Truyện ma của Nguyễn Thị Mộng Thu

Thay đổi trang: 123 > >> | Trang 1 của 4 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 99 bài trong đề mục
Tác giả Bài
nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện ma của Nguyễn Thị Mộng Thu - 09.08.2009 21:48:22
                              BÔNG HỒNG BIỆT LY
 

- Mẹ ngồi đây chờ chị, con đi loanh quanh đâu đó trong khuôn viên này thôi, không được đi xa nghen, Yến!
Chị Lê căn dặn con gái.
Cô bé dẩu môi nũng nịu:
- Mẹ làm như con còn bé lắm vậy! Năm nay con đã là nữ sinh lớp mười rồi đó nhe, mẹ đừng đối xử với con giống như đứa bé mới lên ba nữa mẹ ơi!
Chị Lê bật cười, nguýt yêu con:
- Mồ tổ cô, lớn lắm rồi đấy hử? Cái tính nhõng nhẽo con nít còn chưa bỏ được mà học đòi làm người lớn rồi kia à?
Yến chạy tới ôm lấy vai mẹ, dụi dụi má vào mái tóc chị Lê:
- Mẹ cứ nói vậy hoài hà… con lớn thiệt rồi chứ bộ!
Chị Lê vòng tay ra sau vuốt lưng con gái:
- Ừ thôi, con gái mẹ lớn rồi, được chưa?
Yến sung sướng mỉm cười:
- Dạ được! Mẹ tuyệt vời!
Và nhanh như cắt, Yến cúi xuống hôn đánh chụt lên má mẹ một cái rồi chạy đi, chị Lê ngồi nhìn theo con, mỉm cười hài lòng.
Đã bước gần tới tuổi năm mươi, niềm vui duy nhất của chị Lê nhiều năm nay chính là hai cô con gái xinh tươi, ngoan ngoãn.
Anh Tâm chồng chị mất cách đây mười bốn năm, lúc sắp đến ngày thôi nôi con bé Yến. Anh ra đi đột ngột sau một tai nạn giao thông, bỏ lại chị bơ vơ với hai đứa con gái nhỏ.
Ngày ấy Hiền, chị gái Yến đã được năm tuổi, nhưng vẫn chưa thấu hiểu được nỗi đau mất cha là thế nào. Con bé cứ cười vui khi thấy nhà mình có đông người ra vô, nhưng khi thấy mẹ khóc lả người thì nó cũng òa lên khóc theo. Đôi lúc nó còn có vẻ sung sướng khi được người ta đội lên đầu nó một vành khăn trắng.
Nhìn thấy hai đứa bé còn khờ dại, chị Lê càng đau đớn nhiều hơn.
Chị và anh Tâm sống với nhau chưa được ba năm. Trước kia anh Tâm đã có một đời vợ, nhưng vợ anh không may qua đời khi sinh bé Hiền. Anh một mình làm thân gà trống nuôi con.
Cảm thương cho hoàn cảnh của anh mà chị Lê đem lòng yêu anh lúc nào không biết.
Chị đến với anh Tâm cũng không mấy suôn sẻ do sự cản trở của gia đình. Chị là gái mới lớn lên, lại là người có nhan sắc, cha mẹ chị không muốn con gái mình phải mang tiếng dì ghẻ nên không đồng ý cho chị về làm vợ anh Nam. Chị đã phải khóc lóc, thuyết phục rất lâu mới được sự chấp thuận của ba mẹ.
Thương anh Tâm, chị Lê cũng thương bé Hiền như con ruột của mình. Con bé rất ngoan và cũng yêu thương chị lắm. Rồi sau đó chị sinh thêm bé Yến, gia đình rộn rã tiếng cười, hạnh phúc tưởng sẽ đong đầy, ai ngờ trời cao ghen ghét…
Mười mấy năm trôi qua, chị Lê khép chặt lòng mình trước biết bao lời bướm ong ve vãn. Chị chuyên tâm làm việc và nuôi dạy hai đứa con gái.
Hiền thi đỗ vào Đại học, gánh nặng trên vai chị Lê càng oằn thêm nhưng chị lại vui sướng vô cùng!
Người ta thường nói: “Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời mẹ ghẻ yêu thương con chồng”, nhưng với chị Lê lại khác. Bất cứ người nào nhìn vào cũng không thể biết được Hiền không phải là con ruột của chị.
Từ lúc hai đứa còn bé, những khi chơi đùa chọc ghẹo lẫn nhau, cấu véo nhau rồi dẫn vô méc mẹ. Chị Lê không bao giờ bênh vực Yến mà xử ép Hiền. Lúc nào chị cũng phân xử công bằng, giải thích rõ ràng rồi mới áp dụng hình phạt. Những người sống gần chị, ai cũng thầm thán phục cách cư xử khéo léo và tình cảm bao la của chị.
Những ngày Hiền mới đi học xa nhà, đêm nào chị cũng khóc. Chị bảo nhà chỉ có ba mẹ con, giờ vắng một đứa không chịu nổi.
Cứ một hai tuần là Hiền lại về quê thăm mẹ và em, nhưng việc học mỗi ngày một bận bịu, thời gian nghỉ rất hiếm hoi, khi những cuộc về quê của Hiền có phần thưa thớt, thì chị Lê lại bắt đầu thường xuyên lên thành phố thăm con.
Lần này, vừa thu hoạch xong vụ mùa, sẵn dịp Yến còn chưa nhập học, chị lên thăm Hiền và dẫn Yến theo để con gái biết thành phố là thế nào, điều mà mấy lúc gần đây nó vẫn thường khao khát.
Hai mẹ con lên nhằm lúc Hiền thi cử nên chưa có thời gian dẫn mẹ và em đi chơi đây đó. Ngày nào cũng vậy, những lúc Hiền đi học hoặc đi dạy thêm thì chị Lê và Yến thường ra công viên Hoa Lan gần chỗ trọ của Hiền để ngồi chơi hóng mát. Vì trong phòng trọ quá chật chội, một người quen cuộc sống thôn quê như chị cảm thấy rất tù túng.
Lúc chiều trước khi đi dạy kèm, Hiền nói với em gái:
- Ngày mai chủ nhật, chị rảnh một bữa, chị sẽ đưa mẹ và em đi Suối Tiên chơi nhe, thích không?
Khỏi phải nói cũng biết Yến thích thú đến độ nào rồi! Cô bé cứ nôn nao hỏi mẹ đủ thứ về Suối Tiên, nhưng chị Lê có hơn gì Yến, chị cũng chỉ biết sơ sơ về nới đó qua ti vi mà thôi.
- Mẹ ơi, ngày mai ba mẹ con mình chụp chung một tấm hình thiệt đẹp ở Suối Tiên nhe mẹ? À, mà sao người ta gọi là Suối Tiên mẹ nhỉ? Ở đó có suối không mẹ? Nếu có, con sẽ lội xuống đó để… biến thành tiên?
Yến hí hửng đùa vui.
Chị Lê cười:
- Mẹ cũng không biết ở đó có suối tiên hay không, nhưng nếu có mẹ nhất định không cho con tắm, vì con thành tiên rồi, con sẽ bỏ mẹ lại một mình buồn lắm, mẹ không đồng ý đâu!
Yến bá vai mẹ, cười ngặt nghẽo:
- Trời ơi, coi mẹ kìa… mẹ xấu quá! Mẹ không muốn con gái mình thành tiên sao?
Chị Lê giả bộ nghiêm nghị:
- Ừ, tui xấu vậy đó, bởi tui thương con tui lắm, tui không nỡ rời xa nó giây phút nào đâu, tui muốn con tui cứ làm người ở chốn trần gian này để mẹ con hui húc có nhau… Như vậy là tui cũng cảm thấy mãn nguyện lắm rồi, hạnh phúc lắm rồi, không cần mơ ước cao xa gì nữa!
Yến ôm mẹ chặt hơn:
- Con nói đùa thôi mà, con cũng chẳng muốn thành tiên! Con chỉ muốn làm con gái cưng của mẹ thôi, mẹ há? Làm con gái của mẹ hổgn chừng còn sướng hơn tiên nữa đó!
Chị Lê phát vào mông con:
- Cô khéo nịnh vừa thôi chứ! Mới đòi bỏ tui để làm tiên, giờ lại dẻo nẹo nói thế, ai hiểu được lòng cô ra sao mà lần đây?
- Ai không hiểu được con thì kệ họ, nhưng con biết mẹ là người hiểu con nhất mà, đúng không mẹ? Con chỉ mới có ý nghĩ thoáng qua trong đầu thôi là mẹ đã biết tỏng rồi… Mẹ là nhất, là số một của con mà!
Yến vừa nói vừa dụi dụi mặt vào gáy mẹ làm cho chị Lê nhồn nhột không nín được cười.
- Trời ơi, để mẹ nhớ lại xem ngày xưa ai móc miếng cho con mà bây giờ con gái mẹ ăn nói miệng lưỡi đến thế kia…
Hai mẹ con cười đùa vui vẻ. Tiếng cười giòn tan của Yến vẳng sang phòng bên cạnh làm mấy cô bạn học của Hiền cũng cảm thấy vui lây. Các bạn Hiền ai cũng ngưỡng mộ tình cảm yêu thương quấn quýt của ba mẹ con chị Lê dành cho nhau.
Hôm nay Hiền sẽ về muộn vì cô có đến hai suất dạy kèm. Trời sụp tối, cơm nước xong, hai mẹ con chị Lê lại dắt nhau ra công viên ngồi chơi.
Công viên Hoa Lan không lớn lắm nhưng cây cối, hoa kiểng được trồng rất đẹp mắt. Những buổi sáng sớm và chiều tối, người ta tập trung ở đây rất đông, có đủ mọi thành phần trong xã hội. Những người lớn tuổi đến đây tập thể dục, tập dưỡng sinh, những bà mẹ đưa con đi dạo, những cô cậu học trò ra đây ngồi học bài hoặc vui đùa, tâm tình với nhau… đủ thứ!
Chị Lê thích ngồi trên một chiếc ghế đá ven lối đi từ cổng vào để vừa quan sát được bên trong công viên, vừa nhìn rõ những dòng người xe tấp nập ngoài đường.
Riêng Yến, cô bé rất thích công viên này, nhất là bồn hoa hồng ở đằng góc trái công viên.
Hôm qua, khi lần đầu tiên phát hiện ra bồn hoa đó, Yến vui như tết. Cô chạy ào tới kéo tay chị Lê, một hai đòi mẹ phải đến tận đó để cùng cô chiêm ngưỡng:
- Mẹ ơi, mẹ đến rồi sẽ thấy, đẹp mê hồn mẹ ạ! Mẹ mà không tới nhìn, con đảm bảo cả đời này mẹ sẽ ân hận đó!
- Gì mà ghê vậy con?
Chị Lê cười, chị biết tính con bé vẫn thế, thường nói quá lên một chút để nâng tầm quan trọng của sự việc.
Yến nắm tay mẹ đi băng băng qua mấy lối quanh co, khi gần tới nơi Yến không kiềm được đưa tay chỉ:
- Mẹ xem kìa, đẹp chưa?
Chị Lê ngạc nhiên thật sự. Bồn hoa quá đẹp.
Hồng thì chị thấy nhiều rồi, ở dưới quê, chị cũng trồng mấy khóm hoa hồng, đủ loại, đủ màu sắc. Nhưng trước mặt mẹ con chị lúc này là một bồn hoa rất to, chỉ trồng duy nhất một loại hồng nhung, mà hình như hôm nay tất cả  các nhánh, các cành đều nở rộ hoa. Một màu đỏ thẫm đẹp đến sửng sờ! Hèn gì con bé Yến của chị không khen nức nở như thế!
- Mẹ ơi, mẹ nhìn kỹ đi, rồi khi về nhà, mình cũng thiết kế một bồn hoa y chang như vầy nghen mẹ! Con bảo đảm với mẹ, nhà mình mà trồng được bồn hoa như vầy, bất kỳ ai đi ngang đều phải dừng chân lại để chiêm ngưỡng và trầm trồ khen ngợi…
Yến tỏ ra rất phấn khích.
Chị Lê cười:
- Thôi đi cô nương! Nhà chỉ có đàn bà con gái, trồng chi bồn hoa to đẹp thế này, ong bướm đến dập dìu mất công tui phải lo âu thêm nữa!
- Mẹ này!
Biết mẹ chọc quê mình, Yến mắc cỡ đỏ mặt, ngúng nguẩy buông tay mẹ.
Đi lòng vòng bồn hoa một lát, Yến bước tới nói thầm vào tai chị Lê:
- Mẹ ơi, con ngắt trộm một bông đem về làm kỷ niệm, được không mẹ?
Chị Lê nghiêm mặt:
- Không được đâu con! Con nghĩ xem, mỗi ngày có biết bao người tới công viên, nếu ai cũng ngắt lấy một bông để làm kỷ niệm như con thì bồn hoa này chỉ trong chớp mắt sẽ biến thành xơ xác, còn đâu nữa cho người khác thưởng thức. Con mà hái, sẽ bị bảo vệ phạt tiền, nhưng phạt là chuyện nhỏ, chuyện lớn hơn đó là ý thức của mình đấy con ạ!
Yến phụng phịu:
- Thì con chỉ hỏi vậy, bởi thấy mê quá, chứ con có hái đâu mà mẹ la con như thế!
Chị Lê cười:
- Mẹ cũng chị nhắc chừng con vậy thôi mà, mẹ có la con gái cưng của mẹ đâu nào!
Suốt buổi tối hôm qua, hai mẹ con chị Lê cũng chỉ quanh quẩn chỗ bồn hoa hồng ấy.
Tối nay chị Lê không đi dạo công viên, vì cảm thấy hai cổ chân râm ran đau, chắc là chứng viêm khớp lại bắt đầu tái phát. Chị không nói ra vì sợ hai con lo lắng, nhưng từ hơn hai năm nay, chị đến khổ sở vì cái bệnh này.
Chị ngồi trên ghế đá công viên, nhìn người nhìn cảnh mà nhớ về quá khứ và nghĩ tới tương lai…
Hiền đang học năm thứ hai Đại học, và rồi khi Hiền ra trường lại tới lượt Yến. Yến học học hành giỏi giang, năm nào cũng đạt loại giỏi nên việc Yến vào Đại học chị Lê không lo lắng lắm. Chị chỉ nghĩ tới việc làm lụng kiếm tiền để nuôi hai con, không để nó quá thiếu thốn mà lơ là việc học.
Ngay như việc nhận dạy kèm của Hiền, chị Lê cũng không đồng ý.
Chị nói với con gái:
- Con cứ lo tập trung vào học, việc kiếm tiền nuô icon ăn học là bổn phận của mẹ, con đừng kiếm thêm tiền mà bỏ bê bài vở, mẹ không muốn kết quả học tập của con bị hạn chế! Tuy nhà mình không giàu có dư giả gì, nhưng mẹ vẫn còn đủ sức để lo cho hai con mà, con yên tâm đi!
Hiền ôm mẹ, sung sướng:
- Mẹ!... con biết mẹ thương con, không muốn con phải vất vả làm thêm kiếm sống. Nhưng mẹ cho phép con đi dạy kèm nghen mẹ, vì ngoài mục đích kiếm thêm tiền đỡ gánh nặng trên vai mẹ, thì đó cũng là cách để con thực tập những điều đã học được trên giảng đường. Con học ngành Sư phạm, bây giờ cho điều kiện đi dạy kèm cho người ta, mai này khi ra trường con sẽ có được nhiều kinh nghiệm hơn là cứ chúi đầu vào bài vở, mẹ nghĩ xem con nói đúng không hở mẹ?
Cuối cùng rồi thì chị Lê bị con gái khuất phục. Chị học hành không nhiều nên chị muốn con chị phải được khác hơn. Nhưng trước những lời giải thích cặn kẽ của Hiền chị cũng thấy đúng nên đồng ý cho Hiền đi dạy thêm kèm theo lời dặn:
- Khi nào bài vở nhiều quá hoặc sức khỏe không cho phép thì con đừng cố gắng nhé! Phải đặt việc học và sức khỏe của bản thân lên hàng đầu, con phải nhớ lời mẹ dặn đó nghe không?
- Dạ, con ghi nhớ ạ!
Hiền siết chặt mẹ trong vòng tay mà nghe lòng mình vô cùng ấm áp.
Hồi bé, Hiền hoàn toàn không biết mình không phải con ruột do mẹ sinh ra, nhưng khi lớn hơn một chút, chị Lê đã chính thức kể lại ngọn nguồn cho Hiền tường tận để cô biết yêu thương và chăm sóc mộ phần cũng như hương khói tưởng nhớ người mẹ đã hy sinh sự sống của mình để cho Hiền được ra đời mạnh khỏe.
Ngày ấy, lúc sinh Hiền, khi được cho biết chỉ có thể cứu được một người, hoặc là người mẹ hoặc là đứa con, chính mẹ ruột của Hiền đã khóc lóc van xin người ta hãy cứu lấy đứa bé vô tội đang đòi được sống!
Từ đó Hiền biết mẹ Lê không phải mẹ ruột của mình, nhưng biết chỉ để biết và để yêu thương mẹ Lê nhiều hơn mà thôi.
Nhiều lúc nghe người ta nói đến chuyện mẹ ghẻ con chồng, Hiền đã cố gắng nhớ lại từng chi tiết, từng sự việc từ bé đến lớn mà cô còn nhớ được để xem mình có bị mẹ ghẻ ghét bỏ hay không. Nhưng tuyệt nhiên Hiền không tìm được.
Hồi nhỏ cũng có đôi lần Hiền bị mẹ đánh, nhưng hoàn toàn không phải vì ghét, vì muốn hành hạ cho thỏa tính ích kỷ nhỏ nhen, mà mẹ đánh Hiền bằng tấm lòng yêu thương của một bà mẹ.
Đánh Hiền xong, mẹ lại ôm Hiền vào lòng mà chảy nước mắt rồi lấy dầu xoa những vết đỏ trên mông con gái. Ngay cả lúc bị đòn, dù còn rất bé Hiền cũng biết đáng ra mình còn phải bị đòn nhiều hơn mới đáng tội, Hiền không giận mẹ lúc đó, thì sau này khi đã khôn lớn, khi đã biết suy xét, Hiền làm sao có thể giận mẹ cho được?
Hiền không quên những tháng ngày đói kém do mùa màng thất bát. Lúc đó Hiền bệnh, cứ nằng nặc đòi ăn cháo với thịt chà bông. Mẹ đã dành dụm từng đồng đi chợ mua cho Hiền một tí thịt chà bông như Hiền ao ước. Lúc Hiền ăn, bé Yến ngồi bên cạnh nhìn lom lom vào miệng chị, nhưng Hiền hồi ấy tham ăn lắm, cô nhất định làm lơ, không cho em được miếng tí ti nào. Con bé cứ nuốt nước miếng ừng ực còn Hiền lại cảm thấy hả hê vì ngon miệng.
Sau này mỗi lần nhớ lại cảnh đó, Hiền lại ứa nước mắt, thương em thương mẹ nhiều hơn…
Tình cảm của ba mẹ con chị Lê ngày càng thêm thắt chặt. Hai đứa con chính là nguồn sống, là hạnh phúc duy nhất trong đời chị từ bấy lâu nay. Nhìn các con ngày một trưởng thành lòng chị được an ủi nhiều lắm, vì chị đã không phụ lòng tin của chồng trước giờ nhắm mắt…
Đang mơ màng, chị Lê bỗng nghe có tiếng người ồn ào trong góc công viên, tiếng la gọi bảo vệ, tiếng chân chạy huỳnh huỵch gấp rút.
Chị Lê chột dạ, chỗ đó là chỗ bồn hoa hồng, chẳng lẽ con bé Yến của chị lại hái trộm bông để bảo vệ bắt được? Nó rất ngoan mà, hôm qua chị đã nói thế thì nó dù có ham thích đến đâu cũng không dám làm bậy! Nhưng nếu chỉ là hái trộm bông, sao lại có vẻ khẩn trương và hoảng hốt đến vậy?
Chị Lê vội vã đứng lên và đi nhanh về phía đó, không nhớ gì tới cơn đau vừa mới xuất hiện không lâu nơi cổ chân mình.
Càng gần tới bồn hoa, lòng chị Lê càng thêm lo lắng vì thấy người ta xúm lại đông nghẹt chỗ đó.
Chị Lê cố gắng chen vào, bên tai chị nghe những lời càng làm nỗi lo trong lòng chị lớn thêm:
- Trời ơi, tội nghiệp con bé! Không biết con cái nhà ai…
- Yến! Yến ơi… con đâu rồi Yến ơi!
Chị Lê hoảng hốt gọi to, chị không nhớ được hiện tại khu vực này người ta ồn ào, dù chị có gọi to hơn nữa cũng khó lòng tìm con gái được, thế nhưng chị vẫn cất tiếng kêu hốt hoảng.
Có lẽ thấy dáng vẻ của chị có gì đó bất thường nên mọi người đã giãn ra dành lối cho chị tiến vào gần bồn hoa.
Chị Lê bủn rủn té quỵ xuống khi thấy sát bên bồn hoa là một đứa bé gái đang nằm xuội lơ, mà đứa bé đó không ai xa lạ, chính là Yến, đứa con gái yêu quý của chị!
Chị Lê vừa bò vừa lết tới bên con, chị gào to:
- Trời ơi! Yến ơi! Con… con sao vầy nè? Mọi người làm ơn cứu con tôi với, cứu con tôi…
Một ông bác sĩ có phòng mạch tư sát bên đó được mọi người tới báo đã vội vã chạy tới.
Sau khi kiểm tra, ông lắc đầu, nói với bảo vệ công viên:
- Cô bé đã tắt thở rồi! Anh báo cho cơ quan chức năng tới giải quyết đi!
Đám người hiếu kỳ bu xung quanh càng ồn ào hỗn loạn lên khi nghe tin đó, còn chị Lê thì suýt ngất đi, chị nhào tới ôm lấy xác con, nhưng bảo vệ ngăn lại:
- Chị vui lòng chờ cho một chút, để cơ quan chức năng tới điều tra. Nếu chị làm mất đi dấu vết gì đó thì tôi không chịu trách nhiệm.
Vì là ở trung tâm thành phố nên không lâu sau những người có nhiệm vụ đã có mặt.
Cô bé được xác nhận đã tử vong và được được lệnh đưa về bệnh viện để xem xét nguyên nhân gây cái chết đột ngột của cô bé tội nghịêp ấy.
Chị Lê cuống cuồng khóc lóc, người ta phải dìu đỡ chị mới đứng lên nổi.
Khi Hiền biết tin và tìm tới bệnh viện thì chị Lê gần như đã hóa đá rồi. Chị không còn kêu khóc được nữa, nước mắt chị cũng không còn tuôn chảy. Chị ngơ ngác và lặng câm, mắt chị nhìn dài dại khiến Hiền vô cùng hoảng sợ.
Cô ôm chầm lấy mẹ, khóc òa lên:
- Mẹ ơi, mẹ bình tĩnh đi, mẹ đừng làm con sợ nghe mẹ!
Mãi tới khi nghe tiếng khóc của Hiền chị Lê mới chừng như sực tỉnh.
Chị bấu chặt Hiền:
- Con ơi, em Yến chỉ bị ngất như hồi bé nó thường bị ngất thôi, phải vậy không con? Con mau vô đó xem em tỉnh dậy chưa, mẹ cho em ăn cháo…
Hiền khóc nức nở. Cô biết cú sốc này đối với mẹ là quá lớn, có thể mẹ cô không thể vượt qua nổi.
Hiền vừa đau đớn vì mất em gái, vừa lo sợ trước tình cảnh hoảng loạn của mẹ, cô cũng rất bối rối không biết phải làm gì. May nhờ có mấy người bạn biết tin và đã tới đây cùng Hiền đã giúp Hiền nhiều việc.
Cuối cùng, người ta kết luận cái chết của Yến là do đột tử. Trên thi thể Yến có một vài vết cào xước của gai hoa hồng nhưng hoàn toàn không tìm thấy chất độc nào trong người cô.
Khi biết Yến có tiền sử bệnh tim, người ta càng khẳng định điều đó.
Chị Lê như một bóng ma vật vờ ngồi ôm chặt lấy quan tài con gái suốt chặng đường về quê.
Đám tang Yến xong xuôi, Hiền ở lại nhà với mẹ đúng một tuần lễ. Dù trong lòng không chút an tâm, Hiền vẫn phải trở về trường. Trước khi đi, cô định tới nhờ mấy người bà con đến chăm sóc mẹ ít ngày nữa, nhưng thật bất ngờ, chị Lê một mực đòi đi theo Hiền lên thành phố.
Hiền nghĩ, có lẽ mẹ sợ cảnh nhà quạnh vắng, mẹ không chịu nổi khi ngày ngày cô độc đối diện với bức ảnh cười thật tươi của Yến trên bàn thờ nên cô cũng tán thành việc mẹ đi cùng.
Thế là chìa khóa nhà được gởi lại người thân để mỗi ngày tới thắp nhang cho Yến.
Lên tới thành phố, Hiền có hơi an tâm khi thấy mẹ có vẻ bình tĩnh hơn.
- Con đừng lo gì cho mẹ, con cứ chuyên tâm vào việc học. Bây giờ mẹ chỉ còn lại mình con thôi, con phải cố gắng… Mẹ ở nhà một mình không sao đâu, con đừng lo!
Chị Lê nói với Hiền.
Mấy ngày đầu Hiền không thể không lo, cô nhờ các bạn tới lui dòm ngó giúp mẹ mình, nhưng rồi mọi việc vẫn bình thường, ngày ngày mẹ đi chợ về nấu ăn cho hai mẹ con, dọn dẹp căn phòng và những lúc rỗi mẹ lại ra công viên ngồi lặng im ở đó.
Mọi việc cứ lặp đi lặp lại như vậy nên Hiền cũng an tâm.
Nhưng Hiền không biết, tất cả mọi người đều không biết trong lòng chị Lê vẫn còn đang bão táp. Chị không cam tâm trước cái chết của con mình, chị không chấp nhận được nguyên nhân cái chết mà nhà chức trách đưa ra.
Mặc dù thật sự Yến có bệnh tim, trước đây thỉnh thoảng cô bé cũng bị ngất đi, nhưng sau đó lại tỉnh nhanh chóng. Và cũng đã mấy năm rồi tình trạng ngất cũng không thấy xảy ra, chị Lê mừng thầm vì nghĩ chứng bệnh của con đã dần dần bình phục.
Lần này, nếu Yến có ngất đi nữa thì cũng không thể chết một cách dễ dàng và nhanh chóng đến như vậy được!
Chị Lê quyết tâm phải tìm bằng được nguyên nhân chính.
Trong những ngày tang lễ của Yến, trong đầu chị Lê thường xuyên hiện ra cái cảnh tượng mà chị đã vô tình ghi nhận được trong lúc mọi người đỡ chị đứng lên khi nhà chức trách đưa thi thể Yến lên xe đi khám nghiệm.
Hình ảnh đó là, ở giữa cái bồn hoa hồng nhung đỏ thẫm, tối hôm ấy lại xuất hiện một bông hồng vàng mọc vượt lên cao, ngay trung tâm, và ngạo nghễ tỏa ra một vòng hào quan lấp lánh…
Hình ảnh đó đã khắc thật sâu trong trí của chị, không một giờ phút nào nó để chị yên. Và như có một điều gì đó thôi thúc mách bảo rằng, cái chết của Yến, chắc chắc có liên quan tới cái bông hồng vàng kỳ lạ đó.
Sau nhiều ngày lân la ở khu vực công viên, chị Lê tìm hiểu được rất nhiều chi tiết quan trọng.
Một lần khi nghe chị Lê giả bộ vô tình nhắc tới cái chết vừa rồi của cô bé gái, bà lão nhà ở gần đó, sáng chiều nào cũng ra công viên ngồi chơi đã tình cờ kể chị nghe:
- Cái công viên này coi thanh bình thoáng mát vậy chứ có nhiều điều kỳ bí lắm cô ơi!
- Điều đó là gì hở bà?
Chị Lê hồi hộp.
Bà lão chậm rãi:
- Ở đây hình như năm nào cũng có người chết! Mà lạ một điều, người chết toàn là những cô gái trẻ còn trinh trắng, những cái chết lại hoàn toàn giống nhau…
- Nghĩa là sao hở bà?
Chị Lê gần như ngộp thở.
- À… là cô gái nào cũng chết cạnh bồn hoa hồng đó, chết vào đêm trăng đẹp nhất trong năm, đúng vào đêm hoa hồng vàng nở.
- Bà nói… hoa hồng vàng…?
Chị Lê lắp bắp.
Bà lão gật đầu xác nhận, chỉ tay về hướng bồn hoa:
- Cô nhìn xem, cả bồn hoa chỉ trồng duy nhất một loại hồng nhung đỏ thẫm, điều đó thì ai ai cũng trông thấy rõ ràng rồi. Nhưng kỳ lạ một điều, vào đêm trăng đẹp nhất mỗi năm, ngay giữa bồn hoa lại nở ra một bông hồng vàng tuyệt đẹp, và đêm đó thể nào cũng có án mạng xảy ra. Những người dân ở gần đây tin tưởng vào sự huyền bí của đất trời, không ai dám cho con cháu mình tới đây chơi vào những ngày có trăng cũng bởi chính vì lẽ đó.
- Thế sao người ta không phá hủy bồn hoa đó đi?
Chị Lê có vẻ phẫn uất.
Bà lão thở dài:
- Những người duy tâm thì tin vậy, chứ về phía chính quyền, người ta chỉ tin vào kết luận khoa học. Những cái chết xảy ra giống nhau cũng gây thắc mắc không nhỏ, nhưng khoa học đã chứng minh các cô gái đều chết do bệnh tim, do đột tử… Bồn hoa cũng được các nhà khoa học xem xét kỹ lưỡng, hoàn toàn không có độc hại gì thì sao người ta lại phá bỏ nó được. Người ta cho rằng những cái chết như vậy chỉ là điều trùng hợp lạ lùng mà thôi.
- Mọi việc bắt đầu từ bồn hoa, từ cái bông hồng vàng đó…
Chị Lê lẩm bẩm.
Bà cụ ngạc nhiên hỏi:
- Cô nói gì thế?
Chị Lê lắc đầu:
- Dạ không, con có nói gì đâu! Con chỉ thấy mọi việc thật lạ!
Bà lão gật gù:
- Ừ, trên đời có nhiều việc lạ lắm, không sao hiểu được con ạ!
Từ khi nghe bà lão kể lại chuyện đó, trong lòng chị Lê càng nung nấu ý muốn khám phá ra tất cả sự thật.
Chị suy nghĩ thật nhiều, cuối cùng cũng nghĩ ra một cách.
Chị lân la làm quen với tay bảo vệ công viên. Anh chàng này hoàn toàn không nhớ chị chính là người đàn bà đau khổ vì mất con vừa mới đây mà chỉ biết chị theo lời chị kể: Có con gái học ở trên này, lên đây thăm con, ở trong phòng trọ tù túng nên thường ra công viên chơi cho khuây khỏa.
Hai người thường ngồi nói chuyện với nhau, anh bảo vệ công viên nhớ lại những kỷ niệm ngày nhỏ ở thôn quê, nghe chị nhắc quê nên hai người càng thêm thân thiết.
- Nói chuyện với cô, làm cháu nhớ quê quá! Giờ dưới quê cháu không còn ai nên lâu lắm rồi cháu không về dưới đó!
Anh bảo vệ cười.
- Ừ, khi nào có dịp về nhà cô chơi, cô sẽ đãi mấy món quê mùa, ăn một lần sẽ không sao quên được!
Chị Lê vỗ nhè nhẹ lên vai anh chàng, ra vẻ thông cảm.
Anh bảo vệ thật thà kể:
- Hồi nhỏ, cháu thích được bà ngoại cho ăn món cá lóc nướng trui. Lâu lắm rồi cháu chưa được ăn món đó!
Rồi anh nhoẻn miệng cười, nói thêm:
- Bây giờ cháu biết uống nữa, có món đó chắc…
Chị Lê cười cười không nói gì.

***
- Hôm nay cô đáp ứng mong muốn của cháu nè!
Sau hai ngày vắng mặt ở công viên, chị Lê xuất hiện trở lại với một túi thức ăn.
Chị kéo tay bảo vệ vào phòng bảo vệ rồi bày ra một dĩa cá lóc nướng trui với một bình rượu đế.
- Trời ơi, cô ơi! Cô làm cháu cảm động quá…
Anh ta reo lên.
Chị Lê nói với vẻ như ái nái:
- Ở đây không thể nướng cá bằng lửa rơm như dưới quê mình được, nên cá sẽ không thơm ngon bằng, cháu dùng tạm vậy, khi nào về quê cô, cô đảm bảo sẽ thết cháu một bữa cá nướng trui đúng nghĩa của nó!
Cậu ta cười bối rối:
- Nhưng cô ơi… uống rượu mà uống một mình thì sao mà ngon được?
Chị Lê động viên:
- Thì cháu tìm thêm một vài người bạn nữa tới đây cùng uống cho vui…
Cậu ta gãi đầu gãi tai:
- Nhưng… cháu đang làm nhiệm vụ mà!
Chị Lê gạt phắt đi:
- Ối, nhiệm vụ gì! Để đó cô coi giúp cho, chỉ là trông chừng người ta bẻ cây hái hoa thôi chứ gì?
Anh chàng bảo vệ:
- Dạ, thì cũng… cho có vậy thôi…
Chị Lê vỗ mạnh vào vai anh:
- Thôi, gọi bạn tới đi, cô coi chừng cho mà, yên tâm đi!
Anh chàng bảo vệ hí hửng phôn ngay cho bạn, không lâu sau hai chàng thanh niên trạc tuổi anh cùng đến, rồi cả ba bắt đầu vui vẻ cụng ly trong phòng bảo vệ ở gần cổng công viên.
Thời cơ đã đến rồi đây!
Chị Lê lảng vảng qua lại vài ba vòng rồi đi về hướng bồn hoa.
Vì cách đây không lâu mới xảy ra cái chết của Yến, nên giờ đây ở khu vực bồn hoa không có một bóng người lai vảng.
Chị Lê ngó quanh quất rồi nhẹ nhàng bước tới sát bờ rào lấy cây cuốc chim đã được chuẩn bị sẵn từ trước.
Chị cẩn thận bổ từng nhát xuống bồn hoa, chặt nát các bụi hồng được trồng dày đặc bên trong đó.
Khi bồn hoa bị phá hơn phân nửa, chị Lê phát hiện ra một con rắn màu xanh lục to gần bằng cổ tay. Tuy rất sợ hãi, nhưng ý chí của chị đã thắng, chị vung cuốc kết liễu đời con rắn.
Vừa khi đó đã có người phát hiện ra hành vi đào bới kỳ quặc của chị nên đã chạy vào phòng bảo vệ để báo cáo.
Anh chàng bảo vệ lúc này đã hơi chếch choáng chạy vội ra, ngạc nhiên kêu lên:
- Trời ơi, cô! Cô làm gì vậy cô? Cô định hại cháu hay sao vậy?
Chị Lê ngừng tay vừa lau những giọt mồ hôi rịn ra trên trán vừa nói:
- Cô xin lỗi cháu, cô sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm việc này! Cô muốn tìm ra sự thật cái chết của con gái cô!
Anh chàng bảo vệ ngơ ngác:
- Con gái cô?
- Đúng! Con gái cô, đứa bé gái vừa mới chết cách đây không lâu, ngay tại chỗ này!
Những người có mặt trong công viên đã kéo đến vây quanh chị Lê và anh chàng bảo vệ.
Chị Lê chỉ tay vào con rắn xanh to lớn đang nằm bên cạnh:
- Các người hãy nhìn đi, có thể chính con rắn này đã gây ra cái chết cho con gái tôi và nhiều người trước đây, nhưng tại sao khi khám nghiệm người ta lại không nhận biết điều này?
Mọi người ồ lên sợ hãi khi nhìn tận mắt con rắn ghê rợn ấy.
Anh chàng bảo vệ như tỉnh hẳn rượu, anh vội chạy trở vào phòng, lập cập gọi điện đi báo cáo.
Chị Lê giơ cao cây cuốc bổ tiếp những nhát hết sức mạnh mẽ. Chị quyết phá cho tan bồn hoa này, xem thử bên dưới còn chứa đựng những điều kỳ bí nào nữa hay không.
Một tiếng “Cốc” khố khốc vang lên khiến mọi người đứng đó đều hồi hộp.
Chị Lê cào cào lớp đất và không khỏi giật mình khi thấy bên dưới dần dần lộ ra hình dạng nắp của một chiếc quan tài!
Đến lúc này thì những người có mặt ngăn cản chị Lê, không cho chị tiếp tục đào bới nữa, họ bảo mọi việc chờ nhà chức tới.
Không lâu sau những người có thẩm quyền có mặt.
Người ta lấy xác con rắn đem đi xét nghiệm, và một bộ phận khác thì tiếp tục đào để đem chiếc quan tài lên.
Công việc đào bới không khó cũng không kéo dài, vì quan tài không nằm sâu dưới đất lắm.
Và khi nắp quan tài được mở ra, mọi người tưởng chừng muốn té xỉu khi thấy bên trong là xác của một cô con gái cỡ tuổi mười lăm, mười sáu nằm nhắm mắt bình yên y như đang ngủ. Hai bàn tay cô đặt ngay ngắn trên bụng còn cầm chặt một bông hồng vàng rực rỡ, giống y như bông hồng chị Lê đã trông thấy hôm nào!
Liên tiếp những ngày sau đó, những người dân sống quanh khu vực công viên Hoa Lan và cả những người hiếu kỳ ở xa đều không ngừng bàn tán đến những sự việc lạ lùng liên tiếp xảy đến ở công viên.
Các tờ nhật báo chạy tít lớn về vụ đó bán đắt như tôm tươi, khắp nơi nơi đi tới đâu cũng nghe người ta đem chuyện ấy ra mà bình phẩm rồi đoán già đoán non đủ thứ.
Sau nhiều ngày xét nghiệm, điều tra, người ta thông báo con rắn xanh kia hoàn toàn vô hại vì nó không có nọc độc, và trên người các cô gái đã tử nạn ở công viên đều không có vết răng cắn của con rắn ấy, nên loại trừ khả năng các cô chết do nọc độc của rắn xanh.
Còn về chiếc quan tài và tử thi cô gái ấy thì vẫn còn nằm trong vòng điều tra, chưa có kết luận cụ thể.
Chị Lê tuy đã phần nào khám phá ra được bí mật nhưng vẫn chưa bằng lòng với những điều còn chưa sáng tỏ. Tuy nhiên chị không thể sống mãi ở thành phố để dõi theo sự việc ấy khi mà sau một vài tuần sự việc ấy gần như đã chìm đi, để thay thế vô bằng những tin khác cũng giật gân không kém.
Buồn bã, thất vọng, chị Lê bảo với Hiền:
- Ngày mai mẹ phải trở về quê để lo mùa màng vườn ruộng và nhang đèn cho em Yến khỏi tủi thân. Con ở lại đây lo học hành, đồng thời để tâm theo dõi diễn biến của sự việc đó, nếu có tin tức gì mới, con nhớ lập tức nhắn về cho mẹ biết liền nghen con.
- Dạ, con nhớ rồi mẹ! Nhưng… một mình mẹ ở nhà… thật tình con không sao yên tâm được!
Hiền lo lắng.
Chị Lê cười trấn an con:
- Nhà mình ở dưới quê, bà con lối xóm đối đãi với nhau như bát nước đầy, mẹ có sống một mình đâu mà con sợ! Vả lại mẹ cũng trải qua nhiều mất mát rồi, mẹ… mẹ vẫn còn chịu đựng được con à… Con đừng lo cho mẹ, mà lo cho con kìa, con gì mà ốm ròm như thế chứ!
Hiền lặng im nhìn mẹ, lòng cô xót xa vô cùng. Chỉ mới một thời gian ngắn thôi mà tóc trên đầu mẹ nhiều sợi đã ngả sang màu trắng, lưng mẹ hình như còng hơn trước nỗi đau quá lớn vừa rồi, còn nụ cười của mẹ nữa, sao mà nó thê lương đến vậy?
Một người đàn bà tốt như vậy sao lại phải hứng chịu nhiều nổi đau to tát thế? Ông trời quả thật không công bằng hay tất cả là do duyên số nhân quả từ kiếp trước?
Hiền muốn khóc nhưng cô phải ráng dằn lòng lại, cô biết những lúc này, mình phải làm điểm tựa cho mẹ, mình không được yếu đuối, không được lung lay…
Hiền đưa mẹ về quê, bịn rịn chia tay nhưng cô đã thầm mừng trong bụng vì thấy mẹ mình đã rất dũng cảm chứ không quá bi lụy như mình vẫn tưởng.
Tiếp tục những ngày tháng buồn khổ vò võ một mình trong ngôi nhà quạnh vắng. Đêm nào chị Lê cũng thắp nhang trên bàn thờ Yến rồi khấn vái:
- Con ơi, con sống khôn thác thiêng về báo mộng cho mẹ biết nguyên nhân cái chết tức tưởi của con, kẻo mẹ chết không nhắm mắt… Yến ơi, con nghe mẹ nói không? Con phải về báo mộng cho mẹ nghe con, mẹ nhớ con lắm, mẹ muốn gặp con…
Dù là những lúc bận rộn nhất trong ngày, chị Lê vẫn không sao gạt bỏ được hình ảnh đứa con gái thân yêu ra khỏi trí nhớ của mình.
Còn những khi rảnh rỗi, nỗi nhớ thương càng thêm bào xé gan ruột chị.
Nhìn bộ áo dài mới may chuẩn bị cho Yến mặc khi vào cấp ba còn mới nguyên treo trong tủ, nước mắt chị Lê lại lăn dài không ngớt.
Đứa con gái bé bỏng của chị vẫn tươi cười nhìn chị từ trên bàn thờ, nó như không hiểu được nỗi lòng của một bà mẹ mất con…
- Con hư lắm Yến ơi! Con đi đâu mà đi hoài mải miết không chịu về thăm mẹ lấy một lần? Con có biết mẹ nhớ con lắm không? Mẹ thương con lắm không? Yến ơi… con ở đâu, con phải về với mẹ nghe Yến! Dù cho con có về bên mẹ bằng vong linh mờ ảo mẹ cũng vẫn muốn gặp con, Yến ơi… Không gặp được con, chắc mẹ chết dần chết mòn trong nhớ thương, đau khổ mất, con ơi…
Tiếng gào khóc lặng thầm, tiếng vái van nức nở của chị Lê vẫn vang lên đều đặn mỗi ngày…

***

Mới đó mà đã cúng một trăm ngày cho Yến.
Hiền không về được vì đang thi, cô chỉ gọi điện về thăm và nhắc nhở mẹ giữ gìn sức khỏe.
Chị Lê cố ra vẻ vững vàng bình tĩnh để con gái yên tâm lo việc học hành.
Chiều hôm đó khi khách khứa về hết, còn lại một mình trong ngôi nhà lạnh lẽo, chị Lê cảm thấy người bắt đầu gai gai sốt.
Muốn ra sau vườn nhà hái một nắm lá vô nấu nồi nước xông nhưng vì mệt mỏi quá chị cũng không nhấc chân lên được.
Cố gắng dậy đóng cửa, thắp nhang xong là chị Lê chui vào mùng ngủ mê mệt.
- Mẹ ơi, mẹ! Mở cửa cho con!
Trong cơn mơ màng, chị Lê nghe tiếng gọi của Yến.
Chị Lê vội vã tung mền ngồi dậy, không kịp xỏ chân vào dép, chị cứ để chân trần chạy vội ra trước mở toang cánh cửa.
Yến từ bên ngoài ùa vào ôm chầm lấy chị:
- Mẹ ơi, con nhớ mẹ quá!
Chị Lê ghì chặt lấy Yến, hôn như mưa như gió lên mặt con gái, vừa hôn vừa mếu máo khóc:
- Con bỏ mẹ con đi lâu quá, mẹ đến chết mất, Yến ơi…
Yến cũng thút thít khóc:
- Mẹ ơi, con cũng không muốn xa mẹ, xa chị đâu… Nhưng con không thể… Mẹ đừng buồn nữa, mẹ như thế này con đau lòng lắm, mẹ có biết không?
- Con về ở luôn với mẹ, con đừng đi đâu nữa, nghe con!
Chị Lê ôm con chặt cứng, như sợ Yến lại vuột khỏi vòng tay chị.
Yến vuốt nhẹ lên mặt mẹ, lau những giọt nước mắt đang chảy tràn trên khuôn mặt gầy sọp của chị Lê:
- Mẹ ơi… con không thể! Số phần con đã hết, giờ con sắp phải về trời rồi, con không thể ở lại với mẹ được đâu… Mẹ thương con, mẹ phải giữ gìn sức khỏe…
Nghe Yến nói thế, chị Lê hốt hoảng:
- Không! Không đâu! Mẹ không cho con đi đâu hết…
Yến khe khẽ lắc đầu:
- Không được đâu mẹ! Mẹ bình tĩnh lại đi! Con đã phải năn nỉ rất lâu mới được phép về thăm mẹ lần cuối cùng, mẹ phải bình tâm lại để mẹ con mình nói chuyện, kẻo không còn dịp nào để con gặp mẹ được đâu…
Chị Lê nức lên mấy tiếng, nhưng giờ thì chị đã nhận ra con bé Yến của chị trưởng thành biết bao, nó không còn là một cô bé nhỏ hay nũng nịu nữa mà đã là một người biết ăn nói đàng hoàng đâu ra đó như một người lớn thực thụ.
Chị Lê cũng nhận ra, giờ đây giữa chị với con gái đã âm dương hai đường cách biệt, thì có khóc lóc thở than cũng chỉ làm đau lòng con bé mà thôi!
Nuốt ực những nỗi đau đớn vào lòng, chị Lê nhìn kỹ Yến rồi hỏi:
- Con nói cho mẹ biết đi, tại sao con chết? Điều đó đã làm mẹ ăn không ngon ngủ không yên, mẹ cứ nghĩ có điều gì đó oan ức đã xảy ra cho con, phải không Yến?
Yến vuốt ve tay mẹ, lắc đầu nhè nhẹ:
- Dạ không, con không chết oan mẹ ạ! Kiếp làm người của con đã chấm dứt, con được đưa về cõi trên sống một kiếp khác…
Tối hôm đó, con trông thấy một bông hồng vàng thật lạ mắt và thật đẹp. Nó mọc cao ngạo nghễ, xung quanh tỏa hào quang rực rỡ, mùi hương của nó làm con ngây ngất.
Và hình như từ cái bông hồng ấy còn phát ra một điệu nhạc du dương như kéo con đến gần hơn nữa.
Con không cưỡng được sức hút kỳ lạ của bông hoa đó, con chồm vào, không phải để hái mà là để vuốt ve lên những cánh hoa ấy, bất thần có một con rắn xanh vươn cao đầu lên quấn vào cánh tay con, con sợ quá và cảm thấy tim mình như ngừng đập, cổ nghẹn tắt lại rồi không biết gì nữa cả!
Đến lúc con tỉnh lại thì con trông thấy mẹ đang quằn quại bên cạnh xác con, con đã nhào tới ôm lấy mẹ, con gào lên: “Mẹ ơi, mẹ ơi! Con đây nè, mẹ đừng khóc nữa mẹ ơi!...”
Nhưng mẹ vẫn khóc đến lịm người, mẹ không biết gì đến sự tồn tại của con, lúc đó con biết rằng con đã chết! Cái thân xác vô tri của con nằm cạnh mẹ mà mẹ muốn ôm ấp cũng bị người ta ngăn chặn lại, còn linh hồn con ôm chặt lấy mẹ nhưng mẹ lại hoàn toàn không hay biết…
Mẹ biết không, con đã đau đớn vô cùng, hoảng sợ vô cùng khi thấy cả mẹ, cả những người xung quanh đều không ai biết tới sự tồn tại của con. Nhưng rồi cũng có người nhận thấy được con. Những người đó giải thích cho con hiểu thế nào là “sống ở thác về”, thế nào là kiếp người nơi trần thế, để cuối cùng con ngộ ra một điều, mình không thể đi ngược lại những gì tạo hóa đã an bài…
Mẹ ơi, giờ mẹ biết rồi, con xin mẹ đừng cứ dằn vặt nữa, mẹ hãy an vui mà sống. Dù hiện nay con không còn được sống bên cạnh mẹ nữa, nhưng mãi mãi mẹ vẫn là người mẹ mà con yêu thương nhất, và con mãi mãi là đứa con bé bỏng ngày nào của mẹ, mẹ nhe?
Yến nói đến đâu, nước mắt chị Lê chảy dài đến đó. Chị đã cố gắng dằn lòng không khóc, nhưng vẫn không sao ngăn được dòng lệ cứ nối tiếp nhau tuôn trào ra khóe mắt…
Cầm chặt hai tay con gái, chị Lê nghẹn ngào:
- Con ơi, mẹ vẫn không tin con chết! Con đang đùa với mẹ phải không con?  Bàn tay con vẫn rất ấm áp, con vẫn còn sống phải không con?
Yến áp tay mình lên má mẹ:
- Mẹ, tay con vẫn ấm áp, vì con không phải là ma, không phải là những vong hồn vất vưởng chưa tìm được cho mình nơi chốn nương thân. Con chỉ là từ giã kiếp người để đến với một kiếp khác mà thôi. Bởi vậy mẹ hãy yên tâm, con không bị khổ sở, không bị đói lạnh gì đâu mẹ ạ! Kìa, mẹ nhìn xem, những người ngoài đó sẽ đưa con đi, giờ chia tay của mẹ con mình đã đến rồi mẹ ạ…
Nhìn theo tay chỉ của Yến, chị Lê trông thấy mấy người con gái cũng trạc tuổi Yến nhưng áo quần lấp lánh sắc màu, dáng đi uyển chuyển giống như các cô tiên nữ mà chị đã thấy trên ti vi.
Như vậy là con bé Yến của chị cũng sẽ được như vậy, cũng sẽ là tiên sao? Chẳng lẽ những câu nói đùa vui của Yến hôm trước giờ đấy đã trở thành sự thật? Chẳng lẽ đó là điều dự báo mà chị đã không đủ sáng suốt để nhìn thấy được?
Thật sự lòng chị Lê chỉ muốn Yến mãi mãi là một cô gái bé bỏng sống nơi trần thế với những vui buồn thế tục, nhưng số phần đã vậy, thôi thì chị cũng phải bóp lòng mà vui cho con gái được yên tâm!
Chị Lê kéo Yến vào lòng, hôn lên khắp mặt mũi và đôi tay Yến. Chị dặn dò Yến giống như Yến sắp đi xa trọ học như chị Hiền vậy.
- Mẹ ơi, mẹ yên tâm đi, mẹ đừng lo gì cho con, con biết tự chăm sóc cho mình rồi! Mẹ hứa với con, mẹ phải thật khỏe mạnh, mẹ hứa đi mẹ!
Yến giục giã.
Chị Lê cười héo hắt:
- Ừ, thì mẹ hứa đó, con cũng đừng lo gì cho mẹ, nghe con!
Bỗng đâu có tiếng sáo du dương cất lên trong đêm tối và những cô gái đứng ngoài sân tung vào nhà những cánh hoa hồng vàng lấp lánh.
Yến nói khẽ:
- Đã tới giờ con đi rồi… Mẹ ở lại bình an… Con đi, mẹ nhé!
Chị Lê chưa kịp phản ứng gì thì thoắt một cái, Yến đã bay lơ lửng lên không trung.
Bất giác, chị Lê hỏi với theo một câu không ăn nhập gì tới cảnh chia tay của hai mẹ con chị:
- Yến ơi… còn cô gái trong quan tài…?
Tiếng Yến cười nho nhỏ:
- Con không biết được nhiều mẹ ơi, con chỉ biết chị ấy cách đây mười năm cũng ở gần nhà mình… mẹ tìm hiểu sẽ rõ thôi mà…
- Yến ơi, Yến….!
Chị Lê hoảng hốt gọi theo, nhưng tất cả đã biến mất trong màn đêm đen thẫm. Chị Lê lảo đảo ngã quỵ xuống thềm nhà…
Khi chị Lê tỉnh dậy, chị thấy mình vẫn nằm nguyên trên giường, nhưng cơn sốt đã không còn nữa, và cuộc gặp gỡ giữa chị và con gái vẫn còn hiện rõ mồn một trong đầu.
Chị Lê hoang mang tự hỏi:
- Yến thật sự đã về đây gặp mình, hay tại mình quá nhớ mong mà tưởng tượng ra thế? Sao mà tất cả lại giống thật như thế này?
Giữa lúc còn bán tín bán nghi, chị Lê phát hiện trên chiếc gối mình nằm còn vương lại một cánh hồng vàng!
- Đúng rồi! Tất cả là sự thật, không phải mình mơ! Đúng là con bé Yến đã về với mình rồi!
Nước mắt chị Lê lại trào ra, chị ngồi bật dậy, chạy tới bàn thờ ôm chặt tấm ảnh của Yến vào một lúc rồi cầm tấm ảnh giơ lên đối diện chị:
- Yến ơi… mẹ phần nào đã được an tâm vì biết con không phải làm hồn ma vất vưởng…
Chị còn muốn nói nhiều nữa, nhưng giọng chị đã nghẹn lại, không thể cất nên lời!
Ánh mắt Yến trong hình có vẻ như hờn trách, như muốn nói với chị rằng:
- Đó… mẹ không giữ lời hứa với con rồi! Mẹ bảo mẹ sẽ không khóc nữa, mẹ sẽ vui lên kia mà…
Chị Lê mỉm cười trong ngấn lệ, thầm thì:
- Ừ thì mẹ vui rồi đây! Con yên lòng nhé, con gái yêu của mẹ!
Mấy ngày sau Hiền về thăm mẹ. Cô mừng rơn trong bụng khi thấy mẹ không còn đau khổ như trước nữa, trên môi mẹ đã có nụ cười, dù chưa thật tươi nhưng cũng đã vơi bớt phần héo hắt.
Chị Lê kể cho Hiền nghe về việc gặp Yến.
Tuy không tin mấy, Hiền nghĩ do mẹ quá nhớ thương em nên mới mơ giấc mơ như thế mà thôi, nhưng muốn mẹ yên lòng, cô cũng reo lên:
- Vậy con mừng cho em! Mẹ cũng vậy nhe, mẹ đừng buồn nữa, em thấy mẹ buồn là em không vui được đâu…
- Ừ, mẹ đã hứa với em rồi, mẹ sẽ không buồn nữa…
Chị Lê mơ màng cười.
Khi Hiền quay trở về trường học, còn lại một mình ở nhà, chị Lê bắt đầu nghiền ngẫm từng lời Yến nói. Cộng với việc thỉnh thoảng chị vẫn thường lên chùa nghe giảng kinh nên dần dần chị đã giác ngộ, không còn quá đau thương trước sự mất mát của mình nữa.
Tuy nhiên, trong lòng chị Lê vẫn luôn canh cánh một điều, đó là chị muốn biết cô bé nằm trong quan tài kia là ai? Tại sao quan tài cô lại nằm đó, và tại sao trông cô có vẻ như người nằm ngủ vậy?
Thấy cô bé trạc tuổi con mình lại không đựơc ai chăm sóc mộ phần, để đến nỗi phải khuất lấp dưới bồn hoa như thế chị Lê cảm thấy xót xa lắm, chị thầm hứa với lòng sẽ cất công tìm hiểu để giúp thân nhân cô bé tìm nhận cô về.
Theo như lời Yến thì hơn mười năm trước, cô bé ấy sống gần đây. Nhưng hơn mười năm trước, vợ chồng chị Lê còn chưa về sinh sống ở địa phương này nên chị không biết cũng là chuyện đương nhiên.
Mất hơn một tuần lễ khéo léo dò hỏi, chị Lê có được một thông tin đáng giá:
Hơn mười năm trước trong làng này có một gia đình giàu có lại đông con. Trong số đó có một đứa con gái là con riêng của ông chủ nhà với tình nhân.
Đứa bé lớn lên trong cảnh giàu sang nhưng hoàn toàn thiếu vắng tình thương yêu chăm sóc của người mẹ.
Bà mẹ kế tuy không đối xử hà khắc lắm với cô bé, nhưng bà ta không thể nào bố thí cho đứa bé được một chút tình thương. Bà coi nó như một sinh vật tồn tại trong nhà chứ không coi nó là một con người cần được quan tâm dạy dỗ.
Người cha tuy thương con, nhưng vì là đàn ông, ông không biểu lộ tình thương ấy bằng lời nói hay cử chỉ, ông nghĩ mình lo làm việc để các con có được cuộc sống như thế là đã thương yêu chúng, là đầy đủ trách nhiệm với chúng rồi!
Đứa bé lớn dần lên. Đó là một cô bé xinh đẹp và hiền lành hiếm có. Tình cảm của cô bé thật bao la, cô luôn dành những đồng tiền tiết kiệm của mình để đem cho những người ăn xin khốn khổ ngoài đường. Cô yêu thường loài vật, cô yêu thương con người, bất kể người đó là ai.
Mười sáu tuổi, cô bé đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp khó ai sánh kịp, nhưng có lẽ vì quá hiền lành, quá thánh thiện cho nên trông cô có một vẻ gì đó như hơi khờ khạo.
Một ngày nọ, có một đoàn sinh viên về địa phương thực tập. Trong số đó có một thanh niên dáng vẻ thư sinh, nói năng lanh lợi.
Mới về chưa lâu, chàng đã chấm ngay cô bé.
Thế là từ hôm đó, chàng trai không ngừng tỏ vẻ chăm sóc ân cần, quan tâm mọi mặt, khiến cô gái đang khao tình yêu thương như thấy mình đang lạc vào cõi thiên đường!
Cô đã trao cho chàng trai trọn vẹn niềm tin yêu trong sáng nhất của mình, nhưng có một điều cô kiên quyết không trao vội dù chàng trai hết lời năn nỉ van xin, đó là sự trinh bạch của người con gái.
Biết cô bé là con nhà giàu, bản thân mình lại là một sinh viên có gia cảnh nghèo hèn thiếu thốn, cha mẹ lại bạc bài, trộm cắp, biết không thể nào gia đình cô bé chịu gả cho mình nên chàng rắp tâm muốn lấy đi đời con gái của cô để buột gia đình cô vào thế kẹt, nhưng cô bé trông yếu đuối là thế nhưng lại cứng rắn không ngờ.
Mất bao nhiêu công sức vẫn không thực hiện được ý đồ, chàng sinh viên rất thất vọng.
Ngày chia tay cô bé để trở về thành phố, chàng ta cũng thề non hẹn biển qua loa, rằng sau khi tốt nghịêp ra trường sẽ về cưới cô làm vợ. Chàng trai còn tặng cho cô một chậu hoa hồng vàng, dặn cô chăm sóc cẩn thận, để đến khi đám cưới sẽ hái hoa hồng đó cài lên áo cho cô.
Cô bé tin chắc vào lời hứa đó nên cứ đợi chờ hết năm này đến năm khác.
Trong khi đó chàng trai không có chút hy vọng nào cưới được cô bé nên đã vội vàng tìm đối tượng khác. Vừa ra trường, chàng đã cưới ngay người con gái đã đem tới cho chàng một công việc làm như ý.
Ở dưới quê, cô bé vẫn ngày đợi đêm mong, võ vàng héo úa. Một ngày, có một cô gái cũng trong đoàn thực tập năm nào trở lại thăm, đưa cho cô bé xem tấm ảnh chụp hôm đám cưới của chàng trai.
Cô bé suy sụp hẳn từ hôm ấy.
Cô bé bệnh nặng nằm đó không ai quan tâm chăm sóc nên sức khỏe ngày một suy kiệt đi.
Một buổi chiều, cô bé cố lấy hết chút sức lực yếu ớt còn lại để lê ra sân, đến bên chậu hoa mà cô vẫn yêu thương chăm sóc mấy năm nay. Bụi hồng vừa mới nở một bông hoa rất to, hương bay thơm ngát.
Cô bé dùng hết sức mình để bẻ lấy bông hồng, gai đâm vào tay cô ứa máu. Nhưng cô không sợ, cũng không cảm thấy đau đớn.
Cô lê trở vào giường, và ngã ra bất tỉnh nhưng trên tay vẫn cầm chặt bông hoa và trên môi cô nở một nụ cười hạnh phúc.
Khi mọi người phát hiện thì cô bé đã chết lâm sàng.
Người cha cho gọi bác sĩ tới. Sau khi khám qua loa, bác sĩ lắc đầu:
- Không còn cứu chữa được đâu!
Người mẹ kế đi xem bói ở một ông thầy có tiếng tăm, được thầy phán rằng phải chôn ngay cô bé trong vòng một giờ đồng hồ tới, nếu không cả gia đình dòng họ sẽ bị lụn bại dần dần, con cháu mấy đời không sao cất đầu lên được.
Người cha thương con, không muốn đem chôn khi con chưa thật sự chết, nhưng những tiếng khóc lóc nỉ non của người vợ trẻ, cùng với lời hăm dọa của lão thầy bói đã làm ông không còn giữ vững lập trường, đã nghe theo lời vợ, đem chôn đứa con còn chưa kịp chết!
Vì sợ người làng đả kích, nên ông giả vờ như đưa cô bé lên thành phố để chạy chữa, nhưng thật ra ông đã đem cô bé đi chôn ngay khi đó.
Không lâu sau cả gia đình ông sang Mỹ định cư hẳn bên đó, ở quê cũng không còn ai là ruột rà thân thích nên mồ mả cô bé xiêu lạc nơi đâu cũng không ai biết đến.
Nắm được thông tin đó, chị Lê vội vã sắp xếp công việc nhà rồi lên thành phố.
Hai mẹ con chị Lê gặp nhau ai cũng vui thật nhiều.
Chị Lê vui vì kết quả thi vừa qua của Hiền rất cao.
Còn Hiền vui khi thấy mẹ đã thật sự vượt qua cú sốc nặng nề đó.
Ngay chiều hôm ấy, khi Hiền đi học rồi, chị Lê lại tìm ra công viên.
Tay bảo vệ quen, nhìn thấy chị tỏ ra mừng rỡ:
- Cô, lâu quá cháu mới gặp cô! Trông cô khỏe hơn trước nhiều rồi đó!
Chị Lê cười:
- Cô cũng nhớ cháu lắm, hôm nay cô có ít quà quê gởi cháu đây!
Nói xong, chị trao cho cậu ta một giỏ thức ăn và cười nói thêm:
- Hôm nay là cô không ý đồ gì đâu nghen! Cháu đừng có sợ! À, sau lần đó cháu có bị kỷ luật gì không, về cái tội để cô phá nát bồn hoa ấy?
Anh chàng bảo vệ cười hiền lành:
- Cũng may là phía dưới bồn hoa có nhiều vấn đề nên cháu không bị tội gì!
Chị Lê thắc mắc:
- Cho đến nay, cháu có biết tin tức gì về vụ đó không?
Chàng bảo vệ kể:
- Dạ, cháu cũng không biết nhiều lắm. Chỉ biết rằng, trước đây ở chỗ này là nghĩa địa, sau mới giải tỏa để làm công viên. Những mộ nào có thân nhân thì đều đã được di dời đi hết, chỉ còn lại một vài ngôi mộ vô chủ thì vẫn còn nằm lại. Sau hôm đó, người ta truy ra nguồn gốc của chiếc quan tài, thì biết cô gái đó tên là Hoa Tâm, được gia đình đem đến an táng ở đây rồi gởi gắm cho người coi nghĩa trang chăm sóc mộ phần. Sau đó ít lâu, khi học chuẩn bị đi định cư nước ngoài, cha của cô bé có tới gởi một số tiền nhờ ông lão coi nghĩa trang chăm sóc, chuyện đó ông lão kể với nhiều người. Mấy tháng sau thì ông lão qua đời, thành ra ngôi mộ của cô bé không còn ai quan tâm đến nữa, nó trở thành mồ vô chủ từ đó!
Chị Lê rưng rưng nước mắt xót xa cho cô bé.
Chị hỏi tiếp:
- Cháu có biết tại sao cô bé chết đã nhiều năm rồi mà vẫn vẹn nguyên thân xác, cả cái hoa hồng cô bé cầm trên tay cũng tươi tắn giống như vừa được hái?
Anh chàng bảo vệ lắc đầu:
- Dạ điều này thì cháu không biết, mà nghe đâu các nhà khoa học cũng đang điên đầu về chuyện đó! Bởi vì họ hoàn toàn không tìm ra một chất lạ nào trong cơ thể cô bé nên không thể bảo xác cô bé được ướp bằng một loại hóa chất nào đó cực tốt.
- Cháu có biết hiện nay cố bé đó ở đâu không?
Chị Lê tỏ vẻ quan tâm.
- Cháu nghe nói họ vẫn giữ chiếc quan tài có cô bé bên trong ở Viện Nghiên cứu.
Chị Lê khe khẽ lau nước mắt.
Chị quay ra sau sịt mũi rồi nới với anh chàng bảo vệ:
- Thật tội cho cô bé! Cháu cho phép cô thắp mấy nén nhang cho cô bé ở chỗ tìm thấy quan tài nhé?
- Dạ, cô cứ tự nhiên, không có chi đâu ạ!
Anh chàng bảo vệ sốt sắng.
Chị Lê vội vã chạy ra góc đường gần đó mua một ít nhang đèn hoa quả vào bày ra cũng bên cạnh chỗ đã tìm thấy chiếc quan tài hôm trước. Chị van vái cầu siêu cho tất cả những cô gái đã chết ở đây, cũng như những vong hồn của bất cứ ai còn lảng vảng nơi này chưa siêu thoát được.
Khi mọi việc xong xuôi, chị Lê ra về và cảm thấy lòng mình có phần nhẹ nhàng hơn đôi chút. Chị thầm nghĩ, bắt đầu từ hôm nay, chị sẽ tìm một bức tranh vẽ bông hồng vàng thật đẹp để đặt trên bàn thờ, cạnh bên chân dung của Yến, chị muốn hai chị em được bên nhau, mỗi lúc thắp nhang cho Yến, đồng thời cũng là chị thắp nhang cho Hoa Tâm, cô bé thiên thần mà chị được nghe kể lại.
Ở chơi với Hiền thêm một ngày nữa rồi chị Lê lại trở về với đồng ruộng thân yêu của chị, trở về với những tháng ngày vất vả và căn nhà quạnh vắng mông mênh…

***

Chị Lê đã thực hiện đúng theo suy nghĩ của mình. Trên bàn thờ Yến có thêm một một bức tranh vẽ một bông hồng vàng tuyệt đẹp!
Tối đó khi thắp nhang, chị không quên khấn vái:
- Hoa Tâm ơi, mặc dù cô chưa một lần được biết con lúc con còn sống, nhưng những gì cô đã nghe kể về con khiến lòng của một người mẹ như cô lại quặn lên đau đớn. Bây giờ, tuy con không còn nữa, nhưng nếu con không chê, cô có thể dành cho con tình thương và tấm lòng của một người mẹ, Hoa Tâm nhé? Con sẽ là con gái của cô, là chị của Hiền, của Yến, con có đồng ý không, Hoa Tâm?
Qua màn nước mắt nhạt nhòa, chị Lê cảm nhận hình như những cánh hoa trong bức tranh đang run lên nhè nhẹ và nụ cười rạng rỡ của Yến cạnh bên dường như cũng sống động hơn thường ngày!
Chị Lê lại ngồi bên bàn thờ, tỉ mẩn kể cho hai đứa con gái nghe về những công việc diễn ra trong ngày của chị.
Lâu nay chị đã quen với điều đó. Nếu ai thoạt nhìn chắc tưởng chị đã hóa điên mới ngồi nói chuyện một mình như thế. Nhưng thật sự chị Lê không điên, không lẩm cẩm mà trái lại chị hoàn toàn tỉnh táo.
Chị luôn ý thức được những việc mình làm. Chị biết con gái đã không còn trên dương thế, nhưng trong lòng chị thì Yến vẫn sống mãi mãi, mãi mãi Yến vẫn là đứa con gái hay nũng nịu, dỗi hờn với chị ngày nào. Và giờ đây, chị lại có thêm một đứa con nữa để yêu thương.
Chị nói chuyện thầm thì với con mỗi đêm là để giải tỏa những tâm tư chị mang nặng trong lòng, để cho hai con biết chị luôn nghĩ tới chúng, và… đơn giản đó chỉ là một thói quen của chị, một thói quen không gây hại gì cho ai nên chị không gì phải sửa đổi.
Đêm nay cũng vậy, chị ngồi kể với hai con về việc đồng áng, về chuyện con gà mái tơ mới đẻ lứa đầu tiên mà mỗi quả trứng đều to tướng, về lá thư Hiền mới gởi về hồi chiều, về những dự định tương lai mà chị vẫn đang ấp ủ… Mãi đến khi tiếng ti vi nhà bên cạnh tắt hẳn chị Lê mới đứng lên vặn nhỏ ngọn đèn trên bàn thờ con gái.
Chị thầm thì:
- Hai chị em ngủ ngon nhe! Mẹ cũng đi ngủ đây, sáng mai mẹ còn phải ra đồng sớm, hổm nay ruộng lúa nhà mình nhiều cỏ dại quá…
Chị Lê cảm thấy lòng mình thật nhẹ nhàng, thanh thản sau khi nói chuyện với con. Chị chậm rãi vào buồng lên giường nằm ngủ.
Nhưng khi chị mới vừa mơ màng, giấc ngủ còn chưa kịp đến, chị Lê bỗng nhận ra trong nhà mình có điều gì khang khác…
Mở choàng mắt ra, chị Lê hết sức ngạc nhiên khi thấy trước mặt mình là cô bé cầm bông hồng vàng nằm trong quan tài hôm trước.
Hoa Tâm! Đúng rồi, cô bé đó chính là Hoa Tâm!
Chị Lê chưa kịp lên tiếng, cô bé đã tiến tới gần bên chị, nhẹ nhàng cầm lấy đôi bàn tay đầy những vết chai của chị, âu yếm nói:
- Mẹ ơi! Con cảm ơn mẹ đã thương con… Con rất hạnh phúc vì điều đó! Từ hôm nay con đã là con của mẹ rồi, mẹ nhé?
Xúc động, chị Lê kéo Hoa Tâm vào lòng, vuốt mái tóc dài chấm vai óng ả của cô bé:
- Tội nghiệp con gái của mẹ!
Chị không biết nói gì thêm, chỉ ấp úng mấy lời rồi nghẹn ngào không nói được.
Hoa Tâm tươi cười:
- Mẹ đừng khóc, đừng lo gì cho con và em Yến cả. Chúng con đã lớn, đã lo cho mình được rồi, mẹ nhé?
Chị Lê ngạc nhiên:
- Con có gặp em Yến không?
Hoa Tâm cười:
- Dạ có, chính con là một trong những người đã đi đón em Yến…
Cô bé nhìn chị Lê, hơi ngập ngừng:
- Mẹ ơi, mẹ đừng giận con nhe mẹ! Mặc dù không hẳn thế… nhưng… vì con mà em Yến phải xa mẹ…
Chị Lê cầm chặt tay Hoa Tâm:
- Em Yến đã giải thích cho mẹ biết rõ rồi con ạ! Nhưng tại sao con lại nói là vì con? Mẹ không hiểu?
Hoa Tâm cười chúm chím trông rất dễ thương:
- Con biết trong lòng mẹ còn nhiều điều chưa sáng tỏ, vì vậy hôm nay con xin phép về đây trước là để cảm tạ tấm lòng mẹ dành cho con, để mẹ con ta được gặp nhau, sau nữa con giải thích toàn bộ sự việc cho mẹ được nhẹ lòng, mẹ nhé?
Chị Lê kéo Hoa Tâm vào lòng, nhè nhẹ gật đầu.
Hoa Tâm kể:
- Ngày ấy ba mẹ con đã vội vã mang con đi chôn khi con còn chưa kịp tắt thở, do đó linh hồn con cứ phải quanh quẩn trong quan tài, không làm sao thoát ra bên ngoài được! Cũng may, nhờ vào thế lực siêu nhiên của trời đất, con đã được giải thoát. Con còn được ban thưởng cho một ân huệ đặc biệt, đó là con trở thành sứ giải đi đón những linh hồn trinh trắng được về cõi bồng lai.
Thân xác con nằm dưới quan tài không bị mục rửa đi theo thời gian mà nó vẫn mãi tươi nguyên. Và cái bông hồng con cầm trên tay đây  mỗi năm sẽ lại được nở bừng trên mặt đất đúng vào đêm trăng tròn đẹp nhất trong năm.
Từ bông hoa này sẽ tiết ra một mùi hương, một điệu nhạc và vầng hào quang kỳ ảo nhất và nó có sức quyến rũ đặc biệt đối với những cô gái đồng trinh mà số phần đã sắp đến giờ chấm dứt.
Những cô gái ấy sẽ không thể cưỡng lại được ý muốn chạm tay vào cánh hoa này. Đó chính là nghi thức giới thiệu để con đón thêm một linh hồn nữa lên tiên giới.
Khi bàn tay cô gái chạm nhẹ vào cánh hoa, là linh hồn cô sẽ rất nhẹ nhàng thoát ra khỏi cái xác thân phàm tục…
- Thế còn con rắn màu xanh lục?
Chị Lê thắc mắc.
- Dạ, con rắn đó đáng ra không dính dáng gì tới chuyện này. Nó chỉ là một con rắn hoàn toàn không có nọc độc, chỉ vì say mê bông hồng vàng mà nó đã làm hang ổ sinh sống ngay tại đó. Nhưng mỗi khi các cô gái chạm tay vào hoa hồng vàng, con rắn lại vươn mình lên quấn vào cánh tay, khiến các cô hoảng sợ, và cái chết sẽ được hiểu theo nghĩa khoa học là đột tử, hoặc lên cơn tim bất ngờ không cứu vãn được…
Tất cả chỉ có thế thôi mẹ ạ! Dù đó chỉ là một hình thức tiếp đón, nhưng con cũng rất đau lòng khi thấy các bà mẹ đau đớn cùng cực khi nhìn con gái mình chết đột ngột như vậy. Con cũng đã nhiều lần kiến nghị, xin được thay đổi hình thức đón tiếp mà vẫn chưa được duyệt… Bây giờ bồn hoa không còn, nhiệm vụ của con ở trần gian cũng đã hết, con sẽ cùng em Yến quay về cái nơi mà chị em chúng con sẽ sống một đời an lạc, ấm êm…
Chị Lê thở phào nhẹ nhõm! Vậy là bao nhiêu nỗi lo lắng, thắc mắc của chị giờ đây đã được Hoa Tâm giải đáp cặn kẽ, chị cũng không còn tức tối và tiếc thương nhiều như trước nữa.
- Tất cả là phần số, mình làm sao cưỡng lại được ý trời!
Chị Lê thầm than.
Hoa Tâm chừng như rất hiểu nỗi lòng hiện tại của chị Lê, cô bé an ủi:
- Mẹ đừng buồn, chúng con mãi mãi vẫn là con gái của mẹ!
Rồi Hoa Tâm nhìn ra cửa, tươi cười nói với chị Lê:
- Mẹ nhìn xem, ai đến thăm mẹ nữa kìa!
Chị Lê ngước nhìn lên, một luồng ánh sáng dịu nhẹ ùa vào nhà, và cũng ngay lúc đó chị vừa kịp nhận ra đó chính là Yến, cô con gái yêu quý của chị! Nhưng Yến hôm nay trông rất khác, từ áo quần cho tới dáng dấp, Yến đã thật sự trưởng thành rồi, đã thật sự sống một đời sống khác hẳn rồi!
- Con ơi!...
Chị Lê gọi to rồi giang rộng cánh tay còn lại ôm chầm lấy Yến.
Thế là chị, mỗi tay ôm một đứa con, nói cười trong màn lệ mừng vui đang dâng trào trên khoé mắt.
Ba mẹ con chị Lê ríu rít chuyện trò, chị vui đến nỗi nhớ trước quên sau, không biết phải nói gì, nhắc nhở con điều gì nữa…
Hai đứa con gái của chị lấp lánh như kim cương sáng lên trong đêm tối, những cánh hoa hồng vàng thoang thoảng mùi hương cứ bay la đà theo mỗi bước chân của hai đứa…
Nhìn con, chị Lê không biết mình nên vui hay nên buồn nữa?
Vui ư? Vui vì thấy con gái mình xinh đẹp hẳn ra, thấy nó có được cuộc sống an vui ngập đầy hạnh phúc. Nhưng sao trong niềm vui đó cứ xen lẫn những xa xót đến gai người…
Chị Lê biết rõ, những cuộc gặp gỡ như thế này là thật hiếm hoi, và có thể đây cũng chính là lần cuối cùng chị được gặp hai con, được ôm chúng vào lòng, được nói với chúng những lời yêu thương nhất của một bà mẹ và được nghe chúng nói cười ríu rít…
Chính điều đó làm lòng chị quặn thắt từng cơn…
Có người mẹ nào không đau lòng đứt ruột khi phải xa con vĩnh viễn?
- Mẹ ơi… chúng con phải đi rồi… mẹ ở lại sống thật vui, mẹ nhé?
Cả hai cô gái ngước nhìn chị Lê bằng đôi mắt trong veo chờ đợi.
- Ừ, các con đi mạnh giỏi, mẹ sẽ sống vui mà!
Chị Lê gật đầu, chị nghe sống mũi mình đã cay sè, nhưng chị giả vờ quay đi để nướt ực những giọt lệ còn chưa trào ra khóe mắt.
Chị phải để hai con nhẹ lòng cất bước…
Tiếng sáo đâu đây lại trỗi lên khúc nhạc thiên thai trầm bỗng, những cánh hoa hồng vàng lại vương đầy trên lối con đi, tà áo của hai đứa lấp lánh trong đêm như những con đom đóm mà thuở nhỏ hai chị em hiền và Yến vẫn thường đi bắt đem về rồi chờ đêm xuống, tắt hết đèn và thả cho chúng bay ra, cả hai chị em thích thú chiêm ngưỡng những đốm lửa xanh kỳ diệu…
Khi hai đứa con đã đi khuất, chỉ còn vẳng lại tiếng nhạc sáo du dương và một mùi thơm thoang thoảng bao trùm cả căn nhà, chị Lê mới buông lòng mình để mặc dòng lệ nóng hổi chảy dài hai bên má…
Tiếng gà eo óc gáy sau vườn, ở phía đông đã rựng hồng sắc đỏ.
Một ngày mới lại bắt đầu.
Chị Lê lau nước mắt. Chị biết, tương lai còn đang ở phía trước, chị không thể ngã quỵ, chị phải đứng lên, đứng thật vững vàng để dìu dắt Hiền đi nốt đoạn đường còn lại, và để ở một nơi xa xôi nào đó, hai đứa con gái bé bỏng của chị được an hưởng trọn vẹn niềm vui mà không phải khắc khoải xót xa khi thấy mẹ mình gầy mòn héo úa…
Mấy mươi năm qua chị đã mạnh mẽ sống vì hai đứa con gái, thì những năm tháng cuối đời này chị càng phải tỏ ra mạnh mẽ nhiều hơn, vì bây giờ chị có đến ba cô con gái kia mà?
Chị Lê bước tới đứng trước bàn thờ hai con, chị nhìn chúng bằng cái nhìn dịu dàng trìu mến nhất, rồi từ từ chị mở toang cánh cửa, một luồng hơi ấm tràn vào căn nhà lâu nay lạnh lẽo buồn thiu, những tia nắng đầu ngày đã ló dạng, lấp lánh nhảy múa xung quanh người đàn bà mái tóc đã pha sương…
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.01.2011 20:05:02 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Vong Nhi - Truyện ma của Nguyễn Thị Mộng Thu - 09.08.2009 21:51:31
                               VONG NHI

 
Tiếng rên la đau đớn cùng cực của người thai phụ làm cho những người đàn bà có mặt ở đó không cầm được mắt.
Cùng là thân phận đàn bà nghèo khó xiêu lạc tới đây, ai không khỏi ngậm ngùi trước tình cảnh thương tâm đến vậy.
Người thai phụ đó tên là Huyền, không ai biết quê quán chị ở đâu, chỉ biết mới cách đây gần hai tuần chị tới đây rụt rè xin được giúp việc rửa dọn chén bát cho một quán ăn nhỏ ven đường.
Ông chủ quán dáng người to lớn bặm trợn nhìn chị lom lom rồi lắc đầu quầy quậy:
- Thôi thôi, tôi không dám nhận cô đâu! Cái bụng chửa vượt mặt thế kia chắc cũng đã sắp đến ngày ở cữ rồi cũng nên! Giờ cô chân ướt chân ráo tới đây xin việc, làm chưa được mấy hôm lại lăn đùng ra đẻ đái, lúc ấy chẳng phải quán chúng tôi lại tự đeo thêm trách nhiệm cho mình sao?
Huyền van nài:
- Chú làm ơn giúp cháu, cháu chỉ xin được làm việc để đổi lấy ngày hai bữa cơm thôi ạ, không dám đòi hỏi gì tới tiền công đâu. Vả lại cháu còn hơn tháng nữa mới tới ngày sinh nở, lúc đó cháu nhất định không làm phiền chú được, vì cháu chỉ ở tạm đây một vài ngày để dọ tìm tông tích chồng cháu mà thôi…
Ông chủ quán ngạc nhiên:
- Dọ tìm tông tích chồng? Chồng cô làm gì, ở đâu mà cô đi đến tận nơi rừng sâu nước độc này này mà tìm kiếm?
Huyền lau nước mắt:
- Dạ, chồng cháu theo bạn bè đi đào vàng đã hơn nửa năm rồi mà không có tin tức gì về, cháu sốt ruột lắm, không biết anh ấy sống chết ra sao? Mới vừa rồi, cháu nhận được tin, nhóm đào vàng của anh chuẩn bị đi tới địa phương này, vì vậy cháu vội vã tới đây để tìm hỏi về anh ấy. Bây giờ thì tiền bạc trong người cháu đã cạn sạch rồi, cháu không biết lấy gì mà sống qua ngày chờ tin chồng nữa… Chú… chú làm ơn giúp cháu với… Cháu chỉ ở tạm đây lâu lắm là hai tuần thôi, nếu lúc đó mà vẫn không có tin gì thì cháu phải quay về để sinh con rồi sau này mới tính tiếp…
Ông chủ quán tuy nói năng rổn rảng thế nhưng lòng dạ cũng không đến nỗi sắt đá. Trước cảnh tình của Huyền, ông cũng không nỡ từ chối, ông nhận chị vào làm những việc lặt vặt trong quán để chị có chỗ trú thân và có cơm ăn qua ngày.
Mỗi ngày có bao nhiêu lượt người ra vô quán, ông chủ đều tìm cách dọ hỏi giúp chị, nhưng tuyệt nhiên nhóm đào vàng của chồng chị vẫn còn bặt vô âm tín, không có một dấu hiệu nào!
Buồn rầu, thất vọng, Huyền xin phép ông chủ ngày mai sẽ rời khỏi quán để trở về quê.
Dù lúc nhận Huyền vào làm việc, ông chỉ hứa cho cô hai bữa cơm, nhưng khi nghe cô giã từ, ông chủ quán cũng đưa cho cô một ít tiền và căn dặn:
- Ráng mà về nhà lo sinh nở rồi nuôi con, chồng cô đi đâu mặc xác nó, nếu nó còn sống thì sẽ có một ngày nó sẽ vác xác quay về, cô đừng ngu dại mà lặn lội đi tìm như vậy nữa…
Huyền cúi mặt vâng dạ cho qua chuyện.
Sáng ra, vừa chào từ giã mọi người, Huyền bỗng bị những cơn đau cơn tấp làm cô không gượng nổi.
Biết có điều chẳng lành, Huyền cố thu hết sức lực rời khỏi quán cơm của ông chủ tốt bụng, lê ra được tới bên bờ suối cách đó khá xa thì cô không còn đủ sức để đi nữa.
Những cơn đau cứ liên tiếp thúc dồn tới tấp khiến Huyền gần như ngất đi, người vã mồ hôi ướt nhẹp.
Một vài phụ nữ phát hiện ra cô đang nằm lả người trên vũng máu, họ hoảng hốt gọi nhau kéo đến nhưng cũng chỉ biết đứng nhìn và xót xa cho Huyền mà thôi.
Những người đàn bà thuộc tầng lớp dưới cùng trong xã hội, cuộc sống nghèo khổ cùng cực đã đẩy họ phiêu bạt tới tận nơi này, hàng ngày phải đối diện với những nguy hiểm chực chờ với những cơn sốt rét rừng mà khó ai qua khỏi…
Họ đứng đó nhìn Huyền đang lăn lộn. Bằng kinh nghiệm bản thân, họ biết Huyền sắp sinh, mặc dù Huyền bảo cô còn một tháng nữa mới tới ngày ở cữ.
Chuyện sinh sớm đối với một phụ nữ phải lặn lội đường xa như Huyền cũng không có gì lạ.
Lúc này đây, giữa núi rừng hoang vu, không một ai có kinh nghiệm đỡ đẻ thì họ biết làm sao giúp Huyền qua cơn vượt cạn?
Huyền đã đuối sức rồi, cô dần dần chìm mê sảng, trong cơn mơ màng cô còn nghe tiếng khóc văng vẳng của đứa bé đang đòi được chào đời…
- Con ơi… mẹ có lỗi với con… Mẹ xin lỗi con…
Huyền thốt lên câu cuối cùng rồi thở hắt ra, hai bàn tay đang bấu vào người đàn bà bên cạnh đã lơi ra rồi rớt phịch xuống đất.
- Cô ấy đã “đi” rồi!
Mọi người kêu lên. Người ta lau vội những giọt nước mắt thương cảm rồi chạy đi kêu thêm một vài người đàn ông tới giúp họ bó xác cô vào chiếc chiếu rách xơ xác để đem đi chôn vùi tạm bợ ven rừng…
Rồi người ta lại tản mác đi về với công việc của riêng mình. Chỉ duy một người đàn bà vẫn còn ngồi lại bên nấm mồ vừa mới đắp của Huyền!
Chị là một người đàn bà nhỏ thó nhưng đầy nghị lực. Cuộc đời chị đã trải qua thật nhiều chông gai thử thách, có lúc chị tưởng mình không thể vượt qua được, nhưng cuối cùng chị vẫn tồn tại được trên đời.
Không những tồn tại mà chị còn lo lắng nuôi dạy được hai đứa con sinh đôi một trai một gái ăn học nên người.
Thuở nhỏ, chị là đứa trẻ mồ côi, được một bà lão ăn xin mù tốt bụng đem về nuôi nấng. Bà đặt cho chị cái tên Phúc, nhưng cuộc đời chị không hề có bóng dáng của hạnh phúc vẹn toàn.
Những năm tháng ấu thơ, Phúc theo bà lão lê la đầu đường xó chợ để van xin lòng từ tâm của con người.
Cuộc sống của hai bà cháu cứ lây lất, ngày dựa vào những đồng tiền bố thí, đêm nương náu nơi gầm cầu, sạp chợ cứ thế trôi qua.
Tới năm Phúc lên bảy hay tám tuổi gì đó thì bà lão mất chỉ sau một đợt cảm xoàng.
Không còn bà lão, Phúc thôi không hành nghề ăn xin nữa. Cô bé chuyển qua giúp việc cho những người buôn bán trong chợ. Ai gọi gì cô bé cũng làm, sai gì cô bé cũng đi, những người tốt bụng vẫn trả công sòng phẳng theo nội dung công việc mà họ nhờ vả cô làm, nhưng cũng không ít kẻ lợi dụng khi thấy Phúc không biết đòi hỏi.
Phúc là một cô bé khôn ngoan, cô nhận biết được nhiều việc nhưng vì tính tình hiền lành nên cô chấp nhận thua thiệt một chút trong đời.
Lớn lên một chút Phúc xin vào giúp việc nhà cho người ta và tới năm mười tám tuổi thì Phúc cũng dành dụm được một số vốn kha khá.
Cô định dùng số tiền đó để buôn bán, nhưng chưa kịp thực hiện ước mơ thì tình yêu tới gõ cửa trái tim khiến Phúc thay đổi hết mọi dự tính trong đời.
Hắn là một thanh niên khá điển trai, dân tỉnh nhưng lên Sài Gòn làm nghề thợ hồ, trôi nổi theo những công trình xây dựng.
Phúc và Hắn quen nhau trong một lần nhóm thợ hồ của hắn đến sửa nhà cho người chủ mà Phúc đang giúp việc.
Tình cảm ngày một nảy nở, Phúc vui tươi, sung sướng trước tình cảm đầu đời này.
Cô đã dành cho hắn trọn vẹn tình yêu và cả cái ngàn vàng của người con gái mà lâu nay Phúc vẫn luôn gìn giữ dù cô đã sống nhiều năm lang bạt ngoài đời.
Khi nghe tin Phúc báo đã mang thai, hắn tỏ ra vô cùng mừng rỡ. Hắn đã vẽ ra trước mắt Phúc một cuộc sống ấm êm của đôi vợ chồng son và những đứa con bé bỏng dễ thương.
Phúc hoàn toàn tin tưởng vào hắn.
Cô trao cả đời mình cho hắn, trao cả số vốn liếng dành dụm biết bao lâu cho hắn.
Nhưng hắn lại là một kẻ tồi tệ. Khi đã cầm được số tiền mồ hôi nước mắt của Phúc, hắn lặng lẽ trốn chạy khỏi cô, không một lời từ biệt. Bỏ lại Phúc bơ vơ giữa Sài Gòn với cái bào thai đang lớn dần trong bụng.
Ban đầu Phúc vẫn không thể tin rằng hắn đã cao chạy xa bay. Cô cứ nghĩ có lẽ hắn bận việc gì đó gấp rút nên đi mà không kịp từ biệt cô, nhưng rồi ngày tháng cứ tiếp tục trôi qua, niềm tiỉntong Phúc đã từ từ tắt lịm.
Phúc nhận rõ được tình cảnh bi đát của mình. Không tiền bạc, không nhà cửa, cô biết sống sao đây khi sanh nở?
Có người biết chuỵên khuyên Phúc nên vứt bỏ cái thai nhưng cô kiên quyết không nghe.
Trên cõi đời này Phúc là một người tứ cô vô thân, không có ai là ruột ra máu mủ. Cô thèm lắm một gia đình, thèm lắm cái quan hệ gia đình mà mỗi con người đều có quyền có nó.
Thì giờ đây cô cũng sắp có rồi! Đứa bé trong bụng sẽ là người thân duy nhất của Phúc, cô không thể nào vứt bỏ nó được, mặc dù cô biết rằng một khi quyết định giữ lại đứa bé là cô phải chấp nhận đương đầu với sóng gió cuộc đời.
Phúc lao vào làm việc, cô tằn tiền từng đồng xu nhỏ suốt mấy tháng ròng. Đến khi cái bụng cô to ra thì chủ nhà không chịu thuê cô nữa, cô lại ngày ngày mang cái bụng lặt lè đi bán từng tờ vé số, từng tờ báo để kiếm tiền.
Ngày đau đẻ, Phúc không dám vào bệnh viện vì sợ mất một khoản tiền lớn.
Cô thầm vái van trời phật giúp cô được mẹ tròn con vuông, tai qua nạn khỏi.
Quả đúng vậy thật. Phúc sinh con một mình trong khu nhà ổ chuột mà cô đang ở trọ. Cũng có một vài người thương tình đến giúp đỡ cô khi ấy.
Nhớ lại cảnh đi biển một mình đau lòng của mình ngày trước, chị Phúc không khỏi ngậm ngùi thương cảm cho người mẹ trẻ vắn số vừa trút hơi tàn.
Lúc người mẹ trẻ ấy chết, chị Phúc đặt tay lên bụng cô và còn cảm thấy đứa bé trong đó đang quẫy đạp.
- Hãy cứu lấy đứa bé! Nó chưa chết! Đứa bé vẫn còn sống!
Chị Phúc muốn kêu lên như thế. Nhưng tiếng kêu chưa thoát ra khỏi cuống họng chị đã phải ghìm giữ lại.
Ở đây, giữa hoàn cảnh này làm sao có thể cứu đứa bé? Mà giả sử như cứu được nó rồi, ai là người sẽ cưu mang nuôi dưỡng nó? Thôi thì… nó đi theo mẹ nó biết đâu còn dễ chịu hơn!
Nhưng khi hai mẹ con đã được vùi chôn dưới lòng đất, chị Phúc lại cảm thấy lương tâm mình dằn vặt không yên, giống như chính chị đã góp phần tạo ra cái chết cho hai mẹ con họ.
Chị ngồi bên nầm mồ lấp vội, nước mắt lăn dài. Chị nghe như có tiếng đứa bé oa oa khóc đòi bú sữa, chị tưởng tượng ra cảnh giờ này nó đang hốt hoảng chòi đạp lung tung trong bụng mẹ vì thiếu dưỡng khí.
Bốc một nắm đất rải nhẹ lên nấm mồ cô độc, chị Phúc thầm khấn vái:
- Tôi cũng là phụ nữ, một người phụ nữ nghèo kiết xác với gánh nặng đang đè trĩu trên lưng. Tôi đã phải lặn lội vào tận nơi đây, không sợ cái chế để quyết tâm kiếm tiền lo cho hai đứa con được vào đại học. Nhưng những ngày sống lây lất ở đây, số tiền ít ỏi mang theo đã cạn mà giấc mơ tìm thấy vàng vẫn còn xa biệt tận đâu đâu… Hai mẹ con cô chắc cũng giống như tôi, chúng ta là người đồng cảnh ngộ. Trước hoàn cảnh bi đát của mẹ con cô tôi đành phải bó tay đứng ngó nhưng lòng tôi cũng đau đớn lắm, tôi không thể có khả năng làm được gì cho mẹ con cô hết. Giờ đây tôi đã quyết định rồi, ngày mai tôi sẽ quay về, hai mẹ con cô nếu có linh thiêng thì hãy đi theo tôi, mỗi ngày tôi có món gì bỏ vào miệng thì sẽ cúng mẹ con cô món đó. Hai mẹ con cô hãy đi theo tôi, đừng ở lại đây làm gì cô đơn lắm, hãy nhớ đi theo tôi nhé?
Chị Phúc không hề biết được giữa lúc chị thành tâm khấn vái ấy thì đứa bé trong bụng người đàn bà vắn số kia vừa trút hơi thở sau cùng.
Nó vọt ra cõi đời không bằng con đường sinh nở bình thường mà những đứa bé phải trải qua.
Nó ngơ ngác giữa cảnh núi đồi hiu hắt.
- Mẹ ơi!
Đứa bé cất tiếng gọi, nhưng đáp lại nó chỉ là tiếng gió thổi âm u, tiếng suối chảy róc rách…
Mẹ nó, người đàn bà không may ấy đã thật sự mãn phần số, hồn phách đã được đưa đi về một nơi khác thật xa rồi!
Giờ đây, trước măt nó chị có mỗi một mình chị Phúc đang lặng lẽ khóc và thầm thì khấn vái.
Khi đứa bé nghe chị Phúc bảo nó theo về, nó thật sự vui sướng vì nó rất sợ phải sống một mình ở nơi đìu hiu vắng vẻ thế này.
Thế là nó bám theo chị Phúc từ lúc đó, và nghiễm nhiên nó xem chị là mẹ nó.
Những lời chị Phúc nói trước mộ phần Huyền là những lời xuất phát từ trong lòng chị, chứ không phải chỉ là những lời nói nông nỗi khi cám cảnh trước người đồng cảnh ngộ.
Ngay buổi chiều hôm đó, chị Phúc đã thực hiện lời giao hẹn của mình.
Trước khi ăn cơm, uống nước, không bao giờ chị quên gọi hai mẹ con đứa bé về ăn.
Đứa bé cũng cảm thấy mình được mẹ yêu thương chăm sóc qua những cử chỉ đó.
Hôm sau chị Phúc quay về thành phố.
Chị quyết tâm sẽ làm bất cứ việc gì miễn sao con chị có tiền ăn học.
Sau mấy tuần lễ xa nhà, chị Phúc biết nếu thấy chị về hai con sẽ mừng lắm, vì chúng sẽ nghĩ chị về là có tiền để chúng may quần áo cho năm học mới…
Ôi, không biết ông trời thương chị hay muốn trêu đùa với chị? Lần mang thai đó chị Phúc sinh một lúc hai đứa con, một trai một gái.
Mười bảy năm trời, chị Phúc đã phải lăn lộn với cuộc đời mới nuôi được hai con khôn lớn.
Chúng ngoan ngoãn, học hành giỏi giang, bây giờ khi cả hai đứa đều đỗ vào đại học, chị mừng vui bao nhiêu thì càng rối ruột bấy nhiêu vì biết lấy gì mà trang trải các khoản tiền phải đóng vào đầu năm cho chúng?
Tội nghịêp, hai đứa cũng biết mẹ mình khổ, nên cả hai đều nói:
- Mẹ ơi, con nghỉ học ở nhà giúp mẹ làm việc kiếm tiền vài năm rồi đi học lại cũng không sao đâu mẹ!
Thằng anh lại bảo:
- Hay mẹ để cho con ở nhà giúp mẹ lo cho em, một mình em học đại học cũng được rồi, mẹ nhé?
Dù hai đứa có nói cỡ nào chị cũng nhất định không đồng ý.
Nhưng bây giờ, khi trở về nhà chị chỉ còn hai bàn tay trắng… Biết phải làm sao đây?
Chị Phúc không về nhà vội, chị vét túi mua được một ổ bánh mì không nhỏ xíu, chị ngắt ổ bánh ra làm ba phần, nói thầm:
- Hai mẹ con về ăn tạm với tôi miếng bánh này cho đỡ đói rồi mình tính tiếp…
Đứa bé sà tới miếng bánh, vừa ăn nhỏ nhẻ vừa len lén nhìn bà mẹ đang oằn người vì những lo toan đeo đẳng.
Nó thương mẹ quá! Mấy hôm nay nó biết mẹ không còn đủ tiền để ăn cho no lòng nữa, nhưng nó không biết phải làm sao để giúp được mẹ bây giờ?...
Ăn xong, chị Phúc uể oải đứng lên, bậm môi cương quyết:
- Cứ lặp lại địêp khúc cũ thử xem sao?
Thằng bé tò mò. Lặp lại địêp khúc cũ là gì nhỉ? Nó níu áo chị định hỏi nhưng chị hoàn toàn không biết tới sự hiện diện của nó.
Đứa bé cũng hiểu được nó chỉ là một vong hồn bé nhỏ, nó không phải là người, nó chưa được làm người!
Nó lẽo đẽo đi theo chị Phúc vượt qua mấy ngã đường đông vui tấp nập. Nó thấy người ta sao mà ăn mặc đẹp đẽ và mặt mày vui tươi thế, còn mẹ nó thì lại nhàu nhỉ và héo hắt thế kia?
Cuối cùng rồi mẹ nó cũng dừng lại trước một ngôi nhà rất to, có một chữ thập đỏ thật lớn ngay ở cổng.
Trong ngôi nhà đó có rất nhiều người mặc quần áo trắng tinh đi tới đi lui ra vẻ vội vàng khẩn trương lắm.
- Lạ nhỉ? Trông mẹ thế kia mà mẹ có quen ai ở nơi sang trong to lớn thế này sao?
Thằng bé tò mò đứng đợi chị ở cổng.
Chị Phúc ngần ngại hồi lâu rồi rồi xăm xăm đi thẳng tới một căn phòng trong khuôn viên ngôi nhà to lớn đó.
Thằng bé trông thấy chị nói gì đó với người mặc quần áo trắng, người đó nhìn mẹ nó từ đầu tới chân rồi lắc đầu quầy quậy. Cuối cùng nó buồn bã lê bước đi ra…
Nó không hiểu mẹ nó làm gì, cho mãi tới khi nó nghe chị Phúc lẩm bẩm một mình:
- Thật khổ cho đời mình, ngay cả việc đem máu mình đi bán cũng bị người ta chê bai… “Chị không đủ sức khỏe!”, ai chả biết thế, chỉ tại mình cần tiền quá nên phải làm như vậy thôi…
Đứa bé ứa nước mắt. Giờ thì nó đã hiểu.
Mẹ nó gầy ốm thế kia, còn có mấy giọt máu để nuôi thân mà còn muốn đem đi bán.
Nó tiến tới ôm chặt cổ chị, thầm thì vào tai chị:
- Mẹ ơi, con làm gì giúp được mẹ? Mẹ nói đi, con sẽ giúp mẹ…
Chị Phúc hoàn toàn không nghe được những gì thằng bé nói, nó cũng biết thế nhưng không dằn lòng được.
Chị Phúc cứ lang thang trong công viên không biết phải làm gì, chị không dám về nhà với bộ dạng như thế này.
Chị ngồi xuống ghế đá, thằng bé cũng ngồi sát một bên chị.
Bất ngờ chị nhìn thấy ở phía đối diện có một phụ nữ đang cầm bàn tay của một cô gái lên săm soi rồi nói ra một thôi một hồi những điều quá khứ vị lai khiến cô gái cứ phải tròn xoe mắt kinh ngạc.
Một lúc sau, cô gái đứng lên cảm ơn rối rít và đặt vào tay người đàn bà đó một xấp tiền.
Chị phúc chép miệng than thầm:
- Ước gì mình cũng có thể đoán được chuyện quá khứ vị lai của thiên hạ thì lo gì không nuôi được các con ăn học đàng hoàng…
- Ơ, chỉ đơn giản vậy thôi sao?
Thằng bé ngạc nhiên kêu lên. Tưởng gì khó chứ chuyện đó có gì to tát đâu?
Nếu chỉ cần biết được chuyện quá khứ, chuyện tương lai của người ta mà có tiền cho mẹ nó đỡ phải vất vả khổ sở thế này thì nó sẽ giúp được mẹ thôi mà!
Nhưng đồng thời thằng bé cũng biết nếu nó làm vậy là đã vi phạm luật trời! Nhưng mặc kệ, chắc ông trời trên cao cũng sẽ hiểu mà thông cảm cho mẹ con nó thôi.
Nó sẽ giúp mẹ kiếm tiền! Thằng bé quyết định như vậy!
Nó chồm lên nói vào tai chị Phúc:
- Mẹ ơi, con là con của mẹ nè!
Chị Phúc ngơ ngác nhìn quanh, cạnh bên chị đâu có ai sao chị lại nghe rõ ràng có người xưng là con chị?
Chị nghe tiếng cười khúc khích:
- Mẹ ơi, mẹ đừng tìm làm gì, mẹ sẽ không nhìn thấy được con đâu…
Chị Phúc càng ngạc nhiên hơn nữa, chị ấp úng hỏi:
- Ai… ai đó? Ai lại xưng hô mẹ con với tôi như thế?
Thằng bé lại cười giòn:
- Tại mẹ không biết đó thôi, chính mẹ đã dẫn con từ rừng núi về đây! Con là đứa bé trong bụng người thai phụ đã chết bên bờ suối hôm trước. Chính nhờ có mẹ mà mấy hôm nay con được no bụng, được có người che chở cho con…
Chị Phúc run run lo lắng:
- Con… con nói thật?
- Dạ, con nói thật! Mẹ cũng đừng tỏ ra lo sợ như thế với con. Con chỉ là một vong nhi, là một oan hồn bé nhỏ nhưng con cũng biết thương mẹ lắm. Suốt những ngày qua đi theo mẹ, con đã phần nào hiểu được những nỗi khổ mà mẹ phải chống chọi trên đời. Chính vì vậy con quyết tâm sẽ giúp mẹ…
Vong Nhi nói.
Chị Phúc hoang mang:
- Con giúp được mẹ? Giúp bằng cách nào? Mẹ… thật sự mẹ không hiểu được con à!
Vong Nhi cười vang. Nó nhảy nhót xung quanh chị tỏ ra vẻ vui tươi lắm.
- Có phải lúc nãy mẹ nói, nếu mẹ biết được chuyện quá khứ vị lai của người ta thì mẹ sẽ có đủ tiền sinh sống và lo cho hai anh chị ăn học đàng hoàng không mẹ?
Chị Phúc gật đầu xác nhận:
- Đúng rồi! Đó là hành nghề thầy bói! Nếu nói đúng mình có nhiều tiền lắm, nhưng… mẹ không có tài đó đâu con…
Chị Phúc buông tiếng thở dài thườn thượt.
Vong Nhi lại nói thầm vào tai chị:
- Mẹ đừng có lo, mọi việc mẹ cứ để con!
Vừa lúc đó Vong Nhi nhìn thấy một người đàn bà dáng vẻ quý phái vừa dắt một con chó rất đẹp vào công viên, nó thúc giục mẹ:
- Mẹ ơi, bây giờ mẹ đi tới trước mặt người đàn đó đi, rồi mọi việc sau đó con sữ tự lo liệu…
Dù chưa biết việc gì nhưng chị Phúc vẫn đứng lên và ngập ngừng tiến tới gần người đàn bà sang trọng ấy.
Người đàn bà ngẩn lên nhìn chị Phúc với vẻ cảnh giác.
Lúc đó, chị Phúc nghe rõ ràng tiếng mình đang nói với người đàn bà sang trọng nhưng thật sự chị không làm chủ được điều đó:
- Chị ơi, trong nhà chị sắp xảy ra một tai họa, chị mau mau về đi…
Người phụ nữ sầm mặt xuống:
- Chị không được nói vớ vẩn thế! Thần kinh chị có bình thường không đó? Hay lại là dân tâm thần vừa trốn trại?
Chị Phúc nghe tiếng mình thật rành rọt:
- Tôi đã báo trước mà chị không nghe thì có gì đừng trách nhé? Chị ra khỏi nhà khi bàn ủi vẫn còn cắm vào ổ điện, mọi thứ sẽ bùng cháy nếu như chị còn ung dung ngồi đây ngắm cảnh…
Vừa nghe chị Phúc nói tới đó, người phụ nữ vội vã bỏ chạy, quên dắt theo cả chú chó có bộ lông trắng muốt đài cát dưới chân.
Chị Phúc ngồi xuống vuốt ve chú chó, đù giỡn với nó giống như một đứa trẻ đang nô đùa với con vật cưng của mình vậy.
Chỉ một loáng sau, người phụ nữ lại chạy trở ra với vẻ mặt vừa vui mừng, vừa hoảng hốt.
Người phụ nữ sang trọng nhào tới ôm chầm lấy chị Phúc, không còn dè dặt trước cái vẻ ngoài lôi thôi tồi tàn của chị:
- Trời ơi, cũng nhờ chị! Nếu không chắc nhà em cháy rụi rồi! Em thật mang ơn chị quá, chị thật có tài thánh… Đầu óc em dạo này cứ lơ đễnh đâu đâu ấy, nhớ trước quên sau, đang ủi đồ thì nghe con chó này ăng ẳng đòi đi vệ sinh thế là em bỏ đó dắt nó đi, quên béng cái bàn ủi…
Chị Phúc thật sự không biết nói gì, chỉ cười cười im lặng.
Người phụ nữ kéo chị Phúc ngồi xuống ghế:
- Chị ơi, chị có tài như vậy, chị làm ơn nói giùm em biết những chuyện làm lo lắng thời gian gần đây rồi có cách nào giải quyết được xin chị chỉ dẫn giúp cho em, em sẽ đền ơn chị xứng đáng…
Chị Phúc toan mở miệng từ chối thì chị nghe chính mình đang thao thao bất tuyệt nói chuyện với người phụ nữ ấy.
Nét mặt người phụ nữ hết căng thẳng tột độ lại giãn ra tươi tỉnh. Cô ta nắm chặt hai tay chị lắc lấy lắc để:
- Trời ơi, em thật không ngờ hôm nay ông trời dun rủi cho em được gặp chị, chị đúng là quới nhân của em! Em đội ơn chị biết bao…
Người phụ nữ hối hả lục túi lấy ra một xấp tiền dày cộm dúi vào tay chị Phúc:
- Chị vui lòng nhận lấy chút đỉnh này cho em vui, khi mọi việc giải quyết xong sẽ đền ơn chị hậu hĩnh hơn gấp bội.
Chị Phúc run lên khi xấp tiền vừa chạm vào tay mình.
Trời ơi, nếu ngay lúc này mà có được xấp tiền ấy, thì chị sẽ như người được chắp thêm đôi cánh, bao nhiêu nỗi lo âu thắc thỏm sẽ lập tức biến mất khỏi chị ngay thôi!
Chị Phúc muốn đưa tay chộp nhanh lấy xấp tiền rồi chạy thật nhanh về nhà, reo lên thật to:
- Con ơi, mẹ đã kiếm được tiền cho hai con đi học rồi đây!
Và chị hình dung ra được nét mặt rạng rỡ tươi vui của hai đứa nhỏ.
Chắc chắn, chúng nó sẽ tíu tít mừng vui, sẽ nháo nhào bắt chị kể lại những vất vả khổ nhọc mà chị đã đánh đổi để lấy được những tờ giấy xanh đỏ nho nhỏ nhưng lại quyền lực ghê gớm ấy!
Con hòa sẽ không ngừng tay đấm lưng cho mẹ, còn thằng Thuận thể nào cũng vớ ngay cái nón lá mà quạt lấy quạt để không thôi…
Ôi, cái cảng tượng ấy mới hạnh phúc làm sao, dù có phải khổ cực đến mấy để có được phút giây như vậy chị Phúc cũng cam lòng.
Giờ đây, những đồng tiền hấp dẫn ấy đang được người đàn bà sang trọng kia nhét vào tận tay chị, chị chỉ cần nắm chặt tay lại là xong!
Thế nhưng bản tính lương thiện không cho phép chị Phúc làm như vậy! Chị cảm thấy đây giống như một trò lường gạt mà chị không muốn tham gia.
- Không… không… tôi không…
Chị Phúc ấp úng nửa muốn từ chối nửa lại luyến tiếc xấp tiền dày cộm đang như khiêu khích trước mắt chị.
Người đàn bà sang trọng năn nỉ:
- Chị ơi, chị nhận giúp em đi! Nếu như hôm nay không được chị nhắc nhở kịp thời, có khi cả ngôi nhà của em hóa thành tro bụi cũng nên. Vừa rồi, chị lại hướng dẫn em cách giải quyết những rắc rối em đang gặp phải, nghe rất có lý nhưng em vẫn chưa vội kết luận ngay, em sẽ thực hiện, nếu kết quả như ý, em còn nhờ vả chị dài dài, chị đừng phụ lòng em, chị nhé?
Chị Phúc ngẫm nghĩ:
- Bà này nói cũng đúng thôi, nếu lúc nãy mình không nhắc bả về rút bàn ủi thì nhà bả cháy rồi! Người ta đi coi bói, chỉ nghe những lời nói suông đâu đâu mà còn phải mất tiền, huống chi mình đã làm được điều kỳ lạ đó! À, mà không, không phải mình, đó là Vong Nhi. Chính Vong Nhi đã giúp mình, vì nó muốn cho mình có tiền để sinh sống và nuôi con, thì tại sao mình lại từ chối sự đền ơn của người khác?
Nghĩ vậy nên chị Phúc thôi không từ chối nữa.
Thấy chị chịu nhận tiền, người đàn bà tỏ ra sung sướng lắm, còn hỏi thăm tỉ mỉ đường đến nhà chị để khi nào có kết quả trong công việc sẽ tìm tới trả ơn.
Khi hai người đàn bà tạm biệt nhau thì cả hai đều thấy lòng vui phơi phới. Niềm vui của chị Phúc thì rõ ràng quá rồi, không còn gì để bàn cãi nữa.
Đây là một số tiền khá lớn mà đã từ lâu rồi chị chưa khi nào được cầm giữ trong tay, kể từ sau lần chị bị người tình lường gạt.
Còn người phụ nữ sang trọng kia, bà ta vui vì đã làm quen được với một “bực thánh sống” theo suy nghĩ của mình. Bà ta hy vọng từ nay sẽ có người đoán trước giúp bà ta tất cả những thành bại trước mỗi cụôc làm ăn, được như vậy thì còn gì bằng nữa?
Không chỉ hai người đàn bà cảm thấy vui, mà cả Vong Nhi nữa, nó cũng rất vui khi nhìn thấy nụ cười thật tươi trên môi mẹ.
Từ hôm biết mẹ tới nay, nó chỉ toàn thấy mẹ rơi nước mắt, vầng trán nhăn lại đầy vẻ âu lo hoặc nghe những tiếng thở dài thườn thượt của mẹ. Đây là lần đầu tiên nó trông thấy nụ cười rạng rỡ trên môi người đàn bà khốn khổ.
Khuôn mặt tươi vui khiến chị Phúc như trẻ hơn nhiều tuổi.
Khi người đàn bà đã dắt chó đi xa, chị Phúc ngó quanh rồi lên tiếng gọi khẽ:
- Vong Nhi! Vong Nhi! Con đâu rồi?
Ngay lập tức bên tai chị nghe văng vẳng:
- Mẹ ơi, con đây! Bây giờ có tiền rồi, mẹ đã hết lo rồi phải không mẹ?
Chị Phúc vô cùng xúc động, chị nói với khoảng không trước mặt mình:
- Mẹ rất cảm ơn con, Vong Nhi ạ! Nếu không có con giúp đỡ mẹ thật sự không biết phải làm sao đây?
Vong Nhi cười hắc hắc:
- Mẹ ơi, sao mẹ lại nói vậy? Bổn phận con làm con, chuyện gì giúp mẹ là con sẽ giúp ngay mà, mẹ không phải cảm ơn con đâu. Chính con mới là người phải ngàn lần cảm ơn mẹ. Vì thật ra mẹ với con là những người hoàn toàn xa lạ, nhưng mẹ đã thương mẹ con con, ân nghĩa đó của mẹ con không sao đền đáp được hết…
Chị Phúc bật cười xua tay:
- Thôi thôi, hai mẹ con cứ ở đó mà kể công lẫn nhau! Giờ con theo mẹ về nhà để gặp anh chị con nhe?
- Dạ, con sẽ đi theo mẹ bất kỳ nơi nào mẹ tới!
Vong Nhi nhanh nhẩu đáp.
Chị Phúc mỉm cười nhưng rồi chị chợt chạnh lòng xa xót khi nghĩ:
- Thằng bé này quả thật lanh lợi, thông minh, nếu như nó được làm người thì tốt biết bao…

***
Mấy ngày nay không khí ở nhà chị Phúc vô cùng vui vẻ và đầm ấm. Chị đã chuẩn bị đầy đủ các khoản học phí cũng như áo quần sách vở cho hai con nhập học. Niềm vui rộn rã trong lòng chị.
Còn hai anh em Thuận, Hòa thì khỏi phải nói, chúng ríu rít cả ngày không ngớt.
Có một điều hai anh em vô cùng thắc mắc là từ khi mẹ trở về sau chuyến đi xa lần ấy, trước khi ăn uống bất kỳ một món gì dù ngon hay dở mẹ chúng đều lầm rầm khấn vái gì đó và ngồi im một lúc thật lâu mới bắt đầu ăn, giống như chờ đợi cho một ai đó ăn trước vậy.
- Mẹ ơi, mẹ cúng ai vậy?
Hòa tò mò hỏi.
Chị Phúc định kể thật với hai con, nhưng chị sợ khi biết trong nhà mình có một vong hồn phảng phất hai đứa nhỏ sẽ sợ và ảnh hưởng đến tâm lý của chúng nên chị đành nói trớ:
- Thì mẹ cúng vái những người khuất mặt khuất mày, mong được họ giúp đỡ mình vậy thôi mà con.
Hai đứa nhỏ dễ dàng nghe theo lời giải thích của chị. Thằng anh còn tỏ vẻ hiểu biết, nói nhỏ với em:
- Chắc thời gian qua mẹ đi vô chốn núi rừng nên mẹ càng tin tưởng vào chuyện linh thiêng của trời đất.
Hai đứa thông cảm cho sự mê tín của mẹ nên không đứa nào phản bác hay châm chọc.
Chị Phúc thật hài lòng về chuyện đó.
- Cháu ơi! Cho cô hỏi thăm, có phải đây là nhà của cô Phúc không vậy cháu?
Nghe tiếng người hỏi, hòa giật mình ngó ra, cô thật ngạc nhiên khi thấy có một bà khách ăn mặc sang trọng dừng chiếc xe gắn máy đời mới trước hẻm nhà mình để hỏi thăm mẹ mình.
Từ hồi bé đến giờ, có khi nào Hòa thấy mẹ kết bạn với những người giàu sang đâu?
- Dạ thưa đúng ạ, cô muốn tìm mẹ cháu?
Hòa lễ phép.
Người đàn bà mừng rỡ vội vàng xuống xe:
- Có mẹ ở nhà không cháu?
- Dạ, mẹ cháu mới đi ra ngoài một tí, mời cô vào nhà, mẹ cháu về ngay bây giờ đây ạ!
Hòa dẹp cây chổi đang cầm trên tay vào góc nhà rồi kéo ghế ra mời khách.
Căn nhà trọ ẩm thấp tồi tàn, cái bàn và mấy chiếc ghế lung lay thật không xứng đáng chút nào với dáng vẻ kiêu kỳ sang trọng của người đàn bà nọ, nhưng hình như bà ta không hề quan tâm đến cái vẻ nghèo khó của gia đình mình.
- Bà này là ai vậy nhỉ? Sao trông bà ta có vẻ kính trọng mẹ mình đến thế kia?
Hòa rất thắc mắc nhưng cô không tiện hỏi. Cô chỉ mong ngóng mẹ mau về để giải tỏa những câu hỏi đang chất chứa trong cô.
- Dạ, cháu mời cô uống nước ạ!
Hòa rót một ly nước bưng lên mời khách. Người đàn bà vội cầm lấy rồi nhìn Hòa mỉm cười:
- Cháu là con thứ mấy của chị Phúc?
- Dạ thưa, mẹ cháu sinh đôi anh cháu và cháu ạ, nhà cháu chỉ có ba mẹ con.
Hòa cười.
- Anh em cháu vẫn còn đang đi học?
Người đàn bà hỏi tiếp.
Hòa trả lời, giọng không khỏi tự hào:
- Dạ, hai em cháu đều sắp vào học Đại học ạ!
Người đàn bà khẽ reo lên:
- Ôi, quý hóa quá! Chị Phúc thật khéo nuôi dạy con cái! Hoàn cảnh mẹ góa con côi nhiều khó khăn vậy mà chị vẫn nuôi hai cháu ăn học nên người, và hai cháu nữa, hai cháu giỏi lắm. Không như thằng con cô, cô chú lo cho nó đầy đủ không thiếu thứ gì, cái gì cũng trang bị tận răng, ấy vậy mà chỉ tốt nghiệp phổ thông thôi mà nó cũng không thi nỗi, cô thiệt là xấu hổ với mẹ con cháu!
Người đàn bà nói một thôi một hồi khiến Hòa vừa thấy tự hào lại vừa thấy tội nghịêp cho bà ta. Cô thầm nghĩ:
- Mấy đứa con nhà giàu mười thằng bảy, tám thằng lo ăn chơi đua đòi không quan tâm gì đến chuyện học hành, nghĩ mà thèm mà tiếc cho tụi nó…
Hòa lúng túng không biết nói câu gì để an ủi người đàn bà xa lạ đó, nhưng may quá, cô vừa trông thấy mẹ về, vậy là có người giải cứu cho cô rồi!
- Mẹ ơi, có khách tìm mẹ!
Hòa kêu lên khi chị Phúc vừa bước vào cửa.
Chị ngạc nhiên:
- Khách nào tìm mẹ vậy con?
Hòa chưa kịp trả lời mẹ thì bà khách đã hấp tấp đứng lên chào:
- Chị! Là em nè, chị còn nhớ em không?
Chị Phúc khựng lại một chút vì ngỡ ngàng rồi reo lên:
- Cô… cô đây là…
Chị lúng túng không biết gọi người ra sao, chẳng lẽ nói “Cô chính là người đàn bà dắt chó hôm trước trong công viên?” nghe ra kỳ cục quá…
- Dự, từ nay chị cứ gọi em là Hằng đi cho thân mật!
Chị Phúc bước nhanh vào nhà:
- Cô Hằng ngồi ghế đi, cô tìm tôi có việc gì không?        
Chị Phúc lo ngai ngái, không biết Hằng có tới đây để đòi lại bớt số tiền đã đưa cho mình hôm trước? Có thể vì lúc đó bốc đồng, chị ta gom hết trong túi đem cho, đến khi về nhà nghĩ lại thấy tiếc nên hôm nay tới để xin lại?
Hằng kéo ghế ngồi sát lại gần chị Phúc, cất giọng thầm thì đầy vẻ bí mật:
- Chị ơi, quả thật chị có tài thánh đó! Chị nói đâu là trúng chóc chỗ đó, em phục chị sát đất! Hôm nay em tìm tới đây trước là hậu tạ đền ơn chị, sau là muốn nhờ chị giúp em thêm chuyện nữa.
Chị Phúc vừa mừng vừa lo lắng:
- Tôi… hôm trước cô đã biếu tôi nhiều tiền rồi, tôi không dám nhận nữa đâu cô Hằng ạ!
Hằng tỏ ra giận dỗi:
- Coi chị kìa, chị đã giúp em một việc lớn như thế thì cái sự hậu tạ của em có thấm vào đâu mà chị từ chối? Chị mà không nhận là em buồn lắm đó! Chị cứ coi em như em gái trong nhà đi, đừng khách sáo với em nữa…
Trong lúc mẹ và khách nói chuyện thì Hòa lui vào buồng đứng nghe lén. Cô thật khong hiểu nổi tại sao người đàn đó lại nói rằng mẹ mình đã giúp bà ta một việc lớn, rồi lại còn muốn nhờ vả mẹ điều gì nữa.
Mẹ thì nào giờ có biết làm gì ngoài những công việc chân tay đơn điệu? Mẹ có thể giúp gì được cho bà ta ngoài việc dọn dẹp nhà cửa? Mà nếu là công việc đó thì chắc hẳn một người đàn bà sang trọng như vậy không đời nào tỏ vẻ thua kém trước mặt mẹ mình đâu…

Hòa càng ngạc nhiên hơn nữa khi nhìn ra thấy người khách đó trao cho mẹ mình một phong bì dày cộm mà thoáng nhìn qua cô cũng đoán được bên trong chắn chắn là những tờ tiền giấy có giá trị không nhỏ!
- Trời! Mẹ mình đã làm chuyện gì vậy ta? Hèn gì vừa rồi mẹ có được số tiền lớn để lo cho anh em mình nhập học. Có khi nào… có khi nào vì anh em mình mà mẹ nhúng tay vào chuyện phạm pháp, như buôn bán xì ke ma tuý chẳng hạn?
Hòa bất giác run lên nhưng mồ hôi lại đổ giọt khi cô nghĩ tới việc đó. Cô muốn chạy ào ra để ngăn mẹ lại. Nhưng Hòa đã thật cố gắng để kìm mình lại. Mẹ đang nói chuyện với khách, mình không được tỏ thái độ vô lễ, chút nữa khách về mình sẽ nói với mẹ, thà rằng mình và anh bỏ học chứ nhất định không để vì anh em mình mà mẹ phải sa chân vào con đường tội lỗi.
Nước mắt Hòa ứa ra, hai bàn tay cô bấu chặt thành giường để đè nén dòng cảm xúc đang sục sôi trong người cô.
- Hôm rồi em đã làm theo đúng những lời chị căn dặn, chứ nếu không thì em đã thua trắng tay rồi! Ông xã em cứ khen em mãi làm em vô cùng xấu hổ đành phải thú thiệt với ổng là tất cả đều nhờ sự giúp đỡ của chị. Nhưng ban đầu ổng đâu có chịu tin đâu chị.
Ổng la em, đồ đàn bà tối ngày tin vào ba cái chuyện mê tín dị đoan, lâu lâu xăm xia được một lần lại hết lời tán dương ca tụng. Em ức lắm, cãi tay đôi với ổng một trận vẫn không phân thắng bại.
Em đánh liều, cá độ với ổng cái việc thứ hai mà chị dạy. Em dứt khoát nói: Khi ra đấu thầu, anh phải đưa đúng con số đó mà thôi, chắc chắn sẽ trúng, nếu không thì em giao luôn công ty em đang quản lý cho ổng, em sẽ ở nhà cơm nước hầu hạ ổng trọn đời.
Ổng cười vào mặt em, nói thứ đàn bà cạn nghĩ, với con số đó mà đòi thắng trong cuộc đấu thầu quy mô như vậy.
Sáng ra, trước khi đi, ổng nói một câu làm em tức lộn ruột:
- Anh biết chắc chắn sẽ thua, nhưng anh chấp nhận thua keo này để em về an phận làm vợ hầu hạ anh như lời em hứa.
Quả thật hôm đó em cũng lo lắm chị à, cứ sợ lỡ ra có gì… thì phải chôn cuộc đời trong bốn bức tường nhà bếp mất thôi. Có lẽ em là người hồi hộp nhất.
Nhưng tới trưa chồng em về, vừa nhìn thấy mặt ổng là em biết chắc phần thắng đã thuộc về mình. Ổng có phần hơi tin tin vào những dự đoán của chị, nhưng vẫn còn hoài nghi lắm. Đến chuyện thứ ba ổng mới hoàn tin hẳn đó chị. Và hôm nay, chính ổng nhờ em đến cầu cứu chị. Nếu khong có chuyến công tác đột xuất thì hôm nay cả hai vợ chồng em cùng đến thăm gia đình chị rồi đó.
Hòa nghe rất rõ những lời kể lể của người khách lạ, cô từ từ lấy lại bình tĩnh:
- Thì ra… thì ra mẹ không phải đã làm điều phạm pháp. Mẹ dự đoán? Dự đoán điều gì? Cái gì mà có chuyện đấu thầu trong đây nữa? Mẹ biết gì về vấn đề đó mà dự với đoán nhỉ? Trời ơi, mình nóng ruột quá đi mất…
Tiếng chị Phúc từ tốn:
- Có gì đâu mà cô Hằng nói vậy, tôi cũng chỉ là…
- Không đâu, tại chị khiêm tốn mà nói thế thôi, chứ em biết chị là người có cái nhìn thấu đáo quá khứ vị lai ngay từ lúc chị nói tới chuyện cái bàn ủi còn cắm địên trong nhà em. Nếu không có cái nhìn thần thánh, làm sao chị biết được điều đó mà nói chứ?
Người khách ngăn lời chị Phúc.
Chị Phúc tở nên lúng túng:
- Tôi… tôi…
Tiếng Vong Nhi thì thầm bên tai chị:
- Mẹ đừng nói gì hết, mẹ cứ nhận đi, con sẽ giúp mẹ mà!
Ở trong buồng, Hòa đi hết sững sờ này tới sững sờ khác:
- Trời ơi, mẹ mình có cái nhìn thần thánh, thấu đáo được quá khứ vị lai? Có thật thế không hở trời? Mà theo như lời của người khách này thì những điều mẹ mình nói ra đã đúng hoàn toàn… Sao thế nhỉ?
Người khách tỏ vẻ thân thiện:
- Chị ơi, em nói điều này mong chị bỏ qua cho. Em nhận thấy gia đình ta còn nhiều khó khăn thiếu thốn, nhất là em vừa được biết hai cháu đây sắp học đại học, mỗi tháng chị phải mất một số tiền không nhỏ để lo cho hai cháu. Ông trời đã ban cho chị cái tài đó chắc là để chị mang ra giúp đời, vừa giúp được người khác lại vừa có điều kiện chăm lo cho cuộc sống riêng của gia đình mình, sao chị không chịu phát huy? Nếu chị đồng ý, em sẽ giới thiệu những bạn bè làm ăn lớn với vợ chồng em, nếu chị nói đúng, giúp được họ trong công việc làm ăn, thì em bảo đảm cuộc sống của mẹ con chị sẽ được nâng lên rất cao trong một thời gian ngắn…
Đứng bên cạnh mẹ, Vong Nhi nghe hết những lời người khách nói. Đứa bé ngẫm nghĩ cũng phải.
Căn nhà mẹ đang ở tồi tàn quá, mặc dù tháng tháng mẹ phải mất tiền trả tiền thuê cho chủ, nhưng hễ đêm nào trời mưa lớn là nhà lại dột nát, cả ba mẹ con phải dồn vào một góc, ngồi tụm lại ngủ gà ngủ gật trông rất thảm thương.
Sao mình không giúp mẹ có được cuộc sống tươm tất hơn một chút để hai anh chị có phòng riêng, để mẹ khỏi lo ngai ngai khi thấy trời vần vũ chuyển mưa…
Vong Nhi lại nói thầm vào tai chị Phúc:
- Mẹ đồng ý đi mẹ, con sẽ giúp mẹ…
Nhưng chị Phúc chỉ hứa hẹn bâng quơ:
- Tôi cũng chưa biết nói sao nữa, việc đó cô Hằng cứ để thư thả một chút rồi tính nhé? Thú thật, tôi cũng không biết khả năng mình tới đâu nữa…
Hằng chồm lên:
- Chị khiêm tốn quá đó thôi, em là biết, em tin vào khả năng kỳ diệu của chị lắm! Nhưng mà thôi, chuyện đó chị suy nghĩ lại cũng được. Nhưng trước mắt, chị làm ơn giúp em một việc. Số là…
Hằng kể lể tỉ mỉ những chuyện rắc rối mà công ty của chồng cô đang gặp phải và đưa ra mấy phương án nhờ chị Phúc tư vấn giúp nên chọn phương án nào.
Chị Phúc ngơ ngác trước những từ chuyên môn lạ lẫm, chị còn chưa biết nói sao thì đã nghe giọng mình phân tích từng phương án một, phân tích thật rành rẽ, khúc chiết như một người vô cùng am tường mọi việc.
- Trời ơi, em nói có sai đâu! Chị quả là thiên tài! Nghe chị nói cứ như đang nghe một nhà kinh tế học bình luận vậy…
Không chỉ cô Hằng mà cả Hòa đều ngạc nhiên và thán phục. Hòa không thể nào ngờ được mẹ cô, một người đàn bà còn chưa thuộc hết mặt chữ mà đã có cái nhìn và những lập luận sắc bén đến như vậy. Mặc dù Hòa không biết phương án mà mẹ cô chọn có đúng thật sự không, nhưng trước những lý lẽ mà mẹ phân tích cô hoàn toàn bị thuyết phục.
Mẹ mình có tài đó từ khi nào nhỉ?
Thật là có quá nhiều chuyện lạ lùng từ sau chuyến đi theo đám người đãi vàng vừa rồi của mẹ.
Khi người khách vừa ra khỏi cổng, Hòa không nén được tò mò:
- Mẹ ơi, mẹ nói thật cho con biết đi, tại sao mẹ lại có tài bói toán như vậy? Mẹ biết việc này từ khi nào mà anh em con không ai hay biết gì hết?
Chị Phúc ngượng nghịu trước con gái, chị thật sự không muốn đánh lừa con, nhưng chị lại không dám kể thật việc Vong Nhi.
Hòa vừa trông thấy Thuận về, cô níu anh lại:
- Anh, anh mau ngồi xuống đây nghe em nói chuyện này nè! Mẹ mình có tài đoán trước được mọi việc, mẹ mình là thầy bói đó nghe anh!
Tưởng em gái giỡn, Thuận cốc vào đầu em:
- Tào lao quá!
Hòa một tay xoa xoa đầu, một tay cầm cái phong bì dày cộm mà chị Phúc chưa kịp cất đi đưa ra làm bằng chứng:
- Anh thấy không? Đây là tiền nè, rất nhiều tiền của một bà khách giàu có sang trọng mới vừa tìm tới đây để tạ ơn mẹ vì mẹ đã đoán trước sự việc để giúp bà ta thắng lớn trong công việc làm ăn. Anh nói đi, nếu không thì làm sao người ta lại đem cho mẹ nhiều tiền đến như vầy? Lúc nãy mà có anh ở nhà, anh không ngạc nhiên đến xỉu thì thôi, mẹ ăn nói cứ như một người uyên bác…
Thuận mở to mắt nhìn xấp tiền rồi nhìn mẹ:
- Mẹ, có đúng vậy không mẹ? Tại sao mẹ làm được điều đó vậy?
Chị Phúc lúng túng:
- Mẹ… ơ… mẹ cũng không biết nữa! Thật sự thì mẹ không biết gì đâu hai con à! Hai con cũng biết mẹ của hai con đọc chữ còn chưa thạo mà, làm sao có thể hiểu biết được những điều cao xa như vậy, nhưng… lúc đó có người khác nói, người khác nói bằng chính giọng của mẹ… Mẹ khong biết giải thích sao cho các con hiểu nhưng sự thật là như thế!
Hòa ngồi sát vào anh, vẻ lo sợ nhưng lại tỏ ra am hiểu:
- Con biết rồi! Lâu nay con vẫn thường nghe bạn bè kể việc đi coi bói ở những người có phần âm “dựa”. Những lúc như vậy thật ra người đó đâu có biết gì, đâu có nói gì, mà chỉ là cho mượn thân xác để một linh hồn nào đó nương dựa vào, có đúng như vậy không mẹ?
Chị Phúc gật đầu:
- Ừ, đúng vậy đó con, mẹ hoàn toàn không biết gì đâu, nhưng tự nhiên mẹ nghe tiếng mình nói vậy thôi…
Thuận lo lắng:
- Nhưng như vậy có ảnh hưởng gì tới sức khỏe của mẹ không? Con sợ…
Chị Phúc trấn an:
- Không có gì phải lo con ạ, mẹ không thấy có gì lạ xảy ra trong mình hết. Các con cũng thấy đó, mẹ đâu có bị gì đâu… Nhưng nếu các con không đồng ý thì… mẹ sẽ không làm như vậy nữa…
Hòa rụt cổ:
- Con không biết, con không có ý kiến. Anh Hai, anh thấy sao? Mẹ mình có nên tiếp tục làm nghề này không? Lúc nãy anh mà nghe cô khách đó nói anh không mê thì thôi. Cô đó nói nếu mẹ mình đôøng ý giúp thì cổ sẽ giới thiệu toàn bạn bè làm ăn lớn tới đây. Mẹ mà nói đúng thì nhà mình sẽ được đổi đời trong tích tắt!
Thuận mân mê cái phong bì, ra vẻ đăm chiêu một lúc thật lâu mới cất tiếng:
- Mẹ ơi, thật ra con cũng không muốn mẹ làm nghề bói toán này đâu. Nhưng nếu không làm việc này mẹ lại phải lăn lộn với những công việc nặng nhọc vất vả mà đồng tiền kiếm được thì không có là bao. Mẹ cũng đã lớn tuổi rồi, chúng con không muốn thấy mẹ gồng mình gánh từng đôi nước hay gò lưng ra giặt giũ quần áo cho người ta. Nên con nghĩ mẹ tạm thời làm công việc này cũng được, mình cũng đâu phải gạt gẫm gì người ta mà sợ tội lỗi. Mẹ giúp cho họ thì họ đền ơn mẹ, cũng sòng phẳng thôi mà, phải không mẹ? Chỉ vài năm nữa  em tụi con ra trường, khi đó nhất định tụi con không để cho mẹ phải làm gì nữa, mẹ chỉ ngồi chơi hưởng phước mà thôi…
Chị Phúc nghe mắt mình cay sè trước những lời nói hiếu thảo của con trai.
- Ừ, vậy tạm thời mẹ làm công việc này…
Hòa nghiêng đầu sang thì thầm với anh trai, giọng bỡn cợt:
- Để rồi anh xem, mai mốt đây mẹ mình nổi tiếng giống như… giống như ông thầy Hít trong truyện cổ tích cho mà coi!
- Em thiệt là…
Thuận giơ tay tính cốc lên đầu em gái cái nữa nhưng Hòa đã nhanh nhẹn né được, cô cười lên ha hả rồi chạy vụt ra sau.
Chị Phúc nhìn theo hai con, lòng nhập tràn hạnh phúc.

***
Quả đúng như lời cô Hằng nói hôm nào, chỉ một thời gian ngắn hành nghề mà chị Phúc đã mua được một miếng đất khá rộng và xây dựng một ngôi nhà khang trang mà trước đây dù có nằm mơ chị cũng không dám tơ tưởng đến.
Cuộc sống của ba mẹ con chị Phúc giờ đây đã không còn cái cảnh thiếu trước hụt sau quanh năm suốt tháng cứ phải chạy bở hơi tai lo chuyện cơm áo gạo tiền.
Tiếng đồn lan đi rất nhanh và rất xa, người ta tìm tới chị ngày một đông đúc, có hôm chị không còn đủ thời gian để cơm nước nghỉ ngơi gì cả.
Chị Phúc một phần thấy người ta lặn lội từ xa tới không nỡ từ chối, phần nữa chị cũng không muốn mất những đồng tiền mà người ta tự nguyện đem đến tận nhà cho chị. Cái công việc chỉ ngồi không nói suông ra rả cả ngày này có mệt đi nữa thì có thấm vào đâu so với những công việc nặng nề mà trước đây chị vẫn thường làm.
Chính vì lẽ đó chị Phúc cứ coi liên tục hết người này sang người khác. Hết ngày này sang ngày khác.
Ban đầu thấy mẹ vui, nhà cửa khang trang, thấy mẹ trẻ hẳn ra Vong Nhi cũng vui lắm, nhưng rồi dần dần thằng bé nhận thấy điều bất ổn đang xảy ra.
Vong Nhi thấy mẹ hiện giờ thật khác so với mẹ của những ngày còn lam lũ cơ hàn…
Từ cách đi đứng, nói cười của mẹ cũng mất dần cái vẻ chân chất tự nhiên vốn có. Nhiều lúc đứng ôm cổ mẹ, Vong Nhi thèm được nghe lại mùi mồ hôi oi nồng trên lưng áo mẹ, nhưng nó không thể tìm lại được nữa rồi! Giờ đây thân thể mẹ lúc nào cũng tỏa ra mùi nước hoa đắt tiền thơm phảng phất. Nó thấy mẹ dần trở nên xa lạ vô cùng.
Mẹ cũng không hề hỏi xem nó có mệt không khi cả ngày từ sáng sớm đến tối mịt phải làm cái công việc chui rúc vô đời tư của thiên hạ?
Nhiều lúc Vong Nhi cảm thấy buồn và tủi thân. Nó thấy hình như bây giờ mẹ xem nó như một công cụ để hái ra tiền chứ không còn dành cho nó tình thương như trước nữa.
Và vong Nhi cũng biết rằng, mỗi lần nó giúp mẹ đoán vận hạn cho một người là nó đã góp phần làm đảo lộn quy luật của trời đất.
Một buổi tối, sau khi mẹ khoan khoái cất số tiền kiếm được trong ngày vào két sắt, Vong Nhi thầm thì bên tai mẹ:
- Mẹ ơi, cuộc sống của gia đình mình bây giờ cũng đã đầy đủ lắm rồi phải không mẹ? Bắt đầu từ ngày mai, mẹ đừng coi nhiều người nữa mẹ nhe? Mẹ phải kiên quyết mỗi ngày chỉ xem cho đúng ba người, không có ngọai lệ người thứ tư nghen mẹ!
Chị Phúc sửng sờ một lúc rồi hỏi:
- Sao thế con? Có chuyện gì xảy ra à?
- Bây giờ thì không thấy gì, nhưng rồi chắc chắn sẽ xảy ra mẹ ạ! Chúng ta đề phòng trước vẫn hơn…
Vong Nhi buồn buồn nói.
Chị Phúc gạt ngang:
- Con lo xa nên nói vậy thôi chứ mẹ đâu thấy vấn đề gì đáng quan tâm. Mình làm việc này là giúp đời mà con, mình có hại ai đâu mà sợ tai ương quả báo chứ con?
Vong Nhi nghiêm nghị:
- Mẹ nghĩ vậy là chưa đúng rồi! Mặc dù thoạt nhìn thì việc làm của mẹ con ta rõ ràng là đã giúp cho người ta tránh đi được tai ương có thể xảy ra trong đời, hoặc giúp người ta giành lấy được những thắng lợi trong công việc.
Nhưng mẹ nghĩ kỹ lại đi, khi có người thắng tất có người thua. Mà nhiều trường hợp đáng ra cái phần thua kia sẽ nghiêng về phía người thắng, chỉ vì người đó biết tới mẹ, tìm tới đây “hối lộ” cho mẹ một số tiền là họ giành được phần thắng trong tay, còn kẻ không hối lộ đành phải chịu chết. Như vậy có công bằng không mẹ?
Và còn nữa, những người đúng ra là vào giờ đó, ngày đó họ sẽ phải gặp tai nạn đó thì mới đúng với luật nhân quả mà tạo hóa đã định ra, nhưng những kẻ hối lộ lại thoát khỏi, lại đi ngược lại luật trời, như vậy chẳng khác nào mẹ con mình chống đối lại trời đất?
Chính vì con thương mẹ, con không muốn thấy mẹ sóng nghèo khó vất vả nên con mới đồng ý giúp mẹ việc này để đời sống gia đình mình được cải thiện hơn.
Giờ thì nhà mình đã đầy đủ, có của ăn của để rồi, con nghĩ mỗi ngày mẹ chỉ xem ba người thôi cũng là nhiều rồi mẹ ạ!
Chị Phúc thở dài:
- Tại con không biết đó thôi nên mới tưởng nhà mình đã có của ăn của để. Anh chị con còn ăn học đến mấy năm nữa, rồi khi hai đứa nó ra trường mẹ phải chạy vạy lo công ăn việc làm cho chúng nó, rồi dựng vợ gả chồng, rồi lo mua nhà mua cửa… đủ thứ chuyện cần tiền con à! Nhưng thôi, nếu con không đồng ý thì mẹ cũng không ép buộc con đâu…
Nghe giọng mẹ có vẻ như hờn dỗi, Vong Nhi chân thành khuyên:
- Mẹ ơi, sống ở trên đời biết bao nhiêu mới đủ cho được hở mẹ? Mình cứ cho là đủ thì tất nó sẽ đủ thôi. Con chỉ sợ nếu kéo dài tình trạng này thì chắn chắn một ngày mẹ con mình sẽ bị đền tội. Con thì không sao rồi, vì con chỉ là một Vong Nhi, con lo là lo cho mẹ và anh chị…
- Thôi được rồi, con nói bấy nhiêu đó mẹ nghe rồi, mẹ đau đầu quá, giờ mẹ chỉ muốn ngủ thôi!
Thấy mẹ giận hờn muốn chấm dứt câu chuyện tại đó, Vong Nhi thật buồn nhưng nó nghĩ rồi một ngày mẹ sẽ hiểu được lòng nó. Nó không muốn mẹ phải trả giá vì lòng tham không đáy của con người!
Sáng hôm sau, khi coi tới người thứ ba Vong Nhi nói thầm vào tai chị Phúc nhắc nhở:
- Đây là người cuối cùng rồi mẹ nhé?
Chị gạt ngang:
- Cuối cùng sao được mà cuối hở con? Mình mới thông báo hôm nay thôi, người ta đâu biết được, người ta đã công xếp hàng từ lâu rồi, nếu mình từ chối như vậy con không sợ người ta nói mẹ con mình ỷ có tiếng rồi làm cao hay sao? Con ráng giúp mẹ một hôm nữa thôi, hôm nay người ta thấy mình dán thông báo chỉ xem đến người thứ ba thôi thì ngày mai người thứ tư đến sẽ tự khắc ra về, không đợi mình từ chối!
Vong Nhi ngao ngán khi thấy mẹ trở nên tham lam quá mức, nó biết mẹ chỉ nói thế để cố kéo dài thêm được ngày nào hay ngày ấy.
Nhưng vì nể mẹ, không muốn mẹ phải mất mặt trước mọi người, Vong Nhi vẫn kiên nhẫn xem tới người cuối cùng khi trời đã tối mịt.
Sáng hôm sau thấy mẹ vẫn lập lại những nguyên văn như cũ, Vong Nhi kiên quyết từ chối khi kết thúc ở người thứ ba.
- Con mệt mỏi rồi, con xin lỗi mẹ, mỗi ngày con chỉ có thể giúp mẹ ba người thôi, không thể giúp mẹ thêm được nữa, mong mẹ hiểu cho con, những gì cần nói con đã giải thích với mẹ rất rõ ràng rồi!
Chị Phúc quá bất ngờ trước sự kiên quyết của Vong Nhi. Chị giận lắm nhưng phải lòng.
- Thôi, con mệt thì cứ đi nghỉ, mặc mẹ xoay sở một mình cũng được, bởi vì mẹ không thể từ chối người ta được con ơi…
Và thế là chị Phúc tự mình vừa làm đạo diễn vừa làm diễn viên. Chị không cần nhờ đến Vong Nhi nữa.
Chị Phúc đã nhiều ngày tháng nghe những lời nói của Vong Nhi nên cũng đã thấm phần nào vào con người chị. Mặc dù thật sự chị không thể nhìn thấy gì kể cả quá khứ lẫn tương lai của thân chủ nhưng lời lẽ của chị vô cùng trơn tru và thuyết phục, sai đúng thế nào thì còn phải chờ kiểm nghiệm lại, nhưng trước mắt ai cũng phải mê muội trước tài ăn nói của chị.
Vong Nhi vẫn đứng một bên mẹ, lắc đầu ngao ngán. Nó thấy mẹ bây giờ liều lĩnh quá! Mẹ cứ nói bừa nói càn rồi đưa tay nhận tiền của người ta mà không cần biết tới hậu quả gì hết.
Ngày nào Vong Nhi cũng khuyên can mẹ nhưng chị Phúc vẫn lấy cớ nể tình thiên hạ để tiếp tục dấn sâu vào tội lỗi.
Bởi vì Vong Nhi chỉ giúp mẹ chỉ ba người một ngày, còn những người sau đó là do chị Phúc tự mình nói càn nói bậy nên tiếng tăm chị dần dần mai một, người đến xem cũng dần dần thứ vắng đi.
Mà ở đời hễ giậu đổ thì bìm leo. Giữa lúc chị Phúc tiếng tăm nổi như cồn thì người dân ở gần đó xem chị như một bậc thánh sống, ai cũng nể nang kính trọng. Tới khi danh tiếng chị không còn thì người ta lại xúm nhau vạch lá tìm sâu.
Người ta ganh ghét nên đi báo với nhà chức trách, chị Phúc nhiều lần bị mời lên mời xuống vì cái tội coi bói lường gạt người khác.
Bây giờ thì thỉnh thoảng mới có một vài người tìm tới chị, mà tiền công họ trả cho chị cũng chẳng được bao nhiêu.
“Bà thầy bói đó đã hết thời!” Đó là câu kết luận mà người ta dành cho chị Phúc.
Chị Phúc buồn lắm. Vì tiền đang vô ào ào bỗng bất ngờ đứng chựng lại thì không buồn sao được.
Trong thâm tâm, chị Phúc cho rằng mọi việc là do Vong Nhi gây ra, vì nếu Vong Nhi đừng bày ra cái vụ chỉ coi cho ba người trong một ngày thì làm gì chị phải cương bừa bãi cho đến nỗi mất hết danh tiếng thế này.
Nghĩ là nghĩ vậy thôi chứ chị đâu dám ngang nhiên chống lại Vong Nhi. Dù nó là một đứa bé, nhưng lại là một hồn ma của đứa bé thì chị biết mình không có đủ năng lực để mà chống nói, thì thôi vậy, đành chìu theo nó cho mọi việc được êm xuôi.
Nhưng từ đó tình cảm giữa chị Phúc và Vong Nhi cứ lợt phai dần. Mỗi bữa ăn chị Phúc vẫn không quên khấn gọi mẹ con Vong Nhi, nhưng đó hoàn toàn là những lời trống rỗng, giống như một chương trình được cài đặt sẵn hễ tới lúc là tự động phát ra, không chứa đựng bất kỳ một chút tình cảm nào trong đó…
Vong Nhi cũng vậy, nó đã bỏ cái thói quen ôm choàng lấy cổ mẹ, nó cảm thấy giữa nó và mẹ giờ đây sao mà gượng gạo đến buồn cười…
- Mẹ ơi, chắc con sẽ phải từ giã mẹ!
Vong Nhi lên tiếng.
- Sao thế con?
Chị Phúc hỏi với vẻ thờ ơ.
- Con sắp đến ngày phải đi đầu thai rồi mẹ ạ!
Vong Nhi vừa nói vừa nhìn chăm chăm vào mẹ, nó mong chờ một biểu tượng cảm xúc xuất hiện trên gương mặt người đàn bà mà lâu nay nó luôn gọi tiếng mẹ thân thương trìu mến.
- À, thế à? Mẹ mừng cho con…
Gương mặt chị Phúc vẫn vô cảm khi thốt ra những lời nói đó.
Vong Nhi buồn rầu.
Mấy lúc gần đây nó cứ trăn trở hoài không biết việc làm của mình là đúng hay sai?
Vì thương mẹ, không muốn mẹ phải khổ sở trăm bề, nên nó đã giúp mẹ làm công việc đó.
Và cũng chính vì vậy mà Vong Nhi đã làm mất đi một người đàn bà hiền lương chân chất ngày nào. Đồng tiền đã làm thay đổi mọi thứ. Từ căn nhà lụp sụp nghèo nàn biến thành ngôi nhà to đẹp, từ một phụ nữ hiền hòa giàu tình cảm trở thành một người đàn bà vô cảm và thủ đoạn chỉ biết tới đồng tiền.
Giúp mẹ là sai sao?
Vong Nhi thật sự hoang mang trước câu hỏi đó.
Nó thấy cuộc đời con người sao mà quá nhiều rắc rối, không một ai bằng lòng với những gì mình có được trong tay, ai cũng nhìn vào cái mà người khác có để ước mơ khao khát.
Chính bởi điều đó mà con người cứ phải quẩn quanh trong bể khổ không thể thoát ra được bên ngoài.
Vong Nhi chưa được làm người, vậy mà nó cũng đã bị dòng đời cuốn vào đến nghiêng ngả…
Buồn quá, buồn thật nhiều!
Vong Nhi thầm than như thế. Nó thèm thấy lại cảnh gia đình mẹ đầm ấm như xưa, một hai củ khoai lang ba mẹ con cũng nhường qua đẩy lại, đêm mưa thì ai cũng dành ngồi chỗ dột để che chắn cho người khác…
Còn bây giờ thì sao?
Từ lúc gia đình trở nên khá giả, Thuận không còn chuyên tâm vào việc học hành nữa. Anh trở nên chơi bời lêu lỏng, cặp bồ cặp bịch lung tung, nhiều khi bỏ nhà đi chơi suốt mấy ngày đêm liên tiếp mà không nói với mẹ câu nào.
Chị Phúc rầy la nhiều lần không được, chị chỉ biết lặng lẽ thở dài mỗi khi thấy Thuận vắng nhà.
Hòa có đỡ hơn anh trai một chút. Cô vẫn lo học hành nhưng cũng đã đua đòi quần này áo nọ, xe cộ lung tung.
Cả hai đứa con đều trở nên ích kỷ chỉ biết nghĩ tới riêng bản thân mình mà thôi.
Nhìn cảnh gia đình mẹ mà Vong Nhi thấy buồn nẫu ruột.
Vong Nhi thầm nghĩ, nếu như vẫn giữ cuộc sống nghèo nàn lúc trước thì chắc có lẽ mẹ con họ vẫn thương yêu đùm bọc lẫn nhau chứ không sống riêng biệt như bây giờ.
Bây giờ, mỗi khi về nhà là Hòa, Thuận lại chui tọt vào phòng riêng của mình đóng chặt cửa lại. Cả hai chỉ trao đổi với mẹ những lúc cần tiền hoặc cần đáp ứng điều gì đó cho bản thân.
Chị Phúc sống trong nhà mình mà thấy thật bơ vơ lạc lõng.
Những ngày nhà còn dập dìu người lui tới chị không thấm thía lắm nỗi cô đơn, vì suốt ngày bận rộn, tối đến còn phải kiểm điểm tiền bạc thu được trong ngày, mệt nhoài và lăn ra ngủ, đôi khi có buồn thì cũng thoáng qua rồi nhanh chóng chị lại nghĩ về những điều khác, xa xôi hơn.
Nhưng từ khi vắng khách, chị Phúc suốt ngày quanh quẩn một mình thì chị mới thấm được nỗi buồn cô quạnh.
MaËc dù chị biết bên cạnh chị vẫn có Vong Nhi, nhưng thật sự chị không thể thương yêu quyến luyến Vong  Nhi như trước đây được nữa…
Bây giờ nghe Vong Nhi bảo rằng nó sẽ phải từ giã chị để đi đầu thai, chị Phúc cũng lấy làm lạ là tại sao mình không cảm thấy buồn vui gì trước cái tin đó.
Ừ, ngẫm ra nó với mình có là gì của nhau đâu, mặt mũi nó thế nào mình cũng còn chưa biết nữa là…
Nhưng dù sao cũng nhờ có Vong Nhi mà gia đình chị mới có được ngày hôm nay, chị vẫn biết ơn nó, nhưng chị rất chán khi phải nghe nó lặp đi lặp lại cái câu sẽ phải đền tội gì đó sau này.
Ừ thôi thì nó đi lúc này cũng tốt, tốt cho nó và cả cho mình nữa…
Chị Phúc hỏi bâng quơ:
- Con thích ăn gì? Sáng mai mẹ sẽ mua về cho con ăn?
Vong Nhi rưng rưng nước mắt.
Ôi, ước gì câu nói đó đi kèm với một cử chỉ trìu mến thì nó sẽ hạnh phúc biết bao…
- Dạ thôi, khỏi mua đi mẹ… Sáng mai con đi sớm!
- Thế à?
Hai tiếng “thế à” thoát khỏi đôi môi mẹ nghe sao thờ ơ và lạnh lùng đến vậy?
Vong Nhi chưa được làm người, tiếng khóc chào đời của nó chưa một lần được cất lên nhưng sao lúc này nó cảm thấy mắt mình nhòe nước…
Sao thế nhỉ? Mình chỉ mới là một bóng ma nhỏ bé bên cạnh cuộc đời mà đã phải chịu đắng cay của nhân tình thế thái thì trách gì kiếp con người lại nhiều đau khổ truân chuyên đến thế!
Suốt đêm đó Vong Nhi không ngủ, nó ngồi cạnh bên mẹ, thấy mẹ trăn trở rồi thở dài thườn thượt làm nó lại nhớ về những ngày khốn khó đã qua…
Nó biết sự trở trăn và tiếng thở dài của mẹ không phải dành cho nó nhưng sao nó vẫn thấy ấm lòng… Bởi vì nó sợ sự vô cảm nơi mẹ biết bao nhiêu…
Sáng sứom Vong Nhi lên đường, nó có được một nguồn an ủi lớn lao trước giờ ly biệt, đó là khi chị Phúc dang rộng vòng tay ra và khẽ nói:
- Con cho mẹ được ôm con một lần đi, Vong Nhi!
Vong Nhi nhận thấy cái cử chỉ và câu nói ấy của mẹ thật chân thành, thật tình cảm biết bao.
Nó muốn gào to lên:
- Mẹ ơi, mẹ hãy luôn luôn như thế này nghe mẹ!
Nhưng nó đã không làm thế, nó lặng lẽ đứng vào giữa vòng tay mẹ mà cảm nhận được hơi ấm của tình mẫu từ đan lan tỏa khắp cái cơ thể mong manh sương khói của nó…
Còn chị Phúc, mãi đến giây phút này chị mới nhận thấy hình như giữa chị và Vong Nhi cũng có một tình mẫu tử thiêng liêng sâu sắc.
- Con ơi…
Chị Phúc khẽ kêu lên, nước mắt chị bắt đầu tuôn chảy.
Vong Nhi không kiềm được lòng mình, nó cũng bật ra tiếng khóc…
Cuộc chia ly giữa hai mẹ con trở nên vô cùng bịn rịn mà không ai có thể ngờ trước được!

***
Từ ngày Vong Nhi đi rồi chị Phúc càng cảm thấy cô đơn, trống vắng. Mỗi khi thấy Hoà hoặc Thuận về nhà, chị mừng lắm, nhưng chưa kịp nói gì thì chúng nó lại đi tiếp hoặc vào phòng kêu buồn ngủ hoặc bận học bài.
Hình như cả hai đứa đều muốn tránh mặt chị.
Chị thèm một bữa cơm đầm ấm có đủ mặt ba mẹ con biết bao nhưng lâu rồi vẫn chưa thực hiện được.
Ngày xưa khốn khó, bữa ăn nào cũng không đủ no, thức ăn chỉ qua loa vài ba cọng rau con cá gọi là vậy mà sao đầm ấm quá!
Còn bây giờ muốn ăn gì mà chẳng được, nhưng chị lại phải thường xuyên ngồi một mình trước mâm cơm đầy ắp thức ăn, hoạ hoằn lắm mới có mặt thêm một đứa.
Chẳng lẽ cái giá phải trả mà Vong Nhi đã nhiều lần nói với chị chính là đây sao?
Chị Phúc lắc đầu, cố xua đi những ám ảnh không vui.
- Không đâu, hai đứa tụi nó sắp ra trường rồi, nghe đâu dang phải làm luận văn, làm đề án gì đó nên mất nhiều thời gian thế thôi! Hai đứa nó tập trung vào bài vở quá nên mới xao lãng gia đình, mình cũng không nên trách nó. Chỉ vài tháng nữa thi cử xong xuôi, chúng nó lại quay về đây cười giỡn cả ngày tha hồ cho mình la mắng…
Chị tự biện hộ để an ủi chính mình.
Nhưng tận trong thâm tâm chị vẫn biết đó chỉ là những lời biện hộ rỗng tuếch mà thôi!

***
Chị Phúc đang ngồi trên chiếc xích đu trước nhà, trông ra thấy Hòa đẩy cổng đi vào chị mừng rỡ:
- Hôm nay về sớm thế con gái?
Hòa phụng phịu:
- Mẹ coi anh Hai kìa, anh Hai lấy xe con đi từ mấy hôm nay mà không chịu trả lại cho con gì hết!
Chị Phúc ngạc nhiên:
- Vậy chứ xe nó đâu?
- Ảnh bán mất tiêu từ lâu rồi, mẹ không biết sao?
Hòa đáp gọn lỏn.
Chị Phúc giật mình:
- Nó dám bán xe mà không hỏi qua ý mẹ sao? Sao con không nói cho mẹ hay?
Hòa lầm bầm:
- Chuyện của ảnh, con mà xía vô là ảnh lại mắng con là thứ đồ nhìeu chuyện. Vả lại con cũng tưởng mẹ biết rồi…
- Nó mượn xe con làm gì?
Chị Phúc nén giận hỏi tiếp.
- Ảnh nói mượn xe đi Vũng Tàu chơi với bạn một ngày, vậy mà tới nay  đã ba ngày rồi vẫn không thấy tăm hơi ảnh đâu hết.
Hòa nhăn nhó.
- Trời ơi, nó đi như vậy còn chuyện học hành thì sao?
Chị Phúc tức tối.
Hòa trố mắt nhìn mẹ ngạc nhiên:
- Ủa, ảnh bị đuổi học mấy tháng nay rồi mẹ vẫn chưa biết sao?
Chị Phúc chới với:
- Trời ơi, đã xảy ra chuyện như vậy mà sao không đứa nào nói cho mẹ biết hết vậy trời? Hòa ơi, sao con không nói với mẹ?
Thấy mẹ có vẻ đau khổ quá Hòa cũng hơi lo, cô biện bạch:
- Con nghe anh Hai nói đã nói với mẹ rồi nên con không nhắc lại làm gì, vả lại con đi sớm về tối cũng không mấy khi nói chuyện với mẹ nên không nhớ…
Chị Phúc đổ gục xuống, rên rỉ:
- Trời ơi, con với cái! Bây giờ nó sống trong nhà mà giống như người xa lạ vầy nè trời! Con ơi là con ơi…
- Mẹ! Có gì mẹ chờ anh Hai về rồi nói với ảnh, mẹ kêu khóc như vậy liệu có ích lợi gì không? Hay chỉ làm cho người ta dòm ngó chê bai nhà mình?
Hòa càu nhàu rồi đi một nước vô phòng, bỏ mặc mẹ một mình với nỗi đau buồn tức giận.
Chị Phúc đã đặt biết bao kỳ vọng vào hai đứa con này. Chị nào có quản gì nhọc nhằn mưa nắng cốt để lo cho con ăn học thành tài. Vậy mà khi nhà cửa đã đàng hoàng, cái ăn cái mặc không còn là nỗi lo canh cánh bên lòng nữa thì chúng nó lại sanh tật, đâm hư thân mất nết.
Thằng Thuận của chị suốt mười hai năm học, không năm nào không được lãnh phần thưởng xuất sắc cuối năm.
Ngày nó chuẩn bị vào đại học, nó còn nói chắc chắn rằng chỉ vài năm sau, khi anh em nó ra trường, chúng nó sẽ không cho chị làm bất cứ điều gì mà chỉ để chị ngồi không hưởng phước mà thôi.
Chị Phúc không phải muốn chờ cái ngày được không hưởng phước như lời hứa hẹn của con, cái điều mà chị chờ mong là thấy con được công thành danh toại, ổn định việc làm rồi lo tới chuyện dựng vợ gả chồng cho hai đứa nó.
Biết bao nhiêu công sức và tình thương yêu chị đã đầu tư vào đó, vậy mà… khi chỉ còn vài tháng nữa là kết thúc mấy năm Đại học, thằng con của chị lại làm gì đến nỗi bị nhà trường buộc thôi học thế kia?
Chị Phúc cảm thấy đau đớn như vừa bị thêm một lần phản bội nữa trong đời!
Chị gọi to:
- Hòa ơi, Hòa! Ra đây mẹ hỏi chút!
- Mẹ hỏi gì nữa đây?
Hòa cằn nhằn nhưng cô đi ra ngồi bệt xuống thềm nhà cạnh bên chiếc xích đu của mẹ.
- Con có biết thằng Thuận làm nên tội gì đến nỗi trường đuổi học nó không vậy con?
Chị Phúc cố hỏi con gái bằng giọng ôn tồn.
- Thì ảnh cứ trốn học đi chơi dài dài, bị cảnh cáo nhiều lần mà đâu có sợ. Các mộ học ảnh thi rớt còn nợ lại chồng chất, nhà trường xét thấy không thể cứu vãn được nữa nên mới quyết định đuổi học.
Hòa kể nghe nhẹ tênh giống như đang kể chuyện của một người nào đó hoàn toàn xa lạ với cô.
- Con biết anh Hai bỏ học đi chơi sao không về nói với mẹ một tiếng để mẹ biết mà kịp thời uốn nắn nó, sự việc đã ra tới nông nỗi này rồi mẹ mới hay thì còn làm gì được nữa đây?
Chị Phúc trách con.
Hòa cũng không vừa, mới nghe mẹ nói vậy cô đã lu loa lên:
- Trời ơi, bộ mẹ tưởng anh Hai là đứa bé lên ba và con là cô bảo mẫu hay sao mà mẹ nói vậy? Ở trường con cũng có trăm công ngàn việc của con chứ, có rảnh rang đâu mà theo dõi anh Hai giùm cho mẹ! Đến chừng mọi việc hết thuốc chữa, nhà trường thông báo rộng rãi thì con mới biết, chứ trước đó con cũng có biết gì đâu? Ảnh có thân mà không biết lo thì ráng chịu, sao mẹ lại trách con…
Chị Phúc nghẹn ngào:
- Mới đây các con còn là những đứa ngoan ngoãn, biết yêu thương, quan tâm đến nhau từng chút một, nhưng rồi vì đâu và từ bao giờ các con lại trở thành những người xa lạ với nhau, xa lạ cả với mẹ ruột của mình thế hở Hòa? Mẹ thật không hiểu nỗi các con. Hồi nhà ta còn nghèo khó, mẹ chỉ mơ ước lo cho các con được ấm no đầy đủ để các con tập trung cho việc học, vậy mà mẹ đâu ngờ được là khi đã đầy đủ rồi thì các con không còn động lực để cố gắng nữa….
- Mẹ ơi, con vẫn ăn học đàng hoàng mà mẹ?
Hòa có vẻ xúc động khi thấy mẹ khóc.
Chị Phúc vẫn không nén được nghẹn ngào:
- Con vẫn ăn học đàng hoàng, những giữa mẹ con ta đã không còn như trước nữa… Mẹ có cảm giác hai con không còn cần tới mẹ nữa rồi, nhiều lúc mẹ nghĩ nếu mẹ có chết đi chắc hai con cũng không thấy có điều gì mất mát…
Hòa hoảng hốt ôm lấy mẹ:
- Mẹ ơi, mẹ đừng nghĩ vậy, chúng con vẫn cần có mẹ, vẫn rất yêu thương mẹ, mẹ ơi…
Chị Phúc vừa khóc, vừa kể lể với con gái tất cả những nỗi niềm mà thời gian gần đây chị phải đeo mang trong lòng.
- Thôi, con về phòng lo bài vở đi, mẹ đã nói hết với con những gì mẹ muốn nói rồi đó!
Cuối cùng chị Phúc khẽ bảo.
Hòa ngồi nán lại nói chuyện với mẹ một chút rồi đứng lên đi vào phòng với vẻ uể oải.
Cô cũng đã bắt đầu cảm thấy mệt mỏi, chán ngán cuộc sống gia đình mình rồi.
Thấy mẹ khóc, Hòa rất đau lòng. Cô không biết từ khi nào giữa mình, anh trai và mẹ không còn giữ được mối liên hệ mật thiết ấy nữa?
Đúng rồi! Tất cả bắt đầu từ những ngày mẹ lao vào kiếm tiền bằng nghề bán nước bọt.
Nhà cửa lúc nào cũng có người ra vô tấp nập, mẹ tiếp khách không ngơi nghỉ thì còn thời giờ đâu mà chuyện trò đùa giỡn với hai con.
Hòa và anh trai mỗi lúc về nhà là đi thật nhanh vào phòng riêng của mình để tránh những ánh mắt của những người đến xem bói.
Cả hai anh em đều sợ khi ra đường bị người ta chỉ trỏ:
- Đó, đó! Nó chính là con của của bà thầy bói Phúc!
Trước kia, khi mẹ còn làm lụng vất vả bằng những nghề chân tay nặng nhọc, chưa bao giờ Thuận và Hòa cảm thấy mặc cảm hay xấu hổ với bạn bè, nhưng từ lúc mẹ chuyển qua nghề này, cả nhà được ăn trắng mặc trơn, mẹ lại không lam lũ nữa nhưng thật sự cả Thuận lẫn Hòa đều không muốn bạn bè biết đến. Hai đứa rất xấu hổ mỗi khi nghe ai đó nhắc tới cái nghề hiện nay của mẹ. Mặc dù người ta khen ngợi đi nữa cũng không làm cho chúng cảm thấy tự hào.
Với Thuận và Hòa, cái nghề này có gì đó không lương thiện, mặc dù cả hai đều biết mẹ chúng không lừa gạt ai.
Cái hố ngăn cách giữa mẹ con bắt đầu lớn dần từ đó.
Nhà sẵn tiền, lại là những đồng tiền có được một cách nhẹ nhàng như vậy nên mỗi khi tiêu xài hơi quá một tí cả Thuận và Hòa đều không còn cảm giác xót xa, tiếc nuối như trước nữa.
Thuận bắt đầu chứng tỏ bản lĩnh của mình bằng những cuộc vui vô bổ. Giờ giấc đi về của hai em không bị ai kiểm soát nên cả hai tha hồ tự tung tự tác.
Hòa vẫn chăm chỉ học hành, nhưng kết quả học tập cũng không đạt thứ hạng cao như những năm trước. Hòa học vì nghĩ đó là bổn phận thế thôi, cô đã không còn cái quyết tâm phấn đấu để vươn lên khỏi cuộc sống đói nghèo.
Riêng Thuận, việc học hành đã bị cậu ta bỏ lơ đi từ lúc đặt chân vào chốn ăn chơi của đám công tử nhà giàu.
Hòa thấy bây giờ mẹ không làm nghề đó nữa vẫn hơn. Cô tự nhủ, bắt đầu từ hôm nay mình sẽ quan tâm tới mẹ nhiều hơn nữa, không để mẹ phải cô đơn trong ngôi nhà vắng vẻ thế này.
Và anh Hai nữa, lúc nào ảnh về, mình phải la ảnh một trận. Hai anh em mình phải sửa đổi, phải trở lại làm những đứa con ngoan của mẹ như trước đây.
Dù mẹ có làm gì đi nữa cũng là để nuôi anh em mình mà? Sao lại vì chuyện đó mà anh em mình trở nên hư hỏng như hiện tại?
Hòa ân hận lắm. Vừa vô tới phòng cô lại quay trở ra, đến bên ghế xích đu ôm choàng lấy cổ mẹ:
- Mẹ ơi, con xin lỗi! Thật tình… con với anh hai có lỗi nhiều lắm. Chúng con không muốn thấy mẹ khóc nữa đâu, chúng con sẽ thật ngoan để mẹ con mình lại vui vẻ giống như ngày xưa, mẹ nhé?
Chị Phúc òa khóc, ghì chặt lấy đứa con gái trong vòng tay.
- Con ơi… mẹ vui lắm, mẹ vui lắm khi nghe con nói được những lời như vậy!
Chị quay qua kéo chiếc khăn vắt bên cạnh để lau nước mắt, sịt mũi một cái rồi nói:
- Bây giờ mẹ con mình chờ anh Hai con về, chúng ta sẽ nói chuyện với nhau. Những lỡ lầm của các con mẹ sẽ bỏ qua hết, nhưng hai đứa phải ăn học cho thật đàng hoàng, mục đích đời mẹ chỉ có bấy nhiêu thôi. Nếu như khi cuộc sống khấm khá hơn lại phải đánh đổi bằng sự bê tha trác táng của anh em con, thì mẹ thà làm một người gánh nước mướn, làm người đi ở đợ cho kẻ khác như hồi đó để các con lại trở về là những đứa con ngoan của mẹ…
Chị Phúc đã quyết tâm rồi, chị sẽ phải quan tâm nhiều hơn đến hai con. Thằng Thuận về, nhất định chị sẽ…
- Có ai ở nhà không?
Nghe tiếng gọi cửa gấp rút, chị Phúc ngơ ngác, giục Hòa:
- Con chạy ra cổng xem ai tìm nhà mình vậy con?
Tuy chị Phúc bảo con gái đi ra cổng, nhưng chị vẫn đứng lên nối gót theo sau.
Ngoài cổng là một người mặc sắc phục cảnh sát, chị Phúc bắt đầu thấy run run trong bụng:
- Dạ… cậu tìm nhà chúng tôi có chuyện gì không ạ?
Hòa chưa kịp hỏi thì chị Phúc đã lên tiếng.
Anh cảnh sát nhìn chị Phúc vẻ ái ngại:
- Dạ… có phải nhà này có cậu con trai tên là Thuận không ạ?
Chị Thuận vịn chặt cánh cổng để bớt hồi hộp:
- Đúng… Đúng rồi! Có gì không, cậu?
Anh cảnh sát mặt mày non choẹt hơi tỏ vẻ bối rối:
- Cháu… cháu xin báo để bác được biết, anh Thuận đã gây ra tai nạn giao thông nghiêm trọng ở Vũng Tàu, bản thân anh hiện nay cũng đang hôn mê sâu, không biết có vượt qua được hay không…
Nghe chưa hết câu, hai chân chị Phúc đã nhũn ra, dù tay vẫn cố níu chặt cổng rào nhưng chị Phúc đã từ từ khụyu xuống, anh cảnh sát và Hòa hoảng hốt, cùng chạy tới đỡ chị vào nhà.
- Nó… thằng Thuận… nó hiện đang ở đâu?
Chị Phúc thều thào.
Anh cảnh sát trả lời:
- Anh Thuận gây tai nạn ở Vũng Tàu, nhưng hiện tại ảnh đã được chuyển vào bệnh viện Chợ Rẫy, đây là số phòng của ảnh.
Dứt lời, anh cảnh sát lục tìm trong cặp hồ sơ đang cầm trên tay lấy ra một mảnh giấy nhỏ, trên đó có ghi rõ số phòng, số giường mà Thuận đang nằm đưa cho Hòa.
Hòa từ nãy tới giờ vẫn như người mất hồn, cứ đứng trơ ra nhìn mẹ và người cảnh sát. Mãi đến lúc này cô mới hoàn hồn, nhận biết được tính chất nghiêm trọng của sự việc, cô run rẩy cầm lấy tờ giấy mà nước mắt lăn dài…
- Xin phép bác, xin phép cô… tôi về!
Anh cảnh sát vừa quay đi, chị Phúc vùng dậy, hối con gái:
- Hòa, con mau mau chuẩn bị một ít đồ đạc gì đó rồi chở mẹ vô bệnh viện!
Hòa cản:
- Không, mẹ ơi! Mẹ cứ ở nhà đi, để con vô đó lo cho anh được rồi, sức khỏe mẹ như thế này, mẹ có chịu đựng được không?
- Không chịu được mẹ cũng phải cố mà chịu đựng! Mẹ không thể ở nhà được đâu con! Nhanh nhanh lên đi con..
Chị Phúc lập cập đứng lên thay vội áo quần.
Hòa thấy mắt mẹ mình vẫn ráo hoảnh nên vô cùng lo lắng. Cô hiểu rằng, với những nỗi đau to lớn thường không làm cho người ta rơi nước mắt được!

****
Hai mẹ con dắt tay nhau bươn bã đi dọc theo những dãy hành lang đầy những bệnh nhân mang thương tích trên người hoặc những thân nhân nét mặt căng đầy lo lắng.
Trước phòng bệnh nặng, không khí trầm uất càng làm cho chị Phúc và Hòa như muốn nghẹt tim.
Không mất nhiều thời gian, hai mẹ con đã tìm ra được giường bệnh của Thuận, nhưng nếu không có tờ giấy của người cảnh sát thì cả hai cũng khó lòng nhận biết.
Đầu cổ, tay chân của Thuận quấn băng trắng toát, chỉ ló ra đôi mắt nhắm nghiền.
- Con ơi…
Chị Phúc nhào tới muốn ôm chặt đứa con đang nằm bất động với đủ thứ dây nhợ truyền dịch trên người, nhưng sợ làm con đau, hai tay chị khựng lại rồi như chới với giữa khoảng không.
Hòa nhanh chân bước tới dìu mẹ ngồi xuống chiếc ghế cạnh giường anh trai.
- Con ơi, con làm chi mà ra nông nỗi này? Trời phật ơi, xin hãy cứu lấy con trai tôi, tôi sẵn sàng đánh đổi mạng sống của mình để cứu lấy nó, trời ơi…
Chị Phúc không ngăn được nỗi thương tâm, chị khóc lả người.
Hòa đặt tay lên vai mẹ:
- Mẹ ráng bình tĩnh đi mẹ, còn phải lo cho anh, nếu mẹ cứ như vậy, thì con biết làm sao đây?
Cúi xuống lau nước mắt cho mẹ mà nước mắt hòa cũng tuôn rơi lã chã.
Bất chợt chị Phúc rùng mình khi nhớ tới câu nói hôm trước của Vong Nhi:
- Chắc chắn một ngày sẽ bị trả quả…
Chị hoảng hốt than thầm:
- Trời ơi, quả báo là đây sao? Vong Nhi ơi, hãy cứu lấy anh, hãy giúp mẹ lần sau cùng đi con ơi… Vong Nhi ơi…
Chị Phúc được bác sĩ cho biết với tình trạng hiện nay của Thuận thì không còn nhiều hy vọng, nhưng chị quyết định còn nước còn tát, chị sẽ chiến đấu tới cùng.
Những đêm ở bệnh viện, những lúc khuya khoắt vắng người, chị Phúc lại lang thang một mình ra sân thầm thì van vái, kêu gọi Vong Nhi.
Rồi như một phép lạ, một buổi sáng Thuận bất ngờ tỉnh lại mà không hề có một dấu hịêu báo trước nào, gây sửng sốt cho toàn thể các y bác sĩ ở đó, trường hợp này quả là hiếm khi xảy ra!
Chị Hậu sung sướng như điên khi thấy con trai đã vượt qua lưỡi hái của tử thần, nhưng chị hoàn toàn không biết được một điều: Thuận, con trai chị chỉ còn lại thân xác mà thôi, linh hồn nó đã vĩnh viễn ra đi, linh hồn hiện đang tồn tại trong cơ thể Thuận chính là Vong Nhi, đứa bé đã một thời gian quấn quýt yêu thương bên cạnh chị!
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.01.2011 20:00:54 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Bóng ma - Truyện ma của Nguyễn Thị Mộng Thu - 09.08.2009 21:55:01
                                         BÓNG MA

 
Hảo nhìn thẳng vào mắt Bình, run giọng hỏi:
- Anh đừng giấu em! Nếu giữa hai người hoàn toàn không có chuyện gì thì tại sao cô ấy lại nhắn tin cho anh bằng những lời lẽ ngọt ngào nũng nịu đến như vậy?
Bình ôm đầu:
- Trời ơi, anh đã nói bao nhiêu lần rồi mà em không chịu tin, giờ anh còn biết nói gì nữa đây? Chẳng qua cô ấy chỉ muốn trêu ghẹo anh thôi mà, chứ nếu anh có gì, anh đã phải đề phòng, xóa mất tin nhắn đó thì làm sao em biết mà hạch hỏi anh từ hôm qua tới nay muốn nổ cái đầu như vầy?
Hảo rưng rưng nước mắt:
- Anh biết em thương anh hết lòng mà, em cũng không đòi hỏi anh phải yêu thương em trọn đời trọn kiếp, bởi vì em biết tình yêu là một cái gì đó không có gì bảo đảm được. Em chỉ cần anh thành thật với em thôi, khi nào anh hết yêu em hoặc anh yêu người nào đó nhiều hơn em thì hãy cho em biết, để chúng mình chia tay mà vẫn còn giữ được những điều tốt đẹp về nhau…
Bất chợt Bình nhào tới ôm chầm lấy Hảo, hôn lấy hôn để lên khắp mặt mũi cô. Anh nói trong hơi thở hổn hển:
- Hảo ơi, em đừng có nghĩ lung tung nữa! Anh chỉ yêu em, yêu một mình em mà thôi… Em đừng nghi ngờ mà tội nghiệp cho anh. Để chứng minh tình yêu của mình, bây giờ anh chính thức cầu hôn em, em đồng ý làm vợ anh nghe Hảo?
Hảo sững người trước lời cầu hôn đột ngột của Bình. Cô lắp bắp:
- Anh… Anh nói thật?
Bình âu yếm nhìn Hảo:
- Em không tin anh sao? Những gì anh dành cho em từ bao lâu nay không đủ nói lên tình cảm của anh dành cho em sao, Hảo?
Tự nhiên trong giờ phút này, tất cả những ghen hờn, buồn giận trong lòng Hảo tiêu tan đâu mất hết. Cô cảm thấy hối hận vì những nghi ngờ vớ vẩn của mình. Hảo nhớ lại tất cả những lời nói ngọt ngào, những cử chỉ ân cần âu yếm và những điều tốt đẹp mà Bình đã mang đến cho cô trong suốt hai năm trời yêu nhau, và Hảo tự trách mình đã không đặt trọn lòng tin nơi Bình, chỉ vì mấy dòng tin nhắn vu vơ đó mà suýt chút nữa đã làm cho tình yêu của hai người rạn nứt.
- Hảo ơi, em đồng ý làm vợ anh không?
Bình tha thiết.
Hảo bối rối:
- Anh… anh làm em bất ngờ quá… em chưa kịp suy nghĩ! Anh cho em thêm thời gian nhé, được không anh?
- Nếu đã thương anh thật lòng, thì quãng thời gian qua chưa đủ cho em sao Hảo?
Bình trách cứ.
Hảo ôm Bình, nũng nịu:
- Không phải… nhưng ít ra… anh cũng phải cho em bình tĩnh lại đã, anh làm em bất ngờ quá đi mất!
Bình đẩy Hảo ra, nắm chặt hai vai và nhìn thẳng vào cô, nghiêm giọng:
- Anh muốn biết em có thật sự yêu anh không?
Hảo cười e thẹn:
- Sao anh hỏi vậy? Anh không biết em yêu anh đến mức nào à?
Bình gật đầu:
- Anh biết, nhưng anh vẫn muốn nghe chính miệng em xác nhận. Em trả lời anh đi Hảo, em có yêu anh không?
Hảo nghiêng đầu cười với Bình:
- Có! Em yêu anh nhất trên đời.
Bình vẫn nghiêm mặt:
- Em có đồng ý làm vợ anh không?
Hảo nhìn lướt qua Bình rồi khe khẽ gật đầu, nói nhỏ:
- Có, em rất muốn…
Bình đứng phắt dậy bế bổng Hảo trên đôi cánh tay rắn chắc của mình và hét vang:
- Anh cảm ơn em! Em khiến anh vô cùng sung sướng và hạnh phúc Hảo ơi…! Anh cảm ơn em…
Hảo rưng rưng nước mắt vòng tay ôm chặt lấy Bình.
Bình bế Hảo đi thẳng vào phòng, Hảo như mê đi trong niềm hạnh phúc, đến lúc cô nhận ra thì đã được Bình đặt nằm trên chiếc giường nệm trắng tinh.
- Anh Bình… không… Đừng anh…!
Bình ôm chặt Hảo:
- Em đồng ý làm vợ anh mà, phải không Hảo? Chúng mình sẽ là vợ chồng… Anh yêu em quá Hảo ơi…
Những lời nói của Bình đã làm tiêu tan hết những phản kháng của Hảo.
- Anh sẽ cưới em, đúng không Bình?
Hảo hỏi nhỏ
Bình gắn lên môi Hảo một nụ hôn dài rồi mới nói:
- Chúng mình sẽ cưới nhau, chúng mình sẽ là vợ chồng…
Hảo như chìm trong hạnh phúc, chìm trong những lời ngọt ngào âu yếm của Bình. Cô sung sướng dâng hiến cho Bình trọn vẹn cuộc đời con gái trinh nguyên của mình mà không một chút đắn đo, tiếc nuối…

***

Giữa lúc Hảo hớn hở chờ đón cái ngày được mặc áo cô dâu như lời Bình hứa hẹn, thì Bình lại tỏ vẻ hững hờ, không nhắc gì tới chuyện cưới hỏi nữa. Và cuối cùng thì Hảo cũng đã nhận ra điều đó.
- Anh Bình, khi nào thì chúng ta mới thành vợ chồng?
Hảo lo lắng hỏi.
Bình ngó lơ ra đường:
- Từ từ đã em, mình chưa có sự nghiệp vững chắc, cưới nhau sớm sẽ khổ lắm!
Hảo rưng rưng:
- Anh và em đều có việc làm ổn định, có nhà riêng. Mình hơn hẳn rất nhiều người kia mà? Anh thấy ngững người công nhân không? Họ sống nhà thuê, đồng lương ít ỏi nhưng họ vẫn lấy chồng cưới vợ và sống hạnh phúc bên nhau đó thôi!
Bình nhăn mặt:
- Sao em lại so sánh mình với đám công nhân? Họ khác, họ có thể sống thiếu thốn, vất vả, nhưng anh không muốn vợ con anh phải khổ. Anh cần có sự nghiệp thật vững trước khi lấy vợ, sinh con…
Hảo cắn môi, đắn đo một chút rồi nói:
- Nhưng bây giờ chúng mình đã sắp có con với nhau rồi, anh tính sao đây?
Bình giật nảy người khi nghe Hảo nói.
- Cái gì? Em nói thật hay chơi đó?
Hảo thút thít:
- Em có thai hơn hai tháng rồi… Cứ tưởng sẽ cưới nhau nay mai, không ngờ anh cứ lần lựa mãi…
Bình đứng lên, đi tới đi lui một lúc rồi đến bên Hảo ôm vai cô:
- Hảo à, em phải biết nhìn xa trông rộng một chút. Tụi mình đều còn trẻ, tương lai còn dài lắm, và thời điểm này là thời điểm để mình phát huy năng lực để thăng tiến. Nếu mình lập gia đình lúc này, trách nhiệm giữa vợ chồng, con cái sẽ ngăn cản bước tiến của cả anh và em… Em… em bỏ đứa con đó, được không em?
Hảo như bị điện giật, cô lùi ra xa Bình, trố mắt nhìn anh như nhìn một người nào đó hoàn toàn xa lạ và đáng sợ lắm.
- Anh nói sao?
Hảo gằn giọng.
Bình ôm đầu vẻ khổ sở:
- Ý anh là… mình hãy chờ một thời gian nữa hãy có con…
Hai hàng nước mắt chảy dài trên má Hảo, nhưng giọng nói của cô lại lạnh băng:
- Tôi hiểu rồi! Anh về đi, tôi không làm gì phiền tới anh đâu…
Bình ngơ ngác:
- Hảo… em… em sao vậy?
Hảo cười cay đắng:
- Không sao đâu, anh yên tâm đi! Anh cứ coi như chưa từng nghe em nói đến việc này. Đó là con của em, chỉ của riêng một mình em thôi, em sẽ sinh nó ra và nuôi nó khôn lớn đàng hoàng mà không ảnh hưởng gì tới anh… Anh cứ yên tâm mà đi lo gầy dựng sự nghiệp của anh!
Bình nhào tới ôm Hảo, xiết chặt cô vào lòng:
- Sao em lại nói những lời đó với anh? Đứa nhỏ là giọt máu của anh mà? Cũng vì nghĩ tới tương lai hai đứa nên anh mới đề nghị như vậy, nếu em không đồng ý thì thôi, sao lại nặng nề với anh?
- Em không ngờ anh có thể nhẫn tâm với máu mủ của mình… Em không bao giờ bỏ nó…
Hảo nói trong tiếng khóc.
Bình gật đầu:
- Được rồi, em nín đi đừng khóc nữa. Nếu em không đồng ý, anh sẽ chìu theo em…
- Có nghĩa là…?
Hảo ngập ngừng.
Bình vuốt ve má Hảo:
- Anh yêu em, em biết điều đó mà? Em không muốn bỏ đứa con thì mình cưới nhau, em đồng ý chứ?
Hảo ngạc nhiên nhìn sững Bình:
- Anh nói thật?
Bình mỉm cười:
- Thật chứ! Tất cả cũng chỉ vì anh yêu em, anh muốn lo tương lai cho chúng mình thôi…
- Anh quyết định mình cưới nhau?
Hảo chưa thật tin những gì mình vừa nghe được.
Bình hôn nhẹ lên trán Hảo:
- Em ngốc quá!
Rồi nhìn Hảo thật kỹ, Bình xót xa:
- Anh thật vô tâm! Mấy tuần vừa rồi anh cứ mê mãi với công việc làm ăn mà không chú ý tới em, thật anh có lỗi với em nhiều quá Hảo ơi! Em gầy ốm như vầy mà anh không nhận thấy, em giận anh cũng phải… Tha lỗi cho anh, nghe Hảo?
Hảo tủi thân càng khóc lớn.
Bình rối rít:
- Anh xin lỗi em! Anh sẽ bù đắp lại cho em, Hảo à! Ngay ngày mai anh sẽ đưa em lên Đà Lạt dưỡng sức vài ngày, rồi sau đó mình về tổ chức cưới ngay, được không em?
Hảo nhìn Bình:
- Anh nói thật?
Bình gật đầu quả quyết:
- Ừ, thật! Nhưng…
Thấy Bình ngập ngừng, Hảo lo lắng hỏi:
- Nhưng gì anh?
Bình chắc lưỡi:
- Nếu cả hai đứa cùng xin nghỉ phép rồi về lại nghỉ tiếp để lo cưới thì khó khăn quá! Hay là… anh tính vầy, em nghe thử được không nhé?
- Tính sao anh?
Hảo tò mò
- Anh tính… em xin phép nghỉ bệnh đi, nhìn em xanh xao vàng vọt vầy ai không tin em bệnh được? Còn anh thì theo lịch sáng mai anh đi công tác một tuần, anh sẽ đi cùng em, rồi mình tranh thủ về sớm một hai ngày để lo việc cho công ty. Em đừng tiết lộ chuyện mình đi Đà Lạt với nhau cho ai biết thì công ty không biết đâu.
- Như vậy được không anh?
Hảo hơi lo
Bình cười:
- Được chứ! Đâu có gì mà sợ! Mình vẫn hoàn thành công việc kia mà!
Nghe Bình nói cũng có lý, vả lại Hảo cũng muốn nhân chuyến đi này sẽ hâm nóng lại tình cảm giữa hai người đã có phần phai nhạt mấy tuần nay, để đến ngày cưới không còn gì lấn cấn với nhau nữa.
- Dạ, vậy ngay chiều nay em viết đơn xin nghỉ!
Hảo quyết định.
Bình căn dặn:
- Em nhớ đừng cho ai biết mình đi Đà Lạt nghen?
Hảo cười:
- Em nhớ rồi mà!
Bình liếc nhìn đồng hồ rồi nói:
- Thôi, tới giờ làm việc rồi, mình vô công ty đi em!
Cả hai đứng lên rời quán nước vắng vẻ, cùng đi về hướng công ty.
Khi Hảo vào phòng thì mọi người trong phòng đã có mặt đầy đủ. Thấy Hảo, nhỏ Lan cười cười:
- Trưa nay chị Hảo có gì mà vui vậy? Mấy hôm rồi thấy chị héo queo, tụi em rầu hết sức!
Hảo chỉ chực khoe với bạn niềm vui to lớn của mình, nhưng chợt nhớ lại lời Bình căn dặn, cô giả bộ nhăn nhó:
- Có gì vui đâu em? Không biết sao cơ thể chị mỏi mệt quá, ngồi chừng một giờ trong phòng là không chịu nổi, nhờ trưa ra ngoài thở chút không khí trong lành nên thấy đỡ hơn một tí.
- Chị đi khám thử xem, đừng lơ là với sức khỏe mình nghe chị!
Lan lo lắng nói.
Hảo mỉm cười gật đầu:
- Cảm ơn em, chị cũng tính rồi, chút nữa chị viết đơn xin nghỉ phép mấy ngày để khám bệnh và dưỡng sức, chứ tham công tiếc việc hoài chắc chị chết sớm!
- Đúng rồi đó chị, sức khỏe của mình là quan trọng hơn hết mà!
Thúy xen vào.
Hảo cảm động trước tình cảm của những người bạn cùng phòng đã dành cho cô. Mấy tuần nay, họ biết giữa Hảo và Bình có chuyện không vui nhưng không ai dám hỏi.
Hảo cảm thấy hơi khó chịu khi phải nói dối bạn bè, nhưng biết sao được, Bình đã dặn, cô đâu dám không nghe theo.
Đơn xin nghỉ phép của Hảo nhanh chóng được duyệt, bởi hình dạng Hảo bây giờ không khác gì người bệnh nặng.
Tối đó về nhà Hảo chuẩn bị đồ đạc với tâm trạng vui vẻ lạ lùng. Bình không quên gọi điện nhắc nhở Hảo đủ mọi thứ, Hảo rất vui và hạnh phúc vì sự quan tâm của bình dành cho cô. Vậy mà mới đây Hảo lại nghi ngờ tình cảm của Bình, Hảo tin vào những lời bịa đặt, rằng Bình đang ráo riết tấn công cô con gái của một sếp đầu ngành.
Giờ đây Hảo tự trách mình sao dễ lung lay, nghe theo dư luận đồn thổi mà nghĩ xấu cho người mình yêu. Lại một lần nữa Hảo tự nhủ với lòng sẽ không bao giờ nghi ngờ Bình điều gì nữa.

***
Bình và Hảo đi chuyến xe sớm nên vừa trưa đã lên tới Đà Lạt. Sau khi đến khách sạn nhận phòng và nghỉ ngơi một chút, Bình đưa Hảo đi ăn rồi đi dạo khắp nơi.
Hảo vui lắm, đây lần thứ bao nhiêu cô tới với thành phố cao nguyên thơ mộng này, nhưng chưa khi nào Hảo vui đến vậy! Bây giờ, bên cô là người đàn ông mà cô hết dạ yêu thương và có cả giọt máu của anh đang tượng hình trong người cô nữa. Cả gia đình bé nhỏ, thương yêu của Hảo đang ở bên nhau thì làm sao Hảo không vui cho được?
- Ăn tối xong, anh sẽ đưa em tới chỗ này, hay lắm!
Bình nhìn Hảo cười cười.
Hảo náo nức:
- Đến chỗ nào vậy anh? Có xa không?
- Bí mật! Khi tới rồi em sẽ thấy, thật tuyệt vời!
Bình âu yếm nói.
Hảo ngã đầu vào vai Bình nũng nịu:
- Vậy thì mình đi ăn cho sớm đi anh!
Bình cười, đặt lên trán Hảo một nụ hôn nồng cháy.
Cơm nước xong xuôi, Bình bắt Hảo phải trang điểm thật kỹ, và chọn chiếc áo đẹp nhất đưa cho cô mặc.
- Gì mà long trọng dữ vậy ta?
Hảo nhìn Bình hồi hộp.
Bình không nói gì, chỉ nghiêng đầu ngắm Hảo rồi buột miệng:
- Vợ tôi xinh quá!
Hảo thẹn thùng áp má vào vai Bình:
- Anh chỉ giỏi nịnh em thôi!
- Ơ! Vợ mình thì mình nịnh, có phải nịnh vợ người khác đâu mà lo?
Bình kêu lên.
Cả hai cùng cười rồi vui vẻ dắt nhau xuống phố.
Bình đưa Hảo đi ra ngoại ô thành phố, đến một đồi thông cheo leo và hoang vắng thì dừng lại.
Hảo lo lắng hỏi:
- Đây là chỗ nào vậy anh? Sao anh lại đưa em tới đây?
Bình cười:
- Đây là nơi mà những cặp tình nhân thường tìm đến để cầu nguyện. Linh thiêng lắm đó em. Cặp nào đã cùng nhau cầu nguyện ở đây rồi thì sẽ sống yên vui bên nhau đến răng long đầu bạc.
Hảo xúc động nắm lấy tay Bình:
- Anh cũng duy tâm vậy sao?
Bình ôm ngang lưng Hảo, nói nhỏ:
- Vợ chồng là chuyện trăm năm, duy tâm một chút cũng đâu có hại gì, phải không em?
- Dạ. Bây giờ mình làm sao, anh Bình?
Hảo ngước mắt nhìn Bình chờ đợi.
Bìẳpọi đèn pin, dắt tay Hảo trèo lên thật cao, đến một chỗ khá chênh vênh, anh liếc mắt nhìn ra xung quanh rồi nói:
- Bây giờ em quỳ xuống đây, nhắm mắt lại và thành tâm cầu nguyện. Em cứ nói ra những ước nguyện của em. Sau đó tới lượt anh, rồi sau cùng cả hai đứa mình quỳ bên nhau.
Hảo thích thú với sự lãng mạn đó, cô buông tay Bình ra và quỳ xuống, hai tay thành kính chắp trước ngực. Hảo nhìn Bình âu yếm rồi từ từ khép mắt lại.
Vừa lúc đó, bình như bị trượt chân, nhào tới xô vào Hảo, nhanh như cắt, Hảo lăn người xuống vực. Đêm tối mênh mông, đồi thông vắng lạnh, không một bóng người, không một tiếng kêu cứu. Tất cả chìm trong bóng đêm, chìm trong tĩnh lặng…
Bình đứng im một chỗ, đèn pin vẫn cầm chặt nơi tay nhưng anh không bật lên. Thật lâu sau Bình mới dò dẫm tìm đường trở xuống chân đồi.
Xuống tới đất, Bình chạy một mạch trở về trung tâm thành phố, và ngay lập tức, Bình bắt xe về nơi mình công tác.

***
Hơn một tuần sau tin Hảo mất tích được mọi người xôn xao bàn tán. Gia đình Hảo ở xa, bà mẹ già lụm cụm biết tin vội vã tìm lên nhưng con gái đã bặt vô âm tín, chỉ còn lại căn phòng đang được nhà chức trách điều tra, xem xét. Bà ngất lên ngất xuống, chị em trong công ty của Hảo phải thay nhau chăm sóc và động viên, an ủi.
Sau mấy ngày điều tra, kết luận sơ bộ là có thể Hảo đã quyên sinh ở đâu đó, vì trong cuốn nhật ký Hảo để lại chứa đầy những lời lẽ bi lụy, chán chường.
Bình hồi hộp theo dõi vụ án, và anh đã rất yên tâm khi biết trong cuốn sổ nhật ký, Hảo không nhắc gì tới cái bào thai trong bụng cũng như chuyến đi Đà Lạt với Bình.
Giống như những người bạn trong công ty, Bình cũng khóc thương cho Hảo, cũng giả bộ gọi điện khắp những nơi hai người quen biết để hỏi thăm tin tức về Hảo. Anh luôn tỏ ra thương tiếc cho một người trước đây từng là người yêu của mình, và không ít bạn bè cũng tỏ ra thương xót cho Bình trong hoàn cảnh mất đi người yêu dấu.
Ngày tháng dần qua, vẫn không ai tìm được một dấu vết nào của Hảo. Mẹ Hảo đã gom góp tất cả đồ đạc của con gái mang về quê, căn phòng trả lại cho chủ, mọi bàn tán về Hảo cũng dần lắng xuống.
Một năm lặng lẽ trôi qua, ở công ty không còn ai nhắc tới Hảo nữa. Câu chuyện của Hảo mới đó đã lùi vào quá khứ, nhường chỗ cho những sự việc khác đang diễn ra hàng ngày trong công ty.
Bình đã lên chức trưởng phòng và lúc này chính thức đi lại với Huyền, con một quan chức cấp cao.
Huyền tuy không đẹp nhưng Bình phải tốn rất nhiều công sức mới có thể chinh phục được cô. Đó là mục tiêu mà Bình tự đề ra cho mình. Bình dùng mọi thủ đoạn, kể cả thủ tiêu Hảo để chiếm Huyền cho bằng được. Chắc chắn không phải vì Bình yêu Huyền, mà là vì địa vị của ba Huyền. Bình biết, một khi được vào làm con rể nhà đó là đường công danh của anh sẽ như diều gặp gió mặc sức bay cao.
Bình biết mình là kẻ có tài, chỉ là không có người đỡ đầu nên phấn đấu hết mình từ bao nhiêu năm qua giờ mới được leo lên cái chức trưởng phòng khiêm tốn. Chỉ cần có bệ phóng, là Bình sẽ như pháo thăng thiên ngay lập tức. Mà gia đình Huyền chính là cái bệ phóng tốt nhất đối với Bình.
Thời gian đầu Hảo mới mất tích, thật sự Bình lo sợ nơm nớp, ăn ngủ không yên, anh gầy rộc đi trông thấy, nên có nhiều người thương cảm vì tưởng Bình nhớ Hảo mới ra nông nỗi.
Nhưng rồi mọi chuyện lùi vào dĩ vãng, Bình lại vui vẻ, hoạt bát như xưa, chỉ thỉnh thoảng một mình Bình mới nhớ tới. Mỗi lúc như vậy, Bình lại viện lý do Hảo yêu Bình, thì việc Hảo hy sinh để cho Bình được có cơ hội thăng tiến cũng là lẽ đương nhiên. Bình nghĩ vậy để ngăn chặn một chút lương tâm còn sót lại trong người.
Quan hệ giữa Bình và Huyền cũng được nhiều người vun vào. Ông Tâm – ba Huyền – cũng rất hài lòng khi biết Bình là một người có tài, năng nổ trong công tác. Ông sẵn sàng gả đứa con gái yêu của Bình không một chút đắn đo do dự.
Ngày cưới của Bình và Huyền đã đến. Đám cưới được tổ chức rình rang, khách mời đa phần là các vị tai to mặt lớn. Bình thật tự hào và thấy sự lựa chọn của mình là hoàn toàn đúng đắn.
Khi khách khứa về hết, Bình và Huyền đều mệt bã người, nhưng Bình vẫn rất vui vẻ dìu vợ ra xe để về nhà. Cặp vợ chồng mới đã được ba mẹ Huyền dành hẳn cho một căn biệt thự sang trọng để làm tổ uyên ương.
Phòng tân hôn được trang hoàng lộng lẫy và ấm cúng. Huyền ngượng ngùng loay hoay mãi khiến Bình phì cười:
- Coi em kìa, mình đã là vợ chồng rồi mà em cứ… Em vào tắm đi!
Huyền cười:
- Anh tắm trước đi, em còn gỡ mấy cây kẹp trên đầu xuống nữa, lâu lắm!
- Để anh giúp em nhé?
Bình đề nghị.
Huyền lắc đầu:
- Thôi khỏi, anh tắm trước đi, anh cũng mệt lắm rồi!
Bình nựng má Huyền một cái nhẹ rồi bước vào phòng tắm. Lát sau anh trở ra khoan khoái:
- Em tắm đi, tắm xong thật là khỏe!
Huyền ôm quần áo đi vào trong, Bình mệt mỏi ngã lưng xuống giường và nhanh chóng ngủ lơ mơ vì cả ngày hôm nay Bình đã uống không ít rượu.
Bình hé mắt khi nghe tiếng lục đục của Huyền. Anh thấy Huyền thật gợi cảm trong chiếc áo ngủ được may bằng loại vải đắt tiền, điểm thêm những sợi đăng-ten xinh xắn.
- Tới đây với anh!
Bình vừa nói vừa giang rộng hai tay.
Huyền e ấp tới ngồi bên mép giường.
Nhanh như cắt, Bình kéo Huyền ngã xuống người mình và chồm dậy hôn lấy hôn để khắp cơ thể nóng rực của Huyền.
- Anh yêu em, Huyên ơi! Anh yêu em quá…
Bình rên rỉ và không ngừng hôn vợ một cách tham lam.
Huyền kêu lên nho nhỏ:
- Đừng anh! Nhè nhẹ thôi, kẻo làm đau con mình đó!
Bình giật bắn người ngồi bật dậy ngó sững Huyền:
- Em nói sao? Con gì ở đây?
Huyền cười thật đẹp:
- Anh lại nói giỡn nữa rồi! Anh quên là mình sắp có con sao?
Bình lắp bắp:
- Em… cô… vậy là cô đã chung chạ với thằng nào rồi bây giờ bắt tôi đổ vỏ sao? Tôi với cô chưa từng mà?
Huyền bật ra một tràng cười sắc lạnh:
- Anh mau quên quá, anh đã đưa em đến chỗ linh thiêng để thề nguyền rồi kia mà, giờ sao anh lại chối bỏ trách nhiệm với mẹ con em?
Bình tỉnh hẳn rượu, tỉnh luôn cơn buồn ngủ. Mồ hôi tuôn dầm dề, Bình lùi vào góc phòng giương mắt ngó thẳng vào Huyền.
Lạ chưa, không phải Huyền mà người con gái mặc chiếc áo ngủ mỏng manh kia chính là Hảo! Dáng dấp Hảo vẫn đẹp như ngày nào, nhìn kỹ lắm mới thấy bụng cô hơi tròn hơn một tí.
Hảo đi dần về phía Bình, cười nói:
- Sao anh không lại đây với em, đêm nay mình động phòng mà, phải không anh?
Bình kêu thét lên rồi mở toang cửa chạy bổ ra ngoài.
Xuống đến tầng trệt, Bình dừng lại thở hồng hộc, mắt vẫn ngước nhìn lên thang lầu nhưng không thấy Hảo đuổi theo.
Bình đi tới bàn cầm chai nước rồi ngửa mặt lên đổ nước lên mặt mình, nước tràn xuống ướt cả áo Bình nhưng anh không quan tâm. Bình chỉ muốn biết có phải những việc đó là do mình mê ngủ hay không?
Khi đã thấy hoàn toàn tỉnh táo, Bình do dự một chút rồi đi trở lên lầu. Cánh cửa phòng tân hôn vẫn còn mở toang hoác, và ở bên trong, Huyền đang úp mặt lên giường mà khóc, hai vai cô rung lên nhè nhẹ.
- Huyền! Có phải em là Huyền không?
Bình hỏi giọng nhát gừng.
Huyền ngước lên nhìn Bình bằng cặp mắt ai oán:
- Nếu không thương em, sao anh cưới em về làm gì?
Giọng nói Huyền nghèn nghẹn. Bình nhìn kỹ lần nữa và thầm reo lên trong bụng:
- Đúng là Huyền rồi, chắc mình ngủ mê rồi thấy bậy bạ…
Nghĩ vậy nên Bình mạnh dạn đi vào phòng. Khép cửa lại, Bình tới đỡ Huyền ngồi dậy.
- Anh xin lỗi em, lúc nãy anh ngủ quên, mơ thấy chuyện bậy bạ nên hoảng hồn vía, chứ sao anh lại không thương em được?
- Thương em? Thương em mà anh đối với em như vậy sao?
Huyền thút thít.
- Tha lỗi cho anh đi mà, anh không làm vậy nữa đâu…
Huyền nắm chặt tay Bình, căn dặn:
- Anh hứa thật nhé?
- Ừ, anh hứa thật lòng!
Bình gật đầu quả quyết.
- Anh sẽ không xô em xuống vực chứ?
Huyền nói rõ từng chữ một.
Bình nhảy nhổm lên như người bị phỏng. Người con gái trong vòng tay anh chính là Huyền kia mà, nhưng tại sao Huyền lại nói vậy?
- Em… em nói gì bậy bạ vậy, Huyền?
Bình run giọng hỏi.
Huyền nhoẻn cười:
- Em đâu có nói gì đâu? Thôi, em mệt rồi, mình ngủ đi anh!
Nói xong, Huyền lên giường nằm nhắm mắt, hai bàn tay xếp để giữa bụng, trông cô thật thư thái.
Bình rón rén bước tới gần, đứng nhìn Huyền trân trối. Huyền, chính là Huyền mà, không thể nào là Hảo được. Vậy sao lúc nãy Huyền lại đề cập tới chuyện bí mật kia? Bình thật không sao hiểu nổi. Cuối cùng, để tự trấn tỉnh mình, Bình phải tự an ủi rằng Huyền không hề nói câu đó, mà là do Bình bị hoang tưởng mà ra.
Cuối cùng, Bình cũng lên giường nằm cạnh bên Huyền, nhưng cái thân thể gọi mời của Huyền không còn ý nghĩa gì với Bình nữa. Giờ đây trong đầu anh đầy ắp nỗi lo âu, sợ hãi nên đâu còn lòng dạ nào mà nghĩ tới chuyện ái ân!
Thấy Bình vẫn nằm im, Huyền trở mình và choàng tay qua người Bình. Thật sự lúc này Bình chỉ muốn hất cánh tay kia ra khỏi người mình nhưng anh lại không dám, không dám làm mất lòng cô con gái vàng ngọc của ông Tâm.
Bình biết, chỉ cần Huyền tỏ ra đau khổ hay có lời nào chê trách Bình thì con đường tương lai coi như khép lại trước mắt. Bởi thế, Bình biết mình phải cố gắng làm tròn bổn phận người chồng thiết tha yêu vợ trong đêm nay.
Nằm nghiêng qua, vừa chạm tay vào cánh tay trần của Huyền, Bình lại giật mình lần nữa vì sự buốt giá của nó.
- Huyền! Tay em sao lạnh vậy?
Bình hớt hãi hỏi lớn.
Huyền mở mắt nhìn Bình rồi sờ vào tay mình, cười nói:
- Anh sao vậy? Em bình thường thôi mà, có gì đâu?
Vừa nói, Huyền vừa đưa cánh tay mình cho chạm với tay Bình. Quả thật bình thường!
- Nhưng sao mới vừa rồi…
Bình ấp úng không biết nói sao cho Huyền tin rằng cái cảm giác buốt giá ấy là hoàn toàn có thật.
- Có lẽ anh say rượu rồi đó! Ngủ đi anh!
Huyền vừa nói vừa kéo Bình vào sát mình hơn nữa.
Bình ôm Huyền và hôn cô say đắm. Cả hai quấn chặt lấy nhau lửa tình bắt đầu rừng rực cháy.
Bình nói trong tiếng thở gấp gáp:
- Huyền ơi… anh yêu em quá!
Huyền dụi đầu vào ngực Bình, khẽ nói:
- Anh yêu cả con mình nữa nhé! Anh xem, nó đang động đậy trong bụng em nè…
Bình hoảng hốt đạp mạnh làm Huyền rơi xuống đất. Bình bật ngồi dậy, ngó lom lom người con gái đang rên rỉ dưới sàn nhà.
- Anh Bình… em… em không ngờ anh đối xử tệ bạc với em như vậy!
Huyền vừa khóc vừa lồm cồm ngồi dậy. Cô dùng dằng đi sang phòng bên cạnh, còn Bình vẫn ngồi như ngây dại trên giường.
Thật lâu sau Bình mới lấy lại hồn vía, anh đi sang phòng bên, áp tai vào cửa lắng nghe. Bên trong, Huyền đang khóc tấm tức.
Bình giơ tay lên định gõ cửa, nhưng nhớ lại những câu nói kỳ quặc của Huyền lúc nãy Bình lại nao núng. Đứng trước cửa phòng Huyền một lúc, Bình thất thểu quay về.
Suốt đêm hôm đó, Bình không tài nào ngủ được, cứ hễ vừa chợp mắt là hình bóng của Hảo lại hiện lên, lúc thì khóc lóc, khi lại tươi cười… Mãi đến gần sáng Bình mới nằm yên được một lúc.
Vừa thức dậy, Bình vội vã chạy sang phòng bên cạnh. Cửa phòng chỉ khép hờ, nhưng Huyền không có mặt ở đó. Bình tìm khắp nhà cũng không thấy Huyền đâu.
Giữa lúc Bình còn đang bối rối thì chuông điện thoại reo vang, anh hốt hoảng chạy tới nhấc máy:
- A lô!
Giọng Bình căng thẳng.
Bên kia đầu dây, ông Tâm gằn từng tiếng:
- Anh sang đây ngay, tôi có việc cần nói với anh!
Bình chưa kịp “dạ” thì ông Tâm đã gác máy cái rụp. Ôm đầu khổ sở, Bình ngồi phịch xuống sa-lông. Bình biết có lẽ Huyền đã về bên đó khóc lóc, bây giờ anh sẽ phải giải thích thế nào cho mọi người thông cảm đây? Không thể nói ra sự thật. Vậy thì nói gì? Trời ơi… đầu Bình muốn nổ tung ra. Mất biết bao công sức mới có được cái đám cưới rỡ ràng ngày hôm qua, Bình nhất định không để tương lai của mình bị phá vỡ bởi một vong hồn phảng phất.
Một sự căm thù trỗi dậy trong lòng Bình, anh căm hận Hảo.
- Chết rồi thì lo mà đi đầu thai kiếp khác, sao lại quấy rối cản bước tiến của tao? Tao sẽ làm cho mầy hồn xiêu phách lạc, đừng nói sao tao ác nhé!
Bình nghiến răng trèo trẹo, đập tay thật mạnh xuống bàn sau câu tuyên bố hùng hồn đó.
Như đã xả bớt được cơn giận dữ, Bình đứng lên đi thay áo quần để tới nhà cha mẹ vợ.
Vợ chồng ông Tâm đón Bình với vẻ mặt lạnh băng, còn Huyền, hai mắt sưng húp chứng tỏ đêm qua cô đã khóc rất nhiều.
Bà Tâm xót xa nhìn Huyền rồi nhìn Bình trách móc:
- Tôi không ngờ anh đối xử với con gái tôi như vậy. Nó đã gây ra lầm lỗi gì với anh kia chứ?
Bình chưa kịp nói gì thì ông Tâm lên tiếng:
- Anh phải nói rõ cho chúng tôi biết. Tại vì sao anh lại có hành động thô lỗ với vợ mới cưới của mình như vậy? Anh biết mà, Huyền là đứa con gái độc nhất của vợ chồng tôi, hai mươi mấy năm nay vợ chồng tôi không dám làm điều gì khiến nó phải buồn, phải khổ, càng không dám nặng tay với nó. Vậy mà, vừa về làm vợ anh, anh đã nhẫn tâm hành xử kiểu đó, tôi… tôi khó mà tha thứ cho anh được!
Ông Tâm nắm chặt hai bàn tay lại như đang dằn bớt cơn nóng giận.
Bình ngước mắt nhìn ba mẹ vợ, rồi nhìn Huyền như cầu cứu. Huyền quay mặt chỗ khác, rấm rứt khóc.
- Thưa ba, thưa mẹ!... Con… thật tình con không biết nói sao cho ba mẹ hiểu được… Con rất thương yêu Huyền, được cô ấy nhận lời làm vợ là hạnh phúc lớn nhất trong đời con, sao con lại có thể đối xử với vợ mình như vậy ngay trong đêm tân hôn kia chứ…
Bình khổ sở nói.
Bà Tâm tức giận:
- A… vậy là anh nói con Huyền nhà tôi đặt chuyện vu khống cho anh sao?
- Dạ không! Dạ không…
Bình rối rít xua tay:
- Con không nói vậy, con chỉ muốn ba mẹ hiểu giùm con, thật sự tối qua con như người bị ma ám… con không thể...
Bà Tâm nhìn thẳng Bình, hỏi:
- Có chuyện gì sao anh lại nói vậy? Nào, bây giờ anh cứ giãi bày hết một lần đi!
Bình ngồi xích lại gần bà Tâm, cầm hai tay bà van xin:
- Mẹ, mẹ ơi! Xin mẹ hãy giúp con… Lâu nay con không hề tin vào chuyện ma quỷ, nhưng sau sự việc tối qua con bắt đầu thấy sợ… Có lẽ con đã bị ma ám thật rồi mẹ ơi!...
Bà Tâm bắt đầu thấy tò mò:
- Chuyện như thế nào, anh nói rõ tôi nghe xem?
Bình khẽ liếc nhìn Huyền và ông Tâm rồi cúi đầu kể lể:
- Trước đây con có quen với một cô làm cùng công ty, hai bên cũng có chút tình cảm. Sau đó… sau đó đột nhiên cô ta mất tích, có lẽ đã chết rồi… con nghĩ chính vong hồn cô gái đó vì ghen hờn với hạnh phúc của con mà về phá quấy… Mẹ ơi, mẹ có cách nào giúp con không mẹ?
Ông Tâm hừ một tiếng lớn:
- Anh đừng hòng đặt chuyện để chối tội nhé?
Bình khẩn thiết nhìn ông Tâm:
- Ba ơi, xin ba hiểu cho con! Ba cũng là đàn ông, chắc ba hiểu làm sao con lại đối xử với vợ con như vậy, nếu không vì ma ám?
Ông Tâm vì thương con gái nên tức giận Bình, nhưng khi nghe Bình nói, trong thâm tâm ông nghĩ cũng đúng, cho dù nó không yêu thương con ông thật tình đi nữa, thì nó cũng không ngu dại gì mà hành động điên khùng như thế.
Về phần bà Tâm, những lời Bình nói đã nhanh chóng thuyết phục được bà. Từ lâu nay, bà vẫn thường nghe người ta kể chuyện ma quấy rối vì ghen hờn, vì căm hận thì sự việc này cũng có thể xảy ra với con gái và rễ của bà. Nếu đã vậy, bà nhất định phải giúp đỡ chúng nó, quyết định tìm cho được một thầy pháp tài giỏi để xua đuổi bóng ma đó ra khỏi nhà, để bảo vệ hạnh phúc cho đứa con gái cành vàng lá ngọc của mình.
Bà yêu cầu Bình kể tỉ mỉ mọi chuyện. Tất nhiên Bình chỉ nói những điều không gây bất lợi cho anh.
Sau cùng, bà Tâm tuyên bố:
- Được rồi, hai con cứ yên tâm. Mẹ có người quen, người này trước đây cũng có nhờ thầy pháp can thiệp giúp chuyện trong gia đình. Ngay bây giờ mẹ sẽ tới đó nhờ người bạn đưa đi tìm thầy. Tạm thời hai đứa đừng về bên đó, cứ ở lại đây ít hôm.
Được lời như mở tấm lòng, Bình gật đầu ưng thuận và vội vã đứng lên đi tới bên Huyền.
- Tha lỗi cho anh, Huyền nhé?
Bình nói nhỏ.
Huyền tuy vẫn chưa hết ấm ức nhưng nãy giờ nghe những gì Bình kể cô cũng đã thông cảm được với chồng mình.
- Hai đứa ở tạm trong phòng của Huyền đi, để lát nữa mẹ sai người sắp xếp lại.
Bà Tâm dặn Bình:
- Con ráng mà lựa lời an ủi Huyền, nó bị sốc lắm đó!
Bình nắm tay Huyền, đắm đuối nhìn cô.
Huyền ngúng nguẩy đứng lên đi về phòng, Bình lủi thủi đi theo sau lưng.
Vợ chồng ông Tâm đứng nhìn theo con và rể, không ngăn được tiếng thở dài.
Vợ chồng Bình ở lại nhà cha mẹ vợ hai hôm, trong hai hôm đó mọi việc bình thường, Bình và Huyền rất vui vẻ, hạnh phúc bên nhau, vợ chồng ông Tâm cũng tỏ ra hài lòng lắm.
Được sự giúp đỡ của người bạn thân, bà Tâm đã nhanh chóng tìm gặp được vị pháp sư tên tuổi và mời ông về nhà của vợ chồng Bình để trừ tà.
Sau khi xem xét, vị pháp sư bắt đầu làm phép.
- Vong hồn này bị oan khuất nên chưa thể đi đầu thai. Tôi đã dùng bùa chú để trấn ở cửa rồi, mọi việc sẽ ổn thôi. Nhưng… nếu con rể bà có gây điều tội lỗi nào đó với người chết, thì bùa phép của tôi không linh nghiệm đâu, vì khi đó ma quỷ đã ở ngay trong tâm anh ta rồi, không ai có thể xua đuổi được, ngoại trừ bản thân người đó tự cải hối.
Trước khi ra về, vị pháp sư còn nói thêm như thế.
Bà Tâm sợ hãi bào chữa:
- Con rể tôi đâu có làm gì! Chỉ là trước đây hai đứa nó có tình cảm với nhau, sau đó cô gái mất tích… Một thời gian sau nó mới cưới con gái tôi, như vậy đâu gọi là tội lỗi được, phải không?
Vị pháp sư mỉm cười:
- Là tôi nói trước như vậy thôi, nếu không phải là sự báo oán thì bùa này sẽ linh nghiệm, ngược lại thì…
Vị pháp sư bỏ dở câu nói giữa chừng, khẽ lắc đầu rồi ung dung ra về, nhất định không chịu nhận khoản tiền công hậu hĩ mà bà Tâm nằng nặc nhét vào tay.
Hôm sau, vợ chồng Bình dọn trở về nhà mình. Nghe theo lời dặn của bà Tâm, Huyền nấu một mâm cơm thịnh soạn và dọn lên cúng vái đàng hoàng, kính cẩn.
Tối đó, mọi việc bình thường, người vui mừng nhất là Bình. Trong thâm tâm Bình đang cười đắc thắng và thầm nói với Hảo:
- Cô thấy chưa, tôi đã nói rồi mà! Cô không làm hại tôi được đâu!
Sang đêm thứ hai, Bình hoàn toàn tự tin, không còn một chút lo sợ nào lảng vảng trong tâm trí.
- Anh ơi, ngủ đi!
Huyền nũng nịu.
Bình quay lại cười với vợ, cất giọng dỗ dành:
- Em chịu khó ngủ trước một tí nhe? Anh giải quyết xong mấy công văn này sẽ vào với em ngay!
- Dạ, anh nhớ không được thức khuya đó!
Huyền vừa đi vừa ngoái lại dặn dò.
Bình cười:
- Tuân lệnh bà xã! Anh xong ngay thôi!
Tuy nói vậy, nhưng khi mọi việc xong xuôi Bình ngó lên tường đã thấy kim đồng hồ chỉ số mười hai. Anh đứng lên vươn vai ngáp dài. Dọn dẹp lại đống hồ sơ, Bình đi thẳng vào phòng vệ sinh mà không cần bật đèn.
Vừa đẩy cửa phòng vệ sinh, Bình giật bắn người khi thấy một bóng trắng đang ngồi lù lù trong đó.
- Ai? Ai trong đó?
Bình vừa lùi lại vừa cất tiếng hỏi, đồng thời tay anh bật vội công tắc đèn trong phòng tắm. Khi ánh sáng chan hòa, Bình cố nhìn từng xó xỉnh vẫn chẳng thấy ai. Vừa sợ, vừa bực mình Bình vội tắt đèn đi nhanh về phòng ngủ.
Trong phòng, Huyền đang ngủ say, gương mặt thơ trẻ của cô dưới ánh sáng mờ mờ trông thật đáng yêu nhưng lúc này Bình chẳng còn lòng dạ nào mà yêu đương nữa.
Bình nhè nhẹ lên giường nằm cạnh Huyền, mắt mở to và dỏng tai lên để nghe ngóng. Thời gian trôi qua thật chậm, tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ treo tường bỗng dưng làm Bình khó chịu vô cùng.
Chừng hơn một tiếng đồng hồ trôi qua vẫn không có gì khác lạ, Bình hơi yên tâm nên xoay người ôm lấy Huyền, nhắm mắt lại.
Vừa mới mơ màng, Bình chợt thấy bàn tay Huyền như lay mình dậy. Cứ tưởng vợ mình đòi hỏi chuyện gối chăn, Bình không buồn mở mắt mà cứ ôm siết Huyền vào lòng và đặt nụ hôn lên môi cô. Bỗng Bình cảm thấy có cái gì đó là lạ ở môi Huyền. Mở mắt ra, Bình suýt kêu lên nhưng tiếng kêu đã tắt nghẹn nơi cổ. Người nằm cạnh Bình không phải Huyền mà là Hảo, chính là Hảo! Hảo nằm đó, hai bên mép là hai dòng máu đỏ đang rỉ ra, chảy dài xuống mặt gối. Cái bụng cô đã lùm lùm, Bình có cảm giác từ bụng Hảo đang có một cặp mắt nào đó nhìn mình chăm chú.
Bình không kịp ngồi dậy, cứ thế lăn tròn xuống sàn nhà rồi vừa bò vừa lết ra cửa phòng, miệng ú ớ:
- Ma… có ma!...
Tới cửa phòng, Bình chồm dậy bật đèn rồi mở cửa chạy nhanh ra ngoài, vừa chạy vừa kêu váng cả nhà:
- Ma… có ma…!
Ánh đèn bật sáng đột ngột cùng với tiêng kêu thét của Bình khiến Huyền thức giấc. Cô ngơ ngác ngồi lên nhìn xung quanh phòng, tất cả vẫn bình thường, vẫn không có gì lạ, vậy tại sao Bình lại hốt hoảng thế?
Nhớ lại chuyện vong hồn cô gái xấu số nào đó đang ghen với hạnh phúc của mình, Huyền vừa thấy lo sợ, đồng thời cũng cảm thấy tội nghịêp cho vong hồn đó, tội nghiệp cho chồng mình phải chịu sự ám ảnh vô lý của hồn ma kia.
Huyền đứng lên đi ra ngoài tìm Bình.
- Anh ơi, em đây nè! Không có gì phải sợ đâu anh!
Huyền gọi lớn.
Lúc này Bình đang run như cầy sấy ở phòng khách. Nghe tiếng Huyền, Bình mừng rỡ la lớn:
- Huyền ơi… anh sợ quá Huyền ơi!
Huyền bước vội xuống thang lầu, đến bên cạnh Bình ôm anh vào vòng tay, an ủi:
- Anh đừng lo, không có gì đâu, không có gì đâu!...
Bình úp mặt vào ngực Huyền khóc rưng rức như trẻ con. Bất ngờ Bụng Huyền to lên, và như có một cánh tay bé bỏng thò ra đẩy mạnh Bình ngã nhào về phía sau.
- Anh Bình! Anh sao vậy?
Huyền hốt hoảng cúi xuống định đỡ Bình dậy, nhưng Bình đạp chân loạn xạ ngăn cản không cho Huyền tới gần, bởi Bình thấy rõ ràng ở bụng Huyền đang ló ra một gương mặt của một đứa con nít, ánh mắt của nó khiến Bình nổi cả da gà.
- Không… đừng tới gần tối… đừng tới gần tôi…
Huyền bất lực đứng im nhìn chồng mà nước mắt cô lăn dài xuống má.
Bình lê người dần vào một căn phòng trống gần đó rồi chui tọt vào trong đóng kín cửa lại, Huyền gọi cách gì anh cũng không lên tiếng, không mở cửa.
Huyền vừa khóc, vừa trở về phòng ngủ một mình.
Sáng ra, Bình khóc lóc năn nỉ Huyền tha lỗi cho anh. Lần này Huyền không giận Bình mà thật sự lo lắng cho tình trạng tinh thần của Bình. Hai vợ chồng lại về nhờ bà Tâm giúp đỡ.
Bà Tâm thở dài:
- Hôm rồi thầy pháp có dạy, nếu đó là sự báo oán thì ổng bó tay rồi, không cách nào trừ khử được. Vậy con nói thiệt cho mẹ biết đi, con có gây cho cô ấy điều gì không?
Bình cúi đầu nói nhỏ:
- Dạ, đâu có gì đâu mẹ! Thì… lúc có tình cảm với nhau, con cũng có hứa hẹn cưới cô ấy làm vợ. Nhưng không may cô ấy qua đời, chẳng lẽ… con phải ở vậy để thờ cô ấy sao?
Huyền xen vào:
- Phải đó mẹ! Anh Bình cưới con sau khi chị ấy mất, chứ đâu phải ruồng rẫy phụ bỏ gì đâu mà chị ấy báo oán? Mẹ giúp tụi con, nghen mẹ?
Bà Tâm lại thở dài:
- Mẹ không giúp các con thì còn giúp ai bây giờ? Để mẹ đi hỏi thăm các thầy khác đã… Thôi, tạm thời các con về lại đây đi! Có thể ở nhà mình đông người ma quỷ không dám quấy phá đâu.
- Dạ, con cám ơn mẹ! Vợ chồng con sẽ về ngay.
Bình mừng vui rối rít. Anh rất sợ hình bóng của Hảo luôn lảng vảng trong căn nhà kia nên vừa nghe bà Tâm kêu về đây ở anh đã mừng run lên, không cần bàn bạc gì với Huyền nữa.
Nhưng đêm hôm đó, sự việc lại tiếp diễn. Bình lại hoảng loạn kêu thét trong đêm làm vợ chồng ông Tâm một phen kinh hãi.
Nhìn Bình run rẩy đứng nép người trong góc nhà, ông Tâm lắc đầu than thầm với vợ:
- Tôi coi bộ thằng này bị tâm thần rồi bà ạ! Sáng mai bà kêu con Huyền đưa nó đi khám bác sĩ xem sao nghen?
Bà Tâm nghẹn ngào:
- Tội nghịêp cho con gái của tôi, nó có làm gì nên tội mà phải chịu đựng cảnh này…
Ông Tâm không biết nói lời gì để an ủi vợ, ông chỉ khẽ vỗ lên vai bà Tâm và sau đó ông cũng lén quay đi để lau nước mắt.
Mặc dù Bình biết chắc đầu óc mình không có vấn đề gì, nhưng anh vẫn ngoan ngoãn nghe lời mẹ vợ để Huyền đưa đi gặp bác sĩ.
Sau khi thăm hỏi rất lâu, vị bác sĩ kết luận:
- Anh bị suy nhược thần kinh. Cần phải nghỉ ngơi, thư giãn một thời gian, đừng quá tham công tiếc việc.
Thế là sau ngày hôm đó, Bình được cơ quan cho nghỉ phép dài hạn. Ở nhà, tinh thần Bình càng thêm suy sụp. Vì lúc này bóng ma của Hảo không chỉ xuất hiện ban đêm mà cả ban ngày nó cũng làm cho Bình thất điên bát đảo.
Gần một tháng cưới vợ, nhưng Bình và Huyền không được mấy lần ân ái cùng nhau. Mỗi lúc nằm bên Huyền là Bình lại nhìn thấy rất rõ ràng mình đang nằm bên Hảo.
Vợ chồng Bình không dám về nhà riêng, mà vẫn tá túc lại nhà ông bà Tâm. Ông bà Tâm thương con nên cũng không muốn rời Huyền.
Thời gian đầu Bình còn cố gắng ngủ cùng giường với Huyền, nhưng chỉ hai tuần sau là Bình không chịu đựng nỗi những ám ảnh, anh quyết định ngủ riêng. Huyền buồn lắm, nhưng thấy tinh thần Bình sa sút vậy cô cũng phải cắn răng chịu đựng.
Bà Tâm và Huyền đưa Bình đi điều trị khắp nơi mà bệnh tình vẫn không có phần nào thuyên giảm. Các thầy pháp, thầy chùa cũng được bà Tâm liên tiếp mời về để trừ tà nhưng mọi việc vẫn không thay đổi. Bình vẫn liên tục hoảng loạn, không thể nào gần vợ được.
Hết thời gian nghỉ phép, Bình đi làm trở lại và anh có phần khá hơn, vì những lúc bận bịu công việc ở công ty, Bình đỡ phải suy nghĩ về điều đó.
Cả nhà Huyền đều lấy làm lạ, bởi vì ngoài việc sợ hãi Huyền, Bình vẫn làm rất tốt công việc của công ty, trong công việc, Bình không hề có dấu hiệu tâm thần nào cả.
Và cũng chính vì điều đó mà dần dần Bình né tránh về nhà. Anh tìm hết cơ này đến nguyên do khác để ở lại công ty, vùi đầu vào công việc. Huyền buồn tủi lắm nhưng vì thương Bình cô phải ráng chịu đựng.
Nhưng sức người có hạn, mang tiếng có chồng mà lúc nào cũng phải thui thủi một mình, Huyền không chịu nổi nữa. Cô ngày một gầy rộc đi vì tủi buồn, khiến ông bà Tâm đau lòng khôn xiết.
- Ông à… tôi muốn bàn với ông việc này…
Bà Tâm khẽ nói.
Ông Tâm ngạc nhiên:
- Việc gì mà coi bộ quan trọng vậy? Bà nói đi!
Bà Tâm thở dài:
- Chuyện vợ chồng của con Huyền nhà mình đó, chắc mình phải can thịêp thôi ông. Nhìn con khổ sở như vậy mình làm cha mẹ cũng đứt từng khúc ruột. Chắc hai đứa nó không có duyên phận nên mới xui khiến thằng Bình mắc phải chứng bệnh lạ đời, không biết sợ gì lại đi sợ vợ! Tình trạng này kéo dài, con gái mình mang tiếng có chồng mà như ở góa, chịu sao thấu hả ông?
Ông Tâm đăm chiêu suy nghĩ một lúc rồi chậm rãi nói:
- Tôi cũng đã nghĩ nhiều đến vấn đề này. Và thấy chỉ có một cách để giải quyết thôi bà ạ!
- Cách gì vậy ông?
Bà Tâm hồi hộp.
Ông Tâm nói chậm từng tiếng một:
- Hai đứa nó phải ly hôn thôi! Có như vậy con mình mới có cơ hội làm lại cuộc đời, chứ sống cảnh này phí hoài cuộc đời nó lắm bà ạ!
Bà Tâm xót xa:
- Tôi cũng nghĩ như ông, nhưng lại thấy tội, bởi vì thằng Bình cũng đâu phụ rẫy gì con gái mình, chỉ tại nó bệnh hoạn vậy mà…
- Mình cũng đã hết lòng với nó, đã đưa đi chữa chạy khắp nơi… Giờ đành phải cịhu vậy thôi. Có thể, để bù đắp lại cho nó, tôi sẽ cất nhắc nó lên một vị trí quan trọng nào đó trong công ty cũng được.
Ông Tâm nói.
Bà Tâm gật đầu:
- Ờ, ông tính vậy nghe cũng được.
- Nhưng còn phần con Huyền thì sao bà? Bà có thể thuyết phục nó được không?
Ông Tâm lo lắng.
Bà Tâm nhìn chồng, thở dài:
- Tại ông không biết đó thôi, con gái mình đã hết sức chịu đựng rồi! Có lần nó khóc mà nói với tôi rằng: “Phải con biết vậy không thèm lấy chồng còn hơn…”. Nó cũng đã quá mệt mỏi rồi, tôi nghĩ chuyện ly hôn sẽ được nó chấp nhận dễ dàng thôi.
- Vậy tôi giao cho bà lo phần con Huyền, còn với thằng Bình thì để tôi nói chuyện với nó.
Ông Tâm quyết định.
Một tháng sau, Bình và Huyền chính thức ly hôn.
Huyền buồn đau lắm, nhưng cô biết có bám lấy cuộc hôn nhân đó cũng sẽ không đem lại kết quả tốt đẹp nào cho cô hết, thà là chia tay để cả hai có cơ hội làm lại cuộc đời mình.
Về phần Bình, anh biết chia tay Huyền là anh đã chia tay với cơ hội tốt của mình, nhưng Bình cũng biết anh không thể nào tiếp tục sống với Huyền được bởi cái bóng ma của Hảo không ngừng đeo bám lấy anh. Thôi thì cái chức phó giám đốc công ty mà ba Huyền đem ra đánh đổi cũng tạm chấp nhận được.
Chia tay nhau, Bình lại dọn về ở nhà trọ như ngày xưa, nhưng phần lớn thời gian Bình đều ở trong công ty, Bìn hcoi công ty là nhà, là nơi che chở cho Bình trước những mối đe dọa vô hình có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Bình sống yên ổn được hơn một năm. Suốt quãng thời gian đó bóng ma của Hảo không một lần xuất hiện.
- Hay cô ta đã đi đầu thai?
Bình nghĩ vậy, nhưng anh lại đau đớn khi nghe tin Huyền vừa mới lấy chồng. Không còn cơ hội nào cho Bình nữa…
Trong những ngày buồn bã, cô đơn đó, Bình gặp gỡ một cô thư ký ở công ty bạn và đem lòng yêu thương cô ta. May mắn, Bình cũng được cô ta đáp lại.
Từ đó, Bình bắt đầu có những cuộc hẹn cơm trưa, cà phê sáng hoặc thỉnh thoảng đi xem phim, ca nhạc cùng nhau, nhưng chưa một lần hai người hẹn hò nhau ở nơi vắng vẻ, bởi vì tình cảm chưa kịp chín.
Bình lại một lần nữa bỏ ra không ít thời gian, công sức để có được cuộc hẹn riêng tư với người đẹp. Hai người sẽ cùng nhau đi nghỉ ở Cổ Thạch vào dịp cuối tuần.
Bình háo hức như lần đầu mới biết yêu, anh chờ đợi từng ngày mong thời gian nhanh chóng trôi qua để hai người được tự do sống những ngày hạnh phúc.
Chập choạng tối, Bình và Trúc sánh bước bên nhau đi dài theo bãi sỏi nên thơ ven bờ Cổ Thạch. Hai người đùa giỡn với nhau đến khi trời tối mịt mới chịu dừng chân nghỉ mệt ở một ghềnh đá gần đó.
Bình ngồi sát vào Trúc, quàng tay qua vai cô thì thầm:
- Em thấy nơi này có đẹp không, Trúc?
Trúc cười dịu dàng:
- Đẹp lắm, em thích lắm!
- Khi mình cưới nhau, em thích đi hưởng tuần trăng mật ở đâu? Em nói đi, em thích nơi nào anh cũng chìu, kể cả ở nước ngoài!
Bình âu yếm.
Trúc ngước nhìn Bình, mắt cô lấp lánh:
- Không, đi nước ngoài làm chi, em chỉ thích Đà Lạt thôi! Mình đi hưởng tuần trăng mật ở đó nghe anh?
Bình hơi chột dạ, nhưng cố gắng lấy lại bình tĩnh:
- Tưởng gì, Đà Lạt thì em muốn đi bất cứ lúc nào anh cũng có thể chìu em được hết!
Trúc mừng rỡ bá cổ Bình, reo lên:
- Thật nhé? Anh nói thật nhé?
Bình tươi cười:
- Thật chứ! Bất cứ lúc nào em muốn anh sẽ đưa em đi!
Trúc vỗ tay reo như trẻ con:
- Thích quá!
Rồi Trúc ngã đầu lên vai Bình mơ màng nói:
- Đà Lạt thật đẹp! Em thích nhìn Đà Lạt vào mỗi ban mai, sương mù giăng kín, hoặc lúc đêm về khắp nơi ánh đèn lấp lánh trông như những ngôi sao. Em thích đi tới những nơi vắng vẻ. Mình sẽ lên đó, mình sẽ tìm tới một đồi thông hoang vắng, hai đứa mình sẽ quỳ bên nhau để thề nguyền, anh nhé?
Bình giật nảy người, anh hất Trúc ra rồi đứng phắt lên trong sự ngỡ ngàng của Trúc:
- Anh Bình… anh sao vậy?
Bình bối rối:
- Anh… con gì nó vừa cắn anh, đau quá!
Bình giả bộ khom người nhìn xuống tảng đá. Trúc cũng sợ hãi đứng lên, níu chặt tay Bình:
- Thôi, mình về đi anh, em sợ quá!
- Ừ thôi, mình về!
Bình đồng ý ngay, và hai người vội rảo bước đi về khách sạn. Nhưng vừa đi một đoạn, bất thình lình Trúc cầm tay Bình đặt vào bụng mình và nói:
- Anh coi nè, con mình cũng mệt rồi đó!
- Em nói gì vậy Trúc?
Bình sựng lại, hoảng hốt.
Trúc tươi cười:
- Anh không nghe thấy gì sao? Con mình đã biết quẫy đạp rồi kìa… anh thật là người cha vô tâm!
Bình bước ra xa, hớt hãi nói:
- Trúc, em đừng làm anh sợ chứ! Em nói gì lung tung vậy?
Trúc chạy nhanh tới nắm chặt tay Bình cười giòn tan:
- Anh thiệt là, em có nói gì lung tung đâu? Không tin anh cứ đặt tay lên bụng em là biết liền!
Bình ngó sững Trúc và bàng hoàng nhận ra người con gái đang nắm tay mình chính là Hảo. Hảo với chiếc bụng bầu tròn lẳn đang cười cợt với anh.
Bình vùng chạy, vừa chạy vừa la lớn:
- Có ma… Cứu tôi với, có ma!...
Nhưng bãi biển vắng người, không ai nghe được tiếng kêu cứu của Bình. Bình chạy mệt lã mới tới được một quán giải khát, anh nhào vô ngồi một góc, cả người còn run rẩy từng cơn.
Trúc vừa khóc vừa đi về phòng cuốn hết quần áo trở về Sài Gòn ngay trong đêm đó.
Sau khi mối tình với Trúc bị tan vỡ, Bình còn có thêm mấy mối tình khác nữa, nhưng với bất cứ người con gái nào, mỗi lúc hai ngwofi vừa trở nên thân mật thì Bình lại thấy người đó là Hảo.
Bóng ma của Hảo không chịu rời bỏ Bình, luôn luôn theo ám Bình mỗi khi Bình có được một mối quan hệ mới.
Tin đồn Bình mắc bệnh sợ đàn bà lan truyền khắp nơi khiến không ít người tò mò, thắc mắc. Có những cô gái làng chơi cố tình mồi chài, dụ dỗ để xem cái bệnh đó ra làm sao. Và rồi ai cũng vừa buồn cười, vừa sợ hãi khi thấy thái độ hốt hoảng cực độ của Bình.

Lời đồn cứ được thêm thắt vào thật nhiều chi tiết, không lâu sau, Bình đã trở thành tâm điểm cho các cuộc ngồi lê đôi mách của nhiều tầng lớp trong xã hội, từ trí thức đến người buôn bán ngoài chợ, và cả đám chị em bán phấn buôn hương.
Buồn đau, chán nản và xấu hổ, Bình xin chuyển công tác về một tỉnh xa, mong mỏi cắt đứt được với cái quá khứ đau đớn này.
Nhưng bình đã lầm, bóng ma của Hảo vẫn không buông tha Bình. Ở tỉnh xa, Bình cũng đã quen biết và hoảng loạn khi hẹn hò cùng một cô thôn nữ. Nhưng lần này Bình thật sự không may, cô gái cảm thấy mình bị xúc phạm vì nghĩ Bình đang đùa giỡn thái quá. Cô chạy về nhà khóc lóc với bạn thân. Người bạn thân đó quá tức giận, đem chuyện kể lại với anh cô gái và một số thanh niên trong vùng. Họ đều quy cho Bình cái tội đã lấy cái mác của dân thành thị ra để dụ dỗ con gái nhà quê rồi đem ra làm trò đùa. Ai nấy đều căm phẫn, đám thanh niên đã tìm gặp Bình và cùng nhau đánh Bình một trận nên thân.
- Mầy nhớ lấy, đừng bao giờ đem con gái ra làm trò đùa! Hèn lứm, biết chưa?
Trước khi bỏ đi, một thanh niên trong làng quay lại phun nước bọt vào mặt Bình và nói.
Bình đau đớn, uất ức nhưng không biết phải làm gì, không biết phải kêu cứu cùng ai. Anh nằm úp mặt trên nền đất ruộng tanh sực mùi bùn, rên rỉ:
- Hảo ơi… xin em hãy tha cho tôi… Hãy buông tha cho anh đi Hảo ơi… Đừng đày đọa anh nữa… Hảo ơi… Hảo ơi…
Một tràng cười sắc lạnh vang lên văng vẳng. Bình cố nhấc dậy để tìm xem ai là chủ của tiếng cười ma quái đó. Trước mặt Bình là Hảo. Hảo đứng giữa cánh đồng lộng gió, mái tóc dài của cô bay phất phơ, tấp tả che gần hết khuôn mặt. Cái dáng gầy gầy của Hảo tiến dần về phía Bình. Bình cố thu hết sức lực để lùi lại, lùi lại… nhưng không còn kịp nữa!
Hảo đã đứng ngay sát bên Bình. Bình còn nghe được trong gió mùi nước hoa mà chiều hôm đó ở Đà Lạt chính anh đã đưa cho Hảo xức.
Hảo cúi xuống gần Bình và đưa tay vén tóc. Trời ơi, gương mặt cô mới khủng khiếp làm sao! Một nửa bên đã nát bấy, da thịt bầy nhầy và ở cái chỗ đáng ra là con mắt thì giờ đây chỉ còn là một cái lỗ đen ngòm.
Hảo cầm lấy tay Bình đặt lên bụng mình và nói:
- Anh nghe thấy gì không? Con của mình đó, nó đang quẫy đạp đòi quyền được ra đời đó, anh có nghe không?
Bình sợ điếng hồn, không còn có thể nói gì hay nhúc nhích được nữa. Bình cứ nằm im, đầu hơi nhấc lên nhìn trân trối vào nửa khuôn mặt nát bét của Hảo.
Hảo lại cất tiếng cười:
- Mình là một gia đình, anh đã dẫn em tới cái nơi linh thiêng ở Đà Lạt để thề hẹn rồi mà, mặc dù anh chưa thề, nhưng trời đất cũng đã chứng giám rồi, anh không trốn chạy được đâu… anh sẽ phải trả giá cho tất cả những gì anh đã gây ra… Đừng oán trách em, đừng oán trách số phận, bởi vì mọi việc hôm nay là do anh tự gây ra cho mình mà thôi…
Tiếng nói của Hảo chưa dứt thì thân hình Hảo đã biến mất. Mồ hôi tuôn ra nhễ nhại trên mặt Bình. Bình như một người điên, cô gượng đứng lên rồi lê lết, thất thểu về nhà.
Trên con đường tắt để về nhà, Bình phải đi ngang qua một cây cầu khỉ. Bước chân liêu xiêu của Bình không đủ sức để bám vào thân tre gầy guộc và thế là Bình rơi tõm xuống sông.
Mấy ngày sau người dân ở đó mới vớt được xác Bình, một bên mặt đã bị cá rỉa lở lói, cả cái tròng mắt cũng không còn!

                                    Hết


                       Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.01.2011 20:07:57 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 09.08.2009 21:58:40
                                          CON GẤU

 
Vừa bước chân vào nhà, tôi mừng rỡ vì thấy mấy lá thư được người bưu tá nhét vào qua cửa sổ. Hơn tuần nay tôi đang thấp thỏm mong chờ thư trả lời của một công ty lớn, nơi tôi vừa tới phỏng vấn xin việc.
Cầm mấy lá thư lên chọn lọc, tôi xé vội những lá gởi từ các công ty, nhưng thật chán nản, nơi nào cũng chỉ cho tôi một vài lời động viên và hứa hẹn.
Thật ra, hiện tại tôi đang có một công việc tốt, một vị trí mà nhiều người mơ ước, nhưng vì chuyện tình cảm riêng tư không như ý muốn, nên tôi có ý định chuyển công tác, như một cách trốn chạy, một cách đoạn tuyệt với quá khứ không vui…
Đọc lướt xong bức thư sau cùng, tôi lơ đãng bóc một bức thư được gởi tới từ một nơi xa lạ. Không biết đầu óc để ở đâu, tôi quên không chú ý đến địa chỉ người gởi, vì thế nội dung bức thư làm tôi giật mình.
"… Chúng tôi đã rất cố gắng tra cứu hồ sơ và thông báo trên các phương tiện truyền thông đại chúng, nhưng mãi cho đến hôm nay chúng tôi vẫn không tìm thấy người bà con nào. Và trong danh sách lưu lại của bệnh viện, chúng tôi được biết cô là người liên lạc thư từ và là khách thăm duy nhất của bà ấy trong suốt thời gian bà ấy sống ở chỗ chúng tôi. Vì vậy chúng tôi xin báo cho cô biết là bà Nguyễn Thị Tâm đã qua đời. Bà ấy chết thanh thản trong giấc ngủ vào ngày hai mươi tám tháng mười một vừa qua…".
Ánh nắng đang chiếu qua mành cửa sổ văn phòng tôi bỗng trở nên lạnh lẽo. Tôi đang đứng khi mở bức thư, bây giờ, tôi đã ngồi xuống, xoay cái ghế bọc da một vòng, nhìn đăm đăm ra cửa sổ.
Thế là, sau cùng, bà ấy đã chết!
"Khách thăm duy nhất". Dòng chữ ấy không ngừng nhảy múa trong đầu tôi. Lạy Chúa, lẽ nào là như thế! Tôi cố lục lọi trong mớ hỗn độn của ký ức để nhớ xem lần sau cùng tôi gặp bà ấy là khi nào? Năm năm? Sáu năm? Không, không, tôi không nhớ nữa…
Tôi chỉ nhớ có lần nhận được một thiệp mừng năm mới và bà ấy cứ nhắc đi nhắc lại là tôi phải viết thư cho bà ấy. Bà ấy cô đơn, cô đơn ghê gớm vào những năm cuối cùng trong đời, ắt hẳn thế. Lòng tôi bỗng tràn ngập một nỗi ân hận, thứ cảm giác mà bạn thấy khi một người đã chết mà chưa thu xếp xong những việc còn dang dở.
Tôi chỉ là một cô bé mười sáu tuổi khi họ thả ông Phùng, chồng bà Tâm, và vì thế, tôi có trách nhiệm về việc giải cứu ông ta.
Tôi nhớ rất rõ. Mùa hè năm đó ông ngoại tôi vừa mua được một khu vườn rộng với một giá rẻ mạt do người chủ cũ cần bán gấp để thanh toán một khoản nợ gì đó. Tôi được ông ngoại dẫn theo khi đến tiếp quản khu đất mới.
Tôi chạy nhảy tung tăng suốt ngày, khám phá từng lùm cây, bụi cỏ trong khuôn viên đất nhà mình và cả ở những khu vườn bên cạnh.
Ông ngoại tôi thường nói:
- Mụ bà nắn nhầm rồi con ạ, đáng lẽ con là con trai mới đúng! Con gái gì không thùy mị nết na chút nào hết, phá phách như con trai!
Ông ngoại nói không sai, hồi đó, tôi có sự vênh váo như một anh hùng đáng nguyền rủa. Tôi không ý thức được sự lố bịch của mình cho đến sau này.
Tôi không trở lại vùng đất đó nhiều năm qua, từ ngày ông ngoại qua đời và khu vườn được bán lại cho người khác.
Và tôi cũng không biết ở đó, người ta còn kể cho con cháu họ nghe những chuyện xảy ra mùa hè năm ấy hay không.
Tôi không biết những người dân ở đó vẫn cứ kể lại câu chuyện theo cách của họ - tạo ra một huyền thoại đáng sợ với hình ảnh bà Tâm - mụ phù thủy ác độc? Vâng, họ lầm. Bà ấy không phải là phù thủy.
Tôi đã được nghe bà ấy kể lại câu chuyện của cuộc đời bà.
Một lần nữa, tôi cầm bức thư lên và đọc lại thật kỹ nội dung bên trong. Một cảm giác rất khó diễn tả đang xâm chiếm tâm trí tôi. Có lẽ tôi là người duy nhất đã nghe tất cả câu chuyện cuộc đời bà ấy. Chắc chắn báo chí không đăng tải những sự việc đó, bởi vì với họ, bà Tâm chỉ là một người phụ nữ bị bệnh tâm thần, lời lẽ của bà không đáng để họ phải phân vân suy xét, vả lại bà Tâm cũng đã từng nói với tôi, bà không oán thán gì, không phản kháng điều gì hết, nên bà không cần đính chính, không cần kêu oan… Mặc cho báo chí mê mải viết những bài giật gân về sự khủng khiếp mà bà ấy đã gây ra.
Quả thật, đó là một chuyện khủng khiếp.
Tôi không bao giờ chối bỏ điều đó. Tôi cũng không tha thứ việc bà ấy đã làm. Nhưng định mệnh đã đưa vào tay tôi trọn vẹn tấn bi kịch mà không ai biết được. Vì thế, tôi luôn luôn nghĩ khác về bà Tâm. Với tôi, bà là một phụ nữ đáng thương hơn đáng trách!
 
***
Tâm ngừng tay để lau những giọt mồ hôi đang chảy ròng ròng trên trán. Chỉ còn lau dọn căn phòng này và ủi cho xong mớ áo quần kia là Tâm có thể nghỉ ngơi. Nhưng cô biết, mình sẽ không có thời giờ nào để mà ngơi nghỉ. Ông Phùng, chồng Tâm sẽ về nhà chiều nay và việc đầu tiên ông làm là sẽ đi khắp nhà để dòm ngó, sẽ dí ngón tay vào bất cứ cái tủ, cái bàn nào để xem bụi có bám ở đó hay không. Chỉ vần có một tí xíu bụi thì Tâm sẽ không được yên thân.
Bởi thế, việc lau dọn tủ bàn, nhà cửa là một công việc chiếm gần hết khoảng thời gian trong ngày của Tâm. Xung quanh nhà toàn cát là cát, chỉ cần một cơn gió nhẹ thổi qua là toàn bộ nhà cửa, đồ đạc đã bị bụi phủ đầy, Tâm phải làm bằng mọi cách để giữ cho tất cả được sách bóng như li khi ông Phùng đặt chân vào nhà.
Đôi lúc Tâm phẫn uất, Tâm chán nản. Cô không biết ông đày đọa cô để làm gì? Bắt cô làm mãi công việc nhàm chán, vô vị đó nhằm mục đích gì? Tâm là một phụ nữ vén khéo và sạch sẽ, không cần có sự ép buộc của ông Phùng cô vẫn giữ nhà cửa luôn tươm tất, thoáng mát. Vậy mà ông lại bắt buộc Tâm phải làm những việc rất vô lý!
- Một gia đình thật sự phải luôn sạch sẽ!
Ông Phùng luôn nói thế. Mà hình như ông bắt Tâm phải làm quá sự cần thiết. Sau lần sai lầm ngớ ngẩn đầu tiên, Tâm không bao giờ nhắc lại câu hỏi:
- Nhà cửa như vậy là đã tốt lắm rồi, anh còn đòi hỏi gì hơn nữa?
Tâm nhìn đồng hồ phía trên tủ áo một cách sợ hãi. Ông Phùng đã sắp về rồi! Nỗi lo sợ của Tâm đã sắp xuất hiện rồi!
Từ sáng đến giờ Tâm phải chóng mặt vì xoay đủ mọi chuyện. Thằng cu Bin con Tâm bị viêm phế quản, suốt đêm nó nóng sốt, thở khò khè khiến Tâm không sao chợp mắt được. Sáng ra, Tâm lại nhức đầu, chứng nhức đầu ghê gớm hành hạ Tâm liên miên từ nhiều năm nay.
Từ khi ông Phùng đánh đập và xô Tâm té vào bếp lò thì Tâm bị chứng nhức đầu đó và một thứ cảm giác kỳ lạ luôn luôn chiếm ngự trí não Tâm.
Tâm đặt bàn ủi xuống, lấy tay day day trán. Cô không sợ nhức đầu lắm nhưng cái cảm giác kỳ cục kia thì thật sự làm cho Tâm vô cùng khó chịu...
Tâm tự hỏi không biết có phải mình bị mất trí nhớ từng lúc đó hay không. Cô mong rằng chuyện đó không có. Cu Bin tuy còn bé nhưng đã có thể tự lo cho mình ăn uống, tắm rửa... nhưng nó sẽ làm gì được, tương lai nó sẽ ra sao khi một ngày nào đó mẹ nó bị mất trí nhớ? Điều đó khiến Tâm nơm nớp lo sợ. Đêm đêm Tâm thường van vái với các đấng bề trên, xin cho Tâm có đủ sức khỏe, đủ sức chịu đựng để sống nốt những tháng ngày còn lại mà nuôi nấng, dạy dỗ cu Bin cho nó nên người.
Đó là ước mơ duy nhất của Tâm, là niềm hạnh phúc duy nhất mà cô thường ấp ủ. Tâm có thể làm tất cả, chấp nhận tất cả để cho cuộc sống của con trai cô được bình yên, no ấm.
May thay, Tâm vừa ủi xong cái áo cuối cùng thì có tiếng xe gắn máy của ông Phùng dừng trước sân nhà.
Ông Phùng xô cửa bước vào. Ông lớn hơn Tâm hai mươi tuổi, to con lực lưỡng. Ông như một con gấu hung dữ, còn Tâm lại giống như một chú thỏ con nhút nhát, tội nghịêp đang lạc giữa rừng già.
- Anh mới về!
Đặt cặp táp lên bàn không thèm đáp lại lời chào run rẩy của Tâm, ông Phùng đi thẳng tới chiếc tủ buffer giữa nhà, quệt một ngón tay lên cạnh tủ theo thói quen. Ông hầm hừ điều gì đó trong cổ họng nhưng không phát ra thành tiếng, vì cái tủ đó mới vài phút trước đây đã được Tâm cẩn thận lau sạch từng centimet.
Mở tủ lấy ra chai rượu, ông Phùng trở lại ngồi vào ghế sa-lông và rót rượu ra ly uống ừng ực.
Tim Tâm chùng xuống. Thế có nghĩa là ông không vui rồi. Tâm luôn luôn biết điều đó bởi mỗi lần vừa về tới nhà mà ông đem rượu ra uống liền có nghĩa là ông đang rất bực bội, rất tức giận một ai đó, một điều gì đó mà không thể giải tỏa được.
Và Tâm cũng biết trước, sau vài ly rượu, thì Tâm sẽ là nơi để ông giải tỏa, để ông trút hết những gì không vừa ý trong lòng…
- Em chuẩn bị bữa tối cho anh rồi đấy, anh có ăn bây giờ chưa để em dọn?
Vừa nói, Tâm vừa dợm bước xuống bếp.
Đang chăm chú rót rượu ra ly, ông Phùng dừng lại liếc nhìn Tâm rồi lại cắm cúi vào ly rượu.
- Nhà cửa đã dọn dẹp xong chưa?
Ông Phùng vừa tợp một hớp rượu và hỏi
- Dạ,... xong cả rồi... tất cả! Anh ăn cơm nhé, em dọn cho anh ăn?
Ông Phùng lầm bầm trong miệng rồi cũng đứng dậy đi xuống bếp và ngồi vào bàn.
Tám giờ tối ông Phùng đã say mèm. Ông không cho Tâm đi ngủ.
Tuy Tâm tránh được những cái vồ của ông Phùng trong cơn say bí tỉ nhưng sau cùng ông cũng dồn được Tâm vào góc nhà. Hơi thở của ông nồng nặc mùi rượu. Bàn tay ông lần mò trên thân thể Tâm khiến cô buồn nôn.
- Đừng... đừng... anh...
Giọng Tâm vô tình cất cao trong hơi thở gấp.
Bỗng Tâm thấy có bàn tay khác chụp lấy tay mình. Đó là cu Bin. Giật mình vì tiếng kêu của mẹ, nó vừa khóc vừa chạy vào bếp.
- Mẹ ơi! Mẹ ơi!
Cu Bin la lên, nó cố kéo Tâm thoát khỏi tay gã đàn ông đang say.
Tâm nuốt nước mắt, cố gắng nói bằng giọng ôn hòa:
- Con lên phòng ngủ đi, Bin... nào... để mẹ đưa con đi ngủ...
Nhưng ông Phùng ôm chặt Tâm không chịu rời ra:
- Cô không được đi đâu cả... dẹp cái trò làm mẹ bẩn thỉu đó đi... Cô có biết bổn phận của mình đối với chồng là gì không, hả? Khi một người đàn ông về nhà thì hắn cần giải trí... giải trí kiểu vợ chồng... Cô có biết điều đó không, hả?
Ông Phùng quay sang đứa bé. Nó vẫn bám chặt lấy Tâm.
- Cút ngay! Đồ khốn nạn! Đi ngủ!
Ông nhìn nó như nhìn kẻ thù và quát lớn.
Nhưng thằng bé khốn khổ không nghe ông, nó càng bám chặt vào tay mẹ nó hơn nữa.
Nhanh như chớp, ông Phùng vung bàn tay hộ pháp. Thân hình thằng bé hình như bay trong không khí. Đúng, nó bay trong không khí trước khi nằm một đống dưới sàn nhà cạnh chiếc tủ sắt. Một vết tét ngay trên trán thằng bé, máu xịt ra có vòi rồi tuôn xối xả thành dòng đầy mặt nó. Miệng nó mấp máy nhưng không phát ra tiếng nào.
Ngay cả ông Phùng cũng bàng hoàng trước cảnh tượng đó.
Ông không ngăn cản Tâm khi cô vùng khỏi tay ông cùng với tiếng thét hãi hùng.
Thằng bé vẫn thở. Tiếng khóc thảm thiết của nó hòa lẫn tiếng khóc đau lòng của mẹ nó. Tâm ôm con vào lòng, dỗ dành.
Tâm thấm mặt nó bằng một cái khăn ướt. Chẳng hi vọng gì ở sự giúp đỡ bên ngoài vào lúc nguy cấp này vì nhà không có điện thoại mà ông Phùng thì quá say không thể lái xe được, Tâm lại không biết đi xe gắn máy. Căn nhà lại ở một nơi biệt lập, nằm ngay rìa một khu vườn rộng lớn. Bên kia khu vườn là một cánh rừng nhỏ. Người láng giềng gần nhất cũng ở cách đây hai cây số.
Sau cùng, dòng máu trên trán thằng bé chảy yếu dần rồi ngừng hẳn. Tâm nhẹ nhàng lau sạch máu trên mặt con trai. Vết tét khá dài và Tâm kinh hoảng khi thấy vết đứt gần sát bên một con mắt.
Sáng mai Tâm sẽ đưa nó đi bác sĩ, còn bây giờ thì cho nó đi ngủ có lẽ là giải pháp hay nhất.
Tâm bế thằng bé lên, đi ngang qua ông Phùng. Ông đã ngồi lại bàn, uống tiếp.
Tâm băng cho con một cách khéo léo rồi đặt thằng bé vẫn còn thút thít khóc lên giường.
Nó không cho Tâm đi nên cô ngồi lại với nó cho đến khi tiếng nức nở lịm dần và thằng bé mau chóng rơi vào giấc ngủ say.
Tâm nhẹ nhàng trở lại phòng khách. Ông Phùng vẫn còn ở đó. Ông ngồi khom người, đầu gối trên hai cánh tay khoanh lại đặt trên bàn.
Tâm lay lay vai ông, ông vẫn không nhúc nhích. Tâm đến bên bàn để dao, mở ngăn kéo, chọn một con dao lớn nhất, sắc nhất. Đóng ngăn kéo lại, cô đến cạnh chồng. Giơ cao con dao, cân nhắc, đắn đo... đâm hay chém? Cách nào hay nhất đây?
Thật kỳ lạ! Vận mạng Tâm trên cõi đời này cho đến giờ phút này là của người đàn ông đang gục trên bàn kia. Tâm đã lầm lỡ với ông. Cô ghét ông nhưng không biết làm thế nào để thoát khỏi tay ông.
Đó là nguyên nhân của một cái gì đó lạ lùng thình lình xui khiến Tâm cho cô biết nên làm cái gì. Tâm không kinh ngạc chút nào về sự quả quyết của mình, cô cũng không muốn hỏi ý kiến ai.
Ông Phùng phải chết, vậy thôi! Tâm biết chắc thế.
- Cái gì trong tay mình vậy?
Tâm giơ con dao lên ngang mặt và nhìn nó chăm chú. Tất cả những câu chuyện mà Tâm đã từng nghe kể hoặc đã đọc qua trên báo chí bỗng chốc ùa về khiến tay cô run rẩy.
Những ý nghĩ thình lình xẹt qua trong trí Tâm, ý nghĩ rằng chính cô đang đứng trước vành móng ngựa và cu Bin lủi thủi, cô đơn được gởi vào cô nhi viện…
Những kẻ sát nhân luôn luôn bị bắt mà! Tâm chẳng có kế hoạch gì để che giấu "tội ác" của mình. Tâm cũng chẳng có chút hi vọng nào là mình sẽ qua mặt được nhà chức trách, nếu cô giết người. Tâm không có được sự khôn ngoan đó, vậy thôi.
Chậm chạp, Tâm hạ con dao xuống.
Có lẽ Tâm không thể giết ông Phùng, nhưng ông phải bị kềm chế bằng cách nào đó chứ. Sau những gì vừa xảy ra tối nay và những gì đã xảy ra trước kia...
Tâm rùng mình khi nhớ lại khuôn mặt máu me của con. Không, con thú man rợ phải bị giết hay nhốt lại ...
Nhốt lại? Tâm suy nghĩ trong một thoáng. Phải rồi. Đó là câu trả lời. Khu vườn nhà Tâm có những khoảnh đất rộng có hàng rào ông Phùng đã mua gần một năm nay của những người chăn nuôi. Họ là những người nuôi chó. Trong hầm ngầm dưới lòng đất họ đã xây một khoảng để nhốt bầy chó hung dữ.
Chỗ đó hình vuông, mỗi cạnh gần ba mét, có rào chắn phía trên. Cái "chuồng" này cũng dùng cho việc sinh sản của những con chó cái. Ông Phùng mà ở trong cái "chuồng" đó thì hắn không bao giờ có thể hành hạ mẹ con Tâm được nữa.
Tâm nhìn ông Phùng đăm đăm. Cô biết với sức vóc nhỏ bé của mình thì việc lôi một kẻ to lớn như ông Phùng xuống được tới căn hầm là một điều không dễ dàng chút nào, nhưng Tâm quyết sẽ làm được điều đó, sẽ làm bằng chính sức lực nhỏ nhoi, yếu đuối của mình chứ không trông chờ vào bất kỳ sự giúp đỡ của ai khác. Mà cũng có ai đâu để cho Tâm nhờ vả?
Tâm đã phải vận dụng toàn sức lực của mình, cộng thêm tất cả những gì mà lâu nay cô đã phải chịu đựng, giờ thì những điều đó biến thành một thứ năng lực kỳ diệu, khiến Tâm có thể kéo lê cái thân thể gần tám chục ký lô của ông Phùng đi một quãng đường không ngắn để tới chỗ cái chuồng mà cô dự định sẽ nhốt ông.
Ông Phùng khẽ cựa mình một hai lần trong cuộc hành trình gian khổ đó. Tuy thế, ông không tỉnh lại nổi trong cơn say bí tỉ.
Khi đã đưa được người chồng say mèm vào trong chuồng, cả người Tâm ướt đẫm mồ hôi.
Trong chuồng có một tấm ván lát sàn, nên sàn chuồng cao hơn sàn nhà vài phân. Rõ ràng đã có những con chó ở đây. Tâm lên phòng lấy hai cái mền rồi trở xuống ném chúng trên sàn gỗ. Cô đóng cửa chuồng lại. Có một ổ khóa lớn móc ở then cửa. Tâm bấm ổ khóa. Tâm không có chìa khóa mà cũng chẳng cần vì cô không định mở nó ra nữa, mãi mãi ...
Tâm biết chắc, những ngày đầu sẽ là những ngày ồn ào ghê gớm, cô và con trai sẽ phải cố gắng thật nhiều mới có thể vượt qua được. Và đúng như Tâm đã dự đoán, chỉ nửa đêm hôm đó là ông Phùng tỉnh rượu và bắt đầu la hét, đập phá. May mắn là căn nhà của Tâm quá biệt lập nên tiếng gào thét phẫn nộ của ông Tâm sẽ không bị ai nghe được.
Cu Bin choàng dậy bởi tiếng động dội từ dưới nhà lên, nó ngơ ngác nhìn Tâm:
- Mẹ ơi, cái gì ở dưới đó vậy?
Tâm ậm ờ nói lảng sang chuyện khác:
- Đầu con còn đau lắm không?
Nghe nhắc tới vết thương, thằng bé lại mếu máo:
- Đau lắm mẹ ơi… Con đau lắm…
Tâm rơm rớm nước mắt ôm con trai vào lòng, xoa nhẹ lên đầu nó:
- Không sao đâu con, con ráng chịu đau chút đi, mẹ sẽ đưa con đi khám bác sĩ, mọi việc rồi sẽ ổn thôi. Cứng rắn lên, con trai ngoan của mẹ!
Tâm cho con ăn sáng, rồi chở con bằng chiếc xe đạp cũ rích đi hơn năm cây số mới tới nơi có bác sĩ thăm khám.
Vị bác sĩ kinh ngạc khi thấy vết thương của thằng bé:
- Trời ơi, bé bị sao thế này? Sao cô không đưa nó đi bệnh viện sớm mà để tới bây giờ?
Tâm nói nhỏ:
- Dạ, nó bị té ngã từ tối hôm qua, đầu đập vào cạnh tủ. Tôi không thể đưa con đi giữa đêm khuya được vì chồng tôi vắng nhà…
Tâm nói dối, nhưng cô nơm nớp lo sợ thằng bé sẽ phản bác lại nguyên nhân gây ra vết thương của nó. Thế nhưng cu Bin đã không nói gì, nó là một đứa bé ngoan ngoãn, điềm tĩnh, có vẻ lớn trước tuổi.
Vị bác sĩ khẽ liếc nhìn Tâm rồi như cảm thông với hoàn cảnh đơn chiếc của cô, ông không cằn nhằn nữa mà cẩn thận lau rửa lại vết thương rồi kê toa thuốc cho thằng bé.
Khi Tâm và con trai về tới nhà, hai mẹ con nghe tiếng hét của ông Phùng trong cơn giận cuồng điên. Bin nép sát vào mẹ. Tâm ngồi xuống một cái ghế gần cửa rồi bế thằng bé lên lòng.
- Con đừng sợ nhé! Chẳng có gì phải sợ hãi tiếng hét đó... Nó chỉ là...
Tâm không biết dùng lời lẽ nào để giải thích cho đứa con trai bé bỏng này hiểu được. Nhưng bất chợt một ý nghĩ chợt nảy trong đầu Tâm. Cô nói nhanh:
- Bin à, con có nhớ những chuyện cổ tích mẹ đọc cho con nghe mỗi tối không?
Thằng bé ngước đôi mắt vẫn còn sợ sệt lên nhìn mẹ:
- Dạ, nhớ...
Tâm gật đầu:
- Con có nhớ chàng hoàng tử bị biến thành con ếch không?
Thằng Bin chớp mắt:
- Nhớ...
Tâm xoa đầu con:
- Tốt, cha con cũng thế. Ông ấy bị biến thành một con gấu, một con gấu rất to lớn và xấu xí. Mẹ cho rằng đó là vầch con thường xuyên hiếp đáp mẹ con mình, và nhất là tối hôm qua, cha con đã làm con bị thương nên ông ấy bị trừng phạt. Bây giờ ông ấy đang ở dưới hầm, ông ấy không thể làm hại mẹ con mình nữa.
Mắt cu Bin tròn xoe. Một tiếng thét ghê hồn từ dưới hầm vọng lên ngay lúc đó làm thằng bé run rẩy.
Nó lắp bắp:
- Ông ấy... ông ấy... không thể ra...
- Không!
Tâm đáp, giọng tin chắc:
- Chắc chắn không thể ra được, chỉ vài ngày thôi, ông ấy sẽ không la hét nữa. Con cố gắng nhé, con trai?
Tâm đặt thằng bé xuống đất và đứng dậy.
Cô nó:
- Mẹ dặn điều này con phải luôn ghi nhớ. Đừng bao giờ con kể cho ai biết chuyện về cha con nghen? Nếu có ai khác biết được, thì mẹ con mình sẽ phải nhận lấy hậu quả không lường được đâu nghe con!
Mắt thằng bé mở to, chứa đầy sự khủng khiếp. Tâm vuốt lại quần áo, vẻ mãn nguyện. Vậy là thằng bé sẽ không bao giờ kể cho ai. Tâm tin chắc điều đó, vì hơn ai hết cô hiểu rõ con trai mình.
Mãi đến ba ngày sau Tâm mới mở cửa đi xuống tầng hầm. Tâm đi nhón gót, rụt rè không muốn để ông Phùng nhìn thấy.
Trong chuồng, ông Phùng đang nằm. Ông có vẻ kiệt lực sau ba ngày la hét, đói khát. Thế nhưng vừa trông thấy Tâm, ông chồm lên. Những ngón tay run rẩy bấu lấy tấm lưới sắt chắc chắn của cái chuồng.
Tâm dừng lại vài bước trước cái chuồng, đặt xuống đất một tô cơm và chai nước. Cô lấy một cái chổi gần đấy, đẩy tô cơm và chai nước vào trong chuồng.
Ông Phùng liếm môi:
- Tốt, tốt... thế nào... chuyện này là thế nào đây?
Tâm không trả lời, tiếp tục đẩy những thứ đó vào chuồng.
Giọng ông Phùng vang lên dễ sợ:
- Đồ khốn nạn! Mau thả tao ra! Mầy có nghe tao nói không?
Giọng ông Phùng trở nên lưỡng lự ở những chữ sau cùng.
Thái độ thản nhiên của Tâm khiến ông lo lắng. Có phải đấy là người đàn bà mà ông đã từng ngược đãi, vùi dập không? Có phải đấy là người đàn bà trước đây vẫn ngoan ngoãn phục tùng ông không?
Ông Phùng cố gắng thử lần nữa:
- Nghe đây, Tâm... Anh cho phép em được nghỉ ngơi, được vui chơi đấy... À, tối hôm đó anh quá say… Nhưng dù thế nào thì em cũng không thể nhốt anh mãi mãi như vậy, phải không?
Bấy giờ Tâm mới trả lời ông.
Tâm đứng thẳng lên. Đôi mắt đen láy của cô nhìn thẳng vào mắt ông mà không hề run rẩy.
- Vâng!
Ông Phùng kinh ngạc:
- Cái... cái gì?
Tâm lặp lại:
- Vâng, em có thể nhốt anh ở đây mãi mãi. Em có thể và em phải làm thế.
Nói rồi Tâm chỉ những thức ăn trên sàn:
- Anh ăn đi, tối mai em sẽ đem cho anh nhiều hơn.
Tâm quay đi, trở lên nhà.
Ông Phùng sững sờ một lúc rồi la lên, nhưng lúc nàykhông phải là tiếng kêu thét giận dữ cuồng điên nữa.
- Người ta sẽ biết! Cô không hiểu điều đó sao? Đồ ngu! Cô không thể thoát được! Cô sẽ bị bắt!
Tâm tiếp tục bước lên những bậc thang như thể không nghe thấy gì. Đến đầu cầu thang, cô tắt đèn, ngọn đèn duy nhất của căn hầm. Cẩn thận, lặng lẽ, Tâm đóng cửa lại.
Từ hôm đó, mỗi tối Tâm đều đem thức ăn xuống cho ông Phùng. Ít khi nào Tâm lên tiếng trước, mặc cho tiếng hét điên cuồng của ông, tiếng chửi rủa man dại của ông vang vọng khắp tầng hầm, Tâm không nói một lời nào.
Khi mùi hôi thối trong chuồng không chịu nổi nữa thì Tâm làm như những người chăn nuôi vẫn làm. Cô nối một ống cao su vào vòi nước gần đó, xịt nước vào sàn chuồng. Nước và những thứ bẩn thỉu trôi ra một cái rãnh nhỏ ngay cửa chuồng, trôi tiếp ra ống dẫn xuống cống.
Tâm giữ vệ sinh cho cái chuồng bằng cách thỉnh thoảng rắc bột tẩy thơm. Nhiều lần trong tuần, Tâm đẩy vào cho ông Phùng một chậu nước và xà bông để ông tắm rửa.
Nhiều tuần lễ trôi qua, ông Phùng đã bớt chửi rủa, đe dọa.
Ông Phùng bắt đầu nghĩ ra những mẹo khác. Một lần Tâm mang thức ăn xuống, ông Phùng cất giọng ôn hòa:
- Em à, em nên suy nghĩ kỹ lại đi! Em không thể nào nhốt anh cả đời trong này được. Đây chỉ là vấn đề thời gian thôi. Công ty của anh sẽ biết. Họ sẽ làm rùm beng lên khi thấy anh đột ngột mất tích. Hơn nữa, em có thể nhốt anh như vậy mãi sao? Làm sao mẹ con em sống được? Em sẽ kiếm tiền bằng cách nào đây? Dù sao mình cũng đã từng là vợ chồng… Anh biết, anh đã làm rất nhiều điều không phải với em. Những ngày qua anh đã suy nghĩ tường tận và ăn năn, hối lỗi lắm. Em hãy cho anh cơ hội. Thả anh ra đi, anh sẽ làm một người chồng, một người cha tốt…
Những câu hỏi, câu nói của ông Phùng không làm Tâm dao động. Bởi vì Tâm đã từng nghĩ đến những vấn đề ấy rồi.
Thật vậy, Tâm đã điện thoại cho công ty của ông Phùng. Cô xin lỗi họ là chồng mình đã nhận được việc khác và mong họ bỏ lỗi vì nghỉ không báo trước.
Ông Phùng không phải là nhân viên quan trọng hay giỏi giang gì cho lắm nên họ chẳng cần. Họ chỉ yêu cầu ông gởi trả cho công ty những mẫu hàng và sổ ghi hàng, chẳng những thế, họ còn chúc cho ông gặp được may mắn trong công việc mới.
Tâm gởi những thứ mà công ty yêu cầu qua đường bưu điện. Thế là, cả cái công ty nọ, nơi mà người đàn ông đang trong chuồng kia ngày đêm hy vọng là sẽ làm rùm beng về sự biến mất của ông đã lặng lẽ cho ông vào quên lãng.
Những tuần lễ sau khi giam cầm ông Phùng trong chuồng là những ngày nhàn hạ của hai mẹ con Tâm.
Tâm thường dắt tay con trai đến những khu vườn gần đó để hái dâu rừng. Chưa bao giờ Tâm thấy hạnh phúc như thế. Tuổi thơ của Tâm là một chuỗi ngày dài của những thống khổ tiếp nối. Cuộc hôn nhân của Tâm với ông Phùng cứ tưởng sẽ là sự giải thoát, nhưng thực tế nó chỉ là sự chuyển đổi Tâm từ con quái vậy này sang tay một con quái vật mới, ghê gớm hơn cả người cha hung bạo của Tâm.
Giờ đây, Tâm đã tự do, lần đầu tiên trong đời, Tâm được hưởng tự do. Giờ đây, chứng nhức đầu lẫn cảm giác kỳ lạ đeo đẳng suốt nhiều năm trời đã bớt hành hạ Tâm. Vào mùa khai trường tới đây, cu Bin sẽ đi học và Tâm sẽ tính chuyện tương lai.
Những lời ông Phùng nói về khả năng xoay xở để kiếm sống của Tâm, Tâm vẫn nhớ. Nhưng hiện giờ, với số tiền ông Phùng để lại, Tâm chẳng phải lo lắng gì nhiều.
Mấy tháng sau, khi số tiền trong tủ đã vơi đi thì Tâm cũng chẳng phải lo lắng gì vì mọi sự tốt đẹp dường như đang chờ đợi cô. Cô Thi, người quản lý thư viện của tỉnh qua đời do căn bệnh ung thư không thuốc trị. Vốn là người yêu sách, Tâm xin nhận việc đó. Cũng có vài người xin làm và Tâm tuy là dân mới đến nhưng lại là người duyên dáng, đáng yêu, tính tình trầm lặng, ngăn nắp, có đầu óc khoa học... Trong đơn xin việc, Tâm cho biết bị chồng bỏ, có lẽ vì lý do đó, vì thương hại Tâm, họ đã chọn cô vào thế chỗ.
Lương của Tâm cũng chẳng được bao nhiêu, nhưng ước muốn của cô không nhiều: chỉ đủ để nuôi Bin, bản thân mình và "con gấu" kia. Ngoài đồng lương ra, Tâm còn có thêm một khoản thu nhập kha khá từ khu vườn rộng lớn của mình. Bấy nhiêu đó cũng đủ cho Tâm duy trì được một cuộc sống yên bình, đạm bạc.
Sự tưởng tượng của Tâm dần dần trở thành sự thật. Vì ông Phùng đã biến dạng gần như gấu.
Nhiều lần, khó khăn lắm Tâm mới nhận ra sinh vật râu tóc xồm xoàm trong chuồng đã từng là chồng mình. Ông thật sự là một con gấu được cho ăn vào ban đêm, ban ngày bị bỏ mặc ở đó.
Nhưng nếu Tâm cứ bỏ mặc ông như thế trong những tháng ngày mùa đông giá rét thì thật không ổn vì ông đã thay đổi nhiều. Ông thường nắm những mắt lưới cửa chuồng lắc dữ dội, thường khua những cái dĩa sắt ầm ĩ, thường kêu gào ghê rợn.
Một đêm nọ, khi đem đồ ăn xuống cho ông, Tâm thấy ông đang bám lấy những mắt lưới, run rẩy.
Ông Phùng nhìn Tâm. Một giọt nước mắt lăn trên gò má ông, đọng trên bộ râu gớm ghiếc của ông. Rồi những giọt nước mắt nối tiếp nhau rơi.
Con gấu đang khóc!
- Tâm ơi! Tâm ơi… em ơi…
Nó nức nở. Thật lạ lùng! Gấu mà biết tên Tâm!
Ngay sau đó Tâm nhớ đó chính là ông Phùng  trong lốt gấu.
- Tâm ơi... làm ơn... làm ơn thả anh ra... anh đã hiểu anh đối xử không phải với em... anh hứa anh sẽ ra đi... không bao giờ làm em buồn nữa... thả anh ra đi... Tâm ơi…
Ông Phùng rên rỉ bằng giọng thê lương, não ruột.
Mắt Tâm long lanh ngấn lệ. Cô vốn là người đa cảm. Trong lòng Tâm dấy lên một niềm thương cảm vô bờ đối với sinh vật trong chuồng.
Thật khẽ khàng, Tâm đặt những dĩa thức ăn xuống sàn:
- Em xin lỗi.
Tâm nói nhẹ nhàng trước khi trở lên. Đêm đó, cô không tài nào ngủ được.
 
Tâm thấy cuộc đời mình, thế giới mình đang sống mới buồn làm sao! Tâm thương con gấu khốn khổ đó quá. Phải chi cô làm được cái gì đó để xoa dịu nó, nhưng làm gì bây giờ?
Rất nhiều lần sau này, Tâm đã nghĩ đến điều đó mỗi khi thấy thương xót con gấu, nhưng cô vẫn không biết làm sao...
 
***
 
Bin đã lớn. Nó hiểu mà không cần hỏi, rằng nó không bao giờ được đưa bạn về nhà chơi. Nếu làm thế, chẳng bao lâu bạn bè nó sẽ biết và người ở địa phương sẽ hiểu rằng người quản lý thư viện duyên dáng kia cùng với đứa con trai đang sống một cuộc sống quái đản, khi đó sẽ không ai dám gần gũi với mẹ con nó nữa.
Chắc chắn sự tin tưởng về câu chuyện người cha hóa gấu sẽ chẳng tồn tại lâu trong đầu Bin nữa. Phải có một ngày nó tò mò, nó sẽ nhìn vào nắp hầm trên mặt đất ngoài vườn. Khi còn bé, nó có thể bị đánh lừa bởi hình dáng dị hợm đó, cứ nghĩ chắc đó là một con gấu thật.
Ngay cả mẹ nó cũng nghĩ thế mà!
Nhưng khi đã lớn, đã biết nghĩ, nó sẽ hiểu hết. Nó sẽ làm gì? Báo cảnh sát? Để có lại người cha mà nó chỉ nhớ mơ hồ là một người nhẫn tâm, tàn ác? Khi đó, mẹ nó sẽ ra sao? Đi tù... hay vào nhà thương điên? Không, không! Nó không biết cái gì trong hầm. Không thể và cũng không chịu nổi sự thật…
Thời gian chậm chạp trôi qua với con gấu.
Nhưng năm tháng lại trôi nhanh vùn vụt đối với mẹ con Tâm. Tiểu học, trung học,... Bin lớn dần lên.
Không biết có phải do mặc cảm về cuộc sống của gia đình mình hay vì một lý do nào khác mà Bin cứ sống khép mình trong cái vỏ ốc của riêng nó. Cả một quãng đời niên thiếu, bin không hề có được một người bạn đúng nghĩa. Tất cả bạn bè cùng lớp cùng trường, với nó chỉ là những đơn giản là những “người quen” thế thôi.
Năm học lớp mười hai, đột nhiên Bin tuyên bố bỏ học giữa chừng. Tâm quá bất ngờ, cô khóc lóc, la mắng và khuyên giải… nhưng tất cả không gì có thể lay chuyển được Bin. Nó không giải thích nguyên nhân nào khiến nó đi đến quyết định đó mặc dù Tâm dùng hết cách để tìm hiểu.
Nỗi đau đó chưa kịp nguôi ngoai, thì đùng một cái thằng Bin nói với Tâm nó sẽ đi xa, đi làm ăn ở xa, khi nào thành đạt mới quay về.
- Mẹ đừng buồn, dù con không sống bên cạnh mẹ, nhưng lúc nào lòng con cũng hướng về mẹ. Mẹ hãy giữ gìn sức khỏe, con tin một ngày không xa con sẽ quay về…
Bin hôn lên khuôn mặt đầm đìa nước mắt của mẹ nó, trấn an Tâm. Nhưng Tâm không làm sao an lòng cho được. Nguồn sống của Tâm đang rời bỏ cô mà ra đi…
- Sáng ngày mai con trai chúng mình sẽ ra đi. Nó bảo sẽ đi xa lắm và cũng không hẹn ngày về…
Tâm nói cho con gấu biết chuyện tối hôm đó.
Từ ngày Bin ra đi, ngôi nhà của Tâm càng trở nên hoang vắng, lạnh lùng. Sau giờ làm việc ở Thư viện, Tâm không biết phải làm gì. Và cũng chính vì lẽ đó, vì nỗi cô đơn thống khổ đó Tâm cảm thấy con gấu trở nên một sinh vật rất gần gũi với cô.
Những năm sau này, Tâm có thói quen ngồi bên ngoài chuồng, trên một cái ghế xích đu vào những buổi chiều tối. Tâm thích nói chuyện với con gấu. Bây giờ nó đã biết rằng không nên nói gì về chuyện tự do của nó nữa. Thay vào đó, nó im lặng nghe Tâm kể những chuyện ở thế giới bên ngoài, về những thành tích thể thao của Bin, những chuyện xảy ra ở thư viện...
Những ngày ấy thật êm đềm!
Tâm đặt một ngọn đèn ngay cạnh ghế xích đu để thỉnh thoảng cô đọc sách cho con gấu nghe. Con gấu có vẻ thích thú.
Tối nay, khi Tâm cho nó biết Bin đã đi, hình như nó lộ vẻ buồn rầu.
Con gấu bỗng nói:
- Tâm...
Gịong nó khàn khàn.
- Thả... thả anh ra đi... cho anh được săn sóc em khi Bin không còn ở nhà.
Tâm nhìn con gấu, kinh ngạc. Bao nhiêu thời gian trôi qua rồi mà nó vẫn không hiểu, vẫn còn mơ tưởng tới điều đó hay sao?
Vẻ buồn bã, Tâm đứng dậy, tắt đèn và đi lên. Đến đầu cầu thang, cô đóng cửa nhẹ nhàng nhưng kiên quyết trước lời van xin của nó.
Sau thời gian dài như vậy mà nó vẫn không hiểu là người ta không bao giờ để những con thú hoang được thả rông. Chẳng có gì phải lo lắng, âu sầu cho những con cọp, sư tử trong sở thú. Cũng chẳng có gì phải nghĩ ngợi về vẻ hiền lành, thuần hóa của chúng. Chỉ có điều là không được cho chúng tự do.
Không lâu sau đó thì có thư của Bin. Tâm đọc cho con gấu nghe. Lúc này thì nó đã học được bài học mới sau lần sai phạm đó và biết cách ngoan ngoãn, vâng lời hơn bao giờ hết.
Và không bao lâu, Bin về thăm nhà lần đầu. Da Bin rám nắng, khỏe mạnh, cường tráng, trông thật thích mắt.
Tâm ước sao con gấu được trông thấy nó, thấy đứa con trai mà lần sau cùng thấy mặt là lần nó bị ông ném ngã đập đầu vào cạnh tủ cách đây rất nhiều năm trời.
Tận dụng những ngày ở nhà, Bin sửa sang nhà cửa. Chỉ còn một hôm nữa thôi. Nó đứng nhìn đăm đăm ra ngoài cửa sổ nhà bếp. Tâm đến cạnh nó và nó nhìn cô, vẻ mặt đăm chiêu.
- Mẹ à, con thấy bọn nhóc chạy chơi trong vườn nhà mình hôm qua đấy. Hàng rào có lẽ hư hết rồi.
Tâm gật đầu:
- Ừ, nó cũ quá rồi, lâu lắm rồi mẹ vẫn chưa cho thay hàng rào mới…
Bin đứng dậy, nhíu mày:
- Con không thích thế, con không muốn tụi nó tới đây phá phách. Để con lên tỉnh mua ít gỗ và dây thép gai...
Thế là nó làm đúng y như những gì đã dự tính. Nó làm việc suốt ngày hôm đó. Luôn ngày hôm sau, cho đến khi sắp tới giờ lên đường. Mồ hôi đầm đìa nhưng vẻ mặt mãn nguyện.
- Con có gắn những tấm bảng "Cấm vượt qua" ở quanh vườn. Hàng rào giờ thì chắc chắn lắm mẹ ạ. Cứ để tụi nhóc leo qua hàng thép gai đó coi!
Bin đặt tay lên vai mẹ nó:
- Mẹ, chẳng bao lâu nữa con sẽ về ở hẳn với mẹ tại nhà ...
Nhưng nó không bao giờ trở về.
Tâm đang ở thư viện thì điện tín tới báo tin con trai cô đã chết do một tai nạn trong khu đào vàng ở cách đó hàng ngàn cây số. Mọi người đều thương xót Tâm. Nhiều người có ý muốn đưa Tâm về nhà nhưng Tâm từ chối tất cả.
Tâm muốn đi bộ một mình trên con đường quen thuộc. Cô cũng không lộ vẻ gì cho tới khi đến trước chuồng gấu. Lúc đó, Tâm mới quỵ xuống sàn xi măng lạnh lẽo. Cô khóc như mưa, khóc thỏa thuê cho nguôi nỗi đau.
- Bin chết rồi... nghe không, gấu? Bin... chết rồi!
Qua hàng rào lưới sắt, những ngón tay móng dài từ lâu không cắt thò ra như muốn đánh vào mặt Tâm. Những giọt nước mắt lăn dài trên bộ râu rậm. Con gấu nhỏ lệ cho nỗi đau mất con hay cho sự thù hận cuộc đời? Nào ai biết? Đời sống vẫn tiếp tục trôi.
Nỗi đau rồi cũng nguôi ngoai dần trong lòng Tâm theo năm tháng.
Tâm vẫn tiếp tục công việc ở thư viện. Có Bin hay không, Tâm vẫn phải nuôi lấy mình và con gấu. Số tiền Bin kiếm được, Tâm để nguyên không đụng đến. Một ngày nào đó, khi không còn làm việc nữa, cô sẽ cần đến số tiền đó, nhưng hiện giờ thì chưa.
Cuộc sống trong căn nhà hiu quạnh đó đều đặn trôi qua theo thời khóa biểu không thay đổi.
Con gấu đã hoàn toàn đáng tin. Vào những ngày cuối tuần đẹp trời, Tâm đã dám mở cánh cửa phía trên hầm, tức là cái nắp trên mặt đất ở ngoài vườn, cho con gấu được hưởng khí trời trong lành. Và Tâm sung sướng khi thấy nó đứng bật dậy, lại ngay dưới cửa sổ, hít những hơi dài của không khí ngoài bầu trời tự do.
Đôi lúc nó với tay nhảy lên nhưng vô ích vì ô cửa khá cao lại còn một tấm lưới sắt chắc chắn như tấm lưới cửa chuồng. Đôi lúc nó nhón chân, cố rướn cổ nhìn ra ngoài nhưng vô vọng.
Tâm thường đem cho nó những bó hoa rừng. Nó thích lắm, vùi đầu vào bó hoa hít lấy hít để.
Tâm vui thú làm những việc đại loại như thế vì cô thật sự đã thích nó. Càng ngày, sự tồn tại của Tâm trên cõi đời này càng là nguồn an ủi lẫn sự sống còn của nó.
Năm tháng tiếp tục lặng lẽ trôi qua.
Dĩ nhiên, cũng có những lúc khó khăn, chẳng hạn như những lúc con gấu ốm nặng. Thật là một cực hình cho Tâm khi nó kêu gào đòi được đưa đi bác sĩ, hoặc phải mời bác sĩ về khám bệnh cho nó. Nhưng rồi nó cũng hiểu rằng chuyện đó không thể có được.
Tâm không biết làm gì ngoài việc cầu nguyện. Thế mà lời cầu nguyện của Tâm đã được đáp lại. Con gấu hạ cơn sốt, không rên rỉ nữa, rồi đỡ dần.
Lại có những lúc chính Tâm đau ốm. Vào một mùa thu nọ Tâm ngã bệnh trong những ngày nghỉ phép năm.
Tâm ốm nặng đến nỗi không thể tự mình đến bác sĩ được. Cũng không có cách nào gọi bác sĩ đến nhà. Mà có gọi cũng không được dù Tâm là chủ nhà nhưng lại là người giữ con gấu trong chuồng.
Hình như Tâm cũng đang bị giam cầm trong một loại ngục tù. Cơn sốt dữ dội hành hạ Tâm nhiều ngày. Cái duy nhất giúp Tâm không gục ngã là tiếng kêu thống thiết của con gấu. Bỏ mặc cho nó chết thì dễ quá... nhưng Tâm không thể... Con gấu đói... nó cần có Tâm, Tâm biết mình phải vượt qua, không phải vì mình mà chính là vì sự sống còn của con gấu trong chuồng dưới kia…
Vì thế, Tâm cố thu hết sức lực để sống và để nhìn thấy con gấu vục mặt vào những dĩa thức ăn mà với cố gắng phi thường, cô đem xuống cho nó.
Tâm vui sướng thấy nó ăn ngon lành, đó là phần thưởng xứng đáng cho nỗ lực đáng thương của cô.
Có lẽ chuyện ghê gớm nhất đã xảy ra là khi chảo mỡ bị bắt lửa trên bếp. Trong cơn sợ hãi điên cuồng, Tâm đã dập tắt được ngọn lửa. Tay Tâm bị bỏng nhiều chỗ. Không phải sự đau đớn làm cho Tâm sợ. Điều làm cô sợ là ngọn lửa lan qua đồ đạc. Con gấu sẽ bị thiêu sống.
Ý nghĩ đó làm Tâm phát ốm. Cô vắt óc tìm một giải pháp nếu chuyện đó xảy ra thật.
Tâm chợt nhớ tới ông Phùng, người chồng cũ của Tâm (Tâm đã quên tên ông ta từ nhiều năm qua) có một khẩu súng săn. Cô lên lầu lục tung đồ đạc, cuối cùng tìm thấy nó trong tủ cũ của ông Phùng.
Tâm thấy an tâm. Vật này sẽ đem đến cho con gấu cái chết nhanh chóng, không đau đớn.
Một ngày nọ, bức tường nhà bếp bị đổ. Việc sửa chữa nó không nằm trong khả năng tháo vát của Tâm.
Thế là trong tách cà phê cho con gấu đêm đó được pha thêm thuốc ngủ. Ngày hôm sau, khi nó đang say ngủ vì thuốc, Tâm lấy khăn trải giường phủ kín cái chuồng, kê những đồ đạc không dùng sát cửa chuồng rồi mới gọi thợ xây tới sửa lại tường nhà.
Những người thợ không hề biết chỉ cách đó vài thước có một sinh vật đã từng là người, đang ngủ say.
 
***
Nhiều năm nữa trôi qua.
Mùa hè năm đó, tôi theo ông ngoại về vùng đó, tôi mới mười sáu tuổi. Cha mẹ tôi chết trong một tai nạn xe hơi cách đó hai năm. Tôi được ông ngoại nuôi nấng và yêu thương như báu vật. Tôi luôn là cái đuôi bám theo ông lẵng nhẵng khắp nơi.
Ông ngoại tôi là một người có đầu óc kinh doanh nhưng khống kém phần lãng mạn. Ông tỏ ra đặc biệt thích thú khi mua được khu vườn ở đây, một phần là ông mua được với giá hời, phần nữa quang cảnh và khí hậu ở đây phù hợp với ông.
Trong khu vườn người ta bán lại cho ông có một ngôi nhà nhỏ, tuy đã có phần xuống cấp nhưng vẫn còn sử dụng được. Mùa hè năm đó tôi đã có những ngày thật vui ở trong khu vườn đó, trong ngôi nhà nhỏ đó.
Hàng ngày, tôi theo ông ngoại đi vào rừng săn bắn hoặc đi câu cá ở những ao hồ quanh khu vực đó. Tôi thích săn bắn nhưng lại chán ngồi câu cá cùng ông, vì cần câu của tôi hình như ít khi nào có cá tới ăn mồi. Ông ngoại nói những người “nặng bóng vía” thường ít câu cá được.
Bỏ mặc ông ngoại ngồi câu một mình, tôi tung tăng chạy rong khắp mấy khu vườn xum xuê cây trái.
Khi tôi đi ngang qua khu vườn có hàng rào bao quanh của gia đình bà Tâm, lúc đó đã mục nát. Tôi đạp thử vào dây thép gai, lập tức nó bung ra. Nhanh nhẹn, tôi nhảy qua và chuồn vào khu vườn im lìm, cây cối rậm rạp.
Một ngôi nhà cổ kính có vẻ tiêu điều hiện ra trước mặt tôi. Tôi ngạc nhiên hỏi thầm:
- Có ai trong đó không nhỉ? Có lẽ không vì trông có vẻ hoang phế quá…
Tôi đi loanh quanh dò xét và bỗng thấy một cái nắp hầm bằng gỗ đã mục trên bãi cỏ sau nhà. Trong hầm tối thui. Giây lát sau, tôi mới nhận ra có ánh đèn leo lét. Thẳng ngay bên dưới có một cái gì trông giống như cái chuồng. Có cái gì thù lù trong đó.
Một cái bóng? Không, hình như nó cử động.
Thình lình, tôi thấy một đầu tóc rối bù, một cặp mắt trắng dã, thất thần, ghê rợn mà tôi chưa bao giờ trông thấy. Tim tôi như muốn rớt ra ngoài. Không thể tin được! Tôi cứng người như thể bị cặp mắt đó giữ chặt... Cái đầu bờm xờm quay đi và tôi thoát!
Tôi chạy, chạy như điên giữa ánh nắng gắt của buổi trưa hè, trên bãi cỏ của khu vườn ma quái. Nhảy qua những dây thép gai, mặc cho những gai nhọn xé rách áo quần, da thịt.
Tôi chạy chậm dần khi gần đến bờ hồ chỗ ông ngoại đang ngồi câu cá. Tôi cảm thấy xấu hổ vì tôi chẳng còn bé bỏng gì, mười sáu tuổi rồi kia đấy! Thế mà chạy như thỏ... nhưng hình ảnh đôi mắt đó hiện lại trong đầu làm tôi cứ toát mồ hôi.
Ông ngoại vẫn ngồi im không ngoái lại, chỉ buông một câu hỏi:
- Cháu đã về đấy à... ông đang không biết cháu ở đâu...
Tôi đứng im, tựa lưng vào gốc một cây cổ thụ, thở dốc:
- Ông ngoại ơi...
Cố trấn tĩnh, nhưng giọng tôi cứ run.
Ông ngoại quay lại. Mắt ông loang loáng:
- Chuyện gì vậy cháu? Sao cháu hoảng hốt vậy?
Tôi cố gắng lấy lại bình tĩnh nhưng không được:
- Ông ngọai ơi, ai sống trong ngôi nhà ở bìa rừng kia vậy?
Ông ngoại nhíu mày:
- Ở bìa rừng?... à, ông nhớ rồi, hôm trước có người nói với ông đó là nhà của cô Tâm, người phụ trách thư viện tỉnh. Có chuyện gì vậy cháu?
- Cháu vừa ở đó về, cháu thấy...
Tôi ấp úng.
- Ở đo? Xung quanh có hàng rào mà? Cháu không leo rào vào nhà người ta đấy chứ?
Ông ngoại tỏ ra ngạc nhiên.
- Nhưng hàng rào thép gai mục nát hết rồi... cháu không thấy có bảng cấm…
Sợ ông la rầy về tội đột nhập bất hợp vào nhà người khác nên tôi cố chống chế.
 - À, có lẽ bảng cấm bị mất rồi... nhưng ở đây ai cũng biết đó là khu vực cấm của gia đình cô Tâm. Nhà cô ấy sống biệt lập, không thích giao tiếp với bất kỳ ai…
Tôi gân cổ cãi bướng:
- Nhưng cháu không biết. Cháu nhìn vào cửa một nắp hầm... có cái gì trong đó giống như cái chuồng... có một người đàn ông...
Ông ngoại thu cần câu, nhìn tôi rồi nói với giọng ôn tồn:
- Cháu kể đầu đuôi cho ông nghe nào... cháu nói cái gì? Cái chuồng? Một người đàn ông?
Tôi kể lại. Ông ngoại có vẻ không tin:
- Cháu thấy thật chứ? Không tưởng tượng chứ? Ai cũng biết bà Tâm sống ở đó một mình. Cuộc đời bà ta thật bi thảm. Chồng bỏ, con trai cheẩmtên đường đào vàng. Ông không muốn những tiếng đồn không tốt về bà ta lan khắp nơi do cháu của ông bịa ra, điều đó sẽ xúc phạm ghê gớm đến bà ấy.
Tôi tức run người:
- Không, cháu nói thật mà! Ông đến mà xem...
Có lẽ lời lẽ thành khẩn của tôi làm ông ngoại ngạc nhiên.
Ông đứng dậy nói:
- Được, ông sẽ đi! Nhưng ông không thích trò này chút nào. Ông tin chắc cháu chỉ tưởng tượng.
Tôi không thèm đôi co với ông ngoại như thường lệ nữa mà nắm chặt tay ông kéo chạy băng băng về hướng khu vườn nhà bà Tâm. Đến chỗ hàng rào thép gai đã bị tôi phá hỏng khi nãy, tôi kéo ông nhảy vào và chỉ chỗ nắp hầm:
- Đó, ông nhìn đi, cháu đâu có nói dóc đâu!
Ông ngoại nhìn sững xuống phía dưới, miệng há hốc không nói nên lời. Và bỗng dưng ông lôi tôi chạy thật nhanh ra khỏi khu vườn đó.
Ra đến bên ngoài, ông ngoại vừa thở hổn hển vừa nói:
- Cháu về nhà đi, ông đi đằng này có chút chuyện!
Tôi ngơ ngác, chưa kịp hiểu chuyện gì thì ông ngoại đã di như chạy về hướng thị trấn. Tôi đành lủi thủi về nhà một mình, trong đầu vẫn còn đầy ắp những nỗi lo sợ vầ cái hình thù kỳ dị dưới căn hầm ở trong khu vườn nhà bà Tâm.
Đêm đó, cả khu vực tôi đang sống bàng hoàng kinh hãi.
Cảnh sát cưa ổ khóa cho ông Phùng được ra ngoài bầu trời tự do. Giờ đây, ông đã là một ông già mắt kém, chân run. Người phụ nữ quản lý thư viện dịu dàng kia được đưa vào một "nhà bảo vệ”. Bà không hề kêu khóc hay chống trả lại bất cứ một lời buộc tội hay một mệnh lệnh nào của nhà chức trách, lời yêu cầu duy nhất của bà là:
- Hãy chăm sóc con gấu cẩn thận giúp tôi!
- Bà yên tâm đi, việc đó đã có người lo liệu!
Người ta nói vậy và bà ngoan ngoãn đi theo họ, rời bỏ căn nhà âm u tĩnh mịch đã cất giữ của bà thật nhiều kỷ niệm đau buồn.
Ông Phùng cũng được đưa đi ngay trong buổi tối hôm đó. Mấy ngày sau, cả hai người đều được đưa đến nhà thương điên của tỉnh.
Cả thị trấn ồn ào bàn tán cho đến hai tuần sau. Báo chí địa phương đăng những hàng tít lớn: "Người chồng bị nhốt trong cũi suốt ba mươi năm". Và tôi cũng được xuất hiện trên mặt báo dưới danh nghĩa là một người hùng đã khám phá ra bí mật tội lỗi của người đàn bà độc ác.
Bên dưới hình tôi, họ viết: "Cô bé dám nhìn vào ngục tối của mụ phù thủy". Dưới hình của ông Phùng: "Ông lão bị nhốt trong cũi ba mươi năm" Và dưới hình của bà Tâm là dòng chữ: "Mụ phù thủy của thị trấn X. Mụ biến chồng mình thành một con gấu".
Đó là chuyện rắc rối cho tôi. Tự nhiên, tôi trở thành một nữ anh hùng! Nhưng khi nhìn kỹ những bức ảnh của ông Phùng và bà Tâm, tôi thấy lạ lạ. Cả hai đều có nét mặt như con nít khi bị dẫn đi.
Bà Tâm được đưa vào nhà thương điên của tỉnh. Nhưng xử trí với ông Phùng lại là cả một vấn đề. Những bác sĩ tâm thần chẳng làm gì được. Ông ta không nói năng gì.
Sau cùng, họ kết luận rằng trí não ông ta trở nên đần độn vì những năm tháng dài bị giam trong chuồng. Ông ta hoàn toàn vô hại, có thể được trông nom riêng. Nhưng thế nào là "trông nom riêng"? Người ta phản đối việc giam lỏng ông ta ở một nơi vì họ cho rằng những năm còn lại trong đời, ông ta đáng được hưởng "tự do"...
Người ta bàn bạc nhiều về việc ấy. Cuối cùng, ông Phùng được trả về nhà cũ. Một nhóm người xung phong được thành lập, thay phiên hàng ngày, từng người đến trông nom ông già, đem thức ăn đến, đem áo quần ông ta đi giặt giũ...
Nhiệm vụ của họ cũng có cả việc "nhân hóa"ông ta. Nhưng họ thất bại hoàn toàn vì ông Phùng chẳng màng nói chuyện với bất cứ ai.
Thế thì sự tự do của ông Phùng có ý nghĩa gì đối với ông ta trong những ngày cuối cùng của cuộc đời ông ấy?
Cũng lại tôi khám phá ra lần nữa.
Bất hạnh thay cho tôi!
Một đêm tháng bảy nóng bức, sáu tuần sau khi ông ta được thả về nhà cũ, tôi trở lại nơi đó, quyết định ghé qua nhà để coi ông ta ra sao. Khi tôi đến thì căn nhà tối đen trừ ánh đèn yếu ớt hắt lên từ dưới tầng hầm.
Tôi nhớ lại những lời đồn là căn nhà không bị xáo trộn một thứ gì, không một đồ đạc gì được đụng đến. Những người tình nguyện đến chăm sóc cho ông nói rằng ngay cả giường ngủ cũng không có ai nằm. Phải chăng sau những năm tháng ấy, ông Phùng chỉ có thể ngủ ngon giấc trong cái chuồng cũ của ông ta? Có phải ông ta trở lại đó hàng đêm?
Rón rén, tôi bò đến bên nắp hầm. Qua ánh sáng yếu ớt, tôi nhận ra cái chuồng. Kế bên cửa chuồng là cái ghế  xích đu mà bà Tâm vẫn ngồi.
Ngay sau đó, tôi nhận ra cái bóng bên cạnh là ông Phùng. Ông ta ngồi trên sàn, cằm gác lên tay ghế.
Tôi quá đỗi ngạc nhiên. Có một hình ảnh mơ hồ lãng đãng trong đầu, tôi không nhớ ra, bất chợt nó hiện rõ. Trong phòng ngủ của ông nội tôi có một bức tranh tựa đề "Kẻ than thở của người chăn cừu". Đó là một bức tranh vẽ hình một con chó u sầu ủ ê nằm cạnh quan tài của chủ nó vừa chết, một người chăn cừu.
Sự liên tưởng hình ảnh đó với cảnh tượng dưới kia làm đau nhói tim tôi. Tôi không thể nhìn thêm nữa. Nhưng khi tôi sắp đứng dậy thì cái bóng khốn khổ kia cử động. Cái đầu rối bù ngước lên, miệng há ra. Một tiếng gào ma quái, rùng rợn.
Tôi đưa tay bịt chặt tai lại. Nhưng tôi vẫn nghe. Nó khóc, khóc lớn hơn. Tiếng khóc xé ruột, đau buốt tim gan, tiếng khóc khao khát, tiếng khóc ước ao của một con gấu đã được thuần hóa đòi lại người chủ dịu hiền của nó.
Tôi bỏ chạy.
Khi thoát khỏi khu vườn ma quái đó, tôi chạy như kẻ mất hồn dưới ánh trăng. Lần này tôi cũng bị rượt đuổi bởi sự khủng khiếp. Nhưng sự khủng khiếp lần này do chính tôi gây ra và tôi biết mình không bao giờ thoát được.
Sáng hôm sau, người ta tìm thấy ông Phùng nằm chết trong chuồng. Họ nói do bệnh tim.
Sau đó tôi thường thấy những cơn ác mộng trong giấc ngủ. Có lẽ tôi la hét nhiều, nói nhảm nhiều. Vì thế, một sáng nọ, lúc cùng ngồi ăn điểm tâm, ông ngoại bảo tôi:
- Theo ông thì cháu không nên có mặc cảm tội lỗi gì về việc ấy. Nó phải như thế thôi.
Tôi gật đầu:
- Dạ, cháu hiểu...
Nhưng tôi vẫn sống như kẻ trong mơ. Ông ngoại lo lắng cho tôi hơn.
- Đã đến lúc phải xóa tan cái bóng đen trong đầu cháu rồi đấy. Ông sẽ đưa cháu đến thăm bà Tâm.
Tôi đi một cách miễn cưỡng. Nhưng cuộc viếng thăm lại hóa tốt. Bà Tâm vui thích khi có bạn, bà trò chuyện thật vui vẻ. Bà biết con gấu của bà đã chết.
- Tôi buồn lắm, nhưng dù sao nó cũng đã quá già rồi, chết cũng được rồi!
Rồi thật bất ngờ, bà Tâm nói lớn:
- Nếu nó còn sống và còn ốm lần nữa, tôi sẽ cho nó ngủ mãi mãi.
Ông ngoại liếc nhìn tôi đầy ngụ ý. Rõ ràng, tôi chẳng cần thêm chứng cớ gì để biện minh cho việc tôi tố giác bà Tâm là sai về mặt nhân đạo.
Theo ông ngoại thì cuộc viếng thăm đó thật tốt đẹp. Nhưng theo tôi, ở măt khác nó ngược lại hoàn toàn vì bà Tâm là người tử tế, tốt bụng. Bà nói trông thấy tôi, bà nhớ đến con trai bà. Bà mong tôi đến thăm bà thường xuyên. Thật ngạc nhiên, tôi nhận lời sẽ làm vui lòng bà.
Tôi giữ lời hứa.
Phải đó là cách xoa dịu mặc cảm tội lỗi của tôi? Vì tôi đã phá vỡ cuộc sống thích hợp của vợ chồng họ? Tôi không biết, nhưng tôi biết một điều là trong những cuộc trò chuyện với bà ấy, tôi đã hiểu tất cả những nguyên nhân dẫn đến sự cầm tù ông Phùng.
Tôi nói với ông ngoại:
- Bà ấy không hẳn là điên đâu, không hoàn toàn điên, trừ việc con gấu... chính ông ấy đã gây nên chứng điên cho bà Tâm...
Ông ngoại nhìn tôi thở dài:
- Vậy là cái bóng đen đó vẫn còn lởn vởn trong đầu cháu!
Bà Tâm được đưa về một nhà an dưỡng, không phải ở nhà thương điên nữa. Thà vậy đi, tôi thấy lòng mình nhẹ nhõm.
Tôi vẫn đến thăm bà ấy nhưng thưa dần. Rồi tôi tốt nghiệp đại học, đi làm, dọn đi xa. Và từ lúc ông ngoại mất, khu vườn ở đó được bán cho người khác thì tôi chưa lần nào trở lại nơi đó.
Những cuộc thăm viếng giờ chỉ còn là những thư từ, những thiệp mừng năm mới và bây giờ...
Tôi nhìn lại bức thư trong tay.
Vậy là từ đây chẳng còn viết thư cho bà ấy nữa. Chẳng còn ân hận nữa. Bà Tâm đã trả xong món nợ của bà cho xã hội và xã hội đã bằng lòng. Về phần tôi, riêng tôi, tôi ao ước được sống lại những ngày hè năm đó, được sống lại vào đúng cái lúc tôi nhìn vào cặp mắt của ông Phùng.
Nếu được như vậy, nhất định lần này, tôi sẽ nhìn vào cặp mắt gần lòa của ông ấy và sẽ lặng lẽ bỏ đi.
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.08.2009 04:32:09 bởi Mars >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 09.08.2009 22:00:35
                             CHUYẾN XE NHỚ ĐỜI

 
Quốc chán nản buông mình xuống võng, vừa nằm đong đưa vừa nghĩ tới cái viễn cảnh chiều nay về nhà với hai tay không, cô vợ trẻ sẽ lại cằn nhằn đến khuya lơ khuya lắc.
Không biết cái số của Quốc ra sao nữa, bạn bè làm gì cũng phất lên hoặc chí ít cũng đủ nuôi vợ nuôi con, còn Quốc thì ngược lại, anh rớ vào chuyện gì là thất bại chuyện đó. Đôi lúc Quốc đâm chán, muốn buông xuôi tất cả.
Nhưng làm sao Quốc có thể buông xuôi được chứ? Trong khi bên cạnh là Phương - cô vợ trẻ hơn Quốc đến mười lăm tuổi, thích đua đòi ăn sang mặc đẹp, thích nũng nịu dỗi hờn buộc Quốc cứ phải nai lưng ra để cung phụng đầy đủ những nhu cầu mà cô ấy đưa ra.
Lúc chưa gặp Phương, cuộc sống của Quốc tuy cũng chẳng dư giả gì nhưng không đến nỗi túng bấn. Một thân một mình, tay làm hàm nhai, Quốc chưa bao giờ lo toan đến chuyện dành dụm phòng khi đau ốm. Quốc làm nhiều nghề, nhưng nghề nào cũng làng nhàng, làm một thời gian lại nhảy sang nghề khác.
Quốc gặp và để ý tới Phương trong một tiệc cưới của người bạn. Tưởng đâu chỉ là tình yêu đơn phương dành cho cô gái trẻ trung xinh đẹp, nhưng Quốc thật không ngờ Phương đã nhận lời làm vợ anh mà không đặt ra bất kỳ điều kiện nào. Chính vì lẽ đó, Quốc càng yêu thương và muốn chìu chuộng Phương nhiều hơn nữa.
Từ khi có vợ, Quốc bắt đầu nghĩ tới việc vun vén cho cuộc sống gia đình. Mất mấy ngày suy nghĩ đắn đo, Quốc quyết định nhận lời của người anh. Người anh đó mua một chiếc xe du lịch mười sáu chỗ để cho Quốc chạy, mỗi tháng trả cho anh vài ba triệu gọi là tiền thuê xe.
Nhưng cái số Quốc là số con rệp, các chủ xe khác đều đặn có hợp đồng, còn Quốc thì chỉ lai rai, mà chủ yếu là do các bạn bè sang mối lại giúp.
Mấy ngày nay Quốc chỉ nằm không. Buồn, chán, Quốc lấy xe gắn máy chạy một vòng để tìm bạn bè, thử xem ai có cần hỗ trợ, nhưng rồi không được gì, Quốc đành quay về nhà nằm dài ra võng mà ngán ngẫm cho mình.
- Reng… Reng… Reng!...
Chiếc điện thoại trong túi Quốc đổ chuông làm Quốc giật nảy mình. Anh hấp tấp lấy máy ra đưa lên nghe với vẻ hồi hộp:
- A lô!
Tiếng người bên kia đầu dây ngập ngừng:
- Xin lỗi, có phải anh là anh Quốc, tài xế?
Quốc đáp:
- Đúng rồi, tôi, Quốc đây! Có gì không anh?
- Bây giờ anh có thể đưa tôi về Quảng Ngãi được không anh?
Người bên kia hỏi.
Quốc suy nghĩ thật nhanh rồi trả lời:
- Được chứ! Anh ở đâu?
Người bên kia im lặng một chút rồi lên tiếng:
- Tôi sẽ đứng chờ anh trước cổng nghĩa trang Bình Hưng Hòa. Khoảng bao lâu nữa anh có mặt ở đó được?
- Anh chờ tôi ba mươi phút nữa nhé?
Quốc nói nhanh.
- Được! Tôi sẽ chờ anh.
Người bên kia nói xong cúp máy.
Quốc vội đứng lên gọi ngay cho Phương:
- A lô, em đang ở đâu thế?
Giọng Phương nũng nịu:
- Em đang ở tiệm làm tóc. Lát nữa anh tới đón em về nhe?
Quốc nhăn mặt:
- Không được rồi em ơi, bây giờ anh chở khách đi Quảng Ngãi. Anh báo cho em biết, lát em tự gọi tắc-xi về nhé? Ở nhà ngoan, anh đi vài hôm anh về.
- Đi gấp vậy sao anh? Em chưa kịp chuẩn bị gì cho anh hết!
Phương giật mình.
Quốc cười hài lòng:
- Không sao đâu em, anh là đàn ông mà, đâu cần chuẩn bị gì nhiều, một bộ đồ nhét vô túi xách là xong thôi mà! Thôi, anh đi nha, em ở nhà ngoan đó!
- Dạ, anh đi bình an.
Quốc mát lòng mát dạ với những lời lẽ ngọt ngào của Phương. Anh tắt điện thoại, vơ vội bộ quần áo rồi lấy xe lên đường.
Gần tới chỗ hẹn, Quốc cho xe chạy chậm lại, đưa mắt nhìn ra đường tìm kiếm. Đúng như lời người khách đã hẹn, gần cổng nghĩa trang, Quốc trông thấy một người đàn ông trạc ba mươi tuổi, ăn mặc chỉnh tề đang đứng đó.
Cho xe dừng hẳn lại, Quốc thò đầu ra hỏi:
- Xin lỗi, có phải lúc nãy anh đã gọi điện kêu xe đi Quảng Ngãi?
Người đàn ông gật đầu:
- Dạ phải, anh  thật đúng hẹn!
Quốc vui vẻ bước xuống xe, định bàn tính giá cả, nhưng người đàn ông hình như không quan tâm tới chuyện đó, anh ta cúi xuống nhấc một chiếc hộp giấy lên và nói:
- Anh chở giúp tôi về Quảng Ngãi, tiền bạc không thành vấn đề, anh tính người khác bao nhiêu thì tôi xin trả đúng như vậy.
Quốc mừng rơn trong bụng vì gặp phải người rộng rãi, dễ tính. Anh vội vã mở cửa xe cho khách lên rồi nhanh chóng nổ máy.
Xe chạy được một đoạn, Quốc mở lời:
- Anh đi một mình sao không đi xe tốc hành mà bao cả chuyến thế này tốn tiền?
Người khách ôn tồn nói:
- Tôi không được khỏe nên không chịu được sự ồn ào. Thà tốn chút ít mà thoải mái, tự do hơn anh à!
Chợt nhớ ra, Quốc hỏi:
- Ủa, mà nãy giờ tôi quên hỏi, sao anh biết tôi mà gọi vậy?
Người đàn ông hơi mỉm cười:
- Có người bạn cho tôi số điện thoại của anh.
Quốc còn định hỏi nhiều nữa nhưng nhận thấy người đàn ông có vẻ mệt mỏi nên thôi. Anh vừa chăm chú lái xe vừa thỉnh thoảng quan sát người khách kỳ lạ đang ngồi bên cạnh. Thấy anh ta cứ ôm khư khư cái hộp nhỏ trong lòng, Quốc nói:
- Anh cứ để xuống chân, không đổ bể gì đâu mà sợ!
Người đàn ông cười:
- Không sao, tôi ôm được mà!
Quốc nghĩ, chắc hẳn trong cái hộp đó chứa vật gì quý giá lắm, chẳng hạn như đồ cổ, nên anh ta mới cẩn thận thế kia.
Khi xe ra khỏi thành phố thì trời cũng dần tắt nắng, không còn cái ngột ngạt khó chịu nên Quốc đâm hứng chí, anh hát vang một bài tình ca mà Phương rất thích:
- Về thăm thành phố náo nức mùa xuân, ba lô trên lưng mang theo nhánh lan rừng. Có người chiến sĩ áo vương bụi đường xa đi giữa dòng người qua phố phường đông vui. Nhánh lan rừng đã nở những cánh hoa trắng xinh, lung linh trong ánh nắng, hoa tươi như nụ cười trên đôi môi của anh…
Người khách ngồi bên mắt lim dim, gật gù theo từng câu hát của Quốc. Lát sau anh ta nhìn Quốc nói:
- Anh Quốc hát hay quá!
Quốc cười:
- Tôi chỉ hát cho vui thôi, còn sợ làm phiền anh nữa đó!
- Không sao, tôi thích nghe anh hát lắm! À, tên tôi là Dũng. Anh cứ gọi tôi bằng tên cũng được.
Người khách nói.
- Quê anh Dũng ở Quảng Ngãi à?
Bất chợt Quốc hỏi.
Dũng cúi mặt nhìn vào chiếc hộp trong tay, trả lời thật nhỏ:
- Không, quê tôi ở Cần Thơ, Quảng Ngãi là nhà của người quen, tôi ra đó có việc cần.
- Hèn gì tôi nghe giọng anh Dũng không phải người miền ngoài.
Quốc vui vẻ.
Hai người trao đổi thêm vài câu nữa rồi lại im lặng. Quốc hát thêm mấy bài thấm mệt nên thôi không hát nữa. Dũng có lẽ đã lơ mơ ngủ.
Khi xe vừa tới địa phận Phan Thiết, bất ngờ Dũng đề nghị:
- Anh Dũng ơi, mình ghé vào khách sạn ngủ một đêm đi, tự nhiên tôi cảm thấy mệt quá!
Theo sự hướng dẫn của Dũng, Quốc cho xe vào một khách sạn nhỏ ven đường. Có lẽ tại mùa này không phải là mùa du lịch cho nên khách sạn vắng hoe.
Dũng trao cho Quốc cái hộp giấy và nói:
- Anh mang cái hộp này vào phòng, nhớ để nơi sạch sẽ giùm tôi nhé! Tôi đi đằng này có tí việc, anh cứ thuê phòng rồi vào nghỉ, mọi chi phí tôi lo, không có gì phải ngại.
Quốc ngạc nhiên:
- Anh cần đi đâu thì để tôi chở anh đi?
Dũng khoát tay:
- Không cần! Tôi đi một loáng là về ngay, nhưng anh đừng chờ tôi nhé, tôi sẽ ngủ phòng riêng, tôi có tật khó ngủ…
Quốc vẫn chưa hết thắc mắc nhưng anh biết không nên hỏi nhiều về những chuyện riêng tư của người khác nên gật đầu rồi ôm cái hộp đi vào khách sạn.
- Cô bé ơi, còn phòng không?
Cô tiếp tân đang ngồi ngủ gà ngủ gật ở sau quầy, nghe tiếng Quốc giật mình hốt hoảng:
- Dạ… dạ còn! Anh cần phòng mấy người?
Quốc cười:
- Tôi đi một mình nên chỉ cần phòng đơn, mà nếu ở đây có ai cho thuê người ngủ cùng thì cô làm ơn thuê giúp tôi rồi lấy cho tôi phòng đôi nhé?
Cô tiếp tân đỏ mặt, mỉm cười:
- Anh vui tính quá!
Nói xong, cô lục tìm đưa cho Quốc chiếc chìa khóa rồi hướng dẫn cho Quốc về phòng.
Khi cánh cửa phòng đã khép lại, Quốc ngó quanh rồi nhanh chóng đem cái hộp giấy để lên bàn.
Quốc vào phòng tắm rửa sơ mặt mũi chân tay rồi tắt đèn nằm lăn ra giường cố nhắm mắt ngủ.
- Ngày mai chạy đường dài, phải ráng ngủ lấy sức.
Quốc nhủ thầm. Và không lâu sau anh đã chìm vào giấc ngủ.
Nhưng bất chợt, Quốc giật mình thức giấc khi nghe có tiếng nước chảy trong phòng tắm, giống như có ai đang tắm trong đó. Mở mắt ra, định thần lại nghe cho rõ, bất giác Quốc thoáng rùng mình. Bởi vì nếu là Dũng có về ở đây thì cũng phải gọi cửa, chứ sao lại tự nhiên có người xuất hiện trong này như vậy?
Nhè nhẹ ngồi lên, Quốc rón rén đi lần tới cửa phòng tắm, rõ ràng có người đang tắm trong đó. Mà lạ chưa, chắc hẳn đó là một cô gái vì Quốc nghe có tiếng hát nho nhỏ vọng ra hoà cùng với tiếng nước xối lên người.
- Chẳng lẽ lúc nãy mình nói chơi mà cô tiếp tân kia lại tưởng là thật nên đã thuê người vào ngủ cùng mình?
Một ý nghĩ vụt qua tâm trí Quốc. Tuy điều đó không thuyết phục lắm nhưng Quốc vẫn cố tin.
Vậy là Quốc đi trở lại giường, ngồi xuống chờ đợi.
Thời gian trôi qua thật chậm. Căn phòng mờ mờ với ánh đèn ngủ, Quốc ngồi lặng lẽ bên mép giường chốc chốc lại liếc nhìn vào mặt đồng hồ dạ quang đeo trên cổ tay.
Tiếng nước trong nhà tắm đã ngưng từ lâu mà vẫn không thấy ai bước ra. Quốc cố nán đợi thêm một lúc nữa, cho tới khi không còn chịu nổi nữa anh mới đứng lên đi tới cửa phòng tắm. Bên trong im lặng, không hề có một tiếng động nhỏ nào.
Quốc tằng hắng một tiếng rồi hỏi:
- Xin lỗi, có ai trong đó không?
Vẫn không có tiếng trả lời. Quốc do dự một chút rồi xô mạnh cánh cửa, đồng thời anh với tay bật công tắc cho đèn cháy sáng.
Trong phòng tắm không có ai, nhưng chắc chắn mới rồi có người vừa tắm xong, vì nước vẫn còn đọng trên mặt gương và bốn vách tường trong đó.
Quốc hoảng sợ lùi ra ngoài, bật sáng tất cả những ngọn đèn có trong phòng, mắt ngó dáo dác khắp phòng vẫn không thấy gì lạ, tất cả vẫn vẹn nguyên, cái hộp giấy cũng vẫn nằm đúng vị trí mà Quốc đặt lúc nãy.
- Hay tại mình mơ ngủ?
Quốc tự hỏi rồi lại tự trả lời:
- Không! Chắc chắn là không rồi! Mình đã nghe rõ ràng tiếng dội nước, tiếng hát, và bây giờ nước vẫn còn đọng trong đó thì sao gọi là mơ được? Vậy thì ai? Ai đã vào tắm trong này?
Quốc đứng phắt lên chạy ra xem xét lại cửa phòng thì cửa phòng vẫn đóng kín. Quốc trở vào, ngồi phịch xuống giường ôm đầu khổ sở. Lát sau anh nằm xuống nhưng không tài nào ngủ được vì phòng sáng trưng mà Quốc lại không quen ngủ dưới ánh sáng như vậy. Lăn qua lộn lại một hồi, Quốc quyết định đứng lên tắt bớt đèn.
Nằm nhắm mắt trên giường, nhưng hai tai Quốc dỏng lên để nghe ngóng. Hơn mười hai giờ đêm rồi, tất cả im vắng, Quốc nằm một lúc rồi ngủ quên luôn.
Không biết ngủ được bao lâu, tiếng lịch kịch trong phòng lại đánh thức Quốc dậy. Anh mở mắt nhưng không ngồi dậy mà cố nín thở để xác định tiếng động đó phát ra từ đâu. Một lát sau, Quốc quả quyết những tiếng lịch kịch đó phát ra từ chiếc hộp giấy của Dũng.
- Chết cha, chắc chuột chui vô làm gì trong đó!
Quốc giật mình ngồi dậy, vì sợ lũ chuột làm hỏng món đồ quý giá của Dũng. Anh ôm chiếc hộp lên thì tiếng lịch kịch không còn nữa. Lắc nhè nhẹ chiếc hộp vẫn không thấy có gì, nhưng Quốc vừa đặt xuống thì tiếng động đó lại vang lên. Hai ba lần liên tiếp như vậy khiến Quốc nổi cáu. Anh quyết tâm mở cái hộp ra để xem có gì trong đó.
Chiếc hộp không được niêm phong nên dễ dàng mở nắp. Khi nắm hộp vừa bật ra, Quốc thấy bên trong là một cái hũ nhỏ.
- Đúng là cha này chơi đồ cổ!
Quốc mỉm cười vì thấy mình đã đoán đúng. Anh định đóng nắp lại nhưng chợt tò mò muốn biết đồ cổ có gì lạ mà lại đắt tiền đến thế. Quốc nhẹ nhàng lấy cái hũ ra khỏi hộp, bất giác anh giật mình kinh hãi, suýt chút nữa là vứt cái hũ ra xa. Bởi vì… Quốc vừa phát hiện cái hũ anh đang cầm trên tay không phải là món đồ cổ quý giá mà là một hũ đựng hài cốt!
Run rẩy, Quốc vội vã đặt cái hũ trở vào hộp rồi đậy nắp lại như cũ. Khi mọi việc xong xuôi, anh trở lại giường nhưng không sao ngủ được. Mọi ý nghĩ của Quốc lúc này tập trung vào người khách lạ và cái hũ hài cốt nằm kia. Bao nhiêu câu hỏi đặt ra và Quốc đã cố tìm câu trả lời hợp lý nhất để tự trấn an mình.
Nằm một lúc, Quốc lại nghe có tiếng xối nước trong phòng tắm. Lúc này Quốc đã lấy lại bình tĩnh và sự tức giận giúp anh phần nào trấn áp được nỗi sợ hãi. Quốc đứng phắt dậy đi nhanh tới đẩy mạnh cửa phòng tắm và bật sáng ngọn đèn trong đó. Trước mắt Quốc là một người con gái đang mở to mắt nhìn anh.
Quốc sững sờ, chưa kịp kêu lên tiếng nào thì người con gái đó vụt biến mất, trong phòng tắm không còn lại dấu vết gì của sự hiện diện vừa rồi mà Quốc đã tận mắt chứng kiến.
Quốc cứ đứng ngơ ngẩn trước cửa phòng tắm, gương mặt cô gái lúc nãy vẫn còn in rõ rệt trong đầu Quốc.
- Trời ơi… có lẽ… cái hũ đó…
Quốc sợ sệt đến bên bàn hai tay đỡ cái hộp đi nhanh vào phòng tắm, anh đặt nó lên bệ rửa mặt rồi vội bước ra ngoài đóng kín cửa phòng tắm lại.
Từ lúc đó Quốc cứ nơm nớp lo sợ nên không tài nào ngủ yên giấc được mà chỉ chập chờn lúc thức lúc ngủ.
Gần sáng, có tiếng gõ cửa phòng, Quốc vội nhổm dậy chạy ra mở cửa.
- Anh ngủ ngon không?
Dũng tươi cười khi nhìn thấy Quốc.
Quốc nhăn nhó lôi tuột Dũng vào phòng:
- Trời ơi, ông báo hại tui quá! Sao không nói trước cái hộp đó là gì… Làm cho tui một phen kinh hãi…
Dũng lo lắng:
- Anh để cái hộp của tôi đâu rồi?
Quốc chỉ tay vào phòng tắm:
- Trong đó!
Dũng giật bắn người chạy vội vào ôm cái hộp ra, rên rỉ:
- Trời ơi, sao anh lại để trong đó…
Quốc nhăn mặt:
- Nó khiến tui cả đêm không ngủ được… Đó là hài cốt, đúng không?
Dũng ôm khư khư cái hộp vào lòng, buồn bã nói:
- Đúng, đó là hài cốt vợ sắp cưới của tôi…
Quốc tò mò:
- Vợ sắp cưới của anh? Rồi… bây giờ anh đem đi đâu?
Dũng ngước nhìn Quốc bằng ánh mắt đau đớn:
- Quê cô ấy ở Quảng Ngãi. Chỉ vì yêu thương tôi mà cô đã phải lìa bỏ gia đình, cha mẹ để đi theo tôi. Nhưng không may… số phần cô ấy ngắn ngủi quá! Tôi… tôi phải có bổn phận đưa cô ấy về lại quê hương…
Mặc dù những lời kể của Dũng rời rạc, nhưng Quốc cũng hiểu được phần nào hoàn cảnh đau lòng của người khách đáng thương này. Anh ngồi nhích lại gần Dũng lên tiếng an ủi:
- Con người có số, xin anh đừng quá đau buồn…
Dũng cúi mặt một lúc rồi ngẩng lên nói với Quốc:
- Thôi, anh chuẩn bị đi, mình lên đường!
Quốc lưỡng lự nhìn Dũng rồi đứng lên đi thay áo quần. Tự nhiên lúc này, Quốc không còn thấy sợ cái hũ hài cốt kia nữa.
Cả hai lên đường vào sáng sớm. Suốt trên quãng đường dài, Dũng luôn tỏ vẻ buồn rầu u uất cho nên Quốc cũng không dám nói chuyện hay hỏi han điều gì.
Có một điều lạ, tới những nơi dừng chân để ăn uống, không bao giờ Dũng chịu ngồi cùng với Quốc mà anh luôn thoái thác để Quốc ăn một mình. Quốc vô cùng thắc mắc, không hiểu tại sao Dũng có vẻ như không muốn giao tiếp với bất cứ người nào khác, trừ Quốc.
Tối hôm đó xe ra tới Quảng Ngãi. Dũng tỏ vẻ bồn chồn ghê lắm. Theo sự chỉ dẫn của anh, Quốc cho xe dừng trước cổng một căn nhà khang trang ở ngoại vi thành phố.
Xe vừa ngừng, Dũng ôm cái hộp trao cho Quốc và nói:
- Anh giúp tôi mang cái hộp này vào nhà…
Quốc ngạc nhiên:
- Sao anh không mang vào lại bảo tôi?
Dũng buồn rầu:
- Mẹ cô ấy không ưa tôi, bà cho rằng chính tôi là nguyên nhân cái chết của cô ấy. Cho nên… Anh làm ơn giúp tôi đi…
Quốc gật gù:
- Tôi hiểu rồi! Nhưng… tôi phải nói cái này do ai gởi đây?
- Anh chỉ cần nói có người nhờ chuyển cho gia đình là được rồi!
Dũng nói nhanh.
Quốc xuống xe, ôm cái hộp đi thẳng vào nhà.
Cửa nhà đóng kín nhưng bên trong vẫn sáng đèn. Quốc đưa tay lên rụt rè gõ cửa.
Không lâu sau có tiếng dép lê sền sệt rồi tiếng mở cửa. Một người phụ nữ có mái tóc bạc trắng ló đầu ra và hỏi:
- Ai gọi cửa giờ này?
- Dạ… tôi! Xin lỗi, vì có người nhờ chuyển cho bà vật này…
Quốc lúng túng nói.
Người đàn bà không có vẻ gì là ngạc nhiên, bà ta mở rộng cánh cửa rồi đứng sang một bên:
- À… Vậy thì nhờ cậu mang vào đây giúp tôi!
Quốc đi vào nhà, người đàn bà đóng cửa lại rồi dẫn Quốc đi lên lầu. Tới một căn phòng, bà dừng lại mở cửa:
- Nó đã báo cho tôi biết trước, tôi đã chờ suốt ngày nay. Thật tội nghiệp cho con gái tôi… Cậu làm ơn đặt lên đây giúp tôi với!
Người đàn bà vừa nói vừa chỉ vào chiếc bàn kê ở giữa phòng. Quốc dè dặt bước vào và đặt cái hộp lên bàn để mở ra lấy hũ hài cốt.
- Cậu để giúp ở đây!
Người đàn bà chỉ chổ cho Quốc để. Khi anh đã đặt cái hũ ngay ngắn đúng vị trí, vừa định quay ra chào chủ nhà để ra về thì mắt Quốc nhìn thấy hai tấm ảnh đặt cạnh nhau ở phía trên: một là ảnh của cô gái mà Quốc đã nhìn thấy trong phòng tắm tối hôm qua, còn một chính là Dũng.
- Đây là ảnh của con gái bà?
Không nén được tò mò, Quốc hỏi.
Người đàn bà khe khẽ gật đầu:
- Đúng rồi! Nó là đứa con gái duy nhất của tôi. Nhưng nó đã bỏ tôi để đi theo tiếng gọi của ái tình, nó khiến tôi đau khổ tột cùng…
- Xin phép bà cho tôi được tò mò một chút, cô nhà mất vì lý do gì thế ạ?
Quốc hỏi.
Người đàn bà chớp mắt để ngăn xúc động, bà nói:
- Nó bị tai nạn giao thông. Cả nó và người yêu của nó đều qua đời… Lúc nó còn sống, tôi đã không chấp nhận cho hai đứa đến với nhau, nhưng bây giờ tôi đành phải để hai đứa được toại nguyện…
Hai tai Quốc lùng bùng, anh run rẩy hỏi:
- Bà… bà nói sao? Cả… cả người này cũng mất?
Vừa hỏi, Quốc vừa chỉ tay vào tấm hình Dũng.
Người đàn bà gật đầu:
- Ừ, cả hai đứa nó…
Quốc giật bắn người lùi nhanh ra ngoài rồi chạy thục mạng xuống nhà, phóng ra sân đứng nhìn quanh quất. Dũng không có trên xe!
Lau vội mồ hôi trán, Quốc trèo lên xe nổ máy phóng nhanh ra đường. Lúc bẻ tay lái để quành xe ra, bất ngờ Quốc nhìn lên ban công và thấy rõ ràng Dũng đứng cùng người con gái tối qua trên đó, cả hai đang vẫy tay chào Quốc.
Quốc hoảng hốt cho xe chạy thật nhanh, anh chỉ muốn thoát khỏi nơi ma quái này càng nhanh càng tốt.
Quốc không nhớ mình đã mất bao nhiêu thời gian mới về tới được nhà. Phương đón anh bằng nụ hôn nồng nàng và những cử chỉ yêu thương, ân cần nhất.
Lấy từ trong túi áo Quốc ra một lượng vàng, Phương tròn mắt:
- Anh! Anh ơi, ở đâu ra thế này?
Quốc kinh hãi nhìn mấy miếng vàng lá trên bàn tay xinh xắn của Phương, anh lắp bắp:
- Coi chừng… đồ hàng mã…
Phương cười giòn tan:
- Trời đất! Bộ anh hết chuyện để đùa rồi sao?
Khó khăn lắm Quốc mới thuật lại hết câu chuyện cho vợ nghe. Phương cầm mấy miếng vàng lên săm soi một lúc rồi nói:
- Em thấy đây đúng là vàng thật anh ơi! Chắc họ trả công cho anh bằng vàng thật đó, không phải đồ hàng mã đâu… Hay là… anh để em mang ra tiệm thử cho chắc ăn nhé?
Phương chạy đi một lát quay về hớn hở:
- Anh ơi, là thật rồi!
- Là thật à?
Quốc hỏi như người ngớ ngẩn.
Phương lo lắng nhìn chồng, nhưng cô hiểu Quốc vừa trải qua một sự hãi hùng nên đầu óc đâu dễ gì bình thường lại được. Và Phương đã rất dịu dàng dùng mọi lý lẽ để thuyết phục Quốc rằng ma cũng như người, không có gì phải sợ, nhất là đối với hai hồn ma chung thuỷ kia…
Mấy ngày sau Quốc đa hoàn hồn trở lại. Anh bảo vợ nấu một mâm cơm cúng cho vợ chồng Dũng và cảm ơn hai người đã cho anh một số tiền quá lớn. Nhưng từ đó, Quốc quyết định trả xe cho người anh, từ bỏ luôn nghề tài xế để trở lại làm một công nhân bình thường ở một nhà máy gần nhà.
Nhờ có số vốn của Dũng cho, Phương mở một cửa hàng nho nhỏ cũng đủ tiền chợ mỗi ngày. Cuộc sống của vợ chồng Quốc kể từ ngày đó đã có phần ổn định hơn.
Thỉnh thoảng nghe ai nói tới chuyện ma quỷ, Phương thường cười cười:
- Ma quỷ cũng có tình nghĩa giống như con người thôi. Ai nói hết thời mới gặp ma là sai, có khi nhờ gặp ma rồi được ma giúp đỡ mà thời vận con người ta đến cũng không chừng…
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.08.2009 04:32:56 bởi Mars >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 09.08.2009 22:02:58
                                   GIẤC MƠ KỲ LẠ

 
Liên tiếp mấy đêm liền tôi mơ thấy cùng một giấc mơ hết sức kỳ lạ! Giấc mơ đó cứ lặp đi lặp lại mãi trong giấc ngủ khiến tôi vô cùng lo sợ. Và cứ tối đến là tôi lại hồi hộp, không muốn đặt lưng xuống giường.
Có lẽ thái độ khác thường của tôi đã làm cho mẹ chú ý. Bà hỏi:
- Sao tối  nào con cũng lục đục hoài mà không chịu ngủ vậy? Thường ngày con ngủ sớm lắm kia mà?
- Dạ… con…
Tôi ấp úng.
Ban đầu tôi định giấu kín không nói cho ai biết, nhưng rồi mấy ngày nay tôi quá sợ hãi, thần kinh tôi đã căng thẳng quá mức rồi, nếu không chia sẻ cùng ai đó để giải tỏa phần nào chắc có khi tôi điên lên mất.
Nhưng ai là người mà tôi có thể chia sẻ được điều này ngoại trừ mẹ tôi? Phải, chỉ có thể chia sẻ với mẹ mới không sợ bị cười chê hay đánh giá này nọ không hay về nhân cách của mình.
Vì nghĩ vậy nên tôi quyết định kể cho mẹ nghe tất cả.
- Mẹ ơi, mẹ có tin vào chuyện mê tín dị đoan không hả mẹ?
Tôi ngồi xuống cạnh mẹ dò hỏi.
Mẹ tôi ngạc nhiên:
- Cái con này, khi không lại hỏi mẹ câu đó? Hầu như đa số phụ nữ đều có một chút gì đó tin vào những điều như thế con ạ! Có chuyện gì phải không con?
Tôi nhìn mẹ, thở dài:
- Con không hiểu tại sao đã bốn đêm nay con đều mơ thấy cùng một chuyện… mà chuyện đó kỳ lạ lắm mẹ ơi…
Mẹ nhìn tôi lo lắng:
- Chuyện như thế nào, con nói cho mẹ nghe đi!
Tôi cố gắng đè nén sự xấu hổ:
- Con… không biết sao con lại thấy có một người đàn ông chui vào mùng con và… và làm chuyện đó với con… Khi giật mình tỉnh dậy con vẫn còn có những cảm giác y như thật!
Mẹ tôi giật mình:
- Con nói sao? Con là con gái mới lớn mà nằm mơ thấy chuyện đó? Con biết gì về chuyện đó?
Tôi vừa xấu hổ vừa khó chịu đến nỗi muốn trào nước mắt.
- Con không biết, tự nhiên con nằm mơ thấy vậy nên cũng ngại không dám kể cho ai biết kể cả mẹ. Nhưng vì cứ liên tiếp mơ giống nhau nên con sợ quá…
Mẹ tôi có vẻ căng thẳng:
- Nhưng con phải nói thật cho mẹ biết. Trước đây con đã biết gì về chuyện đó chưa? Con có coi qua phim ảnh, sách báo đồi trụy gì hay không? Con phải nói thật thì mẹ mới biết đường mà lo liệu…
Tôi run run:
- Dạ chưa, con chưa từng biết qua chuyện đó dù là phim ảnh hay sách báo… Nhưng con không hiểu sao tự nhiên lại có chuyện đó trong mơ…
Mẹ tôi bắt đầu hốt hoảng:
- Như vậy là không được rồi! Chắc chắn là có điều gì đây…
Suy nghĩ một lát, mẹ bảo:
- Tối nay mẹ sẽ ngủ với con!
Tối đó, dù nằm cạnh bên mẹ nhưng lòng tôi vẫn nơm nớp lo âu. Mãi đến gần nửa đêm tôi mới có thể chợp mắt được.
Nhưng có lẽ tôi ngủ chưa được bao lâu thì giấc mơ đó lại bắt đầu xuất hiện.
Một người đàn ông đứng tuổi, dáng vẻ nho nhã hiền lành nhẹ nhàng đi tới bên giường rồi vén mùng nhìn vào. Trông thấy mẹ tôi ông ta không tỏ vẻ gì là ngạc nhiên hay khó chịu, mà nét mặt vẫn bình thản như không hề có mẹ tôi nằm đó.
Ông bước lên giường và nằm cạnh bên tôi giống như mọi hôm, nhưng lần này khác ở chỗ ông nằm phía trong, tránh mẹ tôi phía ngoài. Và cũng vẫn như những đêm trước, tay chân tôi cứ cứng đờ ra không thể nhúc nhích được, mặc cho ông làm gì thì làm, tôi không sao chống cự được, cả việc kêu lên thành tiếng tôi cũng không làm nổi!
Sau khi thỏa mãn, ông ta nằm lại một lúc lâu rồi đi ra cũng thật nhẹ nhàng như lúc tới.
Mồ hôi tôi vã ra như tắm, tôi hốt hoảng xoay người qua lay mẹ tôi:
- Mẹ, mẹ ơi! Người đó vừa mới tới!
Mẹ tôi giật nảy người ngồi bật dật mở đèn xem xét khắp nơi.
Trên thân thể tôi áo quần vẫn nguyên vẹn, không có dấu hiệu nào của một trận truy hoan.
- Không được! Ngay sáng mai mẹ sẽ dẫn con đi bệnh viện khám.
Mẹ tôi quyết định.
- Khám gì hả mẹ?
Tôi lo lắng hỏi.
Mẹ tôi nhăn mặt:
- Khám phụ khoa, để coi còn là con gái hay không!
Tôi co rúm người lại, hoảng hốt:
- Mẹ! Mẹ không tin con sao? Con đã nói rồi, con chưa từng có bạn trai, con cũng không hư hỏng…
Vừa la tôi vừa khóc ròng.
Mẹ ôm tôi dỗ dành:
- Không phải, không phải mẹ không tin con, nhưng mẹ sợ chính người đàn ông trong chiêm bao đã phá hại đời con nên mẹ muốn kiểm tra lại cho chắc chắn. Con đừng buồn, nghel ời mẹ đi…
Tôi kiên quyết chống cự:
- Không! Không đời nào con chịu đi khám cái đó! Con là con gái mới lớn lên, con mà đi khám người ta đồn đãi ầm ĩ lên thì thử hỏi làm sao con còn mặt mũi nào mà nhìn ngó bạn bè nữa hả mẹ?
Mẹ tôi vẫn kiên nhẫn thuyết phục:
- Con đừng lo. Mẹ là mẹ của con, hơn ai hết, mẹ phải là người bảo vệ danh dự cho con đến cùng. Vì vậy mẹ sẽ đưa con đi khám ở thành phố, sẽ không ai biết đâu mà con sợ. Với lại, đâu phải ai khám phụ khoa cũng là vì chuyện đó đâu con, thiếu gì cô gái còn trinh trắng mắc một chứng bệnh nào đó và cũng phải đi khám đấy thôi, con đừng vội lo lắng thái quá, không tốt cho tinh thần.
Mẹ tôi nói nhiều và thật nhiều để cuối cùng tôi phải gật đầu ưng thuận.
Thế là ngay sáng hôm sau hai mẹ con tôi đi lên thành phố bằng chuyến xe đò sớm nhất trong ngày.
Sau gần một buổi trời chờ đợi trong hồi hộp, cuối cùng mẹ con tôi cũng thở phào nhẹ nhõm với kết quả tốt đẹp an toàn.
Nhưng niềm vui không được trọn vẹn, mẹ bắt đầu lo tới chuyện khác.
- Con à… Tối nay về nhà, con không ngủ ở cái giường đó nữa, sang phòng mẹ mà ngủ, thử coi giấc mơ đó có nữa hay không.
Do đi xa mệt mỏi nên tối đó tôi ngủ rất sớm và ngủ ngon lành.
Tôi thức giấc giữa đêm và cảm thấy cổ mình khô cháy. Ngồi dậy mò xuống bếp rót ly nước, vừa đưa lên hớp một hớp, tôi giật mình buông rơi ly nước làm nó vỡ loảng xoảng dưới nền gạch bông.
- Cái gì vậy con?
Mẹ tôi hỏi vọng xuống.
- Ma… mẹ ơi… ma!
Tôi la thất thanh. Mẹ vội vã chạy xuống bật sáng mấy bóng đèn trong phòng.
- Con, chuỵên gì vậy?
Mẹ ôm lấy tôi đang đứng run rẩy trước tủ lạnh.
- Ma… con thấy rõ ràng… đúng là người đàn ông đó…
Tôi lắp bắp.
Mẹ tôi hỏi dồn:
- Người đàn ông đó? Có phải con muốn nói…
Tôi nuốt nước miếng gật đầu:
- Đúng đó mẹ, bóng ma đó chính là người đàn ông mấy đêm nay vẫn thường vào mùng con…
Mẹ tôi đưa mắt sợ hãi nhìn khắp phòng, nhưng căn phòng không có gì khác lạ, chỉ trừ những mảnh thủy tinh vỡ nát dưới chân tôi.
Có lẽ mẹ cũng sợ lắm nhưng bà cố trấn tĩnh để động viên tôi:
- Không sao đâu con, đã có mẹ đây rồi, không sao đâu!
Mẹ nhìn quanh lần nữa rồi nói:
- Con đứng im đây để mẹ đi hốt miểng chai rồi mẹ con mình len ngủ tiếp.
- Còn… còn bóng ma đó…?
Tôi lo sợ.
Mẹ gạt đi:
- Không có gì đâu, chắc là mấy đêm nay con bị ám ảnh nên nó mới ăn sâu vào tâm trí vào con đó thôi. Nghe lời mẹ, đừng nghĩ giữa hết!
Mẹ tôi nói xong đi nhanh xuống bếp lấy chổi, ky lên quét hốt miểng. Khi mọi việc xong xuôi, mẹ nắm tay tôi:
- Đi con, lên ngủ với mẹ!
Tôi ngoan ngoãn đi theo mẹ mà mắt cứ ngó chừng lại phía sau lưng. Mẹ với tay tắt đèn, bóng tối bao trùm cả căn phòng rộng lớn.
Nằm cạnh mẹ, tôi thủ thỉ:
- Mẹ, lúc nãy con thấy rõ lắm, không phải bị ám ảnh gì đâu! Con thấy ông ta đứng ngay ở cửa và nhìn con cười. Đúng như vậy đó mẹ, không phải ám ảnh mà…
Mẹ vỗ vỗ vào lưng tôi:
- Ngoan, ngoan! Đừng nghĩ gì nữa, ngủ đi con, mọi việc để sáng mai rồi tính!
Tôi thao thức một hồi lâu mới có thể ngủ tiếp. Còn mẹ, không biết mẹ có ngủ được không mà vẫn nằm im lìm bên cạnh.
Không biết tôi ngủ được bao lâu thì người đàn ông đó lại đến, lại làm những việc giống y như mấy đêm vừa rồi, và khi ông ta đi khỏi tôi mới có thể vùng dậy được.
- Mẹ ơi… mẹ ơi… ông ta lại đến!
Tôi mếu máo gọi mẹ và khóc ròng.
Mẹ ngồi bật dậy ôm lấy tôi, cả hai mẹ con cùng khóc.
Sáng hôm sau mẹ xin nghỉ việc ở cơ quan, dặn tôi đừng chờ cơm trưa rồi đi đâu mãi tới tối mịt mới về đến nhà. Nhưng trông mẹ không hề mệt mỏi, mà trái lại hình như mẹ đang phấn khởi lắm.
- Mình được cứu rồi con ơi!
Mẹ ôm tôi và nói.
Tôi ngạc nhiên:
- Cứu? Mà ai cứu vậy mẹ?
- Từ sáng tới giờ mẹ đi tìm một ông thầy pháp theo lời chỉ dẫn của người quen. Người ta nói ông thầy này cao tay ấn lắm, ma quỷ cỡ nào cũng phải chào thua khi gặp ổng. Thiệt là may mắn, khi mẹ tới cũng vừa đúng lúc ổng vừa từ tỉnh xa về nhà. Vì quanh năm suốt tháng ổng rong ruổi khắp nơi theo lời mời để giúp đỡ bá tánh, rất ít khi ổng có mặt ở nhà. Người quen của mẹ nói thế. Nhưng mẹ may thật, ổng vừa về, nghe mẹ trình bày sự việc ổng hứa sáng sớm ngày mai sẽ tới đây giúp mình đó con. Con ráng chịu đựng một đêm nay nữa thôi… Hay là tối nay mẹ con mình thức chơi trò gì đó, hoặc mướn phim về coi, nghen con?
Mẹ tôi kể mà không ngăn được niềm vui đang dâng bừng lên khóe mắt.
Tôi cũng mừng lắm, hy vọng sau đêm nay, giấc ngủ của tôi sẽ được êm đềm như lúc trước, đừng bao giờ bị xáo trộn bởi những điều ma quái kỳ dị này nữa.
Tối đó hai mẹ con quyết định không giăng mùng. Mướn mấy đĩa phim về và nằm dài dưới sàn nhà xem phim, đèn điện vẫn bật sáng.
Nhưng mới coi hơn hai đĩa phim, tôi nhìn sang đã thấy mẹ ngủ rồi. Tội nghiệp, có lẽ cả ngày mẹ đi xa, lo lắng nên giờ không còn sức để thức cùng tôi nữa.
Nằm nghiêng người qua một bên, tôi vẫn không rời mắt khỏi màn hình ti vi. Nhưng thật không ngờ, đêm nay ông ta không chờ tôi ngủ mới mò đến mà đến ngay lúc tôi còn thức, ngay lúc đèn còn sáng rực trong phòng.
Tôi nằm đó mắt mở to, miệng há hốc nhưng vô phương kêu cứu hay cục cựa. Tôi chỉ biết giương mắt lên nhìn ông ta chậm rãi tắt đèn, chậm rãi đến bên tôi một cách đàng hoàng, không có vẻ gì là lén lút hay vội vã.
Nước mắt tôi trào ra vì uất ức. Tôi những muốn đạp vào mặt ông ta, muốn cào cấu, muốn xỉ vả ông cho thỏa lòng căm tức nhưng tôi không thể thực hiện bất cứ điều nào.
Ông ta điềm nhiên đến rồi điềm nhiên bỏ đi sau khi bật sáng đèn trở lại.
Tôi bật khóc hu hu làm mẹ giật mình, ngơ ngác:
- Gì vậy, con gái?
- Ông ta! Lại chính ông ta…
Tôi nói trong thổn thức.
Mẹ ôm tôi vào lòng, và hai mẹ con ngồi mãi cho tới sáng.
Đúng hẹn, ông thầy pháp tìm tới nhà tôi vào khoảng chín giờ. Lúc nghe mẹ tôi gọi là “ông thầy” tôi cứ tưởng tượng ra một ông lão quắt queo xấu xí, nhưng thật không ngờ, “ông thầy” chỉ độ trên dưới ba mươi tuổi, dáng vẻ thanh lịch, và không có chút gì hơi hướng của những người làm nghề bắt ma cả.
Trông thấy ông thầy, tôi thật sự không dám tin là ông ta có thể trừ khử tà ma giúp tôi được, trái lại tôi rất ngại ngùng khi biết mẹ tôi đã kể về những giấc mơ cho thầy biết.
Khi bước vào nhà, ông thầy chỉ khẽ liếc tôi một cái rồi gật đầu chào. Từ đó, hình như tôi đã biến mất khỏi mắt ông.
Mẹ tôi dắt thầy đi xem xét khắp nơi trong nhà, thầm thì kể cho thầy nghe sự việc vừa mới xảy ra đêm rồi.
Thật lâu sau hai người mới quay trở lên nhà trên. Lúc này ông thầy mới gọi tôi đến và nói:
- Cô làm ơn ngồi xuống giữa nhà giùm tôi!
Tôi lóng ngóng làm theo sự hướng dẫn của ông thầy.
Sau khi tôi đã ngồi yên. Ông thầy đốt một lá bùa, huơ huơ trước mặt tôi rồi bất thần hà hơi thổi phù một cái khiến ngọn lửa gần như táp thẳng vào mặt tôi làm tôi một phen hoảng vía.
Thấy tôi rục rịch như có ý muốn đứng lên, thầy nói một câu cộc lốc:
- Ngồi im!
Tôi sợ hãi ngồi im thin thít.
Thầy lại đốt bùa, lại lầm rầm niệm chú. Tôi không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua, chỉ biếdt giờ đây tôi vô cùng mệt mỏi, chỉ cần được ngã lưng nằm xuống là tôi sẽ ngủ một giấc ngon lành. Hai mí mắt tôi nặng trĩu, và sau cùng tôi không thể cưỡng lại được nữa, tôi nhắm mắt lại và hoàn toàn không biết gì xảy ra bên cạnh tôi nữa.
- Dậy đi con! Dậy, con ơi…
Nghe tiếng mẹ gọi, tôi uể oải mở mắt ra. Mẹ tôi reo lên:
- Tỉnh rồi! Nó tỉnh rồi thầy ơi!
Tôi ngơ ngác ngồi dậy. Ông thầy nhìn tôi mỉm cười rồi thu dọn đồ đạc cáo từ ra về, dứt khoát không nhận tiền thù lao mẹ tôi gởi.
Mẹ tôi tiễn thầy ra cửa rồi lật đật quay vào ôm lấy tôi:
- Con ơi… vậy là xong rồi! Con được cứu rồi!
- Vậy là sao hả mẹ?
Tôi thắc mắc.
Mẹ tôi vừa cười vừa khóc:
- Con không biết cũng phải, lúc nãy con mê đi rồi, con xuất hồn ra rồi thì làm sao biết được. Chính người đàn ông đó đã nhập vào xác con và kể lại đầu đuôi câu chuyện,. Mẹ nghe mà nổi cả da gà…
- Chuỵên thế nào hả mẹ?
Tôi tò mò.
- Hồi kiếp trước, con với ông ta là vợ chồng. Nhưng con không yeu ông ta, chỉ chấp nhận làm đám cưới vì bị gia đình ép buộc. Ngay trong ngày cưới, chưa kịp động phòng con đã bỏ trốn khiến ông ta phẫn uất chạy bổ ra đường tìm kiếm, không may bị xe tông nhằm và chết đi. Vì sự phẫn uất đó chưa tan được nên hồn ông ấy không thể đầu thai kiếp khác mà cứ quanh quẩn chờ con. Và bây giờ, ông ta nhất định phải được làm chồng con mới có thể đầu thai được.
Mẹ tôi kể.
Tôi run rẩy:
- Vậy… vậy bây giờ thì sao hả mẹ?
Mẹ tôi vỗ về:
- Không sao! Ổn cả rồi! Ông thầy đã chính thức tuyên bố hai con là vợ chồng, và ông ta cũng đã xác nhận nhiều lần chung chăn gối với con. Vậy là ông ta thỏa mãn sau khi nghe ông thầy giảng giải. Ông ta hứa không quấy rầy con nữa mà sẽ lập tức đi đầu thai. Nhưng con à…
Thấy mẹ ngập ngừng tôi lo lắng:
- Sao hả mẹ?
Mẹ nhìn tôi rồi nói:
- Con phải luôn nghĩ trong tâm mình là con đã từng có một đời chồng. Sau này, trước khi con đi lấy chồng, con phải khấn vái rõ ràng nghe không con? Mặc dù ông ấy đã đi đầu thai, nhưng oan nghiệt con gây ra chưa dứt hẳn. Con phải nhớ đó.
Tôi cúi đầu:
- Dạ, con nhớ!
Tối hôm đó cả hai mẹ con tôi đều hồi hộp, nhưng suốt đêm không có chuyện lạ nào xảy ra. Nhiều đêm tiếp theo cũng vậy. Tôi thật sự sung sướng vì đã được giải thoát khỏi những những giấc mơ hãi hùng đó.
Ba năm sau tôi đi lấy chồng. Tôi vẫn không quên lời mẹ tôi dặn, trước khi quyết định ngày cưới, tôi đã nấu một mâm cơm thịnh soạn để “xin phép” ông ấy.
Đố các bạn biết người chồng mà tôi lấy là ai? Chính vì “ông thầy” đã cứu tôi thoát khỏi những giấc mơ kỳ lạ đó!
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu

<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.08.2009 04:33:40 bởi Mars >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 09.08.2009 22:06:16
                                                    ĐẦU THAI

 
Con đường đất nhỏ hiện ra, mấp mô, nứt nẻ chạy dài về phía bờ sông dưới cái nắng tháng tám hanh hanh khiến hắn thấy nản vô cùng. Mồ hôi mẹ mồ hôi con túa ra nhễ nhại trên  lưng áo  và trên gương mặt đen bóng nhẫy của hắn , hắn  phát cáu, ngứa ngáy và bắt đầu chửi thề. Hắn chửi vợ hắn, cái con vợ khốn nạn đã bắt hắn phải cuốc bộ cả chục cây số lên nhà  cha vợ để vay tạm chục lon gạo. Rồi hắn lại chửi cả cha vợ hắn, cái lão già bần tiện mà mỗi lon gạo hắn vay đổi bằng hàng tá những lời nhiếc mắng, lăng mạ của lão.Cặp mắt đỏ ngầu của hắn nheo lại, hằn học và khốn khổ.
Hắn là Năm Đức, trai cày, sinh ra và  lớn lên ở cái làng Đại Thuỷ này, cha mẹ ông bà hắn đều là dân cày thuê cuốc mướn cho chủ đất. Đến đời hắn cũng theo cái nghiệp nông gia và nối luôn cái phận làm thuê.
Hắn cao to, vạm vỡ , da bánh mật, bắp tay chắc như bắp cày. Quanh năm dầu dãi nắng mưa , bán mặt cho đất, bán lưng cho trời mà chỉ được chủ đối đãi ngang hàng với đám trâu bò hắn đâm ra hận đời rồi ngày ngày ngoài việc đánh trâu đi cày hắn chỉ biết uống rượu.
Hễ  thấy con trâu nằm nghỉ dưới gốc dừa một chốc  là y như rằng hắn đã say bí tỉ và ngủ lăn quay dưới cây rơm hay bụi rậm nào quanh đấy. Rồi hắn lấy vợ, sanh con, vẫn là thằng Năm Đức cày thuê lầm lì ,ít nói , chỉ càng thêm  nát rượu.
Hắn đột nhiên đứng lại dưới gốc tre bên đường, chẳng phải để nghỉ chân, hắn nghiêng đầu nghe ngóng. Rõ ràng có tiếng động gì lạ lắm, cái âm thanh ấy phát ra ngay dưới chân hắn, ngay bụi tre này, nghe như tiếng trẻ con khóc. Chắc là mèo con, hắn nhủ thầm rồi dợm bước gần hơn vào bụi tre để thoả trí tò mò.
Bây giờ hắn lại chẳng nghe thấy gì cả ngoài tiếng những thân tre cọ vào nhau cót két, buổi trưa hè yên ả lạ. Hắn lại nghiêng đầu nghe ngóng:
- Quái, bọn mèo này giấu con khéo thật! Mặc kệ chúng, đi cho xong việc mình trước đã!
Hắn nhủ thầm.
Vừa rút chân ra khỏi mấy cái gốc tre già đầy gai, cái âm thanh kì cục ấy lại phát ra lần nữa khiến hắn không khỏi tò mò. Lần này hắn nghe rõ mồn một, cái tiếng ngoe ngoé như tiếng mèo  ấy nghe giống tiếng trẻ con hơn. Năm Đức do dự một giây rồi cuối xuống. Hắn lấy một  tay gỡ mớ rễ tre, chân hắn đạp lên làm  đám cỏ rậm rì nằm rạp hẳn xuống, một tay hắn kéo những  thân tre sang bên trái để lộ ra một  khoảng trống chính giữa đầy những lá tre, rác rến và một cái gói giấy báo quấn nylon bên ngoài đang động đậy.
Năm khẽ giật mình, hắn nhìn chăm chăm cái gói kì cục ấy.
- Ai lại gói mèo con mà đem  vất ở đây, chúng chết thì có mà thối cả làng?
Hắn lầm bầm.
Vừa lúc ấy cái gói khẽ nhúc nhích rồi động đậy mạnh hơn, dường như lũ mèo con đang cố vật lộn để thoát ra ngoài cái gói ngột ngạt.
Hắn đưa một chân lên  chạm vào cái gói rồi hất nhẹ một cái. Cái gói dường như nặng hơn hắn tưởng. Hắn lại đưa chân  hất hất nó một lần nữa. Không phải mèo con! Một cảm giác rờn rợn lạ kì thót lên trong ngực khi hắn chạm vào cái gói lần này, linh tính hắn mách bảo  vật trong cái gói ấy chắc hẳn không phải mèo con, nó nặng hơn, ấm hơn, quẩy đạp cũng dữ dội hơn.
- Cái thứ gì có thể ở trong ấy được kia chứ?
Năm tự hỏi.
Dường như để trả lời câu hỏi của hắn, cái vật  đang nhúc nhích ấy lại phát ra thứ âm thanh ngheo nghéo kì dị. Năm cuối xuống, tay hắn run run sờ lên lớp nylon bên ngoài cái bọc kêu sột soạt. Hắn đưa cả hai tay ra cầm lấy cái gói, chân vẫn đạp lên những thân tre để giữ chúng dạt qua một bên.
Cái gói ấy nằng nặng trên tay hắn, tim hắn đập nhanh hơn bao giờ hết, hắn thở gấp gáp, luống cuống xé lớp nylon bên ngoài cái gói ra. Khi tay hắn vừa chạm vào lần giấy báo cũ kĩ, vàng ệch  bên dưới lớp nylon thì miệng hắn cũng khô đắng lại, hắn cảm thấy rõ rệt hơi thở của con người âm ấm trên từng ngón tay đang run của hắn.
Hắn xé lớp giấy báo và sững sờ nhìn cái vật nhỏ bé ấy: một đứa bé sơ sinh! Đứa bé nhắm nghiền hai mắt, mắt nó thậm chí không có mí, đầu và trán hãy còn dính những vệt máu khô. Nó chưa có tóc, cái mỏ ác cứ phập phà phập phồng.
Năm Đức nghe tim hắn đập dữ dội trong lồng ngực. Không phải hắn chưa từng bế đứa bé nào trong đời, không phải đứa nhỏ này quá kì dị đối với hắn, cũng không phải hắn đang sợ hãi điều gì. Chỉ là cái tình cảnh này lạ lùng quá, ngoài hẳn sức tưởng tượng của hắn.
Trong đầu hắn là hàng tá câu hỏi, thắc mắc về cái kẻ đã bỏ lại đứa bé, thắc mắc không biết tự mình phải làm gì với đứa bé. Hắn đứng đó như trời trồng, hai tay giữ lấy đứa bé ngay trước ngực.
Đứa bé đạp đạp hai bàn chân nhỏ xíu của nó vào không trung và huơ cái nắm tay của nó lung tung. Hắn bước lùi ra khỏi bụi tre rồi gỡ hết lớp giấy báo còn quấn quanh bụng đứa  nhỏ.
Bây giờ hắn mới nhìn kĩ nó. Một đứa bé trai, da nó tim tím, dính đầy máu khô, cái cuống rốn còn lòng thòng độ nửa gang tay đã quắt lại,  mắt nó cứ nhắm nghiền mà tay chân thì vẫn cử động. Tai nó mỏng manh như cái nấm mèo mới nhú lên sau cơn mưa, có một cái bớt to, đỏ hỏn trên bắp đùi trái của thằng bé,  mũi và miệng nó hoàn toàn bình thường.
Đúng ra thì nó  là một đứa bé trai hoàn hảo, chỉ mỗi cái lí do mà hắn tìm thấy là thật không bình thường mà thôi. Hắn cởi áo, quấn lấy đứa bé  rồi quay đầu đi một mạch về phía nhà hắn, chẳng màng gì đến cái nhiệm vụ đi vay gạo mà vợ hắn đã giao cho từ sáng.
Đứa bé nằm yên trong tay hắn, thỉnh thoảng có cử động và phát ra những tiếng khóc như tiếng mèo kêu. Về đến đầu ngõ nhà hắn thì trời đã đứng bóng, hắn dường như quên hẳn cái cảm giác oi ả, bức bối trưa hè và đoạn đường cả chục cây số hắn vừa đi. Cái sự kiện lạ kì choán hết đầu óc hắn. Vào đến nhà, hắn vừa đặt đứa bé xuống cái chõng tre thì vợ hắn ở dưới bếp đã vội vã chạy lên. Năm Đức liền luống cuống giải thích  với vợ .
- Là thế nào kia chớ, ông đi vay gạo rồi gạo đâu? Còn cái của nợ ai họ vứt đi thì ông lại rinh về. Ông muốn cả nhà nhịn đói trưa nay à?
Vợ Năm Đức lớn gịong  quát vào mặt hắn.
- Nó là con trai đấy mẹ nó à!
Năm  bế đứa nhỏ lên  đưa về phía vợ hắn.
Thị nhăn mặt đẩy tay hắn ra rồi làu bàu:
- Ông mang nó đi rồi cho ai mà cho, thứ con rơi con rớt ngoài đường tôi không dám giữ đâu. Biết cha mẹ nó là con đĩ hay thằng trộm cướp xứ nào mà lần!
Rồi thị quày quả bỏ đi xuống bếp còn nói với thêm, giọng bực dọc:
- Ông liệu mà lo đấy, trưa nay tôi cho cha con ông ăn mỗi sắn luộc thôi!
Mặc kệ vợ nói gì, hắn chỉ nhìn ngắm đứa nhỏ một cách thích thú.
Năm Đức mới ba mươi mà hắn đã có cả  ba mặt con, đều là “giống vịt trời”, nên từ lâu hắn đã ao ước một thằng con trai  lắm lắm.
- Hay là mình cứ giữ nó lại mà nuôi mặc kệ con vợ mình nói gì thì nói, nháy mắt một cái là nó đủ lớn để đi câu, đi cày với mình…
Hắn nhủ thầm, thích chí.
Thằng bé vẫn nằm ngọ ngoậy trên chếc chõng tre, thật là một thằng con trai hoàn hảo, hắn lầm bầm. Cha mẹ nó có là cướp giật đi nữa cũng chả liên can gì đến hắn, họ đã bỏ nó đi rồi, nói cho đúng là muốn chôn sống nó, muốn nó chết ngạt đi trong cái bọc ấy thì hà cớ gì mà hắn phải lo họ quay lại đòi con. Mà chúng cũng khốn nạn thật, đã không nuôi nổi thằng bé thì chớ, ai lại đi vất nó vào cái xó xỉnh như thế, may mà thằng này mạng lớn.
Tiếng vợ hắn nheo nhéo bên tai làm Năm Đức giật mình:
- Tôi đã bảo rồi, ông mà không đem cho cái của nợ ấy đi thì tôi chẳng để yên cho đâu, nhà  năm miệng  ăn đã không lo nổi, có ai như ông chồng tôi không kia chứ?
Thị gắt gỏng.
- Nó có quấy khóc gì đâu mà bà làm quá lên thế, trời sinh voi sinh cỏ, tôi muốn để thằng nhóc này lại làm con nuôi của mình, cả nhà có đói thì tôi lo!
Hắn nói bằng một giọng thật dõng dạc vẫn không thuyết phục được vợ hắn.
- Ông nói thì đơn giản lắm, nó mà đau ốm thì ai thuốc than, tôi khổ còn chưa đủ hay sao thế hả?
Lời vợ chỉ như tiếng ve bên tai hắn, hắn chẳng hề mảy may chột dạ chỉ mơ màng nhìn thằng bé đã thôi ngọ nguậy, bấy giờ đang say ngủ.
Thế là nhà Năm Đức có thêm người, có thêm một thằng con trai. Hắn chặt tre làm nôi cho nó, đặt cho nó một cái tên hẳn hoi.
Đêm nó quấy, một mình hắn thức trắng dỗ dành. Những cuộc cãi vã, trách móc giữa vợ hắn với hắn  ngày một nhiều. Năm Đức vẫn không hề thay đổi ý định nuôi nấng thằng nhóc.
Mươi ngày qua, thằng nhỏ không còn tím tái như cái hôm hắn mới nhặt nó về. Da dẻ nó hồng hào hẳn lên dù hắn chỉ bón nước cơm cho nó. Nó chẳng quấy khóc gì, khó chịu lắm thì chỉ ư ư vài tiếng rồi thôi, chắc nó cũng biết thân phận mình là con rơi, con  nhặt.
Năm Đức quên bẳn rượu chè, hễ không đi cày là hắn về nhà đưa nôi cho thằng bé, lúc rảnh rỗi hắn lại bế nó đi loanh quanh trong nhà. Hắn dạy đứa con gái lớn của hắn cả cách trông em, dạy hai đứa con gái nhỏ không được đùa giỡn ồn ào khi thăng bé ngủ.
Từ ngày có thằng nhỏ  tính tình hắn cũng thay đổi, hắn không hay bực dọc, lầm lì như trước. Vợ có nhiếc mắng bao nhiêu hắn cũng chẳng nề hà. Năm Đức tỏ ra hăm hở và tươi tỉnh hẳn.
Thế nhưng  sự  có mặt của đứa bé khiến vợ hắn vô cùng phật ý, thị trở nên cộc cằn với Năm Đức hơn bao giờ hết và thường hay bỏ đói thằng bé mỗi khi hắn không có nhà. Nhưng vì sợ Năm Đức nên thị cũng chẳng dám đem nó đi cho. Càng ngày tính tình thị càng khó chịu và hằn học hơn.
Ba năm trôi qua thấm thoát, nhờ bỏ hẳn rượu  chè và chăm lo việc cày bừa hơn trước nên gia đình Năm Đức khấm khá lên. Lão cha vợ bần tiện của hắn  trúng gió mà chết cách đấy không lâu, phần gia sản của lão có mấy mẫu ruộng, cái nhà ngang sáu cột và hai con trâu cũng được giao cho vợ chồng hắn. Đám con gái hắn thì lớn thêm ra, không còn nheo nhóc như trước, nhà cũng chẳng phải lo thiếu miếng ăn. Vợ hắn thì vẫn chứng nào tật ấy, hay kêu ca và không hề có cảm tình với thằng bé.
Thằng Dũng - tên đứa bé mà Năm Đức đặt cho – đã lên ba và bi bô học nói. Nó gầy, đầu vẫn trọc chỉ  lơ thơ vài cọng tóc mỏng manh, nước da hơi xanh xao nhưng nó khoẻ mạnh lạ thường, chẳng bao giờ đau ốm dù chỉ là bệnh vặt, lại ngoan ngoãn không hề vòi khóc nên  hắn thương nó như con ruột.
Năm Đức không còn đi cày thuê nữa, hắn làm  ruộng  nhà, mỗi ngày hễ đi thăm đồng là hắn để cho thằng Dũng đeo tòng teng bên hông hắn. Đến bữa cơm nó cũng ngồi vắt vẻo trên đùi Năm, tối đến thì rúc đầu vào nách hắn mà ngủ. Hắn và thằng bé càng lúc càng quấn quít nhau.
Trưa hôm ấy, Năm Đức đi cày về vừa đến ngõ thì đứa con gái út của hắn chạy từ nhà trong ra, vừa đi vừa hớt hải, nức nở:
- Ba ơi ba, má đánh chết thằng Dũng rồi!
Nghe như tiếng sét bên tai, Năm Đức quẳng luôn cái cày, chạy hộc tốc vào nhà. Trên sàn,  thằng Dũng nằm cứng đơ, mặt nó trắng bệch, một dòng máu đỏ thẫm chảy ra từ khoé miệng, áo nó rách bươm phô ra  cái be sườn cong cong.
Hắn vội bế nó lên, thằng bé không thở nữa, hắn  áp sát mặt mình vào cái lồng ngực nhỏ lạnh  ngắt của nó. Ơn trời, cái âm thanh nhè nhẹ, xa xăm  của một quả tim đang hoạt động đâu đó trong lồng ngực nó khiến hắn mừng rơn. Hắn đặt nó lên giường, quấn vội một cái mền quanh thân nó rồi  hà hơi vào cái nắm tay nhỏ của nó.
Hắn ôm chặt nó vào lòng, lại hà hơi vào  khuôn mặt nó, hắn quay sang bảo đứa con gái mang nước và dầu gió đến. Hắn thoa dầu lên đỉnh đầu thằng bé rồi vỗ nhè nhẹ vào vào khuôn mặt nó, hắn ép hai ngón tay lên lồng ngực nó ấn mạnh. Thằng bé nẩy người lên, sặc một cái  và khò khè thở trở lại. Hắn mừng húm, nâng nó lên để nghe cho rõ tiếng tim nó đập nhè nhẹ và hơi thở âm ấm của nó phà vào mặt hắn. Hắn đặt nó lại xuống giường thật nhẹ nhàng, vuốt cái trán nhỏ của nó và lau vệt máu tím bầm trên miệng thằng bé.
Mãi một lúc lâu nó mới động đậy chân tay một tí nhưng hai mắt thì vẫn nhắm nghiền. Năm Đức đã hoàn hồn trở lại. Hắn dặn đứa con gái lớn trông chừng thằng Dũng rồi đi xuống bếp tìm con vợ hắn.
Thị đang ngồi thản nhiên nhặt rau bên cửa bếp. Thấy hắn thị chẳng buồn ngó lên. Hắn nắm lấy cổ tay thị, lôi thị đứng dậy đối mặt với hắn:
- Thằng Dũng làm gì mà đánh nó đến tắt thở, nói!
Hắn quát thật to khiến thị giật nẩy mình.
- Nói!
Hắn lại quát.
- Nó ăn vụng đậu phộng, tôi lỡ tay vả nó một cái thôi!
- Đồ đàn bà!
Hắn tát thị một cái rõ đau rồi hất thị sang một bên ngã nhoài trên sàn. Lần đầu tiên trong đời hắn đánh vợ, mà con đàn bà này thực sự đáng đánh lắm lắm. Rồi hắn bỏ lên nhà trên, ngồi cạnh thằng bé con.
Thằng Dũng đã thở đều đều trở lại, nhưng vẫn còn mê man. Hắn ngồi đó nhìn nó cả buổi chiều.
- Thằng  này mạng lớn thật!
Hắn nhủ thầm.
- Chắc có trời phù hộ nó!
Rồi hắn đưa tay vuốt cái trán nhỏ của nó. Thằng Dũng khẽ cựa mình mở mắt ra trong một giây rồi nhắm liền lại ngay.
Đêm ấy Năm Đức không rời nó nửa bước.
Sau cái hôm ấy, thằng Dũng  khoẻ lại ngay, lại chạy nhảy, chơi đùa như thường lệ. Năm Đức dặn dò mấy đứa con gái phải chơi ngoan và trông nom em cẩn thận rồi lại ra đồng  cày bừa.
Bận bịu việc đồng án nên Năm không để ý  đến  nhưng từ cái hôm thằng Dũng khoẻ lại vợ hắn bắt đầu thay đổi  tánh tình. Thị trở nên im tiếng một cách khác thường, đã thôi không nhiếc mắng chồng và thằng Dũng nữa, chỉ suốt ngày quanh quẩn ở dưới bếp.
Nói cho đúng là thị chẳng đếm xỉa gì đến Năm Đức và thằng bé nữa, chỉ thỉnh thoảng Năm thấy thị đứng ở cửa buồng nhìn chằm chằm vào thằng Dũng lúc nó đang ngủ say trên cái võng gần bậu cửa, ánh mắt thị lành lạnh. Năm Đức có hỏi han gì thị cũng chỉ đáp nhát gừng, chẳng tỏ ra ăn năn hay khó chịu, chỉ lãnh đạm một cách khác thường.
Năm Đức xin về nuôi một con chó chăn vịt, giống chó lai nên rất khôn và nhạy mùi, hắn cưng nó hết sức và thường hay thả nó ra vào ban ngày, tối đến là nó lại đến nằm dưới gốc cây me ngoài ngõ trông chừng trộm.
Từ ngày có nó chẳng ai dám bén mảng đến hàng rào nhà hắn, cả những tên trộm choai choai trong xóm vốn hay trộm xoài nhà hắn cũng chẳng dám cả gan đến gần. 
Con chó chăn vịt của Năm Đức giữ nhà rất giỏi, nó biết phải sủa lớn vào mấy đứa trẻ con đi ăn cắp vặt, nhưng lại biết lao vào tạp ngay nếu là một tên dòm ngó cái chuồn gà nhà Năm, loại trộm như thế mà bỏ chạy thì có chạy dến trời nó cũng theo cho bằng được. Thế nên Năm Đức quý nó lắm. Chỉ có điều con chó khôn là thế mà cứ hễ thằng Dũng lại gần là nó cứ sủa toáng lên, tiếng sủa gầm gừ rất dữ. Năm Đức và mấy đứa con gái của hắn có dạy thế nào thì nó vẫn cứ sủa bậy thằng Dũng như thế.
Dạo ấy chẳng hiểu sao con chó bỏ nhà đi đâu mất đến cả tuần, hắn cất công lên đầu trên xóm dưới tìm vẫn không thấy tung tích nó đâu cả. Trong nhà, ngoài thằng Dũng, con chó và đứa con gái út Năm gần như chẳng mấy để tâm đến ai khác. Lùng sục cả mấy ngày vẫn không thấy tăm hơi con chó, hắn rầu rĩ, đoán chắc là con chó của mình đã bị bọn trộm chó cao tay đánh thuốc mê rồi mang đi mất.
Khi đã không còn hy vọng gì tìm thấy con chó nữa, một buổi chiều chạng vạng Năm Đức trở về nhà sau một ngày vất vả ngoài đồng, hắn uể oải đặt cái cày xuống sân thì bỗng nhận ra có cái gì đó màu nâu nâu dưới gốc cây me. Trời chiều sắp tối khiến hắn khó lòng nhận ra vật đó và vật gì.
Năm Đức bước mấy bước định vào nhà luôn thì có một linh tính lạ lùng trỗi lên trong đầu hắn. Hắn quay ngoắt người lại, sải hai bước dài về phía gốc me. Trong một giây, hắn bàng hoàng nhận ra cái vật màu nâu ấy chính là cái đầu con chó cưng của hắn, máu đã khô đen  lại ở chỗ cái cổ nó, hai mắt nó trợn trắng lên đầy kinh hãi, đám kiến đã vây lấy ở chỗ cổ con chó, bò lên cả mặt và tai nó.
Hắn lạnh tê người, lợm giọng. Hắn cuối xuống lấy tay hất nhẹ  cái đầu con chó để xua lũ kiến đi rồi nhặt nó lên mang vào nhà.
- Đứa khốn nạn nào nó giết con chó nhà mình dã man quá!
Hắn nói giong trầm trầm nhưng đủ để cả nhà  nghe thấy.
Con bé con gái út của hắn nghe thế chạy đến trước tiên, nó hét lên một tiếng kinh hãi khi nhìn thấy cái đầu con chó nằm lăn lóc trên sàn nhà rồi vừa khóc vừa bỏ chạy ra sau nhà.
Hai đứa lớn cũng chẳng dám đến nhìn chỉ dám lấp ló bên bậu cửa bếp. Vợ Năm Đức đến bên cạnh hắn, thị nhìn cái đầu chó mọt lúc rồi lên tiếng:
- Chắc đứa nào nó ghét gia đình mình nên nó mới làm thế, khốn nạn thật!
 Năm im lặng cuối xuống xem xét chỗ cái cổ con chó. Máu khô bám đầy chỗ cuống họng nó, cái cổ nó rõ ràng bị cắt bởi vật gì rất nham nhở, một con dao cùn hay cái gì đó đaị loại như vậy, trông giống như bị con vật gì cắn xé ra.
Hắn thở dài rồi đứng lên định mang cái đầu con chó đi chôn thì thằng Dũng từ dưới nhà chạy  lên, thấy Năm cầm cái vật ấy, nó hỏi vẻ ngây ngô:
- Con chó sao vậy  ba?
- Nó chết rồi con à!
Hắn đáp.
- Hihi... Nó không sủa con nữa, hihi...
Thằng Dũng vừa nói thế vừa cười hằng hặc.
Hắn lắc đầu rồi lặng lẽ mang cái đầu  con chó đi ra vườn chôn. Cái chết dã man của con chó khiến cả gia đình hắn suốt đêm ấy không ai  ngủ ngon  được. Vợ hắn thì gặp ác mộng lúc gần sáng nên nói mớ ầm ĩ  khiến hắn cứ trằn trọc suốt cả đêm. Chỉ có thằng Dũng là vẫn rúc đầu vào nách hắn ngủ say sưa như mọi ngày.
Trời vừa mờ mờ sáng, vợ hắn đã trở dậy. Thị hỏi khẽ:
- Mình thức chưa?
Hắn làm thinh một lúc mới nói, giọng khàn khàn:
- Cả đêm cứ nói mớ ai mà ngủ đuợc  chứ!
- Mình phải đem cho thằng Dũng đi, tui mơ thấy nó là con quỷ đến làm hại gia đình mình, thật đó mình à!
Vợ Năm Đức nói nhỏ.
- Bà nói điên nói dại gì thế? Bà mà còn mê tín cái kiểu đó hay đánh đập nó là chết với tui đấy!
 Năn hằn giọng.
- Tôi thấy nó là quỷ lâu rồi , nhưng tôi sợ ông không tin nên mới che dấu , bây gìơ nó càng ngày càng lớn lên có đủ sức tà ma nó sẽ hại nhà mình.
Thị nói thầm thì, sợ hãi.
- Bà diên rồi , bà thấy nó là quỷ, thấy hồi nào, thấy cái gì, thấy ở dâu? Có mà nằm chiêm bao tầm bậy thôi.!
Năm Đức quát.
-  Để tui nói ông nghe, hồi ông mới mang nó về, nhìn cái khuôn mặy nó là tui đã thấy giông giống rồi, càng ngày lớn lên nó lại càng giống hơn...
Vợ Năm Đức vừa ngồi sát lại gần vừa nói.
- Giống ai?
Năm Đức bực mình hỏi như nạt.
- Giống thằng con trai chết ỉu của ông già tui chớ ai. Hồi tui còn nhỏ, cha tui đi lăng nhăng bên ngoài có được một đứa con trai, ổng đem về nhà cho mẹ tui nuôi nhưng thằng nhỏ đó chỉ sống được đến lúc ba tuổi rồi bịnh chết. Thằng Dũng từ cái mặt xương xẩu của no, đến cái nước da xanh xanh chẳng khác nào thằng con rơi của cha tui. Tui nghi nó là quỷ trở về đeo bám gia đình mình mà!
Vợ Năm Đức kể lể.
- Bà thôi đi!
Năm cắt ngang lời thị.
- Tôi cấm tiệt trong cái nhà này không nói ba cái chuyện ma quỷ tầm phào đó, con nít nó nghe không có tốt chút nào!
Năm Đức nhìn vợ bằng ánh mắt hung dữ.
- Nhưng chuyện tui nói là có thật đó!
Vợ Năm Đức vẫn không chịu thua.
- Im!
Năm nạt lớn.
- Tôi nói thôi đi!
Bấy giờ thị mới im lặng hẳn. Hắn cũng làm thinh không nói. Hai vợ chồng hắn  mỗi người chìm vào những suy tư riêng. Thị thì nghĩ đến những cơn ác mộng triền miên của thị từ ngày thằng Dũng về nhà. Trong những giấc mơ ấy thị thường thấy một thằng nhỏ biết đi lẫm chẫm, cũng gầy gầy, xanh xao và xương xẩu hệt như thằng Dũng, nó chính là thằng con rơi của cha thị.
Thị thường thấy nó chạy loanh quanh trong sân với một tàu là chuối trong tay một mình chơi trò đánh trận giả. Rồi thị thấy mẹ thị, một người đàn bà sồ sề, tóc bới cao thường hay lớn tiếng với cha thị. Rồi thị lại thấy bà bỏ thứ bột thuốc trắng vào cái chén thuốc bắc rồi gọi thị xuống bếp lúc cha thị vắng nhà và bảo ngọt với thị:
- Con dỗ cho em uống thuốc dùm má, em con nó bịnh, đi đi con!
Bà ấn chén thuốc vào tay thị rồi đẩy nhẹ vai thị. Những lời nói của mẹ như vẫn còn quanh quẩn đâu đấy bên tai thị trong những cơn ác mộng, quanh quẩn trong đầu thị, cái kí ức non nớt của một đứa trẻ lên mười vẫn còn ghi lại rất rõ ràng.
- Đi đi con, đi đi con...
Mẹ thi giục, và thị đi, dỗ cho thằng em uống hết chén thuốc ấy.
Rồi trong cơn ác mộng đêm qua thị đã thấy lại cái cảnh trong đám tang thằng em cùng cha khác mẹ của thị năm nào. Thằng bé được đặt nằm trên cái chõng tre ngoài hiên, cái bụng nó trương lên rất to, tím ngắt, có sợi dây chuối buộc ngang bụng nó, một thứ nước gì vàng vàng chảy ra từ một bên khoé miệng nó.
Hình ảnh đó thường xuất hiện nhất trong những giấc mơ của thị. Rõ mồn một như chính mắt thị nhìn thấy từ khung cửa sổ nhà mâý chục năm về trước.
Mẹ thị qua đời lúc thị vừa lấy Năm Đức được độ một năm. Nhưng sự ám ảnh về cái chết của thằng em dường như chưa bao giờ lặng đi trong thị. Nó làm đầu óc thị căng ra vì sợ hãi, một nỗi sợ hãi thường trực suốt thời thơ ấu của thị.
Bơỉ vì, tuy chỉ với suy nghĩ non nớt, ngây ngô của một con bé lên mười thị cũng lờ mờ hiểu rằng chính mẹ thị đã đầu độc thằng con rơi của cha thị bằng chén thuốc đó, và chính thị là người đã tiếp tay cho bà.
Chuyện này đã ám ảnh thị suốt cả cuộc đời nhưng thị chẳng bao giờ tiết lộ ra với ai , kể cả cha thị hay Năm Đức, hay bất kì một người thân nào trong gia đình.
Càng chôn giấu cái bí mật ấy nó càng thiêu đốt con người thị, gần như chẳng bao giờ thị ngủ yên giấc được. Nhất là từ ngày Năm Đức nhặt đươc thằng bé Dũng.
Linh tính kì lạ đã trỗi dậy trong thị từ cái lần đầu thị trông thấy nó còn đỏ hỏn nằm thiêm thiếp trên tay của Năm.
Thằng Dũng giống hệt thằng em thị, thằng em bị mẹ thị đầu độc mà ai cũng tưởng là một thằng bé yểu mện. Thằng Dũng càng lớn lại càng giông thằng bé ấy hơn. Thị thậm chí chẳng dám đến gần nó nữa, chỉ dám đứng nhìn từ xa.
Thị dịnh bụng sẽ đi tìm một bà thầy để xem cho ra lai lịch thằng Dũng, xem nó có hại gì cho gia đình thị không, mặt khác thị cũng muốn tìm xem ai đích thị là cha mẹ ruột của nó, chỉ để giải toả cái mối nghi ngờ chồng mình có con riêng con tư bên ngoài mà bấy lâu nay thỉnh thoảng thị cũng hay gạ hỏi Năm Đức về cái hoàn cảnh Năm nhặt được thằng bé.
Còn Năm Đức, hắn nằm nghĩ ngợi mông lung về cái chết của con chó, về mấy lời tầm phào vợ hắn nói vừa nãy, về cái ngày hắn nhặt được thằng Dũng, về cái thân phận cày thuê của hắn sau bao năm nhọc nhằn nay đã đổi thân thành chủ đất, không còn bữa đói, bữa no như trước kia nữa. Từng đoạn trong cuộc đời hắn lứơt nhanh qua trong tâm trí như một thước phim quay chậm.
Hắn định bụng hôm nay sẽ lên làng trên xin một con chó khác và đi nghe ngóng xem thằng trộm nào đã ra tay với con chó cưng của hắn, nhất quyết hắn phải tìm ra chân tướng chuyện này, nhất quyết.
Mỗi người một suy nghĩ khác nhau nằm chờ trời sáng. Dưới nách hắn, thằng dũng vẫn ngủ say sưa, thỉnh thoảng còn nhoẻn miêng cười tươi, không biết nó đang mơ gì.
Thằng Dũng ban ngày hay chạy chơi trong sân và sau vườn, Năm làm cho nó một cái nhà chòi bằng lá dừa ở cuối góc vườn, dưới bóng mát của cây mù u già. Trưa nào nó cũng chơi ở đó, có khi bày trận giả với con bé út  rồi lăn ra ngủ.
Mấy ngày nay, từ hôm con chó chết đi Năm chẳng thấy nó ra vườn chơi nữa, hắn chắc mẩm thằng con hắn đã chán chơi cái nhà chòi ấy rồi nên định bụng ra gỡ lấy ít lá dừa cho vợ hắn nấu bếp, cũng là để dọn cho thoáng cái góc vườn nhà.
Tâm trí Năm Đức vẫn còn lởn vởn chuyện con chó của hắn bị kẻ nào đó chặt đầu. Hắn đã dò hỏi mấy ngày nay cả xóm trên, xóm dưới mà chẳng ai hay biết gì cả cũng chẳng mảy may có tin vịt gì về chuyện ấy cả. Lạ lùng. Ở cái làng này, một con gà bị mất trộm cũng được loan tin khắp cả, cả cái bóng của thằng trộm cũng được người ta mô tả chi tiết hệt như đã bắt được nó, biết rõ lai lịch ông cha nó vậy. Thế mà con chó của hắn mất tích cả tuần lễ, lại còn bị chúng chặt đầu ra vứt ngay trước nhà hắn mà không ai mảy may có chút manh mối hay nghi ngờ gì để kể cho hắn nghe cả. Đúng là kì lạ!
Những suy nghĩ đó cứ đeo đẳng đầu óc hắn mãi. Hắn cầm lấy cái rựa, bước ra sau vườn, tiếng bọn con gái và thằng Dũng đang chơi đùa ở sân trước nhộn lên bên tai hắn.
Vườn nhà hắn rộng nhưng âm u cây trái, hắn lại chẳng mấy chăm nom đến nên cỏ cứ mọc lẩn với rau lang, rau muống, cái ao nhỏ giữa vườn thì phủ đầy bèo tấm, ốc bưu đẻ trứng bám đầy trên những cái rễ cây bình bát. Ngoài lũ vịt và mấy đứa nhỏ là hay bén mảng ra đây, Năm Đức cũng như vợ hắn hiếm khi ra vườn.
- Cây cối um tùm quá, cũng đến lúc phải dọn cho bớt đi không thì chỉ tổ nuôi bọn rắn thôi!
Năm Đức nhủ thầm, vừa gác cái rựa lên vai.
Trong vườn cỏ mọc không cao lắm, hắn bủa rựa, chặt phăng mấy nhánh bình bát đang túa ra choáng lấy lối đi giữa vườn, một tay túm lấy những cành vừa chặt, một tay cầm rựa liên tục phăng vào những cành cây sum xuê khác.
Chẳng mấy chốc đến giữa trưa, khu vườn của hắn đã quang hẳn ra. Năm Đức quệt mồ hôi trán  nhìn về phía góc vườn, cái nhà chòi be bé của thằng Dũng dưới gốc mù u, cỏ mọc cao bít cả cửa vào, lá mù u rơi đầy trên nóc chòi, những quả mù u già khô quắp rải khắp lối đi.
Hắn đã thấm mệt liền ngồi bệt xuống cỏ nghỉ tay. Gió trời hiu hiu, hơi nước dưới ao bốc  lên  man mát, hắn buông rựa, tựa lưng vào cái gốc ổi già trắng phếu và bóng nhẫy, mắt hắn chỉ muốn díp lại, không sao ngăn đươc cơn buồn ngủ đang đến.
Năm Đức thấy mình rơi thỏm vào một khoảng không trắng nhờ nhờ, cái khoảng không kì lạ ấy cứ đưa hắn đi mãi, đi mãi chẳng có điểm dừng. Hắn cứ trôi tuột trong lòng nó, tâm trí dường như bất định.
Có tiếng trẻ con cười  nắc nẻ đâu đó, tiếng cười ấy rõ dần, to dần, rồi trở nên sằng sặc một cách đáng sợ. Hắn thấy một thằng nhỏ nước da trắng xác, cái bụng to như bụng ễnh ương đang đeo tòng teng trên cái nhánh mù u ở cuối vườn.
Hắn giật mình đánh thót một cái, mở bừng mắt ra, mặt trời trên cao chiếu những tia nắng chói chang xuyên qua phiến lá rọi thẳng vào cặp mắt đang nheo tít lại của hắn.
Hắn chau mày, dụi dụi mắt mấy cái rồi ngáp dài. Hắn chỉ muốn nằm dài đễnh trong vuờn để tiếp tục giấc nghủ trưa, laị nhìn về phía cái  góc vừơn um tùm, hắn đành chống tay ngồi dậy cố làm nốt cho xong, hắn tự nhủ. Hắn đứng thẳng dậy, vươn vai thật  mạnh một cái rồi bước nhanh về phía gốc mù u. Cỏ rạp xuống dưới chân hắn, còn độ ba bước chân nữa là đến dưới gốc cây. Hắn bỗng khựng lại vì một âm thanh là la, nghe như tiếng vo ve của một đàn ong lớn đang ba đến. Hắn bước tiếp một bước, chợt nhận ra cái âm thanh ấy đang phát ra từ dưới bước chân của hắn.
Một đàn ruồi nhặng như đám mây đen chồm lên từ mặt đất, và cứ mỗi bước đi của hắn, cái đám mây ấy lại bị xé tan ra, vo ve một cách khó chịu quanh chân hắn.
Hắn khụt khịt mũi, dường như có con ruồi đã tấn công vào lỗ mũi hắn. Một  mùi khen khét bốc lên từ phía gốc cây khi hắn đến gần hơn cái nhà chòi. Đàn ruồi nhặng cũng bay ra từ chính cái chòi ấy, thứ mùi khen khét đó pha lẫn chút tanh tao, thum thủm.
- Hẳn phải có con vật gì đó chết trong này!
Hắn ngẫm nghĩ.
Đám ruồi tụ lại trước cửa cái chòi đen đặc như một đám mây, vo ve rộn cả lên. Cái mùi bốc ra từ bên trong chòi càng lúc càng nồng nặc đến lợm giọng. Cũng may góc vườn này cách nhà khá xa không thì làm sao chịu được. 
Hắn đưa một tay lên bịt lấy mũi, một tay cầm rựa, đung đưa. Bây giờ hắn đã đứng sừng sững trước cái nhà chòi. Cái chòi nhỏ quá hắn không cách gì vào được, lại thêm bọn ruồi bọ vây đầy ở lối cửa vào khiến hắn tần ngần không biết xử trí ra sao.
Hắn đành vung tay cầm rựa thật mạnh để xua lũ côn trùng bay ấy đi. Hắn vung tay tới đâu bọn chúng cứ bay túa lên, va vào mặt, vào vai hắn, xót không chịu được.
Hắn đành buông cả tay đang che lấy mũi để xua bọn chúng đi. Cái mùi kinh tởm ấy lại xộc mạnh vào mũi hắn khiến hắn nhăn nhó một cách khó chịu. Hắn chặt vội mấy nhánh mù u che lấy can chòi, rồi lấy một đầu rựa hất tung cái nóc bằng lá dừa che hờ cùa căn chòi, hất nó sang một bên. Cái nóc ấy vừa bung ra, thì một cơn mưa ruồi nhặng khác lại túa vào hắn, hắn hươ hươ cái rựa vào không trung như một người điên, cáu tiết với đám ruồi nhặng ấy, hắn chẳng đợi đến hơn một giây, một tay hắn giở toang cái vách chòi, một chân hắn hất tung cái vách chòi còn lại. Cảnh tượng hệt như một gã khổng lồ đang phá huỷ ngôi nhà của những người tí hon.
Căn chòi vỡ tung dưới những cái hất, đạp của hắn, đám ruồi nhặng cũng túa ra đầy trong không trung. Xác một con vật gì phơi ra ngay giữa cái chỗ trống vốn là sàn của cái chòi, cái bụng to trương phình lên, lớp lông màu nâu nhạt lởm chởm, những con giòi trắng nhung nhúc trong cái đống thịt ấy.
Năm Đức hoảng hốt nhìn cái đống thịt đang thối rữa ấy, lông nâu, cái bụng lòi trơ ra mấy chiếc xương  sườn, không có đầu. Cái con vật ấy không có đầu, bốn chân không còn nguyên vẹn và phủ dày bởi một lớp kiến đỏ. Đích thị là con chó của hắn.
Hắn điếng cả người, quên cả cái mùi khó chịu, lũ ruồi nhặng và kiến dưới chân. Hắn hoang mang chẳng biết tại sao xác con chó của hắn lại ở đây, ngay trong cái chòi nhỏ mà chỉ có thằng con hắn mới chui vào được.
Hắn thầm chửi rủa kẻ khốn kiếp nào đã giết con chó của hắn một cách dã man, chặt đầu và vứt xác vào đây.
Vừa thương tiếc con chó, lại vừa cáu tiết vì cái kẻ nặc danh đã làm cái viêc đê tiện, ác tâm ấy, Năm chỉ muốn bóp chết cái kẻ ấy dù là thằng tai trâu mặt ngựa nào trong làng đi nữa.
Hắn cuối xuống hất đám lá dừa vốn là vách và nóc của cái chòi sang một bên. Rồi lấy cái rựa đào tung lớp đất ngay dưới chân lên thành một cái hố nhỏ đủ sâu.  Xong đâu đấy, hắn lấy cái rựa đẩy xác con chó xuống hố rồi nhẹ nhàng lấp lại.
Hắn hốt từng nắm đất, phủ lên cái xác thối của con vật. Hắn ngồi lại tần ngần nhìn cái nấm mồ nhỏ của con chó, trong lòng đầy thắc mắc. Không biết nó bị con vật gì giết hại hay bọn du thủ du thực nào lại ra tay tàn ác quá. Mà nhà mình có làm gì đâu để bon chúng ghen ghét mà gây ra chuỵên như thế.
Phải chăng có những việc gì đang xảy ra ngoài tầm hiểu biết của hắn, phải chăng có một thế lực nào đó không phải là con người đang dòm ngó lên gia đình của hắn, mang đến những diều xui xẻo không giải thích được?
Hắn lắc mạnh đầu để gạt những suy nghĩ ấy đi.
- Mình hoá tầm phào mất rồi, những chuyện thế này chỉ có con người làm chứ ma quỷ gì!
Năm Đức tự nhủ.
Cuối cùng hắn cũng đứng dậy, nhìn cái mồ lần cuối  rồi chất đám lá dừa lên trên đó, chặt tiêùp mấy nhánh mù u khô  và những cành bình bát mọc mất trật tự. Xếp tất cả những cành lá ấy chồng lên nhau rối lần tay vào túi quần lấy ra một chiếc bật lửa.
Hắn sẽ đốt sạch đám lá này, không còn chỗ cho bọn ruồi nhặng theo mùi mà đến, cũng để thiêu trụi bọn giòi bọ vẫn còn núc ních ở cái chỗ xác con chó nằm khi nãy.
Bỗng dưng có vật gì lấp lánh như kim koại dưới lớp cát ngay chỗ cái xác con chó khiến hắn chú ý. Hắn đưa một chân ra phủi cái lớp cát đó đi. Một cái cán nhỏ hiện ra, rồi hình thù hoàn chỉnh của một con dao cũng hiện ra. Hắn cầm con dao ấy lên. Đó là một con dao làm gà, nhọn và sắc, lưỡi dao bằng kim loại  bén ngót, cái cán hờ bằng gỗ trông quen quen.
Hắn lật qua lật lại con dao, mặt kia lưỡi dao vẫn còn dính đầy máu khô. Hắn nhớ rằng chính hắn cũng từng có một con dao như thế, nhỏ, sắc, con dao ấy từ thời hắn còn đi cày thuê cho chủ đất.
Dạo ấy bao giờ hắn cũng có nó bên mình để chặt tre nứa, cắt lá chuối và làm những việc linh tinh. Con dao ấy giống hệt con dao của hắn. Từ lúc về làm ruộng nhà, hắn không còn dùng đến con dao đó nữa nên để cho vợ hắn dùng làm con dao trong bếp. Vậy mà giờ nó lại nằm ở đây, ngay nơi cái xác không đầu của con chó nhà hắn bị giấu.
Chột dạ, hắn liền lận con dao vào lưng quần định bụng sẽ đi hỏi vợ hắn xem thị có còn giữ con dao của hắn dao trước không. Hắn muốn xem thực hư cái chuyện trùng hợp lạ kì về  con dao này.
Hắn buông một mồi lửa từ chiếc hộp quẹt trên tay, đám lá dừa khô quắt co lại dưới ngọn lửa, lá khô cháy giòn tan, lép bép, lửa bùng lên càng lúc càng to, liếm cả những cành lá của cây mù u già. Khói toả ra khắp cả khu vườn  bao lấy những ngọn cây.
Chỉ một thoáng sau, cái góc vườn đã trống trơn, chỉ còn trơ lại một khoảng trống đầy tro đen, khói vẫn bốc lên nghi ngút.
Hắn phủi tay, cài lại con dao trong lưng quần, lại gác chiếc rựa lên vai và quay lưng trở vào nhà. Mồ hôi quện với khói đen lại, bóng nhẫy trên gương mặt hắn.
Hắn thở hồng hộc như người vưà đi bộ cả dặm đường dài, mùi khói vẫn còn phảng phất quanh cơ thể hắn. Những câu hỏi về cái chết của con chó, về con dao, về cái việc xác con chó giấu trong chòi, tất cả đều như chĩa vào đầu hắn, không làm sao dứt ra được.
Hắn đi thẳng xuống bếp, sục sạo. Vợ hắn đang ngồi đãi gạo, thấy hắn vội vàng ngó nghiêng lung tung, thị lên tiếng:
- Ông tìm gì mà gấp gáp thế?
- Con dao!
Năm Đức đáp cộc lốc.
- Con dao vót tre của ông ấy hả, mấy ngày nay tự dưng đâu mất, tui tìm hoài không thấy. Bình thường tôi vẫn để trên đầu cái chạn đằng kia!
Vợ Năm Đức chỉ tay về phía cái chạn gần đó.
Hắn không nói không rằng, tiếp tuc sục sạo, trên nóc chạn, dưới chân chạn, trong bếp, dưới gầm bàn, không nơi nào chứng tỏ sự có mặt của con dao ấ.
- Bà không thấy nó nữa từ khi nào thế?
Năm Đức dừng tay lại, hỏi.
- Độ một tuần nay thôi!
Vợ Năm Đức đáp.
Năm Đức thôi không sục sạo nữa, hắn lại gần vợ:
- Có phải đúng nó đây không?
Vừa nói hắn vừa lấy con dao từ thắt lưng hắn ra, chìa cho thị xem. Rồi hắn bắt đầu kể về chuyện cái phần còn lại của con chó đã được hắn tìm thấy như thê nào, con dao đã xuất hiện cạnh đó ra sao.
Vợ Năm Đức im lặng lắng ghe, cầm lấy con dao và nghiêng đầu nhìn nó thật chăm chú. Có một vết cháy nhỏ ở chỗ cán dao do thị từng lỡ tay đặt con dao ấy cạnh bếp lửa. Đúng là cái vết xem xém ấy, vẫn còn đây, rõ mồn một.
- Đích thị nó là con dao của mình rồi!
Thị vừa nói vừa chỉ cho hắn xem cái vết cháy nhỏ trên cán dao.
- Kì quặc!
Hắn thảng thốt.
- Chắc không đấy?
Hắn hoài nghi nhìn vào mặt thị.
- Tôi chắc như đinh đóng cột nó là con dao của ông đấy!
Vợ hắn trả lời.
Hắn chau mày ngắm nghía con dao, lật đi lật lại nó đến mấy lần. Thật là quái gở, không lý nào con dao của mình lại nằm ngoài vườn, không lý nào cái tên trộm khốn nạn ấy lại giết con chó của mình bằng chính con dao này. Quả là vô lý hết sức.
Hắn lại quay sang nhìn vợ, ánh mắt đăm chiêu của hăn khiến thị không khỏi bồn chồn. Chính thị cũng đang có những câu hỏi trong đầu mà dường như cũng không có câu trả lời như hắn. Thị muốn nhắc lại câu chuyện về thằng Dũng và thằng em trai yểu mệnh của thị, muốn kể cho hắn ghe tất cả đầu đuôi câ chuyện, và để hắn hiểu được nỗi lo của thị mỗi khi nhìn thấy thằng Dũng mỗi ngày một lớn, mỗi ngày một giống thằng em thị như đúc.
Do dự một lúc rồi thị lại thôi. Thị e Năm Đức sẽ quát nạt vào cái thói tin dị đoan của thị, rồi lại càng coi thường thi hơn vì cái chuyện trước đây thị lỡ tiếp tay cho mẹ thị hại chết thằng em trai. Nămsẽ cho rằng chính những ám ảnh tội lỗi đã làm thị ngu muội đi. Nghĩ thế thị đành thôi , nhưng trong lòng khôg khỏi hoang mang.
Năm Đức lắc đầu, thở dài rồi bỏ đi trở ra vườn.
Còn lại một mình thị ngồi trầm ngâm trong bếp, sàng gạo đang đãi dở cũng bỏ đấy, thị tần ngần nghĩ ngợi. Lúc ngước lên thị giật thót người khi thấy một cặp mắt trẻ con to lồ lộ đang quan sát thị, mất một giây định thần thị mới nhận ra chính là thằng Dũng đang lấp ló sau bậu cửa nhìn trộm, ánh mắt nó có chút gì vừa sợ sệt lại vừa tinh quái, mí mắt thâm thâm với những sợi mi cong dài bất giác khiến thị thấy rợn người.
Thấy thị ngước lên nhìn, nó bỗng nhoẻn miệng cười, đôi môi mỏng tái tái của nó nhênh nhếch, khoé miệng cong lên như đắc chí điều gì, một tiếng cười nhỏ hinh híc trong cổ họng, nó đứng đó chỉ trong một giây rồi bỗng chạy vụt đi. Thị nghe tim mình đập thình thịch trong lồng ngực khi thấy cái nụ cười ấy của thằng Dũng.
Có lẽ nào chính những ám ảnh đã thực sự làm hại đầu óc thị , hay chính là thằng em năm xưa của thị đang hiện về trong thằng Dũng để cố tình trêu chọc, quấy phá thị. Thị thật chẳng biết phải nghĩ thế nào cho ra sự thể.
Thị đưa hai tay lên ôm lấy cái đầu đang quay cuồng với những hình ảnh kì dị, nụ cười của thằng Dũng ban nãy, cái mắt tái xanh của nó, thằng em thị nằm đó, canh bên một chiếc áo quan nhỏ xíu, cái bụng trương lên tím ngắt với một làn dây chuối vòng quanh, cái tiếng cười hinh híc của thằng Dũng... Tất cả như đóng đinh vào đầu óc thị , khiến thị bỗng dưng thấy khó thở, cái cảm giác hãi hùng của một điều gì đó đáng sợ đang kéo đến trong cuộc đời thị khiến thị không sao chịu đuợc.
Thị gượng đứng lên, bước vội về phía cái giếng bên cạnh chái nhà bếp, vục tay vào cái gàu nước bên cạnh để rửa mặt, nước mát khiến thị định thần lại phần nào. Thị nhìn xuống cái bóng mình ở dưới giếng, khuôn mặt bơ phờ  không chút sinh khí. Thị thở dài. Trong suốt những năm tháng của đời mình thị sẽ chẳng bao giờ quên được những chuyện hãi hùng như thế đã xảy ra.Cũng như  những gì mà thị và mẹ thị đã làm trong quá khứ, thị hiểu rằng nó sẽ mãi đeo đẳng mình như một cái bóng ma. Bóng ma của quá khứ.
Buổi sớm mai yên bình ở làng Đại Thuỷ bắt đầu bằng những tia nắng tháng mười lấp lánh xuyên qua đám cỏ còn đẫm sương.
Ngôi làng ngái ngủ với những cây rơm vàng cao nghệu và những nóc nhà ấm cúng  đang dậy khói bếp.  Dân cày đánh trâu ra đồng gọi nhau í ới. Một con vành khuên líu lo trên những cành cây. Khung cảnh ấy khác xa cái không khí lạ kì đang vây lấy gia đình Năn Đức.
Hắn trở nên đăm chiêu và xa cách, khác hẳn mọi ngày. Còn vợ hắn thì bỗng dưng lạnh lùng, bơ phờ và ánh mắt mệt mỏi của thị thường pha lẫn chút sợ hãi mông lung.
Cả hai vợ chồng không ai nói với ai một lời, chỉ có bọn trẻ con vẫn dắt nhau ra sân chơi đùa như mọi ngày, chẳng để tâm gì đến những suy tư của người lớn.
Năm Đức ngồi nhìn ra sân. Thằng con nhặt của hắn đã lên ba đang chạy tung tăng trong sân cùng mấy đứa con gái hắn. Hắn không tin mấy, cũng không để tâm gì đến câu chuyện của vợ hắn. Xưa nay vẫn thế, hắn chẳng bao giờ tin vào những chuyện mê tín “ đàn bà” như vậy.
Đối với hắn những gì xảy ra với con chó cưng của hắn chỉ là một sự trả thù của bọn trộm vặt, tuy có phần khó hiểu nhưng cũng chỉ là do con người làm ra, làm gì có sự can thiệp nào của ma quỷ. Hắn không mảy may nghi ngại gì đến những chuyện ma quái ấy.
Nhưng vợ hắn thì không, thị cảm nhận rõ hơn những nỗi ám ảnh, cảm giác lo lắng như một đám mây đen lúc nào cũng lởn vởn trên đầu th. Cuối cùng, sau mấy đêm mất ngủ kể từ ngày chồng thị tìm thấy cái xác con chó trong vườn, ngay tại cái nhà chòi đồ chơi của thằng Dũng cùng  với chính con dao của Năm, thị dường như thấy rõ những dấu hiệu, dấu hiệu của những sự giết chóc dã man, những điều xui xẻo sẽ xảy đến với gia đình thị. Thị quyết định đi tìm gặp bà thầy bói nổi tiếng ở làng trên. Chắc chỉ có bà ta mới có thể giúp thị , chồng con thị thoát khỏi những chuyện này.
Nghĩ thế, ngay mờ sang hôm ấy thị đã khăn áo chỉnh tề, sửa soạn cơm sáng cho chồng con đâu vào đấy, thị lẳng lặng đi đến chỗ bà thầy bói, không hề nói vơí chồng con một tiếng nào.
Con đường làng hiện ra trong nắng sớm, quanh co như một dải lụa lượn vòng quanh những bụi tre và những nếp nhà. Cái ý nghĩ tìm kiếm sự giúp đỡ từ bà thầy ở làng trên đã an ủi tâm trí thị phần nào, khiến thị thấy yên lòng hơn.
Bà thầy bói ở làng trên vốn nổi tiếng khắp vùng này đã lâu nhưng thị chưa bao giờ tìm đến bà ta trước kia. Nghe đâu bà ta rất giỏi lên đồng, gọi hồn người chết và kết giao với vong hồn.
Thị định bụng lần này tìm đến bà ta để gọi hồn mẹ thị và hỏi cho ra lẽ về chuyện đã xảy ra với thằng em cùng cha của thị. Thị cũng muốn hỏi bà ta xem nếu như có chuyện đầu thai trở thành con người khác thì có thể nào làm hại đến thị và gia đình thị không.
Thị vừa đi  vừa nghĩ ngợi mông lung, chẳng mấy chốc con đường đất rộng lớn đã thu hẹp dần, trở nên mấp mô hơn và lộc cộc đầy sỏi. Thị nhớ theo lời  của mấy bà hàng xóm, chỉ cần rẽ vào con đường sỏi hẹp này độ một trăm thước rồi  băng ngang qua bãi đất ruộng bỏ hoang, đi về phía ngọn đồi đất là sẽ thấy căn nhà nhỏ  lợp lá dừa của bà thầy.
Đúng như lời chỉ dẫn đó, thị thấy thửa ruộng hoang nứt nẻ đã hiện ra bên đường cách thị độ vài chục mét nữa.
Ngọn đồi con con mập mờ phía sau thửa ruộng ấy nhưng căn nhà của bà thầy vẫn chưa thấy đâu. Thị băng qua dải đất hoang, không có lối đi, cỏ  mọc lởm chởm và đất khô rắn, mấp mô dưới chân thị.
Ngọn đồi càng lúc càng gần thị hơn. Cái nắng chói chang của ngày tháng mười khiến thị cảm thấy hừng hực trong người và nôn nóng tìm kiếm căn nhà của bà thầy bói hơn.
Thị nhẫn nại bước từng bước dài trên nền đất cao thấp không bằng phẳng ấy. Ngọn đồi đã hiện ra rõ rệt ngay trước mắt thị , những bụi cây nhỏ thấp lè tè vây lấy xung quanh, dường như không còn có lối đi nào khả dĩ nữa. Thị dừng bước, ngó nghiêng bốn phía hy vọng sẽ tìm thấy một lối mòn, một chái nhà, hay dù chỉ là một chút dấu vết sự có mặt của con người. Hoàn toàn trơ trọi và hoang vắng. Trong tầm mắt thị không hề xuất hiện một chút gì những chi tiềt đó mà thị đang mong đợi.
Thị gỡ lấy chiếc nón lá, quạt phành phạch lấy gió rồi nhẫn nại bước tiếp. Được một chốc thị lai dừng chân, ngó nghiêng, vẫn không hề có bất cứ thứ gì trông như căn nhà mà thị được mô tả cả. Thị trông thấy một bụi cây gì lùm xùm cách đó mấy bước chân. Định bụng đến nghỉ chân dưới lùm cây ấy một chốc trước khi đi tiếp để tìm kiếm căn nhà.
Thị vừa đến gần tán cây thì mừng rơn khi bất giác nhận ra một bên cái nhà lợp lá dừa lấp ló ngay sau bụi cây ấy. Quên bẵng chuyện nghỉ chân, thị nhanh nhảu bước vòng ra sau bụi cây ấy, tiến vè phía căn nhà. Nói đúng hơn là một ăn chòi thấp lè tè, mái lợp bằng lá dừa khô, tường nhà đắp bằng đất trông lụp sụp hết sức. Trước nhà chẳng có thứ gì ngoài một cái khạp nước cũ kĩ không đậy miệng, một chiếc gáo dừa sứt mẻ gác lên miệng khạp, trông khô khan như đã lâu không có ai dùng  đến. Thềm nhà cũng bằng đất đắp, cánh cửa gỗ cũ kĩ khép hờ khẽ đung đưa khi có cơn gió qua.
Thị nóng lòng quá, vội vàng bước ngay lên thềm nhà và đưa tay gõ cồng cộc lên cánh cửa ấy. Không có ai trả lời, thị lại gõ thêm mấy bận nữa, cũng chẳng có ai ên tiếng. Cánh cửa càng hé rộng ra hơn khi có trận gió khác thổi qua.
Thị đánh bạo đưa tay mở hẳn cánh cửa ra và dợm chân bước qua bậu cửa.  Trong nhà tối om om và sặc mùi ẩm mốc khiến thị không kiềm được tiếng ho. Thị nhăn mặt, đưa một tay lên che lấy mũi và chớp mắt để quen với bóng tối bên trong nhà này.
Trong nhà trống trơn như vô chủ, một bộ ván gỗ đầy bụi bám đặt ngay giữa gian nhà, mấy cây cột bằng gỗ dừa dường như không chịu nổi sức mạnh của mái nhà sau nhiều năm bị đục đẽo bởi lũ mối mọt. Ở góc nhà là một cái hũ to tướng, cạnh đó là một cái lư hương mà dưới ánh sáng lờ mờ cùa một tia  nắng vừa lọt qua cái kẽ lá dừa trên nóc nhà thị chẳng thể nhìn thấy rõ được là hũ gì.
Thị đứng lại tần ngần bên bộ ván gỗ một lúc thật lâu. Căn nhà cho thị cái cảm giác của một chốn không người ở, một nơi mà bất cứ ai đặt chân đến cũng sẽ nghĩ rằng là căn nhà vô chủ. Thị lặng lẽ nhìn khắp lượt xung quanh nhà. Đột nhiên thị cảm giác một bàn tay đang chạm vào vai mình, hơi lạnh chạy dọc khắp sống lưng thị, thị chẳng dám quay ngưòi lại thì đã giật thót mình bởi một giọng nói khàn khàn:
- Tìm ai?
- Dạ , con tìm cô Sáu Cửu!
Thị lắp bắp nói tên bà thầy.
Bấy giờ bàn tay ấy mới buông vai thị ra. Thị thấy một người đàn bà nhỏ thó trong bộ bà ba đe cũ kĩ và nhàu nát đang đứng đó chăm chăm nhìn thị qua một đôi mắt trắng đục mà thị đoán đã mù loà, gương mặt bà ta rặt những nếp nhăn, già nua, hốc hác.
Bà ta nhóp nhép nhai trầu, khoé miệng đỏ lét chuyển động lên xuống. Thị cứng đờ người chỉ biết đứng nhìn bà ta.
- Bây tìm lão làm gì?
Bà ta chậm rãi đưa một giọng khàn khàn và hất đầu về phía thị.
- Dạ con có việc định lên xin cô Sáu chỉ bảo.
Thị lí nhí đáp.
- Dào ơi , bây ở đâu mà lên tận trên này? Tao đã bỏ cái nghiệp bói toán lâu rồi, bây về đi!
Bà già vừa nói vừa phun bã trầu đánh phẹt xuống sàn nhà thành một bãi đỏ choét đến phát khiếp.
- Ơ... dạ,  cô làm phước giúp cho con với, con khổ tâm quá!
Thị hốt hoảng trước cái tin bà thầy đã bỏ nghề xem quẻ nên vội vả nằn nì.
- Con khổ tâm đến chết mất cô Sáu ạ, mà phần con thì không sao nhưng con linh tính nó sẽ hại cả gia đình con, hại cả các con con nữa, con nghĩ đến chồng đến con con nên mới lặn lội lên tận đây. Xin cô Sáu thương tình mà cho con vài lời để yên ấm trong nhà...
Thị tiếp lời  van nài.
Bà già thở dài, nhìn mông lung lên trần nhà:
- Ta đã già rồi, đã từ bỏ cái nghề nghiệp ấy bấy lâu nay rồi, chắc không giúp gì được cho bây đâu!
Thị nắm lấy cánh tay quắt queo như cành cây khô của bà ta mà nước mắt ngắn mắt dài van vỉ. Cuối cùng bà ta chậm rãi ngồi lên ván và khẽ khàng:
- Thôi thì bây nói thử xem là chuyện gì, có được thì tao giúp cho!
Bà ta vừa nói vừa lấy một vạt áo bà ba lên quệt lấy miệng  và chà chà những kẽ răng vàng ển.
Thị khấp khởi mừng rỡ liền kể ngay một mạch những chuyện mà thị và mẹ thị đã làm nhiều năm trước đây, rồi đến những chuyện hiện tại đang xảy tra với gia đình thị cho bà ta nghe.
Bà lão lắng tai nghe không sót một lời, khoé miệng bà ta khẽ nhếch lên mỗi khi thi nhắc đến thằng Dũng.
Chờ thị dứt lời bà ta mới từ tốn bảo:
- Bây giờ cô phải nghe cho kĩ những gì tôi bảo rồi tuỳ cô có tâm ý thực hiện hay không thì mới mong giải được chuyện này.
Bà ta rù rì nói với thị một chuỗi những việc phải làm và thị chỉ im lặng gật đầu.
Bà ta vừa dứt lời, thị liền hỏi:
- Thưa cô sáu, con còn muốn hỏi cho tỏ những chuyện này. Theo cô thấy thì thằng Dũng có phải là thằng em con đầu thai về không? Con muốn hỏi chuyện mẹ con xem có phải sự thật là bà đã làm hại thằng em con hay không?
Thị nói dồn dập như người đang hối hả, quả tim đập thình thịch trong ngực thị.
Bà lão vẫn giữ vẻ từ tốn như ban nãy, thì thào:
- Đã lâu ta không lên đồng nữa, cũng không biêt trời đất có còn cho ta quyền năng ấy hay không nữa. Lẽ ra ta không thể giúp bây nhưng xét thấy bây cũng khổ tâm quá nên ta phải suy xét lại.
Dừng lại một chút, bà nói tiếp:
- Thôi thì bây về cứ làm như ta bảo rồi ít ngày sau nếu trong nhà chưa thấy yên ổn thì hãy lên đây để ta coi cho một quẻ hẳn hòi. Nếu cần thiết ta sẽ giúp bây thông linh với mẹ bay để hỏi cho ra lẽ.
Bà lão khàn khàn rời khỏi bộ ván và đi từ từ về phía cửa. Thị vẫn chưa thoả mãn với những điều mình muốn hỏi bà ta nên còn chần chừ mãi chẳng chịu ra về.
Cuối cùng bà lão từ ngoài cửa nói vào:
- Bây về đi, hôm nay tao chỉ giúp bây đến đây thôi.
Thị đành phải lủi thủi cầm nón  ra về. Thị tạt qua chợ mua những thứ như bà lão đã căn dặn, mấy nén hương, hoa quả, một cái trang thờ và một chùm tỏi.
Xong đâu đấy thị trở về nhà. Bày cái trang thờ trên vách tường trong gian nhà chính, sửa soạn trái cây và bày một cái lư hương lên. Xong đâu đấy thị mang chùm tỏi treo ngay trước cửa phòng mình, tỏi để ngăn vong hồn về quấy phá trong nhà, sẽ giữ cho thị được bình yên, thị rất tin tưởng vào những lời dặn dò của bà thầy. Xong đâu đấy thị mới lục đục xuống bếp thổi cơm.
Năm Đức đi cày về thấy cái trang thờ mới và chùm tỏi treo trước cửa phòng, hắn bực dọc quát thị mấy tiếng về những thứ mê tín dị đoan ấy rồi hắn bảo thị dọn bữa trưa lên.
Buổi chiều hôm ấy thằng Dũng ngã bệnh. Đấy là lần đầu tiên vợ chồng thị thấy nó sốt như thế từ hồi chồng thị nhặt nó về ba năm trước. Ban sáng nó còn  đang chơi đùa, chạy nhảy vậy mà đến chiều nó đã nằm chèo queo một chỗ, gương mặt xanh xao, mắt thâm quầng đến tội.
Nó thở chậm chạp và đứt quãng. Trong lòng thị đã dấy lên những mối nghi ngại khi thấy thằng Dũng ngã bệnh. Chắc hẳn những lời khấn vái và những điều bà thầy bày cho mà thị đã làm sáng nay đã khiến cho những linh hồn ma quái phải yếu đi. Chắc chắn những bùa phép đó đã khiến thằng Dũng ngã bệnh, chắc chắn phải có sự liên quan gì đó giữa những chuyện này. Thị đoan chắc như vậy.
Tối hôm ấy Năm Đức thức trông chừng thằng Dũng ở nhà ngoài. Một mình thị ngủ ở gian phòng của hai vợ chồng. Thị vừa mệt mỏi ngả lưng xuống giường là đã thiêm thiếp ngay.
Thị bỗng dưng có cái cảm giác một ai đó đang thập thò ở cửa phòng thị bèn chồm dậy, đưa tay vén rèm lên. Thằng Dũng đang đứng ở bậu cửa, cái đầu lơ thơ tóc của nó trông thấy cả mỏ ác, da nó xanh dờn khiến thị thấy ghê ghê.
Nó giương đôi mắt to nhìn thị rồi dấn bước đến gần thị hơn.
- Mày hết bịnh rồi sao?
Thị thảng thốt hỏi nó.
Nó chẳng nói gì chỉ nhoẻn một bên khoé miệng lên cười với thị. Thị vốn chúa ghét cái kiểu  cười nhoẻn miệng của nó, thị lấy làm khó chịu vô cùng:
- Mẹ không cho Dũng ngủ trong phòng này nữa à? Mẹ không thương Dũng.
Nó hỏi thị, giọng ngây ngô.
Thị ấp úng chưa nói nên lời thì nó đã lườm nhìn thị.
- Mày đi ra ngoài ngay, ra ngay!
Thị hét lên với nó, cảm thấy sợ hãi trước cái nhìn của nó và lạnh cả người khi nó càng lúc càng bước lại gần thị hơn. Nó đưa tay ra xô mạnh vào người thị. Bàn tay nó lạnh ngắt, mạnh đến lạ kì. Thị ngã nhoài xuống nền nhà, gương mặt còn đầy vẻ hoảng hốt.
- Mẹ muốn Dũng chết phải không? Mẹ giết Dũng phải không?
Nó vừa tiến về phía thị, vừa hỏi.
Thị lắp bắp mãi không trả lời được, nỗi sợ hãi bao trùm lên khuôn mặt thị , đè nặng lên ngực thị , choáng lấy cả tâm trí thị làm cho đầu lưỡi thị tê cứng lại.
Thị ú ớ mấy tiếng, những âm thanh ấy chỉ nằm lại trong cổ họng thị chẳng phát ra thành lời.
- Bà  nói cái gì thế hả?
Giọng Năm Đức vang lên khàn khàn từ phòng ngoài. Rồi thị nghe bước chân Năm tiến lại gần thị hơn, cảm giác được bàn tay nóng ấm của Năm đặt lên vai thị  nhưng vẫn không đủ hơi ấm để kéo thị ra khỏi cái nỗi sợ hãi đang bao trùm ấy.
Thị thấy toàn thân mình như đang chìm trong một khối nứơc lạnh khổng lồ, cứ chìm dần, chìm dấn và hình ảnh cuối cùng còn lại trong con ngươi thị là đôi mắt to của thằng Dũng đang nhìn thị trừng trừng.
Thị muốn trả lời Năm, nhưng không sao lên tiếng được. Thế rồi bóng tối bao lấy thị, một thứ bóng tối đen đặc, gai góc, thị nghe bên tai tiếng trẻ con đang cười sằng sặc, cả tiếng nói xa xăm của Năm. Thị thấy cánh tay mình bị lay thật mạnh, và cố hết sức để mở mắt ra.
Trong ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn dầu trên đầu tủ thị thấy Năm đang đứng ngay cạnh thị , tay nắm lấy cổ tay thị.
- Bà nói mớ lớn tiếng thế? Thằng Dũng nó đang ngủ đấy!
Hắn đưa một ngón tay lên miệng ra hiệu cho thị in lặng đi. Rồi hắn lại nhẹ nhàng đi trở ra ngoài. Thị vẫn còn cảm thấy tiếng quả tim đang sợ hãi  trong lồng ngực mình, hai bàn tay thị đầm đìa mồ hôi và hãy còn run run. Thị không rõ ấy là một cơn ác mộng hay những gì vừa xảy ra là thật. Thị thấy mình vẫn còn nằm trên giường, không phải trên nền nhà, và như chồng thị vừa bảo thì thằng Dũng vẫn đang ngủ ngoài kia.
Thị cố trấn tĩnh mình lại, và lồm cồm bò dậy khỏi giường. Thị đi nhanh ra gian nhà giữa, thắp cái đèn dầu lên và đốt một nén nhang. Xong thị đứng trước cái trang thờ mới rước, chắp tay lầm rầm khấn vái.
- Em có linh thiêng sáng suốt thì xin hãy tha thứ tội lỗi này cho chị và mẹ chị. Xin em hãy bỏ qua để linh hồn được nhẹ nhõm đi.
Khấn vái một hồi thị thắp nhang lên và trở lại gian nhà sau. Lúc đi ngang qua chỗ thằng Dũng đang ngủ thị chỉ dám nhìn nó một cái thật nhanh. Gương mặt nó trắng bềnh bệch dưới ánh đèn dầu. Thị rùng mình một cái liền vội quay đi ngay. Đêm ấy thị trằn trọc mãi không tài nào ngủ được.
 
***
 
Cái giỏ nặng trình trịch trên tay thị, thị liền đưa sang một tay khác. Con đường từ chợ về đến nhà đủ xa để cái giỏ trên tay thị càng lúc càng thấy nặng nề hơn. Thị dừng lại bên gốc một cây sung giá, thở  dốc và lau mồ hôi trán. Gương mặt thị đỏ gay vì cái nắng chói chang. Đã tầm trưa nên người đi chợ về trên đường làng cũng vắng dần.
Sáng nay thị thức dây muộn nên ra chợ trễ, lại nấn ná chuyện trò cùng mấy bà bạn hàng rau nên chợ tan đã lâu thị vẫn chưa về đến đầu làng.
Thị quạt phành phạch cái nón lá trên tay, mồ hôi lấm tấm trên lưng áo âu của thị. Con đường vàng hanh lên dưới cái nắng, bụi tre làng đong đưa trong gió phía xa xa.
Ban đầu thị chỉ định nghỉ chân một chốc rồi đi tiếp về  nhà, nhưng khi lại cầm cái giỏ đầy nặng trĩu lên thị lại nghĩ đến một con đường đi tắt vòng qua bãi ngô của làng, con dường ấy hẳn phải nhanh chóng về đến nhà hơn là con đường đi thẳng qua cổng làng như thị vẫn đi mọi ngày.
Nghĩ thế, thị liền rẽ vào con đường mòn xuống bãi ngô ấy. Con đường nhỏ dần, nhỏ dấn rồi mất hút hẳn sau bãi ngô. Bóng dáng thị cũng mất hút luôn sau bãi ngô ấy.
Con đường này đã lâu không có ai lui tới ngòai những người ra thăm đồng nên cỏ mọc cao lên dần che kín cả lối đi, và cũng không thật gần như thị tưởng. Nó xuyên qua bãi ngô, vòng vèo lượn ra sau một đám đậu tương. Lâu rồi không qua con đường này, thị thấy nó dường như khác hẳn, có lẽ người ta đã trồng đậu tương và cải nối tiếp theo bãi ngô, thị khó mà tìm thấy con đường trở ra lối mòn dẫn ra cạnh nhà như mọi khi.
Đi được một lúc, đã thấm mệt, thị dừng lại nghĩ ngợi. Cả người thị nóng hực và lâng lâng như người say nắng. Thị đảo mắt nhìn quanh vẫn không thấy một lối đi nào. Chẳng lẽ phải quay ngược trở lại, thị nghĩ ngợi.
Bãi ngô rậm rạp, cả con đường vừa đi qua thị cũng không tìm lại được. Thị bắt đầu hoang mang và bực dọc, đứng lại rồi lại đi tới đi lui. Quanh thị là bãi ngô, một trảng đậu tương và cải, băng qua trảng rau ấy lại là rẫy ngô. Không có lối ra, cũng chẳng biết lối quay trở lại con đường lớn thị đành nhắm hướng cũ mà đi ngựơc trở lại.
Lòng vòng mãi trong bãi ngô gần cả giờ đồng hồ, thị thầm oán trách chính bản thân mình đã ngu ngốc mà đi vào con đường này. Luẩn quẩn một lúc lâu, thị trông thấy một lối mòn nhỏ ở giữa bãi ngô đành đánh bạo đi theo lối đó vì thị mất hết kiên nhẫn để xác định phương hướng. Thị nghĩ thể nào cũng phải có lối ra, nếu là đường mòn thì ắt phải dẫn đến đâu đó, chỉ là mộ cái bãi ngô chứ có phải mê cung rộng lớn gì cho cam.
Thế là thị dấn bước theo con đường ấy. Lối mòn dẫn thị trở ra một bãi đất trơ trọi. Thị nhìn quanh quất thì thấy một xóm nhà lạ hoắc. Thị chẳng biết xóm nhà ấy là làng trên xóm dưới nào, chỉ biết hy vọng có ai đó sẽ cho thị mấy hớp nước và  chỉ hộ thị đường quay trở lại làng Đại Thuỷ.
Trời đã đứng bóng, thị đành hối hả bước. Chắc hẳn chồng thị và bọn trẻ con đang đói meo ở nhà vì thị bị lạc mãi ở cái bãi ngô này cả buổi sáng - thị ngẫm nghĩ.
Vào đến hiên một căn nhà nhỏ ở ngay đầu xóm, thị cất tiếng gọi, không có người đáp. Có vẻ như không có ai ở nhà. Thế là thị đành phải đi vào một ngôi nhà khác trong xóm.
Dân ở đây ra đồng hay đi đâu hết cả, nhà nhà đều đóng cửa im ỉm. Buổi trưa im vắng đến dựng người. thị nhìn thấy một căn nhà nhỏ, thấp lè tè ở ngay giữa xóm, trước nhà có một cây lêkima và một cái khạp lớn đựng nước mưa liền rẽ vào ngay.
Không có gáo dừa, cũng không có vật gì để múc nước lên, thị đánh bạo vục tay vào khạp nước uống lấy uống để. Vẫn chưa đã khát, thị vục cả mặt vào cái khạp nước, quên cả việc gia chủ là người lạ hoàn toàn không quen biết gì với mình. Bỗng có một giọng cười  trẻ con vang lên ngay bên tai thị, không kịp ngước mặt lên dể xem thưc hư, thị đã cảm thấy một bàn tay nhỏ nhắn đặt lên vai thị , ấn mạnh khuôn mặt thị xuống cái khạp nước. Giọng trẻ con cười sằng sụa lại vang lên bên tai thị, thị dưa một tay lên cố gỡ cái bàn tay đang ấn vai mình ra.
Nước trong cái khạp đang tràn vào mũi miệng khiến thị không kêu la gì được. Cái cườm tay mà thị nắm lấy đươc rõ ràng là tay trẻ con, mềm và lạnh hư bún. Thị cảm thấy sợ hãi tột cùng và tuyệt vọng.
- Mày đã giết tao phải không?
Thị nghe một giọng con nít rất đanh đá lên tiếng hỏi. Rồi cái bàn tay lạnh ngắt đang ấn vai thị nới lỏng ra một tẹo  nó buông vai thị ra và lại nắm lấy cổ thị, lôi mạnh thị lên khỏi miệng cái khạp nước.
Thị thở hổn hển chưa đầy một giây thì nó đã ấn thị xuống nước trở lại . Thị không biết, không hình dung được nó là ai hay là cái gì, chỉ biết thoáng nghĩ rằng nó là một đứa con nít.
Tâm trí thị cũng không còn đủ sáng suốt để suy nghĩ đươc gì.
- Có phải mày không hả, có phải mày đã giết em mày không?
Cái giọng ấy lại lớn tiêng hỏi thị lần nữa. Nó lại cười sằng sặc, giọng cười nghe man dại đến ghê cả người.
Nó lại lôi cái đầu thị lên, rồi lại trấn nước thị kèm theo những tràng cười dị hợm.
- Mày phải thú nhận mau, mày giết em mày phải không?
Nó lại hỏi  vừa mặt lôi thị lên khỏi miệng cái khạp, gác cái đầu đẫm nước của thị lên miệng khạp.
Lúc này mắt mũi thị đã tối sầm lại, thị chẳng còn biết gì, cũng không trông thấy gì , không còn hơi sức để kháng cự. Thị lấy hết sức bình sinh trả lời nó bằng một giọng thều thào:
- Tôi không cố ... ý giết... em... tha...
Thị đứt hơi không nói được nữa, cái bàn tay ấy lại nắm lấy cổ thị đau buốt, lại ấn thị vào khạp nước.
- Không cố ý này, không cố ý này, hahaha...
Và nó lại cười lớn. Đột nhiên giọng cười ấy im bẵng một cách đột ngột. Thị nghe thấy tiếng chó sủa xa xăm, tiêng người nói, tiếng đàn ông đàn bà lẫn lộn. Cả người thị đau như dần.
Có ai đó đặt tay lên mặt thị lay lay mạnh. Thị mở dần mắt ra, cảm thấy người mình ẩm ướt và không chút sức lực. Ánh sáng ban ngày mờ mờ trước mắt thị . Thị thấy những cái bóng đang vây lấy thị . Thị cố mở mắt to hơn.
- Tỉnh rồi , tỉnh rồi kìa!
Giọng một người đàn bà lanh lảnh bên tai. Người ta đỡ thị ngồi dậy, dìu thị đi một quãng rồi lại đặt thị ngồi xuống một cái giường và đặt chiếc giỏ đi chợ lại  bên tay thị.
Thị vẫn không đủ sức lực để hỏi xem chuyện gì đã xảy ra với thị. Cả giờ đồng hồ sau thị mới dần hoàn hồn lại. Thị thấy bà Cả hàng xóm nhà thị đang ngồi cạnh bên. Thị đang ngồi trong gian sau  nhà bà Cả. Thấy thị cố sức gượng ngồi dậy, bà ta bảo:
- Nhà Năm, nghỉ đi đã, tôi đã cho bọn nhỏ  đi gọi anh nhà rồi!
- Tôi làm sao thế hả bà Cả? Tôi đi chợ về...
Thị gắng gượng nói không nên lời.
- Tôi đã bảo cứ nằm nghỉ đi kia mà. Chị bị say nắng ngã xuống cái ao cạnh đám  mả làng, may mà dân cày làng mình vớt lên kịp đấy. Mà đi chợ đi búa gì lại đi  lối đó kia chứ...?
Bà Cả nói giọng dè dặt.
-  Tôi...  không...
Thị định kể lại là thị bị lạc giữa đám ngô vì muốn đi đuờng tắt về làng cho sớm, thị muốn nói cho bà Cả nghe chuyện thị bị trấn nước nhưng thị không đủ hơi sức, không đủ tỉnh táo gì cả.
Nhưng hơn ai hết thị biết rằng thị không say nắng cũng không phải bị ngã xuống ao, thị rõ ràng là bị trấn nước, bị trấn nước để phải thú nhận một sự thật mà bấy lâu thị luôn giấu kín trong thâm tâm mình.
Cuối cùng Năm Đức, chồng thị cũng xuất hiện ở bậu cửa.
Hắn hớt hải:
- Bà đi đứng làm sao thế hả bà, lớn rồi mà còn bị ngã xuống ao là sao. Tôi lo muốn chết đi đáy?
Hắn vừa nói vừa đỡ thị đứng dậy, lại quay sang cảm ơn bà Cả rồi dìu thị về nhà.
Trời đã về chiều. Lúc này thị cũng bắt đầu tỉnh táo hơn. Thị vịn tay lên bậu cửa định đi xuống bếp thì thấy chùm tỏi thị treo trên cửa ngày hôm qua đã mất tăm chỉ còn trơ lại cái cuống. Thị hớt hải chạy lên gian nhà trên cũng chẳng thấy cái bàn thờ mới đâu cả. Thị như rụng rời tay chân. Thị chẳng biết chuyện gì đã xảy ra, ai đã tháo mất những bùa phép mà thị cố công rước về để bảo vệ cái nhà này, bảo vệ thị , chồng con thị khỏi bàn tay của ma quỷ.
Những nỗi sợ hãi, ám ảnh, các tai nạn cứ thế bám riết lấy thị kể từ ngày thị bắt đầu nghi ngờ thằng Dũng chính là thằng em thị đầu thai trở về để báo oán. Thị gạn hỏi về cái trang thờ và chùm tỏi trong bữa cơm chiều thì Năm trả lời qua loa:
- Tôi thấy trong nhà có những cái mê tín ấy không hay nên  tháo gỡ cả đi rồi. Thôi , ăn đi!
Rồi hắn gắp cho thị một miếng thịt lớn.
Hôm  nay thằng Dũng đã khỏi bịnh, lại chạy chơi khắp nhà. Nhưng ánh mắt nó nhìn thị không còn giống trước kia chút nào. Nó thường trừng trừng nhìn thị, cũng không nhoẻn miệng cười như trước, hễ thấy thị là nó lại gầm mặt xuống, ánh mắt nó tối sầm lại, vẻ mặt nó thờ ơ pha lẫn chút giận hờn khiến thị không thể nào chịu nổi.
Thị cố nhịn chờ đến lúc Năm Đức vừa lên giường, thị liền đóng cửa, cài then trong phòng rồi đến ngồi cạnh hắn. Thị bắt đầu kể lại cho Năm chuyện thị bị lạc, chuyên thị thấy mình bị trấn nước ra sao. Chuyện thằng Dũng ngã bịnh và khỏi bịnh trùng hợp như thế nào với cái ngày thị rước cái bàn thờ về nhà.
Thị thì thào kể cho hắn nghe tất cả, hắn im lặng một lúc rồi lên tiếng:
- Thế bà có hại chết thằng em của bà thật không?
- Tôi không biết, tôi không biết mẹ tôi có bỏ cái gì vào chén thuốc không nữa..
Nói đến đấy hình ảnh thằng bé nằm bên cạnh cái áo quan nhỏ, bụng  trương phình lên, tím ngắt với một sợi dây chuối buộc ngang lại hiện lên trong tâm trí thị.
Trong thâm tâm mình, thị biết rằng mình đã tiếp tay cho một tội ác, điều mà suốt bao năm qua thị chẳng bao giờ quên được, thế nhưng ngoài miệng chị vẫn không muốn nói thẳng ra cái điều mình đã làm. Thị cảm thấy xấu hổ với lương tâm thị, xấu hổ với chồng thị.
- Chắc tại bà ám ảnh bởi cái chết thằng nhỏ nên mới thế ...
Năm Đức lại lên tiếng.
- Không, tôi có linh tính rồi đây linh hồn nó sẽ làm hại tôi, sẽ làm hại cả cái gia đình này. Bà thầy Sáu ở xóm trên có bảo tôi rằng trẻ con chết bụng trương lên sẽ kkhông đầu thai làm người được. Nó sẽ mang cái nghiệp của kiếp trước chờ được đầu thai thành quỷ để báo oán. Ông thấy không, tôi bị trấn nước ngay đám mả ấy, chỗ cái cây lêkima là chỗ cha tôi đã chôn thằng em tôi đấy. Ông phải tin tôi chứ!
Thị tiếp lời liền một mạch.
Năm Đức vẫn làm thinh, thực lòng hắn chẳng hề tin vào những chuyện thị đang kể nhưng trước cơn hoảng loạn của thị, hắn cũng đành nói xuôi:
- Thôi thì mai tui với mình lên bà thầy Sáu để hỏi cho rõ ràng. Đã yên tâm chưa?
Thị dứt lời, lẳng lặng đi nằm. Lại thêm một đêm nữa thị trằn trọc không yên giấc.
Mới tờ mờ sáng hôm sau thị đã lay chồng dậy nhưng Năm Đức lại kiên quyết bảo sáng nay hắn phải đi cày cho xong thửa ruộng. Hắn bảo thị đến trưa xong buổi cày hắn sẽ đi cùng thị lên nhà bà thầy Sáu. Thị đành phải lẳng lặng vâng theo lời hắn dù ruột gan thị như đang trên bếp lửa. Thị bước lên nhà trên xem chừng ba đứa con gái thị đang ngủ say, thằng Dũng cũng ngủ say ngay cạnh bọn con gái, thị chần chừ không dám nhìn thẳng vào khuôn mặt thằng Dũng. Thị bỏ ra sau bếp.
Giữa buổi sáng hôm ấy, đang cắt đám cỏ ngoài vườn, thị bỗng thấy choáng ngạt và lạnh rơn cả người. Thị liền chạy ngay vào nhà, vớ lấy chai dầu gió và ngồi phịch xuống bộ ván. Thị xoa dầu lên trán lia lịa. Chắc mình bị trúng gió. Thị ngẫm nghĩ. Mệt quá thị ngả người lên ván, vai tựa nhẹ vào vách tường nhà.
Thị đang lim dim thì bỗng mở bừng mắt: thằng Dũng đang ngồi ngay cạnh bên thị, giương mắt lên nhìn thị. Trong nhà im vắng, bọn  con gái thị thì đã đi học hết  cả, chồng thị đã ra đồng, chỉ trong một cái chớp mắt ngay sau khi thị vừa nhận ra sự có mặt của thằng Dũng  kề bên mình thì ngay lập tức nó đã leo lên người thị , một bàn tay nhỏ của nó chặn lên cổ họng thị , tay kia nó tóm lấy mũi thị, thị không sao thở được.
Nó đang ngồi trên bụng thị, không cách gì đẩy nó ra khỏi người mình được, thị vùng vẫy một cách vô vọng trong khi thằng Dũng cứ đè mạnh tay hơn, khiến thị không còn một chút không khí nào để thở. Trong cái nhìn hãi hùng của thị chỉ còn lại hình ảnh đôi mắt to, trắng dã của thằng Dũng đang nhìn chằm chằm vào mặt thị.
Nó bóp mũi thị càng lúc càng chặt hơn, bàn tay nhỏ bé của nó mạnh kinh khủng, thị vẫn cố vẫy vùng. Nó cười nhênh nhếch mép. Nó thét vào mặt thị đầy hung hãn:
- Mày đã giết em mày! Mày đã giết em mày! Mày phải chết!
Gương mặt nó càng lúc càng trắng bệch và đầy sát khí. Hai bàn tay thị giữ lấy tay nó, bấu thật chặt mà không thể nào gỡ ra được. Rồi nó cười lớn, cười thật lớn đầy khoái trá và thoả mãn, cặp mắt nó dại đi, gần như không còn chút con người nào trong đó. Cái miệng nhỏ mỏng dính của nó tái lại, nụ cười vẫn còn đọng mãi trên đó, quái dị và ác độc đến ghê người.
Thị đã thôi không còn kháng cự được nữa, thị lại thấy hình ảnh thằng em thị nằm đó với cái bụng tím ngắt, trương phình lên. Thị nhắm mắt lại, buông xuôi rồi lịm dần lịm dần vào bóng tối trong tiếng cười của thằng Dũng.
Mười ngày sau đó, ma chay cho vợ xong xuôi, Năm Đức trở nên buồn bã và rầu rĩ hơn. Vợ hắn ra đi quá đột ngột bỏ lại cho hắn cả ba đứa con gái và thằng Dũng, một mình hắn không  thể vừa chăm nom lũ con, vừa cày bừa và lo việc ruộng vườn được.
Hắn vẫn còn bàng hoàng về cái chết của vợ mình. Hôm ấy hắn đi ra đồng về thì thấy thị đã tắt thở trên ván, bên cạnh thị là chai dầu gió còn lăn lóc. Hàng xóm túa lại, ra sức cứu chữa nhưng đã quá muộn, thị đã tắt thở từ lâu.
Trúng gió. Chính là nguyên nhân cái chết của thị, người trong làng bảo nhau thế, Năm Đức cũng tin như thế. Nhưng cái hôm tẩn lịm thi thể thị, Năm Đức có để ý thấy một vệt tim tím trên cổ thị, trông như vết ngón tay nhưng trông kĩ lại không phải, dấu vết ấy quá ngắn để có thể vết ngón ta. Cái ý nghĩ có ai đó đã siết cổ thị thoáng qua trong óc hắn trong một giây rồi tan biến đi ngay.
Hắn thấy nhà cửa trở nên vắng vẻ lạ thường, bữa cơm chỉ còn lại cha con hắn, trống trải lạ thường.
Hắn vẫn thường nghĩ ngợi dến những điều vợ hắn đã nói trước khi thị qua đời mấy ngày. Mỗi khi hắn băn khoăn, thắc mắc tại sao vợ hắn đang khoẻ mạnh lại bỗng dưng trúng gió mà chết thì một chuỗi các sự việc xảy ra trước đó với thị lại hiện ra trong tâm trí hắn. Hắn vẫn thường suy nghĩ đến thị.
Cái hôm thị qua đời, lẽ ra hắn phải cùng thị đến nhà bà thầy bói để giải toả những nỗi lo lắng của thị, lẽ ra hắn phải để tâm đến thị hơn. Hắn chợt nghĩ đến bà thầy bói. Hắn thầm oán trách những điều mà bà ta đã nhồi nhét vào đầu thị, khiến thị hoá ra căng thẳng và mệt mỏi như thế. Hắn cứ nghĩ suy mãi về những điều ấy.
Mấy  đứa con gái hắn cũng buồn bã và ít chơi đùa đi. Chỉ có thằng Dũng là vẫn ngây ngô cười nói như mọi ngày.
Hôm ấy không  phải ra đồng, con bé con gái út của hắn đau nặng đã nằm liệt giường suốt ba ngày qua. Hắn phải thức trông con cả đêm bấy giờ đã mệt nhoài nên ngả người lên ván định nhắm mắt lại một lúc cho tỉnh táo. Hắn vừa ngả lưng xuống ván là ngủ ngay.
Hắn lại thấy vợ hắn về trong giấc chiêm bao. Hắn thấy thị đến đứng ngay  cạnh đầu giường chỗ hắn nằm. Thị trông tái xanh và yếu ớt lắm. Thị vừa khóc thút thít vừa gọi hắn. Hắn lên tiếng cố hỏi thị nhưng thị không trả lơì, chỉ vừa khóc vừa bảo hắn phải lo đi tìm bà thầy Sáu để bà ta giúp đỡ cho, nếu không thì cái vong hồn của em trai thị sẽ giết hại cả mấy đứa con gái. Hắn hoang mang chưa kịp hỏi đầu đuôi gì thì thị đã lẳng lặng bỏ ra cửa đi mất . Thị đi nhanh đến nỗi hắn vừa chạy theo ra đến cửa thì thị đã mất hút từ lâu.
Hắn tỉnh giấc với những lời nói của thị vẫn còn đâu đó bên tai. Hắn nghĩ mình vì quá buồn rầu nên mới sinh ra những ý nghĩ như vậy. Hắn nhìn sang bên cạnh, con bé út đang sốt nằm thiêm thiếp, thằng Dũng đang ngồi chơi cái đèn lồng một cách lặng lẽ.
Hắn đột nhiên quyết định rằng hắn sẽ đi tìm bà thầy bói xem sao. Tuy xưa nay không bao giờ tin vào những chuyện bói toán nhưng hình ảnh vợ mình cứ ám ảnh mãi trong đầu khiến hắn không sao chịu được.
Hắn có một linh tính rằng cái chết của vợ hắn có một lý do khác hơn là trúng gió, tuy rằng không có cách nào lý giải được nhưng trong lòng hắn vẫn đầy những khúc mắc.
Chiều hôm ấy, sau bữa cơm trưa với mấy đứa nhỏ hắn dặn dò đứa con gái lớn trông em rồi mặc áo, mang dép, hắn quyết định đi hỏi chuyện bà thầy Sáu.
Như lời hỏi thăm từ hàng xóm, hắn chẳng mấy vất vả đã tìm được căn nhà nhỏ lợp lá dừa của bà thầy Sáu. Hắn nhẹ nhàng lên tiếng gọi thì thấy bà ta từ trong nhà chống gậy đi ra.
- Đứa nào gọi đó bây?
Bà ta hỏi .
- Tôi..ơ..
Năm Đức đáp.
Bà thầy bói run rẩy bước về phía hắn, giọng nói khản đặc của bà ta làm hắn thấy bối rối.
- Bây lên đây có chuyện chi?
Hắn vụng về giải thích cho bà ta về chuyện vợ hắn và những diều tai ác, bất hạnh đã xảy ra với gia đình hắn trong những ngày tháng vừa qua. Đôi mắt trắng đục của bà ta nhìn thẳng vào hắn, chăm chú lắng nghe rồi bà ta chậm rãi đi vào nhà, bỏ mặc hắn đứng tần ngần ngoài ngõ.
Đi được mấy bước, bà ta chợt quay lại, bảo hắn:
- Đi vào nhà đi!
Hắn vâng lời bà lão, yên lặng bước theo.
Bà ta từ từ đi về phía cái bàn thờ có ngọn đèn dầu lưu li đang thắp và với tay vặn lớn ngọn đèn lên.
Năm Đức nhìn chằm chằm vào một cái hủ thuỷ tinh lớn đặt trên bàn thờ ấy. Có vật gì đen đen đang lềnh bềnh trong một thứ nước vàng ệch bên trong hủ ấy. Dưới ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn dầu Năm mường tượng rằng cái vật âý là hình thù của một cái bào thai độ ba bốn tháng tuổi, tứ chi còn nhỏ như chân chuột, cái đầu to và nhô ra phía trước.
Bà thầy lần rầm khấn vái một lúc thật lâu rồi quay sang nói gì đó với cái bào thai trong lọ. Xong bà ta lại quay về phía Năm, giọng bà ta lúc này khác hẳn, trở nên the thé như giọng trẻ con nhưng lại pha chút  đanh đá và khô khốc:
- Ta có biết chuyện nhà bây chỉ tiếc rằng chưa giúp vợ bây đến nơi đến chốn thì thị đã gặp chuyện không may như vậy. Thôi ngươi ngồi xuống ván để ta xem cho.
Năm Đức vẫn không thể rời mắt khỏi cái hủ kì dị ấy. Bà thầy kéo hắn ngồi xuống ván. Hắn lại đảo mắt quanh gian nhà tối tăm và ẩm thấp một lần nữa.
Bà  thầy đến ngồi trước mặt hắn, hạ giọng thầm thì:
- Bây phải biết một sự thật chính là do con vợ bây thú nhận với ta. Chính thị đã tiếp tay cho mẹ thị giết chết thằng con rơi của cha thị . Việc này ta rõ hơn ai hết vì năm xưa chính mẹ  thị cũng đã tìm đến ta để thú tội sau khi gây ra chuyện ấy. Tội lỗi nặng nề tâm can!
Bà thầy lúc lắc cái đầu nhỏ thó, nhăn nheo và lơ thơ tóc  của bà  ta, lặp đi lặp lại những câu nói gì vô nghĩa đối với hắn. Nhưng ít ra bây giờ hắn cũng hiểu được rằng cái chết của thằng em trai thị là có thật, do một tay thị và mẹ thị gây ra, thảo nào mà những chuyện đó ám ảnh thị suốt cả đời đến tận lúc chết.
Bà thầy lại từ từ rời khỏi bộ ván, đi về phía cái góc nhà chất những đồ đạc cũ kĩ đầy mạng nhện. Bà ta với tay lên trên cùng của cái đống hổ lốn ấy, vào một cái giỏ lát bụi bặm và lấy ra một xấp giấy gì đó nhàu nhò, vàng xỉn. Rồi bước nhanh về phía hắn và thảy tập giấy đánh phạch xuống ngay trước mắt Năm.
Bấy giờ hắn mới nhận ra cái mớ giấy nhàu nhò ấy là một cuốn sách đã rách bươm. Bà thầy đưa những nhón tay như những cái que khô quắp chỉ có da và xương của bà ta lật nhanh từng trang  và cuối cùng dừng lại ở một trang giấy ngoằn nghoèo đầy những hình vẽ kì dị.
Năm Đức dán mắt vào cuốn sách nhưng vẫn chưa hiểu được bà ta muốn chỉ cho hắn xem điều gì. Bà ta rà cái móng tay đen kỉn của mình trên từng dòng chữ viết bằng tiếng Miên, vừa nói:
- Những cái chết của trẻ con bị đầu độc, nếu không rạch bụng sau khi hết để máu đen chảy hết đi thì sự uất ức sẽ còn lưu lại mãi cho đến năm kiếp sau. Linh hồn trẻ con rất dễ bị ma quỷ dẫn dắt, nếu sau chín mươi ngày không siêu thoát được sẽ đầu thai thành quỷ dữ dưới lốt con người để báo thù.
Năm Đức sởn gai ốc trước những lời nói của bà thầy, hắn thấy ghê người bởi những lý thuyết mà ba ta vừa đọc lên trong cuốn sách ấy.
- Nhưng loài quỷ là loài chỉ có thể trấn áp bằng bùa phép chứ không có phương cách gì tiêu diệt được, nhất là loài quỷ có dòng máu đen do thuốc độc chảy trong người. Theo ta nghi ngại thì chính thằng con rơi mà bây nhặt về chính là vong hồn quỷ đầu thai. Như bây nói thằng nhỏ bị đau nặng khi vợ bây mang cái chùm tỏi về nhà và dựng cái bàn thờ lên …
Năm Đức thấy mình bị hút vào những lời nói của bà ta, cảm giác như mình đang bị thôi miên bởi một thứ tà thuật gì đó.
- Quỷ là giống rất dã man, không những chỉ giết hại những người gây oán với nó, nó còn giết cả những ai cản trở hoặc làm phật ý nó.
Bà già nói tiếp.
- Nhưng lấy gì mà nói chắc thằng Dũng con tôi là quỷ đầu thai?
Năm Đức bất chợt lên tiếng.
- Theo như ta nhìn thấu thì những dấu hiệu trên ấn đường của mi cho thấy thì âm khí đang bao quanh mi dày đặc lắm. Âm khí! Chứng tỏ những điều tai ác từ vong hồn của quỷ vẫn còn đang bám theo mi, chờ cơ hội để làm hại mi hoặc người thân của mi. Nó còn chưa dứt đeo đẳng mi đâu.
Bà thầy tiếp lời, vừa gằn giọng và nhìn thẳng vào mặt hắn. Năm thấy lạnh người, anh vẫn hoài nghi chưa tin vào những điều kì dị mà mà bà thầy vừa nói.
Bà ta lai tiếp lvới một giọng thì thào:
- Có phải có người thân nào khác trong nhà mi đang gặp chuyện nữa  không? Có ai đang đau bịnh phải không?
Năm Đức nghĩ đến con bé út con hắn đang sốt li bì ở nhà, chợt rùng  mình. Nhưng hắn lấy lại bình tĩnh ngay,  lảng tránh câu hỏi của bà thầy bằng một câu hỏi khác:
- Vậy bây giờ tôi làm thế nào mới giải trừ được vong hồn đang làm hại gia đình tôi?
Bà thầy quay lưng lại với hắn, chắp hai tay sau lưng rồi từ từ quay đi, vừa lắc đầu vừa lên tiếng:
- Không có cách chi, trừ phi bây giết chết cái thể xác mà nó đang trú ngụ, rồi nhanh chóng thiêu cháy cái thể xác đó thành tro trong vòng thời gian ba ngày. Nếu để lâu hơn, linh hồn sẽ rời khỏi thể xác đó và tìm cách  đầu thai trở lại.
Hắn nghe không sót từng lời của bà thầy. Đoạn hắn liền kể cho bà ta rằng đứa con út của hắn đã sốt cao và nằm li bì suốt mấy ngày qua. Bà ta liền bảo ngay:
- Thế có ai trông chừng con bây ở nhà không?
- Dạ có đứa con gái lớn của tôi.
Hắn đáp.
- Mi phải đi về ngay, một đứa con nít không thể đủ mạnh để tránh khỏi sự ám hại của linh hồn ma quỷ, ngay cả người lớn như mi còn khó.
Nói rồi, bà thầy cho tay vào túi áo bà ba của bà ta lấy ra một mảnh vải màu vàng có viết ngoằn nghoèo những chữ Miên, chìa về phía hắn:
- Đây, cất lá bùa này trong người đề bảo vệ cho bây.
Bà thầy dúi miếng giẻ vào tay hắn.
- Bây giờ đi nhanh về nhà ngay, con ngươi đang cần ngươi lắm!
Hắn nghe theo lời bà thầy dứng dậy ngay, vừa luống cuống chẳng biết phải trả công bà ta như thế nào, hắn cho tay vào túi.
Như đọc được suy nghĩ của hắn, bà ta bảo:
- Không phải trả công cho ta. Bây phải đi ngay  đi thôi.
Năm Đức không biết mình bị thôi miên bởi những lời nói của bà thầy hay vì có một linh tính lạ kì báo trước một nguy hiểm đang xảy ra với con gái hắn, hắn đi như bay, băng băng trên con đường làng về nhà. Hắn vừa đi, vừa chạy.
Vào đến nhà, hắn hốt hoảng không thấy con bé út nằm ngủ trên ván nữa, đứa con gái lớn cũng đi đâu mất.
Hắn gọi to:
- Hai ơi! Con đâu rồi? Em con đâu?
Không có ai trả lời hắn. Căn nhà chìm trong sự yên lặng khó tả. Hắn vừa gọi vừa chạy khắp gian trong gian ngoài tìm con. Cuối cùng hắn chạy ra sau vườn thì thấy thằng Dũng đang nắm tay con bé út con hắn lội xuống cái ao nhà. Hai đứa đã lội xuống nước đến ngang bụng.
Hắn gọi thất thanh:
- Hai đứa đứng lại ngay, ba nói đứng lai ngay!
Thế nhưng dường như cả hai đứa nhỏ không đứa nào nghe thấy hắn. Hắn vội nhảy ùm xuống ao, lội ngay đến ôm chặt lấy hai dứa nhỏ. Nhưng lạ thay thằng Dũng hất tay hắn ra khỏi người nó và tiếp tục lôi con bé út bước theo nó dù nước đã mấp mé ngang mũi miệng cả hai đứa.
Năm Đức nắm lấy thằng Dũng chặt hơn nhưng nó quẫy đạp dữ quá. Một tay hắn lại phải giữ lấy con bé con hắn nên không tài nào xoay xở được. Trong một cái chớp mắt nhanh chóng thằng Dũng vùng thoát khỏi tay hắn, nó lấy tay dìm mạnh đầu con bé Út xuống nước khiến hắn hốt hoảng vô cùng. Hắn buông con bé út ra, lấy hết sức mạnh của mình tóm lấy tay thằng Dũng thật chặt để nó không đụng đến con bé út được. Thế nhưng thằng bé hóa ra lại mạnh hơn hắn tưởng, nó vừa quẫy đạp dữ dội vừa hụp đầu xuống nước tìm  hai bàn tay hắn đang nắm chặt hai cánh tay nó mà cắn thật mạnh.
Năm Đức đau buốt cả người nhưng vẫn không dám buông tay. Thằng Dũng lại hụp sâu hơn xuống nước, cắn manh lần nữa vào bắp đùi hắn. Năm không còn cách nào khác đành gập người dùng ngực hắn đè mạnh lên đầu thằng Dũng ấn nó xuống nước. Hắn cố hết sức bình sinh để nó không trồi lên được.
Ngạt thở, thằng Dũng nhả ra không cắn vào Năm nữa, cố trồi lên mặt nước. Chân nó đạp túi bụi vào bụng hắn. Năm cố chịu đau, giữ chặt lấy thằng Dũng dưới làn nước. Quần nhau với nó một chốc hắn đã mệt lử. Thằng Dũng quẫy đạp và cắn mạnh  mấy cái nữa rồi bỗng yên hẳn, người nó thả lỏng ra thấy rõ trong tay hắn. Năm vẫn chưa an tâm, hắn giữ chặt nó thêm một lúc nữa rồi mới buông tay. Cả thân hình nó trở nên nặng oằn trên tay hắn. Hắn xốc nó lên một bên vai, một tay bế con bé út và lội nhanh vào bờ.
Lúc vừa bước lên bờ ao, hắn cảm tấy run cả người khi nhận ra khuôn mặt thằng Dũng đang tựa vào mặt hắn không hề còn một hơi ấm nào của con người nữa. Hắn lật đật đặt con bé út ngồi xuống đất rồi xốc ngược thân hình ướt sũng của thằng Dũng. Nước tràn qua mũi miệng nó nhưng thân thể nó vẫn không có một dấu hiệu hồi tỉnh nào. Cả người nó lạnh đơ, hai mắt vẫn nó nhắm nghiền.
Hắn cuối xuống lắng nghe nhịp đập từ trái tim nó, nhưng vô vọng. Năm Đức không hề nghe thấy một chút âm thanh nào dù là yếu ớt nhất. Hắn cảm thấy bất lực và đau đớn, vừa gục đầu lên xác thằng Dũng vừa khóc nức nở.
Ngày hôm sau là đám ma thằng nhỏ, hắn có mời cả bà thầy đến làm phép. Con bé út con hắn đã khỏi sốt, lại chạy chơi cùng với hai đứa lớn ngoài sân. Trong nhà nghi ngút khói nhang.
Đến trưa, bà thầy đã ra về sau khi dặn dò hắn đủ điều về giờ giấc và các phép tắc khi hoả táng. Hắn vẫn còn bần thần vì cái chết của thằng bé mà một tay hắn đã chăm nom từ ngày còn đỏ hỏn mới nhặt về.
Hắn hoang mang và bắt đầu dần tin vào những lời của bà thầy bói khi chắp nối những sư việc xảy ra thành một xâu chuỗi. Bắt đầu từ cái chết của thằng nhỏ em vợ hắn, rồi đến sự đầu thai của thằng Dũng, cái chết của con chó - thứ động vật mà ma quỷ vốn rất sợ, con chó khôn là thế mà bất cứ lúc nào trông thấy  nó đều sủa toáng lên. Rồi đến những cơn ác mộng của vợ hắn, cái lần vợ hắn bị ngã xuống cái ao ngay cạnh mả thằng em thị, rồi cái chết của thị, rồi cả ngay trước mắt hắn nó đã cố hại chết đứa con gái của hắn. Tất cả dường như đã có một câu trả lời thỏa đáng. Nhưng hắn không tin và vẫn không muốn tin. Hắn lại nhìn một lần nữa cái thi thể của thằng Dũng trong tấm áo quan nhỏ và cảm thấy một nỗi đau tràn ngập trong tim hắn, một nỗi khốn khổ của người cha vừa mất đứa con dù mình không máu mủ đẻ ra nhưng cũng đã bao năm tháng ẵm bồng.
Hắn cảm thấy day dứt về cái chết của thằng nhỏ, hắn không muốn tin có một linh hồn quỷ dữ đã từng nương náu trong hình hài nhỏ bé, gầy gò của nó. Giờ tốt để hoả táng đã đến, nhưng đau xót vì những mất mát vừa qua trong gia đình mình hắn không kiềm lòng được, đành mang xác thằng nhỏ rời lò thiêu trở về nhà. Hắn quyết định chôn con ở cái góc vườn dưới bóng cây mù u mà nó vẫn hay ra chơi nhà chòi. Lòng hắn đau buồn khôn xiết.
Trong nhà đã yên ổn trở lại, ba đứa con gái hắn rất ngoan, dứa lớn cũng đã biết giúp hắn làm những công viêc bếp núc thường ngày. Ba cha con hắn sớm tối bên nhau. Được ít lâu sau thì hắn bán hết nhà cửa, ruộng vườn cho một người bà con trong làng rồi mua một căn nhà ở thành phố và sắp xếp một công việc buôn bán nhỏ rồi cùng các con lên thành thị sinh sống.
Thời gian thấm thoát thoi đưa, ba năm trôi qua nhanh như chớp mắt. Tết năm ấy hắn quyết định đưa các con về quê viếng mồ mả ông bà và thăm mồ mẹ chúng. Ba cha con cùng lên đường.
Thăm viếng xong xuôi trước khi về lại thành phố, hắn dắt ba dứa con tạt qua căn nhà cũ để thắp nhang cho thằng Dũng. Trong lòng hắn vẫn chưa nguôi nỗi đau xót của những chuyện xảy ra năm nào.
Người bà con của hắn là một cặp vợ chồng trẻ vừa mới sanh con đầu lòng  là con trai nên ăn Tết lớn, tiếp đãi cha con hắn thật chu đáo. Sau khi cơm nước xong xuôi, gia chủ đã ngà ngà say bèn có ngẫu hứng ra mắt cậu con trai quý tử vừa tròn ba tháng của mình. Thằng bé đang ngủ say ở võng nhà dưới được mẹ nó ẵm lên chào khách. Khi thị trao thằng bé đang ngủ say vào tay khách vừa nói:
- Bác bế nó xem này, xem mặt mũi tuấn tú giống bố nó chưa?
Năm Đức đón lấy dứa bé từ tay mẹ nó, trong một giây hắn rung rời cả người: thằng bé giống hệt như thằng Dũng năm xưa hắn nhặt đươc dưới gốc tre, da xanh, miệng nhỏ, đầu trọc ló, cả hai cái vành tai mỏng như nấm mèo, đôi mắt to đang nhắm nghiền, không khác một chi tiết nào. Hắn lắc mạnh đầu để xua tan những ý nghĩ ấy. Vừa đưa tay vén chiếc tã thằng bé đang quấn: một cái bớt đỏ hỏn ngay trên bắp đùi trái của nó, cái bớt rõ ràng không lẫn vào đâu được, chính là cái bớt trên người thằng Dũng năm xưa.
Hắn bần thần không nói nên lời, lặng lẽ trao thằng bé lại vào lòng mẹ nó. Cái nắng tháng tám vẫn chói chang trên con đường làng, chói đến mức mắt hắn nhoà đi không trông rõ bụi hoa ngay trước nhà. Đường làng giữa trưa yên ắng đến lạ. Chỉ trong lồng ngực hắn, hắn nghe rõ một lời nói:
- Mày đã không hoả tán nó như lời tiên đoán năm xưa. Bây giờ, nó đã trở lại!
Hết.
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.08.2009 04:36:28 bởi Mars >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 20:07:56
ĐÒI MẠNG
 
Hằng ngồi trước bàn trang điểm. Cô nhìn thật kỹ mặt mình trong gương và mỉm cười mãn nguyện. Tuy đã mệt đừ vì suốt một ngày tiếp khách liên tục không được nghỉ ngơi, nhưng gương mặt Hằng vẫn tươi tắn và sáng rỡ. Đó là ưu điểm lớn nhất của Hằng.
Hồi Thắng mới đưa Hằng về nhà chơi lần đầu, mẹ Thắng đã khen:
- Ai có phước lắm mới cưới được cháu về làm dâu đó nghen! Những người có nét mặt rạng rỡ như vầy thường đem sự sung túc đến cho nhà chồng.
Chính câu nói đó của mẹ Thắng đã nhóm lên trong lòng Hằng những tia hy vọng...
Kẻ sơ một đường chì trên đôi lông mày, Hằng đứng lên, chớp chớp đôi mắt trong veo, nghĩ tới chút nữa đây khi bước vào phòng, Thắng sẽ rất ngỡ ngàng khi trông thấy Hằng thật quyến rũ trong chiếc áo ngủ mỏng tang, khêu gợi. Bất chợt, Hằng thoáng thấy bóng một ai đó trong gương, cái bóng vụt qua rất nhanh, Hằng chưa phân định đó là ai, nam hay nữ. Nhưng cô vẫn đinh ninh đó là Thắng nên cát tiếng hỏi:
- Xong rồi hả anh?
Không có tiếng trả lời. Hằng quay lại, căn phòng rộng thênh vẫn không có một người nào khác ngoài cô!
Hằng chợt nhớ, lúc nãy mình đã khóa cửa phòng, thì dù có là Thắng cũng không thể vào được. Vậy thì cái bóng vừa thoáng qua lúc nãy là ai?
Hằng lo lắng đi vào phòng vệ sinh, rồi cúi người nhìn vào gầm giường, vẫn không thấy gì lạ.
- Hay vì mệt quá nên mình hoa mắt?
Hằng tự hỏi.
Mặc dù không yên tâm lắm, nhưng Hằng cố thuyết phục mình bằng lập luận đó. Cô đứng trước gương ngắm vuốt chút nữa rồi bước tới hé cửa nhìn ra ngoài.
Phía dưới nhà, tiếng cười nói vẫn còn rộn rã, như vậy là đám bạn của Thắng vẫn chưa chịu về.
Hằng thoáng bực mình, lầm bầm:
- Người gì đâu mà bất lịch sự! Vợ chồng người ta mới cưới, không để cho người ta có được khoảng trời riêng. Tiệc tùng xong rồi còn kéo theo về tận nhà. Chia tay chia chân gì nãy giờ gần tiếng đồng hồ rồi mà chưa chịu biến mất cho người khác nhờ!
Đóng cửa phòng lại một cách giận dỗi, Hằng nằm ngã xuống giường đưa mắt nhìn khắp căn phòng.
Phòng ngủ của hai vợ chồng to hơn cả ngôi nhà của mẹ con Hằng trong cái xóm lao động ồn ào, nhếch nhác. Căn phòng được bày biện trang nhã với những đồ đạc sang trọng mà trước lúc gặp Thắng, chưa khi nào Hằng dám mơ ước tới. Vậy mà hôm nay tất cả đã thuộc về cô! Thật không uổng công cô đã phải lao tâm khổ trí vạch ra bao nhiêu kế hoạch.
Bắt đầu từ hôm nay, Hằng đã thật sự được đổi đời, thật sự thoát ra khỏi sự nghèo nàn, thấp kém đã đeo đẳng gia đình cô từ bao lâu nay.
- Con người ta ai cũng có số mạng con ạ, đừng cố tranh giành cướp đoạt... Nếu nó đã không thuộc về mình, thì dù có làm cách nào con cũng không có được nó đâu!
Hằng bật cười khi nhớ lại lời mẹ nói.
- Mẹ thật đúng là một phụ nữ quê mùa, an phận!
Hằng vừa giận vừa thương mẹ. Cuộc hôn nhân giữa cô và Thắng đã gặp phải một trở ngại đó là sự phản kháng của mẹ Hằng.
Thật không sao hiểu nổi, bất kỳ một người mẹ nào khác khi thấy con gái mình được chọn về làm dâu một gia đình giàu sang danh vọng như vậy thì đều mừng vui không hết, phải vội vã chắp tay mà tạ ơn trời phật. Đằng này mẹ Hằng lại phản đối. Lý do của bà thật đơn giản:
- Thắng không thuộc về con! Hạnh phúc này là do con cướp đoạt, nó sẽ không tồn tại lâu đâu! Mẹ không muốn thấy con gái mẹ phải khổ sở nên mẹ không đồng tình...
Hằng tức điên lên khi nghe mẹ nói vậy.
- Dù mẹ không đồng ý, con cũng nhất định lấy cho được anh Thắng! Con bắt đầu nghi ngờ, không biết con có phải là con ruột của mẹ không nữa? Tại sao mẹ không muốn cho cuộc đời con được đi lên? Mẹ muốn con phải sống suốt đời trong căn nhà tồi tàn này, con con hẻm tối năm này giống như mẹ sao?
Cô lớn tiếng.
Bà Năm mẹ Hằng nghẹn ngào:
- Mẹ biết mẹ có lỗi với con, vì đã không đem lại được cho con một cuộc sống tốt đẹp hơn... Nhưng bao nhiêu năm qua, mẹ đã hết lòng vì con, điều này con cũng biết mà, sao con lại có thể nghĩ con không phải là con ruột của mẹ?
Hằng hơi hối hận vì thấy mình đã nói quá lời với mẹ, nhưng cô vẫn không muốn nói tiếng xin lỗi hay làm một cử chỉ yêu thương, trong lòng cô vẫn còn ấm ức lắm vì sự phản đối của mẹ.
- Con được sống giàu sang sung sướng thì mẹ sẽ là người vui nhất. Nhưng riêng chuyện này...
Bà Năm ngập ngừng.
- Chuyện này thì sao? Hay mẹ thấy con không xứng đáng?
Hằng nóng nảy.
- Không! Con rất xứng đáng! Con của mẹ vừa thông minh lại vừa xinh đẹp, chắc chắn con sẽ có cuộc sống tốt hơn, nhưng không phải bằng cách mà con đã làm...
Bà Năm nhìn thẳng vào mắt Hằng, nói chậm rãi.
Hằng nhếch môi cười:
- Mẹ thật buồn cười! Mẹ lẩm cẩm mất rồi! Mẹ có thấy Thắng yêu thương con, say mê con đến mức nào không? Con cần gì phải làm cách này cách nọ mới có được Thắng? Con đã nói bao nhiêu lần rồi mà sao mẹ vẫn không tin con?
Bà Năm buồn bã nhìn con gái:
- Mẹ thương con,  rất thương con, Hằng ạ! Nhưng mẹ cũng rất tin Hạnh, mẹ tin rằng hồn ma của Hạnh không biết nói dối!
Một cảm giác lạnh ngắt chạy dọc sống lưng, nhưng Hằng nhất định không để mình bị khuất phục, cô hét lên để che lấp nỗi sợ hãi:
- Mẹ nói dối! Mẹ nói dối! Con không tin mẹ... Con biết, tất cả là do mẹ ích kỷ, mẹ muốn con phải lấy Minh, mẹ ngăn cấm con đến với Thắng cũng chính vì mẹ không muốn làm phật lòng bác Tới... Mẹ ích kỷ... Con ghét mẹ...
Bà Năm lặng lẽ kéo vạt áo lên chùi nước mắt. Bà không ngờ đứa con gái mà bà hết mực yêu thương lại có thể nói ra những lời như thế với bà.
Đành rằng trong thâm tâm bà cũng mong muốn Hằng và Minh được thành chồng thành vợ. Nhưng đó là vì bà thương Hằng. Minh là một thanh niên tốt, có nghề nghiệp ổn định, tuy không giàu có, nhưng nếu làm vợ Minh, Hằng cũng sẽ có được một cuộc sống tương đối. Vậy mà... Hằng lại đem ông Tới đặt vào chuỵên này!
Ông Tới thuở nhỏ đã từng là người đeo đuổi bà Năm, giữa hai người cũng đã nảy nở một mối tình đẹp và trong sáng. Nhưng rồi vì phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ, bà Năm về làm vợ ông Năm, đành phải chia tay với mối tình đầu nhiều kỷ niệm.
Số phần bà không may, lấy chồng mới hơn ba năm thì ông Năm mất, để lại cho bà một đứa con thơ cùng một số nợ khổng lồ mà bà phải oằn lưng suốt nhiều năm trời mới trả dứt.
Ông Tới dù lòng rất xót xa cho người cũ, nhưng không thể làm gì được vì lúc đó ông cũng đã có vợ con rồi!
Những năm sau này, khi thằng Minh, con ông đã lớn, thấy Minh và Hằng cũng có vẻ thân thiết với nhau nên bà Năm và ông Tới có nói gần xa tới chuyện làm sui. Ban đầu khi nghe chuỵên đó, Hằng cũng chỉ cười bẽn lẽn chứ không tỏ ý phản đối hay khó chịu gì, bà Năm hy vọng lắm. Nhưng rồi về sau, mỗi lần nghe nhắc tới, Hằng lại gạt phăng đi khiến bà không dám đề cập nữa. Và mối quan hệ giữa Hằng với Minh cũng dần dần trở nên nhạt nhẽo.
Có lần bà Năm hỏi Minh:
- Giữa hai đứa có chuyện giận hờn gì sao con?
Minh lắc đầu:
- Dạ không, con cũng không biết tại sao Hằng lại thay đổi như vậy!
- Con với con Hằng nhà bác đã... có hứa hẹn gì với nhau chưa?
Bà Năm tò mò.
- Dạ chưa! Từ trước tới nay tụi con cũng chỉ mới đơn thuần là bạn bè thân thiết. Thật tình thì con cũng rất có tình cảm với Hằng, nhưng con chưa dám mở lời...
Minh buồn buồn.
Bà Năm reo lên:
- Vậy là đúng rồi! Chắc tại lâu quá không thấy con nói gì nên nó mới giận con đó, đúng không?
Minh cười héo hắt:
- Dạ không phải đâu bác ơi! Theo con thấy thì... có lẽ Hằng đã có đối tượng rồi. Chính lẽ đó nên con không thể giãi bày tình cảm của mình được, con sợ làm Hằng khó xử.
- Con Hằng nhà bác có đối tượng?
Bà Năm ngạc nhiên kêu lên.
- Bác có thấy nó đi chơi với ai ngoài con và con Hạnh đâu?
Minh không trả lời câu hỏi của bà Năm. Anh nói chuỵên qua loa rồi đứng lên từ giã ra về.
Bà Năm thật bất ngờ trước những lời Minh nói. Lâu nay bà cứ đinh ninh Hằng đã dành tình cảm cho Minh rồi, vì Hằng thường xuyên đi chơi với Minh, hoặc đi với cặp Hạnh -  Thắng. Hằng giao tiếp không nhiều, vậy đối tượng của Hằng là ai?
Bà Năm âm thầm quan sát con gái thì thấy đúng là dạo này Hằng có sự thay đổi. Mỗi lần ra đường, Hằng chú ý nhiều tới việc trang điểm và quần áo, những chuyện mà trước đây Hằng không quan tâm lắm.
Hằng từ chối những buổi đi xem phim hay ca nhạc với Minh, nhưng lại luôn luôn có mặt bên cạnh Thắng và Hạnh.
Một linh cảm bất an khiến bà Năm lo lắng. Bà sợ con gái mình đem lòng yêu thầm nhớ trộm Thắng rồi đời nó sẽ khổ. Vì Thắng và Hạnh là một cặp đẹp đôi, hai đứa cũng đã bàn tính tới việc cưới hỏi rồi.
Nhiều lần bà Năm nói gần xa về chuyện đó, nhưng Hằng vẫn giả lơ như không biết gì, chỉ nghe rồi thôi, không hề có ý kiến.
Sau cái chết đột ngột của Hạnh, quan hệ giữa Hằng và Thắng ngày một khắn khít hơn. Bà Năm tuy thương Hạnh vắn số nhưng cũng thầm mừng khi thấy Thắng ngày càng quan tâm đến Hằng nhiều hơn.
- Mẹ ơi, con và anh Thắng sẽ cưới nhau!
Bà Năm giật mình khi nghe Hằng báo tin.
- Có nhanh quá không con? Con Hạnh vừa mới mất...
Bà tỏ ý không vui.
Hằng phụng phịu:
- Mẹ kỳ thiệt đó! Hạnh với anh Thắng chưa là vợ chồng, chẳng lẽ mẹ buộc anh ấy phải để tang Hạnh cho đúng ba năm mới được cưới vợ hay sao?
- Không... Ý của mẹ không phải vậy!
Bà Năm chống chế, vì thật sự đúng như Hằng nói, giữa Hạnh và Thắng vẫn chưa cưới hỏi gì, nhưng sao trong lòng bà Năm vẫn có điều gì đó bất an.
Tối hôm ấy, bà Năm không sao ngủ được, bà cứ trằn trọc lo lắng cho hạnh phúc của đứa con gái duy  nhất. Ngày ông Năm mất đi, Hằng mới sinh chưa tròn tháng, bà đã phải tảo tần hôm sớm nuôi con, đã khước từ bao nhiêu người đàn ông để dành cho con trọn vẹn tình thương yêu rộng lớn của bà.
Hằng càng lớn càng xinh đẹp, bà Năm luôn mong ước một ngày nhìn thấy con mặc áo vu quy, về làm vợ làm dâu một gia đình đàng hoàng tử tế. Được  như vậy là bà mãn nguyện lắm rồi, có thể nhắm mắt xuôi tay được rồi.
Vậy mà hôm nay, khi Hằng thông báo sẽ lấy chồng, một người chồng tốt lại giàu sang đến thế, sao bà lại không vui?
Bà Năm không cắt nghĩa được rõ ràng sự lo lắng tuy rất mơ hồ nhưng lại giống như một điềm báo trước đó.
Bà cố nhắm mắt dỗ giấc ngủ, cố nghĩ rằng cuộc đời con bà sẽ được thay đổi khi được về làm vợ Thắng, cố lấy đó làm niềm vui...
Nghe tiếng động nhẹ ở phía cửa, bà Năm hé mắt nhìn ra, cứ ngỡ Hằng vào với mẹ. Con gái bà vẫn có tính như thế, mỗi khi hai mẹ con tranh lụân một vấn đề gì, Hằng luôn háu thắng, ít khi nào chịu nhường nhịn mẹ, nhưng sau đó cô lập tức hối hận, sẽ tìm tới ôm chầm lấy bà, dụi dụi mái đầu vào ngực bà và thế là bao nhiêu hờn giận buồn vui giữa hai mẹ con lập tức bay biến mất hết, không cần một lời xin lỗi.
Nhưng kìa, hình như không phải là Hằng! Tóc Hằng chỉ dài ngang vai, còn người con gái đang đứng trước cửa phòng bà Năm lại có mái tóc dài gần đến thắt lưng. Với ánh sáng mờ mờ của chiếc đèn ngủ nhỏ xíu trên tường, bà Năm nhận thấy người này có dáng thật quen.
Bà Năm giật mình mở to mắt và nhổm dậy để nhìn cho rõ, nhưng cửa phòng bà vẫn đóng kín và không có ai đứng nơi đó cả!
- Lạ thật!
Bà Năm lẩm bẩm. Bà không tin là mình nhìn nhầm, vì rõ ràng bà chưa ngủ, đầu óc vẫn còn minh mẫn chứ chưa hề lẩm cẩm.
Hấp tấp chui ra khỏi mùng, bà Năm vói tay bật công tắc, căn phòng tràn ngập ánh sáng. Căn phòng nhỏ, không có gì ngoài chiếc giường và tủ quần áo trong góc, không ai có thể ẩn núp vào đâu được. Tuy vậy bà Năm vẫn đảo mắt ngó khắp phòng, ánh mắt bà dừng lại ngay cửa. Ở đó, còn đọng lại một vũng nước!
Lúc này đang là mùa nắng, trời không hề có mưa, mà dù có mưa đi nữa, chỗ đó cũng không thể bị dột như thế được. Vậy thì nước đó từ đâu ra?
Bà Năm mở cửa nhìn ra ngoài. Tất cả đều bình thường, chỉ duy có vũng nước trong phòng bà là sự lạ mà thôi. Vùng nước này giống y như có ai áo quần sũng nước vừa mới đứng vào chỗ đó.
Bà Năm đi một vòng quanh nhà, ngang qua phòng Hằng bà dừng lại nghe ngóng. Bên trong lặng im không một tiếng động, có lẽ Hằng cũng đã ngủ rồi.
Trở về phòng mình, bà Năm lấy giẻ lau lau khô vũng nước rồi tắt đèn lên giường nằm lại, trong đầu đầy những thắc mắc.
- Bác ơi... con lạnh quá!
Vừa mới thiu thiu ngủ, bà Năm chợt nghe có tiếng rên rỉ nho nhỏ.
- Ai? Ai mới nói gì đó?
Tỉnh hẳn ngủ, bà Năm ngồi dậy ngó quanh.
- Con lạnh lắm... bác Năm ơi!
Tiếng rên nghe rất gần nhưng bà Năm vẫn chưa xác định phương hướng. Bà định mở đèn, nhưng không hiểu sao ngọn đèn ne-on lại không cháy sáng, trong phòng lúc này chỉ có ánh sáng đỏ quạch của cái bóng cà na trên tường.
- Bác Năm ơi... con lạnh lắm...
Tiếng rên lại vang lên nghe rõ mồn một.
Bà Năm chột dạ, không biết ai lại gọi đúng thứ của mình? Ai lại đêm hôm vào đây mà rên rỉ? Nghe tiếng thì là một đứa con gái, nhưng người lại chẳng thấy đâu.
- Ai đó? Ai đang nói đó?
Giọng bà Năm run run.
- Bác Năm ơi... con lạnh lắm...
Người con gái cứ lặp đi lặp lại câu nói đó bằng một giọng ai oán mơ hồ, khi gần khi xa khiến bà Năm nổi gai ốc.
Căn nhà này bà đã ở từ ngày về làm vợ ông Năm, tính đến nay đã gần hai mươi tám năm rồi, chưa bao giờ thấy ma quỷ hay một điều gì bất thường cả. Vậy mà đêm nay lại có sự lạ lùng này diễn ra khiến bà Năm hoang mang tột độ.
Bà cứ đứng trơ ra giữa phòng, mắt ngó chằm chằm ra cửa, nhưng liền đó tiếng nói cất lên ngay ở phía sau lưng bà:
- Bác Năm ơi... con lạnh lắm...
Quay phắt lại, bà Năm vẫn chỉ thấy một khoảng trống sau lưng mình, không có một người nào cả.
- Ai? Ai làm gì kỳ vậy?
Bà Năm hốt hoảng la lên. Chân bà lập cập tiến ra cửa, chợt bà trượt phải vũng nước suýt té.
- Bác Năm ơi... con lạnh lắm...
Lúc này tiếng nói nghe thật gần như kề sát bên tai. Một giọng nói thật quen, bà Năm cố trấn tỉnh để xem đó là ai.
- Hạnh! Đúng rồi, đây là giọng nói của con Hạnh mà!
Bà Năm reo lên, nhưng chợt nhớ ra Hạnh đã chết, mồ hôi vã ra, bà Năm lắp bắp:
- Hạnh... Có phải là con đó không? Có điều gì oan khuất trong cái chết của con không?
Bà Năm cũng không hiểu tại sao mình lại hỏi câu đó.
Một làn khói mỏng lơ lửng trước mắt bà Năm, rồi từ từ nhiều làn khói khác bay đến, tụ lại thành một đám trông giống như đám mây. Một người con gái bước ra từ đám mây mờ ảo đó.
Lúc này thì bà Năm đã nhận ra Hạnh. Chỉ có điều cả người cô sũng nước, mái tóc dài bê bết bùn sình, nước từ trên người cô nhỏ tong tong xuống đất.
- Hạnh... con... con...
Bà Năm ngắc ngứ. Bà đã hoảng sợ đến tột cùng, nên câu nói không tròn vẹn được.
- Bác Năm ơi... con lạnh lắm...
Hạnh từ từ tiến gần lại bà Năm hơn, miệng vẫn không ngừng rên rỉ. Hai cánh tay Hạnh giơ ra phía trước như chờ đợi sự giúp đỡ của bà.
Bà Năm lùi lại, té ngồi phịch xuống giường. Cố dằn sự sợ hãi, bà Năm lên tiếng:
- Con... Hạnh... con cần bác giúp gì cho con? Con có điều gì oan ức không con?
Hạnh đứng sững lại, thu hai tay về bưng lấy mặt và khóc nấc lên. Tiếng khóc của Hạnh làm bà Năm thấy như đứt từng khúc ruột.
Hạnh là bạn thân với Hằng từ hồi còn nhỏ. Nhà Hạnh ở đầu hẻm, nhà Hằng ở cuối hẻm. Chỉ cách nhau khoảng vài trăm thước mà số phận hai đứa lại cách nhau một trời một vực.
Hằng mồ côi cha từ nhỏ, lớn lên cùng mẹ trong cảnh nghèo nàn vất vả. Tuy học hành giỏi giang, nhưng không có đủ điều kiện để theo học Đại học, Hằng đành phải ngậm ngùi học xong chương trình trung cấp kế toán rồi về làm công cho một cơ sở sản xuất nhỏ trong quận với đồng lương ít ỏi.
Còn Hạnh, con một gia đình giàu có, được cưng chìu từ bé nhưng cô không vì thế mà kiêu căng, xem thường những người khó nhọc. Hạnh chơi với Hằng từ nhỏ, tình bạn đẹp đẽ giữa hai người cứ theo thời gian mà lớn dần lên mãi.
Hai năm trước, Hạnh và Thắng yêu nhau và Hằng trở thành một “quân sư” đặc biệt để Hạnh trao đổi những chuyện riêng tư của mình.
Bà Năm thương Hạnh không kém gì Hằng. Khi hay tin Hạnh chết, bà cũng đã đau đớn vật vã suốt mấy ngày liền.
Có lẽ cũng chính bởi tình thương đó cho nên sau giây phút bàng hoàng sợ hãi, bà Năm đã dần dần lấy lại được bình tĩnh. Bà Năm tin rằng Hạnh sẽ không làm hại bà.
Hạnh vẫn đứng khóc giữa nhà, nước trên người cô vẫn không ngừng nhễu xuống đất. Bà Năm nửa muốn bước tới gần lấy khăn lau cho Hạnh, nửa vẫn còn e ngại.
Bất chợt Hạnh bỏ tay ra, khuôn mặt trắng bệch dưới ánh đèn mờ ảo làm cho bà Năm một lần nữa rụng rời. Đó thật sự không phải là khuôn mặt của người sống! Tuy từ nãy giờ bà Năm vẫn biết Hạnh đã không còn, nhưng khi trông thấy Hạnh rõ ràng bà vẫn không sao bình tĩnh được.
- Con... có điều gì oan khuất với con, phải không Hạnh?
Bà Năm run giọng hỏi.
- Bác Năm ơi... con khổ quá! Tai sao... tại sao Hằng lại nhẫn tâm giết chết mẹ con con?
Hạnh ngước nhìn bà Năm, từ hai hốc mắt cô hai dòng nước mắt đỏ thẫm như máu đang tuôn chảy. Hai tai bà Năm như lùng bùng khi nghe câu nói của Hạnh.
Bà ú ớ:
- Con... con nói sao? Con Hằng... con Hằng đã làm gì con?
Hạnh khụyu xuống, nức nở:
- Hằng... Hằng đã giết chết mẹ con con...
- Mẹ con con?
Bà Năm ngạc nhiên.
- Dạ... con đã có thai hơn hai tháng rồi, bác Năm ơi...
Bà Năm thấy như đất trời chao đảo, nền nhà bà đang đứng bỗng như nghiêng hẳn về một phía khiến bà mất thăng bằng té ngã xuống. Dưới nền nhà, nước vẫn còn đọng vũng, nhưng Hạnh mới vừa rồi còn quỳ ở đó giờ đã biến mất rồi!
Bà Năm huơ huơ tay, thảng thốt:
- Hạnh, Hạnh ơi! Bác muốn hỏi...
Không một tiếng trả lời, không một bóng hình nào dù là mờ ảo còn thấp thoáng quanh bà, lúc này bà Năm chỉ còn nghe tiếng gió thổi ngoài hè, vang lên một thứ âm thanh nghe rờn rợn...
- Hằng... Hằng đã giết chết mẹ con con... con đã có thai hơn hai tháng rồi, bác Năm ơi...
Bà Năm không còn sức để ngồi dậy nổi, từng lời nói của Hạnh vẫn vang lên rõ mồn một trong đầu bà. Bà Năm có cảm giác mình đang trôi đi, trôi đi mà không sao gượng lại được.
Khi bà tỉnh lại thì trời đã hừng đông, ngoài đường đã nghe tiếng người xe đi lại xôn xao, nhộn nhịp.
Chống tay ngồi lên, đầu óc vẫn còn váng vất, bà Năm nhìn quanh, căn phòng vẫn bình thường như chưa từng xảy ra cuộc hội ngộ đêm qua với Hạnh. Cả cái vũng nước tối qua cũng không còn.
- Có khi nào tất cả chỉ là giấc mơ?
Bà Năm tự hỏi.
Trong thâm tâm, bà Năm không tin những việc đó chỉ là ác mộng, bởi vì từng sự việc vẫn còn in đậm trong bà, không thể có một giấc mơ nào có thể thật đến vậy được! Tuy nhiên, bà Năm vẫn cố bám víu vào nó, bà không dám, không muốn tin con gái mình đã nhúng tay vào tội ác.
Có tiếng guốc khua lộp cộp ở nhà ngoài, chắc Hằng đã dậy. Bà Năm gắng gượng đứng lên, bới lại đầu tóc rồi cố giữ vẻ thản nhiên mở cửa đi ra ngoài.
- Dậy sớm thế con?
Bà Năm cất tiếng hỏi khi thấy Hằng lục đục trong nhà tắm.
- Hôm nay con với anh Thắng đi chơi ở Biên Hòa. Trưa mẹ đừng chờ cơm con nhé!
Hằng vui vẻ nói.
Bà Năm tư lự. Bà muốn cản ngăn con, nhưng không biết phải lấy lý do gì cho hợp lẽ.
- Hôm đó, con Hạnh làm sao mà chết vậy con?
Bất chợt bà Năm cất tiếng hỏi.
Hằng mở toang cửa nhà tắm ra, trừng mắt nhìn mẹ:
- Mẹ lẩm cẩm rồi hay sao vậy? Chuỵên đó con đã kể cho mẹ nghe biết bao lần rồi, sao mẹ lại hỏi nữa? Từ nay con không muốn nghe mẹ nhắc tới chuyện đau lòng ấy nữa! Mẹ làm ơn đi...
- Không... mẹ chỉ...
Bà Năm ấp úng
Hằng giận dỗi đóng sập cửa nhà tắm lại. Cô dội nước ào ào như muốn dồn hết nỗi bực dọc vào đó.
Khi tắm rửa xong xuôi, Hằng mở cửa ra và thật bất ngờ khi thấy bà Năm vẫn còn đứng nguyên chỗ cũ.
- Mẹ làm sao vậy?
Hằng ngạc nhiên hỏi khi trông thấy vẻ mặt không được bình thường của mẹ.
Bà Năm không muốn kể với Hằng về sự việc diễn ra đêm qua vì bà lo ngại điều đó sẽ làm cho con gái sợ, nhưng nếu không nói thì làm sao đây? Đêm qua, chính Hạnh đã hiện hồn về kêu oan với bà, chẳng lẽ bà có thể nhắm mắt làm ngơ để con gái mình tiến sâu vào vùng oan nghiệt?
- Con à... Tối qua... mẹ mơ thấy con Hạnh...
Cuối cùng bà Năm cũng phải cảnh giác con gái.
Hằng lảo đảo, níu chạt tay vào cánh cửa, hỏi:
- Mẹ thấy sao?
- Cả người nó sũng nước... nó bảo nó chết oan... Mẹ nghĩ... Hay con thôi đi, đừng qua lại với cậu Thắng nữa!
Bà Năm ngập ngừng.
Hằng tuy rất lo sợ khi nghe mẹ nói, nhưng cô vẫn kiên quyết:
- Mẹ nói lạ quá đi! Tự nhiên lại bảo con cắt đứt tình cảm với anh Thắng! Tại mẹ nghĩ nhiều về Hạnh quá nên mới mơ như vậy...
Nói xong, Hằng không chờ nghe ý kiến của bà Năm, cô vội vã vào phòng lấy túi xách rồi dắt xe ra khỏi nhà.
Bà Năm đứng lặng nhìn theo con, nước mắt lăn dài trên má.
Hai mẹ con bà tuy sống trong cảnh nghèo hèn, bơ vơ từ lâu nay, nhưng cuộc sống cũng tạm gọi là vui vẻ, mặc dù Hằng không phải là một đứa con gái thật ngoan nhưng cô thương mẹ, hai mẹ con nương tựa vào nhau, quấn quýt nhau mà sống.
Bà Năm không thể tin nổi chuyện con gái bà lại có thể ra tay giết chết một người bạn thân thiết để cướp giật tình cảm, nhưng bà cũng không nghĩ hồn ma của Hạnh vu oan giá hoạ cho Hằng.
Có điều gì gây hiểu lầm trong chuyện này không? Bà Năm cố bám víu vào hy vọng đó.
- Tối nay mình phải nói chuyện rõ ràng với Hằng, có thể nó đã vô tình làm gì đó gây ra sự ngộ nhận ở phía Hạnh cũng nên...
Bà Năm thầm nghĩ.
Suốt cả ngày hôm đó, bà không thể tập trung vào bất cứ công việc gì, đầu óc bà cứ lơ mơ như người ngớ ngẩn.
 
***
Đường phố mới sáng sớm còn thưa người, Hằng cho xe phóng ào ào, trong lòng cô bây giờ đã mất đi sự hào hứng của chuyến đi chơi xa với Thắng. Tất cả cũng chỉ vì những câu nói của mẹ cô khi nãy.
Mọi việc đã qua rồi mà, Hạnh đã yên nghỉ dưới mồ sâu, cái chết của Hạnh cũng đã được kết luận là do bất cẩn rồi mà, sao mẹ còn cố tình nhắc lại làm gì? Lại còn hồn ma gì trong đó nữa?
Hằng tuy không tin lắm vào chuyện ma quỷ, nhưng tự nhiên khi nghe nói tới hồn ma của Hạnh cô vẫn sợ hãi vô cùng.
Từ hôm Hạnh chết đến nay, đã trăm ngàn lần Hằng tự nhủ với mình rằng, chết là hết, là thân xác sẽ dần dần mục rữa dưới lòng đất, là sẽ không còn gì tồn tại nữa... Vậy mà sáng nay Hằng vẫn sợ đến mức sắp ngất đi khi nghe nói đêm qua hồn ma Hạnh hiện về.
Hằng không muốn chia sẻ sự sợ hãi đó với mẹ, vì cô biết chắc mẹ sẽ không ủng hộ mình, chính vì lẽ đó nên thời gian gần đây trước mặt bà Năm, Hằng luôn tỏ ra cau có, bực dọc nhằm để che giấu những biểu hiện lo lắng bên trong.
Trong đầu Hằng, tất cả hình ảnh của cái ngày hôm đó vẫn còn rõ rệt, không hề phai nhạt, mà mỗi một giây một phút nào nó cũng lởn vởn, không để Hằng yên. Ngay cả những lúc âu yếm Thắng, những hình ảnh đó cũng xen vào khiến cô rất khó chịu.
Hằng lắc lắc đầu cố xua đuổi những ám ảnh đeo đẳng không rời ấy. Cô nhủ thầm:
- Mình không có lỗi...
Hằng vừa dừng xe trước cổng đã thấy Thắng tươi cười đứng chờ sẵn trong sân nhà. Vừa trông thấy Hằng, Thắng khoe ngay:
- Mẹ vừa mới gọi điện về cho anh. Ba mẹ đã đăng ký vé máy bay xong rồi, đầu tháng về để dự đám cưới của chúng mình.
Hằng mỉm cười sung sướng. Bao nhiêu âu lo trên đường đi như vụt biến mất khi nghe câu nói của Thắng. Nó nhắc nhở Hằng ngày cưới không còn xa nữa.
Vòng tay  ôm lấy cổ Thắng, Hằng nũng nịu:
- Ba mẹ có nhắc tới em không anh? Em nhớ mẹ quá...
Thắng cốc nhẹ vào đầu Hằng:
- Sao lại không! Anh có cảm giác bây giờ mẹ còn thương em nhiều hơn anh nữa kia. Anh không hiểu sao mẹ với em lại hợp nhau đến như vậy?
Hằng chun mũi, giả vờ nhăn nhó:
- Anh ghen với em rồi sao?
Thắng cười:
- Không, không! Anh đang mừng hết lớn đây. Vì anh khỏi sợ cảnh mẹ chồng nàng dâu kình nhau, anh đứng giữa không biết bênh ai bỏ ai, khổ thân anh ấy chứ! Thấy mẹ thương em là anh mừng lắm rồi...
Hằng cười nhẹ. Cô thầm cảm ơn bà Vinh, mẹ Thắng, cũng nhờ có bà đôn đốc nên đám cưới mới được tiến hành nhanh chóng như vậy.
Hai vợ chồng bà Vinh sống ở nước ngoài từ hơn mười năm nay. Hồi bé Thắng cũng ở cùng ông bà bên đó. Nhưng sau khi học hành thành tài, hai ông bà đã mạnh dạn cho Thắng về nước để quản lý công ty.
Tuy là đứa con trai duy nhất trong một gia đình giàu có nhưng không vì thế mà Thắng hư hỏng đua đòi. Trái lại, từ thời còn học phổ thông, Thắng đã biết phấn đấu hết mình.
Tốt nghiệp loại ưu, Thắng về lại Việt Nam làm việc. Dưới sự quản lý của Thắng, công ty làm ăn ngày một phát đạt. Ông bà Vinh rất tự hào và tin tưởng vào con trai. Đối với ông bà, Thắng là một báu vật.
Lúc Thắng quen Hạnh, bà Vinh không được vui trong lòng, vì Hạnh nhu mì ít nói, và gương mặt lúc nào cũng phảng phất nét u buồn. Bà Vinh tin vào tướng số, bà nghĩ Hạnh sẽ không đem lại may mắn cho ocn trai bà được.
Lần bà về nước cách đây không lâu, Thắng đưa cả Hạnh lẫn Hằng về ra mắt. Vừa nhìn thấy Hằng là bà Vinh đã chấm ngay.
Suốt một buổi ở chơi nhà bà, Hạnh chỉ chào hỏi mấy câu xã giao thật lễ phép rồi cứ ngồi im thin thít. Còn Hằng, cô líu lo hết chuyện này sang chuyện khác. Cách nói chuyện của Hằng lôi cuốn, hấp dẫn người khác chứ không tạo cho người ta cảm giác Hằng là người ba hoa.
Bà Vinh và Hằng đã trao đổi rất nhiều, từ chuyện gia đình tới chuyện ngoài xã hội. Hằng tuy không được học cao như Thắng và Hạnh, nhưng nhờ cô có óc quan sát và siêng năng tìm tòi nên kiến thức xã hội cũng không phải là kém.
Bà Vinh thầm so sánh giữa Hạnh và Hằng, bà tự hỏi sao con trai mình lại không chọn Hằng làm vợ? Tuy không dám nói ra, song trong thâm tâm bà Vinh vẫn ước ao Thắng sẽ thay đổi. Cũng chính vì điều đó nên bà cứ viện hết lý do này đến lý do khác để hoãn việc bước tới nói chuyện cùng gia đình Hạnh.
Sau lần gặp gỡ ấy, bà Vinh thường xuyên liên lạc với Hằng. Bà cố tình nhờ Hằng giúp Thắng việc này việc khác để tạo điều kiện cho hai người bên nhau. Bà còn đề nghị với Thắng nhận Hằng về làm thư ký, vì theo bà, Hằng thông minh, hoạt bát sẽ giúp đỡ được nhiều cho Thắng và công ty.
Thắng thấy mẹ nói cũng đúng, đồng thời vì Hằng là bạn thân của Hạnh, anh biết Hằng đang làm kế toán cho một cơ sở sản xuất nhỏ, lương tháng không bao nhiêu, Thắng cũng có ý muốn giúp đỡ nên nhân cơ hội này anh đã đề nghị Hằng về làm thư ký cho anh.
Lúc đầu, khi được Hạnh giới thiệu với Thắng, Hằng rất ngưỡng mộ cặp Tiên Đồng – Ngọc Nữ, cô rất vui mừng cho bạn. Những lần Hạnh và Thắng đi chơi xa, Hạnh thường rủ Hằng đi theo cho vui. Nhìn thấy cảnh Thắng quan tâm chăm sóc Hạnh, Hằng thường mơ ước một ngày nào đó cũng sẽ có người giống như Thắng thương yêu, chăm sóc cho cô.
Hằng cũng không biết rõ từ khi nào tình cảm mà cô dành cho Thắng không còn đơn thuần là anh em, bè bạn nữa.
- Ai có phước lắm mới cưới được cháu về làm dâu đó nghen! Những người có nét mặt rạng rỡ như vầy thường đem sự sung túc đến cho nhà chồng.
Chính câu nói đó của bà Vinh trong lần đầu gặp gỡ đã thổi bùng ngọn lửa khát khao trong lòng Hằng.
Hằng thương xuyên mơ tưởng tới Thắng. Có những giấc mơ, Hằng thấy cả ba người đi chơi cùng nhau nhưng khác một điều là Thắng luôn cận kề chăm lo cho Hằng mà không quan tâm gì tới Hạnh nữa.
Hằng biết bà Vinh đã chọn mình làm dâu, nhưng cô vẫn làm ra vẻ ngây thơ, vô tư lự.
Từ khi được bà vinh tạo nhiều điều kiện, Hằng thường xuyên tiếp xúc với Thắng. Trước kia, lần nào Hằng gặp Thắng cũng có Hạnh bên cạnh, nhưng sau này những cuộc gặp gỡ riêng tư giữa Hằng và Thắng ngày một nhiều hơn, nhất là từ ngày Hằng vào làm thư ký cho Thắng.
Thắng là một thanh niên tốt, mặc dù Hằng đã khôn khéo tạo ra rất nhiều cơ hội nhưng Thắng vẫn không nghĩ đến ai khác ngoài Hạnh.
Nhiều lúc Hằng tự ái, cô muốn buông xuôi. Nhưng rồi Hằng nghĩ lại, một thanh niên tài giỏi lại đẹp trai như Thắng đã là mơ ước của biết bao nhiêu người, chưa tính tới gia sản khổng lồ mà Thắng là người kế thừa duy nhất. Đồng thời, Hằng lại được sự hậu thuẫn mạnh mẽ từ phía bà Vinh thì làm sao cô có thể dễ dàng đầu hàng được.
Hằng là một cô gái khéo léo, nhất là về mặt cư xử. Hạnh và Thắng vẫn không thấy được những ý nghĩ đen tối trong đầu cô, bởi vì Hằng giỏi che giấu. Trước mặt Hạnh, Hằng vẫn vô tư cười đùa, vẫn không ngớt lời khen ngợi họ đẹp đôi và thúc giục hai người mau mau cho cô ăn đám cưới.
Lần đó, Hằng cảm thấy Hạnh có vẻ buồn bã khác thường, cô hơi chột dạ, lo lắng Hạnh đã khám phá được những chuyện thầm kín của mình.
Đang bố rối chưa biết phải làm sao thì Hạnh tìm gặp Hằng, năn nỉ:
- Ngày mai Hằng xin nghỉ phép đi với mình về quê ngoại hai ngày, nhe Hằng?
- Ở dưới quê có chuyện gì sao Hạnh?
Hằng ngạc nhiên. Vì lâu nay Hạnh chỉ về quê mỗi năm một lần vào ngày tết.
Hạnh lắc đầu, mắt ươn ướt:
- Không, không có gì đâu... Mình... chỉ tại mình buồn quá nên muốn về quê mấy ngày để thay đổi không khí vậy mà...
- Giữa Hạnh và anh Thắng xảy ra chuyện gì à?
Hằng tò mò.
- Không... Mà thôi, Hằng đi với mình nghen, về đó rồi mình sẽ kể hết rồi còn nhờ Hằng tư vấn cho nữa. Thật sự mình đang rối lắm...
Hạnh ngước nhìn Hằng đầy vẻ cầu khẩn.
Từ xưa đến nay vẫn thế. Hạnh yếu đuối nhút nhát còn Hằng thì mạnh mẽ, nên Hằng luôn là chỗ dựa cho Hạnh từ hồi hai người còn nhỏ xíu đi học chung với nhau. Không ai có thể bắt nạt được cô bé Hạnh hay khóc vì bên cạnh Hạnh lúc nào cũng có “vệ sĩ” Hằng đi theo bảo vệ.
Sau này lớn lên Hạnh vẫn quen với điều đó. Trong mắt Hạnh, Hằng luôn là một người bạn thân thiết, một người chị đáng yêu bất cứ lúc nào cũng có thể bảo vệ, che chở cho Hạnh.
Khi Hằng đồng ý, một phần vì tình bạn, một phần cũng vì tò mò.
Về quê đã một ngày một đêm, Hằng vẫn không nghe Hạnh nói gì. Lúc nào Hạnh cũng buồn bã, âu lo một điều gì đó.
Chiều hôm ấy khi hai người bơi xuồng đi hái bông điên điển, Hằng nhất định sẽ hỏi xem Hạnh gặp phải chuyện gì.
- Mấy hôm nay mình rất buồn và lo lắng, mình rối lắm không nghĩ được cách nào nên mới rủ Hằng về đây, mình muốn Hằng giúp mình...
Hằng chưa kịp mở lời thì Hạnh đã nói.
- Chuyện gì vậy Hạnh?
Hằng vừa bơi thoăn thoắt vừa hỏi.
- Mình đã có thai!
Hạnh đột ngột thông báo.
Hằng giật nảy người, buông dầm ngó sửng Hạnh:
- Hạnh nói sao? Có thai?...
Hạnh ứa nước mắt:
- Mình mới phát hiện mấy hôm nay... Bữa đó... bữa đó sinh nhật anh Thắng, cả hai đứa đều uống say nên mới xảy ra chuyện...
- Anh Thắng biết tin này chưa?
Hằng lo lắng.
Hạnh lắc đầu:
- Chưa! Mình chưa muốn cho anh Thắng biết.
Hằng dằn một tiếng thở phào, cô hỏi:
- Bây giờ Hạnh tính sao?
Hạnh ngồi bó gối ủ rũ:
- Mình cũng không biết tính sao nữa... Chính vì vậy nên mình muốn Hằng giúp mình...
Hằng im lặng, đắn đo một chút rồi nói:
- Theo Hằng, Hạnh thông báo cho anh Thắng biết tin này, chắc chắn anh Thắng sẽ tổ chức cưới, thế là xong mọi việc, có gì mà phải lo?
Hạnh vẫn lắc đầu:
- Chưa được đâu Hằng à... Mình biết anh Thắng rất thương yêu mình, ảnh sẽ cưới mình ngay khi biết tin, nhưng... có lẽ ba mẹ anh ấy chưa thật hài lòng về mình hay sao ấy... Mình không muốn hai bác nghĩ mình cố tình để mang thai vì có mục đích riêng...
Hằng gật gù:
- Hạnh nói cũng đúng, người lớn họ còn phong kiến lắm, họ chưa nghĩ thoáng đâu, chuyện có thai trước hôn nhân sẽ tạo cho họ tâm lý không thoải mái...
Hạnh thút thít khóc:
- Mình khổ lắm Hằng ơi... Gia đình mình cũng còn phong kiến lắm, ba mẹ mình mà biết được việc này họ cũng sẽ đau lòng và xấu hổ lắm... Hằng có tin không, mình với anh Thắng quen nhau đã lâu vậy mà đây là lần đầu bọn mình quan hệ với nhau...
Tự nhiên một sự ghen hờn trỗi dậy trong lòng Hằng, cô giận dữ muốn nói với Hạnh những lời châm chích cay độc nhưng rồi cô đã dằn lại kịp lúc.
- Mình... mình muốn chết đi cho xong! Chỉ có cái chết mới xóa nhòa được... Mình sợ ba mẹ mình biết, họ sẽ phải thất vọng vì mình... Hằng ơi, mình phải làm sao đây, làm sao mới đúng đây? Hằng ơi...
Hạnh ôm mặt khóc nức nở, đôi bờ vai nhỏ nhắn của cô không ngừng run lên bần bật.
Một ý nghĩ lóe lên trong đầu Hằng. Cô gác mái dầm, đi lại gần Hạnh ngồi xuống, bỏ mặc cho chiếc xuồng trôi nhè nhẹ trên mặt nước sông phẳng lặng.
- Theo mình, Hạnh đừng lo nghĩ gì nữa! Ngay ngày mai về, Hạnh cứ nói với anh Thắng. Phần mẹ anh Thắng cứ để đó cho mình lo. Lâu nay bác ấy luôn coi mình như con gái, Hạnh biết điều đó mà, phải không? Bác ấy rất nghe lời mình, mình sẽ lựa lời thuyết phục bác ấy...
Hằng vỗ nhè nhẹ lên vai Hạnh khuyến khích.
Hạnh ngước lên nhìn Hằng, mắt đẫm lệ:
- Mình cảm ơn Hằng... Phải chi bác ấy thương mình như Hằng thì tốt biết bao...
Hằng cười:
- Hạnh đừng lo, bác ấy cũng thương Hạnh lắm chứ! Rồi sau này khi Hạnh chính thức về sống với anh Thắng, chắc chắn bác ấy sẽ hiểu và thương Hạnh nhiều hơn. Bây giờ Hạnh đang mang giọt máu của anh Thắng, không chừng biết tin này hai bác ấy còn mừng quýnh lên ấy chứ... Hạnh phải nghe mình, không được buồn lo gì nữa mà ảnh hưởng không tốt tới đứa bé. Mọi việc không quá phức tạp như Hạnh nghĩ đâu...
- Mình ước gì mạnh mẽ được như Hằng...
Hạnh nhoẻn miệng cười với bạn.
- Nào, vui lên! Hai đứa mình hái thật nhiều bông điên điển về làm một bữa cơm ra trò để mừng... bé cưng trong bụng Hạnh nha!
Hằng đứng lên vớ cây dầm bơi tiếp ra xa.
Lúc nãy trước khi đi, dì Út của hạnh có dặn:
- Hai đứa đừng bơi xuồng đi quá hàng cây chỗ ấy nhe, ngoài kia sông sâu lắm đấy!
Giờ đây chiếc xuồng đang lững thững đi dần ra khỏi những hàng cây điên điển, Hằng vẫn giả như vô tình không để ý gì tới, vừa bơi xuồng vừa nói chuyện huyên thuyên.
Khi xuồng đã đi một quãng khá xa, bất chợt Hằng reo lên:
- Ô kìa, bông bần đẹp quá!
Hằng đưa tay chỉ lên nhánh bần có những bông hoa trắng đang bung xòe ra trông rất đẹp mắt.
- Ừ, đẹp quá!
Hạnh tán đồng.
- Mình bơi gần gần lại, Hạnh đứng lên vói tay hái mấy bông đó nghen?
Hằng đề nghị.
- Ừ, bơi lại gần đi, mình hái!
Hạnh gật.
Hằng vừa bơi xuồng vừa ngó chừng xung quanh. Cả khúc sông vắng ngắt, từ đằng xa kia mới có bóng dáng một chiếc xuồng đang tiến gần lại chỗ Hằng và Hạnh.
- Đây này! Hằng xem, đẹp không?
Hạnh thích chí giơ cao nhánh bông bần khoe với Hằng.
- Trời, đẹp ghê luôn! Kìa kìa... đằng kia còn mấy bông đẹp hơn...
Hằng cười tươi, giơ tay chỉ cho Hạnh nhánh bần gie tuốt ra ngoài xa,ảtên nhánh đó đầy những bông vừa mới hé.
Hạnh vỗ tay:
- Mau, mau, Hằng mau bơi lại đó đi!
- Cao lắm, sợ Hạnh không với tới!
Hằng nói.
- Không sao đâu! Mình với tới mà!
Hằng cãi lại.
Hằng bơi xuồng ra xa, khi đến phía dưới nhánh bần, Hạnh đứng lên nhón gót cố níu cho kỳ đwojc mấy chiếc lá nhỏ nhoi để ghị nguyên nhánh bần cho cong xuống.
Hằng liếc nhìn về phía chiếc xuồng đi ngược chiều, ước lượng khoảng cách xong xuôi, cô khẽ khàng chống cho xuồng nghiêng hẳn về một phía. Hạnh đang đứng nhón người, mất thăng bằng té nhào xuống nước. Và bằng một động tác vô cùng khéo léo, Hằng đã đẩy chiếc xuồng ra một khoảng khá xa.
- Cứu... cứu với!... có người té sông...
Hằng cất tiếng kêu cứu và rối rít làm động tác vẫy gọi chiếc xuồng ngược chiều đang điagafn tới.
Người trên chiếc xuồng kia đã nhận thấy dấu hiệu cầu cứu của Hằng, người ta cũng khẩn trương chèo tới, nhưng vì nước ngược nên chiếc xuồng di chuyển một cách chậm chạp.
Lúc người ta tới nơi, Hằng thất thần kêu khóc:
- Cứu... cứu giùm bạn tôi...
Mấy người trên chiếc xuồng đó đều là dân sông nước nên họ lập tức nhảy ùm xuống mò tìm, nhưng vô vọng. Đoạn sông này nước chảy xiết, không dễ gì tìm được Hạnh ở đây.
Suốt cả buổi chiều, người ta huy động thanh niên trai tráng trong xóm ra tìm nhưng vẫn không tìm thấy. Mãi đến gần chín giờ tối, xác Hạnh mới vướng vào một miệng đáy cách chỗ đó hơn hai cây số.
Gia đình Hạnh và Thắng đều bàng hoàng trước cái chết bất ngờ của cô, nhưng không ai mảy may nghi ngờ Hằng điều gì. Trái lại, Thắng còn phải nén bớt nỗi đau để an ủi Hằng.
Trong những ngày tang lễ của Hạnh, Hằng không ăn không uống, lúc nào cô cũng ngồi cạnh áo quan, đầu bù tóc rối, mắt mũi sưng húp cả lên, ai nhìn thấy cô cũng không khỏi động lòng.
Hằng vật vã khóc lóc, cô xỉ vả mình sao lại nghe lời Hạnh, bơi xuồng ra đó hái bông bần làm gì cho nên nông nỗi, sao lâu nay mình không chịu tập bơi, vì nếu Hằng biết bơi thì chắc có thể còn cứu Hạnh kịp lúc.
- Hạnh chết là tại con... Hạnh chết là tại con...
Cô khóc ngất từng cơn.
Ba mẹ Hạnh phải dỗ mãi Hằng mới chịu vào phòng nằm nghỉ một lúc.
Sau cái chết của Hạnh, mối quan hệ giữa Thắng và Hằng càng thêm khắn khít. Bởi vì thấy Hằng quá buồn và lúc nào Hằng cũng cho rằng tại mình mà Hạnh mới chết nên Thắng tự thấy anh phải có bổn phận ai ủi Hằng, sợ Hằng nghĩ quẩn nên Thắng hết rủ Hằng đi chơi chỗ này lại đến chỗ khác. Ngày nào mẹ Thắng cũng gọi điện về thăm hỏi và nhắc nhở Thắng lo lắng, chăm sóc cho Hằng.
- Tội Hằng quá, nó với Hạnh thương nhau như chị em, tận mắt chứng kiến cái chết của bạn mà lại không làm gì được, hẳn nó đau khổ lắm. Con liệu mà an ủi nó, nghe Thắng
Bà Vinh ngày nào cũng lặp lại câu đó.
Còn với Hằng, ngoài những lời động viên an ủi, bà còn nói thêm:
- Con giúp bác chăm sóc cho anh Thắng nghen con, bác sợ nó buồn rồi sa vào rượu chè, mai mốt gỡ không ra là tiêu cả cuộc đời. Bác nóng ruột cho cả con và Thắng, đáng lẽ lúc này bác phải có mặt ở cạnh hai đứa, nhưng công việc bên này đang bề bộn, bác không thể dứt ra mà đi được. Thôi thì trăm sự bác cậy nhờ con. Bác biết con là cô gái có bản lĩnh, con sẽ đứng lên được, và con phải nhớ giúp anh Thắng gượng dậy nghen con...
Chính những ngày gần gũi đó đã đẩy hai người họ đến với nhau.
Bây giờ thì chỉ còn hơn một tháng nữa là đám cưới. Ban đầu Thắng cũng hơi ngần ngại, vì Hạnh mới mất chưa lâu, sợ người ta đàm tiếu không hay. Nhưng bà Vinh lại viện lẽ tuổi hai người chỉ có thể cưới vào ngày đó tháng đó, nếu không sẽ phải chờ năm năm nữa.
Tất nhiên ông bà Vinh không đời nào chờ được năm năm, cả Thắng cũng vậy. Từ lúc thân thiết với Hằng, anh đã khám phá ra ở Hằng có rất nhiều điểm nổi trội và đáng yêu hơn Hạnh. Tình yêu Thắng dành cho Hằng còn mãnh liệt hơn tình dành cho Hạnh trước kia.
Hạnh là người con gái hiền lành và đơn giản. Yêu Thắng, cô chỉ biết thương yêu hết lòng, thành thật hết lòng vậy thôi. Còn Hằng, cô biết dùng đủ mọi trò lắt léo để dẫn dắt Thắng đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Cô biết làm cho Thắng say mê đồng thời cũng biết làm cho Thắng đau khổ vì lo sợ mất cô.
Cuối cùng, Hằng đã chạm tay vào chiến thắng.
Thịêp cưới đã đặt rồi, áo cưới cũng đã sắp may xong, Hằng chỉ còn chờ đến ngày vu quy xuất giá.
Mặc dù bà Năm không đồng ý, nhưng cuối cùng bà cũng đã bị con gái khuất phục.
Hằng giận hờn khóc lóc, cô nói rằng mẹ không công bằng khi đi tin vào những lời vớ vẩn trong giấc chiêm bao mà ngăn cản tình duyên của con gái. Bà Năm dần dần cũng lung lay vì sau cái đêm ấy bà không gặp lại linh hồn của Hạnh lần nào nữa.
Hôm nay, đám cưới Thắng và Hằng được tổ chức thật linh đình, có đủ mặt vợ chồng bà Vinh và bà Năm, mẹ Hằng cùng bà con hai họ.
Ba mẹ Vinh muốn sau đám cưới con và dâu đi hưởng tuần trăng mật ở một nước nào đó tùy theo sự lựa chọn của Hằng, nhưng vì công ty đang thử nghiệm một công trình thí nghiệm mới, Thắng không thể vắng mặt lâu, Hằng cũng rất vui vẻ chấp nhận sẽ đi hưởng tuần trăng mật muộn, khi mọi việc đã đi vào ổn định.
Tiệc tàn, vợ chồng ông Vinh vội vã ra sân bay ngay. Hằng tưởng đâu vợ chồng sẽ có ngay một khoảng trời riêng đẹp đẽ. Ai ngờ đâu, đám bạn của Thắng không chịu buông tha, kéo theo về nhà cho biết “tổ uyên ương” của hai người như lời họ nói.
Hằng viện cớ mệt nên cáo từ về phòng trước, Thắng phải ở dưới nhà tiếp khách, từ nãy giờ đã lâu mà họ cũng chẳng chịu về cho.
Nằm một mình trên chiếc giường êm ái, Hằng thấm mệt và cảm thấy buồn ngủ vô cùng.
- Tranh thủ chợp mắt một tí, để khi anh Thắng lên mình có được vẻ tươi tắn thường ngày...
Hằng nhủ thầm. Nhưng dù hai mắt như muốn ríu lại, Hằng vẫn không sao ngủ được. Cô nhớ Hạnh, nhớ tất cả những sự việc đã diễn ra trong khoảng thời gian mấy tháng gần đây. Tất cả như một cuộn phim chiếu chậm đang diễn ra trước mắt Hằng.
- Ngủ thôi, không nghĩ gì nữa... ngủ thôi!
Hằng đậy một chiếc gối lên mặt cố nghĩ đến Thắng, đến tòa biệt thự to lớn mà bắt đầu từ hôm nay cô đã là chủ nhân của nó.
Hằng mỉm cười, mơ màng liên tưởng tới giấc mộng ngày còn thơ ấu. Hồi đó, mỗi khi xem truyền hình, cô rất thích xem các nàng tiên hay các cô công chúa kiêu sa, đài cát. Trong những giấc mơ ấu thời của Hằng thường xuyên thấy mình khoác lên người những chiếc áo kết kim sa lộng lẫy, thấy mình cũng xinh đẹp giống y như vậy. Nhưng mỗi khi thức giấc Hằng lại chạnh lòng nhìn lại bộ quần áo vải thô cũ kỹ đang mặc trên người.
Những khi không ngủ, Hằng chưa dám mơ những giấc mơ đài cát. Nhưng từ ngày gặp và yêu Thắng, Hằng thường tưởng tượng ra cảnh, sáng sáng mình đứng bên khung cửa sổ, vai choàng hờ một chiếc khăn nhìn xuống vườn hoa rực rỡ dưới sân, Hằng tưởng tượng ra những cảnh sinh hoạt hàng ngày trong ngôi biệt thự đồ sộ này mà cô sẽ là nhân vật chính.
Bây giờ điều đó đã thành sự thật!
Bất chợt Hằng cảm thấy dưới chân mình có một cái gì lạnh ngắt đang chạm vào. Cô ngồi bật dậy không thấy gì lạ ở chân, nhưng dưới nền gạch hoa chỗ đó lại có một vũng nước, phía trên lác đác mấy sợi bông bần!
Hằng thảng thốt co người lại. Cô muốn hét lên kêu cứu, nhưng nếu Thắng nhìn thấy cảnh này thì sẽ ra sao?
- Không! Không được! Không được để anh Thắng thấy!
Quên đi nỗi sợ hãi, Hằng vội vã chạy chân không bào buồng tắm, vơ lấy tấm thảm lau nhà ra lau lấy lau để chỗ nước kia, quét vội mấy sợi bông bần đi cho sạch sẽ.
Phòng ngủ có máy điều hòa, vậy mà cả người Hằng lúc này đã ướt mồ hôi. Cô nhìn mình trong gương và thoáng giật mình bởi sự sợ hãi vẫn còn hiện rõ trên gương mặt.
Hằng lùi lại ngồi phịch trên giường, và hơn lúc nào hết, cô thầm mong Thắng đừng lên đây vội.
Tuy mồ hôi đãm ướt nhưng Hằng lại cảm thấy lạnh, cô vừa đưa mắt ngó chừng khắp phòng vừa nằm xuống, một tay kéo mền đắp lên người. Vừa chui vào mền, tay Hằng chạm phải một vật gì ướt nhẹp trong ấy, giật mình cô tung mền ra thì thấy rõ ràng Hạnh đang nằm bên cạnh, mắt mở he hé, hai bên khóe miệng một dòng máu đỏ đang trào ra...
- Á...
Hằng thét lớn và lăn một vòng té xuống đất. Cô hy vọng Thắng sẽ nghe tiếng mà chạy lên, nhưng bên ngoài vẫn im lặng không có dấu hịêu nào của Thắng.
Hằng run lẩy bẩy, cố nhổm người lên định chạy ra ngoài, nhưng khi đã ngồi dậy, nhìn lại thì trên giường ngoài mền gối không có một ai!
Hằng dụi dụi mắt nhìn khắp nơi một lần nữa. Chiếc mền nằm vắt một nửa trên giường, một nửa thòng xuống đất, giường nệm nhàu nhè, gối vất lung tung, không còn vẻ ấm êm, mời gọi như lúc nãy nữa.
- Mình bị làm sao thế này?
Hằng vỗ liên tiếp mấy cái lên đầu. Cô muốn gọi điện cho Thắng, cho mẹ, hoặc cho bất kỳ một ai khác để được nói chuyện nhưng giờ đây cô mới nhớ lại đã không mang điện thoại vào phòng!
Việc không mang theo điện thoại vào phòng ngủ chính là đề nghị của Hằng.
Hôm Thắng đưa cô về xem nhà trwosc ngày cưới, thấy trong phòng ngủ có đặt chiếc điện thoại trên bàn, Hằng đã chau mày nói với Thắng:
- Em không muốn có điện thoại trong này! Em muốn khi vợ chồng mình vào phòng ngủ là dẹp bỏ hết công việc, dẹp bỏ hết tất cả sang một bên, chỉ có em và anh thôi, anh nghe?
Chìu theo Hằng, Thắng đã đem điện thoại ra ngoài ngay hôm ấy.
Hằng bám tay vào thành giường run rẩy đứng lên, nhưng khi người cô vừa nhổm dậy thì chân lại trượt dài và té sấp xuống, mặt cô úp vào một vũng nước, một mùi gì đó xộc vào mũi tanh lợm khiến Hằng nhộn nhạo muốn ói.
Nền nhà xung quanh Hằng lúc này chỗ nào cũng có nước, nước từ từ dâng lên, Hằng hoảng quá lồm cồm bò dậy. Nước đã lên tới mắc cá chân, bông bần trôi lềnh bềnh khắp phòng.
- Anh Thắng ơi! Anh Thắng!...
Hằng gọi to.
Không nghe tiếng trả lời, Hằng chạy vội ra cửa nhưng không tài nào mở được cửa, giống như đã bị khóa chặt từ bên ngoài.
- Anh Thắng ơi! Cứu em với, anh Thắng ơi!
Hằng vừa dộng ầm ầm vào cửa vừa gào thét, nhưng ở dưới nhà vẫn vọng lên những tiếng cười nói ồn ào của đám bạn Thắng.
Nước đã cao hơn mắc cá, những bông bần chạm vào chân Hằng lạnh ngắt.
Hằng không chịu được cảm giác đó, cô nhảy lên bàn phấn làm những lọ mỹ phẩm đắt tiền đổ vỡ lung tung. Ngồi chồm hổm trên bàn, hai mắt Hằng hết nhìn xuống nền nhà tới dán chặt cào cánh cửa, nước mắt cô đã trào ra, cái áo ngủ mỏng dính ướt nước dán chặt vào da thịt.
Dưới sàn nhà nước đã dâng cao, Hằng không còn nhìn thấy được nền gạch bên dưới nữa.
Bất chợt, Hằng chú ý tới một cái gì đó đen đen đang trôi từ trong phòng tắm ra. Cố nhớ rõ ràng, trong phòng tắm lúc nãy đâu có gì mà trôi như vậy.
Đến khi cái vật đó trôi lờ đờ gần đến chân bàn, Hằng rụng rời khi thấy đó là một cái đầu người bị tóc che lấp mặt mũi.
- Anh Thắng ơi! Anh Thắng!
Hằng cuống quýt vớ lấy những chai mỹ phẩm bên cạnh quăng tới tấp vào cánh cửa. Cô xô ngã ghế, đập bàn ầm ầm vẫn không nghe tiếng Thắng chạy lên.
Quá hoảng sợ, Hằng phang luôn cái máy sấy tóc vào tấm gương trước mặt. Nhưng dưới sàn nhà đầy nước, tiếng kính vỡ cũng không tạo được âm thanh đủ lớn để Thắng dưới nhà nghe được.
Hằng dừng tay, ngồi bệt xuống bàn thở hổn hển. Cái đầu người dưới sàn đã trôi đâu mất nên Hằng có đỡ sợ hơn đôi chút.
Bỗng đâu có tiếng trẻ sơ sinh oe oe bên cạnh, Hằng giật thót người ngoảnh nhìn lại sau lưng, hiện rõ trong gương là một hình hài của một bào thai vừa mới tượng hình mà ngày xưa cô đã thấy qua trong sách sinh vật. Cái bào thai chưa đủ mắt mũi ấy không ngừng nhúc nhích, và những tiếng oe oe phát ra từ đó!
Hằng té nhào xuống sàn nhà, nước đã dâng cao khiến cô gần như chìm nghỉm dưới đó. Hằng muốn la lớn lên, nhưng miệng vừa mở ra thì nước đã tràn vào mặn và tanh như mùi máu.
Một bàn tay xanh mét thò từ trong gầm giường ra nắm chặt lấy chân Hằng. Hằng vùng vẫy kịch liệt, muốn thoát khỏi cái bàn tay khủng khiếp ấy. Bông bần trôi dầm dềnh xung quanh, mỗi khi có một chiếc chạm vào Hằng, cô lại thấy đau buốt như có người cầm kim đâm vào da thịt.
Tiếng khóc oe oe yếu ớt khi nãy giờ đã thành tiếng khóc ngằn ngặt như một đứa bé đói sữa đang đòi mẹ. Hằng vẫn cố dùng hết sức lực để hất cánh tay kia ra khỏi người mình.
Nhưng cánh tay nắm hờ trông có vẻ lỏng lẻo, yếu đuối kia lại có một sức mạnh phi thường, nó cứ siết chặt lấy cổ chân Hằng như một gọng kìm, mặc cho cô vùng vẫy như điên cuồng.
Bám hai tay vào thành giường, Hằng cố thu người lại rồi nâng cả thân người, văng mạnh lên giường.
Lúc này Hằng đã thoát khỏi bàn tay ma quái ấy, nhưng cô cũng đã hoàn toàn kiệt sức, không còn ngồi dậy nổi.
Duỗi thẳng tay chân, Hằng nằm há mịêng thở dốc. Thân người cô run lẩy bẩy vì nhiệt độ trong phòng lúc này đã xuống rất thấp như có người bấm nút điều khiển máy điều hòa. Hằng lại ướt như chuột lột, trên người cô chỉ có chiếc áo ngủ bằng voan mỏng dính.
Hằng cố thu hết tàn lực quờ chân để kéo cái mền lên. Vừa đắp được cái mền lên người, Hằng lại có cảm giác có cái gì đó đang ngọ ngoạy bên cạnh. Xoay đầu lại nhìn, Hằng há hốc miệng không kêu thành tiếng khi thấy chính cái bào thai lúc nãy trong gương đang nằm sát cạnh bên cô.
Hằng nghiêng người qua bên kia để tránh cái bào thai thì đụng phải Hạnh, nằm im lìm cứng đơ bên cạnh.
- Á...
Hằng vùng dậy với một sức mạnh phi thường, cô lao nhanh cửa, vừa chạm tay vào thì cánh cửa đã mở bật ra, Hằng chạy thoát ra ngoài, cô lao xuống thang lầu nhưng không biết rong rêu gì bám chặt dưới chân trơn nhớt khiến Hằng trượt ngã và lăn lông lốc từ trên lầu xuống.
Thắng tiễn bạn ra cổng, vừa quay trở vào nhà, anh kinh ngạc khi thấy Hằng nằm sóng soài dưới chân cầu thang, cả người ướt sũng.
- Hằng! Hằng! Em làm sao vậy?
Thắng chạy vội tới đỡ Hằng lên, hốt hoảng gọi. Hằng đã bất tỉnh từ khi nào!
Khi xe cấp cứu tới, Thắng chỉ kịp giựt phăng chiếc màn cửa cạnh đó choàng vào người cho vợ.
 
***
 
Từ lúc ở nhà hàng về nhà, bà Năm thấy người hầm hập như phát sốt, đầu óc bà cứ váng vất rất khó chịu.
- Có lẽ vì lúc nãy mọi người nài ép quá, mình có uống vài hớp rượu...
Bà Năm lẩm bẩm.
Không kịp thay bộ quần áo theo thói quen ngăn nắp thường ngày, bà Năm đổ vật xuống giường nằm thở.
Suốt ngày hôm nay, bà bận rộn với tiệc cưới của con gái. Xung quanh bà ai ai cũng nói cười hớn hở.
Bà con hai họ đều chúc mừng, nhất là những người thân bên họ nhà bà, ai cũng mừng cho con gái bà được trút bỏ bộ lông vịt bầu để khoác lên người tấm áo thiên nga, một bước đổi đời.
Bà Năm cũng đã ngạc nhiên tự hỏi mình, sao bà lại không thấy vui nào trước sự việc trọng đại ấy của đứa con gái mà bà hết mực yêu thương.
Trước kia, bà Năm vẫn thường nghĩ tới ngày con gái đi lấy chồng, khi ấy chắc chắn bà sẽ mừng vui đến trào nước mắt, bà sẽ tự hào nhìn thấy con gái mình xinh xắn trong chiếc áo cưới.
Vậy mà hôm nay, đám cưới của con bà linh đình to lớn hơn rất nhiều những gì bà từng ao ước. Sính lễ nhà trai trao cho nó là cả một gia tài.
Con gái bà đó, lộng lẫy kiêu sa như một nàng tiên trong cổ tích, như một bà hoàng trên sân khấu. Thế tại sao bà không vui được? Lòng bà luôn thắc thỏm một nỗi lo sợ nào đó mà bà không biết gọi tên.
Suốt ngày, bà Năm vẫn phải đi đứng, nói cười nhưng trong thâm tâm bà có cảm giác một điều gì đó đáng sợ đang xảy ra.
Sau lời giới thiệu nhà nghề của người dẫn chương trình, cả hội trường rền vang những tràng pháo tay, những tiếng khui sâm banh vui nhộn. Trên sân khấu, Thắng và Hằng đứng cạnh nhau, những bông hoa giấy li ti đủ màu sắc, những sợi keo màu được phun ra, vẫy ra đẹp mắt. Bà Năm nhìn con mà lòng nặng trĩu.
Bất chợt bà thoáng giật nảy người vì thấy cô dâu đứng cạnh Thắng không phải là Hằng con gái bà là là Hạnh! Hạnh đang tươi cười, một tay nâng ly sâm banh, một tay bế đứa bé được quấn trong một chiếc khăn trắng tinh.
- Ơ kìa... cô dâu...
Bà Năm thảng thốt níu tay người bà con ngồi bên cạnh, giơ tay chỉ lên sân khấu.
Người bà con cười:
- Biết rồi! Thấy rồi, con gái chị hôm nay lộng lẫy quá...
- Tay nó... trên tay nó...
Bà Năm lắp bắp nói.
- Ừ, bó hoa đẹp dễ sợ! Lúc nãy tui nghe nói hoa đó nhập từ nước ngoài hay sao ấy, phải không chị?
Người bà con vẫn cười đùa như thường.
Bà Năm đưa tay lên khẽ lau mồ hôi trán. Bà dụi mắt mấy cái rồi nhìn trở lên sân khấu. Hằng, con gái bà đang cười thật tươi, trên tay nó ôm một bó hoa to tướng.
Bây giờ, khi nằm một mình trong nhà, bà Năm thấy nỗi lo càng lúc càng lớn. Mà thật sự bà không biết mình đang lo điều gì?
Bà Năm biết rất rõ ba mẹ Thắng thương con gái mình hết mực, bà cũng biết Hằng được làm vợ Thắng là phúc đức mấy đời của nó. Giờ đây, bên cjanh Hằng là Thắng, không có gì mà bà phải hồi hộp lo sợ nữa.
Dù đã cố trấn an mình bằng rất nhiều lập luận nhưng bà Năm vẫn không yên lòng được. Bà muốn nhổm dậy gọi điện cho con, nhưng bà lại sợ Hằng cà Thắng bực mình, vì đây là khoảng thời gian riêng tư đầu tiên của vợ chồng nó.
Nghĩ vậy nên bà Năm cố dằn lòng lại. Bà nằm im lẩm bẩm:
- Cầu trời khẩn phật cho con gái con được bình yên. Nếu như có chuyện gì bất trắc, xin hãy xảy đến với con, con xin được gánh thay cho con gái tội nghịêp của con...
Ngừng một lúc, bà Năm lại thầm thì:
- Hạnh ơi, bác không biết giữa hai đứa con có xảy ra chuyện gì hay không? Nhưng nếu con Hằng nhà bác có lỡ làm điều gì không phải với con, thì bác xin thay mặt nó mà xin lỗi con, xin được đền mạng cho con, nghe Hạnh? Bác mong con thương bác mà hãy chấp nhận lời khẩn cầu này...
Hai mắt bà Năm từ từ díp lại. Bà chìm dần vào giấc ngủ nặng nề, mệt mỏi.
Có tiếng cười lanh lảnh quen thuộc của một cô gái. Bà Năm nhủ thầm:
- Con Hạnh hôm nay có chuyện gì mà cười vui đến thế không biết? Thường ngày nó là đứa nghiêm trang nhất mà?
Tràng cười đó vừa dứt thì tiếng oe oe con nít khóc lại vang lên.
- Tụi này tha con nhà về mà để khóc dữ vậy?
Bà Năm lẩm bẩm. Bà chưa kịp cất tiếng hỏi thì nghe có tiếng còi xe cấp cứu như xé tai, rồi tiếng khóc la ồn ào đồng loạt vang lên làm bà Năm giật mình choàng tỉnh.
- Quái lạ! Mình lại gặp ác mộng!
Vừa lau mồ hôi trán, bà Năm vừa lẩm bẩm một mình. Bà chống tay ngồi dậy tính đi vô buồng thay áo. Nhưng khi bà vừa ngồi thẳng lưng lên thì một hồi chuông điện thoại vang lên gục giã.
Linh tính có điều gì không lành, bà Năm run rẩy nhấc máy.
- Mẹ ơi, mẹ tới bệnh viện ngay đi, Hằng vợ con đã bị bất tỉnh, đang được bác sĩ theo dõi trong này...
Bà Năm bàng hoàng khi nghe giọng nói run run của Thắng, bà buông rơi điện thoại, chạy ào ra đầu hẻm đón xe lên bệnh viện mà quên cả việc khóa cửa nhà.
- Con ơi!... Con ơi... Con làm sao vậy hở con? Con Hằng nó bị làm sao vậy Thắng?
Bà Năm khụy xuống bên giường khi trông thấy Hằng nằm thiêm thiếp, nét mặt còn hằn rõ sự kinh hoàng, tóc tai thì rũ rượi...
Thắng cuối xuống đỡ mẹ vợ lên, đặt bà ngồi vào ghế. Anh ôm đầu khổ sở:
- Con cũng không biết tại sao nữa mẹ à! Lúc Hằng lên phòng thì con còn tiếp bạn dưới nhà. Đến khi con tiễn bạn về, vừa quay vào thì đã thấy Hằng bất tỉnh nằm dưới chân cầu thang... Hình như Hằng gặp phải điều gì đáng sợ lắm...
Bà Năm không nói gì nữa, cũng không hỏi thêm Thắng điều gì, bởi bà có linh cảm sự việc này có liên quan tới hồn ma của Hạnh.
- Gia đình phải ráng chờ, diễn biến của cô này rất lạ, chúng tôi cần phải tiếp tục theo dõi, tạm thời chưa có kết luận gì được! Nhưng có lẽ không nguy đến tính mạng.
Bác sĩ thông báo sau khi đã hội chẩn trường hợp của Hằng.
Bà Năm thở dài nhìn Thắng, nói:
- Để mẹ ở đây với vợ ocn được rồi, con về nhà nghỉ ngơi một chút đi con, cả ngày nay con đã mệt lắm rồi!
Thắng buồn bã:
- Con còn lòng nào mà ngơi nghỉ được nữa hả mẹ? Nhưng có lẽ con phải về nhà xem qua có gì lạ mà vợ con sợ hãi đến mức ấy. Hằng vốn gan dạ mà, đâu dễ có gì dọa được cô ấy... Mẹ trông chừng Hằng giúp con một chút, con về rồi sẽ trở vào ngay!
Bà Năm gật đầu. Thắng thất thểu bước ra khỏi phòng. Đêm tân hôn của hai người thế là tan mất rồi! Giờ đây Hằng nằm đó không biết tình trạng thế nào, nặng nhẹ ra sao, thì làm sao Thắng không lo rầu cho được.
Bà Năm nhè nhẹ vuốt tóc con gái. Bà lần tay gỡ từng sợi tóc rối trên đầu Hằng. Một lúc sau nhìn Hằng đã bớt đi vẻ nhêch nhác kỳ cục, khác xa với Hằng gọn ghẽ của thường ngày.
Nước mắt bà Năm không ngừng tuôn chảy. Bà thầm thì:
- Tại sao con lại phải khổ đến như vầy hở con? Hạnh ơi, con Hằng nhà bác còn ngu dại lắm, xin con tha cho nó đi, bác sẽ đền mạng cho con, vì bác là mẹ, bác sinh nó ra mà không biết dạy nên nó mới như vậy, con thương bác mà tha cho Hằng đi, con ơi, Hạnh ơi...
Bà Năm ngồi gục xuống giường rên rỉ.
Không lâu sau Thắng quay lại. Vừa thấy bà Năm, thắng hớt hãi nói:
- Con thật sự không biết Hằng đã gặp phải chuyện gì? Con nghĩ Hằng đã phải chống chọi với nó lâu lắm. Không hiểu sao trong phòng ngủ chỗ nào cũng ẩm ướt, mền gối nhàu nát, đồ đạc vứt lung tung đầy phòng, cả tấm kiếng cũng bể nát. Nhưng lạ một điều là lúc đó con cùng các bạn đang ở ngay dưới đó mà lại không hề nghe thấy tiếng động lạ nào?
Bà Năm lặng lẽ lau nứơc mắt, không dám trả lời Thắng. Thắng buông người xuống chiếc giường bên cạnh thở dài não ruột.
Vì trong ngày đã uống khá nhiều rượu nên khi đặt lưng xuống giường không bao lâu thì Thắng đã ngủ say như chết.
Bà Năm lấy mền đắp cho con rể. Bà thương Thắng vô cùng.
Là người giàu có, nên khi đau ốm vào bệnh viện cũng được ở phòng VIP. Phòng bệnh rộng rãi đầy đủ tiện nghi nhưng bà Năm cũng không còn tâm trí nào mà để ý tới chuyện đó. Bà chỉ lo ngai ngái đến đứa con yêu dấu đang nằm thiếp trên giường.
Bà Năm cứ ngồi lặng lẽ nhìn con và nguyện cầu cho nó.
Có lẽ đêm đã khuya rồi, ngoài hành lang bệnh viện đã không còn người qua lại. Hằng vẫn nhắm mắt, hơi thở mệt nhọc nặng nề. Bà Năm không dám ngủ, bà cũng không buồn ngủ, chỉ thấy mệt mỏi, mệt vô cùng!
Vừa định ngã lưng nằm xuống cạnh con gái, bà Năm bất chợt giật mình khi thấy Hằng mở bừng mắt.
- Con... Có phải con đã tỉnh? Để mẹ gọi bác sĩ!
Bà Năm mừng rỡ định chạy tới nhấn chuông gọi bác sĩ trực, nhưng Hằng đã nắm chặt tay bà:
- Mẹ! Mẹ ngồi đây với con... Mẹ đừng đi, con sợ lắm...
Bà Năm ôm chầm lấy con gái, dỗ dành:
- Không sao! Không sao rồi, có mẹ bên cạnh con rồi nè, đừng sợ nữa con ơi!...
Hằng ứa nước mắt, bấu chặt tay bà Năm hơn nữa:
- Mẹ ơi, con xin lỗi mẹ... Con... chính con đã giết chết Hạnh và cả con của cô ấy! Con sợ quá mẹ ơi... Mẹ con Hạnh sẽ không để cho con được yên đâu mẹ ơi...
- Cái gì? Cô vừa nói gì? Cô lặp lại lần nữa tôi nghe xem?
Tiếng quát lớn của Thắng làm bà Năm và Hằng giật thót cả người. Không biết Thắng đã thức từ lúc nào mà nghe rõ lời thú tội của Hằng.
- Anh Thắng... xin tha tội cho em... Cũng chỉ vì em quá yêu anh...
Hằng bật khóc nức nở.
Thắng nhào tới lắc mạnh vai Hằng, gầm lên:
- Cô nói mau đi, con nào? Đứa con cô mới nói là sao?
Bà Năm đẩy Thắng ra, cố lấy tấm thân già nua của mình để che chắn bảo vệ cho con gái.
Hằng nhìn mẹ, lắc đầu:
- Mẹ ơi, con đáng bị như vậy mà...
Rồi ngước lên nhìn Thắng, Hằng nói trong tiếng khóc:
- Phải... Hạnh đã có thai với anh. Và chính em, chính em đã cố tình làm cho cô ấy rơi xuống sông...
- Trời ơi!
Thắng kêu lên đau đớn rồi ôm đầu chạy vụt ra cửa.
- Anh Thắng! Anh Thắng!
Hằng hoảng hốt gọi. Cô cố ngồi lên, muốn rượt đuổi theo Thắng, nhưng giờ đây Hằng đã kiệt sức, cô đành bất lực nằm nhìn ra cửa khóc ròng.
Bà Năm ôm lấy con gái:
- Con đừng sợ nữa. Mẹ sẽ xin Hạnh tha thứ cho con, mẹ sẽ đền tội thế cho con... Bây giờ con đừng nghĩ gì tới chuyện đó nữa. Con cứ lo tịnh dưỡng đi, mọi việc đã có mẹ dàn xếp.
Hằng cố mỉm một nụ cười héo úa. Cô nhắm mắt lại, hai dòng nước mắt lặng lẽ chảy ra hai bên má.
Một lúc lâu sau, bất chợt Hằng nói:
- Mẹ, con đói quá! Con thèm ăn cháo trắng với trứng vịt muối như hồi xưa mẹ vẫn thường cho con ăn. Mẹ chịu khó ra cổng bệnh viện mua cho con nghen mẹ?
Nghe con gái đòi ăn, bà Năm mừng rơn. Bà hấp tấp đứng dậy dặn con:
- Mẹ đi rồi về liền, có cứ nằm im đó, có gì lát nữa mẹ vô rồi hãy làm nghen con!
Hằng gật nhẹ.
Bà Năm tất tả đi như chạy. Trước cổng bệnh viện giờ này người mua bán thưa thớt nên không phải chờ đợi lâu, bà đã mua được cháo và trứng muối theo yêu cầu của Hằng.
Đẩy cửa bước vào phòng, bà Năm hốt hoảng khi thấy chiếc giường trống trơn không có người nằm. Đặt vội tô cháo lên bàn, bà chạy tới mở cửa phòng tắm vẫn chẳng có ai trong đó.
Hoảng hốt, bà Năm nhấn chuông tới tấp. Bác sĩ trực, y tá, hộ lý chạy tới thật đông, và tin Hằng mất tích lập tức được thông báo. Bệnh viện cho người bủa ra lùng sục khắp nơi xung quanh nhưng tới sáng vẫn không phát hiện được dấu vết nào.
Suốt mấy tiếng đồng hồ không ai liên lạc được với Thắng. Mãi đến sáng hôm sau mới có người tìm thấy anh đang say gục trong một quán rượu.
Tin Hằng mất tích làm Thắng tỉnh rượu ngay lập tức. Anh hớt hãi chạy trở về nệnh viện tham gia tìm kiếm.
Mãi đến xế chiều hôm ấy, người ta mới phát hiện được xác Hằng ở khu đất trống phía sau bệnh viện. Hằng chết một cách rất vô lý, cô chết chìm trong cái bồn nước bỏ hoang lâu ngày của bệnh viện! Cái bồn nước rất cao, thường thường, muống lên tới miệng bồn phải bắc thang mới trèo lên được. Nhưng cái bồn nước từ ngày bị vứt ở giữa khu đất hoang vẫn đứng trơ trọi một mình, không có thang, cũng không có bất cứ thì có thể bắc vào mà trèo lên được. Nhưng Hằng lại chết chìm trong đó!
Cái chết của Hằng khiến dư luận xôn xao một thời gian dài, các nhà chức trách cũng vào cuộc để điều tra. Nhưng cuối cùng đành phải khép lại vụi án, vì không tìm được chứng cứ nào chứng minh rằng Hằng bị hại chết.
Chỉ có hai người hiểu được nguyên nhân cái chết kỳ lạ đó, đó là bà Năm và Thắng. Nhưng cả hai đều giữ kín trongl òng không muốn nói ra.
Sau đám tang của Hằng, bà Năm bỏ nhà đi tu. Thắng cũng rời Việt Nam đi chu du khắp nơi. Anh hẹn với cha mẹ, khi nào tinh thần trở lại bình thường anh sẽ quay lại.
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu

 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:55:31 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 20:12:05
HỒN MA BẤT TRỊ
 
- Chia buồn với mầy nè!
Minh giơ cao ly rượu lên ngang mặt Lập. Lập cũng đưa ly của mình lên, hai chiếc ly va vào nhau đánh “cộp” một tiếng.
- Không ngờ một đứa đẹp trai, con nhà giàu như mầy mà lại bị con nhỏ đó từ chối! Mầy đừng buồn, có biết bao con gái đẹp đang chen lấn, dẫm đạp lên nhau để được tiếp cận với mầy kìa!
Khương vừa như an ủi, vừa như mai mỉa.
Lập dằn mạnh ly rượu xuống bàn:
- Ai nói với mầy là tao buồn? Bộ tụi mầy tưởng tao say mê con nhỏ đó thiệt hả? Nếu vậy là tụi mầy lầm to rồi nhé? Tao coi nó cũng như những đứa khác thôi, nhưng tao tức, tức vì nó cao ngạo…
- Ừ, tao cũng công nhận con đó chảnh thiệt! Nó chê một thằng như mầy thì muốn đứa nào đây? Mầy có thừa những điều kiện để con gái mê mệt…
Thông đế thêm.
Minh cười cười:
- Tao thấy tụi mầy chả hiểu gì tâm lý phụ nữ cả! Tao thì tao biết lý do nào con nhỏ đó không thèm thằng Lập.
- Hả? Mầy biết hả? Tại sao?
Lập nôn nóng.
Minh hớp thêm một hớp rượu rồi chậm rãi nói:
- Theo tao, có những đứa con gái dị ứng với loại công tử nhà giàu mà khoe mẽ, thằng Lập lại đi chinh phục nó bằng vật chất, mà nó có thể thuộc loại đàn bà đó thì sao? Bởi vậy, nếu không chinh phục được bằng cái vẻ hào nhoáng bên ngoài thì mầy phải làm cho nó thấy được cái bên trong của mầy!
- Ha ha ha… Tức là mầy biểu thằng Lập đi chinh phục nó bằng… bằng… cái đó hả? Ha ha ha…
Thằng Khương cười ngặt nghẽo.
Minh nghiêm giọng:
- Mầy đừng nghĩ bậy bạ nghe, tao đang nói chuyện nghiêm túc. Ý tao là, mầy phải cho nó thấy được sự thành tâm của mầy, lòng thương yêu tha thiết của mầy dành cho nó… Có vậy nó mới cảm động chứ!
Lập lắc đầu:
- Mầy nói hay lắm! Tao không tin! Tao nghĩ con này đầu óc nó có vấn đề hay sao ấy. Tụi mầy thấy không, cả một trường biết bao người mà nó có kết bạn với ai đâu, dù là bạn gái? Lúc nào tao cũng thấy nó âm thầm đơn độc, nó như một thế giới riêng biệt, không hòa hợp với nơi này…
- Điều đó thì ai mà không nhận ra! Có thể gia đình nó có vấn đề, hoặc đời sống tình cảm của nó trục trắc sao đó… Nói chung tao khẳng định nó hoàn toàn tỉnh táo, chỉ là mang nặng tâm sự không muốn giải bày, thế thôi!
Minh nói.
- Thời buổi này, tao ít thấy đứa con gái nào lại không ham mê vật chất… Nó cũng thuộc loại hàng hiếm đo nghe mậy!
Khương vừa cười vừa nói.
- Thằng Minh rành tâm lý phụ nữ nè, mầy thử tấn công nó đi, chứng minh khả năng của mầy xem sao?
Quay sang Minh, Khương thách thức.
Minh ngước lên nhìn Lập:
- Mầy có tin tao sẽ chinh phục được nó không?
Lập nhún vai:
- Mầy hơi quá tự tin rồi đó, ông bạn ạ! Tao đã bảo nó không giống với những đứa con gái khác, không dễ gì đâu…
Minh chồm hẳn người lên bàn:
- Nếu tao chinh phục được nó, tụi mầy sẽ thua gì đây?
Lập ngước lên nhìn quanh, rồi bất chợt chỉ tay vào một chai rượu rất đắt tiền chưng trong tủ kính:
- Nếu mầy thành công, chai rượu kia sẽ thuộc về mầy, oke?
- Oke! Thế nhé? Thằng Khương làm trọng tài nhé?
Minh đưa tay ra bắt tay Lập và háy mắt với Khương.
Khương cẩn thận hỏi lại:
- Nhưng phải có thời gian nhất định chứ?
Minh gật đầu lia lịa:
- Oke! Oke… Tụi mầy cho tao thời gian… ba tháng, được không?
- Bao nhiêu đó có kịp không? Tao sẵn sàng chờ lâu hơn một chút đó! Mầy đừng quá tự tin!
Lập rộng rãi.
Minh cười:
- Yên tâm, tao nói được là được mà!
- Nào, vậy thì mình “dzô” trăm phần trăm đi!
Khương nâng ly rượu sóng sánh đầy lên, Lập và Minh cũng đưa ly cụng vào nhau côm cốp, cả ba vừa uống vừa cười nói vang vang.
Ở cái thành phố này, những nơi ăn chơi không lại gì hai công tử Quang Lập và Nhật Minh. Cả hai đều đang là sinh viên Đại học, nhưng việc học đối với hai người chỉ là cái mác để nói lên vẻ trí thức của mình thôi, chứ chẳng ai thèm quan tâm tới giảng đường hay sách  vở.
Những ngày hiếm hoi hai cậu công tử vào trường cũng là chỉ để nhìn ngó, chấm điểm các nữ sinh viên, lựa cô nào hạp nhãn là bắt đầu tấn công, đến khi chiếm đoạt được, chơi chán thì vứt ra một số tiền rồi chấm dứt. Mọi chuyện đối với hai cậu đều rất đơn giản, không có gì phải tốn công suy nghĩ.
Quang Lập là con trai duy nhất của ông chủ tập đoàn kinh doanh bất động sản đang ở thời kỳ hưng thịnh. Còn Nhật Minh, tuy gia thế có kém Quang Lập một ít nhưng cũng là quý tử của một trong những người giàu nhất nước. Cả hai kết bạn với nhau từ hồi học phổ thông, nhưng không phải quen nhau ở trường lớp mà là quen ở các nơi ăn chơi, bài bạc.
Nhật Minh đã được gia đình đưa sang Mỹ du học một năm, nhưng cậu ta dở chứng không chịu ở lại đó nữa, một hai đòi trở về nước, làm quá nên cha mẹ cậu cũng phải đồng ý. Về nước, vào học tiếp ở một trường Đại học danh tiếng, nhưng đa phần thời gian của Minh đều ở các quán vũ trường, quán bar.
Từ nhỏ, Quang Lập quen được chìu chuộng, muốn gì được nấy. Lớn hơn một chút, khi đã biết tán gái thì cậu ta chưa một lần nào bị thất bại. Ấy vậy mà con nhỏ đó lại dám khước từ, mà còn khước từ bằng thái độ ngạo mạn nữa cay chứ!
Mà con nhỏ đó nào có phải nhan sắc chim sa cá lặn gì đâu? Ngay cả mấy đứa từng đạt danh hiệu hoa khôi này, hoa hậu nọ còn phải đổ dưới đồng tiền do Lập bỏ ra, thế mà một con nhỏ chỉ hơi được mắt một chút lại dám cư xử thiếu tôn trọng như vậy, Lập không cam tâm!
Con nhỏ đó là ai?
Đó là Ngọc Lam, một nữ sinh viên năm nhất, nghe nói quê cô ta ở tận miền Trung, ở một làng quê “chó ăn đá, gà ăn muối”. Nhan sắc và học lực của Ngọc Lam cũng không có gì nổi bật. Nhưng ngay từ những ngày đầu mới nhập học, Lập và Minh đã chú ý tới cô bởi những nét khác người.
Hình như chưa bao giờ có ai trông thấy Ngọc Lam cười. hoặc nói chuyện vui vẻ với ai. Hằng ngày cô ấy tới giảng đường, chăm chỉ học tập, vừa hết giờ là lủi thủi về nhà trọ, không giao tiếp với bất kỳ ai, dù ai có cố tình hỏi han trò chuyện thì cô cũng lờ đi như không biết người đó đang nói với mình.
Nếu bảo phụ nữ là một thế giới bí ẩn mà không ai có thể khám phá hết được, thì ở Ngọc Lam, cái thế giới ấy lại càng bí ẩn, kỳ quặc hơn.
Nơi ở của cô là một căn nhà trọ rẻ tiền dành cho các tầng lớp lao động có thu nhập thấp trong xã hội. Những người sống ở đó đa phần là dân lao động, làm thuê làm mướn đắp đổi qua ngày. Hầu như trong cả khu đó chỉ có mỗi mình Ngọc Lam là ăn học đàng hoàng. Những sinh viên khác không ai dám tới đó trọ học, vì sự phức tạp của cách thành phần ở trọ, vì những tiếng chửi rủa tục tằn, những trận đánh đập diễn ra như cơm bữa trong các ngôi nhà trọ.
Nhưng Ngọc Lam hoàn toàn không để tâm đến những điều đó. Cô lặng lẽ đến trường, lặng lẽ ghé ngang chợ hoặc cửa hàng mua một ít thức ăn rồi về nhà, vừa bước vào phòng là cánh cửa sau lưng cô đã đóng sập lại, và cô cứ im ỉm trong đó suốt.
Nhật Minh đã nắm được thời gian biểu của Ngọc Lam một cách chính xác. Minh thầm phục cô gái này vì thời gian biểu của cô luôn được thực đúng y, ít khi nào sai lệch. Những ngày bình thường, cái chu trình đến trường - đến thư viện - về nhà của Ngọc Lam diễn ra đều đặn. Buổi tối khoảng chín giờ cô thường xuống đường đến một tiệm cháo trong khu đó để mua cháo, hình như đó là món ăn đêm duy nhất của cô.
Ngày nghỉ, Ngọc Lam thường tới công viên gần đó vào khoảng tám giờ sáng, cô ngồi ở một góc nhất định và lôi sách vở ra học, mãi đến khi mặt trời lên cao, những tia nắng gay gắt chiếu rọi xuống chỗ ngồi, cô mới chịu đứng lên đi về phòng.
- Chào cô, trông cô hơi quen quen… hình như… cô học cùng trường với tôi thì phải?
Minh ấp úng.
Ngọc Lam khẽ ngước mắt nhìn Minh, không nói gì, cũng không tỏ một dấu hiệu gì đặc biệt.
- Xin lỗi, cô cho phép tôi được ngồi đây chứ ạ?
Minh chỉ tay vào chiếc ghế đá Lam đang ngồi.
Lam không nói không rằng, cô thu dọn tập vở cho vào cái tui to đeo ở vai và đứng lên đi thẳng một hơi, không thèm ngoái nhìn lại phía sau lưng.
Minh đứng nhìn theo, lẩm bẩm:
- Con nhỏ chảnh thiệt!
Minh biết đúng như lời Lập đã cảnh báo, không dễ gì mà chinh phục được cô gái đó đâu, nhưng Minh nhất định không chịu đầu hàng. Không phải vì chai rượu cá độ với Lập. Minh có thừa tiền để mua hàng tá chai như thế! Nhưng đây là sĩ diện, là bản lĩnh đàn ông của mình, Minh nhất định phải hạ gục con mồi bằng mọi cách.
Từ hôm đó, Minh cố gắng hạn chế những cuộc chơi, không cặp kè với bất kỳ cô gái nào mà tập trung thời gian vào giảng đường, mặc dù Minh và Lam không học cùng lớp, cũng không cùng khóa.
Minh không đến trường bằng chiếc xe hơi sang trọng mà ba mẹ đã dành riêng cho mình nữa, Minh đi học bằng chiếc xe gắn máy bình thường mượn của anh tài xế trong nhà.
Mỗi ngày, Minh rất kiên nhẫn đi học thật sớm để đến đứng trước khu nhà trọ của Lam, chờ khi thấy Lam xuất hiện là Minh rồ xe tới gần mời mọc:
- Lên xe đi, mình chở đi! Mình với bạn học cùng trường mà?
Minh đã thay đổi cách xưng hô, nhưng Lam vẫn không thay đổi. Cô vẫn bình thản như Minh không hề tồn tại trước mặt mình!
Những lần sau đó thì Minh không mời Lam lên xe nữa, anh lặng lẽ dẫn xe đi bộ theo sau, cả chuyến về cũng thế.
Lam cũng không trốn tránh Minh, cô cứ coi như không hề có minh, vậy thôi!
Minh tự nhủ với mình hàng trăm hàng lần rằng phải kiên nhẫn, kiên nhẫn đến cùng, anh tin tưởng sự kiên nhẫn sẽ đem lại cho anh một kết quả mỹ mãn.
 
***
Hôm nay không phải là ngày nghỉ nhưng lớp Lam được nghỉ một ngày để chuẩn bị thi hết môn. Lam vẫn thức dậy từ rất sớm. Cô ngồi vào bàn học nhưng tâm trí lại để tận đâu đâu.
Từ nhiều năm nay, đầu óc Lam vẫn thế, cô không thể nào tập trung được nhiều cho bài vở mặc dù lúc nào Lam cũng chăm chỉ học tập nhưng kết quả lại không cao lắm, bởi những điều Lam tiếp thu được nó không tồn tại lâu trong đầu Lam.
Nhưng không phải đầu óc cô có vấn đề. Lam biết chắc điều đó. Cô biết mình vẫn rất tỉnh táo. Chỉ vì cô không làm sao xua được những ám ảnh ra khỏi đầu mình…
Lam chậm rãi gỡ tờ lịch trên tường, bỗng cô chợt nhớ ra hôm nay là sinh nhật của mình.
Lam ngồi nhìn chăm chăm vào tờ lịch, nước mắt cô lăn dài xuống má. Đã bao lâu, bao lâu rồi nhỉ, Lam chưa có được một bữa tiệc sinh nhật nào… Bất chợt sáng sớm hôm nay ký ức kéo về khiến Lam trào nước mắt.
Lam nhớ rất rõ, lần sinh nhật được tổ chức sau cùng là năm cô học lớp tám. Hôm đó mẹ cô trang hoàng nhà cửa thật đẹp, rồi chính tay đi đặt một chiếc bánh kem to tướng. Lam không bao giờ niềm hạnh phúc vô bờ mà có được trong ngày hôm đó… Một cô bé với với đầm rực rỡ, mái tóc được mẹ tết thật khéo làm tăng thêm vẻ xinh xắn hồn nhiên của Lam. Đám bạn Lam hết trầm trồ khen Lam, lại trầm trồ khen chiếc bánh.
Nhà Lam không khá giả, nhưng ba mẹ đã dành cho Lam một tình yêu thương vô bờ bến.
- Năm nay ba mẹ chỉ cho con được món quà nhỏ này, con cố gắng ngoan ngoãn và học giỏi, nhất định sang năm làm ăn khá hơn ba sẽ tặng cho con món quà mà con mơ ước…
Ba vuốt tóc và âu yếm nói với cô như thế.
Món quà mà Lam từng ước mơ trong suốt quãng đời tuổi nhỏ là một chiếc dương cầm. Ngày ấy, cô chỉ biết nó đắt tiền, chứ không biết nó đắt đến độ nào nên cứ đòi ba mẹ mua hoài, mà ba mẹ Lam cũng chỉ biết nhìn nhau khi nghe Lam yêu cầu điều đó…
Được ba hứa mua cho chiếc đàn dương cầm vào sinh nhật năm sau, Lam mừng lắm, ngày nào cô cũng mong ngóng cho thời gian trôi qua thiệt nhanh, cô giành lấy phần được xé lịch mỗi ngày và thầm nghĩ nếu như thời gian tùy thuộc vào những tờ lịch thì cô sẽ lập tức hé hết cả lốc lịch trong một lúc để sinh nhật năm sau đến liền…
Nhưng cái ngày mà Lam khắc khoải đợi chờ mãi mãi không bao giờ đến với cô được. Sau sinh nhật lần đó của Lam không lâu, ba cô đã gây ra một tai nạn giao thông nghiêm trọng làm chết hai vợ chồng, một đứa bé lên hai và cả đứa bé sắp chào đời còn nằm trong bụng mẹ nó.
Về phần ba Lam, ông bị thương rất nặng. Mẹ Lam vừa phải lo cho chồng, vừa phải chạy vạy khắp nơi để có tiền bù đắp phần nào cho gia đình những người thiệt mạng. Bến đó người ta cũng thông cảm cho gia đình Lam, nên họ cũng không đòi hỏi nhiều, tuy vậy, mẹ Lam vẫn phải vướng vào một số nợ khổng lồ.
Ba Lam qua đời sau tai nạn hai tháng. Mẹ Lam ngã quỵ, không còn đủ sức lực để làm ra tiền nuôi sống hai mẹ con chứ nói gì tới chuyện làm để trả nợ.
Cuối cùng mẹ Lam nhận lời về làm vợ một người mà cả mẹ Lam đều không ưa. Ông ta chính là một chủ nợ lớn nhất của gia đình Lam. Mẹ Lam thuận làm vợ ông để xóa đi số nợ đó, đồng thời để Lam có nơi trú thân và được ăn học đàng hoàng.
Tất cả những nỗi khổ tâm của mẹ Lam điều biết. Vì vậy tuy rất ghét người đàn ông đó nhưng Lam không phản đối, không phải Lam vì nghĩ đến lợi ích của bản thân mình, mà Lam nghĩ cho mẹ.
Năm đó Lam chỉ mới là con bé học lớp tám, nhưng trước những biến cố của gia đình, Lam đã già dặn lên trông thấy. Lam biết mẹ đã kiệt lực rồi, không thể vất vả làm thuê làm mướn hàng ngày nữa. Mái nhà hạnh phúc cũng đã bán đi rồi, nên ngay cả chỗ trú thân của hai mẹ con cũng không có. Mẹ lại ốm đau liên tục từ ngày ba mất… Nếu làm vợ ông ta, ít nhất mẹ Lam sẽ có nơi cư trú, sẽ không phải vất vả sớm hôm…
Cái ngày ba Lam mất đi là hạnh phúc, niềm vui của mẹ con Lam cũng đi theo ba cô xuống mộ…
Lam lắc đầu, cố xua đi những hồi ức đau buồn, nhưng nước mắt vẫn chảy tràn không chịu ngưng lại. Lâu lắm rồi Lam mới khóc… Từ lâu nay Lam cứ tưởng mình đã khô nước mắt…
Lam đứng lên, cô nhớ trong nhà đã không còn gì ăn, giờ phải xuống mua một vài thứ rồi còn lên học bài nữa.
Vừa đẩy cánh cửa phòng ra, Lam ngạc nhiên khi thấy một chậu cà chua xinh xắn đã được đặt ở đó từ bao giờ. Cô cúi xuống nhấc chậu cà lên ngắm nghía thì có một tờ giấy nhỏ xíu rơi ra. Lam nhặt lên và đọc thấy dòng chữ: “Chúc mừng sinh nhật Ngọc Lam”
- Có người nhớ hôm nay là sinh nhật mình sao? Người này là ai thế?
Nước mắt Lam lại chực trào ra nhưng cô cố kìm nén lại. Và bỗng dưng Lam liên tưởng ngay đến gã con trai vẫn theo sau cô mỗi ngày.
- Là anh ta sao?
Lam lắc đầu:
- Thôi kệ, là ai cũng được!
Lam bưng chậu cà vào đặt lên bàn học. Đây là một giống cà bi, trái nhỏ xíu xiu như trái sơ ri mà Lam rất thích.
Hồi nhỏ ba mẹ Lam cứ chọc hoài, rằng sở thích của Lam thật lạ lùng, không giống một ai. Con gái người ta thích trồng bông trồng hoa, thích chưng những đóa hoa tươi trong phòng, còn Lam thì khác, cô lại thích trồng cà, những cây cà chua bình thường cô đem bỏ vào chậu và ra công chăm sóc, mỗi khi chúng ra được một bông hoa hoặc lúc kết thành quả là Lam lại chạy đi khoe vang khắp xóm.
Lâu thật lâu rồi, ngay cả mẹ cũng đã quên cái sở thích này của Lam, vậy mà không hiểu tạấio anh chàng kia lại biết?
Lam nghe trong lòng mình dâng lên một tình cảm dịu dàng, một thứ tình cảm mà đã từ lâu không còn xuất hiện trong Lam.
Lam đóng cửa, đi xuống đường mua vội vài thứ lặt vặt,vừa mới quay lưng trở lên, Lam thoáng thấy bóng chàng trai đó đứng ở tiệm tạp hóa bên kia đường  đang dõi mắt nhìn mình, bước chân Lam thoáng một chút ngập ngừng, nhưng cô nhanh chóng lấy lại tư thế, đi nhanh về nhà không nhìn ngó gì tới người con trai đó nữa.
 
***
 
- Sao? Có được chút hy vọng gì chưa, ông bạn?
Lập nheo mắt nhìn Minh.
Minh cười:
- Con nhỏ cứng cựa thiệt! Tao đã đem hết ngón nghề, mánh lới và bài bản ra mà nó vẫn không xiêu lòng, nhưng tao chưa chịu thua đâu, còn thời gian mà, đúng không?
Lập gật đầu:
- Ừ, thì còn! Nhưng nếu không được thì bỏ mẹ nó đi mầy ơi, mất thời gian với nó chi vô ích!
Rồi như chợt nghĩ ra, Lập hỏi:
- Hay nó đã có người yêu ở ngoài quê?
Minh xua tay:
- Không đâu! Tao đã xác minh kỹ lắm rồi! Ở ngoài quê, nó chỉ có bà mẹ với ông cha, ngoài ra không có một người bạn nào. Nó cũng chẳng khi nào nhận được thư từ hay điện thoại ở quê. Không biết sao cả ba mẹ nó cũng không gọi điện cho nó. Chỉ mỗi tháng một lần, gia đình nó gởi tiền vào cho nó thôi hà…
-  Mầy cũng giỏi thật!
Lập khen.
- Bây giờ mầy tính sao? Tiếp theo mầy định giở chiêu gì?
Lập nhìn Minh, tò mò.
- Ha ha ha… tao giở đủ hết rồi mà có ăn thua mẹ gì đâu! Giờ cũng chả biết, kệ nó đi, tùy cơ ứng biến thôi mầy ơi!
Minh cười lớn.
- Hai thằng mình mà thua con nhỏ đó thiệt là ê mặt đó nghe mậy? Nếu cả mầy cũng không xong, tao thề sẽ thịt con đó mà không cần chinh phục chinh y gì ráo trọi, cho đáng đời nó!
Lập nói vẻ hằn học.
- Từ từ… mầy đừng nóng vội! Nhưng nếu tao thành công thì mầy có tiếc không đó? Tình bạn của tụi mình có vì con nhỏ đó mà sứt mẻ không đây?
Minh hỏi.
Lập cười lớn:
- Hê hê hê… Nó đâu phải vợ tao, cũng đâu phải là người trong mộng của tao? Mầy cứ vô tư đi! Mà nè, phải có bằng chứng đàng hoàng nghe, chứ nói suông thì tụi tao không có tin đâu nghen!
Minh đặt ly rượu xuống bàn, gật đầu lia lịa:
- Oke! Oke! Dĩ nhiên rồi! Nếu tao mà “đại công cáo thành” thì chắc chắn tụi mầy sẽ có một màn rửa mắt… Chỉ sợ lúc đó tụi mầy ganh tị với tao thôi… Ha ha ha… Thôi, bye tụi mầy nhe, tao còn về để sắm vai một thằng con trai si tình nữa chứ!
Minh đứng lên rời khỏi quán rượu, phía sau còn văng vẳng tiếng cười của Lập:
- Tội nghiệp thằng ku, gần hai tháng nay phải ép xác… ha ha ha…
Minh chui vô chiếc xe hơi bóng loáng, lái chầm chậm ra đường. Lúc mới ra khỏi quán, Minh định đem xe về nhà rồi lấy chiếc xe gắn máy đi như thời gian qua, nhưng đột nhiên Minh cao hứng cứ lái luôn chiếc xe ấy tới công viên.
Nhìn đồng hồ, Minh biết giờ này Lam sắp sửa có mặt ở đây. Anh xuống xe đi một vòng cho giãn gân cốt và thầm nghĩ:
- Còn đúng một tuần nữa là hết thời gian mà mình chưa làm được gì, chán thiệt! Thôi, mệt quá rồi, nếu hôm nay con bé đó vẫn không chịu mở lời với mình thì dẹp luôn, để cho thằng Lập muốn “thịt” nó kiểu nào thì tùy…
Minh ngồi xuống bên mép một hồ cá nhìn những con cá vàng lờ đờ bơi lội trong đó, trong lòng không vui cũng không buồn, cũng không còn cảm giáo hức gì nữa.
Bất chợt, Lam đến ngồi một bên, cô vẫn làm ra vẻ không quan tâm gì đến Minh, tay ngắt những miếng bánh mì thả xuống hồ cho đàn cá tranh nhau đớp lấy.
- Lam vẫn thích cho cá ăn thế này à?
Minh hỏi.
Lam không ngước lên nhìn Minh, cô nói:
- Cũng như anh, vẫn thích đi theo sau tôi à?
- Lam… thật tình anh… thật tình…
Minh ấp úng. Anh không chuẩn bị trước tinh thần sẽ có cuộc nói chuyện với Lam hôm nay.
- Chiếc xe đó là của anh à?
Lam hỏi, mắt vẫn nhìn đàn cá.
- Ừ, nó là của anh. Có gì không Lam?
- Không, không có gì!
Lam trả lời.
Minh hơi thất vọng.
- Mình đã quá đề cao cô gái này. Thì ra cô ta cũng tầm thường như bao nhiêu người con gái khác mà thôi! Phải chi biết vậy mình đã đi xe này đến gặp cô ta từ trước, khỏi phải tốn biết bao công sức! Có lẽ hôm nay biết mình đi chiếc xe này nên cô ta mới chủ động tới gần…
Minh nghĩ. Trong lúc này, Minh không nhớ tới chuyện Lam đã từ chối Lập, mặc dù chiếc xe Lập đi còn đắt tiền gấp mấy lần chiếc của Minh.
- Hôm nay Lam rảnh không? Đi với anh ra ngoại ô chơi nhé?
Minh thẳng thừng đề nghị.
Lam lưỡng lự giây lát rồi đồng ý.
Minh mừng thầm trong bụng. Cá đã cắn câu rồi, cứ  chịu khó để yên một lúc rồi giật lên mới chắc ăn, không sợ sẩy.
Khi xe ra khỏi thành phố, Minh nhận thấy Lam có vẻ phấn chấn hơn thường ngày. Mặc dù cô vẫn chưa chịu nở một nụ cười, dù là chỉ nhếch môi, nhưng trên mặt cô đã bớt đi nét u buồn ảm đạm ngày thường.
Lam ngồi bên cạnh Minh lặng im không nói lời nào, mắt dõi ra nhìn cảnh vật hai bên đường, thoáng một nét lấp lánh trong ánh nhìn của Lam làm Minh chợt bối rối không biết do đâu…
- Tôi muốn về nhà!
Lam lên tiếng.
Minh thoáng lưỡng lự, vì hai người vẫn chưa nói gì với nhau, Minh cũng chưa mở lời được gì mà chia tay thế này có sớm quá không? Biết có được cuộc hẹn lần thứ hai không đây? Từ lúc lên xe tới giờ đã mấy tiếng đồng hồ rồi, Minh cho xe chạy mấy vòng trên xa lộ lộng gió nhưng Lam cũng chỉ nói có mấy câu chiếu lệ….
Minh muốn kết thúc ván cờ. anh khẽ đặt nhẹ bàn tay mình lên bàn tay Lam:
- Cả tên của anh, Lam cũng không muốn biết sao?
Lam không rụt tay lại như Minh tưởng. Cô cứ để im thế, mắt nhìn xa xăm và nói đều đều như đang trả bài:
- Tên anh là Nhật Minh. Là con trai duy nhất của một gia đình nổi tiếng giàu có. Anh đã  từng đi du học ở Mỹ một năm và đã có người yêu bên đó! Ngoài ra, anh còn là một tay ăn chơi…
Minh trố mắt nhìn Lam kinh ngạc:
- Lam… em biết về anh nhiều thế kia à?
Lam nhẹ nhàng rút tay mình ra khỏi tay Minh:
- Tại sao anh theo đuổi tôi?
- Tại vì… anh thích em!
Minh trả lời dứt khoát.
- Thế còn cô người yêu của anh thì sao?
Lam hỏi.
- Hiện tại anh không có ai, anh tin em biết điều này mà, đúng không Lam?
Minh dừng xe, cầm tay Lam bằng cả hai tay mình.
- Anh có thật lòng không?
Lần đầu tiên Lam nhìn thẳng vào mắt Minh. Ánh mắt Lam làm Minh hơi chột dạ, nhưng lập tức Minh làm chủ được mình, anh cũng nhìn lại Lam bằng cái nhìn tha thiết, trìu mến:
- Anh rất thật lòng! Nếu không sao anh lại có thể từ bỏ các cuộc vui, cố làm người tốt để đến được với em chứ, hở Lam? Em tin anh đi, anh thương em thật lòng mà…
Lam im lặng không nói gì, nhưng mái đầu nhỏ nhắn của cô từ từ ngã xuống trên vai Minh. Minh vuốt nhè nhè mái tóc ngắn của Lam, cố dằn lại tiếng reo mừng chiến thắng.
- Ngày mai, anh có thể đưa Lam đi Vũng Tàu không?
Khi Minh dừng xe ở đầu hẻm cho Lam xuống, cô vừa đi vừa nói, thậm chí không quay lại nhìn Minh.
Minh hớn hở trả lời:
- Được! Dĩ nhiên là được chứ!
- Vậy tám giờ sáng mai anh chờ Lam ở đây nhé!
Lam nói, chân vẫn rảo bước.
- Ừ, anh nhớ rồi! anh sẽ chờ em, tám giờ sáng mai!
Nhìn theo dáng Lam khuất ở chỗ khúc quanh của con hẻm, lòng Minh tràn ngập một niềm vui. Minh muốn gọi điện ngay cho Lập để báo tin mừng, nhưng suy nghĩ lại Minh muốn khi mọi việc đâu vào đó sẽ tạo cho bọn nó một bất ngờ lớn mới vui.
Vừa lái xe về nhà, Minh vừa huýt sao vui vẻ.
- Thật không ngờ, khi mình định buông tay thì con mồi lại tự dẫn xác tới! Ha ha ha…
Minh cười khoái trá.
 
***
- Ê, có chuyện gì mà mầy nhắn tụi tao gấp vậy?
Vừa nhìn thấy Minh, Khương vội hỏi.
- Thằng Lập đâu?
Minh không trả lời mà hỏi lại, mắt nhìn dáo dát để tìm.
Khương cười hềnh hệch:
- Nó còn bận giải quyết với con bồ! Chờ chút đi, nó tới liền bây giờ!
Chỉ vài phút sau Lập tới, vẫn bảnh bao thư thả như bình thường.
- Hi bạn, có tin gì mà nhắn khẩn trương thế?
Vừa kéo ghế ngồi, Lập vừa hỏi.
Minh ngửa mặt lên trời ung dung thả từng ngụm khói thuốc thành những vòng tròn điêu luyện, thật lâu sau mới thong thả vứt một chiếc đĩa VCD lên bàn, hất hàm nói:
- Đã có kết quả rồi đấy nhé! Chung độ đi!
Lập tròn mắt ngạc nhiên:
- Mầy nói sao? Đã làm thịt được con nhỏ chảnh chọe đó rồi à? Thật không đây ông hay lại bày ra cái trò lắp ghép bằng xảo thuật điện ảnh đây?
Minh nhún vai:
- Xem thử thì sẽ biết thôi!
Khương nôn nóng:
- Mau mau vô phòng đi, xem liền, xem liền mới được!
Lập cũng vừa nghi ngờ vừa ngạc nhiên nên rất muốn tận mắt chứng kiến. Đưa tay vẫy một em tiếp tân, Lập bảo:
- Cho tụi anh một phòng tiện nghi nhé, em gái!
Ngay lập tức Lập và đám bạn được đưa tới một căn phòng nhỏ trên lầu. Vừa bước vào phòng, Khương hấp tấp lấy đĩa hình bỏ vào máy. Trong lúc Lập và Khương chăm chú theo dõi, Minh khoan khoái ngồi uống rượu.
Dù không theo dõi cuộn phim, nhưng trong đầu Minh những hình ảnh đó vẫn hiện rõ mồn một. Ba ngày vừa qua là thời gian tuyệt vời nhất đối với Minh. Mặc dù đã qua không biết bao nhiêu mối tình, nhưng chỉ có lần này Minh mới cảm giác vui vẻ nhất, Minh nghi ngờ không biết đó có phải là cảm giác của kẻ giành được chiến thắng hay không nữa. Dù sao, một đứa con gái dám từ chối một thằng như Lập để đến với mình cũng là một sự hãnh diện không nhỏ.
Bao nhiêu lời nói yêu thương, bao nhiêu câu thề non hẹn biển Minh đã không ngần ngại nói ra. Và lần đầu tiên Minh nhìn thấy được nụ cười của Lam. Lúc Lam cười, trông cô rất đẹp, trong một thoáng Minh nghĩ nếu như cô ta lúc nào cũng vui vẻ hạnh phúc thì hẳn nhan sắc của của cô ta sẽ tăng lên gấp bội.
- Mầy khá lắm!
Thằng Khương vỗ tay đánh đét vào đùi, vừa khen ngợi vừa luyến tiếc vì đoạn phim ngắn đã kết thúc.
Lập ỉu xìu:
- Phụ nữ thật khó hiểu! Mầy có gì hơn tao chứ?
- Thì tao đã nói, có loại phụ nữ không quan tâm đến vật chất, mầy phải đi học một khóa tâm lý đi!
Minh ra vẻ dạy đời.
-  Mà nghĩ cũng tội, con bé tin tưởng tao ghê lắm!
Minh nói thêm.
Lập nhún vai, đặt chai rượu lên bàn:
- Thôi, tao chấp nhận thua cuộc, chai rượu này thuộc về mầy rồi đó!
- Ha ha ha…
Minh vừa với tay cầm lấy chai rượu vừa cười lớn. Nhưng tràng cười chưa kịp dứt bỗng Minh cảm thấy trong lòng mình như có một sự hối hận khó tả.
- Chỉ vì một chai rượu như thế này mà mình lại vùi dập một đời của Ngọc Lam sao? Mình thật là…
Minh ngậm ngùi nghĩ.
Vất chai rượu về phía Khương, Minh nói:
- Khui ra đi mầy!
Chai rượu được khui ra, những tiếng “dzô”, “dzô”, tiếng cụng ly lốp cốp vang lên nhưng Minh không còn thấy vui vẻ hay hào hứng gì nữa. Lòng anh nặng trĩu. Đã biết bao lần quan hệ với phụ nữ, nhưng chưa bao giờ Minh lại có tâm trạng khó chịu như lúc này, giống như đang bị lương tâm cắn rức, dày vò…
- Thôi, tụi mầy cứ vui tiếp đi! Tao có hẹn phải về trước đây!
Minh đứng lên từ giã bạn.
Lập nhìn theo, nháy mắt:
- Đến với con bé đó à?
Minh nhún vai cười:
- Không! Kết thúc rồi!
Minh đi ra ngoài, ghé ngang quầy mua một chiếc sim điện thoại mới thay vào, chiếc sim cũ  Minh tiện tay vứt vào sọt rác.
 
***
 
Ngọc Lam chống tay ngồi dậy, đầu óc cô váng vất rất khó chịu. Hai hôm nay bị cảm lạnh, Ngọc Lam không đến trường được, mà cũng không đủ sức để xuống dưới đường mua thức ăn.. Cho nên mấy ngày qua, cô chỉ sống bằng mấy gói mì tôm và hộp sữa bò.
Sáng nay thấy trong người đã đỡ chút ít, Lam gắng gượng đến lớp. Nhưng ngồi trong lớp học mà tâm trí cô để tận đâu đâu, không nghe được lời nào của vị giáo sư đang thao thao bất tuyệt.
Từ hôm chia tay nhau sau chuyến đi Vũng Tàu, Lam không gặp lại Minh lần nào nữa. Mới mấy ngày đầu, cô nghĩ chắc minh bận gì đó, nhưng rồi hết ngày này sang ngày khác Minh vẫn bặt vô âm tín.
- Minh lừa mình sao?
Lam nghĩ vậy, nhưng ngay lập tức cô lại nghĩ khác:
- Không đâu, chắc không phải Minh lừa mình đâu… Bởi vì nếu thật sự Minh đã bỏ bao nhiêu công sức ra để lừa gạt, thì khi đạt được rồi sao Minh lại dễ dàng từ bỏ mình đến vậy? Chắc không đâu…
Dù đã cố trấn an mình bằng rất nhiều lý lẽ bảo vệ Minh, nhưng mỗi một ngày trôi qua, niềm tin mỏng manh trong Lam càng vơi đi.
Có lúc Lam đã muốn quên Minh đi, không thèm nhớ nhung gì nữa nhưng số phận trớ trêu lại không cho phép Lam dễ dàng gạt bỏ người đàn ông đó ra khỏi cuộc đời cô.
Lam gọi điện cho Minh biết bao nhiêu lần, nhưng đáp lại cô chỉ là những câu nói vô hồn từ đầu dây bên kia vọng lại: “Số máy quý khách vừa gọi hiện không liên lạc được. Xin quý khách vui lòng gọi lại sau…”
Lam lang thang khắp các quán bar, vũ trường để tìm Minh nhưng cô không gặp được. Lòng Lam đau đớn và rối như tơ vò. Đi trên đường cô luôn nogái nhìn lại sau lưng, mong mỏi được thấy bóng dáng Minh đi theo sau mình như những ngày trước. Nhưng phía sau Lam bây giờ chỉ là khoảng không vắng lặng hoặc là những người xa lạ mà thôi…
Cay đắng, tủi buồn nhưng Lam không còn nước mắt để rơi ra nữa… Cô yêu Minh, tình yêu đầu đời của người con gái, cô hy vọng Minh cũng dành cho cô tình cảm thật sự thiết tha như những gì Minh đã ân cần nói với cô.
Ba ngày ở Vũng Tàu, ba ngày hạnh phúc của Lam, chẳng lẽ hạnh phúc của đời mình lại ngắn ngủi đến mức đó sao? Lam ngậm ngùi cho số phận và cô bắt đầu đối mặt với sự thật là Minh đã rời bỏ mình rồi…
Vừa ra khỏi hội trường, Lam nghe tíêng loa phóng thanh văng vẳng:
- Mời sinh viên Nguyễn Thị Ngọc Lam, lớp K20 xuống phòng bảovệ có người nhà cần gặp.
Tim Lam đập liên hồi.
- Ai tìm mình? Minh chăng? Sao Minh lại tìm mình ở đây?
Vừa đi như chạy xuống thang lầu, trong đầu Lam vừa ngổn ngang bao nhiêu câu hỏi. Từ ngay vào học đến nay, chưa có một người nào đến trường tìm Lam.
Vừa tới phòng bảo vệ, bước chân Lam khựng lại, trái tim đang đập những nhịp gấp rút cũng như dừng lại trong một giây… Bởi bì cái người đứng trong phòng bảo vệ chờ Lam không phải là Minh mà lại là người mà Lam không bao giờ muốn gặp. Người đó chính là ông Hà, cha dượng của Lam!
Vừa trông thấy Lam, ông Hà cười vui:
- Con gái, con đã tới rồi à?
Quay qua người bảo vệ, ông Hà nói mấy lời cảm ơn rồi bước ra dẫn xe và nói với Lam:
- Sao lâu quá con không về thăm mẹ con vậy? Bà ấy nhớ thương con đến ngã bệnh rồi đấy. Mà con cũng biết, bệnh thì tốn kém lắm con à…
Lam chới với, một phần vì cái tin mẹ bệnh, một phần vì cái câu thòng sau đó của ông cha dượng. Lam biết điều gì đang chờ đợi cô.
- Lên xe, đi với ba tới chỗ này, ba sẽ kể về bệnh tình của mẹ con rõ hơn!
Ông Hà nói với Lam rất nhẹ nhàng, nhưng cô biết đó là mệnh lệnh, cô không có quyền từ chối được.
Lam lặng lẽ lên ngồi sau lưng ông Hà. Vừa điều khiển xe, ông Hà vừa huyên thuyên đủ thức chuyện trên trời dưới đất. Ông tỏ ra vui vẻ, hưng phấn lắm. Mà cũng phải thôi…. Lam cay đắng nghĩ.
Ông Hà dẫn Lam tới một căn phòng trọ rẻ tiền, mọi thứ bên trong nó đều bẩn thỉu đến lộn mửa. Lam không nói năng gì, cứ lầm lũi đi theo sau lưng ông, vẻ nhẫn nhục giống như một con chó vừa mới ăn vụng một thứ gì đó bị chủ phát hiện, đang dắt nó đi để xử tội.
Đóng chặt cửa phòng lại, ông Hà nhìn Lam cười mơn trớn:
- Con mới lên Sài Gòn mấy tháng mà đã thay da đổi thịt rồi đấy! Nhưng đừng có lo yêu đương nhăng nhít đó nghe không, hãy cứ lo mà học hành cho tử tế. À, mà con gái nè, tiền ba gởi vào mỗi tháng có đủ cho con ăn uống chi xài không? Nếu không đủ thì nói cho ba biết ba sẽ gởi thêm.
Ông Hà dừng lại, nheo nheo mắt ngắm Lam một lát rồi nói tiếp:
- Nói nào ngay ba cũng vất vả lắm con ạ! Mẹ con thì cứ đau ốm rề rề, có làm gì ra tiền đâu. Mọi chuyện trong ngoài gì cũng một tay ba lo liệu. Nhưng nếu con ngoan ngoãn biết nghe lời thì ba không tiếc gì với con đâu…
Những lời nói nhẹ nhàng chất chứa tình cảm cha con của ông Hà, nếu ai khác vô tình nghe được chắc hẳn sẽ thầm cảm phục một người cha, người chồng hết mực yêu vợ thương con, nhưng với Lam lại khác, cô hiểu ông Hà cần gì và muốn gì nơi cô. Những lời nói đó giống như một lời răn đe mà không ai khác ngoài cô có thể hiểu được.
- À, hôm nay ba có mua tặng con một cây viết nè! Mẹ con kể hồi bé con vẫn thích viết loại viết này cho chữ được đẹp, đúng không con?
Vừa nói, ông Hà vừa lấy từ túi áo ra đưa cho Lam cây viết có nắm mạ vàng rất đẹp. Lam hờ hững nhận lấy, bàn tay cô như vô thức mở nắp viết ra xem xét. Đó là một cây viết máy có chiếc ngòi thật dài, thật nhọn, nên chữ viết sẽ mảnh và mềm mại hơn các loại bút bi sau này người ta hay sử dụng.
- Sao con, có đẹp không con?
Ông Hà tiến tới gần Lam, vừa hỏi vừa ấn cô ngồi xuống chiếc ghế cạnh đó.
- Ba… ba… đừng… đừn mà ba…
Lam run rẩy.
Ông Hà ngồi thụp xuống chân Lam. Ông vừa cởi bỏ giày vớ của Lam vừa nói luôn miệng:
- Mẹ con đang bệnh Lam à, cần nhiều tiền mới chữa khỏi…
Bàn tay ông Hà chầm chậm ve vuốt từng ngón chân của Lam, ông cúi mặt xuống hôn nhẹ lên khắp bàn chân cô.
Nước mắt Lam ràn rụa trên mặt. Từ mấy tháng nay Lam cứ ngỡ  đã được giải thoát khỏi cảnh này, ai ngờ ông ta vẫn không chịu buông tha cô.
Ông ta chính là con yêu râu xanh đã giết chết đời con gái trong trắng của Lam mà cô lại không dám hé răng thổ lộ cho ai biết, ngay cả với mẹ mình.
Giờ phút này đây, cảnh tượng của cái lần đầu tiên ấy lại hiện về trong đầu Lam. Lam nhớ rất rõ, hôm ấy mẹ cô sốt li bì đã hai hôm mà không thuyên giảm, Lam đã di hái lá nấu nồi xông cho mẹ, đã cho mẹ uống đủ thứ thuốc nam mà không bớt chút nào.
- Bệnh của mẹ con chỉ có đưa đi bác sĩ mới mong cứu được… Mà ba thì không còn tiền… Nếu con đồng ý giúp ba thì may ra…
Ông Hà nói lấp lửng.
Lam mếu máo khóc:
- Ba ơi, ba nói đi! Ba biểu con làm gì con cũng làm theo, chỉ xin ba đưa mẹ con nhà thương, xin ba cứu mẹ con… Rồi ba biểu con làm gì con cũng nghe theo…
- Có thật ba biểu con làm gì con cũng làm theo không?
Ông Hà hỏi vặn lại.
Lam gật đầu:
- Dạ, con hứa, con sẽ làm đúng như ba biểu…
- Giỏi! Con gái ngoan! Vậy mới là đứa con có hiếu chứ!
Ông Hà xoa đầu Lam vui vẻ nói.
- Nào, bây giờ để ba nhờ người đưa mẹ con đi bệnh viện ngay lập tức.
Ông Hà đi ra cửa gọi xe ôm.
Lam hơi thắc mắc:
- Sao vừa mới lúc nãy ba bảo không có tiền, cần mình làm việc đó giúp mới có tiền đưa mẹ đi chữa bệnh mà giờ mình chưa làm ba đã đưa mẹ đi được rồi? Mà tại sao ba với mình không đưa mẹ đi mà phải nhờ người khác?
Đầu óc non dại của một đứa bé mới học lớp chín chưa kịp hiểu ra vấn đề, mà lúc này Lam cũng không còn đủ tâm trạng để suy nghĩ, cô bé chỉ mong sao mẹ sớm được cứu chữa.
Khi hai người xe ôm vào nhà dìu mẹ ra xe, Lam vừa định chạy theo thì bị ông Hà níu lại:
- Ba đã nhờ hai chú đây săn sóc giúp mẹ con rồi! Lát nữa ba chở con vô đó sau. giờ con cần ở nhà để giúp ba chứ, con gái!
Lam tuy không muốn để mẹ đi một mình với người dưng nước lã, nhưng cô đã hứa với ba rồi, phải ở nhà làm để có tiền trả tiền bác sĩ cho mẹ chứ. Nghĩ vậy nên Lam ngoan ngoãn đứng lại, không đòi đi theo mẹ nữa.
Khi hai người xe ôm đã đưa mẹ Lam lên xe và rồ máy chạy đi, ông Hà khoan khoái đóng chặt cánh cổng lại, còn cẩn thận gắn vào đó một ổ khóa to đùng.
Kéo tay Lam vào phòng, ông Hà cười cợt:
- Con gái, đấm lưng cho ba nào!
Vừa nói, ông Hà vừa cởi phăng quần áo và nằm lăn xuống giường. Tuy còn nhỏ, nhưng Lam cũng đã lờ mờ nhận thấy điều tai họa sẽ đến. cô lùi lại, lắp bắp:
- Ba… ba…
Ông Hà ngồi bật dậy, quát lớn:
- Mầy có muốn mẹ mầy được cứu chữa hay không? Hay là tao bỏ mặc xác mẹ con mầy?
Lam quỳ sụp xuống chân ông, khóc ròng:
- Ba ơi, con xin ba hãy cứu mẹ con… Nhưng con xin ba đừng…
Ông Hà đổi giọng ngọt ngào:
- Coi kìa con gái, ba thương con, ba thương mẹ con nên mới đối xử thế! Có gì đâu mà con sợ… Con muốn mẹ con hết bệnh, muốn ba đối xử tốt với mẹ con con thì con phải ngoan, phải biết vâng lời ba, biết chưa?
Vừa nói, ông Hà vừa kéo Lam vào lòng và lần tay cởi từng chiếc nút áo của cô.
Lam run rẩy, nghẹn ngào nhưng cô không dám chống cự, vì tính mạng của người mẹ thương yêu đang nằm trong tay ông Hà, nếu cô dám trái lời, ông ta sẽ bỏ mặc mẹ cô đến chết…
Từ hôm đó, Lam đã phải sống những năm tháng đắng cay tủi nhục. trong khi mẹ cô lại hoàn toàn không biết gì, bà còn thầm mang ơn ông Hà đã đối xử với Lam thật tốt.
Bàn tay đầy lông lá của ông Hà đang lần mở nút quần Lam, trong khi cái đầu ông vẫn hùng hùng tham lam rúc vào đùi cô.
Tất cả những ký ức đau thương tủi nhục, tất cả uất ức, đắng cay mà Lam đã phải chịu đựng trong những ngày tháng gần đây bỗng dưng ùa đến. Cô căm thù tất cả, nhất là gã đàn ông này.
Lâu nay cô chưa một lần dám nặng lời hay có thái độ chống đối vì cô sợ mẹ phải chịu nhận lấy hậu quả không hay. Nhưng giờ phút này, Lam không còn nhớ đến chuỵên đó nữa, nỗi phẫn uất đang dâng lên đến đỉnh điểm, cô chụp lấy cây viết trên bàn, mở nắp ra và dùng hết sức đâm tới tấp vào lưng, vào cổ ông Hà.
- Á…
Quá bất ngờ, ông Hà kêu rú lên và đau đớn ngã lăn ra đất. Lam đứng lên chạy vụt ra ngoài.
 
***
 
Ông Nhật Tân dằn mạnh chiếc gạt tàn xuống bàn, lớn tiếng:
- Con không được cãi! Con đã ăn chơi lêu lỏng nhiều rồi. Con nên nhớ cả cái sản nghịêp này chỉ có mỗi mình con là người nối dõi. Nếu con không chịu học hành đàng hoàng thì làm sao ba có thể yên tâm giao nó lại cho con? Ba nói rồi, con phải đi du học, phải cắt đứt với đám bạn ăn không ngồi rồi của con đi!
Minh năn nỉ:
- Con học ở đây cũng được mà ba! Đừng bắt con đi xa quá, con nhớ nhà, nhớ ba mẹ…
Nghe con trai nói vậy, bà Nhật Tân mủi lòng, rơm rớm nước mắt:
- Ông à, ông nghĩ kỹ chưa? Con nó không muốn đi thì thôi, mình để nó học ở đây cũng được rồi ông…
Đánh bàn rầm một tiếng, ông Nhật Tân quát:
- Bà không được yếu lòng, nó nói gì bà cũng nuông chìu theo! Lần trước xung vậy, đang học ở Mỹ một hai đòi về bà cũng bằng lòng. Lần này tôi nhất định rồi, tôi sẽ đưa nó sang Anh, có bạn bè tôi ở đó, người ta sẽ giúp tôi trông coi nó. Nó phải học hành đàng hoàng, tôi phải tách rời nó khỏi mấy thằng bạn của nó ở đây…
Bà Nhật Tân biết tính chồng, một khi ông đã quyết định rồi thì khó ai có thể lay chuyển được. Bà quay sang con trai dịu giọng:
- Con à, ba con nói cũng đúng. Ở đây làm sao con học hành gì được với đám bạn đó? Chỉ có tách khỏi chúng nó thì mới có hy vọng nên người thôi con. Con nghe lời ba mẹ đi, đi học chỉ vài ba năm thôi mà, đâu có lâu lắc gì đâu. Khi nào nhớ ba mẹ con có thể bay về thăm, hoặc ba mẹ có thể sang bên đó thăm con mà… con đừng lo, cố gắng đi con nhé!
Minh ôm đầu thở dài ngao ngán. Ba mẹ đã quyết rồi, dù có nói cách nào cũng chỉ phí sức thôi. Đành vậy!
- Con lo thu xếp hành lý đi, hai tuần nữa là lên đường đó!
Ông Nhật Tân ra lệnh.
Minh tròn mắt:
- Hả? Ba nói gì? Hai tuần nữa à? Gì mà nhanh dữ vậy?
Bà Nhật Tân vỗ lưng con:
- Sớm cũng đi, muộn cũng đi, đi sớm thì sớm thôi con à, có gì đâu?
Minh lắc đầu đứng lên đi về phòng. Quả thật lúc này mà nói tới chuyện học hành Minh ngán ngẫm quá, làm sao còn đầu óc nào mà tiếp thu bài vở? Nhất là từ sau chuyện với Lam, trong lòng Minh không yên ổn được. Minh xác định mình không hề yêu Lam, nhưng tại sao cứ nghĩ mãi về cô thì minh không cắt nghĩa được.
Hai tháng nay Minh tránh mặt Lam, dù biết cô đã nhiều lần tìm mình nhưng Minh không dám gặp mặt. Bây giờ, chỉ còn hai tuần nữa là Minh sẽ rời xa nơi đây, có lẽ lâu lắm mới quay trở lại. minh biết, một khi đã đi rồi thì ba Minh không dễ dàng để Minh muốn về thăm lúc nào thì về đâu. Tính ba ra sao Minh rõ lắm.
- Mình cũng nên gặp Lam một lần để xin cô ấy tha thứ, có vậy mới mong nhẹ nhàng thanh thản được!
Minh thầm nghĩ.
 
***
 
Lam cắm đầu chạy mãi, chạy mãi, cô cũng không biết mình đang chạy về hwosng nào. Đến lúc không còn hơi sức nữa Lam mới đứng lại thở dốc. Bây giờ đang là buổi chiều, đúng giờ tan tầm, người và trên đường thật ồn ào, tấp nập. Tiếng động cơ, tiếng người và mùi khói xăng hòa cùng bụi bặm khiến Lam nôn nao muốn ói. Cô chợt nhớ từ sáng tới giờ trong bụng mình chưa có gì trong đó.
Lúc này Lam chỉ có hai bàn tay không, dưới chân cũng không còn giày vớ. Cái túi xách có số tiền nhỏ nhoi cô dành dụm được cũng đã bỏ lại căn phòng bẩn thỉu đó rồi.
Lam cúi gập người xuống để nén cơn đau quặn trong bụng. Mãi một lúc sau cô mới mệt mỏi ngước lên và định thần xem mình đang ở đâu. Thì ra chỗ này cách nhà trọ của cô rất xa, mà Lam cũng không còn lấy một đồng nào trong người để đi xe buýt.
Còn đang lo lắng chưa biết tính sao, Lam chợt trông thấy một dáng người chạy xe rất giống ông Hà cha dượng cô. Quá sợ hãi, Lam lại cắm đầu cắm cổ chạy miết. Trong đầu cô chỉ có duy nhất một ý nghĩ phải mau mau về tới nhà trọ, đó là nơi an toàn duy nhất cho cô trong lúc này, vì ông Hà và tất cả mọi người không ai biết nơi cô ở trọ, ngoại trừ Minh, mà Minh thì cũng chỉ biết cô ở trong khu vực đó thôi, chính xác nhà nào, phòng nào Minh cũng chưa biết được.
Lam cũng không nhớ mình đã về được tới nhà trọ bằng cách nào, chỉ biết hai bàn chân Lam đã sưng rộp và ở đầu ngón còn bị r
ớm máu. Nhưng Lam không quan tâm gì tới chuyện đó, cô ngã vật người ra giường mê man bất tỉnh.
Khi Lam tỉnh lại, nhìn đồng hồ đã là hơn sáu giờ chiều.
- Vậy là mình đã ngủ gần một đêm, một ngày?
Lam lẩm bẩm một mình.
Giờ đây Lam không còn cảm giác đói bụng nữa, cô chỉ thấy nỗi buồn bã chán chường đang nhấn chìm cô xuống.
Nưosc mắt Lam rơi lã chả. Lam biết mẹ cô sẽ phải khổ đau vì sự hành hạ của ông Hà khi ông không được Lam đáp ứng. Lam cũng biết ông Hà không dễ gì buông tha cô, rồi sẽ còn nhiều lần như vậy nữa tiếp diễn, tiếp diễn cho tới nào ông hà hoặc cô, một trong hai người chết đi mới thôi.
- Chết! Tại sao mình không chết đi cho rồi? Mình sống để làm gì? Không mục đích, không niềm vui, không có một điểm đến nào ở phía trước thì sao mình lại phải chấp nhận đắng cay, đau khổ mà tồn tại trên cõi đời ô trọc này làm gì nữa? Mình sống, mình cũng không giúp được cho mẹ điều gì, có khi mình chết rồi, ông ta sẽ không còn vịn vào cái gì để hành hạ mẹ nữa… Chết! đúng rồi, chỉ có cái chết mới giải thoát được mfinh mà thôi…
Lam vùng dậy. Cô đến bên bàn học, tìm lấy caay dao rọc giấy bén ngót cô vừa mua tuần rồi cầm đi vào nhà vệ sinh.
Đứng trước tấm gương, Lam nhìn mình chằm chặp. Những đwofng nét của mẹ, của ba thấp thoáng trên mặt mình khiến Lam đau đớn. Nếu như ba cô không mất đi, có lẽ cuộc đời cô không khốn đốn như bây giờ… ông trời cay nghiệt đã đày đoạ cả nhà cô…
Lam gục xuống nức nở…
- Mẹ ơi, xin mẹ hãy tha lỗi cho con!
Khi cái lưỡi sắc bén của chiếc dao rọc giấy vừa chạm vào cổ tay Lam thì bỗng nhiên tiếng điện thoại bên ngoài đổ chuông dồn dập.
Lam giật thót người, con dao rơi xuống đất.
- Ai gọi cho mình? Ai biết số điện thoại của mình?
Lam chạy vội ra nhấc lấy ống nghe, từ đâu dây bên kia một giọng nói ấm áp quen thuộc cất lên khiến Lam run rẩy:
- A lô, phải Lam không? Anh là Minh đây. Anh muốn gặp em…
Lam không nhớ cô đã nói gì với Minh, chỉ biết khi đặt điện thoại xuống, cả người Lam như ngơ ngẩn. Cô cũng không biết mình đang buồn hay vui nữa.
Minh cần gặp cô, gặp để làm gì thì Lam không thể đoán biết được. Tại sao Minh im hơi lặng tiếng suốt hai tháng trời rồi đột ngột tìm lại Lam?
Nhưng dù sao thì Lam cũng phải gặp Minh, dù là gặp nhau lần sau cuối.
Chính nhờ cuộc điện thoại của Minh mà Lam bỏ qua cái ý định tự sát. Cô vào phòng tắm tắm rửa, và ăn vội một ít mì gói rồi tới chỗ hẹn với Minh.
 
***
- Tất cả câu chuyện là thế, anh xin kể thật cho em biết, mong em tha lỗi cho anh.
Minh kết thúc câu chuyện.
Lam ngồi lặng đi một lúc rồi hỏi nhỏ, giọng dửng dưng không buồn không giận:
- Chỉ vì một chai rượu mà anh làm thế với em sao?
Minh khẩn khoản:
- Anh không biết nói sao, chỉ biết ngàn lần xin em tha lỗi. Em có tha lỗi cho anh thì anh mới có thể sống thanh thản được. Suốt hai tháng qua, nói thật với em, anh luôn bị ray rứt vì việc làm không phải với em… Lam ơi, em có tha thứ cho anh được không?
Lam ghìm dòng nước mắt đang chực chờ nơi khóe, cô gật đầu nói nhỏ:
- Dạ, em tha thứ cho anh…
Minh cảm động cầm lấy bàn tay Lam:
- Anh cảm ơn em. Từ nay chúng ta vẫn là bạn bè của nhau, được không em?
- Dạ, chúng ta vẫn là bạn…
Lam đáp hờ hững.
- Vài ngày tới đây anh sẽ đi du học ở Anh. Thật tình anh không muốn đi chút nào, nhưng ba mẹ anh ép buộc, anh không cãi lại được em à…
Minh nói.
- Anh phải đi Anh thật sao? Anh không thể ở lại Việt Nam à?
Giọng Lam có phần lo lắng.
- Đúng, anh không thể ở lại được!
Minh gật đầu xác nhận.
Minh nhìn Lam một chút rồi ngập ngừng nói tiếp:
- Lam à, dù anh có ở cách xa em thật xa, nhưng nếu em cần anh giúp gì thì em đừng ngại nói ra, anh sẽ sẵn sàng giúp em, Lam nhé?
Lam ngước mắt lên nhìn Minh, ánh mắt cô sáng long lanh nhưng chứa đầy ai oán.
- Có thật anh sẽ giúp em không?
Lam hỏi.
Minh quả quyết gật đầu:
- Thật! Anh hứa với em.
Lam lại nhìn Minh với ánh mắt kỳ lạ:
- Mọi việc chứ?
Minh cầm lấy bàn tay nhỏ nhắn của Lam, lòng xót xa, anh nói:
- Đúng, anh sẽ giúp em, mọi việc!
Minh nói điều đó là thật lòng, vì anh nghĩ với tiền của của gia đình mình thì dù có nuôi Lam ăn học đàng hoàng cũng không là gì.
Lam rụt tay lại, rồi bất ngờ đặt vào tay Minh một tờ giấy nhỏ, và nói:
- Em đã mang thai hai tháng rồi đó, anh có giúp được em không?
Minh chới với. Anh không ngờ sự việc lại diễn biến như vậy. trong lúc bất ngờ Minh cũng không biết phải trả lời sao với Lam.
- Lam… em nói thật?
Lam nhìn  ra xa, nói nhỏ:
- Em biết mà, anh sẽ không giúp được em đâu, đúng không anh?
Minh lúng túng:
- Không! Không… Lam à… em cho anh thời gian nhé, anh sẽ về xin phép ba mẹ… Xin em hãy cho anh thời gian…
Lam vẫn nhìn về cõi xa xăm nào đó, lặng im không nói gì.
 
***
 
- Mẹ phải giúp con, bây giờ con không biết phải tính sao hết…
Minh gục đầu rên rỉ.
Bà Nhật Tân cũng rất đỗi bàng hoàng khi nghe Minh báo tin đã có con với một người con gái nào đó mà bà chưa từng nghe Minh nhắc tới.
- Gia cảnh nó thế nào? Nếu được thì ba mẹ sẽ cưới nó cho con luôn, dù sao nó cũng đang mang giọt máu của mình…
Bà Nhật Tân gặng hỏi.
- Cô ấy là sinh viên, con nhà nghèo. Gia đình ở tuốt ngoài miền Trung, nghe nói cũng không khá giả gì mấy…
Minh nhìn mẹ chờ đợi, bất giác nói tiếp:
- Hay mẹ nói với ba cưới cô ấy cho con đi, nghe mẹ?
Bà Nhật Tân giật nảy người:
- Ý,  đâu có được! Con nên nhớ nhà mình là danh gia vọng tộc, mà con là đứa con trai duy nhất của ba mẹ, con cưới vợ dù ít nhất cũng phải là con gái một nhà có máu mặt nào đó, chứ làm sao có thể lấy cái thứ bá vơ bậy bạ được? Mẹ đây còn không đồng ý thì nói gì tới ba con…
Thấy Minh chỉ ngồi cúi gầm mặt mà không nói gì, bà Nhật Tân tò mò:
- Con thật lòng yêu con bé đó sao?
Minh lắc đầu:
- Con cũng không biết… Con chỉ thấy cô ấy rất tội… lòng con ray rứt không yên…
Bà Nhật Tân thở phào nhẹ nhõm:
- Ối, vậy thì lo gì! Mẹ chỉ sợ con yêu thương nó, chứ nếu không thì dễ giải quýêt lắm con à… con cứ đưa cho nó một số tiền rồi buộc nó đi phá thai là xong, kết thúc mọi việc mà danh dự gia đình ta cũng không bị hoen ố!
Minh lắc đầu:
- Mẹ không hiểu đâu, cô ấy không giống như những người con gái khác, cô ấy không vì tiền!
Bà Nhật Tân bĩu môi:
- Chỉ tại nó giỏi đóng kịch nên con không nhận ra đó thôi, con trai ngốc nghếch của mẹ ơi! Thời buổi này có đứa con gái nào, mà nhất là mấy đứa con gái nhà nghèo lại không ham tiền? Cũng có thể đây chính là cái bẫy mà nó gíăng ra để bắt con hổng chừng…
Dù không đồng tình với nhận xét của mẹ nhưng Minh không cãi lại. Minh hiểu Lam không giống như mẹ nghĩ, mặc dù đã có lúc Minh tưởng Lam cũng tầm thường như bao đứa con gái khác, nhưng lập tức ngay sau đó Minh biết mình lầm, Lam không như thế. Nhưng nếu muốn bênh vực cho Lam, Minh phải nói sao đây? Phải kể hết cho mẹ nghe về chuyện cá cược mình, về những ngày tháng đeo bám theo Lam sao?
- Con sợ cô ấy không chịu bỏ đứa bé!
Minh nói.
Bà Nhật Tân ngẫm nghĩ một lúc rồi gật đầu:
- Con nghĩ cũng phải. Có thể nó sẽ không bằng lòng đâu, vì đứa bé chính là tấm giấy thông hành có giá trị nhất để giúp nó đặt được chân tới ngưỡng cửa nhà mình, nó đâu ngu dại gì mà lấy mấy chục triệu mà bỏ qua cơ hội ngàn vàng đó? Theo mẹ, con phải ráng dỗ ngọt nó, làm sao cho nó tin tưởng rằng con một lòng thương yêu nó, nhất định sẽ cưới nó làm vợ, nhưng vì tương lai của hai đứa giờ con phải đi du học ở Anh, không thể cưới nó ngay lúc này được, mà con cũng không muốn nó bị đứt đường học vấn và một mình nuôi con khó nhọc. Con phải nói cho thật dẻo để nó tin lời con, tin vào lời hứa hẹn của con mà chấp nhận đi phá thai… con có làm được điều đó không?
Minh ngao ngán:
- Con cũng không biết nữa, nhưng con sẽ cố gắng.
- Con không được hở chuyện này ra cho ba con biết đó, ổng sẽ lồng lộn lên, mệt lắm đó!
Bà Nhật Tân căn dặn.
Minh gật:
- Dạ, con biết rồi! Con cũng rất sợ ba mà, mẹ yên tâm đi!
Minh đã không phải mất nhiều thời gian cũng như lời lẽ để thuyết phục Lam.
Khi nghe Minh trình bày lý do một cách ấp úng, Lam chỉ hỏi một câu:
- Anh thật lòng với em chứ?
Minh đưa tay lên trán thề:
- Anh không dối gạt em đâu Lam à! Chỉ vì tương lai nên anh không thể hoãn lại chuyến đi mà cưới em được. Xin em hãy hiểu mà thông cảm cho anh. Nhất định khi sang Anh, anh sẽ liên lạc với em thường xuyên. Và khi về nước chúng mình sẽ tổ chức ngay… Nếu anh mà nói sai lời xin cho đất trời…
Lam kéo tay Minh xuống, cắt ngang:
- Anh không cần thề, em yêu anh nên em sẽ tin anh và làm theo mọi sự sắp xếp của anh.
Nghe Lam nói vậy, tự nhiên sống mũi Minh cay xè, muốn bật khóc. Minh không ngờ mình cũng còn được những cảm xúc này.
- Anh cảm ơn, Lam ạ!
Sáng hôm sau Lam ngoan ngoãn theo Minh đi giải quyết cái bào thai ngoài ý muốn. Cô câm lặng không nói không cười, cũng không tỏ vẻ đau buồn hay khóc lóc. Những ai không hiểu Lam, có thể đánh giá cô là người vô cảm, nhưng Minh biết lúc này Lam đang đau khổ cùng cực.
Minh rất xót xa, nhưng không biết làm sao ngoài cách đó, vì thật sự Minh cũng không xác định được mình có muốn chung sống với Lam không nữa.
Vì cơ thể suy nhược, lại bị mất máu quá nhiều nên khi mọi việc xong xuôi Lam gần như bất tỉnh. Đáng lẽ ra Lam cần phải ở lại bệnh viện để được bác sĩ theo dõi, nhưng Lam không muốn, và Minh cũng không muốn.
Minh dìu Lam về phòng trọ, và đây cũng là lần đầu tiên Minh biết chính xác nơi ở của Lam.
- Anh Minh… em yêu anh!
Lam thều thào nói.
Minh đỡ Lam nằm xuống giường, dỗ dành:
- Anh cũng rất yêu em, Lam à…
Đôi môi héo hắt của Lam hơi nhếch lên một chút, cô nhắm mắt lại và hai bên khóe mắt Lam chảy ra dòng lệ.
Minh ngoảnh mặt chỗ khác cố tránh nhìn cảnh tượng này, lòng Minh cũng đau đớn lắm, nhưng biết sao bây giờ… Không ngờ một cậu công tử con nhà giàu ăn chơi khét tiếng mà lại có lúc vì chuyện tình cảm bình thường mà rơi nước mắt.
- Ngủ đi em, cố dỗ giấc ngủ một chút cho khỏe.
Minh vỗ nhè nhẹ lên cánh tay Lam.
Lam gật nhẹ đầu.
Minh ngồi bên cạnh lặng ngắm Lam đang chìm dần vào giấc ngủ nặng nề, mệt nhọc. Thật lâu sau, khi thấy hơi thở của Lam đều đều, Minh khẽ khàng gỡ tay Lam ra khỏi tay mình và nhổm người đứng lên.
- Anh Minh… Anh đừng bỏ em…
Bất chợt Lam quơ tay, kéo tay Minh lại, thổn thức khóc.
- Anh đi đâu vậy anh Minh?
Minh ngọt ngào:
- Anh xuống đường mua cháo nóng cho em. Em ngủ ngoan đi, anh thương, nhé?
Lam ngoan ngoãn gật đầu và khép mắt lại.
Minh dùng dằng không muốn rời bước, nhưng cuối cùng anh cắn chặt môi đi. như chạy xuống đường…
Minh rảo bước thật nhanh ra tới đầu hẻm, vừa chui người vào xe, Minh lưỡng lự giây lát rồi quay trở lại quán cháo phía dưới ngôi nhà Lam ở.
- Ông chủ, bán cho tô cháo nóng, ông cho người giúp tôi đưa lên phòng trên kia được không?
Vừa nói, Minh vừa chỉ tay lên hướng phòng Lam.
Ông chủ quán tươi cười:
- Dạ được, dạ được chứ!
Rồi ông gọi với ra sau:
- My đâu rồi My ơi, mau lên đi đưa cháo cho khách nè! Mầy cứ chui rúc trong phòng để soi gương hoài là tao đuổi việc đó nghe!
My, cô gái trẻ dẹp, tuổi trạc chừng mười sáu, mười bảy ỏng ẹo đi lên, phụng phịu:
- Con có soi gương đâu… Con rửa chén sau nhà chứ bộ!
Ông chủ quán nhún vai cười hềnh hệch:
- Tự dưng không ai sai mà mầy đi rửa chén mới là chuyện lạ, hôm nay chắc trời bão quá… Tao không có tin đâu! Thôi lẹ lẹ lên giùm đi, hỏi anh kia xem đem cháo lên phòng nào rồi đem cho người ta. Buôn bán phải mau lẹ chứ con!
Cô gái tên My liếc mắt nhìn Minh, cười rạng rỡ:
- Anh ơi, cháo này đem tới phòng số mấy vậy anh?
- Cô giúp tôi mang lên phòng số 409.
Minh đặt tờ tiền giấy lên quầy rồi vội vã bước đi. Vừa mở cửa xe, anh nghe tiếng gọi ơi ới phía sau:
- Anh gì đó ơi… Anh ơi… anh quên lấy tiền thối lại nè…
My vừa thở hổn hển vừa nói.
Chợt trông thấy Minh đang loay hoay bên chiếc xe hơi sang trọng, mắt My sáng rực lên, cô hỏi:
- Xe này của anh lái tới đây đó hả?
Minh gật:
- Ừ, cảm ơn cô! Tôi tặng cô cả số tiền ấy, khỏi phải thối.
My trố mắt nhìn Minh:
- Anh tặng luôn cho em gần một trăm ngàn đồng?
- Đúng, tặng cô đó! Nhờ cô mang cháo lên trên đó giúp tôi.
Minh vừa nói vừa chui vào xe.
My vẫn cố nhoài người vào trong nói với Minh:
- Cảm ơn anh nhe! Anh “sộp” quá! À, mà tên anh là gì thế?
Minh giả tảng như không nghe thấy, anh cho xe nhích lên một chút, My hoảng hốt giật lùi ra xa, thừa dịp đó Minh vọt xe đi luôn, bỏ lại My đứng lẩm bẩm một mình:
- Thấy ghét! Người ta hỏi tên mà không chịu nói!
Nhưng rồi lập tức cô nhoẻn miệng cười thật tươi:
- Mà hổng sao! Hôm nay mình vô mánh rồi, từ trong quán chạy ra đây một chút mà có được gần một trăm ngàn đồng, sướng thiệt! Hi hi hi…
My quay về, vừa đi vừa líu lo ca hát.
Xe chạy được một đỗi Minh mới sực nhớ lúc nãy anh quên để lại cho Lam một ít tiền để cô ấy ăn uống tẩm bổ, tình trạng sức khỏe của Lam sa sút quá. Muốn quay trở lại nhưng Minh không dám, cũng khó khăn lắm Minh mới rời Lam được, bây giờ trở lại gặp cô ấy, có thể Minh sẽ không có dủ can đảm để bỏ đi.
- Thôi, mình về nhờ mẹ vậy!
Minh chậc lưỡi rồi tăng ga cho xe phóng nhanh về nhà.
Bà Nhật Tân ngồi chờ con trước sân nhà, vẻ thấp thỏm không yên, vừa trông thấy Minh lái xe về, bà mừng rỡ chạy tới hấp tấp hỏi:
- Mọi việc thế nào rồi con? Ổn cả chứ?
Minh bước ra ngoài, đóng sập cửa xe, buồn bã nói:
- Dạ, ổn hết rồi mẹ ạ, nhưng…
- Nhưng sao con? Cô ấy đòi thêm tiền à?
Bà Nhật Tân lo lắng.
Minh nhăn mặt:
- Dạ không! Cô ấy không quan tâm tới chuyện đó… Chỉ là con thấy sức khỏe cô ấy yếu quá, con… con… rất ân hận. Vậy mà lúc ra về, con quên để lại cho cô ấy ít tiền. Ngày mai, mẹ có thể giúp con làm việc này không? Vì sáng mai con đã phải bay sớm rồi?
Bà Nhật Tân nhẹ người, gật đầu lia lịa:
- Được, được! Con cứ để đó mẹ lo, mẹ sẽ cử người thỉnh thoảng tới giúp đỡ, chăm sóc nó, con cứ yên tâm mà đi đi nhé!
Nghe mẹ hứa, Minh cảm thấy yên lòng. Nhưng cả đêm hôm đó anh không sao chợp mắt được, không biết vì chuyến đi xa vào sáng sớm ngày mai, hay vì nỗi ra rứt đang âm thầm gặm nhấm…
Còn về phía Lam, khi Minh lặng lẽ đi ra cửa, nói với cô rằng anh đi xuống đường mua cháo cho cô ăn, Lam cũng đã cảm nhận được điều gì sẽ đến với cô. Tuy nhắm mắt vờ ngủ cho Minh an lòng, nhưng Lam đang thổn thức khóc.
Có tiếng gõ cửa khe khẽ, Lam thoáng giật mình:
- Ai đó?
Tiếng người con gái lanh lảnh:
- Dạ, em đưa cháo lên ạ!
Lam thất vọng, mệt mỏi nói:
- Cô làm ơn đảy cửa ra, để cháo lên bàn giúp tôi nhé!
- Dạ!
Có tiếng cửa xịch mở và tiếng cô gái:
- Dạ, em để đó rồi, em xin phép về nhé?
- Cảm ơn cô!
Lam trả lời.
tiếng cánh cửa phòng khép lại và tiếng chân cô gái dần xa, Lam quay mặt vào tường nức nở:
- Anh Minh ơi… anh dã thật sự xa em rồi sao? Anh Minh ơi…
 
***
Tú Lệ là tên của bà chủ nhà trọ nổi tiếng chua ngoa đanh đá. Bà là một phụ nữ nhỏ thó, cả thân người không nặng quá năm mươi ký lô nhưng tất cả đám người thuê nhà, từ bọn lóc nhóc đến những tay bặm trợn nhất cũng phải nể mặt.
Ngược lại, ông Thái chồng bà lại hiền như cục bột, và vô cùng nhút nhát, mỗi khi nghe vợ hét lên một tiếng ông lại cun cút giống như một con chó nhỏ cụp đuôi sợ sệt trước mặt chủ.
Nghe đâu trước đây ông là một nhà thơ nửa mùa, nhưng từ hồi về sống với bà Tú Lệ, bao nhiêu thi hứng của ông đều bị bà bóp nghẹt lại hết. Bây giờ công việc chính mỗi ngày của ông là ghi chép sổ sách và nhắc chừng cho bà biết phòng nào chưa thanh toán tiền nhà đúng hạn.
Nhưng ông vốn hiền lành và hay thương người, nên lắm lúc ông giả lờ đi, không nói gì với vợ về vụ bê trễ tiền bạc của một hộ nào đấy, đến lúc bà Tú Lệ phát giác ra, bà làm ầm ĩ lên, ông chỉ một mực:
- Tôi sơ ý, tôi quên…
Hai ông bà chỉ có một đứa con duy nhất, nhưng nó không hẳn là trai mà cũng không là gái. Người ta gọi nó bằng cái tên Hiệp Hi –fi, hoặc Hiệp pê – đê.
Mỗi khi nghe ai gọi con như vậy, bà Tú Lệ lại réo hết dòng họ tổ tông tám đời của người ta ra mà chửi.
Hiệp cũng chẳng mấy khi ở nhà, không ai biết hắn làm nghề gì, chỉ biết hắn biến mất một thời gian dài rồi đột ngột trở về ít bữa, thế thôi.
Bà Tú Lệ là chủ của hai khu nhà trọ liền kề nhau. Tuy giá cho thuê nhà ở mức bình dân, người thuê nhà là dân lao động nghèo, nhưng hàng tháng số tiền mà bà Tú Lệ thu về không phải nhỏ. Tuy thế, bà là một người phụ nữ tham lam, tiền bao nhiêu cũng chưa đủ. Bà còn nghĩ ra trăm phương ngàn kế để thu lợi nhuận về cho mình.
Dạo gần đây, người ta thấy bà Tú Lệ sửa soạn hẳn một căn phòng rộng nhất ở tầng trệt để cho một đạo sĩ thuê. Bà khoe với mọi người rằng, nghe đồn ông đạo sĩ này tay nghề cao lắm, có ông về cư ngụ trong nhà bà cũng yên tâm.
Hôm nay, ông đạo sĩ chính thức dọn đến ở. Trước đó, ông đã cho đệ tử tới trang hoàng căn phòng theo đúng phong cách đạo sĩ của ông. Ở giữa phòng là trang thờ uy nghi lộng lẫy, xung quanh treo đầy cờ phướn giông như ngôi miếu nhỏ vào những ngày cúng lễ hàng năm. Phía trước trang thờ có đặt một chiếc ghế tựa được đóng theo kiểu dáng ngai vàng của các bậc vua chúa thời xưa.
Ngày dọn về nhà mới, cũng là ngày ông đạo sĩ ra tay làm phước không công. Tin tức này đã được loan truyền đi từ nhiều ngày nay, ai có người thân bị trúng tà, mau mau đưa đến, nhà đạo sĩ tài danh sẽ trừ tà miễn phí nhân dịp khai trương…
Từ sáng sớm, người dân ở khu vực đó từ già trẻ, trai gái đã nô nức tụ tập trước cửa nhà bà Tú Lệ để tận mắt chứng kiến sự việc hiếm hoi này. Có nhiều người vì tò mò, đã bỏ luôn công ăn chuyện làm để tới xem cho biết.
Đúng tám giờ sáng căn phòng của đạo sĩ mở cửa. Người ta vây kín vòng trong vòng ngoài, ai cũng muốn tận mắt nhìn thấy chân dung của người nổi tiếng.
Trên chiếc ngai sơn son thếp vàng giữa phòng, nhà đạo sĩ tài ba đang ngồi… chồm hổm, tay chân không ngừng múa may giống y như nhân vật Tôn Ngộ Không trong phim Tây Du Ký!
Nhà đạo sĩ mặc chiếc áo thụng màu vàng còn mới tinh, trên đầu đội một cái mão cũng màu vàng, chính giữa có vẽ hình bát quái.
Mùi khói nhang nồng nặc, tiếng chuông mõ đều đều, tiếng ê a niệm chú của đạo sĩ khiến đám con nít khoái chí chỉ trỏ, nói cười inh ỏi.
Không lâu sau, có một chiếc xe gắn máy đỗ xịch trước cửa, trên xe là hai người đàn ông và một người phụ nữ. Người phụ nữ đầu tóc rũ rượi, miệng mồm đầy dãi dớt, cặp mắt thì trợn trừng trắng dã, không ngừng kêu la mắng chửi những câu vô nghĩa.
Hai người đàn ông vất vả lắm mới dìu được chị ta vào nhà. Vừa vào tới cửa, một trong hai người đàn ông vộ iquỳ sụp xuống, chắp tay vái lia vái lịa:
- Xin thầy ban ơn cứu lấy vợ con. Nó bị trúng tà đã hơn nửa năm nay, con đưa nó đi chạy chữa khắp nơi mà không khỏi. Ai cũng bảo con yêu này mạnh lắm, khó mà trục nó ra được. Nay con nghe tin thầy về đây ra tay cứu độ chúng sinh, con cúi lạy thầy, xin thầy cứu lấy vợ con…
Trong lúc người chồng lạy lục van xin nhà đạo sĩ thì người vợ không ngừng lăn lộn rên la dưới đất.
Ông đạo sĩ luôn tay gãi sồn sột lên đầu, lên mặt rồi đột ngột quăng mình rời khỏi ngai, nhảy tưng tưng xung quanh người bệnh, mắt nhìn chị ta dò xét.
- Đệ tử, rượu phép!
Đạo sĩ chìa tay và ban lệnh.
Một đệ tử vội vàng chạy tới ban thờ hai tay nâng lấy chiếc bình sứ kính cẩn trao cho đạo sĩ.
Ông đạo sĩ ôm bình rượu múa may một hồi lâu rồi ngửa cổ tu ừng ực. Sau mấy tiếng “khà” đầy vẻ khoái trá, ông đạo sĩ lại hớp một rượu rồi phun phèo phèo vào mặt bệnh nhân. Người phụ nữ bị rượu văng trúng mặt mà giống như bị trúng tên, trúng đạn, ngã bật ra phía sau giãy lên đành đạch.
- Túi bắt ma!
Ông đạo sĩ lại ra lệnh.
Một đạo sĩ khác quỳ xuống dâng lên một cái túi vuông vức rộng cỡ ba gang tay được may bằng loại vải màu vàng bóng láng, kèm theo một tấm vải đỏ rộng như một chiếc mền.
Ông đạo sĩ lại múa may, rồi bất ngờ chụp cái túi màu vàng lên đầu người bệnh, và nhanh như chớp, cái mền đỏ cũng được phủ trùm lên cả thân thể chị.
Dưới tấm vải đỏ, thân người chị phụ nữ không ngừng co giật, giãy giụa, một lúc sau từ đó phát ra một tiếng kêu rên thống thiết gần như tiếng hú rồi thân hình phía dưới nằm xuôi lơ, không còn nhúc nhích gì được nữa.
Đạo sĩ khom người một tay giở tấm vải đỏ, một tay nhấc cái túi vải màu vàng lên, trong túi lúc này hình như có chứa một vật gì đó nằng nặng.
- Đây là bao thai của quỷ! Con yêu này đã nhập vào người nữ, giao phối để tạo ra bào thai này, nếu muộn một chút, khi bào thai thành người, nó sẽ trở thành một loại quỷ quái có sức mạnh vô song, không có ai có thể trừ được, cũng may… cũng may các người tìm tới ta còn kịp lúc…
Vừa nói, ông đạo sĩ vừa nghiêng chiếc túi xuống ban thờ, trút ra một đống bầy nhầy tanh tưởi giống giống như hình dạng một bào thai.
Tiếng mọi người ồn ào kêu lên kinh ngạc, sợ hãi, mấy đứa con nít, đứa thì cố chen lấn vào để xem cho rõ, đứa lại cố lùi ra xa vì sợ. Người nhà của bệnh nhân thì lạy như tế sao.
- Hỏa thiêu!
Đạo sĩ lại ra lệnh.
Một đệ tử tới gần, tay cầm một chai nhỏ không biết là rượu hay xăng dầu trút hết vào cái vật được gọi là bào thai của quỷ ấy.
Đạo sĩ châm một ngọn đuốc, lầm rầm khấn vái, vừa nhảy tưng tưng vừa châm đuốc vào bào thai, nó cháy phừng lên một chút rồi tắt ngúm. Trên ban thờ lúc này chỉ còn lại một nhúm tro than đen thui.
Dưới sàn nhà, người phụ nữ bắt đầu ú ớ và mở mắt ra. Anh chồng vội đỡ vợ ngồi lên. Chị ta ngơ ngác hỏi:
- Đây là đâu? Sao em lại ở đây? Mình về nhà đi anh, con mình đâu rồi?
Người chồng khóc rống lên và lại quỳ sụp xuống lạy tới tấp, vừa lạy vừa nói:
- Con đội ơn thầy! Muôn vàn đội ơn thầy, vợ con đã tỉnh lại rồi! Hơn nửa năm nay bây giờ cô ấy mới biết con là chồng và nhắc tới mấy đứa con. Con đội ơn thầy nhiều lắm… Con có chút ít này kính xin được cúng để thầy nhang khói…
Người chồng vừa nói vừa lết đi bằng hai đầu gối tiến tới gần ban thờ và lấy từ trong túi áo một gói nhỏ đặt lên đó.
Đạo sĩ nhảy tưng tưng tới, cầm cái gỏi mở ra, bên trong là những miếng vàng lá sáng rực, người ta ồ lên kinh ngạc, ai nấy ước lượng số vàng đó không dưới một lượng!
Ông đạo sĩ vừa cười hô hố vừa nhét lại gói vàng vào túi người chồng:
- Hôm nay ta cứu độ chúng sinh không nhận thù lao…
Mọi người đứng bên ngoài xôn xao lên vì thán phục tài năng và đức độ của đạo sĩ, người chồng không biết nói sao, cùng với vợ lạy sì sụp mãi…
Nhìn những cảnh tượng ấy, bà Tú Lệ mỉm cười hài lòng và lặng lẽ rút lui, trở về phòng mình.
Vừa bước vào nhà, bà hỏi ngay ông chồng:
- Con nhỏ ở phòng 409 đã thanh toán tiền chưa?
- Ơ… ơ… hình như… hình rồi!
Ông chồng ấp úng.
Bà Tú Lệ quát:
- Ông đang cầm sổ sách trên tay mà hình như hình nhiếc gì! Bao nhiêu lần rồi đó nghen, lúc nào ông cũng muốn bao che, bênh vực cho nó. Bộ ông có tình ý gì với con nhỏ đó hả? Coi lại cho tui, nó đã thanh toán chưa?
Ông chồng kéo trễ cặp mắt kính xuống nhìn vợ một cái rồi lật đật nói:
- Nó… nó chưa… chưa… thanh toán.
Bà Tú Lệ không thèm nói với chồng một lời nào nữa, quay ngoắt người xồng xộc đi thẳng lên lầu.
Phòng 409 cửa đóng im ỉm, bên trong hoàn toàn vắng lặng như không có người ở. Bà chủ nhà dộng cửa ầm ầm, miệng la lối:
- Đã có tiền thanh toán cho tao chưa? Nếu không thì dọn đi ngay lập tức đi nhé, đừng có mà cù cưa cù nhầy, tao không thích…
Có tiếng lê dép bên trong, một lúc sao Lam thò đầu ra nhỏ nhẹ nói:
- Xin bà cho con khất lại vài hôm nữa, tháng này nhà con ở quê chậm gởi tiền vô, mà con thì đang bệnh… Xin bà thương tình…
Bà Tú Lệ không hề động lòng khi thấy gương mặt xanh xao hốc hác của của cô gái, bà gằn giọng:
- Ở đây là nhà trọ. Tao xây nhà cho thuê để kiếm sống. Đây không phải là trại tế bần. Mầy làm sao thì làm, tao không cần biết, hai hôm nữa mà không có tiền trả cho tao thì tao sẽ quăng hết đồ đạc của mầy xuống đường. Đến lúc đó thì đừng có oán trách tao đấy nhé!
Nói dứt câu, bà Tú Lệ  ngoe nguẩy bỏ đi, Lam nặng nhọc vào giường gieo mình xuống nước mắt dầm dề.
Có lẽ bị Lam phản ứng bằng cách dùng cây viết đâm liên tiếp vào người ông, nên ông Hà cha dượng cô tức giận mà không gởi tiền vào cho cô nữa. Lam cũng đã đoán biết trước điều này. Cô đã nghĩ tới chuyện bỏ học để tìm một việc làm nào đó sống qua ngày, nhưng từ hôm ở bệnh viện về Lam chưa lấy lại sức, đi trong nhà còn muốn không nổi thì làm sao tìm việc gì được.
Giữa lúc này mà bà chủ nhà lại thúc giục tiền bạc, Lam không biết phải tính sao nữa. Từ hôm bỏ đi đến nay, Minh không hề liên lạc gì với Lam, những hy vọng mong manh trong Lam đã hoàn toàn tắt lụi.
- Cuộc đời mình đã thật sự bế tắc rồi!
Lam rên rỉ.
 
***
 
Hơn một tuần nay bà Tú Lệ vui vẻ lắm. Bà không ngờ thu nhập của mình lại tăng vọt một cách chóng vánh như vậy.  Bà tự khen mình đã nghĩ ra được cái trò mua thần bán thánh này.
- Phải biết ngon ăn vậy mình đã làm từ nhiều năm nay rồi đâu để đến bây giờ, tiếc thật!
Vừa đếm tiền, bà Tú Lệ vừa lẩm bẩm, ông Thái ngồi cạnh bên xen vào:
- Bà ơi, bà đừng có tham lam quá mức…
Nghe chồng nói mấy lời đó, bà Tú Lệ như đỉa phải vôi, lồng lộn lên:
- A… ông dám nói tui tham lam hả? Tui tham lam để nuôi dòng họ nhà tui hay là lo cho cha con ông ăn không ngồi rồi đây? Trời ơi là trời… sao cái số tui nó vô phước đến nông nỗi này, quanh năm suốt tháng tui vất vả, lao tâm khổ trí vì chồng vì con mà không ai biết ơn tui hết nè trời…
Thấy vợ bắt đầu giở cái màn tru tréo ra, ông Thái hoảng hốt đứng lên chạy tuốt ra ngoài, chui vô quán cháo kêu một dĩa phá lấu vừa ăn vừa liếc mắt về nhà dòm chừng bà vợ.
- Ông thái đâu rồi? Bớ ba hồn chín vía ông Thái về đây tui biểu….
Dĩa phá lấu mới vơi hơn một nửa, ông Thái đã phải ba chân bốn cẳng chạy vộ ivề nhà khi nghe tiếng réo ỏm tỏi của vợ.
Vừa thấy mặt ông, bà Tú Lệ mắng xối xả:
- Tại sao? Tại sao tui đã dặn ông nhắc tui đòi tiền nhà con nhỏ phòng 409 mà ông lại không nhắc? Ông thương nó rồi phải không? Mau, mau lên đó lấy tiền liền cho tui… Mau lên đi!
Ông Thái len lét chạy vội lên lầu, một loáng lại trở xuống ấp úng:
- Nó… nó đóng cửa… tui kêu hoài không ai mở…
- Trời ơi là trời… chồng gì mà vô tích sự thế này! Ông đi theo tui, mau lên!
Bà Tú Lệ vừa tru tréo vừa lôi ông chồng lên lầu.
- Con kia! mầy có mở cửa ra không? Bộ mầy tưởng đóng kín cửa trốn trong đó là trừ được nợ sao con?
Vừa dộng ầm ầm vào cửa, bà Tú Lệ vừa hét. Bên trong vẫn không hề có động tịnh gì làm bà càng thêm sôi máu. Bà rút ra chùm chìa khóa khổng lồ mà lúc nào bà cũng không quên đeo kè kè ở thắt lưng ra lục tìm chìa khóa căn phòng 409.
Cánh cửa chỉ hé ra được một tí khi bà Tú Lệ mở khóa bằng chìa của mình. Thì ra bên trong nó được cột chặt bằng một sợi dây xích không lớn lắm.
- À… à… cái con này! Mầy quá quắt lắm nhé! Rồi mầy sẽ biết tay bà… Mầy tưởng mầy chống lại bà được sao con?
Bà quay lại ra lệnh cho ông  chồng đang đứng nhớn nhác phía sau:
- Ông mau xuống dưới nhà lấy cái cưa sắt lên đây ngay!
Ông Thái cun cút làm theo lời sai khiến của vợ. Khi cưa được mang lên, cả hai vợ chồng ông Thái thay phiên nhau hì hục gần một tiếng đồng hồ mới cưa đứt được sợi dây xích.
- Mầy sẽ biết tay bà!
Bà Tú Lệ gầm lên khi cánh cửa vừa bật mở. Nhưng lập tức, cả hai đều thối lui vì một mùi hôi thúi khó chụi xộc vào mũi.
- Cái gì? Mầy lại giở trò gì ra đây hở con kia?
Vừa bịt mũi, bà Tú Lệ vừa hỏi. Vẫn không có tiếng trả lời. Trong phòng tối om không một tia sáng nào chiếu rọi vào.
Ông Thái sợ sệt:
- Thôi, xuống nhà đi bà ơi, có gì sáng mai lên nói chuyện với nó, chắc lúc này nó không có nhà…
- Cái ông này hay thiệt! Nó không có nhà thì ai cột dây xích bên trong? Nó muốn giở trò với tui hả, đừng có hòng…
Bà Tú Lệ nóng nảy sấn sổ bước vô phòng, một tay che mũi, một tay sờ soạng lên tường tìm công tắc để mở đèn.
- Cạch!
Bóng đèn ne-on giữa phòng cháy sáng lên giúp ông Thái bình tĩnh lại đôi chút, nhưng ông vẫn cứ thập thò sau lưng vợ.
Bà Tú Lệ nhìn quanh quất khắp nhà, đây là lần đầu tiên bà bước vào phòng từ khi cô gái đó dọn đến. Bà có một nguyên tắc, không bao giờ bước vào phòng của người ta, trừ khi vào để quăng đồ đạc khi người đó không trả tiền thuê nhà đúng hạn. Những lần lên thu tiền, bà chỉ đứng ngoài cửa.
Trong phòng của cô gái hình như chẳng có gì đáng giá. Ngoài mấy cuốn sách để ngổn ngang trên bàn, bà Tú Lệ thấy nó không có gì để bà phải mất công vứt bỏ.
- Ông đi tìm xem nó trốn ở đâu!
Bà ra lệnh cho chồng. Ông Thái bịt chặt miệng mũi bằng cả hai tay, đi xuống bếp nhìn quanh quất.
- Á….
Vừa bước vào phòng ngủ của cô gái, bà Tú Lệ giật bắn người vì tiếng thét kinh hoàng của chồng.
- Chuyện gì? Chuyện gì xảy ra?
Bà hấp tấp hỏi.
Ông Thái đi giật lùi, mặt cắt không còn một giọt máu, cái mắt kính cũng đã bị rơi đâu mất, trông ông lúc này giống như một thằng khờ. Ông chỉ tay vào phòng tắm, miệng ú ớ:
- Nó… nó…
Bà Tú Lệ không chờ chồng nói hết câu, tự mình chạy tới gần, mùi hôi nồng nặc làm bà muốn ói, nhưng bà vẫn cố gắng thò đầu vào phòng tắm quan sát.
- Á…. Trời ơi!
Bây giờ tới lượt bà Tú Lệ kêu thét. Bà té ngồi xuống đất, vừa chống tay lết ra cửa, bà vừa la làng:
- Cứu… cứu tôi với….
Giọng nói vang như chuông khánh của bà Tú Lệ khi thét lên đã làm kinh động cả khu nhà trọ. Người ta chạy rần rần lên lầu để coi chuyện gì đã xảy ra.
Mọi sự ồn ào tạm thời lắng xuống khi nhà chức trách đến nơi. Sau khi xem xét hiện trường và thi thể người chết, người ta kết luận cô gái chết do tự sát bằng cách cắt đứt cổ tay, đồng thời trước khi chết, cô gái còn bị băng huyết do phá thai. Cái chết cách đây khoảng một tuần, máu đã khô đông đặc lại và trên gương mặt của tử thi đã bị lở loét vì chuột, kiến đụt khoét.
Ông Thái run như cầy sấy, cứ ôm lấy lưng bà vợ nhỏ thó của mình không dám rời ra. Bà Tú Lệ tuy cũng một phen thất kinh hồn vía nhưng rồi lập tức lấy lại được bình tĩnh. Bà trình bày rành mạch mọi chuyện với nhà chức trách.
Khi đã làm xong phần xét nghiệm, người ta đặt xác chết của Lam vào một tấm vải liệm là chiếc ra trải giường và cột chặt lại. Bây giờ đây, trên giường là một khối trắng được cột như đòn bánh tét.
Mọi người được lệnh giải tán và hai nhân viên vào trong khiêng xác chết xuống xe.
- Á… Á…
Tiếng kêu thất thanh của hai nhân viên mai táng làm đám người nhộn nhạo trở lại.
Từ trong phòng, hai người chạy xộc ra ngoài, mặt mày tái xanh tái xám.
- Có chuyện gì thế?
Bà Tú Lệ ngạc nhiên hỏi.
- Ma… có ma!
Một người lắp bắp nói, còn người kia thậm chí không dám dừng chân, cứ cắm đầu chạy tràn xuống dưới.
- Tầm xàm! Ma cỏ gì ở đây!
Tuy trong bụng cũng run lắm, nhưng vì trước mặt đông đảo người thuê nhà, bà Tú Lệ làm ra vẻ cứng rắn.
Bà hùng hổ đi vào phòng 409, sau lưng bà là đám đông hiếu kỳ. Trên chiếc giường trống trải, cái xác của cô gái vẫn nằm im một khối không hề có gì lạ.
- Thấy chưa! Có gì đâu? Hai anh vô tích quá, để đó, tôi sẽ cho người của tôi làm việc này.
Nói xong, bà Tú Lệ bước ra cửa gọi lớn:
- Thằng Mập đâu? Mầy kêu thằng em mầy lên đây, hai đứa bây khiêng cái này xuống dưới cho tao.
Mập dạ lớn.
Trước cửa phòng xuất hiện hai thanh niên lực lưỡng. Cả hai hùng dũng đi vào, nhưng chớp mắt một cái hai người bật dội trở ra mà không kêu lên được một tiếng, giống y như bị ai đó đá cho văng ra ngoài vậy.
Mập lồm cồm vừa bò dậy vừa khóc mếu máo:
- Ma… ma…
Em của thằng mập thì không nói lời nào vì miệng mồm nó đã đơ lại do quá sợ hãi.
Đám đông lúc này rùng rùng chen lấn nhau bỏ chạy xuống lầu. Không còn nghi ngờ gì nữa, đích thị cô gái đó chết đã thành ma rồi!
Bà Tú Lệ rối ruột không biết phải giải quyết sao với cái xác chết đó, đồng thời phải nhanh chóng ổn định tinh thần của mọi người, chứ nếu không người ta bỏ đi hết thì nguy to.
Một vài người nhanh tay nhanh chân đã chạy tới phòng đạo sĩ dộng cửa ầm ầm:
- Thầy ơi, có ma! Có ma, thầy ơi! Mau mau lên lầu bắt ma đi thầy ơi!
Bà Tú Lệ giật mình, mà ông đạo sĩ cũng không kém phần hoảng hốt. ông không biết tính sao nên còn cố thủ bên trong chưa chịu mở cửa.
Không thể im lặng, bà Tú Lệ chạy xuống gõ cửa, nói với ông đạo sĩ:
- Xin thầy làm ơn lên lầu bắt giùm con ma nữ…
Ông đạo sĩ nghe tiếng bà Tú Lệ vội vã hé cửa ra nhìn, thấy ánh mắt của bà, ông vội gật đầu rồi vào trong thay bộ đồ lễ, ôm bình rượu phép, túi bắt ma cùng hai đệ tử đi lên lầu.
Lúc này trước cửa phòng 409 không còn ai dám đứng đó, mọi người cứ thập thò ở chỗ cầu thang mà nghe ngóng. Cả ông Thái cũng len lén chạy ra ngồi ngoài quán cháo, ai hỏi gì ông lắc đầu:
- Không có! Không có mà…
Tới cửa phòng, ông đạo sĩ khựng lại do dự. Bà Tú Lệ đến gần bên nói nhỏ:
- Không có gì đâu… ông vô đó múa may một lúc rồi hô hoán lên là đã bắt được con ma nữ rồi, thế là xong!
Ông đạo sĩ gật đầu lia lịa, vui vẻ bước vào, hai tên đệ tử cũng nối gót theo sau.
Sau một hồi múa may và niệm chú, lúc ông đại sĩ chuẩn bị phun rượu vào xác chết thì đột nhiên cái khối trắng ấy ngồi bật dậy làm thầy trò ông đạo sĩ té bà lăn bò càng, vừa lết vừa la bài hãi vang trời.
- Có ma… trời ơi… có ma!
Cái tin ông đạo sĩ tài danh bị con ma nữ đá bay ra cửa nhanh chóng lan ra khiến những người hiếu kỳ nhất cũng hoảng sợ. Không ai dám bén mảng đến gần khu vực đó nữa, những người ở phòng lân cận vội vã gom góp đồ đạc chạy đi lánh nạn ở những phòng dưới lầu dưới hoặc ai có thân nhân đâu đó thì đi tá túc tạm thời.
Mới rồi khu nhà đông đúc ồn ào như một đám hát, giờ lại vắng vẻ, lặng trang. Người ta nói chuyện với nhau cũng chỉ dám thầm thì, làm như sợ con ma kia nghe thấy tiếng.
Bà Tú Lệ vốn là người gan dạ, đồng thời sợ mất thu nhập nên bà càng trở nên cứng cỏi lạ thường. Trong lúc ai ai cũng hoảng sợ thì một mình bà chạy xồng xộc lên lầu đứng trước cửa phòng 409, tay chống nạnh, tay chỉ vào trong xỉa xói:
- Mầy là con khốn! Mầy chết là do tự mầy tìm tới cái chết. Tao đâu có giết mầy, sao mầy lại muốn phá chuyện làm ăn của tao? Mày có mau mau cút khỏi đây không thì nói…
Bà cứ rủa xả liên hồi, đến lúc mỏi miệng, vừa mới xoay người định đi xuống nhà, bà bỗng giật thót người khi trông thấy Lam đứng sừng sững ngay giữa cửa từ bao giờ mà bà không hay biết. Khuôn mặt coôgái xanh mét, đôi môi trắng nhợt nhạt, máu dưới chân và từ chỗ cổ tay cô nhễu long tong xuống sàn nhà.
Bà Tú Lệ há hốc miệng, đứng chết trân một chỗ. Lam cũng đứng im trừng mắt nhìn bà, hồi lâu sau cô mới nói:
- Các người… tất cả các người đã đối xử nhẫn tâm với tôi… Từ bây giờ tôi cũng sẽ nhẫn tâm với các người. Còn bà… bà muốn đuổi tôi đi phải không? Bây giờ tới phiên tôi đuổi bà đi đó… Ha ha ha…
Bóng ma cất lên một tràng cười lạnh lẽo rồi tan biến vào bóng tối.
Bà Tú Lệ lập cập chạy xuống thang lầu, chân bà vấp liên tiếp, bà ngã dúi dụi mấy lần nhưng không dám kêu lên.
Đêm ấy cả khu nhà trọ sáng rực ánh đèn, không ai dám ở trong tối, thế nhưng tất cả vẫn như bị nhấn chìm trong một không gian tang tóc kinh hoàng.
Ngay sáng hôm sau, những căn hộ cùng dã với phòng 409 bắt đầu lục tục chuyển đi, mặc cho bà Tú Lệ hết lời thuyết phục.
Bà Tú Lệ lo sợ cuống cuồng. Công việc làm ăn của bà đang phất lên ngon lành, không thể vì cái chết của một đứa con gái mà tiêu tan sụp đổ được. Bằng mọi cách, bà phải giải quyết việc này một cách khẩn cấp.
Bà Tú Lệ lục tìm trong trí óc những tên tuổi của các nhà sư, đạo sĩ, cả những mối quan hệ khả dĩ có thể nhờ cậy được.
Trong một ngày, bà Tú Lệ đã cho mời mấy nhà sư, mấy đạo sĩ tới để trừ tà, diệt quỷ nhưng người nào tới cũng bị hồn ma kia đánh đuổi có cờ. Tiếng gào thét, tiếng khóc than không ngừng vang lên làm người ta rợn tóc gáy.
- Sao bà không thử gọi cho ông Thiện Chiếu?
Ông Thông rụt rè hỏi vợ.
Bà Tú Lệ nhảy dựng lên mừng rỡ:
- Trời đất ơi, vậy mà tui không nhớ ra!
Thiện Chiếu là một sư trẻ, thuở hàn vi từng được cha mẹ bà Tú Lệ cưu mang nuôi dưỡng. Sau này sư Thiện Chiếu tu hành đắc đạo được thăng lên cấp bậc cao trong tôn giáo. Sư thường đi chu du khắp nơi để cứu dân độ thế.
Tiếng tăm của sư Thiện Chiếu vang xa khắp cả đất nước, không phải vì đức độ tu hành mà là vì tài trừ yêu dịêt quỷ của sư. Bất kỳ một thứ yêu ma nào cũng bị khuất phục trước tấm áo cà sa và bình nước lã của sư Thiện Chiếu, giống như phật bà Quan âm hàng yêu chỉ bằng giọt nước cam lồ được vẩy ra từ nhành dương liễu.
Bà Tú Lệ vồ ngay lấy chiếc điện thoại lập cập không ra số, mãi một lúc sau bà mới nghe được tín hiệu phát ra từ đầu dây bên kia:
- A lô… xin hỏi có sư Thiện Chiếu ở đó không ạ? Không à… Trời… Sư đi Aán Độ rồi sao? Dạ… dạ… xin cho hỏi khi nào sư mới về tới ạ? Dạ… dạ… xin nhắn giùm, khi nào sư về nước, sư hãy lập tức đến gặp Tú Lệ, chị họ của sư, gia đình đang gặp phải nạn lớn cần sư giúp đỡ… Dạ… dạ… xin cảm ơn…
Gác máy điện thoại, bà Tú Lệ ngồi phịch xuống ghế ôm đầu than thở:
- Trời đất ơi, giữa lúc dầu sôi lửa bỏng thế này mà ông Thiện Chiếu lại không có mặt ở Việt Nam. Ổng đi Aán Độ hơn tháng nay rồi, có lẽ tuần sau ổng mới về tới… Trong một tuần này tui biết tính sao đây….
Ông Thông không nói gì, chỉ cúi gằm mặt xuống, ghi ghi xóa xóa liền tay vào cuốn sổ nợ để trên bàn.
Ba ngày trôi qua, đã có hàng chục pháp sư, thầy cúng đến đây nhưng không ai đạt được kết quả như ý. Hồn ma kia vẫn ngang nhiên lộng hành. Mới hôm đầu chỉ hiện ra trong đêm, nhưng bây giờ nó hiện ra bất kỳ lúc nào, bất kỳ ở đâu trong khuôn viên khu nhà trọ. Có khi người ta trông thấy nó, một cô gái bình thường, khiến những người chưa biết mặt có thể lầm cô là người còn sống. Họ không chú ý gì tới cô, đang đứng gần cô bỗng chốc nhìn lại thấy cô là một cái xác biết đi, mặt mày lở lói, xông ra mùi hôi thúi nồng nặc, tởm lợm, hoặc máu từ trong người cô tuôn ra xối xả….
Đêm đêm, tiếng rên rỉ, kêu khóc ai oán từ trong phòng 409 phát ra suốt không ai dám ngủ. Rồi có đêm, có tiếng gào thét, đập phá ầm ầm trên đó.
Những người chưa dọn đi được thì chăm chỉ thắp nhang khấn vái và đóng kín cửa nhà, giả làm tai điếc mắt ngơ. Chỉ có vợ chồng bà Tú Lệ là người khốn khổ nhất.
Mới có ba ngày mà đã hơn mười gia đình trả phòng dọn đi nơi khác. Có những gia đình đã sinh sống ở đây hàng chục năm, họ không muốn rời đi chút nào nhưng không thể nào ở lại được. Ở lại đây, họ sẽ không dám ăn, không dám ngủ, thần kinh lúc nào cùn căng thẳng thì còn làm lụng gì được nữa mà sinh sống.
Bà Tú Lệ thấy được sự phá sản đang hiện dần ra trước mắt.
Bà Tú Lệ mừng húm khi thấy thằng con lang bạt trở về nhà lúc này. Có thêm một người trong nhà, bà thấy vững dạ hơn một chút.
- Nhà mình xảy ra chuyện gì vậy mẹ?
Hiếu thắc mắc khi thấy thái độ không bình thường của cha mẹ, cũng như thấy sự vắng lặng kỳ lạ của một mà trước đây lúc nào cũng ồn ào phức tạp.
Bà Tú Lệ đảo mắt một vòng rồi kề sát vào tai con, nói nhỏ:
- Trên phòng 409 có ma! Mọi người đã bỏ đi nhiều lắm rồi con ơi…
Hiếu bật cười sằng sặc:
- Trời đất ơi! Một người dữ dằn như mẹ mà cũng sợ ma nữa sao? Con nghĩ ma nó không sợ mẹ thì thôi chứ đời nào mẹ lại đi sợ nó?
Bà Tứ Lệ vội vã bịt miệng con lại:
- Con đừng có nói lớn… không nên đâu… con yêu nữ này lợi hại lắm đó, mẹ đã mời biết bao thầy cúng tiếng tăm lừng lẫy mà ai cũng phải bó tay với nó…
- Đâu, để con lên coi dung nhan con ma nữ này ra sao mà ghê vậy?
Hiệp vừa nói vừa dợm bước lên cầu thang. Bà Tú Lệ hốt hoảng níu tay con trai lại:
- Thôi thôi, con ơi! Con lo mà đi tắm rửa rồi cơm nước, đừng có dây vào chuyện này…
Hiệp cười hề hề cầm lấy chiếc khăn tắm to sụ bà mẹ đưa cho, đi vào phòng tắm.
Vừa huýt sáo vui vẻ, Hiệp vừa ngắm vuốt mình trong gương, bất chợt Hiệp thấy như có ai đó thấp thoáng sau lưng mình. Quay phắt lại, Hiệp không thấy ai, cửa nhà tắm vẫn còn đóng kín.
Nghĩ mình hoa mắt, Hịêp lại ung dung giơ tay tính nặn một cái mụn trên mặt, thì lạ chưa, cạnh gương mặt của Hịêp trong gương, rõ ràng có thêm một gương mặt khác, một gương mặt xanh xao, tiều tụy với quầng thâm đen quanh mắt và đôi môi nhợt nhạt của ta đang mấp máy nói câu gì Hịêp nghe không rõ.
Hiệp giật mình lùi lại, chân trượt vào cái gì đó nhớp nháp, nhìn xuống Hiệp thấy chóng cả mặt vì dưới chân anh toàn máu là máu. Máu chảy tràn từ một cặp chân đứng cạnh đó. Nhìn lên, Hịêp thấy đúng là cô gái mà lúc nãy anh nhìn thấy trong gương. Cô gái không nói gì chỉ nhìn Hịêp chăm chú, máu từ trên người cô cứ tuôn xuống dầm dề…
- Á… mẹ ơi, cứu con…
Hịêp tông cửa nhà tắm chạy ào ra ngoài, khiến ông Thông đang ngồi trên bàn giật thót người chui tọt xuống gầm bàn ngồi thu lu trong đó.
Bà Tú Lệ đang ngồi xem truyền hình, nghe tiếng kêu cứu của con trai bà vội vàng chạy xuống. Thấy mẹ Hiệp hốt hoảng:
- Mẹ ơi… có ma… trong đó có ma…
- Bậy bạ! Ma đâu mà ma! Làm gì có ma ở đây!
Vừa rầy con, bà Tú Lệ vừa đi tới nhà tắm, thò đầu vô quan sát. Bên trong phòng tắm nước tràn lênh láng, mấy chai dầu gội đầu, sữa tắm bị Hiệp làm ngã đổ tứ tung.
Bà Tú Lệ bước vào, cúi khom người vừa nhặt mấy thứ nằm lăn lóc dưới sàn vừa mắng:
- Con thiệt là hồ đồ…
Bàn tay bà vừa chạm tới cục xà phòng, chưa kịp nhặt lấy thì khựng lại vì sát cục xà phòng là một bàn chân nhỏ nhắn.
Bà ngước lên, Lam đã đứng ngay đó. Mắt cô long lên sòng sọc nhìn bà như muốn ăn tươi nuốt sống.
- Mầy… mầy…
Bà Tú Lệ ú ớ.
Bà lảo đảo suýt té, nhưng tay vớ được thành bồn tắm nên gượng lại được, vừa lấy lại thăng bằng thì bà không còn thấy Lam đâu nữa.
- Mẹ… mẹ ơi… Có phải mẹ đã trông thấy…
Hiệp lo lắng.
- Không… không…
Bà Tú Lệ chối. Bà không muốn làm con trai thêm sợ hãi.
Đêm đó, bà Tú Lệ thoáng nghĩ tới chuyện bán nhà.
 
***
 
Ông Hà đứng tần ngần trước cổng khu nhà trọ, thò tay vào túi áo lấy ra mảnh giấy nhỏ có ghi địa chỉ nơi ở của Lam xem lại một lần nữa cho chắc ăn rồi mới mạnh dạn đi vô.
- Nhà trọ gì mà vắng ngắt như chùa bà Đanh vầy nè trời?
Ông Hà lẩm bẩm. Nhìn quanh quất xung quanh không thấy ai để hỏi thăm, ông quyết định đi xăm xăm lên lầu tự mình tìm lấy. Trong lòng ông dâng lên một sự căm tức tột độ.
Đã mấy tháng qua, ông Hà không gởi vào cho Lam một đồng nào, đồng thời ông buột mẹ Lam viết rất nhiều thư kể lể về bệnh tình và nỗi nhớ thương mong đợi nó.
Lam là một đứa con gái nhút nhát và có hiếu. Nó thương yêu mẹ nó vô cùng. Lâu nay, ông Hà luôn tự tin rằng mình đã nắm chắc được Lam trong tay, mình biểu nó đi phía trái thì không bao giờ nó dám đi về phía phải.
Vậy mà bây giờ, vào Sài Gòn chưa bao lâu mà nó thay đổi quá nhiều, ông Hà tự trách mình đã mềm lòng nghe theo lời vợ cho nó đi học Đại học.
Lam đã dám phản kháng lại ông, ông không gởi tiền vào như là một hình phạt để nó phải hối hận quay về lạy lục khóc lóc và hứa sẽ ngoan ngoãn nghe theo ông. Vậy mà nó không quay về, thư mẹ nó gởi vô nó cũng chẳng hồi âm, nó không màng gì tới mẹ nó, tới tiền của ông nữa.
Ông Hà tức điên lên, thầm nghĩ:
- Chắc là vào Sài Gòn, nó đã được một thằng đàn ông nào bao bọc rồi, cho nó uống bùa mê thuốc lú gì rồi mới khiến nó thờ ơ với mẹ nó như vậy! Hừ… tao không dễ dàng gì mà buông tha mầy đâu con ạ, dù sao tao cũng đã tốn công tốn của nuôi dưỡng mầy bao nhiêu năm qua. Tao phải tìm cho bằng được mầy, lôi cổ mầy trở về quê, không có học hành gì nữa hết! Dẹp hết!
Mang nỗi ấm ức đó, ông Hà lên xe đò đi vô Sài Gòn tới trường tìm thì biết Lam đã nghỉ học mấy tuần nay, không ai biết cô ấy đang ở đâu.
Thất vọng não nề nhưng ông Hà không chịu bó tay. Sài Gòn mênh mông biết đâu mà kiếm Lam cho được? Ông la cà khắp các quán xá để tìm bắt thông tin. Cuối cùng rồi trời cũng thương, không ngờ chỉ vì một tai nạn nhỏ mà ông lần ra được manh mối này.
Hôm đó ông Hà đang lang thang trên đường gần trường Đại học thì bất ngờ một thằng nhóc chạy xe lạng quạng thế nào mà đụng phải ông.
Té ngã xuống đất, ông Hà tru tréo:
- Trời đất ơi, cậu hại tui rồi! Tui từ ngoài quê xa xôi vô đây đi tìm con gái, tìm chưa được con mà cậu đụng muốn gãy chân tui rồi, tui biết phải làm sao đây…?
Người đi đường bu lại đông nghẹt làm chàng thanh niên quýnh quáng. Anh ta vừa đỡ ông Hà lên xe vừa nói:
- Để con đưa bác vô bệnh viện, rồi có gì con đi tìm con gái giúp bác…
Ông Hà mừng rỡ, vì ở nơi xa lạ này có được một người một giúp thì tốt quá rồi. Ông khóc làm khó dễ gì người thanh niên nữa mà cứ khóc lóc kể lể:
- Nhà tui nghèo nhưng cũng ráng cho con ăn học. Vậy mà con gái tui vô trong này ham chơi đua đòi bỏ học đi đâu mất tích, mấy hôm nay tui tìm không ra… Trời ơi, vợ tui ở quê đang bệnh, bả mà nghe tin này chắc bả không sống nổi… Cậu ở trong này rành đường rành xá, nhờ cậu tìm nó giúp tui, tui đội ơn cậu nhiều lắm.
- Con gái bác tên gì? Học trường nào?
Người thanh niên hỏi.
- Nó tên Ngọc Lam, là sinh viên trường này nè!
Vừa nói ông Hà vừa chỉ tay vào khuôn viên trường Đại học bên cạnh. Chiếc xe gắn máy lảo đảo rồi ngừng lại, chàng thanh niên hấp tấp:
- Bác… bác có ảnh của cô ấy không? Hình như… hình như tên này con nghe quen quen…
Ông Hà mừng húm vội nói:
- Có! Có chứ! Nhưng mà… hình này nó chụp cũng hơi lâu rồi… cậu ráng nhìn thử xem…
Vừa nói ông Hà vừa lục bóp lấy ra tấm hình làm giấy nhỏ xíu Lam chụp từ hồi giữa năm học lớp mười hai. Chàng thanh niên chăm chú nhìn kỹ tấm ảnh, gật gù:
- Đúng rồi! Đúng là cô ấy rồi!
- Hả? Cậu biết nó sao? Thật sao cậu? Thiệt là quý hóa quá…
Ông Hà nhảy phốc xuống xe, hình như ông không còn nhớ gì tới cái chân đau khi nữa.
Chàng thanh niên gật đầu:
- Dạ, đúng là cháu biết cô này. Để cháu ghi lại cho bác địa chỉ nơi cổ ở trọ. Nhưng đây là địa chỉ của mấy tháng trước, giờ con không biết cổ có dọn đi chỗ khác không nghen!
- Tốt rồi! Tốt rồi! Được vậy là bác cảm ơn cháu nhiều lắm rồi! À, mà cháu tên gì vậy? Để bác biết mà liên lạc…
Ông Hà vui vẻ.
- Dạ, tên cháu là Khương. Cháu cũng là sinh viên trường này. Nếu có gì cần, bác cứ tìm cháu ở lớp K18. Đây là địa chỉ của cô Lam. Giờ bác lên xe cháu chở vô bệnh viện để cháu còn về đi học.
Khương – chàng thanh niên ấy là Khương, bạn của Minh và Lập – đưa mảnh giấy cho ông Hà và giục.
Ông Hà xua tay:
- Khỏi! Thôi khỏi, cháu cứ về lo học đi, bác thấy đỡ nhiều rồi, có gì để bác tự đi khám. Bác cám ơn cháu nhiều lắm.
- Có thật là bác thấy đỡ rồi không?
Khương nghi ngại hỏi.
- Thật mà! Bác đỡ rồi, cháu đừng lo. Thôi, cháu đi vô học đi!
Vừa nói ông Hà vừa dậm mạnh cái chân đau xuống đất để chứng minh cho Khương thấy mình đã ổn rồi.
Minh quay xe vào trường, không quên căn dặn:
- Có gì bác nhớ tìm gặp cháu nhé!
- Ừ, bác nhớ rồi!
Ông Hà hể hả nhìn theo.
Bây giờ thì ông đang đứng trước cửa phòng 409. Ông hơi lo vì không biết Lam có còn ở đây không. Chẳng có một bóng người để hỏi thăm, ông bèn mạnh dạn đưa tay lên gõ cửa phòng.
- Ai đó?
Có tiếng con gái hỏi vọng ra. Tuy chưa xác định được giọng nói đó có phải là của Lam không nhưng ông Hà vẫn mừng rơn trong dạ.
Ông nói lớn:
- Làm ơn cho hỏi thăm…
Chưa nói dứt câu, cánh cửa trước mặt ông Hà đã mở hé ra, và Lam, đúng là Lam thò đầu ra ngó.
Vừa trông thấy Lam, ông Hà nhanh tay xô cho cánh cửa mở rộng ra, ông nhào vào trong, vòng tay ra sau đóng cửa lại ông tiến tới dồn Lam vào sát chiếc giường trong góc nhà.
- Hừ… tao cứ tưởng mầy được một đại gia nào đó bảo bọc, sống sung sướng rồi nên không cần tới tao và mẹ mầy nữa, nhưng không ngờ mầy vẫn sống ở cái xó xỉnh mục nát này… Mày giỏi lắm con à!
Ông Hà gằn giọng.
Lam run lẩy vừa lùi dần vừa van vỉ:
- Ba… xin ba tha cho con… tha cho mẹ con
Ông Hà sấn tới tát tới tấp vào mặt Lam, vừa tát vừa nói:
- Tha này! Tha cho mầy này! Tha này!....
Lam té ngửa xuống giường, hai cánh tay cô giơ lên một cách bất lực. Ông Hà vẫn chưa nguôi giận, ông nhớ lại sự đau đớn mà lần gặp trước cô con gái này đã gây ra cho ông, ông cũng nhớ lại nỗi lo lắng thấp thỏm mấy tháng nay, ông muốn trút hết xuống cho nó tởn, cho từ nay nó không còn dám chống đối ông nữa.
Những cái tát nảy lửa giáng liên tiếp lên mặt Lam, bất chợt ông Hà cảm thấy bàn tay mình như tê dại. Ông nhìn lại, thì trời ơi, cái người đang nằm vật trên giường kia chỉ là một xác chết mà gương mặt đã rữa nát, lúc nhúc những dòi bọ, những con dòi mập ú trắng hếu đang bò nhột nhạt trên tay ông, ông Hà sợ hãi rãy tay liên tục nhưng vẫn không rũ bỏ được những con vật gớm ghiếc đó.
Ông Hà còn đang loay hoay gỡ bỏ mấy con dòi trên tay thì cái xác của Lam ngồi bật dậy, cười lên ha hả:
- Ba… ba thương con lắm mà, phải không ba? Ba rất muốn ôm hôn con, rất muốn giở trò đồi bại với con mà, phải không ba… Hôm nay con tình nguyện dâng hiến cho ba nè… Ba yêu con đi, yêu con đi ba! Ha ha ha…
Cái xác tiến dần tiến dần về phía ông Hà, hai cánh tay nó giơ ra như muốn ôm choàng lấy ông. Quá hoảng sợ, ông Hà chạy như một người điên, vừa chạy vừa la inh ỏi:
- Không… không…
Ông Hà cắm cổ chạy thục mạng, ra khỏi con hẻm ông đâm sầm vào một chiếc xe tải, té đập đầu xuống đất chết ngay tại chỗ. Tất cả những nhân chứng ở đó đều cho rằng người đàn ông này cố tình tự sát, vì cái cách ông ta lao vào xe như vậy, bất kỳ một tài xế nào cũng không thể thắng lại kịp.
 
***
 
Bà Nhật Tân thức giấc bởi tiếng chuông điện thoại vang lên inh ỏi.
- Ai mà gọi điện giờ này không biết!
Vừa lẩm bẩm bực mình, bà vừa nhấc máy lên, giọng khó chịu:
- A lô, ai gọi đó!
- Mẹ… mẹ ơi… con là Minh đây…
Nghe tiếng con trai, bà Nhật Tân tỉnh hẳn ngủ. Bà lo lắng hỏi:
- Có chuyện gì mà con gọi cho mẹ giờ này vậy con?
- Mẹ ơi… mẹ cho con về nhà đi… con muốn về nhà…
Ở đầu dây bên kia tiếng Minh rên rỉ.
Bà Nhật Tân hoảng hốt:
- Có chuyện gì? Có chuyện gì xảy ra cho con vậy?
Nhưng đáp lại lời bà chỉ là những “tút… tút…” xa xăm…
- Thằng Minh gọi điện về à?
Ông Nhật Tân cũng đã thức, đang đứng sau lưng bà lên tiếng hỏi.
- Ông ơi… không biết có chuyện gì xảy ra với con mình bên đó nữa, tự nhiên tôi linh cảm điều không lành…
Bà Nhật Tân mếu máo.
- Nó nói gì với bà?
Ông lo lắng hỏi.
- Nó không nói gì, chỉ mình cho nó được về nhà… Mà giọng nó nghe lạ lắm ông ơi… Tôi… tôi sợ quá… Hay ông gọi điện cho bạn ông bên đó, nhờ họ giúp đỡ đi….
Bà Nhật Tân lắc mạnh tay chồng hối thúc.
Ông Nhật Tân lặng lẽ ngồi xuống ghế, ôm đầu khổ sở nói:
- Chắc là tôi phải bay sang bên đó ngay bà ạ! Mấy hôm nay tôi giấu không dám cho bà biết chuyện này, sợ bà không chịu nổi…
- Chuyện gì vậy ông? Chuyện gì?
Bà Nhật Tân chồm lên hớt hãi.
Ông nắm chặt tay bà:
- Thằng Minh… nó ghiền xì ke, cách đây mấy hôm nó bị sốc thuốc tưởng chết, may mà người ta phát hiện đưa nó vào bệnh viên kịp lúc, nhưng vừa tỉnh lại là nó trốn mất. Tôi đã nhờ người quen bên đó đi lùng kiếm nó… Bây giờ, tôi nghĩ đích thân tôi phải qua đó đưa nó về thôi bà ạ!
Bà Nhật Tân sụp xuống khóc ròng.
Ông Nhật Tân thở dài:
- Tưởng đâu đưa nó đi du học là tạo dựng tương lai cho nó, có ngờ đâu lại hủy diệt cuộc đời nó…
Cả hai vợ chồng không ai ngủ được, nước mắt ngắn dài, bà Nhật Tân chỉ biết mong ngóng thời gian trôi qua thật nhanh để chồng bà mang trả lại cho bà đứa con trai yêu quý. Dù nó có đau bệnh thế nào, bà cũng sẽ chạy chữa cho nó khỏe mạnh mà, chỉ cần nó về bên cạnh bà thôi…
 
***
Người trong khu nhà trọ đã dọn đi hơn nửa, chỉ còn lại những hộ ở cách xa phòng 409 hoặc những hộ chưa tìm được nơi ở mới. Chính vì vậy, công việc làm ăn của các hàng quán trong khu đó cũng bị xuống dốc theo.
Cái quán cháo dưới đường là nơi đông đúc nhất vào các buổi chiều tối, vì giờ đó những người dân lao động đã về nhà sau một ngày làm lụng vất vả. Đàn ông con trai thì tụ tập ra đó để lai rai và ba xị rượu với dĩa phá lấu giá cả bình dân, các bà các cô thì mua cháo về mớm cho con, cho người già, người bệnh, không thì tụ lại đó để nói chuyện thiên hạ nghe chơi.
Vậy mà thời gian gần đây cái quán đó cũng trở nên lèo tèo, vắng vẻ. Người dân ít dám ra đường từ khi chạng vạng, quán chỉ còn bán được cho mấy người khách qua đường.
Tối nay cũng chẳng khá hơn, ông chủ quán tay cầm tờ báo ngồi ngủ gà ngủ gật cạnh quầy, trong quán chỉ có lác đác vài ba người sì sụp ăn uống.
- Hôm nay quán vắng khách quá anh há? Em nhớ lần trước mình đi ngang đây ghé vô ăn không còn chỗ mà ngồi…
Cô gái nói với anh bạn trai đi cùng.
Người con trai thầm thì ra vẻ bí mật:
- Anh nghe người ta đồn ở ngôi nhà trọ bên kia có ma, vì thế người dân ở đây dọn đi gần hết, số còn lại thì không dám ra đường ban đêm…
Cô gái rụt cổ sợ sệt:
- Ghê quá vậy? Có thật không anh, hay là anh định hù dọa em đấy?
- Không tin thì em hỏi cô bán hàng kia thử xem!
Chàng tai hất hàm về phía My.
Cô gái gọi:
- Em ơi, tới tính tiền đi em!
My õng ẹo bước tới, cô gái hỏi nhỏ:
- Em ơi, có phải nhà bên kia có ma, đúng không em?
My trề môi:
- Chị đừng có tin vào những lời đồn đại nhảm nhí đó! Em ở đây mà có thấy ma cỏ gì đâu? Chắc là do người ta cạnh tranh nhau nên tung tin vậy thôi chị ơi…
Cô gái quay sang véo mạnh vào tay chàng trai:
- Đó, anh nghe chưa? Đàn ông con trai gì mà tin dị đoan thấy ớn!
Chàng trai la lên oai oái:
- Ui da… thì anh cũng nghe sao kể lại vậy thôi mà…
Hai người trả tiền xong cười vui dắt nhau rời khỏi quán.
My vừa lau dọn bàn vừa hát nghêu ngao. Vừa ngước lên, cô thoáng giật mình khi thấy một người đứng sừng sững bên cạnh không nói lời nào, nhưng ngay lập tức cô lại mừng rỡ vì nhận ra đó chính là chàng trai sang trọng hào phóng lúc trước.
- A… anh! Hôm nay anh có cần em đưa cháo lên đó không ạ?
My đon đả.
Minh lắc đầu:
- Không, cô bán cho tôi tô cháo nóng, tôi sẽ tự mang lên.
My nhoài người qua cửa sổ nhìn về hướng đầu hẻm tò mò hỏi:
- Hôm nay anh có lái chiếc xe đẹp đó tới đây không?
Minh lại lắc đầu:
- Không! Tôi đi bộ tới.
My nhún vai vẻ không tin.
- Tiền đây, khỏi thối lại!
Minh đón lấy tô cháo nóng và đặt vào tay cô gái tờ giấy một trăm ngàn mới cáu cạnh.
My mừng quýnh:
- Dạ, cảm ơn anh, cảm ơn anh nhiều lắm!
Minh không nói gì, lặng lẽ bưng tô cháo đi về phòng 409.
- Cộc… cộc… cộc…
Minh gõ nhè nhẹ lên cánh cửa gỗ cũ mèm. Không lâu sau cửa hé mở, Lam tròn mắt ngạc nhiên khi nhìn thấy Minh, cô nghẹn ngào không nói nên lời.
- Em khỏe không? Anh mua cháo nóng lên cho em đây. Em vẫn thích ăn cháo nóng vào buổi tối mà, đúng không?
Minh đặt tô cháo lên bàn, ân cần nói.
Lam im lặng hồi lâu mới hỏi:
- Anh về khi nào?
- Anh vừa về tới là đến gặp em ngay.
Minh nhẹ nhàng cầm lấy tay Lam.
Lam cúi mặt hỏi nhỏ:
- Rồi bao giờ anh lại đi?
- Anh không đi đâu nữa, anh sẽ ở mãi bên em! Lam à… anh sẽ ở lại bên em, mãi mãi… em có cho phép anh không?
Minh tha thiết nhìn Lam như cầu khẩn.
Lam quay đi tránh ánh mắt của Minh:
- Anh không sợ ba mẹ anh nổi giận sao?
- Không! Bây giờ thì anh không sợ nữa rồi! Anh không quan tâm ba mẹ có giận không, anh chỉ muốn được ở cạnh bên em…
Minh quỳ xuống, nhìn chăm chăm vào mắt Lam:
- Em có biết không, những ngày qua anh đã sống khốn khổ vô cùng! Khi xa em, anh mới biết lòng mình đã thật sự yêu em… Đây là tình yêu đầu tiên trong đời anh đó Lam à… Bây giờ thì anh hiểu tình yêu là gì rồi, trước nay anh lao vào các cô gái, anh gọi đó là tình yêu nhưng không phải….
Lam rưng rưng nước mắt, cô đặt nhẹ tay lên vai Minh thầm thì:
- Anh Minh… em cũng yêu anh nhiều lắm! Người ta… ai cũng muốn xua đuổi em đi, nhưng em nhất quyết không rời khỏi chỗ này, vì em vẫn hy vọng có ngày anh trở lại tìm em… Anh sẽ ở mãi bên em, thật như vậy, phải không anh?
Minh siết chặt tay Lam:
- Lần này anh nói thật, mãi mãi mình sẽ sống bên nhau…
Một thoáng phân vân, Lam đột ngột hỏi:
- Anh có thể sống mãi bên em mà không quan hệ tình dục không?
Minh ngỡ ngàng nhìn Lam, nhưng rồi anh cũng gật đầu:
- Dĩ nhiên là được!
Lam cười thật tươi:
- Vậy là tốt rồi!
Liên tiếp nhiều ngày trôi qua, Minh Lam sống với nhau thật hạnh phúc. Những người dân ở gần đó đêm đêm không còn nghe thấy tiếng kêu la rên khóc nữa, thay vào đó, thỉnh thoảng họ lại nghe thấy những tiếng hát, tiếng cười nói vui vẻ.
Dù sao thì tiếng hát, tiếng cười cũng làm người ta dễ chịu và đỡ sợ hơn tiếng rên rỉ khóc than. Người ta bắt đầu chú ý tới một chàng trai cứ thỉnh thoảng lại ra ra vào vào phòng 409.
Tất cả mọi người đều thắc mắc không biết chàng trai đó là ai, từ đâu đến. Bà Tú Lệ chủ nhà nhớ có một lần hình như người con trai đó đi về cùng với Ngọc Lam. Vậy họ là bạn với nhau, nhưng chàng trai sao lại cứ ở lì trong căn phòng ma quái ấy nhỉ? Ai cũng thắc mắc và lo sợ giùm, nhưng không ai dám hỏi han hay khuyên bảo gì cả, họ sợ làm phật ý con ma nữ kia thì khó mà sống sót được.
Nhưng ai cũng công nhận rằng, từ hôm có chàng trai tới đây, con ma nữ đó hình như đã hiền lành trở lại, không còn xuất hiện chỗ này chỗ khác để nhát người ta.
Chính vì vậy, bà Tú Lệ cũng làm ngơ, không hỏi han làm khó gì người thanh niên xa lạ đó.
Minh giật mình dậy thấy bên mình trống trơn, chắc có lẽ Lam đã đến trường học rồi. Anh đứng lên, tiện tay sắp xếp lại mấy cuốn sách vất lung tung trên bàn rồi đi xuống đất ghé vào tiệm uốn tóc của chị em nhà Liên Ú.
Đó là hai chị em sinh đôi mang cùng một cái tên, Liên chị và Liên em, nhưng ở đây không ai gọi thế, họ cứ Liên Ú mà réo gọi, mặc kệ chị hay em gì lên tiếng cũng được.
Cả hai chị em làm nghề uốn tóc trang điểm, nhưng thân hình hai cô lại không được thẫm mỹ chút nào, người nào người nấy núc na núc ních, giống như một khối thịt khổng lồ mang dáng dấp con người vậy.
Tuy mập mạp vậy nhưng cả hai đều khéo tay ít ai bì kịp. Là tiệm uốn tóc bình dân ở trong khu lao động nghèo, nhưng so với các tiệm lớn ngoài mặt đường, hai cô cũng chẳng thua kém.
Từ hồi dân ở đây bỏ đi bớt, hai cô thường hay rỗi việc nên ngày càng mập ra thêm.
- Chị ơi, làm ơn gội đầu giúp tôi với!
Đang ngủ gà ngủ gật, Liên chị giật mình khi nghe tiếng đàn ông nói nhỏ nhẹ. Cô ta bật dậy:
- Dạ… xin mời quý khách vào đây ạ! Chúng tôi sẽ phục vụ ngay…
Hai chị em xoắn xít chăm lo cho khách, vừa làm vừa liến thoắng nói chuyện:
- Anh chắc không phải là người ở khu này? Tôi chưa thấy anh lần nào?
- Dạ, tôi chỉ tới đây thăm bạn.
Minh thờ ơ đáp.
- Hèn gì trông anh lạ lắm. Mà bạn anh ở phòng nào thế?
Liên chị hỏi:
- Ở phòng 409.
Minh nói.
Liên em dừng tay xả nước, trố mắt nhìn rồi chợt cười xòa:
- Anh cũng thật biết nói đùa! Mà anh gan dạ thiệt đó nghen! Ở đây bây giờ người ta kiêng cử không ai dám nhắc tới số phòng đó hết, vậy mà anh dám đem ra đùa giỡn, anh không sợ sao?
- Sao lại sợ?
Minh ngạc nhiên.
Liên em nhỏ giọng:
- Vậy là anh chưa nghe bạn anh kể lại sao? Ở trong căn phòng đó có một con ma nữ rất đáng sợ, biết bao nhiêu thầy bùa thầy pháp được chủ nhà rước tới để trừ mà có ai làm gì được nó đâu? Anh thấy đó, dân ở đây sợ quá nên lần lượt dọn đi hết rồi.
- Hai cô vẫn còn ở đây, hai cô không sợ à?
Minh hỏi.
- Sợ chứ anh! Nhưng ngặt nỗi tụi tui chưa tìm được chỗ ở, thành ra phải nấn ná lại, chứ còn làm ăn gì được chỗ này.
Liên chị thở dài thườn thượt.
- Tiền đây. Cảm ơn hai cô!
Minh đưa tiền trả cho chủ tiệm rồi đi nhanh ra cửa.
Liên chị hỏi với theo:
- Anh ở phòng nào thế?
- 409!
Minh trả lời mà không quay lại.
Hai chị em Liên Ú nhìn nhau sợ xanh mặt, không biết người thanh niên đó nói thiệt hay giỡn chơi.
Minh về phòng, Lam vẫn chưa về. Anh cảm thấy đầu váng vất khó chịu, chắc là lại tới cơn đói thuốc rồi đây.
Minh do dự một lát rồi nhấc điện thoại lên bấm số gọi về nhà ba mẹ mình. Sau những hồi chuông dài, cuối cùng bên kia cũng có người nhấc máy.
- A lô, xin hỏi cần gặp ai?
Tiếng ông Nhật Tân vang lên.
Minh ấp úng:
- Ba… con… con là Minh đây!
Tiếng ông Nhật Tân ngạc nhiên:
- Cậu nói sao? Cậu là Minh à? Minh nào?
Minh run run:
- Con là Nhật Minh, con trai của ba đây!
Có tiếng ông Nhật Tân cười như khóc bên kia:
- Ha ha ha… cậu muốn đùa cợt trên nỗi đau của người khác, hay đây là một trò lừa đảo ma mãnh? Nhưng dù là gì đi nữa thì cũng chấm dứt đi!
Minh buồn bã nghe tiếng dập máy giận dữ. Anh nhắm mắt lại, hai dòng lệ lăn dài ra hai bên khóe mắt.
Minh mệt mỏi ngã lưng xuống giường, mắt hoa lên không còn nhìn rõ mọi vật xung quanh nữa.
Đang mơ mơ màng màng, Minh nghe một tiếng “cạch” rất lớn vang lên bên cạnh rồi như có một vật gì nặng nề rơi xuống sàn nhà.
Cố gắng dụi mắt nhìn kỹ xung quanh, Minh phát hiện cánh cửa tủ cạnh giường mở toang và ngay dưới sàn nhà cạnh đó là một khối gì trắng trắng, dài dài, trông giống như một người nằm trong vải liệm.
Cái khối trắng ấy đột ngột ngồi lên, rồi từ từ hiện ra một gương mặt, đúng rồi, đó là gương mặt của Lam nhưng nó lúc nhúc đầy những dòi bọ, hai hốc mắt trũng sâu vô kinh khiếp.
Minh ngồi bật dậy, chưa kịp hoàn hồn thì nghe một giọng nói nhỏ nhẹ vang lên bên tai:
- Anh! Có chuyện gì vậy anh?
Minh dụi mắt lần nữa, thấy Lam đang ngồi cạnh bên, miệng mỉm cười, trên tay còn cầm mấy cuốn tập.
- Anh… anh vừa nằm mơ thấy ác mộng…
Minh ấp úng.
Lam cười:
- Anh thấy sao?
- Anh thấy ma… Thấy em là ma… Vì lúc sáng anh xuống dưới nhà gội đầu, nghe hai cô chủ kể chuyện ma trong căn phòng này nên khi ngủ anh tưởng tượng ra đó thôi…
Minh vuốt ve bàn tay Lam và nói.
Lam ấn Minh nằm xuống, dịu dàng bảo:
- Anh ngủ tiếp chút nữa đi, để em xuống đất mua cái gì đó lên làm cơm, khi nào cơm chín em sẽ gọi anh dậy, nhé?
Minh gật đầu mỉm cười.
Lam nhẹ nhàng ra ngoài khép cửa lại.
- Cộc… cộc… cộc…
Tiếng gõ cửa nhẹ nhẹ vang lên, Liên chị mừng rỡ giục em:
- Có khách tới kìa, mau ra mở cửa đi, tao đã nói rồi, ngủ trưa thì ngủ đóng cửa làm gì, mất khách hết!
Liên em vừa đi vừa cằn nhằn:
- Mở cửa cả buổi không ma nào tới, vừa mới đóng cửa lại có người kêu, thiệt là… Á… á… á…
Lời càm ràm chưa dứt đã chuyển thành tiếng thét kinh hoàng khiến Liên chị làm rơi ly nước đang uống đất vỡ loảng xoảng.
Liên em vừa đi thụt lùi vô trong vừa chỉ tay ra cửa:
- Ma… ma… ma…
Liên chị nạt:
- Mầy đừng có hù chết tao đó nghe không, ma gì giờ này mà ma, có mầy mớ ngủ thì có!
Vừa nói Liên chị vừa đi ra cửa nhìn quanh quất, cả dãy hành lang vắng ngắt không một bóng người, cô quay vào nạt em:
- Mầy thấy chưa, có gi…i…i………..
Liên em thấy chị đang mắng mình tự nhiên như người bị trời trồng miệng cứ há ra mà không có tiếng nào, mắt thì nhìn trừng trừng vào bên trong, đầy vẻ kinh hoàng.
Ngạc nhiên, Liên em quay người lại, và lập tức cô cũng rơi vào tình trạng giống y như Liên chị, vì trước mắt hai chị em lúc này, rõ ràng có một người con gái đang ngồi trên ghế cắt tóc, xoay lưng về phía hai người, nhưng gương mặt cô ta lại hiện rõ trong tấm gương lớn trước mặt.
Lam, đó đúng là Lam, cô gái đã chết, mà cũng chính là hồn ma làm điên đảo cả khu này thời gian gần đây!
Hai chị em Liên Ú cứ đứng trơ ra không kêu lên được tiếng nào. Lam cho chiếc ghế xoay một vòng để đối diện với chị em Liên.
- Đừng lo bàn chuyện người khác, hãy nhớ đấy nhé! Lo cho bản thân mình trước đi!
Lam gằn giọng rồi bật lên một tràng cười làm chị em Liên Ú nổi da gà. Tràng cười chưa dứt thì Lam đã biến mất, hai chị em Liên ôm chầm lấy nhau kêu khóc váng cả nhà.
Sáng hôm sau, hai chi em Liên Ú hấp tấp thu dọn đồ đạc chuyển đi, đúng với câu “đi như bị ma đuổi”. Bà Tú Lệ buồn bã đứng nhìn theo chiếc xe tải chở đủ thứ đồ đạc lỉnh kỉnh mà không nói được tiếng nào.
 
***
- Anh đi đâu thế, Minh?
Lam rời mắt khỏi trang sách, cất tiếng hỏi khi thấy Minh mặc áo đi ra cửa.
- Anh xuống dưới mua cháo cho em.
Minh trả lời.
Lam mỉm cười, tiếp tục cúi nhìn vào cuốn sách đang mở ra trước mắt.
Minh lững thững xuống thang lầu. Quán cháo tối nay vắng vẻ quá, không có lấy một người khách nào. Ông chủ quán đang gà gật trên chiếc ghế xích, còn My ngồi chống tay trên cằm ngó mông ra đường buồn bã.
- Bán cho tôi tô cháo!
Minh nói khẽ.
Nhận ra Minh, My vui hẳn lên, cô đứng phắt dậy, không đến múc cháo như thường lệ mà kéo tay Minh ra ngoài nói nhỏ:
- Nãy giờ em đang mong người tới giúp, may quá, anh lại đến thật đúng lúc. Anh làm ơn giúp em chuyện này nha anh!
Giọng My đầy vẻ nũng nịu.
- Cô cần tôi giúp gì?
Minh hỏi.
- Anh đi theo em rồi sẽ biết!
My tự nhiên nắm tay Minh kéo đi nhanh vào căn nhà kho cạnh đó. Căn nhà trống rỗng, chỉ lác đác một vài thứ vật dụng, bàn ghế hư hỏng không còn sử dụng được nwxa, được ông chủ tiệm cháo đem bỏ vào đây. Phòng cũng chẳng có đèn, hay do My cố tình không bật điện, nó chỉ sáng mờ mờ nhờ ánh đèn bên ngoài chiếu vào.
My nũng nịu:
- Ông chủ bắt em đi tìm tấm thớt, mà em không dám đi một mình… anh giúp em với…
Kéo Minh vào hẳn bên trong nhà kho, My dùng chân khép cánh cửa lại, trong nhà tối thui không còn nhìn được gì hết.
- Tìm mà không có đèn thì làm sao tìm được?
Minh hỏi.
My cười khúc khích:
- Không có đèn mà tìm được mới tài chứ anh!
Hai cánh tay My vẫn bấu chặt vào Minh.
-        Á… con chuột!
My hét lên nho nhỏ rồi nhảy lên ôm chầm lấy Minh, bờ môi nóng bỏng của My kề sát vào môi Minh, khong chút ngần ngại, My bắt đầu hôn Minh tới tấp…
Khi Minh trở lên tới phòng thì đã khuya lắm rồi. Lam khong còn học bài nữa nhưng cô vẫn chưa đi ngủ. Thấy minh về, Lam cũng không ngước nhìn lên mà chỉ buông ra một câu hỏi lạnh lùng:
- Cháo đâu anh?
- Ơ… tiệm đóng cửa rồi… anh đi loanh quanh không thấy chỗ nào bán…
Minh ấp úng.
Thấy Lam vẫn ngồi lặng lẽ, Minh hơi chột dạ, anh bước tới gần và hỏi:
- Em có đói không, anh nấu mì cho em nhé?
Lam lắc đầu:
- Không, tự nhiên em thèm ăn cháo! Thôi, để em đi mua…
- Em… để anh đi cho…
Minh cản.
Lam nhìn thoáng qua Minh, mỉm cười khó hiểu:
- Anh không biết chỗ bán đâu. Anh cứ ở nhà, em xuống dưới rồi trở lên ngay mà!
Nói xong Lam đi nhanh ra cửa. Minh ngã vật xuống giường lòng đầy ân hận…
My đóng cửa xong, vừa quay lưng vào nhà thì nghe tiếng gọi:
- Còn cháo không, làm ơn bán cho một ít.
Hơi bực mình vì người nào tới mua vào lúc khuya khoắc thế này, nhưng My không từ chối, vì giờ này ông chủ đi ngủ rồi, tiền bán được cô sẽ bỏ túi riêng của mình, tuy một tô cháo không là bao nhưng tích tiểu sẽ thành đại mà, My luôn tham lam tính toán chi li như thế.
- Chờ chút, ra ngay!
Vừa nói, my vừa hé cửa. Bên ngoài là một cô gái lạ mà My chưa biết mặt. Chắc có lẽ là người thân của ai ở khu này mới tới chơi. Thầm nghĩ vậy nên My cũng không thắc mắc, chỉ hỏi:
- Chị mua cháo trắng à?
- Ừ!
Người con gái gật đầu. Khi trao bịt cháo cho cô gái, My thoáng rùng mình khi chạm phải ánh nhìn sáng rực kỳ lạ của chị ta. Nhưng cô gái vừa nhận lấy bịt cháo đã quay người đi ngay, My cũng thôi không thắc mắc gì thêm nữa. Hôm nay lòng My đang vui lắm.
Cuối cùng thì ah chàng công tử nhà giàu kia cũng đã sập bẫy mà My giăng ra. Giờ đây My đã là người của anh ta rồi, sẽ từng bước, từng bước, My chiếm lấy cái địa vị sang cả, chiếm lấy cái chỗ ngồi trên chiếc xe lộng lẫy hôm nào My tình cờ trông thấy.
- Hãy đợi đấy!
My nói một mình và vui vẻ vào phòng ngủ.
Về tới phòng, thấy minh đang nằm thiêm thiếp trên giường, Lam lặng lẽ đổ cháo ra tô bưng tới để trên bàn cạnh đó, rồi nhẹ nhàng ngồi xuống cạnh Minh.
Lam bắt đầu ve vuốt từ cánh tay đến ngón tay Minh một cách yêu thương trìu mến. Nhưng đột ngột, nhanh như chớp, Lam đã trói ghì được tay chân Minh vào giường.
- Em làm gì thế?
Minh sợ hãi hỏi.
Lam âu yếm hôn lên má Minh, khẽ bảo:
- Em thích được yêu anh bằng cách này. Anh hãy ngoan ngoãn nhé!
Vừa nói, Lam vừa lần tay mở từng nút áo của Minh, rồi cô cởi cả chiếc quần Minh đang mặc.
- Em… em làm gì thế?
Lam không ngừng vuốt ve thân thể Minh, cô cười mơn trớn:
- Có phải anh luôn thích những gì nóng bỏng, đúng không anh?
Minh nhắm mắt lại mỉm cười. Thì ra Lam cũng biết cách làm cho người ta tò mò, hưng phấn. Nhưng rồi Minh hoảng hốt khi nghe Lam cười nói:
- Cái này cũng nóng bỏng lắm nè anh… Cháo mới múc trong nồi ra, nóng lắm đó, rồi anh sẽ thích lắm đây…
- Lam… em… đừng… đừng… Lam ơi!
Minh sợ hãi van xin.
- Ha ha ha… anh thích nóng bỏng thì em chìu anh đây! Này thì nóng bỏng này… này thì thích này…
Lam cười thật to, vừa cười vừa nghiêng cái tô trút cháo nóng xuống vùng hạ bộ của Minh mặc cho Minh kêu la vang trời…
Những căn hộ lấn cận bị dựng dậy bởi tiếng la hét kêu cứu của Minh, nhưng ai nấy chỉ biết đóng chặt cửa lại cố thủ trong nhà mình, không ai dám bước ra ngoài nói gì đến chuyện đi giải thoát đó người khác.
Chỉ có bà Tú Lệ là khác, bà không muốn cái tiếng la kia đánh động nhiều người, bà sợ sáng ngày mai sẽ có thêm một vài gia đình khác dọn đi nữa. Chính vì vậy, bà lay gọi thằng con đang ngủ, hai mẹ con dắt nhau chạy lên thập thò ở chỗ cầu thang.
Cả dãy hành lang sáng rực do bà Tú Lệ bật hết mấy ngọn đèn, nhưng không có bóng người nào, chỉ có tiếng la, tiếng thét, tiếng kêu cứu không ngừng phát ra từ phòng 409.
Không biết làm gì hơn, bà Tú Lệ kéo tay con vừa định quay xuống nhà thì đột ngột cánh cửa phòng 409 bật mở ra, từ bên trong chàng thanh niên lạ mấy hôm nay thường ra vào phòng đó xuất hiện, mà không phải xuất hiện một cách bình thường. Anh ta nằm dài dưới đất, hai chân bị trói chặt, hai cánh tay cũng bị trói quặt ra sau lưng. Anh ta vừa trườn người về phía cầu thang vừa rên rỉ:
- Cứu tôi với… cứu tôi với….
Hai mẹ con bà Tú Lệ còn đang lúng túng chưa biết tính sao, Hịêp nửa muốn chạy tới cứu anh ta, nửa lại sợ con ma đổ máu hôm rồi, thì ngay lúc đó, cả người chàng trai như bị ai đó kéo ngược từ phía sau, và anh ta cứ trôi vùn vụt vào phòng, cánh cửa phòng đóng lại vang lên tiếng “ầm” làm bà Tú Lệ giật thót người, vội vã kéo con trai chạy ào xuống dưới.
Vẫn chưa hoàng hồn, bà Tú Lệ ngồi bệt xuống sàn nhà thở dốc, Hiệp thì đứng ngây ra như kẻ mất hồn.
Một lúc sau, Hiệp thất thểu ngồi xuống bên mẹ nói nhỏ:
- Sáng mai con phải đi thôi mẹ ơi, con sợ quá rồi, con không thể ở lại cái nhà này lâu hơn được nữa…
Hiệp nói chưa dứt lời, ông Thái đang nằm trên giường tung mền ngồi dậy, hấp tấp hỏi:
- Hiệp! Con đi đâu vậy? Con… con có thể cho ba đi theo con… được không con? Con cho ba đi theo với, đi đâu cũng được mà… Ba không dám ở lại đây nữa, ba sợ lắm con ơi…
- Ba… ba cũng…
Hiệp ấp úng.
Bà tú Lệ tròn mắt nhìn chồng:
- Bây giờ ngay cả ông cũng muốn rời bỏ tôi nữa sao, ông Thái?
- Không phải tôi muốn rời bỏ bà… Là tôi sợ… tôi quá sợ hãi… Nếu tôi còn ở lại đây, không chừng ngày mai ngày kia tôi sẽ trở thành một kẻ loạn trí, chừng đó tôi càng làm khổ bà thêm thôi. Bà biết mà, tôi nhút nhát, tôi đâu được cái gan dạ như bà… Bà hãy cho phép tôi được đi theo thằng Hịêp đi…
Ông Thái vừa nói vừa khóc nghều ngào.
Bà Tú Lệ ôm đầu ngã lăn ra đất, hai chân giãy lên đành đạch:
- Trời đất ơi ngó xuống mà coi! Tui lao tâm khổ trí để gìn giữ cái nhà này, tui giữ gìn nó cho ai đây chứ? Tất cả là cho chồng, cho con… Chứ riêng bản thân tui, tui có ăn uống bao nhiêu đâu, tiêu xài bao nhiêu đâu? Vậy mà trong những giờ phút khốn khó này, cả chồng cả con tui đều kiếm đường mà trốn hết, bỏ mặc tui xoay xở thế nào kệ xác tui… Trời ơi là trời… sao cái thân tui nó khốn khổ đến như vậy!
Hiệp quỳ xuống bên mẹ, đỡ bà dậy:
- Mẹ! Mẹ đừng có như vậy nữa mà! Hơn lúc nào hết, lúc này cả nhà ta phải thật bình tỉnh để tìm cách gỡ rối, mẹ mà cứ như thế này hoài thì mọi việc càng phức tạp thêm thôi…
Bà Tú Lệ khóc rống lên:
- Con bảo mẹ phải làm sao đây? Cả hai cha con đều muốn bỏ đi, còn lại một mình mẹ biết tính sao đây?
Hiệp đắn đo một chút rồi nói:
- Mẹ… con thấy… hay là mẹ với ba cũng nên tạm lánh đi nơi nào đó một thời gian, chờ cho mọi việc lắng dịu xuống rồi sẽ quay về… Hay là… hay là ba mẹ với quê đi, lâu rồi mình cũng chưa về thăm quê…
Ông Thái tán đồng:
- Con mình nó nói đúng đó bà. Tui với bà cùng đi đi…
Bà Tú Lệ nghẹn ngào:
- Bộ ông tưởng tui không biết sợ sao? Tui cũng là con người mà chứ có phải là gỗ đá gì đâu… Tui cũng biết đi khỏi nơi đây là sẽ được nhẹ thân, được ăn ngon ngủ yên, không phải phập phồng lo sợ… Nhưng tui không đi là vì sao? Là vì ông, vì thằng Hiệp, vì cái gia đình này nè! Tui là chủ nhà mà bỏ đi, thì lập tức nhữn người còn lại cũng sẽ dọn đi ngay tức khắc… rồi thì chúng ta sẽ phải sống sao đây?
Ông Thái buồn rầu:
- Tui biết chứ sao không biết! Nhưng bà ạ, con người ta đều có số mạng, mình không làm được việc này thì cũng sẽ có việc khác để làm, ông trời không đẩy mình vào tuyệt lộ đâu bà ơi…
Hiệp tán đồng:
- Ba con nói đúng đó mẹ, mình không cho thuê nhà trọ được nữa thì làm chuyện khác… Có sao đâu mẹ!
Bà Tú Lệ lại rống lên:
- Trời ơi… mấy người nói nghe sao dễ dàng quá vậy? Mấy người cứ thử làm ra tiền đi rồi sẽ biết… Từ hồi nào tới giờ chỉ một mình tui đứng mũi chịu sào, cha con mấy người chỉ biết há mồm ra, xòe tay ra nhận lấy mà thôi, đâu biết tui phải tính toán, đã phải nghĩ trăm phương ngàn kế để luồn lách, để bon chen mới có thể tạo cho cha con ông được cuộc sống vinh thân phì da như vậy. Cha con ông nhìn lại đi, người nào cũng to cũng béo, chỉ có tui là ốm o gầy mòn thôi….
Ông Thái biết tính vợ, mỗi khi đã tức giận là nói chuyện đổ nùi, không sao nói lý lẽ được. Ông ngao ngán lủi thủi vào phòng thu dọn đồ đạc, ông đã quyết rồi, ông không thể sống tiếp ở đây được nữa. Thằng Hịêp không cho ông đi theo thì ông sẽ về quê, dẫu sao ở đó ông cũng còn anh em họ hàng, mà ai cũng yêu mến ông chứ không coi thường, khinh rẻ ông như bà Tú Lệ.
Bà Tú Lệ đang vật vã, bỗng tiếng chuông điện thoại reo vang làm cả nhà hoảng hốt.
Hiệp run run nhấc máy:
- A lô…
- Xin lỗi, có phải nhà bà Tú Lệ không?
Người phía bên hỏi.
- Dạ, đúng rồi ạ! Bác cần gặp mẹ con ạ?
Vừa nói, Hiệp vừa trao điện thoại cho mẹ.
Bà Tú Lệ lo lắng:
- A lô… trời! Sư Thiện Chiếu! Tôi mừng quá, mấy hôm nay tôi trông sư như trời hạn trông mưa… Nhà tôi đang lâm vào đại nạn rồi sư ơi, chỉ có sư mới có thể cứu được gia đình tôi thôi…
Bà Tú Lệ vừa khóc mếu vừa kể lể với nhà sư Thiện Chiếu. Đến lúc bà gác điện thoại thì mặt bà đã bừng sáng lên những tia hy vọng.
- Mình sắp được cứu rồi con ơi! Ngay sáng ngày mai sư Thiện Chiếu sẽ có mặt ở đây…
Bà mừng rỡ báo tin cho Hiệp biết.
Ông Thái từ trong buồng nói vọng ra:
- Bà đừng đặt lòng tin quá! Đã biết bao người tới rồi, có ăn thua gì đâu, thêm một sư Thiện Chiếu chưa chắc êm xuôi mọi việc.
Bà Tú Lệ đờ người ra một lúc rồi nói:
- Mặc kệ! Tui cứ hy vọng… Tui tin vào tài năng và đức độ của nhà sư này… Tui vẫn thường nghe người ta nói câu “đức trọng quỷ thần kinh”, mà đức độ của sư Thiện Chiếu thì không phải nghi ngờ gì nữa…
Thường ngày ông Thái rất sợ bà Tú Lệ, không bao giờ dám mỉa mai bà, nhưng hôm nay không biết sao tự nhiên ông lại buông ra một câu làm bà nóng máu:
- Bà biết vậy sao không ráng ăn ở cho có đức để quỷ ma nó sợ…
Bà Tú Lệ chồm lên:
- Hả? Ông nói sao? Ông dám nói với tui câu đó hả?
Hiệp can:
- Thôi đi! Bây giờ là lúc nào mà hai người còn cự cãi nhau được chứ? Cái nhà này không cần ma quỷ thì cũng đủ loạn lên rồi! Thiệt là chán hết sức… Con muốn bỏ nhà đi tu luôn quá…
Nghe Hịêp nói vậy, bà Tú Lệ hơi sợ nên không làm dữ nữa, nhưng bà vẫn nhìn ông chồng bằng ánh mắt căm hờn, hậm hực.
 
***
- Hôm nay mầy đi đâu mà dậy sớm vậy My?
Ông chủ tiệm cháo ngạc nhiên khi thấy mới sáng sớm mà My đã áo quần tươm tất. Quán bắt đầu mở cửa vào lúc xế trưa, nên thường thì My ngủ tới bảy, tám giờ mới dậy.
My là đứa cháu họ xa, được cha mẹ nó gởi gắm lên ở phụ việc cho ông để kiếm tiền phụ giúp gia đình. Ban đầu ông cũng thương nó lắm, nhưng càng về sau ông càng không thích, vì tính tình My lẳng lơ, lại tham lam một cách thái quá.
Ông dự định tháng sau mẹ nó lên thăm sẽ nói khéo để trả nó trở về. Ông sợ nuôi nó trong nhà, lỡ nó bầu bì với ai rồi thì mình mang tai tiếng, vì ông là đàn ông độc thân, vợ ông chết từ lâu, mấy đứa con đều đã lớn và có gia đình riêng biệt hết rồi.
- Con đi có công việc!
My trả lời gọn lỏn rồi đi nhanh ra cửa, ông già nhìn theo lắc đầu than thở:
- Con gái thời nay thiệt hết còn biết phép tắc là gì!
Suốt đêm qua My cứ trằn trọc hoài không sao ngủ được. My biết anh chàng công tử con nhà giàu đó chắc đã có người yêu, nhưng dù sao anh ta cũng đã gần gũi với My rồi, nếu không cưới My về làm vợ được thì ít nhất cũng xem My là một cô nhân tình bé bỏng đáng yêu, và phải chu cấp cho My những thứ mà My đòi hỏi chứ!
Vì nghĩ thế cho nên sáng nay My dậy sớm lên lầu tìm anh ta để rủ anh đi dạo, My sẽ kêu anh về nhà lấy chiếc xe đẹp lộng lẫy hôm rồi, My sẽ ngồi chễm chệ trên đó mà nhìn thiên hạ…
- Cốc…  cốc… cốc… Có ai trong nhà không?
My lên tiếng hỏi. Không có tiếng trả lời nhưng My nghe hình như có tiếng rên rỉ nho nhỏ bên trong.
Xô thử thì thấy cửa không khóa, My mừng rở lách mình vào. Cô dừng lại ở cửa một lúc cho mắt quen dần với không gian tối tăm trong trong phòng.
Một lúc sau, nhìn thấy chàng trai nằm một trên giường, My thích quá chạy ào tới.
- Anh…
Vừa sà xuống ngồi cạnh bên chàng trai, My hoảng hốt khi nhận ra hai chàng trai bị trói chặt vào thành giường, miệng chàng thều thào:
- Cứu… cứu tôi với…
- Anh… sao anh lại…
My run rẩy hất tung chiếc mền đang đắp trên người chàng trai, cô suýt ngã ngửa vì cảnh tượng kinh hoàng đang diễn ra trước mắt: Hai cẳng chân chàng trai đã bị cưa đứt lìa để nằm bên cạnh, máu từ trong vết thương vẫn ri rỉ chảy ra.
- Cứu… làm ơn cứu tôi với…
Minh thều thào.
My đè tay lên ngực để cố lấy bình tỉnh, lòng tham trong lòng cô lúc này lại nổi lên mãnh liệt. My biết, trong lúc hiểm nguy này, nếu mình cứu mạng anh ta, anh ta và gia đình sẽ mang ơn mình, sẽ đền bù cho mình xứng đáng.
Nghĩ thế nên My không màng gì tới nguy hiểm nữa, cô vội vã quỳ xuống cố gỡ sợi dây trói tay Minh.
- Cô buông ngay ra!
Một giọng nói sắc lạnh vang lên làm My giật nảy người, quay nhìn lại, My thấy cô gái tối qua tới mua cháo khuya ở tiệm đang đứng đó.
- Chị ơi, giúp em với…
My nói chưa hết câu, cô bàng hoàng nhận thấy gương mặt cô gái kia đã biến dạng, giờ đây nó giống như một chiếc sọ người trắng hếu với mái tóc lất phất ngang vai. Nhưng từ trong hái cái hố mắt sâu hoắm kia vẫn ánh lên một tia lửa hận thù, dù không còn tròng mắt nữa.
- Mầy thích người này, đúng không?
Bóng ma tiến dần tới chỗ My ngồi, gằn từng tiếng một.
My ấp úng:
- Không… không…
- Ha ha ha… Không… không à? Mầy bảo mầy không, thế tại sao mầy lại bày cách để quyến dụ người ta? Mầy giỏi lắm… Tao sẽ cho mầy nếm mùi cay đắng ở đời…
Lam chộp vai My, cất lên một tràng cười ma quái.
- Hãy buông tha cho cô ấy! Lam ơi… em hãy buông tha cho cô ấy…
Minh cố thu hết sức lực để can ngăn.
- Ha ha ha… Tha cho cô này…
Lam cười lớn rồi lập tức bóng dáng cô tan biến, cùng lúc My ngã vật ra đất, mắt trợn trừng.
My từ từ ngồi dậy, vừa cười vừa cầm lấy cây cưa đến ngồi chiếc ghế chỗ bàn học ung dung đặt cưa lên chiếc đùi trắng nõn, mịn màng của mình…
 
***
 
- A! Sư Thiện Chiếu đã tới rồi!
Bà Tú Lệ mừng run khi thấy bóng áo cà sa của sư Thiện Chiếu trước cổng nhà.
Sau mấy câu chào hỏi ngắn gọn, sư Thiện Chiếu yêu cầu:
- Bần tăng muốn lên ngay trên đó, đang có việc nguy hiểm xảy ra, cần phải cứu người!
Bà Tú Lệ, Hiệp, ông Thái cùng một vài người nữa đi theo nhà sư cùng hai đệ tử của ông lên ngay phòng 409.
Vừa lên hết thang lầu đã nghe tiếng cười ma quái vọng ra từ căn phòng u ám đó.
Chỉ một cái phất tay nhẹ nhàng của nhà sư, cánh cửa phòng lập tức mở ra, phơi bày trước mắt mọi người cảnh tượng một cô gái đang vừa cười tươi, vừa nhịp nhàng đẩy lưỡi cưa để cắt lìa chân mình.
- Hãy giữ tay cô ấy lại!
Sư Thiện Chiếu ra lệnh.
Một vị đệ tử chạy tới, lấy một lá bùa nhỏ dán nhang vào mặt My, cô giãy giụa không ngừng, cái cưa văng xuống đất, và My cùng với vị đệ tử vật nhau kịch liệt.
Một đệ tử khác của sư Thiện Chiếu thì đến bên giường, trùm vội một tấm vải vàng có thêu chữ Vạn lên người Minh, Minh khẽ co giật mấy cái liên tiếp rồi nằm im không nhúc nhích nữa.
Riêng sư Thiện Chiếu, ông khẩn trương đi tới mở cánh cửa tủ cạnh giường, trong đó là cái xác chết của Lam đã được quấn chặt bằng vải liệm.
Nhà sư một tay lần tràng hạt, miệng lâm râm niệm phật, một tay cầm một lá bùa lớn màu đỏ thủ thế để dán cho được chỗ giữa trán của xác chết. Nhưng hình như từ trong cái chết trông như bất động ấy có một sữ mạnh rất mãnh liệt, cứ đẩy bàn tay sư Thiện Chiếu ra xa. Cuộc chiến đấu của nhà sư và cái xác chết xem ra còn vất vả, cam go hơn giữa vị đệ tử và My ngoài kia rất nhiều.
Hai mắt sư Thiện Chiếu nhắm nghiền, mồ hôi tuôn ra đẫm ướt lưng áo, trên đỉnh đầu nhà sư hình như có một làn khói mỏng mảnh bốc lên, giống như những người đang luyện công trong phim kiếm hiệp.
Thật lâu sau, nhà sư bất ngờ hô lên một tiếng thật lớn, rồi bàn tay cầm lá bùa nhanh như chớp dán đúng ngay giữa ấn đường của xác chết.
- Hú…….u…..u….u…….
Một tiếng hú dài thê thảm vang lên, cái xác ngã ầm ra sàn nhà. Ở bên ngoài, My cũng ngã ra bất tỉnh.
- Đưa cô gái này đi băng bó vết thương, nhanh lên!
Vị đệ tử ra lệnh cho Hiệp đang lóng ngóng đứng một bên nãy giờ.
Hiệp vội vã dìu My xuống đất, My vẫn còn bất tỉnh, máu từ chân cô vẫn không ngừng chảy ra xối xả.
- Phải đem cái xác này về chùa để hỏa táng, nếu không nó sẽ quay trở lại.
Sư Thiện Chiếu nói xong, ra lệnh cho đệ tử khiêng xác chết xuống dưới nhà.
Bà Tú Lệ đã gọi sẵn một chiếc xe chờ ngoài đầu hẻm. Xác chết được đặt ở thùng xe, do hai vị đệ tử canh giữ, trên trán xác chết phấp phới lá bùa đỏ chót.
Ngồi cạnh tài xế là sư Thịên Chiếu và bà Tú Lệ. Suốt từ lúc lên xe, nhà sư không nói gì, chỉ lim dim mắt, tay lần tràng hạt và miệng thì lầm rầm niệm phật.
Bà Tú Lệ như cất được gánh nặng ngàn cân. Rồi đây bà sẽ làm mọi cách để khu nhà trọ của bà sẽ lại đông vui nhữ cũ. Người ta rồi cũng quên đi những chuyện khủng khiếp vừa rồi.
Bà rất muốn nói lời cảm ơn sư Thiện Chiếu nhưng sư cứ như vậy nên bà không sao mở lời được. Nhưng thôi, chuyện đó để từ từ. Chốc lát nữa đây, cái xác chết tiệt kia sẽ được hỏa táng, con ma nữ hung tợn kia sẽ không còn đường mà quay lại quấy phá bà nữa.
Đang mơ màng trong niềm vui khôn tả, bà Tú Lệ và nhà sư đồng giật mình vì tiếng la thất thanh của hai đệ tử phía sau:
- Sư phụ ơi, lá bùa bị bay mất rồi!
Sư Thiện Chiếu rụng rời ra lệnh:
- Cho xe dừng lại ngay!
Chiếc xe không những không dừng lại mà còn tăng tốc chạy nhanh hơn nữa. Sư ngạc nhiên nhìn lại tài xế thì mới tá hoả, người ngồi ôm vô lăng chính là con ma nữ đáng sợ kia!
Chiếc xe lao như tên bắn trên đường, nó cứ chạy mãi mãi, chạy mãi và cuối cùng đâm sầm vào một chiếc xe tải lớn đang dừng phía trước. Nhưng thật lạ lùng, người tài xế, nhà sư và hai đệ tử không hề bị chút thương tích nào, chỉ có bà Tú Lệ là bị thương nặng do đầu bị va đập vào thành xe, phải đưa vào bệnh viên cấp cứu.
Sư Thiện Chiếu buồn bã chắp tay:
- Mô phật… bần tăng biết hồn không muốn hại chết người vô tội. Nhưng xin hồn hãy theo bần tăng về nơi cửa phật. Cõi đời ta bà dẫy đầy tội ác, nhưng luật trời vay trả rõ ràng, xin hồn đừng vì chút riêng tư mà gây nên những điều trái với lẽ tự nhiên của trời đất… Bần tăng biết hồn không phải là người có bản chất hung hăng độc ác, chỉ bởi vì lúc còn sống, hồn đã phải chịu đựng quá nhiều bất công, quá nhiều đắng cay khổ ải, chính những điều đó đã dồn ép hồn, đưa đẩy hồn đi vào con đường lầm lạc này… hồn muốn phản kháng lại cuộc đời, hồn muốn đòi lại sự công bằng, muốn trừng trị những kẻ đã từng gây ra đau khổ cho hồn lúc trước… Nhưng, đáng lẽ hồn không phải nặng lòng vì những điều đó. Cuộc đời này coi vậy mà rất công bằng, gieo nhân nào sẽ gặt về quả ấy thôi, kẻ ác rồi sẽ phải chịu sự trừng trị, nhưng không phải bằng cách mà hồn đã làm, nó trái với quy luật của tạo hóa. Và vô tình, những điều mà hồn gây ra hôm nay, sẽ đeo đẳng theo hồn ở kiếp tái sinh, oan oan tương báo biết khi nào mới chấm dứt được? Bần tăng chỉ có bấy nhiêu lời để hồn suy xét lại. Bần tăng cũng sẽ không tìm cách để khống chế hồn nữa. Bất cứ khi nào, khi hồn ăn năn sám hối thì hãy tìm gặp bần tăng. Đời là bể khổ, quay đầu là bờ… Xin hồn hãy nhớ cho điều đó… Mô phật!
Sư Thiện Chiếu nói xong, tiến đến bên chiếc xe tải, lấy từ trong chiếc túi vải đeo bên mình ra một xâu chuỗi nhỏ, nhà sư lặng lẽ đặt xâu chuỗi lên cái xác chết được quấn bằng chiếc ra trải giường đang nằm bất động.
Một luồng gió mạnh thổi tạt ngang qua chỗ nhà sư đứng, rồi tất cả trở lại bình thường, cái xác chết phía sau xe biến đi mất tích.
 
***
 
My nhăn mặt đau đớn khi xức thuốc vào vết thương. Cô không sao nhớ được lý do nào mình lại bị thương như vậy. Cô chỉ nhớ mỗi một chuyện, khi cô vào căn phòng đó thấy Minh đang bị nạn, cô muốn cứu Minh thì bất ngờ cô gái ma kia xuất hiện.
Từ lâu nay My nghe người ta nói mãi về con ma nữ ở phòng 409, nhưng cô không tin chút nào, không ngờ tất cả đều là sự thật. Mà ớn nhất là con ma đó đã có lần tìm tới đây đối diện với My.
Mà thôi, dẫu sao thì bây giờ nó cũng đã bị khống chế rồi, thái bình trở lại với khu nhà trọ này rồi. My thấy việc cần kiếp trước mắt là cứu chữa cho Minh.
Dù chân đau đớn, My vẫn cố đi cà nhắc lên tận trên tầng bốn để tìm Minh. Cô hết sức thắc mắc, không hiểu sao người ta bỏ mặc Minh nằm đây, không ai chịu đưa anh đi nhà thương, hay chí ít cũng xem qua tình trạng anh thế nào. Mọi người làm như không có sự hiện diện ở đây vậy!
Thôi, vậy cũng tốt, vậy thì mọi công cán đều thuộc về mỗi một mình My, càng đáng quý hơn nữa, lo gì!
- Anh Minh! Anh tỉnh dậy đi, em là My, My của anh nè! Anh có nghe em nói gì không? Tỉnh dậy đi anh! Anh mở mắt ra mà nhìn em đi anh… Em sẽ không để anh chết đâu, em sẽ cứu anh, chúng ta sẽ cùng nhau rời khỏi cái chỗ quỷ quái này, nghe anh?
Minh vẫn nằm im không động đậy, hơi thở của anh nặng nề đứt quãng. My biết tình trạng của Minh là nguy kịch lắm rồi, nếu không được cấp cứu kịp thời có thể không giữ được tính mạng cho Minh.
- Làm sao bây giờ? Làm sao để cứu Minh đây? Mình không có tiền để đưa Minh vào bệnh viện… Hay là nhờ người khác giúp đỡ? Ai đâu… sẽ chẳng có ai giúp đỡ cho Mình và mình đâu, người ta ai cũng ích kỷ, họ đâu khi nào chịu bỏ ra một số tiền dù lớn dù nhỏ đế cứu một người xa lạ như Minh… Minh bị như vầy mà họ còn mặc nữa là… Cũng may, cũng may là vết thương của anh ấy không chảy nhiều máu, nếu không chắc anh đã chết từ lâu rồi… Bây giờ mình phải làm sao đây? Phải làm gì đây?
My ôm đầu nghĩ ngợi. Ở cái thành phố này, ngoài ông chủ quán cháo ra, My đâu có quen biết thân thuộc với người nào nữa. Mà cái ông chủ quán keo kiệt đó thì đừng hòng, ổng chẳng bao giờ chịu giúp đâu…
Trong đầu My một ý nghĩ thoáng vụt qua:
- Phải tìm cho được địa chỉ nhà hoặc số điện thoại của người trong gia đình Minh! Đúng rồi, chỉ có vậy thôi mà mình không nghĩ ra, mình đúng là đứa ngu ngốc thật!
My hí hửng kéo tuột chiếc mền đang đắp trên người Minh, sờ soạng vào các túi áo, túi quần của Minh để tìm kiếm, trong lòng cô thầm van vái:
- Cầu trời mình tìm được số điện thoại nhà anh ấy, chắc gia đình sẽ mang ơn mình nhiều lắm vì nhờ có mình mà con trai của họ mới được cứu chữa kịp thời… Mà mấy nhà giàu có thường ít con lắm, hổng chừng anh Minh đây là con một cũng nên… Kỳ này mình trúng số độc đắc rồi…
My háo hức với cái ý nghĩ đó. Là một cô gái trẻ nhưng lúc nào trong đầu My cũng nghĩ đến chuyện phải ngoi lên khỏi tầng lớp nghèo hèn trong xã hội bằng bất cứ giá nào.
Và My cảm thấy mình đã được ông trời ưu ái khi tình cờ gặp gỡ và quen biết với Minh, rồi những biến cố xảy ra, mặc dù bản thân cũng bị thương nhưng không sao, chính nhờ vết thương này trên thân thể cô mà giá trị của My sẽ càng được nâng lên cao hơn nữa!
Minh vẫn nằm mê man trên giường. My lục túi anh tìm được một chiếc ví. Mừng rỡ,  My moi hết giấy tờ tiền bạc trong bóp ra và tìm thấy một số điện thoại. Cô lập tức đi cà nhắc tới bên chiếc điện thoại và bấm số.
- A lô, xin hỏi ai gọi đến?
Bên kia đầu dây có tiếng người đàn ông hỏi.
My lúng túng:
- Dạ… xin cho hỏi, đây có phải là nhà của ba mẹ anh Minh không ạ?
Bên kia im lặng một chút, rồi có tiếng nói:
- Đúng rồi! Cô cần gặp ai?
My mừng quýnh, cô lắp bắp:
- Dạ… con… con là bạn của anh Minh… Hiện nay… hiện nay con đang ở cùng với ảnh. Anh Minh hiện đang bệnh rất nặng… Xin bác… bác có thể cho người tới đón anh Minh được không ạ?
My tưởng tượng người ở đầu dây bên kia sẽ rối rít hỏi thăm, nhưng trái lại, bên đó im lăng thật lâu, khiến cô sốt ruột:
- A lô, bác có còn đó không ạ?
- Vâng, tôi đây!
Tiếng người đàn ông điềm đạm trả lời.
- Thế sao bác… anh Minh…
My ấp úng.
- Tôi không biết cô là ai, và tôi cũng thắc mắc vô cùng. Hôm trước có một người gọi đến tự xưng là thằng Minh con tôi, rồi hôm nay cô lại gọi tới xưng là bạn của nó, đang sống chung với nó… Nhưng, cô có biết không, thằng Minh con trai tôi đã chết cách đây một tháng rồi, chết ở tận bên Anh quốc. Tôi không biết cô và những người khác muốn mạo danh thằng con trai tôi nhằm mục đích gì, nhưng tôi xin nói rõ một lần cuối cùng cho cô được biết, chúng tôi không bao giờ, không bao giờ lọt vào bẫy của các cô cậu đâu nhé! Dù sao tôi cũng đã lớn bằng tuổi cha ông của các người, chúng tôi đã lăn lộn trong thương trường bao nhiêu năm qua rồi cô ạ, không dễ gì mà lừa được chúng tôi bằng cái trò trẻ con đó! Còn nếu các cô cậu làm vậy chỉ nhằm mục đích mua vui, thì tôi xin, tôi xin các người hãy dừng lại. Gia đình tôi đã mất mát quá nhiều, đau đớn quá nhiều từ khi thằng Minh mất, xin các người đừng cười cợt trên nỗi bất hạnh của người khác, không hay tí nào đâu…
My bủn rủn buông rơi chiếc diện thoại. Cô không tin, không thể nào tin được những lời nói của người đàn ông kia là sự thật!
My cố gắng lê bước tới gần giường Minh nằm. Đầu Minh đang ngoẻo qua một bên, My đưa tay sửa lại, bỗng cô té ngồi xuống đất vì phát hiện ra cái vật thể nằm trên giường kia là một xác chết đã trương phình!
My vừa bò vừa lết ra khỏi phòng. Nghe tiếng kêu la của My, người ta chạy vội đến, cô ấp úng kể lại mọi chuyện nhưng khi vào nhà trên giường không có một ai, chỉ có chiếc mền nằm vắt nửa trên nửa dưới.
My cứ suốt ngày lảm nhảm những chuyện không đâu, cô luôn luôn tỏ ra sợ hãi cùng cực. Ông chủ quán cháo phải đưa My vào viện tâm thần và lập tức nhắn tin về quê cho gia đình My biết.
 
***
 
- Cộc… cộc… cộc…
Có tiếng gõ cửa rụt rè, Lam ngạc nhiên hé cửa nhìn ra ngoài. Dưới đất, bên ngoài cánh cửa là một chậu cà bi rất đẹp, những trái cà bé xíu đeo lủng lẳng trên cây.
Lam quỳ xuống nâng chậu cà bằng cả hai tay.
- Chúc mừng sinh nhật em!
Một giọng nói trầm ấm vang lên, Lam giật mình nhìn sang bên thì thấy Minh đang ngồi lết dưới đất, hai cẳng chân anh đã không còn!
Nước mắt Lam trào ra, Lam chạy đến, sà xuống cạnh Minh đỡ anh dậy và nói:
- Anh Minh, hãy tha lỗi cho em!
Minh cười, lắc đầu:
- Không, anh mới là người cần được em tha lỗi…
- Anh nhớ hôm nay là sinh nhật em sao?
Lam nhìn chậu cà rồi nhìn Minh âu yếm.
- Nhớ chứ, vì anh đã nói rồi, em là mối tình đầu của anh, là mối tình duy nhất của anh, Lam à. Em có tin điều đó không?
Minh siết chặt tay Lam.
Lam ngã đầu lên vai Minh:
- Em tin, giờ thì em đã tin lắm rồi, anh ạ!
- Anh hy vọng kiếp sau chúng mình sẽ được ở bên nhau…
Minh mơ màng.
Lam ngồi bật dậy:
- Em biết rồi, em biết nếu muốn ở bên nhau, mình phải làm gì rồi.
- Làm gì hở em?
Minh ngạc nhiên.
Một tay cầm chậu cà, một tay Lam dìu Minh bay lên và nói:
- Sư Thiện Chiếu đã dặn em, khi nào muốn siêu thoát đầu thai thì đến gặp sư… mình đi nghe anh?
- Ừ, cả hai chúng mình sẽ gặp sư để sám hối, và để đầu thai kiếp khác, Lam nhe?
Cả khu nhà trọ hôm đó vô cùng ngạc nhiên khi nghe thấy một điệu nhạc du dương vang lên trong nắng.
Từ sau ngày sư Thiện Chiếu về đây bắt ma, tuy nghe nói đã bị thất bại vì trên đường đi lá bùa yểm ma của nhà sư bị bay mất, con yêu quay trở lại làm cho bà Tú Lệ phải đi nhà thương cấp cứu, nhưng rồi bà cũng qua khỏi và mọi việc ở khu nhà trọ cũng bình thường trở lại, không thấy con yêu nữ phá rối gì, nhưng tất cả mọi người đều có linh cảm hồn ma đó vẫn còn lảng vảng ở đây, chưa chịu rời xa.
Ông Thái, chồng bà Tú Lệ trong một lần lai rai với bạn bè ở quán cháo đã khề khà nhận xét:
- Tui công nhận mình nhát gan, hễ nghe nhắc tới con ma nữ đó là tui muốn vãi cả ra quần… Nhưng mấy ông nghĩ lại coi, nó chưa từng làm hại người lương thiện… Bà nhà tui bị nó chơi cho vố đó là nhằm cảnh cáo bả thôi. Bả tham lam độc ác quá mà… Mà nè, tui nói nhỏ với mấy ông nghe, không ai được mách lẻo lại với bà vợ sư tử Hà Đông của tui à, ai mà mách là tui chối phăng, chừng đó bả sẽ cho rằng mấy đặt điều vu khống, bả chửi thì ráng mà nghe…
Mọi người cười ồ lên.
Một người hỏi:
- Ông nói chuyện gì mà coi bộ quan trọng dữ vậy?
Ông Thái liếc mắt ra ngoài ngó chừng rồi hạ thấp giọng, thì thầm:
- Tui nghĩ, cái chết của con nhỏ đó một phần là do sự quá quắt của bà vợ tui. Nó thiếu tiền nhà thì để từ từ nó trả, bả cứ mắng chửi, đuổi xô con người ta, nó bí quá, không còn đường lui tới nên… tự tử chết mẹ nó cho rồi! Tui nói vậy, mấy người tính coi phải không?
- Ha ha ha… cái ông này hôm nay uống nhằm mật gấu rồi hay sao mà dám lên án bà vợ mình vậy trời?
Mấy người đàn ông trong bàn nhậu cười rầm rầm, chọc quê ông Thái. Cái tính sợ vợ của ông đã nổi tiếng mấy chục năm nay rồi, tự dưng hôm nay đổi khác nên mọi người ai cũng thắc mắc.
- Mà tui công nhận nghen, con ma nữ đó trị bà nhà ông hay thiệt đó! Từ cái bữa ở nhà thương xuất viện về, bả như người khác vậy. Bả hiền hơn nè, ít nói hơn nè, bà con lối xóm quanh đây cũng đỡ phải tốn tiền mua bông gòn nhét lỗ tai mỗi lúc bả la bẩ hét!
Một người phụ nữ ngồi gần đó xen vào.
Người khác phụ hoạ:
- Ừ, tui cũng thấy vậy! Nhưng hổng biết bả ăn ăn hối cải thiệt tình, hay tại lúc này hồn vía bả vẫn còn thất kinh nên mới vậy, mai mốt bình tĩnh lại bả dữ hơn gấp mấy lần có mà ông Thái chết sớm…
- Ha ha ha…
Những câu nói đùa, những tiếng cười vui lại bắt đầu trở về với khu nhà trọ. Những người dân lao động nghèo ở đó dần dần cũng không ai tỏ ra sợ hãi quá mức khi nghe nói tới con yêu nữ bất trị kia.
Hết.
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:57:18 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 20:13:52
BÓNG MA TRONG NGHĨA ĐỊA
 
Khoa là thầy giáo mới ra trường vừa được tuyển dụng về dạy ở một ngôi trường nhỏ vùng ven thành phố.
Vì nhà xa, nên ngay ngày đầu tiên về nhận nhiệm sở, Khoa đã nhờ mấy thầy hướng dẫm tìm mướn một căn nhà vì trường không có cư xá dành cho giáo viên.
Sau gần một buổi đi loanh quanh, Khoa vẫn chưa tìm được nơi ưng ý. Bởi vì nơi Khoa ứng ý căn nhà thì giá cả lại quá cao, đồng lương giáo viên mới ra trường của Khoa không thể nào trang trải nỗi. Còn nơi giá cả phù hợp với túi tiền thì Khoa lại không thích vì nơi đó ồn ào, hỗn tạp.
Thấy Khoa ủ rũ ngồi chống tay lên cằm ngó mông ra xa, cô Thùy cười bảo:
- Nè, chị biết có một chỗ rất yên tĩnh, lại khá an ninh, chỗ đó người dân cũng hiền lành nên có thể hợp với em, mà giá cả cũng tương đối rẻ, có điều hơi xa một chút. Em liệu coi có thể ở được không?
Khoa mừng rỡ hỏi tới:
- Chỗ đó là ở đâu vậy chị? Cách đây bao xa?
Cô Thùy cười:
- Nếu em đi theo đường lớn hẳn hoi thì hơi xa, độ chừng bốn, năm cây số lận. Nhưng vừa rồi thanh phố thực hiện giải tỏa khu nghĩa địa X để làm khu công xưởng, nhà máy gì đó. Em đi tắt qua lối đó thì gần lắm, chỉ hơn một cây số thôi.
Khoa mừng rỡ:
- Vậy là được rồi! Chị ơi, vậy chút nữa em chở đi, chị chỉ đường giùm em nhe, em chưa biết đường đi ở địa phương này. Chị chỉ cho em đi đường lớn và cả đường tắt luôn nghen chị?
- Ừ, ngồi đó chờ đi, dạy xong tiết này chị sẽ đi với em!
Cô Thùy đứng lên xách cặp xuống lớp. Khoa ngồi một mình trong phòng gái viên mà nôn nao chờ kiếm được nơi ở mới cho mình.
Dạy xong tiết đó, Thùy dẫn Khoa đi tìm nhà trọ.
Bận đi, hai chị em đi theo đường lớn. Phải qua thật nhiều ngã tư, ngã ba và nhiều ngã rẽ khác nữa mới tới được khu phố có căn nhà cho thuê mà Thùy đề cập tới.
Thật tình Khoa đã hơi nao lòng khi thấy đoạn đường xa quá, như vậy mỗi ngày anh phải mất nhiều thời gian để đi về, lại không thuận tiện. Vì những khi trống một, hai tiết thì Khoa cũng không thể về nhà để soạn bài hay nghỉ ngơi gì được.
Nhưng ngôi nhà thì thật lý tưởng.
Đây là nhà của một người bà con xa với bạn cô Thùy. Nhà chỉ có một bà cụ đã ngoài sau mươi tuổi nên các con bà không yên tâm để bà sống một mình, mới bàn nhau bán ngôi nhà và đón bà vào Sài Gòn để sinh sống.
Bà cụ quyết liệt phản đối việc bán nhà. Bà bảo nếu muốn bán thì chờ khi bà chết đi rồi ai muốn làm sao thì làm, bây giờ bà còn sống, bà không cho phép các con bán đi ngôi nhà chất chứa biết bao kỷ niệm vui buồn của cả một đời bà.
Chìu theo bà cụ nên các con bà vẫn giữ nguyên ngôi nhà đó, và nhờ bạn cô Thùy xem có ai đàng hoàng tử tế cần thì cho họ trọ với giá rẻ, để có người ra vô cho cửa nhà ấm cúng.
Căn nhà thật rộng rãi, ngăn nắp và thoáng mát. Xung quanh có vườn cây ăn trái bao bọc, tỏa bóng mát quanh năm. Đây quả là nơi lý tưởng cho một thầy giáo có nghề tay trái là viết lách như Khoa. Mà giá cả lại vô cùng rẻ, còn rẻ hơn cả những phòng trọ phải ở chung đụng bốn, năm người.
- Đã có nhiều người hỏi mướn, nhưng chủ nhà cho mướn không phải vì tiền nên rất khó tính, họ không muốn những người không đàng hoàng ở trong ngôi nhà của họ.
Cô Thùy nói.
Khoa lo lắng:
- Thế thì… lỡ họ cũng không chấp nhận cho em thuê thì sao chị?
Thùy cười tươi:
- Không đâu, em yên tâm đi! Miễn là em ở đây đừng bày nhậu nhẹt hay những điều xằng bậy gì đó thôi, chứ chỉ cần nói em là thầy giáo thì học sẽ gật đầu ngay thôi. Nếu em chịu ở chỗ này thì lát nữa chị ghé nhà bạn nói cho nó biết, nó sẽ điện vào Sài Gòn hỏi ý kiến chủ nhà. Kết quả ra sao sáng mai chị sẽ cho em biết liền. À, tối nay hình như em về nghỉ tạm ở nhà thầy Phong phải không?
Khoa gật đầu:
- Dạ, lúc nãy thầy Phong có dặn em, chưa tìm được chỗ trọ thì về ở nhà thầy tạm ít hôm. Đồ đạc của em cũng đã đem về nhà thầy hết rồi.
- Ừ, vậy cũng tốt! Sao, em thấy chỗ này được không?
Cô Thùy nheo mắt nhìn Khoa hỏi.
Khoa cười tươi:
- Quá được rồi chứ còn đòi hỏi gì nữa chị… Chỉ có điều thiệt là hơi xa…
Thùy cười cười:
- Chị hỏi thiệt, em có sợ ma không?
Khoa ngạc nhiên ngó cô Thùy rồi bật cười:
- Sao chị lại hỏi em câu đó? Em không biết sợ là gì đâu chị ơi!
Cô Thùy vỗ vai Khoa nói:
- Vậy là được rồi! Đi theo chị, chuyến về mình đi theo đường tắt đi ngang qua nghĩa địa sẽ rất gần mà!
Lúc chưa giải toả, xung quanh nghĩa địa được bao bọc bằng một tường rào cao quá đầu người nên không ai có thể đi tắt qua con đường bên kia được.
Nhưng từ lúc thực hiện giải tỏa, bức tường đã được đập bỏ đi rồi, mọi người tha hồ qua lại để thu ngắn quãng đường.
Do có nhiều người qua lại và các ngôi mộ cũng đã được bốc lên di dời đi gần hết nên trong nghĩa địa hình thành một lối mòn rất lớn.
Nói là lối mòn thế thôi chứ thật sự đó cũng là một lối đi trải sỏi sạch sẽ, chỉ do không được chăm sóc quan tâm nên lâu ngày nó thành ra hoang phế cỏ dại mọc đầy, khi người ta đi qua, cỏ bị dẫm đạp và lại hiện ra cái lối đi lâu ngày nằm khuất lấp dưới lớp cỏ cao.
Trong khu đất rộng mênh mông đầy những hốc đất do các ngôi mộ đã di dời, còn lại rải rác chừng vài chụ mộ vẫn còn nằm trơ ra đó. Có lẽ đó là những ngôi mộ vô chủ, hoặc thân nhân họ ở xa không hay tin và kịp thời lệnh bốc dỡ.
Tất cả các ngôi mộ còn lại sẽ tiếp tục được giữ thêm một thời gian nữa, nếu vẫn không có thân nhân thì nghe nói sẽ được san bằng toàn bộ.
Con đường mòn không thẳng một đường mà uốn éo lượn lờ qua lại vòng sâu vào giữa khu nghĩa địa hoang tàn.
- Ở đây đi vào ban ngày thì không có vấn đề gì, nhưng vào lúc đêm hôm thì hơi ngại đấy em à! Vì khu vực này hoàn toàn không cò đèn đường, mồ mả lung tung, ai sợ ma thì sợ, còn không sợ ma thì cũng sợ các thành phần bất hảo thường tụ tập lại đây để xì ke, ma túy…
Vừa đi cô Thùy vừa nói.
Khoa mỉm cười:
- Dạ, chị yên tâm đi, em nghĩ em sẽ không đi đâu ban đêm đâu. Mà nếu lỡ có đi đêm thì em sẽ chịu khó đi đường vòng cho an toàn vậy, chị nhé?
- Ừ, ừ… con trai còn trẻ mà biết lo xa vậy là tốt đó nghe em!
Chị Thùy vỗ vào lưng Khoa khen ngợi.
Trong lòng Khoa lúc này thật sự vui mừng. Vì con đường tắt này dài độ chừng một cây số, rất tiện cho việc đi lại của Khoa mỗi ngày đến trường học.
Khoa không sợ gì mồ mả, ma quái, có sợ chăng là sợ các tay quậy quạng như chị Thùy vừa cảnh báo.
Thế là yên tâm rồi! Cầu trời cho chủ nhà bằng lòng để mình thuê căn nhà đó, thật thích thú biết bao. Thời buổi này làm gì kiếm được một căn nhà tiện nghi, thoải mái đến thế mà giá thuê lại rẻ như bèo? Mình quả là may mắn!
- Chị Thùy ơi, chị ráng nói giúp giùm em với bạn chị nhe, em thích ngôi nhà đó quá rồi…
Khoa năn nỉ.
Cô Thùy cười:
- Biết rồi! Em yên tâm đi, bây giờ em có thể nắm chắc chín mươi phần trăm rồi đó, vì chị với chị ấy là chỗ thân tình mà, em lại là đồng nghịêp cùng trường với chị, làm sao mà chị ấy không vị tình được chứ?
Tối hôm đó, Khoa nghỉ tạm ở nhà thầy Phong mà lòng cứ nôn nao chờ sáng để biết tin tức từ cô Thùy.
Vì vậy nên sáng hôm sau mặc dù không giờ lên lớp, Khoa vẫn thay quần áo tươm tất và vào trường thật sớm.
Cô Thùy vừa dựng xe, vừa cười toe toét nói với Khoa:
- Trưa nay em phải khao chị bữa cơm đó nhe! Bà chủ đồng ý rồi đó!
Khoa mừng rỡ:
- Vậy hả chị? Trời ơi, em mừng quá, có khao chị suốt cả tuần cũng đáng mà! Trưa nay chị dạy xong là tiết mấy để em đón?
Cô Thùy cười:
- Nói giỡn chơi với em thôi chứ ai lại đòi một chú nhóc mới ra trường chưa cố được đồng lương nào dẫn đi ăn chứ? Thôi, chị ghi sổ để đó, chờ đến lúc em nhận tháng lương đầu tiên đã.
Rồi như sực nhớ ra, cô Thùy hỏi:
- Sáng nay em không có giờ dạy phải không? Vậy em có thể dọn tới đó ở luôn được rồi đó! Để chị đưa chìa khóa cho em, bạn chị đã giao quyền “giám sát” lại cho chị rồi nè!
Vừa nói cô Thùy vừa lục cặp lấy đưa cho Khoa một chùm chìa khóa nhỏ và nói:
- Em cứ tra thử chìa nào vừa thì mở, bạn chị cũng chẳng nhớ chìa nào cửa nào đâu, tại lâu rồi nó cũng đâu có lên thăm.
- Em cảm ơn chị thật nhiều! Nếu không có chị, chắc hôm nay em phải dọn tới cái xóm lao động ồn ào, phức tạp đằng kia để ở rồi quá, vì chỉ có nơi đó là giá thuê tương đối thấp, còn các chỗ khác thì… hì hì… đồng lương của em không thể nào với tới nổi!
Khoa nhận lấy chìa khóa, nhìn cô Thùy với vẻ biết ơn chân thành.
Cô Thúy trừng mắt:
- Không được nói chuyện ơn huệ gì nữa nghe không? Mình là đồng nghịêp, là chị em có gì giúp được thì giúp lẫn nhau thôi, em không nên nói thế…
Thùng… thùng… thùng!
Tiếng trống vang lên báo hiệu giờ học bắt đầu. Cô Thùy vội vã xách cặp đi xuống lớp:
- Chị đi dạy nhe, em coi dọn đồ đạc rồi nghỉ ngơi cho khỏe. Mai bắt đầu dạy rồi phải không?
Khoa gật đầu và đứng nhìn theo cái dáng vẻ vội vàng của người chị mới quen nhưng thật gần gũi và đáng kính.
Sau khi xin phép vợ chồng thầy Phong, Khoa vác chiếc va li to đùng để lên xe rồi rồ ga chạy một mạch về hướng nghĩa trang, đi tắt qua nơi sẽ ở trọ.
Buổi sáng, không khí nơi này thật trong lành, mặc dù nó là nghĩa trang, nó vừa bị đào xới lên để người ta dời mộ, nhưng Khoa vẫn cảm giác được sự tinh khiết trong lành của những giọt nắng sớm đang vương khắp lối đi.
Tiếng chim hót líu lo trên ngọn cây khiến lòng Khoa bất chợt nghe cảm xúc dâng trào…
Vừa chạy xe, Khoa vừa đưa mắt nhìn lướt khắp nơi và hình dung ra quang cảnh lúc nơi này còn là nghĩa trang. Các ngôi mộ nằm san sát vào nhau, cái cao cái thấp, lô nhô như nhà cửa của người sống ở các thành phố lớn. Bất chợt, Khoa nhớ lại bài thơ của một người bạn văn nghệ viết trong một chiều ở nghĩa địa mà có lần tình cờ đọc được Khoa đã cười ngất trêu chọc bạn, nhưng rồi ngay sau đó Khoa cảm nhận được nỗi xót xa, cay đắng trong từng câu chữ, cảm nhận được nỗi niềm day dứt của thân phận một con người…
Bài thơ đó, dù đã mấy năm rồi nhưng hôm nay bất chợt trong khung cảnh này Khoa lại nhớ thật rõ.
Khoa lẩm nhẩm đọc một mình:
 
Mấy dòng viết lúc lên cơn điên…
 
Người ta buồn, người ta đi sopping
Chiều nay em buồn, em lang thang vào nghĩa địa
Xót xa nhìn từng ngôi mộ
Chen chúc mọc bên nhau...
Có những ngôi mộ đắp cao
Và những ngôi thấp lè tè bên dưới
Ừ, nơi đây cũng giống ngoài xã hội
Nhìn thoáng qua là phân định giàu, nghèo...
 
Em ngồi xuống bên ngôi mộ eo sèo
Úa vàng lá cỏ
Không mộ bia, không chăm chút vun bồi
Đất sạt lở rồi
Người ta sẽ gọi là mả lạng
Bỗng dưng em nghe lòng buồn vô hạn
Thương một hồn ma!
 
Gió thổi la đà
Trời chiều nắng tắt
Lòng em đắng chát
Bất chợt ùa về câu chuyện năm xưa
Em cười một mình
Thấy mình giống nàng Kiều
Thăm mả Đạm Tiên trong chiều tảo mộ
Hahaha...
Hahaha...
Tiếng cười chạy dài, luồn qua từng ngôi mộ
 
Cúi mặt xuống vũng nước kế bên
Em thấy mình ngồ ngộ
Điên điên...
Ơi nàng Đạm Tiên
Ơi nàng Kiều tài sắc
Em - một kẻ đời nhiều bất trắc
Đâu được như Kiều, trôi nổi vẫn được yêu thương!
 
Tiếc chiều này không mang theo đèn, hương
Để thắp lên sưởi ấm những vong hồn lây lất
Trời mưa lất phất
Mấy đứa trẻ ngoài kia đứng nhìn, chỉ trỏ
Chắc chúng ngỡ mình cũng là một hồn ma?
 
Hahaha...
Hahaha...
Khi mất lòng tin vào con người
Em lại muốn tin ma
Bởi em nghĩ
Người chết rồi đâu muốn lấn xô nhau,
Chỉ người sống mới tranh giành, lấn lướt
Những ngôi mộ cái cao, cái thấp
Cái khang trang, cái đất cỏ um tùm...
 
Ừ, mai này... ta cũng thế... là xong!!!!
Đọc hết bài thơ, Khoa chép miệng:
- Cho tới lúc này mình mới hiểu được tại sao cô ấy lại có thể có cảm xúc để làm thơ về một khu nghĩa địa… Ha ha… Có lẽ, một chiều nào đó thảnh thơi, mình cũng sẽ lang thang ra đây để tìm ý tưởng viết một cuốn tiểu thuyết với tiêu đề “Truyện không đọc lúc nửa đêm”!
Vừa nghĩ, Khoa vừa cho xe chạy tà tà luồn lách qua từng ngôi mộ, và chẳng mấy chốc đã qua hết khu nghĩa trang, ngôi nhà Khoa trọ đã hiện ra ở khúc đường bên kia.
Tự nhiên trong lòng Khoa cảm thấy lâng lâng vui sướng như người đi xa lâu ngày mới được trở về với ngôi nhà thời thơ ấu ngập tràn kỷ niệm của mình vậy!
Ngôi nhà tuy bỏ hoang đã lâu nhưng trên trần cũng không có mấy ván nhện, vì như cô Thùy có nói sơ qua là mỗi tháng đều có người được thuê đến quét dọn một lần.
Tuy vậy, Khoa cũng đã bỏ ra già buổi sáng mới dọn dẹp và lau chùi xong nhà cửa. Vì tất cả đồ đạc trong nhà đều bị một lớp bụi thật dày bao phủ.
Khoa lục lọi đồ đạc và thích thú khi thấy mình khỏi phải tốn tiền mua bất kỳ thứ gì nữa. Cô Thùy đã bảo mình được toàn quyền sử dụng đồ đạc trong nhà mà!
Khi mọi thứ trong nhà đã sạch sẽ tinh tươm và đâu vào đấy, Khoa mới sực nhớ từ sáng đến tận lúc này vẫn chưa ăn gì ngoài ly cà phê đá uống với thầy Phong hồi sáng sớm.
Vừa nhớ tới cái đói là thấy cồn cào cả gan ruột. Khoa vội vã đóng cửa, xách xe chạy vù ra một quán cơm gần đó ăn vội bữa trưa rồi về nhà lăn ra ngủ một giấc đến tận bốn giờ chiều.
Những ngày tháng Khoa sống trong ngôi nhà đó thật bình yêm và thư thái. Không khí tĩnh lặng của ngôi nhà gíup Khoa rất nhiều trong việc tập trung soạn giáo án, chấm bài học trò và nhất là việc viết lách của Khoa.
Từ hồi còn học phổ thông Khoa đã tập tành cầm bút. Ban đầu là tham gia một vài trò chơi nhỏ trên các tờ báo giành cho học sinh, dần dần Khoa mạnh dạn viết một vài đoản văn ngắn, một vài bài thơ gởi báo.
Rồi khi bài được đăng, Khoa như được cỗ vũ động viên nên đã rất hứng thú với việc đó.
Rồi những năm học đại học, tiền nhuận bút Khoa kiếm được từ ngòi bút của mình cũng không phải nhỏ.
Từ ngày về ở đây, Khoa viết càng sung sức và có chất lượng nhiều hơn. Những đêm khuya ngồi một mình thả tâm hồn lãng đãng phiêu du, Khoa thường có cái cảm giác rất lạ, hình như có một mùi hương nào đó cứ phảng phất quanh người, dù đã nhiều lần khi ngửi thấy mùi hương là Khoa đi vòng quanh nhà tìm xem loài cây nào đang trổ hoa mà mùi hương khác lạ đến vậy, nhưng chẳng lần nào Khoa tìm ra được!
Cả khu vườn quanh nhà, ngoài các loại cây ăn trái như xoài, mận, vú sữa… chỉ trồng duy nhất một cây sứ. Mà mùi hương đó chắc chắn không phải là mùi hoa sứ, vả lại cây sứ trong vườn cũng đâu có trổ được bông hoa nào?
Một điều đặc biệt nữa là vào những đêm ngửi được mùi hương nhẹ nhàng ấy, tự nhiên cảm hứng sáng tác trong Khoa trỗi dậy rất mãnh liệt, anh cứ viết mãi mà vẫn không viết kịp dòng ý tưởng đang tuôn tràn lai láng.
Những tác phẩm ra đời trong những đêm như thế thường nhận được rất nhiều phản hồi tốt từ phía người đọc.
Thỉnh thoảng cũng có những đêm Khoa không ngửi được mùi thơm ấy. Thì tự nhiên Khoa lại cảm thấy như mình đang nhớ nhung một ai đó, một điều gì đó, tâm thần cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn, không viết được điều gì sâu sắc.
- Mình đã nghiện cái mùi ấy mất rồi!
Một lần Khoa đã phải kêu lên như thế.
Cuộc sống của Khoa cứ diễn ra một cách êm đềm vui vẻ như thế.
Hôm đó trường có liên hoan, các thầy cô giáo được một buổi chiều vui vẻ ra trò. Mọi người ăn uống xong thì quay sang hát karaoke có thưởng.
Dàn karaoke được trường thuê về đặt giữa sân trường với cái màn hình thật to, mỗi khi có ai lên hát lại nhận được một tràng pháo tay cổ vũ thật rôm rả.
Khi cuộc vui kết thúc cũng đã gần mười giờ đêm. Mọi người vội vã tản mác ra về với gia đình nhỏ bé của mình.
Khoa xách xe ra về, do thói quen hàng ngày, Khoa vẫn đi theo con đường tắt vượt qua nghĩa địa.
Tới chỗ cổng nghĩa địa Khoa hơi do dự, muốn quày xe trở ra đi theo đường chính. Nhưng đêm khuya rồi Khoa cảm thấy lười biếng khi nghĩ tới chặng đường dài như vậy.
Thôi, mình đi đường này, nhắm mắt chạy vèo một cái là qua thôi mà, có gì đâu phải sợ!
Nhưng thật xui xẻo cho Khoa, khi vào giữa khu nghĩa địa thì đột nhiên xe của Khoa chết máy.
Khoa bực dọc bước xuống, dựng chân chống xe và ngồi xuống mò mẫm xem xét.
Vừa lúc ấy, Khoa đột nhiên nghe thoang thoảng mùi hương quen thuộc hàng đêm.
Đứng bật dậy, Khoa ngó dáo dác xung quanh bỗng nhận ra ở đầu bên kia con đường mòn có một dáng người mảnh khảnh đang di chuyển tới gần. Đó là một người con gái! Khoa xác định thế và cảm thấy thắc mắc, tại sao cô con gái kia lại đi một mình trong đêm tối ở nơi hoang vắng thế này? Cô ta là loại người nào? Lương thiện hay bất hảo? Hừ, nếu con là lương thiện thì có đâu đêm hôm lại một mình lảng vảng ở đây, thôi rồi, chắc là loại chơi bời phóng đãng rồi đây!
Nghĩ vậy nên Khoa cũng không quan tâm tới cô gái nữa, anh lại ngồi xuống cặm cụi mò mẫm lại chiếc xe, coi nó bị trục trặc ở bộ phận nào mà giở chứng bất thình lình như vậy?
- Anh ơi, xe anh bị sao thế?
Một giọng con gái nhỏ nhẹ cất lên bên cạnh.
Khoa giật mình ngó lên thì bắt gặp một khuôn mặt mà theo cảm nhận của Khoa là rất dịu dàng và xinh đẹp.
Nói là cảm nhận, vì thật sự Khoa không thể nhìn rõ mặt cô ấy được, vì trời hôm ấy không có trăng, lại không được quang đãng mà âm u như sắp chuyển mưa nên Khoa chỉ thấy lờ mờ vậy thôi, nhưng cũng không biết sao Khoa cảm nhận được điều đó và Khoa tin cảm nhận của mình sẽ không sai.
Thì ra cô gái lúc nãy đây sao?
Khoa tự hỏi trong lòng. Mới mấy giây trước đó, Khoa còn nghĩ về cô bằng những ý nghĩ không tốt đẹp, nhưng tự nhiên lúc này Khoa quên hết, không còn chút ấn tượng xấu nào về cô nữa.
- Cô… cô sao lại ở đây một mình giờ này?
Khoa không trả lời mà hỏi lại cô gái.
- Nhà em ở bên kia.
Cô gái chỉ tay về phía góc nghĩa trang, nơi đó cũng giáp với mấy căn nhà nhỏ nằm quay mặt ra đường lộ lớn.
Rồi như để giải đáp hết mọi thắc mắc trong Khoa, cô nói tiếp:
- Thằng em nhà em bị sốt, em phải đi tắt đường này qua bên kia mua thuốc cho nó. Mà em ở đây quen rồi nên thấy nơi này cũng bình thương thôi anh ạ! Mà… xe anh bị hư sao đó? Có cần em giúp không?
Khoa cười xòa:
- Tôi cũng chẳng biết sao nó lại giở chứng giữa đường thế này, trời tối thui cũng chẳng thấy gì mà sửa chữa… Thật khổ! Điệu này chắc tôi phải dẫn bộ về thôi.
Cô gái nhanh nhẹn:
- Không đâu, anh cứ ngồi đây chờ em một tí, em chạy ù vào nhà rồi trở ra ngay, sẽ giúp anh sửa xe thôi mà!
Vừa nói, cô gái vừa rảo bước hướng về phía ngôi nhà lúc nãy cô chỉ.
Khoa tự cười thầm trong bụng. Mình quả là đứa đa nghi, mới thấy con người ta đã vội vàng đánh giá này nọ, thiệt là hồ đồ quá đi mất! Còn cô gái đó nữa, làm như tợh sửa xe không bằng, biết xe hư gì mà dám nói chắc sẽ giúp mình sửa? Hì hì… để coi sao…
Chỉ trong nháy mắt cô gái đã quay trở lại, trên tay cầm theo một cây nến nhỏ màu trắng.
Cô chụm tay xòe diêm châm nến rồi soi vào chiết xe của Khoa, chăm chú nhìn vào từng bộ phận của chiếc xe. Còn Khoa, khi ấy Khoa lại chăm chú nhìn vào gương mặt cô gái.
Quả thật cảm nhận của Khoa lúc nãy không sai tí nào hết. Cô gái thật đẹp! Một vẻ đẹp dịu dàng, ngây thơ không son phấn, và đặc biệt là mùi thơm dịu nhẹ toát ra từ người cô khiến cho Khoa có cái cảm giác như đã thân thuộc với cô từ lâu lắm rồi vậy.
Dưới ánh nến lung linh, cô gái đẹp một cách kỳ ảo, khiến cho Khoa nhìn ngắm say sưa không thể rời mắt.
- Anh cầm giúp em cây nến!
Khoa giật mình khi nghe tiếng cô gái và vội đưa tay ra như một cái máy, đón lấy cây nến nhỏ từ tay cô.
Thật lạ kỳ, gió thổi lồng lộng vậy mà cây nến nhỏ bé với đốm lửa leo lét của nó cứ chao qua chao lại mà không hề bị tắt phụt đi.
Nhưng lúc đó tâm trí Khoa đã dồn hết vào cô gái nên chỉ thoáng có ý nghĩ vậy rồi thôi, không nghĩ nhiều tới việc đó nữa.
Cô gái mở công tắc và rồ ga, tiếng máy nổ giòn giã như chưa hề có trục trặc vừa rồi!
Khoa ngớ người nhìn cô gái đang tươi cười, mấy lọn tóc bị gió thổi tung lòa xòa trước mặt càng làm cho vẻ đẹp cô trở nên huyền bí, liêu trai hơn nữa…
- Cô… cô thật giỏi! Tôi thật không ngờ một cô gái chân yếu tay mềm như cô lại biết nghề sửa xe này nữa!
Khoa vừa ngượng nghịu vừa nói.
Cô gái cười khúc khích:
- Anh đừng nói quá lời! Tại hồi xưa anh trai em làm nghề này, em lại hay tò mò bắt chước nên cũng biết sơ sơ chút ít vậy thôi mà! Xe anh xong rồi nè, anh về được rồi đó!
Cô gái chìa tay ra như muốn nhận lấy cây nến trong tay Khoa.
Khoa chần chừ, muốn níu kéo thêm chút thời gian nữa được ở bên người đẹp:
- Thật tình tôi cảm ơn cô nhiều quá, nếu không nhờ cô, tôi phải ì ạch dắt chiếc xe này về tới nhà, mệt xỉu luôn đó!
Cô gái che miệng để giấu môi cười:
- Anh lại nói quá nữa rồi, nhà anh ở cách đây đâu có bao xa, nếu mà lỡ phải dẫn xe về cũng đâu đến nỗi mệt xỉu?
Khoa ngạc nhiên:
- Cô biết chỗ ở của tôi à?
Cô gái ngướcđôi mắt to tròn lấp lánh nhìn Khoa:
- Ai ở khu vực này lại không biết anh là ông thầy giáo dạy văn vừa mới về dạy học ở đây?
Khoa gãi gãi hai bên tai mình, lúng túng:
- Trời… tôi thật không ngờ… Không ngờ mọi người lại quan tâm tôi như vậy…
- Thôi, anh về đi, khuya lắm rồi đó!
Cô gái thúc giục.
Khoa vẫn cố chần chừ:
- Tôi biết phải đền ơn cô sao đây? Hôm nào mời cô tới nhà tôi chơi nhé?
Nét mặt tươi cười của cô gái chợt biến mất, thay vào đó là một nét buồn lặng lẽ. Cô cúi mặt xuống nhìn ngọn nến và nói nhỏ:
- Em sắp phải chuyển đi rồi, đi xa lắm… chắc là em sẽ không còn cơ hội để đến thăm anh nữa đâu…
Khoa còn đang ngẩn ngơ chưa chịp nói lời nào thì cô gái đã ngập ngừng nói tiếp:
- Em… em muốn xin anh một việc mà sợ là quá đường đột…
- Việc gì? Cô cứ nói đi, không sao đâu mà
Khoa tò mò.
- Em… em muốn trước lúc em đi xa, được anh tặng cho em tập thơ của anh viết… được không anh?
Cô gái ngước nhìn Khoa bằng ánh mắt khẩn thiết đến tội nghiệp, còn Khoa thì lúc đó đã giương tròn hai mắt ra kinh ngạc:
- Cô biết tôi làm thơ? Tại sao cô biết được điều đó? Tôi nhơ hình như cả những người dạy cùng trường với tôi cũng chưa ai biết chuyện này mà? Thế mà cô lại biết sao? Tại sao cô biết được thế?
Thấy vẻ ngạc nhiên thái quá của Khoa cô gái bật lên tiếng cười nho nhỏ. Rồi cô lại nhìn Khoa nói khẽ:
- Anh hứa tặng em đi, rồi em sẽ nói cho anh biết!
Giọng cô gái nghe thật nũng nịu và thân thiết làm sao.
Khoa gật đầu:
- Được, tôi hứa ngay sáng ngày mai tôi sẽ tặng cô.
Mắt cô gái sáng lên mừng rỡ:
- Anh nói thật nhé? Không nuốt lời nhé? Em cảm ơn anh nhiều lắm… Ngày mai… ngày mai anh đem tới nhà em đi nhe, nhà em ở chỗ đó, tới đó là anh thấy em ngay, em sẽ đợi!
- Ừ, cô yên tâm đi, tôi sẽ giữ đúng lời hứa của mình mà! Với lại có người thích đọc thơ mình, tôi càng phải biết ơn nữa chứ!
Khoa nói.
Cô gái cười:
- Em thuộc nhiều bài thơ của anh lắm nhe…
- Cô thuộc thơ tôi? Trời… cô làm tôi tò mò đến chết mất thôi…
Khoa giả bộ ôm đầu lảo đảo.
Cô gái lại cười khúc khích:
- Ngày mai anh sẽ biết lý do nào em biết anh làm thơ và thuộc được thơ anh. Giờ anh về đi, em cũng phải về đây…
Dứt lời, cô gái khẽ gật đầu chào Khoa rồi quay bước về nhà.
Khoa cũng lên xe rồ máy chạy về trong sự thắc mắc không thể tả.
Từ lúc về đây đến nay, Khoa chưa từng để lộ ra với bất kỳ ai về cái nghề tay trái của mình. Những bài thơ, truyện ngắn Khoa viết lại không bao giờ ghi tên tác giả là tên thật mà chỉ là bút dang thôi. Thế thì tại sao cô gái kia lại biết được nhỉ?
Chẳng lẽ cô ta lại đi điều tra về Khoa ở trường đại học hay sao? Hay cô ta là một sinh viên cùng trường mà Khoa chưa biết mặt? À, điều này nghe rất hợp lý đây! Vì có mấy lần Khoa đã đọc thơ mình trong các đêm văn nghệ do trường tổ chức… Sao lúc nãy mình quên mất, không hỏi cô ấy có phải là sinh viên cùng trường với mình không?
Mà thôi, vội làm gì, sáng mai mình sẽ tới nhà cô ta mà, mọi việc sẽ rõ thôi!
Khoa tự nhủ thầm với mình như thế!
Về tới nhà đã hơn mười một giờ đêm. Cả ngày bận rộn nhiều việc nên lúc này Khoa cảm thấy mệt mỏi và buồn ngủ ghê gớm. Vừa đặt lưng xuống giường là Khoa ngủ như chết, nhưng vẫn nghe thoang thoảng quanh mình mùi thơm dịu nhẹ quen thuộc mấy tháng qua…
Khi Khoa thức dậy thì đã hơn tám giờ sáng nhưng Khoa cũng không vội lắm. Vì hôm nay Khoa dạy tiết cuối. Bây giờ dậy chuẩn bị đi, ghé thăm nhà cô gái một chút vẫn còn sớm chán!
Khoa đến bên bàn, tìm lấy tập thơ vừa được xuất bản hồi mấy tháng trước nắn nót ghi dòng đề tặng phía trên.
Nhưng Khoa thấy mình thật tệ, ngay cả tên cô gái cũng không biết thì bây giờ đề tặng thế nào đây?
Thôi thì… “Thân mến tặng em” vậy! Chắc cô ta cũng không bắt lỗi gì mình đâu, vì thật sự trông cô ta nhỏ tuổi hơn mình mà?
Nghĩ thế nên Khoa mạnh dạn viết nốt dòng đề tặng rồi bỏ tập thơ vào cặp xách đi đến nhà cô gái.
Tới đường rẽ vào nghĩa trang Khoa không quẹo vào như mọi hôm mà chạy thẳng tới cửa mấy căn nhà giáp với nghĩa trang, chỗ cô gái chỉ cho Khoa hồi tối.
Mấy đứa trẻ con đang chơi ngoài sân, thấy Khoa dừng xe lại, chúng đứng lên nhìn Khoa chăm chú.
Khoa ngoắt một đứa lớn nhất trong bọn đến bên và hỏi:
- Em ơi, làm ơn cho anh hỏi thăm, ở đây nhà nào có cô gái cao cỡ chừng này này, tóc dài tới chỗ này này….
Vừa nói, Khoa vừa dùng tay để diễn tả cho chúng biết. Nhưng đứa trẻ cứ ngớ ra rồi lắc đầu:
- Con không biết có ai như vậy cả! Chú hỏi mẹ con đi!
Rồi không chờ Khoa phản ứng gì, nó quay mặt vào nhà hét tướng lên:
- Mẹ ơi, mẹ ơi! Có người hỏi thăm gì này…
Một người phụ nữ trạc ngoài bốn mươi tuổi tất tả từ nhà sau đi lên, nhìn Khoa và hỏi:
- Chú tìm ai thế?
- Dạ… chị làm ơn cho hỏi, ở đây nhà nào có cô gái trạc hai mươi tuổi, dàng người mảnh khảnh, tóc dài tới nửa lưng không chị?
Khoa ấp úng hỏi.
Người phụ nữ chau mày nghĩ ngợi một chút rồi bảo:
- Không có đâu chú ơi, chú chịu khó đi tới dãy phố tuốt đằng kia tìm xem chứ ở đây không có cô nào trạc tuổi đó hết! À, mà chú không biết tên cô ấy sao?
Khoa lúng túng:
- Dạ… dạ không ạ! Xin cảm ớn chị!
Khoa cúi đầu chào rồi vội quành xe trở lại, đầu óc căng ra. Lẽ nào cô gái đó lại lừa mình? Mà lừa mình với mục đích gì mới được chứ? Không đâu, đúng là hồi tối rõ ràng mình thấy cô ấy đi vào phía đó rồi cầm nến ra cho mình mà? Cô lại còn hẹn mình hôm nay tới nhà để tặng tập thơ… không lý nào đó là những lời lừa gạt được!
Khoa cho xe quẹo vào nghĩa trang và đưa mắt nhìn về chỗ tối qua cô gái đi về đó. Khoa thấy ở phía đó có nhiều người đang lao xao.
Tự nhiên trong lòng Khoa bật lên một cảm giác gì đó không rõ, nó cứ làm cho tay chân Khoa run rẩy và linh cảm dường như có một điều gì đó không bình thường đang xảy ra.
Không cho xe chạy theo lối mòn như thường lệ, Khoa quẹo lên chỗ đám người đang xúm xít.
À, thì ra họ đang bốc mộ!
Chắc đay là những người ở xa không kịp hay tin di dời nghĩa trang nên mới đến trễ thế này. Nhưng như vậy cũng còn may, chứ tới khi bị san bằng rồi thì biết nơi nào nữa mà tìm kiếm.
Khoa vừa nghĩ như vậy trong đầu vừa tính quành xe ra. Nhưng tự nhiên có điều gì xui khiến Khoa lại tắt máy, dựng xe nép vào một bên rồi bước tới bên đám người bốc mộ để nhìn.
Vừa tới nơi, Khoa lảo đảo suýt té ngã khi nhìn thấy tấm ảnh cô gái đang tươi cười trên bia mộ. Đó chính là cô gái tối qua đã sửa xe giúp cho Khoa!
Khoa ngồi thụp xuống, lấy tay chùi sạch những vết bùn đất trên tấm bia để lộ ra dòng chữ: Nguyễn Thị Ngọc Lan , hưởng dương hai mươi tuổi….
Gương mặt Khoa từ xám xịt chuyển qua xanh mét làm mấy người công nhân ở đó hoảng hốt:
- Cậu ơi… cậu bị sao vậy? Trúng gió hay sao vậy?
Khoa gắng gượng lấy lại bình tĩnh, khoát tay với mọi người:
- Dạ… không… không sao đâu, tôi chỉ hơi bị chóng mặt chút thôi, giờ thì không sao nữa rồi…
Khoa đứng lên lắp bắp:
- Xin cho hỏi, ai là thân nhân của cô Ngọc Lan thế ạ?
Một người đàn ông dáng vẻ lam lũ mà nãy giờ Khoa cứ tưởng là một trong những người đi làm thuê lên tiếng:
- Tôi, chính tôi là anh trai của Ngọc Lan đây. Cậu có điều gì muốn nói với tôi à?
Khoa gật đầu chào rồi ra hiệu cho ngwofi đó đi ra cạnh đó để nói chuyện.
- Cậu là bạn với em Lan tôi?
Người đàn ông tò mò nhìn Khoa.
Khoa lắc đầu nhưng rồi lại vội gật đầu:
- Dạ không… nhưng mà… chuyện là thế này ạ! Tối hôm qua em vừa gặp Ngọc Lan!
- Tối hôm qua? Nó về báo mộng cho cậu à?
Người đàn ông kinh ngạc.
Khoa lắc đầu:
- Dạ không… tối qua tình cờ em bị hư xe ở chỗ kia, chính cô Lan đã giúp em sửa xe, cổ nói rằng trước đây anh trai làm nghề sửa xe nên cổ học lóm được chút ít…
Người đàn ông gật gù:
- Đúng! Đúng rồi… nó là đứa con gái ham học hỏi… Cậu quen nó khi nào? Nhìn tuổi cậu thế này thì chắc không phải là bạn học với nó được rồi?
Khoa lại lắc đầu:
- Tối qua là lần đầu tiên em biết Lan. Trước đây em chưa từng gặp qua cô ấy. Nhưng có vẻ cô ấy biết nhiều về em, cổ còn hỏi xin em tặng cho cổ tập thơ vì cổ sắp phải chuyển đi xa, và còn hẹn em sáng nay đem tới đây tặng cho cổ. Đây này, em có mang theo đây!
Vừa nói, Khoa vừa mở cặp lấy tập thơ trao cho anh của Ngọc Lan.
Người anh trầm giọng xuống:
- Đúng rồi! Con bé này rất thích đọc thơ…
- Anh ơi… Ngọc Lan mất lâu chưa anh? Vì sao cô ấy lại mất khi còn quá trẻ vậy?
Người đàn ông thở dài:
- Ngọc Lan mất năm nó tròn hai mươi tuổi, mất đúng vào cái hôm sinh nhật của nó… mà lỗi này cùn do tôi gây ra nên bao nhiêu năm qua tôi đã day dứt khổ sở nhiều lắm… Tôi đã lơ đãng khi sửa điện, để một đầu dây điện thòng xuống mà không cảnh báo gì hết, em Lan vô tình vướng phải và chết ngay tức khắc!
Khoa run run:
- Anh nói Lan mất đúng năm hai mươi tuổi? Vậy năm nay cô ấy bao nhiêu tuổi?
- Nếu nó còn sống thì đã ba mươi! Anh em chúng tôi chỉ hơn kém nhau có một tuổi thôi…
Người đàn ông buồn bã nói.
Khoa giật mình. Thì ra linh hồn Ngọc Lan vẫn ở mãi cái quãng thời gian của năm hai mươi tuổi!
Sau khi hỏi thăm thêm nhiều điều nữa, Khoa thấy sắp đến giờ dạy nên từ giã ra về:
- Em xin phép anh, trước khi ra về, em được đốt tập thơ trước mộ cô Lan để giữ tròn lời hứa với cổ!
Người đàn ông gật đầu đồng ý và giúp Khoa đốt cháy hết tập thơ. Những tàn tro bay lên làm thành một vòng xoáy rất đẹp mắt, và vòng xoáy đó cứ quay tròn trước ảnh của Ngọc Lan.
Cô gái trong ảnh đang nở nụ cười rạng rỡ. Và bất chợt, Khoa cảm thấy đôi mắt cô gái khẽ động đậy và nhìn Khoa bằng cái nhìn thật ấm nồng như muốn nói:
- Cảm ơn anh!
Khoa vứt cặp lên bàn, ngồi phịch xuống ghế, một tay ôm đầu một tay rút chiếc khăn trong túi ra lau những giọt mồ hôi đang chảy ròng ròng hai bên thái dương.
Cô Thùy bước vào thấy cảnh đó, cô ngạc nhiên kêu lên:
- Khoa, em bị sao thế? Bệnh à?
Nghe tiếng cô Thùy, Khoa mừng rỡ ngước lên:
- Chị ơi… chị tin có ma không?
Thùy ngớ người ra rồi bật cười:
- Thôi đi ông tướng, ông đừng có bảo ngôi nhà đó ma à nghen?
Khoa lắc đầu nhè nhẹ:
- Không… không phải ở nhà mà là ở trong nghĩa địa… Chút nữa dạy xong, chị nán lại một chút em kể chị nghe…
Cô Thùy gật đầu:
- Ừ, chút nữa gặp lại em sau nhé?
Cô Thùy vừa bước đi đã nghe tiếng Khoa gọi giật giọng:
- Đó! Đó! Chị có ngửi thấy mùi gì không?
Cô Thùy dừng chân, cố hít lấy một hơi và bật cười:
- Có gì lạ đâu? Đó là mùi thơm của hoa ngọc lan, cây ngọc lan trước sân trường vừa trổ hoa đấy em ạ!
Tiếng trống chuyển tiết vang lên, cô Thù y vội vã xuống lớp cho kịp giờ dạy. Khoa cũng đứng lên đi theo sau nhưng miệng Khoa lại lẩm bẩm:
- Giờ thì tôi hiểu tại sao cô biết tôi làm thơ, cô thuộc được thơ của tôi, và tại sao đêm đêm tôi lại nghe thấy mùi hương này phảng phất quanh tôi… Thì ra, cô là một người bạn, luôn đến với tôi từ lúc tôi mới dọn về mà tôi lại vô tư không biết được! Cảm ơn… tôi xin cảm ơn cô thật nhiều, Ngọc Lan ạ!...
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:58:32 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 20:16:06
LUẬT ĐỜI VAY TRẢ
 
Uyển ngồi thu lu bên bờ ao, nét mặt thất thần. Cô thật sự muốn hủy diệt kiếp sống không may của mình nhưng khi đối diện với cái chết cô lại không đủ can đảm để thực hiện.
Từ trước đến nay Uyển vẫn nghĩ sống mới là điều khó chứ chết thì dễ dàng vô cùng!
Một kẻ không hề biết bơi lội như Uyển, chỉ cần chọn lúc vắng vẻ, nhảy tòm xuống sông là coi như chấm dứt cuộc đời, có gì là khó khăn đâu.
Chẳng qua mấy người tự tử mà không chết là thật ra họ chỉ làm nư để dọa gia đình, dọa người thân, nên lựa lúc có người lảng vảng gần đó mới đem thuốc ra uống hoặc mới nhảy xuống sông, cố tình để người ta trông thấy mà cứu giúp.
Một khi đã quyết định chọn cho mình cái chết thì Uyển nhất định sẽ thực hiện bằng được, thực hiện một cách nhanh gọn không lằng nhằng vướng víu…
Vậy mà… Uyển đã hoàn toàn thất bại! Cô không thực hiện được ý đồ kết liễu đời mình!
Tiếng nhạc xập xình từ nhà Khiêm vang tới càng làm cho lòng Uyển đau thắt từng cơn…
Uyển và Khiêm yêu nhau đã hơn bốn năm nay. Tình yêu đó cả làng này không ai không biết.
Khiêm tuy tính tình hời hợt không biết lo lắng nhiều tới chuyện làm ăn, nhưng tình cảm của Khiêm đối với Uyển rất tốt.
Gia đình Uyển nhiều lần phân tích và ngăn cấm không cho Uyển qua lại với Khiêm, sợ sau này Uyển sẽ phải vất vả, khổ sở vì lấy nhằm người chồng không biết làm ăn, không biết lo toan cho gia đình, vợ con.
Thế nhưng trái tim luôn có những lý lẽ riêng của nó. Uyển không nhìn Khiêm bằng cặp mắt giống mọi người. Cô luôn nghĩ tại còn thanh niên, chưa vướng bận gia đình nên Khiêm mãi chơi như thế, chứ một khi đã cưới nhau rồi, anh ấy thương mình, thấy mình vất vả anh sẽ không chịu nổi tức khắc sẽ lao vào công việc ngay thôi.
Uyển vững tin vào tin yêu của mình, vững tin vào Khiêm, nên dù có bao nhiêu lời cản ngăn vẫn không làm Uyển nao núng.
Khiêm cũng hứa hẹn với Uyển thật nhiều điều.
Lần đầu tiên Khiêm thực hiện lời hứa với Uyển là bắt tay vào công việc để kiếm tiền lo cho đám cưới hai đứa. Công việc của Khiêm cũng không nặng nhọc lắm, mỗi tuần đi giao hàng mấy chuyến cho mẹ Uyển từ thị xã về các xã vùng ven.
Thấy Khiêm chịu khó làm việc, Uyển sung sướng lắm, cô rất tự hào muốn nói cho tất cả mọi người đều biết là tình yêu của cô đã cảm hóa được Khiêm, một thanh niên có tiếng lười nhác xưa nay!
Vì hai người không được tuổi nên không thể cưới vào năm nay mà phải chờ đến tháng giêng năm sau mới có thể cưới nhau được.
Uyển cũng rất vui vẻ chờ ngày đó.
Bao nhiêu năm qua, cô đã đầu tư cho Khiêm rất nhiều từ những việc lớn như giúp gia đình Khiêm sửa lại nhà, mua cho Khiêm xe gắn máy, trả một vài món nợ Khiêm vay lúc hai người chưa yêu nhau... đến cả những việc nhỏ như sắm cho Khiêm từ bộ quần áo, đến đôi giày, đôi vớ…
Tất nhiên những điều đó Uyển làm một cách thầm lặng không để ai biết. Một phần vì danh dự của Khiêm, một phần vì gia đình Uyển. Uyển biết chắc chắn rằng, một khi gia đình cô mà biết rõ sự thật đó thì cô sẽ không thể nào yên ổn được.
Gia đình biết Uyển có tiền riêng, vì cô là người siêng năng, giỏi giắng, biết làm ăn buôn bán từ lúc mới mười sáu, mười bảy tuổi, lại là người chi tiêu dè xẻn thì năm nay cô đã bước vào tuổi hai mươi bốn rồi, thử hỏi làm gì cô không có riêng cho mình một số vốn kha khá?
Nhưng không ai biết toàn bộ số vốn liếng kha khá ấy Uyển đã giao cho Khiêm hết rồi!
Khiêm là con trai một, trước sau gì ngôi nhà đó cũng là nhà của vợ chồng Khiêm, mà vợ Khiêm thì còn ai khác Uyển? Uyển tin tưởng thế nên cô đã không ngần ngại dồn một số tiền lớn vào việc sửa sang lại ngôi nhà, để đến ngày cưới cô cũng được mát mặt với dòng họ.
Rồi đến khi Khiêm đã quen với việc giao hàng, Uyển bày vẽ cho Khiêm cách làm ăn nương nhờ vào các mối quan hệ đó, và lần này cô đã vét hết vốn của mình đưa cho Khiêm để anh bắt tay vào nghề buôn bán.
Công việc làm của Khiêm trôi chảy, Uyển càng vui hơn. Nhưng giữa lúc cô đang say sưa với bao mộng đẹp thì Khiêm đã có mối quan hệ khắn khít khác với một bạn hàng mà Uyển không hề hay biết.
Một thời gian sau, Uyển nghe người ta xầm xì, cô không itn lắm vì nghĩ Khiêm không bao giờ yêu ai ngoài cô, chẳng qua thiên hạ thấy Khiêm bây giờ tiến bộ quá nên đâm ra ghen ghét vậy thôi.
Tuy nhiên Uyển vẫn hỏi Khiêm.
Khiêm chối biến:
- Trời ơi, ai đồn đãi ác nhơn dữ vậy? Ngoài em ra anh còn biết tới người con gái nào đâu?
- Anh không được dối gạt em đấy nhé?
Uyển căn dặn.
Khiêm cười, kéo cô vào lòng hôn lên tóc cô một cách trìu mến:
- Chúng mình sắp cưới nhau rồi còn gì, em đừng có nghe người ta nói ra nói vào rồi nghi ngờ anh tội nghiệp! Anh yêu em, điều đó em biết mà, tình yêu của chúng mình đã kéo dài bao nhiêu năm qua rồi chứ đâu phải đầu hôm sớm mai, và cũng đã vượt qua bao nhiêu trắc trở mới có ngày bình yên như bây giờ, em mà không tin anh thì anh sẽ buồn lắm đó!
Nghe những lời ngon ngọt của Khiêm, Uyển hối hận:
- Em xin lỗi vì đã nghi oan cho anh! Từ nay ai nói gì mặc họ, em không nghe nữa đâu, em chỉ biết tin vào anh thôi đấy, anh không được quyền lừa dối em, anh nhé?
- Biết rồi, em mà còn nói mãi câu đó là em vẫn chưa thật sự tin anh!
Khiêm có vẻ giận.
Uyển rối rít hôn lên má người yêu:
- Em xin lỗi, em xin lỗi mà! Anh đừng giận em nhe? Em sẽ không như vậy nữa đâu…
- Ừ, như vầy có phải dễ thương không?
Uyển vô cùng hạnh phúc trước những cử chỉ âu yếm yêu thương của Khiêm dành cho cô, nên những lời dèm pha đã thật sự không làm cho cô lo sợ nữa.
Một lần Khiêm giao hàng bị nhầm lẫn, mẹ Uyển la cho một trận. Những lần trước thì Khiêm chỉ im lặng và buồn buồn vậy thôi nhưng lần này thật bất ngờ Khiêm lại đùng đùng nổi giận.
Khiêm hét to lên:
- Bà coi kỹ lại đi, toa hàng bà ghi rõ ràng như vậy, nhầm lẫn là bà nhầm chứ đâu phải tôi. Đừng ỷ có đồng tiền bỏ ra trả lương cho tôi mỗi tháng rồi muốn ăn nói sao cũng được nghen! Đừng tưởng thằng này dễ cưỡi đầu cưỡi cổ. Xin lỗi, thằng này không phải đứa hèn thế đâu!
Mẹ Uyển tròn mắt ngó Khiêm, Uyển cũng sửng sờ không tin vào mắt vào tai mình nữa.
Cô không thể nào ngờ được Khiêm lại có thể phản kháng một cách dữ dằn như vậy. Cho dù Khiêm không có lỗi, cho dù thật sự do mẹ Uyển nhầm lẫn rồi mắng oan Khiêm thì vì Uyển, vì tương lai của hai đứa, Khiêm cũng phải nói năng nhỏ nhẹ ôn hòa một chút chứ? Sao Khiêm lại có thể nói ra được những lời như vậy?
Sau mấy phút sững sờ vì mọi việc diễn ra quá bất ngờ, Uyển mới sự tỉnh, cô chạy đến kéo tay Khiêm, nói nhỏ:
- Anh bớt giận chút đi, có gì từ từ nói, chứ…
Uyển chưa kịp nói hết câu đã bị hất tay một cái rất mạnh khiến cô loạng choạng sắp ngã.
Khiêm vừa vung tay vừa hét lên:
- Cả cô nữa! Cô cũng đừng ỷ thế mà hiếp đáp tôi! Tôi chán mẹ con cô lắm rồi, ngay bây giờ tôi tuyên bố tôi không làm cho nhà này nữa!
Uyển tức nghẹn không nói ra lời, còn mẹ Uyển thì nhảy sổ vào túm ngực áo Khiêm hất hàm hỏi:
- Mầy nói thế thì phải giữ lời nhé?  Tao cũng tuyên bố, việc cưới xin giữa mầy và con Uyển nhà tao cũng chấm dứt kể từ lúc này!
Bà nói thế và tưởng đâu Khiêm sẽ hoảng hốt rồi xuống nước năn nỉ van xin, không ngờ Khiêm chỉ cười nhạt mai mỉa:
- Bà tưởng chỉ mình bà có con gái chắc? Xin lỗi nhé, tôi không cần đâu, bà muốn đem cổ gả cho ai thì gả, hoặc muốn để ở nhà làm mắm cũng không ăn thua gì tới tôi đâu!
Vừa nói dứt câu Khiêm thô bạo hất tay mẹ Uyển ra rồi đi thẳng ra cửa không hề ngoảnh lại nhìn Uyển lấy một lần.
Uyển đứng chết lặng trong góc nhà. Tất cả những việc vừa mới xảy ra đối với cô giống như một giấc mơ, nó nằm ngoài sự tưởng tượng của uyển.
Tại sao? Tại sao Khiêm lại có những lời lẽ cạn tình cạn nghĩa và những hành vi thô bạo đến mức đó? Khiêm thật sự hết yêu thương mình rồi sao? Không, không đâu, nhất định không phải vậy đâu! Uyển gào lên trong bụng. Có lẽ vì quá uất ức vì bị mẹ mắng oan nên Khiêm nổi điên lên vậy thôi, chỉ lát nữa khi mọi việc lắng xuống Khiêm sẽ hối hận và xin lỗi mình ngay thôi mà…
Mẹ Uyển không ngớt lời chì chiết:
- Trời ơi… con sáng mắt ra chưa con? Chưa gì hết mà nó đã hiện nguyên hình rồi đó, liệu mai mốt cưới về rồi con có sống nổi với nó hay không? Mẹ đã nhiều lần can ngăn mà con không chịu nghe, đúng là “cá không ăn muối cá ươn, con cãi cha mẹ trăm đường con hư” mà!
Uyển ôm đầu khóc:
- Mẹ ơi, con van mẹ, con xin mẹ đừng nói gì nữa hết! Có lẽ tại anh ấy đi về mệt, người không được khỏe lại bị mẹ mắng oan nên mới thế… con xin mẹ đó, mẹ đừng nói như vậy…
Mẹ Uyển lắc đầu:
- Mầy hết thuốc chữa rồi con ơi! Mầy mê lậm nó rồi! Rồi đây đời mầy sẽ khổ con ơi…
Uyển không chịu đựng nổi nữa, cô chạy vụt vào phòng đóng chặt cửa lại, úp mặt xuống gối nức nở khóc.
Suốt buổi chiều và cả đêm hôm đó Uyển nóng lòng chờ đợi mà không thấy Khiêm tới tìm.
Ban đầu cô nghĩ khi Khiêm nguội lại, chắc chắn anh sẽ tìm tới để xin lỗi mẹ và cô. Nhưng chờ đến tối mịt vẫn không thấy bóng dáng Khiêm đâu Uyển lại nghĩ khác, có thể do sĩ diện hoặc do quá lo sợ vì đã lỡ xúc phạm đến mẹ Uyển nên Khiêm khố dám tới.
Uyển đã cố gắng nghĩ ra đủ mọi lý do để bào chữa cho Khiêm.
Suốt đêm đó cô không ngủ được. Vừa tờ mờ sáng Uyển đã vội vàng tìm tới nhà Khiêm.
Vừa trông thấy Uyển, mẹ Khiêm vội nói:
- Từ nay cháu đừng đây nữa, đừng làm phiền thằng Khiêm nhà bác nữa…
- Bác ơi… cháu…
Uyển ngỡ ngàng, vừa mới ấp úng được mấy tiếng thì mẹ Khiêm nói một cách dứt khoát:
- Thằng Khiêm nhà bác sắp cưới vợ rồi! Cháu phải mừng cho nó chứ, nhà vợ nó giàu lắm nhưng không hề ỷ vào sự giàu sang đó mà coi thường mẹ con bác đâu…
Uyển cố nhị nhục vì nghĩ mẹ Khiêm đang giận:
- Bác ơi, xin bác hiểu cho cháu! Có bao giờ cháu dám xem thường anh Khiêm đâu, chẳng qua là có sự hiểu lầm giữa mẹ cháu và anh ấy…
Mẹ Khiêm cười nhạt:
- Xem thương cũng được mà hiểu lầm cũng được, mẹ con bác không quan tâm nữa, vì thằng Khiêm nhà bác sẽ cưới vợ trong nay mai thôi!
Uyển run bắn người, mở to mắt hỏi:
- Bác ơi, những lời bác nói là thật?
Mẹ Khiêm nhìn Uyển vẻ tội nghịêp:
- Bác nói dối cháu làm gì? Rồi cháu sẽ biết thôi. Hôm nay hai đứa chúng nó dắt nhau đi sắm đồ cưới rồi, đám cưới sẽ tiến hành ngay trong tháng này…
Uyển chới với, cô gần như ngất đi nhưng cô đã cố trấn tĩnh lại. Mọi việc phải gặp tận mặt, nghe tận tai Khiêm giải thích mới có thể tin được! Uyển nhủ thầm như thế và lặng lẽ gật đầu chào mẹ Khiêm rồi cố lê từng bước chân nặng nhọc trở về nhà.
Về tới nhà, Uyển buông mình xuống giường, cô cũng không còn chút sức lực nào để nhấc chân lên nữa. Cô cứ nằm nửa người trên giường nửa người ở dưới như thế đến tận chiều tối.
Tối đó Uyển tới nhà Khiêm nhưng vẫn không gặp được.
Cô cố gắng nhắn gửi nhiều lần mới được Khiêm hẹn gặp.
Chỉ mới không gặp mặt nhau hai ngày mà Uyển nhận thấy Khiêm lúc này hoàn toàn là một con người khác.
Nụ cười âu yếm, cử chỉ trìu mến dành cho cô từ bao nhiêu năm nay đã mất đi không để lại chút dấu tích nào. Trước mắt Uyển giờ đây là một chàng thanh niên cao ngạo, xa lạ, nhìn cô bằng ánh mắt dửng dưng đến độ không ngờ!
- Có thật anh sẽ cưới vợ trong tháng này?
Uyển cố nuốt nước mắt hỏi.
- Ừ, chắc vậy! Cô yên tâm đi, thế nào tôi cũng sẽ mời cô mà!
Khiêm nói, vẻ mặt câng câng đáng ghét.
Uyển không dằn nổi, cô hét lên:
- Còn đám cưới của chúng ta thì sao? Còn những lời hứa hẹn anh nói với tôi thì sao?
Khiêm tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Ủa, tôi có hứa hẹn gì với cô sao? Sao tôi lại không nhớ nhỉ? Cô vui lòng cho tôi nghe lại băng ghi âm hoặc một vài loại giấy tờ gì có bút tích của tôi để chứng thực, chứ tôi thì không nhớ mình đã hứa gì với cô… Xin lỗi nhé, đầu óc tôi dạo này lu bu nhiều việc nên có hơi lẩm cẩm. À, còn việc cưới xin giữa cô và tôi thì hôm đó chính miệng mẹ cô đã hủy bỏ rồi mà? Có nhiều người chứng kiến lắm, nếu cô cần tôi sẽ gọi họ…
Nước mắt Uyển trào ra nhưng cô cố gắng bấu tay vào gốc cây bên đường để đứng cho thật vững. Đáng ra Uyển muốn nhắc lại những kỷ niệm đẹp của hai người, nhưng trước thái độ đó của Khiêm, Uyển không thể nào nói tới chuyện tình cảm được. Và tự nhiên cô lại nói:
- Được rồi! Anh cưới vợ cũng không sao, nhưng trước khi cưới vợ xin anh hoàn lại cho tôi toàn bộ số tiền tôi đã đưa cho anh mấy năm nay…
Khiêm bật cười hô hố:
- Ố là la… lại có chuyện đó nữa à? Cô giỏi thật, cô hay thật đấy! Cô muốn ăn vạ để bắt tôi phải cưới cô đấy à? Nè, nói thật cho tôi biết đi, có phải cô đã lỡ chung đụng với thằng nào rồi nên muốn bắt chẹt tôi để tôi đứng ra đổ vỏ ốc phải không?
Đến nước này thì Uyển không còn lời lẽ nào để nói với Khiêm nữa rồi, cô vung tay vả một phát thật mạnh vào mặt Khiêm rồi vùng bỏ chạy, phía sau lưng tiếng cười khả ố của Khiêm vang lên từng chập…
Uyển đau đớn vô cùng. Nỗi đau của cô không ai thấu hiểu nỗi. Có thể mọi người biết cô đau vì Khiêm bỏ cô để đi lấy vợ, nhưng không ai biết ngoài nỗi đau vì bị mất tình yêu, Uyển còn đau đớn hơn khi nhận ra suốt bao nhiêu năm qua Khiêm chỉ đóng kịch trước mặt mình để lừa đảo lấy đi của cô tất cả: Sự trinh bạch của đời con gái, tình yêu, lòng tin và cả tiền bạc nữa…
Uyển thấy mình đúng là một kẻ đáng bỏ đi, một kẻ không ra gì! Suốt từng ấy năm gần gũi với loại người đốn mạt như vậy mà cô chẳng mảy may nhận ra điều gì. Trong mắt cô, Khiêm luôn là một người tốt nhất, hiền nhất và đáng yêu nhất, đáng để cô hy sinh nhất…

Giờ đây Uyển còn lại gì? Không, không còn gì cả ngoài nỗi đau tê tái mà có lẽ đến cuối đời cô cũng sao nguôi được, và còn lại nỗi nhục nhã ê chề mà cô phải cắn răng gánh lấy một mình không thể san sẻ cùng ai…
Uyển đã sống vật vờ nhiều ngày qua, ban đầu mẹ Uyển còn đay nghiến, mắng mỏ, nhưng về sau thấy Uyển thảm hại quá bà đâm ra thương con gái, hết lời an ủi động viên.
Nhưng càng an ủi, Uyển càng đau đớn nhiều hơn. Cô giống như một cái xác không hồn sống lất lây qua ngày qua tháng.
Hôm qua nhà Khiêm rộn ràng chuẩn bị cho lễ cưới. Uyển co ro trong phòng và nghĩ tới cái chết.
Sáng nay cả nhà đi vắng, đây là cơ hội tốt cho Uyển thực hiện ý đồ. Cô lê người ra bờ ao sau nhà…
Cái ao này rất sâu và rộng, chỉ cần nhào xuống đó là vĩnh viễn không còn buồn khổ nữa, không còn đau đớn nữa… Tiếng nhạc xập xình, tiếng “dô, dô” vang vọng từ nhà Khiêm càng làm Uyển đau tê tái.
Giờ này chắc người ta đã đón dâu về rồi đó! Chắc Khiêm đang sung sướng đứng bên vợ để làm lễ tơ hồng. Rồi họ sẽ sống trong căn nhà đó, căn nhà mà từng viên gạch, từng tấm tôn đều làm bằng mồ hôi nước mắt của cô. Rồi mai đây họ sẽ có con, chiều chiều đứa bé sẽ chạy nhảy vui đùa trên mảnh sân trước nhà, mảnh sân mà Khiêm đã từng vẽ ra cảnh cô và anh cùng đàn con quây quần bên nhau mỗi tối để ngắm trăng…
Nước mắt Uyển nhòe nhoẹt trên gương mặt. Cô mím môi, nhắm mắt lại cố nhấc tấm thân nặng nề của mình lên để nhào xuống nước.
Nhưng thật kỳ lạ, cả người cô như bị đóng đinh, không thể nào nhấc lên được. Cô cứ ngồi đó và khóc, khóc ròng…
- Ông trời ơi, con đã làm gì gây nên tội lỗi mà ông nỡ đày đọa con như vậy? Con đã yêu thương hết lòng sao người ta lại có thể đối đãi với con một cách tàn nhẫn đến như vậy hở ông trời? Những ngày tháng sau này con sẽ phải sống sao đây? Làm sao con sống được nữa khi mà giờ đây con đã hoàn toàn mất lòng tin vào con người rồi, ông trời ơi… Con xin ông, con van ông hãy tiếp thêm cho con nghị lực để con tự kết thúc cuộc sống của mình… Con không thể sống được nữa, con không muốn sống thêm một giây một phút nào nữa hết, ông trời ơi…
Uyển khóc lả người và cô đã gục xuống ngất đi bên bờ ao vắng vẻ…
Không biết đã trôi qua bao nhiêu thời gian, Uyển chợt tỉnh dậy và cảm nhận mình đang ở một nơi hoàn toàn xa lạ.
Mở mắt ra nhìn xung quanh, Uyển thấy mình đang nằm trên một chiếc giường gỗ đơn sơ trong một căn phòng nhỏ. Có lẽ trời  đã nhá nhem tối, trong phòng lại không có đèn đuốc gì nên Uyển chỉ thấy mọi vậy một cách mờ mờ không rõ lắm.
Cô muốn cất tiếng kêu nhưng cổ họng cô đang khát cháy, khô khốc không thể phát ra lời. Muốn ngồi dậy cũng không ngồi dậy nổi nen Uyển đành nằm im chờ đợi.
Mãi một lúc thật lâu, khi mảng ánh sáng mờ nhạt phía bên ngoài mất hẳn cô mới nghe có tiếng chân người và thấy một ánh sáng nhỏ di chuyển hướng vào nhà.
Uyển định thần nhìn kỹ thì thấy đó là một người đàn ông đứng tuổi, vẻ mặt khắc khổ, đang cầm trên tay một cây nến trắng tỏa ánh sáng lạnh lùng leo lét.
Thấy Uyển cố chống tay gượng ngồi dậy, người đàn ông hấp tấp tới bên cản lại:
- Ấy, ấy, cô cứ nằm im đó nghỉ ngơi đi! Cô yếu lắm, đừng gắng gượng sẽ không tốt đâu!
Uyển lúng túng đáp:
- Dạ… tôi… sao tôi lại ở đây nhỉ?
Người đàn ông lặng lẽ cầm cây nến tới đặt lên một chân đế có sẵn trên chiếc bàn gỗ cạnh đó, rồi từ từ nói với Uyển:
- Tình cờ tôi phát hiện ra cô bị ngất xỉu bên cạnh bờ ao và hiểu được đôi chút về hoàn cảnh của cô nên tôi đã mạo muội đem cô về đây, vì tôi sợ nếu cứu cô tỉnh lại mà vẫn để cô ở lại đó, biết đâu cô sẽ không đủ bình tĩnh và sẽ gây ra những điều không hay…

Uyển ngơ ngác hỏi:
- Ông nói… ông hiểu được hoàn cảnh của tôi… là sao?
Người đàn ông cười buồn:
- Rồi từ từ tôi sẽ kể cho cô nghe hết. Nhưng trước tiên tôi muốn khuyên một điều cô đừng dại dột huỷ đi mạng sống của mình. Dù bất cứ ở vào hoàn cảnh nào, dù khắc nghiệt đến đâu, chúng ta cũng cần bảo vệ lấy mình cô ạ!
Uyển khẽ lắc đầu. Cô nhắm mắt lại, hai hàng nước mắt lại chẳy dài xuống má:
- Ông không hiểu… ông không hiểu lúc này tôi đang phải chịu đựng những nỗi đau đớn ê chề đến mức nào đâu! Tôi giữ lại mạng sống này để làm gì kia chứ? Cuộc sống còn có ý nghĩa gì với tôi nữa đâu? Giá mà ông giúp cho tôi được chết đi chắc là tôi sẽ cảm ơn ông nhiều lắm…
Người đàn ông nhìn Uyển xót thương:
- Cô nghĩ chết đi là thoát khỏi những đau buồn sao? Sao cô không thử đặt mình vào hoàn cảnh đã chết rồi mà vẫn không thoát được vì nợ đời chưa trả hết. Lúc đó hồn phách cô sẽ vật vờ không nơi nương tựa, cô nhìn thấy mọi người mà không ai nhìn thấy cô, người ta nói gì, làm gì thậm chí suy nghĩ gì cô cũng biết hết nhưng cô nó níu kéo họ thì họ cũng không hay. Lúc đó cô còn đau đớn đến mức nào nữa? Sao cô không thử nghĩ vậy đi…
Uyển tức tưởi:
- Ông đừng khuyên tôi, ông đừng dọa tôi, ông làm như ông đã từng chết rồi vậy…
Uyển lại chống tay ngồi lên. Người đàn ông tới bên giúp đỡ cô ngồi tựa vào tường, rót đem lại cho cô một ly nước và thong thả nói:
- Nếu tôi bảo tôi đã từng chết rồi thì liệu cô có tin không?
Uyển uống hết ly nước, lắc đầu ngao ngán:
- Lúc này tôi thật sự không còn lòng dạ nào để nói đùa với ông đâu, xin ông đừng phiền…
Rồi nhìn ra ngoài trời, Uyển giật mình nói:
- Thôi, tôi xin phép về nhà, trời đã tối rồi!
Vừa nói, Uyển vừa bỏ chân xuống đất loạng choạng đứng lên.
Người đàn ông ngồi im nhìn cô và nói nhỏ:
- Cô chưa đi nổi đâu! Cô cứ yên tâm ở lại đây nghỉ một đêm đi, tôi đảm bảo sẽ không xảy ra chuyện gì với cô đâu!
Uyển cười khẩy:
- Ông tưởng tôi còn sợ chuyện gì? Giờ đây đối với tôi tất cả không còn gì là quan trọng hết, cho nên dù chuyện gì xảy ra đi nữa cũng không làm tôi sợ hãi đâu, vì tôi đã nếm đủ hết rồi, đã đi tới cái tột đỉnh của khổ đau rồi ông ạ! Tôi muốn về là vì tôi không muốn ở lại đây thôi…
- Thế thì tùy cô, tôi không ép. Nhưng tôi nói trước, cô không đủ sức đi về đâu!
Người đàn ông buồn rầu nói.
Uyển không trả lời. Cô lần tay vịn vách tường lần mò ra cửa.
Đứng ở bậc cửa, Uyển không sao nhìn được ngoài kia là đâu, vì xung quanh cô chỉ là một màn đêm đen kịt, dày đặt như có ai đó lấy một tấm vải đen trùm lên hết bầu trời, không để sót lại một ngôi sao nào, dù là ở tận cuối chân trời xa thẳm đằng kia…
- Đây là đâu?
Uyển ngơ ngác hỏi.
Người đàn ông vẫn ngồi bất động trên ghế lên tiếng trả lời cô:
- Đây là cõi hư vô…
- Tôi không đùa với ông!
Uyển hét lên tức giận.
- Tôi cũng có đùa với cô đâu!
Người đàn ông điềm tĩnh nói.
Uyển quay phắt người lại, nhìn chăm chú vào mặt ông ta:
- Ông nói đi, nói cho tôi biết đi! Đây là đâu? Có cách xa nhà tôi lắm không? Ông đem tôi về đây bằng cách nào? Và bây giờ làm sao tôi mới trở về nhà tôi được?
Người đàn ông lấy ngón tay quẹt ngang mấy giọt sáp đèn cầy đang nhễu xuống, ông đưa lên ngang mắt quan sát như nhà nghiên cứu đang cố tìm ra điều gì bí ẩn bên trong đó vậy.
Mãi một lúc sau ông mới nói:
- Đây là một nơi không xa nhà cô mấy, nhưng cũng không phải là gần. Tôi đem cô về đây bằng cách nắm tay cô dẫn đi. Nếu cô muốn trở về nhà thì cô cứ bình thản lên chiếc giường này và ngủ một giấc, có vậy mới đủ sức khỏe mà về nhà chứ!
Uyển vô cùng tức giận trước câu trả lời kiểu huề vốn của ông ta. Cô muốn hét lên, muốn đập phá cho hả giận nhưng thật sự cô không còn mấy sức lực để làm việc đó.
Nước mắt trào ra, Uyển nghẹn ngào và bỗng nhiên cô thấy thật tội nghiệp cho thân mình quá. Cô đã và đang bị người đời giễu cợt. Người cô yêu thương giễu cợt cô, và bây giờ đến một người hoàn toàn xa lạ này cũng đem cô ra làm trò đùa nữa hay sao?
Chừng như đọc được ý nghĩ của Uyển, người đàn ông chậm chạp đứng lên đi ra cửa nhẹ nhàng dìu cô trở lại giường và nói:
- Cô đừng nghĩ tôi đang đùa giỡn với cô. Những gì tôi nói với cô là sự thật hoàn toàn. Đây là một nơi lơ lửng giữa hai cõi âm dương, là nơi mà những vong hồn vất vưởng tạm lấy làm chốn nương thân chờ ngày mãn số…
Uyển kinh ngạc:
- Ông nói sao? Đây là nơi… là nơi của những vong hồn…?
Người đàn ông khe khẽ gật đầu.
- Vậy là tôi đã chết rồi sao?
Uyển hỏi như reo lên.
Người đàn ông lắc đầu:
- Không, cô vẫn chưa chết! Giờ này thân xác cô vẫn còn ấm nóng, trái tim cô vẫn còn đập dù nó đã rất mệt mỏi rồi. Giờ này ở nhà cô mọi người đang ra sức chạy chữa để cô được sống lại… Cô hãy nghỉ ngơi đi, nghỉ ngơi cho lại sức rồi quay về đoàn tụ với họ…
Uyển níu lấy tay người đàn ông khóc ròng:
- Không… không…! Tôi xin ông, tôi xin ông hãy cho tôi ở lại đây, đừng bắt tôi phải trở về nơi đó… Tôi chán sống kiếp người lắm rồi ông ơi…
Người đàn ông vỗ nhè nhẹ lên bờ vai đang run lên theo từng cơn nức nở của Uyển, ông ấn cô ngồi xuống giường và nói:
- Cô có biết cuộc sống ở nào không mà đòi ở lại đây? Ở đây không hề có ánh mặt trời, cũng không có trăng sao. Tất cả chỉ là màn đêm đen tối hoặc ánh sáng mờ nhạt âm u… Ở đây không có tiếng cười, không có gì cả… ĐaÕ rất nhiều người ân hận khi tới đây. Cuộc sống ở trần gian tuy lắm khổ đau nhưng vẫn có ý nghĩa, còn ở đây ngày tháng cứ lê thê, linh hồn vất vưởng, sống không ra sống chết không ra chết. Muốn trở về dương thế cũng không được, mà muốn xuống âm ty cũng không xong. Trở nên những kẻ vô thừa nhận, tồn tại mà như không tồn tại, hiện diện đó mà như không hề có mặt… Cuộc sống như thế đau đớn lắm cô à… Tại vì cô chưa trải qua, cô cứ nghĩ tìm tới cái chết là trốn chạy được bao nhiêu niềm đau mà mình phải đeo mang, nhưng cô có biết không, nơi này chính là nơi nỗi đau đớn hiện diện rõ ràng nhất. Cô hãy nghe lời tôi đi, cô phải quay về với cuộc sống của mình… Rồi tất cả những nỗi đau kia sẽ nguôi dần theo năm tháng… Không có cái gì tồn tại mãi với thời gian đâu, cô nên nhớ điều đó để đừng quá bi quan. Hết mưa chắc chắn trời lại sáng!
Người đàn ông nói thật nhiều nhưng không sao lay chuyển được Uyển. Cô cứ khóc ròng, cứ một hai đòi được ở lại đây mà không chịu về nhà.
Uyển rất sợ cảnh ngày ngày phải chạm mặt vợ chồng Khiêm, phải chứng kiến họ bên nhau hạnh phúc, cô biết sức mình sẽ không chịu đựng nổi cảnh đó đâu.
- Tôi cũng đã lầm tưởng như cô! Tôi đã quá phẫn uất khi người vợ mà tôi hết lòng yêu quý cưng chìu lại đi cấu kết với thằng bạn thân nhất của tôi để hãm hại tôi. Mất vợ, mất cả gia tài, lại còn phải mang nhiều điều tiếng không hay, tôi đã dại dột tìm tới cái chết. Cứ tưởng thế là xong, thế là chấm dứt được mọi nỗi đau trần thế. Nhưng cô có biết không, ở đây, ngày ngày tôi lại nghe được, thấy được những cảnh âu yếm của vợ tôi và người đàn ông đó, những cảnh mà nếu còn sống thì tôi sẽ không chứng kiến được đâu, rồi tôi còn thấy được nỗi đau của các con tôi. Tôi hối hận quá, nhưng tất cả đã muộn màng rồi. Giờ đây tôi chỉ là một linh hồn nhỏ bé, nghe được, thấu hiểu được hết mọi điều nhưng lại không làm gì được, không giúp gì được cho các con tôi… Giả sử như tôi còn sống thì mọi việc sẽ khác đi. Có thể tôi mất vợ, mất gia tài, mất danh dự… mất tất cả những tôi còn có thể lo được cho các con, còn có thể yêu thương chúng… Nếu cô chết đi, ngày ngày nhìn thấy gia đình mình, thấy mẹ mình cô sẽ không chịu nỗi đâu. Và ngay cả những điều mà cô muốn trốn tránh, những điều mà vì nó cô mới tìm tới cái chết… cô cũng không sao trốn được. Cô sẽ phải chứng kiến nó mỗi ngày, đối diện nó mỗi ngày…
Người đàn ông vẫn kiên nhẫn phân tích điều hơn lẽ thiệt cho Uyển nghe. Cô khóc lả người và không ngồi vững nữa mà từ từ nằm xuống rồi thiếp đi lúc nào không biết.
Có tiếng ồn ào, tiếng chân bước vội vã làm Uyển chợt thức giấc. Vừa hé mắt ra, một luồng ánh sáng chói lòa làm cô vội vàng nhắm ngay lại. Một lúc sau mới từ từ mở ra lần nữa.
Ô kìa, lạ chưa? Đây là căn phòng quen thuộc của cô mà? Và trước mắt cô là gương mặt gầy gò của mẹ. Ôi, sao tóc mẹ lại bạc nhiều thế kia? Uyển muốn kêu lên, nhưng cô chỉ mới mấp máy môi chưa kịp phát ra tiếng đã nghe mẹ mẹ cô reo lên mừng rỡ:
- Tỉnh rồi! Nó tỉnh lại rồi!
Có tiếng người nói chuyện lao xao, rồi có vật gì đó chạm khẽ vào môi Uyển. Cô nhận thấy môi mình ấm và ướt. Đúng rồi, chắc mẹ đang cho cô uống nước, chỉ có mẹ mới biết Uyển đang khát cháy cả cổ đây!
Uyển hé môi cố nuốt trọn những giọt nước ít ỏi mà mẹ thấm vào môi mình rồi mở hẳn mắt ra.
Mẹ, dì và những người thân yêu đang đứng quanh cô, nét mặt ai cũng căng ra, vừa lo lắng vừa mừng rỡ.
Thấy Uyển mở mắt và có vẻ đã nhận biết được mọi người xung quanh, mẹ Uyển òa khóc:
- Trời ơi, cảm ơn trời phật thương tình! Con tôi đã tỉnh lại rồi! Hai hôm nay con làm mẹ lo sợ biết bao…
Uyển cố nhấc tay mình lên để nắm lấy tay mẹ. Nước mắt cô cũng lăn dài, nhưng bây giờ không còn là những giọt nước mắt khổ đau nữa mà là những giọt nước mắt hối hận vô biên.
Uyển đã nhớ lại tất cả, nhớ việc tự tử không thành, nhớ lại cõi hư vô mà hồn mình đã tới và nhớ rất rõ những lời người đàn ông đã nói.
Bây giờ thì cô đã thật sự hiểu rồi!
Hai ngày sau nữa thì Uyển đã hoàn toàn tỉnh táo. Cô ăn uống và lại sức rất mau.
Dù mẹ ngăn cản nhưng Uyển vẫn nhất định bắt tay vào công việc buôn bán như bình thường.
Người xa lạ nhìn vào không thể tin được cô chính là kẻ đau khổ vì tình mới vừa suýt chết. Cô làm việc, nói cười một cách bình thản như chưa hề có chuyện gì xảy ra.
Một vài người tốt bụng thấy cô như thế cũng thầm ái ngại trong lòng, còn những kẻ xấu thì tò mò, muốn hiểu rõ tâm tư Uyển nên nhiều lần thử nhắc tên Khiêm trước mặt cô:
- Nghe nói vợ chú Khiêm vừa cấn bầu rồi, nhanh thiệt cô Uyển há? Mới cưới đây mà…
Uyển trả lời tỉnh bơ:
- Hai người đó cũng đâu còn trẻ tuổi gì nữa, phải để cho người ta tranh thủ có con chứ, kẻo không sau này cha mẹ già nuôi con mọn thì khổ!
Người ta quá bất ngờ trước thái độ tỉnh queo của Uyển, họ không chấp nhận kết quả đó, mà cái họ muốn là phải trông thấy Uyển đau đớn hoặc ít ra cũng phải tái mặt quay đi để che giấu cảm xúc. Bởi thế khi chăm chú nhìn vẫn không thấy gì khác ngoài sự dửng dưng, họ lại bồi thêm một cú nữa đau hơn để thử thách cô:
- Chú Khiêm lấy vợ rồi, bao giờ thì đến lượt cô Uyển lấy chồng đây?
Uyển phá ra cười:
- Khi nào có người đến hỏi cưới thì cháu mới lấy chồng được chứ, chẳng lẽ dì bảo cháu chạy ra đường bắt lấy đại một người về làm chồng sao?
Chính thái độ dửng dưng và những câu pha trò tếu táo của Uyển đã giúp cô tránh được sự xoi mói của những người nhiều chuyện. Bởi vì những người đó chỉ cảm thấy thích thú khi lời nói của mình làm cho người khác đau đớn hoặc xấu hổ mà thôi, chứ một khi không làm được điều đó thì họ chán, không thèm quan tâm nữa.
Thật ra trong sâu thẳm lòng Uyển, cô vẫn chưa quên Khiêm được. Làm sao có thể quên đi một người mà mình đã hết lòng thương yêu một cách nhanh chóng như vậy được? Nhưng Uyển đã xác định được một điều, dù cô thương yêu cách mấy thì cô cũng không giữ được Khiêm, dù cô đau khổ cách mấy cũng không làm được gì hòng cứu vãn… Vậy thì thôi, cô sẽ cố gắng quên, cố gắng sống vui để ít ra mẹ cô và những người thân bên cạnh được yên lòng, không phải lo lắng gì thêm cho cô nữa.
Cô thầm nhủ với lòng, một kẻ khốn nạn như Khiêm không xứng đáng để cô phải rơi nước mắt. Chẳng qua cô khóc là vì tự thương lấy bản thân mình thôi, là vì thấy mình sao khờ khạo quá, ngây thơ quá, bị người ta lừa gạt đến trắng tay mà vẫn không hay biết, chỉ biết được khi người ta thẳng thừng đá cho một đá đau điếng cả người!
Thôi, tất cả những gì mất đi cô cố xem như là một tai nạn. Cô tự an ủi mình: Tại phần số mình nó vậy. Không giữ được thân, không giữ được tiền của. Thì cứ coi như mình vừa trải qua một tai nạn thập tử nhất sinh, thân thể và tinh thần đều bị thương tổn nặng nề, bầm dập tả tơi… mình phải bỏ ra một số tiền lớn mới cứu đựơc mạng sống. Thế đấy, hãy xem là như thế để đỡ phải đau buồn…
Ngày ngày, Uyển luôn nhắc nhở mình điều đó, riết rồi như một phép tự kỷ ám thị, cô cảm thấy như đó là một sự thật, thế cho nên nỗi đau cũng dần dần sớm nguôi nhạt trong cô.
Nói về vợ chồng Khiêm. Lúc mới cưới ai nhìn vào cũng cho đó là một cặp vợ chồng vô cùng hạnh phúc, xứng lứa vừa đôi.
Diễm - vợ Khiêm, là một trong những mối hàng của mẹ Uyển. Do sự giao tiếp làm ăn nên hai người thường xuyên gặp gỡ tiếp xúc nhau. Khiêm lóa mắt vì sự hào nhoáng bên ngoài của Diễm. Còn Diễm, cô chẳng yêu thương gì Khiêm, chẳng qua cô có một người tình là Việt kiều, nhưng anh ta là người đang có vợ con, nên mối quan hệ giữa Diễm và anh ta chỉ nằm trong bóng tối.
Do bất cẩn, Diễm đã có thai với anh chàng Việt kiều đó, cô lại không muốn phá bỏ cái thai đó đi vì cô thật sự yêu thương người đàn ông ấy, cô muốn có với người đó một kỷ niệm không thể phai nhòa.
Nhưng đồng thời Diễm cũng không muốn thanh danh mình ô uế, không muốn mình trở thành đầu đề bàn tán của những kẻ ngồi lê đôi mách, và cô cũng muốn đứa con mà cô sinh ra sẽ được sống trong một gia đình đàng hoàng như bao nhiêu đứa trẻ khác.
Sau nhiều lần tiếp xúc với Khiêm, Diễm nhận thấy Khiêm là một thanh niên đẹp trai, ăn nói khôn ngoan có thể giúp đỡ cho cô trong việc buôn bán. Mà quan trọng hơn cả, Diễm nhận ra được một điều, nếu có đồng tiền trong tay thì cô sẽ rất dễ dàng điều khiển Khiêm theo ý muốn của mình.
Chính vì lý do đó mà Diễm đã chọn Khiêm làm cha cho đứa con mà cô đang mang trong bụng.
Khiêm lại không biết những điều đó. Khiêm cứ ngỡ Diễm bị khuất phục bởi vẻ đẹp tài tử và những lời ngọt ngào đường mật của mình.
Thật sự trong lòng Khiêm cũng có một chút tình cảm với Uyển chứ không phải không có. Tuy nhiên tình cảm đó không đủ lớn để đè bẹp được lòng tham của Khiêm.
Khiêm biết Uyển đã dốc hết tiền cho mình rồi, hai người cưới nhau về sẽ phải làm lại từ đầu thôi, vì gia đình Uyển cũng đâu giàu có gì đâu, chẳng qua do Uyển biết lo xa, biết dành dụm nên mới có được số vốn đó mà thôi.
Còn nếu Khiêm lấy Diễm thì nghiễm nhiên sẽ trở thành chủ nhân của ngôi nhà lầu ba tầng ở ngay mặt tiền, cộng với mấy lô đất ở toàn những nơi đắt địa mà trong tương lai có thể tính từ tiền tỉ trở lên.
Khiêm tưởng thế nên đã thật nhẫn tâm đối với Uyển, có như vậy mới nhanh chóng rũ bỏ được Uyển, tránh được những lằng nhằng không tốt về sau.
Và cũng vì tưởng thế nên Khiêm giống như người bị té từ trên cao xuống khi phát hiện ra Diễm đã có thai với người khác trước khi về làm vợ mình! Cắn răng nuốt nhục, cố gắng nghĩ tới gia tài đồ sộ của diễm để tự an ủi mình, nhưng một lần nữa Khiêm đau điếng người khi biết toàn bộ gia sản, Diễm đã rất khôn ngoan để riêng ngoài dang mục tài sản chung của vợ chồng! Có nghĩa là Khiêm cưới Diễm nhưng sẽ không xơ múi gì được vào gia tài của Diễm!
Hồi chưa cưới, đối với Khiêm, Diễm rất hào phóng. Nhưng khi cưới nhau rồi Diễm lại chi li từng đồng, kiểm soát từng đồng, hôm nào Khiêm lỡ vui với bạn bè chi tiêu hơn số tiền quy định mỗi ngày là hôm đó Diễm nổi tam bành, không nể nang gì tới mẹ chồng:
- Anh đừng có tưởng tôi là cái mỏ vàng để anh đào đâu nhé! Tôi làm ra tiền cũng cực khổ vất vả lắm, nuôi anh, nuôi cả gia đình ăn mặc đầy đủ vậy là quá tốt rồi, anh đừng được nước làm càn…
Khiêm chỉ biết nhịn nhục cho qua. Khiêm rất muốn quát mắng lại, nhưng biết nói sao đây? Khi biết ra sự thật người ta sẽ còn chê cười chứ đâu có ai bênh vực hay thương hại mình đâu! Nghĩ vậy nên Khiêm không bao giờ dám nhắc tới chuyện cái thai trong bụng Diễm.
Diễm được nước càng ngày càng lấn tới. Cuộc sống vợ chồng đối với Khiêm lúc này thật sự giống như một địa ngục ở ngay giữa trần gian.
Và hơn lúc nào hết, Khiêm cảm tháy ăn năn hối hận vì những điều mình đã làm đối với Uyển.
Đã nhiều lần vô tình gặp Uyển trên đường, Khiêm chỉ muốn gọi Uyển đứng lại để nói với cô một lời xin lỗi nhưng tiếng nói tắt nghẹn nơpi cổ họng, không sao thốt lên lời được.
Khiêm suy nghĩ, tính toán đủ mọi bề, muốn có được một số tiền kha khá để trả lại cho Uyển hòng để lương tâm mình nhẹ đi đôi chút, nhưng hoàn toàn không có cách nào khả thi.
Bời vì, sống với Diễm trên danh nghĩa là chồng Diễm nhưng thực tế Khiêm chỉ là một kẻ làm công. Mỗi ngày Khiêm được Diễm phát cho mấy ngàn đủ để cà phê, thuốc lá. Căm ăn áo mặc đã có Diễm lo, Khiêm không còn có hội nào tiếp xúc với tiền bạc nữa.
Mà cái số vốn riêng của Khiêm trước đây do Uyển đưa cho cũng đã bị Diễm sáp nhập vào vốn của mình, nên hịên tại Khiêm trở thành kẻ trắng tay.
Đôi khi Khiêm chán nản, muốn chia tay Diễm, nhưng nghĩ lại Khiêm không đủ can đảm. Vì dẫu sao giờ đây cuộc sống của Khiêm và mẹ Khiêm vẫn được đảm bảo no cơm ấm áo. Nếu buông Diễm ra, Khiêm phải ra đi với hai bàn tay trắng, chắc chắn Uyển không bao giờ chấp nhận Khiêm lần nữa, rồi Khiêm biết sống sao đây?
Lâu nay Khiêm đã quen sống dựa vào Uyển, vừa buông Uyển ra Khiêm đã dựa ngay vào Diễm rồi, Khiêm không nghĩ mình có thể tự đứng vững một mình được.
Thế cho nên dù cay đắng lắm, bức bối lắm, nhục nhã lắm nhưng Khiêm vẫn phải cắn răng nín chịu không một lời than oán cùng ai. Và giờ đây, thỉnh thoảng Khiêm lại cười thầm mai mỉa mình: “Bụng làm dạ chịu chớ có than van…!”
Trong một lần cãi nhau kịch liệt với Diễm, Khiêm điên tiết muốn ra tay phá hủy tất cả rồi mọi việc có ra sao thì ra. Giữa lúc hừng hực đó, có người tới trả cho Diễm một món tiền lớn. Diễm đang ở nhà sau, cũng giống như những lúc Diễm đi đâu vắng nhà, Khiêm ký nhận thay Diễm. Những lần trước không bao giờ Khiêm dám giấu nhẹm số tiền mình nhận để tiêu xài riêng, vì Khiêm rất sợ những trận tam bành của diễm.
Riêng lần này, Khiêm đang nổi máu điên, không còn nghĩ gì tới hậu quả nữa. Vừa đút túi số tiền gần chục triệu đồng, Khiêm nhanh nhẹn thay quần áo bỏ đi ra ngoài.
Nỗi cay đắng dâng lên ứ nghẹn trong Khiêm. Mang dang chồng Diễm, dù gì cũng là một ông chủ nhỏ, vạy mà cả cái xe gắn máy của mình, do chính Uyển mua cho mình mà mình cũng không được làm chủ. Toàn bộ giấy tờ Diễm cất giữ hết, khi nào cần đi đâu, phải nói rõ ràng nơi đi nơi đến, khi nào được sự đồng ý của diễm thì cô ta mới đưa giấy tờ, chìa khóa xe cho.
Khiêm vừa làu bàu đá văng một chiếc vỏ chai bên đường thì vừa lúc chiếc xe đò Sài Gòn trờ tới.
Đang chán đời, muốn bỏ đi đâu đó cho khuây khỏa mà chưa biết đi đâu trong cái địa phương nhỏ xíu này, trông thấy chiếc xe đò đang bóp kèn tin tin gọi khách, một ý nghĩ lóe lên trong đầu Khiêm. Thế là Khiêm nhảy tót lên xe, nghiễm nhiên đi Sài Gòn một chuyến, và lòng Khiêm cảm thấy lâng lâng, trong túi mình có đến chục triệu, lo gì!
Lên tới Sài Gòn, Khiêm trở nên lúng túng. Không quen ai, không biết đường đi nước bước ở nơi đây, Khiêm cứ lớ ngớ đúng như câu “dân quê lên tỉnh”.
Trời sắp tối rồi, chẳng lẽ bây giờ lại đón xe quay ngược trở về? Không, không thể được! Mình phải làm cho nó một trận để nó biết mặt mà nể nang mình, không cho nó trèo lên đầu lên cổ mình nữa! Hừ, đừng tưởng ông đây là con rối trong tay muốn giật kiểu nào thì giật! Tức nước sẽ vỡ bờ thôi cô ạ! Tôi phải trả thù cô, cho cô biết mặt!
- Anh hai ơi, anh đi đâu mà nãy giờ tôi thấy anh cứ loanh quanh ở đây hoài vậy? Anh đi đâu lên xe tôi chở đi cho, lấy giá rẻ thôi mà, đừng sợ…
Một anh xe ôm rề sát bên Khiêm chào mời.
Khiêm lúng túng, nói dối:
- Tôi… à, tôi tìm nhà người quen mà bỏ thất lạc địa chỉ rồi, nên không biết đi đâu…
- Anh có nhớ nhà người quen của anh nằm ở đoạn đường nào? Phường nào, quận nào không? Tôi sẽ chở anh đến đó hỏi thăm từng nhà…
Người xe ôm nhiệt tình.
Khiêm thoái thác:
- Không… không… Tôi… tôi không nhớ đường nào cả!
- Nhưng chắc ở quận nào thì anh nhớ chứ?
Người xe ôm vẫn không thôi.
Khiêm đáp bừa:
- Nhớ, ở quận Năm!
Anh xe ôm cau mày suy nghĩ một lát rồi reo lên:
- Tôi nghĩ ra rồi, bây giờ tối rồi, anh không thể tìm được nhà ngay đâu! Đẻ tôi chở anh đi tìm một phòng trọ nào đó nghỉ đỡ đêm nay, rồi sáng mai anh ra ủy ban phường, nói tên họ, quê quán của người quen, cán bộ ở phường họ tra sổ sẽ tìm ra ngay thôi mà!
Khiêm chẳng quan tâm gì đến chuyện tra sổ tra sách nhưng nghe nói tới phòng trọ nghỉ qua đêm là Khiêm đồng ý liền, vì lúc này Khiêm cũng rất cần một nơi để nghỉ qua đêm nay.
Anh xe ôm nhiệt tình chở Khiêm đi vòng vòng, bảo là để kiếm nơi nào vừa sạch sẽ vừa giá cả phải chăng. Cuối cùng, anh ta dừng lại trước một căn nhà trông có vẻ khá sang trọng và nói với Khiêm:
- Anh vô đây nghỉ đi, ở đây người ta tính giá bình dân lắm, đừng thấy nhà cửa sang vậy mà sợ!
Rồi anh ta nháy mắt nói thêm:
- Nếu anh có nhu cầu, thì cái khoản “em út” kia cũng có sẵn, cũng rất bình dân…
Khiêm cười, trả tiền xe và nói mấy câu cảm ơn xã giao rồi lững thững đi vào.
Ngay đêm đó, sẵn có tiền trong tay, sẵn đang muốn trả thù Diễm, sẵn đang buồn tình… Rất nhiều cái sẵn ấy đã khiến Khiêm lần đầu tiên buông thả mình vào vòng tay mơn man của đám gái làng chơi đặc mùi son phấn rẻ tiền!
Khi đã thỏa mãn và ngủ một giấcngon lành, sáng ra Khiêm bắt đầu cảm thấy hơi lo lo khi số tiền tỏng túi mình đã vơi đi quá nửa. Tiền xe, tiền trọ, tiền cho khoản tế nhị kia cũng không đến nỗi hao phí như vậy, chỉ là do trong lúc bốc đồng, Khiêm đã vung tay boa cho các em một cách quá trớn để được thấy mình trở thành một người đàn ông đáng nể trong mắt các em.
Sáng, không kịp uống ly phê, Khiêm vội vã ra bến xe để trở về nhà. Trong đầu đang vạch ra nhiều lý do để đối phó với Diễm.
Khi cơn điên của Khiêm đã qua đi, Khiêm lại trở về là một thằng đàn ông vô cùng sợ vợ!
Lần đó, khỏi phải nói cũng biết Khiêm phải chịu đựng những lời mắng chửi, khóc lóc và nguyền rủa đến mức nào của Diễm, và cũng từ hôm dó, Khiêm càng bị Diễm quản lý chặt chẽ hơn.
Diễm sinh con, một bé gái nặng ba ký tư xinh như một con búp bê. Mọi người xung quanh ai gặp Khiêm cũng chúc mừng, ngay cả mẹ Khiêm cũng quýnh quáng mừng vui lo lắng cho cháu nội, chỉ riêng mỗi một mình Khiêm là thờ ơ như chuyện đó không có gì dính dáng tới mình. Mà không dính thật! Chỉ mỗi Khiêm và Diễm biết điều đó.
Từ ngày có con, Diễm càng coi Khiêm không ra gì, mẹ con Khiêm ngày càng giống những người ở trong nhà Diễm.
Không chịu đựng nỗi sự hà khắc vô lý của con dâu, mẹ Khiêm dù rất quyến luyến cháu nội nhưng cũng đành bỏ về ở nhà mình.
Bởi vì, mỗi lần bà bế con bé thì Diễm lại giằng lấy, khi thì lấy cớ cho nó uống sữa, khi thì thay áo thay quần cho nó. Bà nhận ra rõ ràng Diễm không muốn bà chạm vào con gái của cô!
Đã có đôi lần bà than phiền với Khiêm về điều đó, những Khiêm chẳng nói chẳng rằng, chỉ lắc đầu một cách ngao ngán.
Mãi đến một hôm, không chịu đựng nỗi, bà gay gắt với Khiêm:
- Mầy phải dạy vợ mầy lại chứ! Dù sao con bé cũng là cháu nội của tao, phải cho tao cái quyền được bồng ẵm nó chứ!
Khiêm cười cay đắng và nói như bâng quơ khiến bà cảm thấy hết sức hoang mang:
- Thì mẹ cứ nghĩ nó không phải là cháu nội của mẹ đi, như vậy sẽ khỏe hơn! Như con vậy, mẹ có bao giờ thấy con đụng tới đứa bé chưa?
- Con nói sao? Con bé đó…
Bà mẹ hấp tấp hỏi.
Khiêm lảng đi:
- Con đâu có nói gì! Hoàn toàn không nói gì, mẹ muốn hiểu sao tùy mẹ…
Nói xong Khiêm bỏ đi ra ngoài để lại bà mẹ với thật nhiều thắc mắc trong lòng.
- Đúng rồi! Từ hồi vợ nó sanh tới hôm nay, chưa khi nào thấy nó ngó ngàng tới ocn bé… Lẽ nào… lẽ nào đứa bé đó không phải là con của nó? Mà cũng có thể lắm chứ! Xét ra con bé đâu có nét nào giống thằng Khiêm nhà mình đâu? Trời ơi… chẳng lẽ mẹ con mình thật sự bị quả báo hay sao hở Khiêm?
Bà khó một lúc rồi rón rén vào phòng đứng ngắm con bé, cố tìm ra một chút gì đó phảng phất gống Khiêm để lòng già được an ủi, nhưng thật sự dù có cố gắng đến đâu bà vẫn không tìm được chút gì hình ảnh con trai bà trên người của đứa bé.
Buồn tủi, thất vọng, day dứt lương tâm, bà lặng lẽ cuốn gói về lại nhà mình và ngày ngày nhớ lại cái hôm thằng Khiêm vui vẻ đem tiền về cho bà sửa lại nhà:
- Uyển đưa cho con bảo sửa lại nhà, hôm rồi tới chơi thấy mưa dột ướt chỗ mẹ nằm cô ấy không chịu nổi!
Nước mắt bà lăn dài trên đôi má nhăn nheo sầu muộn…
Khiêm đã quen rồi với cuộc sống bị kìm kẹp đầy tủi nhục, và Khiêm cũng không còn mong mỏi điều chi nữa, Khiêm tự dặn mình ráng mà sống để trả cho đời những gì mình đã vay mượn.
Vì nghĩ vậy nên Khiêm không lần nào gây gỗ với Diễm nữa. Diễm sai biểu gì Khiêm cũng làm, nói gì Khiêm cũng gật. Khiêm bvắt mình phải đóng tròn vai một người máy, một con chó trung thành chỉ biết tuân lệnh chủ.
Cứ tưởng đã nhẫn nhục vậy rồi thì cuộc ssông của Khiêm sẽ được bình yên cho đến ngày xuôi tay nhắm mắt. Nhưng không ai biết được chữ ngờ, Khiêm lại vướng vào một căn bệnh nan y không thuốc chữa!
Mới đầu Khiêm chỉ đau ốm xoàng thôi, cũng không quan tâm tới chuyện thuốc men gì, vì cứ nghĩ giống như những lần trước, nóng lạnh, cảm ho gì cũng mặc, bỏ thí vài hôm sẽ tự khỏi.
Nhưng lần này thì nó không khỏi mà cứ kéo dài ra mãi và còn sinh ra nhiều chứng khác đi kèm. Đến nỗi Diễm đâm lo, không biết Khiêm có bị bệnh truyền nhiễm gì không sợ sẽ lan truyền sang con gái bé bỏng yêu dấu của mình, nên đích thân Diễm đã đốc thúc và dẫn Khiêm đi lên bệnh viện tỉnh để khám.
Coi bộ Khiêm không phải bệnh xoàng, vì người ta làm rất nhiều xét nghiệm, mà toàn những xét nghiệm quan trọng, không lấy kết quảt liền được mà họ hẹn đến mấy ngày sau.
Khiêm thì vẫn vô tư, không hề lo lắng gì những Diễm lại nơm nớp hồi hộp.
Đến ngày hẹn, Diễm đi lấy kết quả thật sớm, và… đất trời như đảo lộn quanh Diễm khi cô biết Khiêm đang vướng phải căn bệnh thế kỷ mà ai ai cũng đều sợ hãi. Khiêm đã bị nhiễm HIV!
Đau đớn, hoảng loạn và căm tức, Diễm lồng lộn chửi mắng Khiêm rồi tức tốc bế con đi xét nghiệm.
Những ngày chờ đợi kết quả là những ngày dài khốn khổ nhất của Diễm. Cô có cảm giác lưỡi hái tử thần đang kề sát vào cổ cô, chỉ chờ một hịêu lệnh là nó sẽ lập tức cứa sâu vào…
Nhưng may mắn thay, cả Diễm và đứa bé đều bình an vô sự!
Diễm mừng như điên.
Ngay hôm đó, cô đã nói thẳng cho Khiêm biết chứng bệnh mà Khiêm đang mắc phải và thẳng thừng đề nghị ly hôn.
Khiêm sững sờ trước hung tin, rồi bỗng cười lên sằng sặc khi nghe lời đề nghị của Diễm.
Thấy Khiêm cười như điên loạn, Diễm đâm ra sợ hãi, cô không dám nặng lời với Khiêm nữa mà nhỏ nhẹ dỗ dành.
Cô đồng ý chi cho Khiêm một số tiền lớn để Khiêm chữa bệnh với điều kiện Khiêm đồng ý ly hôn và không bao giờ tới đây làm phiền cô nữa.
Khiêm đồng ý ngay, không phải vì số tiền Diễm hứa cho mà là vì hịên tại Khiêm đã hiểu cuộc đời mình sắp kết thúc rồi! Mình phải trả cả vốn lẫn lời cho gì mình đã vay trước kia. Khiêm không muốn gây thêm khó khăn cho người khác nữa…
Tin vợ chồng Khiêm ly hôn làm nhiều người bất ngờ, nhưng Uyển vẫn bình thường, cô không tỏ vẻ gì buồn vui hay thắc mắc.
Người ta đồn ầm lên, nào là sống với Diễm mà Khiêm luôn nhớ tới Uyển nên bị Diễm ghen tuông, nào là Diễm không chịu đựng nỗi cái tính lười biếng của Khiêm… vân vân và vân vân. Nhưng cái lý do chính yếu thì không ai biết được. Bởi vì Diễm đã giấu kín chuyện này. Cô sợ mọi người xa lánh cô và con gái, sợ mẹ con cô sẽ bị sống cô lập giữa cuộc đời.
Khiêm lại về sống với mẹ tại ngôi nhà của mình, hai mẹ con hạn chế tối đa việc giao tiếp với mọi người xung quanh vì những mặc cảm bản thân và cả vì chứng bệnh của Khiêm nữa, mặc dù không ai biết Khiêm mắc căn đó.
Khiêm thường xuyên vắng nhà một vài tuần, ban đầu người dân quanh đó cũng thắc mắc, tò mò tìm hiểu nhưng lâu dần người ta cũng quen đi, không ai còn hứng thú soi mói nữa.
Thời gian cứ thế bình lặng trôi qua, Uyển chuẩn bị lấy chồng. Chồng Uyển là một thầy giáo cấp hai, nhưng ngoài giờ dạy trên lớp anh rất siêng năng làm thêm đủ mọi việc.
Mẹ Uyển mừng rơi nước mắt vì thấy cuối cùng rồi con gái mình cũng tìm được một tấm chồng xứng đáng.
Với người thầy giáo này, mẹ Uyển đã vui vẻ bằng lòng ngay từ đầu, từ lúc Uyển chưa thật sự có cảm tình.
Giữa lúc gia đình Uyển bận rộn chuẩn bị cho ngày cưới thì nhà của mẹ con Khiêm chính thức bị giải tỏa.
Việc giải tỏa đã được chính quyền địa phương tiến hành từ mấy năm nay, nhưng đây là thời điểm cuối cùng để thực hiện.
Không biết với mẹ con Khiêm, điều đó là may hay rủi?
Nhận được số tiền bồi thường khá lớn, mẹ con Khiêm lặng lẽ dọn đi nơi khác mà không một lời chào giã từ lối xóm xung quanh.
Một chiều Uyển có việc đi ngang qua lối cũ, nhìn cái nền đất trơ vơ mà cách đây chưa lâu lắm cô đã từng mơ đó sẽ là tổ ấm của mình, nước mắt Uyển ứa ra, không phải vì tiếc thương mối tình năm cũ mà là vì Uyển thấy tội nghiệp cho Khiêm.
Tới ngày cưới, Uyển bất ngờ nhận được một gói quà gửi đến mà không có tên người gởi.
Tò mò, Uyển không chờ đến khi tan tiệc được, cô len lén vào phòng riêng mở thử ra xem.
Thật không ngờ, trong gói quà nhìn thoáng qua có vẻ rất đơn sơ đó lại là một số tiền rất lớn.
Vừa trông thấy xấp tiền, Uyển suýt la lên vì hoảng sợ. Cô không biết người gởi có âm mưu gì đây, chứ chắc chắn không thể có một người nào đi mừng cưới cô bằng một số tiền to tát như vậy!
Nhưng Uyển đã kịp định thần lại, cô cầm goái quà lên săm soi kỹ lưỡng thì phát hiện bên hông gói quà có một dòng chữ được ghi bằng bút chì, mà nét chữ đó hoàn toàn không xa lạ với Uyển!
“Chúc em hạnh phúc. Hãy tha lỗi cho anh. Anh xin được gởi lại cho em phần nào số tiền em đã giúp anh lúc trước.”
Khiêm! Chắc chắn tác giả gói quà bí mật này là Khiêm rồi! Nhưng tại sao bỗng dưng Khiêm lại trả tiền cho cô? Khiêm hối hận ư? Sao lại hối hận vào thời điểm này mà không là thời điểm Uyển đau đớn tưởng đã chết đi? Có chuyện gì xảy ra với Khiêm sao? Lúc trước dù vợ chồng Khiêm ly dị, thấy Khiêm cũng đâu có vẻ gì đau buồn quá mức?
Thật nhiều câu hỏi xoáy trong đầu Uyển nhưng cô không tìm được lời giải đáp nào cho thỏa đáng.
- Thôi kệ anh ấy, mình quan tâm làm gì nữa! Tiền này trả cho mình thì mình giữ, thế thôi!
Uyển cố xua đi những ý nghĩ về Khiêm để quay về với ngày vui hạnh phúc của mình, nhưng cô vẫn không tránh khỏi những lúc thoáng nghĩ tới Khiêm và thắc mắc không biết điều gì đang xảy đến với anh.
Sau đám cưới ba ngày, một đêm Uyển ngủ mơ thấy mình đi đâu đó rồi lạc vào ngôi nhà của người đàn ông kỳ lạ mà đã có lần cô gặp gỡ tại một nơi có tên gọi là Cõi hư vô theo lời ông ấy nói.
Quang cảnh vẫn âm u, tranh tối tranh sáng như lần trước, vẫn ngôi nhà nhỏ vắng tanh không gì thay đổi.
Uyển đi lần vào nhà, miệng khẽ gọi:
- Ông ơi… ông có nhà không?
Vừa dứt tiếng gọi, Uyển thấy từ trong góc nhà lóe lên một tia sáng nhỏ, giống như ai đó vừa đánh một que diêm. Nhìn kỹ lại, thì ra người đàn ông ấy, trên bàn tay xương xẩu của ông vẫn là ngọn bạch lạp y như ngày trước.
- Ông à, ông vẫn còn ở đây sao?
Uyển vội hỏi.
Người đàn ông nhếch môi cười rất nhẹ:
- Cảm ơn cô, tôi cũng sắp đi rồi cô ạ!
- Đi? Ông đi đâu?
Uyển ngạc nhiên.
- Tôi đi đầu thai kiếp khác. Chỉ còn hai ngày nữa là kiếp này của tôi chấm dứt, đến ngày đó thì linh hồn tôi mới được đưa đi đầu thai, tôi sẽ không còn phải sống cảnh vật vờ như bao nhiêu năm qua nữa… Cô ơi, tôi vui lắm, tôi chờ đợi từng giây, từng phút…
Uyển tò mò nhìn ông:
- Ở nơi này thật sự đáng sợ như thế sao ông? Vậy mà lâu nay tôi cứ nghĩ ông nói vậy để hù dọa tôi, để tôi không nghĩ tới việc tự vẫn nữa…
Người đàn ông nhìn Uyển lắc đầu:
- Không, tôi không hề hù doạ cô! Tất cả những gì tôi nói với cô hôm đó đều là sự thật. Nếu cô không tin, cô cứ bước ra ngoài và cố im lặng lắng nghe xem!
Không dằn được sự tò mò, Uyển quay người bước trở ra cửa. Cô đứng dựa người vào cánh cửa, mắt ngó ra màn đêm dày đặc bên ngoài, hai tai cô dỏng lên nghe ngóng.
Hoàn toàn im lặng, không một tiếng côn trùng rỉ rả, cũng không một tiếng gió xạc xào. Những âm thanh quen thuộc mà đôi lúc Uyển cảm thấy chán ghét vì nó buồn bã quá, nó làm cho Uyển phải thao thức trong đêm để nhớ về quá khứ.
Nhưng lúc này Uyển mới nhận ra điều đáng sợ không phải là những tiếng nỉ non sầu thảm của giun dế, mà sự im lặng thế này mới đáng ghê sợ hơn hết. Nó làm cho bóng tối càng thêm huyền bí, nó làm đầu óc cô căng lên, căng lên như sắp vỡ bung ra.
Rồi bỗng dưng, từ trong sự im lặng rùng rợn đó lại vang lên một chuỗi âm thanh não nuột, nghe thê lương hơn cả tiếng kèn đám tang. Aâm thanh ấy chỉ vẳng đến một cách rất mơ hồ nhưng đủ làm cho Uyển sởn gai ốc.
Cô vội bước giật lùi vào trong, run giọng hỏi:
- Ông… ông ơi… đó là tiếng gì thế?
- Đó là tiếng khóc của những hồn ma. Họ đau khổ, họ khóc ngày khóc đêm… họ luôn chờ đợi ngày được đi hóa kiếp để trở lại làm người…
Người đàn ông bình thản trả lời.
Uyển sửng sốt:
- Làm người? Sao lạ vậy? Kiếp người của họ đã quá đau khổ, đau khổ tới mức họ không chịu đựng nỗi nên mới phải trốn chạy về đây. Vậy mà họ vẫn khao khát được làm kiếp con người nữa sao?
Người đàn ông nhìn chằm chằm vào ngọn nến, như không hề quan tâm gì tới câu hỏi của Uyển, nhưng miệng ông ta lại ôn tồn nói:
- Khi về sống ở đây, họ mới nhìn rõ được những niềm vui, hạnh phúc của kiếp người mà đáng ra họ cũng đã được hưởng. Nhưng vì không lúc nào con người chịu bằng lòng với những gì mình đang có trong tay, lúc nào cũng mong muốn, mơ ước những điều mình chưa có, thậm chí không có được. Họ cứ mãi ôm ấp nỗi buồn và cuộn mình trong đó mà quên đi những niềm vui đang ở xung quanh. Ở đây, họ mới hối hận cho bản thân mình, nên ai cũng thiết tha được làm người trở lại, để biết nâng niu gìn giữ từng hạnh phúc nhỏ nhoi. Nhưng có thể kiếp sau họ sẽ lặp lại những sai lầm của kiếp này vì khi đầu thai kiếp khác, họ hoàn toàn không nhớ lại được những cảm giác, suy nghĩ của kiếp đã qua… Cái vòng lẩn quẩn ấy đã làm nên cuộc đời đấùy cô ạ!
Người đàn ông ngừng một chút rồi nói tiếp:
- Cô có cái may mắn hơn chúng tôi là cô đến nơi này khi cô chưa chết, nên khi trở về với cuộc sống cô sẽ không quên. Vì vậy tôi tha thiết khuyên cô nên biết trân trọng và gìn giữ sự sống của bản thân mình, đừng bao giờ có ý nghĩ dại dột như trước đây nữa. Tôi rất mừng vì hiện nay cô đã có một gia đình hạnh phúc. Và tôi cũng xin tiết lộ với cô một điều bí mật, là vợ chồng cô sẽ sống với nhau đến tận răng long đầu bạc. Cả hai người đều có tuổi thọ rất cao. Nhưng…
Thấy người đàn ông ngập ngừng không nói tiếp, Uyển nôn nóng giục:
- Nhưng… điều gì hở ông?
Người đàn ông thở hắt ra một hơi nhẹ rồi nói:
- Nhưng cợ chồng cô hơi hiếm muộn. Nếu muốn gia đình con cái đề huề, cô nên năng làm điều phúc đức thì có thể phần số của cô sẽ được xoay chuyển theo hướng tốt hơn.
- Cảm ơn ông, tôi sẽ khắc ghi những lời chỉ dạy của ông. Nhưng… ông có thể cho tôi biết, tại sao hôm nay tôi lại đến được đây?
Uyển hỏi.
Người đàn ông nhìn cô, khẽ nói:
- Trước khi đi đầu thai, tôi muốn chào từ giã cô nên đã mời cô tới. Vì dù sao giữa tôi với cô cũng có sự quen biết mà, phải không cô?
Uyển gật.
- Thôi, giờ tôi đưa cô về nhé! Tôi cũng phải chuẩn bị lên đường rồi đây!
Người đàn ông đứng lên có vẻ muốn tiễn khách.
Uyển ngần ngừ:
- Vậy là… không bao giờ tôi còn gặp được ông sao?
Người đàn ông bật cười. Đây là lần đầu tiên cô nghe được tiếng của ông.
- Cô còn muốn gặp một hồn ma như tôi sao? Nhưng biết đâu, mai kia tôi đầu thai làm một ai đó, rồi một hôm nào đó tình cờ tôi và cô lại gặp nhau… Ở đời, có rất nhiều việc không thể nào biết trước được cô ạ! Ví dụ như người đàn ông đã có lúc làm cho cô đau khổ tột cùng ấy, người ấy cũng sắp đi đầu thai kiếp khác rồi! Cuộc đời con người cứ vay trả, trả vay…
Uyển giật nảy mình:
- Ông ơi… ông nói sao? Khiêm… Khiêm sắp chết rồi sao?
- Tôi chỉ có thể thông báo với cô điều đó thôi, không được phép nói nhiều hơn, mong cô tha lỗi. Thôi, giờ tôi đưa cô về nhé?
Người đàn ông lại giục lần nữa.
Uyển vừa lo sợ, vừa nghĩ ngợi lung tung, cô bước đi bất ngờ vấp chân vào ngưỡng cửa và ngã sóng soài ra mặt đất.
Lồm cồm ngồi dậy, Uyển bỗng nhận ra ánh ság chói lòa đang ập vào mắt mình. Thì ra cô đang ở trong ngủ của mình chứ không phải là ở Cõi hư vô!
Mình mơ chăng? Hay vừa rồi linh hồn mình đã thoát xác để đến đó chia tay một người quen?
Uyển hoang mang tự hỏi. Cô không tin việc linh hồn thoát xác cho lắm nhưng rõ ràng những việc mới xảy giấc mơ còn in dấu rật đậm trong đầu Uyển, không thể có giấc mơ nào có thể thật đến như vậy!
Uyển liên hệ lại lần trước, thì cô bắt đầu tin vào giả thiết hồn mình lúc nãy đã lìa xác để đi tới đó!
Trời ơi, nếu vạy thì… Khiêm sắp chết thật rồi sao? Tội nghiệp cho Khiêm, tội nghiệp cho bà mẹ già của Khiêm nữa... Ông trời ơi, nếu như Khiêm phải bị báo ứng vì những điều đã gây ra cho con, thì con xin ông trời hãy tha thứ cho anh ấy, giờ đây con cũng không còn đau khổ nữa, con cũng không hờn trách hay oán hận gì anh ấồicn đã bỏ qua hết rồi! Xin ông trời thương con mà tha cho anh ấy đi, để anh ấy được sống một cuộc đời bình thường mà lo lắng chăm sóc cho bà mẹ lúc xế chiều…
Uyển thầm van vái.
Bỗng cô nhớ lại lời nói của người đàn ông lúc nãy, số vợ chồng cô là hiếm muộn con cái, nếu muốn xoay chuyển cần phải tích đức nhiều hơn nữa.
Uyển nhẩm tính lại từ thuở nhỏ tới lớn, chưa bao giờ cô làm điều gì ác hay tàn nhẫn với ai, nhưng có lẽ do tiền căn mà kiếp này cô mới phải gặp những điều trắc trở.
Thôi thì mình cũng ráng sống tốt để trước mắt là mình không bao giờ cảm thấy hổ thẹn hay cắn rứt lương tâm, thứ hai là nếu thật sự có quy luật trả – vay của trời đất như người đàn ông kia nói thì coi như cô “để dành” âm đức của mình cho con cháu, cho kiếp sau…
Mải nghĩ ngợi lan man, Uyển ngủ thiếp đi lúc nào cô cũng không nhớ rõ.
Thời gian trôi qua, mọi chuyện vẫn diễn ra một cách bình thường không có điều gì đặc biệt. Uyển cũng quên dần những điều trong giấc mơ.
Vợ chồng cô tuy không giàu có gì nhưng nhờ sự vén khéo của Uyển, sự chăm chỉ siêng năng của cả hai vợ chồng nên cuộc sống dần dần cũng trở nên sung túc.
Những lúc có điều kiện, Uyển không ngần ngại trong việc giúp đỡ những người nghèo khó xung quanh, bởi thế, người dân càng thương uyêu, quý mến và kính trọng vợ chồng Uyển.
Mỗi năm, cứ gần đến rằm tháng giêng là những người làm nghề buôn bán ở chợ và các khu vực lân cận đều rủ rê nhau đi chùa, đi núi để cầu xin mua may bán đắt, cầu sức khỏe cho cả gia đình. Thường thường thì Uyển cũng đi cùng với họ. Nhưng năm nay, tự nhiên chồng Uyển nổi hứng, rủ Uyển đi Sài Gòn chơi, đi thăm các ngôi chùa có nuôi dưỡng các trẻ mồ côi và người tàn tật.
Uyển chạnh lòng nghĩ, chắc do cưới nhau cũng đã khá lâu mà mình vẫn chưa có con cái gì được nên anh ấy buồn, có nghĩ tìm xin con nuôi hay sao mà muốn đến thăm trẻ mồ côi?
Uyển định hỏi nhưng rồi cuối cùng cô lại im lặng, cũng tốt thôi, đến những nơi đó cũng là tâm nguyện của Uyển bấy lâu nay.
Gần một ngày trời, hai vợ chồng ghé thăm được ba ngôi chùa, hai nơi nuôi trẻ mồ côi và một nơi dưỡng lão. Đến đâu Uyển cũng muốn bật khóc vì nhận thấy những người ở đó sao mà đáng thương quá!
Có tiếp xúc với họ, Uyển mới thấy được mình hạnh phúc đến ngần nào!
Hơn ba giờ chiều, hai vợ chồng định về, nhưng bất ngờ đi ngang một nơi chồng Uyển lại rẽ vào thăm.
Đó là một ngôi chùa nuôi dưỡng những bệnh nhân Sida không nơi nương tựa. Những người phục vụ ở đây phần lớn là người tình nguyện, nhưng cũng có một bộ phận nhỏ là những người mắc căn bệnh thế kỷ ấy nhưng còn ở giai đoạn chưa bùng phát.
Nhìn những hình hài khẳng khiu xơ xác như chỉ còn lại bộ xương, nhìn những người bị lở lói khắp cả thân thể, đau đớn mà không còn hơi sức để than rên, vợ chồng Uyển không khỏi chạnh lòng.
Bỗng dưng Uyển có cảm giác ai đó đang chăm chú nhìn mình từ phía sau lưng. Cô quay lại bắt gặp một bệnh nhân nằm dãy giường bên kia đang nhìn cô với ánh mắt thật kỳ lạ!
Aùnh mắt thật quen nhưng Uyển chưa thể nhận ra người đó là ai. Nhìn vào cái cơ thể đang nằm dán chặt xuống giường ấy Uyển càng không thể nhớ được. Bởi vì đó chỉ là một bộ xương được bọc trong một lớp da người đầy những mụn lở loét. Hai bên má hóp lại, hố mắt trũng sâu, nhìn sơ qua trông giống như một chiếc xương sọ đã được quét lên một lớp sơn mốc meo u tối.
Uyển không chắc người đó là nam hay nữ nữa. Cái đầu bị cạo trọc, tay chân dài ngoằng như những mẩu xương…
Uyển chưa từng quen biết một ai có hình dạng trông như thế! Chỉ riêng ánh mắt người đó là thân quen quá đỗi mà thôi!
Uyển nắm tay chồng kéo anh đến bên bệnh nhân đó ân cần hỏi:
- Anh có điều gì muốn nói không? Nếu có thì anh cứ nói đi, nếu giúp được anh thì vợ chồng chúng tôi nhất định sẽ giúp!
Người bệnh như cố thu hết chút sức lực còn lại để khẽ lắc đầu thật nhẹ, rồi từ từ khép hai hố mắt lại, đẩy ra hai giọt nước mắt long lanh…
Uyển đang do dự không biết phải nói gì để an ủi thì một người đàn bà mái tóc bạc trắng đang cố lê từng bước chân nặng nhọc đi vào, trên tay là một chiếc khăn thấm ướt nước.
Vừa trông thấy người đàn bà, Uyển giật mình thảng thốt, người đàn bà cũng sững sờ khựng lại khi thấy Uyển.
Mấy phút bỡ ngỡ trôi qua nặng nề chưa từng thấy, Uyển òa khóc:
- Bác ơi… bác ơi… chẳng lẽ đây chính là…
Uyển không dám thốt ra hai tiếng “anh Khiêm” cho tròn câu hỏi. Vì cô rất sợ cái gật đầu xác nhận của mẹ Khiêm! Cô còn cố nuôi một tia hy vọng rằng đây chỉ là một người bà con xa nào đó của Khiêm thôi, chứ Khiêm hiện tại vẫn đang rất mạnh khỏe…
Nhưng cái hy vọng mong manh mà Uyển cố tạo ra đã nhanh chóng vỡ tan như bọt bong bóng xà phòng… Mẹ Khiêm lặng lẽ gật đầu, nước mắt bà thánh thót rơi xuống nền gạch hoa lạnh lẽo…
Uyển run rẩy bấu chặt tay chồng, lảo đảo suýt ngã. Cô không thể nào ngờ được người đàn ông cường tráng, trẻ đẹp như Khiêm mới mấy năm đã thay đổi tới mức đáng sợ như thế này!
Chồng Uyển dìu cô tới ngồi xuống chiếc ghế đặt bên cạnh giường bệnh.
Mẹ Khiêm vừa lấy khăn lau mặt mũi cho con vừa kể trong nước mắt:
- Con Diễm biết thằng Khiêm nhà bác bị Si da nên quyết định ly hôn. Mẹ con bác đau đớn vô cùng nhưng nghĩ âu đó là sự trừng phạt mà ông trời dành cho kẻ phản bội nên cũng không dám trách hờn ai. Bác chỉ hận một điều là mình không thể gánh lấy cái bệnh này thay cho con trai được…
- Bác ơi, vậy mà lâu nay cháu và dân làng cứ nghĩ bác với anh Khiêm đi lập nghiệp ở xa đâu đó, đâu có ai ngờ được nông nỗi này…
Uyển thổn thức nói.
Mẹ Khiêm cười buồn:
- Sau khi nhà bị giải tỏa, mẹ con bác quyết định ra đi không bao giờ trở lại nơi đó để tránh đem lại những điều không hay cho những người ít nhiều có liên hệ với gia đình bác. Thằng Khiêm dành một số lớn tiền đền bù giải tỏa để gửi lại cho cháu, nó bảo dù có bao nhiêu tiền cũng không trả hết cho cháu được, nhưng nó trả được một ít như vậy thì lương tâm nó đỡ bị cắn rứt hơn… Thời gian đầu mẹ con bác tới đây làm người chăm sóc bệnh nhân để trước mắt là có nơi ăn chốn ở, và sau là chia sẻ được với những người đồng cảnh ngộ.
Trằng Khiêm nó chỉ mới phát bệnh thời gian gần đây thôi mà đã như thế này rồi đó cháu ơi…
Tiếng khóc tắc nghẹn trong lồng ngực già nua của mẹ Khiêm càng làm cho Uyển thêm đau đớn. Cô muốn nói thật nhiều những câu động viên an ủi mẹ con Khiêm nhưng thật sự cô không biết dùng lời lẽ nào cho phù hợp với hoàn cảnh này nữa…
- Bác ơi… thế Diễm đã biết anh Khiêm bệnh nặng không? Diễm có đưa con gái tới thăm ảnh không bác?
Mẹ Khiêm chua xót lắc đầu:
- Từ ngày rời khỏi làng, mẹ con bác không hề có mối liên lạc nào với Diễm nữa, mà nó thì cũng đâu cần quan tâm đến mẹ con bác làm gì. Thằng Khiêm chỉ là tấm bình phong nó mua về để giữ danh dự vậy thôi…  Đứa bé đó không phải là con của thằng Khiêm nhà bác… Chỉ tại mẹ con bác ham cái bả giàu sang, phụ tình nghĩa cháu nên giờ mới bị quả báo thế này đây…
Nước mắt bà rơi lã chã, cái con người – bộ xương – có tên Khiêm kia nằm im trên giường cũng nước mắt lăn dài.
Uyển nắm chặt tay chồng như muốn được tiếp thêm sức lực. Chồng Uyển cũng là người tâm lý, anh hiểu rõ hơn lúc nào hết, lúc này Uyển cần có anh bên cạnh để làm chỗ dựa vững chắc cho cô.
Anh nắm chặt tay Uyển ra ý nói với Uyển rằng:
- Không sao đâu, em hãy bình tâm, không có việc gì đâu…
Bất chợt giữa lúc đó Khiêm mở bừng mắt, môi mấp máy như muốn nói một điều gì đó. Bà mẹ cúi sát xuống kê tai vào lắng nghe.
Một lúc sau bà ngước lên nhìn Uyển, nói như cầu xin:
- Thằng Khiêm nhờ bác chuyển lời tạ lỗi của nó tới cháu. Nó nguyện kiếp sau sẽ được đầu thai lên làm trâu chó, hoặc làm con của cháu để được phụng dưỡng cháu sau này… Chỉ xin một điều… trước khi chết, nó muốn được chính miệng cháu nói lời tha thứ cho nó…
Nước mắt Uyển tràn ra, Uyển nấc lên không nói được gì. Mãi một lúc sau cô mới cố dằn lại được.
Uyển rời ghế đứng lên, tiến sát tới giường bệnh đặt nhẹ bàn tay mình lên bàn tay chỉ còn là mấy que xương đen đúa, cô nói:
- Anh Khiêm, anh an lòng đi! Đã từ lâu rồi em không còn giận hờn hay oán trách gì anh nữa, cho nên bây giờ em không thể nói với anh lời tha thứ được. Anh đừng lo, có lẽ tại chúng ta không có duyên nợ, với lại chắc kiếp trước em cũng làm gì đó với anh… Thôi, tất cả những điều đó đã là quá khứ, em quên hết rồi và anh cũng đừng nhớ nữa. Anh hãy yên lòng đi nhé, em không hờn giận anh đâu!
Những que xương rục rịt cử động như muốn co vào để nắm lấy tay Uyển nhưng chủ nhân nó đã không còn đủ sức để thực hiện cái động tác nhỏ nhoi đơn giản ấy nữa rồi.
Khiêm nhìn thẳng vào Uyển bằng tia nhìn lấp lánh rồi từ khép mắt lại, hai dòng nước mắt chảy ra cùng lúc với một hơi thở ào ra rất nhẹ. Mấy ngón tay chưa kịp co vào được giờ đã duỗi ra, hoàn toàn vô cảm.
Khiêm đã trút hơi thở cuối cùng!
Người mẹ khóc nấc lên từng cơn, Uyển tựa vào vai chồng thổn thức…
Chiều hôm đó vợ chồng Uyển không về quê như dự định được mà phải ở lại với mẹ Khiêm vì hai người không nỡ bỏ bà lại một mình. Đồng thời hai vợ chồng cũng muốn hồn Khiêm không quá lẻ loi cô độc khi lìa đời mà bên cạnh chỉ có mỗi một người mẹ già yếu cô đơn!
Hai ngày sau, khi hài cốt của Khiêm đã được đưa trở về chùa để thờ cúng, chồng Uyển gợi ý đưa mẹ Khiêm về sóng với vợ chồng Uyển.
Bà mỉm cười rưng rưng:
- Bác rất xúc động và cảm ơn hai cháu, nhưng thật sự bác không thể quay về đó nữa… Bác không còn mặt mũi… Với lại bác muốn ở đây để sớm hôm bầu bạn với thằng Khiêm cho vong linh nó đỡ tủi. Hai cháu đừng lo cho bác, bác sống ở chùa này nhiều năm rồi, giờ nó cũng như nhà của bác vậy, không có gì phải lo đâu các cháu ạ!
Vợ chồng Uyển đành trở về nhà với cõi lòng nặng trĩu.
Mới hay cuộc đời không ai có thể biết trước ngày mai của mình sẽ ra sao…
Một tháng sau, Uyển thấy trong người khang khác nên đi khám viện khám.
Sau khi làm các xét nghiệm, cô bác sĩ nhìn Uyển cười cười:
- Chúc mừng chị nha, chị sắp có em bé rồi đó!
Uyển đang ngồi trên ghế, nghe mấy lời đó mừng đến nỗi muốn nhẫy cẫng lên reo hò sung sướng, vì lần khám trước đây cũng chính vị bác sĩ này bảo Uyển rất khó có khả năng thụ thai được!
- Bác sĩ ơi… em có thai thật sao?
Hiểu rõ được lòng Uyển, cô bác sĩ vỗ nhè lên tay chị:
- Thật rồi, một tháng rồi đấy! Tình trạng phát triển của cả mẹ và con đều rất tốt. Tôi xin chúc mừng chị! Trường hợp như chị mà thụ thai được là hiếm lắm đó.
Từ ngày biết Uyển mang thai, cả hai vợ chồng mừng vui khôn xiết.
Thỉnh thoảng hai người không quên đi thăm mẹ Khiêm, cả hai không ai bảo ai nhưng họ đều coi đó là trách nhiệm của mình rồi!
Nhiều năm trôi qua, đứa con trai của Uyển ăn học thành tài, và trở thành một doanh nhân có tên tuổi trong giới đầu tư giao dịch với nước ngoài. Đi tới đâu anh cũng được người ta yêu mến và kính phục, vì ngoài tài giỏi anh còn là một người hết lòng với công tác xã hội.
Những người dân sống gần đó luôn ngưỡng mộ và khao khát được như vợ chồng Uyển, có một cậu con trai rất mực hiền lành, hiếu thảo.
Vợ chồng Uyển sống cảnh già yên vui, hạnh phúc.
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:59:47 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 20:17:39
ĐỒNG XU NHUỐM MÁU
 
Tỉ ôm đầu lảo đảo chạy vào con hẻm sâu hun hút. Hắn cứ cắm đầu cắm cổ mà chạy như bị ma đuổi phía sau lưng, chạy không cần định hướng. Vừa chạy vừa thở hồng hộc.
Một đám đàn bà, trẻ con đang ngồi túm tụm bên đường nói cười rôm rả, thấy bộ dạng điên cuồng của hắn chạy tới tất cả đều dạt ra nhường đường cho Tỉ, không ai dại gì lại đi dây vào một đứa đang có vấn đề.
Người dân ở đó cũng không biết Tỉ là ai, nhưng nhìn thoáng qua cũng đoán được đó là một kẻ thuộc thành phần bất hảo, không phải người lương thiện đàng hoàng!
Tỉ cóc cần mọi người nghĩ sao về hắn. Hắn chỉ muốn trốn thoát, trốn thoát điều gì thì ngay cả bản thân hắn cũng không biết!
Hắn chỉ biết hắn cần phải chạy thật xa, phải làm một cái gì đó để xua tan những cảm xúc dữ dội đang trào ứ trong hắn.
Con hẻm ngoằn ngoèo uốn khúc như một con rắn khổng lồ cuối cùng đâm ra một bãi rác lớn. Nơi đó người ta vứt tất cả những thứ rác rưởi và chất thải của cả cái thị xã này. Mùi xú uế nồng nặc bốc lên làm Tỉ bất giác muốn nôn ọe.
Hắn giật lùi muốn quay trở lại, nhưng không biết ma quỷ xui khiến gì tự nhiên hắn lại xăm xăm tiến về phía cuối bãi rác, chỗ có những chiếc ống cống bằng xi măng đang nằm lăn lóc chờ ngày các cơ quan chức năng đưa chúng về đúng vị trí.
Ở phía đó ngược chiều gió, đồng thời cũng là phía cuối của bãi nên hầu như chỉ toàn là rác cũ, lâu năm, mùi hôi thối cũng không nồng nặc như ở chỗ lúc nãy.
Tỉ bước chậm lại, hai tay buông thõng xuôi theo người một cách chán chường, mệt mỏi.
Trong lòng Tỉ giờ đay ngổn ngang biết bao nỗi lo âu, sợ hãi.
Tỉ đã thua đến đồng bạc cuối cùng! Không những thế, cả giấy tờ nhà đất Tỉ cũng thế chấp mất rồi, cộng thêm tờ giấy nợ một trăm triệu kia nữa… Biết làm sao bây giờ? Chỉ còn mỗi một cách là chết đi mà thôi!
Nhưng nếu Tỉ chết đi thì mẹ và vợ con Tỉ sẽ sống sao đây? Căn nhà nhỏ và mảnh đất bé xíu mà lâu nay vợ Tỉ vẫn chăn nuôi và trồng mấy liếp rau liếp cải ấy sẽ bị chủ nợ xiết đi, mẹ và vợ con Tỉ sẽ phải lang thang đầu đường xó chợ, không chốn nương thân…
Nhưng nếu Tỉ không chết thì sao? Nhà đất vẫn bị xiết, đồng thời chắc chắn sẽ bị truy tố ra tòa vì số nợ một trăm triệu có giấy tờ cam kết hẳn hoi kia.
Chết! Chết! Đúng rồi, chỉ có cái chết mới có thể giúp được Tỉ trong lúc này…
Nhưng làm sao Tỉ đành lòng… Mẹ Tỉ già rồi cứ nay yếu mai đau, vợ Tỉ lại sắp đến ngày sinh nở. Trời ơi… tại sao ông trời lại đẩy con vào đường cùng thế này? Ông trời ơi, ông không thương con thì xin ông hãy thương lấy mẹ và vợ con của con. Mẹ con đã khổ cả đời vì cha con rồi. Còn vợ con, từ ngày về làm vợ con cô ấy chưa một ngày được thảnh thơi vui sướng. Nhưng cô ấy chưa khi nào hờn trách gì con mà vẫn vui vẻ chịu đựng, san sẻ cùng con những thiếu thốn, khó khăn…
Con không có lỗi… chính vì con thương mẹ và vợ con con, con muốn họ được sống sung sướng hơn, vì vậy con mới… và bây giờ con ra nông nỗi thế này đây…
Không nhấc chân lên nỗi nữa, Tỉ ngồi thụp xuống, lưng tựa vào một ống cống và khóc ngất lên từng hồi như có điều oan ức đớn đau lắm vậy.
Công bằng mà nói, Tỉ không phải là đứa bỏ đi. Hắn là một đứa con hiếu thảo, là một người chồng biết yêu thương vợ. Nhưng có lẽ tại số phận của hắn, tại cái kiếp người của hắn đã được đặt để vào khuôn khổ nghèo hèn nên mặc dù hắn rất siêng năng làm lụng mà vẫn không khá lên được!
Từ lúc hơn mười tuổi hắn đã biết bưng tràng bánh đi dài theo các con hẻm, cất tiếng rao lanh lảnh để giúp mẹ kiếm tiền lo bữa ăn hàng ngày cho bốn miệng ăn: ba, mẹ, hắn và đứa em gái út.
Ba hắn là một gã đàn ông nát rượu. Không ngày nào ông không uống, mà không phải chỉ uống sương sương, nhâm nhi vui bạn vui bè… Ba hắn uống như hũ chìm, uống đến say khướt quên trời quên đất.
Hôm nào mẹ hắn không có tiền lo rượu cho ba hắn thì chắc chắn hôm đó bà sẽ bị một trận đòn nhừ tử, đến nỗi cuối cùng không chịu được, hoặc là chính mẹ hắn hoặc là hắn chạy tới quán bà Tư ở đầu đường mua chịu rượu và một ít cá khô về làm mồi cho hắn thì mới có thể yên được.
Nhưng những hôm có rượu, có mồi thì cũng đâu dễ được yên thân. Ba hắn khi đã uống say thường đem những chuyện bực mình từ năm xửa năm xưa ra dày vò mẹ hắn. Nếu mẹ hắn nín nhịn không cãi lại thì ba hắn bảo mẹ hắn coi thường:
- Tao không đáng mặt nói chuyện với mầy sao?
Còn nếu mẹh hắn không nín nhịn được, có lời đôi co qưua lại thì lập tức ba hắn hùng hổ:
- À… à, cái con này hỗn! Mầy dám ăn nói tay đôi với chồng mầy à? Tao phải dạy cho mầy một trận mầy mới hiểu được câu “phu xướng phụ tùy”!
Những ngày thơ ấu của tỉ là những ngày thấm đẫm nước mắt khổ đau của người mẹ gầy gò khốn khổ.
Có lần Tỉ hỏi:
- Sao mẹ không bỏ phứt ổng đi, con thấy ba mẹ thằng Tam cũng bỏ nhau đó, có sao đâu? Không có cha như thằng Tam coi bộ còn sướng hơn…
Mẹ Tỉ khóc òa lên rồi ôm hắn vào lòng nói nhỏ:
- Con không được nói vậy! Mẹ con mình mang ơn ông ấy, dù khổ hơn nữa mẹ cũng không thể nào bỏ ông ấy được, mẹ phải đền ơn ông ấy…
- Ơn gì hở mẹ?
Tỉ ngây thơ hỏi nhưng mẹ hắn lại gạt đi:
- Con còn nhỏ, con chưa hiểu, chưa biết được đâu. Hiện nay, con chỉ biết nghe lời mẹ là đủ rồi! Dù ba con có thế nào đi nữa con vẫn phải thương yêu và kính trọng ông ấy, con không được quyền nói xấu ông ấy, nghe không? Bởi vì… với mẹ con mình, ông ấy là người đàn ông tốt nhất trên đời!
Tỉ rất hậm hực khi nghe mẹ nói thế, nhưng vốn là một đứa ngoan, biết nghe lời nên Tỉ cũng không dám hỏi nhiều. Hắn miễn cưỡng yêu thương, miễn cưỡng kính trọng người đàn ông luôn hành hạ mẹ nó.
Với Tỉ và em gái thì đỡ hơn, ông ấy hầu như không hề làm khó hai anh em Tỉ. Đồ nhậu có món gì ngon, thấy anh em Tỉ đi ngang ông đều ngoắt lại:
- Ê… ê! Hai đứa bây vô đây ăn với tao nè… cái này ngon lắm nghe… ăn đi, ăn đi cho mau lớn để mẹ mầy nhờ…
Hầu như ông luôn luôn lặp lại câu đó mỗi khi gọi anh em Tỉ vào ăn cùng.
Ông cũng chưa hề đánh tỉ dù chỉ là một roi phết nhẹ trên mông hay một bạt tai khi tức giận. Tuy nhiên ông cũng chưa bao giờ tỏ ra yêu thương, quyến luyến Tỉ.
Với em gái Tỉ thì khác. Có những lúc ông ôm con bé vào lòng, vuốt tóc vuốt tay nó rồi cười khà khà đầy mãn nguyện:
- Con gái rượu của tao! Con gái vàng gái ngọc đây mà…
Không ít lần Tỉ thấy thắc mắc trong lòng, bởi vì hắn thấy ở những nhà khác, người cha thường tự hào về con trai của mình hơn.
Mẹ Tỉ đã phải chịu đựng một người chồng như vậy hết năm này qua năm khác. Cho đến một ngày, ba Tỉ nhậu say về ngang qua cây cầu nhỏ, do sơ sẩy thế nào mà rơi tòm xuống dưới không ai hay, mãi đến sáng hôm sau đi tìm khắp nơi không thấy, chỉ nghe một người bạn nhậu bảo:
- Chiều hôm qua anh ấy có tới đây uống rượu với tôi, nhưng đã về lúc chập tối!
Mẹ Tỉ hoảng lên, mếu máo kêu khóc, mọi người đổ xô đi tìm thì mới phát hiện xác ông vướng dưới đám lục bình ở khúc sông gần đó.
Sau đám tang ba, cuộc sống của mẹ con Tỉ dễ thở hơn rất nhiều, nhưng Tỉ vẫn không hiểu sao mẹ Tỉ cũng vẫn không vui mà mặt mày cứ u sầu ủ dột.
Rồi một hôm, Tỉ được nghe mẹ kể cho nghe về bí mật đời mình, về lý do tại sao bao nhiêu năm qua mẹ Tỉ vẫn một lòng yêu thương ba Tỉ dù đã bị ông hành hạ không thương tiếc những khi say rượu.
Ngày đó, mẹ Tỉ là một cô gái quê ngheo khổ trôi dạt lên Sài Gòn tìm kế sinh nhai. Vừa chân ướt chân ráo lên nơi thành thị, cô đã lọt ngay vào tầm ngắm của một tên sở khanh.
Hắn tìm mọi cách để ve vãn, dụ dỗ cô, và hắn đã làm được điều đó không mấy khó khăn đối với một cô gái thật thà và cứ tưởng xung quanh mình ai cũng thật thà như thế!
Hắn hứa hẹn đủ điều, nhưng đến lúc cô gái báo tin mình đã mang thai thì hắn cao chạy xa bay không một lời từ giã.
Một mình thân gái nơi xứ lạ quê người, không người thân, không tiền bạc, cô làm sao tồn tại được? Còn trở về quê thì cô biết ăn nói sao đây về cái bào thai đang lớn dần từng ngày trong bụng?
Khổ đau, tuyệt vọng, một đêm mưa gió đầy trời, cô gái đã tìm tới bên sông vắng để quyên sinh.
Nhưng bất ngờ, cũng trong đêm đó có một chàng trai lang thang đi dưới trời mưa đường vắng, tình cờ phát hiện cô gái định hủy mình. Chàng trai đã kịp thời cứu cô thoát chết và nghe cô kể về hoàn cảnh của mình.
Xót thương cho thân phận người con gái bơ vơ nơi đất lạ, người ocn trai đã đứng ra nhận lấy trách nhiệm về mình.
Ngay sáng hôm sau, anh dắt cô gái về quê thưa chuyện với gia đình mình, bảo rằng:
- Con đã lỡ làm cho con gái người ta bụng mang dạ chửa, ba mẹ thương con, thương cháu nội mà đừng trách phạt chúng con, cho phép chúng con được thành vợ thành chồng…
Ai nấy ngớ người ra trước cái tin hệ trọng của cậu con trai cả, nhưng sau đó cả nhà cũng mừng vui không kém vì sắp có cháu nội để bế bồng.
Thế là việc cưới xin được tiến hành ngay sau đó, tuy đơn sơ giản dị nhưng đã cứu vớt được cuộc đời của cô gái và cả đứa bé chỉ mới là bào thai.
Rồi khi đứa bé chào đời, người cha vẫn làm tròn bổn phận, không một chút đối xử phân biệt hay hà khắc nào với nó. Lắm lúc nó nghịch phá nhưng chưa bao giờ người cha vung roi đánh con lấy một lần.
Chính điều đó làm cho người mẹ cảm động và nguyện với lòng mình, suốt đời này kiếp này mẹ con cô sẽ làm tất cả để đền đáp ân tình của người đàn ông đó.
Nghe mẹ kể lại chuyện đời mình, Tỉ vô cùng hối hận vì đã có những lúc cảm thấy ghét cha, thù cha, và cả đến khi ông ấy chết, tuy Tỉ cũng buồn đau, cũng thương đấy, nhưng đâu đó bên cạnh vẫn là cảm giác được giải thoát, không phải giải thoát cho bản thân mình, mà là giải thoát cho người mẹ mà Tỉ luôn yêu thương, kính trọng.
Tỉ giúp mẹ làm đủ thứ việc để kiếm tiền nuôi em. Từ bán bánh bán khoai, đến gánh nước, khiêng hàng… thứ gì Tỉ cũng làm, miễn kiếm được ít tiền đem về cho mẹ.
Mẹ Tỉ nhiều năm lao lực nên sức khỏe sa sút rất nhanh, bà không còn làm được những việc nặng nhọc nữa, chỉ quanh quẩn ở nhà lo cơm nước vá may cho anh em Tỉ, đã vậy cứ nay đau mai yếu. Những đồng tiền ít ỏi tỉ kiếm được nếu chỉ để lo cho ba miệng ăn không thôi thì còn tạm đủ, chứ thêm khoản thuốc thang cho mẹ thì không sao Tỉ lo nổi.
Thế nên cuộc sống của ba mẹ con vẫn cứ đắp đổi qua ngày.
Năm hai mươi tuổi, trong một lần đi theo một ông thầu xây dựng làm một công trình lớn ở tận Bình Dương, Tỉ tình cờ quen Lan, một cô gái nhỏ hơn Tỉ hai tuổi, hiện đang làm công ở một lò gốm gần nơi công trình tỉ đang thi công.
Sau khi tìm hiểu, Tỉ biết được hoàn cảnh của Lan cũng bi đát không kém gì mình.
Lan mồ côi cha mẹ từ nhỏ, cô sống với vợ chồng người chú và thường xuyên bị bạc đãi.
Lan phải làm việc và giữ em quần quật suốt ngày không được nghỉ tay vậy mà vẫn bị chú thím chửi là “thứ đồ ăn hại”, là “tội báo oan gia”. Lớn lên một chút, Lan được thím giới thiệu vào làm ở đây, lương mỗi tháng đều bị thím ứng trước gần hết, chỉ chừa lại cho Lan một số ít ỏi, không đủ để cô ăn xôi mỗi sáng đi làm.
Nhưng dẫu sao Lan vẫn thích đi làm thế này hơn. Đi làm thế này vừa có bạn bè để trò chuyện, có những giây phút lặng lẽ một mình để thả cho tâm hồn thiếu nữ mười tám tuổi được bay bổng với những ước mơ, và đi làm thế này thì đỡ phải nghe những câu mắng chửi nặng nề vô lý… Chuyện không có tiền trong người với Lan cũng đã trở nên quen thuộc rồi, bình thường rồi nên cô cũng không cảm thấy buồn hay phẫn uất gì cả.
Tỉ và Lan quen nhau không lâu thì cả hai đã thật sự cảm mến và thương yêu nhau vô hạn. Nhưng chuyện cưới xin đối với Tỉ lại là một vấn đề nan giải.
Ngày mẹ Tỉ lặn lội lên Bình Dương tìm đến nhà thưa chuyện với chú thím Lan, bà trở về nhà với vẻ mặt ỉu xìu, buồn tủi…
Chú thím Lan luôn miệng nói hai người đã nuôi dưỡng Lan từ hồi còn bé nên coi cô như con gái ruột của mình, giờ gả cô đi lấy chồng, họ không đòi hỏi gì nhiều nhưng bắt buộc phía nhà trai phải lo đầy đủ các lễ vật và cả nữ trang cho cô dâu, tiền đưa cho nhà gái… Chỉ một trong những yêu cầu đó thôi cũng đủ làm mẹ con Tỉ xính vính rồi, có đâu tới nữ trang, lễ lộc…
Tỉ thương Lan, hắn cũng muốn tổ chức một đám cưới thật rình rang, muốn cô dâu của hắn phải là người đẹp nhất, lộng lẫy nhất trong ngày cưới, nhưng khả năng kinh tế lại không cho phép hắn làm được một cái đám cưới thật bình dân!
Lâu nay, Lan là cô gái nhu mì, ít nói, chú thím nói gì cũng im lặng lắng nghe và luôn làm đúng theo như thế. Nhưng riêng lần này cô quyết liệt phản kháng.
Chú thím không cho phép Lan làm vợ một “thằng nghèo kiết xác”, Lan không cãi lại nhưng cô đã mạnh mẽ dắt tay Tỉ đi đăng ký kết hôn, không cần tới sự chấp thuận của chú thím.
Lan về làm vợ Tỉ mà không có cả một bữa tiệc trà để hai họ chung vui. Nhưng cô không hề buồn vì điều đó.
Tỉ yêu Lan, và còn biết ơn vì cô đã biết thương, biết thông cảm cho hoàn cảnh của hắn. Mẹ tỉ cũng hết lòng yêu quý con dâu.
Từ nhỏ Lan đã mất cha mẹ, Lan chưa được sống trong sự ấm cúng của một gia đình, nên từ ngày về nhà Tỉ, được Tỉ, mẹ Tỉ và cô em gái thương yêu, quý mến, Lan cảm thấy sung sướng lắm, hạnh phúc lắm. Dẫu cho cuộc sống có thiếu thốn, có vất vả hơn nữa Lan cũng bằng lòng.
Cưới nhai gần ba năm sau Lan mới có thai. Cả nhà Tỉ vui như mở hội. Ai cũng náo nức chờ đón đứa bé ra đời.
Riêng tỉ, từ ngày có vợ, tỉ luôn dằn vặt về sự bất tài của mình. Giờ thì hắn lại sắp có con, hạnh phúc nhân lên mà nỗi lo và vất vả cũng sẽ nhân lên gấp bội.
Hết ngày này qua ngày khác, lúc nào trong đầu Tỉ cũng suy nghĩ, tìm cách có thật nhiều tiền để lo lắng cho gia đình, cho tuổi già của mẹ được an nhàn hưởng lạc, để vợ mình có được những ngày thật sự hạnh phúc và để đứa bé sắp chào đời kia có được một cuộc sống đầy đủ không thua kém ai.
Một lần tình cờ Tỉ gặp lại Thống – một người bạn từng đi làm cu li, thợ hồ chung với Tỉ, nhưng hai người đã bặt tin nhau gần hai năm.
Gặp Thống, Tỉ thật ngỡ ngàng. Nếu Thống không chủ động gọi thì chắc Tỉ sẽ cho là mình lầm, cho là người giống người thế thôi.
Thống bây giờ sang trọng như một ông chủ lớn. Giày da bóng lộn, áo quần tươm tất, đầu tóc chải láng mướt và trên tay là chiếc cặp táp to đùng mà Tỉ cứ thắc mắc không biết nó chứa cái gì trong đấy?
Thống, một đứa chưa biết mặt chữ, mở miệng ra là chửi thề, không biết làm gì ngoài những việc nặng nề cần dùng đến cơ bắp. Thế thì hắn làm gì mới hai năm mà phất lên ghê thế?
- Mầy lúc này thế nào?
Thống đặt ly cà phê trước mặt Tỉ, hất hàm hỏi.
Tỉ lúng túng, không biết phải xưng hô thế nào cho phải. Mình lam lũ nghèo hèn thế này mà nói chuyện xưng hô mầy – tao với một kẻ sang trọng như Thống liệu có… kỳ không? Còn xưng hô tôi – anh thì Tỉ không quen.
Nhưng thôi, Thống đã chủ động thì mình còn gì phải ngại nữa chứ, nó giàu sang mặc nó, mình cứ mầy tao thỏa thích như lúc trước.
- Tao vẫn vậy thôi! Còn mầy, dạo gần đây mầy mất tích, làm gì mà coi bộ đổi đời rồi vậy?
Tỉ đã lấy lại được tự nhiên.
Thống cười ha hả:
- Cuộc đời mà mậy, lên voi xuống chó có mấy hồi! Cũng nhờ trời thương, tao gặp một cơ duyên mới được đổi đời thế này đây!
Tỉ nuốt nước bọt, tò mò hỏi:
- Cơ duyên gì thế? Mầy có thể bày cho anh em kiếm sống không?
Nụ cười trên môi Thống vụt tắt, mặt sa sầm xuống, Thống nói nhỏ:
- Không được! Không phải tao ích kỷ gì với mầy, nhưng đây là nguyên tắc mà tao phải tuân theo, không thể tiết lộ được. Nhưng Tỉ ạ, đôi khi nghèo khổ như tao với mầy lúc trước mà còn hạnh phúc hơn đó! Mầy đừng nhìn bề ngoài của tao như vậy mà khát khao, buồn lắm mầy ạ, tao đã phải đánh đổi rất nhiều, rất nhiều đó…
Trong một thoáng, Tỉ nhận ra nét đau khổ cùng cực vụt hiện ra trên mặt Thống. Nhưng lúc đó tỉ không nghĩ nhiều tới việc ấy, Tỉ chỉ chửi thầm trong bụng:
- Không muốn giúp anh em thì thôi, đừng bày đặt giở giọng đó ra chứ bạn! Nghèo khổ như trước mà hạnh phúc hơn giàu sang lúc này sao? Vậy sao không đánh đổi đi, sao không tiết lộ bí quyết cho tao đi? Hừ, chẳng qua mầy là đứa không muốn ai hơn mình…
Nghĩ thế nên Tỉ chỉ cười cười khi nghe Thống tỉ tê tâm sự rồi một lát sau tỉ tìm cớ chào Thống để ra về, bỏ lại Thống một mình bên ly cà phê với ngổn ngang tâm sự chưa kịp giãi bày cho hết.
Một thời gian sau, tỉ nghe người ta nói Thống bây giờ chuyên sống trong các sòng bài. Nhờ các ván bài mà Thống giàu lên như vậy.
Một ý nghĩ vụt lóe lên trong đầu Tỉ. Ừ, sao mình không thử thời vận một lần nhỉ?
Trước đây, những lúc rảnh rỗi tỉ hay cùng đám bạn chơi bài, và hắn luôn là người gặp nhiều vận đỏ nhất.
Tại sao lâu nay mình không biết thử, trời ơi, tiếc quá đi mất! Biết đâu… biết đâu chỉ sau một vài ván, mình có đủ khả năng lo lắng cho gia đình, trước mắt là lo cho vợ mình sinh nở được chu đáo.
Nghĩ là làm, ngay chiều hôm đó, tỉ về nhà lén lấy hết số tiền mà lâu nay hai vợ chồng tiện tặn dành dụm lo cho ngày Lan sinh con. Tuy số tiền không nhiều, nhưng đó là toàn bộ gia tài của hai vợ chồng.
Khi cầm số tiền đó trong tay, trong lòng Tỉ cũng một thoáng run lên khi nghĩ ngộ nhỡ mình thua cuộc…?
Nhưng Tỉ đã nhanh chóng gạt cái ý nghĩ xúi quẩy ấy ra khỏi đầu, chưa vào cuộc đã nghĩ tới điều xui rủi là không được, phải nghĩ sau đêm nay mình sẽ có rủng rỉnh tiền, để mua cho mẹ và vợ mình những chiếc áo đẹp, những bữa ăn ngon, đầy đủ dưỡng chất….
Không đầy hai tiếng đồng hồ sau, Tỉ đã trắng tay! Toàn bộ số tiền dành dụm đó đã bay vào túi người khác trong nỗi đắng cay của Tỉ.
Thất thểu ra đường, Tỉ lang thang đi hoài mà không dám về nhà. Hắn sợ, hắn không biết phải ăn nói sao với mẹ và vợ hắn.
Nếu biết mất số tiền đó, mẹ và vợ hắn sẽ phản ứng thế nào đây? Hắn biết hai người đó sẽ không ai mắng chửi gì hắn đâu, nhưng hắn sợ nhìn thấy những giọt nước mắt của mẹ, những giọt nước mắt mà từ sau ngày ba hắn chết hình như nó chưa phải chảy ra lần nào nữa.
Hắn cũng rất sợ đôi mắt vợ hắn trĩu nặng âu lo, sợ lắm ánh nhìn buồn diệu vợi của vợ hắn.
Ông trời đang thử thách mình đây, ông trời không bao giờ đẩy mình vào đường cùng đâu!
Vì nghĩ thế nên Tỉ đã nhắm mắt lún sâu vào hố thẳm…
Tỉ về nhà, ra vẻ bình thwofng như không có chuyện gì xảy ra, mẹ và vợ hắn cũng chưa biết gì nên cả nhà vẫn vui vẻ.
Cơm nước xong, hắn xoa xoa vào cái bụng bầu to tướng của vợ, trìu mến nói:
- Con ngoan, chỉ còn mấy ngày nữa thôi là con ra đời rồi! Ba mẹ và bà nội mong con lắm đó, con có biết không? Thôi, con ở nhà ngoan, đừng quấy đạp mẹ nhé, ba đi đằng này có chút việc!
Tỉ viện ra một lý do để đi. Mẹ và vợ hắn không hề biết, trong lưng áo hắn là cuốn sổ đỏ của ngôi nhà và mảnh đất nhỏ cạnh bên – toàn bộ gia tài của cả nhà đang nằm trong tay Tỉ.
Hắn tìm tới sòng bài, thế chấp tờ giấy đỏ và lại đem toàn bộ số tiền đặt vào cuộc đỏ đen may rủi.
Lại thua!
Mồ hôi vã ra ướt đẫm cả mặt, Tỉ như một kẻ điên không còn làm chủ được hành vi của mình nữa, Tỉ cứ ký vào giấy nợ để cầm một xấp tiền vào chơi tiếp, rồi lại ký tiếp. Mãi đến lúc kẻ cho vay nhìn Tỉ rồi nhếch mép cười mai mỉa:
- Cậu có biết từ nãy tới giờ cậu đã nợ tôi bao nhiêu rồi không? Này, mở to mắt ra mà nhìn cho kỹ vào nhé cậu em? Một trăm triệu! Một trăm triệu rồi đấy nhé? Cậu có khả năng trả cho tôi không mà còn đòi vay tiếp?
Tỉ chới với.
Trời ơi! Một trăm trịêu! Một trăm triệu! Một số tiền mà cả trong mơ Tỉ cũng chưa bao giờ dám mơ thấy thì làm gì ngoài đời thật Tỉ có khả năng có nó trong tay mà trả nợ?
Lảo đảo té ngồi xuống nền gạch, Tỉ liên tiếp bị kẻ cho vay nện vào đầu, cùng với lời xua đuổi:
- Cút mau ra khỏi đây! Cút mau mà về chạy tiền đem trả cho tao. Nếu ba ngày sao mầy không trả đủ tiền thì đừng có trách tao đấy nhé! Cả mầy, cả gia đình mầy…
Hắn bỏ lửng câu hăm dọa và tung chân đá một cú thật mạnh vào người Tỉ làm Tỉ lăn tròn mấy vòng ra tới cửa.
Đua đớn, nhục nhã và sợ hãi, Tỉ cứ ôm đầu và chạy như điên…
Giờ đây, ngồi một mình bên bãi rác hoang vu vắng lặng, Tỉ thấy cuộc đời mình sao lại đi tới nông nỗi này? Mình đã làm gì gây ra tội lỗi? Mình chỉ muốn cho mẹ và vợ con có được cuộc sống tốt đẹp hơn một chút thôi mà, sao ông trời lại nỡ lòng xô đẩy mình tới bước đường cùng?
Chỉ còn khoảng một tuần nữa thôi là đứa bé chào đời! Đáng lẽ ra ngày đó cả nhà Tỉ sẽ vui mừng náo nhiệt. Nhưng giờ đây… tất cả sẽ thế nào, tỉ không dám nghĩ tới nữa…
Đứa em gái đi lấy chồng hơn năm nay, gia cảnh bên chồng nó cũng không khá giả, nó không thể cưu mang mẹ, chị dâu và đứa cháu sơ sinh được. Rồi mẹ và vợ con Tỉ phải sống sao đây…
Tỉ không còn nước mắt để khóc nữa. Có lẽ nỗi đau đớn, sợ hãi cùng cực đã vắt khô nước mắt trong người nó rồi.
Tí cứ ngồi im như thế, hai chân co sát vào người, úp mặt lên hai đầu gối mà nghe lòng quặn đau từng chập.
Bỗng Tỉ nghe hình như có tiếng rên rỉ nho nhỏ, loáng thoáng như tiếng mèo con kêu. Lắng tai nghe kỹ lại, rõ ràng là tiếng rên của con người!
Tỉ đứng lwn lần theo tiếng rên mà đi tới. Tiếng rên lúc có lúc không, lúc nghe thật gần lúc lại như ở xa xăm, rất khó xác định được vị trí.
Thật cố gắng tỉ mới có thể phán đoán được âm thanh đó phát ra từ một trong những ống cống phía bên kia.
Thê là Tỉ lần đi tới đó, chui đầu vào từng ống cống để quan sát thật kỹ. Đến cái ống cống nằm lẻ loi tận ngoài chỗ khuất, Tỉ mới phát hiện ra có một người đang nằm bên trong.
- Ai đó? Ai nằm bên trong đó?
Tỉ cất tiếng hỏi lớn.
Đáp lại lời Tỉ chỉ là tiếng gió xạc xào và hình như có một tí âm thanh của tiếng người hòa vào trong đó mà Tỉ không làm sao nghe rõ được.
- Ai? Ai đó?
Tỉ lại hỏi lần nữa. Hắn run run khi nghĩ tới trường hợp có thể đây là một xác chết bị bọn cướp giết hại rồi đem giấu vào đây.
Hắn nửa muốn bỏ đi nhưng nửa lại muốn chui vào kéo người đó ra để xem coi sống chết thế nào cho thật rõ ràng.
Cuối cùng, lòng nhân đạo trong Tỉ cũng đã thắng được nỗi lo sợ.
Hắn cúi xuống, khom người bò vào trong ống cống, vừa chạm tay vào người đó, hắn cảm thấy một luồng hơi ấm truyền sang tay mình nên đã vững bụng tiến thêm chút nữa và từ từ vừa lôi kéo, vừa gượng đỡ đã đem được người đó ra ngoài.
Dưới ánh sáng lờ mờ của vầng trăng non đầu tháng, Tỉ hết sức bất ngờ khi nhận biết người đàn ông đang lâm nguye kia không ai xa lạ mà chính là Thống, bạn của Tỉ!
- Thống! Trời ơi… Tại sao mầy lại ra nông nỗi này? Ai hại mầy? Mầy nói cho tao biết đi!
Cả người Thống bê bết máu. Máu ở khoé miệng vẫn không ngừng ri rỉ chảy ra.
Tỉ hốt hoảng sờ nắn khắp người Thống để xem thương tích nặng nhẹ ra sao, nhưng thật bất ngờ, trên cơ thể Thống hoàn toàn không có một vết tích gì.
- Mầy nói đi? Có phải đứa nào đã đánh vào đầu mầy không? Mầy bị thương ở đâu?
Tỉ lay lay Thống, nôn nóng muốn biết về thương tích của bạn.
Thống cố gắng mấp máy môi thốt ra được mấy tiếng thều thào:
- Nước… nước…
Biết Thống chảy nhiều máu nên đang đòi nước, Tỉ vội vã chạy ra bờ sông, hái một chiếc lá cây to bản bên đường cuốn lại làm thành cái phễu không đáy để múc nước đem về cho Thống.
Nhấp môi được tí nước, Thống có vẻ đã khá hơn đôi chút. Thống nhướng mắt lên nhìn Tỉ, ra dấu cho Tỉ cúi xuống thật gần để nghe Thống nói.
- Mầy cho tao biết đi, đứa nào hại mầy?
Tỉ vẫn chưa thôi nôn nóng.
Thống khẽ lắc đầu:
- Không ai hại tao, chính lòng tham của tao đã hại tao, và hại cả gia đình tao…
- Mầy nói gì tao không hiểu. Mầy đang giàu sang kia mà, chẳng phải gia đình mầy cũng đang sống sung sướng lắm sao?
Tỉ vừa thắc lại vừa mai mỉa, vì tận trong thâm tâm mình, Tỉ vẫn còn rất giận Thống vì đã giấu bạn bè chuyện làm giàu của bản thân.
Thống nói nhẹ như hơi gió thoảng qua:
- ĐÃ có lần tao nói với mầy rồi, có khi sống nghèo vẫn hơn. Có thể mầy không tin tao nhưng đấy hoàn toàn là sự thật. Tao đã tham lam và chính điều đó đã làm cho gia đình tao tan nát, và cuối cùng bản thân tao phải ra thế này đây! Trước đó, tao cũng như mầy bây giờ, tao không tin vào điều đó…
- Nhưng điều đó là điều gì?
Tỉ gắt lên.
Thống nhắm mắt lại như đang cố gom hết chút sức lực còn lại để kể cho Tỉ nghe tròn câu chuyện:
- Đây này, mọi chuyện đều bắt đầu từ vật này đây!
Thống run rẩy thò tay vào túi lấy ra một đồng tiền bé xíu đưa cho Tỉ.
Tỉ cầm lấy đồng tiền đưa lên ngang tầm mắt cố quan sát thật kỹ dưới ánh sáng nhạt nhòa. Nó không có gì đặc biệt, cũng giống như cái đồng khoén mà bọn trẻ thường chơi, chỉ khác là có lẽ nó được làm bằng chất liệu tốt hơn nên trông sáng loáng và nhẹ hơn nhiều.
- Ngậm vật này vào miệng, sẽ thắng trong mọi ván bài! Nhưng đánh đổi lại, sau mỗi lần thắng trong cuộc đỏ đen ấy, sẽ bị mất đi một điều rất quý giá đối với bản thân. Đó là lời khuyến cáo mà tao đã không tin. Đến lúc thấy có chuyện xảy ra, muốn dừng lại nhưng không thể dừng lại được. Giống như có một thế lực ma quái gì đó khống chế. Mình cứ phải lao vào, lao vào cho tới khi… như thế này đây!
Máu trong miệng Thống lúc này không còn ri rỉ chảy ra nữa mà trào ra từg dòng, làm ướt nhòe cả một khoảng lớn trên ngực áo.
Tỉ hoảng quá, vội nói:
- Tao đưa mầy vô bệnh viện!
Vừa nói, Tỉ vừa đưa tay ra định đỡ Thống ngồi lên, nhưng Thống nhẹ lắc đầu:
- Vô ích thôi! Không còn gì có thể cứu vãn được cuộc đời tao… Tao đã không chịu tin, chỉ có những đồng tiền chân chính mới có thể đem tới hạnh phúc, ấm no. Còn những đồng tiền không phải có được do bán sức lao động thân xác và trí não thì chẳng những nó không tồn tại được, mà trái lại nó còn mang tới tai họa cho mình… Mầy hãy nhớ lấy!
Nói vừa dứt câu, Thống thở hắt ra một luồng hơi thật mạnh. Tỉ biết là Thống đã qua đời!
Hoảng hốt, Tỉ nhanh chóng bỏ chạy vì sợ mình bị liên lụy vào cái chết của Thống giữa lúc gia đình đang gặp nhiều điều rắc rối khó khăn thế này thì khốn khổ! Dù sao Thống cũng đã chết rồi, mình bỏ Thống nằm lại đó kể ra cũng không phải nhưng biết sao bây giờ, chắc Thống sẽ hiểu cho mình thôi. Chỉ lát nữa, hoặc chậm nhất là sáng ngày mai thế nào cũng có người phát hiện ra Thống thôi mà…
Vừa chạy, vừa nghĩ thế nhưng Tỉ vẫn không sao chạy xa cho được. Cuối cùng Tỉ đành chạy tới trụ sở cảnh sát báo án.
Sau khi ra hiện trường, người ta bắt đầu thẩm vấn Tỉ đồng thời với việc tiến hành xét nghiệm tử thi để tìm ra nguyên nhân cái chết.
Tỉ khai báo rất thành thật nguyên nhân nào hắn có mặt ở nơi đó vào giờ ấy, quan hệ giữa Tỉ và Thống ra sao… tỉ khai thật hết, chỉ giấu lại đồng xu và câu chuyện mà Thống đã kể cho Tỉ nghe.
Người ta kết luận cái chết của Thống là do một nguyên nhân nào đó từ bên trong cơ thể, hoàn toàn không phải do tác nhân bên ngoài, nên khả năng Thống bị giết hại đã bị loại trừ và Tỉ cũng được tự do.
Một mình lang thang trên đường, Tỉ bóp chặt bàn tay đang cầm đồng xu nhỏ và nghĩ về những điều Thống nói…
Không, không thể nào lại như vậy được! Có lẽ trong lúc sắp chết, tinh thần Thống không còn minh mẫn nên nói năng lung tung bậy bạ vậy thôi, chứ làm gì có chuyện được bạc thì phải đánh đổi một sự mất mát khác được?
Ông trời đã giúp thì phải giúp cho tới nơi tới chốn chứ, ai lại vừa tặng quà xong lại vung gươm chém?
Mình không tin!
Tỉ lại đưa đồng xu lên ngắm nghía. Nó chỉ là một vật bình thường thôi mà, làm sao có được phép nhiệm màu như Thống nói được?
Buồn tình, Tỉ vung tay quăng đồng xu ra xa. Một tiếng “keng” khô khốc vang lên tự nhiên làm Tỉ nổi hết da gà!
Và như có một điều gì như hối tiếc, như hoảng sợ thúc giục Tỉ phải tìm lại cho bằng được cái đồng xu nhỏ vừa mới quăng đi.
Tỉ loay hoay tìm xung quanh và nghĩ khó lòng tìm ra được một vật nhỏ bé như vậy trong đêm tối thế này.
Nhưng thật bất ngờ, bên vệ đường, đồng xu sáng lên một cách kỳ lạ, như muốn nói với Tỉ rằng:
- Ta đàn ở đây này, mau mau đến đây mà nhặt về!
Tỉ mừng rỡ nhào tới vồ lấy đồng xu rồi khư khư nắm chặt trong tay và rảo bước đi tiếp.
Ma đứa lối quỷ dẫn đường thế nào mà Tỉ lại đi đến trước sòng bài mà mới hồi đầu hôm này hắn đã bị người ta mắng chửi, hạ nhục đuổi đi không thương tiếc!
Cầm đồng xu trong tay, đứng trước cửa nhìn vào, Tỉ bỗng cảm thấy như trong lòng mình đang trỗi lên một niềm đam mê mãnh liệt!
Một người đàn ông từ bên trong nhà bước ra, vỗ vai Tỉ:
- Hôm nay thua đậm rồi, chú em mầy muốn gỡ gạc phải không?
Tỉ gật đầu như một cái máy.
Người đàn ông thúc giục:
- Vậy thì còn chần chờ gì nữa mà không chịu bước vào?
Tỉ bối rối:
- Tôi … tôi…
Người đàn ông bật cười:
- Ha ha ha… Tôi hiểu rồi! Chú em mầy hết đạn rồi chứ gì? Không ăn thua chi, cứ mạnh dạn vô, tôi sẽ tiếp đạn cho, tôi rất khoái ngồi nhìn cảnh người ta sát phạt nhau đấy!
- Nhưng… nếu lỡ tôi…
Tỉ ấp úng.
Người đàn ông gạt phăng đi:
- Chưa vào cuộc chơi không nên nhắc tới hai từ chiến bại chứ chú em! Không sao… không sao, tôi đâu có bắt chú em phải ký vào giấy vay nợ gì đâu mà lo. Chẳng qua, tôi muốn mượn tay người khác chơi thế cho tôi vậy mà!
Tỉ mừng quá. Nhưng đồng thời hắn cũng cảm thấy lo lo vì tự dưng sao lại có người đem tiền đưa cho mình chơi rồi họ ngồi chứng kiến? Mà thôi, chơi giùm cũng được, vay mượn cũng được! Đằng nào thì số nợ kia cũng đã vượt quá sức chi trả của mình rồi, có thêm khoản này nữa hay không thì cũng vậy mà thôi. Đây là cơ hội để mình thử nghiệm điều Thống kể, đồng thời cũng là cơ hội cuối cùng để mình và gia đình sống hoặc chết đây!
Nghĩ vậy nên Tỉ rất tự tin và mạnh dạn đi vào. Trước khi bắt dầu trận đấu, Tỉ len lén bỏ đồng tiền lên miệng và ngậm chặt lấy nó dưới lưỡi mình.
Quả nhiên trận đó Tỉ thắng trọn!
Tỉ chơi liên tiếp ba trận nữa đều thắng hết cả ba! Có người nghi ngờ Tỉ gian lận nên đã quan sát rất kỹ nhưng cuối cùng họ phải thật sự nghiêng đầu nể phục Tỉ.
Thế là tạm thời Tỉ đã giải quyết được gần hết nợ nần.
Tỉ quay về nhà với niềm vui vô hạn, nhưng cũng không tránh khỏi lo âu.
Nhưng khi về tới, thấy mẹ và vợ vẫn bình an, Tỉ thở phào nhẹ nhõm, nói thầm:
- Đã nói rồi mà, một khi ông trời đã ra tay cứu giúp thì sẽ không hãm hại mình mà!
Sáng hôm sau, Tỉ nói với gia đình là mình đi làm, nhưng thật sự hôm đó Tỉ la cà ở sòng bạc.
Tỉ thắng đậm nhiều vố liên tục. Giờ đây Tỉ đã xóa sạch nợ nần. Sổ đỏ của gia đình Tỉ cũng đã chuộc về được rồi. Còn niềm sung swosng nào hơn!
Đáng lẽ ra lúc đó Tỉ đã dừng lại không chơi nữa, nhưng có ai bỏ được lòng tham bao giờ, Tỉ cũng vậy, Tỉ biết số mình đang đỏ thì toi gì không tận dụng cơ hội này mà kiếm chút vốn liếng lo cho mẹ và vợ con?
Tỉ vui vẻ, vừa đi vừa huýt sáo. Nhưng khi vừa bước chân tới cửa nhà Tỉ đã hoảng hốt khi nghe tiếng khóc của mẹ.
Hắn chạy vội ra nhà sau, chân tay run bây bẩy vì cứ tưởng vợ con hắn có chuyện gì. Chừng trông thấy vợ hắn ngồi bên cạnh mẹ, mặt buồn rười rượi thì hắn mới đỡ lo.
- Ở nhà có chuyện gì thế em?
Hắt nhìn vợ.
Vợ hắn ngước cặp mắt đỏ hoe lên nhìn hắn, trả lời:
- Cô Ứt bị rắn cắn, đang cấp cứu ở bệnh viện không biết kết quả thế nào. Nãy giờ mẹ cứ đòi đi, mà mẹ yếu quá em không dám để mẹ đi nên cứ cản lại…
Tim Tỉ thắt lại như có ai đó vừa thò tay vô bóp cho một cái thật mạnh. Hắn run run nói:
- Mẹ ở nhà, em ở nhà với mẹ, để anh vô đó coi sao!
Tỉ chạy một mạch ra đầu hẻm ngoắc tay đón một chiếc xe ôm rồi hối hả giục người ta chạy nhanh tới nhà thương huyện.
Nhưng khi tỉ đến nơi cũng vừa lúc đứa em gái út của Tỉ thở hơi cuối cùng.
Rụng rời, Tỉ ngồi bệt xuống sàn nhà, tay chân vẫn run lên lẩy bẩy.
- Trời ơi… chẳng lẽ những gì Thống kể đúng là sự thật hay sao? Hay chỉ là sự trùng hợp không may? Không lẽ nào…
Tỉ rên rỉ trong lòng. Hắn vừa muốn tin những điều Thống kể, vì rõ ràng điều bất hạnh đang xảy đến với gia đình Tỉ.
Nhưng đồng thời, hắn lại không muốn tin, vì mỗi ngày có biết bao cái chết, mà những cái chết kia thì đâu có liên quan gì tới đồng xu ma quái này đâu?
Đám tang em gái xong, mẹ Tỉ như già hơn hàng chục tuổi! Bà đã không còn sức để gượng dậy được nữa. Việc đư đứng loanh quanh trong nhà của bà cũng phải có người dìu đỡ mới đi được.
Tỉ buồn bã, đi lang thang trên phố, đầu óc không ngừng nghĩ ngợi về chuyện đồng xu.
Và như thói quen, Tỉ lại dừng chân đúng ngay sòng bạc!
Như một thỏi nam châm đang chịu tác dụng của lực hút trái cực, chân Tỉ lại bwosc vào sòng bài không theo sự điều khiển của trí não.
Tỉ lại thắng nhiều ván lớn.
Bây giờ Tỉ có thể yên tâm chờ ngày đứa bé ra đời, trước mắt là Tỉ đã có thể lo cho cuộc sinh nở của vợ mình được tươm tất.
Vừa về tới đầu hẻm, Tỉ đã thấy mọi người hớt hơ hớt hãi chạy ra. Nhìn thấy Tỉ, mấy người xúm lại níu kéo:
- Trời ơi, đi đâu mà mọi người tìm mãi không được, tới chỗ cậu làm hàng ngày thì người ta cho biết đã mấy hôm nay cậu không tới…
Một dì ở cạnh nhà nhăn nhó nói.
- Có chuyện gì xảy ra thế cô?
Tỉ cảm giác chân mình bắt đầu nhũn ra.
- Mẹ mầy té ngã từ lúc nãy, bà con đã giúp đưa vô bệnh viện rồi, vợ mầy bụng dạ lặc lè như vậy nên không ai cho đi theo. Mọi người mới chạy kiếm mầy đó!
Tỉ vùng chạy vào nhà hỏi vợ mấy câu rồi lại phóng vào bệnh viện.
Mẹ hắn nằm đó, thân người xẹp lép như một bộ xương đang dán chặt xuống mặt giường.
Nước mắt hắn trào ra, hắn quỳ bên cạnh giường mẹ, van xin:
- Mẹ ơi, mẹ phải tỉnh lại, phải sống với con để còn đón cháu nội ra đời, còn chờ con báo hiếu! Mẹ không được bỏ con mà đi đâu, con còn cần mẹ nhiều lắm, mẹ ơi!... Ông trời ơi, xin ông hãy tha cho mẹ con, ông có muốn trừng phạt hay đánh đổi điều gì thì bản thân con đây ông cứ hành hạ, xin ông hãy buông tha cho những người thân yêu của con…
Mặc cho Tỉ van xin, cầu khẩn suốt mấy ngày liền, mẹ hắn vẫn không tỉnh lại, nhưng bà cũng không chết đi. Bà vẫn sống nhưng sống một đời sống vô tri vô giác!
Tỉ thề với lòng rằng hắn sẽ không dặt chân tới sòng bài nữa. Số tiền hắn kiếm được cũng tạm nuôi vợ con hắn được một thời gian. Hắn không muốn phải đánh đổi thêm một điều gì nữa.
Tỉ buồn chán, nặng nề, nhưng nỗi niềm này hắn không thể chia sẻ cùng vợ được.
Tỉ biết vợ hắn không đời nào bằng lòng để cho hắn đi kiếm tiền bằng các trò chơi đen đỏ, và nhất là trò chơi đó lại dính dáng tới cái đồng xu chết tiệt này, cái đồng xu mới nhìn vào cứ thấy sáng choang, nhưng khi chăm chú nhìn thật kỹ, Tỉ lại thấy nó nhuộm đỏ máu người…
Tỉ ra chợ, ghé vào một quán ăn mua con vịt quay thật lớn rồi lặng lẽ đem tới một ngôi miếu hoang bên đường để khấn vái:
- Xin thánh thần phù hộ cho mẹ tôi, cho vợ con tôi được bình yên. Từ nay tôi sẽ không chơi trò này nữa, tôi sẽ không sử dụng đồng xu này nữa…
Vừa nói, Tỉ vừa lầy đồng xu ném thật xa ra đường rồi quỳ xuống xì sụp khấn vái tiếp tục.
Khi cúng xong, vừa quay lưng định ra về, Tỉ trông thấy một con chó gầy nhom đang đứng ngó chăm chăm vào dĩa vịt quay trên tay Tỉ.
Cảm thương cho nó, Tỉ vội xé một bên cánh vịt ném ra đường cho con chó tội nghịêp hình như đang đói lả ấy.
Nó mừng rỡ, vội nhào tới đớp lấy miếng thịt thơm ngon vừa được Tỉ quẳng ra cho.
- Trời ơi!
Tỉ hét lên một tiếng.
Một chiếc xe ô tô phóng vụt qua đã cán nát vụn con chó nhỏ dưới bánh của nó, miếng cánh gà văng trở vào cạnh bên chân Tỉ. Con chó đáng thương đã bỏ mạng khi chưa kịp nếm thử miếng mồi ngon…
Một cảm giác run sợ bất giác bao trùm lấy Tỉ. Hắn hốt hoảng bỏ chạy, vừa băng qua bên kia đã vấp phải một tảng đá khiến hắn ngã dúi xuống.
Bàn tay hắn chạm vào một vật gì đó thật lạnh. Tò mò, hắn nhặt lên xem.
Trời ơi… vật đó lại chính là đồng xu oan nghiệt!
Như một kẻ không hồn, Tỉ nhét đồng xu vào túi và thất thểu lê từng bước về nhà.
Lang thang qua nhiều con đường, cuối cùng Tỉ lại nhận thấy mình dừng chân trước ngay sòng bạc!
Tỉ muốn bỏ chạy thật nhanh, chạy thật xa nhưng cũng lúc đó, hình như có một thế lực nào cứ thúc giục, lôi kéo Tỉ đi vào sòng bạc. Và cuối cùng, lý trí của Tỉ đã thất bại hoàn toàn.
Tỉ như kẻ mộng du, lừng lững đi vào và lại tham gia vào cuộc đỏ đen đáng sợ…
Khi Tỉ ra khỏi sòng bạc thì trong các túi áo, túi quần của Tỉ đã đầy nhóc những tờ tiền với mệnh giá rất cao nhưng trong lòng Tỉ không hề có được một chút xíu cảm giác thích thú, đắc thắng hay khoái trá nào. Mà trái lại, một điều gì bất an cứ làm trái tim Tỉ đập liên hồi và loạn nhịp.
Tỉ chưa về đến đầu hẻm đã đụng ngay thằng nhỏ ở gần nhà. Nó nói như thét lên:
- Chú lên đây cháu chở, mau lên đi, cô đau bụng đã vào bệnh viện từ lâu rồi, hình như là một ca sinh khó…
Tỉ không kịp hỏi gì thêm, lập cập nhảy lên xe ôm chặt lấy thằng nhỏ và giục nó phóng nhanh, nhanh hơn nữa…
Trong đầu Tỉ hiện ra những cảnh chết chóc thê lương, bên tai Tỉ lại nghe văng vẳng tiếng khóc thảm thiết của vợ mình…
- Trời ơi… Xin người hãy tha cho vợ con con…
Miệng Tỉ thầm kêu lên nhưng lòng hắn đã vô cùng tuyệt vọng, hắn không biết phải làm ngoài việc cầu khẩn mặc dù hắn biết rằng không có trời phật nào chịu ra tay giúp hắn.
Thằng nhỏ bỏ Tỉ xuống trước cổng bệnh viện. Tỉ hộc tốc chạy một mạch vào khu dành cho các sản phụ.
Đêm nay bệnh viện vắng lặng đến gai người. Dọc theo dãy hành lang, không thấy bóng một bệnh nhân nào, hình như mọi người đều đã biến mất hết rồi vậy.
Tỉ vừa chạy tới trước cửa phòng sinh, vừa đứng lại chưa kịp thở dốc lấy hơi đã nghe tiếng thét kinh hoàng của mấy cô hộ sinh và y tá vọng từ bên trong ra.
Tỉ hốt hoảng, chưa định thần được thì một toán bốn, năm người tông cửa chạy thục mạng ra ngoài, phía bên trong vẳng lên một tiếng khóc oe oe yếu ớt. Đó là tiếng của một hài nhi!
Tỉ vùng chạy vào trong. Căn phòng lạnh ngắt. Trên chiếc giường kê giữa phòng là vợ hắn đang nằm im trên đó, đầu nghẹo sang một bên, dưới má lênh láng máu tươi chảy ra từ khoé miệng.
Tỉ chưa kịp chạy tới ôm vợ thì lại nghe tiếng trẻ con oe oe.
Ngó dáo dác, hắn phát hiện ra đứa bé đang còn bị treo toòng teng lơ lửng giữa gầm giường và mặt đất, bởi cuống rốn và dây nhau thai của người mẹ vẫn chưa được xử lý cắt rời ra!
Tỉ nhào tới, run rẩy đưa hai tay ra đỡ lấy cái sinh vật bé nhỏ đang lên tiếng ấy. Hắn đưa đứa bé lên ngang tầm mắt và sững sờ nhìn nó, mắt hắn dại đi, hắn không còn cất lên tiếng kêu được nữa mà thay vào đó là một tiếng tru như chó sói đói mồi…
Đứa bé trong tay hắn không phải là một con người! Nó không có tay chân, không có gì cả ngoài một thân mình hình chữ nhật, hai đầu mọc ra hai khối tròn tròn. Ở mỗi khối nhìn tương tự như cái đầu của đứa bé, nhưng nó lại không có tóc, không có tai, không có mắt mũi, chỉ có một cái lỗ tròn nho nhỏ ngay giữa cái nơi có thể gọi là khuôn mặt! Từ cái lỗ tròn ấy phát ra những tiếng oe oe yếu ớt của đứa bé sơ sinh…
Tỉ nhìn trân trối vào đó và thấy cái gương mặt đó nó không khác gì đồng cu mà Tỉ đang bỏ trong túi áo.
Tỉ run rẩy giật lùi lại phía vợ, trên tay vẫn còn cầm cái sinh vật quái dị ấy, cùng với mớ dây nhau dài lê lết, giống như nguyên cả một đùm ruột của vợ hắn vừa mới xổ ra…
Vợ hắn nằm đó, trên mặt còn hằn rõ nét đau đớn kinh hoàng. Máu trong miệng cô ấy vẫn trào ra tuy hơi thở đã không còn tồn tại nữa…
- Trời ơi!!!!
Tỉ hét lên vang dội cả một khu bệnh viện.
Hắn vứt đứa bé lên giường rồi lại cắm đầu cắm cổ chạy một mạch, hướng ra bãi rác, đúng cái chỗ mới hôm nào hắn bắt gặp Thống đang quằn quại trong cơn hấp hối.
Máu từ trong mũi và hai hốc mắt, hai bên tai Tỉ bắt đầu ứa ra, hắn không quan tâm, không sợ hãi, hắn đưa tay quệt ngang và lại chạy, chạy mãi.
Trái tim hắn co thắt từng cơn, giống như nó đang cố vắt nốt những giọt máu còn sót lại trong cơ thể hắn để tống khứ ra ngoài.
Máu chảy xối xả, Tỉ không còn đủ sức để chạy hay đi nữa, hắn bắt đầu bò lết rồi gần như trườn người trên mặt đường để ra đúng cái ống cống mà Thống đã nằm hôm trước.
Giờ đây bỗng dưng đầu óc Tỉ tỉnh táo hẳn ra. Hắn nhận thấy những điều Thống nói quả không sai, vậy mà hắn đã không tin, hắn đã bị lòng tham khống chế.
Và sự trừng phạt dành cho lòng tham của hắn quá nặng nề, mà nó lại không chịu giáng trực tiếp vào hắn mà lại cứ nhắm vào những người thân yêu nhất của hắn, đó mới là điều đau đớn hơn cả!
Lúc này, Tỉ có cảm giác mình đang nghe được tiếng nói của đồng xu:
- Ha ha ha… ngươi đã có được tiền như mong ước của ngươi rồi đó… Đồng tiền đối với ngươi là quan trọng nhất đời mà, phải không? Ha ha ha… hãy trở về sòng bài ngay đi, nếu ngươi còn muốn sống…
- Không! Không đời nào… Tôi không không đời nào quay trở lại cái nơi đáng nguyền rủa ấy…
Tỉ vừa lết đi, vừa cố sức vùng vẫy để thoát ra cái thế lực vô hình đang cố kéo Tỉ về với nơi đỏ đen khốn kiếp.
Khi sức tàn lực kiệt, Tỉ cảm nhận được lưỡi hái của thần chết đã kề sát vào cổ họng mình rồi, hơi lạnh đã lan tỏa xuống khắp cơ thể Tỉ.
Hắn chỉ còn có thể rên lên những tiếng nhẹ như gió thoảng…
Bất chợt, bãi rác lại xuất hiện một kẻ lang thang chán đời.
Tỉ hốt hoảng, hắn không muốn những việc kinh khiếp này lại tiếp tục lặp lại, tiếp tục xảy ra với một người khác, một gia đình khác…
Hắn cho tay vào túi áo lục tìm đồng xu, hắn muốn vứt nó đi nhưng không còn sức để vung tay lên nữa.
Ở đằng kia, hình như kẻ lang thang đã nhận ra tiếng rên của Tỉ, người đó ang dò dẫm đi tìm.
Trong đầu Tỉ chợt lóe lên một ý nghĩ:
- Mình phải chôn vùi cái đồng xu ma quỷ, đồng xu thấm đẫm máu tanh này theo cùng thân xác của mình, để mãi mãi không ai còn bị nó điều khiển nữa…
Tỉ run lẩy bẩy nhét đồng xu vào miệng và tố gom hết sức tàn để nuốt trọng nó xuống bao tử.
Hình như trong cuống họng của Tỉ có những móng vuốt đang cào cấu thật mãnh liệt, cơn đau làm Tỉ chỉ muốn khạc nhổ đồng xu trở ra, nhưng Tỉ đã cắn răng chịu đựng vì hắn đã quyết định không để chuyện này lặp lại.
Khi kẻ lang thang kia tìm thấy Tỉ thì hắn đã chết rồi! Mặt mày, thân thể đẫm máu, miệng há hốc, hai mắt lồi ra một cách khủng khiếp.
Từ trong miệng hắn máu tươi vẫn còn đang trào ra không ngớt…
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 18:01:31 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 20:19:36
MA CÀ RỒNG
 
Cả xóm Cây Da đang yên lành bỗng xôn xao hẳn lên vì những sự việc lạ lùng liên tiếp diễn ra mà không ai có thể lý giải nổi!
Đầu tiên là nhà bà Bảy ở cuối xóm bị ai đó giết chết một con heo bằng cách vô cùng kỳ quặc. Cắt cổ rồi bỏ đó, con heo chết đi mà thân thể vẫn còn nguyên vẹn, không bị cạo lông, xẻ thịt, chỉ là trên cổ có vết thương và không còn lại chút máu nào, giống như đã bị ai đó hút sạch, không để vương vãi lại dù chỉ một giọt.
Rồi đến nhà ông Năm, ông Chín, bà Mười, thím Út… những gà, vịt, chó, mèo… lần lượt chết đi cùng một cách như thế!
Người ta vô cùng hoang mang, lo sợ. Chẳng hiểu người xóm mình đã gây thù chuốc oán với ai mà họ ra tay tàn độc đến mức đó?
Sự việc chưa kịp lắng xuống thì bỗng một sáng chị Tất vừa thức dậy đã kinh hoàng tung hết chăn màn chạy vội ra cổng la toáng lên vì ngay trên giường ngủ nhà chị là một con chó bẹc-giê to lớn đang nằm chết cứng!
Con chó đó là của nhà anh Thiện, một nhà giàu có trong xóm, đem giống chó này về nuôi để giữ gìn của cải trong nhà, đồng thời cũng để khoe khoang cái sự hơn người của gia đình mình.
Con chó rất khôn ngoan, vì ngoài việc là loại chó hung dữ, có biệt tài coi nhà cho chủ, chú chó ấy còn được anh Thiện gởi đến trường học hẳn hoi.
Cái xóm Miễu này đã từng lắc đầu lè lưỡi khi nghe nói tới chuyện con chó nhà anh Thiện được đến trường, trong khi hai phần ba trẻ con trong xóm bị mù chữ!
Nhà anh Thiện từ hồi có mặt con chó bẹc – giê đó thì ai cũng kiêng dè, không có việc gì cần thiết thì chẳng dại gì mà mò đến. Mà có việc cần, có đến cũng phải rụt rè bấm chuông gọi cửa, chờ người giúp việc xích chó lại cẩn thận mới dè dặt bước vô.
Vậy ai là người có thể đến gần để ra tay hạ sát? Rồi vì cớ gì mà lại mang xác con chó ấy bỏ vào giường ngủ của chị Tất, một người phụ nữ góa chồng       nổi tiếng nghiêm trang?
Kẻ nào có thể đột nhập vào bất kỳ nhà nào trong xóm?
Chị Tất rỉ tai với vài người trong xóm rằng trước đây lâu lắm rồi, có lần anh Thiện nhậu say rồi chọc ghẹo chị, tỏ ý lả lơi ong bướm bị chị chửi cho một trận. Chẳng thể nào chỉ vì việc đó mà anh Thiện dám giết chết con chó cưng của mình để hù dọa chị.
Vậy thì tại sao?
Từ cái chết của con chó bẹc – giê đó, người ta ngồi lại với nhau để bàn bạc, phân tích. Nhưng cuối cùng vẫn không ai lý giải được.
Thật không tài nào hiểu nổi!
Giữa lúc đó vợ chồng anh Thiện bắt đầu ăn không ngon, ngủ không yên, vì hai người đã lờ mờ hiểu ra câu chuyện.
Sự việc bắt đầu từ con bé giúp việc nhà.
Anh Thiện là một tay kinh doanh mới phất lên vài năm gần đây, chị vợ làm nghề cho vay tiền trả góp. Trong nhà có mướn một con bé mười bảy tuổi lo việc cơm nước dọn dẹp mỗi ngày.
Chị Huê vợ anh Thiện rất hài lòng với Trúc, cô bé gíup việc mà chị đã mất rất nhiều công sức mới tìm được.
Trúc siêng năng, sạch sẽ, lễ phép và nhất là biết nấu ăn, khiến chị Huê cảm thấy thật an tâm giao việc nhà cho Trúc quản lý.
Ban đầu anh Thiện cũng không mấy để tâm đến Trúc, nhưng có một lần về nhà đột xuất, anh vừa xô cửa phòng tắm thì bắt gặp Trúc đang trong tình trạng không một mảnh vải che thân!
Trúc không ngờ ông chủ nhà sẽ về vào giờ đó, nên khi tắm cô chỉ khép hờ mà không đóng chặt cửa.
Lần đó, khi phát hiện sự có mặt của Trúc trong phòng tắm, Thiện đã vội vàng khép ngay cửa lại rồi bỏ về phòng mình. Nhưng từ đó, hình ảnh cái thân thể đầy đặn thanh xuân căng tràn nhựa sống của Trúc cứ ám ảnh mãi trong đầu Thiện.
Còn Trúc, sau phút giật mình e thẹn, cô bỗng nảy sinh ý nghĩ: “Tại sao mìnhphải làm một người giúp việc trong khi cô chủ nhà này còn thua xa mình về nhan sắc cũng như sự đảm đang của người phụ nữ? Với lại, hai vợ chồng họ đã cưới nhau ba năm rồi mà vẫn chưa có con, vậy là cô chủ lại thua mình thêm một điều nữa!”
Trúc luôn tự tin mình là một thiếu nữ hấp dẫn mà bất cứ đàn ông con trai nào cũng không khỏi khát khao.
Đúng vậy! Tuy không đẹp một cách sắc sảo, mặn mà như một vài cô gái khác, nhưng ở Trúc lại có một điều mà rất ít cô gái có được. Đó là sự gợi tình trời phú!
Bờ môi cong nũng nịu, đôi mắt hút hồn, bộ ngực, bờ mông… luôn là điểm nổi bật trên cơ thể Trúc.
Nhiều người đã không kiềm được lời ngợi khen trước mặt Trúc.
Nhưng lần này, ông chủ nhà vừa nhìn thấy cơ thể mình đã vội vàng lùi ra chạy mất, điều đó đã làm cho Trúc không hài lòng.
Bên trong sự dịu dàng đáng mến của Trúc lại là một tham vọng lớn lao! Trúc không cam tâm làm một cô gái con nhà nghèo phải ngày ngày bỏ công sức ra chăm lo cho gia đình, cho vợ chồng người khác.
Cô muốn mình phải được nâng niu, trân trọng.
Và bây giờ, cái đích mà Trúc nhắm vào chính là Thiện.
Từ hôm đó, bất cứ lúc nào hễ có điều kiện là Trúc lại giả vờ đụng chạm, giả vờ có những thái độ để khiêu khích Thiện.
Mà ngay cả bản thân Thiện cũng vậy, anh luôn tìm cách để được nhìn ngắm Trúc một cách thoải mái nhất.
Riêng chị Huê vẫn vô tư không hề nhận thấy bất kỳ sự thay đổi nào ở chồng mình và cô bé giúp việc.
Chị cũng giống như đa số các bà buôn bán ngoài chợ, luôn tin vào sự linh thiêng của các đấng thần linh, nên năm nào cũng vậy, hễ đến ngày vía Bà hoặc các ngày rằm lớn cô vẫn thường cùng các chị em buôn bán đi cúng chùa, đi hành hương tới các vùng núi Cấm, núi Bà Đen hoặc các chùa chiền ở tận miền Trung xa tít tắp.
Lần này chị Huê báo với anh Thiện, chị sẽ đi chùa Thầy Thiếm ngoài Phan Thiết ba ngày.
Trước khi đi, chị Huê không quên dặn dò Trúc mọi việc trong nhà, chị yên tâm và tin tưởng Trúc sẽ làm tròn tất cả trong những ngày mình vắng mặt.
Tối đó anh Thiện về nhà hơi trễ do cùng bạn bè làm một chầu nhậu quắt cần câu.
- Chú ơi, chú có ăn cơm nổi không để Trúc dọn?
Thiện loạng choạng bước vô nhà, Trúc vừa đỡ một bên vừa hỏi.
- Không… chú không ăn! Trúc đi ngủ đi!
Thiện ngồi xuống ghế, lắc đầu.
Trúc nhẹ nhàng ngồi xuống một bên nũng nịu:
- Chú còn thức thì làm sao Trúc dám đi ngủ được? Khi cô đi có dặn Trúc ở nhà phải chăm lo cho chú chu đáo, Trúc phải nghe lời cô chứ! Với lại, để chú một mình như thế này Trúc cũng không yên tâm mà ngủ được đâu!
Thiện ngước nhìn Trúc. Trúc mặc một chiếc áo cổ rộng khoét hơi sâu để lộ một khoảng ngực căng tròn trước mắt Thiện và bỗng dưng hình ảnh thân thể trần trụi hôm nào của Trúc lại hiện ra một cách vô cùng sống động trước mắt Thiện.
Không dằn được cơn dục vọng, Thiện quàng tay qua lưng Trúc:
- Thế thì bây giờ Trúc lo cho chú thế nào đây?
Trúc cười khúc khích:
- Chú muốn gì Trúc sẽ chiều…
Thiện quàng luôn cánh tay còn lại ôm gọn Trúc trong lòng, đặt lên môi cô nụ hôn nồng nàng.
Trúc vờ xô Thiện ra:
- Chú làm gì kỳ quá, cô mà biết được thì cả Trúc và chú đều chết đó!
Thiện vung tay:
- Em không phải sợ! Không có gì phải sợ, tất cả đã có anh lo…
Trúc nhìn thẳng vào mắt Thiện:
- Chú… chú nói thiệt không đó?
- Chú, chú cái gì mà chú! Anh nói rồi, em cứ yên tâm, tất cả để anh lo, em cứ ngoan ngoãn chìu anh là được rồi…
Thiện siết chặt Trúc hơn nữa.
Trúc ngã đầu lên vai Thiện:
- Anh đã hứa thì phải nhớ lời đó! Em rất sợ cô Huê…
Thiện bế xốc Trúc lên đi về phòng, nói dứt khoát:
- Không sợ, không phải sợ…
Từ hôm đó Thiện và Trúc bắt đầu có những quan hệ mật thiết mà Huê vẫn không hề hay biết. Suốt ngày cô vẫn la cà ngoài chợ với giỏ tiền kè kè bên hông. Nghề nghiệp của cô là thế, sẵn sàng “ứng cứu” cho các chủ sạp hàng.
Nhưng cây kim trong bọc lâu ngày cũng phải lòi ra.
Trúc cảm thấy Thiện đã quá si mê mình nên đâm ra ỷ lại, cô cũng không còn sợ hãi Huê như lúc ban đầu. Có khi, Trúc còn ngang nhiên cãi lại lời Huê, và lần nào Thiện cũng tỏ ý bênh vực cho cô.
Huê tức lắm. Một hai lần đầu Huê cứ nghĩ chồng mình muốn mọi việc êm đẹp nên làm vậy để nhường nhịn Trúc, vì sợ cô bỏ việc sẽ khó tìm được người nào khác được như thế. Nhưng lần hồi Huê nhận ra giữa hai người hình như có chuyện gì đó không được bình thường.
- Anh với con Trúc có gì với nhau phải không?
Huê hỏi thẳng thừng khi vừa thấy Thiện bước vô phòng.
Thiện sững người lại, lúng túng:
- Có gì là có gì? Em đừng suy diễn lung tung…
Huê nhếch môi:
- Anh nhìn lại mặt mình trong gương đi! Bộ mặt anh đã tố cáo anh rồi, anh không chối được đâu!
Thiện giả vờ châm thuốc hút. Bập bập điếu thuốc trên môi, Thiện cố chống chế:
- Hôm nay em bị làm sao vậy? Nói chuyện điên khùng…
Huê chồm tới giật phắt điếu thuốc ra khỏi miệng chồng, dụi mạnh vào chiết gạt tàn, rít lên:
- Hôm nay anh phải thành thật khai hết ra, nếu không anh đừng có trách tôi nhé!
Thiện thấy trong bụng hơi run. Chắc là Huê đã nắm được điều gì rồi nên mới quả quyết như vậy! Phải làm sao đây? Bởi vì mặc dù rất say mê Trúc nhưng Thiện có đời nào dám công khai tình cảm đó với Huê. Anh cũng chẳng bao giờ dám chia tay với Huê để đến với bất kỳ người phụ nữ nào khác.
Không phải Thiện yêu thương Huê quá sâu đậm mà không thể tách rời. Anh cũng không biết giữa mình và Huê có tình yêu hay không nữa. Hai người đến với nhau ngay từ lúc ban đầu đã là sự toan tính cho quyền lợi riêng của mỗi phía. Họ là cặp vợ chồng được kết hợp không phải bởi thứ tình yêu lãng mạn thường được ngợi ca, mà họ được thắt chặt bởi sợi dây kim tiền rắn chắc.
Thiện cũng là người bay bướm, anh từng có những mối tình ngoài chồng ngoài vợ, những điều đó Huê cũng biết ít nhiều. Ban đầu cô cũng đau khổ vì tính trăng hoa của chồng, nhưng sao cô tự an ủi rằng đó chỉ qua là niềm vui nhất thời, là trò chơi giúp chồng mình giải trí vậy thôi.
Nhưng lần này Huê không thể nào chấp nhận được. Cô không cho phép việc đó diễn ra trong nhà mình, mà rất có thể diễn ra trên chính chiếc giường của vợ chồng cô.
- Anh nói đi! Anh quan hệ với nó từ lúc nào?
Nghe giọng nói sắc lạnh của vợ, anh Thiện biết mình không thể nào tiếp tục chối quanh, thôi thì cứ thành thật khai báo như các lần trước, biết đâu mọi việc sẽ dễ dàng hơn.
- Anh… anh chỉ đùa với nó thôi!
- Tôi hỏi anh quan hệ với nó từ khi nào? Đừng đánh trống lảng như vậy! Trả lời thẳng vô câu hỏi của tôi đi!
Huê lạnh tanh.
- Anh… thì cái lần em đi Phan Thiết… Anh uống rượu say quá nên…
Thịên ấp úng.
Huê cười cay đắng:
- Hơ… hơ… vậy ra anh làm việc này là do lỗi ở tôi à? Anh hay lắm…
- Không, không! Ý anh không phải vậy…
Thiện cuống quýt.
- Nếu không phải vậy thì ngay bây giờ anh gọi nó lên đây rồi lập tức cho nó nghỉ việc!
Huê ném cho Thiện một cái nhìn đầy căm phẫn.
Thiện hấp tấp:
- em ơi, anh hứa… anh không dính líu gì tới nó nữa đâu! Em đuổi nó đi rồi, ai giúp em làm công việc nhà, em nên nhớ vợ chồng mình đã tốn biết bao công sức mới tìm được một người như nó…
Huê quắc mắt:
- Anh đừng có ở đó mà ngụy biện! Tôi không thay đổi lập trường. Nếu thật sự anh chỉ đùa vui thì nhanh chóng thực hiện yêu cầu của tôi đi, còn không thì… chắc anh biết chuyện gì sẽ xảy ra đó!
Thiện giơ hai tay ôm đầu:
- Trời ơi, thiệt khổ quá… Thôi, em muốn đuổi muốn xua gì thì em cứ làm đi, anh không ngăn cản đâu!
Huê khinh khỉnh:
- Một khi tôi đã muốn, anh liệu có thể ngăn cản được tôi không? Tôi muốn chính anh phải nói chuyện với nó chứ không phải tôi!
Thiện tuy tướng người đô con, mạnh bạo nhưng từ ngày lấy Huê, anh luôn nghe theo mọi sự sắp đặt của vợ, đâu khi nào dám cãi. Nhất là trong vụ này, có cho vàng anh cũng chẳng dám vùng lên.
Thiện cũng biết Trúc không phải là đứa ngoan hiền, nếu bất thình lình biết Thiện trở mặt, cô sẽ không để yên đâu.
Thiện vừa sợ Huê lại vừa sợ Trúc. Nhưng phần sợ Huê vẫn nặng hơn.
Cực chẳng đã Thiện phải ra hành lang gọi vọng xuống nhà dưới:
- Trúc ơi, Trúc! Lên đây cô chú có việc này cần nói.
Sau tiếng “dạ” ngọt lịm không lâu thì Trúc đã có mặt trước cửa phòng. Thiện nháy mắt mấy  lần nhưng Trúc không sao đoán ra.
- Dạ thưa, cô chú chuyện gì cần ạ?
Trúc vô tư hỏi.
Huê nhún vai:
- Không dám…
Rồi như không dằn được, Huê buông ra một câu đầy vẻ hằn học:
- Đúng là nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà…
Lúc này thì Trúc đã đoán được phần nào. Cô thoáng giật mình nhưng đã nhanh chóng trấn tĩnh lại vì nghĩ bên cạnh mình có Thiện, anh ấy si mê mình đến vậy thì không thể nào để mình bị hà hiếp được đâu.
Trúc làm như không nghe thấy câu nói vừa rồi của cô chủ, vẫn điềm nhiên đứng đợi.
Huê nhìn chồng bằng ánh mắt gườm gườm.
Thiện lúng túng:
- Trúc à… cô chú… hiện nay cô chú không cần người giúp việc nữa… Trúc có thể… về nhà…
Trúc còn đang ngớ người ra vì quyết định đột ngột của chủ nhà, Huê thảy xuống bàn mấy tờ tiền giấy mới cáu:
- Tuy tháng này cô chỉ mới làm hơn một tuần nhưng tôi vẫn trả đủ cho cô nguyên tháng. Không có gì hẹp hòi cho cô chứ? Hay là cô cần thêm gì nữa?
Nghe giọng điệu mỉa mai của cô chủ, Trúc thấy trong lòng dâng lên một sự căm tức. Cô khẽ liếc nhìn Thiện, anh đang cúi gầm mặt xuống đất, vẻ vô cùng khổ sở.
Trúc biết mình không còn hy vọng gì nữa! Lâu nay cô luôn tin tưởng vào sự bảo vệ của Thiện, vậy mà bây giờ… chưa chi Thiện đã lộ rõ bản chất nhu nhược hèn nhát của mình rồi.
Thấy Trúc vẫn đứng yên, Huê giận sôi máu:
- Cái con này thật quá lắm! Tao đã cố nhẫn nhịn mà mầy vẫn không biết điều! Mày còn muốn gì ở cái nhà này nữa chứ? Hay là mầy muốn làm bà chủ? Hơ hơ… đừng có mơ cao như vậy nhé? Chắc mầy cũng biết tao làm nghề cho vay mà phải không? Tao đâu phải loại đàn bà núp sau lưng chồng, mầy đừng có giở trò đú đởn ra trong nhà tao… Mầy cút xéo đi! Đi cho khuất mắt tao ngay bây giờ…
Trúc cũng không vừa:
- Tôi sẽ đi, nhưng trước khi đi tôi muốn hai người phải đền bù đời con gái cho tôi, nếu không chỉ ngày mai, tôi sẽ đi nói cho cả khu vực này biết ông chủ nhà này đã hủy hoại tôi ra sao, bà chủ đã đuổi tôi thế nào, thử xem ai xấu mặt cho biết. Tôi là chén sành, chọi với chén kiểu, tôi đâu có ngán gì!
Trúc vừa dứt lời Huê nhào tới túm lấy tóc Trúc giật ngược ra sau.
Thiện lýnh quýnh giữ chặt tay Huê lại, nhưng Huê vẫn như một con thú không ngừng lồng lộn.
Trúc thấy mình có vẻ thắng thế nên nói càng cho bõ tức:
- Cô nhìn lại mình đi, cô chẳng xứng đáng làm vợ của anh Thiện đâu! Anh Thịên chỉ yêu có tôi thôi, cô biết không?
- A, con này láo thật! Tao sẽ cho mầy biết tay!
Huê vùng ra khỏi tay Thiện, điên cuồng nhảy bổ vào Trúc. Trúc ỷ y có Thiện ngăn cản nên cứ đứng yên không thèm chống cự, không thèm né tránh.
Nhưng cả Thiện, Trúc và Huê không ai có thể ngờ với cú nhảy bổ vào của Huê đã làm Trúc lảo đảo ngã bật về phía sau, đầu đập vào cạnh tủ.
Cơn giận trong người Huê vẫn còn sôi sùng sục, nên mặc dù Trúc đã ngã xuống rồi, Huê vẫn không chịu dừng tay. Cô vớ lấy cây gỗ để gần bên cánh cửa, đập tới tấp vào đầu vào mặt Trúc.
Thiện phải dùng hết sức lực mới có thể khống chế được Huê.
- Trúc, đứng lên và chạy nhanh đi!
Thiện hét lớn trong khi hai tay anh giữ chặt lấy Huê.
Huê vứt cây gỗ xuống đất, đứng thở hồng hộc.
Nhưng Trúc vẫn nằm yên không động đậy.
Thiện bỗng rùng mình khi nhìn thấy một dòng máu đỏ dưới đầu Trúc đang chảy lan ra.
- Trời ơi… cô… cô giết người rồi Huê ơi!
Thiện rên lên.
Huê kinh hãi quỳ xuống lay gọi Trúc:
- Trúc! Trúc! Mầy đừng giả vờ nữa, mầy mở mắt ra đi…
Nhưng Trúc vẫn nằm xụi lơ. Thiện lật nghiêng đầu Trúc sang một bên, tóc dưới đầu cô bê bết máu.
Huê run lẩy bẩy:
- Trời ơi… anh Thiện ơi… bây giờ… bây giờ phải làm sao đây? Em… em không cố ý!
Thiện lau dòng mồ hôi đang tuôn tràn trên mặt, ra lệnh cho Huê đang hoảng sợ tột cùng:
- Lấy cái mền ra đây, mau lên!
Huê lập cập chạy lại giường lôi đại cái mền bông đem ra cho Thiện.
Hai vợ chồng hì hục khiêng Trúc đặt lên chiếc mền rồi gói kín lại.
Thiện lắp bắp:
- Lau… lau cho sạch vết máu…
Huê riu ríu chạy đi ôm mớ giẻ lau, bò xuống sàn lau vội vã.
- Rồi… mình tính sao đây anh?
Thiện vẫn chưa hết run nhưng anh cũng đã nghĩ được cách giải quyết.
Không nói với lời nào, Thiện vội vàng phóng xuống thang lầu, chạy ra nhà xe lái chiếc du lịch mới cáu đỗ xịch ngay dưới bậc thềm.
- Nhanh nhanh giúp anh một tay!
Thiện ra lệnh cho vợ.
Lúc này Huê nhất nhất làm theo mọi mệnh lệnh của chồng.
Hai vợ chồng rất vất vả mới có thể khiêng được xác Trúc đặt vào trong xe.
Thiện nhày vội lên, cho xe nổ máy rồi dặn Huê:
- Trở vô nhà, dọn dẹp cho thật sạch, không để lại dấu vết nào nghe chưa? Xong rồi đem tất cả giẻ lau đốt hết đi…
Huê níu lấy cửa xe, lắp bắp:
- Không, em sợ… cho em đi theo…
Thiện quát lên:
- Bộ cô muốn chết cả lũ hay sao mà đòi đi theo lúc này? Đi vô, mau!
Dứt lời, Thiện cho xe chạy ra cổng. Huê run rẩy khóa cổng rồi cứ đứng chôn chân trước thềm không dám bước vô.
Gió đêm lạnh buốt thổi qua, ánh trăng bàng bạc nhảy múa lung linh càng khiến cho cô thêm sợ hãi.
Làng xóm đã ngủ yên, đường quê thật yên tĩnh.
Thường ngày, thỉnh thoảng vào những lúc đêm hôm như thế này nếu nổi hứng, hai vợ chồng vẫn thường phóng xe hơi lên chợ huyện ăn uống hay chơi bời gì đó, nên tiếng xe của Thiện không làm người dân ở ngạc nhiên. Họ đã quen với phong cách sống khác người của vợ chồng Huê rồi.
Không thể cứ đứng mãi ngoài sân, Huê lấy hết can đảm đi vô nhà. Cô mở sáng tất cả các bóng đèn trong nhà để cho bớt đi sợ hãi. Nhưng sau đó nghĩ lại, Huê không muốn gây sự chú ý cho mọi người nên cô lại tắt bớt đi, chỉ để lại ngọn đèn trong phòng ngủ của mình.
Huê lần mò xuống bếp gom hết các thứ giẻ lau, xách một xô nước lên phòng và bắt đầu lau chùi một cách tỉ mỉ. Vừa lau cô vừa lẩm bẩm nói một mình để tự bào chữa, tự trấn an:
- Tao không muốn, tao không cố ý! Lỗi là ở mầy, mầy không được trách tao…
Khi tất cả đã hoàn toàn sạch sẽ, Huê vắt mấy chiếc giẻ lau thật khô rồi dồn hết vào túi ny – lông, chờ sáng mai sẽ đem đi vứt bỏ ở một nơi thật xa, vì tuy Thiện có dặn cô đốt hết đi nhưng đang đêm thế này nếu xuống sân đốt lửa chắc chắn sẽ gây ra sự tò mò cho ai tình cờ trông thấy.
Mệt lả người, Huê nằm dài xuống giường cố nhắm mắt lại dỗ giấc ngủ nhưng không tài nào ngủ được.
Cô rất lo lắng, không biết Thịên sẽ làm gì với cái xác của Trúc? Lúc nãy Thiện đi vội vã quá cô không kịp hỏi.
Vừa sợ, vừa lo Huê trằn trọc mãi đến ơhn năm giờ sáng thì nghe tiếng xe của Thiện dừng trước cổng.
Mừng rỡ, Huê chạy vội xuống mở cửa cho chồng.
Thiện vừa xuống xe, Huê hấp tấp hỏi:
- Anh… giải quyết cách nào rồi?
Thiện thở phào:
- Ổn rồi! Thôi, mình vào nhà nói chuyện.
Hai vợ chồng lên phòng. Huê ân cần rót cho Thiện một ly nước ấm. Thiện uống xong ly nước, vừa với tay lấy gói thuốc thì Huê đã nhanh nhẹn rút ra một điếu, châm lửa sẵn rồi đưa cho chồng.
Chờ Thiện rít xong một hơi thuốc, Huê rụt rè hỏi:
- Anh làm gì với nó rồi?
- Anh vứt xác nó xuống biển rồi, hy vọng nó sẽ bị sóng cuốn ra xa, trôi dạt đến một nơi nào đó… Mọi việc ở nhà em dọn dẹp xong chưa?
Thiện nhỏ giọng nói.
- Xong hết rồi, chỉ còn mấy cái giẻ lau, em tính để sáng mai đem tới nơi nào thật xa vứt nó.
Huê trả lời chồng.
Thiện gật gù:
- Ừ, để đó sáng mai anh đem lên bãi rác bỏ cho. Việc cần thiết nhất là ngày mai em phải thật bình tĩnh, nói với mọi người là Trúc đòi tăng lương em không chịu nên nó đã nghỉ việc bỏ đi, giống như mấy đứa giúp việc trước kia. Trúc là người xứ khác, không thấy nó xuất hiện ở đây người ta cũng không chú ý lắm đâu. Nhưng em phải bình tĩnh, tuyệt đối bình tĩnh đó nhe? Thái độ của em có gì không bình thường là người ta sẽ biết hết mọi việc đó!
Huê ôm lấy chồng nức nở:
- Em không cố ý… thật sự em không cố ý! Bây giờ em rất sợ…
Thiện mệt mỏi gạt tay Huê ra:
- Cố ý hay không gì thì mọi việc cũng đã xảy ra rồi. Em phải bình tâm lại, nếu không muốn vô tù thì còn mỗi một cách là em phải tỉnh bơ như không có gì mới được…
Huê gật đầu:
- Dạ, em biết rồi!
Thiện ngã người ra giường, chán nản. Giá mà cô ấy lúc nào cũng ngoan ngoãn như thế này thì đâu có điều gì đáng tiếc xảy ra.
Tuy trong lòng rất sợ hãi, nhưng được sự dặn dò kỹ lưỡng của chồng, Huê đã phần nào lấy lại bình tĩnh.
Sáng ra, cô vẫn làm nhiệm vụ của mình một cách bình thường chỉ khác là cô không ngừng ca cẩm, rằng mấy đứa giúp giúp việc thời bây giờ thật quá quắt, thấy mình quý nó nó lại làm cao, tháng nào cũng đòi tăng lương, mình không đáp ứng thì nó đùng đùng bỏ đi.
Mất con nhỏ này cũng tiếc lắm, vì nó giỏi giang nhưng biết sao được, mình đâu thể nào thỏa mãn hết các điều kiện cứ ngày một tăng dần của nó.
Tâm sự của Huê cũng không khác mấy tâm sự của các bà các cô ở chợ. Thế là họ hè nhau nói xấu các cô người ở.
Vả lại trước nay nhà Huê cũng đã hơn chục lần thay người giúp việc, thì sự thay đổi lần này cũng không có gì đáng để quan tâm.
Mọi việc diễn ra thật êm thắm. Thiện và Huê cũng đã bớt lo sợ khi một tháng trôi qua mà không có vấn đề gì.
Nhưng rồi những việc kỳ lạ bắt đầu xảy ra ở địa phương làm vợ chồng Huê bắt đầu lo lắng. Họ càng hoang mang hơn nữa khi chính con chó bẹc – giê nổi tiếng khôn ngoan của nhà mình bị kẻ nào đó giết chết, lại còn mang xác đến bỏ ở một nơi khác nữa.
Cả xóm đều hoang mang chứ không riêng gì nhà vợ chồng Huê.
Ai người ta cũng lo nơm nớp, không biết khi nào thì bàn tay vô hình ma quái đó sẽ thò vô tới nhà mình? Có những nhà, con heo con gà là sự sống của họ, bất ngờ bị cướp đi như vậy, làm họ vừa hoảng sợ vừa đau đớn.
Việc đó đã trở thành đầu đề bàn tán của cả một ngôi chợ hay bất kỳ nơi nào có người tụ tập.
Người ta thống nhất với nhau rằng việc này không thể do bàn tay con người làm ra. Vì nếu con người làm, chắc chắn họ phải có mục đích. Đằng này, xác con vật chết còn nguyên, chỉ mất sạch máu, các gia đình vẫn không bị mất mát thứ gì trong khi kẻ vô hình đó thể ra vô bất kỳ nhà nào dù có kín cổng cao tường đến mấy. Ngay đến con chó nhà Thiện cũng bị thì còn gì phải nói.
Không phải con người thì là ai?
Chỉ có ma cà rồng!
Vâng, người ta khẳng định thế.
Ma cà rồng là loại ma chuyên đi hút máu con người và súc vật.
Bây giờ súc vật đã bị tấn công hàng loạt rồi, khi nào sẽ đến lượt con người đây?
Người trong xóm sợ một thì vợ chồng Huê phải sợ đến mười! Nhất là Huê, không đêm nào cô ngủ yên giấc.
Nỗi sợ hãi khiến đầu óc Huê lúc nào cũng căng thẳng như sợi dây đàn. Bất kỳ một tiếng động, một lời nói nào cũng có thể làm cho Huê giật bắn cả người.
Huê không dám cho Thiện đi đâu vào buổi tối, lúc nào anh cũng phải có mặt sát bên cạnh cô.
Thiện tuy không sợ đến nỗi như Huê, nhưng anh cũng không thể nào yên tâm được. Lúc nào trong lòng cũng hồi hộp, lo lắng một điều không may nào đó sẽ xảy đến với mình hoặc gia đình mình.
Để trấn áp sự lo sợ, Thiện chỉ còn mỗi một cách là vùi đầu vào men rượu. Chiều nào cũng vậy, Thiện chỉ về nhà khi đã ngất ngưỡng hơi men.
Nếu như trước kia, thế nào Huê cũng la mắng không tiếc lời, nhưng từ ngày có sự cố của Trúc, Huê như thay đổi hẳn thái độ đối với chồng. Cô luôn luôn nhẫn nhịn, luôn luôn nghe lời. Cô cảm thấy mình cần phải nương tựa vào Thiện nhiều hơn.
Thấy chồng liêu xiêu về tới, Huê vội vàng lau mặt cho anh rồi năn nỉ anh ngồi vào bàn ăn cơm với cô, nhưng hôm nay có lẽ Thiện uống quá nhiều, anh không còn đủ sức để ngồi thì làm sao có thể ăn cơm được.
Huê đành phải dìu chồng lên giường rồi một mình trở xuống ngồi bên mâm cơm lặng lẽ.
Cố gắng nuốt vội hai chén cơm để dằn cái đói cồn cào trong bao tử, Huê lục đục dọn mâm chén đem đi rửa.
Đang loay hoay với đống chén dơ, Huê nghe có tiếng động bên trong, cô hỏi khẽ:
- Sao anh không ngủ, còn xuống đây làm gì?
Không nghe Thiện trả lời, Huê lấy làm lạ nên bước vào xem thử.
Cô bỗng chết sững khi nhìn thấy ngay trên bàn ăn là một con mèo đã bị cắn đứt nơi cổ.
Huê vừa chạy vừa bò lên phòng. Cô nhảy phốc vào nằm nép sát cạnh bên chồng mà người cứ run lên bần bật.
Thiện đã ngủ rất say, cô cố lay cách nào anh cũng không dậy nổi.
Cả nhà vẫn còn để đèn sáng trưng nhưng Huê vẫn cảm thấy âm u đáng sợ. Cô không dám xuống giường để bật quạt dù mồ hôi đang tuôn chảy thành dòng.
Có tiếng lục đục dưới bếp, rồi tiếng hát nhỏ nhỏ giống y như trước đây Trúc vẫn thường hay hát một mình trong lúc dọn dẹp nhà cửa.
Huê giật mạnh tóc mai Thiện, anh ú ớ gạt tay Huê ra rồi lại tiếp tục đắm chìm trong giấc ngủ nặng mùi men rượu.
Huê bật khóc một mình. Giờ đây cô thấy mình thật bơ vơ, thật trơ trọi, không biết phải nương tựa vào đâu…
Cố lắng tai nghe ngóng, Huê nhận ra tiếng hát nhỏ dần rồi im bặt.
Không gian trở nên tĩnh lặng lạ thường. Tiếng kim đồng hồ tích tắc, tiếng con thạch sùng trên tường nhà vang lên nghe rõ mồn một.
Huê cứ nằm im, mắt mở to, tai căng ra để dõi theo từng tiếng động trong nhà dù là nhỏ nhất.
Nhưng mấy tiếng đồng hồ trôi qua không có gì lạ. Cô cũng đã quá mệt mỏi nên thiếp đi lúc nào không biết.
Sáng hôm sau Thiện thức dậy trước, anh thấy trong nhà đèn vẫn còn để sáng từ trên xuống dưới nên lấy làm ngạc nhiên lắm, không hiểu tại sao Huê lại có thể quên tắt đèn như vậy.
Vừa đi ngang qua nhà bếp, Thiện giật bắn người khi trông thấy xác con mèo đang nằm chình ình trên bàn ăn.
Dù rất lo sợ nhưng Thiện cũng đã nhanh tay túm lấy cái xác cứng đơ đó bỏ vào túi ny –lông rồi vộ ivàng đánh răng rửa mặt, xong xuôi anh ắt chiếc xe hon da ra, phóng vội tới bãi rác cách đó gần hai cây số để vứt xác con mèo. Anh không muốn cho Huê biết, sợ Huê sẽ thêm hoảng loạn.
Lúc Thiện quay về nhà thì Huê đã thức. Cô ngồi bó gối trên giường, tóc tai rũ rượi.
Vừa trông thấy Thiện, Huê òa khóc:
- Anh ơi, tối hôm qua con Trúc về…
Thiện gạt ngang:
- Em đừng nói bậy, không nên đâu!
Huê hối hả:
- Không, không… thật mà…
Rồi cô kể cho Thiện nghe chuyện cái xác con mèo, chuyện tiếng động dưới nhà và tiếng hát ngân nga của Trúc.
Thiện lặng người đi vì sợ, nhưng anh nhanh chóng lấy lại tinh thần, giả vờ nạt vợ:
- Đầu óc em mấy ngày vừa qua cứ suy nghĩ mãi về mấy chuyện đó nên đâm ra hoang tưởng thế thôi. Anh dậy từ sáng giờ có thấy gì lạ trong nhà đâu?
Huê nghi ngờ:
- Anh không thấy xác con mèo trên bàn ăn?
Thiện nhún vai:
- Không, có gì đâu!
Huê ngơ ngẩn lục lọi lại trí nhớ của mình. Rõ ràng cô nhớ mọi việc đã xảy ra như vậy, chẳng lẽ đó chỉ là giấc mơ, chỉ là điều do cô tưởng tượng mà ra?
Thiện động viên vợ:
- Em đừng nghĩ gì đến nó nữa. Người chết là hết, đừng suy nghĩ nhiều, em mà nghĩ nhiều quá, anh sợ có lúc em lại lỡ lời làm đổ vỡ hết bí mật, chừng đó sẽ khổ lắm, em biết không?
Huê gật đầu.
Cô lặng lẳng xuống giường đi làm vệ sinh. Lúc đi ngang qua nhà bếp, Huê không khỏi rùng mình nhưng khi nhìn vào trong mọi thứ vẫn ngăn nắp bình thường cô mới tạm yên tâm tin là mình vừa trải qua một cơn ác mộng.
 
***
Huê vừa ngồi xuống ghế, bà chủ sạp đường đậu nhìn cô lo lắng:
- Cô Huê dạo này đau bệnh gì mà trông hốc hác ghê thế?
Huê thở dài:
- Tôi thuở nay vô cùng sợ ma, vậy mà lúc này xung quanh mình luôn nghe nói chuyện về ma quái, nó cứ ám ảnh mãi không sao yên ổn được chị à!
Bà chủ sạp chép miệng:
- Ừ, không biết sao xóm mình dạo này ma quỷ lộng hành dữ! Chắc phải bàn bạc với nhau mời thầy pháp về cúng giải tà mới được, chứ để như vầy hoài đâu ai còn tinh thần mà làm ăn buôn bán nữa.
Huê mừng rỡ:
- Được đó, chị tính vậy nghe rất phải! Chị coi bàn với mấy ông bà lớn tuổi trong xóm đi, nhờ họ tìm cho được thầy nào giỏi nhất, chi phí bao nhiêu tôi sẵn sàng đứng ra lo hết…
Bà chủ sạp nhìn Huê cười cười:
- Cô Huê nổi tiếng keo kiệt mà lần này chịu chơi ghê há! Dám một mình đứng ra bao thầu cho việc cúng kiếng này! Thế mới biết cô là người quá nhút nhát.
Huê ủ rũ:
- Hồi nhỏ, bị mấy đứa bạn giả làm ma nhát, tôi đã bịnh một trận hơn mười ngày. Bây giờ gặp phải sự việc như thế này, tôi quả thật vô cùng lo sợ. Thà chịu mất ít tiền rồi mình có đủ sức khỏe và tinh thần để làm ra cái khác, còn hơn là cứ sống trong cảnh hoang mang hồi hội như vậy, thịêt tình tôi không chịu nổi.
Bà chủ sạp gật gù đồng ý:
- Ừ, chị nói cũng đúng! Người ta đồn ầm lên là xóm mình có con ma cà rồng, nó mà hút hết máu súc vật sẽ hút tới máu người. Không phải chỉ một mình cô lo sợ đâu, ai cũng sợ hết! Tôi đây nè, từ bé tới lớn chưa từng biết sợ ma cỏ là gì, hồi nhỏ chuyên môn ngủ giữa nghĩa địa để canh lúa, canh vịt chạy đồng mà không hề nao núng. Nhưng hổm nay tôi cũng hồi hộp không kém chi ai. Mèo, chó, heo, gà trong xóm mình cũng đâu còn mấy con, hổng biết rồi sẽ tới chuyện gì đây? Đúng là ma quỷ lộng hành quá sức rồi!
Được có người để chia sẻ nỗi lo sợ của mình, chị Huê cũng cảm thấy phần nào vơi bớt.
Theo sự thống nhất của người dân trong xóm, một ông thầy pháp được cho là cao tay ấn nhất vùng được mời về.
Người ta che rạp dưới gốc cây da đầu xóm để làm đám cúng.
Từ chiều, người lớn và cả đám trẻ con đã chen chúc nhau đặc kín ngoài ấy.
Khi mặt trời đã tắt hẳn ở đằng tây, ông thầy pháp cùng hai đệ tử đã có mặt và bắt đầu chuẩn bị hành lễ.
Đèn nến sáng choang cả một quãng đường.
Ở chính giữa rạp được đặt một cái bàn độc lớn, trên bàn để đầy đủ các bát hương, bài vị, hình nhân, các dĩa trái cây đầy vun đặt đầy trên đó.
Sát bên chiếc bàn độc là một chiếc bàn nhỏ hơn được kê thấp hơn một chút, trên đó là một con heo quay vàng rộm mà vừa lúc nãy người làng mới đi chở về từ lò quay trên huyện cho kịp giờ cúng tế.
Ông thầy pháp sau khi ngẩng nhìn trời và quan sát xung quanh, nhẹ nhàng xỏ tay vào chiếc áo lễ mà đệ tử đang dâng lên rồi bắt đầu tiến hành cuộc lễ.
Những nén nhang được thắp lên tỏa mùi hương nghi ngút.
Ông lầm rầm khấn vái rồi nhảy múa loi choi với những câu thần chú vang lên từ miệng.
Ông cầm bó hương cháy rừng rực trong tay, châm vào các hình nhân để trên bàn độc. Hình nhân bằng giấy nên vừa gặp lửa là bốc cháy, tàn hương, tro giấy theo gió bay tứ tung. Dân làng, kể cả trẻ con, không ai dám đùa cợt, giỡn hớt như trong các đám cũng đình, cúng miễu khác. Từ già đến trẻ, ai cũng ý thức được tầm quan trọng của buổi lễ này, ai cũng hy vọng thầy pháp có đủ uy lực để xua đuổi bóng ma quẩn quanh trong xóm mình thời gian vừa qua, trả lại cho làng xóm sự yên bình vốn có của nó.
Thiện và Huê cũng có mặt trong đám cúng.
Nếu là trước đây, chắc chắn Thiện sẽ nhún vai cười rồi bỏ đi nếu nghe ai nói tới chuyện cúng kiếng của các thầy pháp, thầy bùa, anh luôn cho đó chỉ là những trò bịp bợm để móc túi người khác, những người dân quê mùa ít học, luôn đặt niềm tin vào các thế lực vô hình. Vậy mà lần này Thiện tin tưởng, Thiện cũng hy vọng như bao nhiêu người dân quê ít học khác.
Khi cái hình nhân cuối cùng chưa kịp cháy hết thì một cơn gió rất lớn thổi ào qua, cuốn nó ra ngoài và xoay tít trên cao như đang thực hiện một màn múa lửa trên không.
Lửa trên hình nhân vẫn cháy, nhưng lạ lùng là nó nhanh chóng lụi tàn gióng như các hình nhân trước, ngọn lửa vẫn cháy sáng bất chấp gió ngoài trời thổi mạnh, và hình như ngọn lửa đó không làm cháy thêm phần giấy còn lại của hình nhân.
Tất cả mọi người đều đồng loạt ngước mặt lên nhìn, kể cả thầy pháp.
Hình nhân xoay tròn mấy lượt rồi hạ thấp xuống một chút, bay là đà trên đỉnh đầu của đám đông.
Rồi bất thần nó rơi ngay trên đầu Huê, ngọn lửa vẫn còn cháy sáng. Rất may là người đứng cạnh bên đã nhanh tay dùng cái khăn đội đầu của mình quơ mạnh cho hình nhân văng ra khỏi đầu Huê, tuy nhiên tóc cô vẫn bị cháy sém mất một lõm.
Huê xanh mặt gần như muốn xỉu.
Thiện vội vàng chạy đến bên đỡ lấy vợ.
Hình nhân đảo qua đảo lại mấy vòng nữa rồi bùng lên cháy dữ dội, tàn giấy bay ra lả tả, lửa cũng lụi dần.
Ông thầy pháp lập tức cùng đồ đệ thu dọn đồ nghề rồi buồn rầu cáo lỗi:
- Tôi xin phép được tạ tội cùng bà con cô bác ở đây. Tôi không đủ sức để chống lại con quỷ này. Nếu bà con không còn biết ai khác có uy lực cao hơn, và nếu bà con tin tưởng tôi, tôi xin đi thỉnh sư phụ tôi tới đây, may ra mới có thể trục được nó…
Người ta ồ lên bàn tán xôn xao, giọng ai nấy đều chất đầy sợ hãi.
Cuối cùng, ông thầy pháp được dân làng giao cho nhiệm vụ lặn lội đi tìm sư phụ của mình.
- Tôi xin thưa trước để bà con khỏi nóng lòng. Sư phụ tôi có một cái am ở vùng núi Cấm dưới miệt Long Xuyên, nhưng ông lại thường đi chu du đây đó, tìm được ông cũng không phải là chuyện dễ có thể thực hiện trong ngày một ngày hai. Nhưng tôi xin hứa với bà con, tôi sẽ ra sức tìm kiếm, và khi nào tìm được tôi sẽ lập tức đưa thầy về ngay đây. Trong lúc tôi đi tìm sư phụ, xin bà con, nếu có thể hãy lập ngay chỗ này một miếu thờ để dằn bớt sự hung hãn của cái thế lực đen tối kia…
Dù người làng có nằn nì đến mấy, ông thầy pháp vẫn một mực không chịu nhận số tiền bồi dưỡng.
Ba thầy trò lặng lẽ ra đi, bỏ lại đám dân làng hoang mang tột độ.
Sáng sớm hôm sau, có mấy người thợ hồ được thuê tới xây một ngôi miếu nhỏ dưới gốc cây da. Và ngay buổi chiều hôm đó ngôi miếu đã được hoàn thành. Người ta mua hoa quả, nhang đèn để đầy nhóc bên trong.
Từ hôm qua, lúc ở đám cúng về Huê đã nằm mẹp.
Thầy pháp có tiếng tăm vậy mà cũng phải bó tay trước con ma hung bạo đó, làm cho sự sợ hãi trong lòng Huê càng tăng lên cao.
Thiện phải mua cháo đem về dỗ dành Huê ăn từng muỗng.
- Anh ơi, em phải làm sao đây? Em không chịu nổi rồi…
Huê nhìn chồng, rên rỉ.
Thiện khuyên:
- Trước mắt bây giờ em phải ráng ăn uống để lấy lại sức lực. Khi em khỏe lại chúng mình có thể đi đâu đó một thời gian…
- Không được… không được… Vợ chồng mình đi như vậy người ta sẽ nghi ngờ…
Huê hốt hoảng.
Thiện lắc đầu:
- Vậy chứ anh biết làm sao bây giờ? Em cứ mất bình tĩnh thế này thì trước sau gì mọi việc cũng đổ bể hết thôi.
Thiện trầm ngâm một lúc rồi nói tiếp:
- Mà anh không hiểu tại sao em cứ liên tưởng tới nó? Có thể đây là một hồn ma nào khác chứ không phải nó? Nếu là nó, thì nó chỉ phá vợ chồng mình, chứ sao lại đi phá hết tất cả nhà trong xóm. Em nghĩ coi đúng như vậy không?
Huê mừng rỡ ngồi bật đậy:
- Đúng rồi! Không phải nó… Không phải nó thì em không việc gì phải sợ nữa rồi!
Thiện động viên:
- Ừ, có việc phải sợ! Cả xóm mình đều bị như vậy chứ phải đâu riêng mình! Em cứ yên tâm, lo ăn uống cho bình thường trở lại đi.
Huê cảm thấy phấn chấn hẳn lên.
Chỉ có vậy thôi mà sao thời gian mình không nhận ra được nhỉ? Cả Thiện nữa, phải chi anh phân tích sớm cho mình biết thế này thì chắc mình không đến nỗi phải sống khốn sống khổ như vừa rồi.
Huê vồ lấy chén cháo trên tay Thiện ăn lấy ăn để, mồ hôi cố túa ra hai bên má. Aên hết chén cháo, Huê thấy khỏe hẳn ra, cô nhanh nhẹn soạn quần áo đi tắm rồi ra chợ như bình thường.
Thiện đứng nhìn theo Huê, lặng lẽ lắc đầu.
Mặc dù cố gắng khuyến khích động viên Huê, nhưng tận trong thâm tâm Thiện vẫn luôn nghĩ tất cả mọi việc đều dính dáng tới cái chết của Trúc.
Tại sao trước đây không hề có chuyện gì xảy ra, mọi việc mới đầu hơn một tháng sau khi Trúc chết, chính xác là đúng bốn mươi chín ngày!
Mấy lúc gần đây Thiện lại thường xuyên gặp Trúc trong mơ, lần nào cô cũng ướt lướt thướt và run cầm cập.
Khi thì Trúc khóc lóc trách hờn Thiện không giữ đúng những lời đã hứa hẹn với cô, khi thì cô xin Thiện cái mền, có lần cô còn hung tợn hét vào mặt Thiện:
- Tôi sẽ không để các người được sống yên lành đâu!
Tất cả những điều đó, Thiện đều âm thầm để trong lòng, không dám hở môi với vợ. Anh lo sợ tinh thần Huê không vững, căng thẳng quá có thể hóa điên hoặc có thể cô sẽ phun ra hết những việc cần phải giấu kín tuyệt đối.
Thấy Huê đã khá hơn Thiện cũng mừng trong bụng. Vậy là anh đỡ bớt một mối lo.
Giờ thì vợ chồng Thiện cùng cả xóm ngày nào cũng khắc khoải trông ngóng tin tức của thầy trò ông thầy pháp.
Dù đã được dân làng lập miễu thờ cúng, con ma cà rồng quái ác ấy vẫn không chịu buông tha cho họ.
Súc vật trong làng vẫn tiếp tục chết. Nhưng bây giờ có điều lạ là tất cả các xác chết đều được để ngay trước sân nhà Thiện.
Vừa mới lấy lại được tinh thần có mấy ngày, Huê lại tiếp tục bị khủng hoảng, vì sáng nào mở cửa ra cũng bắt gặp một xác chết nằm chình ình một đống ngay giữa lối đi.
Không thể chịu nổi, Thiện rủ thêm một vài ông trong xóm bày một mâm thức ăn ra ngồi nhậu nhẹt ở một góc sân để thử xem sáng mai ra có còn hiện tượng đó.
Họ thức cả đêm, đến gần sáng mệt lả đi, mới vừa chợp mắt đã nghe tiếng la hoảng của Huê. Cả đám choàng dậy thì thấy trước mắt là con heo gần nửa tạ đang nằm ngoẻo cổ trên bậc thềm.
Tối hôm sau, đám đàn ông lại tụ tập trong sân nhà Thiện, nhưng hôm nay họ chỉ uống trà chứ không uống rượu.
Thời khóa biểu được phân chia hẳn hoi, cặp nào ngủ trước, cặp nào ngủ sau, phải thay nhau thức canh chừng, không được ngủ cùng lúc.
Ông Năm và ông Chín trước lúc trao ca trực cuối lại cho Thiện và anh Hơn, hai người còn cẩn thận đi một vòng quanh sân xem xét nhưng không thấy gì lạ.
Vậy mà khi họ vừa ngã lưng nằm xuống, mắt chưa kịp khép lại đã nghe tiếng anh Thịên gọi to:
- Trời ơi, các ông xem kìa!
Ngay giữa lối đi, cạnh bên chân ông Năm là một con chó lông vàng, chính là chó nhà anh Hơn mà lúc tối, trước khi đi sang đây anh đã cẩn thận xích nó vào gốc cột trong nhà!
Mọi người lo sợ, chán nản, vì dù có canh chừng cỡ nào cũng không thể biết được kẻ xuất quỷ nhập thần ấy vứt xác chết vào sân nhà anh Thiện bằng cách nào.
Con ma này quá sức lộng hành, nó không coi ai ra gì. Mọi người đành phải bó tay, chỉ còn biết trông đợi vào sư phụ của ông thầy pháp.
Vậy mà tin tức của họ vẫn biền biệt nơi đâu…
Lúc này chị Huê không còn đủ sức để ra chợ mỗi ngày nữa. Dù anh Thiện có động viên cách nào chị cũng không khá hơn được.
Mặt mũi chao dao, đôi mắt thất thần, chị Huê lúc này giống như một bóng ma hiện diện trong nhà.
Người trong xóm lại đồn ầm lên chị Huê đã bị con ma cà rồng nhập vào. Lời đồn đại cứ tiếp nối nhau thổi phồng sự việc lên một cách rùng rợn.
Người ta bảo rằng, ban ngày chị Huê không ăn gì (điều này dựa trên cơ sở anh Thiện thường hay than thở với các bà ngoài chợ rằng vợ anh ốm đến bỏ luôn cơm nước), đêm đêm chị lại bay vật vờ đi hút máu súc vật.
Có người còn dám khẳng định một đêm có việc tình cờ đi ngang qua nhà chị Huê, chính mắt người đó trông thấy chị Huê ngồi trên thềm nhà, cúi đầu vào cổ con mèo hút lấy hút để, chừng đã no nê ngước mặt lên trời cười man rợ, rồi đưa tay chùi những vệt máu dính quanh mép. Người này sợ điếng hồn nhưng không dám la lên, sợ chị Huê phát hiện được sẽ thủ tiêu luôn mình.
Những câu chuyện thêu dệt như thế ngày một nhiều thêm, khiến anh Thiện vô cùng khổ sở.
Người ta sợ hãi anh, xa lánh anh. Nhưng cũng có vài người người tỏ ra thông cảm hoặc tò mò:
- Có thật vợ anh đã bị ma cà rồng nhập? Nếu vậy ban đêm anh nên xích chị ấy lại cho làng xóm được nhờ, đừng để chị lang thang đi phá làng phá xóm nữa…
Thiện khổ sở giải thích nhưng chẳng mấy ai tin, vì quả thật chị Huê giờ đây không còn tỉnh táo nữa. Nhưng Thịên biết chắc một điều chị Huê không phải là người đi hút máu súc vật đêm đêm.
Không còn tâm trí làm ăn, cũng không thể tiếp tục sống cảnh đời như vậy nữa. Anh Thiện quyết định đưa vợ vào trại tâm thần. Nhưng trước ngày lên đường, chị Huê bất ngờ tỉnh táo bình thường. Chị khóc lóc van xin anh cho chị được ở lại nhà, chị sẽ không như vậy nữa.
Cuối cùng rồi anh Thiện cũng xiêu lòng, không đem vợ đi như dự tính.
Ngày tháng cứ nặng nề trôi qua.
Một buổi chiều cả làng vang lên tiếng hò reo vang dội, làm anh Thịên đang ngồi nhà cũng lật đật chạy ra đầu xóm xem thử chuyện gì.
Thì ra ông thầy pháp dạo nọ đã tìm được sư phụ của mình, giữ đúng lời hứa, ông đưa sư phụ về giúp dân làng diệt trừ yêu quái.
Ông thầy pháp già có mái tóc bạc phơ, chòm râu dài trắng xóa giống y như các ông tiên trong truyện cổ. Cốt cách, phong thái của ông đĩnh đạc, ung dung thật khác với người thường.
Vừa nhìn thấy ông thì tất cả dân chúng trong xóm đều lập tức có niềm tin là ông sẽ là người đem lại sự bình an cho dân chúng.
Ông thầy pháp già ngồi trên ghế, tay vuốt râu, dáng địêu thơ thới như người đang thưởng ngoạn thú vui dân dã nơi này.
- Con yêu quái ở làng này là một phụ nữ chết oan. Nó muốn đày đọa những người đã ra tay giết nó nên đã gây những chuyện như vậy để làm khủng hoảng tinh thần họ. Thật ra con yêu này cũng đáng tội nghiệp, nó bị người ta giết chết khi số phần chưa dứt. Hồn vía lang thag, cái tham vọng hồi còn sống được hấp thu thêm nhiều âm khí nên trở thành sự độc ác đáng sợ. Nếu không kịp thời ngăn chặn, một ngày không xa nó sẽ tấn công tới cả con người.
Ông già nói thầm với người đệ tử đang đứng bên cạnh.
Ông thầy pháp đệ tử cung kính hỏi sư phụ mình:
- Dạ thưa, thầy đã có cách nào để ngăn chặn chưa ạ?
Ông già rời tay khỏi chòm râu trắng, những sợi râu dài bay phơ phất làm cho ông càng có dáng dấp của một ông tiên.
- Con yêu này có bản chất giống như một đứa trẻ ương bướng. Nếu mình càng nghiêm khắc nó lại càng cương lên thêm, bất kể hậu quả. Thầy suy đi xét lại chỉ có mỗi một cách là giáo huấn nó từ từ…
Ông già nói chậm rãi.
Ông thầy pháp đệ tử ngạc nhiên hỏi lại:
- Giáo huấn? Ý của thầy là không dùng biện mạnh để trục xuất nó ra khỏi làng mà là dạy dỗ để nó tự rút lui đi? Nhưng làm cách nào để giáo huấn được nó, xin thầy chỉ dạy?
Ông già nhìn học trò, mỉm cười độ lượng:
- Đúng như vậy! Ta sẽ có cách làm cho nó ngoan ngoãn vâng lời. Con hãy chờ xem!
Ngay chiều tối hôm đó, một chiếc rạp lại được dựng lên dưới gốc cây Da, trùm cả lên ngôi miếu nhỏ còn tươi màu vôi mới.
Nhưng lần này không có bàn độc để giữa rạp, không có hình nhân và những mâm lễ linh đình đầy ắp.
Theo yêu cầu của ông thầy pháp già, người ta bày giữa rạp một chiếc bàn nhỏ, trên để bát hương, một bình hoa đơn giản và mấy chung nước nhỏ.
Ông thầy pháp già cũng không niệm thần chú, không nhảy múa giống như các màn cúng bái khác. Ông chỉ lẳng lặng quỳ xuống bên chiếc bàn con, tay lần tràng hạt và miệng không ngớt đọc kinh như các vị sư tăng trong các buổi cúng cầu an ở đình chùa.
Không khí buổi lễ trầm hẳn lại. Những người dân làng có mặt cũng từ từ quỳ xuống, vòng trong vòng ngoài. Họ không thuộc kinh để đọc theo nên trong lòng mỗi người chỉ thầm nguyện cầu khấn vái cho làng xóm được bình yên, nhà nhà được yên tâm làm lụng.
Giữa lúc tất cả dân trong xóm hầu hết đều đổ dồn về phía đầu làng dự cuộc cúng lễ, thì ở nhà anh Thiện bỗng dưng chị Huê trở bệnh.
Chị hết lảm nhảm những câu vô nghĩa lại la hét, khóc lóc rồi cuống cuồng chạy xuống bếp lấy dao tự cứa vào cổ mình.
Anh Thiện phải dùng hết sức lực mới có thể khống chế được chị.
Anh lấy dây trói chặt tay chân chị Huê xuống giường rồi lấy bông băng tới lau vết thương nơi cổ chị.
Anh Thiện đang cúi lom khom lau chùi vết thương, bất ngờ chị Huê giống như một con thú dữ chồm đầu lên cắn một phát thật mạnh vào giữa cổ anh.
Hoảng hốt, anh Thiện té bật ngửa ra sau làm thuốc và bông băng văng tung tóe khắp phòng.
Vì tay chân đều bị trói nên chị Huê chỉ biết nằm trên giường nhìn anh Thiện bằng đôi mắt đầy hận thù.
Chị gầm ghè, rên rỉ khiến anh Thiện vô cùng hoảng sợ.
Anh không muốn việc này lan truyền trong làng xóm, nhưng đã đến nông nỗi này rồi có muốn giấu cũng là điều rất khó khăn.
Đứng nhìn chị Huê thêm chút nữa, anh Thiện thất thểu lê bước ra đầu xóm.
Khi đến nơi cũng là lúc buổi cúng cũng vừa kết thúc.
Dân làng lục tục kéo nhau ra về, hai thầy trò ông thầy pháp được ông Năm mời về nghỉ, chờ tối mai cũng tiếp, nhưng ông thầy già lắc đầu:
- Cảm ơn chú, chú về trước đi! Đêm nay thầy trò tôi còn phải ở lại đây giải quyết một vài vấn đề.
Mặc dù rất thắc mắc nhưng ông Năm không dám hỏi gì thêm, ông cũng nối gót theo bà con đi trở vào trong xóm. Dạo gần đây ít ai đủ can đảm đi một mình trong đêm tối.
Ông thầy pháp đệ tử ngạc nhiên hỏi sư phụ:
- Thưa thầy, thầy còn ở lại đây để làm gì thế ạ?
Ông thầy pháp già nhẹ vuốt chòm râu:
- Ta còn chờ một người!
- Thầy chờ một người? Ai thế?
Người đệ tử sửng sốt hỏi lại.
Ông già cười khà khà:
- Anh bạn trẻ, cần gặp ta có chuyện gì thì bước vô đây! Mọi người đã về hết rồi, anh có gì cần giãi bày thì mạnh dạn vô đây.
Nghe sư phụ nói thế, ông thầy pháp đệ tử còn đang ngơ ngác thì trông thấy anh Thiện từ ngoài rụt rè đi vô.
Chỉ tay vào cái ghế đối diện ,ông thầy pháp già ôn tồn:
- Anh bạn trẻ, ngồi xuống đó và bắt đầu kể cho ta nghe mọi việc!
Anh Thiện khép nép ngồi xuống. Sau một hồi do dự, anh cất tiếng:
- Dạ thưa thầy, con xin nói thật, có lẽ mọi việc bất ổn lâu nay xảy ra ở đây là do từ gia đình con mà ra…
Giọng anh Thiện trở nên hấp tấp.
Ông già vỗ vai anh trấn an:
- Bình tĩnh! Con cứ bình tĩnh. Mặc dù bây giờ ta đoán ra phần nào sự việc nhưng ta vẫn muốn nghe từ miệng con. Nào, con kể đi, đầu đuôi sự việc ra sao?
Được sự động viên của ông thầy pháp già, anh Thiện từ từ kể lại toàn bộ câu chuyện, không giấu bất cứ chi tiết nào.
Khi câu chuyện kết thúc, anh Thiện không cầm lòng được, khóc nấc lên:
- Con biết tội của vợ chồng con lớn lắm!  Thật sự giờ đây con thà chấp nhận đi tù để đền tội còn hơn là phải sống trong cảnh khốn khổ như thế này… Ông ơi… ông có cách gì giúp cho vợ con. Kể ra thì cô ấy cũng không đáng tội, cô ấy chỉ là vô tình, không phải cố ý giết người… Mọi tội lỗi là ở nơi con, nếu con đừng lăng nhăng thì cả Trúc, cả vợ con đều không rơi thảm cảnh đó…
Ông già nhìn Thiện, gật gù:
- Cuối cùng thì con cũng đã nhận thấy được lỗi lầm của mình. Đó là một điều tốt. Ta sẽ giúp con gỡ được mối oan khiên này, nhưng ta e…
- Sao hả ông?
Thiện lo lắng.
Ông già đăm chiêu một lúc mới trả lời:
- Ta e không cứu được vợ con! Tuy rằng sự việc đáng tiếc đó không do vợ con cố ý gây ra, nhưng dẫu sao cô ấy cũng đã gây ra nghiệp chướng nên âm khí đã xâm nhập vào cô ấy quá nhiều. Lợi dụng sự suy yếu đó, các thế lực tà ma có cơ hội đến quấy nhiễu. Nếu như kiếp này cô ấy biết tu tỉnh làm ăn thì có thể sự việc không đến nông nỗi đó. Đằng này, nợ tiền kiếp chưa trả xong, lại phải cộng dồn những điều bất nghĩa của kiếp này làm cho nghịêp chướng càng thêm nặng…
- Ông ơi… kiếp này vợ con ngoài việc vô ý làm chết Trúc, cô ấy đâu làm gì gây nên tội lỗi?
Thiện lên tiếng bênh vực vợ.
Ông già nhìn Thiện cười thông cảm:
- Ta khá khen con trong lúc hiểm nguy vẫn một lòng đứng ra bảo vệ vợ mình chứ không đem hết tội lỗi đổ lên đầu vợ để tự cứu mình như một vài kẻ khác. Có lẽ con chưa nắm hết cái gọi là làm ác. Làm ác không có nghĩa phải là giết người con ạ! Vợ con làm nghề cho vay nặng lãi. Đành rằng đó cũng là một cái nghề để sinh sống, và nó cũng giúp được cho những trường hợp cần tiền khẩn cấp. Nhưng vợ con lại ác ở chỗ, luôn lợi dụng các hoàn cảnh khốn khó mà nâng mức lãi lên gấp nhiều lần. Trong lúc thập tử nhất sinh, cần có tiền để cứu nguy, dù vợ con có đưa ra mức lãi ở trên trời thì người vay cũng phải đồng ý thôi. Cả gia đình, cả dòng họ nhà người ta phải quanh năm quần quật mà vẫn không thể nào trả hết nợ, đó là một điều ác, con có biết không?
Nghe ông già giảng giải, Thiện hiểu ra và buồn bã gật đầu:
- Dạ, bây giờ con đã hiểu. Nhưng thưa ông, theo lời ông nói thì tình trạng của vợ con hiện nay…
Không chờ Thịên nói hết câu, ông già đứng lên cắt lời anh:
- Bây giờ ta sẽ cùng con đến đó mới có thể khẳng định được.
Thiện nghe ông già nói lật đật đứng lên cung kính đi trước dẫn đường. Ông thầy pháp đệ tử đi theo sát một bên thầy, lòng vô cùng khâm phục sư phụ mình đa có thể đoán biết được nhiều điều như vậy.
Vừa trông thấy ba người bước vô phòng, đôi mắt đang long lên sòng sọc của chị Huê vội vàng cụp xuống.
Ông già khẽ đưa mắt ra hiệu, ông thầy pháp đệ tử hiểu ý bèn đến bên chị Huê, rút từ trong túi xách một lá bùa cỡ nửa bàn tay dán vào trán chị.
Chị Huê ngước cặp mắt lờ đờ lên nhìn mọi người, từ trong đôi mắt đó hai dòng lệ ứa ra, lăn dài xuống má.
- Mở trói cho cô ấy đi!
Nghe ông già ra lệng, anh Thiện vội vã lấy kéo cắt đứt hết dây trói rồi đỡ chị Huê ngồi lên.
Chị Huê ngồi ủ rủ, mắt không nhìn vào ai cũng không nói năng gì.
Ông già quan sát chị một lúc lâu rồi khẽ nói với anh Thiện:
- Ta e rằng cả đời còn lại cô ấy cũng không thể bình phục được!
Anh Thiện hốt hoảng:
- Thưa thầy, thầy nói vậy có nghĩa là… là vong hồn vẫn đeo bám cô ấy đến cuối đời sao?
- Không, không phải vậy! Cái vong hồn đó tuy tàn ác và phá phách như vậy nhưng cũng dễ nghe lời, chỉ vài hôm nữa thôi, khi cơn uất ức qua đi ta chắc chắn nó sẽ ngoan ngoãn thoe ta về núi tu luyện chờ tới ngày mãn kiếp để đầu thai kiếp khác. Riêng vợ cháu, hồn phách của cô ấy đã không còn nguyên vẹn nữa, nên dù hồn ma có rời bỏ xác thân cô ấy rồi thì cô ấy vẫn mãi mãi là một người ngờ nghệch thôi.
Ông già nghiêm trang nói.
Thiện vô cùng đau khổ khi biết được cả đời còn lại vợ mình phải sống trong cảnh đời dở điên dở dại. Sự ăn năn ray rứt vò xé lòng anh.
Nghĩ cho cùng, tuy giữa người có thể không có tình yêu, tuy Huê có phần lấn lướt, ăn hiếp anh nhưng rốt lại cô vẫn là một người vợ biết lo lắng cho chồng và tổ ấm của mình. Nếu như Thiện không có tính lăng nhăng thì cũng có thể quan hệ giữa vợ chồng đã tốt hơn lên.
Tất cả cũng chỉ vì mình mà ra.
Hơn bao giờ hết, lúc này anh Thiện cảm thấy thương Huê vô cùng. Anh tự hứa với lòng, dù Huê có như thế nào, anh cũng sẽ suốt đời lo lắng, chăm sóc cho cô.
Anh Thiện quỳ sụp xuống đất cúi lạy ông già:
- Xin ông cứu giúp vợ cháu! Dù cô ấy có trở thành điên dại cháu cũng nhất định ở bên cạnh để chăm lo cho cô ấy…
Ông già xúc động đỡ Thiện đứng lên:
- Dù vợ chồng cháu đã gây ra tội lỗi không nhỏ, nhưng ta vô cùng khâm phục cháu. Điều đó chứng tỏ bản chất cháu là người tốt. Ta sẽ làm tất cả những gì có thể, hy vọng tình trạng của vợ cháu không đến nỗi nào…
Hôm sau cả xóm ngạc nhiên khi được biết ông thầy pháp già không cùn tế ở dưới gốc cây da nữa mà dời về cúng tại nhà anh Thiện.
Người ta kéo đến vòng trong vòng ngoài, chen chúc nhau vì thành tâm cũng có mà vì tò mò cũng không phải là ít.
Mấy ngày trước, chuyện chị Huê vợ anh Thiện bị ma cà rồng nhập chỉ là tin đồn chuyền tai nhau, nhưng bây giờ mọi người đều đã khẳng định đó là sự thật.
Nếu không thì sao lại phải mời thầy pháp về tận nhà? Nếu không thì tại sao trông chị Huê cứ như một kẻ mất hồn?
Chị Huê quỳ trên một chiếc chiếu trải giữa nhà, mắt ngó lơ ngơ khắp nơi.
Cạnh bên là bàn thờ, hai thầy trò ông thầy pháp cùng với anh Thiện quỳ một bên kế đó.
Hai thầy trò cứ lâm râm tụng niệm hết hồi kinh này đến hồi kinh khác, mắt chị Huê ngày một đờ đẫn thêm. Hơn hai tiếng đồng hồ sau thì chị Huê không còn quỳ nổi nữa, chị ngã ra bất tỉnh.
Mọi người hoảng hốt vực chị lên giường toan đánh gió nhưng ông thầy già cản lại. Ông bảo cứ để chị nằm im, tự nhiên một lúc sau sẽ tỉnh lại.
Quả thật, không lâu sau thị Huê hồi tỉnh. Chị mở mắt nhìn xung quanh rồi lên tiếng đòi uống nước. Anh Thiện vội vàng đi lấy nước cho vợ.
Dân trong xóm nhìn thấy cảnh tượng ấy, có người xót xa thương hại, có người sợ hãi, nhưng cũng có người thỏa mãn thầm trong bụng.
Giờ đây, anh Thiện không quan tâm đến người khác nghĩ gì về gia đình anh, anh chỉ mong sao vợ anh sớm đựơc hồi phục mà thôi.
Uống xong ly nước, chị Huê có vẻ tỉnh táo hơn đôi chút. Nhìn thấy trong nhà đầy nghịt người, chị cảm thấy bối rối liếc nhìn chồng như dò hỏi. Anh Thiện đến ngồi bên cạnh, đặt tay lên vai chị như để trấn an:
- Không có gì đâu, em yên tâm đi! Chỉ là em không được khỏe chút thôi, anh đã mời thầy về giải hạn cho em, không mấy chốc em sẽ khỏe lại nhanh thôi…
Chị Huê nhìn chồng đầy tin tưởng rồi lại mệt mỏi nhắm mắt thiếp đi.
Ông thầy pháp già cứ đọc kinh suốt như vậy đến bảy ngày.
Ngày thứ bảy, ngày cuối cùng và cũng là ngày quyết định con ma đó có chịu quy phục ông hay không theo như lời ông nói. Anh Thiện vô cùng lo lắng.
Anh không ngừng van vái vong hồn của Trúc hãy rộng lòng tha lỗi cho vợ chồng anh.
Đến kỳ cúng cuối của ngày thứ bảy, khi hồi kinh vừa dứt, chị Huê lại một lần nữa ngã ra bất tỉnh.
Thấy anh Thiện hoảng hốt, ông thầy pháp già trấn an:
- Vậy là tốt đó cháu! Không có gì phải lo! Oan hồn kia đã đồng ý theo ta về núi. Bây giờ thầy trò ta chuẩn bị lên đường đây. Chút nữa vợ cháu tỉnh lại, hãy chăm lo chu đáo cho cô ấy.
Nghe ông thầy nói vậy anh Thiện mừng quýnh. Anh rưng rưng nói lời cảm tạ hai thầy trò và dù có cầm cách nào hai thầy trò cũng dứt khoát từ chối, nhất định ra đi dù mặt trời đã sắp lặn ở phía tây.
Khi thấy anh Thiện đưa ra một phong bì dày cộm, ông thầy già bật cười ha hả:
- Cháu lại định giở trò gì với ta đây?
Dù anh Thiện và dân làng có nói sao ông thầy già cũng không chịu nhận số tiền đó.
Mọi người chỉ biết đứng ở đầu làng nhìn theo bóng hai thầy trò khuất dần trong màn đêm buông xuống.
Đến tối thì chị Huê tỉnh lại.
Chị nằm bẹp trên giường suốt một tuần lễ. Trong những ngày đó anh Thiện một tay nấu nướng chăm bón cho chị từng muỗng cháo, tự tay anh tắm giặt cho vợ. Anh Thiện bỗng trở nên một người đàn ông mẫu mực trong làng.
Từ hôm hai thầy trò ông thầy pháp đi, xóm làng lại được trở về những ngày tháng yên bình cũ.
Mới đầu người ta cũng chưa dám tin. Đêm đêm ai cũng trốn biệt trong nhà. Sáng dậy, việc đầu tiên là kiểm tra xem vật nuôi trong nhà của mình có con nào thất thoát hay không.
Nhiều ngày trôi qua, người người ai nấy đều thở phào nhẹ nhỏm.
Tuy nhiên người ta vẫn kiêng dè nhà anh Thiện, kiêng còn hơn lúc trước kiêng con chó bẹc – giê nữa.
Chị Huê ngày một tỉnh táo dần nhưng vẫn không hoàn toàn lanh lợi.
Mỗi khi chị xuất hiện ngoài đường là trẻ con bu theo sau lưng, nếu chị quay lại nhìn thì chúng ù té chạy. Chị tới nhà ai, nói chuyện với ai người ta cũng có vẻ nơm nớp lo âu và tìm cách tránh né.
Một lần tình cờ trông thấy điều đó, anh Thiện không cho vợ ra đường nữa.
Nhưng chẳng lẽ bắt chị suốt ngày ở trong nhà, vậy chẳng khác nào bị giam lỏng?
Sau nhiều ngày đắn đo suy nghĩ, anh Thiện đóng cửa nhà đưa vợ lên núi ở nhờ một ngôi chùa để chị tịnh dưỡng một thời gian.
Khi đi, anh Thiện dự định chờ cho mọi việc lắng xuống và vợ anh khá hơn chút nữa sẽ quay về. Nhưng rồi những ngày đêm hòa mình vào tiếng kệ lời kinh nơi cửa phật, sống đời đạm bạc thanh nhàn nơi núi rừng heo hút, cả anh Thiện lẫn chị Huê đều không muốn trở về.
Hai năm sau anh Thiện quay về một mình, nhưng anh chỉ về trong vài ngày để làm giấy trao tặng ngôi nhà cho địa phương dùng làm trường học cho trẻ con trong xóm.
Sau lần đó người làng không ai còn thấy vợ chồng anh quay trở lại.
Nhiều năm sau, có vài người đi hành hương lên vùng núi ấy về kể lại, có gặp một sư cô mặt mũi rất giống chị Huê nhưng hóa ra không phải, vì ni cô này hoàn toàn không nhớ gì đến bà con ở xóm cây da, cô cũng chẳng có vẻ gì là ngớ ngẩn. Một ni cô thanh thoát, hiền lành.
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 19:39:25 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện dài của Nguyễn Thị Mộng Thu - 10.08.2009 20:20:51
MỘT CHUYỆN KHÔNG QUÊN
 
Cách đây hơn hai mươi năm, ngoài một mảnh ruộng ba sào và khoảnh đất sau nhà để trồng thêm ít rau cải, thả đàn gà, đàn vịt, gia đình tôi sống chủ yếu dựa vào chiếc xe lam cũ kỹ của ba tôi.
Ngày ấy, quê tôi còn thưa người và vắng vẻ, dân làng đa số đều nghèo nên người ta cũng ít có nhu cầu đi các chợ xa.
Nhà nào cũng có lúa, còn thức ăn quanh năm chủ yếu là rau rác vườn nhà trồng lấy, cá dưới ruộng dưới ao. Chỉ khi nào có đám tiệc tương đối rình rang, người ta mới phải đón xe lam đi chợ xã.
Vì vậy, khách đi xe từ làng tôi rất ít. Ba tôi không chạy tuyến đường từ chợ xã về làng tôi mà chạy từ chợ xa lên chợ huyện.
Mỗi ngày, cứ vào độ hai giờ khuya là ba tôi thức dậy đun ấm nước pha trà, uống một vài ly cho ấm bụng rồi khởi động xe. Chiếc xe lam già cả nên tiếng máy nổ cũng rất khó nghe, cứ vào giờ đó là lại nổ ầm ầm làm cả xóm phải giật mình thức giấc.
Tôi rất ghét tiếng xe của ba vào giờ đó. Nó làm tôi phải rời khỏi những giấc mơ thường là tuyệt đẹp. Tôi lấy gối bịt kín hai bên tai để không nghe thấy, nhưng có mà nhét đầy xi măng vào cũng vẫn không tài nào ngăn nổi tiếng động đó.
Ghét là vậy, nhưng tôi chỉ ghét vào giấc khuya thôi. Chứ mỗi xế trưa, khi nghe tiếng xe ba về tới là mấy anh em tôi dù đang chơi trò gì cũng bỏ hết, chạy ào ra cổng đứng đón. Lúc nào ba cũng có quà cho tất cả chúng tôi.
Cuộc đời làm tài xế xe lam của ba tôi có rất nhiều những kỷ niệm vui buồn, nhưng kỷ niệm mà tôi cứ nhắc đi nhắc lại, kể với người này người khác là một lần ba tôi gặp… ma!
Hôm ấy cũng giống như mọi ngày, ba tôi chạy xe đi từ lúc xóm làng còn chìm sâu trong giấc ngủ.
Hôm đó tuy có mưa lâm râm nhưng bầu trời lại không tối đen như những đêm mưa khác.
Ba vừa chạy được vài cây số thì trông thấy một người đứng bên đường đưa tay vẫy rối rít.
Mừng vì lâu lâu mới có khách đón như vậy, ba tôi hấp tấp cho xe vào lề rồi dừng hẳn lại đón khách lên.
Khách là một người phụ nữ tuổi trung niên, mang theo nhiều thau, chậu.
- Cô đi đâu mà sớm thế?
Khi xe đã chuyển bánh ba tôi mở lời hỏi thăm.
Người phụ nữ ngồi phía sau trả lời:
- Tôi lên chợ xa bán cá.
- Sao lâu nay tôi không gặp cô? Ngày nào tôi cũng chạy xe qua đây vào giấc này?
Ba tôi tò mò.
Người phụ nữ khẽ cười.
- Trước đây tôi sống tại chợ, bà già chồng tôi đau ốm luôn nên vợ chồng tôi phải dọn về dưới này để tiện bề chăm sóc, nhưng công việc của tôi thì lại chẳng thuận tiện thế nào.
Hai người trao đổi mấy câu như vậy rồi thôi, vì ba tôi vốn không phải là người hay nói, mà người phụ nữa kia có lẽ cũng không muốn bắt chuyện cho lắm.
Với lại ba tôi nghĩ, thôi để im lặng cho người ta có ngủ thêm được chút nào thì đỡ chút ấy, trời còn sớm quá mà, vì công việc, người ta phải rời bỏ giường chiếu ấm êm vào giờ này cũng là một điều bất đắc dĩ, ba tôi có trong hoàn cảnh nên rất dễ cảm thông.

Hai người cứ im lặng như thế rất lâu. Ba tôi thử liếc mắt xuống phía sau thì… hết cả hồn vía vì người phụ nữ trên xe lúc này trông thật quái dị. Cái đầu chị ta to ra một cách khủng khiếp, không thể tin nổi.
Quá sợ hãi, nhưng ba tôi lại không dám la lên, vì quãng đường này không có bóng một ngôi nhà nào, đường sá lại hoàn toàn vắng ngắt, thì có la càng làm cho con ma kia được nước làm càn.
Ba tôi cố thu hết can đảm, điều khiển chiếc xe chạy thật nhanh cho qua hết đoạn đường vắng.
Vừa trông thấy ánh đèn leo lét trong một ngôi nhà cách đường chừng vài trăm thước, ba tôi lập tức cho xe dừng lại rồi nhảy ào ra khỏi xe đâm đầu chạy theo hướng ánh đèn, miệng la lớn:
- Có ma! Có ma!
Vừa chạy mấy bước, ba tôi nghe tiếng gọi ơi ới của người phụ nữ và tiếng chân chạy đuổi phía sau. Hoảng quá, ba tôi càng chạy thục mạng, nhưng tiếng chân phía sau vẫn ráo riết bám theo.
Lúc này ba tôi cũng không còn hơi sức nào mà la làng nổi nữa!
Rất may, khi sức lực sắp kiệt thì ba tôi đã tới được ngôi nhà lá nhỏ. Không phải một, mà là ba ngôi nhà ở liền kề nhau trên một gò đất cao hơn mặt đất xung quanh.
Người trong nhà chắc vẫn còn đang say ngủ nên tất cả đều im vắng, chỉ có ánh đèn le lói bên trong từng nhà là báo hiệu có người.
Ba tôi vừa ngã nhào xuống đống rơm trước cổng thì lập tức một thân thể khác cũng ngã sấp xuống, đè lên ba tôi.
- Cứu… cứu với! Có ma!
Tiếng la thất thanh của ba tôi đánh thức người trong nhà dậy, họ vội vã đốt đuốc sáng rực rồi mở cửa ra xem việc gì đang diễn ra ngay trước nhà mình.
Ba tôi đang run bần bần ngồi trên đống rơm, cạnh đó là một phụ nữ mặt cắt không còn hột máu, hai hàm răng cứ va vào nhau lập cập không thể nói nên lời.
Mọi người ngớ ra một giây trước cảnh tượng lạ lùng ấy rồi hỏi ba tôi:
- Có chuyện gì thế?
Ba tôi run rẩy chỉ vào người đàn bà:
- Ma… cô ấy là ma…
Mọi người ngạc nhiên, người đàn bà cũng ngạc nhiên không kém. Chị ta quay nhìn khắp xung quanh rồi bật hỏi:
- Anh… nói tui… là… ma?
- Chứ còn gì nữa, cô đừng có làm bộ, cô tính bắt hết cả đám được sao?
Lúc này ba tôi đã lấy lại được chút bình tĩnh nên nói năng có vẻ mạnh bạo hơn.
Người phụ nữ ngơ ngác nhìn đám người đang cầm đuốc vây quanh. Những người đó hết nhìn chằm chằm vô người phụ nữ lại nhìn sang ba tôi, không hiểu đầu đuôi sự việc thế nào.
- Tại sao anh nghĩ người này là ma?
Một ông lão lên tiếng.
Ba tôi mạnh dạn nói:
- Lúc đón cô ta lên xe tôi không nghĩ ngợi gì, mặc dù cũng hơi thắc mắc, sao thường ngày mình cũng đi mà chưa lần nào gặp. Sau mấy câu thăm hỏi, nghe cổ trả lời cũng hợp tình hợp lý nên tôi cũng thôi không thắc mắc gì nữa. Xe chạy không lâu, tôi nhìn ra sau thì… trời ơi, chị ta trông thật khủng khiếp, trên phần đầu của chị ta là một cái đầu to như cả một cái thau! Tôi hoảng sợ lắm, chỉ muốn vứt xe bỏ chạy từ lúc đó, nhưng ở chỗ ấy lại hoang vắng, tôi lịêu bề không có ai giúp được mình. May nhờ đi tới đây thấy trong này có ánh sáng nên tôi mới chạy đại vô. Con ma này vẫn không chịu buông tha, nó đuổi theo tôi vào tận đây lại còn làm bộ làm tịch.
Ba tôi vừa dứt lời thì người phụ nữ bỗng ôm bụng cười nghiêng ngã khiến ai nấy ngẩn ngơ.
Cười đến chảy cả nước mắt. Chị ta kéo chiếc khăn quấn quanh cổ lên chùi mắt rồi ráng dằn tiếng cười để nói:
- Trời đất ơi! Tui đâu có ngờ sự việc lại như thế! Chuyện là như vầy. Lúc ngồi một mình trên xe, tui nhìn ra hai bên đường thấy gò mả, thấy lùm cây, rồi các thân cây đứng đen sì trông rất dễ sợ. Tôi chưa từng trải qua những cảnh như vậy nên rất sợ. Bác tài xế lại không chịu nói chuyện, sự im lặng làm tăng thêm nỗi sợ hãi trong tôi. Đầu óc tôi tưởng tượng ra đủ thứ chuyện ma quái. Tôi quá hoảng sợ nên lấy cái thau ụp lên đầu mình cho khỏi nhìn thấy quang cảnh hai bên đường. Rồi khi bác tài đây bỏ chạy khỏi xe rồi la lên “có ma, có ma!”. Tôi cứ ngỡ có một con ma nào đó xuất hiện chứ đâu ngờ bác tài nghĩ mình là ma! Vì vậy tôi vừa gọi ổng chờ tôi với, vừa chạy theo gần chết mà ổng cũng đâu có chịu dừng lại chờ tôi. Ai nào ngờ…
Ba tôi ngớ người ra một lúc rồi cũng bật cười. Cả ba tôi, cả người phụ nữ đó đều ôm bụng cười lăn lộn, chỉ những người ở khu nhà này là đứng nhìn lặng lẽ.
Họ không nói gì, không bàn tán gì. Mãi đến lúc ba tôi dứt được cơn buồn cười đứng lên xin lỗi họ, và đưa ra gói thuốc mời mỗi người một điếu. Cả đám người hí hửng rít từng hơi thuốc một cách thỏa mãn như trẻ con vừa mới được cho món quà mà chúng yêu thích.
Hút hết điếu thuốc, ba tôi dụi tàn vào gốc cột bên cạnh rồi gởi lại hết bao thuốc cho họ.
Xong đâu đấy, ba tôi và người đàn bà kia trở ra xe tiếp tục cuộc hành trình của mình.
Xế trưa hôm đó, trên đường về ba tôi ghé lại chỗ đó, định tặng cho họ thêm một ít thuốc mà tôi vừa mới mua.
Đứng ngoài đường nhìn vào, ba tôi không thấy có ngôi nhà nào cả.
Lấy làm lạ, vì chính đây là chỗ ba tôi dừng xe hồi đêm, không sai vào đâu được, vì vết bánh xe còn hằn rõ bên lề đường. Ba tôi để xe đó rồi lững thững đi dần vào bên trong.
Trên một gò đất cao là ba ngôi mộ đất, nằm sát nhau bên cạnh một đống rơm. Những mẫu tàn thuốc còn vương vãi xung quanh, như một bằng chứng xác nhận đây đúng là chỗ hồi đêm ba tôi và người đàn bà kia đã chạy vào!
Vừa hoảng sợ, vừa bùi ngùi, ba tôi đặt lên từng ngôi mộ một ít thuốc rồi lặng lẽ trở lại xe, lòng bỗng nhiên nặng trĩu.
Đó là một kỷ niệm mà mãi mãi ba tôi không quên được.
Vì sợ một con ma trong tưởng tượng mà lại đâm đầu chạy vô gặp những con ma thật sự!
Nhưng thiết nghĩ, ma cũng như người, cũng có kẻ hiền người ác, đâu phải ma nào cũng thích nhát người, làm hại người đâu?
Ba tôi vẫn thường dạy dỗ chúng tôi như vậy. Nhờ đó anh chị em nhà tôi sau này không đứa nào biết sợ ma là gì, vì trong suy nghĩ của chúng tôi thế giới của ma là một thế giới lân cận, họ có thể lang thang dạo chơi sang thế giới của chúng ta, có lúc nào đó tình cờ chúng ta bắt gặp họ, nhưng họ cũng không làm gì hại đến chúng ta, nếu ta không hại gì đến chúng!
 
 
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện dài của Nguyễn Thị Mộng Thu - 10.08.2009 20:22:18
MA NHẬP
 
Đây là một câu chuyện có thật đã xảy đến với một gia đình giàu có ở quê tôi, khiến họ phải mất một thời gian dài lao đao khốn khổ.
Câu chuyện này được người dân quê tôi kể với nhau như một lời răn đe dạy dỗ con cháu, sống ở trên đời đừng bao giờ nhúng tay vào việc ác, bởi vì một khi tay đã trót nhúng chàm, có thể không phải một mình bản thân mình bị quả báo mà con cái trong nhà bị cũng bị khổ lây.
Ngày đó ông Cả ở xóm tôi nổi tiếng hung hăng, phách lối. Ông nhìn tất cả những người dân quê nghèo khó bằng con mắt miệt thị, khinh khi. Những người phải tới nhà ông làm thuê thì khỏi phải nói, trăm đắng ngàn cay, cơm chan nước mắt. Aáy thế mà người ta vẫn phải tìm tới, vì sự sống của bản thân, của gia đình đang trông chờ vào họ.
Ở quê, ngoài những kẻ có tiền, có quyền ra, ai người ta có khả năng mướn người làm công cho mình? Tất cả việc cấy cày, người ta làm đổi công với nhau thôi.
Bởi vậy, muốn có tiền vừa phải đổ mồ hôi, công sức, lại vừa phải nhịn nhục trước những thái độ trịch thượng của nhà chủ.
Nhà ông Cả là tiêu biểu. Từ ông Cả đến bà Cả, từ cậu Hai đến cô Ba tất cả đều cùng một giuộc.
Trong nhà ông bà Cả có nuôi một đứa bé mồ côi mười hai tuổi để làm chuyện lặt vặt trong nhà và nhiệm vụ chính của nó là hầu hạ, phục dịch cô Ba.
Đứa bé gái gầy nhom, áo quần vá víu. Cô Ba vẫn thường xuyên đánh chửi nó, bảo nó là đồ chó hôi hám, nhưng những áo quần cũ của cô dạt ra không bao giờ cô hay bà Cả đem cho nó, hình như họ sợ áo quần của họ mà khoác lên mình đứa bé ấy sẽ làm giảm đi giá trị của họ hay sao ấy!
Đứa bé làm quần quật suốt ngày mà đâu có được lãnh tiền công. Gia đình ông Cả lại còn đi rêu rao khắp làng trên xóm dưới rằng nhờ có sự nhân đức của ông bà, nó mới có chỗ nương thân, có cơm ăn mỗi bữa, chứ nếu không nó đã chết từ đời tám hoánh nào rồi!
Cậu Hai, cô Ba hỡ ra là cú dọi lên đầu nó, còn ông Cả, hễ có việc gì không vừa ý là lại dang thẳng tay tát mạnh vào má nó. Bà Cả có đỡ hơn một chút, bà không cú đầu, không tát tay, nhưng sẵn sàng vụt cán chổi lông gà vào mông nó bất kỳ lúc nào.
Trên gương mặt héo hon của đứa bé thường xuyên hằn lên những dấu vết tàn bạo mà gia đình ông bà Cả giáng xuống trên thân thể nhỏ bé tội nghịêp của nó.
Ông Cả được người ta đem biếu một chiếc bình hoa cổ rất có giá trị. Ông thích lắm, suốt ngày cứ săm soi ngắm nghía. Ông để chiếc bình quý giá ấy trên chiếc bàn ở giữa nhà để tiện việc khoe khoang mỗi khi có khách tới thăm viếng.
Một hôm, con bé mang ấm nước lên châm vào bình trà, nó lỡ tay làm đổ chút nước xuống bàn, ông Cả ngồi bên cạnh trông thấy bèn vung tay tát nó. Aám nước sôi trên tay nó văng xuống đấy, cũng may là trong ấm sắp hết nước nên nó không bị phỏng, tuy nhiên chút nước còn sót lại trong ấm văng trúng chân nó khiến nó phải nhảy lên, loạng choạng bám vào cạnh bàn để đứng vững. Không may bàn tay nó trượt dài theo dòng nước trên bàn, xô mạnh vào chiếc bình cổ làm nó lăn tròn rồi rơi xuống đất vỡ tan.
Đứa bé điếng người đứng lặng nhìn trân trối vào những miếng sứ nằm tứ tung dưới đất.
Ông Cả cũng điếng người.
Sau phút bàng hoàng, ông Cả nhào tới túm lấy tóc đứa bé, tát tới tấp vào hai bên mặt làm má nó sưng cả lên. Thế mà ông vẫn chưa hả được cơn tức giận, ông nắm tóc dúi đầu nó xuống dộng ầm ầm, liên tiếp xuống cạnh bàn.
Đứa bé van xin, rên rỉ, khóc than gì ông cũng bỏ hết ngoài tai. Cô Ba còn đứng bên ngoài nói như đổ dầu vào ngọn lửa đang rừng rực cháy.
- Đánh cho nó chết mẹ nó đi! Thứ đồ ăn hại, chứa nó trong nhà có ngày nó hại cả gia đình mình tán gia bại sản.
Đang cơn tức giận cộng với những lời xúc xiểm của đứa con gái chua ngoa, ông Cả dùng hết sức lực dộng đầu đứa bé cồm cộp xuống bàn, trong lúc say máu, ông Cả cũng không để ý đến việc đứa bé trong tay ông đã trở nên mềm nhũng.
Cô Ba đứng bên ngoài la lên:
- Chết rồi ba ơi! Nó chảy máu quá nhiều rồi kìa!
Ông Cả dừng tay lại đứng thở hồng hộc. Ở trên cạnh bàn đầy những vết máu. Ông Cả hơi giật mình, vội buông tay ra, lập tức đứa bé ngã sấp xuống đất, phía sau đầu nó máu không ngừng trào ra, chẳng mấy chốc đã đọng thành vũng dưới nền nhà.
Vừa lúc đó bà Cả về tới. Trông thấy cảnh tượng, bà cuống quýt chạy vội tới lay đứa bé, nhưng nó hoàn toàn không có phản ứng gì. Bà đặt bàn tay run rẩy lên mũi nó, cũng không còn thấy chút hơi thở nhỏ nhoi nào.
- Chết rồi ông ơi, ông phạm tội sát nhân rồi! Ông đã giết chết nó rồi!
Bà Cả rên rỉ.
Ông Cả cảm thấy hoảng sợ, nhưng chỉ một lát sau là ông lấy lại được bình tĩnh. Ông ra sau nhà lấy một chiếc chiếu cũ đem lên kéo xác đứa bé bỏ vào rồi quấn lại mang ra sau vườn.
Bà Cả run lẩy bẩy đi theo một bên.
Ông Cả quay lại bảo:
- Vô lấy cho tôi cái cuốc!
Bà Cả riu ríu chạy vô nhà bếp xách cây cuốc ra cho chồng. Ông mang xác con bé băng qua mấy khuôn vườn, đến chỗ dải đất hoang mọc đầy cỏ dại, ô rô, cóc kèn bít cả lối đi, ông đặt bó chiếu xuống rồi hì hục đào bới một cái hố nông choèn, vừa đủ đặt xác đứa bé xuống.
Lôi bó chiếu có đứa bé bên trong xuống hố, ông cào đất lấp lại một cách vội vàng, cẩu thả rồi hai vợ chồng trở vào nhà.
Trông thấy bà Cả mặt mày xám ngắt, ông Cả nạt:
- Bà làm gì mà sợ? Có có chết cũng không đền được cái bình cổ của tôi, không có gì phải sợ!
Rồi quay sang cô Ba đứng bên cạnh, ông căn dặn:
- Con không được bép xép chuyện trong nhà với ai khác nghe chưa? Thấy đâu thì bỏ đó, kể lung tung ra ngoài là mang họa đó!
Cô Ba hếch mặt lên kênh kiệu:
- Ba làm như con ngu lắm hổng bằng!
Mọi việc tưởng đâu che mắt được làng xóm, nhưng trời bất dung gian, sáng hôm sau cả làng xôn xao hẳn lên vì mấy con chó trong làng đang cắn xé, giành giật nhau một xác chết.
Mới ban đầu, người ta cứ tưởng đó là xác con vật gì, nhưng có người tò mò đến gần nhìn xem mới phát giác ra không phải xác súc vật mà là xác người hẳn hoi.
Tá hỏa, bà con xúm lại đánh đuổi đàn chó, và nhận diện ra được xác chết đó chính là đứa tớ gái của gia đình ông Cả.
Người ta đem xác đứa bé xấu số lên báo làng báo quan, ông Cả lập tức được mời tới.
Nhưng không biết ông Cả đã dùng cách nào, dùng bao nhiêu quan tiền để bịt mõm các quan chức địa phương, mà chỉ trưa hôm đó ông đã ung dung ngồi nhà nhắm rượu.
Xác con bé lần này được ông mang về chôn cất đàng hoàng hơn trong nghĩa địa làng với câu rêu rao:
- Tao làm phước giùm cho nó, chứ tao chả có tí trách nhiệm nào trong cái chết của nó!
Những người nghèo trong làng, ai cũng thấy xót thương và phẫn nộ cho đứa bé, nhưng tuyệt nhiên không ai dám hó hé một lời nào. Dân đen thấp cổ bé miệng, dù có nói cũng chẳng giải quyết được gì lại còn phải mang họa vào thân, thôi thì câm lặng vẫn hơn!
Mọi việc rồi cũng lắng xuống. Ông Cả ngày ngày vẫn cứ nhởn nhơ ăn nhậu như không có chuyện gì xảy ra.
Bỗng một hôm cô Ba đang ngồi chơi trước hiên nhà bỗng ngã vật xuống, miệng mũi sùi bọt, cơ thể thì giật giật liên hồi như người bị động kinh.
Đám kẻ ăn người ở trong nhà hoảng vía, vừa la lên gọi chủ, vừa bế thốc cô Ba đặt lên bộ ván giữa nhà.
Bà Cả hối người nhà nhỏ chanh vào miệng cô Ba và làm các biện pháp cấp cứu khác mà bà có thể nghĩ ra được.
Một lúc sau thì cô Ba dịu lại, miệng không còn sùi bọt, cơ thể cũng thôi không co giật nữa. Mọi người thở phào nhẹ nhõm.
Cô Ba nhướng đôi mắt còn trắng dã lên nhìn mọi người rồi ra dấu muốn uống nước. Bà Cả đưa nước cho con, đồng thời quát người nhà chạy đi tìm thầy lang tới bốc thuốc cho cô chủ.
Uống xong ly nước, cô Ba nhắm mắt lại ngủ, hơi thở vẫn còn nặng nhọc lắm.
Không lâu sau thầy lang tới. Sau khi bắt mạch và xem qua các biểu hiện bên ngoài của bệnh nhân, thầy lang suy nghĩ mãi rồi lắc đầu:
- Tôi thật không hiểu được cô Ba đã mắc phải chứng bệnh gì? Nhìn sơ thì nó giống như bệnh động kinh, nhưng không phải, cũng không là trúng phong gì cả. Có lẽ ông bà nên cho mời thầy lang khác có tay nghề vững hơn tôi, chứ thật tình tôi không định được bệnh nên không dám bốc thuốc bậy bạ! Xin ông bà hiểu cho.
Vừa nghe thầy lang nói xong, vợ chồng ông Cả người quát người mắng xua đuổi ông lang ra khỏi nhà như người ta xua đuổi một con chó ghẻ.
Từ đó tới chiều có đến bốn ông lang khác được mời về. Có ông lắc đầu bỏ đi, nhưng cũng có ông bốc thuốc hẳn hoi, lại còn đoan chắc sẽ chữa lành bệnh cho cô Ba.
Vợ chồng ông Cả hài lòng lắm.
Nhưng cô Ba cứ nằm như thế liên tục ba ngày. Hết ngủ mê mệt lại nhướng mắt len đòi uống nước chứ tuyệt nhiên không ăn chút gì, cũng không nói lấy một lời nào.
Bà Cả bắt đầu sốt ruột.
Bà ngồi bên cạnh con gái cả ngày lẫn đêm, khi nào quá mệt mỏi thì ngã lưng nằm xuống kế bên đó.
Đêm thứ ba, đang chập chờn, bà Cả cảm thấy như con gái mình ngồi dậy và bước xuống đất. Bà vội mở mắt ra nhìn thì thấy cô Ba đang đứng giữa nhà, ngơ ngác nhìn quanh một hồi rồi bắt đầu nhảy múa.
Bà Cả sững sờ nhìn con, miệng lưỡi cứng lại không bật lên được tiếng kêu. Mãi một lúc sao bà mới la lên được:
- Ông ơi, ông Cả ơi, ông mau ra đây mà coi, con Ba nhà mình như là bị ma nhập vậy!
Ông Cả từ trong buồng, nghe tiếng gọi hốt hoảng của vợ lật đật chạy ra, không kịp mang cả guốc.
Ông đứng khựng lại khi nhìn thấy cô Ba đang quay cuồng múa may và cất lên một tràng cười lạnh sắc.
Cậu Hai nghe tiếng cha mẹ huyên náo cũng lò dò thức dậy, bưng đèn đi ra. Ông Cả chộp lấy cây đèn trên tay con trai, vặn cho tim cao lên, ánh sáng soi rõ cả gian nhà.
Cô Ba vẫn không quan tâm gì đến những người bên cạnh, cô hết cười lại khóc, hết khóc lại cười như kẻ điên loạn.
Đặt cây đèn lên bàn, ông Cả tiến gần đếưn bên con gái cất giọng dịu dàng:
- Con đang làm gì thế? Khuya rồi, sao không đi ngủ đi con?
Cô Ba giương cặp mắt trắng dã nhìn ông Cả, cười sằng sặc:
- Ta đi dự hội bàn đào, ta là tiên nữ! Ha ha ha…
Bà Cả bật khóc òa lên và chạy nhào tới ôm lấy con gái, nhưng cô Ba một mực không chịu, dùng hết sức đẩy bà sang bên.
Cả ba người đành bất lực đứng nhìn cô Ba nhảy nhót điên cuồng trong bóng tối.
Một lúc sao, chừng như đã thấm mệt, cô Ba không nhảy múa nữa mà đến nằm trở lại giường. Bà Cả mừng rỡ tới gần dỗ dành:
- Con thấy đói bụng chưa? Má đi lấy thức ăn cho con…
Cô Ba không thèm trả lời, chỉ trừng mắt ngó bà Cả rồi xoay mặt vào tường vờ ngủ.
Bà Cả đưa mắt nhìn chồng cầu cứu.
Ông Cả trấn an:
- Thằng Hai vô ngủ đi! Còn bà, có mệt quá thì nằm xuống một bên nó mà ngủ để canh chừng. Chắc có lẽ nó bị mê sảng nên mới vậy thôi, để sáng mai tôi sai người lên chợ Huyện rước cho bằng được ông lang Tân nổi tiếng trên ấy về bốc thuốc cho con. Bọn lang băm ở đây, chẳng thằng nào ra tích sự gì!
Bà Cả còn biết làm hơn là nghe theo lời chồng nằm xuống cạnh con. Tự nhiên trong lòng bà lúc này lại nhớ tới cái chết của con bé hôm trước. Bà thấy lo sợ quá, không biết căn bệnh kỳ lại của con gái bà có liên quan gì tới cái chết của đứa bé kia không?
Bà Cả định mở miệng than thở với ông, nhưng bà lại sợ ông la mắng nên thôi, đành nhắm mắt nằm chờ trời sáng trong nỗi lo sợ vu vơ.
Sáng hôm sau, thấy cô Ba còn đang say ngủ nên bà Cả đi ra sau nhà cắt đặt một số công việc cho người làm, loay hoay một lúc trở lên, bà giật mình không thấy cô Ba đâu cả.
Gọi không nghe con gái lên tiếng, bà Cả hoảng hốt báo cho ông Cả rồi cùng với đám người làm đổ xô ra tìm kiếm xuang quanh nhà. Mãi một lúc lâu sau, mấy anh người làm mới phát hiện cô Ba đang nằm chơi dưới cái hố mà mấy ngày trước đây ông Cả đào vội vàng để chôn con bé giúp việc!
Bà Cả rụng rời tay chân, ông Cả cũng lo sợ không kém gì. Hai ông bà đem con vô nhà rồi lập tức cho người đi vời thầy lang cũng như thầy pháp về trị bệnh.
Nhưng dù có chạy chữa thế nào cô Ba vẫn y nguyên như thế, chẳng thuyên giảm chút nào.
Cứ sểnh ra một tí là cô Ba lại chạy ra cái hố ấy, dù dưới hố xâm xấp nước, cô Ba vẫn nhảy xuống đo nằm một cách vô cùng thoải mái, giống như người ta nằm trên chăn nệm ấm êm vậy!
Cuối cùng, ông Cả đành phải làm cửa buồng để nhốt cô lại. Mỗi khi cần đưa con gái đi tắm rửa, vệ sinh thì bà Cả tự tay mở cửa, còn thì cứ khóa trái, bỏ mình cô Ba trong đó.
Trong buồng có một cái cửa sổ nhỏ trông ra vườn sau. Cô Ba thường xuyên ngồi áp mặt vào đó nhìn ra ngoài, bất chợt có ai đi ngang, cô lại phùng mang trợn má phun phì phì như rắn hổ mang.
Cái tin cô Ba con nhà ông Cả bị ma nhập lan truyền đi rất nhanh, chẳng mấy chốc người trong làng ai ai cũng biết.
Vợ chồng ông Cả vừa xót con, vừa thẹn mặt với xóm giềng, không bao lâu mà cả hai ông bà đều gầy đi trông thấy. Tóc trên đầu bà Cả cũng bạc nhiều hơn.
Đôi lúc bà Cả gợi ý với chồng nên làm lễ cũng cầu siêu cho đứa bé, hy vọng bệnh tình của con gái mình có được thuyên giảm chút nào không, nhưng ông Cả khăng khăng từ chối.
Ông bảo, nếu bây giờ làm lễ cầu siêu cho nó chẳng khác nào mình thừa nhận cái chết của nó có dính líu tới mình sao? Nhưng ngày nào bà Cả cũng than phiền ca cẩm, và nhìn con gái không còn ra giống người nên ông Cả đồng ý lập đàn cầu siêu cho đứa bé.
Đàn được lập lên ở bãi đất hoang sau nhà, nơi có cái vũng ông Cả đào hôm nọ. Thầy chùa được mời tới cúng cầu siêu, đồng thời thầy pháp cũng được mời tới để cúng trục hồn ra khỏi khu vực nhà ông.
Nhưng thật kỳ lạ, tất cả nhang đèn vừa mới thắp lên bỗng vụt tắt hết, dù ngoài trời hôm ấy không có một ngọn gió, cây cối đứng im lìm, không hề lay động.
Thắp hàng chục lần vẫn không được, cuối cùng cả thầy pháp lẫn thày bùa đều phải cúng chay, không nhang đèn gì nữa!
Cô Ba được dắt ra ngồi trên một chiếc ghế đặt cạnh đó.
Cô mở to cặp mắt dài dại nhìn ông thầy pháp múa may bắt ấn, cô bỗng cười lên một tràng man dại rồi bất thần nhảy vội ra, múa may quay cuồng còn hơn cả ông thầy pháp.
Ông thầy pháp lắc đầu, cuốn gói dẫn đám âm binh về lại am nhà mình vì biết có cố gắng đến đâu cũng không trừ được.
Từ ngày ngã bệnh, cô Ba hoàn toàn không nói gì được nữa, khi muốn nói điều gì thì cô lại phùng mang trợn mắt, miệng phun phì phì trông rất ghê rợn.
Đang đêm, có khi cô bật lên một tiếng hú thật dài, làm những nhà lân cận cũng phải giật mình sởn cả gai ốc.
Bà Cả đi coi thầy bà khắp nơi, đa số đều bảo con gái bà bị một vong hồn nhập vào và khống chế, không có cách nào trừ khử được, ngoài cách đem chôn sống cô con gái thì họa may mới ngăn chận được sự truyền kiếp của con yêu tinh kia.
Bà Cả vô cùng đau đớn. Dù sao thì cô Ba cũng là đứa con gái mà bà hết lòng thương yêu, chìu chuộng, dẫu nó thế nào bà cũng không thể đem nó đi chôn sống được!
Riêng phần ông Cả, thời gian đầu thấy con gái bệnh như vậy ông cũng đau lòng lắm, cũng lo chạy thầy chạy thuốc cho con. Nhưng khi đã không còn hy vọng gì thì ông lại đâm ra thù ghét chính đứa con gái đang bệnh tật của mình!
Chính vì nó mà bây giờ người trong làng này và cả những làng lân cận tha hồ mà chê bai, mà bươi móc và nói xấu gia đình ông. Chính vì nó mà uy tín của ông trong giới chức sắc đã giảm sút nghiêm trọng. Chính vì nó mà giờ đây mỗi khi ra đường ông không còn dám ngẩng cao đầu kênh kiệu như trước nữa!
Bởi vậy khi nghe tới việc đem cô Ba đi chôn sống, trong thâm tâm ông Cả cũng muốn thực hiện điều đó ngay tức khắc, nhưng ngặt nỗi bà Cả lại dứt khoát bảo vệ cô Ba tới cùng, ông đành phải bó tay thúc thủ, nhưng ông vẫn luôn mong muốn đứa con gái đó chết đi!
Đúng rồi, nó mà chết đi, sự việc này rồi sẽ nhanh chóng chìm lắng xuống, người ta sẽ lãng quên dần và ông sẽ lại nghênh ngang như trước!
Lúc này thú tính trong con người ông Cả bắt đầu trỗi lên dữ dội.
Ông âm thầm thực hiện âm mưu để sát hại con gái của mình.
Để che mắt mọi người, ông Cả bỏ gần một ngày trời để đi lên chợ Tỉnh mua một ít thuốc độc về giấu kín trong nhà. Mỗi ngày, canh lúc bà Cả sắc thuốc cho cô Ba, ông Cả lại lén bỏ vào siêu thuốc một ít.
Liên tiếp bốn năm ngày như vậy thì sức khỏe của cô Ba bắt đầu sa sút nghiêm trọng. Thế nhưng lần này ông Cả không cho bà Cả mời thầy lang nữa, ông bảo không thuốc thang gì hết đâu, có lẽ mạng số nó đã tới rồi. Bà Cả tuy đau lòng vô hạn nhưng vẫn phải nghe lời chồng, trong thâm tâm bà cũng nhận thấy thà rằng để cho cô Ba chết đi còn hơn phải kéo dài kiếp sống khốn khổ như vậy!
Trong lúc thân thể suy kiệt trầm trọng, cô Ba vẫn không ngừng những phát ra những tiếng phì phì, những tràng cười ma quái và những tiếng hú vang dội nửa khuya.
Ông Cả căm tức lắm, số độc dược ông bỏ vào siêu thuốc những ngày sau còn nhiều hơn nữa.
Cô Ba đã không còn đi đứng hay cười hú gì được nữa. Giờ đây cô chỉ còn là một cái xác da bọc lấy xương, thoi thóp trên giường.
Thấy con gái đã quá yếu, bà Cả cho đem con ra nhà ngoài để tiện việc chăm sóc.
Buổi trưa hôm đó, bà Cả gọi chồng nhắc ghế xích tới nằm nghỉ trưa cạnh đó để trông chừng con gái, bà phải chạy ra chợ mua một ít đồ cần dùng.
Ông Cả đang nằm lim dim mắt trên ghế xích đu thì bất thần cô Ba từ trên giường nhào xuống, chạy như bay tới ôm lấy cổ ông Cả, cắn vào đó một phát thật sâu rồi cô ngã vật ra sau, trút hơi thở cuối cùng.
Bà Cả đi chợ về, trước mắt bà là một cảnh tượng kinh hoàng mà bà không thể nào tưởng tượng ra được: Đứa con gái của bà nằm chết thẳng đơ dưới đất, cạnh bên đó là chồng bà, ông Cả, đang nhảy múa lung tung, trên cổ ông một dòng máu đang ri rỉ chảy dài xuống dưới.
Vừa lo đám tang cho con, bà Cả vừa phải canh giữ ông chồng đang cuồng tâm loạn trí.
Dân làng kéo đến thật đông, nhưng không phải họ đến để chia buồn hay giúp đỡ bà Cả, mà chủ yếu họ kéo đến vì tò mò, vì muốn tận mắt chứng kiến cái ngày tàn của một gia đình bạo chúa trong vùng.
Bà Cả khóc hết nước mắt. Trông bà lúc này thật hiền lành, nhỏ bé khiến cho mấy bà mấy cô trong làng không khỏi ngậm ngùi thương xót, ban đầu họ đến để thỏa mãn tính tò mò, nhưng trước thảm cảnh của gia chủ, họ cũng động lòng và bắt tay vào giúp đỡ.
Tang ma rồi cũng xong, nhưng cái trò ngớ ngẩn của ông Cả thì ngày một nặng lên thêm, giống y như cô Ba lúc trước.
Ngày nào ông cũng lò dò đi ra sau nhà, tìm tới cái vũng đó mà nằm xuống dưới. Bà Cả phải cho người lấp lại nhưng cứ sổng được ra là ông Cả lại cào cấu, moi móc cho bằng được!
Nhiều lúc quá đau khổ, bà Cả chỉ muốn mua thuốc chuột về để cả hai vợ chồng cùng chết! Nhưng nghĩ là nghĩ vậy chứ bà Cả đâu dám. Bà vẫn phải sống dù mỗi ngày lưng bà một còng hơn dưới sức nặng tinh thần mà bà bắt buộc phải mang vác trên lưng.
Cậu Hai vô cùng kinh sợ trước những việc xảy ra liên tiếp trong gia đình. Từ nhỏ, cậu quen được chăm sóc, chìu chuộng, cậu không hề biết được trách nhiệm của mình, cho nên trong lúc gia đình lâm vào cảnh hoạn nạn như thế, là con trai lớn trong nhà, cậu Hai hoàn toàn không giúp gì cho mẹ mà trái lại cậu còn trở thành gánh nặng của bà Cả.
Sau khi ông Cả phát bệnh mấy ngày, cậu Hai một mực đòi bà Cả cho tiền để cậu lên chợ Huyện mướn nhà đi học, cậu không chịu hịc ở trường xã gần nhà nữa.
Vậy là từ hôm đó, trong nhà chỉ còn lại vợ chồng bà Cả.
Ban ngày còn có người làm ra vô, sợ nhất là vào lúc ban đêm, chỉ một mình bà với ông, bà lo lắng lắm.
Bà Cả gọi một người giúp việc, nhờ họ đêm đêm tới ngủ canh nhà giúp bà, nhưng người nào cũng kiếm cớ thoái thác đi, vì ai trong số họ cũng rất ngán sợ khi nghe nói tới việc ngủ đêm lại trong căn nhà đầy ma quái!
Ông Cả cũng như cô Ba, cứ mỗi ngày một nặng thêm lên. Bây giờ thì bà Cả phải nhốt ông vào buồng như nhốt cô Ba dạo nọ.
Mấy tháng trời đằng đẵng trôi qua, ông Cả bị đày đoạ xác thân, không ai có thể nhận ra ông nữa! Đâu rồi một ông Cả quyền uy giàu có mà ai ai cũng nể sợ? Giờ đây ông là một bộ xương người được dọc bên ngoài bằng một lớp da mốc thếch, nhăn nheo.
Tóc râu ông tua tủa, hai má hóp vào, hố mắt sâu hoắm, thoạt nhìn rõ ràng là hình dạng của một chiếc sọ người.
Ông không ngừng đập phá đồ đạc trong nhà, khóc lóc tỉ tê, cười bằng giọng cười ma quái với những âm sắc lạnh người, tiếng hú của ông bây giờ nghe còn vang dội gấp mấy lần tiếng hú của cô Ba.
Bà Cả thì ngày một mỏi mòn trong đau khổ.
Một hôm, sau khi cho ông ăn uống, bà Cả cẩn thận khóa kín cửa buồng rồi đi sang nhà bên cạnh hỏi mua một ít lá sả về nấu nước xông vì từ chiều hôm qua đến nay bà thấy trong người gai gai sốt.
Chừng trờ về, bà Cả thất kinh hồn vía khi thấy cánh cửa buồng đã bị phá nát, ông Cả cũng biến mất tăm.
Bà Cả liền nghĩ ngay tới vũng mà ông vẫn thường chạy tới mỗi khi bà lơ đễnh, nên bà tất tả gọi thêm mấy anh người làm đi theo ra đó.
Quả thật, ông Cả đã dùng tay moi được một lỗ rộng chừng bằng cái mâm ăn cơm, và lúc này đây ông đang nằm sấp, mặt úp xuống dưới đó.
Khi người ta vực ông Cả dậy thì ổng đã tắt thở từ lâu.
Đám tang ông Cả vừa xong, cậu Hai ôm một mớ tiền rồi ra đi biền biệt. Bà Cả thuê mướn người đi tìm cậu về ròng rã gần nửa năm trời vẫn không dò la được tin tức.
Gia tài tiêu tán, con trai bặt tin. Bà Cả quá sức đau buồn nên đâm ra ngớ ngẩn.
Ai nói gì bà cũng cười, ai bảo gì bà cũng dạ, bà trở nên ngoan ngoãn như một đứa trẻ con.
Cũng nhờ vậy, những ngày cuối đời của bà còn có được sự thương hại của bà con lối xóm.
Đến lúc bà Cả chết đi, cậu Hai vẫn không thấy quay trở lại, không biết cậu có còn sống trên đời hay đã về sum họp với gia đình ở một nơi nào đó?
 
 
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 20:24:02
NGƯỜI VỢ MA LAI
 
Kiên bỏ làng đi biệt từ ngày Trang lấy chồng, tính đến nay đã hơn hai năm, dù bà Tư mẹ Kiên đã nhắn gửi biết bao người mà tin tức của đứa con trai vẫn còn xa tít tắp.
Rồi một buổi chiều Kiên trở về, cũng đột ngột như lúc bỏ đi. Lần này Kiên không về một mình mà dẫn theo một cô gái.
Bà Tư vừa trông thấy con đã nhào tới ôm chầm lấy rồi không ngừng khóc lóc kể lể nỗi niềm nhớ thương chờ đợi của bà suốt mấy năm qua. Bà không để ý tới người con gái đi cùng con trai mình.
Chờ cho mẹ dịu bớt, Kiên kéo tay cô gái tới trước mặt giới thiệu:
- Thưa mẹ, đây là Thoa, người mà con sẽ cưới làm vợ.
Bà Tư bất ngờ khi nghe con trai nói, nhưng bà chỉ còn biết mỉm cười gật đầu mà thôi, ngoài ra bà biết phải làm sao đây? Tính tình của nó thì bà còn lạ gì nữa, một khi nó đã quyết định điều gì, dù trời có sập xuống cũng không ngăn cản được.
Bà Tư nhìn cô gái dò xét:
- Cháu… cháu đây là người ở vùng nào? Cha mẹ cháu còn đủ không?
Cô gái cúi mặt trả lời nhỏ nhẹ:
- Dạ thưa… bác, từ nhỏ con đã là một đứa bé mồ côi. Con không biết ba mẹ con là ai nữa…
Bà Tư thở dài nhìn kỹ hơn đứa con gái bé nhỏ đang đứng khép nép trước mặt mình. Thật tội nghiệp cho nó, chắc hẳn cuộc đời nó đã phải trải qua nhiều gian truân vất vả… Thì thôi, hôm nay nó gặp được thằng Kiên nhà bà thì bà sẽ coi nó như con cái trong nhà, bà sẽ bù đắp cho những thiếu thốn mà nó đã từng nếm trải.
Thoa tuy là một cô gái mồ côi, không người dạy bảo, nhưng chỉ mới sống chung với bà Tư hai ngày bà đã hài lòng lắm.
Thoa không đẹp sắc sảo nhưng lại có nét duyên đằm thắm, tính tình lại chăm chỉ hiền lành, ăn nói dịu dàng dễ mến.
Lúc thằng Kiên nhà bà mới giới thiệu Thoa, bà có hơi thất vọng vì nghĩ con trai dẫn về một đứa lang bang thì sẽ xấu mặt với xóm giềng xung quanh.
Nhưng bây giờ thì bà Tư hài lòng lắm, bà hãnh diện đi khoe với mọi người rằng thằng con trai nhà bà vậy mà có mắt nhìn người. Con bé đó thật vô cùng dễ mến, bà sẽ tổ chức cho chúng nó một đám cưới thật đàng hoàng chứ không thể để con gái nhà người ta theo không về làm vợ nó.
Xóm giềng ban đầu còn tỏ ý nghi hoặc, bàn tán đủ điều, họ cố tìm mọi cách để nói chuyện với Thoa để dò xét. Nhưng bất cứ ai đã tiếp xúc với Thoa rồi thì đều phải công nhận những lời bà Tư nói không cường điệu chút nào. Thoa còn trội hơn Trang, người yêu cũ của Kiên về nhiều mặt.
- Bà Tư coi vậy mà có phước, tự nhiên lại có được một nàng dâu thật đáng! Con bé đo nghe nói mồ côi từ nhỏ, phải sống vất vơ vất vưởng nơi đầu đường xó chợ vậy mà ngoan ra phết, lắm cô gái con nhà gia giáo đàng hoàng cũng không sánh kịp.
- Con nhỏ đó không đẹp nhưng dễ thương lạ và có cốt cách của người sang trọng nữa! Cứ nhìn vào cái cổ cao ba ngấn của nó mà xem, thật đài các!
- Ê, nghe đâu mấy người cổ ba ngấn là mai lai đó nghe ông!
- Xì, mấy bà thấy mình thua kém người ta nên bày trò đặt chuyện phải không? Tui mà có được cô vợ như vậy, dù có là ma quỷ gì tui cũng chịu, đừng nói ma lai…
- Hơ hơ… ông này ăn nói bạt mạng quá đi thôi!
- Bà có thấy con ma nào dịu dàng như cô Thoa nhà đó không? Chỉ cho tui đi, tui hỏi cưới liền…
Tiếng bàn tán, tiếng cười đùa râm ran khắp nơi trong xóm.
Bà Tư hãnh diện lắm khi đi tới đâu cũng nghe người ta nói tới con dâu mình bằng những lời khen tặng, ước ao.
Còn Kiên, anh vẫn lẳng lặng như không hề có chuyện gì xảy ra.
Có lần vô tình gặp lại Trang trên đường đi, Trang gọi anh lại chào hỏi:
- Anh Kiên, em rất vui khi nghe tin anh sắp cưới vợ! Biết vợ anh là một cô gái tốt, em thật sự mừng cho anh, mà lòng em cũng đỡ ái náy… Thật sự phải chia tay anh em cũng không dễ chịu gì đâu…
Kiên cười bâng quơ:
- Không có gì! Trang không nên nói vậy. Chuyện trước đây tôi đã quên hết từ lâu rồi…
Nói dứt câu, Kiên bỏ đi, Trang đứng lặng nhìn theo mà trong lòng xa xót.
Trang yêu Kiên, đó là sự thật, nhưng tình yêu của Trang dành cho Kiên chưa đủ lớn để vượt qua rào cản của gia đình.
Khi cha mẹ buột Trang phải lấy một người đàn ông lớn hơn Trang đến gần hai mươi tuổi, nhưng có đủ quyền lực để giúp cho các anh chị em của Trang có công ăn việc làm ổn định với mức thu nhập khá tốt, Trang đã không dám từ chối. Cô đã hy sinh tình yêu đầu đời của mình để về làm vợ một người mà cô chưa hề có chút tình cảm nào.
Ngày đám cưới, Trang nghe người ta nói Kiên đã bỏ làng ra đi, cô khóc thật nhiều, nhưng rồi cô vẫn về làm vợ người đàn ông đó.
Giờ đây nghe chuyện của Kiên, Trang thật sự mừng cho anh. Cô cầu mong Kiên luôn hạnh phúc.
Đám cưới của Kiên và Thoa được tổ chức sau đó không lâu, tuy không linh đình nhưng thật đầm ấm.
Thoa vô cùng hạnh phúc khi được chồng và mẹ chồng hết mực thương yêu.
- Ăn thêm chút nữa đi con! Con ăn ít như thế làm sao có đủ sức khỏe, mai này còn mang thai và sinh nở nữa?
Bà Tư gắp bỏ vô chén con dâu một cái đùi gà thật to và ép cô phải ăn cho hết.
Kiên mỉm cười:
- Em ở với mẹ chừng một tháng, bảo đảm em sẽ mất hết phọt hiện nay, em không đi được nữa mà chỉ lăn tròn như quả bóng thôi!
Bà Tư hứ một cái, quay sang trách con trai:
- Đàn ông con trai gì mà không biết chăm sóc vợ! Từ hôm con nhỏ về nhà mình, mẹ thấy bữa cơm nào nó cũng ăn không đến một chén nhỏ, vậy mà con chịu được sao?
Kiên bật cười:
- Mẹ ơi, từ lúc con quen biết Thoa đến nay đã hai năm rồi, cô ấy vẫn luôn như thế, nên đối với ocn chuyện đó trở nên rất bình thường rồi, không có gì phải quan tâm. Có lẽ ông trời sinh ra cô ấy có một cái tử bé xíu, nhỏ hơn chúng ta rất nhiều. Con dám cá với mẹ, cô ấy dù có nể mẹ tới đâu, nếu mà ăn hết cái đùi gà này thì mẹ muốn con làm gì con cũng nhất nhất nghe theo…
Bà Tư có vẻ không tin, đưa mắt nhìn Thoa, hỏi:
- Nó nói thật không con? Từ trước tới nay con luôn ít ăn như thế sao? Hay mới về đây con còn ngại ngùng?
Thoa lễ phép:
- Dạ thưa mẹ, anh Kiên không có nói thêm đâu, từ trước tới nay con đều ăn ít như vậy đó mẹ!
Bà Tư chắc lưỡi:
- Cũng lạ thiệt! Này, nếu con không ăn nổi thì thôi, đừng có cố gắng quá, có gì là mẹ không đền được đâu nghen!
Thoa nhìn mẹ chồng, mỉm cười dịu dàng.
Cuộc sống của gia đình bà Tư cứ êm ấm trôi đi như thế.
Nhưng làng xóm của bà thì không còn yên ấm nữa!
Có những người mới vừa hôm trước còn mạnh sân sẩn, chỉ sau một đêm bỗng lăn đùng ra ốm, chạy thầy chạy thuốc cách nào cũng không khỏi. Các thầy thuốc đều phải bó tay vì không tìm ra được bệnh.
Sau hai tuần đau bụng dữ dội, người bệnh sẽ hết đau và trở nên ngớ ngẩn. Điều đó thật không cách nào giải thích được!
Bởi vì không thể giải thích nên người ta đổ hết cho ma!
Đúng rồi, chỉ có bị ma làm mới sinh ra cái chứng bệnh kỳ cục thưở đời nay chưa từng thấy như vậy!
Nhưng ma ở đâu? Ma gì? Đó lại là một câu hỏi nữa không có cách trả lời cho rành rẽ được.
Người ta chỉ biết cúng vái tứ tung mong gặp được điều linh ứng. Nhưng rồi trong làng vẫn cứ tiếp tục xảy ra những trường hợp tương tự.
Rồi không lâu sau sự việc đó lại lan dần sang các làng kế cận, làm cho dân chúng cả một vùng trở nên hoang mang lo sợ.
Gia đình bà Tư cũng hoang mang không kém. Gia tài bà chỉ có một thằng con trai, nó mới vừa đem về cho bà một nàng dâu thật vừa ý, nói dại lỡ có chuyện gì xảy ra thì làm sao bà sống nổi!
Lo sợ là vậy nhưng không ai biết phải phòng tránh bằng cách nào, vì đâu có ai biết được nguyên nhân gây ra bệnh.
Bà Tư hết thở vắn lại than dài, trách ông trời trên cao không ngó xuống, sao nỡ gieo cho dân làng nỗi khốn khổ thế này.
Anh Kiên nói đùa:
- Mẹ nói ông trời không dòm xuống, chứ con nghiệm lại thấy ổng nhìn kỹ lắm đó nghen! Mẹ coi mấy đứa bị bệnh đó có đứa nào đàng hoàng đâu? Toàn là dân đánh cha mắng mẹ, không thì cũng thuộc loại sở khanh, tụi nó bị ông trời trừng phạt đó. Bản thân tụi nó bị là đáng rồi, chỉ tội cho gia đình vợ con nó thôi, phải thêm gánh nặng…
Bà Tư gật gù:
- Ừ, con nói cũng phải! Mấy đứa đó nào có ra gì… Bởi vậy, sau này khi có con, hai đứa phải ráng lo dạy dỗ cho thật tốt.
Bỗng sực nhớ ra, bà Tư quay sang con dâu hỏi:
- Hai đứa con cưới nhau hơn bốn tháng rồi, con thấy trong người có gì đổi khác chưa vậy con?
Thoa mắc cỡ đỏ bừng mặt:
- Dạ thưa mẹ, con chưa thấy có gì lạ…
Bà Tư có vẻ không bằng lòng:
- Hai đứa phải ráng làm sao để cuối năm mẹ có cháu để bồng cho vui cửa vui nhà! Lâu nay mẹ trông thằng Kiên cưới vợ là để nó sinh cho mẹ mấy đứa cháu một lúc, hai đứa không được chần chờ đâu đó!
Thoa dạ nhỏ.
Kiên lại cười lớn:
- Mẹ nói chuyện con cái làm như mua hàng ngoài chợ vậy, muốn có là có được sao? Đến lúc vợ chồng con sanh một lúc đôi ba đứa, chừng ấy mẹ đừng có kêu khổ, mẹ nhé?
Bà Tư cười hiền hậu:
- Ừ, tụi con cứ sinh cho nhiều vào, bao nhiêu mẹ cũng lo được hết!
Cả nhà bà Tư cùng cười vui vẻ, hạnh phúc.
Giữa lúc đó thì ở cái quán nước đầu làng, nơi tập trung những người nhiều chuyện có tiếng, chuyên môn đi bàn tán, săm soi chuyện nhà người khác, người ta đang đồn ầm lên về chuyện một con ma vừa xuất hiện trong làng.
Đó là một con ma lai.
Thế nào gọi là ma lai? Ma lai là một loại ma ban ngày sống như người bình thường, cũng lấy chồng sinh con, cũng tất bật làm ăn như bao nhiêu kẻ khác, chỉ vào đêm trăng sáng nhất trong tháng, nó sẽ rút đầu ra khỏi cổ, lôi theo chùm ruột dài lòng thòng đi khắp nơi trong xóm, tìm ăn các bãi phân người. Người nào không may bị ma lai ăn phải phân, sẽ hóa điên đến chết!
Điểm đặc biệt nữa của ma lai thường là những phụ nữ xinh đẹp, cổ cao ba ngấn. Chính ở cái ngấn thứ ba trên cổ là nơi để mỗi đêm nó rút đầu ra và chui trở vào.
Người ta bảo rằng có một thanh niên người làng bên, đêm hôm kia có việc phải đi qua làng này vào lúc nửa khuya, bất ngờ nhìn thấy trên cánh đồng vắng nơi bìa làng có một cái đầu đang nhấp nhô.
Lấy làm lạ, người thanh niên ấy núp rình xem ai mà đêm hôm khuya khoắc làm gì  ở nơi này. Thật không ngờ, đó không phải là một con người, mà chỉ là một cái đầu người lôi theo một chùm ruột gan bên dưới đang là đà lướt trên đường.
Người thanh niên quá hoảng sợ, không dám ho he tiếng nào, cứ phải nằm mọp xuống chờ nó đi thật xa mới ba chân bốn cẳng co giò bỏ chạy. Về đến nhà vẫn còn run lẩy bẩy không nói ra lời, mãi đến hôm nay mới lấy lại được bình tĩnh kể đầu đuôi sự việc.
- Cả làng mình, chỉ có mỗi con dâu nhà bà Tư là cổ cao ba ngấn!
Một người khẳng định.
Người khác lập tức tiếp lời:
- Đúng rồi đó! Có khi nào chính là nó?
- Bà con nghĩ lại xem, có phải từ ngày nó về đây thì làng mình mới xảy ra những điều kỳ quặc?
- Ừ, nói phải đó!
- Này, đừng có mà nói càn, thằng Kiên đó không phải tay vừa đâu, nói xấu vợ nó, nó cho một trận no đòn đấy!
- Xí, đây không sợ! Đây không khẳng định mà chỉ là đưa ra nghi vấn thôi, ai dám làm gì?
- Nhưng mà cô đó hiền lành lắm? Đừng đổ oan cho người ta, mang tội chết!
- Xời ơi, ma lai thường ẩn núp trong các bộ mặt hiền lành, dịu dàng như vâïy đó bà ơi! Nó chỉ đi ăn phân người thôi, đâu có giết chóc, quậy phá ai, chỉ khổ là ai bị nó ăn phân sẽ tiêu đời…
- Vậy còn quá cha giết người ta rồi còn gì?
- Hay là đêm nào tụi mình rủ nhau phục kích trước cửa nhà thằng Kiên, xem thử vợ nó có lôi ruột đi ra ngoài không nhe?
- Ừ, ừ, ý kiến hay đó!
- Thống nhất vậy đi nghen?
- Đứa nào mách lẻo lại cho thằng Kiên biết là tao cắt lưỡi.
Ban đầu những lời bàn tán xôn xao đó chưa lọt được vô nhà bà Tư, nhưng về nhau nó không còn là sự lén lút sau lưng nữa.
Mỗi khi Thoa đi ra ngoài mua bán thứ gì là người ta cứ nhìn đăm đăm vào cổ cô rồi xì xào bàn tán. Còn đám trẻ con thì khỏi nói, chúng nối đuôi theo sau Thoa nhưng mỗi khi Thoa ngoảnh lại nhìn thì cả đám ù té chạy tán loạn.
Thoa khổ tâm vô cùng.
Bà Tư và anh Kiên cũng khổ tâm không kém.
Theo suy nghĩ của bà Tư, sở dĩ người ta đồn con dâu bà là ma lai là do lòng đố kỵ ghen ghét.
Ở cả cái làng này, đố tìm đâu ra một đứa con dâu nhà nào vừa đẹp người vừa đẹp nết như con dâu nhà bà?
Anh Kiên thì nhiều lần tuyên bố trong cuộc nhậu, rằng nếu anh nghe được kẻ nào nói xấu vợ anh, anh sẽ đấm cho kẻ ấy vỡ mặt.
Người ta sợ anh Kiên thì cũng có sợ, nhưng không vì vậy mà lời đồn lắng xuống.
Trong lúc đó thì Thoa mang thai.
Niềm vui như vỡ òa trong mái nhà hạnh phúc của bà Tư. Bà khuyên con dâu khi thấy Thoa có vẻ u sầu:
- Con đừng thèm quan tâm làm gì tới những lời bịa đặt đó! Họ muốn nói gì cứ để mặc họ, khi nào nói chán, mỏi miệng họ sẽ tự ngưng. Mình càng cải chính càng làm họ thêm phấn khích mà thôi. Bây giờ con đã có thai, con không được lo nghĩ buồn phiền gì hết, mà phải chuyên tâm bồi dưỡng, bảo vệ sức khỏe của mình, nghe con!
- Dạ!
Thắm ngoan ngoãn nghe lời mẹ chồng dạy bảo. Cô cố gắng ăn uống nhiều dưỡng chất nhưng mỗi bữa cơm của cô vẫn quá ít ỏi, dù ráng cách nào cũng không nhiều lên được.
Anh Kiên rất lo lắng cho vợ, không biết với cách ăn uống như vậy, Thoa có đủ dưỡng chất để nuôi lớn bào thai hay không. Nhưng Thoa luôn trấn an chồng bằng những câu đại loại như:
- Anh có thấy em đau ốm lần nào chưa? Tuy ăn ít nhưng em vẫn đảm bảo được sức khỏe, thì chắc chắn con mình cũng sẽ phát triển thôi anh à! Nhưng em sẽ cố gắng để mẹ và anh được vui lòng!
Quả thật từ ngày quen biết Thoa đến nay, chưa bao giờ Kiên nghe Thoa đau bệnh gì, dù là cảm sốt thông thường, hay nhức đầu đau bụng.
Cái thai trong bụng Thoa mỗi ngày một lớn, lúc này trông cô đã có vẻ mỏi mệt của một bà bầu sắp đến ngày ở cữ.
Trước nay Kiên có tật hễ nằm xuống là ngủ một giấc ngon lành tới sáng, nhưng dạo gần đây anh cứ chập chờn vì luôn sợ trong giấc ngủ mê anh sẽ vung tay đá chân trúng vào bụng vợ.
Đêm nay trăng thật sáng, hai vợ chồng ngồi ngoài sân nói đến chuyện tương lai của các con sau này. Hạnh phúc trước mắt họ đang được trải rộng thênh thang.
Mãi đến khi những làn gió đêm mang hơi lạnh thổi tạt vào người làm Thoa rùng mình, Kiên vội đứng lên dìu vợ vào phòng ngủ.
Ngày mới quen Thoa thì hình bóng Trang vẫn còn đầy ắp trong tâm tư và tình cảm của Kiên, nhưng dần dần anh đã yêu Thoa say đắm. Tình yêu Kiên dành cho Thoa tuy không sôi nổi nhưng lại sâu sắc vô cùng.
Hoàn cảnh của Thoa thật đáng thương. Từ nhỏ cô đã không biết ba mẹ mình là ai, quê hương gốc gác của mình ở chỗ nào. Cuộc sống vất vưởng bên lề đường đã từng nhấn chìm biết bao số phận, nhưng riêng với Thoa, cô vẫn mạnh mẽ vươn lên và tỏa hương thơm ngát.

Kiên tự hứa với lòng mình, sẽ cố gắng đem lại hạnh phúc cho Thoa, không bao giờ anh làm cho cô phải rơi nước mắt.
Ngủ được một giấc, Kiên giật mình thức dậy cà cảm thấy tiết trời đã bắt đầu chớm lạnh, anh quay sang định kéo mền đắp cho Thoa nhưng anh bỗng rụng rời khi người vợ thân yêu nằm cạnh bên anh chỉ còn lại thân người, cái đầu đã biến đi đâu mất!
Trời ơi! Chẳng lẽ tất cả những gì người ta đồn đại từ bấy lâu nay đều là sự thật?
Thoa ơi, tại sao em phải khốn khổ như vậy chứ? Bao nhiêu thức ăn ngon lành bổ dưỡng anh và mẹ luôn dành cho em mà em không buồn chạm đũa, đang đêm khuya khoắt lạnh lẽo thế này em phải lê lết ra đồng để ăn phân thiên hạ sao Thoa?
Nước mắt Kiên rơi lã chã trên mặt.
Kiên đã mấy lần đối diện với nỗi đau, nhưng chưa bao giờ anh khóc như hôm nay.
Cái cảm giác kinh hoàng sợ hãi chỉ thoáng qua trong phút chốc, sau đó là tình thương tràn ngập trong lòng anh. Kiên ôm lấy thân hình vẫn ấm nóng bình thường của vợ, xoa tay lên chiếc bụng đã nhô cao, anh vẫn cảm nhận được từng cái chòi đạp của đứa con yêu thương đang nằm trong đó.
Kiên vùng dậy ra khỏi nhà nhằm hướng cánh đồng mải miết chạy đi, trong lòng anh lúc này là sự thôi thúc phải đem vợ mình về, không để vợ phải khổ như thế nữa.
Những bước chân gấp gáp của Kiên bỗng nhiên chậm lại. Anh vừa nhớ ra một điều quan trọng. Trước đây, những ngày sống lang bạt nơi rừng sâu núi thẳm, anh thường nghe người ta kể các câu chuyện đường rừng ma quái. Có một chi tiết về ma lai thế này mà bỗng dưng anh nhớ lại:
Người phụ nữ ma lai không hề biết mình là ma. Cái việc rút ruột đi đêm đó diễn ra trong vô thức. Nếu tình cờ ai đó gặp được bật gọi tên hoặc làm cho nó sợ hãi giật mình là mãi mãi nó không thể nào chui vào thân xác được. Bởi vậy, cách tiêu diệt ma lai tốt nhất là rình theo nó, chờ lúc nó rút ruột đi ra ngoài thì gọi tên nó thật to hoặc là lật úp cái xác ở nhà xuống.
Nếu điều đó là đúng thì khi mình gặp Thoa, cô ấy sẽ chết?
Không! Không thể được! Dù Thoa có là ma lai hay là quỷ Kiên cũng không muốn mất cô.
Còn dang ngập ngừng, Kiên chợt nhận thấy từ đằng xa một chiếc đầu đang nhấp nhô ven ruộng lúa. Đúng là Thoa rồi! Một niềm thương cảm xót xa dâng ngập lòng Kiên. Anh chỉ muốn chạy ào tới, ôm lấy cô mà mang cô về nhà. Nhưng để tránh tình trạng xấu có thể xảy ra, Kiên quay bước chạy hụt hơi một mạch về nhà.
Kiên trèo lên giường, kéo mền lau mồ hôi đang tuôn ròng rã trên người, hít một hơi thật sâu rồi nhắm mắt lại vờ như đang say ngủ.
Không lâu sau, Kiên nghe một tiếng động thật nhỏ ở cửa buồng, anh biết là Thoa về tới.
Cố giữ nhịp thở cho thật đều, Kiên vừa lắng nghe những tiếng động mơ hồ bên cạnh.
Thời gian trôi thật chậm, thật nặng nề.
Kiên mấy lần muốn hé mắt nhìn sang vợ, nhưng anh không dám, sợ làm Thoa giật mình sẽ không chui vào được nữa.
Một lúc sau, Kiên cảm thấy Thoa đang trở mình, cánh tay cô choàng sang người anh.
Mở bừng mắt ra, Kiên nghiêng đầu qua bên cạnh, Thoa đang nằm đó chìm sâu trong giấc ngủ. Hơi thở cô đều đều phát ra theo từng nhịp đập nhấp nhô nơi bộ ngực. Gương mặt xinh xắn của Thoa vẫn còn vương vấn nét thơ ngây.
Kiên vòng tay ôm vợ vào lòng, vùi mặt mái tóc cô và nghẹn ngào nuốt trôi dòng nước mắt.
Từ đó tới sáng Kiên không sao chợp mắt được.
Sáng ra, Kiên dịu dàng với vợ hơn bao giờ hết. Thoa đi chợ anh cũng đi theo, Thoa xuống bếp làm cơm anh cũng giúp một tay.
- Thôi, anh lên nhà trước đi, công việc đâu có gì nhiều, mình em làm là được rồi!
Thoa giành lấy bó rau trong tay chồng.
Kiên cười hềnh hệch:
- Em sắp sinh rồi, phải cho anh giúp em với chứ! Kẻo sau này con chúng mình lại cho rằng anh ăn hiếp mẹ nó…
Thoa nguýt yêu chồng một cái rồi cả hai cùng cười.
Bà Tư đi ngang nghe thấy cảnh đó, lòng bà vui phơi phới. Còn gì vui hơn cảnh nhà hạnh phúc. Chỉ nay mai thôi, bà sẽ có cháu để ẵm bồng…
Đến bữa ăn, Kiên gắp cho vợ hết món này lại đến món khác khiến bà Tư và Thoa đều ngạc nhiên, vì lâu nay Kiên không có thói quen nài ép vợ trong ăn uống.
Trong thái độ chăm sóc ân cần thái quá của Kiên những ngày tiếp sau làm Thoa cảm thấy có gì đó không được bình thường.
- Anh ơi, nói thật cho em biết đi, lúc này anh có gì lạ lắm đó!
Thoa âu yếm nhìn chồng.
Kiên vuốt ve mái tóc Thoa, mỉm cười:
- Anh đâu có gì lạ? Chỉ tại em sắp đến ngày sinh nở, anh thấy mình có bổn phận quan tâm chăm sóc em nhiều hơn. Em không thích điều đó sao?
- Không phải em không thích! Chỉ là em thấy anh đổi khác quá, nên không biết có chuyện gì không?
Thoa ngã đầu lên vai chồng thủ thỉ.
Thiện đặt tay lên bụng vợ, hỏi:
- Còn mấy ngày nữa thì sanh hở em?
- Đúng một tháng nữa! Anh đừng quá nôn nóng, anh làm em cũng nôn theo đây này!
- Một tháng!
Kiên lẩm nhẩm trong miệng.
Thoa vô tư nhắc lại:
- Một tháng cũng không là bao đâu anh.
Thoa hoàn toàn không hiểu được những suy nghĩ trong đầu Kiên lúc đó.
Một tháng, tức là còn phải trải qua một lần trăng tròn nữa…
Trời ơi, Kiên không muốn vợ mình phải lê lết đi kiếm ăn như vậy. Anh biết làm sao đây? Làm sao mới có thể giải thoát vợ ra khỏi ma lai?
Bỗng nhiên một ý nghĩ lóe lên trong đầu. Kiên hồi hập vui mừng vì nghĩ mình có thể không chế được con ma trong người vợ.
Bắt đầu từ đêm đó, trước khi đi ngủ, bao giờ Kiên cũng đi kiểm tra lại thật kỹ càng các cánh cửa.
Từ hồi xưa tới giờ nhà Kiên chưa hề bị xảy ra trộm cướp, thế mà bỗng dưng Kiên đem các cánh cửa hơi bị lung lay ra đục đẽo, bào gọt để sửa lại cho thật chắc chắn mới thôi. Mỗi cửa ra vào, ngoài mấy chốt trên, chốt dưới, cái nào Kiên cũng đặt làm một cây xương rồng thật to để chặn lại từ trên cao.
Tối nào Kiên cũng ngẩng lên nhìn trăng và đếm từng ngày một trôi qua.
Ngày trăng tròn nhất trong tháng cũng đã đến. Hôm đó sự cẩn thận của Kiên càng nhân lên gấp bội.
Lúc vừa sập tối anh đã đóng cửa nẻo cẩn thận rồi, vậy mà khi vợ và mẹ đều đã vào mùng, anh lại một mình lò dò ra kiểm tra thêm lần nữa.
Thấy đã yên tâm, Kiên vô mùng nằm cạnh vợ, anh muốn đêm nay mình không ngủ mà sẽ thức canh không để vợ rút đầu ra khỏi cổ. Nằm được một lát, Kiên thiếp đi lúc nào không biết đến chừng giật mình choàng tỉnh, ngó qua bên cạnh đã không thấy đầu vợ nữa rồi!
Kiên bật dậy chạy ra cửa. Tất cả các cánh cửa đều vẫn đóng chặt, không hề có dấu hiện gì chứng tỏ có người đi ra ngoài theo lối này.
Nhưng nếu không đi lối cửa, cái đầu của Thoa đi bằng lối nào đây?
Kiên đi tìm khắp nhà vẫn không phát hiện ra bất kỳ chỗ nào có thể để một con chó con chui lọt được.
Vậy thì Thoa đi ra khỏi nhà bằng cách nào đây?
Kiên khổ sở quay vào phòng đứng nhìn thân xác không đầu của vợ mà lòng đau như cắt.
Vuốt nhè nhẹ lên chiếc bụng bầu nhô cao của vợ, Kiên thầm thì với đứa bé nằm bên trong:
- Con ơi, ba phải làm sao đây? Ba phải làm cách nào để mẹ con được trở về cuộc sống bình thường như bao nhiêu người khác?
Những giọt nước mắt thánh thót lăn dài trên gương mặt rắn rỏi của Kiên. Anh muốn kể chuyện này với mẹ để xem bà có cách gì giúp mình hay không, nhưng rồi anh lại sợ mẹ đau khổ hoặc có thành kiến với Thoa. Cảnh nhà đang êm ấm Kiên không muốn phá vỡ bàu hạnh phúc đó.
Ngồi lặng đi một lúc thật lâu, Kiên dẫu trong lòng nóng như lửa đốt vẫn phải âm thầm nằm xuống để chút nữa đây cái đầu của Thoa về không bị giật mình kinh sợ.
Không lâu sau cái đầu về tới. Cũng như lần trước, Kiên chỉ nghe những tiếng động rất khẽ khàng rồi tiếng vợ anh trở mình, tất cả lại trở về như cũ.
Một tuần sau thì Thoa sinh.
Thoa sinh nở cũng thật dễ dàng. Vừa đau bụng không bao lâu, bà Tư và Kiên đứng ngoài đã nghe tiếng trẻ con oe oe khóc. Bà mụ nhoài người ra cửa sổ gọi to:
- Này, một cô công chúa xinh đáo để đấy nhé!
Bà Tư mừng rỡ, hai tay chắp trước ngực cảm tạ trời đất đã cho con dâu bà mẹ tròn con vuông, cho bà một đứa cháu đẹp như thiên thần để bà mặc sức bồng ẵm, đùa vui với nó. Bà hiếm hoi, chỉ sinh được mỗi thằng Kiên, mấy mươi năm nay nhà cửa luôn quạnh vắng.
Bà Tư không có tư tưởng trọng nam khinh nữ như đa số các mẹ thời đó. Với bà, trai gái gì cũng đều tốt như nhau.
Kiên siết chặt tay vợ như thầm muốn cảm ơn Thoa đã ban cho anh cái hạnh phúc vô bờ bến này.
Thoa nằm im trên giường, tóc hai bên thái dương bết lại do mồ hôi nhưng gương mặt cô lại rạng ngời.
- Anh, đưa con lại cho em ngắm với!
Thoa nói với chồng.
Kiên vụng về bế đứa bé đỏ hỏn được quấn chặt trong chiếc khăn bông đem đến cạnh Thoa.
Thoa nhổm người lên sờ nắn khắp lượt chân tay đứa bé, một tình yêu thương lai láng dâng ngập trong hồn. Nhưng Thoa bỗng nhiên khựng lại, sắc mặt biến đổi hẳn khi nhìn thấy chiếc cổ nhỏ bé với ba ngấn rõ rệt của đứa con gái mới sinh.
Sự thay đổi đó không qua được mắt Kiên. Anh linh cảm lại có việc không hay xảy đến với mình.
Sau một lúc mừng vui rối rít, bà Tư dặn dò con trai ở nhà chăm sóc vợ con, để bà chạy vù ra chợ mua chút gì đó vè nấu nướng bồi dưỡng cho đứa con dâu thương mến của bà.
Còn lại hai vợ chồng. Thoa nhìn Kiên thật lâu rồi bất ngờ bật khóc.
Kiên lo lắng:
- Có chuyện gì vậy em?
Thoa thổn thức:
- Anh ơi, xin anh tha lỗi cho em…
- Tha lỗi cho em? Em có lỗi gì?
Kiên ngạc nhiên.
- Em… từ ngày quen anh, nhiều lần em muốn nói hết sự thật cho anh biết nhưng rồi em sợ… em sợ anh không thương em nữa, em sợ anh rời bỏ em nên em không dám nói ra. Nhưng hôm nay em phải nói…
Thoa nhổm người lên, níu lấy cánh tay Kiên.
Kiên vỗ về:
- Kìa, sao em lại nói vậy? Dù thế nào đi nữa anh vẫn luôn yêu thương em!
- Không đâu anh ơi, điều em sắp nói ra đây rất đáng sợ…
Thoa vẫn chưa thôi khóc.
Kiên giật mình:
- Em nói chuyện gì?
Thoa bỏ tay Kiên ra, cô mệt mỏi ngồi dậy, tựa lưng vào tường rồi bắt đầu kể bằng giọng nghèn nghẹn:
- Từ nhỏ, em đã nghe người ta nói vì lúc sinh ra em, biết em là ma lai nên ba mẹ em vì quá sợ hãi mới đem em đi vứt bỏ…
- Em biết mình là ma lai?
Kiên buột miệng hỏi.
Thoa kinh ngạc:
- Anh nói vậy chẳng lẽ anh… đã biết?
Kiên khổ sở gật đầu.
Thoa co rúm người lại sợ hãi:
- Em thật sự là ma lai, phải không anh? Anh đã biết từ bao giờ? Sao anh không nói gì với em hết?
Kiên ôm vợ vào lòng:
- Em bình tĩnh đi, không có gì phải hoảng hốt như vậy. Mọi việc để rồi từ từ mình giải quyết. Em vừa mới sinh nở xong, người còn đang rất yếu, đừng để xúc động quá như vậy sẽ có hại cho bản thân.
Thoa lắc đầu:
- Không… không! Anh phải để cho em nói! Vì nếu không nói ra lúc này, em sợ mình không còn đủ can đảm nữa…
Kiên dỗ dành:
- Vậy thì em cứ nói đi, nhưng phải bình tĩnh lại. Anh đã nói rồi, dù có như thế nào em vẫn là người vợ mà anh yêu quý nhất.
Ngã đầu lên vai chồng, Thoa không ngừng thổn thức.
Một lúc sau, lấy lại được bình tĩnh, Thoa khe khẽ kể:
- Em nghe người ta nói mình là ma lai, nhưng thật sự em không biết gì hết. Ban đầu em cứ tưởng tại người ta ghét nên đặt điều nói xấu. Nhưng rồi em đi đến chỗ nào, sinh sống được một thời gian ngắn là chuyện đó lại được lặp lại nên em bắt đầu tin mình là ma lai thật sự. Đến lúc gặp và yêu thương anh, em rất muốn nói ra nhưng em sợ…
Nước mắt lại trào ra, Thoa nghẹn lời không nói tiếp được.
Kiên vuốt ve lưng vợ:
- Em đừng băn khoăn vì điều đó. Bởi vì nếu lúc đó em có nói ra, anh vẫn thương em, vẫn cưới em làm vợ, không có gì khác đâu em!
Thoa ngước mắt nhìn Kiên:
- Thật thế sao anh?
Kiên gật đầu:
- Ừ, thật thế! Vô tình anh phát hiện em là mai lai, nhưng trong lòng anh không hề kinh sợ em, mà ngược lại anh càng thương em nhiều hơn. Vì anh biết tự bản thân mình, em đâu muốn điều đó xảy ra. Lâu nay, anh luôn khổ tâm, không biết phải làm cách nào để cứu em thoát khỏi kiếp nạn ấy…
Thoa lại bật khóc:
- Anh ơi… em có lỗi với mẹ, với anh nữa rồi! Mẹ và anh thương em như vậy mà em lại… Con chúng mình… anh nhìn kỹ nó đi, cổ nó cũng có ba ngấn giống hệt như em, nó cũng sẽ khốn khổ giống em thôi anh ơi! Em không muốn… em không muốn!
Kiên giật mình kéo chiếc khăn nhìn chăm chú vào đứa bé đang say ngủ nằm bên cạnh. Quả đúng trên cổ nó in rành rành ba ngấn.
Trái tim Kiên như có ai vừa bóp chặt. Đau đớn, rã rời, tuyệt vọng… Kiên chỉ muốn khụyu xuống ngayl úc này.
Nhưng Kiên biết mình không có quyền đó, bên cạnh anh giờ đây là một bà mẹ già đang ngập đầy hạnh phúc, không hề biết được điều bất hạnh to lớn đang vây bọc lấy gia đình bà; bên cạnh anh lúc này là một người vợ yếu đuối tội nghiệp đang vô cùng hoang mang tuyệt vọng, chỉ còn anh là chỗ dựa duy nhất trên đời; bên cạnh anh lúc này là một đứa bé vừa mới chào đời đã phải đối mặt với cái nghiệt ngã của số phận.
Kiên biết, hơn lúc nào hết, anh không được quyền ngã quỵ trong lúc này!
Anh phải đứng cho thật vững vàng để cho những người thân yêu của anh tựa vào, không chỉ thế, anh phải làm mọi cách để giải cứu vợ con anh ra khỏi điều oan nghiệt đó!
Nuốt ực bao nhiêu đau khổ vào lòng, Kiên siết chặt lấy vợ, giọng cương quyết:
- Em yên tâm đi, anh không để em và con phải tiếp tục khổ sở đâu, anh sẽ làm tất cả!
Ngước đôi mắt đẫm lệ lên nhìn chồng, Thoa hỏi khẽ:
- Anh sẽ làm gì? Làm sao anh có thể thay đổi được số phận hả anh?
- Hiện tại anh cũng chưa biết mình sẽ phải làm gì, nhưng anh luôn tin tưởng ông trời sẽ không phụ lòng thành. Nhưng nếu bước đường cùng, anh không thay đổi được số phận của mẹ con em, thì anh sẽ nghiêng vai mà chia sớt, anh không bao giờ bỏ mặc mẹ con em đâu, em đừng lo sợ điều gì hết, em phải thật khỏe mạnh để nuôi con chúng ta khôn lớn… Em biết không?
Nghe những lời tâm huyết của chồng, Thoa càng thêm cảm động, nhưng cô phải gắng gượng không để nước mắt mình tuôn chảy nữa, cô không muốn Kiên phải bận lòng thêm.
Trước mặt mẹ và vợ con, Kiên luôn tỏ ra vui tươi, phấn khích, nhưng những lúc một mình anh lại vô cùng đau đớn. Anh không biết phải làm sao đây? Phải chi đó là một sức mạnh trần thế nào, thì dù có phải đương đầu và đem hết sức lực ra anh cũng chấp nhận được. Đằng này, đó lại là một thế lực siêu nhiên, huyền bí, anh biết chống lại nó từ đâu?
Từ trước đế nay Kiên chưa bao giờ biết đến việc đi chùa lễ phật. Dù anh không phỉ báng, nhưng nói tin tưởng thì cũng không hẳn thế. Đối với anh, trời phật thánh thần chỉ là những hình ảnh siêu thực để người ta dựa vào đó mà có niềm tin, dựa vào đó mà sống tốt hơn thôi.
Nhưng từ lúc có con, Kiên lại thường xuyên đi chùa.
Những buổi trưa vắng lặng, Kiên âm thầm tìm đến ngôi chùa nhỏ cạnh làng, một mình quỳ bên tượng phật mà cầu nguyện.
Trưa nay, anh tình cờ gặp lại Trang trong ngôi chùa đó.
- Anh Kiên! Anh cũng đi chùa sao?
Trang ngạc nhiên hỏi.
Kiên cười buồn:
- Ừ, đôi khi đến chùa thấy lòng mình thật nhẹ nhàng, thanh thản.
Nghe giọng nói và nhìn thấy nét mặt không vui của Kiên, Trang tò mò:
- Anh có chuyện gì không vui phải không anh Kiên? Em nghe tin chị Thoa vừa sinh cho anh một em bé kia mà?
Tự nhiên Kiên cảm thấy cần phải chia sẻ gánh nặng mà mình đã mang trong lòng từ bấy lâu nay. Anh ngồi bệt xuống gốc đa trong sân chùa, Trang lặng lẽ ngồi xuống một bên.
- Anh… anh thật khổ sở… Anh không biết nói sao…
Trang động viên:
- Anh hãy coi em như một người bạn thân, có điều gì anh san sẻ cùng em, nếu giúp được anh thì em sẽ không ngần ngại gì đâu!
Kiên lắc đầu:
- Không đâu Trang ơi, chuyện này em không thể giúp được anh đâu! Và anh cũng không biết ai là người có thể giúp được mình…
Thấy Kiên quá khổ sở, Trang giục:
- Thì anh nói ra cho em biết đi, ít nhất lòng anh cũng đựơc vơi đi đôi chút! Anh cứ giữ mãi một mình càng thêm quẩn trí mà thôi!
- Em nói đúng, anh sắp quẩn trí rồi đây! Trước mặt mẹ và vợ con anh, anh phải tỏ ra là người can đảm, nhưng thật sự anh sắp ngã quỵ rồi! Em có tin không… vợ anh… vợ anh chính là ma lai, đúng như lời đồn đại của bà con xóm giềng bấy lâu nay…
- Ma lai? Vợ anh là mai lai?
Trang sửng sốt.
Kiên khẽ gật đầu, nước mắt anh lăn dài trên má:
- Không riêng gì vợ anh, đứa con gái bé bỏng vừa mới chào đời của anh cũng có nguy cơ đó! Trang ơi, anh phải làm gì bây giờ? Anh phải làm sao mới có thể cứu vợ con anh?
Mặc dù chuyện này Trang đã nghe người ta đồn đại từ lâu rồi nhưng cô vẫn hoàn toàn bất ngờ khi nghe Kiên thú nhận.
Nhìn dáng dấp đau khổ của Kiên, Trang thật sự đau lòng.
Lâu nay cô vẫn luôn mang nặng mặc cảm tội lỗi đối với Kiên. Cô đã rời bỏ anh để đi lấy chồng, báo hại anh phải bỏ làng ra đi biền biệt mấy năm trời.
Nhưng rồi thấy Kiên cưới được một người vợ tốt như Thoa, lòng Trang nhẹ đi đôi chút. Không ngờ bây giờ Kiên lại phải đối mặt với một sự thật phũ phàng đến thế.
Nước mắt Trang cũng ứa ra, cô an ủi Kiên:
- Anh đừng quá đau lòng như vậy! Em tin rằng với tấm lòng và sự quyết tâm của anh, chị và cháu bé sẽ được thoát khỏi vòng dây đó. Bây giờ anh về đi, em sẽ cố gắng đi tìm hiểu sự việc, nếu có cách nào khả dĩ, em sẽ lập tức báo cho anh biết! Tất cả chúng ta sẽ chung tay để lo cho chị và cháu bé, nhé anh?
Kiên nước mắt nhạt nhòa siết chặt tay Trang:
- Anh cám ơn em…
Chia tay Kiên, Trang vội vã về nhà xin phép chồng cho cô đi viếng chùa Tây Ninh, Châu Đốc mấy ngày. Chồng Trang đồng ý ngay không hỏi gì thêm. Vì lâu nay Trang vẫn thường đi các đền chùa để cầu tự. Chồng Trang lớn tuổi rồi, anh cũng khao khát sớm có đứa con nối dõi.
Nhưng lần này Trang đi không phải vì mình mà là vì gia đình, vợ con Kiên. Cô nhủ thầm trong bụng, nếu mình tìm được cách nào giúp Kiên thì mình mới nhẹ lòng được, mới không còn mang mặc cảm tội lỗi đối với Kiên nữa!
Hơn hai tuần lễ lặn lội ở những nơi hoang vắng xa xôi, cuối cùng rồi thì Trang cũng thu thập được một ít thông tin, dẫu còn rất mập mờ nhưng cô vẫn đặt vào đó rất nhiều hy vọng.
- Phải có đủ ba người thành tâm cầu nguyện suốt hai mươi mốt ngày. Trong hai mươi mốt ngày đó, tâm của người cầu nguyện phải thật tĩnh, thân thể phải thật sạch, phải ăn chay nằm đất, dẹp bỏ hoàn toàn những tham sân si, những dục vọng đời thường. Sau hai mươi mốt ngày, ba người đó cắt máu hòa chung với nhau đem bôi lên ngấn thứ ba trên cổ người bệnh thì cái đầu sẽ không còn rút ra khỏi cổ được nữa. Đó là lời của một vị cao tăng ở vùng Thất Sơn, em không biết có linh nghiệm không, nhưng em nghĩ mình cứ làm thử anh ạ, người ta vẫn thường hay nói hễ có cầu thì có thiêng, có kiêng thì có linh ứng.
Nghe Trang nói, Kiên tần ngần:
- Anh cũng rất muốn thử, dù chỉ một trăm anh cũng không bỏ qua, nhưng…
- Nhưng sao anh?
Thấy Kiên ngập ngừng, Trang hỏi.
Kiên buồn buồn:
- Anh biết tìm đâu ra ba người đủ thành tâm để cầu nguyện cho mẹ con Thoa? Nếu nói hết sự thật với mẹ, họa chăng mới được hai thôi em ạ!
Trang đắn đo một chút rồi quyết định:
- Em sẽ về kể thật với chồng em, hy vọng anh ấy không đến nỗi hẹp hòi mà không cho em giúp cho gia đình anh chị một tay. Anh cứ tin ở em, nếu được chồng cho phép, em có đủ thành tâm để nguyện cầu cho chị.
Kiên xúc động:
- Anh thật cảm ơn em nhiều lắm Trang ạ! Nhưng… anh không muốn vì chuyện của gia đình anh mà vợ chồng em xảy ra điều lục đục.
Trang cười trấn an Kiên:
- Anh yên tâm đi, chồng em là người tốt, em hy vọng anh ấy sẽ hiểu động lực nào khiến em phải làm như vậy. Bây giờ, anh cũng nên về lựa lời mà nói với bác ở nhà, anh nhớ phải khéo léo, đừng để bác bị sốc vì bất ngờ.
Trang vừa dứt lời là quày quả ra về, Kiên vẫn đứng tần ngần trông theo, anh thầm cảm ơn cuộc đời đã dành cho anh những tình cảm đẹp đẽ, cao thượng như vậy.
Trên đường về, Kiên luôn băn khoăn, không biết phải mở lời với mẹ mình ra sao đây nữa?
Vừa bước vô cửa, Kiên thấy bà Tư đang ngồi ôm đứa bé trên tay ngọng nghịu nói nựng, đùa giỡn với nó.
- Mẹ, đưa nó cho con bế chút!
Kiên giơ tay ra trước mặt mẹ, cười tươi với đứa bé nhỏ xíu đđang hé mắt nhìn cha.
Giỡ với con một lúc, Kiên bế đứa bé vào trao cho vợ rồi ra tước nhà với mẹ.
Bà Tư ngồi đong đưa trên võng, mắt lấp lánh niềm vui.
Kiên ngồi xuống bậc thềm bên cạnh, hỏi mẹ:
- Người ta đồn vợ con là ma lai, mẹ có tin không?
Bà Tư nhìn con trai, ngạc nhiên:
- Sao tự nhiên con lại hỏi mẹ câu đó? Bộ con sợ mẹ nghe lời người ngoài rồi về nhà ruồng rẫy dâu con hay sao mà rào trước đón sau vậy?
Kiên nắm chặt tay mẹ:
- Không đâu mẹ ơi, con muốn biết… con muốn hỏi mẹ, giả sử như vợ con đúng như những gì người ta bàn tán lâu nay thì tình cảm mẹ đối với cô ấy sẽ như thế nào? Mẹ có còn thương yêu, lo lắng cho mẹ con cô ấy hay không hở mẹ?
Bà Tư đặt tay mình lên tay con trai, cười hiền hậu:
- Cái thằng này hôm nay nói chuyện gì nghe lạ quá! Mẹ đã sống với vợ con một thời gian khá dài rồi, tính tình, bản chất nó ra sao mẹ đều biết hết. Mẹ nói thật, nếu có một ma dễ thương như vậy làm dâu mẹ, mẹ vẫn thích hơn những cô dâu chua ngoa đanh đá khác.
Kiên chớp chớp mắt, ngăn cho nước mắt khỏi rơi ra:
- Mẹ… con nói điều này xin mẹ hãy bình tĩnh… Vợ con… vợ con đúng là ma lai…
Bà Tư ngó con trai sửng sốt, giọng bà lắp bắp:
- Con không được nói bậy nói bạ như vậy, không nên đâu nghen con!
- Dạ không mẹ ơi, những gì con nói là thật! Con định sẽ giấu mẹ mãi mãi, để cho mẹ được trọn niềm vui, nhưng vì… bây giờ con cần mẹ giúp đỡ để cứu lấy vợ con, nên con phải nói hết sự thật. Con xin mẹ hãy thương vợ chồng con, thương đứa cháu nội bé bỏng của mẹ mà đừng hắt hủi vợ con, mẹ hãy giúp con cứu lấy cô ấy!
Kiên gục đầu vào lòng mẹ như thuở bé mỗi lần bị ai đó hà hiếp điều gì. Bà Tư bàng hoàng giây lát rồi nhanh chóng lấy lại bình tĩnh. Bà vỗ nhè nhẹ lên bờ vai rộng lớn của con trai:
- Mẹ bình tĩnh rồi… Con kể đầu đuôi sự việc cho mẹ biết đi…
Kiên ngồi thẳng người lên, hai tay ôm lấy đầu:
- Tình cờ trong một đêm, con phát hiện người vợ nằm cạnh bên con chỉ còn lại tấm thân từ cổ trở xuống mà thôi, cái đầu đã đi đâu mất biệt. Con hoảng sợ, lo lắng biết bao. Nhưng rồi khi cái đầu trở về chui trở vào thân xác thì cô ấy lại là một người hoàn toàn bình thường, thậm chí cô ấy còn không biết cô ấy đã rút đầu ra như thế nào nữa. Con đau khổ lắm. Qua tìm hiểu, con được biết, ma lai là một con người bình thường, chỉ những đêm trăng sáng nhất trong tháng thì mới rút đầu đi lang thang ngoài đường sá để tìm phân thiên hạ, mà ngay bản thân người đó không hề ý thức được việc làm kỳ quái của mình.  Con đã cố ngăn cản bằng mọi cách. Đóng thật kín các cửa ra vào, tìm cách nói chuyện kéo dài vào những đêm trăng sáng để cô ấy không ngủ, không rút đầu ra được. Nhưng dù con có cài cửa kỹ đến mấy, cái đầu vẫn thản nhiên ra vào, dù con cố gắng đến mấy thì vào những đêm trăng sáng nhất cả con và cô ấy đều ngủ mê mệt. Con âm thầm chịu đựng, không dám hé răng với mẹ hoặc cô ấy. Nhưng lúc vừa sinh đứa bé ra, thấy trên cổ bé cũng có ba ngấn giống mình, vợ con đã khóc rất nhiều và thú thật trước đây đã nghe nói về thân thế của mình. Rằng ba mẹ cô ấy không dám dưỡng nuôi một đứa con ma lai nên mới vứt bỏ cô ra đường. Vợ con rất sợ đứa bé lại đi vào vết xe đổ của cô ấy… Vừa rồi Trang đã giúp con tìm được một vị cao tăng, vị này đã bày vẽ cho cách cúng để cứu mẹ con cô ấy. Muốn thực hiện được, con cần có sự giúp sức của mẹ và cả Trang nữa.
- Trang?
Bà Tư ngạc nhiên hỏi lại.
- Dạ, đúng là Trang!
Rồi Kiên kể cho mẹ nghe cách thức cúng vái nguyện cầu mà Trang đã nói với anh.
Bà Tư ngồi lặng im trên võng, nước mắt bà không ngừng tuôn chảy trên gương mặt đã bắt đầu có những vết nhăn tuổi tác.
- Thật khổ thân cho mẹ con nó!
Bà Tư rên rỉ.
Rồi bà vụt đứng lên bước nhanh vào buồng ôm chầm láy Thoa đang ngồi cho con bú.
- Tội thân con quá, con ơi! Sao lâu nay con không chia sớt nỗi khổ đau với mẹ hở con?
Mới đầu Thoa ngớ người ra, không hiểu chuyện gì, nhưng lập tức cô biết mẹ chồng đã biết chuyện. Vậy mà bà đã không tỏ ra sợ hãi hay khinh khi gì cô mà còn thương yêu đến vậy, lòng bà quả thật quá bao la.
Thoa cũng khóc ròng ôm lấy mẹ. Đứa bé bị hai người lớn che lấp, nó thấy khó chịu nên nhả vú ra, cất tiếng oe oe khóc làm bà nội và mẹ nó giật mình vội lau đi dòng nước mắt.
Chiều hôm đó Trang cùng chồng đến thăm gia đình Kiên.
Bà Tư và Kiên không giấu giếm điều gì, cả về mối quan hệ trước kia của Kiên và Trang.
Điều này thì chồng Trang cũng biết. Nhưng hôm nay ông theo Trang tới đây không phải để ghen tương hay ngăn cấm Trang giúp đỡ gia đình họ, anh tới đây chỉ vì thật tình muốn cùng vợ sớt chia, gánh vác.
- Tôi hiểu, bác và anh Kiên không có gì phải ngại. Vợ tôi đã kể cho tôi nghe tất cả. Tôi thành thật chia buồn cùng gia đình, và tôi cũng hy vọng được góp chút công sức nhỏ nhoi của mình vào việc đem lại sự bình yên cho chị và cháu bé. Hai mươi mốt ngày các vị và vợ tôi phải thật chú tâm vào việc cầu nguyện, tôi xin được làm người lo việc cơm nước hàng ngày. Có thể mọi người sẽ có những bữa cơm khó nuốt, vì xưa nay ở nhà tôi chưa từng biết đến việc đi chợ nấu ăn, nhưng lần này, vì việc chung, tôi sẽ cố gắng.
Nghe chồng Trang nói, bà Tư xúc động nước mắt chảy dài, cứ nắm lấy tay chồng Trang lắc lấy lắc để mà không nói được lời nào.
Vợ chồng Kiên cũng vậy, họ không biết phải nói lời gì để cảm tạ ân tình to lớn của vợ chồng Trang.
Cho dù chuyện cúng kiếng này không thành công đi nữa, thì ân nghĩa này vợ chồng Kiên sẽ mang đến trọn đời.
Đứa bé vẫn vô mút ngón tay chùn chụt, nó hoàn toàn không biết gì đến cái nỗi oan khiên mà mẹ nó và nó đã, đang và sẽ nặng mang, nó hoàn toàn không biết những người thân yêu xung quanh nó đang làm mọi cách để cứu lấy mẹ con nó thoát khỏi sự trớ trêu của tạo hóa.
Ngay sáng hôm sau cuộc cúng lễ được tiến hành.
Mấy người láng giềng tỏ ra thắc mắc, không hiểu vì sao vợ chồng Trang lại tạm gác hết công ăn việc làm mà đến ở trong nhà Kiên? Tại sao nhà Kiên luôn khóa trái cửa?
Họ thắc mắc, họ tự lý giải và lời đồn đại cứ lan rộng ra xa.
Nhưng những người trong nhà bà Tư hoàn toàn bỏ ngoài tai. Mà nói một cách chính xác nhất là chỉ có mỗi một mình chồng Trang là nghe được lời đồn đại. Vì hàng ngày anh phải đi chợ nấu ăn, anh giao tiếp với bên ngoài, còn lại tất cả mọi người đều ở biệt trong nhà, không ai bước ra khỏi cửa.
Ngày nào cũng giống ngày nào, cứ mỗi sáng sớm, sau khi làm vệ sinh cá nhân thật sạch sẽ, bà Tư, Kiên và Trang lại quỳ bên cạnh bàn thờ Phật, mỗi người đều lâm râm nguyện cầu, khấn vái. Họ chỉ rời vị trí những khi thật cần thiết, hoặc khi đêm khuya, cần phải ngủ để có đủ sức cho buổi cầu nguyện tiếp sau.
Hai mươi mốt ngày ròng rã đã trôi qua. Cũng đúng vào ngày trăng sáng nhất.
Sau khi nén nhang cuối cùng trong ngày đã tàn đi, bà Tư, Kiên và Trang quỳ dưới đất, kê một chiếc chén nhỏ rồi lần lượt từng người tự dùng một lưỡi dao lam bén ngót đã được chồng Trang chuẩn bị sẵn mà cứa vào tay mình cho máu nhỏ giọt xuống cái chén bên dưới.
Những giọt máu đào của ba người hòa quyện vào nhau, như hiện tại họ đang hòa vào nhau để giành lấy sự bình yên cho hai mẹ con người thiếu phụ vô tội.
Sau khi có được lượng máu vừa đủ theo lời dặn của cao tăng, Kiên thành kính bê chén máu đặt lên bàn rồi gọi Thoa bế đứa bé ra ngồi vào chiế ghế cạnh đó.
Thật tỉ mỉ, Kiên bôi từng chút máu lên cổ vợ và con gái, lòng anh tràn đầy hy vọng.
Cả nhà bà Tư, ai cũng hồi hộp mong chờ kết quả.
Đáng lẽ chiều hôm ấy vợ chồng Trang về lại nhà mình như dự tính, nhưng bà Tư và vợ chồng Kiên đều khẩn khoản giữ lại nên cuối cùng họ đồng ý ở lại chơi thêm một ngày nữa.
Tối hôm ấy, cả nhà đi ngủ sớm. Nói là đi ngủ chứ có ai an tâm đâu, tất cả đều lo lắng, hồi hộp.
Rồi tất cả mọi người nhanh chóng chìm vào giấc ngủ, trừ chồng Trang.
Anh được mọi người tin tưởng giao cho việc canh gác đêm nay để xác minh xem việc cúng bái có đạt được kết quá gì khả quan hay không.
Từ chiều, chồng Trang đã lặn lội đi tuốt lên chợ xã để mua cho được một gói cà phê bột. Trời vừa sụp tối là anh đem pha một ly to tướng không thèm để đường, cứ như vậy mà uống hết.
Bình thường, chồng Trang không cà phê, nên chỉ cần một vài hớp cà phê bình thường thôi cũng làm anh mất ngủ cả đêm, nói gì tới một ly cối cà phê nguyên chất không đường.
Vợ chồng Trang xung phong ngủ án ngữ ngay trước cửa phòng ngủ của vợ chồng Kiên.
Tất cả đều im lặng, bình thường.
Mãi đến hơn nửa đêm, chồng Trang nghe có tiếng động lạ trong phòng nên lay nhẹ vợ dậy, hai vợ chồng rón rén hé cửa nhìn vô (điều này đã được bàn tính trước với cả nhà từ chiều, nên không sợ bị coi là xâm phạm đời tư bất hợp pháp).
Trên chiếc giường kê giữa phòng, Kiên đang ngủ say sưa. Thoa cũng đang chìm trong giấc ngủ, nhưng chiếc đầu của cô thì cứ xoay qua xoay lại vô cùng gấp gáp, nhưng nó hoàn toàn không thể rút ra.
Xoay mãi không được, bất ngờ một luồng khói trắng, dầy đặc như đám mây vẫn thường nhìn thấy ở phía chân trời bay ra từ trong mũi của Thoa. Làn gió mang một mùi hôi hám rất kinh tởm, vụt qua mặt hai vợ chồng Trang rồi bay đi mất.
Trang cảm thấy thật vui mừng. Cô ôm chầm lấy chồng, cô muốn hét to lên gọi vợ chồng Thoa dậy để báo tin vui, rằng thế lực tà ma kia đã thực sự đầu hàng.
Nhưng vốn tính điềm đạm và cẩn thận, chồng Trang đã ngăn lại, anh bảo:
- Bây giờ mới chỉ nửa đêm, hết đêm còn lâu lắm. Mình ráng chờ cho hết đêm nay, đừng thông báo vội mà làm người ta có thể thất vọng.
Nghe lời chồng khuyên, Trang cố kìm nén nỗi vui mừng, nhưng cô cũng không kém phần hồi hộp, thầm mong cho đêm nay mọi việc diễn ra êm đẹp như hy vọng của bao người.
Vợ chồng Trang không dám chợp mắt, cả hai cứ ngồi sát bên nhau, thỉnh thoảng mới kề vào tai nhau thì thầm vài câu trao đổi.
Tiếng gà gáy sáng, tiếng nhưng người thức dậy đi chợ sớm đã râm ran ngoài đường. Bà Tư lập cập bước ra, trông thấy vợ chồng Trang, bà hỏi:
- Sao con, có gì xảy ra không con?
Trang ôm chầm lấy bà Tư cười rạng rỡ:
- Bác ơi, thành công rồi bác ơi!
- Thật vậy sao con?
Bà Tư muốn nghe Trang xác nhận lại lần nữa.
Vợ chồng Trang nhìn bà mỉm cười:
- Bác ơi, có thể yên tâm được rồi!
Vừa lúc đó trong phòng Kiên và Thoa cũng vừa thức dậy. Thoa sờ vào cổ mình rồi ngơ ngác nhìn quanh.
Kiên xỏ chân vào dép bước vội ra ngoài, thấy mẹ và vợ chồng Trang đang đứng đó.
- Sao rồi anh?
Kiên hấp tấp.
Chồng Trang từ tốn kể:
- Lúc nửa đêm, tôi có nghe tiếng động nên gọi Trang dậy. Hai vợ chồng chúng tôi nhìn qua khe cửa này thấy rõ ràng anh và chị Thoa đang ngủ rất say, nhưng cái đầu chị Thoa lại không ngừng lắc qua lắc lại như có gì đó bức bối khó chịu lắm. Mãi một lúc lâu, có thể vì không rút ra khỏi cổ được nên có một luồng khói từ mũi chị Thoa bay ra, luồng khói rất lạ, lại mang một mùi hôi rất khó chịu. Từ đó tới sáng thì chị Thoa ngủ yên, không có gì lạ nữa. Chúng tôi hy vọng chúng ta đã thành công. Xin chúc mừng anh chị!
Kiên cảm động nắm lấy bàn tay đang chìa ra trước mặt mình, bồi hồi nói:
- Tất cả là nhờ ơn của vợ chồng anh. Gia đình tôi thật sự mang nặng ơn nghĩa của anh và Trang đó.
Chồng Trang phì cười, vỗ vai Kiên:
- Có gì đâu mà ơn với nghĩa! Có lẽ sau lần này thì vợ tôi mới thấy nhẹ lòng khi sống bên tôi. Lâu nay, tuy về làm vợ tôi cô ấy luôn giữ tròn đạo nghĩa, nhưng tôi biết trong thâm tâm, cô ấy luôn cảm thấy mắc nợ anh, cô ấy không hoàn toàn hạnh phúc. Tôi hy vọng sau lần này, khi cảm thấy hết nợ nần với anh rồi, cô ấy sẽ sớm sinh cho tôi một thằng cu tí cho vui cửa vui nhà…
Trang véo chồng một cái làm chồng Trang la lên oai oái, cả nhà cùng bật cười vui vẻ lắm.
Sau hôm đó, mặc dù rất vui mừng nhưng Kiên và Thoa vẫn chưa nguôi lo lắng. Cả hai đều sợ lỡ tháng sau sự việc lặp lại thì…
Ngày trăng tròn tiếp đến, bà Tư và Kiên, Thoa đều ngồi đứng không yên, tất cả đều lo lắng, hồi hộp.
Nhưng cả đêm hôm ấy, Thoa vẫn ngủ yên lành bên cạnh chồng con.
Những câu chuyện về ma lai ở làng cũng dần dần đi vào quên lãng, người ta thỉnh thoảng vẫn đùa con bé con Kiên là cổ ba ngấn, là ma lai, nhưng tuyệt nhiên đó chỉ là những lời đùa giỡn, không còn ai nghi ngờ gì nữa vào hạnh phúc của vợ chồng Kiên.
Mối giao hảo thâm tình giữa vợ chồng Kiên và vợ chồng Trang ngày càng thắt chặt.
Quả đúng như lời chồng Trang nói. Sau khi Thoa khỏi bệnh không lâu thì Trang mang bầu, rồi sinh ra cả một cặp con trai mà đứa nào cũng bụ bẫm, dễ thương.
Ông trời tuy ở trên cao nhưng có mắt, người ăn ở hiền lương ắt sẽ vượt qua được những nghiệp chướng trong đời.
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:04:21 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 20:25:52
MỐI TÌNH ÂM DƯƠNG
 
Người ta đã nói nhiều về chuyện bị ma giấu, ma dẫn đường, ma ám, vv… nhưng tôi chẳng tin. Tôi nghĩ đó chẳng qua chỉ là những lời kể để mua vui, để hù dọa trẻ con và những người yếu bóng vía mà thôi.
Tuy tôi không được ăn học nhiều, tôi không căn cứ vào bất kỳ một luận chứng khoa học nào để phản bác chuyện ma quái, nhưng tôi luôn tin chắc như thế!
Con người chỉ là một sinh vật sống trên trái đất giống như hàng ngàn sinh vật khác, tồn tại một thời gian rồi sẽ chết, đúng theo quy luật. Chết là hết! Thân xác thối rữa ra để trở thành thức ăn nuôi sống các loài sinh vật khác. Vậy thôi! Cũng giống như hoa nở rồi tàn, lá vàng rơi nhường cành cho chồi biếc mọc…
Thuở nhỏ, tôi nổi tiếng gan lì. Trong lúc lũ trẻ con đứa nào cũng sợ ma vãi cả ra quần, chỉ riêng tôi là hiên ngang như một trang anh hùng nhỏ!
Tôi còn nhớ trong một lần tranh cãi, đám bạn thách thức tôi vào nghĩa địa ở đầu xóm vào lúc đêm khuya. Tôi vênh mặt lên:
- Có gì phải sợ? Nếu tao dám vô đó, tụi bây thua gì?
Tụi nó xúm nhau lại bàn tán một lúc rồi đưa ra quyết định:
- Nếu mầy dám vô, lấy được cái thang làm bằng cây chuối dựng bên ngôi mộ mới được làm lễ mở cửa mả sáng nay đem ra đây, tụi tao sẽ đãi mầy ăn chè hai tuần, chịu không?
Tôi chịu quá đi mất! Chè là món ruột của tôi mà, được ăn miễn phí suốt hai tuần thì quá đã!
Thế là cả bọn đứng chờ tôi trước sân nhà, một mình tôi oai vệ tiến về đầu xóm, nơi có cái nghĩa địa với những ngôi mộ nằm không theo hàng lối.
Đây là nghĩa địa làng. Bất cứ ai trong làng chết đi đều được vào nằm ở đây nếu gia đình họ không có đất riêng để chôn cất. Ở đây không phân biệt giàu sang hay nghèo hèn, cũng không phân biệt người chết thuộc tôn giáo gì… Tất cả đều được vào đấy! Sự giàu nghèo, tôn giáo được biểu hiện qua hình thức bên ngoài của từng ngôi mộ.
Người giàu thì xây mộ hẳn hoi, có cái còn được lát đá hoa, mộ bia khắc hình ảnh. Người nghèo thì chỉ là những ngôi mộ đất lúp xúp, cỏ mọc um tùm. Cũng vẫn giống như khi họ còn sống, người nghèo ở nhà tranh mái lá, kẻ giàu ở nhà ngói kinh dinh...
Vào ban ngày, nghĩa địa này thường là chỗ lui tới của bọn trẻ chăn trâu. Chúng thả cho trâu đi ăn loanh quanh đâu đấy rồi vô nghĩa địa ngồi chơi, núp bên những ngôi mộ xây cao to để tránh nắng, hoặc chúng vô đây cắt bao cỏ đem về làm bữa tối cho trâu bò.
Nhưng khi màn đêm buông xuống thì chẳng đứa nào dám léo hánh. Đã có rất nhiều câu chuyện huyễn hoặc phát xuất từ đây, được thêu dệt thành những chuyện rùng rợn mà khi nghe kể đứa nào cũng rụt vai, le lưỡi, ngoại trừ tôi.
Thì đã nói tôi không tin có ma. Không tin thì không sợ, đó là lẽ đương nhiên.
Tôi vừa đi vừa huýt sáo. Trong tay là một chiếc đèn pin nhưng tôi không muốn bật sáng. Tôi muốn chứng minh cho tụi bạn thấy bản lĩnh của mình. Vả lại tối đó bầu trời cũng rất quang đãng, ánh trăng lưỡi liềm soi rõ lối đi.
Tôi men theo con đường mòn trong nghĩa địa, luồn lách qua các ngôi mộ mới tìm tới được cái mả mới chôn.
Người nằm dưới mả là một bà cụ già ở cuối xóm, năm nay đã ngoài tám mươi tuổi. Nhà nghèo nên đám tang tổ chức đơn sơ và mả của bà cũng chỉ là một mô đất đắp cao lên một chút. Trước mộ còn đặt một chiếc lư nhang và một cái đĩa con nằm chơ chõng. Chắc là chiếc đĩa đựng đồ cúng mở cửa mả sáng này, nhưng bây giờ có lẽ đồ cúng đã bị chó mèo, chim chuột gì đó tha đi mất hết. Tựa vào ngôi mộ là một cái thang được làm bằng thân cây chuối.
Tôi không hiểu được ý nghĩa, nhưng ở quê tôi, hầu như trong đám mở cửa mả nào cũng có một cái thang như thế! Không phải làm bằng tre hay trúc mà là cây chuối, thế mới lạ!
Tôi cầm lấy cái thang rồi thích chí quay ra, vừa đi vừa phải ngó chăm chăm xuống đất để tránh các “bãi mìn” của lũ trẻ chăn trâu để lại.
Quẳng cái thang xuống trước mặt đám bạn đang tròn mắt đứng nhìn, tôi cười hềnh hệch:
- Nhớ nhé, hai tuần ăn chè miễn phí đó! Bây giờ khai trương liền đi, quán chị Mận còn mở cửa…
Lũ bạn ồ lên thán phục rồi cả bọn kéo nhau vô quán chè vừa ăn vừa bàn tán rôm rả, chủ đề không gì khác, chỉ xoay quanh chuyện ma cỏ, quỷ thần.
Khi biết được hành động vừa rồi của tôi, chị Mận nghiêm mặt:
- Em làm vậy là không nên đâu! Đem trở vô trả cho người ta rồi vái van xin người ta bỏ lỗi cho đi!
Nghe chị Mận nói vậy lũ bạn tôi đứa nào cũng xanh mặt, nhưng riêng tôi chỉ mỉm cười. Tôi không cãi lại nhưng cũng chẳng nghe theo.
Việc đó đã gây cho tôi một tai họa. Bạn nghĩ là hồn ma của bà già dưới mộ về trả thù tôi chăng? Không phải! Tai họa đó là… tôi bị má tôi đánh cho một trận nên thân vì cái tội “phá làng phá xóm”.
Má tôi bảo cái mả của người chết cũng giống như cái nhà của người sống, vậy mà tôi đã dám ngang nhiên vô đó lấy đồ của người ta. Cái tôi lấy lại là cái  - theo lời má tôi nói - để giúp linh hồn người chết đi được lên trời!
Kết quả, tôi vừa khóc hu hu, vừa phải ngồi gắn lại cái thang để đem vô trả lại. Má tôi lại phải đi theo để đứng trước mả thành tâm xin lỗi người chết bỏ qua cho hành động dại dột của trẻ con.
Suốt mấy ngày tiếp theo sau đó, má tôi luôn răn đe tôi đủ điều, kể cho nghe biết bao chuyện hoang đường nhằm làm tôi sợ hãi, không dám chơi những trò như vậy nữa.
Nhưng mà tôi đâu có sợ! Trong mắt  đám bạn, tôi giờ là một anh hùng!
Và sau đó tôi cũng chẳng bị đau ốm gì như lời mọi người hăm dọa.
Một buổi chiều, cả xóm tôi chộn rộn hẳn lên vì cái tin thằng Tèo mất tích. Thằng Tèo bằng tuổi với tôi, nhà nó chỉ cách nhà tôi một khoảng vườn nhỏ. Hàng ngày nó lùa trâu đi ăn, chiều tối lùa về chuồng nhốt lại. Vậy mà chiều nay không thấy nó về. Ba nó đi tìm thì thấy mấy con trâu đang nhởn nhơ gặm mấy gốc rạ trên cánh đồng vừa mới gặt xong, gọi khản cả giọng vẫn không thấy nó trả lời.
Cả xóm túa ra tìm nó.
Ở đây không có sông suối gì, chỉ có một cái ao làng be bé. Dù biết nó bơi lội như ráy, bị chết chìm là điều khó xảy ra, thế nhưng ba nó và mấy anh thanh niên khác cũng lặn hụp mấy tiếng đồng hồ để mò tìm dưới đó.
Mãi đến lúc mặt trời tắt hẳn ở phía tây người ta mới tìm được nó. Không phải bị chìm dưới ao mà là… bị kẹt trong lùm tre um tùm ở cuối xóm!
Chẳng ai hiểu nó chui vô đó làm gì và chui vô bằng cách nào mà mình mẩy vẹn nguyên. Khi người ta soi đèn vào, bắt gặp nó ngồi thu lu trong đấy, ánh mắt ngây dại và miệng thì ngậm đầy đất cát.
Tre mọc ken dày, không cách nào nó chui vào hay chui ra được! Ấy vậy mà chính mắt tôi chứng kiến rõ ràng cảnh tượng nó ngồi lọt thỏm trong lùm tre. Khi người ta xúm đông bên ngoài, tiếng kêu, tiếng khóc ồn ào thì nó như bừng tỉnh, nhổ đất cát trong họng ra, nó mếu máo kêu cha gọi mẹ.
Người ta phải xúm lại chặt tre mới đem được nó ra ngoài. Thân mình nó không một vết trầy xước. Điều này làm tôi suy nghĩ mãi mà vẫn không nghĩ ra.
Hỏi nó sao lại chui vô trong ấy? Vô bằng cách nào? Nó ngơ ngác một lúc rồi kể: Lúc nó chuẩn bị lùa trâu về thì có một đứa cũng bằng tuổi nó rủ đi bắt chim. Nó đồng ý đi theo, thằng nhỏ bảo:
- Ghé nhà tao một chút!
Rồi thằng nhỏ dẫn nó vô nhà, lấy bánh mời nó ăn… Sau đó nó không nhớ gì nữa, mãi đến khi mọi người tìm thấy nó!
Người ta kết lụân như đinh đóng cột là thằng Tèo bị ma giấu.
Tôi vẫn không tin, nhưng thú thật lòng tin đó đã bị lung lay, vì mọi chuyện diễn ra ngay trước mắt tôi, tôi chứng kiến rõ ràng chứ đâu phải nghe người khác kể lại mà bảo rằng họ thêm mắm dặm muối cho câu chuyện thêm phần hấp dẫn?
Thằng Tèo nó có tài thánh cũng không làm sao chui vô được trong lùm tre như vậy, mà lại không bị trầy một miếng da nữa chứ! Nó cũng đâu có điên mà ngậm một họng đất?
Trời, tôi điên mất, chẳng hiểu ra làm sao!!!
Câu chuyện đó ồn ào một thời gian rồi cũng dần lắng xuống. Thằng Tèo sau mấy ngày nóng sốt cũng trở lại bình thường. Tôi cũng thôi không còn suy nghĩ nhiều về điều đó nữa.
Bẵng đi một thời gian chừng bốn năm tháng gì đó, niềm tin không có ma trong tôi một lần nữa bị lung lay.
Số là chiều hôm ấy sau khi chơi đùa đã đời với các bạn, tôi chợt nhớ hồi trưa chị tôi có hứa đi học về sẽ mua cho tôi miếng bưởi.
Hồi ấy ở quê tôi không có nhiều hàng quán như bây giờ. Cả làng chỉ có một quán nhỏ, buôn bán chủ yếu là gạo, dầu, mắm, muối, khoai lang… nói chung là các thứ thực phẩm, đồ khô và một ít bánh kẹo. Muốn ăn trái cây phải đi tới chợ xã, cách nhà hơn hai cây số.
Chị tôi hàng ngày đi học trên chợ huyện, đôi lúc thèm gì tôi hỏi xin, chiều đi học về chị sẽ mua cho.
Chợt nhớ tới lời hứa, tôi bỏ đám bạn chạy vội vào nhà tìm chị. Gọi mãi không thấy đâu, má tôi nói:
- Chị mầy qua nhà chị Bông rồi, chạy tới đó mà tìm nó!
Chị Bông là bạn cùng lớp với chị tôi. Nhà chị Bông ở xéo phía sau nhà tôi một chút. Nếu đi theo “đường ngay lối thẳng” thì từ nhà tôi tới nhà chị cũng hơi xa, phải đi vòng qua mấy vuông vườn. Vì vậy, chị tôi và chị Bông mỗi khi cần tới nhà nhau là đi theo đường tắt. Nghĩa là đâm xéo vô vườn rồi… chui hàng rào sang.
Tôi lục lọi thêm hồi lâu vẫn không tìm được miếng bưởi, nghe má nói vậy, tôi ba chân bốn cẳng chạy ra vườn sau, có ý định đi tìm chị tôi để hỏi chị cất bưởi ở đâu?
Ra gần tới cái ao sau nhà, tôi chợt thấy bóng một người con gái trèo lên cây ổi bên kia bờ ao. Trời nhập nhoạng tối nên tôi không nhìn rõ mặt. Lúc ấy tôi nghĩ là chị nên gọi to:
- Chị ơi, bưởi của em đâu?
Không nghe tiếng trả lời, tôi lật đật chạy vòng tới, đứng dưới gốc ổi nhìn lên, thì lạ lùng thay, trên cây ổi không có người nào!
Tôi dụi mắt, nhìn kỹ lần nữa vẫn không có ai trên ấy. Lạ thiệt! Tôi trông thấy rõ lắm mà!
Tôi còn đang đứng ngẩn ngơ thì chị tôi chui từ bên kia hàng rào sang, nhìn thấy tôi chị hỏi:
- Mầy làm gì đứng đó?
Tôi ngơ ngác:
- Ủa, chị thay đồ hồi nào vậy?
Chị tôi cười:
- Thằng khùng! Tự nhiên hỏi tao thay đồ hồi nào chi vậy?
Nhìn bộ đồ bông hoa ngắn tay chị thường mặc ở nhà tôi thắc mắc:
- Mới vừa rồi em thấy chị mặc áo dài đi học trèo lên cây ổi này mà?
Chị tôi le lưỡi:
- Ê, ê đừng bày đặt nhát chị nghen! Thôi, đi vô nhà tui lấy bưởi cho ăn, đừng có nói tầm xàm nữa!
Tôi theo chị vô nhà mà lòng hoang mang lo lắng, ăn bưởi không còn thấy ngon lành gì hết!
Rồi thì cả chuyện đó cũng trôi vào quên lãng. Trẻ con với những trò chơi bất tận làm tôi nhanh chóng quên đi bao nhiêu thắc mắc.
Mãi đến năm tôi mười tám tuổi.
Năm ấy, kinh tế gia đình tôi sa sút trầm trọng. Ba má tôi phải xoay xở đủ thứ nghề mới lo đủ hai bữa cơm mỗi ngày cho đàn con sáu đứa, mà đứa nào cũng còn cắp sách tới trường.
Tôi là con trai lớn trong nhà, dĩ nhiên phải nghiêng vai gánh cùng cha mẹ.
Đang học năm cuối cùng của bậc Trung học phổ thông, chuẩn bị thi vào Đại học, nhưng tôi lại không được toàn tâm toàn ý lo cho bài vở như bao bạn bè khác.
Ngày nào cũng vậy, cứ vào khoảng hai, ba giờ sáng là tôi phải đi lấy thịt heo về cho má và hai đứa em gái của tôi đem đi bỏ mối ở các chợ xung quanh.
Thời đó ở quê tôi làm gì có lò mổ như bây giờ.
Gia đình ông Chín Cò làm nghề mổ heo cha truyền con nối đã mấy đời. Ban ngày, cả nhà ông chia nhau đi lùng mua heo ở khắp nơi, đến nửa đêm thì giết thịt. Bạn hàng cứ khoảng hai, ba giờ lại tụ về đó để lấy phần thịt mà mình đã dặn trước để túa ra khắp các chợ lớn nhỏ trong vùng.
Từ nhà tôi, đi thẳng ra lộ cái, đi một đoạn nữa rồi đi đường tắt vô nhà ông Chín là gần nhất.
Ở quê, vào mùa khô, khi mà các đám ruộng đã được gặt hái xong xuôi chỉ còn trơ lại các gốc rạ, thì người dân thường đi tắt, băng qua cánh đồng để thu ngắn đoạn đường. Và mỗi đêm khuya tôi cũng lần theo lối mòn đó mà đi tới nhà ông Chín Cò.
Tôi đã đi như thế hàng trăm lần, lối đi trở nên quen thuộc, dù có nhắm mắt lại tôi cũng vẫn đi được tới nhà.
Ấy vậy mà…
Một đêm cũng giống như bao đêm khác, nghe tiếng gọi của má, tôi thức dậy rửa mặt đánh răng rồi soạn giống gánh ra đi.
Qua lộ cái, tôi xăm xăm bước xuống ruộng nhắm hướng nhà ông Chín mà hối hả đi, muốn xong việc thật nhanh để còn về giải một đống bài tập mà tối qua tôi chưa làm kịp.
Từ dưới ruộng tôi nhảy phốc lên bờ và bỗng giật mình khi nhận ra đây không phải là chỗ hàng cây bạch đàn trước cửa nhà ông Chín. Xung quanh tôi là những ngôi mộ, cái thấp cái cao, cái mờ cái tỏ, và lúc đó tôi đang đứng cạnh bên một cái mả đá, được xây cao hơn hẳn so với mấy cái kế bên.
Tôi ngơ ngác đứng nhìn quanh một lúc mới xác định được đây là cái nghĩa địa nhỏ. Nhưng sao tôi lại đi tới đây nhỉ?
Bởi vì, từ lộ cái tôi chỉ việc băng thẳng một đường là tới ngay cửa nhà ông Chín, còn cái nghĩa địa này thì phải đi chệch về phía Tây một đoạn khá xa.
Có lẽ lúc nãy mình vừa đi vừa nghĩ tới mấy bài toán nên lơ đãng bước nhầm hướng đó thôi! Tôi tự nhủ với mình như vậy.
Vậy là tôi cẩn thận xác định rõ hướng mình cần đến, ở đó còn thấy ánh đèn thấp thoáng sau lùm cây.
Tôi bước xuống ruộng, nhắm hướng ánh đèn mà tiến tới.
Và một lần nữa tôi lại bước lên đúng cái nơi tôi vừa tới khi nãy, tức là cái mả đá xây cao kia!
Lần này quả thật trong lòng tôi đã bắt đầu thấy run. Tôi bật đèn pin, rọi qua rọi lại mấy lượt rồi móc túi lấy điếu thuốc gắn lên môi. Cái chuyện hút thuốc lá này má tôi cứ la rầy hoài mà tôi không sao bỏ được. Cũng tại mấy người bạn hàng cùng đi lấy thịt bày vẽ nên tôi mới nhiễm phải tật này.
Mấy hôm trời mưa gió, cả đám người ngồi chờ lấy thịt ai nấy đều co ro. Mấy anh mấy chú lấy thuốc ra vấn hút, nói là cho ấm. Họ biểu tôi hút thử đi, sẽ không còn lạnh nữa. Tò mò, tôi bắt chước một hai lần và cảm thấy quả thật thuốc lá làm cho cơ thể ấm lên trong giờ khuya rét mướt…
Tôi rít hai hơi liên tiếp rồi dụi dụi điếu thuốc lên thành ngôi mộ, bỏ đó rồi đi trở lại nhà ông Chín.
Lần thứ ba bước lên bờ ruộng, đáng lẽ là nhà ông Chín, nhưng cũng vẫn là ngôi mộ ấy!
Mồ hôi tôi túa ra ướt đẫm lưng áo, mặc dù gió khuya thổi hù hụ xung quanh. Tôi nhớ lại những câu chuyện mà người này người khác đã kể về việc bị ma dẫn đi loanh quanh, cứ đi mãi vẫn không tới được nơi mình muốn đến. Vậy là tôi đang bị ma dẫn?
Một thằng con trai gan lì từ thuở bé, chưa từng biết sợ ma mà hôm nay lại bị ma trêu ghẹo dẫn dắt thế này ư? Vừa sợ, vừa tức nhưng tôi bất lực không biết phải làm sao? Chẳng lẽ mình cứ đi tới đi lui như vầy hoài cho tới khi trời sáng? Nếu đem thịt về trễ, má và hai em tôi sẽ không bỏ mối được cho người ta, cả nhà tôi sẽ phải làm gì với đống thịt đó? Vốn liến cả nhà chỉ còn lại bấy nhiêu…
Nỗi lo sợ về chuyện cơm áo gạo tiền lấn át cả sự sợ hãi bóng ma vô hình trong tôi. Tôi quyết định mình phải tới được nhà ông khi chưa quá trễ!
Tôi cố nhớ lại những lời kể mà ngày nhỏ từng nghe. Ma quỷ sợ nhất là máu chó mực. Nhưng giờ phút này tìm đâu ra máu chó mực bây giờ? Ma quỷ sợ nhất là đồ nhơ uế. Cái gì là nhơ uế? À, có rồi, lúc nãy khi thức dậy tôi đã thấy đau bụng muốn đi cầu, nhưng nghe má thúc hối quá đành phải nín nhịn lại.
Thế là tôi ngồi xuống, trật quần đi luôn một bãi phân tổ chảng.
Xong xuôi, tôi đặt gánh lên vai nhắm hướng ánh đèn đi một lần nữa.
Lần này mọi chuyện diễn ra suông sẻ.
Lúc tôi gánh gánh thịt về tới nhà, má tôi đang nôn nóng đứng đợi ngoài ngõ:
- Làm cái giống gì mà lâu dữ vậy con?
Bà cằn nhằn.
Tôi cười:
- Con bị… ma dẫn má à!
Má tôi ngó tôi sửng sốt:
- Thiệt hay nói giỡn vậy con?
- Thiệt chứ giỡn gì má!
Má tôi lo lắng:
- Trời ơi…
Bà bỏ lửng câu than thở, vội vã quay vào nhà chia thịt ra từng phần cho các em tôi.
Nhiệm vụ của tôi tới đây là xong. Tôi đi rửa tay chân mặt mũi rồi lên bàn ngồi học bài, nhưng hôm ấy tôi không tập trung được, đầu óc tôi cứ nghĩ ngợi mãi về những chuyện bất thường mà mình đã trải qua.
Phải chăng thật sự có một thế giới khác? Khi chết, linh hồn người ta sẽ thoát ra khỏi xác thân phàm tục để phiêu diêu nơi cành cây ngọn gió. Ai ăn ở hiền lành sẽ được lên cõi tiên cõi phật, những người thường thường được đi đầu thai kiếp khác, những kẻ ác ôn bị đọa đày dưới mấy tầng địa ngục, và những người chết oan, chết khi chưa tới số, khi Diêm vương chưa giũ sổ thì hồn phách không tan, cứ mãi vật vờ nơi dương thế?...
Tôi bắt đầu tin trên đời này thật sự có ma từ đó.
Sáng hôm sau, khi nghe tôi kể lại tỉ mỉ chuyện bị ma dẫn khuya đó, hai đứa em tôi tỏ vẻ sợ sệt. Má tôi giảng giải:
- Ma cũng giống như con người thôi các con ạ! Cũng có ma hiền, ma dữ, cũng có ma thích chọc ghẹo, nghịch phá… Mình cứ sống cho thật đàng hoàng tử tế, có cái tâm trong sáng thì không phải sợ gì. Tâm ma mới đáng sợ đó các con.
Má tôi vừa dứt lời, nhỏ em gái bật cười ré lên:
- Vậy là anh Ba có tâm ma rồi nên mới bị ma dẫn! Ế, lêu lêu…
Tôi chưa kịp phản ứng thì má tôi phết vào đít nó, nghiêm giọng:
- Không được nói anh con như vậy! Anh con chỉ là tình cờ bị con ma nghịch ngợm nào đó đùa giỡn chút thôi mà!
Bị má rầy nó không dám nói gì nữa nhưng cứ nhìn tôi cười cười hoài, làm tôi cũng hơi… mắc cỡ!
Đêm sau và những đêm sau nữa, tôi vẫn làm nhiệm vụ đi lấy thịt một cách đều đặn, không có sự cố gì xảy nữa, nhưng sao mỗi lần đi qua khu vực đó tôi vẫn cứ thấy lạnh lạnh ở sống lưng. Bởi vậy nên những hôm mưa to gió lớn, tôi phải ráng thức sớm hơn một chút để đi đường vòng, xa hơn một chút, nhưng có vẻ… an toàn hơn!
Tôi thi đỗ Đại học, khăn gói lên Sài Gòn nấu sử sôi kinh, nhà tôi cũng không làm nghề bỏ mối thịt heo nữa.
Một lần về thăm nhà, má tôi nói:
- Ông Chín Cò bệnh nặng lắm rồi đó con! Mà lạ lắm con ơi, ổng giống như con heo bị chọc tiết vậy. Người ta đồn rùm beng lên, nói là do ổng đã giết quá nhiều heo nên bây giờ chúng nó xúm vô đòi mạng ổng. Mấy hôm nay ổng không còn ăn uống gì được, cứ suốt ngày ôm ngang cái cần cổ rồi rống lên vậy thôi, chẳng biết bệnh gì nữa! Chiều, mai gì hễ con có rảnh thì ra ngoài đó thăm một chút cho phải phép.
Buổi chiều hôm đó ăn cơm xong thấy trời còn sớm, tôi lửng thửng ra nhà thăm ông Chín.
Con cháu ông đã tụ tập về rất đông, kẻ đi người lại lăng xăng ra chiều vội vã, trong bụng tôi đã ngờ ngợ, có lẽ ông sắp “đi” rồi cũng nên!
Quả thật, tôi vừa ngồi xuống ghế, chưa hỏi thăm người nhà ông được mấy câu thì nghe ồn ào ở nhà trên khiến tất cả đều chạy hết lên đấy. Tôi cũng tò mò đi theo.
Trên chiếc giường kê ở góc nhà, ông Chín đang oằn oại. Đúng như lời má tôi nói. Hai bàn tay ông cứ bấu chặt cổ mình, miệng không ngừng phát ra những tiếng kêu eng éc.
Bỗng dưng ông Chín thở hộc hộc lên mấy cái, hai chân quẫy đạp loạn xạ một lúc rồi duỗi ra, tắt thở.
Tiếng khóc của vợ con ông vang lên não ruột. Tôi len lén bỏ ra về, không chào hỏi ai nữa.
Tôi không học ngành Y nên không lý giải được nguyên nhân cái chết của ông Chín. Chỉ thấy nó thật lạ kỳ, nó không giống với bất cứ cái chết nào mà tôi thấy hoặc nghe nói tới.
Có phải đúng là hồn ma của hàng ngàn trăm hàng ngàn con heo đã chết dưới tay ông kéo nhau về báo oán? Giống như chuyện “Cô Ba bán cháo gà” mà hồi nhỏ tôi thường nghe kể?
***
Trở lên Sài Gòn, tôi phải bắt tay ngay vào chuyến đi thực tập hai tháng. Nhóm chúng tôi gồm bốn người, được phân công đi lên vùng cao nguyên Đà Lạt.
Xuống tới bến xe, bốn đứa chúng tôi mang vác đống vali cùng với đủ thứ đồ đạc lỉnh kỉnh, hỏi thăm đường đến cơ quan, nơi thực tập của chúng tôi.
Đến nơi mới biết cơ quan không có cư xá dành cho cán bộ, công nhân viên, cũng không có một căn phòng trống nào khả dĩ để cho chúng tôi ở tạm trong “hai tháng quân trường”.
Sau khi lo xong phần thủ tục hồ sơ, bốn đứa kéo ra quán cơm bình dân gần đó để trả nợ bao tử, sẵn hỏi tìm nhà trọ.
Chắc thấy chúng tôi dáng vẻ “trí thức”, “công tử” hay sao mà bà chủ hàng cơm cứ chỉ toàn những ngôi nhà sang trọng, cái hầu bao sinh viên chúng tôi vốn đã lép kẹp, lại quanh năm thủng lổ thì làm sao kham nổi cái giá thuê nhà ở tuốt trên mây như thế?
Vậy là cả bốn đứa lại lếch thếch quay về cơ quan, nhờ mấy anh chị trong cơ quan tìm giúp.
Sau khi nghe chúng tôi trình bày hoàn cảnh, một anh nhìn chúng tôi hồi lâu rồi nói:
- Người quen của anh có cái nhà bỏ trống không ai ở, để anh hỏi cho các em ở nhờ. Nhưng mà… hơi xa, các em chịu không?
Bốn đứa mừng quýnh:
- Dạ, không sao đâu anh, anh giúp cho tụi em chỗ ở là quý lắm rồi, xa gần đâu có gì quan trọng.
Lúc đó nói vậy chứ hoàn toàn không suy nghĩ, chừng nhớ lại tôi mới giật mình. Rủi ở cách xa cả chục cây số, mỗi ngày tiền đi xe ôm chắc cũng đủ… bán nhà ba má ở quê!
Nhưng cũng may, ngôi nhà đó chỉ cách chỗ thực tập vài cây số. Lại nữa chúng tôi được một chị trong cơ quan cho mượn hai chiếc xe đạp. Thế là bốn thằng trên hai con ngựa sắt, tha hồ mà… leo dốc!
Ngày đầu tiên đặt chân tới xứ sở sương mù, lại có được nơi ở không mất tiền, có xe để đi dạo, bốn đứa chúng tôi mừng còn hơn trúng số!
Ngôi nhà trông có vẻ cũ kỹ, nằm tách biệt một mình bên dưới một con dốc. Xung quanh nhà mọc đầy những cây dã quỳ trổ bông vàng rực, những khóm hồng dây, và vô số những thứ hoa cỏ khác mà chúng tôi không biết tên gọi của chúng là gì.
Trong vườn có trồng nhiều loại cây, chúng tôi chỉ biết được cây hồng giòn, cây bơ, cây đào… còn lại không ai biết!
Nghỉ ngơi một chút, chúng tôi bỏ ra cả buổi chiều để dọn dẹp.
Hình như căn nhà này đã từ lâu rồi không ai ở. Mạng nhện giăng khắp nhà, bụi bám từng lớp dày lên bàn ghế, tủ giường.
Khi dắt chúng tôi tới đây, anh Hùng có giới thiệu sơ qua:
- Nhà này của người bà con với thím dâu anh. Cả gia đình đã dời về Nha Trang sinh sống, nhà này định kêu bán nhưng chắc chưa cần tiền nên người ta cũng chưa đăng bảng. Trong nhà còn đủ đồ đạc cần dùng, các em sống ở đây cứ tự nhiên thoải mái nhé! Có gì cần thì cho anh biết!
Chợt nhớ ra, anh nói tiếp:
- Ở đây có điều hơi bất tiện là không có điện, mấy em ráng chịu khó nghe!
Điều đó không làm bọn tôi thất vọng, vì bốn đứa đều là dân quê lên Sài Gòn ăn học, mà quê đứa nào cũng xài toàn đèn dầu!
Trước khi về, anh Hùng ngập ngừng một chút rồi nói:
- Nhà bỏ hoang, lâu rồi không có người ở, các em có sợ không?
Khi thấy cả bốn đứa chúng tôi đều tỉnh bơ khẳng định không hề gì, lúc đó anh Hùng mới yên tâm ra về.
Tôi với thằng Vỹ lau bàn ghế tủ giường; còn thằng Phương, thằng Lợi thì xách nước từ giếng vô cọ rửa sàn nhà.
Khi lau tới bàn thờ, tôi tìm thấy ảnh một người con gái chụp nghiêng một bên mặt, nhưng có dáng người rất đẹp, chắc nhỏ hơn chúng tôi chừng một, hai tuổi. Tấm ảnh được lồng trong khung kính, nằm lăn lóc dưới chân tủ thờ.
Cầm lên phủi sạch bụi, lấy khăn sạch lau một lần nữa cho mặt kính sáng lên, tôi ngắm nghía cô gái trong ảnh. Mắt cô gái mắt tròn to, lấp lánh vẻ tươi vui và mái tóc thật dài xoã tới ngang lưng. Chiếc áo dài trắng cô mặc làm tôn lên những đường cong mềm mại.
Thằng Vỹ thấy tôi chăm chú, nó tò mò:
- Mày xem cái gì vậy Tuấn?
Tôi cười, vừa giơ cao tấm ảnh lên, vừa cười nói:
- Mỹ nhân! Mày xem không?
Thằng Vỹ, thằng Phương, thằng Lợi nghe tiếng “mỹ nhân” đều vứt giẻ lau, xúm lại chiêm ngưỡng.
Thằng Lợi thắc mắc:
- Cô gái này là ai vậy ta? Sao nhà dọn đi hết mà bỏ tấm hình này lại? Mày tìm thấy ở đâu vậy Tuấn?
- Ở dưới chân tủ thờ này nè!
Tôi trả lời.
Thằng Vỹ ngập ngừng:
- Hay là… hình thờ đó mậy?
Thằng Phương gạt ngang:
- Hình thờ gì mà nằm dưới đất mậy? Mà ít khi người ta thờ hình như vầy lắm! Hình này chụp làm dáng lắm, không phải hình thờ đâu! Chắc trong lúc sửa soạn đồ đạc để dời đi, người ta làm rớt lại đó!
Trong lúc lắng nghe thằng Phương phân tích, bàn tay tôi táy máy đã gỡ tấm hình ra khỏi khung, phía sau tấm hình có ghi dòng chữ: “Đà Lạt, tháng 5 năm 198… Nguyễn Thị Thu Tâm”.
Như vậy là tấm ảnh này chụp cách đây ba năm, và tên cô gái là Nguyễn Thị Thu Tâm!
Tôi lồng bức ảnh trở vào khung rồi ôm về phòng để lên trên vali của mình ở ngay đầu giường.
Tôi nói đùa:
- Thực tập xong, tụi mầy về trường trước nghen! Tao hỏi thăm anh Hùng rồi tìm đường ra Nha Trang thăm em Tâm. Chắc tao có duyên với em nên trời xui em để lại tấm hình này làm tin cho tao đó!
Cả mấy đứa cười ồ lên. Tôi làm bộ lên giọng gay gắt:
- Tụi mày lau dọn cho sạch sẽ nha, nhà này má vợ tao để lại cho tao quản lý đó! Đứa nào làm ăn ba trợn, tao đuổi vô khách sạn sống à nghen!
- Trời! Tụi mầy coi kìa, chưa gì hết mà nó đã lên giọng ông chủ rồi, ghê chưa?
Cả bốn đứa vừa đùa giỡn vừa dọn dẹp, loáng một chút đã xong.
Tắm rửa sạch sẽ, bốn đứa lấy xe đèo nhau đi dạo phố.
Con đường phía trước ngôi nhà mới chập tối đã vắng ngắt. Lâu thật lâu mới có một chiếc xe gắn máy chạy vụt qua, còn người đi bộ thì hình như từ lúc dọn tới đây chúng tôi chưa thấy ai đi ngang qua nhà cả!
Cảnh Đà Lạt vốn đã buồn, nơi chúng tôi ở càng buồn hơn nữa. Nhưng với bốn thằng con trai đang sung sức như bọn tôi thì làm gì biết buồn!
Chạy loanh quanh hồ Xuân Hương một vòng, chúng tôi ghé tiệm bình dân ăn cơm tối rồi đi mua dầu lửa và một vài thứ vặt vãnh khác, xong kéo nhau về, hẹn ngày mai sẽ đi dạo lâu hơn nữa.
Vừa mở cửa, thằng Vỹ la lên:
- Ủa, có mùi gì thơm dữ vậy ta?
Vừa lúc đó chúng tôi cũng nghe xộc vào mũi mình một mùi hương thoang thoảng rất dễ chịu.
Thằng Lợi ra vẻ hiểu biết:
- Chắc ngoài hiên nhà có trồng cây ngọc lan hay dạ lý gì đó, loại cây này ban đêm hoa nở thơm lắm!
Chúng tôi chuỵên trò với nhau một lúc rồi lên giường ngủ. Tôi với thằng Lợi một giường, thằng Phương, thằng Vỹ nằm chung trên bộ ván bên cạnh.
Vừa ngã lưng xuống, tôi lại cầm khung ảnh cô gái đưa lên nhìn ngắm, mịêng ư ử ngâm mấy câu thơ:
“Em là ai, cô gái hay nàng tiên?
Em có tuổi hay không có tuổi?
Mái tóc em đây hay là mây là suối?
Mắt em nhìn hay chớp lửa đêm đông?...”
Thằng Lợi nhổm dậy đặt tay lên trán tôi:
- Trời ơi, thằng này bịnh nặng rồi tụi bây ơi!!!
- Ngày mai mầy đi Nha Trang tìm em Tâm của mầy liền đi!
- Xong đợt thực tập này về là cưới luôn nhe?
Mỗi đứa một câu chọc ghẹo tôi tới tấp.
Tôi áp tấm ảnh vào ngực, giả bộ mơ màng:
- Em Tâm ơi, em chờ anh công thành danh toại, anh sẽ rước nàng về dinh…
Mấy đứa tôi cười nghiêng ngã, rồi đem chuyện cô này cô khác ở Sài Gòn ra kể cho nhau nghe, mãi đến gần mười một giờ đêm mới chịu tắt đèn để ngủ.
Cả bốn đánh một giấc ngon lành sau một ngày đường xa vất vả…
Thắm thoát, chúng tôi sống ở đó đã hơn một tháng. Ban ngày tới cơ quan làm việc, chiều tối nào cũng đi dạo, kể ra những ngày tháng đó thật êm đềm và vui vẻ biết bao.
Đặc biệt là với tôi! Chẳng hiểu sao càng ngày tôi càng cảm thấy mình gắn bó với căn nhà đó. Chiều nào về tới nhà lòng tôi cũng khấp khởi mừng vui. Và như một thói quen, việc làm đầu tiên của tôi khi bước vào phòng là cầm khung ảnh lên, cười với cô gái trong ảnh một cái rồi mới đi làm các việc khác được.
Và cũng thật kỳ lạ, mỗi lúc nhìn thấy đứa bạn nào săm soi tấm ảnh là tôi cảm thấy khó chịu vô cùng. Tôi không cắt nghĩa được tại sao mình có cảm giác đó, tôi cũng không dám kể với bạn bè, sợ chúng cho tôi là kẻ ích kỷ, khó chơi.
Có những buổi trưa ở lại cơ quan, tự nhiên tôi nghe nóng rụôt lạ kỳ, cứ muốn về ngôi nhà đó, mà chẳng biết về để làm gì?
Hình như tôi đã bị nghiện cái mùi thơm man mác không biết phát xuất từ đâu, vì xung quanh nhà không hề có một cây ngọc lan hay dạ lý nào như lời đoán mò của thằng Lợi hôm mới tới. Cũng chẳng có một cây hoa nào khả dĩ có mùi thơm như vậy!
Và có lẽ, tôi cũng đã nghiện nụ cười đằm thắm của cô bé trong hình!
Đôi lúc lòng tôi như nhớ nhung, như có gì giục gã, tôi phải lén các bạn lấy xe đạp về nhà, chỉ để mở cửa bước vào hít căng lồng ngực, ngắm nghía và cười với cô gái trong hình rồi quay xe trở lại cơ quan!
Chẳng lẽ tôi đã thầm yêu cô ấy mất rồi?
Chiều hôm ấy anh Hùng rủ bốn chúng tôi theo anh về Đăk Lăk chơi, nhà ba má anh trên đó. Ba thằng Vỹ, Phương, Lợi vô cùng mừng rỡ, chỉ có tôi là từ chối. Tôi viện lẽ không được khỏe trong người, chứ kỳ thực tôi không có hứng thú đi bất cứ đâu, bất cứ nơi nào ngoại trừ căn nhà đó.
Ba đứa bạn cùng về lấy thêm áo quần rồi vội vã trở lên cơ quan, anh Hùng đang đợi chúng ở đấy.
Tối đó trong nhà còn lại một mình, lại không có xe, tôi bèn thả bộ dọc theo con đường trước nhà.
Con đường vắng nhưng đẹp. Mà hầu như ở xứ Đà Lạt mộng mơ này con đường nào cũng đẹp!
Hai bên đường là đồi thông, không có nhà cửa gì, đèn đường cũng không có. Tôi đi theo con dốc thoai thoải dẫn xuống một cánh đồng trồng củ cải đỏ rồi lại ngược dốc trở lên. Khi gần đến nhà, bất ngờ tôi nhìn thấy một người đang đi từ trên dốc xuống.
Ngạc nhiên, tôi tiến tới nhìn kỹ, thì ra là một cô gái. Tôi hỏi:
- Cô đi đâu mà một mình trên đường vắng vẻ vậy?
Cô gái ấp úng:
- Dạ… em đi lễ ở nhà thờ về… Xe em hư, ngồi chờ hoài chưa sửa xong. Em… em gởi xe lại rồi đi bộ về…
Nghe cô gái nói tôi mới nhớ ra là cô đang mặc trên người bộ áo dài trắng, dáng vẻ cô trông quen quen. Tôi thầm cười mình đa tình đa cảm, ở Sài Gòn, mỗi ngày nhìn thấy hàng trăm cô gái áo dài tha thướt, áo nào chẳng giống áo nào…
Thấy tôi im lặng, cô gái dợm bước đi tiếp. Tôi ngăn lại:
- Nhà cô ở đâu? Hay… để tôi đưa cô về?
Cô gái cúi mặt e lệ:
- Dạ, nhà em cũng gần đây! Nếu… nếu anh rảnh thì đưa giùm em về, em cám ơn anh…
Tôi vui mừng vì được ra tay nghĩa hịêp thì ít mà vui vì được đi bên cạnh một cô gái giữa xứ mộng mơ này thì nhiều.
Từ hôm lên đây tới giờ, bọn tôi ba thằng đực rựa toàn đi chơi với nhau, chẳng có em nào để cho chúng tôi thưởng thức trọn vẹn cái vẻ đẹp tình tứ của vùng đất cao nguyên này.
Tôi cười, sốt sắng:
- Tôi sẽ đưa cô về nhà.
Cô gái chầm chậm cất bước, và tôi cũng sánh đôi bên cạnh.
Im lặng một lúc, cô hỏi:
- Nhà anh ở đâu?
Tôi dừng bước, chỉ tay vào căn nhà phía trước:
- Anh ở nhà này!
Cô gái mím miệng cười:
- Anh nói gạt em rồi! Em biết nhà này không có ai…
Tôi bật cười:
- Em nói đúng, nhưng mà anh đâu có gạt em, vì thật sự hiện nay anh đang ở trong đó!
Tự dưng tôi chuyển cách xưng hô mà không hề tính trước.
Cô gái cũng không có phản ứng gì trước sự thay đổi đột ngột của tôi.
Cô cười nói:
- Em không tin!
Không thể để người con gái mới quen đánh giá mình là kẻ ba xạo được, tôi nói:
- Hay… anh mời em vào nhà uống ly nước để chứng minh anh không nói dối với em?
Cô gái mỉm cười có vẻ bằng lòng. Tôi khấp khởi mừng vui, vội quay bước trở lại.
Tôi mời cô gái vào nhà rồi lúi húi nhóm bếp dầu nấu nước pha trà. Cô gái ngồi nhìn quanh nhà với vẻ xúc động mạnh.
- Anh là bà con với chủ nhà này?
Cô gái hỏi.
Tôi cười đáp:
- Không, anh còn không biết chủ nhà là ai nữa đó?
Thấy cô gái nhìn mình ngạc nhiên, tôi nói rõ:
- Anh học ở Sài Gòn, lên đây thực tập. Một anh ở cơ quan mượn giúp nhà này cho bọn anh ở tạm…
Cô gái mỉm cười nói nhỏ:
- Thì ra là vậy!
Nhìn cô gái một lúc, tôi hỏi:
- Em có quen với chủ nhà này?
Cô gái tần ngần:
- Trước đây, em chơi thân với cô bạn ở đây!
Tôi mừng rỡ:
- Có phải cô gái tên Tâm?
- Sao anh biết?
Cô gái nhìn tôi, mắt lấp lánh.
Tôi không nói gì, đứng lên đi vào phòng lấy cái khung hình đem ra đưa cho cô gái:
- Phải em nói cô này không?
Cô gái chớp chớp đôi mắt tròn to như nén bớt dòng xúc cảm đang trào dâng. Cô cầm lấy khung hình bằng đôi tay run rẩy:
- Sao… sao anh có tấm hình này?
Tôi thật thà:
- Hôm mới dọn tới, anh nhặt được dưới chân tủ kia!
Một thoáng buồn vụt qua mắt cô gái. Cô mân mê khung ảnh mãi chẳng chịu rời.
Nhìn thấy cô gái như vậy, tôi đoán chắc giữa cô và người con gái tên Tâm kia có một tình bạn sâu đậm lắm. Tôi hỏi:
- Cô Tâm này hiện ở Nha Trang à?
Cô gái ngẩng lên nhìn tôi ấp úng:
- Dạ… có lẽ vậy…
Rồi cô nghiêng người qua đặt khung ảnh ngay ngắn trên bàn. Tôi bỗng phát hiện cô và cô gái trong hình rất giống nhau, nhất là nhìn nghiêng như thế này!
- Em… em giống cô Tâm quá!
Tôi buột miệng. Cô gái giật mình, bối rối:
- Tụi em… tụi em có họ hàng với nhau…
- Hèn gì lúc mới gặp em, anh đã thấy có nét gì đó quen thuộc lắm!
- Anh quen thuộc với Tâm à?
Cô gái nhìn tôi, mắt lấp lánh tia cười cợt.
Tôi ấp úng:
- Không!... Anh chưa từng gặp Tâm. Chỉ là… chỉ là ngày nào anh cũng nhìn ngắm ảnh của cô ấy nên…
Cô gái khúc khích cười.
Tôi hỏi:
- Tên em là gì vậy? Nói chuyện với em nãy giờ anh vẫn chưa biết tên? Còn anh là Tuấn.
Cô gái khẽ cười:
- Em… em tên Hạnh!
- Em uống nước đi, Hạnh!
Cô gái dạ thật nhỏ rồi cầm ly nước nhấp một hớp.
- Em với Tâm không liên lạc với nhau sao?
Tôi thắc mắc hỏi.
Hạnh trả lời nhát gừng:
- Không, chúng em vẫn… Nhưng lâu rồi…
Cô ngắt ngứ không nói hết câu. Tôi tuy tò mò nhưng không muốn làm Hạnh khó xử nên chuyển đề tài qua chuyện khác.
Hạnh hỏi thăm tôi về chuyện học hành và kể cho biết đôi điều về Hạnh.
Hai năm trước Hạnh thi đỗ vào Đại học Luật ở Sài Gòn, nhưng vì hoàn cảnh gia đình cô không tiếp tục theo học được.
Hạnh có vẻ rất buồn và tiếc nuối khi nhắc tới chuyện đó.
Trông dáng vẻ Hạnh, tôi đoán cô không phải con nhà nghèo khó. Vậy thì hoàn cảnh gì khiến cô không thể theo đuổi con đường học vấn của mình? Tuy nhiên, tôi không dám đi sâu vào chuyện riêng tư của người con gái mới quen.
Tôi và Hạnh chuyện vãn một lúc nữa rồi Hạnh đứng lên từ giã:
- Thôi, em về kẻo không gia đình trông…
- Anh đưa em về!
Tôi đứng lên khóa cửa và đi cùng Hạnh xuống hết con dốc dài, rẽ qua một vườn rau, tới trước mấy căn nhà nhỏ, Hạnh đứng lại:
- Em cám ơn anh đã đưa em tới đây! Anh về đi, tới đây em đi một mình được rồi!
Tôi chưa muốn từ biệt Hạnh nhưng nghĩ có lẽ ba má cô khó khăn, tôi sợ sẽ làm Hạnh khó xử nên đành mỉm cười:
- Vậy em về nhé! Nếu… ngày mai em rảnh, anh mời em đến chơi với bọn anh!
Hạnh ngập ngừng một lúc rồi gật nhẹ:
- Dạ, tối mai anh chờ em ở cuối con dốc nhé!
Tôi cười thật tươi rồi chào Hạnh, quay về.
Tối đó tôi về nhà trong lòng rộn ràng một niềm vui khó diễn tả. Tôi ôm bức ảnh Tâm vào lòng mà có cảm giác đang ôm Hạnh. Không hiểu sao tôi cứ thấy giữa hai người con gái này có mối dây liên hệ nào đó rất mật thiết! Và lần đầu tiên, tôi đặt những nụ hôn nóng bỏng lên bức ảnh…
Những đêm sau đó, khi thì tôi than mệt không đi chơi cùng đám bạn, khi thì mới chập tối, giữa lúc chúng nó còn đang tắm giặt tôi đã lẻn ra ngoài, đi loanh quanh chờ tới giờ hẹn với Hạnh.
Dù tôi năn nỉ cách mấy Hạnh cũng không chịu theo tôi vào bất kỳ một quán xá nào, những lúc hẹn hò, Hạnh dẫn tôi đi dài theo con dốc vắng vẻ đó hoặc dẫn tôi đi vào những con đường nhỏ âm u nhưng nồng nàng mùi thơm hoa cỏ… Và bao giờ đến gặp tôi, Hạnh cũng mặc bộ áo dài trắng tinh ấy. Tôi hỏi thì Hạnh cho biết tại cô thích vậy, cô thích mặc áo dài đi dạo, như vậy mới phù hợp với vẻ đẹp của thiên nhiên Đà Lạt…
Khi thời gian thực tập của chúng tôi sắp kết thúc cũng là lúc tình cảm giữa tôi và Hạnh đã trở nên gắn bó. Ba đứa bạn cùng nhà cứ hoài nghi thắc mắc, chúng không hiểu sao lâu nay tôi lại “đánh lẻ” mà không đi chơi cùng bọn nó như trước nữa?
- Mầy khai thiệt đi, dạo này mầy bị làm sao vậy? Nhìn mầy cứ suốt ngày lơ mơ như bị ma ám!
Thằng Lợi chặn tôi ngay trước cửa nhà khi tôi đang lén lút trốn đi để gặp Hạnh.
Tôi chối quanh:
- Tao… bình thường, có gì đâu?
- Nếu mày không khai báo thiệt tình, tụi tao nhất quyết khám phá cho bằng được! Đứa nào cũng nhận thấy lúc này mầy… kỳ kỳ làm sao ấy, mầy kể thiệt với anh em đi!
Tôi biết, nếu tôi vẫn cố che giấu, thế nào đám bạn quỷ quái của tôi cũng sẽ rình mò đến khi biết rõ mới thôi. Vì vậy, tôi ngượng ngùng nói:
- Có gì đâu? Tao… chỉ là tao đang hẹn hò thôi mà…
Thằng Lợi trố mắt nhìn tôi, hỏi gặng lại lần nữa:
- Hẹn hò?
- Ừ!
Tôi khẳng định.
- Mầy đừng nói mầy đang hò hẹn với em Tâm của mầy nghen!
Lợi cười cười, liếc nhìn tôi.
- Không phải em Tâm, người tao yêu tên… Hạnh!
Tôi vừa nói tới đó thì nghe tiếng thằng Phương, thằng Vỹ cười hô hố sau lưng:
- Trời ơi, thằng này ghê thiệt! Nó dám qua mặt tụi mình! Lúc mới tới thì dành em Tâm, giờ đá em Tâm quay qua em Hạnh. Mầy ghê thiệt nghe Tuấn!
- Vậy mầy nhường em Tâm lại cho tao nhe, sáng mai tao đi Nha Trang liền!
Nghe câu nói đùa của thằng Vỹ bất chợt tôi thấy rất khó chịu. Thời gian qua, ngoài những lúc được ở bên Hạnh, tôi luôn dành tình cảm tha thiết của mình cho bức ảnh cô gái tên Tâm kia, nhưng tôi không phân biệt đó là hai người hoàn toàn khác nhau. Trong lòng tôi, không hiểu sao cứ nhập nhằng giữa Tâm và Hạnh, giữa Hạnh và Tâm.
Dù lúc này tôi đã xác định tình cảm mình dành cho Hạnh không chỉ là tình bạn đơn thuần mà chắn chắn đã là tình yêu trai gái, thế nhưng nghe bạn cợt đùa Tâm tôi vẫn thấy như ghen tức trong lòng. Tôi nói:
- Hạnh giống Tâm như hai giọt nước!
Ba thằng bạn ngạc nhiên:
- Thật không? Sao lại có chuyện trùng hợp lạ lùng đến vậy? Mầy đừng có xạo với tụi này đó nghen!
Tôi cười:
- Không, tao nói thiệt trăm phần trăm đó! Hạnh nói Hạnh với Tâm có bà con xa…
- Bà con xa mà giống hệt nhau à? Khó tin thế?
- Ừ, giống như chị em sinh đôi! Lúc mới quen tao cũng thấy ngờ ngợ…
Thằng Lợi nghi ngờ:
- Ê, có khi nào cô Tâm trong tấm hình đó đã… chết rồi, và cô Hạnh của mầy chính là… cô Tâm hiện hồn về?
Tôi cự nự:
- Mầy đừng có nói tầm xàm như vậy!
Thằng Phương cười lên hơ hớ:
- Phen này về, tao đề nghị thằng Lợi nên chuyển qua học bên Văn khoa, bảo đảm tiểu thuyết nó viết ra sẽ gây xôn xao dư luận…
Cả đám cười ồ lên tán thưởng. Thằng Lợi hơi quê nên quay sang trả đũa tôi:
- Vậy ra chỉ vì hai cô nàng đó giống nhau nên mầy tham lam, muốn bắt cá hai tay, một bên em Tâm, một bên em Hạnh?
- Tao… tao…
Tôi cố chống chế nhưng không biết phải nói sao.
May mắn lúc đó thằng Phương nhảy vô cứu bồ:
- Mầy thông cảm, vì hai người giống nhau, nó phải mượn đỡ hình bóng nàng này để tơ tưởng tới nàng kia…
Rồi cả ba đứa chúng nó thay nhau “điều tra” cặn kẽ về quan hệ giữa tôi với Hạnh.
Tôi hứa với đám bạn rằng sẽ mời Hạnh tới nhà chơi lần nữa để Hạnh “ra mắt” chúng, nhưng khi tôi đề cập tới chuyện đó thì Hạnh lắc đầu, nói:
- Em ngại lắm! Thôi, để khi khác nhé anh?
Tôi cầm tay Hạnh. Lần đầu tiên sau hai tuần quen biết tôi mới dám cầm lấy bàn tay nhỏ nhắn xanh xao của Hạnh. Vừa chạm đến tay Hạnh, tôi bỗng rùng mình. Bàn tay Hạnh rất lạnh, lạnh một cách kỳ lạ!
- Em… tay em sao lạnh thế này?
Hạnh cúi mặt, khẽ nói:
- Em bị bệnh… Chính vì vậy em phải bỏ dở dang việc học… Anh có chê em không?
Tôi kéo Hạnh vào lòng:
- Sao em lại nói vậy? Quen biết được em là hạnh phúc lớn của anh.
Tôi xoa xoa lòng bàn tay Hạnh, mong muốn đem lại chút hơi ấm cho cô. Nhưng bất ngờ Hạnh rụt tay lại, ngước mặt lên nhìn tôi:
- Khi nào anh trở lại Sài Gòn?
Tôi ôm Hạnh vào lòng, vuốt ve mái tóc dài mượt mà của cô:
- Hai hôm nữa anh về!
Rồi tôi mạnh dạn đề nghị:
- Em cho anh tới thăm gia đình em đi! Sau khi tốt nghiệp, anh sẽ nói ba má anh tới đây hỏi cưới em cho anh. Được không em?
Hạnh cười thật buồn, mắt rưng rưng lệ:
- Không được đâu anh… Em… em…
Hạnh bỏ dở câu nói, gục mặt lên vai tôi thổn thức.
- Em cho anh biết đi, em có thật lòng thương anh không?
Tôi nâng gương mặt Hạnh, nhìn thẳng vào mắt cô khi hỏi câu ấy.
Nét mặt Hạnh đầy vẻ đau khổ:
- Em thương anh… Em rất thương anh! Nhưng giữa em và anh… không thể… không thể thành vợ chồng được!
Tôi ngạc nhiên:
- Tại sao? Em giải thích đi, có điều gì cản trở tình cảm của chúng ta? Hay là… hay là ba má em không đồng ý? Hay em đã hứa hôn với ai khác?
Trước những câu hỏi dồn dập của tôi, Hạnh chỉ lắc đầu mà không hề nói cho rõ ràng câu chuyện.
- Rồi một ngày anh sẽ biết tất cả thôi anh ạ!
Giọng Hạnh buồn rười rượi. Trông cô lúc này thật nhỏ bé, thật tội nghiệp trước lồng lộng đồi thông Đà Lạt đêm sương.
- Anh về Sài Gòn, rồi anh sẽ trở lên đây thăm em!
Tôi tưởng khi nghe nói thế Hạnh sẽ rất vui, nhưng không ngờ cô lại lắc đầu buồn bã:
- Đừng! Anh đừng tới! Em… em cũng sắp đi xa rồi!
Tôi hoảng hốt:
- Em nói sao? Em đi đâu?
Hạnh lặng lẽ nhìn tôi. Trong ánh sáng nhập nhòa, tôi vẫn thấy được tia nhìn ấy hàm chứa nhiều đau đớn.
- Em đi xa… rất xa! Anh không tìm được em đâu! Những giây phút được ở bên anh thế này em vô cùng hạnh phúc. Em cảm ơn anh đã dành cho em niềm hạnh phúc đó. Mai này, những lúc nhớ tới em, anh hãy thầm gọi tên em, như vậy em cũng được an ủi nhiều rồi…
Nghe những lời nói khó hiểu của Hạnh, tôi thật sự hoang mang, nhưng căn vặn cách nào Hạnh cũng một mực nói “Rồi anh sẽ biết tất cả” làm tôi càng thêm thắc mắc.
Lần gặp nhau vào buổi tối sau cùng tôi còn ở lại ĐaØ Lạt, lúc chia tay Hạnh chủ động ôm chầm lấy tôi, đặt lên môi tôi một nụ hôn buốt giá…
Đêm đó chúng tôi ngồi bên nhau mãi gần mười hai giờ mới bịn rịn chia tay. Xuống hết con dốc, Hạnh dừng lại:
- Anh đưa em tới đây được rồi, anh về đi…
Không đành lòng xa người con gái dịu dàng mà mình đã đặt nhiều tình cảm. Tôi ngần ngừ rồi ôm Hạnh thật chặt vào lòng, trao vội vã những nụ hôn nồng cháy lên thân thể giá lạnh mà thơm nồng nàng của cô. Mùi thơm quen thuộc trong ngôi nhà tôi đang sống.
Hạnh bật khóc rồi chạy vụt đi. Loáng một cái, tôi không còn nhìn thấy bóng áo dài trắng của Hạnh đâu nữa. Tôi ngạc nhiên, ngơ ngác tìm quanh một lúc rồi cũng phải về nhà.
Thấy tôi về với vẻ mặt đưa đám, Vỹ ngạc nhiên:
- Làm gì buồn dữ vậy? Sài Gòn – Đà Lạt cũng chẳng xa mấy, tụi mầy vẫn còn cơ hội gặp nhau mà?
Tôi không trả lời, chỉ lặng lẽ thu xếp đồ đạc bỏ vào vali để sáng mai trở lại Sài Gòn. Cầm khung ảnh cô gái, lòng tôi chợt nhói đau. Tôi nhẹ nhàng đặt khung hình vào vali.
Trời vừa sáng, anh Hùng cùng với mấy anh khác ở cơ quan đến giúp chúng tôi chuyển hành lý ra xe.
Khi xe sắp chuyển bánh, bất ngờ nhớ ra, Lợi vỗ vai tôi:
- Ê, có anh Hùng đây sao mầy không hỏi thăm về em Tâm? Hay để nhường tao, tao hỏi nghen?
Tôi chưa kịp nói gì, đã nghe anh Hùng thắc mắc:
- Em nói Tâm nào?
- Cô gái trước đây trong ngôi nhà tụi em ở hổm nay đó anh?
Anh Hùng nhíu trán suy nghĩ một lúc rồi ồ lên:
- À, anh nhớ rồi! Cô Tâm đó chết cách nay hai năm. Cái chết rất vô duyên, chiều đi lễ về bị cảm lạnh, nửa đêm thì tắt thở. Thật tội nghiệp! Vừa nhận được giấy báo trúng tuyển Đại học, gần tới ngày nhập học thì qua đời! Ba má cổ vì quá đau đớn trước cái chết của đứa con duy nhất nên mới chuyển về Nha Trang để xa lánh nơi đầy ắp bóng hình của con gái, cho nỗi buồn khổ được nguôi ngoai. Nghe em nói cô Tâm, bất ngờ anh không nhớ ra, vì ở nhà cổ tên Hạnh!
Cả bốn đứa chúng tôi đều giật thót người khi nghe anh Hùng nói tới đó.
Tôi lắp bắp:
- Cô Tâm đó… người ta chôn cổ ở đâu vậy anh?
- Ở cuối con dốc trước nhà đó em? Sao tụi em đứa nào cũng ngớ người ra hết vậy?
Chưa ai kịp trả lời anh Hùng thì xe chuyển bánh. Tôi gục đầu xuống lặng lẽ khóc. Ba đứa bạn thân ngồi bên cạnh nhìn tôi ái ngại nhưng không đứa nào biết nói câu gì để an ủi tôi lúc đó.
Tôi nhoài người ra cửa sổ, nhìn lại lần nữa cái thành phố đẹp như thơ, cái thành phố đã cho tôi một mối tình âm dương ngang trái…
Thành phố lùi lại sau lưng. Rừng thông lùi lại sau lưng, chỉ hình bóng nhạt nhòa của Hạnh vẫn không lùi lại, vẫn khắc sâu trong tâm khảm, trong trái tim tôi.
Về tới Sài Gòn, trong lúc bạn bè ríu rít hàn huyên sau hai tháng chia xa, đứa này kể với đứa kia những chuyện vui buồn trong hai tháng thực tập vừa qua. Riêng tôi chỉ lặng lẽ nằm một mình ở ký túc xá. Tôi dành tất cả thời gian rảnh rỗi của mình để nhìn ngắm bức ảnh, để tưởng nhớ tới những phút giây hạnh phúc đã qua, để đau lòng cắt ruột khi nghĩ tới Hạnh bây giờ đang phiêu lãng cõi nào…?
Từ một thằng con trai tính tình sôi nổi, là một cây đùa tếu của lớp, tôi trở nên trầm tư, ít nói ít cười, trước mắt tôi tất cả như một màn sương, tất cả đều mờ ảo. Và nổi bật trong màn sương ấy là dáng người nhỏ nhắn của Hạnh và nụ cười nghiêng một bên mặt của Tâm.
Thấy tôi ngày một gầy rộc đi trông thấy, thằng Vỹ và đám bạn thân chân thành khuyên bảo:
- Mầy nên đem tấm hình nầy lên gởi ở một ngôi chùa nào đó đi! Đừng suốt ngày ôm ấp như vậy không tốt đâu! Cái gì rồi cũng sẽ qua hết thôi, mầy đừng như vậy nữa… Mầy còn tương lai trước mắt, còn bạn bè và còn gia đình nữa. Gia đình mầy đã đặt nhiều hy vọng vào mầy, mầy đừng làm cho họ phải thất vọng. Tao nghĩ dầu ở đâu, chắc chắn cô Hạnh cũng hiểu và thông cảm cho mầy. Cô Hạnh cũng không muốn mầy sống vật vờ như thế này đâu!
Bạn bè đứa nào cũng cố gắng bứt tôi ra khỏi sự u uất đó. Chúng luôn tìm cách lôi kéo tôi vào những công việc, vào các cuộc vui hòng giúp tôi nguôi dần đau khổ.
Trước những tình cảm đó, ngoài mặt tôi làm ra vẻ vui hơn, nhưng trong lòng tôi niềm tâm sự vẫn không cách nào vơi đi được.
Giữa chỗ đông người, náo nhiệt tôi vẫn thấy mình cô độc đến đáng thương…
Cuối cùng, không chịu đựng nỗi, tôi lặng lẽ đi chuyến xe đò sớm nhất trở lên Đà Lạt, hành trang mang theo chỉ duy nhất bức ảnh của Hạnh.
Tới nơi ở cũ, vì không có chìa khóa nên tôi chỉ biết đi quanh quẩn xung quanh nhà. Ngôi nhà mới hôm nào còn rộn ràng tiếng cười đùa trêu chọc của bốn đứa chúng tôi, ngôi nhà ngập tràn một mùi hương thơm dịu, vậy mà hôm nay đã trở nên hoang vắng lạnh lùng.

Tôi chậm rãi đi dần theo con dốc, con đường tình yêu của tôi và Hạnh mới ngày nào…
Ở mỗi bờ cỏ, mỗi gốc cây như vẫn còn hiện rõ hình ảnh người con gái tôi yêu trong dáng áo dài tha thướt…
Hạnh ơi… em đang ở đâu? Em có nghe anh gọi tên em thống thiết hay không? Tại sao, tạo ông trời lại xui khiến chúng mình gặp nhau trong hoàn cảnh ngang trái như vầy? Làm sao anh tìm lại được em? Hạnh ơi….!
Xuống hết con dốc, men theo vườn rau, đi trên con đường nhỏ mà tôi vẫn thường đưa tiễn Hạnh về trong những đêm hò hẹn… Con đường dẫn tôi đến một nghĩa trang hoang vu lạnh lẽo!
Tôi gọi là nghĩa trang, nhưng thật sự nơi đây chỉ lác đác vài ba ngôi mộ. Và kìa, ngôi mộ trắng toát với cái mộ bia có khắc dòng chữ  tên em “Nguyễn Thị Thu Tâm” đang hiện lên rõ rệt trước mắt tôi.
Tôi khuỵu xuống.
Hạnh trong bức hình trên mộ bia đang nhìn tôi cười buồn bã.
Tâm trong khung hình tôi cầm trong tay cũng đang nhìn tôi như muốn khóc.
Thoang thoảng mùi hương…
Tôi nhìn quanh, bên cạnh mộ Hạnh là một cây ngọc lan đang thả rơi những cánh hoa trắng muốt xuống vai tôi…
Tôi gục xuống bên mộ em, nước mắt trào ra…
Tôi cứ ngồi lặng câm như thế mãi cho đến khi đêm xuống.
Đà Lạt mờ trong sương, Đà Lạt mang cái lạnh bóp nghẹt trái tim tôi.
Một cánh bướm chập chờn đậu lên mái tóc đẫm ướt sương đêm của tôi. Tôi xòe tay ra, cánh bướm kia vội vàng đáp xuống lòng bàn tay tôi. Tôi đau đớn:
- Có phải là em không Hạnh? Anh không biết nói gì hơn là mong em sớm được siêu thoát. Kiếp này mình không được thành chồng vợ như mơ ước của anh, nhưng anh sẽ giữ mãi tình yêu của chúng mình, Hạnh nhé? Em cho phép anh được giữ lại tấm ảnh của em, như một kỷ niệm, một kỷ niệm sâu sắc nhất trong đời anh…
Con bướm nhỏ rung rung đôi cánh. Tôi có cảm giác nó đang nhìn tôi. Rồi khi nó chấp chới bay lên, tôi chợt thấy lòng mình như nhẹ hẫng…
Tôi đứng lên, thầm thì:
- Tạm biệt em!
Một làn gió thốc qua làm cành ngọc lan xào xạc, những cánh hoa trắng lại rơi lả tả xuống người tôi.
Và thấp thoáng trước mắt tôi là Hạnh.
Hạnh nhìn tôi mỉm cười.
Bàn tay nhỏ bé của Hạnh từ từ đưa lên vẫy chào tôi.
Tôi chưa kịp nhào tới ôm chầm lấy Hạnh thì hình bóng đó đã tan loãng ra như một làn khói mỏng.
Trên tay tôi chỉ còn lại tấm hình và mấy cánh ngọc lan héo rũ…
Tôi bắt kịp chuyến xe đêm để trở lại SaØi Gòn lúc trời vừa hửng sáng.
Vừa trông thấy tôi, thằng Lợi mừng rỡ:
- Mầy biến đâu vậy? Tụi tao tìm mầy muốn lật tung cả Sài Gòn…
Tôi nói khẽ:
- Tao đi… Đà Lạt!
Lợi trố mắt nhìn tôi:
- Mầy nói mầy vừa đi Đà Lạt? Để làm gì?
Tôi cười thật buồn:
- Để nói lời tạm biệt với Hạnh.
Thằng Lợi nhìn tôi, lắc đầu:
- Tụi tao đã hết lời khuyên mà mầy vẫn không nghe sao? Mầy vẫn còn vương vấn sao?
Tôi vỗ vai Lợi:
- Mầy yên tâm đi, bắt đầu từ hôm nay, tất cả chỉ còn là kỷ niệm! Một kỷ niệm đẹp trong đời tao…
Thằng Lợi siết chặt tay tôi, thông cảm:
- Ừ, cố gắng vượt qua! Tao tin… mầy sẽ vượt qua…
***
Rồi sau đó tôi lao vào học những ngày cuối ở trường Đại học. Tôi ra trường, tìm được việc làm ổn định. Rồi tôi cưới vợ sinh con.
Cuộc sống gia đình tôi diễn ra một cách yên ổn, bình thường.
Chỉ duy có một điều, trong nhà tôi có một chiếc bàn thờ nhỏ, phía trên đặt tấm ảnh của Hạnh ngày nào.
Có lần vợ tôi thắc mắc hỏi, tôi chỉ cười:
- Cô ấy là quá khứ của anh! Em và các con là hiện tại và tương lai của anh.
Quá khứ đã trôi qua, giờ đây tôi đang sống ở hiện tại và đang bước tới tương lai.
Trong trái tim tôi có một góc nhỏ dành riêng cho Hạnh, và ở đó cô đã ngủ giấc thật bình yên, thanh thản…

Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:06:08 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 20:27:43
OAN HỒN VƯƠNG VẤN
 
Ngày nhỏ, tôi và lũ bạn cùng trang lứa chẳng đứa nào không mê nghe kể chuyện ma. Mà hồi ấy, chúng tôi không phải ngập đầu vào sách vở như học trò bây giờ.
Sau một buổi đến trường, về nhà phụ giúp những việc vặt vãnh, còn lại khối thời gian cho bọn tôi vui chơi.
Thời ấy làm gì có máy vi tính, có game online, tivi trắng đen thì cả xóm hoạ may mới có được một cái, thậm chí rađio cũng chỉ có trong các gia đình khá giả.
Tuổi thơ chúng tôi giải trí bằng những trò chơi dân dã. Mùa gió thì thả diều, mùa gặt thì làm nhà chòi bằng rơm rạ… Chiều chiều kéo nhau ra đầu xóm, con trai chơi đánh trận giả, chơi bịt mắt bắt dê, chơi tạt lon; con gái chơi nhảy dây, chơi banh đũa… mãi đến khi tối mịt, mẹ hoặc chị xách roi đi kiếm mới chịu về nhà tắm rửa.
Tắm xong là chúng tôi bị cấm chơi những trò chạy nhảy làm đổ mồ hôi, nên chỉ biết quây quần lại nhà một ai đó để ngồi nghe kể chuyện. Những câu chuyện cổ tích của bà, của mẹ hay những câu chuyện tiếu lâm của mấy chú mấy anh làm bọn tôi thích chí, cười nghiêng cười ngã.
Nhưng đặc biệt, chuyện mà bọn tôi mê nhất vẫn là những câu chuyện hoang đường ma quái qua lời kể của Bác Hai Thiện.
Bác Hai là bạn thân với ba tôi. Hầu như tối nào bác cũng tới nhà tôi chơi, ngồi uống trà với ba tôi rồi khề khà kể chuyện đến khuya lắc khuya lơ.
Có khi ba tôi đi ngủ trước, bác vẫn mê mải kể, chúng tôi say sưa nghe như nuốt lấy từng lời.
Hồi ấy đâu đã có điện đóm như bây giờ, chỉ thắp sáng bằng dầu lửa. Mà nhà nào cũng nghèo nên tiết kiệm tối đa. Chỉ trừ lúc ăn cơm, học bài hoặc cần làm gì đó, còn lại cả nhà chỉ để một cây đèn bóng vặn tim thật thấp để hà tiện dầu. Thành ra mỗi khi tối trời, ai đi ngoài đường cái nhìn vô xóm sẽ chỉ thấy những ánh đèn leo lét nhỏ nhoi.
Nhà bác Hai ở xóm trên. Muốn tới nhà tôi, bác phải đi qua một cái nghĩa địa làng với những ngôi mộ lô xô không hàng không lối.
Mỗi lần bác tới là lũ trẻ con các nhà lân cận lại tụ tập ở nhà tôi, vòng trong vòng ngoài, xúm chung quanh bác.
Khi đã uống mấy ly trà suông, bác với ba tôi trao đổi về chuyện mùa màng lúa thóc, chuyện làm ăn gì đó một hồi là bọn tôi đã nôn nóng. Tôi luôn là đứa được “thay mặt” cả bọ nhắc nhở bác:
- Bác Hai ơi, lúc nãy đi ngang nghĩa địa bác có gặp ma không?
Thế là “chương trình kể chuyện đêm khuya” bắt đầu. Không biết chuyện ma ở đâu mà bác chứa đầy một bụng, kể hoài vẫn không hết.
Có khi ngồi mãi đau lưng, bác nằm võng vừa đong đưa vừa kể. Còn chúng tôi ngồi bệt xung quanh, đứa nào cũng cố chen vào trong, gần bên bác, vì… sợ ma!
Nghe xong chuyện thì ngoài trời đã tối mịt. Ở vùng quê hồi đó, bảy giờ tối đã lặng trang rồi. Mấy đứa nhát gan đâu dám về nhà, bác Hai phải đích thân dẫn chúng đến tận cửa. Còn đứa nhà gần hơn thì chỉ việc ra trước cửa nhà tôi rồi “ới” một tiếng, sẽ có người lớn chạy ra để đón “mầm non của đất nước” vào nhà.
Chị tôi bảo đa số là chuyện do bác tự bịa ra, cũng có một số bác nghe người ta kể rồi đem kể lại chứ không có chuyện nào là thật.
Mặc kệ! Chuyện thật cũng được, giả cũng không sao! Miễn là lúc nào bác cũng khiến cho chúng tôi hồi hộp, tò mò.
Tuy nhiên, trong hàng trăm chuyện bác kể, có một câu chuyện mà tôi tin là có thật vì gia đình bị ma quỷ quấy rối đó ở ngay xóm kế bên. Và hiện tượng bác kể, chính chúng tôi cũng đã nhiều lần nghe cha mẹ, ông bà kể lại.
Sau hơn hai mươi năm, giờ đây tôi không còn là một chú bé nhú nhát đến nỗi ban đêm thức dậy đi tiểu cũng phải nắm chặt tay mẹ nữa, nhưng mỗi khi nhớ lại chuyện ấy tôi vẫn thấy có một điều gì đó thật lạ lùng, không thể giải thích theo khoa học được.
Tôi đã bỏ không ít công sức để tìm hiểu. Và hôm nay tôi xin được kể lại hầu các bạn.
Ngọn nguồn câu chuyện bắt đầu từ thời xa lơ xa lắc…
***
- Dạ, mời ông bà xuống dùng cơm!
Cô Mị lễ phép.
Bà Hai chậm rãi với tay lấy cái ống nhổ đưa lên miệng rồi nhổ phẹt miếng bã trầu đang nhai vào đó, xong rồi dùng hai ngón tay quệt một đường quanh miệng.
Cô Mị lật đật rót đưa bà ly nước. Bà hớp một hớp, sục sục hồi lâu rồi đứng lên bước ra hành lang phun ngụm nước trong mịêng vô chậu cây kiểng trước sân nhà. Ông Hai nhìn thấy tỏ vẻ khó chịu:
- Tui đã nói bao nhiêu lần rồi mà bà không nghe, cứ nhổ nước dơ vô, còn gì cây kiểng của tui?
- Ối, hơi đâu mà ông lo, nước nào cũng là nước…
Bà Hai cười giả lả.
- Thôi, xuống ăn cơm đi ông, ăn sớm cho sắp nhỏ dọn dẹp!
Ông Hai hứ một tiếng rõ to rồi mới chịu bỏ chân xuống quờ tìm dép.
- Con Mị, bây lo dọn cho sạch căn phòng của cậu Tư đi nghen, tao với ông bây mới nhận được dây thép nó đánh về biểu ngày mai nó về tới đó!
Vừa ngồi xuống bên mâm cơm, bà Hai chợt nhớ quay sang dặn Mị.
- Dạ! Lúc trưa con đã giặt giũ mền gối của cậu xong rồi. Chút nữa con quét dọn lần nữa.
Nghe Mị nói, bà Hai tỏ vẻ hài lòng:
- Ừ, bây làm cho kỹ, tánh thằng Tư ưa sạch sẽ, làm qua loa nó về sẽ quở trách bây đó!
- Dạ.
Mị đáp.
Ông Hai vừa ăn cơm vừa nói với bà Hai:
- Chuyến này nó về, bà phải bắt buộc nó đi nói vợ cho rồi! Con trai lớn rồi, việc quan trọng nhứt là phải lấy vợ sanh con để nối dõi tông đường. Nó lại là con trai một, đâu có thể cứ dùng dằng hoài vậy được!
- Ông là cha, ông phải quyết chứ sao lại nạnh tui?
Bà Hai nguýt ông. Ông gật gù:
- Thì tui nói vậy thôi, chứ tui đã chấm được một đám cho nó rồi!
- Ông chấm đám nào vậy? Sao mấy bữa rày không nghe nói?
Bà Hai tò mò.
Ông Hai cười:
- Bà biết con gái anh Ba Năng ở bên xóm Đình không? Tui tính mình làm sui gia với anh chị Ba Năng là vừa xứng lắm đó!
Bà Hai suy nghĩ một chút rồi nói:
- Phải con nhỏ thường hay đi với chị ba mỗi lần chị ấy sang nhà mình chơi không?
- Ừ, nó đó! Bà thấy sao?
Bà Hai cười tươi:
- Con nhỏ đó coi cũng ngộ gái lắm chớ! Nhưng mà… biết bên đó người ta có chịu làm sui với mình không ông?
Ông Hai nạt:
- Ối, hơi đâu bà lo, bộ nhà mình không môn đăng hộ đối với họ sao?
Bà Hai tần ngần:
- Nhà mình tuy có của ăn của để, nhưng dù gì cũng mấy đời dân đen. Còn người ta, dẫu bây giờ có thua sút mình chút đỉnh, nhưng cái tiếng dòng họ quan quyền vẫn còn đó, tui e…
- Bà yên tâm đi, tui có mấy lần đánh tiếng gần xa rồi! Coi mòi anh chị ba cũng ưng bụng. Bây giờ tui chỉ chờ thằng Tư nhà mình về là gia đình mình bước tới chính thức cầu hôn.
Giọng bà Hai lo lắng:
- Từ trước đến nay, thằng Tư nó đâu có chịu nghe theo sự sắp xếp của vợ chồng mình! Tui sợ nó…
Ông Hai trấn an vợ:
- Bà đừng có lo, nó cãi mình chuyện gì chứ chuyện này nó không cãi đâu! Mình lựa cho nó con vợ nết na đẹp đẽ như vậy nó còn gì mà chê bai nữa chứ?
Nghe chồng nói vậy bà Hai yên tâm. Hai vợ chồng vừa ăn cơm vừa nói chuyện rôm rả, vẽ ra tương lai rạng ngời hạnh phúc của đứa con trai độc nhất trong nhà.
Hai vợ chồng mải nói chuyện không ai để ý cô Mị nãy giờ đang đứng lùi dần vào trong góc nhà, mặt mày ủ dột.
Ăn xong bữa cơm, bà Hai lên tiếng:
- Mị à, coi dọn mâm xuống đi con!
Không nghe tiếng trả lời, bà Hai ngạc nhiên quay lại, trông thấy Mị đứng như mất hồn, bà nạt:
- Cái con này! Mày làm gì mà đứng im như không còn hồn vía vậy? Mau dọn mâm cơm xuống rồi lấy nải chuối lên cho ông mày tráng miệng.
Mị giật mình, vội vã đáp:
- Dạ… dạ, con dẹp liền!
Cô bưng mâm cơm xuống bếp rồi lật đật lấy nải chuối vàng rực trong tủ chén đặt trên một cái dĩa lớn bưng lên mời hai ông bà. Cô lau bàn, châm nước xong xuôi rồi trở xuống bưng mâm chén bát ra ao sau nhà.
Ra tới cầu ao, Mị ngồi bệt xuống vẻ mệt mỏi, chán chường.
Gió chiều thổi lồng lộng, mặt nước lăn tăn gợn sóng, mấy con cá nhỏ thỉnh thoảng lại búng mình nhảy lên khỏi mặt nước.
Mọi hôm, cô thường hay vẩy những hạt cơm còn sót lại trên mâm xuống cho lũ cá rồi thích thú dõi theo chúng tranh nhau đớp mồi, nhưng hôm nay cô không còn lòng dạ nào để chơi đùa nữa. Lòng cô đang quặn thắt vì những điều vô tình nghe được lúc nãy.
Mới sáng nay, khi thấy người của nhà dây thép đến tìm ông bà Hai, lòng cô đã khấp khởi mừng vui, vì cô đoán cậu Tư sắp về.
Lần nào cũng vậy, trước khi cậu Tư về bao giờ cũng có giấy của nhà dây thép đến báo cho gia đình biết trước để chuẩn bị.
Cô đã giặt sạch mền mùng chiếu gối, đã dọn dẹp tinh tươm căn phòng nhỏ của cậu Tư bằng nỗi niềm hân hoan khó tả, bằng tấm lòng của người vợ xa cách chồng bấy lâu, nay nghe tin chồng mình sắp sửa quay về…
Vậy mà bây giờ… Trời ơi, cô ước gì những điều cô nghe thấy lúc nãy chỉ là một giấc mơ! Nhưng rồi cô biết mình đang rất tỉnh, và những gì ông bà Hai đã nói sẽ là sự thật trong nay mai.
Tính ông Hai thì cô hiểu rất rõ, điều gì ông đã quyết thì khó ai có thể không nghe, cậu Tư cũng không ngoại lệ. Mị đã sống trong ngôi nhà này nhiều năm rồi, làm sao cô không biết điều đó được?
Ba mẹ Mị là người xứ khác trôi dạt về đây rồi trở thành người làm công cho ông bà Hai. Vì cần cù chăm chỉ, thật thà nên ba mẹ Mị được bà Hai thương tình cho một miếng đất nhỏ dựng tạm căn chòi để có chỗ ra vào ăn ngủ. Ba Mị chết lúc cô chưa chào đời. Mẹ con cô từ đó càng trở nên gắn chặt với gia đình ông bà Hai, người đã cưu mang hai mẹ con cô trong những ngày mẹ cô sanh nở.
Năm Mị lên mười tuổi, trong một lần đi ruộng về, mẹ cô bị rắn độc cắn. Bà Hai cũng hết lòng chạy thầy chạy thuốc nhưng mẹ cô vẫn không qua khỏi.
Từ đó, Mị sống với ông bà Hai mãi đến bây giờ.
Ông bà Hai là người giàu có nhất trong làng. Ruộng đất cò bay thẳng cánh. Bà Hai sinh được bốn người con nhưng chỉ có cậu Tư là trai. Cô Hai, cô Năm chết từ hồi nhỏ nên giờ ông bà chỉ còn lại hai người con. Cô Ba lấy chồng xa, lâu lâu mới về nhà một lần. Cậu Tư thì ăn học trên Sài Gòn, Mị nghe nói cậu đã đỗ được bằng cấp gì rồi nhưng không chịu về quê, cũng không chịu đi làm việc mà còn quyết học thêm nữa, cô nghe rồi không nhớ được cậu học thêm gì.
Ông bà Hai tuy giàu có nhưng tính tình không hách dịch như những người khác, nhất là bà Hai. Bà luôn đối xử tử tế với kẻ ăn người ở. Cô Ba, cậu Tư cũng thế, rất dễ hòa đồng.
Vì vậy suốt thời thơ bé, Mị tuy là con mồ côi phải sống nương nhờ nhà chủ nhưng cô vẫn được vui chơi, vẫn có những tháng ngày đầy ắp kỷ niệm của thuở hồn nhiên.
Những khi Mị bị  bọn trẻ con cùng xóm bắt nạt, cậu Tư luôn là người đứng ra bảo vệ, che chở cho cô. Cậu còn là người tập cho cô đánh vần, viết chữ…
Trong lòng Mị, cậu Tư là một chàng trai tốt nhất trên đời!
Mị lớn lên, tình cảm của cô dành cho cậu Tư cũng lớn dần theo Mị.
Cậu Tư đi học xa, lần nào về cũng không quên mua cho Mị, khi thì chiếc khăn tay, lúc là chiếc kẹp tóc…
Rồi thì việc gì đến đã đến…
Lần trước cậu Tư về chơi, gặp lúc ông bà Hai chuẩn bị đi ăn giỗ tận làng khác hai hôm mới về. Trước khi đi, bà Hai căn dặn Mị:
- Con ở nhà coi bầy trẻ làm việc, tối ngủ nhớ đóng cửa nẻo cẩn thận nghe không? Lo cơm nước cho cậu Tư mày đàng hoàng đó! Phải nhắc nó ăn cơm! Cái thằng lớn đầu vậy chứ còn con nít lắm, mê chơi là không còn nhớ gì đến cơm nước đâu!
- Dạ, bà yên tâm,  con sẽ lo mọi việc!
Mị nhỏ nhẹ trả lời.
Bà Hai dặn thì dặn vậy chứ bà yên tâm lắm. Mị sống với gia đình bà từ lúc mới lọt lòng, mọi cách thức trong nhà Mị đều biết rõ. Cô lại là một người con gái hết sức đảm đang, dịu dàng, lễ phép. Công việc nhà, Mị quán xuyến không mấy khó khăn.
Có nhiều khi, bà Hai lặng lẽ nhìn Mị tất bật, bà thầm nghĩ: “Phải chi con Mị này là con cái một gia đình nào đó tương đối trong làng, mình sẽ cưới nó về làm vợ thằng Tư, làm dâu trong nhà mình! Thiệt là tiếc…”
Chiều ấy, Mị làm xong hết việc nhà, trông ngóng mãi vẫn chưa thấy cậu Tư về để dọn cơm cho cậu.
Màn đêm dần dần buông xuống. Làng xóm lặng im, chỉ còn leo lét ánh đèn trong từng căn nhà nhỏ. Tiếng dế kêu ra rả bên hè, tiếng của những con chim ăn đêm bay qua mái nhà kêu lên rời rạc…
Mị khơi tỏ ngọn đèn rồi lấy áo ra ngồi đơm lại khuy, cờh cậu Tư về.
Không biết đã mấy giờ, nhưng có lẽ đã khuya lắm rồi mà cậu vẫn chưa về! Mị lo lắng, cứ đi ra đi vào trông ngóng.
- Mị ơi, mở cửa cho tôi với…
Nghe tiếng cậu Tư, Mị mừng quýnh, buông vội chiếc áo đang cầm trên tay, cô lật đật chạy ra mở cửa. Cánh cửa vừa hé ra, cậu Tư lảo đảo bước vào, vấp phải ngạch cửa loạng choạng. Theo phản xạ tự nhiên, Mị dang tay ra đỡ, cậu Tư ngã dúi vào vòng tay Mị.
Sau một phút bàng hoàng, Mị thẹn thùng rụt tay lại, quay sang cài then cửa. Lúc cô quay lại thì cậu Tư vẫn còn đứng bất động ngay sau lưng, mắt nhìn cô chăm chắm.
Mị bối rối:
- Dạ, cậu Tư vô rửa mặt, để em dọn cơm…
Cậu Tư lúc này như đã tỉnh hẳn rượu, xua tay:
- Không cần, em không cần dọn gì nữa… Tôi… tôi no rồi!
- Dạ, nhưng bà dặn em phải lo cơm nước cho cậu…
Mị lí nhí trả lời. Cậu Tư cười phá lên:
- Em tưởng tôi còn bé lắm sao? Má tôi lúc nào mà chẳng thế!
Mị ngập ngừng:
- Nếu không ăn cơm, vậy cậu đi ngủ đi, em đã giăng mùng cho cậu rồi!
- Cám ơn Mị! Tôi… anh cám ơn Mị nhiều lắm!
Nghe tiếng “anh” ngọt ngào phát ra từ mịêng cậu Tư, lòng Mị bỗng dậy lên niềm xao xuyến, bâng khuâng khó tả.
Cô len lén ngẩng mặt lên thì bắt gặp ánh mắt cậu Tư đang nhìn mình. Cô hoảng hốt cụp vội mắt, cúi nhìn xuống đất, mấy ngón chân di di trên nền nhà.
Cả hai cứ đứng im như thế một lúc, bỗng cậu Tư đặt tay lên vai Mị, cất giọng tha thiết:
- Mị ơi… em đẹp quá!
Mị run rẩy gạt tay cậu Tư, nhưng đôi tay của chàng thanh niên tuổi hai mươi ấy đã như một gọng kìm quấn chặt lấy cô…
Những nụ hôn tới tấp của cậu Tư làm Mị không còn sức để phản kháng, và như vô thức, vòng tay cô cũng từ từ ôm chặt lấy cậu Tư. Cậu bế thốc cô vào phòng, Mị không vùng vẫy nữa, cô cảm thấy mình đang chìm trong hạnh phúc lâng lâng…
- Mị, anh xin lỗi em! Anh đã không kìm chế được mình…
Ôm chặt cô vào lòng, cậu Tư thủ thỉ.
Mị hít một hơi thật căng lồng ngực cái mùi vị đàn ông lạ lẫm từ người cậu Tư, cô dụi mặt vào ngực cậu, nước mắt rưng rưng:
- Em không giận cậu đâu!... em…
Cô nghẹn ngào không nói hết câu. Cậu Tư lại hôn như mưa như gió lên khuôn mặt nhạt nhòa nước mắt  của cô.
- Em yên tâm đi! Anh thật lòng thương em! Anh thương em từ lâu lắm rồi… Em… em bằng lòng làm vợ anh nghe Mị?
Mị như không tin vào tai mình, cô nhổm dậy nhìn cậu Tư trân trối.
- Cậu… Cậu mới vừa nói gì?
Cô ấp úng hỏi.
Cậu Tư nhìn cô trìu mến:
- Anh nói rằng anh sẽ cưới em làm vợ, em bằng lòng không?
Vừa nói cậu Tư vừa kéo cô xuống, áp mặt cô vào mặt mình.
Mị thấy lòng hoang mang quá đỗi. Cô thút thít:
- Cậu đừng lo… Em không… Em không trách gì cậu đâu!
- Em phải tin anh chứ! Anh không đến với em bằng dục vọng tầm thường đâu, anh thương em thiệt tình đó Mị à! Anh sẽ cưới em!
Cậu Tư quả quyết.
Mị cười buồn:
- Tại cậu thương em nên nói vậy thôi, làm sao cưới được? Em đâu xứng đáng với cậu…
Cậu Tư lau nước mắt cho Mị, giọng vẫn cương quyết:
- Em rất xứng đáng Mị à, em đẹp người đẹp nết, em không xứng đáng thì còn ai?
- Nhưng mà… em chỉ là một con bé mồ côi, là kẻ ăn người ở trong nhà, em…
Cậu Tư đưa tay bịt miệng không cho Mị nói tiếp:
- Những điều đó đâu có gì quan trọng đâu em? Chỉ cần anh thương em, em thương anh là chúng mình có thể nên chồng nên vợ, ăn ở với nhau đến trọn đời được rồi!
Gỡ tay cậu Tư ra, Mị lo lắng:
- Nhưng ông bà sẽ…
- Em cứ yên tâm! Thời buổi văn minh rồi, đâu phải cha mẹ muốn đặt đâu là con cái phải nhất nhất tuân theo? Anh cưới vợ là cưới cho anh, quyền quyết định là do nơi anh! Em phải tin tưởng tuyệt đối vào anh nhé?
Mị không nói gì, cô áp má mình sát hơn nữa vào khuôn ngực nở nang rắn chắc của cậu Tư. Cô nhắm mắt lại, ước gì mình chết ngay trong hạnh phúc tuyệt vời này…
Những ngày tiếp sau đó, cậu Tư luôn tìm cách quấn quít bên cạnh Mị khiến lòng cô rộn rã. Niềm hạnh phúc vô biên ấy cứ hiện ngời ngời trên khuôn mặt. Cô làm việc không biết mệt, chỉ mong một ngày trôi qua thật nhanh để lúc đêm về cô lại được ngã vào vòng tay ấm áp của cậu Tư.
Trước ngày trở lên Sài Gòn, cậu Tư căn dặn:
- Em ở nhà đừng có lo buồn gì hết nghen? Anh lên Sài Gòn lần này thi môn cuối, chừng về anh sẽ trình bày mọi việc với ba má anh. Ngày chúng mình chính thức ở bên nhau với danh nghĩa vợ chồng không còn xa lắm đâu em ạ!
Cậu Tư đi rồi, Mị cảm thấy cô đơn khủng khiếp. Cô thường len lén đến phòng cậu, áp mặt vào từng cái gối, cái khăn, cái áo của cậu để tìm chút mùi hương còn vướng lại.
Ngày tháng lặng lẽ trôi đi, Mị lặng lẽ đợi chờ.
Vậy mà… bây giờ ông bà Hai đã chuẩn bị đi hỏi vợ cho cậu Tư! Trời ơi, Mị phải làm sao đây? Cậu Tư phải làm sao đây? biết cậu có vượt qua được trở ngại này để giữ tròn lời hứa với cô hay phải tuân theo sự sắp đặt của gia đình?
Suốt đêm Mị không ngủ. Bao nhiêu kỷ niệm từ thuở ấu thơ, hương vị ái ân của những ngày qua cùng với trăm ngàn nỗi lo cứ quanh quẩn trong lòng khiến cô không thể nào bình tâm được.
Mị cố an ủi mình rằng chỉ sáng mai thôi cậu Tư về tới. Cậu đã dặn mình phải tin tưởng cậu, thì mình phải tin tưởng, đừng lo sợ nữa… thế nhưng cô vẫn không sao chợp mắt được. Những giọt nước mắt tủi buồn lặng lẽ rơi ướt đẫm mặt gối…
Nghe tiếng gà gáy đầu tiên, Mị đã choàng dậy. Cô xuống bếp nhẹ nhàng nhóm lửa nấu nước, nấu cháo cho đàn heo. Đôi tay cô thoăn thoắt nhưng lòng cô lại nặng trĩu u sầu.
Bà Hai thức dậy khi trời đã sáng hẳn. Thấy nhà cửa từ trước tới sau đều sạch sẽ tinh tươm bà hài lòng lắm.
- Mị ơi, con coi đi chợ cho sớm đi con! Mua đồ về nấu cho cậu Tư mầy bữa cơm, mấy tháng nay xa nhà, nó ăn bậy ăn bạ, thiệt tội nghiệp…
Mị dạ nhỏ rồi cắp cái rổ bên tay lặng lẽ đi ra cửa. Bà Hai đứng nhìn theo thắc mắc:
- Ủa, con nhỏ này bịnh hay sao mà mới sáng đã thấy nó rã rời như vậy?
Bà chép miệng rồi quay vào nhà lo sắp đặt để đón con trai.
Lòng bà ấm hẳn lại, vì hôm nay thằng Tư đã thi xong môn học cuối cùng. Có lẽ lần này nó sẽ về ở hẳn với ông bà, cưới vợ rồi sinh cho bà đứa cháu trai kháu khỉnh.
Hai ông bà đã già rồi, tiền bạc dư dã, ruộng đất bao la, điều mơ ước duy nhất lúc này chính là thấy đứa con trai yêu dấu của mình được thành gia thất để mình có cháu nội ẵm bồng, vui nhà vui cửa.
***
- Con đã nói rồi, con không không bằng lòng cưới cô đó!
Cậu Tư vùng vằng.
Ông Hai nghiêm giọng:
- Từ lâu nay ba má luôn chiều chuộng con, con muốn gì ba má cũng ưng theo, nhưng riêng việc này là con phải nghe lời ba má, con không được cãi!
Bà Hai phụ họa:
- Con biết mặt con nhỏ đó chưa mà chối đông đổng vậy? Con gái người ta ngộ gái lắm, đừng chối từ rồi sau này hối tiếc đó nghe con!
Cậu Tư nhếch môi:
- Con chưa biết cô đó, nhưng dù cổ có đẹp như tiên con cũng không chịu! Ba má đừng ép con, cưới vợ là cưới cho con, ba má phải để quyền lựa chọn chứ!
Ông Hai tứ giận đặt mạnh ly trà xuống bàn:
- Mày không nghe câu “Áo mặc sao qua khỏi đầu”, “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” sao? Nhưng nếu mày giỏi thì lựa chọn đi, lựa chọn đám nào xứng lứa vừa đôi, môn đăng hộ đối với nhà mình thì tao với má mày cũng chìu, đừng có dẫn về ba cái thứ lang bang, nhà này không chấp nhận đâu!
Thấy cha bắt đầu nổi nóng, cô Ba can:
- Thôi, ba má để thư thả cho em nó suy nghĩ! Đừng hối thúc quá như vậy, từ từ cho nó gặp mặt cô kia, biết đâu lúc đó nó về hối ba ba má đi cưới cũng nên!
Bà Hai thở dài:
- Còn từ từ cái nỗi gì nữa con! Nó đã hai mươi mấy tuổi rồi chứ còn nhỏ nhít gì đâu? Ba mày ngày trước cỡ tuổi nó đã có chị Hai mầy rồi! Tao với ổng đã già, phải thấy con cái yên nơi yên chỗ hết rồi mới nhắm mắt được chớ! Vả lại con gái người ta có thì, đâu có ai ở vậy mà chờ đợi nó!
Nghe mẹ nói vậy cô Ba chỉ biết lặng im liếc nhìn cậu Tư đang nhăn nhó. Cô về thăm nhà từ sáng sớm, nghe ba mẹ bàn tính chuyện đi hỏi vợ cho em trai cô thấy vui lắm. Nó cưới vợ về rồi ở yên một chỗ phụng dưỡng mẹ cha già, chứ độc thân và đi lông bông suốt mấy năm nay khiến kẻ làm chị như cô cũng không yên dạ nói gì tới người làm cha mẹ.
Nhưng lúc ba má cô vừa đề cập tới chuyện đó nó đã gạt phắt đi. Cô thật không hiểu nó còn muốn bay nhảy đến khi nào nữa? Cái con bé mà ba má cô định đi coi mắt thì cô đã gặp qua nhiều lần. Phải công nhận con nhỏ đẹp người quá đi chớ, phải chi thằng Tư chịu khó gặp con nhỏ một lần, biết đâu…
Cô quay sang em gợi ý:
- Hay chiều nay cậu Tư mang ít bánh mứt sang đó thăm gia đình bác Ba, coi như đi xa về có chút quà, rồi sẵn dịp xem thử con nhỏ thế nào, nếu cậu vẫn không ưng thì… chị sẽ khuyên ba má đừng ép uổng.
Cậu Tư nhìn chị, vẻ khổ sở:
- Chị ơi, em đã nói rồi, dù cổ có xinh đẹp đến đâu em cũng không ưng. Con người ta quan trọng nhất là ở tình cảm, chứ nhan sắc, gia thế thì có là gì đâu chị?
- Không dằng co nữa! Tao đã nói một là một, sáng ngày mai mày phải theo tao với má mày sang bên đó!
Ông Hai tức giận quát lớn.
Cậu Tư nhìn thẳng vào mắt cha:
- Con xin ba thứ lỗi, con không thể nghe lời ba má trong việc này được! Con đã không thương người ta mà ba má cứ ép phải cưới, cưới về rồi con bỏ bê người ta có phải là tội lỗi không?
- Tao với ba mày ngày xưa cũng có yêu thương gì đâu, thành vợ chồng rồi tình cảm sẽ tự nhiên tới thôi con ạ!
Bà Hai dỗ dành.
Cậu Tư đứng lên tỏ ý muốn kết thúc câu chuyện:
- Với con thì không thể má à! Xin ba má cho con quyền quyết định!
- Mầy… mầy dám…
Cậu Tư bước nhanh ra khỏi cửa, bỏ mặc ông Hai đang trong cơn tức giận. Ông gầm lên:
- Để rồi mầy coi, trong nhà này tao là cha hay mầy là cha cho biết!
- Từ từ đi ba, để rồi con khuyên em nó…
Cô Ba trấn an cả nhà.
Cô gọi với xuống bếp:
- Mị à, coi dọn cơm đi em, trưa trờ trưa trật rồi đó! Thằng Tư nó giận bỏ đi đâu rồi, em nhớ chừa phần để riêng cho nó!
Rồi quay sang ông bà Hai, cô nói:
- Ba má đừng buồn làm gì, từ nhỏ nó đã được cả nhà chìu chụông nên quen thói vậy thôi! Để chút nữa nó về con sẽ phân tích thiệt hơn cho nó hiểu, con nghĩ rồi thì nó cũng sẽ nghe thôi mà! Bây giờ ba má xuống ăn cơm với con, đừng thèm đợi nó, nó đi một hồi đói bụng cũng phải mò về thôi.
Nghe con gái khuyên, ông Hai nguôi bớt giận đứng lên cùng vợ con xuống bếp ăn cơm.
Theo lời dặn của bà Hai, sáng này Mị đi chợ mua cá út về thả mắm kho, món mà cậu Tư thích ăn nhất. Lần nào về cậu cũng đòi ăn món đó. Cậu nói ở Sài Gòn ăn đủ thứ món ngon vật lạ, chỉ duy có món này là chỉ ăn ở nhà mới thấy ngon.
Từ nãy, Mị luôn lắng tai nghe cuộc tranh cãi giữa cậu Tư và gia đình về chuyện hôn nhân của cậu. Mị cảm thấy vô cùng hạnh phúc, vì cô biết cậu Tư thật lòng với cô. Nhưng đồng thời lòng cô cũng đau đớn lắm vì ông Hai đời nào chấp nhận một đứa con dâu là kẻ ăn người ở như cô.
Bà Hai tuy nhân đức nhưng có lẽ cũng sẽ phản đối tới cùng, vì dầu sao người ta cũng phải bảo vệ danh dự gia đình, ai đời lại để thằng con trai độc nhất cưới đứa ở đợ làm vợ bao giờ.
Nghe cô Ba gọi dọn cơm, Mị làm theo như một cái máy. Cô lẳng lặng xới cơm vào chén cho từng người rồi mới mở vung nồi mắm kho múc ra cho nóng.
Khi nắm vung vừa được giở ra, mùi mắm bay xộc vào mũi làm Mị choáng váng, cô lảo đảo lùi ra, bụng nôn nao muốn ói.
Cô Ba hốt hoảng:
- Mị, em sao vậy? Coi chừng té đó!
Mị níu tay vào chiếc tủ chén bên cạnh để giữ thăng bằng. Gương mặt cô lúc này tái xanh, mệt mỏi. Cuối cùng, không dằn được, Mị chạy vội ra sân, vừa chạy vừa nôn ọe…
Bà Hai nhìn sững theo Mị, bàng hoàng.
Cô Ba ngó mẹ rồi len lén ngó sang cha. Ông Hai vẫn bình thản và cơm.
Một ý nghĩ chợt vụt đến trong đầu khiến cô Ba hoảng sợ. Cô nghĩ sóng gió sắp nổi lên trong gia đình mình rồi, nếu điều đó là sự thật…
***
- Mị, chị cảm ơn em vì lâu nay em tận tình chăm lo cho ba má chị những lúc chị và thằng Tư vắng mặt.
Cô Ba nắm tay Mị ân cần. Mị cúi mặt xuống nói khẽ:
- Cô Ba đừng nói vậy, đó là bổn phận của em. Em là người cám ơn ông ba, cô Ba và cả gia đình này mới phải. Nếu không có ông bà cưu mang, em không biết bây giờ đời mình ra sao nữa?
- Ba má chị vẫn coi em như con cháu trong nhà, phải không?
Cô Ba hỏi dò.
- Dạ, ông bà luôn tốt với em.
- Còn thằng Tư, nó có hiếp đáp gì em không?
Làm như vô tình, cô Ba hỏi tiếp.
Mị vội vàng nói:
- Dạ không, cậu Tư cũng rất tốt với em…
Cô Ba trầm ngâm một hồi lâu ra chừng đắn đo suy nghĩ. Mị muốn đứng lên trốn chạy cái nhìn dò xét của cô Ba nhưng cô không dám.
Từ trưa tới giờ, Mị cố tình lánh mặt cả nhà, nhưng lúc nãy cô Ba đích thân tìm ra sau hè ngồi chuỵên vãn với cô, thì dù có muốn né Mị cũng không né được.
Mấy tuần nay Mị có cảm giác cơ thể mình có điều gì khang khác, nhưng cô không dám nghĩ tới nhiều. Nhưng trưa này, khi nghe mùi mắm kho cô đã không chịu nổi thì cô lờ mờ hiểu được cái gì đang thay đổi trong người mình rồi. Một nỗi lo sợ mơ hồ bủa vây Mị, cô trông ngóng cậu Tư về nhưng cậu đi đâu mãi vẫn bặt tăm hơi.
- Mị, em nói thiệt cho chị biết đi, em có thai phải không?
Sau một hồi cân nhắc, cuối cùng cô Ba đi thẳng vào vấn đề.
Mị hoảng hồn bật khóc:
- Dạ… không, không phải đâu cô Ba ơi!...
Vỗ nhè nhẹ lên vai Mị, cô Ba động viên:
- Em đừng sợ, chị em mình đều là phận gái, em có lỡ dại dột với ai thì cứ mạnh dạn nói thiệt với chị, rồi chị tìm cách giúp cho em. Đừng giấu làm gì, chuyện này không giấu mãi được đâu em!
Mị úp mặt vào hai lòng bàn tay khóc nức nở:
- Cô Ba ơi, nếu cô thương em thì cô đừng hỏi gì hết! Em… lúc này em không nói được gì đâu…
Vừa nói xong câu đó, mị vụt đứng lên chạy vội vào nhà, cô Ba ngơ ngẩn trông theo không nén được tiếng thở dài.
Mãi đến tối mịt cậu Tư mới về. Lúc Mị ra mở cửa, cậu nắm chặt tay Mị dặn dò:
- Em đừng sợ, đừng lo gì hết nghe em!
Mị dạ nhỏ rồi vội vàng gỡ tay cậu Tư ra vì sợ mọi người trong nhà nhìn thấy.
Từ trưa tới giờ hình như bà Hai và cô Ba luôn nhìn Mị bằng ánh mắt dò xét, lạ lùng.
Mị hoang mang, Mị tuyệt vọng! Nếu chuyện cô có thai với cậu Tư vỡ lỡ ra giữa lúc này khác nào đổ thêm dầu vào lửa? Nhưng rồi cô lại hy vọng, biết đâu vì đứa cháu đang tượng hình trong bụng cô mà họ chấp nhận cho cô làm con dâu trong nhà? Không đâu, tính khí ông Hai thế nào cô rõ lắm, không đời nào ông chấp nhận một việc động trời như thế!
Thấy cậu Tư về, Mị như người sắp chết đuối sắp vớ được phao. Cô thầm mong cả nhà đi ngủ để cô và cậu Tư có thời gian bàn tính chuỵên này. Vậy mà bà Hai với cô Ba cứ nói chuyện thầm thì mãi vẫn chưa chịu ngủ, không khí trong nhà có vẻ ngột ngạt, căng thẳng ghê lắm, mặc dù từ lúc cậu Tư bước vô nhà ông Hai không nói với cậu lời nào.
Cô Ba đích thân xuống bếp dọn cơm cho cậu Tư. Ngồi nhìn em ăn cơm một cách uể oải, cô Ba xót ruột lắm.
Cô hỏi nhỏ:
- Tư à, em nói thiệt cho chị biết đi, lâu nay em ra ngoài, chắc em có đem lòng thương ai rồi nên mới thẳng thừng cự tuyệt đám mà ba má nhắm cho em, phải hôn?
Lưỡng lự một chút, cậu Tư gật đầu xác nhận:
- Chị nói đúng! Trong lòng em đã có người khác rồi!
Vậy là mình đoán đúng rồi sao? Cô Ba than thầm trong bụng, nhưng vẫn cố vớt vát chút hy vọng mong manh.
- Em thương ai thì thưa với ba má xin cưới người đó, như vậy có tốt hơn không?
Cậu Tư đặt chén cơm xuống mâm, buồn bã:
- Có lẽ không dễ dàng như chị nghĩ đâu. Bởi vì…
Thấy em ngập ngừng không nói, cô Ba giục:
- Vì sao?
- Vì người em thương nghèo lắm, không môn đăng hộ đối với nhà mình, em nghĩ ba má không dễ dàng chấp nhận…
- Em biết tính ba rồi đó, danh giá gia đình là quan trọng số một đối với ba, chị khuyên em nên cân nhắc.
- Lần này về em định thưa chuyện với ba má, nhưng không ngờ ba má lại bắt em đi hỏi vợ ngay lúc này, thiệt tình em khó xử quá! Nếu em nói thật hết trong lúc này, em e mọi việc càng rối tung lên và càng khó khăn hơn nữa. Chị… chị có cách gì giúp em không?
Cậu Tư nhìn chị cầu cứu.
Cô Ba nhìn em thương hại. Cô buột miệng hỏi:
- Người em thương là ai vậy? Có phải… con Mị trong nhà này không?
Cậu tư giật mình:
- Sao chị biết?
Cô Ba không trả lời em, cô chỉ lắc đầu rồi hỏi tiếp:
- Nó có thai mấy tháng rồi?
Cậu Tư sửng sốt, lắp bắp:
- Chị… chị nói sao? Mị đã… đã có thai rồi à?
Lần này đến phiên cô Ba kinh ngạc:
- Vậy chớ em ăn ở với ta mà không biết người ta thai nghén ra sao à? Em thật là…
Cậu Tư gãi đầu:
- Chị đừng trách em, mấy tháng nay em đi, mới nhà lại gặp chuyện cưới xin ép buộc đó, em chưa có thời gian nói chuyện với Mị…
- Em đi hai tháng rồi phải không?
Cô Ba tò mò hỏi
- Dạ! Có gì không chị?
Cô Ba lẩm nhẩm tính:
- Vậy là chỉ mới khoảng hai tháng… còn kịp…
Cậu Tư thắc mắc:
- Chị nói gì em không hiểu gì hết? Còn kịp mà kịp cái gì vậy chị?
Cô Ba nắm chắc vai em, nghiêm giọng:
- Em nghe chị nói đây! Chị biết không đời nào ba chấp nhận cho em với Mị thành vợ chồng, bây giờ cái thai còn nhỏ, em phải nói với Mị, biểu nó bỏ thai đi rồi còn làm lại cuộc đời, chứ nếu không… gia đình mình sẽ nổi lên sóng gió đó em!
Cậu Tư lặng đi một lúc rồi gạt tay chị, hất mâm cơm xuống đất văng tung tóe, cậu hét lên:
- Em không ngờ chị lại khuyên em như vậy! Em thương Mị thiệt tình, đứa con trong bụng cô ấy là con của em, là cháu của chị mà chị nỡ lòng khuyên em giết nó! Chị thật ác độc, em không thể nào nghe lời chị được đâu, em thề bảo vệ mẹ con cô ấy tới cùng!
Tiếng chén bát vỡ loảng xoảng khiến ông bà Hai và cả Mị lật đật chạy xuống để xem xảy ra chuyện gì, nhưng khi chân họ vừa đặt tới cửa bếp thì ai cũng rõ ràng mọi việc. Mị hoảng hốt lùi dần lại phía sau, còn ông bà Hai đứng như trời trồng giữa nhà.
Cô Ba gạt nước mắt:
- Chị cũng vì gia đình mình thôi em ơi, chị không còn biết tính nào khác…
Như sực tỉnh, ông Hai gầm lên:
- Quá lắm rồi! Quá lắm rồi! Nhà này loạn rồi! Thằng Tư lên ngay đây!
Ông Hai đùng đùng bước lên nhà trên, đi ngang qua Mị, ông hét:
- Cả mày nữa! Lên ngay! Đúng là nuôi ong tay áo!
Mị co rúm người lại, hoảng sợ, bước chân đi không vững. Cậu Tư chạy vội đến đỡ lấy Mị:
- Em đừng sợ, mọi việc có anh lo!
Nghe lời động viên của cậu Tư, Mị phần nào lấy lại bình tĩnh. Cô khẽ đẩy cậu Tư lên phía trước, không dám sóng bước sợ làm ông bà Hai thêm phần tức giận.
Mọi việc xảy ra đột ngột quá khiến bà Hai không kịp phản ứng. Trưa này thấy Mị nôn mửa lúc dọn cơm, bà đã nghi ngờ cô có thai, nhưng bà hoàn toàn không nghĩ nó lại mang thai với chính đứa con trai yêu quý của bà.
Trời ơi, bây giờ bà phải làm sao đây? Lòng bà như tơ vò trăm mối.
Ông Hai vặn to cây đèn Hoa Kỳ để chính giữa bàn rồi hậm hực ngồi xuống ghế. Bà Hai, cô Ba, cậu Tư lần lượt ngồi theo. Cậu Tư kéo ghế cho Mị nhưng cô không dám ngồi, cô lùi vào một góc gần đó, đứng co ro đến tội nghịêp.
Nhìn qua một lượt từng người trong nhà, cậu Tư đứng lên mjanh dạn nói:
- Thưa ba má, thật tình là lần này về con định thưa thiệt với ba má và chị Ba chuỵên tình cảm giữa con và em Mị. Nhưng vì từ trưa đến giờ lộn xộn nhiều chuyện con chưa trình bày được, nay ba má đã biết hết rồi, con xin ba má tác hợp cho tụi con.
Ai cũng tưởng sau câu nói của cậu Tư cơn giận của ông Hai sẽ bùng phát dữ dội, nhưng không ngờ ông lại điềm tĩnh một cách lạ lùng.
Ông thủng thẳng vấn điếu thuốc, thủng thẳng mồi lửa rồi đưa lên miệng rít một hơi thật dài. Cái sự rề rà bất chợt của ông làm cả nhà nín thở.
Không chịu được sự căng thẳng tột đỉnh, bà Hai lên tiếng:
- Con thiệt là bậy bạ! Còn con Mị nữa, tao không ngờ mầy lại hư đốn như vậy?
Ông Hai đặt điếu thuốc xuống chiếc gạt tàn rồi ngước lên nhìn cậu Tư:
- Bây giờ mầy muốn sao?
- Dạ, con muốn xin ba má cho phép con được cưới em Mị…
Ông Hai nhếch mép:
- Mầy nói để cho mầy quyền chọn lựa… Mầy chọn lựa giỏi vậy sao? Xứng lứa vừa đôi quá chớ!
Biết cha mai mỉa nhưng cậu Tư vẫn không nao núng:
- Dạ thưa ba, con biết con có lỗi vì đã đặt ba má vào chuyện đã rồi. Con xin ba má tha thứ cho con. Riêng việc con thương yêu em Mị thì không có gì sai trái. Sống trên đời quan trọng là tình cảm với nhau, tiền bạc danh vọng đều không là gì cả ba ạ!
Ông Hai nhìn con trai lắc đầu ngao ngán.
Cả nhà ai cũng ngạc nhiên trước sự điềm tĩnh khác thường của ông hôm nay. Thường ngày, có chuyện gì trái ý là ông đùng đùng nổi giận, còn bây giờ xảy ra chuyện lớn như thế ông lại giữ được bình tĩnh quả là điều khó hiểu.
Không ai biết được trong đầu ông Hai đang toan tính đủ mọi phương kế để bằng mọi giá phải tách rời cậu Tư với Mị, dù có phải từ thằng con độc nhất ông cũng phải làm, chứ nhất quyết không thể nào để nó cưới con Mị được.
Thằng con tính tình thẳng thắn, dám nói dám làm, xưa nay ông thầm tự hào về điều đó. Nhưng bây giờ trước sự việc này, ông biết dù ông có làm cách nào nó cũng không chịu nghe theo, vậy thì hà cớ gì ông phải quát tháo để xóm giềng dèm pha bêu rếu chuyện xấu trong nhà? Lỡ chuỵên này tới tai anh chị Ba Năng, thì đời nào họ chịu làm xui gia với ông.
Trước mắt, ông phải giải quyết cái bào thai trong bụng Mị. Nhưng giải quyết cách nào đây? Quả thật ông chưa nghĩ ra được!
Thấy con trai khăng khăng đòi cưới Mị, ông Hai biết ông không đủ bản lĩnh khuất phục nó, thế nên bao nhiêu tức giận, nhục nhã ông chỉ còn biết đổ dồn hết cho Mị.
Ông quay sang Mị, giọng rít lên the thé:
- Cô kia, bước tới đây! Cô có gì phải sợ chúng tôi?
Mị run lẩy bẩy ngập ngừng tiến lại gần hơn một chút, mặt vẫn cúi gầm xuống đất. Nước mắt cô lã chã rơi…
- Gia đình tôi đã cưu mang cả nhà cô, nuôi nấng cô mấy chục năm nay, không ngờ cô trả ơn cho chúng tôi như thế! Chúng tôi coi cô như con như cháu trong nhà, cô cũng chưa lòng hay sao mà còn mồi chài để thằng con tôi trở nên tác tệ? Tôi nói cho cô biết trước, cô đừng hòng dòm ngó tới cái gia tài này, chúng tôi thà để nó đi ăn xin chứ quyết không bố thí một xu nếu nó nhất định lấy cô!
Mị quỳ mọp xuống đất, vừa khóc vừa nói:
- Thưa ông bà, con biết con có tội lớn lắm, con xin ông bà tha cho con… Nhưng thiệt lòng, con không có mồi chài hay quyến rũ gì cậu Tư hết, con… con cũng không dám nghĩ gì tới của cải trong nhà…
Cậu Tư xô ghế đứng phắt lên, bước tới đỡ Mị dậy:
- Ba, con là người có lỗi, ba má muốn đánh muốn giết con sao cũng được! Xin ba má đừng buộc tội Mị, vì cô ấy không có lỗi gì! Tất cả là do ở nơi con. Bây giờ cô ấy lại đang bụng mang dạ chửa, xin ba má đừng làm khổ cô ấy…
Bà Hai khóc rưng rức:
- Trời ơi là trời, tui không ngờ gia đình tui có ngày hôm nay! Tất cả đảo lộn hết rồi con ơi! Con gây chi điều tác tệ, bây giờ ba má biết tính sao đây?
Cô Ba ôm vai mẹ an ủi:
- Má đừng xúc động quá, cái gì cũng có cách giải quyết mà!
- Giải quyết cách nào bây giờ hả con? Nó đã mang bụng chửa vậy rồi còn giải quyết cách nào được?
Ông Hai gằn giọng:
- Phải phá bỏ! Lập tức phá bỏ cái bào thai oan nghiệt đó!
Bà Hai giật mình ngó sửng chồng:
- Nhưng… ông à… đó là giọt máu của thằng Tư?
- Máu mủ gì tui không cần biết! Bà với con Ba lo làm sao đó thì làm, nội sáng ngày mai phải trục bỏ cho xong bào thai đó!
Mị khụyu xuống, lết bằng hai đầu gối đến cạnh bên ông Hai, chấp tay lạy như tế sao:
- Con xin ông, con xin ông đừng bắt con phải bỏ đứa bé này! Ông muốn đuổi con đi con cũng chịu, chỉ xin ông cho con giữ nó lại, nó vô tội ông ơi. Con xin ông…
Bà Hai chen vào:
- Ông à, tui tính vầy ông nghe thử được không? Ngày mai con Ba về bển, tui cho nó dắt theo con Mị. Từ nay nó đi theo con Ba, không về đây nữa, được không ông?
Ông Hai gắt:
- Không được! Bộ bà muốn anh chị xui bên đó coi tui với bà không ra gì nữa sao? Bà muốn con Ba vì chuyện này mà bị bên nhà chồng khinh khi rẻ rúng sao mà bà tính chuỵên kỳ khôi như vậy? Tui đã quyết định rồi, đứa nhỏ đó không được phép sinh ra!
Không dằn được tức giận, cậu Tư xô ngã ghế đứng bật dậy:
- Con không cho phép ai động đến con của con! Ba má đừng đem nó ra mà bàn tính gì nữa! Nếu ba má không thương, quyết không nhìn nhận con cháu thì con đành mang tiếng bất hiếu, con sẽ dẫn vợ con con đi khỏi nhà này!
Ông Hai đập bàn cái rầm, không còn kiêng dè gì nữa, ông hét:
- Mày có giỏi thì đi đi! Đi ngay đi và đừng bao giờ bước vô nhà này nữa! Đồ con mất dạy…
Cơn giận làm ông uất nghẹn không nói được hết những lời muốn nói. Cô Ba lăng xăng, vừa khuyên lơn ba mẹ, vừa ngăn cản đứa em bướng bỉnh.
Trước tình cảnh như vậy, Mị chỉ biết khóc ròng. Cô quỳ xuống van xin cậu Tư:
- Cậu ơi, em rất biết ơn cậu! Nhưng em xin cậu đừng vì em mà cãi lời ông bà nữa! Cậu hãy bằng lòng đi cưới vợ cho ông bà vui, cậu đừng vì em mà trở nên như thế!
Rồi quay sang ông bà Hai, cô nức nở:
- Con xin ông bà, xin ông bà cho con được giữ lại đứa con này. Từ ngày mai con sẽ ra đi, để cậu Tư không vướng bận gì về con nữa…
Bà Hai mủi lòng không cầm được nước mắt. Giận Mị thì bà cũng giận lắm, nhưng khi thấy cô vật vã đau khổ đến vậy bà không cam lòng. Nhưng mọi việc trong nhà đều do ông Hai làm chủ, bà đâu dám quyết định điều gì. Vả lại, bà cũng không biết phải quyết định ra sao nữa. Cưới nó cho thằng Tư thì không được rồi!
Cô Ba xen vào, cố tìm kế hoãn binh:
- Ba má đừng giận, thằng Tư cũng đừng nóng nảy! Việc không tốt đẹp trong nhà đừng để lối xóm biết họ sẽ cười chê. Sự việc đột ngột quá nên không ai chuẩn bị tư thế gì để đối phó cả. Theo con, mọi người nên bình tâm suy nghĩ thêm một, hai ngày nữa coi có cánh nào giải quyết tốt đẹp nhất. Phần con, con sẽ khuyên bảo em Mị, con tin em Mị cũng là người biết điều hơn lẽ thiệt, em không làm gì để tổn hại đến nhà mình đâu.
Mặc dù còn rất tức giận, nhưng ông Hai biết rằng giục tốc bất đạt, nên ông nén lòng nghe lời con gái, hậm hực giở mùng chun vô.
Cô Ba dìu mẹ vào phòng, bà vừa đi vừa rên rỉ than trời trách đất.
Mị lầm lũi về phòng đóng chặt cửa, mặc cho cậu Tư đứng bên ngoài van vỉ:
- Anh van em, Mị ơi, mở cửa cho anh đi! Mình cần phải nói chuyện với nhau em à! Em đừng quá buồn mà làm chuyện gì khờ dại nghe không? Dù có chuyện gì xảy ra đi nữa, anh cũng sẽ bảo vệ em, bảo vệ con của chúng ta. Em phải tin tưởng tuyệt đối vào anh nghe Mị?
Mị nói trong tiếng khóc:
- Dạ! Cậu về phòng ngủ đi, em không là gì dại dột đâu! Cậu về đi, kẻo ông bà lại giận…
Đứng tần ngần một lúc lâu trước cửa phòng Mị cậu Tư mới quay gót trở về.
Nằm một mình trong phòng, Mị cắn chặt chiếc gối vào giữa hàm răng để ngăn tiếng khóc, nhưng nỗi tủi buồn, uất ức trong lòng cô vẫn dồn lên khiến cô muốn nghẹt thở.
Cô đau đớn cho số phận của mình và lo sợ cho đứa con bé bỏng đang tượng hình trong bụng.
Mình phải làm sao đây? Mình đã mang ơn trời biển của gia đình này, mình không thể để tất cả tan nát vì mình được. Mình phải ra đi thôi, ra đi để trả lại cho nhà này cuộc sống bình yên hạnh phúc, ra đi để giữ lại giọt máu của cậu Tư, người mình yêu quý nhất trên đời. Mị thầm nhủ lòng như thế.
Nhưng cô biết đi đâu bây giờ? Từ bé đến lớn, cô chỉ quanh quẩn trong ngôi nhà này, trên cánh đồng làng này thôi, thế giới bên ngoài đối với cô hoàn toàn xa lạ.
Dù sao thì mình cũng phải ra đi…
Mị lặng lẽ ngồi lên, thu gom mấy bộ quần áo xếp bỏ vào cái giỏ đệm để dưới chân giường, rồi xé một tờ giấy trong cuốn sổ nhỏ cậu Tư tặng cho lúc trước, cô viết mấy dòng nguệnh ngoạc:
“Cậu Tư ơi, xin đừng tìm em nữa! Cậu hãy ở nhà và nghe lời ông bà dạy bảo, đừng làm ông bà buồn. Em biết ơn tất cả những gì cậu đã làm cho em. Đừng lo lắng gì cho em hết. Vĩnh biệt!”
Có thật nhiều điều Mị muốn nhắn gởi cậu Tư, nhưng cô không biết dùng ngôn từ gì để diễn đạt. Những câu chữ cô viết ra hôm nay cũng là do cậu Tư không quản vất vả rèn tập cho cô từ thuở nhỏ… Nước mắt Mị rơi nhòe nhọet trên trang giấy. Cô gấp tờ giấy lại đặt xuống bàn rồi lấy cây đèn bóng dằn lên.
Cô lưỡng lự giây lát rồi nằm trở xuống giường, tự nhủ sẽ ở nán lại vài hôm nữa để nấu cho cậu Tư thêm vài bữa ăn, để may xong cái áo của cậu còn dang dở…
Nước mắt chan hòa trên mặt, Mị cũng chẳng buồn lau. Lòng cô đang quặn thắt.
Trong khi đó ông Hai cũng không ngủ được. Càng nghĩ ông càng tức giận. Ông tức thằng con thì ít mà tức giận Mị rất nhiều. Ông nghĩ con ông là đứa có ăn học, được giao tiếp với bên ngoài thì thiếu gì con gái thượng lưu mà nó không thương, lại nhằm con ở đợ mà thương mới lạ! Điệu này chắc hẳn là do Mị liếc mắt đưa tình, lả lơi ong bướm chi đây, làm cho thằng con trai mới lớn của ông mê mệt tâm thần, đến nỗi dám thẳng thừng chống đối lại ông.
Bằng mọi cách ông phải phá bỏ cái bào thai trong bụng Mị, rồi đuổi Mị đi thật xa để mọi việc trong nhà này không còn lại dấu vết gì. Có như vậy ông mới dám ngước mặt nhìn lối xóm.
Nhưng bằng cách nào đây? Thằng con ông bây giờ thì đã quá lú lẫn rồi, không trông mong gì nó sáng mắt ra được. Vợ và con gái ông thì mềm yếu quá, không dám làm gì nặng tay với con Mị đâu. Còn con Mị, nó cố tình giữ lấy cái bào thai để níu kéo con trai ông, dù nó có ra đi như lời nó nói thì trước khi đi, ông phải tận mắt biết cái bào thai đó không còn tồn tại nữa ông mới để nó đi được.
Phải làm sao đây? Phải làm đây? Ông đã nghĩ ra thật nhiều kế sách, và suốt đêm, ông đem ra cân nhắc cái lợi cái hại của từng kế sách đó, hầu tìm ra được một lối vẹn toàn nhất.
Gà đã gáy lần hai, ông vẫn chưa chợp mắt.
Ông ho khan mấy tiếng rồi lục đục trở dậy, không buồn châm đèn, ông lần mò đến bên bàn trà lặng lẽ uống.
***
Sáng ra, cô Ba xin phép về vì sợ nhà chồng lo lắng.
Trước lúc về, cô cũng kêu Mị ra sau nhà tỉ tê tâm sự, khuyên Mị nên nghĩ tới gia đình cô mà cân nhắc việc có nên giữ lại đứa con hay không. Mị không nói gì chỉ lặng lẽ khóc.
- Con về cho bên nhà yên tâm rồi chiều nay hay trễ lắm là sáng mai con lại trở qua tính chuyện nhà với ba má, ba má đừng làm lớn chuyện, mọi người biết chuyện này thì danh giá nhà mình đem đổ sông đổ biển.
Cô Ba dặn dò.
Bà Hai rầy:
- Chuyện đó mầy khỏi dặn tao cũng biết rồi, chỉ sợ hai cha con nó không ai chịu nhịn ai, chừng đó chắc nổ tan nhà cửa…
Suy nghĩ một lúc, cô Ba gọi cậu Tư:
- Em lấy xuồng đưa giùm chị về bên nhà, rồi xế xế chị em mình trở qua. Ba còn giận lắm, em ở nhà ra vô đụng mặt chị sợ lại có chuyện. em đi với chị cho ba nguôi nguôi bớt rồi mình tính tiếp.
Bà Hai mừng rỡ:
- Chị Ba mày tính như vậy được đó con, đi đi…
Cậu Tư ngập ngừng:
- Nhưng… còn Mị…?
- Ai ăn thịt ăn cá gì nó mà mầy sợ? Hay là mầy muốn dắt nó theo luôn?
Bà Hai giận dỗi nạt cậu Tư.
Cậu nhìn ra sau một chút rồi theo cô Ba ra bờ sông lấy xuồng.
Mị làm xong công việc nhà từ sớm, cô sợ không dám đối diện với ông bà Hai nên cố tình lẩn ra sau vườn nhổ cỏ.
Tự nhiên ông Hai nói bâng quơ:
- Lâu quá không được ăn ốc dừa, bà coi biểu đứa nào đi ra sông bắt một mớ cho tui đi! Trưa nay có mấy ông bạn tới lai rai chút đỉnh…
Bà Hai cằn nhằn:
- Nhà cửa đang rối beng như vầy mà ông còn lòng dạ để lai rai, thiệt tui hết biết!
Làm như không nghe thấy, ông Hai vẫn ung dung uống hết tách trà rồi đứng lên vớ lấy cái khăn vấn quanh đầu:
- Tui đi một vòng coi lúa má ra sao! Bà nhớ biểu sấp nhỏ đi bắt cho tui mớ ốc đó!
Bà Hai nhìn quanh nhà, mấy người làm công ai cũng ra đồng làm việc hết rồi, nhà chỉ còn có bà với Mị.
Nghĩ cũng tội cho con nhỏ, dại chi mà dại quá! Bà nửa muốn quở trách, nửa muốn an ủi Mị.
Nhìn dáng Mị lom khom sau vườn bà thấy thật xót xa. Đứa cháu này bà biết khó mà giữ được…
- Mị à, mầy bỏ đó đi, ra sông kiếm cho ông mầy mớ ốc, chút nữa ổng có bạn nhậu đó!
Mị dạ nhỏ rồi quày quả bước vô bếp lấy cái giỏ tre rồi xăm xăm đi về hướng bờ sông mất hút.
Bà Hai trông theo lặng lẽ thở dài.
***
Mặt trời đã đứng bóng mà Mị vẫn chưa về. Bà Hai đi ra đi vô trông ngóng. Cuối cùng bà phải xuống bếp lo bữa cơm trưa.
Hôm nay ông Hai cũng đi ruộng lâu hơn thường ngày, lúc về tới nhà, nhìn vẻ mặt ông thật lạ lùng, bà Hai hỏi:
- Ông đi ruộng về sao thần sắc lạ vậy? Có bị say nắng trúng gió gì không?
- Không, không có gì!
Ông Hai gạt ngang rồi đi thẳng ra ao sau vườn múc nước dội ào ào lên thân thể.
Bà Hai lắc đầu:
- Ông này già rồi sanh tật gì đâu! Trưa nắng chang chang như vầy, đi về chưa ráo mồ hôi mà đã ra dội nước, chút nữa vô nằm một chỗ đừng có than!
Tắm xong, ông Hai vô nhà hối dọn cơm. Bà Hai vừa bày chén bát ra mâm vừa cằn nhằn:
- Con Mị này hôm nay tác tệ quá! Sai nó đi kiếm cho mớ ốc, đi từ hồi sớm tới bây giờ đã trưa trờ trưa trật rồi, có hay không gì thì cũng phải về lo cơm nước chớ!
Làm lơ như không nghe thấy, ông Hai cắm cúi ăn hết chén cơm rồi bỏ đũa đi lên nhà trên.
Bà Hai ngạc nhiên:
- Sao ông ăn ít vậy? Rồi chừng nào nhậu?
Ông Hai ậm ừ trong miệng câu gì bà nghe không rõ. Đến lúc bà lên trên nhà thì ông đã nằm im trên bộ ván giữa nhà, tay gác trán, mắt nhắm nghiền như đã ngủ.
Càng lúc lòng bà Hai càng nóng như lửa đốt. Bà linh cảm như có chuyện gì đó rất hệ trọng đang xảy ra.
Có khi nào Mị đi đâu lâu lắc như vậy đâu? Hay nó gặp chuỵên gì không may rồi? Mà không, nó bơi lội giỏi như ráy, làm gì có chuyện chết chìm. Vậy thì nó đi đâu mới được?
Thời gian chậm chạp trôi qua, bà Hai đứng ngồi nhấp nhổm. Trên bộ ván gõ giữa nhà, tiếng ông Hai ngáy đều đều. Bà không dám lay ông dậy để chia sẻ sự lo âu đang càng lúc càng lớn dần trong bụng.
Vừa thấy bóng hai chị em cậu Tư, bà cuống quýt hỏi dồn:
- Hai đứa thấy con Mị có ngoài sông không?
Cô Ba còn đang ngơ ngác thì cậu Tư như linh tính có chuyện không lành:
- Má nói sao? Mị làm gì?
Giọng bà Hai run run:
- Sáng này má biểu nó ra sông bắt cho ba mầy mớ ốc, nhưng không biết sao nó đi tới giờ chưa về, má nóng ruột hết biết…
Chưa nghe mẹ nói hết câu, cậu Tư buông rơi cái giỏ đang xách trên tay, chạy vội ra phía bờ sông. Cô Ba cũng lật đật chạy theo em.
Hai chị em chạy dọc theo bờ sông, vừa chạy vừa lên tiếng gọi. Ban đầu cậu Tư còn gọi nho nhỏ, lát sau cậu gọi to lên, giọng cuống cuồng sợ hãi.
Cô Ba thì hỏi dò mấy nhà cạnh đó thử xem từ sáng đến giờ có ai nhìn thấy Mị, nhưng tất cả đều lắc đầu.
Thấy trời đã gần tối, đám người làm công đã lũ lượt kéo về mà hai đứa con vẫn chưa quay lại. Bà Hai lúc này vô cùng hoảng hốt, bà gọi ông Hai dậy rồi hối mọi người chạy đi tìm giúp.
Hai bên bờ sông đèn đuốc sáng rực. Kẻ lặn mò, người kéo lưới… Tiếng kêu gọi dậy làng dậy xóm.
Đến gần mười giờ đêm, cuộc tìm kiếm coi như vô vọng, hai chị em cậu Tư mới thất thểu ra về.
Vừa thấy con, bà Hai mếu máo:
- Không có dấu vết gì hết sao con?
Cô Ba buồn bã lắc đầu rồi đi ra nhà sau rửa chân. Cậu Tư thì không buồn nói tiếng nào, để nguyên bùn sình trên thân thể cứ thế mà nằm dài xuống ván.
Ông Hai gợi ý:
- Hay là nó bỏ đi rồi?
Vừa nghe cha nói vậy, cậu Tư đứng phắt lên chạy vội vào phòng Mị.
Bà Hai, cô Ba cũng lật đật chạy theo. Cô Ba soi đèn khắp phòng, phát hiện tờ giấy gấp tư để trên bàn, đồng thời cũng phát hiện túi quần áo còn nguyên vẹn của Mị phía dưới chân giường.
Đọc mấy dòng chữ nguệch ngoạc, cậu Tư không ngăn được dòng nước mắt, cậu rên lên thống thiết:
- Mị ơi, anh đã dặn em rồi sao em không chịu nghe anh? Sao em dại dột bỏ đi như vầy, anh biết tìm kiếm mẹ con em ở đâu?
Bà Hai, cô Ba không ai dám nói một lời nào để an ủi cậu. Cả hai len lén rút lui ra khỏi phòng, để cậu Tư ở lại một mình với nỗi sầu vô bờ bến…
***
Mặc cho con người sướng vui hay đau khổ, thời gian vẫn cứ trôi qua một cách bình thản, dửng dưng…
Chuỵên Mị mất tích trở thành đầu đề bàn tán trong làng. Cả một thời gian dài mọi người vẫn xôn xao mãi về chuyện đó.
Người ta đoán già đoán non, thêm thắt đủ chuyện nhưng rốt lại ai cũng đoán được chuyện giữa cậu Tư và Mị.
Ông bà Hai dù muốn giấu kín vẫn không được!
Mấy tháng trời cậu Tư lặn lội khắp nơi để tìm kiếm Mị nhưng tuyệt nhiên không có một dấu vết nào có thể mơ hồ biết được Mị đi về đâu.
Rã rời. Chán nản. Mệt mỏi. Cậu Tư quay trở lại nhà với một hình hài ốm o, râu ria tua tủa.
Cậu không trách cha trách mẹ, cũng không than trời trách đất gì nữa mà suốt ngày cậu cứ vùi mình trong men rượu.
Bà Hai với cô Ba hết khóc lóc khuyên can tới nỉ non dỗ ngọt vẫn không làm cậu thay đổi được, đành phải nhắm chờ thời gian cho mọi chuyện nguôi ngoai.
Ban đầu ông Hai còn la hét mắng chửi, nhưng về sau ông cũng bỏ mặc. Bản thân ông từ ngày biến cố xảy ra cũng trở nên khác lạ.
Đêm đêm, ông thường ú ớ nói mê rồi khi giật mình thức dậy thì toàn thân ướt đẫm mồ hôi, vẻ mặt hốt hoảng như gặp phải điều gì khủng khiếp lắm. Bà Hai nhiều lần gặng hỏi nhưng ông cứ lắc đầu bảo không nhớ những gì trong giấc mơ.
Từ ngày vắng Mị bà Hai mới cảm nhận được rõ ràng vị trí của cô trong gia đình. Mười chín năm cô lớn lên ở đây, dù không máu mủ ruột rà nhưng cô đã là một thành viên gắn bó với gia đình, bỗng nhiên trong chốc lát cô biến mất, bà Hai cảm thấy hụt hẫng vô biên.
Rồi đứa con trai tài giỏi của bà bỗng chốc hóa ra kẻ nát rượu khiến lòng bà đau như cắt. Cả người chồng đầu gối tay ấp mấy mươi năm của bà cũng trở nên xa lạ.
Bà đau đớn khóc thầm nhiều đêm.
Nhà bà từ lúc vắng Mị bỗng trở nên lạnh lẽo một cách đáng sợ. Lúc nào bà cũng có cái cảm giác rờn rợn không cắt nghĩa được.
Có lần bà nói chuyện đó với ông Hai thì ông gạt phắt đi, bảo rằng bà nói chuỵên tào lao. Nhưng thật sự là như vậy.
Nhiều đêm giật mình tỉnh giấc, bà như cảm nhận được sự hiện diện của Mị trong nhà. Bà không giải thích được rõ ràng, nhưng cái cảm giác đó rất thật, không giống như sự tưởng tượng hay mơ màng chiêm bao.
Có đêm, vừa mới lơ mơ ngủ, bà nghe tiếng ai gọi cửa giống như tiếng Mị. Bà vùng dậy mở toang cánh cửa với sự khấp khởi mừng vui, hy vọng sau một thời gian trôi nổi đó đây, hôm nay Mị chợt nhớ nhà nên quay trở lại.
Nếu Mị quay về, bà quyết không phản đối việc thằng Tư cưới nó. Bà không còn sợ tiếng đời dị nghị gì nữa hết, bởi vì mấy tháng qua người ta cũng đã dị nghị hết lời rồi.
Bây giờ bà chỉ mong sao gia đình trở lại được những tháng ngày êm ấm cũ. Thằng Tư sẽ làm thầy làm chú hẳn hoi. Rồi Mị sẽ sinh cho bà những đứa cháu nội, tuổi già của bà sẽ không phải sống những ngày cô đơn và đầy ắp lo âu như lúc này…
Nhưng đằng sau cánh cửa chỉ là một khoảng không đầy bóng tối. Có khi bà ngơ ngác gọi:
- Mị ơi, con về phải không Mị? Nếu con về thì vô nhà đi con, bà không la rầy gì con nữa đâu…
Đáp lại tiếng gọi tha thiết của bà chỉ là tiếng gió đêm xạc xào trong lùm cây trước ngõ.
Nhiều lúc nghĩ ngợi bà đâm lo. Có lẽ nào con Mị buồn quá làm chuyện dại dột tự vẫn chết đi, giờ hồn ma bóng quế của nó về đây ám ảnh bà? Nhưng rồi bà Hai tự trấn an, bà tự nhủ, tại bà gắn bó với con Mị gần hai chục năm, tính ra nó còn gần gũi bà hơn mấy đứa con bà nữa. Nên bây giờ khi vắng Mị, bà luôn nhớ tới nó, luôn tơ tưởng tới nó nên đâm ra ảo giác.
Một hôm, bất ngờ bà Hai phát hiện tủ quần áo của bà hình như có ai đó vừa lục lạo. Sau khi kiểm tra lại thì toàn bộ tiền bạc, vàng vòng đều còn nguyên vẹn. Chỉ duy có một điều hết sức lạ lùng là cái gói quần áo trẻ sơ sinh, con của cô Ba dạo nọ để trong tủ tự nhiên lại nằm dưới gầm giường.
Bà còn nhớ rẩ rõ, ngày đó cô Ba soạn mớ quần áo này đề lại đây biểu bà có cho con ai trong làng thì cho, nhưng tính bà vốn tin dị đoan, bà không muốn quần áo của bà mặc lên người những đứa trẻ khác. Bởi vì trẻ con nhà nghèo quanh đây thường ốm đau quặt quẹo, có đứa không sống được tới thôi nôi. Bà sợ ảnh hưởng tới cháu ngoại nên xếp lại để dành.
Bà nói với Mị:
- Tao có thương thì giúp tiền giúp bạc cho họ, chứ không dám cho quần áo này. Chỉ anh chị em trong dòng họ mới mặc của nhau thôi.
Rồi bà nhìn Mị cười:
- Chừng nào bây lấy chồng, sinh con thì về đây bà cho hết!
Lúc ấy Mị cũng cười:
- Vậy bà nhớ để dành cho con nghen?
Từ dạo đó đến nay đã gần ba năm rồi, túi quần áo sơ sinh này vẫn nằm yên trong góc tủ, đâu có ai động đến làm gì, sao hôm nay tự dưng nó lại nằm ở đây?
Bà đem sự thắc mắc đó hỏi ông Hai, hỏi cậu Tư nhưng ai cũng lắc đầu không biết.
Bỗng nhiên một ý nghĩ chợt đến làm bà lạnh dọc sống lưng. Bà nhẩm tính lại thời gian mang thai của Mị, đúng là nếu nó còn sống trên đời thì cũng đã sắp đến ngày sinh nở.
Bà định nói điều lo sợ với cậu Tư nhưng bà sợ nhắc lại chuyện đó chỉ làm con bà thêm đau lòng. Vì vậy bà đem chuyện kể với ông Hai, hy vọng được nghe ông giải thích một cách hợp lý hợp tình.
Nhưng khi bà vừa mở miệng, vừa nhắc đến Mị là ông Hai như bị điện giật. Ông vỗ bàn quát tháo bà ầm ĩ. Hai mắt ông ngầu đỏ, long lên sòng sọc mỗi khi nghe bà nhắc tới Mị.
Nghe ông quát, bà Hai vô cùng ấm ức và buồn tủi. Bây giờ trong nhà này ba người sống như ba cái bóng, không ai cười đùa với ai, có chuyện gì cần lắm thì chỉ trao đổi mấy câu ngắn gọn. Cậu Tư dạo này có đỡ rượu chè nhưng càng trở nên lặng lẽ. Ông Hai thì bà không hiểu nổi. Có lúc bỗng dưng ông cười cười một mình như có điều gì thích thú, có lúc ông lại trở nên hung dữ khủng khiếp. Tất cả nỗi niềm, bà Hai chỉ còn biết tâm sự với con gái mỗi bận nó về thăm.
Ông Hai đã ngủ say bên cạnh nhưng bà Hai vẫn trằn trọc mãi không thôi. Bỗng bà nghe ông ú ớ mấy tiếng, bà chưa kịp lay gọi thì ông đã hét toáng lên:
- Mầy đi đi, đừng về đây nữa! Tao… tao không cố ý, chỉ tại mầy bướng bỉnh… Đi đi, trời ơi…
Rồi ông vụt ngồi lên như đã tỉnh ngủ. Ông lắc vai bà:
- Bà, dậy đi! Túi quần áo trẻ con hồi chiều bà nói đó, bà để đâu rồi? Đưa cho tui.
Bà Hai ngơ ngác:
- Làm gì nửa đêm nửa hôm mà ông lấy cái đó?
Ông Hai hấp tấp:
- Mau lên! Bà lấy mau lên!
Nói xong ông cập rập bước xuống đất, bật lửa lên châm đèn. Bà Hai cũng hoảng hốt ngồi dậy theo.
Ông mở tủ lục lọi, bà lôi cái goái đồ trong góc tủ đưa cho ông mà lòng đầy thắc mắc.
Ông vồ lấy túi quần áo trẻ sơ sinh, mừng như bắt được vàng, đi như chạy ra sân sau làm bà Hai chạy theo muốn không kịp.
Ra tới sân, ông Hai đổ gói đồ ra một đống, rồi ông vội vã châm lửa đốt.
- Không được! Ông không được đốt, đây là quần áo của cháu mình mà!
Bà níu tay ông lại, nhưng ông Hai gạt phắt ra, không thèm nói với bà lời nào, cũng không giải thích hành động kỳ quặc đó, ông chỉ chăm chú nhìn ngọn lửa đã bắt đầu cháy sáng, miệng lẩm bẩm:
- Mầy cần thì tao cho mầy hết, cho hết… Rồi mầy đi đi…
Bà Hai run rẩy gọi to:
- Tư à Tư, ra đây, ra đây mau lên!
Cậu Tư đang ngủ, nghe tiếng gọi giật giọng của mẹ thì choàng dậy, chạy ra ngẩn ngơ nhìn hai ông bà già đang làm điều quái gở lúc nửa đêm. Cậu Tư cằn nhằn:
- Ba má làm gì không ngủ, giờ này làm gì mà đốt đồ đạc vậy?
Bà Hai mếu máo:
- Con coi ba con kìa, ổng như bị… ma nhập vậy! Má sợ quá con ơi!
Nghe mẹ nói sơ qua sự việc, cậu Tư tiến đến gần ông Hai, cất tiếng hỏi:
- Ba, ba đang làm gì vậy?
Ông Hai cười ghê rợn:
- Nó sắp sanh rồi, tao phải cho con nó quần áo để nó đừng về ám tao nữa! Ha ha… Nó sắp sanh rồi…
Vừa cười xong bỗng ông bật khóc:
- Tha cho ông đi con ơi, ông đâu có cố tình…
Cậu Tư xanh mặt, nắm chặt lấy cánh tay đang vun lửa của ông Hai:
- Ba nói ai vậy?
- Con Mị, con Mị nó về, ngày nào nó cũng về… Hu hu… Ba đâu có muốn giết nó, ba lỡ tay mà… hu hu…
Bà Hai, cậu Tư ai nấy đều bủn rủn chân tay khi nghe ông Hai nói câu đó. Bà Hai té ngồi xuống sân, lòng vô cùng hoảng sợ.
Cậu Tư nắm chặt tay cha lôi trở vô nhà. Ông Hai thì cương quyết đòi đứng lại để đốt cho xong đống quần áo đó.
Cậu Tư nói, giọng dữ tợn:
- Ba đi vô mau, ba vô nhà nói hết mọi chuyện cho con biết!
Cuối cùng ông Hai cũng phải riu ríu theo cậu Tư. Ông nhăn mặt:
- Buông tay tao ra, để tự tao đi! Mầy làm tay tao đau quá đó…
Cậu Tư nới lỏng bàn tay đang siết chặt tay ông nhưng vẫn không chịu buông tay ông ra.
Bà Hai gượng dậy, vừa khóc, vừa chạy theo hai cha con.
Ở ngoài sân, ngọn lửa chợt bùng lên sáng rực rồi tắt ngúm.
Cậu Tư ấn cha ngồi xuống ghế, vặn to ngọn đèn, rồi nhìn thẳng vào mắt cha cậu hỏi:
- Lúc nãy ba nói gì?
Ông Hai cụp mắt xuống:
- Tao… đâu có nói gì…
- Ba đừng chối! Ba nói mau lên, ba đã làm gì Mị?
Cậu Tư quát lớn.
Bà Hai run rẩy kéo ghế ngồi sát bên con.
Ông Hai lúc này trông thật thảm hại. Ông đã mất hết cái vẻ oai phong ngày trước. Giờ đây ông ngồi rúm ró, co hai chân lên ghế, mặt láo liên, sợ sệt.
- Ba nói nhanh lên!
Nghe tiếng quát của cậu Tư, ông Hai khóc rống lên:
- Tha cho tui đi… Trời ơi, tha cho tui đi, tui đâu muốn giết người…
Ông chồm qua ôm lấy bà Hai:
- Bà ơi, làm ơn rửa tay giùm tui với, máu dính vô tay, tui rửa hoài không hết…
Bà Hai bật khóc theo chồng.
- Con ơi, con đừng hỏi dồn ba con nữa, chờ cho ổng tỉnh táo chút đi con, bây giờ… ổng như người điên rồi!
Bà Hai năn nỉ cậu Tư.
Thấy cảnh cha mẹ như vậy, nỗi tức giận trong lòng cậu Tư cũng có phần nguôi bớt. Cậu ngồi phịch xuống ghế, hai tay ôm đầu khổ sở.
Lúc  không ai hỏi gì nữa thì bất ngờ ông Hai quỳ thụp xuống sàn nhà, mặt quay ra cửa lạy liên tục mấy cái:
- Ông van xin con, con đừng bắt tội ông…
Bà Hai vội vã đến bên ông, ôm choàng lấy ông như che chở. Bà dỗ dành:
- Ông đừng sợ… Ông ơi, ông đừng như thế nữa, ông ơi…
Ông bấu chặt cánh tay bà, vừa khóc vừa nói:
- Tui biểu nó phá thai đi, tui đưa thuốc bắt nó uống mà nó không nghe… giận quá tui nhào tới bóp cổ nó… tui bóp như vầy nè…
Ông Hai vụt bóp cổ bà Hai. Bàn tay ông siết chặt quá làm bà muốn nghẹt thở. May mà cậu Tư kịp thời gỡ tay ông ra.
Bà Hai đưa tay xoa lên chỗ đau quanh cổ, run rẩy lùi ra xa ông một chút.
Ông Hai đưa cạp mắt ngầu đỏ nhìm ra cửa, cất tiếng cười man dại:
- Ha ha… Tui bóp cổ nó… máu trong miệng nó trào ra, mắt nó trợn ngược lên nhìn tui… Ha ha… tao đâu có sợ, mầy đừng thách tao, mầy đáng chết lắm con ơi! Mầy làm cả nhà tao đảo lộn… ha ha…
Đau đớn tột cùng khi sự thật về sự mất tích của Mị được phơi bày qua lời kể nửa điên nửa dại của ông Hai. Cậu Tư trân trối nhìn cha, cái nhìn chất chứa nỗi oán hận lẫn xót thương. Cậu đứng lặng một lúc rồi nói khẽ với mẹ:
- Má đưa ba đi ngủ đi!
Bà Hai mếu máo:
- Con ơi, con lên nhà với má đi, má sợ lắm con ơi…
Không nói gì nữa, cậu Tư cúi xuống xốc nách đỡ cha lên nhà trên, rồi gần như bế thốc ông lên giường. Ông không kháng cự, vô mùng rồi ông cứ nằm mở mắt thao láo, mịêng không ngớt rên rỉ những lời gì không ai nghe rõ.
Cậu Tư buông người xuống chiếc võng bên cạnh. Bà Hai lập cập bưng cái ô trầu đến ngồi cạnh con trai.
Bà nói trong tiếng nức nở:
- Trời ơi, má không dè ba con tàn nhẫn đến mức đó…
Nuốt nước mắt vào lòng, cậu Tư an ủi mẹ:
- Thôi, má đừng quá đau buồn…
Bà sợ sệt nói với cậu Tư:
- Con mị chết tức tưởi vậy, hèn gì lâu nay má cứ thấy trong nhà mình có cái gì khang khác, chắc là… nó ám… mình rồi con ơi!
Cậu Tư mệt mỏi:
- Tại má lo sợ vẩn vơ chứ con có thấy gì lạ đâu. Thôi, má ngủ đi, con mệt lắm rồi, má để cho con yên tĩnh một chút!
Nói xong, cậu Tư kéo cái khăn trên đầu võng trùm lên mặt tỏ ý không muốn nói gì thêm nữa.
Bà Hai lủi thủi trèo lên chiếc giường bên cạnh nằm co ro với thật nhiều lo sợ.
***
Sáng nay ông Hai có vẻ tỉnh táo. Ông vừa rót tách trà chưa kịp uống, nhìn thấy cậu Tư đi lên, ông đặt vội tách trà xuống bàn, đứng lên tìm đường lánh mặt.
Nhanh như cắt, cậu Tư chận ông lại. Cậu nói với cha thật nhỏ nhẹ:
- Ba ngồi xuống, con có mấy việc cần hỏi ba cho rõ.
Ông Hai lấm lét nhìn con:
- Tao… tao đâu biết gì mà hỏi?
Ấn mạnh vai cho ông ngồi xuống, cậu Tư đưa tách trà cho cha:
- Ba uống đi!
Ông Hai run run cầm ly trà đưa lên miệng, mắt vẫn không ngừng nhìn cậu Tư dò xét.
- Có đúng là ba giết chết Mị không?
Cậu Tư đột ngột hỏi, ông Hai giật mình buông rơi tách trà:
- Tao… tao… không…
- Ba đừng che giấu nữa! Ba nói hết sự thật với con đi! Nếu ba không chịu nói, con phải đi báo với nhà chức trách…
- Đừng, đừng con ơi! Tha cho ba đi, ba nói…
Ông Hai hốt hoảng níu tay cậu Tư.
Cậu Tư gạt tay cha, lạnh lùng:
- Vậy thì ba nói đi, nói toàn bộ sự thật!
Ông Hai liếc mắt ra cửa, vẻ sợ sệt:
- Ba… con Mị đi bắt ốc… Ba ra bờ sông kiếm nó, đưa thuốc biểu nó uống để hủy cái thai. Nó… nó nhất định không chịu uống. Nó nói dù có chết nó cũng không uống. Ba giận quá, nhào tới bóp cổ nó. Nó quẫy đạp dữ lắm con ơi! Ba cứ bóp thật chặt! Nó xụi lơ… Máu trong miệng nó ứa ra, còn dính tay ba nè!
Ông Hai nói như mê sảng. Ông chìa bàn tay gân guốc ra trước mắt cậu Tư.
Cậu Tư nhìn bàn tay ông với cái nhìn kinh tởm. Dù rằng lúc này bàn tay đó sạch trơn không hề có vệt máu nào dính lại như lời ông nói, nhưng cậu Tư biết nó đã từng nhuốm máu của người cậu yêu thương.
- Xác cô ấy đâu? Ba giấu xác Mị ở đâu?
Cậu Tư chồm hẳn người qua bàn, nắm chặt vai cha lắc lấy lắc để, cậu rít qua kẽ răng:
- Ba nói nhanh lên, xác cô ấy đâu?
Ông Hai ấp úng:
- Ba… ba đẩy xác nó ra sông lớn, nước cuốn đi rồi!
- Trời ơi! Mị ơi…
Cậu Tư sụp xuống, đau đớn.
Từ hôm đó ông Hai trở nên người hoàn toàn ngớ ngẩn. Có đôi khi ông không biết bà Hai là ai, suốt ngày ông lảm nhảm những điều vô nghĩa.
Cậu Tư đột nhiên bỏ hẳn rượu chè, cậu xin việc làm trên quận, vài ba hôm cậu mới đảo về nhà một lần. Về tới nhà cậu lại ở biệt trong phòng, ít khi giao tiếp với ai, kể cả người mẹ già đang cô độc. Cậu không quan tâm đến ai khác trong nhà.
Bà Hai đang phải sống những ngày tháng bất hạnh nhất trong đời bên người chồng điên loạn. Mà không, hình như ông không điên loạn, ông đang bị hồn ma của Mị ám ảnh thì đúng hơn.
Có lúc ông Hai hoàn toàn khác lạ, ông đung đưa cánh võng rồi cất lên những câu hát ru con da diết làm bà Hai sợ nổi da gà.
Bệnh của ông Hai ngày càng nặng. Ông gầy ốm xanh xao, đôi mắt lúc nào cũng lơ láo, không hồn.
Ông thường lang thang ra đường giữa trưa nắng hay lúc đêm khuya, hỏi đi đâu ông chỉ lắc đầu, miệng ca hát nghêu ngao rồi chợt cười chợt khóc…
Bà Hai ăn ngủ không yên cũng gầy rộc đi trông thấy.
Cô Ba về thăm nhà thường xuyên hơn. Thấy tình trạng cha mẹ như vậy, cô bàn với cậu Tư:
- Hay là mình mời thầy về cúng giải tà cho ba đi em?
Cậu Tư cười chua chát:
- Tà ma gì mà giải hả chị? Tại ba làm điều ác nên bị ám ảnh vậy thôi…
Thấy em trai bàn ra, cô Ba cũng không dám quyết. Giờ đây cô chỉ biết an ủi động viên mẹ. Mỗi lần cô về là bà Hai lại khóc ròng làm cô đau lòng xót dạ.
- Má nghĩ hồn ma con Mị vẫn còn lẩn khuất quanh đây con ạ! Má thấy nó về hoài hà… Má sợ lắm, má không biết phải làm sao nữa… Đêm đêm má thắp nhang cầu nguyện, xin cho vong hồn nó được siêu thoát, đừng đeo đẳng lấy nhà mình, nhưng hình như… nó luôn quanh quẩn ở đây…
Bà Hai khổ sở kể với con gái.
Ban đầu cô Ba cũng không tin chuyện ma quỷ, cô động viên mẹ đủ điều khiến bà Hai cảm thấy yên tâm. Nhưng có một đêm, cô Ba vừa chợp mắt thì nghe có tiếng gọi bên tai:
- Cô Ba ơi, cô Ba…
Cô Ba mở choàng mắt, giật mình hỏi lớn:
- Ai đó?
Bà Hai nằm bên cạnh nghe tiếng con gái liền gọi:
- Ba à, Ba! Con mớ đó phải không?
Cô Ba đưa tay lau mồ hôi trán:
- Không má à, con nghe rõ ràng… hình như con Mị nó gọi con…
Bà Hai run run:
- Má cũng thường nghe như vậy…
Cô Ba nhìn quanh quất một lát rồi nằm xuống, kéo mền trùm kín mặt, trấn an mẹ:
- Thôi, ngủ đi má, có lẽ con mơ…
Nhưng cô chưa kịp ngủ thì nghe có tiếng thở dài bên cạnh, rồi tiếng Mị rên rỉ:
- Cô Ba ơi, em đau bụng quá… Em sắp sinh con rồi cô Ba ơi! Cô Ba giúp em… em đau quá!
Tiếng rên rỉ khóc than rõ mồn một bên tai.
Lần này không còn nghi ngờ gì nữa. Cô Ba xích người vào trong ôm chặt lấy bà Hai, run rẩy nói:
- Má ơi, con Mị… con Mị thật rồi!
Bà Hai cố nén lo sợ hỏi con gái:
- Gì đó con?
- Nó nói…, nó nói nó sắp sinh rồi má ơi… Con sợ quá! Mị ơi, em đừng làm chị sợ…
Bà Hai ngồi dậy chắp tay khấn vái:
- Mị ơi, con sống không thác thiêng, con tha lỗi cho ông bà, con cần gì cứ nói, bà sẽ đáp ứng hết cho con. Chỉ mong con sớm được siêu thoát…
Bà Hai chưa khấn hết câu thì thấy một bóng trắng thoáng nhanh qua trước mặt, rồi tiếng khóc nỉ non nghe xa dần.
Một ngọn gió lạnh buốt thốc vào nhà làm tắt phụt ngọn đèn leo lét trên bàn thờ.
Cô Ba ôm cứng lấy mẹ, khóc nấc  lên. Bà Hai chua xót trong lòng nhưng nước mắt bà đã không còn rơi ra được nữa.
Chưa tròn một năm mà trong nhà bà mọi thứ đều tan nát hết. Một gia đình giàu có tiếng tăm, được xóm giềng nể nang kính trọng vậy mà trong một tích tắt tất cả đều sụp đổ tan tành.
Bây giờ, ông Hai trở nên điên loạn, mà nguyên nhân căn bệnh đó được người bên ngoài đồn thổi rất nhiều, bà không thể bịt miệng được.
Mấy lần cô Ba hỏi mướn người tới ở giúp việc cho ông bà nhưng không ai đồng ý.
Tiếng đồn nhà ông bà Hai bị ma ám đã bay đi rất xa, cùng với những tình tiết còn ly kỳ rùng rợn hơn cả sự thật mà hàng ngày bà phải đối mặt.
Người ta dần xa lánh ngôi nhà to lớn của bà. Có việc gì cần lắm người ta mới tìm tới, mặt mày lấm le lấm lét, vừa sợ hãi, vừa tò mò…
***
- Ông à, ông ráng ăn chén cháo đi!
Bà Hai đỡ ông Hai dậy dỗ dành.
Mấy hôm nay ông không cười không khóc nữa mà cứ nằm im ỉm trên giường, không chịu ăn bất cứ thứ gì bà đem tới.
Sáng nay bà Hai đi chợ lựa mua miếng thịt thật ngon về bằm nhuyễn nấu cháo cho ông. Trước kia, mỗi khi đau bệnh, ông vẫn thích ăn món cháo thịt bằm do bà nấu.
Vậy mà lúc này bà dỗ cách nào ông cũng không chịu há miệng, cũng không tỏ ý gì phản kháng. Ông như một cái xác, chỉ khác là còn thở và còn mở mắt mà thôi.
Bà Hai đã nhắn tin gọi hai đứa con về, nhưng mãi tới giờ vẫn chưa thấy bóng một ai.
Bà đặt chén cháo lên bàn, nhìn chồng thất vọng!
Đột ngột ông Hai nhào tới bóp chặt cổ bà, vừa cười điên loạn:
- Ha ha… cho mầy chết!... Cho mầy chết! Mầy giết tao…
Bà Hai không chống đỡ nổi, hai tay huơ huơ bất lực. Bàn tay ông Hai mỗi lúc một siết chặt cổ bà hơn. Bà quẫy đạp lung và ngã nhào xuống đất, ông Hai mất thăng bằng nên cũng ngã theo, cũng nhờ vậy bà Hai mới thoát khỏi đôi tay hung bạo của ông.
Bà vừa bò vừa lết ra sân, khản giọng gọi người cầu cứu. Nhưng nhà ở thôn quê, mỗi cái cách nhau mấy khoảng vườn thật rộng, bà có gắng sức đến đâu cũng không ai nghe thấy được.
- Má, chuyện gì vậy má?
Vừa vào tới cửa, cậu Tư kinh ngạc. Trông thấy con, bà Hai khóc nấc lên, không nói được lời nào.
Ở trong nhà, ông Hai đang nhảy múa lung tung, đập đổ tất cả những gì bàn tay ông chạm tới.
Cậu Tư dìu mẹ vô ngồi lên ván rồi lẳng lặng đến bên cha, gọi:
- Ba! Ba!
Ông Hai như không nghe thấy, tiếp tục quơ hết mấy cái tách trên bàn làm chúng rơi loẻng xoẻng. Ông cúi xuống nhặt một mảnh chai vỡ cầm lên ngắm nghía rồi bất ngờ cứa mạnh vào cổ tay, máu tuôn ra xối xả.
Cậu Tư hốt hoảng nhào tới, giằng lấy mảnh vỡ trong tay cha. Cậu đè ông xuống giường, nhưng lần này ông không ngoan ngoãn nghe theo mà chống cự kịch liệt. Máu trên tay ông chảy ra ướt đẫm vạt áo. Miệng ông vẫn nói leo lẻo:
- Máu rửa hoài không hết! Máu rửa hoài không hết!
Cậu Tư gọi lớn:
- Má, má lấy cho con cuộn dây!
Bà Hai lập cập chạy đi lấy cuộn dây thừng đem lên cho con trai, loại dây ông Hai vẫn thường dùng để quây bồ chứa lúa.
Sau một hồi vất vả, cậu Tư được sự giúp sức của mẹ đã trói được tay chân ông Hai vào giường.
Lúc ấy ông Hai mới tạm nằm yên để cho cậu Tư và bà Hai lau rửa, băng bó vết thương nơi cổ tay lúc nãy.
Vừa lúc ấy cô Ba về đến. Trông thấy cảnh tượng đó, cô Ba òa khóc, bà Hai không ngăn được tủi cực cũng nức nở khóc theo.
Cậu Tư ngán ngẫm ngồi bệt xuống thềm nhà:
- Má, ba bị như vậy từ lúc nào?
Lâu lắm rồi cậu Tư mới quan tâm đến cha như vậy.
Bà Hai, cô Ba thay nhau kể hết cho cậu Tư nghe về những biểu hiện lạ lùng của ông Hai, cả những lần họ trông thấy Mị.
Cuối cùng cô Ba kết lụân:
- Phải mời thầy về cúng cho ba thôi!
Cậu Tư nhíu mày suy nghĩ thật lâu:
- Thôi được, má với chị muốn làm sao thì làm! Thật tình thì em không tin mấy chuyện ma quỷ này đâu. Có thể tại ba đã làm điều đại ác như vậy, rồi ba lo lắng sợ hãi, thần kinh căng thẳng quá nên trở thành như vậy. Nhưng nếu má và chị đã nói vậy thì em cũng nghe theo.
Chiều hôm ấy cô Ba lặn lội bơi xuồng qua làng bên mời thầy pháp về cúng cho cha.
Ông thầy pháp cỡ ngoài năm mươi tuổi. Thân người bé choắt nhưng đôi mắt lại to một cách dị thường.
Người ta gọi ông bằng Thầy Bảy Nước Lạnh. Vì sau khi làm các phép trừ tà, bao giờ ông cũng cho con bệnh uống một ly nước lạnh thật lớn.
Đang nằm im, thấảy thầy Bảy bước vào, ông Hai chừng như muốn bật dậy. Nhưng vì tay chân vẫn còn bị trói chặt nên ông cứ co rúm người lại một cách  đầy sợ hãi.
Không thèm ngó ngàng gì tới con bệnh, thầy Bảy xăm xăm đi tới bàn thờ rút mấy nén nhang ra, chậm rãi châm lửa rồi lầm thầm khấn vái.
- Cho tôi xin 1 ly nước lạnh!
Ông nói ngắn gọn.
Cô Ba lật đật chạy xuống nhà sau lấy lên một ly cối đầy nước đưa cho ông.
Thầy Bảy cầm bó nhang đang cháy huơ huơ mấy vòng xung quanh ly nước, xong vẩy hết nước xuống khắp khu vực xung quanh ông Hai.
Ông Hai rúm ró trên giường, mắt nhắm nghiền lại không dám hé ra.
Ra dấu cho cô Ba lấy thêm ly khác, thầy Bảy mới tuần tự cắm từng nén nhang lên bàn thờ.
Ly nước thứ hai được bưng lên. Một lần nữa thầy Bảy lại cung kính bưng ly nước ngang trán đứng trước bàn thờ đọc những câu thần chú nghe như vô nghĩa.
Xong đâu đấy, thầy Bảy nhẹ nhàng ngồi xuống cạnh bên ông Hai, dùng một nhánh cây nhỏ nhúng vào ly nước rồi vẩy khắp lượt lên mặt ông Hai.
Người ông Hai bỗng nhiên co giật liên tục, bọt mép sùi ra, miệng bật bật lên một tiếng hú dài thê thiết. Khi tiếng hú dứt cũng là lúc ông Hai lịm đi, bất tỉnh.
Cô ba, cậu Tư lo sợ sấn đến gần bên cha nhưng thầy Bảy gạt ra:
- Không sao đâu, chút xíu nữa là tỉnh lại ngay thôi! Cứ để yên như vậy, đừng ai động vào…
Vừa kéo tay áo lau mồ hôi trán, thầy Bảy vừa quay sang nói với bà Hai:
- Tui xin báo trước để bà và gia đình chuẩn bị tinh thần! Nghịêp của ông nhà đây nặng lắm, tôi không đủ sức giải được đâu! Tôi chỉ tạm thời trấn cái vong đó mà thôi, không cho nó phá phách nữa. Nếu trục hẳn nó ra khỏi thân xác ông thì ông sẽ chết ngay lập tức, còn không thì ông cứ sống vật vờ như vậy…
Bà Hai há hốc miệng không nói nên lời. Cô Ba mếu máo hỏi:
- Thưa thầy, xin thầy nói rõ một chút…
- Nói tóm lại là như vầy, tuy thân xác ông Hai còn đây nhưng hồn của ổng đã lìa xác lâu rồi! Ổng sống được là do cái vong hồn kia dựa vô, nếu đuổi nó ra thì ổng sẽ chết thật sự.
Dừng một lát thầy Bảy tiếp:
- Một khi cái vong đó không thích dựa vô ổng nữa thì ổng cũng sẽ chết! Bây giờ tôi để lại đây mấy đạo bùa, chút nữa ông nhà tỉnh dậy, bà lấy một đạo đót lên rồi hòa với một ly nước lạnh dỗ cho ổng uống. Nhớ là một ly đầy đó nghe! Mỗi ngày uống một đạo như vậy, liên tiếp trong bảy ngày. Sau đó tôi sẽ tới cúng thêm lần nữa…
Bà Hai với cô Ba còn đang bàng hoàng sửng sốt, không tin là chồng và cha mình đã thật sự chết từ lâu, giờ thân xác đó chỉ là nơi nương nhờ của hồn ma bóng quế…
Cầm mấy đạo bùa thầy Bảy đưa cho, cậu Tư bán tín bán nghi:
- Thầy, thầy có gì chứng minh là hồn ba tôi không còn nữa?
Ngó sửng cậu Hai một lúc rồi thầy Bảy bật cười ngất:
- Tôi không phải nhà khoa học nên không thể chứng minh bất cứ điều gì với cậu được. Những lời tôi nói, cậu tin cũng được, không tin cũng không sao. Tôi làm chuỵên này chỉ là làm phước cứu người, đâu có nhận thù lao. Tôi không có ích lợi gì khi gạt gia đình cậu. Tin hay không tùy cậu! Tôi muốn nói thêm với cậu và gia đình điều này, vong hồn đang nương nhờ thân xác ông nhà không phải là loại ma quái tầm thường đâu, nó đã thành quỷ rồi đó! Có lẽ lúc thác đi vào đúng cái giờ khắc… mà thôi, những điều này tôi có giải thích cậu cũng không hiểu được. Nhưng mà… có thể nó là một con quỷ không độc ác…
Vừa dứt câu, thầy Bảy đi thẳng ra cửa, không thèm chào hỏi ai. Bà Hai sực tỉnh lật đật chạy theo, vừa rối rít cảm ơn vừa xin ông bỏ qua cho thằng con trai không biết phải quấy của bà.
Thầy Bảy không nói gì, chỉ nhìn bà Hai, mỉm cười độ lượng rồi vộ ivã bước đi. Khi cái bóng bé choắt của ông khuất hẳn sau hàng rào bà Hai mới quày quả trở vô nhà.
Cô Ba ngồi ôm đầu khổ sở, cậu Tư thì tư lự nghĩ suy, cứ đứng im giữa nhà trên tay vẫn cầm mấy đạo bùa thầy Bảy đưa cho lúc nãy.
Trên chiếc giương bên cạnh, ông Hai đã tỉnh. Ông mở mắt, sợ hãi nhìn quanh nhà, miệng lắp bắp:
- Nó đâu? Nó đâu?
Nghe tiếng cha hỏi, cô Ba mừng rỡ đứng bật dậy chạy vội đến định đỡ cha lên, nhưng khi tay cô chưa chạm đến tay ông Hai, cô đã giật mình rụt lại. “Thân xác ông Hai còn đây nhưng hồn của ổng đã lìa xác lâu rồi! Ổng sống được là do cái vong hồn kia dựa vô… Nó không phải là loại ma quái tầm thường đâu, nó đã thành quỷ rồi đó!” Những lời của thầy Bảy lại vang lên khiến cô Ba vô cùng hoảng sợ. Tình thương yêu cha vẫn đong đầy trong cô, nhưng thật sự cô không dám tới gần hơn chút nữa! Bên trong hình hài đó của cha cô là một con quỷ đang ẩn núp! Một con quỷ! Trời ơi…
Cậu Tư đến ngồi cạnh cha, nhẹ nhàng mở dây trói cho ông. Ông Hai níu lấy tay con trai như cầu cứu:
- Đừng cho nó tới đây nữa nghe…
Cậu Tư gật đầu:
- Dạ, không tới nữa đâu ba!
Nghe con trai trấn an, ông Hai tươi tỉnh hẳn. Bà Hai nuốt nước mắt:
- Ông ăn cháo nghen, tui đi hâm lại…
Ông Hai không trả lời, ánh mắt lại trở nên lờ đờ, man dại…
Từ hôm ấy ngày nào cậu Tư cũng về nhà. Cậu lại trở về như ngày xưa, là một đứa con ngoan, biết quan tâm lo lắng mẹ cha già. Có con trai bên cạnh, bà Hai cũng cảm thấy yên tâm hơn.
Vả lại từ hôm thầy Bảy tới cúng lần thứ hai tới giờ, bệnh tình ông Hai có chuyển biến khác. Tuy ông Hai vẫn ngơ ngơ ngẩn ngẩn, nhưng ông không nổi cơn la hét hay khóc cười gì nữa.
Ông chỉ lừ đừ, lặng lẽ không nói không rằng. Tới bữa, ai cho thì ăn, không cho thì thôi, chẳng bao giờ ông kêu đói.
Ông ăn ít dần đi, mỗi ngày ông chỉ ăn vài ba muỗng cầm hơi nên sứt khỏe ông dạo này sa sút hẳn.
Tóc ông bạc phơ, tóc bà Hai cũng thế!
Cậu Tư nhìn cha mẹ mà lòng đau quặn thắt.
Mười ngày sau thì ông Hai đi.
Ông ra đi lặng lẽ không ai hay biết. Lúc hừng sáng bà còn ép ông ăn được hai muỗng cháo. Đến bữa cơm trưa, bà đem đến dỗ ông ăn thì người ông đã cứng lạnh rồi!
***
Hai năm sau.
Bà Hai lúc này hai mắt đã lòa, không nhìn rõ được! Trước mắt bà tất cả đều là những chiếc bóng mờ ảo, không rõ hình hài.
Cậu Tư cưới vợ và đã nghỉ làm trên quận, hai vợ chồng về quản lý công việc gia đình.
Vợ cậu Tư nay đã có thai gần đến ngày sinh nở.
Từ sau khi ông Hai chết đi, trong nhà bà Hai dần dần có sinh khí lại. Lâu lâu cô Ba về chơi dắt theo hai con nhỏ, chúng cười đùa giỡn hớt khiến bà Hai cảm thấy ấm lòng.
Rồi khi cậu Tư chịu nghe lời bà đi cưới vợ, bà mừng như bắt được vàng. Lâu nay bà chỉ sợ cậu Tư không ngó ngàng gì đến chuyện lấy vợ sinh con, thì dòng dõi ông Hai chồng bà tới đây là kết thúc. Cậu Tư là người duy nhất còn lại trong dòng họ, nên khi vợ cậu mang bầu, bà Hai mới được thỏa lòng thỏa dạ…
Đêm nào trước khi ngủ bà Hai cũng không quên đọc kinh cầu siêu cho ông Hai, cho Mị.
Mãi mãi bà không quên được cô. Bà không nói ra vì sợ con dâu lo lắng, nhưng từ hồi ông Hai chết tới giờ, Mị vẫn chưa chịu rời bỏ gia đình bà.
Thỉnh thoảng trong đêm bà vẫn nghe tiếng chân nó bước đi khe khẽ, tiếng khóc nỉ non, tiếng hát ru con buồn rười rượi…
Nhưng lạ một điều là chưa khi nào cậu Tư nghe hay thấy bất kỳ điều gì không bình thường, vì vậy cậu luôn đinh ninh tất cả những gì mẹ và chị gái kể chỉ là ảo tưởng do hai người quá lo lắng sợ hãi mà ra.
Bà Hai cũng thầm mong Mị muốn về cứ về, muốn khóc cứ khóc… Muốn nhát bà thì nhát, bà cũng đã quen với cảm giác sợ hãi rồi, chỉ xin Mị đừng làm cho nhà này một nữa xáo trộn lên.
Những lời van xin của bà hình như Mị không nghe thấy…
- Anh ơi anh! Anh coi cái gì nè?
Nghe tiếng vợ gọi hớt hãi, cậu Tư vội vàng bước nhanh vào buồng. Cô Thảo vợ cậu Tư mặt mày xanh lét, tay run run chỉ vào cái giỏ xách để trên giường, mếu máo:
- Cái gì vậy anh?
Cậu Tư đổ dốc hết đồ đạc trong giở ra đất. Đó là giỏ đồ cô Thảo soạn sẵn để chuẩn bị đi sinh con. Trong đó có mấy bộ quần áo trẻ sơ sinh, một xấp tả lót, khăn, dầu…
Trước mắt cậu Tư và Thảo lúc này, toàn bộ đồ đạc trong giỏ đều vây đỏ những vệt máu.
Quá kinh ngạc, cậu Tư hỏi với ra ngoài:
- Má! Má ơi, mấy bữa nay mà có lấy cái giỏ đồ đi sanh của vợ con không?
Bà Hai đang ngồi trên võng, thủng thẳng đáp:
- Cái thằng hỏi lạ, tao lấy giỏ đồ đi sanh của vợ mầy làm gì? Có gì vậy con?
- Dạ không, không có gì…
Cậu Tư chối quanh.
Cậu ngồi xuống lật qua lật lại mấy cái áo xem xét thật kỹ. Đây rõ ràng là vết máu chứ không phải vết trầu. Máu ở đâu? Máu của ai? Mà phải chảy nhiều máu lắm mới nhuộm khắp đồ đạc thế này?
Cậu Tư nghĩ muốn nát óc vẫn không tài nào giải thích được. Cuối cùng, để trấn an vợ, cậu đứng lên giả vờ như không có gì quan trọng:
- Chắc mèo bắt chuột tha vô ăn trong này chứ gì! Thôi em, bỏ đi, mai mình mua cái khác!
Cô Thảo nghe chồng giải thích vậy cũng thấy hơi yên tâm. Cô tiếc của:
- Để em giặt sạch lại, mua làm gì tốn kém anh!
Cậu Tư cười, nhìn vợ âu yếm.
Cô Thảo xuất thân con nhà nghèo, quen sống tiện tặn, nên từ khi về làm vợ cậu Tư, mặcdù tiền của trong nhà không thiếu kém nhưng cô vẫn chắt chiu dành dụm.
Cái tính tình hiền lành, chịu thương, chịu khó của cô Thảo đã khiến cậu Tư thật sự yêu thương cô sau mấy tháng thành chồng thành vợ.
Lúc đồng ý cưới cô, cậu Tư chỉ muốn làm vui lòng mẹ già chứ hoàn toàn không có tình cảm, bây giờ thình chồng nghĩa vợ giữa họ đã keo sơn khắn khít lắm rồi.
Đứng nhìn theo vợ ôm mớ áo quần dơ ra ao ngồi giặt, lòng cậu Tư trào dâng lên một tình thương khó tả.
Đôi lúc nhớ tới Mị, cậu Tư vẫn thấy đau lòng lắm, nhưng cậu nhắm mắt cố xua đi hình bóng đó, cố đào sâu chôn chặt trong lòng…
Dù có cố gắng chà xát đến mấy cô Thảo vẫn không cách nào giặt sạch được mớ áo quần đó. Cô đành phải bỏ hết mà đi mua cái khác.
Vừa mua buổi sáng thì đêm đó cô chuyển dạ.
Cô bắt đầu đau bụng từ chập tối. Cậu Tư chạy đi rước mụ về lo cho vợ. Bà mụ thăm khám một lúc rồi nói:
- Sắp sinh rồi đó! Thằng Tư xuống coi nấu cho bà nồi nước…
Vậy mà cô Thảo đau vật vã đến tận nửa đêm đứa bé mới chịu chui ra. Bà Hai mắt không nhìn thấy gì nhưng vì quá lo lắng nên cũng vào ngồi bên cạnh. Cậu Tư thì thập thò trước cửa buồng, lòng hồi hộp, lo âu.
Cậu nghe tiếng vợ kêu khóc, tiếng bà Hai dỗ dành, tiếng bà mụ động viên mà rối bời trong dạ.
Cậu Tư vừa thở phào khi nghe bà mụ reo lên “sinh rồi!” thì lại sửng người khi nghe tiếp tiếng thét kinh hoàng của bà mụ.
Cậu hốt hoảng xô cửa nhào vô.
Trên tay bà mụ là một đứa bé đỏ hỏn, giữa trán có một con mắt thật to đang mở thao láo, nó nhoẻn miệng cười, hàm đầy những răng!...
Bà mụ run lẩy bẩy, muốn hất đứa bé ra khỏi tay mình nhưng không hiểu sao bà cứ bê nó trước mặt…
Cô Thảo chồm dậy hỏi:
- Chuyện gì vậy bà?
Bà Hai cũng hoảng hốt:
- Chuyện gì vậy?
Bà mụ còn đang há hốc mồm chưa thể nào bật ra được tiếng nói thì nhanh như cắt, cậu Tư bước tới đỡ lấy đứa bé, rút vội chiếc khăn bên cạnh choàng kín lấy nó, cố lấy hết bình tỉnh trả lời mẹ và vợ:
- Không, không có gì đâu! Chỉ là… chỉ là đứa nhỏ hơi yếu! Em nằm nghỉ đi! Để anh với dì ba lo cho!
Thấy bà Hai nhổm người lên, cậu Tư liền nói:
- Má ở đây với vợ con đi!
Rồi quay sang bà mụ:
- Bà theo con ra đây lo cho đứa bé…
Bà mụ riu ríu bước theo cậu Tư để lại hai người phụ nữ trong phòng với bao nhiêu lo âu thắc mắc.
Cô Thảo mếu máo:
- Má, con của con bị làm sao vậy má?
Bà Hai chừng như linh cảm được điều không may, nhưng bà sợ ocn dâu quá xúc động lúc mới vừa sinh nở sẽ không hay nên nói:
- Chắc nó yếu chút đỉnh, để chồng con với bà mụ lo cho nó được rồi, con nhắm mắt ngủ chút đi, đau đớn từ tối tới giờ, còn đâu sức lực.
Bất đắc dĩ cô Thảo phải nằm trở xuống giường, thân thể rã rời bải hoải nhưng cô không thể nhắm mắt ngủ như lời bà Hai được, cô lo sợ cho đứa con vừa chào đời mà cô còn chưa kịp nhìn thấy mặt đó. Nó bị làm sao rồi? Trời ơi, cầu trời cho nó được bình yên…
Ra tới nhà ngoài, cậu Tư lấy hết bình tĩnh nhìn lại đứa bé lần nữa. Nó lại toét mịêng ra cười với cậu, hàng răng sáng lấp lóa trong đêm. Con mắt giữa trán của nó đảo qua đảo lại.
- Tư ơi… Tư…
Bà mụ nói không ra tiếng.
Cậu Tư đặt đứa bé xuống ván, quay lại nói với bà mụ:
- Bà ơi, con van bà, con xin bà đừng đem chuỵên này nói ra ngoài. Con sợ má và vợ con không chịu đựng nổi! Bà giúp con đi bà…
Bà mụ bật khóc:
- Bà biết làm gì giúp con đây? Con yên tâm đi, bà sẽ không nói gì với ai đâu! Đứa nhỏ này… bây giờ con tính sao?
Cậu Tư đưa hai tay ôm đầu rên rỉ:
- Con cũng không biết phải tính làm sao nữa! Con phải nói gì với vợ con đây hả bà?
Lấy lại được chút bình tĩnh, bà mụ với nhiều năm kinh nghiệm trong các trường hợp ngoài ý muốn khuyên cậu Tư:
-  Con nên nói với mẹ và vợ con là đứa nhỏ bị ngộp, chết rồi…! Như vậy họ sẽ đau đớn lắm, nhưng vẫn đỡ hơn họ phải nhìn thấy…
Cậu Tư nhìn lại đứa nhỏ sơ sinh trên ván. Nó nằm đó, tay chân huơ huơ linh hoạt…
- Trời ơi… rồi con phải giải quyết nó sao đây?
Bà mụ ngập ngừng:
- Con nên… đem chôn nó!
Cậu Tư hốt hoảng:
- Nhưng mà… Bà ơi, nó… nó còn sống mà?
- Nó sống, nhưng nó đâu phải là người, nó đâu phải là con của con! Theo bà nghĩ, nó là một thứ con ranh con lộn, đầu thai lên để quấy quả gia đình vậy thôi, con có nuôi nó cũng không được đâu! Nghe lời bà, đem chôn nó đi con!
Bà Hai vừa dứt tiếng thì nghe có tiếng kêu trời rồi tiếng ngã phịch xuống đất. Cả hai giật mình ngó lại thì thấy Thảo nằm gục dưới sàn nhà.
Do quá lo lắng cho con, cô Thảo không thể nằm im trên giường được, cô lần mò ra ngoài để xem con mình bị làm sao, không ngờ, vừa ra cô đã nghe được câu chuyện khủng khiếp này.
Đứa bé trên ván bỗng cười lên hắc hắc như trẻ vài tháng tuổi đang bị người thân thọc lét.
Bỏ mặc nó, cậu Tư cùng bà mụ đỡ Thảo vô buồng, vừa xoa bóp, vừa hơ lửa khắp người, mãi một lúc sau cô mới tỉnh.
Trong lúc chộn rộn đó, bà Hai cũng đã lờ mờ hiểu ra câu chuyện. Hai dòng nước mắt nóng hổi lại lăn dài trên đôi má nhăn nheo của bà…
- Con em đâu? Anh cho em nhìn con đi…
Câu đầu tiên Thảo nói khi vừa tỉnh lại làm cậu Tư đau thắt ruột gan. Cậu nắm chặt tay vợ:
- Em ơi, em… đừng nên nhìn nó! Em cứ coi như… coi như mình không may, con mình… bị ngộp… chết rồi! Mình còn trẻ, mình sẽ sanh đứa khác, nghe em?
Thảo khóc nấc lên:
- Không! Em phải nhìn thấy con! Dù nó thế nào anh cũng phải cho em nhìn nó…
Thảo gần như lả đi trên tay chồng.
Bà mụ nói nhỏ:
- Thôi, cho nó nhìn con nó một lần đi Tư…
Tiếng cười của thằng bé ở bên ngoài vang lên lanh lảnh trong đêm tối, khiến ai cũng nổi da gà.
Cậu Tư nặng nhọc đứng lên, lê bước ra nhà ngoài đưa tay nhấc đứa bé đem vào buồng cho vợ.
Vừa thấy chồng bế con vào, cô Thảo chồm lên kéo chiếc khăn đang quấn quanh đứa bé, nhìn thấy nó và một lần nữa cô ngã ra bất tỉnh.
Đón đứa bé từ tay cậu Tư, bà Hai bỏ mặc con trai cùng bà mụ lo cho con dâu. Bà lặng lẽ lần dò bế nó ra sân. Bà quỳ xuống, khẽ khàng đặt đứa bé vào lòng rồi run run đưa bàn tay sờ mó khắp trên thân thể nó.
Khi sờ đến khuôn mặt, bà thấy như tim mình nghẹn lại. Đứa bé níu chặt tay bà, kéo vào mịêng nó rồi nhai nhai như đang đùa giỡn.
Rất nhẹ nhàng, rất chậm rãi, bà Hai cởi chiếc áo bà ba đang mặc trên người, và cả chiếc khăn vắt hờ trên vai. Bà trải xuống lớp cỏ đẫm ướt sương đêm rồi đặt đứa bé xuống đó. Bà quỳ bên cạnh thầm thì như đang nói chuyện với người thân:
- Mị ơi, là con phải không? Bà biết là con rồi! Con chết oan chết ức, gia đình bà thiệt có tội lỗi với con. Nhưng con ơi, con nghĩ lại mà coi, ông Hai cũng đã đền mạng cho con rồi… Nhà này trước nay ai cũng thương yêu con, đâu có ai bạc đãi con điều gì… Xin con nghĩ tình mà dung thứ cho gia đình bà…
Thằng Tư nó thiệt lòng với con chứ đâu phải lừa tình phụ nghĩa gì mà con làm khổ nó? Con chết đi nó cũng đủ khổ lắm rồi con ơi! Nếu con cần thêm người để đền cho đủ hai nhân mạng, thì bà đây, con muốn làm gì bà thì con cứ làm cho hả lòng hả dạ, rồi con buông tha giùm thằng Tư nghe con…
Bà Hai cứ quỳ bên đứa bé mà nói như mê man. Bà đem hết tất cả nỗi niềm đắng cay tủi cực mà bà phải chịu đựng từ sau khi Mị chết mà kể lể. Cậu Tư bưng đèn ra đứng bên cạnh từ lúc nào bà cũng không hay.
Từ lâu nay cậu Tư không tin những chuỵên dị đoan mê tín, nhưng từ lúc nhìn thấy đứa bé, tự nhiên trong lòng cậu dậy lên mối nghi ngờ. Phải chăng tất cả những gì trước đó mẹ và chị kể đều là sự thật? Phải chăng hồn oan của Mị chưa siêu thoát được vẫn còn đeo đẳng quanh đây?
Đau đớn, chua xót… cậu Tư quỳ xuống bên mẹ, bế đứa bé lên áp chặt vào lòng:
- Mị ơi… có phải dúng là em không Mị? Cho anh biết đi, có đúng là em?
Đứa bé chạm tay lên mặt cậu Tư như muốn lau dòng nước mắt nóng hổi đang chảy tràn trên má cậu. Con mắt to giữa trán của nó khẽ chớp rồi cũng trào ra dòng lệ.
Nó nhìn cậu Tư bằng ánh mắt thiết tha, trìu mến. Cậu Tư ôm chặt đứa bé vào lòng khóc nghẹn ngào…
Gió đêm rên xiết thổi, ngọn đèn vàng vọt chao nghiêng. Đứa bé sờ tay lên mặt cậu Tư lần nữa rồi từ từ nhắm mắt, thở ra một hơi nghe như tiếng rên nho nhỏ…
Một con chim đêm bay vụt ngang qua, thả xuống những tiếng kêu lạnh sắc. Đứa bé trong tay cậu Tư giờ đã xuội lơ, không còn thở nữa…
***
Toàn bộ câu chuyện mà tôi tìm hiểu được là như vậy.
Cậu Tư trong chuyện trạc tuổi với ba của bác Hai Thiện, người kể chuyện ma hay nhất làng tôi.
Từ sau đêm đó, cô Mị không lần nào quay về nhà bà Hai nữa. Vợ chồng cậu Tư sinh được sáu người con, bốn trai hai gái. Bây giờ tất cả đều ăn nên làm ra, gia đình giàu có.
Khi đi lượm lặt từng chi tiết cho câu chuyện này, tôi có trực tiếp nói chuyện với cháu rai cậu Tư. Anh ấy nói rằng ban đầu gia đình cũng muốn giấu kín hết mọi chuyện, nhưng ở đời mà, có cái gì giữ mãi được đâu, chuyện gì rồi cũng sẽ phơi bày ra ánh sáng.

Cậu Tư quyết định phải kể hết ngọn ngành cho con, cho cháu rõ để cho con cháu không phải hoang mang bởi những lời đồn thổi. Đồng thời đó cũng là một lời răn dạy: Sống ở trên đời, đừng bao giờ làm điều ác, dù với mục đích gì đi nữa thì một khi đã gây ra điều ác ắt sẽ bị quả báo ngay thôi.
Có thể tôi không có được cái duyên kể chuyện như bác Hai Thịên xưa kia đã từng làm mê mẩn cả lũ trẻ chúng tôi, nhưng tôi muốn kể cho các bạn nghe lại chuỵên này nhằm giúp các bạn giải khuây, và cũng muốn chuyển tải lời răn dạy của cậu Tư đó nữa…
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:07:34 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 20:28:52
MỘT LẦN TÔI BỊ NHÁT MA
 
Thứ năm, lớp tôi chỉ học có ba tiết. Về sớm, tôi định theo các bạn đi chơi nhưng chợt nhớ hôm nay cô Chín – chủ nhà mà tôi đang trọ học – xuống Cần Thơ có việc, nên tôi đi thẳng về nhà.
Vừa thấy tôi, chị Lượm reo lên:
- Tụi chị chờ em nãy giờ nà!
Tôi liếng lắc:
- Chờ em chi? Cho ăn kẹo hả?
Chị Đẹp dí tay vào trán tôi, giễu cợt:
- Còn khuya nè em! Chờ em về để phong cho em làm… “bà chủ”!
Chị Lên giải thích rõ hơn:
- Tụi chị phải về quê để sáng mai đi làm giấy tờ gấp, tối nay em chịu khó ở nhà một mình, đừng buồn nghen!
Tôi nhăn mặt, ỉu xìu:
- Đi một lúc ba người sao? Bỏ mình em…
Chị Đẹp đưa tay lên mũi lêu lêu:
- Tính khóc nhè hả cưng? Hết kẹo rồi!
Tôi ngồi xuống ghế đá, vừa cởi giày vừa cằn nhằn:
- Thôi đi, chị nào ở lại với em một người đi! Tự nhiên bắt người ta ở nhà một mình, buồn chết đi được!
Chị Đẹp kề tai tôi hỏi nhỏ:
- Bộ… sợ ma hả?
Tôi vênh mặt lên, cột hai chiếc giày lủng lẳng lên tay cầm xe đạp:
- Sức mấy mà sợ! Quỷ sa – tăng em còn hổng ngán nói gì ma!
- Ngon quá ta! Em ngon thì em ở nhà một mình nghe em. Tối có bị ma nhát đừng có la nghe em! Em biết điều, xuống nước nhỏ miễn may tụi chị còn “rủ lòng từ bi” ở lại với em, nghe em!
Cứ sau môci một tiếng “nghe em” là chị Đẹp cốc vào đầu tôi một cái. Chị Lượm nhỏ nhẹ:
- Thôi, chọc nó hoài!
Rồi quay sang tôi, chị bảo:
- Tụi chị đi nghen! Trưa mai vô mua bánh cho em, hén?
Tôi phụng phịu không thèm trả lời.
Các chị ra khỏi cổng rồi tôi còn đứng nhìn theo, nghĩ cũng tức, tự nhiên kéo về hết bỏ lại một mình tôi, biết vậy tôi cũng nhắn chị lên chở về thăm nhà cho rồi!
Tới chỗ rẽ ở ngã ba, chị Đẹp còn quay lại đưa tay lên mũi trêu tôi lần nữa. Tôi giơ nấm đấm dọa chị rồi lửng thửng vào nhà.
Chủ nhà trọ tôi ở là một phụ nữ tuổi sáu mươi, hiền lành đức độ. Chúng tôi gọi cô là cô Chín. Ngày trước cô là giáo viên, sau này nghỉ dạy ở nhà tu hành, sống chủ yếu nhờ vào nguồn viện trợ của một người em ở nước ngoài gởi về đều đặn hàng tháng.
Cô cho chúng tôi ở trọ đi học chủ yếu là để nhà cửa đỡ vắng vẻ, với lại mỗi lần đi cúng chùa năm bữa nửa tháng thì có người trông chừng nhà cho cô. Vì vậy, tiền trọ gần như cô không lấy, thỉnh thoảng gia đình chúng tôi mang lên biếu cô một ít gạo, nếp hoặc mấy thứ trồng trong vườn nhà.
Cô Chín không kinh doanh nhà trọ nên trước khi nhận đứa nào vô ở nhà mình cô đều dò xét râùt kỹ. Nào là xem mặt mày tướng tá, hỏi về thành tích học tập, thành phần gia đình… Bởi vậy, được ở trọ nhà cô Chín là một niềm vinh dự không nhỏ đối với chúng tôi.
Hiện tại chúng tôi ở đây có bốn người: Tôi, học sinh lớp mười, chị Đẹp, Chị Lên và chị Lượm cùng học chung một lớp mười hai. Chúng tôi sống với nhau rất vui vẻ, hòa thuận.
Không phải đây là lần đầu tiên tôi ở nhà một mình, nhưng hôm nay đi học về sớm, không có cô Chín nhà, định cùng các chị “vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm” một bữa, vậy mà…!
Vừa dọn dẹp nhà cửa tôi vừa hát nghêu ngao. Xong công việc, tôi đóng cửa nhà bếp lại cẩn thận, lên nhà trên mở đèn rồi ra sân ngồi chơi.
Tối đến, sau khi học bài xong, tôi nằm dài trên đi – văng nhàn trăng qua cửa sổ. Lát sau tôi đóng cửa sổ lại ngủ sớm. Thường ngày khi ngủ tôi vẫn để cửa sổ cho mát, vì ở đây không có quạt máy, nhưng tối nay ở nhà một mình để cửa cũng hơi… ớn! Mặc dù cửa sổ phòng tôi không đóng chặt được, người đứng bên ngoài kéo mạnh là bật ra ngay.
Một tiếng động nhẹ ngoài hè làm tôi chợt thức giấc. Nhổm dậy nhìn vào mặt số trên chiếc đồng hồ, tôi biết lúc đó là mười giờ hai mươi ba phút. Một tiếng động nữa tiếp theo làm tôi lo lo, mắt nhìn chằm chằm vào dãy số nhấp nháy: Mười giờ hai mươi bảy phút, rồi mười giờ ba mươi hai phút… Yên lặng!
Tôi nghĩ chắc tiếng động khi nãy là do mận rụng, vì sát bên cửa sổ phòng tôi có một cây mận hồng đào rất say trái, nó vẫn rụng lộp độp , nhưng rõ ràng tiếng động ban nãy nghe không giống tiếng mận rụng chút nào.
Thôi kệ đi, tiếng gì thì tiếng, giờ hết rồi mình ngủ thôi! Tôi nghĩ vậy và nhét đồng hồ xuống dưới gối, nằm xuống nhắm mắt lại định ngủ tiếp thì… tôi nghe rõ ràng có tiếng rên hừ hừ yếu ớt ngoài hè!
Lạnh toát cả người, tôi kéo mền trùm kín, nằm yên không dám nhúc nhích.
Tiếng rên càng lúc càng rõ, khi dồn dập, khi đứt quãng. Tôi nằm chết cứng thân thể, nhưng trí tưởng thì lại hoạt động mạnh vô cùng. Tiếng rên đó là của ai? Một người bị thương nặng? Không, tường rào cao thế làm sao người bị thương vào được! Vậy thì… chỉ có ma thôi!
Ban chiều tôi nói cứng với chị Đẹp để giả bộ “anh hùng”, chứ bây giờ thì tay chân tôi đã cóng lại, không thể nhấc lên được. Lưỡi cũng líu lại rồi nên dù muốn la làng cũng không thành tiếng. Mà có la cũng vô ích thôi, nhà rộng mênh mông, tường dày cửa kín, có đánh trống hát bội trong này đi nữa cũng chẳng ai nghe, nói gì một tiếng la yếu ớt của một đứa như tôi. Vì biết thế, tôi đành nằm yên chờ… ma chui vào cửa sổ!
Những tiếng rên ban nãy thưa dần rồi dứt hẳn. Đêm trở lại yên tĩnh. Khoảng vài phút sau tôi nghe có tiếng nói chuyện rì rầm:
- Lạ quá, ngày thường hễ nghe tiếng động là nó thức liền mà?
Có tiếng chị Lượm:
- Hay là nó ngủ ở bộ ván đằng trước?
- Không đâu! Trong phòng còn có đèn ngủ kìa!
Chị Đẹp quả quyết.
Chị Lên bàn:
- Thôi, không giỡn nữa! Muỗi cắn quá trời rồi, kêu nó dậy đi!
Bây giờ thì tôi không còn lo lắng gì nữa, tôi biết rõ “âm miu” của mấy chị nầy rồi. A ha, làm cho tôi chết điếng thì sẽ biết tay tôi!
Cánh cửa sổ bật ra, chị Đẹp trèo lên giật giật góc mùng:
- Ê, nhỏ! Dậy mở cửa, nhỏ!
Tôi vẫn trùm mền, ung dung đáp:
- Hổng mở!
Chị Lên ngạc nhiên:
- Bộ nãy giờ em chưa ngủ hả?
Tôi nói tỉnh khô:
- Ngủ đâu mà ngủ! Mấy chị đi đâu về mà phá dữ vậy?
Chị Đẹp khen:
- Con nhỏ này coi vậy mà dạn quá ta! Tụi chị tính nhát em một bữa, thử coi lá gan của em bao lớn…
Tôi ngồi dậy, mền quấn quanh người, giả bộ tỉnh bơ kéo dài giọng:
- Xí… ai thèm sợ! Ma rên tức là ma bệnh, mà bệnh thì yếu xìu… Ai thèm sợ!
Nghe tôi “phân tích cứng”, chị Đẹp xuống giọng:
- Rồi! Rồi! Mấy chị chịu tài gan dạ của nhỏ rồi! Giờ bước ra mở cửa đi, chị cho ăn xôi, cả soóc – dừa nữa nè!
Tôi nằm dài xuống cất giọng hách dịch:
- Người hùng không thèm nhận của đút lót! Mấy chị muốn làm ma, xin mời ngủ ngoài sân với ma! Em ngủ đây, đừng kêu nữa!
Chị Lên xuống nước nhỏ:
- Mấy chị giỡn chút xíu đừng giận mà! Mở cửa giùm đi, ở đây muỗi cắn quá…
Tôi lên giọng:
- Mấy chị có học Bộ luật hình sự chưa? Phá giấc ngủ của người khác, mà nhất là người đó lại là người anh hùng thì sẽ… gỡ lịch ba năm đó.
Ba chị thay nhau năn nỉ, chị Lên vừa dập muỗi chanh chách vừa nằn nì khiến tôi cũng… “mủi lòng” nên ngồi dậy nói:
- Mấy chị chờ chút xíu, em đi dánh răng rồi tính…
- Trời ơi, mở cửa không lo mở mà lo đi đánh răng…
Tôi bỏ ngoài tai lời càu nhàu của chị Lên, đủng đỉnh hồi lâu mới trở lên.
- Đâu, soóc – dừa của em đâu?
Tôi hỏi.
- Đây nè, mở cửa đi rồi chị đưa cho!
Chị Đẹp sốt ruột giơ cao bịt soóc – dừa cùng gói xôi cho tôi nhìn thấy.
- Không được, đưa đây, em ăn xong mới có “năng lượng” để mở!
Tôi cương quyết.
- Rủi ăn xong em dở chứng hổng mở thì sao?
Chị Lượm nghi ngờ.
- “Người hùng” không ăn mất lời hứa!
Tôi nói kiểu cách.
Tôi chậm rãi thưởng thức cái vị béo ngậy của soóc – dừa nơi đầu lưỡi làm chị Lên tức sôi cả người:
- Bình thường nó ăn nhanh như xe hồng thập tự chạy, còn bây giờ lại như rùa lật ngửa!
Tôi khoái chí, nhoẻn miệng cười:
- Em sợ đau bao tử! Vả lại, nhai lâu thì xương hàm của mình nó mới phát triển, sâu răng không tấn công được. Em mới đọc bài báo nói vậy đó!
- Thôi thôi, ăn nhanh lên cho thiên hạ nhờ, ở đó mà nói lung tung!
Chị Đẹp la lên.
Tôi bằng lòng với sự “đày đọa” nãy giờ nên bảo, giọng giống y như chị Đẹp hồi chiều:
- Đáng lẽ ra em ăn hết bịt soóc – dừa này, ăn hết gói xôi này mới mở đó nghe chị, nhưng thấy chị biết điều, em cũng “rủ lòng từ bi” nghe chị. Lần sau còn vậy là ở ngoài sân nghe chị!
Sau mỗi tiếng “nghe chị”, tôi cũng dứ dứ cây thước về phía chị Đẹp.
Cánh cửa vừa bật ra, chị Đẹp ùa vào đè tôi xuống bộ ván, sẵn cây chổi lông gà để cạnh, chị phết luôn mấy roi vào mông tôi, tôi la chí chóe:
- Ỷ mạnh hiếp yếu, hai mươi năm tù! Em mét… ui da… hu hu hu… rớt gói xôi…
Cả mấy chị em bật cười vui vẻ.
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:08:35 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 20:30:19
NGƯỜI KHÁCH CUỐI NĂM
 
Ẩn ngao ngán giơ tay nhìn đồng hồ, thấy còn gần mười phút nữa chuyến xe buýt cuối cùng trong ngày mới về tới. Anh lại ngã người xuống yên xe, kéo chiếc mũ che mặt, cố nhắm mắt một chút.
Đường phố chiều cuối năm ồn ào tấp nập, tiếng người mua kẻ bán, tiếng rộn rã nói cười, trông ai cũng có vẻ vội vội vàng vàng, cố tranh thủ buổi chợ này để lo cho cái tết nhà mình được phần tươm tất.
Ẩn bất chợt thở dài, anh nghĩ tới cảnh túng bấn của gia đình mà xót xa trong bụng. Năm nay gia đình anh gặp đủ thứ chuyện xui xẻo, từ việc nhỏ tới việc lớn, năm hết tết đến rồi mà trong nhà chưa có chút nào không khí mùa xuân.
Chị Bình vợ anh bệnh nặng, nhưng vì cận tết nên xin bệnh viện cho về nhà, ra giêng sẽ trở lên điều trị. Hai vợ chồng chỉ sinh được một thằng con trai, năm nay mới tám tuổi nhưng thông minh lanh lẹ, đó là nguồn an ủi rất lớn của đôi vợ chồng nghèo. Nhưng hôm thứ tư vừa rồi, nó không may bị té ngã gãy chân, giờ phải bó bột ngồi một chỗ ở nhà.
Một mình anh Ẩn vừa chăm sóc cho hai người bệnh, lại vừa phải chạy đôn chạy đáo để kiếm tiền lo trang trải chi phí thuốc men cho vợ, cho con…
Nhà nghèo, không một mảnh đất cắm dùi, hai vợ chồng anh Ẩn sinh sống bằng những nghề lao động phổ thông. Có khi anh Ẩn đi phụ hồ, khi ai thuê gì làm nấy, chị Bình thì buôn đầu chợ bán cuối chợ, tần tảo sớm khuya.
Cả hai vợ chồng đều chí thú làm ăn và sống tiện tặn nên dành dụm mua được chiếc xe gắn máy. Từ đó, anh Ẩn có thêm nghề chạy xe ôm kiếm sống.
Nhưng hơn một năm nay chị Bình ốm đau luôn, không buôn bán gì được lại phải tốn kém thuốc men rất nhiều nên vợ chồng chị đã phải vay một số nợ không nhỏ.
Anh Ẩn không đi làm xa được nữa vì lo chăm sóc vợ con, nên hơn năm nay nghề chính của anh là chạy xe ôm. Vì nghề này tự do, không ràng buộc giờ giấc. Nhưng khổ nỗi, nửa năm nay người ta mở thêm tuyến xe buýt trên đoạn đường này nên những người hành nghề xe ôm như anh Ẩn bắt đầu rơi vào cảnh ế ẩm.
Tranh thủ những ngày cuối năm, những người đi làm ăn xa về lại quê nhà nên anh Ẩn đậu xe tại trạm xe buýt với hy vọng đón được những người khách đi về các xã lân cận.
Anh Ẩn nằm lim dim mắt nhưng miệng lại cầu trời cho anh bắt được mối nào ở xa xa một tí để có được ít tiền mua chút thịt, chút bánh mứt cho thằng bé con mình đỡ tủi với bạn bè.
Anh Ẩn vùng ngồi dậy khi thấy đã đến giờ xe buýt về tới. Những người đứng xung quanh anh cũng chộn rộn hẳn lên.
Chiếc xe chạy chậm lại rồi đỗ xịch ngay trước mặt anh Ẩn, hành khách bước xuống rất đông, nhưng đa số đều có người thân chờ đón, hoặc nhà ở gần đây, họ chỉ cần đi bộ là tới. Vừa đi vừa ngắm cảnh chợ tết, không cần tới sự giúp đỡ của mấy anh xe ôm đang mời mọc.
Ẩn chán nản, tính quay xe về nhà cho xong nhưng anh chợt thoáng thấy một cô gái lụt tụt xuống xe sau mọi người, tay cô xách theo mấy giỏ hành lý trông rất nặng nề.
Ẩn xấn tới, lễ phép:
- Cô về đâu, lên xe tôi đưa về cho nhé?
Cô gái đặt mấy cái giỏ xách xuống đất, mỉm cười:
- Dạ, em về tuốt dưới xã Lương Hòa, anh có đi không?
Ẩn không giấu được vẻ mừng rỡ, anh nhanh nhảu đáp:
- Đi chứ cô! Chạy xe ôm mà, khách cần tới đâu là mình đưa tới đó thôi.
Cô gái hơi do dự:
- Từ đây về tới đó hơi xa, đường đi lại xấu, anh làm ơn chạy cẩn thận giùm em nhe? Tiền bạc thì em không ke re cắc rắc đâu, anh lấy giá phải chăng là được!
Thấy người khách có vẻ dễ tính, Ẩn cười:
- Cô yên tâm đi, tôi chạy xe đàng hoàng lắm, không ẩu tả như đám thanh niên bạt mạng bây giờ đâu. Tôi cũng là người thật thà, không lợi dụng mà đòi giá cao đâu, cô yên tâm!
Cô gái gật đầu đồng ý, anh Ẩn nhấc mấy cái giỏ xách đặt phía trước xe nhưng cô gái cản lại:
- Thôi được rồi, anh để giùm em cái giỏ này ở phía trước thôi, còn hai cái này em ngồi sau ôm cũng được, cho anh dễ chạy.
Ẩn rất vui vì gặp được người khách biết thông cảm. Trong bụng anh nhẩm tính, chở khách từ đây về Lương Hòa là ngày mai nhà mình cũng sẽ được nồi thịt kho tàu và bánh mứt cho thằng nhỏ rồi!
Mang niềm vui đó trong lòng, anh Ẩn vừa đi vừa nói chuyện thật vui với cô gái lạ. Anh kể sơ về hoàn cảnh hiện tại của mình rồi nói:
- Cô là người khách mang lại may mắn cho tôi đó!
Người con gái ấy cũng rất vui tính. Cô ta nói đủ thứ chuyện.
- Em đi làm trên Sài Gòn. Mỗi năm chỉ được về thăm nhà một lần vào ngày này thôi. Ngày này gia đình em tụ họp lại đông vui lắm anh à, đầy đủ hết người trong dòng họ!
Ẩn lấy làm ngạc nhiên vì hôm nay mới hai mươi chín tết, thường những ngày này chỉ những người còn độc thân đi làm xa mới tụ họp về nhà, còn những ai đã có gia đình riêng thì phải bận rộn lo tết cho nhà mình chứ.
- Ủa, thường thường tôi thấy các gia đình tập trung vào các ngày mùng một, mùng hai trở đi chứ sao lại tập trung vào cuối năm hả cô?
Có tiếng cười khúc khích của cô gái phía sau lưng:
- Gia đình em thì khác, tại vì em nên mọi người tập trung đúng ngày này, em thích thế mà!
Ẩn cũng bật cười, nói nịnh:
- Chà, vậy ra trong nhà cô, cô cũng là nhân vật quan trọng dữ hén?
Cô gái cười lớn nhưng không nói gì.
Gió đêm mát lạnh, hai bên đường là ruộng lúa đã được gặt xong, chỉ còn trơ lại gốc rạ. Đây đó một vài đống lửa đốt đồng tỏa khói lên cả một vùng trời và mùi thơm của rơm rạ cháy gây cho người ta một cảm giác bình yên thanh thản lạ. Nhưng bên cạnh mùi thơm dân dã đó, Ẩn nghe thoang thoảng có một mùi hương khác, quý phái hơn. Có lẽ đó là mùi nước hoa của cô gái ngồi sau lưng. Trông cô ta không giống mấy cô gái đi làm hãng xưởng trên Sài Gòn, phong thái cô gái này lịch sự và sang trọng hơn nhiều.
- Cô đi làm ở công ty nào trên Sài Gòn vậy cô?
Ẩn vui chuyện hỏi. Anh không dám dùng hai chữ “hãng xưởng”, mà lái qua thành “công ty” để nghe cho phù hợp hơn một chút.
Cô gái liếng thoắng.
- Ôi, em làm đủ chỗ hết anh ơi! Tốt nghiệp Đại học, làm ở công ty này một thời gian lại bị công ty khác rủ rê lôi kéo thế là lại nhảy qua… Hình như thời buổi bây giờ tuổi trẻ tụi em ít đứa nào chịu chôn chân ngồi một chỗ, mà cứ bay nhảy miết anh ạ! Cứ đứng núi này trông núi khác đó mà!
- À, thế à!
Ẩn nói cho có chuyện.
Cô gái kể tiếp:
- Ba mẹ em la hoài hà! Mẹ bảo có “an cư” mới “lạc nghiệp” được, cứ kiểu nhảy loi choi như em biết tới chừng nào mới gọi là ổn định? Hi hi… lần nào về cũng bị rầy, chán thiệt!
Ẩn vốn là người ít học, trong vấn đề này anh cũng không biết góp chuyện ra sao, nên chỉ cười mà thôi.
- Mà anh biết không, ba mẹ em mắc cười lắm! Cứ sợ em ế nên ép em lấy chồng hoài hà… Em thì lại không thích, em thấy mình còn trẻ, muốn được tự do bay nhảy một thời gian, chứ lấy chồng rồi là đeo gông vào cổ, hết tung hoành gì được nữa. Anh nghĩ có phải không?
Cô gái vừa cười vừa nói.
- Cô nói cũng đúng mà hai bác ở nhà cũng chẳng sai, cha mẹ bao giờ cũng muốn cho con cái yên bề gia thất, đó là tâm lý chung mà cô!
Ẩn nói nước đôi.
Bỗng cô gái hạ giọng:
- Mà nè, em bật mí riêng với anh chuyện này nghen, anh không được nói cho ai biết đó! Em cũng đã có người yêu rồi, em đã nhận lời làm vợ anh ấy, đáng lẽ sau tết này tụi em cưới, nhưng…
Cô gái nói tới đó bỗng im bặt, Ẩn muốn lên tiếng hỏi cô xem lý do gì mà hai người không chịu cưới để yên lòng cha mẹ, nhưng anh nghĩ chắc có uẩn khúc gì đây cô gái mới có thái độ vậy.
Cô gái này tuy mới gặp lần đầu nhưng tỏ ra rất nhiệt tình và thân thiện, tính tình dễ mến của cô đã xóa đi cái khoảng cách giữa người làm nghề chạy xe ôm với khách qua đường. Ẩn nghĩ, giá mà tất cả mọi người đều giống cô gái này thì thế giới sẽ đẹp biết bao!
Ẩn không dám hỏi và cô gái cũng không nói tiếp nữa. Chừng như câu chuyện đến đó đã gây cho cô gái một cảm xúc mãnh liệt nào đó nên cô không còn vui vẻ như lúc nãy nữa mà cứ im lìm ngồi lặng phía sau.
Không khí đang vui vẻ bất chợt chùng xuống làm Ẩn cũng thấy bứt rứt không yên. Anh lên tiếng để phá vỡ sự im lặng đó:
- Ra giêng chưa cưới được thì từ từ cũng có sao đâu cô? Hai bác cũng sẽ hiểu cô thôi mà!
Cô gái nín thinh một hồi lâu sau mới nói:
- Anh không hiểu đâu… chuyện này…
Câu nói lại bị bỏ lửng giữa chừng, Ẩn ngại nên cũng thôi không nói gì nữa cả, chỉ nhắc:
- Cô ngồi nhớ đừng ngủ gịc nghen, đoàn đường này nhiều ổ voi quá, giằng xóc dữ lắm, coi chừng rớt xuống đất đó nghen cô!
- Dạ!
Cô gái đáp lại câu nói pha trò của Ẩn bằng một tiếng dạ hờ hững…
Từ lúc đó, cô gái không còn liếng thoắng chuyện trò với Ẩn nữa, mà hình như cô có tâm sự gì u uất lắm.
Ẩn ngại nên cũng không dám gợi chuyện gì, hai người cứ lặng lẽ trên đường.
Vừa bo xe qua khúc quanh, cô gái chợt nói:
- Anh cho em xuống ở trước cổng căn nhà phía trước nhe!
Nhìn theo hướng cô gái chỉ, Ẩn nhận ra đó là một căn nhà kiểu xưa, nằm khuất trong vườn cây trái rậm rạp. Trong nhà đèn đuốc sáng trưng, người ra vào tấp nập, đúng như lời cô gái nói lúc nãy, hôm nay nhà cô tụ họp cả gia đình dòng họ đây mà.
Ẩn cho xe dừng hẳn lại. Cô gái nhẹ nhàng bước xuống, đón lấy cái túi xách Ẩn đưa cho, mỉm cười nói:
- Em cảm ơn anh nhiều lắm nghen! Anh cho em gởi tiền…
Cô gái đưa cho Ẩn tờ giấy một trăm ngàn mới tinh và nói:
- Anh khỏi thối lại. Em gởi anh mua cho cháu ít quà tết.
Ẩn xúc động:
- Cảm ơn cô nhiều lắm! Để tôi xách giúp cô mấy túi này vô nhà nghen?
Vừa nói Ẩn vừa dợm xuống xe nhưng cô gái vội vàng cản lại:
- Dạ thôi được rồi anh, không nặng nề gì đâu, em xách được rồi! Anh về đi kẻo tối lắm rồi, chị và cháu ở nhà lại lo.
- Ừ, vậy thôi tôi về nghen! Chúc cô cùng gia đình năm mới vui vẻ.
Anh Ẩn gật đầu chào cô gái và cho xe quay về.
Trong lòng anh phơi phới niềm vui.
Về tới nhà cũng đã tối lắm rồi. Anh Ẩn dọn dẹp nhà cửa rồi ôm con trai cười nói:
- Con thích ăn gì? Sáng mai ba mua cho, hôm nay ba có tiền rồi nè!
Thằng bé cười tươi:
- Vậy ba mua cho con mứt dừa, hột dưa, mứt bì với lại…
- Thôi, thôi đi anh hai ơi… mua gì mà lắm thế?
Hai cha con cười ngất.
Anh tới bên giường vợ, bàn với chị sáng mua gì cho bữa ăn mấy ngày tết.
Chị gượng cười với chồng:
- Anh mua nửa ký thịt với vài ba trứng vịt là được rồi! Aên tạm đi, nay mai em khỏe, em sẽ nấu món khác, bây giờ chợ vẫn bán suốt mà, có nghỉ đâu mà lo…
Anh Ẩn gật gù rồi về giường ôm con nằm ngủ.
Sáng hôm sau, anh vui vẻ dậy sớm định chạy ra chợ mua thịt đem về rồi ráng kiếm thêm một vài cuốc xe nữa.
Vừa khoác áo vào người, anh vừa thò tay vào túi lấy tiền.
- Trời ơi! Chuyện gì thế này?
Nghe tiếng kêu thảng thốt của Ẩn, vợ con anh đang ngủ giật mình choàng dậy. Chị cố nhấc cái đầu nặng trĩu nhổm lên hỏi chồng:
- Có chuyện gì vậy anh?
Ẩn ôm đầu ngồi phịch xuống ghế, đau đớn:
- Tờ giấy một trăm ngàn hồi tối giờ biến thành tiền âm phủ rồi!
- Anh nói sao?
Chị sửng sốt.
- Lúc tối rõ ràng cô gái ấy đưa cho anh tờ một trăm ngàn, còn bảo anh khỏi thối lại, cô tặng luôn để mua quà tết cho con mình. Anh tưởng gặp người rộng rãi, nào ngờ… Trời ơi, chẳng lẽ tối qua anh gặp ma sao?
Anh Ẩn vừa buồn vừa sợ.
Chị cố động viên chồng:
- Anh nhớ kỹ lại xem, có khi nào anh làm rơi đâu đó?
- Trời! Sao mà rơi được chứ? Cả nhà mình trông cậy vào đó, anh sao dám hời hợt? Mà giả sử có rơi mất thì thôi chứ làm sao trong túi anh lại có tiền âm phủ? Anh đâu có điên mà nhặt tiền này bỏ vô túi?
Anh Ẩn khổ sở, không biết lấy tiền đâu để đi chợ. Chị buồn bã nhìn chồng không biết nói năng chi. Thầm nghĩ không biết sao bao nhiêu điều xui rủi lại cứ đổ ập xuống gia đình mình thế này…
- Hay anh chạy xuống đó xem thế nào nhé?
Anh Ẩn hỏi vợ.
Chị lắc đầu:
- Từ đây xuống đó xa lắm, anh đi cũng phải tốn tiền xăng. Xuống đó anh phải nói sao đây? Chẳng lẽ anh bảo tối qua anh chở một con ma về đó, rồi đòi tiền người ta à? Thôi, vợ chồng mình không may thì ráng mà chịu đi anh…
Anh Ẩn ngồi thừ người trên ghế, không còn sức lực nào mà dắt xe ra khỏi nhà nữa…
Nhìn thằng bé tiu nghỉu anh Ẩn thấy lòng thắt lại.
- Thôi, anh đi một chút, coi có kiếm được đồng nào không…
Anh đứng lên nói với vợ.
Nhưng anh Ẩn chưa kịp dẫn xe ra khỏi nhà đã nghe có tiếng người trước cửa:
- Dạ xin cho hỏi, có phải đây là nhà của anh Ẩn chạy xe ôm không ạ?
Ẩn mừng quýnh, tưởng gặp mối nên lật đật bước ra ngoài. Trước mặt anh là hai người phụ nữ đứng tuổi.
- Dạ, hai chị tìm tôi?
Anh Ẩn hỏi.
Hai người phụ nữ nhìn anh một cách dò xét. Người nọ ngó người kia như muốn đùn đẩy nhau việc gì đó, cuối cùng một người lên tiếng:
- Có phải tối hôm qua anh là người chở một gái từ đây về xã Lương Hòa không ạ?
Anh Ẩn vừa thất mừng, vừa thấy lo trong dạ:
- Dạ đúng rồi, tôi cũng đang đau đầu về việc đó đây!
Nhìn thấy hai người phụ nữ có vẻ thắc mắc, anh Ẩn nói:
- Xin mời hai chị vào nhà, tôi sẽ trình bày đầu đuôi.
Hai người phụ nữ theo anh Ẩn vào ngồi ở chiếc bàn tròn kê giữa nhà.
- Xin hai chị cảm phiền, bà xã tôi đau ốm, nhà neo đơn quá nên không có nước nôi gì mời khách…
Anh Ẩn ngại ngùng nói.
Một chị phụ nữ xua tay:
- Không có gì đâu, anh đừng lo, chúng tôi hiểu mà.
Khi chủ khách đã yên vị, anh Ẩn kể:
- Nói không giấu gì hai chị, gia cảnh nhà tôi đang lâm vào cơn túng bấn, tết nhất đến nơi rồi mà trong nhà chưa có được chút gì. Bởi thế tối qua rước được người khách về tận xã Lương Hòa, tôi mừng lắm. Cô ấy lại là người vui vẻ và rộng rãi nữa. Khi tới nơi, cô đưa cho tôi một trăm ngàn, còn bảo không cần thối lại. Vậy mà sáng nay… tôi chỉ thấy một tờ tiền âm phủ trong túi mình thôi. Tôi tính trở xuống đó xem sự thể ra sao nhưng vợ tôi cản, vì đi thì phải tốn xăng, xuống đó biết nói gì và có ai tin mình không đây? Tôi nghe cũng phải…
Hai người phụ nữ nhìn nhau gật đầu, rồi một người lên tiếng:
- Vậy ra mọi việc là có thật!...
- Chị nói sao ạ?
Anh Ẩn ngơ ngác.
Chị phụ nữ nhìn Ẩn, cất giọng buồn buồn:
- Con bé đó chính là đứa con gái duy nhất của tôi. Cháu đã mất cách nay đúng ba năm rồi anh ạ! Hôm nay chính là ngày giỗ của cháu…
Dù không hoàn toàn bất ngờ nhưng anh Ẩn vẫn thấy lạnh sau gáy khi nhớ lại chuyện mình đã chở và trò chuyện thân mật với cô gái ấy suốt cả một quãng đường dài.
- Con bé đi làm ở Sài Gòn, qua đời vì tai nạn giao thông. Từ ngày cháu mất tới nay đã hiện về hai lần. Lần đầu tiên là khi vừa mới mất, gia đình chưa nhận được tin thì tôi đã mơ thấy cháu về đứng đầu giường khóc và nói cho tôi biết cháu đã chết rồi. Cháu bảo cháu nhớ mọi người lắm, hãy tập họp cả nhà về cho cháu nhìn mặt… Lần thứ hai cháu về là tối hôm qua. Tối qua, cháu bảo anh đã chở cháu về, dặn chúng tôi sáng sớm hôm nay phải đến tận đây để đền ơn anh, cháu còn kể rõ hoàn cảnh của anh cho chúng tôi biết nữa…
Vừa nói, người đàn bà vừa mở bóp lấy trao cho anh Ẩn một chiếc phong bì. Và cúi xuống xách cái túi nãy giờ chị vẫn mang kè kè bên mình ra đặt lên bàn, nói:
- Hôm nay nhà giỗ cháu, chúng tôi xin biếu anh chị và cháu ở nhà một ít quà gọi là lấy thảo. Xin anh vui lòng nhận cho…
- Tôi…
Anh Ẩn lúng túng.
- Anh đừng ngại. Cháu bảo mấy năm nay cháu chưa đi đầu thai được vì chưa có người hạp với cháu dẫn đường. Hôm qua, chính anh là người dẫn đường cho cháu… linh hồn cháu từ nay sẽ được siêu thoát. Ơn của anh chúng tôi không quên… À, cháu nhà tôi còn dặn, anh chị đừng quá lo lắng, bệnh tình của chị sẽ không sao đâu…
Anh Ẩn chưa kịp nói gì thì hai người phụ nữ đã đứng lên cáo từ:
- Hôm nay ở nhà có đám tiệc nên không thể ngồi chơi lâu được. Chúng tôi xin kiếu anh chị. Hẹn dịp khác sẽ tới chơi lâu hơn. Một lần nữa, chúng tôi xin thay mặt cháu cảm ơn anh và xin anh bỏ qua cho mọi việc…
- Không… không! Đâu có gì…
Những điều bất ngờ liên tiếp xảy ra khiến anh Ẩn chưa kịp suy nghĩ, chưa kịp nói gì thì khách đã ra về. Anh đứng nhìn theo ngơ ngẩn.
- Họ về rồi hả anh?
Tiếng chị vợ lôi anh về thực tại. Anh Ẩn giật mình:
- Ừ, họ về rồi! Vậy là tối qua anh chở ma thiệt rồi em ơi! Người ta nói gặp ma là xui lắm đó!
Chị vợ nhỏ nhẹ:
- Em nghe hết rồi! Nhưng anh đừng quá lo lắng. Cô ấy là người tốt. Em tin vậy, em tin cô ấy sẽ không làm gì khiến vợ chồng mình phải lao đao hơn nữa…
- Anh cũng mong thế.
Anh Ẩn thẩn thờ.
- Ba! Ba coi cái gì trong giỏ xách mà nhiều dữ vậy ba?
Thằng con giục.
Anh Ẩn mở túi xách ra, trong đó có đầy đủ bánh mứt, trà đường, lạp xưởng và một con vịt quay béo múp míp.
- Vậy là nhà mình có đồ ăn tết rồi con trai ơi!
Anh sung sướng reo lên. Chợt nhớ ra, anh Ẩn vội mở chiếc phong bì nãy giờ để trong túi, bên trong là tờ giấy hai trăm ngàn.
Anh chạy vội vào buồng đưa cho vợ:
- Nè, em xem đi, đây là tiền thật phải không? Em giữ luôn đi, anh giữ lại sợ nó hóa thành tiền âm phủ nữa thì khổ!
Chị vợ ngước lên nhìn chồng âu yếm. Đột nhiên chị cảm thấy trong người khỏe hẳn, có lẽ do niềm vui lớn mà gia đình chị vừa nhận được sáng nay…
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:09:48 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 20:32:54
CÁI CHẾT BÍ ẨN
 
Chiều nhè nhẹ buông xuống bên kia đồi. Những tia nắng cuối cùng của một ngày hè oi ả còn vương trên triền dốc. Chuyến xe đò từ Sài Gòn về vừa đỗ xịch trên bến, cái bến xe tỉnh lẻ chộn rộn lên trong giây lát.
Yến xuống xe, xốc lại chiếc ba lô nặng trĩu trên lưng và cố lách mình ra khỏi đám đông của mấy chị hàng rong và xe ôm đang tíu tít vây lấy khách. Cô rảo bước nhanh về phía con đường nhỏ phía sau bến. Con đường rộng dần và chạy dài lên đỉnh đồi, bên kia triền dốc là nhà ngoại cô.
Yến bước đi thong thả hơn khi tiếng ồn từ bến xe xa dần rồi yên hẳn. Cô hít một hơi dài, cái mùi mặn nồng của biển và hơi ấm quen thuộc trong không khí khiến cô phấn chấn hẳn.
- Thế là về nhà rồi!
Yến nhủ thầm. Cảm giác trở lại mảnh đất nhỏ khô cằn vùng duyên hải miền Trung nơi mình đã lớn lên khiến Yến thấy an lòng, cô hăm hở bước. Đã sáu năm rồi từ hồi tốt nghiệp cấp ba đến giờ, Yến vào Sài Gòn tìm việc rồi mải mê với cuộc mưu sinh cô hiếm khi về thăm nhà. Năm nay, với số tiền dành dụm được cô đã mở hẳn một tiệm tạp hóa cho riêng mình, công việc buôn bán cũng khá trôi chảy nên Yến quyết định nhờ chị bạn thân trông coi cửa hàng để về thăm ngoại dăm mười ngày.
Yến lớn lên ở cái thị xã Mũi Né này từ hồi còn chưa có các nhà hàng khách sạn. Dân ở đây chủ yếu sống bằng nghề biển. Cô thuộc nằm lòng những mỏm đá, rặng cây, những ngọn đồi, những vườn dừa vậy mà giờ trở lại sao thấy khác xưa đến lạ.
Yến đi bộ đến lưng chừng đồi thì mặt trời cũng dần lặn trên biển. Bầu trời xanh màu mực nhấp nháy ngôi sao hôm xa xa. Cô nhìn về phía làng chài, nhà nhà đã lên đèn, căn nhà nhỏ với ngọn đèn mờ hẳn là nhà ngoại, ngay đầu làng.
Yến kéo lại áo khoác rồi rẽ vào con đường nhỏ xuyên qua vườn dừa của bà Tư, con đường đổ xuống triền dốc và chạy dài đến làng chài Phủ Tứ. Gió biển phả vào mặt Yến lạnh buốt. Yến đang rảo bước thì thấy thấp thoáng một dáng người bước đi hối hả giữa những hàng dừa. Cái dáng một người phụ nữ mảnh khảnh đội nón lá, mặc đồ bà ba khiến cô thấy quen quen.
Yến cố bước nhanh hơn để theo kịp cái bóng người đó. Kiểu đồ bà ba và dáng đi hối hả như thế ở cái làng chài này có ai khác ngoài chị Thắm. Yến vốn rất thân với chị, ngày trước chiều nào hai chị em cũng đi bắt ốc cùng nhau rồi mang ra chợ bán. Yến có lạ gì cái dáng đi ấy. Cô vừa bước nhanh vừa gọi với theo:
- Chị Thắm ơi, chị Thắm phải không?
Người phụ nữ không trả lời Yến mà lại càng bước hối hả hơn. Yến đi như chạy, cô đến gần hơn còn cách người phụ nữ vài ba sải chân, cô nhận ra trên tay người phụ nữ ôm một vật gì dài thon thỏn như đứa bé gói trong chăn. Yến cố gọi lần nữa:
- Chị, chị Thắm!
 Người phụ nữ vẫn lặng lẽ bước đi hối hả hơn. Chiếc ba lô nặng trĩu trên vai khiến Yến không tài nào theo kịp nữa. Cô cố gọi với thêm  vài lần, người phụ nữ cứ bước đi rồi mất hút hẳn phía sau mấy rặng dừa. Yến thở hồng hộc vì đã cố đi thật nhanh để đuổi theo người mà cô cho là chị Thắm.
Bây giờ Yến mới dừng lại, lấy tay lau mồ hôi trán và xốc lại hành lý trên lưng. Dột nhiên cô nhận ra mình đang đứng ở một trảng đất trống xa khỏi rặng dừa trên triền dốc của bà Tư, xa khỏi làng chài với những căn chòi nhấp nháy đèn phía xa.
Cô bần thần cố định lại phương hướng để quay lại con đường nhỏ xuyên qua vườn dừa dẫn đến làng chài. Phải mất một lúc lâu Yến mới định thần lại được. Cô biết mình đang ở gần mỏm đá Chim, vốn có tiếng là mỏm đá hiểm nhất vùng này, trẻ con thường bị cấm đến chơi gần đây. Vì mỏm đá là một bên chênh vênh còn một bên là vực biển, nếu ngã xuống thì chỉ có chết chứ không ai qua nổi.
Yến chẳng hiểu vì sao mình lại lạc đến đây, bây giờ phải đi vòng lại cả quãng đường dài mới trở lại được con đường mòn khi nãy. Cô vừa đói, vừa bực nhưng vẫn cố bước. Trong tâm trí Yến vẫn còn nghĩ mãi về người phụ nữ cô gặp khi nãy.
- Lạ thật, sao chị thắm lại không nghe mình gọi nhỉ? Mà chị ấy đi đâu mới được? Lại còn ôm đứa bé nữa chứ…
Hàng chục câu hỏi cứ đeo mãi trong tâm trí Yến. Cô chẳng để ý gì đến xung quanh cứ thế vừa bước đi vừa nghĩ ngợi.
- Yến, cô Yến đó phải không? Về hồi nào đây?
Một giọng đàn ông vang lên bên tai khiến Yến giật bắn người.
Cô ngước nhìn cái dáng vạm vỡ, tay cầm chiếc đèn pin to tướng của dân chài, vẫn không nhận ra người đang đứng ngay trước mặt mình .
Yến bối rối:
- Ơ… ?
- Tui đây mà, Năm Nhỏ đây mà!
Người đàn ông vừa nói vừa rọi đèn vào mặt Yến. Ánh sáng khiến cô như bừng tỉnh.
Yến nửa mừng nửa lắp bắp:
- Trời, anh Năm, lâu quá không gặp tui hết nhận ra luôn, anh làm tui sợ hết hồn.
- Ha ha tui làm gì đâu mà Yến sợ, chắc tại lâu quá không về qua cái vườn dừa âm u này nên sợ phải không? Mà cũng phải, đàn bà con gái lại đêm hôm nữa….
Năm Nhỏ cười nói và cuốc bộ cùng Yến về tận nhà cô dưới làng chài, câu chuyện giữa hai người bạn cũ làm Yến thấy vui vui và quãng đường dường như ngắn lại.
Vừa đến cổng đã thấy ngoại chống gậy ra đón. Cô ôm lấy bà trong niềm vui gặp mặt như đứa trẻ xa mẹ lâu ngày.
Năm Nhỏ vốn là con nuôi của bà Tư chủ vườn dừa, Năm cũng như Yến là một trong những đứa trẻ con làng chài lớn lên và sinh sống cả đời ở đây. Năm to cao vạm vỡ và rám nắng, thân hình của một ngư dân trẻ tuổi. Anh nói cười huyên thuyên suốt cả buổi tối.
Ngoại Yến cảm ơn Năm đã đưa cô về suốt quãng đường và mời anh ở lại dùng cơm với hai bà cháu cho vui. Yến cũng hào hứng ôn lại những chuyện thời trẻ con với Năm. Nhưng trong tâm trí cô hình bóng người phụ nữ cô gặp dưới vườn dừa lúc tối cứ lởn vởn mãi.
Cuối bữa cơm lúc Năm Nhỏ dợm đứng lên chào hai bà cháu Yến để về cho kịp đi câu mực đêm, Yến buộc miệng:
- Anh Năm, hồi chiều tối Yến có gặp ai như chị Thắm mà kêu mãi chỉ lại không nghe!
Đột nhiên gương mặt Năm Nhỏ chợt sa sầm lại. Anh bỗng dưng yên lặng đến lạ kỳ. Yến chỉ thấy ánh đèn long lanh trong mắt anh.
Năm Nhỏ quay mặt nhìn ra ngoài bóng tối trên biển một lúc rồi anh khẽ nói:
- Chắc không phải đâu, Yến nhìn lầm với ai rồi, không phải Thắm đâu.
- Tui lầm ai chứ sao lầm chị Thắm được. Chỉ đi đâu mà vội vàng lắm.
Yến cãi.
 Năm Nhỏ không trả lời Yến, anh lặng lẽ đứng lên cầm chiếc đèn pha rồi chào hai bà cháu. Ngoại bảo Yến tiễn Năm ra ngõ. Năm bước mấy bước rồi bỗng quay đầu lại.
- Thắm mất được một năm rồi Yến à!
Anh nói khẽ lẫn vào tiếng gió.
Anh tiếp tục quay đi bước chậm rãi váo bóng tối. Yến đứng thần người trước cái tin Thắm mất. Cô chẳng biết phải nói gì với Năm, cô bàng hoàng và nghe lòng nặng trĩu trước cái tin đột ngột này.
Thấy Yến cứ đứng như trời trồng ngoài ngõ, ngoại giục:
- Yến, vô nhà đi con, làm gì ngoài đó vậy?
Cô bước tần ngần qua bục cửa, vẫn còn choáng với những lời của Năm Nhỏ bên tai.
- Thắm chết rồi!
Cô nói với ngoại mà dường như không tin vào những lời mình thốt ra. Ngoại thở dài rồi nói bằng một giọng trầm trầm già nua:
- Ừ, ngoại biết. Xứ này ai cũng biết. Nó mất cũng tròn năm rồi. Mà tội con nhỏ, chết mà không ai tìm được xác. Nó với thằng Năm thương nhau, nên ngoại không dám nhắc chuyện cũ trước mặt thằng Năm…
Yến thấy lòng mình chùng xuống, trĩu nặng. Cô vừa xót xa cho Thắm, vừa ngỡ ngàng với bao nhiêu câu hỏi trong đầu. Thắc mắc về cái chết của người bạn từ thời thơ ấu, thắc mắc về cái bóng người phụ nữ mình gặp lúc chiều tối… Bao nhiêu suy nghĩ cứ vây lấy đầu óc cô.
Đêm ấy Yến trằn trọc mãi mà không sao ngủ được.
Bình minh bắt đầu ló dạng ở chân trời đằng đông. Một vừng hồng nhạt thắm tỏa cả không gian. Những tia nắng đầu ngày rọi qua khe cửa nhỏ. Yến trở mình, mở choàng mắt, cô thức dậy trong âm thanh của những chiếc ghe dã cào ngoài xa và sự huyên náo của làng chài buổi sớm. Âm thanh nhịp sống no ấm quen thuộc của vùng quê này khiến Yến thấy lòng mình bình an trở lại.
Cô bước xuống chái nhà sau, ngoại đang nấu nước, khói bếp bay khắp cả gian nhà. Yến khẽ đến bên ngoại ngồi, với tay đun thêm mấy lọn rơm. Hai bà cháu tỉ tê trò chuyện, ngoại cứ hỏi han về cuộc sống của Yến ở thành thị, bà vẫn hay lo lắng cho cô như một đứa trẻ.
 Yến bất chợt hỏi ngoại :
- Ngoại ơi, Thắm mất như thế nào vậy ngoại?
Câu hỏi buột ra từ cửa miệng Yến như đã chờ sẵn ở đó rất lâu rồi. Cô chăm chăm nhìn ngoại chờ đợi một câu trả lời.
Ngoại khẽ khàng rút mấy thanh củi đang cháy lép bép ra khỏi bếp:
- Dân chài mình đều vậy cả, đẻ ở đây, chết cũng ở đây.
Ngoại thở dài rồi nói tiếp:
- Thắm với cha nó đi thả lưới ngoài cù lao Câu, sóng lớn đánh bể thuyền, cha nó bơi được vào bờ còn nó sức yếu nên bị sóng đánh mất…
- Tội con nhỏ, nó còn trẻ quá… Dân chài lặn xuống biển tìm xác nó ba bốn ngày mà chẳng thấy đâu.
Ngoại ngừng một lát rồi nói thêm:
- Từ hồi nó chết, gia đình ông Khả lụn bại hết, bao nhiêu chuyện buồn xảy ra, bà Khả cũng vì thương con mà lâm bệnh rồi chết… Còn thằng Năm Nhỏ thì bỏ đi biển cả mấy tháng trời. Dân làng mình nói con Thắm chết linh lắm. Có người còn thấy nó về...
Ngoại bỗng yên lặng, cái giọng đều đều, ấm áp của bà vẫn còn bên tai, nhưng Yến cảm thấy như cái giọng ấy vọng đến từ nơi nào xa xôi lắm. Cô bị cuốn vào một thế giới khác, tâm trí Yến như đang lạc giữa rừng dừa nhà bà Tư và mải mê đuổi theo cái bóng mảnh khảnh của Thắm với muôn vàn câu hỏi trong đầu.
Cái bóng ấy, bước đi vội vã ấy, khuôn mặt gầy gò ấy, Yến khẳng định đúng là Thắm, không thể sai vào đâu được.
- Yến con, làm gì mà thừ người ra vậy? Coi đi chợ chứ không là trễ đó, ở đây không như Sài Gòn,  chợ họp cả ngày đâu con.
Ngoại vừa đứng dậy, vừa nhắc, tiếng guốc gỗ lạch cạch làm Yến giật mình.
- Ơ… dạ để con đi liền, ngoại à!
Cô vội vã đứng lên , lấy chiếc rổ tre và cái nón lá rồi bước nhanh ra cửa, ngoại mỉm cười nhìn theo.
Chợ đúng là chợ quê, họp sớm, tan sớm.
Yến vừa đi được một vòng chợ đã thấy các bà, các chị dọn dẹp quang gánh. Cô cũng đã mua đủ bữa cho hai bà cháu nên chẳng nán lại làm gì, Yến rảo bước trở lại con đường nhỏ.
- Cô Yến, về hồi nào vậy? Đúng là ở Sài Gòn có khác, đẹp người hẳn ra.
Một giọng nói vui vẻ vang lên từ gánh hàng rau cuối chợ Yến vừa đi qua. Cô quay nhìn lại:
- Chị Thảo!
Yến mừng rỡ nhận ra người quen.
- Chị khỏe không?
Cô hỏi dồn.
- Khỏe, cô Yến lâu quá mới về chơi! Ngoại cô chắc mừng lắm phải không? Tội nghiệp bà cụ…
Chị Thảo cứ tíu tít mãi, hết hỏi thăm lại khen Yến nào là giỏi giang, nào là xinh xắn, khiến cô vừa ngượng vừa thấy vui vui.
Thảo là chị dâu của Thắm, không phải dân chài gốc, nhưng cô theo chồng về đây đã ngót chục năm, cũng hiền lành chất phát như những người dân chài quanh năm bám biển.
Thảo dồn vã:
- Yến, ghé nhà chị chơi một lát rồi về, chợ cũng tan rồi, chị cùng về với em luôn!
Thảo quảy chiếc gánh không với đôi lọn rau còn sót lại, hai chị em thong thả bước cạnh nhau. Gió biển thổi nhè nhẹ, những rặng dừa rì rào phía xa xa.
Con đường rẽ sang khúc ngoặt, căn nhà đầu ngõ xanh kín một hàng rào hoa giấy là nhà Thắm. Khoảnh sân rộng với cây mận già, gốc phủ đầy rêu xanh vẫn chẳng khác xưa chút nào.
Thảo buông gánh ngoài hiên rồi vội vã gọi với vào nhà:
- Mình ơi! Ra coi tui dẫn khách nào lại nhà mình chơi nè!
Cô quay sang bảo Yến:
- Em ngồi chơi, để chị đi pha nước nghen.
Yến khẽ ngồi xuống bên bàn nước, đưa mắt nhìn khắp gian nhà. Tấm di ảnh của Thắm trên bàn thờ hãy còn mới, khuôn mặt trẻ trung, hiền hậu của Thắm như đang mỉm cười với Yến.
Cô chợt giật mình khi nhìn sang ngăn thờ nhỏ ngay cạnh bàn thờ Thắm, một khuôn mặt trẻ con lồng trong khung ảnh, gương mặt bé gái độ sáu tuổi, hao hao giống khuôn mặt anh Ba của Thắm.
- Lẽ nào…
Yến bàng hoàng, một ý nghĩ thoáng qua trong óc cô:
- Lẽ nào bé Ngọc, con gái anh Ba với chị Thảo cũng đã mất? Chuyện gì xảy ra với gia đình này chỉ trong từng ấy năm Yến xa quê.
Chị Thảo quay lại với một khay trà bốc khói trên tay.
Nhận ra vẻ mặt đăm chiêu của Yến vẫn đang nhìn về phía bàn thờ, chị nói khẽ :
- Hai cô cháu nó bỏ lại cái gia đình này mà đi mất, tui cũng  đứt ruột, đứt gan, cả năm trời mới gượng đứng dậy được, Yến à!
Chị thở dài, rót chén nước, đẩy về phía Yến.
- Bé Ngọc…
Yến dợm hỏi, nhưng sợ khơi lại vết thương trong lòng chị nên cô lại thôi.
Đoán được thắc mắc của Yến, dường như chị Thảo cũng muốn trút bầu tâm sự, nên khẽ đáp:
- Cô Thắm mất được một tháng thì má chồng tui đau nặng rồi mất, ba chồng tui đem má lên thờ trên chùa rồi cất chòi ở luôn trên đó, nhà này giờ chỉ còn vợ chồng tui và cô Út thôi. Con bé Ngọc hôm đó đi học về, chạy chơi ở mỏm đá chim, chẳng may trượt chân xuống vực. Chồng tui với ngư phủ ở đây soi đèn tìm cả đêm mưới thấy xác nó…
Nói đến đây chị Thảo không cầm được nước mắt, chị kéo vạt áo bà ba lau đôi mắt mọng nước của mình.
Bao nhiêu năm lớn lên ở làng chài này, Yến chưa từng chứng kiến sự việc đau buồn như vậy, cũng chưa bao giờ nghe nói đến những cái chết liên tiếp trong một gia đình. Liệu có điều gì uẩn khúc ở đây chăng?
Có điều gì đó rất lạ lùng, Thắm vốn dĩ bơi lội rất giỏi mà lại chết mất xác ngoài cù lao Câu? Mỏm đá chim là nơi trẻ con bị cấm đền gần, ở vùng này có đứa bé nào dám đến nơi nguy hiểm ấy? Biển cả, thiên nhiên thật là khó hiểu, lúc bình yên đến lạ, lúc hiểm ác khôn lường…
Yến chau mày nghĩ ngợi. Cô hớp một ngụm trà nóng rồi đứng dậy:
- Thôi để em về nấu cơm cho ngoại, cũng trưa rồi chị à! Nghe chị Thắm mất, em buồn lắm, em chỉ mới hay hôm qua thôi, chứ lâu nay em có biết tin tức gì đâu.
- Ừ, thôi em về đi, khi nào rỗi rãi chị em mình tâm sự tiếp. Cái nhà này giờ buồn thiu, ai nấy có số, có phần cả Yến ạ!
Bữa cơm trưa yên ả của hai bà cháu trôi qua nhanh, ngoại bắt ghế ra hiên ngồi hóng gió. Yến múc nước đổ vào mấy cái lu sành sau bếp. Cô vốn rất thích làm những công việc nhà quê này.
Yến đến ngồi ở chiếc võng sau nhà, nhìn về phái vườn dừa của bà Tư, âm thanh xào xạc vọng lại như ru cô vào giấc ngủ trưa thanh bình.
Yến chợt thấy thấp thoáng một người đàn bà đẫy đà độ ngoài năm mươi, bà mặc bộ đồ bà ba màu nâu bạc phếch đi ngang qua nhà mình. Người đàn bà đầu cạo trọc, gương mặt phúc hậu, hiền lành, đi đến ngõ nhà, rồi vòng ra sau chiếc võng Yến đang nằm, cô chưa kịp đứng dậy chào khách thì bà đã đứng ngay gốc cột đầu võng.  Cô lập tức nhận ra khuôn mặt chất phác, thân quen của bà Khả, mẹ Thắm.
Bà dịu dàng nói:
- Bác nghe nó nói con về chơi nên xuống đây nhờ con chút.
Cô ngạc nhiên đến bần thần:
- Con… con nghe nói bác trai đưa bác lên chùa …
Yến lắp bắp.
- Ừ thì bác lên trên chùa Ông cũng  cả năm nay rồi, ăn chay niệm phật với các sư ở đó cũng khuây khỏa phần nào.
Bà Khả thong thả đáp.
Bà ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh, tiếp lời:
- Hôm nay Bác xuống đây là muốn nhờ con một chuyện. Số là ngày mốt bên nhà có cái giỗ, con qua chơi cho con Thắm nó đỡ tủi nghen con.
Yến ngây người, thảng thốt:
- Ơ… dạ, mà giỗ ai vậy Bác?
- Con nhớ qua nghen, Bác phải đi có việc.
Nói đến đây bà Khả đứng lên, mỉm cười với Yến rồi vội vã bước ra ngõ, trở lại con đường mòn.
Yến ngã đầu sang, nhìn theo bà rồi thiếp đi lúc nào không biết.
Cô giật mình thức giấc khi nghe tiếng guốc lộc cộc của ngoại ở bậu cửa sau bếp. Tâm trí cô vẫn còn ở tận đâu đâu, rặng dừa phía xa vẫn xào xạc mãi. Cô chợt nhớ lại chuyện bà Khả ghé nhà lúc trưa, vội bật dậy, chạy vào bếp:
- Ngoại ơi, ngoại!
- Gì vậy, cái con này mớ ngủ sao mà gọi ngoại om sòm vậy?
- Bà Khả sống ở trên chùa Ông hả ngoại?
Yến hỏi gấp gáp, cô dường như quên bén chuyện chị Thảo kể ban sáng. Cuộc nói chuyện vừa rồi với bà Khả làm cô cứ tưởng rằng bà vẫn đang sống ở chùa Ông.
- Con nói gì tầm bậy vậy, bà Khả nào kia chứ? Mẹ của con Thắm mất cả năm nay rồi mà!
Yến cảm thấy một cơn rùng mình tràn qua sau gáy, cô tần ngần trở ra bục cửa, nhìn về phía con đường mòn vắng vẻ. Biển vẫn mênh mông rì rào tiếng sóng.
Cô cứ suy nghĩ mãi suốt bữa cơm chiều. Đến khi ngoại đã thắp đèn lên, Yến mới dợm hỏi:
- Ngoại à, ngoại nói chị Thắm linh lắm hả ngoại, ngoại có thấy chị Thắm về lần nào không?
- Không con à!
Ngoại đáp.
- Ngoại chỉ nghe người ta nói thôi. Mà con sao vậy? Hai hôm nay ngoại thấy con bần thần hoài, chắc con vì nó mất phải không?
Yến không trả lời ngoại, cô hỏi dồn:
- Ngoại nghe người ta kể sao hả ngoại? Mà ai thấy hả ngoại?
Ngoại trầm ngâm một lúc, nhìn ngọn đèn dầu trên bàn thờ, khẽ đáp:
- Thằng Năm chứ ai. Có mấy lần nó kể với ngoại nó thấy con Thắm về. Hồi con Thắm mới mất, người ta tưởng thằng Năm hóa điên mới trói nó lại cả tháng trời. Sau này dân ở đây cũng có người nói thấy con Thắm về…
- Sao hả ngoại? Ngoại kể con nghe đi, con thấy thương chị Thắm quá!
Yến lay lay tay ngoại, bà tằng hắng, nhấp mấy ngụm nước:
- Ngoại biết con buồn vì nó mất. Số kiếp con người ta ngắn ngủi lắm con à!
Rồi ngoại tiếp:
- Đêm đó trời bão bùng, mưa giông dữ lắm. Ông Khả với con Thắm bị đắm thuyền ngoài cù lao Câu độ nửa đêm. Hừng sáng, ổng bơi được đến bờ, bà con dân làng túa ra cù lao mò xác con Thắm mà không được. Thằng Năm lặn hụp suốt ba ngày đêm cũng không thấy. Nó trở về làng, chẳng nói lấy một câu, chỉ biết ngồi đan lưới. Rồi một chiều, nó vác lưới đi qua vườn dừa thì thấy con Thắm, nó đuổi theo nhưng con Thắm lại bỏ chạy mất về phiá mỏm đá chim. Thế là ngày nào nó cũng ra mỏm đá, ngồi trông về vườn dừa mong thấy con Thắm.
Thở dài một cái, ngoại tiếp:
- Dần dần nó phát điên, cứ đi tìm giết ông Khả. Nó bảo tại ông Khả mà Thắm mới chết. Bà Khả thấy trong nhà xào xáo, lại thương con nên bệnh nặng rồi chết. Thằng Năm trở nên hung hăng, nó cứ đi tìm ông Khả, khăng khăng rằng ông đã hại chết con Thắm. Thằng Ba, anh con Thắm phải nhờ người trói thằng Năm lại.
Yến ngồi yên lắng nghe từng lời của ngoại.
- Ma chay bà Khả xong, thằng Ba thu xếp cho ông Khả đưa cốt mẹ mình lên chùa thờ cúng rồi ổng ở luôn trên đó. Nó rủ thằng Năm đi biển cho nguôi ngoai. Vậy mà bất hạnh vẫn chưa buông tha gia đình ông Khả. Một hôm, đi học về, con Ngọc, con thằng Ba té chết trên mỏm đá. Hai vợ chồng nó lại một phen tang thương.
Hớp một ngụm nước, ngoại tiếp:
- Tội nghiệp, em gái út của con Thắm, chắc vì chứng kiến bao lần tang tóc trong gia đình, nên hóa khùng khùng, điên điên, suốt ngày chỉ ru rú trong nhà. Bao nhiêu năm rồi, ngoại mới phải chứng kiến chuyện như vậy ở xứ này, thât đau lòng hết sức!
Ngoại lại thở dài, nhìn vào bóng tối mênh mang ngoài cửa:
- Thằng Năm tội lắm, đến giờ nó vẫn thương con Thắm. Chiều nào cũng thấy nó tha thẩn ngoài vườn dừa nên ngoại biết. Dân chài đồn rằng thỉnh thoảng họ kéo lưới gần mỏm đá có thấy một người con gái ngồi trong bụi rậm, nửa mặt bị tóc ướt che kín, còn nửa kia máu me đầm đìa. Có người đánh bạo đến gần hỏi thì cô gái chỉ khóc rồi bỏ chạy. Có người lại thấy cô gái giống hệt như vậy nhưng trên tay ôm một đứa bé, ai hỏi gì cũng lẳng lặng bỏ đi. Họ cũng nói là cô gái đó giống hệt con Thắm.
Nói đến đây ngoại bỗng lặng yên đến lạ.
Yến chợt có một cảm giác thôi thúc từ bên trong, cô mong sao gặp được Năm Nhỏ để hỏi thêm đôi điều. Cô mong sao Thắm sẽ hiện về nói cho biết về cái chết của chị. Sự thôi thúc mãnh liệt từ bên trong khiến cho Yến đinh ninh Thắm không chết ngoài cù lao. Cô tin chắc có một điều gì uẩn khúc, cô nôn nao và nghe tim mình đập nhanh trong lồng ngực.
- Ngày mốt là giỗ ai bên nhà ông Khả vậy ngoại?
Cô hỏi.
- Giỗ con Thắm chứ ai! Đầu tháng 9 là giỗ nó rồi lần lượt đến bà Khả và bé Ngọc.
Ngoại đáp.
Yến lặng người đi, cô cảm thấy như Thắm muốn nhủ cô điều gì qua bà Khả. Họ đều là những người khuất mặt mà hồn chưa được yên ?
Đêm dần khuya, không trăng, cũng không một ánh sao, bầu trời đen như mực. Gió thổi mạnh khiến tấm màn tre ngoài cửa sổ kêu lập cập liên hồi.
Yến không buồn ngủ, cô sửa lại mùng cho ngoại rồi đến bên bàn thờ, vặn nhỏ ngọn đèn dầu. Bóng tối tràn vào gian nhà, tiếng gió hòa lẫn tiếng sóng biển ì oạp ngoài xa.
Dựa lưng vào thành giường, cô nghĩ ngợi mông lung, chợt có một làn hơi lạnh buốt ở sống lưng.
- Có lẽ từ ngọn gió sau nhà thổi vào!
Yến nghĩ, cô vội bước ra sau để khép cửa sổ.
Trời bắt đầu mưa. Những giọt mưa nặng trĩu, lộp độp rơi xuống mái tôn. Gió bỗng giật mạnh khiến hai cánh cửa sổ bật tung ra. Yến với tay cố kéo tấm màn tre xuống, nhưng nút thắt trên sợi dây buột màn vẫn trơ trơ. Gió hắt mưa qua cửa sổ làm ướt lạnh khuôn mặt Yến, cô rùng mình, một cảm giác gờn gợn chạy thót từ trên cổ xuống bụng, cô thấy một bàn tay ướt lạnh đang bấu lấy tay cô. Cô cố cử động nhưng bàn tay lạnh buốt ngoài kia đang khiến cô tê dại đi.
Yến đứng bất động, tim đập thình thình và  đôi môi khô hẳn đi, cô thấy thấp thoáng một mặt người bên ngoài cửa sổ. Yến muốn lớn tiếng hỏi  là ai, nhưng không một âm thanh nào phát ra được từ cổ họng khô đắng của cô.  Cô cảm thấy lạnh thấu xương khi gương mặt đó từ từ đến gần cửa sổ, đến gần cô hơn, càng lúc càng gần hơn.
Mưa gió vẫn gào thét giữa bóng tối tứ bề, Yến nhắm nghiền mắt lại. Lẫn trong tiếng mưa,  cô  chợt nghe một giọng nói thì thầm vừa như sát bên tai, vừa như văng vẳng từ chốn xa xăm:
- Yến ơi, cứu chị với, ở ngoài này chị lạnh lắm, chị đau lắm!
Rồi có tiếng khóc khe khẽ, tiếng con gái khóc.
Gió mưa vẫn ầm ào ngoài cửa sổ, người Yến cứng như đóng băng, hơi thở của cô gấp gáp, gương mặt trắng bệch, lạnh toát, nhưng lại đầm đià mồ hôi.
Một tia sét chói lòa ngoài cửa kèm theo tiếng sấm khô giòn vang lên bên tai khiến Yến mở bừng mắt. Cái cảm giác những ngón tay bị bấu lấy bởi bàn tay khác lạnh buốt chợt tan biến.
Dưới ánh sáng còn sót lại của tia sét, Yến thấy bóng dáng của chiếc áo bà ba đang xa dần.
Định thần lại, nỗi kinh sợ trong cô dần tan biến, Yến nghe rõ tiếng tim mình đập trong lồng ngực. Mắt vẫn không rời khung cửa sổ, cô mải miết nhìn vào bóng đêm âm u, vạt áo bà ba đã mất hút từ lâu. Cô đứng bất động rất lâu cho đến khi nhận ra toàn thân mình ướt đẫm do nước mưa tạt vào từ cửa sổ.
Yến thở hắt ra một hơi dài, cố thoát khỏi cái cảm giác rờn rợn vẫn còn đâu đó. Cô buông tay ra, cái nút thắt sợi dây tuột ra dễ dàng, chiếc màn tre rũ xuống, che kín khung cửa nhỏ. Mưa gió vẫn không thôi gào thét.
Để nguyên quần áo ướt, Yến trèo lên giường, chui vào chăn và co người lại. Tâm trí cô dường như vẫn còn tận đâu đâu.
Yến cố nhắm mắt, nhưng mỗi lần nhắm mắt cô lại thấy khuôn mặt với hơi thở lạnh ngắt lúc nãy đang kề sát mặt mình, bàn tay cô vẫn còn nhức buốt. Cô nằm yên mãi cho đến lúc tâm trí mệt nhoài và thiếp đi.
Yến tỉnh dậy khi mặt trời đã lên cao, ngôi nhà thật yên ắng. Có lẽ ngoại đã đi chợ. Cô thấy người nóng ran, hơi thở hừng hực và mấy ngón tay đau nhức.
Những hình ảnh đêm qua lại trở về trong trí óc cô, thật rõ ràng, rõ đến từng chi tiết, từng cảm giác.
Yến không thấy sợ nữa, cô chỉ thấy miên man với những suy nghĩ dường như không cách nào dừng được. Ánh nắng ấm áp chiếu vào gian nhà nhỏ, Yến cố nhấc mình khỏi giường.
Yến thấy đầu óc mình đang dần dần bình tĩnh lại, nhưng những ngón tay hãy còn buôn buốt. Ngoại đã đi chợ về, cô cùng bà sửa sọan cơm trưa, vừa làm, vừa suy nghĩ.
Cô đoán hình như linh hồn Thắm đang cần sự giúp đỡ, phải chăng Thắm có điều oan ức? Cô nhớ rõ những lời nói thầm thì, rên rĩ lúc tối, nhớ dáng áo bà ba trong cơn mưa, nhớ những bước đi vội vã giữa rừng dừa hôm nọ. Yến không biết mình nên làm gì, có nên kể chuyện này cho ai khác không, nhưng cô hiểu nếu ngoại biết chỉ thêm lo.
Cô định bụng đến chiều sẽ đi tìm Năm Nhỏ, chắc anh sẽ tin vì chính anh cũng đã nhìn thấy Thắm về vả lại anh là người yêu thương Thắm nhất. Cô cũng muốn  đến nơi Thắm chết, thắp cho chị nén nhang.
Cơm trưa xong Yến nói với ngoại:
- Con đi viếng chị Thắm, ngoại à, mai là giỗ chị ấy rồi.
- Đi nhớ về sơm sớm nghe con.
Ngoại nhẹ nhàng nói.
Lấy lọn nhang trên bàn thờ, Yến đội nón, bước ra cửa.
Cô tạt qua nhà bà Tư, tính rủ Năm Nhỏ đi cùng. Nhà bà Tư nằm trên khu đất bằng phẳng ngay dưới chân vườn dừa, phía trước có hàng rào tre còn mới.
Yến đang ngần ngừ ngoài ngõ không biết có nên vào hay không thì đã thấy bà Tư bước ra sân.
Yến vội chào:
- Dạ, Bác Tư, Bác khỏe không ạ?
- Ủa đứa nào như con Yến vậy, mới về hả con?
Bà đon đả:
- Vô nhà chơi đi con, lâu quá há, bọn trẻ tụi bay lớn lên rồi đi tứ xứ hết.
Yến bước theo sau bà Tư:
- Thằng Năm có nói với Bác là con về. Công chuyện làm ăn của con trên đó tốt chứ con?
- Dạ cũng thuận buồm xuôi gió bác à.
Yến từ tốn đáp.
Trò chuyện một lúc Yến mới biết Năm Nhỏ đang đi biển mấy hôm rồi, mai mới vào. Cô hỏi mượn chiếc ghe rồi đứng lên.
- Ghe nhà cột ngoài bãi đá, con cứ tới đó lấy, nhớ về sớm, thủy triều dạo này lên cao lắm đó nghen con.
Yến cảm ơn bà rồi vội vã bước đi, cô rất nóng lòng ra đến cù lao Câu.
Cô cho ghe ra hướng cù lao, có lại cái cảm giác chòng chành quen thuộc mà mấy năm nay tưởng chừng đã quên hẳn, cô thích thú bẻ máy chèo. Thì ra cô vẫn lái thạo như ngày nào, chẳng mấy chốc mũi ghe đã chạm vào bờ cát. Cô lội xuống nước, buột ghe vào cái cọc gỗ cạnh đó.
Nắng chiều lấp lánh trên mặt nước trong veo, lăn tăn gợn sóng, nước trong nhìn tận đáy cát.
Yến bước đi trên bờ cát, rồi dừng lại, rút bó nhang ra thắp. Trong làn khói trắng, cô lầm rầm khấn, cầu mong cho linh hồn Thắm yên ổn, cầu cho làng chài thanh bình.
Gió thổi mơn man trên mặt, trên tóc Yến, cô cảm thấy lòng mình yên ổn.
Yến quay ghe trở vào bờ, trời đã về chiều, những ghe đánh cá đã nhấp nháy đèn, sương xuống mờ nhẹ ngoài khơi.
Yến bước ngang qua ngõ nhà Thắm, cô đi chậm lại, nhìn vào trong căn nhà đang bị bóng tối len vào.
Người trong nhà đi đâu hết cả, không gian tĩnh mịch đến lạ. Yến chợt giật mình bắt gặp một đôi mắt đang dõi theo cô phía sau hàng hoa giấy rậm rạp.
Trời đang chạng vạng, bóng tối nhẹ nhàng bao phủ không gian khiến Yến khó mà nhận ra ai đang nhìn cô chằm chằm từ sau hàng hoa giấy. Cái bóng cử động rồi lùi lại sau gốc cây cau.
Sau những điều đã chứng kiến đêm qua, Yến trở nên bạo dạn hẳn. Cô tiến sát lại hàng rào, nghiêng đầu nhìn về phía gốc cau.
Cái bóng nấp sau gốc cau già ấy là một đứa con gái, tóc đen, dài chấm vai, nước da trắng xanh và lạ lùng là nó chỉ mặc mỗi chiếc quần đen, ngực để trần. Hai tay nó đang ôm lấy gốc cau như một con mèo nhỏ, đôi mắt vẫn nhìn chằm chằm vào Yến, một đôi mắt dài dại, không hồn.
Lấy làm lạ, Yến bước hẳn vào trong sân, đến gần gốc cau, đứa con gái hoảng sợ, nhảy lùi ra sau. Khuôn ngực trần trụi, da mặt trắng bệch, xanh xao đến ghê người, mái tóc rối tung như chưa từng chải bao giờ,  đứa con gái ấy hãy còn trẻ con và non nớt lắm.
Cô nhìn kỹ cặp chân mày và đôi môi của đứa bé, chợt bàng hoàng, thảng thốt:
- Út, phải không em?
Nghe người lạ gọi đúng tên mình, đứa bé dường như bình tĩnh lại, nó vẫn lùi ra sau, nhưng không còn vẻ sợ hãi nữa. Tay nó đang vịn vào một thân cau khác, móng tay như đang muốn bấu thật sâu vào thân cây, ánh mắt nó không còn chằm chằm nhìn Yến như lúc nãy.
Ngoại kể cho Yến nghe chuyện Út trở nên khờ dại sau khi chứng kiến những cái chết liên tục của người thân trong gia đình, nhưng cô không thể ngờ người đứng trước cô bây giờ chính là Út, phải khó khăn lắm Yến mới nhận ra.
Yến bước lại gần:
- Chị Yến đây mà, em còn nhớ chị không hả Út?
Cô càng bước đến, Út càng lùi ra xa, vẫn lặng yên không hề nói một lời. Không muốn làm cho cô bé sợ, Yến dừng lại. Con bé bỗng nghiêng đầu và cười, cái cười trên khuôn mặt vô hồn làm cho Yến thấy ruột mình thắt lại, cô không rõ mình đang sợ hay đang thấy thương Út.
Nụ cười kỳ dị trên môi nó bật ra thành tiếng, những tiếng khúc khích nho nhỏ, pha lẫn âm thanh rất lạ lùng. Yến chau mày nhẩm tính, con bé độ chừng mười sáu tuổi, sao tâm hồn ngây thơ của nó lại phải chịu đựng những nỗi đau thương này.
- Em vô nhà đi, tối rồi, ở ngoài này gió lạnh lắm.
Yến nói rồi định quay đi.
Đột ngột Út nhảy đến gần cô, hai bàn tay níu lấy tay cô, những ngón tay gầy guộc, cáu bẩn, bấu lấy tay cô đau nhói.
Yến khẽ rùng mình, cố trấn tĩnh, nhìn thẳng vào mắt Út. Đôi mắt nó vẫn trừng trừng nhìn cô. Cô bối rối, cố gỡ tay Út ra khỏi tay mình.
Út lại cười vang, giọng cười lục khục pha lẫn tiếng khúc khích của trẻ con làm Yến cảm thấy sờ sợ. Bỗng dưng tiếng cười im bặt, Út sụp quỳ xuống chân Yến và khóc, hai tay vẫn bấu vào tay Yến đến rướm máu. Yến cố đẩy thật mạnh, một tay gỡ tay Út ra.
Út quỳ hai chân, nước mắt đầm đìa, hai tay vừa bị gỡ khỏi người Yến bây giờ tự ôm lấy đôi vai trần của mình và cào thành mấy đường rướm máu. Yến chẳng hiểu sự tình gì, cô cũng không biết phải can ngăn Út khỏi những hành động kỳ quái đến thế. Cô bước lùi về phía ngõ.
Đúng lúc ấy anh Ba và chị Thảo vợ anh cùng về đến. Thấy Yến với vẻ mặt lo lắng, chị Thảo bước ngay đến đỡ Út dậy vừa nói:
- Yến mới ghé qua nhà hả em. Chắc con Út làm em sợ một phen phải không?
Rồi chị quay sang nói với Út:
- Út đi vô nhà đi, nghe lời chị, nha!
Anh Ba cũng đỡ Út vào nhà, anh khẽ nói với Yến:
- Xin lỗi cô Yến nhen, con Út nó bệnh cả năm nay cô đừng chấp nó.
Bữa cơm tối được chị Thảo chuẩn bị chóng vánh, anh chị mời Yến ở lại dùng cơm nên cô cũng ngồi vào bàn cùng cả nhà.
Út bưng bát cơm vào góc nhà ngồi chồm hổm và ăn bốc bằng hai tay, đôi mắt vẫn nhìn chăm chăm vào Yến.
- Nó bệnh vậy đó, vợ chồng tui thuốc thang hết mức mà không khỏi Yến à. Có dạo nó còn cắn cả ba chồng tui, cứ thấy ba là nó hung tợn lắm. Các thầy nói do nó với ba tui không hợp tuổi nhau…
Chị Thảo kể lể.
- Mình cứ hay tin ba chuyện không đâu, tại ba hay la rầy nó nên nó mới kích động vậy chứ tuổi tác gì.
Anh Ba gạt ngang.
- Ngày mai giỗ con Thắm cô Yến qua chơi với vợ chồng tui nghen.
Quay sang nhìn Yến, anh nói.
- Dạ em sẽ qua. Ngày mai bác trai có về không anh?
Yến hỏi.
- Chắc không, vì ba tụi này ăn chay đã lâu mà ngày mai giỗ mặn. Với lại ba tui về thì con Út lại lên cơn nên thôi.
Anh Ba đáp.
Mọi người lặng lẽ ăn rồi Yến chào anh chị Ba ra về. Út vẫn ngồi chồm hổm trong xó nhà, ngước mặt lên trần nhà lẩm nhẩm điều gì không thành tiếng.
Yến về đến nhà đã thấy ngoại ra cửa đứng trông.
Ngoại hiền lành mắng yêu:
- Cái con này hư, đi về trễ để ngoại lo. Ngoại để phần cơm cho mày dưới bếp đó.
- Dạ con ăn cơm bên nhà anh chị Ba rồi ngoại ạ. Hồi chiều bà Tư cho con mượn ghe máy để ra cù lao nữa…
Yến lại ngồi cạnh ngoại bên bàn nước, cô bắt đầu nghĩ về mọi chuyện xảy ra với Thắm và gia đình bà Khả.
Cô tự hỏi Thắm chết ở cù lao Câu, sao linh hồn lại lảng vảng ở mỏm đá chim. Tại sao bé Ngọc cũng trượt chân chết ở mỏm đá ấy. Cả Năm Nhỏ và cô đều thấy Thắm chạy về phía mỏm đá. Cả chuyên năm Nhỏ đòi giết ông Khả và chuyện con Út cứ thấy ông Khả là lại lên cơn điên. Liệu những việc này là thế nào, có liên quan gì với nhau không?
Yến mơ hồ nhận ra có một mối liên hệ giữa những sự việc, những cái chết, mỏm đá, ông Khả và những người đòi giết ông, thấy ông thì lại nổi cơn điên….
- Chắc chắn có điều uẩn khúc!
Cô nhủ thầm. Cô đinh ninh mình sẽ tìm ra sự thực để cho linh hồn Thắm được bình yên.
 
***
 
Đêm ấy, cách nhà Yến một ngã tư đường, trong căn nhà nhỏ của gia đình ông Khả, mọi người đã đi ngủ, chỉ còn một mình Thảo đang ngồi khâu áo cho chồng bên ngọn đèn dầu leo lét. Nhìn gương mặt mệt nhọc của chồng và hơi thở nhẹ, đều đều của anh, chị thấy thương chồng và buồn thương cho gia đình này.
Gió lạnh luồn vào khe cửa bên hông nhà kêu cót két. Khoác vội chiếc áo choàng, chị bước ra nhà trước. Út đang ngủ trên phản, gương mặt điên dại ban ngày giờ đây chỉ còn lại nét ngây ngô đến tội. Chị kéo chăn đắp cho em chồng, khẽ vuốt tóc em rồi khép nhẹ khung cửa sổ.
Vừa quay lưng định trở vào nhà trong, chị bỗng nghe giọng trẻ con thì thào:
- Mẹ, mẹ ơi!
Chị Thảo giật thót mình, ngoái nhìn lại thì thấy đứa bé bụ bẫm,  người trần truồng, chưa đầy một tuổi đang ngồi trên sàn nhà. Chị lảo đảo, vội đưa tay vị vào vách tường. Đứa bé bò nhanh lại phía chị, chị muốn la lên nhưng không thốt được lời nào, người chị cứng đờ, không thể nhúc nhích được.
Nó là bé trai, gương mặt tròn trĩnh xinh xắn. Nó đến sát bên chị, đưa hai tay ra xô vào người chị, mạnh đến nỗi chị ngã nhào ra sau, đầu va vào chiếc ghế gỗ, tiếng động vang lên trong ngôi nhà yên ắng.
Anh Ba giật mình , chạy vội ra phía có tiếng động, anh hớt hải:
- Mình có sao không? Mình đi đâu mà té vậy?
Anh luống cuống đỡ chị đứng lên.
- Tui không sao…
Vẫn còn hốt hoảng, nhưng chị cố nhìn khắp lượt để tìm đứa bé lúc nãy, nhưng chẳng có gì trên sàn nhà ngoài chiếc ghế gỗ ngã chổng chơ.
Chị thở dồn dập, đưa tay sờ lên bụng, một cơn đau thắt ngang bụng chị. Chị đang mang thai , đã được ba tháng rồi. Từ hồi đứa con gái lớn của chị mất đi, hai vợ chồng mới có được một niềm vui duy nhất khi hay chị có thai lần này.
- Mình có sao không vậy? Tui lo cho cái thai quá, sáng mai tui đưa mình lên trạm xá khám nghen.
Anh Ba lo lắng nói.
Anh Ba dìu chị vào trong, chị vẫn còn bần thần, hoảng hốt.
Trên phản, Út đang ngủ bổng nhoẽn miệng cười tươi như đang hạnh phúc.
Chị Thảo nằm xuống giường, bụng không còn đau nữa, nhưng chị không thể nào ngủ được.
Chị thì thầm với chồng:
- Mình à, có đứa nhỏ xô tui ngã, tui nhìn thấy nó rõ ràng, nó còn kêu tui bằng mẹ nữa.
- Thôi mình ngủ đi, nói gì tầm phào quá vậy! Chắc mình lo cho cái thai nên nghĩ lung tung chứ gì.
Anh Ba nhẹ nhàng an ủi vợ rồi với tay tắt nốt ngọn đèn.
Căn nhà chìm hẳn vào bóng tối, chỉ thỉnh thoảng nghe tiếng con thằn lằn đang tặc lưỡi trên xà nhà.
Cả làng chài nằm yên trong giấc ngủ. Trên đồi dừa, gió rì rào, nhè nhẹ như đang kể một câu chuyện bí ẩn , lẩn khuất giữa chốn bình yên của một quê nghèo bên bờ biển.
Trời còn chưa sáng hẳn, chợ cá ở làng đã tấp nập người mua, kẻ bán. Yến thức dậy từ sáng tinh mơ, cô giúp ngoại đun nước, chuẩn bị bữa sáng đâu đó xong xuôi, cô xách giỏ đi chợ, định mua ít hoa quả lát nữa mang sang giỗ Thắm.
Trên đường từ chợ trở về, cô thấy Út đang đứng bên hiên nhà, ngực vẫn để trần, hai tay khoanh trước ngực như đang bế em bé. Dáng Út đứng đong đưa hệt như một người mẹ đang ru đứa con bé bỏng ngủ. Út mỉm cười, gương mặt chừng như đang rất hạnh phúc.
Cô rảo bước về nhà, soạn thức ăn trong giỏ ra, cô gọi :
- Ngoại ơi, hôm nay giỗ Thắm, con qua đó một chút. Ngoại ăn cơm một mình, đừng có buồn nha ngoại.
- Cha mày, lúc mày ở Sài Gòn, ngày hai bữa cũng chỉ mình ngoại chứ ai. Thôi đi đi con, qua bển phụ vợ chồng thằng Ba, tụi nó cũng đơn chiếc lắm.
Ngoại cười, giục Yến.
Yến vừa đến thì chị Thảo cũng từ chợ về, cái gánh không trống trơn như mọi ngày mà Yến thấy trong đó có miếng thịt to, rau củ và mấy thứ khác nữa.
Chị Thảo cười tươi, nói với Yến :
- Em qua sớm vậy, chị tính cúng xong mới sang mời bà và em.
- Chị cứ khách sáo làm chi, em chứ ai xa lạ đâu mà.
Yến cười.
Hai chị em ngồi dưới bóng mát cuả cây trâm sau bếp, cùng xắt thịt, nhặt rau…
Chị Thảo tính vốn thật thà, cởi mở, vừa làm, chị vừa tâm sự với Yến mọi điều, từ chuyện vợ chồng chị làm lụng vất vả cho đến chuyện gần xa trong làng suốt mấy năm qua.
Khi mâm cơm thịnh soạn đã bày trên bàn thờ, anh Ba cũng vừa về đến. Anh thả tấm lưới đánh “phịch” ngoài sân, vừa bước vào nhà, anh vừa cởi chiếc áo bạc màu  lau mồ hôi trên gương mặt đỏ rực vì nắng biển.
- Cô Yến mới qua hả?
Anh chào.
Chị Thảo vừa đỡ lấy chiếc áo đẫm mồ hôi của anh vừa hỏi :
- Anh có lên chùa đưa ba xuống không?
- Chắc thôi mình à, tui sợ con Út nó lại phát bịnh.
Anh chậm rãi đáp.
Quay sang Yến anh nói:
- Cô ở nhà chơi nghen, tui qua nhà bà Tư mua ít rượu đế, sẵn kêu thằng Năm qua chơi luôn.
Thảo gọi Yến lại ngồi cùng trên chiếc phản gỗ, gió thổi hiu hiu qua khu vườn mát rượi. Thế là Yến đã có mặt trong ngày giỗ của Thắm. Cô tự nhủ không biết có là quá muộn từ khi Thắm chết? Hay ông trời xui khiến cho mình có mặt ở đây sau chừng ấy năm để chứng kiến những điều kỳ hoặc, để trả lời cho những gì làm linh hồn Thắm mãi quanh quẩn, chưa yên.
Căn nhà thơm ngát mùi khói nhang và lặng yên như chưa từng xảy ra biến cố gì.
- Chị có mang được mấy tháng rồi đó em. Mà sao chị thấy có chuyện kỳ cục quá.
Thảo đột ngột lên tiếng.
- Chuyện gì kỳ cục hả chị?
Yến buột miệng, trong lòng vừa mừng vì nghe chị mang thai nhưng lại vừa thấy lo lo.
Thảo kể hết cho Yến nghe chuyện đứa bé gọi chị bằng mẹ rồi xô chị té đêm qua, cả những lần chị thức giấc giữa đêm vì cứ nghe tiếng gọi mẹ văng vẳng bên tai.
Yến lẳng lặng nghe, không bỏ sót một chi tiết nào.
- Cái giọng của đứa trẻ đó chị đã nghe qua nhiều lần rồi, quen lắm, nhưng tối hôm qua chị mới thấy nó.
Thảo nói.
- Lúc đầu chị tưởng mình nhớ con Ngọc nên cứ nghe tiếng gọi mẹ, nhưng tối qua chị thấy rõ, nó không phải con chị. Mà nó mạnh lắm em à, xô chị ngã nhào xuống đất.
Trước kia Yến không tin lắm những chuyện ma quái như vầy, nhưng từ khi tận mắt nhìn thấy Thắm trong vườn dừa, khi chính da thịt mình cảm nhận sự hiện diện của một linh hồn, Thắm cảm thấy tin có một thế giới khác đang tồn tại, thế giới của những linh hồn.
Vì vậy với những điều chị Thảo vừa kể, Yến thấy tất cả đều có mối liên hệ với nhau, nhưng đang rất ngổn ngang, Yến không biết sợi dây liên hệ đó bắt đầu từ đâu.
Đứa bé đó là ai, tại sao nó lại xô ngã chị Thảo? Sự thật đằng sau tất cả những chuyện này là gì?
- Gần đây chị thấy có nhiều chuyện lạ lắm.
Thảo vẫn tiếp tục kể.
- Chiều nào con Út cũng ra sân đứng như chơi trò ru em vậy. Chị lại gần hỏi gì là nó lại bảo chị im đi cho con nó ngủ. Thiệt lạ đời hết sức!
Vẫn đăm chiêu lắng nghe lời kể của Thảo, Yến đưa mắt nhìn theo bóng nắng chập chờn ngoài hiên.
Út vẫn đứng đó, đong đưa hát ru đứa bé trong trí tưởng tượng điên rồ của nó.
Anh ba trở về đến ngõ, tay cầm chai rượu trắng đầy, đằng sau anh là Năm Nhỏ với khuôn mặt sạm đen, buồn buồn.
Nhìn thấy Yến, Năm cười hiền lành:
- Lần này cô Yến về chơi cũng lâu hén. Thắm mà còn sống chắc là vui lắm. Hồi đó Thắm cứ rủ tui vô trỏng thăm Yến hoài, mà chưa có dịp…
Giọng nói oang oang của Năm bỗng nhỏ dần.
Yến thấy được nỗi buồn đượm lên trong mắt anh. Cả nhà lặng yên, không khí chùng xuống, dường như sự mất mát vẫn chưa thể nguôi ngoai trong lòng mọi người.
Năm đến trước bàn thờ, thắp nhang, rồi mang giấy tiền, vàng bạc ra ngoài hiên châm lửa đốt.
Nhìn gương mặt thẩn thờ của anh qua ánh lửa hừng hực, Yến phần nào hiểu được tình cảm sâu đậm giữa hai người .
Cô đến gần.
- Thôi anh đừng buồn nữa, số kiếp cả anh à…
Yến nhỏ nhẹ nói.
Năm không trả lời, chỉ khơi khơi mấy tờ giấy bạc cho lửa cháy to hơn.
- Có điều…
Yến ngập ngừng rồi tiếp:
- Anh Năm à, tui không muốn làm anh buồn thêm, nhưng mà… tui thấy Thắm về… hình như có gì đó….
Năm Nhỏ ngước lên nhìn Yến, anh như muốn nói điều gì, nhưng rồi lại thôi.
Anh cúi xuống thở dài:
- Tui hiểu ý của Yến, tui cũng thấy Thắm về mấy lần, cũng chắc chắn là có điều gì oan ức cho Thắm… Cả năm qua rồi, đến xác của Thắm tui cũng không vớt được, thử hỏi tui có thể làm được gì đây?
Một giọt nước nhỏ đang rơm rớm ở khóe mắt Năm.
Yến lặng yên, cô muốn hỏi nhiều lắm. Cô muốn biết anh đã thấy Thắm như thế nào, Thắm đã nói gì với anh. Tại sao anh từng đòi lấy mạng ông Khả??? Biết bao nhiêu câu hỏi trong đầu, nhưng Yến đành chựng lại, không thể thốt ra trước nỗi đau của Năm.
Năm bỗng lên tiếng:
- Có lẽ tại tui và Yến  thương tiếc Thắm nên mới nghĩ vậy…
- Đâu phải chỉ có tui và anh, dân chài ở đây cũng thấy mà!
Yến đáp nhỏ.
Năm không trả lời cô. Anh lấy ly nước hắt vào đống tro tàn để bụi tro không bay khắp nhà, rồi dứng dậy bước vào nhà,Yến cũng vào theo.
Nhang đã tàn, anh Ba bảo mọi người ngồi vào bàn, cùng dùng cơm trưa. Anh rót rượu ra từng ly nhỏ cho mọi người. Út đang ngồi ở góc nhà, tay bưng một bát đầy thịt chị Thảo đưa cho, nó vừa ăn, vừa cười khùng khục trong cổ.
Xong bữa cơm, anh Ba và Năm nhỏ ra sân ngồi, cùng nhâm nhi phần rượu còn lại trong chai. Yến giúp Thảo dọn dẹp, rồi cũng cáo từ,
Yến thấy đầu nhưng nhức, có lẽ do chút rượu đế ban nãy. Cô nghĩ nhất định phải tìm lúc nào thuận tiện để hỏi chuyên Năm Nhỏ cho tường tận. Cô chắc chắn cái chết của bạn mình không chỉ đơn thuần là vụ đắm đò do giông  bão.
Cô ước gì mình đã gặp Thắm một lần trước khi Thắm mất, phải chi cô chịu khó về thăm quê thường xuyên hơn. Yến trách mình đã vô tâm, đi xa bao nhiêu lâu mà không chịu liên lạc thư từ với Thắm, đến khi trở lại thì bạn đã không còn. Lòng cô buồn và day dứt quá.
Chưa muốn về ngay nhà, Yến thả bộ trên con đường nhỏ men theo bờ biển, vòng qua những ghềnh đá bám đầy rêu. Cô thơ thẩn ở những nơi mà ngày còn nhỏ cô và Thắm đã từng chơi đùa cùng nhau.
Ký ức xưa hiện về tràn ngập trong tâm trí. Yến nhớ rõ, Thắm rất thương yêu cô, tuy chỉ lớn hơn vài tuổi, nhưng lúc nào Thắm cũng tỏ ra là người chị tận tình của Yến.
Có một lần Yến tò mò muốn trèo lên chơi trên mỏm đá chim, nơi mà mọi trẻ con đều bị cấm đến gần, Thắm đã can ngăn, nhưng Yến vẫn cứ khăng khăng đòi lên đó. Không ngăn được Yến, Thắm đành đi theo và canh chừng cẩn thận từng bước chân của Yến.
Chiều về, ngoại biết được, đòi đánh cả hai chị em, Thắm đã nhận hết lỗi về mình để cho Yến khỏi bị đòn.
Là đứa trẻ mồ côi, chỉ có mình ngoại chăm lo, Yến lại cứ đau bệnh hoài, ốm yếu, gầy còm, trẻ con trong làng không thèm chơi với Yến, chỉ trừ Thắm và Năm Nhỏ.
Mãi mê với những ký ức, Yến quên bẵng trời đã về chiều. Cô chợt thấy thèm trèo lên trên mỏm đá chim như ngày nào còn bé. Cũng chỉ từ đó đứng trông ra biển và đếm những cụm mây trên bầu trời.
Thế là Yến men theo con đường nhỏ lòng vòng phía sau vườn dừa, con đường mấp mô và chi chít những bụi hoa ngũ sắc. Mùi cỏ lẫn cùng mùi của gió biển quấn lấy từng bước chân của Yến.
Chẳng mấy chốc, con đường nhỏ ngoằn nghoèo đã đưa Yến đến mỏm đá chim, mỏm đá già nua đứng trông ra biển, có hình dáng như chiếc mỏ chim khổng lồ.
Khung cảnh nơi đây vẫn không thay đổi, những bụi gai ngày nào càng thêm rậm rạp, con đường đứt quãng giữa những bụi gai tía. Sắc tía càng đậm hơn dưới ánh nắng chiều rừng rực.
Lần trước lạc đến đây vào ban tối lại thêm phần hoang mang, Yến chẳng kịp nhìn thấy khung cảnh xung quanh. Giờ đây cô nhìn ngắm thích thú mọi thứ. Cây sim già vẫn còn đó, rễ trùm lên tảng đá lớn, thân cây bạc phếch vì mưa gió. Giờ đã qua mùa sim chín, Yến vẫn thấy còn lác đác vài trái chín mọng trên cây, lấp ló sau tàn lá xanh.
Cô bước đến gần bìa của tảng đá, nơi mép vực. Từ đây có thể trông rõ những bụi cây rậm rạp và các tảng đá lởm chởm dưới đáy vực. Nước triều đang lên cao, Yến chỉ còn trông thấy chỏm đá và đỉnh của những bụi hoa gai. Cô trèo lên tảng đá lớn, mình đá xanh mướt rêu phong và trơn trợt. Yến bỏ dép ra và cố leo lên. Hì hục một lát Yến cũng đã lên được đỉnh cao nhất của tảng đá, vừa lau mồ hôi vừa đưa mắt trông ra biển.
Khung cảnh hoàng hôn nhìn từ đây thật đẹp. Bầu trời rực lên màu lửa, mặt trời hiền lành, chậm chạp chui xuống biển. Mặt biển mênh mông, xanh thẫm trãi rộng ra mãi trước mắt cô.
Yến đứng thẳng người trên mỏm đá, nhắm mắt lại lắng nghe gió biển đang vuốt ve trên tóc. Sương chiều xuống lành lạnh...
Yến nghĩ phải về thôi. Trời sắp tối rồi. Cô đưa mắt nhìn quanh, tìm cách leo xuống khỏi mỏm đá. Gió chiều đang mạnh hơn, hơi lạnh lan tỏa trong không gian và mơn man trên đôi tay Yến.
Chợt có nhìn thấy có vật gì đen đen, thấp thoáng trên mặt nước dưới đáy vực. Từ chổ cô nhìn xuống cách độ chừng sáu hay bảy mét. Tò mò, cô nhoài người trên mỏm đá, cố nhìn xuống cho rõ hơn.
Cạnh bụi hoa tím mà nước triều đã dâng lên ngập hơn nửa là một vật đen, tròn nổi lềnh bềnh trên mặt nước, thoáng qua, trông giống như quả dừa khô phủ đầy rong rêu. Yến cố căng mắt ra để nhìn thật kỹ. Tim cô đập thình thình khi nhận ra cái lớp đen đen phủ bên ngoài vật đó không phải rong rêu mà giống tóc người nhiều hơn.
Cái vật đó cứ nổi lềnh bềnh gần bụi gai tím, trong một thoáng, Yến chợt thấy có một mảng trắng nhợt lấp ló sau những sợi rêu đen. Cái mảng trắng ấy giống hệt da người, chỉ khác ở chổ nó trắng xanh và bun bủn. Yến nghe ghê cả người, cô thấy lạnh phía sau gáy và lờm lợm trong cổ họng. Nhưng trí tò mò không để yên, cô quyết định leo xuống vực, lại gần bụi cây nhìn cho rõ thực hư.
Trời đã chập choạng tối, vất vả hồi lâu Yến mới xuống được phía dưới, nước ngập quá đầu gối, đá dưới chân lởm chởm, những cái gai nhọn hoắc cào xước vào tay, Yến vẫn cố lội đến gần bụi cây.
Một con sóng nhè nhẹ xô  nước vào bờ đá, đẩy cái vật lềnh bềnh kia trôi vào lẫn giữa bụi cây gai, Yến không thể nhìn thấy được nữa.
Nước triều lên mỗi lúc một cao thêm, bờ đá lại mấp mô, trơn trợt, Yến đành phải nghĩ đến chuyện quay về. Cô quay người, đưa tay vịn vào tảng đá để trèo lên. Một cái gì lạnh lùng rờn rợn sau gáy, như có ai đó đang nhìn mình từ phía sau.
Yến quay ngoắc lại. Một khuôn mặt trắng bệch nổi trên mặt nước, sát cạnh bụi hoa gai, mớ tóc đen, rối bời và ướt sũng, phủ gần hết nửa khuôn mặt, nhưng Yến vẫn thấy rõ đôi mắt mở trừng trừng phía sau làn tóc đó. Đôi mắt đầy vẻ thảng thốt, ngạc nhiên và hốt hoảng và uất ức .
Yến khiếp hãi, vội vàng trèo thật nhanh lên mỏm đá, không dám ngoái đầu lại. Hình ảnh khuôn mặt với ánh nhìn ghê rợn đó vẫn rất rõ ràng trong tâm trí cô.
Lên đến nơi cô chỉ kịp dừng lại để lấy hơi thở, không nhớ đôi dép nằm dưới gốc sim già, cô bước thật nhanh theo con đường mòn ngang qua vườn dừa, trở về làng.
Cô đi như chạy về đến nhà mà vẫn không hay mình đang đi chân đất, áo quần ướt sũng và tay chân xây xát nhiều nơi.
Nhìn thấy bộ dạng của Yến, ngoại hớt hải:
- Chuyện gì vậy con, trời ơi, sao vầy nè?
Yến ngồi phịch xuống ghế, cố trấn tĩnh lại và kể cho ngoại nghe những điều cô vừa thấy, cô cũng kể cả chuyện nhìn thấy Thắm trong vườn dừa hôm cô mới về làng, cả những điều xảy ra trong cái đêm mưa gió vừa rồi.
Giọng cô nặng trĩu và đầy nỗi ám ảnh. Ngoại lo lắng nhìn cô rồi thở dài. Bà lập cập bước vào nhà trong lấy bộ quần áo khô cho Yến rồi giục:
- Thôi đi thay đồ đi con, có ấm nước nóng trong bếp, để ngoại đem ra cho mà tắm, kẻo lại bệnh thì khổ.
Tắm nước nóng và mặc vào người bộ đồ khô ráo, ấm áp, cô dần bình tĩnh lại. Cô tự nhủ phải chi lúc nãy mình quay lại nhìn cho thật kỹ, biết đâu đó chỉ là trái dừa khô hoặc vật gì đó trôi dạt trên biển.
- Mình thật chả ra sao!
Cô vừa chải tóc, vừa lẩm bẩm. Có lẽ những điều mình thấy gần đây đã khiến đầu óc mình rối loạn. Cô hít một hơi thật sâu rồi đến ngồi bên mép giường cạnh ngoại. Ngọn đèn dầu in bóng hai bà cháu trên vách nhà, Ngoại vuốt tóc cô âu yếm:
- Để mai ngoại lên chùa xin ít lá bồ đề làm phép là yên ổn hết, không ai phá được cháu nữa đâu.
Yến tựa đầu vào vai ngoại, nghe hơi ấm dịu dàng, râm ran trong cơ thể.
Ngoài kia sương xuống nhiều, hơi sương man mát lan vào nhà.
Ngoại bảo:
- Nằm xuống ngủ đi con, đừng có sợ nữa, không sao đâu.
Yến ngoan ngoãn nằm xuống, người mệt rã rời, cô nhanh chóng chìm vào giấc ngủ.
Nhưng giấc ngủ đêm hôm ấy đến với Yên không yên ả chút nào. Bên tai cô vẫn văng vẳng tiếng rên rỉ khóc than của Thắm, và những hình ảnh rùng rợn lúc chiều cứ chập chờn trong mơ, cả dáng dấp tội nghiệp của Út đang đứng đong đưa đôi tay hát ru con ngủ nữa…
Mồ hôi rịn ra đẫm ướt trán, Yến giật mình thức giấc, ngơ ngác nhìn căn nhà đang chìm trong bóng tối, không định hướng được mình đang ở chỗ nào.
Mãi một lúc lâu sau Yến mới nhớ ra mọi việc và nhớ mình đang ngủ trên giường của ngoại chứ không phải ngủ trong phòng mình như mấy hôm trước.
Yến xoay người sang không thấy ngoại nằm cạnh, cô chắc ngoại lại xuống võng rồi. Tính ngoại vẫn thế, lớn tuổi rồi, đêm ngủ chẳng bao nhiêu nên cứ lấy chiếc võng làm bạn, nằm đong đưa và ngủ lơ mơ vậy thôi.
Dang thẳng đôi chân và hai cánh tay mỏi rả rời, Yến cố nhắm mắt lại để dỗ tiếp giấc ngủ nhưng cô không tài nào ngủ được. Bây giờ trong đầu Yến chỉ toàn là những hình ảnh, những câu hỏi xoay quanh cái chết của chị Thắm và những người trong gia đình chị ấy.
Sau những sự việc xảy ra mà Yến nghe ngoại kể lại cộng với những việc do chính mắt mình chứng kiến, lúc này đây Yến có thể biết chắc một điều, cái chết của chị Thắm không đơn thuần là một cái chết do tai nạn rủi ro lúc đi câu, mà phải là một cái chết có nhiều uẩn khúc trong đó.
Tại sao mình lại liên tiếp gặp những hồn ma trong mơ và cả lúc thức? Chắc hẳn chị Thắm muốn nhờ mình một việc gì đây? Có phải chị muốn mình làm sáng tỏ cái chết của chị ấy?
Yến nghĩ vậy, cô cảm thấy quá đau đầu với những việc đó. Lại thêm đứa bé mà chị Thảo kể nữa… Trời ơi, tại sao gia đình chị lại xảy ra nhiều chuyện mờ ám đến thế nhỉ?
Yến cảm thấy vô cùng mệt mỏi và cô thiếp đi khi trời gần sáng.
 
***
Yến dụi mắt nhìn ra ngoài thì thấy ánh nắng đã rọi hẳn vào nhà làm thành một khoảnh sáng nhảy nhót nơi bậc cửa. Uể oải vươn mình ngồi dậy, Yến đưa chân xuống quờ tìm dép và chợt nhớ sự lại chuyện chiều tối hôm qua.
- Vậy là còn bỏ quên đôi dép trên đó, chút nữa phải lên lấy. Chán mình thật!
Yến vừa xỏ chân vào đôi guốc của ngoại vừa lẩm bẩm.
- Dậy rồi hả con? Thấy con ngủ mê mệt quá nên ngoại đi chợ rồi nè!
Ngoại cười, đặt cái rổ xuống thềm nhà rồi ngồi xuống võng nhìn Yến không giấu được vẻ lo lắng.
Yến xuýt xoa:
- Trời, con hư quá! Để ngoại phải đi chợ cực khổ vầy…
- Mồ tổ cô, lâu nay ngoại ở một mình thì ai đi chợ cho? Có chi cực khổ đâu mà…
Bà mắng yêu.
Yến bưng cái rổ đi xuống nhà sau, lòng rưng rưng thương cho cảnh cô độc của ngoại.
- Hay là… ngoại vô Sài Gòn sống với con nghen ngoại?
Cô dừng bước, ân cần nói.
Bà nhìn Yến cười thật hiền, chập sau mới châm rãi nói:
- Ngoại biết con thương ngoại, nhưng không được đâu con ơi, ở đây còn mồ mả ông bà… với lại ngoại đã quen sống nơi thôn quê yên tĩnh rồi, vào Sài Gòn chật chội, tù túng, ồn ào ngoại không sống được đâu…
Rồi bà cười tươi cho Yến được yên lòng:
- Bây giờ ngoại còn khỏe mà, việc chợ búa, cơm nước có gì là nặng nhọc, đó là niềm vui của ngoại đấy con ạ! Khi nào ngoại thật sự lụm cụm, không còn làm gì được nữa hẵng tính tiếp, nghe con?
Yến không nói gì, cô chỉ im lặng nhìn ngoại rồi lặng lẽ đi xuống bếp.
Lần về quê này Yến thấy lòng mình không được thư thả, thanh nhàn như cô nghĩ. Chuyện của Thắm làm Yến vừa sợ, vừa lo lắng lại vừa thắc mắc không yên. Rồi nhìn ngoại ngày một già yếu mà phải thui thủi một mình, lòng Yến không sao yên ổn được. Chắc chắc cô sẽ phải bàn lại với gia đình về việc của ngoại.
- Lần này về con tính ở chơi với ngoại được bao lâu vậy con?
Bà hỏi.
- Dạ, chắc ngày mốt con đi ngoại à! Công việc buôn bán trong Sài Gòn con đã nhờ chị bạn coi sóc giùm, nhưng đi lâu thì cũng không yên tâm. Con còn ở chơi với ngoại hết hôm nay, hết ngày mai nữa…
Yến vừa lặt rau vừa nói.
- Ừ, vậy chút nữa ngoại với con lên chùa để ngoại thỉnh cho con một lá bùa bình an, con mang theo bên mình sẽ không còn sợ tà ma hay xui rủi gì nữa hết!
Yến suýt bật cười nhưng cô đã kịp dừng lại. Cô không tin vào chuỵên bùa phép nhưng đó là sự quan tâm của ngoại dành cho, Yến không có quyền từ chối.
Ngay chiều hôm đó, Yến đã có trong tay lá bùa bình an, cô trân trọng cất nó vào chiếc bóp cùng với các thứ giấy tờ quan trọng khác của cô.
- Ngoại ơi, con đi đằng này một chút nghen ngoại!
Yến xách nón ra cửa nói với ngoại.
- Đi đâu vậy con?
Bà ngước nhìn lên, ngạc nhiên hỏi.
- Dạ, hôm qua con sợ quá chạy vội về, bỏ quên đôi dép ở ngoài mỏm chim, giờ con lên đó lấy…
Yến nói.
- Hay là bỏ luôn đi con, lên đó ngoại sợ…
Bà ngoại lo lắng.
Yến cười:
- Không sao đâu, ngoại yên tâm đi, con lên lấy đôi dép rồi về liền, không sao đâu ngoại.
- Yến tính đi đâu vậy?
Bà ngoại và Yến cùng giật mình khi nghe tiếng Năm Nhỏ. Nhận ra anh, bà ngoại có vẻ mừng lắm, bà bảo:
- Ừ, sẵn có thằng Năm đây, con nhờ đi chung cho ngoại yên tâm.
Năm Nhỏ nhìn Yến dò hỏi. Yến cười:
- Hôm qua tui bỏ quên đôi dép ở mỏm đá chim, giờ tính ra đó lấy về mà ngoại sợ không muốn cho tui đi đó anh Năm.
- Có tui đi với Yến rồi nè, không sao đâu.
Năm Nhỏ vừa nói vừa gật đầu chào ngoại Yến. Bà cười móm mém:
- Ừ, có thằng Năm đi với con là ngoại vững bụng lắm, không phải sợ con mất hết hồn vía như chiều hôm qua nữa…
Yến đi trước, Năm Nhỏ dấn bước lên đi ngang hàng với cô và hỏi:
- Hôm qua Yến gặp chuyện gì ngoài mỏm đá đó vậy?
Yến vẫn lầm lũi bước dường như không nghe những lời của Năm Nhỏ. Mãi đến khi cả hai đã đi vào vườn dừa, hướng về phía mỏm đá chim, Yến mới cất tiếng:
- Hình như anh Năm còn giấu tui chuyện gì đó về cái chết của chị Thắm, phải không?
Năm Nhỏ đi chậm lại, mắt nhìn xuống bãi cát:
- Sao Yến lại nghĩ vậy?
Yến ngồi xuống một tảng đá ven bờ biển, Năm Nhỏ cũng ngồi cạnh đó, ánh mắt anh buồn bã hướng về phía cù lao Câu. Yến nghe lòng mình đau nhoi nhói, thương cho Thắm, thương cho mối tình đựp của Năm Nhỏ dành cho Thắm.
- Tui biết chắc cái chết của chị Thắm có điều gì đó không bình thường. Anh Năm kể cho tui nghe đi, anh Năm đã gặp chị Thắm hiện về rồi phải không? Chị ấy đã nói gì với anh Năm mà anh Năm đòi giết ông Khả vậy? Lại còn con bé Út nữa, sao nó lại lên cơn mỗi khi nhìn thấy ba nó chứ?
Yến ngó Năm Nhỏ chăm chăm, cô chờ đợi một lời giải thích từ Năm Nhỏ.
Năm Nhỏ cúi xuống nhặt một cành cây nhỏ rồi cứ mải miết vẽ những đường nguệch ngoạc xuống bãi cát, lâu lắm anh mới trả lời:
- Yến nói đúng, tui đã gặp lại Thắm… không phải trong mơ… Một buổi chiều sau khi Thắm mất không lâu tui đi lang thang ở đây thì nhìn thấy Thắm. Mừng quá, tui cố sức đuổi theo nhưng không sao theo kịp. Khi tới gần mỏm đá chim thì Thắm biến mất. Tui đau đớn lắm, tui không biết sao Thắm lại không chịu gặp tui, nói với tui một lời chứ? Tối đêm đó tui ngồi ngoài bãi biển, đến hơn nửa đêm, tui lại nghe thấy tiếng Thắm khóc, Thắm nói với tui là Thắm đau lắm, lạnh lắm, Thắm giận ba lắm vì nếu không tại ba thì Thắm không đau, không lạnh như thế… Thắm khóc nhiều lắm… Tui hỏi ông Khả đã làm gì nhưng Thắm không chịu nói… Tui thương Thắm nên rất đau khổ vì chuyện đó. Thời gian ấy tui như người điên, sau này nghĩ lại tui nghĩ chắc có lẽ do tui nhớ thương Thắm nhiều quá nên nghĩ ngợi lung tung, bậy bạ… Ông Khả là ba của Thắm, là ba ruột mà, đâu lý nào ông ấy giết Thắm, mà đâu có lý do gì để ông ấy giết Thắm đâu? Trước nay ông Khả vẫn thương và nể Thắm lắm mà…
Yến gật đầu:
- Anh nói đúng, ông Khả thương chị Thắm nhất nhà, điều đó ai cũng biết. Tui cũng không nghĩ ông Khả làm hại chị ấy. Nhưng chắc phải có nguyên nhân gì đó nên chị Thắm mới nói với anh như vậy chứ…
Năm Nhỏ buồn bã:
- Yến đừng nghĩ ngợi nhiều, không tốt cho sức khỏe đâu, tui có trải qua rồi nên tui biết… Có thể tất cả những điều đó chỉ là do tui nghĩ quẩn mà ra thôi Yến à!
- Không đâu! Tui không nghĩ vậy. Tui tin việc chị Thắm hiện về là có thật, tui cũng tin ông Khả có liên quan tới cái chết của chị Thắm, chỉ là không biết liên quan như thế nào thôi. Anh có biết tại sao tui lại khẳng định vậy không, anh Năm?
Yến cãi lại Năm Nhỏ.
Năm Nhỏ không trả lời mà chỉ nhìn lại Yến dò hỏi.
- Tui cũng đã gặp chị Thắm! Ngay hôm đầu tiên về đây, tui có nói với anh đó, tui thấy chị Thắm bế một đứa bé đi dưới vườn dừa, tui đuổi theo, nhưng gần tới mỏm đá chim thì chị biến mất. Tui quả quyết tui không nhìn lầm, tui cũng không mơ ngủ gì vào lúc đó. Rồi mấy lần sau nữa tui cũng đã gặp chị, chị bấu vào tay tui, cũng than đau, than lạnh… Mới chiều hôm qua, tui cảm giác như chị Thắm đã hiện ra ngay sau lưng tui ở chính mỏm đá chim này. Tui… tui hỏi thiệt điều này, nếu có gì xin anh Năm bỏ qua cho tui nghen, đừng giận tui nghen?
Năm Nhỏ đã bắt đầu chú ý vào câu chuyện của Yến, anh ngạc nhiên:
- Có chuyện gì quan trọng mà Yến phải rào đón như vậy? Yến cứ hỏi đi, không sao đâu mà…
- Giữa anh và chị Thắm… đã… đã có gì với nhau chưa vậy?
Yến ấp úng hỏi.
Năm Nhỏ sửng sốt:
- Sao Yến lại hỏi vậy? Tình cảm giữa tui với Thắm hoàn toàn trong sáng. Thắm là một cô gái ngoan, chúng tôi muốn dành điều thiêng liêng ấy cho ngày cưới… Sao Yến lại hỏi vậy?
Năm Nhỏ lặp lại lần nữa.
Yến nói như hụt hơi:
- Tại vì… lần đầu tiên gặp chị tHắm, tui thấy rõ ràng trên tay chị có bế theo đứa bé, tui nghĩ… nếu giữa anh và chị Thắm đã… xảy ra chuyện thì mọi việc dễ lý giải hơn…
- Nghĩa là sao? Thật sự tui không hiểu?
Năm Nhỏ nhăn nhó.
- Tức là, theo tui nghĩ, có thể Thắm lỡ có thai với anh, ông Khả vì danh dự dự gia đình mà…
Yến chưa nói hết câu Năm Nhỏ đã hét lên:
- Không! Không đời nào có chuyện đó! Tui với Thắm chưa đi quá giới hạn cho phép. Và tui cũng tin Thắm không làm chuyện đó với người khác, nên việc Thắm mang thai là không thể xảy ra…
Rồi đột ngột Năm Nhỏ hạ thấp giọng:
- Mà giả sử như Thắm lỡ mang thai thì cũng đâu có sao, vì chúng tôi cũng sắp cưới nhau rồi mà… Ông Khả không thể vì chuyện đó mà hại Thắm được!
Yến ôm đầu khổ sở:
- Tui thật sự muốn điên lên được! Chị Thắm còn trong trắng, vậy đứa bé chị bế trên tay là con ai? Tại sao chị chết ngoài cù lao Câu mà hồn thì cứ lẩn quẩn ở mỏm đác chim này? Tại sao con bé Út lại ra nông nỗi đó, tại sao chị Thảo lại cứ thấy một đứa bé gọi mình bằng mẹ, mà đứa bé ấy lại không phải là bé Ngọc? Anh Năm ơi, anh nghĩ giúp tui đi, tui đau đầu quá!
Năm Nhỏ thở dài thườn thượt:
- Thôi, Yến đừng nên nghĩ ngợi làm gì nữa. Có lẽ tại tui với Yến quá thương Thắm nên cứ thấy những chuỵên đâu đâu… Dù sao thì Thắm cũng đã chết rồi, hãy để mọi việc ngủ yên đi Yến à, đừng khơi dậy nữa, không giải quyết được gì mà chỉ làm mình đau khổ thêm thôi. Nay mai Yến trở vô Sài Gòn, rồi Yến sẽ quên, cuộc sống của Yến sẽ trở lại bình thường thôi mà…
Nhìn thấy vẻ mặt thiểu não, chán chường của Năm Nhỏ, Yến không dám nói gì thêm. Vả lại cô nghĩ Năm Nhỏ nói cũng đúng, hãy để mọi việc ngủ yên, đừng khuấy động làm gì nữa…
Yến đứng lên đi về mỏm đá chim, trèo lên mỏm đá tới chỗ gốc sim già hôm qua. Năm Nhỏ cũng lững thững đi theo sau lưng Yến.
Khi tới đó, Yến nhặt lấy đôi dép vẫn còn nằm nguyên chỗ cũ. Cô cố tình khom người nhìn xuống mặt nước để xem cái vật trông giống đầu người chiều hôm qua có còn đó hay không, cô hy vọng nó vẫn còn đó để bây giờ có Năm Nhỏ bên cạnh, không sợ nữa, cô sẽ khều nó và xem kỹ là gì, nhưng mặt nước hoàn toàn phẳng lặng, không một vật gì trôi lềnh bềnh trên đó.
- Anh Năm, tui với anh ra cù lao Câu thắp nhang cho chị Thắm nghen? Tui muốn nói lời tạm biệt chị ấy, vì sáng ngày mốt là tui phải trở vô Sài Gòn rồi!
Yến bất ngờ đề nghị.
Năm Nhỏ gật đầu:
- Ừ, đi thì đi, để tui về lấy ghe, Yến đợi tui ở đây?
- Tui đợi anh ở đây. À, anh nhớ lấy theo bó nhang nhe!
Yến dặn với theo.
Còn lại một mình Yến thẫn thờ ngồi xuống sát bên mép vực, nói thầm:
- Chị Thắm ơi, em không biết chị chết vì lý do gì, em cũng muốn làm sáng tỏ mọi việc nhưng… em không biết phải làm sao khi trước mắt em chỉ là những câu hỏi không có lời giải đáp. Lực bất tòng tâm rồi, mong chị tha lỗi cho em…
Bất chợt Yến nghe một luồng hơi lạnh ngắt phả nhè nhẹ sau lưng mình. Cô quay ngoắt lại, thấp thoáng trong bụi sim lại là một gương mặt trắng bệch một nửa bị che khuất bởi mái tóc ướt sũng, nửa còn lại đầy thương tích… Yến run bắn người lên, cô lết dần ra xa nhưng mắt vẫn ngó chăm chăm vào gương mặt ghê rợn đó.
Chỉ chớp mắt một cái, gương mặt đó lại biến mất. Lúc này Yến không kịp thắc mắc, cô chỉ vội vã trèo xuống và chạy thật xa ra khỏi mỏm đá chim ma quái ấy.
Yến chạy một quãng, dừng lại một tay cầm đôi dép, một tay ôm ngực thở hổn hển. Cô đưa mắt nhìn về phía mỏm đá thì… thật không ngờ, rõ ràng cô trông thấy người con gái mặc áo bà ba, trên tay đang ôm một vật thuôn dài như đứa bé đứng cheo leo trên mỏm đá.
- Thắm, đúng là chị Thắm rồi, không sai vào đâu được!
Yến kêu lên thảng thốt.
Cô nửa muốn chạy lại đó, nửa lại không dám nên cứ đứng ngây người ra mà ngó.
Vừa lúc đó Yến nghe tiếng động cơ xình xịch của chiếc ghe máy đang tấp vào bờ đá, cô mừng rỡ gọi to:
- Anh Năm! Anh Năm ơi, mau lại đây…
Nghe tiếng kêu hốt hoảng của Yến, Năm Nhỏ vội vã nhảy lên bờ:
- Gì vậy Yến?
Yến chỉ tay lên mỏm đá chim:
- Anh nhìn đi, anh Năm!
Theo tay chỉ của Yến, Năm Nhỏ bàng hoàng khi nhận ra đúng là Thắm đang bế đứa bé đứng chênh vênh bên bờ vực.
- Thắm! Thắm ơi! Lùi lại đi em, lùi lại…
Năm Nhỏ vừa thét to, vừa chạy vội đến đó, Yến tất tả chạy theo sau.
- Anh Năm… Anh Năm ơi… chị Thắm… chị Thắm… mất rồi!
Yến hổn hển gọi khi không nhìn thấy hình dáng người con gái đó nữa. Nhưng mặc những lời kêu gọi của Yến, Năm Nhỏ vẫn bươn bã trèo lên tận đỉnh cao nhất trên mỏm đá, nơi vừa mới lúc nãy Thắm đã đứng.
- Thắm ơi… em đâu rồi, Thắm ơi?
Năm Nhỏ khụyu xuống nức nở.
Yến vất vả lắm mới trèo lên được tới đó. Cô không biết dùng lời lẽ nào để an ủi Năm Nhỏ, nên đành đứng im bên cạnh, nước mắt chảy dài trên gương mặt cô.
- Lúc nãy đúng là Thắm đứng chỗ này phải không Yến?
Năm Nhỏ đột ngột hỏi Yến.
Yến khe khẽ gật đầu.
- Vậy là không phải mình tưởng tượng? Cả hai người đều trông thấy… là thật sao? Là thật sao, hở Yến?
Năm Nhỏ rên rỉ.
Yến cắn chặt môi, suy nghĩ một lát rồi bảo:
- Anh Năm, Yến nghĩ cái chết của chị Thắm có điều gút mắt. Mới vừa rồi Yến còn định buông xuôi, không tìm tòi suy nghĩ gì nữa, nhưng có lẽ chị không muốn thế nên đã hiện về để cho cả hai anh em mình cùng trông thấy. Mình phải làm sáng tỏ vụ này để hồn phách chị Thắm được siêu thoát anh Năm à!
Năm Nhỏ từ từ đứng lên, vẫn lẩm nhẩm như đang nói với chính mình:
- Là thật… là thật rồi! Không phải mình mơ… Thắm ơi… có gì oan khuất xin em hãy nói cho anh biết…
Thấy dáng vẻ Năm Nhỏ như vậy, Yến hơi lo nên lay mạnh tay anh:
- Anh Năm, tui với anh ra cù lao Câu đi!
- Ừ…
Năm Nhỏ thờ thẫn đáp.
Hai người lặng lẽ lên xuồng hướng về phía cù lao.
Hôm nay nhằm nước ròng, bãi cát trở nên rộng thênh thang và trải dài tít tắp. Yến lui cui thắp nhang, nhưng lần này cô không thắp hết cả bó mà chừa lại phân nửa.
- Sao Yến không thắp hết đi, mang về làm gì?
Năm Nhỏ thắc mắc.
Yến lưỡng lự giây lát rồi khẽ nói:
- Anh Năm à, tự nhiên tui có linh tính chị Thắm không chết ở khu vực này… Hồn phách chị ấy không ở đây… mà là… ở mỏm đá chim trong kia, Yến nghĩ chị Thắm chết ở đó!
Năm Nhỏ ngồi bệt xuống bãi cát, duỗi thẳng chân ra buồn bã hỏi:
- Sao Yến lại nghĩ vậy?
Yến nhẹ nhàng ngồi xuống cạnh Năm Nhỏ:
- Tui cũng không biết sao nữa! Đây là lần thứ hai tui ra chỗ này, nhưng lần nào lòng tui cũng nhẹ nhàng thanh thản khi đứng nơi đây… Còn ở móm đá chim, ở đó lòng tui nặng nề kỳ lạ lắm, và tui luôn có cảm giác có ai đó dõi theo, có ai đó đang ở sát bên cạnh…
Năm Nhỏ vòng tay qua gối, mắt nhìn xa xăm ra biển:
- Thì chính ông Khả bảo hai cha con bị đắm thuyền ở đây mà…
- Ông Khả! Đúng rồi, mọi việc chỉ có ông Khả là người rõ nhất, sao mấy hôm nay tui lại không nhớ ra nhỉ?
Yến bất giác reo lên.
Năm Nhỏ ngơ ngác:
- Yến nói sao? Cô muốn…
Yến ngắt lời Năm Nhỏ:
- Đúng! Tui sẽ lên chùa để gặp ông Khả!
Năm Nhỏ thở hắt ra một hơi dài:
- Gặp rồi sau đó thế nào? Chẳng lẽ Yến lại nói với ông Khả rằng cô không tin những lời ông nói về nguyên nhân Thắm chết? Và cô bắt buộc ông nói ra sự thật? Cô làm được sao?
Yến lắc đầu vẻ cương quyết:
- Không! Tất nhiên là tui không nói như vậy, nhưng tui có cách của tui, anh Năm ủng hộ tui nhe?
- Ủng hộ Yến theo cách nào? Hộ tống Yến lên chùa hay cùng Yến điều tra ông Khả? Tui nghĩ… không có kết quả gì đâu Yến à…
Năm Nhỏ nói giọng mệt mỏi.
- Tui chỉ cần anh hợp tác với tui, nếu có phát hiện gì mới nhất định anh phải nói cho tui biết, còn việc gặp ông Khả thì tự mình tui sẽ xoay sở được, tui biết ông Khả rất cảnh giác anh, vì đã có một dạo anh cứ đòi giết chết ông ấy mà, đúng không?
Trong đầu đã có chủ ý nên Yến nói năng rất dứt khoát. Năm Nhỏ cũng thắc mắc không hiểu Yến muốn làm gì, nhưng anh không hỏi chỉ khẽ gật đầu nhận lời đề nghị hợp tác của Yến.
Thủy triều bắt đầu dâng lên, Yến đứng dậy giục:
- Mình về đi, anh Năm! À, anh đưa tui vào chỗ mỏm đá chim, để tui ở đó rồi anh đem xuồng về nhà nghen?
- Ủa, Yến vô đó làm gì nữa? Cô không sợ à?
Năm Nhỏ ngạc nhiên hỏi.
Yến bặm môi:
- Thiệt tình… tui cũng hơi sợ… nhưng tui phải vô đó để… thắp nhang cho chị Thắm, vì tui đã nói với anh Năm rồi đó, tui nghĩ chị Thắm chết tại nơi đó chứ không phải ngoài này!
- Vậy thì tui sẽ cùng lên đó với Yến, tui không để Yến một mình ở đó đâu!
Năm Nhỏ nói.
Yến cười:
- Cảm ơn anh!
Khi cả hai trèo lên tới đỉnh cao nhất của mỏm đá, Yến rút nửa bó nhang còn lại ra thắp rồi cắm vào một khe đá gần đó. Cô lầm rầm khấn vái:
- Chị Thắm ơi, nếu có điều gì oan khuất, xin chị hãy về mách bảo cho em, em sẽ cùng với anh Năm giải oan cho chị, giúp vong hồn chị được siêu thoát, tránh được sự lạnh lẽo đau đớn như đã có lần chị về than khóc cùng em… Chị em mình đã có với nhau những ngày tháng tuổi thơ vô cùng êm đẹp, nay nếu chị không may vướng vào điều oan nghiệt nào đó khiến vong linh khốn khổ,  em nguyện sẽ giúp chị bằng tất cả sức lực của mình…
Yến vừa khấn dứt câu, một luồng gió lạnh buốt thổi ập tới khiến cả Yến và Năm Nhỏ phải rùng mình, mấy nén nhang bỗng cháy rừng rực, tỏa những làn khói mỏng manh ra xung quanh, tàn nhang không bị gió làm rơi xuống mà uốn cong lại một cách kỳ lạ.
Yến bật lên tiếng hỏi:
- Có đúng là vong hồn chị Thắm hiển linh không? Nếu là chị, chị hãy cho em và anh Năm nhìn thấy đi… em xin chị mà, chị Thắm!
Làn khói nhang bỗng chốc dày đặc lại như một màn sương, và… thấp thoáng trong màn sương ấy là dáng dấp một người con gái mặc áo bà ba, mái tóc dài buông xuống đến nửa lưng…
- Thắm!
Năm Nhỏ chồm tới, nhưng hình ảnh đó lập tức tan ra như ảo ảnh. Anh điên cuồng lùng sục khắp các lùm bụi xung quanh, như Thắm đang chơi trò trốn tìm với anh ngày xưa vậy.
- Anh không nắm bắt được chị ấy đâu! Đừng tốn công vô ích nữa anh Năm à…
Yến níu tay Năm Nhỏ lại.
Khi Năm Nhỏ đã chịu đứng yên, Yến nói tiếp:
- Hôm nay mọi việc đã bắt đầu hé lộ ra rồi, tui tin không bao lâu nữa mình sẽ giải đáp được toàn bộ câu chuyện rối rắm này. Anh Năm có tin giống như tui không?
- Tui cũng không biết nữa… Yến chỉ còn ở lại đây ngày mai, liệu mọi việc có giải quyết trọn vẹn trong chỉ một ngày không?
Năm Nhỏ lơ mơ nói.
Yến cười:
- Không, tui sẽ ở lại đến khi mọi việc được sáng tỏ! Tui đã hứa với chị Thắm vậy rồi mà.
- Yến định làm sáng tỏ bằng cách nào?
Năm Nhỏ tò mò.
Yến bối rối:
- Tui… thật sự tui cũng chưa biết nữa anh Năm à! Nhưng tự nhiên trong tui có một niềm tin vững chắc như thế! Tui tin vong hồn chị Thắm sẽ dắt đường chỉ lối cho tui…
Cả hai không nói gì thêm, chỉ ngồi lặng lẽ giữa nắng chiều vàng rực.
- Mình về đi Yến, kẻo ngoại cô ở nhà trông!
Năm Nhỏ đứng lên nói.
Yến nhìn lại mỏm đá lần nữa rồi lặng lẽ theo Năm Nhỏ trèo xuống bãi cát. Những bụi sim hai bên đường không ngừng va quẹt vào cô, khiến cô nhớ nôn nao một thời tuổi nhỏ đã gắn liền với những lùm cây bụi cỏ quanh đây…
- Anh Năm lấy xuồng về đi, tui đi tắt ngã này về nhà cho nhanh!
Yến nói.
- Yến đi một mình được không đó?
Năm Nhỏ lưỡng lự.
Yến bật cười:
- Trời! Bộ anh Năm tưởng tui là người xa lạ với vùng này chắc?
Nói xong, Yến bỏ mặc Năm Nhỏ đứng đó, cô nhanh nhẹn đi băng băng về nhà ngoại.
Đi ngang qua nhà Thắm, Yến chậm chân nhìn vào trong, vừa đúng lúc chị Thảo cầm chổi ra quét sân.
- Chị Thảo! Aên cơm chiều chưa mà lo quét dọn vậy chị?
Yến vui vẻ hỏi chào.
Chị Thảo ngước lên mừng rỡ:
- Ủa, Yến! Em đi đầu về giờ này? Ghé vô nhà chơi với chị chút đi em!
Yến rẽ vào cổng nhà có giàn hoa giấy xanh ngắt. Chị Thảo kéo Yến vào nhà nhưng Yến nói:
- Thôi, mình ngồi ngoài bậc thềm này chơi cho mát, vô nhà chi chị!
Hai chị em ngồi bên bậc thềm nhìn ra khoảng sân rụng đầy bông mận.
- Anh ba với bé Út đi đâu vắng rồi chị?
Chị Thảo cười:
- Anh ba mới chạy đi đâu đó, còn cô Út thì đang dỗ con ngủ trong buồng!
- Sao? Chị nói sao?
Nhìn thấy vẻ ngạc nhiên của Yến, chị Thảo bật cười:
- Thì cũng như mọi hôm thôi, cô Út lúc nào cũng giống như ru con, dỗ con ngủ vậy mà! Thiệt tình chị không hiểu nỗi nữa Yến à!
Yến nhớ lại cái dáng điệu đứng ru con của Út hôm trước mà thấy lòng xót xa rưng rức. Chưa kịp nói gì thì chị Thảo tiếp:
- Yến à, em tin trên đời này… có ma không?
- Sao chị hỏi vậy?
Yến ngạc nhiên hỏi lại.
Chị Thảo chợt buồn bã rồi thở dài:
- Trước giờ chị không tin ma, nhưng một năm nay trong nhà xảy ra bao nhiêu là chuyện, đầu tiên là cô Thắm bị tai nạn mất đi, sau đó tới mẹ chồng chị vì đau buồn mà ngã bệnh rồi không qua khỏi, rồi con bé Ngọc của chị rơi xuống vực… Sau tất cả những đau thương đó, chị thấy trong nhà này có điều gì đó không bình thường em à! Chị nói nhưng anh ba không tin thành thử chị không dám nhắc tới nữa. Nhưng… thật sự chị không sống yên ổn được… hình như cô Thắm hiện về, hình như có cả bé Ngọc lẫn một đứa bé nào khác nữa, nhỏ hơn… Mà lạ lắm em à, chị nhớ thương bé Ngọc, mong gặp lại nó biết mấy, dù là gặp trong mơ hay gặp bóng ma của nó cũng được, nhưng chỉ một hai lần chị thấy loáng thoáng bé Ngọc và cô Thắm trong giấc ngủ chập chờn thôi, không có gì rõ ràng hết. Trái lại, đứa bé xa lạ kia thì chị cứ thấy hoài, thấy nó cả trong khi chị còn thức hẳn hoi chứ không phải trong mơ. Nó gọi chị là mẹ, nhưng nó chẳng thương yêu gì chị đâu, nó cứ xô chị té hoài hà, chị lại đang mang thai, nói dại…
Nước mắt chảy dài trên má, chị Thảo nghẹn ngào không nói tiếp được nữa.
- Có phải đứa bé hôm qua chị kể với em không?
Yến hỏi.
Chị Thảo gật đầu, rầu rĩ:
- Đúng rồi đó em! Mới hồi trưa này nó lại xô chị té lần nữa! Mà em có tin chị không?
Yến đặt tay mình lên tay chị Thảo vỗ nhè nhẹ:
- Tin chứ! Dĩ nhiên là em tin chứ!
- Vậy mà anh ba lại nhất định không chịu tin! Ảnh nói do chị luôn nghĩ tới bé Ngọc, sức khỏe lại không tốt nên hoang mang, thấy bậy bạ… Chị thì sợ lắm, chị muốn về sống với mẹ chị một thời gian nhưng… bỏ anh ba và cô Út không ai chăm sóc cũng không được! Còn ở lại đây thì…
Chị Thảo vừa ấm ức vừa đau xót.
- Có phải lúc nãy chị nói chị đã có lần nhìn thấy chị Thắm hiện về?
Yến đột ngột hỏi.
Chị Thảo gật đầu.
- Chị Thắm có nói gì với chị không?
Yến hồi hộp hỏi.
Chị Thảo lắc đầu:
- Không, cô ấy không nói lời nào với chị hết! Chị chỉ thấy loáng thoáng qua thôi, chị cũng không dám chắc đó là cô Thắm hiện về hay chỉ là giấc mơ nữa…
- Ngày chị Thắm mất, chị có ở đây không? Trước khi đi biển, chị Thắm có nói gì với chị không?
Yến hỏi tiếp.
- Không em à! Hôm cô Thắm mất chị ở bên nhà mẹ ruột. Thời gian đó mẹ chị bệnh nên chị xin phép dẫn bé Ngọc về đó một thời gian để chăm sóc mẹ chị. Chị đi mới hơn một tuần thì xảy ra chuyện. Cũng khổ! Mấy hôm đó anh Ba cũng đi biển chưa về, nhà không có ai… Mà sao em hỏi chị vậy?
Chị Thảo hơi ngạc nhiên nhìn Yến.
- Dạ, tại em nghe người ta nói những người sắp chết thường có linh tính, nên hay có những lời nói hoặc hành động gì đó giống như báo trước mà có thể người thân không nhận ra được, em hỏi thử xem phải vậy không thôi!
Yến lấp liếm.
Chị Thảo buồn bã:
- Hôm cô Thảo mất, nhà chỉ có ba mẹ chồng chị thôi, cô Út còn ở Phan Rang chưa về! Mà Yến nè, em đoán thử xem cái đứa bé mà chị thường thấy là ai thế?
Yến lúng túng:
- Dạ… em… làm sao em biết được ạ?
Chị Thảo ngơ ngẩn một lúc rồi như sực tỉnh:
- Ừ, làm sao em biết được mà chị hỏi! Chị vô duyên thiệt đó, em đừng buồn chị nghen Yến! Dạo này chị mất tinh thần quá! Chắc… mai chị phải đi xin bùa về đeo quá, chị cứ lo cho cái bào thai trong bụng… Bé Ngọc đã mất rồi, cầu trời cho đứa bé mà chị đang mang được bình yên khỏe mạnh…
- Không sao đâu chị! Không sao đâu, mọi việc rồi sẽ trôi qua hết mà!
Yến an ủi.
Từ trong nhà vẳng ra tiếng hát ru con nho nhỏ của Út:
Má ơi đừng gả con xa
Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu…
Aâm điệu buồn thê thiết làm nước mắt Yến muốn trào ra. Yến và chị Thảo lặng lẽ nhìn nhau, không ai nói được lời nào…
Những tia nắng cuối ngày sắp tắt, Yến đứng lên từ giã:
- Em về, kẻo ngoại em mong! Chị đừng buồn nữa nhe, chị Thảo! Mai có rảnh em sẽ sang chơi với chị!
Chị Thảo đứng lên tiễn Yến ra cổng:
- Ừ thôi em về, mai nhớ sang chơi với chị nhe em, chị ở nhà một mình buồn lắm! Phải chi cô Út tỉnh táo còn có chị có em, đằng này…
Yến bước đi mà lòng nặng trĩu, tiếng thở dài não nuột của chị Thảo như vướng lấy vào chân của Yến làm cô cứ loạng choạng suýt té ngã mấy lần.
 
***
- Con coi đi chợ mua một ít cá khô mai đem theo vô Sài Gòn mà ăn, cá khô trong đó không ngon đâu con à!
Mới sáng sớm bà ngoại đã nhắc. Yến ôm choàng lấy ngoại, cười cười:
- Thôi, con ở chơi với ngoại thêm ít ngày nữa…
- Thịêt không đó? Đừng làm bà già này mừng hụt nghen?
Bà nhìn Yến, mắt lấp lánh niềm vui.
Yến nũng nịu:
- Hổng chừng con ở luôn đây cho ngoại nuôi, ngoại chịu không?
Bà ngoại cười móm mém, đưa tay vò đầu đứa cháu gái yêu mến của mình. Bà có hơi ngạc nhiên vì Yến đột ngột thay đổi ý định, nhưng điều đó không quan trọng, quan trọng là bà có Yến bên cạnh thêm vài ngày nữa là vui rồi!
Cơm nước xong, Yến xin phép ngoại:
- Con lên chùa Ông thắp nhang cho mẹ chị Thắm nhe ngoại? Với lại thăm bác trai luôn, từ hôm về đến nay con chưa gặp bác lần nào.
Ngoại gật đầu:
- Ừ, con đi đi! Tội nghiệp ông Khả, gia đình đang ấm êm hạnh phúc, tự nhiên tai họa liên tiếp ập tới… Ổng không tu mà sống như người tu hành khổ hạnh, một mình cất chòi ở cạnh chùa, nhà cửa gần một bên cũng chẳng mấy khi về… Chắc ổng đau đớn quá nên muốn xa lánh mọi người, muốn sống ẩn dật một mình đó con à. Con lên trên ấy cố lựa lời an ủi ông ấy nghe con.
- Dạ, con biết rồi! À, ngoại ơi, ngoại có nghe nói chuyện con bé Út mỗi khi thấy mặt ông Khả thì lại nổi điên không ngoại? Con nghe kể cứ thắc mắc, không hiểu tại sao?
Yến hỏi.
Bà ngoại chép miệng thở dài:
- Ừ, nhắc tới con nhỏ thấy tội! Nó đang đi học may ở nhà người bà con tuốt ngoài Phan Rang, gia đình liên tiếp xảy ra chuyện, nó về và điên luôn! Còn chuyện nó cào cấu, cắn xé ông Khả thì chắc là ông Khả hay la mắng nó chứ gì… lúc đó tinh thần ổng cũng bất ổn nên cứ la mắng nó suốt! Thôi, có đi thì đi sớm đi con, để lát nữa nắng lắm!
Ngoại giục.
Yến mỉm cười:
- Dạ thưa ngoại con đi!
Lâu lắm rồi Yến mới đặt chân trở lại con đường này.
Đây là con đường tắt dẫn lên chùa Ông. Nếu đi theo đường chính thì khoảng cách từ nhà ngoại Yến tới chùa Ông rất xa, còn đi tắt thế này, tuy hơi vất vả vì phải băng ngang qua một trảng cát rộng mênh mông, trèo qua mấy ngọn đồi nhỏ đầy gai góc nhưng đoạn đường lại rút ngắn hơn phân nửa, thành thử dân trong làng có việc cần lên chùa người ta vẫn đi theo lối này.
Tuy nhiên, chùa Ông lại là một ngôi chùa nhỏ, đìu hiu vắng vẻ. Trong chùa ngoài vị sư trụ trì chỉ có vài ba chú tiểu. Chùa nghèo, không tên tuổi nên khách thập phương cũng chẳng ai ghé thăm, cúng dường lại càng không có, chỉ thỉnh thoảng dân trong làng đến cầu nguyện gì đó hoặc đem hài cốt, bài vị người thân lên chùa gởi gắm thì người ta mới mua một ít trái cây, nhang đèn đem tới cúng.
Các sư thầy sinh sống chủ yếu dựa vào mảnh vườn rộng xung quanh chùa. Sau giờ tụng kinh niệm phật, cả sư trụ trì cũng phải lăn lưng ra chăm sóc vườn cây, vườn rau của nhà chùa.
Yến nghe nói ông Khả sở dĩ không xin ở trong chùa mà cất chòi ở cạnh bên, là vì ông khả vẫn chưa ăn chay trường được, trong khuôn viên chùa lại là nơi cấm việc sát sinh, thành ra chùa rộng rãi mà ông không ở được.
Sáng nay Yến đã chuẩn bị nhang đèn, hoa quả lên cúng chùa, đồng thời cô cũng không quên mua một ít thức mặn đem lên cho ông Khả.
Tay xách một giỏ trĩu nặng, đi qua trảng cát nóng bỏng dẫu trời chưa nắng gắt lắm đã làm Yến mệt đừ người. Mồ hôi túa ra đẫm ướt cả lưng áo. Cô cố dấn bước tới chỗ bóng râm ngồi nghỉ, giở nón xuống quạt lấy quạt để.
Để lên đến chùa, Yến đã phải dừng chân nghỉ mệt mấy bận như thế. Cô mỉm cười tự nhủ:
- Mới xa quê có mấy năm mà mình đã… đuối thế này rồi! Nhớ hồi đó, con đường này có là gì với mình đâu? Đúng thật là sung sướng riết rồi sanh ra tệ hại…
Đưa tay lên quệt mồ hôi trán, Yến cười thầm mình.
Trước mắt Yến ngôi chùa đã thấp thoáng hiện ra sau mấy lùm cây rậm rạp, nhưng cô không vội vào chùa, mắt ngó xung quanh tìm nơi ông Khả ở.
Nhìn xéo về hướng Bắc một chút, Yến trông thấy một ngôi nhà nhỏ lụp sụp giống như chòi canh dưa của nông dân vậy. Cô cảm thấy hơi hoang mang, không lẽ hơn một năm qua ông khả sống ở một chỗ như vậy sao? Mấy hôm nay nghe nói ông khả cất chòi sống cạnh chùa, nhưng trong đầu Yến hình dung ra một căn nhà lá nho nhỏ nhưng đàng hoàng tươm tất, chứ không ngờ lại như thế này.
- Chắc gì đó là nơi ông khả sống!
Yến lẩm bẩm để trấn tỉnh mình, nhưng chân cô vẫn bước nhanh về hướng đó.
Cánh cửa chỉ khép hờ nhưng Yến không dám đẩy vào. Cô đứng tần ngần một chút rồi lên tiếng gọi:
- Có ai trong đó không ạ, làm ơn cho hỏi thăm…
Yến lặp lại đến lần thứ ba vẫn không nghe có tiếng đáp lại. Cô vừa toan quay bước vào chùa thì cánh cửa xịch mở, một cái đầu tóc tai bù xù ló ra làm Yến giật thót cả người.
- Cô tìm ai?
Một giọng nói quen thuộc cất lên, Yến thảng thốt nhận ra đây đúng là giọng nói của ông Khả, mặc dù cô không thấy một nét quen thuộc nào từ cái đầu tóc bờm xờm trước mặt.
- Cháu… dạ… cháu là Yến, cháu muốn tìm bác Khả, ba của chị Thắm!
Cái đầu khẽ giật thót một cái, hai tròng mắt trợn trừng trắng dã. Yến run run không hiểu mọi việc sẽ diễn biến ra sao thì đôi mắt kia từ từ dịu xuống, rồi người đó mở toang cánh cửa và bước hẳn ra ngoài.
Đó là một người đàn ông gầy, cao, dáng người này đúng lag ông khả rồi, chỉ có gương mặt là khác quá. Trước kia lúc nào ông cũng ăn mặc giản dị nhưng sạch sẽ và gọn gàng, tóc húi cao, râu cạo nhẵn, còn bây giờ nhìn vào không thấy mặt mũi ông đâu chỉ toàn thấy râu và tóc và hai con mắt mở to.
- Bác… có phải bác chính là…
Yến ấp úng.
- Đúng! Bác là bác Khả đây, cháu tìm bác có việc gì không?
Yến nhìn ông trân trân không chớp mắt, mãi một lúc sau cô mới giật mình, khẽ nói:
- Dạ, không có gì ạ! Chỉ là… mấy năm rồi cháu đi xa, mọi việc không may xảy ra với gia đình cháu không được biết. Nay cháu về thăm, biết chuyện nên muốn lên chùa thắp nhang cho bác gái và thăm bác luôn ạ!
Ông Khả lặng lẽ cúi mặt, hai bàn tay ông bối rối vuốt vuốt mớ tóc lòa xòa trước mắt. Lát sau ổng ngẩng lên nhìn Yến khẽ nói:
- Cháu tới đây ngồi chơi, trong chòi bề bộn quá!
Ông chỉ tay vào một thân cây to được đốn ngã từ lâu và bắc nằm ngang dứơi bóng râm của mất tàng cây rậm rạp. Hai bác cháu ngồi lên thân cây và nói chuyện.
Ông Khả hỏi thăm Yến và bà ngoại một vài câu qua loa, ông không nhắc gì tới Thắm và những chuỵên buồn trong gia đình.
Yến lục giỏ, lấy đưa cho ông Khả gói thức ăn:
- Cháu có mang lên cho bác một ít thức ăn, bác nhận cho cháu vui ạ!
Ông khả thừ người ra một lúc rồi run rẩy đón lấy cái gói từ tay Yến.
Thấy ông cứ ngồi im không nói gì nữa Yến gợi chuyện:
- Sao bác không về nhà mà sống ở đây vất vả quá vậy?
Ông Khả cúi đầu thật thấp, nói nhỏ:
- Bác không dám về…
- Sao lại không dám ạ? Bác sợ gì?
Yến hồi hộp.
- Bác sợ… tất cả! Nếu như… nếu như đêm đó bác không cho Thắm đi theo thì gia đình đâu xảy ra nông nỗi…
Ông Khả nghẹn ngào.
- Chị Thắm bơi giỏi lắm mà bác, sao chị lại không bơi được vào bờ nhỉ? Khoảng cách đó đâu xa gì mấy…
Yến dò hỏi.
Ông khả ôm đầu kêu lên:
- Cháu không biết đâu, cháu không hiểu được tình hình đêm đó đâu… Bác xin cháu đừng nhắc lại chuyện đau buồn đó nữa, có được không cháu?
Trông thấy vẻ đau đớn của ông khả, Yến cũng thấy ân hận nhưng cô đã quyết tâm làm sáng tỏ mọi việc, mà ông Khả chính là nhân vật duy nhất còn lại có thể giúp cô mở nút thắt đó, Yến đánh đòn cuối cùng:
- Dạ, cháu xin lỗi bác, để cháu vào chùa cầu nguyện bác gái về phù hộ cho chị Thảo…
Yến vừa nói vừa dợm đứng lên.
Ông Khả nghe nhắc tới Thảo thoáng giật mình, hỏi:
- Ở nhà bác lại xảy ra chuyện gì với con Thảo sao cháu?
Yến lưỡng lự một chút rồi hỏi:
- Chắc bác biết việc chị Thảo mang thai ?
- Ừ, bác biết! Có chuyện gì với nó?
Ông Khả gật đầu, nhìn Yến lo lắng.
- Mấy lúc gần đây chị Thảo thường thấy một đứa bé hiện về gọi chị bằng mẹ, nhưng lần nào nó cũng xô chị té, chị sợ không giữ được bào thai… Mà bác nè, trong gia đình đâu có đứa bé nào mất ngoài bé Ngọc, phải không bác?
Ông Khả ngồi lặng đi một chút rồi bật khóc ồ lên, người ông co lại một cách quằn quại, đau đớn.
Ông vừa khóc vừa rên rỉ:
- Trời ơi… tại sao gia đình tôi lại ra nông nỗi này? Tôi xin nhận lấy tất cả tội lỗi, hãy buông tha cho họ đi… buông tha đi…!
Yến hốt hoảng trước vẻ đau đớn tột cùng của ông Khả, cô ngồi sát lại gần ông:
- Cháu xin lỗi, cháu đã vô ý làm bác đau như vậy! Bác tha lỗi cho cháu, nghe bác?
Ông Khả đột ngột nín khóc, ngẩng lên nhìn Yến và lắc đầu, mắt dại đi vì đau đớn:
- Cháu không có lỗi! Tội lỗi là do bác…
Yến có cảm giác nỗi đau đã luôn vò xé trái tim ông, đã làm cho cuộc đời ông tơi tả đến dường này, và giờ đây chính cô lại làm cho ngọn lửa đau đớn trong ông cháy bùng lên.
Không biết phải dùng những lời lẽ gì để an ủi ông Khả, Yến chỉ ngồi im lặng lẽ nhìn ông. Lưng ông như còng xuống vì những gánh nặng mà thời gian qua ông đã phải đeo mang. Nhìn bộ dạng ông thế này những ý nghĩ đen tối trong đầu Yến bỗng dưng tan biến hết.

Lúc chưa gặp ông Khả, Yến đinh ninh những tai họa liên tiếp xảy ra trong gia đình chị Thắm có liên quan ít nhiều tới ông Khả, ông là một trong những nguyên nhân gây ra các tai họa đó. Nhưng bây giờ Yến lại cảm thấy thương ông đứt ruột.
Yến nghe sống mũi mình cay cay, cô quay mặt vào chùa nói giả lả để ngăn dòng nước mắt đang chực chờ tuôn ra:
- Bác gởi bác gái trong chùa này phải không bác?
Ông Khả ngước lên thẫn thờ đáp:
- Ừ, bà ấy ở trỏng!
Yếm đứng lên chào ông Khả, xách giỏ trái cây đi vào chùa, ông không đi theo Yến mà chỉ đứng chôn chân một chỗ nhìn theo.
Khi Yến vào chùa làm xong các thủ tục cúng bái, chuyện vãn một lúc với vị sư trụ trì, khi cô trở ra thì không thấy ông Khả đâu nữa.
- Bác ơi… bác đâu rồi?
Cô lớn tiếng gọi nhưng không có tiếng trả lời.
Nhìn thấy cánh cửa còn mở rộng, Yến khom người bước vào trong để quan sát chỗ ăn ở của ông Khả. Bên trong chòi chỉ có một chiếc giường tre nhỏ xíu, mấy cái áo vứt bừa bãi trên đó. Dưới sàn nhà nằm chỏng chơ mấy cái nồi nhỏ cùng một hai cái chén mẻ miệng, kế đó là túi thức ăn lúc nãy Yến mang lên vẫn còn để nguyên chưa hề được mở ra.
Ông Khả đã sống như vậy hơn một năm nay? Tại sao ông lại sống theo kiểu đày ải bản thân mình? Và tại sao anh Ba lại có thể để cha mình sống như vậy?
Yến chán nản quay về, lòng nặng trĩu. Mới hôm qua Yến nghĩ mình mà gặp được ông Khả rồi thì chắc mọi chuyện sẽ được hé lộ, vậy mà bây giờ còn rối rắm nhiều hơn. Yến cảm thấy đuối sức, cô không biết phải làm gì và đi theo hướng nào cho đúng?
Vừa thấy Yến bước vào nhà, bà ngoại hớt hải hỏi:
- Lúc nãy con lên chùa có gặp ông Khả không con? Con đã nói gì với ông ấy?
- Có chuyện gì vậy ngoại?
Yến ngạc nhiên hỏi.
Bà ngoại kéo Yến ngồi xuống giường, thì thầm:
- Vừa rồi ông Khả trèo lên mỏm đá chim có ý định tự tử, may có mấy người tình cờ đi qua phát hiện được, lúc họ kéo ông xuống ông kêu khóc dữ lắm, hình như ông Khả đã bị loạn trí rồi con ơi!
Yến hoảng hốt:
- Mới hồi sáng này con còn nói chuyện với bác ấy mà? Bác cũng đâu có gì là không bình thường? Trời ơi… hay là…
- Sao vậy con? Có chuỵên gì sao?
Bà ngoại lo lắng.
Yến vơ lấy chiếc nón lá đội lên đầu, hấp tấp:
- Xin phép ngoại cho con lại đằng nhà bác Khả một chút, khi về con sẽ kể ngoại nghe mọi chuyện!
Bà ngoại Yến chưa kịp trả lời thì cô đã đi tuốt ra ngoài cửa. Đứng trông theo bóng đứa cháu gái dần xa ngoại khẽ lắc đầu, thở dài:
- Không biết nó đang làm chuyện gì nữa? Thiệt là khổ, về chơi với ngoại mà nào có được yên ổn…
Yến không đi thẳng tới nhà chị Thảo, cô rẽ ngoặt sang nhà dì Tư để tìm Năm Nhỏ. May mắn hôm nay Năm Nhỏ không đi biển. Đang ngồi vá lại tấm lưới trước sân nhà, thấy Yến xăm xăm đi vào, Năm Nhỏ mừng rỡ vứt cuộn chỉ xuống đất:
- Trời ơi, nãy giờ tui nóng lòng muốn gặp Yến nè! Yến hay tin gì chưa?
- Rồi! Tui mới nghe ngoại nói.
Yến gật.
Năm Nhỏ ngồi xuống bậc thềm:
- Nhà đó không biết còn xảy ra chuyện gì nữa…
- Anh Năm có gặp ông Khả chưa?
Yến hỏi.
Năm Nhỏ buồn bã đáp:
- Gặp rồi! Lúc nãy tui với mấy người trong làng đem ổng về nhà. Ổng vùng vẫy ghê lắm, một hai đòi chết, tụi tui phải trói ổng lại mới khiêng về được…
- Bây giờ ổng sao rồi, anh Năm?
- Tui cũng không biết nữa! Đem ổng về, anh ba cảm ơn rồi tỏ thái độ giống như không muốn có người ngoài trong nhà mình, vì vậy bọn tui ngại nên tản về hết…
Năm Nhỏ thở dài, rồi bỗng sực nhớ ra anh hỏi:
- Sáng này Yến lên chùa Ông phải không? Yến có gặp bác ấy trên chùa không vậy?
Yến gật đầu:
- Có! Tui có gặp, bác ấy không có vẻ gì là điên loạn cả! Chẳng hiểu sao lại thế nhỉ? Tui nghi ngờ…
- Yến nghi điều gì?
Năm Nhỏ tò mò.
- Tui nghi ngờ chính những lời nói của tui đã đẩy ông Khả tới tình trạng đó…
- Là sao? Tui không hiểu…
Năm Nhỏ ngơ ngác.
- Bây giờ anh đi với tui lại đằng nhà chị Thắm, có lẽ mọi việc sắp được phơi bày rồi…
Yến vừa nói dứt câu vội quay bước trở ra đi về hướng nhà Thắm, Năm Nhỏ cũng đứng lên đi theo, trong lòng anh cũng thoáng qua những ý nghĩ mà từ lâu nay anh cố quên đi, cố đè nén.
Chị Thảo đón Yến và Năm Nhỏ với bộ mặt sưng húp vì khóc quá nhiều. Chị không lời nào, lặng lẽ đưa hai người vào nhà.
Trong nhà, ông Khả vẫn còn bị trói chặt vào giường, ông nằm im mắt mở thao láo nhìn lên trần nhà, anh Ba bắc ghế ngồi bên cạnh, đầu gục xuống khổ sở.
Yến khẽ khàng ngồi xuống cạnh Thảo trên bộ ván đối diện. Không khí trong nhà vô cùng ngột ngạt mặc dù gió thổi từ ngoài vào mát rượi. Yến có cảm giác ai đó đang nhìn mình chằm chằm từ phía sau lưng. Cô quay ngoắt người lại thì bắt gặp một gương mặt lấp ló sau tấm màn. Định thần nhìn kỹ, Yến biết đó là Út. Con bé hôm nay mặc quần áo đàng hoàng chứ không ở trần như mấy lần trước Yến gặp. Đầu tóc nó cũng gọn ghẽ, chắc vừa mới được chị Thảo tắm rửa chải chuốt cho. Nó đứng sau tấm màn nhưng mắt vẫn nhìn như dán chặt vào Yến. Khi thấy Yến nhìn lại, bất giác nó mỉm cười, ánh mắt dịu xuống hiền lành, không giống với một người tâm thần như nó.
Yến lấy làm ngạc nhiên vô cùng, vì hôm rồi chị Thảo có nói mỗi lần bé Út gặp mặt ông Khả là nổi cơn điên, sao hôm nay ông Khả nằm ngay đây mà trông Út có vẻ tỉnh táo như vậy?
Cười với Yến một thoáng rồi bé Út lẩn vào trong. Yến muốn đi theo để hỏi chuyện con bé nhưng không dám.
Năm Nhỏ cũng không dám nói gì, anh lặng lẽ ngồi vào chỗ góc khuất sau lưng anh Ba.
- Bác sao rồi, chị Thảo?
Yến hỏi nhỏ.
Dường như nãy giờ Thảo đã cố kìm nén, giờ đây câu hỏi của Yến như khơi đúng mạch và thế là… chị ôm chầm lấy Yến, òa khóc nức nở:
- Chị khổ quá Yến ơi… chị phải làm sao bây giờ, Yến ơi!...
Yến hoảng hốt vỗ nhè nhẹ vào lưng chị, an ủi:
- Chị bình tĩnh lại đi chị, có gì từ từ giải quyết, chị đang mang thai không nên quá xúc động như thế…
Chị Thảo vẫn khóc lả trên vai Yến, không nói được lời nào.
Anh Ba từ từ ngước lên nhìn Yến rồi nhìn Năm Nhỏ, nước mắt anh ứa ra:
- Năm Nhỏ, Yến… anh xin lỗi hai em…
Yến ôm chặt chị Thảo trong tay, quay mặt về phía anh Ba ngạc nhiên hỏi:
- Sao anh lại nói thế? Anh có lỗi gì với tụi em đâu chứ?
Anh Ba đưa tay vuốt mặt, hàm bạnh ra một cách cương quyết. Anh đứng lên bước tới ngồi đối diện với Năm Nhỏ:
- Lâu nay anh đã giấu em, giấu mọi người về cái chết của Thắm.
Năm Nhỏ giật mình ngó sửng anh Ba.
- Cái chết của Thắm là do chính ba anh gây ra chứ không phải là tai nạn…
Tuy đã có linh cảm trước về chuyện này, nhưng trước lời thú nhận của anh Ba, Yến vẫn không khỏi bàng hoàng.
Năm Nhỏ thì ngồi trơ người như một bức tượng.
Anh Ba ôm đầu đau đớn:
- Việc này xảy ra lúc anh vắng nhà, anh chỉ biết khi mọi việc đã lỡ…
- Việc đó là việc gì? Tại sao ông ấy lại giết Thắm?
Đột ngột Năm Nhỏ chồm lên lắc mạnh vai anh Ba, vẻ mặt hung dữ.
Yến vội chạy tới kéo Năm Nhỏ ngồi trở xuống ghế:
- Anh Năm đừng nóng nảy, từ từ rồi anh Ba kể lại đầu đuôi…
Năm Nhỏ buông người rớt phịch xuống ghế, hai bàn tay run rẩy nắm chặt lấy cạnh bàn.
Anh Ba nuốt khan nơi cổ họng, trong đầu anh đang diễn ra câu chuyện đã xảy cách đây hơn một năm…
- Mọi chuyện bắt đầu từ con bé Út!
Yến và Năm Nhỏ cùng ngạc nhiên trước lời nói của anh Ba, nhưng không ai hỏi gì, lặng lẽ nghe anh Ba giãi bày nỗi niềm tâm sự:
- Dạo đó Út được ba mẹ tôi cho đi học may ở ngoài Phan Rang. Không ngờ nó vì nhẹ dạ cả tin mà đem lòng yêu thương một gã Sở Khanh ngoài ấy, khi biết con nhỏ mang thai hắn vội vàng bỏ trốn. Út sợ hãi nên không dám cho gia đình biết. Mãi tới khi người bà con phát hiện được sự khác lạ nơi Út và báo cho ba mẹ tôi thì cái thai trong bụng Út đã quá lớn, không thể nào phá bỏ được nữa. Ba mẹ tôi vì danh dự của gia đình nên đã giấu biệt chuỵên này, cả vợ chồng tôi cũng không được biết. Ngày Út sinh con trùng hợp với ngày tôi đi biển, còn mẹ con Thảo thì về bên ngoại, ở nhà chỉ còn lại ba mẹ tôi và Thắm. Hôm đó ba tôi ra Phan Rang ôm đứa bé về, nói với Út là đem về để mẹ tôi chăm sóc. Nhưng ông đã có chủ ý, về tới nhà đã tối mịt, ông vội vã ra biển, nói là đi thả lưới. Mẹ tôi và Thắm nhận thấy vẻ không bình thường ở ba, nêm Thắm một mực đòi đi theo dù ba đã thẳng thừng cự tuyệt. Thật ra, tối đó, ba tôi đem đứa nhỏ lên mỏm đá chim để ném xuống vực sâu, muốn xóa bỏ vết nhơ của gia đình, không muốn sau này nó lại gây ra nhiều rắc rối. Khi phát hiện ra điều đó, Thắm đã vô cùng hoảng sợ, nó đã hết lời cầu khẩn van xin ba tôi tha cho đứa bé, nhưng ba tôi vẫn một mực không nghe. Ông bảo:
- Nếu giữ lại mạng sống cho đứa bé, thì sợi dây liên hệ giữa nó và bé Út vẫn còn, cuộc đời Út sẽ không vượt ra được vòng lẩn quẩn đó, và điều ba sợ nhất là sẽ có một lúc mọi việc lở vỡ, thanh danh gia đình dòng họ sẽ không còn. Ba thà gây ra tội lỗi để bảo vệ danh dự cho nhà mình, bảo vệ hạnh phúc cho các con.
Thắm quỳ mọp dưới chân ba tôi, khóc sướt mướt:
- Ba ơi, ba giao đứa nhỏ đó cho con đi, ngay bây giờ con sẽ mang nó đi thật xa rồi đem cho nó cho một gia đình nào đó cũng được mà ba, ba đâu cần phải giết chết nó, nó đâu có tội gì đâu…
- Con hãy hiểu cho ba, ba không thể…
- Ba ơi… con xin ba, con van ba…
Thắm ôm chặt lấy chân ba tôi, không cho ông ấy trèo lên mỏm đá, nhưng với sức mạnh của mình, ba tôi không khó khăn gì để thoát ra khỏi Thắm. Ông thoăn thoắt trèo lên, nhưng Thắm cũng không vừa, hình như lúc đó có một sức mạnh huyền bí trỗi dậy trong nó, nó chạy còn nhanh hơn ba tôi, nó giật lấy đứa bé trong tay ba tôi và dợm chân chạy trở xuống. Ba tôi đã quyết định xóa hết chuyện này nên không thể để Thắm mang đứa bé về được. Thế là giữa ba tôi và Thắm xảy ra cuộc xô xát, ai cũng muốn dùng hết sức để thực hiện quyết định của mình. Trong lúc giằng co, ba tôi nóng giận đã xô Thắm thật mạnh. Không may, Thắm ngã đập đầu vào vách đá, máu phun vọt ra, ba tôi còn đang hoảng hốt chưa kịp định thần thì Thắm đã lăn nhào xuống vực, tay vẫn ôm chặt đứa bé không rời… Suốt đêm đó ba tôi đã lặn hụp dưới vực sâu để mò tìm Thắm, nhưng không hiểu sao ông không tìm được. Mãi tới khi gần sáng, biết rằng dù có tìm được thì Thắm cũng không còn, mà sự việc lại đổ bể ra, vì thế ba tôi phải chèo ghe ra cù lao Câu rồi dựng lên chuyện bị đắm thuyền… Ba tôi chỉ nói hết sự thật với mẹ và dặn bà không được hé răng tiết lộ với vợ chồng tôi. Buồn phiền và đau đớn, mẹ tôi ngã bệnh và qua đời. Lúc hấp hối, chính bà đã kể cho tôi nghe câu chuyện này. Tôi đau đớn lắm nhưng cũng không biết phải làm sao…
Bé Út được đón về nhà khi mẹ tôi bệnh. Nó đã lồng lộn điên cuồng khi biết chị gái và con nó đều mất tích, không ai nói ra nhưng chính linh tính đã báo cho nó biết ba tôi là người gây ra mọi chuyện. Cái chết của mẹ tôi như bồi thêm vào nó một cú sốc kinh hoàng, nó đã phát điên từ hôm đó. Và mỗi lần nhìn thấy ba tôi là cơn điên trong nó lại bùng phát dữ dội.
Ba tôi vừa đau đớn, vừa uất ức lẫn ân hận, ông đã tự trừng phạt mình bằng cách rời bỏ gia đình để sống một mình trong cảnh thiếu thốn ở cạnh chùa, dù tôi có khuyên cách nào ông cũng không nghe.
Tưởng đâu mọi tai ương đến thế là cùng, ai ngờ bé Ngọc con tôi lại rơi vực sâu mà chết. Tôi và ba đều biết cái chết của bé Ngọc có liên quan tới Thắm và đứa bé kia, nhưng không ai dám nói ra và cả hai đều cố tình xem đó chỉ là một tai nạn thông thường. Tôi muốn mọi việc được qua đi, nên không nhắc lại những chuyện trong quá khứ. Nhưng có lẽ vong linh của Thắm và đứa bé kia vẫn còn lẩn khuất nơi mỏm đá ấy, chưa siêu thoát được, ngày càng có nhiều người trông thấy Thắm hiện về, rồi gần đây Thảo lại liên tiếp bị một đứa bé xa lạ ám ảnh…
Hôm nay ba tôi đã muốn nhảy xuống vực để đền mạng, để Thảo và gia đình tôi được yên ổn…
Đây là chuyện xấu trong nhà nên chúng tôi muốn giữ kín, ngay cả với Thảo tôi cũng không nói… Nhưng rồi mọi việc đã đến nông nỗi này không thể giấu được nữa… với lại, tôi cũng xem Yến và Năm Nhỏ là người trong nhà, tôi kể ra tất cả và xin hai người cho tôi biết ý kiến, tôi phải làm gì bây giờ?
Anh Ba kết thúc câu chuyện, ngước lên nhìn Năm Nhỏ bằng cái nhìn chứa đầy nỗi bi ai, thống thiết. Năm Nhỏ không nói gì, gục đầu xuống bàn, đôi vai rung lên bần bật.
Yến vẫn chưa hết bàng hoàng, cô ôm chặt chị Thảo, mắt ráo hoảnh nhưng lòng cô lại vô cùng đau đớn.
Chị Thảo cũng đã nín khóc từ lâu nhưng vẫn gục đầu trên vai Yến. Hai người phụ nữ đó hình như đang muốn tựa vào nhau để có thêm nghị lực mà đối diện với sự thật phũ phàng này.
- Tha cho họ đi… Hãy tha cho họ đi! Tội lỗi do một tay tôi gây ra, họ là vô tội mà… họ vô tội…
Tiếnh thét của ông Khả khuấy động sự yên lặng đến rợn người của cả nhà. Ông nằm trên giường, tay chân bị trói chặt nhưng vẫn cố sức vùng vẫy như đang chống chọi lại một sức mạnh vô hình nào đó.
Anh Ba hốt hoảng chạy tới lay ông:
- Ba! Tỉnh lại đi ba! Con nè, ba nhận ra con không?
Ông Khả dường như không nghe được những lời của anh Ba, ông luôn miệng kêu gào:
- Thắm ơi! Con dẫn nó đi đi, đừng để nó làm hại chị dâu con… ba xin đền mạng, ba đền tội mà ba đã gây ra! Thắm ơi… con dẫn nó đi đi…
Ông Khả nói giữa chừng thì như có gì đó chặn cổ ông lại, ông quằn mình đau đớn, mắt trợn trừng và từ trong cổ họng ông phát ra những tiếng kêu lục khục, cả người ông như đang lên co giật.
- Ba! Ba làm sao vậy ba?
Chị Thảo mếu máo khóc. Anh Ba, Yến, và Năm Nhỏ cũng xúm lại cạnh bên nhưng không ai biết phải làm gì để giúp ông khả giảm bớt đi đau đớn.
Lưỡi ông Khả thè ra, nước dãi chảy lòng thòng xuống ngực, hai tròng mắt ông gần như trắng dã. Mọi người hoảng hốt tháo dây trói ông ra. Khi tay chân vừa được giải phóng là ông Khả quẫy đạp lung tung, hai tay chới với một cách tuyệt vọng.
- Ba!
Tiếng gọi ba thảng thốt của bé Út làm tất cả những người có mặt hết sức ngỡ ngàng. Út từ trong buồng chạy ra nhào tới ôm chặt lấy ông Khả và khóc ròng. Ông khả từ từ dịu lại, hơi thở dồn dập nhưng đã chịu nằm im không còn vùng vẫy nữa. Mắt ông khép hờ lại đầy vẻ mệt mỏi.
Anh Ba đặt tay lên vai Út siết nhẹ.
- Ba ơi! Ba tha lỗi cho con…
Út vẫn không ngừng nức nở.
Ông Khả nhướng cặp mắt đờ đẫn lên nhìn Út nhưng không nói được gì.
Chị Thảo kéo Yến lùi ra, thì thầm:
- Tự nhiên hôm nay bé Út lạ lắm em à! Mới sáng sớm ngủ dậy là nó đi tắm rửa, ăn mặc tươm tất như vậy đó…
Yến ngạc nhiên:
- Vậy mà lúc nãy thấy Út sạch sẽ, em cứ tưởng chị vừa tắm cho cô ấy xong!
Chị Thảo buồn bã lắc đầu:
- Lâu nay cô Út đâu có chịu cho chị chăm sóc… nên thân thể, đầu tóc cứ dơ bẩn và rối bù, chị năn nỉ cách nào cũng không được. Vậy mà không hiểu sao hôm nay lại thế?
- Hay Út đã tỉnh rồi?
Yến bật hỏi.
Chị Thảo mừng rỡ tiến lại gần Út gọi khẽ:
- Út! Em đã tỉnh lại rồi phải không Út? Em có nhớ chị không?
Út từ từ quay lại nhìn chị Thảo, nhìn Yến rồi ngơ ngác hỏi:
- Con em đâu?
Chị Thảo giật mình lùi lại, nhưng giữa lúc đó Yến lại nảy ra một sáng kiến. Cô lấy hết can đảm bước tới kéo Út lại gần cửa sổ, đưa tay chỉ lên trời, nhỏ nhẹ nói:
- Con em đang ở trên ấy! Nó đang sống một cuộc đời khác trên ấy em à! Em đừng lo gì cho cháu bé cả nhé? Bởi vì đã có chị Thắm chăm sóc cho bé rồi. Em nhớ chị Thắm không?
Út lẩm nhẩm:
- Chị Thắm? Chị Thắm dẫn con em lên trên ấy? Cả hai người đều sống trên ấy sao? Để làm chi vậy chị?
Yến lúng túng chưa biết giải thích sao thì Năm Nhỏ đã nói:
- Vì con em cần đi học, Thắm phải đưa nó lên trên ấy để học hành cho thật tốt em à!
Vẻ mặt Út giãn ra rồi hớn hở reo lên:
- Em hiểu rồi! Em hiểu tất cả rồi! Bây giờ em phải vô may áo cho con em, cho cả chị Thắm của em nữa…
Út nói dứt câu là vùng chạy vào buồng. Thảo và Yến nhìn nhau rồi nhìn sang anh Ba, Năm Nhỏ, nhưng cả hai người đó đều tránh ánh mắt của hai cô.
Trên giường, ông Khả nằm im, giương đôi mắt lờ đờ nhìn từng người một.
Sáng hôm sau anh Ba thức dậy thật sớm để lên chùa Ông mời vị sư trụ trì về làm lễ giải oan cho Thắm và đứa bé.
Khi buổi lễ kết thúc, anh ba và Năm Nhỏ lặn xuống vực mò tìm, không lâu sau hai người đã tìm được hai bộ hài cốt, một lớn và một bé.
Ngay trong buổi chiều, vị sư trụ trì làm lễ rước vong và đưa hài cốt hai dì cháu Thắm về chùa, bên cạnh hài cốt của bà Khả và bé Ngọc.
Tối đó, vừa về tới nhà, tắm rửa xong là Yến lăn ra ngủ như chết, vì đã liên tiếp mấy ngày cô vất vả lo giúp việc nhà cùng chị Thảo.
Tờ mờ sáng, Yến chưa kịp mở mắt ra đã nghe tiếng gọi:
- Yến ơi, chị đến chào từ giã em, giờ chị phải đi rồi!
Yến giật mình ngồi bật dậy thì chỉ còn thấy thấp thoáng tà áo bà ba quen thuộc của chị Thắm ở cửa buồng. Cô gọi lớn:
- Chị, chị ơi…
Bà ngoại nghe tiếng gọi hốt hoảng của Yến lật đật chạy vô:
- Gì vậy con? Con lại mơ thấy bậy bạ gì sao?
- Dạ… không có gì đâu ngoại!
Yến thở phào và nằm xuống.
- Tất cả đã êm đẹp hết rồi, ngoại ơi.
Yến nói với ngoại mà như nói với chính mình.
 
***
 
Ba tháng sau, Yến nhận được thư của chị Thảo gửi từ quê nhà vào Sài Gòn cho cô. Trong thư chị báo tin vừa mới sinh một bé trai kháu khỉnh, nặng ba ký tư và giống anh Ba như khuôn đúc. Bé Út giờ đã hoàn toàn bình phục, mở tiệm may tại nhà, cũng bắt đầu đắt khách. Còn ông Khả, tuy vẫn điên điên khùng khùng nhưng ông không quấy phá ai nên anh Ba quyết định để ông lại nhà phụng dưỡng chứ không gởi vào viện tâm thần như dự định ban đầu.
Cuối thư, chị Thảo nhắc tới Năm Nhỏ và có mấy lời gần xa muốn gán ghép cho Yến.
Yến mỉm cười, bất chợt cô nghe trong gió Sài Gòn hôm nay có mùi của biển…
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:11:23 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 20:35:43
CHUYẾN DU LỊCH KINH HOÀNG
 
Phấn là một đứa nhát gan, từ lúc nhỏ đã được bạn bè đặt cho một biệt danh là “Thỏ đế” để chỉ cái tính nhút nhát của nó.
- Tại lúc tui đẻ nó ra nhằm ban ngày nên nó nhát vậy đó!
Mẹ Phấn thường lý giải cái sự nhát của nó như vậy. Theo quan niệm của bà và một số người khác, nếu đứa trẻ chào đời vào ban đêm nó sẽ gan lỳ, can đảm, còn những đứa được sinh ra vào ban ngày thì luôn nhút nhát, sợ hãi bóng đêm.
Phấn cũng nghĩ mình nhát là do nguyên nhân ấy.
- Còn thằng Điểm thì sao?
Nếu ai chơi cắc cớ hỏi vậy, mẹ nó chỉ biết cười trừ. Bởi hai đứa con được sinh ra chỉ suýt sau hơn chục phút mà tính tình lại trái ngược hoàn toàn!
Hồi nhỏ Phấn không bao giờ dám ra sân một mình khi trời sụp tối. Ngủ không dám nằm bên ngoài, lúc nào nó cũng phải chui rúc vào giữa ai đó mới được. Đêm ngủ mắc tiểu là nó lại khều mẹ hoặc chị dẫn nó đi, vừa đứng tiểu mà tay nó vẫn phải níu chặt lấy người bên cạnh.
Ai cũng tưởng khi lớn lên thì nó sẽ hết nhút nhát, nhưng mãi đến năm Phấn học lớp mười một nó vẫn như thế, có đỡ hơn được một việc là dám ngủ một mình và đi tiểu khỏi phải có người kèm theo.
Mà sự đời cũng lạ, những kẻ sợ ma lại luôn luôn thích nghe kể chuyện ma và trí tưởng tượng của họ lại vô cùng phong phú. Bất cứ một hình ảnh, một sự vật nào đi qua mắt họ, vào một thời điểm nào đó thích hợp đều có thể biến thành méo mó, ma quỷ một cách rất lô- gích.
Phấn là một điển hình.
Khác với Phấn, Điểm lại vô cùng gan dạ. Điểm là em song sinh với Phấn, hai anh em từ nhỏ luôn học cùng lớp với nhau.
Cuối năm lớp mười một, cả lớp tổ chức đi tham quan Đà Lạt. Ai nấy vô cùng phấn khởi. Phấn, Điểm cũng nôn nao không kém.
Trước đó, hai đứa đã chuẩn bị đầy đủ nào là máy ảnh, áo quần…
Ngày lên đường, mẹ nó không quên căn dặn:
- Điểm, đi chơi có gì thì giúp đỡ anh nghe không? Anh con không được mạnh mẽ như con đâu…
Điểm thấy hãnh diện, vừa gật đầu vừa khinh khỉnh ngó mặt ông anh:
- Mẹ yên tâm đi, đã có con lo cho anh Phấn rồi!
Bà mẹ cũng yên tâm thật sự. Người ta nói con song sinh thường giống nhau và thương yêu nhau lắm, nhưng ở trường hợp hai thằng con của bà thì lại khác hoàn toàn.
Hai đứa khác nhau về dung mạo. Thằng anh chui ra trước nhưng dáng người mỏng mảnh, làn da mịn màng, trắng trẻo như con gái. Thằng em ra sau lại có thân hình dềnh dàng, cao to giống y như ba nó. Tính tình hai đứa cũng khác nhau một trời một vực. Nếu thằng anh hiền lành, ít nói, nhút nhát bao nhiêu thì ông em lại quậy phá, lắm điều và gan dạ bấy nhiêu.
Hai đứa lại không quấn quýt nhau, bênh vực nhau như những cặp song sinh thông thường khác.
Hồi nhỏ thằng anh luôn bị đám trẻ con trong làng chọc ghẹo, thằng em không bênh thì chớ, đôi khi chính nó lại là đứa đầu têu xui đám trẻ bắt nạt anh mình.
Ba mẹ chúng vẫn thường nói vui với nhau rằng:
- May mà hồi đó bà sanh hai đứa ở tại nhà, do bà mụ vườn mát tay đỡ đẻ. Chứ nếu sanh ở bệnh viện chắc chắn thế nào tui cũng đi kiện mấy cô y tá vì đã làm lộn con tui. Ai có thể tin hai đứa song sinh lại khác nhau như nước với lửa vầy không chớ?
Khi Phấn và Điểm lớn lên một chút, Điểm thôi cậy mạnh mà ăn hiếp anh mình, nhưng trong thâm tâm Điểm khong nể nang một tí ti nào cả. Sở dĩ Điểm phải gọi Phấn bằng anh là do Phấn chào đời trước Điểm mười phút thế thôi. Nhưng cả đến chi tiết này Điểm cũng hoài nghi. Những lúc nói chuyện vui vẻ Điểm thường hỏi mẹ:
- Mẹ, mẹ có nhớ lầm không vậy? Coi chừng con là đứa chui ra trước mà mẹ quên đó! Chứ anh Phấn làm sao có đủ sức mà chen với con được?
Bà mẹ cốc lên đầu con trai mắng yêu:
- Cha mầy chứ! Sao mà lầm được con? Lúc thằng Phấn chui ra, nhỏ xíu như con mèo cứ ngoe ngoe khóc, bà nội phải bế nó ủ vào mấy lớp khăn. Chập sau tới lượt con, chưa kịp nhìn thấy mặt con đã khóc vang trời rồi, ấn tượng dữ lắm chứ bộ, sao mà lầm lẫn được?
Tuy mẹ đã nhiều lần nói vậy mà Điểm vẫn cứ tức anh ách. Ai đời ông anh ra trước mình mà lại giống y như con gái, chán chết đi được.
Điểm không ăn hiếp anh và trở thành người che chở cho anh nó trong những trường hợp cần thiết, nhưng không phải bằng sự kính mến thương yêu mà là như một sự thương hại, như một sự ban ơn.
Trái lại, đối với Điểm, Phấn luôn nhẹ nhàng săn sóc, quan tâm từng li từng tí. Từ áo quần, tập vở, giày vớ của Điểm đều có bàn tay Phấn nhúng vào. Phấn lặng lẽ thương yêu em, Điểm thì lại xem những việc đó là nhỏ mọn, là đương nhiên, không có gì đáng quan tâm.
 
***
 
Cả lớp chất hết hết lên một chiếc xe đò nên vui ơi là vui. Trên đường đi mấy đứa cứ chọc ghẹo lẫn nhau, tiếng cười, tiếng nói nổ ra như bắp rang. Điểm lại là một trong những nhân vật hoạt náo nhất của lớp.
Điểm chạy từ đầu xe đến cuối xe, đem cái này cho người này, chuyển cái kia cho người kia, nói cười hể hả.
Còn Phấn và một vài bạn nữ khác thì cứ lừ đừ ngầy ngật vì bị say xe.
Tới các chỗ dừng chân, Điểm cũng không quên quan tâm đến anh mình, nhưng vẫn không bỏ những trò vui riêng của Điểm.
Xế chiều, xe tới Đà Lạt. Cả đám ríu rít phân chia đứa nào ở cùng phòng với đứa nào. Ồn ào mất một lúc mới sắp xếp thỏa đáng.
Điểm và Phấn ở cùng phòng với hai bạn nam khác. Mọi việc đều do một tay Điểm thu dọn hết, từ việc mang vác hành lý vào phòng đến việc đem áo quần máng lên tủ… Phấn vô tới phòng là nằm vật ra ngủ luôn một giấc. Điểm vừa làm vừa liếc nhìn anh, lắc đầu mỉm cười.
- Ông anh mầy khác mầy quá trời quá đất!
Thằng bạn nhận xét.
Điểm cười:
- Ừ, vậy mà là anh em song sinh mới hay chứ!
Chiều và tối hôm đó cả lớp tự do đi dạo chợ, Phấn giống như mấy đứa con gái cứ dạo tới dạo lui ở các quầy áo lạnh, khăn len… điểm không đi cùng anh, luôn luôn trong các chuyến dã ngoại Điểm đều không đi cùng với anh mình.
Sáng hôm sau, xe chở cả lớp đi tham quan Suối Vàng, Suối Bạc, tới ga ngồi xe lửa lên Trại Mát vui ơi là vui.
Sau đó là Langbiang trực chỉ!
Những đứa học trò ở miền đồng bằng, được đi tham quan cảnh núi non đẹp mắt này thì còn gì thích thú hơn nữa!
Theo sự tư vấn của Điểm và một nhóm nam sinh trong lớp, cô chủ nhiệm đồng ý bày ra một cuộc thi, ai trèo lên đỉnh Langbiang tước thì sẽ được nhận nhận một một phần quà kỷ niệm, phần quà đó sẽ được trích ra từ quỹ lớp để mua!
Hấp dẫn thật nha! Vừa được chơi đùa, thử sức, lại vừa có cơ hội để nhận phần thưởng lưu niệm, nên mọi người háo hức ghê lắm, đặc biệt là đám con trai.
Nam sinh của lớp đứa nào cũng tham gia, phía nữ sinh không chịu thua kém, nhao nhao đăng ký, chỉ có một vài đứa quá yếu đuối tỏ vẻ lưỡng lự, cuối cùng rút lui cùng nhau lên đỉnh bằng xe Jeep.
Phấn là nam sinh duy nhất trong lớp hờ hững với cuộc chơi này. Nó lững thững lội bộ lên đỉnh chứ không đi theo xe với mấy đứa con gái.
Điểm và ba bạn khác bứt phá dẫn đầu. Tính háo thắng trong Điểm bùng phát dữ dội, Điểm nhủ thầm, mình sẽ phải chiến thắng trong cuộc chơi này để chứng tỏ được bản lĩnh trước bọn con gái trong lớp, và mai mốt trở về trường, cái thành tích này chắc chắn sẽ được truyền đi rộng lắm!
Nghĩ thế, Điểm ngầm so sánh, sức lực mình và ba đứa bạn cũng suýt soát nhau, nếu không dùng trí óc kèm theo mà chỉ phó thác cho cơ bắp  thì chứa chắc gì mình nắm được phần thắng trong tay.
Ngó quanh quất khắp nơi, Điểm bỗng nảy ra sáng kiến:
- Tao sẽ lên đỉnh theo đường tắt, ba đứa tụi mầy có đi với tao không?
Ba người bạn mồ hôi đẫm trán ngó nhìn Điểm rồi lắc đầu:
- Thôi, tao sợ… không dám đâu! Mầy gan thì đi một mình đi!
Điểm khoái trá tách rời đám bạn để đi theo một lối khác hướng thẳng lên đỉnh mà không phải vòng vèo theo lối đi quen thuộc.
Lối đi mà Điểm chọn rất dốc và lắm đá, nhưng chắc chắn quãng đường sẽ được rút ngắn lại rất nhiều. Nghĩ vậy nên Điểm càng cật lực leo lên.
Bây giờ thì chỉ còn mỗi mình Điểm trên những dốc thẳng chênh vênh, đám bạn đã ở rất xa rồi. Vốn là người gan dạ nên Điểm không lấy điều đó làm lo ngại sợ sệt gì cả.
Nó cứ leo mãi, leo mãi… đến lúc mồ hôi nhễ nhại và cả người nóng bức do những tia nắng mặt trời chiếu thẳng xuống, Điểm cởi chiếc áo len mà sáng này anh Phấn của nó đã cận thận đem theo ra tận xe đưa cho nó mặc vào.
Cột chiếc áo len vào ngang thắt lưng, Điểm hăng say leo tiếp.
Càng leo, Điểm càng thấy mệt, đã nhiều lần nó phải dừng lại thở dốc và quay nhìn bốn phương tám hướng vẫn không thể xác định được mình đã sắp đến đích hay chưa.
Khi cả đoàn lên hết trên đỉnh núi, người thắng cuộc đã được xướng danh, nhưng người đó không phải là Điểm. Những đứa bạn vô tư cười giỡn với nhau:
- Một chút nữa thằng Điểm lên tới phải chọc cho nó một trận, tưởng đi đường tắt ngon hơn hả? Hơ hơ… ai biểu tài lanh, nó mà đi chung với tụi mình thì có thể nó là người thắng cuộc rồi!
Về phần Điểm, càng đi lên Điểm càng thấy lối đi rậm rạp và cây cối bịt bùng hơn. Trong lòng Điểm đã bắt đầu thấy có sự lo ngại.
- Chẳng lẽ mình đi lạc đường?
Điểm lẩm bẩm.
- Mà không đâu, lúc đó mình đã nhắm hướng rất rõ ràng rồi mà, tại sao lại lạc được…
Điểm đi từ lúc mặt trời lên cao chiếu rọi những tia nắng nóng xuyên vào da thịt, đến bây giờ bầu trời đã dần dần chuyển sang mà xám xịt của buổi chiều tà.
Nỗi sợ hãi bắt đầu tăng dần lên trong lòng Điểm. Từ sáng giờ Điểm chỉ mới ăn có một ổ bánh mì lúc sáng, giờ này bụng đã đói meo, cổ khô khốc tay chân cũng đã rã rời không còn sức lực để leo lên tiếp nữa…
Điểm dừng lại suy tính, nếu bây giờ leo trở xuống thì quãng đường sẽ rất xa, chi bằng mình cứ leo lên rồi đi xe xuống sẽ nhanh và tiện hơn.
Và thế là Điểm cố gắng lê lết từng bước cố nâng mình lên theo con dốc.
Điểm đang ở giữa một ngọn đồi cây cối chằng chịt và rất âm u, ghê rợn. Điểm chợt nhớ tới chuyện những người lạc lối trong rừng, tối đến gặp hùm beo, thú dữ mà bất giác rùng mình. Có lẽ từ thuở bé đến giờ, đây là lần đầu tiên Điểm biết thế nào là cảm giác hoảng sợ, cảm giác cần có một ai đó ở bên cạnh mình…
- Các bạn ơi! Các bạn đâu rồi?
Điểm hét lớn với hy vọng sẽ có ai đó nghe được tiếng gọi của mình, vì biết chắc chắn giờ này thế nào cả lớp cũng túa ra tìm kiếm Điểm. Nhưng đáp lại tiếng kêu đầy sợ hãi của Điểm chỉ là tiếng vọng âm âm của vách đá càng làm cho Điểm run sợ nhiều hơn.
Càng leo, Điểm càng kiệt sức, vừa đói lại vừa lạnh. Điểm tủi thân quá nước mắt bắt đầu trào ra mặn đắng nơi đầu lưỡi.
Bóng tối giờ đây đã bao trùm cảnh vật, những thân cây trước mặt Điểm lúc này trông giống như những thân người đứng bất động đó, bất cứ lúc nào cũng có thể nhảy bổ vào Điểm, bất cứ lúc nào cũng có thể đè bẹp Điểm dưới chân.
Trong rừng đêm, có những ánh sáng lập lòe nhưng không phải là ánh sáng của đom đóm như hồi nhỏ Điểm từng bắt bỏ vô hủ để chơi giả làm đèn học. Những ánh sáng đó có cái gì rất ma quái, kỳ lạ…
Nhìn vào chiếc kim dạ quang của đồng hồ đeo trên tay, Điểm biết lúc này đã hơn bảy giờ tối. Điểm không còn giữ được bình tĩnh, cố sức kêu gọi đến khản cả cổ, nhưng cũng giống như lúc nãy, đáp lại Điểm chỉ là tiếng vọng của núi rừng.
Xung quanh Điểm bây giờ chỉ còn tiếng cú kêu ớn lạnh, tiếng côn trùng rỉ rả và tiếng chân của Điểm bước đi đạp trên lá khô loạt xoạt…
Càng về đêm khí trời càng lạnh, từ nãy giờ Điểm co ro nhưng quên mất chiếc áo len đang cột dưới thắt lưng mình. Bất chợt nhớ lại, Điểm mừng rơn, vừa choàng chiếc áo len vào thân hình lạnh giá vừa thầm cảm ơn sự chu đáo của ông anh nhút nhát.
Và bỗng dưng, giữa lúc bơ vơ một mình nơi rừng núi này, Điểm lại nghĩ đến anh mình nhiều hơn. Có lẽ Điểm đã thông cảm được với anh về cái nỗi sợ hãi tột cùng… Điểm biết anh Phấn rất thương mình, nhất định anh sẽ bắt mọi người đi tìm cho bằng được mình mới thôi… Điểm thấy hối hận vì tất cả những gì mình đã từng đối xử với anh. Trong tâm trí Điểm lúc này là hình ảnh của ba mẹ, của anh và toàn bộ những người thân thương trong gia đình…
Cả người rã rời, mệt mỏi, Điểm không còn nhấc chân lên được nữa nên ngồi xuống một đám lá nghỉ mệt.
Cứ thế, cứ thế… ngồi nghỉ, mò đi tiếp rồi lại cất tiếng kêu vang… Điểm giờ đây không còn giữ chút bản lĩnh nào của ngày thường.
Đôi giày dưới chân Điểm đã xơ xác, chiếc áo len và cả cái áo sơ mi bên trong cũng không còn nguyên vẹn vì bị cành cây vướng víu, cào xước nhiều chỗ lắm rồi. Trên mặt Điểm một vết trầy do quẹt phải cành cây hình như đang rướm máu, cảm giác đau rát, buốt nhói tận trong tim gan Điểm.
Chín giờ tối, ánh trăng vằng vằng vặc chiếu xuống khu rừng làm cho cây cối mang những hình thù quái dị và ghê rợn hơn nữa.
Điểm bắt đầu tự nhát mình, nhìn cây nào Điểm cũng tưởng như nó đang nhìn lại, cười khanh khách và huơ huơ những cánh tay dài ngoằng để vẫy gọi mình.
Điểm nhớ tới bộ phim Ma Cây mà hồi năm ngoái đã cùng xem với tụi bạn, giờ đây những hình ảnh mà hồi đó Điểm không hề sợ vì biết tỏng đó chỉ là kỹ xảo điện ảnh, bây giờ thì những hình ảnh đó lại sống động ngay trước mắt Điểm, sẵn sàng vồ chụp lấy Điểm.
Điểm sợ hãi, muốn bước thụt lùi, nhưng những cái cây to đùng phía sau lưng dường như đang nhích dần lên phía trước, những hàng cây phía trước thì lại tiến sát vào Điểm hơn…
Điểm đã quá đuối sức, lại hoàn toàn không còn xác định được phương hướng gì nữa, tinh thần trở nên hoảng loạn chỉ nghĩ tới cái chết đang chực chờ trước mặt mình mà thôi.
Những thân cây phía trước, phía sau, bên trái, bên phải vẫn cứ lù lù tiến sát vào Điểm, vòng vây ngày càng thu hẹp lại, siết chặt lại…
Tay chân Điểm bủn rủn, Điểm ngã nhào ra bất tỉnh.
… Hơi sương lạnh phả vào mặt làm Điểm chợt tỉnh dậy. Trăng đã lên đến đỉnh đầu. Hai hàm răng Điểm va vào nhau lập cập vì quá lạnh, chiếc áo len mỏng manh, rách rưới không đủ sức ngăn chặn những luồng khí lạnh của đêm rừng núi cao nguyên. Mặt mũi Điểm tái mét, lờ đờ, hốc hác, giống như một người bị bỏ đói đã lâu ngày.
Điểm cố gắng lê thêm vài bước nữa, dưới ánh trăng lờ mờ nó thấy một chấm tròn màu trắng lấp ló ở phía xa xa trước mặt. Mất hết ý thức, Điểm vội vã trườn lên, trườn lên và leo lên đó, không cần biết nó là cái gì và nó ra sao, mặc kệ cho đôi môi tím tái vì lạnh và hai cẳng chân đầy những vết trầy xước đang tóe máu.
Nằm thở dốc một hồi, Điểm dần dần tỉnh táo lại. Lúc này nó mới để tâm quan sát xem cái nơi nó đang nằm là đâu mà có vẻ bằng phẳng, dễ chịu hơn những chỗ lúc nãy.
Nó nhướng mắt lên, cố chống tay nhổm dậy và nhân thấy mình đang nằm trên một cái bệ bằng xi măng. Trái tim Điểm như nghẹn lại vì mừng vui. Nó cứ nghĩ nó đã lê chân đến được cửa nhà của một ai đó rồi, như vậy là nó được cứu rồi!
Nhưng niềm vui vừa loé lên đã nhanh chóng tắt lịm khi Điểm nhìn thấy trước mắt nó là một ngôi miếu nhỏ. Một cái miếu ở giữa nơi núi rừng hoang vắng quả là điều đáng sợ. Điểm muốn bỏ chạy khỏi nơi này, càng xa càng tốt, nhưng hỡi ơi, sức lực của nó giờ đây đến lết  đi cũng không nổi thì nói làm gì đến chuyện bỏ chạy.
Hai chân Điểm rã rời, tê buốt, bao tử nó nhộn nhạo vì đói, đầu óc thì choáng váng, lơ mơ… Nó biết mình không thể rời khỏi chỗ này được rồi! Không còn sức nữa rồi!
Trời càng lúc càng lạnh, làn hơi giá buốt cứ như đang ôm siết lấy nó, muốn biến nó thành một tảng băng…
Đằng xa, có những đốm sáng màu đỏ, rồi màu xanh cứ lập lòe qua lại, Điểm nghĩ chắc đó là mắt của thú rừng đang đi mồi, nó bỗng thấy sợ khi hình dung ra cảnh thân xác mình sẽ bị đàn thú cắn xé tả tơi ra từng mảnh vụn…
Nỗi sợ hãi cái chết trước một thế lực hiện hữu đã thắng được nỗi sợ ma quỷ trong Điểm, nó thu hết sức lực để lăn người vào phía bên trong ngôi miếu hoang.
Ngôi miếu nhỏ, không thể nằm dài ra được, Điểm phải co quắp người lại như một con tôm và đầu óc nó lại mơ màng trôi vào một giấc ngủ nặng nề, mệt nhọc…
… Thiếp đi trong cơn mê, Điểm nghe văng vẳng có rất nhiều tiếng í ới gọi tên mình, nhưng vì Điểm quá mệt và quá đuối rồi, không gượng dậy được nữa. Điểm cố hết sức nhưng chỉ nghe được những tiếng kêu âm ỉ phát ra từ cổ họng mình, nơi cổ họng nghẹn lại như là có một bàn tay vô hình nào đó chặn ngang, cản tiếng gọi của Điểm lại.
Ngoài kia, có ánh đèn pin rọi qua rọi lại, tiếng chân người, tiếng gọi huyên náo, có người soi hẳn đèn vào bên trong ngôi miếu làm Điểm mừng đến run người, nhưng tuyệt nhiên họ không nhìn thấy Điểm mà Điểm thì không có cách nào để báo hiệu với họ được
 
***
Ban đầu cả lớp còn tưởng Điểm đi đâu đó chưa lên kịp, nhưng chờ mãi, chờ mãi tới khi Phấn đi  bộ từ dưới chân núi mọi người mới đổ xô tới hỏi:
- Ê, Phấn! Mầy hấy thằng Điểm đâu không? Nãy giờ tụi tao chờ nó quá trời mà không thấy?
Phấn ngơ ngác:
- Chứ không phải nó thi leo núi với tụi mầy sao? Tao tưởng nó đã lên tới từ lâu rồi chớ!
Thấy cả bọn nhốn nháo, cô giáo chủ nhiệm hỏi:
- Có chuỵên gì mà tụi em lo lắng vậy?
- Dạ… thằng Điểm đâu mất, nãy giờ không thấy nó…
Một đứa lên tiếng.
Cô giáo lo lắng:
- Lúc nãy em nào đi chung với Điểm?
Ba đứa Hiên, Tài, Thắng cùng lên tiếng:
- Dạ, tụi em!
- Nhưng khi lên gần tới đỉnh thì thằng Điểm rủ đi theo đường tắt cho nhanh, ba đứa em không đi thế là nó đi một mình. Tụi em cứ tưởng thế nào nó cũng thắng trong cuộc chơi này, ai ngờ thằng Hiên lên tới đích trước, mà nó thì mất tăm rồi!
Thắng kể, không giấu được vẻ lo âu.
Phấn hỏi:
- Nó tách rời ba đứa tụi mầy ở đoạn đường nào?
- Chỗ kia kìa!
Tài nhanh tay chỉ hướng.
Phấn quay sang cô giáo chủ nhiệm, run giọng:
- Cô ơi, cô cho các bạn đi tìm Điểm đi cô!
- Ừ, để cô sắp xếp!
Cô chủ nhiệm vẫy tay gọi một cô giáo đi cùng lại, hai người bàn bạc một lúc rồi thổi còi tập hợp học sinh.
Trước mặt cô lúc này là bốn mươi bốn đứa học trò, vắng Điểm!
- Có thể bạn Điểm đã bị lạc ở đâu đó gần đây, bây giờ chúng ta chia nhau ra đi tìm. Nhưng các em phải nhớ không đowjc đi tách rời nhau, và không được đi sâu vào những chỗ vắng vẻ. Các em phải đi làm sao để có thể nhìn thấy những người khác. Vừa đi, các em phải vừa gọi to lên để bạn nghe tiếng mà biết hướng tìm ra. Các em nắm đượcc hết chưa? Ngay bây giờ cô cũng sẽ đi hỏi mượn các cái loa để tìm kiếm em Điểm. Thôi, các em bắt đầu xuất phát đi!
Phấn là người chạy ra khỏi hàng đầu tiên. Thường ngày trông nó chậm chạm, rề rà nhưng không biết hôm nay sức lực ở đâu mà nó trở nên mạnh mẽ, nhanh nhẹn một cách khác thường.
- Điểm ơi… Điểm ơ….ơ….ơ…i!
- Điểm ơi… ơi…. Mầy ở đâu, Điểm ơ… ơ… ơ…i!!!
Bốn mươi bốn đứa học trò chạy túa ra gọi vang trời
Tiếng loa phóng thanh của cô giáo cũng hối hả không kém. Trong lòng hai cô lúc này cũng đã bắt đầu lo thắt ruột. Lỡ không may có chuyện gì xảy ra với Điểm, hai cô không biết sẽ phải làm sao đây. Chuyến đi này là do lớp tự tổ chức, không xin qua ý kiến lãnh đạo nhà trường, nên nếu có sự cố tội lỗi của hai cô càng thêm nặng.
Đến gần hai giờ chiều vẫn không ai phát hiện được dấu vết nào của điểm, tụi học trò đói rả ruột phải tập trung về để ăn cơm trưa, chỉ có Phấn là nhất định không chịu quay lại. Nhưng đám bạn kiên quyết không để Phấn ở lại bìa rừng một mình, chúng lôi kéo Phấn về lại chỗ tập trung và nói:
- Phải về ăn chút gì mới có sức đi tìm nó tiếp. Với lại về đó coi cô mình có tính cách nào không, như báo cảnh sát chẳng hạn.
- Ừ, đúng rồi! Phải báo cảnh sát ngay!
Phấn lóe lên một tia hy vọng và đồng ý quay về nơi tập trung cùng các bạn.
Bữa cơm trưa diễn ra một cách lặng lẽ, ai cũng cố nuốt vội cho no chứ không còn cảm giác gì là ăn nữa. Hai cô giáo cùng mấy đứa con gái mắt đã đỏ hoe, nhưng ráng ghìm nước mắt lại, không để đám con trai nhìn thấy, sợ chúng sẽ hoang mang thêm.
Sự mất tích đột ngột của Điểm đã được báo với cảnh sát địa phương, và người ta cũng đã huy động một lực lượng để truy tìm. Nhưng mãi lúc trời sẫm tối vẫn không ai tìm thấy!
Mấy đứa con gái rú rít lên vì sợ, chúng xì xầm một cách thất thần với nhau, có thể Điểm đã bị ma rừng bắt giấu rồi cũng nên, chứ làm gì mà cả đội cảnh sát cùng với mấy người dân tộc địa phương được cô phụ trách thuê đi tìm vẫn không thấy được?
Riêng ba đứa bạn leo núi cùng lúc với Điểm bắt đầu run rẩy và mặt đứa nào cũng xám ngoét. Nói gì thì nói, ba đứa này cũng có một phần trách nhiệm trong đó.
Phấn lo âu đến điên lên, trời đã lạnh thế này rồi mà Điểm chỉ mặc một chiếc áo sơ mi cộc tay và bên ngoài chỉ có một chiếc áo len mỏng, bữa trưa và bữa tối nó cũng chưa ăn gì, rồi nước uống cũng không có… Trời ơi… Phải làm sao đây? Phải làm sao đây?
Trời đã tối hẳn, hai cô phụ trách không cho bất cứ đứa nào đi ra khỏi khu vực tập trung, tất cả đều ngồi đó ngóng chờ tin tức từ những người đi tìm kiếm.
Một người dân tộc bán hàng ở đó nói rằng, trong khu rừng đó có nhiều vực, nhiều thú hoang, nếu không sớm tìm được nó thì e sẽ gặp nhiều rắc rối. Ông còn đế thêm một câu làm ai nấy rùng mình:
- Chưa nói tới chuyện rừng thiêng nước độc lắm quỷ nhiều ma, thằng nhỏ mà bị ma quỷ giấu đi thì có huy động toàn dân ĐaØ Lạt lên càn  quét cả khu rừng cũng không thấy được nó!
Những người dân tộc sống ở vùng rừng núi có nhiều cái hay, họ có thể nhìn trên những đám lá khô mà thấy được dấu vết và phân biệt đâu là dấu chân người, đâu là dấu chân thú, và những dấu chân đó đi qua những lối nào… Vì thế họ đã nhìn và khẳng định Điểm đã leo hẳn sang ngọn đồi bên kia chứ không đi thẳng lên đỉnh Langbiang như Điểm nói với ba người bạn. Nhưng khi qua đến ngọn đồi bên kia họ lại mất dấu, không tìm ra vết tích nào của Điểm nữa.
Từ chiều, hai cô giáo đã không thể ăn được một muỗng cơm, mấy đứa con gái năn nỉ hết lời hai cô cũng không nằm xuống nghỉ ngơi đowjc một phút. Hai cô đã khóc rất nhiều, người tiều tụy hẳn đi. Hai cô chắp tay vái lạy bốn hướng cầu trời phật chở che cho đứa học trò nhỏ của mình.
Từ nãy giờ Phấn vẫn ngồi rúc vào một góc, phần vì lạnh, phần vì lo sợ cho em trai. Cô giáo cùng cả lớp cũng không ai quan tâm nhiều tới Phấn, vì cái tật nhát gan như thỏ đế của Phấn còn ai lạ gì nữa. Mọi người không ai bảo ai, nhưng tất cả đều đinh ninh Phấn sẽ ngồi như thế cho đến tận sáng mai.
Nhưng tất cả đã lầm.
Phấn rón rén thò tay vào ba lô của thằng Hiển rút ra một cây đèn pin, giấu vào trong túi áo, nó cẩn thận hơn, vớ luôn cái áo khoác to sù điệu đàng của nhỏ Hạnh, nhét vội vào túi áo mấy cái bánh ngọt rồi lặng lẽ đi thụt lùi ra xa chỗ cả lớp đang tập trung chờ tin tức.
Khi biết chắc không ai còn nhìn thấy mình nữa Phấn bắt đầu chạy thục mạng theo hướng mà lúc nãy người dân tộc chỉ và nói rằng có thể Điểm đã đi qua đó.
Phấn cứ chạy băng băng, mặc kệ những hòn đá nhọn hoắc dưới chân đâm đau nhói. Mặc kệ những nhánh cây cào xước trầy trụa tay chân. Vì hà tiện pin nên nó không mở đèn liên tục mà lâu lâu mở lên quét qua lại mấy lượt với hy vọng em mình ở đâu đó nhìn thấy được.
Nó chạy bước thấp bước cao, mấy phen té ngã dúi dụi u đầu sứt trán nhưng nó hoàn toàn không quan tâm tới bản thân mình, mà cứ lo tìm cho được mấy cái bánh văng ra khi té ngã.
- Điểm ơi… em ở đâu? Điểm ơi…
Tiếng gọi của Phấn lạc lõng giữa đêm đen, lạc lõng giữa núi đồi hoang vắng…
Bốn phía bịt bùng cây cối, tiếng con chim gì kêu lên như giọng một thứ quái vật đang cất tiếng cười khi trông thấy con mồi ngon sắp đem thân vào cống nạp. Đâu đó là những đốm sáng đỏ, xanh mà dưới cái nhìn của một đứa nhát gan như Phấn thì nó chắc chắn là những bóng ma đang thập thò rình rập theo mỗi bước chân cuống cuồng của nó…
- Cầu trời cầu phật, van vái thần linh núi rừng phù hộ cho con tìm được em con… Cầu khấn các vong linh khuất mặt khuất mày, làm ơn đưa đường chỉ lối để con tìm thấy em con rồi muốn làm gì con cũng được, con cúi lạy phật trời, cúi lạy thần linh rừng núi, cúi lạy các vong hồn vất vưởng quanh đây…
Trong cơn tuyệt vọng, Phấn quỳ sụp xuống hướng mặt lên trời khẩn cầu rồi vái lia vái lịa. Nước mắt nó chảy đầm đìa trên mặt, mồ hôi nó vx ra ướt cả lưng áo dù giữa rừng đêm lạnh lẽo…
Trăng lên cao, Phấn lờ mờ nhìn được những thứ xung quanh nó. Nó có cảm giác hàng trăm, hàng ngàn bóng ma đang nhảy nhót đùa vui… Phấn nhào tới, ôm chầm một gốc cây và khóc ngất lên:
- Em con đâu? Xin làm ơn chỉ giúp em con đang ở đâu?
Có lúc nó bước đi dò dẫm từng bước một, nhưng có lúc nó lại đâm bổ chạy nhanh về phía trước như vừa nhìn thấy một dấu hiệu nào đó của em mình, nhưng thực tế nó không thấy gì cả, chỉ là tự nhiên nó như thế mà thôi.
Càng đi, rừng càng sâu thăm thẳm. Phấn không biết mình phải đi về hướng nào nữa… tiếng gọi em đã khản đặc nơi cuống họng, những vệt đèn pin loáng loáng cũng không đủ xuyên thủng màn đêm, xuyên thủng núi rừng để nó tìm ra đứa em tội nghịêp của nó.
Một cây gai nhọn đâm vào chân nó sâu hoắm. Nó cúi xuống, soi đèn và cắn răng giật mạnh cây gai ra, một tia máu bắn ra theo. Nó ngó xung quanh rồi vớ đại một thứ lá cây gì đó bên cạnh, bỏ vô miệng nhai cho dập nát rồi đắp vào chỗ vết thương, nó xé luôn miếng vải lót túi áo khoác để buộc chặt vết thương lại.
Bây giờ chân nó rất đau không thể bước đi bình thường được nữa, nó phải đi cà nhắc một cách khó khăn vất vả.
Không biết cây gai Phấn đạp nhầm là loại gai gì, hay do thứ lá mà nó dùng để rịt vết thương là lọai lá độc, mà chỉ hơn một giờ đồng sau bàn chân nó đã bắt đầu sưng tấy, không còn xỏ được trong giày nữa.
Phấn lại một lần nữa ngồi xuống bật đèn pin soi rọi vết thương dưới chân mình. Bàn chân sưng vù lên đến khỏi mắt cá, sờ tay vào nóng hôi hổi. Phấn đau khổ và bất lực trướic hoàn cảnh như vậy. Nó gục đầu xuống gối khóc nấc lên từng cơn.
Nó sẽ phải ngồi lại nơi đây chờ trời sáng, miễn mai có ai đó phát hiện ra nó… Nhưng không được, còn thằng Điểm, còn em nó thì sao? Từ sáng hôm qua thằng Điểm chỉ mới ăn có mỗi một ổ bánh mì, trên người nó quần áo lại phong phanh, làm sao nó chống chọi được qua đêm nay? Mình mà không tìm được nó thì nó sẽ chết mất…
Phấn nhớ hồi nhỏ Điểm đã có lần ngất xỉu vì đói rồi, huống hồ chi hôm nay nó đã vận động mất biết bao nhiêu sức lực, giờ này không chừng nó đã xỉu mất rồi cũng nên.
Nghĩ tới đó, Phấn càng thêm lo lắng.
- Không! Không được! Nhất định mình phải tìm cho bằng được thằng Điểm! Nhất định…
Phấn cắn răng đứng dậy, nhưng cái chân bị thương không sao nhấc lên được. Nó đau đớn té quỵ xuống, nhưng nhanh chóng lồm cồm ngồi dậy, soi đèn pin xung quanh, thấy một cành cây gie ra phía nó, nó mừng rỡ cố lê người tới đó, dùng hết lực để bẻ gãy cành cây kia.
Nhưng Phấn vốn là một đứa yếu đuối, cành cây lại đang tươi sống, dẻo dai, người khỏe mạnh chưa chắc gì bẻ gãy thì một đứa như Phấn làm sao có đủ khả năng.
Cày cục mãi không suy suyển gì, Phấn chán nản ngồi phịch xuống đất. May mắn sau, nó vừa loáng thoáng trông thấy một cái cây khô ngã nằm ngang gần đó.
Phấn chống tay lết tới và mừng rơn vì thấy một cành khô to cỡ cánh tay gãy rơi ra ngoài. Vậy là nó không cần phải bỏ sức lực ra nữa mà đã có trong tay một cây để chống đi.
Phấn tấp tễnh bước đi, một bên người tì hẳn vào khúc cây đang dùng làm gậy. Nó cứ đi chừng vài chục thước lại cất tiếng gọi, dù tiếng của nó bây giờ đã khàn đặc…
Phấn cứ đi một cách vô thức, vì nó không thể đoán biết được mình đi theo hướng nào là đúng, hướng nào là sai, bây giờ chỉ còn phó thác cho sự rủi may, phó thác cho sự đẩy đưa, giúp đỡ của các đấng linh thiêng…
Phấn không còn biết mình đã đi bao lâu rồi, nó cũng không biết bây giờ là khoảng mấy giờ đêm, đầu óc nó giờ chỉ tập trung vào từng ngõ ngách hai bến để tìm dấu vết của Điểm.
Trước mắt Phấn lờ mờ hiện ra một ngôi miếu nhỏ. Phấn vội vã tiến lên, quỳ sụp xuống cầu nguyện lần nữa.
- Con cầu trời khẩn phật, con cầu xin các đáng thần tiên, các linh hồn khuất mặt, xin cho ocn tìm được em con, con bằng lòng đánh đổi bằng tuổi thọ của con…
Vừa ngẩng đầu lên, Phấn thoáng thấy phía trong ngôi miếu có vật gì đó nhúc nhích khe khẽ. Phấn giật mình toan lùi lại phía sau vì tưởng là con thú nào đó làm ổ trong miếu hoang.
Nhưng không biết do một động lực nào xui khiến, Phấn lại tiến tới sát bên ngôi miếu và rọi thẳng đèn pin vào bên trong. Trong quầng sáng của ngọn đèn là Điểm đang nằm co quắp!
- Điểm! Trời ơi, Điểm ơi! Anh đã tìm được em rồi!
Phấn run lập cập vội trèo lên thềm xi măng và khom người chui vào miếu kéo Điểm ra. Điểm đã ngất đi từ lâu, không biết mình đã được cứu.
Lúc này Phấn không còn nhớ đến vết thương của mình nữa, nó chỉ còn biết quýnh quáng lấy cái áo khoác to sù quấn chặt lấy người em trai, rồi nó cố lay em trai dậy:
- Điểm! Điểm ơi, ráng dậy ăn một chút bánh nè em! Aên vô là em khỏe lại liền cho coi! Dậy đi em!
Phấn vừa lay gọi vừa khóc, nước mắt nước mũi lòng thòng trên mặt nó.
Cuối cùng thì Điểm cũng tỉnh dậy, nhưng nó chưa ý thức được nó đang ở đâu và tại sao lại ở đấy. Nó cũng chưa nhận biết được người đang ôm nó trong đôi tay run rẩy lạnh cóng là ai nữa. Nó chỉ nhướng mắt lên một cái rồi thều thào:
- Đói… đói quá!
Phấn vội vã thò tay vào túi áo lấy ra một cái bánh ngọt bẻ vụn ra từng miệng đút vào miệng Điểm:
- Nè, em ăn đi! Aên đi! Aên từ từ thôi coi chừng sặc đó…
Mới đầu Điểm còn ăn một cách khó nhọc, nhưng chỉ một chút xíu sau nó đã nhai nhồm nhoàm nguyên cả cái bánh trong miệng, vừa nhai vừa lúng búng nói:
- Nước… nước… uống nước!...
Phấn giật mình thầm nghĩ:
- Trời ơi, mình quên đem theo chai nước! Bây giờ biết làm sao đây?
Bất ngờ cái đầu óc vốn chậm chạp của Phấn lại linh hoạt một cách khác thường. Nó nhớ lại có lần đã xem một cuốn truyện nào đó kể về hai người đi lạc trong rừng, một người không may bị bệnh, người kia phải chăm sóc, và cái cách mà người kia cho bệnh nhân uống nước chính là hái một chiếc lá to rồi đi chắt những giọt sương hứng vào đó.
Đúng rồi! Để có nước cho em nó uống, nó sẽ làm theo cách ấy!
Phấn nhẹ nhàng đặt đầu em nó xuống sau khi đút thêm cho em một cái bánh nữa. Nó lết xuống bậc thềm, chống tay chồm ra một chiếc lá to hơn bàn tay và khập khiễng đi chắt từng giọt sương ở những cái cây cạnh đó. Phấn không dám đi xa, nó sợ lại một lần nữa lạc mất em mình.
Cuối cùng thì nó cũng hứng được một ít sương. Nó nâng niu cẩn thận lê chân trèo lên bậc xi măng cố gắng không để rơi ra ngoài dù chỉ là một giọt.
- Nước nè, uống đi em!
Một tay nó giữ chặt chiếc lá được quấn thành hình cái phễu, dưới đáy nó bẻ quặt qua một bên không cho nước chảy ra ngoài, một tay nó nâng đầu em trai dậy và rót từ từ, cẩn thận từng giọt nước vào miệng em nó.
Điểm chép miệng liên tục khi cảm nhận được ai đó đang cho mình uống nước. Uùông xong hớp nước, Điểm cảm giác thân thể mình nhẹ nhõm, khoan khoái hẳn lên và nó từ từ nhớ lại tất cả mọi việc.
Điểm mở choàng mắt ra, trước mắt nó, dưới ánh sáng của vầng trăng nó thấy rõ ràng anh Phấn đang nhìn nó chăm chú, mặt cau lại đầy vẻ lo lắng.
- Anh… là anh sao?
Điểm ngạc nhiên.
Phấn mừng quýnh khi thấy em trai đã tỉnh, nó ghì chặt đứa em trai to lớn dềnh dàng bằng đôi cánh tay khẳng khiu của nó, trả lời em trong tiếng khóc:
- Ừ, anh đây! Tìm được em rồi, em tỉnh lại rồi anh mừng quá Điểm ơi…
- Còn mọi người đâu cả rồi anh?
Điểm ngơ ngác hỏi.
Phấn đưa tay quẹt nước mắt nước mũi trên mặt mình, nhoẻn cười:
- Cô và mấy bạn lớp mình còn ngồi chờ tin tức của em dưới chân núi Lang Biang. Từ hồi xế trưa tới giờ, cảnh sát và dân địa phương đã vào rừng lùng sục tìm em quá chừng mà không ai thấy… May mắn sao anh lại gặp được em ở đây…
- Anh? Chỉ mình anh đi tìm em thôi sao?
Điểm hỏi vẻ ngờ vực.
Phấn có vẻ mắc cở:
- Ừ, mình anh thôi. Cô không cho đứa nào rời khỏi khu vực đó, nhưng anh thật sự không an tâm, anh không thể ngồi im ở đó trong khi tính mạng em mình không biết sẽ ra sao… Thế là… anh lấy trộm đèn pin, lấy trộm áo khoác và lẻn ra đi tìm em…
- Anh… dám đi một mình? Anh không sợ ma sao?
Điểm nhổm dậy giương mắt ngó anh.
Phấn cười ngỏn ngoẻn:
- Ừ, anh quên mất! Chắc tại lúc đó lo cho em quá nên anh quên luôn nỗi sợ…
- Anh! Trời ơi…! Anh!
Điểm nghẹn ngào ôm chầm lấy Phấn.
Phấn vỗ nhè nhẹ lên tấm lưng to bè của em trai:
- Không sao rồi! Không sao rồi! Anh em mình đã gặp được nhau là ổn rồi, không phải sợ điều gì nữa… Không biết bây giờ là mấy giờ rồi?
Phấn chợt hỏi.
Điểm cúi xuống, bật đèn soi vào đồng hồ và nói:
- Gần bốn giờ sáng rồi đó anh!
Phấn gật đầu:
- Ừ, vậy bây giờ anh em mình chui trở vô miếu ráng ngủ một chút cho lại sức, chờ tới sáng thế nào cũng có người đi tìm mình… Nè, em mặc thêm cái áo này cho ấm, tay em lạnh như nước đá rồi nè…
Vừa nói Phấn vừa dợm cởi chiếc áo khoác đang mặc trên người ra đưa cho Điểm.
- Không! Không! Em đủ rồi, anh mặc đi, người anh có hơn gì em mà nói, sắp thành ông già tuyết rồi kìa!
Hai anh em bật cười và lồm cồm chui trở vào bên trong ngôi miếu.
- Em ngồi ngoài đi, anh ngồi trong, anh sợ… ma!
Phấn đẩy em trai ra phía ngoài và nói.
- Trời đất! Sợ ma mà anh dám một mình lặn lội trong đêm giữa nơi núi rừng thế này để tìm em sao? Vậy là em biết rồi, lâu nay anh toàn giả bộ, anh giả bộ sợ ma, giả bộ nhút nhát thôi, phải không? Nè, giả bộ nè! Nè, dám gạt em nè!...
- Ui cha… đau…
Điểm đánh thùm thụp lên lưng anh trai, hai anh em cùng cười vang trong bóng tối…
 
***
Gần hai giờ sáng, cả lớp chỉ còn lại mấy đứa thức ngồi gật gù bên cạnh hai cô giáo phụ trách đang cháy gan cháy ruột đợi chờ tin tức của đoàn người đi truy tìm Điểm. Mấy đứa con gái ngồi dựa vào nhau mà ngủ. Mấy đứa con trai thì rúc hết cả về một góc, nằm chồng chéo lên nhau như một bãi chiến trường.
Hai cô giáo phụ trách cũng không buồn rầy la sắp xếp gì nữa, mặc chúng muốn nằm ngồi kiểu gì cũng được.
Từ đằng có ánh đèn loang loáng và tiếng người nói chuyện râm ran. Biết là họ đã về tới, hai cô giáo cùng mấy đứa con trai còn thức mừng quýnh, đứng cả lên và không ai bảo ai tất cả đều chạy ào về phía đó.
- Anh… anh ơi… sao…?
Cô giáo phụ trách lắp bắp không ra tiếng khi trông thấy đoàn người trở về mà không có mặt Điểm.
- Chúng tôi đã quần nát cả khu vực đó rồi mà vẫn không phát hiện được gì… Bây giờ anh em ai cũng đuối cả rồi, chúng tôi phải dừng cuộc tìm kiếm lại, sáng mai sẽ tiếp tục. Xin cô giáo thông cảm…
Người trưởng đoàn buồn bã nói.
Cả hai cô giáo cùng loạng choạng khi nghe người chỉ huy nói vậy. Trời ơi, Điểm mà mất tích luôn thì hai cô phải ăn làm sao, nói làm sao và sống làm sao đây?
Vì sợ gia đình hoang mang nên từ trưa tới giờ việc Điểm mất tích vẫn chưa được báo về cho gia đình biết. Nhưng đã đến lúc này rồi thì không thể nào giấu được.
- Anh làm ơn báo về gia đình em ấy giúp tôi nhé? Chỗ chúng tôi không có điện thoại…
Cô giáo nói một cách khổ sở.
Người chỉ huy tìm kiếm chừng như rất thông cảm, anh ta gật đầu đồng ý:
- Được rồi! Cô cho xin số điện thoại, chút nữa về tới đơn vị tôi lập tức gọi đi ngay…
- Dạ, xin anh theo tôi lại đây, để tôi hỏi anh của thằng bé mất tích đã…
Cô giáo vừa đi vừa nói.
- Ủa, nó có anh đi cùng à?
Người chỉ huy ngạc nhiên.
Cô giáo giải thích:
- Hai anh em sinh đôi học cùng một lớp. Nhưng thằng anh yếu đuối, nhút nhát, thường ít tham gia vào các hoạt động ngoại khóa nên lúc thằng em trèo núi thì không có thằng anh ở bên cạnh.
Người chỉ huy không nói gì chỉ gật gù.
Về tới nơi tập trung, cô giáo bảo:
- Mấy đứa kêu em Phấn dậy, hỏi nó số điện thoại nhà để nhờ mấy chú báo về cho gia đình em ấy biết!
Mấy đứa con trai trèo qua đứa này, bước qua đứa kia, soi đèn pin vào tìm mãi mà chẳng thấy thằng Phấn đâu cả.
- Cô ơi, thằng Phấn không có đây!
Hai cô giáo té ngồi xuống đất khi nghe thêm tin báo động trời đó. Từ tối giờ không ai quan tâm đến Phấn vì nó vốn lặng lẽ trước đám đông, vả lại không ai nghĩ nó dám đi cách chỗ này một trăm thước!
Vậy mà bây giờ lại không có nó, nó đi từ lúc nào cũng không đứa nào rõ thì có chết không chứ!
Mất một đứa chưa tìm được giờ lại thêm một đứa nữa, biết phải tính sao đây?
- Có thể nó nóng ruột nên đã lén đi tìm thằng em rồi!
Một người trong đoàn người tìm kiếm phán đoán.
Cô giáo phản đối bằng giọng rên rỉ:
- Không có đâu! Em Phấn không đời nào dám đi đâu, nó rất nhút nhát… Nó không dám đi một mình vào rừng đâu… Trời ơi, chẳng lẽ gia đình nó có kẻ thù, người ta rình rập lên tận đây để bắt cóc hai anh em nó?
- Nhà nó có giàu không? Có làm ăn gì lớn không mà có người bắt cóc? Lại bắt mộpt lúc hai anh em?
Có người tò mò hỏi.
Thằng Hiển nói nhỏ:
- Nhà nó cũng bình thường thôi, đâu có giàu gì đâu, ba má nó có sạp rau cải ngoài chợ chứ đâu có làm gì lớn lao…
- Vậy thì loại trừ khả năng bắt cóc rồi!
Một người nói.
- Biết đâu được! Đâu phải cứ bắt cóc là nhằm mục đích tống tiền? Có khi vì thù hằn cá nhân, người ta bắt cóc con kẻ thù để trả thù thì sao?
Một giọng nói khác xen vào.
Mọi người bắt đầu bàn tán xôn xao về sự mất tích của hai anh em sinh đôi trong cùng một ngày.
Hai cô giáo phụ trách bây giờ không thể kìm nén được nữa rồi, cả hai ôm chầm lấy nhau khóc nức nở:
- Trơi ơi… nếu mất hai đứa nó… chắc tôi cũng chết mất chứ sống làm sao được đây trời?
Người chỉ huy tìm kiếm an ủi:
- Hai cô và các em cứ bình tĩnh đi, việc đâu còn có đó mà! Giờ thì tất cả vào cố nghỉ ngơi một chút đi, chỉ còn mấdy tiếng đồng hồ nữa là trời sáng, chúng tôi lại ra quân đợt nữa, đợt này chúng tôi sẽ xin cường thêm chó nghịêp vụ, các cô yên tâm đi, đừng khóc nữa…
Mặc những lời an ủi động viên, hai cô gíao trẻ không còn lòng dạ nào để nghỉ ngơi hay hy vọng gì nữa. Hai cô cảm thấy như mình bị rượt đuổi, bị dồn vào ngõ cụt, đang đứng cheo leo bên bờ một vực thẳm, hai bên là những thế lực dồn ép, phía sau lưng lại là vách núi dựng đứng, không thể nào lùi bước được nữa rồi, chỉ còn mỗi một con đường là lao mình xuống vực mà thôi…
Thấy tình cảnh hai cô giáo như vậy, người chỉ huy không an tâm ra về. Anh kéo mấy đứa học trò nam ra một góc dặn dò:
- Mấy em phải ráng thức canh chừng hai cô, nghe không? Hai cô của tụi em đang bị sốc dữ dội, sợ không làm chủ được hành động của mình mà gây ra những điều đáng tiếc. Mấy em phải thức canh cho kỹ, đừng có lơ là, nghe không?
Mấy đứa học trò sợ xanh mặt, hứa chắc với anh chỉ huy:
- Dạ, tụi em biết rồi… nhưng tụi em sợ…
Người chỉ suy nghĩ một lát rồi quay lại nói gì đó với một người dân tộc đi cùng, sau đó quay sang mấy đứa học trò:
- Được rồi, anh sẽ để anh này ở lại đây cùng với các em, anh phải về đơn vị để chuẩn bị cho cuộc tìm kiếm sáng mai. Chỉ còn có mấy tiếng đồng hồ nữa thôi, mấy em cố gắng nhé?
Nói xong, người chỉ huy quay về chào hai cô giáo rồi dắt theo đoàn người rồng rắn ra về.
Mấy đứa nam sinh cùng anh thanh niên người dân tộc không dám nói một câu nào để an ủi cô giáo, mà chỉ lặng lẽ ngồi bên đống lửa đã sắp tàn, đứa nào cũng thầm cầu mong cho trời mau sáng…
 
***
Tiếng chuông điện thoại dựng cả nhà ông Năm thức dậy, liếc mắt nhìn lên chiếc đồng hồ to tướng trên tường, ông Năm thấy mới hai giờ hai mươi phút sáng.
- Trời! Giờ này mà ai gọi điện thoại vậy cà?
Ông Năm vừa lẩm bẩm vừa vội vã chui ra khỏi mùng chạy tới chỗ bàn để điện thọai, trong bụng ông hồi hộp không yên. Những hồi chuông điện thoại vào giờ giấc này thường không đem đến điều gì vui vẻ! Ông biết thế nên càng lo lắng hơn nữa.
Bà Năm cũng lật đật bước theo sau lưng chồng.
- A lô! Xin hỏi ai đầu dây?
- À… ừ, đúng rồi! Có gì không anh?
Bà Năm nghe tiếng chồng mình run run, và chỉ một loáng sau chiếc điện thoại trên tay ông Năm rơi xuống đung đưa tòng tèng mà cả hai vợ chồng không ai còn tâm trí đâu để sửa lại cho ngay ngắn.
- Có chuyện gì vậy ông?
Bà Năm run rẩy hỏi.
- Thằng… thằng Điểm bị lạc mất ở ĐaØ Lạt rồi!
- Sao? Ông nói sao? Thằng Điểm bị lạc mất? Thằng điểm hay thằng Phấn?
Bà Năm thảng thốt kêu lên.
Ông Năm ngồi phịch xuống ghế ôm đầu rên rỉ:
- Cả hai thằng!... Thằng Điểm mất trước… thằng Phấn mất sau…
- Cái gì?... ông nói gì? Thằng…
Bà Năm chưa nói hết câu đã ngã vật ra bất tỉnh.
- Bà ơi… bà ơi…! Trời ơi… sao gia đình tôi lại xảy ra chuyện xui rủi như thế này hở ông trời?
Ông Năm vừa vực vợ dậy vừa khóc ròng, hàng xóm nghe ồn ào đã chạy sang, người một tay giúp ông Năm đưa bà Năm vô bệnh viện gần đó.
- Nhờ anh chị ở đây săn sóc giúp giùm bà nhà tui, để tui đón chuyến xe sớm nhất di lên Đà Lạt ngay bây giờ…
Ông Năm đau đớn nói.
Người hàng xóm can:
- Tụi tui rất sẵn lòng chăm sóc chị giúp anh, nhưng việc anh đi lên Đà Lạt thì nên suy tính lại. Từ đây lên đó xa xôi diệu vợi mà anh có biết đường xá gì đâu, cũng không biết cả chỗ lớp nó đang ở, không liên lạc được với ai thì tìm bằng cách nào đây? Phải chi hồi nãy anh hỏi cho rành mạch rồi đi, đằng này…
- Lúc nghe tin, hồn vía tui bay đi mất hết rồi, còn biết gì đâu mà hỏi với han nữa anh ơi…
Ông Năm rên rỉ.
Người hàng xóm vỗ lên vai ông Năm an ủi:
- Thôi, chắc không sao đâu! Anh cố gắng bình tâm ráng chờ chút nữa xem có ai liên lạc lại thì hỏi cho kỹ càng… Để vợ tui ở lại đây với chị Năm được rồi, anh phải về nhà để canh địên thọai chứ… Giờ anh ra xe, tui chở anh về!...
Ông Năm thất thểu ra xe, người hàng xóm đưa ông về nhà và không nỡ bỏ ông một mình, anh ta cũng ở lại ngồi cạnh bên ông Năm thắc thỏm chờ nghe tiếng chuông điện thọai.
 
***
Đội truy tìm sáng nay được tăng cường tổng cộng hai mươi người và có thêm một chú chó nghịêp vụ. Mấy đứa con trai trong lớp năn nỉ xin theo nhưng hai cô giáo của chúng dứt khoát không đồng ý, cả anh chỉ huy cũng lắc đầu:
- Đường rừng núi vất vả lắm, lại dễ lạc đường nữa! Anh không muốn cái cảnh vừa tìm được đứa này lại mất tiếp đứa khác đâu nhe! Thôi, mấy em chịu khó ở lại đây chờ tin tốt lành của bọn anh nhe!
Rồi anh nháy mắt, hạ giọng nói tiếp:
- Với lại mấy em còn có nhịêm vụ tối qua anh giao nữa mà, quên rồi sao? Không được quên đâu đấy!
Mấy đứa ỉu xìu đành phải đứng nhìn theo đoàn người tiến sâu vào núi.
Mới sáng sớm sương mù còn giăng kín cả một vùng trời trước mặt, mọi người ai nấy co ro trong những chiếc áo khoác to sù sụ, nhìn giống như trong một cảnh phim nước ngoài. Vào tới khu rừng, người chỉ huy giao nhiệm vụ cho từng nhóm người và họ bắt đầu tản ra, dàn thành hàng ngang mà tiến sâu vào bên trong.
Hôm nay người chỉ huy nhất định phải tìm cho ra hai anh em cậu đó, sống thì tìm được người, bằng có chết cũng phải tìm được xác, chứ không lý gì cả hai anh em lại mất tích một cách bí ẩn đến như vậy.
Khả năng chết chỉ là dự phòng thôi, chỉ sợ các cậu ấy hoảng loạn rồi té xuống khe xuống vực, chứ khnôg sợ chuyện làm mồi cho thú dữ. Vì là người nắm rõ địa bàn này, anh chỉ huy biết ở đây không có thú dữ ăn thịt người xuất hiện.
Nhưng anh cũng thắc mắc lắm, tại sao cậu nhỏ đó lại có thể rẽ quặt vào đây một cách vô lý đến vậy, trong khi đang nhắm hướng lên đến đỉnh Lang Biang? Mà nghe kể lại thì cậuu nhỏ này hiếu thắng lắm, đã thế thì sao có chuyện đang trong giai đoạn chạy nước rút của cuộc thi, sắp về tới đích rồi cậu ta lại có thể rẽ ngoặt vào đây để thám hiểm hay ngao du cho thỏa trí tò mò? Dù gì đi nữa, với tính cách đó cậu ta phải lên đến đích trước đã rồi mới làm gì thì làm, đi đâu thì đi chứ?
Thiệt tình, nghĩ đến nát óc vẫn không sao nghĩ ra một lời giải thích nào nghe cho hợp lý được! Hèn gì mấy người dân tộc khẳng định cậu ta đã bị ma dẫn đường đem đi dấu ở một chỗ nào đó rồi, ừ, không chừng lập luận đó nghe ra còn có lý hơn nữa à!
Người chỉ huy vừa đi vừa suy nghĩ. Hình ảnh đau khổ, tuyệt vọng của hai cô giáo trẻ miền Tây Nam bộ cứ ám ảnh lấy anh không rời. Anh mong sao mình đem được hai cậu học trò nguyên lành về cho hai cô ấy…
Tiếng chó sủa dồn dập một cách khác thường làm người chỉ huy giật mình. Anh ra hịêu cho mấy đi cùng tiến thẳng tới trwosc, chỗ chú chó đang giương mõm lên sửa.
Đó là một cái miếu nhỏ do mấy người dân ở đây lập nên từ hồi lâu lắm rồi để thờ một vị thần rừng nào đó anh không còn nhớ rõ, nhnwg anh chỉ biết lâu nay nó đã bị bỏ hoang, thương là nơi nghỉ chân của những người đi săn hoặc hái củi.
Tối hôm qua, đoàn người tìm kiếm cũng đã qua lại nơi này rất nhiều lần, thậm chí chính bản thân anh đã soi đèn vào tận bên trong mà chẳng thấy gì. Bây giờ con chó này sủa rống lên như vậy là sủa cái gì kia chứ?
Vừa lại gần ngôi miếu, người chỉ huy đã nhận ra dấu vết! Những chiếc lá cây, những mẩu bánh vụn còn vương vãi trên thềm xi măng. Tim anh đập thình thịch. Anh khom người nhìn vào trong, và thật không ngờ khi nhìn thấy hai đứa con trai ngồi co người ôm chặt lấy nhau ngủ thật say sưa…
Anh chỉ huy đứng thẳng người lên, thở phào nhẹ nhỏm. Anh đưa còi lên thổi một tiếng tập trung. Tiếng còi vang lên chát chúa vậy mà hai chàng trai trong miếu vẫn không hề giật mình thức giấc.
Khi mọi người đã tập trung đầy đủ, anh chỉ huy đích thân chui vào miếu lay gọi:
- Này này! Hai ông tướng! Mau dậy đi thôi, cả thành phố Đà Lạt đang nổi sóng vì hai ông kia kìa! Dậy! Dậy mau!
Phát liên tiếp mấy phát vào mông mới đánh thức được Điểm dậy.
Điểm ngơ ngác dụi mắt ngó ra ngoài, khi nó trông thấy bên ngoài có rất nhiều người thì nó hiểu ra đó chính là những người đang đi tìm kiếm anh em nó. Mừng rỡ, Điểm lay gọi anh:
- Anh Phấn! Anh Phấn! Họ tìm gặp mình rồi kìa! Dậy đi anh Phấn!
Nhưng Phấn vẫn không nhúc nhích.
Điểm sờ lên trán anh, nó hoảng hốt rụt vội tay lại như bị bỏng, anh nó đang bị sốt rất cao!
- Anh Phấn!
Điểm kêu lên thảng thốt.
Người chỉ huy giật mình hỏi:
- Có chuyện gì vậy chú nhỏ?
- Anh của em… anh của em sốt cao lắm rồi!
Điểm run run nói.
- Giúp một tay đỡ anh chú ra đây!
Người chỉ huy ra lệnh.
Khi mọi người đỡ được Phấn ra ngoài, lúc này Điểm và mọi người mới phát hiện một bên chân của Phấn sưng to đến tận đầu gối. Cả lớp da bên ngoài đỏ rực lên, căng cứng như sắp sửa rách toạc ra.
Trong lúc điểm hoảng hốt lo âu thì người chỉ huy săm soi một lúc và phát hiện dưới lòng bàn chân Phấn có một lỗ thủng rất sâu.
- Nó đạp phải gai độc rồi đây!
Người chỉ huy nói.
Nhưng một người dân tộc đứng bên cạnh vội vã khom người xuống khều khều gì đó chỗ vết thương, nhặt lấy một mẩu nhỏ đưa lên gần mắt quan sát, một lúc sau anh ta kêu lên:
- Cái gai độc cậu ta đạp nhầm không gây độc đến mức này đâu! Nguyên nhân chính là đây!
Anh ta giơ lên cho mọi người xem một mẩu nhỏ xíu có màu xanh xám. Mọi người còn đang ngơ ngác thì anh ta giải thích:
- Có lẽ khi đạp phải gai rừng, cậu ta đã vớ đại một thứ lá bên đường, nhai cho dập nát rồi rịt vào để cầm máu. Nhưng không may cho cậu ta, đây lại là loại lá độc. Bình thường chạm vào thì không sao cả, nhưng nếu có vết trầy xước thì chất độc từ lá cây này sẽ ngấm nhang vào máu gây sưng tấy thế này đây…
- Anh ơi… có cứu… cứu được không?
Điểm run rẩy hỏi.
Anh thanh niên người dân tộc ngồi hẳn xuống để quan sát vết thương một cách tỉ mỉ, cuối cùng anh ta kết lụân:
- Chưa đến nỗi nào! Có lẽ do khi buột vết thương không được chặt, lá cây độc rơi ra sau đó không lâu chỉ còn vướng lại một ít, thế cho nên phần thịt ở quanh miệng vết thương vẫn chưa thâm đen, tức là vẫn còn cứu được! Thôi, bây giờ mau mau đem cậu ta về dưới đó đi, tôi sẽ về nhà lấy thuốc rồi mang xuống ngay!
Nói dứt câu, người thanh niên vội vã đứng lên băng rừng đi mất.
Anh chỉ huy ra hiệu cho mọi người khiêng Phấn đặt nằm lên chiếc cáng mang theo, rồi anh nhìn sang Điểm hỏi:
- Sao? Cậu có đi được không hay cũng nằm lên cho chúng tớ khiêng đi nhé?
Điểm lúng túng:
- Dạ không!... không… em đi được!...
- Cậu đã làm cho bao nhiêu người lo lắng mất ăn mất ngủ! Suýt chút nữa hai cô giáo của cậu cũng đã chết luôn vì cậu đó! Cậu đi đâu thế? Nói cho tôi nghe xem nào?
Người chỉ huy nói với Điểm vẻ trách cứ.
Điểm biết lỗi, vừa cắm cúi đi vừa nói lí nhí:
- Lúc đó em tính đi tắt cho nhanh, nhưng em cũng không biết tại sao em cứ đi hoài, đi hoài mà không lên tới đỉnh núi được. Đến tối mịt thì em biết chắc mình đã hoàn toàn mất phương hướng rồi…
- Đêm hôm qua bọn tôi đi tìm cậu nát cả khu vực này, cậu lúc đó ở đâu?
Người chỉ huy hỏi.
Điểm thật thà đáp:
- Em đi tới cái miếu đó lúc hơn chín giờ đêm, không còn sức lực nữa nên em chui vào đó nằm cho đỡ lạnh… hình như trong lúc mê man, em có nghe tiếng người kêu tên em nhưng em không thể lên tiếng được, lúc đó hình như em có thấy ánh đèn soi vào…
- Khoan… khoan… cậu nhớ lại xem, từ lúc tới cái miếu đó là cậu nằm luôn không đi đâu hết à? Lúc cậu tới miếu là vào độ hơn chín giờ à? Cậu có nhớ chắc không?
Người chỉ huy gặng hỏi.
Điểm gật đầu quả quyết:
- Dạ, em nhớ chính xác là như vậy! Vì kim đồng hồ em có dạ quang, em vẫn nhìn xem giờ để mong trời mau sáng mà…
- Thế thì lạ thật! Cũng vào khoảng thời gian từ mười giờ tới hơn mười một giờ tối qua, tôi đã mấy lượt rọi đèn pin vào đó, thậm chí tôi còn cúi khom người để nhìn vào quan sát bên trong, sao tôi không nhận cậu nhỉ?
Người chỉ huy lẩm bẩm.
Một người trong đoàn người tìm kiếm nói xen vào:
- Có thể anh không tin, nhưng bọn thường dân chúng tôi ở đây đều rất tin vào hiện tượng ma giấu này. Một người nằm ngay đó nhưng đã bị án lại bởi các bóng ma nên không ai có thể nhìn thấy người đó được… Chúng tôi đi rừng thỉnh thoảng vẫn gặp trường hợp như thế hoài. Nhưng do thuộc đường lối, nên chỉ sau khi bọn họ thôi đùa giỡn là chúng tôi có thể tự về lại nhà của mình… Tôi nghĩ là hôm qua anh bạn nhỏ này đã bị bọn họ rủ rê, dẫn dắt nên mới đi vào đây, và chính họ đã giấu anh bạn nhỏ vào đó không cho chúng ta nhìn thấy được!
Người chỉ huy toan lên tiếng cãi lại, nhưng thật sự anh cũng không biết phải dùng lời lẽ nào để cãi lại lời giải thích… rất có lý kia?
Khi đoàn người rồng rắn kéo xuống tới chân núi thì đã thấy cả lớp đứng chờ dưới đó rồi.
Hai cô giáo trông thấy học trò mình trở về mừng đến nỗi ngất xỉu. Còn mấy cô nữ sinh, vừa hoảng hốt vây quanh Phấn lại quay sang đấm thùm thụp lên lưng Điểm mà nước mắt như mưa…
Anh thanh niên người dân tộc đã đem thuốc tới nơi. Anh cẩn thận rửa sạch vết thương của Phấn, lau thật khô rồi rắc đều lên khắp mặt vết thương một thứ thuốc bột màu trắng.
Mọi việc xong xuôi, anh đưa cho cô giáo lọ thuốc nhỏ xíu, dặn dò:
- Cô đem về, mỗi ngày xức cho anh bạn nhỏ hai lần, làm giống như tôi vừa làm khi nãy ấy! Còn muốn cho uống thêm thuốc Tây thuốc Tàu gì tùy, không có ky kiêng gì hết, yên tâm đi, vài ba hôm anh bạn nhỏ sẽ lại chạy nhảy thôi mà…
Cả hai cô giáo và đám nữ sinh rối rít cảm ơn.
- Bây giờ thì mấy cô trò chuẩn bị về khách sạn để nghỉ ngơi đi chứ, bộ tính ngủ bụi nữa sao?
Người chỉ huy vừa nói vừa cười.
Cô giáo mắc cỡ, chúm chím cười, lí nhí nó lời cảm ơn lần nữa.
Bất chợt người chỉ huy vỗ đùi đánh đét một phát làm ai nấy hết cả hồn vía:
- Trời đất ơi, quên nữa chứ! Này cậu nhỏ, mau mau chạy lại đằng kia gọi điện thọai về nhà cho ba má cậu ngay đi, có lẽ giờ này ông bà già đang ngồi trên đống lửa đó!
Vừa nói người chỉ huy vừa vẫy tay gọi Điểm và chỉ cho nó thấy quầy địên thọai công cộng đằng xa.
Điểm ngớ ra một giây rồi chợt hiểu, nó co giò phóng đi thật mau.
Anh chỉ huy lại thở dài:
- Thôi rồi! Thằng nhóc đi gọi điện mà chắc trong túi không có đồng teng nào rồi…!
Nói dứt câu, anh đứng lên làm bộ nhăn nhó chạy đuổi theo Điểm.
 
***
Ông Năm ngồi ngó chăm chăm vào cái địên thoại, từ khuya tới giờ nó không chịu reo lên một lần nào nữa.
Có lúc ông nghi hoặc không biết nó có bị trục trặc gì không, muốn cầm lên xem xét nhưng ông lại sợ lỡ đúng lúc đó có người gọi đến thì sao?
Từng phút, từng phút trôi qua một cách nặng nề, chậm chạp.
Trời sáng rõ, chị hàng xóm đưa bà Năm về, bà đã tỉnh nhưng vẫn còn vật vã khóc than và nhất định không chịu vào phòng nằm nghỉ. Bà đòi được ngồi canh điện thoại với ông Năm.
Chìu theo bà, ông Năm phải nhắc một cái ghế bố ra đặt cạnh bàn điện thoại cho bà Nằm.
Hai vợ chồng lặng lẽ nhìn nhau, ai cũng muốn nói thật nhiều nhưng ai cũng sợ sẽ làm cho người kia càng thêm lo lắng.
- Reng… reng… reng…!
Ông Năm chộp vội lấy đưa ngay lên tai, run run hỏi:
- A lô…
- Ba ơi, con nè…
Bên kia đầu dây tiếng thằng Điểm nấc lên. Ông Năm vừa mừng vì biết vậy là thằng điểm an toàn, vừa lo cho thằng Phấn.
- Điểm! Trời ơi… con đó hả? Còn anh con đâu? Con ráng tìm anh con về nghen, con chăm sóc anh con nghen… nó yếu đuối, nhút nhát… ba lo cho nó quá con ơi…
Ông Năm nói luôn một hơi.
Bên kia tiếng thằng Điểm vừa cười vừa khóc:
- Ba má yên tâm đi, cả hai đứa con không sao đâu! Ba má cũng đừng lo cho anh Phấn nữa… Anh phấn là một anh hùng, anh Phấn gan dạ không ai bằng, lâu nay con luôn coi thường ảnh, nhưng hôm nay con mới biết con không bằng… cái móng chân của ảnh nữa… Thôi, ba má yên tâm đi, ngày mai tụi con về tới…
Thằng Điểm đã cúp máy rồi mà ông Năm vẫn còn đứng ngơ ngẩn, ông cứ nhìn chằm chằm vào chiếc điện thoại trên tay, lẩm bẩm:
- Cái thằng Điểm này nói gì tao khnôg hiểu gì hết trơn…
- Tụi nó sao rồi ông?
Bà Năm hồi hộp hỏi, tuy bà đã đoán được phần nào.
- Thằng Điểm gọi về, nói là cả hai đứa đều không sao! Nhưng tui không hiểu sao nó lại nói thằng Phấn là thằng gan dạ nhất trên đời? Thiệt tình mấy đứa này nó làm mình hết lo thắt ruột đến thắc mắc điên người đây…
Bà Năm như đã khỏe hẳn lại sau khi nghe tin đó. Bà cười thật tươi:
- Biết được hai đứa nó bình yên là được rồi, tốt rồi! Mặc kệ nó gan dạ hay thỏ đế gì cũng được, cũng là con yêu con quý của tôi…
Ông Năm liếc bà, mỉm cười:
- Con của một mình bà chắc?
Hai vợ chồng già nhìn nhau, thở phào nhẹ nhõm…
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:12:51 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 20:37:28
OAN HỒN ĐÒI MẠNG
 
Vinh và Lộc là đôi bạn thân, quen biết và chơi với nhau từ nhỏ, từ thuở còn lang thang trên khắp các ngả đường phố thị Sài Gòn với thùng đồ nghề đánh giày mang trước ngực.
Cả hai đều có hoàn cảnh gần giống như nhau: cha mẹ chia tay, mỗi người đều tìm cho mình một hạnh phúc mới, chỉ có đứa trẻ là thật sự bơ vơ, vì nó không chịu đựng được sự ghẻ lạnh, hà khắc của dì hoặc dượng ghẻ. Thế là hai đứa trẻ bỏ nhà ra đi, sống một cuộc sống lắt lay nơi đầu đường xó chợ.
Tình bạn giữa Vinh và Lộc gắn bó keo sơn hơn mười năm trời. Những lúc Lộc bị người khác hà hiếp, Vinh luôn là kẻ đứng ra bênh vực và bảo vệ cho bạn. Vinh to con, mạnh khỏe, khác với dáng vẻ mảnh mai yếu đuối của Lộc.
Hồi nhỏ, hai đứa thường ngủ qua đêm ở các mái hiên, cổng chùa hoặc các sạp hàng trong các ngôi chợ nhỏ. Nhưng lớn lên một chút, không làm nghề đáng giày nữa, Vinh và Lộc làm đủ thứ nghề, bất cứ việc nào được người ta thuê mướn là hai đứa bắt tay vào, cốt kiếm được đồng tiền lương thiện. Vinh và Lộc thuê một căn phòng trọ nhỏ xíu để có nơi chốn ổn định mà chui ra chui vào.
Kể ra, hai đứa trẻ không được giáo dục đàng hoàng, bao nhiêu năm lăn lóc giữa chợ đời mà vẫn giữ được phẩm chất tốt đẹp cũng là một điều hiếm có.
Một buổi chiều tháng mười gió thổi se se lạnh, Vinh ngồi bó gối trước cửa nhà, đôi mắt mơ màng tưởng nhớ tới một thời xa lắc. Cái thời mà gia đình Vinh còn đoàn tụ, vui vẻ bên nhau, những mùa chướng về là Vinh vui mừng lắm. Gió lạnh về, Vinh được mẹ sắm cho áo mới, được tíu tít đi xem lễ Giáng sinh, được đứng trước cổng nhà mình mà suýt xoa chiêm ngưỡng cây thông Noel mà cả nhà quây quần cùng nhau trang trí gần hết một buổi sáng. Và gió lạnh về cũng báo hiệu một năm sắp sữa trôi qua, cái tết sắp đến…
Vậy mà giờ đây, Vinh lại ngồi lặng lẽ một mình trong căn nhà ọp ẹp, tồi tàn. Nỗi nhớ bỗng nhiên trào dâng mãnh liệt trong lòng Vinh.
Lâu lắm rồi, hình như đã mấy năm rồi Vinh không biết tin tức gì về mẹ của mình nữa.
Nhiều lúc có gì đó đi ngang qua xóm lao động nghèo, nơi mẹ Vinh đang sống với người chồng sau, Vinh cũng muốn vô thăm, nhưng trong lòng lại mang nhiều buồn tủi, nên sau phát dùng dằng, Vinh lại lặng lẽ đi qua luôn mà không dừng bước rẽ vào.
Nỗi nhớ thương mẹ đã từ lâu chết lịm trong Vinh, đôi lúc Vinh cũng ngỡ ngàng khi thấy mình không còn một chút xúc cảm nào khi nghĩ tới người mà mình gọi là mẹ ấy.
Nhưng không hiểu sao, từ hai hôm nay, hình ảnh người mẹ lại cứ hiện về trong đầu Vinh cả khi thức lẫn khi ngủ. Trong bụng Vinh cứ nôn nóng không yên, làm gì cũng quên trước quên sau, tính tính lại trở nên bẳn gắt một cách kỳ lạ.
- Có chuyện gì xảy ra với mẹ mình sao?
Vinh tự hỏi rồi lắc đầu:
- Mẹ đã có cuộc sống riêng của mẹ, đã có người quan tâm lo lắng cho mẹ rồi, mình còn bận lòng chi nữa? Mẹ đâu có cần chi tới mình đâu…
Và sự oán giận, ấm ức lại trỗi lên, như muốn ngăn cản Vinh đừng nghĩ nhiều về mẹ mình nữa.
Nhưng thật lạ, dù Vinh có cố gắng đến mấy, có lao vào những trò vui, ồn ào đến mấy thì lòng vẫn bứt rứt không yên.
- Thôi, dù sao chiều nay mình cũng không có việc gì làm, tạt về đó coi bả bây giờ sống ra sao…
Vinh nghĩ vậy và đứng lên vào nhà lấy áo mặc vào chuẩn bị đóng cửa đi ra.
Vinh vừa ra tới cửa thì Lộc về tới.
- Đi đâu thế Vinh?
Lộc hỏi.
- Tao về thăm bà già, coi dạo này bả sống thế nào!
Lộc tròn mắt ngạc nhiên:
- Ủa, sao tự nhiên hôm nay…
Vinh cười cười:
- Tao cũng chẳng biết sao mấy hôm nay trong lòng tao bứt rứt không yên, nóng nảy thất thường quá, làm như linh tính có chuyện gì không hay xảy ra với bả. Thôi, dù sao bả cũng là mẹ tao, về thăm bả một chút cũng không phiền phức gì đâu!
Lộc ái ngại nhìn Vinh rồi nói:
- Vậy tao đi với mầy nghe? Ở nhà một mình cũng buồn…
- Ừ, đi thì đi! Mầy có cần vô tắm không, tao đợi?
Vinh nói.
Lộc cười hì hì:
- Bộ mày thấy tao bâtn thỉu lắm sao? Thôi, đi luôn đi, tối về tắm, trời này lạnh tao cũng làm biếng… hi hi… mà không đổ mồ hôi nên cũng không cần tắm táp làm chi cho thêm phiền!
Hai đứa bật cười ha hả rồi cùng đi bộ ra bến xe buýt.
Phải đổi mấy chặng xe, Vinh và Lộc mới đến được trạm cần xuống. Từ trạm xe buýt đó còn phải đi bộ gần một cây số nữa mới tới được xóm nhà mà mẹ Vinh cư ngụ. Hai chàng thanh niên thong thả cất bước giống như những kẻ nhàn nhã đang đi dạo phố trong buổi hoàng hôn.
Cả cái xóm ổ chuột này chỉ lác đác vài nhà có điện, còn lại chỉ toàn xài đèn dầu hỏa. Sống giữa một thành phố văn minh như thế này mà cuộc sống của họ xem ra còn tồi tệ hơn cả những người nông dân tay lấm chân bùn nơi đồng ruộng.
Những ngôi nhà thấp lè tè, được dựng và lợp mái bằng đủ thứ vật dụng hỗ lốn, bất cứ cái gì có thể dùng để chèn, để đậy được là người ta tận dụng hết để cho căn nhà của họ được kín hơn.
Trong những khu như thế này trẻ con chiếm số lượng rất lớn.
Vinh và Lộc vừa mới quẹo vô đầu hẻm đã đụng phải một đám con nít đang chơi tạt lon, chiếm hết cả bề ngang con hẻm vốn đã rất nhỏ bé. Tiếng cười nói, la hét vang rần cả một góc. Cả hai phải len lỏi mới qua được lũ trẻ lúc nhúc lao nhao ấy.
Dọc hai bên hẻm, trước sân mỗi nhà thường thấy hình ảnh mấy người đàn ông ngồi xếp bằng trên chiếc chiếu rách tả tơi, trước mặt là một dĩa mồi và xị rượu. Họ khề khà cụng ly, khề khà bàn tán cùng nhau đủ thứ chuyện trên trời dưới đất. Đâu đó, một vài bà mẹ trẻ bế con trên tay, ra rả nói chim nói vượn để dụ đút được cho con một vài muỗng cơm được nhai nhuyễn và nhè ra từ miệng người mẹ.
Thấy người lạ di vào khu vực mình, ai nấy đều đưa mắt ngó theo với vẻ tò mò, nhưng không ai bắt chuyện, mà Vinh và Lộc cũng cứ cắm cúi đi, không bắt chuyện với ai.
Đến cuối hẻm, Vinh dừng lại có vẻ lo lắng:
- Ủa, sao lại thế này?
Vừa nói, Vinh vừa chỉ tay vào một ngôi nhà rất nhỏ, đã nghiêng hẳn sang một bên, một nửa căn nhà bị chái nham nhở.
- Đây là nhà của mầy à?
Lộc hỏi.
Vinh gật đầu:
- Ừ, mà không! Đây là nhà của mẹ tao và ông dượng, chồng của mẹ sau này… Nhưng sao…
- Mầy hỏi mấy người nhà kế bên xem sao?
Lộc đề nghị.
Vinh không nói gì, xăm xăm tiến vào căn nhà kế đó, nơi có mấy ông sồn sồn đang ngồi nhậu lai rai với mấy trái cóc, trái ổi nằm trơ vơ trên chiếc đĩa sành cũ rích. Lộc lật đật bước theo bạn
Thấy Vinh và Lộc đi vào, cả mấy người đàn ông cùng ngước lên.
- Dạ, các chú cho con hỏi thăm, vợ chồng bà Mai nhà kế bên bây giờ còn sống ở đây không ạ?
Không chờ họ hỏi, Vinh đã lên tiếng trước.
Một người có vẻ già nhất trong bọn nhanh miệng:
- Chú em tìm vợ chồng bà Mai có việc gì không? Chú em là gì của vợ chồng bà Mai vậy?
Hơi khó chịu vì sự tò mò của người đàn ông đó, nhưng Vinh vẫn lễ phép:
- Dạ… cháu là… cháu của bà Mai, gọi bà Mai bằng dì, cháu sống dưới quê. Lâu lắm rồi không có tin tức, sẵn hôm nay đi Sài gòn có công chuyện, cháu ghé thăm dì, mà sao… thấy hình như nhà đó bị cháy rồi?
Người đàn ông chép miệng thở dài:
- Thôi rồi, muộn rồi cháu ơi! Phải chi chú em tới sớm hơn mấy bữa thì hay quá… giờ thì muộn rồi…
Vinh xanh mặt hỏi dồn:
- Muộn là sao vậy chú? Chú làm ơn…
- Là bà Mai đã theo ông theo bà rồi, còn đâu! Thiệt là tội…
Một người ngồi cạnh lên tiếng cắt ngang câu nói của Vinh.
Vinh run rẩy, ngồi bệt xuống một góc chiếu:
- Xin… xin các chú nói rõ hơn một chút cho cháu biết ạ!
Một người phụ nữ nãy giờ vẫn ngồi im trên chiếc võng cạnh đó lên tiếng:
- Để cô kể cho mà nghe, mấy cha nội này xỉn hết rồi, nói chuyện cà kê dê ngỗng tới tối cũng chưa hết chuyện đâu cháu ơi!
Vinh quay quang người phụ nữ:
- Dạ, cảm ơn cô! Xin cô làm ơn kể rõ cho cháu biết…
Người phụ nữ rời khỏi chiếc võng, tới ngồi cạnh bênh Vinh bắt đầu kể lể:
- Bà Mai chết rồi, mới chết ba ngày nay thôi! Mà ghê lắm cháu ơi, chết cháy đó! Lúc người ta dập hết lửa, đem được bả ra ngoài thì cả người bả đã cháy đen rồi…
- Bà Mai chết cháy? Tại sao lại cháy?
Vinh hoảng hốt.
- Khổ! Cũng không ai biết lý do nào căn nhà lại có thể bốc cháy như vậy nữa. Cảnh sát còn đang điều tra…
Người đàn bà hạ thấp giọng, thì thào:
- Nhưng người ta nghi ngờ cái chết của bà Mai có liên quan tới ông chồng. Có thể chính ông ấy đã ra tay giết vợ rồi dựng lên hiện trường giả để đánh lừa nhà chức trách hòng trốn thoát tội lỗi…
- Giết à? Bà Mia bị giết à?
Vinh thảng thốt.
Người đàn bà hốt hoảng bịt miệng Vinh lại, rối rít:
- Trời ơi, cháu không được nói lớn! Đây chỉ là nghi ngờ thôi! Tại cô thấy cháu là bà con với bà Mai, lại ở xa không biết gì nên cô kể hết. Cháu mà nói lộ ra ngoài, ông ấy nghe được sẽ đi tố cô đặt điều vu khống, hoặc giết cả nhà cô cũng nên… Cháu nhớ chưa?
- Dạ… cháu xin lỗi cô… cháu nhớ rồi!
Vinh lắp bắp.
Lộc thấy trên trán Vinh lúc này đã ướt đẫm mồ hôi, dẫu rằng khí trời vẫn đang se lạnh.
- Cô ơi, nhưng tại sao người ta lại nghi bà Mai bị chồng giết chết? Cô làm ơn kể cho tụi cháu nghe cặn kẽ đi!
Lộc hỏi.
Người đàn bà khẽ liếc nhanh  qua đám mấy ông ngồi nhậu rồi nói nhỏ:
- Chuyện là như vầy! Cô nghe nói trước khi vợ chồng bà Mai về sống ở đây thì bà Mai đã có một đời chồng rồi, có một đứa con trai nữa thì phải. Nhưng vợ chồng bà Mai chia tay, đứa nhỏ ở với bà, lại không chịu nổi ông cha dượng nóng nảy, khắc nghiệt, hở ra là đánh đấm nên đứa nhỏ đã bỏ nhà ra đi từ lâu lắm rồi! Hai vợ chồng bà Mai sống với nhau cũng không mấy hòa thuận, có lẽ vì bà Mai vẫn luôn nhớ thương đứa con trai lưu lạc. Hai người sống mãi mà không có con, bà Mai làm quần quật đầu tắt mặt tối để cung phụng cho gã chồng sáng say chiều xỉn, lại vướng vô bài bạc, nợ nần giăng mắc tứ tung. Nhưng hình như tại cái số, chứ gặp cô, cô bỏ ổng từ đời tám hoánh nào rồi, ai ở đó làm mọi cho ổng như bà Mai, mà phải chi được ổng thương yêu cũng cam tâm đi, đằng này ổng dằn hắt, xỉa xói không tiếc lời… Thiệt tình là số bà Mai khổ… Mới đây, nghe người ta đồn ầm lên rằng ông chồng cũ của bà Mai, lâu nay sống với người vợ sau ở nước ngoài, không đoái hoài gì tới đứa con trai của ổng. Tự nhiên gần đây ổng lâm bệnh nặng rồi ân hận, nhớ thương con nên chia hẳn cho thằng nhỏ một phần gia sản kếch sù của ổng, bà Mai là người đứng ra nhận lãnh phần gia tài đó. Bà đã nhiều lần đăng báo tìm con và nhờ người đi dò la tung tích của thằng nhỏ mà mãi vẫn không thấy. Ông chồng sau thấy vợ mình nắm trong tay số của cải lớn như vậy, ngày nào cũng rỉ rả đòi bà Mai đưa cho ông mượn để làm ăn, chừng nào kiếm được thằng con ông sẽ trả lại. Bà Mai dư biết chuyện “làm ăn” của ông là ở các sòng bạc nên bà nhất định không đưa ra. Vì chuyện đó mà suốt mấy tháng nay bà Mai bị dập bầm tơi tả… Rồi đùng một cái bà Mai chết cháy, không nghi cho ông ấy thì nghi ai bây giờ. Đúng không hai cháu?
Người phụ nữ nhìn Vinh và Lộc như để tìm lấy sự đồng tình, nhưng bà thật bất ngờ khi thấy Vinh mặt mày xanh xám, quai hàm bạnh ra một cách dữ dằn. Dưới ánh nắng hoàng hôn chạng vạng trông gương mặt của Vinh thật đáng sợ.
- Cháu ơi… cháu làm sao thế?
Người đàn bà lo lắng lay vai Vinh.
Vinh như sực tỉnh, ấp úng, nghẹn ngào:
- Không… Không sao… cháu chỉ thấy thương dì cháu quá… cháu không ngờ… dì cháu lại sống khổ sở đến vậy! Lâu nay cháu cứ tưởng dì hạnh phúc lắm…
- Ối, hạnh phúc gì đâu cháu ơi! Cặp vợ chồng đó giống như là oan gia kiếp trước của nhau vậy thôi…
Người đàn bà ngao ngán lắc đầu.
Vinh cúi mặt xuống, chắc để nuốt trôi những tiếng nấc nghẹn ngào sắp vọt ra khỏi miệng.
Lộc cắn răng hỏi tiếp:
- Vậy hiện nay chồng bà Mai sao rồi cô? Ổng có bị cảnh sát bắt không?
Người đàn bà lắc đầu:
- Không! Ổng có đầy đủ chứng cứ ngoại phạm mới chết chớ! Cảnh sát cũng nghi ngờ ổng nên tập trung điều tra dữ lắm, vậy mà không bắt được ổng mới tức! Có lẽ ổng quá khôn ngoan nên đã tính trước hết mọi việc có thể xảy ra, nhờ đó ổng mới có thể có đủ bằng chứng ngoại phạm như thế…
Người đàn ông đang nhậu quay sang nạt:
- Thứ đồ đàn bà nhiều chuyện, biết gì bà bày đặt ngoại phạm với nội phạm! Bà liệu cái miịeng mình đó nghen, coi chừng tới nhà mình không giữ được đây nè, ở đó mà ăn cơm nhà lo vác tù và hàng tổng, rước hoạ vô thân có ngày đó!
Người đàn bà cũng không vừa:
- Chỉ có lũ đàn ông các người mới độc ác và vô cảm đến mức đó thôi! Tôi là đàn bà, tôi không chịu được cảnh đó! Con cháu người ta lên tìm, mình cũng phải cho con cháu người ta biết chút ít để vong hồn người chết đỡ uất ức…
Người đàn ông nóng nảy, nhổm lên giơ tay định tát vào mạt người đàn bà. Thấy tình hình căng thẳng, Vinh lật đật đứng lên can:
- Dạ… xin chú đừng nóng. Lỗi là ở cháu hết, cháu xin lỗi cô, xin lỗi các chú! Cảm ơn cô đã giúp cháu biết một vài điều về… dì cháu. Giờ cháu xin phép ra về…
Nói xong, Vinh gật đầu chào mọi người rồi lầm lũi đi nhanh ra ngoài, Lộc cũng đi bên cạnh bạn. Văng vẳng phía sau là tiếng thở dài của người đàn bà:
- Thiệt là tội nghịêp… phận người…
Người đàn ông vẫn còn lầm bầm gì đó nhưng Vinh và Lộc không nghe rõ được nữa.
Hai người thất thểu đi trở ra đầu hẻm. Đang đi, bất chợt Lộc nhớ lại nãy giờ nói chuyện mà vẫn chưa hỏi người đàn bà kia mộ của mẹ Vinh ở đâu. Thiệt là… Vinh mất hồn đã đành rồi, mình cũng không lo được giùm bạn một chuyện như vậy! Lộc tự trách mình.
Thấy một đứa bé gái trạc mười bốn, mười lăm tuổi đang bế em đi trước mặt, Lộc chạy vội lên hỏi:
- Em nhỏ, em có biết bà Mai vừa chết mấy hôm trước không?
Đứa bé giật mình, đứng khựng lại vẻ mặt hoảng sợ:
- Dạ biết! Có gì không anh? Bộ bả hiện hồn về hả?
Lộc lắc đầu:
- Không, sao em hỏi vậy?
Đứa bé lấm lét ngó xung quanh rồi nói nhỏ:
- Hôm qua mấy đứa đi chơi về khuya thấy bà Mai đứng khóc trước cửa nhà, tụi nó la làng quá trời luôn! Anh đừng có lân la tới gần chỗ đó, ghê lắm đó! Bà Mai linh lắm…
Vừa lúc ngó thấy Vinh đi tới, Lộc muốn cắt ngang câu chuyện để tránh cho Vinh nỗi đau lòng.
- Em có biết một bà Mai ở đâu không vậy em?
Lộc hỏi.
Đứa bé ngó Lộc, ngạc nhiên:
- Trời đất! Anh kiếm mộ bả chi vậy? Bộ anh hổng sợ sao?
Lộc nói nhanh:
- Bà Mai là người thân của anh, em biết thì chỉ giúp anh đi!
Đứa bé gật gù như người lớn:
- À, em hiểu rồi! Đã là người thân của mình rồi thì đâu có gì mà phải sợ! Giống như hồi ông ngoại em chết vậy, hồi đó em còn nhỏ xíu mà cũng hổng có sợ đâu…
Lộc thầm than trời vì gặp phải con bé nhiều chuyện như… bà Tám! Anh vừa tính mở miệng hối thúc nó thì nó đã nói:
- Anh đi tuốt lên phía trên kia, có khu nghĩa địa ở cuối đường, bà Mai được chôn ở đó, cái mả đất mới đắp đó, anh vô là biết liền hà! Em nghe mấy người lớn ở đây nói thấy bả tội nghiệp, tính hùn tiền lại làm mả cho bả, nhưng người ta ghét ông chồng nên thôi…
Từ nãy giờ Vinh đã nghe được những lời đối đáp giữa Lộc và cô bé. Anh nắm tay Lộc:
- Đi! Tao với mầy đi ngay tới đó đi!
Lộc mỉm cười chào cô bé rồi rảo cẳng theo Vinh. Ra tới đầu hẻm, thấy có một tiệm tạp hóa nhỏ, Lộ bảo Vinh đứng chờ, anh ghé vào mua một bó nhang, ít vàng mã… rồi xề qua hàng trái cây, hoa quả kế bên mua một bó huệ trắng với một ít trái cây. Tất cả bỏ vào hai cái túi nhựa màu đen xách tòng teng đi mải miết về phía nghĩa trang mà lúc nãy cô bé chỉ.
Con đường càng lúc càng vắng, hai bên không có nhà cửa gì, Vinh và Lộc cứ cắm cúi đi, lòng người nào cũng nặng trĩu.
Lộc biết, tuy lâu nay Vinh hận mẹ, nhưng khi nghe tin bà chết, và nhất là biết rõ được cuộc sống của bà vô cùng khổ sở trong ngần ấy năm trời, chắc hẳn lòng Vinh đau đớn ghê lắm. Lộc muốn nói câu gì đó, hoặc có một cử chỉ gì đó để an ủi bạn, nhưng anh đành bất lực, không biết phải biểu lộ thế nào.
Nghĩa trang thấp thoáng đằng xa. Trời cũng đã bắt đầu tối. Quãng đường này lại không có đèn, mọi vật trở nên mờ ảo, tiếng con chim gì đó kêu lên khắc khoải nghe sao buồn bã thê lương…
Nghĩa trang nằm ven đường. Vinh và Lộc rẽ ngoặt vào cổng nghĩa trang và lần theo từng ngôi mộ để tìm. Mồ mả trong nghĩa trang này nằm lung tung, không hàng không lối gì cả, lô nhô cái cao cái thấp, lại không phân chia tôn giáo. Bên cạnh những ngôi mộ có đặt bát hương phía trước mộ bia, chứng tỏ người chết theo đạo Phật, là những ngôi mộ có hình cây thập tự, tức là mộ của người theo đạo Công giáo. Có lẽ khu nghĩa địa này dành cho những người nghèo, họ đâu có đủ điều kiện để đưa linh cửu người thân mình đến những nghĩa trang lớn, khang trang đẹp đẽ hơn.
Cả hai lò dò tìm mãi mới thấy được một ngôi mộ đất mới đắp, phía trước có dựng một bia mộ sơ sài ghi rõ tên họ: Nguyễn Thị Mai!
Vinh sà xuống ôm lấy ngôi mộ, vai anh run lên bần bật nhưng tuyệt nhiên trên mặt lại không có giọt nước mắt nào chảy ra.
Lộc cúi xuống mở mấy cái túi ni lông, bày các thứ ra trước mộ. Không có bát đĩa gì hết, Lộc phải lấy bao ni lông thay thế, bà biện trái cây lên đó. Cũng chẳng có lọ hoa nào, Lộc đành xới đất thành một lỗ tròn, cắm mấy cành huệ vào đó.
Khi mọi thứ đã xong, Lộc bật diêm thắp mấy nén nhang, chia ra làm hai đưa cho Vinh một nửa, mình một nửa.
Vinh và Lộc sì sụp cúi lạy trước ngôi mộ của người đàn bà xấu số.
Bỗng đâu một cơn gió thật lớn thổi ào đến, cuốn phăng toàn bộ số vàng mã mà Vinh và Lộc chưa kịp đốt. Những tờ vàng mã bay tít lên cao, xoay tròn mấy vòng rồi rơi xuống lả tả cả một khoảnh đất xung quanh.
Lộc ngơ ngác ngó theo rồi vội vã chạy đi nhặt lại từng tờ một.
Vinh can:
- Thôi đi Lộc, không cần đâu!
Lộc cầm trong tay mấy tờ vàng mã, buồn hiu quay lại ngồi bên bạn.
Gió vẫn thổi ầm ào, tiếng cành cây vặn mình kêu răng rắc chừng như sắp gãy, tiếng những con chim kêu lên xao xác, sợ hãi…
Lộc và Vinh cứ im đó, lặng lẽ như hai chiếc bóng.
Bầu trời ngày một tối đen, và sà xuống thấp, không còn lại một ánh sao nào…
- Mùa này đã hết mưa rồi, sao bỗng dưng lại có một cơn giông lạc loài thế này nhỉ? Có khi nào…
Lộc thầm nghĩ và bắt đầu thấy hơi lo.
Mấy lần Lộc xem phim hoặc nghe người ta kể chuyện ma quái, thì những lúc linh hồn xuất hiện thường kèm theo gió mưa rú rít. Mẹ Vinh chết thảm như vậy, chết mà chưa được gặp lại đứa con trai thân yêu, chắc linh hồn của bà cũng không cam tâm để về nơi chín suối…
Vừa nghĩ tới đó, Lộc giật bắn người khi thấy một bóng trắng lướt qua mặt mình rồi vụt biến mất sau gốc cây bên cạnh. Lộc ngồi xích gần lại Vinh, bấu tay bạn, thì thầm:
- Vinh! Vừa rồi mầy có thấy gì không?
Vinh ngước mặt lên, ngơ ngác:
- Thấy gì? Có chuỵên gì thế?
Lộc ấp úng:
- Không… không có gì! Chỉ là một… con chim…
Lộc nói tránh, không muốn bạn buồn hơn nữa.Nhưng từ lúc đó trong lòng Lộc cứ hồi hộp không yên. Mấy lần Lộc muốn giục Vinh đứng lên đi về, nhưng tôn trọng nỗi đau của bạn, Lộc không dám mở lời.
Gió vẫn thổi gầm gào, rú rít. Thỉnh thoảng một vài tờ vàng mã lại bay tung lên rồi từ từ đáp trở xuống, mấy nén hương lập lòe cháy đỏ trông như những đốm mắt của một loài nào đó vô cùng đáng sợ.
Lộc sợ, nhưng mắt vẫn cứ nhìn về phía gốc cây, nơi mà lúc nãy Lộc thấy rõ ràng bóng trắng ẩn vào sau đó. Lộc không biết đó là cây gì, vì trời tối quá không nhìn rõ được, chỉ biết đó là một cây to, chắc cũng đã nhiều tuổi lắm rồi.
Nhìn hoài đến mỏi mắt mà vẫn không thấy có hiện tượng gì lạ, Lộc nghĩ hay là lúc này mình hoa mắt? Người ta nói những kẻ sợ ma thường gặp ma là do họ quá sợ nên tự tưởng tượng ra thôi, mà cái sự tưởng tượng của họ quá thật, thật đến nỗi làm cho họ hoảng sợ vì cứ nghĩ là ma thật. Thí dụ như khi đi một mình trong đêm tối, người sợ ma thường có cảm giác có người đi ngay phía sau lưng mình, nếu sợ quá bỏ chạy, thì chính tiếng bước chân họ lại làm cho họ tưởng có người đang đuổi theo sau…
Lộc cũng công nhận mình là đứa nhát gan, nên chắc mẫm lúc nãy là do mình tự nghĩ ra để dọa mình thôi, bằng chứng là Vinh cũng ngồi kế bên mình mà có thấy gì đâu?
Lộc trấn an mình như thế, nhưng chưa kịp an tâm thì vụt một cái, bóng trắng lại xuất hiện, lần này còn rõ hơn gấp bội.
Đó là một người phụ nữ mặc bộ quần áo màu trắng rộng thùng thình, tóc xoã dài tấp tưởi, che khuất cả gương mặt. Bóng trắng đó đang di chuyển từ từ hướng về phía Vinh và Lộc đang ngồi.
Lộc sợ đến cứng đơ cả lưỡi, không tài nào kêu lên được, muốn đưa tay bấu lấy Vinh mà tay chân Lộc cũng đã quíu cả lại rồi, không sao nhúc nhích cựa quậy gì được nữa… Lộc cứ ngồi cứng đơ ngó trân trân cái bóng trắng ghê sợ đó.
Một luồng hơi lạnh thổi ùa tới làm Vinh rùng mình, quay sang Lộc, Vinh định nói gì đó nhưng chưa kịp mở lời Vinh đã nhận thấy vẻ khác lạ của Lộc. Cũng vừa lúc đó, Vinh nhận ra cái bóng trắng kia.
- Mẹ! Có phải là mẹ không?
Vinh đứng phắt dậy gọi to. Vinh vốn là một thanh niên kien cường, Lộc và Vinh sống với nhau từ bé nhưng chưa bao giờ Lộc thấy Vinh sợ hãi điều gì. Huống hồ chi lúc này, tình mẫu tử đang trỗi dậy mãnh liệt trong lòng Vinh, thì dù biết bóng trắng kia là ma đi nữa Vinh cũng đâu có sợ. Vinh đang rất cần gặp mẹ, dù là hồn ma hiện về, dù là báo mộng, để biết rõ cái chết của mẹ là do tai nạn không mong muốn hay do có người mưu sát như dư luận đang đồn đãi mấy hôm nay.
Vinh vừa gọi vừa chạy ào tới, nhưng cái bóng trắng mới đó đã thoắt biến mất, để Vinh ngơ ngẩn với vòng tay giang rộng của mình…
Lúc này Lộc đã bớt sợ nhưng vẫn còn run lẩy bẩy. Vinh quay lại ngồi cạnh bên Lộc, vỗ vai bạn mấy cái để động viên.
Hướng mắt nhìn về nơi xa xăm, Vinh quỳ xuống khấn nguyện:
- Mẹ ơi, con bất hiếu đã bỏ mẹ mà đi suốt bao nhiêu năm qua, để mẹ một mình hứng chịu những bất công, khổ ải… Vậy mà lâu nay con cứ ngỡ mẹ sống trong hạnh phúc riêng tư, mẹ say sưa với hạnh phúc đó mà không cần tới đứa con trai này nữa… Con có ngờ đâu, cuộc đời mẹ lại lắm nỗi truân chuyên đến thế… Mẹ ơi, mẹ tha lỗi cho con nghe mẹ! Con tin rằng vong hồn mẹ linh thiêng lắm, vì chiều nay chính mẹ đã khiến xui con tìm về nơi đó để biết rõ sự tình. Mẹ ơi… mẹ hãy về nói cho con biết, ai đã hại mẹ, con thề sẽ trả thù cho mẹ, mẹ ơi…
Những tiếng sau cùng Vinh nói trong tiếng nấc nghẹn ngào không kìm chế được!
- Về thôi, Lộc!
Vinh đột ngột đứng lên, kéo tay bạn và buông ra ba tiếng ngắn gọn.
Lộc líu ríu vừa đi vừa chạy theo Vinh như một đứa bé.
Trời đã quá tối nên không còn xe buýt nữa, Vinh và Lộc đành phải lội bộ về nhà. Suốt trên quãng đường về, cả hai không ai nói với ai lời nào, cũng không ai nhớ chiều này mình chưa kịp ăn cơm để ghé vào ven đường mua chút gì đó đỡ dạ.
Nỗi buồn đau, lo lắng đã đè bẹp tất cả những cảm giác khác trong Vinh và Lộc.
Về tới nhà trọ, cả hai không ai buồn tắm rửa gì hết mà cứ để vậy rồi lăn quay ra đất.
Lộc vừa thương bạn, vừa lo sợ nên cũng thao thức mãi, cho tới lúc nghe văng vẳng tiếng rao “bánh giò bánh chưng đê…” vọng vô từ đầu hẻm, Lộc biết đã nửa đêm rồi. Anh cố nhắm mắt dỗ giấc ngủ, và Lộc ngủ thiếp đi lúc nào không hay.
Còn lại một mình, Vinh nằm im, mắt mở trừng trừng nhìn lên nóc nhà, trong đầu trống rỗng không có một ý nghĩ nào xâm chiếm, cả những cảm giác buồn vui cũng hình như không tồn tại trong anh trong giờ phút này.
Vinh thấy mình cứ lơ lửng, lơ lửng…
- Con ơi con… mẹ khổ lắm con ơi… mẹ chết thật oan ức… con ơi…
Vinh bật người ngồi dậy khi nghe có tiếng rên rỉ nho nhỏ ngoài cửa.
Vừa run rẩy mở cửa, Vinh vừa hỏi:
- Mẹ! Có phải mẹ về tìm con không hở mẹ?
Không một tiếng trả lời.
Khi cánh cửa đã mở toang ra, chỉ có một làn hơi lạnh buốt xộc vào khiến Vinh phải rùng mình, trước cửa hoàn toàn vắng lặng, không một bóng người!
Vinh thẩn thờ đứng đo một lúc rồi khép cửa quay vào nằm xuống cố nhắm mắt lại để ngủ. Giữa lúc mơ màng, Vinh lại nghe tiếng rên rỉ giống y như lúc nãy:
- Con ơi con… mẹ khổ lắm con ơi… mẹ chết thật oan ức… con ơi…
Nhưng lần này thì Vinh không ngồi dậy nổi, dường như có một thêù lực nào đó đè Vinh xuống không cho anh ngóc đầu lên, cũng không cho anh mở được mắt.
Bất lực, Vinh nằm im và thật lạ lùng, mặc dù mắt vẫn nhắm nghiền nhưng Vinh lại thấy rõ ràng một bóng trắng vừa lách mình vào cửa và tiến đến ngồi xuống cạnh bên anh.
Một bàn tay lạnh giá vuốt ve khắp gương mặt rồi lần xuống nắn nắn dọc theo cánh tay Vinh. Vinh biết chắc người đó là mẹ mình rồi, Vinh muốn kêu lên, muốn ôm choàng lấy mẹ nhưng lúc này đây Vinh không sao cựa quậy được.
Người đàn bà vuốt ve, sờ nắn Vinh một lúc rồi ngước mặt lên, đưa tay vén mớ tóc rối bù nãy giờ luôn che kín mặt qua một bên. Vinh bàng hoàng nhưng không thể thốt lên lời kinh hãi.
Gương mặt dịu dàng xinh đẹp của mẹ trước kia đã biến mất, giờ đây, trước mắt Vinh là một khuôn mặt cháy đen, trương phồng và nứt nẻ. Từ trong những vết nứt ấy một dòng nước ri rỉ chảy ra. Hai tròng mắt của người đàn bà lồi hẳn ra bên ngoài, treo tòng teng bằng một sợi dây thần kinh còn sót lại.
- Con ơi con… mẹ khổ lắm con ơi… mẹ chết thật oan ức… con ơi…
Vinh không thấy đôi môi người đàn bà mấp máy, nhưng lời rên rỉ kia vẫn vang lên thê thiết.
Mắt Vinh nặng trĩu, nặng trĩu… và rồi Vinh không biết gì nữa cảơSasng hôm sau, lúc vinh thức dậy thì đã thấy Lộc chạy đi mua về mấy ổ bánh mì với một hộp sữa bò. Đó là món ăn sáng khoái khẩu nhất của cả hai đứa.
Thấy Vinh thức, Lộc giục:
- Mau dậy rửa mặt rồi vô ăn nè! Chiều qua mầy có ăn gì đâu, không khéo ngã bệnh thì khổ! Ráng mà ăn, ăn vô mới có sức mà suy nghĩ chứ mậy!
Hôm nay Lộc nói chuyện với giọng điệu như một ông già, nhưng Vinh cũng không còn hơi sức đâu mà trêu chọc bạn.
Vinh ngồi lên, lảo đảo đi xuống bếp rửa mặt đánh răng.
Mỗi đứa ráng trệu trạo nhai một lúc mới hết được một ổ bánh mì. Lộc giục:
- Kìa, mầy ăn thêm đi!
Vinh lắc đầu, ngã người nằm lăn ra đất:
- Mầy ăn đi, tao không nuốt nổi nữa rồi!
Lộc cũng không ăn nổi. Dọn dẹp các thứ xong xuối, Lộc đến bên Vinh ngồi bó gối, nhìn chằm chằm vào bạn:
- Bây giờ mầy tính sao, Vinh?
Vinh nhắm mắt, thở khì ra một cái:
- Tao cũng đang rối bời, không biết phải tính sao! Chắc chút nữa tao phải lên đồn cảnh sát để cho họ biết tao là con của mẹ tao…
- Mầy có giấy tờ sao?
Lộc nhắc.
Vinh giật mình:
- Ừ, tao quên mất! Giấy tờ làm gì có! Tao bỏ nhà ra đi từ lúc tám tuổi, đi với hai bàn tay không, có đem theo gì đâu? Mà nay đã hơn mười năm rồi, nếu hồi đó có đem theo giờ cũng mất cha nó hết rồi chứ còn gì được mà còn…
- Nếu mầy không chứng minh được mầy là con của mẹ mầy, mà cảnh sát cũng không chứng minh được ông cha dượng của mầy có tội, thì toàn bộ gia sản mà ba ruột mầy để lại sẽ nghiễm nhiên lọt vô tay ông ta hết sao?
Lộc lo lắng.
Vinh ngồi bật dậy, nghiến răng trèo trẹo:
- Tao căm thù ổng! Tao cũng căm thù luôn ba ruột của tao. Tao không cần ổng chia chác gì cho tao hết, nếu ổng đừng bày ra cái trò hối hận ăn năn đó thì có lẽ mẹ tao không bị chết thảm như vậy…
Lộc thăm dò:
- Vậy là mầy cũng tin mẹ mầy chết do có người giết hại chứ không phải chỉ là tai nạn thông thường?
Vinh không trả lời mà quay sang nắm chặt hai vai Lộc, hỏi dồn:
- Lộc, mầy tin có ma không? Mầy tin có chuyện người chết trở về kêu oan không?
Lộc rùng mình, gật đầu:
- Tao tin… và… chẳng phải đúng là tối qua chính tao với mầy đã nhìn thấy ma rồi sao?
Vinh buông vai Lộc ra, thẩn thờ, nói lẩm nhẩm:
- Vậy là đúng rồi! Vậy là không phải tao nằm mơ…
- Mầy nói vậy là sao?
Lộc tò mò.
Vinh kể:
- Tối qua tao thấy mẹ tao về, nói rằng bà chết oan ức…
- Thật sao? Mẹ mầy về tận đây à?
Lộc sợ hãi.
Vinh gật:
- Ừ, lúc tao chưa ngủ thì nghe tiếng mẹ tao ngoài cửa, tao mừng quá chạy ra lại chẳng có ai… một lát sau tao ngủ, mà không, tao chỉ nằm đó nhắm mắt chứ chưa ngủ, vẫn còn tỉnh táo lắm, tao thấy mẹ tao về vuốt mặt tao, rờ rẫm tay chân tao, rồi mẹ lại khóc nói rằng mình chết oan…
- Sao mầy không hỏi ai đã giết mẹ mầy, giết bằng cách nào?
Lộc nóng nảy xen vào.
Vinh lắc đầu:
- Lúc đó tao không thể mở mắt được, không thể nhúc nhích được, cũng không nói được lên lời thì làm sao hỏi mẹ tao được chứ? Nhưng tao tin, mẹ tao đã hiện về nói với tao như vậy thế nào mẹ cũng nói rõ với tao thôi. Hôm nay tao sẽ lên mộ mẹ để cầu nguyện tiếp…
- Tao đi với mầy!
Lộc sốt sắng.
Vinh từ chối:
- Không, mầy phải đi làm chứ! Cả hai thằng nghỉ hết chắc chết đói quá! Vả lại tao muốn nói chuyện riêng với mẹ tao, tao sợ có mầy mẹ tao không hiện lên được…
- Ừ, mầy tính cũng phải! Vậy tao đi làm, nhưng mầy nhớ cẩn thận nhe, bất cứ trường hợp nào cũng không được nóng vội đâu đó!
Lộc dặn dò.
- Ừ, tao biết rồi mà… Mầy thịêt là…
 
***
 
Suốt mấy nghày liên tiếp, ngày nào Vinh cũng lên nghĩa trang thăm mộ mẹ và ngồi lại đó rất lâu. Hai ngày đầy thì Vinh nghỉ làm lên ngồi suốt ngày trên đó đến tối mịt mới về. Nhưng mấy ngày sau Vinh đi làm trở lại, và cứ chiều về là Vinh lại lên nghĩa địa. Suốt mấy ngày ròng rã như thế, Vinh đã khẩn cầu biết bao nhiêu nhưng hoàn toàn không có chuyện gì xảy ra nữa, cả ban đêm khi ngủ Vinh cũng không chiêm bao thấy gì nữa hết.
Cùng với việc khẩn cầu mẹ về báo mộng cho mình biết về nguyên nhân cái chết, Vinh và Lộc còn bỏ thời gian để đi tìm hiểu về tăm tích của ông Đời, chồng sau của mẹ Vinh. Cho đến lúc này, cảnh sát vẫn không tìm được chút manh mối nào có thể lấy làm chứng cứ phạm tội của ông Đời, nên ông ta vẫn cứ ung dung ngoài vòng pháp luật. Ngôi nhà cũ bị cháy rụi, ông bảo không có tiền để cất lại nên cứ bỏ đó, còn bản thân thì lang bạt đi đâu không ai rõ, thỉnh thoảng vài ngày đáo về một lần rồi lại đi tiếp.
Sau nhiều ngày vất vả thăm dò, Vinh và Lộc biết ông Đời đang trú ngụ trong một cái chòi hoang ở một xã ngoại thành. Biết là để biết vậy thôi, chứ cả Vinh và Lộc chưa tính được sẽ đối phó với ông ấy bằng cách nào nữa.
Một đêm Lộc vắng nhà vì có chuyến hàng cần phải bốc xếp gấp trong đêm. Còn lại một mình, Vinh buồn bã tính ngủ sớm, những nằm mãi vẫn không sao chợp mắt được. Bỗng đâu có một luồng hơi lạnh ngắt phả vào sau gáy, mấy tờ giấy báo có hình diễn viên xinh đẹp dán trên tường bay lên phần phật như có gió mạnh lùa vào, nhưng thực tế tất cả các cánh cửa đều đã được Vinh đóng kín, và ngoài trời cũng đang lặng yên, không có cả một cơn gió nhẹ.
Ngạc nhiên, Vinh ngồi bật dậy đưa mắt ngó quanh quất khắp nơi, một bóng người áo trắng thấp thoáng phía sau lưng chiếc tủ vải.
- Mẹ! Phải mẹ không?
Vinh la lớn. Anh muốn nhổm ngay dậy để chạy tới ôm chầm lấy mẹ, không cho bà biến đi mất. Nhưng cũng như lần trước, lần này tay chân Vinh cũng không cử động được, chỉ khá hơn một chút là miệng còn có thể nói ra tiếng.
- Mẹ ơi… mẹ đừng bỏ đi vội vã nữa! Mẹ kể cho biết rõ ngọn nguồn đi, con thề sẽ trả thù cho mẹ!
- Ha ha ha…
Một tràng cười sắc lạnh buông ra và mau chóng tràng cười đó chuyển thành những âm thanh ai oán.
- Con trả thù cho mẹ ư? Không được… không được…
Bóng trắng vẫn không chịu đứng im một chỗ mà cứ lướt qua lướt lại trước mặt Vinh.
- Sao lại không hả mẹ? Con sẽ giết ông ta, nếu thật sự ông ta giết mẹ!
Vinh hét lên.
Bóng trắng bay đến bên Vinh, đưa cánh tay áo rộng thùng thình ra chạm vào vai Vinh, và bàn đó từ từ lướt xuống cánh tay Vinh một cách trìu mến.
Vinh nhìn thấy rõ ràng, từ bên trong ống tay áo lòi ra một cánh tay cháy đen, có chỗ không còn chút thịt da nào mà chỉ còn là một ống xương nham nhở chỗ đen chỗ trắng. Các ngón tay cũng vậy, có chỗ thịt bị chảy ra nhão nhoét.
Vinh rùng mình ớn lạnh, nhưng ngay lập tức, anh gạt phăng cái ý nghĩ sợ hãi trong mình bằng lời động viên:
- Người này là mẹ mình, người mẹ mà mình thiết tha gặp lại, dù bất kỳ dưới hình dạng nào, mẹ vẫn là mẹ của mình…
Nỗi sợ hãi còn có thể được đẩy lùi bằng tình mẫu tử thiêng liêng, nhưng niềm đau xót vô bờ thì càng thêm trỗi dậy. Vinh biết, mẹ đã phải trãi qua đau đớn đến mức nào khi phải chết cháy trong lửa đỏ…
Như thấu hiểu được lòng Vinh, bóng trắng dịu dàng nói:
- Con đừng quá đau lòng, mẹ không đến nỗi như con tưởng đâu… Bởi vì… bởi vì mẹ đã chết trước khi thân xác mẹ bị ngọn lửa hủy hoại…
- Mẹ nói vậy là sao? Là thật sự mẹ đã bị giết hại, vụ cháy nhà chỉ là một kịch bản của hắn ta?
Vinh nóng nảy.
Bóng trắng gật đầu, hai tròng mắt lại đung đưa hai bên cánh mũi.
- Con thề sẽ trả thù cho mẹ! Con sẽ giết ông ta!
Một lần nữa Vinh lại hét to lên.
Bàn tay lạnh giá của người mẹ vỗ về trên lưng Vinh:
- Không được! Con không được hồ đồ! Tất cả những chuyện ân oán này con hãy để mẹ xử lý, con không được nhúng tay vào. Bởi vì mẹ không muốn quãng đời còn lại của con phải chịu cảnh tù dày tăm tối… Mẹ đã có lỗi nhiều với con, mẹ không muốn con vì mẹ mà hủy bỏ cả tương lai của mình… con hãy để việc đó cho mẹ, tự mẹ sẽ trả thù…
Vinh đau đớn kêu lên:
- Mẹ ơi… Con phải làm gì đây?
- Việc cần làm của con hiện nay là đi về ngôi chùa nhỏ ở gần ngôi nhà trước kia gia đình mình đã sống, tìm gặp vị sư trụ trì ở đó và giới thiệu về bản thân mình, sư sẽ giúp con. Toàn bộ giấy tờ liên quan đến con, mẹ đã gởi hết cho sư cất giữ… con sẽ tìm lại được tư cách pháp nhân của mình, con không phải là một đứa trẻ vô thừa nhận… Nhưng con ạ, khi đã có đủ giấy tờ trong tay, con đừng vội đến trình với nhà chức trách, mà hãy để yên đó, chờ khi nào người đàn ông đó chết, khi ấy con hãy trình xuất giấy tờ ra để được hưởng những gì thuộc về con…
Giọng người đàn bà dịu dàng.
Vinh bật khóc:
- Không, mẹ ơi! Con không cần… con không cần bất cứ điều gì cả! Con chỉ cần có mẹ mà thôi…
Bàn tay trên vai Vinh rụt lại, bóng trắng thoắt cái đã rời ra xa, chỉ còn là một vệt sáng lung linh, mờ ảo trước mắt Vinh.
- Muộn rồi con ơi… Không thể được… điều đó là không thể…
Rồi thì cái vệt sáng đó cũng tan biến hẳn, chỉ còn văng vẳng lại bên tai Vinh lời dặn dò:
- Hãy nhớ kỹ những điều mẹ dặn, con không được hồ đồ! Rồi con xem, mẹ sẽ trả thù, chính mẹ sẽ làm được điều đó…
Những tờ giấy dán trên tường thôi không còn bay phần phật nữa, tay chân Vinh cũng đã cử động lại được rồi. Vinh biết mẹ đã đi!
 
***
Gã đàn ông ngã nghiêng tiến dần vô trong vườn chuối. Vừa đi ông vừa lầm bầm chửi rủa:
- Con mẹ nó! Mới mua thiếu có mấy xị rượu đã làm mặt khó ưa… Đừng có tưởng ông đây nghèo nhá! Hơ hơ hơ… rồi thì cả bọn chúng mày sẽ có ngày lé mắt với ông… Mấy xị rượu thì có nhằm nhò con mẹ gì đâu mà làm phách! Hơ hơ hơ…
Chân nam đá chân chiêu, xiêu vẹo mãi rồi gã cũng lần mò về được với cái ổ của mình.
ĐoÙ là một căn chòi nhỏ, có lẽ được dựng lên để người ta ngủ canh ao cá và vườn chuối này trong những thời điểm sắp thu hoạch. Nhưng không biết vì lý do gì, ao cá lâu ngày không ai nạo vét, nước đã vàng quạch đi, coi bộ không có cá tôm gì sống được bên dưới, còn vườn chuối thì cũng xác xơ, chỉ có loe hoe vài buồng còi cọc.
Ngay cả đến bản thân gã, gã cũng không rõ chủ nhân căn chòi này là ai nữa. Cứ thấy bỏ trống thì nhào vô ở tạm thế thôi, mai mốt có ai đuổi thì đi ra, sợ gì! Chừng đó tớ sẽ xây nhà lầu nhá, đừng có mà tưởng bở… Gã vẫn thường lảm nhảm câu đó trong mịêng…
Chỗ ngủ của gã không có giường chõng gì cả, chỉ là một đống lá chuối khô được gã vơ từ ngoài vườn vào, vừa làm giường, vừa chiếu lại vừa làm luôn mền gối cho gã những đêm trời trở gió.
Có đôi lúc gã hối hận. Từ ngày vợ gã chết đi, cuộc sống của gã trở nên bấp bênh, vất vưởng. Hồi bà ấy còn sống thì gã giống như một ông vua, cả ngày không phải làm gì ngoài rong chơi và nhậu nhẹt, lúc ngứa tay còn có đứa để mà nện, ngứa miệng cũng có đứa để mắng chửi thỏa thuê. Chẳng bù cho bây giờ, tiền không có để mua rượu, ra đường người ta coi như con chó ghẻ, tức, buồn chỉ biết chửi đổng và đấm thùm thụp vào thân mấy cây chuối ngoài hè cho hả giận…
Cái giống đàn bà coi vậy mà… nhẹ dạ phải biết. Gã gặp bà ấy trong một sự tình cờ. Hôm đó thằng con trai nhỏ của bà ấy bị sốt xuất huyết nặng cần phải tiếp máu nhưng bà ấy lại không có tiền. Đi vơ vẩn ngoài đường, vừa đi vừa khóc, gã tò mò chận lại hỏi nguồn cơn và khi được biết việc đó thì máu anh hùng trong gã nổi dậy. Gã hăng hái lôi tay người đàn bà trở vào bệnh viện, lớn tiếng:
- Thử máu đi, nếu hợp thì tui cho thằng nhỏ, lấy bao nhiêu cũng được!
Người đàn bà tròn mắt đứng nhìn gã tiến hành các thủ tục thử máu. Kết quả thật như ý, nhóm máu của gã lại hoàn toàn phù hợp với nhóm máu của thằng bé, thế là gã cho, không tiếc.
Vì lượng máu lấy ra hơi nhiều, nên mặc dù hắn to con mạnh khỏe nhưng cũng phải bị choáng váng, chưa thể ngồi dậy ngay được.
Người đàn bà mừng quýnh quáng vì đứa con được cứu sống, vừa lo săn sóc con, vừa chăm nom lo lắng cho gã.
Và đến hôm đứa nhỏ xuất viện thì bà ta bế nó về ở hẳn với gã để trả ơn.
Gã thừa biết, trong lòng người đàn bà đó không hề có tình yêu dành cho gã, mà chỉ là làm tròn bổn phận, nghĩa vụ để đáp lại cái ơn mà gã đã ban ra. Chính vì đìeu đó nên gã hận, gã ghen hờn, ghen cả với đứa bé, người luôn được người đàn bà thương yêu hết mực.
Lòng ghen tuông ích kỷ đã giết chết tình yêu mà trước đó gã dành cho người đàn bà. Gã nghĩ, đã không yêu gã thì gã sẽ hành hạ lại cho biết tay.
Thằng bé tám tuổi đã không chịu được những nghiệt ngã mà gã giáng xuống nó, một buổi tối nó lén bỏ nhà ra đi và không một lần quay trở lại. Vợ gã đã đi tìm khắp nơi, suốt mấy năm trời ròng rã vẫn không có tin tức gì.
Giờ thì mọi nỗi oán hận, đắng cay gã chỉ biết giáng xuống đầu người phụ nữ cam chịu đó.
Thật ra thì cũng có lúc gã hối hận, gã muốn ôm choàng lấy vợ để nói lời xin lỗi, để bảo rằng chúng ta nên làm lại từ đầu. Nhưng khi nhìn vào ánh mắt vô hồn, xa vắng của vợ, gã lại nổi điên lên, mọi ý nghĩ hòa bình lập tức tan biến hết.
Gã vét tiền của vợ để ăn nhậu, và hy vọng một cuộc đổi đời bằng những canh bạc thâu đêm, bằng những tờ vé số… Nhưng đã bỏ ra bao nhiêu tiền mà mơ ước của gã vẫn còn ở tận xa xăm. Vậy mà vợ gã lại được đổi đời mới tức chớ!
Đùng một cái, vợ gã được một phần gia sản kếch sù, vậy mà không chia sớt chút nào cho gã. Bà ấy viện lý do, đó là phần của thằng con trai, bà ấy chỉ là người quản lý giúp, không có quyền xài động vào số tài sản đó. Có ức không chứ, có điên lên được không chứ!
Gã đã phải xuống nước năn nỉ ỉ ôi, đã dùng quyền lực làm chồng để quát nạt, đã nhắc lại cái ơn sâu của ngày trước… nhưng dù làm cách nào cũng không lay chuyển được bà ấy.
- Cái ơn nghĩa của ông thì tui không quên, vì lẽ đó tui mới cam tâm tình nguyện làm trâu làm ngựa cho ông suốt bao nhiêu năm qua…
Bà ấy nói thế và nhất định không đụng chạm gì tới số của cải kia.
Gã thì khác, gã không chịu nổi khi lúc nào cái ý nghĩ vợ mình đang nắm trong tay một tài sản lớn, vì nghĩ vậy nên gã càng hăng hái nhào vô sòng bạc. Việc vợ hắn nhận được của từ ông chồng trước cũng đã lan đi khắp nơi nên bọn cho vay rất sẵn lòng mở hầu bao ra với gã.
Đến lúc nợ nần chồng chất, mà vợ gã vẫn làm ngơ không chịu xì ra thì gã điên lên:
- Mầy có cho tao mượn không thì bảo? Tao chỉ mượn tạm thôi, tao thèm gì thứ đó, nhưng mầy cũng biết tao đang lâm vào thế kẹt, nếu không có tiền trả thì tụi xã hội đen sẽ thịt tao mất! Mầy phải cứu tao, mầy phải cho tao mượn…
- Tui đã cứu ông rất nhiều lần rồi, nhưng lần nầy số nợ đó quá sức tui, tui không còn cách nào khác, ông tự đi mà lo lấy!
Bà ấy lạnh nhạt thế thì bảo sao gã không sôi máu.
Gã tiến tới gầm ghè:
- Mầy nói sao? Tự tao lo à? Sao ngày trước mầy không tự lo để cứu lấy con mầy?
Người đàn bà khóc nấc lên:
- Thì tui đã đền cho ông bằng cả đời sống của tui rồi, ông còn muốn gì nữa?
- Giỏi! Mầy giỏi lắm! Thì đây, tao cho mầy biết tao còn muốn gì…
Vừa nói gã vừa sấn vào giơ hai tay bóp lấy cổ họng vợ. Vợ hắn quẫy đạp, cào cấu tứ tung, nhưng sức vóc gầy ốm của người đàn bà đó làm sao chống chọi lại tấm thân lực lưỡng như đô vật của gã.
Thấy vợ vùng vẫy chừng nào hắn càng khoái trá chừng ấy. Hai bàn tay hắn giống như chiếc gọng kiềm mỗi lúc một siết chặt hơn:
- Tao muốn nè! Tao muốn nè!...
Những cái quẫy đạp của vợ hắn yếu dần, rồi cả người vợ hắn lả ra hắn vẫn chưa hả dạ. Tất cả những hờn ghen, uất ức, điên cuồng trong lòng gã chừng như dồn hết ra đôi bàn tay hộ pháp, gã siết cổ vợ bằng toàn bộ sức lực của mình. Mồ hôi hắn túa ra ướt đẫm cả tấm lưng trần trùng trục, hơi thở hắn hồng hộc…
Khi hắn buông tay ra thì vợ gã chỉ còn là một cái xác không hồn…
Gã hoảng sợ, nhưng nhanh chóng trong đầu gã lại lóe lên một tia hy vọng rằng khi vợ gã chết đi, thì toàn bộ số của cải kia sẽ thuộc về hắn. Bởi vì thằng bé đo đã từ lâu không tin tức gì nữa, cũng không biết nó còn sống hay đã chết, mà giả dụ nó còn sống đi nữa thì nó cũng không chứng minh được gì đâu…
- Ha ha ha… Bà đừng trách tui nghe, tất cả là do bà cố chấp…
Gã vừa cười điên loạn vừa lôi cái xác mềm oặt của vợ giấu vào dưới cái đống hỗn tạp ở gầm giường.
Rồi gã ung dung bày ra một xị rượu với mấy con khô mà vợ gã nướng sẵn dành cho bữa cơm trưa. Gã gọi thêm vài người bạn vô ngồi lai rai, xong lại kéo nhau đi tới tối mịt mới về, khi gã về thì nhà gã đã ra tro!
Không ai biết, không ai ngờ rằng gã đã lẻn về nhà, lôi xác vợ ra để cạnh bếp rồi tự tay đốt nhà, tạo nên một tai nạn.
Gã tự khen mình đã qua mắt được cảnh sát, vì rất nhiều người làm chứng là gã luôn luôn có mặt bên cạnh họ suốt ngày hôm ấy.
Trong những lúc rảnh rỗi lê la quán xá, gã đã xem qua nhiều bộ phim Hồng Kông về điều tra vụ án, nên việc ngụy tạo hiện trường này đối với gã cũng đâu có khó khăn gì.
Chỉ duy nhất có một điều gã không nghĩ tới, hoặc do trình độ của gã có nghĩ cũng chưa tới được. Đó là, gã cứ tưởng khi vợ gã chết đi thì nghiễm nhiên gã sẽ là người thừa hưởng toàn bộ tài sản chung và riêng của vợ.
Thế nhưng khi bà ấy chết đi, cảnh sát không ngừng điều tra gã, làm gã mấy phen lo sợ, và tài sản của vợ gã cũng đã bị phong tỏa chờ kết luận điều tra, chờ nhiều thứ khác nữa…
Vì lẽ đó, từ hôm vợ chết đến giờ gã phải sống lang thang đói khổ vô cùng!
Vùi mình dưới đống lá chuối, gã vẫn không ngừng lảm nhảm:
- Các người đừng tưởng bở… Thằng này rồi sẽ phất lên… sẽ phất lên… đừng tưởng bở…
Bỗng đâu một cơn gió lạnh buốt thổi thốc vào khiến gã run lập cập. Gã gắng gượng ngồi dậy vì tưởng mình quên đóng cửa ra vào. Nhưng lạ kìa, cửa liếp đã đóng kín, ngoài vườn chuối cũng đâu có tiếng xào xạc của gió, sao lại có gió mạnh thổi xộc vào đây?
- Mẹ kiếp!
Gã buông ra một tiếng chửi đổng rồi lại nằm trở xuống, đầu óc choáng váng, còn cái bụng thì đang réo sùng sục vì từ sáng tới giờ gã chưa bỏ vào đó hột cơm nào, chỉ có rượu và rượu mà thôi!
Lại một cơn gió nữa, nhưng lần này hình như gió từ… dưới đất thổi lên! Đám lá chuối mà gã đang nằm như muốn tung hết lên nóc chòi, khiến gã đang lất ngất say cũng phải choàng tỉnh.
- Chuyện gì thế này?
Gã lẩm bẩm và thấy lòng hồi hộp lạ.
- Trả mạng lại cho tôi!... Trả mạng lại cho tôi…
Tiếng rên rỉ như từ địa ngục vọng lên làm gã dựng đứng cả đầu tóc. Giờ đây gã hoàn toàn tỉnh táo, hơi rượu đã theo cái sợ hãi kinh hoàng mà thoát hết cả ngoài rồi.
Gã run run lên tiếng:
- Ai? Ai đó? Đêm hôm khuya khoắt đừng có giả ma giả quỷ mà nhát người ta nghe, tao mà bắt được là tao bẻ lọi cổ!
- Ha ha ha…
Một tràng cười lạnh như nước đá vang lên.
Gã thụt lùi vào góc nhà, nhưng khi tấm lưng trần của gã vừa chạm vào vách, gã muốn nhảy dựng lên bởi có một cái gì đó lạnh lẽo, nhớp nhúa dính vào lưng gã.
Theo phản xạ tự nhiên, gã quờ tay ra sau để phủi cái vật dính ở lưng mình, không ngờ vật đó lại dính chặt vào tay gã không rời. Gã thu tay về và đưa ra trước mắt để xem vật đó là gì. Qua ánh sáng mờ mờ, gã thấy đó là hai tròng mắt còn lòng thòng những sợi gân đang rỏ máu. Hai tròng mắt tròn to như đang nhìn gã một cách hằn học.
Kinh hãi, gã vung tay liên tiếp nhưng nó vẫn cứ bám chặt, không rơi xuống, gã cuống cuồng chà tay xuống đất, chà mạnh đến nỗi gã có cảm giác bàn tay mình đã bật máu.
- Ha ha ha…! Ha ha ha…
Tiếng cười rùng rợn đó vẫn cứ xoáy thẳng vào gã, gã dùng hết sức lực để chà tay xuống đất. Một lúc sau gã thu tay về, bà tay gã nhòe nhoẹt những máu thịt, và cuối cùng hao tròng mắt kinh tởm kia cũng đã chịu rơi ra.
Gã ôm khư khư bàn tay bị thương trước ngực, chống bàn tay lành lặn còn lại xuống đất để cố lết người ra cửa. Bỗng nhiên tay gã chạm phải một vật cứng cứng, tròn tròn giống như một khúc cây. Mừng rỡ, gã vớ lấy khúc cây để tự bảo vệ, vì dẫu sao trong tay có chút vũ khí vẫn thấy tự tin hơn.
Nhưng… cái gì thế này? Trong tay gã không phải là một khúc cây như gã tưởng, mà là một cánh tay người! Một cánh tay bị cháy đen, khô khốc, đôi chỗ thịt da đã chảy hết cả ra, còn lại một màu xương xám ngắt.
- Á… Á…… Á...
Gã thét lên và ngã vật ra bất tỉnh.
 
***
 
Những tia nắng gay gắt xuyên qua cửa liếp chiếu thẳng vào mắt gã đã giúp gã tỉnh lại sau cơn mê loạn. Gã nhướng mắt ra và cố nhớ lại toàn bộ những việc hãi hùng đã xảy ra với gã hồi đêm.
Bên ngoài mặt trời đã lên cao, xa xa có tiếng nói cười ríu rít của một đám trẻ con. Trong căn chòi nhỏ mọi thứ vẫn y nguyên, có khác chăng là đống lá chuối nơi gã nằm có phần hơi lộn xộn hơn thường ngày.
Bụng quặn đau, bao tử co thắt lại đẩy cái thứ nước chua loét trào lên miệng làm gã buồn nôn. Gã lết lại góc nhà, vội vã bẻ mấy trái chuối từ trong quày chuối gã cắt vô hôm trước, nay chỉ mới vừa hườm hườm chứ chưa kịp chín.
Mặc kệ! Đang đói thế này hơi đâu mà kén chọn, dù là chuối xanh chát ngắt đi nữa gã cũng làm láng luôn chứ đừng nói chi đến chuối đã ửng vàng.
Nhai nuối ngấu nghiến chưa hết trái chuối, bất giác hình ảnh hai tròng mắt lớp nhớp máu thịt hiện ra trong mắt gã, bụng gã trợn trạo khó chịu, gã lết nhanh ra cửa chòi, cúi người nôn thốc nôn tháo…
Khi không còn gì để nôn nữa, gã nằm vật ra ngay lối cửa ra vào, không còn đủ sức để lết trở lại cái ổ lá chuối của mình nữa. Gã nằm nhắm mắt, thở hồng hồng, mệt đến đừ đẫn cả người.
- Mẹ kiếp!
Gã cố buông ra tiếng chửi, hy vọng sẽ vực dậy được cái sức lực đang rã rời trong thân thể gã. Nhưng tay chân gã vẫn bải hoải, và chính lúc này gã nhớ lại thật rõ ràng, thật chi tiết những điều của tối hôm qua.
Gã cố nhấc bàn tay mình lên, rõ ràng bàn tay bị xà xát đến rách da rách thịt. Vậy là điều đó có thật, không phải mình mơ? Gã nghĩ thầm và cố thu hết sức lực, ngồi lên bò về chỗ đống lá chuối, xốc tung nó lên để tìm kiếm cái khúc tay người, tìm kiếm hai con mắt. Gã tìm rất kỹ lưỡng nhưng hai thứ đó hoàn toàn biến mất không để lại dấu vết gì.
- Mình mơ rồi! Mình gặp ác mộng rồi!
Gã thở phào nhẹ nhõm. Có lẽ trong mơ gã đã làm cho tay mình tóe máu, điều đó cũng thường thôi mà, hồi thuở bé, gã cũng đã từng mơ thấy mình đang đêm ngủ mắc tiểu, ngồi dậy mở cửa ra ngoài hè đứng tiểu đàng hoàng, vậy mà đang tiểu ngon trớn gã lại bị ông anh đấm cho một phát vào mông:
- Sao mầy lại tiểu ở đây?
Gã giật mình, thấy mình đang đứng trên bộ ván giữa nhà tiểu xuống đất!
Ba má gã bảo gã là đứa mê tâm. Có lẽ là vậy thật. Lần này có lẽ cũng thế mất rồi.
Gã cảm thấy phấn chấn hẳn lên, một lần nữa lại bẻ thêm mấy trái chuối mà nhồi nhét vào cho cái bao tử đang rỗng không của gã. Aên xong, gã khoan khoái nằm ngửa người ra, lim dim mắt một chút rồi vùng dậy đi ra ngoài.
Hôm nay gã sẽ tạt về thăm lại ngôi nhà cháy của gã và sẽ đánh tiếng kêu bán, ai trả được giá gã sẽ bán quách đi cho rồi, lấy tiền trang trải cho cuộc sống trước mắt, còn về sau này thì gã không cần phải lo, vì số tài sản kia sớm hay muộn gì cũng sẽ về tay gã thôi mà.
Vừa thấy gã ló mặt vô hẻm, mọi người thậm thụt:
- Hổm nay ông có thấy bà Mai về báo mộng không? Bả linh quá trời quá đất, tối nào cũng lảng vảng trong nền nhà, đến mấy thằng trời đánh bán trời không mời thiên lôi cũng phải sợ, không dám đi đêm qua ngõ nhà ông nữa đó!
- Mà nè, lúc bả chết tuy cháy đen nhưng nhìn đâu có khủng khiếp như cái hồn ma. Nghe mấy người trông thấy về kể lại hai mắt bả lòng thòng ra ngoài, cái lưỡi lè ra đen như một cục than…
Mỗi người góp vô một câu làm gã thấy chột dạ, bởi vì những hình ảnh mà họ diễn tả sao lại giống với những gì gã thấy trong giấc mơ đêm qua đến vậy?
Nhưng gã vẫn cố tỏ ra vẻ ngang ngược thường ngày:
- Tui ngày nào cũng vái bả về mà có thấy gì đâu, mấy người đó ăn ở không đặt chuyện tào lao để hù con nít thôi mà…
Nghe gã nói mạnh bạo như vậy, mọi người lấm lét nhìn nhau rồi từ từ tản ra hết, không ai còn hăng hái gì nữa. Gã cười hùng hục trong bụng, đi về chỗ nhà mình.
Đứng trước cửa ngó cái đống tro than ấy một hồi, gã ngao ngán tạt vào nhà hàng xóm cạnh bên. Vì đang là buổi trưa nên những người đàn ông trong xóm đa só đều đã đi làm hết, trong nhà chỉ còn lại đàn bà, trẻ con và những người già yếu.
Thấy gã lững thững đi vào, chị đàn bà nhà bên cạnh có vẻ hoảng sợ, chạy tuốt ra sân để chào hỏi gã như muốn ngăn không cho gã tiến thẳng vào nhà mình.
- Anh mới về! Mấy ngày này anh ở đâu?
Người đàn bà xởi lởi.
Gã ngúc ngoắc cái đầu:
- Tui sống tạm trên kia… tính chờ kiếm tiền cất lại ngôi nhà mà khổ quá… Thím coi có ai cần mua chỉ giùm, tui bán luôn miếng đất đó cho rồi, đi thuê nhà khác ở…
Người đàn bà ngạc nhiên:
- Anh tính bán à? Trời, sao lại đi thuê nhà, bấp bênh lắm… Thôi, gắng đi, từ từ kiếm cây lá bậy bạ che đỡ mà sống qua ngày…
Gã xuống giọng buồn buồn:
- Tui cũng tính vậy nhưng thời gian này có làm gì được đâu, mấy cha cảnh sát cứ nay kêu mai gọi, có để yên cho tui làm lụng kiếm tiền đâu? Thôi, tui nghĩ dứt khoát rồi, bán quách đi, thuê chỗ ở khác, một mình thì ở có bao nhiêu, ở đâu chẳng được…
- Dạ… nếu anh đã tính vậy thì để tui hỏi giùm cho, nếu ai cần mua thì tui sẽ chỉ giúp… Nhưng chỉ sợ chị nhà mới chết chưa được mấy ngày, người ta không dám mua đâu anh ơi…
Chị phụ nữ ngoài miệng thì xởi lởi đẩy đưa như thế, nhưng trong lòng lại thầm nghĩ:
- Xí! Ai còn lạ gì ông nữa! Ông mà làm ăn con mẹ gì, chắc lại nợ nần gì rồi, chị Mai đâu còn mà gánh đỡ cho nữa nên phải kêu bán đất thôi…
Gã gật đầu lia lịa:
- Ừ.. ừ… thím chỉ giúp nhé! Giờ tôi phải lên đồn cảnh sát đây!
Vừa nói gã vừa quay gót trở lui ra ngoài, người đàn bà thở ra một hơi nhẹ nhõm, vội vàng vào nhà đóng sập cửa lại.
Gã lại lang thang qua mấy chỗ quen, hy vọng có một đứa nào đó gọi gã vào nhậu chung, cơn ghiền rượu đã bắt đầu hành hạ gã nhưng gã biết hôm nay thì gã không thể mua chịu thêm một giọt rượu nào nữa rồi!
Nhưng số gã không may, hay tại gã đi mà không coi giờ, giờ này mấy tay bợm nhậu cũng phải lăn lưng ra làm việc mới có được đồng tiền để chiều tối lai rai, ít có ai sung sướng như gã, mọi việc đều do một tay vợ chu tất, bản thân mình chỉ việc cắp chai vô nách đi rong từ sáng đến tối.
Đi đã mỏi cẳng mà không có được kết quả như ý, gã buồn bã lê bước trở về căn chòi cô độc của mình, vừa đẩy cánh cửa liếp, gã ngã vật người ra, thân xác dường như đang rệu rã…
Gã đang lơ mơ ngủ thì có cảm giác nhoi nhói dưới lưng, lười biếng nghiêng người sang bên, vòng tay ra sao kiểm tra xem vật gì nằm dưới đống lá mà đâm vào lưng gã. Bàn tay gã đang mò mẫm chợt khựng lại khi chạm phải một vật lạnh ngắt như nước đá.
Quay phăùt lại, gã vội vã bươi đống lá để xem cho rõ, thì… trời ơi… đó là mấy cọng xương ngón tay đang chỉa thẳng lên trời!
Đúng! Đó là xương của năm ngón tay, có ngón còn dính lại chút thịt đen thui, có ngón chỉ còn lại cọng xương trắng hếu, có ngón còn vướng lại cọng gân…
Gã đớ lưỡi, lết giật lùi ra cửa.
Vừa lúc đó một đám con nít đi ruồng trong vườn chuối để tìm bắn chim, trông thấy thái độ kỳ lạ của gã một đứa chạy tới hỏi:
- Chú ơi, chú bị sao vậy?
Nghe tiếng bọn trẻ gã mừng như chết đi sống lại, những vẫn còn bị nỗi sợ hãi chế ngự. Gã bấu lấy thằng nhỏ, đưa tay chỉ vào nhà ú ớ:
- Dưới… dưới đống… lá… lá chuối…
Vừa nghe gã nói tiếng được tiếng mất, đám trẻ nhao nhao:
- Vậy là rắn rồi!
- Bò cạp cũng hổng chừng!
- Mau, mau vô bắt rắn anh em ơi!!!
Đám con nít ồn ào chen nhau chạy ùa vào trong căn chòi nhỏ. Một thằng lớn nhất trong bọn cẩn thận cầm cái cây xốc từng tàu lá chuối lên, mấy đứa còn lại lăm lăm ná, gậy trong tay như sẵn sàng chiến đấu với bất cứ loại kẻ thù nào.
Sự huyên náo của lũ trẻ đã giúp gã hoàn hồn lại. Gã gượng đứng lên và cũng chui vào chòi, đứng sau lưng bọn trẻ, mắt nhìn lom lom vào đống lá chuối mà thằng nhỏ đang cẩn thận lật lên.
Nhưng dưới đống lá chuối tả tơi đó chỉ có mỗi một nhánh cây khô có năm cành nhỏ chìa ra.
Bọn trẻ thất vọng:
- Vậy chắc con rắn bò ra rồi!
- Rắn bự không chú?
- Nó có cắn chú chưa?
Đám trẻ lao nhao hỏi.
Gã mệt mỏi lắc đầu:
- Ừ… rắn… nó chưa cắn chú! Cám ơn mấy đứa…
Bọn trẻ lại rồng rắn kéo nhau đi sâu vào vườn chuối. Còn lại một mình, gã đứng tần ngần trước cửa chòi, nửa muốn bước vô, nửa lại sợ…
- Mẹ kiếp!
Gã lại buông ra một tiếng chửi và hùng hổ xông vào chòi, gom hết mớ lá chuối ấy đem vứt ra bên hè rồi hăng hái đi ra vườn quơ những tàu lá chuối khô cong dưới nắng.
Bây giờ trong chòi, gã đã lót cho mình một cái ổ mới, tinh tươm hơn và không nằm ở vị trí cũ nữa. Gã muốn thay đổi hết để vứt bỏ tất cả những điều xấu xa, đen đủi ấy ra khỏi đời mình.
Mọi việc xong xuôi, gã xoa tay phấn khởi rồi đóng cửa liếp lại xăm xăm đi vào xóm để kiếm cái gì đó bỏ bụng.
Lần này thì gã gặp may, vừa đi một đỗi đã nghe tiếng kêu văng vẳng:
- Ê! Đời… Đời ơi… vô đây mầy!...
Như trời đang nắng hạn bỗng gặp được cơn mưa rào, gã mừng quýnh, hấp tấp rẽ vào ngõ nhà cạnh đó.
Trước sân nhà, năm ba ông sồn sồn cỡ tuổi gã đang ngồi khề khà bên chai rượu. Có lẽ đây là lần đầu tiên gã sà vào mâm rượu mà mắt lại liếc tìm thức ăn, trước đây gã chỉ cần rượu, mồi là gì cũng được, một trái me, một trái cóc, trái ổi hay con khô nướng đều như nhau, không quan trọng, nhưng hôm nay gã đặc biệt mong mỏi có thứ gì đó để dằn cái bao tử rỗng của gã lại trước cái đã.
May quá, bên cạnh mâm rượu là một rổ khoai lang mới luộc còn nghi ngút khói, mấy đứa con chủ nhà đang xúm xít xung quanh. Gã giả vờ ngồi xuống cạnh rổ khoai, cười giả lả, chào hỏi mọi người qua loa rồi không khách khí gì, quay sang cười với lũ trẻ:
- Cho chú xin một củ nghen, khoai ngon quá!
Vừa nói, gã vừa thò tay nhón một của khoai to đùng mà từ nãy giờ mắt gã đã nhắm kỹ, không kịp lột vỏ, gã cứ thế mà đưa lên miệng nhai nhồm nhoàm.
- Ê, đừng có ăn gian nghen, uống một ly cái đã!
Nột người đàn ông lè nhè.
Gã cười:
- Ừ… uống thì uống!
Thế là gã vừa uống, vừa ăn, loáng cái gã đã ăn liên tiếp năm sáu của khoai lang trước những ánh mắt ngơ ngác của lũ trẻ. Cũng may là rổ khoai còn nhiều nên không có đứa nào ré lên khóc ngất.
Giờ thì bụng gã đã tạm no, cơn thèm rượu cũng đã được thỏa mãn, gã lại thấy yêu đời và hưng phấn.
Mãi đến lúc mặt trời lặn, đám muỗi bu đen quanh người thì đám nhậu mới giải tán. Gã ngật ngưỡng đi về chỗ mình, vừa đi vừa hát ư ử:
“Anh không chết đâu em, người anh hùng mũ đỏ tên Đương… Anh không chết đâu em…”
Gã không thuộc được hết bài, cứ tua đi tua lại duy nhất một câu nhưng ra vẻ đắc chí lắm.
Nhưng khi đã chui vào nằm dưới đống lá chuối khô còn ấm sực hơi nắng ban trưa gã bắt đầu thấy ái ngại. Không biết đêm nay những sự việc kỳ cục đáng sợ đó còn dọa gã nữa không. Gã hồi hộp nên cứ thao thức mãi, đến hơn nửa đêm gã lại chìm vào trong một cơn ác mộng.
Gã thấy mình đứng trong ngôi nhà cũ, vợ gã hì hục nấu gì đó trong bếp. Nghe tiếng bước chân, vợ gã không quay lại mà chỉ nói:
- Ông vô bưng nồi này xuống giùm tui, tui vừa luôc cho ông con gà để nhậu nè!
Gã thích chí, xăng xái đi vào bếp, cúi người xuống để nhấc cái nồi đang còn nằm trên bép lửa. Bất thần gã nhìn thấy gương mặt của vợ gã: cháy đen, da thịt chảy rửa, hai tròng mắt phọt ra khỏi hố mắt, treo lủng lẳng như quả lắc của chiếc đồng hồ cổ mà gã thường thấy trong ngôi nhà ở đầu hẻm.
- Á… Á… Á…
Gã rụng rời tay chân, buông rơi nồi nước sôi đang bưng trên tay, nước đổ xối xả từ trên gối xuống hai bàn chân gã, chân gã lập tức sưng vều lên, da căng cứng như bị bơm, dưới lớp da ứ đầy những nước!
- Ha ha ha…
Vợ gã ngửa mặt lên cười lớn. Gã sợ quá té ngồi xuống đất.
Bất ngờ, vợ gã rút mấy thanh củi đang cháy rần rần trong bếp ra ghí sát vào gã, hơi lửa nóng hừng hực làm gã sặc sụa nhưng gã không đủ sức để chạy thoát vì hai cẳng chân gã đang sưng tấy lên như chân voi.
- Ha ha ha…
Cùng với tràng cười ma quỷ của mình, vợ gã ném một thanh củi vào vách nhà, lửa phựt lên bốc cháy ngùn ngụt. Gã sợ quá, cố lết qua ngoài sân để kêu cứu nhưng mông gã đã bị dính chặt xuống nền nhà…
Gã thấy có những bóng người lấp ló trước cửa, mừng rỡ vì nghĩ sẽ có người tới cứu mình, nhưng gã thật thất vọng, những bóng người đó cứ lượn lờ qua lại rồi cười lên khanh khách, mỗi người còn ném thêm vào những thứ dễ bắt lửa khác nữa làm cho đám cháy càng bùng lên dữ dội…
- Ha ha ha… Mạng sống phải trả bằng mạng sống… ha ha ha…
Tiếng cười quái đản của vợ gã không ngừng vang lên. Gã tuyệt vọng khi thấy xung quanh mình là một vòng vây lửa đỏ.
Hơi nóng phả vào người gã bỏng rát, râu tóc gã chừng như đã cháy cả rồi, bốc lên một mùi khét nghẹt rất khó chịu.
- Ha ha ha… Mạng sống phải trả bằng mạng sống… ha ha ha…
Vợ gã đứng lên, dắt tay thằng bé tám tuổi từ từ trổ nóc nhà bay thẳng ra ngoài, bỏ mặc gã đang chới với trong đám cháy…
Gã ho sặc sụa, gã bắt đầu nghẹt thở, khói den vẫn không ngừng xộc vào mũi gã… Gã thu hết chút sức lực cạn kiệt của mình để lết đi nhưng không được, vừa lúc đó một cây tre trên mái nhà rơi xuống trúng ngay cặp chân sưng phồng của gã làm nó vỡ ra, dòng nước từ trong chân gã bắn ra tung tóe. Gã đau buốt cả người.
- Á… Á… Á…
Chính tiếng thét đau đớn kinh hoàng của gã đã đánh thức gã dậy. Mồ hôi nhễ nhại khắp người, trên cổ gã là mấy vòng lá chuối quấn quanh… Trời! Thì ra đó chỉ là một giấc mơ! Khủng khiếp quá! Khủng khiếp quá!...
Gã ngồi bật dậy, vừa thở hổn hển vừa đưa tay gỡ mấy tàu lá chuối quấn trên cổ, cáu gắt:
- Mẹ kiếp! Ngủ nghê làm sao mà đển nó quấn chặt thế này, không nằm mơ thấy ác mộng cũng là lạ!
Tuy đã cố tình đổ lỗi cho cho mấy tàu lá chuối, nhưng gã vẫn chưa hết hoang mang. Từ đó tới sáng, gã thức luôn không dám nhắm mắt ngủ nữa vì sợ cái giấc mơ hãi hùng kia chưa chịu rời bỏ gã.
 
***
 
Vinh và Lộc bỏ hẳn một ngày công lao động để tìm về nơi ở cũ của Vinh, nơi mà ở đó đã có những năm tháng Vinh được sống trong vòng tay thương yêu của ba mẹ, nơi có ngôi nhà nhỏ khang trang đầy ắp tiếng cười…
Vinh ngỡ ngàng khi đứng trước con đường cũ. Tất cả đã đổi thay, đổi thay đến không còn lưu lại một chút gì của quá khứ. Tưởng mình lầm, Vinh dừng chân hỏi một cô bán quán bên đường:
- Chị ơi, làm ơn cho hỏi, chỗ này có phải trước kia tên gọi là Xóm Gà Nòi không chị?
Cô bán quán cười tươi:
- Ừ, đúng rồi đó cậu! Tui cũng nghe người ta kể lại vậy, chứ lâu rồi không ai gọi vậy nữa…
Một nét buồn ngơ ngẩn vương trong mắt Vinh. Anh thẩn thờ cúi đầu chào cô bán quán rồi đi sâu vào con đường nhỏ. Lộc vẫn không rời bạn phút giây nào.
Vinh đưa tay chỉ cho Lộc thấy mấy ngôi nhà lầu cao chót vót, nói khẽ:
- Tao nhớ lúc trước nhà tao nằm đâu chỗ này nè, nhưng chính xác là chỗ nào thì tao cũng không biết nữa! Bây giờ mọi thứ khác hết rồi mầy ạ!
- Ừ, mười mấy năm rồi còn gì!
Lộc nói thêm.
- Ừ, mới đó mà tao đã lang bạt mười mấy năm rồi, nhanh thiệt! Hồi đó, lúc còn sống ở đây, tao có mấy đứa bạn thân lắm, giờ không biết tụi nó ra sao rồi nữa? Mà bất tử bây giờ có đụng mặt nhau thì cũng làm gì nhận ra, lúc còn ở đây tao chỉ mới sáu, bảy tuổi gì thôi…
Vinh buồn bã.
Lộc mỉm cười cay đắng:
- Mầy vậy mà còn có phước hơn tao! Mầy còn có nơi để về, có mẹ để nhìn, dù là bây giờ mẹ mầy chỉ còn lại nấm mồ, có giấy tờ đêr chứng minh là một công dân đàng hoàng… Còn tao… ba má tao ở đâu, còn mất ra sao tao cũng không biết được… Tao cũng không có nổi một tờ giấy để lận lưng… Mai mốt mầy trở nên giàu có, lúc đó đến bạn tao cũng không còn!
Vinh đứng khựng lại, nhìn chằm chằm vào Lộc:
- Mầy nói vậy là sao? Tại sao mầy lại nghĩ vậy? Mầy không hiểu tao à?
Lộc ngó lơ đi nơi khác, giọng nghèn nghẹn:
- Tao hiểu mầy… Nhưng tao cũng sợ… vì người ta thương hay nói câu “giàu đổi bạn, sang đổi vợ”, mầy không nghe sao?
Vinh muốn quát lên một tiếng nhưng bỗng dưng anh thấy thương bạn đến lạ lùng. Nhẹ nhàng đi tới cạnh Lộc, Vinh siết chặt tay bạn:
- Mầy yên tâm đi, tao không là người như vậy đâu!
Lộc ngó Vinh mỉm cười, mắt long lanh nước.
Vinh dắt Lộc đi quanh quẩn mấy lượt quanh khu nhà mình ở khi xưa để cố tìm xem còn có chút dấu tích nào để lại, nhưng cuối cùng đành phải thất vọng, không còn gì cả, tất cả đã đổi thay!
Vinh ngoái nhìn lại một cách bịn rịn rồi dấn bước đi qua khu nhà ấy, tìm đường đến với ngôi chùa gần đấy theo lời mẹ dặn.
Đó là một ngôi chùa nghèo nàn vắng vẻ, có vẻ lạc lõng giữa cảnh phố phường tấp nập hôm nay.
Vừa thấy Vinh và Lộc bước vào, một chú tiểu cỡ mười bốn, mười lăm tuổi nhanh nhẹn chạy ra chắp tay kính cẩn:
- Mô Phật!
Vinh và Lộc cũng bắt chước chắp tay vái lại. Chuyện ra vào và các nghi lễ, phép tắc trong chùa không xa lạ gì với Vinh và Lộc, đã có một thời hai anh em cứ canh chừng những ngày rằm, ba mươi hoặc những ngày cúng thí mà vô chùa phụ việc và ăn cơm chay miễn phí.
- Chú tiểu làm ơn cho gặp Sư thầy!
- Mô Phật! Xin mời ạ!
Chú tiểu chìa tay ra và quay vào, Vinh, Lộc nối gót theo sau.
Ngôi chùa có vẻ hoang sơ, chắc ít có người lui tới. Ở đời thương là vậy, dù là đi cúng bái, cầu xin điều gì người ta cũng thường hay tìm tới những nơi đông đúc, tiếng tăm, còn những chỗ hẻo lánh như vầy ít có ai biết đến.
- Mô Phật! Bần tăng chờ thí chủ mấy ngày nay…
Vinh và Lộc cùng giật bắn người khi nghe tiếng nói, mà lại là câu nói với nội dung như vậy!
Vinh, Lộc ngó quanh, thấy một vị sư nhỏ bé đang ngồi xếp bằng trước bàn thờ Phật nơi chánh điện. Cả hai vội vã tiến tới quỳ xuống:
- Dạ bạch thầy, thầy biết chúng con sẽ tới đây sao?
Vinh không giấu được vẻ ngạc nhiên.
- Bần tăng đã được báo mộng, mấy ngày nay bần tăng không dám rời chùa vì sợ thí tới sẽ không gặp được.
Sư thầy nói giọng điềm đạm.
Vinh xúc động quá không nói gì được chỉ cúi mặt ngó nhìn xuống đất, cắn môi để đè nén cảm xúc trong lòng.
- Trong hai vị thí chủ, vị nào là…
Sư thầy dò hỏi.
Vinh thưa:
- Bạch thầy, con là Vinh, là con ruột của bà Nguyễn Thị Mai, chính hương hồn của mẹ con đã dạy con tìm tới đây gặp thầy. Còn đây là bạn của con, tên nó là Lộc.
Sư thầy nhìn hai đứa bằng ánh mắt hiền từ, rồi ông chậm rãi đứng lên ra hiệu cho Vinh và Lộc đứng lên theo, mời hai anh em ra ngồi vào một chiếc bàn đá ngoài hiên chùa.
Chú tiểu xách bình trà, rót mời mỗi người một ly.
Sư thầy hỏi thăm Vinh và Lộc một số việc, chắc là để thẩm tra nhân thân của Vinh. Cuối cùng, ông đứng lên đi vào chánh điện, mở cánh cửa tủ dưới chân đức Phật Như Lai, lục lạo gì đó một lúc rồi cầm ra một tập giấy mỏng.
Đặt tập giấy trên bàn, sư thầy nhìn Vinh lần nữa:
- Trước khi giao lại toàn bộ số giấy tờ này cho thí chủ, xin thí chủ vui lòng cho bần tăng được xác minh lần cuối cùng…
Vinh ngơ ngác:
- Bạch thầy, thầy muốn xác minh gì ạ?
- Xin thí chủ vui lòng vén áo lên cho bần tăng được nhìn thấy lưng của thí chủ!
Vị sư thầy vẫn điềm đạm nói.
Vinh lấy làm ngạc nhiên lắm, tuy nhiên anh vẫn ngoan ngoãn làm theo. Vinh xoay lưng lại phía vị sư thầy và vén áo lên cao để lộ tấm lưng to lớn có một nốt ruồi thật to nằm ở giữa lưng.
Gương mặt vị sư thầy giãn ra, vẻ hài lòng. Vị sư nói:
- Quả đúng y như trong giấc mộng. Xin hai vị thí chủ cảm thông, vì khi nữ thí chủ gởi gắm số giấy tờ này cho bần tăng là lúc nữ thí chủ còn sống. Cách đây mấy hôm, bần tăng nằm mộng thấy nữ thí chủ về, kể lại cái chết của mình và nói sẽ có con trai tới đây, nhờ bần tăng trao lại giấy tờ này cho nó. Dấu vết nhận dạng là một nốt ruồi to nằm giữa lưng, nốt ruồi có hình hoa mai năm cánh, ít nhầm lẫn với ai được. Chính vì vậy, bần tăng mới phải xác minh xem mọi việc có trùng khớp hay không. Bây giờ thì bần tăng thật sự an tâm trao trả vật này về cho thí chủ!
Vị sư thầy nói xong kính cẩn cầm tập giấy trao cho Vinh, Vinh đứng lên cũng với thái độ vô cùng kính cẩn đưa hai tay ra đón nhận.
Bên trong tập hồ sơ là giấy khai sinh của mẹ con Vinh, lý lịch gia đình và toàn bộ những giấy tờ liên quan đến việc nhận quyền thừa kế. Trong đó còn có một mẩu giấy nhỏ, hướng dẫn Vinh cách xin cấp thẻ căn cước cho mình.
Vinh không cầm được nước mắt, anh không ngờ mẹ anh lại chu đáo đến mức này. Vậy mà lâu nay Vinh luôn oán hận mẹ…
- Hay… mầy gởi lại sư phụ cất giùm một tờhi gian nữa, đến khi nào… đúng như lời dặn của mẹ mầy rồi hãy lấy về, lỡ đâu…
Lộc nhắc.
Vinh gật đầu, ngước nhìn vị sư thầy bằng đôi mắt đỏ hoe:
- Bạch thầy, xin thầy làm phúc cất giữ giúp con một thời gian ngắn nữa, khi nào thụân tiện con sẽ đến xin nhận lấy…
Sư thầy cười hiền từ:
- Mô Phật! Không có chi, nếu thí chủ chưa thể nhận về lúc này thì bần tăng sẽ tiếp tục cất giữ giúp cho thí chủ. Bất cứ lúc nào cần đến xin thí chủ cứ đến đây…
Vinh trao lại tập giấy cho sư thầy. Ba người ngồi đàm đạo với nhau một lúc nữa rồi Vinh và Lộc đứng lên từ giã ra về. Chú tiểu theo tiễn chân hai người ra tận cổng chùa.
Trên đường từ chùa về nhà, Vinh không nói được câu nào, lòng nặng trĩu nỗi ân hận, xót xa…
Lộc cũng không biết nói gì để an ủi bạn, đàng âm thầm lặng lẽ đi sát một bên.
 
***
Gã đứng trước ngôi nhà cháy, ngao ngán vì mãi mà không nghe ai hỏi mua trong khi chủ nợ lại ráo riết săn lùng gã khiến gã phải trốn chui trốn nhủi, khổ nhục còn hơn con chó.
Nhà bên cạnh chiều nay đóng cửa đi đâu vắng, gã không gặp được chị phụ nữ hứa làm môi giới cho gã hôm trước. Thẩn thờ, gã bước dần lên đống tro than.
Bất chợt, gã thấy thòi lên dưới đống cây lá cháy nham nhở một bàn tay nhầy nhụa máu. Gã thụt lùi lại, vấp phải một cục gạch và té ngồi  xuống đất, bàn tay gã chống phải một vật gì mềm mềm, lạnh lạnh. Mấy hôm nay gã luôn có dị ứng với những thứ như thế. Gã lật đật rút tay lên thì hỡi ơi, dính theo lòng bàn tay gã lại là hai tròng mắt đáng sợ hôm nào…
- Á… Á… Á…
Gã vừa hét lên vừa vùng bỏ chạy. Mấy người dân gần đó nghe tiếng hét kinh hoàng của gã đều túa hết ra đường, họ thấy gã đang chạy quáng quàng, mặt mày còn hằn rõ sự kinh hoàng tột độ.
- Có chuyện gì? Có chuyện gì xảy ra với anh vậy?
Một ông hàng xóm chận gã lại hỏi.
Gã run lẩy bẩy chỉ tay vào ngôi ngà cháy:
- Ma… mắt… là ma… mắt…!
- Cái gì? Ma hay mắt? Anh bình tĩnh lại kể cho rõ ràng đi…
Người đàn ông nắm chặt tay gã.
Gã lắp bắp:
- Là ma! Ma nhát tui… Hai cái tròng mắt trừng trừng nhìn tui, cái bàn tay cháy đen máu me nhầy nhụa… ma… có ma…
Những người đàn bà và trẻ con sợ hãi đứng nép sát vào nhau, nhưng mấy ông đàn ông lại có vẻ không tin:
- Ma gì, chưa tối ma ma cỏ gì! Chắc tại anh nhìn quáng thôi… Nào, đi lại đó xem coi thế nào!
Thế là bốn, năm người đàn ông lực lưỡng hùng hổ tiến tới ngôi nhà cháy của gã, theo sau là đám đànbà con nít, tuy sợ muốn chết nhưng không ngăn được tính tò mò muốn biết, muốn tận mắt chứng kiến cái sự lạ gì trong đó để còn đi kể cho người khác biết, là:
- Chính mắt tui đã trông thấy…
Gã sợ sệt chỉ tay vào chỗ lúc nãy có hai tròng mắt và cánh tay người, mấy người đàn ông săm soi mãi vẫn chẳng thấy gì, họ cười phá lên:
- Cha nội này chắc chiều giờ uống say dữ lắm rồi nên mới trông gà hóa cuốc, sợ đến xanh xám mặt mày như vậy! Thôi đi cha nội ơi, đừng có hù dọa bà con ở đây nữa! Cha nội mới kêu bán nhà là làm kiểu này thì có ma nó mới dám mua!
Lúc này gã không còn thấy sượng sùng trước những lời trêu chọc của người khác nữa, sự lo sợ đã dâng tràn trong gã, chen chúc trong từng sợi dây thần kinh của gã, chưa lúc nào gã sợ hãi như lúc này!
Lủi thủi một mình về nơi ở, gã cứ vừa đi vừa ngoái nhìn lại sau lưng vì luôn có cảm giác một người nào đó đang đi sát ngay sau gã. Vườn chuối đã hiện ra trước mắt, ánh trăng mùng mười càng làm cho cảnh vật trở nên mờ ảo, huyễn hoặc hơn. Bóng những cây chuối, những tàu lá chuối phất phơ trông giống như một người đang đứng xõa tóc, rồi tiếng những cây chuối cọ mình vào nhau nghe giống như tiếng người nghiến răng ken két…
Gã run lẩy bẩy, không muốn chui vào căn chòi quen thuộc đó nữa, nhưng nếu không vào thì gã biết phải đi đâu, ngủ ở đâu?
Bất chợt, gã như điên dại, chạy ào vào vườn chuối, giật hết những tài lá khô, gom về chất xung quanh căn chòi, như muốn làm một tường rào để bảo vệ, để ngăn chặn những bóng ma hắc ám đang chực chờ trêu chọc gã…
Gió thổi hây hẩy nhưng người gã đẫm ướt mồ hôi. Không lâu sau, xung quanh căn chòi đã được che chắn bằng một đống lá chuối, đứng từ xa nhìn vào thì không thể nào viết được đó là căn chòi, mà có thể lầm là một đống rơm, đống rạ gì đó chưa được người ta đánh vào cho gọn ghẽ.
Gã thở hồng hộc nhưng khoái trá vì thành tích của mình. Và rồi gã ngang nhiên chui vào ổ với một niềm tin vô lý nhưng rất vững chắc.
Vừa mơ màng ngủ, chợt một giọt nước rơi đúng vào giữa đôi môi gã, có một vị mằn mặn và tanh tưởi vướng ở đầu lưỡi. Gã đưa tay quệt ngang miệng và hé mắt giơ tay lên nhìn. Trên mu bàn tay gã là một vết đỏ sậm như máu.
Gã ngồi bật dậy, vừa lúc từ trên trần nhà liên tiếp rơi xuống từng giọt, từng giọt lộp bộp như giọt nước mưa, gã còn đang hoảng loạn chưa kịp phản ứng thì xung quanh gã nước đã ngập xâm xấp, màu nước đỏ ngầu như màu máu. Gã ngước nhìn lên nóc chòi, hy vọng thấy một lỗ hỏng nào đó và mong nghe được tiếng mưa ngoài trời, nhưng trên nóc chòi lúc này lủng lẳng một thân người tóc dài xoã xượi…
- Á… Á… Á…
Gã lại thét lên kinh hoàng, nhưng tiếng thét của gã chìm nghỉm vào không gian quạnh vắng, làng xóm ở xa, ngoài kia xe cộ ầm ào, không ai có thể nghe được.
Gã vừa bò vừa lết, cuối cùng cũng thoát ra được vũng máu tanh tưởi đó, nhưng ra đến cửa chòi thì gã không còn sức nữa, gã gục xuống đó bất tỉnh.
Sáng hôm sau, một người dân đi rọc lá chuối tình cờ phát hiện ra gã. Chị ta hô hoán lên, mọi người chạy tới vực gã vào chòi, xoa bóp đánh gió hồi lâu thì gã tỉnh dậy.
- Ăn nhậu cho lắm vào, đêm hôm trúng sương trúng gió chứ có gì lạ!
Người ta kết luận việc gã nằm ngất trước cửa chòi là như vậy, nghe ra cũng rất hợp lý.
Từ lúc tỉnh dậy, gã cứ nhìn mọi người bằng cặp mắt lơ láo, sợ hãi. Nhưng không ai hơi đâu quan tâm tới gã, người ta thương tình cứu gã vậy là may mắn lắm rồi, còn trong lòng gã, tâm tư gã thế nào không ai bận tâm nghĩ tới.
Khi mọi người về hết, gã nằm một mình trong căn chòi vắng lặng, nghe tiếng gió thổi xào xạc bên ngoài mà đầu tóc gã cũng dựng đứng cả lên. Gã ngước nhìn lên mái lá trên đầu, chỉ thấy mấy tia nắng mỏng manh xuyên qua kẻ lá, chiếu rọi vào nhà tạo ra những đốm sáng nho nhỏ không ngừng nhảy nhót.
Gã nhớ lại cái xác người treo lủng lẳng đêm qua, nhớ lại cái vũng mái ngập ngụa, tanh tưởi mà đêm qua gã đã phải vẫy vùng trong đó. Sống lưng gã ớn lạnh, đầu óc gã lùng bùng. Giờ đây gã đã biết chắc những sự việc đó là có thật chứ không phải do gã nằm mơ hay hoang tưởng.
Hồn vợ gã đang về trừng phạt gã đây mà!
Nhưng cho tới lúc này, gã vẫn không cảm thấy ăn năn hối lỗi. Gã nghiến răng trèo trẹo:
- Để tao yên, mầy phải để tao yên!
- Ha ha ha…
Đáp lại gã là một tràng cười quái đản!
Giữa trưa, lúc này là giữa trưa, gã hy vọng vợ gã không dám xuất hiện vào giờ này, nhưng tràng cười ma quái ấy đã làm cho gã bủn rủn.
Gã quơ chân tay loạn xạ, miệng không ngừng mắng chửi:
- Mẹ kiếp! Mầy có tránh xa tao ra không… Tao không sợ mầy! Tao không sợ mầy… Tất cả là do lỗi của mầy! Nếu mầy nghe lời tao, mầy yêu thương tao thì mầy đâu phải chịu kết cục bi thảm như vậy! Lỗi là ở mầy, mầy không có quyền trách tao, tao là ân nhân của mẹ con mầy, mầy quên điều đó sao? Mầy cút đi, cút cho thật xa đi, tao không sợ mầy đâu… Mầy còn quấy rầy tao nữa, tao sẽ… tao sẽ cho mầy chết thêm mộtl ần nữa… Mầy có nghe không?
- Ha ha ha… Ha ha ha… Mạng sống phải được trả bằng mạng sống! Ha ha ha…
Tiếng cười vẫn xói vào tai gã. Gã cuống cuồng ngồi bật dậy, bịt chặt hai tai lại, nhưng vẫn nghe rõ ràng như tiếng nói kia được cất lên từ bên trong tai gã vậy:
- Ha ha ha… Ha ha ha… Mạng sống phải được trả bằng mạng sống! Ha ha ha…
Trên nóc chòi lúc này lại lủng lẳng một thây ma. Vì là ban ngày nên gã nhìn thấy rõ ràng hơn. Gương mặt bà ta cháy nham nhở, những vết nứt nẻ rỉ ra một thứ nước hồng hồng, thứ nước đó bắt đầu đọng thành vũng dưới sàn nhà. Thân người bà ta cứ đu đưa qua lại, hai tròng mắt thòng xuống gần tới cằm như đang trừng trừng nhìn gã.
Hoảng loạn, gã vùng chạy ra ngoài. Cái thây ma vẫn đung đưa, đung đưa ở giữa nhà, và giọng cười ghê rợn vẫn không chịu nín:
- Ha ha ha… Ha ha ha… Mạng sống phải được trả bằng mạng sống! Ha ha ha…
- Tao sẽ giết mầy! Tao sẽ cho mầy chết thêm lần nữa! Mầy sẽ phải chết thêm một lần nữa… Tao sẽ giết mầy…
Gã nghiến răng, run rẩy thò tay vào túi quần lôi ra cái hộp diêm quẹt đã bẹp dúm dó. Gã mở hộp diêm ra, vì tay run quá nên làm đổ cả hộp diêm xuống đất. Gã cúi xuống nhặt một que diêm lên đánh xòe vào hộp, một tia lửa nhỏ cháy lên, gã cười gằn:
- Tao sẽ giết mầy!
Vừa nói, gã vừa vứt que diêm vào đống lá chuối khô chất dày đặc quanh chòi. Lửa bùng lên. Gã thích quá, vừa nhảy loi choi vừa vỗ tay:
- Cho mầy chết! Cho mầy chết!
Bỗng đâu gã cảm thấy vai mình lạnh buốt, vừa ngó xuống gã điếng người khi thấy một cánh tay cháy đen nham nhở đang bấu chặt vào đó.
Gã thụt lùi, thụt lùi, miệng ú ớ:
- Không! Không… không được… buông tao ra… buông tao ra…
Những que xương của bàn tay vẫn bấu chặt vào vai gã, đầu nhọn của que xương đâm vào thịt gã đau điếng. Gã cứ lùi dần, lùi dần và bất thần gã vấp chân té bật ngửa ra sau, vừa lúc ngọn lửa bùng lên nuốt gọn những gì rơi vào miệng nó!
 
***
Vinh vừa trải qua một giấc mơ kỳ lạ. Trong giấc mơ đó, Vinh thấy rõ ràng mẹ mình hiện về, xinh đẹp, trẻ trung giống y như hồi mười năm trước. Mẹ cầm tay Vinh mỉm cười:
- Con ráng cố gắng sống cho thật tốt. Mọi ân oán trong đời đã được giải quyết xong. Giờ mẹ phải đi đây…
Vinh chưa kịp nói câu nào thì mẹ đã biến mất, chỉ còn lại một mùi hương quen thuộc của những ngày Vinh còn thơ bé…
- Lộc! Lộc ơi! Tao vừa mơ một giấc mơ rất lạ…
Vừa choàng dậy, Vinh vội lay gọi bạn.
Lộc hoảng hốt ngồi bật dậy:
- Có chuỵên gì vậy?
Vinh thừ người ra một lúc rồi nói:
- Tao thấy mẹ tao về. Nhưng lần này hình dáng không ghê sợ như những lần trước mà xinh đẹp như hồi còn trẻ vậy. Mẹ dặn tao phải ráng sống tốt, mọi ân oán đã trả xong hết rồi, mẹ phải ra đi… Mẹ tao nói thế là có nghĩa gì vậy mậy?
Lộc tỉnh hẳn ngủ:
- Có thể mẹ mầy đã trả được thù rồi nên linh hồn siêu thoát, là mẹ mầy phải đi để đầu thai kiếp đó! Thôi, nếu được vậy cũng mừng cho mẹ mầy đi nhe…
Vinh gật gù:
- Ừ, tao cũng mong vong linh mẹ được siêu thoát… Tao rất mừng vì hôm nay thấy mẹ với dung mạo đẹp đẽ trước kia… Chứ nhìn mẹ với hình ảnh ghê rợn đó tao sợ thì ít mà đau đớn nhiều hơn mầy ạ…
- Sáng mai, tao với mầy đi dọ coi tình hình lão kia thế nào rồi, nghen?
Lộc đề nghị.
Vinh gật:
- Ừ, thôi, ngủ thêm chút nữa, còn sớm mà! Sáng mai tao với mầy đi…
Cả hai nằm trở lại nhưng không ai ngủ được, mỗi người đều mang một tâm sự riêng…
Vinh và Lộc chưa tới xóm nhà đã nghe người ta bàn tán rần rần về chuyện lão Đời gần đây phát điên, lúc nào cũng nhìn thấy ma quỷ, rồi không biết vì do vô ý hay do điên loạn mà lão đã thiêu rụi căn chòi mình đang trú ngụ và tự thiêu mình luôn trong đó. Người ta kể, trước khi chết, lão Đời có những biểu hiện lạ lắm, giống như tâm thần vậy…
Vinh và Lộc đưa mắt nhìn nhau, cả hai đã hiểu rõ mọi chuyện rồi!
 
***
Mất cũng khá nhiều thời gian thì mọi thủ tục hồ sơ của Vinh mới được hoàn thành. Giờ đây Vinh trở nên một chàng thanh niên nắm trong tay một số vốn liếng lớn mà rất nhiều người phải ngưỡng mộ.
Vinh không tỏ rõ thái độ buồn hay vui gì trước sự kiện lớn này. Mọi sinh hoạt hàng ngày của Vinh vẫn diễn ra một cách bình thường, chỉ khác một điều là thời gian gần đây Vinh không còn đi làm thuê kiếm sống nữa. Vì bận bịu lên xuống các cơ quan chức năng để hoàn tất thủ tục hồ sơ, suốt mấy tháng qua, hầu như Vinh sống dựa hẳn vào Lộc.
Lộc vẫn ngày ngày cần mẫn đi từ sáng sớm tới chiều, kiếm từng đồng về trang trải cho cuộc sống của hai đứa.
Ngày mọi thủ tục đã hoàn tất, Vinh nôn nóng hết đi ra lại đi vào, đợi Lộc về để bàn bạc với bạn chuyện tương lai của hai đứa.
Mãi đến tối mịt Lộc mới về tới, say lất ngất, bước đi xiêu vẹo.
Vinh ngạc nhiên lắm, vì lâu nay ít khi nào Lộc uống rượu, mà có uống đi chăng nữa cũng chưa khi nào say đến độ đó.
- Mầy có chuyện gì mà uống say dữ vậy Lộc?
Vinh vừa đỡ bạn vừa ân cần hỏi.
Lộc vùng vằng, đẩy tay Vinh ra:
- Kệ tao! Tao có cuộc sống của tao, mầy không cần quan tâm tới! Tao với mầy bây giờ đã ở hai giai cấp khác nhau rồi, phải không?
Vậy là Vinh đã hiểu ra tất cả! Lộc mặc cảm, Lộc lo sợ Vinh sẽ thay đổi khi bất chợt được giàu lên, Lộc đau buồn vì nghĩ tình bạn keo sơn của hai đứa đã đến ngày tan rã…
Vinh ngao ngán lắc đầu, muốn nói với Lộc thật nhiều nhưng nó đang say khướt thế kia có nói cũng vô ích!
Nghĩ thế nên Vinh không nói gì, mặc cho Lộc không ngừng lảm nhảm, không ngừng cự tuyệt những cử chỉ chăm sóc của Vinh.
Một lúc sau, Lộc ngủ như chết, nhưng Vinh thì vẫn ngồi im đến khi trời gần sáng.
Lộc trở mình, hé mắt nhìn ra thấy Vinh ngồi bó gối ở một góc nhà. Khe khẽ thò tay qua chỗ nằm của Vinh, Lộc thấy chỗ đó lạnh ngắt, mền gối cũng còn y nguyên. Vậy là suốt đêm qua tới giờ Vinh vẫn ngồi như vậy sao?
Lộc nhớ lại tối qua mình uống đến say mèm, chắc mình đã nói gì đó, làm gì đó để thằng Vinh buồn rồi.
Lộc nhổm dậy, định đến bên bạn nhưng rồi không hiểu sao Lộc lại nằm vật trở xuống.
Nghe tiếng động, Vinh biết Lộc đã thức. Không quay đầu lại, Vinh nói nhỏ:
- Lộc, mầy thức rồi phải không? Mầy nàem im đó nghe tao nói đây… Tao biết mấy ngày vừa qua mầy buồn lắm, đúng không? Nhưng mầy yên tâm đi, tao không phải là đứa xem nặng đồng tiền đâu. Tao thà vẫn sống cuộc đời cơ cực còn hơn là sống sung sướng mà mất đi tình bạn của chúng mình… Nhưng đây dù sao cũng là những đồng tiền do ba tao đổ mồ hôi nước mắt tạo ra, và mẹ tao đã phải hy sinh bản thân mình để giữ lấy cho tao, tao không có quyền khướt từ nó… Nhưng tao nghĩ kỹ rồi, tao tính bàn với mầy thế này để coi mầy có đồng ý với tao không nghen?
Vinh ngừng lại thăm dò, không thấy Lộc có phản ứng gì, Vinh biết bạn đang lắng nghe mình nên nói tiếp:
- Tao tính, trước hết mình cúng một khoản tiền để sư thầy xây cất lại ngôi chùa cho khang trang hơn một chút. Còn lại, tao sẽ cố gắng hỏi mua lại ngôi nhà chỗ ba mẹ tao sống trước kia, nếu người ta đồng ý bán. Sau đó, tao với mầy sẽ đi học nghề, chẳng hạn như nghề sửa chữa xe, tao với mầy đều thích mà, phải không? Tụi mình học thành nghề rồi thì mở tiệm, thu nhận mấy đứa không nhà cửa như tụi mình hồi đó về tạo công ăn việc làm cho tụi nó… Mầy thấy tao tính vậy được không?
Lộc từ nãy giờ vẫn nằm im nhưng nước mắt đã nhòe nhoẹt trên gương mặt. Lộc không ngờ Vinh lại tính toán cặn kẽ như vậy, thế mà mấy tháng nay mình cứ làm ra vẻ xa lánh nó, tại mình nghĩ thế nào nó giàu có lên rồi cũng sẽ ruồng rẫy mình… Không ngờ nó tốt đến như vậy…
- Mầy có đồng ý với tao không, Lộc?
Vinh hỏi lại một lần nữa.
Lộc không nói gì, chỉ chồm dậy đấm thùm thụp lên lưng Vinh rồi cả hai cùng cười vang, mà mắt người nào cũng ầng ậng nước…
 
***
Cả khu vực rộng lớn này không ai không nghe nói tới gara xe Vinh Lộc, người ta nhắc tới nó vì sự làm ăn phát đạt, vì đó là nơi tạo công ăn việc làm cho những đứa trẻ lang thang đường phố, người ta còn nhắc tới nó vì hai ông chủ trẻ vui tính, hiền lành được nhiều người yêu mến.
Vinh và Lộc bây giờ đã là hai ông chủ có trong tay nhiều gara uy tín, nhưng không ngày rằm, ba mươi nào hai người quên đi chùa lễ phật. Ngôi chùa mà hai người thường lui tới nhất là ngôi chùa ở gần nhà, ngôi chùa có sư trụ trì bé nhỏ và chú tiểu dễ thương giờ đã lớn phổng phao…
Vinh mua lại hẳn hai căn lầu sát cạnh nhau ở chỗ khu đất cũ của nhà mình. Một căn để cho Lộc đứng tên, một căn Vinh đứng tên. Hai người vẫn thương yêu đùm bọc nhau như những ngày còn cơ hàn lang thang trên đường phố…
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:14:12 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 20:39:19
LÀM BẠN VỚI MA
 
Hai mươi năm trước quê tôi còn rất hoang vu vắng vẻ chứ không ồn ào xe cộ, chen chúc cửa nhà như bây giờ. Phương tiện đi lại thông dụng nhất lúc bấy giờ là xe đạp.
Từ làng tôi lên chợ Huyện cũng có xe lam, nhưng mỗi ngày chỉ có đôi ba chuyến vào sáng sớm.
Hồi ấy tôi làm nghề bán bánh mì dạo.
Ngày nào cũng như ngày nào, ngày mưa cũng như ngày nắng, cứ độ tầm một hai giờ sáng là tôi thức dậy, cọc cạch đạp xe gần hai chục cây số lên chợ Huyện để chở về một giỏ cần xé đầy nhóc bánh mì, bỏ mối cho các tiệm quán nhỏ trong khu vực và cả bán lẻ nếu có người hỏi mua.
Hai bên đường đi có rất nhiều đoạn vắng vẻ, cây cối um tùm mà không có lấy một ngôi nhà. Có đoạn phải đi qua một khu nghĩa địa rộng lớn.
Người ta đồn khu nghĩa địa đó rất linh thiêng và có rất nhiều ma. Những chuyện đồn thổi chuyền tai nhau thì tôi nghe nhiều lắm nhưng không mấy tin và tôi cũng chẳng quan tâm nhiều đến chuyện đó.
Thi thoảng những đêm mưa gió hoặc sáng trăng, một mình đạp xe qua đó, tôi cũng có tưởng tượng đôi chút rồi thôi.
Một lần, khi đi tới đó không may xe tôi bị hư. Tôi dừng lại lôi đồ nghề ra sửa dưới ánh trăng mờ tỏ.
Khi xe vừa được sửa xong, chưa kịp ngồi lên, tôi nhận thấy có bóng người từ xa đi lại.
Hơi giật mình, nhưng tôi cũng cố tâm nhìn thật kỹ xuống chân người đó xem có đi chạm mặt đất hay không. Vì lâu nay tôi vẫn thường nghe người ta bảo ma quỷ chỉ lướt đi trên đầu ngọn cỏ, chân không chạm được mặt đất.
Sau khi chăm chú nhìn, tôi thở phào nhẹ nhõm vì nhận ra người phụ nữ – vâng, bóng người đó là một phụ nữ – đang nện bước đều đều, tôi còn nghe được rõ ràng tiếng guốc dưới chân người ấy.
- Anh ơi, nãy giờ anh thấy xe lam chạy qua chưa vậy anh?
Người phụ nữ cất tiếng.
Tôi trả lời:
- Giờ này chưa có xe lam đâu chị, phải cỡ một tiếng đồng hồ nữa mới có chuyến đầu tiên trong ngày. Chị đi đâu mà sớm vậy?
- Em có việc ở Sài Gòn, phải lên rồi về ngay trong ngày nên em tính đi chuyến xe sớm nhất, ai dè xe chưa có.
Tôi ái ngại nhìn người phụ nữ:
- Nhà chị gần đây không? Nếu gần chị trở vô nghỉ ngơi đi, còn lâu lắm!
- Dạ không, nhà em tận trong xóm kia, trở vô trở ra không tiện, thôi em ngồi đây đợi xe vậy!
Tôi dùng giằng, nửa muốn bỏ đi cho kịp công việc làm ăn của mình, nửa thấy không nỡ bỏ lại một người phụ nữ cô độc trên đường giữa đêm khuya như vậy.
- Hay là… chị lên xe tôi chở lên chợ Huyện?
Cuối cùng tôi mở lời.
- Dạ thôi, em không muốn làm phiền anh. Anh cứ đi đi, em đứng đây đợi một chút cũng không sao!
Người phụ nữ từ chối.
- Tôi cũng sẵn đường lên chợ Huyện, chở thêm chị cho có bạn trên đường đi, không có gì mà chị phải ngại.
Tôi vẫn cố nài ép.
Người đàn bà phân vân một chút rồi bước tới gần nói:
- Vậy em xin cảm ơn anh trước nhe!
- Không có chi!
Tôi vừa nói vừa loay hoay tháo sợi dây ràng để lấy chiếc giỏ cần xé buộc sau xe xuống.
- Anh đưa cái giỏ đây, em cầm cho!
Người phụ nữ lên tiếng.
Tôi đưa cái giỏ to đùng rồi chờ cô ngồi lên xe là  tôi nhấn mạnh chân xuống bàn đạp.
Thật lạ, chở thêm một người nữa mà tôi không thấy nặng nề hay mệt mỏi tí nào! Tôi nghĩ có lẽ vì mình vui nên mới có cảm giác đó.
Giữa đêm khuya vắng lặng lại được chở sau lưng một người phụ nữø mà theo tôi nghĩ là rất đẹp.
Mặc dù không nhìn rõ mặt mũi, nhưng dáng người thanh mảnh và giọng nói êm dịu ngọt ngào, du dương như sáo thổi ấy cũng đủ để tôi suy ra được nét đẹp hiền hậu của cô.
- Nhà chị ở Sài Gòn hay ở đây?
Tôi không biết bắt chuyện thế nào nên hỏi bừa một câu như thế.
Có tiếng cười khúc khích nho nhỏ sau lưng, cô gái bảo:
- Từ nãy giờ anh cứ gọi em là chị làm em thấy mình già đi nhiều lắm đó nghen!
Tôi bật cười:
- Xin lỗi… cô bao nhiêu tuổi?
- Dạ, em mới hai mươi . Còn anh?
Cô gái vui vẻ.
- Tôi hả? Tôi lớn hơn cô tám tuổi! Hai tám rồi đó!
Tôi trả lời, lòng bỗng vui phơi phới.
- Vậy mà anh cứ gọi em là chị mãi, tổn thọ em chết!
Cô gái trách.
- Ừ thôi, tôi không gọi chị nữa! Tôi gọi tên nhé? Cô… tên là gì?
Tôi hỏi.
Cô gái lễ phép:
- Dạ, em tên Hường. Còn anh?
- Tôi là Tiến. Chẳng hay… Hường có gia đình chưa?
Tôi trả lời và tò mò hỏi tiếp.
Cô gái lại khúc khích cười:
- Chưa đâu anh ơi, em bị… ế rồi!
Tôi bật cười theo:
- Hường nói vậy chứ… Hay tại Hường kén chọn quá?
- Trời ơi, anh nói vậy tội nghiệp em! Em mà kén chọn nỗi gì? Anh… chắc anh đã có gia đình rồi?
Cô gái hỏi khẽ.
- Tôi á? Tôi nghèo lắm Hường ơi, làm quần quật quanh năm suốt tháng mà cũng không để dành đủ tiền cưới vợ, cô gái nào dám lấy tôi?
Tôi bật cười và cô gái cũng cười theo:
- Anh nói khiêm tốn quá, mới một hai giờ sáng thế này mà anh đã bắt tay vào công việc rồi, anh giỏi vậy mấy cô gái chắc sắp hàng sau lưng anh ấy chứ!
Cả hai bật cười vui vẻ.
- Anh buôn bán như vầy có kiếm được khá không?
Hường tỏ ra quan tâm.
Tôi thật thà:
- Không được bao nhiêu đâu Hường ơi, hai mẹ con phải sống nhín nhúc lắm mới qua ngày. Tôi đi bán vầy, nhưng sáng về cũng phải đi làm ruộng làm rẫy, chứ nếu trông cậy vào giỏ bánh này thôi chắc không thể nào sống nổi.
- Sao anh không mua thêm nhiều? Bánh mì cũng đâu có nặng nề gì phải không?
Hường gợi ý.
Tôi cười:
- Hường nói đúng. Tôi có thể chở bằng ba bốn cái giỏ này, nhưng vấn đề là người ta không mua hết Hường à! Tôi bỏ mối cho mỗi tiệm quán cũng chừng vài mươi ổ là cao, mà từ đây dọc dài về nhà tôi đâu có được mấy tiệm quán? Chứ nếu có người mua, mỗi ngày tôi đi chục chuyến cũng dư sức!
- À, Hường hiện đang làm gì?
Sực nhớ ra, tôi cất tiếng hỏi.
Hường có vẻ hơi đắn đo:
- Em… em cũng chỉ ở nhà cấy gặt thôi anh, em đâu biết làm gì!
- Vậy mà nhìn dáng Hường, tôi tưởng Hường là cô giáo chứ!
Tôi vừa nói xong, Hường buồn buồn:
- Anh đoán cũng không sai, đáng lẽ ra em đang làm cô giáo… Nhưng… rồi số phận đã đẩy đưa, giờ đây em không thể tiếp tục dạy học được.
Tôi nghĩ chắc Hường có chuyện gì đó không vui liên hệ tới nghề nghiệp nên thôi không hỏi nữa, lái qua nói chuyện vu vơ khác.
Hôm đó đoạn đường dài từ nhà lên tới chợ Huyện bỗng như rút ngắn lại không ngờ.
Tôi chở Hường tới bến xe, để cô xuống mà lưu luyến không muốn rời.
Hường nói mấy lời cảm ơn tôi rồi vội vã trèo lên chiếc đò Sài Gòn đang bắt đầu lăn bánh.
Tôi đứng trông theo buồn ngơ ngẩn…
Làm một thằng con trai gần ba chục tuổi đầu mà chưa có được một mảnh tình rách vắt vai, lần đầu tiên trong đời tôi thấy lòng mình thật sự rung cảm với một người con gái!
Nói nào ngay, tôi không đến nỗi xấu xa về hình thức và tính tình đến nỗi không được ai để ý. Nhưng vì hoàn cảnh gia đình có hơi đặc biệt nên tôi không dám đặt tình cảm với ai.
Ba mất từ lúc tôi còn nhỏ, một mình mẹ nuôi tôi không lớn. Nhưng đến năm tôi mười sáu tuổi thì mẹ phát bệnh điên.
Căn bệnh này nghe đâu đã có từ nhiều đời trong dòng họ nhà tôi, mỗi một đời luôn có một người bị bộc phát.
Từ đó tôi vừa phải bươn chải kiếm tiền, vừa phải lo chăm sóc mẹ.
Bình thường thì mẹ tôi cũng biết tự chăm sóc mình, nhưng có những hôm, bà không nhận ra tôi là ai, không biết gì hết, cứ xé toạc, đập đổ những gì trong tầm tay khiến tôi vô cùng vất vả.
Hoàn cảnh tôi như thế nên mấy cô gái trong làng tuy rất có tình cảm với tôi, nhưng ai cũng ngại ngùng, sợ sệt nếu phải về làm dâu một người mẹ chồng không được bình thường như thế.
Và cả bản tôi cũng không dám nghĩ tới chuyện lập gia đình.
Vì vậy, dù đã ngấp nghé tuổi ba mươi, tôi vẫn chưa một lần hò hẹn.
Đây là lần đầu tiên trong đời tôi được chở sau lưng một người con gái và nói cười vui vẻ với cô ta.
Làm sao tôi không bịn rịn luyến lưu khi giã biệt? Giã biệt rồi có gặp lại không? Điều đó khó ai có thể biết trước được.
Cuộc đời như một dòng sống, cứ cuốn phăng đi mọi thứ, nỗi buồn này rồi cũng sẽ trôi đi… Tôi tự an ủi mình như thế.
Đứng nhìn theo chiếc xe chạy một quãng xa tôi mới quay lại lò bánh mì quen thuộc. Lấy đủ số cần thiết như mọi hôm xong, tôi vội vã trở về. Trời vẫn còn sớm lắm.
Về tới ngã ba gần chỗ lúc nãy gặp Hường, tôi thấy một đoàn có đến gần trăm người đang tụ tập nơi đó.
Một người đàn ông tách ra khỏi đám người đang ngồi đứng lô nhô, đưa tay vẫy tôi và hỏi:
- Chú em ơi, bán gì đó?
- Tôi bán bánh mì! Các anh đi đâu mà tụ tập đông và sớm thế?
Tôi tò mò.
Người đàn ông cười cười:
- Tụi tôi đi lao động, đào kênh trong kia. Chú bán cho tụi tôi mỗi người một ổ bánh mì đi!
Nghe người đàn ông nói tôi mừng khấp khởi, vội vội vàng vàng mở cái bao ny lông bên ngoài giỏ cần xé, lấy đưa ra những ổ bánh mì còn nóng hổi, bay mùi thơm phức.
Đám người đứng lên vây lấy tôi, ai cũng suýt xoa hít hà lúc cầm ổ bánh.
Vèo một loáng, trong giỏ cần xé chỉ còn lại trơ vơ mấy ổ bánh.
Người đàn ông đầu tiên, có vẻ là người lãnh đạo ở đây, móc túi lấy tiền trả cho tôi đủ với số bánh mì đám người vừa nhận được.
Tôi mừng quá. Hôm nay quả thật là một ngày vô cùng may mắn. Vậy mà ai dám bảo “sáng sớm bước ra đường mà gặp đàn bà con gái đầu tiên là xui xẻo cả ngày”?
Thấy trời còn sớm, tôi quày quả trở lên chợ Huyện chở thêm một chuyến bánh mì nữa.
Trông thấy mặt tôi, ông chủ lò bánh mì không khỏi ngạc nhiên:
- Ủa, không phải lúc nãy chú mầy vừa chở một giỏ đầy rồi sao?
Tôi cười hí hửng:
- Hôm nay con trúng mánh rồi chú ơi! Mới đi tới nửa đường về, con gặp một đám người đi lao động, họ mua của con mỗi người một ổ, gần hết giỏ bánh luôn, nên con phải quay trở lên chuyến nữa!
Ông chủ lò bánh cười khà khà:
- Ừ, chú em may mắn dữ!
Vì trời đã gần sáng nên chuyến này tôi đạp xe hết tốc lực. Tuy có bị mấy người chủ quán thường ngày lấy mối bánh mì cằn nhằn tí chút về sự chậm trễ này, nhưng cuối cùng tôi cũng đã bán sạch veo!
Tôi về nhà, lòng thật thơ thới.
Ngày hôm đó mẹ tôi trở nên bình tĩnh lắm. Còn biết giúp tôi nấu cơm , lặt rau nữa. Tôi thật sự hạnh phúc, mong sao mỗi ngày đều được như thế.
Trong tâm trí tôi không lúc nào quên được dáng dấp và giọng nói tiếng cười của Hường.
Ngoài cái tình cảm rung động đầu đời của một thằng con trai, tôi còn xem Hường như là ân nhân của mình vậy. Tự nhiên tôi  có suy nghĩ nhờ có Hường nên tôi mới có được sự may mắn đó. Tôi không giải thích được tại sao mình nghĩ thế, nhưng tôi tin là vậy.
Ngày hôm sau, sự việc cũng được lặp lại giống y như hôm trước. Người đàn ông còn căn dặn tôi:
- Tụi tôi đi đào kênh chắc cả tháng mới xong, vậy sáng nào chú em cũng nhớ ghé lại đây bán cho bọn này nhé! Số lượng không thay đổi.
Tôi thắc mắc:
- Anh ơi, đi lao động mà sao tôi thấy hình như trong này có cả người già và trẻ em nữa?
Người đàn ông cười:
- Là vì mấy người đó đi thay cho con, cho cha anh họ. Chỉ vô cho có mặt để điểm danh thôi, tôi đâu có bắt họ làm gì!
Thế là từ hôm đó, đêm nào tôi cũng chở tăng lên hai giỏ cần xé bánh. Mấy anh em cùng nghề, ai cũng khen và mừng cho tôi chuyến này gặp nhiều may mắn.
Thời gian đó mẹ tôi lại vô cùng tỉnh táo. Điều đó làm tôi vui mừng khôn xiết!
Ròng rã gần một tháng trời như thế,  cho đến một hôm người đàn ông nói với tôi:
- Hôm nay là chúng tôi hoàn thành. Vậy ngày mai anh khỏi đem bánh tới đây cho tụi tôi nữa nhé!
Ngày hôm sau tôi lại cọc cạch đạp xe với chỉ một chiếc giỏ to đùng ràng ở phía sau lưng.
Tới quãng đường đó, tự nhiên lòng tôi cảm thấy thật buồn. Tôi nhớ Hường, nhớ không khí ồn ào của đám người đi lao động gần một tháng qua đã gắn bó với tôi.
Đang nghĩ vẩn vơ, tôi chợt nhận thấy dáng một người đang đi từ phía ngã ba, rất giống dáng Hường hôm trước.
Hồi hộp, hy vọng tôi dừng hẳn lại.
Quả thật trời không phụ lòng người, đúng là Hường! Lòng tôi reo vui hớn hở…
- Hường… có phải là Hường không?
Cô gái cũng mừng vui không kém:
- Anh Tiến! Đúng anh Tiến rồi! Quả thật mình lại được gặp nhau.
- Hường… hơm nay… hơm nay Hường lại đi Sài Gịn à?
Tơi quá vui mừng, khơng biết nĩi gì nên lắp bắp hỏi.
- Em… khơng… em sắp phải đi xa… Vì vậy em muốn gặp anh lần cuối!
Giọng Hường nghe thật buồn. Nhưng lúc đó tôi không quan tâm đến mấy tiếng “em sắp đi xa” mà điều làm tôi tập trung toàn bộ tư tưởng là… Hường muốn gặp tôi!
- Hường… Hường nói… Hường muốn gặp tôi?
Tôi hỏi lại Hường lần nữa.
Hường khẽ cười:
- Dạ. Em muốn gặp anh! Anh có vui lòng nói chuyện một chút với em không?
Tôi hấp tấp:
- Được! Được mà! Hường muốn nói bao lâu cũng được. Tôi… tôi rất vui.
Hường cười khẽ:
- Dạ… em không dám làm phiền anh lâu đâu! Em biết anh còn phải buôn bán để mưu sinh nữa chứ!
Tôi gãi gãi đầu:
- Không sao đâu Hường! Trễ một chút cũng không ảnh hưởng gì.
Tôi dẫn xe vào sát bên lề rồi cùng Hường lót dép ngồi ngồi xuống bên đường nói chuyện.
Lòng tôi lúc đó vô cùng hồi hộp. Tôi không biết Hường muốn nói gì với tôi mà có vẻ quan trọng đến thế?
Hường đưa mắt nhìn ra xa, trời không trăng nên không thấy gì rõ lắm, chỉ thấy những bóng cây đen đen dọc hai bên đường và nổi bật nhất là màu trắng của những ngôi mộ bên trong nghĩa địa.
- Mấy ngày qua công việc buôn bán của anh có tốt không?
Hường hỏi.
Tôi vui vẻ nói:
- Từ hôm gặp Hường, hình như Hường đem may mắn lại cho tôi hay sao ấy, mỗi ngày tôi bán được gấp đôi!
Hường bật lên tiếng cười khúc khích. Trong bóng tối nhưng tôi vẫn thấy ánh lung linh trong mắt cô.
- Anh bán cho ai mà nhiều thế?
Hường có vẻ trêu chọc tôi hơn là hỏi thăm.
Tôi khoe:
- Ngày nào về tới đây tôi cũng bán nguyên một giỏ đầy cho đám người đi đào kênh. Hôm nay họ đào xong rồi, nên tôi không lấy bánh nhiều như vậy nữa!
- Anh không thắc mắc vì sao họ đi làm mà lại đi vào giờ khuya khoắt như thế này sao?
Hường đột nhiên hỏi.
Tôi ấp úng:
- Tôi… tôi có hỏi chứ! Họ bảo họ ở xa, đi làm xa nên phải tập trung lại đây thật sớm để đi cho kịp.
- Anh thật thà quá!
Hường nói, không biết là khen hay chê tôi nữa.
Tôi không hiểu ý Hường muốn nói gì nên cũng lặng im. Hường nhìn tôi một chặp rồi hỏi:
- Anh Tiến, em hỏi thật, anh có sợ ma không?
Bất ngờ trước câu hỏi của Hường, tôi  bật cười:
- Sao tự nhiên Hường hỏi tôi câu đó vào lúc này lại ở đúng chỗ này? Hường đừng nói là Hường cố tình nhát tôi đó nghen!
- Không, em hỏi thật, không nhát mà cũng không đùa giỡn với anh.
Hường nghiêm túc trả lời làm tôi hơi chột dạ, hỏi lại:
- Hường hỏi tôi có sợ ma không à?
Hường gật đầu xác nhận.
Tôi cười:
- Tôi cũng không biết trả lời sao nữa! Thật sự từ hồi nào tới giờ tôi không nghĩ nhiều đến vấn đề này. Nghe người này người khác kể chuyện ma quái, tôi chỉ nghe cho vui chứ cũng không để tâm lắm. Còn Hường, Hường có sợ không?
Hường không trả lời tôi mà hỏi lại:
- Giả sử anh gặp ma, phản ứng của anh sẽ thế nào?
Tôi lắc đầu:
- Tự nhiên Hường hỏi vậy làm tôi khó trả lời quá! Tôi không hình dung được. Nhưng nếu ma mà… hiền như Hường thì tôi không sợ, còn mong gặp hoài nữa là khác!
Lần đầu tiên tôi nói bông đùa lơi lả với một người con gái.
- Vậy nếu… em bảo em là ma, thì anh nghĩ sao?
Tôi phá lên cười:
- Trời ơi, tự nhiên đang đêm đang hôm, Hường lại nói chuyện ma cỏ ra đây làm gì?
- Thì anh cứ trả lời em đi!
Hường khẩn khoản.
- Hường mà là ma thì… thì tôi sẽ thích gặp ma lắm! Tôi không thấy sợ đâu!
Tôi vừa dứt lời, Hường nhích lại gần tôi rồi nhẹ nhàng đặt bàn tay cô chạm khẽ vào tay tôi, một cảm giác lạnh gai người chạy từ tay lan ra cả người khiến tôi không khỏi hoảng hốt.
- Hường… Hường…
Tôi ú ớ
Hường cất tiếng, giọng như sắp khóc:
- Đó, vậy mà anh nói với em là anh không sợ!
Tôi bàng hoàng, ngồi chết sững hồi lâu mới lấy lại phần nào bình tĩnh.
- Hường… chẳng lẽ Hường đúng là…?
Tôi bỏ lửng câu nói, không dám nhắc lại tiếng “ma”.
Thật sự thì dù Hường có là ma đi nữa tôi cũng không thấy sợ, vì nhìn cô giống y như một cô gái bình thường ở trần gian, không có vẻ gì là ma quái liêu trai cả.
Nhưng cái tôi sợ là cái cảm giác mà bàn tay cô vừa đem lại.
Hường ngồi thu lu, hai tay vòng qua bó gối, cất giọng đều đều, xa vắng:
- Anh Tiến đừng có sợ! Em không làm gì hại anh đâu. Hôm nay em có việc cần anh giúp đỡ nên mới đánh bạo quấy rầy anh.
- Hường cần tôi giúp đỡ điều gì?
Tôi thắc mắc.
Hường nhỏ nhẹ:
- Em nói thật với anh, em là một hồn ma sống trong khu nghĩa địa này. Trước kia em là cô giáo, mới ra trường đi dạy được hai năm thì em mất vì bạo bệnh. Lâu nay em thấy anh là người siêng năng chân thật lại rất hiền lành. Hôm rồi em giả làm người chờ xe để thử lòng anh đó. Và em đã xác định được anh đúng là người tốt. Biết được hoàn cảnh khó khăn của anh, em rất cảm động nên đã cố tìm cách giúp anh. Những người mua bánh mì của anh, tất cả họ đều ở trong đây.
Vừa nói Hường vừa đưa tay chỉ vào khu nghĩa địa.
Tôi hốt hoảng:
- Hường bảo… tất cả họ đều là ma? Vậy thì… tiền mà học đưa cho tôi… Trời, vậy là tôi làm hại ông chủ lò bánh mì rồi, vì toàn bộ số tiền đó tôi đã đưa hết cho ổng. Mà tôi nghe nói, ma chỉ xài tiền âm phủ hoặc lá cây, đất đá gì đó thôi…
Hường cưồi lên khe khẽ:
- Anh đừng có lo, em giúp anh chứ đâu có hại anh mà đưa tiền âm phủ hay lá cây, đất đá?
- Nhưng… Hường… ma thì làm sao có tiền thật?
Thấy tôi không tin, Hường giải thích:
- Anh không biết có người khi chết đi, gia đình họ chôn theo vòng vàng sao? Bọn em đã lấy vàng đó đem bán đi, thế là có tiền thật.
- Làm sao… làm sao bán được?
Tôi vẫn chưa hết thắc mắc.
Hường cười:
- Thì chẳng phải em đã đi nhờ xe anh một lần rồi sao? Chẳng phải những linh hồn ở đây đã mua bánh của anh gần một tháng nay sao? Khi cần, bọn em có thể mua bán với con người một cách bình thường, không ai biết. Anh hết thắc mắc chưa?
Tôi gật đầu.
Hường duỗi thẳng chân ra, ngồi ngay ngắn lên nhìn thẳng vào tôi:
- Anh có vui lòng giúp em không?
- Nếu tôi có thể giúp được gì cho Hường là tôi rất sẵn lòng.
Tôi trả lời.
Hường mừng rỡ:
- Quả thật em đoán không sai! Em biết anh là người tốt…
- Hường muốn tôi giúp Hường đìeu gì?
Tôi thắc mắc.
Hường ngó tôi chăm chăm:
- Ngày mai, nghĩa địa này sẽ bị giải tỏa. Đa số ở đây đều có thân nhân nên sẽ được bốc mộ đàng hoàng. Còn lại một số ít là không có ai thân thuộc nên mộ phần hoang lạnh bơ vơ, không người đến đưa đi, em cũng nằm trong số đó. Em muốn… em muốn nhờ anh giúp em đến đây bốc mộ em và mấy người nữa rồi đem gửi lên chùa giúp em. Được không anh?
Hường nói tha thiết như van xin làm tôi không khỏi bùi ngùi.
- Không có vấn đề gì! Tôi nhất định sẽ làm cho Hường việc đó!
Hường mừng rơn, vừa định cầm lấy tay tôi bỗng Hường chợt nhớ lại sự sợ hãi của tôi khi chạm vào tay cô lúc nãy nên cô rụt vội lại.
- Em thật sự biết ơn anh! Bọn em sẽ không để anh phải thiệt thòi đâu!
Tôi cười:
- Hường đừng nói vậy, tôi làm đâu phải vì vụ lợi.
 Hường bối rối:
- Em xin lỗi anh, tại em lỡ lời… Em biết lòng anh không bao giờ nghĩ tới chuyện đó, nhưng em muốn một người tốt như anh sẽ được sống một cuộc sống đầy đủ, hạnh phúc hơn. Bọn em đã bàn với nhau hết rồi, bọn em sẽ giúp cho mẹ anh hết bệnh.
- Hường biết má tôi bệnh nữa sao?
Tôi kinh ngạc.
Hường cười:
- Anh quên em là ma sao?
- Hường có cách giúp má tôi?
Tôi hỏi tiếp.
- Dạ! Bọn em sẽ giúp cho mẹ anh hết bệnh, và giúp cho anh một số vốn để anh làm ăn. Thấy anh buôn bán vất vả như vầy bọn em rất thương. Em nói thiệt, nếu em là người, em sẽ lấy làm chồng đó! Anh có chê em không?
Tôi bật cười, thật không ngờ lại có một con ma dễ thương đến như vậy.
- Em nói thật lòng chứ không phải nói nịnh để anh giúp em đâu. Nhưng rất tiếc… em không thể…
Giọng Hường chùng xuống, buồn tênh.
- Tôi cũng rất buồn khi biết Hường không phải là người. Tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để giúp Hường và những người ở đây được nhẹ nhàng siêu thoát. Hường đừng nghĩ gì tới việc trả ơn tôi.
Hường gật đầu:
- Dạ, nếu anh đã quyết như vậy rồi thì em cũng không dám ép. Chỉ xin anh cho phép bọn em giúp mẹ anh khỏi bệnh.
- Nếu Hường làm cho mẹ tôi khỏi bệnh mà giảm bớt tuổi thọ của tôi, tôi cũng rất mang ơn Hường…
Tôi thành thật.
Hường xua tay:
- Không, không đâu! Chẳng qua dòng họ nhà anh xưa kia mắc phải một lời nguyền nhỏ nên cứ mỗi đời phải có một người bị điên loạn. Bọn em gỡ lời nguyền đó rất dễ dàng, không ảnh hưởng gì tới ai, anh đừng lo… Em thay mặt cho tất cả những người ở đây cảm ơn anh. Giờ thì em xin phép giã từ… mà không, có lẽ là vĩnh biệt thì đúng hơn…
- Vĩnh biệt?
Tôi thảng thốt hỏi.
Hường khẽ gật đầu:
- Dạ. Nếu ngày mai anh giúp bọn em đem mớ hài cốt đó vô chùa thì linh hồn bọn em sẽ được siêu thoát, không còn phải dật dờ trên dương thế như vầy nữa. Có muốn gặp lại anh cũng không được…
Tôi mạnh dạn chủ động nắm lấy tay Hường, dù vẫn cái giá lạnh giống y như lúc nãy nhưng giờ đây tôi không còn cảm giác hoảng sợ nữa:
- Hường… tôi… thật tình tôi rất mến Hường. Tôi không muốn xa Hường… Nhưng… biết làm sao được! Thôi thì… tôi cầu mong Hường sớm được siêu thoát về miền cực lạc…
- Dạ, em cảm ơn anh nhiều lắm!
Hường nghẹn ngào, hai giọt nước mắt của Hường rơi xuống tay tôi, nóng bỏng!
Sau khi nói thêm với nhau mấy lời tạm biệt Hường giục tôi lên xe. Đạp đi một quãng xa, quay nhìn lại tôi vẫn thấy Hường còn đứng ngó theo. Lòng tôi rưng rưng muốn khóc.
Sáng đó, sau khi bán hết bánh, tôi chạy về nhà định lo cho má tôi ăn uống nhưng khi tôi về tới nhà thì bà đã lo tươm tất hết rồi. Trông má tôi lúc này, hoàn toàn không ai nhận ra chỉ mới đây thôi má tôi đã từng là người điên loạn.
Những lời nói của Hường đã thành sự thật rồi sao?
Aên vội vã bữa cơm sáng cho má tôi vui lòng, vừa xong là tôi buông đũa xách xe chạy lên nghĩa trang.
Quả thật, hôm ấy người ta tiến hành giải tỏa. Từng đám người lô nhô đào đào cuốc cuốc.
Tôi chạy đi tìm người quản lý nghĩa trang và trình bày ý nguyện được đưa các hài cốt không có thân nhân về chùa. Ý nguyện của tôi nhanh chóng được chấp thuận với điều kiện tất cả mọi chi phí đều do tôi tự lo liệu.
Vậy là tôi chạy đi thuê người giúp tôi làm việc đó.
Một tuần sau, việc lấy hài cốt đem đi hỏa táng đã hoàn thành. Tôi ôm mấy lọ hài cốt gửi  vào một ngôi chùa gần đó. Tháng nào vào các ngày rằm, mùng một dù bận rộn đến đâu tôi cũng tranh thủ ghé qua thắp nhang cho mọi người.
Mẹ tôi đã hoàn toàn bình phục. Cuộc sống của tôi cũng có nhiều thay đổi bất ngờ.
Không biết có phải Hường và các bạn bè của cô đã giúp đỡ tôi hay không mà từ đó tôi làm việ gì cũng đều tấn tới.
Giờ đây, sau hai mươi năm, tôi đã xây dựng được cho mẹ tôi một ngôi nhà khang trang để bà vui sống tuổi già, tôi cũng đã có vợ có con.
Nhưng tôi vẫn không quên đến thắp nhang cho Hường và các bạn cô mỗi tháng hai lần.
Khi nghe tôi kể lại toàn bộ câu chuyện, mẹ và vợ tôi đều nhất trí, hàng năm sẽ chọn ngày tôi đưa hài cốt vào chùa làm ngày giỗ tập thể cho họ.
Các con tôi lớn lên đều gọi những người nằm trong các lọ hài cốt kia là cô, dì, chú, bác.
Với gia đình tôi, Hường và các bạn của cô mãi mãi là những người bạn, những ân nhân.
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:15:21 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 20:42:01
SỐ TRỜI ĐÃ ĐỊNH
 
Mỹ Lan giơ hai bàn tay với những chiếc móng tay để dài, được tỉa tót cẩn thận và sơn màu đỏ sậm, cô nghiêng đầu qua, nghiêng đầu lại để ngắm nghía rồi tỏ vẻ hài lòng buông tiếng khen:
- Con nhỏ này làm móng khéo đây, đúng là học tiệm lớn tuốt trên Sài Gòn có khác, mấy đứa xóm mình chỉ theo học ở mấy tiệm uốn tóc ngoài chợ xã còn lâu mới theo kịp!
Cô bạn gái tên Thắm bĩu môi:
- Chưa chắc đâu nghen! Mấy cái vụ này là ăn thua đứa nào khéo tay thôi, tiệm lớn tiệm nhỏ gì! Mầy thì lúc nào cũng sính ngợi ca những gì giàu sang to lớn… mắc cười thiệt đó! Mầy làm như những người ở quê như tụi mình thì cái gì cũng dở, cũng xấu…
Mỹ Lan vênh mặt:
- Chứ sao! Hễ có tiền, có điều kiện thì người ta mới có thể phát huy hết tài năng vốn có của mình. Mầy nhìn lại đi, tụi con trai con gái xóm mình,  hễ học xong trường làng là ở nhà cấy gặt, mười mấy hai mươi tuổi là con bồng con bế, còn phát huy gì được nữa. Bởi vậy, tao nhất định rồi, không bao giờ tao thèm ưng lấy chồng ở quê, tao không muốn cuộc đời mình phải bị chôn vùi ở nơi khỉ ho cò gáy này!
Thắm liếc Lan, cười cười:
- Mầy nói vậy rồi mầy bỏ chàng Dũng cho ai?
Một thoáng buồn thoảng nhẹ qua mắt Lan:
- Tao với Dũng chia tay rồi!
- Cái gì? Hai đứa mầy chia tay rồi? Thiệt hay giỡn chơi vậy mậy?
Thắm ngạc nhiên, không tin vào tai mình.
- Thiệt chứ giỡn gì! Tao mới nói dứt khoát với Dũng hôm qua.
- Tại sao lại chia tay? Tao thấy tụi mầy thắm thiết lắm mà, Dũng đã làm gì cho mày buồn à?
Thắm quan tâm hỏi bạn.
Mỹ Lan cười buồn:
- Không, Dũng vẫn thương tao, vẫn lo lắng cho tao nhiều lắm! Nhưng tao suy nghĩ kỹ lại rồi, nếu tao làm vợ Dũng là cuộc đời tao không cất đầu lên được. Từ nhỏ tao đã quen sống trong sự giàu sang, quen được cưng chìu muốn gì được nấy. Dũng không có khả năng đem lại hạnh phúc cho tao!
- Nếu vậy sao trước đây mầy nhận lời yêu Dũng?
- Thì cũng bởi tao lầm! Tao cứ nghĩ ba của Dũng là ông Việt kiều đó, ai ngờ sau khi má Dũng mất đi tao mới biết ông đó chỉ là chồng hờ của má Dũng. Bả chết rồi thì mọi liên lạc giữa giữa Dũng với ổng cũng bị cắt đứt luôn!
- Vậy là… lâu nay mầy yêu Dũng chỉ để lợi dụng?
Thắm hỏi thẳng.
Mỹ Lan nhăn mặt:
- Mầy nói vậy hơi nặng, mà cũng oan cho tao nữa! Mầy cũng biết đó, ba má tao giàu có nhứt nhì trong vùng này, tao đâu có thiếu thốn gì mà cần phải lợi dụng ai? Nhưng tao tuyệt đối không lấy người nghèo hơn tao, đó là nguyên tắc số một của tao và cả của má tao nữa!
- Khi biết ông Việt kiều không phải ba Dũng là mầy cắt đứt cái phụp liền, không chút vương vấn gì sao?
Thắm tò mò.
Mỹ Lan cười:
- Mầy là bạn thân mà cứ nghĩ xấu cho tao hoài hà! Tao cũng là con người chứ phải đâu là gỗ đá xi măng gì mà hổng biết buồn mậy! Mấy năm qua, tình cảm giữa tao với Dũng cũng thắm thiết mặn nồng lắm rồi, phải chia tay với Dũng cũng là chuyện bất đắc dĩ, tao thật sự không muốn. Hôm qua, sau khi tao nói chuyện chia tay, Dũng khóc quá trời, làm tao về nhà trằn trọc tới gần hai giờ sáng mới ngủ được.
- Mầy nói chuyện sao nghe mắc cười quá! Mầy chê người ta nghèo, mầy bỏ người ta mà nói là bất đắc dĩ, làm như mầy bị ai ngăn cấm, ai ép buột mầy không bằng…
Thắm nói giọng trách cứ.
- Mầy chơi với tao lâu năm rồi mầy phải hiểu tính tao chứ! Cả cái xóm này ngoài mầy ra tao có chơi thân được với đứa nào đâu? Tự nhiên tao không có cảm tình với mấy người nghèo, hỏi mầy như vậy làm sao tao có thể ưng làm vợ Dũng được?
- Rồi bây giờ mầy muốn lấy ai trong xóm này?
Thắm có vẻ mai mỉa.
Mỹ Lan cười lớn:
- Tao chẳng lấy ai ở đây hết! Bà cô tao trên Sài Gòn hứa sẽ làm mai cho tao. Cô ấy sẽ lựa chọn đám nào thật xứng đôi với tao, tao không phải lo việc đó!
Thắm nhún vai:
- Đừng nên nói trước điều gì! Nhiều khi “nói trước bước không qua” đó mầy ạ! Số mạng con người biết đâu được. Còn tao, cứ anh chàng nào tốt bụng, hiền lành, thật tình thương tao và tao cũng có cảm tình với anh đó thì ô kê liền, không đòi hỏi giàu sang phú quý gì hết trọi. Ba má tao cũng dễ dàng trong việc đó lắm, không như nhà mầy!
- Ừ, tao cũng phải công nhận mầy với nhà mầy giàu có mà sống bình dân thiệt! Bằng chứng là ai mầy cũng chơi, cả mấy đứa nghèo kiết xác, tối ngày cứ chạy bu theo mầy…
Mỹ Lan cười lớn.
Nghe bạn nói, Thắm nghiêm mặt:
- Mầy đừng nói vậy không tốt! Ba má tao nói con người ta sướng khổ ra sao là do số phần đặt để, mình có muốn cũng không được. Cái sự nghèo giàu, sướng khổ chỉ cách nhau có một lằn ranh nhỏ như sợi tóc. Hôm nay mầy giàu sang, của tiền rủng rỉnh, nhưng cũng có thể sáng mai thôi mầy lại rách rưới lang thang?
Mỹ Lan trề môi:
- Xời ơi, là tại mấy người đó họ giàu mà họ mê cờ bạc, họ không biết làm ăn tính toán nên trắng tay là phải. Còn ba má tao với tao, không cờ bạc đỏ đen, không tiêu xài hoang phí, tiền của chỉ lo sinh sôi nảy nở ngày một nhiều hơn, thì làm sao mà trắng tay hả mậy?
- Chuyện tương lai ai mà biết được! Là tao chỉ nói ví dụ vậy thôi, biết đâu số mầy giàu sang cả mấy đời cũng nên.
Thắm vừa nói vừa cười.
Bất chợt Mỹ Lan reo lên:
- Ê, Thắm! Nghe mầy đề cập tới chuyện phần số tao nghĩ ra việc nầy, hay là tao với mầy đi xem bói đi, thử coi số tụi mình ra sao?
- Ừ, được đó! Hôm nay tao cũng đang rảnh rỗi. Vậy để tao chạy về thay đồ, sẵn hỏi thăm má tao chỗ nào coi bói hay, mầy cũng lo vô sửa soạn đi, chút nữa tao qua rồi mình đi. Giờ tao về nghen!
Thắm nói xong đứng lên xỏ chân vô dép vội vã đi về nhà.
Mỹ Lan cũng vui vẻ vào phòng lựa chọn áo quần để đi cùng bạn.
Không lâu sao Thắm tới, dừng xe trước cổng bấm còi inh ỏi. Bà Hai hỏi Mỹ Lan:
- Đứa nào ngoài đường vậy con?
Mỹ Lan chưa kịp trả lời, bà Hai nhận thấy con gái áo quần tươm tất, ngạc nhiên hỏi:
- Rồi đi đâu nữa đây? Má dặn rồi đó nghe, không được giao du qua lại với thằng Dũng nữa, dì ba mầy là cái gương trước mắt đó, ráng mà soi vào cho đời bớt khổ nghe con!
Mỹ Lan tươi cười:
- Má yên tâm đi, con hổng có khờ như dì ba đâu! Con với nhỏ Thắm đi coi bói. Để chút nữa thầy bói phán thế nào con sẽ về kể lại cho má nghe. Giờ con đi đây!
Bà Hai đứng nhìn theo con gái tung tăng đi ra cổng, bà cảm thấy thật hài lòng.
Hai vợ chồng bà chỉ có một đứa con gái duy nhất này thôi. Nhờ trời, bà sinh nó ra chẳng những lành mạnh vẹn nguyên mà nhan sắc nó còn có phần trội hơn mấy đứa con gái trong làng đôi chút. Trí óc nó lại thông minh, sắc sảo. Tuy ăn học không nhiều nhưng nó giỏi tính toán trong công việc làm ăn, lại có tài tính nhẩm.
Bà Hai tự hào về đứa con gái nầy lắm. Lâu nay bà vẫn để mắt dòm chừng nhà ai xứng đáng để cho con gái bà gửi phận trao thân.
Nhưng ở cái xóm này, nhà nào khá giả, nhìn có vẻ môn đăng hộ đối với nhà bà thì lại không có con trai trạc tuổi Mỹ Lan, hoặc con trai họ là đứa không ra gì, ăn chơi đàng điếm. Quanh đi quẩn lại bà chỉ thấy có Dũng là tương xứng với con gái bà hơn cả.
Nhà Dũng cũng chỉ đủ ăn chứ không phải là hàng giàu có, nhưng nghe nói ba Dũng là Việt kiều. Một năm ông ấy về mấy bận, nghe đâu đang làm thủ tục để đón mẹ con Dũng đi Mỹ.
Mấy năm nay Dũng với Mỹ Lan quen nhau, bà Hai chẳng những không ngăn cấm mà còn ra sức vun vào cho hai đứa.
Cái viễn cảnh đứa con gái cưng của bà được sang định cư ở một đất nước văn minh, giàu có làm bà sung sướng trong lòng, mặc dù cũng có thoáng chút ngậm ngùi khi nghĩ tới việc phải sống xa nó.
Nhưng không sao, rồi vợ chồng nó sẽ về thăm bà. Mỗi lần nó về thì cả làng cả xóm sẽ xôn xao bàn tán, sẽ nhìn nó bằng những ánh mắt ngưỡng mộ e dè. Bà sẽ luôn miệng nhắc tới những cụm từ: “nó sống ở bển…”, “ở bên đó…”, “nó không quen xài cái nầy…”, “cái này ở bên đó tới mấy đô – la”… vân vân và vân vân. Chỉ mới nghĩ tới thôi bà Hai đã thấy sướng rơn trong bụng!
Vậy mà đùng một cái má Dũng chết, chừng đó bà mới hay lão Việt kiều kia chỉ là người tình hờ của má Dũng mà thôi. Để tránh sự chê cười, dòm ngó của bà con chòm xóm, má Dũng bắt Dũng gọi ổng bằng cha và bịa ra chuyện ổng đang lo giấy tờ bảo lãnh.
Bà Hai thất vọng tràn trề. Nhưng cũng còn may là hai đứa chưa kịp làm đám cưới, con gái bà lại là đứa khôn ngoan biết giữ mình, chứ nếu không thì còn gì đời của con bà nữa!
Bà Hai thất vọng một thì Mỹ Lan thất vọng đến mười. Bao nhiêu năm qua cô đã nuôi dưỡng, ấp ôm biết bao nhiêu nỗi niềm mơ ước.
Cuộc sống ở một thiên đường xa xôi bên kia bờ Thái Bình Dương là mục đích của đời cô, bỗng trong phút chốc vỡ tan như bong bóng xà phòng.
Bà Hai chưa kịp bày tỏ thái độ không hài lòng của mình thì chính Mỹ Lan đã vội vàng ngoảnh mặt.
Chỉ tội nghiệp cho Dũng, mẹ vừa qua đời, nỗi đau chưa kịp nguôi ngoai, tưởng đâu người yêu sẽ cùng mình chia sẻ, nhưng anh nào ngờ người con gái mà anh hết lòng thương yêu, người đã cùng anh thề non hẹn biển lại trở mặt một cách nhanh chóng như thế!
Trong thâm tâm bà Hai rất tiếc cho mối tình này của Mỹ Lan. Vì bà biết Dũng yêu con gái bà chân thành, nó cũng là đứa biết điều phải, điều quấy, lại chí thú làm ăn, không bài bạc rượu chè như đám thanh niên trai tráng trong làng.
Nhưng dẫu có tiếc mấy bà Hai cũng không thể nào chấp nhận cho con gái bà về làm vợ một đứa trắng tay, nghèo kiết xác. Tấm gương của đứa em con chú luôn nhắc nhở bà Hai giữ vững lập trường.
Ngày xưa, chú bà cũng không muốn cho con gái lấy chồng nghèo, nhưng vì hai đứa thương nhau quá, ông phải chìu theo. Ngày cưới, ông cho con gái một số của hồi môn không phải là  nhỏ.
Nhưng vì gia đình bên chồng quá nghèo, quá khó khăn, em gái bà cứ nay phải giúp người này một ít, mai phải lo cho người khác một ít, chẳng bao lâu sau của cải tiêu tan hết. Lúc đó trong nhà bắt đầu xảy ra nhiều chuyện lục đục.
Những người bên nhà chồng không tiếc lời mai mỉa, nói rằng con dâu sống ích kỷ, không biết tương trợ người thân những lúc khó khăn hoạn nạn.
Họ nói ra nói vô khiến anh chồng cũng đâm ra bực bội với vợ mình. Những cuộc cãi vã thường xuyên diễn ra.
Cô em gái lúc tức giận bèn kể lể, rằng vì nhà anh mà bao nhiêu của cải của tôi đã không còn, anh chồng sĩ diện, mặc cảm nện cho cô vợ một trận nên thân, mâu thuẫn càng đào sâu mẫu thuẫn.
Cuối cùng cô em không chịu nổi phải ẵm con về nhà cha mẹ. Mối tình đẹp như mơ của họ ngày nào đã sớm nát tan cũng bởi đồng tiền!
Bà Hai biết chắc một điều, nếu không có tiền thì sẽ không bao giờ có được hạnh phúc. Không có tiền, thì yêu nhau thắm thiết đến đâu cũng không duy được tình yêu đó mãi.
Chỉ cần có tiền, mọi việc sẽ dễ dàng giải quyết. Như bà với ông Hai nhà này, hồi trước có biết yêu thương nhau là gì đâu? Hai bên cha mẹ là đối tác làm ăn với nhau, cùng kết tình sui gia để mối liên hệ càng thêm được bảo đảm. Vậy mà sau bao năm rồi ông bà vẫn sống với nhau bình thường đấy thôi.
Nói cho đúng ra ông Hai cũng lăng nhăng bên ngoài không ít, những điều đó bà Hai biết cả. Lúc đầu bà cũng không tránh khỏi cảnh ghen tương khóc lóc, nhưng rồi vẫn không thay đổi được ông, bà bèn tự quay sang an ủi bản thân mình, rằng đàn ông trên đời năm thê bảy thiếp là chuyện bình thường.
Ông Hai nhà bà chỉ lăng nhăng qua đường, chỉ ăn bánh trả tiền sòng phẳng thì cứ mặc xác ổng, miễn sao ổng vẫn vác xác về nhà mỗi ngày, tiền bạc ông làm ra và tiền bạc trong nhà đều do một tay bà quản lý , thế là bà không thèm đòi hỏi hơn nữa.
Bà Hai không muốn con gái bà phải đi vô vết xe đổ của dì ba nó. Đời nó phải được rỡ ràng hơn bà mới được, nó đẹp thế kia mà!
Hôm rồi một đứa em họ của chồng bà về chơi, trông thấy Mỹ Lan cô ấy đã không ngừng suýt xoa khen ngợi. Cô ấy hứa sẽ về Sài Gòn tìm người để mai mối, phải là mấy anh Việt kiều giàu sụ, hoặc nếu Việt Nam thì ít ra cũng phải từ hàng Giám đốc trở lên.
Lúc chia tay, cô ấy còn căn dặn Mỹ Lan phải đợi cô, không được mềm lòng trước những lời tán tỉnh của mấy anh trai làng ở đây.
Bà Hai lại một lần nữa tràn trề hy vọng.
“Con bé đi xem bói, để coi chút nữa thầy phán số nó thế nào?” Bà Hai lẩm bẩm một mình rồi lại quay vào với công việc đang dang dở.
Mãi đến trưa Mỹ Lan mới về tới nhà, trông thấy nét mặt con gái có vẻ dàu dàu, bà Hai lo lắng hỏi:
- Sao con? Thầy bói nói sao mà trông con không vui vậy?
Mỹ Lan bực bội:
- Mấy ông bà thầy đó toàn là thứ ăn ốc nói mò! Con như vầy, gia đình mình như vậy mà mấy người đó dám bảo rằng sau này nhà mình nghèo lắm, số con khổ lắm, tiền vận thanh nhàn nhưng hậu vận lại lang thang! Thấy ghét thiệt! Tức mình, con bắt nhỏ Thắm chở đi hai ba chỗ, nhưng có lẽ hôm nay nhằm ngày gì ấy, tới nơi nào cũng nghe phán những lời tương tự, chán chết được! Làm uổng phí nửa ngày trời cộng với mấy chục ngàn đồng bạc!
Bà Hai trầm ngâm:
- Thôi được rồi, đừng có buồn nữa! Để rồi má hỏi mấy bà bạn làm ăn chung, thử xem chỗ nào có thầy giỏi má dẫn con đi xem một quẻ, dù có mắc một chút cũng không sao, miễn mình biết được tương lai mình một cách rõ ràng, chắc chắn thì má cũng không tiếc!
- Dạ, vậy má nhớ hỏi giùm con nghen, chứ đám thầy bà ở quê này biết gì mà nói, toàn nói dóc không thôi! Mấy bả còn nói sau này con sẽ gặp chồng vũ phu, bị đánh đập tối ngày. Trời! Mấy bả làm như con quê mùa, chịu nhẫn nhịn như mấy đứa quanh đây sao? Được thì ở, không được thì con về nhà mình, mắc mới gì đeo theo cho nó đánh.
Mỹ Lan vẫn chưa hết tức.
Bà Hai nghe con nói tới đó vội vàng đưa tay bụm miệng con gái:
- Trời ơi, sao con nói vậy? Không có nên đâu, chưa đi lấy chồng đã tính chuyện quay về nhà mẹ đẻ. Con thiệt là…
Mỹ Lan cười cười:
- Má cũng tin dị đoan ghê há!
Bà Hai gõ nhẹ lên trán con gái, mắng yêu:
- Mồ tổ cô! Thôi, mau vô nhà thay đồ rồi ra ăn cơm, ba đang đợi ở trỏng đó cô nương!
Mỹ Lan vào phòng rồi nhanh chóng trở ra ngồi dùng cơm với cha mẹ. Hai mẹ con cô trao đổi với nhau về chuyện buôn bán làm ăn, về lời hứa hẹn của người cô ở Sài Gòn, về mấy đứa con gái trong làng lấy chồng nghèo khó…
Ông Hai chỉ lặng lẽ ngồi ăn, không hề góp chuyện. Ông mặc dù vẫn có tiếng là chủ gia đình, nhưng thật sự mọi quyền hành đều nằm hết trong tay của bà Hai. Ông chỉ biết làm theo những gì vợ yêu cầu. Sống trong nhà mình, đôi lúc ông có cảm giác mình như người ở trọ.
Ngày xưa, vì mối quan hệ làm ăn giữa hai gia đình mà ông bị buộc phải cưới bà Hai làm vợ, chứ ông không hề yêu thương bà. Sống với nhau mấy chục năm ông càng thêm chán ngán.
Thế nhưng ông thuộc loại hiền lành, hơi có phần nhu nhược, ông không dám vùng lên, ông cũng không dám phá vỡ cái khung mà cha mẹ ông đã đặt ông vào đó. Tất cả những buồn phiền, phẫn uất ông đem ra giãi bày với những người phụ nữ bên ngoài gia đình. Những người mà trong mắt họ ông là người “vĩ đại”!
Chuyện gì ông cũng nghe lời bà Hai răm rắp, chỉ riêng chuyện bồ bịch là ông không thể nghe theo. Bà Hai khóc lóc, mắng chửi cách nào ông cũng bỏ hết ngoài tai, không thèm sửa đổi. Riết rồi bà đâm chán, vả lại đối với bà tiền bạc là quan trọng nhất, ông chỉ là phần phụ!
Ông sống với bà Hai chỉ sinh được một đứa con gái là Mỹ Lan, nhưng nó lại không có chút nào giống ông về mặt hình thức cũng như tính tình. Nó giống mẹ nó từ cái nết ăn nết ngủ, giống luôn cái tính hợm hĩnh khinh người.
Nhiều lúc ông Hai cũng cảm thấy trái tai gai mắt, nhưng tất cả những lời phản đối hay góp ý của ông đều giống như muối bỏ biển, không ăn nhập gì tới ai hết.
Chuyện hôn nhân của Mỹ Lan, ông Hai không thèm có ý kiến, mặc kệ mẹ con nó muốn sao thì muốn!
Mỹ Lan vừa ăn xong bữa cơm thì Thắm chạy sang, lôi cô ra một góc thầm thì:
- Ê, tối nay mầy tham gia chơi cầu cơ không? Tao nghe nói cái vụ này linh nghiệm lắm đó, tụi mình chơi để hỏi thử tương lai đi.
Mỹ Lan thắc mắc:
- Cầu cơ hả? Là làm sao?
Thắm gãi đầu:
- Tao cũng không rành lắm, chỉ nghe nói là lấy một tờ giấy, ghi sẵn lên đó hai mươi bốn chữ cái. Cơ là một mảnh gỗ nhỏ có hình trái tim, nếu mảnh gỗ đó được lấy từ ván hòm của người chết chôn lâu năm dưới đất thì càng linh nghiệm. Khi chơi, có ba người được chọn để ngồi cơ, mỗi người đặt hờ ngón tay trỏ của mình lên miếng cơ. Sau khi cầu khẩn, hồn sẽ nhập vô miếng cơ đó để trả lời những thắc mắc của người chơi. Người chơi hỏi gì, hồn sẽ trả lời bằng cách cho miếng cơ tự động di chuyển đến các chữ cái ghi sẵn, mình chỉ việc ráp lại là biết liền.
- Thật thế à? Nghe qua cũng hấp dẫn lắm đó, nhưng… sao tao thấy không tin tưởng lắm, vì có tới ba người đặt tay lên đó, rủi bọn đó chơi gian, dùng tay đẩy miếng cơ đi thì sao?
Mỹ Lan nói.
Thắm cười:
- Ai mà biết được! Từ hồi nào tới giờ tao có chơi trò này bao giờ đâu mà biết! Tính rủ mầy chơi thử xem sao vậy mà.
Mỹ Lan đồng ý:
- Ừ, chơi thì chơi, nhưng chơi ở đâu và ai là người chủ xướng trò này?
- Chơi ở sau vườn chuối nhà con Hảo. Tối nay ba má nó đi đám tiệc vắng nhà. Hồi trưa này tụi thằng Đức, thằng Tí Ròm đi coi người ta lấy cốt trong nghĩa địa, rình lấy cắp được một miếng ván hòm. Vì vậy con Hảo mới rủ tụi mình chơi. Nó làm chủ xướng. Nó bảo đã có lần chơi trò này rồi, linh lắm!
Thắm có vẻ háo hức.
Mỹ Lan cười tươi:
- Được rồi! Linh hay không linh tối nay mình chơi là biết liền! Trước tiên tao sẽ hỏi về những chuyện đã qua để xác định mức độ chính xác, nếu hồn trả lời đúng thì tiếp tục, còn nói tầm bậy tầm bạ thì nghỉ chơi, đâu có sao há?
- Ừ, vậy nghen! Tao về, hẹn tối gặp lại ở nhà con Hảo.
Thắm nói xong bước nhanh ra cửa.
Mỹ Lan nhìn theo mỉm cười:
- Con nhỏ này con nhà giàu mà dáng dấp lúc nào cũng tất bật, vội vàng, số nó chắc sau này vất vả lắm đây! Còn mình, ung dung thư thái trong mọi tình huống, vậy mà mấy người thầy bói hồi sáng dám nói là số mình gian nan, mắc cười thiệt!
Nghĩ vậy Mỹ Lan không khỏi mỉm cười. Cô thong thả vào nhà chuẩn bị tiền để đi thu mua lúa.
Tuy là con nhà giàu nhưng Mỹ Lan không thuộc loại tiểu thơ ngồi không chưng diện, cô rất ham tiền và cũng ham làm ra tiền lắm.
Vì vậy, chưa tròn hai mươi tuổi mà cô đã có được số vốn riêng cũng kha khá rồi.
Trời chạng vạng tối, sau khi cơm nước xong Mỹ Lan xin phép mẹ tới chơi ở nhà Hảo. Bà Hai không quên nhắc chừng:
- Chơi đâu thì chơi, nhưng nhớ là không được hẹn hò với thằng Dũng, con phải nhớ lời cô con căn dặn đo nghe không?
Mỹ Lan bật cười:
- Má yên tâm đi, con luôn ghi nhớ mà!
Mỹ Lan vừa ra tới ngõ là gặp Thắm, cô cười thật tươi:
- Mầy nói tao tin dị đoan, nhưng coi bộ mầy còn ghiền ba cái vụ này hơn cả tao nữa đó Thắm à!
Thắm nhăn nhở cười:
- Tao… tao đâu có tin lắm đâu, chỉ tại tao tò mò quá, muốn biết cầu cơ như thế nào thôi hà!
Mỹ Lan thụi nhẹ vô lưng bạn:
- Đừng có ngụy biện cô nương! Tao đi guốc trong mầy từ lâu rồi kìa…
Cả hai cùng cười vui vẻ rồi dắt tay nhau tới nhà Hảo.
Nhà Hảo là một ngôi nhà cổ xưa, mái lợp ngói âm dương đã bám đầy rêu phong. Ngôi nhà ẩm thấp nép mình trong vườn chuối bao bọc xung quanh, tách biệt hẳn với những ngôi nhà ngói khang trang mới được xây dựng của những người lân cận.
Xưa kia ông bà của Hảo có vai vế rất lớn trong làng, nhưng ngày nay đó chỉ còn là niềm tự hào lặng lẽ của gia đình.
Gia cảnh của Hảo tuy không bằng Mỹ Lan nhưng cũng không thuộc loại nghèo hèn, nên nhà Hảo cũng là nơi mà Mỹ Lan thỉnh thoảng cũng hay lui tới.
Lúc Thắm và Mỹ Lan tới thì trong nhà Hảo đã có mặt Nụ và Mơ. Mỹ Lan không ưa hai đứa này, nhưng vì lịch sự cô cũng mỉm cười chào lấy lệ.
- Hảo, chút nữa mầy tính để ai ngồi cơ vậy?
Thắm tò mò.
Hảo nói:
- Tao tính… tao, mầy với Mỹ Lan, được không?
- Ừ, được đó, được đó! Mầy đồng ý không Mỹ Lan?
Thắm reo lên.
Mỹ Lan suy nghĩ một chút rồi nói:
- Tao tính như vầy: mấy đứa ngồi cơ, mầy nên chọn những đứa không biết chữ thì càng tốt, như vậy bảo đảm tính khách quan công bằng hơn, không sợ tụi nó chơi khăm mình.
Nghe vậy, Nụ cười:
- Vậy ở đây chỉ có tao với con Mơ là không biết chữ, còn thiếu một đứa nữa, mầy tìm thêm đi!
- Ê, hay kêu em mầy đi Hảo? Nó còn nhỏ, chưa đi học nên không sợ nó ăn gian được!
Thắm góp ý.
Hảo lắc đầu:
- Không được đâu! Trò chơi này coi vậy mà cũng có phần nguy hiểm lắm. Nếu lúc hồn đang lên mà người ngồi cơ không nghiêm túc, giỡn hở hoặc tự động bỏ tay ra khỏi con cơ thì sẽ bị hồn nhập vào thân xác. Nó còn nhỏ không tham gia trò này được đâu.
Mơ le lưỡi:
- Trời, ghê vậy sao? Tao ớn quá mầy ơi…
Hảo trấn an:
- Mầy đừng sợ, nếu trong lúc chơi mình luôn nghiêm túc, và chỉ rời tay sau khi con cơ chạy vào ô có chữ THĂNG thì mọi sự bình thường, không có gì phải sợ!
- Vậy bây giờ kiếm thêm ai nữa cho đủ ba đứa ngồi cơ?
Nụ hỏi.
- Gọi thêm nhiều đứa nữa thì sợ mất linh. Tao tính như vầy nghen, ngoài hai đứa chủ yếu là con Nụ với con Mơ, còn lại ba đứa tao, con Thắm với Mỹ Lan, hễ tới phiên đứa nào hỏi thì đứa đó ngồi cơ, khỏi phải sợ có điều gian dối, tụi mầy chịu không?
Nghe Hảo đề nghị cả đám đồng thanh hưởng ứng:
- Phải đó! Phải đó! Như vậy sẽ rất công bằng!
Mấy người bạn vừa ăn đậu phộng rang vừa rôm rả chuyện trò chờ tới lúc trăng lên cao, màn đêm tĩnh mịch, cái giờ khắc mà âm thịnh dương suy thì chơi cầu cơ mới được linh nghiệm tuyệt đối.
- Tao phải năn nỉ gần chết tụi thằng Đức với thằng Tí Ròm mới chịu cho mượn miếng cơ này đó!
Vừa nói, Hảo vừa đưa ra một miếng gỗ sần sùi được đẽo gọt thành hình trái tim khoe với các bạn.
- Hai đứa tụi nó đòi được tham gia nhưng tao đâu có chịu! Mình hỏi chuyện riêng tư, có mặt mấy thằng đó hổng tiện.
Hảo nói tiếp.
Mỹ Lan tò mò:
- Bàn cơ là cái gì?
Hảo cười cười, rút trong ngăn bàn ra một tờ giấy bìa cứng khổ lớn có màu trắng ngà ngà, mở ra trước mặt các bạn, vừa lấy ngón tay trỏ chỉ vào tờ giấy vừa giải thích:
- Trên tờ giấy nầy tao đã ghi sẵn hai mươi bốn chữ cái. Bên này là các ô ghi những chữ THẦN – THÁNH – MA – QUỶ để khi nhập lên hồn có thể tự giới thiệu về mình. Bên này ghi ĐÚNG – SAI – CÓ – KHÔNG nhằm giúp hồn trả lời nhanh gọn. Còn chữ THĂNG ở góc phía dưới này là để hồn báo hiệu cho mình biết là hồn xuất ra khỏi con cơ. Cái ô vè hình trái tim này là chỗ khởi đầu của con cơ. Khi bắt đầu chơi, con cơ sẽ được đặt nằm ở chỗ này, ba đứa cùng để ba ngón tay chạm hờ vào con cơ. Hồn sẽ nhập vào con cơ sau khi mình cầu khấn. Ai hỏi gì, con cơ sẽ tự di chuyển đến vị trí của từng chữ cái để trả lời. Bởi vậy mình phải lưu ý nhớ từng chữ cái để ghép lại thành câu trả lời. Để cho chắc ăn, tao có để sẵn tờ giấy với cây viết nè, hễ cơ đi tới chữ gì thì mình ghi lại cho rõ ràng, khỏi sợ lộn xộn. Tụi mầy nên nhớ, khi hỏi xong, không được suy nghĩ gì trong đầu, nếu suy nghĩ thì câu trả lời có thể sẽ không được chính xác. Và một điều quan trọng nhất là ba đứa ngồi cơ không được đẩy con cơ đi, mà phải để cho nó tự di chuyển, nhớ chưa?
Nghe Hảo nói xong, mấy đứa còn lại đều gật gù. Mỹ Lan cười, vẻ thích thú:
- Nghe hấp dẫn quá! Chút nữa tụi mầy để tao hỏi đầu tiên nhe?
- Ừ, cho mầy thí nghịêm trước đó! Trò nầy tao đã chơi mấy lần rồi, chính xác lắm! Nhưng tụi bây phải nhớ là không được đùa giỡn trong lúc chơi đó nghen, và dù câu trả lời thế nào đi nữa cũng không được tỏ thái độ giận dữ hay bất cứ hành động nào vô lễ, không thôi sẽ bị hồn nhập vào thì ráng chịu đó!
Hảo cẩn thận nhắc nhở các bạn thêm lần nữa.
Hơn mười giờ khuya, làng xóm đã chìm vào giấc ngủ, không gian tĩnh lặng, thi thoảng mới có tiếng chó sủa xa xa vọng tới.
Hảo lôi một manh chiếu ra trải xuống giữa vườn chuối rậm rạp sau nhà.
Ở giữa chiếc chiếu có đặt một chiếc bàn thấp, trên mặt bàn là bàn cơ trải rộng, được dằn bốn góc bằng bốn cái ly nhỏ dùng để uống rượu.
Ở một góc bàn là bát hương lập lòe mấy cây nhang mà Hảo vừa thắp lên và lầm rầm khấn vái:
- Cầu xin trời phật, ma quỷ, thánh thần từ bốn phương tám hướng hãy nương theo gió về đây giúp chúng con biết được hậu vận của mình…
Cùng với lời khấn vái của Hảo, làn gió đêm chừng như thổi mạnh hơn, làm cả vườn chuối xạc xào cọ lá, ánh trăng lấp loáng, bầu không khí chợt trở nên rờn rờn như có âm hồn quanh quẩn đâu đây.
Năm cô gái ngồi sát vào nhau quanh chiếc bàn con, ai cũng thấy có cảm giác sờ sợ trong lòng.
Hảo khấn xong, bảo Mỹ Lan, Nụ và Mơ cùng đặt tay lên miếng cơ đã được để trong ô có vẽ hình trái tim ở góc phía dưới của bàn cơ.
Khi ba cô gái vừa đặt ngón trỏ lên con cơ thì trăng lu, ba cây nhang đang cháy lập lòe bỗng một luồng gió hắt qua làm nó bùng lên như có ai đang phùng má thổi. Không gian quanh đó bỗng trở nên huyền bí lạ lùng!
Có lẽ để đề phòng những đứa yếu bóng vía có ý định tháo lui, hảo hăm dọa:
- Bây giờ đứa nào bỏ tay ra là hồn nó theo đó! Coi chừng!
Mỹ Lan cảm thấy ngón tay mình run lên khe khẽ nhưng cô hoàn toàn không có ý định bỏ cuộc. Cả Mơ và Nụ chắc cũng có cùng ý nghĩ đó. Cô nào cũng muốn biết hậu vận mình.
Hảo lại tiếp tục thì thầm gọi hồn:
- Cầu xin trời phật, ma quỷ, thánh thần từ bốn phương tám hướng hãy nương theo gió về đây giúp chúng con biết được hậu vận của mình…
Mấy cô gái ngồi nép sát vào nhau, mắt dính chặt vào con cơ.
Ba ngón trỏ vẫn đặt yên trên cơ, kiên nhẫn chờ hồn nhập vào.
Bụi trúc cạnh đó cứ kêu lên kẽo kẹt, kẽo kẹt không ngừng như có người đang tức giận nghiến chặt hàm răng.
Bỗng đâu con mèo mướp nhà Hảo, thường ngày chỉ nằm lim dim một chỗ vì đã quá già, tự dưng từ trong bóng tối phóng ra, hai mắt chiếu sáng rực như hai hòn ngọc, thân nó cong lại, hai chân trước cào cào trong không khí, miệng không ngớt kêu grừ grừ… rồi chợt lùi dần vào bóng tối như có ai đó vô hình đang đứng trước mặt nó làm cho nó sợ.
Mỹ Lan giật thót người và tim đập thình thịch.
Trăng lu rồi tỏ, tỏ rồi lại lu. Đêm nay trời nhiều mây, cứ lâu lâu lại có đám mây bay qua che khuất mặt trăng, làm cho bóng đen ụp xuống, tối sầm.
Mấy cây nhang đã sắp tàn mà cơ vẫn đứng yên.
Thời gian chậm chạp trôi qua. Cơ vẫn đứng yên. Tàn nhang lập lòe sắp tắt hết. Không biết đã mấy giờ rồi?
Mỹ Lan cảm thấy chán, vừa định lên tiếng thì trên trời mây bỗng tan nhanh, trăng chợt tỏ, cơ tự nhiên nhúc nhích dưới ánh trăng.
- Hồn lên rồi!
Mỹ Lan la lên khe khẽ. Mơ và Nụ cũng giật mình khi nhận ra con cơ dưới ngón tay không còn nằm yên nữa.
- Không đứa nào được rút tay ra!
Hảo nhắc lại.
Con cơ xoay tròn, chầm chậm và ba ngón tay trỏ cũng xoay theo. Mỹ Lan ngồi giữa, ngón tay trỏ của cô để trên đuôi cơ, Mơ ngồi bên trái, Nụ bên phải, hai ngón tay của hai cô đặt trên hai cánh cơ như đứng hầu đằng sau, nặng trịch.
Cơ xoay vòng ngược kim đồng hồ, cánh tay của Mơ luồn dưới cánh tay Mỹ Lan, tréo ngang. Nếu cơ tiếp tục xoay cùng hướng thì chắc Mơ phải bỏ tay ra nhưng tự nhiên cơ dừng, rồi từ từ xoay ngược lại.
Hảo hối thúc:
- Hồn lên rồi đó, mầy muốn hỏi gì thì hỏi lẹ đi, Mỹ Lan!
Mỹ Lan ấp úng khiến Hảo phải nhắc:
- Mầy hỏi hồn là ai đi?
Mỹ Lan lặp lại như cái máy:
- Xin hỏi… hồn là ai?
Con cơ cứ xoay qua xoay lại, chầm chậm rời trái tim vẽ rồi từ từ rơi tuột về phía dưới ở góc phải bàn cơ. Cơ đứng yên một lúc rồi xoay qua xoay lại, nặng nề trồi lên.
- Không đẩy, không được đẩy!
Hảo nhắc lại, giọng xúc động:
- Để yên cho cơ chạy!
Giờ thì cơ đang nằm trước mặt hai mươi bốn chữ cái được viết bằng mực đen với cỡ chữ to và tô đậm.
- Xin hồn cho biết hồn là ai?
Mỹ Lan mạnh dạn lặp lại lần nữa.
Cơ xoay qua xoay lại rồi bươn bươn đi về cuối hàng chữ, dừng lại ở chữ Q, rồi nhích tới chữ U, rồi lưỡng lự nửa muốn quay về bên trái, nửa muốn tiếp tục đi cùng hướng.
Cuối cùng cơ quay về phía trái và tiến dần về phía chữ K, nó không dừng ở chữ K mà vượt qua khỏi đó, hướng về chữ sau chữ K…
- Q, U, I là… quỷ!
Thắm la lên.
Thắm hét lên, rú lên thì đúng hơn, rồi đứng bật dậy dợm chân muốn chạy vào nhà, may mà Hảo kịp níu lại.
Như để xác định lại một lầ nữa, con cơ xoay qua xoay lại nhè nhẹ như còn lưỡng lự rồi bất chợt nó di chuyển dần dần vầ phía phải, cuối cùng chui tọt vào ô có chữ  QUỶ rồi nằm im ở đó.
Cả mấy cô gái đều thấy lạnh dọc sống lưng nhưng trên trán ai nấy đều lấm tấm mồ hôi mặc dù đang ngồi giữa trời mát rười rượi.
Tự nhiên Mỹ Lan trở nên bạo dạn:
- Xin hỏi, khi chết hồn bao nhiêu tuổi?
Cơ đang đứng yên bỗng xoay qua xoay lại rồi tiến lên, tiến lên về phía bên trái. Cơ đi ngang qua mặt chữ I, rồi hơi trờ qua chữ H một chút, dừng lại.
- Chữ H, ghi vô nghe Thắm!
Hảo la lên nho nhỏ, phấn khởi.
Cơ xoay qua xoay lại quay mũi về bên phải, từ từ di chuyển rồi dừng lại trước chữ N.
- H, N… là gì nhỉ?
Thắm lẩm bẩm trong miệng, bối rối.
Cơ nhích thêm về bên phải một chút, đứng giữa chữ N và chữ O.
- H, N, O không có nghĩa…
Hảo thất vọng lặp đi lặp lại mấy lần rồi reo khẽ:
- H, O, N là… là hòn, là hón, là hỏn, là hồn… là hỗn, hỗn… Đúng rồi! Là chữ hỗn đó.
Mọi người dường như lặng đi một lúc mới chợt hiểu hết tầm quan trọng của chữa HỖN, vừa từ cõi xa xăm vọng lại, nhắn về qua cơ.
Mỹ Lan khẩn khoản:
- Chúng con xin lỗi hồn, xin hồn tha lỗi cho chúng con…
Cơ tiếp tục xoay qua xoay lại, chầm chậm như chờ đợi.
- Hỏi tiếp đi!
Sau giây phút nặng nề bị hồn mắng mỏ bất ngờ, Hảo hối thúc Mỹ Lan.
Mỹ Lan thành khẩn:
- Xin hồn cho con được biết về số phận của con…
Mỹ Lan vừa nói dứt lời là cơ chạy.
Cơ bắt đầu dừng lại lần lượt ở các con chữ: N, H, O rồi ngập ngừng một lúc lại đi tiếp G, I, A, U. Bỗng cơ xoay tít, xém chút nữa ba cô gái đã lấy ngón tay mình ra mình ra khỏi miếng cơ, nhưng không, cơ dừng lại vừa kịp lúc.
- Cơ nói lúc nhỏ mầy giàu có. Đúng quá rồi còn gì! Hỏi tiếp đi!
Thắm giục
Mỹ Lan hồi hộp:
- Xin hồn cho biết hậu vận sau này của con có được giàu sang hay không ạ?
Cơ di chuyển đến ô có viết chữ KHÔNG và nằm im ở đó. Mỹ Lan run run hỏi tiếp:
- Vậy sau này cuộc đời con sẽ ra sao ạ? Xin hồn cho con được biết…
Cơ lại tiến dần đến các chữ: V, A, T, V, A.
- Vê, a, tê, vê, a…
Hảo dịch thông điệp tới đó rồi hạ giọng:
- Vất vả! Số mầy sau nầy sẽ vất vả!
Không khí lặng đi, chìm xuống như chia sẻ niềm đau trước viễn cảnh tương lai của Mỹ Lan mà cơ vừa cho biết.
Mỹ Lan bực dọc nhưng vẫn nén lòng hỏi tiếp:
- Xin hồn cho biết về người chồng sau này của con. Người đó giàu hay nghèo, xấu hay tốt ạ?
Cơ có bẻ như phân vân một chút rồi mới tiếp tục di chuyển tới các chữ: N, G, H, E, O, X, A, U.
Lần này cả Hảo và Thắm đều không dám xướng lên lời cơ phán. Mỹ Lan xanh mặt:
- Cho con được hỏi câu cuối cùng: Hồn có biết chồng con sau này tên là gì không ạ?
Cơ xoay tới xoay lui mấy bận mới di chuyển tới chữ D rồi nằm luôn ở đó, không đi đâu nữa.
Yên lặng, âm u. Cơ đứng yên nhưng dường như vẫn có ai ẩn nấp bên trong đó.
Chờ mãi vẫn không thấy cơ nhúc nhích, Mơ giục:
- Mỹ Lan có hỏi gì thì hỏi lẹ lên đi, còn tới phiên tụi này nữa, khuya lắm rồi đó!
Mỹ Lan ngơ ngẩn:
- Thôi, không hỏi nữa!
Tự nhiên cơ lại xoay tít rồi chạy về nằm vào ô có chữ THĂNG.
- Hồn đi rồi!
Thắm la lên.
Mỹ Lan, Nụ và Mơ đồng loạt nhấc tay ra khỏi con cơ.
- Mình gọi hồn khác lên đi, lần này tới lượt tao nghe!
Thắm đề nghị.
Khi lời cầu khấn của Hảo vừa dứt thì cơ bắt đầu động đậy. Lần này, hồn nhập về không phải là quỷ nữa mà theo lời tự giới thiệu là THẦN.
Nhưng từ lúc đó, Mỹ Lan không còn tâm trí nào để theo dõi các bạn nữa. Cô ngồi im lặng, mắt vẫn dán chặt vào bàn cơ nhưng tâm hồn lại rối ren lo lắng.
Mãi đến hơn nửa đêm cuộc cầu cơ mới kết thúc. Ngoại trừ Mỹ Lan, hầu hết mấy cô bạn gái đều hài lòng với những điều được cơ dự báo.
Trông thấy Mỹ Lan không vui, Thắm an ủi:
- Trò này chỉ là chơi cho vui, chưa chắc gì nói đúng, mầy đừng bận tâm làm gì nhe Mỹ Lan!
Mỹ Lan gượng cười:
- Tao đâu có bận tâm! Thôi, tao về nghen, khuya rồi, má tao trông ở nhà!
Bỏ mặc các bạn ở lại dọn dẹp, Mỹ Lan một mình về trước.
Ở nhà, bà Hai vẫn còn thức xem ti vi, nhưng chủ yếu là bà thức để đợi con gái.
Vừa thấy Mỹ Lan đẩy cửa bước vô nhà, bà Hai lên tiếng:
- Đi đâu mà lâu lắc dữ vậy không biết! Má ngồi ở nhà mà ruột nóng như hơ! Lần sau không được đi như vậy nữa!
Mỹ Lan buông người xuống sa – lông một cách mệt mỏi:
- Má chờ con chi vậy không biết! Cứ đi ngủ trước đi!
- Làm sao má ngủ trước được! Làm sao má có thể yên tâm…
Bà Hai tức giận.
Mỹ Lan nhỏ nhẹ:
- Hồi chiều con nói với má rồi, con qua nhà con Hảo, gần sát một bên nhà mình chứ có xa xôi gì đâu!
Bà Hai nhìn con dò xét:
- Con qua làm gì bên đó mà coi bộ hổng vui vẻ gì hết trơn vậy?
Mỹ Lan âu sầu:
- Con lo quá má ơi, không biết số con đúng là như vậy hay tại hôm nay là ngày sát chủ, đi tới đâu cũng chỉ nghe toàn chuyện gì đâu không! Hồi sáng đi coi bói, thầy bói nói số con sau này vất vả long đong, vừa lúc nãy đi cầu cơ với tụi con Thắm, con Hảo, cơ nhập lên cũng nói y chang như vậy, thiệt tình con cũng lo quá…
Bà Hai an ủi con gái:
- Con đừng có lo, ngay ngày mai má sẽ tìm thầy bà nào giỏi nhứt để dẫn con tới xem một quẻ. Nếu thật sự số con vất vả, má sẽ nhờ người ta cải số cho con.
- Cải số cũng được sao má?
Mỹ Lan thắc mắc.
Bà Hai nói chức nịch:
- Được chứ con! Hễ có tiền là cái gì cũng làm được! Má nghe nhiều người nói tới chuyện cãi số lắm rồi! Con đừng lo nghĩ làm chi cho mệt, hai má con mình vô ngủ đi, mai má sẽ lo cho con. Má chỉ có một mình con, bất cứ giá nào má cũng làm cho cuộc đời con được sung sướng.
Mỹ Lan ngồi nhích tới giang tay ôm lấy bà Hai, dụi đầu vào ngực mẹ nũng nịu:
- Má, con thương má nhất trên đời!
- Má cũng thương con nhất trên đời…
Bà Hai vuốt tóc con gái, cảm thấy lòngmình vô cùng hạnh phúc.
 
***
- Mỹ Lan, anh xin em! Xin em hãy suy nghĩ lại, tình cảm của hai đứa mình bao năm qua rất êm đẹp, bỗng dưng em lại nói tiếng chia tay với anh, anh đau lòng lắm. Anh yêu em thật sự mà Mỹ Lan!
Dũng nắm chặt cánh tay Mỹ Lan, không chịu bỏ ra.
Mỹ Lan tỏ vẻ khó chịu:
- Tôi đã nói với anh rồi, tôi không thể tiếp tục yêu anh được nữa! Nếu anh thương tôi, xin anh đừng làm khó dễ gì cho tôi hết. Mình đã không còn là gì của nhau nữa rồi, xin anh hãy để cho tôi được yên, đừng đeo theo quấy rầy cuộc sống của tôi nữa!
Vừa nói, Mỹ Lan vừa cố rút cánh tay mình ra khỏi bàn tay đang giữ chặt của Dũng.
Dũng tuyệt vọng buông tay người yêu ra:
- Em thật sự không còn chút tình cảm nào với anh sao, Mỹ Lan?
Mỹ Lan cười nhạt:
- Anh muốn tôi phải lặp đi lặp lại bao nhiêu lần nữa mới thôi đây? Lần cuối cùng tôi xin nhắc lại, tôi, Mỹ Lan này đã không còn chút cảm tình nào với anh hết, mọi quan hệ trước đây của chúng ta xem như kết thúc. Bắt đầu từ hôm nay, giữa tôi và anh đã trở nên xa lạ, anh nhớ lấy!
Dũng cay đắng:
- Anh không ngờ… Anh thật không ngờ em lại là loại người như vậy! Tình cảm của em sao lại có thể đổi thay nhanh chóng trong một sớm một chiều như vậy? Anh đã làm điều gì có lỗi với em sao?
Mỹ Lan nhìn Dũng vẻ thương hại:
- Không… không! Anh hoàn toàn không có lỗi gì với tôi hết. Tôi biết anh là một thanh niên tốt, anh yêu tôi rất chân thành, tôi không phàn nàn gì về anh hết! Nhưng… anh biết đó, tôi không quen sống đời nghèo khó. Anh sẽ đem lại cho tôi được những gì?
Dũng đau khổ:
- Thì ra là em chê anh nghèo? Nhưng Mỹ Lan ơi, anh xin hứa với em, anh sẽ cố gắng làm việc kiếm tiền, anh không để em phải sống thiếu thốn vất vả đâu, anh xin em nghĩ lại!
Mỹ Lan ngoảnh mặt nhìn đi chỗ khác, giọng hờ hững:
- Anh cố gắng bằng cách nào đây? Thôi anh cứ cố gắng đi, khi nào trong tay có được một sự nghịêp gì rồi thì hãy nói chuyện tiếp với tôi. Bây giờ tôi còn có việc, xin lỗi không thể đứng đây đôi co với anh mãi được! Tôi chúc cho anh sớm được toại nguyện.
Nói vừa dứt câu Mỹ Lan bước thẳng, không thèm nhìn lại Dũng thêm một lần nào nữa.
Đau đớn, tủi nhục Dũng thất thểu quay trở về căn nhà âm u lạnh lẽo của mình.
Từ ngày mẹ chết, người yêu ngoảnh mặt quay lưng, Dũng không còn thiết tha tới bất cứ một việc nào nữa.
Tối hôm qua có mấy đứa bạn rủ đi đào vàng ở một nơi nào đó thật xa xôi, Dũng nhận lời ngay mà không cần hỏi lại nơi đó là nơi nào.
Trước khi lên đường Dũng muốn tìm gặp Mỹ Lan lần cuối để nói với cô lời từ giã, nhưng thật đau đớn cho anh khi lời giã từ chưa nói được mà phải nhận lấy những lời tuyệt tình ấy của Mỹ Lan.
Thật buồn cho tình đời mau đổi trắng thay đen!
Dũng nằm gác tay lên trán một lúc rồi đứng lên dọn dẹp nhà cửa, gom một vài bộ áo quần nhét vô chiếc ba lô màu cỏ úa, thắp cho mẹ mấy nén nhang.
Chờ cho nhang tàn hết, Dũng khóa cửa nhà, lặng lẽ ra đi!
Trời chiều chạng vạng, khói bếp nhà ai lơ lửng trên mái nhà… Tiếng trẻ con khóc, tiếng người mẹ ru hời… Tất cả những hình ảnh, âm thanh ấy làm mắt Dũng cay xè. Anh cắm cúi rảo bước thật nhanh trên con đường quê quạnh vắng, bỏ lại sau lưng mình mái nhà ắp đầy hình bóng người mẹ yêu thương, bỏ lại sau lưng những nơi chốn hẹn hò đong đầy kỷ niệm, nhưng có một thứ Dũng rất muốn bỏ lại nhưng anh không sao làm được, đó là hình ảnh tươi trẻ của Mỹ Lan và một tình yêu đầy đau đớn mà anh đang mang nặng trong lòng…
 
***
Bà Hai dựng xe trước sân nhà, chạy vội vào trong rối rít gọi con:
- Mỹ Lan, Mỹ Lan đâu rồi?
- Dạ, con đây! Má làm gì kiếm con gấp rút quá vậy?
Mỹ Lan khoan thai đi từ dưới bếp lên hỏi mẹ.
Bà Hai kéo con gái lại gần thì thầm:
- Nè con, bà bạn của má mới chỉ cho má biết một ông thầy hay đáo để. Ổng có thể soi thấu tiền căn hậu kiếp của người khác, mà đặc biệt là ổng cũng có tài cải số. Bạn của má cũng nhờ ông thầy đó giúp đỡ mới có được ngày hôm nay đó con à!
- Ông thầy đó ở đâu lận má?
Mỹ Lan hồ hởi hỏi.
Bà Hai chép miệng:
- Cũng hơi xa, ở tuốt trên Tây Ninh. Nhưng mà hổng sao, miễn hay là ở đâu má cũng dẫn con tìm tới được! Vậy thì ngay trong buổi chiều nay, má con mình phải lo đi giao tiền và đặt cọc hết mấy chỗ người ta kêu bán lúa hồi sáng giờ. Làm xong, má đi thuê xe, sáng mai má con mình đi sớm nghe con.
- Dạ.
Mỹ Lan hí hửng.
Nãy giờ ông Hai nằm trên bộ ván gần đó đã nghe hết câu chuyện giữa hai mẹ con, ông không dằn lòng đựơc bèn lên tiếng:
- Mẹ con bà lại lo đi làm mấy chuyện tào lao nữa đó hả? Cải số cải siếc, thầy bà cái nỗi gì, cứ ăn ở cho đàng hoàng tử tế, lo tu nhân tích đức vào thì số nào cũng cải được hết!
Bà Hai bĩu môi:
- Ông thì biết gì mà nói! Tui có làm gì thất nhơn ác đức đâu mà ông biểu tui phải ăn ở đàng hoàng, tu nhân tích đức?
- Tui biết, tui biết bà không đâm chém, giết chóc ai, nhưng cái thói của mẹ con bà thì tui rành sáu câu vọng cổ. Mẹ con bà có coi ai ra gì đâu, nhìn ai cũng bằng nửa con mắt! Nội cái chuyện thằng Dũng không thôi là tui thấy gai mắt lắm rồi. Mới ngày nào bà không ngớt lời ca ngợi, hối thúc hai đứa tụi nó cưới nhau, rồi đùng một cái bà lại chê bai dè bỉu, ngăn đường cản lối… Thiệt tình tui không hiểu nổi mẹ con bà muôn cái gì nữa. Nhà mình dư ăn dư để như vầy, cưới một thằng rể, cho dù nó chỉ có hai bàn tay trắng mình cũng dư sức lo cho nó, mắc mớ gì hai mẹ con bà cứ khăng khăng đòi được người giàu, là sao chứ?
Ông Hai ngồi dậy, rót một chung trà đưa lên miệng ực một cái cạn khô như để dằn bớt nỗi bực dọc trong lòng.
Bà Hai cười mũi:
- Ông bị mấy con mắt xanh mỏ đỏ ngoài đường làm cho lú lẫn hết rồi, không còn biết lo cho tương lai con cái gì hết! Tui không thèm nói chuyện với ông nữa. Việc của mẹ con tui để mẹ con tui tự lo, không cần ông phải xen vào rồi ý kiến ý cò này khác.
Ông Hai tức giận đấm mạnh tay xuống bàn:
- Được rồi! Tôi sẽ không can dự vào bất cứ việc gì trong nhà này nữa, bà cứ ở đó mà lo cho đã đời đi!
Nói dứt lời, ông Hai đùng đùng lên xe rồ ga đi mất.
Bà Hai nhìn theo lắc đầu:
- Bực mình với ông này…
Mỹ Lan can:
- Thôi đi má ơi, má với ba cứ cãi nhau hoài, con thấy chán lắm!
- Tao cũng chẳng thèm cãi vả với ổng làm gì cho mệt, cũng tại ổng kiếm chuyện trước mà thôi! Đừng thèm nhắc tới ổng nữa, giờ lo đi làm cho xong việc, rồi còn về chuẩn bị sáng đi sớm nữa đó nghe con!
Bà Hai nói xong xách giỏ ra xe. Mỹ Lan thay áo quần rồi đóng cửa nhà đi sau mẹ.
Khuya hôm đó mới bốn giờ sáng hai mẹ con đã lục đục dậy đánh răng rửa mặt. Vừa kịp thay đồ đạc xong đã nghe tiếng xe bấm còi tin tin ngoài ngõ.
Hai mẹ con Mỹ Lan chạy vội ra xe, không ai thèm nói với ông Hai một tiếng nào. Ông Hai nằm trong mùng nghe hết nhưng vẫn làm bộ say ngủ. Chừng vợ con đi rồi ông mới ngồi dậy, ra trước bàn ngồi uống trà một mình. Ông nghe trong lòng chợt trỗi lên một nỗi đắng cay ghê gớm.
Ông vẫn còn đang khỏe mạnh, vẫn đều đều đem tiền về nhà cho vợ con, vậy mà chính trong ngôi nhà này ông đã trở thành người thừa thãi rồi sao?
Rồi mai đây khi tuổi già sức yếu ông làm sao có thể sống được ở đây? Không! Ông phải tự tìm cho mình một lối đi, ông không thể hy vọng gì vào vợ con ông nữa.
Lâu nay ở bên ngoài, ông lăng nhăng bay bướm cho vui chứ chưa bao giờ có ý gắn bó cùng một người phụ nữ nào. Nhưng ông vẫn nhận biết trong những người phụ nữ đó, ai quan tâm ông vì tiền, ai là người thật sự lo lắng cho ông.
Và giờ đây, trong buổi sớm mai mặt trời còn chưa ló dạng, ông Hai đã vạch đựơc cho mình con đường mà ông sẽ rẽ bước nay mai.
Bà Hai đang trên đường dong ruổi đi tìm người cải số cho con gái, bà đâu ngờ rằng số phận của bà sắp phải đổi thay…
Sau hơn nửa tiếng đồng hồ lặn lội hỏi thăm, hai mẹ con Mỹ Lan tới được nhà ông thầy Tám thì đã hơn mười giờ sáng.
Ông thầy Tám tuy làm nghề bói toán nhưng nhà cửa khang trang đẹp mắt chứ không âm âm u u và thờ phượng đủ các bài vị tiên phật thánh thần giống như nhà của các ông bà thầy bói khác.
Bản thân ông cũng vậy, dáng dấp nho nhã, lịch sự không có nét nào của người làm nghề “sứ giả” giữa trần gian với thiên đường, địa ngục.
Thấy hai mẹ con bà Hai mồ hôi nhễ nhại, ông Tám vui vẻ:
- Mời bà và cháu bước ra nhà sau rửa tay chân mặt mũi cho khỏe ạ!
Theo sự hướng dẫn của chủ nhà, bà Hai và Mỹ Lan đã rửa sạch được đám bụi đường hòa lẫn mồ hôi trên thân thể nên cả hai cảm thấy khỏe khoắn hẳn lên.
- Bà và cháu chắc không ở gần đây?
Ông Tám mở lời hỏi thăm sau khi đặt trước mặt hai mẹ con Mỹ Lan hai ly nước lọc.
- Dạ, tôi ở rất xa, nghe đồn thầy Tám đây tài giỏi lại mát tay nên mẹ con tôi không quản ngại đường xa, lặn lội tới đây mong nhờ thầy Tám ban ơn cứu độ.
Bà Hai thành tâm nói với thầy Tám.
Thầy Tám nhìn chăm chú vào mặt, vào cả thân người của Mỹ Lan khiến cô e thẹn giả vờ ngoảnh nhìn chỗ khác.
Nhìn một hồi lâu ông Tám chậm rãi nói:
- Tướng tá của cô đây tuy nhìn vào trông rất sang trọng và nhàn nhã, ứng với những người có số giàu sang phú quý. Nhưng với cặp mắt của những người làm nghề bói toán như chúng tôi thì không khó gì nhận ra cái hậu vận không mấy tốt đẹp của cô.
Cả bà Hai và Mỹ Lan cùng giật mình. Bà Hai lắp bắp:
- Xin thầy… xin thầy nói rõ hơn chút nữa…
Thầy Tám lại quay sang nhìn bà Hai:
- Từ nhỏ bà đã được sống trong cảnh khá giả giàu sang, hiện nay gia đình bà cũng rất sung túc. Nhưng… tôi nói ra mong bà đừng buồn, không lâu sau gia cảnh của bà sẽ bắt đầu sa sút dần, không khéo sẽ đi tới chỗ trắng tay. Còn cô gái này, về sau sẽ lận đận lắm.
- Thưa thầy, xin thầy cho con biết về sau con lận đận về việc chồng con hay…
Mỹ Lan lo lắng hỏi.
Thầy Tám trầm ngâm một lúc mới trả lời:
- Số của cô tiền vận thì không phải nói làm gì, ngon lành rồi! Nhưng từ khi cô đi lấy chồng cô sẽ khổ một thời gian dài, có thể khổ đến hết đời. Điều đó còn tùy thuộc vào phước đức mà cô tạo ra được. Cô có nghe nói đến câu “Đức năng thắng số” chưa? Số phận là một lẽ nhưng nếu mình ăn ở có đức, tự nhiên số phận của mình sẽ được xoay chuyển theo hướng tốt đẹp thôi cô ạ! Theo số mạng thì sau này cô sẽ lấy phải một người chồng không ra gì, cuộc đời cô cũng từ đó mà lận đận…
- Thưa thầy, thầy có thể nào cho con biết trước người chồng của con sau này có tên gì không ạ?
Mỹ Lan cố hỏi thêm câu nữa để so sánh với những gì mà hồn nhập vào cơ đêm trước đã phán.
Thầy Tám cười cười:
- Cô cần biết tên người đó để làm gì? Cô muốn biết để tránh đi sao? Tôi xin nói để cô rõ, một khi số trời đã định, cô sẽ không còn cách gì trốn thoát được chỉ trừ một cách mà tôi đã nhắc tới lúc nãy. Đó là hãy tạo nhiều phước đức! Nhưng cô đã hỏi thì tôi cũng xin nói, theo căn phần duyên số thì người chồng sau này của cô sẽ có tên bắt đầu bằng chữ D. Tôi chỉ biết đến đó, chi tiết hơn nữa thì tôi xin chịu thua.
Mỹ Lan chán nản không muốn hỏi gì tiếp nữa.
Bà Hai dè dặt nói với thầy Tám:
- Dạ thưa thầy… Tôi nghe nói thầy có thể giúp cải số… mong thầy thương tình mà giúp đỡ cho cháu đây…
Thầy Tám bật cười lớn:
- Bà nghe ai đồn như vậy? Tôi chỉ là người trần mắt thịt, chẳng qua học hỏi được một ít thuật tướng số, làm sao mà cải được mệnh trời hở bà?
Bà Hai vẫn nằn nì:
- Xin thầy đừng quá khiêm nhường như thế! Danh tiếng của thầy đã lan xa xuống tận cái xứ khỉ ho cò gáy của tôi thì đủ biết thầy tài giỏi tới đâu rồi. Xin thầy giúp cho con gái tôi…
Thầy Tám nghiêm mặt:
- Tôi nói thật tình, tôi không có được cái tài đó! Mà theo tôi biết thì trên thế gian này cũng không ai làm được chuyện đó đâu, ngoại trừ bản thân người muốn cải số! Bà và cô cứ yên tâm về nhà sống vui vẻ bình thường, lo làm việc phước đức, giúp đỡ người hoạn nạn cơ nhỡ. Chính những việc làm đó sẽ xoay chuyển được số phận, không còn cách nào khác hơn đâu!
Bà Hai hết lời năn nỉ nhưng thầy Tám vẫn một mực từ chối nên hai mẹ con bà đành phải cáo từ ra về.
Mỹ Lan hậm hực:
- Bỏ công sức đi một chuyến thật xa, tưởng gì… cũng nói giống y chang mấy người ở dưới quê mình! Chẳng lẽ cái số của con là như vậy thật sao má?
Bà Hai an ủi con gái:
- Ối con ơi, ông thầy nầy rốt cuộc cũng đâu có gì hay ho mà con tin! Thầy bà gì không ra dáng thầy bà. Coi bói mà không thắp được một cây nhang, về dưới má phải mắng vốn bà bạn mới đựơc, làm má con mình bỏ mất cả ngày trời, vừa tốn công lại vừa tốn của. Con thấy không, ổng nói má sắp tan gia bại sản, thật vô duyên! Không thể tin được!
- Nhưng má ơi, hôm trước lúc cầu cơ, cơ cũng nói sau này chồng con có tên bắt đầu bằng chữ D, hôm nay ông này cũng nói vậy. Chẳng lẽ có sự trùng hợp đến như vậy sao má?
Mỹ Lan lo lắng.
Bà Hai ấp úng:
- Má cũng không biết! Thôi thì… để cho chắc ăn, từ nay con nên tránh giao thiệp với những đứa nào có tên chữ D đứng đầu. Đó, con thấy chưa, chia tay với thằng Dũng cũng đâu có gì sai? Vậy mà ba con cứ nói mẹ con mình này nọ, thiệt bực mình ổng hết sức!
Mặc dù bà Hai bảo con gái đừng tin tưởng vào lời phán đoán của thầy Tám, nhưng bản thân bà lại rất lo sợ.
Suốt trên đường về, hai mẹ con cứ tựa đầu vô ghế lim dim mắt như đang ngủ, nhưng thật ra cả hai không ai buồn ngủ cả. Mỗi người đều đang đeo đuổi suy nghĩ riêng của mình.
 
***
Sau chuyến đi xem bói ở Tây Ninh về, bà Hai càng trở nên khắt khe hơn trong việc quản lý tiền bạc. Dù không nói ra nhưng trong thâm tâm bà, bà muốn làm mọi cách để không có lý do gì có thể khiến cho gia đình bà đi xuống được.
Bà càng khe khắt chừng nào thì ông Hai càng cảm thấy ngộp thở mỗi khi về nhà chừng ấy. Vì vậy ông luôn tìm cơ lánh đi, và lúc này thì ông đi luôn qua đêm mà không cần phải báo trước cho bà Hai biết.
Bà Hai tức lồng lộn. Bà quyết định sẽ khám phá cho bằng được ông Hai đã qua đêm ở cái “tổ quỷ” nào, một khi bà mà tìm ra được thì nơi đó sẽ không thể được yên!
Giữa lúc ấy, người cô họ của Mỹ Lan từ Sài Gòn về chơi. Bà giữ đúng lời hứa với cháu gái, khi về bà có dẫn theo một người đàn ông trung niên, tuổi độ ngoài ba mươi, vóc dáng phong độ, lịch sự lắm.
Người cô vui vẻ giới thiệu cùng cả nhà:
- Đây là cháu Tony Phương, Việt kiều Mỹ đang về nước để nghiên cứu thị trường nhắm tới việc mở chi nhánh ở Việt Nam mình. Còn đây là cháu Mỹ Lan, con gái độc nhất của anh chị Hai cô.
Người cô ngước nhìn ông bà Hai, nói tiếp:
- Cháu Tony Phương đây tuy là người làm ăn giỏi giang ở nước ngoài, sống ở bên đó nhiều năm rồi nhưng cháu vẫn rất yêu quê hương Việt Nam. Nguyện vọng của cháu khi về nước chuyến này, ngoài công việc ra, cháu Tony còn muốn tìm được một cô vợ Việt Nam trăm phần trăm. Em thấy cháu Mỹ Lan nhà mình đáp ứng được hết các điều kiện của Tony nên có ý đưa cháu Tony về đây để xin phép anh chị cho hai cháu được làm quen và tìm hiểu nhau thêm.  Chẳng hay ý anh chị thế nào?
Ông Hai chưa kịp lên tiếng thì Bà Hai đã vội vã cướp lời:
- Ôi, thời buổi này, con cái ưng đâu là tôi gả đó thôi cô ơi! Nhưng nếu được một chàng rể biết làm ăn, lại làm ăn giỏi giang như cháu… Tony đây thì còn gì bằng!
Người cô cười thật tươi:
- Vậy là được sự đồng ý của anh chị rồi hén? Tony, từ nay cháu và Mỹ Lan có thể xem nhau như bạn để dễ dàng tìm hiểu.
Tony Phương lễ phép cúi đầu:
- Dạ, con cảm ơn hai bác, cảm ơn cô đã tạo điều kiện cho con được gần gũi em Mỹ Lan. Và.. anh cũng xin được cảm ơn Mỹ Lan đã cho phép anh được coi em là bạn.
Bà Hai hồ hởi trong lòng.
Mỹ Lan vừa e thẹn vừa mừng khấp khởi.
Liên tiếp một tuần sau đó, Mỹ Lan với Tony như hình với bóng. Cô đưa Tony đi thăm đồng, đi chợ làng, đi xem cúng đình cúng miễu. Tới chỗ nào Tony cũng không ngớt lời khen ngợi rằng nơi đó còn giữ được “quốc hồn, quốc túy” của Vịêt Nam.
Tony dùng những từ ngữ cao xa, lắm lúc Mỹ Lan cũng không hiểu hết được!
Nhưng Mỹ Lan vô cùng ngưỡng mộ Tony.
Chỉ mới ngoài ba mươi mà Tony đã có trong tay một sự nghiệp to tát cùng với những dự án làm ăn hứa hẹn mang về thật nhiều lợi nhuận.
Tony lại là một người đàn ông lịch thịêp và rất ga lăng. Điều đó những gã trai làng ở đây không thể nào so sánh được.
Đi bên cạnh Tony, Mỹ Lan có cảm giác mình giống như một nàng công chúa được nâng niu, chìu chuộng.
Đã vậy, Tony còn chở Mỹ Lan lên chợ tỉnh, dẫn cô vào mấy shop thời trang lớn nhất cho cô thoải mái mua sắm. Anh còn hứa hẹn, nay mai đưa cô về Sài Gòn, ở đó tha hồ cho cô mua sắm, tha hồ cho cô vui chơi.
Mỹ Lan ngất ngây trong hạnh phúc.
Bà Hai cũng ngất ngây trong hy vọng.
Chỉ riêng ông Hai vẫn lặng lẽ đi về.
Sau một tuần vui vẻ ở dưới quê, Tony Phương cáo từ về Sài Gòn lo công việc. Anh xin phép ông bà Hai cho anh đưa Mỹ Lan đi cùng để cô mở mang tầm mắt và tập cho quen với đời sống phố thị.
Lẽ tất nhiên là bà Hai không phản đối.
Ngày đầu tiên đặt chân lên tới Sài Gòn, Mỹ Lan được Tony đưa vào ở trong một phòng khách sạn sang trọng. Tuy là con nhà giàu nhưng Mỹ Lan không khỏi ngỡ ngàng với sự xa hoa lộng lẫy ở nơi đây.
Mỹ Lan không tránh khỏi chút e thẹn khi biết cô và Tony sẽ ở cùng chung một phòng.
Thấy thái độ của Mỹ Lan, Tony bảo:
- Anh sợ em buồn nên ở cùng phòng với em cho vui, nếu em không đồng ý thì anh sẽ thuê thêm một phòng nữa gần sát bên đây, nhé?
Sau một chút bối rối, Mỹ Lan khẽ nói:
- Không sao đâu anh, mình cùng ở đây cũng được!
Mỹ Lan vừa dứt lời, Tony bế xốc cô lên, hôn chùn chụt vào má vào môi, miệng không ngớt lời khen tặng:
- Ôi, em tôi ngoan quá! Em tôi xinh quá!
Mỹ Lan như đang chơi vơi trong hạnh phúc, cô không hề có ý chống cự.
Nhưng Tony cũng chỉ dừng lại ở mức độ đó thôi.
Chiều hôm ấy Mỹ Lan ở lại khách sạn một mình vì Tony bận đi giải quyết công việc. Mãi đến tối anh mới quay về, trên tay xách theo hai túi lớn.
- Ôi, sao anh mua nhiều thức ăn thế?
Mỹ Lan không khỏi ngạc nhiên khi dọn từ trong túi xách Tony mang về bao nhiêu là thức ăn, mà món nào món nấy đều ngon lành, đẹp mắt, còn có cả một chai rượu Tây trong đó.
Tony Phương đến bên cạnh, choàng tay qua người và âu yếm hôn nhẹ lên mái tóc của Mỹ Lan.
- Em biết ngày hôm nay là ngày gì không?
Tony Phương thầm thì bên tai Mỹ Lan. Anh hỏi nhưng không đợi cô trả lời, lại nói tiếp:
- Là sinh nhật anh đó! Mấy năm nay do công việc làm ăn lu bu, nhiều khi ngay đến ngày sinh của mình mà anh cũng không nhớ nữa. Nhưng hôm nay là một ngày đặc biệt. Anh đã tìm được một nửa của anh rồi, anh muốn đêm hôm nay anh sẽ cùng em đón mừng một sinh nhật có ý nghĩa nhất trong cuộc đời anh. Em có đồng ý không hở người đẹp của anh?
Mỹ Lan bối rối:
- Sinh nhật anh? Sao anh không nói trước để em mua quà cho anh?
Tony Phương ôm chặt Mỹ Lan vào lòng:
- Em đã là món quà quý nhất của anh rồi, bộ em không biết sao?
Mỹ Lan mắc cỡ:
- Anh buông em ra đi, để em dọn bàn ăn…
Tony Phương buông Mỹ Lan ra, cười cười:
- Đàn lẽ anh đưa em tới một nhà hàng nào đó nhưng như vậy sẽ không được riêng tư và ấm cúng bằng. Anh muốn đêm hôm nay chỉ có hai chúng ta với nhau thôi, không ai được quấy rầy!
Vừa nói, Tony vừa giúp Mỹ Lan bày thức ăn ra dĩa. Xong xuôi đâu đấy, Tony thắp lên mấy ngọn nến và tắt hết đèn trong phòng.
Không khí trở nên vô cùng lãng mạn.
Bữa ăn ngon, những lời đường mật, những cử chỉ gần gũi thân thiết, những đụng chạm vô tình cộng với men rượu lâng lâng đã làm cho Mỹ Lan chìm đắm trong hạnh phúc.
Cô thấy như mình đang sống trên mây! Hạnh phúc vỡ òa lai láng. Đêm hôm ấy Mỹ Lan đã trao cho Tony Phương món quà sinh nhật vô cùng đắt giá, đó là đời con gái của cô.
Sáng hôm sau Tony Phương có vẻ rất hối hận:
- Anh xin lỗi em. Đêm hôm qua anh thật sự hạnh phúc, thật sự vui khi có em bên cạnh, và do men rượu kích thích nên anh đã không làm chủ được mình, không gìn giữ được cho em. Em muốn trách mắng anh thế nào cũng được… Nhưng anh mong em hãy hiểu cho lòng anh, anh yêu thương em, rất yêu thương em, trong lòng anh thì em đã là vợ của anh rồi…
Tony Phương quỳ xuống chân Mỹ Lan.
Mỹ Lan vội vã đỡ anh ngồi lên:
- Anh đừng làm như thế! Em hiểu lòng anh đối với em… Em… không trách gì anh đâu… Bởi vì… em cũng rất yêu anh!
Tony Phương xúc động:
- Anh cảm ơn em! Anh cảm ơn em rất nhiều!
Bắt đầu từ ngày hôm đó Mỹ Lan và Tony Phương sống với nhau vô cùng hạnh phúc, như đôi vợ chồng son đang trong tuần trăng mật.
Một hôm, Tony Phương trở về khách sạn sau một buổi vắng mặt, trông anh không được vui nên Mỹ Lan hỏi:
- Có chuyện gì sao anh?
- Không có gì đâu em, chỉ là một chút rắc rối trong việc làm ăn.
Tony Phương có vẻ tránh né.
Mỹ Lan làm mặt giận:
- Chúng mình đã xem nhau như vợ chồng, anh có chuyện gì không vui thì phải chia sẻ cùng em, nếu giúp gì được cho anh là em sẽ rất vui.
Tony Phương vuốt ve người yêu:
- Anh không muốn em phải bận lòng vì những khó khăn của anh. Việc làm ăn nào cũng có lúc gặp phải khó khăn, nhưng không sao đâu em, anh sẽ giải quyết êm đẹp hết!
Mỹ Lan nũng nịu:
- Nhưng em muốn biết anh đang gặp phải khó khăn gì? Em muốn được cùng anh chia sẻ…
Tony Phương thở dài:
- Cũng không có gì quan trọng đâu em, hiện tại anh cần gấp hai chục ngàn đô la, nhưng bên đó chưa gửi qua cho anh ngay lúc này được nên rắc rối một chút. Mà thôi, tuần sau có lẽ họ gửi rồi…
Mỹ Lan suy nghĩ một chút rồi nói:
- Không sao đâu anh, để em về nói với má cho anh mượn tạm số tiền đó, khi nào bên kia người ta gửi sang thì anh trả lại má…
- Thôi, thôi em ơi… Anh không muốn làm phiền tới má và em đâu…
- Anh nói vậy sao phải, trước sau gì chúng ta cũng là vợ chồng, việc của anh cũng là việc của em. Em nghĩ má cũng vui lòng thôi.
Mỹ Lan nhỏ nhẹ.
Tony Phương đắn đo một lúc rồi nói:
- Thôi vậy thì tùy em. Thật lòng anh không muốn…
Mỹ Lan mỉm cười đặt tay lên miệng người yêu, không cho anh tiếp tục nói những lời khách sáo.
Chiều hôm đó Mỹ Lan và Tony Phương trở về quê sớm hơn dự định.
Bà Hai thấy con gái mặt mày rạng ngời hạnh phúc về cùng với một đống quà cáp đắt tiền, baầhi lòng lắm.
Đến lúc nghe Mỹ Lan đề cập đến việc cho Tony Phương mượn tạm hai chục ngàn đô la, bà Hai có vẻ đắn đo. Nhưng rồi bà nghĩ tài sản của Tony Phương trước sau gì thì cũng là tài sản của con gái bà. Bây giờ nó gặp khó khăn mình sẵn sàng giúp nó thì nó càng biết ơn mình, càng đối xử tốt với con gái mình…
Nghĩ vậy, bà Hai gom góp tiền mặt, nữ trang, vòng vàng trong nhà đem đổi hết thành đô la để trao cho Tony Phương.
Ở chơi với gia đình thêm hai ngày nữa, Tony Phương bảo có việc phải về Mỹ gấp. Tuần sau sẽ trở qua Việt Nam và tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn với Mỹ Lan.
Mỹ Lan ngày ngóng đêm trông người chồng bên kia bờ đại dương xa tít tắp. Nhưng một tuần, rồi hai tuần Tony Phương vẫn bặt tin.
Mỹ Lan âu sầu ủ dột, cô ăn uống không vô lại hay buồn nôn vào sáng sớm.
Bà Hai nhận thấy ở con gái có nhiều thay đổi nên gặng hỏi:
- Mỹ Lan à, những ngày con với thằng Tony Phương đó ở Sài Gòn, con với nó…
Nghe mẹ hỏi Mỹ Lan òa khóc:
- Má ơi… chắc con đã… đã có thai với ảnh rồi quá! Bây giờ biết tính làm sao hở má?
- Trời ơi, sao con dại quá vậy? Mà cái thằng này, về bên đó có việc gì sao mãi tới giờ vẫn chưa trở qua?
Bà Hai kêu lên lo lắng.
Hai mẹ con Mỹ Lan còn đang rối ruột thì ngay chiều hôm đó chàng Việt kiều hào hoa phong nhã lò lò về tới.
- Anh về bên đó phải giải quyết một số công việc, sợ em chờ đợi nên khi vừa tạm ổn là anh vội vã bay sang ngay…
Lời giải thích của Tony Phương là như vậy.
Mỹ Lan gặp lại Tony Phương là mừng còn hơn bắt được vàng. Cô không mấy quan tâm đến công việc gì đó mà Tony vừa đề cập tới.
- Mấy tuần qua, em nhớ anh lắm…
Mỹ Lan nũng nịu.
Tony Phương nâng gương mặt người yêu lên, nhìn sâu vào mắt cô âu yếm nói nhỏ:
- Anh cũng rất nhớ em! Ngày nào anh cũng muốn vứt bỏ hết tất cả để về đây với em. Nhưng… em nhớ anh đến xanh xao thế này…
Mỹ Lan thầm thì vào tai Tony Phương:
- Anh… Chúng mình… chúng mình sắp có em bé rồi!
Tony Phương giật mình ngó sững Mỹ Lan, không nói lời nào.
Thấy thái độ Tony như vậy, Mỹ Lan phật ý:
- Bộ anh không muốn có con với em sao?
Như bừng tỉnh, Tony Phương reo lên rồi bế Mỹ Lan xoay cô mấy vòng:
- Ôi, em thật tuyệt vời… Anh sung sướng quá!
Suốt mấy ngày liền, nhà bà Hai rộn rã tiếng vui.
Được sự chấp thuận của bà Hai, một lần nữa Tony Phương lại đưa Mỹ Lan lên Sài Gòn, lần này là để làm thủ tục đăng ký kết hôn.
Mỹ Lan vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy tên người kết hôn với cô không phải là cái tên Tony Phương sang trọng, mà là Trần Văn Du.
- Anh…
Mỹ Lan vừa cất tiếng thì Tony Phương vội vã hối thúc:
- Em ký vô đi để hoàn tất, anh còn phải giải quyết một số việc gấp, ký nhanh đi em!
Mặc dù hơi lưỡng lự, nhưng cuối cùng Mỹ Lan cũng đã ký tên vào tờ khai đăng ký kết hôn.
Vậy là hai người đã chính thức thành vợ chồng, giờ Mỹ Lan chỉ còn chờ một cái đám cưới linh đình cho rỡ mày rỡ mặt.
- Anh, sao lúc nãy tên anh…
Về tới khách sạn, nghe Mỹ Lan hỏi, Tony bật cười:
- Có gì đâu em, đó là tên trong giấy tờ từ ngày xưa của anh.
- Còn địa chỉ?
Mỹ Lan chưa thật an tâm nên hỏi tiếp.
Tony gãi đầu:
- Khổ quá, em hổng hiểu gì hết! Người làm ăn buôn bán như anh, qua lại Việt Nam ngày một, nên phải có một cái địa chỉ tạm trú ở Việt Nam chứ, phải không cưng?
Mỹ Lan mặc dù là một cô gái thông minh, lanh lợi, nhưng hiểu biết của cô cũng rất hạn hẹp, cô không biết nhiều đến các loại thủ tục giấy tờ lộn xộn đó, nên khi nghe Tony giải thíach, Mỹ Lan lập tức yên lòng.
Những ngày sau đó, Tony Phương luôn đưa ra lý do này lý do khác để mượn thêm tiền của gia đình Mỹ Lan.
Bên cạnh những lời lẽ hàm ơn lễ phép, Tony còn nói bóng gió xa xôi đến việc chia chắc lời lãi sau này, khiến bà Hai không ngại ngần gì vét sạch túi đưa cho con rể.
Bây giờ cả nhà bà Hai không còn vốn liếng đâu để mà mua bán nữa.
Bà hối thúc Tony Phương làm lễ cưới với con gái bà, Tony khất lần khất lựa, bảo rằng chờ bên Mỹ gửi tiền qua sẽ trả lại cho bà hết, cả vốn lẫn lời và khi đo Tony mới có đủ tiền để tổ chức một đám cưới linh đình, lớn nhất xứ từ trước tới nay.
Nhiều tuần lễ trôi qua, người ở bên Mỹ vẫn chưa gửi tiền qua như lời hứa. Bà Hai phải chạy vạy thêm mấy ngàn đô la nữa để cho con rể bay về Mỹ thu xếp việc công ty.
Những ngày rảnh rỗi, mẹ con Mỹ Lan lại cùng nhau vẽ vời ra những cảnh tượng huy hoàng của đời sống sau này của Mỹ Lan trên đất Mỹ.
Ông Hai đã linh cảm thấy điều không may đang xảy đến với gia đình mình, nhưng khi ông vừa mới mở lời đã bị bà Hai làm cho một trận. Buồn tình, ông không thèm bàn tán gì nữa hết.
Dạo này ông Hai đã có niềm vui lớn.
Cô Hài, chủ một quán nước nhỏ ở làng bên, nơi mà ông Hai vẫn thường xuyên lui tới, góa chồng từ năm hai mươi tuổi, vẫn ở vậy cho đến nay.
Những khi ông Hai buồn chuyện gia đình, chính cô Hài là người để ông trút niềm tâm sự. Ông Hai nhận thấy cô Hài là người thật sự lo lắng cho ông, quan tâm đến những niềm vui nỗi buồn của ông. Cô không đến với ông vì tiền như những người phụ nữ khác.
Tình cảm giữa ông Hai và cô Hài mỗi lúc một trở nên sâu đậm. Và vào chính cái buổi sáng sớm mẹ con bà Hai đi Tây Ninh, ông Hai đã chọn cho mình một con đường là sẽ đến với cô Hài, cô Hài sẽ là người gắn bó với ông cho tới ngày ông nhắm mắt xuôi tay giã từ trần thế.
Ban đầu ông định chính thức đề nghị bà Hai ký vào đơn ly hôn, nhưng sau đó ông nghĩ lại, cả hai đều không còn trẻ nữa, dẫn nhau ra toà để cho đám con nít đứng ra phân xử thì cũng mất mặt lắm. Vả lại cô Hài cũng không đòi hỏi phải danh chánh ngôn thuận gì. Thế nên ông Hai âm thầm lặng lẽ làm một cuộc phân ly.
Mặc dù tiền bạc của cải trong nhà đều do một tay bà Hai quản lý, nhưng ông Hai cũng đâu phải là kẻ khờ khạo. Suốt mấy chục năm chung sống, ông làm ăn phần ông, bà làm ăn phần bà, dẫu cho bà có giỏi cách nào cũng không thể nắm hết được lời lãi của ông.
Trong những năm tháng đó, ông đã khôn ngoan tích lũy được cho mình một số vốn kha khá.
Giờ đây, khi thấy mình chỉ còn là một chiếc bóng trong nhà, ông Hai quyết định dùng số tiền đó cùng cô Hài đi thật xa để xây tổ uyên ương. Một tổ uyên ương mà nơi ấy ông Hai thật sự cảm thấy sự hiện diện của mình là cần thiết.
Ông ra đi lặng lẽ. Không kiếm chuyện cãi nhau, không mang theo gì ngoài mấy bộ đồ thường ngày ông vẫn mặc. Lời chia tay vợ con chỉ là mấy dòng ngắn gọn:
“Tôi thấy mình là người thừa thải ở trong ngôi nhà này. Vậy nếu tôi có mặt hay vắng mặt cũng không ảnh hưởng gì tới mẹ con bà. Nói không chừng, sự vắng mặt của tôi sẽ làm cho mẹ con bà được thoải mái hơn. Chúc mẹ con bà được bình an. Nhưng trước khi đi xa, tôi xin lưu ý bà một việc: Đừng quá tin tưởng vào thằng rể gắn mác Việt kiều của bà!”
Mỹ Lan phát hiện ra lá thư đó đầu tiên. Cô la toáng lên:
- Má, má ơi… Ba bỏ nhà đi rồi!
Bà Hai chưng hửng:
- Cái gì? Ba mầy bỏ nhà đi? Ổng đi đâu mới được chứ?
Mỹ Lan đưa ra tời giấy:
- Nè, má coi đi! Thơ ba để lại đó!
Bà Hai đọc xong bức thư, run rẩy:
- Tại sao lại như vậy chứ? Bao nhiêu năm nay má với ổng sống bình thường, gần đây cũng đâu có xảy ra chuyện gì lớn lao, tại sao ổng lại bỏ đi mới được chứ? Hồi còn trai trẻ, bồ bịch lung tung ổng còn không đi đâu, giờ tuổi tác như vậy rồi lại tự nhiên trở chứng?
Mỹ Lan trách mẹ:
- Cũng tại má một phần đó! Mỗi lần ba nói gì má cũng gạt ngang, chắc ba tự ái…
Sau phút bất ngờ bà Hai tự tin trở lại:
- Ối, hơi đâu mà con lo! Ổng nói vậy thôi chứ đi đâu được? Ai chứa ổng? Bao nhiêu vốn liếng của ổng má đã gom hết để đưa cho thằng Tony rồi, giờ này ổng chỉ còn hai bàn tay trắng. Nay mai đói khát lại quay về nhà ngay thôi!
Rồi bà Hai vụt than thở:
- Còn cái thằng Tony này nữa, việc gì mà nó ở miết bên đó không biết! Bao nhiêu vốn liếng nhà này má đã gom đưa nó hết, giờ má con mình phải ngồi không thế này…
Mỹ Lan an ủi mẹ:
- Chắc công ty ở bển có việc quan trọng nên ảnh phải ở lại giải quyết, chắc nay mai về thôi. Xa con ảnh cũng đâu có chịu nổi. Mà má đừng có lo, anh Tony đã nói rồi, chuyến này sang Việt Nam ảnh sẽ trả hết vốn lẫn lời cho má. Bây giờ má con mình ngồi chơi không, khỏi phải mua bán gì mà mai mốt vẫn cò tiền lời, sướng quá rồi mà má còn than thở gì nữa không biết!
Bà Hai mỉm cười với con gái:
- Tại má không quen với việc ngồi không thế này nên nói vậy thôi, chứ có trách cứ gì nó đâu! Nghĩ cũng tội, một mình nó phải cáng đáng đủ mọi thứ, sau này con về phải ráng giúp đỡ cho chồng con đó!
- Dạ, con biết rồi!
Mỹ Lan sung sướng.
Hai tháng trời trôi qua, tin tức của Tony lẫn ông Hai đều im lìm, vắng bặt.
Lúc này bà Hai và Mỹ Lan không ai còn đủ bình tĩnh nữa.
Bà Hai chạy đôn chạy đáo đi tìm chồng, nhưng không ai biết ông Hai hiện giờ đang ở đâu.
Còn Mỹ Lan, đêm nào cô cũng khóc. Cái bào thai trong bụng thì ngày một lớn dần mà Tony lại đi biền biệt.
Bất chợt Mỹ Lan thoáng rùng mình khi nhớ tới lời dự đoán của lần cầu cơ và ông thầy Tám hôm nào: “Đời cô sẽ vất vả, khổ sở từ khi cô lấy chồng. Chồng của cô có tên bắt đầu bằng chữ D”.
Trời ơi! Chẳng lẽ tất cả đều là định mệnh? Tony Phương – Trần Văn Du? Mỹ Lan hoảng loạn đem điều đó ra nói với mẹ.
Lúc này bà Hai đang rối ruột. Chồng bỏ đi đâu không biết, con gái đang mang thai mà chưa kịp làm lễ cưới, chàng rể Việt kiều cùng với số tiền mấy chục ngàn đô la của bà lại bặt vô âm tín. Nghe Mỹ Lan gợi lại chuyện số mạng bà Hai càng thêm lo sợ.
Lúc trước chẳng phải ông thầy Tám cũng có nói gia cảnh của bà sẽ sa sút đó sao? Chẳng lẽ… chẳng lẽ mẹ con bà đã bị thằng rể Việt kiều lừa gạt?
Bà Hai vội vã lên Sài Gòn, tìm gặp cô em họ để hỏi thăm tông tích của Tony Phương. Chừng đó bà mới tá hỏa ra, cô em cũng không biết gì nhiều về hắn.
Trong một dịp tình cờ, cô em họ của bà gặp gỡ Tony Phương, nghe anh ta tự giới thiệu về mình thế là… bà mắc bẫy.
Mỹ Lan choáng váng, cô tìm lại cái địa chỉ của tên Trần Văn Du hôm nào, hai mẹ con cô lại lặn lội lên Sài Gòn tìm kiếm.
Địa chỉ đó là một ngôi nhà lụp xụp nằm sâu trong một con hẻm nhỏ.
Nhìn vào nếp sinh hoạt của những người dân sống ở đó ai cũng dễ dàng nhận ra họ đa số thuộc thành phần bất hảo.
Mỹ Lan sợ sệt theo mẹ bước vào một quán cà phê ở gần ngôi nhà đó. Trong quán đầy nhóc đàn ông, đàn bà ngồi đánh bài, miệng hút thuốc phì phèo và không ngừng tuôn ra những tiếng chửi thề ỏm tỏi.
Trông thấy mẹ con Mỹ Lan, cả đám ngừng chơi chăm chăm nhìn vào làm cả hai trở nên lúng túng.
- Chị và cháu dùng nước hay cần gì?
Người chủ quán có thân hình phốp pháp đon đả hỏi.
- Cho tôi… hai ly nước ngọt!
Bà Hai vừa kéo ghế ngồi vừa nói.
Khi người chủ quán đem nước ra, bà Hai kéo tay lại hỏi:
- Xin chị làm ơn giúp tôi một việc!
Người chủ quán tỏ vẻ ngạc nhiên nhưng cũng ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh.
- Chị cần gì?
Người chủ quán nhìn bà Hai.
Bà Hai mở túi xách, lấy tấm hình của Tony Phương đưa ra trước mắt người chủ quán:
- Chị làm ơn cho tôi hỏi, người trong hình này có ở khu vực này không?
Người chủ quán cầm lấy tấm hình, cười tươi và reo lên:
- Thằng này là thằng Du chứ ai!
Rồi bà quay qua đám người đang chơi đánh bài, gọi lớn:
- Ê, tụi bây qua coi hình thằng Dư nè, ăn mặc đẹp ghê chưa, y chang Việt kiều!
Một vài người trong đám đông chạy tới xem hình. Rồi tấm hình được chuyền tay lần lượt cho đám người đó. Tiếng bình phẩm, tiếng cười đùa hô hố vang lên giữa lúc hai mẹ con Mỹ Lan vô cùng hồi hộp.
- Chị quen với thằng đó hả? Hay chị muốn tìm nó để mướn nó làm việc gì?
Người chủ quán hỏi.
Bà Hai cố lấy lại bình tỉnh:
- Chị biết… cậu này? Cậu này sống ở đây?
Người chủ quán chỉ tay xéo qua bên kia đường:
- Nó sống ở đó! Nhà nó đó! Ở đây có ai mà không biết nó.
- Nó… chẳng hay nó làm nghề gì vậy chị?
Bà Hai không còn bình tỉnh nỗi, gịong bà đã bắt đầu run, trong khi Mỹ Lan ngồi lặng đi như bị trời trồng.
Bà chủ quán cười ngất:
- Hơ hơ… thằng đó mà nghề ngỗng gì? Nghề của nó là cờ gian bạc lận, là đòi nợ thuê, là dẫn mối…
- Trời ơi!
Bà Hai bật kêu lên làm mọi người trong quán ngạc nhiên quay cả lại nhìn bà.
- Chị… chị sao vậy?
Bà chủ quán lo lắng.
Bà Hai không dằn được nữa, khóc nấc lên:
- Vậy mà nó nói với tôi nó là Việt kiều Mỹ, về Việt Nam để nghiên cứu thị trường thị triếc gì đó. Nó còn lừa con gái tôi. Nó lừa cả gia tài của tôi rồi… hu hu…
- Trời! Thằng Du là Việt kiều Mỹ! Ha ha…
- Ha ha…
Một vài tiếng cười vang lên, nhưng phần đông lại cảm thấy thương hại cho mẹ con bà Hai, thương hại cho cô gái đang ngồi bất động, mặt xanh như tàu lá.
- Nó vớ được một vố của bà ngon lành quá nên mấy tháng nay đi biệt, đâu thấy léo hánh về đây…
Nghe bà chủ quán nói vậy, bà Hai càng khóc nhiều hơn nữa. Mãi một lúc sao bà mới dịu lại.
- Thôi, tôi xin cảm ơn chị, tôi xin kiếu.
Bà Hai vừa lau nước mắt vừa nói với bà chủ quán.
Rồi quay sang con gái bà bảo:
- Về con! Mẹ con mình về đi con!
Mỹ Lan chậm chạp đứng lên rồi theo mẹ bước đi như một cái máy. Tâm trí cô lúc này như còn đang lơ lửng ở chín tầng mây.
Nhưng vừa đi được một đoạn cô vụt òa lên khóc nức nở. Bà Hai luống cuống, dỗ con mà nước mắt nước mũi bà chảy dài trên mặt.
- Má ơi! Con chết mất má ơi! Con biết làm sao bây giờ hả má?
Mỹ Lan nghẹn ngào.
Bà Hai đỡ Mỹ Lan dậy:
- Con đừng nghĩ quẩn, để từ từ rồi má tính…
- Còn tính toán gì nữa hả má? Đứa nhỏ trong bụng con… biết làm sao đây má ơi…!
Nghe tiếng khóc thảm thiết của con gái, bà Hai chợt trở nên cứng rắn. Bà nghiến chặt hàm răng:
- Không… không thể để giọt máu của tên nghiệt súc đó ra đời được! Bây giờ con nghe lời má… Má đưa con đi phá bỏ cái bào thai đó…
- Má ơi… con sợ…
Mỹ Lan nói trong nước mắt.
- Không có gì phải sợ hết! Hay là… con còn thương yêu nó? Con còn muốn sanh con cho nó?
Bà Hai lên giọng gay gắt.
Mỹ Lan lau nước mắt, tức tưởi:
- Không! Con thù ghét hắn! Con thù ghét đứa bé này…
- Vậy thì con nghe lời má! Đi theo má!
Bà Hai dứt khoát.
Thế là ngay trong buổi chiều hôm đó, cái bào thai vừa mới tượng hình mấy tháng trong bụng Mỹ Lan đã được giải quyết gọn ghẽ.
Hai mẹ con dắt nhau về quê, thảm hại như đoàn quân thua trận.
Mỹ Lan ốm gần hai tuần mới gượng dậy nổi.
Những người bạn ít ỏi của cô không ai dám tới hỏi thăm, bởi vì chuyện không may của Mỹ Lan đã được người làng đồn ầm ĩ lên từ lâu nay rồi, nhưng bà Hai và Mỹ Lan lại không hề thừa nhận.
 
***
Rồi thì mọi việc cũng tạm nguôi ngoai.
Mỹ Lan và bà Hai sau khoảng thời gian vật vã vì những mất mát lớn lao kia cũng đã dần hồi phục.
Hai mẹ con vơ vét tất cả của cải nhỏ nhoi còn lại trong nhà, đem bán lấy tiền làm vốn.
Vốn ít, bà Hai không thể mua mối bán sỉ như trước đây được nữa, mà phải đi mua từng giạ lúa rồi gánh vô nhà máy xay xát, xong bán lại gạo cho người ta.
Hai mẹ con vất vả vô cùng mà đồng lời không kiếm được bao nhiêu!
Hồi còn giàu có, mẹ con bà luôn chê bai dè bỉu những người nghèo khó, nhưng chẳng mấy chốc, bà đã rơi xuống tầng lớp đó rồi.
Đau đớn, tủi nhục và uất ức nhưng bà Hai vẫn phải gắng gượng sống và dìu đỡ Mỹ Lan. Nếu không có bà Hai, không biết Mỹ Lan có đủ sức để vượt qua những cú sốc lớn lao đó hay không?
Ông Hai vẫn biền biệt.
Bà Hai bây giờ cũng không còn tiền bạc và sức lực để có thể đi tìm kiếm ông. Những đêm khó ngủ, bà thấy nhớ ông da diết, nhận ra trước đây mình đã đối xử không phải với chồng.
Nhưng bà biết, tất cả bây giờ đã quá muộn màng. Ông Hai là người luôn nhẫn nhịn và có trách nhiệm với gia đình, ông đã chịu đựng bà mấy chục năm qua, giờ đây ông bỏ ra đi thì khó lòng nào quay trở lại…
Còn Mỹ Lan, sau những ê chề tủi nhục, đớn đau, bây giờ cô gắng gượng lao vào công việc để mưu sinh nhưng tận trong tâm, Mỹ Lan không thể nào chấp nhận sống cuộc đời như thế!
Trước đây, dù chưa hẳn là tình yêu nhưng Mỹ Lan đã rất có cảm tình với Dũng, chỉ vì không chấp nhận cuộc sống giản dị đơn sơ mà cô đã dứt khoát chia tay với tình cảm chớm nở đầu đời. Giờ đây nghĩ lại, Mỹ Lan thấy nếu ngày ấy mình ưng lấy dũng thì có lẽ hôm nay cuộc đời mình không đến nỗi này đâu.
Mỹ Lan căm thù Tony Phương. Căm thù cuộc sống thiếu thốn. Căm thù cái số phận mà ông trời đã gắn vào cho cô. Mỹ Lan không cam tâm, cô nhất định tự mình phải cải số cho mình. Dù chưa biết sẽ cải số bằng cách nào, nhưng Mỹ Lan thề với lòng, nhất định phải là như thế!
Thời gian nặng nề trôi qua. Mới đó mà đã hai năm. Mặc dù Mỹ Lan sống trong cảnh nghèo nàn vất vả nhưng nhan sắc của cô không vì thế mà tàn phai. Trái lại, nét đẹp của Mỹ Lan càng trở nên đằm thắm, u buồn hơn.
Cũng không ít chàng trai đeo đuổi, nhưng trái tim của Mỹ Lan đã khép cửa, vả lại cô cũng không bao giờ chấp thuận làm vợ một nông dân bình thường, cuộc đời phải gắn liền với ruộng đồng, cày cuốc…
Sau mấy năm bỏ đi biệt tích, Dũng đột ngột trở về làng.
Dũng bây giờ đã thay đổi hẳn. Anh đã trở nên khá giả lắm rồi.
Theo lời Dũng kể, sau khi rời làng, Dũng theo mấy người bạn đi đào vàng tận nơi rừng thiêng nước độc. Mấy lần Dũng suýt chết vì sốt rét rừng hành hạ. Nhưng rồi Dũng vẫn sống và trúng đậm liên tục mấy chuyến.
Trong những ngày lang bạt đó, Dũng đã chung sống với một cô gái làm nghề buôn bán quanh các bãi vàng.
Tuy không có tình yêu nhưng vì cô gái đã sinh cho Dũng một đứa bé gái rất xinh xắn, dễ thương, nên Dũng cũng xem cô ấy như vợ của mình.
Lần này Dũng về quê, có cả vợ con đi cùng.
Dũng vừa về tới nhà buổi sáng thì ngay chiều hôm đó anh đã nắm được toàn bộ những chuyện không may đã xảy ra cho Mỹ Lan và gia đình.
Mặc dù trước đây Mỹ Lan đã nhẫn tâm bỏ rơi Dũng vì chê anh nghèo, nhưng bao nhiêu năm qua, hình bóng Mỹ Lan vẫn luôn ngự trị trong tim anh. Hai người đã có với nhau biết bao kỷ niệm.
Giờ đây, khi biết Mỹ Lan đang rơi vào thảm cảnh ấy, Dũng thật sự đau lòng, và mối tình mà lâu nay Dũng cố tình lãng quên bỗng dưng cuộn trào sống dậy.
Nhưng thật khó xử cho Dũng. Phải chi anh vẫn một thân một mình thì việc anh tìm tới nối lại tình xưa với Mỹ Lan sẽ dễ dàng hơn nhiều. Đằng này, anh còn có Mận và bé Mai, con gái anh.
Tuy Dũng và Mận sống với nhau không có đăng ký kết hôn và cũng chưa từng làm đám cưới, Dũng cũng chưa một lần hứa hẹn gì với Mận, nhưng anh thật sự không biết phải giải quyết chuyện này thế nào cho êm đẹp?
Tối hôm đó, không dằn lòng được, Dũng đã tìm gặp lại Mỹ Lan.
Mỹ Lan hoàn toàn bất ngờ khi nhìn thấy Dũng. Cô bật khóc nức nở:
- Anh Dũng… em có lỗi với anh!
Dũng đau xót ôm người yêu vào lòng, vỗ về:
- Em đừng nói vậy… Em không có lỗi gì với anh cả!
Bao nhiêu ngày tháng âm thầm đau khổ một mình, ngày hôm nay được có người chia sớt, người đó lại chính là người đã có với mình một quãng thời gian dài nồng mặn, thì làm sao Mỹ Lan có thể cầm được nước mắt.
- Mấy năm qua, dù sống ở phương trời nào anh cũng không lúc nào không nhớ về em, nhưng anh cứ ngỡ em đã lấy chồng, đã có được một cuộc sống như lòng em vẫn thường mong muốn… Anh thật không ngờ em lại phải vất vả long đong thế này…
Dũng ngậm ngùi.
- Vì vậy anh mới đi lấy vợ, sinh con?
Mỹ Lan hỏi trong nước mắt.
Dũng lắc đầu khe khẽ:
- Anh chưa hề lấy vợ. Anh và Mận chỉ sống với nhau như hai nửa cuộc đời bơ vơ cần có người để tạm nương vào mà sống cho qua những tháng ngày nơi rừng sâu núi thẳm. Anh và cô ấy đến với nhau là do bản năng hơn tình cảm em ạ! Trong lòng anh lâu nay vẫn chỉ có em thôi… Em có đồng ý quay về với anh không hở Mỹ Lan?
Mỹ Lan khóc nấc lên:
- Nhưng bây giờ anh nói câu đó cũng đâu có ích lợi gì… Em làm gì còn con đường nào để quay lại bên anh? Em không dám trách gì anh, vì tất cả là do em tạo ra, em phải gánh lấy hậu quả của nó, em không trách gì anh đâu…
Từ ngày quen biết rồi yêu nhau, chưa bao giờ Dũng chứng kiến Mỹ Lan khổ đau tới mức đó.
Trong lòng Dũng lúc này như có ai vò ai xé.
- Hay trả lời anh đi Mỹ Lan, em có đồng ý làm vợ anh không? Bây giờ, anh đã có khả năng để bảo đảm cho em một cuộc sống thanh nhàn, khá giả rồi Mỹ Lan ơi…
Dũng không dằn được, bật ra câu nói từ đáy lòng mình.
Mỹ Lan ngước nhìn anh bằng đôi mắt nhòa nhọet nước:
- Em về làm vợ anh? Thấ còn vợ con anh hiện nay thì sao? Anh giải quyết cách nào đây?
Dũng thật thà:
- Giữa anh và Mận hiện nay hoàn toàn không có tình yêu. Cô ấy cũng không yêu anh. Nếu như không có bé Mai thì sẽ rất dễ dàng. Đằng này… em cho anh thêm một thời gian ngắn nữa rồi anh sẽ giải quyết êm đẹp, lúc đó mình sẽ chính thức cưới nhau, em đồng ý không?
Mỹ Lan cười chua chát:
- Vậy ra… anh muốn em làm… vợ bé của anh sao?
Dũng lúng túng:
- Không… không đâu em ơi! Ý của anh không phải vậy!
- Vậy ý anh là gì?
Mỹ Lan nhìn sâu vào mắt Dũng.
Dũng dịu dàng nói khẽ:
- Ý anh là… Anh nghĩ tạm thời mình khoan đề cập tới chuyện cưới xin. Mặc dù anh rất muốn ngay ngày mai này anh với em thực sự trở thành chồng vợ. Mận hoàn toàn không biết gì về mối quan hệ trước đây của anh và em. Anh phải từ từ nói cho cô ấy biết rồi tính tới việc bé Mai. Nếu Mận đồng ý để bé Mai ở lại sống với chúng ta thì tốt rồi, nhưng nếu cô ấy không đồng ý, anh sẽ chia cho bé Mai một nửa tài sản để hai mẹ con nó sống với nhau. Anh sẽ cố gắng thu xếp việc này thật nhanh, em phải gắng gượng đợi anh một thời ngắn nữa nhé!
Dũng thò tay vào túi lấy ra một xấp tiền đưa cho Mỹ Lan:
- Bây giờ em cầm tạm số tiền này về mà chi xài. Có cần gì thì em nói với anh, anh không muốn thấy em vất vả thế này. Anh… anh đau lòng lắm, em có biết không?
Mỹ Lan nghe lòng mình ấm lại. Cô khóc như chưa bao giờ được khóc, khóc gần như lả đi trong tay Dũng.
Dũng không ngớt lời an ủi động viên mới làm Mỹ Lan nguôi đi đôi chút. Hai người ngồi bên nhau mãi tới hơn nửa đêm mới chịu chia tay.
Trên đường về, Dũng quyết tâm phải giải quyết thật nhanh gọn chuyện giữa anh và Mận để đến với Mỹ Lan.
 Còn riêng Mỹ Lan, khi đã tỉnh táo hơn cô bắt đầu suy nghĩ cặn kẽ mọi việc.
Dũng bây giờ đã khá giả, tuy không được giàu có như người chồng trong mơ ước lâu nay của Mỹ Lan, nhưng cô đã ở vào tình thế này rồi còn mơ cao gì nữa, tạm chấp nhận mức độ đó.
Việc Dũng hứa sẽ cưới Mỹ Lan làm vợ thì Mỹ Lan không hề nghi ngờ gì, bởi vì cô biết rất rõ Dũng vẫn còn si mê cô nhiều lắm.
Nhưng… nếu Mận không đồng ý để đứa con gái lại cho Dũng nuôi dạy thì Dũng sẽ chia cho họ phân nửa tài sản sao?
Không! Không thể được! Nhưng Mỹ Lan biết làm sao để ngăn cản Dũng đây? Cô không thể nói thẳng thừng với Dũng là: Em không chấp nhận việc anh chia tài sản cho con bé!
Bây giờ Mỹ Lan đã không còn gì, cô nhất định phải giữ lấy Dũng, giữ lấy trọn vẹn số tài sản của anh mới được, dù chia cho đứa bé một xu cô cũng không vừa ý.
Tất cả phải là của mình! Mình phải có tất cả! Bất chợt Mỹ Lan cất lên một tràng cười man dại khiến bà Hai giật mình gọi lớn:
- Mỹ Lan! Mỹ Lan! Con ngủ mơ thấy gì mà cười ghê vậy?
Nghe tiếng mẹ, Mỹ Lan chồm dậy vén mùng nhìn sang giường mẹ. Từ ngày ông Hai bỏ đi, hai mẹ con Mỹ Lan dọn về ở chung một phòng cho đỡ cô đơn quạnh quẽ.
- Gì vậy con?
Bà Hai cũng nhổm dậy, ngạc nhiên.
- Má, anh Dũng sẽ cưới con!
- Con nói sao? Thằng Dũng cưới con? Nhưng mà… má nghe người ta nói nó có dẫn theo vợ con về đây mà?
Bà Hai ngạc nhiên.
Mỹ Lan cười:
- Má đừng có lo, ảnh nói rõ với con rồi, hai người chỉ sống chung với nhau vậy thôi, không có cưới hỏi, cũng không có đăng ky kết hôn đâu. Anh Dũng sẽ chia tay con nhỏ đó và sẽ cưới con.
Bà Hai có vẻ lo lắng:
- Liệu mọi việc có dễ dàng như con nói vậy không? Thằng Dũng bây giờ nghe đâu khá giả lắm rồi, có khi nào để trả thù con mà nói dóc vậy không?
- Không đâu má, con biết anh Dũng còn thương con nhiều lắm. Ảnh không có nói gạt con đâu.
Mỹ Lan quả quyết.
- Ừ, nếu được vậy má cũng mừng cho con lắm.
Bà Hai gật đầu.
- Má… nhưng con còn lo một chuyện…
Mỹ Lan ngập ngừng.
Bà Hai lo lắng hỏi:
- Chuỵên gì vậy con?
Mỹ Lan chui ra khỏi mùng, chạy qua nằm kế bên mẹ, thầm thì:
- Anh Dũng nói sẽ chia tay với con nhỏ kia. Nếu con nhỏ đó chịu để đứa nhỏ lại cho anh Dũng nuôi thì không nói làm gì, nhưng nếu nó không chịu mà cứ khăng khăng giữ lấy đứa nhỏ, thì khi ấy Dũng sẽ chia cho đứa nhỏ đó một nửa gia tài. Mà má biết rồi đó, Dũng cũng chỉ khá giả chút thôi chứ đâu đã giàu có, chia nửa gia tài rồi thì còn lại được bao nhiêu…
Bà Hai khuyên con:
- Thôi kệ nó đi con, còn một ít lo làm ăn từ từ kiếm lại cái khác cũng được…
- Không đâu! Con không chịu được!
Bà Hai chưa kịp dứt lời Mỹ Lan đã cắt ngang câu nói. Thái độ của cô lúc này thật dữ dằn, hung tợn khiến bà Hai không khỏi giật mình.
- Con không chịu thì con là gì được nó? Đứa bé kia là con của nó, nó có trách nhiệm vậy cũng đúng thôi, đâu thể nào trách nó được!
Bà Hai hỏi lại con gái. Mỹ Lan mím chặt môi một lát mới trả lời mẹ:
- Con sẽ phải làm cách nào đó để đứa nhỏ không nhận được từ Dũng một xu nào! Mẹ nó tự nuôi nó cũng được vậy, nếu không nuôi được thì bỏ nó lại con nuôi!
- Con nói vậy sao phải? Thôi, khuya rồi ngủ đi, đừng suy nghĩ mấy chuyện đó không hay đâu con. Từ ngày gia đình mình liên tiếp xảy ra những bất hạnh, má tin rằng số trời đã định cho mình như vậy là tại kiếp trước mình ăn ở không được tốt. Bây giờ má tin lời ông thầyTám nói, nếu muốn cải số chỉ dựa vô chính bản thân mình, phải sống có nhân đức con ạ! Con nghĩ cho con của thằng Dũng, biết đâu sau này cuộc đời con sẽ khá trở lên.
Bà Hai vừa vuốt ve mái tóc con gái vừa khuyên bảo.
Mỹ Lan ứa nước mắt.
- Con không biết… Nhưng con rất sợ phải sống trong cảnh nghèo khổ thiếu thốn như thời gian qua mẹ con mình đã sống. Bằng mọi giá con phải giàu có trở lại…
Thấy con gái quá bức xúc bà Hai không ngừng vỗ về:
- Thôi chuỵên gì cũng để từ từ rồi tính, ngủ đi con, đừng thức khuya quá sẽ mau già lắm đó!
Mỹ Lan nở một nụ cười méo xệch rồi rúc đầu vào lòng mẹ cố dỗ giấc ngủ.
Bà Hai không ngăn được tiếng thở dài…
Một tuần sau đó, Mỹ Lan được Dũng báo tin mừng:
- Anh đã nói chuyện với Mận xong rồi, cô ấy chấp nhận ra đi không làm khó dễ gì anh, nhưng… cô ấy lại xin anh cho cô ấy được mang theo bé Mai. Thật lòng anh không muốn, nhưng anh biết nếu xa bé Mai chắc chắn Mận sẽ rất đau khổ nên anh đành chìu theo cô ấy. Và anh sẽ thực hiện đúng lời hứa là chia cho bé Mai một nửa tài sản.
Nghe Dũng nói vậy Mỹ Lan càng thêm rối ruột. Cho tới giờ phút này Mỹ Lan vẫn chưa tìm ra cách nào để ngăn cản được việc chia chác đó.
Bất chợt trong giờ phút đó, một ý nghĩ ác độc loé lên trong óc Mỹ Lan. Cô nhận thấy đó là cách duy nhất mà cô có thể làm để giữ lại toàn bộ tài sản cho mình.
Mỹ Lan được Dũng cho biết ngày hôm sau anh và Mận sẽ lên Sài Gòn để thu xếp một vài việc, bé Mai ở nhà một mình. Đây là dịp tốt nhất để Mỹ Lan thực hiện ý đồ đen tối của mình.
Cả đêm hôm ấy Mỹ Lan không hề chợp mắt. Cô vạch ra một kế hoạch hoàn mỹ, chắc chắn sẽ không để lại bất kỳ một dấu vết nào.
Trưa hôm sau, chờ cho cả làng xóm im lìm dưới cái nắng gay gắt của mùa hè, Mỹ Lan lẳng lặng lẻn tới nhà Dũng.
Khi đi, Mỹ Lan rất cẩn thận chọn lối đi tắt, ngang qua các vườn chuối, các đám mía rậm rạp mà giữa trưa thế này không có lấy một bóng người.
Tới nhà Dũng, Mỹ Lan làm bộ thản nhiên bước vào nhà gọi khẽ:
- Bé Mai ơi, con ngủ chưa?
Con bé đang ngồi chơi một mình ở giữa nhà ngước đôi mắt to tròn ngơ ngác ngó Mỹ Lan:
- Cô…
Mỹ Lan tươi cười ngồi sà xuống cạnh đứa bé:
- Ba con nhờ cô tới chăm sóc cho con nè! Nào, bé ngoan, con đã ăn cơm chưa?
Đứa bé ngọng nghịu:
- Ăn gồi…
Mỹ Lan cầm bàn tay con bé lên, nhăn mặt:
- Con chơi dơ quá, tay chân lấm lem như vầy chút nữa ba Dũng về ba Dũng không cho ăn bánh đâu, để cô dẫn con đi tắm cho sạch sẽ nhe? Tắm sạch rồi ba Dũng về cho con nhiều kẹo bánh, nhiều đồ chơi nữa!
Con bé thích quá, gật đầu lia lịa và đứng lên không chút ngần ngại.
Dũng và Mận đã sống một thời gian dài ở các bãi vàng đầy gian lao và nguy hiểm, nên đứa bé cũng được dạy dỗ tự chơi một mình từ lúc mới lẫm đẫm biết đi. Vì vậy hôm nay Dũng và Mận để bé Mai ở nhà một mình suốt ngày cũng không có gì là lạ, hai người họ cũng chẳng lo lắng gì.
Trước khi đi Mận đã để sẵn cơm nước cho nó rồi, đói thì tự lấy ăn, chơi chán thì lăn ra sàn nhà mà ngủ. Đứa bé đã rất quen với cách sinh hoạt như thế.
Mỹ Lan liếc mắt nhìn ra đường lần nữa để xác định không có ai biết tới sự có mặt của cô trong nhà Dũng lúc này. Đường làng vắng vẻ, cả đến hàng cây cũng lười lay động.
Yên tâm, Mỹ Lan bế đứa bé ra sau nhà, chỗ có cái ao nước rất sâu mà trước kia đã có một lần Mỹ Lan suýt chút nữa chết đuối dưới ấy.
Lần đó, Mỹ Lan tới nhà Dũng chơi, trong lúc chờ Dũng từ ruộng về, Mỹ Lan trèo lên cây ổi mọc bên mé ao để hái mấy chùm trái đã căng bóng da, bay mùi thơm phức. Tình cờ tay Mỹ Lan chạm vào một con rắn đang nằm im trên cành, sợ quá Mỹ Lan vội buông tay rơi tòm xuống nước.
Cô đã uống một bụng nước, nếu Dũng không về đúng lúc đó và kịp thời phát hiện thì Mỹ Lan không còn sống tới hôm nay.
Mỹ Lan đặt đứa bé xuống cầu ao, bé Mai định mở nút áo thì Mỹ Lan can:
- Từ từ đi con! Giờ con bỏ dép ra… Đó, đúng rồi! Xoay lưng lại đây cô cột tóc lên… Ừ, giỏi!...
Bé Mai vừa xoay lưng lại, bất thần Mỹ Lan đẩy mạnh vào lưng nó một cái, đứa bé lảo đảo rồi ngã nhào xuống nước.
Mỹ Lan không dám chần chừ, vội vã chạy băng theo đường tắt về nhà. Cô cũng chẳng dám ngoảnh nhìn lại đứa bé đang vẫy vùng dưới nước.
- Con đi đâu về mà mặt mày lấm la lấm lét như ăn vụng vậy?
Vừa bước chân vô nhà, Mỹ Lan giật bắn người khi nghe tiếng bà Hai. Cô bối rối:
- Con tính đi tới nhà con Thắm…  Nhưng nắng quá, mệt nên trở về…
Bà Hai nhìn Mỹ Lan dò xét. Bà thấy con gái có gì đó lạ lắm nhưng bà không tiện hỏi.
Mỹ Lan ra sau nhà rửa tay chân mặt mũi rồi lên võng nằm nhắm mắt lại như đang ngủ.
Mãi đến xế trưa Dũng và Mận mới về tới nhà. Không thấy con bé đâu, Mận hốt hoảng chạy tìm quanh nhà thì phát hiện đôi dép của nó còn để trên cầu ao.
Nghe tiếng kêu la của Mận, Dũng và mấy người đàn ông gần đó vội nhảy xuống ao để mò, chẳng mấy chốc người ta đã vớt được đứa bé lên, nhưng nó không còn sống nữa!
Khi vừa đặt đứa bé lên bờ, từ miệng nó trào ra một dòng máu đỏ tươi, và dòng máu đó cứ ri rỉ chảy mãi đến gần tối mới khô lại.
Mận đau đớn như phát cuồng. Cô ngất lên ngất xuống, hết gào khóc gọi tên con gái lại rối rít ôm chặt đứa bé vào lòng. Người ta phải khó khăn lắm mới có thể giằng được đứa bé ra khỏi tay Mận để lo việc tẩm liệm cho nó.
Dũng thì ngơ ngác như kẻ mất hồn, anh không thể tin điều đó là sự thật.
Đứa bé là niềm vui, là hạnh phúc của anh trong mấy năm qua, giờ bỗng chốc mất đi, Dũng không sao chấp nhận được.
Nhưng đó là sự thật!
Giờ đây đứa con gái bé bỏng của anh đã nằm yên trong chiếc quan tài nhỏ xíu đặt ở hiên nhà. Tục lệ ở đây, những người chết đuối dưới nước không được mang xác vào nhà, sợ sẽ có “khuôn” cho dòng tộc.
Vì đứa bé còn quá nhỏ nên khi chết đi, đám tang của nó thật lặng lẽ, không kèn không trống, chỉ có một vài người bạn của Dũng và chòm xóm lân cận tới chia buồn.
Chiều tối hôm đó quan tài đứa bé được đưa đi chôn ở nghĩa địa làng.
Cái chết của đứa bé hoàn toàn không để lại một chút nghi vấn nào cho Dũng và Mận cũng như tất cả người trong làng.
Một đứa bé chơi đùa chán rồi lần dò ra ao để nghịch nước, rồi sảy chân rơi xuống là một điều hết sức bình thường.
Chỉ có một người nhận ra sự không bình thường: đó là bà Hai!
Khi nghe người làng xôn xao về cái chết của bé Mai, con Dũng, bà Hai đã lập tức đoán ra ngay sự việc.
Bà còn nhớ rõ vẻ mặt hốt hoảng, ánh mắt thất thần của Mỹ Lan trưa hôm nay. Bà cũng không quên cô đã từng khẳng định bằng mọi giá sẽ ngăn chận việc chia sẻ tài sản của Dũng cho đứa bé.
Bà Hai không ngờ đứa con gái yêu quý tội nghiệp của mình giờ đây lại trở nên một người tàn nhẫn đến mức độ này.
Từ chiều, Mỹ Lan kêu đau đầu và đã vô phòng nằm, bỏ cả bữa cơm chiều. Bà Hai buồn nẫu ruột, một mình ngồi chống đũa nhìn mâm cơm đạm bạc mà nghe không gian quanh mình bao trùm một sự lạnh lẽo thê lương.
- Mỹ Lan… con nói cho má biết đi con, chuyện gì đã xảy ra với con vậy? Con đã làm gì vậy, Mỹ Lan?
Bà Hai khe khẽ ngồi xuống bên cạnh Mỹ Lan, vừa xót xa vừa lo lắng.
Mỹ Lan òa khóc và ngồi bật dậy ôm chặt lấy mẹ:
- Má… má ơi! Con sợ quá má ơi…
Bà Hai cũng trào nước mắt theo con gái:
- Sao má khuyên mà con không nghe, để đến nông nổi này?
Mỹ Lan mếu máo:
- Con không muốn… thật tình con không muốn, nhưng con không chịu được…
- Rồi bây giờ con tính sao đây?
Bà Hai mệt mỏi hỏi con.
- Má! Má phải giúp con giữ kín việc này nghen má! Má mà nói ra là con… chết đó! Má con mình coi như không biết gì tới, không dính líu gì tới cái chết của đứa bé đó, nghe má!
Mỹ Lan hấp tấp.
Bà Hai ôm con:
- Trời ơi… dù má không tán đồng việc làm của con, nhưng má sao nở nói ra chuyện này được hả con? Giờ đây má chỉ còn mỗi một mình con thôi, con là tất cả của má mà… Má làm sao đẩy con vô chỗ chết được…
Bà Hai lau nước mắt cho con gái, dỗ dành:
- Thôi, giờ con ngủ đi cho khỏe. Để má chạy qua bên nhà thằng Dũng thăm nó một chút cho phải lẽ. Má sẽ nói với nó là con buồn quá không dậy nổi, với lại con cũng ngại gặp mặt con vợ nó nên không qua được. Ngủ đi nghe con!
- Dạ! Ma nói với anh Dũng con không khỏe nghe má…
Mỹ Lan dặn với theo bà Hai.
- Ừ, má biết mà!
Bà Hai nặng nhọc đi ra cửa. Dáng vóc của bà mới ngày nào còn sang trọng, giờ đây dưới sức nặng của buồn lo đã thay đổi rất nhiều. Và nhất là từ lúc xế trưa tới bây giờ, bà Hai dường như già đi nhiều tuổi nữa.
Bà Hai đi rồi, còn lại một mình Mỹ Lan trong căn nhà trống vắng. Một nỗi lo sợ mơ hồ cứ vây lấy cô. Nhắm mắt hay mở mắt gì Mỹ Lan cũng nhìn thấy bé Mai đang huơ tay huơ chân dưới ao nước phía sau nhà Dũng…
Lấy một chiếc gối đè lên mặt, Mỹ Lan cố dỗ mình vào giấc ngủ. Vừa mới thiêm thiếp, cô nghe có tiếng động ở cửa, tưởng bà Hai về, Mỹ Lan nhổm dậy hỏi:
- Má, anh Dũng có hỏi gì con không má?
Không nghe tiếng trả lời, Mỹ Lan ngạc nhiên tưởng mình mớ ngủ nên nghe lầm. Nhưng khi cô vừa đặt lưng nằm xuống lại nghe tiếng động ở cửa, lần này rõ ràng là tiếng đẩy cánh cửa, không sai vào đâu được. Mỹ Lan ngồi lên nhưng vẫn không thấy bóng dáng một ai.
Bỗng nhiên Mỹ Lan nghe như có cảm giác lành lạnh ở dưới mấy ngón chân, cô chưa kịp nhấc chân lên thì nghe tiếng trẻ con:
- Cô ơi, con lạnh lắm… cho con chui vô đắp chung mền với cô đi…
Mỹ Lan tung mền, lăn ra và té nhào xuống đất.
Cô vừa bò ra ngoài, vừa run lập cập. Bên ngoài nhà cửa vẫn sáng trưng vì khi đi bà Hai vẫn để đèn cháy sáng.
Cả người Mỹ Lan túa mồ hôi dầm dề, cô sợ đến cứng cả lưỡi, muốn la lên cũng không cất được thành lời. Cô ngồi giữa nhà thở dốc.
Vừa lúc đó bà Hai về đến. Nghe tiếng kẹt cửa, Mỹù Lan run lên bầnbật, giương đôi mắt lạc thần ngó ra, bà Hai vừa bước vô trông thấy con gái đang ngồi bệt giữa nhà, đầu tóc rối tung mặt mày xanh xám. Bà hốt hoảng chạy tới đỡ con gái dậy:
- Mỹ Lan, ở nhà có chuỵên gì vậy con?
Mỹ Lan run rẩy chỉ tay vào buồng:
- Nó… con bé… nó ở trong đó…
Bà Hai dựng cả tóc gáy, hỏi lại:
- Con nói sao? Con bé đó… ở trỏng?
Mỹ Lan gật đầu, hai tay cô vẫn bấu chặt lấy mẹ.
Bà Hai lấy lại bình tĩnh. Bà đỡ con gái ngồi xuống võng rồi bật hết các bóng đèn cho nhà cửa sáng rực lên.
Bà Hai cố nện mạnh bước chân khi bước vào buồng.
Căn phòng ngủ không được sáng lắm vì chỉ để một chiếc đèn ngủ màu vàng nhạt, còn lại là ánh sáng hắt từ bên ngoài vào. Vô tới bên trong, bà Hai vội vàng với tay lên chiếc công tắc mở bóng đèn nê ông sáng rực lên.
Trong phòng không có một ai, tất cả vẫn bình thường, chỉ có gối mền rơi nằm dưới đất do lúc nãy Mỹ Lan tung ra.
Nỗi sợ hãi có phần vơi bớt, bà Hai nghĩ thầm chắc có lẽ Mỹ Lan mãi nghĩ về việc đó nên bị ám ảnh.
Chưa lúc nào bà Hai cảm thấy giá trị của ông Hai trong nhà như lúc này. Giá có ông Hai ở nhà, bà và Mỹ Lan chắc không đến nông nỗi này đâu, hay ít nhất cũng không cảm thấy vô cùng lẻ loi đơn độc thế này.
Mấy năm rồi không hề có chút tin tức nào về ông ấy, chẳng biết bây giờ ông ấy sinh sống ở đâu, sướng khổ thế nào? Có bao giờ ông ấy nhớ tới mẹ con bà không?
Một nỗi cay đắng, tủi cực trào dâng làm bà Hai nghẹn ngào tuôn rơi nước mắt. Nhưng rồi bà vội vã lau khô trước khi trở ra ngoài với con gái. Bà biết, hơn lúc nào hết, giờ là lúc Mỹ Lan cần có bà, bà cần phải cứng rắn để làm chỗ dựa cho con.
Dù bà biết con bà vừa nhúng tay vào tội ác, nhưng nó vẫn là con gái của bà, đang cần bà chở che, bảo bọc.
- Con ơi, không có gì đâu con! Đừng có sợ, tại con cứ suy nghĩ tới chuyện đó hoài. Con đừng nghĩ gì nữa hết. Chuyện gì qua thì con cứ để cho nó qua luôn đi, không nhắc tới nữa! Giờ con đứng lên, vô ngủ với má! Có má ở đây rồi, con không phải sợ gì hết!
Bà Hai vừa xốc nách đỡ con gái đứng lên, vừa dỗ dành như đang dỗ dành một đứa bé.
Mỹ Lan gượng đứng lên, răm rắp làm theo lời mẹ.
Đêm đó Mỹ Lan nhất định không cho mẹ tắt đèn trong phòng. Cô cứ ôm chặt lấy bà Hai, người run lên bần bật, mãi đến gần sáng hai mẹ con mới chợp mắt thiếp đi.
Thức dậy đã gần mười giờ sáng, Mỹ Lan thấy mệt mỏi rã rời nhưng tinh thần của cô đã bình tĩnh lại.
Nằm trong căn phòng sáng trưng, nhưng không phải nhờ ánh điện mà là do bà Hai đã mở tung hết mấy cánh cửa sổ thường ngày vẫn đóng kín cho ánh sáng ùa vào, Mỹ Lan chợt thấy lòng mình trở nên lạnh lẽo.
Giờ đây cô đã là người ngồi trên lưng cọp, tay đã nhúng chàm, có muốn quay lưng lại cũng không còn kịp nữa! Vậy thì chỉ có mỗi một con đường là tiếp tục dấn bước đi lên, đạp lên tất cả những gì cản chân, ngáng đường mình! Phải vậy thôi. Mình phải tồn tại!

Mỹ Lan ngồi dậy và trong đầu cô lúc này đã có một quyết tâm sắt đá.
Vừa trông thấy con gái thức dậy, bà Hai lật đật chạy vào vì sợ Mỹ Lan sợ hãi, nhưng Mỹ Lan nhìn mẹ rồi gượng cười:
- Má đừng lo cho con nữa, bây giờ con đã bình tĩnh lại rồi!
Bà Hai rưng rưng nước mắt:
- Thấy con lấy lại được tinh thần là má vui lắm. Má chỉ sợ… lỡ con mà có chuyện gì chắc má chết quá, làm sao má có thể sống nổi mà không có con… Con thương má, con phải cố gắng nghe con! Bao nhiêu tội lỗi má xin thay con mà ghánh lấy…
Mỹ Lan ôm vai mẹ:
- Má yên tâm đi, từ nay con không làm má sợ nữa đâu! Con phải mạnh dạn lên, con phải sống cho thật hiên ngang…
Bà Hai nhìn con âu yếm, một nụ cười héo hắt mở ra trên môi bà.
Mỹ Lan quả thật đã ổn định tinh thần. Buổi trưa hôm đó cô trở nên bình thường như chẳng hề có chuyện gì xảy ra.
Chiều tối, Dũng tới chơi. Dáng dấp anh vẫn còn đầy thểu não.
- Anh Dũng… Em thành thật chia buồn cùng anh! Hôm qua nghe tin đó em cũng đau xót và nóng lòng cho anh lắm, em rất muốn tới để chia sẻ cùng anh, nhưng… em sợ gặp Mận…
Dũng cầm tay Mỹ Lan cười thật buồn:
- Anh hiểu! Anh hiểu lòng em mà! Em đừng ái náy làm gì… Thật tình anh không ngờ sự tình lại có thể xảy ra như vậy. Trước nay anh với Mận vẫn luôn để con bé ở nhà một mình. Nó rất ngoan, dặn không được ra khỏi cửa là dứt khoát không ra. Vậy mà lần này… Anh thật ân hận quá! Vì hôm qua Mận tính sẽ đem theo con bé, nhưng anh nghĩ đi lên đó rồi trở về ngay, dắt theo nó chỉ làm nó mệt.
Dũng đưa hai tay ôm lấy đầu, khổ sở.
Mỹ Lan không ngớt lời an ủi người yêu:
- Anh đừng quá buồn rầu như vậy sẽ ảnh hưởng xấu tới sức khỏe. Dù sao con bé cũng đã mất rồi, anh có buồn đau đến mấy cũng không đem được nó trở về. Con người có số mạng anh à, chắc con bé đã hết duyên nợ với anh nên mới ra đi như vậy. Anh còn trẻ, còn khỏe, rồi mai đây anh lại có những đứa con khác…
Dũng gục đầu vào vai Mỹ Lan:
- Anh cám ơn em… Anh cám ơn em nhiều lắm!
 
***
Một tuần sau khi đứa bé mất thì Mận dọn đi. Dũng cũng rất đau lòng khi thấy Mận ra đi trong hoàn cảnh đó. Hai bàn tay trắng, không còn chồng cũng chẳng còn con…
Trước đây khi bắt đầu chung sống với nhau, Dũng đã giao hẹn với Mỹ Lan rằng, anh chỉ sống với cô theo kiểu chồng hờ vợ tạm, vì thật sự anh không hề yêu cô, đối với cô anh chỉ có chút lòng cảm thông, thương hại và có sự lôi cuốn của thể xác mà thôi. Và Mận cũng vậy, Mận cũng chẳng yêu anh.
Bởi vậy, khi nào một trong hai người tìm được đúng một nửa của mình, thì người kia phải vui vẻ ra đi, không được có bất cứ một hành vi nào gây ra phiền phức cho người ở lại.
Lời giao kèo đó giờ đây Mận đang thực hiện.
Dũng đâu biết rằng, sau một thời gian chung sống bên anh, Mận đã đem lòng yêu thương anh thật sự, nhưng cô không dám nói ra.
Đêm Dũng về nhà thú thật với Mận về tình cảm của anh với Mỹ Lan và nhắc lại lời hứa hẹn giữa hai người. Mận như đứt từng khúc ruột nhưng bề ngoài cô vẫn giữ vẻ bình thường.
Cô đã khóc âm thầm bao nhiêu đêm qua, nhưng cô tự an ủi mình dù sao cũng còn có bé Mai, nó là kỷ niệm không bao giờ phai nhạt giữa cô và Dũng, nó là hình ảnh của Dũng mà sau này mỗi khi nhớ  tới anh, cô có thể ôm siết nó vào lòng.
Nhưng giờ đây Mận đã mất tất cả rồi! Dũng không thể tiếp tục sống với cô, bé Mai cũng bỏ cô mà đi tới một nơi thật xa, nơi ấy giờ đây cô không thể nào tới được.
Cầm số tiền Dũng đưa cho, Mận muốn nói với anh thật nhiều nhưng cô không thể mở lời nói được! Giờ đây trái tim anh, tâm hồn anh đã hoàn toàn thuộc về người khác rồi, giữa anh và cô một khi không còn bé Mai thì đã không còn mối dây liên lạc nào nữa…
Thôi thì đành cất bước ra đi với trái tim tan nát.
Đêm trước ngày Mận đi, trong giấc ngủ cô gặp lại bé Mai. Nó lặng lẽ đứng nhìn cô rồi nước mắt và máu chảy dài trên mắt trên môi nó. Thái độ của nó đàng hoàng chững chạc như một người lớn chứ không phải là đứa bé con.
Trong giấc mơ, Mận vẫn biết con gái mình đã chết, nên vừa trông thấy nó cô mừng rỡ nhào tới định ôm con vào lòng, nhưng đứa bé lại né người sang một bên làm Mận ngã nhào vào cánh cửa phía trước mặt.
Cô tức tưởi hỏi con:
- Sao mẹ dặn rồi mà con không nghe, con ra ao làm gì để bây giờ mẹ con ta mỗi người mỗi ngả…
Bé Mai không nói gì, chỉ lặng lẽ đứng tựa lưng vào cánh cửa mà khóc ròng. Mãi tới lúc nó chuẩn bị quay đi mới nói với Mận một câu:
- Mai ngoan lắm, Mai luôn nghe lời mẹ! Mai không tự đi một mình ra ao đâu, mẹ đừng giận Mai…
Lúc còn sống bé Mai chưa nói sõi được như vậy, nhưng trong giấc mơ của Mận, nó ăn nói thật lưu loát.
Nói xong câu đó, bé Mai lặng lẽ bước ra ngoài, đi xuyên qua cánh cửa.
Giật mình thức giấc, Mận không khỏi trào nước mắt.
Trong đầu Mận thoáng một chút suy nghĩ, có khi nào ai đó cố tình dẫn bé Mai của cô ra sau nhà? Nhưng suy đi nghĩ lại, ai mà làm chuyện đó để làm gì? Dũng, cô và cả bé Mai đâu có gây thù chuốc oán với ai đâu?
Cả nhà mới vừa trở về quê, còn chân ướt chân ráo thì làm gì có người thù ghét đến mức độ phải thủ tiêu đứa bé?
Không, mình chỉ nghĩ chuyện vớ vẩn thôi, Dũng biết được sẽ rầy la mình lắm. Chỉ tại con bé, mình không nên nghi ngờ người này người khác mà có tội.
Suy nghĩ vậy nên Mận không dám kể với Dũng chuyện đó. Cô âm thầm đau khổ một mình.
Nhìn theo dáng đi liêu xiêu của Mận dần khuất nơi xa, Dũng nghe lòng thật buồn, thật trống trải. Nhưng biết làm sao được? Mỹ Lan mới chính là tình yêu đích thực trong cuộc đời anh!
Vì đứa con mới mất nên Dũng chưa thể tổ chức ngay đám cưới với Mỹ Lan như lòng hằng mong muốn. Tuy nhiên, những ngày này Dũng thường xuyên có mặt ở nhà Mỹ Lan, anh rất sợ phải ở nhà một mình, vì hình bóng bé Mai vẫn cón tràn ngập trong nhà. Ở bất cứ chỗ nào trong nhà mình Dũng cũng bắt gặp những kỷ niệm của con bé còn để lại.
Có Dũng ở bên cạnh Mỹ Lan bà Hai cũng có phần yên tâm. Tuy nhiên bà vẫn không nguôi lo lắng, sợ Mỹ Lan vô ý nói ra điều gì làm Dũng nghi ngờ. Những lúc không có mặt Dũng, bà luôn nhắc con gái phải giữ gìn từng lời ăn tiếng nói, từng cử chỉ đối với Dũng.
Rồi ngày cưới của hai người cũng đến. Tuy không từng bừng như mong ước của Mỹ Lan ngày nào nhưng cũng khá đầm ấm và tươm tất.
Mỹ Lan toại nguyện rồi. Giờ đây tất cả tài sản của Dũng đã về tay cô, mẹ con cô đã có thể giã từ những ngày long đong vất vả, đã có thể sống một cuộc sống đàng hoàng, ăn trắng mặc trơn.
Ai bảo số phận không xoay chuyển được? Chẳng phải Mỹ Lan đã bắt nó phải xoay theo ý muốn của cô sao?
Tối đó Dũng hơi mệt do suốt ngày phải tiếp khách, phải uống những ly rượu mừng người ta chúc tụng, anh vào phòng nghỉ sớm. Mỹ Lan tắm giặt xong thì Dũng đã ngủ say rồi.
Nằm bên cạnh chồng, Mỹ Lan không khỏi ngậm ngùi. Mơ ước của cô to lớn hơn nhiều, nhưng giờ đây cô phải chấp nhận cái hạnh phúc nhỏ nhoi này, đó là một điều mà Mỹ Lan cho là thiệt thòi lắm.
Nhưng thôi, cứ tạm bằng lòng với những gì mình đang có trong tay.
Mỹ Lan vén mùng với tay tắt đèn. Bóng tối bao trùm căn phòng. Cô còn đang loay hoay không biết đèn ngủ chỗ nào thì cảm giác như có ai đó đang chen vào giữa cô và Dũng. Giật mình, Mỹ Lan quờ tay tìm thử thì thấy không có gì. Cô yên tâm nằm xuống, không muốn mở đèn ngủ nữa.
Mỹ Lan nghiêng người qua ôm lấy Dũng. Nhưng lạ kìa, thân hình Dũng sao lại thế này?
Mắt đã quen dần với bóng tối, Mỹ Lan thấy rõ ràng người đang nằm cạnh mình không phải là Dũng mà là bé Mai!
Nó không nằm im nữa, nó ngồi dậy, chìa hai bàn tay ra trước mắt Mỹ Lan, cười cười:
- Cô ơi, tay con dơ rồi, cô dẫn con đi rửa tay… Cô ơi…
Hoảng sợ, Mỹ Lan muốn la to lên cho Dũng thức giấc nhưng không hiểu tại sao cô chỉ ú ớ trong miệng mà không nói thành câu.
Đứa bé kéo Mỹ Lan ngồi dậy, miệng không ngớt gọi:
- Cô ơi, rửa tay giùm con… tay con dơ rồi…
Mỹ Lan lấy hết sức lực vùng ra khỏi tay đứa bé, cô ngã nhào xuống giường ôm chặt lấy Dũng, nhưng… trong vòng tay cô lại là đứa bé đó. Nó đưa bàn bàn tay nhỏ xíu dính đầy máu lên và cười híc híc:
- Cô ơi… tay con dơ rồi!
Mỹ Lan vùng dậy, chạy ra khỏi giường, đứa bé vẫn lò dò đi theo sau lưng:
- Cô ơi, rửa tay cho con, cô ơi…
Mỹ Lan chạy vòng quanh nhà nhưng vẫn không thoát khỏi đứa bé. Nó hết níu áo, kéo tay rồi lại ôm chặt lấy chân cô, lải nhải:
- Cô ơi, rửa tay cho con, cô ơi…
Mỹ Lan xô ngã bàn ghế, ly tách rơi loảng xoảng mong đánh thức được Dũng, nhưng Dũng vẫn ngủ say như chết trên giường, để một mình cô phải đối phó với đứa bé.
- Cô ơi, rửa tay cho con, cô ơi…
Mỹ Lan đã mệt lả và bỗng nhiên như bị thôi miên, Mỹ Lan cầm tay đứa bé dẫn ra sau nhà.
- Cô ơi… chờ con lấy dép…
Đứa bé kéo tay Mỹ Lan tới bên chiếc bàn thờ nhỏ kê trong góc nhà, với tay lên lấy đôi dép nhựa màu đỏ mà vừa chiều nay Dũng để lên trên đó.
- Đi cô! Đi rửa tay cho con!
Mỹ Lan mở cửa sau dẫn đứa bé ra vườn.
Trăng đầu tháng soi mờ mờ, hai cô cháu dò dẫm dắt tay nhau ra cái ao sau nhà.
- Cô rửa tay cho con đi cô!
Đứa bé nói không ngớt miệng. Nó thúc giục Mỹ Lan và Mỹ Lan làm theo lời nó như một cái máy.
- Cô ơi con muốn tắm!
Vừa dứt lời, đứa bé nhảy ùm xuống nước. Nố trồi đầu lên cười hắc hắc rồi vẫy tay lia lịa:
- Cô ơi, cô xuống tắm với con! Xuống tắm với con đi cô!
Mỹ Lan cúi xuống đặt đôi dép của mình bên cạnh dép con bé trên cầu ao rồi từ từ thả chân xuống nước.
Mặt nước ao lung linh ánh trăng, tiếng cười của đứa bé vang vang, lúc thì nó trồi lên chỗ này, lúc nó lại trồi lên chỗ khác, rối rít gọi cô.
Nước ao đã tới ngực Mỹ Lan những cô vẫn tiếp tục bước tới… bước tới!
Tin Mỹ Lan chết đuối trong đêm tân hôn khiến cả làng xôn xao lo sợ. Người ta đồn ầm lên rằng đứa bé con của Dũng vì không muốn Mỹ Lan thay thế chỗ của mẹ nó nên nó đã về bắt cô đi ngay đêm động phòng hoa chúc.
Bà Hai quỳ bên xác con khóc không ra nước mắt.
Thần trí bà ngẩn ngơ điên loạn.
Bà không ngừng lẩm bẩm mãi một câu:
- Sao không bắt tội tôi? Tôi đền mạng thay cho con gái tôi mà…
Sau đó mấy ngày Dũng cũng bỏ làng đi biệt tích. Không biết trên đường đời anh và Mận còn có dịp nào để gặp lại nhau?
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:16:50 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 20:44:01
MỘT CÂU CHUYỆN MA
 
Nhân một buổi tối thứ bảy, Hoài cùng mấy anh bạn nhà văn của mình tập họp nhau lại trong gian phòng khách nhà anh cùng uống trà và tán chuyện văn chương. Tiết trời tháng chạp se se lạnh, lất phất mưa ngâu. Một ấm trà lài, mấy cái bánh quy cùng vài ba cuốn sách mới cũng đủ làm nên một không khí ấm cúng và rôm rả trong gian nhà. Hoài là người trẻ tuổi nhất trong cả bọn, anh mới bắt đầu sự nghiệp viết văn, tuy chưa ra được cuốn sách nào hẳn hoi nhung loạt truyện trinh thám được đăng trên tờ tuần báo suốt mấy tháng vừa qua của anh cũng khiến các bạn anh phần nào thán phục cái lối viết văn rất thu hút và những cốt truyện kì thú vô cùng.
Sau một hồi bàn tán sôi nổi về một quyển tiêu thuyết mới ra lò của anh Lãm, một tay nhà văn chuyên nghiệp đã có tiếng trên văn đàn mọi người lại quay sang hỏi chuyện anh Hoài.
- Hồi này chuyện viết lách của anh có tiến triển gì không? Tôi chưa thấy đoạn cuối câu chuyện trinh thám của anh trên mấy mặt báo gần đây. Chúng tôi đang mong lắm đấy.
Một người trong bọn cất tiếng hỏi. Giọng nói của anh có cái vẻ thành thực của một người chất phác lại vừa thân mật vô cùng. Ấy là anh Nam, một nhà bao trẻ.
Hoài không trả lời bạn vội, anh đang ngồi lọt thỏm trong cái ghế sô pha boc nệm, nhâm nhi một ngụm nước trà:
- Tôi đang cố công viết một cuốn truyện kinh dị các anh ạ. Một cuốn tiểu thuyết hẳn hoi. Còn loạt truyện trên tờ tuần báo, không đăng cũng là có lý do của chủ bút. Ông ấy muốn người ta vì cứ phải mua báo để xem số này có đăng đoạn kết bất ngờ ấy chưa thế mà.
Hoài chậm rãi nói.
Các bạn anh đều cười trước cái lý do rất chi là thương mại ấy. Mọi người đều quan tâm đến cái tin cuốn tiểu thuyết truyện kinh dị của Hoài sắp ra đời nên đề tài của câu chuyên lại tiếp tục hướng vào anh.
- Phục cái trí tưởng tượng của anh thật đấy anh Hoài ạ. Viết một cuốn tiểu thuyết đã khó, chuyện kinh dị thì lại càng khó hơn. Nhân đây anh có thể tiết lộ đôi chút cho anh em chúng tôi biết về tác phẩm sắp ra đời của anh được không?
Mọi người cùng tán thành câu nói ấy của anh Nam. Anh Lãm đang ngồi vắt vẻo trên cái tay ghế cạnh cửa sổ cũng lên tiếng:
- Phải đấy, anh kể cho chúng tôi nghe một đoạn đi nào, chỉ một đoạn rùng rợn thôi. Tôi cá rằng anh mà ra cuốn ấy thì tiểu thuyết tình yêu của tôi mất khách ngay. Ai còn lạ gì tài làm người khác nổi da gà của anh.
Hoài thích thú mỉm cười nhưng anh vẫn giữ một vẻ khoan thai, nhẹ nhàng của người khiêm tốn.
Anh nói:
- Quả thực tôi cũng không biết mình sẽ thành công hay không nhưng cuốn  truyện này phải giữ bí mật tới ngày xuất bản các anh ạ. Không phải tôi kiêu kì đâu nhung nếu tôi kể ra thì mất hết cái hay của nó.
Im lặng một lúc Hoài lại tiếp:
- Nhưng nhân dịp các anh có mặt đông đủ ở đây và cũng không để các anh phải nài. Tôi sẽ kể cho các anh nghe một câu chuyện khác cũng không kém phần hấp dẫn. Một câu chuyện thực hẳn hoi đã xảy ra với tôi cách đây không lâu.
Các bạn của Hoài tán thành ngay. Mọi người cùng ngồi gần lại bộ ghế sô pha hơn. Hoài lại tiếp tục cái dáng vẻ từ tốn của anh, anh đứng dậy cầm cái ấm trà đi châm thêm nước vào và cho thêm ít bánh quy ra dĩa. Đoạn anh quay lại chỗ ngồi, thả mình xuống, hai tay ấp lại trước bụng và bắt đầu bằng một giọng rất thản nhiên:
- Các anh biết đấy, tôi vốn là dân tỉnh lẻ lên thành phố trọ học rồi kiếm sống bằng cái nghề viết lách này. Tôi ở quê cũng chẳng có bà con đông đúc gì. Lên thành thị cũng chỉ sống đơn độc một mình trong khu nhà trọ rẻ tiền.
Tôi lên thành phố được gần một năm, lúc ấy anh Hoài bạn của các anh hãy còn là một tay sinh viên văn khoa ngày hai buổi đạp xe đến giảng đường còn buổi tối thì vùi đầu trong phòng trọ mà đọc sách. Cuộc đời của một anh sinh viên tỉnh lẻ cứ thế yên lặng trôi qua.
Một hôm tôi nhận được một lá thư của một người chị em họ phía bên nội. Người chị ấy hơn tôi độ hai tuổi là con ông bác tôi, sinh sống ở ngoại ô thành phố này. Lá thư đến đột ngột sau nhiều năm không liên lạc gì khiến tôi hơi bất ngờ.
Trong thư chỉ có vài dòng thăm hỏi sức khoẻ thông thường nhưng cuối thư tôi lại thấy chị viết cho tôi mấy dòng như nhờ vả tha thiết: “Tôi biết chú Hoài cũng khá bận việc học hành, nhưng bây giờ đang vào mùa hè nên hy vọng chú cũng có ít thời gian rỗi rãi. Chẳng qua là ông cụ nhà tôi đã đứng tuổi rồi nên tính chuyện về quê dăm mười bữa để chia sẻ ruộng vườn, đất đai cho các con. Căn nhà ở ngoại ô không có ai trông nom nên tôi đành nhờ chú. Từ chỗ trường chú đạp xe ra ngoại ô chỉ độ hai giờ đồng hồ. Nếu chú ưng thuận ra đây ở dăm mười hôm trông nhà hộ ông cụ tôi thì tôi biết ơn chú lắm…”
Dạo ấy tôi cũng nhàn rỗi, mùa hè lại đang đến nên tôi quyết định đi một chuyến ra ngoại ô chơi. Cũng chẳng mất mát, tốn kém gì lại được toàn quyền sử dụng một căn nhà đàng hoàng rộng rãi. Ấy thế là tôi hăm hở viết thư lại cho người chị họ báo rằng tôi sẽ lên trong hai hôm nữa.
Đã mấy năm không gặp gia đình ông bác, tôi chỉ còn nhớ lờ mờ bác tôi trông rất giống cha tôi nhưng cao to mực thước hơn. Bác lấy vợ người thành phố và tậu được một căn nhà ở ngoại ô, chỉ về quê thăm chơi mỗi khi có giỗ chạp gì. Sau này bác gái tôi chết thì bác tôi có gửi hai người con gái về ở tạm với gia đình tôi để bác tôi rảnh tay lo việc làm ăn sau khi vợ mất.
Hai người chị em họ ấy,  một là chị Thư là người chị đã viết lá thư cho tôi, người kia là chị Thảo, nhỏ hơn tôi đến mấy tuổi, cả hai đều đã mấy năm nay  tôi không hề gặp qua. Tôi có nghe mẹ tôi nói mấy lần rằng ông bác tôi về sau này trở nên gàn gàn và đôi khi không tỉnh táo lắm. Tôi cũng chẳng mấy bận tâm.
Đoạn đừơng xa xôi từ nhà trọ nơi tôi ở ra đến ngoại ô trên một chiếc xe đạp cà tàng khiến tôi vã mồ hôi trán và thở không ra hơi nữa. Cuối cùng tôi cũng tìm đến đúng cái địa chỉ mà chị Thư đã viết trong thư.
Căn nhà nhỏ nhưng khá khang trang, tường  vôi trắng, cổng sơn xanh, trong sân có trồng  một hàng hoa vạn thọ. Cánh cổng khép hờ, nhà lại không thấy có chó nên tôi tự ý đẩy cửa bước vào luôn. Nhà xây theo lối cổ, trần lợp bằng ngói tàu đã phủ rêu xanh, cột nhà làm toàn bộ bằng gỗ lim bóng loáng, sàn lát gạch vuông, sạch bong. Trong nhà hơi tối chỉ có một cửa sổ nhỏ khép kín. Một cái bàn thờ tổ tiên trịnh trọng án ngữ ngay trên tường chính giữa gian phòng lớn. Hai bức tranh phong cảnh treo hai bên câu cột chính. Cái bàn nước ở giữa nhà bằng gỗ gụ vàng đã lên nước.
Tôi thích chí nhìn nhắm thoả thuê xung quanh nhà. Chốn này gợi tôi nhớ về thời thơ ấu lớn lên trong một căn nhà cũng bài trí theo lối xưa như thế này.
Đang mải miết thả hồn, tôi thấy có bóng người từ dưới nhà đi lên. Một người con gái mảnh khảnh, nước da trắng ngần và nét mặt u sầu nhung vẫn phảng phất vẻ trẻ trung.
- Thưa, ông tìm ai ạ?
Cô gái lễ phép hỏi tôi.
Bị bắt gặp đang ngẩn ngơ ngó nghiêng nhà cửa của người khác nên tôi giật cả mình, trả lời vội:
- À, tôi là Hoài, chị Thư bảo tôi lên trông nhà.
- A, anh Hoài, anh lớn quá! Tôi là Thảo con bác anh đây mà.
Cô gái tươi ngay nét mặt.
Tôi bỡ ngỡ nhận mặt người bà con. Thảo giục tôi vào nhà rửa mặt còn cô tất tả đi pha trà ngay.
Một lúc sau cô trở ra với nụ cười  thân thiện:
- Anh Hoài uống trà nhé? Chị Thư bảo hôm nay anh lên nên tôi chuẩn bị cả rồi. Tôi và thầy tôi sẽ đi chuyến xe lửa trưa nay để về quê. Mọi chuyện ở nhà nhờ anh trông hộ nhé?
Đến trưa, cô em họ và ông bác tôi lỉnh kỉnh khăn gói lên đường. Đúng như lời mẹ tôi bảo, ông bác không còn nhận ra tôi nữa. Lúc gặp tôi ngoài cửa ông cười rất tươi và hỏi tỉnh bơ:
- Thầy cai Tú đến thăm tôi đấy à?
Cô em họ cũng nháy mắt cho tôi biết nên chỉ yên lăng cười chào lại, không phản bác điều gì.
Lúc cả hai người họ đều đi cả, còn lại một mình trong nhà yên vắng tôi mới nghĩ đến sự quạnh quẽ của cuộc sống một cô em họ trẻ tuổi bên cạnh người cha già lẫn trí ngày ngày. Chắc cũng có lẽ chính vì thế mà tôi đã nhận thấy ngay cái vẻ u sầu thoáng qua trên nét mặt cô.
Tôi làm một vòng đi dạo quanh nhà.
Trên cái sân sau xanh mướt rong rêu là một cái giếng nhỏ, miệng giếng chỉ cao hơn mặt đất chừng hai tất, cũng phủ đầy lá rêu và lởm chởm những cây dương xỉ. Tôi soi bóng mình xuống cái giếng rêu phong, trên nền nước xanh thẫm màu.
Cạnh giếng là một cây cau trĩu quả, tỏa bóng mát khắp ái sân nhỏ. Tôi thơ thẩn ngắm nhìn từng viên gạch, cái võng vắt giữa hai thân cau và một vại sành đựng nước rửa chân có chiếc gáo dừa bóng nhẵn gác một bên.
Thật tuyệt! Chỉ cách trung tâm thành phố hai giờ đồng hồ đạp xe mà nơi này thật là tách biệt. Yên tĩnh và tự do.
Tôi đi loanh quanh trong nhà đã chán liền vào bếp lục bữa cơm trưa mà Thảo đã nấu sẵn trước khi đi cho tôi. Cơm ngon, nhà lại vắng người, ăn xong tôi ngả luôn ra chiếc võng ngoài sân sau đánh một giấc ngon lành.
Tỉnh dậy thì đã bốn giờ chiều. Bấy giờ tôi mới soạn đống hành lý của mình ra, chọn lấy một cuốn sách để đọc vào ban đêm.
Màn đêm ở đây buông xuống nhanh hơn  tôi tưởng, mới sáu giờ thì trời đã tối om om. Nhà hàng xóm lại cách một bờ giậu thưa nên không cách gì nhìn thấy ánh đèn nhà họ, trước nhà lại có tường rào bao quanh, xa khỏi con đường chính và im lặng lắm. Chỉ thỉnh thoảng tôi mới nghe thấy tiếng chó sủa ở phía xa xa.
Tôi lục đục thắp đèn lên và chuẩn bị đi đọc sách. Như thường lệ lúc ở nhà tôi vẫn thường pha một ấm trà lớn để vừa nhâm nhi vừa đọc. Nghĩ thế tôi liền xuống bếp tìm cái ấm nước. Quanh quẩn một lúc mà không tìm được, lại nghe một tiếng động lạ như tiếng chân người đang bước đi ở nhà trên, tôi đành quay trở lên.
Căn nhà không có người bỗng trở nên lãnh đạm và âm u khác thường. Mặc dù đèn đã thắp lên tôi vẫn thấy trong nhà u tịch  lắm.
Gian nhà trên im ắng, tiếng động ban nãy vừa nghe thấy cũng bặt hẳn. Tôi nhìn ra ngoài đường, bóng tối ôm lấy những ngọn cây đang đong đưa trong gió. Một bầy muỗi đang vo ve trên không trung.
Tìm không thấy cái ấm  tôi đành gạt chuyện trà nước sang một bên, mang đèn đặt xuống bàn và bắt đầu đọc sách. Được một lúc lâu tôi lại nghe có tiếng bước chân ở phía nhà sau. Thầm nghĩ rằng có lẽ việc mình quá chú tâm vào trong sách đã khiến mình mơ tưởng thấy những âm thanh lạ. Thế là tôi quyết định đặt cuốn sách xuống bàn, đứng lên đi đi lại trong nhà và lắng tai nghe thêm lần nữa.
Bấy giờ xung quanh tôi lại trở về yên tĩnh như thường. Chắc mẩm rằng mình đã nghe lầm, tôi tiếp tục trở lại với cuốn sách đang đọc dở, một cuốn tiểu thuyết lãng mạn đang thịnh hành. Trời dần về khuya, khí lạnh tràn vào qua cửa sổ, tôi khẽ kéo tấm mành tre xuống. Vừa lúc ấy cái tiếng bước chân lúc nãy lại vang lên từ nhà dưới, nghe như tiếng guốc gỗ lạch cạch.
Tôi bạo dạn đứng ngay dậy, rời khỏi bàn giấy, đi nhanh xuống bếp. Cánh cửa thông ra vườn sau đã mở toang, một bóng người lướt nhanh như bay qua cánh cửa ấy. Tôi đi như chạy đuổi theo ngay nhưng cố không tạo ra tiếng động gì lớn cả. Thế mà lúc tôi ra đến ngoài sân thì đã không thấy bóng người này đâu nữa.
Tuy gian bếp không có đèn, nhưng ánh sáng từ nhà trên đưa xuống cũng đủ để tôi khẳng định mười mươi rằng tôi đã thấy rõ ràng một bóng nười vận đồ trắng vừa lẻn ra ngoài cửa bếp. Tôi đứng tần ngần trong sân đến mấy phút, cũng không thấy động tĩnh gì. Nếu là kẻ trộm thì chúng không dại gì đi khua guốc gỗ lạch cạch như thế, chẳng khác nào đánh động chủ nhà.
Xung quanh vườn trồng toàn tre ngà làm hàng rào, những thân tre rắn rỏi mọc sin sít vào nhau chỉ có chuột mới có thể chui qua được. Tôi định bụng sáng hôm sau sẽ ra xem xét cái hàng rào quanh nhà để xem kẻ lạ mặt ấy đã lẩn ra bằng phương cách quỷ quái nào.
Vừa quay lưng dợm bước quay trở vào thì tôi lại vấp phải một vật gì đen đen lồ lộ. Cái vật ấy lăn lông lốc trên nền đá xanh rêu. Bấy giờ tôi mới nhận ra cái vật ấy chính là cái ấm đun nước mà tôi đã mất công tìm cả buổi, hoá ra lai đặt ngay cạnh giếng.
Tôi đi đun nước và  thức đọc sách đến rất khuya đêm hôm ấy. Không có bất cứ tiếng động đáng nghi nào hay bất cứ điều gì bất thường xảy ra cả. Tôi cho rằng mọi chuỵên lạ lùng đã kết thúc ở đây, phần còn lại của đêm nay chỉ là yên tĩnh và tự tại trong căn nhà này một mình tôi.
Đã quá nửa đêm, cũng đã mỏi mắt với cuốn tiểu thuyết tôi bèn đi nằm. Có lẽ giường chiếu lạ nên dù đã thấm mệt  tôi vẫn trằn trọc mãi chưa ngủ được. Tôi nằm bất động lắng nghe tiếng côn trùng rả rích ở sân sau và lờ mờ nghĩ đến cái kẻ lạ đã lẻn vào căn bếp dưới nhà chiều nay.
Hơn nửa giờ sau, lúc tôi vừa thiêm thiếp rơi vào cái cõi vô thức của một người sắp sửa ngủ rất say và không còn nghe thấy gì nữa thì lại bị một tiếng động đáng ghét khác đánh thức.
Thoạt đầu tôi mơ màng nghe tiếng nước chảy róc rách bên tai. Dần dần lại nghe rõ hơn, cứ như nứơc đang chảy đâu đó ở gian bếp sau nhà. Căn nhà hoàn toàn không có vòi nước máy, vả lại cũng không có lấy một cái vòi nước nào từ giếng lên thì lấy đâu ra được tiếng nước chảy lạ lùng như vậy?
Tôi thắc mắc từ trong giấc ngủ nhưng vẫn không sao đánh thức chính mình. Được một lúc thì tiếng nước chảy lại to và rõ hơn nghe như sát bên tai. Lúc này tôi bị đánh thức hẳn. Tôi vẫn nằm đấy với hai mắt nhắm nghiền và lắng tai nghe kĩ những âm thanh ấy. Quả thật là có tiếng nước chảy, dường như chảy ra từ một cái vòi lớn, đổ xuống nền đá, nghe rõ ràng và rành mạch lắm.
Trời đã về khuya, khí lạnh tràn ngập khắp gian nhà. Tôi chẳng  muốn trở dậy tí nào. Thế là tôi quyết định nằm lì, mặc kệ cái âm thanh đang ghét ấy. Tôi cuộn chặt mình vào trong chăn, nhắm nghiền hai mắt, quyết tâm tiếp tục giấc ngủ. Thế mà quái không tả được. Tôi càng cố gắng ngủ bao nhiêu thì âm thanh róc rách ấy lại càng như soi vào tai mình không cách gì làm ngơ được.
Cuối cùng tôi đành phải trở dậy, lồm cồm chui ra khỏi chăn. Một tay cầm lấy cây đèn pin, một tay vừa giụi mắt vì chưa tỉnh ngủ hẳn, cứ thế đi lò dò xuống bếp cố tìm xem cái tiếng động ấy từ đâu đến.
Hệt như chuyện xảy ra ban chiều, lúc tôi ra sức tìm kiếm thì “nó” lại im bặt. Lẩn quẩn một lúc trong gian bếp và rọi đèn hai ba lượt  khắp sân sau tôi phát cáu, đóng sầm cánh cửa trở về giường nằm.
Phương pháp làm ngơ của tôi không có chút hiệu quả nào cả. Ngay khi hai mí mắt tôi vừa trĩu xuống và giấc ngủ đang đến từ từ, cái khoảnh khắc mà anh thấy người mình nằng nặng đi ấy, thì cái tiếng ban nãy lại róc rách chảy, lần này cứ như chảy trong óc tôi.
Tôi điên tiết nhưng quyết tâm không dậy nữa, lần này tôi mặc kệ. Bây có làm gì ông ông cũng mặc, ông không quan tâm đến chúng bây nữa. Tôi kéo chăn qua khỏi đầu, bịt lấy cả hai tai.
Im lặng. Một phút, hai phút, năm phút, mười phút. Đến cái phút thứ mười một khi tôi thôi không đếm nữa thì “nó” lại bắt đầu, lại róc rách bên tai làm tôi điên tiết. Tôi nằm yên, mở mắt chờ đợi, không có ai hay vật gì khác, chỉ mỗi cái âm thanh ấy mà thôi.
Không thể làm ngơ được nữa, bấy giờ cũng đả tỉnh hẳn giấc ngủ, tôi trở dậy ra khỏi giường, đi thắp tất cả đèn trong phòng lên.
Cả gian nhà đã sang rực. Cái tiếng động ấy cũng im lìm hẳn. Thế rồi tôi bắt đầu đi đi lại lại trong phòng khách, tôi nói to cố để “nó” nghe thấy. Vì tôi đoan chắc dù “nó” là ai hay cái gì, người hay ma thì có lẽ nó cũng đang theo dõi tôi ngay lúc này, chờ đợi tôi lại đi nằm để tiếp tục giở cái trò chọc phá điên người ấy.
- Muốn gì thì cứ ra đây xem nào! Ra đây bảo cho tôi biết đi chứ! 
Tôi lặp đi lặp lại như thế đến đôi ba lần nhưng căn nhà không người im ỉm, không một tiếng trả lời. Gần như đã mất hết kiên nhẫn với những chuyện kì quặc vừa xảy ra ấy, lại không biết phải xử trí thế nào tôi đành rót một ly trà, vừa tọng một hớp vừa ngồi bên bàn đọc sách chờ đợi nhưng không có kết quả gì.
Xưa nay tôi vốn không hề tin vào những chuyện ma quỷ thánh thần, cũng chưa bao giờ tận mắt chứng kiến điều gì như vậy. Chính vì thế những chuyện mà tôi hư cấu được người đọc thích thú, họ không nhìn vào cái thế giới ấy một cách sáng tạo như tôi. Nhưng với những thứ lạ lùng vừa diễn ra trong căn nhà này đêm qua tôi đoán chắc hẳn phải có một logic nào đó, hay  một kẻ nào đang cố tình trêu ngươi, chọc phá tôi mà tôi sẽ cố công tìm ra cho bằng được nay khi trời sáng.
Thế nhưng sự lạ ấy không chỉ kết thúc ở đấy. “Nó” dường như đọc được những dự định trong đầu tôi nên đã tiếp tục cái trò đùa dai ấy. Khi tôi đã quá mệt mỏi gục đầu lên bàn sách ngủ gà ngủ gật thì cũng là lúc cánh cửa sau bếp đập một tiếng rõ to đánh “rầm” khiến tôi nhổm ngay dậy.
Tôi cầm đèn chạy xuống thì thấy cánh cửa ấy mở toang, lại không có người. Bận ấy tôi soi đèn khắp lượt trong sân và ngoài vườn không để só một góc nào. Cánh cửa này là chính tay tôi đóng lại trước đó, đã cẩn thận cài then từ bên trong. Không có lý do nào có thể bật ra gì gió mà gây ra tiếng động lớn đến thế. Cho dù mê ngủ đến đâu tôi cũng chắc chắn rằng mình đã cài cửa rất chu đáo trước khi trở vào.
Sau mấy lượt xem xét và tìm kiếm vô vọng, tôi trở lại gian phòng khách, trong lòng rủa thầm căn nhà và cái kẻ quái quỷ cố tình trêu chọc mình. Tôi chợt nghĩ đến cái điều cổ xưa nhất mà mỗi khi chuyện như vậy xảy ra thì ông bà ta thường làm, đó là đi thắp nhang và khấn vái.
Do dự một lúc, tôi quyết định cũng làm theo lối cũ như thế dù rằng trong lòng tôi không lấy làm tin tưởng cho lắm. Tôi bước lại gần bàn thờ tổ tiên, tấm ảnh trắng đen của bà bác gái tôi đặt trên bàn thờ ngay bên phải trông vẫn còn rõ nét lắm. Bà bác tôi qua đời khi hãy còn khá trẻ, hình bà trong tấm ảnh có nét mặt trẻ trung và trông rất giống người chị em họ của tôi  - Thảo.
Tôi đốt một nén hương và lầm rầm khấn vái:
- Cháu là Hoài, lên trông nhà cho bác trai về quê, nếu bác gái có linh thiêng thì xin phù hộ cho cháu một đêm yên lành trong nhà.
Khác với suy nghĩ của mình, tôi cứ tưởng nhựng việc như thế này chỉ là chút chuyện mà chỉ có mẹ tôi hay những người yếu bóng vía thường làm, sẽ chẳng có hiệu quả gì. Mùi khói nhang toả khắp gian nhà làm không khí ấm áp hẳn lên. Tôi chẳng biết phải làm những gì hơi nữa, cuối cùng cũng lăn ra ngủ luôn trên tấm ghế ngựa. Thế mà lạ lùng thay, sau đó tôi đã ngủ rất say đến tận sáng hôm sau, không có thêm một tiếng động nào nữa hay cũng có thể do tôi ngủ say đến không còn hay biết gì.
Lúc ánh nắng chói chang chiếu qua khe cửa sổ khép hờ ở đầu phòng rọi vào khuôn mặt mình nóng ran tôi mới bừng tỉnh giấc. Bấy giờ đã tầm giữa trưa. Tôi không biết mình đã ngủ lâu đến thế, cũng không để ý rằng chính cái việc thắp nén nhang đêm qua đã giúp tôi khỏi sự trêu chọc thái quá của những âm thanh lạ ấy.
Tôi chỉ tự nhủ có lẽ lạ nhà, lạ chỗ nên tôi đã không được ngon giấc. Tuy vậy tôi vẫn quyết định đi kiểm tra, xem xét khắp vườn và nhà trên nhà dưới.
Sau khi dùng xong một bữa cơm sơ sài tự nấu  với trứng vịt luộc và ít dưa leo, tôi liền vác cây gậy trúc dựng trong góc nhà lững thững vòng ra sân sau. Ánh nắng chang hoà trên bầu trời xanh trong vắt khiến tôi thấy tỉnh táo vào phấn chấn hẳn.
Cái sân mát rượi màu rêu và bóng lá. Những dãy tre ngà cọ vào nhau cọt kẹt, khung cảnh thanh bình và yên ả như một làng quê thu nhỏ.
Tôi đến sát bụi tre ngà  ngó ghiêng, không một khe hở nào giữa những thân tre ấy đủ lớn để một con người chui qua, hay dù chỉ là một con vật gì to hơn một con chuột cống chui lọt.
Tôi lại đến gần xem xét cả cánh cửa bếp xem có khả năng nào mở được cửa từ bên ngoài không. Thế nhưng chẳng hề có một dấu hiệu cạy phá nào hay bất kỳ hy vọng gì có thể mở được cánh cửa ấy từ ngoài vườn cả.
Tôi cũng lần theo cái hàng rào tre đi vòng từ sân sau lên sân trước, xem xét cẩn thận từng chút một.
Sau hơn cả giờ đồng hồ nghiên cứu mọi khả năng, tôi đành đưa ra kết luận rằng mình bị hoang tưởng nguyên nhân có lẽ vì căn nhà quá lạ lẫm lại một thân một mình lần đầu tiên qua đêm  ở đây.
Các anh nghe thì xấu hổ đấy nhưng rõ ràng tôi không đủ lí lẽ khoa hoc để tin rằng những tiếng động và cái kẻ lạ lẻn vào nhà hôm qua là có thật chút nào.
Đã non trưa,  gió thổi rào rạc và mát rượi trên ngọn cây khiến tôi thấy cái võng chăng giữa hai ngọn cau ở sân sau là chỗ lí tưởng nhất để đánh một giấc ngon lành. Thế là tôi ngả người ngay ra võng.
Bầu trời dường như xanh hơn, cao và rộng hơn qua những kẽ lá tre. Tôi vừa đong đưa võng vừa hát thì thầm một câu quan họ, mắt lim dim. Bỗng có cơn gió mạnh thổi đến làm những thân tre lại cựa mình vào nhau và âm thanh xào xạc của tán lá trên đầu nghe mạnh bạo hơn.
Tôi chưa buồn mở mắt nhưng có cái cảm giác rằng một ai đó vừa đi băng qua sân. Tôi mở hé một bên mí mắt thì thoáng thấy một người vận đồ trắng đang dứng tựa vào một đầu võng, chăm chăm nhìn mình.
Tôi hốt hoảng mở bừng cả hai mắt thì thấy ấy chính là một người con gái, có lẽ hơn tuổi tôi. Chị ta vấn tóc trễ xuống, màu tóc đen như nhung, gương mặt quen quen lạ. Chị ta vận một bộ bà ba bằng lụa trắng rất sang trọng, bàn tay búp măng dài thon thỏn, cổ tay điểm xuyến bằng một chiếc vòng cẩm thạch.
Ngây người đến vài phút, tôi đành lên tiếng trước:
- Cô là ai, sao lại vào nhà tôi thế?
- Ông bác anh đánh tôi ngã xuống giếng này đấy, lâu rồi!
Chị ta đáp, giọng nói nhẹ nhàng nhưng sắc gọn và pha vẻ căm hờn.
Bấy giờ tôi mới nhận ra gương mặt ấy trông rất giống khuôn mặt Thảo người con gái nhỏ của bác tôi.
Vẫn chưa hiểu đầu đuôi thế nào, tôi bèn lúng túng hỏi lại:
- Chị là ai?
- Tôi tưởng  ai xa lạ đến nhà chứ anh Hoài thì có lạ gì. Trông anh lớn thật đấy, hệt như hai đứa con gái trong nhà chúng nó đều lớn lên nhanh thật!
Chỉ nói có thế, người đàn bà ấy khẽ chạm bàn tay lạnh như nước đá vào tay tôi rồi đi nhẹ như gió, chị đi nhanh vào bếp.
Tôi ngồi hẳn dậy đuổi theo bởi trí tò mò thôi thúc về danh tính của chị và những điều chị vừa nói. Nhưng cái bóng chị vừa qua cửa bếp, tôi theo vào trong bếp thì chị đã mất hút. Tôi chạy lên nhà trên cũng không thấy đâu nữa. Trong lòng tôi tràn nập những nỗi thắc mắc.
Từ cái buổi trưa hôm ấy trở đi, suốt cả một tuần sau đấy tôi ăn ngủ trong nhà rất yên bình, không hề có bất cứ một sự lạ gì xảy đến nữa. Mặc dù tôi luôn cố tình nằm ngủ trưa trên chiếc võng trong sân sau để chờ xem người phụ nữ ấy có đến nữa không, nhưng nhiều ngày qua chị vẫn không thấy đâu cả.
Đến hôm thứ mười thì ông bác tôi và cô em họ dưới quê trở về. Thảo mang lên cho tôi một túi to những quà, bánh và đủ thứ trái cây ngon lành ở quê. Sau bữa cơm sáng thịnh  soạn để  cảm ơn tôi đã trông nom căn nhà, đợi cho ông bác dùng bữa xong xuôi và đã chắp hai tay sau lưng đi tản bộ ngoài vườn tôi mới đánh bạo hỏi Thảo:
- Trong nhà mình xưa nay có chuyện gì lạ xảy ra không cô? Đại loại như tiếng nước chảy ban đêm hay có người lạ lẻn vào nhà?
Như đọc được suy nghĩ trong đầu tôi, cô em họ tôi chỉ mỉm cười nhìn tôi rồi nhẹ nhàng nói:
- Là mẹ tôi đấy anh Hoài ạ! Tuy mất đã lâu nhưng còn ấm ức chuyện năm xưa do cha tôi vì ghen tuông mà lỡ tay đánh bà ngã xuống giếng, lúc vớt lên được thì mẹ tôi đã chết. Cha tôi cũng vì thế mà sinh bệnh rồi đâm ra lẩn thẩn sớm. Nhưng cha tôi cũng quyết định bán hết tài sản dưới quê để ở lại nhà này cho đến ngày trút hơi thở cuối cùng vì ông muốn linh hồn mẹ tôi khỏi cô quạnh một mình.
Vậy là mọi chuyện đã sáng tỏ, tôi đã hiểu được những lời người đàn bà ấy nói tuy vẫn bàng hoàng không tin rằng mình đã có thể giao tiếp với một người đã mất như thế. Lại càng ngạc nhiên hơn rằng không phải chỉ một mình tôi mà tất cả mọi người trong gia đình  ông bác tôi đều biết rõ.
Tôi kết thúc kì nghỉ hè ấy bằng một nhận thức vô cùng mới mẻ mà suốt những năm qua trong đời tôi chưa từng trải nghiệm. Về sau này tôi cũng chẳng mấy khi kể lại cho bất kì ai.
Hoài đã kết thúc câu chuyện mà các bạn anh vẫn cứ ngồi yên thin thít, không ai mảy may có một ý kiến gì. Mọi người dường như còn chìm trong một dòng suy tưởng của riêng mình. 
Để đánh động không khí anh bèn rót trà vào một cái tách và nhẹ nhàng đứng lên khỏi ghế sofa. Hoài vừa đi lại trong phòng vừa đổi sang một giọng hài hước, linh hoạt hơn:
- Chuyện của tôi đến đây là hết rồi. Bây giờ anh nào có chuyện hay thì tôi xin nhường lời nhé!
- Chuyện của anh nghe rất thực nhưng anh có cách lý giải nào khác hơn ngoài chuyện vong linh không?
Bấy giờ anh Lãm mới lên tiếng, giọng nhẹ nhàng.
Hoài chỉ nhún vai, anh hoàn toàn không có một cách lý giải nào cả.
Anh lắc đầu, nói nghiêm túc:
- Chuyện này thực sự đã xảy ra với tôi. Tôi không có cách nào tốt hơn là tin rằng nó đã diễn ra như thế, thực sự không tìm được cách giải quyết khác.
Vừa lúc ấy, cái giọng tươi tỉnh nhanh nhảu của anh Nam lại vang vang lên:
- Tôi cũng biết một chuyện kì la như thế xảy ra với anh bạn cùng phòng với tôi ở ký túc xá hồi năm ngoái. Nếu các anh có hứng thú thì tôi xin được kể ra để chúng ta có thêm tư liệu mà bàn cãi vào những cái tin và cái không tin.
Anh Lãm, Hoài và mọi người đều gật đầu tán tành, thế là Nam chậm rãi đổi một giọng trầm trầm:
- Dạo ấy, anh Tuất bạn tôi…
Cả căn phòng yên lặng lắng nghe như nuốt từng lời kể cùa anh sinh viên văn khoa duyên dáng. Ngoài trời cái lạnh càng se sắt thêm và cơn mưa đang nặng hạt dần…
                                                 Hết.
  Nguyễn Thị Mộng Thu
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:18:12 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 20:46:07
TẦNG THỨ MƯỜI BA
                                                             
 
“….  Trong thế giới của chúng ta có một thế giới khác mà mọi người thường nhắc đến. Một thế giới mà không nhà khoa học nào có thể chứng minh được một cách chắc chắn và rõ ràng về sự có mặt của nó. Không ai biết rõ về sự tồn tại của nó, nhưng cũng không ai chưa một lần nhắc đến trên môi mình. Người ta dùng trí tưởng tượng của mình thêu dệt thêm, làm cho cái thế giới ấy càng trở nên bí ẩn và kì thú hơn .
 Hẳn các bạn độc giả cũng biết tôi đang nói đến thế giới nào phải không? Đó là thế  giới tâm linh, của thánh thần, ma quỷ hay  những điều mà đơn thuần là người ta chưa tìm  được một lời giải thích thoả đáng nào.
Hãy lật lại những ghi chép cổ xưa nhất trong lịch sử khoa học …”
Hải bỗng dừng lại trên bàn phím, đoạn này không biết phải dựa theo tài liệu nào cho thoả đáng. Anh  đang viết một loạt bài đăng trên tạp chí hàng tuần của tờ Thời báo , một mục pha lẫn giải trí và trinh thám, viết về những vụ án mạng bí ẩn xảy ra trong nước. Anh đứng dậy, đi đi lại lại trong phòng, vươn vai và làm mấy động tác thư giãn.
Căn phòng của Hải nằm trong một khu chung cư mới xây cất, nội thất đẹp và hiện đại với bộ sô-pha bằng gỗ bóng loáng, bàn giấy tủ áo cũng bằng gỗ tốt, sàn nhà lát  đá grannít. Phòng ngủ và bếp đều có cửa sổ riêng, đầy đủ tiện nghi mà anh đã phải dùng gần phân nửa phần lương nhà báo của anh để trả hàng tháng.
Vừa tốt nghiệp ở nước ngoài về, Hải đã xin được ngay chân phóng viên ở một tờ tạp chí song ngữ nổi tiếng trong thành phố nhờ tấm bằng tốt nghiêp loại ưu của anh.
Có việc tốt và được lương cao anh dọn đến khu chung cư hiện đại này, ngay trung tâm thành phố, vừa thuận tiện đi lại vì chỉ cách toà soạn của anh có ba toà nhà.
Khác với dáng vẻ tươm tất lúc Hải mới dọn đến, sau nửa năm  căn hộ của anh trở nên bừa bộn kông thể tả, bàn giấy đầy sách vở, sàn nhà chất đống bởi tạp chí, tuần báo, thời báo, bài nháp đang viết dở, những đoạn không hài lòng được xé ra từ quyển sổ của anh. Thậm chí không còn một chỗ nào đặt chân mà chạm được sàn nhà bằng đá.
 Hải vẫn tiếp tục đi tới đi lui trong phòng, giẫm chân lên giấy sột soạt. Anh đến bên kệ sách, lật lật một cuốn tạp chí khảo cổ, ném sang một bên xuống bàn, lại chọn một cuốn sách cũ kĩ nói về những bí ẩn quanh lăng mộ các Pha-ra- ong. Anh lại ngao ngán nhét cuốn sách trở lên kệ.
Cái kệ đã quá tải, chỉ chờ một sự va chạm nhỏ là toàn bộ số sách ở ngăn chính giữa tuôn ra như suối, đổ xuống chân anh. Anh vừa nhảy lò cò rút chân khỏi đống sách, vừa đưa tay xoa bàn chân đang đỏ dần lên vì cái gáy to tướng của một cuốn sách vừa nện xuống. Anh nhăn mặt, xuýt xoa. Cái gáy da của cuốn sách ấy nhô ra giữa đống sách như thách thức.
 Hải cáu tiết đá nó một cái thật mạnh bắng  chân còn lại. Cuốn sách bay một đoạn, va vào vách tường và rơi xuống sàn đánh phạch. Đó là một cuốn sách bìa da, màu nâu sậm, trông vẫn còn mới, khá dày và có chữ màu bạc khắc trên gáy ghi bằng tiếng Anh. Hải nhảy lò cò đến cạnh vách tường, chẳng buồn nhặt lên, anh nghiêng đầu đọc cái tựa cuốn sách  “Những hiểu biết về ma cà rồng và các truyền  thuyết.”
- Humh…
Hải chặc lưỡi, cuối xuống nhặt cuốn sách lên.
Thật ra anh chưa từng biết đến sự có mặt của nó trong tủ sách nhà mình. Cái bìa sách cũng bằng da nâu. Anh lật từng trang, trong sách là những dòng chữ  tiếng Anh, viết về sự có mặt của ma cà rồng ở một số nơi trên thế giới, đặc điểm của chúng và những tài liệu sưu tầm của tác giả - một nhà khảo cổ học kiêm tâm linh học người Mĩ.
Hải bắt đâu dán mắt vào cuốn sách. Trang đầu tiên mà anh đang đọc có hình minh hoạ chụp từ tranh sơn dầu của một hoạ sĩ người Hà Lan, hình ảnh một người phụ nữ tóc hung đỏ đang cuối đầu cạp lấy cái cổ của một người đàn ông đang tựa đầu trên đùi bà ta, mái tóc dài của mụ buông xuống che gần kín cả khuôn mặt chỉ để lộ ra một ánh mắt đỏ như tia máu…
Hải bắt đầu đọc không sót một từ. Anh không rời mắt khỏi cuốn sách, anh đi từ từ về phía  bàn giấy ngổn ngang của mình và thả người xuống chiếc ghế dựa. Hải mải miết đọc hết trang này đến trang khác chẳng còn chú ý gì đến những điều xung quanh anh nữa.
Trời bắt đầu tối dần, bên ngoài cửa sổ và dưới phố đã lên đèn, tiếng còi xe và huyên náo trở nên xa xăm dần bên tai anh. Hải chẳng màng đến bài báo đang viết dở và phải nộp gấp sáng hôm sau, anh chỉ chúi mũi vào cuốn sách về ma cà rồng ấy. Đến khi đôi mắt mỏi nhừ và phải ngước lên một chốc anh mới nhận ra ngoài phố đã lên đèn và xung quanh yên ắng hẳn.
Hải bước về phía cửa sổ nhìn xuống đường. Con phố vắng tanh chỉ còn lại một chiếc xe hủ tiếu gõ ở góc đường và hai vợ chồng người bán hàng với thằng bé con đang gục mặt xuống bàn, ngủ gà, ngủ gật.
Anh đặt cuốn sách lên bàn, ngước nhìn đồng hồ trên tường, đã hơn mười  hai giờ đêm. Anh mệt mỏi và bụng đã đói cồn cào, chứng đau bao tử lại hoành hành khiến Hải nhăn nhó khó chịu vô cùng.
Hải xuống bếp lục tìm ít bánh quy trong tủ thì chỉ thấy còn trơ lại cái hộp với những vết răng chuột. Anh  phải viết cho xong bài báo nên đành khoác áo vào để xuống đường gọi một tô mì gõ.
Hải đóng cửa căn hộ, đi ra thang máy. Căn hộ của Hải nằm ở tầng bảy của toà nhà nên anh  bấm nút thang máy và đứng đợi. Có ai đó đang đi xuống từ tầng thượng, rồi thang máy lại sáng đèn ở nút số mười ba, dừng ở đó khá lâu. Một lúc sau mới sáng đèn và dừng lại. Cánh cửa inox bóng loáng vừa mở ra, Hải khoan thai bước vào, cơn buồn ngủ vẫn còn bám lấy anh.
- Anh đi dâu mà khuya vậy?
Một giọng nói nhẹ nhàng, nhã nhặn  vang lên ngay bên cạnh khiến Hải giật mình đánh thót.
Tiếp theo là tiếng cười nhỏ nhẹ của một người  con gái. Hải giật mình quay sang thì thấy một cô gái đang đứng ngay bên cạnh anh, cô mặc một bộ váy ngủ màu đen dài ngang gối, khoác chiếc áo gió cũng màu đen trên người đang cười khúc khích nhìn anh.
- Xin lỗi, tôi làm anh  giật mình.
- Không! không, tại tôi còn mê ngủ!
Hải vụng về.
Anh những tưởng người duy nhất trong thang máy này là anh, vậy là lại xuất hiện thêm kẻ khác, lại là  một cô gái.
- Chắc vì lúc bước vào mắt nhắm mắt mở nên mình đã không thấy. Lại còn giật mình ngay trước mặt người ta, thật đáng xấu hổ!
Hải nghĩ thầm.   
- Tôi xuống phố tìm chút gì ăn, hôm nay phải làm việc khuya.
Hải đáp bâng quơ.
- Thứ bảy mà anh cũng phải thức làm việc à? Vất vả nhỉ?
Cô gái mỉm cười.
- Tôi cũng đói bụng muốn đi xuống phố ăn khuya.
Cô gái dịu dàng nói thêm.
- Cô sống ở đây à? Lâu chưa nhỉ? Tôi chưa từng gặp cô trước đây?
Hải thắc mắc.
- Cũng khá lâu rồi. Tôi làm việc suốt. Tôi ở ngay tầng trên!
Cô gái đáp.     
- Hay thật! 
Hải đưa một  tay lên mũi, khụt khịt.
Thang máy dừng ở tầng trệt, anh và cô gái cùng bước ra.
- Anh ăn hủ tiếu gõ không, ngay đầu phố, ngon lắm!
Cô gái mạnh dạn lên tiếng.
- Tôi cũng định hỏi cô thế.
Hải cười. Anh tự cười mình sao mà chậm chạp để cô gái phải lên tiếng trước.
- Tôi là Hải. Còn cô?
Anh quay sang hỏi.
- Tôi là Kim.
Cô gái dịu dàng.
Bây giờ Hải mới dám nhìn thẳng vào cô gái. Cô khá xinh đẹp, da trắng ngần, tóc đen  dài đến ngang vai, cái mũi cao kiêu kì và một đôi mắt sáng ngời thông minh.
- Thỉnh thoảng ăn mấy thứ bình dân này cũng hay hay nhỉ?
Kim lên tiếng.   
Hải gật gù bước bên cạnh cô. Hai người cùng gọi món mì vằn thắn với thịt heo, vừa ăn vừa chuyện trò rất vui vẻ.
Anh và cô nói chuyện khá ăn ý. Cô sống ngay trên Hải một tầng, tầng tám, là nhân viên kế toán của một công  ty chứng khoán tên tuổi trong thành phố.
Lúc trở lại thang máy, Hải vừa cười vừa hỏi cô:
- Chắc cô cười tôi nhát gan giật thót cả mình khi cô lên tiếng phải không? Tôi không tệ thế đâu, là do tôi vẫn còn một nửa chìm trong giấc ngủ.
Cô gái lại cười nhỏ nhẹ khiến Hải hơi xấu hổ.
- Tôi không có ý cười anh , chỉ là… chỉ là anh phản ứng như người vừa rớt xuống từ sao hoả ấy.
 - Cô đang cố an ủi tôi đấy à? Tôi quả thật là một tên nhát cấy đấy.
Hải cười.
- Chủ nhật anh thường làm gì?
Kim hỏi.
- Làm việc. Tôi phải viết bài.
Hải đáp.
Rồi như nhận ra một cơ hội hiếm có, không để cô gái lên tiếng trước, Hải đánh bạo nói:
- Tôi cũng hay đi uống cà phê cạnh công viên trung tâm và đọc sách, cô thích đến đó không?
- Tôi phải viết báo cáo cả ngày!
Cô gái trả lời.
- Tôi muốn mời cô tách cà phê. Hay là chiều tối nhé, cả thành phố này không ai làm việc suốt cả tối chủ nhật như thế đâu. Cô cũng không muốn chúng ta bị lỗi thời vì chỉ biết làm việc thôi đấy chứ?
Hải nhìn cô gái, cười nói.
Cả hai cùng bật cười.
- Ừ thì đi, nhưng chiều tối nhé, sau khi tôi xong việc ấy. Tôi sẽ xuống rủ anh!
Cô gái gật đầu.
- Đồng ý! Tôi ở căn hộ 702.
Hải vừa đáp thì thang máy cũng vừa dừng lại, anh chào cô gái rồi đi thẳng về phòng. Hải phải thú thật với mình là anh thích cô gái ấy.
- Cô ta hút hồn  mình cứ như ma ca rồng ấy!
 Anh lẩm bẩm với chính mình, vừa nhìn về phía cuốn sách về ma cà rồng đang đọc dở để trên bàn.
Hải lại ngồi trước máy tính của anh, lật lật xấp tài liệu bên cạnh với những ghi chép đầy đủ về những vụ án mạng mà anh đang viết bài.
Tất cả những vụ án ấy đều xảy ra cách đây không lâu và cũng không xa. Vụ đầu tiên xảy ra hai năm trước, nạn nhân là nam giới, hai mươi tám tuổi, nhân viên công ty dầu khí. Xác chết dược tìm thấy trong một chiếc ôtô cũ kĩ tại quận Tây thành phố sau khi anh ta đã chết được năm ngày.
Qua khám nghiệm tử thi không thấy có dấu vết bị đầu độc, cũng không có dấu vết bị đánh hay sát hại. Cảnh sát kết luận nạn nhân qua đời do nhồi máu cơ tim.
Mười một vụ án khác, cũng nguyên nhân chết tương tự, xác nạn nhân thường được tìm thấy những những nơi vắng vẻ, bỏ hoang mà ít người lui tới như những bãi đất trống ven xa lộ, hoặc những  công viên ở  xa trung tâm thành phố.
Tất cả những cái chết này được xem xét là có cùng một điểm chung về nguyên nhân tử vong, đia điểm tìm  thấy tử thi và một điểm chung nữa là đều nằm trong đống hồ sơ “tạm đình chỉ phán quyết để thu thập thêm  chứng cứ” của sở cảnh sát thành phố trong suốt thời gian qua. Gần đây, không thấy có vụ nào tương tự cả.
Hải lật nhanh tập tài liệu, dừng lại ở một trang về mô tả nạn nhân trong vụ thứ mười hai, xảy ra khoảng một năm trước.
Anh lau lại cặp kính, cuối xuống rà theo từng dòng trên trang giấy:
“Tên nạn nhân: Vũ Hoài Nam, Giới tính: Nam, Tuổi: 29, Nghề nghiệp:…”
Đoạn mô tả tử thi có đính kèm hình chụp khuôn mặt và tư thế của xác chết. Xác người thanh niên dược tìm thấy nằm sấp trên bãi cỏ tại góc khuất của một công viên ở quận Nam thành phố. Anh ta mặc một bộ đồ công sở hẳn hoi, với áo sơ mi đóng thùng, mang giầy tây.
 “…Nạn nhân chết ít nhất đã được hai ngày tính từ tám giờ sáng ngày hai mươi sáu tháng mười hai năm 2001  trở về trước. Không có dấu vết ẩu đả, không có dấu hiệu trúng các loại độc dược phổ biến. Phần mặt trái bị biến dang nặng do côn trùng (kiến) tấn công sau khi chết. Có dịch vàng chảy ra từ vành tai do phân huỷ. Một số vết trầy nhẹ ở cổ, cách mép tai khoảng 3 centimet – xác định do động vật cắn (chuột). Các chi và  bộ phận khác vẫn còn quyên vẹn…”
Hải đọc đi đọc lại đoạn ghi chép của nhân viên phòng khám nghiệm, không để sót một chi tiết nào.
Anh vừa nhìn xuống tấm ảnh bên dưới, xác chết với khuôn mặt méo mó kì dị nằm yên bất động trên bãi cỏ. Đôi mắt trợn lên trắng dã, anh ta có vẻ như vừa tan giờ làm tại công sở, vận áo sơ mi rất tươm tất và quần tây đóng thùng với giày tây buộc cẩn thận, không một vết bẩn. Cổ anh ta có vết máu tươm ra từ chỗ chuột cắn đã khô lại trông không rõ lắm. Không có phương tiện đi lại của nạn nhân, không có manh mối từ những cuộc thẩm vấn sau đó với gia đình và người thân của anh ta.
Hải lại đọc những  mô tả khác của một trong những vụ án ấy, toàn những điều tương tự, hầu như không có gì mới mẻ.
Anh hơi nản chí bèn xốc lại xấp ảnh trên tay. Lần lượt đảo mắt khắp những tấm ảnh ấy. Hải dừng lại với một tấm ảnh có xác chết được chôn hờ tại một công trình xây dựng phía bắc thành phố.
Tử thi đã bị phân huỷ ít nhiều, một bên mặt bị côn trùng ăn, phơi ra cái xương gò má đỏ hỏn và một ít mỡ lòi ra đã khô lại. Ảnh chụp cận cảnh khiến Hải nổi cả da gà, cái hốc mũi  của nạn nhân phơi ra dưới ánh đèn Flash, vết răng chuột còn lam nham trên gương mặt  nham nhở và vô hồn ấy.
Có một tấm ảnh chụp cận cảnh phần cổ nạn nhân, Hải trông thấy khá rõ hai vết xước nằm cạnh nhau, trông như vết răng động vật, máu túa ra từ cái vết ấy đã thẫm đen lai trên áo người thanh niên.
Anh với tay lấy cái kính lúp, rọi lên dấu vết ấy.
- Rõ nét hơn vết răng chuột! Trông như rắn cắn!
Hải lầm bầm.
Anh thích thú với chi tiết mà mình vừa tìm thấy vốn bị bỏ quên trong những báo cáo của cảnh sát, hoặc có chăng được nhắc đến qua loa là chuột hoặc côn trùng tấn công tử thi sau khi tử vong.
Anh miệt mài soi kính lúp lên những tấm ảnh khác chụp phần cổ và thân của các nạn nhân còn lại. Mười trong số mười hai nạn nhân có dấu vết tương tự, chỉ khác vị trí. Ba trong số họ có vết xước  cùng một vị trí trên cổ, chỉ có điều kích thứơc và hình dạng dấu vết không giống nhau và đều không trông thấy rõ do máu khô lại.
- Một cuộc tấn công của ma cà rồng chăng?
Hải mỉa mai nhủ thầm.
Những nạn nhân khác có vết cắn trên cổ tay. Một số khác lại có dấu vết bụng. Hải không rõ những dấu vết mà anh đang  chú ý đến thực sự nói lên một điều gì đó hay đơn thuần chỉ là những dấu vết do một loại động vật hoặc côn trùng nào đó gây ra sau khi nạn nhân qua đời.
Hải vuốt vuốt ngược mái tóc đen dày của anh ra sau, chỉnh lại gọng kính và nhìn ra ngoài cửa sổ. Anh đã theo loạt bài này hơn ba tháng nay, không hề có một manh mối hay ý tưởng mới mẻ nào khiến anh cảm thấy thích thú cả. Thậm chí cả phía cảnh sát cũng đã tạm ngưng diều tra mà chưa hề đưa ra một phán quyết nào.
Chỉ còn một mình anh, bám lấy đống tài liệu cũ kĩ và những tấm ảnh sởn gai ốc mà anh để đầy trên bàn giấy suốt mấy tháng qua không còn giúp được gì nhiều cho Hải.
Trong những giấc mơ của anh cũng đầy rẫy những hình ảnh ấy, nhưng anh vẫn không tìm thấy một manh mối hay điều gì thú vị để viết nữa. Anh chắc hẳn độc giả đã chán ngấy loạt bài này của anh từ ba số báo trước.
Hải thở dài. Cuốn sách về ma cà rồng trên bàn lại đập vào mắt anh.
- Mình lẩn thẩn vì những điều viết trong cuốn sách ấy mất rồi!
Hải nhủ thầm.
Anh lại cầm xấp ảnh lên, xem đi xem lại một lúc nữa. Những vết xước trên người nạn nhân trông như vết cắn lại đập vào mắt anh, rõ ràng và như thách thức điều gì.
Hải xem xét rồi ghi chép lại một cách cẩn thận về những điều mà anh vừa phát hiện.
Giả sử những cái chết ấy là do ma cà rồng gây ra thì làm thế nào chứng minh được sự tồn tại của chúng trên hành tinh này, trong thời đại này? Vả lại ai sẽ tin vào cái giả thiết hoang đường của mình? Vô ích! Phi thực tế!
Hải ngáp dài, đứng lên khỏi chiếc ghế và đi về phía cửa sổ. Anh mở cửa để gió đêm tràn vào phòng mát rượi.
Đã ba giờ sáng. Ngoài phố đã im hẳn không còn người qua lại. Hết nhìn ngắm ngọn đèn đường lại quan sát một con mèo tam thể đang rình chuột trên mái nhà đối diện.
Anh bỗng nhận ra sự có mặt của một kẻ thứ ba ngoài anh và con mèo hoang. Đó là một cái bóng đang lom khom ở trước cổng khu chung cư. Cái bóng ấy mặt toàn quần áo  đen nên anh khó mà nhận ra được là nam hay nữ. Cái bóng ấy lôi một  bao gì to lắm ra khỏi cánh cổng sắt  một cách hối hả,  khó nhọc.
Hải nhoài hẳn người ra ngoài cửa sổ nhìn theo nhưng “nó” lại khuất sau chiếc cột đèn nên anh không trong thấy gì nữa ngoài bóng đêm tịch mịch xung quanh mình.
Anh  chạy vội ngay ra cửa về phía thang máy, nhấn nút tầng trệt nhiều lần nhưng dường như có ai đó đang đi từ tầng dưới lên, anh phải chờ gần ba phút.
Thang máy lại dừng ở tầng thứ 13, sáng đèn rồi sau đó mới trở xuống tầng 7, cánh cửa mở bật  ra trước mặt Hải. Anh vội vàng nhảy vào, đi thẳng xuống tầng trệt và chạy ngay về phía cánh cổng. Cánh cổng chỉ khép hờ nhưng không có lấy một bóng người. Cái kẻ lạ mặt  ban nãy đã biến mất không còn một dấu vết.
 Hải chạy ra đường, ngó nghiêng khắp nơi cũng không thấy  dấu hiệu gì  về sự có mặt của một con người nào. Anh  thấy lạnh và khó chịu, đành quay trở vào nhà, băn khoăn không biết tại sao lại có người làm việc gì ngay trước chung cư vào cái giờ khuya khoắt này, thật không bình thường chút nào cả.
Hải trở lại phòng làm việc, anh cố viết thêm một đoạn đề cập đến những chi tiết mà mình bắt đầu chú ý đến. Đại loại như những vết xước trên thi thể nạn nhân trông giống như những một vết cắn và có cùng một vị trí trong ít nhất  ba vụ án.
Anh viết một cách nhẹ nhàng không cố ý lèo lái người đọc theo bất cứ suy luận nào của cá nhân mình. Chỉ hướng độc giả theo một logic nho nhỏ mà anh tình cờ phát hiện.
Hải lại băn khoăn một lúc về cái kẻ đã xuất hiện ngay trước toà nhà nơi anh ở lúc ba giờ sáng nay. Đánh máy được một lúc tay anh đã mỏi nhừ, anh tựa người vào lưng ghế và thiếp đi lúc nào không biết.
Khi Hải thức dậy thì đã hơn chín  giờ sáng. Lưng anh đau nhừ vì chiếc ghế nệm mỏng đã cũ không còn êm ái cho những giấc ngủ dài thường xuyên bên bàn làm việc của Hải nữa.
Hải đứng dậy, bẻ mạn sườn kêu răng rắc và bước đến bên cửa sổ để ánh nắng ban ngày làm mình tỉnh táo một lúc. Trong đầu anh lờ mờ những hình ảnh đêm qua. Hải bất chợt nghĩ đến cô hàng xóm mà anh đã gặp…
Trời tháng mười hai lạnh và khô, gió thổi nhè nhẹ ngoài phố. Hải bỗng nhận ra con phố quen ngày chủ nhật trở nên đông đúc hơn hẳn. Có lẽ mọi người lo chợ búa, sắp Noel, và còn hơn tháng nữa là đến tết. Hải nhẩm tính.
Anh chợt nhận ra một chiếc xe cảnh sát đang đậu ngay đầu dãy phố, một vài nhân viên an ninh trong bộ đồng phục màu xanh đang đi đi lại lại chuyện trò với nhau.
Anh liền  đảo mắt quanh cái góc phố bên phải khu nhà mình  một lần nữa. Một hàng rào tạm giăng bằng nylon vàng sọc đỏ của cảnh sát được dựng lên bao quanh một khoảng đất trống chừng hai chục mét vuông. Khoảng đất ấy vốn là vị trí của một quán cà phê cóc mà người ta đã dọn đi khoảng hai tuần trước, nằm khuất sau vách tường của bãi để xe toà nhà lớn bên cạnh.
Hải tò mò không biết chuyện gì đã xảy ra ở đó sáng nay, một tai nạn, bạo lực gia đình? Khu này vốn rất an ninh và đa phần là dân công chức sinh sống. Lẽ nào… Một ý nghĩ bất chợt hiện lên trong đầu Hải. Anh quên cả rửa mặt, chỉ chộp lấy chiếc máy ảnh để trên bàn và nhét vội cái thẻ phóng viên vào túi rồi phóng  ngay xuống nhà.
Hải  chạy băng qua con phố, đến chỗ mấy nhân viên cảnh sát đang làm nhiệm vụ. Anh tiến lại gần, anh chìa thẻ phóng viên ra trước mặt một anh cán bộ trẻ  và hỏi một cách cẩn trọng:
- Thưa anh, tôi là phóng viên tờ Thời báo song ngữ, anh có thể  cho biết đã có chuyện gì xảy ra không ạ?
Anh cảnh sát trẻ mặc thường phục có đeo thẻ, trán lấm tấm mồ hôi  trả lời Hải:
- Chúng tôi được người dân báo có án mạng sáng sớm nay, ở  gốc cây đằng kia. Anh vừa nói, vừa chỉ về phía cái hàng rào tạm bằng dây  nylon vằn vàng đỏ ở phía cuối con phố nhỏ.
Hải hỏi tiếp:
- Anh vui lòng  cho biết  thêm chi tiết ạ?
- Chúng tôi chưa có kết luận. Nạn nhân có thể chết do say rượu và nhồi máu cơ tim.
Anh cảnh sát trả lời.
Cái cụm từ “nhồi máu cơ tim” dường như là một cụm từ khá phổ biến với những cái chết kiểu thế này - Hải thầm nghĩ.
Anh lại lên tiếng:
- Tôi có thể chụp ảnh hiện trường dược không ạ? Ngoài ra tôi còn muốn phỏng vấn các  anh thêm về vụ án này…
- Chúng tôi đang xem xét hiện trường, anh được phép chụp ảnh, nhưng còn phỏng vấn thì anh phải đến sở vào buổi chiều để gặp cán bộ chuyên trách nhé. Người cảnh sát trẻ cắt lời anh ngay tức thì .
- Tôi rõ rồi, cảm ơn anh nhé. À, tôi có tình cờ trông thấy một việc lạ tối qua từ cửa sổ căn hộ của mình trên tầng 7 khu chung cư kia. Liệu tôi có cần phải khai báo không?
Hải hỏi luôn.
Anh cảnh sát trẻ gật đầu rồi gọi một người cảnh sát khác đến lấy lời khai của Hải.
Anh mô tả không thiếu một chi tiết nào về cái bóng đen xuất hiện trước chung cư tầm ba giờ sáng và lôi theo một cái túi rác đen to tướng.
- Anh có nhớ chắc chắn là người đó đi ra từ chung cư không?
Ông cảnh sát đã đứng tuổi vuốt vuốt hàng ria mép và hỏi lại Hải sau khi nhìn khắp một lượt bản lời khai của anh.
- Có. Tôi chắc như đinh đóng cột.
Hải trả lời dứt khoát.
- Trong này anh nói anh tò mò liền chạy xuống xem xét. Lúc anh rời khỏi phòng là mấy giờ?
ÔNg cảnh sát hỏi tiếp.
 - Thưa, ba giờ kém năm phút. Tôi nhìn đồng hồ ngay lúc ấy.
Hải trả lời rành mạch không sót một chi tiết.
Anh tiếp:
- Lúc đợi thang máy tôi thấy nút đèn của thang báo có người đang đi từ dưới đất lên và đi đến tầng 13.
Hải nhắc lại một lần nữa về chi tiết cái thang máy. Ông cảnh sát gật gù có vẻ đăm chiêu vào bảng lời khai của anh.
- Theo ông nghĩ có nên rà soát một số người sống tại tầng 13 của khu chung cư này không?
Hải bạo dạn .
- Cũng có thể tôi sẽ tiến hành vào sáng thứ hai sau khi hoàn tất báo cáo hiện trường này. Tôi cần anh kí vào đây…
Ông cảnh sát đáp lời Hải.
Hải nhanh chóng bấm máy mấy bức ảnh hiện trường. Không có gì đặc biệt. Xác chết đã được đưa đi. Chỉ còn lại là một cái gốc cây, cỏ xung quanh không hề có dấu vết vật lộn hay xô xát.
Hải trông thấy một vệt máu nhỏ trên cỏ, khá là khó nhận ra vì máu đã khô lại và chỉ là một vệt rất nhỏ.
Người nhân viên khám nghiệm đang rà chiếc kính lúp lên đám cỏ ấy và nhẫn nại cắt mấy ngọn cỏ cho vào một cái túi nylon.
Sau khi đã chụp xong một loạt ảnh từ nhiều góc độ khác nhau của hiện trường. Hải lại đi về phía ông cảnh sát lớn tuổi. Anh đang nghĩ đến cái chi tiết về những vết xứơc trên người nạn nhân.
- Cũng có thể chính vụ án “nhồi máu cơ tim này” lại cùng một sê-ri với những vụ mà mình đang theo dõi thì sao?
Hải thầm nghĩ.
- Măc dù nó đã thôi không xảy ra từ đầu năm đến giờ, nhưng biết đâu được…
Hải lẩm bẩm.
Anh đề nghị dược xem ảnh tử thi nhưng bị từ chối. Ông cảnh sát bảo anh phải đến sở để xin giấy phép và phải có giấy giới thiệu của chủ báo.
Hải nấn ná một lúc rồi quyết định lên tiếng:
- Tôi đang viết loạt bài về những vụ án tương tự như thế này xảy ra hồi năm ngoái. Tôi có một điều thắc mắc muốn hỏi ông.
- Anh hỏi nhanh cho, tôi phải viết báo cáo ngay bây giờ.
Người cảnh sát bắt đầu hơi tỏ vẻ cau có.
- Có phải trên người nạn nhân vừa rồi có vết xước trông như rắn cắn trên cổ không thưa ông?
Hải đi ngay vào vấn đề.
-  Không hề thấy dấu vết gì tương tự như anh vừa nói.
Ông cảnh sát đáp một cách khô khan.
- Có thể ở vị trí khác không, không nhất thiết phải ở cổ?
Hải vặn lại.
- Chắc chắn không có! Chúng tôi chụp ảnh và xem xét kĩ, không có vết xước nào cả!
Ông cảnh sát khẳng định.
Hải đành cảm ơn ông cảnh sát, bắt tay anh cảnh sát trẻ mặc thường phục và quay bước trở về chung cư.
Đã trưa, anh nghe bao tử mình sôi sùng sục và cái nắng chói chang làm nóng bừng mái tóc trên đầu.
Hải lại ngồi đối diện với máy tính, cau mày.
- Phải chăng chính mình bị đầu độc bởi cái cuốn sách gàn dở về ma cà rồng ấy?! Tự dưng lại nghĩ ra cái chi tiết quái gở về những vết cắn. Mình cần phải thư giãn đầu óc một chút. Có lẽ những vụ án đó chỉ là do ngẫu nhiên mà trùng hợp vậy thôi…
Hải lầm bầm.
Anh đã hoàn thành bài báo tuy không mấy hài lòng về nó. Ngày chủ nhật trôi qua nhanh chóng. Hải xuống phố mua thức ăn trưa, vừa ăn anh vừa đọc cuốn sách về ma cà rồng.
“Chương 12: đời sống của ma cà rồng. Ma cà rồng rất sợ  ánh nắng ban ngày nên  chúng rất ghét phải tiếp xúc với  nắng. Nơi ở của chúng  thường có rất ít ánh sáng. Chúng thích ngủ trong những chiếc quan tài đậy kín. Nhà của chúng thường có một dấu hiệu riêng viết bằng máu như trong ảnh bên dưới…”
Hải nhìn về góc trái trang sách, một hình vẽ cái biểu tượng của ma cà rồng đỏ thẫm gồm một hình tam giác với phần đỉnh hướng lên trên, một mặt trăng khuyết gắn trên phần đỉnh ấy và một cái móc nhỏ. 
Hải cũng không hiểu vì lí do gì mà anh lại chúi mũi vào cuốn sách phi khoa hoc này đến thế. Anh mơ màng nghĩ đến cái hẹn đi uống cà phê với cô hàng xóm mới gặp hôm qua.
Buổi trưa chầm chậm trôi. Hải gấp cuốn sách lại, nhìn lên chiếc đồng hồ trên tường. Đã hai giờ chiều. Anh phải nhanh chóng đến sở cảnh sát để xin thêm thông tin về vụ án ban sáng. Nếu những dấu hiệu mà anh tìm thấy không thuộc về một lôgic nào cả và vụ án vừa rồi cũng không nằm trong danh sách đó  thì coi như là đi uống trà ngoại giao với mấy ông cảnh sát vậy. Anh nghĩ.
Hải lại dến bên cửa sổ nhìn xuống đường chỗ anh đã tận mắt nhìn thấy sự xuất hiện của cái kẻ lạ mặt đêm qua. Anh bâng quơ nghĩ đến Kim, cô gái anh đã hẹn chiều nay.
Ánh nắng ngoài đường trở nên lấp lánh hơn. Gió hiu hiu thổi trên những ngọn cây ở công viên bên kia đường.
Ăn mặc chỉnh tề, Hải đẩy chiếc xe máy ra khỏi bãi xe của chung cư. Anh cứ thế  chạy thẳng về phía  Nam thành phố.
Sở cảnh sát trung tâm nằm ngay trên đại lộ chính của quận Nam cũng chẳng khó khăn gì để tìm thấy. Vả lại Hải đã đến đây vài lần trước đó nên anh  không xa lạ gì với nơi này.
Tiếp Hải chính là ông cảnh sát trung niên anh đã gặp  sáng  nay tại hiện trường vụ án mạng trên phố. Bấy giờ trông ông ta có vẻ thư thả hơn, không còn căng thẳng như lúc ở ngoài hiện trường. Ông măc bộ đồng phục màu xanh, đeo lon thiếu uý trên vai, có cái nhìn nghiêm nghị và cứng rắn của một người trong nghề đã nhiều năm.
Sau khi anh xuất trình một giấy giới thiệu đặc biệt không thời hạn do chủ báo đã kí cho anh trước đây thì ông ta cẩn thận trả lại tấm giấy giới thiệu cho Hải và mời anh ngồi xuông ngay trước mặt ông.
- Anh theo viết bài mấy vụ án mang xảy ra từ năm ngoái phải không? Cấp dưới có thông báo cho tôi ít nhiều về anh.
Ông cảnh sát gợi chuyện.
- Vâng, chính tôi đấy ạ!
Hải trả lời ông.
- Tôi có thể xem ảnh án mạng lúc sáng được không thưa ông?
Hải đề nghị.
Ông cảnh sát với tay lấy một xấp hồ sơ trên kệ chìa về phía Hải.
- Tôi bây giờ là chánh thanh tra, trực tiếp phụ trách  vụ án  này. Còn những vụ trước đây như vụ A-1201 hay A-1203 mà anh đã viết bài chúng tôi tạm gác lại vì không có manh mối…
Ông thở dài, lúc lắc đầu.
- Nhưng  theo tôi nghĩ vụ án này không nằm trong đề tài của anh.
Ông ta lại nói, giọng trầm trầm.
- Tại sao ạ? Theo tôi thấy thì cũng có một số điểm chung đấy chứ.
Hải trả lời ông ta bằng một giọng thờ ơ. Anh đang dán mắt vào mấy tấm ảnh mới chụp.
Xác chết ngồi tựa lưng vào gốc cây, gương mặt trắng bệch không còn một giọt máu.  Anh lại xem tới xem lui những tấm ảnh cận cảnh các bộ phận trên thi thể nạn nhân.
-Tại sao không có vết xây xát nhưng lại có máu trên hiện trường?
Hải thắc mắc.
- Có lẽ là máu của kẻ sát nhân chăng?
Ông thanh tra nghiêng đầu, nhún vai với anh.
- Người của ông chẳng bảo là anh ta chết do nhồi máu cơ tim hay sao?
Hải ngạc nhiên hỏi.
- Đúng vậy! Nhưng  là nghi vấn và xét nghiệm  ban đầu. Tôi không loại trừ trường hợp bị sát hại.
Ông cảnh sát trả lời.
- Huhm... Tôi có thể xin thêm thông tin không ạ?
Hải suy nghĩ một thoáng rồi nói.
- Tất cả đều ở trong tập hồ sơ tôi vừa đưa anh đấy!
Ông cảnh sát vừa nói vừa chỉ tay vào tập hồ sơ trên bàn.
Hải đang dán mắt vào một tấm ảnh chụp phần cổ tay của người chết. Phần gần với ngón tay cái của anh ta có một vết trầy nhẹ, từ góc chụp của bứa ảnh này không trông thấy rõ lắm. Anh chỉ trông thấy một sợi gân xanh nổi bật trên tay nạn nhân. Ngoài ra không tìm thấy một dấu vết nào khác.
Im lăng một chốc, bấy giờ Hải mới ngước lên đối mặt với ông thanh tra:
- Theo khám nghiệm của bên pháp y tôi thấy ghi trong này nạn nhân đã tử vong lúc hai giờ sáng. Và cũng theo tài liệu bên ông thì anh ta đang trên đường về nhà sau một chầu nhậu với bạn bè?
Hải lên tiếng hỏi.
- Đúng, anh ta không có phương tiện đi lại, cũng không bắt taxi hay xe ôm. Bạn anh ta nói anh ta rời cuộc chơi lúc một giờ sáng. Cũng có thể anh ta say quá nên ngồi xuống gốc cây và cơn đột quỵ kéo đến khi anh ta đang ngủ ngoài trời. Ông thanh tra điềm tĩnh trả lời và đứng dậy rời khỏi bàn giấy.
Hải chìa bức ảnh về phía ông ta và nhắc lại những điều về cái dấu vết trông như vết cắn mà anh đã nói tới sáng nay với ông.
- Anh cho là có thể hay sao? Loại động vật nào có thể gây tử vong kia chứ? Chúng tôi không tìm thấy nọc độc. Hoạ chăng là ma cà rồng!
Ông thanh tra vừa nói vừa cười và nhìn Hải.
 - Thôi, anh làm việc của mình đi anh nhà báo trẻ?
Rồi ông ta lững thững quay đi.
- Có thể là rắn vậy, tôi sẽ cho ông xem những tấm ảnh khác tương tự, rất thuyết phục…
Hải cố nói với theo nhưng ông cảnh sát không quay đầu lại. Ông ta chỉ đưa một tay lên vẫy vẫy vào không trung như để chào tạm biệt Hải.
Anh ngồi lại một lúc, chụp lại những tấm ảnh trong hồ sơ và đứng dậy  ra về.
- Có lẽ mình điên thật, những dấu vết ấy có lẽ là trầy xước ngẫu nhiên thôi. Mình quá lậm vào cuốn sách ấy rồi! Vẫn không thể từ bỏ cái giả thuyết về những dấu vết ấy...
Hải lẩm bẩm một mình.
Hải nghĩ đến nhà xác bệnh viện quận Nam, anh hy vọng có thể tìm thêm được manh mối gì. Thực chất, đây là lần đầu tiên Hải có ý định tiếp xúc với thực tế. Anh theo dõi nhũng vụ án cũ từ sáu tháng trước cũng chỉ qua giấy tờ và tư liệu được cung cấp từ phía cảnh sát. Anh không hề có dự định tự mình điều tra hay tìm kiếm manh mối gì cả. Nhưng chính cái sự tình cờ muốn tháo gỡ những khúc mắc gặp phải trong lúc viết bài và sự chứng kiến cái kẻ lạ mặt với những hành động kì quặc tối qua tự nhiên dưa đến cho anh một  thôi thúc mạnh mẽ về việc tìm kiếm sự thật quanh cái công việc mà mình đang theo đuổi bấy lâu.
Nhà xác bịnh viện quận Nam nằm tách biệt khỏi khu diều trị, im vắng và khuất sau một cái sân rộng đầy hoa sứ.
Hải băng qua sân đi về phía khu nhà xác tường quét vôi trắng và mái ngói đã đóng rêu. Anh dừng lại ở cửa bởi một giọng khào khào chậm rãi:
- Đi đấu đấy?
Một gã đàn ông độ ba mươi, thân hình khô đét, cái mặt dài sọc như mặt ngựa, chi chít những mụn, gã bận một bộ đồng phục trắng có bảng tên, đang ngồi quay lưng về phía Hải, gã từ từ quay lại.
- Ơ… tôi… ah… tôi là nhà báo...
Hải luống cuống chìa tấm thẻ phóng viên về phía gã và giải thích lý do tại sao anh đến đây.
Gã đàn ông nhoẻn một  nụ cười lạnh lùng trên khuôn mặt khô quắt của hắn ta, hàm răng gã vàng ệch. Đoạn gã  lật đi lật lại tấm thẻ của Hải, ho lục khục mấy tiếng trong cần cổ rồi quay người đi chầm chậm vào phía trong.
- Đi theo tôi!
Gã lên giọng, rè rè như một chiếc radiô cũ.
Hải yên lặng bước theo. Hơi lạnh trong phòng kín phà vào mặt khiến Hải rùng mình, cái mùi là lạ pha lẫn giữa cồn và vải ẩm khiến anh cảm thấy khó chịu. Hải  khụt khịt mũi. Mấy dãy băng ca trống đặt ngăn nắp ngay giữa phòng. Bốn phía vách tường ốp bằng dàn tủ inox nhiều ngăn lớn.
Anh có thể tưởng tượng được trong những ngăn tủ ấy là những thi thể trắng xác đang chờ được an táng. Phía trước những ngăn tủ lớn  đều treo một  chiếc bảng tên viết bằng phấn.
Căn phòng yên lặng như một cái nhà mồ lớn, Hải chỉ nghe tiếng máy điều hoà kêu khe khẽ bên trong vách tường.
Gã nhân viên dừng lại ở một hàng băng ca gần cuối phòng nơi có hai thi thể đặt nằm dài phủ khăn trắng toát từ đầu đến chân.
- Hôm nay chỉ có hai người này vào đây. Muốn tìm tên gì?
Gã hỏi Hải.
- Tên Phạm Văn Phúc.
Hải đáp gọn.
Gã nhân viên chậm rãi tiến về phía cái băng ca thứ nhất, và lạnh lùng giở tấm vải trắng lên. Bên dưới chiếc băng ca có treo một tấm bảng đen nhỏ ghi ngày tháng và tên tuổi của tử thi.
Hải tiến lại gần cái xác. Một khuôn mặt xanh mét và  vô hồn đang nhìn về phía anh, anh như cảm nhận được một sư sợ hãi nào đó trên khuôn mặt này. Phần thân của tử thi được phủ khín bởi một thứ vải trắng, ướt sũng. Da anh ta trắng muốt, đôi môi tím đen không động đậy gợi cho Hải một cái rùng mình nhè nhẹ. Cái cổ phô ra dưới lớp chăn trông ghê ghê bởi những sợi gân máu xanh dờn  nổi rõ lên như người đang sống.
Anh ta còn khá trẻ và nét khôi ngô hãy còn phảng phất trên khuôn mặt vô hồn ấy. Hải quan sát thật kĩ gương mặt nạn nhân, anh còn nhờ gã nhân viên nghiêng đầu cái xác chết sang một bên để anh có thể trông rõ gáy của người ấy. Cái gáy tim tím và những cái chân tóc trắng dợn người. 
Hải vốn không thích mấy chuyện tiếp xúc với người chết như thế này, nó gợi cho anh cái cảm giác lờm lợm trong cổ họng và khiến hai bàn tay anh lạnh toát mồ hôi.
Gã nhân viên im lặng làm theo những điều mà anh yêu cầu, gã không nói lấy một lời nào, chỉ thỉnh thoảng đưa mắt liêng liếc Hải một  cách kín đáo rồi lại gầm mặt  xuống ngay.
Hải xem xét thật kĩ những chi tiết trên tử thi, chụp ảnh và ghi chép lại những điều anh chú ý đến. Xong đâu đấy anh lại nhờ gã nhân viên giở hộ tấm vải che toàn thân cái xác để tiếp tục xem xét. Gã có vẻ thiếu nhẫn nại, ánh mắt gườm nhìn Hải nhưng vẫn làm theo những điều anh bảo.
Tấm vải vừa giở lên, Hải nghe thấy một mùi khó chịu xộc vào mũi khiến anh buồn nôn không thể tả. Anh cố giữ bình tĩnh nhưng lại thấy đầu óc choáng váng và mắt bỗng hoa lên.
Hải tằng hắng và đưa một tay che lấy mũi. Làn da của tử thi xanh tím lạ thường, gân máu lộ rõ dưới lớp da mỏng nhờ nhờ ấy khiến Hải càng thêm lạnh người.
Buổi chiều đã nhanh chóng kéo đến bên ngoài cửa sổ. Ánh sáng trong phòng không còn đủ nữa nên gã nhân viên nhà xác lại từ tốn đi về phía cái công tắc để mở ngọn đèn chính  lên.
Hải cố lấy lại bình tĩnh, anh xốc lại cổ áo và lại đứng gần bên cái xác hơn. Anh chụp thêm mấy tấm ảnh nữa. Một cánh tay bên trái của cái xác chợt chạm mạnh vào đầu gối Hải khiến anh giật thót  người trước khi kịp nhận ra đó chỉ là một động tác ngẫu nhiên do cánh tay của cái xác tuột khỏi băng ca.
Hải tránh vội sang một bên, mặt anh tái mét. Cánh tay vừa rớt khỏi băng ca ấy đong đưa một lúc trong không khí rồi dừng lại, bất động.
Anh vã mồ hôi trán. Gã nhân viên trong bộ đồng phục cũng đã trở lại. Hắn có vẻ hớn hở khi thấy gương mặt hãi hùng của Hải vừa rồi khi cánh tay ấy chạm vào anh. Hải nghe gai ốc nổi dựng lên trên lưng.
Bấy giờ anh mới nhớ dến cái chi tiết về vết xước nhỏ trên cổ tay nạn nhân. Anh cẩn thận quỳ một chân xuống sàn nhà và ghé mắt xem xét cánh tay nạn nhân từng chi tiết một.
- Đây rồi!
Hải nhủ thầm.
Anh đã trông thấy rõ hai vết xước nhỏ chỉ độ vài milimét ngay trên cổ tay người chết, dấu vết trông không còn mới. Da đã khô lại và không có máu rỉ ra nữa.
Anh kê máy ảnh thật sát và bắt đầu bấm máy nhanh chóng. Hải lại quan sát khắp lượt cái tử thi một lần nữa rồi quay sang định thông báo với gã nhân viên nhà xác là anh đã xong việc thì lại chẳng thấy gã đâu nữa.
Hải chẳng thích cái ý nghĩ anh là kẻ duy nhất trong căn phòng, đối diện với hai cái xác chết và nhiều những thi thể lạnh ngắt khác trong những ngăn tủ bên kia. Anh muốn nhanh chóng kết thúc công việc và rời khỏi cái nhà mồ này càng sớm càng tốt. Hải cho tay vào túi lấy chiếc khăn tay ra chậm chậm mồ hôi trên trán. Anh nghe tay mình lạnh toát.
- Xong rồi hử?
Hải đứng tim khi nghe một giọng khàn đặc ngay sau lưng mình. Cái gã nhân viên nhà xác này bỗng đâu lại xuất hiện thình lình cứ như ma ngay sau lưng anh.
Anh mất một giây trấn tĩnh và thở phào .
- Anh làm tôi sợ quá. Vâng tôi đã xong việc xem xét. Nhờ anh đậy vải lại hộ tôi. Xác chết trông kinh quá!
Gã nhân viên thỏng thả bước lại gần chiếc băng ca, gương mặt hóp dài của gã lại nhoen nhoẻn một nụ cười. Gã  lục khục mấy tiêng gì không rõ trong cổ họng và khào khào nói vừa hất đầu về phía Hải:
- Tay này chết cắt không còn giọt máu.
Hải chau mày vì câu nói của hắn, anh không hiểu lắm hắn muốn diễn đạt ý nghĩa gì trong câu nói ấy, anh chỉ muốn nhanh chóng rời khỏi.
Hải ra khỏi cổng bệnh viện thì trời đã sập tối. Phố xá cũng lên đèn tự lúc nào. Anh nổ máy xe. Gió thổi mát rượi hai bên vành tai và phố xá tấp nập người xe của một buổi chiều cuối tuần khiến Hải quên đi phần nào cái cảm giác lạnh lẽo ghê rợn anh đã trải qua bên cạnh cái xác và tay nhân viên gàn gàn ban nãy. Anh nghĩ đến cuộc hẹn với cô hàng xóm. Hải phóng thẳng xe về đến chung cư .
Đồng hồ trên tay anh đã điểm sáu giờ. Anh chạy vội vào thang máy, đi thẳng lên tầng, mở cửa căn hộ thì thấy một mẩu giấy ngay bậu cửa. Hải cuối xuống nhặt lên:
“Tôi đến xem anh có thời gian đi uống với tôi một tách cà phê như hẹn không nhưng anh đi vắng. Nếu anh rỗi lúc bảy giờ thì tìm tôi ở quán Gió bên cạnh công viên trung tâm nhé.”
Hải mừng rơn như bắt được vàng, anh ngắm cái mẩu giấy với những nét chữ ngay ngắn ấy thêm một lần nữa, rồi chạy vội đi thay quần áo và chưa đầy mười lăm phút sau anh đã có mặt ngay cạnh công viên trung tâm.
Quán Gió nằm ngay bên trái cánh cổng to đùng của công viên. Hải hớn hở bước vào quán, anh không hề để ý đến tiếng nhạc êm dịu hay cảnh bài trí rất nhã nhặn bên trong quán, chỉ đảo mắt xung quanh tìm kiếm cô gái mà anh đã hẹn.
Ánh mắt anh dừng lại bên một chiếc bàn nằm khuất sau cái chậu cây, nơi có một cô gái bận một bộ váy màu đỏ thẫm đang ngồi đọc sách, mái tóc đen của cô như ánh lên thêm dưới ánh nến trong căn phòng. Đôi mắt sắc ngọt và chiếc mũi cao cao của cô ta đầy vẽ kiêu hãnh và thách thức. Hải mỉm cười bước về phía chiếc bàn ấy.
Chính là Kim, cô hàng xóm của anh. Kim ngẩng lên, rời khỏi trang sách khi Hải cố tình kéo chiếc ghế trước mặt cô.
- Ah, anh đến đấy ah?
Cô nói dịu dàng pha lẫn chút ngạc nhiên.
- Tôi cứ tưởng anh bận quá mà  quên mất cái hẹn tối qua.
Kim nói thêm.
- Ai lại quên  như thế chứ? Hôm nay là chủ nhật mà... Tôi cũng không phải làm việc tối.
Hải nhã nhặn đáp.
Anh cùng gọi cà phê và ít thức ăn rồi hai ngưòi vừa ăn vừa tiếp tục chuyện trò.
- Công việc của cô có thú vị không?
Hải lên tiếng.
- Khô khan lắm. Tôi làm việc với những con số mà. Với lại anh cũng biết đó, thương trường là chiến trường.
Kim trả lời anh bằng một giọng ngọt ngào, gãy gọn.
- Thế còn anh thì sao, anh đang viết báo về cái gì?
Cô hỏi lại.
- Tôi ấy à? Tôi đang viết bài về những cái chết mà cảnh sát phải bó tay. Như vụ sáng nay ở dưới phố nhà mình, cô có biết không?
Hải cười và nói.
Kim khựng lại một giây rồi tiếp:
- Tôi có nghe nói. Mà anh viết phóng sự điều tra á?
- Không, tôi chỉ là viết bài tường thuật thôi, dựa theo hồ sơ của cảnh sát ấy mà.  Mà cô biết không, tối qua tôi có thấy một việc lạ lắm. Sau khi gặp cô…
Hải bắt đầu kể tỉ mỉ những chi tiết mình đã thấy tối qua với Kim và cả việc cái điều đó thôi thúc trí tò mò của anh như thế nào, và rằng nó đã khiến anh có ý nghĩ về việc  tìm hiểu những cái chết đó. Cả chuyện anh đã đến nhà xác bệnh viện để chụp ảnh.
Tất cả mọi thứ trong suy nghĩ và nghi vấn của mình anh đều kể tất cả cho Kim. Cô yên lặng lắng nghe anh không sót một lời.
- Vậy theo anh thì sao? Giả thiết nào là khả dĩ ở đây?
Cô hỏi.
- Tôi nghĩ phải có một sự can thiệp nào đó đến những cái chết này. Có thể là rắn hoặc một loại động vật mà người ta đã không xét nghiệm được nọc độc. Còn động cơ hay kẻ sát nhân thì tôi chưa có manh mối gì cả.  Hoặc giả có thể là ma cà rồng.
Hải trả lời.
Kim không nói gì. Hai người lặng im một lát, Hải lại hỏi:
- Cô có tin vào sự có mặt của cái thế giới ấy không hả cô hàng xóm?
Hải nói bằng một giọng bông đùa.
- Tôi rất thực tế nên chưa bao giờ hoài nghi điều ấy. Nhưng ai chứng minh được kia chứ?
Kim  cười nhẹ với anh.
Trong khoé mắt cô có cái gì đó rất thần bí, rất thu hút người khác khiến anh như bị dẫn vào một mê cung. Hải dừng lại ở đó thật lâu rồi mới dứt ra được.
- Vậy là anh có dự định tự mình đi diều tra à?
Kim lại hỏi.
- Cũng có thể, tôi chưa biết bắt đầu từ chỗ nào, nhưng tôi sẽ vạch ra kế hoạch.
Hải từ tốn.
Thôi bàn tán về công việc cả hai cùng chuyện trò về một số vấn đề khác như việc ăn uống, cuộc sống độc thân và các quan niệm khác của những người trẻ tuổi.
Hải say sưa nói về mọi thứ và anh hài lòng tìm thấy một sự thấu hiểu rất thông minh và nhạy cảm từ Kim. Thời gian trôi qua như tên bay. Cuối cùng cũng đến lúc phải trở về. Cả hai rời khỏi quán cà phê, thong dong thả bộ về chung cư.
- Cô có quen ai sông ở tầng 13 không?
Hải bất chợt hỏi.
- Sao anh lại hỏi như thế? Tôi chẳng quen ai cả. Tôi sống ở tầng 8 gần cả năm nay nhưng cũng chẳng quen biết ai huống hồ gì tận trên tầng thứ 13.
Kim có vẻ ngạc nhiên.
- Cũng đúng, tôi cũng chẳng quen ai trên tầng 7 cả. Cô là người hàng xóm đầu tiên của tôi ở đây đấy.
Cả hai cùng cười. Chẳng mấy chốc thang máy đã dừng lại trước căn hộ của Hải. Anh chào tạm biệt Kim  ra về. Cô cười thật tươi, đôi mắt đen đậm đà thêm vẻ đẹp  huyền bí mê người.
Thang máy đã đi tiếp lên trên mà Hải vẫn còn đứng đó. Sự tạm  biệt dường như kéo dài thật lâu với anh. Đoạn anh quay lưng trở lại phòng. Bất chợt Hải để mắt đến ánh đèn trên thang máy, anh thấy nút số 13 đang sáng lên.
- Có lẽ có ai đó đi từ tầng 8 lên tầng 13 chăng? Mình muốn xem danh sách các hộ sống trên tầng ấy. Biết đâu có thể tìm ra manh mối gì…
Hải nghĩ ngợi mông lung. Chuyện này càng lúc càng kích thích trí tò mò của anh một cách mãnh liệt hơn.
- Hôm nay lại phải làm việc đêm…
Anh lầm bầm vừa tra chìa khoá vào cửa.
Hải nhẹ nhàng thả người xuống chiếc ghế, mở cái cặp đen của anh và lôi xấp tài liệu về vụ án ra. Một xấp giấy dày với cả hình ảnh và thông tin của toàn bộ những vụ án mà anh đang theo dõi.
Hải bắt đầu rà soát lại tất cả thông tin về các nạn nhân. Tất cả đều là nam, ba người trong số họ đã lập gia đình, số khác thì chưa. Vụ gần nhất khá khác những vụ trước đó vì xác chết được tìm thấy ở nơi thường xuyên có người qua lại và ngay trung tâm thành phố. Chứng tỏ nếu có cùng một kẻ gây án thì kẻ ấy ắt hẳn phải trở nên càng lúc càng bạo dạn.
Hải sắp xếp những hình ảnh của tất cả các vụ án theo thứ tự từ thời gian. Anh nhận ra rằng những cái chết ấy không theo một trình tự lặp lại, và các nạn nhân đều tử vong trong khoảng thời gian từ mười hai giờ đêm đến hai giờ sáng. Và trên hầu hết các bức ảnh mà anh có anh đều tìm thấy cái vết xước nhỏ trông như vết cắn của một loại đông vật nào đo. Các nạn nhân lại không hề có một mối quan hệ nào với nhau cả.
Ngoài những diểm chung đáng nghi đó Hải cảm thấy vụ án của mình hơi bế tắc, anh không tìm thấy những giả thuyết  thực sự thuyết phục. Anh đang nghĩ đến một vụ giết người hàng loạt, gây ra bởi một kẻ tâm thần nào đó, hung khí là một loại động vật???
Nghe cũng có vẻ hợp lý nhưng Hải chỉ nghĩ tới nghĩ lui mà không mấy tin tưởng vào giả thiết của chính mình. Anh không hề tìm thấy được mối liên hệ nào giữa các nạn nhân đó.
Đêm đã dần khuya, Hải nghe gió thổi lành lạnh bên cửa sổ, ngoài phố dần yên ắng, con đường cũng thưa bớt người qua lại. Hải không buồn đóng cửa sổ lại, anh xoay xoay người trên chiếc ghế tựa, gõ nhè nhẹ đều đều lên mặt bàn.
Anh không đánh maý thêm được gì, chỉ ngừng lại để suy nghĩ. Cái ý nghĩ về chiếc đèn thang máy sáng rực ở nút số 13 chợt thoáng qua trong óc anh. Anh nghĩ đến cái dáng lom khom hấp tấp của kẻ lạ mặt đã xuất hiện tối hôm trước và cái túi rác to mà hắn mang theo, thật kì quái!
Những ý nghĩ ấy thôi thúc trí tò mò của Hải. Anh muốn đứng dậy để thư giãn cột sống, nhưng một tiếng nói khác thôi thúc sau gáy bảo anh:
- Mày thử lên tầng thứ mười ba xem, làm một cuộc đi dạo ấy mà!
Tiếng nói ấy vang lên từ một góc nào đó trong óc Hải khiến anh cứ thế vâng lời nó mà không hề suy tính gì. Nó có một sức mạnh kì quặc mà anh không lý giải được với chính mình.
Hải đi lần về phía cầu thang. Anh không mảy may có một ý nghĩ nào về những điều bí ẩn mà anh đang đều tra, không hề biết rằng những chuyện sắp xảy ra sẽ thay đổi cả thế giới của anh. Hay nói đúng hơn là đưa anh đến một thế giới khác, cái thế giới vốn tồn tại song song với chúng ta mà không ai từng chứng minh được.
“...Ngày... tháng... năm… Đó là lần đầu tiên tôi đặt chân lên tầng thứ mười ba của toà nhà này. Khác với trí tưởng tượng ban đầu của tôi, tầng này của toà nhà trông không giống với tầng bảy nơi tôi ở một chút nào. Đèn hành lang đã hỏng mất mấy cái, hai cái còn lại thì cứ chớp tắt khiến mắt tôi khó chịu vô cùng. Tôi đi dọc hành lang, những căn hộ ở tầng này lại không hề có số, đóng cửa im ỉm và không thấy có ánh đèn từ bên trong.
Sàn hành lang  phủ bụi nhè nhẹ.  Tôi thấy có một cánh cửa mở he hé ở căn hộ phía cuối lối đi, một ánh đèn mờ mờ hắt ra từ khe cửa đó. Tôi từ từ tiến lại gần cánh cửa. Không thấy có tiếng nói hay tiếng người đi lại, có lẽ người trong nhà đã ngủ hoặc đi ra ngoài cả.
Theo như phỏng đoán của mình, tôi cho rằng  nếu có đi ra ngoài gia chủ sẽ trở lại rất sớm vì cái cách cánh cửa khép hờ như thế. Có lẽ   tôi chẳng có nhiều thời gian đủ để nhòm ngó xung quanh.
Lướt qua cánh cửa ấy, thoạt đầu tôi không nhận ra bất cứ dấu hiệu nào đặc biệt, căn hộ có bài trí bên trong đơn giản hơn những căn hộ khác trong toà nhà này, chỉ cómột chiếc bàn ở ngay giữa  phòng khách. Tôi thoáng thấy ánh sáng trong phòng không phải là từ đèn điện mà là từ một ngọn nến leo lét đặt trên chiếc bàn ấy. Màu sơn trên tường cũng nhờ nhờ khác lạ. Trí tò mò thôi thúc tôi một cánh mạnh mẽ hơn.
Không thể cưỡng lại chính bản thân mình, tôi mặc kệ sự trở lại trong chốc lát của gia chủ mà tôi đã lưu ý ngay từ đầu, hoặc giả gia chủ đang ngủ ngay bên trong nhà.  Không từ bỏ cái ý định ấy vội. Tôi khẽ khàng vịn tay lên nắm cửa và mở thật nhẹ không để phát ra bất cứ tiếng động nào. Rồi không hề cân nhắc trước sau gì hay trù tính cho sự trở lại vào ngày hôm sau với một kế hoạch chắc chắn hơn.
Tôi bước hẳn vào căn phòng và lại để cánh cửa khép hờ như ban nãy. Trong phòng hoàn toàn im ắng. Tôi kiễng chân tiến về phía cái bàn ở ngay chính giữa phòng. Có cơn gió thổi nhẹ qua từ cửa sổ phía tây khiến ngọn đèn leo lét như sắp tắt. Tôi nghe một cảm giác gờn gợn đang chạy dọc sóng lưng hệt như cái cảm giác khi hơi lạnh từ máy điều hoà phà vào người lúc tôi vừa đến nhà xác chiều nay.
Căn phòng khá âm u, bốn phía vách tường là những tủ, kệ chât đầy sách, bụi  bặm và mạng nhện bám. Có Lẽ gia chủ không phải là người kĩ tính. Sàn nhà trải bằng một chiếc thảm to đã sờn và mòn vẹt. Một chiếc đầu nai với cặp sừng to gắn trên tường khiến tôi có cảm giác đôi mắt của nó đang nhìn chằm chằm về phía mình.
Tôi hơi rụt lại trong giây lát rồi cẩn thận bước lại gần hơn chỗ vách tường có cái đầu con nai. Ánh mắt nó sáng quắc đang nhìn ngay phía trên đầu tôi.
Bên cạnh cái kệ sách là một bộ ghế ngựa sofa boc nệm phủ vải trắng. Một vệt đen dài lốm đốm chạy từ phía đầu kia của tấm thảm về phía chiếc ghế sofa và cả trên lưng ghế. Ở góc này tôi không trông thấy rõ được cái vệt sẫm và lốm đốm ấy là thứ gì đành bước lùi lại và cẩn thận cầm lấy cái chân nến.
Ánh nến chiếu xuống sàn nhà, tôi khom người, soi đèn nhìn cái vệt ấy: máu tươi, vẫn còn ánh lên dưới tia sáng của ngọn nến. Tôi thấy tóc sau gáy mình đã dựng lên nhưng dường như bị thôi miên bởi một sức tò mò cao độ, tôi lại nhìn một lượt nữa khắp căn phòng. Có một bộ quần áo đen treo rủ trên chiếc mắc phía góc phòng. Phải chăng chính là căn phòng của cái kẻ mà mình đã bắt gặp hôm qua? 
Cả người tôi như sốt lên bởi sự phát hiện của chính mình. Tôi không ngờ chính trí tò mò đã đưa mình đến với hang ổ của kẻ sát nhân và biết đâu của cả một seri giết người hàng loạt. Tôi quên hẳn về sự trở lại của gia chủ bất cứ lúc nào và sự nguy hiểm có thể xảy ra với tính mạng mình.
Tôi tiếp tục đi sâu hơn vào căn hộ. Phía sau chiếc ghế sofa là một cái  bàn nhỏ, trông như bàn viết, bừa bộn đủ thứ giấy tờ và hình ảnh. Tôi không kịp nhìn thấy những hình ảnh gì trên bàn thì đã trông thấy một chiếc quan tài màu nâu đặt ngay ở cuối phòng. Nắp quan tài mở hé khiến tôi liên tưởng ngay đến những điều được viết trong cuốn sách về ma cà rồng.
- Không lẽ sự tồn tại này là có thật hay sao?
Tôi hoài nghi.
Một giọt sáp nến nhỏ lên tay khiến tôi khẽ giật mình đánh thót. Tôi bắt đầu chú ý đến những tấm ảnh trên bàn. Có một tấm ảnh trông quen quen, tôi đưa tấm ảnh lên ngang tầm mắt và bất ngờ nhận ra gương mặt của chính chàng trai trong vụ án mạng sáng nay. Bất ngờ và hãi hùng với những điều mình vừa tìm thấy.
Tôi đặt cái chân nến xuống bàn và tiếp tuc xem xét nhũng tấm ảnh khác. Tôi nhận ra gương mặt của chàng trai trong một vụ án cách đây độ nửa năm, anh ta trong tấm ảnh này trông rất khôi ngô khác hẳn hoàn toàn với những cái nhìn tái mét khi đã chết trong những tấm ảnh mà tôi có được từ tay cảnh sát.
Tôi đi từ ngạc nhiên đến kinh hãi khi phát hiện một tấm ảnh đính trêng trang giấy của một cuốn sách đang đọc giữa chừng. Cuốn sách dày màu vàng nâu, bìa đã sờn và có đề tựa là một kí hiệu  màu đỏ hình tam giác trông như một cái răng nanh thẫm máu, đính theo một hình mặt trăng khuyết hướng về phía cái đầu nhọn của hình tam giác. Trên cùng của biểu tượng ấy có hình một cái móc. Đích thị là dấu hiệu của ma cà rồng. Tôi đã từng đọc về dấu hiệu này trong cuốn sách ở nhà hôm nọ.
Tôi lại nhìn sang tấm ảnh.  Ấy chính là ảnh của tôi. Có thể nào  nạn nhân tiếp theo chính là tôi ư?
Tôi lật nhanh cuốn sách, toàn những chữ tiếng Latinh mà tôi không thể nhanh chóng đọc hiểu đuợc. Thật đáng sợ. Tôi phải  báo ngay cho người quản lý toà nhà này hoặc cảnh sát. Cái kẻ sở hữu căn hộ này có thể là một kẻ tâm thần hoặc đại loại như thế. Và hắn đang nhắm vào tôi. Một kẻ giết người máu lạnh và diên cuồng không vì một lý do gì như thế thì thực là một kẻ cực kì nguy hiểm.
Tôi đặt vội tấm ảnh vào chỗ cũ, nhẹ nhàng để cái chân nến xuống sàn nhà  và nhanh chóng rời khỏi căn hộ quái dị.
Tôi  lẻn ra ngoài cửa, đi nhanh và bấm nút thang. Cùng lúc ấy tôi cũng nhận ra đèn thang máy tầng mười ba lại sáng lên. Tôi hốt hoảng nghĩ đến cái kẻ sát nhân máu lạnh ấy đang trở về nhà liền chạy vội về phía đầu hành lang và cuối gập người nấp ngay sau tay vịn cầu thang ấy.
Cặp mắt tôi từ phía này có thể quan sát chân dung của kẻ sẽ bước ra khỏi thang máy một cách thật an toàn. Một phút trôi qua dài lê thê như cả giờ đồng hồ. Cuối cùng thang máy cũng đến tầng. Một tiếng “Ding” vang lên và cánh cửa mở ra.
Tôi nghe sự sợ hãi lan toả khắp thân thể mình. Có người bước ra khỏi thang, nhẹ như một con mèo, không để lại tiếng động hay âm thanh gì của bước chân. thế nhưng cũng vừa lúc ấy, một trong hai chiếc đèn  còn lại trên hành lang cũng chớp nháy một lần rồi tắt hẳn, ánh sáng còn lại không đủ để tôi nhận ra kẻ ấy là nam hay nữ, chỉ biết rằng hắn mặt quần áo màu đen tiếp với bóng tối, thân người cao vừa phải, có lẽ hơi gầy nữa.
Chờ hắn đã vào nhà và đóng cánh cửa lại im ỉm sau lưng, tôi cố chạy thật nhanh về phía cái thang máy.
Tôi trở về phòng  mình, thở hổn hển và dự định gọi điện thoại ngay cho một người bạn làm ở sở cảnh sát mà tôi đã quen biết. Tôi chạy ngay đến chiếc bàn giấy, với tay lấy cái điện thoại di động quen thuộc và quay ngay vào số của anh ta. Không có người bắt máy.
Đã hơn hai giờ sáng, có lẽ hôm nay không phải trực nên anh ta đã đi nằm. Tôi cố gọi đi gọi lại thật  nhiều lần. Vẫn không có người nghe máy. Tôi đành ngồi đánh phịch xuống giường và quay số của người đồng sự ở toà soạn. Anh ta bắt máy bằng một giọng ngái ngủ.
- Ayyy, anh Hải gọi tôi có việc gì muộn thế này?
Không đợi anh hỏi thêm tôi đáp ngay:
- Anh Huy, tôi đã tìm thấy hung thủ những vụ án mạng mà chúng ta đang viết bài. Hắn sống ở ngay cùng… tít tít tít
Điện thoại mất tín hiệu.
Tôi cáu tiết quay số lại lần nữa thì một giong nữ rồ rồ vang lên:
- Số tiền trong máy của quý khách không đủ để thực hiện cuộc gọi…
Thật là đúng lúc! Tôi phát điên lên được đành ngả người ra giường vừa thở lấy hơi. Được một lúc sau, đầu óc tôi dường như dần sáng tỏ lên. Tôi nhận ra mình đã thật ngu ngốc không hề chụp lấy một tấm ảnh nào từ hiện trường căn hộ ấy, cũng không có lấy một bằng chứng nào. Biết đâu  ngày mai khi cảnh sát đến nơi họ lại cười rằng tôi báo án nhầm vì căn hộ lại ngăn nắp và không còn một dấu vết nào của sự chết chóc thì sao?
Tôi thật ngu ngốc quá. Nghĩ thế tôi lên ngay một kế hoạch đột nhập vào căn hộ ấy thêm một lần nữa vào ngày mai và sẽ thông báo cho người đồng sự của mình để anh ta có thể đến ứng cứu ngay khi tôi có nguy kịch gì.
Tôi cần phải chuẩn bị cho kế hoạch này thật chu đáo và hoàn hảo, phải thu thập thật đầy đủ chứng cứ trước khi đi báo cảnh sát. Nghĩ thế tôi chồm dậy, viết ngay một email gửi cho tổng biên tập báo ốm và xin nghỉ ngày hôm sau. Đoạn tôi trở về giường, nghĩ đến việc đầu tiên phải làm vào sáng hôm sau là mua một tấm thẻ điện thoại để có thể nói chuyện trực tiếp với người đồng sự, bảo cho anh ta biết những gì phải làm, sau đó sẽ xin người quản lý toà nhà cho xem thông tin của cái kẻ sống tại căn hộ cuối cùng trên tầng 13…”
Hải nằm dài trên giường, nghí ngoáy mấy trang nhật kí cho ngày hôm ấy. Cái ngày mà anh phải trải qua những phát hiện đáng sợ về một vụ giết người hàng loạt bởi một kẻ sống trong căn hộ đơn độc với một chiếc quan tài, mà theo anh đoán thì chính cái kẻ này có lẽ bị tâm thần và hoang tưởng rằng mình là một con ma cà rồng, cần phải hút máu con người để sống.   
- Những phát hiện này chắc hẳn sẽ làm cho bài báo của mình hút khách như điện vậy!
Hải thầm nghĩ, rồi  anh gục đầu ngủ thiếp đi bên trang nhật kí dở dang.
Bình minh lặng lẽ ló dạng ở phía đông thành phố. Tiếng rao dưới đường và âm thanh từ cái loa đầu phố đánh thức Hải.
Anh từ từ mở mắt với một cảm giác nhức nhối toàn thân. Hải đưa tay lên sờ trán. Anh thấy mình hâm hẩm sốt. Có lẽ cái ngày kì dị hôm qua cùng những đêm thức khuya bên bàn phím đã khiến anh ngã bệnh.
Hải nghe ngứa ngáy trong cổ họng ran rát của mình. Anh  cố trở dậy, với lấy cốc nước trên bàn. Hải thấy ngưòi mình yếu vô cùng, tay anh lạnh ngắt và run run. Hải không cố ngồi dậy nữa, có lẽ anh cần phải nằm trên giường cả  ngày.
Hải lờ mờ nghĩ đến những việc anh đã lên kế hoạch để làm trong ngày hôm nay nhưng anh không nghĩ mình có thể ra khỏi giường được, hay ít nhất là không thể dậy được sáng nay.
Hải đành tựa đầu vào gối, anh đang đọc lại những dòng nhật kí đã viết tối qua. Mắt anh nặng trĩu và anh lại chìm vào vào một cơn sốt cao nóng ran đến tưởng như những mạch máu sẽ vỡ tung dưới cánh mũi.
Hải không hề có ý niệm về việc mình đã thiếp đi được bao lâu hay bất cứ sự hay biết nào về thời gian. Lúc Hải tỉnh giấc thì ngoài cửa sổ ngọn đèn đường đã sáng rực tự bao giờ.
- Mình đã ngủ cả ngày thế này ư?
Hải mệt mỏi cố hết sức mình để ngồi dậy.
Anh thấy xây xẩm một lúc thì cũng đứng hẳn lên được. Hải mở tủ lạnh tìm một lon nước ngọt. Anh vừa uống vừa đi rửa mặt.
Một lúc sau Hải thấy mình dần hồi tỉnh lại. Anh vừa dự định đi xuống tầng trệt của toà nhà để gặp người quản lý, mua ít thức ăn và thẻ điện thoại. Anh đặt lon nước ngọt lên bàn giấy. Bỗng có tiếng gõ cửa rất gấp gáp.
Hải đột nhiên nghe tim mình đập nhanh như trống giục. Anh bước từng bước dài về phía cửa. Bàn tay Hải vẫn còn lạnh ngắt và run.
Cánh cửa mở ra, Hải ngạc nhiên khi vị khách của anh chính là cô Kim hàng xóm, cô đứng thẳng người, hai tay cầm một cuốn sách ấp lên trước ngực, nhìn anh và cười rất tươi:
- Hôm nay anh không đi làm àh? Lúc nãy có người cộng sự đến tìm anh đấy, đi lên cùng thang máy với tôi. Anh ta bảo anh nghỉ ốm nên tôi xuống xem anh thế nào rồi?
 Hải lúng túng vì bộ dạng nhếch nhác của mình. Anh gãi đầu gãi tai:
- Thế ah,  ờ…  cảm ơn cô ghé thăm. Anh ta đến lâu chưa? 
- Khoảng nửa tiếng trước đây.
Kim trả lời.
- Tôi vụng quá, chắc lúc anh ấy đến tôi đang ngủ. Mời cô vào nhà chơi.
Hải vồn vã mời.
- Tôi chỉ định ghé thăm anh thôi. Bây giờ tôi xuống phố mua ít thức ăn.
Kim đưa mắt nhìn anh.
Hải phì cười:
 - Tôi cũng đang định xuống phố. Tôi đi cùng cô nhé?
 Kim cũng cười kín đáo, cô nhẹ nhàng:
- Vậy thì đi. Anh không thấy trùng hợp khéo thế sao?
 Anh bước theo cô vào trong thang máy vừa bông đùa:
- Chính cái thang này đã giúp tôi được làm bạn với cô đấy nhỉ?
Kim lặng yên không trả lời anh. Hải muốn quay sang nhìn cô một cái nhưng chưa đủ dũng khí. Anh đành nhìn lên trần thang máy. Anh giật mình khi nhận ra cái thang đang đi lên và diểm đến chính là con số 13 đang sáng đèn.
- Cô đã bấm nhầm nút thang máy àh? Chúng ta đi xuông cơ mà?
Hải vừa nói gấp gáp vừa đưa tay lên nhấn lại cái nút chữ “G” để xuống tầng trệt. Nhưng cái thang không chịu ngừng lại, cái nút chữ G cũng không sáng đèn, Hải nhấn đi nhấn lại cái nút ấy mấy lần nữa cũng không hiệu quả gì.
Bấy giờ anh mới nghe Kim dịu dàng lên tiếng ngay sau vai mình:
- Tôi không nhầm đâu. Chính anh mới đặt nhầm  chỗ cái chân nến!
Hải không hiểu những lời Kim vừa nói. Anh quay sang:
- Cô bảo gì  cơ?
Kim đang cuối mặt xuống nhưng đôi mắt lại ngước lên nhìn anh như thôi miên, đôi mắt ấy ánh lên một cái nhìn khó hiểu hết sức. Anh thấy cô vẫn đẹp như mọi ngày, lại rất duyên dáng  trong bộ váy màu đỏ thẫm.
Hải không hiểu câu nói vừa rồi và cũng không hiểu cái nhìn sắc lẻm kì quặc mà cô vừa trao cho anh. Anh chỉ ngẩn ngơ ngắm cô gái trong một giây lát. Đôi mắt anh dừng lại trên cuốn sách giữa hai bàn tay Kim. Một cuốn sách cũ kĩ bìa nâu, có cái kí hiệu hình tam giác và mặt trăng khuyết đỏ tươi. Hải rợn người khi chạm mắt vào cái kí hiệu ấy, anh bước lùi ra phía sau, ngỡ ngàng:
- Cuốn sách của cô…
Bấy giờ Kim đã ngước lên nhìn anh, cô ta mỉm cười ngọt ngào hơn bao giờ hết, cô tiến lại gần Hải hơn khiến anh  nín thở. Anh nhìn thấy được cả những sợi gân máu ánh lên từ trong mắt Kim.
Một nỗi ngơ ngác của cái kẻ không có đủ thời gian để cố hiểu chuyện quái lạ gì đang xảy ra với mình hiện rõ trên khuôn mặt Hải. Anh không phảng kháng, không chống cự chỉ biết ngây ra như tượng đá.
Khi khuôn mặt Kim áp sát khuôn mặt Hải, anh nghe một thứ khí lạnh đến tê tái bao trùm lấy thân thể anh từ gót chân đến những đầu ngón tay mình. Hải nín thở nghe tim mình đập càng lúc càng nhanh.
Kim thì thầm vào  tai anh:
- Tại sao anh không đặt cái chân nến lên cái bàn ngay giữa nhà như lúc đầu. Anh vội quá phải không? Chúng ta sẽ lên phòng tôi trên kia để đặt nó vào chỗ cũ nhé!
Tiếng nói ngọt ngào như thắt lấy trái tim và cổ họng Hải. Anh chưa biết phải làm gì hay phản ứng ra sao thì một thứ gì sắc nhọn đã cắm phập vào cổ anh buốt tận xương tuỷ. Anh mở miệng nhưng không còn cất lên lời được. Anh chỉ nghe một thứ gì ươn ướt và rất ấm đang chảy xuống từ vai mình, nhỏ lên giày của mình.
Anh cuối đầu nhìn xuống chân, mắt anh nhoà đi trong một màu đỏ tươi của những giọt máu đang nhỏ lộp độp xuông dôi giày tây của mình, rồi anh không còn nhìn thấy gì nữa cả.
Một cặp răng nanh vàng ệch rút khỏi cái cổ khoẻ khoắn của anh. Nó lôi anh vào căn phòng âm u trên tầng thứ 13. Cuốn nhật kí của Hải rơi xuống, nằm lại giữa  cái khe trong một góc của khoang  thang máy.
Tám giờ tối, anh Huy nhân viên của tờ Thời báo quyết định trở lại tìm người cộng sự của mình. Anh ăn vội bát phở rồi lái xe trở lại toà nhà chung cư nơi cộng sự của anh - Hải đang sống.
Huy thật sự tò mò về cái tin Hải báo cho anh nửa đêm hôm qua, anh lại cũng nóng lòng không biết anh bạn mình ốm thế nào mà lại đóng cửa bế quan suốt cả ngày. Chiếc thang máy lại mở cửa. Huy từ tốn bước vào.
Anh đạp phải vật gì dày và cứng khiến anh phải cuối người xuống xem xét. Một cuốn sổ màu xanh rêu có một chữ H bằng bạc khắc trên trang bìa. Huy tò mò lật từng trang. Nét chữ quen thuộc hiện ra trước mắt Huy, chữ của người cộng sự của anh.
Đó chính là cuốn nhật kí của Hải. Huy chăm chú đọc từng trang, anh không hề hay biết rằng cái nút màu đỏ có chữ số 7 mà anh vừa nhấn đã tắt đèn từ lâu, và phím số mười ba đang sáng rõ lên trên tấm bảng điều khiển thang máy. Chiếc thang đang đưa anh  đi thẳng lên tầng thứ 13.
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu

<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:29:07 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 20:47:28
CON MA TRONG PHÒNG KHÁCH
 
- Lê ơi, có tin vui cho cả nhà chúng ta đây!
Vừa dựng xe trước nhà, Khâm vừa reo toáng lên.
Lê, vợ anh từ sau bếp chạy lên hỏi:
- Có chuyện gì mà phấn khởi dữ vậy anh?
Khâm nhấc bổng vợ lên quay một vòng làm Lê la oai oái:
- Oái, té em... Anh này kỳ ghê! Bỏ em xuống đi... Té em bây giờ...
Tính Khâm vẫn vậy, xưa nay không thay đổi, mỗi khi có chuyện phấn khích quá độ, anh thường bế vợ hoặc con quay mòng mòng như thế.
Khâm cười ha hả:
- Mơ ước của chúng ta đã thành sự thật rời em ơi! Em đoán xem, đó là chuyện gì?
Lê cười cười:
- Vợ chồng mình có quá trời mơ ước, bất thình lình anh hỏi vậy làm sao em có thể đoán ra được? Thôi, em chịu thua, anh mau nói ra đi, em sốt ruột lắm rồi đây nè!
- Anh đã được nhận vào công ty X. với chức vụ phó giám đốc! Đây là thư của công ty vừa mới gởi cho anh!
Khâm vừa nói vừa huơ huơ chiếc phong bì trên tay.
Lê ôm chầm lấy Khâm, mừng rỡ:
- Trời! Thật như vậy hả anh? Có thật là không phải em đang nằm mơ chứ? Trời ơi, cái công ty đó, chức vụ đó biết bao nhiêu người mơ ước, thế mà hôm nay chồng em đã được chính thức tuyển chọn rồi! Anh thật là tài giỏi đó nghen!
Khâm kéo vợ ngồi xuống chiếc xích đu trước hiên nhà, nghiêm giọng nói:
- Từ ngày mới ra trường, anh đã mơ ước được vào làm việc cho công ty X. Nhưng rồi bao nhiêu năm nay cứ phải quẩn quanh ở cái tỉnh lỵ nhỏ bé này, không phát huy được hết năng lực của mình. Chính vì vậy anh mới tham gia thi tuyển vào đây, với hy vọng được làm việc cho một nơi có điều kiện để học tập và phát huy em à!
Ngừng một lát Khâm nói tiếp:
- Thú thật hôm dự tuyển anh không được tự tin mấy, vì thấy có nhiều người quá, mà ai cũng đáng gờm. Không ngờ mình lại may mắn đến vậy!
Lê vuốt ve bàn tay chồng:
- Không hẳn là may mắn đâu anh, chủ yếu là năng lực của anh đó thôi, người ta tuyển chọn là dựa trên năng lực thực tế chứ đâu phải rút thăm đâu mà anh cho là may mắn!
Khâm cười xòa:
- Đúng là vợ anh! Lúc nào em cũng chỉ ca ngợi chồng mình. Em không sợ anh sinh ra tự mãn, tự kiêu sao?
Lê ngó quanh quất không thấy ai, cô vội đặt nhanh lên má chồng một cái hôn nồng nhiệt:
- Vì em biết chồng em không như vậy đâu mà, phải không anh?
Cả hai vợ chồng cùng cười vang, không khí hạnh phúc, tươi vui lan tỏa cả ra khu vườn nhỏ trước sân nhà. Những bông hoa sao nhái mỏng mảnh rực vàng dưới nắng trưa, một làn gió thổi qua khiến chúng xôn xao rung động như đang cùng với vợ chồng chủ nhà chia sẻ niềm vui.
- Tháng sau là anh nhận nhiệm sở mới rồi đấy! Em liệu có xin thuyên chuyển kịp không?
Khâm lo lắng hỏi vợ.
Lê mỉm cười:
- Anh yên tâm đi. Anh còn nhớ Phương Liên bạn thân của em hồi học ở Đại học không? Giờ nó là Hiệu trưởng một trường tư thục có tiếng ở Sài Gòn, đã nhiều lần nó rủ rê em lên đó nhưng vì anh công tác dưới này em đâu làm sao đi được. Bây giờ chỉ cần gọi điện thông báo cho nó biết là nó sẽ sắp xếp ngay thôi. Em bật mí cho anh biết nha, về đó, lương giáo viên cấp ba của em còn được tăng cao gấp mấy ở đây nữa đó!
Khâm cười thật tươi:
- Thật là may mắn cho cả nhà chúng ta rồi! Vậy ngay hôm nay em báo tin cho Phương Liên đi nhé! Dù gì cũng nên báo sớm để người ta dễ dàng sắp xếp em à, đừngcậy vào mối thâm tình mà gây khó khăn cho bạn!
Lê làm mặt giận:
- Anh làm như em không biết nghĩ cho người khác vậy? Ghét anh quá đi!
Khâm phì cười:
- Là anh dặn hờ vậy thôi, chứ anh biết vợ anh là người phụ nữ chu toàn mà!
Lệ đấm thùm thụp lên vai chồng:
- Anh nịnh vừa phải thôi nghen! Mới vừa chê người ta câu trước, câu sau đã bốc người ta lên tuốt mây xanh rồi...
Khâm giả vờ la lên:
- Ui da... Có người muốn thủ tiêu chồng...
Lê không đấm nữa mà véo cho chồng một cái thật mạnh vào vành tai, cô vừa đứng lên vừa cười nói:
- Thôi, để em vào nhà nấu một bữa ăn thịnh soạn để chúc mừng anh nghen?
- Ừ, bà xã muôn năm!
Khâm tươi cười đứng lên đi theo sau lưng vợ.
Khi hai đứa con đi nhà sách về thì bữa ăn cũng vừa được dọn lên. Hôm nay Lê làm món cá hấp cuốn bánh tráng mà cả nhà đều ưa thích, bên cạnh còn có một nồi cháo và dĩa gà xé phai hấp dẫn.
Khi được biết tin năm học tới hai đứa sẽ được chuyển về học ở Sài Gòn, thằng Khải mừng rú lên:
- A ha, con thích quá! Con được lên Sài gòn học rồi, thích quá!!!
Nhưng con bé Diệu chị nó lại tỏ vẻ khong vui:
- Con cũng phải đi sao? Con phải bỏ các bạn để đi một mình sao?
Lê vuốt tóc con gái:
- Không sao đâu con, rồi từ từ con sẽ quen và thân thiết với các bạn mới trên đó! Cả nhà mình chuyển đi, chẳng lẽ con lại ở đây một mình? Con đi, nhưng vẫn có thể viết thư hoặc gọi điện thăm hỏi thầy cô, bạn bè cũ ở đây, không sao đâu...
Con bé phụng phịu một tí nhưng khi ngồi vào bàn ăn, nó với thằng Khải lại cãi cọ nhau vì những chuyện vặt vãnh thường ngày nên nó cũng quên bén đi mất cái chuyện phải xa thầy cô bè bạn.
 
***
 Để chuẩn bị đưa vợ con lên Sài Gòn, Khâm đã bỏ hẳn cả mấy ngày trời lên đó lùng sục khắp cả khu vực xung quanh chỗ làm việc để tìm thuê một ngôi nhà.
Vừa xem thông tin trên báo chí, vừa dò la tìm hỏi khắp nơi, Khâm vẫn chưa thật vừa ý với chỗ nào. Bởi vì chỗ vừa ý với ngôi nhà thì giá cho thuê quá cao, còn nơi giá vừa phải thì Khâm lại không ưng nhà cửa.
Cuối cùng, được sự chỉ dẫn của một người quen, Khâm rất lấy làm vừa lòng vì rộng rãi, rất hợp với ý thích của vợ chồng Khâm mà giá cho thuê lại rẻ một cách không ngờ! Người chủ nhà cho biết, ông ta không phải xây nhà để kinh doanh cho thuê mướn, đây là nhà của dòng họ nhưng hiện giờ không ai ở, mà nhà bỏ không thì lạnh lẽo không nên, chính vì vậy ông muốn cho một gia đình đành hoàng tử tế vào ở để nhà cửa ấm cúng, tiền thuê nhà chỉ lấy tượng trưng thôi.
Khâm thầm cảm tạ ơn trên vì gia đình mình liên tiếp gặp phải những điều may mắn ngoài sự tưởng tượng.
Ngôi nhà tuy không lớn lắm nhưng có ba tầng. Tầng dưới là phòng khách, nhà bếp, nhà vệ sinh. Tầng hai gồm có ba phòng ngủ rộng rãi tiện nghi đầy đủ, vợ chồng Khâm khỏi phải sắm sửa gì thêm. Trên tầng ba là sân thượng, có kê một bộ bàn ghế đá để ngồi chơi. Dưới tầng trệt, cạnh bên nhà vệ sinh còn có một căn nhà nhỏ xây kiểu nhà kho, dùng để chứa các thứ lặt vặt mà chủ nhà không dùng tới.
Sau khi tìm thuê được nhà, trong lúc Lê lo làm các thủ tục thuyên chuyển cho mình và hai con, thì Khâm lo thu dọn đồ đạc, cái nào mang theo thì mang, cái nào không cần thiết thì cho những người láng giềng sống gần đó hoặc để lại luôn cho chủ nhà.
Khi mọi việc  xong xuôi, Khâm cùng vợ con thuê một chiếc tắc xi và đồ đạc thì được chuyên chở bằng một chiếc xe tải nhỏ.
Khi tắc xi chạy ngang qua trường học cũ của mình, Diệu rưng rưng rưng nước mắt nói:
- Con đi mà không chào từ giã các bạn được!
Lê kéo con gái vào lòng vỗ về. Cũng tội nghịêp cho nó, vì đang là mùa hè, trường lớp vắng ngắt, làm sao con bé gặp được bạn bè mà từ giã. Lê định hứa liều với con rằng, mai mốt khai giảng, mẹ sẽ đưa con trở lại đây để chào thầy cô, chào các bạn. Lê biết, nếu cô hứa vậy con bé sẽ mừng vui lắm, nhưng liệu cô có giữa được lời hứa với con không? Chắc là không rồi! Vì về nơi mới, Lê cũng sẽ phải bận bịu đủ thứ  việc, làm sao có thời gian đưa con về lại nơi này?
Nghĩ vậy nên Lê chỉ lặng lẽ ôm con mà không nói gì. Còn thằng Khải thì ngược lại, nó cứ nói luôn miệng, hết trồm trồ khen ngợi cái này, lại chỉ trỏ trỏ thắc cái kia, Khâm và Lê vất vả lắm mới trả lời hết những câu hỏi của nó.
Về nhà mới, vợ chồng Khâm và hai đứa con đều rất hài lòng vì đã có phòng riêng cho hai vợ chồng và các con.
Diệu năm nay mười hai tuổi, còn thằng bé Khải thì đã bảy tuổi đầu. Ở nhà cũ chúng chí chóe tị nạnh nhau suốt ngày làm vợ chồng Khâm muốn điên cả đầu vì chúng.
- Em phòng này! Em muốn ở gần với phòng ba mẹ!
Khải vừa chạy lên lầu vừa sà ngay vào căn phòng bên phải cầu thang. Diệu đưa tay lên mũi chọc quê em trai:
- Ế lêu lêu, lớn già đầu rồi mà còn bú mẹ! Giành ở phòng gần để tối tối chạy sang bú mẹ chứ gì? Chị chả thèm...
Khải tức mình dậm chân thình thịch:
- Chị nói bậy! Em không bú mẹ! Chị nói bậy...
Nghe hai đứa con ỏm tỏi trên lầu, Lê lật đật chạy lên can:
- Hai chị con thiệt là như chó với mèo, ngày nào không gây nhau là hai đứa không ăn cơm được hay sao vậy? Có để yên cho ba mẹ dọn dẹp nhà cửa không đây?
Thấy mẹ không bênh vực, Khải sụt sịt khóc:
- Ai biểu chị Diệu nói con còn bú mẹ...
Lê quay sang Diệu, mắng:
- Con nữa, lớn rồi mà cứ theo chọc ghẹo em hoài! Mau bỏ đồ đạc vô phòng rồi xuống giúp ba mẹ một tay đi!
Diệu bị mẹ mắng không dám nói một lời, riu ríu đem ba lô tập sách tới căn phòng tuốt ở cuối dãy hành lang bỏ vào đó rồi chạy xuống nhà giúp ba mẹ dọn dẹp.
- Mẹ ơi, con với em đi học có xa không?
Vừa làm, Diệu vừa lo lắng hỏi.
Lê chưa kịp trả lời thì Khâm đã cười nói:
- Con yên tâm đi, trường con học nằm xéo bên kia đường kia kìa, con có nhìn thấy không?
Khâm kéo tay con gái lại gần cửa sổ chỉ cho nó thấy dãy lầu mới xây còn tươi màu vôi bên đường.
Diệu hí hửng:
- Thích quá! Thích quá! Con không sợ bị trễ học rồi!
Chợt nhớ ra, nó hỏi:
- Còn em học ở đâu, ba?
Khâm vừa kê lại bộ sa lông vừa nói:
- À, trường em học hơi xa một tí nhưng nằm trên đường mẹ di làm mỗi ngày, nên cũng không bất tiện. Mỗi sáng mẹ sẽ chở em đi, chiều đi làm về ngang mẹ đón em về. Còn con, con có thể tự đi về được rồi, phải không con gái?
Diệu cười:
- Ba tưởng con còn nhỏ lắm sao? Chỉ bước qua bên kia đường mà không được thì...
Lê góp chuyện cùng hai cha con:
- Con đường này tuy lớn mà cũng ít xe cộ anh hén? Nhờ vậy mình cũng yên tâm, chứ có những nơi chỉ băng qua đường thôi cũng đã vất vả lắm rồi!
Diệu xen vào:
- Mẹ ơi, con xem truyền hình, thấy các ngôi trường ở thành phố, mỗi đầu giờ hoặc cuối giờ đầu có các bạn cờ đỏ và các thầy cô phụ trách đội chăng dây cho học sinh qua đường mà, mẹ đừng có lo!
Khâm phì cười:
- Em còn lạc hậu hơn con gái mình nữa đó nghe!
Cả ba cười nói vui vẻ và không ngừng tay dọn dẹp.
Lê tuy mệt nhưng trong lòng lại rất vui, vì gần nhà có một cái chợ nên hàng ngày cô khỏi phải vất vả đi xa, mỗi sáng tranh thủ dậy sớm sẽ kịp lo cơm nước cho cả nhà. Thật là một chỗ ở lý tưởng!
Nhưng không phải mọi chuyện đều êm suôi như Khâm và Lê mong muốn. Mới về ở được hôm đầu là đã nghe có sự lạ rồi.
Đêm hôm đó khoảng một giờ sáng, mọi người mệt mỏi vì chuyến đi xa lại bận rộn suốt ngày nên ngủ mê mệt. Chỉ mỗi mình Khải bình thường, vì chuyến đi không làm nó mệt, tới đây nó chẳng phải làm gì lại còn đánh được một giấc ngủ trưa ngon lành, nên đêm tối nó hơi khó ngủ vì cảm giác lạ nhà lạ chỗ.
Đang nằm mơ mơ màng màng, thằng Khải nghe có tiếng kọt kẹt như tiếng đưa võng ở dưới phòng khách vọng lên, mà nó nhớ rõ ràng nhà mình đâu có cái võng nào đâu! Tiếp theo đó, nó nghe tiếng người ú ớ như bị bóp cổ. Một hồi sau thì nghe tiếng khóc não nề, rồi thì tiếng lịch kịch vang lên. Thằng Khải tỉnh ngủ hẳn. Nó mở to mắt nhìn lên trần nhà, cả người căng cứng không dám nhúc nhích.
Đây là lần đầu tiên nó ngủ một mình trong căn phòng rộng thênh thang. Ánh đèn ngủ màu vàng khè soi rọi khắp căn phòng trống làm nó phần nào đỡ sợ được một chút.
Tiếng khóc lóc lại vang lên thê thiết. Thằng bé trước giờ hay khoái coi phim ma, nên trong cảnh này, đầu óc nó mặc sức mà tưởng tượng ra những cảnh rùng rợn.
Mặc dù rất sợ nhưng nó lại không dám la lên tiếng nào, vì nó thường nghe ta nói, ai gặp ma mà la lên, ma sẽ hốt hồn người đó lập tức. Nghĩ vậy, thằng Khải cứ co rúm người lại, trùm mền kín mít không dám hé ra coi thử, cũng không dám chạy ra khỏi phòng mặc dù nó đang rất muốn đi tiểu.
- Hồi tối này ba mẹ có nghe tiếng ma khóc không?
Mới sáng thức dậy, vừa chạy xuống nhà bếp thằng Khải đã la toáng lên.
- Con nói tiếng gì?
Lê ngạc nhiên hỏi lại.
Khải ra vẻ nghiêm trọng, thầm thì:
- Hồi đêm, con đang ngủ thì giật mình thức dậy, con nghe rõ ràng có tiếng người đưa võng ở dưới này vọng lên, rồi sau đó con lại nghe có tiếng người khóc, ghê lắm mẹ ơi...
- Bậy bạ!
Khâm gạt phăng đi.
- Làm gì có chuyện ma cỏ mà khóc với lóc. Con ban ngày coi phim ma cho lắm, tối mơ màng, tưởng tượng những chuyện đâu đâu. Từ nay ba cấm con coi mấy thứ đó, nghe chưa?
Khâm nghiêm giọng mắng con trai.
- Không có gì đâu con, chắc con ngủ mơ thôi.
Lê biết tính Khải không nói dối bao giờ nên có vẻ tin thằng bé hơn, nhưng cô vẫn không sao tin được cái chuyện ma cỏ dị đoan đó.
- Em nhìn đi, ở nhà mình có cái võng nào đâu mà ma đưa võng? Em chỉ giỏi tưởng tượng ra thôi!
Diệu cũng lên giọng người lớn rầy em.
- Thiệt mà! Em cũng biết nhà mình không có võng, nhưng rõ ràng em nghe vậy, thiệt mà...
Thằng Khải tiu nghỉu khi thấy không ai tin lời nó nói.
- Thôi, thôi, không nói chuyện vớ vẩn đó nữa! Hai đứa mau ăn sáng rồi ra sân làm cỏ với ba nè!
Khâm kết thúc câu chuyện của con trai bằng một mệnh lệnh. Khải ấm ức đi vào nhà vệ sinh dội nước ào ào, lầm bầm:
- Người ta nói thiệt mà hổng ai tin...
Trong nhà vẫn còn nhiều chuyện phải dọn dẹp nên mọi người quên khuấy đi cái chuyện thằng bé kể.
Tối đến, mọi người trong nhà tập hợp dưới phòng khách để  xem truyền hình thì thằng Khải nhất định không xuống.
- Con sợ lắm, con hổng muốn ở đó tí nào...
Nó sợ và tin là những gì nó nghe đêm qua là thật chứ không phải do nó sợ ma mà tưởng tượng ra. Vợ chồng Khâm – Lê nghĩ chắc con trai thích cái cảm giác tự do một mình trong phòng nên kiếm cớ.
Khi hết chương trình truyền hình yêu thích, vợ chồng Khâm về phòng mình, còn con bé Diệu thì đã về phòng ngủ từ trước.
Lê tạt qua từng phòng thăm các con. Lúc tới phòng Khải, thấy thằng bé vẫn còn nằm mở mắt thao láo, Lê ngạc nhiên hỏi:
- Ủa, sao tới giờ con chưa ngủ?
Khải ngồi bật dậy:
- Mẹ ơi... con sợ... Hay mẹ cho con sang ngủ chung phòng với ba mẹ đi?
Lê bật cười.
- Thì ra cu cậu không dám ngủ một mình nên bày đặt ra chuyện ma cỏ. Thằng bé này thiệt là tinh ranh, nó đã biết nói dối từ khi nào mà mình không hay nhỉ?
Lê thầm nghĩ, nhưng cô không chìu theo con.
Đến ngồi cạnh con trai trên chiếc giường nệm thật đẹp của chủ nhà, Lê mỉm cười:
- Nè, con phải nhớ con là con trai. Con trai thì phải anh hùng, không biết sợ sệt thứ gì hết, nghe không? Nếu mẹ cho con sang phòng mẹ ngủ chung thì cũng được thôi, nhưng mẹ chỉ sợ sáng mai chị hai con lại chọc quê, rồi mai mốt mấy bạn mới biết được sẽ trêu chọc con, thì sao đây?
Khải tuy sợ lắm, nhưng khi nghe những lời nói khích của mẹ, nó lại không muốn theo sang ngủ phòng mẹ nữa. Nó nói:
- Con... con chỉ là...
Lê cúi xuống hôn lên trán con, hỏi:
- Nào, bây giờ có sang ngủ với mẹ không?
Khải lắc đầu buồn bã:
- Thôi khỏi, mẹ đi ngủ đi...
Lê giấu một nụ cười đắc thắng:
- Ừ, con cũng ngủ đi! Ngủ thật ngon nhé, con trai!
Thằng Khải nằm im nghe tiếng chân mẹ nó dần xa, cố dặn mình phải anh hùng, phải can đảm, phải làm sao cho chị hai nể mặt mới được!
Vì mang tâm trạng lo lắng, nên thằng Khải không ngủ ngon giấc. Đến khuya đó, các tiếng động lại nổi lên giống y như hôm trước. Thằng bé trùm kín mền và co rúm cả người lại mà run.
Mọi người vẫn chưa hết mệt mỏi nên vẫn ngủ như chết, chỉ có mỗi thằng bé con không phải làm gì nên tỉnh ngủ hơn và nằm mà run sợ!
- Tối này mọi người có nghe gì không?
Sáng sớm, thằng Khải chạy từ trên lầu xuống hớt hãi hỏi.
Con bé Diệu ngoác miệng ra cười, trêu em:
- Có, có... Chị có nghe thấy tiếng ma đưa võng, nghe tiếng ma khóc thấy ghê luôn...
Thằng bé tưởng thật, lo lắng hỏi tiếp:
- Lúc nó mở cửa, chị có nghe không?
- Ừ, ừ, nghe cả tiếng mở cửa...
Diệu vừa cười vừa nói.
- Thôi đi, hai đứa không được nói tầm xàm, ba nghe là bị đòn đó!
Lê nạt con.
Thằng Khải ngạc nhiên nhìn mẹ:
- Con nói thiệt mà mẹ không chịu tin! Đó, hôm nay có chị hai nghe nữa đó, mẹ thấy không?
Diệu nín cười, quắt mắt lên nhìn em:
- Có ai điên như em mới nghe ba cái chuyện tầm phào vậy! Chị chỉ giả bộ thôi chứ có tiếng gì đâu mà nghe? Em chỉ tổ hù người ta thôi! Chị không có sợ đâu ma hù, có giỏi thì em kêu con ma tới hù chị đi!
Thằng bé bị chị chọc quê tức lắm, gân cổ nói:
- Thế nào cũng có bữa nó tới phòng gặp chị cho coi!
Diệu thách thức:
- Ừ, em nói con ma của em có giỏi thì vô phòng mà nhát chị nè, chị hổng có sợ đâu! Chỉ có mấy đứa trẻ con còn bú mẹ mới sợ ma thôi hà!
Thằng Khải tức cành hông. Nó rất ghét chị nó vì mỗi lần hai chị em cãi nhau, chị nó lại đem cái chuyện “bú mẹ” ra mà chọc quê nó.
Chuyện là thế này, vì thằng Khải là con út, khi sanh nó ra bị thiếu tháng nên thân thể gầy còm, ốm yếu. Lê thương con nên không cai sữa sớm mà cứ cho nó bú miết, đến tận lúc nó đã lên ba lên bốn gì đó, vú Lê cũng không còn sữa nữa nhưng thằng bé như đứa ghiền, chạy chơi một hồi rồi cũng về vạch vú mẹ mút lấy một tí.
Thật ra những chuyện này Diệu cũng không nhớ, chỉ là thời gian gần đây, trong một lần vui chuyện tình cờ Lê nhắc lại, Diệu nghe được và ghi tạc vào tâm trí luôn, lấy đó làm vũ khí để chống chọi với thằng em trai láu cá của mình.
Tối hôm đó chương trình truyền hình có chiếu bộ phim thiếu nhi mà thằng Khải rất thích, nhưng nó nhất định không chịu xuống phòng khách để xem. Nó nằm một mình trên phòng buồn hiu
- Xuống xem phim đi con, có ba mẹ, có chị hai ở đó nữa mà sợ gì?
- Không! Con không xuống! Dù có ai thì con cũng cảm giác mấy con ma đó lảng vảng trong phòng khách nhà mình...
Thằng Khải kiên quyết.
Lê nói cách nào, dỗ dành cách nào cũng không thuyết phục được con trai. Ngay cả vào ban ngày, thằng Khải cũng tránh ở phòng khách. Muốn đi ra sân hoặc xuống bếp là nó chạy cái vù nhanh như tên bắn. Cũng may là lúc này cả Khâm và Lê đều chưa đi làm, nên nhà lúc nào cũng có người lớn trông coi.
Cầm cái máy chơi game lên cho con chơi, Lê hy vọng là một vài ngày nữa nó quen với chỗ ở mới thì mọi việc sẽ đâu vào đấy.
- Chắc là nó lạ nhà không ngủ được rồi nghe tiếng động do chuột hay mèo hoang rồi tưởng tượng ra ma quái.
Lê nghĩ thầm trong bụng.
Suốt mấy ngày nay, thằng Khải cứ ngủ li bì vào ban ngày, khi đêm xuống nó lại thao thức... để sợ. Khoảng nửa đêm hôm đó, những tiếng động tiếng rên khóc quen thuộc với thằng Khải lại nổi lên như mấy hôm trước.
Nhưng lần này hơi lạ một điều, những tiếng rên rỉ khóc than ấy hình như không phải vọng lên từ phòng khách mà nghe gần lắm, đâu như  gần sát bên cửa phòng nó vậy.
Những tiếng khóc than rên rỉ vang lên một lúc rồi im bặt. Thằng Khải hơi mừng trong bụng vì đêm nay lũ ma quái ấy kết thúc sớm hơn các đêm trước.
- Á...
Thằng Khải mừng chưa trọn thì nó giật bắn người khi nghe tiếng thét thất thanh từ phòng chị nó.
Khâm và Lê đang say ngủ cũng hốt hoảng bật dậy khi nghe tiếng kêu hãi hùng vang lên trong đêm trường tĩnh mịch. Cả hai vợ chồng chạy vội sang thì thấy con bé Diệu mặt tái xanh, mắt thất sắc nhìn ra cửa phòng.
- Con gái, con mơ thấy ác mộng à? Không sao, không sao đâu, có ba với mẹ đây rồi...
Lê ôm con vào lòng.
- Có chuyện gì xảy ra với con vậy?
Khâm hỏi.
Mãi một lúc sau con bé mới trả lời, giọng nói vẫn còn chứa đựng sự hoảng sợ tột cùng:
- Con... thấy... ma! Con ma với cái thòng lọng thiệt dài đứng ở cửa phòng con đó!
Vừa nói, Diệu vừa chỉ tay ra cửa phòng. Khâm và Lê nhìn theo tay con chỉ nhưng ở đó hoàn toàn không có ai cũng không có gì đáng nghi hoặc.
Thằng Khải đã có mặt ở đó từ lúc nào, nó nói chen vào:
- Thấy chưa, còn bảo người ta hù nữa không! Cho chị giỏi thách thức nó nữa đi!
- Không sao, không đâu con! Không có gì thật mà...
Khâm và Lê hơi hoang mang, nhưng cố dỗ cho các con yên tâm.
- Không! Không! Là ma, là ma thiệt mà mẹ ơi, ba ơi... Con sợ lắm, con không dám ngủ ở đây một mình đâu, ma nó bắt con...
Diệu khóc nức nở.
Thằng Khải rất muốn chọc quê lại chị, nhưng trước tình cảnh này nó cũng không còn lòng nào mà trêu ghẹo nữa, vì nó cũng đang sợ hãi lắm.
Khi hai vợ chồng đi trở về phòng ngủ thì cả hai đứa con bám theo chứ nhất định không chịu ngủ một mình trong phòng của chúng nữa. Khâm đành phải cho cả hai đứa theo vợ chồng mình về ngủ chung cùng giường.
Khâm định bụng sẽ làm cho mọi việc sáng tỏ để vợ và các con hết sợ!
Đêm hôm sau, thứ bảy, hai đức bé vẫn đòi ngủ chung phòng với bố mẹ. Khâm không biết làm sao hơn là phải để chúng ngủ chung.
- Tối nay cả nhà chúng ta sẽ thức để con mấy con ma nó ra làm sao nghe?
Khâm đề nghị.
Diệu và Khải lấm lét nhìn nhau. Chúng tuy rất sợ ma, nhưng nghe ba nói cả nhà cùng thức thì cũng lấy làm thích thú lắm.
Lê lúc này đã thật sự hoang mang, cô cũng muốn mọi việc được rõ ràng, có như thế cuộc sống của các con cô mới có thể ổn định được.
Tối đó vợ chồng bàn với nhau sẽ cố thức để xem việc sẽ xảy ra. Nhưng đợi đến nửa đêm mà chẳng thấy động tĩnh gì. Hai đứa bé ngủ đã lâu rồi, Khâm thì mới thiếp đi được một lúc, còn Lê vẫn thao thức không sao ngủ được. Tuy thế cô cũng đang trong tình trạng mơ mơ màng màng nửa tỉnh nửa mê.
- Kẹt...
Có tiếng cửa phòng mở ra nhè nhẹ...
Khâm mở choàng mắt ngồi bật dậy vì tiếng thở hỗn hển, khò khè và tiếng thét hãi hùng của hai đứa con.
Vói tay bật công tắc để ngọn đèn ne-on cháy sáng soi rõ cả căn phòng, Khâm thấy vợ mình hai tay ôm lấy cổ, mắt còn trợn trừng sợ hãi. Hai đứa con co rúm, mắt trừng từng nhìn về phía cửa phòng.
Khâm gỡ tay vợ ra xem, trên cổ nàng vết đỏ bầm như bị ai siết cổ.
- Chuyện gì vậy? Chuyện gì đã xảy ra vậy em?
Khâm lên tiếng phá tan cái không khí ngột ngạt kinh người đang bao phủ căn phòng.
Lê và thằng con vẫn chưa hoàn toàn tỉnh hẳn hồn vía, đứa con gái ấp úng chỉ ra cửa phòng trả lời:
- Ba nhìn kìa, ba nhìn ra cửa coi con ma cầm sợi thừng còn ở ngoài đó không, con sợ quá!
- Con ma nào? Chỉ nói tầm phào thôi!
Khâm nạt.
- Con không nói bậy! Rõ ràng có con ma cầm sợi dây thòng lọng thiệt là dài, nó vào đây siết cổ mẹ đó! Mẹ nghẹt thở giẫy giụa và kêu không nổi. Con và thằng Khải bị mẹ đạp trúng đau quá thức dậy thấy nó đứng ngay cuối giường đang kéo thừng lôi mẹ đi. Tụi con sợ quá nên thét lên, nó bay ra ngoài cửa phòng đó!
- Không có đâu mà...
Khâm cố trấn an vợ và các con, lấy dầu xanh bôi vào vết trầy trên cổ vợ. Xong xuôi, Khâm một tay cầm cái đèn pin, tay kia cầm theo cây sắt tròn mà lúc chiều anh mới mua về đi lần xuống phòng khách.
Trên đường đi từ phòng ngủ tới cầu thang xuống phòng khách, Khâm mở hết các đèn ở nhà trên, nhưng phòng khách vẫn tối thui vì cái công tắc điện lại ở phía ngoài gần chỗ cửa chính!
Một tay rọi đèn, một tay cầm chắc thanh sắt, Khâm dò dẫm theo cầu thang bước xuống phòng khách. Tới cuối cầu thang, bỗng có vật gì chụp lấy cây đèn pin trên tay Khâm, hất nó bay vụt vào góc phòng.
Khâm hoảng hốt quật cây sắt tới tấp. Cây sắt Khâm giơ lên hạ xuống, đụng nhằm trần phòng, đụng tay vịn cầu thang tạo lên những tiếng kêu khô khốc giữa đêm khuya xe, lẫn tiếng của Lê sợ hãi gọi vọng xuống xem có gì xảy ra.
- Keng!... Keng!...
- Anh ơi, có chuyện ở dưới đó vậy, anh ơi?
Lê hốt hoảng gọi khi nghe những tiếng động bất thường.
- Ba ơi...
- Ba ơi...
Tiếng kêu khóc của Diệu và Khải.
Vì huơ cây sắt quá mạnh nên Khâm mất trớn bị té nhào vào giữa phòng.
Định thần lại một chút, Khâm lồm cồm bò dậy và tự trách mình quá hoảng hốt nên đập bậy lung tung.
Khâm lần bước tới chỗ cây đèn pin, vừa thò tay định lấy thì cổ anh đã bị một sợi dây thòng lọng quấn chặt vào kéo giật ngược lại. Ở đầu kia của sợi dây đứng sừng sững một cái bóng đen đang cố vất sợi thừng qua ngang cái quạt trần. Nhanh như chớp, một đầu của sợi dây thừng đã bị vướng vào cánh quạt, bóng người đó kéo sợi dây và Khâm bị kéo đứng lên rồi hổng khỏi mặt đất.
Cổ bắt đầu bị nghẹt, Khâm thở một cách khó khăn, tay cố huơ cây sắt về phía bóng đen nhưng không sao với tới, cũng chẳng làm gì được nó! Sức yếu dần, Khâm buông rơi cây sắt, nó rớt xuống sàn nhà gây nên một tiếng động khô khaẩmTong tích tắt đó, Khâm nghĩ chắc là mình phải bỏ mạng ở tại phòng khách này, chết đi khi chưa kịp làm gì cho vợ con... Nước mắt anh ứa ra...
Nhưng ngay lúc đó có tiếng hú vang lên thảm thiết và Khâm rơi bịch xuống sàn.
Lúc này mắt Khâm đã quen với bóng tối, đồng thời nhờ ánh sáng của ngọn đèn pin còn nằm lăn lóc dưới sàn nhà, anh thấy rõ ràng Lê một tay cầm cây Thánh Giá, tay kia cầm chai nước phép đang vẩy lia lịa vào khoảng không gian phía trước mặt.
Phải công nhận là tình nghĩa vợ chồng còn mạnh hơn sự sợ hãi. Nếu Lê không xuống kịp có lẽ Khâm đã nghẹt thở mà chết rồi.
Khâm vội vàng cùng vợ chạy lên nhà trên và vào phòng ngủ. Hai đứa nhỏ vẫn ngồi co rúm trên giường, mắt vẫn lộ sự sợ hãi tột cùng.
Lê lên tiếng, giọng vẫn chưa hết run:
- Em nghe tiếng động và hỏi xuống mà chẳng thấy anh trả lời. Em đoán chắc có việc chẳng lành xảy ra. Trong lúc quẩn trí may sao em còn nhớ ra được chai nước phép để ở bàn thờ. Em chạy ra lấy và tiện tay cầm luôn cây thánh giá chạy xuống. Thấy anh đang bị treo lủng lẳng và cái bóng ma đang trừng trừng nhìn anh, em vẩy nước phép về phía nó, miệng đọc kinh. May quá, nó bị trúng nên biến dạng.
Dừng lại thở một chập, Lê nói tiếp:
- Chắc là mình phải dọn nhà đi sớm thôi anh ạ!
- Ừ, anh cũng nghĩ vậy...
Khâm tán đồng ý kiến của vợ.
 - Nhưng không biết mướn đâu ra nhà một cách khẩn cấp đây? Thôi, để ngày mai mình tính kỹ hơn.
Khâm mệt mỏi nói tiếp.
Cả hai vợ chồng đều không muốn nói nhiều về bóng ma trong lúc này vì muốn tránh cho hai con sự sợ hãi.
Đêm đó cả Khâm và Lê đều thức trắng chẳng ai dám ngủ, cứ ngồi bó gối thắc thỏm lo âu.
Sáng Chủ Nhật, Khâm đưa vợ con đi nhà thờ làm lễ. Sau khi tan lễ, Khâm vào xin gặp riêng đức Cha, ngài là người trẻ tuổi, hoạt bát nên dễ dàng nói chuyện và nhờ giúp đỡ hơn.
Khi đức Cha nghe Khâm nói đến căn nhà ấy thì Ngài hơi biến sắc mặt.
- Cha có nghe nói nhiều về căn nhà đó rồi. Câu chuyện hơi dài dòng nhưng Cha tóm gọn cho con biết là trước đây chừng ba năm, trong căn nhà đó có một gia đình gồm vợ chồng và ba đứa con nhỏ sinh sống. Hai vợ chồng cùng đi làm, một thời gian sau người vợ mèo mỡ với người khác trong sở, nghe nói đâu là với một tay giám đốc. Chị ta về gây gổ với chồng rồi đòi ly dị. Anh chồng năn nỉ cách nào chị ta cũng không đổi ý. Anh ấy buồn khổ nhưng vì còn thương vợ không muốn ly hôn, nên anh ta giao hết nhà cửa, tiền bạc cho vợ rồi bỏ về quê. Chị này ăn chơi, tiêu pha hết tiền bạc với gã giám đốc kia. Gần một năm sau, khi chị ta đã hoàn toàn trắng tay thì bị hắn ta đá đít. Chị ta buồn tủi, chán nản, bỏ việc và sống thật khốn khổ bằng cách bán lần bán hồi của cải trong nhà. Có lẽ vì hối hận hay sao đó, một sáng kia người ta thấy mấy đứa con chạy ra ngoài khóc rống miệng kêu mẹ chúng đã chết. Người ta vào và thấy chị ta treo cổ ở giữa phòng khách. Người ta tìm cách báo cho anh chồng biết tin. Anh ta về lo chôn cất người vợ cũ rồi mang ba đứa con đi mất. Từ đó ngôi nhà được giao cho một người bà con quản lý. Nhưng hình như nó đã bị ma ám. Ai đến ở cũng đều bị cô ta về phá phách. Chủ nhà đề bảng bán mấy lần mà chẳng ai dám mua, đăng báo cho thuê cũng không ai dám ở hoặc không ở lâu được. Chán nản, chủ nhà bỏ luôn không thèm rao bán hay thông báo cho thuê gì nữa hết! Anh chị là người cuối cùng tới thuê đó!
Đức Cha nghiêm giọng kể.
- Cha có cách nào giúp con không, vì con mới tới đây mà dọn đi thì không biết mướn đâu ra nhà ngay bây giờ.
Khâm lo lắng.
Đức Cha trầm ngâm một lúc rồi nói:
- Nếu con thật tình muốn ở lại căn nhà đó thì Cha cũng có thể giúp con.
Khâm mừng như bắt được vàng:
- Xin Cha giúp con đi, con vẫn còn bận rộn với công việc mới nên cũng chẳng có thì giờ tìm kiếm nhà mới.
Đức Cha gật đầu:
- Thôi được, để Cha nói chuyện với Thầy Lễ và sẽ nhờ Thầy tìm giúp một Cha chuyên trừ quỷ về giúp con.
Khâm cúi đầu:
- Xin Cha ráng giúp con, mấy hôm nay cả nhà con bị khủng hoảng lắm rồi Cha ạ!
Đức Cha lại gật đầu:
- Được rồi, Cha sẽ tiến hành việc này ngay, con đừng quá lo lắng.
Giữ lời hứa, Cha cho gọi Thầy Lễ đến và cùng trao đổi, bàn bạc. Ngay buổi chiều hôm đó Thầy Lễ đã mời được một Cha dòng tới nhà để làm phép trừ quỷ cho nhà của Khâm.
Sau khi bày biện các vật dụng cần thiết ở giữa phòng khách, đức Cha bắt đầu làm các nghi lễ trừ quỷ. Gần nửa tiếng sau, một tiếng hú dài nghe lạnh người phát lên rồi im bặt.
Cha tiếp tục làm cho xong buổi lễ, xong thu dọn mọi thứ rồi cho gọi vợ chồng Khâm – Lê tới nói chuyện.
- Ta đã trừ xong con ma ở phòng khách này rồi, từ nay gia đình sẽ không bị khuấy phá nữa. Các con có thể yên tâm mà sinh sống, làm ăn!
Đức Cha ôn tồn nói.
Vợ chồng Khâm cám ơn Cha rối rít và tiễn Ngài về.
Tuy nghe đức Cha nói vậy Khâm và Lê đã rất vững bụng, nhưng tối đó cả nhà vẫn chong mắt thức, chỉ sợ “nó” trở lại thì khốn. May thật, đúng như lời Cha nói, không có gì lạ xảy ra trong đêm cả.
Từ đó về sau nhà Khâm không còn bị con ma với cái dây thừng về quấy nhiễu nữa. Mấy tháng sau chủ nhà lại có ý bán, có lẽ ông ta chưa biết là nhà đã được trừ quỷ rồi. Khâm bèn hỏi mua và mua được với giá rẻ mạt; chỉ bằng nửa giá trị thực sự của nó!
Tuy là nhà đã không còn bị ma ám nữa, nhưng tối đến Khải và Diệu vẫn chẳng đứa nào dám ở một mình dưới phòng khách để xem truyền hình. Cái ám ảnh vẫn còn, không dễ gì xóa nhòa trong đầu óc trẻ thơ của chúng được.
Khâm phải dời truyền hình lên để ở hành lang trên lầu, vợ chồng anh hy vọng một thời gian không lâu nữa, các con sẽ quên đi câu chuyện hãi hùng kia.
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:21:44 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 20:48:41
VỤ ÁN RÙNG RỢN
 
Đó là một căn nhà vắng vẻ nằm trên đồi thông cuả thành phố cao nguyên thơ mộng.
Một ngôi nhà cổ kính nhưng tồi tàn, mang đậm nét quý tộc cuả những thế kỉ trước. Xung quanh ngôi nhà là rừng thông cổ thụ âm u và ghê rợn, những cánh cửa kính cuả ngôi nhà trông mờ nhạt bởi bụi cuả thơì gian. Ngôi nhà có một cái gác bỏ trống không có người ở, còn bên dưới là chỗ trú ngụ cuả ông bà chủ.
Ông bà chủ của ngôi nhà này không được bình thường cho lắm, họ có một cô con gái bị điên, nói cho đúng hơn thì cả gia đình này đều bị điên.
Ngoài những điều kỳ lạ như những người điên khác, hiều chiều, bà chủ nhà thường ra nghĩa địa chơi. Đó là một thú vui của bà. Bà ta cho rằng người sống cần ra đó để chơi đùa cùng với người chết cho hòa hợp âm dương. Bà chạy giỡn lăng quăng trong nghĩa địa, nói cười, tranh luận rất sôi nổi. Đôi khi lại như có chuyện gì buồn phiền ấm ức và đang cùng một người khuất mặt nào đó sẻ chia tâm sự. Bà thường ở lại ngoài nghĩa địa rất lâu, nếu vào những ngày khô ráo, bà ở đến tối mịt mới chịu quay về nhà.
Còn ông chủ thì cho đặt một cái quan tài ở giữa ngôi nhà và thường chui vào nằm trong đó nghêu ngao hát một mình. Ông tỏ vẻ rất thích thú mỗi lúc như vậy.
Riêng cô con gái thì lại lặng lẽ một cách khác thường. Cô ít khi xuất hiện trước mặt mọi người, hầu như suốt ngày cô cứ rúc vào một xó nào đó, thỉnh thoảng mới ra ngoài.
Những lúc rảnh rang, hai ông bà thường chơi đánh bài, nếu ai thắng thì được cốc đầu người bị thua, và mỗi khi có một người bị cốc đầu thì người kia cất lên một giọng cười chiến thắng, nếu ai tình cờ nghe được âm thanh đó đều không khỏi rợn tóc gáy, vì đó không phải là tiếng cười của một người bình thường, mà tiếng cười vừa điên dại vừa ma quái.
Vợ chồng con cái nhà đó không hề làm thêm nghề gì để sinh sống, cũng không biết họ sống được bằng cách nào, chỉ biết rằng cuộc sống của họ xem chừng rất thong thả, an nhàn, không phải tất bật với chuyện cơm áo gạo tiền như bao nhiêu gia đình khác.
Năm đó, có một đôi vợ chồng trẻ đến thuê căn gác phía trên để ở. Người chồng tên Khoa, là một tay buôn lậu khét tiếng, còn cô vợ tên Lan, là một hoa khôi thành phố, hai người yêu thương nhau hết mực, nhưng cha mẹ của cô gái không chấp nhận cho đứa con gaí yêu quý cuả mình lấy một tên không ra gì, tương lai không có.
Sau nhiều lần khóc lóc, van xin không được, Lan bỏ trốn theo người yêu, và họ thuê ngôi nhà của hai ông bà già điên để sống qua ngày.
Khoa thường để vợ ở nhà để đi buôn và mỗi chuyến đi của anh thường khi kéo dài hàng tháng.
Lúc đầu Lan cũng cảm thấy lo sợ khi sống một mình cùng với những người không được bình thường, nhưng vì thương chồng, cô đành phải cắn răng chịu đựng.
Ở đây vắng vẻ, cách biệt với bên ngoài, nên cha mẹ Lan không thể ngờ được mà tìm tới để bắt cô về, giá thuê nhà lại rất rẻ, vợ chồng cô nhờ thế mà có thể dành dụm được một số tiền mỗi tháng.
Sống ở đây lâu ngày, Lan cũng quen dần với những điều bất thường của gia đình chủ nhà. Cô thấy cái điên của họ cũng không làm hại tới ai nên dần dần đã không còn lo sợ gì nữa.
Là một người có nhan sắc, nên Lan đã lọt ngay vào cặp mắt của ông chủ nhà ngay từ hôm đầu tiên vợ chồng cô đến hỏi thuê nhà.
Ông ta thường rình mò trước cửa phòng Lan vào mỗi tối.
Có những hôm, Lan giật thót người khi thoáng thấy bóng ai đó bay vụt qua rồi biến mất. Ban đầu cô nghĩ ngôi nhà này có ma, cô dự định khi Khoa về sẽ kể cho anh biết để anh đi tìm nơi ở khác. Nhưng một lần Lan vô tình nghe được cuộc cãi vã của vợ chồng ông chủ nhà, cô không còn sợ nữa mà đâm ra buồn cười.
Tuy là bị điên nhưng bà chủ nhà cũng biết ghen tuông một cách dữ dằn như nhiều người phụ nữ bình thương khác.
Bà hét lên:
- Tui cấm! Tui cấm ông từ nay lảng vảng lên gác, nghe không? Ông nhìn lại mình đi, ông đã già lắm rồi, đừng có giở cái máu dê của mình ra nữa...
Tiếng chén bát vỡ loảng xoảng, tiếng bàn ghế ngã đổ ầm ầm, và tiếng ông chủ nhà rối rít van xin vợ tha lỗi vang lên rõ mồn một khiến Lan không khỏi cười thầm.
Thì ra trong cái gia đình này, bên cạnh cái điên điên khùng khùng của họ cũng vẫn là những tình cảm rất đỗi bình thường của con người trong xã hội.
Vì sợ vợ nên ông chủ nhà không dám làm gì bậy bạ và từ sau trận đụng độ kịch liệt đó, ông không bén mảng lên gác nữa thật!
Lan được yên ổn nên cô cũng không kể lại chuyện này cho Khoa biết, vì tính Khoa hay ghen, Lan sợ anh lại nghĩ này nghĩ nọ không hay.
Cuộc sống của vợ chồng Khoa – Lan cứ đều đặn trôi qua như thế. Họ đã hoạch định sẵn một tương lai tốt đẹp: Khoa sẽ cố gắng làm ăn buôn bán thêm vài chuyến nữa để có được một số vốn liếng kha khá, khi ấy Khoa sẽ đưa Lan vào Sài Gòn lập nghiệp. Ở đó, Khoa sẽ bỏ hẳn nghề buôn lậu để tìm một công việc đàng hoàng nào đó. Và Lan cũng sẽ đi làm hoặc mở một cửa hàng nhỏ để buôn bán, sẽ được giao tiếp với xã hội bên ngoài chứ không phải chui rúc trong căn gác cũ mèm, mục nát này nữa. Rồi họ sẽ có con cái, sẽ có một tổ ấm nho nhỏ nhưng đầy ắp tiếng cười.
Lan mơ màng đến ngày mà vợ chồng cô đã ổn định và được gia đình tha thứ tất cả lỗi lầm, giang rộng vòng tay đón vợ chồng con cái cô khi họ trở về...
Nhưng, Lan thật sự không ngờ, tất cả những mơ ước tương lai đẹp đẽ của vợ chồng cô đã nhanh chóng tan biến vào một buổi tối...
Đó có thể nói là một buổi tối mà thần chết đã len lỏi vào ngôi nhà âm u giữa khu rừng hoang vắng.
Khoa vừa về tới nhà sau hơn một tháng trời phiêu bạt theo những chuyến hàng ở nơi thâm sơn cùng cốc. Anh rất vui mừng phấn khởi vì được gặp lại người vợ yêu quý của mình.
Lan cũng không kém phần háo hức. Cô ôm chầm lấy Khoa, tíu tít chuyện trò thăm hỏi. Trên gương mặt hai vợ chồng đều rạng ngời hạnh phúc.
Vừa líu lo đủ thứ chuyện, Lan vừa soạn đồ đạc trong mấy cái túi của Khoa mang về. Cô không giấu được vẻ thích thú trước những món quà Khoa mua cho.
Nhưng đột nhiên, gương mặt đang tươi cười rạng rỡ của Lan bỗng chốc tối sầm lại, bàn tay cô run rẩy cầm một chiếc quần lót phụ nữ không còn mới.
- Trời ơi... Anh Khoa... Thế này là thế nào? Cái này là của ai?
Lan kêu lên giận giữ.
Đang nằm gối đầu ngắm nhìn vợ, Khoa bật dậy ngơ ngác:
- Cái này... cái này... anh không biết...
Lan hét lên:
- Anh nói láo! Sao lại không biết? Tại sao nó lại nằm trong giỏ xách của anh? Anh đừng nói với tôi là ai đó cố tình bỏ vào để làm hại anh nhé?
Khoa cuống quýt:
- Lan, em bình tĩnh nghe anh nói nè, thật sự anh không biết gì hết mà... Em nên tin anh!
Lan khóc ngất lên, vung tay quăng chiếc quần đang cầm trên tay vào mặt Khoa:
- Tin anh... Cũng vì tin anh mà tôi đã cãi lời cha mẹ, tôi đã dám rời bỏ gia đình để đi theo anh... Bao nhiêu ngày dài tôi một mình vò võ đợi chờ, lòng thầm thương anh lặn lội khổ cực vì vợ, vì tương lai hạnh phúc của gia đình... Vậy mà... trời ơi, anh nỡ lòng nào phản bội tôi, chà đạp lên lòng tin của tôi như vậy!
Khoa nhẫn nhịn tiến tới bên Lan:
- Không phải như vậy đâu, em hãy nghe anh giải thích...
Lan lùi lại, hét lớn:
- Không cần pphải giải thích gì nữa cả, tôi biết hết rồi! Tất cả đã phơi bày ra một cách quá rõ ràng rồi, cần gì giải thích nữa?
- Không, Lan à... Em bình tĩnh đi, mọi việc không phải như em nghĩ đâu...
Khoa giơ tay ra muốn nắm lấy tay Lan.
Trong lúc quá tức giận, Lan nhào tới chộp lấy cây súng săn mà lúc nãy khi về tới nhà Khoa để trên bàn.
Khoa lớn tiếng nói:
- Lan, em bỏ súng xuống đi, súng không có đạn đâu!
Lan như người điên, cô bất chấp tất cả, cô giơ súng lên và bóp cò, một viên đạn bay thẳng ra phía trước trúng ngay vào ngực Khoa, Khoa ngã xuống chết ngay tại chỗ.
- Anh Khoa... Trời ơi... em... em không cố ý! Anh mở mắt ra đi, mở mắt ra đi, anh ơi...
Lan hét lên một tiếng kinh hoàng, chạy ngay đến ôm xác chông khóc nức nở:
- Không... không... không em không muốn giết anh đâu... Tại sao anh lại nói với em là súng không có đạn, tại sao?...
Lan như hoá điên, cô không còn biết phải làm gì nữa, cứ ôm lấy xác chồng khóc không thành tiếng.
Đã hai ngày trôi qua, cái xác của Khoa vẫn còn nằm yên trên giường. Những vệt máu đã khô sẫm lại.
Lan hết khóc lóc, lại ngồi ngây dại ngắm nhìn chồng như bị thôi miên hoặc nằm xuống bên cạnh choàng tay ôm chặt lấy Khoa như sợ bị người ta tách rời chia rẽ vợ chồng cô vậy.
Nhưng đến ngày thứ ba, một người bạn của Khoa tìm đến để bàn bạc chuyện làm ăn.
- Chị Lan... chị bệnh hay sao thế? Anh Khoa đâu rồi chị?
Người bạn ngạc nhiên khi nhìn vẻ bơ phờ hốc hác của Lan.
Lan lắc đầu:
- Hôm trước anh Khoa về, chúng tôi có chuyện xích mích nên cãi nhau... rồi anh ấy tức giận bỏ đi luôn, mãi đến hôm nay vẫn chưa thấy quay lại...
Người bạn nhún vai:
- Anh này thiệt hết biết! Thôi, chị yên tâm đi, để tôi đi tới mấy chỗ bạn bè quen tìm xem có ảnh ở đó không. Nếu gặp ảnh, tôi sẽ mắng ảnh một trận và kéo ảnh về cho chị liền. Chị nghỉ ngơi, giữ gìn sức khỏe đi nhé!
Lan mỉm cười héo hắt đứng nhìn theo bóng người bạn của chồng đang khuất dần dưới con dốc đằng trước. Cô lặng lẽ quay vào phòng ôm lấy Khoa khóc nức nở:
- Anh ơi... em biết phải làm sao đây?
Có tiếng gõ cửa cồm cộp bên ngoài, Lan hoảng hốt cất tiếng hỏi:
- Ai đó? Ai cần gì đó?
- He he he... Tôi đây! Tôi đây! Tôi muốn nhậu với chú Khoa...
Có tiếng nói và giọng cười dài dại của lão chủ nhà cất lên bên ngoài, Lan cố ghìm sự sợ hãi, trả lời:
- Xin bác thông cảm, anh Khoa không được khỏe, ảnh đã ngủ say rồi ạ! Để hôm khác, bác nhé?
- He he he... hôm khác... ừ, hôm khác... Là hôm nào nhỉ? Hôm khác... là mãi mãi... he he he...
Vừa nói những lời vớ vẩn không đầu không đuôi, lão chủ nhà vừa lê bước sền sền xuống thang lầu. Lan ngồi phịch xuống giường thở dốc.
Lan cuối xuống định ôm lấy Khoa, nhưng một mùi khó chịu xộc vào mũi khiến cô nôn ọe liên tiếp mấy lần.
Lúc này Lan mới để ý, trong phòng bốc lên một thứ mùi hôi thúi ghê rợn. Và mãi cho tới lúc này, Lan mới ý thức được rằng cái mùi đó là từ thân xác của Khoa bốc lên.
- Không được! Không thể để như vầy mãi được... Phải làm sao? Phải làm sao đây?
Cơn hoảng sợ dâng lên tột cùng. Lan cuống quýt đi tới đi lui trong phòng, bóp đầu bóp trán để tìm ra cách giải quyết.
- Phải rồi! Có cách rồi!
Lan reo lên. Cô chợt nhớ lại trước đây có xem một bộ phim kinh dị Mỹ, một kẻ giết người đã cưa xác nạn nhân ra thành những khúc nhỏ để đem đi tẩu tán. Bây giờ, cái ý nghĩ ấy lóe sáng trong đầu Lan. Cô thấy ngoài cách đó ra, cô cũng chẳng còn cách nào khác để đem giấu thân xác của chồng mình.
Ở trong phòng Lan có rất nhiều hộp, túi xách và những chiếc bọc to nhỏ đủ cỡ mà trước đây Khoa thường dùng để đựng hàng hóa trong những chuyến đi buôn. Lan dự định sẽ cưa xác chồng mình ra rồi bỏ vào nhiều túi, nhiều hộp, sau đó chờ khi tối trời cô sẽ len lén đem vào rừng vào suối mà quăng tứ tán.
Cũng may là trong phòng Lan có sẵn một cái cưa còn sắc bén. Hôm mới dọn về đây, Khoa đã mua nó để cưa gỗ, đóng sửa một vài thứ lặt vặt trong nhà.
Lan bắc ghế trèo lên lấy cái cưa treo trên vách xuống. Cô còn cẩn thận ra kiểm tra lại cửa phòng xem đã khóa kín chưa. Cẩn thận vậy thôi chứ Lan cũng yên tâm lắm, vì chủ nhà tuy điên điên khùng khùng nhưng chưa bao giờ tự ý mở cửa vào phòng cô. Còn những người bạn bè ít ỏi của Khoa có đến thì cũng đứng dưới sân mà gọi Khoa xuống chứ không ai lên thẳng trên này.
Lan cầm cái cưa trong tay, tự nhiên lúc này trong lòng cô không còn một chút cảm giác sợ hãi hay lo lắng nào cả. Cô chỉ chăm chú nghĩ tới chuyện làm sao cho hoàn thành nhanh chóng công việc này thôi.
Đặt cái cưa ngang qua cổ Khoa, Lan nói thầm:
- Cái đầu... Nhanh lên! Cái đầu này bỏ vô hộp kia thì vừa vặn, trông sẽ giống một gói quà sinh nhật... Giống lắm... Ha ha ha...
Vừa cầm cái cưa lên định cưa cái đầu chồng mình ra thì bỗng đâu một luồng gió vô hình đẩy cái cưa lệch hướng, “xoẹt” một cái trong chớp mắt, Lan đã tự cưa đứt bàn tay mình!
- Á...
Buông rơi cái cưa, Lan hét lên đau đớn. Bàn tay cô nằm dưới sàn nhà không ngừng ngo ngoe cử động, những ngón tay cứ cụp vô mở ra như người đang tập vật lý trị liệu.
Máu từ cổ tay Lan tuôn ra ròng ròng, Lan vừa đau đớn, vừa hoảng sợ, cô quýnh quáng vơ vội chiếc khăn lông vắt trên thành ghế quấn lấy vết thương. Chỉ trong một phút, chiếc khăn trắng tinh đã biến thành màu đỏ vì nhuộm máu của Lan.
Nhưng sự việc lại không chịu dừng ở đó. Cái cưa bắt đầu bị nhấc hẳn lên khỏi mặt đất như có một bàn tay vô hình nào đó đang điều khiển. Nó cứ tiến dần, tiến dần đến bên Lan.
Quá sợ hãi, Lan lùi dần về phía sau, nhưng cái cưa lao tới như tia chớp, cắt lìa bàn tay còn lại của Lan.
Nhìn máu cuả mình lai láng trên sàn nhà, Lan thét lên cầu cứu. Nhưng lạ thay, những người dưới nhà không ai nghe thấy.
Thều thào trong tuyệt vọng, Lan bất lực nhìn cái cưa cắt lìa từng cẳng chân mình, cô không còn đủ sức để kêu cứu, cô cũng không còn cảm giác để đau đớn hay hoảng sợ nữa rồi.
Nằm trên vũng máu, Lan ngoài nhìn lại xác Khoa, và ngay lúc đó cô cảm nhận được lưỡi cưa đang được đặt vào giữa cổ mình.
Trước khi đầu lìa khỏi cổ, Lan còn kịp nhìn thấy một gương mặt quái đản của cô bé điên, con gái của ông bà chủ nhà, nó đang cầm chiếc cưa đẫm máu, nhe hàm răng vàng ố ra cười hềnh hệch với Lan...
 
***
 
Căn gác trong ngôi nhà cổ đó lại được cặp vợ chồng điên cho một gia khác thuê sau cái chết của vợ chồng Khoa – Lan không lâu.
Những người dân quanh vùng đó cũng chẳng ai biết, chẳng ai quan tâm đến sự mất tích đột ngột của vợ chồng Lan. Hình như trong mắt họ, cuộc sống trong ngôi nhà cổ đó là không tồn tại.
Người thuê mới là gia đình của một nhà nghiên cứu sinh. Họ cần một chỗ ở ngay vùng này để thuận tiện cho công tác nghiên cứu của họ.
Đó là một cặp vợ chồng với hai đứa con một trai, một gái.
Cả gia đình háo hứng và hăm hở dọn lên phòng trên gác, họ rất vui vẻ vì may mắn tìm được một chỗ ở tuy không được tiện nghi, sạch sẽ lắm nhưng lại đáp ứng được nhiều yêu cầu khác của họ.
Hai đứa bé thì khỏi phải nói, đây là một mùa hè lý thú nhất đối với chúng, vì là lần đầu tiên được cha mẹ cho đi theo. Thường thì những chuyến đi công tác dài ngày của cha mẹ, chúng lại bị gởi về bên nội hoặc bên ngoại, chỉ lần này, nhân dịp nghỉ hè nên hai đứa mới được tháp tùng.
Đưá con trai của họ là đứa quậy quạng. Tuy mới mười lăm tuổi mà tiếng tăm đã nổi như cồn vì những “thành tích” bất hảo mà nó đã gây ra trong trường học cũng như ở địa phương.
Vợ chồng nhà nghiên cứu sinh cũng đã bao phen lao đao vất vả vì cậu con này.
Lần đầu tiên gặp cô con gái của ông bà chủ nhà, biết cô ta điên dại, nó liền nghĩ ra ngay một trò chơi để trêu chọc cô.
Khi vắng bóng người lớn, nó thường kéo mái tóc rối bời của cô gái giật ngược về phía sau, miệng thì không ngớt “hò dô ta... kéo pháo ta lên đồi...”
Hoặc, nó nhặt những viên sỏi nhỏ làm đạn rồi giương giàn thun lén bắn vào lưng cô gái, hay lấy nhánh cây khô làm tên phóng vào người cô như người ta phóng vào bia.
Cô gái không chống trả, không phản ứng gì mạnh, nhưng ánh mắt nhìn nó lại giống như một tia lửa điện, mà nó thì lại chẳng quan tâm, chỉ cảm thấy thích thú với “cỗ pháo” khác thường này thôi.
Chuyện tưởng là chơi ai ngờ đâu mang đến tai họa mà không ai biết. Đêm đêm, nó thường thức dậy lẻn đi vào rừng một mình. Có lần, ba nó phát hiện được, bà mẹ nó đều quả quyết con trai mình bị bệnh mộng du. Thế là từ hôm đó, mỗi đêm họ khóa cửa kỹ hơn, giấu kín chìa khóa để nó không đi ra ngoài được nữa.
Nhưng rồi một hôm đứa con trai mất tích. Vợ chồng nhà nghiên cứu sinh hốt hoảng khi thấy tất cả các cánh cửa vẫn còn khóa chặt nhưng thằng con yêu quý của họ đã biến mất tăm.
Cả nhà cuống cuồng đi tìm khắp các khu rừng xung quanh. Mãi đến chiều tối, người cha mới phát hiện một nửa thân thể của con trai mình bị treo ngược trên cành cây, còn một nửa nằm dưới đất bị kiến và ruồi nhặng bu đầy! Khuôn mặt thằng bé không còn nguyên vẹn nữa, hai con tròng mắt đã bị khoét đi mất, và hàm răng thì bị bẻ gãy thảm thương, cạnh chỗ nó nằm, những chiếc răng còn vương vãi.
Quá đau xót khi nhìn thấy con trai mình chết thảm, người cha quyết định gác hết mọi công việc lại, quay về thành phố để nhờ cảnh sát giúp đỡ.
Đứa con út của vợ chồng nhà nghiên cứu sinh là một cô bé thông minh. Tuy tuổi còn nhỏ, nhưng thấy cái chết hãi hùng của anh mình nó đã biết anh trai nó gặp phải một điều gì đó không bình thường, không đơn giản như gặp cướp hoặc cọp beo.
Từ rừng về, vừa bước chân vào ngôi nhà trọ, con bé bắt gặp ánh mắt của cô gái điên con chủ nhà, bất giác nó rùng mình sợ hãi. Và không hiểu do đâu, nó có linh tính cái chết của anh trai nó có liên quan tới người con gái điên dại này!
- Mẹ! Chính cô ấy đã giết chết anh con!
Con bé níu áo mẹ nó mếu máo.
Người mẹ đang cơn đau khổ tột cùng, không đoái hoài gì đến những lời nói vớ vẩn của trẻ con, bà đẩy con gái qua một bên, tiếp tục lau chùi thân thể cho đứa con trai xấu số.
Tôí hôm đó, con bé nghe có tiếng động nhẹ như tiếng người bước từng bước lên gác. Nó nằm im nghe ngóng. Nó không biết ba mẹ đã ngủ chưa mà căn phòng im ắng, tối tăm một cách đáng sợ. Thường thường, khi ngủ mẹ nó vẫn để một ngọn đèn nhỏ, nhưng không biết sao đêm nay lại tối thui, không có chút ánh sáng nào.
Nó muốn lên tiếng gọi mẹ, gọi ba để nói cho họ biết có người đang đi tới trước cửa phòng, nhưng nó không dám, nó sợ khi thức giấc mẹ nó lại khóc, mà nó thì không chịu nổi khi thấy mẹ nó quằn quại như vậy. Ba mẹ nó đã khóc đến hết hơi sức, hành lý đã gói ghém cẩn thận và xác anh nó cũng đã được bọc kỹ để sáng mai cả nhà trở về thành phố.
Tiếng chân dừng lại trước cửa phòng. Nó hồi hộp lắng tai nghe ngóng tiếp.
- Cạch!
Một tiếng động nhỏ vang lên, con bé biết đó là tiếng cánh cửa mở ra. Rồi nó nghe tiếng bước chân tiến tới chỗ giường ngủ của ba mẹ.
Lúc này nó chợt thở phào nhẹ nhỏm vì nó nghĩ chắc nãy giờ ba mẹ ra ngoài có việc, giờ trở vào phòng.
Căn phòng đang tối đen bỗng có một thứ ánh sáng xanh lạnh lẽo tràn vào, giống như ánh trăng nhưng không phải!
Con bé mở choàng mắt ngạc nhiên, nó định mở miệng hỏi mẹ xem cái gì chiếu sáng thế, nhưng chưa kịp thốt lên lời, nó bỗng điếng người khi nhìn thấy ba người không đầu, trên tay mỗi người đều cầm một cái cưa sáng lóe tiến dần tới giường ba mẹ nó.
Trong lúc kinh hoàng, con bé vẫn xác định đựơc ba người đó chính là vợ chồng ông chủ nhà và cô con gái điên của họ, mặc dù cả ba đều không ai có đầu!
Con bé muốn thét lên, nhưng càng cố gắng thì lại càng vô vọng. Cổ họng nó cứng ngắt, tiếng nói như đã đông đặc lại làm nó cứ há hốc miệng không thôi.
Ba bóng người không đầu cúi xuống đặt lưỡi cưa lên người ba mẹ nó.
Xoẹt...! Xoẹt...! Xoẹt!...
Tiếng cưa đều đặn vang lên. Con bé không nghe tiếng ba mẹ nó rên la, cũng không nghe bất kỳ một sự giãy giụa chống đối nào. Nó chỉ nghe thấy mùi máu tanh tưởi dần dần lan tỏa khắp căn phòng.
Tận mắt chứng kiến cha mẹ mình bị giết chết một cách dã man, con bé như có một sức mạnh nào đó nhập vào, nó bỗng vùng dậy bỏ chạy ra ngoài. Sau lưng nó văng vẳng tiếng thúc giục:
- Chạy đi! Chạy nhanh lên đi con...!
Nó chạy mãi, chạy mãi, chạy cho đến sáng và đã thoát ra khỏi khu rừng ghê rợn đó.
Con bé thấy mình đang đứng trong một thị trấn nhỏ. Nó chạy ngay đến đồn cảnh sát gần đó khóc lóc:
- Các chú ơi... Ba mẹ cháu, anh trai cháu... đã bị giết chết... Các chú mau giúp cháu với...
Mấy người cảnh sát đi vào rừng theo sự hướng dẫn của con bé, nhưng họ không thấy ngôi nhà nào cả chỉ thấy ba ngôi mộ nằm lặng lẽ giữa rừng thông.
Đó là ba ngôi mộ của một người đàn ông, một người đàn bà và một cô con gái.
Những người dân ở quanh khu vực đó cho biết ở đây không hề có ngôi nhà nào, chỉ trừ cái nền nhà hoang tàn của ngôi nhà cổ đã sụp đổ từ hàng chục năm trước.
Ba ngôi mộ đó, theo như họ nghe kể lại là của một gia đình bị cướp giết hại. Cô con gái vì tận mắt chứng kiến cảnh cha mẹ mình bị cướp chặt đầu nên đã hóa điên tự đập đầu vào núi đá mà chết, người dân thương xót đem về an táng bên cạnh mộ của cha mẹ cô.
Mọi người đều lắc đầu khi nghe cô bé con nhà nghiên cứu sinh kể chuyện gia đình mình, người ta cho rằng cô bé bị điên, và cảnh sát đã đưa cô bé vào bệnh viện tâm thần, đồng thời phát lệnh truy tìm thân nhân của cô bé.
Không ai biết được những sự việc trước đó ngoài cô bé, nhưng không một ai chịu tin. Và tội nghiệp, cô bé suốt ngày chỉ lảm nhảm một câu:
- Họ là ma! Họ đã giết tất cả mọi người...
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:31:21 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 20:50:14
CHUỘC LỖI
 
Trầm nhìn đồng hồ rồi chán nản đứng lên nói:
- Thôi, tôi về đây! Không còn đủ kiên nhẫn để chờ đợi nữa!
Khâm hoảng hốt kéo Trầm ngồi lại:
- Từ từ… ráng chờ thêm chút nữa đi chị! Nó đã nói là tới ngay mà, chắc trên đường đi xe cộ bị trục trặc gì đó thôi.
Khâm vừa nói dứt câu thì có tiếng xe gắn máy dừng lại ngoài sân. Cả Trầm và Thế đều nhìn ra.
- Chị Huệ đến rồi kìa!
Khâm reo lên.
- Sao chị tới trễ vậy?
Khâm quay sang Huệ hỏi giọng hơi trách móc.
Huệ vội vã dựng xe, lấy khăn vừa lau mồ hôi trán vừa nói:
- Thiệt là xui xẻo, mới đi một đoạn xe bị bể bánh, phải ghé vào ngồi chờ sửa, đi một đoạn nữa lại cán phải đinh. Không biết hôm nay là cái ngày gì nữa chứ!
Nhìn thấy Trầm, Huệ vội gật đầu chào:
- Dạ, có phải chị là… chị Trầm không ạ?
Trầm mỉm cười gật đầu:
- Đúng rồi! Chào Huệ.
- Vô đây, mọi người vô trong này nói chuyện nè!
Khâm giục.
Huệ và Trầm đi sóng đôi vào ngồi ở bộ sa-lông kê giữa phòng khách nhà Khâm.
- Chị đã nghe sơ qua chuyện của em do Khâm kể lại. Và cũng chính vì Khâm nên chị mới đồng ý gặp em hôm nay đó, chứ chị bỏ nghề này lâu lắm rồi, ông xã chị không thích cho vợ hành nghề đồng bóng nữa, chị phải chìu theo ổng thôi.
Trầm đi thẳng vào vấn đề.
Huệ cầm lấy tay Trầm khẩn khoản:
- Dạ, anh Khâm cũng có nói với em chuyện đó, nhưng thật sự em rất cần chị giúp đỡ, chị ráng giúp em, chị Trầm nhé?
Trầm cười:
- Ừ, thì chị đồng ý giúp nên mới hẹn gặp em ở đây. Bây giờ em kể lại mọi việc cho chị nắm chắc tình hình đi!
Huệ tựa lưng vào thành ghế, thở hắt ra một tiếng mệt nhọc:
- Em cũng không biết tại sao, từ hơn hai tháng nay chồng em có biểu hiện rất lạ. Ban đầu em cứ tưởng anh ấy không được khỏe, bị căng thẳng do áp lực công việc dồn dập. Nhưng rồi em biết không phải vậy…
- Em nói cụ thể những biểu hiện không bình thường của chồng em cho chị nghe xem?
Trầm nhắc.
- Dạ! Em nhớ rất rõ, mọi chuyện xảy ra bắt đầu từ ngày hôm đó, cái hôm mà chồng em trở về sau chuyến công tác dài ngày ra các tỉnh miền Trung…
Huệ chậm rãi kể lại câu chuyện không may của mình, bao nhiêu sự việc hiện rõ trong đầu cô như một cuốn phim chiếu chậm…
 
***
Huệ xoay người nhìn mình trong gương lần nữa và tỏ vẻ hài lòng với chiếc áo mới may ôm vừa khít lấy cơ thể cân đối của mình. Cô rất vui và nôn nóng vì lát nữa đây Đạt, chồng cô về tới.
Đạt đi gần một tháng. Gần một tháng Huệ vào ra thui thủi một mình, nỗi nhớ mong anh càng tăng lên gấp bội. Hai vợ chồng cưới nhau gần hai năm rồi mà vẫn chưa có con.
Thấy Huệ lo âu về chuyện đó, Đạt cười xòa:
- Có gì mà em nôn dữ vậy? Mình mới cưới nhau, còn chưa hưởng hết hạnh phúc vợ chồng son, đâu cần phải có con gấp gáp làm gì? Có người cưới nhau năm, bảy năm mới có con thì sao?
Huệ vẫn băn khoăn:
- Nhưng anh là con trai một trong nhà, trọng trách của vợ chồng mình là phải sinh con nối dõi. Em sợ lắm anh à, nếu lỡ mà… em không sinh con được chắc gia đình sẽ buộc anh đi cưới vợ khác mất thôi!
Đạt cười lên ha hả:
- Trời đất ơi, bây giờ là thời buổi nào rồi mà em nói chuyện sao giống mình đang sống dưới chế độ phong kiến quá vậy? Em dẹp ngay cái ý nghĩ cổ hủ của em đi cho anh nhờ!
Huệ ngồi xuống cạnh chồng, nhỏ nhẹ hỏi:
- Nhưng em hỏi thật, nếu gia đình buộc như vậy thì anh đối phó cách nào?
Đạt chồm lên kéo Huệ ngã vào lòng anh:
- Anh phải công nhận em giỏi thiệt đó nghen! Hàng ngày em phải làm biết bao nhiêu việc ở công ty và ở nhà nữa, vậy mà vẫn còn thời gian để em nghĩ ngợi tới mấy chuyện xa vời vợi này! Anh thì không vậy đâu, anh chỉ biết hôm nay mình rất hạnh phúc, thế là đủ rồi, ngày mai ra sao để ngày mai tính. Hơi đâu mà lo lắng trước cho nó mau già!
Huệ nói giọng trách móc:
- Anh không lo là phải rồi, có gì thì anh chỉ lời thôi chứ có lỗ gì đâu mà sợ! Chỉ có em mới đáng sợ nè…
Đạt ngạc nhiên nhìn vợ:
- Ô, sao tự nhiên mọi việc lại trở nên trầm trọng thế này? Thôi đi cô nương ơi, vui lên cho nhờ đi!
Thấy nét mặt Huệ vẫn dàu dàu, Đạt nhân nhượng:
- Thôi được rồi, anh hứa với em, sau chuyến công tác này anh sẽ cùng em đi khám, được chưa?
Huệ nhoẻn cười:
- Anh hứa rồi đó nhe? Không được thay đổi đâu đó!
Đạt gật đầu lia lịa.
- Ok! Ok! Chồng em là quân tử nhất mà, đã nói là phải giữ lời thôi. “Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy” mà em!
Huệ phát vào vai chồng âu yếm nói:
- Thôi đi, quảng cáo vừa vừa thôi!
Đạt cười tươi và ngồi bật dậy mở túi xách lấy đưa cho Huệ xấp vải:
- Anh mua tặng em nè, vì thấy nó hợp với em lắm! Đi may liền nghe, mai mốt về anh muốn được trông thấy em mặc chiếc áo này!
Huệ đón lấy xấp vải, cảm động hỏi:
- Sao tự nhiên lại đi mua vải cho em vậy?
Đạt làm ra vẻ ngạc nhiên:
- Ủa, chồng mua vải cho vợ không được sao? Có vi phạm khoản nào trong bộ luật không vậy?
- Anh thiệt là…!
Huệ cười, vùng vằng đứng lên.
Quả thật Đạt chọn lựa rất khéo, mặc chiếc áo may từ xấp vải Đạt mua cho, Huệ thấy mình như được trẻ ra mấy tuổi.
Đứang ngắm mình trong gương, Huệ tưởng tượng ra ánh mắt thích thú của Đạt khi trông thấy cô.
Còn đang lâng lâng với niềm hạnh phúc tưởng tượng, Huệ nghe tiếng xe dừng trước cổng  nhà, cô vội vã chạy ra vì biết chắc Đạt đã về đến.
Ngoài cổng, một chiếc xe hơi đời mới vừa đỗ xịch lại, Đạt từ trên xe bước xuống nhưng vẻ mặt lại cau có, lạnh lùng một cách khó hiểu.
- Anh mới về!
Huệ vừa mở cổng vừa nhoẻn cười với Đạt. Nhưng thật bất ngờ, Đạt chỉ lừ đừ nhìn Huệ rồi đi thẳng vào nhà không nói một tiếng nào, cũng như không hề tỏ bất cứ thái độ vui mừng nào khi gặp lại vợ sau hơn hai mươi ngày xa cách.
Nỗi ấm ức trào dâng trong lòng, nhưng Huệ cố dằn nén lại.
- Có khi anh ấy gặp phải vấn đề gì đó trong công việc.
Nghĩ thế nên huệ bớt giận mà thay đó là nỗi lo âu. Chắc phải là chuyện quan tọng lắm, lớn lao lắm mới khiến Đạt ra như vậy, chứ tính anh rất kiên cường, không dễ gì bị chi phối bởi những chuyện đơn sơ.
Gật đầu chào người tài xế của chồng, Huệ vội khóa cổng rồi đi nhanh vào nhà.
Đạt đang ngồi một mình, vẻ mặt vẫn dàu dàu.
- Có chuyện gì sao anh?
Huệ ngồi xuống bên chồng, nhỏ nhẹ hỏi.
Đạt vụt đứng lên trả lời cụt ngủn:
- Không! Đâu có gì!
Rồi Đạt đi nhanh vào phòng tắm, không nói thêm lời nào với Huệ, cũng không hỏi thăm cô lấy một tiếng nào.
Nhìn xuống chiếc áo mới may đang mặc trên người, một nỗi tủi thân trào lên không kiềm chế được, Huệ lặng lẽ khóc một mình.
Nhưng khi thấy Đạt trong phòng tắm bước ra, Huệ đứng lên, giả như không có chuyện gì, cô âu yếm hỏi:
- Đi xa về chắc mệt lắm hả anh? Anh ăn cơm bây giờ chưa, để em dọn nhé?
Đạt lừng khừng một chút rồi nói:
- Ừ, dọn đi!
Huệ dọn cơm, cô tự nhủ lúc này không phải là lúc để mình nũng nịu mè nheo. Phải cố gắng làm tròn bổn phận người vợ trong lúc chồng gặp phải sự cố nào đó trong công việc, phải ráng nhẫn nhịn rồi mọi việc sẽ đâu vào đó, khi nào Đạt vui vẻ lại bình thường, cô sẽ còn nhiều cơ hội để bắt đền.
- Ăn đi anh!
Huệ nói.
Huệ vui vẻ xới cơm và gắp những món ăn Đạt ưa thích cho chồng. Nhưng thật bất ngờ, Đạt nhìn vào chén cơm rồi hơi nhăn mặt, gắp miếng sường non sốt chua ngọt bỏ trở ra đĩa.
- Sao vậy anh? Hôm nay em làm không ngon à?
Huệ ngạc nhiên.
Đạt lúng búng trả lời:
- Không! Không phải… chỉ là… không thích!
Huệ chống đũa ngồi nhìn chồng. Cô thật sự không sao hiểu nổi. Người ngồi trước mặt cô lúc này dường như hoàn toàn xa lạ, không phải là Đạt của cô nữa!
Những lời lẽ ngọt ngào, vui nhộn, những ý thích hàng ngày của Đạt vụt thay đổi hết. Hình hài vẫn là Đạt chồng cô, nhưng sao xa lạ đến thế này?
Thấy Huệ không ăn, Đạt cũng chẳng nói gì, anh cắm cúi ăn thật nhanh rồi đứng lên đi vào phòng nằm đọc báo.
Khi đã dọn dẹp xong xuôi hết, Huệ vào phòng đến bên cạnh Đạt, cô đặt tay lên tay chồng và hỏi:
- Anh có chuyện gì kể cho em nghe với, em sẽ chia sớt cùng anh.
Đạt xoay mặt vào tường nhắm mắt lại và nói trống không:
- Không có chuyện gì đâu, đừng quan tâm!
Huệ hụt hẫng vô cùng, cô muốn khóc òa lên, muốn cào cấu Đạt để hỏi cho ra lẽ, nhưng Huệ biết lúc này nếu cô có phản ứng mạnh thì mọi việc sẽ còn trở nên tồi tệ hơn nữa.
Lặng lẽ lau nước mắt, Huệ khe khẽ nằm xuống bên cạnh chồng. Nỗi buồn làm cô thao thức mãi. Mà hình như Đạt cũng không ngủ, thỉnh thoảng Huệ lại nghe tiếng thở dài rất khẽ của anh.
Sáng hôm sau, khi Đạt đã đi làm, Huệ ngồi một mình và đặt ra thật nhiều giả thiết. Nhưng không có giả thiết nào hoàn toàn chấp nhận được, giải thích được thái độ lạ lùng của Đạt từ hôm qua tới nay.
Không chịu đựng nỗi nữa, Huệ tìm gặp một người bạn cùng đi công tác với Đạt chuyến vừa rồi để tìm hiểu cho ra lẽ.
Khâm, bạn Đạt cũng tỏ vẻ kinh ngạc khi nghe Huệ kể sơ qua tình trạng Đạt:
- Ủa, chúng tôi đi bình thường mà, đâu có xảy ra chuyện gì? Mọi việc diễn ra rất suông sẻ. Tại sao anh Đạt lại như thế?
Huệ thất vọng:
- Tôi cứ tưởng các anh gặp phải điều gì đó khiến anh Đạt trở nên như vậy, nhưng theo lời anh thì không có gì, tôi thiệt không sao hiểu nổi!
Thấy vẻ thểu não của Huệ, Khâm cũng xót xa. Anh nói:
- Những gì tôi nói với chị hoàn toàn là sự thật, tôi không có gì phải che giấu. Chị nên tìm hiểu anh ở ở khía cạnh khác đi.
Huệ lắc đầu rơm rớm nước mắt:
- Trước lúc tiễn anh ấy lên xe, mọi chuyện vẫn bình thường, nhưng sau hai mươi ngày, vừa đặt chân xuống xe là anh ấy trở thành người lạ! tôi nghĩ nếu có chuyện gì thì chắc chắn nó phải xảy ra trong chính những ngày các anh đi công tác đó mà thôi.
Khâm nhíu mày suy nghĩ, lát sau anh nói:
- Được rồi! tôi hứa sẽ để tâm đến anh Đạt và dò la giúp chị. Nhưng thật sự trong hai mươi ngày đó hầu như lúc nào chúng tôi cũng ở gần nhau, thì nếu có chuyện gì tất nhiên tôi phải biết chứ? Thôi, chị cứ yên tâm và cố gắng chịu đựng anh ấy vài hôm nữa đi, khi có tin tức gì mới tôi sẽ cho chị biết ngay.
- Cảm ơn anh thật nhiều. Xin phép anh tôi về!
Huệ gật đầu rồi đứng lên bước ra. Khâm nhìn theo thương cảm.
Sau nhiều ngày dò xét, Huệ nhận thấy chồng mình vẫn làm việc bình thwofng, vẫn giữ được mối quan hệ tốt với những người trong công ty, chỉ khi về nhà anh mới hoàn toàn thay đổi.
Huệ bắt đầu kiểm điểm lại bản thân mình, cô lo sợ mình đã vô tình làm điều gì đó phật ý Đạt, hay có ai đó đơm đặt điều gì về cô chăng?
Mà cũng không thể, Đạt đâu phải là người như vậy? Nếu như có nghe những điều không hay về vợ mình, chắc chắn anh cũng sẽ xác minh đàng hoàng chứ không thể nào lại có thái độ đó.
Thế nhưng Huệ vẫn tỉ mỉ ngồi ghi ra tất cả những gì mình đã làm, tất cả những cuộc gặp gỡ, thư từ, điện thoại trong khoảng thời gian một tháng trở lại đây, xét tới xét lui đâu có gì khiến Đạt nghi ngờ hay hờn giận?
Huệ vốn là một cô gái nghiêm túc. Trước khi yêu và nhận lời làm vợ Đạt, Huệ cũng đã trải qua hai mối tình, nhưng thật ra đó chỉ mới hơn tình bạn một chút mà thôi, không hề có sự gần gũi thể xác, không hề có những cuộc hẹn hò lén lút không rõ ràng.
Thế thì tại sao? Câu hỏi đó Huệ không có cách nào giải đáp được.
Tình trạng của Đạt ngày một tồi tệ hơn nữa. Hai đêm đầu mới về nhà, mặc dù Đạt không hề quan tâm và đụng chạm tới người Huệ nhưng hai người vẫn ngủ cùng giường với nhau. Đến đêm thứ ba, khi thấy Huệ vào phòng với chiếc áo ngủ mỏng manh, Đạt tỏ vẻ lúng túng rồi nói:
- Em ngủ trước đi, anh bận nghiên cứu một số tài liệu…
Vừa nói, Đạt vừa ôm mền gối đi ra phòng khách, Huệ gọi theo:
- Thì anh cứ ở đây mà đọc, có sao đâu?
- Không, để đèn sáng em khó ngủ lắm!
Đạt nói rồi đi nhanh ra ngoài.
Huệ ngẩn ngơ nhìn theo chồng mà lòng buồn thê thiết.
Đạt chỉ viện cớ, Huệ biết điều đó vì khi cô chưa kịp ngủ thì ở nhà ngoài Đạt đã tắt đèn rồi.
Buồn tủi, thắc mắc, ấm ức khiến Huệ muốn nổi loạn. Cô quyết định sáng ngày mai sẽ nói rõ mọi chuyện với Đạt, bởi vì cô không thể chịu đựng thêm một ngày nào nữa rồi. Bỗng dưng cô bị ruồng rẫy, hắt hủi mà không biết mình mắc phải tội gì, thì làm sao mà chấp nhận được chứ!
Càng nghĩ càng tức, Huệ rón rén đi ra nhà ngoài xem thử. Và cô suýt đứng tim khi chứng kiến Đạt đứng sừng sững giữa nhà, trên tay ôm cái gối đu đưa như đang nựng nịu, dỗ dành một đứa bé!
- Trời ơi…
Huệ kêu thầm trong bụng. Có lẽ nào Đạt khao khát có con đến mức đó, mà chỉ vì muốn Huệ không buồn lo nên lâu nay mới làm ra vẻ bất cần?
- Anh Khâm, anh làm ơn ráng nhớ lại giùm tôi, tỏng chuyến công tác vừa qua có việc gì khiến anh Đạt chú ý tới nhiều nhất không? Niềm vui hay nỗi buồn nào đó…
Huệ tức tốc gặp Khâm ngay sáng hôm sau để tìm hiểu thêm.
Khâm suy nghĩ một hồi lâu rồi lắc đầu nói:
- Tôi nhớ là không hề có chuyện gì! Chúng tôi lên đó, ở nhờ trong nhà một đôi vợ chồng người dân tộc, vợ chồng họ có một đứa con trai vài tháng tuổi. Sau giờ làm việc, anh Đạt thường rất thích bồng bế và chơi đùa với cậu bé đó, chỉ có vậy thôi!
Cổ Huệ như nghẹn lại, cô đứng lên:
- Cảm ơn anh Khâm, nếu nhớ ra thêm điều gì xin anh cho tôi biết nhé?
Khâm gật đầu thông cảm:
- Được rồi! Chị yên tâm đi!
Nhưng làm sao Huệ yên tâm cho được? Cô đi như kẻ mất hồn, thơ thẩn về nhà trong nỗi buồn sâu sắc. Có lẽ đó chính là nguyên nhân! Có lẽ khi hàng ngày trông thấy và gần gũi với cậu bé ấy, nỗi khao khát trong lòng Đạt bùng lên, và rồi anh nghĩ lại thấy chán cô vì cô không sinh con cho anh được?
- Không! Không thể quy trách nhiệm cho mình được! Cả hai vẫn chưa đi khám lần nào mà? Anh ấy không thể vô lý đến như vậy được!
Huệ quyết định không về nhà mà quay xe đi tới bệnh viện. Cô phải tìm ra nguyên nhân mới được, không thể để thế này!
Những ngày sau đó Huệ sống trong tâm trạng hết sức căng thẳng. Cô vừa phải chịu đựng người chồng hờ hững như cái bóng trong nhà, vừa nơm nớp lo âu đợi chờ kết quả.
Đến ngày có kết quả khám nghiệm, Huệ vui như mở cờ trong bụng. Chiều đó, Huệ nấu một bữa cơm thật ngon đúng theo ý thích mới đổi sau này của Đạt. Khi anh vừa ăn cơm xong, Huệ bá cổ anh và chìa ra tờ kết quả:
- Anh xem nè!
Huệ hí hửng nói.
Đạt ngơ ngác:
- Cái gì đây?
Huệ cười:
- Thì anh đọc đi! Kết quả khám nghiệm đó, em vẫn có khả năng sinh con bình thường, em hết lo rồi!
Đạt không đọc, và cũng không hề có một biểu lộ nào trên mặt Đạt. Anh lặng lẽ đặt tờ giấy lên bàn rồi gỡ vòng tay Huệ đang ôm ngang cổ anh, đứng lên đi ra chỗ khác.
Huệ cụt hứng:
- Anh… anh sao vậy? Anh không mừng sao?
Đạt hờ hững:
- Đâu có gì mà mừng! Anh vẫn biết điều đó mà!
Huệ há hốc miệng mãi một lúc sau mới nói thành lời:
- Vậy ra… vậy ra… anh…
Đạt cũng không quan tâm đến điều Huệ muốn nói. Anh cầm tờ báo lên nằm trên ghế xích, bỏ mặc Huệ đứng đó một mình.
- Có khi nào chính anh ấy không có khả năng sinh con? Anh biết điều đó nên mới sa sút tinh thần đến mức ấy? Nhưng không thể, những ngày đi công tác ở vùng xa, không thể nào Đạt đi khám ở đó được. Vậy thì tại sao?
Chỉ mới mấy ngày thôi mà những câu hỏi tại sao cứ dồn dập kéo tới trong đầu Huệ. Cô không giải thích được, không tìm hiểu được, và sắp đến lúc cô không thể chịu đựng được rồi!
Đêm hôm đó Huệ rắp tâm rình theo dõi Đạt. Anh vẫn ngủ trên sa-lông từ mấy ngày nay, mặc cho Huệ nói gì thì nói anh vẫn không thay đổi.
Khoảng nửa đêm, Đạt ngồi lên rồi đi tới đi lui, lại ôm gối dỗ dành như bữa trước. Sau đó Đạt thu mình ngồi trong góc nhà khóc nghẹn ngào, đau đớn.
Huệ rất muốn chạy ra ôm chầm lấy anh, năn nỉ anh có điều gì đau đớn trong lòng thì hãy nói ra để cô chia sẻ, nhưng Huệ biết Đạt sẽ không nói, không nói gì hết, và thái độ của Đạt sẽ làm cô tổn thương thêm.
Mới về nhà hôm thứ hai, đến thứ bảy Đạt lại chuẩn bị áo quần như sắp đi xa.
- Anh đi công tác nữa sao?
Huệ ngạc nhiên hỏi.
Đạt lắc đầu:
- Không, anh có chút chuyện riêng cần giải quyết.
Huệ lặng người trước câu trả lời của Đạt. Cô không biết nói gì thêm, nhưng cũng chính trong giây phút đó một quyết định hình thành trong Huệ. Cô sẽ tìm ra sự thật, sẽ phải tìm ra!
Huệ bám theo Đạt suốt hai ngày, và cô đã phải chứng kiến những điều khiến trái tim cô như vỡ ra từng mảnh…
Nơi mà Đạt tìm tới là một ngôi làng nhỏ đìu hiu ở tận Phan Rang. Anh không vào nhà ai, không tìm thăm một người nào mà chỉ lén lút dõi theo một người phụ nữ trẻ có đôi mắt u buồn lúc nào cũng bế đứa bé trên tay.
Ánh mắt Đạt nhìn cô ta thật tha thiết, giống như đã từng nhìn Huệ trước đây, nhưng từ một tuần nay Huệ không còn được đón nhận những ánh nhìn đó nữa.
Và bây giờ thì cô đã hiểu nguyên nhân. Đau đớn tột cùng, niềm đau đó có lúc thôi thúc Huệ vạch trần sự thật, thôi thúc Huệ bắt buộc Đạt phải nhìn nhận tội lỗi của mình. Nhưng Huệ đã dằn nén được, cô vẫn rất yêu thương Đạt nên cô không muốn có bất kỳ một điều bất lợi nào xảy đến với anh. Dù bản thân mình có bị thiệt thòi đến đâu đi nữa Huệ cũng sẽ chấp nhận.
Huệ lặng lẽ dõi theo Đạt, những lúc người phụ nữ ấy một mình nơi vắng vẻ Đạt vẫn cứ ẩn mặt đi theo, không một lần tiếp xúc, không một trao đổi nào.
Huệ nhớ Khâm đã nói lần đi công tác vừa rồi, họ ở nhờ nhà hai vợ chồng trẻ, vợ chồng họ có một đứa bé trai. Vậy có thể đây chính là gia đình mà Đạt đã từng ở, nhưng sao Huệ không thấy bóng dáng người chồng? Chỉ thấy người phụ nữ bế con với vẻ bơ vơ đến tội nghiệp?
CÓ một lúc người phụ nữ ra đồng, đặt đứa bé đang ngủ say vào trong nôi. Đạt rón rén đi vào, tim Huệ như co thắt lại.
- Có khi nào… anh ấy muốn… bắt cóc đứa bé?
Huệ nghĩ.
Nhưng không! Đạt chỉ ngồi bên cạnh ngắm đứa bé bằng ánh mắt thiết tha và đau đớn tột cùng. Đạt vuốt ve khuôn mặt, bàn tay, bàn chân của nó, nước mắt anh chảy dài xuống má…
Huệ cảm thấy hoang mang tột đỉnh. Mọi việc trước mắt cô cứ rối tung lên, không có mối để lần ra gốc ngọn.
- A lô, anh Khâm ơi! Xin lỗi vì đã làm phiền anh. Nhưng anh ráng giúp tôi anh Khâm nhé, rồi khi nào về lại Sài Gòn tôi sẽ kể rõ với anh mọi việc.
Huệ gọi điện cho Khâm ngay tối đó.
Khâm lo lắng:
- Chị đang ở đâu thế? Có việc gì xảy ra với chị vậy? Nếu giúp được cho chị tôi rất sẵn sàng, xin chị đừng ngại.
Huệ thở mạnh một hơi rồi nói:
- Anh làm ơn cho tôi biết sự thật, lúc anh cùng anh Đạt ở nhà đôi vợ chồng đó, anh thấy anh Đạt nhà tôi có tình ý gì với người phụ nữ đó không?
Khâm bật cười:
- Xin lỗi chị, tôi không kiềm chế được! Tôi không hiểu tại sao chị lại có ý nghĩ lạ kỳ như vậy chứ? Hay vì chuyện của anh Đạt mấy hôm nay mà chị sinh ra quẩn trí rồi? Tôi xin nói để chị yên tâm, anh Đạt là người đứng đắn, mà người phụ nữ đó cũng rất đàng hoàng, không hề có chuyện gì mờ ám giữa hai người đâu. Điều này tôi dám cam đoan với chị đó!
- Vậy sao? Thế thì lạ quá!
Huệ thở dài.
- Sao thế chị?
Khâm tò mò.
- Thôi, để hôm nào về Sài Gòn tôi kể anh nghe! Tạm biệt anh nhé?
Huệ tắt máy, lòng ngổn ngang không sao hiểu nổi.
Sang ngày thứ hai, Đạt ra thị trấn mua thật nhiều đồ, từ sữa, đường, áo quần trẻ con tới nhiều thứ lặt vặt khác nữa. Tất cả để trong hai cái giỏ xách thật lớn. Và khi người phụ nữ bế con ra ngoài, Đạt lén lút đặt hai giỏ xách vào nhà rồi ra xe quay về thành phố.
Huệ cũng lên xe quay về một đoạn, bỗng dưng một ý nghĩ chợt đến trong đầu, thế là cô vội vã quay trở lại.
 
***
- Chị… chị tìm ai ạ?
Người phụ nữ ôm đứa con vào lòng, ngước đôi mắt to tròn nhìn Huệ với vẻ ngạc nhiên lẫn lo sợ.
Huệ mỉm cười thân thiện:
- Chị là người đi mua đồ cổ, ghé ngang đây xin tạm ly nước, em làm ơn cho chị xin, chị khát quá!
Nét mặt cô gái dãn dần ra. Cô xăng xái vừa nói đi xuống bếp:
- Chị ngồi chơi, để em đi lấy nước!
Một loáng sau cô trở lên, đưa nước mời Huệ:
- Chị dùng tạm, nhà em chỉ có nước này!
Huệ tươi cười đón lấy ca nước từ tay cô gái:
- Được vậy là quý lắm rồi em ạ! Nắng quá mà cả khu này chị không thấy có hàng quán nào cả.
Cô gái chỉ mỉm cười lặng lẽ, không nói gì.
Huệ nhìn đứa bé rồi reo lên:
- Ôi, đứa bé dễ thương quá, em cho chị bế cháu chút đi!
Nghe người khách sang trọng khen ngợi con mình, người phụ nữ mỉm cười rạng rỡ. Cô trao đứa bé cho Huệ với một niềm tự hào khôn xiết.
Huệ nựng nịu, đùa giỡn với đứa bé một lúc rồi như chợt nhớ ra, cô hỏi:
- Ba nó đâu sao không thấy có nhà vậy em?
Nụ cười trên môi cô gái chợt tắt hẳn. Cô chớp chớp mắt, đôi mắt bắt đầu đỏ rựng lên như sắp khóc.
- Em cũng không biết, anh ấy mất tích một tuần nay rồi, mọi người tìm kiếm khắp nơi mà vẫn không thấy!
Cô gái nghẹn ngào nói.
Huệ giật mình:
- Có chuyện đó sao? Tội nghiệp mẹ con em chưa… Chuyện là thế nào vậy em?
Cô gái cúi xuống lau nước mắt và nói:
- Hôm đó chồng em đi rừng lấy củi mãi không thấy về, nhưng lạ một điều rừng ở đây không rậm rạp nên không thể lạc, mà cũng không có thú dữ. Thế nhưng không hiểu sao anh ấy cứ vậy mà mất tăm chị ạ! Bà con thương tình đổ xô đi tìm suốt mấy ngày mấy đêm vẫn không tìm thấy chút dấu vết nào. Bây giờ mẹ con em chỉ biết chờ đợi một phép màu nào đó xảy đến mà thôi, không còn hy vọng nào nữa về sự sống còn của anh ấy…
Cô gái thổn thức.
Huệ cũng rơi nước mắt trước nỗi bất hạnh của người phụ nữ mà mới vừa đây cô còn có ý nghĩ đó là tình địch của mình.
Không biết phải dùng lời lẽ nào để an ủi cô gái, Huệ chỉ biết ôm thật chặt đứa bé vào lòng…
Chia tay mẹ con cô gái, Huệ ra về mà lòng còn nặng trĩu hơn lên.
***
- Nói thật cho em biết đi, chuyện gì xảy ra với anh tỏng những ngày vừa rồi?
Huệ đứng trước mặt Đạt, nhìn thẳng vào mắt anh và ôn tồn nói.
Đạt nhìn đi chỗ khác, trả lời giống như bao lần trước:
- Đâu có gì! Sao em lại hỏi hoài câu ấy?
Huệ đi thẳng vào vấn đề, không để Đạt tránh né nữa:
- Hãy nói với em về mẹ con cô gái ấy đi!
Đạt giật mình:
- Em nói sao? Em đã biết được những gì?
Huệ nhỏ nhẹ:
- Em biết được những gì anh muốn giấu!
Đạt cười:
- Nếu vậy em đâu cần hỏi anh làm gì nữa!
Huệ vẫn giữ vẻ bình tĩnh:
- Nhưng em muốn tự anh nói ra tất cả!
Đạt nhìn Huệ chăm chú rồi chậm rãi đến ngồi vào ghế, lấy thuốc ra hút.
Huệ kêu lên:
- Anh… anh biết hút thuốc khi nào?
Đạt lặng lẽ rít liên tục mấy hơi rồi cười:
- Vậy mà cô dám nói cô biết hết! Nếu biết hết cô sẽ không ngạc nhiên đến vậy đâu!
Huệ choáng váng vì cách xưng hô lạnh lùng xa lạ lần đầu tiên Đạt đem ra sử dụng với mình. Cô nướt ực sự tức giận, đến ngồi đối diện với Đạt.
- Hôm nay em cần nghe anh nói ra tất cả!
Đạt nheo mắt nhìn Huệ:
- Có cần như vậy không? Tôi nghĩ một khi biết rõ, cô sẽ còn đau đớn hơn nhiều nữa kìa! Cô là người vô tội, thật sự tôi không muốn cô vướng vào chuyện này…
Huệ thấy đầu óc mình lùng bùng, Đạt nói gì cô không thể hiểu được.
- Cô nhận thấy tôi giống chồng cô trước kia sao?
Đạt nhìn Huệ xa lạ.
Huệ nuốt nước mắt:
- Anh đã thay đổi, thay đổi hoàn toàn kể từ sau chuyến công tác vừa rồi. Nếu không có hình hài này, chắc chắn không bao giờ em nhận anh là chồng của em!
Đạt đứng lên muốn kết thúc câu chuyện:
- Tùy cô thôi, muốn coi tôi là chồng cũng được, mà không cũng không sao. Tôi không phiền trách gì cô đâu.
Nói dứt câu Đạt bỏ vào phòng, mặc Huệ ngồi mình ngơ ngẩn.
Sáng hôm sau huệ tìm gặp Khâm và kể lại toàn bộ câu chuyện một cách tỉ mỉ.
- Có chuyện như vậy sao?
Khâm kinh ngạc kêu lên.
Huệ nước mắt chảy dài, nghẹn ngào nói:
- Tôi nghi… anh Đạt bị ma ám hay sao ấy! Bây giờ anh ấy thay đổi hoàn toàn…
Đạt gật gù:
- Đúng là thời gian này tôi cũng nhận thấy anh Đạt đổi tính, nhưng trong công việc thì vẫn bình thường, nên tôi nghĩ sự thay đổi đó do gia đình cho chuyện gì bất ổn, thật không ngờ mọi việc lại tồi tệ đến vậy.
- Ngày anh và anh Đạt rời gia đình vợ chồng người dân tộc đó, người chồng còn sống không?
Huệ hỏi.
Khâm trả lời không chút nghĩ ngợi:
- Chắc chắn là còn! Nhưng có thể anh ta mất tích đúng vào hôm đó. Sáng đó tôi còn nhớ rất rõ, khi tôi và anh Đạt mới ngủ dậy thì người thanh niên đó đã chuẩn bị lên rừng, anh ta còn chào tạm biệt chúng tôi trước khi đi.
- Sau đó hai anh về thẳng đây?
Huệ hỏi tiếp.
Khâm nghĩ một lát rồi nói:
- Không! Trên đường đi, chúng tôi có ghé lại vài nơi để tham quan cảnh hoang sơ của rừng núi ven đường.
- Anh và anh Đạt luôn đi chung với nhau chứ? Anh thấy anh Đạt có gặp chuyện lạ nào không?
Huệ lại hỏi dồn.
Khâm khổ sở ôm đầu than:
- Đúng là chúng tôi luôn đi bên nhau và tôi cũng không nhớ ra anh Đạt có gặp chuyện lạ nào không nữa… A, nhưng mà có một buổi tôi không đi với anh. Anh vào rừng săn chơi, tôi thì gặp người quen nên kéo nhau vào quán cà phê tán dóc.
- Tôi nghĩ anh Đạt bị ma ám hay bị bùa ngãi gì đó anh Khâm ạ!
Huệ khẳng định.
Khâm ngồi im một lúc rồi reo lên:
- Có cách rồi! tôi có một chị bạn thân, trước kia chị là một thầy bùa, pháp sư có tài, nhưng từ khi lấy chồng chị bỏ nghề. Tôi có thể nhờ chị ấy giúp chị trong chuyện này nếu thật sự anh Đạt vướng vào mấy chuyện không hay đó!
Huệ mừng rỡ chồm tới nắm lấy tay Khâm lắc lắc:
- Tôi cảm ơn anh nhiều lắm anh Khâm ạ! Anh Đạt nhà tôi mà qua được trận này, chúng tôi đội ơn anh suốt đời!
Khâm lúng túng:
- Chị đừng nói vậy! anh Đạt là bạn của tôi, tôi cũng có trách nhiệm với ảnh chứ! Nhưng việc tôi giúp chị còn chưa biết có đem lại được kết quả mỹ mãn hay không mà?
- Kết quả ra sao thì chúng tôi vẫn mang ơn anh lắm. Xin anh vui lòng hẹn với chị ấy giúp tôi. Nhưng… có lẽ không gặp ở nhà tôi được vì tôi sợ anh Đạt biết.
Huệ nói.
Khâm gật gù:
- Tôi hiểu! Mà chị thì không thể tới nhà chị ấy được vì chồng chị ấy không bằng lòng… Thôi được rồi, sẽ gặp nhau ở nhà tôi vậy, nhé?
Huệ lo lắng:
- Nhưng… liệu chị ấy có đồng ý giúp không?
Khâm cười:
- Tôi nghĩ chị ấy sẽ đồng ý, bởi vì giữa tôi và chị ấy còn nhiều nợ nần với nhau lắm, chị ấy không từ chối yêu cầu của tôi đâu!
Huệ khẩn cầu:
- Vậy anh làm ơn giúp tôi, càng sớm càng tốt nhé?
Khâm gật:
- Được, chị yên tâm! Tôi sẽ liên lạc với chị ấy ngay!.
 
***
Huệ kể xong câu chuyện, ngước mắt nhìn Trầm vẻ đợi chờ, lo lắng.
Trầm nghĩ ngợi một lúc rồi nói:
- Qua những gì em vừa kể, chị chỉ có thể nắm sơ bộ tình trạng của chồng em thôi. Nếu muốn biết rõ ràng thì phải trực tiếp gặp mặt. Em nghĩ xem có cách nào để chị với chồng em có thể nói chuyện với nhau không? Nói về vấn đề gì cũng được, chỉ cần trao đổi trực tiếp năm ba câu là được rồi!
Huệ nhíu mày rồi bật reo lên:
- Được rồi chị ạ! Chị sẽ đóng vai người đi hỏi mua đất. Vì vợ chồng em có một miếng đất ở ngoại thành kêu bán. Có thể lúc này anh ấy không quan tâm gì tới chuyện đó, nhưng đó sẽ là lý do chính đáng để chị nói chuyện với anh ấy!
Trầm cười:
- Vậy tốt rồi! Khâm sẽ đi với tôi nhé? Coi như Khâm là người mai mối vậy.
Khâm gật đầu:
- Dạ được, tối nay em sẽ chở chị tới đó.
Suốt ngày hôm ấy Huệ thắc thỏm lo âu, chờ đợi cuộc tiếp xúc giữa Trầm và Đạt để biết kết quả như thế nào.
Cuối cùng thì cuộc gặp ấy cũng diễn ra một cách tốt đẹp. Mặc dù đúng như dự đoán của huệ là Đạt không thiết tha gì tới chuyện đất đai mua bán hết, nhưng anh vẫn rất lịch sự tiếp chuyện Trầm một cách đàng hoàng.
Tối đó, Huệ nhận được một tin nhắn ngắn gọn từ Khâm: “Sáng mai chị tới em để gặp chị Trầm sớm”
Cả đêm Huệ không sao chợp mắt được, linh cảm báo cho cô biết chồng mình đang bị mối nguy hiểm nào đó đe dọa. Cô thầm van vái đất trời, mong cho Đạt tai qua nạn khỏi.
- Em ngồi xuống đi, và hãy chuẩn bị tinh thần để nghe chị nói.
Vừa đặt chân vô nhà Khâm, Huệ đã nghe câu nói ấy từ Trầm khiến cô choáng váng.
- Chị… anh Đạt chồng em… anh ấy bị làm sao vậy chị?
Trầm nghiêm mặt nói:
- Trong thân xác chồng em là một linh hồn khác đang trú ngụ. Nếu không kịp thời trục xuất linh hồn ấy ra, đúng một trăm ngày sau thì không còn cách nào cứu chồng em được nữa, vì linh hồn thật sự của cậu ấy sẽ bị dẫn dắt đi vào cõi ma!
Huệ run rẩy:
- Vậy… vậy bây giờ em phải làm sao đây?
Trầm băn khoăn nghĩ ngợi rồi nói:
- Theo nhận xét của chị, linh hồn xa lạ đó chắc cũng không có ác ý gì đâu, mà có thể do một nguyên nhân nào đó mà mình không biết được… Xâu chuỗi mọi việc lại, chị đoán có thể dính dáng tới vợ chồng người dân tộc kia. Nhưng đáng tiếc là cả người phụ nữ ấy cũng không biết gì. Vậy mọi bí mật đều nằm trong con người của chồng em. Mọi chuyện chỉ có thể hóa giải khi sự thật phơi bày.
Trầm dừng lại không nói nữa.
Huệ buồn bã thở dài:
- Nhưng em lại không biết cách nào làm cho anh Đạt nói ra sự thật…
Trầm cho tay vào túi xách lấy ra một gói nhỏ đưa cho Huệ:
- Em đem lá bùa này về, đốt lên và lén cho Đạt uống. Đúng ba ngày sau, vào lúc nửa đêm em hãy nói chuyện với Đạt. Nhưng hãy nhớ, đừng mở đèn, hãy ngồi với nhau trong bóng tối. Chị hy vọng khi đó sự thật sẽ được giãi bày.
Huệ nghi ngờ:
- Có thể được sao chị?
Trầm cười nhẹ:
- Thì cứ thử đi rồi mới biết được chứ! Nhừn điều quan trọng là em có dám đối diện với Đạt trong hoàn cảnh như vậy không? Một mình trong bóng đêm, trước mặt em sẽ là hình hài của chồng nhưng linh hồn kẻ khác. Em cần phải xác định rõ điều đó thì mới có thể cứu được chồng mình.
Huệ cắn chặt môi:
- Em sẽ cố gắng! Vì anh Đạt, chuyện gì em cũng có thể làm!
Trầm vỗ nhẹ lên tay Huệ
- Chúc em thành công!
- Em cảm ơn chị rất nhiều.
Huệ run run cầm lấy gói bùa, lòng cô tan nát.
Việc lén cho Đạt uống bùa không khó, cho nên ngay tối hôm đó Đạt đã uống hết lá bùa do Trầm đưa cho. Và Huệ bắt đầu hồi hộp đợi chờ, thời gian như trôi thật chậm, như muốn thử thách lòng kiên nhẫn của cô.
Hàng ngày, mỗi lúc nhìn thấy Đạt, huệ vừa thấy cảm thương lại vừa sợ hãi. Đó đúng là hình hài thân yêu của chồng mình, nhưng linh hồn lại là kẻ lạ xa, Huệ đau đớn khôn nguôi về điều đó.
Mười hai giờ đêm của ngày thứ ba, Huệ lặng lẽ đi ra phòng khách. Trong bóng tối âm u, Đạt ngồi ủ rũ một mình. Nghe tiếng chân Huệ, Đạt ngước lên nhìn nhưng cũng không nói câu nào.
Huệ ngồi xuống chiếc ghế đối diện, cô không mở đèn lên, bóng tối mờ ảo làm ánh mắt Đạt trở nên long lanh một cách kỳ lạ.
Huệ bặm môi đè nén những run sợ đang dầng tràn trong lồng ngực. Cô nhìn Đạt và hỏi:
- Anh hãy cho tôi biết, anh là ai?
Đạt thoáng giật mình:
- Cô… cô… sao cô hỏi vậy?
Huệ không trả lời mà nói tiếp:
- Anh quan hệ thế nào với mẹ con cô gái ở Phan Rang? Mẹ con cô ấy thật tội nghiệp, tôi đã đến thăm một lần…
Đạt tỏ vẻ hốt hoảng:
- Cô đã tới đó à? Cô…
Huệ buồn bã nói:
- Anh yên tâm đi, tôi không có ác ý gì cả, và tôi cũng rất thương mẹ con cô ấy. Một người con gái còn rất trẻ, ôm đứa con đỏ hỏn trong tay, ngày ngày mong ngóng tin chồng mà không biết rõ chồng mình sống chết ra sao. Dù có chết thì cũng đỡ khổ hơn là như vậy!
- Thôi, tôi xin cô… xin cô đừng nói nữa!
Đạt rên rỉ, cắt ngang câu nói của Huệ.
Huệ vẫn thong thả:
- Tôi biết giữa anh và cô gái ấy có một mối liên kết sâu sắc, nếu tôi đoán không lầm thì anh chính là người mà mẹ con cô ấy ngày nhớ đêm mong. Còn lý do vì sao anh lại ẩn nấp trong hình hài của chồng tôi thì tôi không tài nào đoán ra…
Đạt ngước đôi mắt ngầu đỏ lên nhìn Huệ:
- Cô có cần biết tất cả sự thật không?
Huệ gật đầu:
- Tôi rất muốn biết! Dù cho sự thật có phũ phàng đến đâu đi nữa thì nó cũng không làm cho con người ta đau đớn trong nỗi khắc khoải lo âu, thắc mắc. Và tôi biết, cô gái kia cũng giống tôi thôi anh ạ!
Đạt đứng lên đi tới đi lui trong phòng rồi đột ngột dừng lại trước mặt Huệ nói chậm rãi:
- Chính chồng cô đã giết chết tôi!
Huệ giật nảy người lên, cô không tin sự việc lại ra nông nỗi như vậy. Cô hốt hoảng:
- Không! Không… có thể là anh lầm với ai rồi, anh Đạt chồng tôi không thể là kẻ giết người, mà nhất là giữa anh với ảnh đâu có oán thù gì mà phải giết chết anh?
Đạt buông một tràng cười thê thảm:
- Tôi không lầm! Người lầm chính là chồng cô.
Huệ run như cầy sấy, cô chưa nói được lời nào thì Đạt tiếp:
- Cô nói đúng, anh Đạt là người hiền lành, tốt bụng. Anh ấy cũng không thù ghét gì tôi. Chỉ vì anh ấy nhầm tôi với thú rừng nên đã bắn vào tôi. Viên đạn súng săn oan nghiệt đó lại trúng ngay chỗ hiểm nên tôi chết tại chỗ. Anh Đạt vì quá lo sợ, nên đã đẩy xác tôi xuống vực sâu để phi tang. Tôi không cam lòng, thật sự tôi không cam lòng chết oan ức, bỏ lại vợ con như vậy nên ngay lúc đó tôi nhập hồn vào xác chồng cô. Nhưng rồi… sau này tôi mới nhận biết đó cũng là một sai lầm. Với hình hài này tôi làm được gì cho vợ con tôi đây? Tôi thật sự… thật sự không biết phải làm sao…
Huệ quỳ sụp xuống đất vái lia vái lịa, nước mắt cô tuôn chảy đầm đìa.
- Tôi van anh, anh hãy tha tội cho chồng tôi. Nếu đúng chồng tôi đã giết chết anh, chắc chắn anh ấy sẽ chịu sự phán xét của pháp luật. Còn vợ con anh, tôi xin hứa, tôi sẽ bảo bọc, chăm sóc thay anh, để đền lại tội lỗi mà chồng tôi đã vô ý gây ra… Tôi xin anh, xin anh hãy trả lại anh Đạt cho tôi, và trả lại cho chính vợ anh người chồng mà cô ấy luôn chờ đợi…
Đạt cười cay đắng:
- Cô nói nghe dễ quá, làm sao tôi có thể trả lại cho vợ tôi một người chồng như trước được?
Huệ gật đầu:
- Đúng là không thể như trước, nhưng cô ấy sẽ biết được rõ ràng tình trạng của anh, cô ấy thà đau đớn khi biết tin anh qua đời còn hơn là sống trong thắc thỏm đợi chờ…
Đạt ngồi im một lúc rồi lắc đầu:
- Cũng đã có lần tôi nghĩ tới chuyện trả lại thân xác cho chồng cô, nhưng thật sự tôi không làm được, tôi không biết phải làm cách nào… Đành vậy thôi cô ạ!
Huệ vội nói:
- Không, nếu anh đồng ý tôi sẽ có cách! Sẽ có người giúp đỡ…
Đạt nhìn Huệ thật lâu rồi như hiểu ra mọi chuyện, anh ngồi xuống thở dài:
- Thì ra cô đã nhờ người khác can thiệp vào chuyện này? Mà thôi, tôi cũng không muốn kéo dài đời sống ốc mượn hồn này nữa, tôi bằng lòng, nhưng cô phải giữ đúng lời hứa là che chở vợ con tôi chứ? Còn chuyện anh Đạt có bị đền tội trước pháp luật hay không điều đó với tôi không quan trọng, vì tôi cũng biết anh ấy không cố ý. Tôi chỉ giận anh đã không trả xác tôi về với vợ con…
- Tôi hứa… tôi xin lấy mạng sống của mình ra mà hứa với anh!
Huệ vừa khóc nấc lên vừa nói.
- Thôi được rồi, tôi cũng mệt rồi! Cô về phòng ngủ đi!
- Cảm ơn anh, tôi cảm ơn anh niều lắm! Xin anh tha tội cho vợ chồng tôi…
Huệ vẫn khóc ròng.
 
***
Cả khu làng nhỏ ồn ào hẳn lên khi hay tin người ta tìm được xác anh thanh niên mất tích hơn tuần nay. Cái xác bị mắc vào những cành cây rậm rạp ở lưng chừng núi.
Khi xác chết được mang về nhà, mọi người kiểm tra khắp nới vẫn không thấy những dấu hiệu bị sát hại nên cuối cùng họ kết luận anh thanh niên chết do sơ ý sa chân xuống núi.
Người vợ trẻ đau đớn khóc than, nhưng cô vẫn thấy nhẹ lòng khi biết đích xác chồng mình đã không còn nữa.
Ngay trong ngày tang lễ, người đàn bà sang trọng hôm trước lại tới. Và mọi việc đều do người đàn bà ấy lo chu toàn.
Sau đám tang, dân làng ai cũng mừng cho mẹ con cậu bé gặp may, vì được một người phụ nữ quý phái, giàu sang nhận làm em kết nghĩa và đưa về Sài Gòn mua cho một căn nhà để mẹ con sinh sống.
Đạt không nhớ gì về những chuyện đã qua, nhưng anh luôn nhớ lời vợ căn dặn:
- Ni là em gái của em, nó là ân nhân đã cứu em thoát chết. Vì vậy vợ chồng mình phải thương yêu, lo lắng cho mẹ con nó nghe anh?
Nhiều năm sau nữa, khi Đạt và Huệ đã có với nhau hai đứa con và Ni cũng đã đi bước nữa với một người bạn của Đạt thì mối thâm tình giữa hai gia đình vẫn mãi keo sơn.
Nhưng bí mật này chỉ có Huệ, Trầm và Khâm biết được!
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:32:43 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

Thay đổi trang: 123 > >> | Trang 1 của 4 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 99 bài trong đề mục