng bỏ các thùng dầu đi mà không được. Fujita đành phải quay tránh phi cơ Mỹ thì trông thấy một phi cơ Mỹ khác. Fujita bắn trúng chiếc phi cơ thứ hai này cháy bùng lên và rơi xuống biển, nhưng chiếc phi cơ thứ nhất vẫn đuổi theo Fujita. Fujita chợt nhớ một điều tâm niệm trong lúc huấn luyện là "nếu bỏ chạy thì chắc chắn sẽ bị bại". Thế là Fujita quay phi cơ lại và phóng thẳng vào chiếc phi cơ Mỹ khiến chiếc phi cơ Mỹ phải né tránh. Nhưng trong lúc né tránh, người phi công Mỹ còn đủ thời giờ quạt một tràng liên thanh sang phi cơ của Fujita. Cửa sổ và ghế ngồi của Fujita nát bấy, nhưng Fujita không bị thương. Phi cơ của Fujita đầy lỗ thủng và đầu máy khật khừ và áp xuất dầu xăng xuống thấp một cách đáng ngại. Fujita trông thấy bên dưới các tiềm thủy đỉnh Nhật đang chờ đợi tấn công các chiến hạm Mỹ. Thoạt đầu Fujita định lao xuống biển và hy vọng được tiềm thủy đỉnh vớt, nhưng Fujita thấy làm như vậy thì liều lĩnh quá nên cố bay lết về mẫu hạm Akagi. Khi vừa đáp xuống sàn mẫu hạm thì phi cơ vừa vặn hết xăng và máy tắt, nhưng Fujita bình an vô sự.

    Nagumo được Fuchida báo cáo kết quả của cuộc tấn công. Fuchida cho biết còn một số mục tiêu nữa cần phải triệt hạ và đề nghị Nagumo cho mở một đợt tấn công nữa. Ý kiến của Fuchida không được các cấp chỉ huy khác tán thành, vì họ không muốn các mẫu hạm và phi cơ gặp nguy hiểm nữa vì sức mạnh phòng không của Mỹ rất hữu hiệu, mặc dù các phi cơ Nhật trở về được, đã được tiếp tế nhiên liệu và sẫn sàng cho một cuộc tấn công nữa. Sau khi nghe các ý kiến trái ngược của các sĩ quan chỉ huy không quân, Nagumo kết luận rằng không quân Nhật sẽ gặp nhiều nguy hiểm trong đợt tấn công thứ ba và chưa chắc đã gây được nhiều tổn hại cho Mỹ. Nagumo quyết định ngưng cuộc tấn công. Ðúng 1:30, cờ hiệu trên soái hạm Akagi ra lệnh cho các mẫu hạm quay về hướng nam. Tất cả các mẫu hạm mở hết tốc lực chạy xa khỏi chiến trường.

    Quyết định của Nagumo căn cứ vào ý kiến của viên tham mưu của ông là đề đốc Kusaka. Quan điểm của Kusaka lại căn cứ vào các tin tức bắt được các băng tần của Mỹ và biết rằng Mỹ còn nhiều khu trục cơ còn hoạt động được. Các mẫu hạm ở lại lâu tại một nơi nằm trong tầm hoạt động của không lực địch là một điều tối nguy hiểm. Lúc đó các mẫu hạm chỉ cách Trân châu cảng 250 dặm trong khi phi cơ của Mỹ có tầm hoạt động xa tới 600 dặm. Nagumo cũng không thể trông cậy vào các tiềm thủy đỉnh quanh Hawaii để biết tin tức của địch.

    Lý do chính khiến Nagumo phải rút quân mau lẹ là vì không còn hy vọng tìm được mẫu hạm Mỹ. Nếu tiếp tục ở lại tìm mẫu hạm Mỹ thì rất có thể chính các mẫu hạm Nhật sẽ trở thành mục tiêu của không quân Mỹ. Mẫu hạm được hải quân Nhật coi rất trọng và hết sức bảo vệ. Vì yêu quý mẫu hạm nên người Nhật đặt cho các mẫu hạm những cái tên rất nên thơ đáng yêu. Sáu mẫu hạm có những tên như Akagi (Lâu Ðài Hồng), Kaga (Niềm Hân Hoan), Soryu (Thanh Long), Hiryu (Phi Long), Shokaku (Con Hạc Bay Vút Lên) và Zuikaku (Con Hạc Hạnh Phúc).

    Tuy rút lui một cách vội vàng, nhưng Lực lượng Xung kích của Nagumo đã đạt được những thành quả đáng kể. Trong tổng số 353 phi cơ thuộc sáu mẫu hạm, Nhật chỉ mất có chín khu trục cơ, 15 oanh tạc cơ và năm phi cơ phóng thủy lôi. Về nhân mạng thì 55 binh sĩ Nhật được coi là mất tích. Ðổi lại những tổn thất nhẹ nhàng này, Nhật đã tiêu diệt toàn bộ sức mạnh của hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ khi tiêu diệt được tám chiến hạm lớn của Mỹ. Các chiến hạm Arizona, California, và West Virginia bị đánh đắm, chiến hạm Oklahoma bị lật úp, chiếc Nevada bị tổn thất nặng nề, ba chiếc Maryland, Pennsylvania và Tennessee cũng bị hư hại. Ngoài ra các khu trục hạm Cassin và Downes bị cháy, chiếc Shaw bị tổn thất nặng nề. Một số tầu nhỏ khác cũng bị đánh chìm hoặc bị hư hại nặng.

    Lý do chính khiến đô đốc Nagumo quyết định không tấn công Trân châu cảng một lần nữa, không có tài liệu rõ ràng và mùa hè năm 1944 Nagumo đã mổ bụng tự tử trong trận hải chiến tại Saipan, đem theo cả câu hỏi lớn lao này đi theo cái chết của ông. Người ta chỉ tìm thấy một tài liệu mô tả vắn tắt lý do của ông như sau:

    1. Các đợt tấn công đầu đã gây được những tổn thất cho Mỹ đúng theo bộ tham mưu Nhật mong muốn rồi. Một cuộc tấn công nữa cũng không gây thêm được nhiều tổn thất nữa cho Mỹ.

    2. Hệ thống phòng không của Mỹ phản ứng mau lẹ và rất chính xác, mặc dầu bị tấn công bất ngờ. Một đợt tấn công nữa sẽ gặp sự kháng cự ác liệt hơn nữa và như thế thì tổn thất của Nhật sẽ lớn lao hơn nữa. Những tổn thất mới sẽ làm lệch cán cân chiến thắng đã đạt được.

    3. Các tin bắt được qua các tần số của Mỹ cho thấy Mỹ còn ít nhất 50 phi cơ nữa còn hoạt động được. Ngoài ra Nhật không biết được các mẫu hạm, tuần dương hạm và tiềm thủy đỉnh của Mỹ ở đâu.

    4. Tiếp tục ở lại trong tầm hoạt động của không lực địch có căn cứ trên đất liền là điều bất lợi cho Nhật, đặc biệt là tầm hoạt động của phi cơ Nhật chỉ trong phạm vi 250 dặm, và Nhật phải tùy thuộc vào sự hoạt động của tiềm thủy đỉnh tiền thám trong khu vực Hawaii.

    Trong lúc đoàn mẫu hạm của Nagumo rời chiến trường với nhiệm vụ hoàn thành thì các tiềm thủy đỉnh mẹ của Nhật vẫn còn ở lại để thu hồi các tiểu tiềm thủy đỉnh. Trong sự hỗn loạn của cuộc oanh tạc, người ta không biết được số phận của các tiểu tiềm thủy đỉnh. Người ta chỉ biết rằng tất cả năm tiểu tiềm thủy đỉnh của Nhật không trở về được tiềm thủy đỉnh mẹ.

    Ít nhất ba tiểu tiềm thủy đỉnh vào được Trân châu cảng nhưng hình như không làm nên chuyện gì cả. Ðô đốc Shimizu, tư lệnh hạm đội tiềm thủy đỉnh, ra lệnh cho các tiềm thủy đỉnh loại I tìm cách vớt những tiểu tiềm thủy đỉnh. Ðầu tiên hai chiếc I-69 và I-68 chờ đợi tại cửa vào quân cảng. Thiếu tá Watanabe chỉ huy chiếc I-69 tới nơi lúc 9 giờ tối, trồi lên mặt nước và chứng kiến cảnh lửa cháy trên chiếc Arizona. Bầu trời Trân châu cảng lúc ấy tắm trong một mầu đỏ của lửa. Trong lúc mải ngắm chiếc Arizona cháy, chiếc I-69 bị ba khu trục hạm Mỹ trông thấy. Watanabe vội cho chiếc I-69 lặn xuống tới 200 feet. Các khu trục hạm Mỹ phóng hỏa lực xuống tấn công chiều sâu, nhưng hỏa lực của Mỹ chỉ công hiệu ở mức độ 100 feet thôi và chiếc I-69 an toàn.

    Chiếc I-68 cũng bị một khu trục hạm Mỹ bắt gặp. Khi chiếc I-68 lặn xuống thì đụng phải màng lưới chống tiềm thủy đỉnh. Các thủy thủ Nhật vội tìm cách gỡ chiếc I-68 thì khám phá rằng hỏa lực của khu trục hạm Mỹ đã làm chiếc I-68 chảy dầu. Thiếu tá Nakaoka chỉ huy chiếc I-68 quyết định phải trồi lên, dù có gặp khu trục hạm Mỹ. Nhưng khi trồi lên, chiếc I-68 được màn đêm che kín và những khu trục hạm Mỹ bỏ cuộc không truy nã thêm nữa.

    Sau bốn ngày chờ đợi mà không thấy dấu hiệu của các tiểu tiềm thủy đỉnh, các tiềm thủy đỉnh loại I của Nhật đành quay trở về quần đảo Marshalls và về tới nơi đúng lúc ngày Tết đầu năm của người Nhật. Trong số 10 sĩ quan lái 5 chiếc tiểu tiềm thủy đỉnh tại Trân châu cảng thì 9 người mất tích và tất cả 9 sĩ quan này đều được thăng lên hai cấp và được coi như anh hùng quốc gia. Người duy nhất không được thăng thưởng là thiếu úy Sakamaki. Sakamaki bị hải quân Mỹ bắt sống làm tù binh.

    Nhiệm vụ tấn công Trân châu cảng thoạt đầu được phân chia đồng đều cho các tiềm thủy đỉnh và các phi công trên các mẫu hạm. Nhưng chính các phi công hải quân đã hoàn thành tất cả mục tiêu trong khi cuộc hành quân của tiềm thủy đỉnh là một thất bại. Sau cuộc thất bại này, bộ tư lệnh tiềm thủy đỉnh mất mặt và không được chú ý và không được tăng cường nữa. Nhiệm vụ của tiềm thủy đỉnh Nhật sau này bị thu hẹp vào tấn công đường tiếp tế của Mỹ trong các trận đánh tại quần đảo Solomons.

    Hải quân Nhật công bố chiến thắng ngoạn mục tại Trân châu cảng như là một kỳ công trong việc bảo vệ hòa bình thế giới. Nhưng khi đô đốc Nagumo yêu cầu thăng thưởng cho 55 phi công tử trận trong cuộc tấn công thì bị từ chối với lý do là số sĩ quan được thăng thưởng quá nhiều. Các phi công của hải quân Nhật rất tức giận khi bộ Tư lệnh Hoàng gia công bố việc đánh đắm chiến hạm Arizona là công của thiếu tá Yokoyama, người chỉ huy các tiểu tiềm thủy đỉnh. Các phi công xác nhận rằng chiếc Arizona bị đợt tấn công của trung tá Shimazaki đánh chìm bằng hai trái bom, nhưng bộ tư lệnh đã cố tình thiên vị làm suy giảm công chiến thắng của các phi công hải quân.

    Cuộc tấn công Trân châu cảng đã đạt được những mục tiêu căn bản của Yamamoto là ngăn cản hạm đội Thái bình dương của Mỹ can thiệp vào các cuộc hành quân tại phía nam để chiếm khu vực dầu lửa. Nhưng cuộc tấn công này cũng không đạt được hoàn toàn các điều mong đợi của Yamamoto, vì các hàng không mẫu hạm Mỹ vẫn còn nguyên vẹn. Chính các mẫu hạm Mỹ mới đích thực là mục tiêu khi Yamamoto dự định và đặt kế hoạch tấn công. Các mẫu hạm Mỹ là mối quan tâm lo lắng nhất của Yamamoto vì các mẫu hạm có khả năng đem chiến trường lại gần Nhật bản. Yamamoto vẫn tiếp tục chiến thuật căn bản của ông là kết hợp các phi công ưu tú trên 6 mẫu hạm. Các mẫu hạm này sẽ tập trung sức mạnh khủng khiếp, dụ các mẫu hạm Mỹ ra khơi giao chiến và tấn công hạm đội địch bằng một sức mạnh đè bẹp. Ðó là lý do của các trận hải chiến ác liệt tại biển San Hô và quần đảo Midway sau này.

    Về phần Mỹ, trận đánh Trân châu cảng là một chiến bại nặng nề, một bài học không thể quên được. Phải một thời gian khá lâu hạm đội Thái bình dương mới phục hồi lại được, trong khi hải quân Nhật tung hoành tại Thái Bình Dương mà không gặp một cản trở nào. Phải mãi sau khi đô đốc Yamamoto bị tổng thống Roosevelt ra lệnh chặn đường phục kích ám sát rồi, Mỹ mới lấy lại được thế thượng phong.

    Trong các chiến hạm Mỹ bị đánh chìm tại Trân châu cảng thì chiếc Arizona là chiến hạm lớn nhất. Ngày nay tại Hawaii có một đài kỷ niệm nơi chiếc Arizona bị đánh chìm. Hàng ngày hàng ngàn du khách được tầu hải quân chở ra đài kỷ niệm để tưởng nhớ các binh sĩ anh dũng của Mỹ đã can đảm chết theo chiến hạm Arizona. Trên đài kỷ niệm, du khách có thể trông thấy chiếc Arizona còn nằm dưới lòng biển, và thỉnh thoảng từng giọt dầu còn sủi lên, mặc dù con tầu đã chìm cách đây hơn một nửa thế kỷ rồi. Thực ra những giọt dầu đó là do một bộ máy người ta đặt ra sau này, cứ vài giây lại nhả ra một vài giọt dầu sủi lên, như là những giọt máu vẫn còn chảy ra từ một vết thương chưa lành, để gây xúc động và khơi dậy lòng ái quốc cho du khách Mỹ.

    Trận tấn công Trân châu cảng là một trận đánh rất đáng chú ý trong chiến sử thế giới. Trong trận đánh lớn nhưng ngắn ngủi này, binh sĩ của cả hai phe thù nghịch đều rất đáng kính trọng và ngưỡng mộ vì tinh thần ái quốc và lòng dũng cảm tuyệt vời của họ. Cả hai bên đều hãnh diện đã hoàn thành được nhiệm vụ mà quốc gia giao phó cho họ. Người Mỹ không hề có mặc cảm khi thua trận đánh đầu tiên này, bởi vì được hay thua một trận đánh trong một cuộc chiến dài bốn năm không quan trọng lắm. Chiến thắng trận đánh cuối cùng mới thực là quan trọng, và người Mỹ đã oanh liệt thắng trận đánh cuối cùng trong cuộc chiến tại Thái Bình Dương.
    #17
      Sun Ming 07.08.2009 02:33:51 (permalink)
      18. Hùm Xám Mã Lai Và Trận Ðánh Tân Gia Ba

      Tháng 11 năm 1941, trong lúc đô đốc Yamamoto đang chuẩn bị cho cuộc tấn công Trân Châu Cảng, thì tướng lục quân Yamashita, tư lệnh Quân đoàn Quan Ðông tại Mãn Châu, được triệu hồi về Ðông Kinh, để nhận chức tư lệnh quân đoàn 25. Quân đoàn 25 đang chuẩn bị mở cuộc tấn công vào Mã Lai Á trong trường hợp Nhật khai chiến, và Yamashita có nhiệm vụ đánh chiếm Tân Gia Ba, căn cứ quân sự quan trọng nhất của Anh quốc tại Á Ðông.

      Yamashita không được thoải mái khi nhận nhiệm vụ quan trọng này, vì ông biết các tướng cấp trên như Ðông Ðiều và Sugiyama không ưa thích ông. Trong thập niên 1930, có hai phe chống đối nhau tại Nhật Bản: phe ôn hòa chủ trương thiết lập một chính phủ dân sự dưới sự lãnh đạo của Nhật Hoàng, trong khi phe quá khích chủ trương phải đánh chiếm Trung Hoa, dù hậu quả có thể đưa đến chiến tranh với Anh và Mỹ. Yamashita ủng hộ phe ôn hòa trong khi Ðông Ðiều và Sugiyama lãnh đạo nhóm quá khích. Cuối cùng nhóm quá khích thắng thế, và Ðông Ðiều trở thành thủ tướng và Sugiyama nắm chức tổng tham mưu trưởng lục quân. Yamashita bị tống đi biên giới Mãn Châu, chỉ huy Quân đoàn Quan Ðông. Bây giờ Yamashita bị gọi về, và phải thi hành một trọng trách nặng nề. Yamashita biết rằng mình sẽ bị theo dõi kiềm chế gắt gao, và bất cứ một lỗi lầm nào cũng đưa tới trừng phạt sỉ nhục.

      Kế hoạch đánh chiếm Tân Gia Ba đã được soạn thảo trước khi Yamashita nắm quân đoàn 25. Khu vực quân đoàn 25 đổ bộ sẽ là một giải đất nhỏ hẹp tại Kra Isthmus, nằm giữa Thái Lan và Mã Lai Á. Ba địa điểm chính là Singora và Patani thuộc Thái Lan, và Kota Bharu tại bắc Mã Lai Á. Thoạt đầu người ta đề nghị giao cho quân đoàn 25 năm sư đoàn trong nhiệm vụ tấn công Tân Gia Ba. Khi Yamashita đến bộ chỉ huy của quân đoàn 25 tại đảo Hải Nam, ông duyệt lại tình hình và đưa ra một đề nghị rất ngạc nhiên. Trong lần họp với Sugiyama, Yamashita cho biết ông chỉ cần ba sư đoàn để tiến chiếm Tân Gia Ba.

      Lời đề nghị của Yamashita quả thực đáng ngạc nhiên, vì phần lớn các tướng chỉ huy thường đòi hỏi có nhiều quân hơn. Trường hợp Yamashita, ông nhận thấy địa hình tại Mã Lai Á không thuận lợi cho việc tập trung quá nhiều quân. Yếu tố chính để chiến thắng là quân ít nhưng phải thật tinh nhuệ. Yamashita là một viên tướng chuyên nghiệp, một thiên tài chiến tranh và có rất nhiều kinh nghiệm chiến trường. Ðối với ông và một số đông quân nhân Nhật Bản thì chiến tranh không phải là một việc xấu, trái lại đó là một nhiệm vụ thiêng liêng.

      Cuối cùng ba sư đoàn gồm sáu chục ngàn quân tham gia chiến dịch Tân Gia Ba. Ðó là các sư đoàn 5 và 18, hai sư đoàn thiện chiến nhất của Quân đội Hoàng Gia Nhật. Sư đoàn thứ ba thuộc Vệ binh Hoàng gia. Ba sư đoàn này được hai trung đoàn pháo binh và một lữ đoàn chiến xa yểm trợ. Ngoài ra còn có 600 phi cơ bảo vệ, gồm có 450 phi cơ nằm trên căn cứ đất liền, và 150 phi cơ trên hàng không mẫu hạm. Hai trong ba sư đoàn trưởng của Yamashita cũng là những viên tướng rất nhiều kinh nghiệm và can trường, đó là trung tướng Matsui nổi danh tại chiến trường Trung Hoa, chỉ huy sư đoàn 5, và trung tướng Mutaguchi từng là tham mưu trưởng cho Yamashita, chỉ huy sư đoàn 18. Yamashita rất hài lòng với hai tướng Matsui và Mutaguchi, nhưng viên tướng chỉ huy sư đoàn Vệ binh là Nishimura thì thực là một khó chịu nhức đầu cho Yamashita. Nishimura là bạn thân với cấp trên của Yamashita là tướng Terauchi, tư lệnh Nam Á Châu, và cũng là bạn của Sugiyama, tổng tham mưu trưởng lục quân Hoàng gia Nhật. Nishimura quyết định bất hợp tác và gây nhiều khó khăn cho Yamashita.

      Một người nữa gây khó khăn cho Yamashita là đại tá Tsuyi, trưởng phòng hành quân của Yamashita. Tsuyi là một thứ gián điệp dò xét các tướng lãnh cho thủ tướng Ðông Ðiều. Như vậy, Yamashita phải đương đầu với kẻ thù không những trực diện với mình là quân Anh, mà còn phải lo đối phó với kẻ thù ở ngay cấp trên và cấp dưới của mình, và cả trong bộ tham mưu của mình. Ðó không phải là điều kiện thuận lợi để chiến thắng.

      Quân Nhật dự định đổ bộ tại ba bãi biển, hai tại Thái Lan và một tại Mã Lai Á, rồi tiến quân qua rừng già từ phía bắc xuống Tân Gia Ba. Bán đảo Mã Lai Á dài khoảng 400 dặm, ở giữa là núi và hai bên là đồng bằng duyên hải. Ðường tiến quân của quân Nhật phải vượt qua rất nhiều sông ngòi, rừng rậm và đồng lầy, một địa hình rất bất lợi cho cuộc hành quân. Chính vì thế, quân Anh không quan tâm lo phòng thủ khu vực này. Bộ tham mưu Nhật quyết định hai sư đoàn 5 và 18 sẽ đổ bộ trước, thiết lập một đầu cầu cho sư đoàn Vệ binh ít kinh nghiệm đi sau.

      Từ tổng hành dinh tại Sàigon, tướng Terauchi đánh điện cho Yamashita, ấn định ngày tấn công là 8-12, một ngày sau cuộc tấn công Trân Châu Cảng của đô đốc Yamamoto. Ðồng thời Terauchi cũng ra lệnh cho Yamashita phải hủy bỏ cuộc tấn công ngay tức khắc, nếu cuộc điều đình đang diễn ra tại Hoa Thịnh Ðốn thành công. Lực lượng tấn công được phân tán thành 5 đoàn tầu đổ bộ khác nhau để tránh nghi ngờ. Ngày 8-12 là ngày định mệnh cho Nhật Bản. Ngày đó quân đoàn 25 nức lòng vì tinh thần quốc gia. Họ nghĩ rằng cơ hội đánh đuổi "quân bạch quỷ" để giải phóng Á Châu cho người Á Châu đã tới.

      Tân Gia Ba là thuộc địa của Anh Quốc kể từ năm 1819, rộng từ tây sang đông 27 dặm, và từ bắc xuống nam 13 dặm. Tân Gia Ba và Mã Lai Á rất quan trọng cho đế quốc Anh vì tài nguyên phong phú về cao su và thiếc. Việc phòng thủ Tân Gia Ba lúc đầu rất xao nhãng vì quân Anh cảm thấy an tâm vì được rừng già bao bọc. Ðường tấn công duy nhất là từ biển vào. Nhưng đến đầu thập niên 1930, sau khi Nhật Bản chiếm Mãn Châu, thì sự phòng thủ mới được tăng cường bằng cả hải lục không quân. Trung tướng Dobbie được cử làm tư lệnh tại Mã Lai Á, có tướng Percival làm tham mưu trưởng. Dobbie đã nhiều lần xin chính phủ Anh Quốc tăng cường hệ thống phòng thủ tại Mã Lai Á và Tân Gia Ba, nhưng không được đáp ứng, một phần vì tình hình tại Âu Châu đang bất lợi cho Anh Quốc.

      Tháng 3-1941, Percival nhận lãnh chức vụ tư lệnh Mã Lai Á. Ông đòi bộ chiến tranh phải tăng cường thêm sáu sư đoàn, hai trung đoàn chiến xa và nhiều đơn vị chống chiến xa và phòng không. Bộ chiến tranh bác bỏ lời yêu cầu của ông. Percival đành phải bằng lòng với những gì ông đang có, gồm có 88 ngàn binh sĩ, trong đó có 19 ngàn quân Anh, 15,200 quân Úc, 37 ngàn quân Ấn Ðộ, và 16,800 quân tình nguyện bản xứ. Percival phải trải quân số này khắp Mã Lai Á. Như vậy Percival không đủ quân số để bảo vệ các địa điểm trọng yếu, như phi trường và bờ biển. Lúc đó Percival không có cả xe tăng, và các đồ quân nhu đều thiếu thốn. Quân sĩ thì phần lớn là Ấn Ðộ, không được huấn luyện đầy đủ. Percival chỉ còn trông cậy vào những cỗ súng nặng dọc bờ biển và hai chiến hạm Prince of Wales và Repulse. Hai chiến hạm này được phái tới Tân Gia Ba tháng 10-1941, để nâng cao tinh thần quân trú phòng. Percival cũng cho xây dựng lại hệ thống phòng thủ, nhưng dù sao cũng quá trễ và quá ít.

      Ngày 4-12, đoàn tầu chiến của Yamashita rời tổng hành dinh tại đảo Hải Nam, và đến tối ngày 7-12 thì tới ngoài khơi Mã Lai Á. Ðúng nửa đêm đó thì các vị trí của quân Anh tại Kota Bharu bị các chiến hạm Nhật pháo kích. Rồi các tầu đổ bộ ào tới. Phi cơ của quân đội Hoàng gia Anh cũng gây lúng túng cho quân Nhật, nhưng vị trí của quân phòng thủ Ấn Ðộ bị quân Nhật tràn ngập mau lẹ. Các vị trí của quân Ấn Ðộ nằm sát bờ biển, một vị trí rất thuận tiện để tiêu diệt quân đổ bộ của Nhật, nhưng quân Nhật tiến mạnh như vũ bão vào hỏa lực của quân Ấn Ðộ, rồi bao vây và tấn công các vị trí này từ bốn phía. Quân Ấn Ðộ hoảng hốt bỏ chạy vì tưởng phòng tuyến bị chọc thủng, nhưng thật ra lúc đó quân Nhật cũng đang gặp khó khăn.

      Cuộc đổ bộ tại Singora và Patini của Thái Lan dễ dàng hơn nhiều. Cảnh sát và quân đội Thái Lan không phải là đối thủ của quân Nhật. Ðúng 5:20 sáng ngày 8-12, Yamashita lên bờ và thiết lập tổng hành dinh tại Singora. Chỉ trong vài giờ sau, chính phủ Thái Lan chấp thuận cho phép quân Nhật được xử dụng lãnh thổ Thái Lan.

      Sau khi nghe tin Kota Bharu thất thủ, Percival ra lệnh rút quân về phòng thủ Jitra. Tướng Matsui chỉ dùng 500 quân và 10 xe tăng tiến tới Jitra mau lẹ như sấm sét. Cuộc chiến đấu thực ác liệt, nhưng quân Nhật tiến qua rừng già đánh bọc hậu địch quân, và chiếm được Jitra ngay. Quân Nhật tiến ngay tới mục tiêu kế tiếp là Aloi Star. Ðiều nhục nhã cho quân Anh là trong mấy ngày đầu của trận đánh, quân Nhật không cần phải xử dụng sư đoàn 5. Các chiến công đầu là do một đơn vị tiền phương đạt được, và quân Nhật chỉ thiệt hại khoảng 50 binh sĩ.

      Không những quân Nhật chiếm được các vị trí phòng thủ quan trọng, mà quân Ấn Ðộ kinh hoàng bỏ chạy, để lại rất nhiều quân nhu vũ khí. Quân Nhật càng tiến về phía nam thì càng lên tinh thần, và mặc sức dùng đồ ăn, đạn dược, xe cộ và nhiên liệu của quân Ấn Ðộ bỏ lại. Chiến thuật của Yamashita là "tràn ngập, truy kích và củng cố". Quân Nhật tràn qua phòng tuyến địch, tấn công quân địch bằng xe tăng và lúc nào cũng gia tăng áp lực, khiến cho quân Anh không có đủ thì giờ để củng cố lại một vị trí hoặc phòng tuyến mới. Ðây là một cuộc chạy đua về phía nam. Quân bộ binh Nhật dùng cả xe đạp để tiến quân. Họ đạp xe dọc theo các đường lộ và các lối mòn, và vác xe đạp lên khi phải qua sông, nhưng luôn luôn truy kích ráo riết địch quân đang rút lui.

      Yamashita chủ trương dùng chiến thuật đánh bọc hậu địch, trong khi viên tham mưu trưởng của Yamashita là Tsuyi phản đối chiến thuật này và cho rằng quá tốn quân. Trong một cuộc tranh luận nẩy lửa, Tsuyi thua và bị mất mặt. Tsuyi đệ đơn từ chức, nhưng không được Yamashita chấp thuận, và từ đó hắn để tâm trả thù, và tìm cách hãm hại Yamashita. Việc hãm hại Yamashita được chính thủ tướng Ðông Ðiều khuyến khích khiến cho Yamashita không được hưởng kết quả chiến thắng do chính mình tạo ra.

      Ðối với Percival thì hết thất bại này tới thất bại khác. Trưa ngày 8-12, đô đốc Tom Phillips chỉ huy hai chiến hạm Prince of Wales và Repulse và bốn khu trục hạm khác ra khơi để tấn công các vị trí đổ bộ của quân Nhật. Ðô đốc Philips hy vọng được sự yểm trợ của không quân, nhưng vào phút chót, hạm đội của Phillips không có một phi cơ nào. Ðó là một hoàn cảnh rất nguy hiểm nếu hạm đội bị không quân Nhật tấn công. Trong suốt ngày 9-12, hạm đội được mưa rào che chở, nhưng đến chiều thì trời bỗng quang đãng, và hạm đội của Phillips bị phi cơ tuần thám của Nhật khám phá. Do đó hạm đội Anh mất yếu tố bất ngờ, nên đô đốc Phillips quyết định trở về căn cứ Tân Gia Ba.

      Ngay sau đó đô đốc Phillips nhận được tin quân Nhật đang đổ bộ tại Quantan. Không thông báo cho bộ tư lệnh tại Tân Gia Ba, Phillips dẫn hạm đội tiến về Quantan với mục đích tấn công quân đổ bộ Nhật. Không may cho hạm đội Anh, một tiềm thủy đỉnh Nhật trông thấy hạm đội Anh vào lúc 2:10. Thế là phi cơ tuần thám của Nhật được tung ra tìm kiếm vị trí của hạm đội Anh. Khi Phillips dẫn hạm đội của ông tiến về phía Quantan, thì hạm đội Nhật phái một lực lượng gồm 34 oanh tạc cơ và 51 phi cơ phóng thủy lôi để đối phó với hạm đội Anh.

      Sáng ngày hôm sau, khi hạm đội Anh tiến gần tới Quantan thì không thấy tầu đổ bộ của Nhật. Ðô đốc Phillips ra lệnh cho hạm đội tiến ngược về phía bắc, hy vọng tìm được địch quân. Nhưng đúng lúc đó thì radar của chiến hạm Repulse phát hiện phi cơ Nhật đang tiến tới. Ðúng 11 giờ sáng thì trận tấn công của phi cơ Nhật bắt đầu. Từng đợt phi cơ Nhật nhào xuống hạm đội Anh. Các hạm trưởng Anh trổ hết tài để tránh thủy lôi của Nhật, nhưng cuối cùng cả hai chiếc Prince of Wales và Repulse đều bị đánh chìm. Gần một ngàn binh sĩ Anh tử trận cùng với hai chiến hạm Prince of Wales và Repulse. Ðây là một thất bại nặng nề nhất trong lịch sử hải quân Anh, và quân Nhật đã phá hủy huyền thoại bất bại của người Anh, và niềm hy vọng của quân Anh tại Mã Lai Á. Ðô đốc Phillips đã mắc phải những lỗi lầm quan trọng, nhưng ông không bị trừng phạt, vì ông tử trận ít lâu sau đó.

      Tin chiến thắng đánh bại hai chiến hạm quan trọng của hải quân Anh đã đem hứng khởi cho quân Nhật, và gia tăng huyền thoại bất bại của quân Nhật. Trong khi đó trận chiến trên bộ vẫn tiếp diễn, và quân Anh vẫn phải tiếp tục rút lui về miền nam. Trong sáu tuần lễ, quân Nhật đã chiếm trọn Mã Lai Á. Trên hai chục ngàn quân Ấn Ðộ đầu hàng, và Percival bây giờ chỉ trông cậy vào sư đoàn Úc đóng tại Jahore ở miền nam Mã Lai Á. Mặc dầu quân Úc cũng phải rút lui, nhưng họ cũng đánh lại quân Nhật những đòn chí tử. Quân Anh tuy có khả năng chiến đấu cao, nhưng lại quá ít. Khi Yamashita mở cuộc tấn công tại Jahore, đánh bại lữ đoàn Ấn Ðộ tại đây thì Percival đành phải rút lui về cố thủ Tân Gia Ba, và cho nổ tung con đê nối liền Tân Gia Ba và Mã Lai Á.

      Báo chí Nhật hết lời ca tụng Yamashita là anh hùng dân tộc, nhưng chỉ tạo bất lợi cho Yamashita, vì sự ghen ghét của thủ tướng Ðông Ðiều. Yamashita tập trung quân và mở cuộc tấn công cuối cùng vào Tân Gia Ba. Quân trú phòng Tân Gia Ba gồm có 85 ngàn binh sĩ, và sáu tiểu đoàn mới được tăng cường từ Anh Quốc. Percival có nhiều quân hơn Yamashita, và đáng lẽ có thể đẩy lui được mọi cuộc tấn công của quân Nhật. Thủ tướng Anh Churchill ra lệnh phải phòng thủ Tân Gia Ba và không được để mất một tấc đất.

      Yamashita chỉ có sáu chục ngàn quân. Trọng pháo bị hư hại nhiều, và đạn dược chỉ đủ dùng cho một thời gian ngắn. Quân Nhật chỉ có lợi thế về không lực, vì Nhật có tới 200 chiến đấu cơ so với một phi đội Hurricane của quân Anh. Yamashita biết rằng phải tốc chiến tốc thắng trước khi quân Anh nhận ra được nhược điểm của quân Nhật. Nếu quân Anh lấy lại được tinh thần, và thiết lập được một phòng tuyến phòng thủ hữu hiệu thì Yamashita phải bại trận.

      Yamashita là người gặp nhiều nghịch cảnh. Không những thiếu thốn các đồ tiếp liệu quan trọng, mà còn bị các cấp trên quấy rầy nữa. Tướng Terauchi, tư lệnh khu Nam Á luôn luôn ra lệnh cho Yamashita phải chiến đấu như thế nào. Có lần Terauchi gửi cho Yamashita một cọc giấy ghi những điều Yamashita phải làm khi mở cuộc tấn công. Yamashita tức giận, xé nát những mẩu giấy này và liệng vào thùng rác. Ngày 4-2, quân Nhật sẵn sàng mở cuộc tấn công. Yamashita họp các tướng tư lệnh sư đoàn và ra lệnh tấn công. Sư đoàn của Nishimura mở cuộc tấn công giả tại phía đông vào tối ngày 7-2 để dụ quân Anh về phía đó. Ðến đêm tối, các sư đoàn 5 và 18 vượt qua góc tây bắc của hòn đảo. Nishimura than phiền Yamashita coi thường mình và giao cho một nhiệm vụ không xứng đáng. Nhưng Yamashita đặt hết tin tưởng sẽ lừa được Percival ở trận tấn công giả này.

      Sáng ngày 8-2, cuộc tấn công bắt đầu bằng cuộc oanh kích nặng nề của phi cơ và pháo binh. Mặc dù súng máy của quân Anh quạt dữ dội vào quân Nhật, nhưng sáng ngày hôm sau quân Nhật đã có mặt tại hòn đảo và tiến xuống phía nam. Yamashita di chuyển bộ chỉ huy tới một rừng cao su tại đảo Tân Gia Ba. Ðúng trưa ngày hôm đó, hai sư đoàn 5 và 18 vượt qua được eo biển, nhưng sư đoàn Vệ binh của Nishimura dừng lại, vì Nishimura cảm thấy mất mặt. Trong cơn giận dữ, Nishimura ra lệnh chặt đầu 200 quân Úc và Ấn Ðộ bị kẹt tại Jahore. Nishimura làm đủ chuyện để gây khó khăn cho Yamashita. Mỗi khi nhận được lệnh của Yamashita, Nishimura hay hỏi vặn lại và nhiều khi từ chối không thi hành lệnh. Trong khi đó Terauchi đã hứa với Ðông Kinh sẽ chiếm được Tân Gia Ba vào ngày 11-2, ngày lễ lập quốc của Nhật Bản.

      Nhiều trận đánh cận chiến dữ dội xảy ra tại nhiều nơi. Percival quyết định lập một tuyến phòng thủ bao quanh thành phố. Ðến ngày 10-2 thì các đường dẫn vào Tân Gia Ba đã lọt vào tay quân Nhật, và quân dân trong thành phố Tân Gia Ba bắt đầu lo sợ kinh hoàng. Nhưng chính lúc đó Yamashita cũng bắt đầu lo sợ vì nhiên liệu và đạn dược thiếu một cách trầm trọng. Nếu phải bao vây Tân Gia Ba trong một thời gian lâu dài thì quân Nhật phải bỏ cuộc. Trong một buổi họp của ban tham mưu, các tướng cho Yamashita biết nếu không được tiếp tế thì chỉ sáu ngày nữa súng của quân Nhật sẽ im tiếng. Nhưng Yamashita biết rằng ông vẫn phải tiếp tục cuộc chiến, và ông ra lệnh mở cuộc tấn công như thường, để cố gắng che giấu không cho quân Anh nhận thấy nhược điểm của quân Nhật. Yamashita gửi một lá thư sang tổng hành dinh của tướng Percival, kêu gọi Percival đầu hàng, và nếu kháng cự sẽ bị tàn sát.

      Thưa Ngài,

      Tôi, tư lệnh quân đội Thiên Hoàng, đặt căn bản trên tinh thần thượng võ Nhật Bản, trân trọng gửi cho Ngài lá thư này để khuyên Ngài nên đầu hàng tất cả lực lượng tại Mã Lai Á. Tôi hết sức kính trọng quân đội của Ngài, đã theo đúng tinh thần cổ truyền Anh Quốc, đã anh dũng bảo vệ Tân Gia Ba và đang bị cô lập và không còn hy vọng tiếp cứu. Sĩ quan và quân sĩ của Ngài đã chiến đấu nhiều trận đánh oai hùng ác liệt theo đúng tinh thần chiến sĩ Anh Quốc. Nhưng hiện tình đã chấm dứt số phận của Tân Gia Ba rồi, và nếu cứ tiếp tục cuộc chiến mong manh này thì chỉ tạo ra thêm nhiều tổn thất chết chóc cho hàng ngàn người dân đang sống trong trong thành phố, đẩy họ vào những nỗi thống khổ và kinh hoàng của chiến tranh, mà cũng chẳng thêm được gì cho danh dự của quân đội Anh. Ðể chấm dứt lá thư này, tôi xin bày tỏ lòng tôn kính của tôi đối với Ngài một lần nữa.
      Tomoyuki Yamashita

      Percival không có ý định đầu hàng. Tuy nhiên ngay ngày hôm đó, quân Nhật chiếm được một bệnh viện lớn của quân đội Anh. Khi các nhân viên bệnh viện định đầu hàng thì quân Nhật tràn vào và dùng lưỡi lê đâm chết 230 bệnh nhân và 93 nhân viên bệnh viện. Một vài người trốn thoát chạy vào Tân Gia Ba và kể lại cảnh tàn sát dã man của quân Nhật. Tin đồn lập tức lan truyền khắp thành phố rằng, nếu Percival không đầu hàng thì mọi người sẽ chịu chung số phận như các nạn nhân tại quân y viện.

      Tinh thần quân dân trong thành phố xuống thấp mau lẹ. Việc tàn sát dường như giúp đòn tháu cáy của Yamashita thành công, mặc dầu Yamashita không ra lệnh tàn sát quân y viện. Bây giờ đối với Percival thì đầu hàng là con đường duy nhất. Thủ tướng Churchill đánh điện cho phép Percival hoàn toàn quyết định theo đúng tình trạng của Tân Gia Ba.

      Ngày 14-2, đường tiếp tế nước duy nhất của Tân Gia Ba là một trạm bơm nước chỉ còn cách vị trí của quân Nhật chừng nửa dặm. Nhiều nơi trong thành phố đã không có nước dùng. Percival biết rằng chỉ trong 48 giờ nữa thì Tân Gia Ba hoàn toàn không có nước nữa. Ngày chủ nhật 15-2, Percival họp với thuộc cấp để thu thập ý kiến của họ. Sau buổi họp, Percival cảm thấy tuyệt vọng. Vào lúc 10 giờ sáng, một toán quân nhân Anh mang cờ trắng tiến ra gặp đơn vị của tướng Mutaguchi. Ngay sau đó Yamashita được thông báo bộ tư lệnh Anh sẵn sàng thảo luận điều kiện đầu hàng. Yamashita đã thắng canh bạc tháu cáy. Yamashita yêu cầu tướng Percival phải ra gặp Yamashita tại một địa điểm chỉ định. Ngay chiều hôm đó, Percival mang cờ trắng ra và ngồi đối diện với Yamashita.

      Yamashita hỏi Percival có đồng ý đầu hàng vô điều kiện không. Percival trả lời đồng ý. Yamashita đặt câu hỏi thứ hai: Quân Anh có giữ tù binh Nhật nào không. Percival cho biết không có tù binh Nhật. Ðến đó Yamashita đặt văn bản đầu hàng trước mặt Percival. Percival đọc văn kiện xong và yêu cầu ngày hôm sau mới ký. Yamashita không thể chờ đợi lâu hơn nữa, vì e rằng quân Anh có thể nhận ra nhược điểm của mình, nên Yamashita yêu cầu Percival phải ký ngay, nếu không cuộc chiến sẽ tiếp tục ngay tức khắc. Viên thông ngôn Nhật nói không được lưu loát lắm nên dễ khiến Yamashita nổi nóng. Yamashita hét vào mặt tên thông ngôn: "Quân Anh có ký hay không? Trả lời Có hay Không!"

      Ðến đây Percival giật mình hoảng sợ, và trả lời đồng ý ký ngay. Văn kiện đầu hàng được ký lúc 6:10 chiều hôm đó. Sự đầu hàng của Percival đem lại cho Yamashita một chiến thắng lớn nhất trong lịch sử quân đội Thiên Hoàng. Căn cứ hùng mạnh Tân Gia Ba rơi vào tay Yamashita trong vòng 73 ngày. Sự thất thủ Tân Gia Ba là một cơn xúc động khủng khiếp tràn ngập khắp Á Châu, và chứng tỏ rằng địa vị của người da trắng tại Á Châu sẽ không bao giờ được như trước nữa. Lực lượng sáu chục ngàn quân của Yamashita bắt giữ được 130 ngàn quân Anh, Úc, Ấn Ðộ và Mã Lai trong khi quân Nhật chỉ thiệt hại 9,823 binh sĩ.

      Yamashita quả thực xứng đáng được mệnh danh là "Hùm Xám Mã Lai". Dù thiếu thốn quân nhu trầm trọng mà Yamashita vẫn điều khiển cuộc hành quân đến thắng lợi ngoạn mục. Yamashita tỏ ra có tài chỉ huy những trận đánh phức tạp, đòi hỏi việc xử dụng nhiều binh chủng khác nhau. Ðòn tháu cáy những ngày cuối cùng đã giúp tránh cho Nhật một cuộc chiến tiêu hao trường kỳ.

      Ðáng lẽ sau chiến công hiển hách này, Yamashita phải được tưởng thưởng xứng đáng. Trái lại thủ tướng Ðông Ðiều tìm cách cướp đi vinh dự và công trạng của Yamashita bằng cách đầy Yamashita trở lại biên giới Mãn Châu. Mãi đến khi Ðông Ðiều bị mất chức thủ tướng, Yamashita mới được gọi về làm tư lệnh quân Nhật tại Phi Luật Tân. Tuy vậy cấp trên của Yamashita vẫn tiếp tục hãm hại ông khiến ông không thể điều khiển cuộc chiến tại Phi Luật Tân theo ý muốn. Khi đệ nhị thế chiến chấm dứt, Yamashita bị đồng minh xử tử như là một tội phạm chiến tranh, mặc dầu ông chỉ là một quân nhân phải hành động theo lệnh của cấp trên. Ông vốn là một người chống lại việc gây chiến.

      Yamashita bị xử tử vì một tội ông không làm, cũng như trường hợp tướng Matsui, cựu tư lệnh Nhật tại Trung Hoa. Matsui là một tướng có tài và hết sức giữ quân kỷ và không cho binh sĩ nhũng nhiễu người Trung Hoa. Về sau ông bất mãn vì không ngăn cản được tội ác chiến tranh của quân Nhật, ông xin từ chức, và cạo đầu vào chùa đi tu. Nhưng khi chiến tranh chấm dứt, ông vẫn bị đồng minh lôi ra khỏi chùa và xử tử ông. Có lẽ tây phương không cho phép những kẻ một thời chiến thắng tây phương được sống sót.

      Tướng Percival là tù binh của Nhật cho tới lúc đệ nhị thế chiến chấm dứt. Ngày 2-9-1945, viên tướng bại trận gầy nhom này được hiện diện trên chiến hạm Missouri để chứng kiến sự đầu hàng của Nhật Bản. Trong dịp này, tướng MacArthur của Mỹ trao tặng Percival một cây viết dùng để ký văn kiện đầu hàng của Nhật Bản.
      #18
        Sun Ming 07.08.2009 02:43:04 (permalink)
        19. Trận Ðánh Biển San Hô

        Sau những chiến thắng liên tục của hải quân Nhật tại Thái Bình Dương, đô đốc Yamamoto quyết định phải chiếm đảo Midway, mặc dù đảo này khá xa Nhật Bản. Yamamoto tin rằng khi chiếm được Midway, ông có thể thiết lập được một căn cứ tiền phong cho các cuộc tuần thám không lực và tiềm thủy đỉnh tại đó. Hơn nữa Yamamoto chủ trương phải dụ các mẫu hạm của Mỹ cho một trận đánh quyết định. Yamamoto cho rằng chiến dịch Midway sẽ hoàn tất những gì mà trận đánh Trân Châu Cảng không thực hiện được. Ông hy vọng rằng với một chiến thắng quyết định tại Midway sẽ bắt buộc người Mỹ phải thương thuyết hòa bình với những điều kiện có lợi cho Nhật Bản.

        Khi Yamamoto đưa trình kế hoạch đánh chiếm đảo Midway lên bộ Tham mưu Hải quân Nhật thì kế hoạch này bị đa số bác bỏ, với lý do chiến dịch quá liều lĩnh và đảo Midway ở quá xa. Dù có chiếm được Midway thì việc tiếp tế cho Midway cũng rất khó khăn. Bộ Tham mưu Hải quân Nhật chỉ muốn đánh chiếm các đảo New Caledonia, Fiji và Samoa với mục đích tách rời Úc Ðại Lợi khỏi Hoa Kỳ. Nhưng Yamamoto cương quyết đòi hỏi phải thi hành kế hoạch tiến chiếm đảo Midway của ông. Cuối cùng bộ Tham mưu Hải quân Nhật đồng ý, nhưng muốn Yamamoto phải mở chiến dịch Biển San Hô trước, để cô lập Úc Ðại Lợi, không cho Úc Ðại Lợi trở thành một căn cứ tấn công của đồng minh vào Nhật Bản.

        Vì thế, ngay trong lúc chiến dịch Midway đang được tích cực chuẩn bị thì có những phát triển mới, ảnh hưởng đến chiến dịch Midway tại một vùng ba ngàn dặm tại khu vực đông bắc Úc Ðại Lợi. Tại đó đệ tứ hạm đội Nhật của phó đô đốc Inouye tung ra cuộc tấn chiếm Tulagi thuộc quần đảo Solomons và hải cảng Morseby tại vùng đông nam đảo New Guinea ngày 7-5, mở đầu trận đánh Biển San Hô.

        Các chiến lược gia Nhật Bản coi việc cô lập Úc Ðại Lợi rất cần thiết, vì họ sợ rằng đồng minh sẽ dùng Úc Ðại Lợi làm bàn đạp để phản công. Chiến dịch tại Biển San Hô có mục tiêu tách rời Úc Ðại Lợi ra khỏi đồng minh, vì khi chiếm được quần đảo Solomons, Nhật Bản sẽ kiểm soát được hải lộ giữa Úc Ðại Lợi và Hoa Kỳ. Có một sự bất đồng ý giữa hải quân và lục quân Nhật. Hải quân chủ trương chiếm Úc Ðại Lợi, nhưng lục quân phản đối vì nếu chiếm Úc Ðại Lợi thì lục quân phải trải lực lượng quá mỏng cho một chiến trường quá rộng lớn, nhất là chiến cuộc tại Trung Hoa đang lan rộng và đã thu hút phần lớn tài nguyên của lục quân. Trong lúc hải quân và lục quân Nhật còn mải tranh luận chiếm hay không chiếm Úc Ðại Lợi thì ngày 11-3, thủ tướng Ðông Ðiều gửi một điện văn hăm dọa Úc Ðại Lợi như sau:

        "Úc Ðại Lợi phải hiểu rằng chống lại lực lượng bất bại của Nhật Bản là một điều không tưởng, xét về dân số thưa thớt, lãnh thổ quá rộng và vị trí của Úc quá xa Hoa Kỳ và Anh Quốc."

        Thủ tướng Úc vội kêu gọi sự trợ giúp của Hoa Kỳ để chống lại Nhật Bản. Tuy nhiên sau đó quan điểm của lục quân Nhật thắng thế, nên Nhật không còn muốn chiếm Úc nữa, và chỉ mở trận đánh Biển San Hô để cô lập Úc Ðại Lợi.

        Như đã hoạch định từ tháng giêng, cuộc xâm chiếm Tulagi và hải cảng Morseby phải thực hiện ngay sau khi hải quân Nhật chiếm xong Lae và Salamaua vào đầu tháng ba. Tuy nhiên khi tin tình báo cho biết lực lượng hải quân Mỹ tại vùng đông nam có tới hai hàng không mẫu hạm, bốn thiết giáp hạm, bốn chiến hạm nhẹ và hơn mười khu trục hạm, thì bộ tham mưu Nhật phải hoãn cuộc tấn công cho đến lúc đệ tứ hạm đội Nhật được tăng cường bằng những chiến hạm nặng, mượn từ lực lượng tấn công đảo Midway của đô đốc Nagumo.

        Vì các chiến hạm cho đệ tứ hạm đội mượn sẽ được xử dụng trong trận tấn công tại quần đảo Midway, nên phó đô đốc Inouye lập tức mở cuộc tấn công Biển San Hô ngay. Theo kế hoạch của Inouye thì Nhật sẽ đánh chiếm Tulagi ngày 3-5 và toàn lực sẽ tung vào trận đánh chiếm hải cảng Morseby một tuần sau đó. Inouye chia lực lượng tấn công làm hai cánh tiến quân. Một lực lượng do đề đốc Goto chỉ huy gồm có hàng không mẫu hạm nhỏ Shoho, bốn thiết giáp hạm và một khu trục hạm. Lực lượng thứ hai do phó đô đốc Takagi chỉ huy có hai hàng không mẫu hạm lớn là Zuikaku và Shokaku, và sáu khu trục hạm.

        Nhờ tin tức tình báo, đô đốc Nimitz, tư lệnh lực lượng Mỹ tại Thái Bình Dương, biết trước được kế hoạch tấn công khu vực Biển San Hô của Nhật. Nimitz lập tức ra lệnh cho đô đốc Fletcher và hàng không mẫu hạm Yorktown đang hoạt động tại nam Thái Bình Dương phải rút lui về Tongabatu để lấy thêm tiếp tế và sẽ gặp lực lượng của phó đô đốc Fitch và mẫu hạm Lexington tại Biển San Hô để ngăn chặn bước tiến của Nhật. Ngày 4-5 đô đốc Grace của Anh Quốc cùng ba chiến hạm cũng tiến vào vùng Biển San Hô để trợ giúp lực lượng Mỹ. Ðô đốc Grace được xung vào lực lượng xung kích 44, dưới quyền của đô đốc Fletcher. Chính trong trận đánh Biển San Hô, đô đốc Grace của hải quân hoàng gia Anh quốc đã trổ tài điều khiển chiến hạm tránh thủy lôi của hải quân Nhật Bản một cách tài tình xuất chúng, vô hiệu hóa rất nhiều đợt tấn công của phi cơ phóng thủy lôi Nhật.

        Fletcher đưa mẫu hạm Yorktown hờm sẵn tại hành lang Jomard, chờ đợi hải quân Nhật đi qua để tấn công, vì ông biết rằng muốn tấn công hải cảng Morseby, hải quân Nhật phải đi qua hành lang này. Tuy đọc được mật mã của Nhật, nhưng đô đốc Nimitz cũng lo ngại không biết lực lượng nhỏ bé của Mỹ có thể đánh bại được lực lượng tấn công hùng hậu của Nhật hay không.

        Về phía Nhật Bản, Inouye thành lập bốn lực lượng xung kích khác nhau. Phó đô đốc Shima chỉ huy lực lượng tấn công Tulagi; phó đô đốc Marushige hành quân tại quần đảo Louisiade; phó đô đốc Kajoka chỉ huy lực lượng tấn công Morseby, và phó đô đốc Goto chỉ huy không lực trên các mẫu hạm. Các tư lệnh Nhật Bản rất lạc quan vì tưởng rằng hải quân Mỹ chỉ có một mẫu hạm trong vùng.

        Cuộc đổ bộ vào Tulagi của phó đô đốc Shima ngày 3-5 là một chiến thắng ngoạn mục, đúng theo kế hoạch. Ngày hôm sau lực lượng tấn công hải cảng Morseby bắt đầu di chuyển, có một chiến hạm nhẹ và sáu khu trục hạm yểm trợ. Tuy nhiên ngay khi cuộc tiến quân của Nhật vừa bắt đầu thì các hàng không mẫu hạm của Mỹ mở một cuộc tấn công ác liệt vào các địa điểm đổ bộ tại Tulagi, và phá hủy được một số tầu chiến của Nhật. Ðiều này cảnh cáo cho lực lượng Nhật biết lực lượng hải quân xung kích của Mỹ đang hiện diện trong vùng. Lực lượng của phó đô đốc Takagi đang ở phía bắc quần đảo Solomons, được lệnh phải tiến gấp rút tới nghênh địch. Lực lượng Nhật có nhiệm vụ tiến chiếm hải cảng Morseby vẫn tiếp tục cuộc hành quân và được lực lượng của phó đô đốc Goto bảo vệ.

        Vào sáng ngày 6-5, các chiến hạm của Takagi đã tới phía đông nam của quần đảo Solomons, và tiến vào Biển San Hô, nhưng mãi ngày hôm sau Takagi mới đụng độ với hải quân Mỹ. Vào lúc hừng sáng ngày 7-5, những phi cơ tuần thám của Nhật bốc lên từ hàng không mẫu hạm tỏa ra tìm địch. Chỉ một lát sau, một phi cơ do thám cấp báo về đã tìm thấy lực lượng xung kích hải quân Mỹ, gồm có cả một hàng không mẫu hạm, tại một địa điểm khoảng 160 dặm về phía nam của vị trí Nhật. Toàn thể lực lượng tấn công của Nhật trên hai chiếc Zuikaku và Shokaku, gồm có 78 oanh tạc cơ, phi cơ phóng thủy lôi và chiến đấu cơ lập tức cất cánh tiến về phía vị trí hải quân Mỹ. Nhưng khi tới vị trí địch quân đã được báo cáo, các phi công Nhật chỉ thấy một tầu chở dầu có một khu trục hạm bảo vệ. Hai chiếc tầu này lập tức trở thành mục tiêu của một cuộc tấn công ác liệt. Cả hai chiếc tầu, chiếc Neosho chở dầu và chiếc khu trục hạm Sims đều bốc cháy và chìm.

        Ngay khi lực lượng tấn công Nhật bay đi để đánh vào một mục tiêu sai lầm thì đề đốc Hara, tư lệnh không lực tại các mẫu hạm Nhật, nhận được báo cáo mới, cải chính địa điểm của hải quân Mỹ đã báo cáo là một nhầm lẫn. Ðúng ra lực lượng xung kích của hải quân Mỹ hiện đang ở về phía đông nam trong quần đảo Louisiade. Tuy nhiên lúc đó đã quá trễ để ra lệnh cho phi đội tấn công của Nhật đổi hướng và Nhật đã bỏ lỡ một cơ hội vô cùng quý giá đánh địch quân một cú bất ngờ.

        Sự nhầm lẫn này là một thất bại đắt giá cho hải quân Nhật. Trong khi lực lượng Nhật tung ra đánh hai chiếc Neosho và Sims, hai mục tiêu tương đối không có giá trị bao nhiêu, thì lực lượng không quân Mỹ đã tấn công vào những mục tiêu Nhật đáng kể hơn nhiều. Phó đô đốc Inouye đã ra lệnh cho lực lượng tiến chiếm hải cảng Morseby tạm rút lui về hướng bắc cho đến khi hiểm họa bị hàng không mẫu hạm địch tấn công không còn nữa. Trong lúc lệnh của Inouye được thi hành thì đúng 11 giờ sáng ngày 7-5, các phi cơ oanh tạc và phóng thủy lôi của Mỹ khám phá ra lực lượng Nhật yểm trợ quân tấn công hải cảng Morseby. Các phi công Mỹ tung ra một cuộc tấn công vô cùng ác liệt, tập trung tất cả hỏa lực vào chiếc mẫu hạm Shoho. Chỉ sau năm phút tấn công, mẫu hạm Shoho của Nhật bốc cháy và chìm vào lúc 11:35. Ðây là một tổn thất khá lớn cho hải quân Nhật.

        Vào lúc các phi cơ của Nhật trên hai chiếc Zuikaku và Shokaku bắt đầu bốc lên để giao chiến với phi cơ Mỹ thì lúc đó đã muộn quá, và trời gần tối rồi. Ðề đốc Hara cảm thấy rằng nếu tung hết lực lượng tấn công hàng không mẫu hạm Mỹ lúc đó thì quá nguy hiểm, vì phi công Nhật sẽ phải tìm đường về mẫu hạm và hạ cánh trong đêm tối. Tuy nhiên đề đốc Hara vẫn ước muốn phải tấn công địch càng sớm càng tốt, và ông quyết định tung ra một phần lực lượng không quân của ông vào cuộc tấn công vào lúc chập tối. Hara chỉ chọn những phi công đã được huấn luyện đánh đêm vào cuộc tấn công này.

        Ðúng vào lúc 4:30, một lực lượng 27 oanh tạc cơ và phi cơ phóng thủy lôi Nhật cất cánh, nhắm hướng vị trí của lực lượng hải quân xung kích Mỹ. Ðoàn phi cơ Nhật này tiếc thay không tìm thấy hàng không mẫu hạm Mỹ, mà chỉ gặp một toán phi cơ Mỹ đang bay tuần tiễu. Thế là một cuộc không chiến xảy ra. Bên Nhật có một vài phi cơ bị hạ, nhưng phần lớn các phi cơ còn lại đã dùng hết hỏa lực vào cuộc không chiến. Số phi cơ còn lại của Nhật trên đưởng về bắt gặp hàng không mẫu hạm Yorktown của Mỹ, nhưng các phi cơ này đã xử dụng hết hỏa lực trong cuộc không chiến, nên không thể mở được cuộc tấn công mẫu hạm Mỹ. Một số phi công Nhật tưởng mẫu hạm Yorktown là mẫu hạm nhà nên đáp xuống, rồi lại vội vàng thụt lui bay lên khi nhận ra sự lầm lẫn. Trong số 27 phi cơ Nhật được lệnh đánh đêm, chỉ có sáu phi cơ bay về mẫu hạm còn nguyên vẹn. Những chiếc còn lại hoặc bị mất tích vì lạc trong đêm tối, hoặc bị tổn thất phải sửa chữa.

        Trước lúc bình minh sáng ngày hôm sau, lực lượng của phó đô đốc Takagi lại tung phi cơ do thám để tìm mẫu hạm Mỹ. Vào lúc 8 giờ 24, các phi cơ do thám Nhật báo hiệu về trông thấy một hàng không mẫu hạm Mỹ tại tọa độ 205, cách xa lực lượng Nhật 235 hải lý. Các phi cơ do thám mô tả địch quân có hai hàng không mẫu hạm và một chiến hạm lớn. Hai hàng không mẫu hạm Zuikaku và Shokaku tung ngay ra một đợt tấn công mãnh liệt nhất, gồm tất cả 70 phi cơ oanh tạc và phóng thủy lôi. Vào lúc 11 giờ 20 thì đoàn phi cơ tấn công Nhật bay tới mục tiêu và bắt đầu cuộc tấn công, trong lúc đó hỏa lực phòng không trên các mẫu hạm và chiến hạm Mỹ bắn lên dữ dội.

        Cuộc tấn công của các phi cơ Nhật tỏ ra rất hữu hiệu. Những báo cáo của các phi công Nhật tốt đẹp đến nỗi phó đô đốc Takagi và đề đốc Hara cũng phải nghi ngờ. Theo báo cáo của các phi công Nhật thì hai chiếc mẫu hạm Lexington và Yorktown bị đánh chìm, còn chiếc chiến hạm Mỹ bị tổn thất nặng nề. Nhưng về sau người ta được biết chiếc mẫu hạm Lexington không bị phi cơ Nhật đánh chìm, chỉ bị tổn thất nặng đến nỗi hải quân Mỹ phải bỏ và dùng thủy lôi đánh chìm. Còn chiếc Yorktown thì trong suốt cuộc tấn công của phi cơ Nhật chỉ bị trúng một vài trái bom. Tuy những trái bom của Nhật đã gây những tổn thất nặng nề, nhưng mẫu hạm Yorktown vẫn còn dùng được.

        Trong lúc đó thì lực lượng xung kích của Takagi cũng bị phi cơ Mỹ tấn công. Các phi cơ Mỹ tiến tới tấn công lực lượng của Takagi đúng lúc các phi cơ Nhật vừa cất cánh đi tấn công hai chiếc Lexington và Yorktown. Ðúng 10 giờ 50, các phi cơ Mỹ tiến tới các mẫu hạm của Takagi, và tung hoành tấn công cho mãi tới 12 giờ 20. Mẫu hạm Zuikaku may mắn trốn thoát được cuộc tấn công bằng cách chạy vào ẩn nấp trong một vùng mưa rào và phi cơ Mỹ không tìm thấy. Chiếc Shokaku nằm lại, lãnh đủ trận thịnh nộ của các phi cơ Mỹ. Trong suốt 1 giờ 30 phút tấn công, các phi cơ Mỹ đã loại chiếc Shokaku ra khỏi vòng chiến. Chiếc Zuikaku còn lại phải chứa tất cả phi cơ của hai mẫu hạm.

        Làn sóng của chiến trận dường như nghiêng thắng lợi về phía Nhật Bản, vì mặc dầu bị mất mẫu hạm Shoho và mẫu hạm Shokaku bị tổn thất nặng nề, nhưng mẫu hạm Zuikaku vẫn còn nguyên vẹn trong khi đó cả hai mẫu hạm của Mỹ được coi như đã bị loại. Những sự kiện này tạo ra một cơ hội tốt đẹp nhất cho lực lượng xung kích của Takagi, tiếp tục cuộc tấn công và hoàn tất việc tiêu diệt hải quân Mỹ trong trận đánh. Nhưng vào lúc 5 giờ chiều ngày 8-5, phó đô đốc Inouye bất thần ra lệnh lực lượng xung kích phải ngưng cuộc tấn công, và rút lui khỏi vùng chiến trường. Tiếp theo đó là lệnh đình hoãn kế hoạch tiến chiếm hải cảng Morseby và các toán hải quân hỗ trợ việc tiến chiếm hải cảng Morseby phải quay trở về căn cứ tại Rabaul.

        Phó đô đốc Inouye phải ra lệnh tạm hoãn cuộc tấn công là vì ông ước tính rằng mặc dù Nhật đã đè bẹp lực lượng mẫu hạm của Mỹ, nhưng sức mạnh của Nhật còn lại không đủ để bảo vệ lực lượng đổ bộ vào hải cảng Morseby.

        Khi báo cáo lệnh lui quân của phó đô đốc Inouye về tới bộ tư lệnh hải quân tối cao thì đô đốc Yamamoto vô cùng bất mãn trước sự thất bại của Inouye, không khai thác được lợi điểm trong trận đánh hạ được mẫu hạm địch buổi sáng hôm đó. Yamamoto gửi ngay cho Inouye, tư lệnh đệ tứ hạm đội, một điện tín bằng những lời lẽ rất cứng rắn, yêu cầu Inouye phải dùng mọi nỗ lực để tiêu diệt hoàn toàn hải lực còn lại của địch quân. Phó đô đốc Takagi cũng được lệnh phải tiến về hướng nam và phải tìm cho ra lực lượng hải quân của Mỹ để tiêu diệt. Nhưng lực lượng của Takagi cố gắng tìm kiếm thêm hai ngày nữa, nhưng vô hiệu quả, và đành phải rút lui khỏi vùng Biển San Hô vào đêm 10-5.

        Các tổn thất của Nhật trong trận đánh Biển San Hô gồm có mẫu hạm hạng nhẹ Shoho, một khu trục hạm Kikuzuki, ba tầu nhỏ, mẫu hạm Shokaku, và 77 phi cơ bị bắn hạ, và khoảng 1,074 binh sĩ tử trận hoặc bị thương. Phần thiệt hại của hải quân Mỹ gồm có mẫu hạm Lexington, chiếc tầu chở dầu Neosho, chiếc khu trục hạm Sims, mẫu hạm Yorktown bị hư hại, 66 phi cơ bị rơi, và 543 binh sĩ tử trận hoặc bị thương. Như vậy trận đánh Biển San Hô không phải là một chiến thắng của Nhật Bản. Chính phủ Nhật rầm rộ công bố chiến thắng Biển San Hô để gây phấn khởi cho binh sĩ và quần chúng. Ðúng ra Nhật Bản tưởng lầm đã đánh chìm được cả mẫu hạm Yorktown.

        Bộ tư lệnh tối cao Nhật Bản đành phải hoãn vô hạn định kế hoạch tiến chiếm hải cảng Morseby, và ra lệnh cho lực lượng hải quân trong trận đánh Biển San Hô phải quay về căn cứ, để sửa soạn cho một trận tấn công quan trọng hơn tại quần đảo Midway sắp tới. Ngày 17-5 chiếc mẫu hạm Shokaku về tới căn cứ Kure và được coi là một mẫu hạm bị tổn thất nặng nề nhất kể từ khi chiến tranh bùng nổ. Các chuyên gia về hải chiến kinh ngạc nhận ra nhược điểm của các mẫu hạm, khi thấy một mẫu hạm lớn như chiếc Shokaku chỉ bị trúng có ba trái bom mà đã bị loại ra khỏi vòng chiến. Ngoài ra các tổn thất trên chiếc Shokaku nặng nề đến nỗi phải mất ít nhất một tháng mới sửa chữa xong. Chính vì thế, mẫu hạm Shokaku không được tham dự vào trận thủy chiến Midway.

        Vài ngày sau đó, mẫu hạm Zuikaku cũng trở về đến căn cứ. Tuy chiếc Zuikaku không bị tổn thất, nhưng số phi cơ và phi công trực thuộc chiếc Zuikaku bị loại quá nhiều trong trận đánh Biển San Hô, nên mẫu hạm Zuikaku cũng không đủ sức mạnh để tham dự cuộc hành quân tại Midway. Sức mạnh của một hàng không mẫu hạm là số phi cơ và phi công quen thuộc xử dụng mẫu hạm ấy. Dù người ta tăng cường nhân viên phi hành và phi cơ mới cho chiếc mẫu hạm Zuikaku thì người ta cũng không đủ thời giờ huấn luyện thuần thục cho kịp với thời điểm đô đốc Nagumo xuất quân tiến đánh đảo Midway. Như vậy "chiến thắng" tại Biển San Hô của Nhật đã có những hậu quả rất tai hại cho chiến dịch Midway, một chiến dịch then chốt quyết định sự thắng bại của Nhật Bản trong đệ nhị thế chiến. Thiếu hai mẫu hạm Zuikaku và Shokaku thì lực lượng tấn công của đô đốc Nagumo mất đi một phần ba của sức mạnh không lực, một tỷ lệ rất cần thiết để chiến thắng.

        Tuy nhiên sự thiếu hụt hai mẫu hạm Zuikaku và Shokaku không làm giảm sự lạc quan của bộ tư lệnh hải quân Nhật. Ðô đốc Nagumo vẫn tin tưởng rằng hai mẫu hạm Lexington và Yorktown của Mỹ đã bị đánh chìm rồi thì sự thiếu hai mẫu hạm Zuikaku và Shokaku không quan trọng lắm, và tin tưởng rằng xét về tương quan lực lượng thì chiến thắng vẫn nghiêng về phía Nhật Bản. Nagumo vẫn có trong tay bốn mẫu hạm Akagi, Kaga, Soryu và Hiryu, và hết sức tin tưởng sức mạnh của hải quân Nhật sẽ đè bẹp địch quân. Ngay cả bộ tham mưu hải quân Nhật trước kia chống lại sự liều lĩnh tấn công đảo Midway, nay cũng tỏ ra rất lạc quan.

        Dĩ nhiên các toan tính này của hải quân Nhật đã tỏ ra sai lầm. Chiếc Yorktown không bị chìm tại Biển San Hô, và cũng không bị thương nặng đến nỗi không tham dự trận đánh Midway được. Sau trận đánh Biển San Hô, chiếc Yorktown đã vội vã chạy về căn cứ Hawaii, tại đây các toán chuyên viên hải quân Mỹ thay phiên nhau sửa chữa chiếc Yorktown 24 giờ một ngày. Trong hai ngày, chiếc Yorktown đã sẵn sàng ra khơi, và gia nhập lực lượng hải quân Mỹ tiến về vùng Midway để ngăn chặn hải quân Nhật.

        *
        * *

        Mỹ hay Nhật đã thắng tại Biển San Hô? Nhật đã tạo được một chiến thắng chiến thuật, nhưng bị một thất bại chiến lược. Mẫu hạm Lexington bị đánh chìm đáng giá hơn mẫu hạm nhỏ Shoho của Nhật. Nhưng về mặt khác, sự hư hại nhẹ của chiếc Yorktown không đáng kể so với những tổn thất của hai mẫu hạm Zuikaku và Shokaku, và hai mẫu hạm này không dùng được trong chiến dịch Midway quan trọng. Hơn nữa hải quân Mỹ đã ngăn chặn được mục tiêu chính yếu của Nhật Bản là chiếm hải cảng Morseby. Như vậy khi đã cân nhắc tất cả sự kiện thì trận đánh Biển San Hô là một chiến thắng của hải quân Mỹ.

        Người Mỹ đã học được nhiều bài học quý giá trong trận đánh Biển San Hô để áp dụng vào những trận hải chiến sau này. Ngoài ra trận đánh Biển San Hô cũng là một biến cố mới trong lịch sử hải quân. Lần đầu tiên, hai lực lượng hải quân thù địch không nhìn thấy nhau và không khai hỏa trực tiếp bắn hạ nhau. Trái lại đó chỉ là việc xử dụng không lực, thay thế cho những cỗ súng lớn có tầm hoạt động xa đặt trên các chiến hạm. Trận đánh này cũng là trận đầu tiên hải quân Mỹ chặn đứng được một loạt những chiến thắng liên tục của hải quân Nhật. Ðây cũng là trận hải chiến đầu tiên trong đó hàng không mẫu hạm đóng một vai trò chính yếu.

        Nhưng tại sao hải quân hùng mạnh của Nhật Bản chịu lép vế trong trận đánh Biển San Hô? Sau khi đệ nhị thế chiến chấm dứt, người ta mới được biết rằng người Mỹ đã đọc được những mật hiệu của hải quân Nhật Bản, và do đó biết trước được mọi di chuyển, toan tính và hoạt động của hải quân Nhật. Trong một lá thư gửi cho thống đốc Dewey của New York, tướng Marshall, tham mưu trưởng liên quân Mỹ, đã viết:

        "Trận đánh Biển San Hô đã được đặt căn bản trên sự giải thích mật mã của hải quân Nhật, do đó số chiến hạm ít ỏi của chúng ta đã được bố trí vào đúng chỗ và đúng lúc. Hơn nữa, chúng ta đã có thể tập trung lực lượng ít ỏi của chúng ta để chặn sự tiến quân của địch tại đảo Midway."

        "Các chiến dịch tại Thái Bình Dương phần lớn được hướng dẫn bởi tin tức mà chúng ta thâu thập được về các sự phối trí của hải quân Nhật. Chúng ta biết rõ được sức mạnh của họ tại mỗi căn cứ...chúng ta kiểm soát được được sự di chuyển hạm đội của họ...và chúng ta chỉ việc ra lệnh cho tiềm thủy đỉnh chờ sẵn tại địa điểm thuận lợi nhất để tấn công."

        Nhờ đọc được mật mã của hải quân Nhật mà đô đốc Nimitz đã chỉ định vị trí thuận lợi nhất cho mẫu hạm của đô đốc Fletcher trong trận đánh Biển San Hô. Các kế hoạch hành quân tuyệt luân của đô đốc Yamamoto đã trở thành vô hiệu chỉ vì không bảo mật được. Chính nhờ sự khám phá được mật mã của hải quân Nhật mà sau này người Mỹ biết được chuyến bay của đô đốc Yamamoto, giăng bẫy và ám sát được Yamamoto, chiến lược gia hải quân lừng danh nhất của Nhật Bản.
        #19
          Sun Ming 07.08.2009 02:53:17 (permalink)
          20. Trận Thủy Chiến MIDWAY

          Trong những tháng đầu của đệ nhị thế chiến tại Thái Bình Dương, hải quân Nhật tung hoành như chỗ không người, chinh phục hết đảo này đến đảo khác. Những chiến thắng dễ dàng ban đầu đưa Nhật Bản tới một lỗi lầm nghiêm trọng: Nhật Bản đã cắn quá nhiều hơn khả năng nhai và nuốt, và vì thế có thể bị tắc nghẹn. Người ta đã chứng kiến hàng loạt những chiến thắng của Nhật Bản: Trân Châu Cảng, Ðông Dương, Phi Luật Tân, Mã Lai Á, Tân Gia Ba, các quần đảo tại Thái Bình Dương, và các thuộc địa của Hòa Lan bị chinh phục mau chóng. Ngay hạm đội hùng mạnh của Hoàng gia Anh quốc cũng bị đuổi tới tận bờ biển Phi Châu. Quả thực Nhật Bản đã bá chủ Thái Bình Dương trong sáu tháng, như đô đốc Yamamoto đã tiên đoán.

          Tuy Nhật Bản có vẻ thắng thế, nhưng đô đốc Yamamoto rất lo ngại Ðông Kinh, nhất là Hoàng Cung của Nhật Hoàng có thể bị oanh tạc. Hàng ngày Yamamoto hỏi thăm đài khí tượng của Ðông Kinh và chỉ an tâm khi ngày nào có nhiều mây. Nhưng nỗi lo sợ của Yamamoto cũng đã xảy ra. Một phi đội Mỹ do trung tá Doolittle chỉ huy đã oanh tạc được Ðông Kinh, Nagoya, Kobe và Yokohama. Tuy cuộc oanh tạc của trung tá Doolittle không gây được tổn thất đáng kể, nhưng đối với Yamamoto thì đó là một sự sỉ nhục và ông càng tin rằng cần phải đánh hạ các hàng không mẫu hạm của Mỹ, và phải tiến hành chiến dịch chiếm đảo Midway.

          Các đô đốc Nagumo và Kondo của Nhật đều khẩn cầu xin hoãn lại cuộc hành quân Midway, vì lực lượng của họ đã quá mệt mỏi, cần phải được bồi dưỡng. Cả hai hạm đội đã liên tục hành quân từ tháng giêng: Kondo hành quân tại Ðông Ấn và Phi Luật Tân, còn Nagumo thì tham dự các trận đánh tại các quần đảo Solomons, Darwin, và cả hai đã liên kết đánh bại hải quân Anh tại Ấn Ðộ Dương.

          Những cuộc oanh tạc của Doolittle đã khiến Yamamoto quyết tâm tiến hành đúng theo kế hoạch đã ấn định trước. Nagumo thì cho rằng không cần thiết phải mở cuộc hành quân Midway ngay, và Kondo thì phản đối kế hoạch đánh chiếm đảo Midway. Yamamoto vẫn cương quyết phải ra quân ngay. Cuộc thất bại tại Biển San Hô không làm Yamamoto nao núng, bởi vì hải quân Nhật vẫn còn bốn mẫu hạm lớn. Nagumo và Kondo được lệnh phải sẵn sàng đưa hạm đội ra khơi vào cuối tháng năm.

          Vì tình báo Mỹ đọc được mật mã của hải quân Nhật, nên phía Mỹ đánh hơi biết hải quân Nhật đang sửa soạn cho một trận đánh lớn. Tất cả những tin tức đánh đi từ các bộ tư lệnh hải quân Nhật và các hạm đội đã được người Mỹ đọc và tìm hiểu cặn kẽ. Tuy nhiên mục tiêu của trận tấn công vẫn là một bí mật, vì người Nhật không gọi đích danh Midway, mà dùng mật hiệu AF thay thế. Ðô đốc Nimitz đoán rằng Midway sẽ là mục tiêu của hải quân Nhật trong khi tướng MacArthur và đô đốc King tin đó là quần đảo Solomons. Các tư lệnh Mỹ cần phải có bằng chứng rõ ràng về mục tiêu của Nhật để đồng ý một kế hoạch phản công. Nimitz làm một cuộc trắc nghiệm bằng cách ra lệnh cho Midway phải loan tin trên đài phát thanh rằng hệ thống lọc nước tại Midway đã bị hư. Hai ngày sau, Mỹ bắt được một tín hiệu của hải quân Nhật, báo tin có một sự thiếu nước ngọt tại AF. Như vậy bộ tư lệnh Mỹ đã biết trước được cuộc tấn công của hải quân Nhật vào Midway, và ngay từ đầu, đã nắm thế chủ động.

          Yamamoto soạn thảo một kế hoạch tấn công rất tinh vi, tung các hạm đội ra các vị trí tản mát, nhưng sẽ phải tới các địa điểm chỉ định thật đúng kế hoạch ấn định. Các mẫu hạm của Nagumo sẽ oanh tạc đảo Midway trước khi đổ bộ. Yamamoto sẽ hỗ trợ cho Nagumo từ đằng xa. Hạm đội của Kondo có một nhiệm vụ phức tạp hơn: ngay sau khi rời Nhật Bản, hạm đội của Kondo sẽ phải bắt tay với các lực lượng bổ túc từ các đảo Guam và Saipan. Khi hạm đội của Kondo tiến gần tới mục tiêu, lực lượng tuần dương hạm của đô đốc Kurita sẽ được tách ra để hỗ trợ cho cuộc đổ bộ.

          Dù đã có được bằng chứng rõ ràng hải quân Nhật sẽ tấn công Midway, nhiều tư lệnh Mỹ vẫn không chịu tin như vậy. Họ cho rằng hải quân Nhật đang đánh một đòn nghi binh để lừa hải quân Mỹ tiến về Midway trong khi mục tiêu thực sẽ là nơi khác. Tuy nhiên đô đốc Nimitz không còn nhiều thì giờ nữa, và nhất quyết bố trí lực lượng Mỹ đương đầu với hải quân Nhật tại Midway. Phía Mỹ không được phép sai lầm. Nếu lực lượng Mỹ trải ra để bảo vệ tất cả những nơi có thể là mục tiêu của hải quân Nhật thì sẽ không có một lực lượng đơn độc nào đủ sức chống lại hải quân Nhật. Nimitz đành phải chọn lá bài Midway.

          Lúc đó sức mạnh chính của hạm đội Mỹ là ba mẫu hạm Enterprise, Yorktown và Hornet. Nhưng chiếc Yorktown còn cần phải sửa chữa sau trận đánh Biển San Hô. Trong khi đó tình báo Mỹ đọc mật mã của Nhật còn biết Nhật cũng có kế hoạch đánh cả quần đảo Aleutians nữa. Nimitz liền phái đô đốc Theobold bảo vệ Aleutians. Nhờ đọc được mật mã của hải quân Nhật, Nimitz đã có thể đặt ra một kế hoạch phòng vệ khi được biết ngày 3-6 hải quân Nhật sẽ tấn công Aleutians và ngày 4-6 sẽ tấn công Midway. Nimitz nhận định rằng lực lượng bốn mẫu hạm của Nagumo là lực lượng chính yếu. Nếu loại được bốn mẫu hạm này thì kế hoạch tấn công của hải quân Nhật sẽ thất bại ngay.

          Ngày 27-5, các đô đốc Nagumo, Kondo, Hosogaya và Tanaka bắt đầu ra khơi. Ngày hôm sau Yamamoto thống lĩnh một lực lượng theo sau Nagumo khoảng 600 dặm để hỗ trợ cho Nagumo. Kể từ đó các đơn vị không còn liên lạc với nhau nữa, vì Yamamoto ra lệnh máy truyền tin phải hoàn toàn im lặng. Ðể có thể biết được ngay hoạt động của hải quân Mỹ, Yamamoto có hai kế hoạch. Kế hoạch thứ nhất gồm có một thủy phi cơ nằm tại French Frigate Schoals và hàng ngày dò thám bên trên không phận Trân Châu Cảng. Kế hoạch thứ hai thiết lập một (lúc?) hai hàng tiềm thủy đỉnh, một tại nơi thủy phi cơ hoạt động và một tại địa điểm giữa Midway và Hawaii, đúng ngay trên đường tiến quân của hải quân Mỹ.

          Kế hoạch của Yamamoto thực là khôn ngoan, nhưng đã có những trục trặc khi thi hành. Khi tiềm thủy đỉnh Nhật tới French Frigate Schoals, thì tiềm thủy đỉnh này thấy cả khu vực đang được thủy phi cơ Mỹ tuần thám. Tiềm thủy đỉnh Nhật liền báo cáo về bộ tư lệnh đừng phái thủy phi cơ tới nữa. Như vậy kế hoạch thứ nhất của Yamamoto bị hủy bỏ. Ðội tiềm thủy đỉnh thứ hai tiến tới vị trí nằm giữa Hawaii và Midway hơi trễ. Ngày 2-6 tiềm thủy đỉnh tới địa điểm chỉ định thì mẫu hạm Yorktown của Mỹ đã tiến qua địa điểm đó để tới Midway từ vài ngày trước rồi.

          Tuy nhiên ngày hôm sau, trên chiến hạm của Yamamoto, chuyên viên Nhật bắt được nhiều tín hiệu của hải quân Mỹ, và Yamamoto biết rằng lực lượng hải quân Mỹ đã ra khơi, tuy nhiên Yamamoto không thông báo cho Nagumo biết rằng địch quân đang hiện diện trong vùng. Yamamoto nghĩ rằng Nagumo chắc cũng biết như vậy. Không may các máy truyền tin của hạm đội Nagumo không mạnh bằng máy truyền tin của Yamamoto, nên Nagumo hoàn toàn không biết gì về sự xuất hiện của hạm đội Mỹ.

          Sau những sửa soạn cuối cùng, đô đốc Nimitz ngồi chờ sự động tĩnh của hải quân Nhật tại tổng hành dinh Trân Châu Cảng, và liên lạc trực tiếp với các tư lệnh hải và không quân Mỹ tại khắp Thái Bình Dương. Trong lúc đó Yamamoto xuất trận cùng với quân của mình và hoàn toàn cắt đứt liên lạc với các hạm đội khác của Nhật. Ðó là hai phong thái chỉ huy khác hẳn nhau giữa hai đối thủ tại Thái Bình Dương.

          Suốt đêm 2-6, hạm đội của Nagumo vẫn tiến trong sương mù dầy đặc. Chính nhờ sương mù, Nagumo đã có thể tiến gần mục tiêu mà không bị địch khám phá. Vì gần tới mục tiêu, Nagumo định ra lệnh chuyển hướng. Sáng sớm ngày 3-6, sương mù vẫn còn dầy đặc nên không thể ra lệnh chuyển hướng bằng cờ được. Nagumo quyết định dùng máy truyền tin ở tần số thấp, báo hiệu cho các chiến hạm thay đổi hường. May mắn cho Nagumo, chiến hạm tư lệnh Yamamoto bắt được tín hiệu của Nagumo, trong khi hạm đội Mỹ ở gần mà không biết gì.

          Cũng ngày hôm đó, lực lượng của các đô đốc Fletcher và Spruance tới phía đông bắc của Midway. Lợi điểm của Fletcher là biết được địch quân đang ở trong vùng, trong khi Nagumo vẫn không biết được sự hiện diện của hạm đội địch. Fletcher và Spruance quyết định hoạt động độc lập với nhau, và cả hai hạm đội tiến tới một vị trí cách Midway 200 dặm. Fletcher nghĩ rằng hạm đội Nhật sẽ tới Midway từ phía tây hoặc tây bắc, và như vậy các hạm đội Mỹ bố trí tại một nơi lý tưởng nhất để chờ hạm đội địch.

          Khoảng 6 giờ sáng ngày 3-6, phi cơ tuần tiễu của Mỹ trông thấy lực lượng đổ bộ của Tanaka tại một địa điểm 600 dặm về phía nam Midway và đang tiến từ từ về phía đông. Tanaka lập tức báo cho Yamamoto biết đã bị địch quân phát hiện. Tuy nhiên Yamamoto không báo cho Nagumo biết tin của Tanaka, vì tưởng rằng Nagumo cũng đã nhận được tin đó rồi. Nhưng Nagumo vẫn không biết gì, và đang tiến quân như một người mù lâm trận mà không biết rằng hạm đội Mỹ đang chờ đợi mình.

          Vì đã bị bại lộ nên đô đốc Tanaka biết rằng sớm muộn cũng sẽ trở thành mục tiêu của không quân Mỹ. Ngay chiều tối hôm đó, một đoàn B-17 của không lực Mỹ tiến tới, nhưng Tanaka đã khéo léo điều động các chiến hạm tránh thoát được các đợt oanh tạc của đoàn B-17. Tanaka biết rằng không lực Mỹ sẽ trở lại tấn công lực lượng đổ bộ của mình bằng mọi giá. Từ trước Tanaka vẫn phản đối chiến dịch Midway. Ðêm đó Tanaka càng bi quan hơn, và trải qua một đêm trằn trọc lo lắng trên chiến hạm Jintsu.

          Hai hạm đội đối địch nhau đang lần mò tìm nhau mà không biết được vị trí đích xác của nhau. Nagumo có vẻ lạc quan vì không biết những gì đang xảy ra chung quanh. Nagumo tưởng hạm đội Mỹ vẫn còn ở Hawaii. Ðô đốc Fletcher của Mỹ thì biết chắc rằng hạm đội Nhật đang tiến lại gần, và biết rõ chiến trường và số chiến hạm của địch, nhờ những tin tình báo chính xác của Mỹ. Tuy nhiên Fletcher vẫn chưa định được vị trí của hạm đội Nhật.

          Vào lúc 4 giờ sáng ngày 4-6, bốn mẫu hạm Nhật, Akagi, Kaga, Soryu và Hiryu, bắt đầu phóng các phi cơ dò thám để thăm dò tình hình. Vào đúng 4:45, Nagumo tung ra đợt tấn công đảo Midway đầu tiên, gồm có 36 oanh tạc cơ. Hai mẫu hạm của đô đốc Yamaguchi cũng nhập cuộc với 36 oanh tạc cơ nữa. Mỗi mẫu hạm phái thêm 9 chiến đấu cơ Zero để hộ vệ các oanh tạc cơ. Ðứng trên phòng quan sát, Nagumo có vẻ rất tin tưởng. Nagumo tin rằng mẫu hạm địch chỉ tới nơi khi cuộc đổ bộ của Nhật đã hoàn tất. Lúc đó Nagumo sẽ ở thế thượng phong đối với hải quân Mỹ. Khi các oanh tạc cơ Nhật tiến tới gần Midway thì bị một phi cơ tuần tiễu của Mỹ khám phá. Phi công Mỹ liền báo động về Midway. Lập tức các phi cơ Mỹ tại Midway cất cánh bay lên trước khi phi cơ Nhật tới. Các phi cơ Nhật trút bom xuống các cơ sở quân sự tại Midway, đặc biệt là căn cứ không quân. Nhưng các phi cơ Mỹ, mục tiêu chính yếu của cuộc tấn công, đã thoát hiểm. Sau ba mươi phút tấn công, các phi cơ Nhật đã tàn phá Midway nặng nề. Viên tự lệnh không đoàn tấn công của Nhật thất vọng không triệt hạ được một phi cơ địch nào, và đánh điện yêu cầu phải tấn công một đợt nữa.

          Nagumo do dự không biết có nên tấn công một đợt nữa không. Sự do dự và thay đổi ý kiến của Nagumo là một thất bại sinh tử của hạm đội Nhật. Trong lúc đó các phi cơ Mỹ từ Midway ào ào tới tấn công hạm đội Nhật. Nhờ sự điều động tài tình của các hạm trưởng Nhật, không một trái bom nào của Mỹ trúng đích. Trong lúc đó các phi cơ tuần thám của Nhật vẫn chưa phát hiện ra mẫu hạm của Mỹ.

          Ngày hôm sau các đô đốc Spruance và Fletcher tin tưởng là một ngày của họ. Mặt trời đỏ rực từ cuối chân trời báo hiệu một ngày lý tưởng cho các phi công Mỹ. Vào lúc 5:34, một phi cơ tuần thám trên đảo Midway trông thấy các mẫu hạm Nhật, nhưng không xác định được vị trí của các mẫu hạm này. Mười một phút sau, cũng chiếc phi cơ tuần thám này báo cáo một đoàn phi cơ Nhật đang tiến về đảo Midway, nhưng vẫn chưa xác định được vị trí của các mẫu hạm Nhật. Spruance rất nóng ruột, mong muốn tấn công hạm đội Nhật trước khi phi công Nhật có thể mở một cuộc tấn công đợt hai. Cuối cùng đúng 6 giờ sáng, phi cơ tuần thám của Mỹ báo cáo hai mẫu hạm Nhật và một số chiến hạm đang tiến tới Midway, khoảng 180 dặm về hướng tây bắc đảo Midway.

          Spruance ra lệnh cho các oanh tạc cơ sẵn sàng cất cánh. Spruance yêu cầu các mẫu hạm Enterprise và Hornet liên kết tấn công. Khi tìm thấy hạm đội Nhật thì các phi cơ Mỹ của các mẫu hạm Mỹ sẽ tấn công một cách độc lập. Ðúng lúc đó Spruance nhận được báo cáo phi cơ tuần tiễu của Nhật xuất hiện ở chân trời. Spruance quyết định phải bắt đầu cuộc tấn công ngay lập tức, nếu không sẽ bị phi cơ địch ra tay trước. Một giờ sau đó, Fletcher cũng tung ra một đợt tấn công thứ hai từ mẫu hạm Yorktown.

          Khoảng 8:30 thì các phi cơ Nhật tấn công Midway trở về. Vì Nagumo thay đổi mệnh lệnh nhiều quá nên có sự bừa bộn các loại vũ khí khác nhau trên mẫu hạm, và gây chậm trễ cho việc trang bị hỏa lực cho phi cơ Nhật. Trong lúc mẫu hạm Nhật vẫn tiến tới thì một phi đội 15 phi cơ phóng thủy lôi của Mỹ bay tới, và sửa soạn tấn công hạm đội Nhật, nhưng bị các chiến đấu cơ Zero của Nhật bắn hạ. Trong số 45 phi công và phi hành đoàn của Mỹ, chỉ một người sống sót.

          Ngay sau đó một phi đội phóng thủy lôi từ mẫu hạm Enterprise tiến tới và nhắm hai mẫu hạm Kaga và Akagi. Tuy nhiên toán phi cơ phóng thủy lôi thứ hai cũng chịu chung một số phận như phi đội trước của Mỹ. Hầu hết các phi cơ phóng thủy lôi của Mỹ bị các chiến đấu cơ Zero bắn hạ trước khi tập hợp thành đội hình để tấn công. Ðến đây thì Nagumo lo lắng lắm. Các phi cơ của Nhật trên các mẫu hạm vẫn chưa được trang bị xong hỏa lực và tiếp tế nhiên liệu, vì có sự hỗn loạn do các lệnh trái ngược nhau. Ðến 10 giờ thì một phi đội phi cơ phóng thủy lôi thứ ba từ mẫu hạm Yorktown bay tới. Một lần nữa, các phi cơ của Mỹ lại phải trả một giá rất đắt. Các chiến đấu cơ Zero của Nhật tỏa ra rất thấp để chặn đánh những phi cơ phóng thủy lôi của Mỹ.

          Tuy nhiên các hy sinh của ba toán phi cơ phóng thủy lôi của Mỹ không phải là vô ích. Vì phi cơ Zero của Nhật chỉ mải lo chống đỡ các phi cơ phóng thủy lôi của Mỹ nên không còn phi cơ Zero nào chặn đánh những phi cơ ném bom khác của Mỹ. Khi các oanh tạc cơ từ mẫu hạm Yorktown tiến tới thì không phận của các mẫu hạm Nhật bị bỏ ngỏ, và các chiến đấu cơ Zero của Nhật còn mải mê tìm kiếm các phi cơ phóng thủy lôi của Mỹ. Các oanh tạc cơ Mỹ nhào xuống ba mẫu hạm Kaga, Akagi và Soryu. Trong vài phút, cả ba mẫu hạm bốc cháy. Chiếc Kaga lãnh bốn trái bom và bị loại ngay khỏi vòng chiến. Chiếc Soryu biến thành một biển lửa. Mẫu hạm Akagi là soái hạm của Nagumo. Chiếc Akagi bị trúng hai trái bom ngay từ đầu, nhưng cú đánh chí tử là trái bom thứ ba trúng ngay đống thủy lôi còn đang nằm ngổn ngang trên sàn bay.

          Chỉ trong có mấy phút, hạm đội hùng mạnh của Nhật bị đánh gục và chỉ một mẫu hạm Hiryu trốn thoát được nhờ một trận mưa rào che khuất. Nagumo hoàn toàn tuyệt vọng, và định chết theo mẫu hạm Akagi. Nhưng các sĩ quan thuyết phục Nagumo còn có phận sự quan trọng hơn: lãnh đạo phần hạm đội còn sống sót. Cuối cùng Nagumo đồng ý chuyển sang tuần dương hạm Nagara.

          Trên chiếc mẫu hạm Enterprise, đô đốc Spruance lo lắng mong đợi tin chiến trường. Rồi từng đoàn oanh tạc cơ trở về, và Spruance biết được kết quả của một cuộc chiến thắng ngoạn mục, đánh chìm được ba mẫu hạm Nhật. Tuy nhiên hạm đội Nhật vẫn còn khả năng tấn công. Mẫu hạm Hiryu của đô đốc Yamaguchi còn nguyên vẹn và đúng 10:55, Yamaguchi tung ra một đợt tấn công đã sẵn sàng từ lâu. Một giờ sau các phi cơ Nhật tìm thấy mẫu hạm Yorktown của Mỹ. Spruance đang kiểm điểm tin tức của các phi công trở về trên chiếc Enterprise thì được tin chiếc Yorktown đang bị tấn công. Cả hai chiếc Enterprise và Hornet không sẵn sàng can thiệp hỗ trợ và chỉ biết nhìn mẫu hạm Yorktown bùng cháy.

          Yamaguchi tung ra một đợt tấn công thứ hai nữa, tìm kiếm mẫu hạm khác của Mỹ. Ðoàn phi cơ thứ hai lại đến tấn công chiếc Yorktown một lần nữa. Yamaguchi tràn trề hy vọng vì các phi công đợt thứ hai báo cáo họ tấn công một mẫu hạm khác, chứ không phải cùng một chiếc Yorktown đã bị tấn công từ trước. Yamaguchi tưởng rằng đã hạ được hai mẫu hạm Mỹ, và như thế trận chiến kể như ngang ngửa. Ðúng 4 giờ chiều, đô đốc Spruance ra lệnh cho phi cơ của hai mẫu hạm Mỹ đi lùng triệt hạ mẫu hạm còn lại của Nhật.

          Ðô đốc Tanaka nhận được báo cáo về sự tan rã của lực lượng mẫu hạm dưới quyền chỉ huy của Nagumo. Tanaka cũng nhận được lệnh phải tiến hành cuộc tấn công với lực lượng khu trục hạm của mình. Viên đô đốc này giận dữ đến cực điểm. Nếu hải quân Mỹ có sức mạnh hủy diệt được lực lượng hùng hậu của Nagumo thì lực lượng khu trục hạm của Tanaka làm sao có hy vọng hoàn thành được nhiệm vụ. Trong lúc đó Spruance quyết định phải diệt cho bằng được mẫu hạm cuối cùng của Nhật. Phi cơ tuần thám của Mỹ bủa ra khắp nơi để săn lùng chiếc Hiryu.

          Trên chiếc Hiryu, đô đốc Yamaguchi quyết định mở một cuộc tấn công nữa. Số phi cơ còn lại của Yamaguchi không nhiều lắm, nhưng ông vẫn nhất định hy sinh các phi cơ này để đạt chiến thắng. Tất cả phi cơ đang được chuẩn bị sẵn sàng, chờ đợi khi nào tìm thấy được mẫu hạm của Mỹ sẽ cất cánh. Nhưng trước khi các phi cơ của mẫu hạm Hiryu sẵn sàng cất cánh thì phi cơ của Mỹ đã tới. Mẫu hạm Hiryu lãnh liên tiếp bốn trái bom và mẫu hạm chìm xuống một biển lửa, và mộng chiến thắng của Yamaguchi cũng tan thành mây khói. Yamaguchi can trường ở lại chết theo mẫu hạm Hiryu. Ông nhắn nhủ các thủy thủ còn ở lại:

          "Với tư cách là sĩ quan chỉ huy mẫu hạm này, chỉ mình tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về hai mẫu hạm Hiryu và Soryu. Tôi sẽ ở lại với mẫu hạm này cho tới cùng. Tôi ra lệnh cho các bạn phải rời khỏi mẫu hạm và tiếp tục phụng sự Nhật Hoàng một cách trung thành."

          Ngay khi nhận được tin mẫu hạm Hiryu bị mất, đô đốc Yamamoto vẫn tiếp tục cuộc tấn công. Nhưng cuối cùng ông nhận rõ tình thế tuyệt vọng, và đúng 3 giờ sáng ngày hôm sau, ông ra lệnh rút lui. Ðô đốc Spruance quyết định đuổi theo hủy diệt hạm đội địch đang tháo chạy. Nhưng cuối cùng Spruance phải bãi bỏ cuộc truy kích. Nhiều người chỉ trích Spruance đã chấm dứt việc truy kích lực lượng rút lui của Nhật, nhưng quyết định của Spruance thật ra rất khôn ngoan, vì đô đốc Yamamoto vẫn còn một lực lượng khá hùng mạnh, có thể lừa Spruance vào bẫy, và đảo ngược được chiến thắng của Mỹ.

          Ðô đốc Nagumo đứng trên chiến hạm Nagara, im lặng nhìn hạm đội mẫu hạm hùng mạnh của mình chìm dần. Kết quả chiến dịch Midway thực là thê thảm cho hải quân Nhật. Xương sống của hải quân Nhật đã bị đánh gẫy. Không phải chỉ có bốn mẫu hạm vô giá mất đi, mà còn mất theo rất nhiều phi công thiện chiến nhiều kinh nghiệm chiến đấu. Ðây là những mất mát không thể nào thay thế được.

          Các chuyên gia hải quân gọi trận thủy chiến Midway là một khúc rẽ của toàn thể cuộc chiến tại Thái Bình Dương. Các lực lượng mẫu hạm đáng sợ của Nhật Bản không còn tự do vẫy vùng tại Thái Bình Dương, tạo ra những chết chóc và những tàn phá kinh hồn nữa. Hải quân Nhật không có khả năng phục hồi lại sau thất bại chí tử này.

          Ai có lỗi trong trận thủy chiến Midway? Chắc chắn đô đốc Nagumo phải gánh chịu phần lớn trách nhiệm. Sự lưỡng lự của Nagumo vào giờ phút nghiêm trọng nhất là yếu tố chính đưa tới thất trận ngày 4-6-1942. Tuy nhiên vẫn có những yếu tố giảm khinh.

          Nagumo tiến tới Midway mà không biết gì đang xảy ra chung quanh, như một người mù. Hạm đội của Nagumo không nhận được một báo cáo nào về sự hiện diện của hạm đội Mỹ. Ðúng ra sự thiếu thốn tin tức tình báo đã cho Nagumo cái cảm tưởng rằng không có hạm đội Mỹ tại Midway. Chính vì thế Nagumo không biết được rằng toàn bộ kế hoạch tấn công Midway đã bị tiết lộ, và ông thản nhiên tiến vào một số phận đang chờ đợi ông.

          Một yếu tố quan trọng khác đưa tới kết quả của trận đánh là sự phân chia của hạm đội Nhật. Dĩ nhiên Nagumo không có quyền gì trong việc này. Yamamoto có một hạm đội hùng mạnh thì đứng xa trận chiến tới 600 dặm. Bốn mẫu hạm nhỏ khác được phân tán cho các lực lượng tấn công ở những nơi khác. Nếu bốn mẫu hạm nhỏ này trực thuộc Nagumo thành một lực lượng xung kích mạnh mẽ thì cán cân chiến thắng có thể nghiêng về phía khác.

          Trận thủy chiến Midway quả thực là một chiến thắng vô cùng to lớn và quan trọng cho hải quân Mỹ. Từ trận đánh này, người Mỹ bắt đầu hứng khởi tin tưởng có thể ngăn chặn được sự bành trướng của Nhật Bản tại mặt đông, và có thể phục hồi lại được sức mạnh của hải quân Mỹ tại Thái Bình Dương. Chiến thắng Midway cũng loại bỏ được mối đe dọa của Nhật vào Hawaii và bờ biển phía tây của Hoa Kỳ. Trận thủy chiến Midway chính là một khúc quanh quan trọng của đệ nhị thế chiến.
          #20
            Sun Ming 07.08.2009 03:08:12 (permalink)
            21. Rồng Thiêng Khi Ðã Sa Cơ

            Sau chiến thắng ngoạn mục tại Trân châu cảng và đánh bại hải quân Anh tại Tân Gia Ba, hải quân Nhật thực sự đã làm chủ Thái Bình Dương một thời gian, cho mãi tới các thất bại tại quần đảo Midway và cuộc rút lui tại Guadacanal. Tuy nhiên hai thất bại này không làm suy giảm niềm tin của hải quân Nhật và dân chúng Nhật vào sự lãnh đạo của Yamamoto. Các chiến dịch và kế hoạch hành quân của đô đốc Yamamoto là những kế hoạch của một thiên tài quân sự, nhưng khi thi hành đều không đem lại kết quả như ý muốn, chính là vì hải quân Mỹ đã đọc được mật mã của hải quân Nhật, biết trước mọi đường đi nước bước của hải quân Nhật. Sự thất bại của của hải quân Nhật là điều không thể tránh khỏi.

            Sau những thất bại kể trên, Yamamoto biết rằng dù hải quân vẫn rất trung thành với mình, nhưng binh sĩ của ông đã không còn tự tin như trước nữa. Các mẫu hạm bị đánh chìm trong trận Midway và cuộc rút lui tại Guadacanal là những đòn quá mạnh giáng vào tinh thần chiến đấu của hải quân Nhật, và hải quân Nhật không còn nghĩ rằng họ là một quân đội bất bại nữa. Yamamoto thấy cần phải làm một loạt thăm viếng các tiền đồn hải quân xa nhất, để gây lại niềm tin và tinh thần chiến đấu của những binh sĩ chưa hết bàng hoàng về những thất trận quan trọng vừa qua. Yamamoto vẫn giữ được hình ảnh một anh hùng quốc gia, và được hải quân tôn thờ như đô đốc Togo trước kia vậy.

            Yamamoto nghĩ rằng sự hiện diện của mình cùng những bài diễn văn khích lệ có thể biến đổi sự ngã lòng của binh sĩ thành một niềm tin vào chiến thắng cuối cùng nhất định đạt được. Thế là Yamamoto lên đường làm những cuộc viếng thăm tại khắp vùng nam Thái Bình Dương, và đã gặt hái được nhiều kết quả mong đợi. Tại bất cứ đâu, trong cái hơi nóng ẩm thấp của miền nhiệt đới, người anh hùng quốc gia Yamamoto, lúc nào cũng nghiêm chỉnh trong bộ binh phục mầu trắng rất thẳng nếp, đã thành công truyền cái bầu nhiệt huyết của ông vào từng sĩ quan và binh sĩ dưới quyền. Tại đâu ông cũng nhấn mạnh với họ rằng sẽ còn nhiều trận hải chiến dữ dội nữa và chiến thắng hay chiến bại của Nhật đều tùy thuộc vào sự chiến đấu của hải quân Nhật.

            Yamamoto rất muốn thảo luận với tướng Hyakutake, người đã chỉ huy quân đoàn 17 của Nhật trong trận đánh Guadacanal. Yamamoto dự định ngày 18-4 sẽ bay tới Rabaul để gặp Hyakutake, và sau đó bay tới Buin để thanh tra các căn cứ hải quân tiền tuyến. Ðêm 17-4, Yamamoto sẽ nghỉ tại Rabaul và ngày hôm sau sẽ bay từ Buin tới căn cứ hải quân tại Truk, tại đây soái hạm Musashi của ông đang bỏ neo.

            Phạm vi thanh tra của Yamamoto nằm trong tầm hoạt động của phi cơ Mỹ, vì thế chương trình viếng thăm của ông được giữ cực kỳ bí mật. Các cố vấn của ông lần đầu tiên phải khuyên ông không nên mặc bộ binh phục mầu trắng thường lệ của ông nữa, để tránh sự khám phá của các phi công Mỹ. Yamamoto đồng ý và mặc một bộ binh phục ka-ki mầu xám thay thế.

            Yamamoto sẽ rời Rabaul vào lúc 6 giờ sáng ngày 18-4 trên chiếc oanh tạc cơ loại Mitsubishi Betty. Ði theo ông trong một chiếc oanh tạc cơ thứ hai là đô đốc Ukagi, tham mưu trưởng của ông. Yamamoto chủ trương tư lệnh và tham mưu trưởng phải di chuyển trong hai phi cơ khác nhau, để nếu người này gặp nạn thì còn lại người kia. Hai phi cơ này được một đoàn sáu chiến đấu cơ loại Zekes hộ tống. Những tín hiệu về cuộc viếng thăm của ông đã được đánh đi trước tới các căn cứ ông sẽ thăm viếng.

            Căn cứ truyền tin gần nhất của Mỹ có nhiệm vụ bắt tín hiệu của Nhật nằm an toàn trong một hang núi trong quần đảo Aleutians. Ngay bên trên bờ đá nhô ra biển là một cột truyền tin cao 100 thước. Ðúng lúc 6:36 sáng ngày 17-4, căn cứ truyền tin Mỹ nhận được tín hiệu về cuộc viếng thăm của Yamamoto. Tín hiệu này được chuyển ngay về Hoa Thịnh Ðốn để giải mật mã. Một toán chuyên viên mật mã nghiên cứu tín hiệu, và trong khoảng 5 tiếng đồng hồ, họ đã biết được tín hiệu nói gì. Ðây là một bản tin thường lệ báo các cho các tư lệnh Nhật trong vùng biết được thời gian và địa điểm của cuộc viếng thăm sắp tới của Yamamoto. Khi bản tin này được chuyển tới bộ trưởng hải quân Frank Knox, ông ta đọc sơ qua rồi bỏ đi ăn trưa.

            Trong lúc ăn trưa, Frank Knox chợt nhớ lại ngày xưa chiến tranh thắng hay bại thường chỉ là kết quả của cuộc giao đấu giữa hai viên tướng đối địch nhau. Lúc đó địch thủ đáng ghét nhất của Mỹ là đô đốc Yamamoto. Knox bắt đầu suy tính. Vì biết đích xác ngày mai tại một địa điểm và thời giờ đã biết trước, phi công Mỹ có thể bắn hạ phi cơ chở Yamamoto một cách dễ dàng. Yamamoto chính là người đặt kế hoạch tấn công Trân châu cảng, trong đó hai ngàn binh sĩ Mỹ thiệt mạng, chưa kể một phần lớn của hạm đội Thái Bình Dương đã bị tiêu diệt. Và còn biết bao binh sĩ Mỹ khác đã bỏ xác dưới đáy biển trong các trận đánh đẫm máu kế tiếp, cũng do chính Yamamoto điều khiển, như trận đánh Biển San Hô, trận đánh tại quần đảo Midway và gần đây nhất là trận đánh Guadacanal. Vậy thì đây là một cuộc trả thù xứng đáng nhất.

            Ngay sau khi ăn trưa xong, Knox trở về văn phòng và cho gọi tướng Arnold, tư lệnh không quân Mỹ. Arnold cũng rất hứng khởi với hy vọng bắn hạ được Yamamoto, và suy nghĩ cách thực hiện vụ ám sát này. Arnold và Knox nghiên cứu bản đồ và nhận thấy địa điểm tốt nhất để chặn phi cơ của Yamamoto là ngay khi phi cơ của Yamamoto tới gần đảo Bougainville. Ðây sẽ là một cuộc tấn công khá xa cho phi cơ Mỹ. Phi cơ Mỹ sẽ phải cất cánh tại phi trường Henderson tại Guadacanal, cách xa Bougainville khoảng 500 dặm. Không một phi cơ P.38 nào có thể bay tới một nơi xa như thế mà có thể quay trở lại được căn cứ, vì không đủ nhiên liệu.

            Nhưng cơ hội ám sát hãn hữu này không thể bỏ qua được. Arnold cho mời Charles Lindberg, một người đã từng bay qua Ðại Tây Dương một mình, và hiện là cố vấn cho những chuyến bay đường trường. Arnold cũng mời thêm Frank Meyer của hãng chế tạo phi cơ Lockheeds là hãng chế tạo phi cơ P.38. Tất cả ba người chăm chú nghiên cứu bản đồ và thảo luận về việc cho phi cơ mang thêm các thùng xăng trừ bị. Cả Lindberg và Meyer đều đồng ý rằng đây là một chuyến bay quá dài, nhưng không phải là không thực hiện được.

            Sau hai giờ bàn thảo chi tiết, tất cả đều đồng ý mở Chiến Dịch Trả Thù, một kế hoạch ám sát Yamamoto để trả thù cho trận Trân châu cảng. Knox gửi một tín hiệu cho tướng Kenney, tư lệnh Không lực Tây nam Thái Bình Dương tại Úc Ðại Lợi, yêu cầu Kenny khẩn cấp cung cấp các thùng xăng bay đường trường. Các tín hiệu lại tới tấp truyền đi giữa bộ tư lệnh của Kenney và bộ tư lệnh tại New Guinea. Ba giờ sau đó, bốn phi cơ loại Liberators cất cánh từ vịnh Milne, mang theo 18 thùng xăng, mỗi thùng chứa được 165 gallon, và 18 thùng xăng khác mỗi thùng chứa được 310 gallon. Phi cơ có thể liệng bỏ thùng xăng thứ hai sau khi đã dùng hết xăng.

            Knox gửi một tín hiệu thứ hai tới Guadacanal cho thiếu tá John Mitchell, chỉ huy phi đội 339, ra lệnh cho Mitchell và hai sĩ quan chỉ huy phi đội nữa là Besby Holmes và Thomas Lanphier phải tới trình diện ngay tại bộ tư lệnh. Lúc đó là 5 giờ chiều và chiếc xe díp chở ba sĩ quan này phóng như bay qua mưa và bùn lầy tới bộ tư lệnh đang tạm đóng trong một túp lều. Mitchell được trao cho một bức điện tín sau đây:

            "Hoa Thịnh Ðốn Tối Mật. Bộ trưởng hải quân gửi sĩ quan chỉ huy tại phi trường Henderson. Ðô đốc Yamamoto cùng với đô đốc tham mưu và bảy tướng Nhật khác đã rời Truk sáng nay để thanh tra căn cứ Bougainville. Yamamoto và phái đoàn di chuyển trong hai chiếc Betty và có 6 chiếc Zekes hộ tống. Có thể có thêm phi cơ hộ tống theo nghi lễ danh dự từ Kahili. Yamamoto tới Rabaul vào lúc 16:00 và nghỉ đêm tại đó. Sáng sớm sẽ rời đi Kahili và tới nơi khoảng 9:45. Sau đó Yamamoto sẽ lên chiếc tiềm thủy đỉnh để thanh tra các đơn vị hải quân của đô đốc Tanaka."

            "Sáng ngày 18-4, phi đội 339 có các phi cơ P.38 phải bay tới và tiêu diệt Yamamoto và đoàn tùy tùng bằng mọi giá. Các thùng xăng trừ bị sẽ từ Port Morseby tới nơi vào chiều ngày 17. Tin tình báo cho biết Yamamoto cực kỳ đúng giờ. Tổng thống coi cuộc hành quân này cực kỳ quan trọng. Thông báo kết quả ngay tức khắc về Hoa Thịnh Ðốn.

            Frank Knox bộ trưởng hải quân.

            Tài liệu tối mật này không được sao chép lại và cũng không được lưu giữ; mà phải tiêu hủy ngay sau khi hoàn thành nhiệm vụ."

            Mitchell gật đầu đồng ý, rồi cả ba sĩ quan được giao phó trọng trách này ngồi xuống, bàn thảo cách thi hành cuộc hành quân. Họ phải đương đầu với một số khó khăn. Họ dự định mở cuộc tấn công tại một điểm cách 30 dặm về phía đông phi trường Kahili. Nhưng nếu Yamamoto đúng giờ như thói thường của ông thì phi cơ tấn công Mỹ phải có mặt tại địa điểm đúng 9:35. Họ không biết tầm cao của phi cơ chở Yamamoto. Ðiều này rất quan trọng nếu muốn giữ được yếu tố bất ngờ. Họ lý luận rằng hai chiếc phi cơ Betty chở Yamamoto và đoàn tùy tùng không bay cao quá 10 ngàn bộ, bởi vì nếu bay cao quá thì Yamamoto và đoàn tùy tùng sẽ phải bắt buộc xử dụng mặt nạ dưỡng khí.

            Mitchell quyết định sẽ dẫn đầu một toán 12 chiếc P.38 bay ở độ cao 20 ngàn bộ, để bảo vệ phía bên trên cho các phi cơ khác bay bên dưới, ở độ cao 11 ngàn bộ. Toán phi cơ bay bên dưới có nhiệm vụ ngăn chặn hai chiếc phi cơ chở Yamamoto và đoàn tùy tùng. Tất cả hai toán sẽ phải cất cánh đúng 7:20 sáng để bảo đảm họ sẽ tới gần phi trường Kahili đúng hai giờ và 15 phút sau đó. Ðến 9 giờ tối hôm đó thì bốn chiếc Liberators đem tới những thùng xăng dự trữ đặc biệt, dùng cho phi vụ xa xôi đó.

            Mãi sáng sớm hôm sau, việc gắn các thùng xăng đặc biệt vào các phi cơ mới hoàn tất. Sau bữa điểm tâm sơ sài, Mitchell dẫn các phi đội ra trước 18 chiếc P.38 đã sẵn sàng trên phi đạo, hai bên cánh mỗi chiếc P.38 đều mang theo những thùng xăng dự trữ đặc biệt. Ðúng 7:20, chiếc P.38 đầu tiên cất cánh, phóng lên một bầu trời xanh biếc sau một đêm giông bão. Hai chiếc P.38 bị trục trặc kỹ thuật phải bỏ lại, và cuối cùng chỉ có 16 phi cơ P.38 bay được về hướng đảo Bougainville.

            Ngày 17-4 có bão tố tại đảo Rabaul, nơi Yamamoto chủ tọa một cuộc họp quân sự, để dự thảo các kế hoạch tiếp tục cuộc chiến đấu với hải quân Mỹ. Cuộc họp này rất quan trọng, bởi vì theo Yamamoto thì quân đội Nhật đã rút lui khỏi Guadacanal được hai tháng rồi và chắc chắn quân Mỹ đã có đủ thì giờ tập trung lực lượng để mở một cuộc tấn công mới. Người Mỹ hầu như đã sẵn sàng kế hoạch nhảy chiếm dần từng đảo một. Yamamoto cho rằng Nhật phải sẵn sàng đương đầu với bất cứ sự tiến quân nào của Mỹ, bất cứ từ phía nào.

            Cuộc họp còn bàn từng chi tiết của kế hoạch đương đầu với quân Mỹ. Nhưng càng họp các đô đốc Nhật càng chỉ trích đổ lỗi cho nhau trong các thất bại vừa qua của Nhật. Trước tình cảnh đó, Yamamoto rất lo ngại. Chính vì để tránh sự buộc tội lẫn nhau của các cấp chỉ huy Nhật mà Yamamoto quyết định phải đích thân đi thăm các căn cứ và binh sĩ Nhật, mặc dù ông biết chuyến đi của ông rất nguy hiểm. Cuối cùng Yamamoto cũng làm cho các tư lệnh Nhật gấu ó nhau phải im lặng, nhưng ông cảm thấy cực kỳ lo ngại trước thái độ của họ.

            Ðêm đó Yamamoto ngồi chơi cờ GO với đại tá Watanabe, sĩ quan tham mưu của ông và cũng sẽ bay theo ông ngày hôm sau tới Bougainville. Nhưng chợt Yamamoto bảo Watanabe, "Ngày mai đại tá không cần phải đi theo tôi nữa, mà phải ở lại đây để hoàn tất các chi tiết của kế hoạch đương đầu với quân Mỹ, và giải quyết êm đẹp cuộc tranh chấp của các sĩ quan tư lệnh tại đây."

            Sáng hôm sau, đúng 6 giờ sáng, Yamamoto khởi hành tiếp cuộc thanh tra từ đảo Rabaul trên chiếc oanh tạc cơ sơn sọc mầu xanh lá cây để ngụy trang. Cùng trên chiếc oanh tạc cơ đó có thêm thiếu tá Ishizaki thư ký riêng của Yamamoto, đô đốc quân y Takata và sĩ quan tham mưu Tobana. Trong chiếc oanh tạc cơ thứ hai sơn mầu ka-ki là tham mưu trưởng của Yamamoto, đô đốc Ugaki, cùng với đề đốc Kitamura và sĩ quan viễn thông là thiếu tá Muroi. Cả hai đô đốc Yamamoto và Ukagi đều ngồi vào chỗ của phi công chính, và việc lái do phi công phụ đảm trách.

            Hai chiếc oanh tạc cơ bay trên một bầu trời xanh lơ, ngay bên trên các miệng núi lửa trong vịnh Rabaul, và bay đi Bougainville về hướng đông nam. Hai phi cơ bay rất sát nhau và sáu chiến đấu cơ Zekes bay theo hộ vệ tỏa ra bay chung quanh. Bốn chiếc Zekes bay bảo vệ hai bên tả hữu trong khi hai chiếc Zekes bay bên trên và hơi lùi lại phía sau. Khi trông thấy những bìa rừng của đảo Bougainville thì tất cả phi đội đều bay thấp xuống ở độ cao hai ngàn bộ để đề phòng bất trắc. Hai chiếc oanh tạc cơ chở Yamamoto và Ukagi dường như lẫn với mầu rừng tại Bougainville. Lúc đó là đúng 9:30 và đoàn phi cơ của Yamamoto bay là là trên rừng cây và sắp tới phi trường Kahili, tại đó binh sĩ Nhật đang sẵn sàng chờ đón Yamamoto vào đúng 9:45.

            Trong khi đó đoàn phi cơ tấn công của Mitchell cũng vừa tới nơi. Khi Mitchell bốc phi cơ vọt lên cao độ 20 ngàn bộ thì các phi công trong đoàn của Yamamoto không để ý thấy chiếc P.38 này. Bốn phi công tấn công Mỹ là Lanphier, Barber, Holmes và Hine bắt đầu liệng bỏ những thùng xăng dự trữ đã dùng hết xuống biển. Rồi tất cả bốn chiếc chúc đầu xuống, phóng nhanh như những con diều hâu lao xuống bắt mồi. Khi các phi công hộ tống trông thấy các phi cơ P.38 thì họ ở cách phi cơ của Yamamoto khoảng một dặm.

            Ngay lập tức hai chiếc phi cơ chở Yamamoto và Ukagi lao xuống sát rừng già để tìm sự an toàn trong khi các phi cơ Zekes hộ tống bay vọt lên chặn phi cơ Mỹ. Thoạt đầu Yamamoto và Ukagi không hiểu chuyện gì cả. Yamamoto và đoàn tùy tùng lo ngại quan sát khắp bầu trời, trong khi hai phi cơ bay quanh co như để tránh đạn và hạ thấp hẳn xuống đầu các bụi dừa, cách mặt đất khoảng 200 bộ và phi hành đoàn sửa soạn súng máy để nghênh địch.

            Ðúng 9:33, khi bốn chiếc P.38 lao xuống tấn công hai phi cơ địch và trông thấy dấu hiệu mặt trời trên cánh và cạnh phi cơ, Lanphier cho rằng chiếc Betty thứ hai sơn sọc mầu xanh lá cây phải là chiếc chở Yamamoto. Lanphier liền phóng tới nhưng ba chiếc Zekes vội liệng bỏ các thùng xăng cho nhẹ và nhào xuống chiếc P.38 của Lanphier.

            Thoạt đầu Lanphier mất dấu chiếc phi cơ chở Yamamoto, nhưng Lanphier quay lại tấn công ba chiếc Zekes đang phóng tới. Lanphier quạt ra một tràng súng máy và hai chiếc Zekes mầu vàng và mầu xanh lá cây trúng đạn và rơi ngay xuống trước mắt Lanphier. Rồi ngay lúc ấy Lanphier trông thấy chiếc Betty sọc xanh lá cây đang hạ thấp xuống rừng già. Lanphier lao xuống với tốc độ 400 dặm một giờ đuổi theo. Khi chiếc P.38 bay ngang tầm ngọn cây thì chiếc phi cơ sọc xanh lá cây quay ngang, đưa mình vào đúng họng súng của Lanphier. Không chậm trễ một giây, Lanphier bấm nút khẩu đại pháo 22 và khẩu súng máy 13 ly. Một làn khói đen bốc lên từ đầu máy của chiếc phi cơ sọc xanh lá cây và lửa bắt đầu bùng lên. Ngay sau đó khói đen bốc lên khi cánh phi cơ bốc cháy. Chiếc phi cơ sọc xanh lá cây chở Yamamoto mất tốc độ và bay chập choạng. Lanphier bay trờ tới và nhả thêm một loạt đạn nữa.

            Chiếc phi cơ chở Yamamoto rùng mình, và lảo đảo trên các ngọn cây. Chiếc cánh không cháy đụng phải một cành cây và gẫy gục. Rồi chiếc phi cơ đang cháy đó chúi xuống đất, rồi chồm lên một lần nữa trước khi nổ tung.

            Ðô đốc Ukagi ngồi trên chiếc phi cơ thứ hai và đã chứng kiến từ đầu đến cuối giây phút cuối cùng của danh tướng Yamamoto, và đã viết lại trong nhật ký như sau:

            "Bỗng nhiên không thấy báo động mà máy phi cơ gầm lên rồi phi cơ lao xuống rừng già, ở độ cao khoảng 200 bộ. Không ai hiểu chuyện gì đã xảy ra cả. Rồi phi cơ của tôi bay là ngay bên trên cánh rừng già và chúng tôi trông thấy các chiến đấu cơ hộ tống bay vọt lên ngăn chặn các phi cơ tấn công của địch, mang dấu hiệu Lockheed Lightnings. Phi cơ địch đông hơn gấp ba lần phi cơ Nhật và phá vỡ được vòng phòng thủ của các phi cơ Zekes và tiến lại phía phi cơ chở chúng tôi. Hai phi cơ của chúng tôi vội quay hướng bay khoảng 90 độ để tránh phi cơ địch, một chiếc rẽ sang hướng phải và một chiếc quay sang trái."

            "Vài phút sau tôi không nhìn thấy phi cơ chở đô đốc Yamamoto nữa, nhưng cuối cùng tôi xác định được vị trí của nó cách xa về bên tay phải. Tôi kinh hoàng trông thấy phi cơ đó bay rất chậm ngay trên ngọn cây và những ngọn lửa màu cam mau lẹ tràn ra bao trùm hai cánh và thân máy bay. Rồi phi cơ tuôn ra những làn khói đen dầy đặc, và hạ thấp xuống mãi, chỉ cách chúng tôi khoảng bốn dậm. Khi phi cơ của tôi vượt bay lên, tôi có dịp quan sát toàn thể khu rừng. Chiếc Betty chở Yamamoto hoàn toàn mất dạng trong khi khói đen dầy đặc tuôn lên từ cánh rừng già. Tất cả chỉ xảy ra trong khoảng chừng hai mươi giây và tôi biết rằng thế là hết rồi!"

            Ngay sau đó, Ukagi không còn dịp quan sát hơn nữa, vì trung úy Rex Barber bắt đầu phóng tới tấn công phi cơ chở Ukagi. Phi công của Ukagi vội phóng chạy trốn nhưng Barber đã kịp khai hỏa và một phần đuôi của chiếc Betty chở Ukagi bị vỡ tung, mặc dù Barber đang bị một số chiến đấu cơ Zekes đuổi theo sát. Chiếc Betty thứ hai rơi nhào xuống biển. Hai đô đốc Ukagi và Kitamura và các sĩ quan khác trên chiếc Betty thứ hai đều bị thương nặng, nhưng được các tầu tuần tiễu của Nhật phóng lại cứu cấp và đem được ra ngoài chiếc phi cơ Betty bị phá hủy.

            Sau khi hoàn thành nhiệm vụ bắn hạ hai chiếc oanh tạc cơ Betty, các trung úy Lanphier và Barber phải bay là là sát trên rừng già để tránh bị các chiến đấu cơ Zekes đuổi theo trả thù. Cả hai Lanphier và Barber may mắn thoát nạn nhưng chiếc P.38 của trung úy Ray Hine bị trúng đạn rơi xuống biển. Trong trận không chiến đó, ba chiếc Zekes của Nhật cũng bị bắn rơi.

            Ngay khi các phi cơ P.38 bay ngược trở về Guadacanal thì hàng loạt phi cơ Zekes bốc lên từ phi trường Kahili để đuổi theo. Tuy nhiên tất cả 15 chiếc P.38 còn lại đều chạy thoát, mặc dầu tất cả đều trúng rất nhiều đạn của các chiến đấu cơ Zekes. Chiếc P.38 bị tổn hại ít nhất là chiếc của trung úy Lanphier, trên thân chiếc P.38 này người ta chỉ đếm được hai lỗ đạn.

            Tin đô đốc Yamamoto bị bắn hạ đã là một tin chấn động làm tan nát lòng người Nhật. Người đầu tiên được nghe tin này là đô đốc Kakuda, chỉ huy mẫu hạm trong chiến dịch tại Aleutians. Kakuda vừa trở lại soái hạm của mình là chiếc mẫu hạm Hiyo, sau khi tham dự cuộc hội họp bàn thảo chi tiết trong kế hoạch ngăn chặn sức tiến công của quân Mỹ, do chính Yamamoto ra lệnh. Kakuda tái mét mặt khi đọc xong bản tin không may này, mặc dù ông là một sĩ quan nổi tiếng lòng dạ cứng rắn như sắt thép. Phản ứng đầu tiên của Kakuda là rời bỏ phòng chỉ huy trên mẫu hạm, trở về phòng riêng và khóa trái cửa nằm trong đó suốt một ngày, nhất định không tiếp chuyện bất cứ một người nào. Trong vòng vài phút sau khi phi cơ của Yamamoto bị bắn hạ, từng nhóm sĩ quan Nhật, nét đau đớn hiện hẳn lên mặt, đứng nghiêm trên những chiến hạm tại Truk, chào lá cờ của Yamamoto được từ từ hạ xuống trên soái hạm Musashi.

            Ðó là phản ứng đầu tiên về phía Nhật. Trong khi đó dĩ nhiên là người Mỹ cực kỳ vui sướng. Ðô đốc Halsey lập tức gửi một tín hiệu tới phi trường Henderson: "Ngợi khen Thiếu Tá Mitchell và các Thiện Xạ của ông ta. Một trong những con vịt bắn được của họ thực sự là một con công."

            Người Mỹ rất căm thù Yamamoto vì những chiến công của ông suốt từ Trân châu cảng cho mãi tới Guadacanal. Bởi vậy khi tin ông bị bắn hạ được thông báo trong buổi họp của đô đốc Halsey thì các sĩ quan Mỹ nhẩy lên reo hò sung sướng. Nhưng đô đốc Halsey nói một cách chua chát: "Chuyện này có gì đáng vui đâu? Ta đã hy vọng bắt sống được tên khốn kiếp này, xích hắn lại và dẫn đi diễn hành trên đại lộ Pennsylvania, trong khi các ngươi tha hồ đấm đá thì mới thực là thích thú."

            Ðại lộ Pennsylvania là một đại lộ quan trọng nhất tại Hoa Thịnh Ðốn vì tòa Bạch ốc nằm ngay trên đại lộ này. Nhưng giấc mộng của Halsey muốn bắt sống được Yamamoto, trói lại rồi bắt đi diễn hành làm nhục trên đại lộ Pennsylvania có quá ngông cuồng không? Trong trận Mỹ Nhật chiến tranh, biết bao tướng lãnh, đô đốc Nhật đã tự tử bằng nhiều cách để tránh cái nhục phải đầu hàng. Một quân nhân can trường thấm nhuần tinh thần võ sĩ đạo như Yamamoto dĩ nhiên không phải là một người sợ hãi cái chết, và tất nhiên ông không bao giờ để bị địch quân bắt sống trong trường hợp bại trận.

            *
            * *

            Phòng Thu Từ Nay Khép Cửa

            Hải quân Nhật tại Bougainville vẫn nuôi hy vọng Yamamoto không chết. Ðại tá Watanabe, người may mắn thoát chết nhờ Yamamoto ra lệnh cho được ở lại Rabaul, vội vã lấy một phi cơ bay lượn tại chỗ máy bay của Yamamoto cháy. Watanabe viết một hàng chữ "Hãy vẫy khăn mặt nếu vẫn còn sống" vào một mảnh giấy và quấn quanh những trái banh tennis và ném xuống. Watanabe cho máy bay bay lượn quanh chiếc phi cơ lâm nạn hàng giờ mà chẳng có ai vẫy khăn cả.

            Ðến chiều tối, một chiếc tầu hộ tống chở một trăm thủy thủ Nhật chạy ngược con sông từ Buin. Tới 11 giờ đêm họ tới được một địa điểm gần chiếc phi cơ lâm nạn. Tất cả lên bờ và phân làm hai toán, dùng mọi phương tiện phá rừng để tiến lại chỗ phi cơ, nhưng khu rừng ở đây rất rậm rạp và họ tiến rất chậm. Cho đến sáng ngày hôm sau, họ chỉ tiến lên được vài trăm thước. Rồi một phi cơ bay lượn bên trên ra lệnh cho họ phải quay về, vì người ta đã tìm được xác của Yamamoto rồi.

            Ðó là công của trung úy Hamasuna. Trong một chuyến đi tuần phòng thường lệ, Hamasuna được thổ dân biết đường dẫn vào nơi máy bay bị nạn. Hanasuna tìm thấy được xác của Yamamoto văng ra ngoài và đã cháy đen rồi. Tất cả đều bị cháy đen ngoại trừ xác của đô đốc Takata là còn nhận diện được. Thổ dân làm những chiếc cáng bằng tre và đặt xác của Yamamoto và đoàn tùy tùng lên, và khiêng tới cửa sông tại Buin. Một bác sĩ khám nghiệm và xác nhận Yamamoto bị trúng đạn vào đầu và vai, và có thể chết trước khi phi cơ đâm xuống rừng già.

            Chiếc tầu hộ tống chở xác chết về Bougainville, tại đó các thủy thủ đã khiêng xác Yamamoto và đoàn tùy tùng làm một cuộc diễn hành tang lễ rất buồn, lên đỉnh một ngọn núi gần đó. Ngay tại đỉnh ngọn núi này, xác của Yamamoto được đặt vào một huyệt mộ đào vội vàng. Các xác khác cũng được đặt bên cạnh xác của Yamamoto. Người ta lấy lá dừa và các cành cây khác phủ lên xác chết, rồi tưới dầu xăng lên để hỏa thiêu. Tất cả thủy thủ đứng nghiêm chỉnh chào trong khi ngọn khói bốc tỏa lên bầu trời trong xanh của Thái Bình Dương. Trong khoảng nửa giờ, tất cả các xác chết trở thành tro hết.

            Ðại tá Watanabe xúc cốt tro của Yamamoto vào trong một chiếc hộp gỗ thông. Một tảng đá thô sơ được ghi khắc tên và ngày giờ chết của Yamamoto và được dựng lên ngay tại chỗ thiêu xác. Một nhóm sĩ quan trồng một cây đa bên cạnh để tưởng niệm và cũng để biểu tượng cho sự vĩ đại của Yamamoto. Watanabe ôm hộp cốt tro của Yamamoto bay về Truk, tại đó cũng có một nghi lễ long trọng nữa trước khi cốt tro được tiếp tục đem về Ðông Kinh.

            Mặc dầu cái chết của Yamamoto là nỗi đau buồn lớn lao cho người Nhật và cũng là niềm đại hân hoan cho người Mỹ, nhưng các chi tiết về cái chết của Yamamoto vẫn được dấu kín trong khi chiến tranh vẫn tiếp diễn. Trung úy Lanphier, người có công bắn hạ phi cơ chở Yamamoto, được thăng chức đại úy, và được thưởng huy chương hải quân. Ngoài ra Lanphier còn nhận được điện văn khen ngợi của chính tổng thống Roosevelt.

            Các tin tức về chiến công của Lanphier tạm thời được dấu kín vì hai lý do. Trước hết, người Mỹ sợ rằng nếu công bố chi tiết về việc ám sát được Yamamoto thì người Nhật sẽ đoán biết người Mỹ đã đọc được mật mã của hải quân Nhật, và sẽ thay đổi mật mã khác thì bất lợi cho Mỹ. Chính đô đốc Halsey lo ngại đến nỗi ra lệnh cho các phóng viên phải im lặng và thuyên chuyển tất cả các phi công trong vụ phục kích Yamamoto ra khỏi Thái Bình Dương. Lý do thứ hai là ngay sau đó em trai của Lanphier, cũng là một phi công, đã bị bắn rơi tại phi trường Kahili và bị Nhật bắt làm tù binh. Người Mỹ sợ rằng người Nhật sẽ trả thù Lanphier bằng cách hành hạ hoặc giết em trai của Lanphier.

            Về phía Nhật thì mãi hơn một tháng sau khi Watanabe đem tro cốt của Yamamoto về Ðông kinh, ngày 21-5 đài phát thanh Nhật Bản mới công bố về cái chết của Yamamoto. Bản tin đầu tiên nghe thấy trên đài phát thanh Ðông Kinh như sau: "Ðô đốc Yamamoto trong khi chỉ huy chiến thuật tại tiền tuyến vào tháng Tư năm nay, đã giao chiến với địch quân và oanh liệt đền nợ cho tổ quốc bằng một cái chết anh dũng." Bản tin có thể dài hơn nữa, nhưng khi đọc đến đó, xướng ngôn viên nghẹn ngào và òa khóc.

            Ngày hôm sau, đài phát thanh loan tin tiếp, "Khi Thiên Hoàng nhận được tin tức về cố đô đốc Yamamoto ngày 20-4, Thiên Hoàng đã phong cho Yamamoto từ tước hiệu Tư Lệnh Các Hạm Ðội lên tước hiệu Ðại Ðô Ðốc." Ðài phát thanh còn loan báo tang lễ của đại đô đốc Yamamoto sẽ được cử hành theo nghi lễ Quốc Táng. Ðó là lễ quốc táng thứ 12 trong suốt lịch sử của Nhật Bản. Chỉ một đô đốc khác của Nhật được hưởng quốc táng là đô đốc Togo, người anh hùng đánh bại hải quân Nga tại eo biển Ðối Mã.

            Sau thông cáo của đài phát thanh Ðông Kinh, tại Hoa kỳ người ta đã phỏng đoán rất nhiều về con người Yamamoto và cái chết của ông. Tờ Nữu Ước Thời Báo căn cứ vào tin của đài Ðông Kinh đã kết luận rằng Yamamoto không chết ngay trong cuộc phục kích, mà về sau mới chết vì các vết thương. Cái chết của Yamamoto càng trở nên bí ẩn vì người ta biết rằng trong suốt tháng Tư không có một trận đánh lớn nào tại miền nam Thái Bình Dương. Nhiều người cho rằng Yamamoto chết vì máy bay gặp tai nạn, người khác cho rằng ông chết bằng cách mổ bụng tự sát.

            Tại Nhật Bản, cốt tro của Yamamoto được tách ra làm hai phần để được tổ chức hai đại tang lễ. Chưa bao giờ có quang cảnh cả nước để tang như vậy, kể từ ngày đô đốc Nelson của Anh quốc tử trận tại trận Trafalgar khoảng hai trăm năm trước. Vào một ngày tháng sáu quang đãng, hầu như toàn thể dân chúng Ðông Kinh ra đường tham dự tang lễ của Yamamoto. Riêng Nhật Hoàng không tham dự. Nhật Hoàng không tham dự tang lễ của bất cứ ai, vì thân phận Nhật Hoàng được đặt cao hơn sự sống chết của người đời. Nhưng tất cả mọi nhân vật quan trọng trong chính phủ và ngoài chính phủ đều tập trung tại Công viên Hibiya tại trung tâm Ðông Kinh, và đi lặng lẽ tới nghĩa trang Tamabuchi, tại đó Yamamoto được nằm yên nghỉ bên cạnh ngôi mộ của đô đốc Togo.

            Trong cái đám đông cả triệu khách chịu tang ấy, không ai để ý tới một nàng ca kỹ khóc âm thầm đi theo dòng người vào nghĩa trang. Người đó là Kikuji, người tình yêu dấu của Yamamoto kể từ khi hai người gặp nhau lần đầu từ trên mười năm trước. Kể từ đó Kikuji đã là một phần đời không thể thiếu được của Yamamoto. Yamamoto tuy yêu Kikuji rất mực, nhưng đã giữ được quân bình giữa tình yêu và nhiệm vụ. Ông không bao giờ vì quá yêu Kikuji mà quên bổn phận, trái lại mối tình ấy đã giúp ông thêm nghị lực trong cuộc phấn đấu với quá nhiều khó khăn trong nhiệm vụ vĩ đại của ông.

            Từ xưa anh hùng và giai nhân đã là một hình ảnh rất đẹp. Nhưng mối tình Yamamoto-Kikuji còn là một tình sử hiếm hoi. Kikuji không bao giờ ảnh hưởng vào việc quốc gia đại sự, cái gánh nặng đang đè nặng lên vai người tình của mình. Nàng đã biết tự xóa mình, để chỉ là một cái bóng mờ bên cạnh người anh hùng dân tộc, kín đáo hầu hạ Yamamoto mà không đòi hỏi gì cả, kể cả tiền bạc và quyền làm vợ. Khi được tin sét đánh Yamamoto đền nợ nước, Kikuji bàng hoàng như một người bỗng hẫng chân, không còn một điểm tựa nào để sống nữa. Quả thực cuộc đời này không còn gì lưu luyến nàng nữa, khi người yêu của nàng, một bậc đại anh hùng đã sống và đã chết cho tổ quốc. Có thể Kikuji đã muốn chết theo Yamamoto, nhưng nàng chọn một quyết định can đảm hơn: phải tiếp tục sống để mà đau đớn và tưởng nhớ người yêu. Sau tang lễ của Yamamoto, Kikuji lui về ở ẩn, khép cửa phòng thu không tiếp, không gặp bất cứ một người nào nữa. Nàng sợ rằng nếu nàng cũng chết đi thì trên đời này không còn ai tưởng nhớ đến chàng nữa. Kikuji đã sống một cuộc đời lặng lẽ một mình như thế, để tang Yamamoto cho đến hết cuộc đời.

            Một tang lễ thứ hai cho Yamamoto được cử hành một cách trang trọng và cảm động hơn nữa tại Nagaoka, quê hương của Yamamoto. Tang lễ này cử hành sau lễ quốc táng tại Ðông Kinh một ngày. Bộ quân phục và thanh kiếm của Yamamoto được đặt trên một cây cột cùng với cái bình đựng một phần cốt tro của ông. Trong suốt một tuần lễ, 650 ngàn người, mặt đầm đìa nước mắt, lặng lẽ cúi đầu đi qua cây cột. Rồi ông được chôn bên cạnh mộ phần của thân phụ trong khuôn viên một ngôi đền Phật giáo, bên ngoài một thị trấn nhỏ mà trước kia thân phụ ông là một giáo viên.

            Nghĩa trang này cũng không xa những cánh đồng trồng lúa và những vườn dâu, một khung cảnh quen thuộc của miền quê Nhật Bản. Chính tại đây Yamamoto đã dạo chơi trong tuổi thơ ấu và ông đã từng ao ước được chôn tại đây. Trên ngôi mộ của ông là một bia mộ rất đơn giản theo đúng như ông muốn. Bia mộ này ngắn hơn bia mộ của thân phụ ông hai phân, theo lời căn dặn trước của ông.

            Ðến tháng 12-1943, người ta tạc một bức tượng ông to bằng người thật và dựng lên tại trường phi hành Kasumigaura, nơi ông đã từng làm chỉ huy trưởng. Năm 1945 sau khi Nhật Bản đầu hàng, tướng MacArthur ra lệnh triệt hạ tất cả mọi tượng tướng lãnh Nhật tại khắp Nhật Bản. Các sĩ quan hải quân liền cưa tượng của Yamamoto làm hai khúc và thả xuống một cái hồ gần đó, và cẩn thận đánh dấu chỗ giấu tượng. Mười năm sau người ta vớt tượng của ông lên. Một số bạn thân của ông mua bức tượng đó và đem đặt vào trong một đền thờ phật giáo. Năm 1956, một trong các đô đốc dưới quyền của ông đã bỏ tiền di chuyển tượng của ông về quê hương Nagaoka của ông. Hiện nay bức tượng này đứng trong một công viên do dân chúng tự động quyên tiền thành lập làm nơi kỷ niêm cho ông. Bên cạnh tượng của ông là mẫu hình ngôi nhà nhỏ bằng gỗ, nơi ông chào đời. Căn nhà nguyên thủy của gia đình ông đã bị phi cơ Mỹ oanh tạc thiêu hủy năm 1945.

            Ngày nay ít người còn nhớ tới đài tưởng niệm khác của ông bên cạnh ngôi mộ của đô đốc Togo tại Ðông Kinh. Tuy nhiên hàng tuần vẫn có một người trên đường đi làm, ghé vào và thận trọng rút khăn tay bằng lụa ra lau chùi bia mộ của ông. Người đó chính là cựu đại tá Watanabe, người đã đem tro cốt của ông về Nhật, và hiện đang làm việc cho một công ty xuất cảng của Mỹ. Watanabe là một trong một số ít người còn lưu tâm tới nơi yên nghỉ cuối cùng của Yamamoto.

            Trong nước Nhật Bản tân tiến và bận rộn ngày nay, huyền thoại về danh tướng Yamamoto dường như đã bị quên lãng. Giới trẻ ngày nay không nghe biết gì về người anh hùng mà thế hệ cha chú của họ từng sùng kính. Yamamoto là một đô đốc vĩ đại, vượt lên hơn hẳn các đô đốc khác đồng thời của ông. Ông là một chiến lược gia can đảm và xuất chúng. Những tiên đoán của ông về trận Trân châu cảng rất chính xác. Ðấy là cơ hội duy nhất của ông để có thể đánh bại hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ. Tư tưởng quân sự của ông đi trước thời đại của ông, và trước các chiến lược gia khác, cả Nhật và Mỹ. Ông đã mở một cuộc chiến không theo các quy ước cổ điển.

            Biết rõ nhược điểm của hải quân Nhật như ông, nên ông cho rằng cơ hội chiến thắng duy nhất của Nhật là đánh một trận thần tốc bất ngờ. Ðó là một kế hoạch tuyệt luân và may mắn khi thi hành, không bị phát giác trong lúc bên địch không thể tưởng một cuộc tấn công như thế có thể xảy ra được. Ðiều không may duy nhất là các mẫu hạm Mỹ không có mặt tại Trân châu cảng để ông tiêu diệt. Chính vì thế Yamamoto mắc phải một yếu điểm mà chính Nã Phá Luân cũng mắc phải. Mỗi khi định chọn bổ nhiệm một cấp tư lệnh nào, ông không quan tâm tới kinh nghiêm chiến đấu hoặc khả năng của người đó. Trái lại ông chỉ hỏi "Ông ta có may mắn không?" Bởi vì Yamamoto và Nã Phá Luân đều hiểu rất rõ rằng trong những trận đánh lớn, khi mà hai địch thủ tương đương với nhau về sức mạnh thì bên nào may mắn sẽ chiến thắng.

            Trong những trận đánh sau này, Yamamoto không gặp may nữa. Ðiều không may quan trọng nhất là người Mỹ đã khám phá được mật mã của Nhật, và người Nhật không hề nghi ngờ gì về điểm này. Ngay cả khi được tin người Mỹ đọc được tín hiệu của Nhật, đô đốc Ukagi cũng không chịu tin như thế. Một điều không may thứ hai là Yamamoto đã giao cho đô đốc Nagumo chỉ huy trực tiếp các mẫu hạm trong trận đánh tại Midway. Nagumo đã thất bại trong trận đánh này và một số mẫu hạm của Nhật bị đánh chìm. Trận Midway đã thay đổi hẳn cục diện chiến tranh tại Thái Bình Dương, đưa tới việc bại trận của Nhật.

            Giả dụ người Mỹ không khám phá được mật mã của Nhật và do đó không chiến thắng tại Midway thì Yamamoto có thể đánh bại hải quân Mỹ tại Thái Bình Dương, và Hawaii đã bị Nhật chiếm và hải quân Nhật sẽ tới tận bờ biển phía tây của Mỹ, và Mỹ sẽ không thể trợ giúp Âu Châu được khi hải quân Nhật còn là mối lo ngay tại cửa ngõ của Mỹ. Ít nhất Yamamoto cũng có thể đạt được một thỏa hiệp hòa bình với Mỹ, như ông vẫn ước vọng.

            Trận Midway là một trận thủy chiến lớn đầu tiên và cuối cùng trong đó sự thắng bại tùy thuộc vào mẫu hạm. Yamamoto đã mở một trang sử mới về chiến tranh hải quân, nhưng là một trang sử rất ngắn, vừa mở ra đã khép lại ngay, với cái chết của ông. Dù sau các thất bại tại Midway và Guadacanal, nếu Yamamoto không chết trong trận phục kích tại Bougainville thì cục diện Thái Bình Dương cũng khác đi. Yamamoto có thể chuyển bại thành thắng, và tinh thần chiến đấu của hải quân Nhật sẽ cao hơn nếu Yamamoto còn sống và vẫn là tư lệnh của họ. Chính đô đốc Nimitz của Mỹ cũng phải kiêng nể Yamamoto và thường công nhận Yamamoto là kẻ thù đáng sợ nhất trong đời ông.

            Yamamoto quả thật là một thiên tài về hải chiến và ông đã đi trước người đồng thời của ông. Ông đã làm chủ Thái Bình Dương trong suốt một năm rưỡi, và trong trận đánh Guadacanal trước khi ông chết, Yamamoto đã tỏ tài quân sự quán thế của ông trong công cuộc triệt thoái được 13 ngàn quân Nhật ra khỏi Guadacanal mà chỉ bị những thiệt hại rất nhỏ. Ðây là một kỳ công của Yamamoto, vì rút quân khó hơn là tiến quân. Giống như những nhà lãnh đạo quân sự đại tài khác, Yamamoto bao giờ cũng tự mình làm gương cho người khác, và bao giờ cũng nắm vững mọi chi tiết, dù lớn hay nhỏ. Ông đòi hỏi mọi cấp binh sĩ phải tập luyện để có đủ khả năng thực hiện được nhiệm vụ của mỗi người.

            Người Nhật thương tiếc cái chết của ông, nhưng thực ra cái chết của ông phản ảnh đúng sự tiên đoán của ông. Yamamoto vẫn thường tin rằng ông không sống sót trận chiến tranh tại Thái Bình Dương, một trận chiến mà ông bất đắc dĩ phải thi hành, và lúc nào ông cũng muốn làm bạn với người Mỹ. Tuy nhiên cái chết bất thình lình của ông có thể giúp ông tránh cái nhục phải trông thấy nước Nhật bại trận. Ðiều đó đối với ông có lẽ còn đau đớn hơn cái chết nữa.

            Cuộc đời binh nghiệp của Yamamoto thật là hoàn hảo, hoàn hảo theo quan niệm của một võ sĩ đạo. Ông đã đạt tới tột đỉnh của binh nghiệp khi được phong làm Ðô đốc Tư lệnh Liên Hạm đội Nhật, và chinh phục được niềm tin và kính nể của toàn thể quân dân Nhật Bản. Cái chết của ông là một cái chết vinh dự cho một bậc anh hùng: được tử trận ngoài chiến trường thay vì chết già trên giường bệnh. Ðược chết trong lúc đang thi hành phận sự một quân nhân là điều ông thường mong mỏi, như ông đã từng viết trong một bài thơ cuối cùng của ông:

            Ta vẫn là một thanh kiếm
            Của Thiên Hoàng
            Ta sẽ không cắm vào vỏ kiếm
            Cho đến khi ta chết.

            Cuộc đời Yamamoto chỉ có một mục đích: phục vụ tổ quốc và Nhật Hoàng. Ông đã đạt được mọi ý nguyện, kể cả trong cái chết của ông.

            Hết
            #21
              Sun Ming 07.08.2009 04:43:35 (permalink)
              Có vẻ như tôi đã đăng bài hơi sai chỗ, xin admin dời đi hộ cho đúng với quy cách của diễn đàn.
              #22
                Ct.Ly 09.08.2009 06:43:37 (permalink)
                #23
                  Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 16 đến 23 trên tổng số 23 bài trong đề mục
                  Chuyển nhanh đến:

                  Thống kê hiện tại

                  Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                  Kiểu:
                  2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9