MA NHẬP
Đây là một câu chuyện có thật đã xảy đến với một gia đình giàu có ở quê tôi, khiến họ phải mất một thời gian dài lao đao khốn khổ.
Câu chuyện này được người dân quê tôi kể với nhau như một lời răn đe dạy dỗ con cháu, sống ở trên đời đừng bao giờ nhúng tay vào việc ác, bởi vì một khi tay đã trót nhúng chàm, có thể không phải một mình bản thân mình bị quả báo mà con cái trong nhà bị cũng bị khổ lây.
Ngày đó ông Cả ở xóm tôi nổi tiếng hung hăng, phách lối. Ông nhìn tất cả những người dân quê nghèo khó bằng con mắt miệt thị, khinh khi. Những người phải tới nhà ông làm thuê thì khỏi phải nói, trăm đắng ngàn cay, cơm chan nước mắt. Aáy thế mà người ta vẫn phải tìm tới, vì sự sống của bản thân, của gia đình đang trông chờ vào họ.
Ở quê, ngoài những kẻ có tiền, có quyền ra, ai người ta có khả năng mướn người làm công cho mình? Tất cả việc cấy cày, người ta làm đổi công với nhau thôi.
Bởi vậy, muốn có tiền vừa phải đổ mồ hôi, công sức, lại vừa phải nhịn nhục trước những thái độ trịch thượng của nhà chủ.
Nhà ông Cả là tiêu biểu. Từ ông Cả đến bà Cả, từ cậu Hai đến cô Ba tất cả đều cùng một giuộc.
Trong nhà ông bà Cả có nuôi một đứa bé mồ côi mười hai tuổi để làm chuyện lặt vặt trong nhà và nhiệm vụ chính của nó là hầu hạ, phục dịch cô Ba.
Đứa bé gái gầy nhom, áo quần vá víu. Cô Ba vẫn thường xuyên đánh chửi nó, bảo nó là đồ chó hôi hám, nhưng những áo quần cũ của cô dạt ra không bao giờ cô hay bà Cả đem cho nó, hình như họ sợ áo quần của họ mà khoác lên mình đứa bé ấy sẽ làm giảm đi giá trị của họ hay sao ấy!
Đứa bé làm quần quật suốt ngày mà đâu có được lãnh tiền công. Gia đình ông Cả lại còn đi rêu rao khắp làng trên xóm dưới rằng nhờ có sự nhân đức của ông bà, nó mới có chỗ nương thân, có cơm ăn mỗi bữa, chứ nếu không nó đã chết từ đời tám hoánh nào rồi!
Cậu Hai, cô Ba hỡ ra là cú dọi lên đầu nó, còn ông Cả, hễ có việc gì không vừa ý là lại dang thẳng tay tát mạnh vào má nó. Bà Cả có đỡ hơn một chút, bà không cú đầu, không tát tay, nhưng sẵn sàng vụt cán chổi lông gà vào mông nó bất kỳ lúc nào.
Trên gương mặt héo hon của đứa bé thường xuyên hằn lên những dấu vết tàn bạo mà gia đình ông bà Cả giáng xuống trên thân thể nhỏ bé tội nghịêp của nó.
Ông Cả được người ta đem biếu một chiếc bình hoa cổ rất có giá trị. Ông thích lắm, suốt ngày cứ săm soi ngắm nghía. Ông để chiếc bình quý giá ấy trên chiếc bàn ở giữa nhà để tiện việc khoe khoang mỗi khi có khách tới thăm viếng.
Một hôm, con bé mang ấm nước lên châm vào bình trà, nó lỡ tay làm đổ chút nước xuống bàn, ông Cả ngồi bên cạnh trông thấy bèn vung tay tát nó. Aám nước sôi trên tay nó văng xuống đấy, cũng may là trong ấm sắp hết nước nên nó không bị phỏng, tuy nhiên chút nước còn sót lại trong ấm văng trúng chân nó khiến nó phải nhảy lên, loạng choạng bám vào cạnh bàn để đứng vững. Không may bàn tay nó trượt dài theo dòng nước trên bàn, xô mạnh vào chiếc bình cổ làm nó lăn tròn rồi rơi xuống đất vỡ tan.
Đứa bé điếng người đứng lặng nhìn trân trối vào những miếng sứ nằm tứ tung dưới đất.
Ông Cả cũng điếng người.
Sau phút bàng hoàng, ông Cả nhào tới túm lấy tóc đứa bé, tát tới tấp vào hai bên mặt làm má nó sưng cả lên. Thế mà ông vẫn chưa hả được cơn tức giận, ông nắm tóc dúi đầu nó xuống dộng ầm ầm, liên tiếp xuống cạnh bàn.
Đứa bé van xin, rên rỉ, khóc than gì ông cũng bỏ hết ngoài tai. Cô Ba còn đứng bên ngoài nói như đổ dầu vào ngọn lửa đang rừng rực cháy.
- Đánh cho nó chết mẹ nó đi! Thứ đồ ăn hại, chứa nó trong nhà có ngày nó hại cả gia đình mình tán gia bại sản.
Đang cơn tức giận cộng với những lời xúc xiểm của đứa con gái chua ngoa, ông Cả dùng hết sức lực dộng đầu đứa bé cồm cộp xuống bàn, trong lúc say máu, ông Cả cũng không để ý đến việc đứa bé trong tay ông đã trở nên mềm nhũng.
Cô Ba đứng bên ngoài la lên:
- Chết rồi ba ơi! Nó chảy máu quá nhiều rồi kìa!
Ông Cả dừng tay lại đứng thở hồng hộc. Ở trên cạnh bàn đầy những vết máu. Ông Cả hơi giật mình, vội buông tay ra, lập tức đứa bé ngã sấp xuống đất, phía sau đầu nó máu không ngừng trào ra, chẳng mấy chốc đã đọng thành vũng dưới nền nhà.
Vừa lúc đó bà Cả về tới. Trông thấy cảnh tượng, bà cuống quýt chạy vội tới lay đứa bé, nhưng nó hoàn toàn không có phản ứng gì. Bà đặt bàn tay run rẩy lên mũi nó, cũng không còn thấy chút hơi thở nhỏ nhoi nào.
- Chết rồi ông ơi, ông phạm tội sát nhân rồi! Ông đã giết chết nó rồi!
Bà Cả rên rỉ.
Ông Cả cảm thấy hoảng sợ, nhưng chỉ một lát sau là ông lấy lại được bình tĩnh. Ông ra sau nhà lấy một chiếc chiếu cũ đem lên kéo xác đứa bé bỏ vào rồi quấn lại mang ra sau vườn.
Bà Cả run lẩy bẩy đi theo một bên.
Ông Cả quay lại bảo:
- Vô lấy cho tôi cái cuốc!
Bà Cả riu ríu chạy vô nhà bếp xách cây cuốc ra cho chồng. Ông mang xác con bé băng qua mấy khuôn vườn, đến chỗ dải đất hoang mọc đầy cỏ dại, ô rô, cóc kèn bít cả lối đi, ông đặt bó chiếu xuống rồi hì hục đào bới một cái hố nông choèn, vừa đủ đặt xác đứa bé xuống.
Lôi bó chiếu có đứa bé bên trong xuống hố, ông cào đất lấp lại một cách vội vàng, cẩu thả rồi hai vợ chồng trở vào nhà.
Trông thấy bà Cả mặt mày xám ngắt, ông Cả nạt:
- Bà làm gì mà sợ? Có có chết cũng không đền được cái bình cổ của tôi, không có gì phải sợ!
Rồi quay sang cô Ba đứng bên cạnh, ông căn dặn:
- Con không được bép xép chuyện trong nhà với ai khác nghe chưa? Thấy đâu thì bỏ đó, kể lung tung ra ngoài là mang họa đó!
Cô Ba hếch mặt lên kênh kiệu:
- Ba làm như con ngu lắm hổng bằng!
Mọi việc tưởng đâu che mắt được làng xóm, nhưng trời bất dung gian, sáng hôm sau cả làng xôn xao hẳn lên vì mấy con chó trong làng đang cắn xé, giành giật nhau một xác chết.
Mới ban đầu, người ta cứ tưởng đó là xác con vật gì, nhưng có người tò mò đến gần nhìn xem mới phát giác ra không phải xác súc vật mà là xác người hẳn hoi.
Tá hỏa, bà con xúm lại đánh đuổi đàn chó, và nhận diện ra được xác chết đó chính là đứa tớ gái của gia đình ông Cả.
Người ta đem xác đứa bé xấu số lên báo làng báo quan, ông Cả lập tức được mời tới.
Nhưng không biết ông Cả đã dùng cách nào, dùng bao nhiêu quan tiền để bịt mõm các quan chức địa phương, mà chỉ trưa hôm đó ông đã ung dung ngồi nhà nhắm rượu.
Xác con bé lần này được ông mang về chôn cất đàng hoàng hơn trong nghĩa địa làng với câu rêu rao:
- Tao làm phước giùm cho nó, chứ tao chả có tí trách nhiệm nào trong cái chết của nó!
Những người nghèo trong làng, ai cũng thấy xót thương và phẫn nộ cho đứa bé, nhưng tuyệt nhiên không ai dám hó hé một lời nào. Dân đen thấp cổ bé miệng, dù có nói cũng chẳng giải quyết được gì lại còn phải mang họa vào thân, thôi thì câm lặng vẫn hơn!
Mọi việc rồi cũng lắng xuống. Ông Cả ngày ngày vẫn cứ nhởn nhơ ăn nhậu như không có chuyện gì xảy ra.
Bỗng một hôm cô Ba đang ngồi chơi trước hiên nhà bỗng ngã vật xuống, miệng mũi sùi bọt, cơ thể thì giật giật liên hồi như người bị động kinh.
Đám kẻ ăn người ở trong nhà hoảng vía, vừa la lên gọi chủ, vừa bế thốc cô Ba đặt lên bộ ván giữa nhà.
Bà Cả hối người nhà nhỏ chanh vào miệng cô Ba và làm các biện pháp cấp cứu khác mà bà có thể nghĩ ra được.
Một lúc sau thì cô Ba dịu lại, miệng không còn sùi bọt, cơ thể cũng thôi không co giật nữa. Mọi người thở phào nhẹ nhõm.
Cô Ba nhướng đôi mắt còn trắng dã lên nhìn mọi người rồi ra dấu muốn uống nước. Bà Cả đưa nước cho con, đồng thời quát người nhà chạy đi tìm thầy lang tới bốc thuốc cho cô chủ.
Uống xong ly nước, cô Ba nhắm mắt lại ngủ, hơi thở vẫn còn nặng nhọc lắm.
Không lâu sau thầy lang tới. Sau khi bắt mạch và xem qua các biểu hiện bên ngoài của bệnh nhân, thầy lang suy nghĩ mãi rồi lắc đầu:
- Tôi thật không hiểu được cô Ba đã mắc phải chứng bệnh gì? Nhìn sơ thì nó giống như bệnh động kinh, nhưng không phải, cũng không là trúng phong gì cả. Có lẽ ông bà nên cho mời thầy lang khác có tay nghề vững hơn tôi, chứ thật tình tôi không định được bệnh nên không dám bốc thuốc bậy bạ! Xin ông bà hiểu cho.
Vừa nghe thầy lang nói xong, vợ chồng ông Cả người quát người mắng xua đuổi ông lang ra khỏi nhà như người ta xua đuổi một con chó ghẻ.
Từ đó tới chiều có đến bốn ông lang khác được mời về. Có ông lắc đầu bỏ đi, nhưng cũng có ông bốc thuốc hẳn hoi, lại còn đoan chắc sẽ chữa lành bệnh cho cô Ba.
Vợ chồng ông Cả hài lòng lắm.
Nhưng cô Ba cứ nằm như thế liên tục ba ngày. Hết ngủ mê mệt lại nhướng mắt len đòi uống nước chứ tuyệt nhiên không ăn chút gì, cũng không nói lấy một lời nào.
Bà Cả bắt đầu sốt ruột.
Bà ngồi bên cạnh con gái cả ngày lẫn đêm, khi nào quá mệt mỏi thì ngã lưng nằm xuống kế bên đó.
Đêm thứ ba, đang chập chờn, bà Cả cảm thấy như con gái mình ngồi dậy và bước xuống đất. Bà vội mở mắt ra nhìn thì thấy cô Ba đang đứng giữa nhà, ngơ ngác nhìn quanh một hồi rồi bắt đầu nhảy múa.
Bà Cả sững sờ nhìn con, miệng lưỡi cứng lại không bật lên được tiếng kêu. Mãi một lúc sao bà mới la lên được:
- Ông ơi, ông Cả ơi, ông mau ra đây mà coi, con Ba nhà mình như là bị ma nhập vậy!
Ông Cả từ trong buồng, nghe tiếng gọi hốt hoảng của vợ lật đật chạy ra, không kịp mang cả guốc.
Ông đứng khựng lại khi nhìn thấy cô Ba đang quay cuồng múa may và cất lên một tràng cười lạnh sắc.
Cậu Hai nghe tiếng cha mẹ huyên náo cũng lò dò thức dậy, bưng đèn đi ra. Ông Cả chộp lấy cây đèn trên tay con trai, vặn cho tim cao lên, ánh sáng soi rõ cả gian nhà.
Cô Ba vẫn không quan tâm gì đến những người bên cạnh, cô hết cười lại khóc, hết khóc lại cười như kẻ điên loạn.
Đặt cây đèn lên bàn, ông Cả tiến gần đếưn bên con gái cất giọng dịu dàng:
- Con đang làm gì thế? Khuya rồi, sao không đi ngủ đi con?
Cô Ba giương cặp mắt trắng dã nhìn ông Cả, cười sằng sặc:
- Ta đi dự hội bàn đào, ta là tiên nữ! Ha ha ha…
Bà Cả bật khóc òa lên và chạy nhào tới ôm lấy con gái, nhưng cô Ba một mực không chịu, dùng hết sức đẩy bà sang bên.
Cả ba người đành bất lực đứng nhìn cô Ba nhảy nhót điên cuồng trong bóng tối.
Một lúc sao, chừng như đã thấm mệt, cô Ba không nhảy múa nữa mà đến nằm trở lại giường. Bà Cả mừng rỡ tới gần dỗ dành:
- Con thấy đói bụng chưa? Má đi lấy thức ăn cho con…
Cô Ba không thèm trả lời, chỉ trừng mắt ngó bà Cả rồi xoay mặt vào tường vờ ngủ.
Bà Cả đưa mắt nhìn chồng cầu cứu.
Ông Cả trấn an:
- Thằng Hai vô ngủ đi! Còn bà, có mệt quá thì nằm xuống một bên nó mà ngủ để canh chừng. Chắc có lẽ nó bị mê sảng nên mới vậy thôi, để sáng mai tôi sai người lên chợ Huyện rước cho bằng được ông lang Tân nổi tiếng trên ấy về bốc thuốc cho con. Bọn lang băm ở đây, chẳng thằng nào ra tích sự gì!
Bà Cả còn biết làm hơn là nghe theo lời chồng nằm xuống cạnh con. Tự nhiên trong lòng bà lúc này lại nhớ tới cái chết của con bé hôm trước. Bà thấy lo sợ quá, không biết căn bệnh kỳ lại của con gái bà có liên quan gì tới cái chết của đứa bé kia không?
Bà Cả định mở miệng than thở với ông, nhưng bà lại sợ ông la mắng nên thôi, đành nhắm mắt nằm chờ trời sáng trong nỗi lo sợ vu vơ.
Sáng hôm sau, thấy cô Ba còn đang say ngủ nên bà Cả đi ra sau nhà cắt đặt một số công việc cho người làm, loay hoay một lúc trở lên, bà giật mình không thấy cô Ba đâu cả.
Gọi không nghe con gái lên tiếng, bà Cả hoảng hốt báo cho ông Cả rồi cùng với đám người làm đổ xô ra tìm kiếm xuang quanh nhà. Mãi một lúc lâu sau, mấy anh người làm mới phát hiện cô Ba đang nằm chơi dưới cái hố mà mấy ngày trước đây ông Cả đào vội vàng để chôn con bé giúp việc!
Bà Cả rụng rời tay chân, ông Cả cũng lo sợ không kém gì. Hai ông bà đem con vô nhà rồi lập tức cho người đi vời thầy lang cũng như thầy pháp về trị bệnh.
Nhưng dù có chạy chữa thế nào cô Ba vẫn y nguyên như thế, chẳng thuyên giảm chút nào.
Cứ sểnh ra một tí là cô Ba lại chạy ra cái hố ấy, dù dưới hố xâm xấp nước, cô Ba vẫn nhảy xuống đo nằm một cách vô cùng thoải mái, giống như người ta nằm trên chăn nệm ấm êm vậy!
Cuối cùng, ông Cả đành phải làm cửa buồng để nhốt cô lại. Mỗi khi cần đưa con gái đi tắm rửa, vệ sinh thì bà Cả tự tay mở cửa, còn thì cứ khóa trái, bỏ mình cô Ba trong đó.
Trong buồng có một cái cửa sổ nhỏ trông ra vườn sau. Cô Ba thường xuyên ngồi áp mặt vào đó nhìn ra ngoài, bất chợt có ai đi ngang, cô lại phùng mang trợn má phun phì phì như rắn hổ mang.
Cái tin cô Ba con nhà ông Cả bị ma nhập lan truyền đi rất nhanh, chẳng mấy chốc người trong làng ai ai cũng biết.
Vợ chồng ông Cả vừa xót con, vừa thẹn mặt với xóm giềng, không bao lâu mà cả hai ông bà đều gầy đi trông thấy. Tóc trên đầu bà Cả cũng bạc nhiều hơn.
Đôi lúc bà Cả gợi ý với chồng nên làm lễ cũng cầu siêu cho đứa bé, hy vọng bệnh tình của con gái mình có được thuyên giảm chút nào không, nhưng ông Cả khăng khăng từ chối.
Ông bảo, nếu bây giờ làm lễ cầu siêu cho nó chẳng khác nào mình thừa nhận cái chết của nó có dính líu tới mình sao? Nhưng ngày nào bà Cả cũng than phiền ca cẩm, và nhìn con gái không còn ra giống người nên ông Cả đồng ý lập đàn cầu siêu cho đứa bé.
Đàn được lập lên ở bãi đất hoang sau nhà, nơi có cái vũng ông Cả đào hôm nọ. Thầy chùa được mời tới cúng cầu siêu, đồng thời thầy pháp cũng được mời tới để cúng trục hồn ra khỏi khu vực nhà ông.
Nhưng thật kỳ lạ, tất cả nhang đèn vừa mới thắp lên bỗng vụt tắt hết, dù ngoài trời hôm ấy không có một ngọn gió, cây cối đứng im lìm, không hề lay động.
Thắp hàng chục lần vẫn không được, cuối cùng cả thầy pháp lẫn thày bùa đều phải cúng chay, không nhang đèn gì nữa!
Cô Ba được dắt ra ngồi trên một chiếc ghế đặt cạnh đó.
Cô mở to cặp mắt dài dại nhìn ông thầy pháp múa may bắt ấn, cô bỗng cười lên một tràng man dại rồi bất thần nhảy vội ra, múa may quay cuồng còn hơn cả ông thầy pháp.
Ông thầy pháp lắc đầu, cuốn gói dẫn đám âm binh về lại am nhà mình vì biết có cố gắng đến đâu cũng không trừ được.
Từ ngày ngã bệnh, cô Ba hoàn toàn không nói gì được nữa, khi muốn nói điều gì thì cô lại phùng mang trợn mắt, miệng phun phì phì trông rất ghê rợn.
Đang đêm, có khi cô bật lên một tiếng hú thật dài, làm những nhà lân cận cũng phải giật mình sởn cả gai ốc.
Bà Cả đi coi thầy bà khắp nơi, đa số đều bảo con gái bà bị một vong hồn nhập vào và khống chế, không có cách nào trừ khử được, ngoài cách đem chôn sống cô con gái thì họa may mới ngăn chận được sự truyền kiếp của con yêu tinh kia.
Bà Cả vô cùng đau đớn. Dù sao thì cô Ba cũng là đứa con gái mà bà hết lòng thương yêu, chìu chuộng, dẫu nó thế nào bà cũng không thể đem nó đi chôn sống được!
Riêng phần ông Cả, thời gian đầu thấy con gái bệnh như vậy ông cũng đau lòng lắm, cũng lo chạy thầy chạy thuốc cho con. Nhưng khi đã không còn hy vọng gì thì ông lại đâm ra thù ghét chính đứa con gái đang bệnh tật của mình!
Chính vì nó mà bây giờ người trong làng này và cả những làng lân cận tha hồ mà chê bai, mà bươi móc và nói xấu gia đình ông. Chính vì nó mà uy tín của ông trong giới chức sắc đã giảm sút nghiêm trọng. Chính vì nó mà giờ đây mỗi khi ra đường ông không còn dám ngẩng cao đầu kênh kiệu như trước nữa!
Bởi vậy khi nghe tới việc đem cô Ba đi chôn sống, trong thâm tâm ông Cả cũng muốn thực hiện điều đó ngay tức khắc, nhưng ngặt nỗi bà Cả lại dứt khoát bảo vệ cô Ba tới cùng, ông đành phải bó tay thúc thủ, nhưng ông vẫn luôn mong muốn đứa con gái đó chết đi!
Đúng rồi, nó mà chết đi, sự việc này rồi sẽ nhanh chóng chìm lắng xuống, người ta sẽ lãng quên dần và ông sẽ lại nghênh ngang như trước!
Lúc này thú tính trong con người ông Cả bắt đầu trỗi lên dữ dội.
Ông âm thầm thực hiện âm mưu để sát hại con gái của mình.
Để che mắt mọi người, ông Cả bỏ gần một ngày trời để đi lên chợ Tỉnh mua một ít thuốc độc về giấu kín trong nhà. Mỗi ngày, canh lúc bà Cả sắc thuốc cho cô Ba, ông Cả lại lén bỏ vào siêu thuốc một ít.
Liên tiếp bốn năm ngày như vậy thì sức khỏe của cô Ba bắt đầu sa sút nghiêm trọng. Thế nhưng lần này ông Cả không cho bà Cả mời thầy lang nữa, ông bảo không thuốc thang gì hết đâu, có lẽ mạng số nó đã tới rồi. Bà Cả tuy đau lòng vô hạn nhưng vẫn phải nghe lời chồng, trong thâm tâm bà cũng nhận thấy thà rằng để cho cô Ba chết đi còn hơn phải kéo dài kiếp sống khốn khổ như vậy!
Trong lúc thân thể suy kiệt trầm trọng, cô Ba vẫn không ngừng những phát ra những tiếng phì phì, những tràng cười ma quái và những tiếng hú vang dội nửa khuya.
Ông Cả căm tức lắm, số độc dược ông bỏ vào siêu thuốc những ngày sau còn nhiều hơn nữa.
Cô Ba đã không còn đi đứng hay cười hú gì được nữa. Giờ đây cô chỉ còn là một cái xác da bọc lấy xương, thoi thóp trên giường.
Thấy con gái đã quá yếu, bà Cả cho đem con ra nhà ngoài để tiện việc chăm sóc.
Buổi trưa hôm đó, bà Cả gọi chồng nhắc ghế xích tới nằm nghỉ trưa cạnh đó để trông chừng con gái, bà phải chạy ra chợ mua một ít đồ cần dùng.
Ông Cả đang nằm lim dim mắt trên ghế xích đu thì bất thần cô Ba từ trên giường nhào xuống, chạy như bay tới ôm lấy cổ ông Cả, cắn vào đó một phát thật sâu rồi cô ngã vật ra sau, trút hơi thở cuối cùng.
Bà Cả đi chợ về, trước mắt bà là một cảnh tượng kinh hoàng mà bà không thể nào tưởng tượng ra được: Đứa con gái của bà nằm chết thẳng đơ dưới đất, cạnh bên đó là chồng bà, ông Cả, đang nhảy múa lung tung, trên cổ ông một dòng máu đang ri rỉ chảy dài xuống dưới.
Vừa lo đám tang cho con, bà Cả vừa phải canh giữ ông chồng đang cuồng tâm loạn trí.
Dân làng kéo đến thật đông, nhưng không phải họ đến để chia buồn hay giúp đỡ bà Cả, mà chủ yếu họ kéo đến vì tò mò, vì muốn tận mắt chứng kiến cái ngày tàn của một gia đình bạo chúa trong vùng.
Bà Cả khóc hết nước mắt. Trông bà lúc này thật hiền lành, nhỏ bé khiến cho mấy bà mấy cô trong làng không khỏi ngậm ngùi thương xót, ban đầu họ đến để thỏa mãn tính tò mò, nhưng trước thảm cảnh của gia chủ, họ cũng động lòng và bắt tay vào giúp đỡ.
Tang ma rồi cũng xong, nhưng cái trò ngớ ngẩn của ông Cả thì ngày một nặng lên thêm, giống y như cô Ba lúc trước.
Ngày nào ông cũng lò dò đi ra sau nhà, tìm tới cái vũng đó mà nằm xuống dưới. Bà Cả phải cho người lấp lại nhưng cứ sổng được ra là ông Cả lại cào cấu, moi móc cho bằng được!
Nhiều lúc quá đau khổ, bà Cả chỉ muốn mua thuốc chuột về để cả hai vợ chồng cùng chết! Nhưng nghĩ là nghĩ vậy chứ bà Cả đâu dám. Bà vẫn phải sống dù mỗi ngày lưng bà một còng hơn dưới sức nặng tinh thần mà bà bắt buộc phải mang vác trên lưng.
Cậu Hai vô cùng kinh sợ trước những việc xảy ra liên tiếp trong gia đình. Từ nhỏ, cậu quen được chăm sóc, chìu chuộng, cậu không hề biết được trách nhiệm của mình, cho nên trong lúc gia đình lâm vào cảnh hoạn nạn như thế, là con trai lớn trong nhà, cậu Hai hoàn toàn không giúp gì cho mẹ mà trái lại cậu còn trở thành gánh nặng của bà Cả.
Sau khi ông Cả phát bệnh mấy ngày, cậu Hai một mực đòi bà Cả cho tiền để cậu lên chợ Huyện mướn nhà đi học, cậu không chịu hịc ở trường xã gần nhà nữa.
Vậy là từ hôm đó, trong nhà chỉ còn lại vợ chồng bà Cả.
Ban ngày còn có người làm ra vô, sợ nhất là vào lúc ban đêm, chỉ một mình bà với ông, bà lo lắng lắm.
Bà Cả gọi một người giúp việc, nhờ họ đêm đêm tới ngủ canh nhà giúp bà, nhưng người nào cũng kiếm cớ thoái thác đi, vì ai trong số họ cũng rất ngán sợ khi nghe nói tới việc ngủ đêm lại trong căn nhà đầy ma quái!
Ông Cả cũng như cô Ba, cứ mỗi ngày một nặng thêm lên. Bây giờ thì bà Cả phải nhốt ông vào buồng như nhốt cô Ba dạo nọ.
Mấy tháng trời đằng đẵng trôi qua, ông Cả bị đày đoạ xác thân, không ai có thể nhận ra ông nữa! Đâu rồi một ông Cả quyền uy giàu có mà ai ai cũng nể sợ? Giờ đây ông là một bộ xương người được dọc bên ngoài bằng một lớp da mốc thếch, nhăn nheo.
Tóc râu ông tua tủa, hai má hóp vào, hố mắt sâu hoắm, thoạt nhìn rõ ràng là hình dạng của một chiếc sọ người.
Ông không ngừng đập phá đồ đạc trong nhà, khóc lóc tỉ tê, cười bằng giọng cười ma quái với những âm sắc lạnh người, tiếng hú của ông bây giờ nghe còn vang dội gấp mấy lần tiếng hú của cô Ba.
Bà Cả thì ngày một mỏi mòn trong đau khổ.
Một hôm, sau khi cho ông ăn uống, bà Cả cẩn thận khóa kín cửa buồng rồi đi sang nhà bên cạnh hỏi mua một ít lá sả về nấu nước xông vì từ chiều hôm qua đến nay bà thấy trong người gai gai sốt.
Chừng trờ về, bà Cả thất kinh hồn vía khi thấy cánh cửa buồng đã bị phá nát, ông Cả cũng biến mất tăm.
Bà Cả liền nghĩ ngay tới vũng mà ông vẫn thường chạy tới mỗi khi bà lơ đễnh, nên bà tất tả gọi thêm mấy anh người làm đi theo ra đó.
Quả thật, ông Cả đã dùng tay moi được một lỗ rộng chừng bằng cái mâm ăn cơm, và lúc này đây ông đang nằm sấp, mặt úp xuống dưới đó.
Khi người ta vực ông Cả dậy thì ổng đã tắt thở từ lâu.
Đám tang ông Cả vừa xong, cậu Hai ôm một mớ tiền rồi ra đi biền biệt. Bà Cả thuê mướn người đi tìm cậu về ròng rã gần nửa năm trời vẫn không dò la được tin tức.
Gia tài tiêu tán, con trai bặt tin. Bà Cả quá sức đau buồn nên đâm ra ngớ ngẩn.
Ai nói gì bà cũng cười, ai bảo gì bà cũng dạ, bà trở nên ngoan ngoãn như một đứa trẻ con.
Cũng nhờ vậy, những ngày cuối đời của bà còn có được sự thương hại của bà con lối xóm.
Đến lúc bà Cả chết đi, cậu Hai vẫn không thấy quay trở lại, không biết cậu có còn sống trên đời hay đã về sum họp với gia đình ở một nơi nào đó?