Truyện ma của Nguyễn Thị Mộng Thu

Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 2 của 4 trang, bài viết từ 31 đến 60 trên tổng số 99 bài trong đề mục
Tác giả Bài
nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 20:52:50
KHÚC NHẠC MA
 
Tâm có một thú vui rất lớn, đó là thú sưu tầm những chiếc cassette cổ, chiếc nào càng cổ càng được cô quý trọng nâng niu.
Nhưng Tâm không giàu có, không thừa thãi tiền bạc như những người có thói quen sưu tầm khác. Cô chỉ là một công nhân tầm thường, sống tiện tặn với đồng lương eo hẹp của mình.
Tâm sưu tầm chủ yếu bằng cách… xin hoặc trao đổi. Thời buổi bây giờ, dù là những người ở nông thôn họ cũng thích se sua, sắm sửa cho bằng chị bằng em. Hễ thấy nhà bên cạnh có tivi màu, thì nhà bên này cũng cố sống cố chết ráng mua cho được. Cassette là thứ mà bây giờ người ta ít khi dùng tới, thay vào đó là các loại đầu đĩa năm số, sáu số hợp thời và tiện dụng. Những chiếc cassette cũ thường thì người ta đem bán ve chai, hoặc gặp người tiếc của thì cứ bỏ vào một góc nào đó trong xó nhà cho xong.
Cái cassette đầu tiên Tâm có được là đổi bằng mấy gói mì tôm. Sau đó lần lượt cô có được nhiều cái khác cũng bằng những cách tương tự như thế. Và hiện giờ thì Tâm đã có trong tay mười chín chiếc!
- Ê, mai chủ nhật, về nhà mình chơi đi!
Hải vừa bỏ áo quần vào ba lô vừa rủ rê.
Tâm chần chừ:
- Nhưng…
Hải gạt phắt:
- Còn nhưng nhị gì nữa? Mệt bà quá đi! Mau soạn đồ đạc đi với tui, về đó tui kiếm thằng nào coi được tui gả cho.
Tâm cười khì:
- Tui chỉ muốn làm chị dâu bà thôi, được không?
Hải thở dài:
- Đáng ra là rất được, nhưng vì tui thương bà, tui không muốn bà khổ nên hổng đời nào tui gả bà cho ông anh mắc dịch của tui đâu.
Tâm ngạc nhiên:
- Ủa, lâu nay mình tưởng anh Vũ tu tâm dưỡng tánh rồi chứ?
Hải chép miệng than:
- Phải được vậy thì tốt biết mấy! Nhà tui thiệt vô phước, chỉ có một ông con trai mà không nên thân nên hình gì, suốt ngày quậy quạng làm má tui khóc hết nước mắt. Mới hai mươi mấy tuổi đầu mà sáng say chiều xỉn, có đứa con gái nào mà dám đâm đầu vô làm vợ?
Tâm tò mò:
- Rồi bây giờ anh Vũ vẫn ở nhà cho ba má Hải nuôi sao?
Hải lắc đầu:
- Không! Ổng cũng đi làm! Nghe đâu hiện tại đi làm thợ hồ ở một công trình nào đó trên tỉnh, nhưng mệt lắm Tâm ơi, đi vài tháng về là ba má mình phải chạy vạy một số tiền trả nợ cho ổng, bởi mắc ổng nên nhà mình cất đầu lên hổng nổi đó!
Tâm an ủi bạn:
- Thôi, đừng quá bi quan như vậy, biết đâu mai mốt ảnh thay đổi, lo lắng cho gia đình trở lại.
- Cầu cho bà nói trúng giờ linh!
Hải cười.
- Sao? Đi với tui nghen?
Hải lại hỏi.
Tâm cười gật đầu:
- Ừ, đi thì đi, ở nhà một mình không làm gì cũng buồn.
Hải cười tươi:
- Ừ, phải vậy mới được chứ! Bà tối ngày cứ đi làm về là loay hoay với cái đống ve chai đó, riết chắc bà cũng trở thành phế thải như nó luôn cho coi!
Tâm không nói gì chỉ mỉm cười. Hải làm sao hiểu được niềm vui của Tâm mỗi khi nâng niu một chiếc máy cũ. Cô đã từng tưởng tượng ra cảnh những gia đình ấm cúng, quây quần bên nhau dưới đêm trăng sáng để nghe Thanh Sang – Thanh Nga hát vở tuồng Bên cầu dệt lụa; cảnh đôi vợ chồng già nằm đu đưa trên võng những buổi trưa hè oi ả thả hồn mình theo giọng hát của Nữ hoàng sầu muộn Út Bạch Lan hoặc những giọng ca không thể lẫn vào đâu được của Bạch Tuyết, Út Trà Ôn… Hay những cặp vợ chồng mới cưới, đêm đêm gối đầu lên tay nhau nghe Lệ Thủy, Minh Vương hát những vở tuồng yêu đương tha thiết…
Mỗi một chiếc cassette gắn liền với một gia đình, với những niềm vui và nỗi buồn dưới một mái nhà nào đó.
Mười chín cái, mười chín cuộc đời. Tâm đang cố phấn đấu trong năm nay tìm được một chiếc nữa cho đủ với số tuổi hai mươi tròn trịa của mình!
- Xong chưa? Lên đường!
Hải xốc lại ba lô trên lưng giục Tâm.
Tâm cười, đứng lên bwosc theo sau Hải, và khi cả hai đã ra khỏi phòng, Tâm quay vào khóa cửa rồi nhẹ nhàng ngồi sau xe cho Hải chở.
Hải sửa lại chiếc mũ bảo hiểm trên đầu cười nói:
- Ôm cho chặt vào nghen, tay lái lụa bắt đầu khởi động đây!
Tiếng động cơ nổ giòn giã, cùng với tiếng đùa vui vẻ của hai cô gái vang lên trong buổi sớm ban mai ở khu nhà trọ ọp ẹp dành cho công nhân nghèo thuê mướn.
 
***
Hơn ba tiếng đồng hồ sau Hải và Tâm và đến nơi. Đứa em gái của Hải vừa nghe tiếng xe dừng trước nhà đã vội vã chạy ra mừng chị, té nhào nơi bậc cửa khóc váng lên.
- Ôi, tội nghiệp chưa! Nín đi em, nín đi!
Tâm chạy vội tới đỡ bé Thi lên, chắc con bé vẫn còn đau nên miệng méo xệch và vẫn nức lên nho nhỏ mặc dù trong tay đã ôm thật nhiều quà bánh của hai chị dỗ dành.
Nhà Hải chỉ có ba anh em, nhưng anh Hai của Hải lại làm cho gia đình buồn phiền và nhiều phen xấc bấc. Hải thì ngược lại, học chưa hết phổ thông, thấy gia cảnh nhà mình thiếu trước hụt sau, cô quyết định nghỉ học đi làm, chắt chiu từng đồng đem về cho cha mẹ. Bé Thi em Hải mới lên sáu.
Hai năm gần đây, đất ruộng nhà Hải bị giải tỏa và được đền bù một tiền khá lớn, nhờ có vốn làm ăn buôn bán nên gia đình Hải có khá hơn trước, nhờ vậy gánh nặng trên vai Hải cũng vơi bớt.
Tâm và Hải chơi thân với nhau từ mấy năm nay, cả hai vẫn thường xuyên về nhà nhau chơi trong những ngày nghỉ nên mối thân tình rất sâu đậm. Cả Hải và Tâm đều rất tự nhiên, thoải mái mỗi khi về chơi nhà bạn, và gia đình Hải, gia đình Tâm cũng coi cả hai cô như con cái trong nhà.
Khi cả nhà vừa ngồi vào bàn ăn thì thật bất ngờ anh Hai của Hải về tới.
Với cái dáng đi khệnh khạng, nghênh ngang, Vũ đi vào nhà, nhăn nhở mỉm cười chứ không chào hỏi riêng ai.
Ông Năm, ba Hải ngó vũ trừng trừng:
- Mầy lại lết đầu về rồi sao? Lại gây ra bao nhiêu nợ nần rồi?
Bà Năm chưa kịp can thì Vũ bật cười hềnh hệch:
- Ba nói gì kỳ vậy ba? Con đi làm ăn xa, nhớ ba má, nhớ mấy em nên về thăm… Con bây giờ khá giả rồi, ba má đừng lo cũng đừng khinh thường con như trước nữa.
Ông Năm khịt khịt mũi không thèm lên tiếng.
Bà Năm vội đứng lên lấy thêm chén đũa:
- Ngồi vô bàn ăn cơm luôn đi con!
Vũ đi tới bên bàn, nghiêng ngó nhìn mấy món ăn đơn giản trong mâm cơm và lắc đầu:
- Con thương ba má và các em quá, quanh năm suốt tháng vẫn chỉ những món này. Từ nay con sẽ báo hiếu cho ba má, con không để ba má sống kham khổ nữa đâu.
Không dằn được, ông Năm dằn mạnh chén cơm xuống bàn:
- Mầy có dẹp ngay cái giọng phách lối đó đi cho tao nhờ không? Thiệt đúng là đồ…
Bà Năm lầm bầm:
- Thôi thì ông cứ mặc nó nói gì thì nói, coi như thằng điên nói đi, hơi đâu tức giận cho mệt.
Rồi quay sang Vũ bà nói với vẻ mệt mỏi:
- Còn mầy có ăn thì ngồi vào, không thì đi chỗ khác, đừng làm người khác bực mình!
Vũ lại cười hề hề, vòng ra sau lưng bà Năm, ôm lấy vai bà nịnh nọt:
- Má! Con thương má nhứt trong cái nhà này! Má đừng lo cho con, con trai của má phát tài rồi!
Vừa nói, Vũ vừa cười hô hố rồi ngồi bệt xuống sàn nhà, mở cái giỏ xách đeo trên vai ra, lục lọi lấy ra một con vịt quay béo ngậy.
Vũ hất hàm nói với Tâm:
- Ê! Em là Tâm phải hôn? Nè… đứng lên chặt con vịt này dọn ăn đi em! Còn Hải, mầy cũng đứng lên, lấy bánh mì nè dọn cho ba má với mấy em ăn cho ngon lành đi…
Tâm và Hải cùng đứng lên, nhưng Hải cằn nhằn:
- Mới giờ này mà ông xỉn rồi đó hả? Tui không biết tới năm nào tui gặp ông mà không thấy ông say xỉn.
Vũ không phật lòng mà còn cười trước lời nói của Tâm:
- Xỉn đâu mà xỉn mậy, mấy đứa bạn rủ uống chút đỉnh thôi mà! Mầy sao khắt khe với anh trai quá, mai mốt lấy phải thằng chồng mầy mới biết thông cảm cho anh mầy!
Hải trề môi:
- Tui mà lấy nhầm thằng chồng giống ông, tui ly dị liền!
Bà Năm rầy:
- Thôi, hơi đâu mà đi đôi co với mấy thằng nhậu! Tụi mầy cũng rảnh hơi lắm hay sao?
Tâm lẳng lặng đi chặt vịt, Hải cắt bánh mì và dọn ra mâm. Sau đó cả nhà ngồi vào ăn nhưng Vũ vẫn còn ngồi dưới đất.
- Mầy không ăn luôn cho tụi nó dọn dẹp?
Bà Năm hỏi.
Vũ lắc đầu:
- Con mua về cho ba má với mấy em ăn đó chớ, con mà ăn uống gì má ơi!
Hải vừa cắn miếng bánh mì vừa nói bâng quơ:
- Ăn cơm xong ra ôm củi vô nghen Thi, lát nữa thế nào trời cũng bão.
Thi ngây thơ hỏi lại:
- Chị coi dự báo thời tiết hả chị?
Hải không nói gì còn Tâm thì liếc nhìn Thi rồi tủm tỉm cười.
Bé Thi láu táu, ăn một hơi mấy miếng thịt quay nên đâm ra ngán, nó vừa tuột khỏi bàn thì Vũ đã ngoắt lại:
- Ê, út Thi! Lại đây anh Hai lì xì cho nè!
Thi hí hửng sán lại kế bên Vũ.
Vũ thò tay vào túi lấy ra một nắm tiền lẻ nhăn nhúm đưa hết cho Thi:
- Nè, anh Hai lì xì!
Thi mừng rối rít:
- Em cám ơn anh Hai!
Con bé nói xong, cũng ngồi bẹp xuống bên cạnh, cầm từng tờ tiền vuốt ra cho thật phẳng phiu.
Vũ ngồi nhìn em và cười thật hiền.
Bất chợt như nhớ ra, Vũ lục trong giỏ xách ra mấy thứ lặt vặt:
- Cho em nè, cho em làm đồ chơi!
Vừa lựa ra mấy món đồ vụn vặt, Vũ vừa nói. Con bé Thi còn đang mãi vuốt tiền, nó chỉ đưa tay quơ vội đống quà hỗn tạp đó vào lòng mà không chú ý gì đến.
Nhưng có một người đang rất chú ý, đó là Tâm. Bởi trong lúc vô tình, Tâm nhìn thấy trong đồ chơi Vũ cho Thi có một chiếc cassette cũ mèm và nhỏ xíu.
Dọn dẹp chén bát xong xuôi, Tâm đến bên bé Thi:
- Cho chị mượn cái này chút nghen bé Thi?
Vừa nói Tâm vừa cầm cái cassete lên.
Thi mỉm cười gật đầu:
- Dạ, em cho chị chơi chung đó!
Hải từ dưới bếp đi lên trông thấy cười thật tươi:
- Rồi, trúng hệ của cô nàng rồi!
Tâm cười. cô cầm chiếc cassette lên ngắm nghía. Nó cũng bình thường giống những chiếc khác cùng thời, nhưng lại nhỏ nhắn một cách đáng yêu. Chắc đây là vật dành riêng cho một người chứ không phải dùng chung cả gia đình, và chắc hẳn người này thường đi đây đi đó.
Thời đó, có lẽ đây là một vật đắt tiền, vì lớp vỏ của nó đã qua rất nhiều năm mà vẫn sáng lên một cách kỳ lạ, không xỉn màu như những chiếc mà Tâm đã có. Chỉ duy nhất có mấy cái nút là cũ kỹ, có cái xục xịch như sắp sửa rơi ra.
- Thi tặng chị Tâm cái đó đi nghen?
Hải ngồi xuống dỗ dành.
Bé Thi ngước lên chưa kịp nói gì thì Vũ đã xen vào:
- Ôi, ba cái đồ bỏ đó mà lấy làm gì? Nếu Tâm thích chút nữa anh đi mua tặng em một cái thật tốt.
Hải bụm miệng nín cười, rồi lại le lưỡi với Tâm. Tâm cũng cười theo nhưng không nói gì.
- Anh Hai không biết rồi, con Tâm nó đang sưu tầm cassette cũ, chứ đâu phải nó cần dùng.
Hải vừa cười vừa nói.
Vũ ngạc nhiên:
- Sưu tầm? Sưu tầm ba cái đồ ve chai này làm gì vậy Tâm?
Tâm cười:
- Dạ, em thích để chơi vậy thôi chứ có làm gì đâu anh Vũ!
- Thiệt hết biết!
Vũ nói. Rồi quay sang móc túi đưa cho bé Thi mấy cục kẹo, hất mặt về phía Tâm:
- Nè, anh đền cho mấy cục kẹo, cho chị Tâm cái máy đó đi nhe bé Thi?
Thi cười lỏn lẻn, liếc nhìn Tâm:
- Em cho chị luôn đó!
Tâm cười tươi:
- Chị cám ơn bé Thi rất nhiều. Mai mốt chị Hải về, chị sẽ gởi tặng bé Thi một con gấu bông thiệt lớn nghen?
Bé Thi cười toét miệng, phô hai hàm răng sún.
Tâm cảm thấy một niềm vui kỳ lạ đang len lỏi trong lòng. Đã hai mươi lần Tâm đón nhận những món đồ như vầy, nhưng không hiểu sao lần thứ hai mươi này Tâm mới cảm thấy lạ kỳ như thế. Giống như giữa Tâm và chiếc cassette này có một mối dây liên kết nào đó vô cùng mật thiết.
Cầm nó trong tay, Tâm nghe lòng mình chợt rưng rưng xúc động, một nỗi xúc động mà lâu nay Tâm chưa lần nào trải qua.
Tối hôm đó, khi đã trở về nhà trọ, Tâm say sưa lau chùi, đánh bóng lại những chỗ hoen rỉ, cố gắn lại mấy cái nút bị lung lay. Chỉ một loáng sau, chiếc cassette đã như lột xác, mới tinh, sáng bóng một cách kỳ lạ.
Tâm nằm xuống giường ngủ mà trên tay vẫn còn cầm chiếc cassettte không chịu rời ra.
Đêm hôm ấy, Tâm mơ một giấc mơ thật lạ. Cô thấy mình tay trong tay với một chàng trai, đi tới một miền đất nào đó hoàn toàn xa lạ, nơi đó có rất nhiều hoa, rất nhiều bướm và đặc biệt là lúc nào cũng có tiếng nhạc du dương êm dịu bên tai.
- Đó là khúc hát ru dành cho người con gái anh yêu!
Chàng trai thì thầm bên tai Tâm.
Tâm đỏ mặt mỉm cười.
Tâm thấy chân mình bước đi rất nhẹ nhàng, hình như cô đang lướt nhẹ trên mây, tất cả đều huyền hoặc, mơ hồ nhưng cảm xúc lại rất sâu đậm.
Giật mình choàng tỉnh, Tâm vẫn còn nghe văng vẳng bên tai khúc nhạc du dương kỳ ảo ấy.
Từ hôm đó, mỗi khi đi làm Tâm luôn có cảm giác nóng ruột, cứ mong ngóng được về phòng.
- Bà làm gì mấy bữa rày lạ vậy?
Hải thắc mắc.
Tâm mỉm cười:
- Mình cũng không biết tại sao nữa, tự nhiên cảm thấy nôn nao muốn về phòng. Mỗi khi về tới nhà trọ của mình là trong lòng thấy vui lắm, thấy hạnh phúc lắm.
Hải bật cười:
- Bà có tương tư ông nào ở đó không vậy?
Giả bộ suy nghĩ một lát Hải reo lên:
- Ê, tui biết rồi nghe! Bà tương tư ông chủ nhà chứ không ai vào đây hết! Bởi vì đám công nhân tụi mình đứa nào khô ng đi làm, bà đâu có nôn về làm gì? Chỉ có ông chủ nhà là tối ngày ngồi ở cổng, bà mong về để nhìn mặt ổng cho đỡ nhớ chứ gì?
Tâm thụi vào lưng Hải một cái thật đau:
- Đồ quỷ! Ăn nói bậy bạ!
Hải cười hắc hắc:
- Chứ ai biểu bà thân xác ở đây mà hồn vía thả đi đâu, suốt ngày cứ ngơ ngơ ngác ngác như kẻ si tình!
Tiếng kẻng báo hết giờ giải lao vang lên, Tâm và Hải hòa vào dòng người đông đúc trở về vị trí của mình.
Sau lúc cười đùa với Hải, giờ đây Tâm vẫn thấy lòng mình nôn nóng một cách lạ lùng.
Và hôm nào cũng vậy, vừa về tới phòng là Tâm nhào lên giường ôm cái cassette vào lòng, nhắm mắt lại nghe thật thanh thản, bình yên. Bên tai Tâm lại vẳng lên khúc nhạc du dương êm ái đêm nào.
Ngày tháng cứ trôi qua như thế, Tâm mỗi lúc một xa rời với tất cả bạn bè, kể cả Hải. Sau giờ làm việc, niềm vui, niềm hạnh phúc duy nhất của Tâm là nằm yên lặng một mình trên giường, thỉnh thoảng Hải chạy qua nằm chung cũng khiến cho Tâm khó chịu.
Những thay đổi đó của Tâm dần dần ai cũng nhận ra. Hải rất lo lắng:
- Mình thấy dạo này Tâm lạ quá! Hay tại bọn mình làm gì đó khiến Tâm phật lòng nên không muốn chơi với mình nữa?
Tâm ôm Hải thân thiết:
- Sao lại nói vậy? Hải không hiểu mình à? Mình lúc nào cũng yêu thương và quý mến Hải cùng các bạn, mình có không chơi với ai đâu?
- Nhưng tại sao? Tâm có biết mình thay đổi nhiều lắm không?
Hải nhìn vào mắt Tâm.
Tâm thở dài:
- Thật sự mình cũng không thể hiểu nỗi. Hình như mình mắc phải một chứng bệnh gì đó, lúc nào mình cũng muốn ở một mình, không muốn giao tiếp với ai. Mình chỉ thật sự cảm thấy vui vẻ, hạnh phúc khi được ở một mình…
Hải trố mắt nhìn Tâm:
- Lạ đến thế sao? Mình cũng nghe nói nhiều đến các dạng tâm thần, trầm cảm hay xì- trét gì gì đó, nhưng mà những người bịnh đó thường buồn bã lo lắng, u sầu ủa dột… Còn Tâm thì lại vui vẻ thế này, nhìn Tâm ai không biết còn tương mới lấy chồng hay sao ấy, hạnh phúc cứ ngời ngời trên mặt. Nhưng sao lại thế chứ?
Tâm lắc đầu và trở lại giường của mình, ôm chiếc máy cassette vào lòng lim dim nhắm mắt.
- Ê Tâm, bộ cái máy đó còn hát được hả? Sao thấy lúc nào bà cũng ôm nó hết vậy?
Phượng nằm kế giường Tâm bỗng hỏi.
Tâm nhoẻn cười:
- Đâu có! Mình chưa bỏ pin vô nên không biết nó còn hát được không nữa, chỉ tại mình thấy thích nó quá vậy thôi!
Phượng lắc đầu:
- Hết biết bà! Tối ngày đi tha về mấy đồ ve chai, rồi bây giờ lại ôm ấp nâng niu nó nữa. Đừng nói một ngày nào đó bà tương tư một cái cassette cổ nào nhe?
Tâm và Phượng cùng bật cười. Nhưng Hải thì khác, vừa nghe Phượng nói câu đó cô thoáng giật mình thầm nghĩ:
- Có khi nào?... Trời ơi… nếu thế thì phải làm sao đây?
Hồi nhỏ, Hải thường nghe người ta kể rằng có những món đồ cũ, những gốc cây lâu năm sẽ biến thành ma quái, hoặc là hồn người chết vì quá yêu quý đồ vật của mình nên không nỡ rời xa, linh hồn đeo bám mãi vào món đồ đó. Bây giờ khi nghe Phượng nói đùa như vậy Hải lại lo sợ vô cùng.
Hôm sau khi tan tầm, trong lúc Tâm còn ghé qua chợ mua thức ăn về nấu bữa cơm chiều thì Hải vội vã về trước. Cô lục lọi đồ đạc của Tâm và lấy cái cassette cũ đem giấu kỹ dưới rương quần áo của mình.
Vừa về đến nhà, chưa kịp thay quần áo, Tâm đã tìm chiếc máy hát ấy.
- Có bạn nào thấy cái cassette của mình không?
Tâm hớt hơ hớt hãi hỏi.
Mọi người đều lắc đầu. Và thế là Tâm xới tung lên mọi thứ quyết tìn cho bằng được chiếc cassette đó. Tất cả mền mùng chiếu gối đều bị Tâm xổ tung ra, vứt ngổn ngang dưới đất, nhưng chiếc máy hát vẫn bặt vô âm tín.
Tuyệt vọng, Tâm ngồi thừ ra giường rồi đột ngột úp mặt vào hai bàn tay khóc lên rưng rức.
Các bạn cùng phòng hết sức lo lắng cho Tâm. Không ai hiểu cái máy đó có gì là quý giá khiến Tâm phải tiếc đến như vậy? Trong khi hồi nằm ngoái, Tâm đã làm mất trọn một tháng tiền lương mà thấy cô có đau đớn đến mức đó đâu?
- Cái đó đem bán đâu được mấy ngàn, nên chắc không phải ăn trộm vô lấy đâu. Tâm tìm kỹ lại đi, coi nó có lẫn vào đâu không?
Phượng vừa giúp Tâm giũ giũ mấy cái mền vừa nói.
- Mình đã tìm rất kỹ rồi, không biết nó ở đâu nữa!
Phượng lại an ủi:
- Thôi đừng buồn, mình biết đó là cái thứ hai mươi của Tâm, nếu lỡ mất rồi thì để ít ohom nữa mình về quê sẽ đến nhà ông chú xin cho Tâm cái khác. Gì mà khóc dữ vậy làm bọn mình xót ruột quá nè!
Nhưng mặc cho bạn bè hết lời khuyên dỗ, Tâm vẫn không thôi khóc. Cô khóc lặng lẽ, đau đớn như một đứa thất tình.
Hải thấy lòng ray rứt quá, đã mấy lần cô muốn lên tiếng nhưng rồi Hải quyết tâm thực hiện cho xong cuộc thử nghiệm này.
Xuống bếp nấu cơm một mình, xong đâu đấy Hải dọn lên và nói với Tâm:
- Tới ăn cơm nè, đừng ở đó khóc than nữa, để rồi mình nhờ anh Hai tìm cái khác giống vậy cho!
Tâm vẫn không nói gì và… vẫn khóc!
Đêm hôm đó hầu như Tâm không ngủ được chút nào. Cô ngồi lặng trên giường xong rồi lại đi ra hành lang, đi vào mấy lượt.
Sáng hôm sau, Tâm xin nghỉ phép vì bệnh.
Cả phòng trọ đồn ầm lên cái chuyện Tâm sinh bệnh do mất cái máy cassette cũ. Ai cũng tỏ ra ngạc nhiên trước cái tin lạ đời đó. Tâm bỏ qua hết những lời đàm tiếu dị nghị, cô chỉ biết ôm lấy nỗi buồn đang nặng trĩu trong lòng mình.
Hải lén mang cái cassette ấy ra công viên, cô mua pin lắm vào, chưa kịp kiểm tra lại các nút thì từ trong chiếc máy vang lên một tiếng rú rùng rợn đến ghê người. Hải hốt hoảng bật tung cái hộc chứa băng ra thì thấy trong hộc trống trơn không hề có cuộc băng nào trong đó. Mà cái cassette này lại không có chứ năng radio, thế thì cái tiếng quái quỷ kia từ đâu mà có?
Hoảng sợ, Hải run rẩy tháo pin ra và đem trở về phòng lén đặt lên đầu giường của Tâm.
Vừa đi ra ngoài về, Tâm suýt ngất đi vì mừng rỡ. Cô reo váng lên:
- Tìm thấy rồi! mình tìm thấy nó rồi!
Tâm ôm chặt cái cassette vào lòng như sợ một lần nữa nó rời bỏ mình và sẽ không bao giờ quay trở lại.
- Tâm nói thiệt cho mình biết đi, cảm giác của Tâm với cái vật này là sao vậy?
Hải đặt tay lên tay Tâm hỏi nhỏ.
Tâm cúi mặt, ấp úng:
- Mình… mình không biết! Hình như là mình với nó có một mối liên hệ đặc biệt nào đó không phân tích được. Chỉ biết rằng từ ngày có nó, đêm nào mình cũng mơ những giấc mơ êm đềm, hạnh phúc lắm. Từ trong chiếc máy này, mình luôn nghe vẳng lên một điệu nhạc du dương kỳ bí, điệu nhạc làm cho tâm hồn mình như bay lên chín tầng trời…
- Tiếng nhạc du dương?
Hải kinh ngạc hỏi lại.
Tâm gật đầu xác nhận:
- Đúng! Khúc nhạc như ru mình vào giấc ngủ, như dìu mình đi vào cõi mộng đầy hoa đầy bướm…
- Không phải tiếng kêu rùng rợn sao?
Hải thắc mắc.
- Sao? Sao Hải lại nghĩ đó là tiếng kêu rùng rợn?
Tâm hỏi lại.
Hải ấp úng:
- Ờ… thì tại mình đoán vậy thôi mà!
Tâm mơ màng:
- Không phải tiếng kêu thét gì đâu, đó là một khúc hát ru tuyệt vời, khúc hát ru của người yêu dành tặng người yêu…
Hải ngẩn người ra nghe Tâm nói. Trong lòng cô đầy ắp sự lo lắng hoang mang. Hải biết mình cần phải làm điều gì đó để kéo Tâm ra khỏi giấc mộng liêu trai này.
Sáng hôm sau Hải xin nghỉ quê có việc gia đình.
Tâm ân cần hỏi:
- Nhà có chuyện gì vậy Hải?
Hải lắc đầu:
- Mình cũng không biết, nghe má nhắn về vậy thôi hà!
- Ờ, mình mong mọi việc tốt đẹp!
Tâm động viên.
Hải gật:
- Ừ, mình đi nghen!
Vừa về đến nhà, Hải xộc vào như cơn gió:
- Má, anh Hai có nhà không má?
- Trời đất! Con này hôm nay bị làm sao vậy? Về tới nhà chưa kịp chào hỏi ai, lo kiếm nó làm gì mà hớt hãi vậy?
Bà Năm vừa mắng yêu con gái xong chợt lo lắng:
- Hay nó đã gây ra chuyện gì nữa rồi?
Hải lắc đầu:
- Dạ không! Anh Hai đâu rồi má?
Bà Năm chép miệng than:
- Cả tuần nay nó nằm nhà, không biết tiền ở đâu mà khoe nhiều lắm, rồi sáng nào cũng ra quán ngồi tới trưa, từ trưa ngồi tới chiều… Thiệt là con với cái!
Hải gọi lớn:
- Thi ơi, Thi! Em chạy ra quán kêu anh Hai về gấp giùm chị nghen! Có chuyện gấp lắm!
- Dạ!
Thi dạ một tiếng thật lớn rồi lon ton chạy ra cổng.
Bà Năm ngạc nhiên hỏi Hải:
- Chuyện gì vậy con?
Hải ngồi phịch xuống võng thở gấp:
- Con muốn hỏi anh Hai về chuyện cái cassette.
- Trời đất! Tưởng chuyện gì quan trọng, ba cái đó mà làm tao hết cả hồn vía!
Bà Năm trách con.
Vừa lúc đó Vũ từ ngoài cửa đi vào cười toe toét:
- Em mới về hả Hải? Có chuyện gì mà gọi anh gấp vậy?
Hải đang nằm trên võng, nghe tiếng Vũ cô chồm dậy:
- Anh Hai, anh đang tỉnh hay có uống rượu vậy?
Vũ nhăn răng cười:
- Mầy cứ nghĩ xấu cho anh! Có chuyện cần anh mới uống chứ!
Hải kê sát mặt vào Vũ, mỉm cười:
- Ờ… mới thấy lần đầu đó! Công nhận anh Hai có tiến bộ. Chiều nay em đãi cho một bữa!
Vũ cười, hỏi lại:
- Kiếm anh có chuyện gì?
Hải không cười nữa, cô nhìn Vũ hỏi:
- Anh nói cho em biết đi, cái cassette hôm rồi ở đâu anh có vậy?
Vũ giật mình lùi lại:
- Sao… sao em lại hỏi câu đó?
Thấy thái độ của Vũ, Hải nhăn mặt nói dồn:
- Vậy là anh Hai biết rõ phải hôn? Biết mà còn cố tình đem về phải hôn? Rồi lại còn làm như tốt bụng đem tặng cho Tâm nữa chứ. Anh làm hại nó rồi đó, anh có biết không?
Bà Năm đứng gần đó nghe câu được câu mất, lo lắng hỏi:
- Cái gì vậy bây? Thằng Vũ lại làm hại ai nữa rồi?
Vũ gãi gãi tai:
- Đâu có gì, má đừng nghe nó nói bậy!
Nói xong, Vũ kéo tay Hải đi ra sân, hai anh em ngồi bệt xuống hành lang nói chuyện.
- Mầy đừng nói cho ba má biết, ổng bả buồn tội nghiệp!
- Anh cũng biết tội nghiệp ba má nữa sao? Biết tội nghiệp sao anh còn ác vậy?
Hải ấm ức.
Vũ vò đầu:
- Khổ quá, tao có ác ý gì đâu, tại thấy Tâm thích quá tao cho chứ có gì. Nó bị sao rồi, có ai nhận ra hả?
Hải không thèm trả lời câu hỏi của anh mà hỏi lại:
- Nhưng anh biết cái máy đó có ma, sao lại còn đem về nhà?
Vũ ngẩn người ngạc nhiên:
- Em nói gì? Cái gì mà có ma cỏ ở đây nữa?
Hải trố mắt nhìn anh:
- Ủa… vậy… anh không biết gì về nó sao?
Vũ cũng nhìn Hải trân trối:
- Còn em…em biết gì về nó?
Hải ngồi sững một lúc rồi nói:
- Thôi được rồi, anh nói cho em biết đi, anh lấy cái máy đó từ đâu?
Vũ liếc mắt ngó xung quanh rồi ngồi sát lại Hải nói thầm:
- Anh nói cho một mình em biết thôi nhe, không được nói với ai khác đó!
Hải gật đầu đồng ý:
- Được rồi! anh nói đi, em hứa!
- Mà cũng không được mắng anh!
Vũ dặn thêm
- Được rồi, anh nói mau lên!
Vũ lấm lét ngó Hải và nói:
- Anh… anh đào trộm một ngôi mộ vô chủ.
Hải giật bắn người, run rẩy:
- Anh… anh dám… dám làm chuyện đó?
Vũ đưa hai tay lên che mặt:
- Anh đã dặn rồi, không được mắng anh mà!
Hải nuốt giận, gằn giọng:
- Thôi được, anh kể tiếp đi!
Vũ khẽ liếc Hải, lắp bắp kể:
- Anh… anh đào trộm ngôi mộ đó, ở dưới đó có một số vàng, một cây đàn và một chiếc cassette. Anh lấy đồ đạc rồi chôn lại đàng hoàng tử tế, anh cũng có khấn vái, người chết rồi đâu có dùng được những thứ này, xin cho anh dùng, vậy thôi!
Hải nghiến răng:
- Thiệt hết biết anh! Chuyện như vậy mà anh cũng làm được!
Vũ ngồi ủ rũ vẻ hối lỗi, bỗng sự nhớ ra Vũ hỏi:
- Em nói cái cassette đó có vấn đề gì à?
Hải thở dài:
- Hình như nó có ma!
Vũ giật bắn người:
- Có chuyện đó nữa sao?
Hải kể lại tỉ mỉ cho Vũ nghe tất cả mọi chuyện xảy ra với Tâm từ hôm có cái cassette bên mình.
Nghe xong, Vũ ngồi đăm chiêu rồi ôm đầu khổ sở.
- Má không ngờ con lại dám làm những chuyện như vậy!
Hải và Vũ đều giật mình khi bất ngờ nghe tiếng bà Năm.
Bà Năm từ từ đi ra, buồn bã:
- Má nghi lắm mà, nghi thế nào con cũng làm chuyện gì không hay nên mới có tiền tiêu pha mấy ngày nay. Nhưng má thật không ngờ con lại dám làm những chuyện vô đạo đức như vậy. Đào mồ cuốc mả người ta, con không còn là con người nữa rồi Vũ ơi…
Bà Năm nghẹn ngào.
Hải đứng lên ôm vai mẹ, an ủi:
- Má đừng buồn, anh Hai lỡ làm chuyện không phải đó rồi, giờ mình có trách mắng gì cũng vậy thôi. Bây giờ má có cách nào tạ tội với người chết thì chỉ giúp cho con, con Tâm đang bị ma ám rồi, phải tìm cách cứu nó mới được má à!
Bà Năm thở dài:
- Má có biết gì đâu. Thì cứ nghĩ theo như người sống của mình đi, có lỗi thì thành tâm xin lỗi, ai cũng vậy, “đánh người chạy đi chứ ai nỡ đánh người chạy lại” bao giờ. Mầy đào mồ người ta ở đâu, mau dẫn tao tới đó mau lên!
Vũ sợ sệt nhìn bà Năm:
- Ở… ở xa lắm, má không đi nổi đâu!
Bà Năm thở hắt ra:
- Mũi dại thì lái phải chịu đòn, tao đã lỡ sanh ra một thằng con vô nghì như mầy thì tao phải chịu, phải cất công đi tạ lỗi với người ta dù đường xa vạn dặm…
Rồi quay lại nhìn Hải, bà Năm nói:
- Con cũng nên dẫn con Tâm đi cùng. Phải có nó mới được chứ!
Hải tức tốc trở về Sài Gòn nài nỉ Tâm về nhà mình có việc gấp. Tâm rất hoang mang nhưng vẫn đi theo bạn, không quên mang theo cái cassette bên người.
Sáng hôm sau, bà Năm, Vũ, Hải và Tâm đi chuyến xe đò sơm nhất để đến một tỉnh lân cận.
Mãi đến xế trưa, Vũ mới đưa mọi người tới bên một khu nghĩa địa hoang tàn.
- Đây! Chính là chỗ này!
Vũ chỉ tay vào một ngôi mộ đất đã bị bào mòn theo năm tháng, giờ chỉ còn là một mô đất hơi nhô cao khỏi mặt đất một chút mà thôi.
Tâm lo sợ hỏi nhỏ:
- Chuyện gì vậy Hải?
Hải kéo tay Tâm vào đứng dưới bóng mát của một tàng cây cổ thụ, nói thầm:
- Tâm à… mình… mình muốn nói với Tâm điều này… Thật ra… thật ra cái cassette mà hôm rồi anh Vũ đem về là do… là do ảnh ăn trộm dưới ngôi mộ này đó! Mình nghi ngờ nó đã bị ma ám nên mới gây ra cho Tâm những chuyện lạ lùng như vậy.
Tâm hốt hoảng bước lùi lại, ôm chặt cái cassette trong tay:
- Không! Không đâu… Không phải vậy đâu mà…
Hải nhăn mặt:
- Tâm đừng cố chấp như vậy. Anh Vũ đã thú nhận điều đó, và hôm nay má mình phải đến tận đây để tạ tội với vong hồn người chết nè, Tâm không thấy sao?
Tâm run rẩy không nói lời nào, chỉ ôm khư khư chiếc máy trong lòng như sợ bị người khác tước đoạt đi mất.
Tỏng lúc Tâm và Hải nói chuyện thì bà Năm đã quỳ xuống trước ngôi mộ, bày ra một mâm trái cây và một số giấy tiền vàng bạc cùng một bó hương.
Bà Năm thắp hương và lầm rầm khấn vái với vẻ thành tâm, cung kính.
Trời đang nắng chang chang bất ngờ mây đen kéo đến đầy trời, gió thổi mạnh cuốn theo vô số lá cây làm thành một màn mỏng trước ngôi mộ hoang vu. Giấy tiền vàng bạc chưa kịp đốt cũng bị hất tung lên bay tá lả trong không trung. Bà Năm nhìn theo bằng ánh mắt lo âu, sợ hãi.
Bất ngờ có tiếng nhạc du dương êm ái vang lên, khiến tất cả những người có mặt đều ngẩn người ngạc nhiên.
Tiếng nhạc dặt dìu một lúc rồi lại chuyển thành tiếng khóc than ai oán nghe rất thương tâm.
Định thần lại, Tâm biết tiếng nhạc quen thuộc ấy phát ra từ chiếc cassette mình đang cầm trên tay. Và lúc này cô có cảm giác nó đang cựa quậy, đang muốn thoát khỏi vòng tay siết chặt của Tâm.
Rất nhẹ nhàng, Tâm từ từ tiến gần bên ngôi mộ, cô quỳ xuống đặt chiếc máy hát xuống đó và tiếng nhạc lại vang lên bay bổng…
Một người đàn ông từ ngoài cổng nghĩa trang đi vào, thấy có người tụ tập ông tò mò đi lại.
- Khúc nhạc này là có thật hay sao?
Người đàn ông kêu lên vừa ngạc nhiên, vừa mừng rỡ.
Hải vội hỏi:
- Bác ơi, khúc nhạc này là sao vậy bác?
Người đàn ông xúc động trả lời:
- Cháu không biết sao? Đây là nấm mồ của một chàng nhạc sĩ tài hoa mất cách đây gần năm chục năm về trước. Cái chết của anh ta rất hy hữu. Trước khi mất, anh vẫn khỏe mạnh bình thường, chỉ là khẳng định với bạn bè: Tôi sẽ đem hết tình yêu thương, khát vọng trong tôi để viết lên một khúc hát ru dành tặng cho người con gái mà tôi yêu sau này… Và thế là anh ta giam mình trong nhà rất nhiều ngày,. Giống như con tằm rút ruột nhả tơ, người nhạc sĩ tài hoa ấy đã viết lên một khúc nhạc có một không hai. Lần đầu anh ta dạo lên, những người dân quanh đó bỗng như ngơ ngẩn vì những hạnh phúc, những niềm vui mà tiếng nhạc kia mang tới. họ ùa đến vây kín nhà anh ta, nhưng hỡi ơi, khi tiếng nhạc vừa chấm dứt cũng là lúc người nhạc sĩ trút hơi thở sau cùng. Cây nến bên cạnh ngã lăn ra làm cháy luôn tờ giấy chép nhạc của anh. Và thế là bài nhạc thất truyền. Nhưng người ta đồn rằng, thỉnh thoảng khúc nhạc đó vẫn vang lên tỏng những đêm trăng thanh gió mát… Tôi cứ ngỡ đó là huyền thoại, không ngờ hôm nay chính tai mình đã nghe được khúc nhạc này…
Tiếng nhạc vẫn vút cao, mọi người như mê đi trong khúc ru huyền diệu.
Tâm đứng lên, cô thấy rõ ràng người thanh niên vẫn thường dắt tay cô trong giấc mơ hàng đêm đang đứng trước mặt cô vẫy tay kêu gọi. Tâm tiến tới, tiến tới thật gần, người thanh niên mỉm cười, khẽ nghiêng đầu nhìn Tâm và hỏi:
- Em có nghe khúc nhạc đó không? Em có thích nó không? Anh viết nó dành tặng riêng cho em đó!
Tâm ngỡ ngàng:
- Tặng cho em? Nhưng… anh đã viết nó cách nay hơn năm mươi năm rồi kia mà?
Người thanh niên mỉm cười, mắt lấp lánh:
- Đúng! Anh đã viết nó hơn năm mươi năm trước, và khi đó em là người con gái mà anh thầm thương trộm nhớ… Nhưng số kiếp của chúng ta, định mệnh của chúng ta không cho phép… Bây giờ được tặng nó cho em là anh đã mãn nguyện lắm rồi.
- Anh… anh…
Tâm bối rối chưa biết nói gì thì bóng người thanh niên đã dần dần tan biến, vẫn còn đâu đó bàn tay vẫy vẫy lẩn khuất trong gió trong mây, khúc nhạc vẫn vang lên da diết…
Tâm từ từ quỳ xuống, hai dòng nước mắt lặng lẽ tuôn trào…
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:36:09 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 20:55:04
NGÓN TAY BÁO OÁN
 
Đã bốn ngày trôi qua rồi mà những người dân trong vùng vẫn chưa hết bàng hoàng bởi cái chết thương tâm của chị Hà và cái bào thai năm tháng tuổi đang nằm trong bụng chị!
Ông Tư, cha đẻ của chị Hà ngồi rũ như tàu lá héo trước bàn thờ đứa con gái lớn, nghẹn ngào khóc không thành tiếng. Bà Tư và Nụ, em gái chị Hà thì ra vào ngơ ngẩn như kẻ mất hồn.
Không ai có thể ngờ chị Hà chết một cách oan uổng đến như vậy!
 
***
Hà là một cô gái đẹp người đẹp nết nhất trong vùng. Rất nhiều chàng trai đeo đuổi, nhưng với ai Hà cũng lắc đầu:
- Em còn có bổn phận giúp mẹ nuôi em vài năm nữa, nên chưa nghĩ tới hạnh phúc riêng của bản thân mình được!
Những gì Hà nói đều là sự thật chứ không phải chị kiếm cớ để làm cao giá với đám trai làng.
Hà đảm đang từ việc bếp núc, heo gà trong nhà đến chuyện ngoài đồng ruộng. Cô làm lụng không ngơi tay, vì vậy cuộc sống của gia đình ông bà Tư không đến nỗi chật vật mặc dù chỉ có vào sào ruộng trong tay.
Ngày tháng cứ bình thản trôi qua, cô thôn nữ vẫn sống vui với ruộng đồng, với gia đình yêu dấu của mình và không hề có một điều tiếng gì về Hà cả.
Nhưng đùng một cái, làng xóm chợt xôn xao bàn tán.
- Hình như con Hà nhà bà Tư có bầu rồi hay sao ấy!
- Chứ gì nữa, nhìn cái cổ nó là biết ngay!
- Cái bụng cũng đã nhô lên rồi đó, vậy mà gia đình ông bà Tư cũng chưa biết hay sao vậy ta?
- Ừ, thói đời vẫn thường như vậy mà, chuyện ngoài đường thì sáng nhưng chuyện của nhà mình thì quáng, mấy bà không biết sao?
- Con đó tưởng nhu mì hiền thục, ai ngờ cũng quá cỡ thợ mộc!
- Bà không nghe câu “lù khù vác lu mà chạy” đó sao?
- Mà nó đã ăn ở với thằng nào mấy bà có biết không? Tui chưa nghe ai kể nó hẹn hò với đứa nào ở làng mình hết!
- Ừ, cũng chẳng thấy nó thân thiết với đứa con trai nào, vậy mà…
Những câu bàn tán vụt im bặt khi thấy bóng bà Tư đi tới. Bà Tư hơi ngỡ ngàng, thái độ của mọi người có gì đó không bình thường khi tiếp xúc với mình khiến bà Tư lo lắng không ít.
Trên đường từ chợ về nhà bà Tư luôn nghĩ tới những ánh nhìn như cười cợt, như mỉa mai, những cái chỉ trỏ, những câu nói thầm vụt im bặt khi bà đi tới…
- Chắc chắn mọi người đang bán tán điều gì đó về gia đình mình!
Bà Tư khẳng định điều đó, nhưng bà nghĩ tới nghĩ lui vẫn không sao biết được chuyện gì có thể khiến mọi người đàm tiếu?
- Sáng nay má đi chợ về sớm vậy má?
Hà đón lấy cái giỏ xách trên tay bà Tư và hỏi.
Bà Tư ngồi xuống bộ ván, gỡ nón lá ra quạt lấy quạt để rồi thở dài thườn thượt:
- Tao ra chợ, mọi người nhìn tao lạ lắm, họ xì xầm gì đó, chắc chắn chuyện của nhà mình, nhưng tao không biết là chuyện gì… Cái chợ nhỏ xíu như lòng bàn tay, tao đi tới quầy nào cũng gặp cảnh tương tự như vậy nên thôi, về hắt cho rồi!
Hà cúi xuống lục lọi giỏ đồ rồi xách đi xuống bếp không nói câu nào. Bà Tư cũng không để ý tới thái độ của con gái, đầu óc bà còn mải mê nghĩ ngợi tới chuyện bực mình vừa mới xảy ra.
Hai ngày sau, giữa lúc cả nhà bà Tư đang quây quần bên mâm cơm thì cô Quyên, cô ruột của Hà xồng xộc bước vào.
- Hà, ra đây tao hỏi chuyện một chút!
Cô Quyên vừa nói vừa kéo tay Hà ra sân trước sự thắc mắc của bao người. Riêng Hà, cô xanh mặt riu ríu đi theo Quyên mà không hề phản kháng.
- Nói cho tao biết, mầy có bầu với thằng nào?
Cô Quyên vừa liếc vào cái bụng đã hơi nhô cao của Hà vừa hỏi.
Hà tái mặt ấp úng:
- Con… con…
- Đã tới giờ phát nào rồi mà mầy còn định giấu hả con? Cả làng cả xã người ta đồn rần lên, chỉ có người trong nhà là không biết gì hết. Tao thiệt thất vọng về mầy đó Hà ơi!...
Cô Quyên rên rỉ.
Thấy Hà vẫn cứ đứng cúi mặt không nói lời nào, cô Quyên tức giận:
- Mầy phải nói cho cô biết mầy ăn nằm với thằng nào đến bụng mang dạ chửa thế này, để cô và mẹ mầy tới bàn bạc với gia đình người ta, còn lo cưới hỏi cho tụi bây nữa chứ, chẳng lẽ mầy muốn bôi tro trát trấu vô mặt gia đình khi sinh ra một đứa nhỏ không có cha hay sao?
Hà khóc ròng nhưng vẫn không khai ra tên người đã chung đụng với cô.
Cô Quyên xuống nước dỗ dành:
- Con dại quá Hà ơi, con đã lỡ dại với ai thì phải nói ra cho cô biết chứ, không giấu được mãi đâu con, con nói ra sớm có khi còn giải quyết được…
Hà ngước lên nhìn cô Quyên, nghẹn ngào nói:
- Con với anh ấy lỡ thương nhau, nhưng… chúng con không thể cưới nhau được cô ơi!
Cô Quyên giật mình:
- Tại sao? Nó đã có vợ rồi à?
Hà lắc đầu:
- Dạ không, nhưng vì ba anh ấy mới mất, không thể làm đám cưới được!
Cô Quyên bóp trán suy nghĩ:
- Ba mới mất…? Vậy nó là thằng Tiến ở làng bên đúng không?
Hà không nói gì, cúi đầu im lặng.
Cô Quyên giận dữ nói:
- Đâu có được, đâu thể vì lý do đó mà nó bỏ mặc con hứng lấy hết mọi tai tiếng được. Để tao vô bàn với ba má mầy rồi gọi nó xuống nói chuyện chứ!
Hà sợ hãi níu áo cô Quyên:
- Cô ơi, đừng nói cho ba má con biết…
Cô Quyên nhìn thẳng vào bụng Hà, nghiêm khắc nói:
- Mầy nghĩ còn giấu được bao lâu nữa hả con?
Hà khóc nấc lên:
- Ba má con giết con chết mất cô ơi…
Cô Quyên có vẻ thông cảm:
- Chuyện đã lỡ như vậy rồi, có giết chết mầy thì cũng đâu lấy lại được tiếng xấu đã đồn xa. Thôi, để đó cô khuyên can cho ba má mầy bớt giận, nhưng phải tính chuyện này càng nhanh càng tốt.
Cô Quyên dứt lời vội vã đi vào nhà, Hà lo sợ rón rén về phòng mình đóng chặt cửa ở lì trong đó.
Ông bà Tư bàng hoàng trước cái tin động trời ấy.
- Tui sẽ giết nó!
Ông Tư gầm lên.
Bà Tư thì gục xuống bàn khóc không thành tiếng.
- Anh giết nó thì được gì? Bây giờ anh chị cần phải bình tĩnh để tính đường mà lo liệu cho nó chứ! Dù gì nó cũng là con gái anh chị…
Sau khi bàn bạc, ngay tối hôm ấy cô Quyên cho người đi mời Tiến xuống nhà để nói chuyện. Tiến thừa nhận bào thai trong bụng Hà chính là của anh, nhưng lại nói:
- Ba con mới mất, không thể cưới Hà được, phải ba năm sau con mới có thể cưới Hà…
- Đâu thể nào nói khó nghe như vậy được? Thôi, sáng mai bên đây sẽ sang nhà cháu để nói chuyện với ba má cháu.
Ông Tư nén giận nói với Tiến.
Sáng hôm sau, ông bà Tư và cô Quyên tới nhà Tiến để nói chuyện phải quấy. Bà nội và mẹ Tiến sau khi nghe xong câu chuyện lên tiếng điều đình:
- Xin anh chị thông cảm cho, ông nhà tôi mới mất chưa được bao lâu, nếu bây giờ mà làm đám cưới cho tụi nó ngay thì coi không được với làng xóm. Vậy xin cứ để cháu Hà sinh con, rồi sau giỗ đầu của ông nhà tôi chúng tôi sẽ sang bên đó nói chuyện cưới xin đàng hoàng. Chúng tôi vẫn có trách nhiệm với mẹ con cháu Hà…
Mẹ Tiến nói.
Cô Quyên gạt ngang:
- Hôm nay chúng tôi đến đây nói chuyện hoàn toàn với tính cách tình cảm chứ không ràng buộc trách nhiệm gì hết. Nếu bên đây không tổ chức cưới cho hai đứa thì gia đình chúng tôi cũng sẽ để cháu Hà sinh con và lo lắng cho nó đàng hoàng. Lỡ mang tiếng xấu rồi, đâu còn gì mà sợ nữa…
Những ngày sau đó, thỉnh thoảng Tiến có đến chơi với Hà nhưng không hề nói gì tới chuyện cưới xin.
- Mầy coi nè, con mầy là con trai, khỏe mạnh bình thường đó, sướng chưa?
Cô Quyên đưa tờ kết quả siêu âm mà sáng nay cô vừa đưa Hà đi khám cho Tiến xem, Tiến đón lấy và liếc sơ qua một cách hờ hững.
- Mầy đem về cho mẹ với nội mầy xem đi, cho họ mừng cháu trai.
Cô Quyên giục.
Tiến cười nhẹ:
- Cô không thấy nhà con có đến sáu thằng con trai sao? Nghe tới con trai chắc nội với mẹ con chạy dài…
Và rồi kể từ hôm đó, Tiến không tới thăm Hà lần nào nữa.
 
****
- Cô Quyên ơi, chị Hà bị làm sao nè cô Quyên ơi!...
Tiếng gọi thất thanh của Thảo, em gái Hà khiến cô Quyên giật mình bỏ bữa cơm đang ăn dở, vội vã chạy sang.
- Có chuyện gì vậy?
Cô Quyên hớt hãi hỏi khi thấy Tiến đang nâng đầu Hà lên đổ nước đường vào miệng.
- Sao vậy Thảo?
Cô Quyên quýnh quáng quay sang hỏi Thảo đang mếu máo đứng một bên.
Thảo sợ hãi nói:
- Lúc con về nhà thì thấy chị đang ngồi nói chuyện với anh Tiến. Con đi lên gác một hồi trở xuống thì thấy chị Hà đang nằm trên giường, anh Tiến thì ngồi một bên đỡ lấy đầu chị. Thấy con, anh Tiến kêu đi lấy pha nước cho chị uống…
Con bé chưa kể xong, cô Quyên vội quay lại nhìn Hà, lúc này Tiến đang để hai ngón tay trong miệng Hà để đổ nước đường vào, mắt Hà trợn ngược lên rất đáng sợ.
Tiến vừa đổ được một tí nước đường vào thì Hà lập tức nôn ra, toàn nước và máu!
- Mầy cho cháu tao uống gì, hả?
Cô Quyên hét lên.
Tiếng xanh tái mặt mũi, hất cái đầu tóc rũ rượi lên gắt:
- Uống gì mà uống!
- Đưa nó đi bệnh viện ngay, mau lên!
Cô Quyên vừa nói vừa chạy ra sân hô hoán lên:
- Bà con ơi, cứu cháu tôi với…
Bà con hàng xóm lục tục chạy vào, khi ấy máu vẫn còn chảy ra từ miệng Hà, Tiến thì vẫn ngồi ì ra đó chần chừ không muốn đưa Hà đi bệnh viện.
- Có đưa cháu tao đi bệnh viện ngay không?
Cô Quyên lại hét lên, lần này có thêm nhiều người láng giềng đốc thúc, Tiến mới chịu bế Hà ra xe, nhưng thật kỳ lạ, hai ngón tay của Tiến vẫn bị mắc cứng trong miệng Hà không sao rút ra được!
Khi lên tới bệnh viện thì tim Hà ngừng đập, lúc này từ ngực lên đến mặt Hà bị tím đen lại. Các bác sĩ chẩn đoán là bị trúng độc bả chuột.
Cô Quyên nhào tới túm lấy áo Tiến:
- Mầy giết cháu tao phải không?
Tiến đổ mồ hôi hột, ấp úng trả lời:
- Tụi con đang ngồi chơi với nhau thì Hà cắn vào tay con. Tay con vừa dính thuốc chuộc nên mới xảy ra như thế!
Cô Quyên khóc ngất lên từng cơn:
- Mầy nói láo! Chính mầy đã giết cháu tao…
Cô Quyên nhào tới đánh tới tấp vào người Tiến, Tiến không sao né tránh được vì hai ngón tay vẫn còn kẹt cứng trong miệng của Hà.
Sau đó, bác sĩ phải làm phẫu thuật cắt bỏ hai ngón tay của Tiến và Tiến cũng chính là đối tượng để công an điều tra về cái chết tức tưởi của Hà.
Chưa được xuất viện do vết thương bị nhiễm trùng nặng, nhưng sáng sớm hôm sau, mọi người hốt hoảng không thấy Tiến trong phòng.
Đổ xô đi tìm khắp nơi, ai cũng nghĩ Tiến bỏ trốn vì sợ tội trước pháp luật, nhưng đến chiều tối hôm ấy người ta phát hiện ra Tiến nằm gục chết bên cạnh nấm mồ còn mới tinh của Hà, điều khủng khiếp nhất là, cả mười ngón tay của Tiến đầu không còn!
Hai ngón tay kia đã bỏ lại trong bệnh viện, tám ngón còn lại đang nằm rãi rác xung quanh ngôi mộ chưa khô…
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:37:37 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 20:56:53
TRÒ CHƠI MA QUÁI
 
Chiếc xe chạy chậm dần rồi dừng hẳn lại. Đám thanh niên đang cười nói ồn ào bỗng trở nên nhốn nháo. Ai nấy cố nhoài người ra để nhìn xem điều gì xảy ra ở phía trước.
Đoạn đường phía trước bị ách tắc bởi mấy chiếc xe lớn có, nhỏ có và cả một đám đông vây kín xung quanh. Người tài xế mở cửa xe bước xuống đứng bên vệ đường nói chuyện với mấy người tò mò quanh đó.
Phương, Hậu chồm người lên hỏi:
- Ê, ông có thấy cái gì ngoài đó không vậy Thắng? Tai nạn giao thông phải hôn? Có ai bị gì không ta?
Thắng xoay người mở cửa sổ, chui đầu ra ngoài nhìn ngó một chút rồi rụt trở vào:
- Thua luôn! Có thấy gì được đâu! Toàn thấy đầu mấy người đến xem thôi! Chắc tai nạn nghiêm trọng lắm mới đông người tụ tập vậy chớ! Ê, hay để mình xuống dưới xem rồi lên tường thuật lại nghen?
Diệu kéo áo Thắng nhăn mặt:
- Thôi đi, xem làm gì mấy chuyện đó, ghê thấy mồ!
Phương cũng đồng tình:
- Ừ, xem chi ghê lắm!
Hậu cười:
- A… Vậy khám phá ra mấy người này nhát gan rồi nhé?
Diệu trề môi:
- Xời! Ở đó mà nhát! Chỉ tại mình hổng thích mấy chuyện máu me chết chóc thôi, chứ mình hả, gan số một đó nghe bạn!
Mọi người cười ồ.
Đĩnh lên tiếng:
- Ở đây có bạn nào nhát gan thì lên tiếng đi!
Diệu nheo nheo mắt nhìn Đĩnh:
- Để cho bạn đỡ lẻ loi chứ gì?
Đĩnh hất mặt vẻ ngang tàng:
- Ơ… đừng có vội khinh người nghe bạn! Mình mà nhát gan chắc trên đời này không có ai dạn hết!
Hậu xen vào:
- Giỏi ghê ta… Để mình còn xác minh lại đã!
Đám thanh niên còn đang đùa giỡn thì dưới đường lực lượng cảnh sát đã giải tỏa đám đông để cho người xe lưu thông bình thường trở lại.
Anh tài xế bước lên, và nói:
- Mấy người chạy ẩu dễ sợ! tội nghiệp con người ta!
- Sao vậy chú?
Phương tò mò hỏi.
Anh tài xế lắc đầu:
- Xe tải đụng xe gắn máy, hai người chết tại chỗ!
Đám thanh niên ai nấy rùng mình, không khí chợt trầm lắng xuống.
Xe từ từ lăn bánh, khi đi ngang qua hiện trường, Đĩnh bỗng nhoài người ra cửa sổ đưa máy quay phim lên quay lấy cảnh người chết bên đường.
Mấy cô gái la lên oai oái. Hậu túm áo Đĩnh kéo giật vào trong:
- Trời ơi, ông ơi! Ông quay chi mấy cảnh thấy ớn như vậy? Bộ tính làm vậy để chứng tỏ ta đây là gan dạ đó sao?
Đĩnh rụt đầu vào, ngồi trở xuống ghế cười hềnh hệch:
- Đâu có, chỉ là mình khoái ba cái chuyện kinh dị này lắm!
Mấy đứa con gái liếc xéo Đĩnh. Đĩnh giả vờ như không biết cứ đưa cái máy quay phim quay khắp lượt mọi người trong xe.
Lâu lắm rồi đám bạn này mới có dịp ngồi lại vui đùa với nhau như thế. Từ ngày tốt nghiệp đại học, mỗi đứa một nơi bận bịu với việc riêng của mình, chỉ thỉnh thoảng gọi điện hỏi thăm nhau, hoặc may lắm là gặp gỡ một vài người, cùng uống ly cà phê vậy thôi.
Nhưng lần này, cả bọn quyết định cùng nhau đi chơi xa một chuyến. Nói là đi chơi, thật ra họ muốn về Cà Mau để thăm Sĩ, một người bạn cùng lớp năm xưa.
Sau khi tốt nghiệp, Sĩ về quê và ít khi liên lạc với ai nên hầu như tin tức về Sĩ gần như mất hẳn. Nhưng thật bất ngờ, hôm tuần rồi Phương nghe được một tin không hay cho lắm, rằng sau một cơn bệnh nặng tưởng không qua khỏi, Sĩ bỗng trở thành một người khác. Sĩ không còn những ham muốn đời thường, không còn niềm say mê công việc nữa, mà thay vào đó Sĩ đắm mình vào nghiên cứu những bùa phép, ma thuật, nghiên cứu cái thế giới huyền bí mà lâu nay chưa ai khám phá được.
- Mình về đó một chuyến đi, coi hư thực ra sao và nhất là coi mình có thể giúp gì cho Sĩ được không? Đôi khi gặp lại bạn bè cũ, bao nhiêu hoài bão ấp ủ năm xưa lại trỗi dậy cũng không chừng.
Phương buồn buồn nói.
Diệu hăng hái:
- Ừ, đi đi, nhất định nhóm mình phải tới với Sĩ.
Thế là Diệu, Phương, Hậu, Thắng, Đĩnh đồng xin nghỉ phép và thuê xe về Cà Mau ngay lập tức.
Chỉ có năm người mà thuê chiếc xe mười lăm chỗ nên mặc tình cả đám ngồi nằm đùa giỡn với nhau. Gặp anh tài xế cũng là người trẻ tuổi, vui tính nên những câu chuyện tiếu lâm, những câu đùa tếu táo trên dọc đường đi đã làm khoảng đường như ngắn lại.
Vừa chạy trờ qua chỗ hiện trường tai nạn thì xe đột ngột chết máy, anh tài xế xem xét lại các bộ phận không thấy có gì trục trặc nên mở cửa bước xuống kiểm tra.
Thắng cũng đẩy cửa bước xuống đường đứng vươn vai:
- Lâu lắm mới được hít thở không khí trong lành thế này đó nhe!
Vừa nói Thắng vừa vung vẩy hai chân một cách khoan khoái.
Anh tài xế đã đê pa xe trở lại, tiếng nổ giòn giã như không hề có gì xảy ra, anh thò đầu ra gọi Thắng:
- Ê, lên xe chứ! Hay muốn ở lại đây luôn?
Thắng nhảy phốc lên cười cười:
- Ở đây mà có cô nào chứa là em ở liền!
Thắng chưa kịp đóng cửa xe thì Đĩnh trông thấy một người con gái trạc độ hai mươi tuổi tay dắt đứa bé trai bước lên sau Đĩnh và ung dung ngồi vào chiếc ghế trống chỗ cửa lên xuống.
Đĩnh muốn nói:
- Đâyl à xe hợp đồng, không rước khách dọc đường đâu cô ơi!
Nhưng nhìn lại thấy các bạn đều bình thường không tỏ thái độ phật ý nào nên Đĩnh cũng im luôn. Thôi kệ, cho người ta đi nhờ một quãng đường cũng tốt chứ có sao đâu.
Cô gái có gương mặt đẹp nhưng lại buồn rười rượi. Đĩnh cứ chốc chốc lại liếc khẽ sang nhìn lén. Có lần cô gái bắt gặp ánh nhìn của Đĩnh, cô chỉ cúi mặt mỉm cười vẻ thẹn thùng.
Các bạn của Đĩnh vẫn nói cười một cách thoải mái tự nhiên, không ai quan tâm đến sự hiện diện của chị em cô gái lạ, hình như trong mắt họ không có sự tồn tại của chị em cô.
- Ông Đĩnh này làm gì nãy giờ cứ ngồi ngẩn người ra vậy?
Diệu hích khẽ vào vai Đĩnh.
Đĩnh giật mình cười bối rối:
- À… ừ… có gì đâu! Mình đang ngắm cảnh mà…
Diệu cười ranh rãnh:
- Ông ngắm cảnh gì mà mặt mày khờ câm, đờ đẫn như ngắm người đẹp vậy?
Đĩnh sợ cô gái ngồi bên nghe được, lúng túng nói:
- Bậy bạ quá nghe!
Đám bạn cười rần rần, và câu chuyện lại được chuyển sang đề tài khác.
Suốt đoạn đường hơn ba mươi cây số, hai chị em cô gái ngồi lặng lẽ không ai nói với ai lời nào. Đứa bé có vẻ thấp thỏm, chốc chốc nó lại hơi nhướn người nhìn về phía trước. Mỗi lúc như vậy cô chị lại khẽ níu vạt áo nó kéo  ngồi trở xuống.
- Bác tài ơi, dừng lại đi! Dừng lại mua trái cây đi!
Tiếng Phương gọi rối rít khi xe chạy ngang qua một khu chợ nhỏ bày bán rất nhiều trái cây ven đường. Anh tài xế dừng xe, cả đám mở cửa ùa xuống sà vào các sạp trái cây mạnh ai nấy chọn lựa theo ý thích của mình.
Đĩnh không xuống cùng các bạn. Anh còn do dự không biết nói câu gì để bắt chuyện cùng cô gái thì đã thấy cô nắm tay đứa bé thong thả bước xuống xe.
Xuống tới đất, cô gái khẽ quay lại nhìn Đĩnh mỉm cười và gật nhẹ một cái như lời chào rồi dắt em đi vào con hẻm nhỏ ngay gần đó.
Đĩnh ngơ ngác nhìn theo không nói được lời nào.
- Đĩnh! Mau xuống lựa trái cây nè, tươi ngon lắm ông ơi!
Hậu lớn tiếng gọi.
Đĩnh xuống xe nhưng không đi tới hàng trái cây mà đứng nhìn hút vào con hẻm đó, tự nhiên anh thấy có điều gì đó không bình thường trước những cử chỉ lạ lùng của cô gái kia. Tại sao khi cô lên xe không ai nói gì, khi cô xuống xe, cô cũng không nói đến chuyện tiền bạc hoặc một lời cảm ơn cho phải phép?
Lát sau, mấy người bạn lục tục trở lên, ai nấy đều xách theo mấy túi trái cây đủ loại.
- Anh có quen với chị em cô gái lúc nãy không?
Đĩnh thò đầu vào hỏi anh tài xế.
Anh tài xế ngơ ngác:
- Hai chị em nào? Cô gái nào?
Đĩnh cười cười:
- Vậy mà em tưởng quen với anh chứ!
Anh tài xế ngớ người không hiểu gì cả, nhưng Đĩnh đã quay trở ra sau.
Xe lại tiếp lăn bánh. Đám bạn bày trái cây ra vừa ăn vừa ném vào nhau tá lả.
Diệu can:
- Ê, mấy bạn, đừng quăng như vậy, mắc công bác tài dọn xe lắm đó!
- Đừng lo, mình xung phong dọn xe cho anh tài, anh tài há?
Hậu cười, lên tiếng chọc ghẹo anh tài xế.
- Thôi đi cô ơi, tôi đủ tiền để trả công cho cô!
Anh tài xế cười đáp.
Phương liếng thoắng:
- Anh khỏi lo, nó hổng có đòi tiến công đâu, chỉ cần anh nuôi cơm nó là được rồi, mà con nhỏ này ăn dexa lắm đó nghe, hổng biết anh nuôi nổi không nữa?
Anh tài xế cười khà khà, Hậu chồm lên phát vào vai Phương:
- Dám bêu xấu bạn bè vậy hả? Bà chết với tui nghen!
- Ê, chết một mình được rồi, rủ tui theo làm gì? Tui còn yêu đời lắm bà ơi!
Phương nghiêng người né, cười rũ rượi.
Trên xe ai nấy đều cười nói vui vẻ, ngoại trừ Đĩnh. Anh luôn tư lự, đầu óc cứ quẩn quanh về chuyện cô gái lúc nãy.
Hích nhẹ vào tay Thắng, Đĩnh hỏi:
- Mầy thấy cô gái đẹp không?
- Mầy nói ai?
Thắng ngạc nhiên không khác gì anh tài xế.
Đĩnh lại một phen lúng túng:
- Ờ thì… cái cô gái chỗ bán trái cây đó!
Thắng phá ra cười:
- Trời đất! Mấy bạn biết trong lúc mình lo lựa chọn trái cây thì chàng Đĩnh lại bận ngắm người đẹp không? Hèn gì nó đâu mua được gì…
Đĩnh rất muốn kể cho mọi người một cách rõ ràng, nhưng anh lại sợ các bạn chế mình chết nhát, thấy ai cũng nghĩ là ma. Vì vậy Đĩnh cố gắng xua đuổi hình ảnh cô gái ấy ra khỏi trí óc của mình. Đĩnh lại nhập cuộc ăn uống, nói cười với đám bạn.
Mãi đến chiều tối mọi người mới tới nhà Sĩ. Xe vừa dừng trước cổng, một con chó nhỏ chạy từ trong nhà ra sủa váng lên.
- Sĩ ơi! Có nhà không Sĩ?
Thắng lên tiếng gọi.
Sĩ từ nhà sau chạy lên, ngạc nhiên khi thấy đám bạn thân xuất hiện đầy đủ trước nhà mình.
- Các bạn… các bạn…
Sĩ lắp bắp không nói được thành câu.
Đĩnh bước tới choàng tay qua vai Đĩnh cười nói:
- Bọn mình xuống chơi thăm Sĩ nè! Lâu qua không gặp cũng nhớ nên cả bọn quyết định kéo nhau xuống đây quậy Sĩ một vài hôm đó!
Sĩ tươi cười:
- Hân hạnh cho mình quá! Mời các bạn vô nhà chơi! Đi đường xa chắc ai cũng mệt hết rồi phải không?
Sĩ không đưa các bạn vào ngôi nhà lớn ngay đó mà dẫn họ đi vòng ra phía sau, vào một ngôi nhà nhỏ hơn nhưng không có vẻ âm u như ngôi nhà phía trước.
- Đây là nhà riêng của mình, trên kia là nhà mẹ!
Sĩ giới thiệu.
Hậu reo lên:
- Vậy là Sĩ sướng nhất rồi, có nhà riêng! Còn bọn mình chỉ toàn ở nà thuê thôi, chán lắm!
Sĩ mỉm cười không nói gì, anh lúi húi rót nước, dọn bánh ra mời đám bạn.
Vì là bạn bè thân thiết với nhau suốt mấy năm Đại học, nên giữa họ không só khoảng cách, không có sự khách sáo nào cả. Mấy người bạn nghỉ ngơi một chút rồi cùng nhau xuống bếp, mỗi người một tay nên không lâu sau mâm cơm nóng sốt đã được dọn lên, sáu người bạn quây quần bên nhau vừa ăn uống, vừa nói cười rôm rả.
- Đêm nay có trăng, các bạn ra sân ngồi chơi ngắm trăng, sẽ thú vị lắm đó!
Sĩ vừa choàng vai Đĩnh vừa nói. Cả bọn ồn ào kéo nhau theo Sĩ.
Ngoài sân, một bộ ghế đán được đặt dưới tàn cây vú sữa sum xuê, ánh trăng sáng rỡ xuyên qua kẽ lá, lấp lánh ánh vàng.
Hậu, Diệu và Phương thích thú ngước mặt lên nhìn bầu trời cao rộng tràn ngập ánh trăng.
- Có rượu không Sĩ?
Thắng hỏi.
Sĩ lúng túng:
- Mình… mình bỏ rượu, bỏ thuốc lâu rồi nên ở nhà không có sẵn. Nếu các bạn muốn uống mình sẽ đi mua.
Sĩ dợm người đứng lên, nhưng lập tức Phương níu lại:
- Thôi đi Sĩ, đừng cho mấy ông này uống rượu làm gì!
Quay sang Thắng, Phương trừng mắt:
- Uống trà được rồi ông ạ! Ông đừng có lộn xộn đó nghe?
Thấy cái nhìn sắc lẻm của Phương, Thắng đã nhớ ra mục đích chuyến đi thăm Sĩ lần này, anh mỉm cười như biết lỗi:
- Hỏi chơi vậy thôi mà, ai đòi hỏi gì đâu!
- Ờ, thử giỏi mà đòi hỏi đi!
Phương nguýt dài.
Sĩ cười cười hiền lành:
- Có gì đâu Phương, các bạn uống một ít cũng vui mà!
- Không được! Mình đã nói rồi, ít cũng không được!
Phương dứt khoát.
Sĩ ngồi xuống nhìn các bạn, đột ngột cất tiếng hỏi:
- Sao tự nhiên các bạn lại có ý tưởng về nơi xa xôi hẻo lánh này để thăm mình vậy?
Mấy người bạn liếc nhìn nhau, cuối cùng mọi ánh mắt đổ dồn về Diệu, người có tài ăn nói lưu loát nhất trong đám.
Diệu nhìn quanh một lượt rồi khẽ nói:
- Tụi mình vừa nghe kể về Sĩ, nghe nói Sĩ vừa trải qua một cơn bệnh thập tử nhất sinh, vậy mà bạn bè không đứa nào biết, thật tệ!
Sĩ cười:
- Có gì đâu Diệu, các bạn ở xa, không biết cũng là bình thường thôi mà! Giờ thì mình đã khỏe mạnh trở lại rồi, không sao rồi!
Hậu chồm tới gần Sĩ, hỏi:
- Sĩ bệnh gì mà nặng đến mức đó? Kể cho bọn mình nghe với. Hôm rồi nghe nói Sĩ bệnh mà không ai biết rõ thế nào.
Sĩ cầm tách trà xoay xoay trong lòng tay:
- Mình cũng không biết mình bị bệnh gì nữa. Vì thật ra các bác sĩ không ai chẩn đoán được bệnh, rồi sau khi làm rất nhiều các xét nghiệm cũng không đem lại được một kết quả cụ thể nào. Họ cứ nói là mình mắc phải một căn bệnh lạ, trước giờ trong y văn chưa từng nói đến.
- Bệnh lạ là sao?
Phương tò mò.
Cả mấy người bạn cũng đều căng thẳng theo dõi câu chuyện của sĩ.
- Tự nhiên hôm đó mình đi làm về rồi cảm thấy người mệt mỏi rã rời, nên nằm nghỉ. Sáng hôm sau thì mình có dấu hiệu suy tim nên gia đình hoảng hốt đưa vào bệnh viện. Ở đó mình được các bác sĩ theo dõi chặt chẽ nhưng đến trưa hôm đó thì mình ngưng thở. Gia đình đã làm xong các thủ tục để đưa mình về mai táng thì bỗng nhiên mình ngồi dậy và đi khắp nơi, nhưng tim vẫn ngừng đập!
Sĩ kể chậm rãi.
Diệu kêu lên:
- Trời! Có chuyện kỳ lạ vậy sao? Tim không đập mà Sĩ vẫn đi khắp nơi được?
Sĩ gật đầu xác nhận:
- Đúng đó! Mình đi khắp nơi, đi đến đâu là người ta chạy theo coi như gánh hát…
- Nhưng lúc đó ông có biết gì không?
Thắng hỏi.
Sĩ gật rồi lại lắc đầu:
- Mình biết! À, mà không, coi như không biết!
- Biết mà không là sao?
Đĩnh thắc mắc.
Sĩ trầm ngâm:
- Mình kể ra có khi các bạn lại không tin, nhưng thật sự lúc đó mình đang lạc vào một thế giới khác. Thế giới của những hồn ma!
Phương đang đứng tựa lưng vào gốc vú sữa, nghe Sĩ nói đến đó, cô hốt hoảng chạy tới chen vào ngồi giữa Đĩnh và Sĩ, làm cả bọn một phen cười lăn lộn.
- Trời đất, vậy mà hồi sáng không ai chịu nhận mình là nhát gan, giờ thì nhìn kìa, mặt ai cũng xanh lè!
Diệu vừa cười vừa nói.
Thắng chỉ tay vào mặt Diệu:
- Mặt bà cũng cắt không còn hột máu chứ có hơn ai!
Đĩnh vỗ vỗ hai bàn tay vào nhau la lên:
- Thôi đi, đừng cãi nhau nữa, để yên nghe Sĩ kể tiếp câu chuyện nè các bạn!
Lập tức mọi người im lặng, chăm chú hướng ánh nhìn về phía Sĩ.
Sĩ đằng hắng một tiếng rồi nói:
- Lúc ấy mình có cảm giác thân thể rất nhẹ nhàng, mình đi rất nhanh. Làng mạc xóm thôn xa lạ với mình, nhưng những người dân ở đó thì cũng có người quen mặt. Mình đi khắp nơi nhưng không ai thèm nói với mình một câu, người nào người nấy đều có vẻ buồn rầu ủ dột, mình không thấy được nụ cười nào ở đó. Tất cả đều lặng lẽ, lặng le đến mức rợn người. Mình đi ngang qua họ, họ coi như không thấy, mình hỏi gì họ cũng làm ngơ, mình cũng không thấy họ trò chuyện với nhau. Mình muốn hỏi thăm đường về nhà nhưng không ai giúp mình nên cứ đi mãi, đi mãi… Sau cùng, mình trông thấy một đứa bé đứng bơ vơ bên đường, mình tiến đến làm quen:
- Em bé, nhà em đâu? Sao lại đứng một mình nơi này? Sắp tối rồi, mau về nhà đi em!
Đứa bé ngước nhìn tôi lạ lẫm, nó quay người đi nhưng rội lại quay ngược lại:
- Anh không biết mình đang ở đâu sao?
Tôi gật đầu:
- Ừ, anh không biết thật! Anh bị lạc đường rồi!
Đứa bé chợt cười khanh khách, đây là tiếng cười và giọng nói tôi nghe được đầu tiên trong suốt một ngày rong ruổi nơi này.
Nó cười đã đời rồi chỉ tay xuống chân tôi hỏi:
- Anh thấy gì chưa?
Tôi vừa tính nói “có gì đâu?” thì bất chợt nhận ra hai bàn chân mình không hề chạm đất!
Tôi hoảng hốt lùi lại, la lớn:
- Tại sao? Tại sao lại như thế?
Thằng bé lại cười:
- Anh chết rồi!
Tôi lạnh toát cả người khi nghe thằng bé nói vậy. Nhưng tôi vẫn chưa chịu tin, hỏi lại nó:
- Anh chết rồi sao? Vậy đây là nơi nào?
- Anh chết rồi! còn đây là nơi chuyển tiếp, giống như trạm xe trên trần gian vậy, anh muốn đi đâu thì sẽ có chuyến tàu riêng đưa anh tới đó khi thời khắc điểm.
Thằng bé giải thích rành rẽ, nhưng tôi vẫn chưa hết thắc mắc:
- Vậy cả em và những người kia đều đã chết?
- Đúng! Tất cả đều là những hồn ma!
Thằng bé khẳng định.
Tôi quá hoảng sợ ôm đầu ngồi thụp xuống. Tôi không thể chết một cách dễ dàng như vầy được! tôi còn mẹ già không ai chăm sóc, tôi còn biết bao mơ ước chưa đạt thành, sao tôi lại có thể chết một cách vô lý như vậy được?
Có lẽ sự đau khổ tột cùng của tôi đã khiến cho thằng bé mủi lòng. Nó cũng ngồi xuống bên cạnh tôi và an ủi:
- Anh đừng buồn rầu như vậy!
Tôi khóc nức lên:
- Sao lại không buồn được chứ? Anh chết quá vô lý, anh không cam tâm, anh đâu có đau bệnh gì mà phải chết…
Thằng bé ngồi im một lúc rồi hỏi tôi:
- Từ sáng giờ anh có nói chuyện với ai ở đây, ngoại trừ em không?
Tôi lắc đầu:
- Anh có hỏi nhưng không ai trả lời, hình như họ không nhìn thấy anh hay sao ấy!
Thằng bé tỏ vẻ mừng rỡ:
- Vậy là coi chừng anh bị chết nhầm! anh chưa tới số, nên khi linh hồn xuống đây nó không tụ lại thành hình hài được, nên không ai nhận ra!
- Vậy sao em lại nhận ra anh?
Tôi ngạc nhiên hỏi lại.
Thằng bé cười cười:
- Em thì khác họ! Ông nội em trước đây là một thầy pháp đại tài, nhưng không may ông lại tham lam tiền tài vật chất nên dùng bùa phép vào những chuyện không hay, vì thế mà đến đời ba em và các đời sau nữa phải chịu hậu quả. Ba em chết trong đau đớn tột cùng và chính mắt em đã trông thấy sự ghê gớm của cái thứ gọi là bùa ngãi một khi nó phản lại chủ mình. Vì vậy em đâm ra tò mò và nhất định phải tìm cho ra phương cách để giải cứu cho dòng họ. Em lục lọi đồ đạc của ông nội và tìm được một cuốn sách. Nội dung cuốn sách rất hấp dẫn, em đã cố gắng học được một vài chương cho nên em có thể nhìn thấy anh mặc dù linh hồn anh vẫn chưa hội tụ.
Tôi lo sợ hỏi:
- Vậy nếu là chết nhầm, thì làm cách nào anh có thể sống lại được, em làm ơn giúp anh đi?
Thằng bé trầm tư một lúc rồi nói:
- Em sẽ giúp anh! Nhưng anh phải hứa với em một điều.
Tôi vội vã gật đầu lia lịa:
- Được rồi, anh hứa! Điều gì anh cũng có thể hứa với em, miễn sao anh được sống lại!
Thằng bé nghiêm nghị nhìn vào mắt tôi:
- Chuyện không đơn giản đâu, anh đừng vội hứa như vậy, anh còn chưa biết em muốn anh hứa gì mà?
Tôi bối rối trước lời trách cứ của thằng bé, cố chống chế:
- Thì anh nghĩ mọi việc anh cũng sẽ cố gắng làm được hết…
Nó nhìn tôi rồi nói từng tiếng một:
- Nếu được sống trở lại, anh phải thay em để nghiên cứu quyển sách này, và dùng nó để làm điều thiện giúp người. có như thế mới hóa giải được tội lỗi năm xưa ông nội em gây ra…
Vừa nói nó vừa lấy trong người ra một quyển sách cũ mèm, cầm trên tay với vẻ trân trọng lắm.
Tôi khựng lại một lúc, vì thật ra, một tỏng những nguyên nhân khiến tôi tha thiết muốn quay về với cuộc sống là được biến những ước mơ, những hoài bão của mình thành sự thật. Nếu bây giờ nhận lời cậu bé, thì coi như con đường đó tôi đã tự mình lấp kín, và tôi sẽ phải đặt chân cào một con đường khác, hoàn toàn xa lạ, nơi mà tôi chưa từng có một ý niệm nào về nó!
Nhưng nếu tôi không đồng tình, có nghĩa là tôi không được quay về trần thế. Mẹ tôi sẽ đau khổ ra sao, ai sẽ là người chăm lo cho mẹ tôi lúc người xế bóng? Các bạn chơi thân với tôi, chắc cạn đã từng nghe tôi kể về hoàn cảnh của mình, về những nỗi đau đớn vất vả mà mẹ tôi phải chịu đựng để nuôi tôi khôn lớn? Tôi không thể bỏ đi trước mẹ tôi được…
Nghĩ tới nghĩ lui, cuối cùng tôi gật đầu:
- Được rồi! Anh hứa!
Thằng bé mừng rỡ, nhưng lập tức nó lại có vẻ ỉu xìu:
- Anh phải nhớ, anh không thể chỉ hứa suông đâu nhé? Bằng bất cứ giá nào anh cũng phải thực hiện cho đúng lời hứa, nếu không thì cả anh và những người thân tỏng gia đình anh sẽ bị quả báo thảm hại. Đó là lời nguyền tai ác trong cuốn sách này. Liệu anh có còn dám nhận lời không?
Tôi trả lời dứt khoát:
- Dám chứ! Anh đã nghĩ chính chắn rồi, anh sẽ nhận lời!
Lần này thằng bé mới thật sự yên tâm. Nó vui vẻ trao cho tôi cuốn sách rồi nói:
- Bây giờ em sẽ lên đó giữ xác cho anh, nếu không người ta sẽ đem anh đi chôn, lúc đó thì trời cứu anh cũng không được!
Tôi hoảng hốt:
- Em đi giữ xác cho anh, còn anh thì sao? Anh phải làm gì?
Nó nhón lên đặt bàn tay bé nhỏ lên vai tôi như một người bạn:
- Anh đừng lo! Anh cứ ở đây, hai ngày nữa sẽ có người tới điểm danh, nếu thật sự anh bị chết nhầm thì sẽ không có tên trong danh sách. Khi đó chắc chắn họ sẽ đuổi anh đi bằng cách xô anh ra khỏi thế giới chuyển tiếp này. Khi ấy, nếu xác anh không còn, anh sẽ trở thành một con ma vất vưởng, không nơi trú ngụ. Nhưng nếu xác vẫn còn được giữ ấm thì anh sẽ sống lại!
Tôi vừa mừng vừa lo:
- Nhưng… có thật là anh chết nhầm không?
Thằng bé động viên:
- Em không dám khẳng định, bởi vì… hiểu biết của em còn có giới hạn, nhưng những gì em biết được là như vậy. Nếu tất cả những hồn ma ở đây không nhận thấy anh thì chín mươi phần trăm là anh bị chết nhầm rồi!
Rồi nó vụt nói:
- Thôi, bây giờ em phải đi kẻo trễ. Chuyện có nhầm hay không thì hai ngày sau sẽ rõ. Anh giữ kỹ cuốn sách giúp em nhé?
Thằng bé vừa nói dứt câu đã lướt đi nhanh như một cơn gió thoảng. Tôi tần ngần cầm cuốn sách trong tay lật qua lật lại một lát rồi cất kỹ vào người.
Đúng như lời thằng bé nói, hai ngày sau, những người dân trong làng lặng lẽ tập trung về một góc, không lâu sau một người đàn ông mặt mày dữ tợn đi tới và bắt đầu gọi tên tuổi, quê quán từng người.
Số người tụ tập quá đông, mà tôi lại rất nóng lòng muốn trở về nhà cho nên tôi cố chen lấn, huých người nầy, đẩy người kia để tiến lên phía trước. May mà không ai nhận ra tôi nên tôi không bị ai phản đối.
Khi đã tiến tiến đến cạnh người có nhiệm vụ điểm danh, tôi vội nói:
- Trương Văn Sĩ, hai mươi tám tuổi, quê quán làng X huyện Y tỉnh Cà Mau có trong danh sách không ạ?
Người điểm danh ngước lên nhìn tôi một cái rồi dò từ trên xuống dưới cái bảng danh sách dài dằng dặc đang cầm nơi tay. Ông ta dò đi dò lại mấy lượt, rồi như bực mình cáu có, ông ta vung chân đá vào tôi một cái và nói:
- Chỗ tao làm việc, đừng có lộn xộn nghe chưa?
Tôi mất thăng bằng ngã chúi về phía trước. Khi tôi lồm cồm ngồi được dậy cũng là lúc nghe tiếng mẹ tôi kêu lên thất thanh:
- Tim nó đập lại rồi! Con tôi sống rồi!
Câu chuyện là như vậy. Các bạn thấy có huyền bí lắm không?
Sĩ kể xong, nhìn khắp lượt bạn bè, ai nấy đều còn nghệt mặt ra dường như còn chưa tin hẳn vào những gì Sĩ vừa mới kể.
- Nhiều khi trong lúc ngất đi, ông mơ màng thấy chuyện đó cũng hổng chừng!
Thắng là người lên tiếng đầu tiên.
- Ừ, chắc là mơ thôi! Làm gì có chuyện lạ lùng như vậy được!
Phương cũng tiếp lời.
Hậu, Diệu và Đĩnh tuy không nói gì nhưng có vẻ tán đồng với ý kiến của hai bạn.
- Nếu có cuốn sách làm bằng chứng thì còn có thể!
Phương lại nói tiếp.
Sĩ không nói gì lẳng lặng đi vào nhà, chỉ một loáng sau anh trở ra trên tay cầm theo một cuốn sách cũ rích, ố vàng.
Đặt cuốn sách lên bàn, Sĩ nói:
- Đây chính là quyển sách mà thằng bé đưa cho tôi hôm ấy! Các bạn giải thích sao về điều này?
Thắng tò mò, vừa đưa tay ra muốn cầm lấy quyển sách nhưng Sĩ vội gạt tay Thắng ra và nói:
- Nếu bạn chạm vào nó, bạn sẽ phải vướng vào lời nguyền! Bởi vậy đừng ai đụng vào nó nhé, các bạn muốn giở trang nào thì nói với mình, mình sẽ giở cho mà xem!
Cả mấy người bạn đều rụt cổ vẻ sợ hãi.
Sĩ từ từ lật các trang sách để các bạn nhìn sơ qua.
Bỗng nhiên Diệu reo lên:
- Ủa, trong sách này cũng có trò chơi nữa hả?
Sĩ gật đầu, tay dừng lại ở trang sách có tựa đề: “Trò chơi dành cho những người hùng”
- Nó là như thế nào vậy?
Đĩnh hỏi.
Sĩ ngước lên giải thích:
- Đây là các trò chơi giúp cho những người tham gia nhìn thấy được ma.
- Nhìn thấy được ma? Rồi… rồi sau đó thế nào?
Diệu lắp bắp hỏi.
Sĩ cười:
- Rồi thôi chứ thế nào nữa! Nó chỉ là trò chơi để rèn luyện lòng dũng cảm cho những ai muốn đi vào con đường này.
- Vậy, những người không muốn và không hề có ý định làm pháp sư có chơi được không? Như bọn mình hiện tại nè, muốn chơi có được không?
Thắng hỏi.
Sĩ gật đầu:
- Được chứ! Đây cũng là một phương pháp giúp những người không tin vào ma quỷ sẽ phải tin. Mình chỉ sợ các bạn không dám chơi thôi. Bởi vì trò chơi này, một khi đã bước vào cuộc chơi thì phải đi cho đến hết con đường, không thể nghỉ chơi giữa chừng được!
Giữa lúc Đĩnh, Hậu, Diệu và Phương đang căng thẳng nghe Sĩ giảng giải thì đột ngột Thắng bật cười ha hả, vừa cười Thắng vừa vỗ hai bàn tay vào nhau một cách khoái trá.
- Tôi phải công nhận ông Sĩ này giỏi ghê nha! Hồi đó tuy biết ông là dân kinh tế mà có máu văn chương, nhưng tôi thật không ngờ bây giờ ông lại chuyển ngành nhanh như vậy! Ông mà viết truyện giả tưởng, ma quái chắc có nhiều độc giả mến mộ lắm đây! Trí tưởng tượng của ông trên cả tuyệt vời!
Thắng vừa cười nghiêng ngả, vừa chỉ vào mặt các bạn nói tiếp:
- Coi kìa… coi mọi người sợ xanh mặt hết rồi kìa! Vậy mà ai cũng nói mình là anh hùng!
Sĩ không tỏ vẻ phật lòng khi thấy Thắng phản bác lại những gì mình nói. Anh chỉ lặng lẽ ngồi nhìn các bạn bằng ánh mắt trìu mến, hiền lành.
Diệu nhìn Thắng, hỏi:
- Ông không tin câu chuyện của Sĩ?
Thắng nín cười, ngạc nhiên:
- Vậy ra Diệu tin sao?
Diệu trầm ngâm:
- Thật ra câu chuyện này quá sức hoang đường, khó tin lắm. Nhưng vì mình hiểu Sĩ không bao giờ nói dóc với bạn bè, nên mình tin.
Thắng cười:
- Sĩ đâu có nói dóc? Sĩ chỉ nói giỡn chơi để hù dọa mình thôi mà, đúng không Sĩ?
Sĩ cười hiền lành:
- Mình không nói dóc, mình cũng chẳng nói đùa. Đó là tất cả sự thật đã xảy ra với mình. Và chính vì điều đó mà mình phải chuyển hướng, phải dẹp bỏ hết những công việc mà mình luôn yêu mến.
Thắng gật đầu:
- Ok! Điều này rất dễ chứng minh. Bây giờ tụi mình cùng chơi trò chơi nhìn thấy ma đi! Nếu thật sự thấy ma thì mọi người ai cũng sẽ tâm phục khẩu phục, còn không thấy ma thì cả bọn đè Sĩ ra dần cho một trận nên thân, các bạn đồng ý không?
Thắng nhìn quanh, nhưng đám bạn vẫn còn rụt rè bán tín bán nghi. Mãi hồi lâu sau Đĩnh mới đưa tay lên:
- Tôi đồng ý!
Thấy Đĩnh – người thường bị chê là nhút nhát – tham gia trò chơi, cả Phương, Diệu và Hậu đều lần lượt đồng ý.
Sĩ lo lắng:
- Mình chỉ kể vậy thôi, không bắt buộc các bạn phải tin đâu. Và mình cũng khuyên các bạn đừng thma gia vào trò chơi này, đôi lúc cũng nguy hiểm đó!
- Sao lại nguy hiểm? Chẳng phải lúc nãy Sĩ bảo là không sao mà?
Hậu ngạc nhiên.
Sĩ gật đầu:
- Đúng là sẽ không có gì nguy hiểm nếu các bạn có đủ can đảm đi đến khi trò chơi kết thúc. Nhưng nếu các bạn bỏ giữa chừng thì… không được đâu!
- Không được là sao?
Phương hỏi thêm.
- Khi đó các bạn sẽ bị mắc kẹt trong thế giới ma quỷ, không trở về được!
Sĩ nói rõ.
Mấy cô gái nhìn nhau le lưỡi tỏ ý sợ hãi. Nhưng Thắng vẫn kiên quyết:
- Có gì mà sợ! Chưa chắc trò chơi này là thật, mà nếu là thật thì mình ráng chơi đến hết bàn, sợ gì!
Sau một hồi bàn tán, cả đám quyết định bước vào trò chơi ma quỷ.
- Chọn trò nào đơn giản nhất nghe Sĩ?
Diệu căn dặn.
Sĩ lật qua lật lại mấy trang sách rồi nói với các bạn:
- Mình chơi trò “Gọi hồn ma đói” đi nhe?
- Trò đó là sao?
Phương nghiêng đầu nhìn vào trang sách nhưng cô vẫn không hiểu được.
- Trong sách nói rằng, các hồn ma vất vưởng do bị chết oan, chưa có nơi để về, phải sống lang thang trên dương thế. Những hồn ma đó thường bị đói và thường tập trung ở gần các ngã ba, các giao lộ. Nếu tham gia vào trò chơi này, chúng ta mỗi người phải có một cái chén và một đôi đũa, quỳ tại ngã ba đường và luôn tay gõ đũa vào miệng chén để chúng phát ra những tiếng kêu lanh canh, kêu gọi hồn ma tập hợp về. Cạnh đó, mình sẽ để một vài đĩa thức ăn cho họ. Họ sẽ xuất hiện. Mỗi người sẽ  nhìn thấy những con ma không giống nhau, không ai nhìn thấy giống ai… Họ ăn hết thức ăn sẽ tự động bỏ đi, lúc đó trò chơi kết thúc.
- Ồ, vậy thì có gì mà lo! Mình chơi liền đi!
Thắng phấn khởi nói.
Sĩ nghiêm giọng:
- Nhưng các bạn phải nhớ không được ngừng tay gõ chén đó nhe? Phải gõ liên tục đến khi nào họ ăn hết thức ăn.
- Được rồi! Không thành vấn đề. Nào, chúng ta tiến hành ngay đi, tôi cũng muốn nhìn thấy ma lắm rồi!
Cũng vẫn là Thắng thúc giục.
Sĩ đứng lên đi vào nhà chuẩn bị mấy đĩa thức ăn và chén đũa cho sáu người. xong đâu đấy anh đi ra ngoài, và hỏi lại một lần nữa:
- Các bạn có muốn đổi ý thì lúc này vẫn còn kịp đó!
Thắng có vẻ bực:
- Đã nói rồi, không có gì thay đổi đâu! Tiến hành đi, ông nhát hoài các bạn sẽ sợ còn hơn thấy ma thiệt nữa đó!
- Vậy thì đi theo tôi!
Sĩ nói ngắn gọn.
Sĩ đi trước, năm người bạn nối bước theo sau. Hậu và Phương cố chen vào đi giữa mọi người.
Đi tới một ngã ba đường cách nhà không xa, Sĩ dừng lại nhìn xung quanh và nói:
- Thôi, chỗ này được rồi!
Cả đám bạn đứng lại. Sĩ hướng dẫn cho mọi người đặt đĩa thức ăn và quỳ xuống sát cạnh nhau thành một hàng ngang. Trước mặt mỗi người để sẵn một cái chén và một đôi đũa.
- Các bạn cầm đũa lên đi, mình bắt đầu!
Sĩ nói nhỏ.
Khi nhìn thấy cả năm người bạn của mình đều đã cầm đũa sẵn sàng trên tay, Sĩ lầm rầm khấn nguyện rồi hô:
- Bắt đầu!
Tiếng hô vừa dứt, Sĩ liên tục gõ đũa vào miệng chén, năm người bạn cũng làm theo giống y như thế. Tiếng bát đũa va nhau lanh canh vang lên giữa đêm trường thanh vắng tạo thành một thứ âm thanh kỳ quặc, chói tai.
Khoảng hơn năm phút trôi qua vẫn không thấy gì lạ, Đĩnh bắt đầu cảm thấy chán, anh nghĩ thầm trong bụng:
- Thằng cha Sĩ này chơi anh em!
Nhưng cái ý đó vừa kịp đến trong đầu, Đĩnh chợt trông thấy từ xa một bóng đen đang chậm chạp lướt tới. Đĩnh sững người, quên cả việc gõ đũa. Diệu quỳ bên cạnh phải hích nhẹ vào người để nhắc nhở Đĩnh.
Giật mình, Đĩnh cắm đầu gõ liên tục nhưng mắt vẫn liếc về phía bóng đen đó. Khi bóng đen tới gần, máu trong người Đĩnh như đông cứng lại vì anh thấy rõ ràng gương mặt của nó mới gớm ghiếc làm sao!
Năm người bạn nhận thấy sự sững sờ kinh hãi của Đĩnh, ai nấy đều hồi hộp. Diệu hỏi nhỏ:
- Đã thấy gì chưa mà kỳ vậy Đĩnh?
Đĩnh ú ớ:
- Kìa… kìa…
Một tay vẫn gõ đũa, một tay Đĩnh đưa lên chỉ về hướng bóng đen.
Diệu ngơ ngác:
- Mình có thấy gì đâu?
Đúng lúc đó Diệu có cảm giác như có vài giọt mưa rơi trúng đầu mình. Cô vội ngước lên thì trời ơi… ngay phía trên đầu Diệu là một thây ma đang nằm sấp, bay là đà ngang qua, nước dãi từ miệng nó chảy ra có giọt.
Diệu điếng người, ngừng tay gõ.
Thắng hỏi:
- Gì vậy Diệu? Gõ đi chứ!
Diệu hoảng hốt gõ tới tấp vào miệng chén, nhưng không còn đủ sức để trả lời câu hỏi của Thắng.
Lần lượt Phương, Hậu, Sĩ đều nhìn thấy ma. Những bóng ma đó tới bên mấy đĩa thức ăn và xúm vào bốc hốt một cách thèm thuồng, tham lam. Không lâu sau dưới đất chỉ còn trơ lại mấy cái đĩa không, chẳng còn dính lại dù chỉ là một mẩu nhỏ.
Các bóng ma tan biến dần đi. Sĩ mệt mỏi quăng đũa và ngã lăn ra đất thở hổn hển.
Phương, Diệu, Hậu, Đĩnh ôm chầm lấy nhau vừa mừng vừa sợ.
Thắng bực tức đứng lên đá văng cái chén trước mặt ra xa:
- Ai cũng nhìn thấy sao tôi lại không nhìn thấy gì hết vậy? Các người có về phe với nhau để dọa tôi không đấy?
Diệu run run nói:
- Không… không có đâu Thắng à! Đúng là mình đã trông thấy ma thật rồi. thật mình không thể tin được, ngoài sức tưởng tượng!
Đĩnh góp lời:
- Trước đây mình thật không sao ngờ được song song với thế giới của mình lại có một thế giới khác đầy bí ẩn như vậy!
Phương và Hậu thì vẫn còn run như cầy sấy, chưa thể cất thành tiếng nói.
Sĩ nằm ngửa mặt lên nhìn trời, hỏi nhỏ:
- Bây giờ các bạn tin những điều mình kể rồi chứ?
- Tôi vẫn chưa tin, vì tôi có thấy gì đâu?
Thắng ngoan cố.
- Những người nặng bóng vía thường rất khó gặp ma!
Sĩ kết luận.
Thắng không đồng tình:
- Còn trò nào nữa, đem ra chơi luôn đi, thử xem ở trò thứ hai này mình có thấy gì không cho biết.
Sĩ bật ngồi dậy ngạc nhiên hỏi:
- Thắng định chơi tiếp sao?
Thắng gật:
- Ừ, chơi tiếp! Mình phải thấy ma mới được!
Sĩ liếc nhìn mọi người:
- Các bạn thấy sao?
Sĩ hỏi.
- Không! Mình không chơi nữa! Sợ muốn chết rồi!
Phương, Hậu, Đĩnh và Diệu đồng thanh kêu lên.
Thắng hậm hực:
- Đồ chết nhát!
Rồi quay sang Sĩ, Thắng hỏi:
- Có trò nào chơi một mình không Sĩ? Lựa trò đó cho tôi đi!
Sĩ lặng im một lát rồi đứng lên đi trở về nhà, mấy người bạn cũng thu dọn chén đũa bỏ vào một góc rồi cùng về với Sĩ.
Sĩ đem cuốn sách bùa phép ra ghế đá và các bạn chụm đầu lại xem chung. Dừng lại ở một trang, Sĩ ngước lên nói với Thắng:
- Đây là trò chơi mà xác suất gặp được ma rất cao, tuy nhiên mức độ nguy hiểm của nó cũng không ít.
- Nguy hiểm thế nào?
Thắng nóng nảy hỏi.
- Ở trò chơi này, nếu người chơi không đủ dũng cảm, hoảng loạn trong lúc nhìn thấy ma thì sẽ bị thất lạc trong cõi của ma giới, không thể tự tìm về được nữa!
Mấy người bạn rùng mình ngăn cản:
- Thôi đi Thắng ơi! Nhìn thấy ma làm gì, ghê lắm! Lỡ có gì thì chết chứ chẳng chơi. Tụi mình lỡ dại một lần khi nãy là đủ lắm rồi, kết thúc đi, đừng chơi gì nữa hết.
Càng nghe các bạn can ngăn, máu anh hùng trong người Thắng lại sục sôi. Anh dứt khoát nói với Sĩ:
- Cho tôi chơi trò này đi, không sao đâu mà lo. Trước khi vào cuộc chơi tôi đã chuẩn bị sẵn tinh thần rồi thì còn gì ma sợ nữa chứ?
Sĩ do dự một lúc rồi hỏi lại lần nữa:
- Thắng nhất định phải chơi trò này?
- Ừ, nhất định thế!
Thắng khẳng định lại lần nữa.
Sĩ gật nhẹ rồi đi thật nhanh vào nhà ôm ra một con mèo đen. Nó nằm im trên tay Sĩ, hai con mắt long lên xanh lè một cách ghê rợn.
Hậu và Diệu thoáng rùng mình khi nhìn thấy con mèo. Phương quay đi lấy tay che mắt:
- Trời ơi, con mèo gì mà ghê quá vậy Sĩ?
Sĩ đặt con mèo xuống bàn, nhè nhẹ vuốt ve nó. Con mèo nằm im một cách hết sức ngoan ngoãn.
- Đây là con mèo mun. Nó là vật có thể giao tiếp được với những linh hồn ở cõi âm. Nếu muốn tham gia trò chơi này, bạn cứ việc ôm con mèo mun này đi tới một nơi thật rậm rạp rồi nói tên tuổi và mong ước hiện tại của bạn lúc đó. Xong, thả con mèo xuống đất và đi theo nó, nó sẽ dẫn dắt bạn vào thế giới bên kia.
Đĩnh kéo tay Thắng:
- Đừng chơi nữa ông ơi! Tụi mình ngồi đây ăn bánh, uống trà không tốt hơn sao? Trò này nghe qua rùng rợn quá!
Thắng cười hềnh hệch:
- Tưởng mình chết nhát lắm sao? Nhất định đêm nay mình phải tận mắt nhìn thấy được ma quỷ.
Thắng tỏ vẻ dứt khoát, đón lấy con mèo trong tay Sĩ và hỏi:
- Gần đây có chỗ nào là rậm rạp vậy ông?
Sĩ chỉ tay ra hướng sau nhà:
- Ở đó còn một cánh rừng nhỏ người ta chưa khai phá hết. Thắng có thể chơi trò chơi này ở đó!
Sĩ đứng lên dẫn đường, Thắng và đám bạn lại lục tục đi theo sau.
Chỉ cách nhà Sĩ chừng vài chục mét nhưng ở đây mọi vật lại hoàn toàn khác hẳn. Cỏ mọc ken dày, cây cối rậm rạp, lại vào lúc đêm trăng thế này trông càng có vẻ huyền bí đáng sợ nhiều hơn.
Sĩ ra hiệu cho các bạn dừng lại, và hỏi Thắng lần nữa:
- Sao? Bạn có chơi không?
Mặc dù trong bụng không kém phần hồi hộp, nhưng Thắng vẫn cố giữ vẻ bình thản trước mắt bạn bè. Thắng không thể để lại tiếng xấu được. Các cô gái và cả một đứa chết nhát như Đĩnh mà còn dám gặp được ma, thì sao Thắng lại thua kém chứ?
Nhìn các bạn, Thắng cười pha trò:
- Các bạn chờ mình ở đây nhe! Mình sẽ đi vào thế giới của những hồn ma, biết đâu những việc sắp xảy ra với mình sẽ rất hấp dẫn, rồi khi ấy các bạn đừng ghanh tị với mình nhe?
Bạn bè không ai cười nổi vì lo cho Thắng, nhưng Thắng đã quyết định rồi, không thể làm gì khác hơn.
Thắng đưa tay lên vẫy các bạn rồi một mình lầm lủi đi sâu vào bên trong cánh rừng.
Đi một lúc lâu, Thắng nhận thấy nơi này không còn được ánh trăng chiếu sáng rỡ ràng nữa, mà chỉ loang loáng một vài đốm sáng xuyên qua kẽ lá, nhọn cây. Cây rừng chằng chịt, cành lá đan nhau che kín như một mái nhà, tiếng sột soạt của những con chuột rừng hoặc tiếng kêu thảng thốt của một con chim đêm ngái ngủ khiến Thắng rùng mình sợ hãi.
Bóng tối bao quanh, Thắng đứng giữa đất trời mà cảm thấy ngột ngạt như ngồi trong căn phòng máy lạnh trong những trưa hè mất điện vậy. Giờ đây thật sự Thắng muốn quay trở lại, nhưng không thể! Thắng biết điều đó, Sĩ đã căn dặn rất nhiều lần, một khi đặt chân vào trò chơi thì không thể bỏ cuộc giữa chừng, phải đi đến cùng, chờ cho cuộc chơi tự kết thúc mới có thể quay về một cách bình yên.
- Thôi,  cũng đành liều mạng một phen!
Thắng lẩm bẩm.
Cúi người xuống, Thắng chưa kịp mở hết tay thì con mèo mun đã nhảy phốc đi , bỏ rơi lại mấy tiếng  kêu “ngao…ngao” nghe nổi cả gai ốc.
Thắng vội vã chạy đuổi theo con mèo. Thân hình con mèo đen thui, nó hòa vào bóng đêm tăm tối này thì dù có căng mắt ra hết cỡ Thắng cũng không làm sao nhìn thấy nó cho được!
Nhưng kìa, may quá! Hai con mắt xanh sáng như hai luồng điện cứ thỉnh thoảng lại hiện ra, ý chừng con mèo vẫn còn nhớ rõ phận sự dẫn đường của nó. Và nhờ vào ánh sáng phát ra từ đôi mắt của con mèo mun đã dẫn lối cho Thắng không bị lạc đường.
Thắng không biết mình đã luồn lách qua bao nhiêu thân cây, đám cỏ, đã bị té ngã rồi lồm cồm bò dậy bao phen, bị gai cào xước trầy trụa bao nhiêu lần mà con mèo đen vẫn cứ chạy chờn vờn trước mặt.
Thắng mệt mỏi, chán ngán và cảm thấy hối hận vô cùng chỉ vì muốn tỏ ra anh hùng đã dấn thân vào một thứ trò chơi ma quỷ chết người này. Thắng biết mình không thể quay trở lại. Nhưng khi nào thì trò chơi này mới đi vào hồi kết, đó là điều mà Thắng cũng không sao biết được!
Tựa lưng vào một thân cây, Thắng từ từ tuột xuống ngồi bệt trên mặt đất ẩm ướt, dơ bẩn. Giá mà lúc này có được một ly trà nóng, nhấm nháp một miếng bánh ngọt và tán gẫu với bạn bè thì hạnh phúc biết bao! Vậy mà…
Con mèo mun nhảy chờn vờn phía trước, cặp mắt sáng của nó cứ thoáng ở phía bên này lại thoắt chuyển sang phía bên kia. Nó bật kêu lên mấy tiếng “ngao ngao…” thảm thiết như muốn kêu gọi, nhắc nhở Thắng không được bỏ cuộc giữa chừng!
Mặc cho con mèo thúc giục, Thắng vẫn cứ ngồi ỳ ra đấy không chịu nhúc nhích. Ma quỷ là cái quái gì mà mình phải khổ sở đến thế này? Đêm hôm khuya khoắt một mình trong rừng rậm hoang vu, đúng thật là một trò chơi điên khùng không thể tả!
Con mèo cứ kêu mãi, Thắng tức giận bẻ một cành cây nhỏ trước mặt ném vụt về phía nó. Nó giương mắt nhìn Thắng thật lâu rồi buông ra mấy tiếng “ngao… ngao” buồn thảm. Sau đó nó lủi mất tăm, đôi mắt sáng mất hẳn, Thắng không còn nhìn thấy được nữa.
Nhắm mắt một lúc cảm thấy người đỡ mệt, Thắng đứng lên vung chân vung tay lấy lại tư thế và chuẩn bị đi tiếp. Lúc này anh lại không biết mình phải đi theo đi hướng nào, bởi vì con mèo dẫn đường đã không còn nữa.
Thắng kiên nhẫn đứng chờ. Thời gian trôi qua thật chậm, Thắng có cảm giác đêm đã tàn và ngày đã sắp lên, nhưng sao chỗ này vẫn còn là một màn đêm tăm tối? Và con mèo mun thì vẫn mất dạng nơi nào!
Bây giờ thì Thắng đã thật sự hoảng sợ. Bởi Thắng biết, không còn con mèo dẫn lối, Thắng sẽ không đến được thế giới của những hồn mà, mà nếu không đến được thì cứ phải loay hoay trong cái trò chơi chết tiệt này. Thắng chỉ có thể trở về khi trò chơi kết thúc, trò chơi không kết thúc thì mãi mãi Thắng bị giam cầm ở một nơi khủng khiếp thế này sao?
Càng nghĩ càng hoảng sợ, Thắng chạy tán loạn trong rừng, vừa chạy vừa gào to:
- Sĩ ơi, Đĩnh ơi… các bạn ơi! Các bạn có nghe tiếng mình không?
Không một tiếng trả lời. Xung quanh Thắng hoàn toàn vắng lặng.
- Meo! Meo! Mèo ơi… mầy ở đâu rồi?
Thắng kêu như khóc nhưng cả con mèo cũng chẳng thấy tăm hơi.
Và thế là Thắng cứ chạy, chạy hết hướng này sang hướng khác, vấp ngã nháo nhào, mặt mũi trầy trụa và nước mắt cứ tuôn từng dòng trên má Thắng…
 
***
Diệu sốt ruột ngó chừng đồng hồ mấy lần rồi lên tiếng:
- Không biết Thắng có gặp chuyện gì không hay trong đó không mà đã mấy tiếng đồng hồ trôi qua rồi vẫn không thấy quay trở lại?
Gương mặt Sĩ căng thẳng đến tột độ.
Phương, Hậu, Đĩnh nhìn nhau không dám nói gì. Cả bọn cứ nhớn nhác ngó vào rừng mãi không thôi.
- Mình vô trong đó tìm Thắng đi!
Diệu phá tan sự im lặng nặng nề.
Sĩ lắc đầu:
- Vô ích thôi! Nếu Thắng gặp trục trặc gì đó, Thắng sẽ bị lạc trong ma giới, mình không thể nào tìm được thắng.
Diệu bật khóc.
Phương rụt rè:
- Hay mình lại chơi một trò khác để nhìn thấy ma, hy vọng sẽ nhìn thấy Thắng?
Sĩ lại vẫn lắc đầu:
- Thắng chưa chết nên không phải là ma, mình không thể nhìn thấy Thắng được đâu!
- Mặc kệ! mặc kệ có tìm được Thắng hay không, có nhìn thấy Thắng hay không mình cũng phải vào trong đó! Mình không thể đứng ngoài này mà bỏ mặc Thắng được đâu!
Diệu vừa nói vừa khóc nấc lên từng cơn.
Hậu, Phương, Đĩnh lại nhìn nhau. Từ lâu, mọi người đều biết Thắng có tình cảm với Diệu, nhưng không ai ngờ Diệu cũng đáp lại tình cảm đó. Có lẽ ngay cả bản thân mình, Thắng cũng chưa biết điều này. Bởi vì mới hôm tuần trước, Thắng còn than thở với Đĩnh về điều đó.
Chính trong lúc nguy khốn thế này Diệu mới không giấu được cảm xúc thật của mình. Trông thấy cô đau đớn vật vã, những người bạn càng thêm rối ruột.
Sĩ chạy trở về nhà lấy mấy bó đuốc đem ra, chia cho bạn rồi dắt nhau luồn lách vô rừng.
- Thắng ơi! Thắng ơi…
Những tiếng kêu không ngừng vang lên bốn phía, nhưng Thắng vẫn bặt tăm.
Diệu đi như chạy, nước mắt cô trào ra ướt nhòe nhoẹt nhưng cô cũng chẳng buồn lau. Bàn chân Diệu đạp bừa lên những bụi gai sắc nhọn, bật cả máu mà Diệu vẫn không hề suýt xoa hay dừng lại. Cô cứ dấn bước thật nhanh như sợ trễ một chuyến tàu quan trọng nhất trong đời mình.
- Ngao…!
Cùng lúc với tiếng kêu ớn lạnh là một bóng đen phóng vụt ngang qua mặt Diệu.
- Con mèo! Con mèo nè Sĩ ơi!
Diệu la lên.
Con mèo mun đứng cách Diệu không xa, nó giương cặp mắt như hai ngọn đèn lên nhìn Diệu với vẻ dữ dằn, hằn học.
Sĩ chạy tới, ôm còn mèo lên, lập tức đôi mắt của nó như khép lại, hiền lành ngoan ngoãn.
Sĩ ngồi thụp xuống ôm đầu than:
- Thắng không may rồi!
Diệu đang bừng bừng hy vọng vì nhìn thấy con mèo cô ngỡ Thắng cũng ở đâu quanh đây, giờ nghe Sĩ kêu lên như vậy Diệu khựng lại như chết sững.
Đĩnh lắc lắc vai Sĩ hỏi dồn:
- Thế này là thế nào hả Sĩ?
Nước mắt ứa ra, Sĩ nói nhỏ:
- Có lẽ Thắng không đủ kiên nhẫn để đi hết trò chơi, Thắng đã bỏ cuộc nửa chừng. Cho nên trò chơi sẽ không bao giờ kết thúc được và… Thắng cũng sẽ không bao giờ thoát ra được thế giới đó!
- Trời ơi!
Diệu rú lên thảm thiết.
Phương, Hậu chạy vội tới đỡ lấy Diệu, dìu cô ngồi xuống một gốc cây cạnh đó.
Lúc này trời đã rạng sáng, tiếng chim chóc hót vang, cỏ cây bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài. Tất cả đều tràn đầy sinh khí, tất cả đều lấp lánh tươi vui như không hề có sự cố đau lòng đã và đang xảy ra ở một miền quê lặng lẽ này vậy.
Đám bạn khó nhọc lắm mới dìu được Diệu về nhà Sĩ. Mọi người lặng lẽ ngồi nhìn nhau, ai nấy mình mẩy cũng đầy các vết trầy xước và gương mặt thì hốc hác như trải qua nhiều đêm mất ngủ.
Diệu nằm mê man trên giường, chốc chốc lại nấc lên. Hậu và Phương cố dỗ dành cách nào cũng không ép được Diệu ăn dù chỉ là một muỗng cháo.
- Phải làm điều gì đó đi chứ? Mình không thể ngồi nhìn thế này mãi được!
Đĩnh chạm tay vào Sĩ nói nhỏ.
Sĩ gật đầu:
- Các bạn lo chăm sóc Diệu giúp mình, mình sẽ dốc lòng nghiên cứu tiếp cuốn sách này, hy vọng ở đâu đó có nói tới cách hóa giải.
- Được rồi, Sĩ cố gắng nhé! Mọi người đặt hết hy vọng vào Sĩ đó!
Hậu nói.
Đĩnh can:
- Đừng tạo áp lực cho Sĩ! Cứ để từ từ đi…
Nhưng đã ba ngày trôi qua mà Sĩ vẫn chưa tìm ra được một manh mối nào khả dĩ cứu được người bạn không may của mình ra khỏi trò chơi ác nghiệt đó.
Các công ty lần lượt gọi điện truy tìm mấy nhân viên trễ phép.
- Bọn mình phải trở về Sài Gòn thôi! Nhưng Sĩ vẫn phải cố gắng nhé! Cuối tuần này bọn mình lại trở xuống!
Đĩnh buồn bã vừa dọn đồ đạc của Thắng vào túi xách vừa nói.
Diệu gắng gượng ngồi dậy nhưng vẫn khong nói câu nào.
Trưa hôm đó Phương, Hậu, Diệu và Đĩnh từ giã Sĩ để quay về thành phố. Không còn sự ồn ào tươi trẻ như hôm mới tới mà lúc này ai nấy không dám nhìn thẳng vào mắt nhau, không khí tang tóc như bao trùm lấy tất cả.
Về tới Sài Gòn, Diệu phải làm đơn xin nghỉ phép tiếp tục vì lý do sức khỏe.
- Mình và Hậu sẽ thay phiên nhau tới với Diệu mỗi ngày!
Phương nói.
Diệu buồn buồn:
- Không cần đâu! Các bạn cũng còn công việc của mình chứ! Mình sẽ về sống với đứa em gái ít hôm cho khuây khỏa. Các bạn đừng lo.
- Nếu vậy, mình đưa Diệu đi nhé?
Hậu đề nghị.
Diệu lắc đầu:
- Không! Mình đã nhắn cho đứa em, chiều nay nó sẽ tới chở mình về. Các bạn yên tâm đừng lo gì cho mình hết.
Hậu và Phương nhìn nhau, không biết phải nói câu gì để an ủi Diệu.
Ngay sáng hôm sau, mọi người phải quay trở lại với cuộc sống thương nhật của mình. Suốt ngày bận rộn với công việc còn đỡ, nhưng mỗi khi về tới nhà là Hậu lại có cảm giác bất an, hình như có điều gì đó đang đeo bám bên cạnh mà cô không thể nhận ra.
Hậu nhớ hồi còn nhỏ thường nghe bà ngoại kể chuyện ma và kết luận một câu:
- Ai tới thời vận suy kiệt mới gặp ma! Một là làm ăn lụn bại, hai là sức khỏe sa sút. Gặp ma là một điều rất xui xẻo.
Hậu tự trách mình tò mò một cách điên khùng, tự nhiên lại tham gia vào mấy trò chơi ma quái, chết người ấy làm gì, để bây giờ những hình ảnh rùng rợn đó cứ lảng vảng hoài trong tâm tưởng khiến cô như kẻ mất hồn.
Chiều nay sau giờ làm, Hậu gọi điện cho Diệu để hỏi thăm sức khỏe bạn ra sao nhưng cô không thể liên lạc được vì điện thoại của Diệu đã tắt.
Lòng không yên, Hậu cứ đi vơ vẩn phía dưới khu nhà Diệu trọ mặc dù biết cô không còn ở đó. Mãi đến chiều tối Hậu mới về nhà mình.
Không hiểu sao hôm nay cả dãy nhà trọ như đã đi đâu vắng hết. Mọi bữa, giờ này đám con nít thường chơi đùa chạy giỡn ầm ĩ dọc theo hành lang, đôi lúc khiến Hậu phát bực. Vậy mà lúc này không thấy bóng dáng một ai.
- Bịch!
Quả bóng từ đâu bay tới đập vào bức tường rồi dội ra rơi xuống ngay cạnh chân Hậu. Cô mỉm cười nghĩ thầm:
- Nhắc tiền nhắc bạc mà được vậy thì tốt biết mấy!
Cúi người xuống nhặt quả banh, Hậu xoay lại định trao trả cho một đứa bé nào đó nhưng thật kỳ lạ, sau lưng Hậu và cả dãy hành lang vắng hoe không có một bóng người.
- Vậy trái banh này từ đâu tới? Ai đá nó vào đây?
Hậu hốt hoảng lắp bắp.
Cô vội vứt trái banh và cắm cúi bước đi tiếp tục.
- Bịch!
Trái banh lại văng vào tường rồi dội trở ra rớt đúng cạnh chân Hậu giống y như lúc nãy. Hậu toát mồ hôi hột quay phắt người lại vẫn không thấy bóng dáng một người nào. Có đi như chạy, chỉ mong mau chóng về tới phòng mình.
Nhưng quả banh tai ác kia không chịu dừng lại, nó cứ một bình bay tưng tưng lên không rồi lại rơi trở xuống. Hậu quay lại nhìn thì nó đứng im lơ lửng giữa không trung, nhưng hễ Hậu vừa bước đi thì nó lại tưng tưng chạy theo, không chịu rời xa Hậu.
Tới trước cửa phòng mình, Hậu run rẩy tra chìa khóa vào ổ nhưng lập cập thế nào mà loay hoay mãi mở vẫn không ra. Thật lâu sau cánh cửa mới chịu mở toang, Hậu chui ngay vào trong và vội vàng đóng thật kín cửa
Ngã người nằm dài ra giường, Hậu vừa lau mồ hôi trán vừa lắng tai nghe những tiếng “binh… binh” vọng từ ngoài hành lang vào, chứng tỏ trái banh vẫn còn bị một người vô hình nào đó đùa giỡn.
- Có khi nào người vô hình đó là Thắng không?
Hậu bật nhổm dậy vì ý nghĩ đó chợt đến trong đầu.
Vội vã chụp lấy điện thoại, Hậu run rẩy gọi:
- A lô, Sĩ phải không?
Đầu dây bên kia giọng Sĩ lo lắng:
- Mình đây! Có việc gì vậy Hậu?
- Sĩ hãy nói cho mình biết có cách nào nhìn thấy ma dễ nhất, nhanh nhất hay không? Mình cần xác định rõ cái người vô hình trước cửa nhà mình có phải là Thắng không?
- Cái gì? Ai là người vô hình? Sao lại liên quan đến Thắng?
Sĩ ngạc nhiên.
Hậu thúc giục:
- Mình sẽ giải thích sau. Bây giờ Sĩ hướng dẫn cho mình cách nào để nhìn thấy ma một cách nhanh nhất, đơn giản nhất. Lẹ lên đi!
Nghe giọng hấp tấp của Hậu, Sĩ vô cùng lo lắng, anh nói nhanh:
- Mình vừa biết được một cách rất đơn giản nhưng chưa thử nghiệm. Hậu có làm không?
- Làm như thế nào? Nhanh lên!
Hậu vội vã.
- Hậu cứ tới trước chỗ nghi ngờ có ma, xoay lưng về phía đó rồi lầm rầm khấn vái tên họ tuổi tác của mình và ước muốn hiện tại là được nhìn thấy người khuất mặt kia. Sau đó Hậu khom người xuống, nhìn lại phía đó qua hai kẽ chân. Hậu làm thử đi, rồi có gì báo cho mình biết sau nhe?
Sĩ hướng dẫn một cách rành mạch.
- Được rồi! Cảm ơn Sĩ!
Hậu gác máy, chạy vội tới bên cửa. Cô đứng lại nhắm mắt hít một hơi thật sâu rồi từ từ mở hé cánh cửa ló đầu nhìn ra ngoài. Bên ngoài hành lang, quả bóng vẫn một mình tung lên rớt xuống.
Hậu mạnh dạn bước mấy bước đứng hẳn ngoài hành lang, cô xoay lưng về phía quả bóng và làm theo những lời Sĩ hướng dẫn. Khi cúi người nhìn qua hai kẽ chân, Hậu bủn rủn muốn sụm xuống vì ở đó, giữa hành lang rất gần nơi cô đứng là một cậu bé trạc mười lăm, mười sau tuổi đang một mình đá bóng. Cậu ta nhoản cười khi bắt gặp ánh mắt kinh ngạc của Hậu.
Hậu đứng thẳng người lên và chạy biến vào phòng, khóa chặt cửa lại.
Nhảy phốc lên giường kéo mền trùm lên tới đầu nhưng Hậu vẫn chưa hết run.
Như vậy quả đúng là có một con ma đang ở trước cửa nhà mình. Nếu tối nay nó vào tận đây thì sao? Hậu thường nghe người ta kể, ma thì có thể đi xuyên cả tường, cửa thế này nhằm nhò gì đến nó!
Trời ơi! Phải làm sao đây? Hậu ôm đầu rên rỉ.
Cô chợt nhớ ra, vội cầm lấy điện thoại gọi tiếp:
- A lô! Phương ơi, đang ở đâu vậy? Tới nhà mình ngay đi!
Phương lo lắng:
- Có chuyện gì vậy Hậu? mình đang đi công tác ở Vũng Tàu, chiều mai mới về…
Hậu thất vọng nói nhỏ:
- Không! Không sao… tại tưởng Phương còn ở Sài Gòn rủ tới cho đỡ buồn vậy mà! Thôi, bye nhé?
Cầm điện thoại trong tay, Hậu tần ngần một lúc rồi lại gọi tiếp:
- A lô, Đĩnh ơi! Bạn đang làm gì vậy?
- Mình đang uống cà phê với mấy đứa bạn. Có gì không Hậu?
Đĩnh hỏi lại.
Hậu mừng rỡ reo lên:
- Tới ngay nhà mình đi! Gấp lắm, tới liền nhe Đĩnh?
- Có chuyện gì xảy ra với bạn à?
Đĩnh hỏi.
- Có ma! Có ma ngay trước nhà mình, Đĩnh tới ngay đi!
Nhưng Đĩnh chưa kịp trả lời là Hậu đã tắt máy, như vậy Đĩnh đâu còn cách nào khác là phải đến đó ngay.
- Xin lỗi các bạn, mình bận tí việc!
Đĩnh đứng lên vội vã cáo từ rồi đi thẳng tới nhà trọ của Hậu.
Vừa đặt chân vô khu nhà trọ vắng lặng, Đĩnh bỗng có cảm giác lạnh dọc theo sống lưng. Chắc có lẽ Đĩnh bị ám ảnh bởi câu nói “có ma ngay trước nhà mình” của Hậu khi nãy.
Nhưng không biết hôm nay mọi người đi đâu mà cả khu nhà vắng vẻ lạ thường. Đĩnh vừa đi vừa ngó dáo dác xung quanh, mong có được một người bạn đồng hành cho bớt sợ. Nhưng tuyệt nhiên dãy hành lang không có lấy một bóng người.
Vừa rẽ qua hành lang hướng về phòng Hậu, Đĩnh thoáng thấy dáng một cô gái đang đi phía trước, anh vội vã chạy đuổi theo, đến lúc vượt qua cô gái, vừa quay lại nhìn, Đĩnh sửng sốt kêu lên:
- Cô… có phải cô là..?
Đĩnh nói chưa hết câu nhưng cô gái đã mỉm cười gật đầu xác nhận.
Đĩnh vui mừng quá đỗi, anh nói một hơi:
- Hôm đó cô xuống xe giữa đường không nói với ai câu nào làm tôi cứ thắc mãi. À, mà cô đến thăm ai ở đây?
Cô gái cười vẻ thẹn thùng, chỉ tay vào phòng của Hậu.
Đĩnh lại reo lên:
- Cô đi thăm Hậu? Cô và Hậu biết nhau? Trời đất, vậy mà hai người giấu kín ghê luôn nhe!
Vừa nói đến đó cũng là lúc Đĩnh và cô gái tới trước cửa phòng của Hậu. Vừa đưa tay lên gõ cửa, Hậu chưa kịp ra mở, Đĩnh đã bị một quả bóng bay vụt qua ngang người, may nhờ anh nghiêng mình né kịp lúc.
Đĩnh quay lại định mắng cho đứa bé nào vô ý một trận nhưng cả dãy hành lang không có một bóng người!
Còn đang ngơ ngác, thì quả bóng một lần nữa lại bay vụt qua Đĩnh. Lần này Đĩnh thật sự hoảng sợ, còn cô gái thì cứ đứng che miệng cười một cách tinh nghịch.
Cánh cửa phòng vừa mở, Đĩnh nắm tay cô gái lôi tuột vào trong. Vừa thở hổn hển Đĩnh vừa nói:
- Ma… có phải Hậu muốn nói tới con ma đá bóng ngoài kia không?
Hậu run rẩy gật đầu và hỏi lại:
- Vậy ra… Đĩnh đã nhìn thấy rồi?
- Có thấy gì đâu? Mình chỉ thấy quả bóng tự bay lên thôi…
Đĩnh lo sợ nói.
Hậu vẫn còn quấn mền quanh người, giương ánh mắt sợ hãi nhìn Đĩnh:
- Trời ơi… tối nay làm sao mình dám ngủ đây?
Đĩnh khẽ liếc nhìn về phía cô gái đang đứng tần ngần cạnh cửa nói với Hậu:
- Thì đã có bạn đến rồi còn gì! Mình đoán Hậu sợ ma nên gọi bạn đến ngủ chung chứ gì?
Hậu vứt liên tiếp mấy cái gối vào người Đĩnh:
- Ông đừng có nói bậy nghen! Tui sợ quá nên gọi ông tới bàn chút chuyện vậy thôi, ai cho ông ngủ lại đây mà mơ?
Đĩnh ngạc nhiên kêu lên:
- Ủa, mình có nói Hậu kêu mình tới ngủ chung đâu? Đừng đổ oán cho mình nghe bạn!
Ném thêm một chiếc gối, Hậu la lên:
- Còn giả bộ nữa hả? Ai mới vừa nói đó?
Đĩnh nhảy tránh sang một bên cười ngất:
- Nhầm rồi bạn ơi! Mình nói là nói cô bạn này nè!
Đĩnh chỉ tay vào góc nhà, nơi cô gái đang đứng im lặng mỉm cười. Lúc này đến lượt Hậu ngẩn người ra:
- Ai? Đĩnh bảo ai?
Đĩnh trố mắt ngạc nhiên:
- Hậu không thấy ai đây sao?
Hậu lùi vào rồi ngồi phịch xuống giường, lập cập nói:
- Đĩnh… Đĩnh đừng nới với mình là có người khác vào đây với Đĩnh nhe?
Đĩnh hoảng hồn, ngó lại thì không thấy cô gái đứng đó nữa, nhìn khắp phòng cũng thấy đâu.
Đĩnh hốt hoảng:
- Cô gái… chính cô gái hôm trước đi nhờ xe… cô ta mới vào đây một lúc với mình. Cô đứng tại đó, vừa mới đây thôi mà!
Hậu ngơ ngác:
- Đĩnh nói gì mình không hiểu? Cô gái nào đi nhờ xe?
Đĩnh ngồi xuống cạnh bên Hậu, hồi hộp kể:
- Thì cái hôm bọn mình đi xuống nhà Sĩ đó, qua khỏi chỗ tai nạn giao thông một chút thì có hai chị em cô gái lên xe đi cùng, Hậu quên rồi sao?
Miệng Hậu há hốc, khó khăn lắm cô mới nói được:
- Làm gì có… có chị em cô gái nào?
Đĩnh chồm tới sát Hậu:
- Hậu nhớ kỹ lại đi, họ lên xe gần chỗ tai nạn giao thông và xuống xe chỗ các bạn xuống mua trái cây đó, nhớ chưa?
Hậu kinh hãi:
- Không hề có chị em cô gái nào hết! hôm đó bọn mình còn thắc mắc không hiểu sao Đĩnh lại không xuống mua trái cây vì mọi thường Đĩnh rất ham vui, thấy ai làm gì cũng bắt chước mà.
Bất chợt Hậu nhớ ra, cô run rẩy nói:
- Đĩnh còn nhớ không, hôm đó anh tài xế có nói tai nạn giao thông làm chế hai người chở nhau trên xe gắn máy. Có khi nào…
Hậu không dám nói tiếp.
Mồ hôi tuôn ròng ròng hai bên thái dương, Đĩnh đưa tay lên quệt ngang rồi hấp tấp lục tung cái túi xách đeo bên mình lôi ra một cái máy quay phim.
- Ti vi nhà Hậu còn xài được chứ?
Đĩnh hỏi.
- Được!
Hậu vừa nói vừa đứng lên điều khiển ti vi.
Đĩnh hồi hộp lắp các thiết bị. Mấy phát sau, trên màn hình hiện ra cảnh đám bạn đang đùa giỡn trên xe, cảnh Phương và Diệu làm đủ trò để cho Đĩnh quay. Và kế tiếp là cảnh tại hiện trường tai nạn.
Đĩnh điều chỉnh cho hình ảnh hiện ra rõ hơn, trên màn hình, một người cảnh sát bước tới bên cạnh cái xác chết đã được đắp kín mặt bằng một chiếc chiếu của những người hảo tâm gần đó, ông ta khẽ lật chiếc chiếu qua một bên để lộ rõ khuông mặt của người xấu số.
Đĩnh bật ngã người vì hoảng hốt. Cô gái trên màn hình đúng là cô gái đi nhờ xe hôm đó và cũng đúng là người con gái mới vừa đi cùng Đĩnh mấy phút trước đây!
- Sao rồi Đĩnh?
Hậu hồi hộp.
Đĩnh nói không ra hơi:
- Đó là… chính là cô gái ấy… mình đã gặp ma… từ lúc… từ lúc còn ngồi trên xe…Lúc nãy…. Cô ấy cũng có vào đây mà…
Hậu nhảy nhổm:
- Vậy cô gái ấy đâu rồi?
Vừa hỏi Hậu vừa nhìn quanh nhưng không thấy một ai. Đĩnh cũng run bần bật kéo tay Hậu:
- Mình đi thôi Hậu! Đi mau lên!
Vừa nói Đĩnh vừa lôi Hậu chạy ra khỏi phòng, chiếc mền quấn quanh người Hậu rơi xuống ngay bậc cửa, cô cũng không còn tâm trí để cúi nhặt trở lại.
Căn phòng vắng lặng. Trên màn ảnh, những cảnh quay lại tiếp tục hiên ra, đột ngột như có người điều chỉnh cho nó tua trở lại để cảnh chết chóc tang thương một lần nữa hiện rõ trên màn hình.
Từ trong góc phòng, một làn sương khói mờ mờ dần dần kết tụ lại, lát sau đã ra hình dạng một người con gái, một hình dạng mong manh sương khói…
Cô gái từ từ tiến tới đứng trước màn hình, đặt bàn tay lên hai xác chết nằm trên đó. Nước mắt lăn dài trên gương mặt xanh xao xinh đẹp của cô. Lát sau, cô rút máy quay ra khỏi ti vi, mở lấy thẻ nhớ và bẻ vụn nó ra rồi thả rơi xuống đất…
Hình hài sương khói của cô gái lại tan ra rồi mất hẳn trong ánh đèn sáng trắng của căn phòng vắng vẻ cô liêu.
 
***
- Không chạy nổi nữa rồi!
Hậu giật tay ra khỏi tay Đĩnh đứng lại thở dốc.
Đĩnh cũng dừng chân thở không ra hơi, nhưng vẫn cố gắng nói:
- Mình phải trở xuống dưới đó gặp Sĩ mới được Hậu à!
Hậu ngạc nhiên:
- Gặp làm gì? Chẳng phải mình đã hẹn cuối tuần sẽ về đó xem chuyện của Thắng ra sao mà?
- Ừ, mình về đó vừa là chuyện của Thắng vừa là chuyện của bản thân bọn mình nữa. Hậu có thể sống mãi trong cảnh này không? Tình trạng này kéo dài ít ngày nữa thôi là mình chết hoặc điên lên mất!
Đĩnh đau khổ nói.
- Vậy ý của Đĩnh là?...
Hậu ngập ngừng.
- Đúng! Ý của mình là về đó nhờ Sĩ làm điều gì đó để bọn mình có được cuộc sống giống như trước đây, không bị ám ảnh bởi những điều ma quái này nữa.
- Biết có kết quả không?
Hậu nghi ngờ hỏi lại.
Đĩnh buồn rầu:
- Mình vẫn phải hy vọng, dù tỉ lệ thành công không cao lắm, nhưng có cái để mình hy vọng thì vẫn hơn…
- Đĩnh tính khi nào đi?
Hậu hỏi.
- Ngay sáng mai!
Đĩnh trả lời dứt khoát.
- Còn Phương và Diệu thì sao?
Hậu lo lắng.
- Mình có điện cho Phương nói ý định này nhưng Phương đi công tác, tuần này Phương không thể đi được. Riêng Diệu, mình muốn Diệu được yên ổn thêm chút nữa. Sáng mai hai đứa mình đi thôi, được không Hậu?
Hậu khẽ gật đầu:
- Ừ, có lẽ cũng phải đi thôi, chứ nếu không mình cũng chẳng làm gì được nữa…
 
***
Sĩ trầm tư ngó hai bạn thật lâu rồi mới nói chậm chạp:
- Mình vừa biết một cách có thể đem Thắng trở về…
Hậu và Đĩnh đều mừng rõ chồm tới hỏi:
- Cách gì? Nói mau đi Sĩ?
- Nhưng cần người giúp đỡ mới được!
Sĩ nói thêm.
- Giúp đỡ là giúp làm sao? Sĩ nói rõ hơn đi…
Hậu giục.
Sĩ nhìn thẳng vào Hậu và Đĩnh nói:
- Mình cần có hai người tự nguyện giúp đỡ, mà phải là hai người thân của Thắng. Hai người ấy sẽ tạm thời chết đi trong một thời gian ngắn. Chính trong khoảng thời gian ấy, linh hồn của hai người sẽ đi vào thế giới của các hồn ma và tìm gặp Thắng, đem bạn ấy trở về.
- Tạm thời chết đi là sao?
Đĩnh thắc mắc.
- Có nghĩa là, hai người đó sẽ được mình làm phép cho xuất hồn ra, thân xác thì mặc đồ tang chế, giống y như người sắp bị đem đi tẩn liệm.
Sĩ giải thích.
- Rồi họ trở về bằng cách nào?
Hậu run run hỏi.
Sĩ nhìn Hậu nói nhỏ:
- Suốt trong khoảng thời gian họ xuất hồn ra đi, mình sẽ luôn lắc chuông nhắc nhở họ, khi nào tiếng chuông vang lên theo nhịp hai hai, tức là sắp hết thời gian quy định, dù có tìm được Thắng hay chưa họ cũng phải chạy tới cái quầng ánh sáng trắng và chính quầng sáng đó sẽ đưa họ trở về, kể cả Thắng.
- Còn nếu… nếu họ không tới kịp?
Đĩnh run rẩy nhìn Sĩ.
Sĩ lắc  đầu:
- Thì tất cả sẽ phải ở mãi nơi đó!
Hậu khẽ liếc nhìn Đĩnh. Đĩnh cúi mặt một lát rồi ngẩng lên nói:
- Hậu có dám làm không?
Nước mắt tràn ra, Hậu gật đầu:
- Dám! Thắng là bạn thân của bọn mình, nếu còn có cách để cứu bạn ấy thì làm sao mình có thể từ chối được chứ?
Đĩnh hít một hơi rồi thở phì, đứng lên nói:
- Vậy Sĩ chuẩn bị đi, hai đứa mình sẽ đi bắt anh chàng mê chơi đó đem về xử tội!
Sĩ rơm rớm nước mắt:
- Tất cả những chuyện này cũng do mình mà ra hết. Nếu như mình đừng đem cuốn sách đó ra, đừng đưa các bạn vào những trò chơi nguy hiểm như vậy thì đâu có gì ân hận… Mình đã hứa với cậu bé sẽ học theo cuốn sách để giúp đời, vậy mà chưa gì hết mình lại làm hại chính những người bạn thân thương nhất của mình rồi!
Đĩnh đến bên cạnh an ủi Sĩ:
- Sĩ đừng tự trách mình như thế! Đây là lỗi của mọi người. Nếu bọn mình đừng quá tò mò, thì cũng chẳng có việc gì đâu. Bây giờ không nên ngồi đó mà dằn vặt bản thân nữa, chúng mình hãy thực hiện ngay phương cách đó đi, để đem Thắng trở về.
Sĩ cầm tay Đĩnh và Hậu căn dặn:
- Nhưng hai bạn phải hứa chắc với mình một điều, dù có tìm được Thắng hay không, dù sao đi nữa hai bạn cũng phải về cho kịp lúc, nhớ chưa? Khi tiếng chuông theo nhịp hai hai, các bạn phải chạy thật nhanh đến đứng vào khoảng giữa của quầng ánh sáng trắng. Nhớ chưa?
Đĩnh và Hậu lặng lẽ gật đầu.
Ngay chiều hôm đó Sĩ bày biện một mâm đồ cúng lên giữa bàn thờ nghi ngút khói hương, Đĩnh và Hậu đã được cho mặc bộ quần áo dùng để tẩn liệm người chết.
Hai người nằm cạnh nhau trên chiếc giường kê trước bàn thờ, cả hai đều hồi hộp, như nghe được cả tiếng tim mình đập vang trong lồng ngực.
Sĩ bắt đầu đốt bùa làm phép. Sau một hồi khấn vái lầm rầm, Sĩ hươ hươ lá bùa đang cháy lên giữa mặt Hậu và Đĩnh. Ban đầu hai người còn có cảm giác nóng nên chớp mắt lia lịa, nhưng chỉ vài giây sau, cả hai như lịm đi, như trôi vào một miền sương khói nào đó thật xa lạ, lạnh lẽo.
Hậu sợ hãi nắm thật chặt tay Đĩnh nói khẽ:
- Đĩnh ơi! Mình đã chết rồi phải không?
Đĩnh cũng không ngăn được sợ hãi:
- Ừ, nhưng chỉ là chết tạm thời thôi mà! Mình vẫn còn nghe được tiếng chuông nhắc nhở của Sĩ trên trần gian mà, đúng không?
Hậu gật đầu:
- Vậy mình phải đi tìm Thắng thật nhanh, kẻo trễ giờ thì nguy hại lắm!
Thế là Đĩnh nắm chặt tay Hậu, cả hai chạy nhanh trên đường, vừa chạy vừa cất tiếng kêu vang:
- Thắng ơi! Thắng ơi! Bạn ở đâu rồi?
Hai người chạy qua không biết bao nhiêu con đường, bao nhiêu ngõ ngách mà bóng dáng Thắng vẫn còn mãi bặt tăm.
Chán nản, Hậu ngồi thụp xuống đất bưng mặt khóc thút thít:
- Thắng ơi, bạn ở đâu rồi, mau mau ra gặp bọn mình đi…
Bất chợt Hậu nghe tiếng Đĩnh reo:
- Kìa, ai như Thắng kìa, Hậu ơi!
Mở bừng mắt nhìn theo tay Đĩnh chỉ, rõ ràng đi giữa dòng người đông đúc là cái dáng cao gầy khó lẫn lộn của Thắng. Hậu vùng lên chạy bổ tới gọi to:
- Thắng! Thắng! Mình đây nè…
Thắng giật mình quay lại, tổng thấy Hậu, Thắng mừng hét lên:
- Hậu! Cuối cùng mình cũng tìm được mấy bạn rồi sao?
Đĩnh chạy tới đập liên tiếp mấy phát lên vai Thắng đau điếng:
- Ông có biết bọn tôi khổ sở vì ông đến chừng nào không? Diệu đã vì ông chết lên chết xuống… Ông thiệt tình…
Thắng chụp lấy vai Đĩnh lắc mạnh, hỏi dần dập:
- Đĩnh! Ông nói sao? Ông vừa mới nói Diệu vì tôi mà chết lên chết xuống, thật vậy sao?
Hậu gật đầu, nước mắt nước mũi chảy dài trên mặt:
- Bọn mình cũng không ai ngờ Diệu nó thương ông đến vậy! Ông mau mau về mà lo cho nó đi!
Thắng nhảy cẫng lên:
- Trời ơi! Tôi sung sướng quá! Về, mình về thôi các bạn!
Đĩnh cũng giục:
- Ừ, thời gian cũng sắp hết rồi đó, mau lên nào, đừng để xảy ra điều gì không hay nữa đó!
Ba người nắm tay nhau chạy thật nhanh trở về con đường cũ. Tiếng chuông nhắc nhở của Sĩ vẫn vang lên đều đều.
- Anh Thắng!
Tiếng gọi thảng thốt của Diệu làm cả ba giật mình quay lại. Từ đằng xa Diệu đang chạy tới, dang hai tay ra ôm chầm lấy Thắng.
- Diệu! Thật không ngờ… không ngờ…
Diệu bật khóc nức nở:
- Em cứ ngỡ không còn gặp anh được nữa!
Hậu và Đĩnh ứa nước mắt đứng nhìn Thắng và Diệu đang ôm nhau mừng mừng tủi tủi.
Bất chợt, tiếng chuông chuyển sang nhịp hai hai gấp rút.
Đĩnh giục:
- Sắp hết giờ rồi! Mau mau lên các bạn!
Đĩnh nắm tay Hậu chạy đi, Thắng cũng nắm tay Diệu, nhưng Diệu ngơ ngác hỏi lại:
- Cái gì? Mấy bạn nói gì mà hết giờ?
Hậu hấp tấp giải thích:
- Thì tiếng chuông báo giờ của Sĩ đó! Nếu mình tới trễ sẽ bị mắc kẹt ở đây luôn không về được nữa, mau mau lên đi các bạn!
- Tiếng chuông? Sao mình không nghe gì hết vậy?
Diệu vẫn ngơ ngác.
Đĩnh khựng lại nhìn Diệu chằm chằm:
- Vậy Diệu tới đây bằng cách nào? Không phải do Sĩ đưa tới sao?
Diệu buồn bã lắc đầu.
Hậu, Thắng và Đĩnh đều giật mình ngó Diệu đăm đăm.
Diệu từ từ đưa cánh tay mình ra, ở chỗ cổ tay cô có một vết cứa sâu hoắm đến tận xương!
- Trời ơi! Sao lại thế này hả Diệu?
Thắng kêu lên thảng thốt.
Diệu ứa nước mắt, nghẹn ngào nói:
- Em…em cứ tưởng anh đã chết rồi… tưởng sẽ không bao giờ còn gặp lại anh trên trần thế… Vì vậy… em… em làm cách này để được đến với anh… em thật không ngờ…
Tiếng chuông giục giã, Đĩnh kéo tay Thắng:
- Mau lên đi, không còn kịp nữa bây giờ…
Thắng rút tay lại cười đau đớn:
- Mình cấm ơn các bạn rất nhiều, nhưng các bạn về đi, mình ở lại đây với Diệu. Diệu đã vì mình mà tới đây, mình không thể bỏ cô ấy bơ vơ nơi này được! Các bạn về đi!
Diệu đứng khóc ròng.
Đĩnh và Hậu còn lưỡng lự chưa biết tính sao thì tiếng chuông càng lúc càng trở nên gấp rút. Quầng ánh sáng đang ở trước mặt, nhưng cả Hậu và Đĩnh không ai nỡ bước vào. Bởi vì cả hai đều biết, một khi họ đặt chân vào đó thì mãi mãi, mãi mãi họ sẽ không còn cơ hội để gặp lại hai người bạn đang đứng trước mặt kia.
Tiếng chuông giục giã, quầng ánh sáng càng lúc càng như nhạt đi, Thắng hoảng hốt thúc giục:
- Hai bạn đi nhanh lên đi, nhanh lên đi kẻo không còn kịp nữa!
Đĩnh và Hậu đã dợm đặt chân vào nhưng lại rút trở ra, bất thần Thắng nhào tới xô mạnh hai người ngã vào trong quầng sáng đang yếu ớt mờ dần.
Đứng trong quầng sáng, Hậu úp mặt vào vai Đĩnh bật khóc nức nở, Đĩnh vừa quẹt nước mắt trên mặt mình vừa cố an ủi Hậu.
Ngoài kia, Thắng và Diệu tay trong tay nhìn theo bóng hai người bạn đang khuất dần rồi từ từ mất hẳn…
 
***
Đĩnh ngồi bật dậy ngơ ngác nhìn quanh, bên cạnh Hậu vẫn còn nằm im nhưng hai chân mày cô đã hơi động đậy rồi bắt đầu nhíu lại.
Sĩ vẫn quỳ nhắm mắt bên bàn thờ, tay cầm quả chuông nhưng không rung nữa.
- Bọn mình đã về rồi đây!
Đĩnh đặt tay lên vai Sĩ buồn rầu nói.
Sĩ quay lại, ngó dáo dác.
Hậu uể oải ngồi lên, mắt mọng nước, nghẹn ngào nói:
- Họ sẽ không trở về nữa rồi, mãi mãi sẽ không về…
- Họ? Hậu muốn nói tới ai?
Sĩ ngạc nhiên.
- Thắng và Diệu. Cả hai người đó sẽ cùng nhau ở lại cái thế giới quỷ quái ấy, không trở về…
Hậu nấc lên sau câu nói.
- Diệu? Sao lại có Diệu ở đó?
Sĩ hốt hoảng.
- Diệu đã cắt cổ tay tự vẫn để đi tìm Thắng…
Đĩnh thờ thẩn nói.
Sĩ buông người rơi xuống đất một cách nặng nề, rồi ôm đầu khó rống lên:
- Trời ơi…Tôi đã gây ra tai họa cho chính những người mà tôi thương yêu… Tại sao lại như thế này? Tại sao?
Bất chợt có tiếng trẻ con cười khanh khách:
- Bởi vì anh đã không giữ đúng lời hứa, anh đã đem những bài học đó ra sử dụng một cách bừa bãi, phung phí. Anh nên nhớ, bùa phép bao giờ cũng là một con dao hai lưỡi…
Tiếng cười của đứa bé dần xa, Sĩ vẫn còn ngồi ôm đầu đau đớn.
Hậu và Đĩnh lặng lẽ đứng lên ra về. Khi đi ngang qua Sĩ, cả hai đều dừng lại siết thật chặt vào vai bạn thầm thì:
- Cố gắng nhé! Cố gắng quên hết những đau thương để làm lại từ đầu…
 
***
Hậu gà gật ngủ, nhưng Đĩnh không tài nào nhắm mắt được mặc dù cơ thể anh mệt mỏi rã rời.
Chiếc xe bon bon trên đường rồi đột nhiên dừng hẳn lại. Cửa xe mở ra và… Đĩnh như không tin ở mắt mình khi trông thấy chính cô gái hôm nào đang dắt tay đứa em trai ung dung bước lên và ngồi vào chiếc ghế trống gần đó.
Đĩnh dụi mắt liên tục, nhưng cô gái vẫn ngồi đó không thay đổi, lúc sau cô còn quay lại khe khẽ mỉm cười với Đĩnh như vừa nhận được người quen…
Đĩnh nắm chặt tay Hậu, than thầm:
- Làm sao mình có thể thoát khỏi trò chơi ma quái này hở Hậu?
Hậu vẫn ngủ say. Trong mơ, cô thấy mình đang dự tiệc cưới của Diệu và Thắng. Hai người thật vừa lứa xứng đôi…
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:39:05 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:00:20
BÓNG MA TRONG NGÔI NHÀ CỔ
 
Anh Phú được nhận vào làm quản gia cho nhà ông Cả đúng ba tháng sau ngày cô Thùy Trang – con gái ông Cả – đột ngột qua đời.
Khắp làng khắp tổng này tiếng tăm ông Cả Bưởi nổi như cồn, không ai là không nghe tới. Ông nổi tiếng vì ông là người giàu có nứt đố đổ vách và sự nổi tiếng đó còn ở một khía cạnh khác, đó là sự nghiêm khắc đến mức tàn độc của ông.
Cái chức Hương Cả này là do cha mẹ ông bỏ tiền ra mua từ lúc ông còn là một thanh niên mới cưới vợ. Sau này giàu có hơn nhiều, ông thừa cơ hội để tiến lên những địa vị cao hơn nữa, nhưng ông Cả Bưởi là người thực tế, ông biết khi chức danh càng cao thì các khoản giao tế với bậc cao hơn càng phải nặng cân, càng có nhiều vấn đề cần phải chi phí. Mà ông Cả Bưởi là kẻ chỉ biết yêu duy nhất một thứ đó là tiền bạc! Ông thấy cái chức Hương Cả nhỏ mọn vậy cũng được rồi, đủ để dân trong làng nể trọng, không dám xem thường ông, mà khỏi phải quỵ lụy với ai khác. Cứ ung dung nhàn nhã ở nhà như thế có phải hơn không?
Sự giàu có ngày hôm nay là do một tay ông gầy dựng, chứ của cải cha mẹ để lại cũng không nhiều lắm. Nhưng nhờ vào tài năng riêng của bản thân, dần dần ông Cả đã thu tóm toàn bộ ruộng đất trong vùng vào tay mình, và nghiễm nhiên ông trở thành người giàu có, uy quyền nhất xứ.
Dưới tay ông Cả là đội ngũ tá điền, làm công đông đúc, kẻ nào dám làm phật lòng ông hoặc bê trễ việc nợ nần là ông trị thẳng tay không hề nương nhẹ dù bất cứ ai, bất cứ hoàn cảnh nào.
Dân trong làng rất sợ ông, rất oán ông nhưng người ta vẫn phải cúi đầu cắn răng lao vào làm việc dưới quyền cai quản của ông.
Có nhiều người rỉ tai nhau rằng, ông Cả Bưởi đã giết chết một cô tớ gái chỉ vì cô này dám chống cự khi ông sàm sỡ. Chuyện đó được ém nhẹm nhờ vào tiền bạc mà ông vung ra bịt miệng bịt mắt những kẻ có nhiệm vụ điều tra vụ án.
Rồi việc ông cho người đánh một tá điền tới mức tàn phế phải ngồi lết suốt đời… Những câu chuyện về sự tàn độc của ông Cả Bưởi thì nhiều lắm, nhưng công bằng mà nói, cũng có chuyện là thật, có chuyện là giả, và rất nhiều chuyện thật được thổi phồng, thêm thắt.
Ông Cả Bưởi chỉ có một người con duy nhất, mà lại là con gái. Điều đó làm ông rất tức giận. Ông đã cưới thêm nhiều bà vợ nữa và dùng tiền, dùng quyền thế để ép uổng nhiều người khác nhưng không hề có được thêm một mụn con nào nữa. Bởi thế, địa vị của vợ con ông vẫn không bị lung lay.
Trái ngược với ông Cả Bưởi, vợ và con gái của ông lại rất hiền lành và giàu lòng nhân hậu. Những người tá điền, làm công trong nhà đều biết nên họ thường lén lút đến mượn bà Cả ít tiền, ít gạo những lúc gia đình họ bị ông Cả vơ vét đến hột lúa cuối cùng.
Bà Cả tuy thương người, nhưng sự giúp đỡ của bà cũng chỉ có giới hạn vì tất cả quyền hành, tiền bạc trong nhà đều do ông Cả nắm giữ, mỗi ngày phân phát cho bà đủ tiền để chi tiêu thế thôi. Cho nên, mang tiếng làm vợ lớn ông Cả, nhưng thật ra bà Cả cũng không khác mấy với những cô vợ lẻ hoặc nàng hầu.
Nhưng với Thùy Trang lại khác, ông Cả rất mực cưng chìu cô con gái, mặc dù thật lòng ông chỉ ước sao Thùy Trang là một cậu con trai để nối dõi tông đường.
Thùy Trang muốn gì ông cũng đáp ứng ngay, được cái là cô vốn sống bình dị giống mẹ nên chưa bao giờ đòi hỏi điều gì quá đáng.
Nhờ có Thùy Trang mà bà Cả cũng được ông Cả nể nang đôi chút, bởi vì mỗi lúc ông quát nạt bà, Thùy Trang lại rưng rưng khóc, ông thương con gái đành phải nén giận cho qua…
Tất cả những cô gái trong làng đều chỉ học qua các lớp vỡ lòng để tạm gọi là biết mặt chữ, ngoại trừ cô Thùy Trang, chẳng những học hết trường làng, cô còn được tiếp tục lên tỉnh học trường Tây. Mộng ước của ông Cả không nhỏ chút nào, ông biết con gái mình có nhan sắc, ông nhất định để cái nhan sắc đó được vươn ra khỏi cái làng quê nghèo nàn quê mùa này, ông phải để cô con gái cưng có điều kiện để trở thành một “quý bà” sang trọng. Ông Cả nhất định con gái ông sẽ được lên xe xuống ngựa, được người người cúi đầu mỗi khi cô cất bước đi qua…
Cô Thùy Trang lên tỉnh học được hơn hai năm, bất ngờ một hôm cả nhà ông Cả nhốn nháo, xe cộ chạy đi rần rần, qua đến ngày hôm sau lại chở về một chiếc quan tài đỏ chót và những tiếng khóc than nỉ non, đau đớn của bà Cả. Người làng tò mò, thì được một anh gia nhân cho biết, cô Thùy Trang không may qua đời vì tai nạn khi đang đi học. Chiếc quan tài sơn son thếp vàng ấy, bên trong là thi thể của cô!
Cả làng ai cũng xót xa thương cho cô gái hiền lành, tài hoa bạc mệnh. Có nhiều người rỉ tai nhau rằng, do ông Cả ăn ở thất đức nên cô Thùy Trang phải nhận lãnh hậu quả không hay, vì xưa nay ông bà ta thường nói: “Con gái nhờ đức cha” mà!
Đám tang cô Thùy Trang không kéo dài như người ta dự đoán, ông Cả chỉ làm gọn trong một ngày. Khi các nghi lễ cúng bái đã xong, ông không đưa quan tài đi thổ táng như những đám chết thông thường mà là đưa vào ngôi nhà cổ bên cạnh nhà ông.
Số là từ thời xa xưa, ông bà của ông Cả ở trong ngôi nhà cổ ấy, về sau, tới đời cha mẹ ông Cả thì ngôi nhà cổ ấy đã xuống cấp lắm rồi, họ chê không ở nữa nhưng cũng không đập bỏ vì để làm kỷ niệm, làm nơi tưởng nhớ, thờ cúng các vong linh tiên tổ. Ngôi nhà ông Cả đang sống hiện nay là nhà mới được xây cất sau này, ngay bên cạnh ngôi nhà cổ ấy.
Ông Cả nói rằng vì ông quá thương yêu con gái, ông không muốn thân xác con phải bị vùi chôn dưới lòng đất lạnh, nên ông quyết tâm lấy ngôi nhà cổ đó làm nhà mồ để quàn xác Thùy Trang. Những lời giải thích của ông Cả nghe ra rất hợp lý nên cũng không ai thắc mắc gì nữa. Nhưng từ hôm đó trở đi, dân làng càng ít dám bén mảng tới khu vực đó, vì ai cũng sợ khi nghĩ tới một chiếc quan tài nằm chơ vơ trong căn nhà trống!
Từ sau đám tang, nhà ông Cả lặng lẽ hẳn đi, lần lượt từng người, từng người một đều phải xin thôi việc vì theo lời họ nói, cô Thùy Trang đã trở thành một bóng ma ngày đêm quanh quẩn trong nhà, họ tuy đói khổ, rất cần có việc làm nhưng lại không đủ can đảm khi bên cạnh mình bất kỳ lúc nào cũng có thể xuất hiện một bóng ma.
Chị bếp quả quyết:
- Từ ngày cô Hai chết đi, mọi người ở nhà ông Cả ai cũng thấy có điều bất thường xảy ra… Nửa đêm có tiếng khóc hoặc tiếng hát, có khi thấy cả bóng trắng lướt qua lướt lại ngoài vườn… Sợ quá… Những sự việc như vậy nhiều người nghe, nhiều người thấy chứ đâu phải một hoặc hai người mà bảo là quáng mắt, trông gà hóa cuốc! Thôi, tui thà về đi kiếm chỗ khác làm, không dám ở lại đó nữa…
Có những người làm, dù đã gắn chặt đời mình với gia đình ông bà Cả từ lâu, họ thật sự không muốn có sự thay đổi, nhưng vì quá sợ hãi mà họ không thể nào tiếp tục sống ở đó được nữa.
Ban đầu ông Cả giận dữ lắm, ông quát tháo ầm ĩ:
- Đứa nào muốn đi thì cứ đi! Cút xéo hết đi! Có khối người van lạy để được vào đây làm, bộ chúng mầy tưởng chúng mầy cao giá lắm sao? Đứa nào làm chưa đủ ngày tháng mà muốn đi thì đi đi, tao không thí cho một xu…
Thằng nhỏ giữ việc chăn nuôi heo gà tiếc tiền công của mình nên ráng gắng gượng ở lại cho tròn một tháng, tuy nhiên nó đã phải ngã ra bất tỉnh trong một đêm tình cờ trông thấy bóng một người con gái xoã tóc đi đi lại lại trong vườn.
Tỉnh lại, nó cuống cuồng gom góp áo quần ra đi, không dám nói gì tới khoản tiền công của nó.
Bà Cả thương tình, lén giấu chồng nhét cho nó được một ít tiền, cũng xấp xỉ với khoản tiền công mà ông Cả nhất định không chi trả vì lý do nó chưa làm đủ tháng!
Trong làng cũng bắt đầu dậy lên những lời đồn đại về bóng ma thường xuất hiện trong khu vực nhà ông Cả Bưởi.
Một người kể lại với giọng run rẩy:
- Tui đi soi cá về ngang qua đó, bất ngờ thấy bóng một người con gái tóc xoã dài ngang lưng, mặc bộ đồ bà ba trắng, giống y cô Thùy Trang hồi còn sống! Bóng ma đó ngồi vắt vẻo trên cành mận ngay trước sân nhà, vừa nghe tôi ú ớ la lên là nó nhảy phốc xuống rồi chui tọt vào trong ngôi nhà cổ! Tui cam đoan là cô Thùy Trang hiện hồn về chứ không ai khác. Cổ còn trẻ quá mà, lại phải chết thảm, hồn phách đâu có dễ gì siêu thoát được…
Lại có người kể:
- Tui đi chợ sớm, ngang qua đó rõ ràng nghe có tiếng khóc văng vẳng, hoảng hồn chạy một hơi không kịp thở!
- Tui thì lại nghe thấy tiếng hát! Mà lạ lắm nghe mấy bà! Có cả tiếng trống tiếng kèn, giống y như dàn nhạc đám ma đang biểu diễn vậy! Tui sợ run sợ rét…
- Nói nào ngay, ban đầu tui cũng không tin, cứ tưởng người ta đơm đặt mua vui hoặc để hù dọa con nít chơi, hoặc do mấy người nhát gan hay tưởng tượng ra việc này việc nọ. Tui có tiếng là gan dạ nè, tới mùa chăn vịt thả đồng, tui ngủ suốt mấy tháng trời ngoài nghĩa địa mà có sợ gì đâu. Thế nhưng mới vừa rồi tui phải công nhận họ nói đúng! Bữa đó tui cắm một số cần câu ở dọc lối đi, nửa đêm dậy đi thăm câu. Đang lúi húi khom người gỡ cá ở gần đó thì nghe có tiếng hát. Mà mới nghe tui cũng hổng có sợ đâu nghen, vì cứ tưởng cô nàng nào thất tình đêm không ngủ được nên hát vớ hát vẩn.
Tui tò mò, lắng tai nghe ngóng xem coi con nào thất tình để sáng ra chọ cho nó một trận, nhưng nghe không đoán được, vì tiếng hát lạ lắm, không quen. Tui thắc mắc quá trời, bèn bỏ mớ cần câu với giỏ cá lại đó, mon men đi sát vào hàng rào để định hướng xem tiếng hát kia xuất phát từ đâu?
Ai có dè… Mấy người biết tui nhìn thấy gì không? Dwosi ánh trăng mờ mờ, tui thấy rõ ràng một người con gái đứng thẫn thờ. Dáng dấp thì giống cô Hai nhà ông ba Cả lắm, nhưng cái mặt… trời ơi… bây giờ nhắc lại tui vẫn còn cảm giác muốn rùng mình nè… Cái mặt kinh khiếp lắm, mọi người không tưởng tượng nổi đâu!
Thế là tui bỏ hết cần câu, bỏ luôn giỏ cá chạy thục mạng về nhà. Mà khổ, nào có dám chạy một cách đàng hoàng đâu, bởi vì tui nghe người ta nói, khi gặp ma mà mình sợ quá la lên hoặc bỏ chạy mà để nó phát hiện được nó sẽ bắt hồn mình. Tui cũng là người gan dạ và bình tĩnh lắm mới có thể chạy một cách nhẹ nhàng để thoát thân đêm đó…
 
***
 
Càng ngày người ta càng đồn đại dữ hơn. Nào là hồn ma le chiếc lưỡi dài xuống tận bụng, nào là gan ruột lòng thoòng đung đưa theo mỗi bước chân đi, nào là hai con mắt lộ ra như hai bóng đèn xe ô tô, có người lại nói gương mặt cô gái không còn thịt da gì cả, mà chỉ là một khung xương với những cái hốc mắt trông rất đáng sợ.
Chỉ trong vòng chưa đầy ba tháng mà trong nhà ông Cả không còn lại người nào, ngoại trừ một con hầu tên Thảo, bị câm không nói được.
Thảo đã ở với gia đình ông từ bé, vì mẹ nó trước kia cũng là người làm trong nhà ông, sinh nó ra được hơn ba tuổi thì bà qua đời, và đứa bé lớn lên trong nhà ông Cả từ đấy. Ngoài gia đình ông Cả ra nó không có nơi nào, người nào là thân thuộc! Nó rất sợ ông Cả, nhưng với bà Cả và cô Thùy Trang thì lại như chỗ thâm tình. Hai người thương yêu nó hết mực. Thùy Trang lớn hơn Thảo năm tuổi, nên từ nhỏ đã thích chơi đùa với nó. Về sau, lớn lên Thùy Trang xem Thảo như em gái của mình. Cũng chính vì lẽ đó nên Thảo rất ít khi nào bị ông Cả la mắng hay đánh phạt.
Những năm Thùy Trang lên tỉnh học, Thảo cũng chính là người được đi theo săn sóc cho cô.
Bây giờ trong nhà ông Cả chỉ còn lại vợ chồng ông và Thảo. Các bà vợ bé đều được ông cất nhà ra riêng ở ngoài khuôn viên này từ lâu. Ngôi nhà nhà khu vườn rộng lớn của ông càng trở nên đìu hiu vắng lạnh.
Ngày ngày, Thảo làm mọi việc trong nhà, rồi sang dọn dẹp quét tước bên trong ngôi nhà cổ, việc đem cơm nước sang đó cúng mỗi ngày cũng do một tay Thảo lo liệu. Bà Cả cũng thường sang, mỗi lần sang đó bà ở lại rất lâu mới chịu quay về.
Riêng ông Cả thì ít khi nào léo hánh tới. Hoạ hoằn lắm ông mới vào một chút, nhưng khi trở ra thì gương mặt đằng đằng sát khí như đang giận dữ một ai đó.
Những việc đó đối với dân làng này cũng không có gì khác lạ, người ta bàn tán rằng ông Cả mỗi khi nhìn thấy quan tài con gái là lòng lại tức giận kẻ đã gây ra cái chết cho cô, mặc dù nghe nói kẻ đó đã bị luật pháp xử lý thích đáng rồi! Còn bà cả, dĩ nhiên, mỗi lần vào thăm con bà phải ngồi bên tâm tình kể lể chứ!
Chỉ một thời gian sau thì mọi việc lắng đi, không ai còn bàn tán gì tới cái chết của cô Thùy Trang và chuyện gia đình ông bà Cả nữa.
Công việc trong nhà thì nhiều mà chỉ có mỗi mình thảo nên không thể nào làm hết được. Ông Cả đã có lời tuyển chọn người làm với giá cả rất cao nhưng cũng không ai dám tới nhận lãnh.
Nhưng đúng ba tháng sau ngày cô Thùy Trang mất, có một thanh niên, không biết là người từ xứ nào trôi dạt tới đây, đến xin vào giúp việc cho nhà ông Cả.
Vợ chồng ông Cả mừng như bắt được vàng khi mướn được anh thanh niên trẻ trung, khỏe mạnh và siêng năng, cẩn thận.
Anh ta tên là Phú, trạc ba mươi tuổi, mặt mày dáng vóc trông cũng sáng láng đẹp đẽ lắm, chỉ tội một điều là vô cùng ít nói!
Ai không biết có thể nghĩ anh ta là người câm, nhưng không phải thế! Anh ta nói được, nghe được một cách rất bình thường, chỉ có điều là không thích mở miệng, thế thôi!
Phú là dân miệt dưới Cà Mau, nhưng cũng không còn gia đình hay người thân thuộc, lâu nay anh sống một mình, quanh năm suốt tháng trôi nổi lênh đênh ngoài biển vì anh làm nghề chài lưới trên một chiếc tàu đánh bắt cá xa bờ.
Mấy tháng trước đây, tàu cá đó bị bão dìm đắm, Phú may mắn trôi dạt được vào bờ biển vùng này, và anh ở lại đây kiếm việc làm sống lây lất qua ngày, không trở về Cà Mau nữa.
Ban đầu Phú đi làm dủ thứ việc, tối lại kiếm một chỗ nào đó để ngủ vạ vật qua đêm. Sau nghe nhà ông Cả Bưởi tuyển người giúp việc, Phú đến xin làm, hy vọng sẽ có được chỗ làm và nơi ăn ngủ ổn định.
Không phải anh Phú chưa từng nghe về những chuyện ma quái xảy ra trong ngôi nhà này, nhưng anh hoàn toàn không tin. Anh nghĩ, có thể những người đó họ sợ khi thấy ông Cả hành động khác người, không đem con gái đi chôn hay hỏa táng mà lại để chình ình cái quan tài trong nhà. Chính vì quá sợ nên họ tưởng tượng ra nhiều việc mà cứ ngỡ đó là thật. Chứ nếu thật sự có ma, sao cô Thảo vẫn ngày ngày mấy lượt ra vô ngôi nhà cổ ấy mà có bị gì đâu, cũng chẳng thấy cô tỏ vẻ gì là sợ hãi.
Nghĩ vậy nên từ khi vào ở trong nhà ông Cả, Phú cũng chẳng mấy quan tâm đến ngôi nhà cổ kế bên.
Suốt ngày Phú quần quật với đủ thứ vịêc trong nhà, ngoài vườn, giúp Thảo những việc nặng nhọc. Anh là người siêng năng tháo vát, nên ông bà Cả rất ưng lòng.
Chỗ ngủ của anh Phú là một chiếc giường tre ọp ẹp dược kê trong căn chái bếp nhỏ ở sau, giáp với phía ngôi nhà cổ.
Cả một ngày lao động mệt nhọc nên đêm nào vừa ngã lưng xuống giường là Phú ngủ như chết!
Nhưng có một đêm Phú không ngủ được, nằm gác tay lên trán suy nghĩ chuyện đâu đâu, rồi lại cố dỗ nhưng giấc ngủ vẫn còn đỏng đảnh không chịu đến.
Bực mình, Phú đứng lên đi ra sau vườn cho khuây khỏa.
Đêm tuy không trăng nhưng bầu trời quang đãng, chi chít những ngôi sao lấp lánh. Phú lững thững đi dạo quanh vườn.
Đây là khu đất trống quanh nhà, nếu được trồng hoa chắc sẽ làm cho ngôi nhà càng thêm đẹp và có sức sống, nhưng ông Cả lại không đồng ý, ông không thích trồng hoa, ông thích những gì thực tế hơn kìa! Nên khu đất này được dùng vào việc trồng rau, trồng cải, xa ra chút nữa ngoài kia là chuồng gà, chuồng heo…
Chỉ có ở chỗ hiên ngôi nhà cổ là có trồng một cây sứ, chắc đã lâu năm nên thân cây to sụ, và càh lá thì hình như không hề được cắt xén, nó cứ mọc um tùm một cách thoải mái, tự do, tàn cây xòe ra, chạm cả lên nóc ngôi nhà cổ.
Phú tuy là đàn ông nhưng lại có tật thích ngửi mùi hoa. Buổi tối, hương thơm của hoa sứ càng trở nên nồng đượm. Anh di lần về phía đó, trong bụng tính thầm sẽ nhặt lấy một ít hoa đem về để trên giường cho mùi thơm thoang thoảng dễ ngủ.
Bất chợt Phú đứng khựng lại, tim đập liên hồi vì anh mới vừa nghe có tiếng nho nhỏ vẳng ra từ bên trong ngôi nhà cổ!
Em làm một đám tang
Chôn mình của ngày buồn diệu vợi
Vòng khăn sô quấn vội
Không điếu văn, không trống nhạc kệ kinh
 
Em đào huyệt cho mình
Bằng đôi tay yếu mềm vụng dại
Quan tài kết bằng đau thương khổ ải
Vải liệm may bằng nước mắt những ngày qua
 
Em kết một vòng hoa
Không phải hoa hồng hay cúc trắng
Vòng hoa tang của em màu đỏ thắm
Nhuộm bằng máu con tim
 
Đám tang im lìm không tiếng khóc
Chỉ mình em khó nhọc
Nâng chiếc quan tài
Đi qua đoạn đường dài
Để đến nơi an táng...
 
Trời đã chiều rồi hoàng hôn chạng vạng
Đắp vội nấm mồ
Nước mắt em rơi...
 
Ngủ ngoan tôi ơi
Mi buồn đã khép
Từ nay hãy mơ toàn mộng đẹp
Xa cuộc đời rồi, đau khổ cũng lìa xa...
Xa cuộc đời rồi, tình yêu cũng trôi qua...
Xa cuộc đời rồi, tất cả sẽ phôi pha...
Lạ thật, chẳng lẽ có ma? Vì Phú cũng đã được biết, ngôi nhà đó là nơi để quan tài của cô con gái cưng nhà ông Cả.
Về làm ở đây đã gần một tháng nhưng Phú chưa một lần đặt chân vào đó, vì anh không có nhiệm vụ gì bên trong đó cả. Có một lần thấy Thảo khệ nệ bưng mâm cơm sang đó cúng, Phú đã chủ động đến giúp nhưng Thảo nhất định không đồng ý, lại xua tay rối rít như muốn bảo Phú hãy tránh ra xa.
Tại sao đêm nay Phú lại nghe có tiếng hát vẳng ra từ đó? Ma ư? Hay do mình nghe nhầm? Phú đứng im, cố lắng tai nghe ngóng lần nữa nhưng hoàn toàn không nghe được gì ngoài tiếng gió xạc xào và thỉnh thoảng lại có tiếng mèo hoang kêu lên như trẻ con gào khóc.
- Hôm nay mình lạ thật!
Phú bực mình lẩm bẩm rồi quay vào, không còn hứng thú gì để đi nhặt hoa sứ nữa.
Chuyện đó rồi cũng trôi qua không để lại dấu ấn gì trong lòng Phú. Nhưng cách đó không lâu, bỗng một hôm Phú lại phát hiện ra một chuyện lạ. Đó là chuyện có liên quan tới mâm cơm cúng trong nhà mồ.
Do vô tình, lúc Thảo dọn mâm cơm Phú có đi ngang qua và nhìn thấy ba cái chén, cái nào cũng có lưng cơm. Canh, cá, thịt đầy đủ cả. Nhưng rồi lúc Thảo bưng mâm từ bên trong nhà mồ ra, cũng do vô tình Phú nhìn thấy cả ba cái chén đều trống không, canh, cá thịt gì cũng vơi đi gần hết.
Trời, chẳng lẽ hồn ma mà cũng biết ăn sao? Hay là Thảo? Phú thở phào khi nghĩ ra điều đó. Nhưng chỉ một lát sau, Thảo lại rất đàng hoàng ngồi ăn cùng mâm với Phú.
Không thể được! Không thể một đứa nhỏ gầy còm như Thảo lại có thể mới ăn gần hết mâm cơm kia, giờ lại ăn thêm ba chén đầy một cách ngon lành như vậy được!
Phú thắc mắc lắm nhưng không biết làm cách nào để hỏi Thảo, với lại anh vốn ít lời lẽ, nếu biết cách chắc anh cũng sẽ không mở lời để hỏi.
Nhưng bắt đầu từ hôm ấy, Phú luôn quan tâm đến những việc xảy ra liên quan tới ngôi nhà cổ. Nhưng thời gian trôi qua, mãi mà Phú cũng chẳng phát hiện được gì thêm.
Mấy lần Phú có việc ra đường là người ta lại vây lấy anh để hỏi thăm, nhưng lần nào Phú cũng chỉ cười cười, lắc đầu mà không nói thêm một lời nào cả!
Trước mặt người ngoài Phú không nói gì, nhưng trong thâm tâm Phú cũng rất thắc mắc, bởi vì anh cũng đã mấy lần bắt gặp hiện tượng lạ gần giống với một vài điều người ta đồn đại bên ngoài.
Vốn là người gan dạ, không vì những lời lẽ đó mà Phú lo sợ, trái lại anh còn quyết tâm tìm hiểu để khám phá ra sự thật.
Đêm đêm, Phú thường đi vơ vẩn ra sân nhưng tuyệt nhiên anh không thấy có vấn đề gì khả nghi, riết rồi đâm nản, cũng chẳng thèm theo dõi nữa!
Một đêm, Phú không ngủ, cũng không đi lang thang ngoài vườn mà ngồi im trên giường nhìn trăng qua kẽ vách.
Bất ngờ Phú trông thấy Thảo rón rén đi về hướng ngôi nhà cổ, trên tay có ôm theo một xấp gì đó, như là mền gối hay quần áo.
Thảo vừa đi vừa liếc mắt về phía chái bếp như muốn xem Phú có động tĩnh gì không.
Trăng mười sáu sáng rờ rỡ, Phú không thể nhìn lầm được!
Phú ngồi im, chờ cho Thảo mở cửa đi vào trong rồi anh mới nhẹ nhàng đi ra, vọt nhanh về phía đó và bám sát vào tường nhà để lắng nghe.
Bên trong có tiếng nói chuyện thì thầm, là tiếng con gái! Vậy là loại trừ được khả năng Thảo hò hẹn với nhân tình. Vì Thảo bị câm không nói được, mà tiếng nói kia lại không phải tiếng của đàn ông.
Dù có cố gắng đến mấy, Phú cũng không thể nào nghe rõ được người đó nói gì, lát sau lại nghe có tiếng dội nước ào ào, giống như có người đang tắm trong đó.
Lâu lắm Thảo mới đi ra, trước khi ra, cô cũng mở hé cửa, quan sát thật kỹ rồi mới lẹ làng chui tọt ra ngoài, trên tay vẫn ôm một xấp đồ như lúc nãy.
Phú đợi cho Thảo vào hẳn trong nhà rồi mới tiếp tục đi vòng quanh ngôi nhà cổ. Bên trong có chân bước rất nhẹ, rồi lại có tiếng hát khẽ nhưng âm điệu nghe thật thê lương…
Vậy là bên trong ngôi nhà cổ này có người sống! Người hay ma? Người! Chắc chắn thế, bởi Thảo đã đến đây và tiếp xúc cùng người ấy kia mà! Vậy ai là người đang ẩn náu trong đó?
Phú lưỡng lự, nửa muốn gõ cửa xem thử là ai, nửa lại ngại ngần. Cuối cùng Phú quyết định về chỗ của mình, vì anh nghĩ việc trong ngôi nhà cổ có người ở chắc chắn là ông bà Cả có biết, vì không thể nào Thảo dám qua mặt ông bà như thế. Mà một khi ông bà Cả không nói gì với Phú, có nghĩa là người ta muốn giấu, thì mình còn tìm hiểu làm gì?
Thôi, việc mình mình làm, việc người người biết vậy!
Dù đã dặn với lòng như vậy, nhưng Phú không sao gạt bỏ được những ý nghĩ cứ chạy dọc chạy ngang trong đầu mình, những câu hỏi cứ xoay quanh vấn đề người con gái nào đang sống trong ngôi nhà cổ đó?
Trước đây Phú là người vô tư, hễ đặt lưng xuống nằm là ngủ như chết, nhưng từ lúc có mối bận tâm này Phú lại hay nghĩ ngợi vu vơ. Anh không hiểu người con gái kia có liên hệ gì với gia đình ông bà cả, hoàn cảnh thế nào mà phải sống ẩn thân, cam tâm làm một bóng ma như vậy?
Bất chợt, Phú nhớ tới việc con gái ông Cả mới vừa chết và quan tài cô ấy còn đang nằm bên ngôi nhà đó. Phú bật người nhổm dậy vỗ đánh đét vào đùi mình:
- Đúng rồi! Rất có thể! Có thể bóng ma đó chính là cô con gái của ông bà Cả, cho nên mỗi ngày Thoa đều đặn mang thức ăn sang phục vụ núp dưới danh nghĩa là cúng cho người đã khuất. Và đêm đêm cô lại mang áo quần sang để người con gái kia thay đổi. Vậy mà lâu nay mình nghĩ không ra! Nhưng… vì lý do gì mà ông bà Cả phải làm như vậy?
Nghĩ tới đây thì Phú hoàn toàn bí lối, không biết đường nào mà suy diễn nữa.
Ngày tháng lặng lẽ trôi qua, câu chuyện về bóng ma trong ngôi nhà cổ cũng dần dần chìm vào quên lãng, giờ đây đêm đêm người làng đã có thể đi lại một cách bình thường ở đoạn dường trước nhà ông Cả. Họ cũng không còn tò mò, xoi mói mỗi lần gặp Phú hoặc Thảo ngoài đường. Với dân làng, có lẽ bóng ma kia đã được đi đầu thai hóa kiếp rồi.
Nhưng riêng với Phú lại khác, càng ngày Phú tin chắc trong ngôi nhà hoang vắng đó chắc chắn có người đang cư ngụ.
Một hôm, ông bà Cả có việc phải đi xa mấy ngày. Trước khi đi, ông Cả dặn dò Phú rất kỹ lưỡng về việc quán xuyến nhà cửa ra sao. Riêng với Thảo, cả hai ông bà nói chuyện riêng với cô thật lâu trong phòng, vì thảo tuy bị câm nhưng lại nghe được chứ không điếc như những người câm khác. Thảo bị câm là do một tai nạn hồi mới lọt lòng mẹ, chứ không phải là dị tật bẩm sinh mà ông trời đặt để.
Đêm hôm đó vì ông bà chủ vắng nhà nên Phú rất lo lắng, sợ lỡ có việc gì không hay xảy ra thì biết ăn nói làm sao với hai ông bà, thành thử anh không tài nào chợp mắt được.
Đến nửa khuya, Phú bỗng nghe có tiếng chân bước nhè nhẹ bên hông nhà. Nhẹ nhàng ngồi dậy, vớ lấy cây đòn tay để cạnh bên để thủ thế, Phú lắng tai nghe ngóng tiếp. Có tiếng mở cửa, rồi tiếng nói chuyện nho nhỏ và tiếng ú ớ quen thuộc của Thảo. Vô cùng ngạc nhiên, Phú nhất định tối nay mình phải khám phá cho ra sự thật!
Rón rén lách người ra khỏi cánh cửa bếp, Phú lần từng bước lên nhà trên.
Có tiếng con gái vui vẻ:
- Lâu lắm rồi chị mới được về lại nhà mình! Chị vui quá… em cho chị ngủ lại đây một đêm nhe? Đừng bắt chị trở về bên kia nữa mà… chị chán bên đó lắm…
Chỗ Phú đứng không nhìn thấy được cô gái lạ, mà chỉ thấy Thảo đang đứng ngây người ra có vẻ suy tính lắm. Cuối cùng Thảo gật đầu đồng ý và huơ huơ hai bàn tay chừng như giao hẹn gì đó với người kia.
Một bóng trắng có mái tóc xõa dài đến tận thắt lưng nhào đến ôm chầm lấy Thảo:
- Cảm ơn em! Chị cảm ơn em nhiều lắm! Đêm nay, chị lại được ngủ trong căn phòng của mình… Nào, em đi với chị…
Hai người dắt tay nhau đi như chạy qua mấy gian nhà để tới được phòng của cô gái. Phú không vội vàng bám theo, vì giờ đây anh đã biết chắc chắn cô gái kia là con gái của ông bà Cả rồi, nhưng lý do nào khiến cô ấy phải sống ẩn dật thì còn phải tìm hiểu tiếp, nhưng nhất định mọi việc sẽ phải sáng tỏ trong đêm nay.
Qua những câu đối đáp vừa rồi, Phú hiểu được rằng đã lâu rồi cô gái không được phép bén mảng vào ngôi nhà này, có lẽ hôm nay do ông bà Cả đi vắng nên Thảo mới đánh bạo đưa cô chủ về lại nhà mình.
Chắc chắn trong câu chuyện này phải có một điều bí mật gì đó ghê gớm lắm!
Phú đi tới trước phòng cô Thùy Trang thì cửa phòng đã được đóng kín, nhưng bên trong vẳng ra tiếng reo vui, tiếng lục soạn đồ đạc và lát sau lại có tiếng hát nữa. Phú đoán rằng người con gái ấy được về lại với những kỷ niệm thân thương của mình nên mới vui đến vậy.
Nhưng rồi sau đó lại là những tiếng nấc nghẹn ngào:
- Chị buồn quá Thảo ơi, chị không biết mình phải sống cảnh này cho đến bao giờ nữa? Thà rằng lúc đó ba má để cho chị chết luôn đi còn hơn… Em… em cho chị mượn chiếc gương soi mặt đi, lâu rồi chị chưa được soi gương, không biết mấy vết sẹo này ra sao rồi nữa?
Giọng cô gái rất khẩn khoản nhưng có lẽ Thảo từ chối nên Phú lại nghe:
- Chị van em mà, làm ơn đi, cho chị mượn gương soi đi…
Không nghe thấy gì, tiếp sau giọng cô gái có vẻ giận dỗi:
- Thôi được rồi, em không đi lấy thì chị tự đi vậy!
Cô gái vùng vằng mở bật cánh cửa phòng ra làm Phú phải vội vã nép người kẹt tủ, suýt chút nữa đã bị lộ rồi!
Nhưng, cũng đúng lúc đó, Phú phải đưa tay bụm miệng để khỏi thốt lên tiếng kêu sợ hãi.
Cô gái bước ra từ trong phòng kia có bộ mặt giống y như ác quỷ!
Trong lúc Phú còn đang bàng hoàng vì phát hiện bất ngờ đó thì có tiếng cô gái rên rỉ:
- Trời ơi… tại sao tất cả gương soi trong nhà đều mất hết vậy? Thảo ơi… chẳng lẽ… chẳng lẽ gương mặt chị đáng sợ đến nỗi ba má chị phải vứt bỏ tất cả gương đi sao? Nói cho chị biết đi em ơi… gương mặt chị sao rồi?
Mặc cho cô chủ khóc lóc van xin, Thảo chỉ đứng lặng im, nước mắt chảy tràn trên má cô bé!
Vậy là Phú hiểu rồi! Có thể do một tai nạn nào đó mà gương mặt cô gái bị hủy hoại nặng nề như thế, ông Cả vì sĩ diện không muốn mọi người cười chê bàn tán nên đã dựng lên cái chết của con, và từ hôm đó bắt con gái mình phải sống kiếp ma trong ngôi nhà hoang lạnh.
Hiểu ra được điều đó, Phú cảm thấy lòng mình như chơi vơi, hụt hẫng… Anh lặng lẽ rút lui ra nhà sau, để mặc hai cô gái đau khổ ôm nhau mà khóc!
Lang thang ra vườn, và chân Phú cứ bước đi không định hướng trong khi đầu anh trống rỗng không nghĩ được điều gì.
Bất chợt Phú giật mình khi thấy mình đã đứng dưới gốc cây sứ cạnh ngôi nhà cổ. Mùi hương thơm ngát của hoa sứ trong đêm không còn làm cho Phú say mê nữa.
Anh nhẹ nhàng đưa tay chạm vào cánh cửa, cửa chỉ khép hờ.
Phú lách người vào trong. Anh muốn bật khóc khi thấy bên trong ngôi nhà hoàn toàn trống rỗng, chỉ có chiếc quan tài nằm chơ vơ giữa nhà, sát vào tường là một chiếc tủ thờ lớn quá khổ. Dịch xuống phía dưới một chút, có kê mấy miếng xi măng và để một vài xô chậu, chắc là nơi để cô gái làm vệ sinh, tắm rửa…
Phú mở cửa tủ nhìn vào, bên trong trống rỗng, chỉ có một cái gối, cái mền được xếp gọn ghẽ để trong đó.
Trời ơi, vậy là hơn nửa năm nay, cô gái kia đã phải sống như thế này đây sao? Tại sao ông Cả lại có thể tàn nhẫn với con ruột của mình như vậy?
Không kìm chế được sự phẫn uất trong lòng, Phú hấp tấp quay trở về nhà ông Cả. Lần này anh không đi nhẹ nhàng rón rén nữa, mà cố tình nện mạnh gót chân để báo hịêu cho hai người con gái trên kia biết sự xuất hiện của mình.
Đèn trong phòng cô gái vụt tắt, tất cả chìm vào lặng im, không một tiếng động nhỏ.
Phú dừng chân trước cửa phòng, do dự một lúc rồi lên tiếng:
- Xin hai cô thứ lỗi, tôi đã biết được mọi việc rồi, hai cô đừng trốn tránh tôi nữa! Tôi muốn được thưa chuyện cùng với cô Hai. Thảo có thể mở cửa giúp tôi được không?
Bên trong vẫn lặng im không có tiếng trả lời. Nhưng chỉ một lát sau có tiếng bước chân ngập ngừng tiến ra cửa, rồi tiếng đánh diêm châm đèn và sau đó là cánh cửa mở xịch ra trước mắt Phú.
Thảo đứng chận giữa cánh cửa, giương đôi mắt đầy vẻ sợ hãi nhìn Phú. Nép sau lưng Thảo là cô Thùy Trang, con gái ông bà cả.
Thùy Trang có lẽ cũng cảm nhận được sự biến dạng của gương mặt mình, nên cô đã ý tứ kéo một nửa mái tóc che đi bên mặt, bên còn lại cô cố tình nghiêng về phía bên kia cho Phú không nhìn thấy. Cô không ngờ rằng, Phú đã nhìn rất rõ gương mặt cô rồi, nhưng sau giây phút giật mình thảng thốt, Phú không thấy sợ hãi gì cả, mà từ trong sâu thẳm lòng anh dâng lên một nỗi niềm thương cảm vô bờ bến…
- Thưa cô… Hai, nếu tôi không lầm thì cô chính là cô Hai nhà ông bà Cả… Tôi rất xúc động và phẫn uất khi biết thời gian qua cô phải sống khốn khổ trong căn nhà đó… Nhưng tôi thật không hiểu tại sao ông bà Cả lại làm như thế? Cô có thể giải thích giúp tôi không?
Phú vừa dứt lời, Thùy Trang bỗng lảo đạo rồi té quỵ xuống. Thảo, Phú hốt hoảng chạy vội đến đỡ cô ngồi vào ghế.
Thảo xua tay ra hiệu cho Phú đừng nói nữa gì nữa, rồi cô đẩy Phú ra ngoài, chỉ tay xuống bếp, chắc múôn Phú hãy về chỗ của mình, đừng xen vào chuyện của nhà này nữa.
Phú còn đang lưỡng lự, không biết có nên tiếp tục hay không thì Thùy Trang ngẩng lên, khoát tay với Thảo:
- Không sao đâu em, hãy để anh Phú ở lại đây! Chị cũng đang rất cần một người để san sẻ…
Rồi quay sang Phú, cô nói:
- Anh Phú ngồi ghế đi, câu chuyện tôi kể hơi dài, anh cứ đứng hoài như vậy không được đâu!
Phú lúng túng định từ chối, nhưng rồi cuối cùng anh cũng ngồi xuống một chiếc ghế cạnh đó, Thảo thì chạy tới đứng sau lưng Thùy Trang, như sẵn sàng để bảo vệ cho cô chủ của mình.
- Tôi đã biết anh từ lúc anh mới vào làm việc tại đây. Cũng có nhiều lần tôi cố tình giả ma giả quỷ để nhát anh mong anh sớm rời bỏ nơi này, nhưng anh thật gan dạ, anh chẳng những không bỏ đi mà sau đó còn không thèm quan tâm đến. Nhưng cũng nhờ anh không quan tâm tới nữa nên tôi mới được an tâm…
- Nhưng… nhưng tại sao… cô… Cô có thể sống ở đó…
Phú ấp úng.
Thùy Trang mỉm cười:
- Anh nói đúng! Tôi đã phải trải qua những ngày tháng sống không bằng chết. Cả ngày phải chui rúc trong xó nhà, đêm đến mới được bước ra khỏi cửa để thở hít khí trời… Tôi phải giả ma giả quỷ để hù dọa người ta, làm cho người ta sợ hãi không dám bén mảng tới khu vực này, có như thế thì cái tự do của tôi mới được nới lỏng ra chút nữa…
Thùy Trang kể với giọng dửng dưng, nhưng nước mắt lại rơi chan hòa trên mặt. Gương mặt chi chít những vết sẹo lồi lõm, hằn lên một nét khổ đau cùng cực.
- Nhưng tại sao ông bà Cả lại không đưa cô đi chạy chữa mà giấu cô vào đây?
Phú vẫn thắc mắc.
Thùy Trang nhếch môi cố nở một nụ cười nhưng chỉ làm cho khuôn mặt méo mó hơn thôi.
Cô nói:
- Có nhiều khi tôi cũng trách ba má tôi, nhưng không phải trách như ý anh nói, mà tôi trách là sao ba má không để tôi chết đi, cứu sống tôi làm gì mà suốt kiếp tôi phải sống chui rúc như một thứ hoang hồn không nơi thừa nhận. Anh nhìn gương mặt tôi đây này…
Thùy Trang nhích người ra sáng và đưa tay vén mớ tóc từ nãy giờ vẫn phủ lòa xòa hai bên má, rồi từ từ ngước lên nhìn thẳng vào Phú:
- Anh thấy chưa? Gương mặt của tôi là thế! Làm sao ba má tôi dám cho tôi sống một cách bình thường? Người ta sẽ thêu dệt biết bao nhiêu chuyện về tôi, liệu ba má tôi có đủ sức đương đầu với dư luận không? Vả lại, ba tôi là người rất trọng danh dự, danhh giá gia đình, ông không đời nào cho phép vì tôi mà nó bị hủy hoại… Nhưng ông lại không để cho tôi chết đi, ông bắt tôi phải sống thế này đây….
Không còn gắng gượng được nữa, Thùy Trang gục đầu xuống nấc lên từng cơn. Thảo bối rối chỉ biết vỗ nhè nhẹ lên bờ vai cô chủ.
Phú nghe trong lòng mình một nỗi xót xa dâng lên đầy ứ. Một cô gái đang ở vào lứa tuổi đẹp nhất của đời người mà phải sống đời ma quỷ, anh thật không chịu nổi…
Phú không biết nói ra những lời lẽ gì để an ủi người con gái kia, để có thể làm cho cô vơi đi sầu tủi… Không, có lẽ không gì có thể làm được điều đó đâu… Đối với người con gái, việc bị hủy hoại nhan sắc còn đau hơn cái chết gấp trăm ngàn lần…
- Anh có sợ tôi không?
Đột ngột Thùy Trang ngẩng lên hỏi Phú.
Phú thật thà:
- Lúc mới thoạt trông thấy cô tôi không tránh khỏi giật mình, nhưng rồi cảm giác đó chỉ thoáng qua thôi, cô đâu có gì đáng sợ? Đành rằng gương mặt cô không được bình thường, nhưng giờ đây tôi dã không nhìn thấy cô qua gương mặt nữa, mà là nhìn qua tâm hồn cô kia…
- Cảm ơn anh đã không ghê tởm mà còn an ủi tôi, tôi cảm ơn anh nhiều lắm…! Anh… anh không hỏi tại sao tôi lại bị như thế này sao?
Thùy Trang vẫn không rời ánh nhìn khỏi Phú.
Phú đáp:
- Tôi rất muốn biết nhưng lại không dám hỏi cô. Vì tôi sợ sẽ động vào một vết thương khác nơi cô. Tôi nghĩ, nếu nói ra được thì tự cô sẽ nói…
Thùy Trang cúi mặt, nhìn chăm chăm vào hai bàn tay để yên lành trên gối. Khe khẽ kể:
- Từ ngày đưa tôi lên học ở trường tỉnh, ba tôi luôn căn dặn tôi không được gởi gắm tình cảm của mình cho bất cứ người nào. Chồng tôi sau này phải theo đúng ý của ba tôi và do ba tôi lựa chọn. Tôi là đứa con gái biết vâng lời, nên ba má dặn sao tôi làm đúng y như vậy. Rồi một hôm, ba tôi dẫn đến giới thiệu với tôi một người đàn ông trung niên sang trọng, bảo rằng người ấy làm chức lớn, gia sản kếch sù, nếu tôi đồng ý làm vợ người đó thì cả đời tôi sung sướng. Mới đầu tôi phản đối dữ lắm, vì tôi và ông ta cách xa nhau về tuổi tác. Nhưng ba tôi khuyên nhủ đủ điều, lại bảo rằng chỉ muốn đời tôi hạnh phúc. Tôi nghĩ cũng phải, người lớn bao giờ cũng có cái nhìn đúng đắn hơn mình. Thế cho nên tôi bắt đầu xiêu lòng, nhưng cũng chưa dứt khoát chuyện tiến tới hôn nhân.
Nhưng tôi không ngờ, cả ba má tôi cũng không ngờ, người đàn ông ấy đã có vợ con. Một buổi chiều, tôi vừa từ trường về, đến đoạn đường vắng bất ngờ có mấy người phụ nữ nhào ra chặn đường, túm tóc ghì tôi xuống rồi dùng dao lam rạch nát mặt tôi…
Tôi đau đớn, hoảng loạn và hoàn toàn không hiểu mình phạm tội gì mà phải bị trừng phạt nặng nề như thế? Sau khi đánh đập tôi chán chê, người phụ nữ ấy mới cho tôi biết nguyên nhân, là tôi đã “cướp chồng của chị ta”…
Trời ơi… anh không thể hiểu được tâm trạng của tôi lúc đó đâu. Đau đớn tột cùng, vừa đau thể xác, vừa đau cả linh hồn. Đau đớn và tủi nhục, tôi chỉ muốn chết đi cho xong… Khi người ta bỏ đi hết, tôi lê lết người vào ven đường và nằm gục xuống đó, tôi muốn mình được chết đi như thế…
Nhưng có lẽ số phần tôi chưa dứt, nợ hồng trần tôi trả chưa xong, nên mới có người phát hiện ra tôi, cả người bê bết máu. Người ta hô hoán lên cũng vừa đúng lúc Thảo đang tìm tôi nháo nhào trên khắp các ngả đường…
Ba má tôi lên, đưa tôi vào bệnh viện cấp cứu, và khi tôi vừa tỉnh lại thì ông bà vội vã đem tôi về đây và giấu biệt, dựng lên một cái đám tang để hợp thức hóa việc tôi sẽ vĩnh viễn không được chường mặt ra trước bàng dân thiên hạ nữa…
Cho mãi tới lúc này, tôi cũng chưa một lần được nhìn thấy khuôn mặt mình, nhưng tôi biết nó rất là kinh khiếp. Đúng vậy không anh Phú? Tất cả gương và những gì có thể soi mặt được đều bị má tôi vứt bỏ hết, ngay cả việc soi mặt mình xuống nước tôi cũng không có điều kiện để làm… Anh thấy không anh Phú, tôi sống như thế này thì sống để làm gì? Anh có cách nào giải thoát giúp tôi không? Anh có cách nào làm cho tôi thật sự biến mất khỏi cuộc đời này không anh Phú?
Thùy Trang chừng như bị kích động quá mức nên gần như hoảng loạn. Cô níu lấy tay Phú van xin.
Phú vô cùng bối rối. Anh cố gắng nuốt những xót xa vào lòng để an ủi người con gái không may đang quằn quại trước mặt mình:
- Cô Hai à… cô đừng nên nghĩ quẩn như thế! Mạng sống của con người ta là quý nhất, cô đừng nên hủy diệt nó đi. Tôi nghĩ ông trời không nỡ dồn ai vào bước đường cùng đâu cô ạ!
- Anh nói ông trời không dồn ai vào đường cùng à? Thế tôi thì sao? Đây chưa phải là bước đường cùng của tôi sao? Mà tôi có tội gì mới được chứ? Ông trời không công bằng! Lâu nay tôi luôn tin tưởng vào trời phật, tôi luôn tin vào câu “ở hiền gặp lành”, “gieo nhân nào gặt quả nấy”. Nhưng bây giờ thì sao? Ha ha ha… Bây giờ thì sao đây? Có lúc tôi tự an ủi mình, rằng sở dĩ bây giờ tôi phải hứng lấy tội nghiệt này là do hồi kiếp trước tôi gieo điều độc ác… Nhưng… rồi tôi lại không cam tâm… Tất cả những gì tôi gieo kiếp trước sao trời phật không bắt tôi phải trả cho xong ở kiếp đó, để chi đến kiếp này, khi mà tôi không thể nhớ được kiếp trước mình đã làm những việc gì, tôi không cam tâm… tôi thật sự không cam tâm được anh Phú à…!
Thùy Trang cắt ngang lời Phú và nói luôn một thôi một hồi, nhữngcâu nói xen lẫn những tiếng cười đau đớn lẫn những tiếng nấc nghẹn ngào…
- Ông bà cả lắm tiền của như thế, sao không đưa cô đi chữa trị?
Phú đột ngột hỏi.
Thùy Trang mở to mắt nhìn anh:
- Điều trị? Anh nghĩ người ta có thể trả lại cho tôi dung mạo trước đây sao? Điều đó không thể được đâu anh…
Phú lắc đầu, quả quyết:
- Không! Tất nhiên là họ không thể trả về cho cô gương mặt khi xưa, nhưng họ có thể làm cho gương mặt cô không còn… không còn…
Phú ấp úng vì chưa biếp tìm từ nào cho hợp.
Thùy Trang cay đắng:
- Thì anh cứ nói thẳng ra là “kinh tởm” đi… Tôi không giận anh đâu, tôi quen rồi, tôi vẫn luôn nghĩ về mình như thế mà…
- Không, không có gì kinh tởm hết! Tôi muốn nói là mặt cô bây giờ đầy những vết sẹo, người ta có thể xóa nó đi để cô có được một gương mặt dễ nhìn mà sống, không phải mặc cảm trốn lánh người đời…
Phú thật thà nói.
Thùy trang ngạc nhiên:
- Anh nói thật? Người ta làm được điều đó sao?
Phú gật đầu:
- Thật! Chính mắt tôi đã chứng kiến. Hồi đó, lúc tôi còn ở Cà Mau, bà vợ của một chủ Ba Tàu giàu có chẳng qua bị phỏng lửa, mặt mày, tay chân còn nặng nề hơn cô nhiều. Ông ấy đã tận lực chạy chữa, cuối cùng bà vợ cũng có lại một khuôn mặt đàng hoàng, tất nhiên là không được tự nhiên như xưa, nhưng dẫu sao vẫn là một gương mặt không gây tò mò, đàm tiếu cho người đời…
Giống như người sắp chết chìm giữa biển cả mênh mông, vô tình vớ được một chiếc phao, Thùy Trang mừng rỡ quay lại nắm chặt hai Thảo, reo lên:
- Em có nghe anh Phú nói gì không Thảo? Có thật chị sẽ được lành lặn không? Có thật như thế không em?
Thảo tuy không biết gì nhưng cũng cứ gật đầu lia lịa và nước mắt thì không ngừng tràn ra.
Phú bảo:
- Sáng mai ông bà chủ về, tôi sẽ thưa chuyện cùng ông bà chủ, hy vọng những điều tốt đẹp nhất sẽ đến với cô, cô Hai ạ!
Thùy Trang cảm động:
- Cảm ơn anh! Tôi rất cảm ơn anh… Nhưng… việc này anh nên để tôi nói, vì nếu ba tôi biết anh đã khám phá ra điều bí mật của gia đình, tôi sợ ông sẽ tức giận mà đối xử không phải với anh…
Phú xua tay:
- Cô đừng lo, bất quá ông chủ đuổi tôi ra khỏi nhà là cùng chứ gì! Mà tôi thì đã quen với cuộc sống lênh đênh rày đây mai đó rồi, không có gì đáng sợ nếu việc đó lại xảy đến một lần nữa trong đời. Nhưng, tôi phải nói vì hai lẽ:
Thứ nhất: Tôi nói để ông bà chủ hiểu rằng không thể giấu nhẹm việc cô còn tồn tại được! Chỉ một thời gian nào đó thôi rồi tất cả cũng sẽ phơi bày ra hết thôi. Vì không thể giấu được nên ông bà phải mau mau tìm cách tìm cách để chữa trị cho cô, nếu không muốn người đời mỉa mai cười cợt…
Thứ hai: Vì tôi là người đã tận mắt chứng kiến kết quả điều trị tuyệt vời mà lúc nãy tôi đã kể với cô, nên tiếng nói của tôi sẽ có tính thuyết phục hơn. Tôi sẽ nói rõ danh tánh, địa chỉ của người đó để nếu cần thì ông chủ có thể trực tiếp tìm hiểu…
Cô nghĩ xem, như thế có nên chăng?
Thùy Trang ngẩng người ra một lúc rồi gật đầu:
- Anh nói cũng phải! Vậy anh làm ơn giúp tôi nhé! Tôi rất đội ơn anh…
Phú lúng túng:
- Cô Hai đừng nói vậy, tôi thấy mình chưa làm gì được cho cô hết… cô nói vậy tôi ngại lắm đó!
Quay sang Thảo, Phú nói:
- Cô Thảo đưa cô Hai đi nghỉ đi, khuya lắm rồi đó, đừng để cô Hai thức khuya quá không tốt đâu…
Thùy Trang mỉm cười, chua chát nói:
- Anh Phú quên rằng tôi đã ngủ suốt ngày rồi sao? Hiện nay tôi sống kiếp quỷ ma mà, đêm tối mới là ngày của tôi…
- Cô hãy vững tin, rồi đây mọi việc sẽ trôi qua hết!
Phú động viên và xin phép Thùy trang để trở về nơi chốn của mình.
Thùy Trang ngồi nhìn theo Phú bằng ánh mắt dịu dàng, bịn rịn…
Qua ngày hôm sau vợ chồng ông Cả về tới. Việc đầu tiên khi bước vào nhà của ông Cả là gọi Thảo lên hỏi han gì đó rất lâu. Tiếp đến, ông cho gọi Phú lên để hỏi về công việc ở nhà trong suốt mấy ngày vợ chồng ông đi vắng.
- Chú mày làm việc tốt lắm!
Ông Cả phán một câu sau khi nghe Phú trình bày mọi việc. Đáng lẽ lúc này là lúc Phú cúi chào rồi quay về với công việc của mình. Nhưng hôm nay Phú cứ nấn ná đứng lại dường như có điều gì muôn nói.
- Còn gì nữa không?
Ông Cả Bưởi ngạc nhiên hỏi.
Phú lúng túng:
- Dạ… dạ thưa ông, về phần công việc thì xong hết rồi ạ!
- Vậy chớ còn gì nữa? Bộ mới vừa nghe khen một câu là tính vòi tiền ngay hay sao thế?
Giọng ông Cả hách dịch.
Phú đáp:
- Dạ không ạ! Tôi chỉ muốn nói đến chuyện của… cô Hai!
Ông Cả Bưởi đang ngồi trên ghế, nghe mấy lời Phú nói chợt giật thót người như bị phỏng nước sôi.
Ông rít lên:
- Mày nói gì? Mày biết những gì rồi?
Lúc này Phú đã lấy lại được tự tin, ôn tồn đáp:
- Dạ thưa ông, tôi đã biết toàn bộ sự thật. Nhưng xin ông yên tâm đi, tôi thề sẽ giữ kín những điều đó…
- Đã thề giữ kín mà mầy còn đem ra để nói với tao làm gì? Tính làm tiền tao sao? Đừng có mơ đi nhé?
Phú không hề tức giận trước những lời xách mé mỉa mai của ông Cả, anh bình tĩnh đáp:
- Không, điều tôi muốn nói ra đây là vì cô Hai, tôi muốn những điều tốt đẹp nhất sẽ đến với cô!
- Ha ha ha… mầy đã nhìn thấy nó chưa mà còn nói đến hai từ “tốt đẹp”? Nó bây giờ giống như một con ngạ quỷ…
Ông Cả cay cú nói.
- Chính vì vậy tôi mới muốn kể cho ông nghe một chuyện!
- Mầy muốn giở trò gì cứ giở phứt mẹ nó ra đi, nói vòng vo hoài tao mệt quá, chán quá!
Ông Cả đâm cáu, cắt lời Phú.
Phú vẫn không nao lòng:
- Hồi tôi còn ở Cà Mau, chính mắt tôi đã trông thấy một người bị phỏng nước sôi, hậu quả còn tàn khốc hơn cô Hai nhiều, nhưng vì gia đfinh họ có tiền, nên không lâu sau người đó đã được chạy chữa và khỏi hẳn, đã có lại một gương mặt bình thường…
- Sao? Mầy nói sao? Có thể chữa trị à?
Ông Cả bắt đầu chú ý, ông chồm cả thân người qua mặt bàn để hỏi Phú.
Phú gâït đầu quả quyết:
- Dạ thưa, đúng như vậy! Ông cứ đến xóm… làng… ở Cà Mau hỏi thăm nhà chú Chệt Dùng là biết, người đàn bị phỏng đó chính là vợ chú chệt Dùng!
- Ông ơi… vậy là con gái mình có hy vọng được cứu rồi ông ơi…
Không biết bà Cả đã lên đứng phía sau từ lúc nào, khi nghe tới đó bà mừng quá khóc rống lên.
Ông Cả run rẩy:
- Đi, tui với bà đi liền xuống đó thăm hỏi đường đi nước bước với lại coi tận mặt xem sao, nếu thật vậy tui có tiếc gì tiền bạc mà không lo cho con gái, tui cũng chỉ có mỗi mình nó thôi mà…
Nhìn ông Cả mếu máo, Phú cũng thấy động lòng. Đúng là “hổ dữ cũng không nỡ ăn thịt con mình”, ông Cả độc ác, tàn nhẫn với ai thì với, nhưng với con mình ông vẫn rất mực yêu thương…
Hai vợ chồng già vừa đi xa về tới nhà, chưa kịp nghỉ ngơi cho lại sức đã vội vàng quay ra đi tiếp.
Hai ngày sau ông bà Cả trở về, mặt mày hớn hở lắm.
Ông Cả cho gọi Phú lên bàn chuyện:
- Tao với bà mày đã đến tận nơi và nhìn thấy tận mắt rồi! Quả thật khó ai ngờ được y học lại có khả năng đó! Nhưng… có một điều hơi khó, ông bà muốn bàn bạc lại cùng mầy…
Tự nhiên thấy ông Cả có vẻ nhún nhường, Phú ngạc nhiên:
- Dạ thưa ông, có chuyện gì ông cứ việc dạy bảo ạ!
Ông Cả vặn vẹo hai bàn tay như có điều khổ sở khó phân bày:
- Mầy cũng biết rồi đó, dang vọng của tao ở cái xứ này không phải là nhỏ, nếu để chuyện xấu trong nhà lan ra đến bên ngoài thì tao với bà mầy thật không còn mặt mũi gì mà sống trên đời này nữa… Vả lại vợ chồng chú Chệt Dùng đó cũng có chỉ biểu, nói rằng nếu có điều kiện thì đưa cô Hai mầy sang… Tây để điều trị, kết quả sẽ mỹ mãn hơn. Tao với bà mầy nghe cũng có lý, nhưng ngặt nỗi… ngặt nỗi nhà neo đơn quá, đâu có ai đi theo lo lắng săn sóc cho cô Hai được. Chỉ có mỗi con Thảo, mà nó thì khù khờ, không thể để hai đứa nó đi tới xứ lạ quê người được…
- Ý ông là…?
Phú thăm dò.
- Ừ! Ý của ông bà là nếu mầy đồng ý đi theo bảo vệ cô Hai, ông bà sẽ tăng tiền lương cho mầy một cách xứng đáng!
Ông Cả lật đật nói.
Phú thở phào nhẹ nhõm:
- Tưởng gì! Nếu là chuyện đó thì ông bà yên tâm đi. Ở đây tôi cũng chẳng có ai là thân thuộc thì dù ở đây hay đi tới xứ xa thì cũng giống như nhau thôi. Đi theo bảo vệ cô Hai là sự vinh dự cho tôi đó chứ… Ông bà không cần phải tăng thêm lương, vì nhân dịp này tôi mới được trời Tây ra sao…
Thấy Phú nhận lời một cách dễ dàng, nhanh chóng, ông Cả mừng quýnh, vỗ vai Phú đồm độp:
- Trời! Cảm ơn… ông bà cảm ơn mầy nhiều lắm…
Bà Cả từ nhà dưới đi lên, sụp xuống chân Phú vái lấy vái để:
- Tôi cảm ơn cậu, cậu đã cứu được mẹ con tôi, nếu không có cậu chỉ vẽ, chắc chắn con Hai nhà tôi phải sống chui rúc trọn cả kiếp này, giờ đây cậu lại sẵn sàng theo chân nó đến trận trời Tây xa xôi để giúp nó trong thời gian điều trị. Tôi đội ơn cậu biết chừng nào…
Phú quýnh quáng đỡ bà Cả lên, ấp úng nói:
- Kìa… bà.. xin bà đừng nói vậy! Đó là nhịêm vụ của tôi mà!...
Tối hôm đó, được sự cho phép của ông bà Cả, Phú và Thùy Trang đã ngồi tâm sự cùng nhau đến tận khi gà gáy sáng.
Phú cảm thấy trong lòng mình dường như có một điều gì là lạ vừa len đến… Anh rất vui khi nghĩ tới một ngày, cô gái khổ đau đang ngồi trwosc mặt anh đây sẽ quay trở lại nhà mình với một gương mặt lành lặn và không phải sống đời ma quỷ nữa…
Một tháng sau, lúc nửa đêm có một chuyến xe được che kín bịt bùng chạy từ nhà ông bà Cả lên tỉnh. Tỏng xe chỉ có ba người: Phú, Thảo và Thùy Trang.
Bà Cả đứng lặng trước thềm nhà nhìn theo chiếc xe ngựa lắc lư, tiếng nện gót lộc cộc của chú ngựa như gieo vào lòng bà một niềm hy vọng lớn lao không bờ bến…
 
***
 
Một chiếc xe hơi màu đen bóng lộn dừng lại trước cổng nhà ông bà Cả, dân trong xóm đứng lấp ló bên hàng rào chỉ trỏ bình phẩm với nhau. Còn đám trẻ con trong làng thì rồng rắn chạy theo sau chiếc xe, reo hò vang dậy. Đến khi xe dừng, lũ trẻ lại xúm đen xúm đỏ xung quanh khiến bác tài phải la đứa này, hét đứa khác vì sợ chúng làm bể kính chiếc xe hơi sang trọng.
Một cặp nam nữ từ trên xe bước xuống, dáng vẻ thanh tao, sang cả.
Tiếp sau là một cô gái nhỏ có nét mặt quen quen.
Vừa chui ra khỏi xe, cô gái liếc nhình xung quanh và mỉm cười thật tươi với người phụ nữa đứng bên bờ rào nhà bên cạnh đang tò mò theo dõi:
- Chị Hiền, nhớ em không? Em là Thảo nè!
Người phụ nữ nghệnh mặt ra một lúc rồi như chợt nhớ ra, reo to lên mừng rỡ:
- Em là Thảo? Trời ơi, đúng rồi! Đúng là con Thảo câm ngày nào đây rồi! Nhưng… nhưng sao…
Thảo hí hửng:
- Chị thắc mắc sao hôm nay em nói được chứ gì? Mấy năm qua em được ông bà chủ đưa qua bên Tây để trị bệnh… Thôi, chuyện còn dài lắm, để chiều hay mai rảnh rỗi chị em mình tâm sự. Giờ em phải vào nhà đây!
Nói xong, Thảo le te lôi mấy cái va-li to tướng vào nhà.
Chưa đầy một giờ sau, cả làng đều biết tin cô Thảo câm giúp việc nhà ông bà Cả năm nào bây giờ không những đã trở thành một thiếu nữ phổng phao xinh đẹp, mà còn nói được rõ ràng! Nhưng người ta vẫn chưa thể đoán ra cặp nam nữ đi cùng xe với Thảo là ai, có quan hệ gì với gia đình ông bà Cả?
Nghe tiếng xe hơi ngừng trước nhà mình, bà Cả đưa tay che mắt nheo nheo nhìn ra, thầm nghĩ:
- Ai đến thăm ông nhà mình mà trông sang trọng đến thế kia? Mấy năm nay ổng đau yếu nằm một chỗ có thấy ai thăm nom bao giờ đâu?
Nghĩ vừa dứt câu, bà Cả chợt như muốn nghẹt tim vì nghe một tiếng reo sung sướng:
- Má ơi! Con về rồi nè má!...
Người con gái sang trọng chạy ào tới ôm chầm lấy bà Cả.
Bà Cả run rẩy:
- Con… có thật là con Hai của má đã về với má rồi không?
Cô gái khóc nấc lên, dụi đầu vào ngực bà:
- Má ơi, con nè… con là con của má nè! Má không nhận ra con sao?
Bà Cả ôm chặt con gái vào lòng, nghẹn ngào:
- Má nhận ra con chứ, vừa chạm vào tay con là má đã nhận ra hơi ấm của tình thâm mẫu tử rồi… Má hỏi vậy để con xác nhận là má không phải đang mơ… Con ơi… con ngước mặt lên cho má nhìn nào….
Thùy Trang – Vâng, cô gái ấy chính là Thùy Trang – ngước mặt lên nhìn mẹ. Bà Cả đưa hai bàn tay run lẩy bẩy lên vuốt ve từng mi li mét trên mặt con gái.
Đó là một gương mặt đẹp nhưng không giống với con gái bà khi xưa, tuy nhiên bà Cả vẫn nhận thấy đâu đó vẫn phảng phất những đường nét của đứa con yêu mà bà đã thuộc nằm lòng…
Gương mặt đẹp của cô gái đẫm nước mắt, nước mắt của mình và của cả người mẹ già khốn khổ.
- Ba con đâu rồi má?
Thùy Trang vừa lau mắt vừa hỏi.
Bà Cả thở dài:
- Ba con nằm một chỗ hơn một năm nay rồi… ổng nằm trong kia, con vào thăm ba đi con…
Thùy Trang thảng thốt:
- Sao? Má nói sao? Má nói ba con nằm một chỗ? Sao má không cho con biết?
Bà Cả chậm rãi nói:
- Ba con không cho má nói! Ba biểu để cho các con yên tâm điều trị và học hành. Khi ngã bệnh nằm xuống rồi ổng mới có thời gian chiêm nghiệm lại những việc làm của mình, ổng hối hận lắm, ray rứt lắm. Chính vì vậy ổng mới đánh dây thép qua cho phép con Thảo chữa bệnh và thằng Phú học nghề bên đó… Bây giờ hai đứa nó thế nào rồi con?
Từ nãy giờ bà Cả vì quá mừng con gái nên không nhìn thấy Thảo và Phú đang đứng một bên nhìn cảnh mẫu tử tương phùng mà không cầm được nước mắt. Hai người cũng không dám cất tiếng chào hỏi vì sợ làm mất đi cái không khí thân tình của hai mẹ con.
Giờ nghe bà Cả hỏi đến, Phú và Thảo lật đật bước lên cúi đầu chào.
- Bà vẫn khỏe ạ? Con nhớ bà lắm…
Thảo nắm lấy cánh tay bà Cả, cất giọng trong trẻo.
Bà Cả ôm chầm Thảo vào lòng, nức nở:
- Con đã nói được rồi! Con đã nói được rồi! Bà vui mừng quá con ơi! Con mau mau vào nhà nói cho ông nghe đi! Lâu nay ông vẫn thường tự nhủ, nếu như con có thể cất lên tiếng nói là trời phật đã hỉ xả tha tội cho ông… con mau vào nói cho ông nghe đi con, để ông được nhẹ lòng…
Thùy Trang dắt tay Thảo vội vã bứoc nhanh vào trong.
Còn lại Phú và bà Cả. Bà nắm lấy tay Phú rưng rưng:
- Nhà bác có được ngày hôm nay là ở cháu…  bác cám ơn cháu nhiều lắm Phú à…
- Bà… bác…
Phú lúng túng vì sự thay đổi bất ngờ trong cách xưng hô của bà cả. Anh chưa kịp nói gì thì bà hỏi tiếp:
- Việc học hành của con sao rồi?
Phú đáp:
- Dạ, cũng nhờ sự thương yêu giúp đỡ của hai…. Bác mà cháu mới có được ngày hôm nay. Ở bên đó, cháu đã rất cố gắng học ngày học đêm, giờ thì cháu đã có được bằng cấp trong tay rồi, cháu đã có thể mở cửa hàng sửa chữa cho riêng mình rồi… Cháu đội ơn hai bác nhiều lắm…
Bà Cả kéo Phú ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh, khẽ liếc mắt nhìn vào trong và nói nhỏ:
- Mấy năm nay hai bác ở nhà đã bàn tính với nhau rất cặn kẽ. Cháu chính là người đem con Hai nhà bác từ cõi chết trở về, giải thoát cho nó ra khỏi kiếp sống ẩn thân giả ma giả quỷ. Nếu cháu không chê nó, thì hai bác xin giao nó cho cháu…
Phú xúc động:
- Bác ơi… bác nói quá lời rồi… cháu có làm được gì đâu? Chính cháu mới là người chịu ơn gia đình bác… Cô Hai đối với cháu luôn là người cao quý, sao cháu lại dám chê cô…
- Vậy là tốt rồi! Vậy là tốt rồi! Ông ơi… mọi việc tốt đẹp rồi ông ơi…
Bà Cả ngắt lời Phú bằng một câu như nói với chính mình.
Bà đứng lên di vào trong, Phú đi theo sau.
Thùy Trang và Thảo đang quỳ bên cạnh giường bệnh ông Cả. Thấy bà Cả và Phú đi vào, ông ngước mắt nhìn lên, lấp lánh niềm vui.
- Dạ thưa… ông!
Phú vẫn không dám dùng tiếng “bác” để xưng hô với ông Cả.
Ông cả chỉ tay xuống giường, ra hiệu cho Phú ngồi xuống cạnh bên mình, Phú ngập ngừng chưa dám, nhưng trước ánh mắt ông nhìn, anh không thể nào cưỡng lại được.
Ghé người ngồi xuống cạnh bên ông Cả, Phú xúc động khi thấy ông bây giờ đã mất hết cái vẻ oai phong lẫm liệt, mất hết cái vẻ hách dịch năm xưa. Bây giờ, ông nằm đây trông thật hiền lành và yếu đuối.
- Trong người ông lúc này ra sao ạ?
Phú hỏi.
Ông Cả xua tay:
- Đừng gọi bằng ông… xa cách lắm!... bác… bác không sao… Các con về là bác yên lòng rồi, bác vui lắm rồi, nay mai bác sẽ khỏe lại thôi… Bây giờ từng đứa kể cho bác nghe về mình đi…
Phú không dằn được xúc cảm. Anh nắm chặt lấy bàn tay gầy guộc của ông cả, nghẹn ngào:
- Bác ơi…
Ông Cả mỉm cười, khóe mắt tràn ra hai giọt lệ. Bàn tay ông giữ lấy tay Phú, bàn tay còn lại ông run rẩy lần tìm tay Thùy Trang và đặt tay cô nằm lên tay Phú, nói trong hơi thở mệt nhọc:
- Đây là ước nguyện cuối đời của ba…
Tất cả những người có mặt trong nhà đều khóc, nhưng những giọt lệ của họ trong giây phút này là những giọt hạnh phúc!
 
***
 
Nhà ông Cả Bưởi tổ chức đám cưới!
Tin đó vang ra thật xa khiến ai nấy không khỏi ngỡ ngàng thắc mắc. Ông tổ chức tiệc cưới cho ai? Đứa con gái duy nhất trong nhà đã qua đời từ lâu rồi kia mà?
Người ta xôn xao bàn tán nhưng không ai dám bạo gan đến tận nơi tìm hiểu. Những người thích buôn chuyện thì ngồi đứng không yên, cứ lảng vảng trước nhà để chờ Thảo ra sẽ đón lại hỏi cho rõ nguồn cơn.
Và họ lại phải một phen tá hỏa khi biết đó chính là đám cưới của cô Hai nhà ông bà Cả với anh quản gia tên Phú năm nào!
Bây giờ thì vợ chồng ông Cả không còn sợ gì những lời đàm tiếu xung quanh, họ cho phép Thảo kể rõ ngọn ngành, nhưng Thảo cũng đủ khôn ngoan mà kể lại rằng:
- Do một tai nạn, gương mặt cô Hai bị biến dạng. Vì mặc cảm cô đã phải trốn lánh mọi người. Sau đó được đưa đi Tây điều trị…
Dân làng ai nấy mới vỡ lẽ cái bóng ma năm nào chính là cô gái nhân từ mà họ hằng yêu quý!
Đám cưới cô Thùy Trang không bao lâu thì ông Cả qua đời. Nghe nói ông ra đi cũng nhẹ nhàng êm ái lắm.
Khi mới vừa lâm bệnh không lâu, ông Cả đã chia chác của cải cho các bà vợ lẻ để họ tự tìm kế sinh nhai, và toàn bộ quyền hành đã trao về cho bà vợ lớn.
Tội lỗi ông gây ra không ít, nhưng quãng thời gian cuối đời ông Cả đã kịp ăn năn sám hối. Có lẽ vì vậy mà ông không phải chịu đựng hình phạt quá nặng nề của đấng hóa công.
Ông ra đi nhẹ nhàng về thể xác cũng như linh hồn, vì mọi việc trong nhà đã ổn thỏa, ước mơ cuối đời của ông cũng đã được thực hiện.
Vợ chồng Phú và Thùy Trang rất mực thương yêu nhau và hiếu thảo với bà Cả. Hai vợ chồng coi Thảo như em ruột của mình.
Những người dân trong làng thỉnh thoảng có dịp nhắc tới luật nhân quả thường lấy tấm gương của gia đình ông Cả ra để giáo dục con em mình. Rằng mẹ con cô Thùy Trang ăn ở hiền lành, nên dù cô Trang có phải nhận lấy hậu quả thảm khốc do những việc làm không tốt của cha mình, thì cũng được hóa giải. Và người lỡ gây nên tội lỗi mà thành tâm sám hối thì tội lỗi kia cũng sẽ được vơi đi…
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:40:58 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:05:07
UẤT KHÍ CHƯA TAN
 
Tuy không phải vào dịp nghỉ cuối tuần hay lễ tết gì đặc biệt, nhưng nhà hàng Trùng Dương vẫn đông nghịt khách khứa ra vào, bãi đỗ xe phía trước nhà hàng chật kín những chiếc xe hơi đời mới sang trọng và bóng lộn.
Đội ngũ tiếp tân và bồi bàn bận tối mặt tối mũi, ngay cả ông chủ Lập Phát ngồi sau quầy tính tiền cũng bận rộn tíu tít với những hồi chuông điện thoại gọi đến và xấp đơn đặt hàng dày cộm để cạnh bên.
Dù không có được một chút hở tay, nhưng ông Lập Phát mặt mày hớn hở ra vẻ vừa ý lắm.
Không vui sao được khi mà ông đã bỏ toàn bộ vốn liếng dành dụm hơn nửa đời người cùng với số nợ kếch sù vay của ngân hàng vào việc đầu tư cho nhà hàng này. Ngày ngày nhìn những đoàn thực khách tấp nập vào ra ông Lập Phát như mở cờ trong bụng. Thời gian chưa lâu mà gần như ông đã sắp thu lại được vốn liếng rồi.
Nhớ lại khoảng thời gian trước, khi nhà hàng này còn chưa được thành hình, mà nó chỉ mới là ý tưởng trong đầu ông thôi thì toàn bộ người thân, bạn bè không có lấy một người ủng hộ, ai cũng cho rằng ông liều lĩnh, không biết suy tính trước sao, dám đem toàn bộ tài sản của mình đặt vào một ván cờ không nắm chắc phần thắng.
Nhưng vốn là người dám nghĩ dám làm, vả lại ông Lập Phát cũng hiểu được trong kinh doanh, đôi khi chỉ với một tỉ lệ thành công rất nhỏ nhưng nó giúp người ta phát đạt không ngờ! Không có gan thì không thể làm giàu một cách nhanh chóng được, cứ lựa chọn con đường bằng phẳng trơn tru thì thì khó mà đạt được thành tựu lớn. Đôi khi con người ta cũng phải biết phiêu lưu mạo hiểm một chút mới được.
Ông Lập Phát quyết định mua lại khu biệt thự rộng lớn này với hai lý do, một là vì giá cả của nó quá hời, với cùng số tiền ấy không thể tìm mua ở đâu được một mảnh đất đắt địa và rộng lớn như thế. Hai là vì nó rất hợp với ý định mở nhà hàng của ông.
Khu biệt thự này nằm ngay trên một con đường lớn của thành phố biển này, nhưng lại không quá ồn ào bụi bặm, con đường mát rượi, thơ mộng và vắng vẻ, rất phù hợp với sự lựa chọn của khách du lịch nước ngoài cũng như của người bản xứ.
Cái lý do mà một khu như vậy lại đượckêu bán với một giá quá hời là vì người ta đồn đại ở đó có ma.
Hai năm trước, đôi  vợ chồng trẻ chủ của khu biệt thự này đã chết thảm trong đó, và hồn ma của họ không ngừng quấy nhiễu khiến những người sống trong khu vực gần đấy cũng phải hoảng sợ.
Vì thế cho nên không một người nào dám bỏ tiền ra để ra mua nó để ở hoặc kinh doanh, vì những câu chuyện ma quái được kể lại, truyền mịêng nhau rất rùng rợn, thêm thắt nhiều chi tiết kinh hoàng trong đó đáng sợ nhất là lời nguyền độc địa sẽ không có bất kỳ người nào được hạnh phúc, sung sướng khi sống trong ngôi nhà đó.
Với đầu óc thương mại sẵn có, ông Lập Phát nhanh chóng nhìn ra mối lợi. Ông mua được khu biệt thự này với giá rẻ mạt, sau đó đập bỏ đi và xây lên nhà hàng Trùng Dương như ngày hôm nay.
Thấy sự thành công của ông Lập Phát, nhiều người suýt xoa tiếc rẻ, ở đời ai mà học được chữ ngờ, nếu biết thì có lẽ ai cũng làm giàu rồi.
Tên nhà hàng Trùng Dương cũng là do ông Lập Phát nặn óc mấy ngày liền mới nghĩ ra. Bạn ông Lập Phát có người đoán xa đoán gần ông muốn mở quán nhậu, bán thịt dê, có người thì nổ dùm cho ông, nói ông là chân truyền đệ tử đời thứ ba mươi lăm của Vương Trùng Dương bên Tàu.
Sự thật rất là đơn giản, ông Lập Phát chỉ muốn lấy tên Trùng Dương để trị tà. Ông là người tin có quỷ ma, có oan hồn, ma ở cõi âm, nếu muốn cho ma đừng quấy phá, lấy Dương trị Âm, Dương mà Trùng một cặp nữa thì chắc ăn như bắp. Bởi vậy nên nhà hàng ông Lập Phát càng ngày càng đông khách .
Thực khách vẫn ra vào tấp nập, bàn này vừa xong thì lớp khách khác liền được xếp vào chỗ. Ông Lập Phát nghe xong một cuộc điện thoại đặt bàn vào ngày mai với số lượng lớn, mặt ông giãn nở ra một cách khoan khoái. Đặt điện thoại xuống bàn, vừa ngước mặt lên ông Lập Phát bắt gặp một gương mặt quen thuộc đang tươi cười nhìn ông:
- Chào bác! Lúc này bác làm ăn thế nào?
Người thanh niên đứng trước quầy cất tiếng. Ông Lập Phát trễ kính xuống, nhíu mày nhìn cho kỹ rồi reo lên:
- Trời đất ơi, thằng Thiện! Cháu ra tới hồi nào sao không gọi cho bác biết trước? Lâu dữ lắm rồi mới gặp lại cháu đó nghen!
Ông Lập Phát khựng lại vì nhận thấy bên cạnh Thiện còn có một cô gái đang đứng khép nép.
Ông Lập Phát chưa kịp hỏi thì Thiện dã nhanh nhảu giới thiệu:
- Dạ thưa bác, đây là Loan, vợ sắp cưới của cháu! Còn đây là bác Lập Phát mà lúc nãy anh đã nói với em. Chào bác đi em!
- Dạ, cháu chào bác!
Cô gái ngoan ngoãn cúi đầu thật thấp để chào ông Lập Phát.
Nhìn đôi trai gái, ông Lập Phát thật hài lòng bởi vì trông hai đứa nó thật xứng đôi.
Thiện tuy không phải cháu ruột của ông nhưng ông rất thương yêu và quý trọng. Ông Lập Phát với cha mẹ Thiện là chỗ anh em bạn chí cốt với nhau.
Thuở ông Lập Phát còn hàn vi, cha mẹ Thiện chính là người đã cưu mang và giúp đỡ ông từng bước một trong con đường kinh doanh lắm bon chen này.
Bây giờ, dù gia thế ông Lập Phát đã vượt xa hẳn gia đình Thịên, nhưng ông vẫn giữ một lòng cung kính, thương yêu.
Trong số ba người con của bạn, ông Lập Phát đặc biệt quan tâm đến Thiện nhiều nhất, vì từ nhỏ hai bác cháu đã luôn quấn quýt bên nhau. Có đôi khi ông cảm thấy Thiện giống như một đứa con trai ruột thịt của mình chứ không phải chỉ là con của người bạn thân.
Từ hồi ông Lập Phát chuyển nhà về thành phố biển này sinh sống, ông và gia đình Thiện tuy vẫn giữ mối liên hệ chặt chẽ, nhưng ít có dịp gặp nhau vì ai nấy đều bận bù đầu với công việc của mình.
Thiện cũng đã tốt nghiệp Đại học, ra trường về phụ trách một chi nhánh của cha mình ở một tỉnh xa nên lại càng ít có dịp gặp mặt ông Lập Phát.
Hôm nay Thiện đưa vợ sắp cưới ra tận đây giới thiệu với ông làm ông vô cùng cảm động.
Tiếp tân đã kịp mang ghế và nước uống tới tiếp đãi khách của ông chủ, nhưng ông Lập Phát vẫn chưa hài lòng. Ông bảo:
- Hai cháu lại bàn này ngồi, bác cháu ta vừa nói chuyện vừa gọi món ăn luôn thể!
Thiện cười từ chối:
- Dạ thôi khỏi , hai đứa tụi cháu chưa thấy đói. Chúng cháu ngồi đây nói chuyện với bác được rồi ạ!
Ông Lập Phát gật gù:
- Ừ, thôi vậy cũng được! Mà hai cháu hôm nay ra tận đây thăm bác, có mời đám cưới luôn chưa?
- Dạ, chưa đâu ạ! Cháu đưa Loan ra đây ra mắt bác, đồng thời muốn nhờ bác một việc… Mà đáng lẽ ba má cháu phải ra đây thưa chuyện với bác mới là phải phép, nhưng sẵn cháu đưa vợ sắp cưới đi chào bác, cháu xin phép thưa luôn…
Thiện cười.
Ông Lập Phát nhanh nhẹn nói:
- Có chuyện gì cháu cứ việc trình bày, bác sẵn sàng giúp cháu… Đừng có khách sáo như vậy mà làm bác buồn lòng. Mình là người trong nhà với nhau mà, bác coi cháu như con trai của bác vậy, cháu không phải ngại. Nào, chuyện đó là chuyện gì?
Thiện ngó Loan rồi quay sang nói với ông Lập Phát:
- Dạ… tụi cháu dự định sẽ tổ chức tiệc cưới ở thành phố biển này, nhưng các nhà hàng tiệc cưới ở đây đều đã có người đặt trước vào hôm đó hết rồi. Cháu… cháu muốn nhờ bác giúp đỡ… Nhà hàng của bác có thể tổ chức tiệc cưới không ạ?
Ông Lập Phát thở phào nhẹ nhõm, tươi cười:
- Cháu làm bác hồi hộp, cứ tưởng là chuyện gì to tát lắm! Nhà hàng của bác từ hồi khai trương đến nay chưa từng nhận đặt tiệc cưới, nhưng ý định này đã có trong đầu bác rồi. Nay nhân tiện đám cưới của hai cháu, bác sẽ khai trương luôn thể! Biết đâu hai cháu mở hàng lấy hên cho bác, bác còn cảm ơn không hết nữa là…
Thiện nhìn Loan nháy mắt:
- Em thấy chưa, anh đã bảo nhất định bác sẽ lo được cho mình mà em cứ không tin. Ở đây rộng rãi đẹp mắt, tha hồ cho khách khứa hai họ đến chung vui, tha hồ cho cô dâu chụp ảnh nhé?
Loan thẹn, khẽ chạm vào tay Thiện tỏ ý không cho Thiện nói nữa.
Ông Lập Phát cười thật tươi:
- Bác nhất định sẽ không làm cho ba mẹ các cháu và các cháu phải thất vọng đâu. À, mà còn bao lâu nữa, cháu cho bác biết để bác  còn chuẩn bị?
- Dạ, là ngày mười lăm tháng mười một tới đây ạ! Có gấp lắm không bác? Định ngày rồi nhưng thịêp cưới cháu vẫn chưa cho in, vì phải còn chờ chọn được địa điểm…
Thiện có vẻ lo.
Ông Lập Phát nhẩm tính một chút rồi nói:
- Không sao, được! Còn một tháng nữa là được rồi, bác kịp thời gian chuẩn bị mọi thứ…
Thiện cảm động nắm chặt hai bàn tay ông Lập Phát lắc lắc:
- Cảm ơn bác, chúng cháu cảm ơn bác thật nhiều!
Bàn xong việc tiệc tùng cưới hỏi, ba bác cháu lại xoay quanh hỏi han nhau về gia đình và công việc làm ăn, chuyện trò thật say mê, vui vẻ.
Liếc nhìn đồng hồ thấy đã hơn chín giờ tối, ông Lập Phát hối bồi bàn dọn thức ăn đãi khách.
Chỉ trong chớp nhoáng, trên bàn đã bày la liệt các món ăn ngon lành nhất, nổi tiếng nhất của nhà hàng Trùng Dương, khiến Thiện và Loan rất cảm động.
Aên uống xong, mặc dù ông Lập Phát hết lời mời mọc Thiện và Loan về nhà ông nghỉ ngơi, nhưng Thiện khéo léo từ chối bởi anh biết Loan còn ngại lắm. Hai người sẽ về một khách sạn ở gần đó để được thoải mái, tự do hơn.
Đưa Thiện và Loan ra tận cổng, chờ cho hai người cháu lên tắc xi đàng hoàng rồi ông Lập Phát mới chịu quay vào.
Lúc này nhà hàng đã dần thưa khách nhưng nhân viên trong nhà hàng vẫn còn bận bịu luôn tay.
Ông Lập Phát không trở vào chỗ ngồi của mình bên trong quầy thu tiền mà đi thẳng xuống bếp. Tôi nay ông muốn bàn với hai người bếp trưởng của ông về vấn đề nhà hàng sẽ mở thêm dịch vụ tổ chức tiệc cưới. Và trước mắt là phải lập thực đơn cho đám cưới của Thiện vào đúng một tháng tới đây.
Nhà hàng Trùng Dương có hai bếp trưởng, một người chuyên nấu các món thuần Việt, một người lo các món Tây, Tàu. Đám cưới của Thiện vừa là đám trong gia đình, vừa là đám khai trương nên ông Lập Phát muốn tổ chức thật linh đình về mặt nghi lễ, hình thức cũng như tiệc tùng. Các món ăn thì ông muốn chúng phải được kết hợp với nhau một cách thật độc đáo, gây dấu ấn đặc biệt cho tất cả thực khách ngày hôm đó.
Muốn thực hiện được như vậy, nhất thiết ông phải bàn bạc thật kỹ lưỡng trước với chú Tân và chú Dũng.
Ông Tân là bếp trưởng phụ trách các món Tây - Tàu, đồng thời lại có thêm tài tổ chức rất khéo léo.
Dũng tuy nhỏ tuổi hơn nhưng tay nghề nấu các món ăn thuần Việt thì không chê vào đâu được.
Ông Lập Phát nhờ có hai tay đầu bếp này nên nhà hàng Trùng Dương mới nổi tiếng nhanh như vậy. Ông Lập Phát đã phải trả lương cho hai người này rất cao và đối xử với họ rất tốt nên mới có thể giữ chân họ ở lại đây hơn một năm nay.
Tính tình ông Tân có hơi khó chịu. Ông thường hay cáu bẳn nạt nộ mọi người mỗi khi có chuyện gì không vừa ý. Nhưng bù lại, ông luôn bênh vực họ khi ông chủ có ý phiền hà hay muốn đuổi việc một ai khi họ phạm lỗi.
Tối nay, khi ông Lập Phát vừa bước chân vô tới bếp đã nghe tiếng ông Tân quát tháo om sòm trong đó. Ông Lập Phát phải gọi đến lần thứ hai ông Tân mới nghe thấy và quay lại:
- Dạ, ông chủ gọi tôi có việc gì?
Ông Lập Phát không trả lời mà hỏi lại:
- Ai chọc gì chú mà chú gận dữ vậy?
Cơn giận trong người ông lại được dịp bùng lên, ông kể lể:
- Con dao chặt thịt tôi mới vừa để ra đó, quay đi một cái là biến mất tiêu, hỏi ai cũng không nhận, vậy có tức không chứ? Chẳng lẽ con dao có cánh bay lên hay mọc chân đi ra chỗ khác sao? Không có con dao đó tôi còn làm ăn gì được, giỡn đâu có kiểu giỡn kỳ lạ thế! Mà dù có ai đó ghét tôi, thù tôi thì bản thân tôi cứ đánh cứ chửi thẳng vào, mắc mớ gì lại đi giấu đồ nghề của tôi…
Vừa nghe ông Tân hậm hực trút bầu tâm sự, ông Lập Phát vừa đưa mắt ngó bao quát qua căn bếp, bất ngờ ông nhìn thấy trên giá gỗ là con dao to bản mà ngày thường ông Tân vẫn thường sử dụng đang nằm lù lù trên đấy.
- Phải con dao của chú đó không?
Đưa tay chỉ lên giá, ông Lập Phát hỏi.
Ông Tân ngó lên và bỗng trợn trừng mắt, mồ hôi rịn ra trên trán:
- Ủa… trời ơi… sao nãy giờ tôi tìm không thấy? Kỳ thiệt đó nghen, tôi đã lục tung tất cả rồi, nếu nó nằm chình ình vầy mọi người cũng phải thấy chứ! Hổng lẽ thật sự có ma?
Mọi người trong nhà bếp đều biết ông Tân có tính nóng nảy cục cằn, nhưng lần này bị mắng oan họ cũng ức lắm, tuy nhiên họ cũng tỏ ra thắc mắc vì đúng là lúc nãy ai ai cũng ngó quanh quất mà đâu có thấy con dao treo trên đó.
- Lần sau có muốn chửi ai thì nhớ coi trước coi sau rồi hãy chửi nghen cha nội!
Dũng lên tiếng. Vì anh cũng rất bực tức từ nãy đến giờ.
Ông Lập Phát không muốn không khí bất hòa kéo dài nên đứng ra can thịêp:
- Thôi thôi, có gì đâu, anh em với nhau mà, chỉ là hiểu lầm thôi! Xí xóa hết cho rồi…
Ông Tân quay trở lại với cái chảo và bếp lửa đang cháy hừng hực, mùi dầu mỡ thơm lừng bốc lên xèo xèo, tay ông làm việc thoăn thoắt nhưng miệng vẫn lầu bầu:
- Tôi mà nói sai thì cho quỷ tha ma bắt tôi đi, lúc nãy rõ ràng con dao không có ở đây, nếu không phải là người phá thì là mấy con ma phá tôi, chứ không có chuyện tôi nhìn xớn xác được…
Ông Tân giật mình, hơn một năm qua, hầu như mọi người đã quên đi, không ai nhắc lại chuyện ma quái trước đây. Bây giờ biết đâu do câu nói vô tình của ông Tân mà sẽ làm mọi người hoảng hốt. Lo sợ điều đó nên ông Lập Phát vội nói át đi:
- Có thể hôm nay chú Tân mệt mỏi nên bị hoa mắt cũng hổng chừng! À, tôi có chuyện có quan trọng cần bàn với chú Tân và cậu Dũng đây. Chút nữa xong việc, hai người ở lại gặp tôi, mình cùng trao đổi vài vấn đề nhé?
Thấy ông Tân, Dũng và những người phụ việc trong bếp đều nhìn mình với vẻ lo ngại, ông Lập Phát nói rõ hơn để họ yên tâm:
- Là chuyện làm ăn quan trọng, tôi muốn hỏi ý kiến hai người…
Nói xong, ông Lập Phát trở lên quầy để chuẩn bị tổng kết sổ sách. Những người trong bếp lại tiếp tục công việc của mình.
***
Đã hơn mười một giờ đêm, nhà hàng Trùng Dương trở nên vắng lặng hẳn đi, bãi đậu xe phía trước trống trơn không còn lại một chiếc nào, tất cả thực khách và đa số nhân viên đều đã ra về.
Dưới ánh sáng còn lại của bóng đèn trắng duy nhất chiếu ra từ phía trong, tiếng tích tắc của cái đồng hồ treo tường và chiếc tủ lạnh loại súp bờ trong nhà bếp lâu lâu giật nẩy người lên kêu xè xè vọng ra làm không khí trở nên tĩnh mịch lạ thường.
Ông Lập Phát lôi gói thuốc lá ra mời ông Tân và Dũng. Ông Tân xua tay tỏ ý cám ơn, tối nay ông cảm thấy muốn bịnh, nên tự rót cho mình một ly trà nóng uống vào cho tỉnh táo. Miệng ông Tân vẩu ra theo thói quen, tay cầm tách trà đưa lên miệng.
Bên chiếc bàn tròn, ba người đàn ông ngồi chơ vơ trên ba chiếc ghế, mấy cái ghế còn lại đều được dựng ngược gác lên bàn cho dễ quét dọn.
Ông Tân hỏi, giọng bồn chồn:
- Có chuyện gì vậy ông chủ?
Ông Lập Phát nhịp nhịp mấy ngón tay lên mặt bàn, mắt lơ đãng ngó quanh như đếm, như ước lượng số bàn ghế khoảng không gian của nhà hàng Trùng Dương vậy.
- Tôi đang dự định nhận thêm tiệc cưới ở đây, chú Tân và cậu Dũng nghĩ sao? Nếu cần thì tôi sẽ mướn thêm đầu bếp về phụ giúp hai người?
Dũng đưa tay vuốt vuốt mấy sợi tóc lòa xòa trên trán mình chừng như đang suy nghĩ. Anh biết thêm việc là tất nhiên tiền lương sẽ tăng lên nhưng đồng thời trách nhiệm cũng nặng nề hơn nữa. Nhưng dẫu sao mỗi tháng lại có thêm một khoản thu nhập không nhỏ để lo cho cái tổ ấm vừa xây dựng cùng cô người vợ mới cưới thì vẫn tốt hơn.
Nhưng thật bất ngờ, ông Tân đang ngồi bỗng đứng bật dậy nói dõng dạc:
- Không! Không được! Nhất định là không được đâu…
Đến lượt ông Lập Phát ngạc nhiên trợn mắt hỏi:
- Sao lại không được? Chú nói tôi nghe xem sao?
Ông tân nhìn chăm chăm vào góc nhà hàng, nơi đặt dàn nhạc mà đã lâu rồi không ai sử dụng tới, rồi lại nhìn ông Tân, nói một cách chậm rãi:
- Bộ ông chủ không nhớ chỗ này có người chết sao?
Dũng ngạc nhiên ngó sững ông Tân.
Thấy vậy ông Lập Phát thở dài nói:
- Làm sao tôi quên được, chính tôi đã nhờ chú đi mời thầy địa lý, coi phong thổ địa lý dùm cho tôi, trước khi tôi quyết định mua chỗ này ma...
Ông Tân ngắt lời:
- Thì đó! Cũng nhờ mạng ông chủ khắc với mạng của người đã chết, vả lại lúc đó ông chủ chỉ nói sẽ mở nhà hàng phục vụ ăn uống. Tôi vẫn còn nhớ, lúc đó ông thầy địa lý có nói với tôi, mở nhà hàng ăn uống thì được nhưng đừng có nhận đặt tiệc cưới xin, vì các vong hồn ở đây rất ghen ghét với những ai hạnh phúc hơn họ… Chính vì vậy tôi khuyên ông chủ đừng có mở thêm cái khoản này, không phải tôi lười nhác gì đâu mà là tôi thật sự sợ…
Ông Lập Phát chưa kịp nói gì thì Dũng đã tò mò hỏi:
- Chú có biết ai chết không? Mà tại sao họ chết vậy? Mình biết rõ thì có thể rước thầy về tụng kinh cầu siêu cho họ…
Nghe Dũng hỏi như được gãi trúng chỗ ngứa, ông Tân hăng máu lên nói:
- Xin phép ông chủ, sẵn tối nay nói về chuyện này tôi xin kể hết cho ông chủ và cậu Dũng đây nghe về cái chết của họ. Đây là câu chuyện hoàn toàn thật chứ không phải những chuyện đã được nêm nếm gia vị mà người ta kể rần rần dạo trước. Bởi vì… tôi có quen với người đã chết.
Ông Tân hỏi nhưng không chờ ông Lập Phát có đồng ý hay không đã vội kể ra một tràng liên tiếp:
- Đó là hai vợ chồng còn rất trẻ. Hai đứa nó mới cưới nên thương yêu nhau lắm. Khu biệt thự này là do gia đình thằng chồng để lại cho tụi nó. Thằng chồng tuy giàu có nhưng lại rất hiền lành, chưa bao giờ lớn tiếng cãi cọ với ai, lại rất mực cưng chìu vợ. Vì con vợ quá đẹp nên nó càng cưng chìu dữ tợn lắm. Đi làm thì thôi, hễ về tới nhà nó quấn lấy vợ không rời, đưa vợ đi dạo phố, đi mua sắm trông rất là hạnh phúc.
Cứ tưởng giàu có như tụi nó thì cuộc sống không có gì phải lo, vợ chồng không có gì phải cắn đắng xích mích nhau. Ai dè đâu… người giàu cũng khóc! Cưới nhau chưa đựơc tròn năm là bắt đầu có chuyện. Bởi vì con vợ quá đẹp nên không tránh khỏi những ánh mắt dòm ngó bên ngoài.
Mà giống đờn bà con gái họ nhẹ dạ lắm, cả tin lắm, cứ ai nói thật ngọt ngào thật bùi tai vào là trước sau gì họ cũng đổ thôi. Mới đầu con vợ còn lén lút quan hệ với một tay Việt kiều đại gia, nhưng về sau nó ngang nhiên bỏ nhà đến sống hẳn với gã đó.
Thằng chồng nài nỉ van xin hoài không được cũng đành phải buông xuôi chứ nhất quyết chưa chịu ly dị, vì nó vẫn còn mong mỏi một ngày nào đó con vợ nó quay trở lại với gia đình.
Một hôm, tưởng thằng chồng đi làm nên con vợ kêu gã nhân tình chở về nhà cũ để lấy thêm một ít đồ đạc. Khi xe tới cổng, thằng nhân tình ngồi đợi ngoài xe, còn con vợ đi thẳng vô nhà. Ai dè hôm đó thằng chồng buồn bã nằm nhà uống rượu.
Gã nhân tình ngồi chờ mãi vẫn không thấy con vợ trở ra, lo lắng nên hắn xông thẳng vào bên trong, thì hỡi ôi, một cảnh tượng hãi hùng đang bày ra trước mắt: Con vợ nằm giữa nhà, trên người đầy thương tích, thằng chồng gục xuống kế bên với một nhát dao đâm vào bụng và kéo dài xuống làm ruột gan đôt ra có nùi… máu me lênh láng khiến thằng Việt kiều sợ vãi cả ra quần, vừa bò vừa lết ra ngoài không kêu cứu được mà chỉ ú ớ chỉ tay vào trong nhà.
Người ta phán đoán, thằng chồng trong lúc say rượu đã không làm chủ được mình nên chém chết con vợ bằng nhiều nhát rồi vì quá thương yêu vợ nên tự kết liễu luôn đời mình. Hai đứa tụi nó chết đều không nhắm mắt…
Dưới bếp có tiếng chén bát rơi vỡ loảng xoảng cắt đứt câu chuyện tình đau thương mà ông Tân đang kể, cả ba người không ai bảo ai cùng giật mình nhìn nhau.
 Dũng đứng lên trước tiên, anh bước nhanh ra sau nhà bếp, nhìn quanh, anh chẳng thấy gì lạ ngoài mấy cái chén vỡ nát trên sàn gạch.
Ông Lập Phát và chú Tân bước theo sau Dũng, hai người đều cùng một ý nghĩ nhưng không ai nói gì. Chú Tân lẳng lặng cầm cây chổi rơm quét sơ mấy mảnh chén vỡ mà mắt lại lấm lét nhìn quanh.
Dũng vừa ngó quanh quất vừa nói:
- Chắc mấy con mèo nhảy lên làm rơi chén…
Chú Tân cãi:
- Ở đây chưa khi nào có mèo vô được!
Trong lòng bỗng có cảm giác bất an, để mặc cho chú Tân và Dũng dọn dẹp, ông Lập Phát chán nản bước ra khỏi bếp, chuyện làm tiệc cưới tối nay chắc khó mà nói cho xong được rồi!
Ông Lập Phát đứng giữa nhà hàng, thừ người ra một lát, bỗng ông có cảm giác là lạ, quay phắt người lại, ông không thấy ai, tiếng nói của chú Tân và Dũng vẫn vang vang ở dưới bếp.
Đưa tay lên xoa gáy, ông Lập Phát cảm thấy rờn rợn như có ai đang đứng sát ngay sau lưng ông, thổi một làn hơi nóng vào cổ mình.
Ông Lập Phát lắc đầu, cố xua đuổi những ý nghĩ không hay, bất giác ông nhìn lại chung quanh nhà hàng, ông buột miệng la lên, những tiếng cuối cùng ông nói với giọng run run:
- Chú Tân à... chú Tân... Dũng ơi... lên đây mau...
Chú Tân lật đật chạy ra:
- Có chuyện gì vậy ông chủ ?
Ông Lập Phát đưa tay chỉ:
- Ai... ai đã xếp... những cái ghế như vầy?
Lúc đó Dũng cũng vừa lên tới, cả chú Tân và Dũng đều ồ lên một lượt, không ai bảo ai, ba người đàn ông tự dưng đứng đâu lưng vào nhau nhìn những cái ghế như những con quái vật biết di chuyển, trừ ba cái ghế của ba người ngồi lúc nãy, tất cả những cái ghế xếp đứng trên bàn đều được đặt xuống đất ngay ngắn!
Vừa lúc đó, kim đồng hồ trên tường vừa điểm đúng số 12!
***
Tuy đã dặn dò chú Tân và Dũng đừng tiết lộ chuyện đêm hôm qua, ông Lập Phát vẫn đến nhà hàng Trùng Dương sớm hơn thường lệ, ông làm như có mặt ông ở đó thì sẽ bịt được cái miệng hay la hoảng của chú Tân vậy!
Cả đêm hôm qua ông Lập Phát không tài nào chợp mắt được một lát, ông cần phải uống một ly cà phê cho tỉnh táo.
Lái xe vô bãi đậu xe, ông Lập Phát thoáng thấy có bóng mấy đứa con nít chạy từ nhà hàng Trùng Dương chạy ra. Ông nhấn còi, trừng mắt nhìn tụi nhỏ, hừm, bộ hết chỗ chơi rồi sao ra đây phá. Tắt máy xe, ông vội vàng ra cửa bên hông.
Nhà hàng Trùng Dương có cả thảy ba lối ra vào, lối cửa chính là lối khách hàng ra vô, nằm ngay mặt tiền, mỗi ngày mười một giờ sáng ông Lập Phát mới cho mở cửa chính. Lối cửa sau thông vô nhà bếp là cửa giao thịt, cá và thực phẩm linh tinh, nhân viên nhà hàng cũng thường đi cửa sau.
Đường vô cửa sau được xây rộng rãi để xe hàng ra vô cho dễ nhưng sau này chật hẹp lại vì cây ngọc lan ở góc tường càng ngày càng lớn.
Ông Lập Phát cũng không ngờ mới có hơn một năm mà từ một cây nhỏ tầm thường bây giờ cây ngọc lan lớn như cây cổ thụ, rậm rạp, âm u, lá to và xoè kín trùm lên cả mái nhà hàng.
Lối đi nhỏ bên hông chỉ có mình ông Lập Phát sử dụng, thật ra đó là lối ra vào dành lúc khẩn cấp cho những lúc bị hoả hoạn. Là người có tính cẩn thận, cuối ngày trước khi rời nhà hàng, lần nào ông Lập Phát cũng kiểm soát hết từng cánh cửa, ba lối ra vào.
Cánh cửa bên hông có hai lớp, một lớp gỗ bên trong và cửa bằng song sắt phía bên ngoài. Hai cánh cửa sáng nay đều mở hé, ông Lập Phát sững sờ vài giây, nhà hàng có trộm viếng!
Ông hấp tấp bước vào, đồ đạc trong nhà hàng đều y nguyên!
Có điều lạ là những cánh cửa trong nhà hàng đều không khoá, ngay cả những cánh cửa sổ cũng được mở tung ra, hèn gì tụi con nít dám chạy vô đây như chỗ không người.
Ông Lạp Phát vội vàng bốc điện thoại lên tính kêu cảnh sát nhưng ông ngừng lại ngẫm nghĩ:
- Nhà hàng không bị mất gì, không lẽ mình báo là... có ma?
Ông Lập Phát không phải là người nhát gan, yếu bóng vía, tuy rằng ông tin có ma, nhưng ông cũng tin có quả báo, ông tin rằng người và ma là hai thế giới khác nhau, ông không đụng “họ” thì “họ” sẽ không chạm tới ông.
Nếu chỗ này có oan hồn hay ma quỷ ám chướng chi đó, tại sao lại chờ tới lúc này mới phá? Ông Lập Phát nhìn ra cửa trước nhà hàng, đối diện ngay cánh cửa, nằm sát tường, ở dưới đất là cái bàn thờ nhỏ bằng gỗ ông đã mua hồi mới xây nhà hàng. Trong bàn thờ ông đặt một cái tượng ông Địa, tượng trưng cho Thần Tài, để mong cho nhà hàng Trùng Dương làm ăn khấm khá.
Hình ảnh ông Địa với cái bụng to và nụ cười rộng tới mang tai làm ông Lập Phát sực nhớ tới mấy ông thầy pháp bắt ma. Ông tự nhủ với mình, thế nào cũng phải đi tìm cho bằng được một ông thầy thật cao tay để mời về đây trấn áp lũ yêu ma nếu thật sự chúng lộng hành quấy phá.
Lăn lộn trong thương trường đã lâu, cũng lắm phan đối đầu với khó khăn gian khổ nhưng chưa lần nào ông Lập Phát cảm thấy nản lòng như lần này. Chiến đấu với một cái gì cụ thể thì còn có thể lập ra kế họach được, còn giờ đây ông không biết thật sự mình đang đối đầu với điều gì nữa?
- Chút nữa mình sẽ cho người đi mua đồ về cúng cho vợ chồng nó… Có lẽ cả hai đều chưa được đi đầu thai, oan hồn còn lảng vảng, uất khí còn chưa tan nên mới… như vậy!
Ông Lập Phát lẩm bẩm một mình.
Vừa lúc đó ông nghe thấy tiếng xe máy quen thuộc của Dũng dừng lại ở ngoài sân, ông biết hai đầu bếp cưng của mình đã đến.
Lâu nay hai người vẫn luôn đi chung xe của Dũng vì trên đường từ nhà Dũng tới đây phải đi ngang qua nhà ông Tân, sẵn đó hai người đi chung cho tiện.
Vừa bwosc xuống xe, trông thấy ông Lập Phát là ông Tân đã vội nói:
- Ông chủ ơi, tối hôm qua tôi nằm mơ thấy con vợ tôi về báo mộng…
Nói xong câu mở đầu giựt gân, ông Tân liếc nhìn ông Lập Phát để dò phản ứng, không thấy ông Lập Phát nói gì, ông Tân hơi thất vọng nhưng vẫn xổ một tràng không đầu không đuôi, khi ông nói nhanh, tiếng này vướng vào tiếng kia rất khó nghe:
- Từ lúc con vợ tui nó mất tới giờ, ông chủ biết đó, tui đâu có dám nghĩ đến bà nào, cũng may cho tui , tui mà lấy vợ là tiêu đời với hai con ma này rồi! Ông chủ có nghe qua chuyện ma tìm người chết thế chưa vậy? Tui biết nói ra thế nào ông chủ cũng la tui... mà tui cũng chỉ nói cho mình ông chủ nghe, chỗ ở của vợ chồng thằng Vũ, ở ngay đây nè, chỗ bếp này là phòng ngủ của vợ chồng nó...
Cho dù bình tĩnh tới đâu, ông Lập Phá cũng không khỏi giật thót người, ông đưa mắt nhìn bao quát căn bếp, tưởng tượng ra một khung cảnh đầm ấm của đôi vợ chồng trẻ, rồi sau đó là vụ thảm sát, biết đâu chỗ ông đang đứng là nơi họ nằm chết?
Trong lòng đang bất an, nghe ông Tân nói vậy ông Lập Phát nạt ngang:
- Vợ chú chết lâu rồi, chú nhớ bả nên nằm mơ thấy cũng là chuyện thường tình mà! Thôi, hai người mau vào chuẩn bị đi, hôm nay có nhiều đơn đặt hàng lắm đó!
Ông tân cụt hứng vừa đi xăm xăm vào bếp vừa càm ràm:
- Tui nói thiệt đó, ông chủ không tin thì đừng có hối hận à nghen! Linh tính của tôi nhạy lắm…
Ông Lập Phát không nói gì, giả đò như không nghe thấy những lời nói lảm nhảm của Tân vừa rồi.
Ông Tân đặt con dao xuống, quay sang mở tủ lạnh, lôi từng con gà đã làm sẵn ra xếp thành hàng lên khay, lát nữa đây, ông sẽ ra tay đao phủ thủ đưa đám gà lên bếp lửa hồng.
Quẹt cánh tay lên trán lau mồ hôi, mới sáng sớm mà ông Tân đã đổ mồ hôi nhễ nhại.
Ông than thở:
- Tui có linh tính là sẽ có chuyện xảy ra... tui chỉ mong là đừng gặp, đừng thấy. Ông bà mình nói không sai mà, gặp ma xui lắm, xui ba năm, uýnh bài đâu là thua đó!
Bỗng ông Tân la hoảng lên:
- Ủa, đâu mất tiêu ba con gà rồi?
- Gà gì mà mất?
Ông Lập Phát đang bước ra mở cửa trước, nghe ông Tân la hoảng vội quay lại hỏi.
Ông Tân gãi đầu gãi tai:
- Rõ ràng tối hôm qua tôi đặt vào đây năm con gà, sao giờ chỉ còn lại hai? Ba con nữa đi đâu mất rồi?
- Chú đếm lại coi, mà chú có nhớ lộn không đó?
Ông Lập Phát nhắc nhở với giọng lo lắng.
Ông Tân giở cuốn số nhỏ chìa ra trước mặt ông Lập Phát, khẳng định:
- Đây nè, ông chủ nhìn đi, tôi có ghi sổ rõ ràng nè, không sao nhầm lẫn được!
Đúng lúc đó có tiếng chó sủa dồn dập từ phía sau cửa bếp cắt ngang lời nói của ông Tân.
Một anh phụ bếp lau hai bàn tay vào tạp dề ló đầu ra cửa ngơ ngác. Chó hàng xóm hôm nay bỗng dưng ồn ào quá. Mọi khi tụi chó đâu có cãi nhau, những tiếng chó sủa càng lúc càng lớn, lâu lâu lại gừ gừ như sợ hãi, như dọa nạt.
Nghĩ là đám trẻ chọ phá lũ chó nên ông Lập Phát cùng anh phụ bếp bước hẳn ra ngõ sau để quan sát.
Đường phố vắng tanh, giữa mùi thơm thoang thoảng của hoa ngọc lan, ông Lập Phát ngửi thấy có mùi thịt sống tanh tưởi, ông bước lại gần gốc cây tìm tòi. Khuất sau gốc cây, dưới đám ruồi vo ve là đống xương vịt còn dính chút thịt và da xếp thành ba đống ngay ngắn.
***
Loan cầm từng tấm thịêp lên săm soi rồi lại đặt xuống. Kiểu nào cũng đẹp, thật khó mà lựa chọn.
Thiện thì chỉ thỉnh thoản cầm vài tấm thiệp lên ngắm nghía rồi đưa lên mũi hít hà, còn quyền quyết định anh đã dành trọn cho Loan rồi.
Ông chủ nhà in niềm nở:
- Anh chị cứ từ từ mà lựa chọn cho thật vừa ý, ở chỗ chúng tôi có rất nhiều kiểu dáng mới lạ. Với lại giá cả cũng phải chăng, không sợ bị hố vì chúng tôi làm ăn uy tín…
Thật lâu sau Loan mới quyết định chọn một mẫu và ký vào đơn đặt hàng của nhà in.
Ông chủ tươi cười:
- Xin anh chị vui lòng ghi thật rõ ràng các chi tiết…
Loan hý hoái một hồi rồi thở phài, chìa tấm thịêp cho ông chủ:
- Xong rồi!
Ông chủ nhà in liếc sơ qua một thoáng đã phát hiện được thiếu sót vội kêu lên:
- Dạ… còn thiếu ngày tháng và nơi tổ chức, anh chị vui lòng cho biết?
- Ngày mười lăm tháng mười một, tổ chức tại nhà hàng Trùng Dương!
Thiện nhanh nhảu lên tiếng.
Ông chủ tiệm sững sờ vài giây, nhìn Thanh trân trân:
- Phải anh muốn nói nhà hàng Trùng Dương của ông Lập Phát?
Thiện gật đầu hãnh diện, không ngờ nhà hàng Trùng Dương và bác mình lại nổi tiếng như vậy:
- Dạ đúng đó bác, nhà hàng đẹp, chỗ đậu xe rộng rãi, chủ nhà hàng lại là chỗ thân tình với gia đình cháu.
Ông chủ tiệm mấp máy môi toan nói gì đó nhưng ông lại ngưng, dù sao cũng không phải chuyện của ông, ông nói lảng:
- Ờ, phải rồi, tui thấy địa điểm ở đó rất tốt cho đám cưới, tuy nằm gần khu thương mại nhưng lại không ồn ào, khu đất đó mới sửa sang... hình như anh chị không phải là người sinh sống ở đây, phải không?
 
 
Thiện ngạc nhiên nhìn Loan:
- Bác tài thiệt, gia đình cháu ở xa. Cả bên vợ cháu cũng không phải là người ở đây, nhưng vợ chồng cháu lại thích tổ chức đứm cưới của mình ở thành phố biển này, cũng là dịp để bà con hai họ được một chuyến du lịch. Cháu tính một công đôi việc như vậy, bác thấy có tiện không?
Thiện vừa nói vừa cười. Ông chỉ tiệm in cũng nhăn nhở cười theo nhưng trông không được tự nhiên mấy.
Ngày mười lăm tháng mười một!
Đó là ngày hạnh phúc của Thiện, ngày mà Thiện chính thức cưới được người mình thương yêu mấy năm dài đằng đẵng về làm vợ, nên lúc nhắc tới ngày đó trông Thiện hí hửng ghê lắm.
Nhưng Loan thì lại khác. Giữa lúc ông chủ tiệm đang cúi xuống ghi lại câu Thiện vừa thông báo, Loan hỏi khẽ:
- Anh có chắc nhà hàng Trùng Dương có tổ chức tròn vẹn không đó, vì lâu nay họ chưa tổ chức cưới bao giờ?
Câu hỏi này mấy hôm nay Loan đã hỏi anh mấy lần rồi nhưng Thiện nghĩ chắc là do Loan quá lo cho đám cưới, sợ nhà hàng tổ chức không được như ý mình mong muốn, vì thế lần nào anh cũng khẳng định:
- Em đừng có lo, anh biết tính bác Lập Phát lắm! Một khi bác đã nhận làm một việc gì thì bác sẽ thực hiện thật chu đáo. Mà nhất là tiệc cưới này là của đứa cháu cưng, đồng thời cũng là tiệc khai trương, nên anh càng tin chắc tiệc cưới của tụi mình không thể chê vào đâu được. Em cứ yên tâm đi nhé?
- Em thấy bàn ở đó hơi ít so với số lượng khách mời của mình, em lo…
Loan vẫn chưa yên bụng.
Thiện bật cười:
- Anh đã nói rồi, em cứ lo làm một cô dâu thật đẹp trong ngày đó cho anh. Còn mọi việc khác em không cần nghĩ tới chi cho mệt. Bác Lập Phát có nói với anh rồi, hiện nay bàn ở nhà hàng của bác ấy là loại bàn vuông, đến lúc tiệc cưới sẽ đổi sang bàn tròn, sẽ chiếm diện tích ích hơn, lại dễ sắp xếp. Bàn tròn tiết kiệm rất nhiều chỗ, nếu xếp khéo có thể để được rất nhiều bàn, tính ra mình còn có thêm sân khấu cho ban nhạc và một khoảng trống dưới sân khấu để nhảy đầm. Bác Lập Phát nói với anh là bác ấy sẽ đặt mua loại bàn tròn, vì sau này dù sao nhà hàng cũng cần tới cho các tiệc cưới khác. Tiệc cưới của mình là tiệc khai trương nên cái gì cũng mới nhé. Bàn mới, khăn trải bàn cũng mới… tha hồ thích nhé?
Dù Thiện đã khẳng định như vậy rồi nhưng Loan vẫn có vẻ chưa thật an tâm.
Hai người dắt tay nhau ra về, trông rất hạnh phúc. Vừa lúc đó có tiếng chuông điện thoại reo vang, Loan áp điện thoại vào tai, nét mặt cô tự dưng biến đổi, cô xoay mặt nghiêng mình nhìn ra cửa.
Tuy không nghe người bên kia nói gì nhưng Thiện biết Loan đang bực mình, cô gắt gỏng:
- Loan đã nói rồi, dạo này Loan bận lắm, đừng gọi tới làm phiền Loan nữa…
Nói xong, cô vội vã tắt máy, vẻ mặt bồn chồn lo lắng.
Thiện ngạc nhiên:
- Ai gọi mà anh thấy em không thích nghe thế?
Loan ấp úng:
- Dạ… đó là một đứa bạn… nó cứ gọi điện rủ em đi chơi hoài… thiệt là bực mình..
Thiện chưa kịp nói gì thì lại có tiếng chuông điện thoại, Loan giật thót người nhưng đó không phải tiếng chuông điện thoại của Loan mà là của Thiện.
Tiếng người nói văng vẳng bị ngắt quãng từng chập trong điện thoại làm Thiện phải bịt một bên tai lại để nghe:
- Dạ, bác Lập Phát đó hả, bác nói gì cháu nghe không rõ? Dạ, cháu là Thiện đây bác...
Giọng ông Lập Phát rè rè, tiếng được tiếng mất:
- Bác tính vầy không biết có được không... Tiệc cưới của cháu... có lẽ... không... để bác hỏi...
- Đúng một tháng nữa, dạ kịp mà bác, tụi cháu mới đặt in thiệp cưới nè bác.
- ... Không... được... bác...
- Bác ơi, điện thoại bị gì đó, hay là do ở đây sóng yếu cháu nghe không rõ, hay để lát nữa cháu gọi lại cho bác nhe?
- À, ừ... gọi lại cho bác... nhớ nghen cháu!
Loan lo lắng:
- Anh đừng nói với em là bác đổi ý đó nghen, thiệp cưới thì đặt rồi, tới giờ này mà đổi ngày là... là không có nên đâu! Ba má em dặn rồi, tất cả những gì liên quan đến việc cưới hỏi nhất định không được có sự thay đổi nào hết.
Thiện lắc đầu:
- Anh có nghe được bác Lập Phát nói gì đâu, để lát nữa tới chỗ nào có sóng mạnh anh gọi lại, không biết sao điện thoại khó nghe quá, dù sóng ở đây cũng đâu phải là yếu lắm?
Loan nhìn đồng hồ tay:
- Nhà hàng Trùng Dương cách đây không xa, sẵn em đang đói bụng, hay là mình tới đó ăn trưa nha anh?
Thiện đồng ý:
- Ừ, ý kiến của em thật hay đó!
Thiện vừa quay đầu xe hướng về phía nhà hàng Trùng Dương, anh vừa nghĩ thầm:
- Tiệc ở nhà hàng chỉ là phụ, không đãi tiệc vẫn có thể làm đám cưới được như thường. Mình thì không cần thiết việc đó, chỉ cần hai vợ chồng thật lòng yêu thwong nhau là đủ rồi, nhưng… Loan và gia đình cô ấy thì lại khác…
Loan thường mơ mộng nói với Thiện:
- Anh có còn nhớ đám cưới của công nương Diana không anh? Linh đình và đẹp quá anh hén? Hồi nhỏ em mê tới bây giờ. Vương giả vua chúa thì làm đám cưới kiểu vương giả, người thường như mình mà làm đám cưới tuy không thể so với bậc vương giả được nhưng cũng cần phải long trọng phải không anh? Em thấy mình không nghèo đến nỗi không có khả năng tổ chức được một đám cưới như người ta. Em muốn có một ngày đám cưới khó quên cho cả hai đứa mình. Khi đãi tiệc, mình phải tìm một nhà hàng thật lớn, thật nhiều bàn, có phòng trang điểm cho cô dâu, rồi còn phải có chỗ để bày cái bánh cưới, chung quanh xếp hoa tươi...
Nếu Loan trọng hình thức bao nhiêu thì Thiện lại thích giản dị bấy nhiêu. Qua lời những thằng bạn thân đã lấy vợ của Thiện kể lại, đoạn trường ai có qua cầu mới hay, ngày đám cưới là ngày của hai họ, của tất cả mọi người, không phải của riêng gì cô dâu và chú rể, phong tục người Việt Nam mình là vậy. Bao giờ cũng phải nghĩ đến cái vui của số đông hơn là vui riêng, cô dâu và chú rể thì mệt đừ người ra, có khi cả ngày không được ngồi xuống mà uống một miếng nước, miệng thì lúc nào cũng phải nhoẻn cười như là sung sướng lắm.
Tính tới tính lui, rốt cuộc rồi Thiện cũng phải chọn đám cưới truyền thống, đãi tiệc tại nhà hàng Trùng Dương cho Loan và gia đình cô ấy được hài lòng.
Giờ ăn trưa ở nhà hàng Trùng Dương khách khứa ra vào đông không kém gì giờ ăn tối. Thiện phải lái xe vô tận phía bên trong, dọc theo bờ tường mới kiếm được chỗ đậu.
Theo thói quen, Loan kéo tấm kiếng trước mặt xuống để tô lại son môi. Nhìn vô gương, Loan thoáng thấy có bóng người đàn ông từ phía sau nhà hàng đi ra, Loan sợ hãi thụp đầu xuống khiến Thiện ngạc nhiên hỏi:
- Gì đó em?
Loan hồi hộp ngồi lên nhìn lại trong gương lần nữa, bóng người đàn ông biến mất sau nhà bếp. Cô ngẩn ngơ, không lẽ tình cờ như vậy sao? Loan nghiêng mặt để mái tóc rũ sang một bên, che bớt đi một nửa khuôn mặt:
- Dạ không có gì! Tự dưng em thấy nhức đầu, hết muốn ăn, nắng quá anh à, hay là anh cho em về…
Thanh tắt máy xe, hơi lạnh cũng theo đó tắt theo, không khí trong xe trở nên nóng và ngột ngạt hơn:
- Đã tới đây rồi thì vô một tí đi em, không ăn cũng được, nhưng chờ anh nói chuyện với bác Lập Phát đã chứ!
Khi hai người vào đến bên trong không nhìn thấy ông Lập Phát ngồi ở quầy thu tiền như lần trước, Loan lại có vẻ mệt nên Thiện bảo cô ngồi xuống bàn.
Một người bồi bàn nhanh nhẹn đi tới, đưa tờ thực đơn cho Thiện rồi lặng lẽ đứng yên chờ đợi.
Nhà hàng đang đông khách mà thái độ kiên nhẫn của người bồi bàn làm Thiện hơi lạ, Thiện nói:
- Anh cho nước uống trước đi, chút nữa tôi sẽ gọi món sau…
Từ lúc bước vào nhà hàng, Loan vẫn im lặng như một hình thức phản đối ngầm, cô ngồi xoay mặt ra phía ngoài đường, ánh mắt xa xôi, lạc lõng. Nhìn quanh không thấy ông Lập Phát, có lẽ ông mới đi ra ngoài.
Đợi người bồi bàn trở lại với hai ly nước, Thiện hỏi:
- Ông chủ Lập Phát đi đâu vắng vậy anh?
Người bồi bàn, là một người thanh niên có khuôn mặt khôi ngô và nước da trắng nõn như một chàng công tử bột con nhà giàu, ú ớ lắc đầu, một tay anh chỉ vô miệng mình, một tay chỉ về góc nhà hàng.
Khuất sau đám thực khách ồn ào, ông Lập Phát đang cúi đầu thì thầm nhỏ to với một người đàn ông khác với vẻ mặt nghiêm trọng.
Điều làm Thiện ngạc nhiên không phải là vẻ bí mật của ông Lập Phát mà là người bồi bàn đang đứng trước mặt anh. Điệu bộ của người thanh niên đó rõ ràng là nghe và hiểu được Thiện nói gì, nhưng anh ta hình như bị câm.
Nét mặt của người bồi bàn vẫn thản nhiên, khi Thiện nói, anh ta ghi ghi chép chép cẩn thận lên cuốn sổ nhỏ rồi mỉm cười xã giao trước khi quay lưng bỏ đi, anh có hàm răng thật trắng, những chiếc răng nhọn đều đặn. Thanh ngơ ngẩn nhìn theo bóng người thanh niên khuất sau cửa bếp, cố lục lọi trong trí nhớ, không biết tại sao khuôn mặt của người đàn ông này anh thấy quen quen, nhất là nụ cười của anh ta, một nụ cười... câm, không có tiếng.
Ông Lập Phát ở góc bàn phía bên kia chừng như mới nhận ra sự có mặt của Thiện và Loan, đây cũng là một thói quen ông Lập Phát có được kể từ khi mở nhà hàng Trùng Dương, tuy bận mấy thì bận, ông vẫn thỉnh thoảng dõi mắt trông chừng đám thực khách.
Ông Lập Phát đứng lên ngoắc Thiện, vỗ vai người đàn ông trước mặt nói mấy câu gì đó, người đàn ông xoay mặt ra nhìn Thiện và Loan, khuôn mặt hao hao giống ông Lập Phát.
Không để ông Lập Phát lên tiếng gọi lần thứ hai, Thiện kéo tay Loan:
- Đi em, đi lại kia nói chuyện với bác một chút!
Loan miễn cưỡng đứng lên đi theo Thiện, trong lòng cô vẫn chưa thoải mái được, hình ảnh người đàn ông lúc nãy ở chỗ bãi đậu xe vẫn còn ám ảnh Loan không ngớt. Loan thầm mong đó chỉ là mình đã hoa mắt nên mới thấy ra như vậy.
Đi tới chỗ bàn ông Lập Phát, Thiện và Loan cúi đầu chào thật lễ phép. Ông Lập Phát vui vẻ đứng lên giới thiệu:
- Đây là anh trai của bác, hai cháu cứ gọi là bác Hai cũng được. Bác Hai đây cũng là chủ một nhà hàng ăn, nhà hàng Thùy Dương nổi tiếng ở thành phố này, chắc hai cháu đã có nghe qua?
Thiện reo lên:
- A, cháu biết nhà hàng đó rồi! Hôm trước cháu cũng dự định tổ chức ở đó nhưng khi đến thì phía nhà hàng không nhận được vì ngày hôm đó đã có người đặt trước mất rồi! Thật cháu không ngờ nhà hàng đó là của bác Hai, anh ruột của bác!
Ông Lập Phát mỉm cười, khẽ liếc ông Hai một cái rồi nói:
- Bác Hai đang bàn chuyện làm ăn với bác. Hai anh em bác dự định sẽ hùn vốn để mở thêm chi nhánh, nhưng còn kẹt ở khâu quản lý đây…
Thiện kín đáo quan sát ông Hai, càng nhìn càng thấy giống bác Lập Phát, hai anh em ruột có khác, đều thích mở nhà hàng.
Loan bấm tay Thiện nhắc khéo, Thiện ngập ngừng:
- Dạ, hồi nãy bác Lập Phát gọi điện thoại cho cháu, không biết có chuyện gì không vậy bác, lúc đó tự nhiên cháu không nghe được bác nói gì? Tụi cháu mới vừa đặt thiệp cưới xong rồi...
Ông Lập Phát hắng giọng:
- À, thì bác cũng đang tính bàn với cháu, bác thấy nhà hàng của bác Hai đây lớn hơn nhà hàng Trùng Dương, đầu bếp lại nấu ăn ngon, hay là... cháu tổ chức tiệc cưới ở Thùy Dương đi, bác nói một tiếng là bác Hai sẽ sắp được liền mà, hai cháu thấy sao?
Thiện lắc đầu:
- Có chuyện gì vậy bác? Làm đám cưới ở đây có gì không tốt? Vả lại tối hôm qua bác có nói với cháu là nhà hàng Trùng Dương cũng đang dự định mở tiệc cưới mà? Hay bác giận cháu vì đã không nghĩ tới việc tổ chức ở Trùng Dương trước mà đến khi các nơi khác từ chối rồi mới quay sang cầu cứu bác?
Ông Lập Phát vội vã lắc đầu:
- Không... không! Cháu đừng nghĩ vậy! Chúng ta là người trong nhà, bác đâu có hẹp hòi gì mà giận dỗi vô cớ như vậy… Trước nay nhà hàng Trùng Dương của bác chỉ phục vụ ăn uống bình thường chứ có bao giờ tổ chức cưới hỏi gì đâu, cháu không nghĩ tới trước cũng là chuyện đương nhiên thôi mà! Bác tính như vậy là muốn thật tốt cho các cháu thôi, bác chỉ sợ lần đầu đứng ra tổ chức, có điều gì sơ sót thì sẽ có lỗi với gia đình. Trong khi đó nhà hàng Thùy Dương của bác Hai đây thì đã quen với việc này rồi, đứng ra làm thì mọi việc sẽ trôi chảy hơn nhiều!
Nghe ông Lập Phát nói vậy, ông Hai không dằn được sự tò mò, ông cũng thắc mắc như Thiện, nghe Thiện hỏi ông mới dám lên tiếng.
Tuy là hai anh em, nhưng ông lúc nào cũng ngấm ngầm ganh tị với sự thành công nhanh chóng của ông Lập Phát, ông không tin là ông Lập Phát có thể dễ dàng bỏ qua một dịp để khoa trương thanh thế, vả lại ông Hai cũng dư biết ông Lập Phát có ơn sâu với gia đình Thiện, không phải chỉ vì lý do đơn giản vậy mà đã nhận lời tổ chức rồi mà lại muốn giao lại cho ông. Chắc chắn nhà hàng Trùng Dương có vấn đề gì rồi!
Ông làm bộ đẩy đưa:
- Nếu chú giao thì anh cũng sẽ đứng ra lo liệu đàng hoàng cho cháu, nhưng anh thấy ở Trùng Dương cũng tốt lắm mà, không gian thoáng đãng, rộng rãi và yên tĩnh hơn bên Thùy Dương của anh nhiều…
Thiện cũng tiếp lời, đầy lo lắng:
- Dạ, cháu cũng thấy ở đây tốt lắm đó bác! Với lại… bên phía gia đình vợ cháu không đồng ý bất kỳ sự thay đổi nào trong việc cưới xin. Bây giờ thiệp cưới chúng cháu cũng đã đặt in xong, nếu thay đổi như vậy cháu e rằng…
Ông Lập Phát cúi đầu ngẫm nghĩ, ông phải kín miệng, chuyện ma quỷ vớ vẩn nói ra là dẹp tiệm, xưa nay ông lại là người giữ lời hứa, bây giờ với chỗ thân tình của mình mà làm vậy cũng khó chịu lắm, thôi thì một liều ba bảy cũng liều liều... Hy vọng mọi việc rồi đâu sẽ vào đấy, không có gì nghiêm trọng như mình lo sợ!
Ông ngẩng đầu lên nhìn Thiện và Loan một lần nữa rồi hỏi một câu thừa thãi:
- Hai cháu đã suy nghĩ kỹ chưa? Có muốn thay đổi ý kiến không?
Thiện ngơ ngác:
- Ủa, sao bác lại hỏi vậy? Tụi cháu có muốn thay đổi gì đâu?
Ông Lập Phát gật gù:
- Thôi, vậy thì mình quyết định vậy đi nhe, không gì thay đổi! Đám cưới là chuyện quan trọng của cả một đời người, hai cháu đã nhờ tới bác, nếu bác không làm đàng hoàng sẽ có lỗi… Bác sẽ cố gắng hết sức, bác nhất định sẽ nhờ bác Hai đây tư vấn cho nhiều việc… Thôi, hai cháu đừng lo…!
Thiện thở phào nhẹ nhõm, quay sang nhìn Loan, anh thấy Loan vẫn có vẻ gì đó không được bình thường. Thiện nghĩ chắc do Loan bị mệt nên anh vội vã xin phép:
- Dạ thưa hai bác, cháu rất cảm ơn hai bác đã quan tâm. Bây giờ chúng cháu xin được về trước ạ!
Ông Lập Phát đứng lên:
- Đâu có được, hai đứa phải ở lại dùng cơm trưa với anh em bác chứ!
Khẽ liễ nhanh qua Loan, Thiện thấy một nét chau mày rất nhẹ của cô và anh hiểu ý nên nói dối:
- Dạ… để dịp khác ạ, hôm nay chúng cháu còn nhiều việc phải làm… Vả lại lúc nãy chúng cháu mới vừa ăn xong…
Ông Lập Phát nhăn nhó:
- Hai đứa thiệt là…
Rồi ông lại cười xòa:
- Thôi, vậy đành phải chờ hôm khác vậy! Nhất định hôm khác hai cháu phải tới đây ăn với bác đó nghen, bộ chê thức ăn nhà hàng tui dỏ hay sao mà không ăn?
Thiện cũng cười theo:
- Dạ đâu có… chỉ là vì…
- Thôi, bác nói chơi mà, cháu không phải ngại!
Ông Lập Phát cười ha ha vỗ vai Thiện.
- Mà nè, không ăn gì thì cũng phải uống một chút chứ, chẳng lẽ hai cháu tới đây rồi về không như vậy sao?
Ông Lập Phát nói tiếp.
Thiện cười:
- Dạ, lúc mới vào đây tụi cháu có gọi đồ uống rồi, anh bồi bàn câm ấy sao cháu thấy quen mặt ghê bác à!
Ông Lập Phát ngạc nhiên:
- Ủa, trong nhà hàng của bác làm gì có anh bồi bàn nào bị câm nhỉ?
Thiện trố mắt:
- Cháu… cháu không biết có phải anh ấy bị câm không nữa… chỉ tại cháu thấy anh ấy chỉ vào miệng mình mà không nói năng gì? Cái anh ốm cao, có nước da trắng nõn như công tử bột ấy!
Ông Lập Phát dường như đã linh cảm thấy có chuyện không bình thường ở đây nên ông không dám hỏi thêm gì nữa, cũng không cản khi Thiện và Loan chào từ giã ra về.
Tiễn chân Thịên và Loan ra tới cửa xong, ông Lập Phát vội vã đi nhanh xuống bếp đứng nhìn qua một lượt.
Ở trong bếp, ngoài hai đầu bếp chính là ông Tân và Dũng là đội ngũ phụ bếp và bồi bàn rất đông đúc, nhưng chắc chắn không có một người có dung mạo giống như Thiện vừa diễn tả lúc nãy, không có một người nào có nước da trắng nõn đâu, ông Lập Phát quả quyết như thế!
Bởi vì tuy nhà hàng rất đông nhân viên phục vụ, nhưng ông Lập Phát không thuê theo kiểu giờ công mà là thuê tháng, nên không có trường hợp người làm ra vô thay đổi xoành xoạch đến nỗi ông không nắm bắt được.
Ông Lập Phát lại là người chu đáo, tinh tế, ông rất quan tâm đến đội ngũ phục vụ trong nhà hàng của mình, mỗi một nhân viên ông đều biết được sơ lược về hoàn cảnh và nhân thân của họ.
Vậy thì cái người lúc nãy Thiện gặp là ai? Ông Lập Phát đành chịu, không thể nào biết được, ông đang cố dẹp đi cái câu trả lời đang nằm sẵn trong đầu, đó là… người phục vụ ấy không nằm trong đội ngũ của ông, không thuộc về thế giới này…
Tới giờ phút này, sau rất nhiều việc kỳ quái đã liên tiếp xảy ra trong nhà mấy ngày gần đây đã làm ông Lập Phát tin một điều là ma quỷ đang bắt đầu lộng hành rồi!
Ông Lập Phát hối hận vì ông đã quá coi thường các thế lực cõi âm, hơn một năm nay ông không hề cúng kiếng gì cho họ, ngoại trừ lần đầu tiên khi mới dọn về. Ông tự trách mình và quyết định sẽ làm lễ cúng cầu siêu thật đàng hoàng cho họ. Chỉ mong họ đừng quấy phá gì thêm nữa, để cho ông được yên ổn làm ăn, chứ nếu cái tin nhà hàng Trùng Dương có ma mà bị phát tán ra ngoài thì lập tức sẽ làm sống dậy những câu chuyện hoang đường đơm đặt trước đây, và cái viễn cảnh rõ ràng trước mắt là nhà hàng của ông sẽ phải đóng cửa dẹp tiệm thôi!
Ông Lập Phát vừa suy nghĩ vừa đi dần về phía bàn có người anh đang ngồi đợi, trên mặt ông không giấu được vẻ lo lắng và căng thẳng.
Ông Hai nhìn em chăm chú một lúc rồi hỏi:
- Nè chú, bây giờ chỉ còn lại anh với chú, có chuyện gì chú nói cho anh nghe thử coi có giúp được gì không? Anh thấy sắc mặt chú không được bình thường, chắc có chuyện gì nghiêm trọng lắm hả?
Ông Lập Phát buông người xuống ghế, lên tiếng hỏi:
- Anh… anh có tin vào chuyện ma quỷ không? Hồi nhỏ em nhớ có lần anh kể em nghe là anh đã gặp ma, mà có thật không vậy?
Nghe ông Lập Phát hỏi vậy là ông Hai đã có thể lờ mờ đoán ra việc gì rồi, hèn gì trông mặt mày ông em cứ đờ đẫn như thế.
Ông Hai cười chia xẻ:
- Lúc nhỏ là anh chỉ nói dóc để hù chú thôi, người và ma âm dương khác biệt, người có cấm kỵ của người thì ma cũng vậy, nếu biết rõ lằn ranh giới giữa ma và người và mình không làm điều gì trái với lương tâm, không làm ác thì ma không thể hại mình được, gặp ma coi như cũng là một duyên phận ...
Ông Lập Phát nóng nảy:
- Em không làm điều gì trái với lương tâm, cũng không ham gặp ma để làm gì… Cái duyên phận đó để khi khác mình bàn tới đi! Bây giờ anh nói cho em biết, ma sợ nhất điều gì, và mình làm cách nào để các vong hồn được siêu thoát không? Ý em là ...giải oan cho “nó” để cho người sống được yên tâm hơn?
Ông Hai vẫn bình tĩnh:
-Chú để yên anh nói, ông bà mình hồi xưa đã có những cách trị ma rất công hiệu, như là dùng cây dương liễu, cây dâu tằm để đánh ma. Ma là âm, thuộc lạnh, sợ những gì nóng, cho nên ông bà mình dùng máu tươi, mà phải là máu của con chó mực, tức là chó đen tuyền, rồi những vật được cho là ô uế như quần áo dơ của đàn bà trong những ngày hành kinh...
Nói tới đây, ông Hai cười nhẹ như để trấn an ông Lập Phát, ông tiếp:
-Vụ quần áo dơ đàn bà và máu tươi chó mực thì ở đây, nhất là những nơi công cộng không nên dùng tới, nhưng có một chuyện anh nghĩ chú có thể làm được... đó là nuôi một con chó. Chó là loài vật có linh tánh, nhìn được bóng ma, và có thể báo hiệu cho mình biết, có điều... có điều... nhà hàng ăn không tiện nuôi súc vật, không hợp vệ sinh, theo anh nghĩ, chú có thể xây một cái chuồng chó xa khu nhà bếp, tối đến mới thả chó ra. Nếu chú muốn, chiều nay anh có thể xin ngay cho chú một con, hàng xóm bên cạnh nhà anh có giống chó bẹc giê mới đẻ được một lứa, giống chó này dữ lắm, người còn sợ, huống hồ gì ma...
Ông Lập Phát như vớ được cái phao:
- Sao anh không nói sớm? Có vậy mà em không nghĩ ra, nuôi chó đâu có tốn nhiều cơm gạo, em nhờ anh, anh đi xin liền cho em đi, có nó em mới ăn ngon, ngủ yên được!
Đột nhiên, ông Lập Phát vỗ trán, những sự kiện lạ liên tiếp xảy ra làm ông hồ đồ quên khuấy đi mất, ông sực nhớ ra chuyện lúc trưa:
- Hèn gì... hèn gì hồi nãy mấy con chó đằng sau dãy nhà bên kia cứ sủa hoài, làm em cũng cảm thấy không ổn, em cứ nghĩ không lẽ ban ngày ban mặt mà có trộm! À này anh Hai, em hỏi câu này có hơi ngớ ngẩn, giống chó bẹc giê tuy có dữ thiệt, nhưng dù sao cũng là chó con, hù ăn trộm còn khó nữa là đuổi... ma? Ý em muốn nói... chỉ còn có một tháng là tới ngày đám cưới của thằng Thiện, em chỉ sợ...
- Trời ơi, chú sợ quá hoá khờ rồi sao? Ma có ma mới ma cũ, nhưng chó thì không cần, chó con mà anh nói đã được sáu tháng tuổi rồi, có răng, biết sủa từ lâu rồi...
Ngừng một chút để uống miếng trà lấy hơi, ông Hai nói tiếp:
- Ma hù người bằng bóng thì chó hù ma bằng tiếng sủa. Người sợ ma vì ma trong tối, người ngoài sáng, bây giờ có con chó báo động dùm, biết đâu đám ma này đỡ lộng hành, tác yêu, tác quái.
Ông Lập Phát lại giật mình, ông tính hỏi lại tại sao ông Hai kêu là “đám ma” mà không phải là "con ma", không lẽ ông Hai biết được sự tình có tới “hai con ma” bị chết oan?
Tuy nghĩ vậy nhưng ông Lập Phát im lặng, từ hôm qua đến nay, ông đã gặp những chuyện bất ngờ và khó hiểu, có lẽ còn nhiều chuyện ông chưa biết mà ông Hai lại biết rõ hơn ông. Bởi vì trước đây, khi nghe ông có ý định mua khu biệt thự này, chính ông Hai đã hết lời ngăn cản. Ông Lập Phát vẫn nhớ rõ lời anh mình nói khi đó:
- Chú đừng liều lĩnh như vậy, khu đất đó không yên ổn đâu, nếu chú không nghe lời mọi người cứ một mực làm theo ý mình thì sẽ có ngày chú phải hối hận đấy!
Thật sự thì mãi cho tới lúc này ông Lập Phát vẫn không hề hối hận chút nào về sự quyết định liều lĩnh của mình ngày ấy. Ông chỉ cảm thấy bực mình và lo lắng mà thôi.
Ngay chiều hôm đó ông Hai mang đến cho em mình một chú chó con rất đẹp. Gọi là chó con vì tuổi đời của nó còn nhỏ, chứ thoạt nhìn nó là một chú chó to lớn lắm rồi!
Ông Lập Phát rất thích con chó này, thích vì nó đẹp mà cũng là vì hy vọng có nó, có tiếng sủa của nó sẽ xua đuổi được tà ma lẩn khuất quanh đây.
Các nhân viên trong nhà hàng cũng thích con chó ấy lắm, đặc biệt là Dũng. Anh nhanh nhẹn đặt cho nó một cái tên mà theo lời Dũng nói, đó là tên của con chó mà anh nuôi hồi nhỏ, con chó “khôn như người” vậy! Ông Lập Phát không cần biết tên nó là gì, chỉ nghe câu “khôn như người” là ông đồng ý ngay. Thế là chú chó nhỏ đã có một cái tên ngay khi vừa tới nhà hàng Trùng Dương, Lúc – Ky, đó là tên gọi củachú chó nhỏ.
***
Một đêm không trăng sao, chìm trong bóng tối tĩnh mịch, nhà hàng Trùng Dương im lìm say giấc ngủ, mọi người đã ra về từ lâu.
Thỉnh thoảng mới có một ánh đèn xe hơi ngoài đường lớn chạy ngang rọi vào khung cửa kính lóe lên thành những vệt dài rồi tắt ngúm, trả lại bóng tối cho nhà hàng.
Từng tiếng động nhỏ cũng làm con chó Lúc – Ky ngóc đầu lên vểnh tai nghe ngóng. Ban ngày Lúc – Ky nằm dài ngủ vùi trong chiếc lồng sắt to đùng được ông chủ đặt làm riêng cho nó, nhà hàng bao nhiêu người ra vô nó không cần để ý. Tới đêm mới là lúc Lúc – Ky làm nhiệm vụ.
Một vệt trắng mờ vụt bay ra từ trong đám lá của cây ngọc lan, tiến dần về cửa bếp, cánh cửa run rẩy kẽo kẹt mở ra từ từ cho bóng trắng lách vào.
Lúc – Ky nhổm dậy, chiếc mũi ướt của nó như ngửi được một điều gì không bình thường, nó rít lên từng chập rồi từ trong chiếc chuồng con, với những bước chân êm như nhung, Lúc – Ky rón rén bò ra nhìn lên tàng câ. Cặp mắt của Lúc – Ky chiếu ra những tia sáng hung dữ, lông cổ con chó dựng đứng hẳn lên, Lúc – Ky khum hai chân trước thủ thế, gừ gừ trong cổ họng, nó đã nhìn ra trên ngọn cây cao, giữa cành lá rậm rạp, thêm một bóng đen khác xuất hiện.
Lúc – Ky chạy vụt ra, nó quên khuấy mất sợi dây cột cổ không đủ dài, giựt ngược cả thân mình Lúc – Ky ra phía sau làm nó loạng choạng. Lúc – Ky không nao núng, lần này nó đứng lại ngửa cổ cất tiếng sủa vang, tiếng sủa của Lúc – Ky như đánh thức lũ chó hàng xóm, cả đám bạn của nó cùng cất tiếng, những tiếng chó tru truyền đi vang cả một khu phố. Bóng đen bị tiếng chó sủa làm cho khựng lại, im lìm một hồi thấy Lúc – Ky không tiến được xa hơn ngoài chu vi mấy thước từ cái chuồng con góc sân, bóng đen thản nhiên tiến vô nhà hàng Trùng Dương bằng lối cửa bếp, cánh cửa khép lại sau lưng và tiếng sủa của Lúc – Ky vẫn vang lên xua đuổi không ngừng .
Sủa một hồi cảm thấy mệt, Lúc – Ky lững thững đi qua đi lại dòm chừng vô cánh cửa bếp, miệng nó không ngớt gầm gừ dọa nạt. Hai tai con chó rung động, nó nghe được tiếng còn tiếng mất văng vẳng từ trong "căn nhà của ông chủ", những tiếng nói chuyện thầm thì rền rĩ như khóc than, thì ra hai cái bóng, một trắng, một đen đang cãi nhau:
- Em van anh, anh hãy tha cho họ, anh hại em chưa đủ hay sao mà còn muốn hại thêm người khác? Cũng tại vì em mà giờ đây em trở thành cô hồn ma trơi ...
Giọng khác ồm ồm, chắc là đàn ông, giận dữ cất lên:
- Cô im đi, tôi đã đợi cơ hội này một năm trời rồ. Có trách là trách số mạng tụi nó xui xẻo, nhất là cái con nhỏ đó, tôi thấy nó y hệt như cô lúc còn sống...
Có tiếng khóc rấm rức của người phụ nữ:
- Em đã lỡ gây ra lầm lỗi, đã làm cho anh bị tổn thương nặng nề, nhưng anh đã bắt em đền bằng mạng sống của mình rồi còn gì, sao lòng thù hận trong anh vẫn chưa nguôi vậy? Họ đâu có lỗi gì với anh? Em xin anh, em xin anh đó, hãy tha cho họ đi anh…
Tiếng người đàn ông hằn học:
- Không đời nào! Đây là nhà của tôi, đây là nơi tôi đã phải sống những ngày đau khổ, tuyệt vọng đến cùng cực. Tôi không cho phép bất cứ ai ngang nhiên phô bày cái hạnh phúc lứa đôi của họ ở nơi này… Hừ… cô nói cô đã đền tội bằng mạng sống của cô à? Vậy còn tôi thì sao? Vì cái gì, vì ai mà tôi bây giờ cũng là một oan hồn vất vưởng?
Những cánh cửa sổ phía ngoài nhà hàng tự động mở ra rồi đóng lại từng chập, có lẽ con ma đàn ông kia ngứa tay muốn đập phá cho hả cơn giận chất chứa trong lòng hắn.
Gió lốc từ ngoài cửa sổ cuốn theo một lớp bụi mù hất tung tượng ông Địa ngã lăn ra mấy vòng rồi úp mặt xuống đất.
Ngoài sân, con chó Lúc – Ky lại sủa lên từng hồi cảnh cáo.
***
Chỉ còn đúng một tuần nữa là đám cưới mà Thiện và Loan lại cãi nhau. Vẻ mặt đau khổ, những giọt nước mắt của Loan và nhất là câu nói của cô làm đầu óc Thiện muốn nổ tung ra:
- Em nói sao? Đình lại đám cưới lại à? Thiệp đã gửi, nhà hàng đã đặt, rồi bây giờ em lại như con nít, nói đổi là đổi? Em nói em có điều khó nói, khó xử, nếu em coi anh là chồng em, thì tại sao không để cho anh cùng xử cùng chia xẻ với em, hả Loan?
Giọng nói tuy nóng nảy nhưng ấm áp đầy thương yêu của Thiện làm Loan càng thấy hối hận. Cô cúi đầu, kể lại sơ qua về người yêu cũ mà cô đã quen hồi mới chân ướt chân ráo vào Đại học.
Sợ Thiện buồn, Loan không dám dài dòng chi tiết nhiều, cô chỉ nói vì tính tình hai người không hợp, Loan quyết định chia tay chỉ sau một thời gian ngắn quen nhau.
Rồi sau đó Loan gặp Thanh, hai người yêu thương nhau thắm thiết. Từ lúc đó tới giờ, Loan không còn liên lạc với người cũ nữa.
Sau này không biết tình cờ hay cố ý, hắn đã chuyển về công tác ở một công ty có quan hệ làm ăn mật thiết với công ty của Loan. Rồi một lần Loan đến gặp đối tác để bàn việc, tình cờ đã gặp lại hắn. Loan chỉ chào hỏi qua loa và cố tình tránh mặt, nhưng hắn vẫn bám lấy không thôi.  Đã mấy lần Loan từ chối lời mời đi uống nước của hắn, rồi đổi số phone, nhưng hắn vẫn không buông tha, nói nếu Loan không đổi thái độ, hắn sẽ tìm cách nói chuyện với Thiện và sẽ nói những điều không có lợi cho cô. Đó là điều mà Loan sợ nhất vì hắn là người dám nói dám làm, bản chất hắn lại không lương thiện, có thể đơm đặt ra nhiều chuyện để gây hiểu lầm giữa Thiện và cô.
Thiện nhìn Loan chăm chú, ánh mắt của anh làm Loan ngượng ngùng hơn, cô rụt rè hỏi:
- Anh có giận em không anh Thiện? Anh còn thương em và muốn giữ ngày cưới của tụi mình không hả anh?
Thiện không trả lời mà hỏi ngược lại Loan:
- Anh đang tự hỏi là em có thương anh không mới đúng, chuyện chỉ có vậy mà sao em không kể cho anh nghe? Hồi đó em quen với ai cũng là chuyện quá khứ, nếu bây giờ em thay đổi, anh mới trách em.
Loan lại khóc, cô bối rối quá, người tình cũ như bóng ma, lúc nào cũng lởn vởn làm cô sợ hãi, cô đi đâu hắn cũng tìm ra như để nhắc nhở cô không thể nào thoát được bàn tay của hắn.
Loan nắm tay Thiện như tìm một sự che chở:
- Nói ra cho anh nghe em mới đỡ sợ, quen với người này đối với em là một lỗi lầm lớn. Có lẽ anh sẽ nghĩ là em lo vớ vẩn, em có linh tính là tới ngày cưới của hai đứa mình, hắn sẽ tới phá!
Thiện siết chặt tay Loan:
- Em đừng lo lắng nữa, đã có anh đây rồi! Chúng mình thật lòng yêu thương nhau thì dù hắn có dùng bất kỳ âm mưu thâm độc nào cũng không thể chia cắt được chúng ta.
Loan vô cùng cảm động trước tình yêu mà Thiện dành cho mình. Cô ngã đầu lên vai người chồng sắp cưới để mặc cho những giọt nước mắt hạnh phúc tuôn ra…
***
Khí hậu ở thành phố biển này thật lạ, mới mấy giờ trước còn nắng chang chang, vậy mà chỉ một loáng sau trời lại mưa tầm tã.
Ông Tân làu bàu, bước thấp bước cao, cố tránh mấy vũng nước mưa trước khi mở cửa sau vô nhà bếp. Hôm nay Dũng bị cảm cúm không đi làm được, ông Tân phải đi xe buýt tới nhà hàng, tuy vậy ông không vội vã, vì ông biết trời mưa, nhà hàng sẽ vắng khách, ông sẽ có dư thời giờ uống cà phê và đọc báo.
Tửng, cậu phụ bếp nhỏ tuổi, trí óc hơi chậm phát triển nhưng được cái rất siêng năng là hiền lành như cục đất. Đây là cậu nhỏ mà chính ông Tân đã nài nỉ ông chủ Lập Phát nhận vào giúp việc trong bếp cho ông.
Bây giờ thì Tửng đã quen việc, giúp ông Tân được rất là nhiều việc, nào là gọt khoai, tỉa ớt, ngay cả việc xào mì ông cũng để cho Tửng làm luôn. Nay mai, có lẽ ông sẽ bàn với ông chủ về việc tăng thêm tiền lương cho Tửng.
Ông tân còn dự định nói cho ông chủ biết tới ngày nhà hàng làm tiệc cưới, ngoài việc phải mượn thêm người chạy bàn cho ngày đó, ông sẽ cần thêm nhiều phụ bếp nữa.
Từ hai tuần nay, ông Tân đã bình tĩnh trở lại, không phải là vì có thêm con chó Lúc - Ky làm hộ giá ở sân sau, lý do là ông chủ Lập Phát đã thoả thuận cho ông Tân hưởng thêm một khoản tiền nữa mỗi tháng và nhờ ông đi tìm người cầu kinh siêu độ cho đôi vợ chồng chết oan trong khu biệt thự này.
Thấy Tửng đang đứng ngó mưa, mắt nó đang ngó ra phía sân sau, ông Tân gọi:
- Nè Tửng, làm biếng hả mậy? Bày đặt mơ với mộng, hỏng biết ngó gì mà ngó hoài, không chịu vô lo soạn đồ đạc...
Tửng lắc đầu, đưa tay ra chỉ về phía chuồng chó góc sân, nó gọi:
- Lúc - Ky? Lúc - Ky?
Ông Tân tò mò ngó theo, giờ ông mới nhớ tới con chó. Làm thân chó cũng sướng, trời mưa kiếm một góc nằm ngủ. Chuồng chó tối thui, nhìn kỹ ông Tân biết là chuồng trống không, vì sợi dây cột cổ Lúc - Ky  nằm trơ trọi phía ngoài chuồng...
Con chó Lúc - Ky đã đi mất rồi!
Con chó Lúc - Ky bị mất tích, ông Tân không quan tâm cho lắm, việc mà ông bực mình nhất là con dao bầu của ông treo trên tường lại không cánh mà bay.
Ông Tân hầm hầm đi tới đi lui, kéo từng ngăn kéo, mở cả cái tủ lạnh ra coi cũng không thấy con dao đâu hết.
Ông Tân ngó Tửng với vẻ ngờ vực, nó là người tới sớm nhất, nãy giờ nó đứng sững nhìn ông với vẻ sợ hãi.
Dạo này ông thấy Tửng hay mắt la mày lét ngó trộm ông. Không biết đám phụ việc trong bếp có xúi biểu nó làm điều gì không nữa?
Thường ngày tuy ông Tân luôn tỏ ra thân thiện với Tửng, mỗi khi vui vẻ, ông trò chuyện, chỉ bảo Tửng rất tận tình. Nhưng những lúc ông nổi nóng, mặt chú đỏ lên, mắt chú tròn vo, môi dưới của chú trề ra làm cho Tửng sợ phát khiếp lên được, nó có cảm tưởng như ông Tân sắp sửa đem nó ra làm cái thớt băm nát ra như tương để cho hả cơn giận.
Từ khi hành nghề nấu bếp tới nay, ông Tân lúc nào cũng nhớ nằm lòng bài học đầu tiên sư phụ dạy cho ông: Muốn nấu ăn cho ngon, quan trọng nhất là thức ăn phải tươi, bếp lửa phải hồng, bảo kiếm phải bén.
Không có con dao làm bạn, ông Tân cảm thấy bứt rứt, bàn tay của ông lại ngứa ngáy.
Ông Tân linh cảm có chuyện gì ghê gớm đã xảy ra trong căn nhà bếp mà nhất thời ông đoán không ra, mỗi khi bàn tay trái của ông giựt giựt là ông biết có điềm không lành.
Sau khi lục lọi như muốn lật tung cái nhà bếp, ông Tân thất vọng thở dốc, ông kéo một chiếc ghế đẩu nhỏ ra tạm ngồi xuống, đưa mắt nhìn mông lung xuống sàn bếp với hy vọng cuối cùng, tia mắt ông dừng lại ở góc cửa bếp, có một vài vết máu rơi rớt còn đỏ tươi hiện rõ trên nền gạch men trắng.
Chấm ngón tay xuống vệt máu khô, ông Tân ngơ ngẩn xuất thần, ngày nào ông và Dũng cũng lau chùi sạch sẽ nhà bếp trước khi ra về thì làm sao bây giờ có vết máu vương vãi ở chỗ này được?
Ông Tân ngờ ngợ là những vệt máu này mới xuất hiện đây thôi.
Ngoài trời, mưa vẫn rơi như trút nước, tàn lá cây ngọc lan làm cho cảnh vật đã tối lại tối hơn, những cành lá xanh đen run rẩy từng hồi, nước mưa được thể cuốn theo chiều gió, vội vàng xối từng hàng nước dài thành một bức màn trắng đục, rửa sạch đi những bụi bậm trên mặt đất.
***
Loan giật mình mở mắt, cảnh vật chung quanh làm Loan hốt hoảng chống tay ngồi dậy, tưởng mình nằm mơ, cô lấy tay đập nhẹ vô đầu, đầu cô đau quá, không, cô không nằm mơ, trước mắt cô là bóng đêm mát rượi, cái mát rượi của làn gió đêm hòa cùng với mùi thơm thoang thoảng của hoa ngọc lan làm cho Loan tỉnh táo hơn.
Loạng choạng đứng dậy, Loan rùng mình nhận ra mình đang đứng trên đất với đôi chân trần, phải mất đến vài phút Loan mới vùng bỏ chạy ra khỏi con hẻm.
Đêm đã khuya...
***
Ngày trọng đại đã đến.
Thật là kỳ lạ, Loan không cảm thấy nôn nao và háo hức chờ đợi như một cô gái sắp sửa lấy chồng. Những lúc tự mâu thuẫn với chính mình, Loan có cảm tưởng như có một tiếng nói vô hình nào đó, đang cố gắng nhắc nhở bên tai cô, phải rời xa nơi này, chạy trốn cho thật xa, xa tất cả mọi người.
Đứng trước bồn rửa mặt, Loan rùng mình ớn lạnh, không khí mát mẻ buổi sáng sớm cùng với tiếng chim hót vang ngoài khung cửa sổ, báo hiệu một ngày đẹp trời nhưng Loan lại cảm thấy cô đơn lạnh lẽo, thế giới đáng yêu này, sự sống đầy hy vọng ngoài kia, hình như không còn thuộc về cô nữa. Nhìn khuôn mặt hốc hác của mình trong gương, Loan chớp mắt mấy cái, dùng đôi bàn tay lùa từng làn nước mát lên rửa mặt cho tỉnh táo, cô nhớ lại giấc mơ đêm hôm qua, cô bị té xuống một cái hố sâu cùng với Thiện. Cái hố nhỏ hẹp và khó thở, khi Loan ngước đầu lên nhìn Thiện, cô nhìn thấy một khuôn mặt rữa nát với hai hốc mắt sâu hoắm, bộ mặt kinh tởm đó cứ từ từ cúi sát xuống và nó đang định hôn cô... Loan vùng vẫy và cố gắng thoát ra khỏi cơn ác mộng.
Tiếng gõ cửa phòng tắm dồn dập khiến Loan giật mình trở về hiện thực, dạo này cô hay bị bịnh lãng trí, giống như người sống trên mây.
Loan nói lớn:
- Xong rồi, con ra liền đây...
Cả một buổi sáng quay cuồng, nào là trang điểm, chải tóc, sau đó tới thủ tục đưa dâu, rước dâu dài dòng, lời thề hứa trọn đời... cuối cùng Loan cũng được thoải mái ngồi bên Thiện trong chiếc xe hơi màu trắng.
Thiện hôn lên tóc Loan, mái tóc được chải bới xịt keo một cách cẩn thận trở nên cứng ngắc, hai bên lọn tóc mai rủ xuống ôm lấy khuôn mặt Loan. Khẽ đưa tay vuốt tóc vợ, Thiện hỏi:
- Mệt không em?
Loan lắc đầu, cô tựa đầu vào vai Thiện, nhớ đến hình ảnh cái đầu lâu trong giấc mơ, Loan bật người ngồi dậy, Thiện ngạc nhiên:
- Em sao thế? Ráng mà nghỉ ngơi một tí, lát nữa tụi mình còn phải đứng chào khác. Vừa rồi làm lễ cưới em cứ như người mất hồn!
Loan ngơ ngác hỏi cho có lệ:
- Vậy hả anh? Em có nói sai, làm sai gì không?
Thiện mỉm cười nói giỡn:
- Thôi chết rồi, anh lấy phải cô vợ khờ khạo rồi, mới đây mà em đã quên, em đâu có làm sai, lấy anh là một việc làm đúng nhất của em đó. À, anh nhớ rồi, em làm sai một việc nhỏ, lúc anh đeo nhẫn cho em, em quên... không có hôn anh!
Xe hoa lăn bánh chầm chậm rẽ vô bãi đậu xe trước nhà hàng Trùng Dương.
Nhà hàng hôm nay trang hoàng thật là lộng lẫy, hai cánh cửa lớn được mở rộng như chào đón, hai bên cửa là hai chậu hoa tươi rực rỡ cùng với những quả bong bóng trắng và hồng rải rác từ ngoài cửa vô tới trong nhà hàng.
Màu hồng và màu trắng là hai màu nền trang trí cho tiệc cưới, theo ý của cô dâu và chú rể, khăn trải bàn màu trắng, trên mỗi bàn là những chậu hoa hồng cánh nhỏ.
Nhân viên phục vụ trong nhà hàng, trừ đầu bếp và ông chủ, đều mặc đồng phục đỏ.
Lần này ông Lập Phát tốn kém hơi nhiều, nhưng ông hy vọng trong một thời gian ngắn, vào những đám tiệc kế tiếp, ông sẽ mau chóng thu lại cả vốn lẫn lời.
Xoa hai bàn tay vào nhau một cách hài lòng, ông Lập Phát nhìn đồng hồ trên tường, đã sáu giờ ba mươi phút chiều, coi vậy mà cô dâu và chú rể rất đúng giờ.
Thiện dìu Loan bước từng bước chậm, một tay Loan vịn lấy Thiện, tay kia Loan phải túm lấy một góc chiếc áo cưới dài lê thê để bước đi khỏi vướng víu. Đôi giày cao gót nhọn hoắc càng khiến Loan khổ sở, không được thoải mái, toàn thân cô như đang đi trên sóng nước.
Loan nhăn mặt hối hận, sau ngày hôm nay, cô sẽ cho đôi giày này vô thùng rác. Lúc mua giày ướm thử, cô thấy những hạt cườm lóng lánh đính chung quanh đôi giày thật xinh xắn, bây giờ chính những hạt cườm đó lại như gai nhọn đâm vào gót chân cô mỗi khi cô cất bước.
Tuy đã bắt đầu vào đông nhưng khí hậu ở thành phố biển này vẫn còn nóng nực nên những chiếc máy lạnh trong nhà hàng đều được xử dụng tối đa.
Thiện thở phào nhẹ nhõm khi bước hẳn vào phía trong nhà hàng, ánh sáng tự nhiên tối xầm hẳn lại, nhường chỗ cho không khí dịu mát dễ chịu. Ông Lập Phát niềm nở bắt tay Thiện hỏi một tràng:
- Chúc mừng hai cháu, ba má cháu đâu rồi? Nhà hàng trang trí vầy hai cháu thấy sao?
Thiện sung sướng nắm tay Loan, cảm động gật đầu:
- Cám ơn bác, cháu đâu dám mong gì hơn, lát nữa bác ra chung vui cùng với gia đình cháu nha bác?
Thiện đảo mắt nhìn về phía sân khấu, trên chiếc bàn nhỏ là ổ bánh cưới màu hồng bốn tầng đồ sộ xếp theo hình trôn ốc, rải rác trên mặt bánh điểm những cánh hoa màu đỏ tươi rất mỹ thuật. Thiện lo lắng nghĩ thầm, không biết từ giờ cho đến tối, bánh cưới có bị chảy ra thành nước không nữa.
Ông Lập Phát kéo tay Thiện:
- Ra đây mấy bác cháu mình chụp một tấm hình làm kỷ niệm, sợ lát nữa không có dịp!
Ông Lập Phát và những người chạy bàn mặc đồng phục đỏ đứng tề chỉnh đằng sau cô dâu và chú rể, khuôn mặt của ai cũng cười rạng rỡ.
Ông thợ chụp hình ra dấu:
- Hai người trong góc tươi lên tí nhé, một, hai, ba...
Ánh đèn flash loé lên, tiếng cười nói sau vài giây yên lặng lại tiếp tục ồn ào. Ông thợ chụp hình đứng ngẩn người ra, ông gãi đầu, hai người đàn ông và đàn bà có khuôn mặt trắng toát đứng bên phía bên phải cô dâu và chú rể, mới đây đã biến mất!
Tiếng nhạc xập xình bên ngoài thỉnh thoảng lại vang lên vài âm thanh chát chúa lạc lõng khiến ông Tân khó chịu. Ông dằn mạnh con dao mới mua xuống tấm thớt, quay qua bên cạnh chú nói lớn với Dũng:
- Ban nhạc gì đâu mà nghe cứ như nhạc đám ma!
Nhà bếp chật chội một cách khác thường, hơi nóng từ những lò bếp sùng sục từ sáng đến giờ càng làm cho không khí ngột ngạt khó thở.
Dũng đang quây quần với hai người phụ bếp bên cạnh, mỗi người ôm một cái chảo dầu to tướn.
Đập cái xẻng vô chảo cho từng hạt cơm rơi xuống, Dũng nói như hét lên:
- Nhạc sống hay vậy mà còn chê, có nhạc nghe là khá lắm rồi đó!
Ông Tân quay đi lầu bầu những gì không rõ, bàn tay trái của ông lại run run.
Ông tân bước từng bước nặng nhọc ra phía cửa bếp, cặp mắt mệt mỏi nhìn chăm chăm về phía cô dâu và chú rể, đúng vừa lúc Loan xoay người nhìn ông. Cô nhoẻn miệng cười như gặp lại người quen. Ông Tân luống cuống lùi lại, nép vào góc tường để tránh ánh mắt của Loan, đôi mắt có những tia lửa.
Một bàn tay đột nhiên đập mạnh vào vai khiến ông Tân giật thót người suýt té, phản ứng của ông làm người kia chưng hửng:
- Chú có sao không ?
Thì ra là ông Lập Phát!
Ông Tân mệt mỏi lắc đầu:
- Dạ không, trong bếp nóng quá, tui đứng đây một lát cho mát.
Ông Lập Phát nhìn ông Tân ái ngại, có lẽ vì quá lo lắng cho buổi tiệc ngày hôm nay mà gương mặt ông hốc hác hẳn, đôi mắt đen hõm sâu trên làn da tái ngắt.
Ông Lập Phát an ủi:
- Chú có mệt thì đừng đứng ở đây, chỗ này là lối ra vào, ra phía sân sau hít thở lát cho tỉnh táo. Có cần tôi dặn Dũng và mấy người kia lo giùm các món cho chú không?
- Không sao đâu ông chủ. Tôi... được mà, bây giờ tôi đi làm ngay.
***
Khi buổi tiệc cưới trở nên nhộn nhịp cũng là lúc trời chiều bắt đầu xâm xẩm tối.
Con chó Lúc - Ky đi qua đi lại vẫy đuôi trước cửa lớn nhà hàng Trùng Dương, người nó lấm lem toàn bùn đất, nó buồn rầu rít lên từng tiếng nhỏ, nhưng không ai để ý đến nó.
Lúc - Ky le lưỡi thở, nó đang hy vọng chờ đợi, biết đâu ông chủ Lập Phát nhìn ra sẽ trông thấy nó.
Mấy ngày nay Lúc - Ky không dám về nhà, lang thang trong khu phố lân cận, Lúc - Ky bươi từng thùng rác kiếm ăn.
Hôm nay nhà của ông chủ người ra, người vào tấp nập, mùi đồ ăn thơm lừng bay ra tận ngoài cổng lớn làm Lúc - Ky đói bụng cồn cào, thở hồng hộc.
Mon men lại gần cánh cửa nhỏ phía bên hông nhà hàng, cánh cửa khép hờ, Lúc - Ky đưa cái mũi ướt vô ngửi, thơm quá, nào là mùi súp, mùi thịt quay, còn có mùi... ah... mùi gì đây, Lúc - Ky hít một hơi dài, mũi nó phập phồng... mùi người chết!
Đưa một chân lên cào sồn sột vô cánh cửa, Lúc - Ky lại rít lên lo lắng, tiếng đàn hát cùng với tiếng cười nói ồn ào làm át hẳn âm thanh kêu cứu tuyệt vọng của nó.
Quang cảnh bên trong thật là hào hứng, mọi người đang vỗ tay làm nhịp để hối thúc cô dâu và chú rể hôn nhau.
Thiện từ từ cúi đầu xuống, khuôn mặt cô dâu đỏ hồng, hai hàng mi cong run rẩy, vợ tôi thật là đẹp, Thiện sung sướng nhủ thầm.
Trong một thoáng ngắn ngủi hôn vợ, Thiện có cảm tưởng như hai người đang lao vào một cái hố sâu không đáy!
***
Ông Tân vội vã bước ra sân, sau khi khép lại cánh cửa bếp. Trời đã tối, ông Tân hối hả bước đi như chạy trốn, đột nhiên ông kinh hãi nhận ra có vật gì đang di động từ phía cây ngọc lan lao về phía ông.
Khẽ lấy tay dụi mắt, ông Tân há miệng á khẩu, trời ơi, con chó Lúc - Ky, nó đang dụi cái đầu đầy đất cát dơ bẩn vào chân ông. Bị ông Tân đá ra xua đuổi, Lúc - Ky không nản chí, nó lảng ra xa rồi chạy vòng quanh cây ngọc lan, công trình nó đào xới nãy giờ mới lôi được con dao bầu và một khúc chân... người rữa nát, Lúc - Ky vẫy đuôi nhìn ông Tân và cất tiếng sủa liên hồi.
***
Giữa khung cảnh hỗn loạn, tiếng còi hụ của xe cảnh sát, tiếng la hét nhốn nháo của mọi người, ông Lập Phát phải đuổi đám khách tò mò lên phía trên nhà hàng, trong khi ông Tân đứng mửa thốc mửa tháo ở sân sau, miệng đắng nghét, toàn thân ông như lên cơn sốt rét, run lẩy bẩy.
Bên cạnh ông Tân là Dũng và đám người phụ bếp, mặt ai nấy đều u ám buồn thảm.
Nhà hàng Trùng Dương bao trùm một màu tang ngút trời . Tiếng nhạc đã tắt tự bao giờ, không kèn không trống, bàn tiệc ly chén lộn xộn, thức ăn không còn hấp dẫn nữa. Đám thực khách đứng ngồi không yên, một số người đứng tụm lại thành nhóm bàn tán cho đỡ sợ.
Một bà khách với cái giọng the thé, có tên là bà Lý, biệt danh là bà Tám Lý, đang thao thao thêu dệt thêm thắt chung quanh cái xác người mới đào lên ở đằng sau nhà hàng Trùng Dương.
Tuy chưa rõ nạn nhân là ai, nhưng dựa theo áo quần thì có thể là một người đàn ông. Không có lửa, sao có khói, người chết bị chôn ngay đằng sau nhà bếp, lẽ thường tình là đám người trong nhà hàng thể nào cũng biết, hoặc có dính dáng ít nhiều.
Bà Tám Lý đoán xa đoán gần, chính chú đầu bếp có chín ngón tay là thủ phạm, vì con dao bầu, đào lên cùng với xác chết, là của chú, vừa rồi chẳng phải thằng nhỏ đần độn đã làm chứng và nhận diện con dao đó sa? Với vẻ khẳng định của một quan toà không cho tội nhân kháng cáo, bà Tám Lý đắc ý nói tiếp:
- Vả lại cái bản mặt ông ấy cũng ngầu lắm! Múa dao là nghề của ổng mà. Nếu ổng không làm sao lại có tật giật mình sợ run như thế?
Nhiều giả thuyết được đặt ra, có người còn nhân dịp này phao tin đồn nhảm, nói chắc như đinh đóng cột, người chết là tình địch của ông Tân!
Trong lúc mọi người xôn xao, cảnh sát an ninh khu vực đứng chặn ngay cửa lớn, kêu gọi mọi người yên lặng và tuần tự khai báo tên tuổi, trả lời vài câu hỏi chi tiết quanh vụ án, sau đó có thể ra xe đi về.
Những người làm việc trong nhà hàng sẽ là những người ở lại sau cùng.
***
Khi đồng hồ trên tường điểm mười một giờ đêm, số người hiện diện trong nhà hàng không còn bao nhiêu, cô dâu và chú rể mệt mỏi ngồi trong một góc, chờ cảnh sát tới làm biên bản.
Ông chủ Lập Phát buồn bã bước lại gần Thiện và Loan, giọng ông trầm xuống chia buồn, cũng là lời chia buồn cho bản thân ông:
- Bác xin lỗi hai cháu và gia đình, thiệt tình ngoài ý muốn của bác, không ngờ ra cớ sự này. bác thiệt ngại quá, không còn mặt mũi nào gặp ba má cháu, khi nào về tới nhà, hai cháu cho bác gửi lời xin lỗi một lần nữa. Lắc đầu chán nản, ông Lập Phát nói tiếp:
- Không tin cũng phải tin, có một chuyện mà bác dấu hai cháu, nhà hàng Trùng Dương thật sự có... ma!
Thú tội xong, ông Lập Phát nhìn Thiện và Loan ngượng ngập, chuyện xác người chết một cách bí mật ông Lập Phát không biết nguyên nhân, nhưng ông tin là có liên quan đến mấy con ma xui xẻo kia.
Cô dâu đang cúi đầu bỗng ngửng lên chậm rãi nói từng chữ , tiếng nói cô khàn đục trong cổ họng, cô phát âm một cách khó khăn:
- Ngày trùng... giờ... trùng... đi về thôi!
Trước thái độ kỳ lạ của Loan, ông Lập Phát và Thiện đều sửng sốt. Thiện ôm vai Loan lắc nhẹ, có lẽ Loan mệt mỏi và sợ hãi quá độ nên mới bị mê sảng.
Một người cảnh sát mặc thường phục tiến lại gần ba người:
- Xin lỗi, xin mọi người cho biết tên tuổi…
Loan nhoẻn miệng cười, ánh mắt cô nhìn vào khoảng không, cô lập lại như mơ ngủ :
- Tôi là… Nguyễn Thanh Vũ!
Nói xong, Loan ngả người ra và cô ngất đi, không còn biết gì nữa.
Loan giật mình mở mắt, ánh nắng lên cao ngoài khung cửa sắt khiến cô phải quay mặt đi trốn tránh, cô nhắm mắt lại suy nghĩ mông lung, đầu óc cô trống rỗng, tại sao cô không nhớ gì hết?
Khi đã quen với ánh sáng, Loan ngồi dậy, cô đang ở trong một căn phòng có song sắt, một căn phòng trắng toát và không có đồ vật gì trong phòng ngoài cái giường cô đang ngồi.
Loan loạng choạng đứng dậy, khi hai bàn tay cô chạm tới song sắt lạnh như đá, Loan bắt đầu la hét kêu cứu .
***
Ngồi đặt hai bàn tay lên đùi, Loan ngoan ngoãn như một đứa bé, cô đang lắng nghe Thiện nói .
Giọng Thiện đều đều mệt mỏi:
- Anh sẽ chờ em cho tới lúc em hết bịnh, mọi người ở nhà ai cũng lo cho em. Anh vẫn không tin là em đã làm chuyện ấy, cho dù cảnh sát đã có bằng chứng, chứng minh em có tội. Họ nói hắn là người tình cũ của em, phải, chuyện đó anh biết rồi. Hắn cứ quấy rầy em, anh cũng biết, nhưng đó không phải là lý do em giết hắn, có phải không Loan?
Loan gật nhẹ đầu, cô tựa người vào Thiện như tìm một sự che chở.
Thiện nói tiếp:
- Em còn nhớ hôm mình tới nhà hàng Trùng Dương trước đám cưới một tháng không? Hôm đó, anh đã gặp kẻ giết người, người đàn ông có nước da trắng nõn, anh không thể nào quên được nụ cười của hắn. Ông Tân có dẫn anh ra thăm mộ vợ chồng hắn, tên hắn là... Nguyễn Thanh Vũ!
Ngừng lại vuốt tóc Loan, giọng Thiện nghẹn lại:
- Có một sự trùng hợp là ngày chết ghi trên mộ bia của vợ chồng họ chính là ngày mười lăm tháng mười một!
***
Sau chuyện ồn ào hôm đám cưới đầu tiên diễn ra ở nhà hàng Trùng Dương, ông Lập Phát đành phải tạm đóng cửa nhà hàng trong một thời gian ngắn.
Trong thời gian ấy, ông Lập Phát khẩn trướng đi mời những thầy Pháp có tên tuổi, mời cả các nhà sư uy tín mà ông nghe giới thiệu để về cúng tà ma, dọn sạch những ám khí còn vướng vít ở khu đất đó.
Ông tự thấy ân hận vì mình đã không tích cực làm những việc này trước khi bắt tay vào mở rộng việc kinh doanh.
***
Loan cũng không bị xử tội nặng, vì theo giám định tinh thần cô có vấn đề, không làm chủ được hành động của mình.
Sau một thời gian ở trại giam, Loan được giảm án tha về vì có thành tích đột xuất, đó là cô đã cứu được một bạn tù khi người này không may bị rơi xuống sông.
Về nhà, tinh thần Loan vẫn chưa hoàn toàn bình phục, nhưng bằng tình yêu của mình, Thiện đã tận tình chạy chữa cho cô.
Chỉ một thời gian ngắn sau Loan đã về được trạng thái cũ. Hai vợ chồng trẻ sống bên nhau ấm êm, hạnh phúc. Nhưng có một điều đặc biệt là mãi về sau này, không bao giờ Loan đặt chân đến nhà hàng Trùng Dương lần nữa, dù nhiều năm trôi qua, nhà hàng Trùng Dương lại làm ăn phát đạt hẳn lên, và những chuyện ma quái không hay ngày trước đã thật sự lùi sâu vào dĩ vãng!
Thiện cũng chìu theo vợ, bởi vì dù sao, nhà hàng Trùng Dương cũng đã để lại trong ký ức hai người một kỷ niệm không vui!
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:43:33 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:11:57
ĐỨA CON
 
Cả xóm xôn xao bàn tán khi hay tin con bé Ty mới sáu tháng tuổi, con của chị Diễm qua đời. Mà phải nó đau bệnh gì cho cam, đằng này chính tay anh Thức, cha nó giết chết nó mới có chuyện để mọi người mổ xẻ mấy ngày nay.
Sự việc bắt đầu từ một chuyện không đâu. Hôm ấy, mới sáng sớm chị Diễm đã dọn dẹp nhà cửa tinh tươm, cho bé Ty ăn bột và đã pha sẵn một bình sữa ủ ấm để trên bàn.
Chị Diễm nói với chồng:
- Anh ở nhà trông chừng giùm con bé Ty, em sang nhà bác Bảy giúp một tay, bên ấy có giỗ.
Anh Thức cằn nhằn không, từ chối thẳng thừng:
- Cô có đi đâu thì ẵm nó theo! Tui là đàn ông con trai, đừng bắt tui làm mấy chuỵên của đàn bà con gái!
Chị Diễm nhìn chồng, mỉa mai:
- Anh nói nghe hay quá! Anh là đàn ông, anh làm được gì cho cái nhà này mà lên giọng? Đàn ông trên đời này không có trách nhiệm gì với con cái hết sao? Đi phụ đám giỗ mà kêu ẵm con nhỏ theo, như vậy ở nhà còn hơn!
Anh Thức khinh khỉnh:
- Vậy thì mời cô ở nhà! Tui đâu có khiến cô đi!
Chị Diễm tức giận:
- Sống kiểu như anh thì vô kẹt núi sống một mình đi! Bà con chòm xóm có chuyện gì mình qua giúp một tay, mai mốt tới nhà mình mới có người giúp lại chứ?
Anh Thức đập bàn quát lớn:
- A! Cô giỏi thật đấy! Cô dám trù ẻo hả? Nhà mình có gì là có gì? Phải chăng cô muốn tui chết lắm? Được rồi, cô muốn nhà này có đám tang chứ gì? Chống mắt lên mà coi!
Chị Diễm trào nước mắt:
- Không ngờ anh là người ăn nói quàng xiên như vậy! Thôi được rồi, anh muốn nói gì thì nói, cứ ở nhà nói một mình cho sướng miệng đi. Con bé Ty ngủ rồi, không cần anh trông coi nó, tui đi chút xíu tui về!
Nói xong, chị Diễm đi nhanh ra cửa, vừa đi vừa đưa tay lên quẹt nwosc mắt.
Chị với anh Thức thành chồng thành vợ không phải do hai người tự ý yêu thương mà là do mai mối.
Anh Thức quê ở tuốt dưới miệt Châu Đốc – Long Xuyên, cha mẹ không còn một mình trôi dạt về đây làm thuê làm mướn qua ngày kiếm sống. Chị Diễm cũng có hoàn cảnh tương tự. Nhưng chị hơn anh ở chỗ còn có được vài công đất và một mái nhà ọp ẹp để che nắng che mưa.
Thấy hai người có hoàn cảnh tương đồng, lại là người hiền lành, chăm chỉ làm ăn nên bà con chòm xóm vun vào, cuối cùng họ cũng có một bữa tiệc nhỏ để chính thức thành chồng thành vợ.
Hồi chưa lấy vợ, anh Thức rất được lòng chòm xóm vì cái nết hiền lành chất phác. Nhưng không hiểu sau, lấy vợ một thời gian anh lại thay đổi hẳn tính tình.
Mặc dù hai vợ chồng cũng vẫn nghèo khó, tay làm hàm nhai nhưng anh Thức lại trở nên kênh kiệu và xa lánh xóm giềng, anh cũng hay chê bai những công việc mà người ta thuê mướn. Do vậy, thời gian làm việc của anh dần dần giảm lại rất nhiều, suốt ngày hầu như anh chỉ ăn rồi rong ruổi chơi bời khắp nơi, bỏ mặc chị Diễm một mình lo trước lo sau.
Hai năm sau chị Diễm sinh bé Ty. Con bé bụ bẫm xinh tươi và dễ như cục đất. Đặt nó nằm chỗ nào là nó nằm im chỗ đấy, rất ít khi quấy khóc.
Bé Ty là nguồn vui bất tận của chị Diễm. Có nó, chị Diễm không còn biết những mệt nhọc hàng ngày. Và chị cũng hy vọng có con rồi anh Thức sẽ biết lo, sẽ cố gắng làm ăn.
Thế nhưng anh Thức thì vẫn chứng nào tật nấy. Chị Diễm khóc lóc, giận hờn hoài không được nên đành bỏ phế, coi như phải nuôi thêm một mịêng ăn trong nhà.
Thời gian gần đây, tính tình anh Thức lại càng trở nên khó chịu. Anh gia trưởng một cách cực đoan, những cuộc cãi vã giữa hai vợ chồng ngày càng thường xuyên hơn, mặc dù chị Diễm cũng đã cố nín nhịn, chỉ những khi không thể chịu đựng nỗi nữa chị mới phải tức nước vỡ bờ!
- Ổng dạo này giống như bị khùng vậy!
Đó là câu mà chị Diễm thường nói với chòm xóm mỗi khi có ai phàn nàn anh Thức điều gì, mà cũng là câu để chị tự an ủi bản thân mình.
Chị Diễm cự nự với chồng xong thì bỏ đi sang nhà hàng xóm. Mặc dù chị đã nói không cần nhờ anh trông con nữa, nhưng trong bụng chị vẫn đinh ninh khi chị đi rồi lẽ tất nhiên anh Thức phải có trách nhiệm với đứa bé.
Nhà bà Bảy cách nhà chị Diễm không xa, chỉ hơn hai trăm mét. Khi đi tới cửa nhà bà Bảy, chị Diễm cẩn thận dặn mấy đứa nhỏ đang chạy giỡn trước sân:
- Mấy đứa chơi ở đây có nghe bé Ty nhà cô khóc thì kêu giùm cô nghen!
Mấy đứa nhỏ dạ rân, chị Diễm yên tâm xăng xái đi xuống bếp giúp bà Bảy chuẩn bị thực phẩm làm đám giỗ.
Ngồi chưa bao lâu, tự nhiên chị Diễm cảm thấy nóng ruột vô cùng. Thấy đứa nhỏ đứng gần đó, chị gọi lại bảo:
- Con chạy tới cửa nhà cô, nghe coi em có khóc không con?
Đứa bé chạy đi, lát sau quay lại nói:
- Em không có khóc!
- Con thấy chú làm gì ở nhà?
Chị Diễm hỏi thêm.
- Dạ, chú đang ngồi uống nước trà.
Đứa bé trả lời rành rọt.
Chị Diễm yên tâm vừa làm vừa góp chuyện với các chị em trong bếp.
Gần một tiếng đồng hồ sau, chị Diễm thấy công việc cũng đã vơi bớt nên đứng lên đi về.
Vừa bước vô nhà, chị Diễm vội chạy ngay tới cái võng mà con bé đang ngủ nhưng không thấy nó đâu, cả anh Thức chị cũng không nhìn thấy.
Tự nhiên trong lòng chị Diễm như có điều gì bất an, mặc dù chị cố nghĩ rằng có lẽ đứa bé thức dậy và chồng chị đã bế nó đi đâu đó!
- Anh ơi! Anh!
Chị Diễm ra sau nhà gọi lớn nhưng không nghe anh Thức lên tiếng.
Chị lại đảo ra trước cổng đứng ngó dáo dác khắp nơi, không biết chồng mình bế bé Ty đi đâu mất.
Chị Diễm trở vô nhà, định lấy nón đội để đi dài dài trong xóm kiếm chồng con, nhưng chị thật bất ngờ thấy anh Thức đang nằm ngủ trong buồng. Chị hoảng hốt lay gọi anh Thức:
- Bé Ty đâu? Bé Ty đâu anh?
Anh Thức ú ớ mấy tiếng rồi càm ràm:
- Để yên cho người ta ngủ! Bực mình!
Chị Diễm nhéo vào chân anh Thức một cái thiệt đau và hét lớn:
- Con bé Ty đâu?
Anh Thức mở mắt ra ngó chị rồi cười mai mỉa:
- Cô giỏi lắm mà, cô đâu có cần tui trông chừng con! Cứ tự đi mà tìm nó, đừng hỏi tui!
Chị Diễm xuống nước:
- Anh làm ơn nói cho tui biết đi, anh giấu con nhỏ ở đâu? Tui van xin anh mà, anh làm ơn đi!
Anh Thức cười ha hả:
- Có vậy chứ! Đàn bà là phải vậy, đàn bà lúc nào cũng phải dưới quyền chồng…
- Con đâu anh? Chỉ cho em đi, giờ này chắc nó đói lắm rồi đó!
Chị Diễm cố gắng ngọt ngào.
Anh Thức cười cười:
- Không đói đâu, tui đã cho nó uống no say rồi, giờ nó ngủ ngon lắm rồi.
Chị Diễm nghi ngờ nhìn chồng:
- Nhưng nó đâu, anh chỉ cho em đi!
Anh Thức bẹo má vợ:
- Ngoan lắm! Phải chi lúc nào cô cũng hiền lành ngoan ngoãn như vầy có tốt hơn không? Thôi, để tui nói cho mà biết, nãy giờ tui dạy nó tập bơi, nó bơi giỏi lắm, trong lu nước sau nhà đó, ra mà coi, vui lắm!
Chị Diễm bủn rủn tay chân, há hốc mịêng nhìn chồng mà không nói được câu gì.
Đột nhiên chị như tỉnh lại, chị chạy ào ra sau hè, cúi đầu nhìn vào lu nước, thì trời ơi, cái áo màu đỏ của con bé đang bập bềnh trong đó.
- Á………….
Chị Diễm kêu thét lên một tiếng và ngã ra bất tỉnh.
Lúc chị tỉnh dậy thì xác con bé đã được mấy người hàng xóm vớt ra để nằm trên bộ ván giữa nhà.
Chị Diễm nhào tới bên cái xác bé bỏng của con mà vật vã kêu khóc. Anh Thức thì vẫn cứ ngồi rung đùi tủm tỉm cười hoài.
Những người hàng xóm vừa thương xót chị Diễm, vừa sợ hãi liếc nhìn anh thức. Họ không hiểu chuyện quái quỷ gì đã diễn ra trong căn nhà này. Tại sao một đứa bé mới mấy tháng tuổi lại có thể chết trong lu nước, nếu không có người cố tình bỏ nó vào trong đó? Tại sao trước cái chết của con mà anh Thức lại có vẻ vui sướng đến như vậy?
Người ta không dám hỏi han gì anh Thức, còn với chị Diễm thì càng không hỏi được gì. Chị đang hoảng loạn gần như phát điên, cứ một hai ôm xác con bé lên cho nó bú.
Mấy người lớn tuổi trong xóm vừa khóc vừa phải giằng lấy đứa bé trong tay chị:
- Nó đã chết rồi! Bây phải bình tĩnh lại mới được, Diễm à…
Nhưng làm sao chị Diễm có thể bình tĩnh được trước cái chết thảm của đứa con yêu quý. Chị lăn lộn, chị khóc ngằn ngặt mà không còn giọt nước mắt nào rơi ra được nữa.
Lúc công an đến nhà, chị Diễm vẫn chưa hoàn toàn tỉnh trí. Mọi người không ngớt lời động viên, khuyên nhủ, mấy chị trong hội phụ nữ địa phương cũng có mặt để chia sẻ nỗi đau quá lớn này cùng chị Diễm. Do đó chị đã có phần tỉnh trí.
Chị Diễm nhìn anh Thức bằng đôi mắt vô hồn:
- Chính anh ấy đã giết con bé!
Mọi người giật mình hoảng hốt khi nghe chị Diễm nói vậy.
- Chị bình tĩnh kể lại đầu đuôi câu chuyện cho chúng tôi biết. Tại sao chị lại khẳng định chồng chị đã giết chết đứa bé?
Một anh công an lên tiếng hỏi.
Chị Diễm oằn người một cái như cố đè nén cơn đau, rồi chị bắt đầu kể thật chậm rãi tất cả những gì diễn ra giữa vợ chồng chị từ sáng đến khi chị phát hiện ra xác đứa bé nằm trongl u nước sau nhà.
Trong lúc chị Diễm kể, anh Thức vẫn ngồi rung đùi một cách khoái trá. Những người có mặt ở đó nổi cả gai ốc khi chứng kiến sự việc. Người ta bắt đầu xầm xì bàn tán:
- Thằng Thức bị điên rồi, nhìn nó kìa, người bình thường nào lại như vậy?
Một người xen vào:
- Tui coi mòi thằng này hổng phải điên mà giống bị ma quỷ gì nhập vô quá! Mấy người nhìn cặp mắt nó coi, dễ sợ quá đi!
Trong lúc những người dân bàn tán không ngớt thì các anh công anh ghi lời khai của Diễm. Xong đâu đấy họ bắt đầu hỏi tới anh Thức.
- Xin anh cho biết, lúc chị Diễm đi rồi, chỉ còn mình anh ở nhà với đứa bé, đúng không?
- Đúng!
Mặt anh Thức vẫn nhơn nhơn.
- Anh đã làm gì đứa bé sau đó?
Anh công an hỏi tiếp
- Tui đâu có làm gì? Tui ngồi đây uống nước, nó thức dậy đòi tập bơi thì tui cho nó đi bơi, có làm gì nó đâu?
Cái cách trả lời tưng tửng của anh Thức làm mấy anh công an trở nên lúng túng. Sau khi hỏi thêm anh Thức một số câu nữa, công an quyết định mời anh Thức về trụ sở để chờ khám nghiệm thần kinh.
Đứng lên đi theo mấy người công an mà anh Thức hí hửng như được người ta long trọng mời đi đâu đó.
Cả xóm bu lấy nhà chị Diễm, vì thương cảm cho chị cũng có, vì tò mò cũng có, và vì đủ thứ chuyện trên đời nữa.
Cuối cùng rồi đứa bé cũng được đưa đi an táng bằng cái quách nhỏ xíu của chú Sáu thợ mộc ở gần đó thương tình đóng cho.
Từ lúc chôn đứa bé xong, chị Diễm gần như người ngớ ngẩn. Bà con chòm xóm thương tình thay phiên nhau chăm sóc và an ủi, đến gần một tháng mới thấy chị tạm nguôi ngoai.
Về phần anh Thức, kết quả khám nghiệm cho biết anh mắc một chứng bệnh gọi là tâm thần dạng hoang tưởng, nên đã được đưa đi nhà thương điên để điều trị. Ở nhà thương mới có hai ngày, anh Thức đã nhảy lầu chết tại chỗ.
Chị Diễm tiếp nhận tin đó một cách hờ hững như giữa chị và anh Thức chưa từng có mối dây liên hệ gì với nhau.
Đám tang anh Thức diễn ra một cách lạnh lẽo, chị Diễm không đội tang chồng, cũng không để rơi một giọt nước mắt. Chị giống như một hình nộm cứ đi đứng trong nhà nhưng vô can với mọi thứ.
Chị Diễm không hề nhắc tới bé Ty lẫn anh Thức, chị cũng không múôn nghe ai nhắc tới họ. Suốt ngày chị cặm cụi hết việc này đến việc khác và gần như kiệm lời đến mức tối đa. Ai nói gì chị cũng cười, nụ cười héo hắt.
Rồi bất ngờ một hôm người ta nghe tiếng chị Diễm hát vang trong nhà. Tò mò, mấy người hàng xóm lấp ló rình xem điều gì khiến chị phấn chấn đến như vậy. Nhưng hoàn toàn không có gì lạ, chị Diễm đang cầm chổi quét nhà, vừa quét vừa líu lo ca hát.
Nghe con dâu về kể lại sự việc bất thường đó, bà Bảy chắc lưỡi:
- Tội nghịêp con nhỏ, có khi nào nó buồn quá hóa điên không? Thôi, tao phải qua đó thăm nó mới được!
Bà Bảy với tay lấy khăn đội lên đầu rồi đi qua nhà chị Diễm.
Chị Diễm đang nấu cơm thì thấy bà Bảy vào, chị lễ phép mời:
- Bác Bảy ngồi chơi, con lỡ tay nấu nồi cơm chút.
Bà Bảy cười:
- Khách khứa gì đâu mà lo bây ơi, làm gì thì làm đi, tao ngồi đây được mà!
Vừa nói bà Bảy vừa tự nhiên ngồi lên chiếc võng gần bếp và kiếm chuyện nói với chị Diễm:
- Lúa nhà bây chừng nào cắt?
Chị Diễm vui vẻ trả lời tất cả những câu hỏi của bà Bảy về chuyện đồng áng, mùa màng. Trông chị lúc này không khác gì khi bé Ty còn sống. Trên gương mặt chị cũng vẫn rạng ngời một niềm hạnh phúc chứ không còn ủ rũ héo tàn như mấy ngày trước đây.
Nhìn chị Diễm, bà Bảy biết ngay có điều gì đó đã xảy ra với chị, nhưng bà không hiểu điều đó là điều gì?
- Thấy bây vui vẻ vậy tao cũng mừng!
Bà Bảy dò xét.
Chị Diễm vun tro vào dưới đáy nồi cơm rồi đứng lên đi gần lại bà Bảy rồi lót dép ngồi cạnh đó nói chuyện:
- Con biết rồi bác Bảy à, dù sao thì mình cũng phải sống, mà có vui mới sống nổi chứ, phải không bác Bảy?
- Ờ, bây nói đúng đó! Nhưng…
Bà Bảy nhìn chị Diễm chăm chăm.
Chị Diễm cười lớn:
- Bác Bảy đừng có lo, tại con đã ngộ ra được mọi việc rồi nên hổng còn buồn nữa chứ con không có tâm thần đâu mà bác Bảy sợ!
Bà Bảy nắm lấy bàn tay chị Diễm nói giọng thương cảm:
- Ừ, bác cũng chỉ mong sao con ổn định lại tinh thần, rồi mọi việc sẽ lại đâu vào đó thôi con ạ! Con còn trẻ, tương lai còn dài…
Chị Diễm lắc đầu:
- Con sẽ không lấy chồng lần nữa đâu bác Bảy ơi, đối với con như vậy là quá đủ rồi!
Bà Bảy xót xa:
- Bác hiểu nỗi đau mà con đang phải chịu đựng, nhưng theo thời gian nó sẽ vơi dần con à, rồi con sẽ mở lòng ra với cuộc đời thôi.
Chị Diễm không nói gì, chỉ mỉm cười với bà Bảy.
Ngồi nói chuỵên một lúc bà Bảy đứng lên cáo từ:
- Thôi bác về nghen, bây có rảnh thì chạy qua tao chơi, ở nhà một mình làm gì, buồn lắm!
Chị Diễm đứng lên tiễn bà Bảy ra sân.
- Dạ, rảnh con qua liền!
Chị Diễm vui vẻ nói.
Sự việc chị Diễm đột ngột vui vẻ bất thường cũng khiến chòm xóm xôn xao một dạo, người ta tò mò tiếp cận để tìm hiểu chị, nhưng dù có cố gắng cũng không ai nhận biết được sự thay đổi đó là do nguyên nhân gì. Riết rồi thôi, mọi người quen với điều đó, họ cũng không xăm soi bàn tán nữa. Chị Diễm được yên thân với thế giới nhỏ bé của mình, không sợ ai dòm ngó nữa.
Hàng ngày, sau mỗi lúc làm việc, chị Diễm thường đóng kín cửa và ở trong nhà. Ai hỏi thì chị nói dạo này chị nghiên cứu kinh phật, muốn được yên tịnh một mình để tụng niệm.
Mà quả thật, chị lên chùa thỉnh về rất nhiều sách kinh. Mặc dù hồi bé không được ăn học bao nhiêu, nhưng chị Diễm đọc chữ thông thạo lắm. Hồi chưa lấy chồng, chị chuyên là người đọc các cuốn tiểu thuyết tình cảm lâm li bi đát rồi kể lại cho đám bạn gái trong xóm nghe.
Cái xóm nhỏ mà chị Diễm sinh sống có một thói quen truyền đời. Hình như nhà ai cũng vậy, cứ vào khoảng bảy giờ tối là cửa đóng then cài, không còn ai lai vãng ngoài đường, trừ những trường hợp bất khả kháng như ốm đau, bệnh tật.
Cái lệ này nghe nói xuất phát từ một tai nạn đã giết đi hơn phân nửa dân trong xóm. Chuyện do truyền miệng nên không biết tính chính xác được bao nhiêu, nhưng ai cũng tin, cũng sợ, mà dù không tin họ cũng sợ và đề phòng cho chắc ăn.
Nghe kể rằng xưa kia làng này trù phú lắm. Người dân trong làng thường đỗ đạt rất cao vì có ông thành hoàng linh thiêng phò hộ. Người ta đã xây dựng một cái miếu rất to để thờ thành hoàng, cúng kiếng linh đình lắm.
Năm đó có một cặp trai gái yêu nhau thắm thiết nhưng bị gia đình ngăn cấm, vì hai gia đình có thù với nhau từ trước. Cặp trai gái đã khóc hết nước mắt van xin nhưng không được người lớn động lòng. Chính vì vậy, họ quyết tâm dâng hiến cho nhau trọn vẹn rồi cùng chết với nhau. Nhưng khổ thay, họ lại chọn miếu thành hoàng làm phòng hoa chúc!
Sau đêm đó, cặp trai gái kia không chết được nhưng họ lại mắc phải một căn bệnh quái ác, cả người nổi lên những nốt sần ngứa ngái không chịu nổi, gãi tới đâu là nước loang ra tới đấy, rồi thân người lở loét, đau đớn mà chết dần chết mòn.
Căn bệnh đó đã lây lan hơn nửa số dân trong làng, người chết như rạ, tiếng khóc than vang trời dậy đất.
Thành hoàng đã hiện ra và nói rõ nguyên do. Từ đó, dân làng cấm tiệt, không cho ai ra đường sau khi mặt trời lặn để tránh những điều tai hại tương tự như thế xảy ra.
Câu chuyện nghe như huyễn hoặc đó hiện nay cũng chẳng mấy ai tin, nhưng họ đã quen với nếp sống ấy rồi, tối đến là ở rịt trong nhà khong đi đâu hết.
Một đêm, cô con dâu nhà bà Bảy đau bụng đẻ. Anh chồng quýnh quáng chạy đi mời bà mụ tới lo cho vợ, gấp rút tới nỗi không kịp đốt đèn đốt đuốc gì mà cứ chạy thầm trong bóng đêm như vậy.
Khi đi ngang qua nhà chị Diễm, bất ngờ anh chồng phải đứng sững lại vì anh thấy rõ ràng trong khoảng sân nhỏ trước nhà, chị Diễm đang nô đùa với một đứa bé con.
- Có lẽ chị ấy rủ con cái nhà ai về ngủ cho vui!
Nghĩ vậy nên anh chồng không quan tâm nữa mà mải miết lo đi tìm mụ cho vợ.
Mấy ngày sau, trong lúc ngồi nựng đứa con đỏ hỏn, người chồng vô tình nói:
- Tội nghiệp chị Diễm, sống một mình chắc buồn không chịu nổi nên phải mượn con người ta về ngủ với mình.
Bà Bảy và cô con dâu giương mắt ngó anh ngạc nhiên.
Bà Bảy hỏi:
- Mầy nói con Diễm làm sao?
Anh con trai cười ngất:
- À… cái đêm con đi rước bà mụ, ngang qua nhà chị Diễm thấy chị chơi đùa với đứa nhỏ nào đó, vui vẻ lắm!
Chị vợ nhăn trán nghĩ ngợi:
- Đứa nhỏ nào ta? Có ai dám cho con mình tới đó ngủ qua đêm đâu? Nhà mới có hai người chết một lúc mà?
Bà Bảy cũng đồng tình:
- Phải rồi, tao có nghe xóm này ai có con nhỏ mà cho tới đó ngủ với nó đâu? Vả lại nó cũng đâu có thân thiết với đứa nhỏ nào trong xóm? Mầy có thấy rõ không đó?
Anh con trai gật đầu quả quyết:
- Thiệt mà! Chính mắt con trông thấy rõ ràng! Mới đầu con hết hồn, nhưng sau đó con nghĩ vậy nên không quan tâm nữa!
Bà Bảy ngồi thừ ra một lúc rồi nói:
- Dạo này tao thấy con Diễm có cái gì đó kỳ lắm! Hỏi thì nó nói không có gì, nhưng tao linh cảm được chuyện không hay. Tao với nó tuy không có bà con thân thuộc gì, chỉ là bạn thân với má nó ngày xưa. Nhưng trước khi nhắm mắt, má nó đã có lời gởi gắm nó cho tao, nhờ tao để mắt trông nom nó, tao đã nhận lời nên cũng thấy mình có trách nhiệm.
Bà Bảy tư lự một chút rồi nói tiếp:
- Chắc tao phải để ý theo dõi, trước mắt là dọ hỏi cho ra đứa bé nào ở với nó ban đêm.
Anh con trai cười cười:
- Con thấy má nên kiếm ông nào được được, rồi gả chị Diễm cho ổng như vậy khỏe hơn đó má!
Bà Bảy mắng yêu con trai:
- Mầy cứ hay nói xàm, chồng con nó mới chết, mồ chưa xanh cỏ mà gả với bán gì mậy!
Anh con trai cười hê hê rồi bế đứa bé lên hôn lấy hôn để.
Bà Bảy mỉm cười trước niềm hạnh phúc của dâu con.
Ngay chiều hôm đó bà Bảy đi lân la khắp xóm để dọ hỏi về chuyện đứa bé. Chập tối bà quay về nhà, kêu anh con trai tới hỏi lại lần nữa:
- Mầy thấy rõ con Diễm đùa giỡn với đứa nhỏ hả con?
- Dạ, con thấy rất rõ mà!
Anh con trai gật đầu quả quyết.
- Vậy là kỳ thiệt, má đã đi hỏi thăm khắp xóm rồi, nhà nào có con nhỏ cũng sợ cái huông nên đâu dám cho tới ở nhà con Diễm. Chắc có chuyện gì rồi!
Bà Bảy đăm chiêu nói.
Anh con trai lo lắng:
- Má thân cận với chị Diễm, đâu má làm bộ lân la qua đó chơi dò xét thử xem sao!
- Ờ, con tính vậy cũng đúng! Ngày mai má sẽ giả bộ qua đó mượn kinh rồi nhờ nó giảng kinh.
Bà Bảy nói.
Đêm đó bà Bảy không sao ngủ được. Bà với chị Diễm không máu mủ ruột rà, nhưng bà thương Diễm lắm, từ hồi nó còn nhỏ cho tới tận bây giờ cũng vậy.
Sáng hôm sau cơm nước xong, bà Bảy đi qua nhà chị Diễm.
Diễm đang trồng cải sau vườn, thấy bà Bảy qua chơi, chị đon đả:
- Bác Bảy tới chơi!
Vừa nói, chị Diễm vừa đứng lên phủi tay nhưng bà Bảy đã khoát tay:
- Thôi, bây làm gì cứ làm đi, tao buồn nên qua mượn cuốn kinh đọc một chút, khách khứa gì mà lo tiếp, con!
Chị Diễm cười tươi:
- Bá  Bảy đọc kinh nữa ha?
- Đọc chớ bây! Tao thích lắm chớ, chỉ tại bận bịu chồng con riết rồi không có thời gian, thấy bây khoe có nhiều kinh hay tao nôn nóng lắm. Để kinh đâu tao mượn coi, bây khỏi vô chi cho mắc công.
Bà Bảy cười nói.
Chị Diễm lau mồ hôi trán:
- Dạ thôi, để con vô lấy cho, để tuốt trên đầu tủ, bác Bảy không lấy tới đâu!
Chị Diễm đi vào nhà, bà Bảy theo sát sau lưng.
Lâu lắm rồi, từ ngày anh Thức chết đến nay bà Bảy mới bước lên nhà trên của chị Diễm. Vì từ ngày ấy, nhà chị hầu như lúc nào cũng đóng cửa trên chỉ mở cửa nhà dưới mà thôi.
Lên nhà trên, bà Bảy đưa mắt nhìn khắp nơi. Căn nhà âm u vì tất cả các cánh cửa đều đóng kín nhưng không hề hôi mùi ẩm mốc hgoặc bụi bặm dơ bẩn, chứng tỏ chị Diễm vẫn thường xuyên quét dọn tươm tất.
Trên chiếc giường kê trong góc nhà, chỗ ngày trước mẹ con chị Diễm ngủ, mền gối được xếp rất ngăn nắp, nhưng ở giữa giường lại có mấy thứ đồ chơi của con nít để đó, và lạ lùng hơn là trên chiếc võng kế bên có một con búp bê rất to đang nằm trên đó!
Tim bà Bảy đập thình thịch, nhưng bà vẫn cố bình thản hỏi:
- Trời đất! Bây mua con búp bê lớn dữ vậy, Diễm? Bây lớn đầu rồi mà còn chơi thứ đó hay sao?
- Dạ, hồi đó con mua tính để dành cho bé Ty chơi. Giờ nhớ nó, thỉnh thoảng con lại lấy ra chơi cho đỡ nhớ vậy mà!
Chị Diễm đáp.
Bà Bảy chợt xót xa khi nghe Diễm nói.
Diễm lấy cuốn kinh xuống đưa cho bà Bảy:
- Cuốn này hay lắm, bác đem về đọc đi, đọc hết qua lấy cuốn khác.
- Ờ, bác cám ơn nghen! Thôi, bây làm gì làm đi, tao về!
Bà Bảy nói.
- Dạ, bác Bảy về!
Chị Diễm đưa bà Bảy ra sân rồi tiếp tục công việc trồng cải của mình.
Bà Bảy về tới nhà, vội kêu con trai lại nói:
- Má biết rồi mầy ơi! Có con nít nào đâu, tại nó nhớ con nó quá nên chơi với búp bê đó mà! Má thấy trong nhà nó có con búp bê bự lắm, cỡ đứa con nít sáu bảy tuổi lận! Con nhỏ này tiện tặn vậy mà dám bỏ tiền ra mua con búp bê lớn chừng ấy mới biết nó thương con cỡ nào!
Anh con trai nghe bà Bảy nói vậy, cố nhíu mày nghĩ một lúc rồi nói:
- Hổng phải đâu má ơi, hôm đó con thấy rõ ràng đứa nhỏ chạy bị vấp té, nhưng nó vừa khụy xuống thì chị Diễm tới đỡ rồi hai người cười vang, con có nghe tiếng cười của đứa nhỏ nữa mà!
- Thôi đi ông ơi! Ông đừng có trông gà hóa cuốc rồi nhát người ta!
Bà Bảy cười trách con.
- Tức quá! Con sẽ để ý chuyện này mới được!
Anh con trai càu nhàu.
- Ờ, mầy ráng tìm cho ra đứa nhỏ đó nghen!
Bà Bảy cười chế giễu.
Mọi việc lại bình thản trôi qua, nhưng chỉ khoảng hai tháng sau đó, người ta lại râm ran đồn thổi những chuyện lạ lùng, rằng chị Diễm đi chợ thường mua áo quần cho bé gái, mua đồ chơi và cả thức ăn mà trẻ con thường thích nữa. Ai hỏi chị mua làm gì, chị chỉ cười cười mà không nói.
Những kẻ ác mồm ác miệng thì bảo chị Diễm bị ma ám, nhưng những người biết cảm thông hơn thì nói:
- Chắc tại nó nhớ con quá nên mua về để nhìn mà tưởng tượng vậy mà!
Mặc kệ người khác đoán già đoán non, chị Diễm vẫn cứ vui vẻ làm việc, vui vẻ với cuộc sống riêng tư của mình. Anh con trai nhà bà Bảy mặc dù cũng đã để tâm dò xét nhưng rồi cuối cùng cũng phải nhìn nhận chắc tối hôm đó mình đã trông lầm.
Một buổi trưa hè nóng nực, bà Bảy không ngủ được nến nói với con dâu:
- Má qua bên con Diễm chơi với nó nghen!
- Dạ, lúc này má mê đàm đạo chuyện kinh kệ với chị Diễm dữ nha!
Cô con dâu cười cười.
Bà Bảy nói:
- Ờ, già rồi, tìm vui vậy thôi con ơi!
Nói xong bà Bảy đi thẳng ra ngõ.
Cổng nhà diễm không có khóa nhưng thường khép kín. Bà Bảy nhẹ nhàng đẩy cổng đi vào, thẳng luôn xuống nhà bếp vì nhà trên cửa vẫn đóng kín.
Không thấy Diễm, bà Bảy vừa định cất tiếng gọi thì bỗng nghe tiếng Diễm nói nựng:
- Con gái ngoan, ngồi dậy cho mẹ mặc áo đẹp vô nè! Đừng có nhõng nhẽo, mẹ không thương, mẹ đánh đòn đó nghe chưa!
Bà Bảy chưa kịp giật mình thì nghe tiếng trẻ con:
- Con không thích mặc áo này… Con muốn mẹ dẫn con ra ngoài chơi… con muốn đi chơi…
Tiếng Diễm dỗ dành:
- Con nghe lời mẹ rồi mẹ thương, tối mẹ sẽ dẫn con đi, ban ngày mẹ con mình không ra đó được đâu con…
Rồi hình như đứa bé đã chịu ngồi dậy theo lời mẹ nó nên bà Bảy chỉ nghe tiếng hai người cười nho nhỏ với nhau mà thôi.
Mồ hôi bà tuôn dầm đề, bà Bảy hoảng sợ vội đi thụt lùi ra cửa, cố gắng không phát ra tiếng động vì sợ Diễm biết sự có mặt của bà.
- Ủa, má! Gì vậy má? Sao mặt mày má xanh lè thấy ghê vậy?
Anh con trai vừa trông thấy bà Bảy đã kêu lên.
Bà Bảy ngồi phịch xuống thềm nhà thở hổn hển:
- Trời ơi… khủng khiếp! Khủng khiếp quá đi…
- Chuyện gì mà khủng khiếp vậy má?
Anh con trai lo lắng ngồi xuống cạnh mẹ.
Bà Bảy run giọng kể:
- Con biết không, lúc nãy má qua nhà con Diễm, nghe nó nói chuyện với con nó!
Anh con trai cười ngất:
- Thì má vẫn thường nói với con, là chị Diễm nhớ thương con quá nên tưởng tượng ra rồi nói chuyện, đùa giỡn một mình, sao giờ má sợ dữ vậy?
Bà Bảy lắc đầu:
- Không! Không phải… má sợ là vì… má nghe rõ ràng có tiếng con nít gọi nó bằng mẹ!
Anh con trai trợn mắt:
- Má nói chơi hay nói giỡn vậy? Giữa ban ngày ban mặt má tính nhát con hả?
- Không đâu, má nói thiệt mà! Tim má còn đập thình thình đây nè!
Nghe mẹ nói nghiêm chỉnh, anh con trai không cười nữa mà nhìn bà Bảy lom lom:
- Trời, thiệt vậy sao? Lần đó con thấy, giờ tới má nghe?
- Ừ, lâu nay má không tin nhưng giờ má tin rồi, má biết chắc trong nhà con Diễm có ma!
Bà Bảy khẳng định.
- Bây giờ mình tính sao má?
Anh con trai lo lắng hỏi.
Bà Bảy rầu rĩ:
- Bỏ mặc nó thì má không nỡ, còn không thì biết làm sao đây?
Anh con trai ngồi im một lúc rồi khẽ kêu lên:
- Hay là… hôm nào má làm bộ rủ chị Diễm đi đâu đó, con sẽ lén vô nhà chỉ để nắm rõ mọi việc rồi mình tính tiếp?
Bà Bảy nhìn con trai nghi ngờ:
- Con dám sao? Không sợ ma sao?
Anh con trai mỉm cười:
- Không phải con không sợ, nhưng má nhớ anh Bảo bạn con không? Anh ấy học nghề thầy pháp, con sẽ rủ anh đi thì không sợ nữa!
Bà Bảy suy nghĩ một lát rồi nói:
- Ờ, vậy để ngày mốt, ngày mốt là ngày rằm, má sẽ nhờ con Diễm dắt lên ngôi chùa mà nó hay tới để nói chuyện với các sư ở đó. Nhân cơ hội ấy con rủ bạn vô nhà nó nghen? Nhưng khoan đã, để má hỏi ý nó trước, coi nó có đi được hay không.
- Dạ!
Chiều hôm dó, bà Bảy tuy rất sợ nhưng vẫn cố gắng bình tĩnh đi ngang qua nhà Diễm, thấy Diễm đang quét sân, bà Bảy dừng lại nói chuyện:
- Ngày mốt bây có đi cúng chùa không?
- Dạ có chứ bác! Bác đi không, đi với con cho vui?
Diễm vui vẻ nói.
Bà Bảy gật gù:
- Ờ, bác cũng có nhiều câu hỏi muốn được hòa thượng trên chùa giải thích giúp về luật nhân quả của nhà Phật. Nếu tiện thì hôm đó con dắt bác Bảy lên đó nghen!
Diễm mau mắn:
- Dạ, con sẽ đi với bác!
Sáng sớm ngày rằm, bà Bảy đã soạn sẵn nhang đèn, hoa quả tới rủ chị Diễm đi chùa. Trong khi đó, Phi, con trai của bà Bảy đã hẹn với Bảo, người bạn học nghề pháp sư đi qua nhà chị Diễm để điều tra.
Nhà chị Diễm cũng giống như nhiều nhà khác trong xóm, cửa chỉ đóng vạy thôi chớ thật ra không có khóa, vì trong nhà cũng chẳng có của cải gì mà sợ kẻ trộm ra vào.
Không chút khó khăn, Phi và Bảo đã vào được bên trong ngôi nhà của chị Diễm. Hai người còn đang loay hoay thì nghe có tiếng trẻ con:
- Ai đó? Ai vô nhà tui đó?
Phi bất chợt nổi da gà, nhưng Bảo vẫn tỉnh bơ:
- Mấy cậu tới chơi, cháu đang làm gì vậy? Mẹ đâu cháu?
- Cháu đang chơi đồ hàng, mấy cậu chơi với cháu đi, mẹ đi vắng rồi! Cháu buồn quá…
Đứa bé trả lời nhưng cả Bảo và Phi đều chưa nhận biết nó đang ở chỗ nào.
- Cháu đâu rồi?
Bảo hỏi.
- Cháu đây, mấy cậu lên đây chơi với cháu đi!
Lần theo giọng nói của đứa bé, Bảo di dần lên nhà trên, Phi bám sát theo sau lưng Bảo.
Vừa đặt chân lên đến nhà trên, Bảo và Phi bất chợt khựng lại vì thấy trên giường một con búp bê to lớn đang ngồi cầm mấy thứ đồ chơi trẻ con.
Phi rất muốn thụt lùi trở lại nhưng Bảo đã nắm tay anh lôi tới trước.
Bảo nhìn con búp bê rồi hỏi:
- Cháu tên gì vậy?
Búp bê ngước lên nhìn Bảo, đôi mắt nó dường như sinh động hẳn lên:
- Mẹ gọi con là bé Ty!
- Nhưng con có phải là bé Ty không?
Bảo lại hỏi tiếp
Búp bê lắc đầu:
- Con hổng biết! Trước đó nữa thì con biết con tên là bé Mai.
- Làm sao con quen với mẹ Diễm?
Bảo ngồi gần búp bê, hỏi.
- Mẹ Diễm vô nghĩa địa chơi gặp con trong đó, mẹ hỏi có muốn về sống với mẹ không, con mừng quá nên theo mẹ về đây!
Bảo gật gù:
- A, cậu hiểu rồi!
- Cậu chơi với cháu đi!
Búp bê nài nỉ, nó ngước nhìn Bảo rồi nhìn Phi:
- Cả hai cậu nhé? Cháu buồn lắm, cháu thích được đi chơi nhưng mẹ không chịu…
- Ờ, để cậu đi mua kẹo cho cháu nghen, mua kẹo rồi cậu trở lại chơi với cháu!
Bảo đứng lên nói.
- Cậu nói thiệt nghen?
Búp bê hỏi.
Bảo cười:
- Thiệt chứ! Cháu chơi một mình đi, lát nữa hai cậu về chơi với cháu mà!
Nói xong, Bảo kéo tôi đi nhanh ra ngoài.
Vừa ra tới cổng, Bảo thở dài và nói:
- Không hay rồi! Có lẽ cô Diễm vì quá nhớ thương con nên đã rủ rê vong hồn đứa bé này về nhập vô xác con búp bê. Bây giờ thì không sao, vì thật ra con bé này chưa có tí ma lực nào, chỉ là một linh hồn vậy thôi. Nhưng nếu nó được nuôi dưỡng theo cách này thì không lâu sau nó sẽ trở thành một loài quỷ dữ mà khó ai có thể khống chế được.
Phi hoảng hốt:
- Vậy mình phải làm gì bây giờ hả anh Bảo?
Bảo trầm ngâm một lúc rồi đáp:
- Phải giết đứa bé đó! Nhưng nếu mình làm vậy, cô Diễm sẽ lại đau đớn lần nữa, y như con gái cổ chết lần hai vậy mà… thật tình anh không nỡ! Nhưng nếu không làm vậy thì cả làng cả xóm sẽ bị họa lây…
- Có thể nào mình giải thích cho chị Diễm hiểu được không anh?
Phi hồi hộp hỏi
Bảo lắc đầu:
- Chắc Diễm sẽ không chịu hiểu đâu! Bây giờ đối với cô ấy đứa bé này là quan trọng nhất rồi mà!
Phi thở dài rồi chợt nói:
- Anh Bảo nè, anh cứ trục xuất cái hồn ma trong thân thể của con búp bê kia, chừng về nhà, chị Diễm sẽ không biết có người nhúng tay vào mà tưởng là đứa bé tự ý bỏ đi, chị sẽ đỡ đau đớn hơn không?
Bảo lắc đầu:
- Không được! Đứa bé đó không hề có ý định rời bỏ chị Diễm, cho nên nếu con búp bê còn tồn tại là không sao đuổi nó đi được. Chỉ có một cách là phá hủy con búp bê đó thôi… Nhưng nếu làm vậy chắc chắn cô Diễm sẽ rất đau lòng…
Phi nói:
- Hay mình về bàn lại với mấy người lớn tuổi trong xóm rồi hãy quyết định, nghen anh Bảo?
Bảo gật đầu:
- Em nói đúng, mình cần cân nhắc kỹ trước hoàn cảnh này!
Và ngay tối hôm đó một cuộc họp kín giữa các ông bà lớn tuổi trong làng được triệu tập khẩn trương. Bảo đã đứng ra phân tích tình hình một cách hết sức rõ ràng. Mọi người ai cũng hoang mang lo sợ, nhưng đồng thời ai cũng cảm thương cho cảnh nhà chị Diễm.
Cuối cùng, sau một hồi bàn bạc, một ông lão nói:
- Mình có thương con Diễm đến đâu thì cũng phải lo cho vận mệnh của cả làng, không thể vì một mình nó mà để yêu quái sống lẫn với người ta được. Để vậy, bản thân con Diễm cũng sẽ phải cịhu hậu quả không hay. Quyết định đi, trục xuất con ma đó đi!
Tất cả mọi người đều hưởng ứng.
Sáng hôm sau, chị Diễm bất ngờ khi tháy một đoàn người kéo đến nhà mình, trong đó có cả bà Bảy, người hàng xóm thân tình nhất với chị.
- Bác Bảy… chuyện… chuỵên gì vậy bác Bảy?
Chị Diễm lắp bắp hỏi, linh tính báo có điều không tốt sắp xảy ra.
Mặc dù chị Diễm chưa kịp cất tiếng mời, nhưng cả đoàn người đã tiến vào nhà dưới của chị.
Bà Bảy kéo chị Diễm ngồi xuống bộ ván và nói với giọng nghẹn ngào:
- Diễm à, bác và bà con ở đây ai cũng thương yêu cháu, điều đó chắc cháu cũng biết mà, đúng không? Trước cái chết thương tâm của bé Ty, bà con ai cũng đau lòng… Nhưng Diễm à, con còn trẻ, rồi con còn lấy chồng và sinh ra những đứa con khác nữa… Tội lệ gì con phải sống như vậy?
Có lẽ đã đoán dược điều bà Bảy muốn đề cập tới, chị Diễm xanh mặt đứng phắt dậy với vẻ tự vệ. Chị run giọng:
- Bác Bảy ơi, bà con ơi… xin hãy để con yên…
Nước mắt chị rơi lả chã, chị lùi dần lên nhà trên, mấy người dân trong làng cũng tiến lên theo chị. Bảo di lẫn trong đám người nhìn chị Diễm đầy vẻ thương cảm.
Eân tới nhà trên, chị Diễm chạy ào tới ôm con búp bê vào lòng như sợ mát nó. Con búp bê ngước nhìn chị hỏi:
- Mẹ ơi, ai tới nhà mình đông quá vậy mẹ?
Rồi bất chợt nó reo lên khi trông thấy Bảo và Phi:
- A, có cả hai cậu! Hai cậu giữ lời hứa tới chơi với cháu đó hả?
Phi bối rối nhìn sang Bảo, Bảo cúi gằm mặt như người có lỗi.
Bà Bảy tiến đến nắm tay Diễm:
- Con để con búp bê xuống đi, ra ngoài này nói chuyện!
Chị Diễm liếc nhìn mọi người và se sẽ đặt con búp bê trở xuống giường.
Nhanh như cắt, hai anh thanh niên lực lưỡng trong làng đã được sự phân công, nhào tới giữ chặt chị Diễm.
Bảo lách người ra khỏi đám đông, chạy ào tới dán một lá bùa lên giữa trán con búp bê.
- Á… Mẹ ơi… cứu con với…!!!
Tiếng trẻ con thét kinh hoàng làm tất cả mọi người đều sởn gai ốc. Chị Diễm vùng vẫy:
- Trời ơi… đừng làm hại con tôi… đừng giết con tôi…
Sức mạnh của một người mẹ trỗi dậy khiến chị hất văng cả hai thanh niên lực lưỡng sang một bên, chị nhào tới định ôm lấy con búp bê, nhưng khi hai tay chị vừa chìa ra, chưa kịp chạm tới nó thì con búp bê dần dần rời rã rã từng bộ phận, trong thân nó một dòng máu đỏ tuôn ra…
- Trời ơi! Các người đã giết chết bé Ty của tôi rồi!
Chị Diễm gào lên rồi khuỵu xuống đất bất tĩnh.
Bảo căn dặn mọi người thu xác con búp bê lại đem ra chôn ngoài nghĩa địa giống như chôn cất một đứa trẻ đàng hoàng. Sau đó Bảo bế chị Diễm lên giường rồi đứng nhìn, hai hàng nước mắt lăn dài trên gò má Bảo…
 
***
Ba năm sau.
Căn nhà chị Diễm rộn rã tiếng cười. Chị Diễm đã sinh được một đứa bé trai hết sức kháu khỉnh, giờ đây nó vừa lẫm chẫm bước đi.
Chồng chị Diễm không ai khác mà chính là Bảo.
Sau lần đó, Bảo cứ ân hận vì mình đem đến đau buồn cho chị Diễm nên anh thường xuyên tới lui an ủi, chăm sóc. Dần dần tình cảm giữa hai người nảy nở.
Được sự vun vào của bà con chòm xóm, nhất là của bà Bảy và vợ chồng Phi, chị Diễm đồng ý làm vợ Bảo.
Từ ngày cưới chị Diễm, Bảo thôi không hành nghề thầy pháp nữa mà ở nhà chí thú làm ruộng làm vườn, quây quần bên vợ bên con.
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:44:41 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:13:39
BÓNG NGƯỜI TRONG ĐÊM
 
Khi chiếc xe đò vào tới bến cũng là lúc trời chạng vạng tối. Suốt một ngày trời say xe nhừ tử, giờ đây tôi trở nên bèo nhèo, nhừ tử như dúm giẻ rách. Cố lôi chiếc va-li xuống xe, tôi lui vào sát hàng rào đứng thở dốc cho đỡ mệt. Cái bao tử trống rỗng sau khi đã nôn thốc nôn tháo tất cả những gì chứa trong đó, giờ đây đang co thắt từng cơn khiến tôi phải khom người xuống để đè nén bớt cơn đau.
Nhiều lúc tôi tự hỏi, không biết hồi kiếp trước tôi đã ăn ở thất nhơn ác đức ra sao mà kiếp này tôi phải chịu đựng quá nhiều điều khổ ải. Đồng thời là con gái, mỗi tháng mấy ngày hành kinh, người khác vẫn bình thường còn tôi thì đau bụng lăn lộn, không ăn uống được bất cứ thứ gì trong những ngày đó. Lên xe, mọi người vẫn cười vui, ăn uống thoải mái, tôi lại nôn hết mật xanh đến mật vàng… và còn nhiều những điều tệ hại khác nữa. Nói chung tôi là một kẻ luôn phải hứng chịu những khổ sở, đau đớn của kiếp con người.
Trầy trật lắm tôi mới được cùng người yêu đứng bên nhau trước bàn thờ gia tiên để làm lễ tơ hồng. Tưởng vậy là hạnh phúc. Ai có ngờ đâu, chỉ sau hơn ba tháng sống đời chồng vợ, người tôi yêu thương suốt bốn năm ròng đã rời bỏ tôi để đi theo người con gái khác.
Buồn đau, thất vọng, chán chường… có lúc tôi nghĩ mình không còn sức để tiếp tục sống nốt quãng đời còn lại trên thế gian này. Nhưng rồi tôi cũng không thể chết được! Cái cảnh dở sống dở chết làm tôi điêu đứng. Và cuối cùng tôi đã quyết tâm đứng thẳng người lên, đối mặt với những thử thách mà ông trời giáng xuống cho cuộc đời tôi.
Tôi ghi tên xung phong nhận công tác ở một nơi heo hút cách xa trung tâm thành phố hơn một trăm cây số.
Tất cả đồng nghiệp đều bất ngờ khi biết tôi có quyết định lạ lùng như vậy.
Trong khi rất nhiều người cố sống cố chết, dùng đủ mọi biện pháp, thậm chí mọi thủ đoạn để được về giảng dạy ở tại thành phố đầy đủ tiện nghi, thì tôi, một giáo viên nhiều năm liền đạt được những thành tích cao nhất trong giảng dạy, được rất nhiều ngôi trường tên tuổi trong thành phố mời thỉnh giảng lại chọn nơi thâm sơn cùng cốc để xin về.
Gọi là nơi “thâm sơn cùng cốc” thì cũng hơi quá đáng. Đó chỉ là một huyện nghèo ở vùng sâu, dân cư thưa thớt và các phương tiện hiện đại cũng không nhiều.
Khi chuẩn bị hành lý về đây, tôi đã cắn răng vứt bỏ cả chiếc điện thoại di động, phương tiện liên lạc nhanh nhất mà đáng ra tôi sẽ rất cần khi về nơi hẻo lánh.
Tôi bỏ nó như muốn đoạn tuyệt với quá khứ, với những cuộc gọi, những tin nhắn hẹn hò yêu dấu năm xưa… Tôi đã quyết tâm gột bỏ tất cả để làm lại từ đầu.
Và giờ đây, tôi đã đặt chân tới vùng đất xa lạ, đìu hiu vắng vẻ này rồi!
Mặt trời sắp lặn, ở phía chân trời còn một đám mây đỏ rực cố níu lấy trần gian, nhưng chỉ lát nữa thôi bóng tối sẽ bao trùm vạn vật.
Tôi kéo chiếc va-li ra cổng bến xe, mắt ngó dáo dác mong thấy một anh xe ôm nào đó nhưng tuyệt nhiên không thấy bóng người nào.
Dừng chân trước một chiếc xe nước mía cũ kỹ, người bán nước mía cũng không đon đã chào mời, chỉ ngước mắt nhìn tôi dò hỏi.
Tôi cố mỉm cười, hỏi:
- Chị ơi, từ đây vô tới trường Trung học X còn xa không chị?
Người bán nước mía nhìn tôi lom lom một lúc rồi nói:
- Xa lắm! Hơn hai cây số lận, cô đi bộ nổi không?
Tôi ngán ngẫm nhìn con đường gồ ghề trước mắt.
- Ở đây không có xe ôm sao chị?
Người bán hàng nói chậm rãi:
- Trước kia cũng có mấy chiếc, nhưng rồi làm ăn không được, vì không mấy người có tiền đi xe ôm, dân ở đây toàn đi xe đạp hoặc cuốc bộ thôi, nên họ dẹp luôn, kiếm nghề khác  làm ăn!
Tôi thở dài:
- Cám ơn chị!
Nói xong, tôi cúi xuống kéo va-li đi tiếp.
Chừng như cám cảnh trước dáng vẻ của tôi, chị chủ hàng gọi lại:
- Cô… cô gì ơi! Đứng đó đi, để tôi kêu thằng nhỏ lấy xe đạp đưa cô vô trường, đi bộ xa lắm!
Mừng như bắt được vàng, tôi vội đứng lại nhìn chị chờ đợi.
Chị quay vào trong gọi lớn:
- Tí à, Tí! Ra má biểu chút con!
Một đứa con trai chừng mười sáu, mười bảy tuổi, thân hình ốm nhom, cao nhồng đi từ dưới nhà lên:
- Má kêu con chi vậy má?
Chị bán hàng nhìn về chỗ tôi, hất hàm nói với con trai:
- Con vô lấy xe đưa giùm cô giáo về trường đi! Biết đâu cô dạy lớp con cũng nên đó!
Cậu bé nhoẻn miệng cười chào tôi:
- Dạ, cô chờ em chút nghen! Cô mới đổi về hả cô?
Tôi cười, gật đầu:
- Ừ, cô mới chuyển về!
Chỉ một lát sau, cậu nhỏ đã dẫn chiếc xe đạp cũ kỹ ra, tươi cười nói:
- Cô lên xe, em chở!
Tôi hơi bối rối, đề nghị:
- Hay… em ngồi sau xách va-li giùm cô, để cô chở cho!
Chừng như hiểu được những ý nghĩ trong đầu tôi, chị bán hàng bật cười:
- Cô đừng coi thường nó nghen! Coi vậy mà khỏe lắm, cô cứ lên ngồi cho em nó chở, không có sao đâu!
Tôi cười, gật đầu chào chị bán hàng rồi ngồi lên xe.
Thằng bé khỏe thật. Đường đá gồ ghề như thế mà nó cứ đạp xe phăng phăng, vừa đạp xe vừa hỏi đủ thứ chuyện:
- Cô ơi, cô dạy môn gì vậy cô?
Tôi cười, trả lời:
- Cô dạy Văn.
Thằng bé nói tiếp:
- Em đang học lớp mười một, hồi lúc trước bệnh một trận quá cỡ, tưởng đâu nghỉ học luôn rồi chớ, nhưng má thương em quá, tìm hết mọi cách em mới được đi học lại đó cô!
Tôi chưa kịp nói gì thì thằng bé lại hỏi:
- Cô dạy Văn lớp mấy vậy cô? Cô có dạy lớp em không?
Dù trong người rất mệt, nhưng tôi không thể không thể trả lời đứa bé tốt bụng và vui tính này. Tôi nói:
- Cô cũng chưa biết em à! Tùy sự phân công của nhà trường thôi mà!
- À, có vậy mà em cũng không biết! Em dở thiệt, cô há? Mà… về đây cô sống ở đâu vậy cô?
Thằng bé lại liến thoắng.
Tôi cười:
- Hôm rồi cô nghe nhà trường nói sẽ sắp xếp cho cô ở một phòng ngay trong khuôn viên trường. Nghe đâu phòng đó trước là lớp học, nay bỏ trống nên họ tạm thời bố trí cho cô ở đó!
Tôi vừa nói xong thằng bé reo lên:
- A, em biết căn phòng đó rồi, trước kia em cũng học ở phòng đó! Vậy mai mốt em tới chơi với cô mỗi ngày, được không cô?
Tôi cười:
- Được chứ em, cô sẽ rất vui!
Thằng bé ngoái lại nhìn tôi:
- Cô nói thiệt nghen?
Tôi bật cười:
- Ừ, thiệt mà!
Chợt nhớ ra, tôi hỏi:
- Em tên là Tí phải không?
Thằng bé bật cười lớn:
- Tí là tên ở nhà má em gọi, tên trong khai sinh của em đẹp hơn nhiều. Đố cô biết đó?
Tôi phì cười trước vẻ vô tư của đứa bé:
- Thôi, cô chịu thua! Em nói ra đi, cô không đoán được…
Thằng bé cười ngất:
- Em tên là Tính! Nhưng ở nhà má cứ gọi là Tí. Nhưng mà Tí hay Tính gì cũng được, cô há?
- Ừ!
Tôi nói xuôi theo nó.
- Cô ơi, tên cô là gì vậy cô?
Thằng Tính lại hỏi
- Cô tên Nga, Bích Nga!
Tôi trả lời.
- Tên cô đẹp quá!
Thằng Tính buột mịêng khen, tôi chỉ cười không nói gì.
Lát sau nó dừng xe trước cổng trường và bảo:
- Tới trường rồi đó cô! Cô vào đi!
Tôi xuống xe, cười với Tính:
- Cô cám ơn em nhiều lắm, Tính nghe! Giờ cô vô trường, mai mốt sẽ có dịp gặp lại em nhé?
Thằng Tính cười hiền lành:
- Dạ, đâu có gì đâu cô! Có gì cần cô cứ gọi em, em sẽ tới giúp.
Tôi gật đầu, dợm bước vào sân trường.
Thằng Tính đã quay đầu xe, nhưng chợt nhớ ra điều gì đó nó quay lại dặn tôi:
- Cô ơi, tối ngủ cô nhớ đóng thật kín các cánh cửa lại, nghen cô!
Tôi buồn cười vì cái sự cẩn thận như người lớn của thằng Tính:
- Được rồi! Cám ơn em.
Nó lại nhoẻn miệng cười và lên xe chạy đi.
Tôi lững thững kéo va-li vào trường.
Cổng trường không khóa chỉ khép hờ. Khi vào đến sân, tôi không biết mình sẽ đi đâu vì nhìn thấy dãy văn phòng đóng cửa im ỉm.
- Có ai ở đây không?
Tôi cất tiếng gọi lớn. Không có ai trả lời. Tôi mệt mỏi ngồi xuống chiếc ghế đá gần cổng chờ đợi.
Lúc này bóng tối đã nhập nhòe. Sân trường buồn hiu hắt với những hàng cây lim lá rụng lả tả. Ánh đèn đường vàng nhợt nhạt hắt vào trong sân làm tôi thấy buồn vô kể.
Lúc này tôi nghĩ giá như có điện thoại, tôi sẽ gọi liên hệ với ông hịêu phó chuyên môn của trường, nhưng tôi vội vã lắc đầu, tự nhủ:
- Mình đã quyết vứt bỏ tất cả rồi mà, đừng luyến tiếc gì nữa hết! Cô gắng chờ một chút đi, người ta đã biết hôm nay mình đến thì chắc sẽ có người tiếp, ít ra là bảo vệ chứ!
Tôi nghĩ quả không sai. Chỉ một lát sau, có tiếng người húng hắng ho từ phía sau. Tôi còn đang dớn dác nhìn ngó để tìm chủ nhân của tiếng ho thì một bóng người đã lù lù xuất hiện trước mặt tôi làm tôi không khỏi giật mình.
- Ai đây?
Một giọng đàn ông cất lên.
- Dạ, tôi là giáo viên mới chuyển đến, xin hỏi…
Tôi chưa kịp nói hết câu, người đàn ông đã cắt ngang:
- À, cô là cô Nga chứ gì? Tôi được phân công đón cô nhưng chờ mãi từ chiều không thấy, tưởng ngày mai cô mới tới.
Tôi mỉm cười:
- Dạ, tại xe chạy chậm quá nên tới trễ. Bác đây là…
Tôi gọi người đàn ông trước mặt bằng bác bởi nhận thấy ông ta không còn trẻ và dáng dấp không giống một thầy giáo của trường.
Người đàn ông nói:
- À, tôi là bảo vệ của trường. Tôi làm ở đây gần hai chục năm rồi đó cô! Cô chờ tôi một chút nhé!
Nói xung, người đàn ông nhúc nhắc đi tới căn phòng kế đó loay hoay mở khóa. Lát sau ông ta bật công tắc và căn phòng tràn ngập ánh đèn. Mấy bóng đèn ngoài sân trường cũng sáng lên, xua bớt cái vẻ ảm đạm khi nãy.
Người đàn ông bảo vệ bị tật ở chân nên dáng đi hơi khập khiễng. Mái tóc ông ta lơ thơ bạc, dáng người dong dỏng và gương mặt khắc khổ đến tội nghịêp.
- Bác ơi…
- Gọi tôi là bác Năm đi! Ở đây ai cũng gọi tôi như vậy!
Bác  Năm nhúc nhắc đi trở ra, cười nói.
Tôi đứng lên, chưa kịp hỏi gì thì bác Năm đã mau miệng:
- Bây giờ không có ai ở trường, nên mọi thứ giấy tờ thủ tục cô hãy cứ để đó sáng mai rồi tính. Giờ tôi đưa cô lên phòng cô nghen?
Tôi chưa kịp nói gì thì bác Năm đã nói tiếp:
- À, mà chắc cô chưa ăn tối. Từ đây ra tới chỗ bán thức ăn cũng hơi xa, nếu cần thì cô lấy xe đạp của tôi mà đi, còn không thì tôi có sẵn mì tôm đây.
Tôi mỉm cười:
- Dạ, cháu cảm ơn bác Năm! Giờ bác vui lòng cho cháu về phòng để tắm rửa nghỉ ngơi một chút. Lát nữa nếu có đói, cháu sẽ xuống làm phiền bác sau nhé?
Bác Năm vui vẻ:
- Không sao! Không sao! Bất cứ khi nào đói cô xuống cũng được. Tôi già rồi đâu có ngủ nghê bao nhiêu đâu cô.
Rồi bác Năm bật sáng chiếc đèn pin trên tay:
- Đi, tôi đưa cô lên phòng.
Tôi đứng lên đi theo bác Năm.
Bác Năm dẫn tôi đi băng ngang qua khoảng sân trường tương đối rộng, về phía góc sân có một dãy lầu cũ kỹ tối om.
Bác Năm mở khóa cửa cầu thang và rọi đèn cho tôi đi theo.
- Cô chịu khó, đèn ở đây hư hết rồi mà lâu nay không thay vì không cần đến. Ngay ngày mai tôi sẽ lắp bóng đèn mới cho cô.
Tôi hơi chột dạ:
- Vậy… trên phòng cũng không có đèn sao bác Năm?
Bác Năm cười:
- Có chớ! Cô đừng lo, trên phòng cô ở có đèn đàng hoàng, chỉ đèn ở cầu thàng và dọc lối đi là bị hư thôi.
Tôi thở phào nhẹ nhõm.
Lên hết thang lầu, bác Năm dẫn tôi đi dọc theo dãy hành lang dài hun hút. Thấy vẻ tiêu điều hoang vắng ở đây, tôi cất tiếng hỏi:
- Bộ không có học trò học ở dãy lầu này sao bác? Cháu thấy vắng lặng quá!
Bác Năm vừa đi vừa nói:
- Ờ, cũng lâu rồi dãy phòng này bỏ trống. Vì họ sắp đập dãy này để xây mới. Phòng ốc ở đây xuống cấp hết rồi cô ạ, các lớp học đã được dời sang dãy bên kia. Bây giờ ở đây được tận dụng như nhà kho. Cô được bố trí ở tạm trong một phòng tương đối tốt nhất đó!
Vừa nói tới đó, bác Năm và tôi cũng đã đi tới cuối dãy hành lang tối thui, ẩm mốc.
Bác Năm cầm đèn pin rọi và mở khóa cửa phòng.
Sau khi bác Năm đật đèn, tôi cảm thấy nhẹ cả người khi thấy căn phòng quả thật đúng như lời bác Năm nói trước, phòng cũng tương đối và đã được quét dọn sạch sẽ, sắp xếp cẩn thận để đón tôi.
- Chỉ phiền một điều là ở đây không có nhà vệ sinh, nếu cần đi vệ sinh cô phải đi xuống dưới kia.
Vừa nói, bác Năm vừa kéo tôi đứng sát hành lang chỉ tay về góc sân phía bên kia.
- Nhà vệ sinh dưới đó nghen cô! Cô có cần dùng đèn pin không, tôi để lại cho cô mượn?
Bác Năm ân cần nói thêm.
Tôi lắc đầu:
- Dạ cháu cảm ơn bác, chắc cháu không cần đâu. Muốn xuống nhà vệ sinh thì đã có đèn dưới sân rồi, không sao đâu bác!
- Vậy cô đi tắm rồi nghỉ ngơi đi, tôi xuống phòng nhé?
Bác Năm quay đi. Tôi nhìn theo cái dáng đi nghiêng về một phía của ông một lúc rồi mới đi vào khép cửa phòng lại.
Việc đầu tiên tôi làm là ngã người ra giường nhăm mắt lại thư giãn. Suốt một ngày dài bị hành xác trên chiếc xe đò đầy nhóc người và gà vịt, giờ đây tôi thấy thật hạnh phúc khi được nằm thoải mái trên giường dù rằng thân thể đầy bụi bặm và cái bao tử trống không đang réo gọi.
Nằm khoảng hai mươi phút tôi ngồi dậy lục đục soạn đồ đạc ra khỏi va-li và lấy đồ chuẩn bị đi tắm.
Ôm gói áo quần, khăn tắm và mấy thứ lặt vặt khác tôi bước ra khỏi phòng, khép hờ cửa lại rồi mò mẫm đi xuống lầu.
Nói là mò mẫm chứ thật sự chỉ một chút là mắt tôi quen dần với bóng tối và quãng đường dài dọc hành lang cũng như cái cầu thang tối om không còn làm tôi lo sợ nữa.
Lúc đi băng ngang qua sân trường, tôi liếc nhìn về phòng bảo vệ thấy bác Năm đang ngồi hút thuốc. Tôi không rẽ vào đó mà đi thẳng xuống khu nhà vệ sinh luôn.
Khu nhà vệ sinh không sạch sẽ lắm nhưng cũng không đến nỗi tởm lợm như một số nhà vệ sinh ở một vài nơi mà tôi có dịp đi qua. Tôi đã nhàn thấy được công tắc điện và mở sáng đèn. Nhưng không hiểu sao người ta không mắc bóng đèn màu trắng cho sáng sủa mà đi mắc đèn vàng khiến mọi thứ trông cứ nhợt nhạt, ma quái thế nào ấy.
Cũng may tôi không là đứa gan nên điều đó cũng không ảnh hưởng gì mấy.
Tắm rửa sạch sẽ xong tôi cảm thấy thật nhẹ nhàng, thoải mái. Và lúc này thì cái đói lại bắt đầu cồn cào dữ dội.
Bỏ mớ đồ dơ vào túi ni-lông cầm theo khi nãy, tôi tắt đèn rồi đi ra, định bụng sẽ ghé phòng bảo vệ xin tạm gói mì tôm của bác Năm cho qua đêm nay, mai mới tính tới chuyện mua sắm xoong nồi lo cơm nước.
Vừa bước xuống bậc thềm, tôi loáng thoáng nghe có tiếng nước chảy. Nghĩ mình quên khóa vòi nước tôi lại trở vào bật đèn kiểm tra lại. Quả đúng là một vòi nước đang chảy. Nhưng thật lạ là vòi nước này khi nãy tôi đâu có mở?
Tôi đứng lặng một hồi, mắt ngó đăm đăm vào cái vòi đang tuôn nước xối xả. Không thể nào có chuyện nhầm lẫn được, lúc nãy tôi chỉ đứng ở góc bên kia để tắm, có nhìn thấy cái vòi nước bên này nhưng không hề đụng tới. Vậy tại sao khi tôi đi ra nó lại tự mở nước? Thật là lạ lùng, tôi không thể nào giải thích được.
Cuối cùng, tôi đành phải ráng nghĩ tới một lý do, tuy không thuyết phục nhưng cũng tạm thời đè nén được thắc mắc của tôi. Lý do đó là, có thể lúc đi ra, tôi đi ngang qua vòi nước đó và vô tình đụng vào nó làm nó mở ra! Thôi thì cứ nghĩ vậy đi, tôi cố an ủi mình như vậy.
Khóa nước cẩn thận xong, tôi tắt đèn và đi lên phòng bác Năm.
Vừa trông thấy tôi, bác Năm tươi hẳn nét mặt:
- Cô đói rồi phải không? Vô đây, vô đây tôi nấu mì cho mà ăn! Tội nghịêp, con gái con đứa mà đi xa nhà, cực khổ như vầy…
Câu nói của bác Năm bất chợt làm tôi tủi thân muốn khóc, nhưng tôi đã cố kìm nén lại, nở một nụ cười với bác:
- Dạ, cháu đói quá, từ sáng giờ không ăn gì, bác Năm cho cháu xin gói mì!
Bác Năm nhúc nhắc đứng lên mở chiếc tủ nhỏ lấy ra một cái tô, một gói mì kèm theo một trứng gà, cười nói:
- Ở chỗ tôi, cái gì không có chứ mì tôm thì bao la, khi nào muốn ăn cô cứ xuống lấy. À, mà quên nữa, chắc trên đó đâu có gì để nấu. Thôi, để tôi nấu cho!
Bác Năm nhanh nhẹn châm lửa vào chiếc bếp dầu để trong góc phòng rồi đặt ấm nước lên đó.
Tôi ngồi khoanh tay nhìn dáng bác Năm lom khom mà thấy thương đến lạ.
Tôi gợi chuyện:
- Nhà bác có gần đây không, bác Năm?
Bác Năm mỉm cười:
- Tôi ở xa lắm cô ơi! Chiến tranh trôi giạt, cả gia đình không còn ai, buồn quá nên tôi bỏ xứ đi luôn, tới đây và nhận nơi đây làm quê hương, nhận ngôi trường này làm gia đình…
Là kẻ đang mang nặng tâm trạng buồn thương, giờ nghe chuyện không vui của bác, tôi mủi lòng quá, nước mắt lăn dài:
- Vậy ra bác sống một mình?
- Ừ, một mình đã hơn hai mươi năm! Nhưng cũng quen rồi cô ạ…
Bác Năm nói, giọng không buồn không vui.
Tôi thở dài:
- Cháu thì không biết đến khi nào mới quen được!
Bác Năm nhìn tôi một lúc rồi lại cúi xuống nói nhỏ:
- Tất cả mọi vết thương đều sẽ lành theo thời gian. Cô hãy tin điều đó!
- Dạ, cháu cũng tin vậy và mong sao thời gian sớm hàn gắn những vết thương trongl òng cháu.
Tôi buột miệng.
Vừa nói xong tôi chợt không hiểu tại sao mình lại dễ dàng bộc bạch tâm tình với một người còn rất xa lạ thế này? Trước giờ tôi luôn được mọi người đánh giá là một người kín kẽ, ít khi cởi mở với ai. Chắc có lẽ trong hoàn cảnh này, trước một thân phận như bác Năm tôi đã dễ dàng đồng cảm nên có ý muốn sẻ chia chăng?
- Xong rồi đây! Cô ăn đi cho nóng!
Tiếng bác Năm cắt đứt dòng suy nghĩ của tôi. Tôi mỉm cười đón lấy tô mì từ tay bác và sì sụp ăn một cách rất ngon lành. Có lẽ đây là tô mì ngon nhất trong đời tôi.
Tôi vừa bỏ đũa xuống, bác Năm nhanh nhẹn đặt trước mặt tôi một ly trà bốc khói:
- Uống nước đi cô!
Tôi nhìn bác mỉm cười:
- Bác cứ gọi cháu là Nga cho thân mật nghen bác, bác đừng gọi bằng cô nữa!
Bác Năm gật gù:
- Ừ, vậy cũng được! Bác cũng có một đứa con gái, nếu nó còn sống bây giờ chắc cũng trạc bằng cháu đó Nga ạ!
Tôi rất muốn hỏi thêm chị ấy chết trong hoàn cảnh nào, nhưng thật sự tôi không dám chạm vào nỗi đau của bác Năm, sợ sẽ làm vỡ vết thương đã lành miệng. Vì vậy tôi lãng sang chuyện khác:
- Trường mình tập trung học lâu chưa bác?
- À, cũng hơn tuần nay rồi đó cháu! Mới đầu nghe đâu tới ngày 5 tháng 9 làm lễ khai giảng xong rồi học luôn, nhưng hổng biết sao mấy ổng lại cho tập trung học trước hai tuần.
Bác Năm trả lời rồi hỏi tôi:
- Cháu có dám ngủ một mình trên đó không?
Tôi cười:
- Dạ, dám chứ bác. Cháu dạn lắm!
Bác Năm gật gù:
- Ừ! Vật thì tốt. Mấy hôm nghe nhà trwofng nói sẽ có một cô giáo ở xa về dạy và sống ở đây, bác cũng lo lắm, không biết cô giáo có dám ở trong trường không nữa. Bác tính nếu cháu không dám thì bác sẽ kiếm nhà cho cháu trọ.
Tôi cười:
- Dạ, không sao đâu bác. Mà… trong trường mình có xảy ra chuyện gì không mà bác sợ cháu không dám ở?
Bác Năm lắc đầu:
- Không, có chuyện gì đâu! Bác sống ở đây mấy chục năm rồi có gì? Bác chỉ sợ cháu là nữa, mà nữ thường nhát gan, không dám ở một mình nơi vắng vẻ, vậy thôi!
Tôi ngồi nói chuyện với bác Năm một lúc nữa rồi đứng lên:
- Dạ, bác Năm nghỉ ngơi đi, cháu về phòng đây! Cháu cảm ơn bác Năm rất nhiều!
- Có gì đâu cháu!
Bác Năm nói và đứng lên tiễn tôi ra sân.
- Để bác đưa cháu lên phòng.
- Dạ, khỏi! Cháu lên một mình được rồi bác ơi!
Tôi ngăn không cho bác Năm đi theo. Bác đứng lại dưới sân trường cầm đèn pin rọi theo tôi một lúc, mãi tới khi tôi bước lên thang lầu bác mới chịu tắt đèn đi trở vào phòng.
Trời bắt đầu chuyển mưa, bầu trời đen kịt không còn trông thấy một vì sao. Gió thổi mạnh dần, các tàng cây lắt lay trong gió phát ra những tiếng răng rắc như sắp gãy đổ. Lá cây rụng rào rào xuống sân, tôi chạy nhanh về phòng để tránh những con gió đang như quất mạnh vào da thịt.
Đi gần tới cửa phòng mình, tôi thoáng thấy một cái bóng vụt qua, giống như bóng một người mặc toàn đồ trắng.
Tim tôi thót lại, tôi la lớn:
- Ai đó?
Không ai trả lời tôi. Tôi hồi hộp, nửa muốn đẩy cửa phòng đi vào, nửa muốn chạy trở xuống phòng bảo vệ. Nhưng cuối cùng sự gan dạ đã không cho phép tôi làm phiền bác Năm lần nữa. Tôi nghĩ có lẽ là ăn trộm nên mạnh dạn đẩy cửa phòng.
Tất cả mọi thứ trong phòng vẫn y nguyên, kể cá chiếc bóp mà lúc nãy do quá mệt mỏi tôi đã vứt bừa ra giữa giường. Tôi cầm bóp lên kiểm tra, tiền bạc, giấy tờ vẫn còn nguyên vẹn.
Đóng chặt cửa phòng, tôi nằm xuống giường, vẫn để đèn sáng, đầu óc suy nghĩ tới bóng trắng vừa sớt qua ngang tôi lúc nãy.
Từ nhỏ tôi vốn không tin vào mấy chuyện ma quỷ, mê tín dị đoan nhưng thật sự từ tối tới giờ đã có hai việc khíên tôi không lý giải nỗi. Suy nghĩ đến bể đầu cũng không đoán ra, tôi mệt mỏi chìm vào giấc ngủ lúc nào không biết.
Khi tôi giật mình thức dậy thì trời đã sáng rõ. Bầu trời quang đãng, sạch bong sau cơn mưa dai dẳng tối qua. Dưới sân hoa lim rụng vàng như trải thảm. Tôi thấy bác Năm đang lom khom quét dọn dưới đó.
Sau một giấc ngủ ngon, giờ đây tôi đã thật sự tỉnh táo. Nghĩ tới những chuyện đêm qua, tôi tự cười mình. Rằng do mệt mỏi, đầu óc mụ mị nên tôi dễ nhầm lẫn trong bóng tối nhập nhòe.
Nghĩ vậy nên tôi không bận tâm về những điều đó nữa. Tôi đi rửa mặt, làm vệ sinh cá nhân xong thì bắt tay ngay vào việc sắp đặt lại đồ đạc cá nhân trong phòng.
Lúc mọi việc vừa xong cũng đã tới giờ làm việc. Tôi cầm xấp giấy tờ đi xuống phòng giám hiệu.
Mọi việc diễn ra thật mau chóng, vì thật ra tôi chỉ đến để trình diện vàd nhận sự phân công giảng dạy, chứ mọi thủ tục đã hoàn tất từ lâu.
Thầy hiệu trưởng vắng mặt do bận công tác, chỉ có thầy Hiệu phó tiếp tôi một cách rất niềm nở.
Sau khi trao đổi một số việc về chuyên môn và đưa cho tôi thời khóa biểu để tôi bắt đầu dạy vào tuần sau, thầy hiệu phó cười hỏi:
- Chỗ ăn ở như vậy, có điều gì không ổn không cô? Có gì cô cứ nói, nếu khắc phục đowjc chúng tôi sẽ khắc phục ngay. À, lúc nãy bác Năm đã nói chuỵên về mấy bóng đèn ở thang lầu và hành lang, chút nữa sẽ có người tới thay ngay.
Tôi mỉm cười:
- Dạ, cảm ơn thầy! Tôi thấy không có gì phải phàn nàn ạ! Với tôi như vậy là tốt rồi.
Thầy hiệu phó cười, vẻ hài lòng:
- Cô cứ ở đây sắp xếp việc riêng để ổn định, tuần sau mới bắt đầu dạy. Nếu có gì cần, cô cứ liên hệ với bác Năm. Bác ấy rất tốt.
- Dạ, tôi biết rồi ạ!
Tôi cười đáp lại.
Sáng đó, sau khi làm xong các thủ tục ở phòng giám hịêu, tôi khong về phòng mà hỏi đường đi vô chợ.
Từ trường tới chợ cũng không xa lắm, khoảng chừng hơn năm trăm mét nên tôi thả bộ mặc dù bác Năm có đề nghị tôi nên lấy xe của bác mà đi.
Mặc dù mang tiếng là chợ huyện, nhưng nó lèo tèo vắng vẻ đến thảm hại. Khi đi ngang qua một hàng ăn, bao tử tôi lại réo lên sùng sục, có lẽ gói mì tôm chữa cháy tối qua đã tan biến hết rồi trong đó!
Rẽ vào một tiệm bán cháo, gọi một tô cháo lòng. Trong khi chờ đợi chủ quán đem ra, tôi cứ ứa nước miếng vì mùi hành phi bốc lên thơm ngậy. Tôi tự cười thầm, không ngờ mình cũng xấu tính đến như vậy.
Người chủ quán bưng cháo ra tôi, và hỏi:
- Cô dùng chi?
Tôi ngạc nhiên, chỉ tay vào tô cháo bốc khói:
- Tôi đã gọi cháo rồi đây mà!
Người chủ quán mỉm cười, hất đầu sang bên cạnh tôi:
- Không, tôi không hỏi cô, tôi hỏi cậu bé này!
Tôi ngơ ngác nhìn sang, bên cạnh tôi đâu có ai, cả mấy cái bàn kế đó cũng không có một người nào. Trong quán chỉ có tôi và hai người nữa ngồi tuốt trong góc phía bên kia.
- Ủa, ai đâu?
Người chủ quán cười cười:
- Chị em cô vui tính thiệt!
Nói xong ông ta bỏ đi để lại trong đầu tôi thật nhiều câu hỏi. Nhưng rồi mùi cháo nóng đã kích thích cái dạ dày tôi cực độ, tôi vội vàng cắm cúi ăn, không còn nghĩ đến bất cứ điều gì nữa.
Ăn xong, tôi lững thững đi vào chợ mua một số đồ cần dùng cho sinh hoạt hàng ngày. Khi trên tay đã lỉnh kỉnh tôi mới rời chợ quay trở về nhà.
Suốt ngày hôm đó tôi loay hoay với đủ thứ việc nên không còn tâm trí nào để buồn rầu hay nghĩ vẩn vơ.
Tối đó, tôi nấu cơm canh chua và mời bác Năm ăn cùng nhưng bác từ chối, bảo rằng bao tử bác không ăn canh chua được.
Tôi hơi thất vọng nhưng cũng đành dọn chén bát chuẩn bị ăn cơm một mình. Vừa dọn xong mâm cơm thì đèn tắt phụt.
Có tiếng bác Năm từ dưới sân trường vọng lên:
- Nga ơi, cúp điện rồi, cháu có đèn dầu không? Không có thì xuống đây bác cho mượn?
Tôi chạy ra hành lang khom người nói xuống:
- Dạ, hồi sáng này cháu đi chợ có mua rồi bác!
- Ờ, vậy thắp đèn dầu lên đi cháu! Ở đây hay cúp điện thất thường lắm!
Bác Năm vừa nói đi ra phía trước.
Tôi trở vào phòng, chưa kịp cầm đũa đã nghe tiếng gọi:
- Cô ơi, cô Nga ơi!
Nghe giọng quen quen, tôi chợt nhớ ra, reo lên:
- Tính phải không? Vô chơi đi em!
Tính đẩy cửa bước vào, mặt tươi cười:
- Cô ăn cơm hả? Sao cô ăn trễ vậy?
Tôi cười:
- Cô quen ăn giờ này rồi em à! Em ăn với cô cho vui nghen Tính?
Tính không khách sáo từ chối. Nói nhanh nhẹn ngồi xuống xếp bằng trước mặt tôi.
- Cơm cô nấu ngon quá!
Nó vừa và mấy đũa đã khen.
Tôi cười:
- Thôi đi, đừng có nịnh cô! Em là người đầu tiên khen cô nấu ăn ngon đó! Cô vụng lắm, cô biết mà!
Tính ngước lên nhìn tôi, vẻ mặt nghiêm nghị:
- Em nói thiệt đó, lâu lắm rồi em mới được ăn bữa cơm ngon như vầy!
Tôi bất chợt nhói lòng, có lẽ vì nhà nghèo nên những bữa cơm của nó luôn thiếu thốn và đạm bạc nên chỉ với bữa cơm canh chua cá kho vầy mà nó khen nức nở.
Tôi gắp cho Tính một khúc cá to, cười nói:
- Em ăn đi, ăn cho mập thêm chút nữa! Con trai đang tuổi lớn mà ốm nhom…
Tính cười thẹn thò nhưng không nói gì.
Hai cô trò ăn xong bữa cơm rất vui vẻ. Tôi hài lòng vì cuộc viếng thăm này của Tính. Ở một nơi xa lạ như vầy, có một anh bạn nhỏ như thằng Tính kể ra cũng hay!
Sau khi giúp tôi dọn rửa chén bát, thằng Tính còn siêng năng chạy xuống đất mấy bận để xách nước đổ đầy cái lu nhựa mà tôi mới mua hồi sáng.
Vóc dáng nó gầy nhom nhưng tôi phải công nhận là nó khỏe thật. Nó hình như không hề mệt mỏi khi xách nước lên thang lầu, vừa nhảy một lúc hai bậc thang, nó vừa líu lo chuyện trò hoặc ca hát.
- Cô đừng có mét với bác Năm là có em tới nghen!
Thằng Tính nghiêm mặt dặn tôi.
Tôi ngạc nhiên:
- Sao vậy?
Nó cười, vẻ bí mật:
- Buổi tối không được để ai vào trường, nhiệm vụ của bác ấy mà! Bác biết em vô ra, bác sẽ la cô đó!
- Ủa, vậy em đi vô đường nào?
Tôi tò mò.
Thằng Tính đưa một ngón tay lên miệng:
- Sụyt! Bí mật! Em có con đường bí mật riêng mà bác Năm không biết được!
Tôi cười, giỡn với nó:
- Thôi mà, bật mí cho cô biết với, không thôi cô chết vì tò mò mất!
Thằng Tính đứng sát vào tôi, kề vào tai tôi thầm thì:
- Trường mình có một cánh cửa thông qua sân banh bên cạnh, trước đây mấy thầy bên này thường sang bên đó đánh banh với mấy anh bộ đội, nhưng sau này bộ đội chuyển đi, bên kia bỏ hoang, mấy thầy cũng không đánh banh nữa. Em đi ngã đó, em có chìa khóa của cổng đó, vì hồi trước em là đứa chuyên môn đi lượm banh giúp mấy thầy.
Tôi bất chợt rùng mình, nhưng không phải rùng mình vì câu chuyện của thằng Tính mà vì luồng hơi lạnh phả ra từ thân thể nó.
Tôi không quan tâm đến việc nó tới bằng đường nào nữa, mà điều tôi quan tâm hơn hết lúc này sức khỏe của nó:
- Tính à, em lạnh lắm hả?
Nghe tôi hỏi đột ngột, thằng Tính sựng lại một giây rồi nhoẻn cười:
- Không có đâu cô!
Tôi lắc đầu:
- Em đừng có giấu cô, rõ ràng cô thấy em bị lạnh ngắt rồi nè! Thôi, mau mau vô phòng cô lấy máy sấy tóc sưởi cho!
Thằng Tính nhăn nhó cười đi theo tôi. Vô tới trong phòng, sọ gió lạnh, tôi khép cửa lại rồi lấy máy sấy tóc cắm điện sấy khắp người nó.
Thằng Tính cười hăng hắc:
- Em nói thiệt mà cô hổng chịu tin, em hổng có lạnh đâu!
Tôi cầm lấy bàn tay giá lạnh của nó, nghiêm giọng nói:
- Tay lạnh cóng như vầy mà còn chối hả? Coi chừng bệnh nặng có ngày đó nghe chưa?
Thằng Tính cười cười rụt tay lại:
- Tại cô không biết đó thôi, mấy năm trước em bị bệnh, nặng lắm, rồi từ đó tới giờ thân thể em lúc nào cũng lạnh như băng vậy đó, chứ em đâu có cảm thấy lạnh đâu, mà cô có sưởi tới mai nó cũng không ấm lên được!
Tôi nhìn sững Tính, ngạc nhiên:
- Em nói thiệt hả? Bệnh gì mà kỳ vậy?
Tính cười:
- Em cũng không biết em bị bệnh gì nữa, má cũng hổng biết! Mới đầu má chạy thầy chạy thuốc dữ lắm, đến nỗi bán nhà luôn đó cô, nhưng rồi má cũng đành bó tay thôi. Nhưng mà… giờ thì em với má sống rất vui vẻ…
- Thân thể em giá lạnh một cách kỳ lạ vầy mà em vẫn khỏe mạnh được sao?
Tôi nghi ngờ hỏi lại.
Tính lại mỉm cười, một nụ cười thật vô tư, thơ trẻ:
- Dạ, em khỏe lắm! Tại cô hổng biết đó thôi, mấy đứa trong trường này đứa nào cũng sợ em!
Tôi bật cười:
- Ghê vậy sao?
Tối đó Tính ở chơi với tôi đến gần mười giờ mới ra về, và còn hẹn ngày mai sẽ lại tới nữa. Lúc đưa Tính tới chỗ thang lầu, Tính xua tay ngăn tôi lại:
- Cô trở vô đi, em đi một mình được rồi! À, tối ngủ nhớ đóng chặt cửa nghen cô!
- Biết rồi, ông cụ non!
Tôi cười với Tính.
Nó nhảy một lúc mấy bậc thang, không mấy chốc đã xuống tới sân trường. Tôi đứng trên hành lang nhìn xuống, hơi thắc mắc vì thấy nó vẫn đi hiên ngang giữa sân không có vẻ gì là sợ bác Năm bảo vệ phát hiện ra sự có mặt của nó cả!
- Chắc nó biết giờ này bác Năm đã đóng cửa phòng bảo vệ.
Tôi thầm nghĩ vậy và vui vẻ trở về phòng.
Nằm trên giường đọc sách một chút tôi có cảm giác bức bối khó chịu. Chợt nhớ ra lúc sáng đi chợ không mua một cái quạt máy nhỏ. Đêm nay trời lặng gió, đã mười giờ đêm rồi mà vẫn còn nóng bức, nóng còn hơn cả buổi tối, vì buổi tối tôi mở toang các cánh cửa nên thoáng mát hơn, giờ tất cả đều được đóng kín, tôi như không thở được vì cái không khí oi nồng, hừng hực.
Đứng lên đẩy cánh cửa sổ gần giường ngủ, tôi nhìn ra ngoài. Cửa sổ này nhìn ra hướng đường lộ, con đường ban ngày đã vắng ngắt thì vào cái giờ khuya khoắt này càng vắng vẻ thêm lên. Không một bóng người, không một tiếng động cơ của xe cộ, chỉ có những ánh đèn vàng nhạt buồn bã soi rọi xuống lòng đường.
Bỗng dưng tôi thèm nghe một tiếng rao đêm, thèm nghe tiếng chổi sột soạt của những công nhân vệ sinh, và thèm cả tiếng chuông điện thoại hối thúc ngày nào…
Tôi thở dài quay trở lại giường và nằm xuống.
Tuy ngoài trời không có gió, nhưng khi mở cửa sổ ra tôi đã bớt cảm giác ngộp thở nên bắt đầu mơ màng chìm vào giấc ngủ. Đêm nay tôi không để đèn sáng như tối qua nữa ,à chỉ để một bóng đèn ngủ nhỏ xíu mà thôi.
Khi hai mắt tôi đã nhắm díp lại, bất thần tôi nghe thấy có tiếng cười giòn giã của mấy đứa trẻ con. Mở choàng mắt ra lắng tai nghe ngóng thì lại chẳng có gì, không gian vắng lặng, cả một tiếng gió xào xạc cũng không!
- Mình mơ ngủ rồi chắc!
Tôi lẩm bẩm rồi nhắm mắt cố dỗ giấc ngủ.
Tiếng cười lại lanh lảnh vang lên, nhưng lần này tôi không thể mở mắt ra được nữa. Tôi thấy như mình đang trôi vào một khoảng không nào đó đầy gió và lồng lộng ánh trăng.
Tôi thấy trước mắt mình là một đám chừng năm, sáu đứa trẻ con vừa trai vừa gái. Chúng đang chơi đùa rượt đuổi nhau rất vui vẻ.
Một đứa bé gái chừng sau tuổi chạy tới ôm lấy chân tôi nũng nịu:
- Cô ơi, mấy anh chị ăn hiếp con kìa…
Đám trẻ kia chạy lại vây lấy tôi, mạnh đứa nào nấy nói tôi nghe không kịp thở:
- Cô ơi, bé Hà nhõng nhẽo đó cô, nó nhớ mẹ nên thấy ai giống mẹ là chạy tới làm nũng vậy đó chứ tụi con đâu có ăn hiếp nó…
- Cô ơi, cô có kẹo không cô, cho con ăn với cô!
- Cô ơi, mai cô nấu cơm cho con ăn với, tụi con đói quá!
- Cô ơi, cô đừng đóng cửa, cô cho tụi con vô chơi với cô, giống như anh Tính vậy, nghen cô!
Tôi còn đang lúng túng chưa kịp nói gì thì thấy thằng Tính đi từ xa lại.
Nó trợn mắt nhìn đám trẻ rồi nói:
- Tao đã dặn tụi bây rồi, không được làm ồn, để cho cô ngủ mà tụi bây không nghe! Muốn ăn đòn phải hôn?
Đám trẻ len lét đứng nép vào nhau vẻ sợ hãi.
Tôi chợt phì cười:
- Tính oai thiệt nghen!
Thằng Tính không cười như tôi tưởng, nó nghiêm mặt nhìn tôi, tổng nó già giặn hơn rất nhiều:
- Em đã dặn cô rồi, ngủ thì phải đóng kín cửa lại chứ!
- Cô… cô xin lỗi!
Tôi ấp úng nói và cũng không biết tại sao mình lại thấy có lỗi khi không nghe lời thằng Tính đóng cửa lại khi ngủ.
- Cô về phòng đi!
Thằng Tính đẩy nhẹ tôi một cái, nhưng tôi mất thăng bằng gần như chúi nhủi về phía trước.
Khi gượng lại được, thì trước mắt tôi không còn một ai, cả thằng Tính lẫn lũ trẻ.
- Chúng biến đi đâu nhanh đến vậy kìa?
Tôi lẩm bẩm rồi cất tiếng gọi:
- Tính ơi, Tính!
Chính tiếng gọi ấy đã đánh thức tôi dậy. Tôi mở choàng mắt ra, ngỡ ngàng nhìn khắp căn phòng.
- Thì ra là một giấc mơ!
Tôi lau mồ hôi trán, và nhắm mắt lại nhưng không tài nào ngủ được nữa. Tự nhiên trong lòng tôi như có một cái gì bất an đang xâm chiếm.
Trằn trọc hoài không ngủ tiếp được, tôi ngồi dậy mở đèn lấy tập sách ra ngồi soạn bài.
Lúc này ngoài trời đã có gió nhẹ, thỉnh thoảng một vài cơn gió thổi vào cửa sổ mát rượi khiến tôi thích thú.
Đang chăm chú vào việc soạn bài, bất chợt tôi nghe như có tiếng hát từ dưới đường vọng lên. Tò mò tôi đứng dậy đến bên cửa sổ nhìn xuống. Dưới đường vẫn không có một bóng người.
Tôi đang ngẩn ngơ thì lại nghe tiếng hát, nhưng lần này tôi đã xác định được nó không xuất phát từ dưới đường mà là ở phía trong sân trường.
Tôi tò mò quá khong chịu nổi nên nhẹ nhàng mở cửa phòng, đi ra hành lang đứng nhìn xuống dưới.
Sân trường cũng vắng lặng không có một ai. Vừa định quay vào, bất chợt tôi thấy rõ ràng bóng dáng một người đàn bà từ trong phòng bảo vệ đi ra, trên tay bà ta là một cái thau lớn. Bà bưng cái thau đi về hướng nhà vệ sinh, vừa đi vừa cất tiếng hát, lời bài hát nghe buồn đến nao lòng:
Có phải ta buồn nên nắng cũng hanh hao?
Gió mệt mỏi lá cây lay rất nhẹ
Ta một mình giữa trưa quạnh quẽ
Chợt nghe thèm lời dịu ngọt từ ai...
Có khóc đâu sao khóe mắt lại cay?
Ta đã dặn lòng mình từ lâu lắm
Rằng tình yêu với ta là vực thẳm
Đừng đến gần sẽ có lúc sa chân
Cớ sao lòng vẫn cứ mãi bâng khuâng
Cứ vương vấn một điều gì hư ảo
Để có lúc ta thấy đời giông bão
Không bờ bến nào chở che...
 
Có những lúc ta thèm nghe
Một câu hỏi hay một lời nhắc nhở
Để ta biết dẫu muôn trùng cách trở
Vẫn còn có người nhớ nghĩ về ta
Mỗi đêm trăng ánh sáng vỡ òa
Ta ước được cùng ai vai kề má tựa
Để ta trải lòng mình theo điệu nhạc
Mơ một vầng trăng...
Thôi đừng buồn và cũng chớ băn khoăn...
Người đàn bà đó là ai? Tôi băn khoăn suy nghĩ và bất chợt một tia sáng lóe lên:
- Thôi, mình hiểu rồi! Bác Năm là đàn ông, sống một mình vò võ bao nhiêu năm qua, tất nhiên bác cũng cần có người tâm sự…
Tôi nhẹ nhàng đi trở vào phòng khép cửa lại, không múôn làm ảnh hưởng tới cái hạnh phúc vụng trộm nhỏ nhoi mà bác Năm đang được hưởng.
Bất chợt tôi lại nhớ đến người đàn ông đã nhẫn tâm phụ bạc mình, nước mắt tôi lại lăn dài hai bên má. Thế mới biết, trốn chạy một người là không khó nhưng trốn chạy một hình ảnh trong tim thì khó đến vô cùng!
Tiếng hát dưới sân vẫn vang lên văng vẳng, tôi ngồi thừ trước cuốn tập mở ra lắng nghe và đột nhiên tôi hý hoáy ghi lại từng câu hát mà người đàn bà kia đang ngân nga bên dưới sân trường.
Một lúc sau tiếng hát không còn vẳng đến tai tôi nữa. Tôi lẩm nhẩm hát lại mấy lượt rồi tập trung vào việc soạn bài.
Soạn bài xong thấy vẫn còn sớm, tôi đứng lên khép cửa sổ lại đi ngủ tiếp. Và có lẽ khí trời giờ này đã dịu lại nên tôi ngủ rất ngon.
Sáng hôm sau, tôi vẫn loay hoay với những việc giống như hôm trước. Tức là cũng đi chợ để mua sắm thêm mấy thứ còn thiếu và về nhà dọn dẹp, tìm chỗ làm chỗ phơi áo quần, chỗ nấu nướng cho gọn gàng, tươm tất.
Chiều tối, mệt nhoài với bao nhiêu việc linh tinh trong ngày, tôi không vội nấu cơm mà nằm dài ra giường nghỉ ngơi cho lại sức.
Trong giấc ngủ lơ mơ tôi lại thấy đám trẻ con tối qua, chúng đứng ngay trước cửa phòng tôi vòi vĩnh:
- Cô ơi, con đói quá, cô nấu cơm cho con ăn với!
- Cô ơi, cô có kẹo không? Cho con ăn kẹo đi cô…
Tôi giật mình thức giấc, ngơ ngác ngó ra ngoài. Lúc này bóng tối đã bao trùm, đèn trong phòng tôi cũng chưa mở. Đám muỗi đói vo ve bu quanh tôi. Tôi ngồi dậy mở đèn và sửa soạn nấu cơm.
Tôi có một tính xấu, dù sống một mình tôi cũng không thể nấu cơm ngày một lần như nhiều người khác. Tôi có thể chịu đựng được khó khăn, vất vả, thậm chí có thể nhịn đói được một vài cữ, nhưng nếu ăn cơm đàng hoàng thì cơm canh phải nóng sốt.
Vừa nấu cơm, tôi vừa nhớ lại giấc mơ khi nãy và chắc lưỡi than thầm:
- Đầu óc mình có vấn đề rồi cũng nên! Sao cứ mơ màng tới chuyện gì đâu kỳ lạ thế không biết!
Khi cơm vừa chín, tôi lại nghe tiếng thằng Tính ngoài cửa:
- Cô ơi! Em tới chơi với cô nè!
Tôi mừng rỡ:
- Vô đây đi Tính, cả ngày cô ở nhà một mình buồn muốn chết, cứ trông em mãi! Lúc sáng cô đứng ngó xuống sân trường chỉ mong gặp em, kêu em chiều tới chơi với cô mà không thấy!
Thằng Tính không nói gì, chỉ cười tủm tỉm.
Tôi chợt giật mình tự trách mình không chịu nấu cơm nhiều một chút, giờ có thằng Tính tới thì sao đây? Thôi kệ, cứ ăn một tí cho có, tối có đói thì nấu mì ăn thêm vậy.
Nghĩ thế, tôi kêu thằng Tính dọn chén đũa rồi hai cô trò lại ngồi ăn rất vui vẻ.
Cũng giống như hôm qua, thằng tính không ngớt lời trầm trồ khen thức ăn tôi nấu.
Tôi nửa đùa nửa thật:
- Em về xin má tới sống với cô đi, mỗi ngày cô đều nấu thức ăn ngon cho em ăn!
Thằng Tính cười, vẻ tư lự:
- Không được đâu cô! Má chỉ có mình em, em phải ở nhà với má… Nhưng nếu cô cho phép, mỗi ngày cứ chiều tối là em tới chơi với cô, ăn cơm với cô. Mà cô có đủ gạo nuôi em không đó?
Thằng Tính vừa hỏi vừa nhìn vào cái nồi cơm nhỏ xíu của tôi. Hôm qua vì chủ ý nấu cơm mời bác Năm cùng ăn nên tôi nấu nhiều, hôm nay tôi không nghĩ thằng Tính tới, chỉ tưởng nấu một mình mình, giờ có nó đâm ra chỉ mới xới mỗi người một chén mà cái nỗi chỉ còn tráng lại một lớp cơm dưới đáy.
Tôi cười giã lã:
- Gạo thì bao la, em cứ yên tâm ăn đi! Hôm nay cô không đói nên nấu ít thôi.
Thằng Tính cười lỏn lẻn:
- Cơm nhà cô ngon quá, em rất thích ăn…
- Vậy thì từ mai ngày nào cũng tới nghen, cô sẽ nấu cơm phần em, hôm nào mà để dư cơm nguội cô sẽ đánh đòn đó, nghe không?
Tôi nhìn Tính, âu yếm nói và tưởng đâu Tính sẽ vui vẻ đồng ý tức thời. Nhưng không, Tính buông đũa, ngồi thừ ra một lúc rồi mới nói thật chậm rãi:
- Em cũng không biết em còn được tới chơi với cô trong bao lâu nữa!
- Sao vậy?
Tôi ngạc nhiên hỏi Tính
Tính cười buồn:
- Thôi, cô đừng quan tâm tới chuyện đó. Hôm nào tới được, nhất định em sẽ tới với cô. Em rất thích được tới đây chơi với cô!
Tôi nhìn Tính rồi nói:
- Cô biết rồi, mai mốt chính thức vô năm học, em sợ má không cho đi chơi chứ gì? Yên tâm đi, nay mai cô sẽ tới nhà em, xin phép má cho em tới chơi với cô, em sẽ tới đây học bài cũng được mà!
Tính không nói gì, chỉ ngồi cười thật buồn.
- Ăn cơm đi em!
Tôi giục.
Tính bưng chén cơm lên ăn một cách uể oải.
Ăn xong, nó không liếng thoắng kể cho tôi nghe đủ thứ chuyện như hôm qua nữa mà cứ ngồi thẩn thờ, tôi hỏi gì nó cũng ậm ừ cho qua chuyện.
Ngồi một lúc nó đứng lên xin phép ra về. Thấy còn sớm, tôi rất muốn giữ nó ở lại nhưng thấy tâm trạng nó dường như có gì đó không vui nên tôi không nói gì, chỉ tiễn nó ra tới cầu thang. Bao giờ tới đó cũng đủôi tôi trở lại. Lần này cũng vậy, nó vẫn không quên căn dặn:
- Cô nhớ đóng kín cửa phòng nghen cô!
Tôi tò mò hỏi:
- Tại sao em lại dặn cô chuyện đó hoài vậy? Có gì quan trọng lắm à, Tính?
Tính lưỡng lự một chút rồi cười gượng gạo:
- Dạ, đâu có gì đâu cô! Tại em nghe má nói gió ở miền này độc lắm, ai không quen là bị xâm nhập vào cơ thể, chết chứ chẳng chơi. Em sợ cô bị trúng gió nên dặn vậy thôi!
Tôi xúc động trước lời nói của Tính, mỉm cười với nó:
- Ừ, cô nhớ rồi! Cô cám ơn em rất nhiều, cho cô gởi lời thăm má nghen Tính, nay mai cô sẽ tới chơi.
Tính dạ lớn rồi chạy ào xuống sân.
Tôi vào phòng, dọn dẹp một tí rồi lấy bài ra soạn.
Tối đó khí trời dịu mát nên tôi không cần phải mở cửa phòng và đã ngủ một giấc rất ngon không hề mộng mị.
Hôm sau, tôi chẳng còn công việc gì để làm. Suốt ngày tôi hết đọc truyện lại lấy bài vở ra xem lại rồi ngủ một giấc đến hơn hai tiếng đồng hồ.
Chiều mát, khi học sinh đã tan học từ lâu, sân trường quạnh vắng, tôi lang thang xuống chơi với bác Năm, nhưng có lẽ bác đã đi đâu đó, trong phòng bác không có ai.
Một mình thơ thẩn đi dạo quanh sân trường, tôi chợt nhận ra mình đã đi tới cánh cổng sau lúc nào không hay, cánh cổng ăn thông với sân banh mà hôm trước Tính đã kể cho tôi nghe.
Tôi mỉm cười nghĩ tới cảnh Tính một mình lén lút mở cổng này để vào thăm tôi. Nhưng ánh mắt tôi chợt chạm phải cái ổ khóa lủng lẳng trên cánh cổng. Tôi đi nhanh tới cầm ổ khóa lên nhìn thật kỹ, cái ổ khóa đã cũ lắm rồi và hình như đã lâu không ai đụng chạm tới. Một lớp rỉ sét bao quanh nó. Vậy sao Tính vào được mỗi đêm? Thằng nhóc này cũng ma lanh thiệt!
Tôi lại không bận tâm nhiều tới chuyện đó nữa. Lang thang quay trở vào, tôi thấy bác Năm đang kéo ống nước tưới mấy bồn hoa ở sân trường.
- Bác để cháu tưới giúp cho, bác Năm!
Tôi giành lấy ống nước trong tay Năm, ông mỉm cười đưa cho tôi và nói:
- Cháu làm được không đó?
Tôi cười:
- Trời! Bộ bác nhìn cháu ra vẻ tiểu thơ lắm sao? Chuyện gì cháu cũng làm được hết nghen bác!
- Giỏi! Giỏi…
Bác Năm cười khà khà và lấy thuốc ra hút, vừa nhìn tôi rê ống nước tưới cây.
- Bác Năm ơi, mấy chục năm qua bác cứ sống một mình vậy sao bác?
Tôi vừa làm vừa gọi chuyện.
Bác Năm ngồi xuống chiếc ghế đá cạnh đó phì phà thuốc và chậm rãi nói:
- Không sống một mình vậy chứ cháu biểu bác sống với ai đây?
Tôi nháy mắt cười với bác:
- Sao bác không tìm một người để chia sẻ buồn vui?
- Cháu nghĩ dễ tìm lắm sao?
Bác Năm hỏi mà không nhìn tôi.
Tôi kéo ống nước đi tới góc sân bên kia, bác Năm cũng đứng lên lững thững đi theo, rề rà kể chuyện:
- Thiệt ra mấy năm trước bác cũng tưởng đời mình sẽ thay đổi, vì đã tìm thấy một người phụ nữ biết thông cảm và thương yêu mình. Những người trong trường cũng mừng giùm cho bác, lãnh đạo nhà trường đã lên kế hoạch cấp cho bác mượn miếng đất phía sau để bác dựng một ngôi nhà nhỏ vợ chồng hôm sớm có nhau. Nhưng thật không ngờ số phận hẩm hiu, người phụ nữ đó chưa kịp về sống với bác thì đã qua đời… Từ đó đến nay bác không nghĩ tới chuyện lấy vợ nữa. Một phần vì tuổi bác đã cao rồi, phần nữa bác vẫn chưa quên được người đó, và một phần cũng vì bác tin số phận mình đen đuổi, dính vào ai là người đó sẽ bị tai họa.
Tôi đứng sững nghe bác Năm kể chuyện đời mình. Nước trong ống tuôn ra xối xả, tràn khỏi bồn hoa, chảy xuống sân đọng vũng.
Bác Năm đi nhanh tới vòi khóa nước lại rồi cuộn ống dây dẹp vào một góc. Tôi tới ngồi thừ lên ghế đá cạnh đó.
Làm xong công việc, bác Năm tới ngồi cạnh bên tôi thủ thỉ:
- Mỗi người đều có số phận riêng cháu ạ! Sung sướng hạnh phúc hay vất vả đau thương chắc là do cái nghiệp từ kiếp trước, bây giờ mình có khóc lóc, oán than cũng không thay đổi được gì, thôi thì đành cắn răng mà chấp nhận, rồi ráng ăn ở hiền lành để hy vọng vào kiếp sau…
Tôi nghe bác Năm kể chuyện đời bác mà như bác đang nói về tôi. Nước mắt tôi cứ thánh thót rơi xuống không ngăn lại được.
Bác Năm cũng không tỏ vẻ gì ngạc nhiên khi thấy tôi đột nhiên khóc ròng như vậy.
- Hôm mới gặp cháu, bác đoán biết ngay cháu về công tác ở đây là để trốn chạy tình cảm. Chỉ có chuyện đó mới khiến cháu buồn ngẩn ngơ  như vậy mà thôi. Cháu còn trẻ, rồi mọi chuyện sẽ qua thôi cháu ạ!
Bác Năm nhỏ nhẹ an ủi.
Tôi chỉ khóc mà không nói gì được.
Bác Năm lảng sang chuyện khác.
- Mấy hôm nay cháu đã quen với cuộc sống ở đây chưa? Khi nào buồn thì xuống chơi với bác.
Tôi quẹt nước mắt, cố mỉm cười:
- Dạ, cháu cũng quen rồi bác Năm à! Vả lại cháu vốn thích sự yên tĩnh nên nơi này cũng hợp với cháu.
Bác Năm vỗ vai tôi cười khà khà:
- Ừ, vậy thì được đó! Ráng đi cháu, rồi tất cả sẽ qua hết thôi. Ít lâu nữa để bác tìm đứa nào dễ thương bác làm mai cho!
Tôi cười héo hắt:
- Không, cháu chờ khi nào bác cưới vợ đi đã!
Bác Năm thở dài:
- Chuyện đó kiếp này không tới nữa đâu cháu ơi!
Tôi nhìn bác Năm mỉm cười:
- Bác đừng có giấu cháu, cháu biết hết rồi nghen!
Bác Năm ngạc nhiên:
- Cháu nói cháu biết hết, mà biết gì?
Tôi thật buồn cười trước vẻ mặt làm như ngây thơ vô tội của bác Năm. Tự nhiên lúc đó tôi thấy mình cần phải nói ra và sẽ cố gắng vun đắp cho mối tình của bác.
Tôi nháy mắt nhìn bác:
- Cháu muốn bác giới thịêu bác gái với cháu!
Bác Năm càng ngơ ngác dữ dội hơn:
- Cháu nói gì bác không hiểu được?
Tôi bật cười khanh khách và nói:
- Cháu muốn nói tới người phụ nữ đêm hôm kia, người đang đêm mang áo quần của bác đi giặt đó!
- Người phụ nữ đêm hôm kia? Cháu muốn ám chỉ cái gì vậy?
Bác Năm nhíu mày lặp lại câu nói của tôi.
Tôi không cười nữa mà bắt đầu ngạc nhiên giống bác:
- Bác Năm không nhớ sao? Tối hôm kia cháu thấy có người phụ nữ đi từ trong phòng bác ra mà, bưng theo cái thau đi xuống nhà vệ sinh nên cháu đoán là người đó đem quần áo của bác đi giặt.
- Người đàn bà đó vóc dáng ra sao? Cháu… cháu nói cho bác biết với!
Giọng bác Năm như sắp hụt hơi.
Lúc này tôi hoang mang cực độ:
- Bác… thật sự bác không biết sao? Người đó cao cỡ này này, dáng dấp thon thả, mặt mũi thì cháu không thấy rõ, nhưng ấn tượng nhất là giọng hát!
Tôi vừa nói vừa làm điệu bộ để diễn tả dáng dấp của người phụ nữ kia.
Khi nghe tôi nhắc tới giọng hát, bác Năm như giật bắn người, bác hấp tấp hỏi dồn:
- Giọng hát người đó ra làm sao? Người đó hát gì hở cháu?
Tôi lúng túng một thoáng rồi nói theo trí nhớ của mình:
- Giọng hát của người đó rất hay nhưng thật buồn bác ạ! Cả lời bài hát cũng buồn nữa.
- Lời bài hát thế nào, cháu có nhớ không?
Bác Năm hổn hển hỏi dồn.
Tôi căng đầu óc cố nhớ lại nhưng không tài nào nhớ ra. Bất chợt tôi reo lên:
- A, cháu nhớ rồi! Hôm đó nghe lời bài hát là lạ, hay hay nên cháu có chép lại. Bác chờ chút để cháu lên lấy xuống cho bác xem!
- Ừ, cháu lên lấy mau đi!
Bác Năm dường như đang run rẩy.
Tôi chạy nhanh lên lầu, mở cửa phòng vào lục tung đống sách vở trên bàn và nhanh chóng tìm thấy cuốn tập có chép bài hát đó. Tôi cầm cuốn tập chạy trở xuống sân trường.
Bác Năm lấy thuốc ra hút, nhưng tôi thấy hai bàn tay bác run lên bần bật, đánh rơi diêm quẹt đến mấy lần. Tôi ngồi xuống cạnh bác Năm lật cuốn tập ra và hắng giọng rồi cất tiếng hát:
Có phải ta buồn nên nắng cũng hanh hao?
Gió mệt mỏi lá cây lay rất nhẹ
Ta một mình giữa trưa quạnh quẽ
Chợt nghe thèm lời dịu ngọt từ ai...
Có khóc đâu sao khóe mắt lại cay?
Ta đã dặn lòng mình từ lâu lắm
Rằng tình yêu với ta là vực thẳm
Đừng đến gần sẽ có lúc sa chân
Cớ sao lòng vẫn cứ mãi bâng khuâng
Cứ vương vấn một điều gì hư ảo
Để có lúc ta thấy đời giông bão
Không bờ bến nào chở che...
 
Có những lúc ta thèm nghe
Một câu hỏi hay một lời nhắc nhở
Để ta biết dẫu muôn trùng cách trở
Vẫn còn có người nhớ nghĩ về ta
Mỗi đêm trăng ánh sáng vỡ òa
Ta ước được cùng ai vai kề má tựa
Để ta trải lòng mình theo điệu nhạc
Mơ một vầng trăng...
Thôi đừng buồn và cũng chớ băn khoăn...
Hát xong, tôi quay sang nhìn bác Năm và thật bất ngờ khi thấy bác ngồi ngây người như một pho tượng. Điếu thuốc trên tay bác đã cháy hơn phân nửa nhưng bác vẫn không buồn đưa lên miệng phì phà.
- Bác Năm! Bác sao vậy?
Tôi chạm khẽ vào tay bác, hỏi.
Bác Năm giật mình thảng thốt kêu lên:
- Trời ơi! Thì ra là bà ấy! Bà ấy vẫn luôn theo tôi sao?
Tôi mở to mắt nhìn bác Năm không dám hỏi gì thêm trước nỗi đau đang hằn lên trên gương mặt bác.
Hai hàng nước mắt từ từ lăn xuống gò má già nua khắc khổ. Bác Năm khóc lặng lẽ một hồi rồi chậm rãi kể cho tôi nghe bằng cái giọng nghèn nghẹn đến tội nghiệp:
- Bà ấy chính là vợ bác năm xưa. Vợ chồng bác hết mực yêu thương nhau và đã có với nhau một đứa con gái, chắc cũng trạc bằng tuổi cháu. Lúc đó bác đi buôn bán rày đây mai đó, năm bữa nửa tháng mới về tham nhà. Có những khi đi một lúc hơn hai tháng trời mới quay về. Rồi bác nghe người ta xì xầm bàn tán, rằng vợ bác vì không chịu được nỗi cô đơn nên đã có quan hệ bất chính với một người trong xóm. Bác rất buồn đau, nhưng vợ bác khăng khăng cho là mình bị oan. Bác cũng hoang mang chưa xác định được. Nhưng rồi sau đó, người ta trưng ra cho bác thấy những bằng cớ hiển nhiên không thể không tin được. Một lần nữa bác gặng hỏi, nếu cô ấy đã lỡ sa ngã bác sẵn sàng tha thứ và vợ chồng sẽ làm lại từ đầu, nhưng cô ấy một mực kêu oan. Thế là bác lẳng lặng bỏ nhà ra đi, vì nghĩ cô ấy không còn thành thật nữa. Bác đi hơn bốn tháng, không hề biết chút nào tin tức ở quê nhà. Năm đó chiến tranh loạn lạc, bom đạn liên miên. Trong một lần đi cùng với mấy người bạn, nhóm của bác vấp phải mìn nhưng bác may mắn chỉ bị thương nơi chân không nguy tới tính mạng. Trong khi đó, người bạn thân cùng quê bị rất nặng. Trong cơn hấp hối anh ta đã thú nhận vì quá mê say nhan sắc của vợ bác, anh ta đã đặt điều vu khống để vợ chồng chú ly tan, anh ta sẽ thừa cơ hội chiếm lấy trái tim cô ấy. Nhưng anh ta không ngờ cô ấy là một phụ nữ chặt dạ, dù bị bác đối xử không tốt nhưng cô ấy vẫn một lòng yêu thương bác, dẫn con đi tìm kiếm bác khắp nơi. Người bạn ấy thú nhận xong tội lỗi thì cũng trút hơi thở sau cùng. Bác đau đớn khôn xiết và vội vàng trở về quê tìm lại vợ con. Nhưng hỡi ơi quê nhà loạn lạc, cô ấy dắt con phiêu bạt phương nào không ai hay biết. Bác cứ lần theo từng dấu vết dù mờ nhạt mỏng manh để tìm cho bằng được vợ con. Hơn một năm sau bác mới nghe tin có một phụ nữ với những đặc điểm giống như vợ bác dắt theo một đứa con nhỏ về giảng dạy tại ngôi trường này. Hồi đó chiến tranh, người ta học chủ yếu là để biết chữ, lớp học xô bồ đủ các lứa tuổi. Vợ bác ngoài dạy chữ còn dạy cho học trò hát. Cô ấy là một phụ nữ có tài, say mê âm nhạc và thơ ca. Bác và cô ấy đã từng có những năm tháng hạnh phúc ngập tràn trong tình yêu lãng mạn. Nhưng thật đau lòng, khi bác tìm tới được nơi này thì biết tin, trước đó hai ngày một trận bom dội xuống đây, gần như toàn bộ lớp học của vợ bác đã tan xác hết, chỉ còn sót lại một vài thi thể bị văng ra tận ngoài xa là nguyên vẹn… Dù không nhìn được mặt vợ con, hồ sơ giấy tờ trong trường cũng không còn để bác xác minh có đúng đó là vợ con mình không nhưng bác vẫn linh cảm là đúng. Vả lại bác cũng quá mỏi mệt, chán chường rồi, không còn đủ sức để tìm kiếm nữa. Bác ở lại đây từ đó, coi như nơi này là gia đình mình từ đó! Nhưng bác thật sự không ngờ bà ấy vẫn luôn ở bên cạnh bác. Sao bà ấy không để cho bác thấy mặt mà cháu thì lại nhận ra? Chẳng lẽ cho đến tận bây giờ bà ấy vẫn chưa chịu tha lỗi cho bác hay sao? Còn con gái bác, con bé Hà nữa, nó giờ ra sao?
Bác Năm gục xuống khóc nghẹn ngào. Tôi chợt thấy có điều gì đó như lóe lên trong đầu. Hà, bé Hà! Đúng rồi, đúng là con bé vẫn đeo theo tôi để xin kẹo có tên là Hà. Có đúng nó là con gái của bác Năm không?
Bất chợt tôi hỏi:
- Bác có hình của mẹ con bác gái không? Cho cháu xem với!
Bác Năm gật đầu rồi đứng lên nhúc nhắc đi vào phòng. Lát sau bác trở ra, trên tay cầm một một tấm ảnh đã ố vàng theo năm tháng:
- Đây là hình mẹ con nó chụp trước lúc bác bỏ nhà ra đi…
Tôi cầm lấy tấm ảnh, và rõ ràng tôi thấy đứa bé trong hình đang mỉm cười nũng nịu với tôi:
- Cô ơi, cho con kẹo đi cô!
- Nga! Nga! Cháu sao vậy?
Giọng bác Năm hốt hoảng gọi tôi. Tôi bừng tỉnh nhìn bác bằng ánh mắt thất thần, lắp bắp:
- Bác Năm ơi… cháu… cháu đã gặp người này rồi! Mấy hôm nay cháu vẫn cứ thấy có một đám trẻ vây lấy cháu đòi ăn cơm, ăn kẹo. Cô bé trong hình quả có tên là Hà, luôn xin cháu kẹo…
- Thật vậy sao? Thật vậy sao?
Bác Năm lẩm bẩm.
Tôi bỗng nhớ ra và hỏi gấp rút:
- Bác Năm ơi, có phải cánh cổng phía sau trường lúc trước mấy thầy bên đây thường sang sân banh bên kia để chơi phải không bác?
Bác Năm ngạc nhiên nhìn tôi:
- Sao cháu biết chuyện đó?
Tôi không trả lời mà hỏi tiếp:
- Bác biết một thằng bé tên là Tính thường lượm banh giúp các thầy không?
Bác Năm nhìn tôi lạ lẫm:
- Sao cháu biết nó?
Tôi đáp nhanh:
- Tối nào nó cũng tới ăn cơm với cháu!
Bác Năm đứng phắt dậy nhìn tôi đăm đăm. Dự cảm có điều không hay, tôi run run hỏi:
- Bác Năm, bác kể cho cháu nghe hết mọi chuyện đi bác!
Bác Năm thở dài đánh thượt một cái rồi ngồi xuống cạnh tôi nói:
- Thằng Tính chết cách đây hơn hai năm rồi!
Mồ hôi tôi bắt đầu nhỏ giọt hai bên thái dương mặc dù buổi chiều tối hôm nay gió thật lớn.
Bác Năm chậm rãi kể tiếp:
- Nó đang học lớp mười một thì mắc phải một căn bệnh lạ. Thân thể cứ mỗi ngày một xanh xao vàng vọt. Má nó đã phải bán nhà bán cửa để chạy thầy chạy thuốc mà không khỏi được. Cuối cùng thằng Tính chết, má nó quá đau buồn nên loạn trí, nhảy xuống sông chết luôn.
- Má nó cũng chết luôn?
Tôi lắp bắp hỏi lại nhưng không chờ bác Năm trả lời tôi nói tiếp:
- Vậy cái xe nước mía và người đàn bà kia… đều là ma sao?
Bác Năm gật đầu:
- Có lẽ đúng vậy rồi cháu à! Lâu nay người dân ở đây thường đồn đại chỗ gần khu vực bến xe có một xe nước mía ma, khác phương xa tới thường ghé vào đó uống, tuy không ai bị hại gì nhưng người ta không khỏi hoảng sợ khi sau đó thấy những tờ tiền mà người đàn bà đó thối lại chỉ là những tờ tiền âm phủ. Nhưng mà mẹ con nhà đó cũng đã cứu giúp nhiều người lắm, bởi vậy nên người ta lập một cái miếu nhỏ tại đó để thờ mẹ con thằng Tính đó cháu à!
Tôi bủn rủn cả người khi nghe bác Năm kể chuyện. Bất giác tôi òa khóc:
- Trời ơi! Tại sao lại là cháu chứ? Tại sao ma lại chọn cháu để hiện ra chứ?
Bác Năm an ủi:
- Cháu đừng buồn, có lẽ cháu là người hiền lương nên họ mới chọn cháu để nhờ cháu giúp đỡ.
- Nhờ cháu giúp đỡ… là sao?
Tôi ngơ ngác hỏi
Bác Năm suy nghĩ một chút rồi nói:
- Bác cũng không biết. Lâu nay bác không quan tâm mấy tới chuyện ma quỷ, nhưng bác biết có một người ở trong chợ huyện rất giỏi môn này. Ngay sáng mai bác sẽ cùng cháu tới đó. Cháu thấy được không?
Tôi gật đầu nhưng vẫn chưa hết thút thít:
- Nhưng… tối nay… cháu… cháu không dám về phòng…
Bác Năm nhìn tôi thông cảm:
- Lát nữa cháu cứ xuống phòng bác, nếu cháu không sợ người ta dị nghị.
Tất nhiên đối với tôi lúc này lời dị đâu đáng sợ bằng những hồn ma. Tôi nói:
- Để cháu lên phòng ôm mền gối xuống.
- Ừ, có cần bác đi theo không?
Bác Năm ân cần hỏi.
Tôi nhìn quanh thấy trời vẫn còn sáng, mặc dù trong lòng khong an nhưng tôi sợ làm phiền bác, bác đi đứng khó nhọc vậy, tôi không muốn vì mình mà bác phải lên xuống cầu thang vất vả.
Vì vậy nên tôi cố làm ra vẻ bình tĩnh:
- Dạ, không sao đâu bác, còn sớm mà!
Nói xong, tôi đứn lên đi về phòng, bác Năm cũng đi vô phòng bảo vệ.
Tôi mở cửa phòng bật sáng đèn và hồi hộp nhìn quanh. Bất chợt tôi xót xa khi thấy nồi cơm tôi vừa nấu khi nãy và nghĩ tới cảnh thằng Tính sẽ đến ăn cơm với tôi như lời hứa.
Tôi ôm mền gối định đi ra khỏi phòng nhưng tự nhiên lòng tôi không nỡ. Thằng Tính sẽ tới, không thấy tôi nó sẽ buồn biết mấy, tôi là người lớn đã hứa với nó rồi sao lại không giữ lời trong khi nó chỉ là một đứa trẻ, thậm chí chỉ là một hồn ma nhưng nó không hề tùy tiện hứa hẹn gì với tôi kia mà?
Không được! Dù thằng Tính là ma nhưng cư xử của nó từ lúc biết tôi đến nay lại rất “người” thì có gì tôi phải sợ nó? Nó đâu có làm gì hại tôi? Ngay khi tôi bơ vơ đặt chân tới mảnh đất này, mẹ con nó là người giúp đỡ tôi đầu tiên, tôi không thể cư xử với người ơn của mình như vậy được.
Tôi đi trở vào, để mền gối xuống giường rồi ra hành lang nói vọng xuống:
- Bác Năm ơi, cháu bận làm việc một chút, tối tối cháu mới xuống nghen bác!
- Ờ, cháu cứ làm cho xong đi!
Tiếng bác Năm từ dưới vọng lên.
Tôi đi trở vào phòng dọn chén bát ngồi chờ thằng Tính.
Mặt trời đã lặn từ lâu, bóng tối đã bao trùm vạn vật mà thằng Tính vẫn chưa thấy tới.
Tôi vẫn kiên nhẫn ngồi chờ. Lát sau tôi nghe tiếng chân rón rén ngoài hành lang như do dự, tự nhiên tôi không còn cảm giác sợ hãi gì nữa và lên tiếng:
- Tính phải không em? Vào đây với cô đi, cô chờ em từ nãy giờ…
Thằng Tính rụt rè một chút rồi đẩy cửa bước vào, mặt mũi buồn xo chứ không vui vẻ liếng thoắng như mọi bữa.
- Ngồi xuống đi em, cô đói rồi nè!
Tôi ân cần nói với nó.
Nó ngồi một cách khép nép, bưng chén cơm một cách rụt rè, tôi làm như không để ý tới, vui vẻ hỏi:
- Sao? Hôm nay thức ăn cô nấu dở quá hay sao mà ăn miễn cưỡng vậy Tính?
Thằng Tính đặt chén cơm xuống ngước nhìn tôi bằng đôi mắt long lanh nước:
- Cô… cô không sợ em sao?
Tôi vờ ngạc nhiên:
- Sao cô lại phải sợ em kia chứ?
Thằng Tính cúi đầu nói thật nhỏ:
- Cô đã biết em là ai rồi kia mà! Cô không sợ ma sao?
Nhìn dáng vẻ tội nghịêp của thằng Tính, trong lòng tôi trào lên một tình cảm thương yêu vô hạn. Tôi muốn kéo nó vào lòng, ôm nó thật chặt như ôm đứa em bé bỏng xa cách lâu ngày giờ mới gặp lại. Tôi không còn sợ dù biết rõ nó là ma.
Nước mắt tôi rớt xuống chén cơm đang ăn dở. Tôi nghẹn ngào không nuốt nổi nữa, đạt chén xuống mâm tôi nói với thằng Tính những lời chân thành xuất phát từ trong đáy lòng tôi:
- Lúc mới biết em là ma, quả thật cô rất sợ! Cô nghĩ tới cảnh cô và em đã từng ăn cơm và cười giỡn với nhau mà nổi cả da gà! Nhưng rồi sau phút giây bàng hoàng đó, bình tâm lại cô suy nghĩ thật cặn kẽ, em là ma thì sao chứ? Em có làm gì tổn hại tới cô đâu? Ngược lại, em còn mang tới cho cô niềm tin vào lòng tốt của con người, em đã đem tới cho cô sự ấm áp, không khí gia đình ở nơi xa lạ này… Cô không sợ em nữa Tính à… Cô hứa với em, mỗi chiều cô vẫn sẽ nấu cơm chờ em tới ăn. Em vẫn tới với cô chứ, Tính?
Thằng Tính ngồi đờ người ra nghe từng lời tôi nói. Nó không nói gì nhưng lát sau thì bắt đầu chảy nước mắt mà miệng nó lại cố nhoẻn cười:
- Em rất thích tới đây ăn cơm với cô. Cơm cô nấu rất ngon, nhưng má nói em với cô thuộc hai thế giới khác nhau không thể nào cùng hòa hợp được, nếu như em cứ tiếp xúc với cô hoài, chắc chắn sẽ có lúc cô bị phần âm của em xâm chiếm, như vậy cô sẽ đua bệnh rồi chết dần chết mòn. Mà em thì không muốn điều đó, má cũng không cho phép em làm vậy. Nên hôm nay em định tới đây ăn với cô bữa cơm cuối cùng… Có lẽ nay mai em sẽ phải đi xa...
Tôi hốt hoảng hỏi:
- Em đi đâu vậy Tính?
Thằng Tính buồn rầu nói:
- Đáng lẽ em đi lâu rồi, nhưng vì em thương má, không nỡ bỏ má lại một mình nên em cứ dùng dằng hoài…
Rồi bất chợt thằng Tính nhìn tôi bằgn ánh mắt cầu khẩn:
- Cô ơi…  Hay là… cô giúp cho em đi, nghen cô?
Tôi ngạc nhiên:
- Cô giúp gì được cho em?
Thằng Tính gật đầu:
- Má nói chỉ có cô mới giúp được cho má con em và cho mấy người ở đây nữa!
- Mấy người ở đây? Ý em nói là…
Tôi ấp úng hỏi
Thằng Tính gật đầu:
- Dạ, mấy người đó toàn là ma. Tụi nó chết trước em lâu lắm, nhưng ở cõi âm không phân biệt như cõi trần, cứ hồn ma nào lớn hơn là làm anh, bởi vậy tụi nhóc rất sợ em. Nếu em không rầy la tụi nó thì cô không yên mấy hôm nay đâu. Cả cô Huệ cũng vậy, cô ấy cũng cấm không cho tụi nhỏ quấy rầy cô.
- Cô Huệ? Có phải cô ấy là mẹ của bé Hà, đúng không?
Tôi hỏi
Thằng Tính gật đầu:
- Dạ, đúng rồi đó cô!
Tôi chợt nhơ, hỏi Tính:
- Lúc nãy em nói cô giúp gì được cho em và mọi người? Nếu được cô sẽ không từ nan đâu em ạ!
Thằng Tính run run xúc động:
- Má nói thật không sai. Má nói ngay lúc đầu nhìn thấy cô má đã biết cô là ân nhân rồi.
Thằng Tính lặng đi một chút rồi nói tiếp:
- Trong tất cả những hồn ma phảng phất quanh đây, chỉ có mỗi mình em là được chôn cất tử tế, còn tất cả đều bị nát thay dưới đạn bom, không mồ không mả. Mẹ em thì không bị bom đạn nhưng thân xác đã bị rửa nát dưới lòng sống, nắm xương tàn cũng không biết trôi dạt về nơi chốn nào. Cô biết không, những người chết mất xác như vậy không thể nào siêu thoát được, trừ khi có người lập đàn cầu siêu cúng tế cho họ. Vì không siêu thoát được nên các oan hồn uổng tử cứ loanh quanh khu vực này, mặc dù chưa từng làm hại ai nhưng âm khí của tụi em khiến cho nơi đây không thể nào phát triển được, kể cả việc học hành của học trò ở đây cũng vậy.
- Nhưng tại sao cô mới là người có thể lập đàn cầu siêu cho họ được?
Tôi vẫn không ngừng thắc mắc.
Thằng Tính nói rành rẽ như một người lớn tuổi:
- Cõi âm cũng có những quy luật khắt khe mà con người không thể nào ngờ được cô ạ! Lễ cầu siêu giống như một tờ giấy bão lãnh, chỉ có thể có giá trị bởi một người có đủ các yếu tố bắt buộc mà họ đòi hỏi. Những điều đó nếu em kể ra đây thì dài dòng, rắc rối lắm, cô chỉ cần biết cô là người hội đủ các điều kiện đó, nên chỉ cô mới có thể bảo lãnh cho những vong hồn này siêu thoát đầu thai kiếp khác mà thôi.
Thấy tôi ngồi thừ người không nói gì, thằng Tính lo lắng hỏi:
- Cô ơi, cô có đồng ý giúp tụi em không cô?
Tôi nhìn nó, mỉm cười gật đầu:
- Có chứ! Nhất định là cô sẽ làm. Nhưng Tính nè, em cho cô biết biết thêm một chuyện nữa nhé?
- Dạ, cô cứ hỏi, nếu chuyện gì em biết em sẽ nói với cô!
Thằng Tính gật đầu đồng ý.
- Tại sao cô Huệ và bé Hà không xuất hiện cho ông Năm bảo vệ thấy mặt trong khi ổng luôn thương nhớ mẹ con họ, mà cô nghĩ mẹ con họ cũng thương nhớ ông Năm lắm, đúng không em?
Tôi quyết tâm hỏi cho rõ điều này để giúp bác Năm gỡ bỏ những vướng mắc trong lòng.
Thằng Tính nhìn tôi một lúc rồi nói:
- Đáng lẽ em không được nói ra điều này, nhưng em không thể giấu cô được. Cô nói với ông Năm, nếu ông muốn gặp lại mẹ con cô Huệ thì ông nên gỡ bỏ cái nanh heo rừng đang đeo ở cổ. Cái nanh đó đã được ếm bùa nên ma quỷ không thể xuất hiện trước mặt ông Năm được. Điều này cũng làm cô Huệ và bé Hà buồn lắm đó cô!
Thằng Tính nói xong đứng lên bịn rịn:
- Thôi, em phải về đây! Có thể em sẽ không gặp lại cô được nữa, nhưng lúc nào em cũng sẽ nghĩ về cô và phù hộ cho cô… em cảm ơn cô đã cho em những bữa cơm ngon lành và sẽ giúp tụi em được siêu thoát.
Tính nói xong đi nhanh ra cửa.
Tôi hoảng hốt gọi giật lại:
- Tính! Tính ơi! Khoan đã, em cho cô hỏi thêm một điều nữa…
Thằng tính dừng chân quay nhìn tôi chờ đợi. Tôi nói như muốn hụt hơi:
- Cô… cô đã từng nghe mấy đứa trẻ xin cơm, xin kẹo, như vậy là...
Tôi lúng túng không biết nên dùng từ gì cho phù hợp.
Nét mặt Tính giãn ra, nó mỉm cười nói với tôi:
- Lúc nãy em cũng định thưa với cô chuyện này, nhưng em sợ như vậy là đòi hỏi ở cô nhiều quá, em không dám. Bây giờ cô đã hỏi thì em xin nói thật: Các bạn ấy và cả cô Huệ từ lâu nay luôn đói khát vì đâu có ai cúng kiếng gì đâu. Mà họ cũng không có đủ ma lực để tự tìm lấy cái ăn…
- Họ không thể vào đây để ăn cơm như em sao?
Tôi hỏi lại.
Tính gật đầu:
- Dạ, họ không thể! Họ là ma nhưng không có ma lực, họ rất yếu ớt không làm gì được…
- Nếu muốn cho họ ăn, cô phải làm sao?
Tôi hỏi nhanh.
Tín mừng rỡ nói:
- Nếu cô muốn cho họ ăn, cô phải đem xuống sân trường và nói rõ, kêu họ về ăn thì họ mới dám…
Tôi gật đầu:
- Cô hiểu rồi! Cô cảm ơn em thật nhiều nghen Tính! Cô tin rằng nay mai em và tất cả mọi người sẽ được siêu thoát!
Tính không nói gì chỉ mỉm cười rồi lặng lẽ bước đi. Tôi không tiễn Tính tới cầu thang như thường bữa mà đứng ngó theo bóng Tính dần xa.
Lát sau tôi khép cửa phòng đi xuống dưới nhưng không ôm theo mền gối.
Bác Năm ngồi thẩn thờ trong phòng, đôi mắt ngầu đỏ như vừa mới khóc.
- Ủa, sao đi tay không vậy cháu?
Bác Năm ngạc nhiên hỏi khi thấy tôi không mang theo mền gối để xuống ngủ dưới này.
Tôi không trả lời bác mà lẳng lặng ngồi xuống chiếc ghế đối diện nói với bác Năm rằng:
- Bác có muốn gặp lại bác gái và Hà không?
Bác Năm như không tin vào tai mình, lắp bắp hỏi lại:
- Sao? Cháu… cháu nói sao?
Tôi cố gượng cười:
- Có lẽ bác đang đau buồn vì nghĩ bác gái vẫn chưa tha thứ cho bác? Đừng buồn nữa bác ạ, bác gái đã tha lỗi cho bác từ lâu rồi, mẹ con bác gái vẫn mong muốn được hiện ra trước mặt bác nhưng họ không thể, chỉ vì…
- Vì sao?
Bác Năm hỏi dồn.
Tôi chỉ tay vào sợi dây chuyền đang lủng lẳng trên cổ bác:
- Chỉ vì cái nanh heo rừng này đã ngăn cách gia đfinh bác có cơ gặp lại nhau. Bác cởi bỏ nó ngay đi, rồi bác sẽ gặp.
- Thật hả cháu? Làm sao cháu biết vậy?
Bác Năm vừa luýnh quýnh cởi bỏ sợi dây chuyền vừa hỏi tôi.
Tôi khẽ cười, nói:
- Thằng Tính cho cháu biết!
Bác Năm ngó tôi trân trân:
- Vậy ra nãy giờ cháu nói chuyện với thằng Tính trên đó? Cháu… cháu không sợ sao?
Tôi cười buồn:
- Cháu đã ngộ ra rồi bác ạ, có rất nhiều con người còn đáng sợ hơn ma, vậy mà mình vẫn luôn thương nhớ họ, còn những hồn ma, họ có làn gì tổn hại tới mình đâu sao mình lại sợ họ kia chứ? Cháu nói vậy đúng không bác Năm?
Bác Năm cầm sợi dây chuyền đưa lên ngang mắt nói chậm rãi:
- Ngày bác mới vào làm ở đây, một người bạn của bác nói rằng, nơi này diễn ra nhiều sự chết chóc, hồn ma lẩn khuất rất nhiều, để phòng thân, người bạn tặng cho bác sợi dây chuyền này, nói rằng nó đã được yểm bùa, không có ma quái nào tới gần được. Bác thật không ngờ, chính vì vậy mà suốt bao nhiêu năm qua vợ con bác ở ngay sát một bên mà bác không hề hay biết! Cháu nói đúng, ma thì có gì đáng sợ đâu?
Vừa nói, bác Năm vừa đứng lên đi ra ngoài thẳng tay ném sợi dây chuyền xuống cái hồ bên cạnh.
Tôi nhìn bác thở dài rồi nói:
- Thôi, cháu lên phòng đây, mong rằng đêm nay bác sẽ gặp lại vợ con. Ngày mai cháu còn phải bàn với bác nhiều chuyện khác nữa.
Bác Năm lặng lẽ gật đầu không nói gì.
Tôi đi về phòng mình lòng thật bình lặng.
Sáng sớm hôm sau, tôi chưa kịp ra khỏi mùng đã nghe tiếng chân nặng nhọc của bác Năm dừng trước cửa phòng và giọng bác cất lên nghèn nghẹn:
- Nga à, bác cám ơn cháu nhiều lắm! Nhờ cháu mà đêm qua bác và mẹ con Hà đã giải tỏa được với nhau hết tất cả những nỗi ấm ức nhớ thương suốt mấy chục năm dài. Bây giờ, dù cho có phải nhắm mắt xuôi tay bác cũng không còn gì phải hối tiếc.
Tôi lật đật chui ra khỏi mùng, không kịp đánh răng rửa mặt gì hết, kéo bác vào phòng kể lại tất cả những gì tối hôm qua thằng Tính đã nói với tôi.
Khi kể xong, tôi nói:
- Hôm nay là chủ nhật, trường không có học, bác đi vô chợ tìm ông bạn của bác để hỏi về cách thức lập đàn cầu siêu cúng tế. Còn cháu, cháu sẽ lo nấu cơm nước cho họ ăn một bữa ngon lành, mặc dù điều này đối với cháu thật khó khăn, vì cháu vốn là người vụng về, chưa khi nào nấu cơm cho bốn người ăn, nhưng cháu sẽ cố gắng. Vậy nhé bác Năm?
Bác Năm đưa tay áo quệt dòng nước mắt, mỉm cười với tôi:
- Bác sẽ nghe lời cháu, ngay tối nay mình tiến hành nghen cháu?
- Dạ!
Tôi mỉm cười gật đầu.
Tôi làm vệ sinh cá nhân xong là vội vàng ra chợ. Tôi mua đủ thứ đồ ăn thức uống, không quên mua mấy bịt kẹo đủ màu sắc để cho bé Hà, đứa bé vẫn thường gặp tôi là xin kẹo.
Chiều hôm đó, khi mặt trời vừa lặn, tôi và bác Năm bày ra một góc sân trường một mâm cơm thịnh soạn.
Bác Năm nước mắt rưng rưng đứng lầm rầm khấn vái.
Tôi ngồi nhìn bác mà nói thầm:
- Tính ơi, em có mặt ở đây không? Hãy cùng bạn bè ăn với cô bữa cơm nghen Tính!
Bất chợt tôi thấy trong bóng đêm chập choạng thằng Tính đang tươi cười dẫn bọ trẻ ra chỉ trỏ sắp xếp chỗ ngồi cho chúng. Nó dành chỗ trang trọng nhất cho mẹ nó và cô Huệ. Con bé Hà mắt sáng bừng lên khi thấy trước mặt nó là thật nhiều kẹo bánh.
Khi tất cả đã ngồi vào chỗ và bắt đầu cầm đũa, thằng Tính ngước nhìn tôi nước mắt rưng rưng không nói một lời.
Lúc mọi người ăn uống xong xuôi cũng là lúc bạn của bác Năm lập đàn cầu siêu cúng tế. Vì làm ngay trong sân trường nên chúng tôi chỉ làm một cách đơn giản nhất nhưng không kém phần long trọng.
Vị hòa thượng không ngừng đọc kinh cầu nguyện, tôi và bác Năm thành kính quỳ một bên.
Đêm đã khuya, gió thổi lạnh buốt và sương đã đẫm ướt mái tóc của chúng tôi nhưng không ai nao núng.
Bất chợt tôi thấy trong làn khói hương nghi ngút loáng thoáng bóng dáng từng người, từng người một đang chấp chới bay lên.
- Bay lên, bay lên đi hỡi những vong hồn tội nghiệp… Hãy siêu sinh đầu thai kiếp khác, nhưng xin đừng vấp phải những đau khổ của kiếp này…
Tôi lầm rầm khấn vái, và bỗng dưng tôi cảm thấy trong lòng mình nhẹ hẫng. Tất cả những đau thương, nhung nhớ chừng như cũng đã tan theo làn khói mong manh kia…
Khi vị hòa thượng ra dấu buổi lễ đã kết thúc. Tôi đứng lên và thấy như mình cũng đã bay lên…
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:46:10 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:14:42
CHIẾC VÒNG CẨM THẠCH
 
Diệp xắn tay áo lên khoe:
- Nè, mấy bạn nhìn xem, đẹp hôn?
Cả bốn đứa chúng tôi đều trố mắt khi nhìn thấy trên cánh tay tròn lẳn, trắng muốt của Diệp là một chiếc vòng cẩm thạch đẹp đến lạ kỳ!
Năm đứa chúng tôi học chung một lớp, cùng là con nhà khá giả nên những khi rỗi rảnh là nhóm: “Ngũ long công chúa” lại rảo khắp các gian hàng thời trang, các cửa hàng, cửa hiệu để mua sắm hoặc chỉ để ngắm nhìn, bình phẩm một vài món hàng nào đó mà thôi.
Là con gái nên không đứa nào hờ hững với các loại trang sức. Chúng tôi thường la cà ở các cửa hàng nữ trang, vàng bạc đá quý, mua sắm thì ít mà “dòm ngó” thì nhiều, đến nỗi hầu như chủ các cửa hàng ở khu vực này đều nhẵn mặt mấy đứa tôi.
Nhưng thật sự chưa bao giờ chúng tôi thấy được một chiếc vòng cẩm thạch đẹp đến như vậy.
Lan kéo tay Diệp lại gần xuýt xoa:
- Trời ơi! Dịêp kiếm ở đâu ra vậy? Các bạn nhìn nè, nó long lanh như mắt người vậy đó, lạ thiệt nghen!
Diệp cười hãnh diện:
- Ờ, ngay lúc mới nhìn thấy nó mình đã mê liền nên mua mà không cần kỳ kèo giá cả gì hết đó!
- Diệp mua ở cửa hàng nào vậy?
Thảo hỏi.
- Không, mấy hôm vừa rồi Diệp theo người chị bà con lên Đắc Lắc chơi. Tình cờ có một phụ nữ đem bán chiếc vòng này, thấy mê quá nên Dịêp mua liền đó! Bởi vậy, đi chơi về tới nhà sạch túi luôn!
Dịêp cười giòn giã, nhưng tôi và các bạn khác không ai quan tâm đến cái sự rỗng túi của Dịêp, mà chỉ quan tâm đến xuất xứ của chiếc vòng thôi.
- Chiếc vòng đẹp vầy chắc mắc tiền lắm há?
Ngọc hỏi.
Diệp lắc đầu:
- Không, không mắc như các bạn tưởng đâu. Chắc là người nhà quê, họ không biết được giá trị thật sự của món đồ trang sức nên bán rẻ, vì lúc đó chị ấy đang cần tiền gấp.
- Vậy là Diệp may mắn quá rồi! Bây giờ mà có ai bán chiếc giống vầy, đắt mấy mình cũng mua!
Tôi nói.
Diệp sung sướng đưa chiếc vòng lên ngắm nghía:
- Các bạn biết hôn, lúc mới đeo chiếc vòng vào tay, tự nhiên mình xúc động ghê lắm, cả đêm không ngủ ngon giấc… Hình như chiếc vòng này không giống với bất kỳ chiếc vòng nào khác!
Lan đùa:
- Ê, mấy bạn có nghe nói tới chuyện đồ vật để lâu năm cũng biến thành tinh không? Coi chừng chiếc vòng này cũng vậy đó nghen!
Diệp phát nhẹ vào vai Lan, cười:
- Tính nhát ma để tui bán lại chiếc vòng hả? Còn khuya, đừng có ham!
Cả mấy đứa cùng cười vui vẻ.
Thảo đề nghị:
- Tậu được chiếc vòng quý, phải rửa chứ, Dịêp?
Dịêp tươi cười:
- Được thôi! Được thôi! Các bạn muốn rửa bằng gì nè? Nước phông-tên nhe?
- Đồ quỷ! Keo kiệt vừa phải thôi chứ!
Thảo phản đối.
Tôi đề nghị:
- Nghe Diệp than đi chơi về hết tiền, cũng tội nghiệp, nên mình đừng đòi hỏi gì nhiều nghen các bạn, một chầu bánh xèo A Phủ, được chứ?
Lan, Ngọc, Thảo vỗ tay hoan hô. Diệp giả vờ ngã ra:
- Trời ơi! Tui xỉu…
Cả đám cười rần rần rồi kéo nhau ra xe lên đường đi tới quán bánh xèo A Phủ nức tiếng Sài Gòn.
Ngồi trong quán, vừa ăn bánh mà chúng tôi vẫn không ngớt bàn tán về chiếc vòng.
Chiếc vòng lên nước xanh một màu rất lạ. Đúng như Lan nhận xét, nhìn chiếc vòng, bất giác người ta liên tưởng tới ánh mắt long lanh của một người con gái đẹp, ánh mắt làm xao xuyến bất cứ ai, làm dịu lòng bất cứ ai nhìn thấy nó.
Diệp không sung sướng sao được khi mua chiếc vòng chỉ với giá mấy trăm ngàn, trong khi những chiếc vòng có giá bằng mấy chỉ vàng, thậm chí cả lượng vàng cũng không có được vẻ đẹp huyền hoặc như thế!
Tôi không nói ra, nhưng trong lòng thầm ganh tị với Dịêp và ước gì mình cũng có một chiếc giống như vậy.
Mấy ngày sau tôi nhận được điện thoại của Diệp vào sáng sớm, giọng Diệp đầy vẻ mệt mỏi:
- Phương xin phép cho Diệp nghỉ học hôm nay nghen, Diệp bệnh rồi!
Tôi cười:
- Bệnh sao vậy? Hay là đêm nào cũng thức ngắm chiếc vòng nên không còn sức lực?
Diệp mắng:
- Đồ quỷ! Bạn bè gì kỳ vậy, nghe bạn bệnh hổng biết hỏi thăm lại còn trêu chọc?
Rồi bất ngờ Diệp nhỏ giọng:
- Mà cũng lạ thiệt Phương à, hình ảnh chiếc vòng lúc nào cũng phảng phất trong đầu mình…
- Thôi đi bà, đã đeo nó trong tay rồi mà còn tương tư giống gì nữa! Ở nhà tịnh dưỡng cho khỏe đi, tui đi học đây!
Tôi cắt lời Diệp và vội vã ôm tập đến lớp.
Chiều hôm ấy tôi rủ Lan, Thảo, Ngọc đi thăm Dịêp. Nói là thăm vậy thôi chứ thật ra chúng tôi định đến nhà kéo Diệp đi ăn kem.
Nhưng thật không ngờ, khi chúng tôi đến nhà thì nghe tin Diệp đã mê man không còn biết gì nữa, hiện đang nằm trong bệnh viện để các bác sĩ theo dõi.
Chúng tôi vội vã chạy vào bệnh viện.
Vừa đẩy cửa phòng, chúng tôi thật sự bất ngờ khi thấy Diệp nằm im trên giường, mắt khép hờ nhưng từ thân thể Diệp hình như không còn tỏa ra sức sống nữa, duy chỉ có chiếc vòng trên cánh tay diệp là vẫn sinh động đến lạ lùng!
Mẹ Diệp ngồi ủ rủ một bên, thấy chúng tôi vào bà bỗng trào nước mắt.
- Mới hồi sáng Diệp gọi địên cho mình, chỉ hơi mệt thôi chứ đâu có gì?
Tôi hoang mang nói.
Mẹ Diệp rầu rĩ:
- Bác cũng không biết sao, sáng ra nó kêu mệt, bác xung tưởng không có gì nên vẫn đi làm bình thường, ai ngờ đâu tới trưa thì chị giúp việc gọi điện bảo Diệp mê sảng rồi. Bác về đưa nó vô bệnh viện thì người ta không tìm được nguyên nhân. Giờ nó chỉ nằm thiêm thiếp vậy…
Chúng tôi nhìn nhau không biết phải nói gì để an ủi mẹ Dịêp.
Diệp mồ côi cha từ nhỏ, hai bên nội ngoại cũng không còn thân thích nên giờ đây chỉ một mình mẹ Diệp vừa phải lo cho con, vừa lo việc ở công ty.
Thông cảm với hoàn cảnh của bạn, chúng tôi bàn với nhau rồi nói với mẹ Diệp:
- Bác à, tuần này lớp tụi con được nghỉ trọn tuần. Tụi con sẽ thay phiên nhau chăm sóc cho Diệp, bác cứ yên tâm điều hành công việc ở công ty.
Mẹ Diệp rưng rưng cảm động:
- Bác cảm ơn các cháu, cảm ơn nhiều lắm! Thật sự bác bối rối vô cùng, bác không thể bỏ mặc việc ở công ty, cũng không thể giao phó Diệp cho người làm săn sóc được. Nay các cháu đã nói vậy, bác thật yên tâm, bác nhờ các cháu vậy nhé!
Thế là bắt đầu từ hôm đó chúng tôi thay phiên nhau tới bệnh viện lo cho Diệp.
Đã ba ngày trôi qua, Diệp vẫn không mở mắt mà bác sĩ cũng chưa tìm được nguyên nhân nào khiến Diệp lâm vào tình trạng đó!
Ba ngày, nhưng thân xác Dịêp vàng võ xanh xao như người ốm nặng từ lâu. Chúng tôi đứa nào cũng không cầm được nước mắt khi thấy diệp như vậy.
Cánh tay của Diệp mới đây còn tròn lẳn, đẹp tuyệt vời với chiếc vòng cẩm thạch trên đó, mà giờ đây trông cánh tay với chiếc vòng lại tương phản ghê gớm. Mới mấy ngày trước chiếc vòng còn ôm khít lấy cổ tay mà giờ đây nó đã trở nên lỏng lẻo đến mức có thể tuột ra một cách dễ dàng.
Chiều ngày thứ tư, là phiên của Ngọc. Ngọc vừa nhúng khăn vào nước ấm lau mặt mũi tay chân cho Dịêp xong thì mẹ Dịêp đến, hai bác cháu ngồi nhìn Dịêp mà lòng không khỏi lo sợ.
- Bác… bác tính sao hả bác?
Ngọc rụt rè hỏi.
Mẹ Diệp thở dài:
- Bác cũng không biết tính sao nữa con à! Các bác sĩ ở đây cũng giỏi lắm mà không tìm được nguyên nhân, bác còn biết đưa nó tới đâu nữa?
Bất ngờ Diệp cựa mình. Mẹ Diệp và Ngọc mừng rú lên, chạy vội tới quỳ xuống cạnh giường Diệp.
Hai mắt Diệp chớp nhẹ rồi từ từ mở ra, đảo qua đảo lại một lúc.
Mẹ Diệp vừa khóc vừa hỏi:
- Diệp ơi, con tỉnh rồi phải không? Con có nhận ra mẹ, ra bạn Ngọc của con không?
Diệp nhìn mẹ, nhìn Ngọc rồi cố gượng cười ra dấu cho mẹ đỡ Diệp ngồi lên.
Ngọc và Diệp mỗi người một bên đỡ Dịêp ngồi dậy tựa lưng vào tường.
Diệp mệt mỏi nói:
- Con nằm đây lâu chưa, mẹ?
- Bốn ngày rồi đó con! Giờ trong người con thế nào rồi? Con có biết đói không? Để mẹ đi mua cháo cho con nghen?
Mẹ Dịêp lo lắng hỏi.
Dịêp lắc đầu, cười héo hắt:
- Mẹ ơi… con mệt lắm… chắc con không sống nổi đâu!
Mẹ Diệp khóc òa lên:
- Con nói gì bậy bạ quá vậy? Mẹ cấm con không được nói chuyện đó nữa, nghe không? Trời phật thương mẹ con mình nên con đã tỉnh lại rồi nè, từ từ con sẽ khỏe lại thôi…
Ngọc đứng kế bên cũng không cầm được nước mắt.
Diệp không nói gì nữa, chỉ khẽ đưa cánh tay mình lên nhìn rồi cười với vẻ xót xa:
- Chiếc vòng này đẹp quá mà con không thể đeo nó được nữa rồi… Mẹ, mẹ giúp con cởi nó ra đi mẹ!
- Sao vậy con? Con đeo vẫn đẹp lắm mà?
Mẹ Diệp an ủi
Diệp lắc đầu:
- Mẹ cởi ra giùm con đi…
Mẹ Diệp chìu theo con gái nên đưa tay cởi chiếc vòng ra khỏi cánh tay khẳng khi của Diệp.
Khi chiếc vòng đã rời khỏi tay mình, Diệp cầm lấy xoay xoay, vẻ tiếc nuối rồi nhìn sang Ngọc mỉm cười:
- Ngọc ơi, mình tặng Ngọc nè! Tay Ngọc đeo vào cũng đẹp lắm đó!
Ngọc giật mình từ chối:
- Không! Không… Dịêp cứ để đó, mai mốt hết bệnh có da có thịt rồi đeo vào vẫn đẹp như trước thôi mà!
Diệp tha thiết nói:
- Đừng cãi lời mình, mình biết sức lực mình mà Ngọc… Đây là kỷ vật mình trao cho Ngọc, Ngọc đành lòng không nhận sao?
Mẹ Diệp chạm nhẹ vào tay Ngọc:
- Dịêp đã nói vậy rồi thì con cứ nhận cho bạn vui đi con!
Ngọc run rẩy đi tới sát bên Diệp.
Dịêp mỉm cười nhìn mẹ:
- Mẹ giúp con đeo vào cho Ngọc đi mẹ!
Mẹ Diệp hơi lúng túng nhưng trước ánh mắt van nài của dịêp bà cũng không thể chối từ. Nhưng cả mẹ Dịêp và Ngọc đều tưởng sẽ không làm sao đeo vào được, vì ở đây không có chất gì bôi trơn đowjc, mà cổ tay Ngọc lại vừa khít với chiếc vòng.
Aáy vậy mà không ai ngờ được, chỉ một cái đẩy thật nhẹ nhàng, chiếc vòng đã tuột vào tay Ngọc một cách nhanh chóng.
Ngọc cũng có cánh tay tròn lẳn như Diệp trước kia, nên trông rất đẹp khi có chiếc vòng làm vật tô điểm.
Một sự xúc động lạ kỳ đang xâm chiếm toàn bộ con người Ngọc. Nhưng Ngọc biết, không hẳn mình xúc động vì được nhận món quà quý báu này, mà đó là một sự xúc động huyền bí không sao lý giải được!
Diệp cười:
- Thấy chưa, mình biết ngay mà, Ngọc đeo vào sẽ đẹp lắm!
Diêp nói xong nhắm mắt lại và đầu Diệp từ từ ngoẻo sang một bên, nụ cười vẫn chưa tắt hẳn trên môi.
- Diệp! Diệp ơi! Trời ơi… con tôi…
Mẹ Dịêp hốt hoảng gào lên thảm thiết, Ngọc thì đứng sững giữa phòng, không thể tin vào sự ra đi đột ngột của Dịêp.
Sau đám tang Dịêp, nhóm “Ngũ long” của chúng tôi chỉ còn lại “Tứ long”, nhưng bốn con rồng còn lại không thể nào vui vẻ như trước được.
Ngồi bên ngôi mộ mới xây của Diệp, Ngọc nhìn chiếc vòng trên cánh tay, tư lự nói:
- Mình không ngờ Dịêp lại mất một cách đột ngột như vậy! Chết mà không ai biết chết bởi nguyên nhân gì, đó mới là nỗi đau lớn của mẹ Dịêp…
- Thôi, đừng nhắc nữa, mình không chịu nỗi đâu!
Lan nghẹn ngào.
Một cơn gió thổi thốc tới, lá cây bay lả tả. Bầu trời như sụp xuống, mây đen kéo tới ùn ùn, báo hiệu cơn mưa rất lớn sẽ xảy ra.
Bốn đứa chúng tôi đứng lên vội vã rời khỏi nghĩa trang. Nhưng vừa đi mấy bước mưa đã tuôn xuống ào ào. Thấy không có chỗ nào trú mưa được, chúng tôi đành phải dầm mình dưới mưa chạy tuốt ra chỗ gửi xe.
Tối đó về nhà cả bốn đứa đều bị cảm.
Ngày hôm sau tới lớp không thấy Ngọc, tôi lo lắng hỏi:
- Mấy bạn có biết tại sao Ngọc vắng không?
Thảo vừa chùi nước mũi vừa nói:
- Coi chừng bệnh rồi cũng nên! Đâu, gọi địên lại nhà thử xem.
Như có một linh tính không lành, tôi hấp tấp lấy địên thoại ra gọi về nhà Ngọc.
Tiếng chuông reo hối hả mà mãi vẫn không có người nghe máy. Tôi tức tối gọi số di động của Ngọc nhưng lại không liên lạc được.
Cả bốn đứa đều lo lắng nhưng lúc đó giờ học đã bắt đầu, đành phải nén lòng vào lớp học.
Tiếng chuông báo giờ vừa vang lên, Thảo chạy ào xuống bàn tôi nói:
- Giờ tụi mình tới nhà Ngọc đi!
Bốn đứa tôi dù bụng đói meo vì từ sáng đã không ăn gì nhưng không đứa nào thiết tha tới chuyện đó nữa, bốn đứa vội vã lên xe chạy thẳng tới nhà Ngọc.
Cánh cổng đóng kín, cửa trong nhà có một ổ khóa to lủng lẳng bên ngoài chứng tỏ cả nhà Ngọc đều đi vắng.
Bốn đứa còn đang đứng lưỡng lự trước cổng nhà thì chị bán cà phê bên kia đường trông thấy chạy qua hỏi:
- Mấy em đi thăm Ngọc hả? Nó tở trong bệnh X rồi, vô đó đi, nghe nói nặng lắm đó!
Chúng tôi sững sờ hỏi lại:
- Chị nói sao? Ngọc… Ngọc bị làm sao vậy chị?
Chị chủ quán ngạc nhiên:
- Ủa, vậy là mấy đứa chưa biết gì hết trơn hả? Nghe nói Ngọc bị cảm lạnh từ chiều hôm qua, đến hồi khuya này thấy tình hình nguy kịch quá, gia đình đã đưa Ngọc đi bệnh viện. Lúc nãy chị thấy anh trai nó về, vừa khóc vừa dọn dẹp nhà cửa chuẩn bị đem Ngọc về, nghe đâu khó qua khỏi…
Cả bốn đứa chúng tôi đều bủn rủn tay chân. Quýnh quáng cảm ơn chị chủ quán rồi lên xe chạy tiếp.
Khi chúng tôi vào tới phòng bênh của Ngọc thì mẹ Ngọc đã khóc gần như lả người.
Có một điều làm chúng tôi vô cùng sợ hãi đó là thân thể Ngọc đã gầy sọp đi một cách kỳ lạ, không thể tưởng tượng được!
Mẹ Ngọc quỳ bên cạnh con gái khóc nghẹn ngào:
- Ngọc ơi… con tỉnh dậy, tỉnh dậy mà nói với mẹ một lời đi con… Trời ơi… tại sao con tôi lại ra nông nỗi này không biết…
Rồi bà quay sang chúng tôi:
- Có phải chiều hôm qua Ngọc đi với tụi con không?
Cả bốn đứa đều sợ hãi, có cảm giác như mình chính là nguyên nhân khiến Ngọc ra nông nỗi như thế này.
Lan hắt xì liên tiếp mấy cái, Thảo thì nước mũi ròng ròng, cứ phải luôn tay chùi quẹt, tôi đỡ hơn một chút nên cố lấy bình tĩnh nói:
- Dạ, chiều qua tụi con đi chung với nhau…
- Đi đâu? Tụi con đã đi tới đâu? Và chuyện gì đã xảy ra mà khiến con Ngọc của Bác như vầy?
Mẹ Ngọc níu lấy tay tôi hỏi dồn
Tôi gần như sụm xuống, khóc nhọc lắm tôi mới trả lời được:
- Tụi con… tụi con đi thăm mộ Dịêp, lúc đó… lúc đó trời mưa… tụi con mắc mưa, đứa nào cũng bị cảm, nhưng… tụi con không ngờ Ngọc lại như vầy…
Mẹ Ngọc buông tay tôi ra, ngồi phịch xuống đất. Bà ngẩn ngơ một lát rồi kêu lên:
- Đi thăm mộ Dịêp! Trời ơi… vậy là con Ngọc bị ma bắt hồn rồi, bị ma làm hại rồi, chứ dù có bệnh hoạn gì đi nữa thì cũng đâu lạ lùng đến mức này…
Nghe mẹ Ngọc nói tới tiếng “ma”, cả ba đứa tôi đều rùng mình. Có phải không? Mấy hôm nay dù không nói ra nhưng trong đầu đứa nào cũng loáng thoáng nghĩ tới điều đó. Nếu không phải là ma, thì tại sao lại thân xác của dịêp và bây giờ là Ngọc lại biến đổi mau chóng đến như vậy?
Mọi người còn đang hoang mang cực độ thì bất ngờ Ngọc tỉnh lại.
Ngọc ú ớ:
- Mẹ… mẹ ơi…
Nghe tiếng con gái, mẹ Ngọc giật mình quay lại, Ngọc đã mở mắt nhìn xung quanh. Thấy chúng tôi Ngọc không có vẻ gì là ngạc nhiên, chỉ gượng nói:
- Mấy bạn tới tiễn đưa mình phải không?
Thảo không dằn được, khóc òa lên:
- Ngọc… Ngọc không được nói bậy! Tụi mình tới đưa Ngọc về nhà, Ngọc hết bệnh tụi mình sẽ cùng nhau đi học, đi chơi…
Mẹ Ngọc choàng tay qua thân xác xẹp lép của con, nghèn nghẹn nói:
- Phải rồi, con sẽ hết bệnh, sẽ về nhà đi học cùng các bạn, đi chơi cùng các bạn nghe con?
Ngọc cố giơ cánh tay lên xoa mặt người mẹ, bất chợt trông thấy chiếc vòng, Ngọc cười héo hắt, rồi liếc nhìn ba đứa chúng tôi, Ngọc nói:
- Trong ba bạn, chỉ có Lan là có cánh tay tròn nhất, vậy mình tặng lại cho Lan chiếc vòng này, Lan đeo nó bên mình để lúc nào cũng nhớ tới Diệp, tới Ngọc nghe Lan?
Lan hắt xì mấy cái nữa rồi nói:
- Không đâu, mình không nhận, đó là quà tặng của Dịêp dành cho Ngọc, Ngọc phải đeo nó suốt đời để nhớ Diệp…
Ngọc cười buồn:
- Đời mình sắp kết thúc rồi…
Nói rồi Ngọc tự mình lần mở chiếc vòng ra khỏi cánh tay gầy guộc, giơ lên nói:
- Lan, Lan mau lại đây… mình đeo vào cho Lan…
Muốn cho con gái đạt được tâm nguyện, mẹ Ngọc vừa khóc vừa đẩy Lan tới gần giường Ngọc.
- Nhận lời cho bạn vui lòng đi con…
Lan run rẩy bước tới và chìa cánh tay ra. Ngọc cầm lấy cánh tay Lan vuốt ve:
- Cánh tay này đeo chiếc vòng này sẽ rất hợp, các bạn thấy không?
Tự nhiên lúc đó tôi chợt nhìn thấy trong mắt Ngọc có cái gì đó rất xa lạ, hoàn toàn không giống với Ngọc thường ngày. Và cũng trong một tích tắc, tôi nhìn thấy rõ ràng chiếc vòng cẩm thạch xanh biếc mà Ngọc đang cầm trên tay chuẩn bị đeo vào cho Lan, bên trong chiếc vòng đó có một dòng máu đang rào rạt chảy.
- Không! Không được đeo vòng!
Tôi la lớn lên, chạy ào tới hất mạnh tay Ngọc, không cho Ngọc đeo vòng vào tay Lan.
Vì cú hất của tôi quá mạnh nên chiếc vòng vuột khỏi bàn tay run rẩy của Ngọc văng tuốt vào góc phòng, chạm vào tường rồi rớt xuống đất.
Mọi người còn đang trố mắt nhìn tôi thì Thảo hét lên:
- Trời ơi… nhìn kìa…
Mọi ánh mắt đổ dồn về phía góc nhà, nơi chiếc vòng vừa rơi xuống: một vũng máu đỏ thẫm, bên trên trôi lềnh bềnh hai tròng mắt!
- Ha ha ha…
Một giọng cười lạnh lẽo vang lên cùng với lúc thân người Ngọc giật lên từng cơn rồi từ từ im lặng hẳn.
Mẹ Ngọc khóc òa, chúng tôi cũng không nén nỗi thương tâm và lo sợ. Tất cả lùi về cửa phòng, không ai dám rời mắt khỏi vũng máu kia, chỉ có mẹ Ngọc là quên tất cả, chỉ biết ôm chặt xác thân con gái…
 
***
- Tất cả những tang thương đều bắt đầu từ chiếc vòng đó!
Tôi khẳng định.
Thảo, Lan cũng gật đầu đồng ý.
Lan nói thêm:
- Cũng may mà Phụng can ngăn kịp lúc, không thôi bây giờ chắc tới lượt mình phải bỏ mạng rồi…
- Nhưng… chiếc vòng đó có nguồn gốc từ đâu? Tại sao ai đeo nó cũng có cái chết lạ lùng như vậy? Mình rất muốn lý giải điều đó.
Thảo đăm chiêu nói.
Tôi gật đầu:
- Các bạn còn nhớ không, hôm mới khoe với bọn mình chiếc vòng đó, Dịêp có nói là mua được nó trong chuyến đi Đắc Lắc. Vậy để tìm ra chủ nhân của chiếc vòng, mình phải tìm cho ra được người bạn nào của Diệp ở Đắc Lắc, rồi từ đó mới phăng tiếp ra được!
- Ừ, điều này chắc không khó! Chiều nay mình sẽ tới nhà hỏi lại mẹ Dịêp. Thế nào mẹ Dịêp cũng biết Dịêp lên Đắc Lắc với ai.
Lan nói.
Tôi đứng lên:
- Chỉ còn hai tuần nữa mình nghỉ hè rồi! Nhất định ba đứa mình phải tìm cho ra bí mật này để giải thích với gia đình Diệp và Ngọc… Các bạn có dám cùng mình phiêu lưu một chuyến không?
Lan và Thảo nhìn nhau rồi nói:
- Vì hai người bạn xấu số, tụi mình rất sẵn sàng!
Tôi cắn chặt môi để ngăn dòng nước mắt đang sắp sửa tuôn trào.
Ba chúng tôi nắm chặt tay nhau, quyết tâm sẽ khám phá ra sự thật!
Ngọc ơi, Dịêp ơi… các bạn hãy yên nghỉ nhé!
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:47:40 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:15:46
CÂY ĐA XÓM ĐÌNH
 
Chiếc dù mất màu che chênh chếch, cơn mưa nhẹ, thiệt nhẹ, hạt mưa như bụi theo gió bay tứ tán. Những ngọn đèn đường rọi vào làm từng hạt lấp lánh.
Chị đã về, tôi biết chị luôn về vào giờ này. Con hẻm nhỏ ngoằn ngoèo lởm chởm gạch đá làm bước chân chùng. Người phụ nữ đẹp, dáng cao, khuôn mặt nghiêm, mắt to, mũi thẳng, môi như cánh hồng hé. Chị đẹp thiệt là đẹp.
Cái Xóm Đình của tôi không phải là nơi chốn của chị. Nó chỉ là chỗ trú tạm cho qua ngày, những tháng ngày khó!
Người phụ nữ đẹp này bước ra với cái đầu luôn ngẩng cao. Chiếc cổ nhỏ thanh thoát, nét cằm mịn màng. Nhưng khi đêm thả xuống nhân gian màu đen, khi chị bước về, luôn là đầu cúi gằm, có dấu hiệu mệt mỏi trên khuôn mặt, đuôi mắt. Có thằng nhỏ hay ngồi tới khuya ngoài đầu đường, không phải để chờ chị về mà nó ngồi chờ giấc ngủ.
Cái nhà của nó nhỏ chút xíu với cả chục mạng người chen chúc, chỉ khi nào buồn ngủ rục người nó mới mò về nhà và lăn ra ngủ, còn không thì nó sẽ thức mãi, thức mãi, mà có ngủ gục thì cũng lập tức ngồi dậy vì ma đè.
Cũng lạ, nó bị ma đè hoài thành quen, không biết sợ là gì nữa. Hì hì, cả người tê cứng và bên tai ong ong những tiếng gào dị thường, mồ hôi túa trên mặt, ướt đẫm tóc. Nó phải chiến đấu, chỉ cần nhúc nhích một ngón tay được là cả người được tự do.
Ngồi miết ngoài đầu hẻm tới díp mắt mới về ngủ là nó không còn bị ma đè. Và như vậy nó trở thành người đón chị bất đắc dĩ.
Vậy đó, chị và tôi, quen nhau bằng cái nhìn, rồi quen tới cái bóng. Chỉ cần nhìn thấy bóng tôi cũng nhận ra chị, và chị cũng vậy, cứ thấy một khối đen đen lù lù trong góc là biết ngay tôi. Không lời, không chào hỏi, không cười, chỉ là một cái nhìn và nhìn thôi...
Cái đình, cây đa, quán nước... Ba thứ này đem đặt vào một làng quê Bắc bộ với con đường làng cong cong, luỹ tre lả lơi hóng gió. Và tất cả nằm trên cái đồi cao, thoáng thì thiệt là một cảnh quan mang nhiều hơi hướm quê hương.
Dĩ nhiên là cây đa nằm trước cái đình, con đường chạy ngang và quán nước, nơi có cô hàng chè xanh làm say lòng người.
Khách giang hồ không biết say chè, say thuốc hay say cô bán chè! Có khi là say cả ba, ừ thì say cả. Có cút rượu làng Vân sủi tăm nồng nàn nữa. Nhưng không nói chuyện rượu ở đây, hì hì, nói chuyện cái đình, cây đa, quán nước mà thôi.
Không có tre, không có gió, không có chè xanh, chỉ có những li "cafe kho" nóng tuột lưỡi. Mỗi li cafe đen nho nhỏ, ngồi oai vệ trên cái dĩa xinh xinh, rót cafe ra dĩa, thổi phù phù cho mau nguội mà uống, khi uống bưng nguyên cái dĩa húp cái trót. Mấy tay rủng rẻng tiền bạc thì uống cafe sữa. Cũng rót ra dĩa, lấy cái giò cháo quẩy chấm vô nhai nhóp nhép. Chắc là ngon lắm.
Hồi nhỏ tôi chỉ mong mình mau lớn để bước ra ngồi đỉnh đạc trên cái ghế, kêu một li cafe sữa, chơi hai cái giò cháo quẩy cho sang hơn người, he he…
Người chuyên môn chơi kiểu này là ông thầy bói lừng danh. Ông Sáu Hoà! Đừng có mà khi dễ nghe, vợ ông Tổng thống từng mời ổng vô dinh coi bói chứ hổng phải tầm thường.
Hai ngón tay út ổng móng tay dài thượt, mấy ngón kia thì nhẫn đầu rắn, đầu cọp đeo đầy. Ông thầy bói này còn có mấy cái răng bịt vàng sáng chói.
Chỗ ổng ngồi coi bói khói nhang phưởng phất, có trồng mấy cây ngãi ăn trứng gà, có con rắn hổ mang nhồi trấu mang từ Ấn Độ về nữa.
Ông này với ông chủ quán không ưa nhau. Li cafe có cả chiếc muỗng bé tí xíu, chủ quán đục cái lổ trên muỗng, không biết để làm gì. Muỗng chỉ dùng để khuấy, không múc được, mà có ai cần múc bằng cái thứ muỗng nhỏ chút này đâu, múc uống hết li cafe chắc là hết cả ngày!
Cái quán cũng nằm dưới gốc cây đa. Cây đa nằm cạnh cái đình. Mớ rễ phụ thò xuống mái đình, mái quán, bình đẳng, cành tới đâu, che tới đó và thả lá làm dơ hai cái mái như nhau.
Cây đa và cái đình già lắm. Nghe nói hơn trăm năm trước có ông thầy đồ đẹp trai trốn Tây về mở trường dạy học dưới mái đình này. Không biết lớp học ở chỗ nào, chỉ thấy trong tấm hình vẽ từ hồi nào có một nhánh đa thò đầu học cọp.
Thầy đồ chắc không tính tiền cây đa. Cây đa hay chữ lắm mà cũng nghĩa khí vô song! Mấy ông bà già gần trăm tuổi kể chuyện ông thần cây đa là học trò thầy đồ nghe cứ như chuyện Chu Văn An dạy thuồng luồng tinh. Truyền thuyết trôi từ Bắc vào Nam cải biên chút xíu. Thay vì lấy nghiên mực làm mưa đen thì thần cây đa thò tay đỡ viên đạn đồng tàu Tây bắn vô đình. Cây đa gãy ngay chỗ nhánh to nhất, bị phạt ngang, vết như cưa. Chỗ đó da cây lồi ra, làm thành mấy vòng tròn trông như miệng con quái vật chờ nuốt mấy thằng nhỏ sợ ma!!!
Có mấy thằng không nhỏ phá như ma thỉnh thoảng buồn tình lấy búa nện vô ngay miệng vết thương vài cây đinh chơi. Nhưng trò này phải làm buổi trưa đứng bóng, không thì ông Hai Hủ Tíu chủ quán cafe dưới gốc đa chửi cho mà ê cái đầu.
Ông Hai là ông thần cây đa trong con mắt dân xóm này. Ông là ông kẹ, già lắm, chừng vài trăm tuổi!!!
Trời đất, già dữ vậy sao? Nhưng bà Hai vợ ổng thì trẻ. Nói trẻ chứ bả nhỏ hơn ổng chừng trăm mấy tuổi chớ hổng bao nhiêu.
Hồi xưa nghe nói bả đẹp lắm, chắc cỡ bằng hoàng hậu hay là công chúa gì gì đó thôi! Hai ông bà không con sống trong cái quán dưới gốc cây đa. Bán cafe cho cả xóm đình, cái thứ cafe bột cho vô túi lọc dài thoòng bỏ nấu trong những cái ấm nước cao nhòng bằng nhôm. Ấm nước nấu bằng than củi đước cháy lửa đượm và thơm.
Sáng chưa thấy mặt người ông Hai dậy nấu nước sôi pha cafe. Cái dáng người thấp to ngang phè phè, lửa cháy bập bùng hắt cái bóng ông già nhảy nhót như có sự sống riêng. Mà nó sống thiệt!
Cái bóng của ông Hai Hủ Tíu hay bỏ ông đi hoang lắm. Mỗi khi nó đi mất, ông uống quá trời rượu. Uống đã ông lủi thủi bò vòng vòng quanh tượng ông Hổ thờ phía trước đình, chửi thôi là chửi. Ông chửi tổng thống, chửi chính quyền, chửi thằng Hai An Ninh, khóm trưởng, chửi bà vợ trẻ, chửi ông thầy bói mò, chửi ông thần hoàng bất tài vô dụng. Chửi đã ông đấm đá cái tượng con cọp tới khi tay chân bật máu. Máu chảy từ miệng cọp chảy lên tới mắt cọp. Mắt cọp dính máu từ tay ông Hai dòm như con cọp khóc ra máu.
Đến khi mệt đừ, ông Hai chui vô cái giường kê ngay trong bếp của cái quán nằm ngủ khò. Ngày hôm sau, cái bóng về băng bó tay cho ông, nó vừa quấn băng vừa khóc. Nước mắt thành khói, thứ khói như khói bếp, bám đen thui mấy cái mái tole cũ mèm.
Cái bóng của ông Hai hay khóc lắm hay sao mà nóc quán đen thui bò hóng. Mỗi lần như vậy nó hứa không đi hoang nữa, nó hứa sẽ không rời ông Hai nữa.
Nhưng chứng nào tật nấy, mỗi sáng, khi gió thổi ngọn lửa phừng phực là nó lại nổi máu giang hồ. Cái bóng đi hoang của ông Hai thành một câu chuyện như truyền thuyết!
Ở Xóm Đình này ai mà không biết ông Hai thỉnh thoảng là người không có bóng!!!
Bà chủ quán, bà Hai thì khác hẳn ông chồng. Bà hiền lắm, bà chỉ ra vô trong quán như cái bóng ma, hai con mắt nhìn đâu đâu! Hai con mắt của bà cũng có chuyện!
Người ta đồn là hai con mắt bà Hai không thấy người, không thấy đường, không thấy bất kì cái gì tồn tại trong thế giới thực. Hai con mắt bà chỉ nhìn thấy ngày hôm qua. Ngày hôm qua bước đi trả cho nhân gian bóng tối. Trong bóng tối mò mò, bà Hai nhìn thấy mọi thứ. Hai con mắt của bả sáng như cú mèo. Miệng bả cười toe! Bả nói chuyện thì thầm một mình, cười một mình, khóc một mình.
Ông chồng già nằm há họng ngủ khì một bên không tồn tại trong thế giới hôm qua. Thế giới hôm qua của bà Hai có người đẹp sầu muộn ngồi chờ ai? Chờ hoài, chờ hoài không thành cục đá! Chờ lâu quá thành tinh! Thành loại yêu tinh không bắt người nhai xương, không bắt người ép tình. Chỉ là yêu tinh nhìn thấy hôm qua, không thấy hôm nay!!!
Bà Hai thường đeo vàng vòng đầy tay, đầy cổ. Mỗi khi bà rót cafe cho khách, tiếng những chiếc vòng chạm nhau kêu leng keng nghe như tiếng chuông gió! Mấy bà nhiều chuyện trong xóm nói là vàng giả nên mới kêu leng keng? Vàng thiệt không biết kêu!!! Nhưng bà Hai là người phụ nữ sang trọng. Bước chân, dáng đi, cái nhìn đều hiển hiện rõ ràng bà không phải là người của cái quán này. Bà cũng không phải là người của Xóm Đình nhếch nhác này. Bà lại càng không phải là người của thế giới hỗn độn và tào lao này.
Không biết cái thế giới ngày hôm qua có đàng hoàng, đài các, kiêu sa như bà không? Không biết, thiệt tình là không làm sao mà biết được.
Hai ông bà trong cái quán nhỏ xíu. Buổi tối, khi người khách cà chớn cuối cùng thôi không ngồi húp cafe trong dĩa nữa thì ông Hai đóng quán. Đóng quán chứ không phải đóng cửa! Quán không có cửa! Những miếng tole làm mái hạ xuống biến thành vách. Vách hộp chứ không phải vách nhà. Cái quán đóng lại như cái hộp to. Ngay chỗ cái bếp có một khung cửa sổ nhỏ. Cửa sổ lá sách để thông hơi, nhưng cái cửa mất tiêu chỉ có cái chắn song còn lại.
Hai con người sống trong cái hộp bằng thiếc này. Khuya! Nếu có ai gan dạ bước qua gốc đa nhìn vào trong khung cửa thì sẽ thấy bà Hai ngồi nhìn ra, tóc đen thả dài, mắt sáng như mắt cú! Con cú này thức hay ngủ? Có trời biết?
Đối diện với cái gốc đa có cái hẻm phụ nhỏ chút xíu. Nhà tôi trong cái hẻm phụ đó. Ngồi trong nhà nhìn ra cửa sổ tôi dòm thấy cây đa và cái quán.
Thỉnh thoảng tôi cũng thấy ông Hai lò dò bước vô trong này. Ổng tà tà tới trước cây trứng cá xeo xéo nhà tôi đứng vạch quần đái. Ông già mắc dịch, không bao giờ vô cầu tiêu cho cái chuyện này.
Trong nhà tôi cũng có ma. Người lạ vô nhà ngủ thế nào cũng bị ma đè. Hì hì, nhẹ hơn thì thấy có hai mẹ con bà áo trắng ốm nhách tới giựt áo xin cơm ăn.
Ngày nào trên bàn ăn nhà tôi cũng có chén cơm cúng. Một chén cơm, có đồ ăn, đôi đũa gác ngang.
Má tôi thường xuyên bị bà già níu áo xin cơm trong giấc ngủ, thành ra má siêng cúng lắm. Hai mẹ con bà ma đói này tồn tại trong ngôi nhà cũng lâu lắm.
Ông Hai Hủ Tíu kể là mẹ con bà Nguyệt tội lắm. Hai mẹ con sống thui thủi bên nhau. Bà mẹ già, đau ốm liên miên, đứa con gái thì liệt nằm một chỗ. Đâu chừng sáu bảy chục năm trước hai mẹ con là chủ căn nhà vách gỗ, mái lá nằm trên chỗ đất bây giờ là nhà tôi.
Bà mẹ bịnh hoạn vẫn ngày ngày buôn bán ở chợ để nuôi đứa con gái. Rồi bà mẹ bịnh, lúc đó chỗ này thưa người, không có đường, chỉ là một cánh đồng đầy rau, lúa và cỏ thôi. Trong căn nhà nằm chơ vơ giữa đồng, hai mẹ con ôm nhau chết đói trên giường. Đến khi người ta thấy lâu ngày nhà không thắp đèn và bà mẹ không ra chợ bèn xông vào nhà thì hai người chết khô rồi.
Ông Hai nói người chết khô ngộ lắm, da như bị hít chặt vào trong xương. Còn xương thì xốp xộp, nhẹ như bông!!!
Mẹ con bà Nguyệt chết vì đói, thành ra ai về chỗ này ở đều bị hai mẹ con níu áo xin ăn.
Trời ơi! Má tôi sợ xanh mặt. Bà đi chùa thỉnh cái tượng Quan Thế Âm Bồ Tát bự sư về thờ cúng thành kính.
Ông Hai Hủ Tíu bước ngang qua nhìn trừng trừng vô bức tượng, miệng mím chặt, mặt đỏ phừng phừng như muốn xông vô lôi cái tượng xuống đập nát mới hả dạ.
Nắng chiếu thẳng xuống đầu ông ta, chiếu tuột luôn xuống đất, rồi ánh sáng dội trở lên. Dưới hai chân ông già này không có bóng.
Từ khi nhà tôi thờ tượng Quan Âm, má tôi tưởng là hai mẹ con bà Nguyệt sẽ siêu thoát, ai dè hai người còn quậy dữ hơn. Tôi là nạn nhân, nhưng tôi cóc có sợ, có đè thì đè. Nếu mình càng sợ thì ma càng làm dữ, tôi cứ coi như không.
Ông Hai hay hỏi cắc cớ tôi:
- Sao lúc này thằng Đẹt con bà giáo mặt xanh như quỷ ám?
Tôi cười ré lên:
- Ông là thằng cha già quỷ ám suốt kiếp không siêu sinh chớ ai. Cho ông sống ngàn năm mà trả hồn cho ma với quỷ...
Ông già cười ha hả, nói:
- Mấy trăm năm nay tao mới thấy có thằng dám nói về chuyện tao sống ngàn năm. Mày cũng ngon, nhỏ mà dám bẻ đầu con hạc đá trong đình!
- He he he…, không dám đâu ông già. Con hạc đá trong đình mấy thằng thợ quấn kẽm gai đổ bê tông dỏm. Mới leo lên ngồi tính cỡii hạc làm tiên thì cái cổ gãy cái cốp. Tại đồ dỏm chứ không phải tại tôi. Mấy thằng ăn chận thánh thần còn không bị vật chết thì con nít mắc cái giống gì. Ông thần Hoàng cái đình này bị con quỷ nhập tràng hối lộ che con mắt rồi. Thế gian còn mỗi cây đa thôi, ông liệu cái thần hồn của ông, ngàn năm, tức cười, biết còn bao lâu nữa mà nói.
Tôi vừa cười vừa lý luận.
Cha Sáu Hoà ngồi vỗ tay cười muốn rụng lưỡi. Ông Hai tính kí đầu tôi nhưng nghĩ sao lại thôi.
Cha thầy bói mò khen:
- Thằng Đẹt nói chuyện có tiên khí. Muốn theo thầy học đạo không con?
Tôi ôm bụng cười:
- He he he…, ông về mà mò mấy cây ngãi của ông đi! Ai thèm!!!
Má tôi cũng tốn cho cha này mớ tiền bộn chứ không ít. Trừ ma con khỉ khô, chẳng làm được gì ráo. Hai con ma đói cứ theo chọc ghẹo tôi triền miên.
Tôi nhớ hồi vợ tôi vô nhà lần đầu, trưa ngủ đã bị hai mẹ con bà Nguyệt vô níu áo xin cơm. Báo hại người ta mặt xanh lè!
Ghét cái giống ma không ra ma, quỷ không ra quỷ, âm hồn bất tán này quá. Nhà kề cái đình, thần thánh trong đình nhóc. Vậy mà ma quỷ lộng hành như chỗ u minh.
Tôi chỉ khoái cái đình khi có cúng đình thôi. Hương chức hội tề từ đời thuở nào tề tựu về đây ăn ké lộc thánh thần. Khắp nơi, những người con của xóm Đình quay về cúng bái thành tâm.
Xôi từng mâm, bánh quy từng mâm, heo quay, heo sống, bò nguyên con, thịt gà, thịt vịt, trái cây các loại. Người ta lũ lượt bưng vô sắp trên hai dãy bàn cao, dài tít tắp.
Bàn nào cũng trải khăn che kín chân. He he, dưới chân bàn có thằng con nít chui vô, tay quờ lên một cái là có đồ ăn. Ăn cho đã lăn ra ngủ luôn bên dưới. Ngủ dậy chạy ra coi hát bội. Thỉnh thoảng cất tiếng dạ hùa theo đám quân sĩ bèo nhèo ngồi ngáp trong cánh gà.
Trong xóm người ta nói thằng Đẹt sáng dạ nhờ chôm đồ của Thần Hoàng ăn hoài.
Mấy thằng cha sắm vai học trò lễ ghét tôi lắm. Nhưng còn khuya mới bắt được tôi, tôi nhỏ chút chun như con chuột, chạy toàn dưới gầm bàn, mấy chả đố mà chui vô rượt tôi nổi. Mà có cùng lắm thì nhảy lên bàn thờ thần ngồi.
Có lần bị rượt nà tôi nhảy tót lên đó giả như ông nhập, miệng ú ớ, tay chân quơ quào. He he he, dòm xuống dưới thấy người ta chổng mông lạy như cuồng, cười xì hơi, nhảy xuống chạy tuốt lên tới chợ trốn cả ngày. Tối về má tôi đập cho một trận te tua...
Nhất quyết trả thù. Tối đó ra ngồi coi hát tới khúc Phàn Diệm huơ giáo khiêu chiến Tạ Ôn Đình trong tuồng San Hậu Thứ Ba, lấy cây thọt giò Phàn Diệm té lăn cù. Ông già đánh trống chầu nện cho cha Phàn Diệm này một hồi ba mươi tiếng trống chửi... Sướng như lên mây he he, đáng kiếp cái thằng kép Tâm đóng vai Phàn Diệm, nó mét má tôi chứ ai.
Mấy cái chuyện này bây giờ nghĩ lại thấy hồi xưa ngộ thiệt...
Hồi xưa! Câu chuyện này sẽ dẫn tôi đi về đâu? Chắc là về hồi xưa, bởi vì tôi vừa mới viết hai chữ hồi xưa đấy thôi!
Ừ hồi xưa. Thầy đồ đẹp trai nho nhã về mở trường dạy học ở Đình. Học trò theo học cũng đông. Người ta cho con đi học không còn vì cái giấc mơ thi đổ vinh quy nữa.
Tây chiếm đất rồi. Học chữ Tây chứ chữ nho làm gì nữa? Còn chứ! Học để giữ đạo tổ tiên ông bà. Học để giữ lại cái gốc thôi. He he, cái gốc như gốc đa!
Thầy mở lớp đã thấy cái quán của hai vợ chồng ông Hai bán dưới gốc đa. Lúc đó ông Hai được kêu là Hai Hổ. Hai Hổ từ đâu về sống trước đình, cái quán và cây đa có từ hồi nào chắc ông từ gác đình cũng không biết. Những bậc bô lão trong làng, lúc đó người ta kêu là làng chứ không kêu là xóm như bây giờ, cũng không biết Hai Hổ về đình sống từ lúc nào.
Từ khi thầy đồ về đình, bà Hai tự dưng thích theo học chữ. Ba cái chữ thánh hiền ngày xưa cũng có dạy cho con gái nhưng hạn chế. Thời cuộc thay đổi, con gái ham học cũng tốt. Thầy dạy hết.
Hai Hổ thấy vợ học cũng theo học. Đám học trò tự nhiên có một cô gái. Cô là cô học trò duy nhất trong cái trường này. Tấm hình vẽ treo trên vách đình cũng có cô đấy thôi.
Sau đình, trước đình đất hoang mênh mông, rừng Đông Nam bộ bò tới gần sát nhíp cái hiên nơi thầy đồ ngồi đọc sách hàng đêm. Cọp tối tối mò tới trước ngọn đèn đớp muỗi. Thứ muỗi mập ù, chuyên môn chích trâu chích bò chứ không thèm chích người. Cỏ tranh mọc lút đầu, chiến chinh không ai thèm dọn.
Hai Hổ tối nào cũng thủ cây mác bén ngót ngồi trước mái hiên canh cọp cho thầy mình. Canh cọp?
Cái lớp học nằm dưới gốc đa, mùa đa chín, sáo đen bay về từng bầy ăn nhậu ê hề. Trái đa rụng lộp độp trên mái, trước sân đình. Chân học trò dẫm đạp chèm nhẹp. Mùi mật từ trong những trái đa nát bay lên dụ bầy ong ruồi làm tổ trong bọng cây bay ra hút mật. Rồi những con kiến bù nhọt đen thui to như con ong bò vẽ cũng chạy ra từng đàn khiêng trái đa về tổ làm lương thực. Tiếng con ve mồ côi sầu đời kêu khóc hè nóng quá um xùm.
Thầy dạy học trò lễ, nghĩa, nhơn, trí, tín... Rồi thầy trò làm thơ, đọc thơ, bàn chuyện chính sự. Chiều thì bình thơ, bình văn, đấu cờ.
Bà Hai luôn dẫn đầu cả lớp trong chuyện văn thơ này. Người coi yếu vậy mà giọng bà ta sang sảng. Thuyết minh hùng hồn, phân tách cặn kẽ, luận đàm sâu sắc. Thầy đồ đắc ý nhất cô học trò này. Y như Tào Phi bảy bước làm thơ cả mớ.
Hai Hổ trái hẳn vợ. Trong lớp chúng bạn kháo nhau Hai Hổ trước đây là lính trong ngũ của Trương Công. Trương Công thua bị bắt giết, Hai Hổ bỏ về xóm đình lấy vợ rồi theo thầy học lấy cái gốc lễ giáo luôn.
Anh ta cạy miệng không lòi ra một chữ. Người lầm lì thấy bắt ớn. Đám học trò nho nhỏ không đứa nào dám nói chuyện với anh ta. Thậm chí có đứa thấy anh ta tới gần là khóc thét lên, có khi té đái trong quần luôn!!! Nói vậy thôi chứ Hai Hổ cũng hiền. Những đứa học trò nhà xa thường được Hai Hổ đưa rước đi học. Đường tới trường băng qua cái truông cỏ tranh nhiều rắn rít, cọp beo. Hai Hổ bảo vệ cho đám nhỏ đi học bình yên vô sự.
Cái trường của thầy đồ cũng bình yên vô sự hoài nếu như... Nếu như thầy không bận lòng với chuyện chính sự!!! Thầy bỏ đám học trò đi mất. Cô học trò trong lớp nhỏ hoài không chịu lớn theo sự dạy bảo của thầy.
Hai Hổ bỏ trường đi luôn theo thầy. Cô học trò nhỏ ngày ngày tựa cửa chờ ai? Ngày kia đạn đồng ngoài tàu Tây bắn cái đùng vô đình. Đạn vướng nhánh đa văng ra xa. Cái đình vô sự. Cây đa gãy một nhánh lớn rớt cái đụi.
Khi người ta lôi nhánh đa ra thì thấy Hai Hổ nằm chèo queo dưới đất, cánh tay gãy nát, máu me tùm lum. Từ đó Hai Hổ sống luôn tại xóm đình. Mở lại cái quán nước dưới gốc đa. Cuốc dẫy đám cỏ tranh mênh mông làm thành đồng trồng rau. Rau xanh mịt mù, chở bằng xe ngựa đem lên bán trên chợ Đũi!
Người ta nuôi ngựa đầy vùng này. Những chiếc xe thổ mộ hai cái bánh bằng gỗ to chà bá nghiến trên con đường đất thành hai rảnh sâu. Rau chất đầy tràn trong xe, hoa thì móc hai bên cho khỏi dập. Chiếc xe chạy trước, đằng sau nhìn tới cứ tưởng cái chậu vạn thọ to tổ bố biết đi chớ.
Những ông xà ích miệng ngậm điếu thuốc gò chánh hẩu Gò Vấp một bên, tay roi, tay cương nhịp nhàng. Khói thuốc mù mịt che mất mặt người. Chỉ nghe tiếng nạt trầm khàn. Có những con ngựa già rạt, lông rụng còn lởm chởm, quen đường chạy khỏi cần la.
Không biết dân vùng chợ Đũi sao mê vạn thọ quá tay. Trồng không kịp nhổ bán, nhất là những ngày rằm, vọng!!!
Cái xe thổ mộ bây giờ về mút tận Trảng Bàng cũng ít thấy. Mà có thì hai bánh gỗ cũng thay bằng bánh cao su rồi. Tôi khoái ngồi xe ngựa lắm, he he, chiếc xe lắc theo nhịp kiệu của con ngựa. Ngồi phía sau, nhìn xuống đường, ráng lắc thêm cho đã. Lắc cố mạng té nhào đầu xuống đất liền! Không sao! Đứng dậy kéo quần, chùi mũi cắm cổ rượt theo.
Nói vậy chứ con ngựa dù già, dù kéo nặng chạy cũng lẹ hơn người. Mấy thằng nhỏ con chân ngắn thì chạy theo hả họng cũng không xong...
Ông Hai Hổ từ khi biến thành ông Hai chủ quán gốc đa coi mòi thích uống rượu liên miên. Còn hai con mắt cô học trò ngày xưa, hay bà Hai thì cứ nhìn miết, trông miết về phía ông thầy đi biền biệt...
Thời gian chạy ào ào qua cái Xóm Đình, nhiều cái mười năm trôi qua như giấc ngủ nhẹ. Con đường lớn mở qua đất ông Hai. Đất thành vàng, Hai Hổ ra đường bán hủ tíu Nam Vang. Quán đắt như tôm tươi bỏ trên hủ tíu. Giàu!!!
Hai người sống lâu quá mà không thấy già. Ông Hai Hổ thành Hai Hủ Tíu, hơi sần một chút chứ bà Hai thì không. Bà không phụ thuộc thời gian, bà trôi nổi lềnh bềnh trên cái mà ai cũng sợ.
Trăm năm, hai trăm năm, là cái gì? Ai biết được ông bà Hai bao nhiêu tuổi.
Ông Hai từ khi giàu, mua vàng ủ bà Hai trong tiếng leng keng. Trời thần! Vàng đeo đỏ người. Bà Hai đẹp và sang thành sang và đẹp hơn nữa. Nhưng đời mà, cái bóng của ông Hai tự dưng nổi cơn khùng, lâu lâu bỏ đi bụi đời. Nó đi đã rồi lê cái thân tàn trở về.
Mỗi khi nó về ông Hai lại biết thêm nhiều chuyện mới. Trong những chuyện mới đó có trò nấu ăn, nấu cafe bán, và cờ bạc...
Ông Hai Hổ mê ngựa lắm. Ổng nói hồi xưa phải có mấy con ngựa chiến như ngựa bây giờ thì đánh nhau với Tây cũng ngon. He he, ngựa hồi đó lùn xịt, chạy tẹt tẹt, dở quá. Đạn Tây bắn lẹ như điện, né không kịp, thua là phải.
Người ta mở trường đua ngựa. Ông Hai cùng cái bóng thành hai người khách sộp!!! Thiệt là!
Cái trường đua với mấy con ngựa trở chứng lúc chạy lúc nghỉ làm cho tài sản, nhà cửa của ông Hai rủ nhau chuyển qua cho người khác. Mèo hoàn mèo, Cuội già ôm gốc cây đa, Hai Hủ Tíu lại quay về gốc đa, bán cafe quán cóc!
Bà Hai không nói một tiếng. Bà ngoan ngoãn theo ông quay về gốc đa.
Cái xóm nhỏ nhiều chuyện này không có việc gì mà người ta không biết. Mấy bà già hết thời ngày nào cũng túm tụm nơi quán cafe dưới gốc cây đa.
Cái cây đa cổ thụ mấy trăm năm, xù xì, cằn cổi. Mớ rể phụ từ trên cao thòng xuống cũng cằn, khô quắt, rách te tua. Những chiếc bình vôi vỡ, những ông lò bể chất chồng nơi gốc.
Gốc đa có nhiều ngách, lắm bọng. Những cái bọng thành hình từ rễ chính của cây đa, có cái nhỏ xíu, có cái to tướng. Bọng to người vừa vừa chui vô cũng lọt. Nhưng ai mà dám chui vô đó, lỡ mà kẹt trong đó ra không được thì đám kiến bù nhọt khổng lồ cắn chắc là còn bộ xương.
Nói tới mấy con kiến bù nhọt thì thiệt là hết ý. Giống kiến đen thui, bự con, cặp càng mạnh thần lực. Cắn phát nào là để dấu phát đó. Mấy thằng con nít, mấy người nhạy cảm bị kiến cắn sốt li bì như ong bò vẽ chích vậy.
Lũ kiến làm tổ trong cây đa nơi nào thì có trời mà biết. Mùa mưa chúng rúc lên trên các bọng cây. Mùa nắng thì kéo nhau xuống đất đào hang. Hang kiến chắc là lớn và sâu lắm.
Người ta đồn nhau hang kiến bù nhọt thấu xuống tới âm phủ. Lũ kiến xin Mã Diện, Ngưu Đầu cái chỉa ba làm cặp càng nên càng mạnh quá ể!!! Có người đem con chuột chết quăng vô gốc đa, chút xíu chỉ còn trơ cái bộ xương trắng nhách thấy ớn!
Kiến bù nhọt là bộ tướng của thần cây đa. Trong cây đa còn hai con cắc kè bông to chà bá. Hai thằng cắc kè này hay bò qua mái quán ông Hai nằm hóng khói chơi.
Ông Hai cưng hai con cắc kè này lắm. Trưa trời nắng tụi nó kêu ai oán. Mấy thằng nhỏ trong xóm cho rằng hai con này là quân sư của thần cây đa.
Dưới trướng quân sư cắc kè còn có hàng ngàn con ma bay qua bay lại trên những cọng rễ phụ như Tazan. Mấy con ma bùn này thích nhất là chơi trò bắt người nhốt vô trong bọng cây.
Ma giấu! Ừ cái từ thường được nói là ma giấu.
Đám ma hiện thành gái đẹp, thành người già bịnh hoạn dụ người ta chui vô gốc đa, nhét phân bò với lá đa đầy họng. Người bị ma giấu thường ngu ngu ngơ ngơ, ngồi khít rịt trong cái lổ. Muốn lôi ra được cũng là kì công. Có người ra rồi nhìn lại cũng không hiểu sao mình chui vô trong được. Người tối ngày bị ma giấu trong gốc đa là ông Chín Đèn.
Cha này thợ điện, làm nhà đèn. Bự con, nhiều vợ, nhiều con, khoái nhậu. Nhậu phải tới chỉ mới mò về, thường là quá giờ giới nghiêm.
Hai An Ninh, khóm trưởng nhốt chả hoài cũng chán, thành ra cho thoải mái mà nhậu, không can gì. Nhậu tuần đủ bảy ngày, tháng dư tháng thiếu ba mươi, ba mốt đều đặn.
Cứ hai ba tháng lại thấy chả ngồi trong bọng cây đa. Bầy vợ và con bu nhau lôi kéo mướt mồ hôi mới chui ra được. Ra rồi cứ dòm bà Hai Hủ Tíu thất thần.
Con ma bùn nào thích biến thành bà Hai vậy ta? Bà vợ lớn của ông Chín bán cháo đậu đen, thứ cháo đậu nấu nhừ nhuyễn, béo béo bùi bùi ăn với dưa mắm, củ cải muối thiệt là khoái khẩu. Gánh cháo của bả có ba bà bán chung, bả múc, hai bà kia kéo bàn kéo ghế và rửa chén. Bán ngay phía sau đình, dưới bụi tre bên cái hồ nước cạn nhách.
Cái hồ này ngày xưa tên là bàu sấu. Trong bàu có đại tướng cá sấu trấn ngự. Thần Hoàng thả con ngựa bạch bên bàu, ngồi nghỉ dưới bụi tre. Con cá sấu bò lên tính đớp ông Thần Hoàng, ngựa bạch kịp hí một tiếng cho chủ hay. Thần Hoàng của Đình rút gươm chém một phát. Cá sấu da dày như thép, gươm gãy ngang. Phần lưỡi bay tuốt phập ngang cây đa, bây giờ dấu còn y. Nhiều người thử lay, đục nhằm lôi lưỡi gươm ra nhưng không ai thành công ráo.
Mấy trăm năm, cây đa tham báu kiếm sinh không biết bao nhiêu lần da ôm chặt lấy. Những mép da tham lam nuốt lần nuốt lần, lưỡi gươm lọt vào tận lõi cây rồi. Trong tay Thần Hoàng chỉ còn cái cán gươm. Con sấu tinh há họng như cái máy dập mấy chục tấn chực táp Thần Hoàng. Ngựa bạch bèn lồng đứt dây cương chạy tới chịu cho cá sấu đớp một phát đứt làm hai.
Thần Hoàng lôi đình thịnh nộ, giận tới nỗi tóc tai dựng đứng, niệm chú gọi ngũ lôi đánh cho con quái vật cháy đen thui. Con sấu tinh sợ quá chạy tuốt xuống Nhà Bè tác quái.
Thần Hoàng từ khi ngựa chết trong lòng buồn thiu, tháo ấn từ quan về sống nơi này. Sau chết được vua Minh Mạng phong cho làm Thần Hoàng. Con ngựa bạch trung liệt cũng leo lên bàn thờ ngồi chung với chủ.
Cái bàu nước sâu ngày xưa cạn dần, cạn dần thành cái hồ bơi cứt vịt. Trong hồ mực nước chừng bảy, tám tấc, bèo sinh sôi kín mặt hồ. Hai bên hồ người ta nuôi vịt mấy đàn. Bầy vịt vừa bơi vừa rúc vừa ị xuống hồ luôn. Nhất cử tam tứ tiện.
Mấy thằng con nít thích ra đó tập bơi lắm. Nước dơ ơi là dơ. Mấy bà mẹ cấm con không được ra đó dầm nước. Còn con ma da đàn em của đại tướng cá sấu núp trong hồ đó.
Có con bé sáng sớm ra hồ nằm úp mặt xuống nước mà chết đuối rồi, nhưng mấy ông nhóc làm sao mà quản cho nổi. Trưa nào tụi nó cũng đợi ba má ngủ là mò ra tập bơi trong cái hồ cứt vịt này.
Mấy bà mẹ cứ thấy con về trên tóc có dính bèo là đè ra đét đít. Hì hì, tụi nhỏ cởi hết áo quần nhảy xuống bơi cho đã rồi nhong nhỏng chạy ra phông ten ngoài trại cùi mà tắm. Nước máy thời miễn phí. Cứ dội thiệt kĩ, xong nhảy tưng tưng cho khô nước rồi bận quần vô chạy về nhà. N
Nói vậy chứ tụi nó vừa tắm vừa sợ mấy ông cùi trong trại thò tay ra nắm của quý hay là vuốt mông lắm, thành ra tắm mà phải có thằng dòm chừng.
Ngoài mấy ông cùi còn có mấy cô lớn lớn ra gánh nước về nhà xài nữa. Mấy bà này thấy đám con nít cởi truồng chạy ra là hét như xe lửa kéo còi liền. Hét rồi thế nào cũng mét cho tụi nó ăn đòn. Chơi ác thiệt!!!
Còn mấy bà già hết thời ngồi quán lê la từ sáng tới chiều đa phần là dân giang hồ. Giang hồ ở đây không phải là anh chị mà thiệt là dân trôi nổi, sông nước từ tứ phương lưu lạc về chốn này.
Có hai chị em bà Mười Lựu Đạn là dân Bắc di cư. Hồi xưa ngoài Hà Nội là gái nhảy. Di cư vô Nam cũng làm gái nhảy, nhưng già hết thời, biến thành hai mụ già chuyên chửi đời và nhậu.
Bà Mười tên gì không còn ai nhớ. Bà bị kêu là Mười Lựu Đạn vì có lần nhậu xỉn, đình cúng, đang hát bội tuồng Lưu Kim Đính giải giá Thọ Châu, tự nhiên có cô đào hát chèo nhảy lên sân khấu làm nguyên một khúc Xuý Vân giả dại. Trống chầu do ông Lai cúng đại kì dộng ầm ầm. Cái này kêu là trống chửi!
Cô đào hát say sưa như điếc. Đến cái khúc xé quần xé áo toèn toẹt thì cổ làm thiệt.
Trời thần ơi! Là bà Mười! Đúng là con mụ lựu đạn. Mấy ông học trò lễ áo thụng xanh mũ cánh chuồn nhảy lên lôi bà xuống. Náo loạn, bả gào thét chửi inh trời.
Bà Nhì, Nhì ở đây là thứ mười hai, em bà Mười ngồi nhậu mấy thứ thịt thà người ta bỏ lại khi cúng xong ở đằng sau đình nghe chị mình gào bèn chạy ra, vác ngay cái trường đao dựng trong giá mười tám món binh khí chém loạn xà ngầu. Hương chức hội tề mặt xanh như đít nhái chạy rạt gáo.
Bà em cũng ngà ngà nhảy lên sân khấu múa vòng vòng. He he, là Quan Vân Trường quá ngũ quan trảm lục tướng. Xuý Vân với Quan Công màn cuối nên duyên sắt cầm, trời đất!!!
Ông Hai Hủ Tíu tới giờ mới hay, bước lên sân khấu núm từng bà liệng xuống như liệng cái bao cát.
Hai bà này cộng thêm mấy cô đào hạng bét dạt ra từ những gánh hát hạng bét làm thành vô số những câu chuyện trên trời dưới đất.
Sáng nào mấy bà cũng trét bột trắng nhách cái mặt như mặt nạ ra ngồi quán. Mấy bà này theo bà Chín Tỵ, em gái ông Ba Vân kép nghiện, trôi dạt về đình, sáng ra ngồi thêu chuyện.
Ngồi tới cỡ tám chín giờ thì rủ nhau vô thêu áo quần, phông màn cho mấy gánh hát. Rồi có mấy bà làm me Tây, Tây chuồn hết không còn là me nữa, chắc là cóc. Mấy bà này cũng ra quán ngồi ngóng gió ngáp chơi. Bà cóc nào không có con thì không nói chứ bà nào có con thì mèn ơi, mấy đứa Tây lai này đẹp hết ý.
Trong xóm Đình hoa đẹp mọc nhiều như cỏ hoang. Chỉ trừ cái bông sen một mình trong hóc là hoa bày trong bình bông thôi!!!
Ông bà Hai thiệt là dễ chịu. Bà nào ngồi bao lâu cũng được. Muốn uống cafe thì cứ tự nhiên vô bếp rót ra mà uống, miễn phí, he he, cái thứ cafe giảo nước hai nước ba mà.
Chỉ có ba cái bàn kê đối diện bàn thờ ông Hổ là đám đàn ông ngồi. Bàn nào cũng có bàn cờ tướng. Dân ngồi đây thì trả tiền đàng hoàng và là dân anh chị thứ thiệt. Tay đại ca đầu tiên khống chế những tay chém trong xóm là Đực Lớn. Thằng cha này to con, mạnh như kiến bù nhọt! Ông Sáu thầy bói lỡ miệng phán chả chết bất đắc kì tử bị chả đập bèo nhèo, gãy hết mấy cái răng thiệt.
Sau khi thống nhất giới giang hồ từ chợ Hoà Hưng sang đến khu Cống Bà Xếp, vọt lên tới chùa Định Thành. Đực Lớn bắt đầu mở sòng bài và động điếm. Sòng bài thì phục vụ cho mấy tay lính nhảy dù thuộc trại Nguyễn Trung Hiếu. Trại này nằm đối diện nghĩa địa Chí Hoà. Còn cái hang nhền nhện thì để dành cho lính Mỹ.
Đực Lớn trấn thống khu vực này bằng mã tấu, cái thứ đồ nghề rèn từ những thanh nhíp xe jeep mài bén lên nước. Tướng bự cộng với cây mã dài thước hai coi bộ hù người ta sợ chết được.
Tết Đinh Mùi, có hai tay lính nhảy dù đem trái lựu đạn quăng ra sòng đặt thay tiền, rồi rút chốt hù hồ lì, xong hốt hết tiền dọt. Đực Lớn ở trần đang nhậu, nghe tin có lính lật sòng, vác mã chạy ra.
Chả ra tới đầu đường thì trong này bà con nghe súng nổ ran ran cả băng. Rồi Đực Lớn hai tay ôm bụng bang bang chạy vô, máu chảy ướt cả đường hẻm. Vô tới quán cafe gốc đa, chả ngã ngữa vô trong tay ông Hai, hai tay buông ra, ruột đổ ra cả nùi.
Đực Lớn kết thúc nghiệp đại ca trong cái chết đầy nuối tiếc, hai con mắt mở trừng trừng vuốt cách gì cũng không nhắm... Xóm Đình tiếc thằng cha hảo hớn này bạo nghe.
Sau đó Tứ, đàn em lên thay Đực Lớn. Vẫn là cách kinh doanh như cũ, nhưng không xài mã tấu nữa. Tứ xài súng và là tay ăn cướp thứ dữ!
Ác giả ác báo, cảnh sát bao vây nhà Tứ. Chả nhảy từ nóc nhà chả xuống nhà đối diện, vừa chạy trên nóc nhà vừa bắn trả. Đạn lạc trúng ngay con bé Lan, con bà đào hát Hoàng Điệp.
Tội nghiệp con bé mới mấy tháng tuổi bị bắn bể mỏm xương đùi, lớn thành tật cà nhắc, tụi con nít trong xóm kêu là con Lan què hay Lan khùng.
Cha Tứ nhảy loi nhoi trên mấy cái nóc nhà, xui sao cái nóc nhà bà Mười Lựu Đạn nát mẹ nó rồi, rớt xuống đất cái bộp như trái mít sút cùi, còn làm dữ, nã thêm mấy phát.
Đám cảnh sát điên lên bắn thôi người lủng như cái rổ thưa, chết ngắt! Đại ca Tứ chết bỏ lại con vợ đẹp như tiên, bà Nhan.
Thiệt là tên như người, Nhan Như Ngọc, mặt như ngọc, người cũng như ngọc. Tiếc thay viên ngọc vần dưới bùn. Đại ca Tứ đi đứt thì bà chủ động nhền nhện thành gái điếm cao cấp liền.
Bắt đầu có chuyện với cái bóng của ông Hai. Nó mê bà Nhan này quá! Từ sáng sớm cho tới sáng sớm hôm sau, tức là suốt ngày đêm nó cà rà quanh bà Nhan.
Mê muội! Nó bỏ ông Hai đi tuốt luốt, không thèm quay về nữa. Ông Hai Hủ Tíu già thấy rõ, tóc ông bạc trắng như bông. Hồi xưa tới giờ tóc ông bạc rồi đen, đen rồi bạc tuỳ theo cái bóng đi về về đi. Bây giờ nó không thèm về nữa thì làm sao?
Ông Hai lò mò vô cái hang tối thui sau đình, năn nỉ cái bóng về với ông. Thất bại! Ông trở ra gốc đa uống thôi trời sầu đất thảm! Uống rồi chửi, chửi rồi đấm đá tượng ông Hổ.
Bình thường sau công đoạn đó là ông đi ngủ, nhưng lần này ông Hai đấm đá xong lại quay về uống. Máu tươi nhỏ giọt giọt chỗ mắt cọp. Máu chảy nhiều như máu Đực Lớn đổ trước bàn thờ ông Hổ.
Không biết ông Hai uống, chửi, đánh bao nhiêu ngày? Người ông tóp teo, tay chân và mặt lòng thòng một mớ da nhùng nhằng, nhăn nhúm. Ông già bất tử mấy trăm tuổi trong một thời gian ngắn già chảy xệ ra.
Bà Hai vẫn tỉnh bơ, cái nhìn của bà thả đi đâu đâu. Mặc kệ ông chồng làm gì thì làm, trong bà không có người đàn ông đó nữa rồi. Hơn trăm năm trước ông ta đã chết cùng ông thầy dễ thương rồi.
Rồi một đêm trời mưa như thác đổ, trong cái hộp bít bùng, bà Hai ngồi xõa tóc cười như khùng, hai con mắt bà nhìn thấu qua màn nước dầy như hai cây đèn măng xông cháy sáng rực.
Con Lan què, con bà Hoàng Điệp, nửa đêm dậy khóc thôi là khóc. Tiếng khóc xé ruột xé gan của nó cũng xé nát màn mưa, bay tới khắp các nhà trong xóm. Sấm sét đánh liên hồi kì trận vô cây đa. Trong những căn nhà nhỏ dột nát, người ta nói với nhau quỷ nhập tràng muốn nhập vô cây đa, đang đánh nhau với ông thần cây đa. Cuộc chiến căng thẳng quá, ồn ào quá!
Tiếng mưa, tiếng sấm, tiếng khóc, tiếng cười trộn nhau thành một thứ ồn ào làm cho cái bóng thức dậy. Nó nhìn người đàn bà mà nó mê muội nằm co rúm trong đám mền gối. Bèo nhèo! Người đẹp sao mà bèo nhèo như cái giẻ rách vậy nè?
Rồi nó nghe như có tiếng ông chủ nó hú ngoài gốc cây đa. Nó bật dậy, chạy như bay ra. Mưa tạnh! Cơn mưa tạnh ngang hông như chưa bao giờ mưa. Bà Hai thôi cười, con Lan thôi khóc, thế gian trong một phút im lặng.
Ông Hai bất tử mấy trăm tuổi không biết chết treo toòng ten trên một nhánh đa, thân hình ông căng phồng như cái túi đầy hơi cột thắt nơi cổ, mớ da thừa nhùng nhằng tròn ủng.
Cả xóm túa ra, trong im lặng tuyệt đối. Ông thần cây đa chết trong trận chiến cùng quỷ nhập tràng rồi. Ông chết vì thiếu mất cái bóng, vì uống nhiều quá, vì thể lực hao mòn quá.
Tượng ông Hổ thờ trên bệ nước mưa chảy thành dòng trên mặt cọp, nước tuôn ra từ khoé mắt cọp. Cái bóng nhìn ông chủ mình như cái túi hơi treo lủng lẳng trên cây trong im lặng một hồi lâu, rồi tự nhiên nó hét lên.
Sét đánh cái đùng, cái bóng biến thành một luồng khói trắng bay mất. Tượng ông Hổ tét làm hai, từ đầu tới đuôi, cả cái của quý được tạc cẩn thận bên dưới cũng tét hai. Cái tượng rỗng ruột, bên trong một bộ xương người khô quắt lăn ra.
Bà Hai trong cái hộp rú những tiếng như cú mèo chạy ra ôm chầm bộ xương. Bộ xương nát vụn nằm trên nền sân đình. Cái nền ướt sũng nước mưa, bà Hai nằm sấp, nguyên người bà úp tròn lên bộ xương. Nước mắt bà chảy như suối, nước mắt chảy tới đâu, bộ xương tan ra, thấm vào người bà tới đó.
Cái túi da người treo trên cây tự nhiên xì ra một đám hơi thúi hoắc. Thúi kinh khủng! Người ta rần rần bỏ chạy. Khi người ta chạy hết thì sợi dây treo đứt ngang, ông Hai rơi trở lại mặt đất.
Trời sáng!!!
Trời hết tối rồi thì sáng, lẽ tự nhiên. Trong ánh sáng trần trụi cuộc đời cũng thành đơn giản hơn. Người ta quan tâm tới bữa ăn nhiều hơn, cần có cái thứ gì đó nhét cho đầy cái túi rỗng trong người.
Bà Hai, sau khi ông chồng chết trở thành câm. Bà không nói nữa, quán cafe dưới gốc đa ế ẩm, không ai còn huỡn mà ngồi nhâm nhi cafe nữa, ai cũng chạy kiếm ăn hết.
Quán ế hay đắt, bà không cần biết, ăn hay ngủ không còn là chuyện bà quan tâm nữa. Sau khi bộ xương trong tượng ông Hổ thấm hết vào người bà, bà trở thành già quá sức. Mái tóc đen thui dài thướt tha bạc trắng như Ngũ Tử Tư, da dẻ nhăn nheo khủng khiếp rồi nổi mốc đen mốc trắng.
Một đêm, tóc bà rụng trắng cái giường, đầu bà thành trọc lóc như thầy chùa. Hai con mắt mờ đục, không còn cháy rừng rực nữa.
Một hôm bà bỏ quán, dọn cái giường vô trong cái hóc kẹt sau cái bếp của đình. Bà vào sống trong đó.
Cái quán người khác bán. Bà chủ mới của cái quán là một người đàn bà của ban ngày. Ông chồng đi học xa lắc vì thời thế, bỏ lại bà vợ lanh lẹ và ba đứa con gái nhỏ chút chun như ba cái li. Bà phải chạy ra đường kiếm cái sống cho bốn mạng trong nhà.
Quán ngày càng đông trở lại vì bà chủ quán biết ăn nói và chiều khách. Quán đông một phần cũng nhờ những tay kép, cô đào dạt tứ xứ bây giờ kéo hết về sống trong cái xóm này. Những con người này sống về đêm, ban ngày rảnh hơi ngồi mòn đít trong quán.
Bà Hai sống trong hóc đình. Bà sống lặng lẽ. Những cái vòng leng keng trên tay bán lần hồi cho chuyện ăn uống. Té ra đó là vàng thiệt!
Bà sống lâu quá, lâu tới mức số vòng vàng hết trọi mà bà vẫn còn sống. Ai đâu mà nuôi, bởi vậy bà phải đi xin.
Trời ơi! Người đàn bà của ngày hôm qua chống gậy mò ra đường. Hai con mắt mờ đục, nhưng bà không ngửa tay xin ai cả, bà đàng hoàng đi vô nhà những người quen ngày xưa. Ai cho bao nhiêu thì cho, và bà sống mãi bằng cách đó.
Sống ốm yếu, hom hem. Người bà khô lần, khô lần như con cá phơi ngoài nắng. Rồi bỗng nhiên bà biến mất, không ai thấy bà đâu. Người ta bàn tán lung tung, nhưng câu chuyện cũng mau chóng rụng vào quên lãng. Người ta có những chuyện khác gay cấn hơn để bàn, như chuyện thằng Hải Mèo bị trùm bao bố, hay là con Lan què có bầu!
Con Lan què lớn lên hồi nào có ai mà biết. Nó khùng khùng, ai đụng vô nó nó chửi tan nát hết. Má nó, bà Hoàng Điệp nghỉ hát từ lâu. Bà đào hạng bét này chuyển qua rao bánh mì. Sáng nào tiếng bà cũng lảnh lót khắp hang cùng ngỏ hẻm. Chưa có tay bán bánh mì nào rao ngon như bà.
Hì hì! Trời mờ mờ sáng, bà Điệp đã đi ra lò lãnh bánh bán. Con Lan ở một mình trong nhà. Nói cái nhà cho nó oai chứ thiệt ra chỗ hai mẹ con bà Điệp ở còn tệ hơn cái hộp của ông bà Hai.
Không biết khi con nhỏ ngủ say, thằng khốn nạn nào mò vô làm bậy mà nó có bầu. Mấy thằng xích lô hay ngủ ngoài mấy cái xe xích lô để dưới gốc đa bị các bà vợ lôi về đe nẹt quá chừng, thằng nào thằng nấy thề sống thề chết là hổng có rớ vô con Lan què.
Chỉ có bà Điệp và con Lan là im re. Con Lan cũng có biết ai đâu, thành ra có hỏi nó cũng như không. Trong số những người bị nghi ngờ nhất có cha Tư.
Cha này là phế binh, què giò, mặt rổ như tổ ong. Chả phụ bán trong quán cafe dưới gốc đa, tối chui vô cái hộp ngủ trong đó coi chừng luôn. Mà cái ổ của má con con Lan thì gần sát cái quán. Cha Tư què ráp với con Lan què thì xứng đôi quá!!!!
Ông Tư chỉ biết trợn con mắt vàng khè nhìn chăm chăm vô li rượu cây Lý mỗi khi có ai đó nói bóng gió chuyện ổng với con Lan. Thiên hạ ác mồm, hồi con Lan còn nhỏ ổng bồng ẵm nó hoài mà.
Ông Tư què thiệt tình không có. Ai không biết ổng chứ bà Hoàng Điệp thì rành ông Tư quá. Ổng về xóm đình này cũng vì bà Điệp.
Ngày xưa, anh chàng biệt động quân Tư mê cô đào có giọng hát ngọt như mía lùi Điệp. Mê giọng hát, anh không quan tâm tới cô nàng mập ú, xấu như ma. Anh theo cô đào lưu lạc về Xóm Đình, xong cắm dùi đây luôn. Bà Điệp mãi không chịu ông Tư, thành ra ổng tối ngày mượn rượu giải sầu.
Rồi chuyện tào lao đổ lên đầu, trăm miệng cũng hổng cãi nổi. Ông Tư uống tới một ngày trào máu họng, chở vô bịnh viện thì đã chết vì vỡ gan. Ngày con Lan què sinh con, má nó khóc như mưa. Tiền không có làm sao vô nhà thương, bà chủ quán cafe móc ra một cục bạc gói tròn. Ông Tư què để lại cho mẹ con bà Điệp.
Mấy bà đưa con Lan đi sinh về kể chuyện trong bịnh viện nghe như hí kịch. Con nhỏ đau quá, chửi từ bác sĩ tới y tá, chửi cái bụng to, chửi má nó sinh ra nó, chửi hết trọi rồi thì thằng con trai lọt ra cái ọt. Thằng nhỏ nghe má nó chửi quá tức cái mình khóc như gào.
Con Lan hết khùng. Nó hết khùng luôn từ khi thằng con nó khóc chửi đời. Ngày nó ẵm con về nó đi thẳng vô nhà Đực Nhỏ. Cha Đực Nhỏ này là em ruột của đại ca Đực Lớn.
Thì ra người làm bậy là Đực Nhỏ. Thằng nhỏ dòm giống y như thằng cha, hết chối!
Đực Nhỏ bị Hai Nhái chửi như điên, phải chu cấp cho mẹ con con Lan. Con Lan từ đó chống cây nạng, đeo cái giỏ theo má nó đi bán bánh mì. Sáng sáng, tiếng nó rao bánh mì nóng giòn nghe vút cao, giòn tan như bánh mì nó bán.
Thằng Đực con lớn như gió thổi! Cái mặt nó từ hồi đó tới giờ vằn vện như mặt cọp. Nó lăng quăng dưới gốc đa chơi một mình, mấy con kiến bù nhọt từ hồi ông Hai Hủ Tíu ngủm củ từ trở nên hung hăng ghê gớm, nhưng chừa thằng Đực con này ra, không cắn nó.
Thằng Đực con khoái nhất cái trò chui vô những cái bọng dưới gốc đa trốn má nó. Con Lan què kêu con nghe áo não như tiếng cú đêm.
À, trên ngọn cây đa có con cú mèo về sống mồ côi một mình, mấy thằng nhỏ hay vác ná bắn nó.  Vô ích thôi, cây đa cao quá, viên đá bay hết tầm chưa tới được hai phần ba chiều cao của cây đa già. Con cú sống thoải mái bằng những con chuột chui rúc bên dưới cái cống phía sau quán cafe, khuya khuya nó buồn buồn rúc những tiếng kêu nghe nổi da gà.
Con Lan què kêu con cũng y thinh. Thằng nhỏ có khi chui ra cười hì hì, có khi ngủ khò trong đó kệ má nó rú thê thảm. Một bữa thằng nhỏ chui từ trong cái bọng cây đa ra với một cục trắng trắng tròn tròn. Nó bỏ xuống đất làm trái banh đá chơi.
Trời thần ơi! Là cái sọ người trắng hếu, không còn cái răng nào. Cả xóm lại đổ xô vô coi, thằng Đực con được mướn bằng mấy cục kẹo để chui vô lôi hết những thứ trong bọng cây ra. Nó móc ra đủ thứ xương, là nguyên bộ xương người hoàn chỉnh, có thiếu chắc là ba cái lặt vặt như ngón tay, ngón chân. Thằng Đực con còn lôi ra hai cái bông tai hột bẹt.
Bà chủ quán cafe mặt xanh lè, đôi bông hột bẹt của bà Hai Hủ Tíu!!! Ngày hôm sau xóm Đình thêu dệt nên những câu chuyện nghe li kì rùng rợn. Con quỷ nhập tràng sau khi bị thần cây đa là ông Hai Hủ Tíu đánh bị thương nghiêm trọng đã quay về. Nó lặng lẽ túm vợ thần cây đa nhét vô trong bọng cây cho kiến bù nhọt gặm còn trơ xương. Hồn bà Hai không siêu thoát thành con cú mồ côi đậu trên cây đa trách đời.
Bà chủ quán cafe sau này cúng thôi là cúng. Ông chồng bà học giỏi, tốt nghiệp về sớm. Chồng về, việc buôn bán càng thuận lợi, bà cúng thôi lu bù.
Cái gốc đa sau khi thằng Đực con lôi bộ xương của bà Hai ra không ai dám ngồi gần. Bà Hoàng Điệp dắt con gái với cháu ngoại bỏ xóm đi mất. Một phần vì con Lan què sợ quá lâu lâu lại nổi cơn khùng lên, phần khác bà sợ thằng Đực con chui riết vô trong gốc cây có ngày thành quỷ nhập tràng.
Cây đa, quán nước, cái đình, ba thứ gắn kết vào nhau với những chuyện kì quặc về người đàn ông bất tử, người đàn bà nhìn thấy hôm qua và tượng thờ ông Hổ. Chuyện râm ran, đồn đại lung tung. Trưởng xóm cử người đốn bỏ cây đa.
Nhóm thợ thứ nhất đưa cưa máy treo lên trên ngọn thì đứt dây, cái cưa rơi từ trên cao xuống đập ngay đầu ông trưởng xóm. Ông này té xuống nằm liệt luôn tới chết. Chấn thương sọ não.
Nhóm thợ thứ hai, một người trèo cây chưa gì té gãy chân, lại thêm phù cả người mấy tháng.
Nhóm thứ ba, dùng xe thang chuyên dụng móc vô cây, sét đánh cái đùng, chiếc xe cháy đen thui, phải kéo đi sửa.
Cây đa có thần hay là có ma? Ai mà biết, nhưng thôi, người ta để nó yên chỗ đó rồi.
Cây đa dẹp không được thì dẹp cái quán nước. Cái quán cafe này là trung tâm thông tin nhảm nhí, dẹp phức cho rồi!
Cái hộp sắt như vậy được tháo tung. Cái bếp xây bị đập bỏ. Ngày người ta dỡ quán, chuột bên trong chạy ra có mấy trăm con. Con nào con nấy mập múp. Cả xóm tưng bừng đập chuột. Chó thì sủa, người lớn, con nít reo hò như phát cuồng. Chuột chết la liệt khắp xóm. Ai hay dưới cái quán là một ổ chuột khổng lồ như vậy.
Cái quán dẹp xong, tối đó mưa nho nhỏ, con cú mồ côi trên cây đa kêu miết cả đêm. Sáng hôm sau nó nằm chết bẹp trên đống tole gỗ ngổn ngang bên dưới.
Ngày con cú chết thì chị cũng dọn nhà đi qua chỗ khác...
Chị và hai đứa con gái hì hục cột đồ chất lên xe. Nhà nhỏ, đồ đạc không có bao nhiêu. Phần chị vứt bỏ không mang theo cũng nhiều nên số đồ mang theo chỉ vừa sắp đầy cái sàn chiếc xe tải nhỏ.
Ba mẹ con mồ hôi đọng thành hạt trên cánh mũi. Nắng soi hồng má mẹ lẫn má con. Những cọng lông măng như khói như sương mịn màng trên má. Ai cũng đẹp. Không biết sao mà có người đẹp đến như vậy. Tức cười là chị và hai đứa con đẹp quá ể mà bị chồng bỏ.
Thằng chồng chị thì tôi rành quá. Cha này là con cháu hoàng tộc, nhà giàu lắm lại là con một. Chị và ông ta không có con trai nên ông ấy xua chị ra đường cũng phải.
Mà công nhận ông chồng chị đẹp trai ác chiến, nhìn như Tây lai. He he, tôi gọi là ông Bão Tố, khi tôi vui, còn khi buồn bực tôi kêu là cha Bão Táp, dĩ nhiên là táp cái thứ tôi muốn cho chả táp thôi!!!
Chị, thân gái chưa đủ hết mấy chứng chỉ Văn Khoa, đã vội lấy chồng. Ai biểu! Bướm vàng đậu nhánh mù u, lấy chồng càng sớm lời ru càng buồn mà!!! Học Văn Khoa mà hổng biết chuyện này sao?
Tới giờ, không nghề nghiệp, hai con, lủi thủi ra đường. Thành ra chị chọn xóm Đình để ở cũng dễ hiểu. Nhà rẻ! Buổi sáng chị làm nhân viên văn thư, chiều chị đi làm người giới thiệu chương trình cho đoàn kịch nói mang tên cái loại hoa thiệt là sang trọng.

Chị sống trong cái xóm này như người bên lề cuộc đời. Hai đứa con bị nhốt trong nhà không cho thò đầu ra đường. Ngày chị hay tin người chồng trước đi lấy vợ, tôi thấy chị say. Bước chân chị về khi tối trời cũng chưa bao giờ loạng choạng mà lần này chị mấy lần muốn té. Rồi tôi thấy chị khum người bên hàng rào nhà Ý Ba. Chị ói!
Trời ơi, tôi muốn chạy ra đỡ chị quá. Nhưng tôi vẫn ngồi yên nhìn chị. Cái quy định của chúng tôi là nhìn và chỉ là nhìn. Tôi không muốn vượt qua giới hạn đó, vì chỉ bước qua một cái là thằng con nít như tôi lập tức cháy tiêu, cháy như cái bóng của ông Hai Hủ Tíu vậy.
Rồi chị cũng đứng dậy được, cũng vô nhà được. Chị chỉ nhìn tôi một cái, cái nhìn như cảm ơn. Tức cười, mắc cái giống gì mà cảm ơn hả! Chị đứng dậy được, và bước đi luôn.
Hết trơn rồi cái thứ tình yêu ngọt ngào ngu ngơ của cô bé sinh viên Văn Khoa vừa từ Đà Lạt xuống Sài Gòn. Chị biết thứ mình cần là gì và biết từ đâu lấy được cái thứ đó.
Một năm sau, chị dọn nhà và lấy ông chồng giám đốc công ty xuất nhập khẩu. Căn nhà mới nghe nói nằm trên con đường toàn biệt thự. Nhà chị cũng là một cái biệt thự thiệt bự.
Rồi chị làm thơ, cái thứ thơ tình yêu ngột ngạt và nóng như lửa của chị đăng đầy trên báo.
Chị thành nữ thi sĩ thứ dữ, cái tên loài hoa giúp ông Mạc Đĩnh Chi làm trạng nguyên của chị bây giờ làm xôn xao Tao Đàn.
Lại nghe nói chị in được chín, mười tập thơ bán chạy. Cái xóm Đình chị bỏ lại sau lưng.
Cây đa bây giờ còn có một nhúm cành khô khốc. Nó sắp chết già. Ừ, nó rồi chết già, chết như ông thần cây đa vậy đó.
Tôi thấy con quỷ nhập tràng trong cây đa rồi! Nó bay xẹt từ tượng ông Hổ sang cái bọng sâu nhất, tối thui trong cây đa. Con quỷ có hai con mắt đỏ như lửa, nhưng nó giống hình ông thầy đồ đẹp trai trong bức tranh treo trên vách đình quá mạng...
Bí mật đó... Chuyện này giữ trong bụng lâu quá rồi, tức bụng phải xì ra thôi. Hừm! Rồi mai mốt cúng đình sao dám về! Con quỷ nhập tràng tác quái mà ông thần Hoàng giả ngu ngồi chóc ngóc trong bàn thờ. Cũng phải thôi! Cây gươm thì gãy, con ngựa chết rồi. Vua chúa cũng thôi không còn mống nào, lấy gì mà trị đây!!!
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:48:58 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:17:18
HỒN MA TRÊN CÂY TRỨNG GÀ
 
Thời thơ ấu tôi ở trong nhà ngoại tôi. Sau này khi lớn lên, đi xa, rồi trở về thăm lại quê hương mới thấy căn nhà này có tí xíu. Nhưng lúc nhỏ thì thấy nó bự thật bự đi từ đầu này qua đầu kia không biết khi nào hết.
Nhà ở quê hồi xưa, nhất là những nhà không xây theo kiểu Tây, hầu như không có phòng ngủ riêng.
Căn nhà bên nội tôi, chẳng hạn, xây theo kiến trúc điển hình của Huế nói riêng và Việt Nam nói chung. Nhà có ba gian, gian chính giữa là gian thờ. Gian bên phải (từ ngoài đường nhìn vô) có cái giường gỗ. Ở Huế gọi đó là cái "phản". Ban ngày phản là nơi tiếp khách, đánh bài tứ sắc, ăn trưa, ăn chiều. Buổi tối phản là giường ngủ. Gian bên trái cũng là nơi để ngủ.
Nhà bên ngoại tôi thì hơi Âu hóa cho nên nguyên gian bên trái được sửa thành một phòng ngủ dài. Trong phòng kê chừng bốn cái giường cho các dì tôi ngủ. Phía cuối phòng là cánh cửa đi vào sân sau. Phòng có hai cửa sổ, một nhìn ra sân trước và cửa sổ kia nhìn bên hông nhà. Từ cửa sổ này nhìn ra có cây trứng gà. Cây trồng từ bao giờ không ai biết rõ.
Đi ra khỏi cánh cửa sau một chút xíu là một cái giếng đá cổ. Giếng có từ lúc nào tôi không biết, chỉ biết là trước khi ông bà ngoại tôi dọn về đó xây nhà đã có cái giếng này. Giếng cổ, đá xanh rong rêu trông rất lạ. Lúc nhỏ tôi nghe người lớn trong xóm xầm xì rắng giếng đó có ma. Năm tôi lên bốn tuổi, có một chuyện xảy ra làm tôi không bao giờ quên. Bác hàng xóm chạy qua mặt mày hoảng hốt miệng thì ú ú ớ ớ. Sáng sớm bác ra giếng rửa mặt, thấy một người con trai và con gái đứng cạnh giếng bác ngỡ là ông cậu bà dì bên nhà tôi nên mở miệng chào. Khi đến gần thì cả hai người này tan dần vào sương sớm.
Ở Huế từ nhỏ tôi cảm thấy cõi âm và cõi dương không bao giờ thật sự cách biệt. Mỗi buổi ăn vài dĩa đồ ăn được bày lên bàn thờ cho người đã khuất cùng hưởng với người sống. Trong gian thờ có nhiều bàn thờ nhỏ và trên mỗi bàn thờ có một cái dĩa nhỏ và hai đồng tiền để "xin keo". Khi xin keo, người ta xin một câu - gọi là "khấn" một câu - rồi gieo hai đồng tiền vào dĩa như thảy cục xí ngầu, xin một đồng úp một đồng ngữa thì xem như người khuất mặt chấp thuận, hay trả lời là "đúng", còn ngược lại thì xem như là "không".
Mỗi lần có bánh kẹo ngon lành bày lên trên bàn thờ là tôi chạy vào "xin keo" riết cho đến khi có đồng úp đồng ngữa, thế là lượm bánh kẹo chạy ra ăn. Tuy không đến nỗi ranh mãnh như Trạnh Quỳnh trong "tiền múa chúa mừng", nhưng cũng có lần bị bắt quả tang và ăn một trận đòn đích đáng.
Sống trong một cõi nửa âm nửa dương như thế nhưng như đa số trẻ con vô tư khác không bao giờ tôi suy nghĩ nhiều về chuyện ma quái. Cho đến một tối sau tết Mậu Thân thì thế giới hồn nhiên đó bị thay đổi ít nhiều.
Tết Mậu Thân! Tết năm 1968, đến nay đã bốn mươi năm mà nhắc đến trong lòng tôi còn rất nhiều cảm giác đau thương mà một thành phố đầy tang tóc để lại trong tâm hồn của một đứa trẻ lên năm. Nhà ngoại tôi bị Mỹ dội bom tan tành khi tái chiếm thành phố, nhưng may mắn thay không ai mất mạng. Khi loạn lạc dữ dội cả nhà tạm lánh ra nhà một người quen phía bên Hồ Tịnh Tâm. Hồ Tịnh Tâm là nơi Trần Cao Vân giả dạng đi câu để gặp vua Duy Tân bàn việc nước. Sau này nhà dân xây ra sát gần đó, nên mấy ngày tản cư tôi có dịp thấy cảnh hồ, khá đẹp.
Sau tết, khi Huế yên ổn, cả nhà về lại căn nhà cũ. Trong sân còn xác vài ba người chết vội vàng không kịp chôn cất. Trong sân phía sau có một ụn đất trong khi lộn xộn không ai để ý đến. Vài tháng sau con chó trong nhà đào đất móc lên một khúc xương chân còn dính dép trông thật kinh hồn.
Những ngày đầu tiên về nhà thật thê lương. Mái nhà bị sập không còn miếng ngói, phải lợp tạm mái tôn che mưa nắng. Điện cúp liên tục cả tháng, nhưng lúc đó không có truyền hình, Internet nên không thấy thiếu thốn nhiều. Cả nhà tối đến quây quần chung quanh bàn ăn và chiếc đèn Huê Kỳ duy nhất để nói chuyện. Cứ một hai hôm một lần khi nhàm chán cả nhà lại rủ nhau chơi cầu cơ.
Cầu cơ là một chuyện lạ lùng mà chỉ ở xứ Huế trong không khí thời đó người ta mới có thể nói "chơi cầu cơ" một cách tỉnh táo như là chơi cá ngựa, chơi cờ tướng. Hứng lên là chơi cầu cơ, và bàn cơ đôi khi được làm sơ sài từ phía sau của tấm lịch treo tường. "Con cơ" là miếng giấy xếp lại thành hình tam giác. Lúc đó còn nhỏ nên tôi không nhớ rõ hình thức của bàn cơ. Đại khái chỉ nhớ từ 24 đến 36 mẫu tự chính, 10 con số từ 0 đến 9, 2 chữ "đúng", "sai" và phía trên là mấy chữ đại khái như "Phật, Tiên , Thần, Thánh, Quỷ, Ma, Yêu, Tinh". Sau này khi coi phim "The Exorcist"  của Mỹ, tôi mới biết bàn cầu cơ của mình xuất phát từ "Ouija Board" bên Tây phương nhưng qua tới xứ mình thì được Việt hóa khá nhiều.
Một buổi tối trong thời gian sau tết Mậu Thân này cả nhà lại rủ nhau "chơi" cầu cơ. Huế đang tang thương, đất còn đẫm máu đỏ, hễ cầu cơ là cơ lên liền. Cả nhà say sưa theo dõi con cơ, hỏi thăm về tương lai đất nước hay số phận những người chưa liên lạc được, thì tôi mắc tiểu muốn rủ ai đi chung cho bớt sợ nên phán một câu lãng xẹt là "hỏi cơ coi có ai mắc tiểu thì đi chung". Bị ăn liền một bợp tai tủi quá tôi lủi thủi, quên sợ, quên mắc tiểu rút vào trong phòng nằm một mình.
Giường tôi ngủ lại ở góc sau của phòng ngủ, nhìn ra cửa sổ nơi có câu trứng gà. Bình thường ở đây tôi ngủ chung với ông cậu, nhưng lúc đó ông cậu còn ngồi hầu cơ ở ngoài. Tôi nằm trên giường vừa khóc thút thít vừa nhìn ra màn đêm đen kín ở ngoài. Bỗng đâu thấy rõ một bóng người đứng ngay trên cửa sổ nhìn vào, tôi sợ hãi kinh hoàng nhưng lạ thay không nhắm mắt lại nổi. Trước mắt bóng người đó bay qua cửa sổ vào phòng. Cửa có song sắt thì người thường không thể chui qua được nhưng cái bóng mờ này bay xuyên qua tự nhiên như một làn khói.
Làm sao có thể thấy được một bóng đen trong bóng tối? Ánh đèn dầu leo lét từ phòng khách không chiếu nổi vào trong phòng ngủ. Tôi không hiểu rõ. Chỉ nhớ rằng trong khoảnh khắc của thế giới siêu nhiên tôi nhận ra hình dáng của một thiếu nữ đang bồng một em bé. Thiếu nữ này tiến gần và nhìn sát vào mặt tôi. Đôi mắt buồn vời vợi và sâu thăm thẳm chiếu thật sâu vào trong lòng tôi. Khi cô ta âm thầm ngồi xuống một góc giường thì lúc đó tôi mới có đủ sức để nhắm mắt lại.
Lạ thay khi nhắm mắt lại thì tôi dường như càng thấy rõ trong tâm thức mình hình dáng của người xa lạ này. Có thể sau đó tôi ngủ thiếp đi và nằm mơ thấy, có thể khi nhắm mắt chặt lại thì thần thức cho mình thấy rõ hình dáng của người muốn nói chuyện với mình. Không hiểu vì sao đêm đó tôi biết rõ một câu chuyện, câu chuyện như một khúc phim mà đầu óc non nớt lên năm tôi không hiểu nổi.
...
Sau tết Mậu Thân tôi cùng cha mẹ lên sống ở Pleiku. Được vài năm cả gia đình tôi dọn về Sài Gòn. Ra đi và mang trong lòng một niềm đau khôn tả. Quê hương từ đây rồi sẽ cách xa...
Nhưng quê hương không cách biệt quá lâu; cuộc sống gia đình tôi dần dần ổn định, lúc đó tôi đã học ra trường đi làm, lấy vợ, tôi rủ vợ về Huế thăm nhà.
Vợ tôi là người Nam gốc Bắc, nên hai vợ chồng rủ nhau đi một chuyến từ Sài Gòn đi máy bay ra Hà Nội, rồi từ Hà Nội lại đi bằng tàu hỏa vào Huế để thăm đủ bà con hai bên.
Tháng 7, trời Hà Nội nóng kinh hồn. Lâu ngày trong người không quen phong thổ ngoài ấy nên khi rời Hà Nội vào Huế tôi bắt đầu nhuốm bệnh, và khi đến Huế thì tôi lên cơn sốt nặng.
Nằm ở Huế mùa hè năm đó và tình cờ nằm lại trên cái giường trong góc phòng ngày xưa, tuy bệnh nhưng tôi cảm thấy hạnh phúc khi có dịp trở lại trong quê hương, ngay chỗ chôn nhau cắt rốn ngày nào. Một đêm, trong cơn sốt kinh hoàng tôi cảm thấy có người ngồi bên cạnh đưa tay sờ đầu hỏi thăm. Lạ, cả nhà đang ăn tối ngoài kia và không có tiếng mở cửa. Rồi, trong đầu tôi như quay lại khúc phim tôi coi lần đầu năm 1968.
...
Trong giấc mơ tôi thấy khu đất nhà ông bà tôi xưa kia của một gia đình khá giả. Cô con gái trong nhà cùng một anh chàng trai trẻ - không thấy rõ là một anh lính trong nhà quan, hay một anh gia nhân trong nhà giàu - yêu nhau. Ông cha ác độc đánh chết chàng trai, ném xuống giếng. Không ai biết cô con gái đã mang thai. Cô ta treo cổ trên cây trứng gà mang theo niềm tâm sự u uẩn này.
Lý do nào đã khiến oan hồn này chia xẻ câu chuyện đau lòng từ khi tôi còn thơ dại? Mấy ngày sau tôi bớt bệnh và tỉnh táo hơn để nghĩ lại câu chuyện này. Có thể tôi đã bị ảnh hưởng của bao nhiêu câu chuyện tiểu thuyết. Câu chuyện trong mơ kể lại như "Lá ngọc cành vàng" quá không?
Dù sao đi nữa tôi cũng không mang trong lòng một mình câu chuyện này mãi. Đem câu chuyện này kể lại cho bà tôi thì bà tôi đồng ý rằng từ trẻ bà đã thấy hai bóng ma trên cây trứng gà. Bà không biết đó là hai mẹ con và oan hồn người con không ai biết đến để đọc cho một bài kinh. Biết rõ chuyện bà đặt bàn thờ cúng cho cả ba oan hồn và nhờ thầy đọc kinh cầu siêu cho oan hồn chưa một lần mở mắt chào đời.
Chuyến đi về thăm quê năm đó mang lại một cơ duyên làm thay đổi cuộc đời tôi khá nhiều. Sau đó tôi được một công việc đòi hỏi phải đi lại giữa Nam – Trung - Bắc thường xuyên. Mỗi lần về Huế, tôi lại ghé ngang quê cũ, và lần nào tôi cũng ra vườn ghé ngang cây trứng gà.
Một ngày mùa hè, tôi chợt hiểu ra là oan hồn bà mẹ dù biết rõ số phận sinh tử của mình nhưng không rời được gốc cây oan nghiệt này vì oan hồn người con không hiểu được mình chưa sống nhưng đã chết vì vậy nên không ra khỏi được cõi ta bà giữa những kiếp tái sinh.
Có thể là những bài kinh cầu siêu, có thể tâm hồn của những người xót thương và thông cảm đã làm cho người con yên tâm bỏ đi những tiếc nuối không tên và lên đường. Tại sao tôi biết được họ đã ra đi? Chắc không bao giờ tôi biết rõ, nhưng có cái gì đó cho tôi linh cảm như vậy.
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:49:56 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:18:40
NGÔI NHÀ HOANG
 
Cách đây sáu năm, vì công việc làm ăn gia đình tôi phải rời bỏ thành phố Sài Gòn để dọn về một tỉnh miền Trung.
Vì việc chuyển đổi đó mà vợ tôi đã phải bỏ luôn nghề làm tiếp thị mà từ lâu nay nàng vốn không ham thích gì mấy.
Chỗ ở mới không có thân nhân, lạ nước lạ cái. Vợ tô sẽ ở nhà trông con, hai đứa con trai, đứa lên ba, đứa lên hai đều nằm trong độ tuổi cần người chăm sóc thường xuyên.
Đồng lương kỹ sư điện ở mà phải nuôi cả gia đình bốn nhân khẩu, cho nên chúng tôi mướn một căn nhà nhỏ cách sở làm chừng mười lăm phút đi xe gắn máy.
Tôi làm việc cho một công ty nước ngoài, lương bỗng tuy khá cao nhưng thời gian lại vô cùng chặt chẽ. Chính phòng nhân sự giới thiệu tôi đến mướn căn nhà đó. Cạnh sát nhà có trường tiểu học và nhà trẻ rất thuận tiện cho gia đình chúng tôi.
Sáng sáng vợ tôi ẵm đứa nhỏ đưa đứa lớn qua trường học. Sau đấy, cô ấy về nhà, vừa chăm nom đứa nhỏ vừa nấu nướng và làm tất cả những công việc trong nhà, không để tôi phải mó tay vào.
Như đã nói, vì nhà không xa sở làm nên tôi tà tà chờ đến bảy giờ mới chạy xe vào sở. Vào đó, ghé qua căn – tin uống  ly cà phê bàn chuyện thời sự với bạn bè chút xíu rồi bắt tay vào việc cũng còn kịp giờ.
Tôi gặp Lan Anh vợ tôi trong thời gian hai đứa cùng đi học ở Đại học ở Sài Gòn. Tôi là dân miền Tây Nam bộ, Lan Anh lại là Bắc Kỳ chính cống. Khi tôi học năm thứ ba Đại học thì Lan Anh mới vào năm thứ nhất. Lúc đó nàng vừa tròn mười tám tuổi, còn tôi thì đã hai mươi bảy. Cách nhau tròm trèm chín tuổi và cả đại dương về phong tục, tính cách, nhưng chắc do duyên số nên yêu nhau và khi nàng xong cử nhân Kế Toán thì chúng tôi lập gia đình.
Ra trường, chúng tôi nhất quyết không chịu về quê mà cố sống cố chết bám lại thành phố.
Nhờ có chút vốn liếng ngoại ngữ Anh và Pháp nên tôi cũng không mấy khó khăn trong khi tìm việc.
Công việc dần dần ổn định, nhưng rồi do yêu cầu công tác và nhiều lý do khó nói khác, chúng tôi phải chuyển về một chi nhánh ở miền Trung. Ở đây, tuy có buồn hơn vì ít bạn bè thân thuộc, nhưng nói chung cuộc sống cũng tạm ổn.
Chuyện dài dòng hơi lạc đề nhưng không ngoài mục đích để diễn tả cuộc sống của vợ chồng chúng tôi suốt mấy năm đầu ở nơi ở mới: bình yên, thầm lặng và không dám mong muốn gì hơn.
Sau một năm làm việc tôi được lên chức. Tiền bạc chưa nhiều nhưng vì lúc đó nhà ở các quận vùng ven còn rẻ như bèo nên tôi cứ băn khoăn muốn mua một căn nhà cho ổn định cuộc sống. Khu tôi đang ở là khu khá giả, không dễ gì mà mua được một căn trông cho được mắt. Vợ tôi thì nhất định không chịu dọn vì hai đứa con.
Tôi có vấn đề với hai thằng con. Thằng Đức - con đầu - không xuất sắc lắm nhưng bù lại cần cù và chăm chỉ nên học hành qua ngày. Thằng Thịnh - đứa sau - thuộc loại đặc biệt là phá phách thầy chạy và không khi nào ngồi yên một chỗ. Không phải là phá phách như những đứa con nít bình thường khác, mà phá sao cho tan nhà tan xóm. Vì tương lai của con, chúng tôi phải gửi thằng Thịnh vào học ở một ngôi trường cao cấp.
Nhà trường mời chuyên gia tâm lý vào làm việc, và sau khi bị phán là thần kinh bất thường, nó được vào chương trình giáo dục đặc biết và từ đó ít vấn đề hơn.
Như vậy nói rõ ra vì thằng Thịnh mà sự bình yên của chúng tôi như một sự chịu đựng thầm lặng.
Lan Anh không còn ý hướng nào muốn đi làm trở lại như đã tính từ trước. Nàng trở nên ít nói và mọi hy vọng đều bám vào chương trình dạy dỗ đặc biệt mà thằng Thịnh đang theo.
Một năm trôi qua rồi năm năm. Thằng Đức lên tám, vào lớp ba. Thằng Thịnh theo thầy giáo chuyên trị loại khó dạy lên đến lớp hai. Gia đình ai mà không có nổi khổ riêng. Gia đình tôi không nằm vào ngoại lệ. Nhưng vì không ngừng lo lắng cho thằng Thịnh, cuộc sống gia đình tụi tôi khép kín vào riêng tư, không giao tiếp với ai ngoài giờ đi làm việc.
Như vậy thì tưởng tượng sự ngạc nhiên của tôi chiều hôm đó khi nhận được cú điện thoại của anh Thành.
Anh Thành lớn hơn tôi năm tuổi, là một người bạn thân thiết trong thời gian tôi ở vùng kinh tế mới.
Anh Thành vốn là người quen cũ trong gia đình tôi trước khi tôi gặp và chơi thân với anh ở vùng đất mới ấy. Ngày gia đình tôi chân ướt chân ráo đi khai hoang lập nghiệp, gặp anh như gặp một vị cứu tinh.
Anh đưa chúng tôi về căn nhà ọp ẹp của anh ở, sau đó anh dẫn chúng tôi vào rừng đốn cây gỗ và các loại lá rừng về cất lên một chỗ rộng rãi hơn cho cả nhà.
Anh Thành đi kinh tế mới cùng với một người em trai là Công. Công lớn hơn tôi chỉ chừng ba tuổi, tức là gần tuổi tôi hơn anh Thành, nhưng tôi lại thích đi chơi với anh Thành hơn Công.
Cùng khu nhà mới của tôi có một cô bé xinh xắn tên là Hằng. Anh Thành có vẻ thích Hằng từ ngày đầu, và hay kéo tôi đi qua nhà Hằng để nói chuyện.
Tôi biết Hằng từ lúc hai đứa còn ngồi chung trên chuyến xe đưa dân lên đây. Như đã nói, Hằng rất xinh, nhưng cô bé có vẻ dễ dãi và thích đi chơi với nhiều đứa con trai khác nhau nên tôi không thấy gần gũi lắm.
Khi anh Thành tỏ ý muốn tán tỉnh Hằng tôi có nói vài câu khuyên can, nhưng cuối cùng không cản được sự đam mê mãnh liệt của anh ta.
Sau đó Hằng lại hay qua chơi chỗ tụi tôi, và anh Thành vui vẻ ra mặt. Khi nào cũng ba chân bốn cẳng săn sóc cho cô nàng.
Một buổi tối không thấy Hằng đâu, tôi và anh Công ra bìa rừng chơi. Ngồi một chút anh nóng lòng muốn về nhà. Khi đi ngang một tảng đá kia chợt thấy một cặp thanh niên thiếu nữ ôm nhau quằn quại dưới ánh trăng. Nhìn kỹ chúng tôi thấy ra đó là Hằng và Công.
Anh Thành không nói gì, im lặng đi một mạch về nhà và từ đó anh không nhắc gì đến Hằng nữa.
Một năm trời trôi qua lẹ làng trên vùng đất mới. Đầu năm 1979 anh Thành trở về Sài Gòn cùng Hằng và Công. Công lấy Hằng ngay khi về tới thành phố.
Nhờ ba anh Thành còn ở lại nhà nên anh Thành và Công ổn định cuộc sống tương đối dễ dàng.
Sau đó không lâu, tôi cũng trở về quê cũ, cuộc sống vất vả thiếu thốn đã khiến cho chúng tôi không còn giữ được mối dây liên lạc với nhau. Đã có lúc tôi tưởng, mãi mãi chúng tôi sẽ không còn dịp để gặp lại nhau thêm một lần nào nữa.
Hôm nay nghe giọng anh Thành sau hơn mười hai năm mà tôi nổi da gà. Giọng anh giống hệt như ngày nào hai anh em còn ở vùng kinh tế mới. Tôi còn nghe như có tiếng lá rừng lay động ở đằng sau.
- Tứng hả?
Tôi tên Tuấn, nói theo giọng dân Nam bộ nghe như Tứng nên anh cứ gọi tôi là Tứng.
- Anh Thành!
Tôi reo lên.
Tôi nhận ngay ra giọng anh. Hai anh em nói chuyện liên tục suốt hai tiếng đồng hồ. Qua câu chuyện tôi biết anh vẫn đang sống ở Sài Gòn, anh đã cố công học tập lấy được tấm bằng ngoại ngữ và hiện đang làm một giáo viên dạy ngoại ngữ của một trung tâm trong thành phố. Cách đây hai tháng anh tình cờ xem ti vi, thoáng nhìn thấy tôi trong một cuộc hội thảo. Anh đã cố công lần mò ra công ty tôi đang làm việc, và từ đó phăng ra mà tìm được ra số điện thoại của tôi.
Câu chuyện tự nhiên ngừng lại, và tôi hỏi một câu bâng quơ:
- Bây giờ Công - Hằng ra sao rồi anh?
Bên kia đầu máy im đi một tí, rồi anh dần dà kể tôi nghe đủ mọi chuyện. Về Sài Gòn Công đi học ba năm lấy được bằng Đại học. Hằng đi học Anh Văn thêm nhưng không vào nổi đại học nên ra đứng bán ở mấy tiệm tạp hoá lớn.
Cách đây nửa năm, Công nghỉ việc ở nhà, lương tháng của Hằng không thể nuôi nổi hai miệng ăn giữa đất Sài Gòn cái gì cũng đắt đỏ.
Thế là Công đăng báo tìm việc. Tìm mãi mới ra việc làm nhưng ở tận miền Trung, ban đầu vợ chồng Công – Hằng cũng phân vân dữ lắm, nhưng rồi hai người nghĩ  hiện thời chưa có con cái gì, cũng nên phiêu lưu một chuyến. Thế là hai vợ chồng dọn ra đó.
- Em ở miền Trung nè!
Tôi reo lên, trong đầu chợt nhớ lại hình ảnh Công và Hằng đêm năm nào ở bìa rừng trên vùng kinh tế mới hoang vu.
- Anh biết!
Anh Thành bảo.
- Thằng Công nó ra đó nhưng không cho ai biết số phone. Anh phải ra tận nơi để báo nó biết tin ông già anh mới chết ở Cần Thơ.
Anh Thành buồn bã nói thêm.
Tôi bùi ngùi chia buồn với anh Thành. Hai anh em trao đổi thêm địa chỉ, số phone cầm tay, rồi hẹn ngày gặp lại.
Lan Anh vợ tôi từ ngày có thằng Thịnh trở nên ít nói, và tôi cũng không màng gợi chuyện. Từ lâu vợ tôi nằm ngủ trong phòng hai thằng con trai, nằm với thằng Thịnh. Còn tôi thì đêm nào cũng nằm ngoài phòng khách coi truyền hình rồi ngủ thiếp đến sáng.
Tôi ít khi nào gọi điện thoại cho ai. Di động thì hầu như hoàn toàn cho trong sở gọi hỏi chuyện kỹ thuật mỗi tối. Cha mẹ tôi thì vài tháng tôi mới gọi một lần, ậm ừ vài câu cho có lệ.
Hôm nay thấy tôi nói chuyện trên điện thoại thật lâu và vui vẻ, vợ tôi ra nhìn vài lần hơi thắc mắc. Nói chuyện xong tôi kể chuyện cũ cho vợ tôi nghe. Lan Anh có vẻ vui vui, nhưng không bàn tán gì thêm.
Một thoáng vui vừa xảy ra thì ngay hôm sau có ngay mấy chuyện bực mình. Thằng Thịnh lén mang con dao vào trường tính đâm ai đó thì bị bắt gặp. Hiệu trưởng kêu cả hai vợ chồng vào nói chuyện và bắt thằng Thịnh nghỉ ở nhà hai tuần.
Về đến nhà sẵn bực mình vì phải bỏ việc chạy về tôi bợp tai cho thằng con một cái thật mạnh. Thằng con đã bảy tuổi nhưng chưa nói sõi rống lên như một con heo.
Lan Anh nhảy vào can bị thêm một bợp. Lấy vợ lúc đó đã mười năm tôi chưa bao giờ vũ phu như thế.
Ngọn lửa trong lòng tự nhiên bị dập tắt khi thấy vợ ôm con nằm khóc dưới đất. Tôi nhìn vào bàn tay thô lỗ của mình và cảm thấy mình rõ ràng là một con vật sống trong một cuộc đời khốn nạn. Chán nản tôi bỏ vào công ty, nhưng nửa đường tôi lại ghé ngang một quán rượu ngồi uống vài ly bia.
Tôi không biết uống rượu nhưng từ lâu vẫn uống bia rất nhiều. Nhiều khi tan sở xong không muốn về nhà tôi ghé ngang mấy quán bình dân uống tà tà đến chín, mười giờ mới về đến nhà.
Có hôm chạy xe lang thang dọc bờ biển mấy vòng mà không biết phải làm gì, phải đi đâu cho tinh thần thoải mái.
Ở một quán bia bình dân nằm ven bờ biển, tôi quen một cô tiếp viên có cái tên rất sến là Lệ Thu.
Lệ Thu vừa già vừa tiều tụy, nhưng trong cơn sốt của nhục dục và ánh đèn mù mờ cái gì trông cũng được.
Có một thời gian tôi và Lệ Thu thỉnh thoảng vẫn gặp nhau gặp nhau ở một nhà trọ rẻ tiền gần ngay chỗ Lệ Thu làm. Sau này Lệ Thu biến mất và không ai biết bà ta đi đâu.
Những người làm việc chung chỉ nói là một ngày kia Lệ Thu không đi làm, chủ quán gọi điện đến nhà không ai trả lời. Hai hôm sau một cô gái khác vào làm việc và mọi người quên mất Lệ Thu là ai.
Tôi không yêu Lệ Thu. Bà ta như căn phòng khách sạn hôi hám và tối đen tôi ghé ngang rồi cất giấu trong lòng như chưa từng ghé đến.
Mỗi lần gặp nhau tôi quăng lại trên giường ít tiền rồi ra xe về. Phòng tắm ở đó vừa hôi vừa ẩm thấp nên tôi không buồn rửa mình trước khi đi. Về nhà người ngợm vừa hôi mùi bia thuốc lá và nhục dục, nhưng Lan Anh sau khi cằn nhằn vài lần cũng không thèm hỏi han gì.
Chuyện ẩu đả với Lan Anh chiều nay làm tôi thoáng hối hận. Câu chuyện đêm qua với anh Thành đánh thức lại lương tâm của tôi ngày còn trai trẻ, ngày còn muốn yêu đời và yêu người.
Từ lâu tôi cảm thấy như bị cầm tù trong cuộc sống mình và người cai ngục chính là vợ con.
Bây giờ soi chiếu lại tôi thấy chỉ vì không yêu được chính mình tôi không cho vợ con tôi tình thương của chồng và cha.
Điện thoại cầm tay reng lên một tiếng, số máy bàn ở nhà hiện ra, tôi buồn tình đưa tay cúp máy. Chuông lại kêu, nhưng tôi không thèm trả lời. Cầm cái điện thoại lạnh tanh trong tay, tôi hơi hối hận và ra lấy xe để về nhà. Bên ngoài trời đã tối từ lúc nào.

Mùa Đông ở miền Trung lạnh hơn ở Sài Gòn rất nhiều. Ra khỏi quán rượu, một cơn gió lạnh làm tôi tỉnh táo. Về đến nhà sương đã đẫm ướt bờ cỏ hai bên lối đi. Tôi hơi ngạc nhiên khi thấy đèn trong nhà bật sáng.
Bình thường Lan Anh chỉ để một ngọn đèn trong bếp nơi nàng nấu ăn và cho hai thằng con học bài. Thói quen này có từ ngày tôi cằn nhằn tiền điện cao quá. Nhưng hôm nay cả đèn trước thềm và trong phòng khách đều bật sáng trưng.
Vào đến nhà tôi ngạc nhiên khi thấy anh Thành đang ngồi chơi với hai thằng con.
Anh la lên:
- Tứng! Đi đâu mà anh và vợ em gọi không thấy?
Tôi bẽn lẽn nhìn vợ tôi, muốn nói một câu xin lỗi nhưng tôi vốn chưa bao giờ xin lỗi nên hai chữ nhỏ xíu này nghẹn ngay cuống họng.
Lan Anh ấp úng mời anh Thành và tôi ra bàn ăn để ăn cơm tối. Hai thằng Đức và Thịnh đã ngồi sẵn chờ đợi. Đúng ra chỉ có thằng Đức là đợi còn thằng Thịnh hễ thấy đồ ăn thì nó ăn ngay.
Lâu lắm mới thấy vợ tôi nói chuyện vui vẻ như thế. Nhìn ánh mắt long lanh hứng khởi, tôi thấy lại cô gái mà tôi đã yêu một thời nào.
Tôi hơi xót xa và ân hận vì bấy lâu nay coi nàng như một cái bóng đáng ghét bên mình.
Sẵn vui câu chuyện tôi đề nghị cả nhà theo anh Thành đi tìm Công và Hằng. Tôi không thích Công, và càng không muốn gặp Hằng, nhưng muốn vợ tôi có dịp nói chuyện tiếp với anh Thành cho vui.
Anh Thành thì đương nhiên là hoan nghênh ý kiến của tôi, nhưng Lan Anh thì tròn xoe mắt nhìn tôi:
- Con mình còn phải đi học mà anh?
Tôi khoác tay rất rộng rãi:
- Mới lớp ba nhằm nhò gì, cho nghỉ vài ngày đi chơi luôn đi!
Thằng Đức đến lúc đó mới hiểu kịp, la to lên rất vui vẻ, còn thằng Thịnh thì chắc không hiểu gì nhưng vỗ tay theo anh nó.
Sáng hôm sau tôi dậy sớm để gọi điện thoại vào công ty xin mấy ngày phép, và gọi đến trường xin cho thằng Đức nghỉ học, rồi cả nhà lên chiếc xe bảy chỗ của anh Thành.
- Chiếc xe này tôi mượn của một người bạn.
Anh Thành cười cười giải thích khi thấy vợ chồng tôi trầm trồ khen ngợi chiếc xe sang trọng.
Tôi và anh Thành coi lại địa chỉ để tìm đường. Công tuy nói chung là ở cùng tỉnh với tôi, nhưng thực là ở một huyện nhỏ cách chỗ tôi khoảng chừng một trăm cây số về hướng Đông Nam.
Không có xa lộ lớn dẫn từ trung tâm tỉnh lỵ xuống huyện Công ở nên phải cho xe chạy qua các lộ nhỏ, có đoạn chạy xuyên qua một vùng rừng núi hoang vu mới có thể xuống tới đó.
Anh Thành là người khéo nói chuyện nhưng Lan Anh ngồi ở băng sau không tiện góp chuyện.
Ra khỏi tỉnh lỵ,  tôi viện cớ buồn ngủ đòi ra băng sau nằm, nhờ Lan Anh ra trước nói chuyện cho anh Thành tỉnh ngủ để lái tiếp.
Thái độ vợ tôi có vẻ lúng túng, rồi cuối cùng chịu lên ngồi. Tôi nằm sau giả bộ nhắm mắt để nghe lén, nhưng câu chuyện chỉ quanh quẩn từ thằng Đức đến thằng Thịnh nên tôi ngủ thiếp đi lúc nào không hay.
Trong giấc ngủ chập chờn tôi mơ thấy mình trở lại vùng kinh tế mới và đứng sau bụi rậm nhìn Công và Hằng say đắm lăn lộn dưới ánh trăng. Mặt trăng lên cao và Hằng cởi chiếc áo thun mỏng dính trên người ra. Nhìn kỹ tôi thấy người con gái đó không phải là Hằng mà chính là vợ tôi, và người con trai chính là anh Thành.
Máu ghen nổi lên tôi chạy ra nhưng khi đến nơi thì thấy tôi và Lệ Thu trong tư thế cực lạc.
Sự ghen tuông và hổ thẹn dồn nén trong bụng, tôi giật mình toát mồ hôi tỉnh dậy thì nghe anh Thành nói khẽ:
- Tới rồi!
Xe lăn bánh từ từ vào một con đường nhỏ, ở đầu đường thấp thoáng tấm bảng đề “Làng cổ Vinh Phong”
Vinh Phong là một làng cổ nhỏ nằm gọn giữa hai rặng núi trong dãy Trường Sơn hùng vĩ. Mới gần mười một giờ sáng nhưng vì thời tiết mùa đông nên sương mờ giăng đầy dưới những đám mây đen mù, làm ở nơi đây vừa đẹp não nùng vừa đen tối bí ẩn.
Vì sương mờ quá dầy nên anh Thành đi từ từ cẩn thận. Phía dưới đất nằm sạp một tấm biển đá với dòng chữ "Bệnh viện tâm thần”
Bất giác tôi vội nhìn sang thằng Thịnh, lúc này khuôn mặt nó vừa hãi kinh vừa mừng rỡ như người quen lâu năm trở lại nhà. Trên băng trước vợ tôi gục đầu vào cửa sổ ngủ tự hồi nào, và thằng Đứccũng ngủ say.
Cuối cùng xe dừng lại trước một tòa biệt thự khổng lồ. Tòa nhà có vẻ bỏ hoang từ lâu, và đang có dấu hiệu sắp được sửa sang trở lại. Gạch đỏ rêu phong phủ kín hai tháp cao.
Anh Thành không để ý là tôi đã thức dậy, mở cửa xe đóng nhẹ lại và đi vào phía trong. Một lúc lâu sau anh trở ra nét mặt có vẻ thất vọng.
Anh ra xe tôi chào anh, rồi đề nghị anh lái xe một vòng ra sau tìm Công. Khu đất quá rộng, và con đường quanh co qua nhiều tòa nhà bỏ hoang. Cuối cùng chúng tôi tìm thấy Công đang đứng trước một ngôi nhà tuy to nhưng không bằng một góc toà nhà lúc đầu.
Anh Thành mừng rỡ bóp còi, và Công vẫy vẫy tay chào nét mặt ngạc nhiên không biết ai là ai.
Chút xíu sau tôi thấy Hằng xuất hiện ở cửa.
- Hằng kìa!
Tôi reo lên.
Anh Thành nhìn ngơ ngác ra ngoài .
Lan Anh và thằng Đức nghe ồn giật mình thức dậy. Vợ tôi tò mò nhìn ra ngoài, không nói gì.
Anh Thành đậu xe lại, chạy ra gấp gáp nói câu gì chắc là báo tin cha chết nên hai anh em ôm nhau khóc.
Hằng chưa hiểu chuyện gì ái ngại đứng bên cạnh chưa biết khách nào đến nhà và nên chào hỏi ra sao.
Bước xuống xe tôi có dịp nhìn nàng kỹ hơn. Hơn mười hai năm từ ngày cuối gặp nhau, Hằng phát triển đầy đặn ra thành một người đàn bà khá quyến rũ.
Tôi lắc lắc đầu xua đi hình ảnh hồi nãy trong giấc mơ. Lúc này thì anh Thành đã ngừng khóc, xoay ra giới thiệu gia đình tôi:
- Tứng hồi ở kinh tế mới đó, em nhớ không?
Lúc này thì sự thắc mắc nãy giờ của Hằng mới được giải toả, nàng cười tươi:
- Trời, anh Tuấn bây giờ đẹp trai quá em nhận không ra. Chào chị, mấy cháu đây hả chị?
Vợ tôi cười nhè nhẹ rồi xoay qua nắm tay thằng Thịnh. Thằng Thịnh cứ oé oé đòi đi về hướng tòa nhà cao trên đỉnh đồi hồi nãy. Thằng Đức còn ngái ngủ đứng ngơ ngơ nhìn chung quanh.
Công, mắt còn đỏ hoe, đang phụ với anh Thành khiêng hành lý vào nhà. Chúng tôi dự tính đi theo anh Thành chỉ có vài ngày cho anh có bạn, nhưng mang theo khá nhiều màng chiếu vì nghĩ rằng nhà Công Hằng không đủ giường chiếu cho nhiều khách đến.
Dù chuẩn bị khá kỹ lưỡng nhưng tôi không khỏi ngán ngẫm khi bước vào nhà Công.
Chỗ Công ở nằm trong dãy nhà một tầng nằm phía sau tòa nhà hai tầng nơi Công giải thích vốn là khu chữa bệnh lao cho các bệnh nhân tâm thần ngày trước ở trên đồi.
Thấy tôi ái ngại nhìn ra khu nghĩa trang ngay sát trước cửa, Công giải thích:
- Ngày xưa mà bệnh lao thì chỉ có nước chết. Mang từ trong này ra vùi ngoài đó cho khoẻ.
Vào nhà, không khí ẩm thấp làm cho tôi muốn buồn nôn. Rõ ràng chỗ này đã bị bỏ hoang từ nhiều năm, và Công chỉ thu vén một góc phòng để ở.
Có khách đến Công mang búa ra nạy mở mấy tấm ván phòng bên cạnh để có thêm phòng cho chúng tôi ngủ lại. Trong phòng có sẵn hai cái giường đơn chắc là giường bệnh ngày trước. May sao hai tấm nệm trông còn dùng được.
Chúng tôi xếp hành lý vào một góc. Lan Anh vẫn còn giằng kéo với thằng Thịnh nãy giờ la khóc như heo bị thọc huyết. Một cảm giác buồn cười là vì thằng Thịnh nãy giờ làm ồn mà không khí ở đây bớt ngột ngạt khó chịu.
Nhà Công Hằng chỉ có ít đồ ăn vặt, nhưng nhờ vợ tôi mang sẵn ít bánh mì sandwich và mấy thứ thịt nguội để ăn trưa. Thằng Thịnh bị dộng thuốc ngủ nằm ngủ say như chết trên giường, nhưng tiếng ngáy của nó cũng to như tiếng nó rống.
Anh Thành lấy bình thủy cà phê ra rót cho mỗi người một ly nhỏ. Thằng Đức vừa ăn bánh mì vừa hút sữa tươi trong hộp của nó.
Lan Anh mệt mỏi sau khi quần thảo với thằng Thịnh cả tiếng nên không ăn, chỉ âm thầm ngồi uống cà phê trên đầu giường chỗ thằng Thịnh nằm.
Tôi để ý thấy Công và Hằng luôn luôn vui miệng nói chuyện với mọi người nhưng không hề nói chuyện với nhau hay thậm chí nhìn nhau một cái.
Ăn xong anh Thành rủ Công đi chợ mua đồ ăn chiều chắc để nói chuyện riêng trong gia đình.
Thằng Đức leo lên góc giường kia ngủ từ hồi nào. Còn Lan Anh đã xoay qua nằm vừa ôm thằng Thịnh vừa ngủ.
Tôi mượn Hằng cái máy hát nhỏ từ phòng Hằng qua để cho vợ con tôi ngủ. Riêng tôi thì đã đánh một giấc trên xe nên không buồn ngủ mấy. Tiếng nhạc êm êm. Không khí im lặng, chỉ còn tôi và Hằng trong phòng.
Nãy giờ một điều hơi làm tôi ái ngại là vợ tôi và ngay cả anh Thành đều tỏ thái độ khá lạnh nhạt, không đếm xỉa gì đến Hằng.
Tôi nghĩ anh Thành sau bao nhiêu năm nay vẫn chưa qua khỏi mối thất tình trên vùng đất mới, còn vợ tôi thì chắc vì linh tính đàn bà không muốn thân thiện với Hằng.
Trong phòng bây giờ chỉ còn Hằng với tôi. Tôi không thể tìm câu chuyện nào đó nói cho bớt nhạt nhẽo không khí. Thấy Hằng ngồi ôm gối nhìn ra nghĩa trang, tôi đẩy một chiếc ghế đến gần để nói chuyện.
Có lẽ Hằng đang buồn. Giọng cô ta nhè nhẹ như thì thầm bên tai tôi. Hằng tâm tình là hôn nhân của nàng không được hạnh phúc. Tính Công ghen tuông kinh khủng không cho nàng một chút xíu tự do nào. Lấy nhau  hơn mười hai năm rồi mà Hằng vẫn chưa được Công cho đi đâu chơi một mình.
Có lần Công đi làm trễ, ông già bảo vệ ở tiệm tạp hóa cho Hằng quá giang về. Không may khi mới lên xe thì Công vừa đến, và nhảy ra ẩu đả với lão bảo vệ tại chỗ.
Sau đó Hằng xin nghỉ việc vì quá xấu hổ. Phần Công thì bao nhiêu tiền dành dụm được đem ra chơi bài bạc, cá độ và bị thua sạch. Tiếp theo thì bị đuổi việc và sau mấy tháng túng quẫn phải nhận liều cái công việc ở giữa khu nhà bỏ hoang này.
- Từ lâu anh Công không còn gần gũi em nữa!
Hằng chợt thốt lên.
Công mất việc làm, ở nhà buồn tình nên theo bè bạn đua xe, ngờ đâu trong một lần bị tai nạn Công té dập phía dưới. May mắn lắm mới sống sót, nhưng từ đó không đoái hoài đến chuyện chăn gối trong khi tính ghen thì ngày càng lên.
Tôi nhắm mắt ngồi nghe không nói tiếng gì cả. Bản thân tôi là một người chồng xấu xa và người đàn ông không ra gì. Nhưng hôm nay tính anh hùng rơm bùng lên và tôi nghĩ giá như hồi đó tôi lấy Hằng thì nàng không đến nỗi đau khổ như vầy.
Nhìn Hằng cúi gục xuống khóc rung rung bờ vai tôi muốn quàng vai nàng an ủi, nhưng không dám. Không chịu nổi không khí ngột ngạt tôi xô ghế đứng dậy tìm cớ về phòng coi vợ con ngủ có ấm không. Bên phòng Hằng bây giờ lạnh buốt và buồn thảm. Tôi tự trách mình vô tình đã mang cái máy hát duy nhất qua phòng bên kia.
Qua đến nơi thì Lan Anh vẫn ngủ yên với thằng Thịnh. Thằng Đức thì tung chăn lên nên tôi kéo chăn đắp lại sẵn đó nằm xuống bên cạnh.
Tôi ngủ thiếp đi lúc nào không hay và khi thức dậy chung quanh đã tối sẩm. Không gian yên ắng chắc anh Thành và Công chưa về.
Đột nhiên tôi nghe có tiếng nước róc rách như ai đang tắm.
- Ai mà tắm giữa trời lạnh như vầy?
Tôi thắc mắc.
Có lẽ là Hằng. Tôi không dằn nỗi sự thắc mắc vô cớ, và nếu quả như Hằng đang tắm thì coi như là tôi gặp hên!
Phòng tối thui không có đèn, tôi lặng lẽ mò ra cửa rồi bước qua phòng bên kia.
Phòng bên Hằng tối om. Tôi mò mẫm theo tiếng nước róc rách thì thấy quả thật là Hằng đang tắm. Phòng tắm không đóng cửa, và Hằng không kéo màn. Có chiếc đèn chạy pin để trên bồn rửa mặt soi rõ từng đường nét trên cơ thể của nàng.
Phòng lạnh, và có lẽ vì nước nóng nên hơi nước bốc đầy chung quanh Hằng. Tôi nuốt nước miếng không ngừng và như bị thôi miên cứ tiến lại gần đến cửa phòng tắm. Như không biết sự hiện diên của tôi, Hằng mãi mê kỳ cọ từ đôi ngực xuống đến dưới chân.
Khi đến sát cửa, tôi không ngừng được một tiếng thở mạnh. Hằng nhìn lên, không một chút ngạc nhiên hay ngại ngùng, lườm tôi một cái sắt lẻm rồi nói:
- Dữ không! tưởng anh chê em luôn rồi chứ.
Cánh cửa sau lưng tôi chợt có tiếng mở ra và đóng vội lại. Tôi giật mình vội vàng chạy ra cửa.
Có thể Lan Anh vừa thức giấc và bắt gặp tôi tại trận. Có thể là anh Thành hay Công vừa mới về.
Tôi lao theo bóng đen chạy ra phía trước sân. Bóng đen chạy băng băng trên mặt đất đầy đá sỏi. Cùng lúc đó tôi thấy ánh đèn của chiếc xe bảy chỗ trờ tới.
Anh Thành không thấy tôi trong bóng tối. Xuống xe hai người còn tranh cãi gì đó tôi không nghe rõ. Chợt anh Thành đấm mạnh vào cửa xe và chỉ vào mặt Công hét to lên:
- Đồ khốn nạn, đồ sát nhân!
Tôi quay lại nhìn ra phía tòa nhà thì bóng đen kia đã mất hút vào trong bóng tối của tòa nhà cao sừng sững trên đồi.
Hy vọng đó không phải là Lan Anh tôi lẩn thẩn đi bộ về phòng. Chưa đến nơi tôi nghe tiếng thằng Thịnh rống to lên, rồi thấy nó chạy ra khỏi cửa phòng theo sau là Lan Anh. Thằng Đức chạy chậm chậm theo sau sợ hãi khóc to lên.
Thằng Thịnh chạy nhanh như một người lớn, vợ tôi chới với chạy theo không kịp. Tôi chạy theo phía sau nữa sau khi kéo thằng Đức giao qua cho anh Thành.
Thịnh chạy nhanh như cắt theo lối chạy của bóng đen hồi nãy và Lan Anh không cách nào theo kịp, vừa chạy vừa té trên đường. Tôi còn tệ hơn nàng nhiều và chạy cách khoảng một đoạn phía sau.
Thằng Thịnh đã lên đến đỉnh đồi, và chạy không ngừng vào toà nhà thương điên cũ.
Khi đến nơi giọng nó hú mừng rỡ trong âm thanh oé oé không khác gì khi nó tức giận. Nó vào cửa một chút xíu thì có tiếng la thất thanh của nó từ trong đó vọng ra.
Nghe tiếng Thịnh, vợ tôi khóc to và chạy theo vào tòa nhà. Một chút xíu sau tôi chạy đến kịp trước cửa, và sau lưng thấp thoáng thấy anh Thành cầm đèn pin chạy theo.
Vào trong tòa nhà, tôi không nghe tiếng của Thịnh hay Lan Anh. Trong bóng tối dầy đặc của căn nhà, tôi thấy một bóng mờ chạy nhanh lên lầu. Tôi không còn biết đó là Thịnh, Lan Anh hay là ai khác. Cắm đầu lao theo, từ cầu thang này đến cầu thang khác và cuối cùng thì tôi ở trên đỉnh cao của tòa nhà.
Bóng đen hồi nãy đứng lại, thở hổn hển ở một góc phòng, rồi móc túi lấy  hộp quẹt thắp lên điếu thuốc lá. Ánh lửa tí hon nhoé lên rồi chợt tắt cho tôi thấy đó là một người đàn bà, nhưng rõ ràng không phải là Lan Anh!
Bà ta quay lại; tôi ngạc nhiên nhận ra đó là Lệ Thu.
- Lệ Thu, cô làm gì ở đây?
- Câu chuyện dài lắm. Lúc nhỏ tao ở đây. Cha tao thì bị thần kinh, còn mẹ tao thì giả điên để sống lây lất quanh đây vì không có nhà cửa.
Lệ Thu kể thao thao chuyện đời của bà. Đã bao nhiêu lần chăn gối với nhau, chúng tôi chưa bao giờ kể chuyện riêng tư cho nhau nghe. Bây giờ thì tôi biết cha bà qua đời trong nhà thương lao giữa thập niên 1970. Mẹ bà kiệt sức mà theo sau. Năm 1993 nhà thương điên bị đóng cửa. Bà ra ngoài sống vô gia cư một thời gian thì theo nghề gái gọi, sau đó vì quá ế ẩm bà đi làm tiếp viên ở quán bia mà tôi gặp bà.
Điếu thuốc tắt ngúm từ lúc nào và Lệ Thu chỉ còn là một bóng mờ trong không gian đen đặc. Giọng bà không còn rõ tiếng mà nghe như hơi thở trộn lẫn với tiếng gió thổi rít qua khe hở của tòa nhà.
Tôi đứng chết trân nghe Lệ Thu kể từ chuyện này qua chuyện khác. Tôi mơ hồ hiểu rằng Lệ Thu đã qua đời.
- Tao bị giết quăng xác mà không ai thèm tìm kiếm.
Bà ta thở dài.
- Kiếp người nghèo quả là kiếp khốn nạn. Kiếp tứ cố vô thân không ai biết, sau khi bị hãm hiếp và hành hạ cho đến chết.
Bóng bà Lệ Thu cúi xuống khóc âm thầm. Chợt ngước lên nhìn tôi bà rít trong khe răng:
- Trong đời tao, hình như chỉ có mỗi mình mầy là đối xử tương đối tốt với tao thôi… Chính vì thế nên tao phải cứu mầy khỏi bàn tay ác độc của con kia…
Tôi ngơ ngác không biết bà nói gì thì bóng bà Lệ Thu bay qua sát tôi. Trong đen nghịt không hiểu sao tôi nhìn thấy ánh mắt của bà và sâu trong đó là một khoảng buồn cô đơn tột cùng làm tôi sợ hãi và ngất đi.
Tôi rơi vào một khoảng sâu thăm thẳm, và văng vẳng còn nghe tiếng anh Thành gọi tên tôi và Lan Anh.
Bóng tối dầy đặc phủ xuống cuộc đời tôi từ đó. Ba năm sau tôi được thả ra khỏi nhà thương điên. Trong ba năm tôi nửa mê nửa tỉnh nhưng tôi chỉ muốn mê đi để quên đi tất cả và quên nổi buồn gậm nhấm không ngừng trong lòng tôi.
Đêm hôm đó thằng Thịnh bị té xuống một lổ thủng trong sàn tòa nhà cổ và bể đầu chết liền tại chỗ. Lan Anh khi chạy theo bị vào một lổ hổng khác nhưng may sao chỉ bị thương nặng. Tôi nhờ linh hồn bà Lệ Thu đưa lên sân thượng nên không chịu chung số phận của vợ con, nhưng mãi đến sáng hôm sau anh Thành mới tìm ra tôi và khi đó tôi đã mất trí.
Tại nhà thương lao hôm đó không ai thấy Hằng ngoài tôi. Sau khi chuyển về miền Trung, Hằng và Công càng xung đột với nhau, và trong lúc vì quá chán nản Hằng đã uống thuốc độc quyên sinh. Công mang xác Hằng ra vùi trong nghĩa trang trước nhà thương lao.
Hình như anh Thành và Lan Anh đã lấy nhau. Ngày tôi ra khỏi nhà thương không ai đến đón. Một thân một mình với một túi áo quần nhỏ trên tay tôi đi cất bước đi về một nơi nào đó mà hình như chỉ có khi mê man tôi mới hiểu ra được. Một chốn nơi Hằng đang đợi tôi bước vào. 
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:51:11 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:20:05
HỒN MA BÁO THÙ
  
Chỉ chưa đầy năm phút, hai tên cướp đã giết chết đôi vợ chồng chủ cơ sở xuất nhập khẩu phụ tùng xe gắn máy.
Lúc ấy là 8 giờ tối.
Cơ sở làm ăn của hai vợ chồng là một tòa nhà ba tầng lầu nằm ngay mặt tiền một con đường xe cộ đông đúc ở Bình Thạnh.
Chủ cơ sở, một kỹ sư cơ khí, mới ba mươi ba tuổi nhưng đã thành công mỹ mãn trong con đường kinh doanh.
Vợ chàng, một sinh viên đại học tài chính kế toán mới ra trường. Cô xinh đẹp, hiền lành và tháo vát.
Cưới nhau được một năm, hai người đã có con. Đứa con của họ nay đã gần hai tuổi, kháu khỉnh dễ thương.
Nhìn đôi vợ chồng, ai cũng thầm khen họ may mắn, hạnh phúc.
Thế nhưng lưỡi dao oan nghiệt của hai tên cướp tối nay đã lấy đi mạng sống của họ trong chưa đầy năm phút đồng hồ.
Vào lúc bảy giờ tối, hai tên cướp đã lảng vảng ở trước tòa nhà. Vì cánh cửa khép kín nên chúng không thể quan sát được gì cả. Một tên liền gọi điện thoại vào nhà. Một người phụ nữ bốc máy:
- Alô.
Tên cướp nghe tiếng, biết là người giúp việc nhà.
Hắn hỏi:
- Ông Sinh về nhà chưa?
- Dạ, thường thì tám giờ mới về ạ.
Tiếng người bên kia đáp lại.
Tám giờ kém, Sinh chạy chiếc SH, chở vợ về nhà. Người giúp việc mở cửa cho Sinh vào. Sinh thay đồ rồi bế con. Hoa, vợ Sinh thì đi xuống bếp.
Đây là giờ phút hạnh phúc nhất của đôi vợ chồng. Một ngày làm việc mệt mỏi kết thúc, họ quây quần bên nhau để cơm nước và thư giãn.
Bỗng có tiếng chuông cửa. Sinh ra mở cửa. A, hai anh chàng vẫn thường tới lấy hàng mấy tuần nay.
Một gã nói:
- Anh cho em lựa một ít ổ bi
Cơ sở của Sinh bán sỉ hàng hóa nhưng thỉnh thoảng chàng vẫn bán lẻ cho một vài khách hàng, là những người thợ sửa xe gắn máy.
Sinh để họ dắt xe vào nhà. Xong xuôi anh đóng cửa lại, đến bên chỗ mấy thùng hàng, cùng chọn ổ bi với họ.
Chàng vừa chọn ổ bi vừa xem một chương trình  giải trí trên chiếc ti vi đặt gần đó.
Tên cướp bất thần vung dao đâm vào cổ Sinh. Chàng á lên một tiếng. Lập tức, tên kế bên ôm chặt lấy Sinh. Sinh vừa vùng vẫy vừa la to. Hai tên cướp thi nhau đâm dao vào người chàng.
Hoa từ trong bếp chạy ra. Vừa thấy cảnh tượng ấy, thay vì mở cửa chạy ra ngoài, thì Hoa lại vừa xông đến vừa la làng.
Lúc này Sinh đã bớt giãy giụa. Một tên cướp quay qua, vung dao vào bụng Hoa.
Cảnh tượng kinh hoàng xảy ra chưa đầy 5 phút.
Bà giúp việc nhà mở cửa toa lét bước ra, há hốc mồm kinh ngạc. Một tên cướp lao đến ôm lấy bà.
Bà giúp việc van xin:
- Xin ông tha mạng cho con. Con chỉ là người giúp việc.
Tên cướp mở cửa toa lét, đẩy bà giúp việc vào, rồi đóng cửa lại.
Chúng ôm tiếp đứa bé hai tuổi,  mình mẩy dính đầy máu, bỏ vào căn phòng kế bên rồi đóng cánh cửa lại.
Tất cả diễn ra như một cuốn phim rùng rợn của Mỹ.
                                                          *
Sinh lãnh gần ba chục nhát dao vào người. Chàng ngã xuống, lịm dần trên nền nhà. Trong một khoảng thời gian, chàng thấy mình chới với. Rồi người bỗng nhẹ như không.
Chàng nhìn xuống, thấy thân xác mình nằm trên nền gạch bông. Bên cạnh là xác Hoa, vợ chàng. Rồi hai người nhìn thấy nhau.
Hoa đang chới với trên trần nhà. Đứa con tội nghiệp của nàng khóc ngất, người nhuộm đỏ máu. Nhưng nàng không thể đến để bế nó lên.
Sinh lặng lẽ quan sát căn nhà. Bọn cướp lên lầu, Sinh liền đi theo. Sinh thấy chúng lục tung tủ. Sau đó chúng xuống dưới nhà, ôm chiếc két sắt nặng hai mươi ký, trong đó chứa tiền và vàng. Chàng không bỏ sót một hành động nào của chúng.
Một lát, bọn cướp ra khỏi nhà.
Trong khi đó, Hoa lượn lờ quanh đứa con. Nàng ngắt vào con nàng cho nó khóc to hơn. Nàng muốn làm thế để báo động cho hàng xóm biết.
Thời gian trôi qua. Giờ thì họ đã có thể nói chuyện được với nhau.
Sinh đau đớn nói:
- Chúng ta đã chết rồi.
Hoa buồn rầu:
- Vâng, em cũng biết thế.
Sinh kéo tay Hoa:
- Đi thôi em.
Hoa dùng dằng:
- Không, em thương con lắm ...
Sinh kiên quyết:
- Nhưng không thể ở lại đây. Chúng mình phải theo bọn nó.
Hoa ngạc nhiên hỏi:
- Theo để làm gì anh?
Sinh nghiến răng trèo trẹo:
- Phải bắt nó đền tội. Nếu không, nó trốn thoát mất.
Nước mắt rơi lã chã, Hoa nghẹn ngào:
- Vậy mình hôn con đi, rồi cùng đi.
Có tiếng người ngoài cửa, Sinh kêu lên:
- Kìa, có người vào nhà rồi. Vậy là hàng xóm đã biết rồi.
Hoa mừng rỡ:
- May quá, hàng xóm đã biết rồi. Thôi, mình đi nhanh kẻo mất dấu bọn cướp.
Hoa lại nhìn đứa con mình đẫm máu:
- Anh ơi, em thương con quá.
Sinh đặt tay lên vai Hoa:
- Anh cũng vậy. Nhưng chúng ta phải báo thù.
Hoa giật mình:
- Kìa, anh. Công an đã tới.
Sinh gật đầu:
- Ừ, công an tới rồi. Hãy để cho họ làm việc. Còn chúng ta đi.
Hoa vẫn chưa thôi bịn rịn:
- Anh ơi, con của chúng ta.
Sinh đẩy vợ ra cửa:
- Thôi em, chúng mình đi đi.
Hoa quay lại nhìn con, mếu máo:
- Con ơi con ơi!
 
                                                          *
 
Tin tức về vụ án mạng lan ra nhanh chóng. Người ta tụ tập vòng trong vòng ngoài quanh ngôi nhà. Công an đến phong tỏa hiện trường.
Bà giúp việc nhà cùng cháu bé được đưa ra ngoài.
Trên sàn nhà, xác Sinh và Hoa nằm cách nhau không xa. Mỗi người bị mấy chục nhát dao, mình đầm đìa máu.
Một điều tra viên bần thần đứng nhìn hai cái xác:
- Thật quá dã man!
Ngày hôm sau, báo chí đăng tải những thông tin kinh hoàng về vụ án. Qua lời khai của bà giúp việc, người ta xâu chuỗi được sự việc. Theo đó, bọn cướp đã biết được Sinh có rất nhiều tiền, nên giả làm người mua hàng đến theo dõi. Và bọn chúng quyết ra tay, giết chết cả hai vợ chồng Sinh để cướp của.
Lúc đầu, người ta nghi ngờ có thể bà giúp việc có liên quan đến vụ cướp, vì bà ta không bị giết chết. Nhưng sau đó công an nhanh chóng loại trừ nghi vấn nói trên. Tuy nhiên thông tin về bọn cướp cũng mịt mờ, vì bà giúp việc không biết gì nhiều về bọn chúng, ngoài vài chi tiết nhỏ về nhân dạng.
                                                          *
Hai tên cướp ôm chiếc két sắt, phóng xe về phòng trọ của chúng. Chiếc két sắt dính đầy máu, nhưng nhờ có cái bao tải bọc bên ngoài nên không ai nghi ngờ gì.
Tại phòng trọ, có một tên đã chờ sẵn.
Tại đây, chúng bắt đầu phá két sắt. Nhưng phá mãi không xong, chúng phải điều động thêm một tên chiến hữu nữa. Tên này đem dụng cụ hàn xì mini tới, mới phá được két sắt.
Chúng lấy ra được một số khá lớn đô la, tiền Việt Nam và vàng.
Đêm hôm đó chúng tạm thời ngủ lại trong căn phòng trọ để chờ trời sáng. Dự định ngày mai chúng sẽ trốn đi mỗi đứa mỗi đường. Căn nhà trọ cũng đã sắp hết hạn thuê nhà.
Chúng không dám uống rượu say để ngủ vì sợ ngủ quên. Vì thế cả bọn chập chờn không yên giấc. Đại, một trong hai tên cướp tham gia giết người, nằm phía ngoài cùng. Quá nửa đêm, nó thức giấc. Chỗ nó nằm nhìn thẳng ra một cửa sổ nhỏ. Nó bỗng lạnh toát người. Một bóng trắng, hình dáng như người con gái, bay chập chờn phía ngoài cửa sổ. Nó hoảng hốt nằm chen vào giữa ba tên kia.
Dù lần đầu tiên giết người, nhưng Đại không thua gì một tên sát thủ chuyên nghiệp máu lạnh, ra tay quá tàn độc. Khi giết người hắn không run tay nhưng giờ đây hắn lại lo sợ. Nỗi sợ lớn nhất là sợ công an bắt. Còn hồn ma báo thù thì hắn không nghĩ đến, vì hắn không tin là có ma. Nhưng giờ đây giữa đêm khuya, cái bóng trắng chập chờn ngoài kia làm cho hắn rùng mình.
Đại cố nằm im không nhúc nhích. Hắn nhắm nghiền mắt lại. Được một lát, lại nghe tiếng sột soạt bên trên. Hắn hé mắt nhìn ra. Bóng trắng bay chập chờn phía bên ngoài rõ mồn một. Người hắn toát mồ hôi, tay chân lạnh ngắt.
Rõ ràng là một bóng người bay chập chờn bên ngoài cửa sổ.
Nhưng rồi trời cũng sáng dần. Bóng người ngoài cửa sổ biến mất.
Sáng sớm hôm sau, xảy ra một sự kiện làm cả 4 tên vô cùng lo sợ. Bà chủ căn nhà trọ bỗng dưng đến thật sớm, khi chúng chuẩn bị ra đi. Bà chủ nói đêm qua nằm mơ thấy trong căn nhà bà có người chết, lo quá, nên sáng tới thăm sớm.
Bà chủ cười:
- Mình hồi nào tới giờ có mơ đâu. Đúng là mơ tầm bậy tầm bạ.
Đại cũng cố gắng cười:
- Dạ, tối hôm qua mấy anh em ở  lại nhậu chơi. Thằng nào thằng đó mạnh như con trâu, sao chết được bác.
Bà chủ nhìn Đại, cười nói:
- Hì hì, chắc hôm nay tao phải đánh số đề mới được.
Bà chủ nấn ná một lát rồi về.
Đại giục:
- Thôi, dọt lẹ lên tụi bay.
Hiệp gà, tên chủ mưu giết người nói:
- Dọt sao được. Còn cái két sắt máu me tùm lum, vứt đâu đây?
Đại ngẫm nghĩ rồi nói:
- Thôi để tao với thằng Kiên lo. Hai đứa bay dọt trước đi.
Hiệp gà và Trường quắn nghe nói vậy thì chịu liền. Hai đứa liền đứng lên:
- Thôi tụi tao biến đây. Hai thằng bay ở lại mần cho gọn nghe. Nhớ bỏ mấy bộ áo quần dính máu vô cái két sắt luôn đi.
Đại gật đầu:
- Biết rồi, tụi bây cứ yên tâm đi.
 
                                                *
Hùng lái xe taxi nay đã được ba năm. Đêm qua anh nằm mơ thấy một giấc mơ kỳ lạ. Có người con gái đẹp gặp anh khóc lóc:
- Anh ơi, em biết anh là người tử tế và dũng cảm. Em muốn nhờ anh một việc.
Hùng ngạc nhiên, hỏi:
- Việc gì em nói đi.
Người con gái gạt nước mắt:
- Sáng mai, anh hãy chạy xe tới bệnh viện Từ Dũ. Sẽ có người nhờ anh chở một vật nặng. Anh hãy nhận lời người đó.
Lúc năm giờ sáng anh thức giấc. Ngồi uống cà phê anh nhớ lại giấc mơ đêm qua. Thật là kỳ lạ. Tại sao lại có chuyện như thế!
Anh nghĩ:
- Mơ với chả mộng. Làm gì có chuyện vớ vẩn ấy. Thôi mình không lên đó đâu.
Chợt có chuông điện thoại gọi vào máy di động của anh:
- Alô, anh Hùng hả!
Hùng trả lời:
- Ừ, tôi đây. Ai đó?
Tiếng người bên kia đầu dây tiếp:
- Dạ, em có số điện thoại anh từ lâu. Anh có thể lên bệnh viện Từ Dũ đón em được không? Em cần đi Biên Hòa ngay.
Hùng giật mình:
- Ủa, mình có quen ai đâu ta? 
Đầu dây kia tiếng người con gái nói:
- Anh đến đi. Em cần đi công chuyện nhưng không muốn bắt xe người lạ. Em sẽ trả tiền cho anh xứng đáng. Anh yên tâm đi.
Hùng định hỏi thêm thì đầu dây đã tắt máy. Anh ngồi thần người suy nghĩ:
- Thôi, mình cứ tới đó xem sao.
Ăn sáng xong, Hùng vội vàng chạy xe lên bệnh viện Từ Dũ. Chạy được một đoạn, anh chợt nhớ là quên điện thoại di động ở nhà. Phải chạy ngược về nhà lấy. Về nhà, thấy có cuộc điện thoại gọi nhỡ. Số máy của cô gái lúc nãy.
Hùng cho xe đậu trước bệnh viện. Anh bốc máy gọi lại cho số máy của cô gái, nhưng không liên lạc được. Gọi mấy lần vẫn không liên lạc được. - Kêu người ta tới đây rồi không chịu mở máy. Thật bực mình!
Anh bực mình lẩm bẩm.
Bỗng có một thanh niên đi xe gắn máy tới, nói với Hùng:
- Anh ơi, tôi cần chở một ít đồ về quê, anh ghé nhà tôi được không?
Hùng quên phắt giấc mơ hồi tối, trả lời:
- Tôi đang chờ người ta đây này.
Tay thanh niên năn nỉ:
- Thôi người ta không đến thì thôi, anh chở cho em đi.
Hùng bốc máy điện thoại gọi lại cho cô gái, nhưng máy vẫn không liên lạc được. Anh bực mình bỏ máy xuống và hỏi:
- Anh đi về tới đâu lận?
Người thanh niên nhanh nhảu:
- Tới Trà Vinh anh à. Anh lấy bao nhiêu?
Hùng nhẩm tính một lát rồi trả lời:
- Trà Vinh, xa lắm đó. Anh cho tôi hai triệu nhé.
Tay thanh niên nói:
- Ô, dữ vậy anh! Một triệu được không?
Hùng nhún vai:
- Giờ xăng cộ mắc mỏ, một triệu làm sao đủ sở hụi. Đúng hai triệu tôi mới đi.
Người thanh niên lưỡng lự một chút rồi nói:
- Thôi, vậy thế này, anh chở giúp cho tôi ít đồ ra bến xe miền Tây, tính theo cây số đồng hồ cũng được.
Hùng gật:
- Vậy từ đây về chỗ anh ở, anh phải tính tiền cho tôi luôn nhé.
Người thanh niên cười:
- OK, bắt đầu tính tiền từ đây luôn mà.
Hùng lại liên lạc với cô gái một lần nữa nhưng vẫn không được. Anh liền quyết định cho xe chạy theo tay thanh niên.
                                                          *
Cháu bé được đưa về nhà ông chú ruột của Sinh ở quận 3. Đêm đầu tiên, nó khóc ngằn ngặt, không chịu ngủ. Nó chưa biết gì nhưng vì thiếu hơi mẹ nên nó khóc. Ai nhìn cảnh ấy cũng thấy đau lòng.
Bà giúp việc cũng nhanh chóng được cơ quan công an lấy lời khai, sau đó trở lại gia đình ông chú Sinh để tiếp tục chăm sóc cháu bé. Nhưng bà như người mất hồn, không làm được việc gì nên đầu nên đũa.
Gia đình Sinh và Hoa đang trên đường từ ngoài Bắc vào Sài Gòn.
Đó là chuyện những người sống.
Còn với Sinh và Hoa, hai linh hồn vẫn chưa thể rời khỏi Sài Gòn. Có một hồn ma thương tình, rủ họ về một góc nhỏ tại nghĩa trang Bình Hưng Hòa ở tạm.
Hồn ma ấy của một người con gái cũng chết trẻ như Hoa, tên là Trang. Cô ấy vẫn còn nán lại trần gian vì chưa thể siêu thoát. Thành ra Hoa có bạn để chia sẻ.
Ba hồn ma ngồi nói chuyện với nhau.
Hoa nói:
- Bây giờ xử lý thằng Đại thế nào?
Trang cười:
- Anh chị cứ để việc này em lo. Nó sẽ bị bắt ngay hôm nay thôi. Em có nhiều bạn bè lắm, chị đừng bận tâm.
Hoa nói:
- Anh chị mới chết, đang còn bỡ ngỡ. Thân xác cũng còn nằm trên mặt đất. May nhờ có em giúp đỡ.
Trang thông cảm:
- Chị ơi, cõi âm cũng như cõi dương thôi. Người đi trước sẽ giúp đỡ người đi sau mà.
Hoa lo lắng:
- Cháu bé con chị nó khóc quá, không biết làm sao đây.
Trang có vẻ suy tư:
- Thế à, sao chị không nói em sớm. Để em nhờ con Liên nó giúp cho.
Hoa mừng rỡ:
- Chị cám ơn em nhiều lắm. Chị mong cho tới giờ phút công an bắt được thằng Đại.
Trang nghiêm mặt:
- Không còn lâu đâu. Em đã khiến anh Hùng lái taxi đi đón nó rồi đó.
Hoa nói:
- Em thông minh thật, chị không nghĩ ra cách làm đó.
Mắt Trang thoáng buồn:
- Thằng Đại thằng Hiệp gà, hai thằng tàn ác đó phải đền tội. Chỉ thương cho mẹ thằng Đại ở quê. Bà ấy chỉ có một mình nó. Thật là vô phúc cho bà ấy.
Hoa cũng đồng tình:
- Thằng đó thấy tướng cũng không đến nỗi dữ dằn. Chắc tại thằng Hiệp gà rủ rê nó.
Trang gật:
- Ờ, có lẽ vậy.
Đêm hôm ấy ở nhà ông chú của Sinh. Người nhà ngoài Bắc đã vào đông đủ. Vào lúc chập tối, đứa bé vẫn khóc ngằn ngặt trong tay bà vú nuôi. Từ bà ngoại, bà nội cho đến cô dì đều dỗ nhưng nó không nín.
Ông chú Sinh bèn thắp mấy cây nhang lên bàn thờ và khấn:
- Các con ơi, các con sống khôn thác thiêng. Chú cầu xin các con làm cho cháu bé nín khóc đi, cho khỏi đau lòng người sống.
Có một luồng gió nhẹ thoáng qua làm ai nấy cảm thấy lạnh sống lưng. Luồng gió xoáy một vòng quanh cháu bé rồi bốc lên, thoát ra khỏi cửa.
Cháu bé bỗng nhiên nín khóc. Nó ngơ ngác nhìn chung quanh rồi đưa tay nắm lấy tay bà vú nuôi. Từ đó trở đi nó không còn khóc nữa, mà ngoan ngoãn như thể mẹ nó đang bế nó trong tay vậy.
                                                *
Hùng lái taxi đi chừng ba cây số, dừng lại trước một con hẻm. Tay thanh niên ra dấu cho Hùng chờ ở đó, rồi chạy khuất vào trong con hẻm. Chừng ba phút sau, tay thanh niên chở ra một thanh niên khác. Đó chính là Đại.
Đại ôm chiếc bao tải, bên trong có cái két sắt dính đầy máu, bỏ lên phía sau xe. Xong hắn leo lên ngồi kế bên. 
- Đi thôi anh ấy ơi.
Đại vừa nói vừa ngoái lui. Kiên cũng vù máy xe vọt luôn. Như vậy là xong. Mỗi đứa một phương.
Xe chạy tới đường Ba Tháng Hai, Hùng chợt nhớ tới câu chuyện trong mơ vào tối hôm qua. Tất cả những chi tiết hầu như trùng khớp với thực tế bây giờ. Hùng nhìn qua kiếng chiếu hậu, quan sát Đại. Trông khuôn mặt hắn trắng nhợt.
Bỗng Đại nói:
- Anh ấy ơi, em dọn nhà, còn bao đồ cũ của người bạn, không biết để đâu, chủ nhà bắt buộc phải đem theo. Giờ anh kiếm chỗ nào có cây cầu dừng lại để em quăng nó xuống cho nhẹ xe.
Hùng vốn là người thông minh nhạy bén. Chỉ cần nghe như vậy là anh đã hiểu gã thanh niên này muốn phi tang vật gì đây rồi.
Hùng ngẫm nghĩ rồi nói:
- Từ đây ra bến xe miền Tây đâu có chỗ nào có có sông lớn đâu. Anh mà dừng lại thả xuống mấy con kênh nhỏ nhỏ, cảnh sát giao thông nó thấy nó bắt phải lấy lên đem chỗ khác mất công lắm. Thôi cứ chạy vô bến xe đi. Trong đó có mấy thùng rác bự mình bỏ vô đó cũng được.
Trong khi Đại đang nín thở đưa chiếc két sắt đi phi tang thì Hiệp gà đã xuống tới thị xã Bến Tre. Dự tính của hắn là tạm thời nghỉ lại đây một hai bữa nghe ngóng tình hình rồi có thể chuồn qua Campuchia làm ăn. Với số vốn trong tay, hắn tin rằng hắn có thể bắt đầu khởi nghiệp ở bên đó được. Bằng cách giải phẫu thẩm mỹ để thay hình đổi dạng, rồi dùng tên họ giả, hắn có thể thoát được sự truy bắt của pháp luật.
Nhưng hắn không thể biết được rằng, hắn có thể trốn thoát được sự truy đuổi của công an nhưng sẽ không bao giờ trốn thoát được sự báo thù của những oan hồn.
                                                          *
Chiếc taxi chạy vào bến xe miền Tây. Hùng liếc nhìn quanh. Kia rồi! Hùng cho xe vào giữa mấy chiếc taxi đang đậu. Một tài xế ngạc nhiên nhìn Hùng, không hiểu tại sao khi không lại chen xe vào chỗ chật chội thế này.
Tắt máy xe, Hùng vội vòng ra phía sau. Anh đưa tay đỡ chiếc bao tải nặng của khách. Đại bấy giờ mới giật mình. Hắn nghĩ nhanh:
- Xách cái bao tải to thế này đi ra khỏi xe nguy hiểm quá!
Hắn liền gạt tay Hùng ra:
- Thôi, anh cho xe chạy tiếp ra ngoài kia đi. Tui muốn đi thêm một đoạn nữa.
Hùng lắc đầu:
- Thôi anh xuống xe ở đây đi. Tui đói bụng quá, phải đi ăn sáng chút đã.
Hùng xấn tới, xách chiếc bao của Đại. Đại vội giằng lại.
Hùng giả vờ la to:
- Anh này kỳ ghê. Anh đem đồ xuống xe đi chứ.
Mọi người xung quanh nghe Hùng la to, vội xúm quanh. Hùng nói:
- Thôi anh trả tiền cho tui rồi đi đâu thì đi.
Đại run cầm cập. Mọi người chung quanh dường như đã biết có sự bất thường. Chiếc ví được Đại rút ra.
Hùng nói:
- Một trăm bảy mươi lăm ngàn
Tờ giấy bạc năm trăm được Đại rút ra khỏi ví. Loang lổ vết máu.
Hùng la lên:
- Nè, anh đổi tờ khác đi, tờ này dính máu không à. Ghê quá.
Lúc bấy giờ, hàng mấy chục người đã vây quanh. Có cả bảo vệ bến xe. Đại nói:
- Hết tiền rồi, anh lấy đỡ đi.
Hùng lắc đầu:
- Không được, tờ bạc dính máu không, tui không có lấy.
Đại nhìn quanh. Hắn dợm chân bước đi.
Hùng la lên:
- Anh em ơi, bắt lại giùm tui. Trả tiền đây.
Ba bốn tài xế lực lưỡng vây quanh hắn. Đại bị khóa chặt giữa vòng vây.
Một người liền rút điện thoại di động ra, gọi ngay cho cảnh sát 113.
Trong lúc đó, Đại đứng im, thủ thế. Hắn biết là đang ở vào thế kẹt.
Cùng vào thời khắc đó, Hiệp gà đã xuống tới Bến Tre. Hắn đến một khách sạn nằm khá khuất, thuê một căn phòng. Vào trong căn phòng rồi, hắn thở phào:
- Mẹ kiếp! Mệt thật. Chiếc xe đò chạy rù rù. 
Hắn nằm vật ra nệm, suy nghĩ. Hắn cảm thấy kế hoạch của hắn có hơi luẩn quẩn. Lẽ ra hắn không nên xuống Bến Tre làm gì mà phải đi thẳng lên Tây Ninh mới đúng. Vì lên Tây Ninh, hắn sẽ nghỉ ngơi chốc lát rồi qua cửa khẩu ngay. Hắn đã quá rành với cách thức qua biên giới rồi. Chỉ cần tốn chút ít tiền chừng vài trăm ngàn là có thể sẽ qua được biên giới ngay trong đêm.
- Mẹ kiếp! Sao mình ngu thế! Xuống đây làm gì cho xa!
Hiệp kêu hai lon bia, ngửa cổ tu ừng ực.
- Giờ mà qua tới Campuchia thì kiếm một con nhỏ vô thư giãn một chút. Tiếc thật. Ở đây thì đéo dám. Tiền cả đống đây mà đành chịu nằm không. Mẹ kiếp! Lâu nay không có tiền chịu ăn chay nằm đất đã đành, nay có tiền rủng rỉnh mà cũng phải đành chịu khổ.
Hiệp gà đâu có biết, tất cả những chuyện này đều có bàn tay sắp xếp của một hồn ma. Đó là Trang, cô gái chết trẻ mà giờ đây là bạn của Hoa.
Tại nghĩa trang Bình Hưng Hòa, Trang và Hoa nói chuyện với nhau.
Trang nói:
- Em điều thằng Hiệp gà xuống Bến Tre rồi đó. Nó không thể kịp đi Tây Ninh vì công an sẽ bắt nó sớm. Chắc chừng vài tiếng đồng hồ nữa là công an sẽ tới rồi đó chị.
Hoa lo lắng:
- Có khi nào nó đi Tây Ninh bây giờ không em?
Trang tự tin:
- Nó không thể đi được. Em đã nhờ chiến hữu cầm chân nó lại rồi.
Hoa vẫn nghi ngại:
- Như vậy là nó cứ ở mãi dưới Bến Tre cho tới lúc bị bắt à?
Trang gật:
- Nó chỉ đi loanh quanh dưới đó thôi. Nó sẽ tính toán rất lú lẫn, không còn sáng suốt như bình thường nữa đó chị.
Hoa phân vân:
- Thằng đó khôn lắm. Coi chừng nó thoát đi được đó.
Trang cười:
- Không đâu chị. Chiến hữu em đã có thể ám ảnh người sống, làm cho họ mụ mẫm đi được chị à.
Hoa hơi yên lòng:
- Vậy thì thằng Hiệp sẽ sớm bị bắt thôi em nhỉ?
Trang cười tươi, nói:
- Dạ, đúng vậy đó chị.
                                      *
Cảnh sát 113 hụ còi tiến vào Bến xe miền Tây. Đại hoảng hốt khi nghe tiếng còi hụ. Hắn nhớn nhác muốn thoát thân nhưng mấy cánh tay lực lưỡng của bảo vệ bến xe cùng anh em tài xế đã giữ chặt hắn lại.
Mọi người bàng hoàng khi cảnh sát lôi chiếc két sắt từ trong bao tải ra. Chiếc két đã bị phá khóa. Bên ngoài có những dấu máu tươi chưa kịp chùi sạnh.
Chiếc ví của hắn cũng bị kiểm tra tại chỗ. Nhiều tờ giấy bạc, trong đó có cả mấy tờ USD bị dính máu. Toàn bộ tang vật cùng với Đại bị áp tải về công an phường để lập biên bản.
Hùng, tài xế taxi cũng được mời đi theo để làm chứng và cung cấp tiếp thông tin cho cảnh sát.
Tại công an phường, Đại đã khai một phần vụ án. Lúc này, cũng chưa ai nghĩ tới vụ án mạng vừa xảy ra hôm qua tại cơ sở xuất nhập khẩu của vợ chồng Hoa và Sinh.
Nửa tiếng đồng hồ sau, tại trụ sở công an quận, khi vừa đọc biên bản vừa lập xong tại công an phường, một điều tra viên ngay lập tức à lên một tiếng rồi đập tay xuống bàn:
- Trời đất! Vụ giết hai vợ chồng bên Bình Thạnh nè. Vậy mà nó dám khai ở Đồng Nai.
Ngay lập tức, Đại được đưa vào lấy khẩu cung khẩn cấp.
Và chỉ chưa đầy 1 tiếng đồng hồ nữa, toàn bộ chi tiết vụ giết người dã man đã được Đại khai đầy đủ.
Vụ án được báo cáo lên cấp trên, do tính chất nghiêm trọng của vụ án, và do địa bàn xảy ra vụ án ở quận khác.
Công an thành phố lập tức rút toàn bộ hồ sơ về và triển khai ngay bộ phận truy bắt các hung thủ còn lại.
Hai tiếng đồng hồ sau, trừ Hiệp gà ra, còn lại đều bị bắt.
 
*
 
Một mình Hiệp gà lang thang ở cái thị xã nhỏ xíu, hắn nôn nóng vì không liên lạc được với bất kỳ thằng nào. Không biết tính sao, Hịêp gà nhất định quay trở về Sài Gòn để tìm đồng bọn.
Khi hắn vừa bước xuống xe ở xa cảng miền Tây, lập tức cảnh sát tiếng đến mời hắn tra tay vào còng.
Khi đã ngồi trên chiếc xe áp tải phạm nhân bịt bùng, Hịêp gà vẫn không sao hiểu được tại vì sao mình lại ngu ngốc đến mức độ đó? Tự nhiên lại quay trở về để nộp mạng?
Hắn hoàn toàn không biết, tất cả mọi người đều không biết những hành vi của bọn cướp đã bị đám bạn bè của Trang khống chế. Trang đã giữ đúng lời hứa với vợ chồng Hoa, cô đã đưa cả bọn vào tù.
Gây nợ máu ắt phải trả bằng nợ máu. Bọn Hiệp gà rồi sẽ bị pháp luật trừng trị đích đáng. Chỉ thương cho vợ chồng Hoa không nỡ rời bỏ đứa con thơ dại.
Trang an ủi:
- Anh chị đừng quá đau buồn, mỗi người đều có một số phận, mình khó mà cưỡng lại được...
Mãi tới lúc này, Hoa mới đủ bình tâm để hỏi Trang:
- Vì sao em chết? Em chết lâu chưa mà hồn vẫn chưa siêu thoát được?
Trang cười thật buồn:
- Chị ạ, chị có biết không, trước đây em cũng là một đứa con gái giang hồ. Em là người yêu của Đại. Vì thương yêu hắn ta, nghe lời hắn ta mà em đã bị gia đình từ bỏ. Theo Đại một thời gian, lúc hết tiền, hắn buộc em làm đủ thứ  “nghề” để đem tiền về cho hắn. Quá uất ức và tủi nhục, em đã chống cự lại hắn. Trong lúc xô xát, Đại lỡ tay xô em té đập đầu vào cạnh cửa. Em chết vì lý do đó... Em không siêu thoát được chỉ vì... cho mãi đến hôm nay, thân xác em vẫn còn bị vùi dập cẩu thả ở trong một cánh rừng cao su.
Hoa thương xót:
- Sao em không báo mộng để gia đình biết mà tìm đến đưa hài cốt em về quê nhà an táng đàng hoàng?
Trang cúi mặt giấu dòng nước mắt:
- Em đã về báo mộng nhiều lần, nhưng ba em là một người cứng rắn. Từ khi đăng báo từ bỏ em, ổng đã không còn nghĩ tới em nữa...
- Thế còn mẹ em?
Hoa nôn nóng.
- Mẹ mất từ sau khi em bỏ nhà đi... Ngày mẹ mất em cũng không về... em nghe nói mẹ đã chết mà không nhắm được mắt.
Trang không dằn được nữa, cô bật khóc nức nở.
Hoa ôm Trang vào lòng dỗ dành:
- Thôi, mọi việc đã qua rồi, em đừng quá đau buồn nữa... Chị sẽ nhờ người thân của chị đem hài cốt của em về an táng...
Trang mừng rỡ, ngước mắt nhìn Hoa:
- Chị nói thật, phải không chị?
Hoa mỉm cười, gật đầu:
- Thật! Em yên tâm đi... Rồi em sẽ cùng anh chị siêu thoát...
Tang lễ của vợ chồng Sinh – Hoa vừa xong, công việc trong nhà cũng được người thân của hai vợ chồng sắp xếp tạm ổn.
Tối đó, mẹ Hoa đang ngủ bỗng bà có cảm giác một bàn tay đang kéo chân bà dậy.
- Ai đó?
Mẹ Hoa hoảng hốt hỏi lớn.
Không một tiếng trả lời, mà câu nói của bà cũng không đánh thức ai khác trong nhà. Tất cả đều ngủ mê mệt sau mấy ngày đêm liên tiếp vất vả lo đám.
Mẹ Hoa co chân lên, xoa xoa vào chỗ có người nắm khi nãy, lòng bà còn hơi nghi hoặc, không biết mình mơ hay có thật thì bỗng bà thấy có một bóng trắng đứng sát bên giường.
- Mẹ... Mẹ đừng sợ, con là Hoa đây!...
Bà mẹ thảng thốt kêu lên:
- Trời! Hoa... có phải là con thật không?
Hoa nghẹn ngào chìa tay ra:
- Mẹ... mẹ cho con bế con của con một chút đi, con nhớ nó lắm...
Bà mẹ có hơi ngần ngại, nhưng rồi tình thương con, thương cháu trong bà đã trỗi dật mãnh liệt, lấn át nỗi sợ hãi trước một vong linh mờ ảo. Bà ngồi dậy nhường chỗ cho Hoa nằm xuống cạnh bên con.
Hoa vừa vuốt ve, nựng nịu con vừa nói chuyện với mẹ trong tiếng khóc nghẹn ngào, tức tưởi.
Thời gian chầm chậm trôi qua. Một luồng gió lạnh từ đâu bỗng thổi thốc vào nhà làm lay động mùng và màn cửa. Hoa ngồi bật dậy:
- Mẹ ơi, sắp tới giờ con phải đi rồi! Con xin gởi lại đứa con này cho mẹ...
Hoa lại khóc nấc lên. Bà mẹ ôm con vào lòng an ủi:
- Con hãy yên lòng, mẹ và những người còn sống sẽ chăm sóc cho con của con nên người...
- Mẹ ơi, con nhờ mẹ giúp cho con một việc nữa...
Hoa hấp tấp.
- Việc gì, con cứ nói.
Bà mẹ nhìn Hoa chờ đợi.
Hoa thầm thì:
- Sáng ngày mai, ba mẹ hãy đến rừng cao su Bình Lực, tại lô số hai mươi bốn, từ mé lộ đi vào độ chừng hơn tám trăm thước, dưới đó là hài cốt của một cô gái. Cô Trang này là ân nhân của vợ chồng con, nhờ có cổ nên bọn cướp mới bị bắt gọn một cách nhanh chóng như vậy. Con xin ba mẹ hãy đem hài cốt cô ấy về chôn cất cạnh mộ của vợ chồng con. Có như vậy, hồn vía cô Trang mới có thể siêu thoát được. Mẹ, mẹ giúp con nghe mẹ?
Mẹ Hoa gật đầu:
- Được rồi, mẹ ghi nhớ lời con nói. Nhất định ba mẹ sẽ làm theo yêu cầu của con. Con hãy yên tâm, đừng bận lòng gì nữa...
Hai mẹ con bị rịn chia tay mãi mà không rời nhau ra được.
- Chị ơi, nhanh lên đã tới giờ rồi...
Có tiếng gọi nho nhỏ vang lên. Cái bóng trắng của Hoa mờ dần, mờ dần rồi tan biến hẳn.
Lúc này bà mẹ mới khụyu xuống khóc nấc lên. Từ nãy giờ bà cố cắn chặt vành môi đwsn ứa máu để dằn tiếng khóc, vì bà nghe nói, nếu người thân khóc lóc, hồn người chết sẽ vương vấn hoài không thể đi đầu thai kiếp khác được...
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:52:21 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:21:13
KỲ NHƠN CHÁNH ĐẠO
 
Trong cái xóm nhỏ có cái nhà nhỏ. Trong cái nhà nhỏ có một thằng nhỏ. Cái thằng nhỏ có tính lê la và tò mò quá cỡ. Tối ngày nó ở trần, mặc có cái quần xà lỏn dây thun dãn chạy loanh quanh trong xóm, thấy cái gì cũng ghé vào coi ké.
Nó đứng chân chèo chân chống, một tay nắm quần kéo lên, một tay quẹt mũi lia lịa. Cái bộ dạng ròm nhom, còi xương của nó cả xóm ai cũng quen hết thành ra không ai thèm để ý làm khỉ gì.
Nó la cà quanh cái đình tối ngày. Mấy chỗ đó có nhiều chuyện lạ, những câu chuyện in đậm vào đầu nó lâu thiệt là lâu. Mấy chục năm có dư nó cũng cứ nhớ miết. Mỗi lần hết chuyện kể cho bạn bè nghe là nó lại ngồi lục lọi trong đầu, thế nào cũng lòi chuyện ra thôi, he he...
Đầu những năm 70 của thế kỷ trước, cái thời chiến tranh như cơn bão ùa về khắp nơi. Dân khắp nơi cũng kéo nhau vào thành phố sống. Cho dù nghe tiếng những chiếc máy bay um xùm trên bầu trời, cho dù những chiếc xe nhà binh chạy ào ào khắp nơi thì chiến tranh hình như cũng còn xa lắm.
Có nghĩa là an toàn. Ừ, an toàn thì ở. Cái hồ vịt bơi cạn nhách phía sau xóm bị lấp đi để xây nhà. Dân tứ phương về xây lên những căn nhà coi ngộ lắm. Cái nhà nào cũng có mấy cây tràm cong queo làm cột. Những miếng tole sét đỏ lè làm mái. Mọi thứ có thể gọi là miếng thì dùng làm vách!!! He he, nhà kiểu đó thì lổ thủng tùm lum, cứ dán con mắt vô là trong nhà có cái gì cũng thấy ráo!!! Mà trong mấy cái nhà đó thì có cái gì đâu! Chỉ có những con người là coi được thôi...
Cái sự lộn xộn của thời thế cũng làm cho người ta tin nhiều vào những điều khó hiểu, tạm gọi là huyền bí đi. Những con người khổ sở với cuộc sống nhứt thì lại tin tưởng mạnh mẽ vào những thứ bói toán, chiêm tinh, lên đồng gọi cốt ghê lắm.
Phía cuối xóm, cuối những con hẻm nhỏ xíu và tối thui có một cái miểu. Cái miểu này thờ cậu Bảy! He he, thằng nhỏ đó cũng thứ bảy, nó thấy nó với cậu Bảy ngồi trong miếu tâm linh với nhau lắm nghe.
Mỗi ngày nó đi học, chân bước ngang qua cái nhà sơn đỏ đỏ vàng vàng, bên trong tối om om và mù mù nhang khói nó lại thấy người khoan khoái. Có khi nó trốn học, chui núp trong tán cây bồ đề trước sân để xem người ta lên đồng.
Hì hì, Cậu Kim Hoàn, cậu đồng của miểu ngồi trước cái bàn thờ, trên đầu phủ cái khăn đỏ, cả người mặc áo đỏ coi ngộ thiệt. Tiếng nhạc, tiếng song loan, tiếng mấy bà cốt phụ lầm rầm hát bài chú nghe huyền bí hơn trong màn khói nhang nghi ngút.
Khi cậu đồng run run người là lúc thằng nhỏ cũng cảm thấy mắc tè nhứt. Người nó lạnh ngắt, run theo nhịp run của cậu đồng. Rồi cậu đồng đứng dậy, nhảy múa uốn éo như con rắn. Người cứ lắc lắc, giựt giựt y hệt mắc kinh phong. Cuối cùng một tiếng hét vang trời. Cậu Bảy nhập rồi!!!
Mấy người tới nhờ lên đồng vái thôi là vái, cong lưng cụp xương sống, hì hì. Cậu Bảy lại ngồi xuống. Rồi cậu nói. Cậu nói giọng con nít y như thằng nhỏ. Cậu nói năng nhỏ nhẹ, thưa gửi lễ phép lắm. Thiệt là con nhà có học mà!!!
Lúc này bà con bắt đầu những câu hỏi. Hỏi gì cậu Bảy cũng trả lời đàng hoàng. Cúng nhiều tiền trả lời nhiều, cúng ít trả lời vài câu là thăng. Cậu Bảy thăng cái rụp! Không cần lôi thôi như lúc nhập. Cậu đồng Kim Hoàn chỉ gục cái đầu xuống là người ta biết cậu thăng rồi.
Rồi mấy bà cốt phụ lấy cái khăn ra. Cậu Kim Hoàn ngồi rũ rượi, mặt mày trắng xanh như mới bị hút hết máu. Nhưng tới lúc này thì hết vui rồi, thằng nhỏ leo xuống, khéo léo lòn ra sau nhấc cái vách thủng của miểu lên để chui vô. Hì hì, ngay dưới cái bàn thờ đầy khói và tối mù của cậu Bảy chớ đâu. Tay quơ một cái chớp đại thứ gì người ta cúng trên bàn thờ rồi từ từ chui trở ra. Xong, a lê dọt cho lẹ...
Mấy thằng con nít trong xóm khoái coi nhập đồng như nó lắm nhưng đứa nào cũng sợ. Lỡ mà cậu Bảy thấy mình hạp nhãn hơn cậu đồng Kim Hoàn bèn nhập vô trong người mình luôn, không chịu thăng nữa thì có mà tiêu đời!
Thằng nhỏ cũng sợ muốn té đái nhưng cái tính tò mò của nó còn nhiều hơn. Thành thử nó coi hoài rồi ra kể cho tụi kia nghe.
Kim Hoàn là cái tên người ta kêu cậu đồng thôi. Thiệt ra cậu tên là Hoàng. Cậu là con gái của bà già xây cái miểu cậu Bảy.
Cậu Hoàng là một cô gái nhỏ người, hai con mắt một mí nhỏ nhỏ mà dài mút. Thằng nhỏ cứ kêu cậu có con mắt phượng! Trong cái đầu con nít của nó biết cái gì phượng với loan mà cứ bày đặt. Nhưng không kêu như vậy thì làm sao tả cho mấy thằng kia biết con mắt cậu Hoàng.
He he, cậu Hoàng chỉ ru rú trong nhà, không khi nào thấy bước ra ngoài xóm, nên không có mấy người biết mặt mũi cậu đâu! Cậu Hoàng trắng lắm, trắng nhợt luôn. Thằng nhỏ cho là cậu bị cậu Bảy hút máu hoài nên mới như vậy thôi.
Có khi nó lầm bầm chửi cậu ngu quá mạng, cứ ngồi cho cậu Bảy nhập hoài thế nào cũng có ngày tửng luôn thì hết biết. Trời ơi! nó làm sao mà biết cậu Hoàng không ngồi như vậy thì đói nhăn răng còn đâu mà sống để xanh với xao, hì hì, con nít mà...
Cuối xóm là miểu cậu Bảy, đầu xóm có ông chiêm tinh gia Sáu Hòa. Hì hì, ông này coi sáng láng, tóc dày chải sáp thơm láng cón. Răng thì ba bốn cái bịt vàng, một hai cái bịt bạc. Hai bàn tay đeo thôi lủ khủ nhẫn, đá có vàng có... Thêm cái kiếng trắng gọng vàng, và bộ đồ Tây trắng phau trông ổng như mấy tay chơi hạng dách lầu chớ hổng giỡn nhe.
Ông này coi chỉ tay, bói bài, bói ngải, xem tướng, xem nút ruồi... Ổng toàn coi bói cho nhà giàu, người ta đi xe hơi tới coi không à. Hoặc xe hơi tới rước ổng đi chớ không có thấy ai từ sau hẻm ra nhà ổng coi bói ráo. Nhưng ông Sáu Hòa là người rộng rãi, thỉnh thoảng ổng hay coi miễn phí cho vài người đi ngang qua mặt ổng mà hổng chào hỏi. Thường thường là phán rằng mặt mày ấn đình đen thui, coi chừng bịnh ngặt nghèo hay coi chừng xe cán bấy nhầy nghe con.
He he, những người được coi miễn phí thường chửi váng trời xong lại chui vô miểu cậu Bảy coi lại cho chắc ăn!!!
Nhà ông Sáu Hoà là cái nhà lầu duy nhứt trong xóm. Nhà được đúc có cái từng lửng để cho phía trước cao mút cà tha. Căn phòng ông Sáu ngồi coi bói cao vút lên tăng thêm vẻ huyền bí cho những lời phán thiên cơ của ổng. Hai bên vách lại được anh Bay con trai ổng vẽ những hình thù kì dị. Những người đàn bà ở trần, mắt mũi lệch lạc, những con vật kì lạ nằm trên vách tường trong khung cảnh tối sẩm làm cho người ta thêm rót ổng!!!
Ông Sáu Hoà trồng ngải đầy trước cửa nhà ổng. Hôm nhà làm xong, ăn tân gia ông Sáu mời một ông Chà Và đen thui tới nhà. Hai người nói chuyện bằng thứ tiếng gì nghe không ai hiểu ráo.
Ông Chà và ăn bốc bằng tay không à! Ăn xong ổng móc trong người ra một cái củ gì đỏ lét, to và tròn như củ hoa huệ tây, tặng cho ông Sáu!!!
Ông Sáu mừng lắm, cầm tay ông than củi lắc lắc miết. He he, hai anh Bom và Bay con ông Sáu khoe rằng cái củ đó là củ ngải chúa. Nhà nào trồng củ ngải chúa thì gặp toàn chuyện hên. Ai mà lấy cắp củ ngải chúa thì nó phá cho mà tàn mạt. Ngải chúa chỉ được tặng thì mới có giá trị.
Còn nữa, cây ngải mọc lên từ củ ngải này dùng làm bùa yêu thì bá chấy. Chỉ cần bỏ bùa cho ai là người đó thương mình chết mê chết mệt!!! Lá ngải lại độc lắm, chưa chế biến mà cắn một phát thì lăn ra sùi bọt mép, giãy đành đạch mà chết. He he, cây ngải chiến thiệt! Ai đi ngang qua cũng tránh xa xa chứ hổng dám lại gần...
Đầu xóm, cuối xóm có hai nhà khoa học huyền bí. Giữa xóm là cái đình mái cũ rêu phong. Kế bên cái đình có một ông đạo! Như vậy thì cái xóm nhỏ mới cân bằng chớ.
Ông đạo già chưa thì thằng nhỏ hổng biết. Vì ổng để tóc dài, búi tó một cục bự trên đầu, lại râu ria năm chòm dài như Đổng Kim Lân trong tuồng San Hậu vậy.
Cái nhà ổng không phải là cái nhà lầu như ông Sáu Hoà, cũng hổng phải cái nhà chắp như miểu cậu Bảy mà là căn nhà nhỏ tường gạch mái ngói có cái gác gỗ. Trên cửa, hai cánh cửa lá sách, là một cái biển nhỏ có mấy chữ Kì Nhơn Chánh Đạo!
Kì Nhơn! Nghe là khoái rồi! Ông đạo cũng kì thiệt là kì! Sao kì? He he, trong nhà không có một cái thứ gì bằng kim loại hết. Toàn là bằng gỗ hay đá không à. Ổng ăn chay trường với gạo lức và rau đậu thôi. Mà gạo ổng ăn cũng không phải chuyện chơi. Ổng lên Hóc Môn vác một bao lúa về, thứ lúa không gặt bằng liềm mà dùng cái lược bằng gỗ suốt từng bông. Rồi ổng đổ ra phơi. Lúa khô, đem bỏ vô cái cối giã. Giã miết, cái chày gỗ cứ thọc thẳng vô giữa cối, không thọc cạnh cối, nát gạo hết. Giã một hồi, đem đổ vô cái thúng rồi thằng đệ tử đứng trên cái ghế bưng cái thúng đổ xuống. Ông đạo kẹp chiếc chiếu giữa hai đùi, hai tay nắm hai mí chiếu làm thành cái quạt, khép vô, mở ra quạt phành phạch. Trấu bay tá lả còn gạo và lúa chưa tróc vỏ rớt xuống. Quạt cho tới khi sạch trấu, ông đạo cho mớ hổ lốn còn lại vô cái sàng. Sàng tới sàng lui, lúa như bị ếm xì bùa gom một đống vô giữa. Tay ổng hốt nhẹ một cái, mớ lúa bị gom vào tay cho vô cối. Còn lại trên sàng là gạo, thứ gạo chưa tróc vỏ lụa còn nâu nâu vàng vàng. Lúa chưa giã lại cho thêm vào cối giã tiếp. He he, bữa ăn nhiêu khê thiệt.
Chưa hết, Kì Nhơn còn nấu đồ ăn bằng nồi đất không à. Rau đậu thì lặt và cắt bằng con dao gỗ và dao đá. Ông này sống y như đang ở thời đồ đá vậy.
Ai hỏi sao phải làm như vậy cho mệt thì ổng cười cười hông thèm trả lời. Chỉ có thằng nhỏ là ổng trả lời thôi vì nó cũng hơi kì công khi ngồi xem thầy trò ổng lạch cạch làm ra hột gạo!
Ổng nói là kim loại chỉ đem lại cho con người toàn là đau khổ và chiến tranh. Ổng chủ trương con người không nên dùng kim loại.
Coi nè, ngày xưa thì cung tên, đao kiếm, bây giờ thì súng đạn, xe tăng, máy bay, đại bác. Hết thảy những thứ đó toàn là chế tạo từ kim loại. Kim loại làm cho cuộc sống con người tiện nghi hơn, loài người mạnh mẽ hơn thành ra họ hăng máu chém giết hơn!!!
Thằng nhỏ gật riết cái đầu chứ có hiểu khỉ mốc gì. Nó nghĩ thầm lấy đá bự chọi cũng bể đầu chết queo chớ hổng giỡn à nhe!!! Với lại ông đạo kì thị kim loại chớ cái bàn cái ghế trong nhà ổng cũng dùng cưa mà cưa ra chớ sao làm được. Cả cái lược gỗ suốt lúa của ổng cũng phải dùng cưa lọng mà lọng ra chớ đâu!!! Còn lúa của ổng suốt về người ta cũng bỏ xe ngựa chở lên, xe ngựa bằng cây cũng chêm sắt tùm lum thì sao?
Nói vậy thôi, ông đạo nghĩ và cố làm như vậy cũng là hay quá rồi. Nếu là nó thì chịu thua thôi! Sống như vậy hèn gì ổng cho mình là Kì Nhơn cũng phải.
Ông đạo cây! Thằng nhỏ sau khi về nhà hỏi ba nó thì quyết định kêu ông Kì Nhơn là ông đạo cây, vì ổng kị kim loại, mà kim khắc mộc nên ổng thuộc mộc, chánh hẩu là cây!
Nó mang cái tên mới chạy tót ra méc cho ông đạo, ổng cười khà khà hông nói gì.
Ông đạo cây sống trong căn nhà với thằng đệ tử chừng mười mấy tuổi. Cái thằng này tên Sĩ mà không biết vì sao trong xóm kêu là Xăng!
Thằng Xăng đen thui vì hồi ở quê nó đi chăn bò tối ngày. Nó đá cầu số dách. Hai cái chân thẳng dẻo lắm. Đá hoài cầu hổng rớt. Hai con mắt nó tròn, bự thô lố và lộ trao tráo thấy cũng huyền bí!!!
Ông đạo cây cũng hơi giống Cậu Hoàng. Cả hai ít khi ra ngoài. Chỉ lâu lâu ổng đi lấy lúa về ăn. Còn chuyện chợ búa là của thằng đệ tử. Thằng nhỏ thấy Kì Nhơn tối ngày ngồi trong nhà đọc sánh, không biết là sách gì toàn chữ Nho không.
Sau này nó ráng ghi nhớ mấy chữ ngoài bìa đem hỏi ba nó thì mới biết là mấy bộ tứ thư ngũ kinh thời xưa nhà nho học đi thi...
Ông đạo cây đọc đi đọc lại rồi suy nghĩ, ổng nghĩ cái gì thì ai mà biết? Cả xóm đều kính trọng ổng ghê lắm, Kì Nhơn mà.
Lâu lâu ổng ngồi ngoài cửa nói chuyện khơi khơi. Người đi qua, người đi lại, mấy thằng nhỏ bu đông ken nghe ổng nói. Ổng nói cái gì về ngũ hành, âm dương, lẽ trời, lòng người... ôi buồn ngủ muốn chết. Thằng Xăng ngồi sau lưng hai con mắt trợn trừng trừng mà cái đầu cứ gục xuống lia... Nó là đệ tử lâu ngày mà còn ngủ gục thì nói gì mấy thằng con nít nhóc nhóc như thằng nhỏ.
Thằng nhỏ khoái nhứt là những buổi tối trời không trăng. Hai thầy trò ông đạo ra sân tập võ! Ui trời, những bài quyền kiện thân của ông đạo uyển chuyển và đẹp mắt như thái cực quyền của Võ Đang vậy đó. Lâu lâu ông lại nhún một cái nhảy ào qua đầu thằng Xăng nhẹ nhàng.
Thằng Xăng còn nói ngày ba mươi tối trời ông đạo nhảy một cái lên tới nóc đình luôn á! Khinh công cao siêu thiệt. Còn nữa! Cái đầu ông Kì Nhơn cũng nhóc kì vật, vì ổng không chịu gội đầu bằng xà bông. Cả năm ổng mới gội đầu một lần vào dịp ba mươi tết bằng bồ kết. Nhưng bộ râu thì ổng chăm sóc dữ lắm. Chải cả ngày, rồi tắm cho nó nữa chớ.
He he, kì vật không sống trên râu Kì Nhơn nổi đâu...
Rồi có cái mùa hè nghe tiếng bom đạn khắp nơi. Người ta nháo nhác tìm kiếm nhau. Có người tìm hoài không thấy, nước mắt chảy khô như Vân Tiên khóc mẹ.
Ông Sáu Hoà tìm ở đâu về một trái cầu bằng pha lê trong suốt. Ổng đem trái cầu để trước nhà rồi kêu hết đám con nít tới dòm vô. Dòm xong, bước ra ổng hỏi, thấy gì không? Mỗi đứa nói một kiểu! Thằng nhỏ nói thấy có mây trong trái cầu, ông Sáu cho nó hai chục đồng rồi biểu đứng qua một bên. He he, cái đồng hai chục tám góc cầm nằng nặng trên tay nghe thiệt mát quá!
Tới thằng Xăng, con mắt lồi trao tráo cũng vô dòm, xong trả lời thấy mây trong trái cầu!!! Ông Sáu cũng móc cho nó hai chục rồi biểu đứng qua một bên. Tới đó ổng đem trái cầu vô cất. Mấy thằng nhỏ tới sau không được coi đứng tẻn tò y như anh chàng bị cô nàng cho leo cây vậy!!!
Ông Sáu hỏi:
- Hai thằng có muốn giúp tao coi vong không?
- Không được là không được!
Thằng nhỏ nói liền:
- Ba tui mà biết ổng đánh tui nát mông.
Ông Sáu gật đầu:
- Ừ, mày là hổng được rồi, ba mày không chịu cho con làm chuyện đó đâu. Còn thằng Xăng, thì sao?
- Ông có trả tiền không?
Xăng hỏi liền.
- Có chớ mày, mỗi lần coi xong là trả liền. Ông Sáu nói thiệt nghe, con là có con mắt hay lắm, người xưa kêu là huệ nhỡn chứ hổng có chơi à. Con mắt của con mới giúp người ta coi vong được, biết không?
Ông Sáu nhìn Xăng, cười nói.
 À, quên nói cho bà con biết, coi vong tức là coi người ta có chết chưa, nếu chết rồi thì có vong hồn hiện ra trong trái cầu pha lê. Kể cho khổ chủ biết hồn ra sao, đói, rách, lạnh lẽo và quan trọng nhất là xác đang ở đâu?
Ông thầy bói sẽ làm phép hay đốt ngải trên trái cầu pha lê, có phủ cái khăn đỏ. Sau khi làm phép xong, lật cái khăn đỏ ra, kiếm một đồng nam có huệ nhỡn mà dòm vô đó coi rồi kể cho người ta nghe.
Dạo đó người ta coi vong ồ ạt. Mấy bà vợ lính tối ngày đi coi vong, coi mà thấy vong thì khóc như mưa, còn không thấy thì vui như tết.
Ôi! Rồi chiều bữa đó, ông Sáu Hoà biện một cái khay gỗ có cả đống trái cây mang sang nhà Kì Nhơn xin phép cho thằng Xăng sang giúp ổng coi vong.
Kì Nhơn trầm ngâm không thấy nói gì. Ông Sáu ngồi tán thằng Xăng thành Kì Đồng, nào là nhờ theo ông đạo lâu ngày, ăn chay trường lại nghe giảng toàn đạo lí nên thằng nhỏ có huệ nhỡn. Gặp cái thời mạt pháp, ra giúp cho người ta cũng là làm phước chớ có sao đâu...
Ông đạo cây im lặng. Ông Sáu nói mỏi miệng đành ra về. Ông Sáu vừa về thì Cậu Hoàng lò dò vô! He he, bên miểu cậu Bảy cũng mới sắm một trái cầu pha lê để coi vong. Nghe nói thằng Xăng có huệ nhỡn nên cậu Hoàng sang nhờ ông đạo cây cho nó qua giúp.
Thiệt tình, cái thằng mới hôm qua còn lo giã gạo giúp thầy nó hôm nay thành người có giá quá xá!
Thằng Xăng tự sang nhà ông Sáu lẫn bên miểu cậu Bảy để coi vong. Mỗi lần coi xong có tiền, hổng biết bao nhiêu. Nó coi miết, hết nhà ông Sáu tới miểu cậu Bảy.
Rồi từ từ chiến cuộc bớt ác liệt, người coi vong cũng ít đi. Ông Sáu không còn nhờ thằng Xăng coi vong nữa. Chỉ còn bên miểu cậu Bảy là có người coi hoài. Không phải là coi vong mà là coi số đề!
He he, bà con tới miếu đông như đi chợ. Thằng Xăng coi hay lắm, số nó đọc ra trúng hoài nên nó trở thành người nhà của cậu Hoàng luôn. Tối nó chui về nhà ông đạo ngủ, sáng qua trực luôn bên miểu.
Ông đạo chỉ còn mình ên lui cui lo giã gạo nấu cơm ăn. Ổng ít ra nói chuyện nữa. Có lần ông nói về nồi canh, trong nồi canh nấu xong, mở nắp thấy có con sâu nổi lình bình trong đó thì làm sao? Thì đổ chớ sao! Ừ, đem đổ đi chớ ai mà dám ăn. Bởi vậy ngày xưa ông bà nói là con sâu làm rầu nồi canh. Nồi canh cho dù không tội gì, cũng chỉ vì con sâu mà thành đồ bỏ đi. Vậy mà có người tỉnh bơ vớt con sâu ra, canh lấy bán cho thiên hạ ăn tiếp. Nói là rau có sâu thì không có thuốc trừ sâu, ăn tốt hơn là rau toàn thuốc trừ sâu.
He he, cũng nồi canh thôi mà nhìn khác đi thì mọi chuyện cũng khác đi rồi. Cuộc sống là như vậy, đạo giảng hoài, người nghe một lần hiểu liền, người nghe riết hai con mắt trao tráo cũng không hiểu. Quan trọng là cái tâm chứng đạo chớ còn huệ nhỡn, thòi lòi nhỡn, mắt to, mắt hí cũng có gì là hay đâu!
Thằng nhỏ há hốc cái miệng đứng kéo quần nghe ông đạo cây nói. Hiểu khỉ khô gì, chỉ nhớ như in cái mặt ông đạo buồn thiu, miệng chảy dài làm cho hàm râu đã dài còn dài hơn mấy lần...
Thằng Xăng lớn bộn, đã thấy bóng mấy cha quân cảnh trên quân vụ thị trấn lò dò về xóm tìm bắt lính. Mấy thằng con trai lớn lớn trong xóm lo học bài chết luôn. Rớt tú tài anh đi trung sĩ nghe!
Thằng Xăng vừa đủ tuổi vô lính. Nó không thèm về bên nhà ông đạo cây nữa, ở luôn bên miểu cậu Bảy với cậu Hoàng.
He he, cậu Hoàng với nó bi giờ xà nẹo, xà nẹo với nhau như hai con sam. Thằng nhỏ có bữa dòm qua cái vách thủng của miểu thấy Thằng Xăng với cậu Hoàng trần truồng ôm nhau lăn vòng vòng trên cái đi văng trong buồng cậu Hoàng. He he, nó sợ xanh mặt, nhắm hi hí hai con mắt cắm đầu chạy như bay sang nhà ông đạo cây. Vừa hổn hển thở nó vừa mét ông đạo.
Ông đạo thở dài, cái đầu gục xuống như khi cậu Hoàng bị cậu Bảy thăng. Vậy thôi, không thấy ổng nói gì, thằng nhỏ cụt hứng!
Tưởng đem cái chuyện động trời mét ổng thì ổng sẽ phi thân sang miểu lôi thằng Xăng ra đập cho một trận chớ, ai dè...
Tới khi thằng nhỏ quay lưng đi về ổng mới kêu vô dặn:
- Mai mốt đừng bao giờ thò con mắt dòm vô khe nhà người ta nữa nghe chưa?
Thằng nhỏ tiu nghỉu:
-  Dạ, nghe rồi, tởn rồi, mấy người lớn làm cái chuyện gì kì thiệt... Thằng Xăng lên Quang Trung, cậu Hoàng vác cái bụng lum lúp ra đưa nó đi. Ông đạo đứng xa xa như tránh cái đống rác.
Thằng Xăng bỏ đi không nói gì với ông đạo. Ông Sáu Hoà cũng vậy. Nó bang bang đi qua lẹ quá nên ông Sáu không kịp kêu nó lại để tặng câu ấn đình đen thui...
Nó lên trên đó mấy tháng ra lính. Cậu Hoàng chạy tiền cho nó về làm lính kiểng ở bộ tổng tham mưu. Chưa được ba bữa, hôm đó láng cháng ra chỗ ngã sáu Hiền Vương để đón xe vô Từ Dũ thăm cậu Hoàng đẻ thì xe nhà binh tông một cái chết ngắt.
Thằng Xăng chết rồi! Ông đạo cây giảng một bài nghe ghê tới bây giờ. Ổng nói dưới quê ổng, có con sông nhỏ, một ngày kia cóc kéo nhau nhảy xuống sông bơi sang bờ khác, đàn đàn lũ lũ. Cóc mà bơi gì! Chết đuối quá chừng, xác trôi nghẹt sông, vậy mà cóc cứ rủ nhau sang sông.
Thì ra bên này sông có con rắn chúa có mào như con gà. Con rắn chúa gáy te te, bầy cóc sợ rắn chúa ăn hết nòi giống nhà cóc, ăn tới tuyệt tử tuyệt tôn nên rủ nhau bơi qua sông mà trốn đi.
Con cóc còn biết đất không sống được mà bỏ đi thì con người làm sao mà không bỏ đi. Gần đến ngày ông đạo bỏ xứ mà đi, trên sông có những thứ trái không biết của cây gì trôi đầy. Trái y như cái đầu người nhỏ cở ngón chân cái. Cũng có mắt mũi miệng và tóc tai um xùm. Những cái đầu còn có mũ mão y như những quan viên ngày xưa.
Có người làm gan vớt lên, đem chẻ ra thấy chảy nhớt lấy nhầy, màu xanh xanh, mùi tanh bắt ói.
Ông đạo bỏ xứ đi luôn, tâm lo tu, trí lo dạy cho thằng Xăng nên người. Có biết đâu số trời khó tránh, dây dợ cứ vướng vất hoài. Thằng nhỏ bây giờ không còn lo kéo quần nữa, chỉ đứng chu mỏ nghe ông đạo nói. Cái mỏ nó chu ra y như mỏ khỉ...
Thằng mỏ khỉ nghe tiếng cậu Hoàng hát ru con ầu ơ phía cuối xóm. Cái miểu cậu Bảy không còn bàn thờ vàng vàng đỏ đỏ nữa. Cậu Hoàng có tiền đã xây lại thành cái nhà gọn gàng, mái ngói, tường gạch, gác gỗ y như nhà ông đạo cây...
Ông đạo cây giảng bài đó là bài cuối. Thằng nhỏ cũng gặp ông lần đó là lần cuối. Thì ra ông muốn nói chỗ này không còn ở được nữa, ông phải ra đi. Cùng trời cuối đất! Chỗ nào là đất lành cho ông đây?
Kì Nhơn ơi là Kì Nhơn, ba chục năm sau thằng nhỏ thành thằng già lắm chuyện đọc thấy Chiêu Hổ ngày xưa viết những điều tai dị giống y như chuyện cóc nhái với sọ người mà ông kể. Thì cũng như nồi canh có con sâu thôi, nhìn khác thì ra khác, muốn thì ăn không muốn thì đổ...
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:53:19 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:22:38
NHÂN DUYÊN ĐỊNH SẴN
 
Con đường chia một cái xóm cũ làm hai. Bên đông là phần xóm có cái miếu Bà, bên tây là đình thờ Ông!
Không biết cái thằng kiến trúc sư nào vạch một nhát vẽ vô tình như vậy? Hai vợ chồng bao năm vẫn thuộc chung một làng, một xóm bây giờ lập tức bị chia hai.
Bọn con nít đứng dòm đám phu lục lộ đổ đá làm đường kháo nhau Ông thần bị vợ bỏ, hì hì!
Rồi không biết sao cái tin đó lan truyền như thư hoả tốc. Người ta nói Bà chán Ông nên nhập vô thằng kiến trúc sư vạch một nhát trên bản đồ. Ôi cái vệt chì mỏng teng ấy bi giờ là con đường nhựa to chà bá, xe cộ chạy như điên. Xe nhiều quá, con nít bên này không chạy sang chơi với con nít bên kia được nữa. Cây đa bên này cũng đứng dòm cây đa bên kia trong nỗi tuyệt vọng cắt chia...
Cái miểu Bà thờ vợ ông Thần Hoàng, chuyện này ai mà không biết. He he, thiệt không? Đám dân lao động chữ nghĩa không nhét tròn cái lá mít biết gì mà nói!!! Rành rành hàng chữ ghi trên miếu là Thiên Hậu miễu kia! Miếu bà vợ ông Trời chứ có phải vợ Thần Hoàng bẹt hạng đâu.
Nhưng kệ, ông Trời xa chết mẹ biết là ông nào! Đem gả Bà cho ông Thần Hoàng có lý hơn!!!
Vậy là tự nhiên Thần Hoàng có vợ. Ngày xưa nghe nói đám cưới thánh thần to lắm. Long Vương mưa một trận thiệt là trời đất mịt mờ để làm quà cưới. Chim sáo đen bay kín trời kêu chí chát y như dàn đồng ca. Cua đồng bò lổn ngổn đi ăn cưới. Ừ cua đồng nhiều nhóc! Trước cửa miếu bà lúc nào cũng có vài con cua đồng bò ra bò vào. Con đường nhựa làm xong, xe chạy vụt qua cán một cái dẹp lép. Những chú cua dẹp lép, bốc mùi teng teng như mùi rỉ đồng.
Vì lúc nào cũng có cua đồng phục trước miếu nên bọn con nít lại nói bà tên là bà Còng!!?? Trời thần thiên địa ơi! Sao không là bà Cua mà là bà Còng? Dễ ẹt, nghe câu hát ru nè:
Gió đưa gió đẩy
Về rẫy ăn còng
Về sông ăn cá
Về đồng ăn cua...
Vùng đất này xưa là đám rẫy trồng bầu bí dưa cà rau mướp mà. Rẫy thì có còng, còn đồng mới có cua. Bởi vậy bà Còng là con còng tu lâu quá thành thần. Bà thành thần rồi thì cua còng gì cũng phải về chầu phục. Nhưng còng là con cháu nên bà miễn, bắt cua chầu cho đã, he he...
Thánh thần cũng có tình riêng chớ. Hổng riêng tây gì ráo thì lấy chồng mần chi!!!
Cây đa bên miếu Bà không có ma. Đàn bà con gái sợ ma lắm nên cây đa bên đó hiền hơn. Nó cũng là cây đa con gái. Nhỏ chút chun, không có ba cái mớ rể phụ loà xoà lung tung.
Cây đa bên đình là cây đa đực rựa. Râu ria thò ra tứ phía như râu Tạ Ôn Đình. Nội dòm hai cây đa thấy cũng khác nhau rồi. Dưới gốc đa bên miếu bà cũng không có quán nước như bên này.
Dân bên miếu bà cũng hiền như con gái. Đám giang hồ ba trợn không thích sống bên đó. Bên đó chỉ có mấy nhà giáo hay là công chức quèn chui về ở thôi. Ở bển thì yên bển, không có ai dám láng cháng chạy qua đường vô xóm đình mà chơi hết.
Trái lại đám con nít bên đình thích sang chơi bên miếu lắm. Thiệt ra là qua bắt cua về cột dây cho tụi nó kéo xe chơi. He he, cái trò cho cua kéo xe đua này thiệt là vui bá chấy bò chét. Thằng nào thằng nấy lụm cái lon sữa bò hay là lon nước ngọt. Đục hai cái lổ hai đầu rồi xỏ cây qua. Xong cột dây vô hai đầu, vòng dây quấn vào mai cua. Thằng khôn thì cho con cua bị quấn ngang, thằng ngu quấn lung tung, con cua bò không được! Lấy cái cây chận cho con cua bò sao cũng phải đẩy cái lon, hay là chỉ bò ra phía trước thôi. Vậy là bắt đầu cho cua đua. He he, tụi cua chạy lẹ lắm, nhưng có điều chạy không bao giờ thẳng thớm dùm. Quanh quẹo một hồi đâm đầu vô nhau nháo nhào cười chết bỏ...
Có mấy thằng khờ lắm, cứ nghĩ là nhiều cua thì chạy nhanh hơn thành ra làm xe nhị cua, tứ cua gì gì đó. Ha, thiệt tình là hai con cua thì cũng lôi thôi hung chớ hổng cần gì phải tới bốn cua. Không có con nào bò cho đúng hướng nhau cả, xà quần tại chỗ chẳng bao giờ đi được tới đâu hết. Nghĩ đơn giản quá, cua có phải là ngựa đâu. Cua ngang ngạnh như người chớ hổng chơi nghe!!!!
Ngang như cua, người gì mà ngang như cua! Nói chuyện thấy mà ghét.
Bọn con nít nói với nhau bên miếu bà có cái chợ ma! Sáng sớm hai ba giờ ma tới họp chợ bên miếu cả đàn. Trời ơi mua bán dữ lắm nghe. Ma xài tiền giấy vàng mã mà. Sáng dậy sớm chút, chạy ra thấy nước nôi chảy lung tung ra đường. Giấy vàng mã vứt la liệt! Tờ nào cũng ướt nước bám chặt xuống mặt đường. Mà phải dậy sớm chút chứ không bà Mắm quét đường quét sạch trơn không còn gì. Mà dậy sớm quá ma còn đang mua bán thì tiêu. Thò đầu ra cho ma ngửi thấy mùi người là nó bắt đem đi luôn. Đem vô nghĩa địa nhét xuống mồ. Ở đó làm đầy tớ cho nó suốt đời, không bao giờ ngóc đầu lên được. Úi trời sợ quá, sao bà không làm phép dẹp cái đám ma đó đi. Tầm bậy, dẹp sao được, cái chợ đó bà mở ra mà. Mở chợ làm gì! Ngu quá, chợ mở ra để lấy thuế chớ làm gì. Ma quỷ muốn vô chợ mua bán thì phải nộp tiền cho bà. Tiền làm gì? Người ta cúng quá chừng còn ham tiền làm gì? Thì lấy để dành, phòng khi nào hết lộc thì có cái ăn cái để chứ làm gì. Bởi cái chợ ma mà ông thần với bà gây miết. Gây tới nổi bà vạch ra con đường chia hai. Cái chợ ma họp bên miếu, không có con nào dám chui qua bên này, mà lính ông thần cũng không chui qua bển hạnh hoẹ đám ma được. Lính ông thần cũng toàn là ma chứ hay ho gì? Ừ thì cũng vậy, nhưng ma của ông thần có luật lệ, còn ma của bà là ma cà bông, muốn gì làm nấy, cóc có sợ gì hết, hì hì...
Bà Mắm quét đường làm cái nghề này lâu lắm rồi. Nghề gia truyền! Trời đất, công nhân vệ sinh mà cũng gia truyền sao? Ừ, cái nghề này không phải là con cháu trong nhà thì không ai thèm làm mà. Mẹ, cha làm nghề thì con cái mới làm, còn không thì khó kiếm người dám làm như vậy lắm. Bởi vậy đừng nói làm thầy ngon, làm người quét rác cũng phải có xuất thân gia thế đàng hoàng chứ không phải là chơi... Bà Mắm có đứa con gái dễ thương lắm, nhưng tóc tai lúc nào cũng rối bù, mặt mày nhem nhuốc. Mấy thằng con trai bên miếu mắt đui, có thấy cái đẹp của cô bé đâu. Bên đình có thằng nhóc mắt tinh như mắt mèo khoái con Muối lắm.
Con Muối sau khi giúp má nó đẩy cái xe rác đầy như cái núi tới bãi rác rồi là lật đật chạy về tắm rửa đi học. Nó ôm cái cặp đi bộ lon ton tới trường. Nhìn cái dáng nó đi học đố thằng nào dám nói nó quét rác. Người thon, áo dài trắng, dù cũ xì ngả màu cháo lòng, tà áo bay bay, trời thần con nhỏ xinh như mộng...
Thằng nhóc bên đình ngơ ngẩn chạy theo như cái thằng ngốc. Nhưng chạy theo thì chạy theo chứ có xơ múi gì! Bà Còng định rồi, con gái bên miếu không bao giờ thương con trai bên đình! Con Muối ghét cái mặt thằng nhóc muốn chết. Thấy là ngứa miệng muốn chửi liền!
Ngang như cua, người gì mà ngang như cua! Nói chuyện thấy mà ghét.
Thằng nhóc bên đình nói hoài câu đó. Cũng phải thôi, con nhỏ toàn nói chuyện xóc họng nó. Mới mở miệng chào hỏi là con bé phang vô mặt những câu độc địa liền. Thôi thì làm người theo đuôi cho đỡ nhớ và đỡ mắc cở!
Con Muối là phe bà Còng thành ra ngang như con cua cũng phải thôi. Tránh cua không sợ xấu mặt mà! Nhưng dòm thấy mấy thằng ranh bên miếu chọc ghẹo con Muối nó ngứa gan quá. Mấy thằng mất dạy, cứ "Harrode tiểu thư" mà kêu. Mẹ con bà Mắm mà không làm việc thì cho tụi bây sống trong ngập ngụa là rác. Bởi vậy nó cứ ra mặt anh hùng binh mĩ nhân.
Nhưng hỡi ơi, càng binh thì tới nó cũng bị chọc ghẹo. Chọc riết nó nổi khùng! Rồi một bữa sáng người ta thấy nó lom khom kéo cái xe rác cho bà Mắm. He he, hai bên cả đình lẫn miếu có chuyện li kì để tám cho đã. Con Muối mặt mày đỏ phừng không cho thằng nhóc làm. Còn bà Mắm thì cười, bà cười nhưng hai con mắt long lanh như muốn khóc. Cũng có người không khi dễ mẹ con bà chớ bộ...
Nhờ đẩy xe rác mà thằng nhóc mới biết cái chợ ma có thiệt. Người ta buôn bán náo nhiệt, mỗi khi chợ họp thì mây đen hay là sương mù đen đặc che tối thui mấy cái đèn đường. Không gian mờ mịt không rõ mặt người. Hàng hoá từng bao từng bao vác ra vác vô kìn kịt. Những con người cõi a tì chạy vác hàng nhẹ nhàng như bay.
Ai nói chợ ma không có trả giá, ma cũng buôn bán cãi cọ, chửi bới um trời. Có điều cái âm thanh nghe rin rít như tiếng cưa kéo, à, mà hình như là tiếng đàn cò đám ma thì mới đúng. Cái thứ âm thanh não nuột, ai oán đó chính là thứ tiếng ma trao đổi với nhau. Bán buôn cái quái quỷ gì nhỉ? Hàng hoá là gì không biết, chỉ biết là hết thảy đều có mùi tanh tưởi rất ghê. Nghe như mùi cá ươn hay là cua chết. Tiền bạc thanh toán thì thằng nhóc biết là giấy vàng mã. Có điều tay người trần gian cầm vào thì mớ giấy vàng bạc nát vụn thành tro tức thì. Chợ ma chuyên họp vào những ngày mưa nho nhỏ. Ma đi chợ thiệt là đông. He he, người chết cũng có nhu cầu chớ bộ.
Mua bán coi náo nhiệt vậy chứ không là gì so với nói chuyện hay cãi nhau. Khi có tiếng đàn cò rít vút lên cao, thì sau đó không gian lập tức im bặt. Là tiếng bà báo chợ tan. Ma mau chóng tản mát, những hình hài tan loãng vào không gian, mờ dần, mờ dần như trong cơn mơ... Thằng nhóc thấy bà Mắm và con Muối xuất hiện. Cả hai bước tới đâu thì không gian sáng lên tới đó. Hai con người làm cái nghề không ai thèm y như có hào quang từ trong thân thể thoát ra.
Mà cũng ngộ, con Muối bước nhẹ tênh như bay. Những nhát chổi của nó như phép màu, chổi đùa tới đâu thì mọi thứ rác rưởi âm ti bay biến tới đó. Có khi nó bay bổng lên không, cây chổi xoay tròn, cơn gió tràn ánh sáng xuất hiện cuốn phăng những tối tăm mịt mờ... Thằng nhóc núp bên này đường nhìn chết trân. Nó không hay hai cái ống quần của nó ướt nhẹp cái thứ nước khai khai mà người phàm hay xả ra khi sợ quá!
Thằng nhóc phải đi bịnh viện tâm thần. Sau cái đêm rình coi chợ ma thằng nhóc về nhà cứ tửng tửng. Miệng cứ lảm nhảm kêu tên nàng tiên Muối. Rồi nó cười, nó khóc, có khi hét lên câu người gì mà ngang như cua...
Không biết vì sao nó không còn sống trong thế giới thực tại nữa. Nó chìm vào thế giới ma quỷ mộng mị! Bà Nội, má nó chạy vô trong đình cúng quá mạng, rồi qua bên miếu cúng nữa. Những mâm giấy tiền vàng bạc đầy như cái núi được đốt suốt cả tháng. Bà Mắm và con Muối là hai người bị chửi suốt! Người cả hai bên đình lẫn miếu đều kháo nhau hai mẹ con bà Mắm là thứ ôn thần quỷ nhập. Con Muối tự nhiên thêm chức ma da rút ruột, chuyện tháo đầu khỏi cổ bay lơ lững trong không gian tìm ám các chàng trai.
Người ta chửi hai mẹ con suốt, nhưng chỉ dám chửi sau lưng. Thấy mặt hai mẹ con bà Mắm là người ta lật đật bỏ đi một nước. Con Muối không đi học nữa, hai mẹ con chỉ biết ngồi trong nhà khóc suốt. Mà cái nhà của hai người cũng không giống nhà cho lắm, nó cũng là một nắm những thứ tạp nham che chắn quanh bốn cái cây tràm cong quẹo. Bên trên là một cái mái bằng tole cao bồi. Thứ tole người ta dùng dập lon bia hay là dập thùng đó mà... Con Muối thắp nhang vái cho thằng nhóc lành bịnh mau mau về minh oan cho nó...
Thằng nhóc chưa kịp lành bịnh thì nhà bà Mắm cháy tiêu! Hai mẹ con ngủ nữa đêm nghe nóng lật đật tung vách chạy ra. Căn nhà cháy cái xèo! Cháy nhanh như mớ giấy vàng bạc thôi. Cái xe rác cũng cháy luôn. Lửa chập chờn soi rọi khuôn mặt khủng khiếp của hai mẹ con con Muối. Lửa cũng chiếu sáng hai con mắt đầy thù hận của bà nội thằng nhóc. Người ta tản ra khi thấy hai mẹ con con Muối chạy ra. Không ai chạy đi lấy nước hay kêu xe cứu hoả gì cả. Những khuôn mặt người trông vô hồn như mặt những con ma trong phiên chợ ma bên miếu bà. Hai mẹ con đứng sát nhau, họ nhìn cái nhà xẹp xuống, xẹp xuống thành một đống tro than. Lửa cháy leo lét mà leo lét cháy hoài tới sáng. Khi khói thôi không bay lên nữa thì hai mẹ con bà Mắm bỏ xóm đi luôn. Họ đi đâu? Hai cái bóng leo lét nhập nhoạng trong nắng mai...
Đêm đó trong bịnh viện thằng nhóc leo rào trốn ra ngoài. Nó vướng chân té đập cái đầu xuống đất. Bịnh viện tâm thần chở nó xuống bịnh viện thường cấp cứu. Nó mê man một tuần rồi tỉnh dậy. Hết tửng! Qua nhiều thứ xét nghiệm, các bác sĩ cho nó về nhà.
Thằng nhóc về xóm đình, tỉnh táo hẳn. Học giỏi gấp mười ngày xưa, y như cái tên Kinh Luân của nó. Chỉ có điều nó không biết bà Mắm là bà nào và con Muối là ai? Nó quên sạch trơn chuyện chợ ma miếu bà. Rồi năm sau nó được giải thưởng và học bổng đi du học. Nó khăn gói sang cái xứ có những con chuột túi nhảy tưng tưng để học... Chuyện mơ mộng đầu đời quên sạch trơn!
Nói vậy chứ ai cho mà quên! Có những thứ đất trời như định sẵn. Thằng nhóc đi rồi thì trong nước biến động lớn. Nó ở luôn bên cái xứ đó, học ra trường, đi làm, lấy vợ. Gần hai chục năm sau, nó dắt vợ và con về nước. Bà nội nó mất lâu rồi, chỉ còn má nó hai con mắt kèm nhèm nhìn con nhìn cháu nhìn dâu không rõ. Cả nhà đoàn tụ vui vẻ, chuyện nói hoài không hết. Nói suốt cả đêm, cái thứ đêm sáng trưng đèn điện. Bà cụ hơi mệt, nằm ngả lưng trên chiếc võng nhìn con nhìn cháu nhìn dâu trong hạnh phúc. Bà thấy con dâu bà mặt mày sáng trưng, càng lúc càng sáng, sáng tới chói chang. Bà nhắm mắt lại. Ơ! lạ kìa, sao vẫn thấy rõ mọi thứ vậy nè. Con dâu bà vẫn cười hồn nhiên trước mặt. Nó sáng lung linh, bà chợt thấy nó quen quá. Trời ơi, nó là con Muối đó mà. Con muối con bà Mắm quét rác. Nó bay lên cao kìa, trong tay nó có cây chổi, nó quơ một nhát. Xoay tròn, ánh sáng thoát ra từ cây chổi đẩy mọi thứ tối tăm dơ bẩn tan biến vào hư vô. Những con người chập chờn, khuôn mặt lạnh tanh như mặt ma bị ánh sáng đẩy dạt ra xa, xa tít và tan biến... Bà cụ hét lên!
Bên miếu Bà có bà cụ ngày nào cũng qua cúng, làm công quả. Bà già nhà giàu mà siêng năng ác, lụm cụm làm hoài. Bà chùi cái bàn thờ sạch bóng như gương, không thấy một hạt bụi. Nghe nói cái chợ ma lâu lâu cũng còn họp một lần. Trong xóm đình có tụi con nít rình xem chợ ma hoài, mà nói ra cũng tức, thức suốt thì không thấy, hể ngủ quên chút xíu thì chợ ma vừa tan... Chỉ kịp thấy những bóng ma tan thành hư ảo, còn lại chăng là cái thứ mùi tanh tưởi như cua chết, cá ươn của những thứ hàng ma bán ma mua. Muốn kể lại cho bà con nghe tường tận, nhưng thảy chỉ như tờ giấy trắng. Đem đốt lên thành cái tàn tro đen thui. Ừ, giấy dù trắng mấy mà đốt cũng cháy đen thui hết trơn, hì hì.
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:54:40 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:24:42
CON QUỶ MỘT GIÒ
 
Tiếng gió hú nghe thật thê lương trong màn đêm thâm u tĩnh mịch. Tân khẽ rùng mình, kéo lại cổ áo rồi rảo bước thật nhanh để vượt qua đoạn đường vắng đi xuyên qua bãi tha ma rộng lớn mang đầy âm khí này.
Trong xóm đã bắt đầu râm ran có tiếng chó sủa. Ban đầu chỉ là những tiếng sủa rời rạc, chừng như mới chỉ là những lời báo hiệu cho bạn bè chúng biết rằng có một người lạ đang đi về xóm. Và chỉ một loáng sau đó, những tiếng sủa lại rộ lên, đủ mọi thanh âm phá vỡ sự im lặng của một thôn xóm bình yên trong đêm tối.
Aùnh trăng đầu tháng lờ mờ treo lơ lửng trên bầu trời tỏa xuống trần gian một thứ ánh sáng lạnh lẽo, huyền hoặc làm cho cảnh vật xung quanh thêm phần kỳ bí.
Tân vốn là một thanh niên cường tráng, chưa từng biết run sợ trước điều gì, nhưng bỗng dưng tối nay lại cảm thấy trong lòng như có điều bất an đang len nhẹ…
Lâu lắm rồi Tân mới lại tìm về cái xóm nhỏ đìu hiu quạnh vắng này. Ở đây, Tân có một người chú họ, tuổi đã ngoài năm mươi mà chẳng vợ con gì, sống một mình cu ki suốt quãng đời dài dằng dặc.
Hơn mười năm trước thì Tân ở với chú, hai chú cháu thân thiết, thương yêu nhau vừa như cha con, vừa như bè bạn.
Nhưng rồi Tân phải trở về quê để làm tròn bổn phận của đứa con trai độc nhất đối với cha mẹ. Tân cưới vợ, rồi lo làm ăn sinh sống, và những tất bật cơm áo gạo tiền cứ cuốn phăng Tân đi, làm Tân cũng ít khi nào nhớ tới chú, nghĩ về chú.
Mấy năm vừa qua, Tân liên tiếp gặp những chuyện đau buồn. Cha mẹ qua đời chỉ cách nhau một năm. Hai cái tang chồng chất vẫn chưa mãn thì vợ Tân cũng bỏ Tân mà đi trong một ca sinh khó, cả đứa bé mà vợ chồng Tân thiết tha mong đợi cũng chưa được cất tiếng khóc chào đời…
Tân đau đớn, bơ vơ… bỏ bê công việc, vùi mình vào những cuộc nhậu thâu đêm suốt sáng để cố quên đi những nỗi buồn đau mà ông trời đã giáng xuống cuộc đời Tân không một chút xót thương nương nhẹ…
Nhưng có quên được đâu, dẫu cả ngày say sưa lướt khứơt? Nhìn quanh mình, chỗ nào cũng đầy ắp hình bóng của những người ruột thịt, thân yêu…
Tân không chịu đựng nỗi nữa, Tân muốn làm một điều gì đó để phá hủy tất cả, nhưng cuối cùng Tân chẳng biết phải làm gì ngoài việc gom góp chút hành lý đơn sơ, khóa cửa nhà và tìm về với ông chú họ…
Vì lỡ mất một chuyến xe, Tân phải lội bộ gần mười cây số nên khi về tới xóm này thì màn đêm đã buông xuống từ lâu, nhà nhà đã tắt hết đèn, chìm trong giấc ngủ.
Mặc những con chó hung tợn cứ như chực chờ nhảy bổ vào mình, Tân vẫn điềm nhiên cất bước.
Những hàng cây bên đường đứng lù lù, trông giống như những người khổng lồ đang gườm gườm với kẻ lạ mặt không mời mà đến trong đêm.
Cuối cùng, Tân dừng bước trước một căn nhà ngói ba gian nằm khuất trong vườn chuối ở cuối xóm.
Căn nhà đã cũ kỹ, già nua theo thời gian, trong một đêm như thế này trông nó càng có cái vẻ tội nghiệp vì nó giống như một ngôi nhà mồ hơn là nhà của người sống.
- Chú ơi! Chú…
Tân cất tiếng gọi to.
Trong nhà vẫn không có tiếng ai đáp lại, cũng không có một con chó nào nhảy xổ ra như tưởng tượng của Tân.
Tân run run… Chẳng lẽ… chẳng lẽ cả đến chú cũng không còn?
- Chú ơi… chú có nhà không?
Bây giờ thì những con chó của các nhà bên cạnh lại xộc ra sủa ỏm tỏi, như muốn ăn tươi nuốt sống Tân, như muốn đánh thức cả xóm cả làng thức dậy.
Tân lùi lại một bước, đứng thủ thế trước những cái miệng ngoác ra lộ hàm răng trắng nhỡn của mấy con chó nhà bên.
Có tiếng lục đục mở cửa, rồi tiếng một người đàn ông cất lên ồm ồm:
- Ai đó? Ai kêu réo gì lúc đêm hôm khuya khoắc thế này đây?
Cánh cửa xịch mở, và với ánh đèn dầu leo lét đủ để Tân nhìn thấy gương mặt già nua nhăn nhúm đến tội nghiệp của người chú họ.
Tân run giọng vì những xúc cảm đột ngột trào dâng:
- Chú… chú ơi! Con là thằng Tân nè! Thằng Tân về thăm chú nè chú!
Ông già giơ cao ngọn đèn lên, đôi chân bước dần ra cổng. Tân sải bước tiến gần lại chú để ông nhìn cho rõ mặt mình.
- Mầy… mầy đúng là thằng Tân?
Ông già giương đôi mắt đục lờ lờ nhìn thẳng vào mặt Tân mà dường như không thể nào thấy rõ, ông hỏi lại như để khẳng định cái điều mình vừa nghe được là sự thật chứ không phải giấc mơ.
Tân đỡ lấy cây đèn trên tay ông, cánh tay còn lại đưa ngang qua lưng dìu ông trở lại vào nhà.
- Chú ơi! Mấy năm rồi chú sống ra sao? Chú không được khỏe hay sao mà trong chú… không được như trước?
Tân vừa đi vừa hỏi.
Ông già cười móm mém:
- Mồ tổ cha mầy, làm như mầy mới đi có mấy ngày không bằng! Hơn mười năm rồi đó nghe con, hơn mười năm rồi mầy chưa một lần thăm lại lão già này…
Tân chua xót:
- Dạ… cháu biết cháu có lỗi nhiều với chú… nhưng… mà thôi, để từ từ cháu kể chuyện nhà mình cho chú biết. Dù sao hôm nay cháu trở về, thấy chú còn đi đứng được vầy là cháu mãn nguyện lắm rồi chú ạ!
- Tao còn sống đây cũng là để chờ mầy đó con ạ!
Ông già nhìn Tân trìu mến.
Một nỗi hối hận nghẹn ứ trong cổ Tân. Bao nhiêu năm qua, tuy cuộc sống nhiều khó khăn vất vả, nhưng nếu thật sự muốn, Tân vẫn có thể thu xếp để về thăm chú, thậm chí vẫn có thể đón chú về sống với gia đình mình.
Vậy mà Tân đã không làm! Để bây giờ, khi chỉ còn trơ lại một mình, khi đã cảm nhận được nỗi cô đơn tê tái, Tân mới chợt nhớ tới người chú cô độc nơi này… Mình quả là đứa bỏ đi… Tân tự trách mắng mình như thế.
- Mầy cơm nước gì chưa con? Ở dưới bếp còn cơm với mấy con cá kho, xuống hâm lên mà ăn tạm đi…
Ông già vẫn như ngày nào, lúc nào cxung lo cho đứa cháu cưng, dù bây giờ nó đã không còn nhỏ nhoi gì nữa!
Bụng Tân đang đói cồn cào, vả lại về với ông chú này, cũng giống y như về với gia đình ruột thịt của mình, Tân không có một chút e ngại hay khách sáo gì hết.
Anh lặng lẽ cầm đèn xuống bếp, quơ vội mấy cọng là dừa đốt lên hâm lại nồi cá rồi bới một tô cơm, bỏ mấy con cá với mấy trái ớt hiểm đỏ lòm, rồi bưng lên ngồi cạnh bên ông, vừa ăn vừa nói chuyện.
Hai chú cháu tỉ tê tâm sự đến gần nửa đêm thì cả hai đều rõ hết hoàn cảnh của nhau.
Ông già đau lòng khi nhớ tới anh chị mình, buồn vì ngày anh chị mất mình không về được, mà cũng không hay tin để ở đây thắp cho anh chị một nén nhang tưởng niệm.
Ông thương cho thằng cháu mà ông cưng yêu như con đẻ của mình. Cái số nó sao mà khổ, cha mẹ chết, vợ con cũng không còn… Nhìn tướng tá nó đâu có gì ứng vào cung “sát” mà sao giờ chỉ còn bơ vơ nó lại trên đời?
Cũng may, cũng may là mình còn sống đây, để có vài ba câu an ủi nó, chứ nếu về đây mà nó thấy mình cũng không còn, chắc nó đau khổ lắm…
Hai giọt nước mắt trong vắt chảy ra từ đôi khóe sâu hóm của ông già.
Ông lẳng lặng rót trà vào tách rồi chậm rãi uống từng ngụm một.
- Chú ơi… mấy năm qua chú sống thế nào?
Tân hỏi.
- Thì cũng vậy thôi cháu à! Tao vẫn sống nhờ vào mảnh vườn và đám ruộng kế bên. Dẫu già cả rồi, tao không làm vườn, làm ruộng gì nổi nữa nhưng tao cho người ta mướn cũng sống đắp đổi qua ngày.
Ngừng một lát, ông già nói tiếp:
- Cũng may là con về kịp lúc… Tao tính nay mai nhờ người viết thư gởi xuống đó tìm mầy, kêu mầy về ít hôm có việc…
- Có việc gì thế chú?
Tân ngạc nhiên.
- À… cũng không có gì! Chỉ là tao muốn thằng Tân mầy là người thừa kế. Tao viết di chúc để lại toàn bộ gia tài cho mầy… Vì ngoài mầy ra, tao đâu còn ai là thân thuộc nữa…
Tân rớm nước mắt:
- Cháu cảm ơn chú rất nhiều. Nhưng chú vẫn còn mạnh khỏe thế này, nói làm gì đến chuyện đó sớm chú?
Ông già cười, lắc đầu:
- Có gì mà sớm hở con? Đời người sống nay chết mai, ai biết được chữ ngờ… Vả lại già cả như chú bây giờ, có khi tối ngủ một giấc là sáng không còn thức dậy được nữa cũng hổng chừng…
- Chú đừng nói vậy…
Tân can.
Ông già cười cười:
- Thôi, khuya rồi, chú cháu mình vô ngủ đi! Cháu đi đường cả ngày nay cũng mệt lắm rồi! Nghỉ ngơi đi, có chuyện gì ngày mai chú cháu mình tâm sự tiếp.
Ông già mở tủ lấy mùng mền đưa cho Tân. Vẫn cái mền, cái mùng cách đây hơn mười năm mà Tân vẫn ngủ, giờ nó đầy mùi ẩm mốc vì đã lâu ngày không được phơi phong mà cứ ủ kín trong tủ.
Vẫn bộ ván ở góc nhà, nơi đã gắn liền với Tân rất nhiều năm trước. Một cảm giác ngùi ngùi khiến Tân cay cay nơi sống mũi…
Vừa đặt lưng xuống, Tân đã ngủ rất ngon vì cả ngày đã vượt một quãng đường xa ngái. Nhưng, một tiếng hú rùng rợn giữa đêm yên tĩnh làm Tân giạt bắn người và choàng dậy, ngơ ngác nhìn quanh.
Không có gì… không có gì cả! Trong buồng, tiếng ngáy phì phò của ông chú vẫn vang lên đều đều. Và tiếng mọt ăn gỗ kèn kẹt trên mái nhà vọng xuống rõ mồn một trong đêm.
Vậy tiếng hú vừa rồi xuất phát từ đâu? Chẳng lẽ là do mình ngủ mơ thấy thế?
Không đâu, rõ ràng chính tiếng hú đó đánh thức mình dậy chứ không phải mình mơ thấy nó…
Nhưng đó là tiếng gì? Tiếng của ai? Nhưng rõ ràng mình nghe tiếng hú vang lên lanh lảnh, to như thế sao không thấy xóm làng náo động gì cả? Cả đến lũ chó ồn ào lúc tối giờ cũng đã ngủ lặng trang… Sao tiếng hú đó không đánh thức ai, ngoài Tân?
Vậy thì… có lẽ mình mơ thật rồi chăng…?
Tân thầm nghĩ rồi an tâm ngủ tiếp.
Sáng, Tân thức dậy thì đã thấy ông chú lọ mọ chống gậy từ ngoài ngõ đi vào.
Tân vội hỏi:
- Chú đi đâu sớm thế?
Ông già cười móm mém:
- Tao sang bên nhà thằng Sậu dặn nó có cá lóc thì trưa để cho một con, nướng trui cho mầy nhậu…
Tân kêu lên:
- Trời! Chú… chú lo cho con như vậy, chìu con như vậy con sẽ hư mất thôi! Với lại… con đã tự hứa với mình rằng sẽ bỏ rượu rồi chú ạ! Con không uống nữa đâu…
Ông già cười khà khà:
- Vậy được đó con! Nhậu nhẹt làm gì, chẳng ích lợi chi hết, chỉ toàn khổ thân, khổ cả gia đình… Như nhà thằng Năm vậy đó…
- Nhà thằng Năm sao vậy chú?
Tân tò mò hỏi.
Thằng Năm lớn hơn Tân chừng ba, bốn tuổi gì đó, thế nhưng hồi nhỏ nó lại là đứa thường xuyên bị Tân ăn hiếp. Mà cái thằng thật hiền, tướng tá to đùng như thế mà chẳng khi nào dám chống đối lại Tân, trong khi Tân chỉ là một thằng ốm tong teo, chỉ cần một cú đạp của nó cũng làm Tân xẹp ruột. Thế nhưng nó chưa bao giờ đánh Tân, bị Tân ăn hiếp chỉ biết xụ mặt xuống rồi bỏ về nhà hoặc bỏ đi ra chỗ khác mặc bao nhiều lời cười nhạo xung quanh.
- Nó giờ vợ con gì chưa chú?
Ông già chép miệng:
- Rồi! Nó có vợ rồi, có một đứa con nhỏ đâu chừng năm sáu tuổi… Nhưng thật tội nghiệp… nó chết rồi!
- Chú nói ai chết? Thằng Năm hay đứa bé?
Tân ngạc nhiên.
- Thằng Năm! Nó chết rồi!
Tiếng ông già buồn bã.
Tân kinh ngạc hỏi dồn:
- Thằng Năm chết? Chết lâu chưa chú?  Nó đau bệnh hay tai nạn gì vậy chú?
Ông già dựng cây gậy rồi ngồi bệt xuống thềm nhà, Tân cũng đến ngồi sát một bên.
- Cũng không ai rõ nguyên nhân nào nó chết, chỉ biết tối hôm trước nó có nhậu nhẹt với bạn bè đến say quắt cần câu. Đến sáng vợ nó không thấy đâu, chạy tìm quáng quàng lên, không ngờ nó bị chết trôi sông, mà lạ một điều, cái xác của nó lại bị cụt một giò mới ác chứ!
- Cụt một giò? Sao vậy chú? Ai hại nó rồi quăng xác xuống sông à?
Tân tròn mắt.
Ông già lắc nhẹ mái đầu đã bạc trắng:
- Không biết! Không ai biết! Dạo đó cảnh sát điều tra ghê lắm, nhưng cuối cùng vụ án cũng phải khép lại vì không tìm được gì mới mẻ.
Thằng Năm tuy nhậu nhẹt nhưng là đứa hiền lành, biết nhường nhịn dẫu ai có nói trên đầu trên cổ nó cũng cứ nhăn răng ra cười, nên nó không có kẻ thù. Nó cũng không giàu có gì mà nghĩ tới khả năng cướp của… Cái chết của thằng Năm đúng là chết oan uổng, chết trong tức tưởi. Tức tưởi cho người chết và cả người sống nữa!
- Rồi vợ con nó bây giờ sống ra sao hở chú?
Tân thở một hơi thật dài, ái ngại giúp cho hoàn cảnh của bạn mình.
Ông già vuốt chòm râu cười:
- Cũng không đến nỗi nào! Giờ thì vợ nó đã chồng khác rồi! Mà thằng sau này cũng biết điều, cũng cưng yêu con của thằng Năm lắm! Muốn gì là nó chìu theo ngay. Ai không biết sẽ tưởng đứa bé là con của hắn đó chứ! Vợ chồng nó làm cũng đủ ăn, hơi khá một tí, vì tụi nó kín lắm nên công việc làm ăn thế nào cũng ít ai hay. Tụi nó lại không sống kiểu khoa trương…
- Chồng của vợ thằng Năm là đứa nào vậy chú? Nó cũng người làng mình à?
Ông già lắc đầu:
- Không! Nó là dân ở xứ khác tới… không ai biết gì về thằng đó cả!
- Nó quen với ai mà tới xóm mình?
Tân hỏi.
- Nó quen với thằng Năm. Trong một lần theo ghe buôn bán đi dọc các tỉnh miền Tây, thằng Năm quen với nó, rủ rê nó về nhà chơi mấy lần. Anh em cũng thân thiết lắm. Ngày thằng Năm mất, cũng một tay nó đứng ra lo liệu, gánh vác cho vợ thằng Năm. Chắc có lẽ vì cảm cái ơn đó nên vợ thằng Năm mới gá nghĩa vợ chồng với nó…
Ông già khề khà kể chuyện.
Tân bỗng hỏi:
- Hồi tối, chú có nghe tiếng gì lạ không?
Ông già đưa đôi mắt đục lờ nhìn Tân:
- Không! Tao đâu có nghe gì? Có gì vậy con?
Tân đắn đo một chút rồi nói:
- Con đang ngủ thì giật mình thức dậy vì nghe có tiếng hú ghê rợn lắm. Nhưng lúc thức rồi con lại chẳng nghe thấy gì nữa. Cho nên con cứ hoang mang, không biết là mơ hay thực nữa? Nếu là mơ thì giấc mơ này lại quá, tự nhiên chỉ có một tiếng hú dài, còn nếu thực thì…
Tân bỏ lửng câu nói. Ông già không tỏ thái độ gì đặc biệt mà chỉ khẽ khàng dặn Tân:
- Ở làng xóm mình bây giờ có nhiều chuyện xảy ra lắm, chú quên nói cho con biết để con đề phòng. Con có đi đâu thì đừng đi khuya, một mình trong đêm tối không tốt.Với lại… với lại…
Thấy ông già ngập ngừng Tân càng sốt ruột hỏi tới:
- Có chuyện gì ở làng mình hay sao vậy chú? Chú nói cho con biết đi, đừng giấu con làm gì!
Ông già chắc lưỡi:
- Chú không muốn cháu biết, nhưng giấu thì không được, lỡ vì không biết mà cháu gây ra điều gì đó thì càng nguy hiểm nhiều hơn… Thôi thì chú nói cho mầy biết luôn đây. Từ ngày thằng Năm chết, mà không, đúng ra là trước ngày nó chết, ở làng đã xảy ra một số chuyện ly kỳ, mờ ám mà người ta không sao giải thích được…
- Là những chuyện gì thế chú?
Tân nôn nóng.
Ông già vân vê cọng cỏ trong tay, chậm rãi nói:
- Chẳng hạn, thỉnh thoảng trong đêm có người nghe tiếng hú, chắc là giống như tiếng hú cháu nghe được tối qua. Nhưng không phải ai cũng có thể nghe, đôi khi hai người cùng ngồi kế bên, một người nghe rõ, một người lại không nghe… Cũng không ai hiểu vì sao nữa…
- Chỉ có tiếng hú vậy thôi sao chú? Có hiện tượng gì lạ nữa không?
Tân tò mò.
Ông già trầm ngâm:
- Có, có chứ! Thỉnh thoảng có người đi đâu về khuya, bắt gặp một bóng ma ở trên đường, về nhà run rẩy kể lại, ban đầu không ai tin đâu, nhưng chỉ hai hôm sau là người đó chết. Mà sự việc cứ lặp đi lặp lại mấy lần rồi…
- Lặp đi lặp lại mấy lần? Tức là chú muốn nói đã có mấy người chết kỳ lạ như vậy rồi sao?
Tân hỏi.
- Ừ, tính đến nay cũng đã bốn người chết rồi, mà người nào cũng không ốm đau bệnh hoạn gì hết, chỉ là tình cờ gặp bóng ma, rồi chết, thế thôi!
Ông già hạ thấp giọng như sợ ai nghe thấy, dặn Tân:
- Bởi vậy, chú dặn cháu phải nhớ nghe không, có đi đâu thì đi vào ban ngày ban mặt, buổi tối tuyệt đối không được ra đường. Cứ ở yên trong nhà đóng kín cửa nẻo lại cho an tâm.
Tân dường như không nghe được lời chú dặn, vì còn mãi suy nghĩ:
- Chú nói cả bốn người đều không bệnh hoạn, vậy nguyên nhân nào họ chết?
- Họ gặp ma, về sợ hãi, cứ rúc trong góc nhà rồi lăn đùng ra tắt thở! Đơn giản vậy, mà không ai tìm ra nguyên nhân, cả nhà chức trách…
Ông già thở dài ngao ngán:
- Gần đây, người ta đồn ầm lên, rằng trong xóm lại xuất hiện một con quỷ một giò rất hung ác… Mà họ nói vậy là ám chỉ thằng Năm rồi chứ còn ai vô đây! Thiệt tội nghịêp cho nó, hồi còn sống hiền lành như cục bột, giờ chết rồi tự nhiên bị đồn là biến thành quỷ về phá xóm phá làng… Thiệt tình, tao sống đến từng tuổi này rồi, chuyện gì cũng biết qua, nhưng không tin được thằng Năm lại thành quỷ…
Tân lắc đầu:
- Nghĩ cũng lạ! Xóm mình tưởng bình yên, hóa ra lại nhiều chuyện khó hiểu đến vậy… Mai mốt con về dưới, bỏ chú lại một mình thật không yên tâm được!
Ông già giật mình:
- Bộ mầy tính đi nữa sao? Mầy còn có ai ở dưới đó đâu mà đòi về? Ở lại với chú đi con, chú cháu hôm sớm có nhau không hơn sao? Mầy về đó cũng thui thủi một mình, tao ở đây cũng chẳng còn ai…
Nghe giọng nói run run của ông chú già nua Tân cũng động lòng. Chưa kịp nói gì thì ông già đã tiếp tục:
- Chú đã tính đâu vô đó hết rồi! Chú còn mảnh vườn mảnh ruộng này để lại cho cháu, cháu cứ ở lại đây mà sinh cơ lập nghiệp, rồi coi đứa nào được được thì gá nghĩa vợ chồng mà sống với nhau. Đi về dưới đó làm gì, nơi đó cũng đâu phải quê hương gốc gác gì của cháu đâu? Chú nay cũng gần đất xa trời rồi, tao muốn có người hủ hỉ, với lại tao cũng sợ lúc nhắm mắt không có một ai bên cạnh…
Tân xót xa:
- Chú nói gì nghe buồn quá… Thôi, vậy thì cháu sẽ ở lại…
Thế là Tân chính thức ở lại nhà ông chú. Nhưng hiện tại ruộng vườn còn đang cho người ta mướn chưa hết thời gian, nên tạm thời Tân chỉ lo quét dọn và nấu bữa cơm, còn lại là lông bông chơi cả ngày.
Bạn bè hồi nhỏ của Tân giờ đứa nào cũng có gia đình, gặp lại Tân chúng mừng lắm, cứ kéo Tân vào bàn nhậu. Nhưng Tân đã quyết đoạn tuyệt với rượu rồi nên chỉ ngồi nói chuyện suông với bạn.
Sau mấy ngày rong chơi khắp xóm, Tân biết thêm một vài chi tiết mà ông chú quên chưa kể. Đó là từ ngày thằng Năm chết tới nay, tất cả trẻ con trong làng được sinh ra đều không tồn tại được!
Đó là một nỗi đau rất lớn mà người dân ở đây phải gánh chịu. Bởi thế có những cặp vợ chồng trẻ đã bỏ làng ra đi, không quay trở lại.
Những câu hỏi không lời giải đáp cứ mỗi ngày một chất chồng thêm trong đầu Tân. Tân vô cùng thắc mắc, về cái chết của thằng Năm, về tiếng hú giữa đêm khuya, về những bóng ma lảng vảng, về những cái chết kỳ bí của người không may gặp ma, rồi cả sự hủy diệt trẻ sơ sinh nữa… Tại sao trong ngôi làng nhỏ bé này lại xảy ra nhiều việc động trời đến vậy?
Bóng ma kia là ai? Có thật là bóng ma của thằng Năm không? Nó có gì oan ức mà về quậy phá như thế?
Thắc mắc chỉ để thắc mắc thế mà thôi, Tân hoàn toàn không tìm được lời giải ở bất cứ nơi nào trong xóm.
Cũng đã lâu lắm, Tân không nghe lại tiếng hú, trong xóm cũng không ai chết nữa, tưởng mọi việc bình yên, ai ngờ nó lại xảy ra cho chính người chú thân yêu của Tân, khiến Tân vô cùng đau đớn.
Tối hôm ấy ông già bị chột bụng, Tân bảo ông đi vào bô rồi Tân sẽ dọn nhưng ông nhất định không chịu. Ông bảo:
- Chỉ sơ sơ thôi, tao còn mạnhk hỏe thế này mà, mầy đừng có lo!
Thế là ông mở cửa chống gậy ra sân đi ngoài ở mảnh đất trống sau vườn.
Tân không yên tâm, nên mỗi lần ông già đi, Tân lại đứng tựa cửa nhìn theo. Ông đi hai lần như thế, cũng không có dấu hịêu gì mệt mỏi lắm, nên đến lần thứ ba Tân vì buồn ngủ nên chỉ nằm võng nghe ngóng thôi mà không đứng trông theo ông nữa.
Đang mơ mơ màng màng, Tân nghe tiếng hú lạnh lẽo vang lên, cùng lúc đó là tiếng kêu thét không ra hơi của ông chú.
Hoảng hốt, Tân ngồi bật dậy và lao nhanh ra sau vườn.
- Có chuyện gì thế chú?
Tân lo lắng hỏi
Ông già run lập cập, kéo tay Tân vào nhà, vừa đi vừa nói:
- Thôi, thôi, vô nhà, vô nhà đi cháu! Vô mà chuẩn bị hậu sự cho chú…
- Chú… sao chú lại nói gở thế? Mới đi ngoài có mấy lần mà chú đã bi quan đến thế rồi sao?
Tân vô cùng lo sợ nhưng ráng pha trò cho ông chú nguôi đi.
Ông già lúc này đã lấy lại bình tĩnh, nhưng tay bưng ly trà vẫn còn run rẩy:
- Thôi, thế là phần số chú tới đây là hết rồi! Nó đã về báo tin cho chú rồi con ơi…
- Ai? Ai báo tin gì vậy chú?
Mặc dù đã lờ mờ đoán ra rồi nhưng Tân vẫn làm bộ hỏi.
Ông già hớp một ngụm trà, nuốt ực một cái rồi bảo:
- Lúc nãy cháu có nghe tiếng hú không? Chú đã nhìn thấy bóng ma rồi… Thấy rất rõ… đúng là bóng ma đó chỉ có một giò… Mà cháu còn nhớ không, chú đã nói với cháu rồi, ai nhìn thấy bóng ma đó đều phải chết… Tối nay chú đã thấy nó, chú sẽ không qua khỏi đâu… cũng may, cũng may là toàn bộ giấy tờ chuyển tên cho cháu chú đã làm xong hết rồi, chứ nếu không thì cháu lại gặp rắc rối…
Tân rớm rớm nước mắt nắm chặt tay ông chú:
- Chú đừng nói thế! Chú gan dạ mà, chú đâu có sợ bóng ma! Mấy người kia chết là do quá sợ hãi, chú không sợ nên chú sẽ không sao mà…
Tân cố tìm lời lẽ để động viên.
Ông già cười móm mém:
- Không sao! Tuổi chú cao rồi, có phải ra đi cũng không có gì mà hối tiếc… Chú chỉ sợ… bóng ma đó cứ hoành hành mãi thế này thì người dân làng ta làm sao mà sống được?
Một sự ấm ức đột ngột dâng lên trong lòng Tân.
Tân cương quyết nói:
- Cháu sẽ cố gắng tìm ra sự thật của chuyện này!
Vừa nghe Tân nói thế, ông già giật bắn người lên:
- Không! Không! Dứt khoát cháu không được dính dáng gì đến những chuyện này… Cháu là đứa cháu duy nhất còn lại của dòng họ, cháu không được… không được…
Vừa nói tới đó, bất giác ông già nấc lên mấy cái liên tiếp rồi máu từ trong miệng ông trào ra ào ạt…
- Chú… Chú ơi! Chú…
Tân nhào người tới xốc lấy ông chú định chạy đi bệnh xá, nhưng khi chân Tân vừa bước ra tới thềm nhà thì thân người ông khẽ giật lên một cái, Tân nghe bên tai mình một luồng hơi hắt ra, cùng lúc đó tay chân ông già đã buông thõng xuống…
Tân cuống cuồng quay trở vào nhà, đặt ông xuống giường rồi cố áp tai vào mũi, vào ngực ông để lắng nghe một chút sự sống nào đó còn sót lại trong cái cơ thể gầy gò, nhăn nhúm của ông già. Nhưng dù có cố gắng đến mấy, Tân cũng không sao nhận được một hơi thở nhẹ nào. Tân biết, ông chú đã qua đời!
Tân sụp xuống khóc không ra tiếng. Vậy là bây giờ đây chỉ còn lại mình Tân trơ trọi giữa cuộc đời…
Mình chính là ngôi sao xấu, đi đến đâu là sát hại người thân đến đó hay sao? Không! Chú mình chết là do hồn ma khốn kiếp kia, là do cái con quỷ một giò đáng nguyền rủa kia chứ hoàn toàn không phải tại mình… Mình sẽ làm cho ra lẽ! Chú ơi… cháu sẽ tìm ra sự thật…
Sau đám tang của ông chú, Tân ngơ ngẩn suốt mấy ngày, nhưng chính trong những ngày ngơ ngẩn ấy, một quyết định sắt đá đã hình thành trong con người Tân. Bằng mọi cách phải khám phá cho ra chuyện ma quỷ chết tiệt ở làng này! Nếu có chết thì cũng không sao, bởi lẽ hiện nay Tân cũng chẳng cảm thấy một điều gì vui vẻ trong cuộc sống.
- Chú ơi, chú sống không thác thiêng, xin chú phù hộ cho con, con sẽ cố gắng làm tất cả để trả lại cho xóm làng mình tiếng khóc trẻ thơ, để đêm đêm gái trai làng còn có thể hẹn hò nhau những đêm trăng sáng, để những cái chết rùng rợn không còn treo lo lửng trên đầu của mỗi ngwofi dân… Chú ơi, xin chú phù hộ độ trì cho cháu…
Tân quỳ mọp trước mộ chú lầm rầm khấn vái trong ngày mở cửa mả.
Tối hôm đó, Tân nằm trên giường đến khoảng hơn mười giờ đêm thì lẳng lặng đi vơ vẩn ra vườn.
Đêm đầu tháng, vầng trăng non không đủ ánh sáng để soi rõ vạn vật trên mặt đất, mà nó chỉ chiếu rọi lờ mờ chút ánh sáng yếu ớt của mình xuống trần gian.
Tân đứng ngây người giữa sân, không biết mình phải bắt đầu từ đâu? Tìm hiểu từ đâu? Ai sẽ là người hướng dẫn Tân đi đúng con đường cần phải đi? Hoàn toàn lạc lõng, hoàn toàn không có phương hướng…
Tân ngao ngán ngồi xuống một đoạn rễ cây gồ cao trên mặt đất. Cứ ngồi bó gối mà suy nghĩ mông lung…
Thật lâu sau Tân vẫn chưa nghĩ ra cách nào để tiếp cận với hồn ma, bất chợt Tân nghe như có tiếng người thì thầm đâu đó rất gần.
Nín thở tập trung lắng nghe, Tân nhận ra giọng nói là của hai người một nữ một nam.
- Quái lạ, làng xóm bất ổn như vậy, thế mà cặp trai gái nào dám cả gan hẹn hò nhau vào nửa đêm khuya khoắt thế này?
Tân thầm nghĩ trong bụng.
Bỗng Tân nghe tiếng người nữ rõ hơn:
- Em van anh, em xin anh… xin anh dừng tay lại đi, đừng nhúng vào tội ác nữa… cuộc sống của vợ chồng mình như thế này đã quá đầy đủ rồi, anh còn muốn gì hơn nữa?... em sợ lắm anh ơi…
- Cô sợ thì cô cút ngay về đi, mặc tôi làm gì thì làm, cô đừng quan tâm tới, cứ coi như không biết gì về những chuyện này…
Tiếng đàn ông cáu gắt.
Người phụ nữ khóc thút thít:
- Em sợ… em sợ quả báo! Em sợ con trai của chúng ta phải nhận lãnh hậu quả… Suốt mấy đêm nay em cứ nằm chiêm bao thấy anh Năm về hoài… Anh cứ về đòi cái giò của ảnh… em sợ lắm anh ơi…
- Cô có câm đi không thì bảo?
Tiếng người đàn ông rít lên:
- Tôi đã nói với cô bao nhiêu lần rồi, bùa ngãi của tôi là độc nhất vô nhị, không có thế lực nào có thể phá vỡ được. Nó có là hồn ma hay ác quỷ gì thì cũng phải khuất phục trước bùa ngãi này của tôi… Ha ha ha… cái giò của nó… cái giò của nó là một trong những vị luyện nên loại bùa thượng đẳng này đó, nó có dám về lấy lại không? Để tôi chỉ chỗ cho mà đến lấy, cô hỏi nó thế nhé?
- Không… anh ơi… em van anh…
Người phụ nữ vẫn không thôi thút thít.
Rồi Tân nghe tiếng hai người giằng co, xô đẩy gì nhau, rồi bất thình lình một tiếng hú vang lên làm cả người Tân dựng hết gai ốc.
Sau một lúc Tân định thần lại và xác định tiếng trao đổi vừa rồi không phải là tiếng của ma quỷ, cũng không phải là của một cặp nhân tình hò hẹn, mà là của một cặp vợ chồng mà người vợ đang cố ngăn cản chồng mình đi vào con đường tội lỗi. Và cái tiếng hú kia ít nhiều chắc chắn có liên quan tới cặp vợ chồng đó!
Nhưng cặp vợ chồng ấy là ai? Họ làm gì ở đây vào lúc nửa đêm? Người đàn ông nói tới một thứ bùa ngãi thượng đẳng nào đó, và cũng có nhắc tới con quỷ một giò, tới cái giò của nó…
- Đúng rồi! Người đàn ông đó chính là kẻ giết chết thằng Năm và cắt giò của nó, nếu đúng con quỷ một giò mà họ đề cập tới là thằng Năm!
Tân reo lên nho nhỏ khi khám phá ra được một mấu chốt trong chuỗi sự việc.
Vui mừng và tự tin, Tân nhẹ nhàng nương theo bóng tối để đi tới hướng mà lúc nãy nghe tiếng vợ chồng cự cãi nhau. Nhưng Tân quanh đi quẩn lại nhiều lần mà vẫn không phát hiện được gì, cũng không nghe thêm bất cứ một âm thanh khác lạ nào khác nữa.
Vẫn không nao núng, Tân cứ lần mò trong bóng tối đi khắp cả khu vườn, đi dài qua vườn nhà hàng xóm, nhưng đặc biệt hôm nay Tân lại không bị một con chó nào cất tiếng sủa.
- Ngay cả chó trong xóm cũng không bình thường!
Tân lẩm bẩm.
Khi ở chân trời phía đông vừa ửng lên những tia hồng thì Tân cũng đã mệt mỏi nên vào nhà lăn ra ngủ.
Đang ngủ say sưa, Tân nghe có tiếng gọi:
- Chú Tân ơi, có nhà không? Làm ơn cho tôi xin một nắm lá sả…
Tiếng ai sao nghe quen quen nhỉ?
Tân vừa dụi mắt đứng lên vừa nghĩ.
Khi cánh cửa vừa mở xịch ra, trước mắt Tân là một người phụ nữ có gương mặt đẹp nhưng rất buồn.
Vừa trông thấy Tân, chị ta cố nở nụ cười:
- Chào chú Tân, tôi đã làm mất giấc ngủ của chú à? Tôi xin lỗi nhé, không biết chú chưa thức dậy…
Tân cười xởi lởi:
- Dạ… không có gì đâu chị! Trời cũng đã trưa trờ trưa trật rồi, tôi còn phải cảm ơn vì chị đánh thức nữa chứ! À, mà chị kiếm tôi có việc gì không?
- Tôi muốn hỏi xin nắm lá sả!
Người phụ nữ nói nhẹ.
Tân cười:
- Tưởng gì! Cả một đám um tùm ngoài ấy, chị cần bao nhiêu thì cứ lấy về dùng…
- Cảm ơn chú nhe! À, mà chắc chú chưa biết tôi, nãy giờ tôi cũng quên giới thiệu, trước đây tôi là vợ của anh Năm, bạn chú. Chú còn nhớ anh Năm không? Thời gian gần đây biết chú về đây sinh sống mà tôi lu bu nhiều việc quá nên chưa sang chào chú được!
Người phụ nữ gật đầu chào Tân toan bước đi, rồi không biết vì sao lại đứng lại nói một hơi như thế.
Tân ngạc nhiên:
- Chị… chị là chị Năm? Thật tôi có lỗi quá…
Người phụ nữ cười héo hắt:
- Anh Năm mất lâu rồi…
Tân gật nhẹ đầu như muốn chia sẻ nỗi đau cùng chị.
Thoáng cái, người phụ nữ ngước lên nhìn Tân:
- Không sao… không sao… Tôi ra vườn cắt lá sả đây… Cảm ơn chú nhé!
Tân không nói gì chỉ đứng lặng nhìn theo dáng người thon thả của người phụ nữ đang thoăn thoắt đi ra vườn.
Người phụ nữ này trước đây Tân chưa hề gặp qua, sao giọng nói lại nghe quen thế nhỉ? Bất chợt Tân rùng mình:
- Tiếng nói đó là của người phụ nữ hồi đêm!
Ý nghĩ này vụt qua đầu làm Tân hồi hộp vô cùng… Trời ơi… chẳng lẽ mọi việc đều bắt đầu từ người đàn bà đẹp này sao? Cầu trời… cầu trời… mọi việc không như mình nghĩ…
Nhưng vì ý nghĩ đó đã đến rồi, Tân nhanh nhẹn xuống bếp rửa mặt rồi đi ra vườn kiếm chuyện thăm hỏi để một lần nữa nghe lại giọng nói của người phụ nữ.
Khi người phụ nữ đó lấy đủ số lá sả mình cần và đã ra về rồi, Tân vẫn còn đứng trầm tư suy nghĩ một mình giữa sân…
Trước đây, có lần ông chú kể cho Tân nghe chồng hiện giờ của vợ thằng Năm là bạn nó, một người bạn quen biết tình cờ trên dọc đường sông nước… Có khi nào? Có khi nào….
Tân không dám nghĩ tiếp nữa, mà vội quay vào nhà lục đục nấu cơm rồi ăn qua loa vài chén.
Suốt ngày vì không có chuyện gì làm, Tân cần mẫn xới đất rồi gieo một vạt cải bên hông nhà, rồi rất siêng năng chăm bón.
Những bụi cải được tưới nước và chăm sóc đàng hoàng nên xanh mướt và cây nào cây nấy rất to. Nghĩ tới nghĩ lui, Tân nhổ mấy bụi cải xách đi qua nhà chị Liễu, vợ thằng Năm.
Nhà Liễu không xa nhà Tân là mấy nhưng từ ngày về đây tới giờ cũng đã gần một tháng mà Tân vẫn chưa lần nào trông thấy vợ chồng con cái Liễu.
Nhà Liễu cất thụt sâu vào trong khoảng vườn um tùm cây trái. Từ ngoài đường, muốn vô nhà Liễu phải đi qua một cái sân thật rộng mà cánh cổng rào hình như lúc nào cũng khóa im ỉm.
Người dân thôn quê vốn không có thói quen làm cổng rào trước nhà, nếu có cũng chỉ là để rào gà vịt, không cho chúng đi lung tung chứ hoàn toàn không phải để ngăn ngừa người lạ hoặc những khách không mời mà tới. Bởi thế, chẳng cổng rào nhà ai có khóa. Ngay cả cửa nhà cũng ít khi khóa.
Thế nhưng nhà Liễu thì ngoài đến trong đều đóng khóa im ỉm, cả thằng bé con nhà Liễu cũng không thấy chơi bời chạy nhảy ngoài sân.
Nhưng Tân đã có chủ ý riêng của mình nên không ngại ngần gì việc kêu cửa nhà Liễu:
- Chị Liễu ơi… có nhà không? Tôi mang qua cho anh chị mấy cây cải vườn nhà đây này…
Không có tiếng trả lời nhưng Tân nhìn thấy cánh cửa nhà sau xịch mở và một gương mặt đàn ông ló ra.
Vừa nhìn thấy Tân, người đàn ông nhoẻn cười rồi nhanh nhẹn bước hẳn ra ngoài mở rộng cánh cổng:
- Mời anh vào chơi… vợ tôi đi vắng rồi… mình là chòm xóm với nhau mà cứ lo cơm áo gạo tiền nên chẳng mấy khi gặp mặt, thiệt mắc cỡ với anh quá…
- Dạ không có gì đâu anh, tôi cũng mới về đây thôi, không gặp nhau cũng bình thường thôi mà… Tôi trồng đám cải, nhổ qua cho anh chị mấy cây ăn lấy thảo…
Vừa nói, Tân vừa đưa bó cải cho người đàn ông rồi dợm bước định quay về, nhưng người đàn ông lại khẩn khoản:
- Chẳng mấy khi anh tới chơi, xin vô nhà uống với tôi ly nước rồi hãy về, anh em xóm giềng mà xa lạ với nhau quá tôi cũng buồn… Nên có dịp thế này càng tốt…
Tân mỉm cười ưng thuận, chân bước theo sau người đàn ông mà mắt không ngừng quan sát xung quanh.
Người đàn ông đã đứng tuổi, hình dáng bên ngoài rất xứng đôi với Liễu, không như thằng Năm trước đây.
Thằng Năm là một đứa cục mịch, tướng tá đô con nhưng không có nét nào hấp dẫn. Ở con người nó toát lên cái vẻ mộc mạc, chất phát của đồng quê chứ không gợi cho người ta một nét đẹp nào của hình thức.
Còn người đàn ông này, từ giọng nói trầm ấm, đến dáng đi, mái tóc đều có một vẻ gì đó rất hấp dẫn, rất lôi cuốn. Tân là đàn ông mà còn cảm nhận được điều đó thì các cô gái khó lòng mà không biết tới.
Trước đây ông chú có kể vợ chồng nhà này sống biệt lập, nhưng hóa ra họ cũng vui vẻ xởi lởi lắm mà!
Vừa vô tới nhà, người đàn ông kéo ghế mời Tân rồi quay ra phía sau gọi nhỏ:
- Con trai, lên chào bác đi con!
Một đứa bé trai đi từ hướng đó ra, ngoan nogãn khoanh tay cúi đầu chào Tân rồi lại trở về với mớ đồ chơi hỗn tạp của nó.
Tân liếc mắt nhìn kỹ thằng bé, trông nó không có nét nào của thằng Năm cả, mà lại… hao hao giống người đàn ông này!
Trái tim Tân nhói đau, Tân thầm than thở:
- Xin đừng cho những gì tôi nghĩ trong đầu là sự thật…
- Uống nước đi anh!
Người đàn ông đẩy tách trà về phía Tân mời.
Tân mỉm cười hỏi:
- Cháu năm nay mấy tuổi rồi anh? Thằng bé ngoan lắm!
Người đàn ông mỉm cười sung sướng:
- Nó lên sáu rồi đó anh à! Vợ chồng tôi chỉ có một mình nó nên cũng ráng dạy dỗ…
Rồi như lỡ lời, người đàn ông hạ thấp giọng nói thêm:
- Tuy nó không phải con ruột của tôi, nhưng tôi luôn yêu quý nó và xem nó như máu mủ của mình…
Tân vờ ngạc nhiên:
- Ủa, sao anh lại nói thế? Cháu đây là…
- Là con của vợ tôi và chồng trước của cô ấy!
Người đàn ông tiếp lời Tân.
Tân gật gù:
- À… thì ra thế! Anh Năm trước đây là bạn thân với tôi hồi tôi còn nhỏ, lâu lắm rồi không gặp lại, không ngờ khi tôi về lại đây thì ảnh đã không còn! Thiệt là tội nghiệp…
Người đàn ông liếc nhanh qua Tân một cái rồi nói:
- Con người ta có số cả thôi anh ạ…
Tân và người đàn ông nói chuyện thêm một lúc nữa rồi Tân đứng lên cáo từ ra về.
Đưa Tân ra tận cổng, người đàn ông còn dặn với theo như một chủ nhà hiếu khách:
- Hôm nào rảnh anh em mình làm một chầu rồi tâm sự tiếp nhé?
Tân cười:
- Dạ… tôi bỏ rượu lâu rồi ạ! Làm một chầu trà thì được!
Người đàn ông bật cười ha hả.
Tân ra về mà lòng nghĩ ngợi lung tung. Tân không xác định được giọng nói của người đàn ông này có phải là giọng nói của người mà Tân đã nghe trong đêm trước hay không, vì hôm đó thật sự Tân nghe tiếng anh ta không rõ lắm, mà anh ta thì cứ rít lên hoặc gằn giọng xuống chứ không nói giọng bình thường…
Nhưng dù sao lần này Tân cũng đã thu thập thêm được một chi tiết nữa, đó là về phần đứa bé. Tân tin vào cặp mắt và linh cảm của mình, rằng đứa bé đó không phải là con trai của thằng Năm mà chính là con của Liễu và người đàn ông ấy!
Vậy có nghĩa là Liễu đã có quan hệ với người này ngay từ lúc thằng Năm còn sống. Có phải vì lẽ đó mà thằng Năm phải chết một cách mờ ám thế không? Điều này tại sao dân làng ở đây lại không nghĩ tới chứ? Họ không nhìn thấy thằng bé giống người đàn ông ấy lắm sao? Thật là lạ quá…
Tân khẳng định một điều, cặp vợ chồng này không bình thường, ở họ có một điều gì đó mà người ngoài chưa khám phá được, và Tân nhất định phải khám phá cho ra.
Tối hôm ấy Tân không ra chỗ góc vườn hôm qua nữa mà ngồi giấu mình trong lùm cây mắt hướng về phía nhà vợ chồng Liễu.
Tân ngồi như thế suốt mấy tiếng đồng hồ, chân cẳng tê cứng nhưng vẫn không nao lòng. Tân đã nhất định rồi, dù có phải chết Tân cũng quyết đưa vụ này ra ánh sáng!
Hơn mười một giờ đêm, Tân đưa tay lên che miệng ngáp. Bất thần nghe một tiếng động rất khẽ phía nhà Liễu rồi Tân nhìn thấy người đàn ông ấy lách mình ra cửa, mặc cho Liễu níu kéo sau lưng.
Ra khỏi nhà, người đàn ông vội trùm lên đầu mình một tấm vải đen rồi lom khom đi vòng ra phía sau. Nhanh như cắt, Tân cũng nhẹ nhàng theo dõi sát phía sau.
Bóng đen lùng nhùng trong tấm vải của người đàn ông lần dò đi về phía mảnh vườn của nhà Tân. Hắn cứ mải miết đi, không hề biết sau lưng hắn có một người đang bám sát.
Lâu nay hắn biết dân làng không ai ra ngoài ban đêm, nên hắn cũng không mấy giữ gìn tung tích.
Đi tới gốc cây đa phía góc vườn, bóng đen ngồi thụp xuống làm gì đó giống như đào bới để lấy một vật gì đó được chôn dưới đất.
Đúng như Tân nghĩ, chỉ một loáng sau, bóng đen đứng lên, trên tay cầm một theo một hũ nhỏ.
Hắn đi như lướt trên ngọn cỏ làm Tân vất vả lắm mới đuổi theo kịp mà không gây ra tiếng động nào khả nghi.
Thì ra hắn đang tiến dần về hướng nghĩa địa làng. Nhưng không hiểu sao tất cả chó trong xóm đều lặng hơi im tiếng, không một con nào sủa mặc dù cái bóng đen của hắn đôi lúc bay bay sát cạnh nhà người ta, và cả Tân nữa, vì phải bám theo hắn nên Tân cũng có khi phải đi băng ngang qua sân nhà người, vậy mà chó vẫn không sủa!
Ra tới nghĩa địa, Tân cúi người vừa nép vừa len theo mấy ngôi mộ để tiến dần theo bóng đen. Hắn cứ đi xăm xăm về phía trước không ngần ngừ, không nhìn ngó gì hai bên đường, hình như việc này đối với hắn đã vô cùng quen thuộc!
Qua gần hết nghĩa địa, bóng đen đột ngột rẽ ngoặt về phía trái, suýt chút nữa đã chạm mặt với Tân nếu như Tân không nhanh chân lủi vào một bụi cây gần đó.
Hắn tới bên một tảng đá, nặng nhọc nhấc tảng đá lên rồi lại ngồi xuống đào bới bằng một đoạn ống sắt mà hắn mang theo từ nhà.
Một chập sau, hắn lôi lên một gói ni lông dài dài mà dưới ánh sáng mờ mờ Tân không nhìn rõ được.
Hắn ngồi xoay lưng về phía Tân và bắt đầu mở gói ni lông ra, Tân tò mò quá, cố nép sát vào mấy ngôi mộ đá để tiến sát lại gần bóng đen.
Tân như muốn ngừng thở khi nhìn thấy cái vật dài dài được bao bọc bằng ni lông ấy chính là một cái chân người! Một cái chân người được cắt rời từ giữa đùi!
Bóng đen đã để cái chân đó ra ngoài và bắt đầu mở cái hũ trên tay, thò tay vào nhón từng chút chất bột gì đó rắc đều lên khúc chân, miệng lầm rầm giống như đang đọc thần chú.
Trong lồng ngực, trái tim Tân đang đập thình thịch, Tân đưa tay mình lên cố đè nó lại vì có cảm giác tiếng đập đó rất lớn, có thể bóng đen kia sẽ nghe thấy!
Bóng đen cứ rắc rắc gì đó lên khúc chân và đọc đi đọc lại những câu gì đó mà Tân không nghe rõ được. Hơn nửa giờ sau, có lẽ thủ tục đã hoàn tất, hắn lại cuộn khúc chân vào bao ni lông rồi chôn trở xuống đất.
Cúi người nhấc tảng đá đặt trở lên trên, hắn mỉm cười khoái trá rồi bất ngờ hú lên một tràng ghê rợn…
Tấm vải đen trên người hắn không ngừng phát ra tiếng loạt soạt theo mỗi bước chân.
Tân loạng choạng chạy theo, cố ghìm mình không nôn thốc nôn tháo và cố giữ cho bước chân mình đặt thật khẽ xuống mặt đất để đừng gây ra tiếng động.
Bóng đen lại trở về gốc đa sau vườn nhà Tân để chôn trở lại  cái hũ mà khi nãy hắn đã đào lên.
Hành tung của hắn quả thật bí hiểm, nhưng hắn không ngờ đã có người khám phá ra được.
Mặc dù Tân chưa hiểu gì lắm, nhưng vì đêm trước đã nghe loáng thoáng cuộc cải vả giữa hai vợ chồng hắn nên Tân cũng lờ mờ đoán ra, hắn đang luyện một thứ bùa phép nào đó lên chính cẳng chân của người đã chết!
 
Chôn xong cái hũ, hắn lại cất lên tiếng hú thật thê lương rồi lướt nhanh về hướng nhà hắn. Hình như đã chờ đợi sẵn, Liễu nhanh nhẹn mở cửa đón hắn vào nhà, cô còn thò đầu ra nhìn dáo dác xung quanh một lượt…
Tân mệt lả người, vừa vào tới nhà là nằm dài ra giường thở dốc. Trời ơi, sự thật… sự thật này còn kinh khiếp hơn cả ma quỷ lộng hành!
Nhưng hắn làm sao, làm sao hắn có thể buộc lũ chó trong làng câm miệng mỗi khi hắn xuất hiện? Làm sao hắn giết được tất cả trẻ sơ sinh? Làm sao hắn giết được những người tình cờ trông thấy hắn, tiêu biểu là cái chết mới đây của ông chú? Tân quay cuồng với những câu hỏi đó…
- Từ từ… đừng nôn nóng… rồi mình sẽ khám phá ra tất cả thôi mà…
Tân động viên mình như thế và cố gắng nhắm mắt lại nhưng vẫn không tài nào ngủ được… Mãi đến khi gần sáng Tân mới chợp mắt được một chút.
Sáng hôm sau, người thuê ruộng vườn của ông chú đến báo với Tân là đã hết hạn, hôm nay họ trả tất cả về cho Tân.
Thế là Tân mượn cớ dọn lại mảnh vườn, nên suốt ngày loay hoay chỗ giáp ranh với nhà Liễu. Tay làm, nhưng mắt và tai Tân lại để cả theo những động tĩnh dù rất nhỏ bên ngôi nhà đó.
Một hôm, Tân thấy người đàn ông đó dắt đứa con trai ra khỏi nhà chắc là  đi đâu đó, một lúc sau lại thấy Liễu bưng thau quần áo ra ngồi sau bờ ao.
Trông Liễu thẫn thờ và buồn bã ghê lắm. Vì không biết có người luôn theo dõi nên Liễu cứ ngồi ngó đăm đăm xuống mặt nước rồi bất chợt ôm mặt khóc ròng.
Trong lòng Liễu đang cất giữ một điều bí mật khổ đau nào đó? Cũng đúng thôi, theo phán đoán của Tân, Liễu và người đàn ông kia đã có quan hệ với nhau từ lúc Năm còn sống, và có thể cái chết của Năm có bàn tay của Liễu nhúng vào.
Suốt nhiều ngày bỏ công tìm hiểu và theo dõi, Tân được biết người đàn ông chồng Liễu tên là Hùng, hiện đang làm ăn buôn bán gì đó ở trên thị xã, ngày nào cũng sáng đi tối về, Liễu ở nhà chăm sóc con trai.
Một hôm, canh chừng lúc Hùng đã đi được một lúc, Tân đi ra gốc đa sau vườn, quan sát thật kỹ mặt đất xung quanh rồi ngồi xổm xuống đào ngay chỗ đã thấy Hùng đào trong đêm trước.
Không phải mất nhiều thời gian và công sức, Tân đã chạm tay vào cái hũ sành và nhấc nó lên khỏi mặt đất.
Rất cẩn thận, Tân từ từ mở nắp hũ ra, một mùi hăng nồng xộc ra làm Tân phải vội vàng ngoảnh mặt đi nơi khác.
Một tay bịt mũi, Tân nhìn vào hũ thì thấy trong đó chứa một chất bột mịn có màu xam xám, nhưng đó là chất gì thì Tân chịu, không biết và không thể đoán được.
Tần ngần hồi lâu, Tân đặt cái hũ về chỗ cũ và lấp đất lại giống y như khi chưa đào lên.
Tân lưỡng lự, không biết mình có nên đi ra nghĩa địa và đào khúc chân kia lên hay không? Một cảm giác rờn rợn xâm chiếm lấy Tân. Tân nghĩ, mình đào lên thì làm được gì? Không chừng còn bị quy vào tội giết người hay tội gì khác nữa thì khốn, chi bằng mình cứ theo dõi rồi báo chính quyền đi bắt quả tang hành vi mờ ám của Hùng, như vậy chẳng tốt hơn sao?
Nhưng rồi nghĩ tới nghĩ lui, Tân thấy vậy cũng không ổn. Phải có ai đó nắm được đầu đuôi câu chuyện đứng ra tố cáo thì dễ dàng hơn, chứ mình là người xa lạ, tự nhiên tới nói mấy chuyện có vẻ huyễn hoặc đó biết ai người ta tin?
Bất chợt Tân nghĩ tới Liễu. Mấy lúc gần đây Tân để ý thấy Liễu cứ khóc một mình hoài, có lẽ sự hối hận ăn năn đang giày vò cô ấy. Hay là… hay là mình động viên Liễu đi tố cáo Hùng? Trời! Mình điên hay sao ấy nhỉ? Người ta đang là vợ chồng với nhau mà mình lại đi xúi vợ kiện chồng… Mình điên mất rồi…
Liên tiếp những ngày sau đó cuộc sống của vợ chồng Liễu diễn ra vẫn bình thường, và đêm đêm dù Tân có cố gắng đến mấy vẫn không thấy Hùng lặp lại trò dị thường như hôm trước nữa.
Chán nản, Tân không biết phải làm gì khi trong tay chỉ có một vài bằng chứng mỏng manh, không đủ để nói lên một sự việc gì hết.
Có đôi lúc Tân muốn dẹp bỏ tất cả, quên đi tất cả, mặc kệ mọi việc ra sao thì ra, nhưng khi nhìn lên bàn thờ ông chú và nhớ tới những cái chết mà mình đã nghe kể Tân lại không dẹp bỏ được. Không bỏ được mà cứ quẩn quanh một chỗ, lúng túng như con gà mắc lưới mới thật là đau cho Tân!
Giữa lúc mọi việc gần như bế tắt thì một việc may mắn bất ngờ xảy đến.
Trưa hôm đó Tân đang ngồi tra lại lưỡi cuốc ở sau vườn thì bất ngờ nghe tiếng khóc thút thít của Liễu bên kia rào vọng sang. Không cưỡng được sự tò mò, Tân rón rén đi dần lại đó thì thấy Liễu đang ngồi úp mặt lên gối khóc ròng, đôi bờ vai tròn lẳn cứ không ngừng run lên theo từng cơn thổn thức.
Biết chắc Hùng không có nhà, Tân mạnh dạn đến cạnh Liễu – dĩ nhiên là cách một bờ rào dâm bụt – lên tiếng hỏi:
- Có chuyện gì mà chị khóc thế, chị Liễu?
Liễu giật thót mình ngước lên, trông thấy Tân, Liễu có vẻ ngại ngùng, luống cuống:
- Không… không! Không có gì…
Nhìn đôi mắt đỏ hoe và sưng húp của Liễu, Tân biết Liễu không những khóc mà đã khóc rất nhiều.
Tân nhẹ nhàng ngồi xuống, rút một điếu thuốc ra châm lửa hút, vừa nhìn theo những vòng khói bay lảng vảng xung quanh Tân vừa nói:
- Chị đừng giấu tôi! Tôi biết nhiều điều về cái chết của anh Năm… Có một lần anh Năm đã về báo mộng cho tôi biết…
Tân cũng chẳng biết do đâu bỗng dưng mình lại nói dối một cách trơn tru đến như thế.
Vừa nghe nhắc tới chuyện Năm về báo mộng là Liễu lại giật bắn người, ấp úng:
- Anh… anh Năm thật sự về báo mộng cho anh hay sao? Anh ấy đã nói gì?
Đã lỡ phóng lao thì phải theo lao, Tân quyết định dùng cách này để khai thác Liễu, và biết đâu nhân cơ hội này Tân sẽ giục Liễu nói ra toàn bộ sự thật thì sao?
- Anh âùy đã cho tôi biết nguyên nhân nào anh ấy chết, và cả… cả chuyện anh Hùng chồng chị hiện nay đang luyện một thứ bùa ngãi gì đó làm nguy hại tới cuộc sống của những người trong làng… Nói chung là anh Năm đã cho tôi biết hết rồi…
Liễu sợ hãi:
- Có thật không anh? Tôi… tôi cũng sợ lắm! Thời gian gần đây tôi cũng nằm mơ thấy anh Năm luôn…
Tân cất giọng đều đều:
- Tôi và anh Năm đều biết chị không cố ý, nhưng dù sao chị cũng gián tiếp gây ra cái chết cho ảnh và nhiều người khác nữa… Tôi cũng biết lúc này trong lòng chị giày vò khổ sở lắm… Vậy tại sao chị không ngăn chặn những hành vi tội ác của anh Hùng?
Liễu bật khóc nức nở, hai tay ôm đầu một cách khổ sở:
- Trời ơi… tôi là người đáng chết mà sao tôi vẫn cứ sống, sống để ngày qua ngày bị lương tâm cắn rứt, để hoảng hốt sợ một điều gì đấy sẽ đến với mình… Tôi đã nhiều lần ngăn cản… nhưng không được…
- Chị có thể kể tất cả với tôi không? Có thể sau khi nghe đầu đuôi câu chuyện tôi sẽ có cách giúp được chị…
Tân mạnh dạn đề nghị.
Liễu chùi nước mắt, giọng nghẹn ngào:
- Đáng lẽ những việc này tôi sẽ không bao giờ nói ra, nhưng dù sao anh cũng đã biết rồi, thì tôi kể lại luôn cho lòng nhẹ đi đôi chút. Anh nghe xong rồi có muốn định tội tôi thế nào cũng được… Thú thật là mấy lúc gần đây tôi rất muốn giãy bày với ai đó, thậm chí muốn kể hết với nhà chức trách rồi sau đó mọi việc ra sao thì ra, tôi không còn đủ sức để chịu đựng nữa rồi…
Liễu lại nấc lên.
Tân an ủi:
- Biết ân hận cũng là một điều tốt đấy chị ạ! Tôi tin anh Năm sẽ nghe được những lời chân thành từ chị…
Liễu cố gắng ghìm cơn thổn thức đang trào lên từng chập và bắt đầu kể:
- Tôi với anh Năm thành chồng vợ là do mai mối chứ thật sự cả hai không thương yêu gì nhau. Anh Năm tuy rất hiề lành nhưng tính tình cục mịch, không biết nói với tôi những lời ve vuốt, cũng không biết có những cử chỉ trìu mến dành cho tôi. Là đứa con gái tuổi mộng mơ, tôi thật sự thất vọng khi về làm vợ anh ấy, mặc dù tôi biết anh ấy rất yêu thương tôi, nhưng yêu thương theo cái cách của ảnh.ơMojt thời gian sau, anh Năm dẫn một người về giới thiệu với tôi, bảo đó là người bạn thân tình cờ gặp gỡ trên đường làm ăn buôn bán, hai người đã từng nương tựa, giúp nhau rất nhiều. Tôi cũng không thắc mắc gì khi thấy tình cảm giữa chồng tôi và người đó rất thân thiết. Từ đấy, người bạn ấy thường xuyên tới nhà tôi chơi và mỗi lần tới vẫn ở lại nhiều ngày. Những ngày ở nhà tôi, người ấy làm việc luôn tay, vun xới chỗ này, làm lụng chỗ khác nên cả vợ chồng tôi đều rất ưng bụng. Đặc biệt, người đàn ông đó có vẻ ngoài khác xa với chồng tôi. Bên cạnh cái vẻ đẹp tài tử, anh ta còn là người khéo ăn nói, khéo lấy lòng người. Bởi thế không lâu sau tôi nhận ra trong tôi đã bắt đầu nhen nhóm một thứ tình cảm khác thường dành cho người đàn ông đó. Với tôi, người đó cũng vậy, mặc dù không nói ra lời, nhưng những ánh mắt, nụ cười và cử chỉ của người đó đã nói lên tất cả…
Một đêm khuya chồng tôi say khướt sau cuộc nhậu với bạn bè, tôi cảm thấy tủi thân nên ra sau bếp ngồi khóc. Người đó đã đến gần an ủi, sẻ chia. Và rồi… việc gì đến đã đến, tôi đã bắt đầu có quan hệ mật thiết với người ấy kể từ đêm hôm đó! Tôi đã không làm chủ được mình, không ngăn được những xúc cảm rạo rực của người phụ nữ khi được một người khác phái xưng tụng, nâng niu và rót vào tai toàn những lời mật ngọt…
Khi biết mình có thai, tôi cuống cuồng lo sợ và báo cho người ấy biết, vì tôi biết chắc đứa con này không phải của chồng tôi. Người dó rất đỗi vui mừng và xui tôi ly hôn với chồng để cả hai được danh chánh ngôn thuận mà nuôi dạy con cái. Nhưng… tôi không thể ly hôn với anh Năm được, vì… nhiều lẽ khác nhau. Bởi thế quan hệ giữa chúng tôi cứ nhùng nhằng mãi như thế. Người ấy không ngày nào không thúc giục…
Rồi một hôm, tình cờ anh Năm đã phát giác ra sự phản bội của chúng tôi. Anh không làm lớn chuyện mà đau đớn bỏ đi. Anh đi nhậu ở nhà người bạn, đến tối hôm đó thì không về nữa… Sáng ra tôi chạy đi tìm khắp nơi và tìm được xác anh dưới lòng sông, cái xác đã bị cắt mất một giò!
Tôi ân hận, đau đớn, nhưng tôi không thể nào ngờ được cái chết của anh Năm không phải do tai nạn mà là… chính người đàn ông kia ra tay… Chuyện đó mãi sau này tôi mới biết… Tôi biết nhưng không làm gì được, vì thật sự người đàn ông ấy cũng rất thương yêu mẹ con tôi…
- Hắn giết anh Năm vì tình thì tôi hiểu rồi, nhưng tại sao hắn phải cắt giò anh Năm đi chứ?
Tân không dằn được, lên tiếng hỏi.
Liễu nghẹn ngào nói tiếp:
- Một ông thầy bùa người Miên dạy cho người đó cách luyện một thứ ngãi độc nhất vô nhị nào đó, khi luyện thành thì sẽ giàu sang tột đỉnh, quyền uy tột đỉnh… Người đó đã không ngăn được lòng tham mà lao vào việc luyện ngãi. Công việc ấy đòi hỏi nhiều thời gian và nhiều thứ nguyên liệu đáng sợ… Đầu tiên là phải có một cẳng chân bên trái của một người đàn ông mạnh khỏe, rồi phải bắt tám con cóc đem chôn sống ở giữa ngã ba đường, đến đúng ngày giờ ấn định thì đào lên đem đi phơi khô rồi tán nhuyễn ra thành bột. Mỗi tháng hai lần, lấy chất bột ấy rắc lên trên cái cẳng chân kia, đúng một năm sau thì cái cẳng chân ấy sẽ hóa thành một thứ tay sai đắt lực giúp cho chủ nhân nó đạt được mọi ước muốn trong đời…
- Thế thì tại sao lại phải giết chết trẻ sơ sinh? Tại sao lại giết những người tình cờ trông thấy hắn?
Tân phẫn nộ hỏi.
- Trong thời gian luyện ngãi, xung quanh đó bắt buộc không có trẻ sơ sinh, nên nhà nào vừa có người sinh con là người đó tìm cách giết chết. Còn tại sao lại giết những người nhìn thấy hắn ư? Đấy là do hắn đề cao cảnh giác, không muốn hành tung của mình bị phát giác…
- Thật khốn nạn!
Tân không dằn được, bật lên tiếng chửi. Rồi liền sau đó Tân lại lúng túng:
- Xin lỗi chị… tôi… tôi không cố ý…
Liễu không khóc nữa, giờ đây trông cô thảm hại như một người vừa qua một trận ốm thập tử nhất sinh. Cô gượng môi mỉm một nụ cười cay đắng:
- Không… anh không có lỗi gì cả! Tôi đúng là kẻ khốn nạn… tôi đã giết chết chồng mình, đã gây ra muôn vàn tội ác…
- Rồi bây giờ chị tính sao? Chẳng lẽ chị cứ ngồi im mà nhìn anh Hùng lún sâu vào con đường tàn bạo ấy hay sao?
Tân hỏi.
Liễu buồn ngơ ngác:
- Tôi đã cố ngăn cản anh ấy đừng luyện ngãi đó làm gì nữa, nhưng anh một mực không nghe, hình như… bây giờ anh ấy đã bị tà khí xâm nhập vào quá nhiều rồi, không thể bứt ra được… Anh có biết không… có nhiều khi tôi muốn chết… muốn hủy hoại mạng sống của cả hai mẹ con tôi để cho anh ấy sáng mắt… Nhưng thật nhục nhã… tôi không đủ can đảm…
- Sao chị không đi tố cáo với chính quyền?
Tân thắc mắc.
Liễu cắn môi:
- Dù sao thì người ấy cũng là chồng tôi, có tội lỗi gì thì tôi cũng cam tâm hứng chịu, tôi không thể… không thể đi tố cáo chồng mình, dù tôi biết như vậy là sai… là không tốt…
Đột nhiên Liễu vùng lên, chồm người qua hàng rào gấp rút hỏi:
- Anh Tân, anh có sẵn lòng giúp tôi không? Tôi nhớ ra rồi, chỉ có anh mới có thể giúp cho tôi, giúp chồng tôi thoát khỏi vòng tội ác… Chỉ có anh thôi, anh có sẵn lòng giúp tôi không? Tôi van xin anh, van xin anh đấy, anh Tân ơi…
Thấy Liễu bị kích động quá Tân cũng đâm ra sợ, e dè hỏi:
- Tôi giúp được gì cho chị? Chị nói đi, nếu giúp được tôi nhất định không từ chối…
Vừa nghe Tân nói thế Liễu vội quỳ sụp xuống đất lạy lấy lạy để liên tiếp làm Tân vô cùng bối rối:
- Chị… chị Liễu à, chị đứng lên đi, có gì chị nói, đừng làm như vậy…
Liễu khóc sướt mướt:
- Chỉ có một cách duy nhất mới có thể phá bỏ toàn bộ công trình lâu nay của anh ấy, mới có thể lôi anh ấy trở lại với cuộc sống đời thường, mà cách này phải đòi hỏi sự gan dạ quên mình…
- Nghĩa là sao? Chị nói rõ hơn đi, tôi không hiểu…
Tân căng thẳng không thua Liễu.
- Là như thế này, còn ba hôm nữa là tới ngày anh Hùng phải đi đào các chân kia lên để rắc thuốc vào đó. Nếu có một người gan dạ đi theo, đợi đúng lúc anh ấy vừa rắc thuốc xong là nhào vô giật cái chân đó đốt đi, thì tất cả sẽ mất hết… Tất nhiên người ấy sẽ gặp sự phản kháng kịch liệt của anh Hùng, mà lúc ấy trong người anh Hùng đã có ma lực nên rất mạnh mẽ và hung tợn. Nếu thắng được anh ấy là coi như xong mọi việc, còn nếu như thua, nếu như người đó bị anh ấy khống chế thì cuộc đời người đó coi như chấm dứt và ngay lập tức cái bùa phép đó sẽ linh nghiệm tức thời mà không cần có thêm một thời gian khổ luyện nào nữa… Bởi thế lâu nay anh Hùng cũng mong có một người xuất hiện đúng lúc đó…
Liễu vừa nói vừa nhìn Tân một cách cầu khẩn.
Tân hơi dao động:
- Chị nói sao? Lúc đó anh hùng có ma lực trong người?
- Phải… phải! Lúc đó anh Hùng sẽ có ma lực trong người nên sức mạnh trở nên khác thường… Nhưng… anh Tân ơi, anh cố nghĩ ra cách gì đó để khống chế anh ấy giúp em… Nhưng… nhưng anh đừng làm hại anh ấy nhé?
Liễu gần như bấn loạn. Chính trong lúc đó, Tân nhận thấy một tình yêu to lớn mà Liễu đã dành cho Hùng. Tân thầm nghĩ, giá như Hùng đừng động tay vào tội ác, thà cứ sống một cuộc sống bình thường bên một người vợ yêu thương mình, bên một đứa con ngoan thì còn hạnh phúc nào bằng. Hùng cần sang giàu, cần quyền lực để làm gì nhỉ?
- Thôi được rồi, để tôi suy nghĩ… Chị bảo còn đúng ba hôm nữa là tới ngày Hùng đi đào cái chân kia lên, đúng không?
Hùng hỏi.
Liễu gật đầu:
- Đúng, ba hôm nữa! Khoảng mười một giờ đêm thì ảnh sẽ đi, địa điểm khởi đầu là ở gốc đa sau vườn nhà anh…
Tân đứng lên:
- Thôi được! Chị vào nhà nghỉ ngơi đi, đừng tỏ vẻ gì cho anh Hùng biết. Tôi nhất định sẽ nghĩ ra cách…
Liễu run run:
- Mọi việc tôi trông cậy hết vào anh… Xin anh thương lấy mẹ con tôi… Anh phải ráng giữ mình… và giữ lại mạng sống cho anh Hùng nữa…
Tân gật đầu và quay bước vào nhà. Sau lưng Tân, Liễu vẫn đứng im lặng nhìn theo.
Từ lúc đó, Tân không còn tâm trí đâu để làm việc được nữa mà tập trung hết tư tưởng vào việc tìm ra cách nào khả thi nhất để chống chọi lại Hùng.
Giữa Tân và Hùng thì khó nói ai sẽ thắng ai nhưng đằng này Liễu đã cảnh báo rằng lúc đó trong người Hùng có thêm sức mạnh ma quỷ, thế thì Tân không thể trông cậy vào sức mạnh cơ bắp của mình được rồi, mà nhất định phải có một mẹo nào đó, một cách nào đó…
Tân nhất định không để mình thua cuộc, vì nếu thua cuộc là mình sẽ chết, nhưng điều đó không sao, có chết một mình mình cũng không sao, nhưng mình thua cuộc thì làng xóm này sẽ mãi mãi không được bình yên… Rồi khi cái thứ bùa ngãi quỷ quái gì đó được luyện thành thì sẽ còn những chuyện gì xảy ra ở đây nữa? Mình không được quyền thua cuộc!
Việc theo dõi Hùng thì không khó, vì Tân đã thực hiện một lần rồi, nhưng làm cách hạ được Hùng mới là điều nan giải…
Nghĩ tới nghĩ lui, Tân thấy chỉ còn mỗi một cách là bất ngờ đánh úp, cộng với phương pháp đánh ghen của mấy bà chằn tinh mà Tân thường nghe kể. Đó là thủ sẵn một gói muối ớt hoặc vôi bột, bất thần tung ra để đối phương không kịp trở tay…
Tân lại thắp nhang trước bàn thờ ông chú lâm râm cầu nguyện và đi vào nhà ngủ một giấc thật ngon.
Ba ngày sau, đúng đêm hôm nay Hùng sẽ hành sự và Tân sẽ thực thi bổn phận của mình. Một chút hồi hộp trỗi lên nhưng nó nhanh chóng biến mất khi Tân nghĩ tới những cái chết oan ức của dân làng, nghĩ tới thằng bạn hiền như cục đất mà khi chết thân thể lại không được vẹn nguyên… Nỗi căm phẫn lấn át đi mọi sợ sệt trong Tân.
Tối đó, Tân tranh thủ ngủ một chút cho tinh thần sảng khoái. Gần mười giờ đêm Tân thức dậy và chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ cần thiết cho công việc đêm nay.
Lần này Tân không ngồi rình bên hông nhà Liễu nữa mà thu mình nép vào một bụi cây um tùm ở cạnh gốc đa.
Lâu sau, Tân phát hiện một bóng đen đang lướt tới. Gọi là lướt không ngoa chút nào, vì thật sự những bước đi của hùng rất nhanh nhẹn và nhẹ nhàng như không hề chạm xuống mặt đất.
Bóng đen không tới chỗ cũ mà tót một cái trèo lên cây đa, thò tay vô chỗ bọng cây chỗ chạc ba đem ra cái hũ sành hôm trước.
Tân lo lắng nghĩ:
- Hắn đổi chỗ giấu cái hũ, không biết có đổi chỗ chôn khúc chân không? Cũng may là mình ngồi đây chờ, chứ nếu không có thể mình đã vuột mất cơ hội này…
Sở dĩ Tân nói vậy là do lúc chiều Tân dự định khi trời tối sẽ lẻn vào nghĩa địa trước rồi đến gần chỗ chôn khúc chân mà tìm chỗ nào thuận tiện nhất để ra tay. Nhưng rồi Tân lại không làm vậy, sợ rằng có điều chi thay đổi. Quả thật Tân đoán không sai.
Tân lẽo đẽo bám theo anh ta. Hắn vẫn lao như bay qua các khoảng vườn trong xóm. Tân vừa bò, vừa trườn bám theo anh ta không để lạc mất, lại vừa phải cố gắng không cho anh ta biết.
Trời không trăng không sao, màn đêm vây bủa xuống thôn xóm, cứ nhấp nhem những thứ gì không rõ lắm, chúng giống như những quái thú ẩn nấp trong đêm. Những con chim lạ cứ kêu hoài không thôi, và mấy thứ lá cây hay loại động vật nào đó không nhìn rõ lắm cứ lấp la lấp loáng.
Sau đó, Tân đi như cái máy. Động lực giúp Tân tiếp tục đi là chiếc bóng đen đang phất phơ phía trước, vì nếu để lạc mất anh ta Tân sẽ khó có được cơ hội lần thứ hai.
Đêm nay hắn không đi theo đường cũ mà cứ lộn vòng trong các khu vườn rậm rạp, các bãi đất hoang cây cỏ mọc cao gần lút đầu người. Tân phải cố gắng lắm mới bám theo hắn được.
Không biết đã đi được bao lâu, bỗng Tân hẫng người như đi vào khoảng trống, ngã lăn nhào lộn tròn mấy vòng… khi dừng lại, trên vai đau buốt như bị ai đâm, nhưng cũng may là không bong gân hay trật khớp gì. Các thứ Tân mang theo vẫn còn nguyên trong túi.
Ngẩng đầu lên, không thấy bóng đen đâu nữa, Tân ngẩn người một lát rồi nhanh chóng nhận ra phương hướng và lồm cồm bò dậy chạy tiếp. Vừa chạy vừa đưa mắt ngó dáo dác xung quanh, một hồi lâu sau Tân mừng muốn reo lên khi thấy bóng đen thấp thoáng ngay phía trước mặt mình.
Hắn dẫn theo Tân đi quanh co nhiều lối nhưng cuối cùng cũng đi vào khu nghĩa địa, nhưng lần này điểm mà hắn chôn khúc chân kia lại là chỗ khác, nếu Tân không bám theo sẽ khó tìm ra được hắn.
Trong lúc hắn hì hụcmoi đất thì Tân đã nhẹ nhàng trườn lên tới một vị trí thích hợp nhất để ra tay.
Khi hắn vừa rắc xong chất bột trong hũ lên khắp cẳng chân của người đã chết thì bất thần Tân nhoài người ra khỏi bia mộ, tung mạnh nguyên cả gói ớt bột trộn vôi vào mắt hắn.
Gã áo đen hoảng hốt, theo phản xạ tự nhiên hai tay hắn đưa lên dụi lia lịa vào mắt, nhưng hắn có biết đâu càng dụi thì mắt hắn càng không thể mở ra được.
Thừa thắng xông lên, Tân nhào tới dùng hết sức lực hất ngã hắn xuống. Nhưng mặc dù mắt không mở được và đang rát buốt nhưng hắn không dễ gì để khuất phục.
Hai người quần nhau tơi tả, nhưng phần thắng nghiêng hẳn về phía Tân, do Tân đã có sự chuẩn bị chu đáo từ trước, còn hắn, lâu nay hắn không nghĩ tới việc có một người nào đó ngang nhiên chống đối lại mình nên không hề phòng bị….
Khi tay chân của hắn đã bị Tân trói chặt, hắn giương đôi mắt trắng dã lên nhìn Tân một cách đầy căm hờn, miệng hắn luôn gầm gừ:
- Buông tao ra… thả tao ra… tao còn chưa kịp đọc thần chú…
Tân không nói gì, giờ phút này Tân không cảm thấy hả hê, cũng không thấy kiêu hãnh chút nào mà trong lòng Tân lại dâng lên một nỗi buồn khó tả…
- Làm ơn thả tao ra đi, làm ơn đi… sắp hết giờ rồi…
Hắn lại chuyển sang màn van xin năn nỉ. Tân vẫn lặng lẽ đứng im suy nghĩ. Tân không biết giờ đây mình phải làm sao? Dẫn tên này cùng với tang vật đến chính quyền địa phương để trình báo, hay là vác cái xác thân đã bị trói nghiến của hắn đem về cho Liễu?
Tân còn đang phân vân chưa biết tính lẽ nào thì từ ngoài cổng nghĩa địa có ánh đuốc và bóng một người sấp ngử chạy vào.
- Anh Hùng ơi… Anh Tân ơi…
Tiếng gọi nhỏ cất lên, Tân nhận ngay ra là Liễu. Thì ra Liễu lo sợ mình làm hại chồng cô ấy nên cô đã tìm đến tận đây để can thịêp?
- Chúntg tôi ở đây!
Tân lên tiếng.
Liễu chạy về hướng Tân đứng và cô sững lại khi nhìn thấy chồng mình đang quằn quại trên mặt đất:
- Thả anh ra… mở dây trói cho anh Liễu ơi… sắp hết giờ rồi…
Liễu run rẩy:
- Không… anh ơi… em không thể…
Hùng hét to lên:
- Em có biết nếu để thời gian trôi qua thì anh sẽ trở thành người như thế nào không? Sẽ điên, anh sẽ điên đấy, em biết không?
Liễu quỳ xuống cạnh chồng, khóc ngất:
- Anh Hùng ơi… anh có điên có dại gì em cũng không bỏ anh đâu… em sẽ chăm sóc, lo lắng cho anh chu đáo… chứ em không thể… không thể để anh tiếp tục trượt dài vào con đường tội lỗi…
- Liễu ơi… em giết chết anh rồi…
Hùng rên rỉ và tiếng rên của hắn yếu dần rồi im bặt. Nhưng chỉ mấy giây sau đó hắn lại lồng lên một cách điên loạn, hai hàm răng hắn như ra, mắt mở trừng trừng kinh khiếp…
Liễu lùi lại và vấp chân vào khúc chân nằm bên cạnh té lăn cù, nằm vắt qua khúc chân giá lạnh.
Khi nhận ra cái gì nằm dưới người mình, Liễu thét lên sợ hãi và không còn đủ sức lực để đứng lên. Tân bước tới đỡ Liễu lên và đặt cô ngồi tựa vào một ngôi mộ gần đó. Liễu khóc ngất từng cơn, mắt nhìn người chồng thương yêu đang vật vã, đồng thời cũng nhìn khúc chân ghê rợn của người một thời từng là chồng mình, cô đau đớn nghẹn lòng, không biết làm gì ngoài việc khóc.
Thật lâu sau, cơn điên loạn của Hùng có phần dịu lại, và Liễu cũng chỉ còn sụt sịt Tân nói:
- Bây giờ tôi đưa anh Hùng về nhà chị phải không?
Liễu lảo đảo đứng lên:
- Dạ… anh làm ơn… làm ơn…
Mắt Liễu nhìn về phía cái chân đang nằm chỏng chơ trên tấm vải ni lông, Tân hiểu ý cô nên đi tới đó, khom người xuống vịn lấy một góc tấm ni lông định gói cái khúc chân ấy lại, thì thật không thể ngờ được, cái khúc chân kia từ từ tan ra thành những hạt li ti như bụi cát, rồi một cơn gió thốc qua, tất cả không còn lại gì, không còn lại một dấu vết gì của khúc chân ấy nữa.
Tân và Liễu trố mắt nhìn mà không kêu được lên lời…
Khó khăn lắm Tân và Liễu mới dìa được Hùng về tới nhà. Hùng như một kẻ hoàn toàn xa lạ, mở mắt ngơ ngác nhìn ngó khắp nơi…
- Có cần trói anh ta vào cột không chị?
Tân hỏi.
Liễu đến bên Hùng, nhẹ nhàng vuốt lên mái tóc bồng bềnh của hắn và nói:
- Không… không cần đâu! Tôi rất cảm ơn anh… Thôi, khuya rồi, anh về ngủ đi!
Tân lưỡng lự một lát rồi ra về. Trong đầu trống rỗng.
Về tới nhà Tân chạy vội xuống nhà sau múc nước xối ào ạt vào mình như muốn rửa sạch tất cả những điều xấu xa kinh khiếp mà Tân vừa chứng kiến.
Khi người đã nhẹ nhàng sạch sẽ, Tân lên thắp nhang bàn thờ chú, lầm rầm nói chuyện:
- Chú ơi… con đã làm được rồi… đã làm được rồi…
Mệt mỏi rã rời, Tân thổi tắt đèn rồi ngã người ra giường nằm nhắm mắt không kịp mắc màn. Miệng Tân không ngừng lảm nhảm:
- Cầu cho tất cả chỉ là một giấc mơ… chỉ là một giấc mơ…
Hai mí mắt Tân khép lại và trên môi Tân nở một nụ cười…
Từ đó trong xóm không còn ai nghe tiếng hú trong đêm nữa và một thời gian sau thì đã có tiếng trẻ sơ sinh oe oe khóc đòi sữa mẹ.
Người người mừng vui hớn hở, bảo rằng con quỷ một giò đã rời đi rồi, đã trả lại cho xóm làng sự yên bình muôn thủơ.
Những đêm trăng sáng, trai gái lại có thể hẹn hò tình tự với nhau, và những cặp vợ chòng mới cưới không phải chạy đôn chạy đáo để tìm một nơi ở khác khi vợ mình bắt đầu có dấu hiệu cấn thai…
Tất cả dân làng không ai biết được con quỷ đã làm xấc bấc cả làng chính là người đàn ông dở điên dở dại mà Liễu phải chăm nom săn sóc hàng ngày.
Trên gương mặt đẹp mà buồn của Liễu từ ấy càng thêm u tối vì không còn nở được nụ cười.
Có đôi lúc, nằm bên nhà mình, nghe những câu nói tiếng cười ngô nghê của người đàn ông to xác là Hùng, nghe những câu dỗ dành của Liễu mà Tân cảm thấy ái ngại cho cô quá. Tuổi của Liễu vẫn còn rất trẻ, thế mà cô phải sống trọn đời với một người chồng điên dại như thế hay sao? Aâu đó cũng là luật nhân quả của ông trời mà không ai có thể tránh khỏi.
Liễu và Hùng đã gây ra tội ác tày trời, nếu ông trời bắt họ chết thì chẳng là nương nhẹ với họ quá sao? Ông trời đã để cho họ sống, nhưng sống một cuộc đời đày đoạ đớn đau như vậy…
Mấy năm sau Tân cưới vợ.
Hai vợ chồng Tân chăm chỉ làm ăn nên cuộc ssông ngày một khấm khá hơn lên. Ba năm sau, trong nhà Tân đã vang lên tiếng cwofi đùa của trẻ con.
Còn nhà bên cạnh, thằng bé con của Liễu tuy thần kinh nó vẫn bình thường, nhưng chẳng bao giờ ai thấy được nó cười, Liễu bảo từ nhỏ nó đã không biết cười rồi!
Những khi nghe tiếng đứa bé bên nhà Tân cười lên hăng hắc là Liễu lại ngậm ngùi quay đi lau nước mắt,  nhìn đứa con lặng lẽ trong nhà…
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:56:36 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:26:37
MA NHẬP
 
Nhã Trúc vừa phụ mẹ dọn xong bữa ăn sáng lên bàn thì bỗng nghe một hồi chuông điện thoại vang lên thúc giục.
- Để con nghe cho mẹ!
Trúc cản khi thấy mẹ nhổm người lên định đi tới chỗ để điện thoại.
- A lô, tôi Nhã Trúc đây…
Không biết đầu dây bên nói gì, chỉ thấy tay Nhã Trúc run lên, vẻ mặt hoảng hốt rồi buông máy xuống bằng một dáng điệu thẫn thờ lẫn kinh ngạc tột độ.
Không nói với mẹ lời nào, Nhã Trúc hối hả chạy vào phòng riêng. Và chỉ một loáng sau, Nhã Trúc trở ra với áo quần tươm tất và chùm chìa khóa xe cầm trên tay như đang chuẩn bị đi đâu đó một cách hết sức vội vã.
Bà An ngạc nhiên lên tiếng:
- Chuyện gì vậy con? Có chuyện gì mà vội vàng đến nỗi không ăn sáng cùng mẹ được?
Vừa bước tới thềm cửa, Nhã Trúc trả lời mẹ bằng một giọng nói đứt quãng trong khi bàn tay run run tra chìa khóa vào chiếc xe gắn máy:
- Ngọc Anh đã chết! Xác của nó đã được đưa về nhà quàn hồi khuya này. Con phải đến đó ngay lập tức… Tội nghiệp quá mẹ ơi!
- Thôi, con đi đây… mẹ nhé!
Nghe Nhã Trúc xong, bà An sửng sốt đến ngẩng người ra, không kịp hỏi thêm lời nào thì Nhã Trúc đã nhanh chóng rồ ga cho xe phóng vút đi sau một câu chào mẹ.
Ngoài đường, nắng đã lên cao, bầu trời xanh trong vắt, đó đây điểm lưa thưa dăm ba cụm mây trắng xóa của những ngày bắt đầu một mùa hè hứa hẹn nhiều oi ức.
Nhã Trúc cho xe chạy qua các đoạn đường đông đúc, cô cố gắng hết sức mới có thể tập trung vào tay lái. Vậy mà cũng đã mấy lần cô hoảng hốt vì loạng choạng thế nào suýt đâm vào xe khác.
Giữa lúc trong lòng Nhã Trúc nóng như lửa đốt, chỉ muốn đến đó thật mau thì dường như dòng xe cộ trên đường cứ muốn trêu người cô, cứ bị kẹt xe liên tục. Nhã Trúc thầm ước giá mà mình có thể bay lên được để đến với người bạn gái thân thương mới vừa gặp nạn, người bạn mà lâu nay Nhã Trúc xem như người thân thích ruột thịt với mình.
Tưởng chừng thời gian dài đằng đẵng, nhưng thật ra chỉ chưa đầy nửa tiếng đồng hồ sau, Nhã Trúc đã có mặt tại nhà quàn giữa bầu không khí tĩnh lặng u buồn, đèn nến khói nhang nghi ngút trước một cỗ quan tài nằm lặng lẽ chơ vơ dọc theo sát vách tường với những tràng hoa phúng điếu đầy màu sắc, lúc đó hầu hết những người thân thuộc trong gia đình của Ngọc Anh đã có mặt đầy đủ.
Mắt người nào cũng đỏ hoe và còn đọng đầy ngấn lệ. Kể cả Quân, chồng sắp cưới của Ngọc Anh.
Nhìn dáng điệu thiểu não khổ sở, quần áo xốc xếch với cái nút thắt cà vạt trên cổ áo sơ mi có những lằn sọc đen thưa của Quân trễ xuống, Nhã Trúc cũng đoán biết được nội tâm của người thanh niên đang ấp yêu nhiều mộng đẹp tương lai này sầu khổ đến độ nào trước di ảnh của người vợ sắp cưới vừa quá cố.
Nhã Trúc nhẹ gật đầu đáp lại từng đôi mắt hoen lệ chào hỏi của những người trong gia đình Ngọc Anh. Cô bước lại bàn thờ, nơi đang đặt di ảnh của người bạn gái chí cốt đột nhiên hóa ra người thiên cổ, đốt nhanh cho bạn một nén hương rồi lâm râm cầu nguyện và thì thầm với người đang yên nghỉ trong cổ quan tài trùm phủ màu lụa trắng như đang tâm sự với chính mình:
- Hãy yên nghỉ nhé, Ngọc Anh! Dù sao chuyện cũng đã xảy ra rồi. Kể từ nay, tao với mày là hai miền âm dương cách biệt, còn đâu tìm lại được những năm tháng tụi mình vui sống, chơi đùa học hành thi cử, dệt thật nhiều mơ mộng bên nhau với biết bao kỷ niệm đẹp đẽ trong đời. Đâu nào ngờ, chỉ còn hơn một năm ngắn ngủi nữa, chúng mình sẽ thi ra trường. Chừng đó, mày với anh Quân sẽ trở thành đôi vợ chồng hạnh phúc nhất. Còn tao sẽ thực hiện được giấc mộng đã ôm ấp và tâm sự cùng mày suốt mấy năm qua. Giờ đây, mày sống khôn chết thiêng, hãy yên tâm an nghỉ. Chuyện thế gian tục lụy đầy khổ lụy, chúng tao sẽ gánh hết cho mày. Chỉ có những người còn sống như tao, như anh Quân của mày và những người thân yêu là vẫn còn phải cưu mang gánh vác mọi chuyện trên đời chẳng biết đến bao giờ...
Nói với người bạn gái quá cố đến đây, như không thể cầm giữ được tấm lòng xót thương nhớ bạn, Nhã Trúc òa lên khóc một cách tức tưởi nghẹn ngào. Khóc như chưa bao giờ Nhã Trúc có cơ hội được khóc, cô để tự nhiên cho những giọt nước mắt dàn dụa tràn ra trên khuôn mặt sầu héo tả tơi tiếc thương cho người bạn gái vắn số, bất hạnh của mình cho đến khi Nhã Trúc không còn tự chủ thêm được, cô rũ xuống đúng vào lúc Quân liếc sang, nhác thấy, vội đưa hai tay đỡ lấy tấm thân mềm nhũn của Nhã Trúc.
Hai người em trong gia đình của Ngọc Anh cũng vội chạy đến phụ với Quân, dìu Nhã Trúc ra dãy ghế ngoài hành lang để cho cô ngồi xuống hồi tỉnh.
Cuối ngày hôm đó, Nhã Trúc cùng với Quân và một người em trai của người quá vãng tự ý nán lại nhà quàn để canh xác và thay phiên nhau thắp nhang, thắp nến cho Ngọc Anh cho đến giờ gần khuya nhà quàn đóng cửa, họ mới lầm lũi rủ nhau ra về, trong lòng người nào cũng đầy phiền muộn và lưu luyến thương xót cho một người rất thương yêu đang giữa tuổi xuân thì đầy hoa mộng, mà giờ đây, phải một mình ở lại trong căn phòng nhà quàn lạnh lẽo hoang vắng.
Họ nhìn lại di ảnh của Ngọc Anh với khuôn mặt tròn đầy, nụ cười nhẹ nở trên môi và đôi mắt tinh anh nghịch ngợm giữa bờ tóc đen huyền phủ trên đôi vai tròn lẳn, như muốn nhắn gởi đến họ một điều gì mà lúc sinh thời trong cuộc đời đầy hối hả, Ngọc Anh chưa một lần kịp ngỏ.
Ngày kế tiếp sang đến ngày thứ ba thì Nhã Trúc sau khi liên tiếp dành hết thời giờ đến chăm lo quanh quẩn bên quan tài của bạn, lại thêm tâm tư buồn phiền đến biếng ăn mất ngủ, sức khỏe và tinh thần đã có vẻ sa sút. Cô không còn đứng vững được nữa, mấy đứa em họ của Ngọc Anh phải dìu Nhã Trúc ra xe và đưa cô về nhà nhờ mẹ cô chăm sóc giúp.
Bà An, mẹ của Nhã Trúc vốn là người tu tịnh lâu năm, bản chất bà phúc hậu hiền hòa, giữ giới chay trường từ sau khi cha của cô tạ thế đã nhiều năm.
Bà ở vậy sống bên cạnh người con gái duy nhất là Nhã Trúc cho mãi đến hôm nay. Không có ai hơn bà, hiểu rõ mối quan hệ bạn hữu đằm thắm, thân tình giữa Nhã Trúc và Ngọc Anh. Nay đột nhiên Ngọc Anh ra đi một cách một cách bất ngờ như vậy thì tránh sao Nhã Trúc không khỏi suy sụp đến như vậy.
Ngọc Anh là một cô gái trẻ đẹp, thông minh, vui tính, bản chất sinh động, vô tư yêu đời. Chàng trai nào giáp mặt nàng một lần cũng khó tránh được niềm rung động mang mang vương vấn trước dung mạo tươi trẻ hồn nhiên, nhất là đôi mắt đen tròn tinh anh minh mẫn đầy sức cuốn hút của cô. Mặc dù được sinh ra trong một gia đình khá giả, thừa sức lo mọi mặt, nhưng Ngọc Anh không hề ỷ lại. Cô là một cô gái có ý chí cầu tiến và thích tự lập để vươn lên.
Ngọc anh vừa cần mẫn đi học vừa chăm chỉ đi làm cho đến khi trở thành một sinh viên ưu hạng, được cấp học bổng, đi du học và sắp tốt nghiệp ra trường.
Suốt mấy năm học ở nước ngoài Ngọc Anh vẫn giữ nguyên tính cách không hề lai căng hay hay đổi cho hợp thời như nhiều bạn trẻ khác. Cô chăm chỉ học hành, có thời gian là lại đi làm thêm để tự kiếm tiền sinh sống.
Từ mấy năm nay, kể từ khi Ngọc Anh được học bỗng du học nước ngoài, cô phải sống xa gia đình, xa tình yêu khắn khít với Quân, và tình bạn bè mật thiết với Nhã Trúc.
Tuy mỗi năm, Ngọc Anh chỉ vè thăm quê nhà một lần, nhưng cô vẫn luôn cố gắng giữ mối liên hệ giữa cô và Quân, Nhã Trúc.
Hai người bạn gái thân thương nhau hơn mười mấy năm dài, nay chỉ còn giữ mối thâm tình liên lạc qua đường dây điện thoại hoặc email, chát chít với nhau những khi có điều kiện.
Mới cách đây mấy hôm, lúc hai người bạn tâm tình với nhau qua cửa sổ Yahoo! Messenger, Ngọc Anh còn nhờ Nhã Trúc tư vấn cho cô về kiểu dáng chiếc áo cô dâu mà cô sẽ mặc trong ngày cưới, và nhắc nhở Nhã Trúc ngày hôm đó phải là một cô dâu phụ thật xinh. Thế mà…
Không một ai có chút ngờ vực về mệnh số ngắn ngủi và cái chết bạc phước của Ngọc Anh, người con gái mơn mởn tràn trề hứa hẹn ở tương lai.
Không một ai biết được sẽ có dấu hiệu cho thấy nàng sẽ phải tiếp nhận một cái chết tức tưởi oan khiên giữa một xã hội từng mệnh danh là văn minh tân tiến, tự do an toàn mà lại thường xảy ra hằng hà sa số những chuyện man ri mọi rợ hơn bất cứ một quốc gia chậm tiến, ăn lông ở lỗ nào khác.
Điển hình là cái chết quái đản của Ngọc Anh, một cô gái Á Đông hiền thục dịu dàng, lương thiện và tiềm tàng nhiều hứa hẹn sẽ dâng hiến tài năng cho con người, cho đời sống văn minh khoa học như cô, nào cô đã gây ra công tội gì để nảy sinh ra lòng thù hận ác tâm từ một người bạn học dị chủng lưu trú cùng ký túc xá, đến nỗi phải xuống tay tàn sát dã man Ngọc Anh như một kẻ thù chỉ với một chút lòng đố kỵ nhỏ nhen?
Dù sao, thảm cảnh thương tâm cũng đã xảy ra rồi! Người con gái đang yêu đã không còn hiện tiền để cùng với người yêu thề non hẹn biển, họ cùng vui sống bên nhau, cùng hưởng trọn với nhau niềm hạnh phúc vô biên mà tình yêu đã dành sẵn cho hai người. Để bây giờ Ngọc Anh đang nằm bất động trong cỗ quan tài buồn cùng với tấc lòng tiếc thương đìu hiu cô quạnh của một cái xác cứng lạnh vô tri, và những người còn sống đang phải đứt từng khúc ruột vì thương tiếc cho cô.
Có còn chăng chỉ là mỗi xác thân khô lạnh đang nằm bất động trong cỗ áo quan tài với khuôn mặt đầy đặn, đẹp tựa trăng rằm đang nhắm nghiền đôi mắt bồ câu không bao giờ còn hé mở như trong cơn mơ say ngủ thiên thu. Có còn chăng chỉ là mối thương tâm chất ngất đành đoạn của một oan hồn uổng tử vẫn còn đang nặng lòng tiếc nuối, luyến ái tấm thân xác phàm trần, rồi sẽ vất vưởng lang bạt đó đây. Có còn chăng là lòng yêu thương vời vợi của Quân, của người bạn gái sinh thời Nhã Trúc, của những người thân yêu trong gia đình đã hai mươi mấy năm qua thương yêu chiều chuộng Ngọc Anh như một bảo vật trân quý nhất trong cuộc đời.
Ngọc Anh đã tức tưởi cùng với nỗi kinh hoàng dị ngộ trút linh hồn ra ngoài thân xác đang độ mãn khai giữa lúc ngủ say, trong cơn điên cuồng bất loạn tâm thần vì lòng đố kỵ nhỏ nhen của một con hoang thú dã man sống giữa thời kỳ khoa học tiến bộ. Ngọc Anh tới tấp nhận chịu những mũi dao oán hận oan nghiệt đâm nát thân thể của cô để rồi lìa đời không kiïp một lời trối trăn, chưa kịp tận mặt với những người mà cô cô cùng yêu quý sau gần một năm trời cách biệt, để rồi hồn phách của Ngọc Anh cùng tận ngỡ ngàng thoát bay ra ngoài thân xác đầy tiếc nuối mà chưa kịp hiểu được vì sao, để rồi hồn thiêng cô gái trẻ phải chết bất đắc kỳ tử chưa biết sẽ phải tiêu diêu nương tựa ở cõi nào…
Một người trẻ tuổi, tương lai còn đang rộng mở đón chờ trước mắt như Ngọc Anh mà phải vĩnh biệt cõi đời đã là một nỗi đau lớn, đằng này cái chết của Ngọc Anh lại vô cùng thê thảm thì làm sao những người thân của cô không quặn lòng cho được?
Bà thương Ngọc Anh vắn số, phải chết tức  chết tưởi như thế, đồng thời bà cũng thương và lo lắng cho cô con gái của mình biết bao nhiêu.
Ngồi cạnh bên con, nhìn những giọt nước mắt tuôn tràn của nó mà bà An không thể nào cầm được lòng mình.
Sau một đêm được mẹ chăm sóc tận tình chu đáo, sáng hôm sau Nhã Trúc đã lấy lại sức khỏe nên vội vàng đến với bạn ngay, dù bà An có cản ngăn thế nào cũng không được.
Cô vừa khóc vừa nói:
- Con với Ngọc Anh chỉ còn được ở gần nhau một thời gian thật ngắn ngủi, mẹ thương con thì mẹ đừng ngăn cản con nữa, mẹ cho phép con đi đi, con cần ở bên Ngọc Anh giữa lúc này, lúc này… nó thật là đáng thương… nó sắp đi xa, con phải ở bên nó và đưa tiễn nó…
Bà An không biết phải nói sao trước những lời cầu khẩn đầy tình cảm của con gái nên đành nhìn nó dắt xe ra khỏi nhà mà lòng bà đau như cắt.
Bà An chỉ kịp dặn với theo sau:
- Chạy xe cẩn thận nghe con!
Chiều hôm ấy Nhã Trúc trở về nhà để tắm và thay quần áo, bà An bỗng dưng thấy trong lòng dấy lên niềm lo âu kỳ lạ.
Nhã Trúc bước vào nhà mang theo cả một luồng tử khí lạnh buốt tỏa ra sau mỗi bước đi của cô.
Nhìn thấy bóng bà An thấp thoáng dưới ánh điện mờ mờ ngoài phòng khách, nhưng Nhã Trúc lặng im không thốt nửa lời, lầm lũi bước vào phòng riêng.
Bà An có hơi chột dạ.
Nhã Trúc lặng lẽ, thờ thẫn một cách khác thường, nhưng điều đó cũng đúng thôi, cũng phù hợp với hoàn cảnh này thôi, vì cô đang ở trong những giờ phút đau buồn và căng thẳng nhất mà. Nhưng với bà An, bà lại không nghĩ thế, bằng linh cảm của mẹ, bà An cảm nhận được có một điều gì đó không bình thường đang diễn ra ở chính trong người cô con gái thương yêu của mình. Nhưng điều đó là điều gì thì bà lại hoàn toàn không cắt nghĩa được.
Bà cụ liên tưởng tức khắc đến những diễn biến huyền bí của thế giới vô hình có thể xảy đến với Ngọc Anh. Tất cả những kiến thức siêu linh mà bà đã chuyên tâm đọc và chiêm nghiệm từ nhiều pho sách tân, cựu thuật lại những tiến trình của thế giới siêu linh, về những cái chết bất đắc kỳ tử của những người còn trẻ tuổi bị những tai biến hàm oan, bất ngờ phải chết một cách đột ngột đến không thể trút được một lời trăn trối giữa lúc còn nặng nợ trần gian, còn nặng lòng với những quan hệ yêu thương tình cảm với những người thân thuộc, còn luyến lưu và khao khát sự sống trong chính thân xác cố hữu của mình.
Linh hồn của họ tùy vào nghiệp lực lúc sinh thời mà sẵn lòng ra đi hay còn cố luyến lưu tìm đủ mọi phương cách để mong được tiếp tục cuộc sống phàm trần.
Đây chính là hoàn cảnh hết sức bi thương khốn khổ của Ngọc Anh! cô sẽ muốn thổ lộ bao điều với cha mẹ, với bè bạn trong đó có Nhã Trúc, có Quân là người cô yêu thương bằng tất cả trái tim nồng nàn tha thiết nhất, mà tuyệt nhiên cô không nhận được một câu trả lời.
Lúc này, Ngọc Anh tuy đã chết nhưng cô đang nhìn thấy rất rõ mọi người quây quần bên cạnh thân xác của cô mà tiếc thương đau khổ, mà khóc sướt mướt nhói lạnh cả tim gan. Chắc chắn sẽ có đôi lần Ngọc Anh tự hỏi:
- Tôi chết rồi sao? Làm thế nào bây giờ?
Và cô sẽ cảm thấy đau xót y hệt như một con cá bị ném ra khỏi nước, nằm trên một bãi cát nóng khô khan. Tự trong thâm tâm của một hồn ma hoang dại, Ngọc Anh cảm thấy đau khổ tột cùng.
Có thể đã rất nhiều lần, cô đã hét to lên trước mặt những người thân yêu đang khóc:
- Tôi đang ở đây! Tôi đang ở đây! Xin đừng khóc!!!
Nhưng tiếng hét của cô chỉ vang động cho một mình cô nghe thấy... Không một ai có phản ứng gì khác. Tới chừng đó, Ngọc Anh mới tự cảm thấy vô vàn đau khổ.
- Tôi chết thật rồi! Trời ơi… Tôi chết thật rồi!!!
Bà An hình dung ra những diễn biến mà linh hồn Ngọc Anh đã phải trải trãi qua trong mấy ngày sau tai nạn kinh hoàng đó.
Bà An không có mặt tại nhà quàn, nhưng nhìn dáng con gái của bà u buồn ủ rũ cùng với luồng khí lạnh ùa đến khi Nhã Trúc vừa đẩy cửa bước vào nhà, bà đã có thể kết luận về những gì bà đang suy tưởng về linh hồn của Ngọc Anh giờ đây đang cố gắng khước từ một cách sống lang thang bất chợt và vất vưởng trong cõi u minh.
Cô đã chiếm hữu ngay cơ hội gần gũi nhất để trú hồn trong thân xác con gái của bà, của Nhã Trúc. Bà An hoảng hốt khi nhận thức ra điều này.
Vì đó chính là những thói quen của thần thức trong tình trạng quá độ lúc Ngọc Anh cố gắng đi tìm sự tái sinh. Nhưng khổ thay! Vào lúc này, mọi sự vui buồn sướng khổ của một linh hồn đều tùy thuộc vào nghiệp lực khi nàng còn tại thế.
Ngọc Anh sẽ thấy rõ rệt mọi vật mọi người, từ nhà cửa xe pháo, phố phường đến Quân, đến những người trong gia đình thân tộc, đến cô bạn gái thân thiết Nhã Trúc, đến ngay cả thân xác của mình. Sau cùng thì Ngọc Anh phải hiểu:
- Bây giờ tôi đã chết thật rồi! Biết làm sao đây?
Cô sẽ bị sức nặng của bao ưu phiền áp chế đến nỗi nẩy sinh ra tư tưởng:
- Tại sao không cho tôi một tấm thân xác, để tôi có thể hồi sinh mà trở về với những người thân yêu nhất của tôi? Để tôi được nói với họ những lời yêu thương sau cùng, để tôi được làm những việc mà tôi đã ôm ấp từ lâu nhưng chưa kịp thực hiện?...
Và trong lúc nghĩ như vậy thì linh hồn của Ngọc Anh cứ lang thang đây đó chỉ với một dụng ý duy nhất là để đi tìm một xác thân để cho linh hồn có một nơi trú ngụ ấm áp và có dương lực để biểu thị những điều cần phải nói hay làm với những người thân yêu.
Nhưng than ôi! Ngọc Anh không biết được rằng cô đang ở trong tình trạng quá độ của kinh nghiệm thực tại kéo dài, cho nên đã gần một chục lần, cô tìm đủ mọi cách để trở vào chính thân xác của cô. Nhưng bây giờ thì tấm thân ngà ngọc tràn đầy nhựa sống của cô khi xưa đã bị cứng lạnh, còn sắp sửa đến thời kỳ băng hoại hư thúi thì nàng phải làm sao?
Do vậy, Ngọc Anh không thể tìm được một chỗ để nhập vào. Cô có cảm tưởng như bị chèn ép trong những kẻ nứt của hố sâu, giữa những khối đá tảng khổng lồ nặng nề.
Cô đang trải qua một tiến trình thực nghiệm về sự thống khổ của một kiếp sống mà cái chết đến một cách cực kỳ đột ngột và thương tâm. Cô tha thiết tìm cách để có thể tái sanh.
Tuy nhiên, cho dù ước vọng đó của Ngọc Anh có thành tựu, cô cũng sẽ chỉ gặp những muộn phiền. Nhưng Ngọc Anh chưa hoàn toàn thông hiểu điều đó. Cô chỉ mong thực hiện ý muốn theo bản ngã riêng tư của mình mà thôi.
Trong khi đó thì sẵn sàng có một xác thân thật dễ dàng và thích hợp nhất để linh hồn Ngọc Anh có thể nhập vào để mưu tìm một hình thức kéo dài nghiệp lực... Đó là người bạn gái Nhã Trúc thân mến của cô.
Ngọc Anh đã lưu trú linh hồn của cô trong bối cảnh mượn xác của Nhã Trúc kể từ giây phút ấy.
Nhưng khi đã hoàn thành được ý nguyện của mình, Ngọc Anh vẫn không thể tránh được mọi điều buồn khổ. Cô vẫn cảm thấy bơ vơ lạc lõng rồi đột nhiên nảy sinh ra những tư tưởng luyến thương hoặc nổi loạn, quấy phá tất cả mọi người.
Linh hồn của Ngọc Anh đã chính thức lưu ngụ vào một phần trong thân xác của Nhã Trúc kể từ giây phút vọng tưởng đó!
Chính vì có sự suy nghĩ như thế trong đầu, nên bà An thử lại lần cuối ý nghĩ của bà bằng cách giữ sự im lặng, giả như không biết, không thấy gì để âm thầm quan sát dáng điệu đi đứng, ngôn từ, thói quen cùng những sở thích thường lệ của Nhã Trúc.
Và, bà đã có câu trả lời rõ rệt. Nhất là, ở những nơi những lúc nửa sáng nửa tối, bà tập trung sự chú ý nhìn vào một nửa khuôn mặt của con gái bà.
Bà nhận diện thực rõ ràng khuôn mặt của Nhã Trúc một nửa thấy bên ngoài có phần ánh sáng. Còn một nửa bên kia, chìm khuất vào phần bóng tối mờ mờ phảng phất dáng dấp nhân diện của Ngọc Anh, tuy không được rõ nét, nhưng khi cần, bà sử dụng một nhãn thức xuất thế phi thường đã giúp cho bà hiểu một nửa sự sống là của Nhã Trúc, một nửa trú thân giờ đây đã do Ngọc Anh ngấm ngầm biểu thị và đốc thúc những quyết định thầm kính của Nhã Trúc.
Bà biết ngay phải làm gì để sớm chấm dứt tình trạng nhất sinh lưỡng hồn, có thể khiến cho Nhã Trúc, con gái của bà trở thành người thất tán hồn phách, sống ngơ ngơ ngẩn ngẩn như kẻ không còn tự chủ để tự quyết định đúng đắn tất cả những ý nghĩ của cô.
Bà vội rút vào phòng riêng, nhấc điện thoại gọi đến trình bày tự sự cho một vị giáo chủ cao minh hành đạo ở trong vùng. Đồng thời, bà cũng gọi cho cha mẹ của Ngọc Anh vốn là chỗ rất thâm tình để trình bày tất cả những điều bà đã phát hiện cùng với những dự định để tìm cách cầu siêu tịnh độ cho Ngọc Anh. Cũng là cách tìm lại quân bình tâm thức cho Nhã Trúc, đứa con gái yêu thương của bà.
Điện thoại xong, trước tất cả mọi việc cần phải gấp rút thi hành ngay sau đó, bà tiến sang cửa phòng đang đóng im lìm của Nhã Trúc, từ tốn gõ nhẹ mấy tiếng.
Không thấy Nhã Trúc lên tiếng trả lời. Bà đẩy cánh cửa ghé nhìn vào. Nhã Trúc nằm ngủ say bình thường. Nhìn nét mặt của cô con gái, một nửa chìm xuống phần vải gối êm, phần còn lại bình dị như mọi lúc thường.
Bà An yên lòng để lại cho con một mảnh giấy dặn dò theo lệ:
- Đêm nay con đừng về khuya quá kẻo bị lạnh, cảm thì khổ nghe con!
Nhã Trúc thức dậy sau một giấc ngủ dài. Dù là đêm mùa hè, theo thói quen, mẹ nàng vẫn cài kín các cánh cửa kính để đảm bảo cho mọi sự an toàn, nhưng Nhã Trúc vẫn cảm thấy trong người cô lạnh buốt khác thường.
Cô mặc thêm một cái áo len dày và đi ra ngoài nhà bếp để tìm một vài món ăn. Lục lọi một lúc, Nhã Trúc ngồi xuống ăn hết một cái bánh nhỏ và uống một hộp sữa mà mẹ cô đã để sẵn trong tủ lạnh.
Nhã Trúc nhắc điện thoại và không cần coi lại số phone, cô gọi đúng số phone của Quân, nói với anh rằng cô đang rất muốn gặp anh lắm.
Bên đầu dây bên kia, Quân trả lời với giọng mệt mỏi:
- Có chuyện gì cần lắm không vậy Nhã Trúc? Hiện giờ anh đang rất mệt mỏi, vả lại anh cũng không muốn bỏ Ngọc Anh nằm lại đây một mình, nếu như em có việc gì cần giãi bày gấp thì có lẽ em nên đến đây, chúng ta cùng ở cạnh Ngọc Anh trong lúc này em ạ!
Nhã Trúc vờ như không nghe. Cô khẩn khoản yêu cầu:
- Em muốn gặp anh ngay bây giờ. Có việc cần lắm! Anh đến quán "Đợi chờ" gặp em, ngay bây giờ nhé?
Nói xong cô cúp máy, không kịp để cho Quân nói thêm nửa lời, vì cô biết, nếu để Quân có dịp lên tiếng thì chắc chắn Quân sẽ từ chối, thà rằng cô cứ đặt Quân vào tình thế như vậy, hẳn Quân sẽ không nỡ để cô một mình chờ đợi mỏi mòn ở đó
Nhã Trúc trở vào phòng ngủ lấy cái ví tay, nhẹ nhàng không gây một tiếng động nhỏ, rồi cô lách cửa ra xe rồ máy chạy thẳng đến nơi đã hẹn với Quân.
Nhã Trúc tới chỗ hẹn trước khoảng hơn mười phút mới thấy Quân đến. Dáng vẻ Quân bơ phờ mêït mỏi và thể hiện rõ sự khó chịu khi phải đến đây gặp Nhã Trúc trong hoàn cảnh bói rối tang ma như vậy.
Nhưng Nhã Trúc không quan tâm lắm đến những điều đó, cô mỉm cười sung sướng và đứng lên ôm chầm lấy Quân khi Quân chưa kịp ngồi xuống ghế, khiến Quân quá đỗi bỡ ngỡ, không kịp phản ứng đành đứng chết trân nhận lấy nụ hôn cuồng dại của Nhã Trúc.
Nhã Trúc nói trong hơi thở dồn dập:
- Em nhớ anh, em nhớ anh nhiều lắm… Anh có biết không? Anh có nhớ em không?
Quân hoảng hốt, lùi lại một bước rồi ngó trân trân vào Nhã Trúc, lắp bắp hỏi:
- Nhã Trúc… em… em làm sao vậy?
Nhã Trúc không những không phật lòng hay sượng sùng gì cả, trái lại cô còn cười rất duyên, tiến sát tới có ý muốn ôm lấy Quân lần nữa.
Quân không tránh khỏi kinh ngạc trước cử chỉ quá thân mật và bất ngờ của Nhã Trúc. Anh vội vã khoát tay:
- Nhã Trúc! Em làm gì kỳ vậy? Em không nhớ chúng ta sắp sửa phải đến với Ngọc Anh sao? Chúng ta sắp sửa đưa cô ấy về nơi an nghỉ sau cùng rồi…, em không nhớ sao?
Quân c tình nhắc đến tên Ngọc Anh để Nhã Trúc nhớ lại mối quan hệ giữa anh và Ngọc Anh mà đừng thể hiện những cử chỉ suồng sã đó nữa, nhưng Nhã Trúc vẫn tỉnh bơ:
- Nhớ! Em nhớ rõ lắm. Nhưng bây giờ còn sớm, chưa tới giờ mà. Anh hãy chiều em một chút rồi em sẽ nói hết mọi việc cho anh nghe! Chịu chưa?
Quân lùi lại nửa bước như cố gắng giữ lấy khoảng cách bình thường trong khi Nhã Trúc cứ lù lù sấn tới.
Quân vô cùng ngạc nhiên trước người bạn gái của người mình yêu, thường ngày vốn rất thùy mị đoan trang, hôm nay tự nhiên lại làm những việc khác thường như thế.
Nhưng giữa lúc này, Quân cũng không có đủ tinh thần và thời gian để suy nghĩ cặn kẽ mọi việc, anh muốn kết thúc sớm vở bi hài kịch này để mau mau trở về với Ngọc Anh đang nằm trong nhà quàn lạnh lẽo chờ sáng ngày mai được người ta đưa về lòng đất. Vì vậy, Quân nghiêm mặt nói với Nhã Trúc:
- Anh không biết hôm nay tinh thần em bất ổn ra sao, hoặc em có ý đồ gì, nhưng anh không thể chấp nhận cái kiểu đó, anh không muốn em xúc phạm tới vong linh của Ngọc Anh…
Nhã Trúc mỉm cười vẻ hài lòng:
- Anh lạ lắm phải không, Quân? Anh không nghĩ rằng em là Ngọc Anh của anh ngày nào hay sao? Hôm nay em phải mượn tạm thân xác của Nhã Trúc, bạn em để được cùng anh trò chuyện, cho thỏa biết bao nhiêu mong nhớ trong gần một năm trời xa cách…
Nói tới đó, Nhã Trúc dừng lại một chút rồi nghẹn ngào nói tiếp:
- Đáng lẽ ra… chỉ còn hơn tuần lễ nữa là em được về sống mãi bên anh, chúng ta sẽ làm lễ cưới, sẽ chính thức thành vợ chồng… Nhưng số phận trớ trêu đã bắt em phải xa lìa tất cả, bắt em phải bỏ lỡ tất cả những gì em khao khát bao lâu nay…
Nghe Nhã Trúc nói như vậy, tự nhiên Quân cảm thấy một sự sợ hãi gợn lên trong lòng mình, làm các lỗ chân lông dường như dựng đứng cả lên. Tuy nhiên anh cũng đánh bạo hỏi chuyện Ngọc Anh, giờ đây đang trú ngụ trong thân xác của Nhã Trúc.
Những câu hỏi mà Quân đặt ra là những câu chỉ liên quan đến những điều thật riêng tư giữa anh với Ngọc Anh mà không một ai nữa được biết, kể cả Nhã Trúc.
Ngọc Anh, qua hình dạng của Nhã Trúc bằng xương bằng thịt, đã trả lời Quân thật rõ ràng chính xác. Ngọc Anh còn như thấu hiểu tâm trạng đầy ngờ vực của người yêu, nhưng cô cũng chẳng tỏ ra điều gì bất bình.
Như thói quen giữa Ngọc Anh và Quân mỗi khi hẹn hò ân ái, Nhã Trúc sà vào vòng tay Quân, tựa đầu lên vai anh như muốn tìm lại nơi anh một sự che chở bình yên.
Nhã Trúc nói trong hơi thở nhỏ nhẹ:
- Quân!... Anh hãy ôm chặt lấy em. Em cảm thấy lạnh lắm! Rồi hãy hôn em như mọi khi anh vẫn làm. Nhanh lên đi anh…
Như một kẻ mất hết hồn vía, Quân nhẹ nhàng giang rộng vòng tay ôm chặt lấy Nhã Trúc và đặt lên môi cô một nụ hôn nồng nàng, say đắm…
Bỗng dưng Quân chợt tỉnh thức như vừa trải qua một cơn mê tội tình, đúng vào lúc Nhã Trúc (hay là Ngọc Anh, Quân cũng không biết rõ!) hé cặp mắt mãn nguyện nhìn anh.
Cùng lúc đó, Nhã Trúc cũng choàng bật dậy như vừa trải qua một giấc chiêm bao. Có lẽ Nhã Trúc đã hoàn hồn nhận chân ra sự thật. Cô bẽn lẽn dấu mặt quay đi...
- Anh... ! Anh đã phạm một tội lỗi tày trời mà anh... Chính anh không thể tự chủ được... Anh xin lỗi... anh xin lỗi Nhã Trúc. Anh biết phải làm sao bây giờ?
Gương mặt thành khẩn của người thanh niên nói lên tất cả nỗi niềm ái ngại ăn năn. Anh không hề có chút chủ tâm cố ý dụ dỗ hay lợi dụng Nhã Trúc. Nhưng mọi việc đã diễn ra trong sự vô thức của cả hai người.
Phần Nhã Trúc như đang phải sống lẫn lộn trong một trạng thái nửa tỉnh nửa mê. Nửa cũng ái ngại muộn phiền, nửa còn lại thì tỏ ra hoàn toàn hưng phấn, khiến khuôn mặt của Nhã Trúc có lúc rạng rỡ vô bờ, khi thì trĩu nặng mối ưu tư da diết.
Rồi đột ngột, linh hồn Ngọc Anh lại khống chế hoàn toàn Nhã Trúc, cô vùng lên ôm chặt lấy Quân, nói trong hơi thở gấp gáp đầy dục vọng:
- Anh ơi… em sắp phải đi rất xa rồi… em là vợ anh, dẫu cho mình chưa kịp làm đám cưới, nhưng em đã xem mình là vợ của anh rồi. Vậy thì lúc này đây, anh hãy cho em được hưởng cái hạnh phúc làm vợ trước khi em mãi mãi xa anh… Chúng mình sẽ thật sự là vợ chồng với nhau, dù chỉ trong một khoảnh khắc vô cùng ngắn ngủi, nhé anh?
Aùnh mắt Nhã Trúc nhìn Quân chứa chan nỗi niềm trìu mến, yêu thương, lời của Nhã Trúc gần như van xin anh vậy.
Trong một thoáng Quan cũng xao lòng, anh thấy trước mắt mình là người vợ hứa hôn mà ngày đêm anh trông ngóng, là người yêu mà anh luôn khao khát chờ đợi ngày được cùng cô hát trọn khúc nhạc ái ân… Quân muốn ôm ghì lấy cô, muốn thực hiện theo những lời cô nói, nhưng khi tay Quân vừa chạm vào tay Nhã Trúc, anh lại cảm nhận được một sự xa lạ, điều đó khiến Quân tỉnh hẳn lại.
Anh nhĩn Nhã Trúc, buồn bã lắc đầu:
- Anh không thể… Dù cho em có thật sự là Ngọc Anh đi nữa, nhưng cái thân xác này là của Nhã Trúc, cả anh và em, hai chúng ta không ai có quyền dẫm đạp lên xác thân của bạn mình để đạt được mục đích riêng tư. Anh nghĩ em hiểu được điều đó mà, nếu em thật sự là Ngọc Anh của anh? Có thể lúc này đây, do tình cảm bộc phát, nhất thời em không nghĩ tới, không lường trước những hậu quả tai hại mà chúng ta sẽ để lại cho Nhã Trúc nếu chúng ta làm thế… Đúng không em?
Nhã Trúc khựng lại và bắt xịu xuống. Cô lí nhí:
- Em… em xin lỗi! Thật sự em không nghĩ tới điều này… em chỉ muốn chúng ta có được nhau…
Quân xót xa khẽ vỗ nhẹ lên vai Nhã Trúc:
- Anh hiểu… Nếu em là Ngọc Anh thì chắc em phải hiểu được những nỗi đau mà hiện tại cha mẹ em, bạn bè thân thuộc của em, anh và cả Nhã Trúc nữa đang mang nặng trong lòng vì cái chết của em… em đừng vì chuyện riêng của mình mà gây thêm đua khổ cho người khác nữa… Anh cũng đau đớn lắm khi mất em, anh cũng rất muốn được cùng em sống đời chồng vợ dù có ngắn ngủi cũng là hạnh phúc, nhưng mà là cùng với linh hồn và cả thể xác của em kia… em hiểu anh không?
Nhã Trúc ngồi phệt xuống ghế, thút thít khóc.
Quân nhẹ nhàng đến bên đặt một tay lên vai cô an ủi:
- Mình chưa kịp cưới nhau đã phải âm dương hai đường cách biệt, âu đó cũng là số mệnh mà ông trời đã sắp đặt cho chúng ta, bắt chúng ta phải khổ như thế… Em cũng đừng buồn… Bây giờ chúng ta hãy nói hết với nhau những gì cần nói…
Nhã Trúc nghẹn ngào kể lể những nỗi nhớ mong trong khoảng thời gian xa vắng, cô kể cho Quân nghe về việc xích mích giữa cô với  một bạn sinh viên cùng trường và sau đó không lâu, kẻ ấy đã ra tay tàn độc giết chết cô…
Quân cũng lặng lẽ khóc, nhưng lúc này lòng anh đã không còn những bấn loạn như lúc mới vừa nghe báo hung tin. Mấy ngày nay, lúc nào Quân cũng cố cắn răng tự nhủ với lòng mình rằng, đó là số phận, là số phận thì không ai có thể tránh khỏi được, là số phận thì đành phải cúi đầu chấp nhận mà thôi…
Giờ đây, ngồi trước mặt Quân là một cô gái khác nhưng lại đang mang trong người linh hồn của người anh yêu. Điều đó cũng làm cho Quân vô cùng đau đớn.
Anh muốn ôm hôn người yêu nhưng không thể làm được, muốn nói những lời âu yếm nhất mà cũng không thể nói ra lời…
Cuối cùng, Quân chỉ nói với linh hồn Ngọc Anh được một câu:
- Anh thật đau lòng trước cái chết oan ức của em…
Nhã Trúc khe khẽ lắc đầu:
- Em tuy chết thảm thương, nhưng không phải là oan ức anh à! Số phần em đã mãn rồi, có điều cái kết thúc này hơi đi quá đà một chút thôi…
Đột ngột, Nhã Trúc đứng lên nói nhỏ:
- Thôi, mình về đi anh, chắc ở đó mọi người đang đợi…
Vừa nói dứt câu, Nhã Trúc lảo đảo như suýt ngã, Quân vội vàng đưa tay ra đỡ lấy cô. Khi đã đứng vững được, Nhã Trúc đưa mắt ngó quanh, ngỡ ngàng hỏi:
- Anh… anh Quân, sao chúng ta lại đến đây?
Quân ngạc nhiên hỏi lại:
- Em không nhớ gì sao?
Nhã Trúc ngơ ngác:
- Nhớ gì hả anh? Em nhớ mình đang ở nhà quàn với Ngọc Anh mà? Sao tự nhiên lại ở đây?
Quân buồn rầu nói:
- Có thể anh nói ra em sẽ không tin, nhưng vừa mới đây Ngọc Anh đã mượn tạm thân xác của em để hồn cô ấy nhập vào mà nói chuyện cùng anh… Anh và cô ấy thật có lỗi, mong em bỏ qua cho…
Nhã Trúc mở to mắt kinh ngạc:
- Anh nói sao? Ngọc Anh nhập hồn vào xác em? Chuyện như thế nào anh nói cho em biết đi?
Quân lắc đầu:
- Thôi em ạ, để từ từ rồi anh kể, bây giờ anh mệt mỏi lắm rồi… Với lại mình còn phải về nhà quàn nữa…
Nhã Trúc mở miệng tính phản đối, nhưng trông thấy vẻ thiểu não của Quân cô lại không nỡ dồn ép, đành phải ôm nỗi niềm thắc mắc lặng lẽ theo Quân trở về nơi đặt linh cửu của Ngọc Anh chờ giờ an táng.
Suốt đêm đó Quân, Nhã Trúc và một vài người thân của Ngọc Anh thức suốt bên linh cửu cô, không ai chịu kiếm một nơi nào để tạm chợp mắt.
Nhã Trúc bình thường rất sợ ma, nhưng trước cái chết của người bạn thân thiết này cô lại hoàn toàn không thấy sợ hãi gì cả. Có lúc cô còn muốn được mở nắp quan tài ra để được trông thấy bạn lần sau cùng. Nhưng đó chỉ là mong muốn của cô thôi, không ai đáp ứng được. Ngọc Anh chết ở nước ngoài, phải mất nhiều thời gian mới đưa về nwosc được, rồi lại nằm đây hai hôm nay, xác thân cô lúc này chắc đã bắt đầu phân hủy…
Nghĩ tới điều đó, Nhã Trúc không khỏi nghẹn ngào. Cô cứ đi quanh quẩn cạnh quan tài, hết lau chỗ này chỗ nọ, lại sửa lại một ngọn nến hơi nghiêng… Có lúc cô còn thầm thì to nhỏ như đang nói chuyện với bạn mình.
Quân thì ngồi bó gối cạnh bên, mặt mày bơ phờ hốc hác.
Đêm dài rồi cũng trôi qua, mặt trời đã lên báo hiệu giờ chia tay vĩnh viễn sắp đến…
Nhà xác hôm nay có thêm sự hiện diện của nhiều người. Bên trong căn phòng để quan tài Ngọc Anh có nhiều Phật tử tăng ni cùng với ba vị cao tăng được thỉnh đến đây để liên tục cử hành các nghi lễ cúng tế tụng cầu siêu và “trò chuyện” với người đã chết đang nằm trong cỗ quan tài.
Khi mọi nghi lễ đã hoàn tất, cỗ quan tài của Ngọc Anh được nâng lên đặt vào xe và nối sau chiếc xe tang là một dãy dài người nào mắt cũng đỏ hoe đi theo đưa tiễn linh cửu Ngọc Anh về với nơi an táng.
Nhã Trúc đi lẫn trong trong người ấy, cô đi như trong mơ, bước thấp bước cao không tự chủ được.
Có đôi lúc, Nhã Trúc thấy như mình không muốn đi lên phía trước mà có một lực nào đó trì níu cô lại, thúc giục cô quay đầu chạy ngược trở lại…
Có lúc, Nhã Trúc lại tiến nhanh lên, chen lấn giữa dòng người để tiến sát lại bên Quân, cô dường như muốn tỏ ra những thái độ thật thân thiết với Quân, nhưng lần nào cũng bị các vị thầy tu cản lối. Cô đành phải đi lùi lại phía sau…
***
Chiều đã xuống hẳn không còn vương bóng nắng. Không gian mang một màu xám đục đìu hiu. Trời không có gió nhưng Nhã Trúc cảm thấy cơ thể của cô lạnh khác thường. Những cảm giác bải hoải ê ẩm khắp khiến Nhã Trúc cảm thấy mệt mỏi rã rời.
Nhã Trúc bước vào nhà trong khi bà An vừa quay lưng lại trước bàn thờ Phật. Bà cụ kín đáo nhìn con rồi lên tiếng, ánh mắt cụ phảng phất nỗi lo âu:
- Con đã về? Tang lễ đã xong hết rồi phải không con?
Nhã Trúc đáp trong khi không nhìn thẳng vào khuôn mặt hiền từ của mẹ:
- Dạ!
Bà An không tỏ vẻ phật lòng mà điềm nhiên nói tiếp:
- Chắc con đã mệt, hãy tắm gội rồi ra ăn chút gì kẻo đói. Thức ăn mẹ đã dọn sẵn để cả ở trên bàn.
Nhã Trúc cúi đầu nói khẽ:
- Cám ơn mẹ! Con đi tắm rồi sẽ ra ngay…
Nói xong, Nhã Trúc bước về phòng riêng, tắm rửa qua loa rồi trở ra phòng ăn.
Cô hỏi mẹ:
- Lúc nãy con nghe người nhà Ngọc Anh nói mẹ dặn con về sớm. Có chuyện gì cần nói với con vậy mẹ?
Bà An khẽ cười:
- Không! Mẹ chỉ sợ con về tối, khi trong người không được khỏe thì không tốt nên mới nhắn vậy thôi. À, từ hôm nay trở đi sẽ có các thầy cùng với ban tụng niệm của chùa mỗi ngày sẽ đến tụng kinh siêu độ cho Ngọc Anh cho đến ngày cúng thất đó, con có biết chưa? Đó là do mẹ Ngọc Anh nhờ mẹ liên lạc với sư trụ trì ở chùa mà mẹ quy y để nhờ người giúp đỡ.
Nhã Trúc thản nhiên nghe mẹ nói như vậy, không chút thắc mắc. Tang lễ nào cũng đều tiến hành đầy đủ các nghi thức tôn giáo để cầu nguyện siêu thăng tịnh độ cho hương hồn người chết, điều đó cũng không có gì đặc biệt.
Cô đáp lời mẹ:
- Vậy hả mẹ! Con đã thấy các Thầy cùng các Phật tử đến tụng kinh hôm nay.
Bà An gật đầu:
- Phải rồi! Ngày mai cũng sẽ như thế cho đến khi lễ cúng thất hoàn tất, nhưng sau đó vẫn còn phải nhờ nhà chùa tụng niệm mãi cho Ngọc Anh. Con quên Ngọc Anh đã chết bất đắc kỳ tử trong một hoàn cảnh quá bi thương hay sao?
Gương mặt Nhã Trúc tự nhiên tối sầm lại như chính cô đang mang nặng một nỗi buồn.
Aên chưa hết chén cơm, Nhã Trúc than mệt rồi nhờ mẹ dọn bàn giúp, cô vào phòng riêng đóng kín cửa lại.
Bà An nhìn theo dáng con với vẻ ái ngại, nhưng bà không biết làm cách nào khác hơn van vái phật trời, và tin tưởng vào quyền năng của các vị sư phụ đang ngày đêm tụng niệm cầu siêu cho Ngọc Anh sớm mau siêu thoát.
Bà An cũng không ăn nổi bữa cơm khi thấy con gái như vậy. Bà buồn rầu dọn dẹp xong rồi lên ngồi xếp bằng tròn trước bàn thờ phật, tay lần tràng hạt, miệng lâm râm niệm phật.
Mãi đến hơn một giờ sau, bà an mới đứng lên vào phòng thăm con gái, nhưng cửa phòng Nhã Trúc đã đóng kín, khác với thông thường, cả hai mẹ con chưa bao giờ đóng chặt cửa phòng khi ngủ.
Bà An đứng tần ngần trước cửa phòng con gái một lát rồi lặng lẽ về phòng mình, trong đầu bà biết bao nhiêu nỗi lo âu sợ sệt.
Bà đã từng nghe kể có người bị ma nhập một thời gian dài, đến lúc hồn ma đó rời bỏ xác thân thì người kia hóa ra kẻ ngơ ngơ ngẩn ngẩn, rồi lại có người chỉ bị ma ám không thôi chứ chưa phải là nhập hẳn vào thân xác mà cuộc đời cũng bỏ đi luôn…
Nhã Trúc, đứa con gái hiền lành tội nghiệp của bà đâu làm gì nên tội, Ngọc Anh lại là bạn thân nhất của nó, không lẽ nào nó lại phải vướng vào vòng oan khiên đến thế này sao?
Nhã Trúc còn chưa kịp có người yêu, đường tương lai của nó vẫn còn dài thăm thẳm, nói dại, nếu như Nhã Trúc hóa điên hóa dại thì bà biết phải làm sao đây?
Nước mắt lăn dài xuống đôi má già nua của bà An, bà lặng lẽ khóc thầm trong đêm tối.
Bà An khóc mệt mỏi rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết, đến lúc bà giật mình thức giấc thì đã hơn một giờ sáng. Bà trỗi dậy, đi tới phòng Nhã Trúc lần nữa, lần này cánh cửa phòng chỉ khép hờ chứ không đóng chặt.
Thật nhẹ nhàng, bà An đẩy cửa bước vào, nhưng thật lạ, trên giường không có ai!
Bà đi vội ra cửa ngó xuống nhà bếp, ở dưới đó tối thui, cả ngôi nhà cũng tối thui chứng tỏ không phải Nhã Trúc thức dậy và đi làm gì đó trong nhà.
- Nhã Trúc ơi, con đâu rồi?
Bà An cất tiếng gọi lớn nhưng không có ai trả lời.
Bà chạy vội ra trước, cửa nhà cũng chỉ khép hờ chứ không đóng. Vậy là Nhã Trúc đã đi ra khỏi nhà rồi!
Trời ơi, giữa đêm hôm khuya khoắt thế này mà nó một thân một mình ra đường làm gì chứ? Nó đi đâu được vào giờ này?
Hoảng sợ, bà An vội vã nhấc điện thoại gọi tới nhà Ngọc Anh.
- A lô, tôi nghe đây, xin lỗi ai gọi thế?
Tiếng đàn ông – có lẽ là ba Ngọc Anh – lo lắng vì cuộc gọi lúc nửa khuya thường không mang tới chuyện lành.
Bà An run giọng:
- Xin lỗi… tôi xin lỗi vì đã gọi cho anh chị vào giờ này… Tôi là mẹ của Nhã Trúc đây ạ! Nhã Trúc nó… nó đi đâu mất rồi…
- Sao? Chị nói sao? Nhã Trúc đi đâu vào lúc đêm hôm thế này?
Ba Ngọc Anh tỉnh hẳn ngủ, hốt hoảng.
- Tôi… tôi cũng không biết nên nhờ anh chị xem giùm chỗ nào mà khi còn sống Ngọc Anh thường đến…
Nghe tiếng nói như sắp khóc của mẹ Nhã Trúc ở đầu dây bên kia, ba Ngọc Anh cố trấn tỉnh để an ủi:
- Không sao đâu… chị đừng lo lắng quá. Chúng tôi sẽ đi tìm Nhã Trúc ngay bây giờ. Chị cứ ở nhà chờ điện thoại của tôi nhé, khi có tin tức của Nhã Trúc, tôi sẽ lập tức gọi cho chị ngay…
Ông Thành – ba Ngọc Anh – vừa đặt điện thoại xuống thì bà Thành vừa hớt hải đi ra vừa đưa tay vấn lại mái tóc.
Bà hỏi:
- Có chuyện gì vậy ông? Ai gọi thế?
- Chị An, mẹ của Nhã Trúc gọi tới báo tin Nhã Trúc đã đi đâu mất trong đêm rồi…
Ông Thành vừa chau mày suy nghĩ vừa trả lời vợ.
Bà Thành đưa một tay lên ngực, miệng kêu lên khe khẽ:
- Trời ơi… chẳng lẽ con Ngọc Anh nhà mình nó vẫn chưa chịu…
Câu chuyện Ngọc Anh nhập hồn vào thân xác của Nhã Trúc đã được Quân và bà An kể lại cho ông bà Thành biết, hai ông bà cũng rất tin vào việc đó nên đã nhờ cậy bà An thỉnh các vị sư phụ đến tụng niệm, vì bà an đã quy y làm phật tử trong chùa từ rất lâu, nên quen biết nhiều.
Vợ chồng ông Thành đều cảm thấy mình phải có trách nhiệm với những hành vi không bình thường của Nhã Trúc, vì họ đều tin đó là do Ngọc Anh điều khiển thân xác Nhã Trúc làm vậy.
- Bà có nghĩ ra được chỗ nào mà con Ngọc Anh nhà mình có thể đến vào lúc đêm hôm như vầy không?
Ông Thành ngước lên hỏi vợ.
Bà Thành lặng đi một lúc rồi reo lên:
- Tôi nghĩ ra rồi, ông đi theo tôi!
Vừa nói, bà Thành vừa nắm tay chồng lôi theo mình ra phía trước. Bà hấp tấp mở rồi ra hiệu cho chồng, cả hai người rón rén tiến ra vườn hoa phía trước nhà.
Vườn hoa nhà ông bà Thành không rộng lắm nhưng được thiết kế rất lạ mắt. Ông Thành là một kiến trúc sư có tên tuổi, bà Thành lại là một nghệ sĩ sắp đặt có tài thì vườn hoa nhà ông bà khỏi phải nói cũng biết là nó rất đặc sắc rồi.
Từ lúc còn bé Ngọc Anh đã đặc biệt mê mẩn khu vườn này. Cô thường ví von đây là vườn thượng uyển và cô chính là cô công chúa nhỏ trong vương quốc gia đình. Rồi có lúc cô lại ví đây là vườn hoa trên thượng giới, cô giống như Hằng Nga tung tăng đùa giỡn mỗi ngày.
Trí tưởng tượng của Ngọc Anh vô cùng phong phú, chỉ có mỗi một khu vườn nhỏ đó mà cô đã gán cho nó không biết bao nhiêu tên gọi. Và những lúc vui hay buồn gì thì góc nhỏ trong khu vườn, chỗ có chiế xích đu kia chính là nơi Ngọc anh luôn tìm đến.
Bà Thành đã nhớ ra chi tiết đó nên vội vã dẫn chồng ra đó.
Quả nhiên bà đã không sai! Trên chiếc ghế xích đu là một người con gái với mái tóc thật dài xoã xuống đến thắt lưng, trên người mặc bộ đồ ngủ đơn giản ở nhà. Người con gái đó không ai khác Nhã Trúc.
Nhưng tại sao Nhã Trúc lại vào được đây khi cổng nhà ông Thanh vẫn đang khóa kín và tường rào thì cao chót vót lại có gắn miểng chai để phòng kẻ gian trèo vào trộm cắp?
Hai vợ chồng ông Thanh tròn mắt nhìn nhau không ai dám thốt lên lời. Trên chiếc xích đu, Nhã Trúc vẫn ngồi một cách lặng lẽ, đầu cô cúi gục xuống, hai bờ vai run lên nhè nhẹ, hình như cô đang khóc…
Từ trước tới nay hễ nghe ai kể chuyện ma quỷ là bà Thanh sợ phát khiếp. Bà vốn nhát gan, không bao giờ bà dám ra vườn một mình vào ban đêm, cũng chưa bao giờ bà dám tới gần người chết. Nhưng mới đây, đứa con gái thương yêu của bà không may qua đời nơi xứ lạ quê người, khi thân xác nó được đưa về tới nhà thì bà không được phép nhìn tận mặt nó lần sau cuối. Bà không hề sợ hãi, bà lồng lộn như điên, cứ khăng khăng đòi người ta phải mở nắp quan tài ra cho bà nhìn mặt…
Những ngày cửa hành tang lễ, bà cũng không hề biết sợ là gì. Lúc nghe Quân và bà An kể lại việc Ngọc Anh nhập hồn vào Nhã Trúc, bà còn có vẻ không đồng ý. Trong đầu bà Thanh thầm nghĩ, thà rằng Ngọc Anh cứ hiện hồn ra trước mắt bà, để bà nhìn thấy con lần nữa, dù chỉ là hồn ma bóng quế bà cũng thỏa lòng hơn là nó về dưới hình dạng bên ngoài của người khác, như vậy rất khó để bà tỏ hết tình yêu thương nhớ tiếc…
Giờ đây, nhìn thấy Nhã Trúc ngồi một mình bà cũng đau lòng ghê lắm, bà chỉ muốn chạy tới ôm chầm lấy cô mà gọi “Ngọc Anh của mẹ!”, nhưng thật khó làm sao vì mặt mũi đó, vóc dáng đó hoàn toàn không phải con gái của bà!
Sau một lúc đắn đo, ông Thanh mạnh dạn tiến tới, vừa đi ông vừa lên tiếng tằng hắng để tránh cho Nhã Trúc khỏi phải giật mình kinh sợ.
- Sao con lại ngồi đây giờ này? Con có biết mẹ con ở nhà lo cho con lắm không?
Ông Thanh làm như không hề biết tới chuyện nhập hồn, mà đang nói chuyện bình thường với Nhã Trúc.
Nhã Trúc ngước lên nhìn ông, ấp úng:
- Dạ… con… dạ…
Vừa nói tới đó chợt trông thấy bà Thanh, cô mừng rỡ đứng phắt ngay dậy chạy vội tới ôm chầm lấy bà:
- Mẹ… mẹ ơi…
Mặc dù không bất ngờ, nhưng bà Thanh vẫn thấy hơi ngỡ ngàng khi từ miệng Nhã Trúc bật ra tiếng gọi bà là mẹ.
Bà hơi lúng túng, nhưng rồi ngay sau đó, lòng mẹ thường con đã giúp bà Thanh nhìn thấu linh hồn tội nghiệp của Ngọc Anh đang tha thiết chờ mong những cử chỉ yêu thương của bà đáp lại.
Bà ôm cô gái vào lòng, vuốt mái tóc thay vì ngắn tới ngang vai, bây giờ là dài tận thắt lưng, nói trong tiếng khóc:
- Con ơi… thật tội nghịêp cho con tôi…
Bà Thanh nghẹn ngào không nói tiếp được lời nào nữa. Cả hai mẹ con cứ đứng đo ôm chặt lấy nhau mà nước mắt tuôn tràn thổn thức.
Ông Thanh đứng một bên quan sát, ông cũng không cầm được nước mắt, những giọt lệ chầm chậm lăn dài trên má ông. Ông Thanh đưa tay khẽ lau nước mắt rồi rảo chân vào nhà nhấc điện thoại gọi cho bà An:
- A lô, chị An à, chúng tôi đã tìm thấy Nhã Trúc rồi, chị yên tâm đi nhé! Nó ở trong vườn nhà tôi… Dạ… Dạ… nếu chị cho phép, tối nay xin được phép cho Nhã Trúc nghỉ lại nhà tôi một đêm… Dạ… Dạ… thật cảm ơn chị! Cảm ơn chị nhiều lắm… Chị an tâm ngủ đi nhé, chào chị!
Đặt điện thoại xuống, ông Thanh trở ra vườn giữa lúc hai mẹ con đang tâm tình kể lể. Ông im lặng lắng nghe, mãi một hồi lâu sau mới lên tiếng:
- Con thật sự là Ngọc Anh? Linh hồn con thật sự đang nương nhờ thân xác của Nhã Trúc, phải không con?
Nhã Trúc ngước nhìn ông Thành, ánh mắt như van lơn:
- Dạ… chính con là Ngọc Anh… Nếu ba không tin, ba có thể hỏi bất cứ điều gì liên quan tới con, con sẽ nói không sai đâu… con đúng là con gái của bam ẹ mà…
Ông Thanh gật đầu:
- Ba chỉ hỏi thế để khẳng định lại một lần nữa vậy thôi, chứ thật ra ba cũng không nghi ngờ chuyện đó, vì ba đã được nghe mẹ của Nhã Trúc và Quân kể lại hết rồi… Bây giờ, ba chỉ muốn hỏi con, con dự định sẽ như thế nào?
Nhã Trúc cúi mặt khóc thút thít:
- Ba… ba không muốn gặp lại con sao? Ba muốn đuổi con đi sao ba?
Ông Thanh đứt từng khúc ruột khi nghe con gái trách hờn, nhưng ông biết không thể để tình trạng này kéo dài, sẽ không tốt cho bất cứ một ai. Vì nghĩ vậy nên ông nghiêm giọng nói:
- Ba mẹ chỉ có mỗi một mình con là con gái. Con lại là đứa ngoan ngoãn, giỏi giang, ba mẹ tự hào về con biết mấy, yêu thương con biết mấy! Điều đó con cũng biết mà, phải không con? Con ra đi, đó là nỗi đau to lớn của ba, nếu được phép đánh đổi, ba sẵn sàng đổi thân mình để cho con được sống, được thực hiện những ước mơ, những hoài bão mà từ lâu nay con khát khao, ôm ấp… Nhưng… ông trời đâu có chìu lòng người… số phận đã buột gia đình chúng ta phải chịu cảnh sinh ly tử biệt, cảnh tre già phải khóc măng non… Ba đau đớn lắm… Nếu như làm một điều gì đó mà trả cho con được sự sống thì dù có phải chịu bất kỳ hình phạt nào ba cũng không từ nan… con biết mà, phải không con gái?
Ông thanh âu yếm nhìn con, cái nhìn thiết tha nhưng buồn đau đáu…
Nhã Trúc tiến tới cạnh ông, gục đầu vào ngực cha khóc tức tưởi…
Bà Thanh cũng mặt khóc rưng rức…
- Con ạ, mỗi người đều có một số phận riêng… Nếu như cái chết này của con là oan ức, là chưa tới số, thì ba sẽ nhờ các thầy, các sư tụng niệm hàng ngày để vong linh sớm được đưa về nơi cần đến. Còn nếu con đã tới số rồi thì ba mong con nên ngoan ngoãn đi theo người dẫn đường tới đón con đi… Con đừng tưởng ba không thương con, không muốn gặp lại con… Nhưng con ạ, bây giờ con nhìn lại con đi, hình hài này có phải là của con đâu? Khi con xâm chiếm thể xác này thì lại có một vong linh khác phải vật vờ không nơi nương tựa. Mà vong linh đó lại chính là người bạn gái thân thiết nhất đời của con. Con không thương bạn sao? Nhà Nhã Trúc chỉ thui thủi có hai mẹ con, liệu mẹ Nhã Trúc sẽ sống sao đây khi thân xác của con bà đã hoàn toàn bị con chiếm lấy? Mình nghĩ cho mình, nhưng mình cũng phải nghĩ cho người nữa con ạ! Mà cho dù mình ích kỷ, không nghĩ tới ai hết thì sao đây? Liệu con có thể tồn tại mãi trong thân xác này không? Không, không thể được, vì thân thể của ai là linh hồn người đó, bất kỳ sự xâm chiếm nào cũng là tạm bợ mà thôi con ạ, không tồn tại được lâu đâu, cũng không thể đem lại cho con, cho gia đình ta một cuộc sống bình thường vui vẻ được…
- Ba ơi… ba đừng nói nữa… Đừng nói nữa ba ơi… Những điều ba nói con đã biết hết rồi! Anh Quân cũng đã một lần nói với con như vậy rồi, nhưng con không cam tâm, con không chịu được… Con còn rất nhiều, rất nhiều những việc chưa thực hiện được, con chỉ muốn mượn tạm xác thân của Nhã Trúc để làm những điều đó, khi nào hoàn thành, con sẽ trả thân xác này về cho bạn ấy…
Nhã Trúc vừa nói vừa khóc sướt mướt.
Ông thanh khe khẽ lắc đầu:
- Con sai rồi! Con không thể thực hiện bất cứ điều gì bằng thân xác của người khác đâu con ạ! Con hãy nghe lời ba, hãy ngoan ngoãn đi con gái!...
Nhã Trúc quay nhìn về phía bà Thanh như cầu mong sự đồng tình, thỏa hiệp từ bà, nhưng bà Thanh cũng không biết làm sao hơn, bà chỉ lắc đầu rồi khóc ngất…
- Ba mẹ không thương con, không hiểu con… Con chỉ muốn ở lại với ba mẹ một thời gian ngắn nữa mà ba mẹ cũng không đồng ý… Thì thôi, con đi đây…
Nhã Trúc nói với giọng giận dỗi rồi bất thần cô ngã quỵ xuống đất bất tỉnh.
- Con… trời ơi… con sao vầy nè?
Bà Thanh hốt hoảng chạy tới lay Nhã Trúc.
Ông Thanh không nói gì, lặng lẽ bế xốc cô gái vào nhà, đặt cô nàem ngay ngắn trên giường ngủ trong phòng riêng của Ngọc Anh, ông bảo vợ:
- Bà lấy nước ấm lau mặt mũi cho con bé… Thật tội nghiệp…
Ông Thanh đưa tay quẹt vội một giọt nước mắt vừa lăn ra khỏi khóe. Không biết hai tiếng “tội nghiệp” kia là ông dành cho đứa con gái xấu số của mình hay dành cho Nhã Trúc? Có lẽ là cả hai, cả hai cô gái…
Nhã Trúc mơ màng trong giấc ngủ, cô không biết tại sao mấy ngày gần đây đầu óc cô cứ lơ ngơ không tập trung vào bất cứ việc gì được. Nhiều lúc cô có cảm giác mình không còn là mình nữa.
Hôm trước Quân có nói Ngọc Anh đã nhập hồn vào thân xác mình, điều đó có thật không? Sao Ngọc Anh không nói chuyện gì với mình thế nhỉ?
Vừa nghĩ tới đó, Nhã Trúc nhướng mắt nhìn lên và bỗng giật thót cả người vì mọi vật xung quanh mình sao xa lạ quá?
Nhã Trúc ngồi bật dậy dáo dác nhìn quanh, chưa kịp nhận ra đây là đâu thì bà Thanh từ nhà ngoài hấp tấp đi vào, reo lên:
- Con tỉnh rồi! Con đã tỉnh rồi phải không… Nhã Trúc?
- Bác ơi… sao… sao con lại ngủ ở nhà bác thé? Chẳng lẽ hôm qua con không về nhà?...
Nhã Trúc không trả lời bà Thanh mà hỏi lại vì trong đầu cô đang vô cùng thắc mắc.
Bà Thanh đến gần cầm tay Nhã Trúc, đắn đo một lúc rồi nói:
- Bác nói điều này mong cháu đừng sợ hãi và bỏ qua cho gia đình bác… Số là… vừa rồi Ngọc Anh đã nhập hồn vào cháu rồi đi về đây…
- Ngọc Anh nhập hồn vào cháu là có thật sao bác?
Nhã Trúc nửa tin nửa ngờ hỏi lại.
Bà Thanh gật đầu, mắt rơm rớm chực khóc.
Nhã Trúc không nói gì, thật sự cô cũng không cảm thấy sợ hãi nhưng cảm giác của cô mấy ngày nay vô cùng mệt mỏi, nếu điều đó là do sự nhập hồn của Ngọc Anh thì cô không biết mình còn có thể chịu đựng đến khi nào nữa?
Hôm kia, mẹ Nhã Trúc có nói, với một cái chết đột ngột không thể ngờ như vậy nên hương hồn của Ngọc Anh chắc chắn còn nhiều tiếc thương lưu luyến, chưa đành tâm xa lìa thân xác, xa lìa cuộc sống với những liên hệ tình cảm luyến ái thường tình. Một cái chết như vậy, nếu không liên tục lễ tụng và các vị cao tăng chủ lễ không kiên nhẫn ôn tồn và thương yêu giải thích cặn kẽ mọi đều thì Ngọc Anh sẽ khó lòng an tâm ra đi lắm!
Sư thầy đã tụng niệm hai ngày nay rồi, vẫn chưa giác ngộ được Ngọc Anh sao? Mà thôi, nếu như Ngọc Anh cần thân xác mình để tồn tại thêm vài ngày nữa thì mình cũng sẵn sàng hy sinh vì tình bạn… Nhã Trúc thầm nghĩ thế.
Bà Thanh xoa nhẹ lên mái tóc Nhã Trúc, vỗ về:
- Còn sớm lắm, con nằm xuống nghỉ thêm chút nữa đi! Con đừng lo, bác trai đã điện thoại cho mẹ con rồi và mẹ con cũng đã đồng ý để con ở lại nhà bác đêm nay… Thôi, con cố gắng nhắm mắt ngủ thêm tí nữa đi nhé con!
Bà kê chiếc gối lại ngay ngắn rồi đỡ Nhã Trúc nằm xuống xong xuôi rồi bà mới với tay tắt đèn rồi quay về phòng mình.
Nằm một mình trong căn phòng lạ, dưới ánh sáng nhạt nhòa hắt ra bóng đèn ngủ trên tường, Nhã Trúc không sao ngủ được.
Bất chợt, cô cảm thấy có một cái gì đó rất lạnh chạm vào da thịt mình. Giật thót người, Nhã Trúc chưa kịp ngồi bật dậy để quan sát thì nghe có tiếng nói thật nhỏ bên tai:
- Nhã Trúc… bạn đừng sợ… mình là Ngọc Anh đây…!
- Ngọc Anh?
Nhã Trúc lặp lại mà lưỡi như líu lại.
Một bóng trắng thoáng qua mặt Nhã Trúc, phả một luồng hơi lạnh ngắt vào mặt cô giống như ai đó vừa mới mở cánh cửa tủ lạnh ngay sát trước mặt Nhã Trúc vậy.
Một sự sợ hãi tột cùng xâm chiếm lấy Nhã Trúc, cô không dám ngồi dậy, cứ nằm co rúm người lại kéo mền trùm kín lấy mặt, nhưng lạ lùng làm sao, cô vẫn thấy rõ ràng cái bóng trắng lướt qua lướt lại bên ngoài…
- Nhã Trúc ơi… mọi người lên án mình… không cho mình được mượn xác bạn… Nhưng bạn hiểu mình mà, phải không Nhã Trúc? Bạn biết mình thương yêu anh Quân biết bao, mình mong muốn được làm vợ anh ấy biết bao… Nhã Trúc ơi, chỉ có bạn mới giúp được mình mà thôi… Bạn đừng từ chối, bạn giúp mình nhe, Nhã Trúc? Mình van xin bạn đó…
Những câu nói cứ vang lên bên tai Nhã Trúc và cô như kẻ mộng du, từ từ ngồi dậy và bước xuống giường. Nhã Trúc không cần bật đèn, ở trong ngôi nhà không phải nhà mình nhưng cô vẫn có thể đi ra cửa một cách nhẹ nhàng êm thắm, không va vào bất cứ thứ gì trong nhà.
Khẽ khàng mở cánh cửa, Nhã Trúc lách mình ra rồi trèo qua tường rào, mặc kệ những vết xước rớm máu trên người do va phải mảnh chai.
Ra tới đường lộ, Nhã Trúc cứ đi vơ vẩn nhưng bước chân của cô lại nhanh nhẹn một cách khác thường.
Vòng vo qua nhiều ngã rẽ, Nhã Trúc dừng chân trước cửa nhà Quân. Mắt cô nhìn đăm đăm về hướng chiếc ghế đá, nơi mà Ngọc Anh và Quân thường ngồi bên nhau tâm sự trong những ngày cô về nước thăm nhà.
Ba mẹ Quân mất từ hồi anh còn bé, anh chị em lớn lên mỗi người đều có gia đình riêng, nên ngôi nhà này giờ đây chỉ còn một mình Quân sinh sống.
Trời lúc này vẫn còn tối lắm, lại có một cơn mưa nhỏ nên bầy trời càng trở nên tối tăm, u ám.
Chiếc áo mỏng manh mặc ở nhà của Nhã Trúc đã thấm đẫm nước mưa nhưng hình như cô không quan tâm tới… Cô lại một nữa trèo rào vào nhà Quân. Tới trước cánh cửa nhà, Nhã Trúc khẽ khàng gò liên tiếp mấy tiếng lên đó.
- Ai đó? Ai gọi cửa đó?
Tiếng Quân hỏi.
Nhã Trúc không trả lời, cô chỉ gõ tiếp ba cái nữa rồi đứng im chờ Quân.
Không hiểu ai tới nhà giờ này, sao đứng ngoài cổng bấm chuông mà lại vào được tận bên trong rồi mới gõ cửa, Quân vội vã tung mền chạy ra, anh cũng chưa dám mở cửa mà khé liếc nhìn người bên ngoài qua khung kính cửa sổ kế bên.
Quân giật thót người khi nhận ra người con gái ướt lướt thướt đứng bên ngoài chính là Nhã Trúc. Và Quân cũng hiểu ngay, Nhã Trúc đến đây vào giờ này chắc chắc là do Ngọc Anh rồi!
Vừa đau đớn, vừa bối rối, Quân không biết phải làm sao cho phải. Nhưng dù sao thì trước mắt anh cũng phải mở cửa để cô gái vào nhà vì cô đang ướt sũng cả người thế kia!
Cánh cửa vừa mở ra, Nhã Trúc lao vội đến ôm chầm lấy Quân thổn thức.
Quân khéo léo dìu cô vào nhà, bật đèn sáng lên rồi bảo:
- Em ướt hết cả người rồi kìa… Làm sao bây giờ? Nhà anh không có quần áo phụ nữ… Hay là… em lấy quần áo của anh thay tạm nhé?
Quân vội vã mở tủ lấy bộ áo quần đưa cho Nhã Trúc rồi dẫn cô tới phòng tắm chỉ cho cô vào.
Nhã Trúc không nói gì, cũng không phản kháng, cô chỉ lặng nhìn Quân bằng đôi mắt yêu thương trìu mến và ngoan ngoãn làm theo tất cả lời chỉ bảo của anh.
Khi Nhã Trúc vừa bwosc vào phòng tắm, Quân vội vã nhấc địên thoại gọi cho bà An, rồi tiếp đó gọi cho ba mẹ Ngọc Anh để báo tin, mong mọi người đến ngay để giúp đỡ.
Quân không phải lo sợ cho mình, anh chỉ lo cho thanh danh của Nhã Trúc bị hoen ố. Lo tiếng đời dị không hay về mối quan hệ của hai người.
Ở đây ai cũng biết quân và Ngọc Anh đẫ đính hôn và sắp đến ngày cưới, người ta cũng biết Nhã Trúc là bạn thân của Ngọc Anh. Vậy mà khi đám tang Ngọc anh vừa mới xong thì cô bạn thân nhất lại ở trong nhà của anh chồng sắp cưới của Ngọc Anh thì còn thể thống gì nữa? Quân là đàn ông con trai, dẫu miệng đời có dị nghị thế nào cũng không đáng sợ lắm, chỉ ngại cho Nhã Trúc, có thể cô xấu hổ đến chết đi được cũng nên.
Trong lúc Quân đang tính kế kéo dài thời gian bằng cách đi nấu nước pha cà phê, pha trà thì ở nhà Ngọc Anh, vợ chồng ông Thành hốt hoảng khi nghe Quân gọi điện báo sự tình. Hai ông bà thấy mình thật sự có lỗi với bà An nên đã vội vàng gọi điện bảo bà chuẩn bị để hai người tới đón bà đi ngay.
Bà An run rẩy, tay cầm tràng hạt cứ rơi rớt mấy bận.
Nhã Trúc từ trong phòng tắm bước ra, có vẻ ngại ngùng khi thấy mình lọt thỏm trong bộ áo rộng thênh của Quân. Nhưng trông cô hạnh phúc lắm.
- Em uống ly tà nóng này vào cho ấm người!
Quân vừa rót trà cho cô vừa nói.
Nhã Trúc đón lấy ly trà, áp hai tay vào đó mà mắt cứ nhìn Quân đắm đuối.
Bỗng cô đặt tách trà xuống và nói, giọng thật rõ ràng, rành rọt:
- Anh… em tới đây không phải để uống trà… em muốn mình thành vợ chồng với nhau để em không còn gì phải tiếc nuối khi phải rời xa dương thế… Thời gian của em còn lại không nhiều đâu anh ơi… Xin anh hiểu cho em, em yêu anh thật nhiều, em không cam tâm… em không thể…
Quân cố tỏ ra bình tĩnh, đặt hai tay lên vai Nhã Trúc ân cần nói:
- Anh hiểu, anh rất hiểu tình yêu của em dành cho anh. Cũng như anh tin rằng em rất hiểu tình anh dành cho em to lớn tới mức nào… Nhưng đã có lần anh nói với em rồi đó… anh không thể cùng em… khi em đang ở trong một hình hài của người khác, mà đó lại là người bạn thân, là người mà cả anh và em đều thương quý. Nếu như anh vì tình của chúng mình mà không nghĩ đến gì hết, thì sau đó, chắc chắn Nhã Trúc sẽ hận anh, hận em, và có thể cô ấy còn xấu hổ đến mức tự vẫn chết đi nữa là đằng khác. Chúng ta không có quyền làm như vậy đâu em…. Với lại… nếu như anh làm vậy là đồng nghĩa với việc anh đã ngoại tình, vì thật sự cái quan hệ xác thỉ đó không phải diễn ra với em, đúng không?
- Em mặc kệ, em không cần biết…
Nhã Trúc khóc ngất lên.
Vừa lúc đó có tiếng xe gắn máy đỗ xịch trước cổng nhà, Quân vội vã vơ lấy chùm chìa khóa chạy ngay ra đón vợ chồng ông Thanh và bà An vào nhà.
Khi bốn người vào vào tới thì không thấy Nhã Trúc đâu nữa.
Quân lo lắng chạy tìm khắp nhà vẫn không thấy, bà An và bà Thanh khóc ròng, còn ông Thanh và Quân thì căng ra vì lo sợ.
- Bà nín đi, đừng khóc nữa, ở lại đây chăm sóc chị An, để tôi và Quân chạy tìm xung quanh xem sao?
Ông Thanh bảo vợ.
Nghe lời chồng, bà Thanh cố nén tiếng khóc mà đến dìu đỡ bà An ngồi xuống ghế.
Quân lấy chiếc áo mưa đưa cho ông Thành, còn mình thì cứ để vậy mà nhào ra ngoài trời giữa cơn mưa mỗi ngày một thêm nặng hạt.
Hai người lùng sục hết xung quanh nhà vẫn không thấy bóng dáng Nhã Trúc đâu.
Mưa dần tạnh, trời cũng đã sáng, những người ở cạnh nhà Quân không khỏi tò mò khi mới sáng sớm đã thấy cha vợ và con rể ướt nhem dáo dác quanh nhà, bên trong lại có tiếng khóc của phụ nữ.
Họ thắc mắc lắm nhưng không ai dám hỏi, cũng không dám an ủi điều gì, chỉ biết xầm xì bàn tán, đoán già đoán non với nhau thôi.
Khi đã xác định Nhã Trúc chắc chắn không còn ở đây nữa, ông Thanh lập tức ra lệnh cho Quân chở bà An về nhà bà, biết đâu Nhã Trúc đã về đó rồi, còn vợ chồng ông cũng sẽ về nhà mình ngay để xem Nhã Trúc có về đó hay không. Ông Thanh cũng không quên dặn, ai có tin tức gì trước phải báo ngay cho người kia biết.
Suốt cả một ngày đó, vợ chồng ông Thanh, bà An và Quân chạy khắp thành phố, đến tất cả những nơi mà Nhã Trúc hoặc Ngọc Anh có thể đến, cũng như gọi hỏi tất cả bạn bè của hai cô, nhưng không một ai biết tin gì về Nhã Trúc.
Đau đớn, suy sụp, bà An không gượng dậy được nữa, bà bảo Quân chở bà đến ngôi chùa gần nhà rồi bà cứ quỳ sụp trước tượng phật mà cầu xin, khấn vái…
Đồng thời lúc đó ở tại nhà ông Thanh, các vị sư thầy làm nhiệm vụ cầu siêu cho Ngọc Anh cũng không ngừng tụng niệm, nhưng bóng dáng Nhã Trúc vẫn cứ bặt vô âm tín, không biết cô đã đi về đâu.
Mọi người ai cũng sợ hãi lo lắng, vì biết đâu trong cơn mê loạn, Nhã Trúc không làm chủ được mình mà đâm vào xe cộ trên đường hoặc rơi xuống sống, hoặc đi dọc đường gặp phải những thành phần bất hảo, trông thấy cô xinh đẹp như thế lại ăn mặc một cách kỳ khôi thì biết đâu chúng không giở những trò đồi bại?
Bao nhiêu nỗi lo chật cứng trong lòng bà An khiến bà có lúc gần như không thở được.
Đến tận xế chiều, bất ngờ một vị sư thầy sau khi tụng hết hồi kinh, đứng lên nói với bà Thanh:
- Bà nên tới mộ cô Ngọc Anh để đón cô Nhã Trúc về!
Bà Thanh mừng quýnh, hối thúc Quân lấy xe đi theo vợ chồng bà. Mọi người đến giờ này mới phát hiện ra sai sót của mình, vì đã đi tìm khắp nới mà lại không tìm tới mộ của Ngọc Anh!
Bà An một mực đòi theo nhưng vợ chồng ông Thanh không đồng ý, các vị sự thầy cũng nói góp vô nên cuối cùng bà phải đành chịu ở lại nhà mà lòng nóng như lửa đốt.
Vợ chồng ông thanh và Quân chạy một mạch lên đến nghĩa trang rồi vừa tiến vào nơi có mộ của Ngọc Anh vừa  dáo dác nhìn quanh tìm kiếm.
Kia rồi! Nhã Trúc nằm co ro bên cạnh ngôi mộ mới xây còn đầy mùi vôi vữa của Ngọc Anh, trông cô hết sức thảm hại.
Bộ quần áo rộng thùnh thình của Quân lấm lem bùn đất, tóc tai, mặt mũi cô cũng bê bết bùn sình, không ai hiểu nổi từ khuya hôm qua tới giờ này cô đã đi những đâu, làm những gì…
Nhìn thấy Nhã Trúc như vậy, ông Thanh không ngăn được nỗi tức giận. Ông để mặc cho vợ mình và quân săn sóc Nhã Trúc, còn ông đến đứng trước mộ Ngọc Anh nói gằn từng tiếng:
- Con là đứa con gái ngoan của ba, lâu nay ba luôn tự hào về con! Ba tự hào vì con thông minh, hiểu biết và nhân hậu. Nhưng hôm nay con đã làm ba thật sự thất vọng rồi Ngọc Anh ơi! Con hãy nhìn Nhã Trúc đi, nhìn đứa bạn thân nhất của con đi, nếu ai khác đày đoạ nó như vậy hỏi con có đau lòng không? Thế thì tại sao chính con lại làm cho bạn mình ra nông nỗi? Rồi cả ba mẹ, cả bác An ở nha, cả anh Quân của con nữa, có ai được yên ổn gì đâu? Hôm nay bác An suýt tắt thở mấy lần rồi đó, lỡ như bác có mệnh hệ nào, thì chính con là kẻ đã gián tiếp hại chết bác ấy. Tại sao bây giờ con lại thành ra như thế hở Ngọc Anh? Con không muốn sau khi con ra đi vẫn để lại ấn tượng đẹp trong lòng mọi người sao? Con… nếu ba nói lần này mà con vẫn không nghe lời thì… thì ba… thì từ nay ba sẽ không coi con là con gái của ba nữa….
Ông Thanh nói xong, ông cũng đau đớn trào nước mắt.
Lúc này Nhã Trúc đã tỉnh, gương mặt cô bơ phờ hốc hác và thảng thốt vô cùng.
Bây giờ thì Nhã Trúc không mở miệng hỏi gì ai nữa cả. Vì cô đã cảm nhận được chuyện gì đã xảy ra cho mình, trong đầu cô vẫn còn lảng vảng cái bóng trắng và văng vẳng những lời van xin của Ngọc Anh đêm vừa rồi…
Cô mở mắt ra nhìn mộ bạn rồi lại nhắm mắt lại, hai dòng nước mắt ứa ra, không biết cô khóc cho bạn hay cho bản thân mình.
Bỗng nhiên lúc đó trời đang quang đãng tự nhiên đùng đùng sấm chớp rồi mây đen kéo đến che kín cả bầu trời, cả bốn người không ai kịp chạy đi tìm chỗ trú mưa. Vả lại ở cái nghĩa địa rộng lớn không người trông coi này cũng không có chỗ nào khả dĩ có thể trú qua cơn mưa được.
Vì thế Quân xốc Nhã Trúc ngồi dậy, tựa sát vào một ngôi mộ xây cao to ở gần đó để tránh bớt gió mưa, vợ chồng ông Thanh cũng vội vã ngồi nép sát vào nhau trên mặt hằn rõ sự lo lắng, căng thẳng tột cùng.
Trong lòng vợ chồng ông Thanh và Quân lúc này đều có những suy nghĩ giống nhau, rằng cơn mưa bất chợt này không phải là một cơn mưa bình thương mà chắc rằng ít nhiều gì đó cũng có liên quan tới Ngọc Anh.
Những tia chớp sáng lòe như muốn xé nát bầu trời ra từng mảnh, sấm ầm ầm long trời lở đất.
Đột ngột, một luồng ánh sáng đâm thẳng xuống gần chỗ mọi người đang ngồi, hất văng tất cả sang một bên.
Hình như cả bốn người đều bất tỉnh đi trong một vài phút, đến lúc mở choàng mắt ra thì trời đã quang đãng lại rồi! Nhưng một điều xảy ra khiến ai nấy rụng rời, đó là ngôi mộ của Ngọc Anh đã bị nứt toạt một đường như bị chẻ đôi ra!
Bà Thanh khóc òa lên. Bà nhào tới nằm phủ người lên mộ con gái:
- Trời ơi, con ơi… con có tội lỗi gì mà phải chết một cách thê thảm, đến lúc chết đi rồi, cả ngôi mộ cũng không được vẹn nguyên… Ông trời ơi, nếu tôi có tội gì thì ông cứ giáng thẳng vào đầu tôi đây này, xin ông tha cho con gái tôi đi…
Bà vật vã khóc than và la hét như người điên loạn.
Ông Thanh và Quân phải kéo bà lại, không cho bà đập đầu vào mộ con gái.
Nhã Trúc hình như đến bây giờ mới thật sự hoàn hồn, cô ngơ ngác nhìn quanh và lập tức hiểu ra cớ sự. Cô lặng lẽ đến bên bà Thanh, không nói lời nào chỉ ôm lấy bà, thế mà lập tức bà Thanh không vùng vẫy nữa. Hai người phụ nữ ôm chặt lấy nhau khóc ròng khiến cả ông Thanh và Quân đều phải quay đi để len lén lau khô nước mắt.
Khi bốn người về được đến nhà, bà An ôm chầm lấy Nhã Trúc mà khóc không thành tiếng. Bà Thanh cũng không còn sức lực nào nữa để nói với bà An một câu xin lỗi.
Bà ngã quỵ xuống giữa nhà, đôi vai run lên nhưng không bật ra được tiếng khóc.
Vị sư thầy già nhất đến bên:
- Xin bà đừng quá đau buồn, luật trời có nhiều điều không thể giải thích được, nhưng bà yên tâm đi, từ hôm nay cô Ngọc anh đã thật sự được yên ổn rồi…
Vừa nghe đến đó, bà Thanh bỗng vùng dậy:
- Không! Không… làm sao con gái tôi yên ổn cho được khi mà…
Bà Thanh chưa kịp nói hết câu thì vị sư già đã cắt lời:
- Tôi biết, tôi biết cả rồi! Mộ cô ấy nứt không phải là do trời đánh như bà nghĩ, mà đó là một sự giải thoát cho linh hồn còn vương vấn quá nhiều chuyện thế gian… Đó là một điềm tốt, ccô Ngọc Anh chừng như đã hiểu ra được vấn đề nên đã tự mình bứt phá, tự mình vượt qua, thoát ra khỏi cái vòng lẩn quẩn tình cảm thế nhân… Chính cô ấy đã xé toạt mộ mình để bay thẳng lên trời… Xin ông bà, xin mọi người hãy an tâm…
Tất cả mọi người đều há hốc trước những lời nói rành rọt của nhà sư. Chuyện ngôi mộ của Ngọc Anh bị nứt thì từ lúc bước chân vào nhà chưa ai kịp nói ra, thế mà vị sư già này lại tường tận một cách không ngờ. Thật đúng như lời đồn đại lâu nay, rằng những người tu hành lâu năm, đạt được phẩm hạnh ở một mức độ nào đó sẽ có huệ nhãn, sẽ nhìn được những chuyện xảy ra trong quá khứ vị lai…
Bà Thanh ngó sững nhà sư rồi từ từ quỳ sụp xuống, hướng về phía bàn thờ phật mà vái lấy vái để. Ông Thanh, từ hồi nào tới giờ chưa khi nào ông quỳ lạy trước bàn phật, lúc này cũng tự nhiên quỳ xuống, kế đó là bà An, Nhã Trúc và quân đều quỳ xuống…
Mùi trầm hương phảng phất bay lên, những câu kinh ngân nga của các vị sư thầy khiến cho lòng mỗi người chừng như trút hết những gánh nặng lo toan, khổ ải…
Sau ngày đó, Nhã Trúc trở về với cuộc sống bình thường của cô, tuy cthần sắc chưa thật tinh anh như trước nhưng bây giờ Nhã Trúc đã thôi không ngơ ngác mơ hồ nữa.
Bà An rất mừng trong bụng, nhưng bà vẫn chưa hết lo âu. Hàng ngày bà vẫn lặng lẽ theo dõi từng cử chỉ dù nhỏ nhất của con gái để phát hiện xem có gì khác thường không.
Ngày cúng thất của Ngọc anh đã đến. Mọi người có mặt đông đủ, tuy không ai khóc nữa nhưng trên mặt mỗi người vẫn chưa phai được nỗi đớn đau.
Cúng xong thất đầu tiên, các vị sư một lần nữa khẳng định với ông bà Thanh rằng từ nay mọi việc đã thật sự yên ổn, khuyên mọi người không nên hoang mang lo lắng nữa, đồng thời các nhà sư cũng cho biết, họ vẫn luôn cúng vái cho cô hằng đêm ở tại chùa.
Cuộc sống của mọi người lại trở về với nhịp địêu khi xưa, riêng Quân thì thường lui tới thăm hỏi Nhã Trúc hơn vì lòng anh luôn cắn rứt về chuyện đã qua.
Thời gian thắm thoát trôi qua, mới đó mà đã tới ngày cúng một trăm ngày cho Ngọc Anh.
Sáng hôm ấy, khi mọi người có mặt đầy đủ, bà Thanh bỗng nói:
- Đêm hôm qua tôi mơ thấy Ngọc Anh về…
Ông Thanh quay lại nhìn vợ ngạc nhiên:
- Tôi cũng mơ thấy nó!
Lúc đó cả bà An, Nhã Trúc và Quân đều sửng sốt, ai nấy đều mấp máy môi:
- Tôi…
Thấy thái độ của mọi người, ông Thanh kinh ngạc hỏi:
- Chẳng lẽ tất cả chúng ta ở đay đều mơ thấy Ngọc Anh vào đúng tối hôm qua?
Mọi người khe khẽ gật đầu.
Ông Thanh sửng sốt khựng lại mất mấy giây, và bỗng dưng ông đưa ra đề nghị:
- Bây giờ tôi sẽ làm một cuộc trắc nghiệm thế này: Tôi sẽ trao cho mỗi người một tờ giấy và một cây viết, mọi người hãy ghi vào đó cái điều mà Ngọc Anh đã nói với mình trong giấc chiêm bao. Nếu như tất cả chúng ta đều có chung một kết quả, thì đúng thật đó là điều Ngọc Anh mong muốn… Tất cả có đồng ý không?
Mọi người lại gật đầu lần nữa.
Ông Thanh vội vã đi lấy giấy viết phát cho từng người, và mấy phút sau ông lại bắt đầu thu nhận trở về.
Ông run run cầm trên tay năm tờ giấy gấp tư, mở từng tờ ra và bắt đầu đọc:
- Đây là giấy của chị An, trong mơ chị thấy Ngọc Anh vềÃin chị cho phép Nhã Trúc được cùng Quân kết duyên chồng vợ… Còn đây là giấy của bà nhà tôi, nội dung đúng y như thế. Đây là giấy của Nhã Trúc, không ghi gì, giấy của Quân lại ghi bỏ lửng giữa chừng: “Ngọc Anh khuyên con nên…”, và cuối cùng là giấy của tôi nội dung cũng giôùng chị An…
Mọi người nhìn nhau sửng sốt, duy chỉ có Nhã Trúc là không dám nhìn ai, chỉ cúi mặt nhìn xuống đất. Quân cũng ngại nên tính tìm cớ lẩn ra ngoài, ông Thanh cản lại:
- Không… lúc này con không đi ra ngoài được, để cùng bàn bạc với cả nhà đã…
Nói xong, ông nhìn bà An, ngập ngừng:
- Xin phép chị cho tôi được mở lời… Nếu như chị không chê và cháu Quân đay bằng lòng, thì vợ chồng tôi sẽ đứng ra lo việc hỏi cưới cháu Nhã Trúc đây cho Quân. Quân đáng lẽ là con rể của gia đình tôi, nhưng chúng tôi vô phước nên xin nhận nó làm con trai vậy. Ý chị thế nào?
Hơi bất ngờ nên bà An cũng không biết nói sao, bà ấp úng:
- Tôi… tôi không quyết định được! Quyền quyết định là do hai đứa nhỏ chứ…
Ông Thanh gật gù. Ông nhìn Nhã Trúc:
- Cháu Trúc, bác biết hiện nay cháu chưa có bạn trai, nếu cháu không chê Quân thì… Bác thấy Quân cũng là người tốt, có trách nhiệm lại rất chung thủy, đúng không? Có lẽ Ngọc Anh cũng nhận thấy thế nên mới muốn kết hợp cho hai đứa… Ý cháu thế nào?
Hai gò má Nhã Trúc đỏ ửng lên, cô e thẹn không thể nói nên lời.
Ông Thanh không muốn làm khó Nhã Trúc nên quay sang Quân, ông hỏi:
- Còn con? Tình cảm con với Nhã Trúc ra sao?
Quân cũng hơi ngượng, nhưng nhanh chóng anh lấy lại phong thái ôn tồn nói:
- Dạ thưa bác… Từ lâu nay con luôn thương mến và quý trọng Nhã Trúc, xem cô ấy là một người bạn, một đứa em chứ thật sự chưa có tình cảm gì hơn. Theo con nghĩ, nếu như Ngọc Anh có ý muốn kết hợp con với Nhã Trúc cũng không có gì lạ, vì Nhã Trúc là bạn thân của cô ấy. Nhưng… lúc này mà chúng ta bàn đến vấn đề này thì cũng còn sớm lắm. Hai bác và bác An cứ để thư thả cho mọi việc diễn ra một cách bình thường. Nếu một thời gian sau nữa, con và Nhã Trúc thật sự có tình cảm với nhau thì chừng ấy chúng ta bàn cũng chưa muộn… còn lúc này… có lẽ Nhã Trúc cũng chưa muốn, phải không em?
Nhã Trúc ngước lên nhìn Quân với ánh mắt hàm ơn, cô khẽ gật đầu xác nhận.
***
Ba năm sau, đám cưới của Quân và Nhã Trúc diễn ra trong sự vui vẻ hài lòng của họ hàng thân tộc hai bên.
Vợ chồng ông Thanh không khỏi có chút bùi ngùi khi nhìn di ảnh con gái trên bàn thờ, nhưng hai ông bà tự an ủi, thôi thì từ hôm nay mình đã có thêm một đứa con trai và một đứa con gái nữa, điều đó cũng bù đắp, cũng an ủi phần nào cho sự mất mát của ông bà.
Còn bà An, mãi cho tới lúc này bà mới thật sự thở phào nhẹ nhõm, vì bà tin rằng con gái mình được làm vợ Quân thì cuộc đời nó sẽ không phải gặp bất hạnh.
- Giờ phút này nếu có phải nhắm mắt lìa đời mình thật an lòng!
Bà An nói thầm như thế.
Nhưng cả bà An, cả vợ chồng ông Thanh đều sống rất thọ, khi mái tóc trên đầu của cả ba người đều bạc phơ, khi hai đứa cháu một trai một gái xinh xắn chạy nhảy nô đùa trong “khu vườn thượng uyển” thì cả ba người già vẫn còn ngồi nhìn và cười rất tươi, gia đình họ sống hòa thuận vui vầy trong hạnh phúc.
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:58:17 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:28:07
BIỆT THỰ MA
 
Cuối cùng rồi thì mơ ước của ông Tân cũng đã thành sự thật!
Hơn nửa đời người, giờ đây ông Tân đã được sống trong một ngôi nhà to lớn khang trang, có cả một khu vườn thật rộng bao xung quanh, trồng nhiều loại cây trái khác nhau.
Mười năm trước, khi vợ ông còn sống, hai vợ chồng đã từng mơ có được một ngôi nhà tương đối một chút để những đêm mưa vợ chồng con cái không phải ngồi túm tụm vào một góc và khắp nhà không phải bày la liệt nào thau nào chậu để hứng nước mưa dột lỏn tỏn từ trên mái nhà xuống. Vậy mà mãi tới khi thở hơi cuối cùng, vợ ông vẫn phải chịu cảnh khổ nhọc trong cái chòi lá trống trên hở dưới.
Các con ông Tân cũng lớn lên từ đó. Nhưng nhờ trời, cả hai đứa đều có tính tự lập và ý chí phấn đấu rất cao, nên tuy là con nhà nghèo, việc học hành gặp nhiều hạn chế nhưng cả hai đứa con ông Tân đều học giỏi và thi đậu ở thứ hạng cao, được lãnh suất học bỗng du học toàn phần do nước ngoài đại thọ.
Đó là niềm vui to lớn nhất trong đời ông Tân.
Hai đứa đi học rồi đi làm xa nhà, nhờ biết tiện tặn dành dụm nên mỗi năm mỗi đứa đều gởi về cho ông Tân một số tiền không nhỏ để ông an hưởng tuổi già.
Nhưng một người đã quen với cuộc sống nghèo hèn khốn khó như ông Tân, lại không thuộc loại người mới “tanh tanh mùi tiền” đã làm ra vẻ phú ông nên ông Tân tuy được con chu cấp để có cuộc sống dư giả, thoải mái, nhưng ông vẫn tiết kiệm và cần cù làm việc. Tự ông nuôi sống được mình, toàn bộ số tiền các con ông gởi về ông đều gởi hết trong Ngân hàng.
Nhiều năm trôi qua, khi số tiền ông có được đã có thể giúp ông đạt được mơ ước, ông viết thư cho con, nói rằng sẽ mua nhà.
Hai đứa con quá bất ngờ và cảm thấy hối hận, vì lâu nay chẳng đứa nào nghĩ tới chuyện mua cho cha chúng một ngôi nhà khác, khang trang hơn.
Cả hai đứa con ông Tân đều tán đồng và hứa sẽ gởi tiền về.
Ông cười, viết cho con yên tâm, rằng ba hiện đã có đủ tiền để mua nhà rồi, ba không làm phiền hay đòi hỏi gì các con đâu.
Chừng ấy hai đứa mới té ngửa ra rằng, lâu nay cha mình vẫn sống cuộc đời đạm bạc. Chúng càng cảm thấy yêu quý ông Tân nhiều hơn nữa. Và vì thế chuyện mua nhà chúng để cho cha toàn quyền định đoạt, không đứa nào có ý kiến. Mua nhà thế nào, vị trí ra sao là do ông Tân quyết định.
Mà ông Tân này cũng khác người, thiếu gì nhà đẹp đẽ, phù hợp với yêu cầu và túi tiền của ông, nhưng ông lại không thèm mua. Để cuối cùng, ông chọn mua một ngôi nhà tuy to lớn, tuy cũng đẹp nhưng nó có một vẻ gì dó như u hoài, trầm mặc, đặc biệt ngôi nhà đó lại ở một nơi hoang vu vắng vẻ.
Ngôi nhà đó đã bị bỏ hoang từ lâu, do vợ chồng người chủ nhà đã qua đời, lại không con cháu, chỉ còn một người cháu họ hàng xa đứng ra tiếp quản nhưng rồi cũng bỏ đó vì không ai trông nom.
Ngôi nhà cũng đã được kêu bán từ rất lâu, nhưng không hiểu sao nhiều người tới xem qua rồi lại lắc đầu. Chỉ riêng mỗi một mình ông Tân, vừa xem ông đã thích, và bằng lòng mua ngay không tốn nhiều công sức để kỳ kèo giá cả.
Một vài người quen thắc mắc hỏi ông vì sao lại mua ngôi nhà đó. Ông Tân cười khẽ:
- Tui thích ở một ngôi nhà to lớn như vậy, ngôi nhà đáp ứng được yêu cầu, giá lại rẻ, tội gì không mua? Hai đứa con tôi đi làm ở nước ngoài cũng phải vất vả lắm mới có được đồng tiền, mình tiết kiệm được khoản nào hay khoản ấy!
Ông Tân cũng biết xung quanh ngôi nhà đó có nhiều giai thoại, người ta đồn đại việc ngôi nhà có ma ông cũng nghe rồi. Nhưng ông không sợ, ông nghĩ mỗi thế giới đều có những quy luật riêng, đừng ai xâm phạm ai là được.
Cuộc đời ông vốn đã trải qua nhiều gian lao thử thách rồi, giờ đã gần cuối đời, chẳng lẽ ông lại đi sợ một thế lực vô hình mà không biết có thực sự tồn tại hay không?
Ngay sau khi thủ tục mua bán hoàn thành, ông Tân bắt tay vào sắp xếp lại nhà cửa và sửa sang vườn tược.
Phần nội thất của ngôi nhà ông tân không mất nhiều thời gian để ổn định. Vì thật ra đồ đạc của ông dọn tới đâu có bao nhiêu!
Trong ngôi nhà cũ ọp ẹp khi xưa của ông, đồ đạc toàn thứ tạm bợ mà đã trải qua nhiều năm dài rồi, đâu có mấy thứ còn sử dụng được.
Vậy mà hôm dọn nhà, cái nào ông cũng tiếc, cũng muốn mang theo. Không phải ông là người keo kiệt bủn xỉn, nhưng vì đồ đạc trong nhà gắn liền với hình bóng vợ con ông, ông nỡ rời xa chúng. Nhưng cuối cùng rồi ông Tân cũng chỉ mang theo một vài thứ lặt vặt, còn tất cả ông để lại cho người bà con gần đó.
Dọn về nhà mới, ông Tân cũng phải mua sắm gì nhiều, vì hầu như tất cả vật dụng cần thiết cho một gia đình đều đã có sẵn trong ngôi nhà đó. Tuy đồ đạc trông có vẻ cũ kỹ nhưng cái nào cũng tốt, cũng được làm bằng các loại nguyên liệu quý giá, mà khi bán nhà người chủ nhà đã hào phóng tặng luôn cho ông mà không cộng thêm tiền vào.
Việc mà ông Tân phải đầu tư nhiều nhất là khu vườn bao quanh nhà.
Khu đất rộng nhưng từ lâu không được chăm sóc nên rất hoang tàn. Cây cối, cỏ dại cứ chen nhau mà mọc.
Một vài cây ăn trái lâu năm ông Tân để lại, vừa để cho khu vườn trông có vẻ ấm cúng vừa lấy làm bóng mát, còn hầu như toàn bộ ông Tân đều cho đốn sạch.
Ròng rã gần một tháng trời cùng với mấy nhân công thuê về làm giúp, ông Tân đã ưng ý với thành quả của mình.
Khu vườn đã sạch sẽ, được trồng mới lại các loại hoa kiểng, rau thơm, rau cải… theo từng khu vực thích hợp trông rất mát mắt.
Ông Tân tuy không được ăn học nhiều, không biết chút gì về nghệ thuật làm vườn hay trồng trọt cây kiểng, nhưng với năng khiếu tự nhiên của mình ông đã tự tạo ra một khu vườn nhỏ theo đúng ý thích. Như vậy là đã thỏa lòng rồi, ông chỉ còn chờ đến ngày các loài hoa bắt đầu khoe sắc, các luống rau cải xanh mơn mởn góip phần làm tươi ngon thêm bữa ăn vốn rất bình dân giản dị của ông Tân.
Hai đứa con ông Tân mỗi lần nhận được thư cha đều cảm nhận được sự yêu thích của ông đối với nơi ở mới. Giờ đây, chúng chỉ mong sao cho cha chúng tìm được một người phụ nữ nào đó để bầu bạn sớm hôm.
Hai đứa đã lớn, đã hiểu được nỗi cơn mà ông Tân đã phải gánh chịu ngần ấy năm làm kiếp gà trống nuôi con từ sau ngày mẹ chúng mất.
Nhất là bây giờ cả hai đứa đều xác định sẽ sống và làm việc luôn ở nước ngoài, mà ông Tân thì lại khăng khăng không chịu rời xa quê hương đất tổ.
Vì vậy, hai đứa con ông Tân thường xuyên thúc giục cha tìm bạn đời. Mỗi lần nghe vậy ông Tân chỉ cười khì nói với con rằng:
- Ba già rồi, không nghĩ gì tới chuyện đó nữa!
Nhưng tận trong sâu thẫm lòng mình ông Tân vẫn cảm thấy nỗi cô đơn gặm nhấm.
Khi cuộc sống đã ổn định, ông Tân không còn phải lo toan về vấn đề kinh tế, thời gian rảnh rỗi nhiều hơn thì nỗi cô đơn kia càng thêm da diết.
Có những đêm một mình trong ngôi nhà vắng lặng, ông Tân ngồi hàng giờ trước bàn thờ vợ mà nước mắt lăn dài.
Thật ra vợ ông không phải là mối tình đầu của ông, nhưng ông và vợ đã gắn bó nhau rất mực keo sơn, tình cảm. Từ ngày hai vợ chồng về sống với nhau, ông Tân chưa một lần làm điều gì có lỗi với người vợ hiền lành chất phác ấy.
Cũng vì cái nghèo mới chia cắt vợ chồng ông!
Năm đó vợ ông chỉ bị cảm thông thường, cô ấy đã không ở nhà dưỡng bệnh mà vẫn phải làm lụng y như ngày thường. Chiều đó mắc một trận mưa lớn, bệnh nặng thêm lên mà không đủ tiền chạy chữa thuốc thang cho tới nơi tới chốn nên cô ấy đã vĩnh viễn ra đi.
Đó là niềm ăn năn ray rứt to lớn trong cuộc đời của ông Tân.
Ông tự trách mình là đàn ông mà không lo toan che chở được cho vợ con, để đến nỗi vợ ông phải lìa đời, hai con ông như hai con chim non bơ vơ tự bay vào đời và tự mình vươn lên tồn tại.
Thương vợ, ông Tân luôn tưởng tượng ra nếu vợ ông còn sống, thì khi hai vợ chồng có được ngôi nhà thế này cô ấy sẽ mừng vui đến đâu, sẽ trang trí thế nào…
Hình ảnh vợ ông không phai mờ dẫu nhiều năm tháng đã trôi qua.
Ông Tân tuy đã lớn tuổi nhưng vóc dáng vẫn còn phong độ và khỏe mạnh lắm. Cuộc sống của ông lại tương đối nên việc tìm kiếm một người vợ không phải là điều khó thực hiện đối với ông. Chỉ tại ông không thích, không muốn mà thôi.
Đôi khi bạn bè ông gán ghép ông với người này người khác, ông chỉ mỉm cười cho qua, không phản đối mà cũng không tán đồng. Riết rồi bạn bè ông đâm chán, không ai còn muốn làm mai mối gì cho ông nữa.
Ông Tân bằng lòng với cuộc sống yên bình hơi có vẻ ẩn dật của mình.
Trong ngôi nhà đó, sáng sáng ông Tân thức dậy thật sớm để tưới cây, nhổ cỏ, chăm sóc nâng niu từng khóm hoa, từng luống cải ông gieo. Khi trời đã sáng rõ, ông tắm rửa đi làm. Hai năm gần đây, ông được nhận vào làm chân bảo vệ của một công ty gần nơi ông ở. Công việc nhẹ nhàng, tuy lương bỗng không bao nhiêu nhưng vẫn đủ cho một người sống ít nhu cầu gióng như ông.
Hai đứa con ông Tân nhiều lần khuyên cha nghỉ làm, về ở nhà hưởng nhàn nhưng ông nhất định không chịu. Ông nói tao đã già đâu, tao còn sức làm việc được thì sao lại phải ngồi không ở nhà cho ngứa ngáy tay chân. Đi làm cũng gióng như đi chơi cho khuây khỏa vậy thôi, có gì nặng nhọc lắm đâu mà phải lo sợ.
Ông nói mạnh quá làm hai con ông phải nhượng bộ:
- Thôi được rồi, ba muốn đi làm thì đi, nhưng dù gì thì cũng không được ráng sức. Khi nào cảm thấy mệt mỏi ba cứ xin nghỉ ngay, hai đứa con chẳng lẽ không nuôi nổi ba sao mà ba sợ!
Ông Tân đi làm đến gần năm giờ chiều mới trở về nhà, trên đường đi, ông ghé ngang một cái chợ nhỏ ven đường mua một ít thức ăn gì đó để dành cho bữa tối. Vì buổi trưa ông ăn cơm ở công ty, nên mỗi ngày ông chỉ ăn ở nhà duy nhất một buổi tối. Ông đã quen với việc không ăn sáng từ những năm vất vả cơ hàn, đến khi cuộc sống khấm khá hơn ông vẫn không thay đổi, có chăng chỉ là thêm một ly cà phê vào mỗi sáng mà thôi.
Cuộc sống của Tân cứ tưởng sẽ bình lặng trôi qua như thế, nhưng có ai ngờ một buổi chiều đã có một người làm đảo lộn mọi thứ trong ông!
Chiều ấy, cũng giống như thường lệ, khi tan sở về, ông Tân ghé qua chợ mua một mớ tép nhỏ về nấu canh với mấy trái mướp vườn nhà ông mới hái sáng nay.
- Cô ơi, mớ tép này bán bao nhiêu?
Ông Tân hỏi
- Dạ, anh cho xin…
Cô gái vừa nói vừa ngước lên nhìn ông Tân. Câu nói chưa dứt, bốn mắt đã chạm nhau và giống như có một luồng điện đi qua, cả ông Tân và cô gái đều khựng lại, không ai nói được lời nào, chỉ nhìn nhau trân trối.
- Cô ơi, bán cho cân cá!
- Cô ơi, tôm này bán sao?
- Cô ơi…
Mãi đến khi nghe tiếng mọi người hỏi han mua bán cô gái mới hoàn hồn, lại cắm cúi vào công việc của mình.
Riêng ông Tân, vẫn còn trong cơn bàng hoàng ngây ngất.
Làm sao có chuyện này được? Mình mơ chăng?
Không, đây là sự thật chứ hoàn toàn không phải giấc mơ! Trước mắt ông Tân, cô gái vẫn đang loay hoay với mớ cá tôm và lao xao người mua kẻ bán.
Cô gái đó chính là hình ảnh của người yêu đầu tiên trong đời ông, người đã mất cách đây hơn hai mươi năm trong một tai nạn trên đường sông trong một lần chở lúa lên bán cho vựa.
Hôm ấy, Lài – tên người yêu của ông Tân năm xưa – cùng với hai đứa em mỗi người một xuồng chở lúa từ nhà lên bán cho vựa trên chợ Huyện. Đáng lẽ gọi họ xuống bán tận nhà cũng được, nhưng những người nghèo thường tiết kiệm, thu vén từng đồng, nên ba mẹ Lài muốn tự đem lúa đi để kiếm thêm chút ít tiền chuyên chở.
Không may cho Lài, hôm đó nước sông chảy xiết, chiếc xuồng của cô lại đi vào vùng nước xoáy nên bị chìm. Lài vì tiếc của, không lo bơi vào bờ mà cứ lo kéo xuồng, vớt lúa nên đuối sức bị nước cuốn trôi.
Hai đứa em LaØi chứng kiến cái chết của chị mình mà không làm gì được, chúng chỉ biết kêu gào khóc lóc…
Năm ấy, ông Tân và Lài đã làm lễ đính hôn, chỉ chờ sang năm được tuổi là tổ chức cưới.
Lài mất, ông Tân đau đớn tột cùng, suốt nhiều ngày ông cứ đi thơ thẩn dọc theo bờ sông miệng lẩm nhẩm gọi tên người con gái mà ông yêu quý.
Mãi mấy hôm sau người ta mới vớt được xác Lài.
Ông Tân suy sụp hẳn. Nếu không nhờ gia đình vựa dậy, có lẽ ông Tân đã gục luôn từ hôm ấy.
Rồi sau đó, chính gia đình Lài đã mai mối để ông Tân cưới người vợ sau này.
Dù Lài không còn, nhưng ông Tân vẫn luôn giữ tốt mối quan hệ với gia đình cô ấy, mãi đến mấy lúc sau này, do sinh kế vợ chồng con cái ông đùm túm nhau đi lập phương xa, rồi vì cảnh nghèo nên mối dây liên lạc mới thưa dần và gần như mất hẳn.
Tuy vậy, thỉnh thoảng ông Tân vẫn đau đáu nhớ về, ông tự hỏi hiện nay gia đình đó ai còn ai mất, và ông cũng tự hứa với lòng rằng, sẽ có một ngày ông tìm về quê cũ để thăm lại gia đình Lài, thắp cho Lài một nén hương tưởng nhớ.
Vậy mà… cuộc đời thật trớ trêu, chiều hôm nay ông Tân lại bắt gặp đúng Lài của ngày xưa đang ngồi ven đường bán cá!
Sau một lúc hoảng loạn, khi bình tĩnh lại ông Tân chợt hiểu ra một điều, nếu còn sống thì bây giờ Lài không thể trẻ như thế, đây không phải là Lài, chỉ là một người nào đó giống cô, rất giống cô mà thôi. Nhưng nếu là một người xa lạ, tại sao cô gái ấy cũng tỏ ra sững sờ khi nhìn thấy ông Tân?
Bao nhiêu câu hỏi cứ quay cuồng trong đầu làm ông Tân gần như không đứng vững được.
Ông Tân bước xuống, dắt chiếc xe lại dựng tựa vào gốc cây bên đường rồi rút thuốc ra châm lửa đưa lên miệng hút.
ÔNg đã quyết định rồi, ông sẽ đứng chờ ở đây, chờ đến khi nào cô gái kia bán xong hết mâm cá trước mặt, ông sẽ mời cô lại nói chuyện để tìm hiểu.
Nhìn thấm mâm tôm cá trước mặt cô gái vẫn còn nhiều, giờ tan tầm người mua bu kín xung quanh, cô gái thật nhoi trước đám người đông đúc đó. Một mình cô lúi húi với việc làm cá, cân cá, nhận tiền… trông thật là tội nghịêp!
Ông Tân chợt nảy ra một ý. Tại sao mình lại đứng khơi khơi ở đây khi cô ấy hai tay làm không kịp?
Thế là ông Tân mạnh dạn tiến tới và ngồi xổm xuống cạnh bên cô gái, bình thản nói:
- Cô để tôi làm cá giúp cho!
Thoáng một chút ngỡ ngàng, nhưng cô gái cũng trao cây kéo đang cầm trên tay cho ông Tân, cô không có thời gian để mà dùng dằng từ chối.
Tuy là đàn ông, nhưng đã sống một mình từ lâu, ông Tân lại nhiều năm lăn lộn làm nhiều nghề nghịêp khác nhau, nên việc làm cá đối với ông không phải là điều gì lớn lắm.
Mấy con cá đầu ông còn hơi lướng vướng, nhưng rồi nhanh chóng ông Tân đã quen với công việc, hai bàn tay to lớn của ông cứ thoăn thoắt như một người chuyên nghiệp.
Mấy người mua tỏ vẻ hài lòng, còn mấy người buôn bán cạnh thì cứ liếc cô gái rồi chịc ghẹo:
- Hôm nay có người trúng số rồi!
Cô gái thẹn đỏ mặt nhưng không nói gì, cứ cắm cúi vào công việc, còn ông Tân thì làm ra vẻ tỉnh bơ giống như mình không can dự gì vào việc mà họ đang bàn tán.
Không bao lâu sau, mớ cá vụn cuối cùng cũng đã bán xong, cô gái thu dọn đồ đạc, rửa tay rồi nói khẽ với ông Tân:
- Dạ… cảm ơn anh đã giúp đỡ…
Ông Tân nhìn thẳng vào mắt cô gái:
- Tôi có chút chuyện muốn nói với cô, xin cô vui lòng đừng từ chối!
Cô gái lưỡng lự:
- Nhưng… giữa tôi với ông có gì mà nói? Tôi… tôi chỉ mới biết ông lần đầu thôi mà?
Ông Tân gật đầu:
- Đúng rồi! Tôi cũng lần đầu tiên gặp cô, nhưng hình như giữa tôi và cô có một điều gì đó không bình thường…. Ở đây nói chuyện không tiện, xin cô vui lòng theo tôi vào quán nước bên kia đường, tôi không làm cô mất nhiều thời gian đâu!
Sau một thoáng đắn đo, cuối cùng cô gái cũng đồng ý. Cô để mớ thau rổ của mình vào một góc rồi lẽo đẽo đi theo sau ông Tân tiến vào quán nước bên kia đường.
Ông Tân tỏ ra rất lịch sự kéo ghế mời cô gái:
- Xin mời cô!
Trao cho cô gái ly nước chanh đã được khuấy đều, ông Tân đi thẳng vào vấn đề:
- Tôi xin nói thật với cô, lần đầu tiên tôi được gặp cô nhưng tôi thật sự ngỡ ngàng vì cô rất giống một người thân của tôi.
- Thế à?
Cô gái đáp vẻ hờ hững.
Ông Tân hỏi tiếp:
- Nhưng tôi cũng nhận thấy cô cũng có thái độ quá bất ngờ khi gặp tôi, giống y như cô là người thân của tôi vậy đó!
- Không… không, tôi không phải!
Cô gái ấp úng chối.
Ông Tân gật đầu:
- Vâng, cô không phải là người đó! Tôi biết điều này, vì người đó nếu còn thì hiện nay cũng trạc tuổi với tôi, không thể nào trẻ trung như cô được. Nhưng, điều tôi quan tâm ở đây là… tôi muốn biết giữa cô và người đó có mối liên hệ gì không? Và tại sao cô có vẻ sững sờ khi gặp tôi như vậy?
Cô gái vừa như ngượng ngùng lại vừa như  háo hức:
- Tôi… tôi… thật sự tôi không biết phải nói sao đây?
- Nghĩa là sao?
Ông Tân thắc mắc.
Cô gái nhìn ông Tân e ngại:
- Tôi nghĩ… có thể tôi nói ra ông sẽ không tin…
- Sao cô lại nghĩ thế?
Ông Tân ngạc nhiên.
Cô gái xoa nhẹ hai bàn tay vào nhau như để lấy thêm can đảm, rồi cô thở hắt một hơi thật khẽ:
- Thôi được rồi, tôi sẽ kể sự thật với ông, còn chuyện ông có tin được hay không thì tôi không dám ép.
Ông Tân động viên:
- Tôi đang lắng nghe. Và tôi nghĩ tôi chẳng có lý do nào để nghi ngờ những điều cô sắp kể…
Cô gái khẽ cười:
- Nhưng ông có biết điều mà tôi sắp kể là gì đâu, phải không?
- Dù là điều gì tôi cũng sẽ tin, vì tôi nghĩ cô với tôi mới biết nhau lần đầu tiên, cố đâu cần dối gạt tôi làm gì…
Ông Tân xác định lại một lần nữa.
Cô gái chừng như đã yên tâm nên mạnh dạn kể:
- Tôi không phải người sinh trưởng ở đây. Quê tôi ở cách đây xa lắm. Tôi chỉ mới về sống ở địa phương này hơn hai tuần nay thôi. Mà cái lý do để tôi về đây sinh sống cũng rất kỳ lạ, từ từ tôi kể hết ông nghe.
Cô gái ngừng lại uống một ngụm nước, nhìn ông Tân với vẻ dò xét rồi nói tiếp:
- Tôi mồ côi cha mẹ từ nhỏ, sống với bà ngoại, ngoại tôi vừa mới mất hồi năm ngoái. Nói chung tôi là một người bình thường và cuộc sống của tôi cũng bình thường như rất nhiều người khác. Duy chỉ có một điều đặc biệt là… Từ khi bước vào tuổi trưởng thành cho đến tận hôm qua, đêm nào tôi cũng chỉ mơ một giấc mơ không rõ ràng nhưng nó cứ lặp đi lặp lại mấy chục năm nay, khiến những gì xảy trong mơ đã khắc ghi thật sâu đậm trong tâm trí tôi và nó cũng làm tôi lo nghĩ không ít. Ông có biết tôi đã thấy gì trong những giấc mơ đó không?
Cô gái ngước đôi mắt trong veo lên nhìn và đột ngột hỏi ông Tân.
Ông Tân ấp úng:
- Tôi… tôi không đoán ra!
Cô gái cười khẽ:
- Tôi đã thấy ông!
- Tôi à?
Ông Tân giật mình.
- Đúng, tôi đã thấy ông, hơn mười năm nay, đêm nào tôi cũng mơ thấy ông. Nhưng tôi hoàn toàn không biết được ông là ai, ở đâu, ông là gì với tôi… Và chiều nay bất chợt gặp ông, tôi thật sự bàng hoàng…
Cô gái nghiêm túc nói.
Ông Tân cũng tỏ ra bối rối:
- Tôi? Tôi đã hiện diện trong giấc mơ của cô từ hơn mười năm nay? Trong những giấc mơ đó tôi đã nói gì, làm gì cô còn nhớ không?
Cô gái lắc nhẹ đầu:
- Không, trong mơ chưa bao giờ tôi thấy ông nói gì, mà ông cũng chẳng làm một điều gì cụ thể. Ông giống như một hình ảnh luôn ám ảnh giấc ngủ của tôi mà không bao giờ cho tôi biết một chút gì về ông…
Ông Tân thật sự bất ngờ trước những lời kể của cô gái. Nỗi thắc mắc quay cuồng trong tâm trí. Mình với cô ta có mối dây liên hệ gì mà tại sao cô ấy luôn mơ thấy mình? Giữa cô ấy và Lài nữa, có liên hệ không? Tại sao cô ấy lại giống Lài như hai giọt nước?
Không thể lý giải được những điều đó, nên ông Tân cứ ngồi ngẩn người mắt nhìn đăm đăm vào cô gái khiến cô e thẹn, hỏi ông:
- Ông có tin được những gì tôi vừa mới nói không?
Ông Tân gật đầu:
- Tin, tôi tin những gì cô kể là sự thật. Tôi cũng có sự thật khó tin. Cách đây hơn hai mươi năm, tôi và một người gái tên Lài đã có hôn ước với nhau, không may Lài qua đời. Cô biết không, cô với Lài giống nhau như đúc. Lúc nãy mới gặp cô, tôi thật sự bị choáng vì cứ ngỡ đã gặp lại Lài, tưởng như Lài cố tình trốn tránh tôi bấy lâu nay vậy. Nhưng khi bình tâm lại, tôi biết cô không phải là Lài, vì lúc Lài mất cũng trạc tuổi cô hiện nay, bây giờ sau hơn hai mươi năm rồi, Lài không thể là cô được. Cô ơi, cô có nghe cha mẹ ông bà kể lại có người nào quen với gia đình cô tên Lài, gia đình sống huyện… không?
Cô gái lắc đầu:
- Tôi chưa nghe ai trong gia đình tôi nhắc tới tên Lài. Mẹ tôi chết khi mới sinh tôi. Tôi nghe kể lại, đáng lẽ tôi đã chết cùng với mẹ tôi rồi, vì mẹ tôi sinh khó mà không kịp vào bệnh viện. Ba mẹ tôi đang cùng nhau chài lưới trên sông thì mẹ tôi bất ngờ trở dạ. Cũng may, trong mấy chiếc xuồng trên bến sống chiều hôm đó có một người từng là mụ vườn, biết tin có người trở dạ, bà ta đã tận tình giúp đỡ. Nhưng mẹ tôi sinh khó, tôi đã bị tím tái và không còn thở nữa. Ba tôi đau đớn lắm vì vừa mất cả vợ lẫn con. Nhưng rồi không hiểu tại sao tôi đột ngột sống lại ngoài sự tưởng tượng của mọi người, nhưng mẹ tôi thì đã vĩnh viễn ra đi…
Nghe cô gái kể về việc mình chào đời trên sông nước, ông Tân thoáng rùng mình, hỏi lại:
- Cô… xin cô vui lòng cho tôi biết ngày sinh của cô, được không?
Cô gái cười:
- Ngày sinh của tôi dễ nhớ lắm ông à, vì đó là ngày rằm tháng bảy!
Cô gái vừa dứt lời, ông Tân cảm thấy chao đảo cả đất trời.
Trời ơi, không lẽ… không lẽ đây chính là… Rõ ràng ngày rằm tháng bảy năm đó Lài cũng đã vĩnh viễn bỏ ông mà đi… Ngày rằm tháng bảy năm đó có một đứa bé được sinh ra, mà lại giống Lài đến thế kia!
Ông Tân run rẩy hỏi tiếp:
- Cô ơi, cô có nhớ cô đã chào đời trên khúc sông nào không?
Cô gái thấy thái độ khẩn trương của ông Tân nên cũng hơi lo ngại:
- Có gì không ông? Tôi thấy… thấy hình như ông bị kích động lắm…
- Không! Không… cô cho tôi biết đi, cô chào đời ở khúc sông nào?
ÔNg Tân chồm lên lo lắng.
- Tôi… nghe ba tôi kể lại, mẹ tôi chuyển bụng khi đang chài lưới ở đoạn sông gần Ngã Năm Phụng Hiệp.
Cô gái trả lời.
Ông Tân thả người rớt phịch xuống ghế, hai tay ôm đầu rên rỉ nho nhỏ:
- Lài ơi… đúng là em rồi phải không Lài?
Cô gái hỏi:
- Ông có sao không ạ? Ông nói gì tôi nghe không rõ?
Ông Tân đau đớn ngước lên nhìn cô gái. Biết nói thế nào với cô ấy bây giờ, chẳng lẽ nói rằng cô chính là hiện thân của vị hôn thê ngày ấy của tôi? Nói thế thì khác nào mình là một thằng già không nên nết, lợi dụng sự giống nhau giữa hai người mà buông lời chọc ghẹo một cô gái chỉ đáng tuổi con mình? Còn nếu giấu nhẹm không nói ra thì cũng không được, ông không cam lòng, và trong chuyện này không đơn giản vậy đâu. Chắc chắn hồn Lài luôn muốn tìm gặp lại ông, cho nên bao nhiêu năm qua đều khiến cho cô gái này mơ mãi về ông để hình dáng, gowng mặt ông in sâu đậm vào tâm trí cô ấy. Thì bây giờ đã gặp nhau rồi, đâu thể nào giữ hoài im lặng được.
Nhưng nói ra bằng cách nào đây? Không thể sỗ sàng được, người ta là con gái mới lớn lên, mình là một thằng đàn ông tóc đã phai màu, đâu dễ gì nói những chuyện gió trăng như vậy…
Lài ơi, nếu đúng là em, hãy khiến xui cho tình cảm của mình ngày xưa dang dở nay có cơ may chắp lại, còn nếu không phải là em thì đành vậy, Lài ơi…
- Ông ơi… ông bị làm sao vậy?
Cô gái lo lắng hỏi.
Ông Tân gượng cười:
- Không, không sao đâu! Tại tôi quá bất ngờ trước những điều trùng hợp kỳ lạ như thế này. À, lúc nãy cô có nói, việc cô chuyển về đây sinh sống cũng kỳ lạ, vậy cô có vui lòng kể cho tôi biết được không?
Cô gái nhoẻn miệng cười hồn nhiên:
- Có gì mà không được ạ! Từ sau ngày ngoại tôi mất, tôi cứ ốm đau bệnh hoạn mãi, không làm gì ra trò ra trống. Mà đêm nào tôi cũng cứ thấy ông, rồi lại nghe văng vẳng bên tai tiếng người gọi tôi, chỉ cho tôi nơi lập nghịêp. Cuối cùng tôi quyết định thực hiện theo những điều huyền ảo đó, thử thời vận mình ra sao. Vì thật ra ở nơi quê cũ tôi cũng chẳng còn gì, có bỏ đi cũng không có gì trở ngại. Tôi thầm nghĩ thì coi như mình đi làm ăn xa, nếu ổn định được thì tốt, còn không thì lại quay về chẳng có gì quan trọng. Thế là tôi đi, mới đến nơi còn lạ nước lạ cái và bất ngờ gặp ông, quả là… những điều hy hữu!
- Hiện nay cô sống ở đâu?
Ông Tân quan tâm
- Tôi ở trọ trong một xóm lao động nghèo. Hôm nay là ngày đầu tiên tôi ra chợ buôn bán, tôi cũng không biết những ngày sắp tới mình có sống ổn định được với cái nghề này không nữa?
Ông Tân xé một tờ giấy rồi viết vội lên đó mấy dòng, xong đưa cho cô gái:
- Đây là địa chỉ của tôi, nếu có gì cần xin cô hãy đến đó, cô đừng ngại ngần điều chi hết. Tôi nghĩ chắc hẳn giữa tôi với cô có một sự liên hệ huyền bí nào đó mà hiện nay chúng ta chưa giải đáp được. Thôi thì tôi xem cô như người thân trong nhà, tôi mong cô cũng xem tôi như thế. Giữa tôi và cô, xin đừng có sự khách khí nào… Tôi rất thật lòng, mong cô hiểu cho.
Ông Tân còn muốn nói chuyện nhiều hơn nữa với cô gái, nhưng ông biết, mới lần đầu tiên gặp mặt mà đã nói với nhau bao nhiêu chuyện thế là quá nhiều rồi, không nên gây cho cô gái cảm giác khó chịu nào nữa.
Trước khi chia tay, ông hỏi:
- Xin lỗi, tôi tên Tân, cô vui lòng cho tôi được biết tên cô?
Cô gái đứng lên mỉm cười:
- Cảm ơn ông, tên tôi là Loan.
Ông Tân nói khẽ:
- Cô Loan về nhé! Nhớ có gì cần cứ đến tìm tôi.
Loan không nói gì, chỉ mỉm cười và gật đầu chào ông Tân.
Đứng trước cửa quán nước nhìn theo cái dáng nhỏ bé của Loan hòa vào dòng người hối hả, ông Tân nghe trong lòng mình dâng lên một tình cảm rất khó gọi tên…
Lâu lắm rồi, từ dạo Lài mất ông Tân đã thôi không còn những cảm tình lãng mạn nữa. Ông cưới vợ, sinh con, sống với vợ con những ngày tháng đầm ấm hạnh phúc, nhưng chưa bao giờ trong lòng ông lại trào dâng lên một thứ tình cảm da diết như thế này. Những tình cảm của tuổi đôi mươi này tưởng đã chết hẳn từ ngày Lài bỏ ông đi, chiều nay bỗng dưng bừng sống lại, giống như Lài cũng bừng sống dậy chiều nay…
Đạp xe chầm chậm về nhà, ông Tân không buồn ra vườn tưới cây như mọi hôm. Ông cứ hết ngồi suy nghĩ thẩn thờ lại ngã mình trằn trọc trên bộ ván.
Mãi đến khi trời tối mịt ông mới lò dò xuống bếp nấu cơm.
Bữa ăn hôm nay ông ăn vội vàng cho qua chứ không cảm nhận được vị ngọt ngào của bát canh hay sự dẻo thơm của nồi cơm gạo mới… Tất cả tâm tư tình cảm ông đã dồn hết cho Loan, không đúng, mà là dồn hết cho Lài của ông mới đúng!
Từ hôm đó, chiều nào đi làm về ông Tân cũng ghé lại chỗ Laon, ngồi giúp cô làm cá, hoặc đôi khi chỉ hỏi thăm bâng quơ một đôi câu mà ông vẫn cảm thấy lòng phơi phới lắm.
Loan thì vẫn vậy, với ông, cô cũng tỏ ra vui vẻ nhưng có chừng mực. Và chưa một lần cô tìm tới nhà ông dù đã nhiều lần ông Tân cố tình mời mọc.
Một buổi chiều do bận việc cơ quan, ông Tân về hơi trễ hơn thường ngày, khi đi gần tới chỗ Loan bán, ông trông thấy rất nhiều người xúm vào đó có vẻ như đang xảy ra chuyện không hay nào đó.
Bát giác ông Tân thấy lo lắng, ông vội vàng vứt chiếc xe xuống lề đường, chen lấn tiến vào trong, Loan đang nằm dài dưới đất, được mấy người phụ nữ đánh gió.
Mấy người buôn bán cạnh Loan đã quen mặt ông Tân, vừa thấy ông, họ mừng rỡ:
- Kìa, kìa… người thân của cô ấy đã đến rồi kìa!
Ông Tân hấp tấp hỏi:
- Cô ấy bị sao vậy?
Một chị bán bên cạnh nhanh nhảu trả lời:
- Chắc là bị trúng gió, đang ngồi thì ngã ngửa ra không biết trời đất gì nữa hết.
Ông Tân nhanh nhẹn xốc Loan lên tay, bước ra đường vẫy một chiếc xích lô.
Khi đã đặt Loan lên xe, ông quay lại dặn:
- Cô trông chừng giúp đồ đạc của cô ấy!
- Ông yên tâm đi, tụi tôi sẽ giúp mà!
Chị bạn nhanh miệng trả lời.
Ông Tân lóc cóc đạp xe theo sau chiếc xích lô chở Loan về nhà ông.
Khi đã vào nhà, ông đặt cô lên ván rồi làm vài biện pháp sơ cứu mà ông đã biết qua, xong đâu đấy, ông xuống bếp vo nồi cháo bắc lên.
Trong khi ông Tân lúi húi nấu cháo dưới bếp thì ở nhà trên Loan đã dần dần hồi tỉnh.
Cô mở mắt ra ngơ ngác ngó xung quanh, không thể xác định được tại sao mình lại nằm đây, mà đây là ở đâu? Loan từ từ nhớ lại… Phải rồi, mình đang ngồi bán thì chợt cảm thất choáng váng rồi không nhớ gì nữa hết.
Hay đây là nhà của chị bạn bán kế bên? Không phải đâu, nghe chị kể gia cảnh cũng nghèo khổ lắm mà, đâu có được ngôi nhà to lớn như thế này?
Loan chống tay định nhổm dậy, nhưng đầu óc cô vẫn còn chao đảo lắm, cô phải bấu chặt tay vào thành ván mới có thể ngồi lên.
Nhà ai mà vắng vẻ thế này? Loan vừa thắc mắc vừa lo sợ. Địa phương này Loan mới tới, chưa quen đường quen lối, lại chưa thân thiết với ai, nếu lỡ có chuyện gì không hay xảy ra cô biết phải làm sao đây?
Bỗng Loan nghe có tiếng lục đục phát ra từ căn nhà phía sau, cô dò dẫm bước đi, vì lúc này ngoài trời đã tối mà trong nhà chỉ để một ngọn đèn không đủ sáng cả ngôi nhà to lớn.
Loan bất giác giật mình khi nhận ra người đàn ông hôm trước. Vừa đúng lúc ông Tân quay lại và bắt gặp cô đang sửng sốt nhìn mình.
Ông Tân vội nói:
- Xin cô yên lòng! Lúc nãy đi làm về ngang qua đó, tình cờ tôi thấy cô trúng gió, tôi không biết phải làm sao, nếu đưa cô về nhà trọ của cô thì sẽ không ai chăm sóc. Vì vậy tôi mạo muội đánh liều đưa cô về thẳng nhà tôi, tôi xin thề tôi không có ý đồ gì không tốt!
Nhìn thấy dáng vẻ ông Tân và nghe ông nói liền một hơi, Loan chợt phì cười:
- Tôi.. tôi cám ơn ông… Tôi không nghĩ ông có ý đồ gì, chỉ là… tôi ngại vì đã làm phiền ông mà thôi!
Ông Tân thở phào khi nghe Loan nói. Từ chiều giờ ông luôn lo lắng, sợ khi tỉnh dậy Loan sẽ có phản ứng mạnh, sẽ mắng chửi khi biết ông đưa cô về đây.
Giờ thấy cô thế này, thật sự lòng ông Tân vui lắm. Ông nói đùa:
- Có gì đâu mà phiền! Thì cô cứ coi như tôi đền bù lại tội lỗi của mình.
- Tội lỗi của ông? Tội lỗi gì?
Loan ngơ ngác.
Ông Tân bật cười:
- Thì cô đã nói hơn mười năm nay tôi luôn quấy rối giấc ngủ của cô, thì nay tôi xin được đền lại cho cô một phần rất nhỏ…
Loan cười:
- Ồ, thì ra ông nói chuyện đó! Mà lạ thiệt ông nhỉ? Tôi cứ suy nghĩ mãi mà không tài nào nghĩ ra giữa ông và tôi và người vợ hứa hôn năm xưa của ông có mối dây liên hệ nào?
Ông Tân tiến đến kéo chiếc ghế ra ân cần bảo:
- Cô còn yếu lắm kìa, cô cứ ngồi xuống đây, cháo cũng đã chín rồi để tôi múc ra cho cô ăn nóng, ăn thật nóng, thật cay vào cho xuất hạn mồ hôi, có như vậy mới giải cảm được. Cô cứ từ từ ăn, vừa ăn mình vừa nói chuyện.
Loan ngồi xuống ghế, ngoan ngoãn đón lấy chén cháo thơm lừng mùi hành tiêu và còn nghi ngút khói từ tay ông Tân. Cô chớp chớp mắt để nén dòng xúc cảm của mình.
Lâu rồi, lâu lắm rồi, kể từ ngày bà ngoại già cả không còn đủ tỉnh táo và sức lực thì trên đời này chưa có ai lo lắng ân cần với cô như vậy.
Ông Tân cũng kéo ghế ngồi đối diện với Loan, ông giục:
- Cô ăn đi cho nóng!
Loan ngập ngừng:
- Ông… ông không ăn cùng tôi sao?
Ông Tân lắc đầu:
- Tôi có đau ốm gì đâu mà ăn cháo? Cơm tôi đang nấu, tí nữa sẽ ăn sau, cô cứ dùng tự nhiên đừng ngần ngại. Như đã có lần tôi nói với cô, mình hãy coi nhau như người trong nhà, như vậy sẽ tốt hơn cô ạ! Kìa, cô ăn đi chứ!
Để ông Tân thúc giục hoài cũng kỳ, Loan chậm rãi múc một muỗng cháo đưa lên miệng húp. Cái vị ngọt ngào ấm nóng đi dần vào bao tử làm cho cô có cảm giác thật dễ chịu.
Ngồi nhìn Loan ăn, ông Tân trầm ngâm nói:
- Có những việc rất khó hiểu mà có thể người ngoài sẽ không thể nào tin được. Từ hôm bất ngờ gặp được cô, thú thật là trong đầu tôi luôn luôn nghĩ về chuyện đó, tôi không thể tin được trên đời lại có chuyện trùng hợp lạ lùng như thế xảy ra! Vậy mà nó đã xảy ra, xảy ra ngay trong cuộc đời tôi…
Loan ngước lên nhìn ông Tân, hỏi:
- Ý ông nói là sự giống nhau kỳ lạ giữa tôi và người vợ hứa hôn của ông, hay giấc mơ của tôi?
Ông Tân mơ màng nhìn ra cửa sổ, nói với Loan mà như nói với chính bản thân mình:
- Về tất cả cô ạ! Về sự giống nhau, về giấc mơ của cô và về những điều khác nữa mà cô chưa biết!
- Còn những điều khác nữa sao ông?
Loan ngạc nhiên.
Ông Tân gật đầu:
- Đúng vậy, còn những điều khác nữa… Cô có biết không, người vợ hứa hôn ngày xưa của tôi đã chết trong một tai nạn chìm xuồng, cũng ngay trên khúc sông mà cô đã ra đời, và… cũng vào chiều ngày rằm tháng bảy!
Muỗng cháo vừa húp vô như nghẹn lại nơi cổ của Loan, cô cố gắng nuốt ực một cái rồi hỏi, giọng lắp bắp:
- Ông nói sao? Người đó chết ngay trên khúc sông đó? Cũng vào ngày đó?
Ông Tân không nói gì chỉ lặng lẽ gật đầu xác nhận.
Loan buông rơi muỗng cháo, kêu lên:
- Trời ơi!...
Ông Tân đứng lên bước vội về phía nhà trước, và chỉ một loáng sau ông quay trở xuống, trên tay cầm một cái bài vị đưa ra trước mắt Loan:
- Cô hãy nhìn đi, đây là bài vị của Lài, tôi luôn mang theo từ ngày cô ấy mất.
Loan run run cầm lấy chiếc bài vị, xem xét thật kỹ chỗ ghi ngày mất thì đúng là trùng với ngày sinh tháng đẻ của cô.
Bất chợt Loan hỏi một câu không ăn nhập gì tới chuyện đó:
- Từ ngày cô ấy mất ông vẫn sống một mình?
Ông Tân cười nhẹ, lắc đầu:
- Không! Sau khi cô ấy mất vài năm thì tôi lấy vợ, nhưng có lẽ số tôi không may mắn, hơn mười năm trước vợ tôi cũng đã qua đời sau một trận ốm. Hai đứa con tôi đang sống ở nước ngoài.
Loan gật gù:
- Đã lấy vợ, sinh con vậy mà ông vẫn giữ bài vị của người xưa sao?
Ông Tân cười:
- Giữ chứ! Tôi đã xem Lài là vợ tôi. Người vợ sau này của tôi cũng một lòng thờ kính cô ấy. Hằng năm, chúng tôi đều làm giỗ cúng cô ấy, dù lúc đó chúng tôi nghèo khổ lắm, nói là giỗ nhưng có khi chỉ là một mâm cơm đạm bạc….
Loan có vẻ xúc động:
- Nếu vong hồn cô ấy biết được chắc sẽ hạnh phúc lắm. Ít có người đàn ông nào chung thủy được như ông!
Ông Tân cười:
- Cô nói thế chứ tôi có ra gì…
Bỗng dưng Loan cầm chiếc bài vị đưa lên giữa trán thành tâm khấn vái:
- Tôi là một kẻ tứ cố vô thân, tình cờ trôi dạt đến đây và gặp được những điều lạ lẫm ngoài sức phán đoán của tôi. Tôi kính cẩn xin hương hồn cô Lài nếu có linh thiêng hãy báo mộng cho tôi được rõ, để tôi biết giữa cô, ông Tân và tôi có mối liên hệ gì. Có như thế tôi mới có thể sống yên ổn được…
Ông Tân xúc động vô cùng khi nghe Loan khấn như vậy. Trong lòng mình ông cũng thầm van:
- Lài ơi, em hãy về nói rõ cho anh biết đi! Anh phải làm sao đây, cư xử sao đây? Thâït sự lòng anh đang ngổn ngang trăm mối, em hãy về giúp anh giải thích rõ mọi việc nghe Lài…
Ngoài trời, bóng đêm đã bao trùm cảnh vật. Cái nóng hầm hập của những ngày cuối hạ cũng đã nhanh chóng tan đi nhường chỗ cho những cơn gió dìu dịu thổi mát mơn man trên những khóm cây luống cỏ…
Mùi hương thoảng của mấy cây nguyệt quế trồng bên ngoài cửa sổ thoảng đưa vào làm cho không khí trong căn phòng càng thêm ấm áp.
Loan đứng lên:
- Trời tối rồi, tôi phải về đây! Xin cảm ơn ông rất nhiều vì sự giúp đỡ vừa rồi của ông…
Ông Tân không hài lòng:
- Coi kìa, tôi đã nói sao với cô? Mình hãy xem nhau như người thân trong gia đình, thì có gì mà cô phải nói tiếng cảm ơn khách khí đó?
Loan bối rối:
- Dạ… tôi xin lỗi! Thôi, xin phép ông tôi về!
Ông Tân muốn giữ Loan lại nhưng biết rằng không tiện nên thôi, đành phải đứng lên tiễn cô ra cổng với lời dặn dò ân cần:
- Cô về nghỉ ngơi cho khỏe, mai đừng vội đi bán đấy! Có gì cứ đến tìm tôi nhé?
- Dạ, tôi nhớ rồi ạ! Thôi, ông vào nhà đi, tôi về được rồi!
Loan mỉm cười.
Ông Tân sực nhớ ra:
- À mà cô về bằng gì nhỉ?
Loan nhìn ông cười:
- Tôi đi bộ, chỗ tôi ở cũng gần đây thôi mà! Đi hết con đường này, rẽ vào một con hẻm nhỏ là tới. Lúc nãy vừa ra tới cổng nhà ông là tôi đã định hướng được rồi, vì hôm mới lên tôi có đi thơ thẩn qua đây.
Ông Tân reo lên:
- Vậy hóa ra mình còn là láng giềng của nhau nữa à? Thế thì tốt quá!
Loan mở miệng định hỏi thêm:
- Sao là tốt quá?
Nhưng cô cảm thấy ngại nên thôi.
Bóng Loan đã khuất dần nơi cuối con đường mà ông Tân vẫn bần thần đứng hoài trước cổng không muốn quay vô.
Bất chợt, ông quay lại khóa trái cổng rồi đi một mạch theo lối lúc nãy Loan đi.
Ở cuối con đường quả thật có một con hẻm nhỏ đúng như Loan nói. Ông chậm rãi đi vô hẻm, vừa đi vừa nhìn ngó xung quanh, ông muốn tránh không để Loan biết ông đã đi theo Loan đến tận chỗ này.
Con hẻm này tuy ở gần nhà nhưng chưa một lần ông Tân bước chân vô. Thứ nhất vì ông cũng mới dọn về đây sinh sống, thứ hai, từ ngày dọn về ông mãi lo cải tạo nhà cửa, vườn tược chưa có thời gian nào rảnh để tìm hiểu xung quanh.
Con hẻm nhỏ xíu, hai chiếc xe máy chạy ngược chiều muốn tránh nhau cũng không phải dễ. Hai bên nhà cửa chen chúc, mà hầu hết các ngôi nhà ở đây đều ọp ẹp, tạm bợ.
Tiếng trẻ con cười đùa, tiếng mấy người đàn ông đang nhậu nhẹt, tiếng quát mắng của một vài phụ nữ khiến không khí trong hẻm ồn ào náo nhiệt hẳn lên.
Ông Tân cứ đi mải miết gần đến cuối hẻm mới phát hiện được nơi ở của Loan.
Đó là một căn nhà nhỏ xíu và còn có vẻ tạm bợ hơn hẳn những căn kế bên nữa.
Ông chợt cảm thấy xót xa, nhớ lại một quãng đời khổ sở nghèo đói của mình.
Ông Tân muốn ngay lập tức chạy vào đó kéo tay Loan bảo cô hãy dọn về nhà ông mà sống. Nhưng ông đã kịp dằn lại cái cảm xúc nông nỗi đó, ông biết Loan không thể dễ dàng chấp nhận về sống với người đàn ông xa lạ như ông…
Thôi, chuyện gì thì cũng từ từ, cần phải có thời gian…
Ông Tân nhủ thầm với lòng mình như vậy.
Đi loanh quanh trước cửa nhà Loan một lúc rồi ông Tân quay gót ra về. Dù sao biết được nơi sinh sống của Loan thì ông cũng đã yên tâm nhiều rồi.
Tối đêm đó trước khi đi ngủ, ông Tân không quên thắp nhang lên bàn thờ vợ và Lài và khấn những câu như lúc tối ông đã nghĩ.
Lên giường năm mãi mà không ngủ được, ông Tân cứ trằn trọc không yên. Bất chợt ông thấy thèm hút một điếu thuốc, nhưng vì ông bỏ hút đã lâu nên trong nhà không có thuốc, đêm cũng đã khuya rồi, giờ này còn lang thang ra đường mua thuốc thì cũng ngại nên ông đành nằm im chịu đựng.
Bỗng ông Tân nghe một tiếng động rất to phía nhà bếp. Cứ ngỡ con mèo hoang nào dám vô lục lọi đồ ăn, ông Tân vùng dậy đi xuống bếp nhưng tất cả các cánh cửa sổ đều đã được đóng kín thì làm sao mèo nào vô được? Nồi cá kho để trên bàn cũng vẫn còn nguyên.
Tiếng gì thế nhỉ?
Thắc mắc, ông Tân bật sáng hết các ngọn đèn để đi xem xét khắp nơi mà vẫn không có gì lạ.
- Hay là tai mình có vấn đề?
Ông Tân vừa lầm bầm vừa tắt đèn rồi trở vô mùng nằm.
Mới vừa thiu thỉu ngủ, một tiếng “ầm” vang lên làm ông Tân giạt bắn cả người. Ông ngồi bật dậy, vớ lấy cây gậy luôn đặt phía đầu giường lặng lẽ đi ra nhà sau.
Ông cố tình không bật đèn để xem cái quái quỷ gì phá rối ông như vậy?
Nép mình vào cánh cửa ăn thông với nhà bếp, nơi phát ra tiếng động, ông Tân nín thở lắng nghe động tịnh.
Có tiếng chân bước rất nhẹ làm ông giật mình kêu khẽ: “Trộm ư?” Ông nắm chặt cái cây trong tay đề phòng bất trắc.
Tiếng chân không còn, nhưng thay vào đó là những rì rầm nho nhỏ.
“Thật quá đáng, đã đi ăn trộm mà còn dám bàn tán như vậy sao? Bọn trộm nay lộng hành đến mức độ này sao?”
Ông Tân thầm nghĩ.
Ông không lo lắng gì đến chuyện trộm viếng thăm nhà, vì trong nhà ông có cái gì đáng giá để chúng nó lấy mang đi đâu? Tiền bạc của cải dành dụm ông đều gởi cả trong ngân hàng, chúng có tìm đỏ con mắt cũng đừng hòng lấy được cái gì.
Nhưng lạ kìa, sao chúng lại có vẻ như đang đùa giỡn với nhau vậy? Tiếng cười khúc khích, tiếng dỗ dành nho nhỏ… Ông Tân không hiểu chuyện gì đang xảy ra nữa.
Ông nhích thêm mấy bước để đến bên chiếc khuôn bông trên vách, ông ghé mắt vào đó nhìn xuống, một cảnh tượng làm ông rụng rời:
Hai bóng người trắng toát đang ngồi sát bên nhau ra vẻ âu yếm lắm!
Ma! Đúng là ma rồi! Lời đồn đại quả không sai!
Ông Tân run rẩy hai chân, nhưng ông cố gắng tự chủ:
- Mình đừng quấy phá họ thì chắc họ cũng sẽ không quấy phá mình!
Ông tự nhủ như thế rồi lùi dần trở về phòng ngủ của mình.
Nỗi lo âu vẫn canh cánh bên lòng, nhưng ông Tân luôn nhẩm đi nhẩm lại câu đừng ai phạm tới ai, rồi ông chìm vào giấc ngủ từ lúc nào ông cũng không hay biết.
Sáng sớm hôm sau, vừa thức dậy, ông Tân đi rảo một vòng quanh nhà thì thấy tất cả vẫn bình thường không có chút gì thay đổi.
Hôm nay là chủ nhật không phải đi làm, ông Tân thư thả ra sân tập thể dục rồi tưới nước bắt sâu cho mấy khóm hoa luống cải. Khi mọi việc xong xuôi thì mặt trời cũng đã lên cao.
Ông vào nhà tắm rửa, định sẽ đi chợ mua một ít thức ăn. Nhưng khi vừa tắm xong, ông nghe có tiếng Loan gọi ngoài cửa.
Mừng rỡ, ông Tân nhanh chóng đi ra:
- Hôm nay chủ nhật, biết ông có ở nhà nên tôi mua một íỚthc ăn tới nấu cho ông bữa cơm để trả nợ!
Loan vừa cười vừa nói.
Ông Tân hồ hởi:
- Xin mời cô vào! Tôi thật sự mừng quá, vì lâu rồi không ai nấu cơm cho tôi ăn…
Chợt nhận ra câu nói của mình hơi có vẻ hớ hênh, ông Tân nín bặt, cô Loan cũng có vẻ e thẹn.
- Cô mua những gì thế? Tôi cũng mới vừa tính đi chợ đây, thật may quá…
Ông Tân nói để xua đi cái sự ngượng ngập giữa hai người.
Không lâu sau Loan cũng đã lấy lại được vẻ tự nhiên, cô bắt tay vào công việc nội trợ với sự thuần thục của một cô gái quê đảm đang khéo léo.
Ông Tân cũng lăng xăng phụ giúp một tay. Lòng ông vui rộn rã, hơn mười năm nay trong nhà ông mới lại có không khí đầm ấm như thế này.
Khi bữa cơm đã được dọn lên tươm tất, ông Tân bỗng nhớ ra và nói với Loan:
- Tôi xin phép được cúng mâm cơm này cho những người khuất mặt ở đây, được không cô Loan?
Loan hơi ngỡ ngàng nhưng chỉ một thoáng qua, cô gật đầu cười:
- Ông cũng tin vào người khuất mặt nữa sao?
Ông Tân khẽ gật:
- Tin chứ cô!
- Thế ông có sợ không?
Loan tò mò hỏi.
Ông Tân cười:
- Không, tôi không sợ! Bởi tôi tin người chết họ cũng không làm hại gì mình nếu mình không làm gì hại đến họ!
- Ông là một người tốt!
Loan buông một câu gọn lỏn làm ông Tân cười ngất:
- Cô dễ tin người đến thế sao? Chỉ mới nghe tôi bẻm mép một đôi câu mà cô nhận định tôi là người tốt thì coi chừng sẽ hối hận đó nghe!
Loan nghiêm giọng:
- Không, không phải tôi nhận xét vậy chỉ vì nghe một vài câu nói của ông, mà là tôi quan sát ông từ lâu nay, từ hôm gặp ông lần đầu tới nay…
Ông Tân xúc động khi nghe Loan nói. Bỗng ông hỏi Loan:
- Cô có tin ma không, cô Loan?
Loan giật mình:
- Sao ông hỏi vậy? Bộ… bộ nhà ông có ma sao?
Thấy Loan có vẻ sợ sệt, ông Tân cười:
- Không, tôi chỉ thuận mịêng hỏi cho vui vậy thôi mà!
Loan lè lưỡi:
- Vậy mà ông làm tôi hết hồn, cứ tưởng ông gặp ma…
Nhưng rồi Loan lại tỏ ra mạnh dạn:
- Mà nè ông ơi, tôi nghĩ tôi cũng không có sợ ma đâu! Tại vì… lâu nay tôi cứ nghĩ ông là ma đó!
Ông Tân trợn tròn mắt:
- Sao? Cô nghĩ tôi là ma à?
Loan ngây thơ:
- Đúng vậy! Tại vì đêm nào tôi cũng mơ thấy ông, mà tôi thì chưa gặp ông bao giờ cho nên tôi cứ nghĩ ông là một hồn ma đeo bám lấy tôi, có lúc tôi cảm thấy ghét ông kinh khủng.
- Ghét tôi?
Ông Tân hỏi.
- Phải, tôi ghét ông, vì ông cứ làm cho đầu óc tôi rối tinh rối mù cả lên vì phải suy nghĩ đủ thứ, thắc mắc đủ thứ. Nhưng rồi một thời gian sau, tôi đã quen dần với việc gặp gỡ ông hằng đêm, tôi coi chuyện đó như một chuyện đương nhiên rồi nên không còn thấy ghét ông nữa!
- Hú hồn!
Ông tân thở phào nhẹ nhõm, tay đặt lên ngực làm bộ điệu chọc cười cho Loan.
Loan nhìn ông cười cười:
- Tôi không biết làm cách nào để biết được mối dây liên hệ giữa ba người chúng ta? Hay hôm nào tôi đi xem bói nhé?
Ông Tân nhăn nhó:
- Tôi chỉ sợ cô gặp phải các tay thầy bói bịp bợm, bàn ra tán vào rồi cô lại đâm ra ghét tôi lần nữa thì nguy.
Loan và ông Tân cùng cười. Tiếng cười xua đi cái không khí hoang vắng trong ngôi nhà rộng thênh của ông Tân.
Ông Tân thấy mình như trẻ lại hàng chục tuổi. Suốt buổi sáng ông cứ nói đùa nói tếu như chàng thanh niên thuở mới hai mươi…
Khi những nén nhang đã tàn, ông Tân dọn mâm cơm xuống và hai người ngồi vào bàn vừa ăn vừa nói cười vui vẻ.
Cả hai gần như đã không khoảng cách, đã trở nên thân thiết lắm rồi.
Aên cơm xong, Loan ở lại gíup ông Tân một vài việc lặt vặt ngoài vườn, đến tận trưa cô mới từ giã ra về sau khi hứa với ông Tân hôm nay sẽ không đi bán, mà nghỉ ở nhà cho lại sức.
Còn lại một mình trong nhà ông Tân khẽ mỉm cười khi nhớ lại những việc vừa xảy ra. Ông không biết phải cảm ơn trời phật hay cảm ơn ai đã xui khiến cho ông và Loan có cơ may gặp gỡ để lứa tuổi về chiều của ông còn có được niềm hạnh phúc muộn màng này?
Xế trưa hôm ấy trời bất thình đổ mưa, cơn mưa thật lớn, nước đổ ầm ầm trên mái nhà, như coa bao nhiêu trên trời đều bị ông trời đem trút hết xuống trần gian.
Ông Tân đóng kín các cánh cửa sổ rồi ngồi bó gối ngó mông ra sân qua làn cửa kính mờ mờ.
Cây cối nghiêng ngã tơi bời, sấm sét đì đoàng, những tia chớp thì cứ lóe lên như muốn rạch nát bầu trời.
Trước đây, mỗi lúc trời mưa như thế này là ông Tân rầu rĩ lắm. Hết rầu cảnh nhà dột cột xiêu lại rầu tới cảnh cô đơn vò võ, thế nhưng hôm nay, trời cũng mưa gió tơi bời mà trong lòng ông Tân thật ấm áp. Ông không còn cảm thấy cô đơn nữa. Hình như có một điều gì đó vừa len nhẹ vào trái tim ông mà ông còn đang tự dối mình, chưa dám phân tích để nhìn nhận.
Ngồi một lúc, ông Tân ngã người xuống bộ ván và lơ mơ ngủ.
Tiếng mưa vẫn gõ nhịp đều đều như ai đó đang cố tình ru dỗ đưa ông vào giấc ngủ êm đềm…
Đang mơ màng, ông Tân thoáng cảm nhận có ai đó vừa đi lướt ngang qua chỗ mình nằm. Mở choàng mắt ra nhìn dáo dác khắp nơi vẫn không thấy gì, ông Tân vừa mới định khép măt lại ngủ tiếp thì nghe rõ ràng có tiếng cười khúch khích.
- Ai đó? Ai cười đó?
Ông Tân ngồi bật dậy lên tiếng hỏi.
Một bóng người mặc toàn đồ trắng thoáng lướt qua ông. Trong cái cảnh âm u tranh tối tranh sáng này, ông Tân không làm sao nhìn rõ được gương mặt người đó, nhưng ông biết chắc đó là một người phụ nữ.
- Cô… cô là ai?
Ông Tân hỏi.
- Tôi là chủ nhân trước đây của ngôi nhà này!
Một giọng nữ ấm áp cất lên.
Ông Tân lắp bắp:
- Bà… chẳng phải bà đã qua đời từ lâu rồi sao?
Một giọng cười trong trẻo vang lên, nhưng rõ ràng không phải là tiếng cười ghê rợn như lâu nay ông Tân thương nghe người ta kể về ma như vậy.
- Đúng là tôi đã chết rồi, chết cả hai vợ chồng! Nhưng vì chúng tôi chết oan, chúng tôi chưa tới số, nên bao nhiêu năm nay chúng tôi không sao siêu thoát được, cứ phải làm những vong hồn vất vưởng sống bám vào trần gian… Nay chúng tôi thấy ông là người tốt, biết suy nghĩ trước sau nên chúng tôi quyết định nhờ cậy ông giúp cho một việc, hy vọng vợ chồng tôi sớm được siêu sinh.
Giọng nói của người phụ nữ rẩ rành mạch, khúc chiết khiến ông Tân không còn cảm thấy sợ hãi gì nữa.
Ông mạnh dạn:
- Có điều gì xin ông bà cứ nói, nếu sức tôi có thể làm được tôi nhất định sẽ làm cho ông bà.
Tiếng người phụ nữ nũng nịu:
- Anh thấy chưa, em dã bảo với anh ông đây là người tốt!
Có tiếng trầm ấm của người đàn ông:
- Thì anh có chống đối em đâu…
Rồi tiếng hai người cười khúc khích với nhau.
Ông Tân cảm nhận đây là một cặp vợ chồng sống với nhau rất hạnh phúc, không biết vì lẽ gì mà họ chết, lại là chết oan ức đến nỗi hồn phách không siêu thoát được?
Tiếng người đàn ông:
- Được ông nhận lời giúp đỡ vợ chồng tôi vô cùng đội ơn! Việc cũng không có gì quá sức ông đâu, nhưng cụ thể là việc gì thì vợ chồng tôi sẽ nói sau. Trước tiên, chúng tôi muốn nói về chuyện của ông trước đã.
- Chuyện của tôi?
Ông Tân ngạc nhiên hỏi lại.
- Đúng, chuyện của ông! Có phải ông luôn thắc mắc tại sao lại có sự trùng hợp giữa người vợ sắp cưới năm xưa của ông và cô Loan hiện nay, đúng không?
Ông Tân vừa ngỡ ngàng vừa mừng rỡ. Ông thấy có lẽ mọi sự sắp được sáng tỏ rồi.
- Ông… ông bà cũng biết cả việc đó nữa sao?
Ông Tân hỏi.
Tiếng người đàn bà cười giòn giã:
- Biết chứ! Chúng tôi biết mọi thứ từ ngày đầu tiên ông mới dọn về đây. Tôi vẫn thường nói với chồng tôi rằng, chúng mình sắp được chứng kiến một mối tình thật cảm động…
- Ông bà biết ba người chúng tôi có liên hệ gì với nhau thật sao?
Ông Tân nóng ruột.
Người phụ nữ không cười nữa, bà ta nói nghiêm túc:
- Người vợ hứa hôn năm xưa của ông chết, nhưng vì nợ duyên với ông chưa hết được nên ngay lúc đó hồn của cô ấy đã nhập vào xác đứa bé đã chết khi vừa mới sinh ra. Như vậy, cô Loan hiện nay chính là vợ hứa hôn ngày trước của ông sống lại trong thân xác đó. Những nhân duyên, nợ nần tiền kiếp nếu muốn ông hiểu rõ thì tôi phải giải thích dài dòng lắm. Ông chỉ cần biết như thế là đủ.
- Nhưng… tại sao cô ấy luôn mơ thấy tôi khi ngủ?
Ông Tân vẫn chưa hết thắc mắc.
Người phụ nữ bật cười:
- Đó là do các thế lực siêu nhiên muốn nhắc nhở cô ấy rằng cô ấy đã là người có chủ. Chính vì mơ gặp ông hằng đêm như thế mà cô ấy đã từ chối biết bao nhiêu lời tỏ tình cũng như lời cầu hôn của những gia đình khá giả. Đó là mệnh số của hai người, phải trải qua những thăng trầm như vậy cuối cùng mới được sống với nhau.
Ông Tân cảm thấy mừng vui không xiết, nhưng nỗi lo vẫn canh cánh bên lòng, ông buột miệng hỏi:
- Nhưng tôi phải làm sao bây giờ? Tôi phải nói sao với Loan để Loan không nghĩ tôi là kẻ đặt điều như vậy để buông lời chọc ghẹo cô ấy?
Người đàn ông lên tiếng:
- Ông không có gì phải lo! Mọi việc đã được sắp xếp hết cả rồi! Cái gì đến sẽ tự nhiên mà đến thôi ông ạ!
Tuy không hiểu rõ lắm những lời người đàn ông nói, nhưng ông Tân cũng tạm hài lòng với những gì mình đã biết.
- Cái gì đến sẽ tự nó đến!
Ông lầm rầm nhắc lại như để trấn an mình.
Ông Tân ngước lên nhìn vào khoảng không trước mặt:
- Tôi rất cảm ơn ông bà đã cho tôi biết những chuyện ấy. Giờ thì xin ông bà hãy nói cho tôi biết tôi phải làm gì để giúp ông bà đây?
Giọng người đàn ông trầm hẳn xuống:
- Trước khi nhờ ông giúp đỡ, tôi xin kể sơ qua về vợ chồng tôi cho ông được biết. Số là vợ chồng tôi không thể có con, điều này ai ai trong gia đình cũng biết. Chúng tôi được thừa hưởng toàn bộ gia sản của hai bên gia đình nên rất giàu có. Vì biết mình không có con nên chúng tôi luôn quan tâm giúp đỡ đứa cháu họ xa, và còn dự định sau này sẽ viết di chúc để lại toàn bộ gia sản cho nó.
Ai ngờ đâu nó là một đứa tham lam ích kỷ. Nó không chắc chúng tôi có để lại gia sản hay không, nên một mặt đối với chúng tôi rất mực thân tình lễ độ, một mặt lại ngấm ngầm tìm cách hại chúng tôi.
Vì nơi đây hoang vắng, chúng tôi lại sống biệt lập không giao tiếp với ai. Mà vợ chồng tôi lại có cái thú ra biển thuê thuyền nhỏ chèo đi chơi loanh quanh, điều này cũng nhiều người biết.
Nó đã vin vào những cái đó mà dựng lên cái chết của vợ chồng tôi: Chèo thuyền ra xa bất ngờ gặp giông bão nên đắm thuyền chết mất xác.
Thật sự chính nó đã giết chết vợ chồng tôi và giấu xác vào một nơi thật kín đáo.
Sau sự việc đó, nhà chức trách cũng có ý nghi ngờ nên đã mở một cuộc điều tra. Tất cả đều trùng khớp với lời khia của nó, vì tất cả đã được nó dàn dựng một cách vô cùng tinh vi, khéo léo. Cảnh xác cũng không tìm thấy gì, một thời gian sau cũng không nghe có hai thi thể vô thừa nhận nào nên vụ án coi như đi nào kết thúc, nó nghiễm nhiên trở thành người thừa hưởng toàn bộ gia tài.
Nó kêu bán ngôi nhà này từ rất lâu rồi, nhưng chính vì vợ chồng tôi cản đản mà nhiều người tới xem mặc dù rất hài lòng nhưng vẫn có những lý do này khác để cuối cùng không mua được. Tới lượt ông đến xem nhà, chúng tôi đã nhận thấy được những điều đặc biệt nơi ông, nên thúc giục cho mọi việc diễn ra suông sẻ và nhanh chóng. Chúng tôi biết, ông sẽ là người giúp được chúng tôi. Vì ông hiền lành chất phác, lại không quá sợ ma như những người khác. Vả lại cuộc đời ông cũng gắn liền với một vài sự kiện huyễn hoặc, nó thích hợp ở đây hơn…
Người đàn ông im lặng một giây rồi nói tiếp:
- Thằng cháu mất nhân tính ấy sau khi giết chết vợ chồng tôi đã giấu xác vào đâu ông biết không? Chính là cái vách ngăn giữa nhà trên và nhà bếp đấy!
Ông Tân há hốc mồm:
- Thật à? Giấu xác ông bà trong vách ngăn?
Có tiếng người phụ nữ khóc thút thít, người đàn ông dỗ dành:
- Thôi mà em, chuyện qua lâu rồi, đừng đau lòng nữa!
Người đàn ông tiếp tục câu chuyện:
- Nó xây bức tường đó sau khi giết vợ chồng tôi và nhét xác của hai chúng tôi vào đó, nên dù cảnh sát có cố công tìm kiếm đến đâu vẫn không phát hiện ra được!
- Trời ơi! Thật không ngờ!
Ông Tân kêu lên. Hèn gì ngôi nhà to lớn thế này mà người đó lại kêu bán rẻ như thế, mà lại như muốn bán đổ bán tháo cho xong, không muốn kỳ kèo dây dưa thêm nữa.
- Bây giờ tôi phải làm gì để giúp ông bà đây?
Ông Tân hỏi với vẻ nhiệt tình.
Người đàn ông chậm rãi nói:
- Trước tiên, ông hãy đi báo với nhà chức trách rồi phá bỏ bức tường đó, xác của chúng tôi sẽ được phơi bày. Thằng cháu bất nhân đó sẽ bị đền tội, nhưng đó là chuyện của các cơ quan chức trách, tôi không dám phiền đến ông. Tôi chỉ xin ông, sau khi xác chúng tôi được khám nghiệm xong xuôi, ông hãy đem đi hỏa thiêu và mang gởi lên chùa, đồng thời ông giúp chúng tôi lập một đàn cầu siêu, có như vậy hồn chúng tôi mới có thể siêu thoát được. Ông có vui lòng giúp đỡ chúng tôi không?
Ông Tân mạnh mẽ gật đầu:
- Ông bà cứ yên tâm đi, tôi sẽ làm việc đó ngay ngày mai!
- Cảm ơn ông!
- Vợ chồng tôi xin đội ơn ông!
Ông Tân xua tay rối rít:
- Không… không việc gì mà ông bà phải cảm ơn tôi, đó là việc mà ai cũng sẽ làm thôi ông bà ạ! Ông bà hãy an lòng, tôi hy vọng ông bà sớm được siêu thoát và ở kiếp sau hai người lại được sống lại đời sống vợ chồng đầm ấm bên nhau.
Bóng trắng thoáng qua rồi một giọng nói mơ hồ xa vắng cất lên, ông Tân không xác định được đó là tiếng nói người vợ hay người chồng hay cả hai người đang cùng nói với ông:
- Hạnh phúc sẽ đến với ông! Ông cứ tin đi, hạnh phúcđã đến rất gần rồi…
Ông Tân ngồi trơ một mình trên bộ ván, ngơ ngác ngó xung quanh, nhưng ông biết vợ chồng họ đã rồi!
Ngoài trời mưa cũng đã thôi rơi, nắng bắt đầu le lói, những tia nắng cuối ngày vẫn cố sức thắp lên ánh sáng rực rỡ cho bầu trời và mặt đất.
Ông Tân bỗng thấy lòng nôn nao khó tả. Ông nghĩ tới Loan, nghĩ tới những việc ông sẽ phải làm ngay trong buổi sáng ngày mai…
 
***
Ông Tân thức dậy thật sớm, một mình ngồi uống hết mấy chung trà rồi đi loanh quanh mấy vòng trong khu vườn phía trước. Hôm nay ông không phải tưới cây vì mới mưa chiều hôm qua.
Ông Tân căng lồng ngực ra để hít thở cái không khí trong lành buổi sớm mai man mác mùi thơm cây cỏ. Và khi mặt trời vừa ló dạng, ông đã ăn mặc chỉnh tề.
Ông đạp xe vô hẻm tìm gặp Loan.
Loan rất bất ngờ khi thấy ông Tân đứng ngay cửa nhà mình, cô chưa kịp phản ứng thì ông Tân đã mở lời trước:
- Tôi có một việc rất quan trọng muốn cô góp ý giúp. Xin cô vui lòng đi với tôi một chút, được không cô?
Loan hơi ngần ngừ, nhưng thấy vẻ mặt ông Tân như có điều gì nghiêm trọng lắm, cô không dám từ chối, vội vàng khép cửa đi ra.
- Cô lên ngồi, tôi chở!
Ông Tân nói ngắn gọn và Loan cũng riu ríu nghe theo.
Cả hai không ai nói lời nào mãi tới khi về tới nhà ông Tân.
Rót một ly nước đưa cho Loan, ông Tân chậm rãi nói:
- Có chuyện này đáng lẽ tôi không nên nói cho cô biết, vì có thể cô sẽ sợ, nhưng… vì là việc quan trọng, tôi không thể giấu cô mà cũng cần cô góp ý cho nữa, nên tôi mạo muội tới nhà cô vào sáng sớm tinh mơ thế này, xin cô hiểu mà đừng phiền giận gì tôi.
Loan nhỏ nhẹ:
- Dạ không có gì đâu! Ông cứ nói ra đi, nếu tôi biết gì thì tôi sẽ góp ý thật lòng, ông đừng ngại!
Ông Tân nhìn thẳng vào Loan:
- Hôm qua ở trong nhà tôi xảy ra một việc lạ. Nhưng trước khi kể, tôi muốn hỏi cô rằng cô có sợ ma không? Cô tin có ma không?
Loan cúi đầu vẻ suy nghĩ một lúc rồi nói:
- Tôi tin có ma, nhưng sợ hay không thì tôi không dám khẳng định, bởi có lúc tôi nghĩ tôi sợ, nhưng có lúc tôi lại nghĩ không có gì phải sợ… Ông à… chẳng lẽ ông muốn kể với tôi rằng ông đã gặp ma sao?
Ông Tân gật đầu:
- Đúng, tôi đã gặp ma, gặp tại đây!
Loan giật mình rồi bật cười:
- Ồ, ý ông nói tôi là ma đó à?
Ông Tân lắc đầu:
- Không, tôi biết cô là người! Và tôi còn biết cặn kẽ hơn nữa kìa, tôi nói ra có thể cô nghĩ tôi đặt điều nhằm vào mục đích xấu, nhưng thật sự đây là điều tôi biết, tôi sẽ kể với cô, và tôi itn rằng sẽ có lúc cô tin những gì tôi nói.
Loan lo lắng:
- Hôm nay có chuyện gì mà ông có vẻ nghiêm trọng thế? Làm tôi sợ…
Ông Tân dịu giọng:
- Không, không có gì phải sợ cô ạ! Để tôi kể cô nghe, hôm qua, tại đây tôi đã gặp ma. Hai bóng ma đó chính là ông bà chủ nhà này trước kia. Họ đã bị ám hại, họ nhờ tôi giúp họ một vài chuyện. Mà cái chuyện đầu tiên tôi phải làm hôm nay là đi báo với nhà chức trách.
- Ông đi báo à? Báo chuyện gì?
Loan ngạc nhiên hỏi.
- Theo lời vợ chồng họ, người cháu đã giết chết họ rồi giấu xác trong bức tường dưới kia.
Ông Tân vừa nói vừa đưa tay chỉ xuống bức tường ngăn giữa nhà trên và nhà bếp. Loan còn đang ngơ ngẩn, ông Tân nói tiếp:
- Tôi phải đi báo nhà chức trách để họ phá tấm tường đó ra, nhưng hiện tại ngoài lời nói của hồn ma tôi không có một căn cứ gì để đi báo án. Cô nghĩ tôi có nên đập phá bức tường trước rồi hãy đi báo nếu thực sự có xác chết bên trong?
Giờ đây Loan đã hiểu ra sự việc. Cô nhìn thẳng vào ông Tân và hỏi:
- Ông có thật sự tin vào những lời của hồn ma nói không?
Ông Tân gật đầu quả quyết:
- Tin! Tôi rất tin!
- Vậy thì ông hãy đi báo đi, không cần phải đập phá bức tường, đó cũng chính là sự thể hiện ông tôn trọng và tin tưởng họ!
Loan nói dứt khoát.
Ông Tân gật đầu:
- Cảm ơn cô, cô đã cho tôi lời khuyên thật phù hợp với ý nghĩ của tôi, như vậy tôi sẽ càng tự tin hơn nữa. Vậy, bây giờ cô có vui lòng ở lại đây chờ tôi hay cùng đi báo án với tôi?
Loan ngập ngừng:
- Không… ông đừng đi vội! Tôi muốn… tôi muốn biết ngoài việc đó ra, hồn ma còn nói gì với ông nữa không?
Ông Tân ngạc nhiên:
- Cô biết hồn ma còn nói chuyện khác với tôi sao?
- Ông đừng hỏi lại tôi, xin ông cứ trả lời cho tôi biết trước đã…
Loan năn nỉ.
Ông Tân nhìn Loan bằng ánh mắt thật nồng nàn:
- Hồn ma nói cho tôi biết cô là ai!
Loan không ngạc nhiên cũng không tò mò trước câu nói của ông Tân, cô chỉ lặng lẽ cúi đầu nói thật nhỏ:
- Vậy là đúng rồi! Tối hôm qua tôi lại có một giấc mơ… Từ hôm gặp ông lần đầu tiên, tôi đã không còn mơ gì nữa, nhưng tối vừa rồi tôi lại có một giấc mơ kỳ quặc. Một đôi vợ chồng đã đến kể cho tôi nghe về tiền kiếp của mình…
Ông Tân run giọng hỏi:
- Cô… cô có tin những lời họ kể?
Loan ngước mắt lên nhìn ông Tân, hai mắt cô đã đỏ hoe:
- Tôi… tôi tin… nhưng…
Ông Tân vui mừng siết chặt hai bàn tay Loan:
- Tôi biết… tôi biết cô cũng còn nhiều nghi ngại. Và chính bản thân tôi cũng không tránh khỏi điều đó. Bây giờ tôi sẽ đi báo án, nếu mọi việc hoàn toàn đúng như vậy thì chúng ta không còn gì để nghi ngờ nữa nhé? Cô đồng ý với tôi không?
Loan mỉm cười mà nước mắt rưng rưng, cô không rút tay mình ra khỏi tay ông Tân mà chỉ mỉm cười gật đầu.
Ban đầu những người ở sở cảnh sát không ai tin vào những lời huyễn hoặc mà  ông Tân nói, nhưng trước vẻ quyết liệt cam kết của ông, và khi rà soát lại nhân thân ông, người ta mới tạm tin mà phân bổ mấy người theo ông về nhà để phanh phui sự việc.
Khi bức tường được phá bỏ, tất cả mọi người đều không khỏi bàng hoàng khi chứng kiến rõ ràng bên trong là hai xác người vẫn còn nguyên vẹn!
Ngay sau đó, người cháu lập tức bị bắt giải về đồn để lấy lời khai. Hai xác chết được đưa đi khám nghiệm.
Một tuần sau, ông Tân đã hoàn thành tâm nguyện của người chết. Ông đã đưa hai chết đi hỏa thiêu và đem gởi vào một ngôi chùa gần đó.
Ông vời các bậc cao tăng hòa thương cũng ở chùa đó để lập một đàn giải oan cầu siêu cho cặp vợ chồng bất hạnh.
Một tháng sau, hai đứa con ông Tân thật sự vui mừng khi nhận được thư nhà, cha chúng báo tin đã tìm được cho mình một nửa!
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:59:42 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:29:32
GIỮ XÁC CHỜ HỒN
 
Thẫm vừa đi vừa ngoái lại nhìn đằng sau như có vẻ lo âu, hồi hộp điều gì lắm.
Mặt trời đã lặn từ lâu, bóng tối bao trùm xuống làng mạc ruộng vườn. Ở cái vùng quê heo hút này, mới độ bảy giờ tối mà đã im lìm vắng lặng như lúc nửa đêm.
Thỉnh thoảng có một vài tiếng chỏ sủa xa xa, tiếng một đứa bé quấy khóc, tiếng hát ru hời hoặc lời quát mắng của ông cha bà mẹ nào đó vẳng lên rồi lại trả về màn đêm cái vẻ lặng thầm u tịch của nó.
Đi tới gần cuối xóm, Thẫm dừng chân trước một ngôi nhà ngói ba gian cũ kỹ có hàng rào bằng cây dâm bụt vây quanh.
Tiếng chó sủa rộ lên làm chủ nhà vội vàng bật đèn rồi có tiếng dép lê sền sệt ra mở cửa.
- Đứa nào đó bây?
Có tiếng người đàn ông cất lên hỏi to.
Thẫm nói nho nhỏ:
- Dạ thưa… con, thằng Thẫm đây!
Ông già có vẻ mừng quýnh:
- Trời! Mầy đó hả Thẫm? Mầy đi đâu lâu dữ đến giờ mới quay về? Tao với bà nội mày khóc chờ muốn mòn con mắt, muốn đui con mắt…
Rồi ông vội vàng mở bung cánh cửa để ngọn đèn dầu hỏa leo lét trong nhà hắt chút ánh sáng ra bên ngoài.
Ông gọi to:
- Bà ơi! Bà nó ơi! Thằng Thẫm nhà mình về rồi nè!
Vừa dứt tiếng ông quay sang Thẫm, giục giã:
- Vô, vô đi con! Bà nội mầy thấy mầy về, bả mừng phải biết đo nghen mậy!
Thẫm nhanh chân chui tọt vào nhà, ông già cũng đóng cửa lại rồi ríu rít bước theo chân thằng cháu nội.
Ngôi nhà này là nhà của vợ chồng ông Tư  Bường, tuổi đã ngoài sáu mươi nhưng hiếm hoi đường con cháu.
Hai vợ chồng ông chỉ có hai người con, thằng con trai lớn đi lính chết trận, bỏ lại một cô vợ trẻ với cái bào thai bảy tháng trong bụng.
Hai tháng sau ngày chồng chết, cô sanh ra một thằng nhỏ kháu khỉnh, giống cha như khuôn đúc, bà nội nó đặt tên là thằng Thẫm.
Khi thẫm lên hai tuổi thì má nó bỏ nhà đi theo một gã lái buôn xuôi ngược ở khắp vùng sông nước.
Từ đó Thẫm sống với ông bà nội và một người cô ruột.
Cô Hiên, con gái của vợ chồng ông Tư Bường là một cô gái khá xinh nhưng trí não lại có vấn đề. Tuy đã bước vào tuổi thiếu nữ nhưng mọi hành động và suy nghĩ của cô lại rất ngờ nghệch, giống như một đứa trẻ lên năm.
Cả thời niên thiếu của mình, Thẫm và cô Hiên chơi với nhau rất vui vẻ.
Tuy lớn hơn Thẫm đến mười tuổi nhưng lúc nào cô Hiên cũng bị Thẫm ăn hiếp và tranh giành đồ chơi cũng như quà bánh. Được cái cô Hiên rất hiền, cái gì cũng sẵn lòng nhường cho Thẫm nên ít khi có xung đột xảy ra. Họa hoằn lắm mới nghe cô Hiên òa khóc rồi chạy đi mách mẹ, nhưng khi bà Tư cầm roi tới định quết vài cái lên mông thằng cháu nội ngỗ nghịch thì cô Hiên lại khóc ré lên không đồng ý.
Thằng Thẫm được mợi, ngày càng lấn lướt người cô ruột không may của nó.
Một buổi trưa vắng vẻ, hai cô cháu dẫn nhau đi hái trái bần chua ven sông, thằng Thẫm vì tranh mấy trái lớn đã xô cô nó lọt tõm xuống sông, nó thì mê mải với đồng “chiến lợi phẩm”, trong khi Hiên ngụp lặn chới với dưới nước mà không ai biết.
Đến khi sực nhớ lại cô Hiên, thằng Thẫm xanh mặt khi thấy mặt nước đã lặng trang không còn một gợn sóng.
Tuy còn nhỏ nhưng nó cũng lờ mờ đoán ra chuyện gì rồi, nó ù té chạy, vừa chạy vừa gào khóc vang trời:
- Cứu… cô Hiên… cô Hiên… lọt sông rồi!
Khi người ta vớt được cô hiên lên thì người cô đã trắng bệch, bụng trương phình đầy nước…
Thằng Thẫm sợ hãi nép mình trong khe cửa nhìn mọi người vô ra nhà nó với vẻ khẩn trương kỳ lạ.
Rồi chiếc quan tài sơn màu đỏ được mấy người anh bà con xa của nó chở về đặt ngoài hành lang, và rồi người ta đặt cô Hiên vào đó sau khi chất vào đó đủ thứ đồ linh tinh mà nó không tài nào hiểu nổi.
Ở vùng quê của thằng Thẫm, những người chết trôi không được mang xác vào nhà, mà phải tẩn liệm và đặt quan tài ngoài hành lang, ngoài sân để tránh tai họa tiếp theo.
Nó thấy ông bà nội nó khóc quá nên đâm hoảng. Nhìn cây roi mây vắt trên vách, chỉ nhỏ như ngón tay nhưng mỗi lần ông nội nó vút vào mông là nó đau quắn quíu, thằng Thẫm sợ lắm.
Nó biết nó vừa gây ra một tội lỗi tày đình, mà không ai có thể tha thứ cho nó, không ai có thể bênh vực nó được!
Chắc chắn khi rãnh tay rãnh chân, thế nào ông nội nó cũng lấy cây roi mây ấy để xử tội nó.
Sợ hãi, lo âu… thằng Thẫm lặng lẽ chuồn ra khỏi nhà bằng lối cửa sau.
Nó một mình lúp xúp chạy dưới nắng chiều quê vàng rộm, băng qua cánh đồng lúa mới cắt còn trờ gốc rạ… nó chạy như vô định, nó không biết trốn vào đâu mới có thể thoát khỏi cây roi mây đáng sợ của ba nó. Nó chỉ biết chạy thạt xa, càng xa càng tốt.
Và thằng Thẫm cứ thế mà chạy, chạy mãi miết, đến lúc nó mệt lả người khuỵu xuống thì đã cảm nhận được làn gió mát rượi thổi từ mặt nước sông lên.
Cả người nhớp nháp mồ hôi, cổ họng khô khốc, thằng Thẫm cố gượng dậy lê bước ra bờ sông. Nó gần như nằm nhoài người sát mé bờ, giơ hai cánh tay khẳng khiu ra để vốc từng vốc nước đưa lên miệng uống và ấp bừa lên mặt cho đỡ mệt.
Nó lật ngửa người ra nằm thở dốc một hồi rồi mới từ từ ngồi lên rửa tay chân mặt mũi.
Mặt trời sắp lặn sau lũy tre bên kia sông, phía chân trời ửng hồng ráng chiều trông thật đẹp mắt, nhưng hôm nay thằng Thẫm thật sự không còn lòng dạ nào để chiêm ngưỡng cảnh đẹp thiên nhiên nữa. Nó ngó dáo dác, bất chợt thấy một chiếc ghe đậu sát bên bờ sông.
Mừng rỡ, nó nhảy phốc xuống, đút đầu vào khoang ngó quanh không thấy một bóng người nào, nó đã quá mệt mỏi nên vội vã chui vào rồi ngã người ra nằm nép vào một góc.
Chiều tà gió thổi hiu hiu, cộng thêm cái sự rã rời của cơ thể khiến thằng Thẫm nhanh chóng đi vào giấc ngủ từ lúc nào nó cũng không hay.
Tối hôm đó vợ chồng ông Tư Bường phát hiện mất thằng cháu nội.
Cả xóm túa ra đi tìm. Đèn đuốc sáng rực cả làng trên xóm dưới, tiếng gọi ơi ới, tiếng kêu gào thảm thiết và cả tiếng gọi hồn nữa khiến cả một vùng quê vốn dĩ rất yên tĩnh bỗng chốc náo loạn cả lên.
Người ta đi tìm dần ra xa, trên cánh đồng, dọc theo bờ sông đèn đuốc rợp trời nhưng bóng dáng thằng Thẫm vẫn im lìm không đấu vết.
Hai vợ chồng ông Tư Bường gần như sụp xuống hẳn khi phải chịu một lúc chồng chất hai nỗi đau: Đám tang con gái chưa kịp đem chôn thì tới chuyện thằng cháu nội, giọt máu cuối cùng của gia đình mất tích!
Chỉ mới sau một đêm, hai ông bà như già thêm hàng chục tuổi.
Tóc cả hai bạc nhiều hơn, mặt mày hốc hác, hai hố mắt trõm lơ… Ai ai trông thấy cũng không khỏi cất tiếng thở dài thương xót.
Cả hai vợ chồng ông Tư Bường từ trước tới nay sống hiền hòa chân thật, quanh năm tay lấm chân bùn, chưa hề có điều tiếng gì xảy ra trong làng xã. Mọi người đều yêu mến quý trọng vợ chồng ông.
Vậy mà không hiểu sao hai ông bà lại phải hứng chịu liên tiếp những bất hạnh trong đời, để cho lá vàng phải khóc lá xanh, để khi bóng xế hoàng hôn phải vò võ một mình mang nỗi lo âu về thằng cháu trai lưu lạc….
Sau đám tang cô Hiên, hai vợ chồng ông Tư đã nhờ nhiều người và chia nhau ra đi đến các vùng lân cận để hỏi thăm tin tức và nhắn tìm thằng Thẫm, nhưng đi tới đâu cũng không nghe được một chút tin gì về nó. Nó như tự nhiên biến mất khỏi thế gian này vậy!
Người làng bắt đầu thêu dệt những chuỵên ma quái rùng rợn. Rằng ngày còn sống hai cô cháu thằng Thẫm  luôn đi đâu cũng có nhau, bây giờ cô nó bị ma da bắt mất, vì nhớ cháu nên đã lén về dẫn nó theo rồi.
Người ta đồn thổi rồi thêm thắt cho câu chuyện mỗi lúc một trở nên ly kỳ rùng rợn hơn.
Chỉ chưa đầy một tuần lễ sau thì các khu vực lân cận đều nghe kể về một chuyện rùng rợn chưa từng có:
Cô gái tên Hiên ở làng đấy chết trôi khi vẫn còn là trinh nữ. Khi quan tài còn để trước nhà, đêm khuya người làng đi đám đã về bớt, chỉ còn một số ít, kẻ ngồi nhậu lai rai, người ngủ ga ngủ gật.
Bất chợt một anh thanh niên trông thấy nắp quan tài từ từ tự động mở ra, từ bên trong một cô gái tóc dài xõa gần kín mặt, cả người mặc bộ quần áo liệm trắng toát và rộng thùng thình nhẹ nhàng bước ra, đến bên chiếc phản nhỏ trong góc nhà nhấc bổng thằng bé đang nằm ngủ mê mệt lên rồi ôm nó chui trở vô quan tài. Khi cô gái đã nằm yên trong đó, nắp quan tài tự đóng lại.
Chàng thanh niên sợ quá hóa điên, miệng lúc nào cũng lảm nhảm những điều vô nghĩa… Nhưng những khi tỉnh táo lại thì anh ta kể rất rành mạch chi tiết sự việc, nhưng chẳng mấy ai tin.
Một vài người kề tai nhau xầm xì khi thấy vợ chồng ông Tư Bường vẫn chưa thôi tìm kiếm cháu:
- Tìm đâu xa cho mệt! Tui mà ổng, tui cho quật mồ con Hiên lên là tìm được thằng Thẫm thôi mà!
Có người lại kể, đêm đó cô Hiên bước từ trong quan tài ra, đến bên chiếc phản nhỏ kêu thằng bé dậy rồi hai cô cháu nắm tay nhau dung dăng dung dẻ đi ra hướng bờ sông, tới sát mé nước, cô Hiên vẫn bình thản nắm tay thằng Thẫm bước xuống, và cả hai đã bị chìm nghỉm sau đó không lâu.
Bây giờ, cứ độ vào lúc nửa đêm, ai có việc đi qua đoạn bờ sông vắng vẻ ấy thường nghe tiếng cười đùa trững giỡn của hai cô cháu thằng Thẫm – con Hiên.
Họ bảo hai đứa nó giờ làm ma da ở khúc sông này, chờ đến khi nào có người thay thế rồi mới được đi đầu thai.
Có người độc miệng lại kể: Đêm đêm, hai cô cháu thằng Thẫm áo quần đầu tóc ướt loi ngoi thường tìm tới những nhà ở ven sông để lục nồi tìm cơm cá.
Hai đứa vừa khua chén bát rổn rảng vừa cất tiếng rên hừ hừ làm chủ nhà dù có thức giấc cũng phải trân mình nằm in ráng chịu chứ không ai dám ngồi lên đánh động để xua đuổi hai đứa nó.
Vợ chồng ông Tư Bương đã đang đau khổ vì mất con mất cháu, giờ lại phải điếc tai vì những lời đồn đại vô căn cứ này nên cả ngày hai ông bà cứ ru rú trong nhà, có việc cần thiết lắm mới phải ra đường vì sợ phía sau lưng người ta xầm xì bàn tán.
Gần hai tháng trôi qua, hy vọng tìm được thằng Thẫm đã tiêu tan theo mây khói, mỗi ngày ông Tư không còn đạp chiếc xe đạp cọc cạch đi dài theo các xóm ven sông để dò hỏi nữa.
Bà Tư cũng không thường xuyên chạy lên chạy xuống ủy ban xã để xem thông tin về các xác chết vô thừa nhận xung quanh địa phương.
Lưng hai vợ chồng già như còng hơn vì những nỗi đau dập dồn quá chừng to lớn đó!
Vậy mà bất chợt chiều nay thằng Thẫm trở về, hỏi sao ông Tư không ngạc nhiên đến vậy?
Bà Tư đang lầm rầm đọc kinh, nghe tiếng gọi toáng lên của chồng, bà giật mình khi nghe tới cái tiếng Thẫm quen thuộc mà mấy tháng nay bà quặn lòng thương nhớ nó!
Bà Tư đứng bật lên, nhưng hai chân run run suýt ngã nhào trở xuống. Bà lập cập xỏ chân vào dép rồi bước như chạy ra nhà ngoài.
- Trời ơi! Thẫm! Thẫm… con về thật đó sao con?
Thằng Thẫm cúi mặt, ngó xuống chân mình, lí nhí đáp:
- Dạ thưa nội, con mới về! Ông bà nội tha lỗi cho con, đừng đánh con, con sợ lắm…
Bà Tư nhào tới ôm chặt thằng bé trong tay, khóc ròng:
- Trời ơi, cảm ơn trời phật đã đem con về lại nhà cho nội! Nội mừng còn không hết, nội không đánh con đâu….
Rồi chừng như thấy được ánh mắt lấm lét của thằng Thẫm ngó ông Tư, bà Tư quay sang chồng, hỏi:
- Không đánh nó phải không ông? Kìa, ông trả lời mau lên đi cho cháu nó yên tâm! Ông xem thằng nhỏ sợ ông đến xanh cả mặt kia kìa…
Ông Tư không vồ vập thằng cháu như vợ, nhưng thật ra trong lòng ông cũng chỉ muốn nhào tới ôm chặt lấy nó, không để phải mất nó một lần nữa đâu!
Ôi, cháu nội yêu quý của ông, thằng đích tôn thờ phượng ông bà đây mà, giọt máu sau cùng còn lại của gia đình ông đây mà, làm sao ông có thể để nó phải sợ hãi đến vậy.
Ông Tư mỉm cười, mắt long lanh nước:
- Không đâu con, nội không đánh con đâu, con đừng sợ!
Ông bwosc tới vặn to ngọn đèn để trông cho thật rõ mặt thằng cháu thân yêu.
Mới hơn hai tháng xa nhà mà nó chừng như lớn bỗng lên, ăn nói cũng đàng hoàng lễ phép hơn trước, duy có nước da của nó cứ xanh tái và mặt mày hốc hác lắm, không còn được cái vẻ hồng hào lúc trước.
Bà Tư trông thấy cháu mà xa xót trong lòng.
Bà hỏi:
- Thời gian vừa rồi con ở đâu vậy Thẫm? Con làm ông bà nội khóc thương khóc nhớ con đến mờ mắt đi rồi nè…. Con ở đâu? Chắc vất vả đói khổ lắm hay sao mà con ốm nhom ốm nhách vậy con?
Bà Tư hỏi hết câu này tiếp sang câu khác không để cho thằng Thẫm kịp trả lời.
Ông Tư nhắc khẽ:
- Bà hỏi gì thì từ từ đi, để thằng nhỏ còn tắm rửa nghỉ ngơi nữa chứ!
Bà Tư giật mình sực nhớ:
- Ừ, tôi quên mất chứ! Theo nội vô lấy quần áo nè con! Đồ đạc của con nội còn giữ y nguyên trong tủ cho con nè, không có gì thay đổi hết, vì nội tin sẽ có ngày con trở về mà, dù ai cũng khuyên nội hãy quên con đi, rằng con đã không còn sống nữa. Nhưng với nội, chỉ khi nào tận mắt nội chứng kiến, còn không nội cứ hoang mang…
- Bà ơi… Để cho thằng nhỏ tắm rửa, cơm nước đi rồi hãy tiếp! Còn nhiều ngày giờ mà…!
Bà Tư giật mình khi nghe tiếng chồng:
- Tôi lại quên mất!
Bà Tư cười giả lả rồi nắm tay thằng Thẫm kéo đi riết vô buồng.
- Nè, mặc bộ này được khong con?
Bà Tư kéo hộc tủ lấy ra bộ đồ mà trước đây thằng Thẫm rất khoái: Cái áo thun ngắn tay có hình con cọp thiệt bự trước ngực với cái quần cụt cùng mà với áo.
Thằng Thẫm đưa tay đỡ lấy rồi ngập ngừng, chỉ tay vào hộc tủ:
- Nội… nội cho con mặc bộ kia đi!
Bộ đồ nó chỉ là bộ mà Thẫm ghét nhất.
Bà Tư có vẻ ngạc nhiên, ngó sững nó một cái rồi cúi xuống lấy bộ đồ theo yêu cầu của nó.
Nhìn theo thằng cháu nội đi vào nhà tắm với dáng đi hơi rụt rè, bà Tư lẩm bẩm:
- Cái thằng!... Mới đi hơn hai tháng mà trở về coi bộ lạ lẫm với nhà này dữ a!
Bà ra nhà trước, kéo ghế ngồi cạnh ông Tư:
- Ông coi, thằng nhỏ sống khổ sở ra  sao hổng biết mà ốm vậy hở trời? Tội nghịêp cho cháu nội tôi quá, ông bà ở nhà thì đầy đủ sung sướng, nó còn bé thế mà đã một mình lưu lạc, khốn khổ làm sao!
Vừa than thở, bà Tư vừa sụt sịt khóc.
Ông Tư mắng:
- Nó đi mất cũng khóc, giờ nó về cũng khóc là sao đây?
Bà Tư liếc khẽ ông một cái nhưng cũng kéo tay áo lên chậm hai bên khóe mắt.
Chập sau thằng Thẫm tắm xong, nó mặc bộ đồ này tuy coi giản dị nhưng cũng vừa vặn, đẹp mắt lắm, vậy mà hổng biết sao lâu nay không hề thấy thằng Thẫm đụng vô. Nay bỗng dưng nó đổi gu hồi nào cả hai vợ chồng ông Tư cũng không biết được!
Vừa thấy thằng Thẫm đi ra, bà Tư lật đật tới bên vuốt ve nó:
- Trời ơi, thằng cháu vàng ngọc của tui… Mới đây mà nó ốm chừng này rồi!
Rồi bà vội vàng kéo tay nó:
- Đi, đi theo nội xuống bếp, nội dọn cơm cho con ăn! Hôm nay có món cá kho măng mà con thích nhất nữa nè!
Thằng Thẫm lừng khừng đi theo bà Tư. Ông Tư nhìn theo hơi ngạc nhiên tự hỏi:
- Cái thằng thiệt lạ! Nó đi đâu mất một thời gian, giờ trở về nhà sao giống như người xa lạ, cứ lơ ngơ làm sao ấy!
Trong khi đó ở dưới bếp bà Tư lúi húi nhóm lửa hâm lại thức ăn cho thằng Thẫm. Mùi cá kho măng tỏa ra ngào ngạt, thằng Thẫm bất giác quay mặt đi lấy tay bịt mũi.
Nó và mấy miếng cơm rồi gắp ít cọng rau muống luộc, ngập ngừng một chút rồi cứ thế mà ăn, không chấm vào dĩa nước cá giống như thói quen trước nay của nó.
Bà Tư xăng xái dẻ một miếng nạc cá thiệt to bỏ vào chén cho Thẫm, thúc giục:
- Ăn đi con! Cá tươi ngon lắm đó, nội mới mua hồi chiều! Ta nói… lần nào ăn món này ông bà nội đều nhớ tới con rồi khóc ròng, có ăn uống gì nổi nữa đâu… Con ăn nhanh lên, ăn cho no vào rồi lên nhà trên kể đầu đuôi sự việc cho ông bà nghe đi!
- Dạ!
Thằng Thẫm lúng búng trong miệng.
Nó ăn không được ngon miệng và nhất định không đụng tới miếng cá nào. Bà Tư rất đỗi ngạc nhiên:
- Ủa, sao vậy Thẫm? Sao hôm nay con không ăn cá? Nội làm mặn quá hay sao vậy con?
- Dạ không!... Tại… tại lâu quá không ăn món này, giờ ăn lại con thấy tanh tanh…
Thẫm nói nhỏ.
Bà Tư gật gù:
- Ừ, cũng đúng! Mà lâu nay con ở đâu vậy Thẫm? Sao con lại mất tích trong ngày hôm đó?
Bà Tư mới hỏi được câu đó thì đã nghe tiếng ông Tư:
- Nó ăn rồi thì hai bà cháu lên đây mà nói chuyện, ngồi chi dưới bếp?
Bà Tư vội vội vàng vàng thu dọn chén bát rồi dắt tay thằng cháu nội đi lên nhà trên.
Trước đây, những buổi tối thế này, ông Tư thường ngồi nhâm nhi mấy tách trà, bà Tư  với cô Hiên nằm nghe ca nhạc cải lương từ chiếc radio cũ mèm nhưng âm thanh phát ra vẫn còn chất lượng lắm. Thằng Thẫm thì láu táu, khi trèo hót lên rót trà bắt chước ông nội uống từng hớp một, khi nhào xuống nằm chen vào giữa bà nội và cô, bắt bà nội gãi lưng hoặc mằn trứng chí.
Mới vắng nhà hơn hai tháng, nhưng hôm nay nó dường như thay đổi hẳn. Nó chửng chạc hơn nhiều, không còn láu táu trẻ con như trước nữa.
Nó nhắc ghế lùi ra một chút rồi ngồi xuống với vẻ khép nép, e dè.
Ông Tư hớp một ngụm trà rồi lên tiếng:
- Bây giờ con kể cho ông bà nội nghe đi. Mấy tháng nay con đi đâu? Làm gì? Tại sao con lại để ông bà lo lắng kiếm tìm con vất vả biết bao nhiêu mà kể?
Bà Tư ngồi nhích lại gần thằng Thẫm, đặt tay mình lên tay nó như muốn trấn an:
- Con cứ kể hết đi, ông nội đã hứa không đánh con roi nào đâu, con đừng sợ!
Thẫm nhìn bà Tư trìu mến:
- Dạ… con xin kể! Hôm bữa đó… lúc đám tang cô Út, con sợ ông nội đánh đòn nên bỏ chạy trốn. Con chạy hoài, chạy hoài cuối cùng ra tới bờ sông. Mệt quá, con thấy chiếc thuyền ai đậu gần đó nên trèo lên lăn ra nằm ngủ. Chủ thuyền về lúc nào con không hay, mà người đó cũng không biết có con trên thuyền. Vậy là ông ta chở con đi luôn. Đến sáng hôm sau con mới thức dậy, thì đã ở một nơi hoàn toàn xa lạ rồi! Con khóc lóc đòi về, ông chủ thuyền chừng đó mới biết đã chở con theo, ông nói ổng không thể đưa con trở lại được, vì ổng còn công việc phải làm cho kịp. Vì vậy ổng đem con lên gởi vào một ngôi chùa gần ngay đó, dặn với nhà chùa rằng nếu có đò thuyền nào xuôi về bến ấy thì gởi giúp con về. Thế là con ở luôn trong chùa cho tới nay, sư cụ biết có thuyền về nên đem con xuống bến gởi về đây.
Ông Tư thở phào nhẹ nhõm. Vì dù sao nó được ở trong chùa ông cũng yên tâm hơn là lâu nay nó lăn lóc ngoài đầu đường xó chợ.
Bà Tư mủi lòng sụt sịt khóc:
- Tội cho thằng nhỏ, mới tí tuổi đầu mà phải lạc loài nương thân nhờ cửa phật… Nó ăn chay, sức đang tuổi lớn mà ăn uống thiếu chất bổ dưỡng, hèn chi nước da tái mét, xanh chành! Thôi, mọi việc đã qua hết rồi con, ngày mai nội mần thịt con gà hầm thuốc Bắc để tẩm bổ cho con, chỉ vài ba ngày con sẽ lấy lại sức khỏe thôi.
Ông Tư gật gù:
- Ừ, bà lo bồi bổ cho nó. Rồi thư thư công việc thì tui với bà, dắt theo thằng Thẫm tìm tới ngôi chùa đó để đa tạ người ta, dù sao người ta cũng có công nuôi dưỡng và dạy dỗ con cháu mình trong mấy tháng.
Bà Tư tán thành:
- Ừ, ông nói đúng đó!
Rồi như chợt nhớ, bà reo lên:
- Mà công nhận chùa đó dạy thằng nhỏ hay thiệt hả ông? Từ lúc nó về tới giờ tui thấy nó tề tĩnh y như người lớn vậy đó, đâu còn cái vẻ trẻ con như lúc trước? Họ có cho con học hành kinh kệ gì không con?
Mắt Thẫm sáng lên:
- Dạ có chứ nội, con thuộc nhiều kinh lắm!  Nếu nội thích, tối tối con đọc cho nội nghe!
Bà Tư vui mừng:
- Ừ, vậy là tốt quá rồi còn gì!
Ông Tư hỏi thêm:
- Ở chùa đó, ngoài việc học kinh kệ ra, con còn phải làm gì nữa không con?
Thẫm đưa mắt nhìn chăm chăm vào ngọn đèn để trên bàn:
- Dạ… không, không làm gì nữa ạ!
Hai vợ chồng ông Tư mừng còn hơn trúng số độc đắc khi gặp lại thằng cháu nội, nên cả hai thay nhau hỏi nó đủ thứ chuyện đã xảy ra với nó từ ngày xa cách ngôi nhà quen thuộc.
Nhưng có lẽ thằng Thẫm mệt nên nó chỉ trả lời nhát gừng, không có vẻ hăng say.
Mãi đến khi chiếc đồng hồ to tướng treo trên tường gõ boong boong đúng mười một tiếng, ông Tư  vươn vai ngáp dài:
- Thôi, hai bà cháu vô ngủ đi, thằng Thẫm coi bộ mệt đừ rồi kìa! Có gì ngày mai nói tiếp. Giờ tui cũng đi ngủ đây!
Bà Tư đứng lên, dắt tay Thẫm vào buồng.
- Chui vô mùn đi con!
Thấy Thẫm đứng lừng khừng giữa nhà, bà Tư giục.
Thẫm chậm chạp vén mùng chui vô, rồi chờ bà Tư vô xong, nó bắt đầu lom khom ngồi xổm ém mí mùng xuống chiếu.
Nó làm việc chậm chạp và tỉ mỉ khiến bà Tư ngạc nhiên quá đỗi:
- Con giỏi từ hồi nào vậy Thẫm?
Mới cách đây không lâu, tối tối hề vô ngủ là nó nhảy phốc lên giường, nhiều khi còn làm đứt phăng cả mấy đầu mùng làm bà Tư cằn nhằn cửi nhửi. Không ai tấn mùng thì thôi, nó cũng mặc kệ cứ để vậy mà ngủ bừa, có đâu như hôm nay, làm việc đó rất chi là cẩn thận.
Thẫm tấn mùng xong nhẹ nhàng nằm xuống bên bà nội.
Bà Tư kéo Thẫm sát vào lòng, suýt xoa:
- Coi tay cháu kìa, lạnh ngắt như mới đi ngoài mưa vào vậy đó! Này, ủ trong tay nội cho ấm lên đi con!
Thằng Thẫm khẽ rút tay lại:
- Dạ… không sao đâu nội, nội ngủ đi!
Nói xong, nó nằm dịch ra một chút rồi quay mặt vào tường làm ra vẻ đang buồn ngủ lắm.
Bà Tư rất muốn ôm chặt nó vào lòng, nhưng thấy nó tỏ thái độ vậy nên bà đành thôi, nằm im nhìn vào lưng nó.
Nỗi vui mừng xúc động của bà Tư đã lắng xuống, và bà bắt đầu nhận ra những dấu hiệu là lạ nơi thằng cháu thân yêu.
Bà Tư thắc mắc, không biết thời gian nó sống ở chùa, nó đã được học hành dạy dỗ ra sao mà bây giờ nó trở thành một đứa trẻ ngoan ngoãn, lễ phép nhưng gần như nó không còn là nó nữa.
Nhịp thở của thằng Thẫm bắt đầu trở nên đều đều. Bà Tư biết nó đã ngủ, bà nhẹ nhàng ngồi lên ngắm  nhìn khuôn mặt nó. Hai gò má bầu bĩnh bây giờ tuy có hơi gầy đi nhưng vẫn phảng phất vẻ phúng phính trẻ con.
Bà Tư muốn đặt lên đó một nụ hôn nhưng bà sợ làm cháu thức giấc.
Bà cứ ngồi ngắm nhìn thằng Thẫm say mê, thỉnh thoảng bà lại sờ nhẹ lên đôi tay giá lạnh như băng của nó.
Tiếng gà eo óc gáy xa xa khiến bà Tư giật mình. Trời gần sáng rồi, mình phải ngủ một chút chứ. Bà Tư thầm nghĩ thế.
Ở phòng kế bên ông Tư cũng đang ngon giấc.
Bỗng nhiên ông Tư giật mình vì nghe có tiếng chân rón rén. Ông là người rất nhạy với bất kỳ thứ tiếng động nào trong đêm.
Lắng tai nghe, ông cảm thấy dường như bước chân khe khẽ đó đang tiến về chỗ đặt bàn thờ đứa con gái xấu số của ông.
Rồi ông ngửi thấy mùi nhang thơm thơm lan tỏa khắp nhà.
Ôi, thật tội nghịêp cho thằng cháu! Từ lúc nó về, hai ông bà cứ hết hỏi han này nọ lại tới ép nó ăn thứ này thứ khác, không ai nhắc nó tới thắp nhang trước bàn thờ cô Út nó vì sợ khơi dậy trong nó mặc cảm vì đã làm chết cô Hiên.
Cái thằng này lớn thiệt rồi! Nó đã biết nghĩ tới cô nó, đêm hôm khuya khoắt vầy mà không chịu ngủ, còn ra nhang đèn khấn vái gì đây.
Ông Tư vừa toan cất tiếng gọi thằng Thẫm vô ngủ thì ông nhận thấy có tiếng khóc ri rỉ phát ra từ chỗ đó.
- Chẳng lẽ nó khóc cô nó sao?
Ông Tư ngồi dậy, vừa quơ chân xuống đất tìm dép, mà tai vẫn vừa lắng nghe tiếng khóc bên ngoài.
Bỗng đâu một giọng hát du dương cất lên làm ông rợn da gà:
“Em buồn cắt tóc đi tu
Nợ trần chưa dứt phù du tìm về…”
Ông Tư thôi không tìm dép nữa, ông nhón chân đi thật khẽ ra ngoài.
Trên bàn thờ cô Hiên quả có mấy nén nhang vừa mới thắp nhưng không có một người nào ở đó.
Ông Tư quá đỗi ngạc nhiên, rõ ràng vừa nãy ông còn nghe tiếng hát, bây giờ người hát biến đi đâu? Cửa nhà vẫn đóng kín, mà ông đang đứng chắn lối ra duy nhất để xuống nhà sau hoặc vô buồng ngủ của bà Tư. Vậy người đó biến đi đằng nào? Người đó là ai? Chắc chắn không phải thằng Thẫm rồi!
Ban đầu khi nghe tiếng chân và nghe mùi khói nhang, ông Tư cứ đinh ninh là thằng Thẫm thức dậy thắp nhang cầu nguyện cô nó, nhưng khi nghe tiếng hát, ông đã khẳng định khônh phải thằng Thẫm cháu ông!
Đó là tiếng hát của một người con gái!
Thế người đó là ai?
Ông Tư dụi mắt mấy lần liên tiếp rồi đứng ngó dáo dác xung quanh. Khi đã chắc chắn không có ai, ông vội đi tới bàn thờ, vặn cao ngọn đèn lên rồi bưng đi soi khắp nhà.
Cửa nẻo vẫn vẹn nguyên đâu có ai mở chốt. Mọi thứ trong nhà đều không có gì khác lạ.
Ông cầm đèn đi vô phòng bà Tư.
Hai bà cháu đều đang ngủ say, tiếng thở đều đều của thằng bé, tiếng ngáy nhè nhẹ của bà Tư khiến ông vừa an tâm vừa thắc mắc.
Đi một vòng quanh nhà, ông Tư trở lên nhà trên lấy bình thủy nước đổ ra pha trà ngồi uống tiếp.
Hơn năm giờ sáng, bà Tư giật mình thức dậy, lê dép lệt sệt ra nhà ngoài, nói với ông bằng giọng ngái ngủ:
- Sáng rồi hả ông?
Ông Tư hờ hững đáp:
- Ừ, bà lo nấu cái gì đó cho thằng Thẫm ăn đi!
- Thằng nhỏ tội lắm ông à, tối ngủ rất say, chắc nó mệt mỏi lắm! Để tui chạy ra chợ mua ít thức ăn…
Bà Tư  vừa bới lại đầu tóc vừa nói với chồng.
Ông Tư  nhìn bà, đắn đo:
- Bà nè!...
- Chi vậy ông?
Bà Tư dừng tay lượt, hỏi chồng.
- Tối qua bà có nghe gì trong nhà mình không?
Bà Tư ngạc nhiên:
- Nghe gì là gì hả ông? Tui thức khuya lắm, chừng gà gáy lần thứ nhất tui ngủ một giấc tới sáng luôn, có nghe gì đâu? Mà chuyện gì vậy ông?
Ông Tư thở hắt ra:
- Mà thôi đi, chắc do tui mớ ngủ!
- Mà là chuyện gì mới được chứ?
Bà Tư tò mò.
Ông Tư hạ giọng:
- Tui đang ngủ thì nghe có chân đi nhè nhẹ, rồi có mùi khó nhang bay lên, tui cứ ngỡ thằng Thẫm dậy thắp nhang cho cô Út nó. Nhưng một lát sau tôi bỗng nghe có tiếng con gái hát lên mấy câu ai oán lắm. Mặc dù sợ, nhưng tui cũng cố lén ra xem là ai, nhưng hoàn toàn không có bóng người nào, chỉ có mấy cây nhang trên bàn thờ con Hiên là vẫn còn cháy.
Bà Tư cười cười:
- Ông ngủ mê quá rồi chiêm bao đó thôi! Ai mà đêm hôm khuya khoắt còn hát hò…
Ông Tư chau mày:
- Tui cũng không biết sao nữa bà ơi! Rõ ràng khi tui ra đây nhang vẫn còn cháy và tui ngồi luôn ở đây từ lúc đó đến giờ!
Bà Tư bước tới sát bên bàn thờ, nhìn vào cái lư hương đầy chân nhang, khẽ nói:
- Ông ơi, ông mớ ngủ thật rồi đó! Ở đây toàn chân nhang cũ, có thấy cấy nào mới đâu?
Ông Tư ậm ờ:
- Chắc vậy quá! Thôi, bà đi chợ cho sớm đi!
Bà Tư liếc chồng:
- Sao tự nhiên ông lại mơ nghe thấy tiếng con gái hát vậy ta? Mà nó hát hò những gì ông còn nhớ không?
- Nó hát vầy, tui nhớ rõ lắm:
“Em buồn cắt tóc đi tu
Nợ tình chưa dứt phù du tìm về…”
Hai câu này tui chưa từng nghe bao giờ trước đó nên mới lấy làm lạ vậy chứ!
Bà Tư nhìn chồng nghi ngại, bà nhủ thầm:
- Quái lạ cái ông này, sao tự nhiên lại mơ mộng ba cái chuyện thế được chứ? Ổng đâu còn trẻ trung gì nữa mà tơ vương cô gái nào? Thiệt mình hết biết sao mà nói…
- Thôi, bà đi đi!
Ông Tư lại giục.
Bà Tư quay trở xuống bếp lấy cái giỏ đi chợ rồi quày quả bước ra đường.
Còn lại một mình, ông Tư suy nghĩ thật nhiều về chuyện vừa xảy ra cho ông. Ông biết chắc một điều đó không phải là giấc mơ mà là sự thật, nhưng ông không dám khẳng định vì sợ làm bà Tư hoang mang rồi nghĩ ngợi nọ kia.
Người con gái đó là ai? Chắc chắn không phải là Hiên, cô con gái Út khờ khạo của ông bà. Vì Hiên không bao giờ biết hát những lời như thế!
Trong lòng ông Tư không yên ổn, tuy từ trước tới nay ông không hề biết sợ ma quỷ là gì, nhưng quả thật sự việc xảy ra quá rõ ràng khiến ông nao núng. Ông không phải sợ, nhưng có cái gì đó bất ổn, lo lắng trong lòng. ÔNg thầm cầu mong cho gia đình được yên ổn sau nhiều sóng gió vừa qua.
Đang ngồi suy nghĩ vẩn vơ, ông Tư nghe tiếng thằng Thẫm thức dậy đi xuống bếp súc miệng rửa mặt.
Ông nhớ lại ngày trước và mỉm cười, nghĩ tới việc chút nữa thôi, nó lại lên nhà lục tìm bánh trái trong tủ. Cái thằng thật xấu tính đói, ngủ một đêm sáng ra là đói quắn, phải có cái gì đó bỏ liền vô miệng mới vui.
Biết tính cháu nội, nên từ khuya tới giờ ông Tư chỉ ngồi uống trà suông, còn mấy cái bánh bàng bà Tư mua về hôm qua ông không dám đụng tới, tính để dành cho thằng nhỏ.
Nhưng sao ông chờ hoài không thấy thằng Thẫm lên, lấy làm lạ, ông Tư bước xuống nhà sau dòm ngó thử.
Thật không ngờ, thằng Thẫm đang cầm chổi quét nhà! Cái việc mà từ trước tới nay nó chẳng bao giờ chịu làm.
Bà Tư lại cưng cháu nội nên cũng chưa bao giờ sai nó làm những công việc như thế!
Vậy mà sáng nay ngủ dậy, nó tự động đi quét dọn nhà cửa. Ông Tư định lên tiếng hỏi, nhưng rồi ông không nói gì, để thử xem thằng này tiến bộ đến đâu! Công nhận mới hơn hai tháng lưu lạc mà nó nên người quá! Từ cách ăn nói đến ý tứ, hành động… mọi việc thay đổi thật không thể ngờ được!
Ông Tư trở lên nhà trên ngồi rung đùi đắc ý. Ông thầm cảm ơn cái ngôi chùa xa lạ nào đó đã giáo huấn thằng cháu nội cưng của ông được như vậy!
Ở nhà dưới, thằng Thẫm quét dọn xong sân nhà thì nó bê nguyên thau đồ ra ngoài cầu ao ngồi giặt giũ.
Bà Tư đi chợ về trông thấy xúyt xoa:
- Thôi, thôi! Con vô nhà ăn sáng với ông nội nè, để đó cho bà nội, mấy việc đó con làm không được đâu!
Thẫm cười thật hiền:
- Dạ không sao đâu nội, con làm quen rồi! Con chưa đói, tí nữa con vào ăn sau!
Bà Tư đứng nhìn thằng cháu bằng ánh mắt trìu mến và sung sướng vô biên…
Hôm nay bà Tư đi chợ mua về toàn các thứ bổ dưỡng để phục hồi sức lực cho cháu cưng.
Ra tới đầu đường, bà đã khoe ngay cái tin thằng cháu đi lạc nay đã trở về, làm mọi người ai cũng mừng lây, còn những người thêu dệt chuyện Thẫm và cô nó thành ma da thì cúi đầu tránh ánh mắt rạng ngời thách thức của bà tư đang chiếu rọi.
Bà Tư mua về một con gà ác, một gói thuốc Bắc để hầm cho cháu. Bà tỉ mỉ làm cơm trong khi Thẫm luôn quấn quýt cạnh bên giúp bà lặt rau, rửa chén.
Cả hai vợ chồng ông bà Tư đều cảm thấy thật sự hạnh phúc với đứa cháu ngoan như vậy.
Nhưng tới bữa cơm thì hai ông bà lại không được hài lòng, bởi thằng Thẫm không hề đụng đũa tới các món ăn bổ dưỡng mà bà đã cất công làm cho nó.
Nó chỉ ăn vài ba cọng rau sống và nước tương qua quýt mà thôi.
Bà Tư lẫy:
- Nội nấu các thứ này là vì con, mà sao con không chịu ăn? Con chê nội làm dở phải không con?
Thằng Thẫm bối rối:
- Dạ thưa… không phải con chê…
- Vậy tại sao con không ăn?
Bà Tư hỏi.
Ông Tư nói thêm:
- Con ăn đi cho nội vui! Với lại con ốm yếu xanh xao như vậy, phải ăn uống cho nhiều vào mới lấy lại sức được chứ con!
Thẫm cúi đầu nói nhỏ:
- Dạ… Con biết ông bà lo cho con, nhưng… vì ở chùa lâu nay con ăn chay quen rồi, giờ ăn mặn không được. Ông bà cứ để con tập từ từ… mai mốt con sẽ ăn…
Bà Tư rất thất vọng khi nghe Thẫm nói thế, nhưng rồi bà thấy nó nói cũng phải. Mấy tháng qua nó ăn toàn tương chao quen rồi, bất ngờ ăn lại thịt cá thì tanh chịu nổi cũng đúng thôi.
Bà đẩy thố gà tiềm thuốc Bắc sang phía ông Tư:
- Nó không ăn thì ông ăn giùm tui đi!
Ông Tư nghe lời vợ, nhưng cả hai vợ ông đều không còn thấy bữa cơm ngon miệng nữa.
Sau khi trở về nhà thằng Thẫm hoàn toàn thay đổi, từ tính tình, sở thích đến tất cả những thứ khác đều không có gì giống với trước kia.
Đám trẻ con trong làng nghe tin nó về kéo đến thật đông, vừa vì tò mò, vừa vì mừng bạn hữu quay lại chơi đùa với mình, nhưng thằng Thẫm thờ ơ với tất cả. Nó từ chối mọi lời rủ rê hấp dẫn, nó trả lời nhát gừng những câu hỏi của bạn bè. Suốt ngày nó chỉ qưuanh quẩn làm chuỵên lặt vặt trong nhà, lúc rảnh rang nó thường ngồi thừ người buồn bã khiến ông bà Tư vô cùng thắc mắc.
Chiều xuống, khi cơm nước xong xuôi, thằng Thẫm không chạy ra đầu xóm chơi đùa với lũ trẻ, mà nó ngồi một mình bên bờ ao sau nhà với vẻ tư lự lạ lùng.
Ông Tư gọi nhỏ:
- Bà có thấy thằng Thẫm lạ quá không? Tui nhiều lúc không nhận ra nó nữa bà ạ! Nó như một người khác…
Bà Tư lo lắng:
- Ừ, tui cũng nhận thấy điều đó! Hổng biết nó có gặp chuyện không? Sao nó không kể với mình? Những gì nó kể rất đơn giản, nếu chỉ có vậy thì sao nó trông buồn bã ủ rũ đến thế, phải không ông?
Ông Tư trầm ngâm:
- Bà nói đúng rồi đó! Chắc phải có chuyện gì mà nó mình. Nhưng chuyện gì mới được chứ? Dù là chuyện gì đi nữa thì với một thằng bé từng ấy tuổi đầu, cũng đâu làm nó buồn sâu sắc đến vậy? Bà coi gặng hỏi nó lần nữa xem sao?
- Ừ, để tui dỗ dành nó!
Bà Tư nói xong đứng lên gọi với ra sau nhà:
- Thẫm ơi, tối rồi, vô nhà đi con!
Thẫm uể oải đứng lên đi vô nhà với vẻ miễn cưỡng. Nó đi thẳng vô buồng, trèo lên giường mắc màn cẩn thận.
Bà Tư hỏi:
- Mới giờ này mà ngủ sao con?
- Dạ, con thấy hơi mệt.
Thẫm trả lời.
Giăng mùng xong, nó chui vô mùng ngủ, bỏ mặc hai ông bà già ngồi với nhau bên bình trà ấm nóng.
Ngồi nán lại với chồng thêm chút nữa rồi bà Tư cũng đứng lên đi vô buồng với cháu.
Thằng Thẫm đã ngủ say rồi. Nhưng nó có vẻ không muốn nằm sát vào bà như trước, nó cố thu mình thật sát vào tường, ngăn một cái gối ôm giữa bà và nó.
Bà Tư chợt nghe buồn man mác.
Nó thay đổi cái gì cũng tốt hơn, chỉ có tình cảm nó đối với ông bà hình như không còn đậm đà tha thiết nữa.
Đêm hôm qua bà thức khuya, cả ngày nay lại lăng xăng làm đồ ăen cho nó, lại còn tiếp mấy người chòm xóm đến thăm chơi khi nghe tin thằng Thẫm trở về, nên bà Tư cũng ngủ sớm hơn mọi bữa.
Chỉ còn ông Tư là không sao ngủ được.
Ông uống hết mấy bình trà, tới thắp nhang cho con gái rồi vặn ngọn đèn trên bàn thờ thật lu xuống trước khi vô phòng ngủ.
Ông nằm trăn trở mãi mà mắt vẫn còn tỉnh táo không sao ngủ được. Ông luôn vểnh tai nghe ngóng mỗi khi có tiếng động nho nhỏ nào đó phát ra, lòng ông hồi hộp nửa như van xin nó đừng lặp lại, nửa như muốn nghe lại những âm thanh kỳ bí của đêm hôm qua.
Hơn mười hai giờ đêm ông Tư mới bắt đầu thiu thỉu ngủ. Nhưng khi giấc ngủ chưa kịp đè sụp mắt ông thì ông Tư lại nghe văng vẳng lời ca sầu nuộn:
“Buồn đời cắt tóc đi tu
Nợ tình chưa dứt, phù du tìm về…
Bao giờ thoát khỏi cơn mê
Bao giờ oan nghiệt tứ bề tan nhanh?
Lỡ làng từ buổi tóc xanh
Dương gian, âm cảnh… nhớ anh em về…”
Giọng ca thật não nùng, thống thiết làm ông tư rùng mình sợ hãi.
Rõ ràng tiếng hát đó cất lên từ nhà ông, chỗ bàn thờ con gái ông. Vậy nó là ai? Nó là con Hiên của ông sao? Không, không phải đâu! Hiên vốn dại khờ, trẻ con, nó làm gì biết yêu đương, làm gì biết thở than bằng lời ca ai oán như vậy?
Ông Tư nhẹ nhàng ngồidậy, lần này ông không đi ra cửa như hôm qua nữa mà ông nhón gót nhẹ nhành trèo lên bàn để nhìn ra phía trước.
Ông suýt hét to lên khi trước mắt ông, rõ ràng là một cô gái mặc bộ áo quần trắng tinh đang ngồi bên bàn thờ Hiên, vừa hát vừa khóc.
Do run rẩy, ông Tư vô tình đụng vào tấm tranh nhỏ treo trên vách khiến nó rơi xuống đất phát ra một tiếng kêu khô khốc. Lập tức bóng người mặc đồ trắng biến mất không để lại bất cứ vết tích nào.
Ông Tư lập cập xòe diêm ra đánh để mồi lửa vào đèn. Ông cầm chiếc đèn đi khắp nhà, soi rọi từng ngóc ngách nhưng hoàn toàn không có gì lạ.
Khi vào buồng của hai bà cháu, ông vẫn thấy Thẫm nằm xoay mặt vào tường, còn bà Tư nằm ngửa đang thở đều đặn, ngực phập phồng lên xuống.
Chuyện gì đang xảy ra trong nhà mình? Tại sao nhà mình lại có chuyện lạ lùng như thế? Nội chuyện của thằng cháu đã làm ông thắc mắc rồi, giờ lại thêm chuyện đáng sợ này nữa thì thật là… ông làm sao chịu nổi?
Bà Tư mà chứng kiến cảnh này, không biết bả có còn dám ở nhà một mình hay không nữa!
Ông Từ vừa định quay người trở ra, bất chợt ông giật mình khi nhìn thấy người nằm cạnh bên bà Tư không phải là Thẫm mà là một cô gái!
Ông hốt hoảng, vừa mới đưa tay chưa kịp lay bà Tư dậy thì Thẫm xoay người ra, mở mắt nhìn ông:
- Nội, có chuyện gì vậy nội?
Ông Tư há hốc miệng, không biết trả lời nó sao nữa.
Rõ ràng mới vừa rồi ông trông thấy một cô gái, giờ sao lại là thằng Thẫm?
Trời ơi, chắc ông điên lên mất! Chuyện gì xảy ra đây? Chẳng lẽ thần kinh của ông có vấn đề?
Thấy Thẫm vẫn nhìn mình chờ đợi, ông Tư ấp úng:
- Ông… ông định hỏi nội con…
Bà Tư thức giấc, ngạc nhiên:
- Hai ông cháu làm gì giờ này vậy?
Thẫm không nói gì, nó kéo mền đắp kín tới cổ, mắt vẫn nhìn ông.
Ông Tư giả lả:
- Tui tính vô kiếm cái chìa khóa mở tủ.
Bà Tư cằn nhằn:
- Đêm hôm mở tủ làm gì? Thôi, ngủ đi ông ơi!
- Ừ, ngủ thì ngủ!
Chỉ chờ có vậy, ông Tư vội vã đi ra, lòng hoang mang không sao kể xiết.
Ông lên giường nằm gác tay lên trán nghĩ ngợi đủ thứ chuyện đã xảy đến với gia đình ông mới hơn hai tháng nay.
Hiên chết, Thẫm mất tích. Rồi bất ngờ Thẫm trở về vẫn hình hài đó nhưng quá chừng xa lạ, rồi cũng từ cái đêm đầu tiên Thẫm về, trong nhà lại xuất hiện điều kỳ lạ như thế.
Liệu việc Thẫm trở về có liên quan gì tới chuyện đó hay không?
Thẫm ở chùa mấy tháng nay, giờ Thẫm về, biết hồn ma vất vưởng nào theo Thẫm về đây không?
Sao đêm đêm lại hát ca than thở vậy?
Ông Tư lẩm nhẩm lại mấy câu hát vừa mới nghe được mà thấy run lên vì vì sợ hãi.
Quả thật những câu đó ông chưa hề nghe qua, nên không thể bảo ông mơ màng được. Phải có người hát thì ông mới biết được chứ!
Nhưng ai? Người đó là ai?
Ông Tư như muốn nổ tung cả cái đầu ra mà vẫn không sao đoán được một chút nào.
Ông mệt mỏi ngồi lên ra thắp thêm nhang trước bàn thờ con gái.
- Con sống không khôn nhưng ba tin khi chết đi con sẽ trở về với hồn phách tinh anh của mình. Xin con phù hộ cho ba mẹ, phù hộ cho thằng Thẫm được bình an, Hiên nhé?
Ông Tư lầm rầm khấn vái.
Những cây nhang ông cắm cứ cháy dần dần xuống phía dưới nhưng tàn của nó không rơi ra mà cứ cong vòng lại. Người ta bảo khi thắp nhang, nếu có hiện tượng đó là lời cầu nguyện của mình đã được chứng giám. Ông Tư cảm thấy hơi yên tâm, ông nghiêng bình trà, chắt nốt chút nwosc còn lại ra ly, bưng lên hớp một hớp rồi khà một cái rõ to.
Ông trở về phòng lên giường nằm cố dỗ giấc ngủ.
Hai mắt ông từ từ trĩu xuống, bên tai lại nghe văng vẳng tiếng hát thê lương… Trí não ông Tư giục ông đứng lên chạy ra xem ai đang hát, phải bắt cho đfược cái bóng ma nào đang lẩn khuất trong nhà ông, nhưng mắt ông không sao nhướng lên được, tay chân ông cũng ra rời, ông thấy mình cứ như chìm dần, chìm dần vào một cõi hư vô nào đó…
Lúc ông Tư thức dậy thì mặt trời đã lên cao lắm rồi. Nhà vắng hoe. Oâng định lên tiếng gọi bà Tư nhưng chợt nhớ ra hôm nay bà đi đám giỗ ở làng bên cạnh.
Còn thằng Thẫm, chắc nó lại đang lúi húi dọn dẹp gì đó ở sau nhà. Ông Tư mệt mỏi ngồi dậy và bỗng ông nhớ lại cảm giác kỳ lạ lúc ngủ. Cái gì thế nhỉ? Ông Tư quyết định trưa nay bà Tư về ông sẽ kể hết để xem ý bà thế nào, đàn bà thường giỏi về lĩnh vực mê tín dị đoan này lắm.
Ông biết nói ra thế nào bà Tư hoặc là khong tin, hoặc nếu tin sẽ sợ lắm đây. Nhưng dù sao ông cũng phải nói, chứ ông sắp nổi điên lên vì suy nghĩ căng đầu rồi!
Lững thững đi ra nhà sau, tình cờ ông tư lại nghe tiếng hát nho nhỏ, lời bài ca ông đã thuộc nằm lòng:
“Buồn đời cắt tóc đi tu
Nợ tình chưa dứt, phù du tìm về…
Bao giờ thoát khỏi cơn mê
Bao giờ oan nghiệt tứ bề tan nhanh?
Lỡ làng từ buổi tóc xanh
Dương gian, âm cảnh… nhớ anh em về…”
Ông Tư sựng người lại vì tiếng hát đo phát ra từ phía bờ ao, nơi thằng Thẫm đang ngồi giặt thau quần áo.
Ông Tư lùi lại, đứng nép vào góc nhà dõi mắt ra nhìn chằm chằm vào nó.
Bất giác ông thấy thằng Thẫm giống như sương khói lãng đãng mơ hồ. Có lúc ông thấy rõ ràng là thằng Thẫm của ông, nhưng chỉ sau một cái chớp mắt, ông lại nhìn ra đó là một cô gái mặc áo quần trắng tinh, đầu đội một chiếc mũ len giống như các sư cô trên chùa thường hay đội để che cái đầu trọc bóng láng của mình.
ÔNg Tư thấy có một luồng hơi lạnh đang chạy dọc theo sống lưng mình.
- Trời ơi… chẳng lẽ… chẳng lẽ thằng Thẫm chính là con ma đêm đêm ra trước bàn thơ Hiên ngồi hát? Chẳng lẽ thằng Thẫm  chết rồi sao? Mà sao mình lại nhìn ra nó là một cô gái, mà không, một cô sư nữ mới đúng!
Ông Tư đang bấn loạn không biết tính làm sao thì thấy Thẫm đã giặt xong, đứng lên bê thau áo quần đi vào.
Thu hết can đảm, ông Tư giả vờ như không có chuyện gì, ông nện mạnh chân đi ra nhà sau, hỏi Thẫm:
- Bà nội đi đám giỗ rồi phải không con?
- Dạ, nội đi từ sớm. Bà nội dặn khi nào ông thức con dọn bữa ăn sáng cho ông.
Thẫm lễ phép.
Ông Tư khoát tay:
- Thôi khỏi đi con, con làm gì cứ làm, để ông nội tự ăn được rồi! À, mà con ăn chưa vậy?
Thẫm nhỏ nhẹ:
- Dạ, con ăn rồi!
- Ừ, vậy để nội tự ăn,con khỏi dọn chi cho mắc công.
Vừa nói ông Tư vừa cầm ca nước rửa mặt.
Thẫm bưng thau đồ đi phơi.
Tất cả mọi việc diễn ra thật bình thường, nhưng trong lòng ông Tư đang nổi sóng.
Ông đi ra đi vô, nóng lòng chờ đợi bà tư về. Bây giờ ông lại có thêm điều lo lắng, ông không biết phải nói với bà sao đây? Chẳng lẽ ông lại bảo ông nghi ngờ thằng Thẫm là ma?
Bà ấy sẽ giẫy nẫy lên cho mà xem! Đời nào bà tin chuyện đó, hông chừng ông còn bị bà mắng một trận nữa chứ chẳng chơi! Nó là cháu vàng cháu ngọc của bả, nói nó là ma thì có khác nào nói bả là ma?
- Không được rồi, mình không thể nói ra khi chưa có được bằng chứng cụ thể nào! Mình chỉ có thể nói khéo, còn tự mình phải đi tìm bằng chứng thôi…
Ông tư vừa đau thắt trong lòng khi nhìn thằng Thẫm, vừa lại thấy lo sợ mông lung.
Ông cầu trời khẩn phật những việc đó chỉ là điều hoang tưởng của ông, đừng bao giờ là sự thật. Ông cam tâm thà đầu óc mình có vấn đề còn hơn là phải đắng cay khi biết cháu nội mình…
Mọiviệc vẫn chưa mấy rõ ràng, ông Tư không cho phép mình có thể kết luận một cách vội vã được.
Ông cố trấn tĩnh, cố dằn lòng để phân tích mọi việc một cách rành mạch hơn.
Trưa hôm đó  ông Tư cố tình sai thằng Thẫm đi tới nhà ông Tám ở làng bên kia để đem cho ông mấy cành lan ông vừa chiết. Ở nhà, ông Tư lựa lời nói vợ:
- Bà thấy từ ngày thằng Thẫm về nhà mình tới nay nó lạ quá phải không bà?
Bà Tư gật đầu xác nhận:
- Ừ, nó lạ thật! Tính tình nó thay đổi hoàn toàn. Điều này cũng làm tui thắc mắc lắm ông à, nếu nhà chùa giáo dục thì đổi cái gì thì đổi, sao có thể đổi sở thích, thói quen…. Đổi gần như hoàn toàn chỉ trong một thời gian ngắn? Bây giờp nhiều lúc tui nghĩ, mình nhìn ra nó chỉ là nhờ thân hình nó thôi hà, nó mà đổi luôn cái đó nữa là mình mất cháu!
Ông Tư mới tính mở miệng nói ra nghi ngờ của mình, nhưng ông kịp dừng lại:
- Tui thấy… mình cần phải lên chùa đó, để trả ơn người ta, đồng thời mình tìm hiểu xem thời gian nó sống ở trên đó ra sao. Bà thấy tui tính vậy được không?
- Ừ, được chứ!
Bà Tư tán thành.
Rồi bà Tư hạ giọng:
- Ông à, tui nói chuyện này ông đừng có la tui nghen?
Ông Tư ngạc nhiên:
- Có chuyện gì thì bà cứ nói ra, hôm nay làm gì mà phải rào trước đón sau vậy?
Bà Tư đắn đo một chút rồi nói với chồng:
- Tui thấy… nhiều lúc tui ngờ ngợ thấy hình như thằng Thẫm nhà mình bị ma nhập hay sao đó ông ơi!
Ông Tư giật nảy mình, hỏi dồn:
- Sao? Sao mà bà nói vậy? Bà thấy nó có biểu hiện gì không được bình thường hả?
Bà Tư ngó lấm lét xung quanh rồi nói thậtnhỏ như sợ có người nghe thấy:
- Ông thử sờ vào hai bàn tay của nó xem, cứ lạnh ngăn ngắt mà tui kêu nó hơ lửa nó cũng không chịu, bảo dẫn đi khám bệnh nó cũng bảo là không sao đâu. Đêm đêm, nhiều khi đang ngủ, giật mình dậy, tui thấy… tui thấy kỳ kỳ làm sao ấy, hình như… hình như nằm bên cạnh tui hổng phải là thằng Thẫm mà là một người khác! Có hôm, mắt tui không biết sao mà nhìn nó ra một ni cô nữa ông ơi!
Ông Tư nổi gai ốc khắp người. Ông định giấu kín chuyện này không cho bà Tư biết, ai dè đâu bà Tư  cũng đã phát hiện ra rồi!
Thôi, được vậy cũng tốt, như vậy hai ông bà sẽ cùng nhau tìm cách để giải quyết chuyện này cho êm đẹp.
Ông Tư trầm giọng:
- Tui cũng đang định nói với bà chuyện đó! Tui thấy thằng Thẫm nó lạ lạ làm sao ấy! Bởi vậy tui muốn mình cùng quan sát nó thật kỹ, nhất là ban đêm, bà ngủ cạnh nó bà phải coi chừng xem nửa đêm nó có đi ra ngoài không, chứ từ hôm nó mới về nhà tới nay, tối nào tui cũng nghe có người khóc than ca hát trước bàn thờ con Hiên hết đó. Mà tui nghi là thằng Thẫm, không, phải nói là vong hồn đang ở trong các xác của cháu nội mình. Bởi hồi sáng này tôi nghe rõ ràng nó vừa giặt đồ, vừa hát bài hát đó!
Bà Tư xanh mặt:
- Ông nói thật hả?Trời ơi, vậy là những điều tôi lo sợ cũng giống điều ông đang lo rồi phải không? Mình làm sao bây giờ đây ông ơi? Mình không thể để cháu mình như vậy được ông ơi!...
Thấy vợ mếu máo, ông Tư nạt:
- Bà bình tĩnh lại đi, tui đang rối ruột mà bà còn khóc thì làm sao còn tính toán gì nữa chứ?
Nghe chồng rầy, bà Tư vội nín bặt nhưng mắt bà vẫn nhìn ông với vẻ van lơn, cầu khẩn.
Ông Tư đi tới đi lui trong nhà, trán cau lại vì suy nghĩ.
Ông lẩm bẩm:
- Bây giờ mình phải ráng kiên nhẫn theo dõi nó, để coi những nghi ngờ của mình có đúng không rồi bắt đầu tính tiếp. Bà phải nhớ lời tui dặn, đêm ngủ bà phải ráng sẻ thức giùm tui…
Bà Tư kéo áo lau nước mắt:
- Ừ, tui sẽ cố gắng!
- Bà đừng tỏ thái độ gì làm nó nghi ngờ mà đề phòng đó!
Ông Tư căn dặn.
- Ừ, biết rồi mà, ông làm như tui là con nít hổng bằng!
Bà Tư cáu.
Vừa lúc đó Thẫm về nên hai ông bà chuyển sang đề tài khác.
Từ ngày Thẫm về lại nhà đến nay, tuy dáng vóc vẫn như xưa nhưng dường như lúc nào nó cũng mang nặng một tâm sự u hoài không phù hợp chút nào với đứa trẻ bảy, tám tuổiăn chưa no lo chưa tới như nó.
Thỉnh thoảng bà Tư vẫn nghe nó thở dài thườn thượt, và cái nhìn thì xa xăm u uẩn vô cùng!
Bây giờ, sau khi đã trao đổi với chồng, bà Tư càng thêm xác quyết chắc chắn có điều gì đó không ổn nơi đứa cháu nội yêu quý của bà.
Càng nghĩ càng thêm buồn rầu, vợ chồng bà thuở nay ăn ở đàng hoàng nhân hậu, sao lại phải chịu nhiều điều bất hạnh thế kia? Thằng cháu trở về sau một thời gian mất tích, niềm vui chưa trọn thì lại phát hiện ra chuyện này!
Bà lo âu, nghĩ đến chuyện chữa chạy cho nó, nhưng trước khi chữa chạy ông bà cần phải khẳng địng lần nữa có đúng là nó có vấn đề thật sự hay không?
Tối hôm đó, bà Tư giả đò ngủ thật say sưa nhưng kỳ thực bà đang lắng nghe từng hơi thở đều đều của Thẫm. Nhưng mọi việc diễn ra bình thường, sau khi lên giường một lúc là Thẫm bắt đầu ngủ.
Bà Tư không ngủ được, bà cứ mãi lo nghĩ đến những chuyện mà ông Tư đã nói lúc trưa. Tại sao Thẫm lại hát bài hát có nội dung buồn bã đó? Tại sao lúc nào Thẫm cũng tỏ ra u sầu, lặng lẽ?
Bà Tư hé mắt nhìn sang, Thẫm bỗng nhiên từ từ ngồi dậy rồi nhẹ nhàng bước xuống đất, đi ra khỏi buồng ngủ không một tiếng động.
Bà Tư muốn bật dậy đi theo, nhưng bà lại lo gây ra tiếng động sẽ làm Thẫm giật mình. Vả lại hai ông bà đã giao hẹn trước, bà chỉ cần quan sát Thẫm trong buồng, còn khi Thẫm ra ngoài, việc theo dõi nó là bổn phận của ông Tư.
Không lâu sau, bà Tư nghe có mùi hương trầm tỏa ra, vậy là đúng rồi, đêm nào nó cũng thức dậy thắp nhang cho Hiên như lời ông Tư nói!
Một lúc sao nữa, bà Tư lắng nghe rõ ràng có tiếng con gái đang khác khúc ca sầu não đó!
Thật lại lùng! Tại sao lại như vậy? Tại sao mọi việc cứ lặp đi lặp lại mãi như thế?
Trong lúc bà Tư đang lo lắng trong buồng, thì ở nhà ngoài ông Tư cũng đã phát hiện có người thắp nhang và nghe tiếng hát.
Ông Tư khe khẽ bước ra, lần này ông không cố tình ẩn núp nữa mà thật sự ông muốn nó phải nhìn thấy ông!
Bóng người ngồi trước bàn thờ Hiên có vẻ như đang đau khổ cùng cực, nó ngồi co người, úp mặt xuống gối và cất lên lời ca ai oán, hình như nó đang khóc, bởi vì tiếng hát cứ nghe như nghèn nghẹn giữa chừng!
Ông Tư nhanh chân bước tới chộp lấy vai Thẫm:
- Con làm gì ở đây?
Bóng người không giật mình bỏ chạy như ông nghĩ mà trái lại, nó bình thản ngước mặt lên nhìn ông, nói khẽ:
- Con không ngủ được!
Ông Tư thật sự bất ngờ. Nghe nó trả lời vậy ông không biết phải nói sao nữa?
Vừa lúc đó bà Tư trong buồng vộ ivã đi ra, vì bà nghe tiếng hai người trao đổi.
Thẫm vẫn ngồi bó gối.
Ông Tư đắn đo một chút rồi hỏi Thẫm:
- Có phải đêm đêm con vẫn thường ra đây thắp nhang và cất tiếng hát?
Thẫm cúi mặt nhìn xuống đất mất một lúc rồi khẽ gật đầu xác nhận:
- Dạ… đúng là con!
- Con? Con có thể cho nội biết tại sao con phải làm như vậy được không?
Ông Tư nóng ruột trước lời thú thật không ngờ của Thẫm.
Thẫm đưa hai tay ôm lấy đầu, vẻ khổ sở:
- Con xin nội đừng hỏi gì thêm nữa, một thời gian sau chắc chắn nội sẽ biết rõ mọi việc. Nhưng lúc này… lúc này con xin nội cho con được yên thân, xin nội đừng hỏi gì con thêm nữa…
Nó xong câu đó, Thẫm ôm mặt khóc nức nở rồi bỏ chạy về phòng, để lại hai ông bà già đứng giữa nhà ngơ ngác nhìn nhau.
- Chuyện gì vậy ông?
Bà Tư tò mò.
Ông Tư chán nản:
- Chắc tui điên lên mất! Tui có biết chuyện gì đâu?
Bà Tư lặng lẽ nắm lấy tay chồng:
- Thôi, ông đừng suy nghĩ nhiều quá mà đổ bệnh rồi khổ! Ông vô ngủ đi, để đó cho tui, tui sẽ tìm cách ngọt ngào khuyên nó nói ra tất cả!
Ông tư ngao ngán:
- Ừ, giờ thì chỉ còn trông vào cách đó, nếu không được nữa thì tôi….
Bà Tư đưa một ngón tay miệng ngăn không cho chồng nói ra cái điều mà hai người đã bàn tính lúc trưa.
Bà đi theo ông Tư vào phòng, thấy ông đã ngoan ngoãn lên giường xong xuối bà Tư mới yên tâm quay về giường ngủ của mình.
Thẫm không ngủ.
Nó ngồi co ro, lưng dựa vào tường, mặt buồn rũ rượi.
Bà Tư hốt hoảng ngồi sát vào cạnh Thẫm, choàng tay qua vai cháu, vỗ về:
- Con có chuyện gì mà buồn rầu dữ vậy con? Nói cho nội nghe, nội sẽ giúp con!
Thẫm đặt bàn tay giá lạnh của mình vào tay bà Tư:
- Con biết nội thương con, nhưng có những việc dù thương con đến mấy nội cũng không giúp được con đâu…
Bà Tư siết chặt bàn tay nhỏ nhắn của cháu:
- Nhưng… con có thể nói cho nội biết, con là ai không?
Thẫm giật mình, rụt vội tay lại, nhìn bà Tư chăm chú:
- Nội,… sao nội hỏi vậy? Chẳng lẽ… chẳng lẽ nội đã biết hết rồi sao?
Bà Tư nghẹn ngào:
- Không! Nội hoàn toàn chưa biết gì, nhưng với linh cảm của một người mẹ, người bà, nội nhận ra ngay từ hôm đầu tiên con mới về nhà. Nội biết rằng, con không phải là đứa cháu nội nguyên vẹn của nội, có điều gì đó không ôn, đúng không con?
Thẫm nắm chặt hai tay bà Tư:
- Nội ơi, nội đã biết… vậy sao nội vẫn thương yêu con như vậy?
Nước mắt bà Tư rơi lã chã:
- Làm sao nội không thương con cho được chứ? Hình hài này, xác thân này chính tay nội đã bồng bế chăm sóc bao nhiêu năm nay… Nó đã trở thành một phần quan trọng trong đời của nội rồi con ạ!
Thẫm quỳ sụp xuống, vái lấy vái để trước mặt bà Tư:
- Con đội ơn nội, con thật sự biết ơn vì nội đã thương con dù biết con không phải là cháu của nội…
Bà Tư ôm Thẫm vào lòng, thổn thức:
- Nội vẫn luôn thương con, nhưng nếu con thương nội, thì xin con hãy cho nội biết tại sao lại xảy ra chuyện lạ lùng này? Con nói cho nội biết đi, kẻo nội lo âu và thắc mắc đến chết mất mà thôi!
Thẫm ngồi dậy, nhìn bà Tư với vẻ biết lỗi:
- Con xin lỗi nội, vì chưa được sự chấp thuận của ông bà mà con đã dám mượn xác thân này để nương nhờ dương thế….
Nghe Thẫm nói tới đó, bất giác cả người bà Tư run lên bần bật, bà run giọng hỏi:
- Con nói… mượn xác… có nghĩa là thằng Thẫm… cái thằng Thẫm đích thực ấy đã…
Thẫm gạt đầu xác nhận:
- Ngày hôm đó, Thẫm lên ngủ trên ghe của một lái buôn và vô tình người ấy đã chở Thẫm đi suốt đêm, đến mãi hôm sau mới phát hiện được. Ông chủ chiếc ghe đó là người cộc tính, lúc phát hiện ra Thẫm, ông lớn tiếng quát nạt, đòi dẫn về máng vốn với gia đình, do đó Thẫm sợ quá đã nhảy ùm xuống sông để trốn. Không ngờ khúc sông đó nước xoáy, mặc dù có nhiều người trông thấy Thẫm nhảy xuống sông nhưng vẫn không cứu được.
Khi người ta vớt được Thẫm lên bờ thì cậu ấy đã chết rồi. Linh hồn của cậu ấy đã được cô Hiên đón về với mình.
Người ta để xác Thẫm trước cổng chùa, mọi người xôn xao tìm cách cấp cứu. Lúc đó con là một vong hồn đang vất vưởng trước cổng chùa để nghe kinh kệ, thấy cái xác chết còn nhiều dương khí nên con đã vội vã nhập vào.
Thấy Thẫm đột nhiên sống lại, mọi người ai cũng bảo là do phật trời phù hộ nên đã dắt Thẫm vào gởi nương nhờ cửa phật một thời gian.
Bà Tư nghe Thẫm kể đến đâu là khóc nghẹn ngào đến đó. Ở ngoài cửa buồng, ông Tư cũng đang từ từ khuỵu xuống…
Thế là hết! Hết thật rồi! Đứa cháu nội của ông, giọt máu cuối cùng của dòng họ nhà ông đã ra đi vĩnh viễn… Trời ơi, vợ chồng tôi đã làm gì nên tội mà ông trời lại đày đọa khổ sở như thế này?
Ông Tư quằn quại cả người. Ông không khóc lóc như bà Tư, nhưng nỗi đau trong ông cứ dồn dập trào lên khiến ông như không còn thở được…. Ông tư lảo đảo, ông không tài nào đứng vững nổi nữa rồi! Hai tay ông chới với, muốn bám vào vách nhà nhưng rồi bàn tay lại chuồi đi khiến ông té đánh phịch xuống nền nhà.
Nghe tiếng động, bà Tư và Thẫm lật đật chạy ra thì phát hịên ông Tư đang nằm dài bất tỉnh trước cửa buồng.
Biết ông đã nghe được câu chuyện giữa hai bà cháu nên mới bị như vậy, bà Tư gào khóc thảm thiết. Thẫm không nói gì, nó chỉ lặng lẽ đi lấy nước đắp lên trán ông, và nhẹ nhàng xoa xoa haibên thái dương cho ông.
Một lúc sau ông Tư dần dần tỉnh lại.
Ông nhìn Thẫm đau đớn:
- Con… con cho ta biết… con là ai? Tại sao con lại nương nhờ vào xác thằng Thẫm của ta?
Thẫm có vẻ sợ sệt, nó lí nhí trả lời:
- Dạ… trước đây con là một cô gái nhà ở huyện bên kia. Con đã yêu và tin vào lời thề thốt của một người con trai. Nhưng người ta đã bỏ con để đi cưới vợ. Con quá thất vọng nên đã xuống tóc quy y, nhưng… vì duyên nghịêp chưa dứt được nên khi người ấy đến tìm con ở chùa, con không giữ được lòng mình mà đã ngã vào vòng tay người ấy… Một lần nữa người ấy lại phụ bỏ con, con bơ vơ… không còn nhà để về, mà chùa cũng không thể trở lại… Quá buồn đau, uất ức, con đã tìm tới cái chết. Nhưng số con chưa dứt, nợ trần còn vẫn chưa trả hết, hồn phách con không có chỗ náu nương. Từ đó con phải vất vưởng lang thang, ngày ngày con lảng vảng trước cổng chùa để nghe kinh kệ, cầu mong kiếp sau sẽ được sống yên bình hơn. Khi con thấy xác Thẫm trước cổng chùa và biết Thẫm chết khi chưa tới số. Nếu để người ta chôn cái xác đi, thì mãi mãi Thẫm chỉ còn là một ma vất vưởng giống như con hiện tại. Vì muốn giúp cậu ấy nên con đã nhanh chân nhập hồn vào xác để lưu giữ lại cái thân xác phàm tục này, chờ ngày linh hồn Thẫm có thể quay về…
Nghe Thẫm kể, ông bà Tư vừa khóc vừa cười, vừa đau thương lại vừa hy vọng.
Ông Tư hấp tấp hỏi:
- Con nói sao? Có thật là… có thật là… thằng Thẫm sẽ trở về?
Thẫm buồn buồn gật đầu:
- Dạ. Thẫm sẽ trở về, vì số mệnh cậu ấy vẫn còn dài lắm. Hiện nay cô Hiên không chịu buông rời cậu ấy ra nên cậu không thể về được. Đêm đêm con vẫn thường thắp nhang để khấn vái Hiên buông cháu mình về… Và khi nào Thẫm về, con sẽ trả lại thân xác này cho cậu ấy…
Bà Tư rưng rưng nước mắt:
- Thật tội nghịêp cho con! Dù con không phải là thằng Thẫm, nhưng nội vẫn yêu thương con. Một ngày nào đó, nếu con không còn tồn tại trong thân xác của cháu nội nữa, thì nội mong con hãy cứ xem đây là nhà mình, xem ông bà đây chính là ông nội bà nội của con, con nhé? Bên cạnh bàn thờ Hiên, ông bà sẽ làm một bàn thờ khác cho con, con nhé?
Thẫm xúc động, ôm chầm lấy bà Tư:
- Con đội ơn, đội ơn ông bà nhiều lắm!
Ông Tư không dằn nỗi cảm xúc, mắt ông cũng rưng rưng nước:
- Từ trước tới nay ông vốn không tin vào những chuyện huyễn hoặc như thế này, nhưng bây giờ mới nhận ra một điều, ở đời không gì là không có thể xảy ra… Nhưng con à, con có biết cách nào để thằng Thẫm sớm trở về không con?
Ông Tư vừa hỏi xong, chợt như thấy mình lỡ lời, ông bèn nói thêm:
- Con đừng buồn ông, vì… vì dù sao ông vẫn rất lo lắng cho thằng Thẫm. Ông sợ hồn vía nó lưu lạc mãi rồi sẽ không thể quay về được với xác thân. Ông nội mong con hiểu mà đừng buồn giận…
Thẫm cười:
- Dạ không, con biết chứ! Con biết em Thẫm quan trọng như thế nào đối với gia đình của ông bà đây. Trước khi biết ông bà thì con đã muốn giúp em Thẫm rồi, huống chi thời gian mấy ngày qua con được ông bà yêu thương chăm sóc tận tình, con càng cảm cái ơn đó nhiều nhiều nữa, ông bà đâu có làm gì mà con phải buồn giận đâu…
Thẫm ngừng một chút rồi nói tiếp:
- Thật sự con cũng không biết phải làm cách nào để cô Hiên chịu cho em Thẫm quay về? Có lẽ ông bà là cha mẹ của cô Hiên, ông bà hiểu được tính tình của cô ấy. Ông bà sẽ biết làm nào đó để cô ấy nghe lời…
Bà Tư chợt nhớ ra một điều, vội hỏi:
- Con nói cho bà biết, con Hiên nhà ông bà chết là do phần số nó đã tới hay là chết oan chết ức vậy con?
Thẫm bâng khuâng:
- Theo như những gì con nghe được thì cô Hiên đã tới số. Kiếp trước cô ấy gây ra một số việc không phải nên kiếp này cô ấy chịu hậu quả, nhưng vì nghiệp gieo nên cô ấy sau khi chết vẫn phải vất vả một thời gian ngắn nữa mới được đưa về vị trí ổn định. Giờ đây hồn phách cô ấy vẫn còn lảng vảng ở bến sông nơi cô ấy mất. ÔNg bà có thể nấu mâm cơm mang ra đó cúng vái rồi xin với cô ấy để cho Thẫm về với ông bà…
Bà Tư chậm nước mắt quay sang nói với chồng:
- Tui làm vậy nghen ông? Tui nấu mâm cơm rồi mình đem ra đó cúng cho con, nghen ông?
Ông Tư đắn đo:
- Làm vậy tui e mọi người sẽ dị nghị, sẽ đồn đãi lên rằng trong nhà chúng ta đã xảy ra chuyện gì đó khiến mình phải cúng bái con Hiên…
Bà Tư xua tay:
- Ối, tui không cần, ai nói gì nói, đồn gì đồn, miễn sao tui đem được hồn vía thằng Thẫm về là yên chuyện, họ nói gì mặc họ, tui chẳng thèm quan tâm tới làm gì cho mệt!
Ông Tư gật đầu:
- Ừ, bà nói vậy cũng phải! Vậy ngày mai bà làm mâm cơm đi rồi mình mang ra đó!
 
***
Sáng hôm sau, đúng như dự định bà Tư làm một mâm cơm thịnh soạn có đủ các thức mà hồi còn sống Hiên vẫn thích ăn.
Bừ Tư cùng chồng và Thẫm khệ nệ mang xách tất cả đồ đạc ra bờ sông.
Một vài người dân làng bắt gặp tỏ vẻ thắc mắc, bà Tư giải thích qua loa:
- Sắp tới một trăm ngày mất của con Hiên, vợ chồng tui nấu mâm cơm đem ra cúng để vong hồn nó được siêu thoát…
Bà biết, sau hôm nay chắc chắn người ta sẽ đồn thổi thêm nhiều chuyện khác, nhưng có hề gì, điều quan tâm lớn nhất của bà Tư lúc này là làm sao cho vong hồn Thẫm được trở về với xác thân nó mà cô gái kia đang giúp giữ gìn.
Thắp nhang xong, cả hai vợ chồng ông bà Tư cùng lầm rầm khấn vái. Nước mắt hai người lả lã rơi theo dòng tâm sự tỉ tê.
Thẫm đứng kế bên cũng nghe lòng bùi ngùi chua xót…
Vợ chồng ông Tư hoàn toàn không biết, kgông nghe được cuộc đối thoại của những hồn ma quanh đó.
Cô Hiên cười tít mắt, chỉ tay về phía mâm cơm đang còn nghi ngút khói:
- Aên đi, mình ăn đi Thẫm ơi!
Thẫm cố rút tay khỏi tay Hiên:
- Cô thả con ra rồi con đi ăn với cô! Cô nắm tay con hoài như vầy con đau lắm!
Hiên không nghe:
- Ư… ư… Cô buông tay ra Thẫm sẽ chạy đi mất, cô buồn, không có ai chơi với cô…
Thẫm phát quạu:
- Có ông bà nội tới kìa, cô không nghe lời con, con mét ông bà nội, con cũng không thèm chơi với cô nữa…
Cô Hiên khóc lóc:
- Thẫm đừng như vậy! Thẫm không chơi với cô là cô buồn, cô buồn nhiều lắm… Ở đây một mình cô sợ… Thẫm đừng bỏ cô nhe?
Thẫm xuống nước:
- Kìa… Cô lắng nghe ông bà nội nói gì với cô kìa!
Hiên dắt tay Thẫm rón rén tới gần bên ông bà Tư.
Lúc đó hai ông bà đang hết lời nỉ non khóc lóc. Bà Tư nghẹn ngào:
- Hiên ơi, con bỏ ba mẹ con đi, ba mẹ đau buồn lắm, nhưng đồng thời ba mẹ cũng mừng cho con được thoát khỏi kiếp đời đau khổ này. Vì thật sự từ lúc con sinh ra tới lớn, con có nếm trải được gì ở cõi đời này đâu? Con ra đi là một mất mát lớn của ba mẹ, nhưng nếu nhờ vậy mà con được giải thoát khỏi số kiếp đọa đày thì ba mẹ cũng cam tâm. Nhưng con ơi, thằng Thẫm cháu con còn chưa tới số. Nó còn nhỏ, con cho nó về với ba mẹ đi, để ba mẹ nuôi dạy, chăm sóc nó, con đừng bắt nó phải ở đây với con. Bởi vì nay mai là con phải đi rồi, mà lúc đó con không thể dắt theo thằng Thẫm được. Khi ấy nó sẽ bơ vơ, người khác sẽ hà hiếp nó… Con thương ba mẹ, con thương cháu của con, con tha nó đi, để nó về với ba mẹ đi con…
Hiên quay lại nhìn Thẫm:
- Ba mẹ kêu Thẫm về…
- Cô Hiên cho con về đi, thế mới ngoan, thế mới là cô Hiên biết nghe lời…
Thẫm ngọt.
Hiên rưng rưng:
- Nhưng Thẫm đi rồi ai chơi với cô?
Thẫm nghiêm giọng:
- Cô lớn rồi, không được chơi hoài! Cô không nghe bà nội nói sao, mai mốt là cô phải đi xa nữa rồi! Khi cô chưa đi, mỗi ngày con sẽ ra đây chơi với cô, cô chịu không?
Hiên lắc đầu:
- Không! Không!... Cô khong chịu… Cô muốn có người ở cạnh bên cô, cô không muốn ở đây một mình! Cô muốn có người cùng chơi… Cô không cho Thẫm đi đâu…
Thẫm cố gắng cách mấy cũng không rút được tay mình ra khỏi cái bàn tay nắm có vẻ như hờ hững của cô Hiên.
Nó gọi to:
- Ông nội ơi, bà nội ơi! Mau cứu con với, cô Hiên cô ấy giữ chặt lấy con không cho con đi đâu hết…
Nhưng dù nó có gào đứt cả hơi vẫn không làm sao ông bà Tư nghe được. Hai người vẫn thầm thì khấn vái, nước mắt ngắn dài…
Thẫm – không, nói đúng ra là thân xác Thẫm – tiến tới chỗ Hiên và Thẫm đang giằng co nhau.
Thẫm ngạc nhiên:
- Ủa, ai… ai mà giống mình quá vậy?
Thân xác Thẫm cười:
- Mình đã giúp cậu gìn giữ xác thân này, để khi nào cậu quay về vẫn còn xác thân mà sống. Chứ nếu không, nó đã bị đem đi chôn và bị phân hủy từ lâu rồi!
Thẫm nhớ lại và khẽ rùng mình khi tưởng tượng ra cảnh cái xác của mình bị hàng ngàn hàng triệu con dòi nhoi nhoi đục khoét…
Hiên mở to mắt nhìn thân xác Thẫm:
- Đây là… đây là… Thẫm?
Vừa nhìn thân xác Thẫm, hiên quay lại nhìn vào hồn Thẫm đứng kết bên, vẻ mặt ngơ ngác:
- Ai là Thẫm, là cháu của cô?
Thân xác Thẫm dịu dàng:
- Cô Hiên buông tay Thẫm ra đi, từ hôm nay tôi sẽ là người cùng chơi đùa với cô Hiên, cô Hiên bằng lòng không?
Hiên lắc đầu:
- Không… hiên chỉ muốn chơi với Thẫm!
Thân xác Thẫm dỗ dành:
- Hiên đừng vậy mà! Thẫm dở lắm, Thẫm đâu có biết chơi gì đâu, Thẫm toàn ăn hiếp Hiên thôi, đúng không? Mình chơi với Hiên, mình sẽ không bắt nạt, ăn hiếp gì Hiên cả. Mình sẽ cùng Hiên đi hái hoa dọc bờ sông, sẽ dạy Hiên tết con tôm con bướm bằng lá dừa nước, và mình sẽ dạy Hiên hát nữa nè, Hiên thích không?
Hiên sáng mắt lên:
- Dạy Hiên hát? … biết hát à?
Thân xác Thẫm mỉm cười:
- Ừ, tên mình là Dung. Hiên cứ gọi mình là Dung nhé! Bây giờ Dung hát cho Hiên nghe, nếu Hiên thích thì Hiên chới Dung, đừng thèm chơi với Thẫm nữa, Hiên nhe?
Hiên gật đầu đồng ý:
- Ừ, Dung hát đi! Nếu Dung hát hay, Hiên chơi với Dung, Hiên thích hát lắm! Thằng Thẫm không biết hát gì, nó dở…
Thân xác thẫm mỉm cười, nó từ từ cất lên tiếng hát:
“Buồn đời cắt tóc đi tu
Nợ tình chưa dứt, phù du tìm về…
Bao giờ thoát khỏi cơn mê
Bao giờ oan nghiệt tứ bề tan nhanh?
Lỡ làng từ buổi tóc xanh
Dương gian, âm cảnh… nhớ anh em về…”
- Hay! Hay quá! Dung hát hay quá! Dung dạy Hiên hát nhe?
Dung vừa dứt tiếng hát, hiên thích chí buông tay Thẫm ra để vỗ tay khen ngợi.
Vừa thoát khỏi tay cô, Thẫm nhào tới thân xác mình…
Những cảnh tượng đó ông bà Tư hoàn toàn không chứng kiến được. Hai ông bà đang ngạc nhiên ngơ ngác khi thấy bỗng dưng Thẫm cất tiếng hát giữa buổi chiều tà. Rồi đùng một cái Thẫm ngã lăn quay ra đất.
Cả hai ông bà hốt hoảng chạy tới nhưng chưa kịp đỡ lên thì Thẫm đã lồm cồm ngồi dậy, tay phủi đít quần lia lịa:
- Về, về nội ơi… Về nhanh lên nội ơi! Con sợ cô Hiên nắm tay con nữa quá!
Hai vợ chồng ông Tư ngỡ ngàng nhìn nhau, không hiểu chuyện gì đã xảy ra.
Thoảng đâu trong gió, ông bà nghe có tiếng người con gái vọng đến:
- Ông bà hãy dẫn Thẫm về đi! Đó chính là cháu nội của ông bà! Con đã  hoàn trả xác thân kia về cho Thẫm. Từ hôm nay con sẽ thay thế Thẫm mà ở lại đây làm bạn với cô Hiên đến khi nào cô ấy mãn hạn kỳ…
Bà Tư quay lại nhìn Thẫm. Nó đang nép sát vào người ông Tư, vẻ mặt sợ sệt lắm. Hai chân nó hình như không chịu đứng yên, cứ nhấp nha nhốp nhổm muốn chạy đi. Mà cái vẻ đó mới đúng là thằng Thẫm, cháu nội của bà.
Bà Tư nói khẽ với chồng:
- Vậy là đúng rồi phải không ông? Đúng là thằng Thẫm của mình về rồi?
- Ừ, là thằng Thẫm thật rồi bà ạ!
Ông Tư gật đầu xác nhận.
Bà Tư quay nhìn lại hướng bờ sông, ứa nước mắt:
- Bà cảm ơn, ông bà xin cảm ơn con đã giúp đỡ ông bà giữ gìn và đưa thằng Thẫm trở lại gia đình. Con hãy nhớ, ông bà luôn coi con là người trong gia đình, và con cũng hãy xem chúng ta là người thân của con, con nhé?
Có tiếng cô gái vẳng đến từ xa:
- Con cảm ơn ông bà! Xin ông bà yên tâm, đã có con bầu bạn với cô Hiên trong những ngày cô ấy còn phải ở lại nơi này…
Bà Tư nghèn nghẹn:
- Một lần nữa ông bà đội ơn con…
Làn gió chiều nhè nhẹ thổi tới làm mất cây nhang bỗng lóe sáng lên, văng ra những tia đỏ nhỏ.
Ông Tư lom khom phủi mấy vụn tàn nhang vwong lên dĩa thức ăn.
Bỗng đâu văng vẳng trong không trung tiếng hai người con gái đang cười đùa và rồi tiếng hát lại vút lên cao, vẫn bài hát cũ nhưng âm điệu lúc này nghe đã không còn quá não nùng như trước nữa:
“Buồn đời cắt tóc đi tu
Nợ tình chưa dứt, phù du tìm về…
Bao giờ thoát khỏi cơn mê
Bao giờ oan nghiệt tứ bề tan nhanh?
Lỡ làng từ buổi tóc xanh
Dương gian, âm cảnh… nhớ anh em về…”
Hai ông bà già nhìn nhau khóe mắt người nào cũng ngân ngấn lệ.
Thằng Thẫm cứ níu một bên áo ông Tư không dám buông ra.
Ba người cứ ngồi như thế mãi đến lúc mặt trời khuất hẳn mới gom góp đồ đạc dắt nhau về.
Thẫm vừa đi vừa chạy nhảy, lí la lí lắc…
Ngay trong đêm đó, trên bàn thờ cô Hiên, bên cạnh tấm ảnh bán thân của cô được ông Tư đặt thêm một chiếc bài vị nhỏ do ông tự tay tỉ mỉ khắc lấy. Trên bài vị ghi tên người con gái ấy: Trương Thị Thùy Dung và ghi rõ mối quan hệ với gia đình ông là nghĩa nữ!
Nhiều năm sau này, khi ông bà Tư đã lần lượt quy tiên, Thẫm đã lớn, và trước đó Thẫm đã nghe ông bà nội kể lại cặn kẽ câu chuyện người con gái tên Dung đã giữ xác thân giúp Thẫm, nên hàng năm Thẫm vẫn tổ chức cúng giỗ cho cô Hiên và cô Dung như hai người cô ruột thịt của mình.
Ngày giỗ của Dung, Thẫm chọn lấy ngày cô đã thay thế Thẫm để ở lại làm bạn với Hiên, giải phóng Thẫm ra khỏi sự kềm kẹp của người cô ngây dại….
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:01:10 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:30:56
HỒN VỀ TỪ BIỂN KHƠI
 
Liên nằm cuộn mình trong chăn mãi mà vẫn không tài nào ngủ được, mặc dù lúc đầu hôm, khi ngồi bên ngọn đèn tù mù nói chuyện với dì Năm cô đã có cảm giác buồn ngủ đến ríu mắt, mong cho dì mau chóng ra về, mình vào giường chắc sẽ ngủ mê mệt.
Thế nhưng khi dì Năm ra về, Liên cẩn thận đóng chặt cửa nẻo, không quên thắp một nén nhang trên bàn thờ Toán rồi vào buồng lên giường ngay, lười biếng cả việc thoa lên mặt một tí kem dưỡng da như thường lệ, vậy mà cứ trằn trọc mãi, không sao ngủ được! Liên chẳng hiểu ra làm sao cả? Khi có thể ngủ thoải mái thì mắt lại ráo hoảnh thế này, còn lúc không thể ngủ thì hai mí mắt cứ nặng trĩu, không gắng gượng là không sao mở ra được!
Hay tại mình chán dì Năm, không muốn tiếp chuyện với dì nên mới sinh ra cái cảm giác ấy? Có lẽ thế thật, lý do đó nghe dễ thuyết phục nhất, và Liên cũng hài lòng khi mình đã tìm ra được nguyên nhân của trạng thái mệt mỏi khi nãy.
Hơn một tháng nay, từ ngày Toán mất, cứ thỉnh thoảng một hai hôm là dì Năm lại tìm đến khi mặt trời vừa chìm khuất dưới mặt nước. Những cuộc viếng thăm của dì không đem lại cảm giác đỡ cô đơn cho Liên mà trái lại nó còn làm cho Liên càng thêm cô độc.
Bởi vì… Liên luôn trông ngóng một người, mà người đó không phải là một người đàn bà như dì Năm!
Một tháng đã trôi qua, từ sau cái chết của Toán, chồng Liên, là người ấy đi biền biệt, bỏ mặc Liên ngày nhớ đêm mong…
Giờ đây, Liên nằm một mình lắng nghe tiếng gió hú thê lương trên mái nhà, tiếng sóng đập đôm đốp vào bờ đá tung bọt réo cùng với gió.
Tiếng gió và sóng đêm nghe nao nao đến rợn người.
Liên bất chợt thở dài, tiếng thở dường như theo gió bay vào đêm xa xăm…
Liên co người ôm chặt chiếc gối ôm mềm mại và nước mắt cô lặng lẽ chảy dài.
Hai mươi ba tuổi, cái tuổi còn đang phơi phới xuân xanh mà Liên đã phải sống cảnh góa bụa, một mình cô độc lẻ loi trong ngôi nhà tềnh toàng nằm sát bãi biển hoang vu lạnh vắng.
Mấy tháng trước đây, Liên về làm vợ Toán theo sự sắp xếp của gia đình, chứ thật lòng Liên không có mấy cảm tình với Toán.
Đành rằng Toán là một thanh niên hiền lành, chăm chỉ, quanh năm chỉ biết cặm cụi với từng mẻ lưới giữa biển khơi, mỗi khi vô đất liền anh như một kẻ khờ khạo trước những trò vui giúp đám bạn dân chài như anh giải khuây sau những ngày tháng lênh đênh trên sóng nước mịt mờ…
Liên tuy là một cô gái làng chài ít học, nhưng nhan sắc cô thuộc loại mặn mà khó ai sánh kịp. Cô lại được ông trời ban cho một cái tính lãng mạn kiểu các tiểu thư con nhà cao sang quyền quý.
Khi vừa bước vào tuổi thiếu nữ, Liên đã từng ước mơ một ngày nào đó sẽ có một chàng trai đẹp đẽ, sang trọng đến nói với cô những lời ngọt ngào hoa mỹ giống như cô đã từng nghe trong các bộ phim, các vở cải lương trên ti vi vậy.
Niềm khát khao đó cứ lớn mãi, lớn mãi trong Liên, đến nỗi nó trở thành một nỗi ám ảnh lạ lùng!
Có một lần, Liên nghe một đứa bạn gái cùng tuổi, cùng làng, nhưng không cùng số phận, đứa bạn ấy con nhà khá giả, được gia đình cho vào Sài Gòn ăn học đàng hoàng, chính người bạn ấy trong dịp nghỉ hè về chơi đã kể cho Liên nghe câu chuyện “Cánh buồm đỏ thắm”.
Liên nhớ hoài buổi chiều hôm đó hai đứa ngồi bên nhau trên ghềnh đá, nhỏ bạn kể xong, cười trêu Liên:
- Mầy cũng ráng mà chờ đợi đi nhe, thế nào cũng sẽ có một ngày khi mầy nhìn ra biển, mầy sẽ thấy tít ở chân trời kia xuất hiện một cánh buồm đỏ thắm. Và khi ấy, vị hoàng tử của đời mầy xuất hiện, đưa mầy lên một ngôi vị mới, khác hơn…
Đứa bạn chỉ nói đùa, nhưng với Liên, đã trở thành một ước mơ, một khát khao thật sự.
Mỗi buổi chiều về, sau khi hoàn tất hết công việc trong nhà, Liên lại một mình đi vơ vẩn dọc theo bãi biển, mắt dõi ra xa chờ mong một chấm đỏ thiên thần xuất hiện…
Những ngày tháng đó Liên sống như trong mơ, cứ buồn vui vô cớ, đến mức dân làng đồn ầm lên rằng Liên đã bị ma quỷ gì đó bắt mất hồn vía rồi khiến ba mẹ Liên đâm ra hoang mang lo lắng.
Chính vì nỗi lo lắng đó nên ba mẹ Liên mới quyết định gả Liên cho Toán, một thanh niên mồ côi cả cha lẫn mẹ, từ bé đến lớn không biết làm gì khác công việc đánh bắt cá ngoài biển.
Ban đầu Liên phản kháng quyết liệt, nhưng rồi cuối cùng những lời gầm gừ dọa nạt của ba và những dòng nước mắt lăn dài của mẹ đã làm Liên nhượng bộ.
Cô đồng ý về làm vợ Toán mà trong lòng tan nát giống như đang phải giã biệt một mối tình sâu đậm nhất để theo chồng.
Thật sự thì cho mãi đến năm hai mươi hai tuổi, Liên vẫn chưa có một mối tình nào đúng nghĩa, ngoài những lời trêu chọc của đám trai làng chài mỗi dịp lên bờ và nỗi khát khao chờ đợi chàng Bạch mã hoàng tử đi trên chiếc tàu có cánh buồm đỏ thắm đến đón cô đi…
Toán nhìn kỹ thì cũng không phải loại xấu trai, nhưng vì lăn lộn với trời mây sóng nước từ thuở bé nên cả người anh đen nhẻm, vai u thịt bắp, ăn nói cộc lốc khô khan, không một chút dịu dàng hoa mỹ như Liên hằng mơ ước.
Giá mà Toán biết ăn nói một chút, biết chăm lo cho bản thân mình một chút chắc Liên cũng không hờ hững với chồng với vậy. Đằng này Toán lại vô cùng ít nói, mà mỗi lời nói ra lại như muốn tiết kiệm đến mức tối đa.
Ngay ngày đầu tiên thành chồng vợ, bao nhiêu mộng đẹp của Liên đã bị đổ vỡ tan tành!
Toán không dành được cho Liên một tiếng “em” ngọt ngào nào cả, anh chỉ biết hùng hục làm cái việc vợ chồng, hùng hục làm việc đem tiền về quẳng cho Liên và coi như mình mình đã hoàn thành rất tốt vai trò một người đàn ông, một người chồng thương yêu vợ.
Ban đầu Liên nghĩ, mình không yêu Toán, nhưng sau một thời gian chung sống chắc hẳn thế nào tình cảm cũng nảy sinh, nhưng Lien không ngờ, chỉ sống với nhau một thời ngắn mà trong Liên đã đầy dẫy cảm giác chán chường, mệt mỏi. Và Liên biết, dù mình có cố gắng đến đâu cũng không thể cải tạo Toán theo ý mình mong muốn được!
Hồi mới về, thấy Toán có vẻ ngượng ngùng Liên đã đánh bạo thực hiện những cử chỉ yêu đương lãng mạn mà mình đã ghi nhớ từ lâu, hy vọng sẽ nhận được sự đáp lại từ phía Toán.
Nhưng Liên đã trở nên tẽn tò khi lần đầu tiên tiễn Toán ra tàu, cô nghiêng thấp gò má ửng hồng của mình và nói khẽ:
- Anh hôn tạm biệt em đi!
Toán ngó trước ngó sau, làu bàu gì đó trong miệng rồi đi tuốt một nước ra bãi biển, bỏ Liên đứng chơ vơ một mình với nỗi cay đắng bắt đầu dâng lên tràn ngập tâm hồn.
Liên cũng là một cô gái đáng thương.
Sau lần ấy, Liên vẫn cố biện minh cho chồng rằng có lẽ tại anh chưa quen. Từ bé đến lớn, anh chỉ sống một mình, không được ai vỗ về âu yếm nên mọi hành động yêu thương đối với anh đều là xa lạ, không quen. Với lại hôm đó bãi biển đông người, có lẽ Toán sợ bạn bè trông thấy sẽ trêu chọc nên mới bỏ đi như vậy. Liên nghĩ thế và kiên nhẫn chờ đợi chồng về.
Ngày Toán về, Liên vui mừng không xiết, cô chạy vội tới ôm chầm lấy anh, nhưng Toán một lần nữa lại gạt tay cô ra:
- Làm gì vậy? Người ta cười cho…
Liên tức lắm, cô hứa với lòng sẽ không bao giờ tỏ thái độ như vậy nữa với Toán.
Đêm ấy Liên khóc tấm tức. Cô nghĩ thế nào Toán cũng sẽ hỏi lý do, rồi sẽ năn nỉ dỗ dành, sau đó hai người sẽ làm lành và yêu thương quấn quýt.
Nhưng không, Toán chỉ khẽ bảo:
- Chuyến này thất bát, không được nhiều tiền, ráng đi, chuyến sau có lẽ sẽ khá hơn…
Trời ơi, thì ra Toán ngỡ Liên khóc vì số tiền Toán đưa cho Liên quá ít ỏi! Thất vọng tràn trề, Liên im lặng không biết phải nói sao. Chẳng lẽ cô nói: “Em không khóc vì anh đưa tiền ít, mà em khóc vì anh không ôm em, không hôn em như em mong muốn” hay sao? Thôi thì đành câm lặng nghẹn ngào.
Tất cả hy vọng về một gia đình hạnh phúc đã thật sự tắt lịm trong hồn Liên kể từ đêm hôm ấy.
Những ngày Toán ở đất liền với vợ không nhiều. Mỗi chuyến đi của Toán thường kéo dài khoảng một tháng, có khi hơn, và lần nào nhanh nhất cũng phải nửa tháng mới quay về.
Lần đầu tiên Toán đi sau ngày cưới, Liên cũng cảm thấy nhớ nhung, mong ngóng, nhưng lần thứ hai Toán đi, trong Liên lại có cảm giác nhẹ nhỏm, vui mừng.
Ừ, thà rằng ở nhà một mình, Liên có thể thoải mái tưởng tượng ra những điều mình khao khát, còn hơn ở cạnh ông chồng giống y như một khúc gỗ cháy đen, không biết biểu lộ một chút cảm xúc nào, chán lắm!
Toán đi biển lần thứ hai sau ngày cưới, Liên lại trở về với thời thiếu nữ đầy mơ mộng của mình.
Chiều chiều cô lại thả bộ một mình dọc theo bãi biển cười khóc vu vơ. Bây giờ thì thỉnh thoảng có ai đó trông thấy, họ không bảo cô bị ma quỷ bắt hồn nữa mà bảo rằng:
- Tội nghiệp con bé, mới lấy chồng đã phải sống đời quạnh quẽ thế kia, trách sao nó không nhớ chồng đến vậy!
Buồn cười thật, người ta cứ ngỡ Liên nhớ chồng, tưởng cô hay nhìn ra biển xa là trông ngóng chồng về… Đâu ai ngờ, đối với Toán giờ đây cô chỉ còn lại nghĩa vụ mà thôi!
Một chiều giống như bao chiều khác, Liên thơ thẩn một mình trễn bãi thì bất ngờ gặp một một người đàn ông, mà ngay cái nhìn đầu tiên đã làm Liên choáng ngợp.
Người đàn ông mang trên vai lỉnh kỉnh đồ đạc gì đó cũng đang dạo bwosc một mình. Trông thấy Liên, ông ta bất chợt mỉm cười, một nụ cười làm sáng bừng bãi biển lúc hoàng hôn.
Liên bối rối, thẹn thùng một cách vô cớ.
- Cô đi dạo một mình ư?
Người đàn ông dừng bước khi đi ngang Liên và lên tiếng hỏi.
Liên ấp úng:
- Dạ em… dạ tôi… nhà tôi ở kia…
Người đàn ông gật gù nhìn theo hướng tay Liên chỉ.
Một ngôi nhà lá nhỏ bé nằm lọt thỏm dưới hàng phi lao cao vút trông mới tội nghịêp làm sao, tội nghiệp như chính cô gái bé nhỏ này vậy!
Người đàn ông khẽ nhíu mày:
- Ở đây vắng vẻ quá, cô sống với ai? Sao cô lại đi một mình ra bãi như thế này, không sợ nguy hiểm sao?
Đây là lần đầu tiên một người đàn ông xa lạ nói chuyện với Liên bằng những lời lẽ êm dịu, tỏ ra rất mực quan tâm đến cô chứ không phải những lời cộc lốc, ngắn củn cởn của Toán hay những lời trêu đùa sỗ sàng của đám trai làng.
Liên ngượng ngập. Liên muốn giải thích với người lạ rằng khung cảnh vắng lặng nơi này đã quá quen thuộc với cô rồi, không có gì phải sợ, vả lại nhà cô ở ngay bên kia và cô đã phải sống nhiều ngày một mình đó thôi, có gì mà nguy hiểm?
Thế nhưng Liên lại không nói được gì, hai bàn chân trần của cô cứ chuồi vào lớp cát bên dưới, lấp ló những ngón chân be bé hồng hào…
Người đàn ông liếc nhanh qua Liên một thoáng rồi bảo:
- Cô ơi… cô vui lòng làm ngưỡi mẫu cho tôi nhé? Tự nhiên trông thấy cô, trong tôi lại dâng đầy một cảm hứng sáng tạo. Tôi muốn phác hoạ ngay một bức tranh vẽ người thiếu nữ chân trần trên bãi cát vào buổi hoàng hôn, cô vui lòng giúp tôi nhé?
Liên ngỡ ngàng nhìn người đàn ông xa lạ:
- Ông… ông là…?
Người đàn ông khẽ cười:
- Tôi là hoạ sĩ cô ạ, hoạ sĩ nghịêp dư thôi!
Liên nhìn kỹ người đàn ông. Đúng rồi, ông ta là họa sĩ hèn gì phong thái rất lạ lùng, khác hẳn những người dân sống ở đây là đương nhiên rồi, nhưng so với khách du lịch từ xa thỉnh thoảng lạc bước tới nơi này thì ông ta vẫn có chút gì đó hoàn toàn không giống.
Ông ta là họa sĩ! Là người thu gom tất cả vẻ đẹp của đất trời, của cỏ cây hoa lá, của con người và vạn vật… thu gom hết và đổ dồn vào từng nét cọ của mình!
Ông ta là họa sĩ, là người mang trong lồng ngực một trái tim nghệ sĩ! Liên sung sướng vì khám phá ra được điều đó! Sự lãng mạn ngây ngô khiến cô tôn thờ những người như thế!
Bây giờ trước mắt Liên người đàn ông kia vốn đã đẹp trai, giờ lại càng đẹp hơn gấp bội.
Dáng người ông ta cao ráo, không ẻo lả thư sinh nhưng cũng không u dề kệch cỡm như Toán chồng mình. Ông có nụ cười ấm áp, ánh mắt lấp lánh niềm vui nhưng lại vương vấn một điều gì đó rất khó diễn tả, mái tóc bồng bềnh rất ấn tượng!
- Cô vui lòng giúp tôi, cô nhé?
Giọng nói ông ta mới dịu dàng và thuyết phục làm sao, Liên không thể nào cưỡng lại lời nói gần như van xin tha thiết ấy được.
Và thế là theo sự đạo diễn của nhà hoạ sĩ, Liên thực hiện vai trò người mẫu một cách thật xuất sắc!
Khi mặt trời chỉ còn để lại một vài tia nắng yếu ớt cuối ngày thì bức phát họa cũng được hoàn thành.
Chàng hoạ sĩ vẫy tay gọi Liên đến bên cạnh. Liên ngỡ ngàng nhìn vào khung vải trắng trước mặt. Trời ơi, mình đó sao? Mình đẹp đến như vậy sao? Một cảm giác hạnh phúc trào lên làm Liên muốn ứa nước mắt.
Chừng như nhận thấy được vẻ xúc động trên mặt Liên, chàng nghệ sĩ nhẹ nhàng gỡ bức tranh ra khỏi giá vẽ, ân cần trao cho Liên:
- Tặng cô bức vẽ này để làm kỷ niệm. Và nếu cô không thấy phiền, thì ngày mai, cô lại giúp tôi nhé?
- Tôi… tôi…
Liên ấp úng, vừa muốn đưa tay ra nhận lấy bức tranh, vừa như sợ sệt không dám.
Chàng họa sĩ tiến tới, đặt bức tranh vào tay Liên rồi giữ chặt hai bàn tay cô lại:
- Tôi rất cảm ơn vì cô đã giúp những cảm hứng trong tôi sống dậy! Mấy tháng qua tôi không vẽ vời gì được, bao nhiêu cảm xúc chừng như khô cằn, đông cứng lại. Tôi phải lang thang ra tận nơi này tìm cảm hứng mới, nhưng cũng đã ba ngày rồi, những mảnh vải toan trên vai tôi vẫn nguyên một màu trắng, tôi không làm sao vẽ vời gì được, tôi cũng chẳng biết vẽ gì… Bất chợt chiều nay gặp cô, trong phút chốc trong tôi lại sống dậy tràn trề thật nhiều cảm hứng, giá có thể, tôi sẽ thức suốt đêm nay để vẽ cũng không thấy mệt mỏi gì. Cô… cô đúng là nguồn cảm hứng vô biên mà ông trời đã ban tặng cho tôi…
Liên run rẩy nuốt từng lời nói ngọt ngào. Cô thấy mình như đang bay lơ lửng trên chín tầng mây. Một cảm giác hạnh phúc tuyệt diệu làm Liên ngất ngây, say đắm…
Hai gò má vốn đã hồng hào của Liên giờ đây càng hồng lên dưới ráng chiều. Đôi môi thắm tươi của cô đang run lên nhè nhẹ theo từng luồng cảm xúc dào dạt trong lòng…
Ôi, có phải là mình đang mơ hay không? Chàng có phải chính là chàng hoàng tử trong khao khát của mình chăng?
Liên cứ đứng ngây ra ngơ ngẩn khiến chàng họa sĩ bật cười:
- Trông cô thật giống một cô bé con chưa kịp lớn! Cô thật đáng yêu, cô gái ạ!
Liên ôm chặt bức tranh trước ngực. Gió biển thổi lồng lộng làm mái tóc cô cứ lòa xòa trước trán.
Chàng hoạ sĩ mạnh dạn đưa tay nhẹ nhàng vén mấy sợi tóc nghịch ngợm rồi bất thần ông ta đặt lên má Liên một nụ hôn thật nhẹ.
Liên bàng hoàng sung sướng… Nhưng đồng thời một cảm giác tội lỗi lại trỗi dậy trong cô. Cô hoảng hốt bỏ chạy, một tay giữ lấy mái tóc, một tay Liên vẫn ôm khư khư bức tranh mới vừa được tặng.
Chạy một mạch tới nhà, Liên đứng lại thở dốc, bỗng giật mình khi trông thấy chàng trai họa sĩ đang lững thững đi gần tới nhà mình.
Liên thật sự bối rối, nhưng trong sự bối rối ấy lại ẩn chứa một cái gì giống như thích thú, tò mò và cả sung sướng nữa…
- Cô không phiền khi tôi tới thăm nhà cô chứ?
Chàng họa sĩ tươi cười hỏi nhỏ.
Liên cúi mặt:
- Mời… mời anh vào nhà…
Ở ngoài sân thì trời chưa tối hẳn, nhưng khi vào bên trong nhà Liên như bị bóng tối bủa vây. Cô lính quýnh đi tìm hộp quẹt châm đèn rồi rót nước mời khách.
- Anh… xin anh dùng tạm chén trà, ở đây ngoài thứ này ra tôi không còn gì để đãi anh nữa!
Liên nói với vẻ xin lỗi.
Chàng họa sĩ lại cười:
- Không sao đâu, cô đừng ái ngại. Được cô cho phép vào nhà thăm thế này đã là vinh hạnh lớn của tôi rồi…
Đưa mắt nhìn một lượt khắp ngôi nhà trống huơ trống hoác và vắng lặng của Liên, người đàn ông tòi mò:
- Cô sống ở đây một mình thôi sao?
Liên nói nhỏ, mắt long lanh không biết vì sắp khóc hay vì quá vui mừng, hạnh phúc:
- Dạ… tôi… dạ em sống ở đây một mình! Thật ra… thật ra… chồng em… anh ấy đi biển… lâu lắm mới về…
Liên ấp úng nói năng rời rạc không đầu không cuối và chuyển cách xưng hô tự lúc nào cô cũng không hay.
Chàng họa sĩ có vẻ đăm chiêu:
- Trời! Một cô gái mảnh mai yếu đuối như thế này lại phải sống một mình ở nơi hoang vắng không một bóng người thế ư? Thật là tàn nhẫn, thật là bất công! Một cô gái như em không phải sinh ra là để sống thế này đâu, thật phí hoài, thật đau xót! Em không thuộc về nơi này, em gái ạ!...
Hai bàn tay Liên run rẩy làm nước trong ly sóng sánh suýt văng cả ra ngoài.
Liên không biết nói sao, cô chỉ nghe trong lòng mình dâng lên một niềm hạnh phúc bao la vô bờ bến, một thứ hạnh phúc mà dẫu có đánh đổi tất cả để có được nó cô cũng bằng lòng!
Tại sao ở người đàn ông này lại hội tụ gần như đầy đủ tất cả những điều cô ước mơ khao khát?
Mỗi lời nói của chàng ta ví như dòng suốt mát lành giữa trưa hè oi bức. Nó xoa dịu bao nhiêu cay đắng mà Liên phải cất giữ trong lòng từ ngày về làm vợ Toán. Nó đem đến cho Liên sự mơn trớn vuốt ve mà cô luôn khát khao chờ đợi…
Cái cảm giác tội lỗi thoáng qua khi nãy giờ đây đã hoàn toàn biến mất trong Liên. Cô không còn nhớ mình đã là gái có chồng, và giờ phút này đay, chồng mình đang lênh đênh giữa muôn trùng sóng nước để ngày trở về có thể cầm đưa cho cô một xấp tiền dù nhiều hay ít…
Liên không nhớ, không nhớ gì nữa hết! Trước mặt Liên bây giờ chỉ là chàng trai tuấn tú với những lời nói du dương như điệu nhạc, như có đôi cánh thiên thần trong mỗi lời nói để đưa cô phiêu du trong vùng trời hạnh phúc mờ ảo đắm say…
- Em ơi… dáng em ngồi bên ánh đèn như thế này thật tuyệt! Em cho phép anh vẽ một bức nữa nhé? Nhé em?
Mỗi một tiếng “nhé” của chàng hoạ sĩ như một lời nũng nịu đáng yêu, Liên không sao từ chối được.
Thế là bên ánh đèn dầu hỏa khi mờ khi tỏ, chàng hoạ sĩ nghịêp dư lại căng giá vẽ để ghi lại đường nét huyền diệu của cô người mẫu ngây thơ đang nghiêng đầu làm dáng…
Người vẽ cứ vẽ, người làm mẫu cứ thả hồn theo những ý nghĩ ướt át mơ mộng của mình. Cả hai không để ý gì đến khung cảnh bên ngoài…
Bên ngoài trời bắt đầu nổi gió, những đám mây đen đã che kín bầu trời. Gió lướt thướt rên rỉ chạy rần rật trên mái nhà, xô đây những ngọn phi lao oằn ngả nghiêng tơi tả… Sóng dội ầm ào dữ dội… Tất cả những dấu hiệu đó báo hiệu sự giận dữ của đất trời, báo hiệu biển đang nổi cơn cuồng loạn.
Thế nhưng, bên trong căn nhà nhỏ leo lét ánh đèn kia, có hai kẻ không biết gì tới sự cuồng nộ đó!
Khi chàng họa sĩ buông cọ và reo lên sung sướng trước hình ảnh tuyệt đẹp của cô gái trong tranh, Liên chồm dậy suýt xoa:
- Trời ơi… anh tài quá! Tranh anh vẽ đẹp vô cùng!
Chàng họa sĩ kéo tay Liên lại, nhìn sâu vào mắt cô bằng cái nhìn đắm đuối:
- Không phải anh có tài mà là em quá đẹp! Anh tiếc mình không đủ khả năng để diễn tả trọn vẹn nét đẹp đằm thắm, sáng trong của em… Thật hạnh phúc cho người đàn ông nào làm chủ được em đấy, cô gái ạ!
Liên rưng rưng nước mắt:
- Em… Anh đừng nói vậy! Em không được như anh nói đâu! Chồng em cũng chẳng yêu thương quý trọng gì em đâu anh ạ!
Liên cũng không hiểu sao mình lại nói ra những điều đó.
Người đàn ông tỏ vẻ bất bình:
- Em nói sao? Chồng em không tốt với em à? Trời ơi, sao mà anh ta dại thế? Anh ta sở hữu cả một bảo vật của thiên mà không biết quý là sao?
Liên khe khẽ lắc đầu:
- Chắc tại cái số em nó vậy anh ạ! Em cũng không biết phải trách ai bây giờ… Thôi, anh về đi, khuya rồi!
Khi Liên vừa nói dứt câu thì cô mới nhận ra ngoài trời đang nổi cơn giông bão. Một nét sợ hãi thoáng hiện trên mặt Liên.
Người đàn ông gom giá vẽ lại dựng vào một góc và nói:
- Em cho anh gởi lại ở đây, sáng mai anh đến lấy! Giờ mưa gió thế này anh mang đi e sẽ hư hết. Anh về… nhưng để lại mình em giữa lúc mưa bão thế này thật tình anh không an tâm, cũng không đành lòng…
Người đàn ông nói chưa dứt câu, bất chợt Liên úp mặt xuống bàn khóc nức nở… Thật lòng cô cũng không muốn người đàn ông đó ra đi. Liên sợ lắm nỗi cô đơn một mình giữa đêm mưa bão. Cô thèm biết bao những lời ngọt ngào mà người này đã dành cho cô từ chiều đến giờ, cô khao khát biết bao vòng tay ấm áp mà chỉ người này mới có thể cho cô, chứ với Toán thì… cô không còn mơ ước gì được nữa…
Liên không sợ sự có mặt của người đàn ông sẽ gây ra dư luận không hay, vì Liên biết nhà cô ở cách xa các nhà khác, mà những ngày này, đàn ông trai tráng trong làng đều đã ra biển hết rồi. Ở làng chỉ còn lại phụ nữ, người già và trẻ em, cứ chập tối chưa tắt mặt trời là họ đã vào nhà chốt chặt cửa.
Và giờ đây Liên cũng sợ gây ra tội lỗi với chồng. Tất cả là do Toán. Cô đã dành cho Toán bao nhiêu cơ hội, nhưng chính Toán đã không biết yêu thương quý trọng cô thì Toán không có quyền trách hờn gì khi cô không chung thủy.
Giờ đây Liên phải sống cho chính bản thân mình, phải để những khao khát của mình được thỏa mãn…
Người đàn ông tiến tới gần Liên, giang rộng đôi tay vàôm chặt cô vào lòng. Liên úp mặt vào ngực ông thổn thức khóc…
Ngoài trời bão đã to dần lên, cây phi lao trước sân nhà gãy cành răng rắc…
Khi những khát khao, những dục vọng trong Liên được thỏa mãn thì mưa bão ngoài trời cũng đã tạnh. Không gian lúc này lại hoàn toàn im lặng, một sự im lặng rùng rợn, như đang báo trước một điều gì bất an sắp xảy ra.
Liên co rúm người lại, rúc vào lòng người đàn ông xa lạ, mà thậm chí cho đến lúc này cả hai cũng chưa biết tên nhau.
Người đàn ông âu yếm:
- Em lạnh à? Anh sẽ ôm chặt lấy em, anh sẽ truyền cho em hơi ấm tình yêu để xua tan giá rét…
Liên không hiểu sao bây giờ cô không cảm thấy run rẩy khi nghe những lời nói êm dịu ngọt ngào ấy nữa, mà trong lòng cô có một sự sợ hãi, một nỗi lo lắng nào đó đang lớn dần lên.
Liên sợ dân làng biết sự có mặt của người đàn ông lạ trong nhà cô đêm nay sao? Không, cô tin chắc không ai biết được! Cô sợ chồng cô linh cảm được điều này sao? Không, với một kẻ cục mịch gỗ đá ấy thì có gì mà linh với cảm! Vậy thì cô sợ hãi điều gì? Cô lo lắng điều gì? Liên không giải đáp được! Cô chỉ biết tất cả điều đó đang lớn dần lên, xua đi những lạc thú mà cô mới vừa tận hưởng.
Ôi, giá mà ngoài trời vẫn gió giông như khi nãy có lẽ lòng cô sẽ bình yên hơn. Sao bỗng dưng tất cả lại im lìm đáng sợ như thế này?
Liên trằn trọc mãi không ngủ được, bên cạnh cô, người đàn ông đã bắt đầu phì phò ngáy.
Liên cố tập trung mọi suy nghĩ của mình hướng về người đàn ông này để xua đi cảm giác bất an.
Cô tự nhủ, tại sao người này không xuất hiện trước đây mấy tháng? Nếu mình gặp anh trước thì dù có bị cha mẹ từ bỏ mình cũng nhất quyết không đời nào ưng lấy anh chàng Toán cù lần ấy làm chồng!
Nếu chồng mình là người đàn ông này thì mình sẽ hạnh phúc biết bao nhiêu! Người ta sẽ nâng niu mình giống như nâng niu một món đồ trân quý, người ta sẽ ấp yêu mình như ấp yêu nguồn hạnh phúc duy nhất trên đời. Ôi, giá như…
Mặc dù cố lan man nghĩ ngợi, Liên vẫn nghe rõ ràng có tiếng bước chân nhè nhẹ bên hè.
Cô hoảng hồn ngồi dậy, rón rén bước xuống giường nhón chân tới sát vách áp tái vào nghe ngóng.
Ai giờ này lãng vãng nơi đây? Trộm chăng? Không, làm gì có trộm, ai chẳng biết nhà cô trống rỗng, có cái gì đáng giá mà phải rình rập đêm hôm?
Ban ngày, nhiều lúc chạy đi đâu đó, Liên chỉ khép hờ cửa chứ cũng không đóng chốt, mà nào có mất gì đâu? Cũng chẳng có gì để mất!
Liên không nghe tiếng bước chân nữa mà nghe hình như có tiếng thở dài áo não… Cô hơi chột dạ, tiếng thở dài này nghe thật quen tai, giống như tiếng thở của Toán vậy!
Dù mới sống với nhau chưa lâu, Liên vẫn chán ngán mỗi lần nghe Toán thở dài. Cô không nói ra, nhưng nghĩ trong bụng, cả đời Toán cũng không khá giả nỗi mặc dù chăm chỉ làm ăn, tất cả cũng chỉ vì những tiếng thở dài thườn thượt đó!
Nhiều lúc Liên phát bực, có gì mà phải thở dài như thế? Nhưng hình như đó là cái tật của Toán rồi, chứ không phải tiếng thở dài đó thể hiện một trạng thái tâm lý nào của anh ta hết!
Giữa đêm khuya mưa bão này, ai lại thở dài bên hiên nhà mình thế nhỉ?
Liên run run ngồi thụp xuống đất. Cô nghĩ, có khi nào Toán về bất ngờ không? Nếu Toán về thì phải làm sao? Người đàn ông kia đang ngủ ngon lành ở chính cái nơi đáng lẽ ra chỉ dành cho Toán!
Trời ơi, chắc mình phát điên lên mất!
Liên ôm đầu, rên rỉ thầm trong bụng.
Tiếng bước chân lại nhè nhẹ vang lên. Liên giật thót người, tim cô như co thắt lại.
Liên tưởng tượng Toán đang đi tới cửa nhà, chỉ một tích tắt nữa thôi, bàn tay thô kệch của Toán sẽ dộng ầm ầm lên cánh cửa gỗ và gọi:
- Mở cửa! Dậy mở cửa giùm tôi đi!
Khi ấy mình sẽ phải làm sao?
Hay là… bây giờ mình đánh thức người họa sĩ kia dậy rồi bảo ông ta chuồn ra bằng ngõ sau. Nhưng… làm sao kịp? Tiếng chân đã dừng lại ngay ở cửa rồi!
Liên run rẩy, và trong phút giây sinh tử đó, sự liều lĩnh vốn có trong cô lại trỗi lên mãnh liệt.
Ừ thì Toán cứ vô đi, cứ tận mắt chứng kiến người đàn ông hào hoa phong nhã ấy đối đãi với vợ mình ra sao để mà tự xấu hổ với lương tâm. Tôi không có tội nhé! Tất cả là do anh, chính anh đã đẩy tôi vào tay kẻ khác, giờ đây anh có ân hận cũng đã muộn màng rồi!
Tôi đâu có đòi hỏi anh phải đem về cho tôi tiền muôn bạc vạn. Tôi chỉ mong muốn anh dành cho tôi những cử chỉ yêu thương, những lời nói ngọt ngào nhưng anh là kẻ ích kỷ, anh đã không cho tôi điều đó, thì giờ đây anh đừng trách tôi nữa nhé! Tôi sẽ đi theo người đàn ông này, tôi sẽ vĩnh viễn chia tay anh, chia tay cái làng chài khốn khổ này, nơi này không phải là nơi dành cho tôi, anh có biết điều đó không?
Liên cố nghĩ ra thật nhiều điều để chống chọi lại nỗi sợ hãi. Nhưng lạ chưa, tiếng chân im hẳn mà cũng không nghe tiếng gọi cửa vang lên?
Chừng năm phút sau lại có tiếng thở dài…
Cứ như thế: Tiếng chân đi vòng ra sau hè, vòng lên cửa chính, rồi thở dài thườn thượt rồi lại bước đi… Tất cả lặp đi lặp lại nhiều lần như thế!
Bây giờ thì Liên run bắn cả người. Cô không sợ chồng về, cũng không sợ ai rình rập nữa mà cô sợ… ma!
Chỉ ma mới làm những điều quái đản như thế thôi, người ai lại rảnh rang làm việc điên khùng như vậy giữa đêm hôm khuya khoắt?
Người Liên run lên nhưng mồ hôi lại vã ra như tắm.
Liên gắng gượng lần từng bước đến bên giường. Cô quáng quàng chui vào phía trong người đàn ông và khẽ lay ông ta dậy:
- Anh! Dậy đi anh… dậy nghe kìa…
Liên gọi nhỏ.
Người đàn ông ngủ rất say, bị Liên lay lắt, ông ta chỉ khẽ ú ớ nói mê rồi lại phì phò ngủ tiếp.
Liên thất vọng nằm vật ra bên cạnh lắng tai nghe, hy vọng bên ngoài không còn tiếng động lạ lùng đó nữa.
Giờ thì gió bắt đầu nổi lên lần nữa. Hòa vào tiếng gió rít dường như Liên nghe có tiếng khóc tỉ tê.
Liên bịt chặt hai tai lại, cố nhắm mắt ngủ nhưng gió cứ gầm gào, rú rít, rên rỉ nỉ non một cách khác thường khiến cô không sao ngủ được.
Đây không phải là lần đầu tiên Liên nghe tiếng gió bão trong đêm.
Sinh ra và lớn lên ở đây, những âm thanh này đối với Liên đã trở nên quá chừng quen thuộc, chưa bao giờ Liên có cảm giác sợ hãi khi nghe những âm thanh đó.
Vậy mà đêm nay Liên lại sợ hãi vô cùng. Tiếng gió hình như không phải chỉ là tiếng gió, mà như là tiếng oan hồn đang rên rỉ khóc than…
Liên xoay qua, ôm chặt người đàn ông. Vừa lúc đó một cơn gió thật mạnh thổi thốc vào làm cánh cửa bung ra, mở toang hoác, một hơi lạnh quái đản ùa vào nhà như chụp lấy Liên. Cây đèn bóng leo lét giữa bàn tắt phụt. Căn nhà trở nên tối om, khủng khiếp.
Gió mưa tạt vào tận giường ngủ. Không thể để cửa mở toang như thế, mà Liên không đủ can đảm bước xuống đóng lại. Cô lay mạnh người đàn ông:
- Anh! Dậy! Dậy đóng giùm em cái cửa, gió thổi bật ra rồi kìa!...
Liên lay lắt mấy lần ông ta mới ngồi dậy và từ hiểu ra sự việc.
Liên nắm tay người họa sĩ, hai người lần mò ra cửa, và Liên hướng dẫn ông cách chốt cửa. Nhưng khi cánh cửa vừa mới khép lại, người đàn ông chưa kịp chốt lại thì gió lại đập vào làm bật trở ra, Liên và người đàn ông phải vất vả trầy trật mãi…
Cuối cùng rồi cánh cửa cũng đóng lại được nhưng cả người Liên và chàng hoạ sĩ đều ướt sũng.
Liên thì dễ rồi, cô chỉ việc lấy đồ thay ra, chỉ có người đàn ông là hơi kẹt. Ông ta không hề mang theo áo quần mà khổ người ông với Toán lại khác xa nhau thì làm sao mặc đồ Toán được?
Nhưng thôi kệ, dù sao cũng lấy ra cho ông ta mặc tạm vậy!
Nghĩ thế nên Liên bật lửa châm lại ngọn đèn rồi mở chiếc tủ gỗ tạp nơi góc nhà tìm quần áo của Toán.
Thật lạ! Chính tay cô vừa mới xếp ngay ngắn mấy bộ đồ mới nhất của Toán để vào đó hôm qua, sao hôm nay lại không thấy đâu nữa? Chẳng lẽ nhà từ sáng tới giờ có trộm tới viếng mà mình không hay?
Liên lục tung cả tủ cũng không thấy được một bộ áo quần nào của Toán, kể cả mấy bộ cũ rích.
Lạ lùng thiệt!
Liên than thầm trong bụng.
Cuối cùng, cô phải lấy cái mền cho người đàn ông quấn đỡ để đem bộ đồ của ông ta căng lên giữa nhà phơi khô, sáng mai ông ta có mà mặc về.
Khi mọi việc xong xuôi, Liên lại trở lên nằm cạnh người đàn ông, nhưng thật sự lúc này cô chỉ cảm thấy rất mệt mỏi, mệt mỏi rã rời và mong cho trời chóng sáng!
Liên không biết mình ngủ thiếp đi lúc nào, đến lúc cô choàng dậy thì mặt trời đã ló dạng, người đàn ông cũng đã đi không một lời từ biệt!
Liên hốt hoảng, cô rửa mặt mũi qua loa rồi chạy ra bãi biển tìm người đàn ông, nhưng bãi biển trải dài vắng ngắt không một bóng người.
Liên ngơ ngác tự hỏi, tất cả những điều vừa mới xảy ra là thực hay chỉ là một giấc mơ?
Thất thểu bước vào nhà, Liên khựng lại khi nhìn thấy bức tranh vẽ người con gái chân trần bên bãi biển lúc nhá nhem tối.
Vậy là thật rồi chứ không phải mình mơ!
Liên reo lên mừng thầm. Cô ngó quanh quất, lục tìm trong mấy tấm vải người họa sĩ còn để lại, có ý tìm bức vẽ cô ngồi bên ngọn đèn nhưng không thấy, có lẽ người đàn ông đã mang đi rồi, vì hôm qua anh ta đâu có nói sẽ tặng mình bức vẽ đó!
Bất chợt Liên cảm thấy hụt hẫng và giận dỗi vô cùng!
Tại sao anh ta bỏ đi không nói với mình một tiếng nào? Sao anh ta không hỏi mình có muốn đi theo không?
Tất cả những gì anh ta nói với mình hôm qua là thật lòng hay là lời đầu môi chót lưỡi?
Liên ngao ngán, buồn bã nằm vật ra giường. Bỗng mắt cô tình cờ bắt gặp chiếc áo của Toán treo trên móc áo cạnh giường.
Lạ kỳ! Hồi tối mình đã tìm khắp không thấy, giờ nói lại nằm trơ ra như vậy? Liên ngồi bật lên, chạy tới mở tủ, quần áo Toán vẫn còn nguyên ngay ngắn trong đó!
Thật không sao hiểu nổi!
Liên đang đứng ngây người trước hiện tượng lạ lùng vừa mới chứng kiến, thì có tiếng gọi hớt hãi trước nhà:
- Cô Liên ơi! Cô chưa biết tin gì sao?
Liên giật mình đóng sập cửa tủ lại, chạy ra sân hỏi:
- Có chuyện gì mà dì có vẻ hoảng hốt quá vậy, dì Năm?
Dì Năm mếu máo:
- Trời ơi, thật tội cho cô! Cô không hay gì sao? Chú Toán… chú Toán chết đêm qua rồi!
Liên sững sờ, lảo đảo.
Níu chặt tay vào hàng rào, Liên lắp bắp:
- Dì… dì Năm nói sao? Anh Toán… chết? Đêm qua?...
Dì Năm nhào tới ôm chầm lấy Liên:
- Thật tội nghịêp! Từ đây cô trở thành góa bụa rồi, khổ thân chưa…
Nước mắt Liên chảy tràn ra, nhưng thật sự cô không biết mình khóc vì điều gì? Vì tiếc thương Toán? Vì những lời cám cảnh của dì Năm? Hay vì nỗi đau mà chàng hoạ sĩ phong lưu kia vừa để lại?
Liên không biết, mà giờ phút này cô cũng không có đủ tỉnh táo và thời gian để phân tích chi ly sự việc. Cô chỉ biết hiện tại trong lòng mình đang trống rỗng, không vui cũng không buồn, hình như không có một cảm xúc nào tồn tại, tất cả cứ trơ ra…
Dì Năm kéo tay Liên chạy băng băng qua bãi cát dài dằng dặc, đến lúc mệt lả người thì Liên kịp nhận ra hai người đã chạy đến nơi thuyền cập bến.
Đám đông tụ tập quanh đó vừa trông thấy Liên vộ dạt hết ra hai bên để nhường lối cho cô.
Liên như kẻ mất hồn, dì Năm lôi tới đâu thì chân cô bước theo tới đó.
Trên chiếc tàu cá tanh tưởi, bẩn thỉu, một đám người đang tụ tập mặt mày đầy vẻ căng thẳng.
- Cô Liên! Chúng tôi xin thành thật chia buồn…
Vừa trông thấy Liên, một người đàn ông đứng tuổi lật đật bước ra cúi đầu như nhận lỗi.
Liên cứ đứng trơ ra, miệng há hốc không nói được lời nào.
Dì Năm giục:
- Chuyện xảy ra thế nào thì anh Hai với mấy chú kể lại tường tận cho cô Liên nghe đi…
Người đàn ông đứng tuổi âu sầu nói:
- Thiệt không ai ngờ sự việc lại ra nông nỗi ấy! Tối hôm qua bão tới bất ngờ, tàu chúng tôi về gần tới đất liền nhưng không kịp tìm nơi trú ẩn. Lúc gió mưa tơi bời, sóng biển như muốn nhấn chìm con tàu bé nhỏ của chúng tôi.
Biết không thể trụ lâu, chúng tôi đã chia nhau các phương tiện cứu hộ để chuẩn bị phóng mình xuống biển, đồng thời chúng tôi phát tín hiệu cầu cứu đi khắp nơi.
Giữa lúc ai nấy hoảng hốt thì chú Toán vẫn bình thản như không. Mà chú bình thản cũng phải, vì so với mọi người, chú là người có nhiều kinh nghịêm nhất, lại là tay bơi cừ khôi nhất.
Một lúc sau có lẽ tàu chúng tôi bị thủng đáy hay sao mà nước bắt đầu tràn vào, khi con tàu sắp chìm xuống cũng là lúc có chiếc tàu bạn đang tiến đến để cứu chúng tôi.
Biển lúc bấy giờ cũng đã dịu đi, gió tuy vẫn còn nhưng không hung hãn như trước đó nữa.
Thấy mình được cứu, cả bọn reo hò ầm ĩ và bắt đầu ra tín hiệu rồi chúng tôi nhảy xuống để bơi sang tàu bạn.
Chú toán và tôi là hai người nhảy xuống sau cùng.
Khi tất cả mừng vui ríu rít vì đã thoát chết thì mọi người mới phát hiện ra còn thiếu Toán!
Chúng tôi kêu gọi, pha đèn tìm kiếm khắp vùng vẫn không thấy bóng dáng Toán đâu, cũng không làm sao đoán được nguyên nhân Toán mất tích.
Với sức bơi của toán thì khoảng cách giữa tàu chúng tôi và tàu cứu hộ có thấm tháp vô đâu, vậy mà Toán lại không tới được đích, thế mới là điều đau đớn tột cùng…
Chúng tôi đã tìm hết sức vẫn không được, cuối cùng đành phải quay vào bờ…
Chúng tôi… chúng tôi thật có lỗi với chú Toán, có lỗi với cô. Xin cô tha lỗi, vì thật sự anh em tôi đâu ai muốn thế, sự việc không may xảy ra chúng tôi cũng đau lòng lắm…
Người đàn ông vừa nói vừa kéo áo lau nước mắt, mấy người thanh niên mặt mày đen sạm bên cạnh cũng rưng rưng…
Liên nghe xong câu chuyện, trong lòng cô vẫn chưa cảm nhận được một cảm giác nào thật sự.
Cô chỉ cảm thấy mệt mỏi vô cùng. Và bất chợt cô thèm ngủ một cách hết sức vô duyên…
Liên lảo đảo rồi ngã vật xuống, chìm vào giấc ngủ mặc cho mọi người quanh đó nháo nhào hỗn loạn. Người ta bế cô lên hơ tay hơ chân, giật tóc mai rồi rít.
Liên nhướng mắt lên nhìn mọi người rồi lại nhắm vào ngủ tiếp.
Ừ, mình phải ngủ, giờ phút này mình cần phải ngủ một giấc để khi tỉnh dậy mình mới có đủ tỉnh táo tiếp nhận mọi thông tin và xử lý nó một cách toàn vẹn nhất.
Liên trôi vào một giấc ngủ bềnh bồng lạ lẫm. Ở đó, cô bắt gặp những hình ảnh lộn xộn của người đàn ông xa lạ vừa quen biết hôm qua. Ông ta vẽ cô, vẽ thật nhiều, vẽ cô trong mọi tư thế. Ông ta cười dịu dàng với cô, rồi bất chợt từ hai bên khóe miệng đa tình của ông ta mọc ra hai chiếc răng nanh, hai chiếc răng cứ dài ra, dài ra mãi… làm Liên vô cùng hốt hoảng.
Ông ta cứ tiến tới gần Liên, hai chiếc nanh giơ ra phía trước như muốn găm vào cổ họng cô. Liên sợ quá, la toáng lên và đâm đầu chạy thục mạng.
Cô thấy mình chạy ra bờ biển. Bờ biển vắng lặng không một bóng người. Cô đang loay hoay tìm chỗ trốn người đàn ông kia thì bỗng nhận ra một chiếc tàu đẹp rực rỡ giương cánh buồm đỏ thắm đang băng băng rẽ nước tiến sát vào bờ, nơi cô đang đứng.
Liên mừng rỡ quên cả việc trốn tránh, cô đứng ngây ra chờ đợi giây phút chàng Bạch mã hoàng tử trong mơ xuất hiện.
Chiếc tàu to lớn thế mà vẫn có thể cập sát vào bờ. Một người từ trên tàu bước xuống, áo quần cũng rực rỡ sắc màu làm cô lóa mắt.
Khi chàng hoàng tử đã đến sát một bên, chìa tay ra đẩe đón Liên thì cô nhận ra người đó chính là Toán, nhưng Toán bây giờ trông rất khủng khiếp!
Hai cánh tay đen nhẻm nhầy nhụa máu thịt, cả những que xương trắng hếu đâm ra tua tủa. Gương mặt Toán là gương mặt của kẻ chết trôi mà mấy năm về trước có một lần Liên tò mò đi theo đám trẻ xem người ta vớt xác người trôi tấp vào bờ biển của làng.
Gương mặt trương phình, hôi thối, lổ chỗ thịt bị cá rỉa rói, hai tròng mắt lòng thòng đung đưa cạnh cái hố mũi sâu hút, môi của Toán cũng không còn, nhưng Liên vẫn ra người đó đúng là Toán!
Cô run sợ lùi lại, thì ngay lúc đó phía sau lưng Liên là anh chàng hoạ sĩ với hai chiếc răng nanh dài như hai ngọn giáo đang lừ lừ tiến tới.
Liên không còn con đường nào để trốn thoát!
Cô hét to lên, và chính tiếng kêu thét của mình đã làm cô choàng tỉnh.
Mở mắt ra, Liên ngơ ngác nhìn thấy quanh mình thật đông người!
Người ta đã đem Liên trở về nhà của cô, và ba mẹ cô cũng đã có mặt.
Người ta thay nhau nói lời động viên an ủi. Liên thì vẫn cứ trơ ra như kẻ mất hồn…
Đến chiều, khách khứa đến chia buồn cũng đã về hết, ba cô cũng phải về lo công việc ở nhà, chỉ còn mẹ ở lại với Liên.
Liên đã ngồi dậy nổi sau khi ăn hết chén cháo mà mẹ cô cố công nài ép.
Khi thấy Liên đã có vẻ tỉnh táo hơn, mẹ cô bảo:
- Con coi có tấm ảnh nào của thằng Toán, đem ra để mẹ lập bàn thờ cho nó!
Như cái máy, Liên mở tủ lục tìm rất lâu trong đó.
Cô chợt nhớ ra, từ ngày làm vợ Toán tới nay chưa được ba tháng, hai vợ chồng cô ở bên nhau cũng không mấy ngày, có rất nhiều điều cả hai còn chưa biết về nhau.
Như lúc này đây khi lục tìm ảnh của Toán, Liên mới nhớ rằng chưa bao giờ Toán cho cô xem hình ảnh thời nhỏ của anh, và Liên cũng chưa bao giờ xem hết đồ đạc cá nhân của Toán để trong tủ.
Cô bỗng mỉm cười cay đắng!
Thế là mình đã qua một đời chồng…
Cuối cùng Liên tìm được một tấm ảnh mà mới thoạt nhìn qua cô không dám tin đó là ảnh của Toán.
Tấm ảnh này chắc Toán chụp đã khá lâu, hồi đó Toán ốm hơn bây giờ. Trong ảnh, Toán rất đẹp trai!
Phía sau bức ảnh có ghi rõ họ tên, ngày tháng và nơi chụp nên Liên mới dám tin đó chính là ảnh của chồng mình…
***
Hôm nay là cúng một trăm ngày cho Toán.
Sáng sớm Liên đi chợ mua một ít thức ăn tươm tất hơn thường ngày đôi chút về nấu mâm cơm đặt lên bàn thờ rồi thắp nhang.
Liên chỉ đơn giản thắp nhang rồi cắm lên thôi, cô không biết phải vái van, cầu khấn gì với Toán hết!
Lúc Toán mới chết, Liên thường có những giấc mơ khủng khiếp, cô có cảm giác linh hồn của Toán luôn lảng vảng quanh đây. Nhưng rồi chỉ sau ít hôm mọi việc trở lại bình thường.
Thỉnh thoảng Liên cũng có nghĩ tới Toán, nhưng tuyệt nhiên đó không phải là nỗi nhớ nhung của người vợ xa chồng, nỗi đau đớn tiếc thương của người góa phụ dành cho người chồng vắn số của mình.
Liên tự hỏi:
- Toán đóng vai trò trong lòng mình?
Nhưng cô không tìm được lời giải đáp.
Giữa Liên với Toán như có một vực sâu thăm thẳm ngăn cách hai người, mà Liên đã nhiều lần cố gắng bắc cầu nhưng vẫn không làm được!
Thôi cũng đành Toán nhé, chúng mình không phải dành để cho nhau.
Liên tự an ủi và nói thầm như thế!
Người mà cô ngày nhớ đêm mong, khắc khoải chờ đợi chính là anh chàng hoạ sĩ phong lưu chiều ấy. Nhưng chàng đi biền biệt không một lần quay lại, không để lại một lời hứa hẹn nào…
Hôm nay, nỗi mong nhớ trong Liên càng trở nên mãnh liệt vì Liên vừa khám phá ra mình đã mang thai, mà cha của đứa bé chắc chắn không phải là Toán, chồng Liên!
Cúng một trăm ngày của Toán, chỉ có lác đác vài người láng giềng đến thăm chơi, ai cũng tỏ ra ái ngại khi nhìn Liên xanh xao vàng võ.
Lúc nãy dì Năm đã nói thẳng:
- Hình như cô có mang rồi phải không? Thật tội nghiệp cho mẹ con cô! Ông trời sao nỡ để cho đứa bé phải mất cha khi mới vừa tượng hình trong bụng mẹ…
Mọi người ai cũng tưởng đứa con Liên mang trong bụng là con của Toán. Vậy cũng hay, Liên thầm cảm ơn mọi người vì sự nhầm lẫn ấy. Chứ nếu họ mà biết rõ thì chắc hẳn Liên cũng khó lòng sống nổi ở đây bởi những cái nhìn xoi mói, những câu châm chọc bóng gió sau lưng…
Mệt mỏi rã rời, Liên cố nhắm mắt, cố không để ý nghĩ mình lan man đi đâu nữa.
Tiếng gió vẫn rú rít bên ngoài, thỉnh thoảng lại đập thình thình trên mái nhà như muốn hất tung tất cả.
Bất chợt Liên nghe một tiếng “meo…” vang lên thê thiết.
Mèo hoang? Đúng rồi, đó là tiếng kêu của mèo, nhưng từ lúc về sống ở đây tới giờ, đây là lần đầu tiên Liên nghe tiếng mèo kêu như vậy.
Mà cái tiếng kêu đó mới rùng rợn, đáng sợ làm sao!
Liên nhổm dậy, đi kiểm tra lại cửa nẻo lần nữa rồi an tâm chui trở vào giường, kéo mền tận cổ và nhủ thầm bây giờ mình ngủ đây, mình không nghĩ gì nữa, không nghe gì nữa, mặc kệ tiếng gió bên ngoài, tiếng mèo kêu ai oán trên kia…
Và Liên ngủ thật. Nhưng giữa lúc mơ màng cô lại nghe như có tiếng chân người dừng lại trước thềm nhà mình. Rồi tiếng cánh cửa bị đẩy vào rít lên một tiếng “kẹt” rõ rệt trong đêm vắng.
Cố nhướng mắt nhìn lên, Liên thấy một bóng người thấp thoáng ở giữa nhà.
- Ai đó?
Liên tỉnh ngủ hẳn, hoảng hốt hỏi to. Nhưng cái bóng vẫn im lìm đứng yên không nhúc nhích.
Liên đưa tay dụi mắt để biết mình không trông gà hóa cuốc hay đang giữa cơn mê ngủ. Rõ ràng mình đang thức và cái bóng kia là có thật chứ không phải do mình tưởng tượng ra đâu! Liên khẳng định như thế.
Liên run rẩy cất tiếng lần nữa:
- Ai đó? Ai đang đêm vào nhà tôi làm gì? Tôi la lên…
Bóng trắng không đứng im nữa mà khẽ di chuyển tới chiếc bàn kê giữa nhà. Ánh sáng lù mù của ngọn đèn bóng trên bàn thờ Toán không đủ để giúp Liên nhìn rõ mặt người lạ.
Bóng trắng bắt đầu đi tới đi lui quanh nhà, cái dáng điệu gật gà gật gưỡng như người say rượu.
Liên ngồi lùi vào sát vách, hai hàm răng va vào nhau lập cập giống như hồi còn bé mê mải tắm mưa đến lạnh run người. Cô không còn đủ sức để kêu lên, cũng không thể vùng chạy thoát thân được nữa.
Bóng trắng đi lại gần bức tranh vẽ Liên treo trên vách nhà rồi đứng đó thật lâu. Bất ngờ buông ra một tràng cười lạnh ngắt, mà tiếng cười đó thật quái đản, vừa như có tiếng khóc ai oán xen lẫn trong đó, khiến Liên co rúm người lại.
Cô có cảm giác cái bóng đó không phải là người!
- Ông… ông là ai? Ông đi đi… tôi van ông… ông đi đi… đừng làm tôi sợ hãi nữa…
Liên vừa quấn chặt mền quanh người vừa lắp bắp van xin.
Dứt tiếng cười, cái bóng trắng tiến tới sát bên giường ngủ của Liên, lúc này Liên nhận ra gương mặt người đó đúng là gương mặt gớm ghiếc của Toán mà trong cơn ác mộng trước đây mình đã gặp.
Liên hét lên một tiếng rồi ngất xỉu.
Đến khi cô tỉnh lại thì trời đã hừng đông sáng. Trên chiếc bàn giữa nhà là một đống rong rêu nhầy nhụa bốc mùi tanh tưởi. Dưới nền nhà còn đọng lại nhiều vũng nước. Liên quả quyết những vũng nước đo là do bóng người đêm qua để lại, chứ nhà cô không hề bị dột như vậy, vả lại đêm qua trời chỉ mưa lắt rắc, dù mái nhà có bị mèo hoang làm thủng cũng không dột như vậy được.
Nỗi sợ hãi, lo lắng dậy lên trong lòng, Liên vẫn phải đè nén xuống để ra tay dọn dẹp.
Trong cái mớ rong rêu trên bàn và cả mấy vũng nước dưới nền nhà đều có gì đó màu hồng hồng, bốc mùi tanh như pha lẫn máu người vậy!
Dọn dẹp xong, Liên vội vã vơ lấy cái nón lá đi ra chợ, đi để trốn cái cảm giác sợ hãi đang ngự trị trong lòng.
Ngày thường, mỗi lần đi chợ, Liên không đi theo đường mà mọi người vẫn thường đi, lúc nào cô cũng đi dọc theo bãi biển, đường vắng và sẽ xa hơn nhưng Liên thích thế. Vậy mà hôm nay cô không làm theo sở thích của mình nữa, cô đi như chạy để cố đuổi theo mấy người đang đi phía trước.
Vừa quay lại trông thấy Liên, hai người phụ nữ đằng trước ngạc nhiên:
- Ủa, cô Liên, sao cô biết mà cũng tới đó xem vậy?
Liên ngơ ngác:
- Biết gì? Xem gì chứ?
Hai người đàn bà nhìn nhau cười tủm tỉm:
- Vậy mà chúng tôi tưởng cô biết rồi chứ? Ở đồi cát đằng kia sáng nay người ta phát hiện một thi thể, cảnh sát đang xuống đó để điều tra, tụi tôi tới đó xem nè, cô có đi không?
Liên đang lo sợ trong lòng, thật tình cô hoàn toàn không muốn dây vào những việc chết chóc ghê rợn nữa, nhưng không hiểu sao tự nhiên Liên lại gật đầu đồng ý:
- Dạ, em đi với hai chị cho vui!
- Ừ, đi đi, mình ghé đó xem qua một lát rồi đi chợ luôn, có sao đâu!
Người phụ nữ tán thành.
Ba người cắm cúi đi tiếp. Xa xa đã thấy một đám đông đang tụ tập, chắc đó là nơi tìm thấy thi thể người xấu số.
Khi Liên và hai người đàn bà tới nơi thì cái xác đã được kéo ra phía ngoài, đậy lên trên bằng một manh chiếu cũ kỹ, chắc của một ai ở gần đó thương tình.
Cảnh sát đang đo vẽ gì đó xung quanh chỗ tìm thấy thi thể.
Liên không chú ý lắm tới công việc của cảnh sát, cô cũng không thắc mắc người chết là ai, mà đầu óc Liên lại cứ quẩn quanh nghĩ tới cái bóng mang bộ mặt ghê sợ của Toán đêm qua. Lúc này Liên chỉ muốn đi thật xa chỗ chết chóc này mà thôi, cô tự thấy mình thật điên rồ mới theo họ tới đây trong tâm trạng đang rối bời lo lắng như thế này.
Liên lẳng lặng chen ra khỏi đám đông, cô định một mình tới chợ, không chờ hai người kia nữa.
Nhưng khi cô vừa thoát ra khỏi vòng người thì loáng thoáng nghe tiếng bàn tán:
- Cha này chắc là họa sĩ, đồ đạc tìm được của chả toàn là đồ dùng để vẽ tranh, không có gì khác!
Tim Liên như bị ai đó bóp nghẹt, cô dừng bước lại, thở khó nhọc một lúc mới có đủ sức chen trở vào gần chỗ xác chết.
Cạnh bên cái xác đã được bó chiếu là một vài thứ lặt vặt của nạn nhân, một cảnh sát cẩn thận mang bao tay vào để cầm các thứ lên xem xét.
Tất cả chỉ là giá vẻ, cọ, bột màu và một số vải trắng, đồ dùng của các họa sĩ. Khi người cảnh sát mở cuộn vải thì mọi người đều kêu lên khi phát hiện trong đó có một bức vẽ rất đẹp.
Liên choáng váng, bủn rủn chân tay khi nhận ra bức vẽ đó chính là bức vẽ mà chàng hoạ sĩ tài ba đã vẽ cô ngồi bên ngọn đèn cách đây hơn một tháng.
Trời ơi, chẳng lẽ… chẳng lẽ cái chết kia chính là chàng họa sĩ, người mà lâu nay Liên mòn mỏi trông chờ?
Liên lảo đảo suýt ngã, may nhờ có mấy người cạnh bên kịp thời níu lại. Cô nửa muốn bỏ chạy, nửa muốn nhào tới xem cho tận mặt người đã chết, nhưng cô không còn đủ sức để chạy hay tiến tới gì nữa.
Đúng lúc đó, chiếc chiếu được hé mở ra, lộ rõ một gương mặt đang ở vào thời kỳ bị hủy hoại.
Một mùi hôi thối bốc lên làm Liên thấy bụng dạ mình nôn nao mắc ói. Cô gập người xuống nôn ọe liên tiếp mấy lần, một vài người cũng có trạng thái giống như Liên.
- Trời ơi, người vậy mà còn tò mò đi tới mấy chỗ này!
- Có tránh ra xa mà ói mửa hay không? Về đi, ở đây làm chi cho khổ vậy trời?
Những tiếng mắng chửi vang lên nhưng Liên vẫn bỏ ngoài tai, cô vẫn muốn xác định người kia có đúng là chàng hoạ sĩ của cô hay không.
Nhưng dù cố gắng thế nào cô cũng không thể nhận ra bất kỳ một đường nét quen thuộc nào trên thân thể người chết. Vì thi thể đã phân hủy, không thể nhìn nhận bằng mắt thường được nữa.
Liên cố xua đi cái ý nghĩ người chết là cha của con mình, nhưng cô không sao xua đi được, bức vẽ đó, chính bức vẽ có hình dáng của cô đã khẳng định điều đó.
Tại sao người đàn ông đó chết? Chết bao lâu rồi? Người ấy đến với cô đúng vào hôm Toán mất mạng ngoài biển, nay đúng một trăm ngày, xác chết đã một trăm ngày có như vậy không? Cái chết của hai người đàn ông ấy có gì liên quan tới nhau không?
Thật nhiều câu hỏi xoáy mạnh trong đầu Liên khiến cô váng vất.
Liên bị người ta xô đẩy một lúc đã ra tới bên ngoài. Dòng người hiếu kỳ vẫn không ngừng xiết chặt vòng vây quanh khu vực đó.
Liên lủi thủi quay về, không nhớ tới việc đi chợ búa gì nữa hết. Cô lê từng bước chân nặng nhọc trên con đường đầy cát…
Vừa về tới nhà, Liên lảo đảo ngã vật xuống giường và cô bắt đầu khóc tức tưởi. Tất cả những ước mơ, hy vọng của cô giờ đây đã tiêu tan theo mây khói hết rồi.
Ngày Toán mất, Liên không hề có cảm giác đau đớn như thế này, chỉ là một chút bàng hoàng, một chút gì đó hụt hẫng vậy thôi, nhưng giờ đây, trước cái chết của người họa sĩ mới chỉ quen biết một đêm ấy đã làm cho Liên hoàn toàn sụp đổ.
Con người lãng mạn của Liên từ hơn một tháng nay không hề đeo mang sâu nặng nỗi đau mất chồng mà cô vẫn luôn hy vọng, vẫn luôn chờ đợi một buổi chiều nào đó chàng hoạ sĩ ngày nào lại sẽ trở về đây, khi biết cô đang mang trong người giọt máu của anh, chắc hẳn anh sẽ sung sướng lắm, sẽ thương yêu cô nhiều hơn nữa.
Chắc chắn người đàn ông tài hoa ấy sẽ đưa Liên đi, sẽ đặt cô vào đúng vị trí mà đáng lẽ cô đã được ngự trị ở đó từ rất lâu.
Trời ơi… vậy mà mọi thứ đã tan tành hết rồi! Còn đâu nữa… còn đâu nữa những mơ ước tuyệt vời mà bao lâu nay Liên hằng thêu dệt?
Nước mắt Liên chảy tràn trên mặt gối. Cô đau đớn tự hỏi rồi đây cô sẽ phải sống ra sao với đứa con ngày một lớn dần trong bụng?
Sau ngày Toán mất, gia đình và một vài người thân có gợi ý Liên nên tham gia vào các công việc mà những người phụ nữ ở vùng này thường làm, như đi mua cá từ các ghe tàu vừa cập bến rồi đem lên chợ bán lại kiếm lời, hoặc phơi khô cá, hoặc vá lưới vá chài… Liên đều lắc đầu trước những gợi ý đó.
Cô không nghĩ tới việc phải làm mới có cái ăn, vì số tiền dành dụm của Toán vẫn còn, đủ giúp Liên sống thêm nhiều ngày nữa, và trí óc lãng đãng mù sương của Liên vẫn cứ mơ màng đến ngày rời bỏ nơi đây để đi về một vùng đất khác, tươi đẹp hơn.
Hồi nhỏ, ba mẹ Liên cũng nghi ngờ đầu óc cô có vấn đề, bởi cô luôn sống như trong cõi mộng, nhưng rồi mọi người cũng bỏ qua, vì thấy ngoài những ý nghĩ điên rồ ra, Liên vẫn sống và sinh hoạt một cách bình thường. Lớn thêm một chút, Liên lại biết giấu đi suy nghĩ của mình nên dưới mắt mọi người Liên hoàn toàn không có gì phải thắc mắc.
Chỉ với bản thân mình, Liên luôn có cảm giác tù túng, có ý nghĩ muốn thoát ly. Những ý nghĩ đó càng trở lên mãnh liệt từ sau khi nghe những lời ngọt lịm từ anh chàng hoạ sĩ kia.
Giờ đây, khi chàng hoạ sĩ không còn, Liên biết giấc mơ của mình đã thật sự tan tác hết rồi, mình không còn một tia hy vọng dù nhỏ nhoi nào nữa hết.
Liên khóc, vừa khóc thương mình, thương đứa bé trong bụng, thương người hoạ sĩ chết thảm ngoài kia, và lần đầu tiên, trong lúc đau khổ như thế này Liên có thoáng chút cảm giác ngậm ngùi khi nhớ tới Toán.
Bất chợt Liên có cảm giác một cái gì rất lạnh vừa chạm vào vai mình. Cô hoảng hốt ngồi bật dậy ngơ ngác nhìn xung quanh. Căn nhà nhỏ im lặng không một bóng người, nhưng rõ ràng cảm giác vừa rồi là có thật, vì trên vai áo Liên vẫn còn vết ướt in rõ ràng dấu của năm ngón tay.
Không thể hiểu nổi chuyện gì đã xảy ra từ tối hôm qua đến nay, Liên sợ quá hóa điên, cô gào lên:
- Ai đó? Ai muốn làm gì tôi thì làm đi, đừng có chơi trò mèo vờn chuột như thế nữa…
Dứt tiếng hét, Liên lại gục xuống nức nở khóc. Bỗng đâu Liên cảm thấy hình như nước đang tràn vào nhà mình. Cô ngẩng phắt lên. Sàn nhà cô lúc này đã xâm xấp nước.
Hoảng sợ, Liên phóng vội từ trên giường xuống, chạy ào ra ngoài.
Nhưng lạ lùng chưa, trước sân nhà Liên, và cả xung quanh nhà nữa đều hoàn toàn khô ráo, biển cũng bình thường, thủy triều có dâng cao đi nữa cũng chưa khi nào nước tràn vào nhà mình kia mà? Tại sao? Tại sao lại như vậy được chứ?
Liên hoảng hốt chạy trở vào nhà, nước bây giờ đã lên tới gối. Và dường như có một bức tường chắn vô hình, nước chỉ ngập đầy trong nhà Liên mà không hề tràn ra ngoài, dù chỉ là một vài giọt nhỏ.
Liên xắn quần, lội bì bõm để đi thu gom một vài đồ đạc linh tinh, sợ bị ướt.
Chỉ một lát sau, Liên nghe hai bắp chân mình ngứa ngáy vô cùng khó chịu, cô cúi xuống nhìn thì hỡi ơi, xung quanh hai bắp chân trắng trẻo của cô giờ đây đã bám đầy rong rêu xám ngoét!
Liên vứt vội mấy thứ đang ôm trong tay, cuống cuồng rứt đám rong rêu ra khỏi chân mình, nhưng càng cố rứt ra thì nó càng bám chặt vào hơn nữa.
Hoảng hốt, Liên chạy ào ra sân, nước từ chân cô chảy xuống sân ròng rã, đám rong rêu bây giờ giống như đã cắm rễ vào da thịt Liên rồi.
Cô rú lên, vụt chạy về hướng có xóm nhà, vừa chạy vừa kêu cứu vang trời…
Liên chưa kịp tới nơi có người ở thì đã có mấy người đi đánh dậm ven bờ phát hiện ra cô, người ta chạy tới xem cô cần gì, nhưng lúc này lưỡi Liên như đã ríu lại, cô phát âm không còn rõ ràng, câu nói cũng lộn xộn, không đầu không đuôi.
Liên chỉ xuống chân mình rồi lại chỉ về hướng nhà mình.
Nhìn cửa chỉ hoảng loạn của Liên, mấy người đàn ông cũng đoán ra được cô vừa phải chứng kiến một điều gì đó khủng khiếp lắm.
Họ an ủi động viên mấy lời rồi cùng cô đi về hướng ngôi nhà nằm lẻ loi bên bờ biển.
Lúc này Liên đã bớt căng thẳng, cô kể vắn tắt mọi việc cho mấy người đàn ông nghe. Cô không dám tới gần nhà mình mà đứng từ xa chỉ trỏ:
- Nước ngập lênh láng trong nhà, ngoài sân vẫn khô ráo, không có gì lạ…. Tôi… tôi sợ lắm…
Mấy người đàn ông để Liên đứng một mình ở đó, họ kéo nhau tới cửa nhà Liên đứng nhìn vào. Rồi họ quay nhìn nhau đầy thắc mắc.
Liên không hiểu sao họ không có chút gì ngạc nhiên hay sợ hãi? Cô hỏi to:
- Mấy anh thấy nước còn ngập nhà tôi không?
Họ không trả lời cô mà cùng nhau quay trở lại, khi tới gần bên Liên, một người có vẻ lớn tuổi nhất bọn nói, giọng thương hại:
- Có lẽ cô đau buồn quá nên thần kinh bị suy nhược rồi gây ra ảo giác hay sao ấy? Chúng tôi có thấy nước nôi gì trong nhà cô đâu? Cô nên đi chữa bệnh có lẽ sẽ tốt hơn đó!
Liên ngỡ ngàng khi nghe nói vậy, cô không trả lời mà chạy nhanh tới cửa nhìn vào nhà. Quả thật, trong nhà hoàn toàn khô ráo, nền nhà cũng không hề ẩm ướt, chỉ có đồ đạc trong nhà là hơi bừa bộn, mấy bộ quần áo vứt lung tung dưới sàn nhà cũng vẫn khô rang…

Liên nhìn xuống chân mình, hai bắp chân vẫn trắng hồng, xinh xắn.
- Trời ơi! Chuyện gì xảy ra với tôi đây?
Liên ngồi bệt xuống sân ôm đầu khổ sở.
Mấy người đàn ông nói mấy câu động viên nữa rồi bỏ đi về với công việc của mình. Liên một mình cô độc ngồi trước sân nhà.
Nắng chói chang, gió thốc mạnh vào người nên cô khong cảm thấy sức nóng của mặt trời nhưng cơ thể vẫn khó chịu, bức bối đến vô cùng.
Bây giờ mình phải làm sao đây? Về ở với cha mẹ ư? Không, không thể được, Liên không thể trở về cái nơi tù túng ngột ngạt ấy được, cái nơi mà chính vì muốn thoát ra nên Liên mới đồng ý nhận lời làm vợ Toán.
Trở vô nhà ư? Rồi còn gì sẽ tiếp tục xảy ra?
Mà tất cả những việc đó là gì thế nhỉ? Hay mình thật sự bị thần kinh, bị ảo giác như lời mấy người kia vừa mới nói?
Có thể là như thế thật!
Liên nghĩ vậy và thấy an tâm hơn một chút. Cô nhớ lại trong nhà miønh còn một ít thuốc đau đầu, có lẽ lúc này cô đang rất cần đến nó.
Ừ, uống vô cho thần kinh dịu lại đôi chút, mọi ảo giác sẽ trôi qua, không còn làm khổ mình nữa! Liên thầmnghĩ.
Liên đi vô nhà, tuy lòng nhủ lòng như vậy, song cô vẫn luôn dè dặt. Rón rén đặt từng bước chân vào cái nơi mới vừa nãy nước còn ngập lênh láng giờ đã hoàn toàn khô ráo, Liên vừa đi vừa ngó quanh ngó quất khắp nơi.
Bức tranh trên tường giờ đây bỗng nhiên đổi khác!
Trên bãi cát chạy dài, không chỉ có mỗi một người con gái là Liên đang tung tăng dạo bước, cạnh đó có một người đàn ông đang bò lết theo sau. Trên vai ông ta mang theo giá vẽ!
Liên trố mắt đứng nhìn người đàn ông, đó là chính là chàng họa sĩ của cô! Trời ơi, sao ai lại vẽ chàng vào đó được?
Càng nhìn, bức tranh càng trở nên sinh động hơn. Chỉ một lúc sau, Liên có cảm giác không phải mình đang xem tranh nữa mà là mình đang được xem một đoạn phim chiếu chậm.
Cô gái nhún nhẩy bước chân, còn chàng trai thì cố hết sức để nhích người lên một chút, để lại phía sau một vệt máu chạy dài làm thẫm đen màu cát vàng nơi đó.
Rồi từ trên bức tranh, những giọt máu bắt đầu rơi xuống nền nhà lộp độp giống như tiếng những hạt mưa rơi chậm.
Liên như nín thở. Một tay cô ôm lấy ngực, một tay run rẩy lục tìm trong hộc bàn gói thuốc đau đầu cô mới để đó mấy hôm qua.
Nhưng tất cả những thứ vặt vãnh trong hộc bàn giờ đây đều bám đầy rong rêu trơn nhớt.
Liên rút tay vội lại. Cô nhìn trở lên bức tranh thì thấy vẫn bình thường, hình hảnh người đàn ông bò lết khi nãy giờ đã biến mất!
Cô lại nhìn vào hộc bàn, lọ thuốc, cuộn chỉ, hộp dầu… tất cả đồ đạc linh tinh đều nằm lăn lóc như nó thường tồn tại vậy.
Mình bị ảo giác thật rồi! Liên vừa vui mừng vừa lo lắng.
Cô lấy mấy viên thuốc uống vội vàng rồi lên giường nằm cố nhắm mắt tập trung suy nghĩ về những năm tháng còn thơ bé của mình.
Một cái gì đó chạm nhẹ vào người khiến Liên mở bừng mắt. Cô quay lại nhìn, và không thể tin vào mắt mình được nữa: Toán đang nằm ngủ ngay bên cạnh cô, mặt mũi hình hài vẫn bình thường vẹn nguyên như cũ.
Liên liếc nhìn lên bàn thờ, khung ảnh trên đó là gương mặt điển trai lấp lánh nụ cười của chàng họa sĩ!
Liên vùng dậy chạy ào ra sân và té xỉu ngay nơi bậc cửa.
 
***
 
- Cô đã giết tôi! Chính cô đã giết chết tôi!
Toán gầm lên, bàn tay hộ pháp đen nhẻm của Toán dường như muốn siết chặt cổ Liên cho tới khi cô tắt thở.
Liên chới với, sặc sụa, cô cố gắng dồn hết sức lực để gỡ tay Toán ra, nước mắt cô trào ra ướt nhòe nhoẹt hai bên má, những sợi tóc lòa xòa ướt nước dán chặt vào má làm Liên rát buốt.
Chừng như có phần nguôi giận, Toán nới lỏng tay một chút, Liên thở hồng hộc, ấp úng:
- Anh… Toán ơi, anh tha cho tôi! Tôi… sao tôi lại giết anh được chứ?
Toán buông tay ra, ngồi phịch xuống ghế, hai tay ôm đầu vẻ vô cùng khổ sở:
- Tôi đã yêu thương cô biết bao! Vậy mà cô đã nỡ lòng dan díu với kẻ khác giữa lúc tôi còn lênh đênh trên sóng biển. Cô không biết hay cố tình không biết? Rằng số phận của người ngư phủ hoàn toàn nằm trong tay của vợ mình?
Toán dừng lời, nhìn Liên dò xét.
Liên xoa xoa tay vào cổ, nơi vẫn còn in hằn dấu vết đôi bàn tay của Toán.
Toán cười nhạt, nói tiếp:
- Khi người ngư phủ ra khơi, nếu ở đất liền vợ họ biết thành tâm khấn nguyện, biết chung thủy sắt son luôn hướng về chồng, thì mọi phong ba bão táp sẽ rất khó cướp đi sinh mạng của anh ta, vì sự sống đó được nối dài với người vợ mong chờ mòn mỏi nơi đất liền xa thẳm… Côthì sao? Cô đã làm gì với tôi? Đã làm gì với hắn?
Toán gằn giọng, hằn học chỉ tay về phía góc nhà, ở đó cái xác trương phình của người họa sĩ đang bốc mùi kinh tởm. Ruồi nhặng từng đàn bay lên đáp xuống, những con dòi lúc nhúc bám đầy mặt mũi của ông ta.
Bủn rủn chân tay, Liên khuỵu xuống nôn thốc nôn tháo, nôn đến mật xanh mật vàng mà cái cảm giác trạo trực ngược từ bao tử lên cuống họng vẫn không nguôi bớt.
- Tôi van xin anh! Anh tha cho tôi… Tôi không chịu đựng nổi nữa đâu…
Liên huơ huơ tay như muốn bám vào Toán, nước mắt nước mũi ràn rụa, cô nói như rên rỉ, van xin ai oán.
Toán cười khẩy:
- Cô là một con đàn bà lăng loàn, trắc nết! Trong khi chồng mình vật lộn với gió để mưu sinh thì ở nhà cô lại bán rẻ mình cho những lời đường mật.
Cô tưởng kẻ kia thật lòng yêu thương, tôn kính cô sao? Ha ha ha… cô lầm rồi! Tôi hận cô, nhưng đôi lúc tôi lại thấy thương, thấy tội nghiệp cho lòng tin ngây ngô khờ khạo của cô…
Tôi yêu cô biết bao, mặc dù tôi không thể dành cho cô những lời lẽ ướt át, hoa mỹ, những lời mà người ta vẫn thường gọi có cánh. Và tôi cũng không thể biểu lộ được tình cảm của mình bằng những cử chỉ vuốt ve mơn trớn…
Tôi yêu cô, và luôn muốn cô sống sung sướng, an nhàn. Tôi không cho cô là những công việc vất vả thường ngày… Sao cô không suy nghĩ mà thương tôi? Chính cái lòng chung thủy chó chết của cô đã giết chết tôi, đã nhấn chìm tôi dưới vùng nước xoáy…
Còn gã họa sĩ này đây, người đã tán dương cô bằng những lời bay bổng. Hắn đã làm gì được cho cô ngoài mấy lời nịnh nọt và vẽ tặng cô mấy bức tranh? Vậy mà cô lại quá chừng tin tưởng hắn!
Khi đã chiếm đoạt được cô rồi, sáng sớm hắn đã muốn cao chạy xa bay. Vậy mà có khi nào trong cái đầu ngu ngốc của cô lại có ý nghĩ hắn bỏ rơi cô đâu?
Cô chờ đợi, cô hy vọng hắn sẽ về đưa cô đi tới nơi đế vương, đài các. Ha ha ha… thật tội nghiệp cho cô…
Dứt tiếng cười, giọng nói của Toán lại trở nên sắt lạnh:
- Cô nhìn đi! Hắn đấy! Con người hào hoa phong nhã của cô đấy! Hắn đã không thoát khỏi tay tôi, hắn không thể bỏ rơi mẹ con cô rồi ung dung trở về thành phố sống với vợ con, lâu lâu lại đi rong ruổi nơi này nơi khác để buông lời đường mật dụ dỗ, lừa phỉnh những cô gádi nhẹ dạ cả tin giống như cô…
Tôi không muốn còn có thêm một người vợ khác ngoại tình, tôi không muốn có thêm một ngư phủ phải vùi thây trong sóng nước vì sự phản bội của vợ họ.
Tô iđã giết chết nó đấy! Hừ, cô nhìn cái gì? Cô đau lòng ư? Cô căm phẫn ư? Vậy thì cô hãy đi mà báo án… Nhưng cô nên nhớ, giờ đây tôi chỉ là một hồn ma, toàn án trần gian không kết tội được tôi đâu.
Liên không còn đủ sức để đối đáp với Toán thêm một phút giây nào nữa. Cô ngã vật xuống chân toán, rã rời, chán ngán…
Toán đột ngột đứng lên, chạy tới giật bức tranh treo trên vách xuống, xé ra tan nát.
Liên gần như vô cảm. Cô không còn lo sợ, không tiếc nuối cũng chẳng nghĩ ngợi được gì nữa.
Cô mơ màng, thấy như mình đang lãng đãng trôi bồng bềnh trong một vùng dày đặc sương khói. Cô nghe có tiếng gầm gừ của Toán, tiếng dịu dàng mơn trớn của người họa sĩ, tiếng trẻ con khóc, tiếng người gọi tên cô văng vẳng từ nơi nào đórất xa xăm…
Ha ha ha…
Tiếng cười của Toán vang lên, Liên nhướng mắt cố nhìn xem Toán đang làm gì nhưng cô không tài nào mở mắt ra được nữa.
- Đi theo anh!...
- Đi theo tôi!...
- Đã đến giờ rồi, đừng chần chừ gì nữa…
Những tiếng kêu thê thiết vang rõ bên tai Liên. Cô từ từ ngồi dậy và thấy mình trở nên nhẹ hẫng một cách lạ thường.
Liên mở choàng mắt ra, vô cùng ngạc nhiên khi thấy ngôi nhà nhỏ bé của mình người vào ra tấp nập, trông ai cũng có vẻ buồn rầu, sầu não. Và kìa, có cả ba mẹ mình nữa! Hôm nay ti sao mọi người lại tập trung đông đảo ở đây thế nhỉ?
Cúng một trăm ngày cho Toán đã qua rồi, sao họ lại đến đây nhiều thế?
Liên níu áo mẹ:
- Mẹ ơi, chuyện gì vậy? Có chuyện gì xảy ra vậy mẹ?
Mẹ dường như không biết đến sự tồn tại của Liên, bà đưa tay lên lau mắt, nghẹn ngào nói với người xung quanh:
- Thật tội nghiệp con nhỏ, hai vợ chồng nó còn quá trẻ, đâu làm nên tội lỗi gì, sao cả hai phải ra đi sớm như vậy? Nó lại đang mang thai, đứa bé còn chưa kịp chào đời…
Liên lạnh người khi nghe câu nói ấy của mẹ. Cô hoảng hốt chạy vội tới chiếc giường của mình, trên  đó quả đúng là Liên đang nằm, mắt nhắm nghiền, mặt mũi tái xanh nhợt nhạt…
- Mình chết rồi sao? Mình chết rồi sao?...
Liên kêu lên thảng thốt, nhưng những người có mặt trong nhà không một ai đáp lại lời cô.
Ha ha ha…
Tiếng cười ghê rợn của Toán lại vang lên, những tiếng gọi mời thúc giục ngoài kia không ngừng lắng xuống…
Liên xoay người bước từ từ ra cửa…
Một cánh buồm đỏ thắm đang từ từ cập bến… Liên hờ hững bước chân lên.
Giờ đây với cô, mọi việc đều không còn ý nghĩa gì nữa hết!
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:02:26 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:32:12
NGÔI LÀNG MA
 
Phương Trâm thẩn thờ đi dọc trên vỉa hè, mắt nhìn dòng người xe dập dìu qua lại nhưng tâm trí cô lại để đâu đâu, suýt chút nữa Trâm đâm sầm vào một chiếc xe bán sâm lạnh người chiều. Cô gái bán sâm lạnh nguýt Trâm một cái thật dài:
- Người đâu mà đi đứng như kẻ không có mắt!
Phương Trâm ấp úng mấy câu xin lỗi rồi cô hấp tấp đi vào bãi giữ xe gần đó lấy xe chạy chầm chậm về nhà.
Hôm nay, đáng lẽ Phương Trâm rất vui mới phải, vì cô vừa ký được một hợp đồng dịch thuật có giá trị cao. Thế nhưng nhìn Trâm lúc này có thể người ta sẽ đoán cô đang thất vọng điều gì ghê gớm lắm.
Cũng đúng thôi! Trong công việc làm ăn, Phương Trâm gặp nhiều may mắn, nhưng trong chuyện tình cảm riêng tư của mình cô lại vấp hết nỗi đau này tới nỗi đau khác.
Đã ngoài ba mươi tuổi, bạn bè cùng trang lứa với Phương Trâm hình như tất cả đều đã lập gia đình, tạo được cho mình một cuộc sống riêng tư ấm cúng. Chỉ còn lại Trâm vẫn sớm tối đi về lẻ bóng.
Gia đình thúc giục Trâm nhanh chóng lập gia đình, đừng để muộn quá sẽ rất khó sinh con. Đó là lập luận của mẹ Trâm. Còn đám bạn cùng học ngày nào bây giờ mỗi khi có dịp gặp lại là chúng nói cứ phê phán Trâm:
- Coi chừng “già kén chẹn hom” đó nghe cô nương, trên đời này không có ai toàn vẹn đâu, cô nương đừng có đòi hỏi cao quá…
Một vài đứa bạn thân thì thở dài:
- Mầy vẫn vậy sao Trâm?
Ai nói gì, hỏi gì Trâm chỉ cười cho qua, chứ thật sự cô cũng không biết phải giải thích với mọi người sao đây?
Trâm cũng luôn khao khát một mái gia đình đầm ấm, có một người đàn ông đủ bản lĩnh để cô tựa vai những khi chồn chân mỏi gối, có những đứa con xinh tươi ngoan ngoãn để cô bận bịu và yêu thương… Mơ ước của Trâm cũng rất đỗi bình thường nhưng không biết sao mãi đến giờ Trâm vẫn chưa thực hiện được.
Phương Trâm không phải là một cô gái xấu xí đến nỗi các chàng trai phải “bỏ của chạy lấy người” khi đối diện, cô cũng không phải là một phụ nữ quá thông minh, quá tài giỏi để cánh đàn ông phải thán phục và dè chừng.
Tất cả ở cô chỉ là một mức độ vừa phải. Nhan sắc vừa phải, học vị vừa phải, công việc và thu nhập cũng vừa phải. Nói chung cô thuộc loại số đông trong đời sống thường ngày. Không quá lu mờ nhưng cũng chưa hẳn là nổi bật.
Thường thì những phụ nữ như vậy rất dễ lấy chồng, chỉ riêng Trâm dường như con đường tình duyên của cô không được suôn sẻ.
Cô đã từng yêu và được yêu, mối tình đầu rất đẹp nhưng rồi nó cũng đi qua như rất nhiều mối tình đầu đời khác.
Trâm buồn, nhưng cô lại nghĩ lúc đó cả hai đều còn trẻ quá, còn nông nổi quá nên việc chia tay cũng là chuyện tất nhiên thôi.
Nhưng rồi những mối tình kế tiếp đều không đem lại kết quả tốt đẹp hơn.
Có lúc Trâm đâm ra chán nản, cô cảm thấy quá sức mệt mỏi và không muốn quan tâm đến chuyện tình cảm nữa.
Ừ, trên thế giới này biết bao nhiêu phụ nữ sống độc thân, rồi thì họ cũng sẽ tìm được cho mình những niềm vui, những mục đích sống khác, ở đời đâu phải chỉ có tình yêu trai gái là duy nhất, thì can cớ gì mình cứ phải quẩn quanh trong vòng đau khổ? Sống độc thân thời buổi này không phải là trào lưu hay sao?
Trâm nghĩ vậy và cố gắng bắt buộc mình quên đi những buồn phiền. Nhưng giống như người ta thường nói, tình yêu làm một điều gì đó hết sức lạ lùng, khi mình cần tới nó thì nó ngúng nguẩy bỏ đi, đến lúc mình đã mệt mỏi chán chường, muốn vứt bỏ hết thì nó lại dẳng dai bám lấy không rời…
Phương Trâm rơi đúng vào trường hợp đó.
Giữa lúc tâm hồn cô bình yên thư thái nhất thì anh ta xuất hiện. Rất nhẹ nhàng anh ta đã bước vào đời Trâm, anh ta đã làm rất nhiều, rất nhiều những việc từ lớn đến nhỏ khiến trái tim đã bao lần tan nát của Trâm phải rung lên những nhịp đập khát khao…
Mối tình của họ thật đẹp, bạn bè ai cũng mừng cho Trâm có được một người yêu như vậy. Và ngay chính bản thân mình, Trâm cũng đã bao lần thầm cảm ơn trời phật đã đưa anh đến với Trâm.
Mẹ Trâm vui đến long lanh nước mắt khi nghe Trâm giới thiệu anh, người chồng tương lai của cô.
Đám cưới của Trâm chuẩn bị tiến hành, cô đã cùng anh đi may áo, đặt thiệp, chọn hoa…
Khi mọi việc gần như đã xong xuôi, Trâm chỉ còn chờ đúng ngày tháng là ung dung bwosc lên xe hoa làm cô dâu hạnhp húc, thì do một sự tình cờ, Trâm phát giác ra anh đã có vợ và một đứa con gái ở một tỉnh thật xa nơi anh và Trâm đang sinh sống.
Đất trời như sụp đổ dưới chân Trâm.
Anh giải thích với cô, đó chỉ là một quan hệ nông nổi, rằng anh và người đàn bà đó không hề có đăng ký kết hôn, anh cũng không xem cô ta là vợ…
Càng nghe anh nói, lòng Trâm càng quặn đau.
Phải chi anh nói thật hết với Trâm khi hai người chưa quyết định cưới, thì có lẽ Trâm cũng sẽ bỏ qua một cách dễ dàng. Trâm không câu nệ những chuyện xảy ra trong quá khứ.
Trước anh, Trâm cũng đã có vài mối tình, thì sao Trâm phải đòi hỏi anh chỉ biết một mình cô? Anh là đàn ông, chuyện không giữ gìn để có con với người khác cũng có thể tha thứ được.
Nhưng anh đã không thành thật với cô, anh chỉ nói khi cô khám phá ra sự thật. Và thật đau lòng, trong lời kể của anh, thì anh như là một nạn nhân, mọi lỗi lầm anh đều đem đổ hết cho người đàn bà đó. Trâm không thấy được ở anh một chút nào sự hối hận hay xót xa thương cảm cho mẹ con người phụ nữ kia.
Thế là Trâm quyết định chia tay, mặc cho anh hết lời van xin, năn nỉ. Một số người trách sao Trâm quá cố chấp, chuyện quá khứ lỡ lầm của đàn ong sao không chịu bỏ qua…
Trâm cười buồn, cô không thể giải thích, mà thật ra cô cũng không muốn giải thích gì hết. Mọi người ai muốn hiểu sao thì hiểu, Trâm chỉ thật sự cảm thấy khổ tâm trước mặt mẹ mình.
Mẹ thất vọng ghê gớm, nhưng mẹ không trách Trâm, mẹ cũng không gặng hỏi những điều cô không muốn nói. Trâm chỉ thấy mắt mẹ buồn hơn, và đôi lúc nhìn Trâm mẹ không ngăn được tiếng thở dài…
Nếu không có những chuyện đó xảy ra, thì bây giờ là lúc Trâm sung sướng nhất!
Mãi suy nghĩ lan man mà về tới nhà lúc nào Trâm cũng không nhớ. Cô cho xe chạy quá cửa nhà mình một đoạn mới chợt nhớ ra, phải quay xe lại và tự mỉa mai mình:
- Sao cứ mãi nghĩ suy chuyện đó, trên đời này đâu chỉ có tình yêu đôi lứa mà mình phải nặng lòng đến vậy?...
Và bất chợt lúc đó trong đầu Phương Trâm nảy ra một ý định và cô cảm thấy rất vui với ý định mới mẻ này.
Đúng rồi, mình cần phải đi đâu đó một thời gian, cần phải rời xa cái thành phố ồn ào khói bụi và có lắm kỷ niệm không vui này ít lâu để cho mọi việc lắng xuống, cho lòng mình lắng xuống…
Trâm vào nhà, nói chuyện qua loa, ăn uống qua loa cùng mẹ một tí rồi cô trốn vào phòng riêng viện cớ bận nhiều việc.
Trâm xem xét lại phần việc mình phải làm được quy định rõ ràng trong hợp đồng vừa mới ký kết. Xong, cô vội vã thu xếp một số tài liệu cần thiết, một số áo quần và đồ dùng lặt vặt… tất cả được dồn vào chật cứng hai chiếc va – li to tướng. Trâm đã quyết định rồi, cô sẽ bắt tay vào công việc dịch thuật này ở một nơi thật xa thành phố, nơi chỉ có mình cô và gió trăng mây nước…
Ban đầu Trâm tính đi tới một vùng biển vắng vẻ nào đó, chẳng hạn như Phú Quốc, Côn Đảo hoặc bất kỳ một nơi nào ít có mặt du khách, hoặc không có càng tốt. Thê nhưng tới sáng, khi sắp lên đường Trâm lại chuyển hướng. Cô chọn Đà Lạt làm nơi đến.
Tới Đà Lạt, Trâm chọn một khách sạn ở khá xa trung tâm, nhưng rồi Trâm lại cảm thấy bức bối giữa bốn bức tường và những tiện nghi quen thuộc. Cô muốn thoát ra, muốn tìm tới một nơi hoàn toàn khác, một cuộc sống khác hơn cuộc sống mà bao lâu nay cô đã gắn liền với nó.
Tính Trâm xưa nay đã nghĩ là làm. Cô bỏ ra liên tiếp mấy ngày trời để đi lên các vùng xa vùng sâu của tỉnh Lâm Đồng để tìm kiếm một nơi mình thật sự ưng ý.
Có nhiều chỗ Trâm rất thích, nhưng người dân ở đó sống tập trung gần nhau, họ lại rất tò mò, thấy nhà nào có người lạ là kéo tới nhìn mặt, chính điều đó làm Trâm phải ngậm ngùi quay đi trong nuối tiếc.
Đến mãi tận buổi chiều ngày thứ ba Trâm mới thật sự hài lòng với khám phá của mình.
Một ngôi làng thưa thớt ở sâu trong mấy vạt rừng thông. Nơi ấy cả xe thồ cũng khó mà vào tới được. Thế nhưng phong cảnh lại rất hữu tình đúng như mong muốn của Trâm.
Khi nghe Trâm hỏi tìm nơi cho thuê nhà, một bà cụ già gầy gò nhưng trông còn khỏe mạnh và sạch sẽ nhìn Trâm cười móm mém:
- Ở đây làm gì có người tới thuê nhà mà có nhà cho thuê hở cô? Cô cũng lạ thật đó nghen, biết bao nhiêu chỗ thuận tiện mà không ở lại tìm tới nơi này, xa xôi hẻo lánh lại thiếu thốn đủ thứ, ngay cả điện cũng không có, sao cô lại muốn ở đây?
Phương Trâm cười, nói với bà cụ:
- Dạ, tại công việc của cháu đòi hỏi một nơi thật vắng lặng. Với lại cháu thấy thích chỗ này, những chuyện thiếu thốn đó không sao, mọi người sống được thì cháu cũng sống được thôi bà ạ!
Trâm thấy bà lão cứ nhìn mình bằng ánh mắt dò xét, cô đâm lúng túng rồi bật cười xòa:
- Bà ơi, bà thấy cháu lạ lắm sao?
Bà lão cũng cười với Trâm:
- Cháu lạ lắm! Nhưng bà bắt đầu thấy thích cháu rồi đó, nếu cháu không chê nơi này chật hẹp thì có thể ở lại đây cùng với bà. Nhà này bà chỉ sống mình, cháu không phải ngại. Cháu cũng đừng sợ bà làm phiền công việc của cháu, bà biết dành khoảng không gian riêng cho cháu mà!
Nghe bà lão nói, Trâm vừa mừng vừa lo:
- Bà… bà ở đây có một mình thôi sao? Thế… nếu cháu ở lại với bà, cháu có làm phiền gì bà không?
Bà lão cười móm mém:
- Không, không phiền gì đâu cháu! Bà sống một mình lâu nay ra vào quạnh quẽ nên cũng buồn lắm, nay mà chịu ở cùng, bà vui không hết chứ phiền hà gì đâu.
Bà lão nhanh nhẹn kéo tay Trâm vào nhà, đưa tay chỉ:
- Nếu cháu ở lại đây, bà sẽ dành trọn cho cháu căn gác trên đó, để cháu có không gian riêng mà làm việc. Khi nào cháu rảnh rỗi thì xuống nhà trò chuyện với bà.
Trâm vui lắm, cô khẽ hỏi:
- Bà cho phép cháu lên gác một chút, được chứ bà?
Bà lão gật đầu khuyến khích:
- Ừ, cháu lên đi, cứ tự nhiên đi cháu!
Trâm lên gác bằng chiếc cầu thang gỗ chắc đã rất lâu năm, giờ đã lên màu đen bóng, những bậc thang kế tiếp nhau rất dễ đi, hai bên tay vịn lại được chạm trổ hoa văn trông rất lạ mắt.
Căn gác khá rộng, được ngăn ra làm hai phòng: một phòng ngủ và một phòng đọc sách. Mỗi phòng đều có cửa sổ rộng thoáng mát, trông ra dãi rừng thông xa xa, gần hơn là vườn rau quả, và ngay dưới sân nhà là một vườn hoa tuy nhỏ nhưng được bày trí rất thẩm mỹ và chăm sóc cẩn thận.
Trâm thoáng chút ngạc nhiên, vì bà lão đã già như thế sao có đủ sức để trồng và chăm sóc mấy mảnh vườn này? Bà lại vô cùng khéo léo, các chậu hoa kiểng được xếp đặt một cách đặc biệt, mà Trâm tin rằng chỉ với bàn tay của một nhà nghệ sĩ có tài thì mọi thứ mới được như thế.
Cô nhủ thầm, từ từ sẽ tìm hiểu thêm về bà lão. Trước mắt bây giờ Trâm đi xem xét chỗ ăn ngủ, làm việc và cô thật hài lòng về mọi thứ.
- Thế nào cháu? Cháu có vừa ý không?
Vừa trông thấy Trâm bước xuống, bà lão vội hỏi.
Trâm tiến tới nắm chặt hai cánh tay gầy xương xẩu của bà, cô cảm động nói:
- Cháu thật may mắn mới gặp được bà và được bà dành cho một chỗ ở tuyệt vời như thế này. Thật tình cháu không biết phải cảm ơn bà bằng cách nào nữa… Được chỗ ở như vậy, dù tiền thuê có đắt mấy cháu cũng chấp nhận bà ạ!
Nghe Trâm nói câu ấy, bà lão tỏ vẻ giận dỗi:
- Bà đã nói với cháu rồi mà, ở đây làm gì có nhà cho thuê! Cháu thích thì bà mời cháu tới ở với bà cho vui chứ tiền bạc gì cháu ơi…
Trâm ngại ngần:
- Cháu… nếu thế thì cháu khó xử quá bà ạ!
Bà lão gạt ngang:
- Có gì đâu mà khó xử hả cháu? Cháu tới đây là đã mang lại niềm vui cho già này rồi, bà cảm ơn cháu mới đúng chứ!
Hai bà cháu cười xòa. Trâm tạm thời đồng ý với bà lão, nhưng trong thâm tâm cô nghĩ từ từ rồi mình sẽ tìm cách đưa chút ít tiền cho bà cụ, hoặc mua gì đó cho cuộc sống của bà, chứ bây giờ cứ đôi co hoài cũng không tiện.
- Khi nào thì cháu dọn tới ở?
Bà lão có vẻ nôn nóng.
- Dạ, cháu muốn dọn ngay bây giờ kia, nhưng tối rồi sợ không kịp, thôi để sáng mai cháu dọn, bà nhé?
Bà lão ngước nhìn mặt trời rồi gật gù:
- Cũng chưa tối lắm đâu, nếu cháu muốn, bà sẽ kêu mấy đứa cháu ở gần đây tới giúp cháu chuyển đồ đạc, chứ nếu một mình cháu thì cũng hơi khó khăn, vì các xe lớn không đi tới đây được, mà cánh xe thồ cũng ít ai chịu đi mãi cái nơi xa tít tắp này…
Trâm thấy bà lão nói đúng, trưa này cô đã phải lội bộ gần rã cặp giò mới tới được nơi đây, vì có năn nỉ cách mấy, có trả giá cao cách mấy thì cánh xe thồ cũng lắc đầu bảo rằng đi vô khu vực này đường sá nguy hiểm, mà lỡ gặp trời mưa thì có nước nằm lại dọc đường.
Nghĩ tới cảnh một mình phải mang vác hai chiế va – li to đùng để vượt quãng đường rừng xa ngái Trâm cũng thấy lo lắng. Vì vậy khi nghe bà lão đề nghị cô vội vã gật đầu:
- Trời, nếu được như vậy thì may mắn quá! Cháu đang lo không biết ngày mai làm sao cháu khuân vác hành lý vào đây được nữa? Thật quý hóa quá! Bà đã giúp cháu rất nhiều bà ạ!
Bà lão cười móm mém:
- Cháu cứ ngồi đây chơi đi, để bà chạy sang kia một lát, kêu mấy đứa nhỏ tới giúp cháu một tay! Mấy đứa nhỏ ở đây cũng dễ thương lắm cháu ạ, chỉ có điều vì ít giao tiếp với cuộc sống bên ngoài nên tụi nó đứa nào cũng ít lời lẽ, đứa nào cũng nhút nhát…
Bà lão nói xong là bước ngay cửa. Trâm nhìn theo thoáng chút ngạc nhiên, bà đã già thế kia rồi mà bước đi sao còn rắn rỏi và nhanh nhẹn đến vậy?
Và rồi Trâm lại tự giải thích cho mình, rằng cuộc sống ở nơi này vô cùng thanh tịnh, con người hít thở khí trời trong lành, ăn uống tươi nguyên, không hề có các chất thuốc hóa học, họ lại quen lao động từ nhỏ, cơ thể khỏe khoắn cũng là chuyện đương nhiên.

Ngồi một mình, Trâm đưa mắt ngó quanh.
Ngôi nhà bà lão tuy bên ngoài nhìn có vẻ cũ kỹ, bên trong cũng không có đồ đạc gì quý giá, nhưng cách bày trí lại toát lên một vẻ gì đó rất sang trọng, khác người.
Điều này càng giúp Trâm khẳng định bà lão, hoặc ít ra một ai đó đã từng sống trong nhà bà lão chắc hẳn phải là một nhà nghệ sĩ tài ba.
Loáng một chút bà lão quay về, đi theo lưng bà là hai cậu con trai trạc chừng mười chín, hai mươi tuổi.
Trâm gật đầu chào hai cậu nhỏ, hai đứa tươi cười chào lại Trâm.
Bà lão giới thịêu:
- Đây là Đây là Tiến và Đức, hai đứa cháu ở nhà đừng kia, người sẽ giúp cháu di chuyển đồ đạc.
Rồi quay qua hai cậu trai, bà nói:
- Còn đây là cô… cô…
Bà lão ấp úng, chợt nhớ ra mình chưa biết tên cô gái, bà cười xòa, quay lại hỏi Trâm:
- Tên cháu là gì thế?
Trâm cười:
- Dạ, cháu xin lỗi vì đã quên chưa nói với bà. Tên cháu là Trâm bà ạ! Nguyễn Phương Trâm.
Bà lão cười:
- Có gì mà phải xin lỗi, cháu! Bà cũng không nhớ để hỏi tên cháu. Hai chúng ta cứ bà bà cháu cháu thế là vui, cũng không cần lắm đến tên tuổi, cháu nhỉ?
Trâm cười.
Bà lão quay sang hai cậu trai, tiếp:
- Cô Trâm đây sẽ chuyển về sống với bà. Vậy hai cháu giúp cô chuyển đồ đạc về đây nhé?
Hai cậu trai ngoan ngoãn gật đầu:
- Dạ, cháu biết rồi ạ!
Trâm nghĩ thầm trong bụng: “Nơi này đìu hiu quạnh vắng đến thế chắc con nít ở đây đâu được học hành gì, vậy sao hai cậu trai này lại ngoan ngoãn dễ thương đến vậy? Hay chính vì không được tiếp xúc với thế giới văn minh nên con người mới lương thiện được thế kia?”
Và Trâm càng cảm thấy thú vị khi mình có quyết định sáng suốt là ở lại nơi đây để bắt tay vào công việc.
Bà lão giục:
- Trời sắp tối rồi, mấy đứa đi đi rồi còn về nữa chứ!
Trâm cúi chào bà lão rồi đi cùng hai thanh niên đi ra.
Vừa ra khỏi cổng nhà bà lão, cậu thanh niên tên Tiến nói:
- Cô ơi, cô chờ cháu chút, cháu vô lấy cái xe ra chở cô đi, tới bìa rừng mình bỏ xe đó, đi xe ôm về khách sạn cô ở, để chừng quay lại mình có xe chở hành lý, sẽ đỡ vất hơn, cô há?
Trâm nghiêng đầu mỉm cười:
- Hai em đừng xưng cháu như thế, chị thấy mình “già” lắm! Hai đứa cứ gọi chị là chị đi nhé? Như vậy sẽ thân tình hơn, được không hai em?
Hai chàng trai liếc nhau mỉm cười rồi cùng nói:
- Dạ được chứ, chị!
Cả ba người cùng cười vang.
Tiến, Đức để Trâm đứng một mình bên đường, hai cậu rẽ vào một con đường khác, và chỉ một loáng sau đã thấy hai cậu quay trở ra với một cỗ xe ngựa rất ngộ nghĩnh.
Tiến và Trâm lên xe ngồi, Đức giành cầm cương.
Trông thấy con ngựa gầy giơ xương, Trâm hơi nghi ngại:
- Con ngựa này coi bộ yếu đuối quá, nó có chở nổi mình không, hai em?
Đức cười ha hả:
- Chị đừng nên “xem mặt mà bắt hình dong”, nó tuy vậy mà khỏe không con nào bằng, mà lại hết sức dẻo dai. Chị đừng vội phản bác, tí nữa rồi chị sẽ phải thán phục nó thôi.
- Cả vùng này không có ngựa nào dám sánh với nói đâu chị!
Đức phụ họa.
Trâm tròn mắt:
- Trời! Con ngựa này mà là “vô địch” ở đây à? Ôi, chị chưa được tận mắt chứng kiến nhưng nghe nói vậy cũng đủ thán phục nó rồi! Nhưng sao hai em không cho nó ăn nhiều để nó có sức mà thi thố tài năng? Chị thấy vùng này cỏ rất nhiều mà, sao trông nó có vẻ ốm đói như vậy?
Đức quay lại nhìn nhanh Tiến rồi cười:
- Tại cái tạng nó như vậy rồi đó chị, chứ nó thật sự vẫn đang no, tụi em đâu có bỏ bê gì nó.
Trâm ngạc nhiên:
- No mà vẫn ốm lòi xương ra thế kia à? Lạ thật!
Cả hai chàng trai không ai trả lời câu Trâm hỏi mà cùng giả lả hỏi chuyện Trâm ở đâu, sao lại chuyển lên đó,…
Cả ba chị em mải mê chuyện vãn, mới đó mà đã tới bìa rừng.
Đức nhảy phốc xuống tháo ngựa ra dẫn nó tới bên một gốc cây rồi quấn chặt dây, cột nó vào đó.
Tiến nhanh nhẹn rút ra một đụn cỏ quăng xuống cho nó rồi chạy tới bên bờ suối múc nước về cho ngựa.
Trâm cười thầm, thì ra họ cũng cưng yêu động vật quá đi chứ, vậy mà thoạt đầu nhìn thấy chú ngựa này Trâm không sao tưởng tượng được nó được chủ nhân tận tình lo lắng như thế.
Mọi việc xong xuôi, cả ba ra đường đón xe.
Đứng hồi lâu vẫn không thấy có chiế xe thồ nào chạy ngang. Mãi một lúc lâu sau mới có một chiếc, cả ba vội vã đưa tay ra vẫy.
Người lái xe thồ dừng lại hỏi Trâm:
- Cô đi đâu?
- Cho tôi tới khách sạn Hoàng Lan, nhưng xe chỉ chở được một người thôi à anh?
Trâm hỏi.
Anh tài xế chưa kịp trả lời thì Đức đã lên tiếng:
- Thôi, chị cứ đi xe này trước về trước lo sắp soạn, hai đứa em biết địa chỉ rồi sẽ tới sau vậy, chị nhe?
Nghe Đức nói cũng có lý nên Trâm leo lên xe, quay lại dặn:
- Hai đứa tới khách sạn Hoàng Lan, lên phòng số ba trăm lẻ tám là gặp chị nhé?
Hai cậu trai gật đầu.
Người lái xe ngạc nhiên:
- Cô nói gì ạ?
- Tôi nói với mấy đứa em mà!
Trâm trả lời.
Người lái xe ngạc nhiên:
- Nói với em? Cô giỡn vui thiệt!
Trâm cười không nói gì. Trong đầu cô nghĩ là người lái xe thồ cho rằng cô gọi hai chàng trai ấy là em là nói giỡn.
Còn người lái xe khi nghe Trâm cười thì anh ta lại nghĩ đúng là cô đang nói đùa cho vui!
Khi xe về tới khách sạn, Trâm chạy vội lên phòng mình, cô hết sức ngạc nhiên vì đã thấy Đức và Tiến đã có mặt từ bao giờ, hai đứa đang đứng chờ cô ngay trước cửa phòng.
- Ơ… sao hai đứa lại tới trước chị được nhỉ?
Trâm kêu lên.
Tiến cười:
- Tụi em là thổ địa vùng này mà chị, biết thiếu gì đường tắt. Em bắt xe thồ chạy vô đường đó rồi hướng dẫn người ta chạy theo ý  mình, chứ còn người chở chị ngu dại gì mà ổng đi đường tắt, để chở chạy lòng vòng để lấy tiền được nhiều mà chị!
Ba chị em cười xòa.
- Có vậy mà chị cũng không biết, chị ngốc thật há, hai em?
Trâm lại cười.
Tiến, Đức tránh người qua một bên chừa lối cho Trâm mở cửa phòng mình.
- Hai em ngồi đây chơi, chờ chị một tí nhe? Chị dọn một loáng là xong ngay thôi mà, đồ đạc chị cũng không có gì nhiều.
- Dạ, chị cứ từ từ mà làm, tụi em chờ được mà!
Trâm vơ các thứ cô bỏ lung tung khắp nhà mấy hôm nay, cứ chạy ra chạy vô giữa phòng ngủ và phòng khách.
Cũng không phải mất nhiều thời gian để Trâm thu dọn hành lý, vì thật ra đồ đạc cô mang theo không nhiều.
Hai cái va li to đùng thê kia mà Tiến và Đức mỗi đứa xách một cái xem chừng gọn hơ, nhẹ bỗng! Trâm khoác chiếc túi xách trên vai rồi cùng hai cậu nhỏ đi xuống phòng tiếp tân để trả phòng.
Xuống đến chân cầu thang, Trâm khẽ bảo:
- Hai em đứng đây chờ chị tí nữa nhé, để chị thanh toán tiền phòng rồi chị em mình lên đường.
Hai cậu trai nhìn chị cười thật hiền. Trâm nghe lòng thật dễ chịu khi quen biết được với những con người chân chất hiền lành đến vậy.
Cô tiếp tân nhìn Trâm, hỏi:
- Chị có cần em gọi người khuân đồ đạc giúp chị ra xe không ạ?
Vừa nói, Trâm vừa đưa tay chỉ hai cậu em đang đứng rụt rè chỗ cầu thang, nhưng có lẽ cô tiếp tân không nhìn thấy, ánh mắt cô bé nhìn quanh quất rồi như muốn hỏi gì đó mà ngại ngần nên lại thôi, Trâm cũng không nói gì thêm vì bên ngoài mặt trời đã sắp lặn mà đường về nơi ấy còn rất xa, cô phải tranh thủ cho xong mọi việc.
Ra đường, Trâm gọi một chiếc tắc – xi, ba chị em lên ngồi và thỉnh thoảng mới trao đổi với nhau một vài câu ngắn gọn.
Tiến và Đức có vẻ rụt rè mỗi khi bên cạnh có người lạ, những lúc như vậy hai cậu rất ít nói, cử chỉ hành động cũng trở nên hết sức dè dặt. Trâm thấy thế nên cũng không hỏi, không nói gì nhiều.
Tuy nhiên Trâm nhận thấy thái độ của người tài xế tắc xi mới thật lạ lùng, thỉnh thoảng ông ta lại liếc nhìn trộm Trâm trong gương, ánh mắt ông có vẻ gì đó tò mò ghê lắm, nhất là sau mỗi lần Trâm nói câu gì với Tiến và Đức là gần như ông ta ngoảnh đầu lại để nhìn.
Trâm hơi bực trước sự tò mò thái quá của ông ta, nhưng cô cũng không nói gì, thôi chỉ chút xíu nữa thôi là đến nơi rồi, nói chi cho mất lòng. Trâm nhủ thầm như thế.
Xuống xe, lúc tính tiền Trâm hơi ngạc nhiên vì số tiền ông ta lấy quá ít, cô hỏi:
- Anh có tính nhầm không, ba người mà chỉ bấy nhiêu thôi sao?
Người tài xế nhìn quanh quất rồi nhìn Trâm từ đầu tới chân như nhìn một sinh vậy lạ, ông ta không trả lời câu hỏi của Trâm mà chỉ lắc đầu cười thật nhẹ:
- Tội nghiệp!
Thật sự Trâm không hiểu ông ta muốn nói gì, cô định hỏi rõ nhưng ông ta đã leo lên rồi nhanh chóng rồ xe đi mất. Trâm đứng trông theo rồi buông một câu:
- Người gì đâu thiệt là lạ!
Tiến, Đức không góp ý gì mà chỉ nhìn Trâm cười cười.
Cả ba tiến vào nơi lúc nãy đã cột ngựa và để cỗ xe.
Nhờ có chiếc xe ngựa nên hành trình của họ trở nên thoải mái và vui vẻ rất nhiều. Lúc này Trâm mới thật sự khâm phục sự dẻo dai của chú ngựa gầy nhom như bộ xương ấy. Con đường lên xuống liên tục, đất đá lổn ngổn, lại phải vượt qua nhiều khe suối, vậy mà chú ta vẫn sải vó ung dung…
Trời tối, sương mù dày đặc, cả ba không ai có đèn pin để soi rọi lối đi, ấy thế mà chú ngựa vẫn phăng phăng tiến tới, không một chút ngần ngừ, do dự.
Giữa cánh rừng hoang vu vắng lặng, tiếng chim chóc lâu lâu lại vang lên làm Trâm thoáng giật mình, nếu không có Tiến và Đạt đi cùng chắc cô đến chết khiếp trước khung cảnh này rồi.
Đường đi dài dằng dặc cũng đã sắp kết thúc, khi nhận ra ngôi làng thưa thớt bởi những ánh đèn leo lét Trâm sung sướng như muốn hét lên.
Từ nay cô sẽ là một trong những cư dân ở đây rồi, nơi này sẽ giúp cô thực hiện hợp đồng, đồng thời cô tin chắc nó cũng sẽ giúp cô xóa hết những ưu tư mà dù cô đã cố gắng vứt bỏ, cho đến hôm nay vẫn còn đeo nặng trong lòng.
Chiếc xe ngựa đã đi qua cổng làng, Trâm đã có thể nhìn thấy ánh đèn le lói từ hướng nhà bà cụ xuyên qua màn sương dày đặc.
Thấy Trâm có vẻ lạnh, Tiến giục:
- Cho ngựa chạy nhanh lên chút nữa đi Tiến, chị lạnh rồi kìa!
Trâm chưa kịp cản thì con ngựa đã lồng lên rồi phóng như bay qua những con đường nhỏ xíu ngoằn ngoèo mấp mô đá sỏi.
Mà thật lạ, Trâm ngồi trên xe vẫn không thấy cảm giác chao đảo hay lo lắng gì hết trước vận tốc tăng lên đột ngột của chú ngựa kỳ lạ đó.
Tới trước cửa nhà bà lão, Đức ghìm cương cho ngựa dừng chân rồi nhảy phốc xuống cùng với Tiến khuân hành lý vào nhà giúp Trâm.
Bà cụ già chong đèn ngồi đợi, trông thấy ba chị em về tới, bà vui mừng:
- Lạnh lắm phải không cháu? Trời, vậy mà không chịu mặc thêm áo khoác vào. Cháu đừng có bắt chước hai thằng này, nó sống ở đây quen rồi, với lại đang là sức trai mới lớn, không bì kịp nó đâu.
Vừa dứt lời, bà lão nắm tay Trâm kéo tới bên bếp than đỏ rực:
- Nào, cháu tới gần đây hơ cho người ấm lên chút…
Cảm động trước tấm lòng của bà chủ nhà, Trâm nói:
- Dạ, cháu cảm ơn bà, cháu chỉ hơi lạnh chút thôi ạ!
Bất chợt Trâm kêu lên:
- Ôi, trời ơi, tay bà cũng lạnh ngắt đây rồi, bà… hay là từ chập tối tới giờ bà ra cửa đứng trông ngóng tụi cháu phải không?
Bà già cười móm mém:
- Đâu có gì… Bà già rồi, cơ thể thường lạnh lẽo vậy thôi chứ không có gì đáng lo cháu ạ.
Dù bà lão có nói sao thì Trâm cũng kéo tay bà đến bên bếp lửa cùng cô.
Tiến và Đức sau khi hoàn thành nhiệm vụ liền cúi chào bà cụ và Trâm:
- Thưa bà, thưa chị… tụi em về. Chị sống ở đây vui vẻ nhé! Ngày mai chị em mình lại gặp nhau.
Trâm vội đứng lên:
- Chị cảm ơn hai em rất nhiều, nếu không có hai em, chị không biết làm cách nào để khuân vác mọi thứ vào đây cho hết. Hai em cho chị gởi một ít tiền…
- Dạ… không! Hai đứa em không lấy… không thể!
Tiến, Đức vừa gãi đầu gãi tai vừa nhìn bà lão cầu cứu.
Bà kéo tay Trâm lại, nghiêm giọng:
- Cháu đừng làm vậy! Ở đây mọi người sống với nhau bằng tình nghĩa, chuyện gíup đỡ nhau cũng là chuyện thường tình, nếu cháu đem tiền ra để trả là coi như cháu không nhận lấy tình cảm của họ đấy cháu ạ!  Chúng tôi sống biệt lập, cách xa mọi người cũng chính bởi vì lẽ đó, ở nơi này, đồng tiền không có giá trị đâu cháu ạ!
Nghe bà lão nói, Trâm hơi ngượng, nhưng cô thật sự ái nái khi phải để Tiến và Đức tay không ra về. Trâm đã quen với sự sòng phẳng, trước tình huống này cô cảm thấy thật khó nghĩ.
- Thưa bà, cháu… không phải cháu không muốn lấy tình cảm, nhưng…
Trâm ngập ngừng.
Bà lão xua tay:
- Bà hiểu! Bà hiểu cháu chứ… Nhưng cháu phải tập cho quen với cuộc sống ở đây đi. Ở đây hầu như mọi người chúng tôi không phải xài tiền…
Thấy Trâm trố mắt ngạc nhiên, Tiến cười giải thích:
- Là thế này chị ạ, ở đây dân làng trao đổi các thứ với nhau, ai có gì thì mang ra đổi lấy thứ mình cần dùng chứ không mua bán…
Trâm reo lên:
- Ô, thích thế kia à? Cháu thật không ngờ giữa thời đại này mà vẫn còn cuộc sống như vậy!
Hai cậu trai nhìn bà lão, cả ba cùng mỉm cười.
Tiến, Đức cúi chào một lần nữa rồi ra về. Bà lão kéo tay Trâm tới bên bếp lửa:
- Cháu ngồi xuống hong ấm cơ thể chút đi, bà dọn cơm rồi cùng ăn.
- Ôi, sao lại thế được, thưa bà! Cháu phải dọn cơm mời bà chứ, ai lại để bà dọn cơm mời cháu! Bà coi cháu như con cháu trong nhà đi, với lại bây giờ cháu không còn lạnh nữa, này, bà xem xem, cơ thể cháu đã ấm sực lên rồi đây!
Trâm nắm tay bà cụ để chứng minh cho bà thấy tay mình đã ấm lên rồi, nhưng cô không ngờ cái giá lạnh ban nãy vẫn còn y nguyên trên tay bà lão.
- Bà ơi… sao tay bà vẫn lạnh thế? Bà vào bếp đi, cháu hơ ấm cho bà!
Bà lão lắc đầu:
- Già cả nó thế đấy cháu ạ, chứ bà có lạnh đâu! Cháu đừng bận tâm! Thôi, nếu cháu hết lạnh rồi thì hai bà cháu mình ăn cơm đi vậy!
Trâm lẽo đẽo đi theo bà lão, theo sự hướng dẫn của bà, Trâm nhanh nhẹn dọn lên chiếc bàn con một mâm cơm tươm tất.
Bữa cơm tuy đơn giản nhưng thật ngon lành và ấm cũng. Trâm thật không ngờ ở giữa nơi núi rừng thăm thẳm này mà cô lại được hưởng cái không khí ấm áp của một gia đình.
Cơm nước xong xuôi, hai bà cháu ngồi bên nhau chuyện vãn. Trâm kể sơ lược về mình cho bà lão biết. Và Trâm cũng được biết bà lão hiện không còn ai là ruột thịt, bà lui về sống một mình ở đây từ nhiều năm qua, kể từ khi tuổi cao, không còn làm việc được nữa.
- Bà ơi… cháu hỏi câu này có hơi tò mò, xin bà đừng trách cháu. Có phải… bà là một nghệ sĩ không ạ?
Trâm ôm lấy vai bà lão, vẻ nũng nịu.
Bà vỗ nhẹ lên cánh tay cô, cười nói:
- Cháu đoán cũng có phần đúng. Trước kia bà làm nghề điêu khắc… nhưng cũng đã bỏ nghề lâu lắm rồi cháu ạ! Với lại chỉ là một người ham thích bộ môn nghệ thuật đó thôi, chứ tay nghề của bà cũng chẳng là gì…
Trâm ngước mắt nhìn bà lão đầy ngưỡng mộ:
- Không đâu, cháu không nghĩ thế! Lúc trưa mới vào nhà, cháu đã cảm nhận nơi này được chăm sóc bởi một bàn tay nghệ sĩ tài hoa, quả là cháu không lầm!
Tuy không rành lắm về nghệ thuật hội họa và điêu khắc, nhưng Trâm cũng biết đôi chút, nên cuộc nói chuyện giữa hai người một già một trẻ càng thêm hứng khởi.
- Bây giờ đã khuya lắm rồi đó cháu ạ, cháu ngủ đi thôi!
Khi nghe tiếng chim rừng kêu lên từ xa, bà lão nhắc Trâm. Cô đứng lên tiếc nuối:
- Nói chuyện với bà thật thích thú! Nhưng cháu phải để bà nghỉ ngơi thôi. Xin phép bà, cháu về phòng mình.
Bà lão gật đầu, đứng nhìn theo Trâm, mắt lấp lánh niềm vui.
Trâm cầm đèn bước lên gác. Nhưng cô không vội chui vào giường, vì Trâm vẫn chưa cảm thấy buồn ngủ. Tâm trạng của cô từ trưa đến giờ, nói chính xác là từ lúc khám phá ra ngôi làng này đến giờ thật vô cùng dễ chịu.
Đặt cây đèn xuống bàn, Trâm tiến tới mở toang cánh cửa sổ. Một luồng không khí lạnh ùa vào nhà đột ngột khiến Trâm rùng mình.
Đêm đã về khuya, vạn vật đang chìm trong mộng mị và tĩnh mịch.
Ngoài khung cửa sổ là một khoảng trống mênh mông đen ngòm, nó giống như một chiếc rèm đen cực lớn, trùm kín lên vạn vật.
Trâm ngước nhìn lên trời, cô cũng không trông thấy một ánh sao nào. Tất cả đều là một màu đen dày đặc. Chỉ thoang thoảng đâu đây mùi thơm ngọt ngào của hoa lá cỏ cây khiến Trâm ngây ngất.
Cô tưởng tượng vào một đêm trăng mà đứng ở chỗ này nhìn ra khung cảnh bên ngoài chắc là sẽ lý tưởng lắm đây.
Trâm nhắm mắt hít một hơi thật sâu cho đầy buồng phổi. Cô mở mắt ra, với tay định đóng cửa sổ để đi vào ngủ thì bất chợt nhìn thấy một bóng trắng thấp thoáng dưới sân nhà.
Trâm nhoài người ra ngoài để nhìn cho rõ hơn thì lạ chưa, bóng trắng đó hoàn toàn biến mất. Có hơi hoang mang, nhưng rồi Trâm tự nhủ có thể là một con chó hay một con gì đó mà mình không rõ, ở rừng mà, biết bao nhiêu điều lạ lùng mà mình chưa từng được biết qua.
Gió lạnh lại thốc vào, Trâm vội vã đóng kín cửa rồi lên giường nằm ngủ. Trong mơ màng, Trâm nghe tiếng vi vút thông reo, tiếng gió lay xào xạc và hình như đây đây có giọng ngâm thơ trầm bổng:
Em lang thang trong cõi mù sương
Hồn vất vưởng không quên tình nhân thế
Dẫu em biết cuộc đời là dâu bể
Vẫn không sao cắt đứt được tơ lòng…
 
Để bây giờ ở giữa chốn hư không
Đếm ngày tháng tiếc thương thời tuổi trẻ
Âm cảnh – Dương gian đường đời chia lối rẻ
Hai chúng mình từ độ ấy xa nhau…
 
Tháng Bảy mưa Ngâu, Ô Thước có bắc cầu?
Em với anh biết làm sao gặp gỡ
Thì thôi nhé, em đi – anh ở
Tháng năm trôi, tình xưa cũ nhạt nhoà…
 
Anh yêu ơi, giờ mình đã cách xa
Anh giờ đã yên vui hạnh phúc
Có khi nào thoáng trong phút chốc
Anh nghe lòng nằng nặng nhớ thương em?
 
Em bây giờ đã xa chốn trần gian
Chút hồn phách tìm về yêu dấu cũ
Nhớ nghe anh, dẫu hoa kia héo rũ
Trái tim em vẫn đỏ máu chung tình…
 
Em bây giờ lãng đãng phiêu linh
Khao khát lắm ngày xưa mình hiện hữu
Giờ mới biết cuộc đời dù đau khổ
Thì làm người vẫn tốt hơn ma…
Trong giấc  ngủ chập chờn, Trâm khẽ mỉm cười thầm nghĩ:
- Ở nơi thâm sơn cùng cốc như thế này, một nơi mà đồng tiền không có chỗ nhưng vẫn có người nặng lòng với tình yêu đến thế kia sao? Mình đang trốn chạy tình yêu, đêm đầu tiên tới đây lại được nghe một giọng ngâm thơ não nùng nói lên tâm sự của một hồn ma đến thác mà tơ lòng vẫn còn vương vấn…
***
Chỉ sau mấy ngày sống ở đây, Trâm đã gần như quen thuộc với nhịp sống của ngôi làng.
Toàn bộ ngôi làng chỉ rải rác gần mười gia đình sinh sống. Họ đối với nhau rất lễ độ và tình cảm, nhưng sao Trâm lại cảm thấy giữa mọi người không có được sự vồn vã, ấm nóng như các xóm làng ở thôn quê mà cô từng biết đến.
Cuộc sống ở đây quá lặng lẽ, quá khép kín. Người ta ra vào nhà âm thầm như những chiếc bóng, trẻ con cũng không thấy chơi đùa chạy nhảy.
Sáng sớm, Trâm thích đứng trên gác nhìn xuống mấy vườn rau quanh làng, lác đác đây đó vài người lo công việc nương rẫy, tưới cây, nhổ cỏ… nhưng trông ai cũng có vẻ buồn buồn khó hiểu.
Nhưng khi Trâm bắt chuyện thì họ tỏ thái độ vui vẻ, cởi mở ngay nên càng làm Trâm tò mò, thắc mắc.
- Bà ơi, sao cháu thấy người dân trong làng này có một điều gì đó khang khác. Hình như họ đều mang nặng nỗi lòng gì đó, phải không bà?
Bà cụ im lặng một lúc lâu rồi chậm rãi nói:
- Cháu đã nhận ra thì bà không giấu nữa. Thật sự dân trong làng này ai cũng có nỗi đau riêng. Cháu có để  ý thấy không, ở đây không hề có một gia đình nào tròn vẹn đầy đủ vợ chồng con cái. Trước đây họ cũng đã sinh sống ở xã hội bình thường vui nhộn ngoài kia, nhưng cuộc đời đã bạc đãi họ, khiến họ gặp phải nhiều điều bất hạnh lớn lao, họ không còn muốn tiếp tục ở nơi đó nữa nên mới tìm tới đây. Ban đầu chỉ một vài người, sau đông dần lên rồi mới lập thành làng như bây giờ.
- Thì ra nơi đây là nơi mà mọi người tìm đến để tránh né cuộc đời sao? Sao mà giống với hoàn cảnh của mình hiện tại thế này?
Trâm lắp bắp nói một mình nhưng bà lão đã nghe thấy. Bà nhìn Trâm thật lâu rồi đưa tay vuốt tóc cô, buồn bã:
- Cháu đến đây cũng với ý định né tránh cuộc đời sao?
Trâm không muốn giấu bà lão tốt bụng nữa nên cô khẽ gật, mắt long lanh nước:
- Bà ơi, sao làm kiếp con người lại khổ đến thế hở bà?
Bà lão không nói gì, mắt bà nhìn ra xa, đẫm lệ…
Nếo sinh hoạt hàng ngày của Trâm rất đều đặn, hầu như suốt ngày cô chỉ dành cho công việc, cơm nước và mọi việc trong nhà đều do một tay bà lão lo liệu.
Ban đầu Trâm thấy khó chịu vì điều đó, ai lại để một bà lão lụm cụm như thế phải hầu mình chứ, nhưng dù cho Trâm có làm cách nào đi nữa bà cụ cũng nhất định không cho Trâm mó tay vào.
Mà thật tình Trâm khâm phục bà lão. Tuổi đã cao đến vậy mà việc làm lại vô cùng gọn ghẽ và nhanh nhẹn.
Mỗi khi bà xuống bếp, loáng một cái đã xong, mâm cơm nghi ngút khói được dọn sẵn trên bàn với các món ăn lạ mắt nhưng rất ngon miệng. Những công việc đó nếu đặt vào tay Trâm chắc chắn cô sẽ phải mất nhiều thời gian hơn bà lão rất nhiều.
Có lần cô đem điều đó ra nói, bà lão cười:
- Có gì đâu cháu, tất cả chỉ là quen tay rồi mà thôi!
Những buổi chiều, Trâm thường lang thang đi dạo một mình, có hôm cô mê mải đi tận cánh rừng bên kia suýt lạc lối quay về. Từ đó Trâm không dám đi xa nữa, cứ quanh quẩn xung quanh làng.
Ở đây quả thật có nhiều điều lạ lùng mà mỗi ngày cô càng khám phá ra nhiều điều khác nữa. Tuy có tò mò, có thắc mắc nhưng cuộc sống nơi đây quả thật là thiên đường đối với Trâm.
Cảnh vật u buồn nhưng lòng Trâm lại trở nên thơ thới. Cô ước sao mãi mãi mình được ở đó, tách xa hẳn cái thế giới xô bồ trần tục ngoài kia.
Nhưng Trâm biết, đó chỉ là mơ ước mà thôi, cô chưa thể thực hiện điều đó, chưa thể bỏ tất cả để trốn vào đây làm người dân chính thức của làng này, vì trên vai cô còn nhiều gánh nặng. Cô còn có mẹ già, còn có em dại, bổn phận một đứa con, một ngwofi chị không cho phép Trâm tìm lối thoát cho riêng mình.
Cuộc đời ngoài kia dẫu có tàn nhẫn đến mấy thì Trâm vẫn phải cố chen lấn để vươn lên, để không bị người khác đè bẹp dí dưới chân. Tháng tháng, nếu không có những đồng lương từ mồ hôi nước mắt của Trân thì lấy gì cho mẹ cô sinh sống và thuốc thang, cho em gái cô ăn học đàng hoàng tử tế?
Cuộc sống của Trâm không thể do Trâm quyết định được, hay nói chính xác hơn, Trâm không thể quyết định đời mình theo như ý muốn cá nhân mình được, nếu ý muốn đó không gắn liền với sự tồn tại của mẹ, của em gái cô.
Nhưng một ngày nào đó, khi mọi gánh nặng trên via Trâm đã hết, nhất định Trâm sẽ đến đây sinh sống hẳn. Khi nghe Trâm nói điều đó, bà lão vui lắm, bà bảo bất cứ lúc nào Trâm cũng có thể đến, căn phòng trên gác từ đây sẽ chỉ dành riêng cho Trâm mà thôi.
Lời nói chân tình của bà lão càng làm Trâm xúc động và thêm yêu mến nơi này.
Công việc của Trâm được tiến hành suôn sẻ và có phần mau chóng, thời gian chưa lâu mà Trâm đã sắp hoàn tất hợp đồng. Trâm tự cho phép mình dành nhiều thời gian để đi dạo hơn, chứ không làm việc miệt mài như những ngày trước nữa.
Tối hôm ấy trăng thật sáng. Trâm ngồi bên cửa sổ nhìn ra bên ngoài và không ngăn được ý thích đi loanh quanh một chút, mặc dù bên ngoài trời rất lạnh.
Trâm đứng lên lấy chiếc áo khoác to sụ mặc vào người. Cô còn thận đeo găng tay, đi vớ và quàng thêm một chiếc khăn len thật dày và rón rén mở cửa đi ra ngoài.
Bà lão mà biết được thể nào bà cũng ngăn cản vì bà luôn sợ Trâm bị cảm khi đi dưới trời rét mướt.
Trâm đi vơ vẩn đến một dòng suối nhỏ gần đó rồi ngồi xuống một tảng đá, thả hồn lơ lửng khắp nơi.
Mặt trăng tròn vành vạnh lơ lửng giữa bầu trời tỏa ra một thứ ánh sáng lạnh lẽo nhưng làm cho khung cảm ở đây trở nên đẹp mê hồn, một vẻ đẹp huyền hoặc liêu trai.
Chợt Trâm lắng tai nghe, hòa trong tiếng suối chảy róc rách hình như lại có tiếng ngâm thơ văng vẳng. Đúng rồi, cũng vẫn bài thơ Trâm đã nghe vào đêm đầu tiên mới tới đây, cô không thuộc, nhưng vẫn có ấn tượng với nội dung bài thơ ấy:
Em lang thang trong cõi mù sương
Hồn vất vưởng không quên tình nhân thế
Dẫu em biết cuộc đời là dâu bể
Vẫn không sao cắt đứt được tơ lòng…
Giữa đêm trăng thanh vắng thế này, tiếng ngâm thơ nghe buồn não ruột. Chắc hẳn người con gái ấy mang trong lòng một tình yêu đau đớn lắm nên mới đặt mình vào hồn ma để viết lên tâm sự.
Trâm thầm nghĩ thế và cô đứng lên ngó tìm quanh quất, xem ai là người vừa ngâm mấy câu thơ.
Đàn bà con gái trong làng không có mấy người, nhất là các cô gái trẻ Trâm cũng đã biết qua hết, nhưng cô vẫn không thể xác định những lời vừa rồi là của ai.
Đang ngơ ngác ngó tìm, Trâm bỗng giật mình vì tiếng gọi khẽ sát bên:
- Chị, đêm đã khuya thế này mà chị vẫn còn ra đây chơi sao?
 
Quay người lại, Trâm thấy Diễm đã đứng bên cạnh mình từ lúc nào mà mình không hề hay biết.
Diễm là một cô gái độ chừng hơn hai mươi tuổi, có làn da trắng nõn nà và gương mặt đẹp nhưng phảng phất buồn.
Bình thường Diễm rất ít nói cũng giống như những người trong làng, mỗi lần gặp Trâm, cô chỉ mỉm khẽ gật đầu và mỉm cười rất nhẹ thế thôi. Đêm nay là trường hợp đặc biệt Diễm lên tiếng chào hỏi Trâm trước.
- À, chị không ngủ được, thấy trăng đẹp quá nên đi dạo em à! Em cũng đi dạo phải không?
Trâm hỏi, nhưng Diễm chưa kịp trả lời, sực nhớ ra Trâm hỏi tiếp:
- Em, có phải lúc nãy em mới vừa ngâm thơ phải không?
Diễm cười bẽn lẽn không nói gì. Cô bước tới ngồi cạnh bên Trâm và nét mặt lại trở về với nét buồn cố hữu.
- Em sống ở đây lâu chưa, Diễm?
Trâm bắt chuyện.
Từ khi về ở đây, ngoài bà lão và Tiến, Đức ra, chưa có dịp nào để Trâm nói chuyện với những người trong làng ngoài những cái gật đầu và nụ cười chào hỏi thông thường.
- Em mới tới đây hai tháng trước thôi chị!
Diễm nhỏ nhẹ.
- Em sống một mình?
- Dạ, em sống một mình. Còn chị?
Diễm hỏi.
- Chị chỉ tới đây ở tạm một thời gian ngắn thôi em ạ! Nhưng chị đặc biệt thích nơi này, nó rất hợp với chị, có lẽ một ngày không xa chị sẽ về sống hẳn ở đây đó em.
Vừa nghe Trâm nói dứt câu Diễm có vẻ hoảng hốt:
- Không! Em xin chị… chị đừng đến đây sống hẳn… Ở đây… ở đây không như chị tưởng đâu… buồn lắm, khổ lắm mới tìm tới chỗ này, tưởng sẽ được nhẹ nhàng, sẽ được giải thoát, nhưng cuối cùng cũng đâu có được như thế! Chị nghe em đi, đừng tìm tới đây nhe chị?
Thấy vẻ khẩn trương của Diễm, Trâm vừa buồn cười vừa thắc mắc:
- Em nói sao chứ… chị ở đây đã được mấy tuần rồi, chị thấy cuộc sống nơi này thật dễ chịu…
Diễm buồn buồn:
- Chị thấy thế chỉ vì chị chưa phải là cư dân chính thức của làng này… Có những điều em không thể kể hết ra với chị được, nhưng em chỉ khuyên chị một điều như thế, đừng bao giờ tự mình tìm tới đây với ý định sinh sống mãi nơi này. Em… em giờ đây thật sự hối hận vì hành động nông nỗi của mình…
Tôi ngạc nhiên:
- Nếu em không thích ở đây, em hối hận thì em có thể trở về nơi trước kia em từng sống… Ở đây có luật lệ gì không cho phép mình quay trở lại à?
Diễm chớp chớp mắt quay đi như cố che giấu cảm xúc của mình:
- Không có luật lệ, cũng không ai ngăn cấm mình chị ạ, nhưng… một khi mình đã chọn nơi này thì… mình không thể nào quay lại được nữa…
- Em nói gì chị hoàn toàn không hiểu gì hết. Nhưng nếu em không tiện nói ra chị sẽ không hỏi nữa. Chị cảm ơn em đã cho chị lời khuyên, nhưng thật sự chị thấy yêu thích nơi này lắm.
Trâm nói.
Diễm cúi đầu thật thấp, tay vân vê tà áo.
- À, bài thơ lúc nãy em ngâm là do em viết ra phải không Diễm?
Trâm sực nhớ hỏi Diễm.
Diễm ngượng ngùng:
- Chị đừng cười, em có biết thơ thẩn gì đâu, chỉ tại buồn quá nên viết mấy câu để giải tỏa nỗi lòng mình mà thôi…
Trâm ngồi sát vào Diễm, lại một phen giật mình vì cảm giác khi chạm vào tay Diễm. Trâm kêu lên:
- Trời ơi, đêm khuya giá rét thế này mà em ra ngoài chỉ mặc phong phanh như vậy trách sao người em lạnh đến độ này, em mau mau khoác áo này vào cho ấm lên.
Vừa nói, Trâm vừa vội vã cởi cái áo khoác của mình đưa cho Diễm, nhưng Diễm từ chối:
- Không sao đâu chị, em không lạnh đâu, những người dân ở làng này ai cũng quen với giá rét, hình như cái lạnh đã ăn vào máu của mỗi người rồi nên không ai còn cảm giác lạnh nữa đâu. Chị để ý sẽ thấy thôi mà, có ai ở trong làng này lại cần đến áo len, áo khoác bao giờ?
Trâm khựng lại khi nghe Diễm nói.
Ừ, lâu nay sao Trâm không để ý nhỉ? Quả thạt mấy tuần sống ở đây, chưa bao giờ Trâm thấy một người dân làng nào choàng khăn, mặc áo kohác dù là giữa những ngày nhiệt độ xuống rất thấp.
Sao ở nơi này lại có quá nhiều chuyện khác thường đến thế nhỉ? Chuyện không xài tiền thì có thể lý giải được, còn chuyện da thịt ai cũng lạnh như đóng băng thế kia mà vẫn sống một cách khỏe khoắn bình thường thì không thể hiểu nổi.
Bản thân Trâm, dù đã trang bị từ trong ra ngoài, vậy mà mới cởi chiếc áo khoác ra có mấy phút cô đã cảm thấy lạnh không chịu nổi, thì tại sao Diễm lại chỉ mặc độc bộ áo quần bằng vải mỏng manh như vậy mà chịu nổi, ngoài sự giá lạnh mà Trâm sờ thấy từ người Diễm, còn lại không thể nhìn Diễm mà thấy bất kỳ cử chỉ nào báo hiệu sự lạnh lẽo gì từ cơ thể cô ấy.
Trâm mặc áo trở vào, ngồi co ro nhìn Diễm:
- Em nói chị mới sực nhớ! Chả lẽ những người ở đây lại có một khả năng khác người như vậy sao em? Bà cụ nhà chị cũng vậy, tay chân lúc nào cũng lạnh giá nhưng chẳng bao giờ thấy bà khoác áo lạnh hay hơ ấm trong lò than.
Diễm không trả lời Trâm, cũng chẳng nói gì, cô chỉ ngồi ngó mông lung ra xa, rồi bất chợt Diễm lại ngâm lại bài thơ ấy.
Lần này vì ngồi Cạnh Diễm nên Trâm mới có dịp lắng nghe trọn vẹn bài thơ. Bấc giác nước mắt cô ứa ra nóng hổi hai bên má. Cô nhìn sang Diễm, đôi mắt Diễm cũng nhòe lệ.
- Diễm ơi, sao em lại viết một bài thơ buồn đến thế này hở em?
Diễm ngâm hết bài thơ, im lặng một lúc rồi cất tiếng nói nhưng không phải là trả lời câu hỏi của Trâm.
- Chị biết không, những người sống trong ngôi làng này hầu như ai cũng đã từng đổ vỡ tình cảm. Chính vì chuyện đó mà họ mới tìm tới đây. Em hy vọng chị không như thế… Ở làng này, không có lấy bóng dáng đàn ông, chỉ là những người đàn bà tội nghiệp…
Trâm cãi:
- Em nói sao? Chị thấy trong làng có Tiến, Đạt đó!
Diễm cười:
- Chưa thể gọi hai người đó là đàn ông được chị ạ!
Trâm ngớ ra một lúc, không ngờ một người chuyên làm việc về chữ nghĩa như mình lại nói sai như vậy.
Trâm cười:
- Ừ, em có lý! Họ chỉ là hai đứa bé trai mới lớn…
Diễm nói tiếp:
- Họ là thế hệ được sinh ra tại ngôi làng này. Trước đây, mẹ họ tìm tới đây và sinh ra họ tại đây chị ạ!
Rồi Diễm như đang nói với chính bản thân mình:
- Cũng may… cũng may là em không phải sinh con hoàn cảnh đó…
Trâm tò mò:
- Tại sao em biết nơi đây mà tìm tới?
Diễm lại cười:
- Trước khi tới đây em hoàn toàn không biết gì đến nó chị ạ! Lúc em đau buồn nhất, lúc em muốn giải thoát mình ra khỏi những ràng buộc đời thường, thì nơi này như có một ma lực luôn luôn chào mời, vẫy gọi những ai mang tâm sự đó, em đã tới được đây một cách ngẫu nhiên… cũng gần giống với chị vậy!
Trâm chợt giật mình khi nghe Diễm nói.
Quả thật, Trâm đã tìm ra ngôi làng này một cách hết sức lạ lùng.
Suốt mấy ngày lang thang khắp nơi tìm kiếm nhưng không nơi nào hài lòng, Trâm đã muốn bỏ cuộc, nhưng trưa hôm đó tự nhiên trong lòng Trâm như có một điều gì đó thúc giục, khiến cô bỏ luôn cả bữa ăn trưa, cứ xăm xăm đi về phía này, mặc dù rất nhiều người ngăn cản, bảo với cô rằng ở hướng đó hoàn toàn không có người sinh sống, đừng tìm tới mất công.
Trâm hỏi:
- Vậy phía bên kia rừng thông là gì?
Người ta cho biết:
- Phía bên kia rừng thông là núi cao. Bên kia dãy núi là rừng thông nối tiếp… Ngay cả đến người dân tộc thiểu số cũng không sinh sống ở khu vực đó.
Vậy mà Trâm vẫn nhất quyết đi thám hiểm cho bằng được, mặc dù trước đây, mỗi lần muốn đi đâu, Trâm luôn luôn nghe theo chỉ dẫn của những người “thổ địa” trong vùng.
Lần này ngoại lệ, ai cản cũng không được, Trâm đã quyết tâm và cuối cùng cô đã tìm được nơi lý tưởng ưng ý của mình.
Bây giờ Trâm chợt nhớ lại cái cảm giác giục giã rất lạ của buổi trưa hôm ấy và đâm ra hoang mang.
- Ý em nói là trong ngôi làng này có điều gì đó ma quái?
Trâm lo lắng hỏi.
Diễm lắc đầu:
- Không… em không nói vậy! Em chỉ muốn nói… hình như nỗi đau khổ của con người cũng biết đường mà tìm về với nhau, với những người đồng cảnh ngộ. Mà thôi, mình đừng nói tới chuyện này nữa. Thời gian qua chị sống ở nhà bà cụ thế nào? Có dễ chịu không chị?
Diễm chuyển đề tài, và Trâm cũng nhanh chóng bị cuốn theo Diễm.
- Ô, chị sống ở đó quả là tuyệt. Bà cụ rất tốt, đối với chị giống như người thân trong nhà vậy em à! Nhưng có điều chị vẫn chưa biết gì nhiều về bà cụ. Nhiều lần chị hỏi nhưng hình như bà không muốn nói. Chỉ chỉ biết vài điều đơn giản thôi. Em có biết gì về bà cụ không?
Diễm cười:
- Bà cụ ấy là người cao tuổi nhất trong làng này, bà cũng là người đầu tiên tìm tới đây đó chị. Ngày xưa, bà là một nhà điêu khắc rất có tài, đường công danh của bà xán lạn, thế nhưng về mặt tình duyên thì bà lại lận đận vô cùng. Bà bị người yêu lường gạt đến khổ sở. Quá thất vọng, chán chường, bà đã quyết tâm giũ bỏ tất cả để tới đây. Bà là một người rất tốt.
Diễm nói tới đó rồi đột ngột đứng lên:
- Thôi, mình về đi chị, khuya lắm rồi! Xem chị kìa, lạnh tím cả môi.
Diễm cười lớn.
Trâm đứng lên, co ro trong chiếc áo khoác dày cộm:
- Ừ, chị lạnh lắm! Bởi vậy chị vô cùng thán phục em và những người dân ở đây. Biết bao giờ chị mới có được khả năng đó… À mà nè, Diễm ơi, hôm nào em chép tặng chị bài thơ đó nhe?
- Đó là một khối tâm sự buồn thảm, chị không nên đọc, nó sẽ ám vào chị đấy!
Diễm từ chối.
Trâm cười buồn:
- Thế lâu nay em tưởng chị vui vẻ, hạnh phúc lắm sao?
Diễm dừng bước, nhìn Trâm vẻ xót xa:
- Không đâu chị, em biết trong lòng chị cũng đang mang nặng mối sầu tình cảm. Bởi vì… chỉ những ai có tâm sự đó mới tìm được tới chỗ này…
Trâm ngạc nhiên:
- Em nói thật?
Diễm bật cười, cô không trả lời Trâm mà vùng bỏ chạy, chỉ để lại câu nói:
- Thôi, em về trước đây! Chị từ từ đi sau nhé?
Trâm nhìn theo Diễm không kịp nói lời nào thì Diễm đã khuất sau ngã rẽ.
- Cái con bé thật lạ lùng! Sao nó không chị đi đường này cùng về với mình cho có bạn mà lại vội vàng rẽ vào lối đó nhỉ? À, có lẽ nó vẫn chưa muốn về nhà, nhưng vì thấy mình lạnh run lên rồi nên mới giả vờ ra về vậy thôi.
Trâm vừa thấy buồn cười,vừa thấy tội cho Diễm. Mới hơn hai mươi tuổi đời mà tình yêu đã làm cho Diễm chao đảo thế kia…
Tại sao trên cõi đời này, tình yêu lại có sức mạnh ghê gớm đến thế?
Một đứa con gái như Diễm, thất vọng trong tình cảm nên đã tìm tới đây để trốn lánh, vậy mà cô ấy có quên được đâu, bằng chứng là trong bài thơ cô ấy viết, cô ấy đã nói rõ ràng rằng, dù có trở thành ma cô ấy vẫn yêu, vẫn nhớ kia mà?
Mãi suy nghĩ, Trâm về đến nhà lúc nào không hay. Cô nhẹ nhàng đẩy cánh cổng rào qua một bên để lách người vào.
Sương đêm đẫm ướt lối đi. Dưới ánh trăng, những đóa tú cầu trông rất lạ mắt. Mùi hương thoang thoảng của các loài hoa phảng phất cả một vùng.
Trâm vẫn thấy tiếc nuối nếu như giờ này mình lên giường ngủ, nhưng thật sự lúc này Trâm đã thấm lạnh, cô rất muốn chui vào trong tấm chăn bông thật dày mà bà cụ đã dành cho.
Lên tới phòng, Trâm vội vã rũ bỏ tất cả nón khăn giày vớ rồi chui ngay vào giường tận hưởng cái cảm giác ấm áp của chiếu chăn đem lại.
Cô vẫn chưa buồn ngủ. Nằm trên giường mà đầu óc Trâm mãi nghĩ lan man đủ thứ chuyện.
Cô thấy mình cũng gần giống như Diễm và những người phụ nữ trong ngôi làng này. Cô cũng tìm tới đây trong trạng thái thất vọng chán chường. Nhưng Trâm khác họ một điểm, khi tới đây Trâm đã xác định cô chỉ ở tạm một thời gian rồi sẽ quay lại với cuộc sống đời thường, dù có phải đối diện với bao nhiêu đau khổ nữa.
Trâm nghĩ, rồi sẽ có một ngày mình đến sống hẳn ở đây, nhưng ngày đó còn ở phía trước, chưa phải là lúc này!
Trong đêm thanh vắng, tiếng ngâm thơ của Diễm lại nổi lên, có lúc nghe như ngay dưới sân nhà, có lúc lại như vọng đến từ một nơi nào xa xôi lắm.
Càng về cuối, tiếng ngâm thơ như trở thành tiếng nức nở, nghẹn ngào…
Trâm muốn ngồi dậy chạy ra tìm Diễm, an ủi cô béư mấy câu rồi khuyên cô vào nhà ngủ.
Nhưng giữa lúc còn đang lồm cồm chưa kịp ngồi dậy, thì Trâm giật mình khi nghe tiếng ngâm thơ lại vang lên, mà lần này không phải là tiếng ngâm của Diễm hay bất kỳ một ai khác, mà là… hình như có rất nhiều người cùng đồng ngâm bài thơ ấy.
Giọng điệu thê lương, áo não có một chút gì đó ma quái vang lên rõ mồn một bên tai Trâm.
Hoảng hốt, Trâm tới bên cửa sổ hé nhìn ra ngoài theo hướng có tiếng người, chứ Trâm cũng không dám mở toang cánh cửa như thường ngày.
Dưới sân vắng lặng không có ai, nhưng tiếng ngâm thơ vẫn vang lên lúc ở chỗ này lúc ở chỗ khác rất khó để xác định vị trí.
Đảo mắt nhìn khắp nơi, cuối cùng Trâm phát hiện giữa vườn astiso có một đám người đang tụ tập.
Dưới ánh trăng sáng rỡ, Trâm thấy rõ ràng bà cụ chủ nhà đang ngồi trên một chiếc ghế cao, xung quanh là những người dân trong ngôi làng nhỏ bé này, hình như họ có mặt đầy đủ không vắng một ai.
Quần áo họ mặc trên người tất cả đều màu trắng, đều bằng chất liệu vải mỏng manh nên cứ bay phần phật trong gió.
Những người phụ nữ trong làng nắm chặt tay nhau, cùng hòa giọng ngâm vang bài thơ đau khổ ấy. Ở bên ngoài cùng là Tiến, Đức và một vài đứa trẻ khác, tất cả đều khóc nỉ non, thê thiết…
Chuyện gì đang xảy ra thế nhỉ? Họ là gì mà nửa đêm nửa hôm lại tụ tập nhau một cách quái đản đến vậy? Hay đây là một lễ hội gì đó, một tập tục của làng này?
Trâm hoang mang, vừa lo âu sợ sệt, vừa tò mò muốn biết. Cô dợm bước muốn đi ra đó hòa cùng với họ, nhưng cô lại sợ bởi từ trong thâm tâm cô nhận ra có một điều gì không bình thường ở ngôi làng vắng vẻ này.
Quái lạ, họ không làm gì khác, không nhảy múa hát hò mà chỉ nắm lấy tay nhau ngâm thơ và khóc! Đây là lần đầu tiên trong đời Trâm được nghe và tận mắt chứng kiến một dàn đồng ngâm!
Bây giờ thì Trâm đã thuộc lòng bài thơ đó rồi, sau khi lắng nghe họ lặp đi lặp lại rất nhiều lần. Mặc dù chưa hết tò mò, nhưng Trâm đã lạnh run, vả lại cô cũng chán nhìn hoài một đám đông bất động nên Trâm lại trở vào giường nằm lắng tai nghe ngóng.
Thật lâu sau, khi tiếng ngâm vừa chấm dứt, Trâm vùng dậy chạy tới cửa sổ nhìn ra thì lạ thay ở giữa vườn astiso hoàn toàn vắng lặng không một bóng người!
Làm cách nào họ có thể giải tán nhanh trong một cái chớp mắt như vậy? Trâm không thể hiểu nổi. Cô quyết định phải đi xuống dưới nhà, chờ bà cụ về để hỏi rõ đầu đuôi.
Vừa xuống hết thang gác, Trâm lại một phen hoảng vía, vì trên chiếc giường cạnh đó bà cụ đang nằm ngủ ngon lành!
Thật không thể hiểu được! Mình chưa ngủ thì không thể có chuyện nằm mơ được. Vả lại bài thơ đó lúc này mình đã thuộc làu làu rồi, điều đó đã chứng minh cảnh đồng ngâm kia là có thật. Thế tại sao mọi người lại biến đi một cách mau lẹ, và bà cụ chủ nhà mới đó còn ngồi ngất ngưỡng trên chiếc ghế cao giữa vòng người, loáng cái đã nằm yên trên giường phì phò ngáy ngủ?
Điên lên được với mọi chuyện ở đây!
Trâm rón rén đi trở lên phòng mình, tránh làm bà cụ thức giấc. Trong lòng cô cảm thấy một điều gì đó bất an đang dần dần xâm chiếm toàn bộ suy nghĩ của mình.
Giờ đây Trâm lại nhìn tất cả sự việc lạ lùng từng xảy ra trong làng dưới một cái nhìn khác, không theo hướng suy nghĩ cũ.
Nhưng dù có nghĩ cách nào, hướng nào đi nữa Trâm cũng không làm sao giải thích được. Bây giờ chỉ còn biết chờ đến sáng, đợi bà cụ thức dậy rồi hỏi rõ, hoặc tìm hỏi Diễm cũng được.
Cả đêm Trâm không sao ngủ được.
Vừa nghe tiếng lục đục của bà cụ dưới nhà, Trâm vội vàng đi xuống.
Bà cụ ngạc nhiên:
- Sao hôm nay cháu thức sớm thế?
Trâm ngập ngừng:
- Bà ơi… suốt đêm cháu không ngủ được…
- Có chuyện gì thế cháu?
Bà cụ lo lắng hỏi.
Trâm nhìn bà một lúc rồi quyết định hỏi thẳng:
- Bà ơi, lúc đêm khuya, cháu thấy rõ ràng mọi người tụ tập dưới kia làm điều gì lạ lắm, trong đó có cả bà. Đúng không, thưa bà?
Bà cụ như khựng lại một lúc, rồi nhìn Trâm, nói với vẻ lạnh lùng không giống với thường ngày:
- Ở trong ngôi làng này có những quy tắc riêng, những tập tục riêng mà những người ở tạm như cháu không nên tìm hiểu. Biết nhiều quá sẽ không tốt đâu. Cháu cứ xem như đêm qua không có gì xảy ra, và đừng bao giờ cháu hỏi ta về những điều tương tự như thế nữa, bởi vì ta không thể giải thích rõ cho cháu biết được. Cháu cứ sống đời sống của cháu, những hoạt động trong làng này sẽ không làm gì ảnh hưởng tới cháu đâu, cháu đừng lo lắng và cũng đừng tò mò thắc mắc làm chi!
Trâm ngớ người ra một lúc, cô thật không ngờ bà cụ chủ nhà thường ngày vẫn luôn ngọt ngào âu yếm với cô mà hôm nay lại lạnh băng như thế. Chuyện gì mà nghiêm trọng thế kia? Nếu chỉ đơn giản là một nghi thức, một tập tục thì bà có thể giải thích với Trâm chứ? Không, nhưng nếu chỉ là tập tục, là nghi thức thì không thể nào từng ấy con người đều khóc lóc sụt sùi sầu thảm đến dường kia. Chắc chắn là bên trong đó có ẩn chứa một điều gì đó rất hệ trọng, nhưng điều đó là điều gì thì Trâm không tài nào đoán ra nổi.
Cô tiu nghỉu nói:
- Dạ, cháu xin lỗi bà vì cháu đã quá tò mò!...
Bà lão ngó lơ ra chỗ khác:
- Ta mong cháu từ nay đừng lặp lại điều đó nữa!
Trâm dạ nhỏ rồi len lét trở về phòng mình, cô nằm vật ra giường lòng buồn vô cùng!
Nhưng không lâu sau, có tiếng bà cụ gọi Trâm xuống ăn sáng. Trong bữa ăn sáng, mặc dù Trâm vẫn còn xẻn lẻn nhưng bà cụ thì hoàn toàn khác, hình như chuyện sáng sớm này chưa từng xảy ra, bà lại vẫn ngọt ngào yêu thương, lo lắng cho Trâm bình thường như bấy lâu nay.
Liên tiếp những ngày sau đó Trâm không thể tập trung vào công việc được. Trong đầu cô cứ mãi lẩn quẩn những câu hỏi vô phương giải đáp.
Không chịu được nữa, Trâm tìm gặp Diễm, hy vọng sẽ được lóe sáng đôi điều bí mật.
Nhưng Diễm hoàn toàn khác xa với một Diễm trong đêm trăng vừa rồi ngồi nói chuyện tâm tình với cô bên bờ suối.
Diễm buồn lặng lẽ, hỏi gì Diễm cũng chỉ lắc đầu không thốt một câu rồi nhanh chóng viện cớ bỏ đi.
Ở trong ngôi làng kỳ lạ này, ngoài bà cụ với Diễm ra, Trâm chỉ mới nói chuyện với Tiến và Đạt, nhưng Trâm không hy vọng gì Tiến, Đạt tiết lộ bí mật cho mình, mà cũng chưa chắc hai đứa nó biết được điều bí mật ấy.
Đành vậy, Trâm đành phải ôm nỗi thắc mắc trong lòng mà giả vờ vui vẻ, thoái mái như thường bữa.
Nhưng từ lúc đó, Trâm chú ý hơn đến mọi người, mọi việc xung quanh.
Đêm đêm giấc ngủ của Trâm thường bị đánh thức bởi những âm thanh kỳ quái, có lúc nghe như tiếng thở dài não ruột, có lúc nghe như tiếng tỉ tê than vãn… Tất cả đều mơ hồ, xa xăm không rõ nét.
Trâm không chịu đựng nỗi tâm trạng bức bối này, cô giả vờ cần tìm mua một vài tài liệu cần thiết cho công việc, xin phép bà cụ đi ra thành phố một ngày.
Bà cụ nhìn Trâm thật lâu rồi hỏi:
- Cháu đã chán sống ở đây rồi phải không?
- Dạ, không, không! Sao bà lại nghĩ thế? Cháu vẫn muốn sống ở đây cho tới khi hoàn thành công việc, chứ nếu chán thì cháu đã xin phép bà cho cháu đi khỏi rồi! Bà đối với cháu tốt thế, sao cháu lại chán được chứ?
Trâm nói.
Bà cụ buồn bã:
- Nhưng… bà lại mong sao cháu chán nơi này! Mặc dù nếu cháu rời khỏi đây bà sẽ buồn ghê lắm!
Trâm hoảng hốt:
- Bà ơi, cháu có làm điều gì khiến bà buồn lòng đến nỗi bà không muốn cho cháu ở lại đây sao bà?
Bà cụ đưa bàn tay giá lạnh vuốt nhẹ má Trâm, cười:
- Không, bà đâu có buồn giận cháu điều gì đâu, bà cũng rất muốn cháu mãi mãi ở lại đây với bà… Nhưng như vậy thì bà ích kỷ quá, cháu còn trẻ, tương lai cháu còn dài, nơi này chưa phải là nơi dừng chân của cháu vào lúc này… Mà thôi, cháu đi lo công việc của mình đi, bà dạo này lớn tuổi rồi nền đôi khi cũng đâm ra lẩm cẩm lắm, cháu đừng để tâm nhé?
- Cháu có cần đi xe không?
Bà cụ hỏi Trâm
Trâm từ chối:
- Dạ, hôm nay cháu không mang gì nhiều, vả lại cháu đi sớm rồi về ngay, cháu không muốn làm phiền đến hai em nữa. Vả lại cháu cũng muốn một mình thả bộ bà ạ!
- Ừ, thôi vậy, tùy cháu!
Bà cụ nói rồi đứng nhìn theo Trâm bằng ánh mắt dịu dàng trìu mến như ánh mắt của một bà mẹ dành cho đứa con gái yêu quý của mình.
Trâm ra tới cổng làng, cô ngước nhìn lên cái cổng cũ kỹ mà lần trước khi đến đây Trâm không mấy để ý.
Chiếc cổng được làm bằng một loại gỗ gì đó chắc cũng thuộc hàng gỗ quý hiếm, theo thời gian giờ đây nó đã lên nước bóng láng, đen trùi trũi cũng giống như cái tay vịn cầu thang ở nhà bà cụ vậy.
Hai bên cột cũng được chạm trổ hoa văn, có thể chiếc cổng này cũng do chính tay bà cụ dựng lên. Ừ, chắc là vậy rồi, vì theo như Diễm nói, bà cụ là người đầu tiên đến sinh sống ở nơi đây.
Lại thêm một điều đặc biệt làm Trâm thắc mắc, cổng được làm công phu như vậy nhưng bên trên hoàn toàn không để tên làng!
Đứng tần ngần ở cổng một lúc, Trâm tiếp tục lên đường. Cô lại băng qua những đoạn đường vất vả, những khoảng rừng âm u vắng vẻ… Mãi rồi cũng ra được tới đường lớn.
Đưa tay vẫy một chiếc tắc  - xi, Trâm nhanh nhẹn bước lên khi xe vừa dừng lại.
Người lái tắc xi là một người đàn ông vui tính.
Ông ta mau chóng bắt chuyện với Trâm:
- Cô đi đâu mà ở nơi vắng vẻ này thế?
Trâm cười:
- Tôi sống trong khu làng ở sâu bên trong ấy!
Người lái tắc xi ngạc nhiên:
- Ủa, tôi cũng là người vùng này, sao chưa bao giờ tôi nghe nói ở trong đó có làng nhỉ?
- Gọi là làng chứ thật sự chỉ có chưa đến chục ngôi nhà ở rải rác, người dân ở đó lại sống khép kín lắm, họ còn không biết xài tiền nữa kia, họ không giao lưu với bên ngoài, chắc vì lẽ đó nên ít ai biết tới họ!
Trâm giải thích.
Người lái tắc xi bật cười:
- Ha ha ha… cô vui tính thiệt! Lâu lắm rồi tôi mới lại nghe kể chuyện cổ tích đó!
Trâm phật ý:
- Tôi nói thật, anh không tin thì thôi!
Thấy vẻ mặt nghiêm nghị của Trâm, người tài xế thôi không cười nữa, nhưng anh vẫn không tin những gì Trâm nói.
- Cô là người sinh sống ở đó à? Nếu cô bảo họ không biết xài tiền, chẳng lẽ cô đón tắc xi rồi lát nữa không trả tiền cho tôi? Còn cô nói người trong làng đó giao lưu với bên ngoài, thế sao hôm nay cô ra ngoài làm gì?
Người tài xế, giọng có vẻ giễu cợt.
Trâm bình tĩnh cắt nghĩa:
- Tôi không phải là dân cư chính thức của làng đó, cho nên anh yên tâm đi, tôi sẽ trả tiền xe đàng hoàng. Và vì không phải là người dân làng đó, nên tôi vẫn có nhu cầu giao tiếp với bên ngoài.
- Vậy ra tất cả những điều cô nói là thật?
Người tài xế dừng hẳn xe lại, ngoảnh nhìn Trâm lạ lẫm.
Trâm gật đầu quả quyết:
- Đúng vậy! Những điều tôi kể hoàn toàn là sự thật, tin hay không tùy anh, anh có thể hỏi lại chính quyền địa phương, tôi tin mọi người có thể không biết tới sự hiện diện của ngôi làng đó, chứ chính quyền thì chắc phải nắm được chứ!
Người tài xế gục gặt đầu rồi cho xe chạy tiếp:
- Cô nói cũng đúng! Tôi thật sự tò mò về chuyện ày, vì tôi sống ở vùng này từ bé, các cánh rừng này hầu như chỗ nào cũng đã in dấu chân tôi, một thời nghèo khổ lên rừng hái củi đem xuống chợ bán lấy tiền đong gạo, nhưng chưa bao giờ tôi gặp hay nghe nói tới ngôi làng đó. Nhất định tôi sẽ tìm hiểu.
Tự nhiên Trâm cũng thấy tò mò muốn biết rõ ràng mọi việc, cô động viên:
- Ừ, anh ráng tìm hiểu đi! Tôi cũng rất muốn biết rõ về họ! Mặc dù tôi sống ở đó gần một tháng rồi nhưng có nhiều điều tôi vẫn không sao lý giải nổi. Hy vọng anh sẽ là người giải đáp thắc mắc giúp tôi.
Người tài xế nheo mắt cười:
- Được thôi, có gì cố cứ liên lạc với tôi theo địa chỉ số…. Đường… Còn cô? Tôi liên lạc với cô bằng cách nào đây?
Trâm ngớ ra:
- Tôi?... à mà tôi làm gì có địa chỉ để anh liên lạc. Nơi tôi sống hịên nay là ngôi làng vô danh ấy. Thôi, có gì tôi sẽ trực tiếp liên lạc với anh.
Xe dừng, khi Trâm bước xuống trả tiền, người tài xế cười:
- Vậy nhé! Có gì mới cô cho tôi biết nhé?
Trâm cười, gật đầu. Nhưng cô vừa dợm bước đi, bất ngờ người tài xế gọi giật cô lại:
- Cô… cô gì đó ơi!
Trâm quay lại, ngạc nhiên:
- Có chuỵên gì thế anh?
Người tài xế nghiêm mặt:
- Tôi vừa mới nhớ ra một điều, có thể có liên hệ tới ngôi làng mà cô vừa nhắc tới.
Trâm reo lên:
- Vậy là không hẳn nó không được ai biết tới rồi!
- Cô đừng vội cười, chuỵên không như cô nghĩ đâu!
Giọng người tài xế có vẻ quan trọng lắm.
Trâm lo lắng:
- Vậy thì anh nói nhanh lên, đó là chuyện gì?
Người tài xế ngập ngừng:
- Nhưng…, tôi hy vọng mọi việc sẽ không như tôi liên tưởng!
- Thế là thế nào? Anh làm tôi sốt ruột quá!
Trâm giục.
- Chuyện là vầy, người dân ở đây vẫn thường kể truyền miệng cho nhau nghe về một khu nghĩa địa hoang vắng, nơi tập trung những người tự tử vì tình. Theo như lời bà nội tôi kể lại, người đầu tiên tự đến đó để hủy mình. Nghe đâu bà ta là một nhà điêu khắc có tài, nhưng bị tình phụ, buồn đời chán tình, bà đã tìm đến nơi hoang vắng đó, tự xây cho mình một khu nhà mồ rồi tự tử chết tại đó. Về sau này, khi có một ai tự tử vì tình, người ta lại đem tới đó để an táng. Mới cách đây hơn hai tháng, một cô sinh viên Đại học, thất tình nhảy xuống Hồ Xuân Hương trầm mình, sau đó cũng được đưa lên an táng ở đó…
Người tài xế kể tới đâu, Trâm thấy tay chân mình bủn rủn tới đó, mồ hôi cô vả ra như tắm dù tiết trời Đà Lạt mới sáng vẫn còn đang rất lạnh.
- Cô… cô sao vậy?
Người tài xế hốt hoảng khi trông thấy vẻ mặt tái xanh của Trâm.
Trâm run rẩy:
- Tất cả… anh kể… tất cả đều trùng khớp… Trời ơi, vậy gần một tháng nay tôi sống chung với ma sao?
Trâm lảo đảo không đứng vững. Cô phải bám chặt vào chiếc tắc xi mới khỏi ngã.
Khi nghe Trâm nói vậy, người tài xế cũng lo sợ không kém. Anh ta lặp lại:
- Trùng khớp à? Chính là ngôi làng đó à? Tôi… tôi vẫn hy vọng là không phải…
Trâm gắng gượng hỏi thêm một câu cuối cùng để xác định:
- Xin anh làm ơn cho biết, có phải cô gái vừa mới mất cách đây hai tháng tên là Diễm phải không?
- À, đúng rồi đó! Chắc cô đọc báo nên biết? Cô gái này cũng lãng mạn lắm, trước khi chết còn để lại một bài thơ tình ướt át nữa…
Người tài xế chưa kịp nói hết câu thì Trâm đã ngã ra đất bất tỉnh.
***
Trâm cố nhướng mắt lên, chưa kịp nhận ra xung quanh đã nghe có tiếng reo khe khẽ:
- Cô đã tỉnh rồi! May quá!
Nhận ra người lái xe đang ngồi bên cạnh, và mình đang nằm trên một chiếc giường trắng toát của bệnh viện, Trâm nhớ lại mọi chuyện.
Cô bối rối:
- Thành thật xin lỗi anh, tôi đã làm phiền anh quá!
Người lái tắc xi khẽ cười:
- Cô đừng nói vậy, nói đúng ra chính tôi là người xin lỗi cô mới phải.
- Sao cơ?
Trâm ngơ ngác hỏi.
Người tài xế cười:
- Nếu tôi đừng đem chuỵên đó nói với cô thì cô đâu đã lăn đùng ra đất như vậy? Tội lỗi này đích thị là do tôi gây ra, cô tha lỗi cho tôi nhé!
Trâm cố nở nụ cười:
- Sao anh lại nói thế? Nếu không gặp anh, không biết những điều đó thì tôi sẽ lại tiếp tục chung sống với ma sao?
Người tài xế nheo mắt giễu cợt:
- Thì cũng có sao đâu, cô đã sống ở đó gần một tháng rồi nhưng hiện nay trông cô vẫn hồng hào khỏe mạnh, đi đứng nói năng vẫn rất đỗi bình thường, thì có sống tiếp nữa cũng có làm sao đâu!
Trâm mơ màng:
- Ừ, cũng không sao thật! Họ là ma, tất cả đều là ma nhưng họ sống tốt, họ biết tôn trọng và yêu quý, giúp đỡ lẫn nhau, cuộc sống con người giá mà được như vậy chắc đời này sẽ không bao giờ phải xuất hiện một ngôi làng như thế…
Người tài xế bật cười:
- Cô ơi, cô đừng làm tôi phải hoài nghi cô là ma hay là người nhé?
Trâm bật cười theo. Lâu lắm rồi hôm nay Trâm mới có lại tiếng được vui như thế.
Sau khi y tá đến kiểm tra, thấy Trâm đã hoàn toàn bình phục, bệnh viện cho phép cô ra về.
Người tài xế hỏi:
- Bây giờ cô muốn về đâu? Về lại ngôi làng kia không?
Lúc này Trâm mới giật mình:
- Chết tôi rồi! Tôi không thể trở lại sống ở nơi đó, mặc dù tôi mang ơn huệ của bà lão rất nhiều, nhưng người và ma không thể sống cùng nhau được, tôi hy vọng mọi người sẽ hiểu mà tha lỗi cho tôi. Nhưng… toàn bộ hành lý của tôi đều ở trong đó. Hành lý có thể bỏ hết cũng được, nhưng những tài liệu quan trọng, không thể bỏ cũng đang còn ở trong ấy, tôi biết phải làm thế nào bây giờ?
Trâm nói gần như mếu làm người tài xế cũng bối rối theo.
Anh ta suy nghĩ một lát rồi bảo:
- Tôi đã nghĩ ra cách rồi! Cô lên xe đi theo tôi, tôi sẽ đưa cô đi lấy lại hành lý.
Thấy Trâm có vẻ ngần ngại, anh tài xế pha trò:
- Cuốc xe này là tôi tình nguyện chiêu đãi cô, tôi không phải dụ cô lên xe chạy lòng vòng để tính tiền đâu mà cô phải sợ!
Trâm phì cười, bước lên xe.
Người tài xế cho xe chạy thẳng vào một ngôi chùa nhỏ ven đường.
- Cô ngồi đó chờ tôi một chút.
Anh ta dặn Trâm rồi hối hả nhảy các bậc thang đêt lên chùa.
Không lâu sau anh ta quay lại, đưa ra mấy miếng giấy nhỏ khoe với Trâm:
- Có cái này là hết sợ!
Trâm ngạc nhiên:
- Cái đó là gì?
Anh ta hạ thấp giọng cho ra vẻ bí mật:
- Đó là bùa, bùa trấn ma, bảo vệ mình không bị các thế lực ma quái xâm hại. Sư cụ chùa này nổi tiếng về lĩnh vực này đó cô ạ!
Trâm bật cười thích thú:
- Thì ra anh cũng là dân mê tín kia à? Tôi tưởng đàn ông thì không như thế chứ!
Anh tài xế nghiêm mặt:
- Tại cô không biết đó thôi, ở xứ rừng thiêng, không muốn tin cũng không được cô ạ!
Vừa nói anh ta vừa lấy một chiếc trao cho Trâm:
- Cô để nó vào người, mọi việc sẽ yên ổn.
Từ bé đến giờ, Trâm chưa khi nào tin vào chuyện bùa chú, nhưng trước sự vịec hôm nay, cô cũng thấy mình không nên bài bác, cứ tin như vậy nếu không có lợi thì chắc cũng chẳng hại gì.
Sau khi gởi xe, hai ngwofi lặn lội đi ngược trở vào sâu bên trong.
Người tài xế này quả thật đúng là dân “Thổ địa” của vùng này, chỉ nghe Trâm diễn tả qua loa là anh ta đã biết ngay hướng phải đi, không cần Trâm phải chỉ đường.
Anh ta sải bước phăng phăng làm Trâm chạy theo muốn hụt hơi, chốc sau sực nhớ, anh ta dừng lại mỉm cười như có lỗi.
Đi tới bên dòng suối nhỏ quen thuộc, Trâm reo lên:
- Sắp về đến làng rồi kìa!
Cô đưa tay lên muốn chỉ cho người tài xế thấy những căn nhà xa xa trong ấy, nhưng ngạc nhiên chưa. Sao Trâm không thấy ngôi nhà nào cả. Cô dụi mắt nhìn kỹ lại lần nữa, rồi quay người nhìn bốn hướng xem mình có bị lạc đường không, nhưng rõ ràng mình không phải lạc đường mà!
Thấy vẻ mặt ngơ ngác buồn cười của Trâm, người tài xế đã đoán ra sự việc, anh ta bảo:
- Cô đừng tìm kiếm nữa mất công. Cô đã có đạo bùa đó trong người thì làm sao còn thấy được nhà cửa nữa mà tìm…
Chợt nhớ ra, Trâm hoang mang lo lắng.
Người tài xế khích lệ:
- Không có gì đâu, cô cứ yên tâm đi theo tôi, tôi biết cách xử lý mà!
Quả thật, giữa lúc này người tài xế tắc xi đã trở thành một vị ân nhân, một người anh hùng mà Trâm hoàn toàn tin cậy.
Cô riu ríu bước theo anh ta, khong dám nói một lời nào sợ làm rúng động anh ta.
Chiếc cổng làng đây rồi! Nhưng lạ một điều là bây giờ nó thấp hơn chứ không cao nghệu như lúc trước. Mà cũng phải thôi, chẳng phải anh ta vừa bảo, khi có lá bùa trong người, mình sẽ nhìn sự vật với đúng hình dạng vốn có của nó mà, có gì mà thắc mắc nữa….
Đây là con đường làng quen thuộc mà mỗi chiều Trâm thường đi dạo, hai bên đường bây giờ không phải là những bụi hoa xinh xắn mà là những đám cỏ hoang xơ xác hoặc um tùm.
Chỗ kia là nhà Tiến, xa chút nữa là nhà Diễm, nhà Đạt… nhưng bây giờ những ngôi nhà nho nhỏ ấy đã hoàn toàn biết mất, chỉ trơ lại trên nền đất lác đác vài ngôi mộ đất nông choèn.
Trâm níu chặt tay người tài xế, tim cô đập thình thịch đầy sợ hãi.
Kia rồi! Đây chính là nơi có ngôi nhà quen thuộc mà cô đã gắn bó với nó gần một tháng qua. Nhưng trước mắt Trâm bây giờ chỉ là một ngôi nhà mồ cũ kỹ nhưng tinh xảo. Gần trong góc nhà, nơi bà cụ đặt giường ngủ có một chiếc quan tài màu đỏ sậm.
Trâm ngước mắt tìm căn gác mà mình đã sống thì mới biết ra, đó là một chiếc bàn gỗ được chạm khắc công phu. Trên mặt bàn, tất cả hành lý của Trâm vẫn còn nguyên vẹn.
Qua phút giây sợ hãi, Trâm trở nên bình tĩnh lạ thường. Cô bwosc tới gần chiếc quan tài và sụp xuống khấn vái:
- Bà ơi, cháu rất mang ơn bà và những người dân ở làng này đã cưu mang giúp đỡ cháu thời gian qua, ơn nghĩa và tình cảm đó cháu nguyện sẽ ghi nhớ suốt đời. Cho tới tận lúc này, cháu vẫn không hối hận vì đã đến sống ở đây, cháu vẫn muốn một ngày nào đó cháu được ở lại nơi này mãi mãi… Nhưng bà ơi, giờ thì cháu hiểu tại sao bà bảo bà thương yêu cháu, xa cháu bà sẽ buồn lắm, thế mà bà lại không muốn cháu sinh sống hẳn ở đây. Vì nơi này là nơi dành riêng cho những người phụ nữ tự tử vì tình, bà không muốn cháu phải đi vào con đường đó, phải không bà? Bà ơi,…
Trâm khóc nghẹn ngào.
Cô hối hận vì lúc trở vô đây do quá bối rối cô không nghĩ tới việc mua một ít nhang đèn hoa quả. Trâm tự hứa với lòng mình, ngay ngày mai thôi, cô sẽ trở lại đây để tạ ơn những người ở ngôi làng khốn khổ này…
Người tài xế giúp Trâm thu dọn đồ đạc rồi cả hai rời ngôi làng, Trâm bước đi mà nước mắt không ngừng tuôn chảy.
Thốt nhiên cô nghe trong gió giọng Diễm thật buồn đọc mãi mấy vần thơ:
Em lang thang trong cõi mù sương
Hồn vất vưởng không quên tình nhân thế
Dẫu em biết cuộc đời là dâu bể
Vẫn không sao cắt đứt được tơ lòng…
 
Để bây giờ ở giữa chốn hư không
Đếm ngày tháng tiếc thương thời tuổi trẻ
Âm cảnh – Dương gian đường đời chia lối rẻ
Hai chúng mình từ độ ấy xa nhau…
 
Tháng Bảy mưa Ngâu, Ô Thước có bắc cầu?
Em với anh biết làm sao gặp gỡ
Thì thôi nhé, em đi – anh ở
Tháng năm trôi, tình xưa cũ nhạt nhoà…
 
Anh yêu ơi, giờ mình đã cách xa
Anh giờ đã yên vui hạnh phúc
Có khi nào thoáng trong phút chốc
Anh nghe lòng nằng nặng nhớ thương em?
 
Em bây giờ đã xa chốn trần gian
Chút hồn phách tìm về yêu dấu cũ
Nhớ nghe anh, dẫu hoa kia héo rũ
Trái tim em vẫn đỏ máu chung tình…
 
Em bây giờ lãng đãng phiêu linh
Khao khát lắm ngày xưa mình hiện hữu
Giờ mới biết cuộc đời dù đau khổ
Thì làm người vẫn tốt hơn ma…
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:04:09 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:33:29
LINH HỒN HOẠN THƯ

Mỗi lần bạn bè có dịp tụ tập lai rai với nhau thì hình như trăm lần như một, Dương đều trở thành đề tài chính để chúng tôi bàn tán.
Dương chơi với tôi từ hồi còn thanh niên mười bảy, mười tám tuổi. Giờ thì con trai lớn của tôi cũng đã hơn tuổi đó rồi. Bạn bè trong nhóm đứa nào đứa nấy đã đề huề gia thất, có đứa còn vừa mới làm sui. Vậy mà riêng Dương vẫn thui thủi một mình, sớm tối đi về một bóng thật đáng thương.
Thật ra cách đây hơn hai mươi năm, Dương đã một lần lấy vợ.
Hồi đó khu phố chúng tôi ở bây giờ còn là một xóm nghèo hoang vu vắng vẻ. Mặc dù ở Sài Gòn nhưng Sài Gòn lúc bấy giờ chưa phát triển vượt bật như hôm nay. Chỗ chúng tôi lại là vùng ven, là nơi sinh sống của tầng lớp dân lao động nghèo hèn.
Muốn tới được nhà Dương, phải đi qua một đoạn đường thật dài, hai bên là ao rau muống sình lầy, mỗi chiều xuống hay đêm về là đủ thứ loại côn trùng cất lên tiếng kêu não nùng, ai oán…
Lác đác hai bên đường còn có mấy ngôi mộ đất thấp lè tè, mùa mưa là có khi nước ngập đến phân nửa.
Nhà Dương hồi đó là nơi tụ tập của cả đám thanh niên trai tráng chúng tôi.
Thời đó chúng tôi cả bọn rủ nhau vô Sài Gòn làm ăn. Nhưng chân ướt chân ráo, bằng cấp không có, nghề nghiệp không có, chúng tôi chỉ biết lang thang ở các bến xe, các khu chợ xem có ai thuê mướn gì thì làm kiếm từng đồng mà sống qua ngày.
Một hôm, khi lân la tới bến xe miền Đông, tôi tình cờ gặp Dương, người cùng quê, nhưng Dương đã vào Sài Gòn trước chúng tôi nhiều năm.
Gặp lại nhau, cả hai đều mừng rỡ lắm. Ngay chiều hôm ấy Dương bảo tôi rủ hết đám bạn cùng quê về nhà Dương nhậu một bữa.
Nói là “đám bạn” cho xôm tụ thế thôi, chứ thật ra chỉ có tôi, Hùng, Thắng, giờ thêm Dương nữa là bốn.
Mấy chục năm trôi qua rồi mà tôi vẫn nhớ như in lần đầu tiên chúng tôi tới nhà Dương.
Theo lời hướng dẫn tỉ mỉ của Dương hồi trưa, ba đứa tôi lội bì bõm vô con đường sình lầy ngập nước, vừa đi Thắng vừa tranh thủ liếc ngang liếc dọc, bắt được mấy con cua đồng to tổ bố. Không có gì đựng, Thắng phải hy sinh luôn cái nón vảo đang đội trên đầu của nó. Khi vào tới nhà Dương thì trong nón của Thắng đã có hơn chục con cua cùng với mấy con cá rô mề to cỡ bàn tay.
Thằng Hùng cười:
- Cái thằng Thắng này có tay sát cá thiệt đó! Hồi ở ngoài quê, nó đã tàn sát hết đám tôm cá ở làng mình, giờ trôi dạt vô Sài Gòn mà nghề của nó vẫn không bị mai một. Chiều nay mình có “mồi” hùn với thằng Dương rồi!
Gọi là nhà cho oai, nhưng thật ra ngôi nhà Dương đang sống chỉ là một căn lều lụp xụp được dựng lên bằng mấy tre, cây gỗ xẹo xọ, chắc của ai đó quẳng đi được hắn xin về. Vách và mái nhà thì lợp bằng thiếc vụn, giấy cạc tông, áo mưa rách… nói chung là hầm bà lằng thứ, cái gì có thể chắp vá lên đều được hắn tận dụng hết.
Dương cười khà khà nói:
- Tụi mầy đừng có chê nghen! Coi tồi tàn vậy đó mà mỗi tháng khỏi phải mất tiền thuê nhà trọ như tụi mầy. Rồi biết đâu mai sau chỗ này phát triển, hổng chừng tao có tiền tỉ cũng nên.
Cả mấy đứa cười xòa. Hồi ấy bọn tôi không ai nghĩ sẽ có một ngày Sài Gòn phát triển thế này, mở rộng thế này, cũng chẳng nghĩ tới chuyện xí phần đất để sau này trở thành tỉ phú. Câu nói của Dương cũng chẳng qua là câu nói đùa gỡ chút sĩ diện, là AQ chút cho vui.
- Sao mầy lại chui tuốt vô trong góc này sinh sống vậy?
Thằng Hùng thắc mắc.
Dương nhương mắt:
- Bộ mầy tưởng tao có nhiều tiền chắc? Làm sao chen chân vô lọt mấy chỗ ngon lành hả mậy? Mình nghèo kiết xác, chán cái cảnh ở trọ, loay hoay là tới tháng, chạy tiền nhà trọ không thôi là đủ mướt mồ hôi. Một lần tao trúng số đề, buồn tình tao dốc hết mua miếng đất này. Mà cũng nhờ vậy mới có chỗ nương thân không tốn tiền như vầy đây. Tụi mầy thằng nào không chê thì vô đây ở với tao, khỏi mất tiền!
Lúc mới vô, ba đứa tôi đứa nào cũng oải vì cái chỗ tồi tàn của Dương, nhưng khi nghe lời đề nghị kèm theo ba tiếng “không tốn tiền” là tự nhiên cả mấy đứa đều nhận ra ở đây cũng không đến nỗi nào. Mình đàn ông con trai, có lặn lội một chút cũng sá gì! Còn hơn ở ngoài quê, lội bộ hàng mấy cây số thì sao?
Thế là cả ba đứa tôi đều đăng ký làm người trọ dài hạn tại nhà Dương.
Bữa tiệc nhậu hôm đó thật vui. Ngoài việc bạn bè cũ lâu ngày gặp lại, tụi tôi còn có niềm vui lớn hơn, rằng từ mai sẽ thôi cảnh trốn tránh bà chủ nhà khó ưa mỗi khi tới tháng mà chưa có đủ tiền để trả.
Tôi hào phóng móc mấy đồng bạc trong túi ra bảo Dương đi mua thêm rượu.
Tối hôm đó bốn đứa say quắt cần câu, nằm gác lên đầu nhau mà ngủ, xung quanh la liệt chén bát nồi niêu…
Từ sau hôm đó, căn nhà nhỏ của Dương có thêm ba đứa chúng tôi.
Và cũng nhờ vậy, ngôi nhà được chăm sóc chu đáo hơn một tí.
Bất kỳ đứa nào đi đâu, gặp cái gì là tha về dừng lại tấm vách, lợp lại chỗ dột trên mái…
Thường thì sau mỗi ngày quần quật kiếm tiền, tối về chúng tôi lại quây quần với nhau nhâm nhi một chút.
Thỉnh thoáng có đứa nào “trúng mánh” gì đó thì cuộc nhậu được xôm xôm một tí, còn không thì một hai xị rượu, vài ba trái cóc trái ổi cũng đủ vui.
Cuộc sống của bốn thằng con trai cứ trôi qua như thế.
Trong bốn đứa chúng tôi, có lẽ Dương là thằng đa tình, lãng mạn nhất.
Lúc chúng tôi về sống với nó thì nó đang quen với Phượng, một cô gái nhà ở gần trong chợ Bà Chiểu.
Nhà Phượng nghe đâu cũng nghèo lắm. Cả một đàn em lóc nhóc. Ba Phượng đạp xích lô, mẹ có gánh bún bán ở đầu hẻm mỗi sáng, Phượng cũng phụ buôn bán trong một quán ăn nào đó, cuộc sống chỉ đắp đổi qua ngày.
Dương và Phượng thương nhau nhưng không được sự đồng ý của gia đình Phượng.
Mẹ Phượng nói với con gái:
- Nhà mình đã nghèo thế này, may mắn con có chút nhan sắc, con phải ráng kiếm cho được một tấm chồng kha khá một chút mới có thể vươn lên với đời được. Con mà ưng thằng Dương thì cuộc đời con không chừng còn khổ gấp mấy lần đời mẹ. Nó bây giờ một thân một mình còn lo không nổi thì làm sao lo được cho vợ, cho con chứ?
Mặc dù mẹ Phượng đã phân tích rất cặn kẽ, nhưng tuổi trẻ lúc bấy giờ khi yêu nhau không quan tâm nhiều đến vấn đề vật chất như thanh niên nam nữ thời nay.
Không được mẹ cha chấp thuậ, Phượng gói ghém áo quần về chung sống với Dương.
Ngày Phượng về, Dương là một mâm cơm rượu thịnh soạn theo kiểu của mấy đứa chúng tôi.
Dương bảo:
- Tụi tao nghèo, thương nhau mà đến tiền để làm một bữa ra trò thết đãi bạn bà cũng không có, thôi thì bọn mày là bạn thân, bon mầy hiểu lòng tao. Hôm nay coi như ngày cưới của vợ chồng tao, mời bọn mầy nâng cốc.
Chúng tôi kéo Phượng cùng ngồi xuống chiếc chiếu trải trên nền đất ẩm thấp, ép Phượng cũng phải nhấp môi cùng cả lũ bọn tôi.
Phượng thẹn thùng nhưng vui lắm.
Bữa tiệc nhỏ đơn sơ đó mãi mãi là một kỷ niệm khó quên đối với cả năm đứa chúng tôi. Mặc dù sau này, chúng tôi từng đi dự nhiều đám cưới linh đình, tổ chức ở các nhà hàng sang trọng, nhưng không ở chỗ nào, chúng tôi tìm lại được cái không khí đầm ấm, thân thiết như đám cưới của đôi Dương – Phượng lúc bấy giờ.
Khi đã ngà ngà say, Thắng gõ muỗng vào xoong nghêu ngao hát: “Em, em ơi… ra mà xem họ cưới nhau kìa…!”.
Hát hò đã đời, Thắng quàng tay qua vai Dương:
- Vợ chồng mày cho phép tụi tao tá túc thêm đêm nay nữa nhe! Ngày mai tụi tao sẽ kiếm chỗ dọn đi, trả lại khung trời tình yêu cho đôi vợ chồng son…
Dương gạt ngang:
- Tụi mầy không cần phải đi đâu hết! Ăn nhiều chứ ở bao nhiêu? Ngày mai tao kiếm vật liệu về che ngang đây làm thành cái buồng, dành riêng cho vợ chồng tao, ở ngoài này tụi bây muốn làm gì thì làm. Đi đâu làm gì cho tốn tiền! Tụi mình đứa nào cũng đi suốt ngày, tối mịt mới mò về rồi lăn ra ngủ, có là gì đâu mà sợ chật chội.
Phượng tuy có vẻ thẹn nhưng cũng tiếp lời:
- Mấy anh cứ ở lại đây cho vợ chồng em vui. Chứ chỉ có hai đứa tụi em cũng buồn lắm…
Hùng vỗ tay đánh đét vào đùi:
- Vậy là nhất vợ chồng mầy rồi đó Dương! Việc ngăn cái buồng, mầy cứ yên tâm đi, để đó tụi tao lo. Tối mai vợ chồng mầy về là sẽ chỗ ấm êm, kín đáo ngay tắp lự…
Đôi má vốn đã hồng vì mấy hớp rượu của Phượng giờ càng đỏ lựng lên khi nghe mấy lời Hùng nói.
Dương gật gù:
- Vậy vợ chồng tao cảm ơn tụi mầy trước nghen!
Cuộc sống của chúng tôi vẫn tiếp diễn gần giống như bình thường. Chỉ khác mỗi một chuyện là giờ đây trong tác phong và lời nói khi ở nhà của bọn tôi có phần ý tứ hơn, vì đứa nào cũng biết, ngoài bốn thằng đực rựa – bốn thanh gươm cùn mằn rỉ sét, trong nhà này còn có một “bông hoa”!
Những tưởng vợ chồng Dương được sống với nhau sẽ là điều hạnh phúc, vì đó là niềm mơ ước, khát khao của hai đứa nó.
Nhưng thật không ngờ, chỉ mới ấm êm được mấy tháng thì sóng gió bắt đầu nổi lên. Mà nguyên nhân cũng vì cái tính hay ghen của Phượng và cái tính đa tình lãng mạn của Dương!
Dương làm bảo vệ ở bến xe. Tính tình Dương lại vui vẻ, xởi lởi nên hàng ngày rất được các cô buôn bán trong khu vực bến xe, cũng như các cô đi buôn chuyến đường dài quen mặt thường nhờ vả, trêu ghẹo.
Họ trêu Dương thì Dương trêu lại.
Là bạn trai với nhau, tôi tin Dương không hề thương yêu ai khác Phượng. Nhưng Dương cứ hết cười tình với cô này lại quay sang nói chuyện đẩy đưa với cô khác, thì làm sao một người vợ như Phượng có thể chịu đựng được.
Chúng tôi đã phân tích, đã khuyên nhủ Phượng rất nhiều, nhưng những gì Phượng nói cũng có lý, chúng tôi không cãi lại được.
Phượng bảo:
- Lúc trước, khi chưa thành vợ chồng, ảnh có thể đùa vui chọc ghẹo ai cũng được, nhưng bây giờ khác rồi, dù gì ảnh cũng phải thể hiện rằng mình đã có vợ, thể hiện sự tôn trọng vợ mình chứ. Các anh nghĩ vậy có đúng không?
Ngừng một chút, Phượng ấm ức nói tiếp:
- Em là vợ, làm sao em chịu đựng nổi khi nhìn thấy cảnh một người phụ nữ khác láy khăn tay lau mồ hôi cho ảnh, rồi ảnh lại bưng ly nước đưa cho người khác uống. Đùa giỡn thì cũng phải có giới hạn chứ, em không chịu đựng nổi những cảnh đó đâu!
Vợ chồng Dương thường xuyên lục đục vì những chuyện như vậy làm mấy đứa chúng tôi cũng buồn nẫu ruột.
Tôi, Hùng và Thắng cũng đã nhỏ to khuyên Dương nên chìu ý vợ. Dương gãi tai, nhăn nhó:
- Tụi mầy biết rõ tao mà, tao đâu có tình ý gì với ai đâu? Chỉ là vui chơi thôi, tính tao nó vậy rồi, đâu phải nói bỏ là bỏ được! Nhưng tao hứa, tao sẽ cố gắng…
Dương cũng đã rất cố gắng.
Mỗi ngày đi làm, Dương cố giữ bộ mặt nghiêm trang, có vẻ “hình sự”. Mới đầu mấy em ve vãn hỏi:
- Hôm nay nhà “anh giai” có chuyện gì không vui hay sao mà mặt mày giống đưa đám vậy?
Dương ừ hử qua loa, nhưng qua tới ngày hôm sau, Dương đã vơi đi một tí quyết tâm, mà các em trong bến xe lại không chịu buông tha:
- Anh giai nhà mình bị vợ mắng nên mới quặp râu như vậy đó!
- Chị nhà sợ chúng em đây lấy mất cái trinh tiết ngàn vàng của anh hay sao mà giữ kỹ thế?
- Không chừng chị đã “cắt” giữ ở nhà rồi cũng nên, phải không anh giai?
Mấy cô thi nhau nói rồi đấm vai nhau thùm thụp, cười rũ rượi.
Máu trong người Dương như sôi lên. Dương không nhịn được nữa, tính thích pha trò của Dương lại bừng dậy:
- Này này em ơi, em có muốn thử không? Thử để biết anh có mang “ấy” theo bên mình không đấy mà?
- Còn em! Em bảo râu anh quặp à? Em nhìn cho thật kỹ đi nhé! Ở nhà anh là vua, anh phán một tiếng là vợ răm rắp tuân theo. Anh chỉ con chuột nói con mèo vợ cũng không dám cãi, anh bảo đi thẳng thì không đời nào vợ dám rẽ ngang…
- Ôi dào, không ngờ ông anh nhà mình lại có uy với vợ đến mức đó! Vậy anh ơi, anh có dám “thơm” lên má em để chứng minh không nào?
- Thơm thì thơm chứ, ngán ai đâu nào?
Những câu đối đáp và cả cái hôn thoáng qua trên má cô gái bán báo ở bến xe đã không qua khỏi cặp mắt của Phượng.
Phượng không làm dữ, không khóc lóc mà chỉ lặng lẽ bỏ về, xách luôn cái cà mèn cơm mang tới cho Dương.
Tối hôm đó ở nhà Dương xảy ra một cuộc chiến nảy lửa giữa hai vợ chồng.
Lúc mới bột phát, tôi, Hùng và Thắng còn can người này, khuyên người khác, nhưng chỉ một chập sau, cả ba đứa tôi rút hết vào ngồi dựa vách, trở thành quan tòa bất đắc dĩ để nghe hai người tố cáo lẫn nhau.
Phượng bảo Dương là người không chung thuỷ, đã có vợ rồi mà còn tình ý lăng nhăng với người khác.
Dương thì cho rằng Phượng là loại đàn bà nhỏ nhen ích kỷ, muốn chiếm hữu chồng mình, ngăn cấm chồng mình đủ thứ.
- Tôi lấy vợ chứ có phải đi tù đâu mà phải cải tạo bản thân mình chứ? Tôi xưa nay sống vậy quen rồi, không sửa được đâu. Vả lại tôi thấy không có gì cần thiết phải sửa cả! Tôi đùa vui chút lát cho cuộc đời nó tươi, có hại gì đến ai đâu mà cần thay đổi? Chỉ tại cô quá nhỏ mọn mới nhìn ra vấn đề, chứ nếu cô nghĩ thoáng hơn một chút thôi thì mọi việc sẽ bình thường hết!
Dương nóng lên nên nói cứng.
Phượng ôm mặt khóc to:
- Ba mẹ tôi nói quả thật không sai! Anh là thằng không ra gì! Tôi ưng anh là đời tôi sẽ khổ. Vậy mà tôi không nghe lời, tôi đi theo anh để giờ đây tôi bị anh đối xử thế này đây! Mẹ ơi là mẹ…
Dương nghiến răng:
- À, thì ra cô hối hận vì đã lấy tôi sao? Vậy thì cô đi đi! Đi đi! Tôi không cản…
Phượng vùng dậy định chạy ra cửa nhưng Thắng đã nhanh chân chạy ra đứng chắn ngay cửa không cho Phượng thoát ra ngoài.
Chúng tôi hết đứa này tới đứa kia thay nhau năn nỉ, dỗ dành Phượng và trách mắng Dương.
Một hồi lâu sau, cơn nóng giận của Dương hạ xuống, Dương bắt đầu thấy hối hận vì những lời nói của mình nên quay sang xin lỗi Phượng.
Đêm đó, chúng tôi vẫn cứ nghe hai người rì rầm mãi, không biết Dương hứa hẹn chuyện gì mà sáng hôm sau đã thấy Phượng tươi vui trở lại.
Nhưng rồi cứ vài ba hôm lại lặp lại một màn giống y như vậy, khiến ba đứa khách trọ chúng tôi đâm ra chán nản. Thằng Hùng đã bàn tới chuyện dọn đi nơi khác.
Chúng tôi chưa kịp đi thì một biến cố không ngờ đã xảy ra.
Phượng tự vẫn!
Hôm đó cũng giống như thường ngày, cả nhà đi làm hết, chỉ riêng tôi ở lại vì đêm trước tôi bị sốt rất cao, sáng ra đầu óc còn nặng nề, choáng váng không thể đi làm được.
Cỡ độ tám giờ sáng thì bất chợt Phượng quay về.
Tôi ngạc nhiên:
- Ủa, sao em về giờ này vậy Phượng?
Phượng không trả lời tôi mà ủ rủ ngồi xuống bên cạnh:
- Em khổ quá anh ơi!...
Tôi thở dài:
- Phải chuyện thằng Dương không? Anh nói rồi, tại tính nó thế thôi chứ nó chỉ yêu thương mỗi mình em.
Phượng lắc đầu:
- Anh không hiểu đâu! Sự gần gũi nào lâu ngày cũng sinh ra tình cảm quyến luyến… Em thật sự không chịu đựng nổi nữa rồi. Hôm nay em quay về xin lỗi mẹ, năn nỉ được quay về nhưng mẹ em nhất quyết từ chối. Mẹ bảo mẹ đã từ em rồi… Em bây giờ bơ vơ… Em cãi lời cha mẹ đi theo ảnh, tưởng đâu sẽ được ảnh yêu thương, ai có ngờ… giờ đây em không còn gia đình, chồng cũng sắp mất rồi… hu hu hu…
Phượng bật khóc nức nở.
Tôi cũng muốn an ủi Phượng ít lời, nhưng thật sự lúc đó tôi mệt mỏi quá, tôi chỉ muốn được yên lặng để ngủ. Với lại chuyện khóc lóc, hờn giận ghen tuông này diễn ra hà rầm, không còn làm cho tôi mủi lòng nữa. Hình như cả ba đứa ở nhờ chúng tôi đều đã bão hòa trước sự việc này.
Vì vậy, tôi chỉ nói một câu gạt ngang:
- Em đừng có nghĩ vớ vẩn nữa! Thôi anh ngủ đây, anh mệt quá…
Phượng có vẻ hơi thất vọng vì không tìm được sự chia sẻ nơi tôi. Cô đi vào phòng lục đục gì đó một lúc rồi đi ra.
Tôi nằm đó nhắm mắt vờ ngủ, cũng không hỏi Phượng đi đâu nữa.
Nhưng Phượng không đi lâu. Chỉ độ mười phút sau Phượng lại trở về.
Vừa nghe tiếng chân Phượng trước cửa, tôi lật đật nằm quay mặt vô vách, giả bộ thở đều đều như đang ngủ.
Phượng đến gần bên tôi, gọi khẽ:
- Anh Năm! Anh Năm!
Tôi đã quá ngán ngẫm cái địêp khúc kể lể, ngán ngẫm những gịot nước mắt ngắn dài của Phượng nên giả bộ không nghe.
Phượng gọi không được đành bỏ về phòng mình.
Tôi nghe tiếng Phượng dọn dẹp gì đó lục đục trong phòng. Tiếng khóc lúc thì sụt sịt nho nhỏ, lúc lại thổn thức tức tưởi.
Mí mắt tôi nặng trĩu, tôi chìm vào giấc ngủ lúc nào tôi cũng không hay.
Những tiếng động lạ làm giấc ngủ mơ màng của tôi bị đánh thức.
Tôi ngơ ngác lắng tai nghe. Rõ ràng từ trong phòng Dương có tiếng gì giống như tiếng vật mình vật mẩy.
Tôi ngồi dậy, lên tiếng:
- Phượng ơi, em làm gì trong đó vậy?
Không có tiếng trả lời, tôi hỏi tiếp:
- Dương, có mầy trong đó không? Phượng, có em không? Anh vào à nghen?
Không nghe ai lên tiếng, tôi hoảng quá đứng phắt lên chạy tới đẩy cửa phòng. Cánh cửa chỉ khép hờ nên khi tôi vừa đẩy một cái trước mắt tôi đã bày ra một cảnh tượng kinh hoàng: Phượng đang vật vã trên giường, miệng sùi bọt trắng xóa, mắt chỉ toàn tròng trắng.
Tôi hốt hoảng và không biết do đâu lúc đó tôi lại có sức mạnh đến vậy. Tôi nhào tới bế thốc Phượng lên, rồi cứ thế chạy băng băng mấy cây số đưa Phượng vào bệnh viện cấp cứu.
Nhưng tất cả đã muộn màng. Vừa vào tới bệnh viện, Phượng đã trút hơi thở cuối cùng, ngay trên tay tôi.
Dương nhận được tin dữ đang lúc ngồi uống cà phê trong bến xe. Ly cà phê trên tay Dương rơi xuống vỡ tan. Dương lập cập đứng lên mwojn chiếc xe đạp của người bạn cạnh đó phóng ngay vô bệnh viện.
Lá thư tuyệt mạng của Phượng để lại trong phòng chỉ có vài dòng nguệch ngoạc:
“Em quá đau khổ, em không còn con đường nào để đi hết. Ba mẹ từ bỏ em, chồng em không chung thủy với em… em đành phải bán chiếc áo mới may hôm cưới nhau để lấy tiền mua gói thuốc chuộc, tìm lối thoát cho riêng mình! Anh Dương ơi, em hận anh! Dù có chết đi, em cũng không cho phép anh được hạnh phúc với bất kỳ ai khác…”
Sau ngày Phượng mất, Dương đau khổ, suy sụp một thời gian dài và tính tình bỗng trở nên thay đổi hẳn.
Dương im lìm, ít nói hơn trước. Các cô gái ở bến xe tuy không biết rõ ràng lắm về cái chết của vợ Dương, nhưng hình như ai cũng cảm thấy có một điều gì đó liên quan tới những trò đùa vui quá trớn của mình. Họ cảm thông chia sẻ với Dương, nhưng không ai chọc ghẹo Dương nữa.
Dương làm ở bến xe thêm mấy tháng nữa rồi đột ngột bỏ việc, lang thang theo chúng tôi sống những ngày bấp bênh, lây lất…
Năm tháng chầm chậm trôi qua, tôi, Hùng, Thắng lần lượt có gia đình rồi cuộc sống dần dần trở nên ổn định.
Chúng tôi không ở cùng Dương từ rất lâu rồi nhưng vẫn là những người bạn thân thiết nhất của nhau.
Tôi có chút nghề mọn, được gia đình bên vợ giúp đỡ nên đã mở một tiệm sửa điện tử, công việc làm ăn khấm khá dần lên, giờ đây cuộc sống của gia đình tôi coi như đã ổn định.
Thắng ban đầu làm thợ sửa xe, sau mở tiệm riêng, nay thì đã là ông chủ của một ga ra tên tuổi ở Sài Gòn.
Nhưng cả hai đứa tôi không đứa nào bằng Hùng.
Trước đây Hùng là thằng lù đù nhất bọn, nhưng quả thật ông bà ta nói không sai: “Lù đù vác lu mà chạy”. Cái thằng coi như dở nhất bọn ấy không ngờ lại làm ăn ra phết. Hiện nay đã có trong tay mấy cái nhà hàng khách sạn ngon lành giữa lòng Sài Gòn hoa lệ.
Chỉ riêng mỗi mình Dương vẫn không thay đổi mấy.
Chỗ Dương ở bây giờ không còn hoang vu hẻo lánh nữa. Sài Gòn được mở rộng ra, tấc đất trở thành tấc vàng chỉ sau một đêm. Miếng đất Dương ở hiện nay đã có giá trị hàng tỉ đồng thật sự chứ không chỉ là nói giỡn chơi của Dương mấy chục năm về trước.
Tất cả đều thay đổi, chỉ trừ bản thân Dương!
Dương đã cắt bán bớt một míeng đất, lấy tiền xây một ngôi nhà nhỏ nhưng thật khang trang ngay trên nền nhà cũ.
Công việc của Dương giờ cũng ổn định, nhưng Dương vẫn đi về một bóng lẻ loi.
Không phải Dương sống đời độc thân vì muốn đền đáp lại tội lỗi đã gây ra với Phượng hay vì lòng thương nhớ, thủy chung với người vợ vắn số ngày nào. Mà là… Dương không thể lấy vợ được do lời nguyền của Phượng trong lá thư tuyệt mệnh mấy mươi năm trước!
Một thời gian sau ngày Phượng mất, bạn bè thấy Dương buồn bã, sa đà vào nhậu nhẹt nên ai nấy đều cố công gán ghép Dương với một cô gái bán chè ở gần đó.
Hai người có vẻ cũng có tình ý với nhau sau khi bị chúng tôi ghép đôi. Đã mấy lần hai anh chị đi chơi riêng với nhau rồi.
Bạn bè cũng mừng cho Dương. Thôi thì mong nó sớm tìm lại được niềm vui, được có người an ủi, chăm lo sớm tối.
Nhưng thật không ngờ, khi hai người vừa bàn tới chuyện hôn nhân thì cô gái bán chè gặp tai nạn. Một tai nạn vô cùng lãng nhách!
Đang ngồi với gánh chè trong sân nhà, cô gái bị một gã đàn ông say rượu phóng honda từ ngoài đường tông thẳng vào, gãy xương đùi phải nằm viện mấy ngày và ra về với một cẳng chân bó bột trắng toát.
Trong những ngày đó, Dương rất nhiệt tình chăm sóc cô. Chúng tôi vẫn tưởng sau tai nạn lần này, tình cảm giữa hai người càng thêm khắn khít. Nhưng khi cái chân còn chưa kịp tháo bột thì cô gái bán chè đã nói lời chia tay với Dương.
Tối hôm ấy thấy Dương say khướt, tôi ngạc nhiên hỏi:
- Hôm nay mầy làm gì nhậu dữ vậy?
Dương cười hô hố:
- Đời mà mậy, không say thì biết làm gì? Tao còn muốn uống say hơn nữa… nhưng thật buồn, càng uống càng thấy người cứ tỉnh hẳn ra…
- Mầy với Gánh chè có chuyện xích mích nhau à?
Tôi tò mò. Chúng tôi vẫn thường gọi cô người yêu bán chè của Dương bằng cái tên “Gánh chè” ngồ ngộ đó.
- Nó chia tay tao rồi…
Dương ôm đầu khổ sở.
- Chia tay? Sao thế? Hay mầy lại làm điều gì không phải với nó?
Tôi ngạc nhiên.
Dương nhướng mắt nhìn tôi rồi chỉ tay lên bàn thờ Phượng:
- Không… tao đâu có làm gì sai… Tất cả… tất cả chỉ tại cái bà hay ghen tương này mà thôi…
Tôi nhăn mặt:
- Mầy nói gì tao không hiểu?
Dương cười ngất. Khật khưỡng bước tới bàn thờ, lấy tấm ảnh của Phượng xuống mân mê trên tay:
- Cái bà này hồi còn sống đã không biết tao thương yêu bả cỡ nào… Tao thì tính hay cà rỡn vui đùa, chứ thật lòng tao chỉ yêu thương mỗi mình bả. Bả đã dám rời bỏ gia đình để đi theo tao, tao cảm động lắm, tao luôn nghĩ trong lòng ráng làm kiếm tiền để lo cho bả một cuộc sống đàng hoàng tử tế… Nhưng không ngờ bả lại ghen tương vớ vẩn. Bả không hiểu tao. Bả tìm cái chết… Rồi giờ đây bả cũng nhất định không cho tao tìm được hạnh phúc với ai khác, đúng y như lời bả nói trong thư dạo trước…
Tôi vẫn lắc đầu:
- Mầy nói chuyện vòng vo tam quốc, tao nghe mà chả hiểu gì! Bây giờ nói tóm lại, tại sao Gánh chè chia tay với mầy lại liên quan tới Phượng? Chẳng lẽ hồn ma của Phượng hiện về ngăn cản tụi mầy hay sao?
Dương nhừa nhựa:
- Thì đó… bả hiện về… nói với Gánh chè là… yêu đương lớt lớt cho vui thì được, chứ thành vợ thành chồng chính thức với tao thì không đời nào. Việc bị đụng xe chỉ là một cảnh cáo nho nhỏ thôi, nếu Gánh chè vẫn ngoan cố tiến tới với tao thì sẽ không giữ được mạng sống. Gánh chè quá sợ hãi nên mới chia tay với tao…
Tôi cười:
- Nói chuyện tầm xàm bá láp gì đâu không! Có thể do Gánh chè nghe người ta kể chuyện vợ mầy trước đây, nó bị ám ảnh nên ngủ mơ màng rồi tưởng tượng ra chuyện không đâu… Mầy cũng tin ba cái chuyện ma cỏ vậy sao?
Dương trợn mắt ngó tôi:
- Mầy đừng nói vậy chứ! Tao tin lắm, vì… tao vẫn thường gặp Phượng. Tao không kể ra vì sợ tụi mầy sợ ma rồi bỏ tao một mình, chứ thật sự Phượng vẫn thường xuyên hiện về, lần nào cô ấy cũng nhắc đi nhắc lại một câu, không cho phép tao cưới bất kỳ ai…
Tôi cười khẩy:
- Tao không tin! Cũng do mầy nghĩ nhiều tới lá thư tuyệt mạng của Phượng mà thành ảo giác vậy thôi…
Dương không thèm nói chuyện với tôi nữa, nó lấy tay chùi chùi mặt kiếng của khung hình và cười hơ hớ:
- Hơ hơ… vợ yêu quý ơi… thằng Năm nó không tin em linh hiển kia kìa! Tối nay em về dằn mặt nó một trận cho nó tởn đi, nghe em?
Tôi thấy thằng này say quá rồi, cứ ngồi đây mà cãi tay đôi với nó hổng chừng nổi điên lên mất. Vì vậy tôi tắt đèn, hối nó đi ngủ và tôi cũng chui vào cái xó của mình.
Đang ngủ mơ màng, tôi nghe tiếng gõ cửa nhè nhẹ. Cứ tưởng hai thằng Hùng, Thắng về bất chợt.
Lúc chiều hai thằng bảo tối nay không về nhà vì đi ăn giỗ ở xa, chắc ngủ lại đó luôn. Hi hi… kiểu này hai ông tướng không được chủ nhà chứa chấp nên phải lặn lội trở về trong đêm khuya thế này đây…
Tôi lồm cồm ngồi dậy, mắt nhắm mắt mở lần ra cửa.
Cánh cửa vừa hé ra, một làn gió lạnh ngắt thổi ùa vào làm tôi rùng mình và tỉnh hẳn ngủ.
Ngoài sân, ánh trăng đầu tháng mờ mờ nhưng cũ soi cho tôi thấy rõ ràng không có một bóng người nào đứng bên ngoài cánh cửa.
Tôi bước hẳn ra sân, ngó dáo dác. Chẳng lẽ hôm nay hai thằng trời đánh này bất chợt nổi hứng muốn chơi trốn tìm hay là muốn hù dọa nhát ma tôi?
Tôi lên tiếng:
- Ê, hai thằng mắc dịch! Có vô thì vô cho lẹ đẻ tao còn ngủ tiếp, không thôi tao đóng cửa, hai đứa ráng chịu khó ngủ ngoài hiên nhà luôn nhe?
Vẫn không có ai đáp lại lời tôi.
Đêm thật yên tĩnh, ngay cả tiếng giun dế cũng im bặt, chỉ có tiếng gió thổi rất khẽ bên tai tôi.
Bực mình tôi quay trở vào nhà khép cửa lại.
Nhưng khi cái chốt cửa vừa được gài vào thì tôi lại nghe rõ ràng tiếng gõ cốc cốc bên ngoài.
Tôi mở bung cánh cửa ra, vẫn không có ai ngoài đấy!
Tôi lại khép cửa, giả vờ gài chốt, nhưng thật sự tôi đã chuẩn bị sẵn tư thế để mở cửa một cách nhanh nhất, hòng bắt quả tang kẻ đùa giỡn trong đêm.
Khi tiếng “cốc” đầu tiên vừa khe khẽ vang lên thì tôi bã vọt nhanh ra ngoài, kẻ kia dẫu có học phép thần công “Lăng Ba Vi Bộ” của người anh hùng trẻ tuổi Đoàn Dự trong phim Thiên Long Bát Bộ cũng không tài nào trốn thoát khỏi tay tôi.
Nhưng thật lạ lùng, trước mắt tôi vẫn chỉ là khoảng không vắng ngắt!
Lúc này tôi bắt đầu cảm thấy có điều gì đó bất ổn đang xảy ra. Chắc chắn không phải Hùng hay Thắng chọc phá tôi rồi, vì tụi nó không thể nào biến đi một cách chớp nhoáng như thế được.
Chỉ có thể… chỉ có thể… có thể là ma mới ẩn hiện tài tình đến thế!
Tôi bất chợt nổi da gà khi nhớ lại những lời nói của Dương hồi đầu hôm:
“Hơ hơ… vợ yêu quý ơi… thằng Năm nó không tin em linh hiển kia kìa! Tối nay em về dằn mặt nó một trận cho nó tởn đi, nghe em?”
Chẳng lẽ… chẳng lẽ nào đây là sự thật? Phượng linh thiêng đến thế thật sao?
Tôi đi giật lùi vào nhà, vội vã đóng chặt cửa lại rồi chạy ào về chỗ nằm của mình kéo mền trùm kín mặt.
Nhưng ở đời, có cái lạ là hễ điều gì mình càng sợ thì hình như nó càng thích đến với mình.
Tôi nằm im, dỏng tai lên nghe ngóng. Ban đầu không có gì lạ, chỉ là tiếng gió lướt thướt sột soạt bên hiên nhà, rồi tiếng kêu thảng thốt lạc lõng của một con chim đêm nào đó… Nhưng rồi tôi nghe hình như có tiếng chân đi rất khẽ phía bên ngoài. Tiếng chân dừng lại ở cửa, tiếng gõ cốc cốc lại vang lên rất khẽ khàng.
Tôi định lên tiếng hỏi “ai đó” thật lớn để đánh thức thằng Dương đang ngủ trong kia. Nhưng tôi chợt nhớ ra, hồi lúc tối nó đã say đến thế kia mà, thằng đó mỗi khi say rượu mà lăn ra ngủ rồi thì nhà có cháy nó cũng không thức dậy nổi huống hồ gì tiếng kêu nhỏ nhoi của một mình tôi.
Đành vậy, đành giả điếc không nghe gì.
Gõ mấy cái liền không thấy bên trong nhà có động tĩnh gì, tiếng chân bước đi. Tôi thở phào nhẹ nhõm, nhủ thầm trong bụng:
- Lạy tạ ơn trời phật, nó đi đâu thì đi, đừng quấy rối tôi nữa!
Ý nghĩ trong đầu tôi chưa kịp dứt thì tôi nghe tim mình thắt lại, vì rõ ràng tiếng chân đang vòng ra hè và dừng lại ngay chỗ tôi nằm, chỉ cách tôi một bức vách mỏng manh tạm bợ…
Tôi nín thở, người co rút lại như muốn trốn cho thật kín đáo trong chiếc mền vá víu tứ tung.
Có tiếng cào cào lên vách, rồi tiếng gọi cất lên làm tôi toát mồ hôi hột:
- Anh Năm! Anh Năm ơi… anh ngủ chưa?
Rõ ràng là tiếng của Phượng! Dù tiếng nói lúc này nghe xa vắng như dội lại từ đâu đâu, nhưng tôi vẫn nhận ra âm điệu quen thuộc của Phượng ngày nào.
Tôi nhắm mắt, bịt tai để cố gắng không nghe không thấy bất cứ điều gì nữa nhưng những lời nói của Phượng vẫn rõ mồn một, y như đang được phát ra từ trong tai tôi vậy:
- Anh Năm ơi… sao anh lại xui anh Dương đi cưới vợ? Anh Dương là chồng của em mà… Anh phải cản anh Dương lại cho em… Anh Năm ơi… em khổ lắm, em thương anh Dương lắm… Anh biết điều đó mà, phải không anh Năm?
Tôi không dám lên tiếng, tay chân tôi rã rời bủn rủn…
Ở bên kia tấm vách, Phượng khóc rưng rức, tiếng khóc ai oán não nề làm tôi run bắn cả người lên.
- Anh Năm ơi… sao anh lại xui anh Dương đi cưới vợ? Anh Dương là chồng của em mà… Anh phải cản anh Dương lại cho em… Anh Năm ơi… em khổ lắm, em thương anh Dương lắm… Anh biết điều đó mà, phải không anh Năm?
Phượng lặp lại câu nói đó rồi lại khóc lóc nỉ non, rồi lại nói, lại khóc… Tất cả cứ lặp đi lặp lại như một chương trình đã được cài đặt sẵn, như một cuộc băng cassette tự động đổi chiều…
Tôi gồng mình chịu đựng. Từng sợi dây thần kinh của tôi như căng lên, sắp vỡ…
Đến lúc tôi sắp không thể duy trì tiếp sự căng thẳng tột độ này, tôi sắp hét lên để phá vỡ cái không khí ma quái điên loạn ấy thì tiếng khóc tiếng rên bên ngoài im bặt.
Thần kinh tôi từ từ dịu xuống. Tôi buông hai tay ra, ngơ ngác lắng nghe.
Năm phút rồi mười phút trôi qua, tất cả lặng yên, tất cả như không có gì xảy ra trước đó.
Tôi cắn mạnh vào ngón tay mình và biết mình đang rất tỉnh táo.
Tôi không ngủ được nữa, cứ nằm thao thức chờ trời sáng.
Trời vừa rạng sáng, tôi vội vàng dậy thắp nhang lên bàn thơ Phượng, lầm rầm khấn vái:
- Phượng ơi, em đừng về nhát anh Năm nữa… Anh Năm sợ lắm! Anh Năm không dám đốc xúi thằng Dương lấy vợ nữa đâu, xin em để cho anh được yên thân…
Lúc đó tôi đã quá ích kỷ, tôi chỉ nghĩ tới sự an toàn cho riêng bản thân mình mà không hề nghĩ gì tới số phận của thằng bạn tên Dương nữa.
Tôi thắp nhang xong, làm vệ sinh qua loa rồi vội vã đi làm thật sớm. Cái chính là tôi muốn thoát khỏi nơi đó. Trong đầu tôi đã nghĩ tới chuyện dời đi nơi khác.
Hôm sau, tôi kể lại câu chuyện trên cho Dương, Hùng, Thắng nghe.
Hùng với Thắng có vẻ bán tín bán nghi, còn Dương thì cười ngất ra chiều đắc ý lắm:
- Hơ hơ… tao đã nói mà mầy không chịu tin! Phượng khi còn sống ghen như Hoạn Thư, giờ chết rồi vẫn là một con ma ghen siêu hạng. Thôi rồi, đời trai của tao coi như bế mạc, kiếp này tao đành phải sống lẻ loi cho vừa lòng Phượng của tao thôi…
Những lời nói của Dương vừa như đùa giỡn lại vừa như lời oán thán thật tội nghịêp.
Sau lần đó không lâu thì lần lượt tới lượt Hùng và Thắng gặp Phượng, cũng bởi vì cái tội đốc thúc Dương cưới người này người khác.
Tụi tôi đâm ra sợ hãi và từ từ mỗi đứa tự tìm lấy nơi ở mới và lần lượt rút đi, bỏ lại một mình Dương trong căn nhà quạnh vắng…
Đó là những chuyện xảy ra từ rất lâu rồi, từ sau ngày Phượng mới qua đời, lúc khu nhà Dương sống còn hoang vắng.
Sau này khi tất cả thay đổi. Những người dân sống trong khu vực đó lần lượt bán đất đai ôm một số tiền lớn đi tìm nơi ở mới, chỉ còn lại một vài người bám trụ, trong đó có Dương.
Câu chuyện về cái chết của Phượng và chuyện hồn ma ghen tuông cũng dần dần đi vào quên lãng. Những người mới dọn đến không ai biết gì về quá khứ của Dương mà người ta cũng không bỏ công tìm hiểu. Vì khi đời sống nâng cao, tự dưng cuộc sống của mỗi gia đình bỗng trở nên khép kín.
Họ không quan tâm lắm tới những chuyện xảy ra bên kia cánh cổng nhà mình nếu như nó không liên hệ gì đến cuộc sống của mình.
Tôi, Hùng, Thắng đã lập gia đình. Chuyện ngày xưa cũng chìm xuống, không đứa nào còn cảm thấy sợ Phượng nữa. Với lại chúng tôi nghĩ, đã nhiều năm như vậy rồi, chắc hẳn linh hồn Phượng, nếu có, cũng đã đi đầu thai kiếp khác.
Nhưng sự thật lại không như thế!
Dương vẫn tiếp tục sống đời lãng tử. Làm được bao nhiêu là chơi sạch: rượu chè, cờ bạc, gái gú… chuyện gì Dương cũng không bỏ qua…
Có người không biết trách Dương sống phóng túng, sao không chọn lựa một cô chính thức cưới về làm vợ để bầu bạn với nhau.
Nhưng chúng tôi là bạn chúng tôi hiểu rõ Dương hơn ai hết.
Dương cũng đã từng mơ ước, từng khát khao một cuộc sống gia đình bình thường như bao nhiêu người khác, Dương cũng thèm một mái nhà có bóng dáng người phụ nữ và tiếng trẻ con bi bô cười nói. Nhưng hạnh phúc dường như luôn luôn đùa cợt với Dương.
Dương quen biết rồi đem lòng yêu thương lần lượt nhiều người, nhưng với bất kỳ với ai một khi tình cảm đã đi tới giai đoạn mặn nồng thì người con gái đó lại gặp tai họa.
Một hai lần người ta còn chống chế cho đó chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng sự việc cứ lặp đi lặp lại nhiều lần như thế khiến cho mấy người không bao giờ tin vào chuyện dị đoan ma quỷ cũng phải lung lay…
Mà với người con gái nào, sau khi bị tai nạn cũng gặp Phượng hiện về trong giấc mộng.
Ngoại trừ cô gái bán chè trước kia, các cô sau này hoàn toàn không hề biết về cái chết của Phượng, cũng không biết vợ Dương tên là Phượng. Họ chỉ biết Dương đã có một đời vợ, không may vợ Dương vắn số qua đời, thế thôi. Nhưng sau khi bị tai nạn thì tất cả các cô đều kể vanh vách tên tuổi vợ Dương và lý do cái chết của vợ Dương ra sao…
Lời đồn thổi lan truyền đi rất nhanh, đến nỗi tất cả các cô gái cũng như các bà góa, các bà lỡ thì ở các khu vực lân cận đó đều không ai dám có tình cảm với Dương, mặc dù Dương rất hiền, khá điển trai, nhà cửa đàng hoàng, công việc ổn định.
Có một dạo, Dương như điên loạn, như muốn thách thức với hồn ma nghiệt ngã của Phượng. Ngày nào Dương cũng dẫn gái giang hồ về nhà uống rượu, đùa vui thác loạn…
Thời gian đó thì linh hồn của Phượng cũng nổi điên lên.
Phượng không chỉ hiện ra để “dằn mặt” những người có liên quan mà hiện ra khắp nơi trong khu vực.
Người dân sống ở đó một phen nháo nhào trước những hiện tượng lạ lùng không giải thích được xuất hiện ngay trong nhà mình.
Một bà cụ người Huế sáng sớm ra trước cổng mua tô hủ tiếu, làm như vô tình hỏi người bán:
- Cô có biết trước đây ở khu vực này có ai tên Phượng chết vì tự vẫn bằng thuốc chuột không?
Người bán hủ tiếu mắt lấm lét ngó xung quanh rồi thì thào hỏi nhỏ:
- Cô ấy cũng đã đến nhà bà kia à? Mấy hôm nay cô ấy cũng xuất hiện khắp các nhà ở đây, lượn lờ qua lại, khóc lóc nỉ non rồi tự xưng danh tánh. Tụi tôi cứ ngỡ cổ chỉ đến với mấy nhà dân lao động bình thường, còn người sang cả như bà thì cổ phải kiêng dè chứ, ai ngờ cô này…
Thế rồi người này rỉ tai người nọ, cuối cùng người ta đúc kết ra rằng có một hồn ma trước đây vì ghen tương mà chết, giờ không siêu thoát được, cứ sống vất vưởng quanh đây. Hồn ma không làm hại gì ai ngoại trừ nó làm cho đầu óc người ta trở nên căng thẳng và nỗi sợ hãi lo âu chiếm hữu tất cả mọi người.
Những người tin dị đoan, tin vào thánh thần ma quay thì vội vội vàng vàng lên chùa nhờ sư cụ tụng kinh cầu an, xin một đạo bùa bình an, trừ tà ma về để trong nhà. Có người nhờ đến thầy pháp tụng niệm bùa chú hòng xua đuổi oan hồn ra khỏi khu vực nhà mình. Có người tìm tới tận nhà Dương nhang đèn hoa quả cầu khẩn Phượng xin cho họ được bình yên vui sống.
Chúng tôi, những thằng bạn nối khố của Dương không nỡ lòng nhìn bạn mình sống đời bất hạnh mãi như thế nhưng thật tình cũng không đứa nào nghĩ ra cách gì giải thoát Dương ra khỏi lời nguyền độc địa của Phượng.
Nhưng rồi một điều may mắn đã xảy ra. Đó là khu nghĩa địa có mộ Phượng được lệnh giải toả.
Giữa lúc Dương còn đang băn khoăn không biết phải di dời mộ vợ đi đâu thì một bà bác lớn tuổi tới nhà cho ý kiến:
- Tôi nói điều này cũng là muốn tốt cho chú Dương đây và tốt cho cả bà con cô bác ở khu vực này. Lâu nay hồn ma cô Phượng cứ thỉnh thoảng lại hiện về làm cho mọi người sợ hãi, đó là do cô ấy chưa siêu thoát được nên ngần ấy năm trôi qua rồi mà vẫn còn vất vưởng nơi trần thế. Lâu nay tôi đã muốn nói, nhưng sợ chú Dương không đồng ý. Nay sẵn dịp di dời, tôi thấy chú nên làm như vầy, có thể sẽ giúp cô ấy được siêu thoát đi đầu thai kiếp khác.
Dương nôn nóng:
- Bác làm ơn chỉ bảo giúp! Cháu là đàn ông con trai, cháu không biết được những chuyện thế này phải giải quyết cách nào…
Bà bác gật gù:
- Theo tôi, chú bốc mộ cô ấy đem đi hỏa táng rồi mang lên gởi trên chùa để ngày ngày cô ấy nghe kinh kệ, giải được nghịêp chướng, làm cho vong linh nhẹ nhàng.
Dương mừng rỡ:
- Vậy mà lâu nay cháu không nghĩ tới việc đó, mà cũng không ai khuyên cháu làm như vậy! Thiệt tình cháu cảm ơn bác nhiều lắm, cháu sẽ làm theo lời bác chỉ bảo.
Bà bác mỉm cười:
- Là tôi cũng chỉ nghĩ thế nên mới khuyên chú, còn kết quả thế nào tôi cũng không dám cả quyết. Chuyện như vậy người lớn tuổi chắc ai cũng nghĩ tới, nhưng có lẽ vì không thân cận với chú nên người ta ngại không dám góp ý với chuyện nhà người. Ở đất Sài Gòn này đâu phải như ở dưới quê mình đâu chú…
Ngay hôm sau Dương chạy đi tìm chúng tôi nói lại ý kiến đó. Cả ba đứa tôi đều ngẩng người ra vì tại sao chỉ có vậy mà biết bao năm qua mình lại không nhớ được? Hồi ở ngoài quê, chuyện tương tự cũng đã nghe qua rồi mà sao cả mấy đứa đều u u mê mê không nghĩ được.
- Hay tại hồn ma của Phượng che chắn trí óc mình đi?
Thắng kêu lên.
Tôi, Dương và Hùng cùng gật đầu:
- Có lẽ thế thật.
Thế là cả ba đứa chúng tôi bàn tới việc bốc mộ, hỏa thiêu rồi đem gởi ở chùa nào…
Đêm đó cả mấy đứa lại kéo tới nhà Dương cùng uống rượu và ngủ lại đó để sáng hôm sau phụ giúp Dương trong việc di dời hài cốt của Phượng.
Gần nửa đêm, khi chúng tôi đứa nào cũng đã ngà ngà say, bỗng nhiên bát hương trên bàn thờ Phượng phựt cháy đỏ rực, may  mà thằng Thắng còn đủ tỉnh táo dội nguyên xô nước đá tan chảy lên đó mới dập tắt được nhanh chóng.
Chuyện thật lạ kỳ!
Lúc chập tối, khi mới tới nhà, chính tay tôi đã thắp nhang lên bàn thờ Phượng. Cây nhang đó cháy rất bình thường và đã tắt từ rất lâu rồi, hà cớ gì bây giờ lại phựt cháy? Có cái gì ngoài mấy đám chân nhang khẳng khiu trong bát? Cái gì làm phựt lửa?
Không giải thích được, chúng tôi chỉ còn giải thích bằng cách cho là Phượng đang phản đối những bàn tính của chúng tôi.
Mà quả thật Phượng không đồng ý!
Chúng tôi chưa kịp hết hoang mang vì chuyện đó thì bỗng dưng thằng Hùng kêu rú lên, tay chỉ lên bàn thờ.
Cả bọn nhìn theo. Bức ảnh bán thân của Phượng rõ ràng đang chuyển động! Cả bốn đứa, tám con mắt thì không thể bảo rằng nhìn lầm hay hoa mắt được…
Bức hình cứ lớn dần lớn dần rồi bất ngờ mọi người đều nhận thấy Phượng đang đứng cạnh chiếc bàn bên trên còn la liệt bát đĩa ngổn ngang…
Phượng tiến dần về phía Dương.
Lúc đầu Dương như điếng người, cứ đứng chôn chân một chỗ. Nhưng rồi Dương trở nên hoảng hốt cứ lùi dần lùi dần sát vào tường, Phượng thì cứ từ từ tiến tới…
Còn lại ba đứa chúng tôi, đứa nào mắt cũng tròn xoe, miệng há hốc ra không kêu được lời nào.
Khi chỉ còn cách Dương chừng nửa sãi tay, Phượng đột ngột đứng lại và bắt đầu khóc. Tiếng khóc tức tưởi giống y như lúc Phượng còn sống mấy chục năm về trước.
- Anh Dương… sao anh tàn nhẫn với em đến thế? Em yêu anh… anh biết điều đó mà? Vì quá yêu anh nên em đã trốn tránh để được ở mãi quanh quẩn bên anh, vậy mà hôm nay anh nỡ nào nghe lời xúi giục của người khác mà định đem em đi giam cầm ở nơi khác… em van xin anh, xin anh đừng làm như thế…
Dương phần nào lấy lại được bình tĩnh:
- Em đừng như vậy! Em biết anh vẫn thương em mà, phải không? Nhưng em đã gây ra quá nhiều sai lầm, anh không thể tiếp tục để em gây thêm sai lầm nữa…
- Em sai lầm ư?
Phượng nức nở hỏi lại.
Có lẽ bao nhiêu uất ức mà Dương phải chịu đựng đã tới lúc phải được giãy bày, thê nên Dương trở nên mạnh mẽ hẳn, không còn chút gì sợ sệt trong giọng nói cũng như thái độ nữa.
Dương tiến ra, Phượng lùi dần.
Dương ngồi vào ghế và chỉ tay vào chiếc ghế đối diện:
- Em ngồi xuống đi! Hôm nay mình cần nói chuyện với nhau một lần, nói hết để không ai phải ấm ức nữa.
Rồi Dương quay nhìn về phía chúng tôi, hất đầu ra hiệu:
- Mấy đứa tụi bây cũng tới đây ngồi đi!
Chúng tôi sợ sệt, riu ríu tới kéo ghê ngồi thật sát vào nhau, mắt vẫn nhìn Phượng chăm chú.
Phượng vẫn trẻ trung như ngày trước, chỉ có nước da trắng hồng ngày nào giờ xanh xao vàng võ, mặt mày không còn chút sinh khí nào mà thôi.
Trước đây nghe người ta kể chuyện ma quỷ, hình ảnh ma thường là răng nanh mọc dài, tóc tai dã dượi, lưỡi thè lè đỏ chót thật gớm ghê.
Đây là lần đầu tiên chúng tôi thật sự trông thấy ma, đối diện với một linh hồn thật sự.
Những lần trước có gặp Phượng đi nữa cũng chỉ là nghe tiếng nói, thấy thấp thoáng một bóng trắng đi ngang qua mình hoặc hơn nữa là thấy Phượng trong lúc đầu óc mơ mơ màng màng nửa thức nửa ngủ.
Chỉ lúc này đây mới thật là rõ ràng và tỉnh táo.
Nếu chúng tôi là người lạ, không biết Phượng đã chết rồi thì có thể chúng tôi cũng không biết đây là một hồn ma, mà có thể nghĩ người con gái này đang bệnh rất nặng thế thôi!
Đôi môi Phượng tái mét, gương mặt xanh xao nhưng quần áo, tóc tai vẫn tươm tất y như hồi còn sống.
Phượng cũng đưa ánh mắt sáng lòe nhìn cả ba đứa chúng tôi một lượt.
Dương bắt đầu nói:
- Ngày tao với Phượng cưới nhau ba đứa tụi mầy là khách mời, là nhân chứng. Giờ đây tao cũng thật vui vì trong giờ phút hiếm hoi thế này lại có đủ mặt cả ba đứa.
Dương ngừng lại một chút rồi nhìn thẳng vào Phượng:
- Anh thành thật xin lỗi vì đã làm em đau đớn đến mức phải tự hủy hoại đời mình. Nhưng nếu em đã yêu anh thì phải biết đó là cái tính từ lúc cha sanh mẹ đẻ, đâu phải muốn thay đổi là thay đổi được ngay! Em yêu anh mà không tin tưởng anh. Em tự hủy hoại mình là em đã gây ra một sai lầm lớn. Rồi sau đó em lại tiếp tục đi hết sai lầm này tới sai lầm khác khi em gây ra tai nạn cho những cô gái vô tội chỉ vì các cô ấy yêu anh. Nếu như em khẳng định anh có lỗi với em, thì bản thân anh đây, em muốn làm gì thì làm, anh sẵn sàng đền cho em mà không hối tiếc. Em muốn chiếm hữu anh, đày đoạ anh thì em bắt hồn anh đi rồi tùy nghi định đoạt. Tại sao em lại để anh sống ung dung trên cõi đời này với một trái tim cô độc cần có được người san sẻ cảm thông. Mà người nào cảm thông, chia sẻ được với anh thì lại bị em làm hại. Tại sao thế hở Phượng?
Dương nhìn Phượng, chờ đợi câu trả lời, nhưng Phượng chỉ khóc vùi, không nói một tiếng nào.
Lát sau Dương tiếp:
- Rồi em lại tác oai tác oái, em hiện ra doạ cả những người không hề liên quan đến chuyện của vợ chồng chúng ta. Em khai danh tính, em nói rõ ràng hoàn cảnh của em. Em làm như thế để làm gì? Mục đích của em là bêu rếu anh, làm cho tất cả mọi người đều biết anh là một kẻ khốn nạn, trăng hoa đã gây nên cái chết của vợ mình hay sao? Anh thật sự thất vọng về em lắm Phượng ơi…
- Không… em không có ý đó…
Phượng nghẹn ngào.
- Vậy ý em là gì? Em nói rõ cho anh biết đi?
Dương tỏ ra lạnh lùng.
Phượng bây giờ trở nên hiền lành ý như đêm cưới nhau mấy mươi năm trước. Nhìn dáng vẻ tội nghiệp của cô ấy, tôi những muốn can ngăn Dương đừng kể tội Phượng thêm nữa.
Nhưng rồi tôi nghĩ, thôi thì cứ để hai người họ nói hết với nhau để giải quyết một lần cho rốt ráo.
Nghĩ thế nên tôi ngồi im, cả Thắng và Hùng cũng trở nên những khán giả bát đắc dĩ khổ sở thế này…
Phượng co người lại như đang lạnh lắm, cô cố dằn tiếng tức tưởi còn ở nơi lồng ngực:
- Em… em làm vậy là chỉ muốn… muốn đừng có cô gái nào đến gần anh… em không chịu nổi khi thấy anh cùng với người khác âu yếm thương yêu, em không chịu nổi… anh có biết không?
Dương cay đắng:
- Thế thì em giết anh chết quách cho rồi đi, rồi ở nơi âm ti địa ngục ấy anh sẽ âu yếm yêu thương em! Anh sống làm gì mà phải đơn côi suốt kiếp? Anh là con người, anh cũng có nhu cầu của con người bình thường, em không hiểu điều đó sao? Em làm vậy thì em sẽ được gì? Sao em không sống để anh yêu thương âu yếm? Em, chính em đã tước đi điều đó kia mà…
Phượng lại nấc lên:
- Anh không hiểu em…
Dương lắc đầu:
- Không phải! Anh rất hiểu em nữa là đằng khác! Em yêu anh, điều đó anh không phản đối, nhưng tâm địa em lại vô cùng nhỏ nhen, hạn hẹp. Em chết đi là muốn để cho anh phải dằn vặt đau khổ hết kiếp này. Thì anh đã và đang dằn vặt ghê gớm, em không nhận thấy sao? Em không giết chết anh để trả thù mà em muốn trả thù anh một cách cay độc hơn. Đó là em vẫn để cho anh sống, nhưng em lại tước đi cái quyền làm người của anh… em rất giỏi! Em giống y như Hoạn Thư trong Truyện Kiều vậy! Em làm cho anh lao đao lận đận mà không biết phải nói sao, trong khi em vẫn luôn miệng nói em thương yêu anh…
Lâu nay chúng tôi đứa nào cũng biết thằng Dương là thằng ăn nói lưu loát, văn chương nhất trong bọn, nhưng đây là lần đầu tiên chúng tôi được chứng kiến những lập luận của nó.
Phượng khóc ròng, không nói được lời nào.
Dương cứng rắn:
- Ngày mai anh sẽ bốc mộ em đi hỏa thiêu rồi đưa lên chùa. Em có thể chọn ở chùa nào, anh sẽ chìu theo ý em lần sau cuối.
Dương vừa nói dứt câu, Phượng hoảng hốt, rối rít van xin:
- Anh Dương ơi, em đã nhận thấy sai lầm của em rồi. Mong anh tha thứ cho em… Anh đừng đưa em lên chùa nghe anh? Anh hỏa táng xong rồi vẫn có thể đem tro than hài cốt em về để ở nhà mình mà, phải không anh? Em sợ lên chùa lắm… lên đó giống như bị giam cầm…
- Không được, điều đó anh không thể chìu em được!
Dương nói dứt khoát.
Phượng khóc òa lên.
Đến lúc này tôi không thể khong xen vào:
- Phượng à, anh muốn nói với em điều này, xin em hãy vui lòng lắng nghe…
Tôi ngập ngừng giây lát, thấy Phượng không phản đối nên nói tiếp:
- Em mất cũng đã quá lâu rồi, linh hồn em đáng lẽ đã đi đầu thai kiếp khác, nhưng chỉ vì em còn nặng nợ với thằng Dương, em mang lòng hận thù sâu sắc quá nên chưa siêu thoát được. Bây giờ, nếu vẫn để em sống vất vưởng quanh đây, thì em lại gây thêm lầm lỗi nếu một khi em không chịu được hạnh phúc của Dương. Còn nếu em cam chịu thì em có vui sướng gì được đâu hay chỉ là đau khổ? Tự đày đoạ mình mấy mươi năm qua như vậy là quá đủ rồi em ạ. Em hãy giải thoát linh hồn mình ra khỏi những bi ai trần thế, biết đâu ở kiếp sau em sẽ được hạnh phúc gấp bội lần. Em không thể cứ đày đoạ mình, đày đọa Dương mãi như thế được Phượng à!
Tôi giống như kẻ châm ngòi cho pháo nổ. Thằng Hùng, thằng Thắng cũng mỗi đứa khuyên giải một câu.
Bốn chúng tôi cùng với một linh hồn cứ không ngừng trao đổi với nhau.
Phượng chừng như đã giác ngộ. Cô không còn van xin khóc lóc nữa mà chỉ nhìn Dương bằng đôi mắt thật thiết tha, làm ba đứa chúng tôi cũng thấy nhói đau trong lòng.
Hình như Dương cũng đau đớn lắm, nhưng ngoài mặt Dương vẫn tỏ vẻ lạnh lùng xa vắng.
Lúc nãy chúng tôi đứa nào cũng đã ngà say, nhưng từ khi Phượng xuất hiện thì cả bốn đứa đều trở nên tỉnh táo một cách lạ thường.
Trên bàn ngổn ngang bát đũa, ly tách. Bản năng phụ nữ trong Phượng lúc này lại trỗi dậy. Phượng đứng lên dọn dẹp.
Dương ngăn lại:
- Để đó cho anh!
Phượng không nói lời nào chỉ cúi đầu làm, giả như không hề nghe Dương nói gì hết.
Tôi nhè nhẹ đặt tay lên tay Dương, ra hiệu cho Dương im lặng, cứ để cho cô ấy được thể hiện tình cảm của mình một lần sau cuối.
Lúc Phượng bê mâm chén bát xuống nhà sau, Dương đổ gục xuống bàn, hai vai run lên bần bật.
Chúng tôi đứa nào cũng biết Dương đang đau đớn lắm nhưng cố gồng chịu đựng đấy thôi.
Dương không dám biểu lộ tình cảm của mình có lẽ vì sợ Phượng cứ vương vấn mãi sẽ khổ cho tất cả mọi người…
Ừ, mầy khóc được thì cứ khóc cho nhẹ người đi Dương ạ! Nước mắt một thằng đàn ông như mầy chắc mang nhiều vị mặn lắm đây.
Mầy cứ khóc đi, và Phượng nữa, chắc lúc này ở dưới bếp Phượng cũng đang thầm khóc…
Tụi mầy đã có trong tay một tình yêu sâu đậm đến vậy mà không đứa nào biết trân tọng giữ gìn để giờ đây phải lâm vào cảnh trớ trêu cay nghiệt…
Tao không biết phải chia sẻ với mầy, với Phượng sao nữa Dương ơi….
Tôi đặt tay lên vai Dương, nói thầm trong lòng mình như vậy…
Lúc Phượng đi từ dưới bếp lên thì vẳng từ xa nghe tiếng gà gáy sáng. Phượng có vẻ hốt hoảng, lo sợ lắm.
Đến gần bên Dương, Phượng ngậm ngùi:
- Anh Dương… có lẽ đây là lần sau cùng em được gặp anh! Ngày mai em sẽ nghe theo sự sắp đặt của anh, anh muốn đưa em lên chùa nào thì em sẽ ở chùa nấy. Đối với em chùa nào cũng như nhau, cũng là nơi giam hãm em, không cho em được quanh quẩn bên anh. Nhưng thôi, nếu như điều đó thật sự đem lại sự tốt đẹp cho tất cả chúng ta thì em xin được bằng lòng… em không van nài anh nữa… Lần sau cùng, em chỉ muốn anh hiểu cho em một điều, rằng tất cả những gì em đã làm, đã gây ra chỉ vì em quá yêu anh, quá dại khờ nông nỗi chứ tâm địa em không như anh đã nghĩ…
Quay sang ba đứa chúng tôi, Phượng mỉm cười trong nước mắt:
- Em xin lỗi vì trong thời gian qua em đã làm phiền các anh không ít. Mong các anh rộng lòng tha thứ cho em. Lần này em mới thật sự vĩnh biệt các anh. Em mong mỏi các anh vẫn mãi mãi là bạn tốt của nhau… Các anh… các anh chăm sóc anh Dương của em giúp em với…
Hình như Phượng còn muốn nói thêm nhiều nữa nhưng vì cô nghẹn ngào không nói được thành câu.
Tiếng gà mỗi lúc một giục giã thêm hơn.
Hình bóng Phượng đột nhiên nhòe đi rồi từ từ tan ra ngay trước mắt bốn đứa chúng tôi.
Dương đứng bật dậy, hai tay Dương huơ quào vào khoảng không gian mà mới vừa rồi có Phượng hiện diện trong đó. Gương mặt Dương hằn lên một nỗi đau đớn ghê gớm mà chúng tôi chưa nhìn thấy bao giờ, ngay cả lúc ôm xác chết của Phượng trong tay năm ấy trông Dương cũng không đến nỗi đớn đau cùng cực như thế này…
- Phượng ơi…
Tiếng kêu thống thiết của Dương là cả ba đứa chúng tôi đều không cầm được nước mắt.
Bốn thằng con trai dạn dày phong sương, lăn lộn ngoài đời từ năm mười bảy tuổi, tưởng tâm hồn đã chai cứng đi rồi, nhưng giờ phút này đây trên mặt đứa nào cũng nhòe nhoẹt nước mắt…
Dương đổ gục xuống và hình như không còn sức lực để đứng lên.

***
Sáng hôm sau, theo kế hoạch đã định trước, chúng tôi làm tất cả thủ tục cũng như các công đoạn để đưa Phượng vào gởi gắm ở ngôi chùa gần đó.
Khi tất cả đã xong, thường thì thế nào bọn tôi cũng lại ngồi uống với nhau vài chung rượu, nhưng hôm nay tự nhiên lòng đứa nào cũng nặng trĩu, khong ai còn nghĩ gì tới chuyện đó nữa.
Nhất là Dương. Từ sáng sớm trông Dương đã phờ phạc đi rất nhiều. Dương chạy đầu này đầu kia như một cái máy, nhưng lúc ngồi mình thì trông Dương như kẻ mất hồn cứ ngơ ngẩn ngẩn ngơ…
Cả ba đứa chúng tôi đều phải về nhà vì đã đi từ hôm qua tới nay, không khéo về lại bị vợ con cằn nhằn nữa thì khổ.
Về, nhưng cả ba đều rất lo ngại cho Dương.
- Có gì thì gọi điện cho tao nghe mậy?
Tôi căn dặn trước khi cho xe nổ máy.
Dương cười méo xệch:
- Ừ, không sao đâu mà, tao chỉ hơi mệt chút thôi. Tụi mầy về đi, tao vô ngủ một giấc là khỏe ngay ấy mà, tụi mầy đừng lo! Về đi, kẻo vợ con chờ tội nghiệp!...
Chúng tôi về nhưng Dương thì không khỏe lại được như lời nó nói.
Dương nằm bẹp luôn kể từ đêm hôm ấy.
Hôm sau tôi cảm thấy nóng ruột, gọi điện khong thấy người bắt máy nên tôi vội vã chạy sang nhà Dương thì Dương đã được hàng xóm đưa vào bệnh viện từ sáng sớm.
Tôi lập tức liên lạc với Hùng, Thắng báo cho tụi nó biết tin rồi hộc tốc chạy vào bệnh viện thăm Dương.
Tôi như không nhận ra Dương được nữa, dù mới gặp nhau cách đó một ngày thôi!
Người Dương gầy sọp hẳn đi, mái tóc gần như bạc gần hết, râu ria đâm ra tua tủa trông thật dễ sợ.
Dương nằm nhắm mắt, hơi thở khó nhọc.
Chúng tôi dỗ dành cách nào Dương cũng không ăn uống gì được.
Hỏi thì bác sĩ bảo Dương bị suy nhược cơ thể, suy nhược thần kinh…
Ba đứa chúng tôi thay phiên nhau ở lại bệnh viện chăm sóc Dương.
Đêm thứ tư Dương ở bệnh viện thì xảy ra chuyện. Đêm đó tôi là người ở lại.
Đang ngủ mơ màng, tôi nghe thấy có người lay nhẹ vai mình. Mở mắt ra tôi hoảng hốt vì trông thấy Phượng.
Tôi chưa kịp kêu lên, Phượng vội vàng ra dấu bảo tôi im lặng rồi nói khẽ bên tai tôi:
- Phần số anh Dương đến đây là hết rồi anh ạ! Đáng lẽ lúc này là lúc em phải lên đường về cõi khác, nhưng vì được điều này nên em năn nỉ người ta cho em tới đây cùng đi với ảnh. Em cảm ơn các anh đã hết lòng hết dạ với vợ chồng em. Em thật lấy làm xấu hổ vì mình không biết giữ lấy hạnh phúc của mình, lại còn làm liên luỵ đến nhiều người khác… Duyên nợ giữa em với anh Dương chưa dứt nên chỉ chốc lát nữa đây chúng em sẽ đi đầu thai, rồi lại sẽ gặp nhau ở kiếp sau này… em sẽ cố gắng trân trọng nâng niu những gì mình có… Em cảm ơn các anh… em thay mặt anh Dương cảm ơn các anh nhiều lắm…
Phượng vừa nói xong lập tức biến mất.
Tôi còn đang bàng hoàng thảng thốt thì trên giường bệnh, tôi thấy Dương khẽ trân mình rồi thở hắt ra một hơi nhẹ…
Tôi nhào tới, đặt tay lên mũi Dương thì đã không còn dấu hiệu của sự sống nữa rồi!
Khi các bác sĩ, y tá tới xác định với tôi rằng Dương đã chết thật sự rồi. Tôi run rẩy lấy điện thoại ra gọi cho Hùng.
- Thằng Dương đi rồi sao? Trời ơi… nhằm lúc này vợ tao vừa mới vô bệnh viện, con gái tao sinh…
Tiếng Hùng bối rối bên kia đầu dây.
Tôi hỏi:
- Con gái mầy sinh hả? Trai hay gái?
- Con trai, ba ký tư, ngon lành lắm! Thôi, để tao gọi điện nói với bả một tiếng rồi chạy qua với mầy liền, kẻo bả gọi về không gặp tao lại tru tréo lên thì mệt lắm…
Hùng vội vã cúp máy.
Tôi tiếp tục gọi cho Thắng.
- Trời! Thằng Dương mất rồi à? Bây giờ tao làm sao được đây? Vợ tao vô ở trong bệnh viện từ tối, con dâu tao mới vừa sanh, giờ chỉ có mình tao ở nhà, biết làm sao đây? Mầy… mầy chờ tao một chút, để tao gọi điện nhờ thằng em vợ lên đây coi nhà giùm rồi tao qua với mầy liền…
Thắng hấp tấp.
Tôi vội hỏi:
- Con dâu mầy sinh rồi à? Con gái hay con trai?
Tiếng Thắng phấn chấn:
- Công chúa mầy ơi! Xinh xắn lắm…
Tôi tắt điện thoại, miệng lẩm bẩm một câu mà chỉ riêng mình mới hiểu được:
- Chẳng lẽ… chẳng lẽ nào lại là hai đứa chúng nó hay sao?
Ba đứa chúng tôi đứng ra lo việc tang ma cho Dương đàng hoàng tử tế.
Chúng tôi đưa Dương đi hỏa táng rồi mang hài cố lên chùa gởi ở đó, chính là ngôi chùa mới mấy ngày trước đây chúng tôi và Dương đem gởi hài cốt Phượng.
Trên đường về, tôi bất chợt hỏi Hùng và Thắng:
- Hai ông có tin chuyện thằng Dương, con Phượng sẽ tiếp tục gặp nhau ở kiếp sau không?
Hùng, Thắng không trả lời mà chỉ nhìn tôi với vẻ đầy thắc mắc.
- Trước khi Dương trút hơi thở cuối cùng, tao đã gặp Phượng!
Tôi nói.
Thắng, Hùng đồng thanh kêu lên:
- Ông gặp Phượng à? Chính Phượng bắt hồn thằng Dương à?
Tôi lắc đầu:
- Không phải! Dương đã mãn phần số. Phượng biết được điều này nên tìm tới đây đón Dương đi cùng. Phượng bảo duyên nợ giữa nó với Dương chưa kết thúc nên chúng nó sẽ cùng đi đầu thai một lúc để rồi sau này sẽ lại tìm gặp nhau…
Hùng, Thắng chưa kịp có phản ứng trước lời kể của tôi thì tôi đã nói tiếp:
- Thật không ngờ, lúc Dương trút hơi cuối cùng, cũng là lúc cháu nội, cháu ngoại của hai ông vừa được sinh ra… Tôi thầm nghĩ có khi nào… có khi nào chính là hai đứa tụi nó?...
Thắng, Hùng khựng lại một lúc rồi bất chợt bảo tôi quay đầu xe chạy theo về bệnh viện.
Hùng, Thắng khăng khăng đòi bế đứa ra ngoài cho tôi nhìn mặt.
Đứa bé gái cháu nội của Thắng tuy vừa mới chào đời nhưng ở khóe môi bên phải có một nốt ruồi rất rõ giống y vị trí và nốt ruồi của Phượng. Còn cháu ngoại của Hùng thì phía dưới gót chân có một bớt son màu đỏ không khác gì bớt son ở chân của Dương.
Cả ba chúng tôi nhìn nhau kinh ngạc, nhưng cả ba đều ra dấu bảo nhau im lặng.
Rời bệnh viện, ba đứa chúng tôi không về  nhà vội mà kéo nhau vào quán cà phê bên đường.
Thắng thở dài:
- Thật không ngờ! Câu chuyện này nếu mình không là người chứng kiến từ đầu đến cuối thì không thể nào mình tin được bởi nó quá sức hoang đường…
Hùng vẫn chưa hết hồi hộp:
- Sao hai đứa nó lại chọn đúng vào hai đứa cháu của mình mà đầu thai lên chứ? Tao vẫn sợ có chuyện không hay xảy ra với hai đứa bé này…
Tôi trấn an:
- Hai ông đừng có lo! Theo tôi nghĩ, việc tụi nó đầu thai lên làm con ai chắc không thể nào do hai đứa nó quyết định được. Có lẽ nợ duyên giữa bọn mình với vợ chồng nó cũng vẫn còn nên nó mới đầu thai lên làm cháu hai ông. Tôi thiết nghĩ, kiếp này hai đứa nó đã để lỡ hạnh phúc của mình, thì kiếp sau chúng sẽ biết giữ gìn trân trọng hơn như lời Phượng nói với tao trong bệnh viện… Việc gì tới sẽ tới, mình cũng không ngăn cản được… Thôi thì cứ phó mặc cho số mạng đi! Nhưng hai ông phải nhớ một điều, ngoài ba đứa bọn mình ra, đừng bao giờ hai ông hé môi chuyện này với ai khác. Một là người ta sẽ cho là mình điên, mình bị bệnh hoang tưởng, còn hai là người ta sẽ lo sợ hoang mang… Không cái nào có lợi hết, mà chỉ có hại thôi. Vậy nên cả ba chúng ta đều phải giữ thật kín chuyện này, nhất là đừng để cho mẹ của hai đứa trẻ biết…
Hùng, Thắng gật đầu:
- Ừ, ông không dặn thì tự chúng tôi cũng phải biết giữ miệng mà…

***
Ngày tháng thắm thoát thoi đưa, hai đứa bé mỗi ngày một lớn. Nhà không xa nhau mấy, giữa hai gia đình lại có mối thâm giao bè bạn nên hai đứa bé thường được dẫn tới gặp và vui đùa với nhau.
Dưới mắt mọi người, chuyện hai đứa bé cùng trang lứa quấn quýt nhau là chuyện bình thường không có gì đáng để quan tâm, nhưng riêng với ba lão già bọn tôi thì… đó lại là điều chúng tôi quan tâm số một!
Hai đứa lớn lên mạnh khỏe và xinh xắn.
Đến tuổi đi học, chúng lại được học cùng với nhau một lớp.
Những hôm cha mẹ đứa này bận thì cha mẹ đứa kia đưa đón cả hai, tình thân giữa hai gia đình và hai đứa bé càng ngày càng trở nên khắng khít.
Thắng kể, có lần thấy hai đứa nhỏ đùa vui với nhau, mẹ của hai đứa đã nói nhỏ:
- Sau này chúng lớn lên, mình làm sui với nhau nhé?
Âu đó là số phận! Thắng cũng hài lòng với sự sắp đặt đó của tạo hóa.
Ba người bạn già chúng tôi mỗi lúc ngồi với nhau lại khề khà nhắc chuyện năm xưa, nhắc lại cái thời còn nghèo khó, nhắc tình bạn giữa chúng tôi và Dương, nhắc lại khoảng thời gian sống không mất tiền nhà ở nhà Dương… ôi, những kỷ niệm đó đầy ắp theo năm tháng, mà dù có nhắc nhở, có kể lể hoài vẫn không thấy chán…
Có lần Hùng hỏi:
- Sau này khi hai đứa trẻ trưởng thành, giả sử chúng thật sự thành chồng thành vợ, mình có nên kể cho chúng nghe chuyện kiếp trước của chúng hay không?
Thắng cười ngất:
- Bộ ông muốn chúng nó gọi mình là các lão già lẩm cẩm hay sao mà nói ra chuyện đó? Ông nhắm có ai tin được những điều mình nói hay không? Câu chuyện lạ lùng này thì tôi, ông và ông Năm đây sống để dạ chết mang theo chứ không thể kể cho ai nghe được, kể ra thì lập tức mình sẽ trở thành các lão già đầu óc mụ mị trước mắt con cháu ngay thôi, ông liệu hồn đó…
Tôi gật gù:
- Ừ, điều ông Thắng nói quả không sai! Sẽ không có một người nào khác có thể tin vào câu chuyện này đâu!
Năm tháng cứ bình thản trôi qua, ba đứa chúng tôi giờ đầu đứa nào tóc cũng đã bạc phơ, có chuyện quen chuyện nhớ…
Hai đứa trẻ cũng đã lớn phổng phao theo thời gian.
Khi hai đứa tốt nghiệp Đại học, có công ăn việc làm thật sự ổn định là hai gia đình bàn tới chuyện cưới xin.
Chiều đó ông Thắng nhắn tôi tới nhà gấp.
Khi tôi tới thì ông Hùng đã có mặt.
Vì tuổi cao, cả ba đã tự nguyện bỏ rượu từ mấy năm nay, nhưng chiều hôm ấy ông Thắng phá lệ.
Ông mang ra một chai rượu, cười nói:
- Hôm nay ba lão già chúng mình phải cạn hết chai này mới thôi! Hai ông đừng từ chối! Tôi thật sự vui mừng quá! Rồi thì mọi chuyện đâu cũng vào đấy, chuyện hy hữu này không phải ai ssông trên đời cũng chứng kiến được và am tường…
- Ừ, tôi cũng vui lắm! Nhất định hôm nay tôi cũng phải phá lệ, uống với hai ông…
Ông Hùng cười tít mắt phụ họa theo.
Tôi ngơ ngác:
- Hai ông nói chuyện gì mà tôi chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra làm sao cả?
Ông Hùng và ông Thắng cùng phá ra cười.
Chập sau ông Hùng bảo:
- Này, ông thật chưa biết gì sao? Chúng tôi sắp sửa thành thông gia với nhau rồi đấy! Như vậy là mọi việc đúng y như những lời ông nói trước đây, như vậy có đáng ăn mừng hay không đây?
Tôi reo lên:
- Đúng! Đúng rồi! Việc như vậy thì đáng để ăn mừng, đáng để ba lão già chúng ta phá lệ quá đi chứ!
Cô con dâu ông Thắng đem lên cho chúng tôi một đĩa mực xào. Đặt dĩa mực xuống bàn cô cứ cười chúm chím mãi mà chúng tôi không hiểu lý do gì.
Chập sau, khi cô con dâu đã đi khuất, ông Thắng mới khề khà kể rằng:
- Từ trưa tới giờ cả nhà đều thắc mắc và theo trêu chọc tôi không ngừng, vì không ai hiểu tại sao trong mối lương duyên này hình như tôi là người có vẻ vui tươi và phấn khởi nhất? Vợ con tôi bảo rằng tôi thích lên chức, thích có cháu cố; rồi lại còn bảo tôi già sinh tật ham vui, thích nhà có tiệc tùng… Ôi thôi, họ đưa ra rất nhiều giả thiết, nhưng tôi mặc kệ, gì cũng được, niềm vui của tôi thì chỉ có hai ông bạn chí cốt đây là hiểu được mà thôi! Khà khà…
Hơm ấy chúng tôi ngồi lại với nhau, lại nhắc về những kỷ niệm cũ. Trong lòng đứa nào cũng thoáng chút bùi ngùi xa xót.
Nhưng khi trộm nhìn hai đứa trẻ thì lòng chúng tôi lại trỗi dậy niềm vui.
Tôi thầm thì với hai ông bạn già:
- Hơ hơ… giờ này tụi mình ngồi đây, nhìn dĩa mực xào ngon lành thế này mà có ăn được bao nhiêu đâu vì răng cỏ đứa nào cũng lung lay gần hết rồi! Mình sắp về chầu Diêm Vương, còn ông Dương ấy thì sung sướng thật, giờ này mới bắt đầu chuẩn bị cưới vợ… mình nghĩ mà… ghen với hắn ấy chứ!
Cả ba chúng tôi phá ra cười.
Vợ ông Thắng đi ngang qua, tủm tỉm:
- Các ông này có gì bí mật với nhau mà vui vẻ một cách khó hiểu ghê…
Khi rượu đã ngấm tí chút, tôi xin phép gia đình gọi hai đứa trẻ lên chúc mừng và nói với nó thế này:
- Hai cháu phải biết trân trọng giữ gìn cái hạnh phúc mà mình đang có trong tay, hai cháu nhé!
Hai đứa ngoan ngoãn cúi đầu vâng lời và cảm ơn tôi.
Nhìn hai đứa trẻ phơi phới tuổi xuân đang háo hứa chuẩn bị cho ngày cưới, bất chợt tôi nhớ đến cái đám cưới ngày nào của Dương và Phượng mà không khỏi ngậm ngùi…
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:05:38 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:34:41
NGƯỜI BẠN MA
 
Suốt những năm học ở trường phổ thông, kỷ niệm êm đềm và đẹp đẽ nhất với tôi là những kỷ niệm gắn với Sương – cô bạn cùng lớp đồng thời cũng là cô láng giềng dễ thương nhất của tôi.
Từ nhỏ, tôi và Sương đã là đôi bạn thân thiết. Năm tôi học lớp năm thì Sương theo mẹ chuyển về sống ở cạnh nhà tôi.
Hồi ấy, tôi thường hỏi Sương:
- Ba của bạn đâu? Sao không bao giờ mình thấy ba bạn vậy?
Sương cười thật hồn nhiên:
- Ba mình đi làm ăn xa, mẹ nói nếu mình ngoan và học giỏi thì mai mốt ba về. Khi nào ba mình về, chắc chắn sẽ mua cho mình thật nhiều đồ chơi, thật nhiều kẹo bánh, mình sẽ chia cho bạn nhé?
Tôi nhăn răng cười:
- Ừ, bạn nhớ đó!
Nhà Sương chỉ có hai mẹ con. Mẹ Sương làm công nhân trong một hãng dệt xa nhà nên thường xuyên gửi Sương chơi ở nhà tôi.
Chúng tôi cùng chơi, cùng học. Ba mẹ tôi thấy hai đứa thân thiết với nhau nên vui lắm.
Mẹ tôi thường hay ôm Sương vào lòng hôn hít, cột tóc, thắt bím cho Sương.
Mẹ bảo:
- Phải chi con là con gái của mẹ thì hay quá!
Mẹ tôi chỉ có hai đứa con trai là anh Hai và tôi nên mẹ thích con gái lắm, cả ba cũng vậy. Sương trở thành một nhân vật mà cả nhà tôi ai cũng quan tâm.
Một lần trông thấy chúng tôi chơi trò đám cưới giả, mẹ tôi bật cười:
- Hai đứa lớn nhanh lên rồi ba mẹ làm cho đám cưới thật.
Nghe vậy Sương mắc cỡ len lén gỡ vòng hoa trên đầu xuống. Cái vòng hoa kết bằng đủ thứ hoa dại mà tôi và Sương phải bỏ rất nhiều công sức mới hái được.
Tôi thì lúc ấy không biết ngượng ngập là gì, cứ cười toe tóet ra chừng thích thú lắm.
Rồi thời gian trôi qua, chúng tôi không còn là những đứa con nít vô tư nữa.
Tôi bắt đầu vỡ tiếng, hai bên mép lông mọc có vẻ sậm hơn.
CoØn Sương, Sương đã trở thành một thiếu nữ duyên dáng và xinh đẹp nhất khu phố tôi ở rồi.
Chúng tôi không còn suốt ngày quấn quýt bên nhau, không còn chơi chung với nhau những trò trẻ con nữa. Nhưng mỗi đứa đều đều dành cho nhau những tình cảm vô cùng đặc biệt.
Hai đứa không còn học chung một lớp, nhưng chiều về chúng tôi vẫn trao đổi bài vở cùng nhau. Sương thường hướng dẫn giúp tôi cách làm các bài luận văn. Và ngược lại, tôi giảng lại cho Sương các bài toán mà Sương chưa hiểu được cặn kẽ khi thầy cô giảng trên lớp.
Tình bạn của chúng tôi cứ lớn dần theo năm tháng.
Khi bước chân vào học cấp ba, tôi đã cảm thấy lòng mình có gì đó khang khác mỗi khi tiếp xúc với Sương.
Những lúc nghĩ ngợi vu vơ, tôi thường hay nghuệch ngoạc viết tên Sương đầy các trang giấy tập…
Tôi nghĩ, có lẽ đó chính là tình yêu!
Tôi vẫn thường hát khe khẽ một mình: “… Mối tình đầu của tôi, là cơn mưa giăng giăng ngoài cửa lớp, tà áo ai bay trắng cả ước mơ. Là bài thơ còn hoài trong vở, giữa giờ chơi mang đến lại mang về…”
Tình yêu của tôi ngày đó trắng trong và thơ mộng lắm. Tôi chỉ biết thầm thương trộm nhớ Sương thôi, chứ ngoài ra không dám tỏ một thái độ hay một lời nói nào khác hơn tình bạn thông thường.
Tôi nhủ lòng, mình còn nhỏ, còn phải lo học hành, đợi đến cuối năm lớp mười hai sẽ thổ lộ tình cảm của mình với Sương chắc cũng không muộn.
Nhưng khi chưa học xong lớp mười một thì Sương đột ngột rời xa tôi!
Sau bao nhiêu năm bặt vô âm tín, ba Sương đột ngột quay về tìm lại mẹ con Sương và dắt hai người đi xa lập nghiệp.
Ngày chia tay, Sương khóc nhiều lắm. Sương nắm chặt tay tôi, nói trong tiếng nấc nghẹn ngào:
- Sương không muốn đi… Nhưng vì mẹ, Sương phải đi theo mẹ! Sương sẽ liên lạc với An, mình sẽ gặp lại nhau, An nhé?
Tôi nghe lòng đau nhói nhưng ngoài mặt vẫn cố làm ra vẻ bình tỉnh:
- Ừ, Sương đi mạnh khỏe! Khi nào tới nơi ở mới thì viết thư cho An, chúng mình sẽ giữ liên lạc với nhau, đừng để mất liên lạc nghe Sương!
Sương gật đầu quả quyết:
- Không đâu! Khi vừa tới nơi, Sương sẽ viết thư cho An ngay lập tức.
- Sương có nghe ba Sương nói sẽ đi về đâu không?
Tôi tò mò hỏi.
Sương buồn buồn:
- Nghe ba nói ba có vườn cao su rất lớn ở Bình Phước…
Tôi reo lên:
- Tưởng đâu, Bình Phước – Sài Gòn đâu có xa mấy! Chắc chắn khi thi đậu Đại học Sương cũng xuống Sài Gòn học thôi!
Sương cười:
- Nhưng biết Sương có thi đậu hay không?
- Sao lại không! Vả lại An cũng có thể đi xe đạp lên Bình Phước thăm Sương được vậy!
Tôi quả quyết.
Lúc đó tôi thấy Sương không vui mà có vẻ gì đó lo lắng lắm, nhưng tôi cứ nghĩ Sương buồn vì xa tôi, xa trường lớp bạn bè, thầy cô quen thuộc để đi đến một nơi hoàn toàn xa lạ… Bởi vậy, tôi an ủi:
- Sương đừng lo, rồi Sương sẽ nhanh chóng quen với nơi ở mới, sẽ nhanh chóng hòa hợp với môi trường mới thôi mà!
Sương rơm rớm nước mắt nhìn tôi, ngập ngừng giây lâu rồi nói:
- An ạ, Sương không lo vì sẽ chuyển đến nơi xa lạ, Sương chỉ lo…
- Sương lo gì?
Thấy Sương đắn đo tôi càng thêm thắc mắc.
Sương cúi mặt, di di ngón chân xuống đất rồi nói nhỏ:
- Sương thấy… ba Sương có vẻ gì đó… không đàng hoàng! Thật sự Sương không muốn đi theo ba. Sương chỉ muốn hai mẹ con sống với nhau bình yên như bao nhiêu năm qua… Nhưng mẹ khóc… mẹ cần có ba… Sương không thể làm mẹ buồn. Nhưng… An ơi, Sương linh cảm một điều gì đó bất an sắp xảy đến với mẹ con Sương…
Tôi thật bất ngờ khi nghe Sương nói vậy, nhưng tôi cố an ủi, động viên Sương:
- Có lẽ tại lâu quá mới gặp lại ba nên Sương có ý nghĩ vậy thôi, An tin là mọi việc sẽ tốt đẹp thôi Sương ạ! Dù sao người đó cũng là ba ruột của Sương mà!
Sương ngước lên nhìn tôi bằng cái nhìn thấm đẫm nước mắt:
- Có khi nào An tự hỏi, từ Bình Phước về đây đâu có xa xôi gì mà ba Sương lại biệt tăm mười mấy năm? Và tại sao bỗng dưng ba lại về rồi dẫn mẹ con Sương đi theo?
Lần này tôi lúng túng thật sự:
- An… An không biết được! Nhưng chắc… ba Sương có nỗi khổ gì đó!
Sương cười buồn:
- An nói thật giống mẹ Sương! Mẹ Sương cũng bảo Sương đừng trách hờn, đừng thắc mắc gì nữa, chắc chắn là ba có nỗi khổ riêng…
Hôm đó tôi và Sương nói với nhau thật nhiều, hai đứa cứ ngồi bên bậc thềm nhà tôi mãi đến khi ngoài đường phố vắng bặt tiếng xe.
Sáng hôm sau tôi dậy thật sớm, phụ với ba mẹ Sương dọn một số đồ đạc lên chiếc xe tải nhỏ đang đậu trước cổng nhà.
Khi mọi việc xong xuôi, xe chuyển bánh Sương còn ngoái lại vẫy tay chào tôi và tôi thấy nước mắt Sương lăn dài trên má.
Tôi đứng chôn chân nhìn theo Sương, mãi đến lúc không còn nhìn thấy bóng chiếc xe nữa tôi mới quay vào nhà, nước mắt tôi khi ấy mới lặng lẽ trào ra…
Sương vừa đi là tôi bắt đầu trông ngóng. Ngày nào tôi cũng chờ đợi bác đưa thư. Nhưng rồi một tuần, hai tuần, ba tuần… một tháng đã trôi qua mà tin tức về Sương vẫn vắng bặt.
Tôi bắt đầu hoang mang lo lắng.
Hôm chia tay tôi có dặn Sương cẩn thận rằng hãy gửi thư về địa chỉ nhà, nhưng biết đâu Sương quên lại gửi về trường thì sao?
Thế là tôi nháo nhào chạy vô trường, năn nỉ thầy Giám thị hỏi xem thời gian gần đây có thấy thư nào gởi cho tôi không, nhưng thầy nhìn tôi rồi lắc đầu hỏi:
- Không có em ạ! Em đang chờ thư người thân à? Khi nào có thầy sẽ chuyển ngay cho em!
Tôi buồn bã quay về, lòng nặng trĩu.
Ngày tháng cứ thế trôi qua, tôi đã mỏi mòn trong sự đợi chờ vô vọng, nhưng thỉnh thoảng tim tôi vẫn nhói lên khi nghe tiếng leng keng của bác đưa thư đến gần cổng nhà mình…
Ngày thi Đại học, dù trong lòng bao nỗi lo âu nhưng tôi vẫn không quên nhìn chăm chú vào những người con gái trong trường thi, hy vọng sẽ gặp lại bóng dáng quen thuộc của Sương ngày nào.
Mỗi buổi đi thi về, thấy tôi có vẻ ủ rũ, ở nhà cứ ngỡ tôi không làm được bài nên cũng không ai dám hỏi gì nhiều, đâu ai biết được tôi buồn là vì Sương vẫn còn mờ mịt tận chân trời góc biển nào tôi không biết được!
Đến khi có kết quả Đại học, cả nhà tôi ai cũng bất ngờ trước điểm số của tôi, vì từ hôm đi thi về cứ thấy tôi mặt mày nhăn nhó, không ai tin tôi lại đậu với điểm số cao như vậy.
Mọi người đều vui, riêng tôi, niềm vui chỉ thoáng qua một chút rồi đâu lại vào đấy.
Tôi bắt đầu những ngày lang thang khắp các trường Đại học ở Sài Gòn. Tôi tìm tên Sương trong danh sách trúng tuyển được niêm yết ở mỗi trường và khi tất cả đều không thấy, tôi lại nảy sinh một ý nghĩ táo bạo.
Tôi xin phép gia đình đi chơi một ngày, chẳng những được sự đồng ý mau lẹ mà anh Hai tôi còn hào phóng cho tôi mượn cả xe gắn máy.
Mẹ tôi hỏi:
- Con đi đâu?
Tôi cười cười:
- Con đi chơi với mấy đứa bạn.
Thế là không ai thắc mắc gì nữa. Chuyện một đứa con trai sắp bước chân vào trường Đại học, có bao nhiêu mối quan hệ bạn bè cũng là điều bình thường thôi mà.
Tôi một mình chạy xe lên Bình Phước. Nơi đó tuy không cách xa Sài Gòn là bao nhưng tôi chưa một lần đặt chân đến.
Tôi lang thang khắp nơi, tôi không biết phải tìm Sương ở nơi nào? Gần một ngày trời mệt nhoài trên khắp các ngả đường, tôi dừng lại ở góc phố vắng và tự nhiên nước mắt trào ra. Tôi ân hận quá, tôi tự giận mình sao ngày đó tôi không theo đưa tiễn Sương đến tận nơi ở mới, sao ngày đó tôi không thố lộ tình cảm của mình cho Sương biết?
Nỗi ân hận không ngừng dày vò tôi khiến tôi càng thêm đau khổ. Tôi đứng lặng lẽ một mình bên lề đường nhìn theo những chiếc lá vàng đang rơi rớt xung quanh, mặt trời dần xuống tự lúc nào tôi cũng không hay! Đến lúc tôi sực tỉnh thì đã nhá nhem tối, tôi cho xe chạy thật chậm hướng về Sài Gòn.
Bất chợt, tôi nhận thấy từ xa một dáng dấp trông rất giống với Sương. Hồi hộp, tôi vọt xe tới gần.
- Sương! Đúng là Sương rồi!
Tôi reo lên mừng rỡ.
Cô gái nhìn thẳng vào tôi, một nét vui mừng hiện ra trên khuôn mặt đượm buồn:
- An! Có phải An không?
Tôi luống cuống gạt chân chống xe, nhảy phốc xuống cầm chặt tay Sương, rối rít nói:
- Sương ơi, An tìm Sương mãi! Không ngờ trời phật còn thương nên mới khiến gặp Sương bất ngờ thế này!
Sương cũng nắm chặt tay tôi, bàn tay Sương lạnh giá:
- An… Sương xin lỗi vì đã không liên lạc được với An…
Nhìn vẻ mặt tội nghịêp của Sương tôi không nỡ trách:
- Thôi, không sao rồi! Giờ thì An đã tìm gặp Sương rồi, An không để vuột mất Sương một lần nữa đâu!
Sương nhìn tôi trìu mến, nhưng cái hìn của Sương hôm nay thật lạ lẫm, nó làm cho tôi có cảm giác bất an về Sương.
Tôi hỏi:
- Sương ơi, thời gian qua Sương sống thế nào?
Sương cúi mặt, nhưng tôi vẫn kịp nhận ra một nụ cười thật buồn mà Sương đang cố giấu.
Sương không trả lời câu tôi hỏi mà lại lảng sang chuyện khác:
- An đã vào được Kiến Trúc như mơ ước lâu nay rồi phải không? Sương mừng lắm, vui lắm khi biết tin này.
Tôi ngạc nhiên:
- Sương biết rồi à?
Sương ngước nhìn tôi, khẽ cười:
- Ừ, mọi việc về An… Sương đều biết hết!
Nếu như trước kia, kèm theo câu nói kiểu ấy của Sương bao giờ cũng là một nụ cười ranh mãnh. Nhưng lúc này, nụ cười của Sương có một vẻ gì đó tôi không thể nào phân tích đựơc, nó cứ như mơ hồ hư ảo thế nào ấy.
Tôi lo lắng:
- Thế… còn Sương? Sương vào trường nào? An đã tìm khắp nơi với hy vọng nhìn thấy tên Sương ở các trường đại học, nhưng An vẫn không tìm được!
Sương ngồi xuống vệ đường, bứt một cọng cỏ lên mân mê trong tay, lâu lắm Sương mói cất tiếng:
- Sương đã nghỉ học từ khi về đây.
Tôi tròn mắt:
- Sương nói sao? Đã nghỉ học à? Sao lại như vậy được? Sương kể cho An biết về cuộc sống của Sương hơn hai năm nay đi!
Thấy tôi hỏi dồn dập, Sương lại cười.
Sương kéo tôi cùng ngồi xuống bên cạnh.
Mặt trời đang từ từ chìm khuất ở chân trời, con đường vắng vẻ trước mặt tôi và Sương chỉ thỉnh thoảng mới có một hai chiếc xe phóng qua vội vã.
Tất cả im lặng, buồn bã, chỉ có tiếng gió thổi, tiếng xạc xào của đám lá cao su rơi đầy xung quanh hai đứa.
Tôi nôn nóng nhưng Sương vẫn bình thản nhìn trời mây, không buồn nói gì với tôi nữa.
Không dằn lòng được, tôi giục:
- Sương kể cho An nghe đi! Nhà Sương có gần đây không? Cuộc sống của Sương lúc này thế nào?
Sương quay lại nhìn tôi, mắt ngần ngận nước:
- Nhà Sương không xa đây mấy, ở phía bên cánh rừng cao su này!
Vừa nói, Sương vừa đưa tay chỉ hướng nhà mình.
- An còn nhớ không? Ngày chia tay An, Sương đã dự cảm được ba Sương không phải người đàng hoàng, nhưng cả mẹ và An đều cho là Sương có thành kiến. Nhưng thật sự ổng là người không ra gì!
Tôi ngồi đờ người khi nghe Sương nói.
Sương thở dài một cái rồi tiếp:
- Khi đón mẹ con Sương, ổng nói có vườn cao su rất lớn ở đây, muốn mẹ con Sương về cùng quản lý. Nhưng thật sự, ổng chỉ là một kẻ điếm đàng, cờ gian bạc lận. Ổng đã lấy hết toàn bộ số tiền dành dụm bao nhiêu năm trời và số tiền bán nhà của mẹ Sương. Tệ hại hơn, vừa lên tới đây, ổng đã… ổng đã bán Sương vào nhà chứa!
Tôi giật nảy mình, chồm lên:
- Trời! Sương nói sao? Sương…
Sương chạm nhẹ vào tay tôi trấn an khi thấy tôi quá kích động:
- An bình tĩnh đi… Sương không bao giờ chấp nhận được điều đó, nên… ngay trong đêm đầu tiên bị bắt vào nhà chứa, Sương đã… trốn thoát.
Tôi thở phào nhẹ nhõm nhưng vẫn thắc mắc:
- Còn mẹ Sương đâu? Mẹ Sương không làm gì ổng được sao?
Tôi vừa dứt lời bất ngờ Sương ôm mặt khóc nấc lên làm tôi hoảng hốt
- Sương ơi… có chuyện gì xảy ra với bác hả Sương?
Sương khẽ gật đầu, cố dằn tiếng khóc:
- Ừ, lúc Sương bị bắt đi, mẹ Sương bị ông ấy trói chặt trong rừng cao su. Tới lúc Sương… thoát được ra ngoài thì… mẹ Sương… mẹ Sương đã chết rồi!
- Chết rồi?
Tôi thảng thốt kêu lên.
Sương lau nước mắt, giọng nói vẫn nghèn nghẹn nhưng có vẻ đanh lại:
- Chính hắn đa giết chết mẹ Sương! Vì mẹ Sương đòi đi tố cáo hắn để cứu Sương về, hắn đã bóp cổ mẹ Sương đến tắt thở…
Tôi rụng rời tay chân khi nghe Sương kể câu chuyện kinh khủng ấy.
- Khi thoát ra, Sương có đi tố cáo ông ấy không?
Sương cắn chặt môi:
- Không… Sương không thể! Có rất nhiều chuyện mà Sương không thể kể hết với An lúc này được, từ từ rồi An sẽ biết…
Tôi cầm lấy bàn tay nhỏ nhắn giá lạnh của Sương, ân cần hỏi:
- Vậy hơn một năm qua, Sương sinh sống thế nào?
Sương cười:
- Thì… cũng lây lất vậy thôi An ạ!
- Sao Sương không quay về tìm An? Ba mẹ An, cả gia đình An đều thương yêu, quý mến Sương mà, sao Sương không quay lại?
Tôi trách.
Sương vỗ nhè nhẹ vào bàn tay tôi:
- Sương biết… nhưng không thể An à!
- Sao lại không thể? Còn hơn là Sương phải sống một mình nơi xa lạ này…
Tôi bức xúc.
Bất chợt Sương đứng bật dậy:
- Trời tối rồi, thôi An về đi, khi khác mình gặp lại sẽ nói chuỵên nhiều hơn, giờ nếu An không về cả nhà sẽ lo lắm đó!
Tôi biết gia đình đang rất lo vì trời tối mà tôi vẫn chưa về, nhưng thật sự phải chia tay Sương tôi thật không muốn, tôi sợ tôi sẽ mất Sương một lần nữa.
Chừng như đoán được ý nghĩ của tôi, Sương nhoẻn một nụ cười thật tươi, nụ cười của những ngày chúng tôi còn sống bên cạnh nhau:
- An về đi, Sương hứa sẽ về Sài Gòn tìm An một ngày không xa!
Tôi mừng rỡ:
- Sương nói thật nhé?
Nhưng rồi tôi lại đổi ý ngay lập tức:
- Không, ngay ngày mai, An sẽ trở lên đây. Bây giờ Sương dẫn An tới nhà Sương cho biết đi…
Sương cười:
- Không được đâu, nhà Sương ở tận trong kia… mà trời đã tối rồi, thôi An về đi, Sương sẽ gặp An mà!
Hai đứa cứ dùng dằng mãi một lúc lâu sau tôi mới chịu lên xe trở về, xe chạy một đoạn tôi quay nhìn lại vẫn thấy Sương lặng lẽ đứng một mình trên đường vắng dõi mắt theo tôi.
Nước mắt tôi ứa ra, lòng tôi đau thắt lại, không ngờ người bạn gái dịu dàng xinh đẹp của tôi lại gặp phải một hoàn cảnh đau lòng như vậy.
Vừa trông thấy tôi dắt xe vào nhà, ba tôi quát:
- Mầy đi như thế mà coi được đó hả? Cả nhà từ chiwfu giờ đứng ngồi không yên, con với cái…
Nếu là thường ngày, thể nào tôi cũng xin lỗi ba, xin lỗi cả nhà rồi giải thích lý do vì sao mình về muộn. Nhưng hôm nay lòng tôi đang trĩu nặng bao nhiêu nỗi u sầu lo lắng, tôi chỉ biết cúi đầu thật thấp và lí nhí hai tiếng: “Xin lỗi” rồi dựng xe, lủi nhanh vào phòng, nằm vật ra giường.
Trông thấy thái độ ấy của tôi, ba tôi thôi không la mắng nữa, mẹ cằn nhằn gì đó, chắc lại bảo ba tôi nóng tính quá, “có gì từ từ dạy dỗ con cái”. Đó là câu mẹ tôi vẫn thường nói mỗi khi ba tôi la mắng anh em tôi.
Một lúc sau, mẹ tôi khe khẽ đẩy cửa phòng bước vào. Tôi nhắm mắt vờ ngủ, nhưng không qua được mắt mẹ.
Ngồi xuống cạnh tôi, mẹ hỏi:
- Hôm nay con đi đâu, có chuyện gì mà mẹ thấy con có vẻ thểu não quá vậy?
Tôi ngồi bật dậy, nắm lấy tay mẹ:
- Mẹ ơi, mẹ có nhớ Sương không?
Mẹ tôi thoáng chút ngạc nhiên rồi mỉm cười:
- Sao mẹ lại không nhớ Sương được chứ! Con gặp nó rồi sao? Nó đậu trường nào vậy con?
Tôi rưng rưng:
- Sương nghỉ học từ lúc chuyển đi, hoàn cảnh Sương khổ lắm mẹ ơi!
Mẹ tôi ngạc nhiên:
- Con nói sao? Con Sương nghỉ học? Hoàn cảnh nó sao con? Chẳng phải ba nó khá giả, có vườn cao su ở Bình Dương sao?
Tôi ôm đầu:
- Ông ấy là kẻ khốn nạn! Chính Sương đã nhận ra điều đó, Sương nói với con trước hôm dọn đi nhưng con không tin, bảo là do Sương có thành kiến với ông ấy nên mới nghĩ vậy…
Mẹ tôi bắt đầu lo lắng:
- Có chuyện gì xảy ra với mẹ con Sương thế con?
- Mẹ Sương… mẹ Sương chết rồi mẹ ơi!
Tôi bật khóc.
Mẹ tôi kinh ngạc đến cứng người. Mãi một lúc sau mẹ mới lập cập hỏi:
- Mẹ Sương chết? Vì sao?
Tôi đè nén những thổn thức trong lòng để kể cho mẹ nghe tất cả những điều tôi vừa nghe được từ Sương.
Mẹ tôi run lẩy bẩy, hai bàn tay bấu chặt lấy chiếc gối, nước mắt mẹ cũng bắt đầu lăn dài trên đôi má.
- Ngày mai con trở lên trên đó, bảo con Sương dọn về đây, ba mẹ sẽ lo cho nó ăn học lại!
Cuối cùng, mẹ tôi tuyên bố thế.
Tôi vui mừng khôn xiết.
Vậy là từ mai, tôi lại được sống gần bên Sương, được chăm lo cho Sương rồi!
Mẹ đứng lên, lấy tay áo lau nước mắt:
- Để mẹ ra bàn với ba con, nhưng chắc chắn ba con sẽ đồng ý thôi. Lâu nay ba con vẫn coi Sương như con cháu trong nhà mà!
Nhìn theo dáng mẹ, tôi thầm cảm ơn mẹ đã có tấm lòng bao dung rộng lớn như vậy. Tôi tin, Sương sẽ tìm lại được nụ cười trong trẻo khi về đây sống cùng tôi dưới một mái nhà, sống trong tình yêu thương của ba mẹ tôi, của anh hai tôi, và đặc biệt là tình cảm của tôi dành cho Sương!
Suốt đêm đó tôi không sao ngon giấc được. Giấc ngủ cứ chập chờn.
Tôi mong cho trời mau sáng để trở lại Bình Dương, tìm gặp Sương và thuyết phục Sương theo tôi về thành phố.
Sáng hôm sau tôi dậy thật sớm. Anh hai nhìn tôi đầy thông cảm:
- Lấy xe anh mà đi! Ráng cố gắng nói sao cho Sương nghe lời đó nghen. Hay… có cần anh đi theo không?
Mẹ tôi cản:
- Thôi, để thằng An đi một mình, hai đứa nó dễ nói chuyện với nhau hơn. Đây là lá thư mẹ viết cho Sương, khi gặp con hãy đưa cho nó. Nếu nó vẫn vẫn ngại ngùng không chịu theo con về thì con cứ bảo nó về chơi cũng được. Khi gặp nó, ba mẹ sẽ nói chuyện.
Tôi cảm động nhận lấy lá thư:
- Con cảm ơn mẹ!
Mẹ tôi cười xòa:
- Cái thằng này…!
Ba tôi trầm ngâm:
- Nếu hôm nay thằng An đi mà không thuyết phục được, thì ngày mai vợ chồng mình đích thân lên đó! Một thân một mình, thân gái bơ vơ khổ lắm, mình không thể để con Sương sống cảnh đó được!
Tôi muốn ôm chầm lấy ba mẹ, lấy anh hai tôi mà cảm ơn vì những tình cảm mà mọi người đã dành cho Sương, nhưng lúc ấy tôi chỉ biết lóng ngóng đạp máy xe rồi chào cả nhà một lần nữa.
Xe ra tới cổng, tôi còn nghe tiếng mẹ tôi chép miệng thở dài:
- Tội nghiệp con Sương, mà cũng tội nghiệp thằng An nhà mình…
 
***
Khi tôi lên tới chỗ gặp Sương hôm qua thì mặt trời còn chưa gay gắt. Không mang theo đồng hồ, nhưng tôi nhắm chừng giờ này chắc khoảng chín giờ sáng là cùng.
Tôi cho xe chạy chầm chậm theo con đường mòn đi xuyên qua rừng cao su, theo hướng hôm qua Sương chỉ. Ở ngoài đường đã có nắng, nhưng đi giữa vườn cây rợp bóng mát tôi cứ thấy âm u như lúc trời chiều chạng vạng.
Con đường ngoằn ngoèo chạy mãi, luồn lách qua những hàng cao su thẳng tắp. Hai bên đường tuyệt nhiên không thấy bóng một ngôi nhà nào.
Chạy thật xa tôi mới trông thấy một túp lều nho nhỏ. Mừng rỡ, tôi vội xuống xe, đi vào lều hỏi thăm.
Trong lều chỉ có đứa bé trai trạc mười lăm, mười sau tuổi. Đang lui cui nướng bắp trong đống than đỏ rực, nghe tiếng tôi gọi, thằng bé giật mình quay ra.
Tôi mỉm cười làm quen:
- Chào em! Đây là nhà em à?
Có lẽ thấy câu hỏi của tôi quá vô duyên nên thằng bé chỉ lừ lừ nhìn tôi mà không thèm nói câu nào. Nó lại quay vào với trái bắp nướng dở trên tay.
Tôi mạnh dạn bước hẳn vào bên trong.
Thằng bé hỏi:
- Anh tìm ai?
Thấy thái độ thằng nhỏ coi bộ không chịu thân thiện với mình, tôi khựng lại một chút rồi hỏi:
- Em cho anh hỏi thăm, ở gần đây em biết nhà nào là nhà chị Sương không em?
Thằng bé lại lừ mắt ngó tôi:
- Anh nhìn xem xung quanh đây có cái nhà nào không mà hỏi?
Tôi thật không ngờ một thằng bé con quê mùa đen nhẻm như thế này lại có cách ăn nói trả treo khôn ngoan đến vậy!
Tôi cười xuề xòa:
- Không, ý anh muốn hỏi là ở khu vựa này, xa xa khỏi đây nữa, chỗ nào có nhà ấy! Nói tóm lại là anh muốn hỏi em, em sống ở đây có biết nhà chị Sương chỗ nào không?
Vừa trở trái bắp cho vàng đều, thằng nhỏ vừa hỏi:
- Chị Sương đó dáng người ra sao? Em không biết người nào tên Sương cả. Nhưng anh cứ diễn tả đi, biết đâu em biết cũng nên. Vì nhiều khi ở đây người ta gọi chị ấy bằng một cái tên khác, không phải là Sương. Ví dụ như em nè, hồi đi học em tên khác, về đây em tên khác.
Nghe thằng bé nói, tôi giả bộ reo lên:
- Ô, vậy mà anh không nghĩ ra, em quả thật là chú bé thông minh đó nghen!
- Thôi đi ông, đừng có nịnh!
Thằng bé làu bàu rồi hỏi tiếp:
- Chị ấy hình dạng ra sao?
- Chị ấy tóc dài, ốm chừng này, cao chừng này, đặc biệt là làn da chị ấy rất trắng…
Tôi vừa diễn tả, vừa mơ màng.
Thằng bé cười lên khanh khách:
- Nghe anh diễn tả giống cô tiên trong truyện cổ tích quá đi! Tui nói để anh biết, ở quanh đây, không có một chị nào giống như anh nói vậy đâu, chắc anh tìm nhầm chỗ rồi!
Nghe thằng bé nói, tôi vừa thất vọng vừa hoảng hốt, chẳng lẽ Sương lừa dối tôi? Chẳng lẽ một lần nữa tôi mất Sương sao? Nhưng không! Tôi tin Sương lắm, Sương đã hứa sẽ gặp lại tôi mà! Thằng bé này chơi khăm tôi đây, hoặc là nó thật sự không biết, ừ, có thể lắm! Thôi thì mình cứ đi tìm nữa vậy….
Tôi buồn bã tạm biệt thằng bé rồi ra xe đi tiếp.
Người và xe cứ luồn lách giữa rừng cao su vắng lặng.
Mãi đến xế trưa, tôi đi đến cuối đường mòn. Không còn cách nào khác, đành phải quay lại! Vừa quay xe, tôi vừa nghe lòng mình rã rời cay đắng…
Mà cũng lạ, thường thường những vườn cao su thế này có nhiều người đi cạo mủ, vậy mà tôi đi từ sáng vẫn không thấy bóng dáng một ai.
Ở cuối con đường mòn này chỉ nằm trơ vơ một ngôi mộ đất, cỏ mọc xanh rì. Chắc là mộ hoang vì không hề có dấu vết bàn tay nào chăm sóc. Tự dưng tôi liên tưởng tới mẹ Sương. Bà đã khổ sở đợi chờ chồng bao nhiêu năm dài đằng đẵng, ngày sum họp cứ ngỡ hạnh phúc đong đầy, ai có dè đâu lòng người nông sâu đen bạc.
Đi trở ra một đỗi, tôi trông thấy Sương. Vẫn vóc dáng gầy gò, vẫn mái tóc dài óng mượt…
- Sương! Sương ơi!
Tôi gọi toáng lên, mừng rỡ.
Sương dừng chân, ngạc nhiên:
- An lại trở lên tìm Sương sao? Sương đã hứa sẽ về Sài Gòn thăm An mà?
Tôi hấp tấp xuống xe, chạy ào tới nắm chắt tay Sương, như sợ Sương trốn mất:
- An không yên tâm! Với lại ba mẹ An bảo An lên đây gặp Sương. Đây là thư mẹ An gởi cho Sương nè, Sương đọc đi!
Sương cầm lấy lá thư tôi đưa cho, run run mở ra đọc.
Nước mắt Sương rơi xuống trang thư làm lòng tôi cũng xốn xang không kém.
Ngước lên nhìn tôi bằng đôi mắt đẫm lệ, Sương nói:
- Nhờ An về nói lại với hai bác và anh Hai, Sương rất biết ơn tình cảm mọi người dành cho Sương, nhưng… nhưng Sương không thể về đó được, An và mọi người thông cảm cho Sương nhe?
Tôi lắc mạnh tay Sương và chợt nhận ra, dù đang giữa trưa, đôi tay Sương vẫn lạnh lẽo một cách khác thường:
- Sương ơi, sương đau ốm hay sao mà tay Sương lạnh thế này? Sương về Sài Gòn với An đi, cả nhà An sẽ lo cho Sương…
Sương cười thật buồn:
- Sương biết, Sương biết mọi người ai cũng muốn tốt cho Sương, nhưng… Sương không thể…
- Có gì khó giải quyết, Sương cứ nói ra đi, mình sẽ cùng nhau tìm cách. Từ hồi nhỏ, có bao giờ Sương giấu An điều gì đâu? Bây giờ An cũng mong Sương kể cho An nghe tất cả!
Tôi nghiêm giọng nói.
- Rồi một ngày Sương sẽ kể, nhưng chưa phải là hôm nay An à! Mong An hiểu cho Sương!
Tôi không bằng lòng khi nghe Sương nói vậy, tôi cố nài ép, nhưng Sương vẫn im lặng đứng nhìn tôi, mắt buồn rười rượi.
Tôi không thể chịu đựng lâu hơn khi nhìn vào đôi mắt mênh mông sầu thảm đó của Sương, nên tôi lảng sang chuyện khác:
- Sương ơi, Sương đau bệnh ra sao mà trông Sương gầy rạc ra như vậy? Còn đôi bàn tay Sương nữa nè, nó lạnh như không có máu, không có sức sống bên trong ấy!
Sương rụt vội tay ra khỏi tay tôi, quay mặt chỗ khác che giấu cảm xúc:
- An đừng lo, Sương không đau ốm gì đâu mà…
Tôi chợt nhớ ra, hỏi:
- À, nhà Sương ở đâu mà An tìm mãi không được? Lúc nãy hỏi thăm thằng bé đằng kia nó cũng không biết. Sương cho An về thăm nhà Sương đi…
Sương ngập ngừng:
- Nhà Sương…
Tôi giục:
- Đi mà! Sương đừng từ chối An nghe?
Thấy vẻ nài nỉ tội nghịêp của tôi nên Sương đồng ý.
Tôi quay xe lại rồi chở Sương ngược con đường vừa nãy tôi đã đi qua.
Trước đây, mỗi lúc chở Sương đi đâu đó, tôi đều cảm thấy ấm áp sau lưng mình, nhưng sao hôm nay cảm giác ấy không còn nữa? Tôi không hiểu tại sao giờ đây hình như từ cơ thể của Sương có một cái gì đó lạ lắm, không rõ là gì nhưng thật sự là tôi cảm nhận được.
Nhưng rồi tôi tự trấn an mình, có lẽ do Sương đã phải trãi qua quá nhiều đau khổ, đã phải chịu đựng những điều quá sức so với một cô gái mười bảy tuổi như Sương nên trông Sương mới rã rời, không sức sống thế kia!
Tôi cố không chú ý tới những điều khác lạ đó nữa nên kiếm chuyện nói bâng quơ để phá tan sự im lặng giữa hai đứa:
- Lúc nãy An đã đi hết con đường này mà vẫn không nhìn thấy ngôi nhà nào!
Sương khẽ cười:
- Tại An không để ý đó thôi, nhà Sương nhỏ xíu, không chú ý sẽ không thấy được!
Tôi toan cãi lại, rằng tôi rất chú tâm quan sát, nhưng thôi, dù sao thì bây giờ tôi cũng đang đi tới nhà Sương rồi, mà lần này thì không sợ tìm không thấy nữa!
Xe chạy một đỗi, Sương chạm nhẹ vào lưng áo tôi, bảo:
- Nhà Sương phía trước rồi kìa!
Tôi nhìn theo tay Sương. Quả thật đằng trước là một căn nhà lá nhỏ xíu nằm nép mình dưới tàn lá cao su xanh rì rậm rạp.
Tôi thoáng xót xa khi thấy hai bên vách và cả mái nhà nữa bám đầy các loại dây leo. Nhà không có đàn ông, chỉ một cô gái bé bỏng mảnh mai thế này thì tránh sao không có vẻ hoang tàn, u ám.
Dừng xe trước cửa, tôi cười nói với Sương:
- An nhớ rõ ràng lúc nãy đã đi qua đây rồi, vậy mà đâu nhìn thấy ngôi nhà này, lạ thiệt đó, làm như nó muốn chơi trốn tìm với An vậy đó!
Sương cười cười:
- Có thể lúc nãy An đã đi theo con đường phía dưới kia. Ở trong rừng cao su này, các con đường mòn đều gần giống như nhau, khó phân biệt lắm An ạ!
Tôi gật gù:
- Có thể lắm, vì không thể nào An đã đi qua đây mà không nhìn thấy nhà Sương được!
Sương lãng qua chuyện khác:
- Mời An vô nhà chơi! An đừng cười nhe, nhà Sương…
Tôi ngắt lời:
- Sương không hiểu An hay sao mà còn nói vậy?
Sương không nói gì, chỉ nhìn tôi mỉm cười.
Tôi theo Sương vào nhà, căn nhà trống huơ trống hoác. Ngoài chiếc gỗ ọp ẹp, phía trên trải chiếc chiếu đã rách nhiều chỗ, trong nhà Sương không còn gì đáng kể.
Tôi chua xót cho bạn. Hơn một năm qua Sương đã phải sống khổ sở như thế này sao? Và hơn lúc nào hết, lúc này trong lòng tôi càng cương quyết phải đưa bằng được Sương trở lại Sài Gòn.
- Mộ bác gái ở gần đây không Sương?
Tôi đột ngột hỏi.
Sương lắc đầu:
- Không, mộ mẹ Sương cách đây khá xa.
Sương có vẻ bứt rứt:
- Sương ái ngại quá, lâu lắm mới gặp An mà Sương không thể đãi An một bữa cơm…
Tôi toan nói: “Sương cứ nấu cơm đãi An đi, có ăn mắm ăn muối gì An cũng vui và ngon miệng vì được cùng ăn với Sương mà!” nhưng rồi tôi đã kịp dừng lại đúng lúc. Ngộ nhỡ trong nhà Sương lúc này không còn gạo thì có phải tôi nói vậy là làm khó Sương sao?
- Sương đừng lo, mình ngồi đây chơi một lúc rồi An chơ Sương về Sài Gòn nha?
Sương lắc đầu:
- Không được đâu An ơi! Sương hẹn An lúc khác vậy. Rồi sẽ có một ngày Sương về thăm lại An và gia đình…
Tôi nhìn Sương tha thiết:
- Sương ơi, nhất định hôm nay Sương phải đi với An về Sài Gòn. Cả nhà an đều đang ngóng đợi Sương ở dưới đó. Sương đừng phụ lòng An, Sương đừng phụ lòng mọi người nhé? Nếu lúc này Sương chưa tiện về Sài Gòn ở hẳn thì về chơi thôi cũng được, An hứa sẽ đưa Sương trở lên mà!
Sương có vẻ khổ sở lắm khi thấy tôi gần như van xin. Cuối cùng, Sương cũng gật đầu đồng ý:
- Thôi được rồi, Sương sẽ đi cùng An. Dù thế nào thì…
Thấy Sương bằng lòng, tôi mừng còn hơn bắt được vàng nên cũng không mấy chú tâm tới câu nói bỏ dở nửa chừng ấy.
Tôi reo lên:
- Ôi! Thế thì vui quá! Cả nhà An sẽ rất vui khi gặp lại Sương đó!
Tôi bắt đầu huyên thuyên kể Sương nghe những chuyện của gia đình, trường lớp, bạn bè trong khoảng thời gian hơn một năm qua.
Sương thì thỉnh thoảng chỉ đệm vào một, hai câu còn lại cứ nhìn tôi và mỉm cười mãi.
Bất chợt nhớ ra, tôi nói:
- Sương nhớ thầy Bá không? Thầy mới mất cách đây bốn tháng, thầy bị ung thư đó Sương!
- Ừ, Sương biết rồi!
Tôi kinh ngạc. Tại sao Sương lại biết nhiều về những sự việc xảy ra ở nơi cũ? Chuyện tôi đậu đại học với điểm số cao, chuyện con Thảo bỏ học nửa chừng để lấy chồng Việt kiều, và bây giờ lại đến chuỵên thầy Bá mất?
- Sương ơi… Sao Sương biết nhiều chuyện xảy ra ở Sài Gòn vậy? Chẳng lẽ Sương vẫn thường xuyên liên lạc với ai đó ở Sài Gòn sao?
Tôi tò mò hỏi, giọng pha chút hờn ghen.
Sương cười mơ màng:
- Không, Sương đâu có liên lạc với ai… Chỉ là… Mà thôi, đó là bí mật, một ngày không xa nhất định Sương sẽ bật mí cho An biết hết, nhưng chưa phải là lúc này.
- Sao cái gì Sương cũng hẹn lúc khác hết vậy? An muốn biết bây giờ kia!
Tôi dỗi.
- Không được đâu An ơi!
Nhận thấy thái độ tuy mềm mỏng nhưng rất dứt khoát của Sương, tôi biết dù có nài nỉ thêm cũng không có kết quả, nên đành cười:
- Sương bây giờ nhiều bí mật ghê há?
Sương cũng cười theo.
Chúng tôi tiếp tục trao đổi với nhau thật nhiều chuyện, mãi đến khi bóng tối ụp xuống tôi mới giật mình bước ra sân nhìn trời.
Sương gọi khẽ:
- Trời sắp tối rồi, mình đi đi An, kẻo trễ!
Tôi quay vào nhà chờ Sương chuẩn bị. Nhưng Sương gần như không có gì để chuẩn bị cả, ngay cả bộ quần áo đang mặc trên người cũng không thay đổi.
Chở Sương ra khỏi cánh rừng cao su, đi hết đoạn đường vắng vẻ là tới khu phố nhỏ có nhiều hàng quán ven đường.
Thú thật, lúc này bụng tôi đã đói cồn cào, vì ngoài bữa ăn sáng vội vã trước khi đi, tới giờ này tôi chưa ăn uống thêm một chút gì nữa.
Tôi nhìn vào kính chiếu hậu nhưng không trông thấy Sương, có lẽ vì trời tối.
Tôi đề nghị:
- Mình ghé lại đây ăn chút gì nghe Sương, An đói quá!
Có lẽ Sương đồng ý theo tôi vào quán ăn vì nghe tôi than đói
Trong lúc tôi ăn uống ngon lành thì Sương vẫn ngồi thẩn thờ bên cạnh tô hủ tiếu đang bốc khói.
- Kìa, Sương cũng ăn đi chứ!
Tôi giục.
Sương mỉm cười rồi bắt đầu ăn một cách nhỏ nhẻ, miễn cưỡng.
Lúc tôi và Sương về tới nhà thì thấy ba mẹ và anh Hai tôi đã có mặt đầy đủ, hình như mọi người đang nóng lòng chờ đợi Sương.
Vừa trông thấy Sương, mẹ tôi chạy tới ôm chầm lấy. Sương luống cuống chào mọi người rồi cũng ôm lấy mẹ tôi, cả hai cùng khóc nức nở.
Ba tôi bảo:
- Bà để con nhỏ vô nhà nghỉ ngơi rồi có chuỵên gì nói sau chứ!
Mẹ tôi sự nhớ:
- Ừ, gặp cháu bác mừng quá nên quên mất. Vào, vào nhà đi cháu, đứng ngoài này gió lắm…
Rồi mẹ kêu lên:
- Trời ơi, con bé đã lạnh thế này rồi…
Mẹ quýnh quáng kéo Sương vào nhà, định bật bếp ga lên cho Sương hơ đôi bàn tay giá lạnh, nhưng Sương kiên quyết từ chối.
Cuối cùng, mẹ vào phòng lấy cái áo ấm của mình khoác lên người Sương.
- Thôi, các  con ra ăn cơm đi, sau đó mình nói chuyện. Cả nhà chờ hai con từ chiều đó.
Ngồi quây quần bên mâm cơm mẹ dọn, tôi thấy lòng ngập tràn hạnh phúc. Tôi khẽ liếc nhìn Sương, có lẽ Sương cũng cảm động lắm, mắt Sương lúc này đã thoáng có lại nét lấp lánh của ngày xưa.
Tôi tin tworng vào tài ăn nói và tình thương bao la của mẹ, Sương sẽ đồng ý về sống trong nhà tôi. Sương sẽ lại đi học, sẽ lại cười tươi, nhí nhảnh như Sương của tôi dạo ấy!
Cơm nước xong, Sương giúp mẹ tôi dọn dẹp chén bát đâu ra đó rồi cả nhà lại tụ tập ở phòng khách. Hôm nay cái ti vi bị ế vì không ai thèm đụng tới. Mọi người mãi lắng nghe câu chuyện Sương kể trong nước mắt.
Mẹ không dằn lòng được, khóc ngất lên. Còn ba và anh Hai tôi thì vô cùng phẫn uất.
- Cái thằng khốn nạn ấy giờ đây vẫn sống phè phỡn ngoài đời sao? Sao cháu không vạch mặt hắn?
Ba tôi nghiến răng hỏi.
Sương nhỏ nhẹ:
- Dạ thưa bác, con thân cô thế cô, không có lấy một bằng chứng trong tay, không ai bênh vực thì làm sao có thể vạch mặt ông ta được? Nhứng cháu tin chắc ông ta sẽ không phè phỡn được lâu đâu bác ạ!
- Đúng rồi đó! Những kẻ làm chuyện ác nhơn thất đức thì sớm muộn gì cũng bị trả quả mà thôi.
Mẹ tôi quả quyết.
Ba tôi nhìn Sương, trách:
- Đáng lẽ khi gặp phải chuyện như vậy, cháu phải nhanh chóng về đây cho hai bác tin chứ, cháu thật là…
Sương cuối đầu nói nhỏ:
- Dạ, con biết hai bác và gia đình thương con, lo cho con nhiều lắm, nhưng chuyện này… con không muốn làm phiền hai bác…
- Cái con bé này nói mới hay chứ! Cháu không biết nhà này luôn xem cháu là người thân hay sao mà còn sợ làm phiền?
Thấy ba tôi có vẻ giận, Sương sợ hãi rưng rưng nước mắt.
Mẹ tôi can:
- Thôi, chuyện đã lỡ vậy rồi, ông đừng rầy la nó nữa. Từ giờ nó về ở với gia đình mình, vậy là yên tâm rồi!
- Thưa bác, con…
Sương có vẻ khổ sở.
- Không thưa gởi gì hết, hai bác là bạn của mẹ cháu, là láng giềng của gia đình cháu trước đây, nay mẹ cháu không còn, hai bác có trách nhiệm chăm lo cho cháu. Vả lại từ lúc cháu với thằng An nhà bác còn nhỏ, hai bác đã luôn coi cháu là người trong nhà rồi. Cháu đừng mặc cảm, đừng lo lắng gì cả. Cháu về đây, hai bác sẽ cho cháu đi học trở lại. Cháu phải làm lại cuộc đời mình chứ không thể buông xuôi như vậy được! Còn về phần mồ mả của mẹ cháu, rồi đây hai bác cũng sẽ tính tới chuyện đem về Sài Gòn để cháu tiện việc thăm viếng. Vả lại ở cái đất Bình Dương ấy, có ai là người thân của mẹ cháu nữa đâu!
Ba tôi nói một hơi, không cho phép Sương cãi lại.
Ba vừa dứt lời thì tới mẹ. Nhưng nếu như những lời ba tôi mạnh mẽ quyết liệt bao nhiêu thì lời mẹ tôi lại dịu dàng, dỗ dành bấy nhiêu:
- Con đừng ngại ngùng gì hết Sương à! Nhà bác không có con gái, bác thương cháu từ lúc cháu còn bé. Sự việc không may xảy đến cho mẹ con cháu hai bác cũng rất đau lòng. Hai bác sẽ lo cho cháu đàng hoàng để mẹ cháu dưới suối vàng được yên tâm. Cháu là con gái, sống một mình thui thủi nơi xứ lạ quê người, biết bao cạm bẫy, biết bao hiểm nguy rình rập. Đường học vấn lại dang dở nửa chừng, chẳng lẽ cháu cam tâm làm một cô công nhân đến suốt đời trong khi cháu có thừa khả năng để tiến bộ? Hai bác coi cháu như con cháu trong nhà, cháu cũng nên coi hai bác là người thân, cháu đừng từ chối mà làm buồn lòng hai bác, làm nặng lòng mẹ cháu ở dưới kia…
Sương thút thít khóc. Sương không cãi lại nhưng hình như Sương có điều gì đó khổ tâm lắm, khó nói lắm.
- Sương ơi, nếu như Sương còn gì ràng buộc ở trên đó thì Sương hãy nói ra đi, ba mẹ An sẽ giúp Sương giải quyết!
Tôi lo lắng.
Mẹ tôi tán thành:
- Ừ, nếu như cháu còn gì đó mà chưa về đây được, chẳng hạn như còn nợ nần hay gì khác thì cháu nói ra, hai bác sẽ giúp cháu giải quyết hết, cháu đừng ngại!
Sương cuối xuống kéo tay áo lau nước mắt.
- Dạ thưa hai bác, thật sự con khong còn gì vướng bận ở nơi đó. Nơi đó chỉ toàn là những kỷ niệm đau buồn của con. Con cũng rất muốn rời xa nó, nhưng…
Mẹ tôi vỗ vỗ vào tay Sương động viên:
- Nhưng sao vậy con? Nói ra đi…
Sương không nói mà chỉ òa lên khóc nức nở làm cho một người như ba tôi cũng phải mủi lòng.
Ba ra dấu cho mẹ dìu Sương về phòng.
Mẹ tôi đỡ Sương đứng lên, trông Sương lúc này thật mong manh, yếu đuối. Tôi có cảm giác dường như Sương mờ ảo như gió như mây, có thể tan biến bất cứ lúc nào.
Mẹ tôi không ngừng xuýt xoa:
- Con bé chắc mắc chứng bệnh gì nặng lắm đây, hai bàn tay nó cứ lạnh ngắt, vào nhà từ nãy đến giờ rồi mà có ấm lên được chút nào đâu? Không được rồi, ngay sáng mai bác sẽ đưa con đi khám bác sĩ mới được!
Tôi vẫn còn muốn nói chuyện riêng với Sương, nhưng thấy Sương đã mệt mỏi quá rồi nên đành đi mở tủ ôm mền gối vào phòng ngủ dành cho khách đưa cho Sương:
- Sương ngủ ngon nhe! Có gì sáng mai mình nói chuyện tiếp, giờ khuya rồi!
Sương gật đầu nhìn theo tôi.
Mẹ tôi ngồi lại với Sương một lúc nữa rồi cũng đi về phòng mình.
Tôi về phòng, nằm vật ra giường trăn trở mãi không ngủ được.
Anh Hai tôi nằm giường kế bên nghe tôi thở dài thườn thựơt, an ủi:
- Em đừng quá lo buồn như vậy! Hoàn cảnh của Sương quả là bi đát, nhưng từ nay đã có ba mẹ mình lo cho Sương rồi, đáng lẽ em phải vui lên mới phải chứ, sao lại thở dài áo não thế kia?
Tôi chồm dậy, thò đầu ra ngoài mùng nói với anh trai:
- Anh Hai à, em cảm thấy… Sương lạ lắm!
- Lạ là lạ làm sao? Thì nó khổ quá, đau buồn quá thì tính tình phải đổi khác đi chút ít chứ! Chẳng lẽ em muốn nó vẫn cứ vui cười như trước đây mới đúng là nó sao?
Anh Hai tôi hỏi lại.
Tôi bần thần:
- Em không biết, em không định nói vậy, nhưng thật sự có lúc em thấy Sương mờ ảo quá… như là không tồn tại vậy đó anh à!
Anh Hai tôi phì cười:
- Em có khùng không vậy? Nói chuyện gì đâu không! Mờ ảo là sao? Không tồn tại là sao? Chẳng lẽ em muốn nói Sương là… là ma sao?
Tôi chống chế:
- Không… không phải ý em như vậy! Nhưng quả thật…
- Thôi, mệt em quá! Ngủ đi cho đầu óc tỉnh táo, rồi sáng mai ra coi lại coi Sương có phải là người thật không nhe?
Anh Hai tôi cắt ngang rồi kéo mền trùm kín đầu, tỏ ý muốn chấm dứt câu chuyện vớ vẩn mà tôi vừa nêu ra.
Trong lòng ngổn ngang thật nhiều tâm sự, nhưng tôi không muốn phá giấc ngủ của anh, đành phải một mình nằm suy nghĩ, nhưng càng nghĩ càng thêm rối rắm, lung tung.
Xâu chuỗi lại tất cả, tôi biết, có một điều gì đó bất ổn nơi Sương, nhưng là điều gì thì tôi đành bó tay, không làm sao giải thích hay phân tích cặn kẽ được, chỉ là giác quan mách bảo tôi thế thôi.
Tôi quyết tâm ngày mai sẽ nói với Sương về điều đó, hy vọng Sương sẽ không giấu tôi bất cứ điều gì.
Không ngủ được, tôi khẽ bước xuống giường đi ra sân hóng mát.
Thật sự thì đêm nay trời cũng không nóng nực, nhưng tôi vẫn cứ muốn được hứng những ngọn gió đêm để lòng mình dịu lại đôi chút những ưu tư, phiền muộn.
Ngồi trên chiếc xích đu ở hành lang, tôi đưa mắt nhìn bao quát khắp khoảnh sẩn nhỏ trước nhà. Mùi hoa nguyệt quế thơm ngào ngạt.
Loài hoa này về đêm thì mùi hương càng đậm hơn.
Hồi nhỏ, tôi với Sương thường hái những bông nguyệt quế trắng tinh khôi để lên bàn học, ép vào tập, bỏ vào hộp viết để hương thơm của nó phảng phất vây quanh. Bên nhà Sương cũng có một cây, nhưng thường hai cây lại không trổ hoa đồng loạt một lúc, thành thử chúng tôi vẫn thường sang nhà nhau để hái đầy túi áo.
Tôi lại đưa mắt nhìn sang mảnh sân nhà bên cạnh, nơi trước đây mẹ con Sương đã có một thời gian dài sinh sống.
Trước đây, giáp ranh với nhà tôi có một cây khế ngọt mùa nào trái cũng sum suê.
Có lần tôi với Sương đã cùng tưởng tượng, nếu một ngày nào đó có một con chim thần bay về ăn khế rồi cất lên câu: “ăn một quả trả cục vàng, may túi ba gang mang đi mà đựng” thì chúng tôi sẽ làm sao?
Tôi bảo tôi sẽ may một cái túi vừa đúng ba gang hay nhỏ hơn một tẹo cũng được, và khi ra đảo tôi sẽ lấy đủ số vàng cho vào túi chứ nhất quyết không tham lam như người anh trong truyện cổ tích mà phải bỏ mạng giữa biển khơi. Tôi bảo khi ấy tôi sẽ nhờ Sương may túi giúp rồi lấy vàng về tôi với Sương sẽ xài chung.
Sương phản đối. Sương bảo sẽ không cho tôi đi, sẽ không may túi giúp tôi, vì thế nào khi ra đảo, thấy vàng nhiều quá tôi cũng sẽ nổi lòng tham không dừng lại được. Sương nói Sương không cần vàng làm gì, chim có muốn ăn khế thì cứ ăn thoải mái vì hai đứa tôi ăn cũng đâu có hết, mà mẹ Sương cũng không hái đem đi bán bao giờ, Sương không cần vàng, Sương chỉ cần có người bạn như tôi thôi, nếu cho tôi ra đảo láy vàng thì Sương sẽ mất tôi, Sương sợ lắm…
Tôi chợt mỉm cười khi nhớ lại thời thơ ấu của hai đứa. Thời đó sao mà đáng yêu, sao mà dịu dàng đến thế!
Tôi muốn kêu lên: Sương ơi, Sương sẽ không bao giờ mất An đâu, mà ngược lại An đang lo sợ sẽ mất Sương nè…
Sương không tham lam, không ra đảo tìm vàng mà cuộc đời ác nghịêt vẫn vùi dập Sương dưới làn sóng dữ…
Bất chợt tôi thấy có bóng người thấp thoáng ẩn hiện trong sân nhà bên cạnh.
- Chẳng lẽ là trộm?
Tôi nghĩ thầm rồi rón rén đứng lên đi sát lại hàng rào.
Dáng người bên kia mềm mại, nhất định không phải là đàn ông con trai rồi! Chẳng lẽ phụ nữ lại đi ăn trộm hay sao?
Nhưng không, không phải kẻ trộm, vì người ấy chỉ đi tha thẩn quanh sân chứ không hề tiến vào nhà.
Ô kìa, sao giống Sương đến thế?
Chẳng lẽ là Sương? Sương qua đó để thăm lại nhà mình?
Không đâu! Lúc nãy khi tôi đi ra sân, cửa nhà vẫn còn đóng chặt mà, với lại Sương mới về ngủ ở nhà tôi đêm đầu tiên, Sương không dám tự mình đi ra đâu, lại càng không dám leo rào qua sân nhà kế bên như vậy. Tôi biết tính Sương mà, Sương không liều lĩnh vậy đâu!
Vậy thì ai? Nhà bên đó đâu có ai dáng dấp vậy đâu?
Tôi mải suy nghĩ, tay chạm vào một cành khô làm nó kêu lên một tiếng “rắc” trước khi gãy rời ra. Tiếng kêu tuy nhỏ, nhưng trong đêm thanh vắng vẫn trở nên lớn hơn bình thường.
Bóng người bên kia hình như thoáng giật mình rồi bỗng dưng tôi không nhìn thấy nữa.
Tôi dụi mắt, ngó khắp nơi, tôi trèo lên chậy kiểng trong sân để chồm người qua đó nhìn cho rõ nhưng tuyệt nhiên vẫn không thấy gì.
Lạ thiệt, giống y như gặp ma! Tôi thầm nghĩ.
Tôi vốn là đứa không biết sợ ma, nhưng trong trường hợp này tôi vẫn cảm thấy lạnh lạnh nới sống lưng nên vội vàng đẩy cửa trở vào nhà, chui vô mùng cố dỗ dành giấc ngủ.
Lúc tôi thức dậy thì trời đã sáng bạch. Anh Hai đã đi làm từ lâu. Thông thường mỗi sáng ngủ dậy là anh ca hát, huýt sáo vang trời, tôi có muốn ngủ nướng thêm cũng không được. Nhưng sáng nay có lẽ vì biết đêm qua tôi thao thức nên anh Hai đã không đánh thức tôi dậy bằng cách đó.
Tôi vừa ra khỏi phòng là gặp ngay Sương từ dưới bếp đi lên. Trông thấy tôi Sương cười tủm tỉm:
- An ngủ trưa thế?
Tôi ngượng:
- Không… vì đêm qua An không ngủ được, mãi gần sáng mới chợp mắt rồi ngủ quên luôn!
Sương trêu:
- An làm gì mà trằn trọc không ngủ được thế? Nôn tới ngày nhập học à?
Tôi nhăn nhó:
- Không phải… An không ngủ được là vì… vì Sương đó!
Nụ cười vụt tắt trên môi Sương, Sương lí nhí gì đó trong miệng tôi không nghe rõ, vừa nói Sương vừa đi nhanh lên nhà trước.
Tôi ngơ ngẩn đứng nhìn theo, không hiểu sao tự nhiên Sương lại buồn như vậy? Mình có nói gì sai sao?
Tôi đánh răng rửa mặt xong, Sương dọn bữa sáng cho tôi, và nói:
- An ăn đi! Cả nhà ăn hết rồi! Bác trai với anh Hai đi làm, bác gái đi chợ, chỉ mỗi An là chưa ăn sáng thôi đó!
Tôi kéo ghế ngồi xuống, năn nỉ Sương:
- Sương ăn với An cho vui, một mình An ăn không thấy ngon miệng.
Sương vừa kéo ghế ngồi cạnh tôi, vừa cười nói:
- Sương ngồi đây chơi với An được rồi, lúc nãy Sương mới ăn xong, giờ đâu còn chỗ nào chứa mà ăn tiếp được?
Tôi gật đầu:
- Ừ, nếu Sương không ăn nổi nữa thì ngồi chơi với An cũng được! Hôm nay An hư quá, dậy muộn nhất nhà!
Sương chống tay lên cằm nhìn tôi:
- An không ngủ được vì Sương thật à?
Tự nhiên lúc đó tôi lại đâm ra lúng túng, hai tay cứ xé vụn ổ bánh mì, đầu khẽ gật:
- Ừ, An cứ nghĩ mãi mà không giải thích được vì sao…
- An thắc mắc gì thế?
Sương tò mò.
Tôi nhìn thẳng vào Sương:
- An thấy hình như Sương có gì đó rất khác lạ so với trước đây! Đó là cái gì thì An không sao nói cụ thể được, nhưng thật sự là An cảm thấy như thế đấy Sương ạ!
Sương cười thật buồn:
- Ừ thì… Sương bây giờ già hơn, xấu hơn, ít cười và… nhiều thứ tệ hơn trước nữa phải không An?
Tôi lắc đầu:
- Không! An khong nói tới điều đó! Về tính tình, An thấy Sương vẫn y như trước, về hình thức thì dù Sương có ốm hơn, già hơn, buồn hơn hay gì gì hơn nữa thì đối với An không là gì cả. An chỉ cảm thấy từ trong con người Sương toát lên một cái gì đó rất mơ hồ như có như không… Đôi khi, An có cảm giác Sương giống như làn khói, có thể tan biến đi bất kể lúc nào… An lo sợ lắm, Sương có biết không?
Vừa nghe tôi nói tới đó, gương mặt vốn đã xanh xao của Sương giờ càng tái xanh hơn nữa. Sương đưa hai tay bụm lấy mặt và khóc nở. Tôi hoảng hốt, vứt vội miếng bánh mì đang cầm trên tay, nắm chạt hai vai Sương, đôi vai mới hơn một năm về trước tròn lẳn thế kia mà bây giờ đã gầy giơ xương.
- Sương ơi, An nói gì làm buồn lòng Sương phải không? Sương tha lỗi cho An nghe… An chỉ nói thật lòng mình…
Sương gục mặt lên cánh tay tôi, người Sương run lên bần bật theo từng tiếng nấc nghẹn ngào.
- An ơi… Sương khổ quá! Sương không muốn xa An, Sương không muốn xa hai bác và anh Hai, nhưng mà… nếu Sương ở lại đây, sẽ đem tới cho gia đình An nhiều điều không hay, Sương không muốn điều đó. An hiểu cho Sương không?
Tôi lắc đầu:
- Sương nói gì An hoàn toàn không hiểu? Nếu Sương đã nói Sương không muốn xa An, không muốn xa mọi người thì tại sao Sương lại không sống ở đây được? Sương ơi, An van xin Sương đó, Sương ở lại đây với An đi, rồi chúng ta sẽ có lại những ngày êm đềm thơ mộng như lúc trước thôi Sương à…!
Sương thổn thức:
- An không hiểu… có những điều Sương không thể nói hết ra một lúc được… Nhưng Sương biết, trên cõi đời này, bây giờ chỉ có An là người quan tâm lo lắng cho Sương nhiều nhất, và An cũng sẽ là người nhận ra những thay đổi ở Sương sớm nhất… Sương rất muốn nói thật hết với An, nhưng… Sương không đủ can đảm! Sương sợ… khi biết ra sự thật, An sẽ sợ hãi, sẽ xa lánh Sương thì Sương còn phải đau đớn nhiều hơn…
Tôi nắm chặt tay Sương, nói dứt khoát từng tiếng:
- Sương ơi! Dù Sương có như thế nào thì trong lòng An Sương vẫn là người bạn gái thân thương, yêu quý nhất của An. Thậm chí… nếu như ngày đó Sương không chống chọi lại được với bọn buôn người, Sương bị chúng vùi dập, thì với An, Sương vẫn là đóa sen tinh khiết nhất. Sương dừng e ngại gì hết, dù cho… hiện nay Sương có mắc căn bệnh thế kỷ đi nữa, An cũng không bao giờ xa lánh, sợ hãi Sương đâu…
Sương nhìn tôi, mỉm cười trong nước mắt:
- An ơi, cho đến lúc này, Sương vẫn giữ được tròn vẹn sự trinh bạch của mình, mặc dù để làm được điều đó, Sương đã phải đánh đổi bằng…
Thấy Sương ngập ngừng, tôi xua tay:
- Sương đừng lo, đối với An thì Sương mới là quan trọng hơn hết thảy! Mọi việc không may mà Sương gánh chịu càng làm cho An thương và quý mến Sương hơn thôi, làm sao có chuyện An sợ hãi, xa lánh Sương được chứ?
- Có được những lời của An thì dẫu… ra sao Sương cũng yên lòng rồi! Sương cảm ơn An đã dành cho Sương những tình cảm đẹp như vậy…
Tôi mân mê bàn tay lạnh lẽo của Sương, không dằn được lòng mình, tôi nói ra tất cả những nỗi niềm thầm kín mà tôi giữ chặt trong lòng hai năm nay:
- Sương… Sương có biết là… An rất thương Sương không?
Swong không bất ngờ khi nghe tôi nói vậy, trái lại Sương còn khe khẽ gật đầu:
- Biết! Sương biết chứ… và Sương cũng rất đau lòng khi không thể đáp lại tình cảm đó của An. Nếu như đừng có sự xuất hiện của ông ấy, mẹ con Sương vẫn sống bình yên ở nơi đây thì có lẽ Sương là người con gái hạnh phúc nhất vì được An và cả gia đình thương mến. Nhưng… ông ta đã làm tan vỡ hết rồi An ơi…
- Sương đừng quá đau khổ như vậy, An sẽ cố gắng, thật cố gắng để bù đắp lại cho Sương những mất mát trong đời. Sương đừng từ chối An, Sương nhé?
Tôi giữ chặt tay Sương.
Sương không khóc nữa nhưng lại nhìn tôi bằng cái nhìn đau đớn khôn cùng:
- An ơi… Sương không thể…
- Vì sao mà không thể hở Sương?
Tôi hốt hoảng hỏi.
Sương im lặng một lúc rồi hỏi tôi:
- An có thấy tay Sương rất lạnh không?
- Ừ, điều này thì An đã nhận biết từ hôm gặp lại Sương lần đầu. Sương bị bệnh gì phải không?
Tôi lo lắng.
Sương khẽ lắc đầu và mỉm cười cay đắng:
- Tất cả những gì An cảm giác về Sương rất chính xác…
- Nghĩa là sao hở Sương?
Tôi thắc mắc.
- An nhìn vào gương thử xem, nhìn vào đó thì An sẽ hiểu…
Sương nói nhỏ.
Tôi xoay người lại nhìn vào cánh cửa tủ có lắp kính ở gần đó. Trong gương, tôi nhìn thấy rõ ràng tôi cùng với những chiếc dĩa và thức ăn trên bàn, nhưng tuyệt nhiên không thấy hình bóng Sương trong đó, mặc dù Sương vẫn đang ngồi cạnh bên tôi!
Miệng tôi vừa vừa mở ra, chưa kịp kêu lên tiếng kêu ngạc nhiên thì cùng lúc đầu óc tôi đã giải đáp được điều đó.
Tôi nhìn sững Sương. Sương trước mắt tôi vẫn dịu dàng đằm thắm, chẳng lẽ nào… chẳng lẽ nào Sương chỉ còn là một bóng ma sao?
Sương cười rưng rưng nước mắt:
- An đã hiểu hết mọi chuyện rồi phải không An? Có sợ Sương không? Có xa lánh Sương không?
Tôi vùng lên ôm chầm lấy Sương và lúc này thì tôi khóc, khóc tức tưởi, đau đớn…
- Sương ơi, tại sao lại ra nông nỗi này hở Sương?
Câu nói của tôi bật ra như một tiếng rên thảm thiết.
Sương cũng thổn thức:
- Lúc Sương chống cự lại, Sương bị bọn chúng bắt trói trong một căn phòng vắng vẻ, tối tăm. Sương nghe bọn chúng nói chuyện với nhau và biết chúng đã bán Sương cho một ông chủ giàu có nào đó ở Vũng Tàu, chiều tối hôm ấy ông ta sẽ vào tới. Sương biết, sức mình không chống chọi được nên Sương cố bứt đứt dây trói và… đập vỡ chai bia trong góc nhà, lấy miểng cắt đứt tay tự vẫn. An nhìn này, đây là vết sẹo…
Sương chìa cánh tay trái ra cho tôi xem, ngay ở cổ tay là một vết sẹo dài vắt ngang, vậy mà mấy hôm nay tôi lại không nhận ra.
Sương mơ màng kể tiếp:
- Cắt đứt cổ tay rồi, Sương nằm xuống sàn nhà, máu cứ chảy, chảy mãi… Đến một lúc Sương thấy mình nhẹ hẫng, Sương có thể lướt ra ngoài một cách nhẹ nhàng và Sương biết khi ấy linh hồn Sương đã lìa khỏi xác… Sương gặp mẹ. Mẹ cũng vừa mới mất do người đàn ông nhẫn tâm ấy đang tâm giết hại, nhưng mẹ đã tới số mãn phần rồi, mẹ chỉ có thể ôm Sương, khóc với Sương trong chốc lát rồi lại phải đi về một nơi khác theo quy luật của tạo hóa. Chỉ còn lại một mình Sương bơ vơ lạc lõng, vì Sương chưa tới số phải chết, không nơi nào nhận Sương về, Sương trở thành một hồn oan vất vưởng không nơi nương tựa…
Tôi ôm chặt cái thân thể giá lạnh của Sương, như muốn truyền tất cả hơi ấm, tất cả sức sống của mình sang cho người bạn gái khốn khổ này. Nhưng dù tôi có làm cách nào thì toàn Sương cũng không hề có một chút hơi ấm, hoàn toàn lạnh giá…
- Sau đó, Sương có đi tìm người đàn ông đó để trả thù không?
Sau khi khóc một hồi, tôi hỏi.
Sương khẽ lắc cđầu:
- Không được đâu An! Tuy Sương là hồn ma, Sương có thể xuất hiện nhiều chỗ, nhưng ở đâu cũng có những quy luật riêng của nó, Sương không thể vi phạm được. Vả lại ông ta làm ác, tất nhiên sẽ phải hứng chịu hậu quả thôi, chỉ là chưa tới lúc. Sương đã nhiều lần lang thang về Sài Gòn để gặp lại An, nhưng Sương không dám cho An thấy mặt. Vì người ta bảo, người sống mà trông thấy ma sẽ gặp nhiều điều xui xẻo lắm. Ngày An thi, Sương cũng có mặt bên cạnh… Rồi tới cái ngày An lên Bình Dương tìm Sương, Sương không thể chịu đựng nỗi nên mới hiện ra để gặp An…
- Thế thì… ngôi nhà kia…?
Tôi tò mò.
- Ngôi nhà đó chính ngôi mộ đất hoang tàn mà An đã trông thấy! Dó là ngôi mộ do người dân ở đó thương tình đắp cho Sương. Vì sau khi Sương chết, bọn chúng lôi xác Sương vứt trong rừng cao su, mãi đến mấy ngày sau người ta mới phát hiện được, không có ai là người thân đến nhận về, dân ở đó đành phải vùi chôn Sương ở đó… Và nơi đó trở thành nơi trú thân của Sương.
Sương ngậm ngùi kể.
Giờ thì tôi đã biết vì lẽ gì Sương nhất định không chịu về chung sống với gia đình tôi. Tôi đã biết nhưng tôi lại không có cách nào giải quyết được. Và tôi biết, cả ba mẹ tôi cũng phải bất lực trước hoàn cảnh này thôi.
Người và ma, không thể nào chung sống với nhau chung một mái nhà, dù tôi có yêu thương Sương đến mấy. Đó là điều tất nhiên mà không sao sửa đổi được!
Nhưng tôi vẫn ngoan cố:
- Dù bây giờ Sương không còn là người nữa, nhưng từ hôm qua đến nay Sương vẫn sống y như một con người bình thường, bằng chứng là cả ba mẹ và anh Hai đều không nhận thấy, thì sao Sương không tiếp tục sống như thế cho tới khi nào thật sự mãn phần số? An không nói ra việc này thì mọi người sẽ không biết mà?
Sương cười nhẹ:
- An thật ngây thơ hay là muốn nói càn như vậy? An phải biết là mấy hôm nay Sương phải tập trung hết sức lực mới có thể xuất hiện trwosc mắt mọi người lâu như vậy, bình thường như vậy. Nhưng sức lực của Sương sắp cạn rồi, Sương có thể tan biến bất cứ lúc nào, An ạ! Làm sao một vong hồn như Sương lại có thể tồn tại lâu dài, chung đụng với người trần thế được? Không nói gì tới chuyện Sương đẽ mang tai họa tới cho gia đình An nữa đó!
- Sao Sương lại nghĩ thế? Sao lại đem tai họa chứ?
Tôi phản đối.
- Tại An không biết đó thôi, nếu Sương cứ ở mãi đây nhiều ngày, âm khí từ Sương sẽ nhiễm vào mọi người trong nhà làm cho họ đau ốm vật vã, rồi chuyện xui rủi nữa… nhiều lắm An ơi…
Sương giải thích.
Tôi đứng nhìn Sương đăm đăm.
Sương bây giờ quả thật rất mong manh, mờ ảo. Nhưng thật lạ, trong tôi không hề có một thoáng sợ hãi hay e dè lo lắng gì cả, mà chỉ là những đau đớn, yêu thương đang cồn lên chật cứng trong lòng…
- An đừng buồn! Ông trời đã không cho chúng mình đi cùng với nhau một đường, nhưng trước khi rẽ lối, mình còn được gặp nhau, nói chuyện với nhau như thế này cũng là một hạnh phúc lớn, một an ủi lớn đối với Sương rồi. Tương lai An còn dài, An gắng lo học hành, lúc nào Sương cũng theo phù hộ cho An…
Nghe Sương nói tới đâu nước mắt tôi lã chã tuôn ra tới đó.
Tôi không phải loại thanh niên ẻo lả, yếu đuối nhưng trong tình huống này tôi bất lực, tôi không làm gì được ngoài việc khóc ròng cho vơi bớt niềm đau…
- Bây giờ Sương tính thế nào?
Tôi vừa sụt sịt vừa hỏi.
Sương đắn đo một chút rồi nói:
- An khoan nói gì cho gia đình biết nghen! Cho phép Sương được ở lại với gia đình hết ngày hôm nay, tối nay Sương sẽ ra đi, khi đi Sương sẽ viết thư để lại cho gia đình để cảm ơn và xin lỗi… Chừng Sương đi rồi, An nói với mọi người cũng được…
Tôi hoảng hốt, ôm chầm lấy Sương lần nữa:
- Không! Không đâu! Chiều tối nay Sương không được đi đâu hết, Sương phải ở lại đây… an không muốn Sương đi…
Sương gỡ tay tôi ra, nước mắt nhạt nhòa:
- An là người bạn hiểu và thông cảm cho Sương nhất mà, phải không? An đừng làm Sương khó xử nữa, nếu ở lại được, thì không cần An phải ép buộc Sương cũng đã về đây van xin hai bác cho Sương tá túc rồi kia… Nhé An, An hiểu và giúp đỡ Sương đi nhé?
Tôi thật sự không biết phải làm sao, phải nói gì trước những lời lẽ dịu dàng, dỗ ngọt của Sương.
- Vậy là… sau hôm nay… an sẽ vĩnh viễn mất Sương? Vĩnh viễn không bao giờ còn gặp lại Sương nữa sao?
Tôi sợ hãi, hoang mang cực độ.
Sương trấn an tôi:
- Không đâu, Sương hứa, thỉnh thoảng Sương sẽ về thăm An, nếu an không sợ ma thì Sương vẫn có thể hiện ra để trò chuyện cùng An mà! Sương sẽ làm như thế đến khi nào không thể được thì mới thôi…
Sương trấn an tôi như thế nhưng có lẽ lòng Sương cũng đang cồn cào khổ sở. Môi miệng Sương cố nhoẻn cười với với tôi mà mắt lại đầy sũng nước…
Hai đứa chúng tôi cứ cười và khóc như thế mãi một hồi lâu, tới khi nghe tiếng mẹ tôi về ngoài cổng, cả hai mới vội vàng lau mắt lau mũi, cố tỏ ra bình thường để cho Sương vui trọn ngày hôm nay.
Mẹ đi chợ về, mua đủ thứ thức ăn mà ngày xưa tôi và Sương vẫn thích.
Mẹ bảo:
- Chắc lâu nay không ai làm bánh xèo cho con ăn phải không Sương? Hôm nay bác đãi con một bữa ra trò nhé? Nhớ hồi trước, hai đứa con vẫn thường ngồi chồm hỗm bên cạnh bếp, bác đúc xong cái nào là hai đứa ăn ngay cái ấy. Thằng An nhà bác bao giờ cũng ăn nhiều nhất, nhưng miệng lưỡi lại dẻo quẹo, nào là: “Mẹ ơi, cho Sương thêm cái nữa, cái này nhiều tôm, để dành cho Sương nghen mẹ!...”
Sương cảm động, nước mắt lại rấn rấn bờ mi:
- Bác ơi, con rất hạnh phúc khi thấy bác thương con như vậy. Tình cảm của hai bác và gia đình dành cho con, dù có… chết đi con cũng không thể nào quên được…
Mẹ tôi la:
- Con nhỏ này nói chuyện kỳ chưa! Bác đã nói bác coi con là con cái trong nhà mà! Từ nay không được nói vậy nữa nghe không? Con cứ nói hoài là bác buồn lắm đó!
- Dạ, con xin lỗi bác, con sẽ không nói thế nữa…
Sương mỉm cười, soạn giỏ đồ mẹ mua về. Tôi lăng xăng phụ giúp Sương lặt rau, giã tỏi…
Bên ngoài mặt, cả tôi và Sương đều giả bộ vui cười đùa giỡn, nhưng thỉnh thoảng hai đứa lại len lén nhìn nhau bằng ánh mắt đượm buồn…
Tôi cứ nhìn đồng hồ hoài làm mẹ thăùc mắc:
- Bộ con có hẹn với ai hay sao mà cứ thăm chừng đồng hồ hoài vậy?
Tôi cười giã lã:
- Dạ đâu có hẹn hò gì đâu mẹ! Tại con… đói bụng!
Lúc đó, tôi chỉ muốn nói với mẹ rằng tôi đang lo sợ thời gian trôi qua, tôi cầu mong cho cây kim đồng hồ và ông mặt trời trên cao kia cứ đứng im ở vị trí đó, để Sương vẫn luôn ở bên tôi…
Nhưng tôi biết, tất cả những điều ao ước của tôi là không thể. Mặt trời mọc rồi sẽ lặn, không cách nào giữ được nó ở mãi giữa đỉnh đầu. Cũng như lúc này đây, tôi cảm nhận rõ ràng, niềm vui lớn của tôi, hạnh phúc của tôi, tình yêu đầu đời của tôi đang từ từ tan loãng ra trong lòng bàn tay tôi mà tôi không có gì để níu giữ…
Còn có nỗi đớn đau nào hơn thế nữa? Mà có lẽ Sương cũng vậy. Sương đã gắng gượng giữ nguyên vẹn hình hài mấy ngày hôm nay, giờ cũng đã sắp kiệt sức rồi.
Có lúc, tôi thấy Sương gần như tan ra nhưng may mà không ai phát hiện được.
Mẹ tôi vẫn vui cười hồn hậu, tất bật việc này việc này việc khác trong nhà…
Bữa trưa hôm ấy khác với ngày thường, ba và anh Hai tôi cũng có mặt.
Thương ngày ba và anh Hai ăn ở công ty luôn, chỉ có mặt ở nhà trong bữa cơm tối, nhưng hôm nay mẹ đã dặn cả hai tranh thủ về cùng ăn một bữa thật đầm ấm cho Sương được vui.
Mà Sương vui thật! Hai gò má xanh xao của Sương đã thoáng có nét hồng hào. Tôi chợt nghĩ hay tất cả những chuyện hồn ma bóng quế kia chỉ là do sự hoang tưởng của tôi? Ừ, cũng chỉ cầu mong là như thế, dù thần kinh tôi có vấn đề đi nữa thì tôi vẫn thấy vui hơn rất nhiều…
Nhưng không, khi ánh nắng mặt trời bắt đầu dịu xuống, gió chiều phơ phất thổi, tôi nhận thấy ở Sương một sự khắc khoải ghê gớm. Và tôi hiểu ra, tôi khẳng định mọi việc là thật chứ không phải đầu óc tôi bệnh hoạn.
Tôi đến bên Sương, nắm chặt lấy tay Sương mà không nói một lời, vì tôi biết, khi tôi bật ra lời nói thì nước mắt tôi sẽ lập tức trào ra…
Bữa cơm tối dọn lên, cũng có mặt cả nhà, nhưng Sương không còn vui được nữa. Sương cứ chống đữa đưa mắt nhìn hết người này tới người khác…
Anh Hai tôi ngạc nhiên:
- Ủa, sao Sương không ăn đi em? Làm gì mà nhìn mọi người giống như sắp phải ly biệt vậy?
Sương cuối mặt:
- Dạ… tại em thấy hạnh phúc quá!
Ba tôi đặt chén xuống bàn, xoa đầu Sương:
- Tội nghiệp con bé! Từ nay gia đình này sẽ đem tới cho cháu những hạnh phúc thế này mỗi ngày, cháu nhé?
Miếng cơm nghẹn lại ở cổ tôi, nước mắt tôi gần như vỡ ra khỏi bờ mi nhưng vì không ai chú ý nên tôi không bị phát hiện. Tôi cũng giống như Sương, không đứa nào còn lòng dạ để ăn uống nữa…
Rồi bữa cơm cũng kết thúc. Dọn dẹp xong, mọi ngwofi trở về với công việc yêu thích mỗi tối của mình.
Ba mẹ tôi bật ti vi lên xem, anh Hai ôm đống sổ sách vào phòng làm tiếp. Tôi và Sương tự do đi ra sân.
- An ơi, Sương sắp phải đi rồi…
Sương nói nhỏ.
Dẫu biết giờ khắc này sớm muộn gì cũng sẽ phải tới, nhưng tôi vẫn cố níu kéo:
- Sương không thể ở lại thêm một vài ngày nữa sao Sương?
Sương uể oải ngồi xuống chiếc xích đu:
- An không thấy hôm nay Sương đã kiệt sức rồi sao? Sương không đủ sức nữa rồi An ơi…
Tôi ngồi bệt xuống thềm nhà, úp mặt lên gối khóc không thành tiếng.
Sương đứng lên, bước tới ngồi cạnh tôi, nhẹ nhàng an ủi:
- An đừng buồn như vậy, sẽ làm cho Sương vương vấn hoài không đi đầu thai được đó An ơi! Nếu An thương Sương, thì An phải cố nén buồn đau, vì Sương cũng đau buồn lắm nè, nhưng hai đứa mình phải ráng thôi nghen An? Có lẽ số phần của chúng ta là vậy…
Tối đó, chúng tôi lại ngồi bên nhau giống y như đêm trước ngày Sương chuyển về Bình Dương vậy!
Gió thổi vi vu, vầng trăng mờ tỏ và nước mắt chúng tôi cứ thánh thót rơi xuống thềm nhà…
Một lúc lâu, Sương đứng lên vịn vào vai tôi:
- An ơi… Sương phải đi rồi…
Tôi hoảng hốt đứng bật dậy, nắm chặt tay Sương:
- Sương… Sương ơi, khoan đã…
Sương mỉm cười, không rút tay lại nhưng đôi tay Sương bắt đầu tan ra trong tay tôi, cả thân người Sương bỗng trở nên mờ ảo, sóng sánh như mây như nước…
Tôi hốt hoảng:
- Sương… sương ơi…
Một cơn gió lạnh buốt thổi qua và bên tôi lúc này không còn lại chút dấu vết nào của Sương nữa…
Tôi khóc ngất lên, thảng thốt gào to:
- Sương ơi… Sương đừng đi!
Ba mẹ đang ngồi xem ti vi trong phòng khách, nghe tiếng kêu hốt hoảng của tôi vội vã chạy ra.
Cả hai vô cùng kinh ngạc khi thấy tôi đứng như trời trồng giữa sân nhà, mắt lạc thần, tay huơ huơ vô định.
Mẹ tôi lo sợ:
- Con sao vậy an? Có chuyện gì vậy? Sương đâu rồi?
Ba tôi nhìn quanh quất:
- Con Sương bỏ đi rồi phải không An?
Tôi đau đớn gật đầu rồi ngồi phịch xuống sân.
Ba tôi lắc đầu:
- Con nhỏ này sao thế nhỉ? Nó đi mà không nói tiếng nào với mình sao?
Mẹ tôi chen ngang:
- Không có đâu! Sương là đứa biết phải quấy, nó không cư xử vậy đâu! Mặc dù nó chưa nói là có thuận ở lại đây hay không, nhưng nếu có đi, thế nào nó cũng xin phép mình, tôi tin con bé!
Tôi giơ tay chùi nước mắt, nghẹn ngào:
- Ba mẹ ơi, Sương đi thật rồi! Nhưng Sương không đủ can đảm trực tiếp thưa chuyện với ba mẹ. Sương có viết thư để lại…
Tôi đứng phắt lên, bước vội vào phòng khách, nơi Sương ở hai hôm nay, trên bàn là lá thư Sương đã viết sẵn. Tôi cầm lấy đem ra phòng khách đưa cho ba tôi.
Anh Hai đang làm việc trong phòng, nghe ngoài nhà ồn ào anh cũng chạy ra xem, ba tôi trao lá thư cho anh Hai, bảo đọc lên cho cả nhà cùng nghe.
Anh Hai bắt đầu đọc, mấy câu đầu anh đọc với giọng bình thường, mọi người dù rất sốt ruột biết nguyên nhân nhưng vẫn lắng nghe một cách bình thường. Nhưng rồi… anh Hai bắt đầu khụy xuống, mẹ tôi cũng khuỵ xuống, hai tay mẹ đưa lên ôm chặt lồng ngực. Ba tôi cũng mất đi vẻ oai vệ thường ngày… Chỉ riêng một mình tôi là không bất ngờ trước những gì trong thư Sương tiết lộ.
Khi anh Hai tôi đọc hết lá thư, trên mặt ba tôi hằn lên một vẻ đau đớn cực kỳ. Ba tôi vốn là người đàn ông cứng rắn, luôn bình tĩnh trước mọi tình huống, vậy mà trước sự việc này hình như ba tôi lại không làm chủ được mình.
Mẹ tôi thì khỏi phải nói, bà khóc ngất lên mấy lượt. Tôi biết, mọi người trong nhà tôi đều thương yêu quý mến Sương, nên sự việc này khiến mọi người đau đớn không kém gì tôi…
Ba nhìn tôi:
- Con đã biết chuyện này trước rồi phải không, An?
Tôi khẽ gật.
Mẹ tôi nghẹn ngào:
- Vậy mà con giấu mẹ, sao không cho mẹ biết?
- Con… con…
Tôi ấp úng.
- Sương không cho con nói ra! Sương sợ mọi người sẽ sợ hãi mà xa lánh Sương, Sương muốn được hưởng cái hạnh phúc ấm êm trong gia đình một ngày cuối cùng…
Mẹ tôi vật vã:
- Trời ơi, sao các con lại nghĩ như thế được chứ? Tại sao mọi người lại sợ hãi, xa lánh nó?
Ba tôi lắc đầu:
- Thôi, bà đừng trách chúng nó nữa! Chúng nó nghĩ vậy cũng đúng! Vì chuyện ma với người cũng khó nói lắm. Tuy mình không sợ hãi, nhưng làm sao nó dám tin được điều đó? Với lại, nếu cả nhà mình đều biết nó đã chết rồi, thì làm sao ngày hôm nay mọi người có thể vui vẻ được như vậy? Thôi, dẫu sao mình cũng đã cho con bé được toại nguyện…
Thường ngày anh Hai tôi ít khi nào có ý kiến trong tất cả mọi việc ở nhà, nhưng hôm nay anh bỗng hỏi:
- Vậy bây giờ mình tính sao đây, ba mẹ?
- Tính gì bây giờ hở con? Còn tính gì được nữa bây giờ?...
Mẹ tôi vẫn chưa thôi khóc. Bà nói trong tiếng nức nở, nghẹn ngào.
Ba tôi trầm ngâm:
- Con nói đúng lắm! Bây giờ mẹ con nó đều không còn, gia đình mình phải tính tới chuyện lo mồ mả, hài cốt cho hai mẹ con. Trong thư con Sương để lại, nó có nói rõ ngày tháng mẹ nó và nó qua đời, mình phải nhớ lấy để cúng giỗ cho hai mẹ con. Thôi thì mình coi như mẹ con nó là thân nhân ruột thịt với mình đi!
Cách mấy hôm sau, ba và anh Hai tôi xin nghỉ phép, cả nhà tôi đi Bình Dương tìm lại mộ của mẹ con Sương.
Tôi dẫn mọi người đến đúng cái mộ đất hoang tàn mà lần trước tôi đã thấy.
Hôm ấy ở gần đó có mấy người thợ cạo mủ cao su đang làm việc. Mẹ tôi lân la trò chuyện, hỏi thăm về mẹ con Sương.
Một người phụ nữ tốt bụng, trạc tuổi mẹ tôi đã mời cả nhà tôi về nhà uống nước nghỉ ngơi.
Dì ấy là người sống ở đây lâu năm, mọi việc xảy đến với mẹ con Sương dì cũng biết được đôi chút.
Qua lời kể của dì, chúng tôi biết được người đàn ông – ba Sương – là một kẻ nát rượu và cờ gian bạc lận khét tiếng ở vùng này. Ông ấy sống lang bạt khắp nơi, không hề có nhà cửa, nay trọ chỗ này mai trọ chỗ khác. Có bận không tiền trả tiền nhà, ông bị đuổi ra ngủ vật vờ ở công viên.
Hơn một năm trước, ông dẫn về nhà trọ hai mẹ con người đàn bà, khoe đó là vợ con hắn. Nhưng chỉ mấy hôm sau thì không ai thấy họ đâu nữa. Hỏi thì hắn bảo mẹ con họ bỏ đi rồi. Sau đó, người ta phát hiện xác cô gái chết trong rừng cao su, có dấu hiệu tự vẫn. Còn người mẹ nghe nói cũng chết rồi, nhưng ở xã bên kia.
Mộ của hai mẹ con là do người dân ở đây thương tình chôn giúp, chứ ông ta thì đã bỏ đi biệt dạng.
Vừa rồi nghe tin, ông ta gian lận cờ bạc sao đó mà bị trả thù, bị cắt đứt hết gân tay gân chân, giờ phải lê lết đi xin ăn ở miệt Bình Phước.
Mẹ tôi cũng kể sơ lược cho dì ấy nghe về mối quan hệ của gia đình tôi với mẹ con Sương và ý định bốc mộ hai mẹ con về Sài Gòn.
Nghe xong, dì rất vui và dẫn chúng tôi đi sang làng bên cạnh tìm mộ mẹ Sương.
Mẹ tôi bày ra trước phần một quạnh hiu một dĩa trái cây nhỏ rồi thắp hương lầm rầm khấn vái.
Mọi người khuyên chúng tôi hãy lo chăm sóc mộ phần một thời gian nữa mới có thể bốc dời đi, vì cả hai mẹ con Sương vừa mới chết hơn một năm, chưa thể di dời được.
Anh Hai tôi chạy ra chợ mua một ít dụng cụ. Suốt mấy tiếng đồng hồ, tôi và anh Hai hì hục nhổ cỏ, đắp lại ngôi mộ của mẹ Sương.
Rồi sau đó chúng tôi quay trở lại mộ Sương nhổ cỏ, đắp thêm đất. Mãi đến lúc trời chạng vạng tối công việc mới hoàn tất.
Trước khi ra về, một lần nữa tôi thắp nhang đứng trước mộ Sương thầm thì với Sương những điều muốn nói.
Từ bên ngôi mộ, một cánh bướm trắng chập chờn bay lên đậu vào vai áo tôi.
Tôi rưng rưng nhớ mấy câu thơ của Nguyễn Bính mà trước đây cả tôi và Sương cùng yêu thích:
“… Hỡi ơi bướm trắng tơ vàng
Mau về mà chịu tang nàng đi thôi
Hôm qua nàng đã chết rồi
Nghẹn ngào tôi khóc… quả tôi yêu nàng…”
Sương ơi, em hãy là cánh bướm trắng nhẹ nhàng đi vào giấc ngủ của tôi mỗi tối, nghe Sương!...
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:07:27 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:37:29
BỨC TƯỢNG ĐỒNG ĐEN
I
Ngoài trời, đêm lạnh và ướt, từng cơn gió thốc trên mái nhà, luồn lách vào sâu trong vườn cây ăn trái tạo nên những âm thanh nghe dễ sợ, nghe như tiếng ai hú xa xa. Những cành cây đập vào nhau xào xạc, ếch nhái rền rĩ keu vang, hòa thành một bản hợp xướng đồng quê nhiều cung bậc.
Nhưng trong ngôi nhà ngói khang trang nằm ở phía cuối vườn lại vô cùng ấm cúng.
Các cánh cửa sổ, cửa cái đều được đóng kín, buông màn cẩn thận. Thỉnh thoảng có một làn gió lách vào được nhưng cũng chỉ đủ sức làm lay nhè nhẹ mấy tấm rèm. Bà Năm đang đứng đảo qua đảo lại mẻ bắp rang trên bếp lửa. Ánh lửa bập bùng reo vui tí tách, tiếng nổ lốp bốp vui tai của những hạt bắp đang bắt đầu nở bung ra trong chảo.
Dưới ánh đèn Hoa Kỳ tỏa một vùng ánh trên bàn, hai cha con ông Năm đang say mê đánh cờ. Người cha thua liên tiếp mấy bàn nên tỏ vẻ bực tức, buông tiếng chửi đổng:
- Bà nó, hôm nay tao chơi như cứt!
Bà Năm không ngừng tay rang bứp, nghe tiếng chồng, khẽ chép miệng:
- Cái ông này thiệt là… Chơi với con cái mà cứ tranh hơn tranh thua hoài!
Khi những hạt bắp trong chảo đã nở bung đều, bà Năm dụi dụi nắm lá dừa cho tắt hết lửa rồi trút bắp vào một cái dĩa lớn, bưng lên nhà trên.
Bà đặt dĩa bắp rang ở một góc bàn rồi đứng đó nhìn hai cha con đấu trí.
Tú ngước lên khẽ nheo mắt cười với mẹ, bà Năm cũng cười lại tỏ vẻ đứng về phía con trai.
Ông Năm vừa ngẩng đầu lên đúng lúc để nhìn thấy cái cười đồng loã giữa hai mẹ con. Ông nổi cáu:
- Bà đi ra chỗ khác cho tui chơi, đừng có đứng đây ám tui như vậy!
Bà Năm hứ một tiếng lớn rồi nói, kéo dài giọng:
- Thôi, dẹp đi mà ăn bắp rang kìa! Ăn cho tỉnh trí lại rồi hẵng chơi tiếp! Làm cha gì mà…
Thấy cha bắt đầu nổi nóng, Tú len lén đẩy bàn cờ nhích ra một chút rồi nhón tay bốc mấy hạt bắp bỏ vô miệng nhẩn nha nhai. Ông Năm nhíu mày nhăn trán ra vẻ suy một lúc lâu vẫn chưa tìm được nước cờ nào, ông lắc đầu đứng lên vươn vai:
- Thôi, xả hơi một tí!
Ông Năm ngồi trở xuống ghế, cầm bình trà lên định rót ra ly.
Ngay lúc đó có gọi và tiếng gõ mạnh vào cánh cửa. Ông Năm chưa kịp rót chung trà, lật đật đứng lên:
- Đứa nào mà mưa gió bão bùng thế này còn đến chơi vậy bây?
Miệng hỏi, tay ông Năm đã mở hé cánh cửa cho người bên ngoài lách mình vào. Một luồng gió mang theo hơi nước ướt sũng tràn vào nhà theo người khách lạ. Vội vàng khép cửa lại, ông Năm than thở:
- Mưa gì mà mưa hoài không dứt vậy trời?
Ông quay lại lúc người khách vừa chui ra khỏi chiếc áo đi mưa rộng thùng thình, ông ngạc nhiên:
- Ủa, chú em đây là…?
Người lạ vắt áo mưa lên thành ghế, hai tay xoa vào nhau cho đỡ lạnh rồi tự giới thiệu:
- Thưa bác, cháu là Đông, cùng đơn vị với anh Toàn lúc trước…
Ông Năm tỏ vẻ mừng rỡ, kéo tay khách mời vào nhà:
- Vậy sao? Thôi, vào đây, vào đây cho ấm đi cháu!
Đông đi theo ông Năm vào phòng khách, khi thấy bà Năm và Tú, Đông cúi chào và cười rất thân mật.
Ông Năm chỉ vào Đông, nói với vợ:
- Thằng cháu này là thằng Đông, cùng đơn vị với thằng Toàn nhà mình lúc trước. Bà còn nhớ thằng Toàn thường kể về nó với mình không?
Rồi quay sang phía Đông, ông Năm nói:
- Còn đây là bác gái, thằng này là Tú, em thằng Toàn đó cháu!
Một lần nữa Đông lại cúi đầu chào.
Bà Năm vui vẻ:
- Quý hóa quá! Hai bác nghe thằng Toàn nói mãi về cháu mà bây giờ mới biết mặt! Thật tiếc là thằng Toàn…
Bà Năm im bặt, nụ cười tan biến trên môi.
- Ngồi đi cháu, uống ly trà nóng cho ấm người rồi bác gái dọn cơm cho ăn!
Ông Năm kéo ghế, rót trà mời khách. Rồi như chợt nhớ ra điều gì, ông ngạc nhiên hỏi:
- Ủa mà cháu từ đâu đến đây, đêm hôm mưa gió thế này? Sao cháu biết nhà bác ở đây?
Đông ấp hai bàn tay lạnh giá vào ly trà. Nghe ông Năm hỏi, anh lễ phép thưa:
- Dạ, cháu mới được về phép, tìm đến đây để giao lại cho hai bác một món đồ của anh Toàn. Cháu phải hỏi thăm mãi mới tìm được đến đây!
Bà Năm cảm động:
- Thôi, mọi chuyện để nói sau đi, để bác dọn cơm cho cháu, chắc đói lắm rồi! Tú, con lấy bộ đồ cho anh con thay ra, quần áo nó ướt nhem cả rồi!
Tú dạ lớn rồi nhanh nhảu kéo Đông ra nhà sau thay đồ. Khi Đông đã rũ bỏ được bộ áo quần ướt sũng, khoác lên mình bộ quần áo của Tú, thì bà Năm đã dọn sẵn một mâm cơm.
- Ăn cơm đi cháu! Dùng thiệt tình nghen!
Bà Năm đon đả. Đông ấp úng:
- Dạ, cháu mời hai bác với em Tú cùng dùng cơm với cháu cho vui!
Ông Năm phẩy tay:
- Thôi, thôi, khách sáo gì cháu ơi! Cả nhà bác vừa mới ăn xong lúc nãy, đâu còn chỗ chứa mà ăn tiếp, cháu cứ tự nhiên như con cháu trong nhà.
Nghe ông Năm nói vậy Đông không dám làm khách nữa, anh ngồi xuống ăn một cách nhỏ nhẻ.
Tuy là khách bất ngờ, nhưng mâm cơm bà Năm dọn lên cho Đông cũng khá tươm tất: một dĩa trứng chiên, một dĩa cá rô kho tộ ăn với dưa cải chua, lại thêm mấy trái ớt hiểm đỏ tươi cay xé lưỡi.
Ăn xong, Đông đứng lên tự dọn dẹp chén bát dù bà Năm cố ngăn cản. Anh cười:
- Hai bác đã coi con là con cháu trong nhà, vậy xin bác cho con được tự nhiên. Cháu cũng quen với việc này lắm hai bác ơi, dân bộ đội mà bác!
Bà Năm đành để khách đi rửa chén.
Khi mọi việc xong xuôi, cả nhà lại quây quần bên ánh đèn chuyện trò rôm rả. Ông Năm mở tủ lấy chai rượu thuốc ra rót mời Đông:
- Làm vài ly cho ấm, cháu!
Đông không dám từ chối. Anh nhận lấy ly rượu nhưng chỉ nhấp môi cầm chừng chứ không uống. Đến ly thứ ba, đôi mắt ông Năm bừng sáng, ông bắt đầu gợi chuyện:
- Nào, bây giờ cháu kể cho hai bác và thằng Tú đây nghe thật rõ ràng về cái chết của thằng Toàn đi cháu! Lâu nay gia đình bác cũng chỉ biết một cách mơ hồ thôi cháu ạ! Nó hy sinh trong trường hợp nào vậy cháu?
Đông đặt ly rượu xuống bàn, đứng lên xin phép thắp nhang trên bàn thờ Toàn rồi mới chậm rãi ngồi trở xuống chỗ cũ bắt đầu câu chuyện:
- Thưa hai bác, mọi việc bắt đầu từ vật này!
Vừa nói Đông vừa thò tay mò trong ba lô lấy ra một gói nhỏ, anh cẩn thận mở mấy lớp giấy gói để lấy ra một vật, đưa sát vào ánh đèn để mọi người cùng nhìn rõ.
Đó là một bức tượng bé xíu cỡ hai ngón tay có hình dạng một con khỉ. Vợ chồng ông Năm ngơ ngác, trong khi Tú lại thấy thích thú với chú khỉ tí hon. Tú đưa tay định cầm lấy nhưng Đông giữ lại, rồi nói:
- Đây là một vật huyền bí mà chính nó đã gây ra mọi chuyện! Sau khi anh Toàn mất, cháu được vào học trường quân đội rồi liên tiếp những năm tháng đi xa, cháu không có điều kiện về thăm hai bác và trao lại vật này cho hai bác.
- Bức tượng này là của thằng Toàn sao?
Ông Năm hỏi.
Đông gật đầu buồn bã.
- Thưa bác, cháu đã phải đắn đo suy nghĩ rất nhiều trước khi về đây. Có lúc cháu muốn giấu nhẹm việc này, không để hai bác biết, nhưng nếu làm vậy là cháu đã không giữ tròn lời hứa với anh Toàn. Còn nếu trao cho hai bác kỷ vật này, cháu e…
Đông ngập ngừng không dám nói tiếp. Ông Năm bực mình lớn tiếng:
- Có chuyện gì thì cháu nói huỵch toẹt ra cho rồi, bác nghe nãy giờ muốn điên cái đầu mà hổng hiểu gì hết trơn nè!
Bà Năm can:
- Ông này cái tính nóng như lửa đến già cũng không bỏ được! Từ từ nghe cháu nó kể đầu đuôi!
Đông bối rối:
- Cháu xin lỗi vì đã dông dài, nhưng mong hai bác thông cảm, chuyện này… thật sự cháu không biết nói sao cho rõ ràng nữa! Nhưng thôi, xin bác hãy bình tỉnh, cháu sẽ cố gắng nói vắn tắt.
Đằng hắng một tiếng, Đông tiếp:
- Chắc hai bác còn nhớ những năm anh Toàn ở chiến trường, đó là những năm chiến tranh ác liệt ở nước bạn Campuchia. Một đất nước còn nhiều điều giống như trong huyền thoại. Trong một đánh, chúng cháu bị dồn vào một ngôi chùa nhỏ ở nơi hẻo lánh. Kẻ thù bao vây bốn phía, chúng cháu như đã cầm chắc cái chết trong tay, bất ngờ anh Toàn nhặt được bức tượng này dưới đất. Trong giờ phút sinh tử đó, thật tình cũng chẳng ai để ý gì đến nó. Anh Toàn cầm nó trong tay một cách vô thức thôi. Anh xoa xoa lên mặt bức tượng rồi nói một mình:
- Ước gì mình thoát được trận này, tao còn quá nhiều điều chưa kịp thực hiện…
Chúng cháu cố thủ trong ngôi chùa nhỏ hơn một ngày một đêm, không lương thực, không nước uống, đạn dược cũng không còn bao nhiêu nên chết là điều không thể tránh khỏi. Nhưng thật ngoài dự kiến của bọn cháu, chiều hôm sau tự nhiên bọn địch lũ lượt kéo nhau đi.
Thoát chết một cách chừng như không tưởng, cả bọn reo mừng ồn ả. Ai cũng lấy làm lạ tại sao bọn địch lại dễ dàng tha con mồi như thế? Anh Toàn sực nhớ đến bức tượng, anh nói:
- Hay bức tượng này linh thiệt? Lúc đó tao ước một câu không ngờ thành sự thật!
Có đứa cũng bán tín bán nghi, nhưng có đứa lại gạt phắt đi:
- Ôi trời, chắc chỉ là trùng hợp thôi ông ơi! Linh với chả thiêng gì…
Sau đó chúng cháu tìm về đơn vị. Riêng Toàn, anh giấu bức tượng trong người để kỷ niệm một lần thoát chết. Anh đeo bức tượng trước ngực và thường có thói quen mân mê bức tượng những khi rỗi rảnh.
Một thời gian sau vào một buổi trưa, anh Toàn, cháu và mấy người bạn nữa đang ngồi tán chuyện với nhau, anh Toàn vừa xoa bức tượng vừa nói:
- Lâu quá rồi tụi mình chưa gặp em gái tiền phương nào, buồn quá! Ước gì mấy em xuất hiện cho bọn mình đỡ cô đơn.
Mấy ngày sau, đoàn văn công phục vụ chiến trường đến diễn tại nơi chúng cháu đóng quân. Tối đó bọn cháu được quây quần chọc ghẹo mấy cô văn công thỏa thích.
Đêm ấy, khi về trại, nằm bên cạnh cháu anh Toàn thầm thì:
- Đông à, hình như bức tượng này linh thiệt đó nghe mậy! Hai lần rồi tao vô tình nói lên điều ước lúc đang mân mê nó thì cả hai đều thành sự thật. Với lại, mỗi khi chạm vào nó tao có cảm giác không bình thường. Hình như cái đuôi con khỉ ngo ngoe, nhúc nhích…
Cháu quay sang kéo bức tượng trước ngực anh Đông cầm chặt trong tay một lúc rồi cười:
- Thôi đi cha nội, tui có thấy điều gì không bình thường đâu? Cha nội bịnh rồi!
Thấy cháu không tin nên anh Toàn không đề cập tới chuyện đó nữa.
Bẵng đi một thời gian dài, không ai nhớ gì đến bức tượng con khỉ nhỏ nữa. Rồi sau đó anh Toàn và cháu được điều động đến đơn vị khác. Dạo đó ở chiến trường, muốn đi đâu thì chỉ lội bộ băng rừng vượt suối rồi quá giang xe nhà binh đi từng chặng. Hai đứa lặn lội hơn một buổi mới đón được một chiếc xe. Nhưng khi chúng cháu lên ngồi, xe lại không nổ máy được. Bác tài xế ì ạch sửa suốt mấy tiếng đồng hồ. Ngồi mãi cuồng chân nên anh Toàn bước xuống tính đi loanh quanh cho giãn gân cốt, nhưng khi chân anh vừa chạm đất thì máy xe nổ giòn giã, Toàn lật đật nhảy phốc lên, lạ thay xe lại chết máy. Cứ như vậy đến lần thứ ba, bác tài nổi xung chỉ vào mặt anh Toàn:
- Thôi, thôi, tui không cho ông lên xe tui đâu, cái xác ông ám nặng nề quá!
Tự ái, anh Toàn đùng đùng xuống xe, cháu cũng nhảy xuống theo anh. Chiếc xe phóng cái vù qua mặt hai đứa, tiếng máy nổ giòn như chưa hề trục trặc.
Thế là hai đứa lại cuốc bộ. Ngày hôm đó chúng cháu đón cả thảy 4 chiếc xe mà chiếc nào cũng chết máy lúc anh Toàn ngồi lên.
Ban đầu cháu không tin, anh Toàn cũng không tin, nhưng hai đưa âm thầm thử. Lúc bác tài hì hục sửa, anh Toàn giả bộ trèo xuống thì xe nổ máy bình thường, ảnh vừa leo lên lại tắt. Anh Toàn bí mật trao bức tượng này cho cháu thì mỗi khi cháu xuống xe bình thường, cháu lên xe tắt máy.
Vậy là nguyên nhân rõ ràng do bức tượng này gây ra! Cháu đề nghị anh Toàn vứt bỏ nó đi nhưng anh không chịu. Anh nói nó linh nghịêm thế bỏ đi thì tiếc lắm, nhất là nó đã một lần cứu mạng chúng ta.
Cuối cùng hai đứa không dám đón thêm chiếc xe nào nữa. Đêm đó, chúng cháu vừa đói, vừa khát vừa rã rời đôi chân nên cả hai dừng lại nghỉ ở bìa rừng.
Sau khi ăn tạm mấy miếng lương khô còn sót lại, hai đứa gối đầu lên ba lô nằm nhìn trời. Theo thói quen, tay anh Toàn luôn mân mê bức tượng.
- Ước gì tao được ngủ một giấc nghìn thu thì sướng biết mấy!
Vì quá mệt mỏi lại nghĩ tới chặng đường dài trước mặt nên anh Toàn buột miệng nói ra câu đó. Nhưng khi lời nói vừa phát ra, cả anh Toàn và cháu đều hốt hoảng. Anh Toàn bật dậy như lò xo:
- Chết mẹ! Tao lỡ…
Lúc đó cháu cũng sợ lắm nhưng cũng ráng trấn an anh Toàn. Hai đứa nghỉ một chút rồi lại tiếp tục lên đường. Hai anh em đi ròng rã ba ngày, lúc sắp đến gần đơn vị mới thì bất ngờ một viên đạn do kẻ địch bắn vu vơ trong đêm bay vụt tới, xuyên qua màng tang anh Toàn. Anh Toàn đã hy sinh một cách vô cùng lãng xẹt như thế đó hai bạc ạ! Lúc hấp hối, anh Toàn dặn cháu phải trao tận tay hai bác vật này và phải kể rõ với hai bác những điều linh nghiệm của nó.
Bà Năm sụt sịt khóc khi nghe kể tường tận cái chết của con trai. Đôi mắt ông Năm cũng mờ lệ. Tú thì cứ cười cười, cậu ta có vẻ xem lời kể của Đông là chuyện hài hước, góp vui trong đêm mưa gió này vậy.
Cầm bức tượng nhỏ bằng hai tay, Đông đứng lên kính cẩn trao nócho ông Năm:
- Hôm nay cháu xin trao lại di vật của anh Toàn cho hai bác. Nhưng… cháu xin hai bác hãy cân nhắc kỹ trước khi quyết định cất giữ nó hay là hủy bỏ. Vì quả thật bức tượng này có một quyền lực rất mạnh.
Ông Năm cầm lấy bức tượng soi vào ánh đèn và ngó nó chăm chăm. Lâu sau ông ngước lên nhìn Đông:
- Bác cám ơn cháu đã lặn lội đường xa tới đây trao kỷ vật của con trai bác. Nhưng thật sự bác không tin lắm vào chuyện linh ứng đó. Có thể đó chỉ là những may mắn và rủi ro trùng hợp mà thôi cháu ạ! Nhưng dẫu sao bác cũng rất cám ơn cháu…
Đông nghiêm mặt lại:
- Bác ơi, một lần nữa cháu khuyên bác cần phải cẩn thận. Theo cháu, tốt hơn hết là bác nên hủy bó nó đi. Vì sau ngày anh Toàn mất, lại có một số chuyện liên quan tới bức tượng này.
Ông Năm ngạc nhiên:
- Sau đó lại có chuyện liên quan tới nó nữa à?
Đông gật đầu:
- Dạ, cũng gần như thế bác ạ! Số là từ sau khi anh Toàn mất, cháu hoàn toàn tin vào sự linh thiêng của bức tượng này. Cháu không dám đeo nó trên cổ như anh Toàn, cháu sợ một lúc nào đó mình quên mà có hành động và lời nói phù hợp khiến cho bức tượng phát huy sức mạnh vô hình của nó. Cháu gói bức tượng vào hai ba lớp giấy, bọc bên ngoài bằng ni lông rồi giấu kỹ dưới đáy ba lô. Nhưng vì tò mò, một lần cháu đã cố tình thử nghiệm. Cháu len lén mở gói giấy ra, xoa tay lên bức tượng rồi lẩm nhẩm ước: “Ước gì mình có thật nhiều tiền…”. Mấy hôm sau, sau một trận hành quân, mấy anh em tụ tập lại chơi đánh bài. Trò này thì cháu rất dở, lần nào đánh cũng thua lả tả, nhưng riêng lần đó mọi người phải kinh ngạc vì cháu. Hôm ấy cháu lột sạch túi cả đám bạn bè…
Ngừng lại một chút, Đông có vẻ như hối hận ăn năn điều gì ghê lắm.
- Một lần về phép thăm nhà, thấy cuộc sống gia đình khó khăn vất vả quá, cháu làm liều ước một lần nữa. Thế là từ đó gia đình cháu phất lên, bắt tay vào làm cái gì cũng thu được kết quả mỹ mãn, đúng như người ta nói là “làm chơi ăn thiệt”. Cuộc sống gia đình cháu trở nên đủ đầy sung túc. Cháu cũng mừng vì mình đã đem lại điều tốt đẹp cho gia đình. Nhưng… cũng từ đó gia đình cháu lại xảy ra nhiều điều oan trái, còn khổ sở hơn cái hồi nghèo khó trước kia. Ba cháu lớn tuổi rồi vậy mà con sánh tật bồ bịch, về nhà kiếm chuyện làm khổ má cháu. Em gái cháu thì có con với ông anh rể… Đủ thức chuyện đau lòng và đáng xấu hổ hai bác ạ!
Nhưng lúc ấy cháu không nghĩ tất cả bất hạnh của gia đình là do bức tượng này đem đến. Mãi đến mấy năm sau, tình cờ một lần cháu nghe người bạn Campuchia kể về chuyện bùa phép. Anh ấy nói Campuchia là vùng đất linh thiêng lắm, chuỵên bùa ngãi là có thật chứ không phải chỉ là chuyện thêu dệt để kể cho vui hoặc có tính chất hù dọa người khác. Bản thân anh đã từng chứng kiến nhiều sự kiện lạ lùng mà khoa học không thể giải thích twofng tận được!
Trong câu chuyện, anh bạn có nhắc đến một bức tượng hình con khỉ. Nghe đến đó, lòng cháu hồi hộp lắm vì biết bức tượng mà anh nói đến chính là bức tượng mà cháu đang cất giữ.
Cháu hỏi tới thì được anh bạn cho biết: Bức tượng hình con khỉ được làm bằng đồng đen, rồi được một pháp sư nhà nghề trên đất nước chùa tháp phù phép vào đó.
Bức tượng này có một phép màu do một vị phù thuỷ đại tài ban cho nó. Vị phù thuỷ này muốn chứng tỏ là con người ở đời ai cũng có số mệnh, và kẻ nào toan cải đổi số mệnh sẽ bị tai nạn buồn phiền. Nó sẽ giúp người cầm nó trong tay thực hiện ba điều ước, nhưng đồng thời nó cũng sẽ đem lại tai họa cho chính người đó. Ông muốn răn đe con người không nên tham lam, không nên ham muốn những gì không do sức lao động của mình tạo ra.
Từ lúc được phù phép, bức tượng đã gây ra tai họa cho rất nhiều người…
Ông Năm vội gạt ngang:
- Bác không ngờ cháu lăn lộn chiến trường chừng ấy năm, từng cận kề bên cái chết nhiều rồi mà còn mê tín đến mức độ đó. Bác thì bác không tin đâu, bác sẽ giữ bức tượng này làm kỷ vật của thằng Toàn. Thôi, khuya lắm rồi, cháu đi nghỉ đi, cả ngày đi đường vất vả rồi còn gì.
- Ba, sao ba không thử để kiểm chứng lại những gì anh Đông kể? Chẳng hạn bây giờ ba ước một điều gì đó cho mình đi…
Tú nói chen vào.
Ông Năm nạt:
- Tao không tin ba cái chuyện tầm bậy tầm bạ đó! Mày dọn dẹp giường chiếu rồi hai anh em ngủ đi!
Thấy ông Năm muốn kết thúc câu chuyện, Đông đành phải nghe theo. Anh lặng lẽ lên giường nằm cạnh Tú nhưng trằn trọc mãi không ngủ được.
Tú quay sang khều anh, hỏi nhỏ:
- Cái tượng đó linh thiệt hả anh Đông?
- Ừ, linh lắm em ạ!
Tú cười khúc khích:
- Ngày mai em sẽ thử!
Đông hốt hoảng:
- Đừng, nguy hiểm lắm em ơi! Bao giờ cũng có một tai họa to lớn đến với người đó!
- Ghê vậy sao anh?
Tú hỏi vẻ nghi ngờ.
- Anh nói rất nghiêm túc, không phải dọa em đâu! Em phải cẩn thận với nó và nhớ nhắc chừng ba mẹ em cũng phải cẩn thận nhé?
- Dạ, em nhớ rồi!
Tú ngoan ngoãn đáp, nhưng trong đầu cậu ta lại vạch ra nhiều kế hoạch dành cho bức tượng lạ kỳ đó.
Ở ngoài phòng khách, vợ chồng ông Năm lặng lẽ ngồi bên nhau, hai mái đầu bạc cùng hướng lên nhìn di ảnh của đứa con trai vắn số.
Ông Năm thở dài:
- Đi ngủ đi bà, khuya rồi đó!
Rồi ông đứng lên, đem bức tượng đặt bên cạnh tấm hình Toàn đang cười rạng rõ trong bộ quân phục còn mới tinh trên bàn thờ.
***
Sáng hôm sau, trước khi chào từ biệt cả nhà, một lần nữa Đông nhắc lại sự cẩn trọng cần phải có đối với bức tượng đồng đen.
Ông Năm vỗ vai anh:
- Bác nhớ rồi mà, con đừng lo lắng! Hai bác chỉ để nó trên bàn thờ thằng Toàn thôi, không ai làm gì đâu.
Toàn vẫn chưa yên bụng. Quay sang bà Năm và Tú, anh căn dặn thêm lần nữa rồi mới chịu bước đi.
Khi Toàn đã đi khuất chỗ lùm cây, ông quay vào nhà nói với vợ:
- Cái thằng tin dị đoan hết biết!
Bà Năm trừng mắt:
- Tui thấy ông nên cẩn thận theo lời thằng Đông dặn dò đi! Chuyện gì cũng có thể xảy ra hết đó ông, đừng có xem thường!
Ông Năm gãi đầu:
- Khổ quá, tui lại quên trong nhà này còn có người mê tín số một là bà…
Tú chợt đề nghị:
- Có gì đâu mà ba má phải cãi nhau. Bây giờ cứ lấy bức xuống, thử ước một điều gì đó là biết liền chứ gì!
Ông Năm vỗ tay đánh đét vào đùi:
- Có vậy mà tao không nghĩ ra! Thiệt tệ! Đâu, đâu… Tú, con tới bàn thờ anh hai lấy cái tượng đó cho ba đi con.
Tú dạ rồi hí hửng chạy đi lấy tượng.
Bà Năm sợ sệt can ngăn:
- Cho tui xin đi ông ơi, ông không nghe thằng Đông nói hay sao, bao giờ cũng phải đi kèm theo tai họa…
Ông Năm trấn an vợ:
- Bà yên tâm, tui chỉ thử thôi mà!
Tú đưa bức tượng cho cha rồi ngồi xuống một bên hồi hộp theo dõi. Ông Năm chậm chạp lật qua lật lại, xoay tới xoay lui, xem xét bức tượng một cách vô cùng tỉ mỉ. Ông búng, ông gõ rồi ông đưa lên miệng cắn thử, đưa lên mũi ngửi… nói chung là ông săm soi tìm hiểu bức tượng bằng tất cả các giác quan.
Bà Năm không ngăn được chồng con nên cũng kéo ghế ngồi sát lại, tò mò nhìn ông.
- Ba, con nghe người ta nói đồng đen mắc tiền lắm đó ba!
Tú reo lên khi chợt nhớ ra điều đó.
Ông Năm chau mày:
- Đây là kỷ vật của anh mày, có mua bao nhiêu tiền tao với má mầy cũng nhất quyết không bán đâu con ạ!
Rồi ông cười khà khà nói tiếp:
- Đừng nói đến chuyện nó có thể có phép mầu, có thể nó là cả một kho báu đó con!
- Giống như truyện “Nghìn lẻ một đêm” hén ba?
Tú hồ hởi.
Ông Năm nạt:
- Một đêm một ngày gì tao đâu có biết, mầy lộn xộn quá! Để im tao nghĩ coi nên ước cái gì đây…?
Ông Năm cầm chặt bức tượng trong tay, làm bộ mơ màng suy nghĩ:
- Ước nhà cao cửa rộng à? Thôi, nhà cao leo cầu thang mệt lắm, tao già rồi, không còn đủ sức! Cửa rộng, gió lùa vô nhiều trúng gió chết con ơi! Để coi, để coi… cái gì đây ta?
Ông đi tới đi lui trong nhà rồi bất chợt đứng dừng lại trước mặt bà Năm hỏi lớn:
- Bà, bà muốn gì nói đi, tui ước cho?
Bà Năm luống cuống:
- Thôi thôi, tui không cần gì hết, tui chỉ cần gia đình mình bình an thôi hà…
Thấy ba giả đò, Tú phụ họa:
- Đâu mình thử ước xem. Nếu linh ứng thì gia đình mình sẽ giàu có, tên tuổi, hạnh phúc. Ba hãy ước được làm vua đi. Làm vua, ba sẽ giàu có, quyền uy, sẽ được phép có nhiều vợ…
Nói xong cậu chạy quanh bàn ăn vì bà Năm đuổi theo toan "ký" vào đầu cậu con trai vì câu nói đó.
Ông Năm lại nhìn bức tượng với vẻ bán tín bán nghi, lẩm bẩm:
- Tôi chưa biết phải ước gì đây? Kể ra thì đời tôi thế này cũng là đầy đủ, chẳng thiếu thứ gì rồi…
Cậu con đến bên cạnh cha, nói:
- Bây giờ nếu có thêm một ít tiền xài chơi chắc ba thích lắm.  Vậy ba nên ước có vài trăm triệu…
Người cha cười dễ dãi, như chìu theo cậu quý tử rồi cầm bức tượng đưa lên cao, vẻ trịnh trọng. Ông nheo mắt về phía bà vợ đang ngồi bên ấm trà. Bà rót ra một ly rồi uống cạn.
Ông chồng dõng dạc nói to lên:
- Ước gì tôi có trong tay một trăm triệu!
Bà Năm lại rót thêm một ly nước nữa rồi uống ực một hớp. Bà càu nhàu
- Tui nói mà ông không chịu nghe, ước tầm bậy tầm bạ rồi có gì xui rủi thì đừng trách sao tui không can ngăn!
- Cái bà này nói chuyện gì đâu không, làm như nó linh ứng thiệt vậy không bằng!
Ông Năm nạt vợ.
Nhưng liền sau đó ông Năm kêu lên:
- Ý trời đất ơi! Nó nhúc nhích!
Vừa lạ lùng, ông Năm vừa nhìn cái đuôi  con khỉ như đang cử động. Ông nói tiếp:
- Khi nãy tôi có ước là trông thấy cái đuôi con khỉ nhúc nhích bàn tay tôi như một con rắn. Rõ ràng là điều tôi ước đã được ứng nghiệm.
Cậu con cầm bức tượng lên, đặt trên bàn, nói:
- Nhưng con đâu thấy nó nhúc nhích gì đâu? Cũng chưa thấy có tiền, và con bảo đảm là số tiền đó sẽ không bao giờ đến với ba!
Bà Năm hoang mang bảo chồng:
- Ông ước chuyện không hay!
Ông Năm lắc đầu:
- Chỉ là trò đùa thôi. Bà đừng lo lắng làm gì. Nhưng dù sao bây giờ tôi cũng hơi tin những gì thằng Đông nói!
Tú trêu chọc ba:
- Con tưởng ba của con cứng cựa lắm, ai dè… mới cầm bức tượng mà đã tin rồi! Riêng con thì chừng nào con thấy có một trăm triệu rớt vô nhà mình con mới tin!
Ông Năm cười khà khà, cầm bức tượng đặt trở lên bàn thờ đứa con trai lớn. Ông lại bàn ngồi uống nước, hai chân nhịp rung rung:
- Thôi, dẹp chuyện bức tượng qua một bên, giờ lo làm ăn đi! Thằng Tú kiếm cái gì ăn bỏ bụng đi rồi ra làm cho xong đám cỏ ngoài vườn, hôm nay là ngày nghỉ phép cuối cùng của mày rồi đó, làm siết siết lên con, chứ không thôi ngày mai mầy lên công ty làm, bỏ một mình má mầy sao được!
Quay nhìn bà Năm, ông nói tiếp:
- Còn bà, bà đi kêu lái xuống coi mấy cây mận, bán hết đi, mưa gió như vậy mà cứ tiếc để lại rồi nó sinh sâu sinh dòi bỏ hết đó!
Bà Năm lườm chồng:
- Ông cắt đặt tui với thằng Tú, còn ông ở nhà ngồi rung đùi chắc? Ông đi kêu lái đi, tui phụ làm cỏ với thằng Tú cho xong, một mình nó không làm hết nội bữa nay đâu!
Nghe vợ nói, ông Năm hất đầu:
- Cái bà này lạ chưa? Tui có công việc của tui chứ!
Rồi ông cười hề hề, nói tiếp:
- Hôm nay bà lại sanh chứng nạnh hẹ chồng rồi đó hử?
Bà Năm lườm ông một cái, không thèm trả lời, ngoay quắt xuống bếp lo bữa sáng.
Bà Năm dọn bữa cơm sáng lên bàn, cả nhà quây quần vui vẻ.
Bên ngoài trời lại sắp chuyển mưa, gió gào dữ dội hơn bao giờ hết, cánh cửa sau nhà bị gió đập kêu rầm rầm, tiếng động đó khiến bà Năm cảm thấy lo sợ không đâu.
Ăn xong, trước khi ra vườn làm cỏ, Tú còn quay lại chọc ba:
- Con hy vọng ba sẽ nhận được số tiền một trăm triệu mà ba ước, số tiền đó được đựng trong một cái túi lớn do một con gì ghê gớm như cọp beo chẳng hạn tha lại cho ba…
Cậu ta cười híc híc rồi tiếp:
- Hoặc là chút nữa gió cuốn tiền thả vô nhà mình, ba hén!
Ông Năm cười hềnh hệch:
- Ôi dào, ba cái chuyện tầm xàm…
 
II
Sáng hôm sau trời quang mây tạnh, bà Năm mỉm cười trước những điều lo sợ hoang đường trong đêm qua.
Suốt đêm hôm qua bà cứ vơ vẩn nghĩ về bức tượng rồi lại nhớ con trai, trằn trọc mãi đến gần hai giờ khuya mới chợp mắt được.
Bà lau dọn bàn ghế, khi cầm bức tượng trên bàn thờ con, bỗng dưng bà có một cảm giác bất an. Bà hoảng hốt đặt vội xuống rồi đứng nhìn nó trân trân. Tú trông thấy mẹ có vẻ sợ hãi nên nói:
- Con nghĩ anh Đông này mê tín dị đoan quá! Vậy mà cả nhà mình cũng chịu khó lắng nghe. Thật là vô lý. Vào thời buổi này làm gì có những chuyện ước nguyện như vậy? Mà nếu như chuyện này có thật thì số tiền một trăm triệu ba ước hôm qua đâu không thấy? Nó đến tay ba bằng cách nào? Mẹ đừng có lo sợ viển vông!
Ông Năm xen vào:
- Chắc là từ trên trời rơi xuống!
- Tới lúc đó ba lại tiếc sao mình không ước nhiều hơn…
Tú cười.
Bà Năm nói:
- Cậu Đông quả quyết là các điều ước ứng nghiệm một cách lạ lùng ngoài dự đoán của con người…
- Thôi má ơi, hơi đâu má tin!
Sau khi ăn xong, Tú đứng lên:
- Con đi làm đây. Nếu có tiền đến thật thì ba hãy giữ nguyên trước khi con về nghen! Con lại đang lo sợ số tiền đó sẽ biến ba thành một ông già ki bo bủn xỉn mất thôi! Hay là ba để cho má với con giữ tiền giùm ba đi…
Bà Năm cười trước câu nói đùa của con. Bà theo Tú ra cửa rồi quay trở lại bàn ăn. Bà có vẻ vui tươi trước thái độ thoải mái của ông chồng sáng nay.
- Ông Năm, bà Năm ơi, có nhà không?
Nghe tiếng người bưu tá xã gọi vang từ ngoài cổng, bà Năm chạy nhanh ra, tim đập liên hồi vì nghĩ có lẽ số tiền kia đang đến. Nhưng bà chỉ nhận được giấy gọi Tú đi khám sức khỏe.
Bà vừa mừng vừa lo vì thấy điều ước chưa linh nghiệm. Tâm tư bà lúc này thật rối bời.
Bà nghĩ, nếu tự nhiên mà trong nhà có được một số tiền lớn thì ai mà không thích không ham, chỉ ngại một chỗ vì theo lời Đông nói là không bao giờ bức tượng tha cho gia đình người thực hiện lời ước nguyện. Bà đã mất đi một thằng con trai, giờ đây bà không còn mơ ước những điều cao xa nào hết, bà chỉ mong chồng và con trai, cả gia đình bà được bình yên mạnh giỏi, vậy là bà đã mãn nguyện lắm rồi!
Nhưng vì tò mò, nên bà cũng hồi hộp trông chờ xem sự thể ra sao.
Đến bữa ăn chiều, vẫn không có gì mới lạ. Bà Năm lẩm bẩm:
- Chẳng lẽ những gì thằng Đông nói là không đúng?
Ông Năm rót trà vào ly nói:
- Thật tình thì tui không tin là bức tượng đó có phép màu, nhưng… có một chuyện lạ là cái đuôi khỉ cử động khi tôi nắm nó trong tay, thiệt đó bà! Tui cảm giác rõ ràng lắm…
Bà Năm lo lắng:
- Có khi nào tại ông giàu óc tưởng tượng?
Ông Năm nhấn mạnh:
- Tôi không tưởng tượng mà tôi biết rõ ràng nó cử động...
Bà Năm không đáp, bà chợt nhìn một người lấp ló bên ngoài đang có những cử chỉ khác thường. Người ấy nhìn đăm đăm vào nhà, nhưng như do dự nửa muốn vào nửa muốn không.
- Ông ơi, ông nhìn xem ai trước cửa nhà mình kìa? Quen hay lạ vậy ông? Tui không thấy rõ, sao mà cứ lấp ló hoài hổng chịu vô?
Theo tay bà Năm chỉ, ông Năm thấy người đứng trước cổng hoàn toàn xa lạ, người đó ăn mặc đàng hoàng lịch sự, không giống người dân trong vùng mà giống như mấy người làm việc nhà nước trên huyện. Mấy lần người đó đứng lại trước cổng rồi tiếp tục đi. Đến lần thứ tư mới chịu đưa tay cương quyết đẩy cánh cổng tre để bước vào con đường lát bê tông đưa tới trước cửa nhà.
Bà Năm vội vàng châm nước mời khách.
Ông Năm mời khách ngồi ghế nhưng người khách có vẻ không được tự nhiên. Người đó thường nhìn trộm ông bà và lơ đãng nghe bà giải thích vì sao trà không được nóng lắm.
Ông Năm không dám hỏi ngay lý do cuộc viếng thăm của khách lạ. Một lúc sau ông khách mới nói:
- Thưa ông bà, tôi được người ta nhờ đến đây để...
Khách im lặng một lúc rồi tiếp:
- Tôi từ Công M & M tới đâỵ
Bà Năm giật mình, hổn hển nói:
- Có việc gì không? Thằng Tú nhà tui có chuyện gì?
Ông Năm xen vào:
- Bà nên bình tĩnh. Mời ông dùng nước. Chúng ta nên thong thả. Tôi nghĩ ông không mang tin dữ đến cho chúng tôi, phải vậy không?
Vừa nói ông vừa nháy mắt với khách lạ, ra hiệu đừng nên làm vợ ông hoảng hốt.
Ông khách ấp úng:
- Tôi rất tiếc...
Bà Năm vẫn không an tâm:
- Con tôi bị thương?
Khách lạ gật đầu, ôn tồn nói:
- Dạ phải, cậu Tú bị thương nặng…
Ngắc ngứ một chút, người lạ tiếp tục:
- Nhưng giờ thì cậu ấy không cảm thấy đau đớn gì hết…
Bà mẹ chắp hai tay lại kêu lên:
- Mô Phật, cám ơn Trời Phật đã giúp con tôi...
Bà Năm chưa dứt lời, bỗng thấy khuôn mặt buồn thảm của người khách lạ, bà níu lấy bàn tay chồng để giữ bình tĩnh.
Im lặng một lúc lâu, khách lạ nói thật nhỏ:
- Cậu Tú bị kẹt trong guồng máy!
Ông Năm lặp lại câu đó như một tiếng vang:
- Kẹt trong guồng máy!
- Trời ơi, con tui… Nó sao rồi ông?
Người lạ cúi đầu thật thấp:
- Cậu ấy… qua đời rồi!
Ly trà trên tay ông Năm rơi xuống vỡ tan. Ông run run không nói nên lời. Bà Năm thì cứ đứng há hốc miệng, chừng như chưa cảm nhận, chưa hiểu hết những lời người lạ nói.
- Trời ơi…
Cuối cùng ông Năm bật ra được một tiếng rên.
Rồi ông nhìn ra ngoài cửa sổ, siết chặt bàn tay vợ.
Ông Năm nói với khách lạ, giọng thật buồn:
- Thằng Tú là đứa con duy nhất còn lại của chúng tôi. Nó chết rồi, chúng tôi thật là bơ vơ… Chúng tôi biết sống sao đây?...
Khách lạ ho mấy tiếng, đứng lên từ từ bước về phía cửa sổ. Ông ta nói:
- Công ty phái tôi đến để tỏ lời phân ưu với ông bà về tai nạn đáng tiếc vừa qua…
Khách nói một hơi không nhìn đôi vợ chồng già, tiếp tục:
- Tôi chỉ là nhân viên của công ty, xin ông bà hiểu cho tình thế của tôi. Hiện nay thi thể cậu Tú đang ở nhà xác bệnh viện. Xin ông bà dằn bớt đau đớn mà đi theo tôi lên đó làm một số thủ tục rồi đón cậu Tú về. Xe công ty đang chờ ông bà ở ngoài con đường lớn…
Không ai trả lời. Gương mặt bà Năm tái xanh, mắt như đứng tròng và hơi thở của bà chỉ còn thoi thóp. Còn ông Năm thì có vẻ xa vắng, mất đi tính nóng nảy ngày thường.
Khách lạ nói tiếp:
- Công ty M & M không nhận trách nhiệm trong tai nạn này.  Nhưng vì cậu Tú đã giúp việc lâu năm cho công ty nên công ty quyết định gửi đến cho ông bà món tiền gọi là...
Ông Năm buông bàn tay của bà vợ mà ông đang nắm, nhìn khách lạ với đôi mắt đầy kinh hãi:
- Bao nhiêu?
- Một trăm triệu!
Người lạ vừa dứt lời bà Năm ngã nhào xuống bất tỉnh, còn ông Năm đứng im như bị trời trồng…
 
III
 
Trong mảnh đất phía sau nhà, dưới vườn cây rộng thênh thang, cách nhà độ hơn hai trăm thước, hai vợ chồng già ngày nào cũng ra ngồi bên nấm mộ con trai. Hai chiếc bóng liêu xiêu đổ dài trong nắng chiều vàng vọt…
Từ sau đám tang Tú, họ trở về nhà sống âm thầm như hai chiếc bóng.
Chuyện xảy ra quá nhanh chóng khiến họ chưa kịp ý thức được tầm quan trọng của vấn đề. Nhất là bà Năm, chừng như bà chưa chấp nhận được sự thật đau lòng này. Bà vẫn mong thằng Tú sẽ đột ngột xuất hiện trong nhà, nói cười tươi tỉnh như mấy hôm trước.  Bà vẫn ở trong tình trạng chờ đợi, hy vọng một cái gì xảy ra để cho nhẹ bớt được phần nào gánh nặng sầu đau, quá nặng đối với hai vợ chồng già.
Nhưng ngày lại ngày thấm thoát qua và niềm hy vọng mơ hồ của bà trở thành tuyệt vọng.
Hai người sống âm thầm. Cả ngày không ai nói với ai câu nào, vì họ chẳng còn gì để nói. Cho nên ngày tháng đối với họ thật dài, dài không chịu nổi.
Một tuần sau, ông Năm giật mình thức giấc vào lúc nửa đêm. Ông quay sang và chỉ thấy chỉ một mình mình trên giường.
Gian phòng tối đen, chỉ có tiếng khóc nghẹn ngào bên cửa sổ. Ông ngồi dậy, lắng nghe một lúc rồi bảo:
- Bà ơi! Bà vào đây, ở đó coi chừng trúng sương, trúng gió.
Bà Năm khóc òa lên tức tưởi:
- Nhưng con tui còn lạnh hơn tui nhiều!
Ông Năm vẫn còn mê ngủ, ông nằm xuống chiếc giường ấm êm, nhắm mắt lại.
Ông đang mơ màng thì nghe tiếng bà vợ hét lên thật hãi hùng. Ông lồm cồm bò dậy thì nghe tiếng bà Năm la tiếp:
- Bức tượng đồng đen! Bức tượng đồng đen!
Ông Năm hỏi:
- Cái gì? Bà muốn làm gì?
Bà Năm thất thểu tiến về phía ông nói:
- Tui muốn thấy bức tượng đồng đen đó, ông đã hủy bỏ nó chưa?
- Chưa. Tui vẫn để nó ở trên bàn thờ. Nhưng bà lấy nó để làm gì?
- Tui cần phải ước một điều…
Ông Năm kêu lên giận dữ:
- Trời ơi! Bấy nhiêu đó còn chưa đủ sao?
Bà Năm cũng to tiếng không kém:
- Chưa! Tui vẫn chưa ước điều gì mà! Ông ra đó lấy vô đây. Nhanh, nhanh lên, nghe không? Và ước cho thằng Tú sống lại
Ông Năm ngồi dậy, vứt mền sang một bên, hoảng hốt:
- Trời đất! Bà có điên không?
Nhưng bà Năm vẫn cương quyết:
- Mọi việc là do ông, tại ông tất cả! Tui đã cố ngăn cản ông nhưng ông không nghe, ông giết con tui rồi… Con ơi là con ơi…
Bà Năm ngồi bệt xuống sàn nhà ôm mặt khóc hu hu. Mới có mấy ngày mà bà trông già hơn chục tuổi. Bà lết tới bên giường cào cấu ông Năm:
- Ông đi lấy ngay đi rồi ước cho con mình sống lại, tui không thể sống nổi nếu nó vĩnh viễn không quay về…
Ông Năm bật diêm quẹt lửa thắp ngọn đèn, bảo:
- Bà nên đi ngủ đi, bà không biết bà đang nói gì.
Bà Năm vẫn không chịu thua:
- Ông đã làm cho nó chết, thì ông phải làm cho nó sống dậy, ông đi đi , đi nhanh lên đi…
Bà Năm tru tréo. Tiếng khóc giữa đêm vắng lặng nghe càng thêm phần ai oán não nùng…
Ông Năm lẩm bẩm:
- Đó là một sự ngẫu nhiên.
Bà Năm ré lên:
- Ông có đi nhanh không! Và ước y như tui nói… Ông không đi thì tui đi, tui đi cứu con trai tui… hu hu
Ông Năm đành đi ra khỏi phòng trong đêm tối, mò mẫm vào phòng khách. Đến bên bàn thờ ông sờ soạng tìm và thấy bức tượng vẫn nằm ở chỗ cũ. Một sự lo sợ xâm chiếm lấy hồn ông. Ông sợ khi cậu con sống lại, cậu sẽ  sống sao đây với thân thể bẹp nát gần như gãy vụn trong guồng máy? Với sự lo sợ đó ông toát mồ hôi, lò mò mãi mà không trở về phòng được.
Nét mặt của bà Năm đổi sắc khi ông Năm bước vào phòng ngủ. Ông Năm cảm thấy sợ cả bà vợ của mình.
Bà Năm hét lên:
- Ước đi!
Ông ấp úng nhưng bà vợ lại quát:
- Ước đi!
Ông Năm nắm chặt bức tượng trong tay:
- Tui ước con tui sống lại!
Ông Năm cảm thấy cái đuôi khỉ đang ngo ngoe trong lòng tay mình. hoảng hốt, ông buông rơi bức tượng xuống nền nhà.
Hai vợ chồng già chăm chú nhìn bức tượng một lúc, tâm trí như đặt hết tin tưởng vào phép lạ. Một lúc sau bà Năm tiến đến bên cửa sổ, vén màn lên. Bà đứng đó, nhìn ra ngoài chờ đợi thằng Tú yêu quý của bà sống dậy trở về.
Ông Năm ngồi bất động trên ghế. Ông cảm thấy khí lạnh thấm vào cơ thể, nhưng vẫn ngồi yên, thỉnh thoảng liếc về phía bà Năm đang nhìn lom lom ra phía sau vườn.
Ngọn đèn chao qua chao lại, ném những mảnh ánh sáng chập chờn lên trần, lên tường. Cuối cùng, khi một cơn gió bất chợt thốc vào, đốm lửa bỗng loé lên lần chót rồi phụt tắt.
Ông Năm thấy rợn người, chỉ biết hy vọng bức tượng sẽ không đem lại linh nghiệm cho lời ước thứ này của ông. Ông trở về giường nằm. Một hai phút sau bà Năm cũng đến ngồi bên ông.
Không ai nói với ai lời nào, cả hai nằm im lặng lắng nghe tiếng tích tắc của đồng hồ, nghe tiếng gió xao xác ngoài sân, nghe lòng đang cồn lên niềm đau tê tái…
Trong sự yên lặng của đêm, bỗng nghe dường như có tiếng cọt kẹt xuất phát từ cửa nhà bếp, tiếng chuột chạy sát chân tường. Bóng tối như đè lên người khiến ông Năm ngột ngạt, khó chịu.
Sau khi nằm ráng một chút để lấy can đảm, ông Năm lấy hộp quẹt, bật lửa lên châm vào cây đèn bóng lù mù, đi xuống bếp để tìm một cây đèn khác.
Đúng vào lúc đó, ông nghe có tiếng gõ cửa thật nhẹ, lén lút cho nên tiếng động rất nhỏ, gần như chỉ đủ lớn để cho ông Năm nghe thấỵ
Hộp quẹt rơi khỏi bàn tay ông Năm. Ông đứng chết sững, hơi thở của ông ngưng lại cho đến khi tiếng gõ cửa lại vang lên lần nữa. Bấy giờ ông mới quay lưng lại để chạy về phòng ngủ, đóng cửa thật nhanh.
Một tiếng gõ cửa thứ ba vang động khắp nhà. Bà Năm giật mình kêu lên:
- Cái gì vậy?
Ông Năm run run đáp:
- Chuột, một con chuột chạy, chút xíu nữa là tui đạp nó xẹp lép
Bà Năm ngồi trên giường lắng nghe. Lại một tiếng động vang lên khắp nhà. Bà kêu lên:
- Thằng Tú về! Chính thằng Tú về, ông ơi!
Bà Năm chạy về phía cửa, nhưng ông Năm đã tới trước bà. Ông nắm tay níu bà lại, hỏi:
- Bà định làm gì?
Bà Năm kêu lên:
- Con trai tui về! Nó là con tui. Ông phải để tui mở cửa cho nó vô. Buông tui ra!
Ông Năm run rẩy, van nài:
- Không! Bà không được cho nó vô nhà!
Bà Năm bất bình:
- Coi kìa! Ông sợ cả con ông nữa sao? Hãy buông tui ra. Để tui mở cửa cho nó vô…
Rồi bà Năm nói to:
- Má đây! Tú ơi, chờ má một chút!
Lại thêm một tiếng, rồi hai tiếng gõ cửa gấp rút, bà Năm vùng khỏi tay chồng, chạy ra khỏi phòng.
Ông Năm theo bà tới cửa buồng, dang tay bất lực gọi với theo, nhưng bà bất chấp tiếng gọi của ông, lao ra phía cửa.
Ông nghe tiếng mở khoá và rút chốt thật khó khăn. Thế rồi tiếng bà vợ hổn hển kêu to, giọng nghèn nghẹn, rối rít:
- Còn cái chốt trên cao quá tui không mở được! Ông mau ra mở giùm đi! Nhanh lên…
Trong phòng, ông Năm đang quỳ xuống sàn mò kiếm bức tượng đồng đen.  Ông cố kiếm được nó trước khi người gõ cửa bước vào nhà.
Trong khi đó tiếng gõ cửa vang dội liên tiếp như giục giã, hối thúc, như có điều gì đó vô cùng cấp bách. Ông nghe tiếng bà vợ kéo ghế đặt ngay trước cửa để trèo lên mở chốt. Ông nghe tiếng chốt cửa khua lên. Cũng trong lúc đó ông tìm được bức tượng đồng đen.
Hổn hển, ông nắm nó vào bàn tay, đưa lên cao nói lên lời ước thứ ba và cũng là lời ước cuối cùng.
Đột nhiên tiếng gõ cửa ngưng ngay tức khắc, mặc dầu những âm thanh của tiếng động trước đó vẫn còn vọng dội vào trong nhà. Cùng lúc ông nghe tiếng ghế kéo ở phía cửa và cánh cửa mở toang. Gió lạnh lùa vào, thổi tạt vào tận nơi ông Năm đang đứng…
Tiếng rên đầy đau đớn thất vọng của bà vợ khiến ông Năm có thêm can đảm để chạy ra bên cạnh bà. Rồi như còn quán tính, ông chạy thẳng ra cổng bên ngoài.
Ánh trăng vàng vọt toả ánh sáng yếu ớt xuống con đường im vắng, không một bóng người…
Bà Năm bất tỉnh trước thềm nhà. Ông Năm quỳ xuống bên vợ khóc không thành tiếng.
Rồi như điên cuồng, ông chạy bừa ra ngoài, băng qua vườn nhãn, băng qua đám rau muống vừa lên xanh mướt sau mấy trận mưa, ông chạy về hướng bờ sông.
Khi đã đến bên bờ sông, ông Năm quỵ xuống mệt lã. Ông lấy bức tượng từ trong túi áo, dang thẳng tay ném nó xuống dòng sông.
Ông ngước mặt lên nhìn trăng, cất tiếng gọi thống thiết:
- Con ơi…
***
Sáng hôm sau, dân làng phát hiện ông Năm nằm bất tỉnh nhân sự. Họ dùng hết cách cứu chữa, cuối cùng cũng cứu ông thoát chết, nhưng từ đấy ông đâm ra ngơ ngẩn.
Căn nhà ngói khang trang dạo trước giờ hoang vắng thê lương…
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:09:26 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:39:09
TIẾNG THỞ DÀI TRONG ĐÊM
Chương 1
 
Tiếng chuông điện thoại reo vang giữa lúc Thảo đang cố dỗ giấc ngủ. Cô vùng dậy, vồ lấy chiếc điện thoại, lòng vui khấp khởi:
- A lô!
- Thảo ơi, em ngủ chưa? Anh có làm em thức giấc không?
Bên kia đầu dây giọng Lâm tha thiết.
Thảo nũng nịu:
- Em nhớ anh quá nên không ngủ được nè!
- Anh cũng vậy! Cả ngày bận bù đầu, nhưng vừa xong việc là anh nhớ em cồn cào. Vì vậy mặc dù khuya lắm rồi anh vẫn không dằn lòng được, phải gọi cho em đó. Em có giận anh không?
- Anh nói gì kỳ vậy? Anh gọi bất cứ lúc nào em cũng sẽ rất vui!
- Em uống thuốc chưa?
- Dạ, em uống rồi! Anh đừng lo cho em, em biết tự chăm sóc mình mà!
- Anh không muốn đi xa chút nào hết em à! Đêm đêm nằm một mình anh lại nhớ em, lại lo cho em nhiều lắm!
Thảo cười:
- Thiệt hông đó? Hay anh lại tơ tưởng tới cô nào?
- Em không tin anh sao? Lâm có vẻ phật lòng
- Em đùa thôi mà! Anh là chồng em, là người thân thiết nhất của em, không tin anh thì em còn biết tin ai đây?
- Thôi khuya rồi, em ngủ đi nhé? Sáng mai anh còn một cuộc họp quan trọng nữa! Ngủ ngon nhe em!
- Dạ, chúc anh ngủ ngon!
- Nhớ mặc thêm áo ấm vào, em nhé!
- Dạ!
Đặt điện thoại xuống bàn, Thảo mỉm cười sung sướng.
Lần nào cũng vậy, Lâm đi công tác xa không ngày nào quên gọi điện về thăm hỏi, nhắc nhở Thảo đủ thứ việc. Cũng như không lần nào về mà Lâm quên mua quà cho cô, từ những chiếc áo, đôi giày, túi xách, đến những con thú nhồi bông xinh xắn và các loại kẹo bánh mà cô thích.
Trong phòng ngủ của vợ chồng cô, vắng tiếng trẻ con nhưng chất đầy những đồ chơi đắt tiền Lâm mua về từ những lần đi công tác nước ngoài.
Chui vào trong chiếc mền ấm áp, ôm chú gấu có bộ lông mượt mà Thảo nằm nghĩ về Lâm. Bây giờ ở nơi xa xôi ấy chắc Lâm cô đơn lắm. Không ai quan tâm chăm sóc cho anh, chắc anh nhớ mình nhiều lắm!
Tội nghiệp Lâm quá, cưới nhau đã nhiều năm rồi mà hai vợ chồng chỉ được ở bên nhau trọn vẹn một năm đầu, sau đó vì công việc đòi hỏi, Lâm cứ phải đi xa liên tục.
Nhiều lúc Thảo nhớ Lâm tha thiết, cô muốn khuyên Lâm dẹp bỏ bớt công việc để vợ chồng có thời gian quấn quýt thương yêu nhau, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, với đàn ông sự nghiệp là hàng đầu, bây giờ anh ấy đang ăn nên làm ra, sao mình lại ngăn cản anh ấy!
Những ngày tháng xa chồng, Thảo khao khát có đứa con để an ủi, để ngày bớt dài và đêm bớt lê thê, nhưng khổ nổi các bác sĩ đều khuyên Thảo không nên có con, bệnh tim của cô không cho phép cô mang thai và sinh nở.
Thảo từng năn nỉ Lâm để cô sinh con, biết đâu hạnh phúc làm mẹ sẽ khiến trái tim cô khỏe lại, nhưng Lâm khăng khăng từ chối. Anh ấy bảo cô phải biết quý trọng bản thân mình, dù không có con anh vẫn thương yêu cô, chung thủy với cô.
Thảo thấy mình thật may mắn có được người chồng như Lâm, vừa tài giỏi, vừa đẹp trai, lại luôn ân cần chu đáo với mình. Cô thầm cảm ơn ba mẹ ngày đó đã không ngăn cản mối tình chênh lệch giữa cô và Lâm.
Thảo là con gái duy nhất của một đại gia trong ngành địa ốc, còn Lâm chỉ là anh sinh viên tỉnh lẻ quê mùa nghèo khó, một buổi đến giảng đường, một buổi đi làm tiếp thị.
Khi biết Thảo yêu Lâm, tất cả người quen của gia đình đều phản đối, riêng ba Thảo không thế. Ông bảo rằng Lâm có chí lớn, con đường tương lai sẽ rộng mở trước mắt Lâm. Ông tin tưởng giao đứa con gái yêu quý vào tay Lâm chỉ với một yêu cầu duy nhất:
- Cháu phải thương yêu con gái bác trọn đời, không được làm gì cho nó đau khổ!
Lúc đó, Lâm không rối rít cảm ơn, cũng không vồ vập thề thốt, anh chỉ nhìn thẳng vào mắt Thảo rồi từ tốn nói:
- Xin bác hãy tin cháu!
Nhiều năm trôi qua, chưa một lần Lâm làm Thảo buồn.
Ngày ba mẹ cùng qua đời vì tai nạn giao thông, Thảo tưởng mình không sống nổi. Cô liên tục ngất xỉu, trái tim co thắt lại, nếu không có sự chăm sóc tận tình chu đáo của Lâm chắc cô cũng đã đi theo cha mẹ từ lâu.
Những ngày đó Lâm thật gian nan vất vả. Một mình anh phải thay cha vợ điều hành công ty, vừa phải lo cho người vợ đau yếu ở nhà. Mặc dù có người giúp việc, nhưng anh vẫn giành phần chăm sóc cho cô.
Nhiều đêm trong bệnh viện Thảo thức giấc giữa khuya, nhìn thấy Lâm ngủ gục bên giường mình, cô thương Lâm đứt ruột.
Chính điều đó đã giúp Thảo nguôi ngoai dần nỗi đau và gượng dậy. Với Lâm, cô vừa yêu thương lại vừa kính trọng.
Thảo mơ màng trong dòng hồi ức êm đềm… Cô chợt nghe có tiếng bước chân nhè nhè ngoài hành lang, rồi một tiếng thở dài áo não khiến cô sởn gai ốc.
- Ai đó? Dì Nga phải không?
Thảo hỏi lớn, nhưng đáp lại chỉ là những âm thanh rì rào của tàn cây ngoài cửa sổ.
Ngồi bật dậy mở đèn sáng lên, Thảo vội vàng đẩy cửa phòng, đi ra ngoài. Hành lang vắng ngắt, không một bóng người. Thảo bắt đầu có cảm giác đau nhói trong tim nhưng cô cố gắng chạy xuống thang lầu, xô nhẹ cửa phòng người giúp việc. Trên chiếc giường nhỏ trong góc phòng, người đàn bà giúp việc đang say ngủ. Thảo gọi:
- Dì Nga, dì Nga ơi!
Dì Nga hốt hoảng ngồi lên, đưa tay dụi dụi mắt:
- Cô, cô kêu tui chi vậy?
Rồi khi kịp nhìn thấy gương mặt tái xanh của Thảo, dì Nga cuống quýt:
- Cô lại bị khó thở à? Trời ơi, tôi ngủ mê quá… Cô tha lỗi, để tôi đi lấy thuốc cho cô!
Thảo khoát tay:
- Thôi khỏi! Tôi…
Thảo ngập ngừng. Cô muốn kể với dì Nga điều vừa xảy ra, nhưng rồi cô nghĩ có thể trong lúc mơ màng mình bị ảo tưởng vậy thôi, không nên làm dì sợ. Cô đành nói trớ qua chuyện khác:
- Dì… làm ơn pha giùm tôi ly sữa!
- Dạ, cô chờ tôi chút xíu!
Vừa xỏ chân vào dép, dì Nga nhìn Thảo ái ngại:
- Nhưng… sao tôi trông như cô không được khỏe? Cô có bị làm sao không?
- Tôi… hơi mệt một chút, nhưng không sao đâu! Dì làm cho tôi ly sữa, uống vô là khỏe thôi mà! Thảo trấn an.
- Dạ! Tôi làm ngay
Dì Nga vội vã xuống bếp. Thảo đi theo sau. Cô hỏi:
- Dì có đóng kín cửa nẻo chưa?
- Dạ, có chứ cô! Tôi đóng từ sớm! Có gì không cô?
- À không, không có gì! Chỉ là tôi nhắc chừng dì thôi!
- Cô yên tâm đi, tôi không quên đâu! Chú Lâm căn dặn tôi kỹ lắm, chú nói nhà chỉ có hai phụ nữ yếu đuối, kẻ gian mà lọt vào được thì chết chắc!
Trao ly sữa cho Thảo, dì hỏi:
- Cô uống thuốc chưa?
- Tôi uống rồi! Thôi, dì ngủ đi! Làm phiền dì quá!
- Trời ơi, cô nói vậy tôi mang tội chết! Cô chú trả lương hậu hĩnh cho tôi, lo cho tôi đủ thứ, dù tôi có làm bằng mười những công việc hàng ngày ở đây cũng chưa xứng đáng!
Thảo cười:
- Dì nói quá! Thôi, tôi về phòng nhé!
- Dạ, cần gì cô cứ đứng trên đó gọi tôi, xuống lên làm gì cho mệt!
Thảo cười, gật đầu. Cô cảm thấy yên tâm hơn sau khi nói mấy câu với dì Nga. Nỗi lo sợ ban nãy dường như biến mất.
Cô bé giúp việc trước kia nghỉ làm về quê lấy chồng, nhiều lầm Lâm đề nghị thuê người khác nhưng Thảo đều phản đối. Cô bảo nhà chỉ có hai vợ chồng, Lâm lại thường xuyên đi vắng, chuyện nhà có gì đâu vất vả mà phải cần người phụ giúp. Vả lại thời buổi này, tìm được người giỏi giang, biết lo lắng quán xuyến gia đình và nhất là người thật tình thì không phải dễ.
Nhưng sau lần Thảo trở bệnh mà Lâm không có ở nhà, về nghe vợ kể lại, anh rất xót xa và kiên quyết phải tìm người giúp việc. Vậy là Thảo phải chìu theo ý chồng.
Suốt mấy ngày anh chạy đôn chạy đáo đến các Trung tâm giới thiệu việc làm, xem qua bao nhiêu hồ sơ mà vẫn chưa vừa ý. May nhờ Trúc Ly, thư ký của Lâm giới thiệu cho anh người bà con xa của cô ấy.
Dì Nga đến với gia đình Thảo như thế. Ngày đầu tiên dì đến, Thảo đã thấy có cảm tình. Sống với nhau một thời gian ngắn, Thảo càng nhận thấy ở dì có nhiều ưu điểm.
Dì sạch sẽ, nấu ăn ngon, nhanh nhẹn trong công việc, lại rất thật thà. Nhiều lần vợ chồng Thảo để quên tiền trong túi, bao giờ giặt đồ dì cũng lấy ra đưa trả Thảo. Từ những việc vặt vãnh do vô tình hoặc do cố ý thử thách, cả Thảo và Lâm đều đánh giá dì Nga là người tốt. Lâm rất yên tâm khi có dì bên cạnh Thảo. Dì Nga chỉ có mỗi một cái tật, mà điều này vợ chồng Thảo đã được Trúc Ly cảnh báo trước. Đó là dì rất dễ ngủ, lại ngủ rất say. Mặc dù khá lớn tuổi, nhưng hễ đặt lưng xuống là dì có thể ngủ ngay tắp lự, giống y như một đứa trẻ vô tư, không hề trằn trọc nghĩ suy gì!
Ấy thế mà cuộc đời của dì lại có rất nhiều trắc trở. Ngày còn con gái, dì yêu say mê một anh kép hát. Trong mắt dì anh ta thật vĩ đại! Anh tài giỏi khi cầm quân ra trận, anh nghĩa khí lúc làm Lục Vân Tiên giữa đường thấy cảnh bất bình chẳng tha, anh tận tụy đến đáng thương khi làm tên tướng cướp Bạch Hải Đường…
Mỗi khi gánh hát về quê, anh được bao nhiêu cô gái vây quanh. Vậy mà anh lại chọn dì, một cô gái bình dị không có gì nổi bật. Dì yêu anh cuồng nhiệt, và để chứng minh tình yêu ấy, dì đã trao cho anh cái quý nhất của đời con gái!
Đến lúc biết mình mang thai, dì trông đợi gặp anh để báo tin vui. Nhưng khi vừa nghe chị hí hửng khoe cái thành quả tình yêu của hai người mà dì đang mang trong bụng, anh lạnh lùng nói:
- Con với cái làm gì cho khổ, anh nghĩ em không nên giữ nó làm gì!
Dì xanh mặt, cất giọng run run:
- Sao anh nỡ nói câu đó? Nó là con của chúng mình mà!
- Cuộcđời anh trôi nổi rày đây mai đó, anh không muốn có con lúc này!
- Em sẽ không làm gì phiền đến anh đâu! Mình cưới nhau, em sẽ sinh con ra và nuôi con khôn lớn, anh cứ đi theo đoàn diễn, em không ràng buột anh đâu!
Nghe dì van xin, anh tỏ vẻ mủi lòng:
- Thôi được rồi, nay mai anh đưa người nhà xuống nói chuyện với gia đình em!
- Anh lo cho nhanh nhanh nghen anh, bụng em ngày một lớn không giấu được lâu nữa đâu!
- Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!...
Khi đoàn hát xuống ghe rời bến, dì đứng trên bờ trông theo mà nước mắt lăn dài. Dì tự an ủi mình rằng hôm nay anh về, ngày mai hoặc ngày kia là gia đình anh đến, rồi mình và anh sẽ chính thức thành vợ thành chồng.
Nhưng rồi ngày tháng cứ trôi qua mà anh thì bặt vô âm tín. Chiều chiều dì vẫn lặng lẽ ra bến sông dõi mắt mong chờ, dì vẫn chưa thôi dệt ước mơ cùng anh hạnh phúc.
Khi bụng dì bắt đầu lùm lùm và trong xóm đã không ít lời xì xầm bàn tán, dì cuống cuồng hoảng sợ. Dì lặn lội khắp nơi, bất cứ chỗ nào, hễ nghe có đoàn hát của anh biếu diễn là chị tìm tới. Nhưng lần nào ông bầu cũng nhìn chị rồi lắc đầu:
- Nó không theo đoàn này nữa cô ơi!
Thấy dì cứ lằng nhằng bám theo đoàn hát, một cô đào thương tình khuyên nhủ:
- Em ơi! Nó bỏ đoàn này vì muốn tránh mặt em đó! Em đừng tìm nó làm gì nữa, chỉ mất công thôi!
Dì bật khóc:
- Chị ơi, chị có biết hiện giờ anh ấy ở đâu không? Chị làm ơn chỉ giúp em đi. Anh ấy đã hứa…
Cô đào nhìn dì thương hại:
- Nó đã hứa hẹn như thế với rất nhiều cô gái rồi, không phải chỉ riêng em đâu! Cho dù em tìm được nó liệu có ích gì? Nếu nó muốn giữ lời hứa với em tức khắc nó sẽ tìm về, bằng ngược lại, em có tìm được chỉ thêm ê chề thôi em ạ!
Những lời khuyên của cô đào đã làm dì thức tỉnh. Dì cay đắng quay về, cắn răng hứng chịu một trận đòn tơi tả của người cha nghiện rượu, đau xé lòng trước những giọt nước mắt của người mẹ quanh năm đau ốm…
Đến lúc sinh con ra, dì phải cắt ruột mình giao đứa bé cho người khác. Ôm đứa con nhỏ trong tay, dì không cách nào đền đáp công ơn cha mẹ được. Một mình tần tảo sớm khuya nuôi cha mẹ, dì đã chôn vùi cuộc đời mình dưới cánh đồng quê hương.
Rồi cha mẹ lần lượt qua đời, dì trở nên trơ trọi. Tìm gặp lại đứa bé năm xưa nhưng nó đã ngoảnh mặt quay đi, không nhìn nhận dì, dù cha mẹ nuôi của nó là người bao dung, họ sẵn sàng để con nhận lại mẹ!
Thảo đã khóc khi nghe dì Nga kể lại cuộc đời mình. Cô an ủi dì ráng kiên nhẫn, nhất định một ngày nào đó con gái dì sẽ nhận mẹ. Dì Nga cười buồn:
- Dạ, tôi cũng hy vọng thế! Để được con gọi một tiếng mẹ, dù có phải làm gì tôi cũng cam tâm…
Một người đàn bà có số phận như vậy mà đặt lưng xuống giường là ngủ, quả thật lạ lùng!
Chờ cho Thảo bước hẳn vào phòng, khép cửa lại rồi dì Nga mới chịu quay về chỗ của mình. Thảo thầm khen dì quả là người tận tâm. Cô nghĩ giá như con gái của dì có dịp sống gần dì chắc hẳn nó sẽ dễ dàng tha thứ.
Uống hết ly sữa, Thảo cố dỗ giấc ngủ bằng một bản nhạc êm dịu mà Lâm rất thích:
Em tan trường về
Đường mưa nho nhỏ
Anh theo Ngọ về…
Thảo dần dần thiếp đi trong tiếng nhạc dìu dặt, với những hình ảnh đẹp đẽ của thuở mới yêu Lâm…
 
Chương 2
 
- Công chúa ơi, 8 giờ rồi, dậy đi thôi!
Lâm gọi, nhưng đồng thời vòng tay lại ôm siết lấy Thảo không cho cô ngồi dậy. Thảo nũng nịu:
- Em không muốn dậy đâu! Em chỉ muốn gối đầu lên tay anh mãi mãi, không rời…
- Đây này, em cứ chặt bớt một cánh tay anh rồi muốn gối lúc nào tùy thích, nhé!
Lâm làm động tác cứa vào tay mình, Thảo nhăn mặt:
- Không chịu, muốn cả thân người anh kia!
Lâm cười ha hả:
- Em tham lam quá đi! Thôi, từ mai anh nghỉ làm luôn, hai vợ chồng mình cứ ấp nhau suốt đời như vầy, em chịu chưa?
Thảo dụi mặt vào khuôn ngực nở ngang của Lâm, cô thủ thỉ:
- Anh biết không, có nhiều lúc em ước, giá như một lúc nào đó em được chết khi đang nằm trên cánh tay rắn chắc của anh, hoặc lúc anh ôm em trong lòng… Em thèm được chết như vậy, linh hồn em sẽ nhẹ nhàng bay lên trong hạnh phúc, em sẽ…
Lâm bịt miệng Thảo lại, nghiêm giọng:
- Anh cấm em không được nghĩ đến những điều đó nữa! Vợ chồng mình sẽ mãi mãi hạnh phúc, những giây phút ấm áp đó sẽ kéo dài đến lúc cả hai đứa răng long đầu bạc. Em chán anh hay sao mà không muốn tiếp tục?
Thảo rưng rưng:
- Làm sao em chán anh chứ? Em chỉ lo sợ một ngày nào đó lỡ như anh không còn thương yêu em nữa, lúc đó làm sao em sống nổi? Mà chết trong cô độc, khổ đau như vậy em không muốn…
Lâm nhổm người lên nhìn vào mắt Thảo:
- Hôm nay em làm sao vậy? Anh không muốn em nói tới từ “chết” nữa, nghe không? Anh yêu em, yêu em mãi mãi… Em đừng suy nghĩ mông lung rồi buồn phiền không tốt!
- Nhưng... em vô dụng quá! Làm vợ anh mà ngay cả đứa con em cũng không sinh được…
Lâm hôn lên má vợ, ôm cô vào lòng dỗ dành:
- Anh đã nhiều lần nói với em rồi! Không có con cũng đâu có sao? Khuynh hướng của phụ nữ bây giờ là không muốn sinh con đấy em ạ! Nhưng nếu em muốn có con nít trong nhà, thì vợ chồng mình đi xin chừng chục đứa về nuôi, anh sẽ lãnh phần khuấy sữa, còn thay tã phần em!
Thảo phì cười:
- Anh lúc nào cũng giỡn được!
Lâm đỡ Thảo ngồi lên:
- Từ nay em không được suy nghĩ bi quan nữa nhé! Lúc nào mình cũng là đôi vợ chồng son, vậy cũng tốt! Nào, bây giờ mình dậy ăn sáng rồi anh chở em đi chơi bất kỳ chỗ nào em muốn, chịu không? Hôm nay anh sẽ dành trọn ngày cho em đó!
- Chịu…
Thảo choàng tay ôm chặt lấy chồng một phút rồi mới chịu buông ra đi làm vệ sinh.
Lúc hai vợ chồng xuống nhà ăn, dì Nga đã dọn bàn tươm tất. Nhìn các món ăn dì bày ra, Lâm gật đầu hài lòng:
- Dì làm toàn món tôi thích, lại lạ mắt!
Dì Nga cười chúm chím:
- Tôi thì biết chi cậu ơi, cô Thảo đạo diễn hết đấy!
Lâm quay sang vợ:
- Em tuyệt quá!
- Cậu không biết đó thôi, mấy lúc cậu vắng nhà, cô Thảo cứ mua sách nấu ăn về nghiền ngẫm rồi tự chế ra món này món khác từ các nguyên liệu cậu ưa thích. Cô nói làm vậy để mỗi lần cậu về, cậu sẽ được thưởng thức các món ăn lạ mà dù có đi đâu cậu cũng không ăn được!
Thảo bẽn lẽn khi nghe dì Nga nói điều đó. Cô liếc nhìn Lâm, anh cũng đang nhìn cô bằng ánh mắt ngập tràn yêu thương, ấm áp.
Vừa xong bữa sáng, hai vợ chồng chở nhau đi. Dì Nga đứng nhìn theo thật lâu, mắt dì chợt vui rồi chợt buồn, như có điều gì u uẩn.
Chương trình của Thảo và Lâm hôm nay thật dài. Đầu tiên hai người sẽ đi mua sắm, sau đó đi ra ngoại ô ngắm cảnh rồi ăn trưa ở một quán ăn lộng gió nào đó. Buổi chiều, nếu thích, anh sẽ đưa cô ra Vũng Tàu tắm biển.
Thảo như đứa trẻ con được chìu chuộng nâng niu. Lần nào Lâm đi xa về cũng mang đến cho cô quá nhiều hạnh phúc.
Thỉnh thoảng đi bên Lâm, Thảo nhận thấy có nhiều ánh mắt nhìn theo ngưỡng mộ, cô thầm hãnh diện vì điều đó. Lâm là mẫu đàn ông lý tưởng mà rất nhiều cô gái ước mơ.
Thảo kiêu hãnh đi bên chồng. Nhưng có đôi khi niềm vui trong cô bỗng dưng chùng xuống. Cô thèm một đứa con tung tăng chạy nhảy giữa hai người. Cô thèm nghe tiếng cười đùa của con trẻ, cô khát khao một tiếng gọi mẹ ngọt ngào…
Lâm vẫn vô tư. Chưa bao giờ Lâm tỏ ý tiếc nuối vì việc không sinh nở của Thảo, cũng chưa bao giờ Thảo bắt gặp ánh mắt dõi theo khao khát của anh trước một đứa trẻ nào. Dường như với anh vậy là đầy đủ lắm rồi, anh không mơ ước điều gì nữa!
Thế nhưng Lâm không phải là người không thích trẻ con. Ngày mới yêu nhau, anh đã vẽ ra trước mắt cô một gia đình rất đông con. Anh bảo anh là con mồ côi, không cha mẹ anh em, anh rất thích không khí quây quần đầm ấm.
Đến lúc biết nếu sinh con, tính mạng Thảo sẽ nguy hiểm, anh không đề cập đến chuyện đó tránh làm Thảo đau lòng. Nhưng lòng Thảo vẫn âm thầm đau, cô thấy mình có lỗi với anh.
- Em làm gì mà suy tư dữ vậy?
Nghe tiếng chồng, Thảo giật mình, cười chống chế:
- Em có suy tư gì đâu?
- Hay em mệt?
Lâm ân cần hỏi. Thảo bá vai chồng:
- Đi với anh, em không biết mệt là gì!
Lâm nhéo mũi vợ:
- Không ngờ vợ tôi cũng khéo nịnh quá!
Thảo cười khúc khích. Lâm đi sát vào vợ, choàng tay qua lưng dìu cô đi dọc theo con đường lát gạch Tàu đỏ au, chạy ngoằn ngoèo dưới vườn cây xanh mát.
Gió từ bờ sông thổi lên lồng lộng, hất tung mái tóc dài của Thảo. Cô đưa tay vuốt mấy sợi lòa xòa trước trán, tỏ vẻ thích thú.
- Bây giờ mình ra Vũng Tàu nhé anh?
- Tuân lệnh bà xã!
Lâm vừa nói hết câu chợt có tiếng điện thoại reo vang. Anh liếc nhìn nhanh số máy rồi quay sang nói với Thảo:
- Em chờ anh chút xíu!
Thảo chưa kịp phản ứng Lâm đã vội vã bước ra xa xa để nói chuyện với ai đó. Thảo hơi thắc mắc, thời gian gần đây rất nhiều lần Lâm nghe điện thoại kiểu đó.
Lần nào anh cũng bảo chuyện làm ăn, nhưng chuyện gì mà phải tránh Thảo? Có lúc cô thoáng nghi ngờ sự chung thủy của Lâm, nhưng rồi những gì anh đem đến cho cô đã xua đi hết.
Nghe điện thoại xong, Lâm đến bên Thảo, cầm lấy tay cô, nhẹ nhàng nói:
- Anh xin lỗi em, bây giờ anh phải về giải quyết chuyện công ty gấp, mình không đi Vũng Tàu được rồi, em đừng trách anh nghen?
Thảo phụng phịu:
- Vậy mà anh nói dành trọn ngày nay cho em…
Lâm kéo vợ sát vào mình:
- Anh cũng đâu muốn, em đừng buồn, lần sau anh sẽ đưa em đi!
Thảo mỉm cười trấn an chồng:
- Em nói vậy thôi chứ làm sao em trách anh được, anh vì công việc mà! Thôi mình về, em ghi nợ cho anh đó nhe!
Trên đường về, Thảo nhận thấy Lâm có vẻ bồn chồn không yên, cô đoán chắc công ty có việc gì đó quan trọng lắm, cô muốn hỏi để chia sẻ với chồng, nhưng cô không dám.
Bởi vì Lâm nhiều lần bảo anh không muốn cô bận lòng đến chuyện làm ăn, đó là trách nhiệm của anh, anh sẽ chu toàn. Trên đường về, không khí giữa hai vợ chồng trầm lắng hẳn xuống, không còn vui vẻ như lúc sáng, dù đôi lúc Lâm cũng cố gượng gạo pha trò nhưng cả hai đều cười nhạt nhẽo.
Xe dừng trước cổng, dì Nga đón vợ chồng Thảo bằng vẻ mặt hân hoan hiếm có. Bên cạnh dì là Trúc Ly, cô thư ký của Lâm, cháu họ của dì Nga.
Trúc Ly trẻ trung, đài các, dễ gây được cảm tình với người đối diện bởi gương mặt còn phảng phất nét trẻ con và đôi môi mọng lúc nào cũng như đang nũng nịu, dỗi hờn.
Với mọi người, Trúc Ly luôn hoạt bát, dễ gần. Chỉ riêng đối với dì Nga, hình như có một khoảng cách nào đó mà Thảo chưa biết được.
Mỗi lần Trúc Ly đến nhà chơi, dì Nga như trẻ ra vài tuổi, dì luôn nhìn ngắm Trúc Ly bằng ánh mắt âu yếm, dịu dàng của một bà mẹ.
- Trúc Ly tới thăm dì Nga? Thảo hỏi
Trúc Ly cười thật dễ thương:
- Dạ, nhân tiện có việc đi ngang đây, em ghé thăm anh chị, tiện thể xem dì Nga thế nào! Anh chị đi chơi về à?
Thảo vui vẻ:
- Ừ, anh chị tính đi tới tối luôn đó, nhưng rồi anh Lâm lại bận việc, đành phải về sớm thôi.
- Dạ, ở công ty có một số việc cần giải quyết gấp chị ạ!
Trúc Ly liếc nhìn Lâm, hỏi:
- Anh Lâm có cần em đi theo không? Hay em ở lại đây chơi với chị Thảo?
Lâm nhăn mặt:
- Em ở đây thì ai giúp anh việc hồ sơ sổ sách?
Trúc Ly dứng lên, vẻ miễn cưỡng:
- Vậy thì em đi! Anh cho em đi nhờ xe với nha, lúc nãy em tới đây bằng tắc xi!
Quay sang nắm tay Thảo, Trúc Ly hờn dỗi:
- Chị thấy đó, anh Lâm cứ đày em, không cho chị em mình được chuyện vãn với nhau…
Thảo nhìn Trúc Ly trìu mến:
- Thôi, em ráng giúp anh Lâm giùm chị, chị em mình còn nhiều dịp tâm sự mà!
- Anh đi nhé! Lâm nói, không nhìn vào mắt vợ.
- Dạ, anh đi!
Nhìn Lâm và Trúc Ly sánh bước bên nhau, đột nhiên Thảo cảm thấy đau nhói nơi lồng ngực, cảm giác buốt nhói ấy chỉ thoáng qua trong tích tắc nhưng nó làm cô khó chịu với chính mình.
Mình ghen ư? Mình ghen với Trúc Ly sao? Không, mình không ghen, vì mình tin tưởng Lâm, mình tin cả Trúc Ly, mình luôn xem cô ấy như em gái. Nhưng sao mỗi lần thấy hai người tung tăng bên nhau mình lại có cảm giác buồn thế này?
Thảo ước gì mình là Trúc Ly, mạnh khỏe, trẻ trung như cô ấy để đỡ đần Lâm trong công việc. Ước gì những chuyến công tác dài ngày của Lâm, người bên cạnh anh là Thảo chứ không phải là Trúc Ly…
- Cô sao vậy, cô Thảo?
Nhìn vẻ xanh xao của Thảo, dì Nga lo lắng. Thảo gượng cười:
- Không sao, chắc tại hôm nay đi nhiều nên tôi hơi mệt! Thôi, tôi đi nghỉ một tí!
Dì Nga dìu Thảo lên thang lầu, lấy thuốc cho cô uống xong còn ân cần dặn:
- Có gì cô gọi tôi nhé!
- Dạ, cảm ơn dì!
Còn lại một mình trong căn phòng vắng lặng quen thuộc, Thảo cố xua đi những ý nghĩ lan man nhưng sao nỗi buồn trong cô vẫn không vơi bớt…
***
Thảo thức dậy lúc trời đã tối. Lâm vẫn chưa về. Cô uể oải bước xuống giường, đến bên cửa sổ đứng ngó mông lung xuống khu vườn nhỏ phía dưới. Vườn là một khoảng đất nhỏ được trồng nhiều loại hoa và một số cây ăn trái như xoài, vú sữa… Những thân cây đen đũi vươn cao, cành lá tỏa ra xanh mát.
Thảo rất thích cảm giác mỗi bình minh nằm im trên giường dõi theo những chú chim sâu, chim sẻ bé xíu nhảy nhót trên cành cây ngoài cửa sổ. Tiếng hót líu lo của chúng làm cho không gian sinh động hẳn lên. Và mỗi tối, cô cũng thích đứng lặng thế này nghe tiếng lá rì rào, tiếng sột soạt của lũ chuột hay nhìn những cái bóng lướt qua của loài dơi sống trong bóng tối.
Ánh mắt nhìn xa xăm của Thảo chợt khựng lại trước một bóng trắng đang đứng dưới tàn cây vú sữa phía góc vườn. Cô đưa tay lên dụi mắt. Bóng trắng nhẹ nhàng lướt qua mấy khóm hồng rồi bỗng ngửa mặt lên trời cất lên một tràng cười ma quái.
Thảo rụng rời tay chân, xây xẩm mặt mày, cô chỉ kịp hét lên một tiếng rồi quỵ xuống ngất đi.
… Khi Thảo tỉnh lại, người đầu tiên cô nhìn thấy là Lâm. Anh ngồi bên cạnh cô, gương mặt hằn rõ nét lo lắng. Thảo kéo lấy tay Lâm, thổn thức:
- Anh ơi, em sợ quá! Anh đừng để em ở nhà một mình nữa…
Thấy vợ tỉnh, Lâm mừng quá ôm cô vào lòng dỗ dành:
- Em đừng sợ, có anh đây rồi! Em bình tĩnh rồi kể anh nghe chuyện gì đã làm em hoảng hốt đến vậy?
Thảo co ro trong vòng tay Lâm:
- Em… em thấy ma! Có lẽ anh không tin, nhưng thật sự em đã thấy…
Rồi cô vừa khóc vừa thuật lại điều khủng khiếp đó, nhưng Lâm có vẻ không tin. Anh mỉm cười:
- Có lẽ em bị ảo giác đó thôi! Làm gì có ma quái mà em sợ?
Thảo giận dỗi, khóc tức tưởi:
- Anh không tin thì thôi, em thấy rõ lắm, không phải ảo giác đâu! Không phải mới lần đầu, nhiều lần đang đêm em cũng nghe tiếng chân đi ngoài hành lang, tiếng thở dài thườn thượt, nhưng em nghĩ lúc đó mình đang chập chờn nửa thức nửa ngủ, chẳng biết hư thực thế nào. Riêng lần này em quả quyết…
Lâm siết chặt Thảo vào lòng, không để cho cô nói hết câu.
- Em đừng sợ! Đêm nay anh sẽ thức canh chừng cho em ngủ, con ma nào tới là không thoát khỏi tay anh!
- Anh lại giỡn nữa rồi!
Thảo phụng phịu đẩy Lâm ra. Cô biết dù có nói gì anh và mọi người cũng sẽ không tin điều đó là sự thật. Giữa thời buổi hiện đại này, ai còn tin vào mấy chuyện ma quái vớ vẩn nữa? Nhưng thật sự mình đã thấy mà! Làm sao đây? Làm sao cô có thể tiếp tục sống những ngày không có Lâm bên cạnh, khi cảm giác rờn rợn luôn vây bủa quanh cô?
Thảo ngước nhìn Lâm, tha thiết đề nghị:
- Anh ơi, từ nay anh đi đâu thì cho em theo với! Em không dám ở nhà một mình nữa rồi, em sợ lắm…
Lâm vỗ vỗ vào lưng Thảo, trầm ngâm một lúc rồi nói:
- Sức khỏe em như vậy làm sao có thể đi theo anh được? Thôi, từ nay anh sẽ cố gắng hạn chế đi xa. Đồng thời, anh sẽ bảo dì Nga dọn lên ở phòng bên cạnh để tiện việc chăm sóc em và em cũng đỡ sợ hơn.
Không chờ Thảo đồng ý, Lâm gọi với xuống nhà:
- Dì Nga ơi! Lên đây tôi nhờ chút!
Dì Nga vội vã chạy lên, trông thấy Thảo ngồi ủ rũ trên giường, dì xuýt xoa luôn miệng:
- Trời ơi, thấy cô tỉnh tôi mừng quá! Lúc đấy tôi nghĩ dại lỡ cô mà bị làm sao chắc tôi…
Dì Nga nghẹn ngào không nói hết câu. Nước mắt dì rưng rưng chực trào ra khóe. Vẻ mặt dì thật khổ sở. Thảo cầm tay dì Nga:
- Tôi cảm ơn dì đã quá lo lắng cho tôi. Dì yên tâm đi, tôi không sao rồi!
- Lúc nãy không có dì Nga phát hiện em bị ngất, chắc em đã nguy hiểm rồi đó! - Lâm quay sang dì Nga nói tiếp - Từ mai, dì dọn lên ở phòng bên cạnh, những lúc tôi vắng nhà, nhờ dì chăm sóc Thảo giúp tôi, dì Nga nhé?
Dì Nga vẫn còn rơm rớm nước mắt, giọng nghèn nghẹn:
- Dạ!
- Bây giờ dì dọn giùm cơm lên đây, rồi dì đi nghỉ đi, khuya rồi! Khi nào ăn xong tự tôi sẽ mang xuống.
- Ý, đâu có được, cô chú cứ dùng bữa, tôi chưa ngủ đâu!
Nói xong, dì Nga lại vội vội vàng vàng xuống bếp. Thảo nhìn theo ái ngại:
- Chắc lúc em ngất dì sợ lắm hả anh?
- Ừ, ai mà chẳng sợ! Cũng may, dì định vào xem em thức chưa thì thấy em nằm dưới sàn, dì hoảng hốt gọi điện cho anh. Anh phải bỏ mặc đối tác một mình, chạy xe hết tốc lực về đây đó! Qua mấy ngã tư, anh vượt luôn đèn đỏ, may không bị phạt!
Thảo buồn bã:
- Em làm khổ nhiều người quá! Em thật vô dụng phải không anh?
Đặt một cái hôn lên trán vợ, Lâm an ủi:
- Em đừng nghĩ quẩn nữa mà!
***
- Dì tin có ma không, dì Nga?
Dì Nga bất ngờ khi nghe Thảo hỏi câu đó nên ngớ người ra một lúc mới kịp trả lời:
- Tôi cũng không biết nữa cô ơi! Có lúc tôi hoàn toàn không tin, nhưng có những lúc tôi cảm thấy hoang mang trước những sự việc không lý giải được! Mà sao hôm nay cô lại hỏi tôi chuyện đó?
Thảo cười:
- Không có gì, tôi hỏi chơi vậy thôi!
- Cô tin có ma quỷ không?
Thảo ngần ngại, nửa muốn kể cho dì Nga nghe những việc liên tiếp xảy đến với mình thời gian qua, nửa không muốn làm dì hoang mang. Cô lấp lửng:
- Tôi… cũng hơi tin! Nhưng có lẽ do tôi quá nhạy cảm… Mà thôi, tôi cứ nhớ lời mẹ tôi dặn ngày trước là “đức trọng quỷ thần kinh”, dì Nga hén?
Dì Nga nhìn Thảo bằng ánh mắt rất lạ rồi cúi xuống nói nhỏ:
- Mẹ cô thật hạnh phúc! Bà qua đời rồi mà từng lời nói của bà cô vẫn còn ghi nhớ! Tôi ước gì con gái tôi… Nhưng tôi đâu có quyền mơ ước gì, phải không cô? Tôi đã có lỗi với nó, dù suốt đời này nó không tha thứ cho tôi, tôi cũng không hờn giận nó!
Thảo chạnh lòng;
- Con gái dì hiện ở đâu? Dì cho tôi biết đi, tôi sẽ cố thuyết phục nó giúp dì!
Dì Nga nghẹn ngào:
- Tôi cảm ơn cô nhiều lắm, nhưng có lẽ nó không nghe đâu! Bây giờ tôi chỉ còn biết chìu theo mọi ý thích của nó, làm theo mọi điều nó sai khiến, dù có tội lỗi ngập đầu tôi cũng cam lòng, tôi hy vọng nó sẽ nhìn tôi, gọi tôi bằng một tiếng mẹ…
Thảo thở dài. Cuộc đời con người sao quá nhiều nỗi khổ!
Hai người đang ngồi im lặng, bỗng một tiếng rên não ruột vang lên từ phía nhà bếp khiến Thảo giật bắn cả người. Cô hoảng hốt:
- Tiếng gì vậy dì Nga?
Dì Nga ngơ ngác:
- Tiếng gì? Cô hỏi gì tôi không hiểu?
Thảo ngạc nhiên:
- Dì không nghe thấy gì sao?
- Tôi có nghe gì đâu? Cô nghe gì vậy?
- Một tiếng rên… Tôi nghe rõ lắm mà, sao dì lại không nghe nhỉ? Thảo hoang mang
Dì Nga đứng lên:
- Cô nghe ở đâu?
- Dưới bếp…
Thảo theo chân dì Nga xuống bếp. Căn bếp ngăn nắp gọn gàng, không một dấu vết gì khác thường khiến Thảo vô cùng thắc mắc. Dì Nga nhìn ngó khắp các xó xỉnh rồi trấn an Thảo:
- Chắc tiếng mèo kêu đó cô!
- Không,… không phải đâu! Thảo quả quyết
Dì Nga cười:
- Cô đừng làm tôi sợ nghen! Tối nào lũ mèo hoang cũng tụ tập trên mái nhà, chắc tiếng kêu của chúng thôi! Cô chưa nghe tiếng mèo rên rỉ trong mùa giao phối sao? Thôi, giờ cô vào phòng nghỉ đi, tôi lấy thuốc cho cô uống!
Thảo ngoan ngoãn làm theo sự hướng dẫn của dì Nga, trong đầu cô đang hỗn loạn rất nhiều câu hỏi.
Từ sau ngày Thảo nhìn thấy bóng trắng dưới vườn, mặc dù rất lo sợ, nhưng tối nào cô cũng tò mò, tìm cách rủ dì Nga đứng trên lầu nhìn xuống. Bóng trắng đó hoàn toàn biến mất. Đồng thời, đêm nào cô cũng nghe thấy những âm thanh lạ trong nhà, những âm thanh mà trước đây không hề có.
Tinh thần Thảo gần như khủng hoảng, lần nào Lâm gọi điện về cô cũng hối thúc anh về với cô càng nhanh càng tốt. Cô không dám cho Lâm biết mình đang sợ hãi mà chỉ bảo rằng vì nhớ anh quá, nhớ không chịu nổi… Lâm hứa anh sẽ cố gắng kết thúc công việc sớm, sau lần này anh sẽ ở nhà với cô nhiều hơn.
Một tuần vắng Lâm, Thảo luôn cảm thấy bất an trong ngôi nhà của chính mình. Những cơn đau tim của cô thường xuyên hơn, cô trở nên xanh xao vàng vọt nhưng cấm không cho dì Nga nói với Lâm, cô không muốn anh bị phân tâm. Hy vọng chuyến này anh sẽ sắp xếp ổn thỏa mọi việc để về sống bên cô như lời anh hứa.
Thảo luôn luôn tự nhủ rằng mình phải vươn lên, phải mạnh mẽ, mình không được ôm mãi trái tim yếu ớt này mà sống như cô gái Hàn Ni trong cuốn tiểu thuyết Mùa thu lá bay mà trước đây Thảo đã đổ thật nhiều nước mắt khi đọc nó.
Thảo đọc nhiều bài báo nói rằng mọi bệnh tật có thể bị đẩy lùi nếu bản thân người bệnh có ý chí, có nghị lực. Cô khao khát được khỏe mạnh để yêu thương chồng, để sinh cho anh những đứa con bụ bẫm đáng yêu, để có thể cùng anh sánh vai bước ra ngoài xã hội, chứ không phải sống một đời như cây kiểng, như búp bê được chăm sóc nâng niu, được chưng trong tủ kính, một đời sống vô vị…
Thảo hứa với mình sẽ phấn đấu đến cùng! Trước mắt, cô phải vượt qua được nỗi ám ảnh ma quái đang vây quanh. Vậy mà… đêm nào giấc ngủ cũng đến với cô một cách nặng nề, khó nhọc.
Đêm nay cũng vậy, Thảo cứ trằn trọc mãi. Và bỗng dưng cô thấy nhớ cha mẹ da diết.
Nếu mẹ còn sống, có lẽ cô sẽ an tâm hơn. Mẹ luôn biết cách làm cho cô yên lòng mà! Và ba nữa, người cha tuyệt vời đã từng là chỗ dựa vững chắc của cả gia đình, là niềm tự hào của cô.
Giờ đây, hai người thân yêu của cô chỉ còn là hai di ảnh trên bàn thờ…
Thảo nhớ lại giờ phút cuối cùng của ba mẹ. Mẹ tắt thở ngay lúc xảy ra tai nạn, không kịp nhìn thấy Thảo lần cuối, không kịp dặn dò con gái điều gì. Riêng ba Thảo, ông đã cố gắng gượng chờ con…
Ông ứa nước mắt khi thấy Thảo chạy ào vào phòng cấp cứu, ông siết chặt tay Thảo, thều thào mấy tiếng: “Ráng nghe con…” rồi cái siết tay nới lỏng ra, ông thật sự ra đi, bỏ lại đứa con gái ngất lịm trong tay chồng…
“Ráng nghe con…” lời dặn ấy của ba lúc này lại vang vang bên tai Thảo. Cô bật dậy, răng cắn chặt để nén tiếng khóc. Nhưng rồi không đè nén được, Thảo lại ngã sấp xuống giường, vùi mặt vào gối thổn thức.
Đêm đã rất khuya. Ánh trăng sáng rỡ chiếu qua song cửa khiến căn phòng trở nên mát dịu.
Tiếng cú rúc xa xa, tiếng côn trùng rầu rĩ như kích thích sự sợ hãi trong lòng Thảo. Cô mím môi ngồi dậy. “Ráng nghe con…”, vâng, ba ơi, con sẽ vượt qua, con sẽ ráng! Con sẽ đối đầu với tất cả! Trái tim nhỏ bé của ta ơi, người hãy đập những nhịp khỏe khoắn vui tươi đi, người đừng đọa đày ta nữa! Ta sẽ cố gắng, hoặc là ta sẽ vượt qua, hoặc là ta sẽ chết…
Thảo mở cửa, rón rén xuống thang lầu, rón rén ra vườn tránh không gây tiếng động.
Cả khu vườn lung linh huyễn hoặc dưới ánh trăng. Trăng chảy tràn trên từng tàn cây, ngọn cỏ. Mùi nguyệt quế thơm ngào ngạt hòa cùng mùi thoang thoảng của hoa hồng, mùi lá mục, mùi cỏ non khiến lòng Thảo dịu lại.
Khí trời giữa đêm se lạnh, Thảo co ro trong chiếc áo khoác mỏng manh trên người. Chân cô dẫm lên đám cỏ non ướt sương tiến về phía góc vườn, nơi cô nhìn thấy bóng ma hôm trước.
Thảo chợt nghĩ, giá lúc này dì Nga vô tình đứng trên phòng nhìn xuống, chắc hẳn dì sẽ một phen hoảng vía. Vì giờ đây trông cô đâu khác gì một bóng ma!
Hít căng lồng ngực làn không khí trong lành thơm mát, Thảo lẩm bẩm nói một mình: “Ba ơi, mẹ ơi! Hãy phù hộ cho con! Giúp con có đủ nghị lực vượt qua thử thách! Và những vong linh quanh đây nếu có, xin hãy thương tôi, tôi chưa từng làm hại ai trên đời này, xin hãy để cho cuộc sống của tôi được bình yên…”
Chân vẫn bước đều trên thảm cỏ, một tay Thảo đặt bên ngực trái như muốn trợ lực cho quả tim yếu đuối của mình.
Tiếng đập cánh của một con chim đêm làm Thảo hốt hoảng. Cô lùi một bước nhưng lập tức lấy lại tinh thần. Ngẩn lên nhìn mặt trăng tròn vành vạnh treo lơ lửng giữa trời, Thảo như gửi gắm những ước mơ, những khao khát của mình…
Đi lòng vòng như thế mấy bận, Thảo đã cảm thấy yên tâm. Cô thật sự vui mừng vì bước đầu phấn đấu vậy là đã thành công!
Vừa quay người định trở vào nhà, Thảo thảng thốt nhận thấy ở cửa sổ phòng mình, một bóng trắng đang đu toòng teng trên đó. Trăng sáng lắm nhưng cô không thấy được mặt người đó, chỉ thấy quần áo trắng bay phơ phất và mái tóc đen dài lòa xòa trong gió. Lồng ngực đau thắt, chân khụyu xuống, Thảo như kẻ mộng du, miệng không ngừng lảm nhảm: “Ráng lên, mình phải ráng lên…!”
Cố dùng hết sức lực, Thảo gượng đứng lên chạy vội vào nhà, nhưng vừa đặt chân lên bậc thềm đầu tiên, cô đã ngã sóng xoài không còn biết gì nữa!
***
Trúc Ly nũng nịu:
- Anh tính sao thì tính cho nhanh, em không chờ anh mãi được đâu! Con gái có thì, em chờ anh đến hết tuổi xuân mà anh vẫn không bỏ được bà vợ vô tích sự của anh, thì chừng đó em làm bà cô à?
Lâm ôm lấy cô dỗ dành:
- Cho anh thêm một ít thời gian nữa, thật tình anh không biết tính sao! Nếu bây giờ anh bỏ cô ta, anh phải ra đi với hai bàn tay trắng, vì toàn bộ gia sản đều là của cô ta, anh giống như một kẻ làm công ăn lương. Điều đó em cũng biết mà!
Trúc Ly dẩu môi, trông cô càng có vẻ nhí nhảnh đáng yêu:
- Xì, anh thật dở! Bao nhiêu năm rồi mà vẫn không chuyển được tài sản vào tay mình! Hay tại anh yêu cô ta quá nên không muốn làm thế?
Lâm trầm ngâm:
- Thật tình anh cũng không nỡ…
Nghe chưa hết câu Trúc Ly đã khóc rống lên. Cô vật mình vật mẩy:
- Em biết mà, em biết đàn ông các anh là chúa tham lam! Anh nói anh yêu em, nhưng đồng thời anh cũng rất yêu vợ phải không? Chỉ tại em ngu dại mới nghe lời anh… hu hu…
- Thôi, thôi! Em nín đi, em hiểu sai ý anh rồi! Lâm hoảng hốt dỗ dành.
Trúc Ly thút thít khóc. Lâm chậm rãi đốt điếu thuốc, hít một hơi thật sâu rồi từ từ thả ra những vòng khói trắng.
- Anh không nỡ đối xử quá tệ bạc với cô ấy vì thật ra cô ấy hoàn toàn không có lỗi gì với anh. Cô ấy là ân nhân của anh. Nhờ có cô ấy và gia đình của cổ anh mới có ngày nay. Mặc dù không có tình yêu nhưng anh… anh không biết phải làm cách nào nữa? Anh thật khó xử!
Trúc Ly bật ngồi dậy, mắt long lanh:
- Nếu anh khó xử thì để em giải quyết giùm anh!
- Em giải quyết cách nào?
- Bí mật! Rồi anh sẽ thấy, anh cứ yên tâm giao cho em là ok!
Giọng Lâm trở nên lo lắng:
- Em sẽ làm gì? Anh không muốn em làm cô ấy tổn thương!
Trúc Ly đanh mặt lại. Cô đứng lên nói mát mẻ:
- Em không dám động chạm gì tới người vợ yêu quý của anh đâu! Thôi, anh lo thu xếp để ngày mai về với vợ. Từ nay đừng nghĩ gì tới em nữa! “Vợ cái con cột” mà, ba cái thứ nhân tình nhân ngãi như em thì nghĩa địa gì!
Lâm quýnh quáng chận Trúc Ly lại.
- Khổ quá, sao em không chịu hiểu cho anh?
- Em hiểu cho anh rồi ai hiểu cho em đây? Em chán cái cảnh núp lén già nhân ngãi non vợ chồng này lắm rồi! Anh đâu có biết lòng em đau đớn ra sao mỗi khi nhìn thấy vợ chồng anh âu yếm bên nhau! Em phải giả lả cười vui mà nước mắt tràn ngập trong lòng. Tại sao em phải khổ sở vậy chứ? Em xinh đẹp, em trẻ trung, có khối người đeo đuổi, chỉ vì yêu anh mà em phải chịu đựng ngần ấy năm trời. Anh còn muốn bắt em chờ bao lâu nữa?
- Anh hiểu, anh hiểu hết những nỗi khổ của em! Anh cũng đâu sung sướng gì khi phải sống hai mặt, lúc nào cũng sắm vai một anh chồng mẫu mực. Nếu em muốn, ngay ngày mai anh sẽ nói chuyện với cô ấy rồi đến với em ngay. Nhưng liệu  em có chấp nhận một người chồng trắng tay không sự nghiệp như anh?
Hai tay nâng mặt người đàn ông lên ngang tầm mắt của mình, Trúc Ly nhìn thẳng vào anh vẻ giễu cợt:
- Anh yêu ơi! Cái thời mà “một túp lều tranh với hai quả tim vàng” đã qua lâu lắc rồi! Bây giờ, người ta không thể ngồi đó uống nước lã rồi yêu nhau đâu! Anh là doanh nhân mà, anh phải thực tế chứ! Làm sao chúng mình có thể nói với nhau những lời yêu đương bay bổng khi bữa cơm không được ngon, áo mặc không được đẹp? Anh cũng đâu còn trẻ trung gì nữa mà hy vọng có cơ hội tương lai! Em thà chết già chứ quyết không chịu sống cảnh đầu bù tóc rối, ăn bữa sáng lo bữa chiều đâu anh ạ!
Lâm ôm đầu, rên rỉ:
- Cũng vì anh muốn đem đến cho cuộc sống đầy đủ, thoải mái nên anh mới phải lần lựa ngày này qua ngày khác, cố tìm một lý do nào đó để khi chia tay, anh được hưởng một phần gia sản… Vậy mà em cứ hối thúc rồi giận hờn anh, thật khổ quá!
Trúc Ly ngồi xuống, lùa tay vào mái tóc đã bắt đầu điểm vào sợi bạc của người tình. Cô nhỏ nhẹ:
- Anh biết em yêu anh mà, phải không? Vì tương lai của chúng ta, em có thể làm tất cả! Anh cũng thường khen em thông minh, lanh lẹ và nảy sinh nhiều sáng kiến. Vậy anh giao việc này cho em đi! Anh cứ đóng cho tròn vai ông chồng hoàn hảo, mọi việc để mặc em lo. Em hứa sẽ không xông vào nhà anh quát vào mặt vợ anh rằng “tôi mới chính là người mà chồng cô thật sự yêu thương!”. Anh bằng lòng không?
Lâm miễn cưỡng gật đầu:
- Thôi thì tùy em, em muốn sao anh chìu vậy!
Trúc Ly như đứa trẻ hay vòi vĩnh được thỏa mãn yêu cầu. Cô nhảy cẫng lên sung sướng, ôm chặt lấy Lâm. Lập tức, trên má trên môi anh tràn ngập những nụ hôn nóng bỏng.
Lâm say mê cái vẻ đẹp lồ lộ mời gọi của Trúc Ly, anh yêu cái tính trẻ con dễ dỗi hờn của cô. Con người cô toát lên một sức sống mãnh liệt, không như người vợ đau yếu của anh, mỏng manh tựa chiếc lá…
Tiếng điện thoại dồn dập giữa lúc hai người đang quấn lấy nhau cùng đi đến cõi thiên thai. Lâm nhổm dậy với tay định lấy điện thoại nhưng Trúc Ly hất anh ra, cô không cho phép bất cứ ai phá vỡ giây phúc này.
Tiếng chuông như thúc giục, hết hồi này lại tiếp liền hồi khác, lòng Lâm chợt nôn nóng không yên, nhưng anh không đủ sức thoát khỏi vòng tay nồng nàng, cuồng loạn của người tình bé bỏng.
Trúc Ly buông người yêu ra. Cô nhắm mắt tận hưởng hết những cảm giác đê mê, khoan khoái cả về thể xác lẫn tinh thần. Anh ấy sẽ là của mình, của mình, cả cái gia tài kếch sù kia nữa, tất cả phải là của mình!
Lâm hấp tấp vồ lấy điện thoại:
- Alô, dì Nga, có chuyện gì thế? Sao? Ừ, dì nhớ cho cô ấy uống thuốc đều đặn, tôi sẽ cố gắng về sớm.
Trúc Ly nhổm lên tò mò:
- Chuyện gì vậy anh?
Lâm buồn bã:
- Dì Nga báo lúc nãy Thảo lại bị ngất, dạo này sức khỏe cô ấy sa sút lắm rồi… Có lẽ sáng mai mình phải về thôi em ạ!
Lâm ngã vật xuống giường, vắt tay lên trán không nhận thấy người tình đang nở một nụ cười bí hiểm…
***
Căn phòng bệnh viện trắng toát nồng nặc mùi ê te khiến dì Nga thấy đầu óc ngầy ngật. Hai đêm nay dì không chưa dám chợp mắt lấy một lúc. Trên giường, Thảo vẫn đang mê man, cả người cô đeo lằng nhằng đủ thứ dây nhợ, những thứ dụng cụ đang giúp cô quay về với sự sống.
Thảo nằm đó, mong manh giữa lằn ranh sống chết, nhưng nét mặt cô vẫn hiền hòa phúc hậu.
Hai hôm nay dì Nga đã khóc hết nước mắt. Dì van vái phật trời bốn phương tám hướng phù hộ cho Thảo tai qua nạn khỏi. Những lúc Thảo nguy kịch là dì lại cảm thấy lòng đau đớn vô biên! “Cô Thảo ơi, cô đừng chết, cô đừng chết nghe cô…” Dì Nga gục đầu nức nở…
Lâm vào bệnh viện đúng lúc Thảo vừa hồi tỉnh. Cô đưa ánh mắt mệt mỏi nhìn khắp một lượt quanh phòng. Lâm, dì Nga, Trúc Ly những người thân quen trong cái thế giới nhỏ bé của cô đã có mặt đầy đủ. giờ đây cô đang sống trong sự quan tâm che chở của họ, tử thần cùng các thế lực ma quái tạm thời đã lùi xa nhưng lòng cô vẫn nặng trĩu u buồn.
Rồi một ngày nào đó, mình ra đi mà không kịp nhìn thấy mặt người thân…Thảo ứa nước mắt nghĩ.
Lâm xót xa nhìn Thảo. Anh không ngờ chỉ mới hơn một tuần mà Thảo đã nên xanh xao đến vậy.
- Làm sao vợ tôi ra nông nỗi này? Lâm hỏi trống không
Dì Nga len lét nhìn Lâm, run giọng:
- Dạ… đang đêm, không biết cô Thảo ra vườn làm gì mà ngất xỉu ngoài đó, tôi ngủ mê quá nên không biết, tôi… tôi thật có lỗi với cô chú!
Lâm lặng im không nói gì. Trúc Ly gắt gỏng:
- Đã dặn dì nhiều lần rồi, sao dì không chịu nghe lời? Chị Thảo đau ốm thế, dì phải quan tâm chứ!...
Lâm khoát tay ra hiệu cho Trúc Ly im lặng. Cô quay đi với cái nhìn hậm hực, khó chịu. Dì Nga cũng lặng lẽ bỏ ra ngoài.
Lâm cầm bàn tay nhỏ nhắn của vợ, lòng anh chợt rưng rưng. Bao nhiêu năm qua Thảo luôn dành cho anh một tình yêu tuyệt đối. Còn anh…
Lâm nhìn vợ, thắc mắc:
- Đêm hôm em ra ngoài làm gì thế? Em nói cho anh biết đi, ở nhà có chuyện gì xảy ra với em?
Thảo ứa nước mắt:
- Em không biết do tâm thần em không ổn định hay do ma quỷ lộng hành. Thời gian gần đây em liên tục thấy hiện tượng lạ xả ra trong nhà mình, em sợ lắm anh ơi!
- Đêm đó em thấy gì? Lâm tò mò
- Một người mặc quần áo trắng, tóc dài xõa xượi treo lòng thòng ngay cửa sổ phòng ngủ của mình.
- Sao em không gọi dì Nga?
- Lúc đó… lúc đó em đang ở ngoài vườn. Trăng sáng quá, em ra ngoài dạo mát, lúc quay vào thì nhìn thấy. Em… em biết anh không tin, nhưng sự thật là như vậy!
Lâm đăm chiêu suy nghĩ một lúc rồi nói:
- Được rồi, anh nghĩ không phải vô cớ mà em liên tục thấy ma. Lần này về anh sẽ cố gắng khám phá mọi việc. Giờ em bình tâm lại đi, không có gì phải lo lắng nữa!
Thảo nhìn chồng, mỉm cười yếu ớt:
- Anh… Em muốn về nhà!...
Lâm dỗ:
- Em chịu khó ở lại đây cho bác sĩ theo dõi, chừng khỏe hơn một chút anh sẽ đưa em về.
- Không, em muốn về… Em còn nhiều điều phải làm cho anh, em sợ mình chết đi mà chưa hoàn thành được… Cho em về nhà đi anh
Thảo nói với vẻ quyết tâm.
- Em đừng nghĩ bậy bạ như thế! Làm sao em chết được? Anh không cho phép em nói điều đó!
Thảo cười buồn:
- Em biết sức mình anh à! Anh chìu em lần này đi! Em cần phải…
- Em muốn làm gì? Lâm ngạc nhiên
- Em muốn hoàn tất hồ sơ chuyển tài sản cho anh, để lỡ em chết đi anh không gặp rắc rối…
Lâm đặt tay lên miệng vợ không cho Thảo nói tiếp. Anh cười động viên:
- Em lo xa quá! Tất cả mọi việc đều không quan trọng, quan trọng là sức khỏe của em nè! Anh sẽ đi gặp bác sĩ để hỏi thăm về tình trạng của em, nếu ổn anh đưa em về ngay, em chịu không?
Thảo im lặng gật đầu. Cô đã quen sống với sự sắp đặt của Lâm rồi, nhất là trong tình trạng này, cô biết mình có ương bướng đến mấy Lâm cũng chẳng chìu theo.
- Em nằm nghỉ một chút nhé! Anh đến phòng trực gặp bác sĩ.
Thảo mỉm cười gật đầu, nhắm mắt lại cho chồng yên tâm. Lâm kéo mền đắp ngang người vợ rồi bước ra ngoài khép cửa phòng.
Gõ nhẹ cửa phòng bác sĩ trực, Lâm được cô y tá mời vào. Ông bác sĩ già nhướng mắt nhìn anh thật lâu mới chịu cất tiếng hỏi:
- Anh là chồng của bệnh nhân?
- Dạ, xin bác sĩ cho tôi biết bệnh tình của vợ tôi hiện nay…
- Anh vô tâm quá!
Bác sĩ cắt lời làm Lâm ngơ ngác. Ông nói tiếp:
- Bệnh tim của cô ấy là loại bệnh chưa có phương pháp cứu chữa. Điều duy nhất có thể giúp cô ấy mạnh khỏe, kéo dài sự sống là tinh thần phải được vui vẻ, thanh thản. Tôi nghĩ gia đình anh chị cũng khá giả, nhưng sao anh lại để vợ đến mức trầm trọng vậy mới đưa đến bệnh viện? Trước nay anh chưa bao giờ tìm đến một bác sĩ nào để tư vấn sao?
Lâm bối rối:
- Dạ thưa bác sĩ, tôi…
Ông bác sĩ già khoát tay:
- Thôi, tôi có trách anh cũng là vì tôi lo cho cô ấy! Từ nay anh nên quan tâm đến cô ấy nhiều hơn. Tôi không biết việc gì đã xảy ra khiến vợ anh hoảng loạn rồi ngất xỉu. Tôi cố tìm hiểu nhưng cô ấy nhất định không nói. Tôi e vợ anh sẽ khó giữ được mạng sống nếu cứ tiếp tục bị sốc như thế. Anh phải lưu tâm điều đó! Cô ấy có dấu hiệu trầm cảm… Có lẽ tuổi thọ của vợ anh không còn bao lâu nữa…
Ra khỏi phòng bác sĩ trực Lâm đi như kẻ mất hồn. Đã bao nhiêu lần anh nghĩ nếu Thảo chết đi, anh mới thật sự làm chủ, mới có thể tìm đến với tình yêu đích thực của mình. Nhưng sao khi biết sự sống của Thảo chỉ còn le lói anh lại thấy lòng đau đớn quá.
Hơn mười năm sống với người vợ ốm đau, không ít lần Lâm cảm thấy mệt mỏi chán chường. Lúc nào anh cũng phải nương nhẹ cô, từ lời ăn tiếng nói, cách xử sự đến cả việc quan hệ vợ chồng. Có lúc anh căm ghét Thảo. Nhưng khi những dục vọng trong anh lắng xuống, anh lại thấy thương Thảo vô cùng.
Cô ấy đã lo lắng cho anh chu toàn, lúc nào cũng phục tùng anh, cũng xem mình là người có lỗi với anh. Chưa một lần nào Thảo gợi cho Lâm một chút mặc cảm về sự nương tựa gia đình vợ. Trong mắt Thảo, anh luôn luôn là người một người đàn ông đầy bản lĩnh, luôn luôn là một người chồng gương mẫu.
Mình phải làm sao bây giờ? Lâm ôm đầu khổ sở. Một bên là người tình trẻ trung thúc hối, một bên là người vợ không còn sức để chịu thêm một việc phũ phàng đến thế!
Nhưng tại sao Thảo lại gặp ma? Có ma thật ư? Không đâu! Bác sĩ vừa nói cô ấy có dấu hiệu trầm cảm, vậy là do tâm thần không ổn định nên hoang tưởng thế thôi.
Hành lang bệnh viện tấp nập người qua kẻ lại. Lâm vừa định rẽ về hướng phòng bệnh nhân bất chợt nhìn thấy Trúc Ly và dì Nga đứng khuất ở góc cầu thang, hai người có vẻ căng thẳng lắm. Anh gọi:
- Trúc Ly, em lại nặng nhẹ dì Nga nữa sao? Dì ấy đâu có lỗi gì!
Cả hai quay lại nhìn Lâm. Mắt dì Nga còn hoe đỏ chứng tỏ dì vừa mới khóc. Trúc Ly kênh kiệu:
- Lỗi dì ấy rất lớn, tại anh không biết đó thôi!
Rồi đột ngột, Trúc Ly chuyển sang nhẹ nhàng:
- Chị Thảo thế nào rồi anh?
Lâm cúi mặt:
- Bác sĩ bảo tình trạng cô ấy rất nguy kịch, nếu bị sốc một lần nữa chắc không qua nổi…
Trúc Ly siết chặt tay Lâm như chia sẻ, mắt cô lấp lánh niềm vui:
- Em không biết nói gì với anh lúc này nhỉ? Chia buồn hay… chia vui?
Lâm nói nhỏ:
- Em không nên có thái độ đó, dù gì Thảo cũng…
Trúc Ly giận dỗi buông tay Lâm, giọng mai mỉa:
- Em xin lỗi, được chưa?
Lâm không nói gì, lặng lẽ về phòng. Trúc Ly, dì Nga nối gót theo Lâm.
Thảo không ngủ, cô nằm mở mắt nhìn chăm chú sợi ống dẫn đang truyền từng giọt nước biển vào cơ thể mình.
Ngày nhỏ cô thường thích nghe kể chuyện ma, dù sợ lắm nhưng cả đám con nít tụi cô cứ nép sát vào nhau hồi hộp dõi theo câu chuyện. Bà Năm trong xóm là người kể chuyện ma hay nhất. Những câu chuyện bà kể luôn rùng rợn, nhưng bao giờ bà cũng kết thúc bằng câu: “Đức trọng quỷ thần kinh” như mẹ Thảo thường nói.
Bà bảo những người sống lương thiện thì không quỷ ma nào dám quấy phá, chỉ những kẻ có tâm ma mới bị ma quỷ viếng thăm. Bà còn nói, những ai sắp chết thường nhìn thấy ma quỷ, đó là các vong hồn đến bắt mình đi.
Vậy thì… mình sắp chết thật rồi. Thảo nghĩ.
Cô đã cố gắng biết bao nhưng cuối cùng cô cũng không vượt qua được nỗi sợ hãi. Cô đã từng muốn chạm tay vào hồn ma để hỏi nó muốn gì ở mình, vậy mà chỉ nhìn thấy nó là cô lại ngất xỉu. Giờ đây cơ thể cô đã rã rời, tinh thần cô đã suy sụp hẳn. Cô không còn muốn vươn lên nữa.
Thôi thì mình chết cũng là một chuyện hay. Mình chết đi sẽ giải thoát cho Lâm. Anh ấy còn có cơ hội cưới vợ khác để sinh con đẻ cái…
Thảo khe khẽ đưa tay lau mắt. Cô không muốn Lâm buồn. Những ngày còn lại trong đời, Thảo phải ráng làm cho anh được vui.
Vừa bwosc vào phòng, Trúc Ly liếng thoắng:
- Chị Thảo khỏe rồi phải hôn? Chị làm hết cả hồn vía
- Chị xin lỗi em và mọi người, chị thật… vô dụng quá!
Quay sáng Lâm, Thảo hỏi:
- Sao anh? Bác sĩ cho phép em về nhà chưa?
Lâm cười nhẹ:
- Chưa đâu, bác sĩ nói em cần ở lại đây ít nhất là tới ngày mai! Anh cũng sẽ ở lại cùng em mà, em đừng làm khó anh nữa nhé!
Thảo biết dù có năn nỉ cũng không được nên đành nghe theo Lâm. Trúc Ly hỏi:
- Anh Lâm từ sân bay vào thẳng đây luôn, giờ anh không về nhà nghỉ ngơi một chút sao?
Nghe Trúc Ly nói vậy, Thảo lo lắng:
- Chắc anh mệt lắm rồi, anh về đi, tối vô với em cũng được, em ở đây có dì Nga rồi!
- Dạ, cậu về đi!
Thấy Lâm còn lưỡng lự, Thảo làm mặt giận:
- Nếu anh không nghe lời em, em buồn lắm đó!
Bất đắc dĩ Lâm phải đứng lên:
- Vậy thôi, em ngủ đi, anh về rồi sẽ trở vô liền. Dì Nga chăm sóc Thảo giúp tôi nhé!
- Dạ…
Trúc Ly xoa nhẹ má Thảo:
- Em cũng về, chị Thảo nhé!
Rồi quay sang dì Nga, Trúc Ly nghiêm mặt dặn dò:
- Dì phải cẩn thận nghe không? Lúc nãy tôi nói những gì chắc dì còn nhớ? Nếu dì làm trái lời, tôi sẽ không thèm nhìn mặt dì luôn đó!
Thấy dì Nga rưng rưng cúi mặt trước những lời nghiêm khắc của Trúc Ly, Thảo đỡ lời:
- Ly, em đừng có trách dì Nga, tại chị tất cả em à!
Trúc Ly mỉm cười với Thảo, liếc dì Nga rồi theo Lâm ra ngoài.
Dì Nga đến bên giường hỏi nhỏ:
- Cô thấy đói chưa? Tôi lấy cháo cho cô nghen?
Thảo nắm tay dì Nga, kéo dì ngồi xuống bên cạnh mình:
- Dì ơi, có phải những người sắp chết thường trông thấy ma quỷ phải không dì?
Dì Nga hoảng hốt:
- Cô nói gì vậy?
Thảo mơ màng:
- Dì Nga ơi, nếu mai kia tôi chết đi, dì cũng đừng bỏ đi nơi khác nghe dì. Từ ngày dì về sống với vợ chồng tôi, tôi cảm thấy bót lẻ loi nhiều lắm. Dì như mẹ của tôi vậy. Anh Lâm cũng rất thương quý dì. Tôi chết rồi, dì ở lại chăm sóc anh Lâm giúp tôi, tôi cám ơn dì nhiều lắm. Nếu có kiếp sau tôi nguyện sẽ đền đáp công ơn của dì.
Dì Nga bật khóc hu hu:
- Cô thảo ơi, cô đừng nói vậy! Tôi có tội với cô…
Những tiếng nấc nghẹn ngào khiến dì Nga không nói hết câu. Thảo vỗ nhè nhẹ lên tấm lưng đã bắt đầu còng xuống của dì, cô an ủi:
- Dì đừng khóc nữa! Dì đâu có tội gì! Tôi chết đi, nếu như có được một phép mầu nhiệm nào đó, tôi sẽ xui khiến cho con gái dì thương yêu, bù đắp cho dì…
Bất chợt dì Nga vùng ra khỏi phòng cùng với tiếng nức nở không kiềm nén được.
Thảo ngơ ngác không hiểu điều gì làm dì đau lòng đến thế. Nhưng vì quá mệt mỏi, Thảo không còn sức để suy nghĩ, để thắc mắc gì nữa, cô bắt đầu chìm vào trạng thái lơ mơ kỳ lạ.
***
Vừa khép cửa lại, Trúc Ly nhảy bổ tới ôm choàng lấy Lâm hôn lấy hôn để, hí hửng như trẻ con. Lâm khó chịu xô Trúc Ly qua một bên, càu nhàu:
- Anh mệt lắm rồi, em làm ơn để cho anh yên một chút!
Trúc Ly vòng tay qua cổ Lâm, ngã đầu lên vai anh nũng nịu:
- Không, em muốn được ôm anh hoài! Em không để anh yên đâu!
Lâm đấu dịu:
- Thì em cũng phải để anh đi tắm chứ!
Hôn một cái thật kêu vào má Lâm, Trúc Ly buông anh ra, cười nói:
- Vậy thì được! Anh đi tắm đi, em cũng cần nằm một tí, mệt quá rồi…
Lâm không nói gì, lẳng lặng mở tủ lấy áo quần đi tắm.
Còn lại một mình trong phòng, Trúc Ly ngã lưng xuống chiế giường rộng thênh thang của vợ chồng Lâm với một cảm giác khoan khoái, thỏa mãn.
Cô đưa mắt nhìn khắp căn phòng, chạm phải bức ảnh cưới phóng to treo trên tường, Trúc Ly bật dậy, chỉ tay vào gương mặt tươi cười hạnh phúc của Thảo trong hình, lẩm bẩm: “Sẽ không còn lâu nữa đâu, hãy đợi đấy!”.
Mở tủ áo, Trúc Ly săm soi từng chiếc áo đầm lộng lẫy mà có chiếc chưa một lần Thảo mặc. Chọn một chiếc vừa ý nhất, cô ướm thử vào người, xoay qua xoay lại trước gương rồi cười thích thú.
Vừa bước vào phòng, Lâm khựng lại khi thấy Trúc Ly đang lục lọi đồ đạc của Thảo. Anh có vẻ phật ý:
- Anh thấy em hơi quá lố rồi đó, Trúc Ly!
Trúc Ly vứt chiếc áo đang cầm trên tay, cô dang rộng hai tay, bước đến cạnh Lâm đầy vẻ khiêu khích:
- Thì trước sau gì em cũng sẽ là chủ căn phòng này mà, không phải sao anh? Anh đừng có khó khăn như ông già vậy, em không yêu đâu! Anh đừng chọc em ghen với vợ anh nghen!
Lâm buồn bã cúi xuống nhặt chiếc áo máng vào vị trí cũ, đóng tủ lại rồi ngồi phịch xuống giường. Trúc Ly vừa âu yếm lau tóc cho anh, vừa nhí nhảnh kể hết chuyện này tới chuyện khác.
Khi mái tóc Lâm vừa kịp khô, Trúc Ly tham lam kéo anh nằm xuống nhưng Lâm gượng lại nói:
- Trúc Ly, anh muốn nói chuyện nghiêm túc với em!
- Thì em cũng đang muốn làm chuyện nghiêm túc với anh nè! Cô cười khanh khách, giật tung chiếc áo đang mặc trên người, phô ra trước mắt Lâm bộ ngực thanh xuân mịn màng căng đầy nhựa sống.
Lâm đỡ Trúc Ly ngồi lên, mặc áo vào cho cô rồi nói như van vỉ:
- Em thương mà thông cảm cho anh, trong hoàn cảnh này thật tình anh không còn lòng dạ nào…
Trúc Ly bật khóc:
- Anh… anh nhẫn tâm với em vậy sao? Anh không còn yêu em nữa sao?
- Không phải, anh rất yêu em, nhưng… anh muốn chúng mình tạm thời dừng lại một chút đi em, Thảo không sống được bao lâu nữa, để anh làm tròn bổn phận với Thảo…
Trúc Ly giẫy nẫy:
- Anh nói dừng là dừng được sao? Đứa bé trong bụng em nó đâu có chịu dừng lớn để chờ cô vợ của anh qua đời?
Lâm mở to mắt nhìn Trúc Ly, lắp bắp:
- Em nói sao? Đứa bé… chẳng lẽ em đã có…?
Trúc Ly ấm ức khóc:
- Phải, em đã có thai hơn ba tháng rồi, em không nói với anh vì em còn muốn xem anh có thật lòng với em không. Bây giờ thì em hiểu rồi, em biết rồi, dù em có yêu thương anh cách nào cũng không bằng được vợ anh. Thôi thì số phận em bạc bẽo, mẹ con em đành phải hứng chịu thôi…
Vừa khóc Trúc Ly vừa đứng lên vớ lấy chiếc túi xách chạy ra ngoài. Lâm hấp tấp đuổi theo.
- Em định làm gì?
- Em phá bỏ bào thai này, em không muốn con em ra đời mà không có cha bên cạnh!
Lâm nghiến răng:
- Anh cấm em! Anh sẽ giết em nếu em bỏ đứa bé! Anh sẽ sắp xếp ổn thỏa cho em, em cứ ngoan ngoãn nghe lời anh đi!
Thấy vẻ giận dữ hiếm có của Lâm, Trúc Ly không dám làm mình làm mẩy nữa. Cô trở nên ngoan hiền như một con mèo ốm. Ngước đôi mắt mọng nước nhìn Lâm, cô hỏi:
- Anh tính sắp xếp cách nào?
- Em sẽ về đây sống. Anh không muốn những lúc buồn hay nghĩ quẩn, em lại làm điều gì đó có hại cho con của của chúng ta.
- Về đây?
Trúc Ly ngạc nhiên hỏi lại:
- Em về đây với tư cách gì?
Lâm ôm Trúc Ly vào lòng, khẽ khàng hôn lên mái tóc cô:
- Trúc Ly, vì anh, vì con, em có thể chịu thiệt thòi một chút được không?
- Anh muốn em làm vợ bé của anh sao?
Trúc Ly ngỡ ngàng.
Lâm vuốt nhẹ bụng cô, từ tốn nói:
- Không! Anh chỉ mong em ráng nhẫn nhục một thời gian ngắn. Anh sẽ nói với Thảo là em lỡ có thai rồi bị người yêu ruồng bỏ, em không dám để ba mẹ biết nên sẽ đến đây sống một thời gian để dì Nga chăm sóc. Thảo rất tốt bụng và cũng rất thương em, anh nghĩ cô ấy sẽ không từ chối đâu! Chỉ cần em bằng lòng…
Quá bất ngờ trước đề nghị của Lâm, Trúc Ly đắn đo hồi lâu rồi nói trong nước mắt:
- Thôi được rồi, em sẽ nghe theo anh, chỉ mong anh đừng đối xử tệ với mẹ con em!
Lâm gật đầu, bế thốc Trúc Ly vào phòng, một nỗi thèm khát man dại đang trỗi dậy trong anh…
 
Chương 3
 
Từ ngày có thêm bé Gia Bảo, không khí trong nhà sinh động hẳn lên. Sức khỏe của Thảo dường như cũng được hồi phục mấy phần. Suốt ngày cô cứ quẩn quanh chơi đùa với thằng bé.
Thằng bé mới đáng yêu làm sao! Nó như một thiên thần đem lại ánh sáng sáng chói lòa cho cuộc sống vốn nhiều ảm đạm của Thảo. Nó trở thành trung tâm của cả gia đình.
Sau trận ốm thập tử nhất sanh lần trước, Thảo cũng không còn thấy điều gì lạ lùng xảy ra trong nhà mình nữa.
Lâm giữ lời hứa, rất ít khi đi xa, có đi thì cũng về nhanh chóng. Nhưng hàng đêm, anh không làm việc tại phòng ngủ nữa mà dọn riêng một căn phòng dưới nhà dành cho công việc. Anh bảo cần phải tập trung tuyệt đối. Thường thì Lâm về phòng lúc nửa khuya, khi Thảo đã yên giấc.
Phòng của Trúc Ly được bố trí cạnh phòng dì Nga. Sau khi sinh nở, vẻ đẹp của Trúc Ly càng trở nên mặn mà, cơ thể cô rừng rực như mời như gọi.
Thi thoảng, Thảo nhận thấy giữa Lâm và Trúc Ly có một cái gì đó không được tự nhiên khi cô bất ngờ xuất hiện. Thảo cảm thấy mình có lỗi mỗi lúc ý nghĩ nghi ngờ thoáng qua trong đầu nên cố không dám nghĩ sâu thêm. Vả lại Thảo cũng không còn mấy thời gian mà suy nghĩ. Bé gia Bảo vui là cô vui, Gia Bảo đau ốm là cô thấy lòng như lửa đốt…
Ngày ngày, Lâm cùng Trúc Ly đều đặn đến công ty, Thảo với dì Nga tất bật lo cho thằng bé. Thằng bé bụ bẫm, hay cười mỗi lần nhìn Thảo khiến cô thấy niềm hạnh phúc trào dâng.
Hai tháng sau khi sanh con, Trúc Ly xin phép rời khỏi nhà Thảo vì lý do không muốn làm phiền anh chị mãi. Thảo cuống cuồng lo sợ như sắp mất đi một thứ gì vô cùng quý giá. Cô gần như van xin Trúc Ly đừng bỏ ra đi.
Cả nhà ai cũng vui, chỉ trừ có Trúc Ly. Từ ngày có con cô trở nên bẳn gắt, sự lễ phép dễ thương của cô đối với Thảo ngày một mất dần. Có lẽ do Trúc Ly có nỗi khổ riêng không giãi bày được nên trở thành như thế! Không khổ sao được, yêu một người, có con với người ta mà tới lúc sinh nở chỉ thui thủi nuôi con một mình… Cuộc đời Trúc Ly sao gần giống đời dì Nga đến vậy? Thảo xót xa cho Trúc Ly nên cũng không cảm thấy khó chịu trước cách cư xử của cô.
Vừa đút chai sữa vào miệng thằng bé, Thảo vừa giả giọng đả đớt nói chuyện với nó:
- Ui, ui, cục cưng ngoan của mẹ, cục cưng bú no rồi mau lớn cho mẹ nhờ nghe hông? Khuya rồi đó, cục cưng bú đi rồi ngủ
Thằng bé toét miệng cười làm sữa tràn ra ngoài. Trúc Ly bước tới gạt Thảo sang bên, cự nự:
- Nó đang bú mà chị đùa giỡn kiểu đó, lỡ bị sặc sữa thì sao?
Thảo hụt hẫng, nụ cười trên môi tắt lịm:
- Chị xin lỗi…
Gia Bảo bú no, Trúc Ly bế nó vào lòng ngước lên hỏi Thảo:
- Chị thấy thằng bé có giống em không?
Thảo chăm chú nhìn thằng bé rồi nhìn Trúc Ly, mỉm cười:
- Cái mũi, cái miệng giống em như đúc!
- Còn mắt và mái tóc, có giống em không chị?
- Không, mắt và tóc nó thì không giống em mà giống…
Thảo ngắc ngứ vì bất chợt cô nhận ra đôi mắt, anh nhìn và mái tóc của thằng bé giống Lâm một cách lạ lùng! Tim Thảo nhói đau, cô cố gắng xua đi dòng ý nghĩ đen tối đang ào ạt ập đến. Tay chân Thảo run lẩy bẩy, cô đứng không vững nữa nên phải bám vào cạnh bàn làm mặt bàn lật úp xuống, chai lọ đổ loảng xoảng, thảo chới với sắp ngã quỵ vừa may Lâm nghe tiếng động chạy vào. Anh vội đỡ lấy Thảo.
- Có chuyện gì vậy Trúc Ly?
- Có gì đâu! Em với chị Thảo đang nói về chuỵên thằng bé giống em ở điểm nào thì bất ngờ chị ấy bị thế…
Lâm liếc nhìn Trúc Ly một cái rồi bế Thảo về phòng. Anh đặt cô xuống giường, mặt cô xanh tái.
- Em có sao không?
Thảo gắng nhếch môi làm một nụ cười cho Lâm yên tâm. Uống xong mấy viên thuốc Lâm đưa cho, Thảo mệt mỏi khép mắt.
Ngồi lại một lúc chờ Thảo ngủ yên, Lâm nhè nhẹ ra ngoài.
Thảo xoay người úp mặt vào gối. Cô muốn xua những ý nghĩ trong đầu nhưng cô không thể.
Làm sao mình có thể không nhận ra điều đó? Trời ơi, mình thật ngu ngốc… Tại sao Lâm nỡ đối xử với mình như thế? Nếu anh nói thật với mình, mình cũng sẽ chấp nhận mà…
Thảo khóc chán chê một lúc bỗng nhiên lòng cô như trở nên trống rỗng. Cô đến bên bàn trang điểm ngồi chải lại mái tóc, nhìn thân thể xanh xao ốm yếu của mình rồi nở nụ cười cay đắng…
Tiếng sột soạt ngoài cửa sổ cắt đứt dòng tư tưởng của Thảo. Từng cơn gió lạnh buốt ùa vào phòng hất tung bay tấm rèm cửa, xa xa tiếng sấm chớp ì ầm, bầu trời đang vặn mình để trút cơn mưa…
Thảo lảo đảo đứng lên, chồm người ra kéo cánh cửa sổ. Bàn tay cô chạm phải một vật gì đó lạnh lẽo đến rợn người. Theo phản xạ tự nhiên Thảo rụt vội tay lại, cùng lúc mắt cô nhìn thấy rõ ràng trên cây xoài sát cửa sổ một gương mặt gớm ghiếc có cặp mắt ngầu đỏ, hai chiếc răng nanh mọc dài chỉa xuống phía cằm, mái tóc rối bù bay xoã xượi…
Thảo ngã xuống bất tỉnh, không kịp cất một tiếng kêu.
***
Tiếng khóc áo não từ xa xôi vọng đến làm Thảo nặng nhọc nhướng mắt. Mình chết rồi thì phải… Ý nghĩ đầu tiên đến với Thảo là vậy.
Nhưng đến lúc mở được mắt thì nhận ra đây vẫn là căn phòng quen thuộc của mình, chỉ khác một điều, trên cánh tay cô là sợi dây truyền nước biển. Không ai bên cạnh như những lần trước cô ngất đi rồi tỉnh lại.
Căn phòng hoang vắng lạ lùng. Tiếng khóc của ai nghe lúc xa lúc gần, hình như tiếng dì Nga… Mà sao dì Nga lại khóc thảm thiết thế? Mình chưa chết mà? Mọi người đâu cả rồi? Lâm đâu rồi? Cả gương mặt ma quái ghê rợn đó nữa? Thảo xoay người nhìn ra cửa sổ.
Lúc này có lẽ giữa trưa, bầu trời bên ngoài ngập tràn ánh nắng, tán lá xoài hiền hòa cọ vào khung cửa. Mọi vật bình yên, bình yên như chưa từng xảy ra giông tố.
Thật lạ lùng, từ lúc tỉnh lại, Thảo không còn cảm thấy đau tức nơi lồng ngực, cô cũng không thấy buồn khổ hay lo âu gì nữa. Thảo nghe lòng thanh thản, nhẹ nhàng…
Cô nhắm mắt lại hồi tưởng những gì đã xảy ra với một tâm trạng dửng dưng như người ngoài cuộc.
Tiếng khóc mỗi lúc một rõ, lần này lại có thêm tiếng khóc của Gia Bảo.
Có chuyện gì thế? Tiếng khóc ngằn ngặt của đứa bé khiến Thảo cảm thấy lòng rung động. Đến giờ phút này cô vẫn yêu thương nó bằng tất cả tình yêu của một người mẹ!
Thảo chậm rãi ngồi dậy. Cô nhăn mặt rút chiếc kim tiêm ra khỏi tay rồi lê bước xuống thang lầu. Dì Nga ôm đứa bé trong tay mặc cho nó khóc, không một tiếng dỗ dành bởi vì dì cũng đang khóc nấc từng cơn.
- Dì Nga, chuyện gì…? Thảo run run hỏi, cô linh cảm có một điều gì đó rất hệ trọng đã xảy ra trong nhà này.
Dì Nga giật bắn người khi nghe tiếng Thảo. Vừa quay lại trông thấy Thảo, dì Nga khóc rống lên rồi đặt vội thằng bé xuống nền nhà, dì quỳ lạy Thảo như tế sao.
- Cô Thảo ơi, xin cô tha thứ tội lỗi cho mẹ con tôi…
Thảo ngơ ngác:
- Dì… dì bị sao vậy? Tôi… tôi không hiểu gì hết? Mọi người đâu cả rồi? Lâm đâu? Trúc Ly đâu?
Thảo vừa hỏi vừa cúi xuống bế thằng bé vào lòng. Được Thảo bế, nó lập tức nín khóc, dúi mặt vào ngực Thảo tìm vú mẹ. Gương mặt thường ngày lúc nào cũng sạch sẽ thơm tho, giờ đây nước mắt nước mũi lem nhem đến tội nghịêp. Dì Nga úp mặt xuống nền nhà khóc không ra tiếng, Thảo gắng gượng bế Gia Bảo đi lấy cho nó bình sữa rồi đến ngồi bên dì Nga, gay gắt hỏi:
- Dì nín đi, nói tôi nghe đã xảy ra chuyện gì? Trúc Ly đâu?
- Trúc Ly… nó… nó chết rồi! hu hu
Dì Nga lại òa lên nức nở. Thảo bàng hoàng không tin vào tai mình. Cô hỏi lại:
- Chết ư? Sao lại chết?
Cố nén tiếng khóc, dì Nga nghẹn ngào nói:
- Chuỵên dài lắm. Tôi xin cô bình tĩnh nghe tôi kể hết rồi cô muốn kết tội tôi thế nào cũng được, cô có giết chết tôi, tôi cũng không dám hờn trách gì cô…
Trúc Ly, nó… nó là con gái tôi.
- Con gái của dì sao? Thảo lẩm bẩm
- Dạ, nó là con gái của tôi. Đứa con mà tôi đã rứt ruột đem cho người ta lúc mới chào đời. Đến lúc tìm lại được nó, nó lại không nhìn nhận tôi vì nghĩ tôi không thương nó. Để chứng minh rằng vì nó, tôi có thể hy sinh bản thân, tôi đã phải làm theo lời nó xúi biểu. Nó với chú Lâm có quan hệ tình cảm với nhau từ lâu rồi, nó muốn cô chết đi để nó được chính thức làm vợ chú Lâm. Vì thương con nên tôi mù quáng… xin cô hãy trừng phạt tôi đi, cô Thảo ơi…
Thảo lặng người trước lời thú tội của dì Nga. Cô không ngờ sự thật lại kinh khủng hơn nhiều so với những điều cô nghĩ. Thấy dì Nga lại ti tỉ khóc, Thảo giục:
- Dì kể tiếp đi, mọi việc thế nào?
- Biết cô đau tim, Trúc Ly biểu tôi phải giả ma giả quỷ để nhát cô, làm cho cô sợ đến chết thì thôi. Nhưng tôi… tôi không nỡ… Vì thương con, tôi phải làm theo lời nó, nhưng đến lúc thấy cô bất tỉnh, tôi không thể bỏ mặc cô, làm như không hay biết gì, bỏ mặc cho cô chết…
- Dì… dì nhát tôi, dì làm cho tôi chết đi… rồi chính dì cứu tôi sống lại? Trời ơi…
Thảo rên lên đau đớn. Dì Nga gạt nước mắt kể tiếp:
- Cũng chính vì lần tôi đưa cô vô bệnh viện, Trúc Ly càng ghét tôi hơn. Nó thề sẽ không nhìn tới mặt tôi nếu lần sau tôi còn cứu cô nữa. Rồi nó về nhà cô sinh con, tôi cứ tưởng trước tấm lòng bao dung của cô nó sẽ hối hận mà từ bỏ dã tâm. Ai ngờ đâu, càng ngày có càng muốn ghen ngược với cô. Nó luôn thúc giục tôi ra tay, nhưng từ khi có Gia Bảo, thấy cô hết lòng hết dạ với thằng bé, tôi không dám làm gì hết. Tôi cứ hẹn lần hẹn lựa. Ngày hôm đó, nó nói với tôi rằng nó sẽ phải kết thúc cuộc chơi này. Rồi nó gián tiếp nói cho cô biết cha của bé Gia Bảo là ai, hy vọng cô uất ức chết đi, nhưng thấy cô vẫn chưa nguy kịch, lại thấy chú Lâm ân cần với cô, nó điên tiết giao Gia Bảo cho tôi rồi đi ra ngoài. Tôi cứ tưởng nó giận quá, đi loanh quanh đâu đó cho nguôi, ai ngờ… nó làm ma nhát cô lần nữa!
- Trúc Ly… làm ma nhát tôi? Thảo như mơ màng trước sự thật khó tin
- Dạ phải, nó thấy cô ngã xuống trong im lìm không ai hay biết, nó thỏa mãn lắm nên chạy vội vào nhà tìm chú Lâm, mục đích ngăn cản không cho chú về phòng, để không ai phát hiện mà cứu cô. Cũng may lúc đó Gia Bảo ngủ yên, tôi tính đem chai sữa xuống bếp rửa, đi ngang qua phòng cô, tình cờ ngó vào thấy cô nằm dài dưới đất, tôi hoảng quá la lên gọi chú Lâm. Lúc bác sĩ tới tiêm thuốc cho cô, nó kéo tôi xuống nhà hết lời mắng nhiếc xỉ vả tôi, không ngờ chú Lâm nghe hết những lời đó. Chú giận quá tát nó một bạt tay, thế là nó đùng đùng xách xe chạy ra đường giữa mưa to gió lớn. Rồi có lẽ do đang tức giận, không tập trung nên nó đâm sầm vào chiếc xe tải chạy ngược chiều… Khi tôi với chú Lâm tới, nó… đã chết rồi…
Dì Nga hai tay bưng mặt khóc nức nở. Thảo choáng váng, cô ghì chặt đứa bé vào lòng. Thằng bé bú no, đang ê a nói chuyện một mình, thấy Thảo ghì mạnh, cứ ngỡ mẹ đang đùa nó bật cười hắc hắc.
- Còn Lâm, anh ấy đâu rồi?
Dì Nga ngước nhìn Thảo, sầu thảm:
- Chú ấy đã bị công an tạm giữ!
Thảo giật bắn người, nhổm dậy:
- Sao? Dì nói công an tạm giữ anh Lâm? Tại sao…?
- Tôi không biết rõ lắm, chỉ nghe loáng thoáng hình như chú Lâm đã dùng tiền của công ty đầu tư vào chứng khoán gì đó, bị mất trắng, cổ đông xúm lại thưa chú ấy ra tòa…
Thảo bàng hoàng buông người xuống ghế.
- Chỉ mới có một đêm mà lại xảy ra bao nhiêu chuyện vậy sao dì…?
Dì Nga nhìn Thảo:
- Không… cô bất tỉnh hơn một tuần rồi! Chú Lâm mới bị bắt hôm qua…
Dì Nga quỳ sụp dưới chân Thảo:
- Cũng vì mẹ con tôi mà gia đình cô mới ra nông nỗi này, cô trừng phạt tôi đi, cô Thảo…
Thảo chăm chú nhìn dì Nga, nói như mơ màng:
- Một tuần… Tôi đã chết một tuần rồi sao? Giờ đây tôi sống lại, bên cạnh tôi chỉ còn lại dì và bé Gia Bảo… ha ha
Nghe tiếng Thảo cười, dì Nga sợ sệt:
- Cô Thảo ơi, cô đừng làm tôi sợ! Tôi trăm ngàn lạy cô, cô xử tôi sao cũng được, chỉ xin cô rủ lòng thương, nuôi nấng, dạy bảo Gia Bảo giùm tôi. Kiếp sau mẹ con tôi nguyện làm trâu làm ngựa đền đáp công ơn cô…
Thảo đưa bé Gia Bảo lên ngang tầm mắt, hôn lên đôi má bầu bĩnh của nó rồi đứng lên nói với dì Nga, giọng ráo hoảnh:
- Chắc tại số phần tôi phải khổ như vậy, dì ngồi lên cho Gia Bảo ngủ đi, tôi cần được yên tĩnh một mình trước khi quyết định mọi việc.
Dì Nga kéo vạt áo lau nước mắt, đưa tay đón bé Gia Bảo, bế nó vào phòng. Thảo đứng lặng một lúc rồi cũng về phòng mình. Cô nhẹ nhàng nằm xuống, không khóc, không buồn, lòng cô trống rỗng…
***
Chiếc xe đò dừng lại bên vệ đường, từ trên xe bước xuống một người phụ nữ trạc ngoài bốn mươi, một tay xách giỏ đồ nặng trĩu, một tay dắt theo thằng bé vừa chập chững biết đi.
Đi một đỗi, đứa bé mếu máo:
- Mẹ ơi, ẵm Bảo, Bảo mỏi chân…
Người phụ nữ cúi xuống dỗ dành:
- Bảo ngoan, Bảo đi một chút nữa thôi là tới rồi, ba sẽ khen Bảo giỏi. Bảo đòi mẹ ẵm, ai sẽ đem giỏ đồ này cho Ba?
Đứa bé được mẹ khích lệ, hăng hái bước tiếp. Người phụ nữ nhìn theo con, mỉm cười sung sướng…
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:11:24 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:40:36
LƯỠI DAO OAN NGHIỆT
I
Liên là luật sư cho một Văn phòng Luật sư có tăm tiếng tại Sài Gòn. Hải, chồng nàng, là kỹ sư điện của nhà máy chế tạo linh kiện điện tử tại Thủ Ðức. Sau mấy năm tìm hiểu, hai người quyết định tiến tới hôn nhân. Gia đình hai bên đều giàu có nên đám cưới đã được tổ chức rất lớn tại nhà hàng Trầu Cau, khách đến dự có hơn ngàn người.
Ai cũng phải khen họ thật là xứng đôi vừa lứa, là một cặp vợ chồng tài sắc vẹn toàn, môn đăng hộ đối. Cha mẹ Hải đã mua sẳn một biệt thự ở vùng ngoại ô, gần cầu Sài Gòn. Sau hai tuần trăng mật tại Ðà Lạt vợ chồng Hải Liên dọn về đó ở.
Liên rất thích ngôi biệt thự này, nó nằm cạnh bờ sông Sài Gòn, chung quanh là tường xây bao quanh một khu vườn cây ăn trái đủ loại. Không khí trong lành và nhất là khung cảnh yên tỉnh cộng với cảnh vật hữu tình rất hợp với tính của Liên. Chỗ ở cũng tiện cho cả hai vì không quá xa nơi làm của cả hai vợ chồng.
Hải tuy còn trẻ tuổi nhưng lại có thú đam mê đồ cổ, anh thường lùng sục khắp nơi tìm mua những đồ chạm trổ xa xưa để trang trí trong nhà dù phải trả giá cao đến mấy.
Trong số đồ vật mua được có một chiếc gương cổ gắn trên giá được chạm trổ rất cầu kỳ và một con dao có hình dạng lạ mắt. Liên cũng thích cái gương này, nàng đặt nó trong phòng ngủ và hàng ngày ngắm mình trong gương. Riêng con dao, do thấy lạ mắt nên Hải mua về chứ chưa biết trưng bày ở đâu, tạm thời Hải để trong hộc bàn làm việc.
Cuộc sống tưởng cứ thế êm đềm trôi đi, nhưng vào một đêm mà Hải phải trực đêm tại sở, Liên ngủ một mình ở nhà. Ðêm đó, trong giấc mơ Liên thấy một chuyện lạ kỳ:
Một người thiếu phụ trẻ đẹp, có đôi mắt buồn u uất đứng bên cạnh giường ngủ của Liên, bà ta nhẹ nhàng kéo tay Liên:
- Liên! Dậy đi con, dậy đi!
- Ơ kìa, bà là ai mà đang đêm lại vào nhà tôi được?
Người thiếu phụ ngồi xuống giường, ân cần vuốt ve cánh tay tròn lẳn của Liên, âu yếm hỏi:
- Con gái, cuộc sống của con thế nào? Con có được hạnh phúc không?
Mặc dù thắc mắc vì cử chỉ của người lạ, nhưng thấy bà ta tỏ vẻ quan tâm đến mình, Liên cũng lịch sự trả lời:
- Cảm ơn bà, tôi rất hạnh phúc! Nhưng… xin bà cho tôi được biết bà là ai?
Người thiếu phụ nhìn Liên thật lâu ra vẻ đắn đo, cuối cùng bà nói, giọng thật buồn:
- Ta… ta chính là mẹ ruột của con!
Liên tưởng mình nghe lầm, nàng chau mày hỏi lại:
- Bà nói gì tôi chưa nghe rõ? Bà là…
- Ta chính là mẹ ruột của con! Người đã mang con trong bụng và sinh ra con…
Liên cười thật to:
- Thật tội nghiệp cho bà, chắc bà đang bị quẩn trí? Cha mẹ tôi vẫn còn đầy đủ bà ạ!
Người thiếu phụ chớp mắt như ngăn dòng cảm xúc:
- Không con ạ, con chỉ là con nuôi của họ, tại con không biết đó thôi, họ đã xin con về nuôi từ lúc con vừa mới chào đời. Ta mới đúng là mẹ ruột của con!
Nhìn vẻ mặt người thiếu phụ không có vẻ gì bỡn cợt hay bịnh hoạn, Liên hoang mang:
- Tôi… tôi không tin! Từ bé đến nay, ba mẹ tôi rất mực thương yêu tôi, chưa ai nói với tôi chuyện đó! Bà… bà có bằng chứng gì là mẹ ruột của tôi không?
Người thiếu phụ buồn bã trả lời:
- Phía dưới ngực trái của con có một bớt son. Bao lâu nay, hình ảnh đứa bé vừa lọt lòng ấy vẫn canh cánh trong ta, ta không quên con được!
Nghe bà ta nói đúng đặc điểm trên cơ thể mình, Liên run run:
- Nhưng… tôi vẫn không tin…
Người thiếu phụ cúi xuống đặt lên trán Liên một cái hôn rồi đứng lên:
- Con cứ từ từ tìm hiểu. Rồi đây con sẽ biết tất cả những bí mật của cuộc đời con. Bây giờ ta phải đi rồi! Tạm biệt con gái, ta sẽ trở lại thăm con.
Loáng một cái, hình bóng của người thiếu phụ vụt biến mất. Liên giật mình choàng tỉnh, cảm giác hoang mang và dư vị nụ hôn như vẫn còn in đậm.
- Chỉ là giấc mơ… làm mình sợ quá!
Liên lẩm bẩm một mình.
Lau khô những giọt mồ hôi rịn ra trên trán, Liên cố nhắm mắt lại ngủ tiếp nhưng những hình ảnh trong giấc mơ khi nãy cứ hiện ra rõ rệt trong đầu Liên khiến nàng thấy bất an.
Nhưng rồi giấc ngủ cũng đến được với nàng, một giấc ngủ nhẹ nhàng kéo dài tới sáng.
Hôm sau Liên thức dậy và nhớ lại chuyện đêm qua nhưng nàng cho đó chỉ là giấc mơ thôi nên không để ý gì cho lắm.
Nhưng liên tiếp mấy đêm sau Liên đều thấy người thiếu phụ đó hiện ra trong giấc ngủ của mình. Có đêm, bà chỉ đứng lặng nhìn Liên rồi nghẹn ngào quay gót; có đêm bà kéo mền đắp cho Liên; lại có đêm bà ngồi xuống cạnh giường hát ru khe khẽ những câu hát mà thưở bé Liên chưa được nghe.
Liên đâm ra thắc mắc, không biết đó là sự thực hay chỉ là bị ám ảnh chuyện gì rồi mơ thôi! Hay tại lúc này công việc nhiều quá, tinh thần mình bị căng thẳng nên sanh ra chuyện mộng mị đâu đâu?
Nàng lờ đi, nhưng rồi đêm nào nàng cũng thấy thiếu phụ đó, lúc thì chân thành, lúc thì khóc nức nở khi nghe nàng từ chối không nhận bà ta là mẹ!
Có lần, Liên hỏi chồng:
- Đêm qua anh ngủ có mơ thấy gì không?
Hải ngạc nhiên:
- Sao em hỏi vậy? Anh có mơ gì đâu? Bộ em nghe anh nói gì trong giấc ngủ hả?
Rồi anh cười chọc Liên:
- Em đừng bảo với anh là em nghe anh gọi tên cô gái nào tha thiết đó nhé!
Liên bật cười:
- Anh mà gọi tên cô nào là… chết với em!
- Có chuyện gì mà lúc nãy em hỏi anh như vậy?
Hải nghiêm mặt. Liên bâng khuâng:
- Không biết dạo này em bị làm sao mà đêm nào cũng mơ thấy chuyện kỳ lạ hết anh ạ! Giấc mơ đó cứ lặp đi lặp lại khiến em hoang mang quá!
- Em mơ thấy gì? Hải quan tâm đến vợ.
- Một người đàn bà, đêm nào cũng đến nói với em rằng bà chính là mẹ đẻ của em!
- Trước nay có điều gì khiến em nghĩ em không phải là con ruột của ba mẹ không?
Hải tò mò.
- Dạ không! Ngay cả lúc này em cũng không tin mình chỉ là con nuôi của ba mẹ. Nhưng… giấc mơ lạ lắm anh à!
Hải ái ngại nhìn vợ:
- Hay trưa nay em tranh thủ thời gian đến bệnh viện khám thử, biết đâu do áp lực công việc nên tinh thần em có vấn đề gì đó không hay?
- Anh nói em bị tâm thần hả? Cho anh chết nè, dám nói em như vậy!
Liên véo tai chồng khiến Hải la lên oai oái. Hai người rượt đuổi nhau khắp phòng, tiếng cười giòn giã xua đi những âu lo trong tâm trí của Liên.
Nhưng lúc đến cơ quan, Liên không tập trung vào công việc được. Rất nhiều câu hỏi tại sao cứ xoáy tròn trong suy nghĩ của nàng.
“Hay mình đến gặp bác sĩ tâm thần như lời đề nghị của Hải? Mà thôi đi, lỡ bạn bè biết, tụi nó đồn thổi lên chắc mình chết mất! Chi bằng… mình xin nghỉ phép mấy ngày về thăm ba mẹ cho đầu óc khuây khỏa!”
Liên gọi điện hỏi ý chồng. Sau khi được sự đồng tình của Hải, nàng làm một lá đơn xin nghỉ phép.
II
Quê nhà của Liên không cách xa thành phố là mấy nhưng khung cảnh hoàn toàn khác biệt.
Ở đấy không có khói bụi phố phường, không dập dìu giai nhân tài tử, cuộc sống của người dân thật bình lặng, hiền hòa, trái với cuộc sống bon chen, xô bồ nơi thành thị. Lần nào về quê Liên cũng cảm nhận được sự thư thái, yên bình.
Thế nhưng lần này Liên không hoàn toàn nhẹ nhõm lúc về quê.
Một mình đi chiếc xe gắn máy suốt đoạn đường gần 40 cây số, nàng không tận hưởng trọn vẹn cái không khí trong lành của miền quê mà vẫn cứ quay quắt suy tư. Liên cố nghĩ, cố nhớ lại quãng đời mình từ bé đến giờ. Nàng soi mói, mổ xẻ từng sự việc để tìm ra một cái gì đó khả dĩ chứng minh nàng không phải là con ruột của cha mẹ. Nhưng tuyệt nhiên nàng không tìm được gì!
Có những lần nàng không ngoan, bị cha phát nhẹ một cái vào mông thì lập tức mẹ nàng chạy đến ôm lấy nàng mà xuýt xoa, khiến nàng càng gào lên khóc to hơn nữa.
Liên phì cười khi nhớ lại những trò quá quắt của cô bé con nghịch ngợm ngày xưa. Trong một lúc nàng tìm lại được sự vô tư vốn có của mình.
Thấy nàng về bất ngờ, nghĩa là về nhà không vào một dịp lễ tết, hay đám tiệc như thường lệ, cả nhà mừng vui rối rít.
Sau khi tay bắt mặt mừng, mẹ nàng hối thúc bà vú ra chợ mua đồ về nấu một bữa cơm thịnh soạn để mừng con gái.
Suốt một ngày vui vẻ trong vòng tay thương yêu của cha mẹ, Liên quên hẳn những ám ảnh mấy ngày nay.
Đêm đến, Liên lại rúc vào lòng mẹ như thuở còn thơ bé. Hai mẹ con thủ thỉ chuyện trò đến khuya, rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết.
Người thiếu phụ lạ lùng kia lại tìm đến tận đây. Bà lặng lẽ ngồi nhìn Liên áp mặt vào ngực mẹ mình. Vừa trông thấy bà, Liên hoảng hốt:
- Bà… sao bà biết? Bà theo tôi về đây sao?
Người thiếu phụ nở một nụ cười thật buồn:
- Mẹ luôn dõi theo con, con gái ạ!
- Không, không! Bà đừng nói thế! Mẹ tôi đây này, bà không thấy mẹ con tôi thương yêu nhau lắm sao?
Liên cuống quýt phản kháng.
Người thiếu phụ cúi xuống lau nước mắt, nói nhỏ:
- Mẹ thấy chứ, mẹ vui lắm vì con được họ thương yêu, nhưng mẹ cũng buồn lắm, vì mẹ… mẹ vô phúc không được nhận tình cảm đó từ con!
Liên cảm thấy chạnh lòng, nàng khe khẽ ngồi lên nắm lấy đôi tay của người thiếu phụ:
- Bà đừng buồn, nếu bà thật sự là mẹ ruột của tôi, tôi cũng sẽ thương yêu bà như thế! Chỉ có điều… những gì bà nói với tôi còn mơ hồ quá, tôi không xác định được!
- Con có thể tìm hiểu từ cha mẹ nuôi của con.
Người thiếu phụ trìu mến nhìn Liên rồi từ từ tan biến.
Sáng hôm sau, lúc ở trong bếp một mình với mẹ Liên làm như vô tình hỏi:
- Mẹ ơi, có phải con chỉ là con nuôi của ba mẹ không?!
Mẹ nàng hơi biến sắc mặt, chăm chăm nhìn nàng rồi nghiêm giọng:
- Ai nói chuyện tầm bậy đó với con vậy? Ba con mà nghe được là chết với ông ấy đó nghe chưa! Bộ bây giờ con đủ lông đủ cánh rồi không muốn nhìn nhận hai kẻ già nua này là cha mẹ đó sao?
Liên ôm choàng lấy mẹ, nũng nịu:
- Con đùa thôi mà, mẹ đừng giận con nghen! Lúc nào ba mẹ cũng là ba mẹ tuỵêt vời nhất của con!
- Tổ cha cô, hết chuyện để cô đùa rồi sao?
Mẹ nàng mắng yêu rồi nói lảng qua chuyện khác. Liên không hài lòng lắm nhưng sợ làm phật lòng mẹ nên không dám hỏi thêm.
Hai đêm tiếp theo nàng vẫn liên tục mơ gặp người thiếu phụ kia. Quá thắc mắc và linh cảm thấy như có một bí mật gì đó trong đời mình, Liên quyết định gặp riêng vú Ba, người đã chăm sóc nàng từ lúc sơ sinh cho đến ngày lấy chồng để tìm hiểu sự việc.
 Liên xem vú Ba như một người mẹ thứ hai, và vú cũng yêu thương nàng như là con đẻ. Vú là người thật thà chất phát, chẳng bao giờ nói dối hay làm phật lòng một ai.
Buổi trưa, lúc cha mẹ đã ngủ, Liên lân la xuống nhà sau tìm vú. Sau một hồi nói chuyện nọ chuyện kia, bất chợt Liên hỏi chận đầu:
- Vú ơi, con hỏi điều này vú phải hứa nói thật cho con biết, vú đừng giấu con nghe?
Vú Ba ngạc nhiên:
- Con muốn hỏi gì? Nếu vú biết chắc chắn vú sẽ nói cho con nghe thôi, có gì mà con phải rào trước đón sau như vậy?
Liên cười cười:
- Con biết con là con nuôi của ba mẹ con, đúng không vú? Xin Vú nói cho con biết sự thật đi!
Vú Ba mặt tái xanh lắp bắp:
- Trời ơi, làm sao mà con biết được vậy? Đời nào ông bà nói cho con biết điều đó? Ai nói cho cô vậy?
Vú Ba hỏi tới tấp. Liên run giọng vì mọi việc đã bắt đầu hé mở. Nàng cố gắng lấy lại bình tỉnh:
- Có người cho con biết, con chỉ cần vú xác nhận và cho con biết thêm các điều vú biết. Nếu vú thương con, xin vú đừng giấu con điều gì hết, nghe vú? Giờ con không lớn rồi, việc gì con cũng chịu đựng được hết…
Vú Ba đắn đo một lúc rồi nói:
- Nếu con đã biết rồi thì vú cũng không giấu gì con! Nhưng…những điều vú biết cũng không nhiều đâu con ạ! 
- Vú biết gì thì cứ kể cho con nghe, biết đâu nhờ đó mà con tìm ra nguồn gốc của mình cũng nên!
Vú Ba nín lặng một chút như đang sắp xếp lại dòng hồi ức rồi chậm rãi nói:
- Con biết đó, ba mẹ con chỉ có mình con là con một mà thôi! Thật ra thì bác sĩ cho biết là ông bà không thể có con được!
Ngừng một chập, vú tiếp:
- Vú chỉ biết là một ngày vào mùa thu 25 năm trước, ông nói là có chuyện phải đi xa vài ngày. Khi trở về ông ẵm theo một bé gái nói là xin được của một người đàn bà ở Cần Thơ, bà ta vì nghèo quá không thể nuôi đàn con quá đông nên đành lòng để con mình cho người khác nuôi. Ðứa bé đó là con đó! Vú chỉ biết vậy thôi, và vú đảm nhận việc nuôi dưỡng con từ đó. Vú cũng không dám hỏi thêm gì từ ông bà nên không biết thêm gì nữa!
Sau phút bàng hoàng, Liên quyết định bằng mọi cách phải truy cho ra nguồn gốc của mình.
Nàng biết có hỏi ba mẹ nàng thì ông bà cũng sẽ không nói, không chừng điều đó lại đem đến phiền muộn cho ông bà khi tuổi đã về chiều. Phải tự mình tìm ra thôi! Nàng đã có được một chi tiết mà nàng cần. Ðó là nơi ngày xưa ba nàng xin đứa trẻ!
Là một luật sư, Liên có nhiều khả năng để dùng tài năng và phương tiện sẵn có của mình để truy ra nguồn cội.
Nàng quyết định sẽ âm thầm điều tra, khi mọi việc sáng tỏ mới nói cho Hải biết. Nàng không muốn Hải bận lòng hơn nữa vì mình, công việc của anh cũng quá nặng nề rồi!
Liên lại tiếp tục xin nghỉ phép một tuần với lý do sức khỏe chưa ổn định, và nói với chồng là nàng phải đi lo một công việc cho một thân chủ tại Cần Thơ.
Vừa xuống tới Cần Thơ, Liên thuê một phòng ở khách sạn, cất đồ đạc vào tủ và tắm xong là nàng vội vã bắt tay việc.
Đầu tiên, Liên vào Tòa Án xin người Lục Sự lục lại hồ sơ lưu xem coi những ai đã cho con vào những tháng mùa thu 25 năm trước.
Thật may mắn là người lục sự nơi đây rất nhiệt tình giúp đỡ nên không mất nhiều thời gian nàng đã có được danh sách của những đứa trẻ được cho trong khoảng thời gian đó, cùng họ tên người cho và người nhận.
Liên hết lời cảm ơn người lục sự rồi hấp tấp đem bản photo danh sách đó về khách sạn. Nàng quên cả việc mình chưa ăn gì vào bụng từ sáng sớm đến giờ.
Sau khi xem xét kỹ lưỡng, xét duyệt và so sánh tên tuổi trong danh sách đó, nàng biết được tên của người mẹ ruột nàng là Lê Thị Hiếu.
Hôm sau, Liên lại đến tòa án, yêu cầu ông Lục Sự cho phép nàng xem lại hồ sơ của người đàn bà tên Hiếu này. Lần nay ông lục sự cũng tận tình giúp đỡ cho Liên.
Một sự thật bất ngờ lại đến! Lê Thị Hiếu là một tử tội, vì mang thai nên được dời ngày xử tử đến sau khi sinh con. Ðứa con được sinh ra trong khám đường và mang đi cho, sau đó bà ta bị xử bắn vì tội giết chồng!
Trở lại Sài Gòn với tâm trạng đau khổ vì sự thật nàng đã tìm ra. Liên chán nản không thiết tha đến điều gì nữa.
Thấy thái độ bơ phờ khác lạ của vợ, Hải nhiều lần gặng hỏi nhưng Liên cố tình né tránh, chưa muốn kể với chồng lúc này. Nàng giải thích do vụ án phức tạp quá nên nàng phải tập trung cao độ.
Ðêm đầu tiên Liên từ Cần Thơ về lại Sài Gòn, người thiếu phụ lại hiện ra trong giấc mơ. Vừa nhìn thấy bà, Liên ngồi bật dậy, nhè nhẹ gỡ cánh tay chồng đang choàng qua người, Liên bước xuống giường đến ngồi cạnh bà, run run cầm tay bà khóc thút thít:
- Mẹ… Mẹ ơi, giờ thì con tin mẹ chính là mẹ ruột của con rồi!
Gương mặt người thiếu phụ rạng rỡ hẳn lên khi nghe nàng gọi tiếng “Mẹ” thiết tha, âu yếm. Bà ôm Liên vào lòng, vuốt ve từ mái tóc đến bờ vai con gái. Nước mắt bà thấm đẫm vai áo Liên, nước mắt Liên cũng chảy tràn trên ngực áo bà…
Hai mẹ con cứ ôm chặt lấy nhau khóc lóc thật lâu. Cuối cùng, Liên ngwosc lên nhìn mẹ bằng đôi mắt nhòa lệ:
- Mẹ ơi, mẹ nói cho con biết đi, tại vì sao… vì sao mẹ lại là tử tội? Người mẹ giết có phải là ba của con không?
Một lần nữa người thiếu phụ ghì chặt Liên vào lòng:
- Con ơi, mẹ sẽ kể, mẹ sẽ nói hết với con…
Bỗng nhiên tiếng đập cánh phành phạch rồi tiếng gáy to dõng dạc của chú gà trống Hải nuôi trong chiếc lồng sau nhà vang lên khiến người thiếu phụ hoảng hốt buông Liên ra, lập cập nói:
- Giờ mẹ phải đi rồi! Tối mai mẹ sẽ đến kể hết mọi việc với con. Mẹ đi, con nhé!
Bàn tay người thiếu phụ còn nắm lấy tay con gái bịn rịn chưa muốn rời, nhưng thân thể bà dần dần tan loãng ra như một làn khói mong manh, luồn qua khe của rồi biến mất.
Suốt ngày hôm đó Liên cứ ra vào thơ thẩn không làm được việc gì. Nàng nôn nóng mong màn đêm buông xuống để bức màn bí mật đời nàng được vén lên một cách trọn vẹn.
Tối hôm đó Hải vắng nhà vì trực ở công ty. Liên trằn trọc mãi không ngủ được, nhưng nàng biết nếu nàng cứ thao thức thế này thì sẽ không gặp được mẹ.
Dù bà chưa nói gì với Liên nhưng sau một thời gian không phải là ngắn giao tiếp với hồn ma của mẹ, Liên rút ra được kết luận đó. Mẹ nàng chỉ có thể gặp nàng trong giấc ngủ mà thôi!
Liên uống một viên thuốc ngủ rồi mở đĩa nhạc yêu thích để tự ru mình. Nằm một lúc thuốc ngấm, Liên ngủ.
- Dậy đi, con gái!
Liên thấy mình choàng dậy sau cái lay gọi của mẹ. Nàng hấp tấp:
- Mẹ, đêm nay mẹ phải nói hết với con…
Người thiếu phụ gật đầu:
- Mẹ sẽ nói hết, vì… mẹ cũng không còn nhiều thời gian nữa con ạ!
Rồi bà kéo Liên vào lòng, vừa vuốt ve mái tóc nàng vừa thủ thỉ kể:
“Chuyện này rất dài, bắt đầu từ bà ngoại con. Con hãy kiên nhẫn lắng nghe mẹ kể.
Ngày xưa, bà ngoại con là con của một điền chủ giàu có ở Phong Ðiền, Cần Thơ. Quận Phong Ðiền chỉ cách Cần Thơ chưa tới 20 cây số. Cứ theo con sông Cần Thơ thì từ Cần Thơ rồi tới Cái Răng xong đến Ba Láng vượt qua Vàm Sáng là tới Phong Ðiền.
Vùng này nổi tiếng là vựa lúa gạo vì thế đã có câu ca dao truyền khẩu từ lâu đời: "Cái Răng Ba Láng Vàm Sáng Phong Ðiền. Anh thương em thì cho bạc cho tiền! Ðừng cho lúa gạo, xóm giềng cười chê!"
Bà có một sắc đẹp mặn mà với làn da trắng nõn của cô gái miệt vườn. Vì là con nhà giàu nên bà ngoại con được cha mẹ cho lên tỉnh thành ăn học. Trong một buổi dạ vũ mừng xuân, bà con gặp một công tử hào hoa phong nhã. Chàng là con cưng của quan Tham Tá ở tòa bố Tỉnh.
Mới gặp nhau là họ đã bị tiếng sét ái tình đánh trúng. Sau đó, họ hẹn hò với nhau rồi cuối cùng nhà trai đến xin cưới hỏi. Người thân, bạn bè của ngoại con ai cũng vui mừng trước niềm hạnh phúc tròn đầy ấy của bà.
Sau đám cưới, ông bà ngoại về chung sống trong gia đình cha mẹ chồng.
 Trong hai năm đầu tình nghĩa họ rất mặn nồng nhưng đến năm thứ ba thì ông ngoại con theo bè bạn chơi bời nhậu nhẹt và bắt đầu lơ là với vợ. Bà con lúc đầu còn nói bóng gió nhỏ nhẹ để khuyên chồng, nhưng ông con vẫn tính nào tật nấy. Càng ngày càng sa đà vào rượu chè cờ bạc.
Bà ngoại con đã nhiều lần khóc lóc van xin chồng hãy xa lánh bọn bạn bè xấu, lo làm ăn vun vén gia đình, nhưng ông con không nghe còn chửi rủa, đánh đập bà con không thương tiếc!
Không chịu đựng nối, bà con quay ra cầu cứu cha mẹ chồng, hy vọng ông con vì nể sợ cha mẹ mà quay về đường ngay lối thẳng.
Thế nhưng, chẳng những bà con không được binh vực mà còn bị cha chồng mắng nhiếc:
- Chồng mày nó là đàn ông, phải để cho nó giao dịch với người đời chứ! Còn nó có lăng nhăng với đứa nào thì đã có làm sao đâu! Trai năm thê bảy thiếp là thường tình mà!
Mẹ chồng của bà lại nói:
- Làm thân đàn bà mà không giữ được chồng bên cạnh thì phải coi lại tư cách của mình!
Bà con rất yêu thương chồng nên đành cắn răng chịu đựng. Mà thời đó dù có bị đối xử thế nào đi nữa thì cũng phải chịu thôi! Ðàn bà có chồng mà bỏ nhà đi thì không ai chứa, cũng chẳng biết làm gì ăn, và sẽ trở thành nỗi nhục nhã lớn lao cho cha mẹ và cả dòng họ của mình!
Cứ thế mà bà con cố sống cho qua ngày đoạn tháng. Nhưng rồi tiếp đó bà có thai mẹ. Gần ba tháng bà mới biết đúng là mình có thai.
Vừa mừng vui, vừa hồi hộp, đêm đó bà trông đợi chồng về để báo tin vui, hy vọng trước tin mừng này ông sẽ quan tâm đến bà hơn. Đến nửa đêm ông ngoại con mò về nhà, hơi thở nặc nồng mùi rượu. Bà lấy khăn ướt lau người và mặt mày cho ông, thay quần áo và dìu ông vào giường. Lúc sau bà thủ thỉ với ông là bà có thai rồi.
Không một chút mừng vui, ông con cằn nhằn bà là ông chưa muốn có con, nó chỉ làm bận thêm thôi! Quá thất vọng bà chỉ biết ôm mặt khóc thầm trong đêm tối!
Từ hôm đó ông càng đi chơi khuya nhiều hơn, về nhà thì gắt gỏng mắng nhiếc và sẵn sàng đánh bà nếu bà lên tiếng cãi lại ông bất cứ điều gì.
Dần dần, ông công khai đi chơi với đào cả ngay ban ngày ban mặt, về nhà còn khoe khoang ra vẻ ta đây là đào hoa nữa!
Bà nhiều lúc muốn tự tử chết đi cho xong cái kiếp bạc phận của mình nhưng lại thương đứa con trong bụng không có tội gì.
Cha mẹ chồng và các em chồng đều về phe ông con, họ nói móc nói xói đủ điều! Cho đến một đêm kia sau khi đi nhậu nhẹt chơi bời về, ông con chửi và đánh bà một trận tơi bời, thâm tím mình mẩy và còn nói sáng mai sẽ làm tờ để bỏ bà để lấy vợ khác!
Sau khi dồn hết sức lực vào những cú đấm đá túi bụi lên thân thể người vợ yếu ớt, chừng như mệt mỏi ông lăn ra giường ngủ như chết.
Bà khóc ấm ức, những vết thương đau buốt tận xương tủy khiến bà càng thêm căm phẫn. Bà lặng lẽ suy nghĩ về số phận hẩm hiu của mình, tình yêu của mình dành cho chồng, và tương lai đen tối khi bị chồng bỏ!
Thời đó, người đàn bà bị chồng bỏ cũng chịu lắm lời dị nghị miệt khinh. Bà đau đớn nghĩ tới đứa con trong bụng, tới viễn cảnh tương lai đen tối đang chờ mẹ con bà phía trước. Cuối cùng bà quyết định chết và trước khi chết bà sẽ giết luôn cả ông!
Thật sự bà muốn giết ông không phải vì căm ghét, mà là vì… bà quá thương yêu ông. Bà nghĩ, sang thế giới bên kia thì có lẽ hai vợ chồng con cái sẽ được đoàn tụ bên nhau, thế giới đó sẽ không có ai tranh giành chồng với bà nữa, gia đình nhỏ bé của bà sẽ hạnh phúc hơn.
Nghĩ vậy, bà nhè nhẹ ra phòng khách, nơi đó có treo một cây kiếm ngắn cổ xưa trên tường. Trước đây, có lần bà nghe cha chồng nói thanh kiếm này là báu vật từ triều đại nhà Lê nên ông ta rất quí và treo trong phòng khách làm biểu tượng cho quyền uy của dòng họ.
Bà với tay lấy thanh kiếm mang vào phòng, rút kiếm ra khỏi vỏ, ánh thép xanh rợn người! Hai tay giơ cao nó lên bà đâm phập xuống ngay giữa tim  ông. Trông thấy một tia máu lớn phọt mạnh ra, bắn vào mặt, bà xây xẩm mặt mày, ngã xuống bất tỉnh.
Đến khi tỉnh dậy, bà hoảng hốt lay gọi ông, nhưng ông con đã tắt thở từ lâu. Bà cuống cuồng hoảng sợ nhưng không còn đủ cam đảm để tự kết liễu đời mình!
Biết rằng ở lại đây sẽ không xong, bà cầm theo thanh kiếm tang vật, lấy ít vật dụng cần thiết và lẻn ra sau nhà đẩy chiếc tam bản ra lạch và kiếm đường chèo về nhà cha mẹ mình.
Khi ra đến sông lớn bà quăng thanh kiếm xuống sông và cắm cúi chèo như kẻ mất hồn. Hơn một ngày sau bà mới về đến nhà, vừa bước vào nhà thì đã có mấy ông cò trên tỉnh đợi sẵn, họ bắt còng bà và giải lên tỉnh để xử về tội giết chồng.
Tại toà, bà nhìn nhận hết tội lỗi, không hề thanh minh biện hộ cho mình. Vì bà không phản kháng bất kỳ lời cáo buộc nào nên tòa xử rất nhanh, tử hình là cái án mà bà con phải gánh lấy.
Nhưng vì lúc đó bà đang có thai mẹ nên tòa cho đình án tử đến sau khi sinh nở. Rồi thì cũng tới ngày đó, bà con sinh mẹ trong nhà lao, họ mang mẹ về trao lại cho ông bà cố của con. Và ngay hôm sau họ mang bà con ra pháp trường xử bắn!
Trước giờ vĩnh quyết, gia đình ông ngoại con có vào gặp bà, nhưng không phải vì xót thương hay ái ngại. Họ đến để mắng nhiếc, chửi bới và nguyền rủa bà không tiếc lời.
Họ thay phiên nhau đào bới lại những nỗi đau đớn, ê chề, nhục nhã suốt quãng thời gian làm vợ, làm dâu của bà, những nỗi đau mà bà cố đào sâu chôn chặt để giữ tình yêu với ông con.
Do bị dồn ép và những khủng hoảng tinh thần trầm trọng, bà con trở nên gần như cuồng loạn. Và người đầu tiên để bà trút nỗi hận chính là ông con. Bà căm thù ông, oán hận ông, rên xiết mắng chửi ông…
Đến lúc ra pháp trường, khi được hỏi điều trăn trối cuối cùng, bà dõng dạc thét to vào đám đông đến coi xử bắn, trong đó có cả họ hàng nhà chồng:
- Hôm nay tui chết đi nguyện sẽ thành ma thành quỷ về trả thù bọn đàn ông bội bạc! Con cháu tui cũng sẽ phải làm như vậy! Những người đàn bà ở các đời sau sẽ phải giết chết chồng mình bằng chính lưỡi dao đã thấm máu kẻ phản bội kia, nếu không muốn nó nhuộm máu của chính bản thân mình. Ðó là lời nguyền của tui trước khi chết! Hãy nhớ lấy!
Tiếng thét lanh lảnh chất chứa oán thù của bà con ngừng bặt khi một tiếng nổ vang lên nhưng âm vang của nó ghê rợn đến nỗi những người đứng xem hôm đó ai cũng sởn cả gai ốc.
Mẹ được ông bà ngoại của mẹ nuôi lớn lên, không ai hở môi cho mẹ biết gì về quá khứ của mình. Ông bà chỉ nói là cha mẹ của mẹ bị chết trong một tai nạn sau khi sanh ra mẹ mà thôi.
Mẹ lớn lên và trở thành một cô gái có nhan sắc nổi tiếng ở vùng Phong Ðiền, chắc ông bà nhớ hậu quả khi xưa nên không cho mẹ lên tỉnh học. Mẹ chỉ học hết trung học đệ nhất cấp là phải ở nhà phụ việc cơm nước với bà ngoại.
Nhưng rồi tiếng đồn về mẹ bay xa, con trai của các điền chủ khác cũng tìm dến để dạm hỏi. Mẹ cũng phải lòng một anh chàng đẹp trai con của một điền chủ ở quận Cái Răng. Tuy không ở gần nhau nhưng anh rất thường lặn lội xuống Phong Ðiền để gặp mẹ.
Rồi thì việc cưới hỏi cũng đến. Mẹ về ở bên nhà chồng ở gần cầu Cái Răng. Năm sau một trận dịch cúm tràn khắp các tỉnh và giết chết cả mấy chục ngàn người. Không may là trong đó có cả gia đình ông bà ngoại của mẹ. Mẹ trở thành kẻ không thân nhân. Người thân của mẹ bây giờ chỉ là những người bên gia đình chồng.
Ở đó, ngoài gia đình chồng, mẹ chỉ quen với một vài người bạn gái gần nhà. Họ với mẹ chơi thân với nhau và coi nhau như chị em trong nhà vậy.
Thật ra mẹ chỉ quanh quẩn ở nhà giúp bà nội con hoặc lại chơi với các bạn gái hàng xóm thôi chứ không đi đâu xa cả.
Ba con ngày thì đi đến chiều tối mới về. Lúc nào cũng có những lý do chính đáng như phải đi lo chuyện này chuỵên khác cho ông con, mẹ luôn tin tưởng ba con nên cũng chẳng hỏi han gì nhiều.
Cuối năm đó mẹ mang thai con. Ba và mẹ rất đỗi vui mừng. Ông bà nội ra sức tẩm bổ cho mẹ với hy vọng đứa cháu do mẹ sinh ra sẽ mạnh khỏe, thông minh. Ba mẹ sắm sửa đầy đủ các vật dụng và quần áo để chờ ngày con chào đời.
Cuộc sống thật hạnh phúc! Nhưng một đêm kia mẹ mơ thấy một thiếu phụ trẻ đẹp hiện về trong giấc mơ, cho mẹ biết mẹ là con của bà ta. Sau đó bà hiện về hàng đêm để trò chuyện với mẹ.
Cho đến một đêm bà bảo:
- Chồng con phản bội con rồi, con có biết không?
Thấy mẹ tỏ vẻ không tin, bà con lạnh lùng nói:
- Con đừng quá ngây thơ như vậy! Bọn đàn ông luôn luôn phản bội! Bọn sở khanh đó đáng chết! Con phải giết nó trước khi nó giết con.
- Không mẹ ơi, chồng con rất trung thành với con, anh ấy không đời nào phản bội con đâu. Mà dù anh ấy có phản bội con đi nữa con cũng không giết được chồng con đâu…
Mẹ chống đối lại và khẳng định là ba con rất trung thành và yêu thương mẹ. Nhưng bà bảo cứ chờ xem rồi kể lại chuyện bất hạnh của đời bà và lời nguyền bà đã nói trước khi chết.
- Bây giờ là thời gian để con thực thi lời nguyền ấy!
Bà con gằn giọng.
Mẹ rất kinh hoàng, muốn trốn chạy, muốn phản kháng nhưng mãnh lực ma quái của bà con cứ như hút lấy mẹ, làm mẹ mềm nhũn cả ý chí.
Thắm thoát mẹ đã có thai được 6 tháng, bụng mẹ càng ngày càng lớn, đi lại cũng khó khăn hơn. Ông thầy Liêng khuyên ba mẹ không nêánginh hoạt vợ chồng với nhau nữa để giữ an toàn cho con. Từ ấy ba con thỉnh thoảng lại vắng nhà cả đêm.
Mẹ vẫn mơ thấy bà con hiện về thúc giục mẹ thi hành lời nguyền: Giết ba con. Nhiều lúc mẹ bị quyền lực huyền bí của bà con sai khiến và hứa sẽ giết ba con nếu có dịp.
Một đêm kia bà con bảo mẹ mở ngăn kéo của cái tủ gỗ trong phòng. Mẹ thấy cây kiếm ngắn cổ xưa nằm đó từ bao giờ. Bà con nói ngày xưa với chính thanh kiếm này bà đã giết chết kẻ phản bội.
Sáng ra, mẹ lục tìm trong ngăn tủ thì quả thật có thanh kiếm. Làm như vô tình, mẹ hỏi ba con:
- Nhà mình mua làm gì thanh kiếm cũ mèm vậy anh?
Ba con trả lời hờ hững:
- Thằng bạn tình cờ mò được dưới sông, thấy lạ mắt nên anh đổi cho nó mấy thúng lúa, đem về chơi vậy mà!
Một buổi sáng kia khi thu dọn quần áo của ba con để đi giặt, mẹ thấy có vết son trên áo và mùi nước hoa vẫn còn phảng phất trên đó.
Mẹ mang đến hỏi ba con thì ông ấy chối quanh và mắng mẹ là người kiếm chuyện gây xào xáo trong gia đình. Mẹ trở về phòng và khóc một mình. Chẳng lẽ bà con nói đúng sao!?! Chẳng lẽ bọn đàn ông toàn là một lũ phản bội sao!! Mẹ thiếp đi và bà con lại hiện về an ủi mẹ rồi với giọng đanh chắc bà bảo:
- Giờ hành động của con đã đến rồi, con đừng ngần ngại gì hết, mau mau ra tay đi. Nó đã phản bội con từ lâu, chỉ tại con quá ngây thơ mới tin vào sự trung thành của nó mà thôi!
Hôm sau mẹ lại chơi nhà chị bạn, chuyện vãn một hồi mẹ hỏi:
- Chị là hàng xóm với gia đình chồng em, em với chị coi nhau như chị em ruột. Em xin chị cho em biết chị có biết gì về cuộc sống của chồng em không?
- Sao em lại hỏi thế? Có gì xảy ra trong cuộc sống vợ chồng của tụi em à?
- Chồng em thỉnh thoảng đi suốt đêm, và hôm qua em còn thấy dấu son và mùi nước hoa trên áo nữa! Nếu chị biết gì thì làm ơn nói cho em biết với! Em là kẻ lạ từ xa đến và chỉ biết nhà chồng và mấy chị em gần đây thôi! Nếu chị biết gì thì làm ơn cho em biết, em đội ơn chị!
- Chị coi em như em ruột mình nên chị cũng không giấu gì em! Chồng em nổi tiếng là một công tử ăn chơi vùng này. Ðó cũng là lý do mà cậu ấy phải đi lấy vợ xa. Con gái các nhà giàu có ở đây đều biết tiếng cậu ấy nên đâu ai chịu gả cho cậu ta đâu. Hàng ngày cậu ấy tụm bè tụm đảng với mấy tên công tử khác, ăn chơi bài bạc và phá làng phá xóm. Ở đây ai cũng biết danh. Chỉ tội nghiệp em quá ngây thơ nên chẳng biết gì mới dám ưng thuận về làm vợ cậu ấy! Nhưng từ lúc cưới được em, cậu ấy thay đổi hẳn, không thấy la cà đàn đúm nữa. Chị những tưởng em cao số đã ghìm được cương của con ngựa bất kham. Lâu nay chị thầm mừng cho hạnh phúc của em. Ai ngờ mấy tháng qua cậu ấy lại ngựa quen đường cũ! Chị không dám cho em biết vì thấy em đang bụng mang dạ chửa, với lại chị cũng ngại khi xem vào chuyện riêng của cậu ấy…
Chị bạn xót xa cho mẹ.
Mẹ cám ơn chị bạn, hứa sẽ không để cho ba con biết chị là người tiết lộ những chuyện trác táng của ba con.
Mẹ ra về mà lòng mẹ đau tê tái. Thế ra ba con luôn làm mặt giả dối với mẹ mà thôi! Ði ăn chơi mà nói là đi lo công việc, đêm ngủ với gái về nói là phải đi lên tỉnh lo giấy tờ! Mẹ chỉ biết khóc cho phận mình, sao nó oan trái giống hoàn cảnh của bà ngoại con quá…
Mẹ tiếp tục sống những tháng ngày đau khổ bên cạnh ba con. Càng ngày ba con càng trở nên tệ bạc, luôn tìm cớ để mắng chửi mẹ, để có lý do bỏ nhà đi năm ba hôm liên tiếp…
Bà ngoại đêm đêm lại hiện về thúc giục. Mẹ tuy giận ba con lắm nhưng vẫn không làm sao giết chết ba con được.
Một chiều mưa gió kia ba con về nhà sau mấy ngày đi biệt, mùi rượu nồng nặc, áo quần xốc xếch. Mẹ đỡ ba con vào phòng và trách:
- Sao anh nhậu nhẹt gì mà say quá độ như vậy? Say mà dầm mưa có bữa trúng gió chết dọc đường không ai hay đó!
- Á a! Cô cầu cho tui chết chứ gì? Cô tưởng cô hay lắm à? Cô chỉ là con bé mồ côi thôi. Tui thách cô đó! Chịu được thì ở không được thì đi đi! Không ai chứa cô đâu. Mẹ cô ấy à? Cũng là một con giết chồng thôi! Tui mà biết trước chuyện này thì đời nào tui cưới cô! Mẹ nào con nấy mà! Rồi sẽ có ngày cô cũng giết tôi như con gái mẹ cô vậy thôi. Tôi phải tống khứ cô ra khỏi nhà này càng nhanh càng tốt! Dang ra… cho tôi đi ngủ! Tôi không cần đứa nào giúp hết!
Ba con lảm nhảm mắng chửi mẹ một hồi nữa rồi nằm lăn ra ngủ. Mẹ thay quần áo ướt cho ông ấy, thấy trong túi có gì cồm cộm mẹ lấy ra xem. Ðó là tấm hình của một cô gái trẻ ăn mặc hở hang như gái nhẩy, phía sau có đề dòng chữ "Tặng anh yêu. Đừng quên vợ bé nhỏ của anh!" và ký tên nguệch ngoặc phía dưới. Mẹ buông rơi tấm hình xuống đất và ôm mặt khóc.
Ðúng rồi, chẳng sai vào đâu được nữa! Ba con phản bội mẹ từ lâu mà mẹ có biết gì đâu! Ðột nhiên mẹ nghe tiếng bà con ngay cạnh bên:
- Mẹ đã nói mà con không tin! Bây giờ con sáng mắt ra chưa? Hãy giết chết tên phản bội kia đi!
Mẹ như bị thôi miên, từ từ đi đến bên tủ kéo ra lấy cây kiếm cầm trên tay. Trong đầu mẹ nghe toàn những câu chửi rủa đay nghiến của ba con, xen lẫn vào đó là tiếng thúc giục của bà con.
Mẹ như kẻ không hồn bước lại gần ba con, rút thanh kiếm khỏi vỏ, muốn cắm phập xuống tim của kẻ bạc tình.
Nhưng vừa lúc đó con bỗng quẫy đạp trong bụng mẹ, như bừng tỉnh, mẹ đút thanh kiếm vào vỏ, mở cửa sau bước ra hông nhà.
Mưa vẫn còn rơi xối xả, mẹ đẩy chiếc tam bản và chèo ra sông lớn, định phó thác cuộc đời mình cho sóng gió trùng dương.
Suốt mấy tiếng đồng hồ lênh đênh trên sông nước, không biết ma xui quý giục thế nào mà đến hừng sáng mẹ lại cập ghe vào đúng bến của nhà chồng!
Mệt mỏi rã rời, tận cùng chán ngán, mẹ không còn đủ sức để trốn chạy, thôi thì đành chấp nhận kiếp truân chuyên.
Mẹ định bỏ mặc ba con muốn đi đâu, đi lúc nào thì đi, muốn về lúc nào cũng được. Mẹ sẽ không hỏi han hay buồn bã ngóng trông gì nữa. Mẹ chỉ muốn an phận để chờ ngày sinh nở, mẹ sẽ lấy con làm niềm vui sống sau này!
Trước kia, gia đình nội con rất thương và quý mẹ, nhưng từ lúc không biết tại sao họ biết rõ lai lịch của mẹ, biết bà ngoại con bị tử hình vì tội giết chồng, họ đâm ra sợ rồi thù ghét mẹ.
Những ngày tháng đó, mẹ chỉ có một niềm an ủi duy nhất là con.
Nhưng ba con không để mẹ yên. Khi thấy mẹ không đoái hoài gì đến ông ấy dường như càng khó chịu hơn những lúc mẹ cằn nhằn trách móc. Ông vô cớ đánh đập mẹ.
Bà ngoại cũng không để mẹ yên. Từng giờ, từng phút bà thúc giục mẹ thực thi lời nguyền để bà được siêu thoát.
Một tối, ba con về đến nhà trong tình trạng say khướt. Vừa nhìn thấy mẹ, ông lôi trong túi áo ra một tờ giấy rồi lớn tiếng quát nạt:
- Cô ký vào đơn ly dị cho tôi, tôi muốn được giải thoát khỏi cô…
Mẹ ngỡ ngàng nhìn sửng ba con, nước mắt mẹ lưng tròng. Ông ấy nhìn mẹ như nhìn kẻ thù, lôi mẹ đến bên chiếc tủ gỗ, kéo hộc tủ lục tung lên lấy ra một lưỡi dao và một cây viết.
Ông ấn đầu mẹ xuống bàn, nhét cây viết vào tay mẹ, một tay ông rút thanh kiếm kề vào cổ mẹ, lên giọng hăm dọa:
- Cô ký ngay vào, nếu không tôi sẽ giết cô!
Quá hoảng sợ, mẹ hất tay ba con ra để thoát thân, không ngờ vì say rượu nên ba con không còn sức lực, vì sự vùng vẫy của mẹ mà ba con té ngã, lưỡi dao cắm phập vào tim…
Ba con chết, bao nhiêu tội lỗi đều đổ ập lên đầu mẹ. Dù mẹ không muốn, nhưng lời nguyền của bà ngoại con cuối cùng cũng trở nên sự thật. đó là số phận của chúng ta rồi con ơi…
Gia đình nội con không ai chịu nghe lời thanh minh của mẹ. Họ đi báo cò bót đén làm cam kết rồi bắt mẹ giải đi. Đến lúc đó, mẹ chỉ còn biết nín lặng mà thôi, biết nói gì được nữa?
Cũng như bà con, mẹ nhận hết lỗi và bị xử án tử hình. Mẹ cũng được hoãn ngày bắn cho tới lúc sinh con.
Khi con chào đời, mẹ chỉ vừa mới bế con lên săm soi cơ thể bé bỏng của con, chưa kịp cho con bú giọt sữa đầu đời thì họ mang con đi, nói là làm giấy tờ và tìm người để cho. Thế là mẹ con ta cách biệt nhau từ đó.
Đến ngày mẹ bị họ mang ra pháp trường bắn, không hiểu tại sao mẹ cũng mang theo lời nguyền là sẽ trả thù bọn đàn ông khốn nạn trên đời này, mặc dù lúc đó thật lòng mẹ không thù ghét gì ba con cả!”
Người thiếu phụ gần như kiệt sức khi kể xong câu chuyện, bà lã người đi. Liên muốn dìu mẹ đến bên giường nhưng đành bất lực, nàng nhìn mẹ, nước mắt hai mẹ con đều rơi lã chã…
Nàng muốn dang tay ôm lấy mẹ, xoa dịu nỗi đau của mẹ, nhưng mẹ nàng giờ đây chỉ là khói sương lãng đãng, là một hình bóng mờ ảo trước mắt nàng.
- Mẹ ơi, cuộc đời của bà và mẹ nhiều bất hạnh quá! Con phải làm gì để vong linh mẹ được nhẹ nhàng hơn?
Người thiếu phụ nhìn con đau đớn:
- Đã đến lúc con phải thực hiện lời nguyền của gia tộc rồi con gái ạ! Con phải giết chồng con!
Liên hốt hoảng:
- Không, không thể được! Mẹ bảo con làm gì cũng được, riêng chuyện giết chóc con sẽ không làm đâu, đừng nói gì người con phải giết chính là người chồng mà con rất mực thương yêu… Tại sao mẹ lại bắt con giết người con yêu dấu? Anh ấy có tội tình gì mà phải chết vì sự thù hận của người xưa chứ?
- Đó là lời nguyền, không làm khác được đâu con! Và con là người kế tự để làm việc đó, không ai làm thay con được! Chính tay con phải dùng thanh kiếm để đâm chết chồng con để làm tròn lời nguyền, và con của con sau này cũng sẽ làm tròn lời nguyền này sau khi con bị xử chết! Ðó là luật đã do bà ngoại con đã đặt ra! Con cháu phải biết tuân theo mà thôi!
- Nếu con giết chồng con, con sẽ bị xử tội chết, làm sao còn có cơ hội để sinh con như bà và mẹ ngày trước, vì hiện tại con chưa kịp mang thai.
Liên tìm cớ hoãn binh để tìm lý lẽ thuyết phục mẹ. Bà mẹ nhìn cô trìu mến:
- Con chưa biết đó thôi, trong bụng con đã có một mầm sống rồi!
Liên ngơ ngác:
- Mẹ muốn nói là con đã có thai? Sao… sao con không biết?
- Tội nghịêp con gái của mẹ, chắc là gần đây việc của mẹ đã làm con dồn hết mọi ý nghĩ vào đó nên không quan tâm tới sự khác lạ trong cơ thể mình!
Một nỗi vui mừng ập đến khiến Liên muốn hét to lên, muốn lập tức gọi điện báo cho Hải biết, nhưng hình bóng mờ ảo của mẹ trước mặt làm niềm vui trong nàng vụt tắt.
Liên thấy cảm thương cho số phận của hai người, nhưng nàng không muốn vì sự hận thù của họ mà nàng phải giết chồng mình! Hơn thế nữa, Hải rất hiền lành! Nàng biết rỏ tính chồng vì hai người quen và tìm hiểu nhau suốt mấy năm còn ở Ðại học!
Hai người thật sự yêu nhau và tự ý kết hôn với nhau, đâu có bị ép buộc, hay gả cho một người xa lạ như mẹ và bà nàng xưa kia đâu! Nàng biết Hải rất rõ, một người đàn ông có trách nhiệm, yêu thương vợ và không hề dính líu đến tứ đổ tường như một số đông người có chức vị khác.
Và một điểm nữa là Liên cũng yêu Hải tha thiết. Nàng không thể nào ra tay giết người mình yêu dấu được.
- Mẹ ơi, con thương mẹ lắm! Nhưng con không thể làm theo lời mẹ được. Ngày xưa, ba con có lỗi với mẹ mà mẹ vẫn không nỡ làm hại ba, thì tại sao bây giờ mẹ lại muốn con giết chết chồng con, người không hề có lỗi gì với con… Chẳng lẽ mẹ cũng muốn con cháu con sau này mãi mãi sống trong bất hạnh triền miên? Sự giết chóc truyền hết đời này sang đời khác liệu đem được lợi ích cho dòng họ chúng ta hở mẹ? Sao mẹ không quên nó đi, sao mẹ không vui vì thấy con gái mình sống yên vui hạnh phúc? Mẹ muốn con cũng sẽ vất vưởng như mẹ sao?
Chiếc bóng trắng trước mặt Liên chao nghiêng, tiếng mẹ nàng cất lên nghe như từ xa xôi vọng tới:
- Con ơi… mẹ cũng biết vậy, nhưng… đó là lời nguyền, chỉ có thực hiện lời nguyền thì vong hồn mới siêu thoát. Lời nguyền đó phải được thực thi, hoặc là…
Mẹ nàng ngập ngừng, Liên giục:
- Là sao hở mẹ?
- Là hóa giải bằng máu của chính chúng ta, con ạ!
Liên ôm mặt, nức nở khóc. Nàng thương mẹ, nhưng dù có chết, dù có bị đoạ đày nàng cũng cam tâm, chứ không thể làm hại chồng được.
Liên ngày một gầy rộc đi, nàng chỉ ăn uống qua loa, thần trí lúc nào cũng ngơ ngơ ngẩn ngẩn. Hải vô cùng lo âu, chàng đưa vợ đi bác sĩ khám tổng quát, khám tâm thần nhưng không ai tìm được nguyên nhân gì khác nàng đang mang thai.
Cuối cùng, bác sĩ kết luận, có lẽ nàng mắc chứng trầm cảm khi thai nghén, nhắc nhở Hải quan tâm chăm sóc vợ nhiều hơn nữa.
Hải vô cùng sung sướng khi biết mình sắp có con, nhưng anh lại quá đỗi lo âu trước tình trạng sức khỏe ngày càng sa sút của vợ.
Hải nhận thấy hình như Liên đang giấu anh một điều hệ trọng nào đó, nhưng nhiều lần anh gợi ý Liên vẫn không chịu nói ra.
Bóng ma của mẹ lúc nào cũng chờn vờn trước mắt Liên. Nàng vừa hoảng sợ, vừa lo âu. Có lúc, nàng muốn kể hết cho chồng nghe nhưng rồi nàng không muốn Hải phải nặng lòng lo.
“Hải ơi, nếu chỉ một cách duy nhất để hóa giải được lời nguyền, thì em thà lấy máu mình để không làm hại anh và cũng không để ai hại anh… Nhưng, còn con của chúng ta sẽ ra sao hở anh? Lòng em ngổn ngang trăm mối, nhưng em lại không thể sẻ chia được với anh, em mong anh tha lỗi cho em…” Liên nức nở một mình trong đêm Hải trực ở công ty.
“Thôi thì, để bảo vệ anh, mẹ con em sẽ hy sinh. Anh còn trẻ, rồi đây anh sẽ có được những đứa con khác…”
Thảo đi đến quyết định đó sau thật nhiều ngày đêm trở trăn suy nghĩ.
Sau khi viết một lá thư kể lại sự tình, Liên tìm lưỡi dao cổ.  Nàng rút chuôi dao, ánh thép lấp lóa như cứa vào tim nàng se sắt.
“Hải ơi… vĩnh biệt anh!”
Liên lấy hết sức ấn mạnh lưỡi dao vào cổ mình, nhưng đột nhiên tay nàng nhẹ hẫng đi, lưỡi dao không rơi xuống đất mà xoay tít trên cao. Một tràng cười lạnh lẽo, đau đớn vang lên trong màn đêm u tịch.
- Con ơi! Mẹ luôn lo sợ cuộc đời con rồi cũng lại bị phụ tình như bà, như mẹ… Nhưng những ngày qua, dõi theo con, mẹ rất sung sướng khi nhận thấy con đang thật sự hạnh phúc. Có người mẹ nào nhẫn tâm cướp đi hạnh phúc của con mình? Dù mẹ sinh ra con mà chưa được một ngày ẵm bồng nuôi nấng, mẹ vẫn là mẹ của con. Bây giờ, mẹ sẽ thay con hóa giải lời nguyền…
Liên còn đang ngơ ngác thì một tiếng “xoẻng” vang lên, chiếc gương cổ trong phòng ngủ rơi xuống đất vỡ tan, lẫn trong những mảnh vụn thủy tinh là một dòng máu đỏ.
- Mẹ ơi! Liên hét to rồi ngã xuống bất tỉnh.
Khi Hải về đến nhà Liên vẫn còn mê man nằm sóng soài dưới đất, lá thư còn nắm trên tay. Chàng hoảng hốt lay gọi. Liên khe khẽ chớp mắt, dòng lệ tràn ra… Hải ôm chặt Liên vào lòng, an ủi:
- Mọi việc rồi sẽ bình yên! Tất cả chỉ là giấc mơ thôi em ạ!
Liên mấp máy môi:
- Vâng, tất cả chỉ là giấc mơ thôi! Sự thật là chúng ta vẫn luôn có nhau, phải vậy không?
Hải không nói gì, chàng chỉ siết chặt Liên vào lòng hơn nữa.
Ngoài kia, mặt trời đã lên cao, ngày mới bắt đầu!...
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:12:53 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:42:06
HỒN MA TRONG TỦ ÁO
 
Tiên dừng xe, khệ nệ xách mấy túi đồ lỉnh kỉnh đi vào nhà. Mấy hôm trước, theo lời chỉ dẫn của bạn bè, Minh Đạt – bạn trai Thủy Tiên  đưa cô tới đây xem thử và Thủy Tiên đã rất vui vẻ vì thấy nơi này thích hợp với mình, mà giá cả lại phải chăng. Cả hai đã tính ngày dọn nhà xong xuôi, đùng một cái Minh Đạt có lệnh đi công tác đột xuất, thành ra từ sáng tới giờ, một mình Thủy Tiên phải chở hai ba bận.
Minh Đạt là một chàng trai khó tính, lại hết lòng yêu thương Thủy Tiên nên khi thấy xung quanh khu nhà trọ cũ Thủy tiên ở có nhiều thành phần bất hảo, anh đã vội vàng đi tìm chổ khác cho cô.
Đây là một căn nhà tuy không rộng lắm nhưng không chật chội như những căn người ta xây nhằm mục đích cho thuê. Dân cư ở đây đa phần là trí thức, nên về mặt an ninh khá tốt. Vợ chồng chủ nhà sống bằng nghề buôn bán, nghe đâu họ có sạp quần áo gì đó ở chợ Bến Thành. Thủy Tiên cũng không biết bà có con cái gì không, nhưng từ hôm đến xem nhà đến nay cô chưa hề thấy ai khác lui tới đây.
Căn nhà Thủy Tiên mướn nằm dịch về phía sau lưng nhà của bà chủ, ngăn cách nhau bởi một khoảng sân khá rộng.
Bà chủ nhà vừa trao chìa khóa cho Thủy Tiên vừa đon đả nói:
- Cô may  mắn lắm mới thuê được nhà này đó nghe, ở đây vừa rộng rãi thoáng mát, vừa yên tĩnh cho cô học hành, giả lại rẻ như bèo. Hôm qua có mấy người tới hỏi, sẵn sàng trả giá cao hơn, nhưng tui đã hứa với cô rồi, đâu có nuốt lời được!
Thủy Tiên nhận chìa khóa, ậm à cười cho qua chuyện.
Mở cửa phòng, Thủy tiên ngạc nhiên vì thất chiếc tủ áo bằng gỗ to đùng vẫn còn nằm ở đó. Cô hỏi:
- Dì để cái tủ này lại đây luôn sao?
Bà chủ nhà cười dễ dãi:
- Ừ, tôi để đó cho cô dùng luôn, ở bên nhà tôi đồ đạc đủ rồi, cái này không còn mới lại to lớn thế kia, đem qua bên đó chỗ đâu mà để? Cái này là của người thuê trước cô để lại đó. Ông ta chuyển đi, cũng vì chê nó to lớn, cũ kỹ nên bỏ lại. Cô mặc sức mà treo quần áo, cất đồ đạc trong đó cho nó gọn gàng.
- Dạ, cảm ơn dì!
Thủy Tiên nói.
Bà chủ nhà đứng nói chuyện với Thủy Tiên một lúc nữa rồi đi ra, Thủy Tiên cũng vội vã lôi đồ đạc để vào một góc rồi chuẩn bị đến trường.
Sắp tới ngày thi nên bài vở bộn bề, Thủy Tiên không còn thời gian nào để sắp xếp đồ đạc được.
- Thôi, cứ để từ từ…
Cô tự nhủ và cắm đầu vào học.
Mấy hôm sau, thi cử xong xuôi Thủy Tiên mới bắt tay vào dọn dẹp.
Sáng sớm, cô xách nước dội rửa, lau cho thật sạch căn nhà. Kế đó là chọn lựa đồ đạc để vào trong tủ.
Cái tủ này cũng giống như các tủ áo khác, một bên dùng để máng áo quần đã được ủi, một bên có các ngăn để đựng đồ đạc. Hai cánh cửa đều được gắn kính, điều này Thủy Tiên đặc biệt thích, vì cô có thể thỏa sức ngắm nghía mình trong gương mỗi khi thay quần áo.
Công việc dọn dẹp chưa xong thì Thủy Tiên buồn ngủ díp mắt. Bởi vì suốt mấy ngày qua cô đã phải học hành cật lực.
Tạm gác lại mọi thứ, Thủy Tiên lên giường, kéo bớt cánh sổ tránh ánh nắng chiếu vào và cho phép mình chìm vào giấc ngủ trưa. Mắt vừa khép lại, Thủy Tiên bỗng nghe có tiếng gọi thật nhỏ:
- Cô ơi… cô ơi…
Giật mình, Thủy Tiên mở choàng mắt và ngồi dậy ngó xung quanh. Cửa nhà đã đóng kín, trong phòng cũng không có ai, không có gì lạ, vậy thì tiếng gọi vừa rồi là của ai?
Thủy Tiên nhăn mặt suy nghĩ nhưng đành chịu, rõ ràng cô nghe có tiếng gọi, không phải là mơ, bởi cô vẫn chưa ngủ mà! Chỉ có điều tiếng gọi đó nghe thật mơ hồ, không rõ ở gần hay xa nữa.
- Chắc tiếng gì đó bên ngoài vọng vào rồi mình nghe không rõ!
Tự an ủi mình như vậy, Thủy Tiên lại nằm xuống nhắm mắt dỗ giấc ngủ. Lần này thì cô ngủ thật, ngủ rất say. Trong giấc ngủ ban trưa đó, thủy tiên mơ thấy gương mặt của một người con gái, chắc trạc tuổi cô, nhưng có lẽ cô gái đang gặp phải chuyện đó, vì nét mặt có gì đó vừa buồn thảm vừa đau đớn lắm. Thủy Tiên không nhìn thấy rõ người cô gái ấy, chỉ thấy gương mặt khi gần khi xa.
Tiên mấy lần lên tiếng hỏi:
- Chị ơi… chị có cần giúp đỡ gì không?
Người con gái không nói gì, chỉ lặng lẽ quay mặt nhìn vào tấm gương trên tủ áo.
Thủy tiên thức giấc, nhìn đồng hồ đã gần năm giờ chiều. Cô uể oải vươn vai ngồi dậy, không cảm thấy khoan khoái chút nào mặc dù đã ngủ được một giấc khá dài. Hình ảnh gương mặt đau buồn của cô gái trong mơ vẫn còn hiện rất rõ trong đầu Thủy Tiên.
Thủy tiên cố tập trung, nhớ lại mình có quen với người đó hay không, sao tự nhiên lại thấy chuyện lạ như vậy? Nhưng dù có cố gắng đến mấy, Thủy Tiên vẫn không sao nhận ra bất kỳ nét quen thuộc nào trên mặt người con gái ấy.
Thủy tiên lắc đầu, cố gạt bỏ hình ảnh đó ra khỏi đầu, cô đứng dậy xuống bếp lúi húi nấu cơm chiều.
Cơm nước xong xuôi, Thủy Tiên lại tiếp tục sắp xếp đồ đạc trong tủ. Đang loay hoay thì bỗng đèn địên tắt phụt. Cô hốt hoảng mò mẫm xuống bếp để thắp đèn cầy. Khi ánh sáng vừa lóe lên, Thủy tiên suýt kêu rú lên vì tự nhiên cô thấy mình vẫn đang đứng trong căn nhà lúc nãy, nhưng đồ đạc trang trí hoàn toàn khác! Căn phòng cách đây mấy phút thì ngoài chiếc tủ và một chiếc giường xếp nhỏ xíu trong góc, nó trống trớn không còn gì nữa. Nhưng với ngọn nến trong tay, Thủy Tiên thấy quanh mình có rất nhiều đồ đạc, vật dụng, mà toàn là những thứ không rẻ tiền.
Tiếng kêu chưa kịp thoát ra khỏi đôi môi Thủy Tiên thì đèn điện bật sáng trở lại, và cảnh vật xung quanh Thủy tiên lại không có gì khác trước. Vẫn là chiếc tủ ở góc nhà bên này, chiếc giường xếp của cô đặt gần đó, còn lại không có gì thêm!
Thủy Tiên thổi tắt cây nến trên tay, hoang mang ngồi phịch xuống sàn nhà, vỗ liên tiếp mấy cái lên trán:
- Mình bị ảo giác rồi hay sao vậy trời? Rõ ràng lúc nãy mình thấy vậy mà?
Tối đó, Thủy Tiên rất lo lắng, nhưng rồi tất cả vẫn bình yên không có gì xảy ra nên sang ngày hôm sau cô đã lấy lại tinh thần, không còn hồi hộp nữa.
Suốt ngày hôm ấy Thủy Tiên bận việc ở trường, lúc cô về tới nhà thì trời đã chập choạng tối.
Mở cửa phòng, Thủy Tiên định đi vào trong để bật công tắc đèn, nhưng khi cô vừa bước chân qua bậc cửa, nhác thấy một bóng người in trên chiếc gương ở cánh tủ. Thủy Tiên giật mình lùi lại, định thần nhìn kỹ lại lần nữa thì không thấy gì.
- Đó không thể là bóng mình được!
Thủy Tiên khẳng định, nhưng là bóng ai thì cô lại chịu thua không sao giải thích được.
Nhìn lên nhà bà chủ, nhà vẫn chưa sáng đèn, vậy là vợ chồng bà chưa về tới! Biết làm sao đây, Thủy Tiên than thầm. Cô cắn răng đi nhanh vào bật sáng bóng đèn điện và nhìn thẳng vào tấm gương thì chỉ thấy bóng mình in trong đó một cách bình thường.
Thở phào, Thủy Tiên mở tủ lấy áo quần để đi tắm. Nhưng khi cánh cửa tủ mở ra, cô lại một phen giật mình, vì tất cả đồ đạc bên trong đều bị xáo trộn.
Thủy Tiên vội vã kiểm tra lại tiền bạc và một số giấy tờ quan trọng thì thấy chúng còn đầy đủ.
Thủy Tiên bắt đầu cảm thấy lo sợ, cô mong mỏi Minh Đạt mau chóng trở về để giúp cô giải quyết những chuyện lạ lùng này. Với Thủy Tiên, Minh Đạt luôn là chỗ dựa đáng tin cậy nhất. Ở bên cạnh anh không bao giờ cô cảm thấy sợ hãi điều gì. Phải chi những lúc như thế này mà có Minh Đạt thì cô sẽ vững tâm hơn nhiều.
Hai ngày nữa Minh Đạt mới về, hai ngày đối với Thủy Tiên lúc này sao dài dằng dặc…
Thủy Tiên biết đêm nay mình sẽ lòng ngủ được yên giấc bởi sự sợ hãi đang đè nặng trong lòng. Cô lấy điện thoại ra bấm số gọi cho Hiền, cô bạn gái thân nhất đang sống trong ký túc xá.
- Alô, Hiền đang làm gì vậy?
Thủy Tiên hỏi.
- Mình đang học bài. Gọi cho mình có gì không Tiên?
Hiền đáp.
Thủy Tiên ngập ngừng một chút rồi nói:
- Tự nhiên tối nay mình cảm thấy buồn quá, tính rủ Hiền tới ngủ cho vui.
Hiền bật cười:
- Nhớ ông Đạt rồi tính bắt tui trám vô chỗ trống cho đỡ buồn phải hôn? Tối rồi, làm biếng đi quá Tiên ơi!
Thủy Tiên năn nỉ:
- Làm ơn đi mà, tới đi, tự nhiên buồn dễ sợ…
Nghe giọng Thủy Tiên không được bình thường, Hiền đâm lo:
- Có chuyện gì xảy ra cho Tiên hả? Kể mình nghe đi?
Thủy Tiên chối:
- Đâu có gì, tự nhiên buồn thôi!
- Ừ, được rồi, mình tới ngay!
Giọng Hiền nhanh nhẹn.
Thủy Tiên cúp máy, thở phào nhẹ nhõm. Vậy là đêm nay sẽ có Hiền ở cạnh cô, cô sẽ không phải một mình đối diện với căn phòng có nhiều điều lạ lùng này nữa!
Không lâu sau Hiền tới. Vừa đặt chân vào nhà, Hiền nhìn Thủy Tiên một cách chăm chú:
- Có chuyện gì vậy?
Thủy Tiên cười:
- Có gì đâu, ở nhà một mình buồn thôi…
Hiền nguýt Thủy Tiên một cái thật dài:
- Đừng nói với tui là mai mốt ông Đạt về rồi hai người dọn tới ở chung nhau nghen!
Thủy Tiên chồm tới đấm vào vai bạn:
- Đồ quỷ! Đừng có nói xàm! Tụi mình không có bậy bạ đâu, chờ cưới hỏi đàng hoàng chứ!
- Ờ, biết vậy là khôn đó!
Hiền đùa với bạn.
Vì chiếc giường xếp của Thủy Tiên rất nhỏ, chỉ đủ một người nằm, đêm nay có Hiền, Thủy Tiên bèn lau nhà sạch sẽ rồi trải chiếu dưới sàn nhà cả hai cùng nằm bên dưới.
Đang im lặng học bài, bỗng dưng Thủy Tiên hỏi:
- Hiền ơi, có bao giờ Hiền thấy ma chưa? Hiền tin có ma không?
Hiền nhổm lên nhìn Thủy Tiên:
- Sao tự nhiên đang đêm hôm mà hỏi vụ này vậy trời? Bộ… bộ ở đây có gì hả?
Hiền vừa hỏi chuyện, vừa đưa mắt sợ sệt nhìn khắp xung quanh.
Thủy Tiên cười trấn an bạn:
- Đâu có gì đâu! Chỉ tại đột nhiên mình nhớ tới bài báo độc hồi trưa thôi mà, bài báo viết về thế giới tâm linh bí ẩn đó mà!
Hiền nằm trở xuống, úp cuốn tập lên ngực, mắt nhìn lên trần nhà nói nhỏ:
- Mình không sợ ma lắm nhưng mình tin là có ma đó Tiên à! Hồi nhỏ mình thường nghe bà ngoại kể chuyện ma ở quê mình. Vì ngày xưa ở quê mình đất rộng người thưa, cây cỏ um tùm nên ma quỷ nhiều lắm. Mà theo lời ngoại mình thì ma cũng có nhiều loại lắm đó, những hồn ma bình thường thì vô hại, thậm chí họ chẳng bao giờ hiện ra cho loài người trông thấy. Chỉ sợ nhất là những oan hồn!
Thủy Tiên nằm sát vào choàng tay qua ôm lấy bạn:
- Chà… rành về ma ghê ta? Bộ Hiền tính nghiên cứu để học nghề thầy pháp hả?
Hiền bật cười trước lời châm chọc của Thủy Tiên, cô nói:
- Mình cũng tính đi học đó chớ, mà vì thấy mấy ông thầy pháp ông nào cũng già cũng xấu nên chán, không thèm học luôn!
Thủy Tiên bật cười, hai người bạn đấm vào lưng nhau thùm thụp.
Một lúc sau Hiền nói:
- Thôi, khuya rồi, mình ngủ đi Thủy Tiên ơi, sáng mai còn đi học nữa đó!
- Ừ, thì ngủ!
Thủy Tiên đồng tình.
- Để mình đi vệ sinh cái đã!
Hiền vừa nói vừa lồm cồm ngồi dậy chui ra khỏi mùng. Bỗng cô kêu lên:
- Ủa, dép mình đâu rồi ta? Mình nhớ rõ ràng lúc nãy để đây mà?
Thủy Tiên cũng thò đầu ra nhìn. Quả thật lúc nãy khi hai người chui vào mùng, rõ ràng hai đôi dép được đặt cạnh nhau ở góc đó, giờ thì cả hai đều biến đâu mất!
Hiền ngó dáo dác rồi reo lên:
- Kìa, nó nằm tuốt đằng kia, ai lôi đi vậy trời? Hổng lẽ là chuột?
Theo tay Hiền chỉ, Thủy Tiên thấy hai đôi dép đặt cạnh nhau ngay trước cánh cửa tủ áo. Trong lòng Thủy Tiên lo sợ lắm, cô rất muốn chia sẻ với bạn, nhưng Thủy Tiên lại ngại nếu mình nói ra Hiền cũng sẽ lo sợ giống như mình, thôi thì không nói để bạn được bình tĩnh.
- Chuột nhà này khôn dữ ta!
Hiền vừa mang dép vào chân vừa nói.
Lát sau có tiếng dội nước trong nhà tắm, Thủy Tiên nằm một mình đưa mắt ngó khắp nơi. Bất chợt cô thoáng thấy bóng một người con gái trong gương, Thủy Tiên định thần lại thì không thấy gì nữa, y như có một bóng ma vừa biến mất.
Hiền đi từ trong phòng tắm ra, với tay tắt hết mấy bóng đèn, chỉ chừa lại chiếc bóng cà na nhỏ xíu. Căn phòng chìm trong một thứ bóng tối mờ ảo.
Chui vào nằm cạnh bên Thủy Tiên, không mấy chốc tiếng thở của Hiền trở nên đều đều, báo cho Thủy Tiên biết cô đã ngủ thật rồi.
Nhưng Thủy Tiên thì khác, cô không sao chợp mắt được, nỗi lo sợ cứ dấy trên trong lòng khiến Thủy Tiên nằm trong mùng mà mắt cứ mở to và chốc chốc lại đảo khắp nhà. Một điều gì bất ổn đang lẩn khuất quanh đây, Thủy Tiên dường như cảm nhận được.
Quá nửa đêm, mòn mỏi, Thủy Tiên cũng chìm vào giấc ngủ.
- Dậy! Thức dậy Tiên ơi! Mơ thấy gì mà la ghê thế?
Thủy Tiên bừng tỉnh khi Hiền đấm thùm thụp vào lưng. Mồ hôi Thủy Tiên vã ra, cô sợ hãi ngồi bật dậy ngó xung quanh bằng đôi mắt thất thần.
Hiền chui ra mở đèn, nhìn thấy dáng vẻ của Thủy Tiên, cô hoảng hốt:
- Gặp ác mộng phải không Tiên? Nhìn bạn kìa, như vừa bị ai cướp mất hồn vía vậy! Mơ thấy gì, kể mình nghe là hết sợ thôi mà!
Thủy Tiên ôm đầu rên rỉ:
- Mình không biết đầu óc của mình có bị vấn đề gì không nữa. Chẳng hiểu sao mấy ngày nay mình cứ nhìn thấy gương mặt u uất của một người con gái hoàn toàn xa lạ. Lúc nãy mình thấy còn khủng khiếp hơn nhiều…
Hiền ngồi sát vô Thủy Tiên, tò mò hỏi:
- Tiên thấy gì vậy?
- Mình thấy… thấy cũng người con gái đó! Mấy lần trước mình chỉ trông thấy gương mặt của cô ta thôi, còn lần này mình thấy rõ ràng hơn nữa… Mình thấy toàn thân cô ta máu me đầm đìa, cô ta bị kéo lê trên sàn nhà, chính là sàn nhà này nè!
Vừa nói, Thủy Tiên vừa vỗ xuống nền gạch chỗ cô và Hiền đang ngồi.
Hiền co rúm người lại:
- Đừng nhát mình nghen! Mình sợ rồi…
Thủy Tiên nghiêm nghị:
- Mình không nhát Hiền đâu… Thật sự là mình sợ lắm…
- Nhưng… ai là người kéo cô gái đó vậy?
Hiền vẫn chưa hết tò mò.
Thủy Tiên thở dài:
- Mình không biết! Mình không nhìn thấy! Chỉ biết rằng mình thấy cô ấy bị ai đó, hoặc một sức lực huyền bí nào đó lôi đi. Người cô ấy đầy máu, trông ghê rợn lắm…
Hiền an ủi bạn:
- Thôi, không sao đâu, mơ thôi mà, không phải là sự thật đâu!
Thủy Tiên vẫn rầu rĩ:
- Mình vẫn biết đó chỉ là cơn mơ thôi, nhưng sao mình thấy lạ lắm Hiền ơi! Vẫn là một cô gái đó…
Mặc dù trong lòng cũng hồi hộp không kém, nhưng vì thấy Thủy Tiên có vẻ mất tinh thần quá, Hiền phải làm như không hề sợ hãi điều chi:
- Ôi, có gì đâu! Năm trước mình cũng cứ mơ thấy một chuyện, lặp đi lặp lại hoài, sợ muốn chết, cuối cùng có gì đâu!
Thủy Tiên mừng rỡ:
- Thiệt vậy sao Hiền?
Hiền gật đầu:
- Thiệt chứ! Bộ hồi đó mình chưa kể cho Thủy Tiên nghe hả? Thôi, vô ngủ đi, mai mình kể cho nghe…
Hiền bậm môi đi tắt đèn rồi chui vào mùng nằm cạnh bên Thủy Tiên, Thủy Tiên ôm chặt lấy Hiền, cả hai đều lo lắng. Nhưng rồi không bao lâu Hiền và Thủy Tiên đều ngủ thật say.
Sáng ra mọi việc vẫn bình thường. Hiền lúc này mới yên tâm, và cô cũng nghĩ giấc mơ đó của Thủy Tiên chắc cũng bình thường chứ không có gì đặc biệt.
- Bây giờ mình về nghen, Thủy Tiên ngủ thêm chút nữa đi, sáng nay không phải đến trường mà!
Hiền vừa đứng trước gương chải tóc vừa nói với Thủy Tiên.
Thủy Tiên mệt mỏi mỉm cười:
- Ừ, mình cảm ơn Hiền nhiều lắm! Không có Hiền chắc tối qua mình…
Hiền dừng tay, quay lại nhìn Thủy Tiên:
- A, vậy ra hôm qua gọi mình tới là để giữ ma cho bạn đó hả? Trời ơi, tui bị bạn bè lợi dụng mà không biết nè… Hic hic hic…
Thấy Hiền làm bộ khóc lóc, Thủy Tiên cười:
- Lợi dụng gì đâu, Hiền phải tự hào mình là người bạn tốt, có mặt ngay khi bạn cần…
Hiền nheo mắt:
- Nhưng hôm nay ông Đạt về, vậy là Thủy Tiên hết cần mình rồi, đúng không?
Thủy Tiên cười:
- Đâu có, mình vẫn rất cần, nếu tối nào bạn cũng chịu khó tới đây ngủ với mình, mình sẽ mang ơn bạn lắm!
Hiền trề môi:
- Xời ơi, vậy sao không nói để tui sắp xếp dọn tới đây ở luôn cho rồi?
Thủy Tiên ngồi bật dậy:
- Thiệt hôn? Hiền dọn tới ở chung với mình thiệt nghen?
Hiền cười phá lên:
- Nói giỡn thôi, mình không dọn đi được, ba mẹ mình không cho ở trọ bên ngoài, bắt buộc mình phải ở trong ký túc xá thôi!
Thủy Tiên tiu nghỉu nằm vật trở xuống.
Hiền quay nhìn vào gương, bất chợt cô thoáng thấy trong gương hình ảnh một người con gái máu me đầm đìa đang bị ai đó lôi đi ngang qua chỗ Hiền đang đứng. Giật nãy người, Hiền la lên:
- Á…
Thủy Tiên ngạc nhiên hỏi:
- Gì vậy?
Hiền lắp bắp:
- Cô… cô gái… giống như Thủy Tiên kể tối qua...
Thủy Tiên bật dậy, chui ra khỏi mùng, lúc đó Hiền cũng hoảng hốt chạy lại ngồi xuống bên cạnh Thủy Tiên.
- Sao? Hiền trông thấy cô gái đó?
Thủy Tiên tò mò.
Hiền run rẩy gật đầu:
- Ừ, mình thấy trong gương, thấy rõ lắm, hình ảnh giống y như Thủy Tiên kể tối hôm qua!
Thủy Tiên nhăn mày suy nghĩ:
- Sao lạ vậy ta? Hay tại đầu óc hai đứa mình có vấn đề? Mình bị hoang tưởng, và đã gieo rắc sự hoang tưởng đo vào đầu của Hiền luôn rồi?
Hiền vớ lấy cái túi xách, lật đật đứng lên và nói:
- Thôi, mình về đây, không biết có hoang tưởng hay không, nhưng mình thật sự sợ lắm!
Hiền dắt xe ra tới cửa còn ngoái lại dặn Thủy Tiên:
- Nếu tình trạng này không chấm dứt, mình thấy Thủy Tiên nên dọn đi chỗ khác thì hơn, ở đây có ngày chắc điên thiệt luôn đó! Hôm nay anh Đạt về, Tiên bàn với ảnh đi nghen?
Thủy Tiên gật đầu, buồn bã ngồi bó gối nhìn theo bạn.
Trước giờ Thủy Tiên không mấy quan tâm đến chuyện có ma hay không có ma, nhưng thật sự mấy ngày gần đây có nhiều sự việc khiến cô chao đảo, chẳng lẽ trên đời thật sự có ma? Và con ma đó với cô có mối liên hệ gì mà sao nó cứ mãi lảng vảng quanh cô như vậy?
Càng suy nghĩ càng thấy điên đầu, Thủy Tiên uể oải đứng lên dọn dẹp mùng mền, nhà cửa.
Lúc cô mở tủ để lấy một vài thứ vật dụng thì lại thấy đồ đạc trong tủ không đúng với vị trí mà cô đã để.
- Thôi, ráng chờ anh Đạt về sẽ tính!
Thủy Tiên đi vào phòng tắm. Lúc đang đứng trong phòng tắm làm vệ sinh, Thủy Tiên nghe như có bước chân người nào đó rón rén đi vào nhà, có tiếng mở tủ rất nhẹ, cô vội chạy ra nhìn thì thấy căn phòng trống trơn không có bóng dáng một ai.
Suốt buổi sáng hôm đó Thủy Tiên mệt mỏi không học hành gì được, cô cứ nằm dài và suy nghĩ đủ thứ chuyện.
Có tiếng gõ cửa, Thủy Tiên nhổm dậy chạy ra. Và khi cánh cửa vừa hé mở, cô mừng rỡ reo lên:
- Anh Đạt! Trời ơi, thấy anh về em mừng quá!
Đạt cười:
- Nhớ anh dữ vậy sao? Anh không tưởng là em trông anh đến như vậy đâu nghen?
Thủy Tiên lôi Đạt vào nhà:
- Em trông anh muốn chết, trông anh về để bắt đền anh nè!
- Bắt đền anh? Chuyện gì?
Đạt ngạc nhiên hỏi lại.
Thủy Tiên nhăn nhó khổ sở:
- Anh có biết không, từ hôm bữa dọn tới đây đến giờ, không ngày nào em được yên ổn, đủ thứ việc xảy ra làm em muốn điên luôn!
- Việc gì vậy em? Có ai quấy rồi em hả?
Đạt lo lắng.
Thủy Tiên lắc đầu:
- Em cũng không biết rõ nó là gì nữa… Tự nhiên đồ đạc trong nhà cứ bị xáo trộn lung tung lên hết anh à. Với lại… với lại…
Thủy Tiên ngập ngừng không biết dùng lời lẽ nào để diễn tả cho Đạt tin vào những giấc mơ của cô.
- Sao em?
Thấy Thủy Tiên không nói tiếp, Đạt hỏi.
- Em… em luôn mơ thấy một cô gái, vẻ mặt buồn đau ghê gớm lắm… Rồi có lần em thấy cô ấy mình mẩy máu me, bị lôi xềnh xệch trong phòng này… Có lần em lại thoáng thấy bóng ai đó trong tấm gương trên tủ kia… Em… em sợ lắm, em mong anh về để mình tìm chỗ ở khác.
Đạt nghiêm mặt:
- Em đừng nên lo sợ như vậy, chắc có ai đó muốn chọc phá em chơi, hoặc do thần kinh em yếu, chuyển về nơi ở lạ, em lo lắng quá nên sinh ra những cơn ác mộng vậy thôi em à! Với lại mình đã làm hợp đồng thuê nhà hai năm, tiền cũng đã đưa trước một năm rồi, đâu phải cứ muốn chuyển đi là chuyển được đâu em?
Thủy Tiên thất vọng:
- Như vậy là em phải cắn răng sống trong cảnh này đến hai năm sao anh?
Đạt vuốt tóc người yêu:
- Coi em kìa, làm gì mà thảm sầu dữ vậy? Anh tin là mọi việc không có gì đáng lo, để đó mình sẽ tìm ra nguyên nhân. Nếu đúng ngôi nhà này có vấn đề, anh sẽ đưa em tới nơi khác, dù bỏ hết tiền cũng không sao! Em luôn quan tọng hơn hết đối với nah mà, em không biết điều đó sao? Sao anh lại có thể vì tiếc một năm tiền nhà mà bắt em sống trong hoàn cảnh khắc nghiệt chứ?
- Vậy theo anh, những hiện tượng đó là gì? À, mà em quên kể với anh nữa, tối hôm qua Hiền tới đây ngủ với em, sáng này nó đứng trước gương chải đầu và nó cũng đã thấy hình ảnh ghê rợn đó!
Thủy Tiên ngước nhìn Đạt chờ đợi.
Đạt nghĩ một lúc rồi hỏi:
- Em có kể cho Hiền nghe về giấc mơ hãi hùng của mình không?
Hiền gật đầu:
- Dạ, có!
Đạt vỗ tay xuống chiếu:
- Vậy thì đúng rồi! Chính sự hoang mang sợ hãi từ em đã truyền sang cô ấy, và cái hình ảnh máu me đầy người đó cũng là do em nhồi nhét vào tâm khảm cô ấy, nên cố ấy “nhìn thấy” mà thôi, đâu có gì lạ!
- Vậy theo anh, tại sao lại có những hiện tượng lạ tỏng nhà?
Thủy Tiên hỏi lại lần nữa.
Đạt vỗ vào tay người yêu một cách âu yếm:
- Theo anh nghĩ, chắc có một kẻ nào đó muốn trộm đồ của em, hoặc không muốn cho em ở trong ngôi nhà này nên tìm cách hù dọa khiến em sợ mà bỏ đi đó thôi!
Rồi Đạt kề vào tai Thủy Tiên nói thật nhỏ:
- Anh nghe đồn ông chủ nhà này cũng ma lanh lắm đó! Coi chừng ổng cho em thuê với giá rẻ quá bây giờ lại tiếc, muốn cho người khác thuê giá cao hơn, nên mới bày ra cách gia ma giả quỷ để em sợ không dám ở và tự ý kết thúc hợp đồng…
Thủy Tiên nghe lời Đạt phân tích cũng có lý, cô hỏi:
- Rồi em phải làm gì bây giờ hả anh?
Đạt siết chặt tay Thủy Tiên:
- Em phải can đảm! Đó là yêu cầu cần có trước nhất. Sau đó em nên về nhà đột xuất để có thể phát hiện kẻ gian, vì có thể ai đó đã nắm được thời khóa biểu mỗi ngày của em, họ sẽ tận dụng khoảng thời gian chắc chắn em không có mặt ở nhà để làm những trò không hay gì đó…
Nghe theo lời Đạt, từ hôm đó Thủy Tiên không giữ đúng điều độ sự đi về mỗi ngày nữa, mà bất cứ lúc nào rảnh cô cũng cố thu xếp để tạt về qua nhà. Tuy nhiên đã mấy ngày trôi qua mà vẫn không phát hiện được gì, mặc dù đồ đạc trong nhà vẫn cứ bị xáo trộn, di chuyển lung tung. Chỉ đỡ một việc là cô không còn gặp những cơn ác mộng, những ảo giác rợn người nữa!
Một hôm, Thủy tiên đột xuất về nhà, cô để túi xách trên bàn rồi vào phòng tắm rửa mặt. Vì luôn cảnh giác nên Thủy Tiên nhanh chóng phát hiện tiếng chân đi rón rén, tiếng kéo dây kéo túi xách của cô.
Thật nhẹ nhàng, Thủy Tiên đi ra và… trước mắt cô là một thằng bé cỡ tám, chín tuổi đang thò tay vào túi xách của cô để lấy tiền.
Trông thấy Thủy Tiên xuất hiện đột ngột, thằng bé sợ cứng người, không rút được cánh tay ra khỏi giỏ xách.
Thủy Tiên bước tới nắm lấy tay thằng bé, hỏi với giọng tức tối:
- Vậy ra mấy hôm nay em là người phá quấy chị, đúng không?
Thằng bé sợ hãi, lắp bắp:
- Em… em không…
- Em là con cái nhà ai mà phá phách dữ vậy? Mau nói, chị dẫn về mét với má em!
Thủy Tiên lớn tiếng.
Thằng bé khóc òa lên:
- Chị ơi… chị tha lỗi cho em… đừng mét nội em đánh chết.
- Nội em là ai, nhà ở đâu?
Thủy Tiên vẫn không chịu buông tay thằng bé ra.
Thằng bé vừa khóc vừa đưa tay chỉ sang ngôi nhà bên cạnh.
- Em qua đây mấy lần rồi? Nói thiệt đi rồi chị tha cho.
Thủy Tiên gặng hỏi.
Thằng bé vừa mếu vừa nói:
- Em không… không nhớ…
- Vậy là nhiều lần quá không nhớ nổi chứ gì? Nè, chị nói cho biết nghe, ăn cắp là tính xấu, trẻ con không được dính vào. Ráng mà lo học hành, đừng có tới đây quấy rối chị nữa, nghe không?
Thủy Tiên nhìn thằng bé, nước mắt nước mũi nó lòng thòng trên mặt. Cô thấy tội nghiệp nên buông tay nó ra.
- Thôi, em về đi, chị không mét nội đâu! Nhưng nhớ là không có lần sau nữa đâu nhé? Nếu chị bắt được lần nữa, chẳng những chị mét với nội em mà còn mét với cô giáo, rồi đem lên đồn công an nữa đó nghen!
Thủy Tiên dọa dẫm.
Thằng bé thút thít:
- Dạ, em nhớ rồi!
Nhìn thằng bé lầm lũi đi ra khỏi cửa, Thủy Tiên bất giác mỉm cười. Hóa ra chỉ vì sự phá phách của thằng bé mà đầu óc cô lại tưởng tượng ra những chuyện rùng rợn kinh hồn…
- Hóa ra mình cũng có óc tưởng tượng phong phú đến như vậy!
Thủy Tiên vui vẻ lấy điện thoại gọi cho Minh Đạt. Vừa nghe tiếng anh bên kia đầu dây, Thủy Tieen vội reo lên:
- Em khám phá ra được rồi anh ơi! Thằng bé nhà bên cạnh thường xuyên tới lục lọi để lấy đồ của em…Lúc nãy em vừa bắt quả tang được nó, nó hứa sẽ không dám tái phạm nữa. Có lẽ mọi việc ổn thỏa rồi đó anh à, vậy mà báo hại mấy ngày qua em xấc bấc xang bang vì lo sợ…
Minh Đạt cũng cười:
- Đó, anh nói không sai, dúng không? Em giàu tưởng tượng quá, thôi em chuyển nghề sang viết văn đi! Anh thấy em phù hợp viết thể loại ma quái, kinh dị lắm đó!
Thủy Tiên giãy nảy:
- Anh lại chọc quê em nữa rồi! Hãy đợi đấy, chiều nay gặp anh sẽ biết tay em, đừng có mà trêu em mãi nhé?
Tiếng cười của Minh Đạt vang lên ấm áp…
Nhưng mọi việc lại không kết thúc như Thủy Tiên và Minh Đạt nghĩ. Ngay tối hôm đó cơn ác mộng lại đến, lần này còn rõ ràng chi tiết hơn nữa.
Trong giấc mơ, Thủy Tiên nghe có tiếng van xin, rên rỉ:
- Làm ơn… làm ơn tha cho tôi đi…
Tiếng người đàn ông cười gằn:
- Không thể nào! Mầy phải chọn một tỏng hai điều kiện, một là mầy phải ngoan ngoãn chìu theo ý muốn của tao, hai là mầy mãi mãi không còn nhìn thấy tao nữa… Mầy chọn mau lên! Tao không còn đủ kiên nhẫn để chờ đợi mầy đâu!
Tiếng cô gái:
- Ông… ông không thể ép buộc tôi được! Tôi thà chết, không đời nào tôi bằng lòng hiến thân cho một kẻ như ông…
Tiếng người đàn ông gầm lên giận dữ:
- Không đời nào à? Được thôi, được thôi! Rồi mầy sẽ phải hối hận! Ha ha ha… mà không, đến cả hối hận mầy cũng không có cơ hội đâu con ạ!
Một lưỡi dao sáng loáng vung lên, máu từ cổ cô gái tuôn ra xối xả. Cái cổ cô đã bị cắt gần như lặt lìa, máu từ chỗ đó ào ạt tuôn ra, sủi cả bọt.
Dòng máu chảy dài trên sàn nhà, sắp chạm tới chỗ chân Thủy Tiên đang đứng. Cô sợ hãi không thốt được nên lời…
Rồi không biết kẻ tàn ác kia là ai, Thủy tiên chỉ biết sau khi cắt cổ cô gái, hắn đã lôi xác cô bỏ vào tỏng tủ. Chính là cái tủ áo bằng gỗ mà Thủy tiên dùng chứa đồ đạc của mình từ lúc dọn tới đây.
Khi thấy người đàn ông nhét xác cô gái vào tủ rồi đóng lại, Thủy tiên sợ quá hét lên:
- Không! Không được!
Chính tiếng thét đó đã làm Thủy Tiên choàng tỉnh. Cô hoảng sợ ngồi bật dậy ngó xuống sàn nhà, không thấy có vết máu nào, cô nhảy xuống chạy lại mở toang hai cánh cửa tủ, cũng không có gì đặc biệt bên trong! Thủy Tiên ngồi bệt xuống sàn nhà thở dốc. Tất cả những chi tiết của giấc mơ vẫn in rõ mồn một trong đầu, khiến Thủy Tiên như muốn nghẹn thở.
Nghe tiếng bà chủ nhà léo nhéo ngoài sân, Thủy Tiên bật dậy, chạy vào phòng tắm rửa qua loa mặt mũi rồi đi ra sân giả bộ lân la nói chuyện:
- Sáng nay dì không đi chợ sao?
Thủy tiên hỏi.
Bà chủ nhà than thở:
- Mấy hôm nay hàng họ ế ẩm quá cô ơi, suốt  cả ngày cũng không buôn bán được bao nhiêu. Tui chán, nên để từ từ đi trễ một chút cũng không sao.
Rồi như sực nhớ, bà chủ hỏi:
- Cô vừa ý với nơi đây chứ?
Thủy Tiên không trả lời câu hỏi của bà chủ nhà mà hỏi lại bằng câu khác:
- Trước khi cháu dọn tới đây, phòng đó ai ở vậy dì?
Bỗng dưng Thủy Tiên thấy thái độ của bà chủ hơi lúng túng. Nhưng chỉ một chút xíu thôi bà đã lấy lại vẻ bình thản thường ngày:
- À, đó là một người đàn ông trung niên. Ông ta có nhà cửa, vợ con đàng hoàng chứ, nhưng vì buồn chuyện gia đình nên thuê nhà ở riêng hơn một năm trời, cuối cùng vợ con ông ta phải tới đây năn nỉ ổng mới chịu quay về đó chứ…
Rồi bà nhìn Thủy Tiên không giấu được vẻ tò mò:
- Sao cô lại hỏi chuyện đó làm gì? Bộ có gì sao?
Thủy Tiên ngồi xuống cạnh bồn hoa, thờ thẫn nói:
- Không hiểu sao từ hôm dọn tới đây, cháu thường xuyên gặp những cơn ác mộng khủng khiếp làm cháu sợ quá. Chắc cháu phải chuyển nhà đi thôi dì ạ!
Bà chủ nhà vội nói:
- Trời đất! Từ xưa nay ở đây đâu có chuyện gì xảy ra, chắc cô vì học hành nhiều quá nên thần kinh bị gì đó thôi! Làm gì có những chuyện ghê rợn đó đâu cô…
Thủy Tiên lắc đầu:
- Cháu cũng không biết nữa, nhưng nếu cứ sống mãi trong tình trạng này cháu sẽ điên lên mất. Thôi, để cháu bàn lại với bạn rồi báo dì biết sau nhé?
Bà chủ nhìn Thủy Tiên, nhắc nhở:
- Nhưng nếu vậy là tự cô phá vỡ hợp đồng mà không có lý do chính đáng, tui sẽ không hoàn tiền lại cho cô đâu!
Thủy Tiên cười không nói gì, chậm rãi đi vào nhà.
Trưa hôm đó nhận được lời nhắn của Thủy tiên, Minh Đạt sắp xếp công việc để tranh thủ đến với cô.
Vừa trông thấy Thủy Tiên, Minh Đạt thoáng giật mình vì mới một ngày mà trông cô hốc hác quá, chứng tỏ cô đã gặp phải điều gì quá sức chịu đựng rồi đây!
- Có chuyện gì vậy em?
Minh Đạt lo âu hỏi.
Thủy Tiên ôm chầm lấy người yêu, rưng rưng nói:
- Anh ơi, anh mau tìm chỗ khác cho em dọn đi đi, em không ở lại đây được nữa đâu, không thể…
Minh Đạt ngơ ngác:
- Ủa, không phải mọi việc đã ổn thỏa rồi sao? Em đã bắt quả tang thằng bé ăn trộm rồi mà?
Thủy Tiên gật đầu:
- Em đã bắt được nó, và cũng tưởng mọi việc vậy là sáng tỏ. Nhưng thật không ngờ, việc thằng bé lục lọi ăn cắp tiền không liên quan gì đến những cơn ác mộng của em… Tối hôm qua em lại gặp ác mộng, mà càng lúc cơn ác mộng lại càng rõ ràng, y như thật…
Nói rồi, Thủy Tiên kể lại chi tiết cho Minh Đạt nghe về cơn mơ tối qua.
Đạt nói:
- Phải chi anh có thể ở lại cùng em để xem hư thực thế nào?
Thủy Tiên đỏ bừng mặt, phản đối:
- Không được! Mình đã giao hẹn rồi còn gì, phải chờ đến ngày cưới mới thật sự sống bên nhau…
Minh Đạt cười:
- Anh nhớ chứ! Chỉ vì anh quá lo cho em, mà cũng vì tò mò nữa nên anh mới có ý nghĩ đó thôi, nhưng anh biết em không đời nào chấp thuận. Thôi, ráng cố gắng ở thêm mấy ngày nữa đi, anh sẽ đi tìm nhà cho em ngay chiều nay. Còn nếu như em sợ quá thì có thể vô ký túc xá ở tạm với Hiền mấy hôm, nhé?
Thủy Tiên mừng rỡ:
- Dạ, vậy anh tìm nhà mau mau lên nghen!
Minh Đạt bẹo má người yêu, cười nói:
- Tuân lệnh bà xã!
Thủy Tiên mắc cỡ đấm vào lưng Minh Đạt liên tiếp mấy cái. Cả hai cùng cười vui vẻ, giúp Thủy Tiên tạm thời quên đi nỗi lo sợ hãi hùng.
 
Tiễn Minh Đạt ra về, Thủy Tiên cũng lấy xe đi vô ký túc xá để hỏi xin Hiền cho cô ở tạm vài hôm.
Nhưng thật không may cho Thủy Tiên, phòng của Hiền trong ký túc xá hôm đó thật đông người, vì hai đứa em bà con của Hiền dưới quê lên thi Đại học, rồi em cháu của mấy người trong phòng cũng lên ở tạm để đi thi.
Nhìn thấy cảnh đó, Thủy Tiên ngao ngán không nói gì với Hiền về ý định ban đầu của mình. Ngồi chơi với Hiền một lúc Thủy Tiên ra về, cô nhủ lòng ráng thêm một vài ngày nữa chắc không sao.
Nhưng khi mặt trời sắp tắt, bóng tối sắp bao trùm vạn vật thì nỗi lo sợ trong lòng Thủy Tiên lại càng tăng lên gấp nhiều lần. Không chịu được, Thủy tiên gọi điện cho Hiền:
- Tối nay tới ngủ với mình nghen?
Hiền ngạc nhiên:
- Sao đây? Mình nghe nói bạn đã bắt được kẻ trộm, đã làm sáng tỏ mọi việc rồi mà, có gì sợ mà gọi mình tới đây?
Thủy Tiên dấm dẳng:
- Bộ sợ mới kêu Hiền tới hả? Không sợ kêu không được sao?
- Thôi thôi, xin lỗi! Mình tới, mình tới ngay đây!
Hiền xuống nước.
Thủy tiên gấp điện thoại bỏ vào túi thấy yên lòng hơn một chút với lời hứa của Hiền. Cô bật sáng toàn bộ đèn trong nhà, đóng kín các cửa sổ, cửa cái một cách hết sức cẩn thận.
Bất thình lình ông trời đổ mưa như trút nước. Giông gió tới bời, mưa như đổ hết nước xuống trần gian.
Có tiếng điện thoại reo, Thủy Tiên vội chụp lấy và nghe tiếng Hiền:
- Trời mưa quá, đừng trông mình nghen, khi nào tạnh mưa mình tới!
Thủy Tiên đáp:
- Ừ, tạnh mưa rồi tới, đừng dầm mưa rồi bệnh lại đổ thừa mình!
Hiền nói mấy câu gì nữa đó mà Thủy Tiên không sao nghe rõ được vì tiếng mưa gió ầm ầm trên mái nhà. Cô cất điện thoại và nằm dài ra giường đọc sách.
Cơn mưa dai dẳng kéo dài, mãi hơn chín giờ đêm mà chưa thấy có dấu hiệu nào báo nó sắp kết thúc. Thủy Tiên nghĩ có lẽ Hiền sẽ không đến, nhưng cô vẫn cứ để đèn sáng và nằm chờ.
Bất chợt, Thủy tiên nghe có tiếng gì đó là lạ. Cô định thần lắng tai nghe ngóng thì phát hiện đó là tiếng cào sột soạt vọng ra từ trong tủ áo. Nghe rất giống tiếng chó mèo cào cửa. Tiếng cào mỗi lúc một dồn dập hơn. Hối hả hơn.
- Ủa, không lẽ có con mèo nào chui vô đó rồi bị mình đóng cửa nhốt lại mà không hay?
Thủy Tiên thầm nghĩ. Nhưng cô nhớ lại từ hôm dọn tới đây đến giờ, cô có thấy mặt mũi con mèo hay con chó nào đâu?
Tiếng cào vẫn vang lên một cách khẩn thiết.
Thủy Tiên sợ hãi đi dần đến bên chiếc tủ, tay nắm lấy cánh cửa kéo ra thật mạnh. Trong sự hình dung của Thủy Tiên, sẽ có một con mèo xấu xí từ trong tủ phóng vọt ra rồi sẽ kêu lên mấy tiếng “meo… meo… meo…” rùng rợn. Nhưng khi cánh cửa tủ đã mở toang, Thủy Tiên vẫn không thấy bất kỳ cái gì trong đó phóng ra cả. Cô ngập ngừng bước tới nhìn vô tủ thì thấy không có gì lạ.
Đứng ngỡ ngàng một lúc, Thủy Tiên kéo cửa tủ định đi trở lại giường. Nhưng khi cánh cửa tủ vừa được kéo tới ngay tầm mắt của Thủy Tiên, thì trong một giây tích tắc, Thủy Tiên trông thấy đúng hình ảnh cô gái đang bị cắt cổ hôm rồi phản chiếu trong gương.
Hốt hoảng, Thủy Tiên nhảy lùi lại, cô vớ lấy điện thoại run run bấm gọi cho Minh Đạt. Lúc này thì cô không còn sợ gì hơn cái nỗi sợ đang bày ra trước mắt. Cô phải gọi Đạt tới ngay.
Nhưng trời ơi, điện thoại Thủy Tiên lại bị mất sóng! Cô tức giận ném nó lên giường rồi nhìn lại chỗ chiếc tủ. Bây giờ thì không có gì nữa, mọi thứ bình thường.
Bỗng dưng Thủy Tiên có cảm giác cáu giận với mọi việc. Cô giận Hiền đã không đến với cô đêm nay, cô giận Minh Đạt không tìm nhà cho cô nhanh hơn chút nữa, cô giận cái điện thoại nhằm ngay lúc cô cần nhất lại không liên lạc được với một ai, cô giận những hình ảnh ghê rợn cứ đeo bám lấy mình…
Và với nỗi cáu giận đó, Thủy Tiên đi nhanh tới bên cái tủ, kéo mạnh hai cánh cửa cho nó mở toang ra, và cô lấy hết đồ đạc bên trong vứt xuống đất để xem xét cái gì đang ẩn nấp bên trong.
Toàn bộ đồ đạc đã bị Thủy Tiên vứt ra một đống dưới chân. Trong tủ lúc này hoàn toàn trống rỗng. Cô mệt mỏi tựa người vào chiếc tủ, mắt ngó chằm chằm vào nó. Chiếc tủ bình thường, không có gì lạ, kể cả lớp giấy báo được dán lên mặt gỗ. Điều này nhiều người vẫn thường làm để tránh cho áo quần bị trầy xước khi cọ vào mặt gỗ, hoặc ngăn ngừa màu gỗ thấm sang quần áo.
Lớp giấy báo đã cũ xỉn, Thủy Tiên thuận tay xé toạc nó đi, định bụng sẽ lót lại bằng một lớp giấy khác.
Nhưng thật bất ngờ, khi lớp giấy báo vừa bị gỡ ra, phía dưới là lớp ván gỗ nhuốm đầy máu. Màu máu vẫn tươi rói như cách đây không lâu!
Thủy Tiên run rẩy xé nốt tời báo còn sót lại trong góc tủ, dưới lớp báo có một tấm ảnh đã cũ. Thủy Tiên cầm lên xem và ngỡ ngàng nhận ra đó chính là cô gái mà lâu nay thường xuyên hiện về trong giấc ngủ của cô.
Có lẽ khi nỗi sợ hãi lên đến tột đỉnh thì một là người ta sẽ hóa điên, hai là người ta sẽ trở nên bình tĩnh một cách khác thường. May mắn là lúc này Thủy Tiên rơi vào trường hợp thứ hai.
Thủy Tiên cất tấm ảnh vào hộc tủ rồi lặng lẽ tắt đèn lại giường ngủ, cô không chờ Hiền nữa và cũng không còn thấy sợ hãi gì. Nằm trong mùng, Thủy tiên lắng tai nghe tiếng cào sột soạt không ngừng vang lên, cô bực tức đi tới mở toang hai cánh cửa tủ rồi bỏ đó.
Ngoài trời gió mưa vẫn tầm tã. Tự nhiên Thủy Tiên ứa nước mắt vì tủi thân. Giá như lúc này có Đạt hoặc Hiền ở bên cạnh thì cô hạnh phúc biết bao!
Trằn trọc mãi rồi cuối cùng Thủy Tiên cũng ngủ được, cô không nhớ mình ngủ lúc mấy giờ, nhưng khi thức giấc thì mặt trời đã lên cao, và đã quá trễ giờ để đến lớp.
Thủy Tiên nhớ lại mọi việc tối qua. Cô đi đến bên chiếc tủ. Chiếc tủ trống trơn, áo quần, đồ đạc nằm một đống dưới sàn nhà, và chỗ ván gỗ được dán giấy báo vẫn còn thấm máu một cách rất rõ ràng.
Mở hộc tủ lấy tấm ảnh cô gái ra xem, Thủy Tiên khấn thầm:
- Tôi không biết lý do nào chị luôn đeo bám lấy tôi, nhưng tôi nghĩ chị có điều gì đó oan khuất… Hãy giúp tôi tìm ra sự thật, tôi sẽ giải oan cho chị!
Thủy Tiên thấy đôi mắt của cô gái trong hình dường như khẽ chớp…
Lần này Thủy Tiên không hốt hoảng kể lại với Hiền hay với Đạt nữa. Cô âm thầm giấu kín trong lòng, cô cũng không hối thúc Đạt tìm nhà khác.
Chiều hôm sau, Thủy Tiên lân la lên nhà bà chủ ngồi chơi. Bất ngờ cô hỏi:
- Cô gái dạo trước bị giết trong căn phòng đó là ai vậy dì?
Bà chủ nhà sững người nhìn Thủy Tiên rồi quay đi nói:
- Cô nói gì lạ vậy? Làm gì có cô gái nào bị giết trong đó?
Thủy Tiên cười thật nhẹ:
- Dì đừng có giấu cháu, cô ấy đã kể hết với cháu rồi, nhưng cháu không tin là dì chủ mưu!
Bà chủ nhà hốt hoảng:
- Sao? Cô ấy nói tôi là chủ mưu sao? Không phải… trời ơi… không phải … tôi có biết gì đâu?
Thủy Tiên nói nghiêm trang:
- Dạ, cháu cũng không nghĩ dì chủ mưu trong việc đó, nhưng cô ấy khăng khaqng quả quyết thế. Cháu muốn nghe dì kể thật để cháu còn nói lại với cô ấy mà biện minh cho dì!
Bà chủ nhà nhìn Thủy Tiên tò mò:
- Cô… cô có thể nói chuyện với hồn ma sao?
Thủy Tiên gật nhẹ:
- Dạ, cô ấy bảo rằng cung mạng gì đó giữa cháu và cô ấy hạp nhau, nên có thể trao đổi được. Chính vì vậy mà cháu biết được vụ người ta cắt cổ cô rồi bỏ vào trong tủ áo…
Bà chủ nhà run lẩy bẩy:
- Trời! Vậy là cô biết hết mọi chuyện rồi sao?
- Dạ, cháu biết chứ! Nhưng cháu muốn nghe chính miệng dì kể lại lần nữa để có tính khách quan hơn là chỉ nghe một phía.
Thủy Tiên bình thản nói.
Bà chủ nhà ôm mặt ngồi phịch xuống thềm nhà, đau khổ nói:
- Nếu cô đã biết hết rồi thì tôi cũng không dám giấu làm gì. Chắc cô biết con bé Phương đó là cháu gọi tôi bằng cô, bà con xa. Gia đình nó ở dưới quê rất nghèo nhưng lòng tự trọng lại cao. Mấy lần tôi đề nghị ba má nó cho nó tới ở đây đi học nhưng họ đều tự chối. Con bé ở ký túc xá, vừa học vừa làm vất vả trăm bề, nó lại đang tuổi ăn tuổi chơi nên không tránh khỏi mặc cảm và khát vọng giàu sang. Tình cờ tôi gặp nó, thấy nó cũng tội nên kêu nó về ở đây mà không để cho ba má nó biết. Từ ngày có nó về, nhà tôi cũng đỡ vì có người dọn dẹp, cơm nước. Nó là một con bé giỏi giang, chỉ tội một điều là hơi đua đòi và tham lam. Một lần nó tranh thủ lúc tôi đi vắng đã mở tủ ăn cắp tiền, không may bị chồng tôi bắt được. Nó khóc lóc van xin rồi bất thần nhảy tới ôm lấy ông ấy hôn như mưa lên mặt. Mà cô biết loại đàn ông như mèo có ai chê mỡ? Thế là ông ta chẳng những giấu nhẹm việc nó trộm tiền tôi mà còn thường xuyên cho nó tiền bạc, nữ trang đắt giá.
Khi trong túi đã có tiền rủng rẻng và áo quần đẹp giúp nó tự tin giao tiếp với bên ngoài, thì chồng tôi chẳng qua cũng chỉ là một thứ công cụ để nó moi tiền thôi.
Nó luôn vờn ông ấy, nhưng không bao giờ cho ông ấy đi quá giới hạn. Ban đầu ông nể phục nó, nhưng sau đó khi phát giác ra nó có quan hệ với rất nhiều người khác, ông tức giận vô cùng. Một hôm, chính là cái hôm định mệnh đó, ông ấy biết nó vừa dẫn bạn trai về nhà, hai đứa đóng cửa ở tỏng rất lâu. Đến lúc người bạn trai đó ra về, ông chồng tôi tức tối vào phòng nói chuyện với nó, thì nó thẳng thừng trở mặt.
Ông ức quá, nói là với số tiền mà ông đã bỏ ra cho nó, ông bắt buột nó phải tự nguyện dâng hiến cho ông, nhưng nó chống cự quyết liệt, không đời nào nó để cho ông chồng già của tôi gần gũi thân xác nó.
Và chính trong cơn ghen hờn, tức giận đó ông đã cắt gần đứt lìa cổ nó, đem xác giấu vào chiếc tủ đó để chờ dịp thuận lợi đem ra ngoài thủ tiêu.
Những việc đó tôi hoàn toàn không biết. Nhưng rồi tình cờ tôi đi ngang qua căn phòng đó, nghe thấy có mùi gì là lạ bèn vào xem thử. Tôi đã điếng hồn khi thấy nó nằm bên trong bên chiếc tủ, hai mắt trợn trừng, cái đầu dính lủng lẳng với thân người bằng một chút da. Tôi vừa lết vừa bò ra khỏi nhà, lúc đó ông chồng tôi đi tới, tôi hoảng hốt gọi:
- Ông ơi… con Phương… sao ông nói con Phương về quê? Nó… nó trong kia kìa… Ông mau mau đi báo cảnh sát đi…
Nghe thấy tôi đòi báo cảnh sát, ông chồng tôi hoảng quá đành phải thú nhận tất cả. Mặc dù đau đớn vô cùng, nhưng vì thương chồng tôi phải cắn răng chịu đựng và sau đó thì phải giúp đỡ ông ấy đem cái xác đi thủ tiêu…
Thủy Tiên nghe bà chủ nhà kể dứt câu chuyện, cô hỏi:
- Rồi khi cô ấy mất tích, không ai nghi ngờ gì vợ chồng dì sao?
Bà chủ nhà chậm nước mắt:
- Ba má nó có lên ở đây mấy ngày để đi tìm nó. Ông chồng tôi cũng giả vờ lo lắng chạy tìm khắp nơi. Không ai biết nó ở nhà tôi…
Thủ Tiên len lén thò tay vào túi áo tắt nút ghi âm trên điện thoại. Cô đứng lên:
- Thôi được rồi, tôi sẽ về nói lại với cô ấy!
Thủy Tiên đi về phòng, mở máy ghi âm nghe lại lần nữa lời thú tội của bà chủ nhà. Cô hoang mang không biết phải xử trí ra sao để giúp cô gái chết oan kia?
Việc giúp cô gái giải oan có thể để tính sau, nhưng trước mắt Thủy Tiên biết mình cần làm là gấp rút dọn đồ đạc chuyển đi khỏi căn nhà khủng khiếp này.
Cô tắt máy ghi âm, nhấc máy gọi cho Minh Đạt và nói một câu gọn lỏn:
- Chiều nay sau giờ làm, anh tới giúp em chuyển nhà nhé?
Không chờ Minh Đạt trả lời, Thủy Tiên vội vã cúp máy.
Cô biết giờ này Minh Đạt đang có cuộc họp quan trọng nên không thể nói chuyện dông dài với anh được. Cô xếp tất cả áo quần đồ đạc, dọn dẹp để chuyển đi nới khác, nơi nào cũng được, miễn sao xa rời cái chỗ kinh khủng này thôi!
Trong khi đó thì ở ngôi nhà của bà chủ kế bên, ông chủ nhà vừa về tới, trông thấy nét mặt tái xanh của vợ, ông hỏi:
- Có chuyện gì mà bà hoảng hốt vậy?
Bà chủ nhà run rẩy:
- Ông ơi, con Phương… con Phương hiện hồn về kể hết mọi chuyện cho cô Thủy Tiên biết rồi…
Ông chủ nhà giật mình:
- Hả? Bà nói sao? Con Phương hiện hồn về?
- Ừ, cô Thủy Tiên mới vừa sang đây, bắt tôi kể lại đầu đuôi…
Bà chủ nhà nói chưa dứt câu đã bị ông chồng cắt ngang:
- Rồi bà có nói gì không?
- Có, tui nói thiệt hết…
Bà chủ nhà lắp bắp.
Ông chủ nhà kêu lên:
- Trời ơi… vậy là bà mắc mưu rồi, bà giết tôi rồi!
Bà chủ nhà ngạc nhiên:
- Sao… sao ông lại nói thế?
Ông chủ nhà rên rỉ:
- Nếu nó đã biết hết, nó cần gì biểu bà kể lại đầu đuôi. Chỉ là đóan mò thôi, rồi muốn nhờ vào bà để hoàn thiện điều đó. Thời buổi bây giờ mà bà không biết sao, tụi nó có thể ghi âm lại lời nói của bà để làm bằng chứng…
Bà chủ nhà chợt nhớ lại thái độ của Thủy Tiên lúc nãy, bà kêu lên:
- Thôi chết rồi ông ơi, chắc là nó đã ghi âm hết rồi… Lúc nãy tui thấy nó cứ thò tay vô túi mà không biết làm gì…
Ông chủ nhà nghiến răng:
- Không được! Nó không được làm điều đó!
Nói dứt lời ông chủ nhà dợm bước về hướng nhà Thủy Tiên đang trọ. Bà chủ kêu lên:
- Ông đi đâu đó? Ông định làm gì?
Ông chủ hạ giọng:
- Bà yên tâm đi chợ đi, người ta đang chờ lấy hàng ngoài đó! Để tui qua đó năn nỉ cổ xóa đi đoạn ghi âm lúc nãy.
Bà vợ gật đầu, căn dặn:
- Nhớ là năn nỉ nhỏ nhẹ thôi nghen ông, đừng làm điều gì tổn hại tới người khác nữa…
- Tui biết rồi mà, bà đi đi!
Ông chủ nhà vừa nói vừa giúp đỡ mấy túi đồ lên xe cho bà chủ. Khi chiếc xe của bà đã khuất ông mới đóng cổng đi vào nhà Thủy Tiên.
Đến trước cửa phòng, ông khẽ nhón chân nhìn vào cửa sổ, trông thấy Thủy Tiên đang lúi húi xếp dọn đồ đạc, ông biết ngay cô chuẩn bị dời đi.
Ông chủ nhà nhìn quanh, bất chợt trông thấy cây sắt ông mua về để thay cây ăng-ten đang nằm lăn lóc ngoài hè vì ông chưa có thời gian thay được. Ông đi nhanh tới, cầm chặt cây sắt trong tay và nhón chân đi thật nhẹ vào phòng.
Thủy Tiên lom khom dọn dẹp, bất thần cô có cảm giác ai đó đang ở phía sau lưng mình, nhưng vừa kịp ngoái lại nhìn thì ông chủ nhà đã giáng một đòn thật mạnh xuống đầu Thủy Tiên.
Trong một tích tắc đó, cả Thủy Tiên lẫn ông chủ nhà đều nghĩ chắc một điều không bao giờ Thủy Tiên tránh khỏi. Nhưng thật không ngờ, bàn chân cô trượt dài trên nền gạch khiến cô ngã sóng xoài, còn cây sắt trên tay ông chủ lại giáng xuống đúng ngay cánh cửa tủ đang mở toang ra.
Kiếng tủ bể rơi loảng xoảng, Thủy Tiên sợ hãi nhổm dậy định chạy ra ngoài hô hoán lên, còn ông chủ sau phút hụt hẫng đã nắm chặt cây sắt, quyết tâm hạ gục Thủy tiên cho bằng được. Nhưng liên tiếp năm, sáu nhát ông giáng xuống người cô, hình như đều bị một thế lực vô hình nào đó khống chế, hành vi tội ác của ông mãi mà không thực hiện được.
Đúng lúc đó, Minh Đạt, Hiền và mấy người bạn của Đạt từ ngoài đi vào, ai nấy mở to mắt nhìn cảnh tượng hãi hùng trong ngôi nhà nhỏ: Thủy Tiên đầu tóc rối bời, vừa bò, vừa lết dưới sàn nhà để tránh đòn, còn ông chủ nhà hung hăng như một ocn thú dữ đang ra sức giết chết cô gái tội nghiệp.
Minh Đạt, Hiền và các bạn đồng loạt nhào vô, và cũng không mấy khó khăn để khống chế được ông chủ nhà hung bạo. Thủy Tiên nhào tới ôm chầm lấy Đạt khóc ngất:
- Anh Đạt ơi, em sợ quá… mau mau đi khỏi chỗ này…
Đạt ôm chặt Thủy Tiên, an ủi:
- Có anh rồi, em đừng sợ nữa! anh sẽ đưa em đi ngay bây giờ…
- Nhưng… ở đây vừa xảy ra chuyện gì vậy Thủy Tiên?
Hiền hỏi.
Thủy tiên run rấy cầm lấy điện thoại, mở ra đoạn ghi âm lúc nãy cho mọi người cùng nghe. Lão chủ nhà lồng lên như một con hổ dữ:
- Mầy… mầy không có quyền! Mầy phải xóa, xóa mau lên…
Nhưng làm sao ông có thể chống nổi mấy thanh niên sức vóc như Minh Đạt và bạn bè.
Một người bạn nói với Minh Đạt:
- Cậu ở đây lo an ủi Thủy Tiên đi, bọn tớ sẽ đưa lão này lên đồn công an.
Thủy Tiên nép sát vào người Đạt, run rẩy.
Đạt nhìm cô mỉm cười:
- Làm vợ anh nghen? Khi đó lúc nào anh cũng sẽ ở bên em, sẽ không ai có thể làm hại em được nữa…
Thủy tiên đang khóc mà cũng phải bật cười:
- Đồ quỷ! Anh đừng có lợi dụng thời cơ nhe!
Dứt câu mắng yêu, Thủy Tiên lại ngã đầu lên vai Đạt, cô nhắm mắt lại mơ về một ngày hai người thật sự sống bên nhau.
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:14:28 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:43:54
NHỮNG ĐỨA TRẺ VÔ HÌNH
 
Trần Lâm là một thanh niên tiêu biểu về mọi mặt và luôn luôn khiến cho những người cùng lứa tuổi phải ao ước thèm thuồng về tướng diện, tài năng, con người cũng như những gì anh đang có.
Được sinh ra và lớn lên trong một gia đình tuy không đến mức vang danh thiên hạ, nhưng của cải mà cha mẹ Trần Lâm tạo dựng được trên thương trường trong mấy chục năm qua cũng để Trần Lâm và các anh chị em trong nhà chưa bao giờ lâm vào cảnh túng bấn, chật vật về kinh tế. Mà còn dư sức cung ứng cho anh chị em Trần Lâm tiêu xài, ăn học một cách thoải mái.
Trần Lâm có dáng người thanh tao cao lớn, không quá đỗi đẹp trai nhưng nhờ được ăn học đàng hoàng và có nhiều tài lẻ nên Trần Lâm gần như vượt trội hẳn những bè bạn xung quanh.
Tính tình Trần Lâm cởi mở, ôn hòa, lại thêm có duyên dí dỏm trong lời nói, cộng với lòng nhân hậu, hay giúp đỡ người khác nên Trần Lâm được rất nhiều người yêu mến.
Và mọi ngọn nguồn tai họa của Trần Lâm cũng từ đó mà ra.
Ngay từ hồi còn học ở bậc Trung học, Trần Lâm đã có tiếng đào hoa. Công tâm mà nói, Trần Lâm chưa bao giờ tự sắp đặt cho những cuộc tình chóng vánh ấy, mà hình như nó đã đến một cách tự nhiên, như đã được số phận định đoạt trước vậy.
Người phụ nữ đầu tiên trong đời Trần Lâm là một nữ sinh cùng lớp. Năm ấy Trần Lâm đang học lớp mười một. Vì học rất giỏi môn toán, cho nên trong lớp rất đông bạn bè thường xuyên nhờ Trần Lâm giúp đỡ. Trong số đó có Linh, một cô gái con nhà giàu, tính tình lãng mạn.
Sau một thời gian ngắn gần gũi hướng dẫn Linh, giữa hai người đã nảy sinh tình yêu nam nữ. Và trong một lần Linh đến nhà Trần Lâm nhờ giải giúp bài tập, gặp lúc nhà vắng người và chuyện gì đến đã đến. Hai người bạn trẻ đã không làm chủ được mình, không kiềm chế được những đòi hỏi của bản thân, không nghĩ gì đến tương lai… đã lao vào nhau như hai con thiêu thân.
Và hơn một tháng sau, Linh lo sợ tìm gặp gặp Trần Lâm sau giờ học:
- Lâm ơi, mình… bị rồi!
Trần Lâm ngơ ngác:
- Bị gì?
Linh cúi mặt nói nhỏ:
- Mình có thai rồi, giờ biết tính sao đây?
Trần Lâm hốt hoảng:
- Tính… tính sao bây giờ? Tụi mình còn đang đi học mà?
Linh rầu rĩ:
- Thì đó… mình cũng biết vậy. Nhưng giờ… làm sao?
Trần Lâm cứ đứng gãi đầu gãi tai mà không tìm được câu trả lời giúp cho cô bạn gái.
Cuối cùng Trần Lâm nói:
- Thôi, để mình về hỏi mẹ!
Linh giẫy nẫy:
- Không được! Không được để cho ai khác biết chuỵên này! Mẹ Lâm mà biết được, mình xấu hổ chết mất, làm sao dám tới nhà Lâm nữa?
- Vậy… bây giờ… sao?
Trần Lâm ấp úng.
Linh cắn môi suy nghĩ một lúc rồi quyết định:
- Không sao! Bề nào thì tụi mình cũng phải học tới nới chốn, không thể giữ lại cái bào thai này được, cũng không thể cưới nhau được… Mình sẽ về năn nỉ chị vú giúp mình giải quyết. Chị ấy rất thương mình và kín tiếng…
Và thế là chỉ mấy ngày sau, Linh lại nhởn nhơ đùa vui cùng các bạn, như chưa có việc gì trọng đại xảy đến với cô.
Rồi sau một vài lần cãi cọ bởi những chuyện không đâu, Linh tuyên bố “nghỉ chơi” Trần Lâm để ngã sang một anh chàng học trên một lớp.
Thế là cuộc tình của Trần Lâm chấm dứt.
Sau đó không lâu, Trần Lâm lại có mối quan hệ gắn bó với một thiếu phụ lớn gấp đôi tuổi mình!
Gần nhà Trần Lâm là nhà một người thiếu phụ có chồng đi lính phương xa, thỉnh thoảng mới tranh thủ được một hai ngày phép vù về thăm vợ con. Với nhan sắc mặn mà và tuổi xuân phơi phới, người đàn bà một con ấy tuy cam tâm thủ phận sống âm thầm đơn chiếc trong cảnh chờ chồng, nhưng trong thâm tâm luôn khao khát tình yêu!
Tến của người thiếu phụ ấy là Xuân. Giữa Xuân và mấy bà chị của Trần Lâm có mối thân tình giao hảo nên thỉnh thoảng Xuân vẫn ghé nhà Trần Lâm thăm viếng, chuyện trò thân mật.
Sau những ngày nắng cháy da cháy thịt, đêm hôm đó trời đổ xuống một cơn mưa như trút nước. Vì chưa nghĩ là đã đến mùa mưa, nên Xuân chưa kịp nhờ người trèo lên mái nhà quét dọn lá cây, rác rưởi đóng đầy trên máng xối. Và cơn mưa đêm hôm ấy khiến nhà Xuân bị nước tràn lênh láng.
Trần Lâm cùng các chị em đang ngồi học bài trong căn nhà ấm cúng, chợt nghe lẫn trong tiếng gió mưa gào thét là tiếng gọi cửa hớt hãi của Xuân:
- Lâm ơi! Lâm, làm ơn qua giúp chị với!
Trần Lâm vội đứng lên chạy ra mở cửa.
Xuân vội lách vào nhà khi cánh cửa vừa hé mở. Mặc dù đã choàng áo mưa, nhưng hình như cả người Xuân cũng bị ướt lướt thướt.
Cô vừa nhón chân tránh nước đọng trong nhà Lâm, vừa than:
- Khổ quá! Nước tràn từ trên máng xối xuống, lênh láng nhà cửa. Em qua coi giúp chị một chút.
Chị Hài của Lâm cũng nói thêm:
- Ờ, mầy cao, qua đó bắc ghế đứng lên là khơi thông máng xối được thôi mà!
Vốn là một thanh niên nhanh nhẹn và tốt bụng, vả lại người hoạn nạn là chỗ thâm tình hàng xóm, từ lâu Trần Lâm cũng xem Xuân như chị em trong nhà, bởi thế, vừa nghe nói là Trần Lâm tức tốc vớ lấy cái nón lá ụp lên đầu rồi chạy đi ngay, không chờ Xuân vẫn còn đang đứng nói chuyện với Hài và các chị của Trần Lâm.
Ngôi nhà của Xuân không xa lạ gì đối với Trần Lâm, vì đã biết bao lần sang đây ngồi chơi, nằm võng học bài hoặc chỉ nói chuyện tào lao vui vẻ…
Đẩy cửa bước vào, Trần Lâm lấy một cái ghế cao mà Xuân dùng để thắp nhang thường ngày kê dưới máng xối và trèo lên. Dân ở địa phương này hình như nhà nào cũng có một cái ghế cao dành cho việc thắp nhang như vậy. Vì bàn thờ được họ làm rất cao, có vậy mới thể hiện rõ sự tôn kính, đứng lên những chiếc ghế thông thường sẽ khong với tới.
Trần Lâm thò tay lên khua khoắng và lôi xuống từng nắm lá cây, rơm rác do gió và chim, chuột mang lên. Mới đó mà dưới chân Trần Lâm đã có một đống rác nho nhỏ, nước mưa cũng không còn tràn ra hai bên máng xối nữa.
Xuân vừa về tới, lộ rõ vẻ vui mừng, khen Lâm mà nghe như một lời than thở:
- Có đàn ông con trai trong nhà có khác! Cái gì cũng giải quyết ngon lành… Phụ nữ tụi chị thì chịu thua… chỉ biết khóc!
Trần Lâm mỉm cười, lòng cũng thấy vui vui, thích thú vì thấy mình giúp ích được cho người khác, và vì những lời khen của Xuân nữa.
Giúp Xuân dọn xong đống rác dưới chân, Trần Lâm thong thả ngồi xuống chiếc giường cạnh đó. Xuân từ phòng trong đi ra, cầm theo một chiếc khăn khô trao cho Trần Lâm, cười nói:
- Lau cho khô người đi em, không thôi chút nữa về nhà bị cảm là chết chị đó!
Trần Lâm đón lấy chiếc khăn và lau khắp người. Mùi thơm dịu dàng từ chiếc khăn khiến Trần Lâm cảm thấy ngất ngây, và bất chợt anh nhớ lại những giây phút gẫn gũi với Linh dạo trước…
Xuân vẫn đang trước mặt Trần Lâm, dáng đứng thật khêu gợi. Áo quần của người đàn bà hàng xóm một con vẫn còn ướt nước mưa dán chặt vào thân thể lồ lộ của cô khiến cho chàng thanh niên trẻ tuổi tràn đầy sức sống như Trần Lâm không thể không có mối động lòng.
Dường như biết rõ Trần Lâm đang sống trong cơn bão lửa si tình, nhưng Xuân vờ thản nhiên như không biết. Cô đứng sát trước mặt Trần Lâm, giúp anh lau khô mái tóc. Khoảng cách quá gần khiến cho tầm nhìn của Trần Lâm càng thấy rõ tất cả những đường nét vô cùng gợi cảm trên thân thể người thiếu phụ đang xuân. Cậu học sinh trung học còn cảm nhận được cả hơi hướm đầy kích thích từ tấm thân ngọc ngà tròn căng nhựa sống.
Đôi mắt Trần Lâm dại đi, và bất thần Xuân cúi xuống kéo sát khuôn mặt của anh áp lên đôi gò bồng đảo phập phồng êm ấm.
Chuyện gì phải đến, đã đến. Một lần nữa Trần Lâm ngã vào vòng tay người thiếu phụ trẻ đẹp, một con đang rừng rực lửa tình.
Kể từ sau đêm đó, việc tình tự lén lút qua lại giữa Trần Lâm và Xuân vẫn tái diễn thường xuyên mà không một ai hay biết.
Mãi cho đến ngày chồng Xuân mãn hạn lính trở về, thản nhiên đưa vợ con về một vùng đất xa xôi khác để làm ăn sinh sống, bỏ lại cậu học sinh Trần Lâm ngày đêm tiếc nhớ, ngơ ngơ ngẩn ngẩn như kẻ mất hồn.
Trong lúc này, Trần Lâm chỉ có một cách duy nhất để quên đi hình bóng người đàn bà luôn chiếm lĩnh tâm trí anh, đó là lao vào việc học hành thi cử, và các hoạt động ngoại khóa khác ở trường và ở địa phương.
Và cũng từ đó, Trần Lâm lại cóù thêm nhiều cơ hội thân thiết với các thiếu nữ xinh đẹp, hát hay, múa giỏi.
Trong đội văn nghệ của địa phương, nơi mà Trần Lâm thường tới lui tập dượt, đó có hai chị em Bích Hằng, Bích Hạnh đang là nữ sinh lớp mười của một ngôi trường danh tiếng.
Cùng một lúc, cả Bích Hằng lẫn Bích Hạnh đều đem lòng thương yêu Trần Lâm, khiến anh không thể khước từ và cũng cùng một lượt đáp lại tình yêu của cả hai chị em.
Chuyện tình tay ba diễn ra đã lâu ngày, tuy có kín đáo nhưng rồi cũng bị gia đình của Bích Hằng – Bích Hạnh hay biết.
Cha của Bích Hằng – Bích Hạnh tìm đến nhà Trần Lâm để gặp cha mẹ anh, kể lại toàn bộ câu chuỵên và không quên kết lụân bằng một câu hăm dọa:
- Nếu anh chị không có cách nào ngăn cản, tôi sẽ đưa nội vụ ra nhờ pháp luật xét xử!
Cả nhà Trần Lâm rất bối rối buồn phiền, Trần Lâm trở thành tâm điểm để mọi người chỉ trích hoặc nhẹ nhàng la mắng.
Cuối cùng, cha của Trần Lâm đã nghĩ ra được một phương cách nhất cữ lưỡng tiện, đó là đưa Trần Lâm sang nước ngoài du học!
Ngay lập tức, ba mẹ Trần Lâm khẩn trương tiến hành làm hồ sơ, giấy tãnhuất ngoại cho con trai. Nhờ vào mối thân tình quen biết rộng rãi, việc lo hồ sơ trong một thời gian ngắn nhất đối với gia đình Trần Lâm không có gì là khó.
Thế là Trần Lâm được gởi sang ở nhờ một gia đình bạn thân của ba mẹ Trần Lâm tận nước Anh xa xôi. Trần Lâm ngày đêm thương nhớ quê hương quay quắt, và nhớ lắm những mối tình đã đến trong đời…
Cứ tưởng thu xếp như vậy thì mọi việc sẽ êm xuôi để cho con trai ăn học đến nơi đến chốn,  lấy được đầy đủ bằng cấp của những ngôi trường nổi tiếng ở Anh quốc. Nhưng tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa, ba mẹ Trần Lâm không thể ngờ rằng, chỉ sau vài tháng tạm cư nơi xứ lạ, Trần Lâm lại bị chính cô con gái rượu của ông chủ nhà phải lòng. Cô yêu Trần Lâm một cách say mê đắm đuối đến bỏ ăn bỏ học từng ngày.
Ba mẹ cô gái vội vã báo tin về Việt Nam cho ba mẹ Trần Lâm hay. Hai gia đình lại thêm một phen lâm vào thế kẹt, đành chỉ biết ôn tồn hứa hẹn để cho Diễm Lan, cô con gái rượu của ông bạn già yên tâm học hành cũng là một cách giúp cho Trần Lâm có được niềm an ủi trong những ngày tháng ở xứ lạ quê người.
Cũng vào khoảng thời gian này, Trần Lâm nhận được thư nhà do chị Hài gởi sang báo tin Bích Hằng vừa mới qua đời cùng một hoang thai không biết ai là tác giả. Có lẽ vì quá xấu hổ, Bích Hằng đã tự tìm lấy cái chết cho mình và đứa con vừa mới tượng hình trong bụng. Bác sĩ pháp y đã phát giác Bích Hằng mang thai khi khám nghiệm thi thể của cô.
Gia đình Bích Hằng cũng có ý nghi ngờ tác giả bào thai đó là Trần Lâm, nhưng con gái họ không hề để lại điều gì để buộc tội anh, họ cũng không muốn làm lớn chuyện nên đành nuốt nước mắt cho qua. Ngoài sự nghi ngờ của gia đình Bích Hằng, không ai biết Bích Hằng đã thật sự có con với người đàn ông nào.
Chỉ có Trần Lâm biết đích xác ai là người đã để lại cho Bích Hằng cái bào thai oan trái đó. Nhưng Trần Lâm tự hỏi,  nếu đã như vậy thì tại sao lại chỉ có một mình Bích Hằng có thai với anh, trong khi cô em là Bích Hạnh cũng từng cùng anh chung chăn chung gối? Điều này chứng tỏ số phận mỗi người đều có sự rủi may, không thể đổ hết trách nhiệm lên người Trần Lâm được.
Chính vì có suy nghĩ đó, nên sau phút ngỡ ngàng, đau xót trước hung tin Bích Hằng không còn nữa, Trần Lâm đã tự an ủi bản thân mình và cũng nhanh chóng nguôi ngoai niềm tiếc thương cho người con gái đã một thời là người mình thương yêu, ôm ấp…
Vốn là một thanh niên thông minh, Trần Lâm chẳng mấy khó khăn để trở thành một trong số ít sinh viên Việt Nam đạt được thành tích rất cao ở trường Đại học bên đó. Và được sự tư vấn của nhiều giáo sư, Trần Lâm xin phép gia đình cho phép anh tiếp tục theo học một chuyên ngành ở Hoa Kỳ.
Một lần nữa, Trần Lâm phải tạm chia tay với mối tình nồng thắm của Diễm Lan để đi cho hết con đường học vấn. Trần Lâm phải ra đi, hẹn sẽ cùng Diễm Lan nên duyên chồng vợ khi cầm được tấm bằng tốt nghịêp trong tay. Phần Diễm Lan, cô cũng khổ sở lắm vì cái bào thai của hai người đang tượng hình trong bụng. Nhưng cuối cùng, Diễm Lan cũng đành gạt nước mắt đưa tiễn Trần Lâm.
Trước khi xa nhau, cả hai không quên nói với nhau những câu hẹn thề son sắt, hứa đợi chờ nhau dù năm tháng mỏi mòn…
Cái bào thai cứ theo ngày tháng lớn dần mà tác giả của nó thì ở tận phương trời xa tít. Vì đạo lý gia phong, vì thể diện danh giá gia đình, Diễm Lan lặng lẽ tìm đến một bác sĩ sản khoa để giải quyết mối oan trái đang đe dọa ngày đêm trong bụng.
Thời gian đầu, mối dây liên lạc giữa Trần Lâm và Diễm Lan luôn được thắt chặt, nhưng rồi dần dần nó cũng trở nên lỏng lẻo, hời hợt…
Năm tháng dần trôi qua, đến ngày Trần Lâm hoàn thành khóa học với điểm số hạng ưu, anh lại nhận được lời mời cộng tác của một công ty lớn ở tại Hoa Kỳ.
Tình yêu và sự nghiệp đè nặng trên đôi vai, Trần Lâm ở vào thế bó buộc phải gác lại chuyện hôn nhân cùng Diễm Lan để nắm lấy con đường tiến thân mà biết bao người khát khao mơ ước.
Thời gian thấm thoát thoi đưa, xa mặt cách lòng, Trần Lâm giờ đã như bóng chim tăm cá. Tin tức ngày một thưa dần, Diễm Lan gần như không còn nhận được tin tức gì từ Trần Lâm nữa, mà cô chỉ biết về anh qua những người khác kể lại.
Diễm Lan cảm thấy buồn cho thân phận mình hơn là thương nhớ Trần Lâm, bởi từ khi phá cái thai đã gần bốn tháng xong rồi thì tình yêu của Diễm Lan dành cho Tràn Lâm cũng không còn mặn mà, nồng thắm như trước nữa.
Và bây giờ, khi Trần Lâm cắt đứt mối dây liên lạc với mình, trong lòng Diễm Lan không hề đau đớn, khổ sở mà chỉ còn là niềm oán hận mà thôi. Và chính trong tâm trạng đó, Diễm Lan đã nhanh chóng nhận lời kết hôn với anh bác sĩ người Việt Nam một cách dễ dàng không cần đắn đo suy tính gì hết.
Về phần Trần Lâm thì con đường sự nghiệp cứ lên như diều gặp gió. Sau khi nhận một chức vụ không nhỏ trong công ty, anh tỏ ra xuất chúng với nghề nghiệp chuyên môn của mình và đem lại không ít lợi nhuận cho công ty ngay thời gian đầu về cộng tác.
Lúc mới sang Hoa Kỳ, sống một mình nơi xứ người với nỗi niềm bơ vơ hoang vắng, đôi lúc Trần Lâm cảm thấy đó là một điều bất hạnh. Thời gian đầu anh còn liên lạc thư từ với Diễm Lan làm điểm tựa tâm hồn, tin thư qua lại cũng xoa dịu được phần nào niềm cô đơn trống trải. Cho đến khi sự xa cách đã làm cho tình cảm nguội lạnh dần dà thì Trần Lâm đã gần như hoàn toàn chán nản, không còn chút hứng thú nào để viết tiếp những lá thư cho người yêu từng thề non hẹn biển.
Lúc này, khi sự nghiệp đã vững chắc, khi Trần Lâm có thể quay về Anh quốc để thực hiện lời hứa với Diễm Lan, thì trong lòng anh đã hoàn toàn không còn đọng lại chút nào tình yêu dành cho Diễm Lan cả.
Ngoài giờ làm việc, thời gian còn lại trống vắng không biết phải làm gì. Với khả năng âm nhạc sẵn có, Trần Lâm gia nhập vào một ban nhạc đại hòa tấu để cùng tập dượt và thỉnh thoảng trình diễn chung trước công chúng hoặc đài truyền hình để tìm lấy niềm vui.
Những tưởng như vậy cuộc đời lưu lạc của Trần Lâm sẽ bình yên trôi qua, và đến một lúc nào đó sẽ chính thức cặp bờ hạnh phúc. Nào ngờ, duyên nghiệp nặng nề vẫn cố tình đeo đuổi chưa chịu buông tha cho anh một bước. Trần Lâm lại rơi vào cái bẫy khốn khổ của tình yêu với cô đầm trẻ Jannet vốn là nữ nhạc sĩ thổi sáo trong ban đại hòa tấu mà anh đang tham gia biểu diễn.
Cô nhạc sĩ trẻ đẹp gốc Đức này có khuôn mặt và dáng dấp rất đỗi diễm kiều, lại thêm tánh tình trầm mặc ít nói, hệt như bản chất của những phụ nữ Á Đông. Cô ta ngã trong cơn vũ bão ái tình với Trần Lâm vào một buổi trưa nóng bỏng tại một khách sạn sang trọng trong dịp chuẩn bị cho một buổi đại hòa tấu ban chiều.
Trần Lâm cùng Janet hầu như quên đi mọi điều mọi vật chung quanh, quấn quít bên  nhau ân ái mặn nồng cho đến ngày Jannet bình thản nói cho chàng biết:
-  Tụi mình sắp có baby!
Trần Lâm chưa kịp nói gì thì Janet lại thủ thỉ bên tai:
-  Nếu honey không muốn tiếp nhận điều này thì đừng quan tâm đến nữa! Thật ra em cũng chẳng muốn như vậy, có baby trong lúc này thiệt là kẹt, phải không? Em chưa chuẩn bị gì cả, lại thêm cha mẹ em cũng hủ lậu quá trời. Thôi, để đó rồi em tính. Dễ mà honey!
Đầu óc Trần Lâm lúc này tự nhiên lại quay cuồng nhớ đến chuyện Bích Hằng quyên sinh với cái thai trong bụng năm nào, nên chẳng mấy để ý đến lời thỏ thẻ của Jannet. Anh chỉ ậm ừ cho qua.
Sau khoảng một tháng Jannet cố ý lánh mặt Trần Lâm, bất ngờ cô gọi cho anh vào một chiều cuối tuần thật đẹp:
-  Honey! Mình có thể gặp nhau lại rồi. Mọi chuyện coi như êm thắm cả. Từ nay em không còn có gì phải lo ngại nữa. Hãy đến quán Con Bò Tót cũ với em nghe honey! I Love you!
Nói rồi Jannet cúp máy,  chẳng để cho Trần Lâm nói thêm lời nào. Gặp lại nhau,   Trần Lâm biết rằng Jannet đã không còn giữ cái thai trong bụng, cô đã phá nó đi sau ba tháng có bầu.
Khi biết rõ rệt Jannet đã giết đi một thai nhi mang giọt máu của mình mà thái độ cô lại thật dửng dưng không một chút buồn đau hay tiếc nuối, tự nhiên Trần Lâm vô cùng bất mãn. Từ đó, anh mất hẳn hứng thú với người nữ nhạc sĩ tài ba, sắc đẹp cá lặn chim sa mà anh đã có lần chủ tâm muốn được yêu thương gắn bó suốt đời, trong khi Jannet, như phần lớn các cô gái phương Tây, chỉ xem anh như một người tình chăn gối, đến với nhau trong những cơn thác loạn ái tình, không một chút tình nghĩa keo sơn gắn bó.
Từ đó, hai người thỉnh thoảng vẫn chạm mặt nhau trong các buổi hòa nhạc bình thường, nhưng Trần Lâm thẳng thắn khước từ những cuộc hẹn hò chăn gối với Jannet, anh cũng không hề khó chịu hay ghen tương khi biết Janet ngang nhiên hò hẹn với những người đàn ông khác.
 
***
 
Vào một đêm sau buổi hòa nhạc, bất ngờ Trần Lâm nhận được bó hoa tươi từ một người cho biết từng đến tham dự những buổi hòa nhạc có tên anh. Hoa tặng là một việc bình thường đối với hầu hết những nhạc sĩ tài danh trong ban đại hòa tấu được người nghe yêu thích gởi cho, nếu Trần Lâm không nhận thêm một bao thư dán kín với hàng chữ viết rất đúng chính tả và nét chữ rất Việt Nam:
“Anh Trần Lâm thân mến!
Không ngờ em gặp lại anh nơi đây. Chắc chắn anh sẽ ngạc nhiên thật nhiều. Em đã từng tham dự rất nhiều buổi hòa tấu có sự hiện diện cùng tiếng kèn đầy hấp dẫn của anh. Em đã cùng với chồng em sang Hoa Kỳ từ nhiều năm nay, nhưng không ngờ anh cũng đang sống cùng em ở đất nước này. Em hiện cư ngụ tại bang…. Đây là số điện thoại của em. Nếu không ngại, mong anh gọi cho em. Rất muốn nghe lại tiếng nói của anh như khi xưa còn ở quê nhà.
Thân mến,
Kiều Xuân”
Bức thư ngắn gọn nhưng lại làm cho Trần Lâm dậy lên bao nhiêu điều xúc cảm với những rung động cuồng điên của tuổi chập chững bước vào ngưỡng cửa cuộc đời. Như một khúc phim được đem ra chiếu lại rành rẽ như mới hôm qua trong đầu.
Trần Phong nhột nhạt nhớ lại những hình ảnh ngụp lặn điên cuồng trong vòng tay người đàn bà một con tràn đầy sức sống cùng những khát khao nghiến ngấu mà cô đã biểu lộ vào mỗi lần có dịp cùng Trần Lâm lén lút ân ái trao tình.
Trần Lâm định bụng không gọi cho Kiều Xuân như cô đã yêu cầu mà sẽ viết cho vợ chồng cô một cái Post Card đúng với tư cách xã giao thăm hỏi, rồi thôi!
Nhưng một buổi sáng, lúc Trần Lâm còn chưa ngủ dậy thì Kiều Xuân đã  tự gọi đến cho anh. Sau cú điện thoại ngắn ngủi, Kiều Xuân đã lừng lững xuất hiện ngay trước ngưỡng cửa nhà Trần Lâm. Thì ra Kiều Xuân từ lúc bất ngờ nhìn thấy Trần Lâm biểu diễn trong ban nhạc, đã dốc lòng để truy tìm được chính xác địa chỉ, số điện thoại của Trần Lâm. 
Sáng nay Kiều Xuân đã tìm tới nhà và gọi cho Trần Lâm khi đứng ngay trước cửa. Cho nên vừa cúp máy là Kiều Xuân đã hiện diện y như có phép thần thông biến hoá.
Chuyện gì sẽ phải xảy ra với một chàng trai trẻ tuổi đào hoa xung động với một thiếu phụ thường phải dồn nhịn những cơn bão tình vì thường xuyên xa chồng, thêm nữa, Kiều Xuân và Trần Lâm đã từng có với nhau những lần hẹn hò tràn đầy ân ái? Hai kẻ cô đơn xa gia đình, xa tổ quốc, gặp lại nhau như cá gặp nước. Có là những kẻ bại liệt, họ mới có thể chế ngự được cơn thịnh nộ của xác phàm.
Cuồng loạn rồi thì cũng đến lúc họ phải nghỉ ngơi. Họ kể lại cho nhau nghe những vấn vương dằn vặt từ phút phải xa nhau cho đến bây giờ. Và điều trọng đại đối với Trần Lâm hơn cả là Kiều Xuân, sau những phen ngụp lặn mải miết trong thú vui xác thịt thầm lén với anh, cô cũng đã mang thai!
Nhưng để tránh cho chồng khỏi sự ngờ vực có thể đưa đến thảm cảnh tan nát gia đình, Kiều Xuân đã tự tìm cách phá cái thai trước khi nó kịp tố cáo rõ ràng với chồng về kết quả cuộc tình vụng trộm.
Nghe Kiều Xuân nhắc đến chuyện này, Trần Lâm chỉ còn biết thở dài ngao ngán và tự hỏi tại sao vì  cứ  mãi vô tình mà anh đã gây nên nhiều điều nhẫn tâm như vậy? Ít lắm cho đến ngày hôm nay, đã có bao nhiêu người đàn bà đã có thai với anh rồi tự ý hủy hoại bào thai vô tội như  tự ý xóa bỏ một trở ngại chưa có khả năng hiện diện hoặc chống đối trong đời sống.
Trước hết là cô bạn học tên Linh, rồi đến chị Kiều Xuân rồi đến Bích Hằng, rồi Diễm Lan, rồi Jannet  đã quá rõ ràng với những vụ phá thai mà họ có dịp để nói cho Trần Lâm được biết. Còn những  cuộc tình sớm nở chiều tan, ù ù cacï cạc hững hờ với biết bao cô gái khác mà thực sự Trần Lâm cũng không sao nhớ hết; hay những người đàn bà bán buôn xác thịt trên những khúc quanh cuộc đời mà Trần Lâm đã có lần ghé lại mua vui trong phút chốc. Tất cả những chuyện tình diễn ra từ hồi còn ở quê nhà cho tới khi lưu lạc tha phương mà Trần Lâm không tài nào có thể nhớ hết.  Hoặc họ không còn dịp nào tiết lộ với anh thì sao? Kể làm sao cho hết được trên những đầu ngón tay! Nói làm sao cho đủ những con số thương vong oan nghiệt của những thai nhi vô tình vô tội mà chính Trần Lâm là thủ phạm chủ yếu để lại trong thân thể của những người đàn bà đã hiến dâng thân xác cho anh trong những cơn khát khao dục vọng vì cái mã, cái tài văn nghệ trí thức, cái hào hoa phong nhã, ăn nói duyên dáng, cái mệnh số đào hoa của anh?
Chừng đó năm tháng vào đời là chừng đó những người đàn bà đã cùng Trần Lâm chung chăn chung gối, và chừng đó những hài nhi không hề được quyền lên tiếng khóc chào đời, để rồi mãi mãi phải ngậm ngùi trôi dạt thiên thu trong cõi u minh tăm tối, không được sinh ra để nhận lấy kiếp người, cũng không được quyền ghi danh lại ở sổ trời để còn cơ hội tái sinh theo dòng thiên mệnh.
Những oan hồn uổng tử đó rồi sẽ phiêu bạt nơi đâu trong suốt cõi ta bà. Chúng sẽ trở thành những hồn ma bóng quế vất vưởng từ những bờ bụi khóm cây, lang thang đây đó đêm ngày, bơ vơ khốn khổ, đói lạnh trăm chiều mà không một ai ngó ngàng chăm lo săn sóc, không hề có ai có cách nào cải hoàn được mệnh số cho chúng để chúng mãi mãi là những vong hồn!
Vẫn biết rằng hàng năm trên dương trần hiện thế đều có những dịp lễ xá tội vong nhân, những lễ lạc cầu siêu cho trăm họ, những lễ vật bố thí ủi an cho các oan hồn bạc mệnh, nhưng nào phải oan hồn nào cũng nhận được ân siêu thoát nếu phước báu biệt nghiệp tích tụ chưa đủ chưa đầy. Chúng sẽ trở thành những hồn ma trôi sông lạc chợ, sẽ trở thành loại cô hồn các đảng phân tán đó đây, oan hồn nào nếu có nhân có đức thì an nhiên tu tịnh để mong được tái sinh. Nếu phước báu không dày, có khi biến thành ma vương quỷ dữ, tản mạn quấy phá kinh động trăm họ ngàn nơi mà rõ rệt nhất là ngày đêm đeo đuổi theo chính những người mẹ, người cha đã nhẫn tâm tiêu diệt đi cơ hội để cho chúng được nhận lấy kiếp người.
Những oan hồn này chẳng khác chi những đứa trẻ sơ sinh, cũng lớn dần theo năm tháng, cũng phát triển hoàn bị hệ thống tư tưởng vô minh. Có khác chăng là chúng không bao giờ có được cơ hội hiện tiền để tham dự vào thế giới hữu hình của triệu triệu con người trên dương trần tại thế. Tội nghiệp chúng biết bao!
Trần Lâm được sinh ra và lớn lên trong một gia đình đàng hoàng, lại được ăn học và dạy dỗ đạo lý nên người cho nên anh hiểu được điều này rất rõ rệt. Trần Lâm tự biết, cho dù không cố ý, anh cũng đã gây nên bao nhiêu là chướng nghiệp oan trái, đã gián tiếp tiêu diệt bao nhiêu là mầm sống mang chính máu thịt của mình.
Cho đến hôm nay khi hiểu ra thì mọi điều đã dĩ lỡ. Trần Lâm chỉ còn biết ăn năn và đón đợi những tai ương nghiệp báo rồi đây sẽ tuần tự giáng xuống đời mình, Trần Lâm biết đó là điều mà anh không thể tránh khỏi.
Từ ngày gặp lại Kiều Xuân trên đất Mỹ, hai người lưu luyến không nỡ rời nhau. Nhưng tỏng thâm tâm Trần Lâm không muốn kéo dài cuộc tình vụng trộm đó nữa, bởi vì anh rất sợ một ngày nào đó lại có thêm một đứa bé không được phép chào đời.
Vả lại, lúc này Trần Lâm cũng đã quá chán chường những cuộc tình mây mưa chóng vánh, anh thấy mình cần phải có một gia đình đàng hoàng, cần phải cưới vợ, cần phải có con để chấm dứt những ngày, những đêm tâm hồn trống trãi.
Mặc dù đã đi qua không biết bao nhiêu mối tìnhặmc dù đã được gần gũi với biết bao cô gái trẻ trung, xinh đẹp, nhưng không hiểu sao trong lòng Trần Lâm vẫn mang nặng hình bóng của Kiều Xuân. Đôi lúc Trần Lâm ao ước, giá như Kiều Xuân là người tự do, anh sẽ không ngại gì miệng đời dị nghị “vợ già chồng trẻ” mà sẵn sàng cưới Kiều Xuân về làm vợ hẳn hoi. Nhưng thật buồn, bây giờ đây vợ chồng Kiều Xuân vẫn đang sống bên nhau, mà Trần Lâm lại khong thể nào dứt ra khỏi cô ấy được.
Trong lúc đó, công ty Trần Lâm mở chi nhánh ở Việt Nam và cần người về đó quản lý. Nhân dịp này Trần Lâm xung phong gánh lấy trách nhịêm đó, để được trở về sinh sống ở quê nhà, và để thoát khỏi mối tình tội lỗi với Kiều Xuân.
Nhưng có lẽ số phận đã gắn kết hai người với nhau, cho nên trong khoảng thời gian Trần Lâm còn đang lo các giấy tờ, thủ tục thì chồng của Kiều Xuân mất do tai nạn xe hơi.
Kiều Xuân đau đớn, vật vã lắm nhưng sau đó cô lại cảm thấy trước mắt mình đang mở ra một con đường mới, đầy hoa thơm cỏ lạ và réo rắc nhạc tình. Kiều Xuân nói thẳng sẽ theo Trần Lâm về Việt Nam.
Trần Lâm tất nhiên không phản đối. Hai người chính thức đến với nhau ngay khi còn trên đất Mỹ. Ngày trở về Việt Nam, họ đã là một cặp vợ chồng hợp pháp, nên gia đình Trần Lâm cũng không thể có ý kiến gì được nữa.
Nhưng công bằng mà nói, mặc dù Kiều Xuân lớn tuổi hơn Trần Lâm rất nhiều, tuy nhiến do tạng người, cộng thêm việc cô rất biết giữ gìn và tôn tạo nhan sắc của mình, và cuộc sống của cô luôn thoải mái nên trông Kiều Xuân vẫn rất trẻ trung, so với Trần Lâm không hề có sự chênh lệch nào đáng kể.
Vợ chồng Trần Lâm về nước, sống đời sống giàu sang, ấm cúng. Đứa con riêng của Kiều Xuân giờ đã lớn nên cô không vướng bận gì, đôi vợ chồng Trần Lâm – Kiều Xuân sung sướng hưởng hạnh phúc bên nhau như một đôi vợ chồng son thực sự.
 
***
 
Một năm sau Kiều Xuân sanh cho Trần Lâm một đứa bé trai bụ bẫm, kháu khỉnh vô cùng. Thằng bé giống Trần Lâm như đúc khiến anh như mê mẩn. Lúc này, gia đình vợ con mới là điều quan trọng nhất đối với Trần Lâm, sự nghịêp đã bị đẩy lùi xuống vị trí thấp hơn một chút.
Đứa bé hay ăn chóng lớn, nhưng không hiểu sao vào những đêm khuya nó thường bị giật mình thức giấc và khóc thét như có điều gì đó đau đớn lắm. Nó như bị động kinh, cặp mắt trợn trắng hoảng hốt, chừng như nó vô cùng kinh sợ một cái gì trong cơn say ngủ.
Mấy lúc ban đầu, vợ chồng Trần Lâm cho rằng trẻ con thường hay khóc đêm vì những nguyên nhân dễ hiểu bình thường. Hai vợ chồng không quản ngại thời giờ hoặc tiền bạc, sẵn sàng đưa đứa con trai yêu quí đến chữa trị tại những phòng mạch nhi đồng của các danh y để tìm ra chứng bệnh. Nhưng không có vị bác sĩ nào khám phá ra được nguyên nhân nào đặc biệt, ngoài những lời dặn dò săn sóc như thông lệ dành cho các trẻ em còn ở tuổi lên ba.
Khoảng sáu tháng sau, vào một buổi trưa giữa thanh thiên bạch nhật thì đứa trẻ đột ngột chết khi Kiều Xuân vừa tắm cho nó xong.
Hôm ấy cũng như mọi ngày, Kiều Xuân pha nước ấm rồi tắm táp cho con thật sạch sẽ. Xong xuôi, cô bế thằng bé đặt nó nằm ở trên giường nệm, chưa kịp mặc quần áo cho nó thì nghe có tiếng chuông gọi cổng. Qua khung cửa kiếng, Kiều Xuân thoáng thấy dáng người phụ nẳntớc cửa nhà mình, cô vớ chiếc khăn quấn cho thằng bé rồi chạy ra ngoài.
Thì ra đó là một người tìm nhầm nhà, thân nhân của họ trước kia từng sống ở đây, nhưng sau này đã bán lại nhà này cho Trần Lâm mà họ không biết. Chuyện trò cùng người phụ nữ chưa đầy mười phút, lúc trở vào nhà, Kiều Xuân hốt hoảng khi phát hiện thằng bé không còn thở nữa mặc dù thân nhiệt vẫn còn.
Thất kinh hồn vía, Kiều Xuân chụp điện thoại kêu cứu tứ tung, từ Trần Lâm đến xe cấp cứu, đến các vị bác sĩ nhi khoa quen biết với gia đình...
Trần Lâm nhận được hung tin, vội vã bỏ tất cả công việc để chạy về nhà, khi ấy đã có một vài lực lượng cấp cứu tới trước rồi. Họ đã không cứu được thằng bé, hay nói cho đúng hơn là đứa bé đã chết trước khi Kiều Xuân gọi điện báo với họ.
Xác thằng nhỏ được được đưa đi khám nghiệm để tìm ra nguyên cớ qua đời. Sau tất cả mọi thủ tục giảo nghiệm hiện đại nhất, các chuyên viên liên hệ chỉ có thể ghi trong tờ giấy khai tử mấy hàng chữ:
- “Chết vì nghẽn mạch máu não”!
Chôn cất tươm tất cho đứa con trai yêu dấu vừa xong thì Kiều Xuân và Trần Lâm ngơ ngẩn giống như hai kẻ mất hồn. Đêm ngày biếng ăn mất ngủ, ủ rũ buồn phiền khiến việc làm hàng ngày trong công ty không được hoàn hảo như trước nữa, đến nỗi Tổng giám đốc ở tận Hoa Kỳ phải nhiều lần nhắc nhở, cảnh cáo.
Chán nản, buồn phiền và không còn đủ sức lực để điều hành công việc nữa, Trần Lâm tự ý xin thôi việc để không làm ảnh hưởng xấu tới công ty. Có việc làm hay không với vợ chồng Trần Lâm cũng không quan trọng mấy. Bởi vì tiền bạc, của cải trong gia đình họ không sợ thiếu.
Để thay đổi không khí sống, để né tránh ngôi nhà có nhiều kỷ niệm của đứa con xấu số, vợ chồng Trần Lâm thường tổ chức những chuyến đi chơi xa bằng chiếc xe du lịch đời mới của mình.
Họ thường lái xe rong ruổi đường xa, khi thì Vũng Tàu, khi thì Phan Thiết, Phan Rang, Nha Trang, Đà Lạt… Họ đi hết nơi này tới nơi khác để mong muốn mua được niềm vui.
Có lúc Trần Lâm lái xe chạy suốt trong đêm hoang vắng, tìm đến những nơi danh lam thắng cảnh, ngừng xe lại ngủ qua đêm ở một khách sạn hoặc nhà trọ nào đó ven đường, hoặc chỉ để ngồi im lặng trên xe tận hưởng thú tiêu dao mây nước nên thơ hữu tình.
Rất nhiều lần Trần Lâm lặng lẽ lái xe ban đêm, trong lúc Kiều Xuân rũ đầu ngồi ngủ gà ngủ gật ở ghế bên, bất chợt cả hai cùng nghe rất rõ có nhiều tiếng trẻ con léo nhéo nô đùa trong lòng xe trống vắng phía sau.
Hai vợ chồng giật mình vội bật đèn trong xe, ngoái đầu nhìn lại thì những hàng ghế phía sau thốt nhiên hoàn toàn im vắng, tiếng trẻ nít nô đùa thoắt nhiên mất hẳn. Họ ngỡ rằng cả hai, có lẽ vì quá thương nhớ đứa con đã chết nên có ảo giác như vậy mà thôi. Nhưng khi tắt đèn trong xe, tiếp tục lái đi thì lại nghe như có cả đám trẻ con đứa khóc đứa cười réo lên cực kỳ inh ỏi.
Vợ chồng Trần Lâm là những người không dễ dàng tin tưởng vào những chuyện hoang đường giả tưởng hồn ma bóng quế, nhưng quá nhiều lần cả hai đích thân nghe rõ tiếng ồn ào léo nhéo của trẻ con trong chính chiếc xe của mình, Trần Lâm và Kiều Xuân cũng có phần ái ngại mà chẳng biết phải làm sao.
Có một lần họ lái xe lên vùng cao nguyên Đà Lạt, bây giờ nơi đây đã phát triển thành một thành phố du lịch có rất đông khách mỗi năm. Tình cờ, Trần Lâm gặp được mấy người bạn học chung hồi còn bên Anh quốc, và trong cuộc nói chuyện, có người vô  tình lên tiếng:
- Anh chị giờ không vướng bận gì, sao không ra đây mở một nhà hàng khách sạn cho vui? Nghề này cũng đang trên đà phát triển.
Trần Lâm vì đã bắt đầu thấy nản những ngày rong ruổi đường xa, nên khi vừa nghe bạn nói anh đã vồ lấy ý tưởng đó ngay.
Tôi hôm ấy Trần Lâm về bàn với vợ:
- Mình bây giờ thật sự không cần phải làm gì cũng đủ sống tới già, nhưng nếu không có việc gì để làm thì cuộc sống sẽ nhàm chán, buồn tẻ lắm. Bởi vậy anh tính vầy, em xem được không nhé?
Kiều Xuân ngước đôi mắt mệt mỏi lên nhìn chồng chờ đợi.
- Anh sẽ tìm mua lại hoặc xem xét mảnh đất nào đắt địa có thể xây dựng nhà hàng khách sạn, mình sẽ mở một cái để em quản lý. Em đồng ý không?
Kiều Xuân gật nhẹ đầu:
- Sao cũng được! Có khi có việc để làm, để quan tâm sẽ bớt cô đơn buồn bã hơn đó anh à!
Được lời như cởi tấm lòng. Trần Lâm vội vã vẽ ra viễn cảnh của mình sau nhiều năm nữa. Hai vợ chồng tính toán thật nhanh chóng rồi trở  về Sài Gòn thu xếp công việc, tiền bạc để bắt tay ngay vào dự án xây dựng nhà hàng khách sạn ở Đà Lạt.
Không bao lâu sau mọi việc hoàn tất, khách sạn Lâm Xuân chẳng mấy chốc được sự quan tâm mến mộ của rất nhiều người, công việc làm ăn của vợ chồng Trần Lâm phất lên như diều gặp gió.
Cũng vì vậy, Trần Lâm và Kiều Xuân có phần vơi đi những nỗi buồn rầu đau khổ vừa qua. Nhưng hình như số phận vẫn không chịu buông tha vợ chồng họ, thỉnh thoảng trong đêm, Kiều Xuân và Trần Lâm vẫn thường nghe tiếng trẻ con khi thì nô đùa khi thì quấy khóc, lúc xa lúc gần, lúc như thực lúc như mơ.
- Không lẽ nhà mình có ma?
Một Lần Kiều Xuân run run hỏi.
Trần Lâm gạt phắt đi:
- Em đừng có nghĩ bậy, ma gì mà ma, chắc có lẽ vợ chồng mình vì quá nhớ thương con nên sinh ra một thứ ảo giác giống như thật vậy thôi. Anh tin một thời gian nữa khi mọi việc nguôi ngoai thì sẽ trở lại bình thường, rồi mình lại sinh thêm những đứa con khác, được mà em!
Mặc dù được Trần Lâm hết lời động viên, an ủi, nhưng Kiều Xuân vẫn không sao an lòng cho được. Trong giấc ngủ của cô luôn lảng vảng những bóng dáng trẻ con. Và cả khi thức, Kiều Xuân đôi lúc vẫn bị giật mình vì tiếng khóc, tiếng kêu của chúng.
Một đêm, Trần Lâm có việc phải về lại Sài Gòn, một mình Kiều Xuân ở trong ngôi nhà rộng, thênh thang vắng lặng… Cô tính toán sổ sách đến hơn mười giờ đêm, ngáp dài mấy cái rồi tắt đèn đi ngủ.
Không biết ngủ được bao lâu, Kiều Xuân chợt nghe tiếng khóc thét của đứa bé ở dưới nhà, cùng lúc có tiếng gọi:
- Mẹ ơi! Mẹ ơi!
Kiều Xuân giật mình ngồi dậy, vội vã chạy xuống lầu. Lúc này tiếng đứa bé lại vẳng lên phía ngoài hành lang:
- Mẹ ơi! Mẹ ơi!...
Kiều Xuân mở cửa đứng nhìn quanh quất. Căn nhà cô được xây dựng cheo leo trên sườn dốc, xung quanh là những cây thông buồn reo cùng ngày tháng. Kiều Xuân đứng nhìn ra nhưng không trông thấy được gì ngoài những bóng cây đen thẫm trong màn đêm.
- Mẹ ơi! Mẹ ơi!
Tiếng đứa bé lại vang lên như thúc giục, như sợ hãi, như nó đang rất cần đến sự giúp đỡ của Kiều Xuân. Trong lòng Kiều Xuân dậy lên một sự xót xa kỳ lạ, giống như người mẹ đang đứng trước tai họa của con mình.
- Mẹ ơi! Mẹ ơi!
Đứa bé lại gọi với giọng khẩn thiết.
- Mẹ đây, con ơi! Mẹ đây! Con ở đâu?
Kiều Xuân như người mộng du, cất những bước chân không định hướng. Hai cánh tay cô đưa thẳng về phía trước như muốn nâng đỡ đứa con bé bỏng của mình. Chiếc áo ngủ mỏng mang, trắng toát bay bay như một cánh bướm trong đêm. Bước chân của Kiều Xuân cứ tiến mãi, tiến mãi ra tận bên bờ vực…
Sáng hôm sau, Trần Lâm đang chuẩn bị đồ đạc để quay về Đà Lạt thì chuông điện thoại reo vang:
- A lô!
Nghe tiếng Trần Lâm, bên kia đầu dây hỏi với vẻ rụt rè:
- Xin lỗi, ông có phải là ông Trần Lâm, chủ khách sạn Lâm Xuân ở Đà Lạt?
Linh tính báo cho biết đã có điều gì đó không may xảy ra, Trần Lâm hồi hộp:
- Dạ, đúng rồi! Xin hỏi anh có chuyện gì thế ạ?
Người bên kia lặng đi một giây rồi đáp thật nhỏ:
- Chúng tôi xin thành thật chia buồn cùng ông, bà nhà ông đã qua đời!
Trần Lâm như chết sững trước cái tin quá đột ngột ấy. Anh đứng đờ người ra, không nói được lời nào.
Tiếng người bên đầu dây gấp rút:
- Ông Lâm! Xin ông hãy bình tĩnh, hãy dằn bớt nỗi đau để về lo chuyện hậu sự cho bà. Hiện tại thi thể bà nhà đang ở bệnh viện.
- Vợ tôi… vợ tôi… vì sao?...
Trần Lâm lắp bắp không tròn câu.
- Chúng tôi chưa biết nguyên nhân cụ thể, nhà chức trách còn đang điều tra. Chỉ biết là sáng sớm hôm nay có người phát hiện xác bà nhà ở cạnh nhà ông. Có lẽ bà đã bị té từ trên sườn dốc xuống thung lũng…
Trần Lâm không còn nghe được người phía đầu dây bên kia nói những gì, hai tai anh đã ù đặt, và tinh thần hoảng loạn cực kỳ.
Thật lâu sau Trần Lâm mới sực tỉnh. Anh vội vã buông điện thoại, xách hành lý chạy ra phi trường đáp máy bay về Đà Lạt.
Tang lễ của Kiều Xuân vừa hoàn tất, theo lời chỉ dẫn của một vị cao tăng đã được bạn bè anh mời giúp về chủ trì tang lễ, Trần Lâm đem di ảnh của vợ cùng với đứa con trai đã chết trước kia về chùa, mong đựơc ngày đêm cầu siêu giải thoát.
Trần Lâm không còn tìm được niềm vui nào nữa ở đời. Tâm trạng buồn chán thường trực xâm chiếm tận cùng hồn xác người đàn ông đã từng một thời huy hoàng, oanh liệt.
Sau tang lễ của Kiều Xuân, Trần Lâm mời một người bạn đứng ra giúp mình coi sóc khách sạn Lâm Xuân. Nhưng thật lạ lùng, trước đó, khách sạn luôn luôn đông khách, Kiều Xuân nhiều lần phải lựa lời để từ chối khách hàng quen thuộc. Vậy mà bây giờ nó lại trở nên vắng lặng dù đang giữa mùa du lịch, khách tham quan khắp nới đổ xô về miền cao nguyên khí hậu tuyệt vời này.
hàng chẳng bao lâu bỗng nhiên thưa thớt đơn đặt hàng. Có điều lạ là cửa tiệm do Triệu Phong là người ra vốn, chàng tham dự rất ít vào công việc điều hành. Việc quản Đến nỗi, người bạn của Trần Lâm không ngừng thốt lên lời than thở:
- Thật không thể hiểu được tại sao. Mọi việc đang tiến triển khả quan, bỗng dưng xảy ra những việc hết sức khác thường. Anh nói cho tôi biết lý do nào cùng một lúc các tour khách nước ngoài đã đặt phòng đều thông báo hủy với những lý do thật là kỳ lạ...
Chỉ có trời mới biết được tại sao! Trần Lâm cứng họng trước những lời thở than của của người bạn đang cùng quản lý.
Vợ mất, khách sạn không đón được khách, Trần Lâm càng rơi vào tình cảnh buồn chán nhiều hơn, thời gian rảnh rỗi của anh cũng nhiều hơn. Nhưng giờ đây, Trần Lâm không còn dùng thời gian rảnh để tìm tới các khu vui giải trí, các tụ điểm ần ào, bởi anh đã quá chán ngán cuộc đời, không thiết gì đến những thú vui trần tục nữa.
Dạo này Trần Lâm thỉnh thoảng hay ghé chùa, nơi có để di ảnh vợ con, thắp cho họ một nén hương lòng tưởng niệm với những lời thì thầm thương nhớ thiết tha.
Một lần sau khi thắp nhang tưởng niệm vợ con,  trần Lâm chậm rãi cất bước ra sau vườn để ngắm cảnh tĩnh lặng của nhà chùa. Bất ngờ anh gặp sư ông trụ trì đi tới.
Sư ông lên tiếng vồn vã hỏi han:
- Ông Lâm hôm nay đến thắp nhang cho bà nhà và cháu?
Trần Lâm chắp tay trả lễ:
- Dạ kính bạch sư ông!
Sư ông đon đả:
- Hôm nay ông Lâm có bận rộn gì lắm không? Có thể ở lại đây trò chuyện cùng tôi một lúc được không?
Trần Lâm lễ phép chắp tay:
- Thưa Sư ông được chứ ạ!
Vị chân tu với một kẻ phàm trần thong dong ngồi xuống cái bàn gỗ nhỏ dưới tàn cây xum xuê bóng bát, trước mặt là hai tách trà thơm nghi ngút khói, bên cạnh là bàn cờ tướng với những con cờ lăn lóc, xô lệch lung tung.
Một lát, sư ông chậm rãi mở lờ:
- Không biết tôi có nên nhắc cho ông Lâm biết rõ một điều...
Trần Lâm ngước nhìn khuôn mặt nhân từ thanh thoát của vị cao tăng một cách tín cẩn cung kính, anh đáp:
- Bạch sư ông, xin ngài cứ tự nhiên dạy bảo, tôi xin hết lòng biết ơn.
Ngừng một lát sư ông tiếp lời:
- Có phải lúc này công việc làm ăn của ông bỗng kém phần hanh thông phát đạt?
Trần Lâm không giấu được vẻ ngạc nhiên:
- Bạch sư ông, đúng là như vậy! Sao ngài biết quá rõ?
Sư ông cười nhẹ không trả lời câu hỏi của Trần Lâm.
- Từ nhiều năm nay ông luôn luôn gặp phải nhiều rủi ro buồn phiền?
Sư ông hỏi tiếp.
Trần Lâm cúi mặt, cất giọng buồn buồn:
- Bạch sư ông, ngài đã nói rất đúng. Không biết có phải tại con...
Sư ông nhè nhẹ khoác tay:
- Ông khoan nói ra điều gì, hãy để cho tôi hỏi trước.
Ngừng một lát, sư ông hỏi:
- Nhà cửa của ông ở chỗ nào, có thể cho tôi biết được không?
Trần Lâm không ngần ngại, lấy ra tấm danh thiếp có in rõ địa chỉ, số điện thoại của nhà mình kính cẩn trao cho sư ông.
Cầm lấy tấm danh thiếp, sư ông thong thả đứng lên như có ý cáo từ:
- Ngày mai tôi sẽ nhờ người đưa đến thăm nhà ông. Ông có ngại về chuyện đó không vậy?
Trần Lâm vui vẻ gật đầu:
- Bạch ông, tôi rất vinh dự và mừng rỡ được đón tiếp ông ở nhà mình
Trần Lâm thầm đoán sư ông đã muốn chấm dứt câu chuyện, nên anh đứng lên vội vã cúi chào rồi lầm lũi đi tới chỗ đậu xe.
 
Ngày hôm sau, đúng như lời hẹn, sư ông có mặt tại nhà Trần Lâm khi trời còn sớm. Trần Lâm chuẩn bị đón tiếp sư ông với tất cả sự thành tâm của một tín đồ khiêm nhượng bằng một bình trà thơm thật đậm do chính tay anh pha sẵn và hai ba loại bánh ngọt để tiếp đãi sư ông.
Nhưng khi tới, sư ông không hề đặt chân vào nhà, chỉ đứng quan sát từ bên ngoài. Đôi mắt sư ông trở niên nghiêm trang khác lạ như đang chú mục vào một vật gì mà Trần Lâm không thể nào nhìn thấy được.
Nắng đã khá cao, không khí bắt đầu ấm dần lên. Đứng im lặng một hồi với tia nhìn đảo quanh, rồi bất chợt sư ông quày gót ra xe, không quên dặn lại Trần Lâm:
- Lúc nào có thời gian rảnh rỗi, mời ông lại chùa cùng tôi trò chuyện cho vui.
Nói dứt câu, sư ông lên xe ra về mặc cho Trần Lâm khẩn khoản mời ông vào nhà uống chút trà ăn bánh ngọt.
Ngay chiều hôm đó, không ngăn được sự tò mò về thái độ trầm mặc khó hiểu của vị cao tăng, Trần Lâm rất nóng lòng, không muốn trì hoãn, vội vã lái xe đến chùa, thắp cho vợ con mỗi người một nén nhang như thông lệ.
Vừa quay gót trở ra, Trần Lâm thoáng thấy sư ông thấp thoáng giữa khung cửa chánh điện. Trông thấy Trần Lâm, sư ông khoát tay chỉ ra sau chùa. Trần Lâm ngầm hiểu, anh tiến đến cái bàn gỗ thô dưới gốc cây xum xuê hôm trước.
Chỉ ly nước trà đang bốc khó khói, sư ông nói:
- Uống chút trà cho thơm miệng, ông Lâm!
Trần Lâm khẽ cầm tách trà trong khi sư ông nói giọng nhỏ nhẹ:
- Ông còn nhiều phước báu lắm đó ông Lâm ạ!
Trần Lâm rất bỡ ngỡ, chưa biết vị cao tăng nhân hậu này muốn đề cập với mình về điều gì thì sư ông đã tiếp:
- Theo chỗ tôi cảm nhận, thời gian dài đã qua, ông liên tiếp tạo nên những nghiệp lực hết sức nặng nề mà ông không hề hay biết, có phải vậy không?
Trần Lâm thành kính nhìn sư ông:
- Kính bạch sư ông, quả nhiên con không hề hay biết bản thân con đã gây ra những lầm lỗi nào!
Sư ông nghiêm giọng nói:
- Nặng nề lắm ông ạ! Để tôi nói thử ông nghe vài điều. Nếu không sai, tôi sẽ nói tiếp. Nếu không đúng ông cứ bỏ qua cho, ông nhé!
Trần Lâm khe khẽ gật đầu, căng thẳng nhìn sư ông chờ đợi:
- Dạ, xin sư ông cứ nói!
Uống một hớp trà, sư ông chậm rãi:
- Ngày hôm qua, tôi đã đến thăm nhà ông và đã hiểu ra được phần nào lý do thời gian gần đây ông mãi luôn gặp xui rủi.
Trần Lâm nôn nóng ngắt lời:
- Bạch sư ông,sư ông đã hiểu ra được điều gì?
Sư ông vẫn từ tốn:
- Chẳng những tôi hiểu được mà còn cảm được, còn “thấy” được cả chúng nữa.
Nghe đến đây, Trần Lâm bắt đầu thấy gờn gợn từ các lỗ chân lông.
Sư ông chậm rãi nói tiếp:
- Tôi thấy bên trong nhà và chung quanh chỗ ông ngồi có một bầy con nít. Thái độ của chúng tỏ ra chúng rất thù ghét ông nhưng cũng thương ông ghê gớm lắm, không nỡ xa ông nửa bước. Ông có tin được lời tôi nói không vậy ông Lâm?
Trần Lâm nhìn thẳng sư ông:
- Kính bạch sư ông, con rất tin tưởng lời ngài. Nhưng có một điều con chưa đủ sức hiểu là tại sao lại có một lũ trẻ con vừa thương vừa thù ghét con ở trong nhà? Sao con không hề trông thấy chúng?
Sư ông khẽ cười:
- Làm sao ông thấy chúng được vì chúng đâu phải là người. Xin nói ngay cho ông biết, chúng chỉ là những oan hồn uổng tử đã bị giết chết một cách tức tưởi oan khiên. Chúng chính là những đứa con hoang thai của ông với những người phụ nữ mà ông từng chung chạ qua đường. Rồi những người đàn bà này, do một trở ngại nào đó, họ đã tự ý tìm cách phá thai, tức là họ đã nhẫn tâm giết chết đi chính những đứa con mang máu thịt của họ và của ông. Cho nên chúng không có cơ hội chào đời. Điều tôi nói có đúng phần nào không vậy, ông Lâm?
Đầu óc Trần Lâm như được khơi dậy toàn bộ những gì đã qua với bao nhiêu con gái đàn bà trong thời dĩ vãng. Chưa lúc nào bằng lúc này, cõi lòng Trần Lâm như tiêu điều rũ liệt. Anh cảm thấy thống khổ và hết sức ăn năn.
Trần Lâm ngước đôi mắt u uẩn nhìn vị cao tăng như một sự van xin cứu giúp.
Vị Sư già chậm rãi nói tiếp, giọng ông nhẹ nhàng thanh thoát như đang quyện trong lanø gió thoảng vi vu:
- Nói rằng chúng chỉ ở trong nhà của ông thì không đúng hẳn, mà chúng thường quấn quít bên ông. Ở bất cứ chỗ nào có ông hiện diện, chúng đều lũ lượt kéo theo ông sát nút, cả đêm lẫn ngày. Chẳng hạn như ngay trong lúc này, tại đây, ông có một chút xíu cảm giác nào là đang có nhiều con trẻ bu ở chung quanh ông không vậy?
Nghe sư ông nói, Trần Lâm nổi hẳn da gà. Buổi chiều nắng chưa tắt hẳn nhưng anh đã cảm thấy rờn rợn khắp cả thân người.
Trần Lâm khe khẽ lắc đầu, trong khi vị sư già bình thản giảng tiếp:
- Lũ trẻ đó chính là những đứa con vô hình của ông. Ông hiểu rồi chứ? Theo lề luật tự nhiên, tuy không được làm người, nhưng chúng cũng vẫn có khả năng khôn lớn theo thời gian. Chúng cũng có những xúc cảm và nhu cầu vật chất y hệt con người biết yêu thương oán hận, biết đói lạnh khổ đau, biết ganh tị sân si... Nghĩa là tâm trạng thường ngày của con người ra sao thì các oan hồn uổng tử, các cô hồn các đảng cũng diễn ra như vậy. Điều khốn khổ lớn nhất của những oan hồn này là không có con đường đi tới, cũng không có cơ hội được trở về.
Ngừng lại trong giây lát, vị sư già nói tiếp:
- Nhưng ông có hiểu rõ qui luật tái sinh nhân qủa này không đã!
Ngước đôi mắt mệt mỏi nhìn vị sư già, Trần Lâm khe khẽ lắc đầu.
Nhấp chút nước trà như để thấm giọng, sư ông nói tiếp:
- Dễ hiểu thôi ông ạ! Tôi tạm thí dụ như thế này để ông đỡ thắc mắc. Âm giới cũng không khác mấy với dương gian. Khi một ông tư lệnh chỉ định một toán quân đi làm nhiệm vụ thì ông ta đã biết những quân nhân này là ai, họ sẽ đến nơi nào, rồi bao lâu họ sẽ được gọi về. Một linh hồn bên âm giới khi đã đủ phước báu để được tái sinh đi đầu thai nhận lại kiếp người. Sổ nhà trời đã ghi như vậy. Nhưng khi vừa được thụ thai, thay vì sẽ được hạ sanh như bao nhiêu đứa trẻ bình thường khác, thai nhi này bị phá đi, bị hủy hoại. Như vậy số phận của thai nhi đó sẽ đi về đâu nếu không phải là những oan hồn uổng tử? Đi chưa được đến nơi mà trở về thì chưa có thiên lệnh, con đường đã bị bịt kín lối, chúng sẽ hóa kiếp thành cái gì nếu không phải là các âm hồn tức tưởi nhận chịu lấy số phần oan khuất. Cho đến khi hội đủ âm đức do sự hồi hướng của nghiệp lực thì sẽ được hóa kiếp tái sanh! Nhưng công đức hồi hướng từ đâu mà có, nếu không phải là do chính tâm tu tập cùng với phước báu qui tụ từ thập loại chúng sinh lẫn những người có trách nhiệm khai sinh ra nó, tức là các người làm mẹ làm cha, cho dù thai nhi đã bị hủy đi, đứa trẻ không được cất tiếng chào đời.
Nghe đến đây, Trần Lâm khiếp sợ rùng mình. Anh có cảm tưởng như vị sư già đã soi rọi đúng chân tướng lâu nay vì đời sống tâm linh hời hợt, anh đã không hề quan tâm nghĩ tới.
Trần Lâm ngắt lời vị sư già:
- Cúi xin sư ông ban cho con một lời chỉ dạy để cho con còn có cơ hội sám hối ăn năn.
Sư ông nhìn Trần Lâm bằng đôi mắt thương xót hiền từ, ông nói:
- Con người thì nhân vô thập toàn, mấy ai có được duyên cơ để mà giác ngộ. Tội lỗi thì đã xảy ra, dù kẻ lầm lỗi chẳng qua cũng chỉ vô tình. Điều quan trọng là ta phải thành khẩn ăn năn và không cố tình tái phạm.
Trần Lâm cúi đầu khẽ đáp:
- Dạ!
Vị sư già đặt bàn tay tâm từ lên vai Trần Lâm như muốn truyền sang cho anh lòng yêu thương cùng sức mạnh thần bí:
- Chuyện đã dĩ lỡ, ông cũng đừng qúa chán nản bi quan. Thượng đế bao dung, Chúa Phật lúc nào cũng có sẵn đường đi để cho đàn con dại quay gót trở về, từ bỏ bến mê tục lụy. Ông hãy thành tâm sám hối. Rồi mọi sự đen tối sẽ qua đi.
Trần Lâm khẩn khoản van xin:
- Kính bạch sư ông chỉ dạy thêm cho con phải thực hiện những gì để con chuộc lại những điều đã vô tình vấp phải.
Sư ông rót thêm chút nước trà đã nguội vào cái chung trước mặt, nhấp một ngụm nhỏ rồi nở nụ cười rạng rỡ như trẻ thơ:
- Tôi đã nói với ông rằng ông còn có nhiều phước báu, ông có biết vậy không? Phước báu là những điều lành điều thiện mà tự bản chất, ông đã đem đến cho mọi người ở chung quanh. Nếu chẳng may ông là một người đầy lòng sát sanh ti tiện, tham lam ích kỷ, quên nghĩa trọng tài, tôi e ông khó mà tránh được những hậu qủa bi thương chắc chắn sẽ sảy ra cho chính bản thân ông do các oan hồn hài nhi quay về tác loạn chứ không phải chỉ ở nơi những người thân quyến thương yêu.
Im lặng một lúc, Trần Lâm hỏi vị sư già:
- Kính bạch sư ông! Con thật tâm ăn năn sám hối. Từ nay con sẽ dốc lòng không còn vi phạm.
Vị sư già phá ra cười thành tiếng:
- Chưa đủ hẳn đâu ông ơi! Để chuộc lỗi, từ rày ông nên chú ý nhiều hơn đến vấn đề tu thân tích đức, kềm chế và từ bỏ mọi tham dục sân si, lánh dữ làm lành và hãy ân cần bố thí cho thập loại chúng sinh. Còn nữa, ông hãy nhớ thực hành thêm những điều tôi sẽ căn dặn.
Trần Lâm nói như van xin:
- Kính xin sư ông dạy con phải thêm những gì?
Sư ông chậm rãi:
- Dễ thôi ông ạ! Ngoài việc chuyên tâm ăn năn sám hối, ông cố nhớ lại đã có bao nhiêu lần ông là người gián tiếp góp phần vào những vụ phá thai. Bao nhiêu lần là bao nhiêu thai nhi đã bị hủy diệt sự sống, ông phải tìm cho chúng một con đường giải thoát, hòng giúp chúng siêu thăng tịnh độ để chúng khỏi mãi mãi là những oan vong không có đầu mối để trở về. Ông hiểu ý tôi rồi chứ?
Làm theo sự chỉ dạy của sư ông, Trần Lâm cố gắng ôn lại những đoạn đời dĩ vãng cùng những người đàn bà con gái dù có hay không có chút ân tình sâu đậm, đã hơn một lần cùng mình vầy cuộc mây mưa, từ lúc lớn khôn cho đến bây giờ.
Con số thật sự nhiều qúa, Trần Lâm không thể nào ghi nhớ trọn vẹn từng người, từng ngày từng tháng, đành âm thầm thực hiện những bài vị siêu nhiên, đặt cho mỗi bài vị một cái tên có mang họ của mình rồi tập trung đem hết lên chùa, xin vị sư già tổ chức cho một buổi lễ, kêu gọi các sinh linh uổng tử từng là giọt máu của Trần Lâm về hết nơi đây để đêm ngày hưởng chút lộc vị hương nhang no đầy ấm áp, đồng thời thường xuyên nghe lời kinh thuyết giảng để được hồi hướng tâm linh đợi đến ngày được siêu thăng siêu thoát, quên bỏ đi hết những oán hận hiềm thù quả báo với những người ruột thịt , cả với thập loại chúng sinh vô tội vô tình.
Thi hành xong các nghi thức tôn giáo, Trần Lâm quày quả trở về căn nhà tiện nghi thoắt nhiên biến thành hoang liêu hiu quạnh từ ngày Kiều Xuân chết thảm, dù trong tâm khảm của anh, nỗi niềm ăn năn sám hối đã giúp anh nghe như có nhiều phần thanh thản nhẹ nhàng.
Đột nhiên Trần Lâm nhận ra cuộc đời của mình mong manh vô vị như một cuốn phim hiện thực quay nhanh không có chút gì được coi là miên viễn. Thực thực hư hư, còn đó mất đó chẳng chút lâu bền. Hạnh phúc hay khổ đau, cùng khổ hay sang giàu, thăng trầm hay vinh nhục cũng chỉ là những giả tạm trong lòng cuộc đời.
Trần Lâm khóa trái cánh cửa nhà, từng bước chân chậm chạp trở lại trong xe, ngồi tần ngần trước vòng tay lái, ngước mặt nhìn lên bầu trời từ lúc nào đã ngập chìm vào trong đêm đen đầy những vì sao lấp lánh.
Trần Lâm thở một hơi thật dài, chiếc xe vụt biến vào lòng đêm.
Từ đó, không có ai gặp lại Trần Lâm. Nghe đâu người đàn ông đào hoa thuở trước đã dốc tâm về an thân qui ẩn thầm lặng tại một thị xã gần phía chân núi, rất ít khi tiếp xúc với thế giới bên ngoài.
Hay là anh ta cũng đã hóa ra người thiên cổ mà chẳng có ai hay?
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:16:01 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:45:05
MA-CƠ-CANH
 
Điệp buông tờ báo xuống, bất giác cô mỉm cười một mình.
- Giá như mình cũng có được một người như thế!
Số là cô vừa đọc qua bài báo nói về một phát minh hiện đại. Người ta đã chế tạo ra được một loại người máy giống y như con người, cũng có được tình cảm  vui buồn, yêu ghét như con người vậy.
Điệp mở tủ, xem lại số tiền hiện có trong sổ tiết kiệm của mình và nghĩ:
- Nếu có ai bán cho mình một người máy như vậy, mình sẵn sàng bỏ ra hết tiền dành dụm lâu nay để mua cho bằng được. Có nó rồi mình sẽ làm gì nhỉ? À, đúng rồi! Trước tiên mình sẽ đặt cho nó một cái tên. Tên gì nhỉ? Thôi đi, điều này không quan trọng, từ từ cũng được. Mình sẽ…
Địêp nằm dài ra giường, thả hồn theo những suy nghĩ viễn vông của mình rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết.
- Điệp ơi! Thức dậy mau, giờ này mà bà còn ngủ được hả? Quên hôm nay tụi mình phải làm gì sao?
Tiếng gọi giật giọng của Kiều làm Điệp thức giấc. Cô ngỡ ngàng ngồi lên dụi mắt:
- Ủa, mình ngủ khi nào vậy ta?
Kiều cười ngất:
- Bà ơi… tui sợ bà quá rồi! Công việc của tui tối mắt tối mũi, phần này tui đặt trọn vào tay bà đó, bà làm ơn khởi động giùm tui đi!
Điệp nhớ ra, vội nói:
- Ờ… mình nhớ rồi, hôm nay đi lấy dụng cụ về trang trí cửa hàng chứ gì? Bà yên tâm đi, đâu sẽ vào đây thôi mà!
Kiều đặt tay lên vai Điệp:
- Ừ, thì bởi tui tin bà nên mới giao cho bà lo liệu mọi việc đó! Cố lên nhé, mình sẽ thành công!
Điệp đăt tay lên nắm chặt tay bạn, mỉm cười mà nước mắt rưng rưng.
Kiều và Điệp là bạn thân với nhau từ nhỏ, hồi hai đứa còn sống dưới quê, nhà cạnh nhau, có món gì ngon đều để dành chia sớt cho nhau.
Rồi năm tháng trôi qua, Điệp và Kiều phải đi vào những lối rẽ khác nhau. Có lẽ số Kiều may mắn, nó lấy một người chồng hiền lành nhưng thật tài giỏi. Một tay chồng nó gầy dựng cơ nghiệp cho cả gia đình bên vợ. Cuộc sống của vợ chồng Kiều thật đầm ấm, mỗi khi tới chơi, Địêp luôn mừng cho bạn nhưng tận trong nơi thẳm sâu của tâm hồn Điệp lại cảm thấy một nỗi xa xót, một khát khao thầm lặng của riêng mình đang trỗi dậy.
Điệp đã từng yêu, từng ôm ấp thật nhiều mơ ước về một ngày hạnh phúc, nhưng cơn bão cuộc đời đã tràn qua, với ai thì không biết sao, nhưng với Điệp thì nó đã cuốn phăng tất cả, nó quật Địêp ngã lăn long lóc, nó không gây thiệt hại về nhân mạng nhưng làm Điệp bị chấn thương vĩnh viễn…
Rồi thì Địêp cũng đứng lên được, nhưng lúc này thì Điệp đã mất đi thật nhiều điều quan trọng: tiền bạc của cải dành dụm nhiều năm, lòng tin và tình yêu mãnh liệt… mất hết, chẳng còn lại gì, chỉ còn lại trong Địêp một sự cay đắng mà từng giờ từng phút Điệp phải cố gắng quên đi.
Trong quãng thời gian khốn khó ấy, Kiều chính là bờ vai cho Địêp tựa vào. Ngoài tình bạn thân thiết, Điệp xem Kiều là một ân nhân lớn của mình. Bởi vì, chính nhờ có Kiều mà Điệp mới có đủ sức để vươn lên, thoát khỏi những đám mây đen vần vũ quanh mình.
- Địêp còn nhớ ước mơ thuở nhỏ của hai đứa mình là gì không?
Một lần tự nhiên Kiều hỏi.
Địêp suy nghĩ một lúc rồi reo lên:
- A, mình nhớ rồi! Hồi đó hai đứa mình ước sau này lớn lên sẽ hùn tiền mở một tiệm bán áo cưới, đúng không?
Kiều gật đầu:
- Ừ, đúng đó! Nhưng bây giờ Điệp còn mơ điều đó không vậy? Chứ riêng mình, ước mơ ấy vẫn luôn canh cánh trong lòng…
Địêp cười cười:
- Canh cánh hả? Có khó gì đâu! Bà về nói một tiếng là ông Khánh mua cho bà cửa hàng thôi mà!
Kiều lườm bạn:
- Đừng tưởng dễ! Việc mua cửa hàng thì không khó, nhưng ai sẽ là người coi sóc nó đây?
- Thì… bà chứ ai?
Điệp nói.
- Không được! Mặc dù mình rất thích, nhưng mình không thể bỏ công việc hiện nay để thực hiện ước mơ được. Ông Khánh không đời nào chịu vậy, mà mình cũng không thể… Bởi vì mơ ước là một lẽ, cuộc sống lại là một lẽ…
Kiều tâm sự.
Điệp reo lên:
- Vậy thì mở tiệm đi rồi thuê tui về coi sóc cho!
Kiều nhìn thẳng bạn:
- Bà nói thật không đó? Nếu thật, tui làm liền!
Điệp ngớ người:
- Ủa, vậy ra bà có ý định đó thiệt hả? Không phải nói chơi sao?
Kiều ôn tồn:
- Không, mình đã từng nghĩ tới việc rủ Điệp hợp tác trong công việc này, để mơ ước của cả hai đứa mình được thành hiện thực, nhưng mình còn ngại vì hiện nay công việc của Điệp rất tốt, rủi về mở tiệm, thu nhập không bằng thì mình sẽ ái ngại lắm! Chính vì lẽ đó nên mình còn do dự chưa đề cập với Điệp…
Biết bạn đang nói chuyện nghiêm túc chứ không phải là đùa giỡn nữa, Địêp ngồi xuống bên cạnh nói:
- Nếu Kiều đã có dự tính thì thực hiện đi, mình rất sẵn sàng hợp tác với Kiều đó! Mình cũng vẫn còn nuôi mơ ước ấu thơ mà… Mình bây giờ một thân một mình, đâu có gì phải lo. Làm ăn phất lên thì túi tiền rủng rỉnh, lỡ có thất bại mình tới ăn chực nhà Kiều. Vậy cũng xong thôi mà!
Kiều không nói gì chỉ nắm thật tay bạn. Đôi khi sự im lặng lại nói lên rất nhiều điều, nhất là đối với hai người bạn gái quá đỗi gắn bó này.
Vậy là sau buổi nói chuyện đó, cộng thêm một buổi tham khảo ý kiến nhà “doanh nghịêp trẻ” Đình Khánh, chồng của Kiều, đôi bạn bắt tay vào việc thực hiện mơ ước ngày bé của mình.
Đầu tiên là việc chọn địa điểm. Cái này mất rất nhiều thời gian cũng như công sức. Hai người bạn gái cứ đèo nhau đi khắp các địa điểm mà họ cho là thích hợp, hỏi thăm, bàn bạc với người ta…
Và rồi cuối cùng Kiều và Địêp cũng sang lại được một căn phố có vị trí khá tốt. Thế là tới phần sửa sang, thiết kế…
Mấy tháng trời trôi qua, cửa tiệm cũng đã hình thành, chỉ còn việc trưng bày nữa là có thể khai trương.
Hôm nay Địêp và Kiều sẽ thực hiện khâu cuối cùng này. Các mặt hàng đã được đặt sẵn, chỉ chờ đúng thời gian là người ta sẽ đem tới giao tận nơi, hai cô chỉ phải đi mua sắm tủ bàn, vật trang trí và một thứ mà một tiệm bán áo cưới không thể thiếu, đó là những con ma-nơ-canh!
Suốt cả buổi sáng Kiều và Điệp và chọn mua đủ tất cả bàn ghế, tủ kệ cho tiệm. Mệt phờ người nhưng cả hai không ai chịu về nghỉ trưa mà kéo nhau vào một quán ăn để lát nữa tiếp tục cho xong nhiệm vụ.
Kiều vừa ăn vừa nói:
- Ê, bà còn nhớ hồi đó dì Năm bán bánh cam ở xóm thường khen hai đứa mình có giang mua bán không?
- Ừ, nhớ chứ! Hồi đó vui thiệt…
Cả hai lại rôm rả nhắc chuyện quá khứ. Những ngày ấy, hai cô bé con vẫn thường ra đầu xóm ngồi bán bánh cam giúp cho dì Năm, để dì tranh thủ gánh mấy đôi nước kiếm thêm thu nhập. Mà cũng lạ, hôm nào có hai đứa bán giúp là mâm bánh của dì Năm bán sạch sớm hơn thường lệ. Dì luôn xuýt xoa cảm ơn, và hai đứa cũng luôn háo hức được bán giúp vì bao giờ cũng được dì Năm cho ăn bánh cam miễn phí!
- Vái trời cho tụi mình làm ăn cũng tốt như bán bánh cam hồi nhỏ, há?
Điệp nhìn Kiều, mắt lấp lánh hy vọng.
Kiều với tay nắm chặt tay bạn:
- Chắc chắn là vậy rồi! Tin đi!
- Ừ, mình tin chứ! Chắc chắn…
Điệp cười, nâng ly trà đá lên cụng cái “cốp” vào ly của Kiều. Cả hai cười vang làm các thực khách ngồi gần đó tò mò quay lại nhìn hai cô gái.
Kiều dẫn Điệp vào một cửa hàng bán ma-nơ-canh lớn nhất thành phố. Điệp choáng ngợp trước cơ man những thân hình tuyệt đẹp của các nàng, các chàng ma-nơ-canh đwsng đầy trong tiệm.
Và bất chợt, Điệp nhớ tới bài báo mới đọc sáng nay, nhớ tới cái ý nghĩ ngộ nghĩnh của mình khi đọc xong bài báo đó.
Điệp mỉm cười một mình. Phải chi những anh chàng ma-nơ-canh này cũng có được những tình cảm giống như con người thì thích nhỉ? Cái tính lãng mạn lại trỗi dậy trong Điệp, thêu dệt nên những tình huống vô cùng hấp dẫn.
- Bà làm gì vậy?
Kiều hích mạnh vào tay Điệp.
Địêp giật mình:
- Làm gì đâu?
Kiều ngó bạn cười cười:
- Từ lúc bước vô cửa hàng tới giờ tui thấy bà cứ lơ ngơ làm sao ấy! Đừng nói với tui là bà đã “cảm” một anh chàng nào trong đám này nghen?
Điệp phát vào vai Kiều:
- Khùng quá bà ơi!
Kiều bật cười khanh khách.
- Thôi, không giỡn nữa, giờ tui với bà chọn hàng nghen! Mà mình chọn cho đúng cặp, cứ một nam – một nữ, Điệp há?
Điệp gật đầu. Hai người len lỏi trong đám ma-nơ-canh, xoay trở, nhìn ngắm, săm soi từng chút một.
Cuối cùng Địêp và Kiều cũng đã chọn đủ số ma-nơ-canh cần cho cửa tiệm. Hàng đã được chất lên xe, tiền bạc đã được thanh toán xong xuôi, Kiều và Điệp vui vẻ ra về.
Nhưng vừa rời khỏi quầy tính tiền, Điệp vướng phải một con ma-nơ-canh đứng gần đó. Cô lảo đảo suýt ngã.
Kiều cười:
- Anh chàng đó có cảm tình với bà rồi, Địêp ơi!
Điệp nhìn lại con ma-nơ-canh. Đó là một “chàng trai” tuấn tú. Thân thể cũng tuyệt đẹp giống như những con ma-nơ-canh đứng đầy trong căn phòng. Nhưng khác một điều, ánh mắt của con ma-nơ-canh này có một cái gì đó vô cùng sống động, một cảm giác kỳ lạ không cắt nghĩa được bỗng dưng trỗi dậy trong người Điệp.
Điệp xoay lại nói với người bán hàng mà không bàn bạc gì với Kiều:
- Chị, cho lấy thêm con này nữa!
Kiều ngạc nhiên:
- Mình đã mua đủ hết rồi mà?
Điệp cười:
- Tự nhiên mình nảy ra một ý tưởng mới! Kiều để mình lo cho…
Kiều hỏi:
- Vậy mình chọn thêm một cô nữa cho đủ cặp nhé?
Điệp xua tay:
- Không cần, không cần mua thêm nữa!
Kiều nhìn Điệp khó hiểu:
- Tiệm đồ cưới phải có đủ cặp chứ?
Điệp cười:
- Mình nghĩ ra một cách trưng bày tạo phong cách khác lạ. Kiều yên tâm đi, sẽ không sao đâu mà!
Kiều gật đầu:
- Ừ, vậy bà tự lo liệu nhe, tui tin vào con mắt thẫm mỹ của bà đó!
Thế là ngày hôm đó Kiều và Điệp đã mua đủ mọi thứ cần cho cửa tiệm.
Đứng trước căn nhà ngổn ngang đồ đạc, Kiều ngán ngẫm:
- Ngày mai tới lượt dọn dẹp và trưng bày, ngán thiệt đó nghe!
Điệp cười:
- Có gì đâu mà ngán! Bà cứ giao cho tui, yên tâm ở nhà hú hí với chồng con đi!
Kiều cười, giả bộ nịnh nọt:
- Ờ, vậy mới đúng là bạn tốt của mình chứ!
Quả đúng như lời Điệp nói, chỉ chiều hôm sau là cửa tiệm áo cưới đã được sắp xếp, trang hoàng đâu vào đó, chỉ còn mặec quần áo vào cho mấy con ma-nơ-canh nữa là xong. Mà việc này thì Địêp phải tự tay làm lấy.
Điệp rất có khiếu thẫm mỹ, điều đó cả Kiều và những người quen của Địêp đều biết, cho nên Kiều rất tin tưởng vào Điệp.
Gọi là căn tiệm nhưng thực chất nó là một ngôi nhà gồm có hai tầng, rất rộng rãi và thoáng mát. Toàn bộ tầng dưới dành cho việc kinh doanh, tầng trên là nơi Điệp ở.
Kiều thì không thể ở lại tiệm được rồi, vì cô còn có nhà cửa, chồng con. Nhưng Địêp thì khác, một thân một mình, ở nhà thuê từ bao năm nay, giờ dọn về đây vừa có người trông chừng cửa tiệm, vừa khỏi tốn tiền thuê nhà mỗi tháng, vừa khỏi đi đi về về thêm mệt.
Bởi thế, việc Điệp ở lại cửa tiệm là nhất cữ lưỡng tiện, là lẽ tất nhiên.
Đêm đầu tiên dọn về nơi ở mới, không biết vì lạ nhà, lạ chỗ hay vì nỗi nôn nao mong chờ ngày khai trương cửa tiệm mà Điệp hơi khó ngủ. Cô trằn trọc hoài giấc ngủ vẫn không chịu tới.
Buồn tình, Địêp ngồi dậy đi xuống dưới lầu bắt tay vào việc mặc quần áo cho đám “người mẫu”. Cô tỉ mỉ chọn lựa từng chiếc áo và những phụ liệu đi kèm để điểm tô cho từng cô dâu, chú rễ.
Càng làm càng thích thú, Điệp như quên cả thời gian. Từng đôi, từng đôi một sánh vai nhau đứng trước mặt Điệp. Điệp cũng cảm thấy thật hạnh phúc khi nhìn chúng.
Ngoài phố đã vắng hẳn tiếng xe cộ, xa xa có tiếng chổi quét sột soạt của những người công nhân vệ sinh làm việc trong đêm tối.
Điệp nhìn lên đồng hồ, đã hơn mười hai giờ đêm rồi! Cô đứng lên, mở cửa sổ nhìn ra bầu trời bên ngoài. Dù là đêm khuya, nhưng bầu trời ở đây vẫn không sao quyến rũ bằng bầu trời đầy sao của tuổi thơ ở một vùng quê yên bình xa lắc. Kỷ niệm chợt ùa về, và nỗi đau năm xưa cũng chợt ùa về khiến Điệp thấy lòng mình đắng chát.
Cô vội đóng cửa sổ, quay về với công việc để xua đi nỗi buồn, xua đi những hồi ức không vui.
Bây giờ thì chỉ còn mỗi một con ma-nơ-canh đơn độc này thôi. Tất cả đều đủ đôi đủ cặp, chỉ còn lại một con đơn chiếc đứng thui thủi trong góc phòng.
Bất chợt, một cảm giác kỳ lạ xâm chiếm tâm hồn Điệp. Cô cảm thấy mình thật có lỗi khi không chọn cho con ma-nơ-canh này một cô dâu xinh đẹp mà lại để nó bơ vơ.
Điệp từng nghĩ, khi nhào nặn ra cô, ông trời đã quên nhào nhặn ra một nửa của cô, thế nên bao nhiêu năm qua Điệp vẫn lẻ loi trong đời. Vậy mà giờ đây chính Địêp lại tạo ra cảnh cô đơn cho con ma-nơ-canh tội nghịêp này…
- Ngày mai, tao sẽ đi tìm vợ cho mầy, nhé?
Vừa khoác chiếc áo vào cho nó, Điệp vừa thầm thì.
- Không thích!
Điệp nghe như có một giọng nói trầm ấm vang lên nho nhỏ bên tai. Cô ngơ ngác nhìn quanh, trong căn tiệm này giờ đây, ngoài Điệp ra chỉ có những con ma-nơ-canh đang nở những nụ cười vô hồn thôi mà, đâu có ai nữa mà cất lên tiếng nói?
Điệp buồn cười cho cái sự hoang tưởng của mình. Cô lại thủ thỉ với con ma-nơ-canh đơn độc:
- Tao thương mầy lắm! Bởi vì tao cũng rất cô đơn. À, nếu như mầy là một con người, là một chàng thanh niên hẳn hoi thì mầy có yêu tao không nhỉ? Hì hì, chắc không đâu, mầy đẹp thế kia mà? Mầy sẽ được rất nhiều cô gái ngưỡng mộ, trong mắt mầy sẽ không có tao, đúng không? Ừ thì thôi, đừng làm người nhé, hãy cứ là ma-nơ-canh bên cạnh tao, tao sẽ yêu thương mầy, đồng ý không?
Điệp vuốt lại chiếc áo cho thật thẳng, rồi lùi ra xa ngắm con ma-nơ-canh lần nữa.
- Ôi, một chú rể tuyệt vời!
Điệp không ngăn được, reo lên.
Và bỗng dưng trong lòng cô lại xuất hiện một ý nghĩ mới:
- Ừ, tao sẽ không đi tìm vợ cho mầy đâu! Bởi nếu mầy cũng đủ đôi đủ cặp thì trong căn nhà này tao sẽ là kẻ cô đơn. Thôi thì tao với mầy kết lại thành một đôi, nhé? Đồng ý không? Quyết định vậy nhe? Từ nay tao với mầy sẽ là một đôi bạn…
Bỗng Điệp vỗ trán, than:
- Ô, không được rồi, không thể xưng hô mầy tao thế này được, kém văn hóa lắm! Để xem… mình sẽ đặt tên cho anh chàng này là gì đây? Tên thì thiếu gì, nhưng mình biết chọn tên nào bây giờ?
Điệp ngồi bệt xuống sàn nhà, tựa lưng vào con ma-nơ-canh mà ngẫm nghĩ. Một cảm giác ấm áp lan truyền khắp cơ thể Địêp. Có một người bạn, dù là một ma-nơ-canh vẫn thấy ấm lòng hơn sống cảnh cô đơn. Điệp thầm nghĩ vậy.
Điệp ngước lên nhìn con ma-nơ-canh, và cô cảm nhận được sự thân thiện phát ra từ đôi mắt nó. Một đôi mắt không vô hồn như những con ma-nơ-canh khác!
- Em gọi anh là Thiện, nhé? Anh bằng lòng không? Nếu bằng lòng thì chớp mắt một cái xem nào!
Điệp reo lên khi nghĩ được một cái tên để gọi con ma-nơ-canh đặc biệt của cô. Và bỗng trong tích tắc, Điệp nhận thấy con ma-nơ-canh chớp mắt!
- Ôi trời! Thiệt hay giỡn đây ta?
Địêp lại kêu lên, nhưng thật sự cô không sợ hãi gì cả, bởi Địêp không tin đó là cái chớp mắt thật, mà cô nghĩ tại vì mình tưởng tượng ra thôi.
Ngó quanh một vòng, Địêp mỉm cười hài lòng với thành quả do mình tạo ra. Cô khệ nệ kéo Thiện để đứng vào một góc riêng biệt và trịnh trọng. Trong khi những cô cậu ma-nơ-canh khác đứng cạnh nhau trong tủ kính với đủ mọi tư thế, thì ở ngay cửa ra vào, Thiện đứng một mình, tay cầm một tràng hoa, gương mặt sáng bừng và cái nhìn như háo hức, trông dáng vẻ anh thật giống một chú rể đang hồi hộp chờ đợi cô dâu yêu quý của mình xuất hiện.
Địêp ngắm toàn bộ cửa tiệm, bằng lòng với cách sắp đặt đó. Cô đến bên cạnh Thịên nói nhỏ:
- Anh là chú rể đẹp nhất ở đây đó, anh có biết không, Thịên? Bất kỳ người con gái nào cũng sẽ rất hạnh phúc nếu được làm cô dâu đứng kế bên anh!
Và không hiểu sao ngay khi nói xong câu đó, Điệp nảy một ý tinh nghịch. Cô vội mở tủ lấy chiếc áo cưới mà cô chấm nhất và đi vào phòng mặc vào.
Sau khi cài hoa lên đầu và mang thêm một số trang sức, Điệp e lệ đi ra đứng cạnh bên Thiện, nép vào người anh giống như một cô dâu thực sự.
Địêp nhìn mình và Thiện trong chiếc gương kế đó. Ôi, sao lại giống thật thế này? Bất giác Điệp đỏ mặt thẹn thùng liếc nhìn Thịên. Ánh mắt Thiện kỳ lạ biết bao, nồng nàng biết bao…
- Trời ơi… mầy điên rồi hả Địêp?
Điệp tự mắng mình rồi chạy nhanh vào thay áo.
Khi đã cất áo vào tủ, trước khi tắt đèn để lên lầu, Điệp không quên đến bên cạnh Thịên, vuốt vào tay anh:
- Em đi ngủ nhé, Thiện? Anh cũng ngủ ngoan nhe?
Địêp cười một mình. Tắt đèn rồi đi nhanh về phòng mình. Đêm đó, Điệp ngủ một giấc tuy ngắn nhưng rất ngon lành.
 
***
- Trời ơi! Không ngờ bạn yêu của tui khéo tay đến mức này!
Kiều reo lên khi vừa đặt chân tới cửa tiệm.
Khánh và mấy người bạn của Kiều cũng không ngớt lời trầm trồ khen ngợi khiến Địêp cảm thấy lúng túng vô cũng.
Sáng nay mọi người kéo đến để “duyệt” qua lần cuối để ngày mai làm lễ khai trương.
Theo ý của Kiều, lễ khai trương sẽ không tổ chức linh đình lắm, nhưng phải thật trang trọng và ấm cúng. Khách mời chỉ là những bạn bè thân thiết của vợ chồng Kiều – Khánh và một số bạn ở công ty cũ của Địêp.
Kiều vui như trẻ con, cô nói với chồng:
- Anh xem nè, Địêp nó có ý tưởng hay ghê chưa? Lúc nó đòi mua thêm con ma-nơ-canh này em đã muốn cản, vì tiệm áo cưới sợ để nó đứng một mình sẽ gây phản cảm, vậy mà với bàn tay sắp xếp của Điệp, chính anh chàng ma-nơ-canh này lại trở thành điểm hấp dẫn nhất, đúng không anh?
Khánh gật đầu xác nhận:
- Đúng rồi đó! Cái dáng đứng của anh ta như có một sự thu hút đặc biệt, một đúng lực thôi thúc lạ lùng… Anh cũng biết Điệp rất có khiếu thẫm mỹ nên mới đồng ý cho em cùng cô ấy mở tiệm này, chứ nếu giao cho em thì anh không dám đâu…
Kiều nhéo vào tay chồng:
- Dám chê bà xã nghen! Coi chừng em đó!
Khánh cười khà, quay sang phân bua cùng đám bạn:
- Thấy bà xã tui chưa? Vậy mà ai cũng khen tui may mắn có bà xã dịu dàng…
Cả đám cười nói vui vẻ, bàn tán xôn xao một lúc rồi kéo nhau đi ăn.
Điệp là người ra cửa sau cùng, lúc quay lại khóa cửa, cô chợt thấy ánh mắt của Thiện nhìn mình thật tha thiết.
Địêp cười, nói thật nhỏ:
- Anh ở nhà, em đi một tí về ngay mà!
Và hình như Điệp cảm nhận được một cái gật đầu thật khẽ của Thiện.
 
***
Tiệc khai trương diễn ra thật gọn gàng và ấm cúng. Mở hàng ngay cho tiệm là một cặp làm cùng phòng Địêp trước đây. Cặp này yêu nhau đã lâu nhưng quyết định chờ đợi, nuôi dưỡng tình yêu một thời gian dài, khi nào gầy dựng được sự nghiệp mới tổ chức cưới.
Giờ đây, cả hai đều đã được cất nhắc lên những vị trí khá quan trong công ty, và tình yêu của họ cũng đã tới lúc chín muồi.
Kiều và Địêp rất vui vì một khởi đầu tốt đẹp.
Hôm đó mọi người uống hơi nhiều, nên ai cũng tỏ ra phấn khích. Đầu tiên là Kiều, cô kéo tay chồng tạo dáng đủ kiểu để chụp hình. Rồi tới những cặp khác cũng lần lượt mặc đồ cô dâu chú rể, vừa cười giỡn, vừa tình tứ ghi lại những tấm hình thật đẹp.
Điệp đứng nhìn mọi người, lòng cô vui phơi phới.
- Điệp! Điệp ơi! Mau thay quần áo, chụp hình đi!
Kiều gọi lớn.
Địêp cười:
- Thôi đi bà, định bắt tui làm cô dâu đơn lẻ hả?
Hình như tới lúc này Kiều mới sực nhớ, nhưng cô bỗng nảy ra một ý định khi nhìn thấy con ma-nơ-canh có tên Thiện đứng ở cửa ra vào:
- Không! Bà sẽ chụp hình chung một chú rể đẹp nhất ở đây! Tui bảo đảm mấy chú rể già ngắt nãy giờ sẽ ghen tỵ với anh chàng đó…
Điệp đã lờ mờ đoán biết được ý của Kiều, và bỗng nhiên cô cũng cảm thấy thích thú với điều đó.
Không chờ bạn thúc giục lần nữa, Địêp lấy ngay bộ áo cưới mà mình vừa lòng nhất đi vào trong mặc vào.
Lúc Điệp từ trong phòng thử đồ bước ra, tất cả mọi người đều không ngăn được tiếng xúyt xoa, trầm trồ khen ngợi. Với gương mặt đơn giản không son phấn, Địêp vẫn là một cô dâu tuyệt đẹp trong bộ áo cưới lộng lẫy này!
- Đến đây! Đến đây mau lên!
Kiều rối rít kéo Điệp tới đứng gần bên Thiện, cô sửa lại vòng hoa, sửa lại tư thế cho Địêp rồi ra lệnh cho anh chàng phó nháy bấm liên tục hết kiểu này sang kiểu khác. Mọi người vỗ tay tán thưởng rần rần…
Phải công nhận, khi Địêp đứng bên Thiện, trông họ thật đẹp đôi. Kiều không nói ra, nhưng trong lòng cô thầm nghĩ, giá mà con ma-nơ-canh đó là người, thì đây sẽ là một cặp được biết bao nhiêu người ngưỡng mộ.
- Thôi, thôi! Mệt lắm rồi!...
Điệp la lên, cô ngồi phịch xuống ghế không chịu đứng lên theo sự lôi kéo của Kiều và các bạn nữa.
Mọi người cười nói ồn ào, không khí thật vui vẻ, tưng bừng giống như một tiệc cưới, mà giờ đây hai nhân vật chính là Điệp và anh chàng ma-nơ-canh có cái tên là Thiện!
Tối hôm đó mặc dù đã mệt nhoài vì bận rộn suốt ngày, nhưng Địêp vẫn xuống tầng trệt ngồi thật lâu bên cạnh Thiện, thầm thì với anh về những nìem vui, những mơ ước tương lai của cái cửa tiệm nay.
Điệp không hiểu sao, mỗi lần cô tâm sự với Thiện là trong lòng cảm thấy nhẹ nhàng lắm, thấy được như có người cùng mình chỉa sẻ, cảm thông…
Việc làm ăn của cửa tieưaraast may mắn, tuy không phất lên nhanh chóng, nhưng sau một tháng hoạt động, kiểm lại sổ sách cả Kiều và Điệp đều hét lên sung sướng!
Kiều đã quen thuộc với những nguồn thu nhập lớn lao từ những nguồn làm ăn khác, nhưng với cô tiệm áo cưới này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vì vậy nguồn thu từ nó khiến Kiều vui gấp mấy lần số tiền kếch sù thu lợi từ các nguồn khác.
Vậy là Kiều có thể yên tâm, không còn sợ bạn mình chịu thiệt thòi khi bỏ một công việc rất tốt ở công ty để về đây. Kiều và Địêp tuy chỉ là bạn, nhưng thân và thương yêu nhau còn hơn cả chị em ruột thịt.
Đặc biệt, từ ngày có tiệm áo cưới này, Kiều nhận thấy Điệp vui hơn rất nhiều, trẻ trung hơn rất nhiều. Nếu không phải thân cận với Điệp hằng ngày, chắc chắn Kiều sẽ nghĩ Điệp đang có người yêu mà giấu không cho Kiều biết.
Trước đây, những lần Kiều đột ngột đến thăm bạn, thường trông thấy Điệp với vẻ chán chường, buồn bã, hoặc đôi khi thẫn thờ đờ đẫn cả người.
Còn bây giờ hoàn toàn khác, Địêp lúc nào cũng vui tươi hớn hở. Dù có những hôm gặp mấy người khách khó tính, phải vất vả nhiều lắm mới giúp họ chọn được một bộ áo vừa ý, vậy mà chưa khi nào Kiều nghe Địêp than van hay tỏ ra bực bội.
Nói tiếng là cả hai chung nhau mở cửa tiệm nhưng thật ra vốn của Điệp cũng gần phân nửa, mà công sức Điệp bỏ vào lại chiếm đa phần. Kiều chỉ là người phụ giúp hụ hợ mà thôi. Điệp biết Kiều còn bận rộn chuyện gia đình, con cái, và những công việc làm ăn khác, nên cô bao giờ cũng giành hết mọi việc về mình.
Tiếng lành đồn xa, chẳng mấy chốc danh tiếng của tiệm áo cưới Kiều Địêp, tính tình vui vẻ và cái nhìn thẩm mỹ của cô chủ tiệm đã được nhiều người biết đến. Rất nhiều cặp tìm tới tiệm khong chỉ để mua hoặc thuê áo cưới mà còn để tư vấn thêm nhiều vấn đề cho ngày lễ trọng đại trong đời của họ.
Ngoài năng khiếu bẩm sinh, Điệp đã cần mẫn đọc thêm sách báo, tham khảo thêm nhiều lãnh vực để từ đó cô có thể giúp các cặp uyên ương có được một ngày cưới thật hoàn mỹ.
Nhiều lúc Kiều đến thăm tiệm, cứ phải đứng ngẩn người ra để nghe Điệp hướng dẫn cho khách hàng cách chọn kiểu dáng, màu sắc thế nào cho phù hợp, và những phụ liệu đi cùng phải ra sao… Kiều trước ngay vốn đã phụ bạn, giờ lại càng phục lăn, không ngờ một cô gái chưa lần lên xe hoa mà lại rất am hiểu về phong tục, cách thức và đủ mọi thứ đông tây kim cổ xoay quanh việc cưới hỏi.
- Tui không ngờ bà thích hợp với nghề này đến vậy! Từ hồi mở tiệm đến giờ, trông bà trẻ đẹp ra hẳn. Phải biết thế này, tui đã rủ bà mở tiệm từ nhiều năm trước.
Kiều ôm vai bạn khen ngợi.
Điệp mỉm cười:
- Ừ, mình cũng không ngờ mình yêu nghề này đến vậy. Lúc trước chỉ là thích thú thôi, nhưng giờ đã thật sự yêu say mê rồi đó!
Kiều la lên:
- Hèn gì… hèn gì nhìn bà bây giờ y như một thiếu nữ đang yêu! Nhưng mà ngộ thiệt nghen, lần đầu tiên tui mới thấy một người yêu công việc đến như vậy, y như yêu người tình không bằng.
Bất chợt trông thấy ma-nơ-canh cạnh cửa, Kiều cười tươi:
- Bà đừng khoe với tui là bà yêu anh chàng này nhe?
Điệp nhìn Kiều nheo mắt:
- Ừ, đúng là tui yêu anh ấy rồi đó, có sao không? Hai đứa tui là một cặp uyên ương rất xứng mà, đúng không? Mấy người thường không ai yêu tui thật tình, chỉ có anh chàng này là thật tình với tui thôi, anh ấy chẳng khi nào rời bỏ tui, mà chỉ sợ một ngày nào đó anh chàng già cũ, xấu xí, tui đem quẳng ra đường thôi. Nhưng mà nè, tui nói trước rồi nghen, bất cứ con ma-nơ-canh nào bà cũng có quyền làm gì thì làm, riêng anh chàng này bà không được đụng tới à nghen! Nếu anh chàng có già cũ, xấu xí, nhất định tui sẽ không đối xử tệ bạc…
Kiều nhăn mặt:
- Sao tự nhiên nói chơi mà nghe giống thiệt dữ vậy trời? Thôi thôi, từ nay đừng nói chơi kiểu đó nữa nghen? Hồi xưa, tui thường má tui kể, mấy con búp bê mà được người ta thương yêu quá mức cũng có thể biến thành ma nữa đó, bà liệu hồn…
Điệp muốn trêu bạn nên chạy tới ôm chầm lấy con ma-nơ-canh tên Thiện nói giọng nũng nịu:
- Anh Thiện, anh coi Kiều kìa, nó sợ anh thành ma đó, ghét chưa?
Kiều trố mắt:
- Gì? Bộ bà đặt tên cho nó nữa sao?
Điệp gật đầu:
- Chứ sao! Tui gọi anh ấy là Thiện, bà thấy tên đó có hay không?
Kiều chỉ tay qua mấy con ma-nơ-canh khác hỏi:
- Còn con này tên là gì? Con này nữa?
Điệp ngớ người:
- Tui… tui chỉ đặt tên cho mỗi anh chàng này thôi!
Bất giác Kiều cảm thấy có điều gì đó không ổn. Cô lo lắng nói:
- Thôi, từ nay mình đừng giỡn kiểu này nữa, không tốt đâu!
Điệp cười khanh khách:
- Trời ơi, bà cụ non ơi là bà cụ non! Tin dị đoan tới mức này luôn sao?
Kiều chưa kịp cất tiếng thì có khách vào tiệm nên câu chuyện giữa hai người tạm thời dừng lại, rồi sau đó không ai nhớ, hoặc không ai muốn khơi lại nên nó trôi vào im lặng luôn.
Dù sao thì vợ chồng Kiều rất hài lòng về sự quản lý của Điệp và càng hài lòng hơn nữa khi công việc ngày một có đà phát triển.
Địêp sống những ngày thật vui và hạnh phúc. Bất cứ niềm vui nỗi buồn nào, cứ tối tối là Địêp lại đem ra thủ thỉ với Thiện. Cô thấy cuộc sống như vậy cũng quá tốt rồi. Có một người chịu nghe cô tâm sự, không hề cắt lời hay tỏ ý mệt mỏi chán nản vì cô, có một người để những lúc mệt cô lại ngồi xuống và tựa vào. Đó chẳng phải là mơ ước của Địêp sao?
 
***
Bóng tối bao trùm ngôi nhà. Ở trong phòng ngủ của Địêp chỉ để một bóng đèn thật mờ ảo, bởi tính Địêp khi ngủ thì không thích có ánh sáng.
Sau một ngày loay hoay với công việc của cửa tiệm, buổi tối Địêp ngủ rất ngon giấc. Cô hoàn toàn không biết có sự xuất hiện của kẻ thứ hai trong nhà cô mỗi đêm.
Đó là một thanh niên tuấn tú – không, một hồn ma tuấn tú mới đúng! Đêm nào anh cũng đi lang thang khắp nhà rồi tới ngồi bên cạnh Địêp, lắng nghe từng hơi thở nhè nhẹ phát ra từ cô. Những đêm nóng bức, anh thường ngồi quạt cho cô ngủ; những đêm giá lạnh, bao giờ anh cũng kéo chăn đắp kín người cô…
Có những đêm, anh ngồi im lặng nhìn Địêp rồi thẫn thờ buông tiếng thở dài. Anh cúi xuống, đặt lên má cô một nụ hôn thật nhẹ…
Điệp không biết, nhưng trong giấc ngủ cô luôn cảm giác được như có ai đó đã đến bên mình, chăm sóc mình từng li từng tí. Nhưng khi thức giấc, Điệp cứ nghĩ là do cô mơ ước điều đó nên nó đi vào giấc ngủ.
Điệp không thể ngờ rằng hồn ma đó đã trú ngụ trong thân thể con ma-nơ-canh yêu dấu của cô, và một điều nữa vô cùng trùng hợp, hồn ma đó lúc còn sống trên đời cũng mang tên Thiện!
Thiện mồ côi cha mẹ năm anh tròn hai mươi tuổi. Cha mẹ anh qua đời trong một tai nạn giao thông, đã để lại cho Thiện toàn bộ tài kếch sù của ông bà vì Thiện là đứa con độc nhất.
Tuy là con một trong gia đình giàu có, nhưng Thiện không giống với những chàng công tử con nhà giàu khác, anh không hề ăn chơi đua đòi mà quanh năm suốt tháng chỉ biết chuyên tâm vào chuyện học hành.
Vì quá chuyên tâm vào con đường học vấn, nên đối với những vịec ngoài xã hội Thiện rất lơ mơ. Nhưng anh không phải lo, tất cả đều có cha mẹ lo liệu hết rồi, anh thấy mình cũng không cần tìm hiểu làm chi.
Đùng một cái cha mẹ qua đời lúc Thiện chưa tốt nghiệp Đại học. Nỗi đau quá lớn giáng xuống cuộc đời khiến một thanh niên chưa từng va chạm như Thiện cảm thấy hụt hẫng tột cùng. Anh không còn đủ sức học tiếp nê tạm thời xin nghỉ về nhà một thời gian.
Bắt đầu từ đó, Thịên phải chạm mặt với đời.
Giữa lúc Thiện sống trong cảm giác bơ vơ trơ trọi, thì Phương Hà xuất hiện.
Hà là một cô gái nhỏ hơn Thiện hai tuổi. Cô không đẹp sắc sảo, nhưng ở cô toát ra một vẻ gì đó thật ngây thơ, trong sáng. Điểm nổi bật nhất ở Hà chính là đôi mắt!
Hà sở hữu một đôi mắt tròn to và đen lay láy. Đôi mắt đó cứ mở to ngơ ngác khiến bất cứ chàng trai nào cũng thấy động lòng…
Lần đầu tiên Thiện gặp Hà là lúc cô gặp tai nạn trên đường. Một gã thanh niên phóng xe như bay, chạm vào chiếc xe đạp nhỏ bé của Hà khiến cô ngã sóng xoài ra đất, nhưng gã thanh niên kia mặc kệ cứ phóng ào đi. Vừa lúc đó Thiện chạy xe trờ tới.
Anh hốt hoảng dừng xe đỡ cô gái dậy. Cô không bị thương tích gì nặng nhưng tay chân bị trầy xước nhiều chỗ.
Nơi đó cách nhà Thiện không xa, chính vì thế anh mạnh dạn đề nghị:
- Cô ráng đứng lên đi vào nhà tôi xức thuốc cho, nhà tôi cũng gần đây thôi.
Vừa nói, Thiện vừa chỉ tay vào ngôi nhà đồ sộ cách đó vài bước chân.
Cô gái nhìn Thiện bằng đôi mắt to tròn đen láy đó:
- Em cám ơn anh… nhưng em ngại lắm…
Vừa nói, cô gái vừa ôm tay nhăn mặt.
Thiện động viên:
- Không sao đâu, cô vào nhà tôi xức thuốc cho, không thôi lỡ vết thương bị nhiễm trùng là mệt lắm đó!
Cô gái có vẻ sợ hãi khi nghe Thiện nói vậy. Cô gắng gương ngồi lên rồi dẫn xe đi theo Thiện vào nhà.
Hà có vẻ sợ sệt, khép nép khi đặt chân vào ngôi nhà to lớn xinh đẹp của Thiện. Sau khi được Thiện ân cần bôi thuốc lên các vết thương ở tay chân, Hà rưng rưng nói:
- Anh thật tốt quá, em mang ơn anh biết là bao nhiêu, không biết khi nào mới có thể đền đáp được.
Thiện xua tay:
- Cô đừng nói vậy, bất cứ ai cũng sẽ làm như tôi thôi mà! À, tên cô là gì vậy? Nói chuỵên từ nãy giờ mà tôi chưa được biết tên cô. Còn tôi là Thiện.
- Dạ, em cảm ơn anh Thiện, em tên là Phương Hà. Anh cứ gọi em bằng tên cho thân mật, đừng gọi bằng cô nghe… kỳ quá! Chắc anh Thiện lớn hơn em há? Em mười tám tuổi.
Hà vui vẻ nói.
Thịên cười:
- Ừ, tôi hai mươi!
Hà làm bộ xị mặt:
- Anh xưng tôi nghe lạnh lùng quá đi! Tính em thật thà lắm, anh Thiện lớn tuổi hơn em thì xưng anh gọi em hoặc gọi là Hà cũng được. Anh đồng ý nhé? Đừng cứ tôi tôi cô cô, em nghe sợ lắm!
Thiện bật cười:
- Thôi được rồi, tôi… à không anh đồng ý! Vậy từ nay anh sẽ gọi Hà bằng tên nhé?
Hà reo lên:
- Đó, vậy phải thân mật hơn không?
Tình bạn giữa Hà và Thiện bắt đầu từ đó.
Lấy cớ đền ơn Thịên, cứ một vài hôm là Hà lại ghé qua đem cho Thiện một vài thứ trái cây nào đo rồi ngồi chơi chuyện vãn với Thiện thật lâu.
Một lần Hà vô tình hỏi:
- Sao lần nào em tới chơi cũng chỉ thấy mình anh ở nhà?
Thiện cười thật buồn:
- Nhà anh bây giờ chỉ còn lại anh thôi, ba mẹ anh mất cách đây năm tháng, anh cũng không có anh em nào…
Hà thoáng rưng rưng:
- Em không ngờ anh khổ vậy! Thôi, anh đừng buồn nữa, từ nay nếu anh không chê thì em sẽ là người bạn, người em gái thân thiết nhất cùng anh chỉ sẻ mọi vui buồn, anh Thiện nhé?
Thiện cảm động không nói nên lời, im lặng siết chặt bàn tay nhỏ nhắn của Hà.
Một thời gian không lâu sau đó, giữa Thiện và Hà đã nảy sinh tình yêu. Thiện yêu Hà say đắm. Trong mắt Thiện, trên cõi đời này không một ai hiểu anh bằng Hà, không có cô gái nào hiền lành, dễ thương bằng Hà. Với anh, Phương Hà là trên hết. Hà nói gì anh cũng tin, cũng nghe theo.
Thiện không thể ngờ, Phương Hà chính là một ác quỷ đội lốt thiên thần, một kẻ lừa đảo trong thân xác một cô gái ngây thơ hiền thục.
Chính Hà và người tình của cô ta đã dàn cảnh đụng xe rồi bỏ chạy, tạo điều kiện cho Thiện ra tay nghĩa hiệp và hai người có điều kiện tiếp xúc với nhau.
Đến lúc hai kẻ lừa đảo nhận thấy Thiện đã là con cá mắc câu, chúng bàn với nhau đánh úp để chiếm lấy toàn bộ gia tài của Thiện.
Thiện vốn là một thanh niên chưa từng biết qua những trò lừa lọc của cuộc đời, tâm hồn anh trắng trong thuần khiết. Nên làm sao anh thoát ra khỏi những lời ngọt ngào êm ái của Hà?
Cuối cùng, Thiện đã ký giấy giao toàn bộ gia sản cha mẹ để lại cho Hà.
- Đàn ông là cái giỏ, đàn bà lá cái hom. Nếu không có đàn bà gìn giữ thì đàn ông không sao còn được của cải trong tay!
Thiện nghe Hà nói thật có lý, nên anh sẵn sàng giao hết cho cô để cả hai chuẩn bị làm đám cưới.
Từ ngày nắm được tài sản trong tay, Hà càng trở nên dịu dàng ngoan ngoãn, Thiện như thấy mình được xoa dịu rất nhiều nỗi đau mất mát mẹ cha.
Chỉ còn ba ngày nữa là đám cưới thì đột ngột sáng hôm ấy khi Hà đến nhà phát hiện Thiện đã chết cứng trên giường ngủ. Cô kêu khóc vang trời, vật vã đớn đau…
Các ngành chức năng nhanh chóng vào cuộc. Và sau khi điều tra tỉ mỉ, người ta kết luận Thiện qua đời do chứng đột tử!
Đám tang Thiện, ai cũng ngậm ngùi thương xót cho cô gái nhỏ chưa kịp mặc áo cô dâu giờ đây phải đội lên đầu vành khăn tang trắng.
Không ai biết được, ngay trong đêm tang lễ, người con gái “tội nghịêp” đó đã cùng tình nhân động phòng ngay trong phòng tân hôn mà Thiện  chuẩn bị sẵn sàng để đón dâu về!
Chỉ sau khi hồn lìa khỏi xác, Thiện mới nhìn ra bộ mặt thật của người con gái anh yêu, nhưng tất cả đã muộn màng!
Phương Hà đã cho Thiện uống một loại thuốc độc đặc biệt được tình nhân của cô lặn lội lên tận vùng bản thượng xa xôi mới tìm mua được. Một loại thuốc độc gia truyền, không màu, không mùi, không vị và đặc biệt là không để lại bất cứ vết tích nào trên cơ thể nạn nhân.
Thiện đã ra đi thật nhẹ nhàng nhưng cũng thật cay đắng!
Linh hồn Thiện ngày đêm phảng phất trong nhà, tận mắt chứng kiến người mình yêu cười cợt lả lơi với người đàn ông khác, tận tai nghe được những tràng cười khúc khích mỉa mai của hai kẻ lừa đảo khi họ nhắc lại những chuyện khờ khạo của anh trước đây!
Thiện muốn hét thật to, nhưng tiếng của anh không ai nghe được! Thịên muốn làm một điều gì đó để phản kháng, ví dụ như nhào tới đấm  vào mặt kẻ ác tâm, nhưng anh cũng không làm được!
Bây giờ, Thịên chỉ còn như làn khói mong manh, nhận biết tất cả nhưng không làm được gì…
Trong những ngày lang thang vất vưởng đó, Thịên gặp gỡ những hồn ma đồng cảnh ngộ với mình, họ đã giúp anh biết thêm một số chuyện. Rừng những người chết oan ức, tức là chết khi số phần chưa mãn, ngọn đèn sinh mệnh của họ vẫn còn cháy ở cõi âm ti thì cửa địa ngục và thiên đàng đều không mở cho họ đi qua. Nói cách khác là họ chưa có được tờ giấy thông hành để lên trời hay xuống địa phủ!
- Mình cứ vất vưởng thế này hoài sao?
Thiện ngơ ngác hỏi.
Những hồn ma khác phải giảng giải:
- Không phải! Ban đầu khi hồn phách vừa lìa khỏi xác thì nó rất yếu đuối, không có khả năng làm bất cứ việc gì, nhưng rồi dần dần nó sẽ có được một chút xíu ma lực. Nếu nó dùng chút ma lực nhỏ nhoi đó để làm chuỵên ác thì ma lực sẽ tăng dần lên, đến một mức độ cực mạnh, hồn ma đó sẽ biến thành quỷ.
Thiện rùng mình kêu lên:
- Không! Không…
Hồn ma kia tiếp tục:
- Còn nếu nó không dùng ma lực vào việc ác, thì nó vẫn cứ mãi ừa hồn ma vất vưởng, chờ tới ngày mãn phần số mới có người tới đón, rồi tùy theo điều lành dữ mà nó đã gây ra khi còn sống mà sẽ được đưa về nơi thích hợp…
Thiện than:
- Tôi không biết còn bao lâu nữa mình mới thật sự mãn phần? Sống thế này khổ quá…
Những hồn ma khác tán đồng:
- Đúng đó! Chính vì ngày ngày phải chứng kiến những chuyện trái tai gai mắt do những người thân yêu của mình làm ra, nên có những hồn ma cũng giống như anh, ban đầu cũng nhất định không dùng ma lực của mình vào việc làm ác độc. Nhưng rồi sau đó có khi không kiềm chế được, họ đã lợi dụng ma lực để trừng trị kẻ đã làm hại họ khi còn sống… Có thể một ngày nào đó anh cũng sẽ làm như vậy!
Thiện hoảng hốt:
- Không! Tôi nhất định không làm thế! Ai đối với tôi thế nào mặc họ, tôi đã chết rồi, tôi không muốn làm gì nữa…
Hồn ma khác nhếch môi cười:
- Khó nói trước lắm anh bạn ạ! Đôi khi mình không dằn được, không làm chủ được hành động của mình…
Thiện ôm đầu rầu rĩ một chút rồi reo lên:
- Tôi nghĩ ra rồi! Nếu cứ quẩn quanh ở đây mãi, e có ngày tôi cũng sẽ không dằn được mất! Vậy thì tôi sẽ đi tới nơi khác, tới một nơi hoàn toàn xa lạ, ở đó tôi không quen biết ai, tôi sẽ không cảm thấy bức xúc chuyện trả thù nữa…
Các hồn ma khác nhìn nhau rồi nhìn Thiện gật đầu:
- Anh đúng là một người lương thiện quá mức!
Nói là làm, Thiện lang thang đi khắp nơi, một hồn một phách vất vưởng ngày đêm mong cho mau tới ngày tận số của đời mình.
Một buổi tối trời mưa tầm tã, Thịên đứng trú mưa bên hiên một ngôi nhà nhỏ. Bất chợt anh nghe tiếng khóc thút thít của một người con gái. Tò mò, Thiện bay vào cửa sổ thì trông thấy cô gái đang ngồi cạnh bàn, tay cầm viết viết gì đó, vừa viết vừa khóc.
Đi gần lại, Thiện nghiêng đầu nhìn những dòng chữ tròn trĩnh đang hiện ra trên giấy, và anh hiểu loáng thoáng rằng cô gái này vừa mới bị người yêu phụ bạc, cướp đi toàn bộ vốn liếng cô dành dụm bấy lâu nay…
Một nỗi cay đắng dâng tràn, một nỗi cảm thông bừng dậy. Thiện thấy người con gái này đáng thương quá, cô ta có hoàn cảnh gióng mình quá! Mình là đàn ông con trai mà còn buồn khổ đến mức này, thì người con gái bé nhỏ kia làm sao có thể chịu đựng nổi?
Thiện không đi đâu nữa, ngày ngày Thiện cứ quẩn quanh bên cạnh người con gái ấy.
Và rồi anh tìm hiểu, biết rõ lai lịch của cô gái. Biết cô có một cái tên thật đơn giản: Trần Thị Địêp, nhưng tâm hồn cô thật bao la.
Địêp không xinh đẹp như Phương Hà, lời nói của cô cũng không quá ngọt ngào âu yếm như Hà, nhưng Thiện đã nhận thấy rất rõ bản chất tốt đẹp của Địêp.
Những lúc lang thang theo Điệp, Thiện từng chứng kiến cảnh cô dừng xe bên lề đường, mở túi lấy tiền rồi đặt vào chiếc thau móp méo của người ăn xin bằng cả hai tay, với một sự kính trọng khác thường.
Những lúc như vậy, Thiện thường cảm thấy xấu hổ cho mình. Ngày cha mẹ còn sống, gia đình còn giàu sang, chưa một lần nào Thiện dừng chân trước một người bất hạnh, chưa một lần nào anh cảm thấy thương những con người đó. Với Thịên, họ như người ở một thế giới khác, anh không hề quan tâm, không hề thắc mắc…
Thiện cứ lủi thủi đi theo Địêp nhiều tháng rồi nhiều năm, anh đau đớn mỗi khi thấy cô khóc âm thầm hay đớn đau dã dượi… Cól úc vì quá thương Địêp, Thiện muốn dùng chút ma lực của mình để trả thù giúp cô, để làm cho người đàn ông phụ bạc cô phải điêu đứng. Nhưng Thiện chưa kịp thực hiện điều đó thì một lần anh nghe Địêp nói chuyện với người bạn thân nhất:
- Giờ thì mình không trách hờn gì anh ấy cả! Mình nghĩ tất cả đều do duyên số. Nếu kiếp trước mình đã vay của anh ấy thì kiếp này mình phải trả là lẽ đương nhiên. Còn nếu như bây giờ anh ấy vay của mình thì chắc chắn có một ngày anh ấy cũng sẽ phải trả thôi…
Càng ngày Thiện càng yêu mến Địêp vì nhân cách, vì tấm lòng bao dung của cô ấy.
Cái ngày mà Điệp đọc mẩu tin nói về việc phát mình ra người máy có cảm xúc giống như người, cô không ngăn được đã nói lên mơ ước của mình, và chính những lời nói của Địêp đã thắp lên trong lòng Thiện một ước mơ cháy bỏng.
Thiện khát khao có được một con rô-bốt như vậy, anh sẽ nhập hồn vào nó để lo lắng, yêu thương và giúp đỡ Điệp. Nhưng biết tìm đâu ra rô-bốt bây giờ?
Rất may, Thiện đã đi theo Kiều và Điệp rong ruổi khắp nơi trong ngày hai cô đi mua sắm đồ cho tiệm. Và khi tới cửa hàng bán ma-nơ-canh, Thiện mừng rú lên khi mơ ước của mình sắp thành hiện thực. Anh nhìn ngó một hồi rồi chọn một con ma-nơ-canh để nhập hồn vào đó.
Thiện hồi hộp chờ đợi Địêp hoặc Kiều chọn anh, nhưng vì con ma-nơ-canh mà Thiện nhập hồn vào đứng hơi khuất về mé cửa, mà Kiều và địêp mải tìm chọn trong đám ma-nơ-canh chen chúc trong kia.
Khi thấy hai cô gái đã thanh toán xong tiền và chuẩn bị ra về, Thiện hoảng hốt vận dụng ma lực của mình để níu lấy Địêp, và chính trong giây phút Địêp loạng choạng suýt ngã, cô đã nhận thấy ánh mắt khác lạ của Thiện trong con ma-nơ-canh đó.
Được hai cô bạn gái đưa về nhà trong hình thù con ma-nơ-canh, Thiện rất đỗi vui mừng. Và niềm vui đó càng được nhân lên gấp bội khi lần đầu tiên Địêp nói chuyện với anh, ngồi tựa vào anh…
Cho tới lúc Địêp mặc áo cô dâu đứng cạnh bên mình, Thiện vẫn còn bàng hoàng hạnh phúc. Anh không ngờ mình có được cái diễm phúc ấy.
Rồi tới ngày tiệm áo cưới khai trương, Địêp đã cùng anh chụp thật nhiều kiểu hình, thật giống như một đôi vợ chồng trong ngày cưới. Từ lúc đó, Thiện coi như mình đã có vợ, Thiện nghĩ mình phải có trách nhiệm với Điệp như một người chồng!
Những đêm khuya thanh vắng, Địêp vừa thủ thỉ chuỵên trò, vừa nhẹ nhàng lau sạch bụi bặm bám trên áo quần anh, Thiện chỉ muốn giang tay ra ôm chặt Điệp vào lòng, nhưng anh không dám. Anh sợ làm Địêp hốt hoảng, anh sợ Điệp sợ mình rồi sẽ đem bán lại hoặc vứt bỏ con ma-nơ-canh  đó.
Thiện tự nhủ với lòng không nên nôn nóng, hãy kiên nhẫn đợi thêm một thời gian nữa rồi hãy cho Địêp biết sự thật. Nhưng ngày tháng trôi qua thật chậm mà tình yêu trong Thiện ngày một sâu đậm hơn nhiều, nỗi bức xúc được ôm ấp, sẻ chia luôn thúc giục Thiện khiến anh vô cùng khổ sở…
 
***
Điệp bất thần ngã bệnh. Điệp bệnh trong lúc vợ chồng con cái Kiều về quê dự tang lễ một người bà con, vì thế tiệm áo cưới không có người coi sóc. Điệp những muốn tạm đóng cửa một hôm, nhưng không biết nghĩ sao, cô vẫn gắng gượng xuống lầu làm nhiệm vụ như thường, dẫu cho thân thể nóng sốt và đầu óc quay cuồng đau nhức.
Điệp cố gắng đến quá trưa thì ngã quỵ. Cô còn nhớ rất rõ, lúc đó tiễn hai người khách ra cửa, vừa quay vào thì Điệp thấy chóng mặt ghê gớm. Cô níu tay vào cánh cửa nhưng vẫn ngã sóng soài ra đất, và không còn biết gì nữa.
Nhưng lúc tỉnh dậy, Điệp vô cùng ngạc nhiên thấy mình đang nằm trên chiếc giường quen thuộc trong phòng ngủ.
- Ai đã đem mình lên đây?
Điệp thầm nghĩ và lên tiếng gọi to:
- Kiều ơi, Kiều về rồi phải không?
Im lặng, không một tiếng trả lời. Điệp gắng ngồi lên và đi lần ra hành lang để nhìn xuống dưới nhà.
Có lẽ bên dưới đóng cửa nên không được sáng sủa như mọi ngày.
- Thôi, chắc là Kiều rồi!
Điệp nghĩ vậy nên thấy an tâm. Cô loạng choạng đi vào bếp để lấy nước uống. Và thật bất ngờ, Điệp thấy trên bàn ăn đã bày sẵn một chén cháo còn đang bốc khói.
- Lẽ nào…
Điệp bắt đầu nghi hoặc. Bởi cô biết, nếu là Kiều thì sẽ không có đủ thời gian để nấu cháo thế này đâu.
- A, hay là Kiều nhờ một ai đó? Thôi, dù sao cũng ráng ăn một chút cho lại sức đi đã, ai nấu cũng được mà!
Điệp nghĩ vậy và ngồi vào cố ăn cho hết chén cháo. Cô hoàn toàn không biết, cạnh bên cô lúc này có một người đàn ông đang đứng nhìn cô âu yếm…
Điệp về phòng, uống thêm một liều thuốc nữa rồi lên giường nằm và lại lơ mơ ngủ.
Loáng thoáng Điệp thấy có một bóng người ngồi xuống bên mình và một bàn tay sờ nhẹ nhàng lên trán. Địêp rất muốn mở mắt ra nhìn xem người đó là ai nhưng cô không tài nào nhướng mi lên nổi. Và trong lúc đó, Điệp cảm nhận được một nụ hôn nồng cháy vừa đặt xuống môi cô…
Hốt hoảng, Điệp thu hết sức lực để mở mắt ra, một bóng người vừa lướt nhanh ra cửa, dáng dấp thật quen thuộc.
- Ai đó?
Điệp kêu lên nhưng vẫn không có tiếng trả lời.
Điệp nhắm mắt định thần lại và chợt nhớ ra một chi tiết vô cùng quan trọng, đó là bóng người lúc nãy dường như ăn mặc rất lịch sự, bộ quần áo không xa lạ gì với Điệp, vì đó là quần áo dành cho chú rễ trong ngày cưới!
Địêp hốt hoảng nhìn quanh, và bắt gặp dưới nền gạch một bông hoa cài áo ai vừa làm rơi ở đó.
Điệp đi tới cúi nhặt bông hoa rồi lần bước xuống thang lầu. Một ý nghĩ xâm chiếm và Điệp đang muốn xác minh.
Cô xuống lầu, mở đèn rồi đi tới cạnh con ma-nơ-canh có cái tên Thịên mà cô vẫn thường âu yếm gọi. Điệp nhìn thẳng vào Thiện, cô cảm thấy ánh mắt anh nhìn cô cũng đầy ắp yêu thương.
Nhìn vào ngực áo Thịên, Điệp phát giác bông hoa không còn trên đó! Và bông hoa mà cô đang cầm trên tay đáng ra phải nằm trên ngực áo của Thiện!
- Mình hoang tưởng hay là sự thật?
Điệp lẩm bẩm.
Bất chợt cánh tay của ma-nơ-canh đặt lên vai Địêp và một giọng nói ấm áp cất lên:
- Em chưa khỏe, sao không nghỉ, xuống đây làm gì?
Điệp giật mình nhưng chưa kịp nói gì thì ma-nơ-canh lại tiếp tục:
- Anh xin lỗi vì đã làm em giật mình… Nhưng thật sự anh không thể nào im lặng được. Anh đã đi theo em từ mấy năm nay, bao nhiêu lần muốn cho em biết nhưng rồi anh… không dám!
Điệp hơi lùi lại, nhìn Thịên run run hỏi:
- Anh… anh là ai?
Một nét buồn lướt qua mặt Thiện:
- Anh nói ra mong em đừng sợ… em bình tĩnh nhé Điệp?
Điệp ngước nhìn Thiện, ánh mắt anh đang nhìn cô đăm đắm:
- Anh cứ nói đi… không sao đâu!
- Anh… anh là một hồn ma vất vưởng, mượn tạm thân xác của con ma-nơ-canh này để được… ở cạnh bên em!
Giọng nói của Thiện thật nhỏ, như một cơn gió nhẹ thoảng qua, nhưng lại xoáy vào lòng Điệp một mối cảm tình khôn xiết.
- Nhưng… nhưng tại sao…?
Điệp lắp bắp.
Và Thiện bắt đầu kể. Anh kể hết cho Điệp nghe về cuộc đời mình, về những ngày âm thầm đi bên cạnh Địêp.
Không biết từ lúc nào Địêp đã ngồi xuống, người tựa vào Thiện và nước mắt chảy tràn trên gương mặt…
 
***
Linh tính báo cho Kiều biết có một điều gì đó bí ẩn nơi Điệp. Là bạn thân với nhau chưa bao giờ Điệp giấu Kiều việc gì, nhưng lần này Kiều thật sự không hiểu nổi Điệp.
Địep tươi hơn hớn, trẻ trung và yêu đời một cách lạ lẫm.
Chắc chắn là Địêp đang yêu. Yêu một người nào đó chứ không phải chỉ đơn giản là yêunghề nghiệp, yêu công việc thôi đâu.
Nhưng Địêp yêu ai? Đó là một câu hỏi mà Kiều không thể trả lời. Nhiều lần cô bóng gió xa gần, mong Điệp sẽ tâm sự với mình nhưng Điệp vẫn làm như không biết tới.
- Anh nghĩ sao về chuyện này? Tại sao Điệp lại giấu mình khi nó có người yêu?
Kiều đem thắc mắc ấy hỏi chồng.
Khánh – chồng Kiều – từ lâu cũng rất mến Điệp, anh luôn xem Điệp như em gái của mình, cho nên chuyện tình cảm của Điệp rất được vợ chồng Khánh quan tâm.
Nghe vợ kể lại, Khánh rất lo lắng. Anh trầm ngâm suy nghĩ hồi lâu rồi mới nói:
- Anh nghĩ có hai khả năng xảy ra. Thứ nhất, Địêp đang yêu một người có vợ, vì vậy cô ấy không dám nói ra, bởi chắc chắn sẽ không nhận được sự ủng hộ từ vợ chồng mình. Thứ hai, người Địêp yêu có thể có những điểm yếu nào đó mà vì mặc cảm Địêp chưa muốn giới thiệu với bạn bè… Đó là suy nghĩ của anh, không biết đúng được bao nhiêu phần trăm?
- Theo anh, em phải làm gì bây giờ? Thấy Điệp vui vẻ hạnh phúc như vậy em rất mừng cho nó. Nhưng nếu nó chịu tâm sự với mình thì còn biết đường mà vun vào hay ngăn cản. Đằng này… Nếu nó yêu thương một người tốt thật sự thì còn gì bằng, chỉ sợ… Em  thật không đành lòng nếu một ngày nào đó nó lại đau khổ như lần trước…
Kiều buồn bã nói với chồng.
- Nếu anh là em, anh sẽ quan tâm tới Điệp nhiều hơn, chắc chắn cô ấy sẽ giãy bày thôi…
Khánh nói.
Địêp thở dài:
- Thì lâu nay em vẫn luôn quan tâm tới Điệp mà!
Khánh nhìn vợ, cười:
- Nhưng cái cách quan tâm của em nó… hơi ồn ào. Em phải biết im lặng và lắng nghe, đâu phải lúc nào cũng có thể: “Bà đang yêu phải không? Kể cho tui nghe coi, ai vậy?...”
Kiều bật cười đấm thùm thụp lên vai chồng:
- A, anh dám bêu xấu vợ anh nghen…
Khánh nghiêng người tránh sang một bên, cười hỏi:
- Mà em thấy anh nói có đúng không kia chứ?
Kiều mỉm cười:
- Thì… cũng đúng!
Rồi Kiều bỗng nghiêm giọng:
- Em phải để tâm chuyện này mới được. Chỉ cầu mong sao lần này Điệp tìm được hạnh phúc thật sự.
Khánh đặt tay lên vai vợ:
- Ừ, người tốt như cô ấy chắc chắn sẽ có được mà!
Kiều nhìn chồng biết ơn. Bao giờ cũng vậy, Khánh luôn chia sẻ với Kiều mọi việc. Kiều cảm thấy mình thật hạnh phúc khi có được người chồng như Khánh, và cô cũng mong người bạn gái thân thương của mình có được niềm hạnh phúc đó.
Bắt đầu từ ngày hôm ấy, Kiều tranh thủ mọi lúc để đến với Địêp. Đôi khi cô ngồi bên Địêp hàng giờ, tỉ tê đủ mọi chuyện. Nhưng mãi mà Kiều vẫn không khám phá được gì.
- Điệp ơi, nói thật cho mình biết đi. Có phải Điệp đang yêu?
Một ngày, không dằn nổi, Kiều cầm tay bạn ân cần hỏi.
Điệp cười tủm tỉm, khe khẽ gật đầu.
Kiều mừng rỡ hỏi dồn:
- Người yêu của Điệp là ai thế? Mình có biết không? Sao Điệp không giới thiệu với bọn mình đi?
Một thoáng buồn trên mặt Điệp:
- Đúng là mình đang yêu, người đó cũng không xa lạ với các bạn đâu. Nhưng… việc giới thịêu thì… không thể Kiều ạ! Khó lắm… Mình mong Kiều thông cảm cho mình…
Kiều nhìn sững bạn. Trời ơi, chẳng lẽ Khánh đã đoán đúng? Điệp đang yêu một người đàn ông có vợ? Chỉ vậy Địêp mới không thể giới thịêu được thôi.
Tim Kiều nhói đau, cô siết chặt tay Địêp:
- Sao lại phải khổ như vậy hả Địêp? Chẳng lẽ… người Điệp yêu đang có vợ thật sao?
Địêp mở to mắt nhìn Kiều rồi bật cười:
- Trời đất! Sao tự nhiên Kiều nghĩ vậy?
Kiều ngớ người:
- Ủa, vậy không phải sao? Mình đã hỏi anh Khánh vấn đề này và ảnh đoán vậy, đoán Địêp đang yêu người có vợ hoặc người yêu của Địêp có một khiếm khuyết gì đó nên Địêp không dám giới thiệu cùng bạn bè. Đúng không Điệp?
Địêp không cười nữa mà trở lại vẻ trầm tư:
- Anh Khánh đoán không sai.
Kiều nhìn Điệp cảm thông:
- Vậy là… người đó có khiếm khuyết ở thân thể?
Địêp lắc đầu, cười buồn:
- Không, thân thể anh ấy rất tuyệt vời, đúng chuẩn!
Kiều chưa kịp nói gì thêm thì Địêp đã nắm lấy tay Kiều khẩn khoản:
- Mình xin Kiều, Kiều đừng hỏi gì về anh ấy nữa! Một ngày nào đó nhất định mình sẽ kể hết với Kiều, nhưng bây giờ thì… chưa thể…
Kiều biết tính bạn nên không nói gì thêm, chỉ khẽ thở dài.
Điệp vẫn sống vui vẻ, bình thường nhưng Kiều thì khác. Trong lòng cô luôn lảng vảng những thắc mắc về người bạn trai bí ẩn của Điệp. Không phải vì tò mò, đố kỵ mà vì tình thương của Kiều dành cho Điệp. Kiều luôn lo sợ Địêp gặp chuyện không may, cô thấy mình phải có bổn phận đùm bọc, chở che cho Địêp.
Một đêm, tự dưng Kiều không ngủ được. Khánh đi công tác đã hai ngày rồi, căn phòng như rộng thêm ra. Nằm nghe tiếng mưa rả rích ngoài trời, Kiều bỗng cảm thấy một nỗi cô đơn vô tận. Và hơn lúc nào hết Kiều thấy thương cho Điệp. Địêp đã phải trải qua bao nhiêu đêm cô quạnh thế này rồi? Những đêm mưa bão, Điệp phải một mình chống chọi với nỗi buồn đầy ắp trong tim…
Kiều bật dậy, thay áo quần, dặn chị giúp việc mấy lời rồi lên xe chạy về tiệm áo cưới. Cô dự định đêm nay hai người bạn sẽ nằm bên nhau ôn lại những kỷ niệm của thời niên thiếu.
Có lẽ Địêp đã ngủ vì trong nhà tắt địên tối thui. Kiều biết tính Điệp, nó mà ngủ thì tắt hết đèn.
Thật nhẹ nhàng, Kiều mở cửa rồi dẫn xe vào nhà. Cô không lên tiếng, dự định sẽ hù bạn một trận.
Lò mò lên tới cửa phòng ngủ của Địêp, Kiều bỗng giật mình vì nghe có tiếng thầm thì từ bên trong vọng ra.
Lắng tai nhưng Kiều không nghe được gì, nhưng biết chắc đó là tiếng nói của Địêp và một người đàn ông nào đó.
Tự nhiên trong lòng Kiều dâng tràn một nỗi thất vọng. Thật không ngờ… Cứ nghĩ Điệp là một người đoan chính…
Nhưng rồi Kiều lại thở dài bao dung:
- Mà cũng tội, nó cô đơn đến thế kia mà!
Kiều nghĩ thầm và không còn thấy giận Địêp nữa.
Kiều lại lặng lẽ trở xuống dưới lầu. Cô vô cùng thắc mắc, không hiểu tại sao quan hệ giữa hai người đã tới mức đó rồi mà Điệp không thể giới thiệu? Địêp đã nói người đàn ông ấy không có vợ, không khiếm khuyết về hình thể khiến cô xấu hổ, thì vì lý do nào? Thật khó hiểu vô cùng. Chẳng lẽ Địêp bây giờ không còn như lúc trước, không còn muốn chia sẻ cùng cô mọi việc trong đời?
Kiều cảm thấy buồn. Xuống tới tầng trệt. Mắt Kiều lúc này đã quen dần với bóng tối, cô đứng ngó quanh. Đây chính là mơ ước của đôi bạn năm xưa, giờ nó thành hiện thực rồi chẳtng lẽ đôi bạn bắt đầu chia cách?
Đang nghĩ vẩn vơ, Kiều chợt giật mình ngạc nhiên khi thấy chỗ gần cửa ra vào là một khoảng trống. Khố thể thế được, đây là chỗ của con ma-nơ-canh đơn độc kia mà? Hay Điệp đã dời nó đi chỗ khác? Kiều nhìn khắp nơi vẫn không thấy, mà cũng không có khả năng Điệp di chuyển nó đi đâu, bởi cái vị trí ấy là rất đắt kia mà!
Hay là… ăn trộm? Cũng không thể, trộm nào mất công vô nhà chỉ lấy mỗi con ma-nơ-canh đó?
Và bất chợt Kiều cảm thấy rụng rời khi nghĩ tới một điều…
Kiều nhớ lại những lời nói đùa với Địêp trước kia, nhớ lại ánh mắt, nụ cười và từng chỉ của Điệp thời gian gần đây mỗi khi cô quan tâm tới con ma-nơ-canh tên Thiện!
Trời ơi… chẳng lẽ…
Kiều ngồi sụp xuống một góc nhà ôm mặt khóc.
Ánh đèn trên lầu chợt sáng, nghe có tiếng động như tiếng chân người bước xuống cầu thang, Kiều cố nép sát vào góc, tránh để ai phát hiện ra mình, nhưng cô thì vẫn quan sát được người từ trên lầu đi xuống.
- Trời ơi, không thể nào lầm được! Đúng thật rồi!
Kiều kêu rên trong bụng.
Người đàn ông đi từ trên lầu xuống không ai xa lạ, đó chính là con ma-nơ-canh vẫn đứng cô đơn ở cửa mỗi ngày!
Ma-nơ-canh đi thẳng xuống bếp, lục đục gì đó rồi trở lên lầu, trong tay cầm theo chai nước.
Đèn trên lầu lại tắt ngúm.
Kiều khe khẽ mở cửa ra về. Trời vẫn còn mưa nhưng Kiều không nhớ đến việc mặc áo đi mưa. Cô cắm đầu chạy trên con đường vắng ngắt. Nước mắt hòa lẫn với nước mưa chảy tràn trên má Kiều…
 
***
- Kiều đã biết rồi sao?
Điệp ngước đôi mắt buồn rười rượi nhìn Kiều.
Kiều gật đầu.
- Sao Kiều không nói gì hết vậy?
Điệp khổ sở.
Kiều cầm lấy bàn tay nhỏ nhắn của Điệp rưng rưng nói:
- Mình không biết nói gì bây giờ… Mình tin, những gì nói được thì Điệp sẽ nói…
Điệp nhìn ra phía cửa, ánh mắt dịu dàng dừng lại chỗ ma-nơ-canh. Cô nói, giọng nhẹ như gió thoảng:
- Mình đã yêu anh ấy, thật sự yêu anh ấy…
- Nhưng… anh ấy là…
Kiều ngập ngừng.
Điệp nở nụ cười thật hạnh phúc:
- Đúng! Anh ấy không phải là một con người thật sự. Anh ấy là ma. Nhưng có hề gì? Có những kẻ mang thân xác con người hoàn hảo mà tâm hồn lại xấu xa, còn anh ấy, tuy anh ấy không có xác thân, linh hồn phải mượn tạm con ma-nơ-canh kia làm chỗ dựa, nhưng anh ấy rất tốt, thì có gì phải sợ kia chứ?
Kiều nói một cách khó khăn:
- Không… ý mình không phải là tốt hay xấu, sợ hay không sợ… Chỉ là… mình muốn hỏi Điệp, tình cảm giữa hai người rồi sẽ tiến được tới đâu?
Địêp cười hồn nhiên:
- Tới đâu cũng được mà! Mình đang hạnh phúc, rất hạnh phúc. Vậy là đủ lắm rồi. Kiều cũng mong mình được vậy mà, đúng không?
Kiều ngồi im, không biết phải nói gì, nhưng thật sự Kiều không biết mình nên vui hay buồn cho bạn nữa…
Tiễn Kiều ra về, Điệp đến bên ma-nơ-canh âu yếm hỏi:
- Anh có giân Kiều không? Đừng giận nó nhé, nó chỉ muốn tốt cho em thôi!
Thiện có vẻ buồn buồn:
- Anh đâu có giận Kiều. Anh cũng biết, yêu anh là em phải chịu nhiều thiệt thòi lắm. Đáng ra anh không nên…
Điệp đặt bàn tay mình lên miệng ngăn không cho Thịên nói tiếp.
- Anh có biết là anh đã đem hạnh phúc tới cho em không? Em chỉ cần điều đó thôi anh ạ!
Thiện choàng tay ôm lấy Địêp, rưng rưng:
- Nhưng Địêp à, chúng mình sắp phải chia tay nhau rồi…
Điệp giật mình hốt hoảng:
- Anh nói sao? Chia tay?
Thiện buồn rầu:
- Số phần anh đã sắp mãn rồi, anh sắp phải ra đi em ạ!
Điệp cuống cuồng:
- Không… không… em sẽ đi theo anh…
Thiện nhìn Điệp thương cảm:
- Không được đâu em, mỗi người có một phần số… em khó lòng nào theo anh được!
Điệp vẫn kiên quyết. Cô lấy lại bình tĩnh và nói thật chậm:
- Em tin, nếu mình thật sự yêu thương nhau thì không có gì là không được!
 
***
Sáng hôm sau, Kiều đến thì thấy tiệm vẫn chưa mở cửa. Cô rất đỗi ngạc nhiên vì Địêp chưa khi nào bê trễ. Linh tính như có điều gì đó không lành, Kiều run rẩy tra chìa khóa mở cửa vào nhà. Con ma-nơ-canh không có ở vị trí cũ.
Kiều chạy nhanh lên lầu, xô cửa phòng Điệp. Trên giường, Điệp mặc trên người bộ áo cưới đẹp nhất, đang nằm cạnh ma-nơ-canh, vẻ mặt cô ngập tràn hạnh phúc. Ma-nơ-canh cũng vậy. Họ nằm bên nhau như một cặp vợ chồng trong ngày cưới…
Kiều run rẩy đi từng bước tiến tới bên cạnh Điệp, khẽ đưa tay chạm vào người cô. Thân xác Điệp đã lạnh ngắt từ bao giờ!
Kiều quỵ xuống sàn nhà, ôm mặt khóc không thành tiếng.
Một đôi bướm vàng xinh đẹp cất cánh bay chấp chới trong phòng…
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:17:34 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:46:15
BÁO OÁN
 
Kim nhè nhẹ trở mình sợ làm Lê thức giấc. Tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ treo tường cũng khiến Kim khó chịu.
- Sáng mai mình sẽ đem nó để ngoài phòng khách!
Kim tự nhủ với lòng như vậy.
Gần hai tháng nay Kim bị mất ngủ trầm trọng, đêm nào cô cũng trằn trọc thao thức đến tận khuya rồi mới chìm vào giấc ngủ chập chờn, mỏi mệt. Nhưng Lê, chồng cô lại hoàn toàn không hay biết.
Giờ đây, Kim mở to mắt nhìn thật kỹ gương mặt của người chồng thân yêu đang nằm bên cạnh. Vẫn những đường nét đó, những đường nét mà suốt một thời gian dài Kim tự hào vì nó đã thuộc về cô chứ không thuộc về ai khác!
Hồi còn học chung ở trường Đại học, Lê luôn là thần tượng của các cô gái xinh đẹp, con nhà giàu, học giỏi. Kim thì khác, cô chỉ là một cô gái quê mùa bình dị nên chưa bao giờ Kim dám ước mơ đến một chàng trai tuyệt vời như Lê. Đối với Kim, anh chỉ là người để cô ngưỡng mộ mà thôi!
Kim ngưỡng mộ Lê không phải vì anh xuất thân từ một gia đình quan chức giàu có, hay vì cái mã đẹp trai như tài tử của anh, mà là vì anh là một người có tài và có tấm lòng nhân hậu.
Nhưng Kim thật không ngờ, cũng như tất cả mọi người không ai có thể ngờ Lê lại chọn Kim. Mà cái cách tỏ tình của Lê cũng không giống ai, sau này mỗi lần nhớ lại Kim vẫn cứ cười thầm một mình.
Kim nhớ rất rõ, buổi tối hôm ấy cả phòng rủ nhau đi xem văn nghệ bên trường bạn, lúc đầu Kim cũng định đi, nhưng rồi tới lúc mọi người áo quần tề chỉnh thì Kim lại lên cơn đau bụng ngấm ngầm, bực quá, Kim ở lại phòng một mình, lôi cuốn tiểu thuyết “Bố già” ra đọc lại.
Đang nửa nằm nửa ngồi trên giường, Kim nghe tiếng gõ cửa và tiếng nói cất lên đồng loạt:
- Có ai ở nhà không?
Nhận ra tiếng Lê, Kim đứng lên mở cửa và nói:
- Mấy bạn đi xem văn nghệ hết rồi! Anh Lê tới tìm Phấn phải không?
Phấn là cô bạn gái được mệnh danh người đẹp của khoa, lâu nay Phấn và Lê chơi với nhau có vẻ thân thiết lắm. Râm ran đã có lời đồn đại hai người đang tìm hiểu nhau.
Lê cười cười:
- Không, anh vừa gặp Phấn bên kia!
Kim ngạc nhiên:
- Ủa, vậy anh từ chỗ văn nghệ sang đây hả?
- Ừ, anh qua coi em bị sao mà nằm nhà?
Lê trả lời thật tự nhiên.
Kim bối rối:
- Em… em không sao… chỉ hơi mệt thôi!
Lê đứng ngay cửa ngó Kim rồi đột ngột nói:
- Kim ơi, em có nhận lời làm người yêu của anh không?
Kim ngớ người, vừa bất ngờ vừa mắc cỡ và mau chóng chuyển thành cảm giác tức giận.
- Em không muốn nghe anh giỡn kiểu đó!
Kim lùi vào phòng, tay kéo cánh cửa như muốn đóng sập lại.
Lê nhanh nhẹn bước hẳn vào trong nắm chặt tay Kim, nhìn thẳng vào mắt cô và nói với vẻ chân thành:
- Anh không giỡn! Anh nói thiệt, em có đồng ý không Kim?
Hai người chính thức đến với nhau bắt đầu từ hôm đó. Nhưng Kim vẫn không tránh khỏi những mặc cảm, cô luôn luôn lo sợ một ngày nào đó mình sẽ mất Lê.
Nhưng rồi mấy năm sau tình yêu của họ vẫn bền bỉ và khi đã có công việc ổn định hai người đã thành vợ chồng chính thức sau một lễ cưới linh đình.
Tình yêu của Kim dành cho Lê mỗi ngày một thêm sâu nặng. Nhưng có một điều đáng buồn là vợ chồng sống với nhau hơn ba năm rồi mà Kim vẫn chưa một lần thai nghén. Kim nơm nớp lo sợ vì điều đó, nhưng Lê thì vẫn phớt lờ:
- Em làm gì mà quýnh quáng lên như vậy? Ba năm chưa có thì năm, sáu năm, năm sáu năm chưa có thì mười năm, đối cùng nữa thì mình vẫn mãi là vợ chồng son, chẳng sướng hơn sao?
Lê vẫn nói đùa với Kim như vậy.
Gia đình Lê tuy cũng nôn nóng có cháu nhưng họ cũng không đặt nặng vấn đề đó lắm, vì Lê không phải là con một, các anh và em trai của Lê cũng đã sinh cho dòng họ một đám nhóc rồi. Chính vì vậy, vợ chồng Lê – Kim không phải chịu nhiều áp lực.
Kim vẫn tưởng cuộc sống gia đình mình mãi bình yên trôi qua như thế, nhưng có ngờ đâu, cách đây hai tháng Lê về nhà với dáng vẻ phờ phạt và anh mắt thất thần.
Kim hốt hoảng hỏi:
- Có chuyện gì vậy anh?
Ban đầu Lê không nói lời nào chỉ thở dài thườn thượt rồi vào giường nằm gác tay lên trán. Kim phải vừa gặng hỏi, vừa như năn nỉ mãi đến nửa đêm hôm đó Lê mới chịu mở lời.
Lê đang ngồi bên cạnh Kim, bất giác anh sụp xuống chân Kim tha thiết nói:
- Kim ơi, anh xin em tha lỗi cho anh! Em có tha thứ thì anh mới dám nói ra toàn bộ sự thật…
Kim cảm thấy toàn thân mình như tê dại hẳn khi nghe Lê nói những lời như vậy! Phải rồi, giờ phút mà mình lo sợ đã đến, anh ấy sẽ đem lý do mình không có con ra để nói chuyện chia tay…
Nghẹn cứng nơi lồng ngực, nhưng Kim vẫn cố gắng gượng đỡ Lê ngồi lên:
- Có gì anh cứ nói ra đi, em chưa biết đó là chuyện gì thì làm sao em có thể nói tha thứ hay không kia chứ!
- Kim ơi… anh… anh lỡ có con với người phụ nữ khác rồi!
Lê ấp úng.
Cảm giác chua xót dâng tràn trong Kim. Cô không khóc, cũng không mắng chửi Lê như thói thường những người đàn bà khác vẫn làm khi biết ra mình bị phản bội. Kim chỉ lặng đi một lúc rồi nghèn nghẹn nói:
- Em hiểu… bây giờ anh muốn chúng ta chia tay, đúng không?
Lê hốt hoảng:
- Không! Không… Kim ơi, anh không có ý đó!
Kim cười cay đắng:
- Vậy ý anh là gì? Chẳng lẽ anh muốn sống một lúc với cả hai người sao?
Lê nhào tới ôm chặt Kim như sợ cô biến mất:
- Kim ơi… anh chỉ muốn em tha thứ cho anh… Thật sự giữa anh và cô gái đó không hề có tình cảm gì với nhau… Chỉ vì trong một cơn say, không làm chủ được bản thân nên mới xảy ra cớ sự…
- Anh nói nghe sao nhẹ nhàng quá, giữa anh với người đó không có tình cảm nhưng đã có đứa con làm sợi dây ràng buộc, sợi dây đó còn chắc chắn gấp trăm lần sợi dây tình cảm lứa đôi nữa anh à!
Kim cũng không hiểu sao lúc đó cô có đủ bình tĩnh đến vậy.
Lê ôm đầu vẻ đau khổ:
- Xin em hiểu cho anh! Cô gái kia cũng không bắt anh phải có trách nhiệm gì, cô ấy chỉ muốn… chỉ muốn…
Lê ngập ngừng nhìn Kim.
Kim hỏi:
- Cô ấy muốn gì? Tiền ư?
- Không! Không phải!
Lê vội nói.
- Cô ấy chỉ muốn giao đứa nhỏ lại cho vợ chồng mình nuôi dưỡng.
Kim hết sức ngạc nhiên khi nghe Lê nói vậy. Bởi theo Kim, không có cô gái nào lại dễ dàng bỏ qua một mối lớn như Lê. Cô ta đề nghị vậy nhằm mục đích gì? Nếu không muốn giữ lại đứa con sao cô ta không bỏ nó lúc mới tượng hình để đến khi sinh ra mới đem giao lại cho Lê nuôi dưỡng?
Những thắc mắc vừa gợn lên thì Kim đã nhanh chóng tìm được câu trả lời có tính thuyết phục rất cao. Có lẽ cô ta biết, nếu bắt buộc Lê cưới cô ta về làm vợ sẽ là điều không đơn giản, vì hiện tại tình cảm vợ chồng Kim vẫn còn sâu đậm, nồng nàng lắm. Cô ta đang đóng kịch, đang giả vờ hiền dịu, chấp nhận thiệt thòi để tạo trong lòng Lê một mối thương cảm. Trước tiên, cô ta giao con cho Lê, để vin vào đứa con cô ta có thể liên lạc thường xuyên với Lê rồi từng bước, từng bước cô ta sẽ hất chân Kim ra khỏi gia đình này một cách nhẹ nhàng.
Nhưng khi Kim nói ra những ý nghĩ đó thì Lê kịch liệt phản đối:
- Tại vì em chưa hiểu cô ấy nên mới nói vậy!
Kim mát mẻ:
- Đúng rồi! Em thì làm sao hiểu cô ấy bằng anh được!
Lê ôm đầu nhăn nhó:
- Khổ quá, anh không phải nói ý đó! Anh muốn nói với em là, ngay từ lúc đầu cô ấy không hề báo cho anh biết chuyện mang thai, bởi cô ta dự định sẽ nuôi con một mình, sẽ không bao giờ cho anh biết sự thật đó! Nhưng vì gia đình cô đang gặp nhiều chuỵên không may, cô không thể tiếp tục nuôi dưỡng đứa bé được nên mới nói sự thật với anh và mong anh nhận nuôi đứa bé để cổ được yên lòng đi xa…
Kim không làm sao tin được thiện chí của người phụ nữ đó, nhưng Kim cũng không biết phải làm sao hơn. Chia tay với Lê ư? Kim không làm được, Kim không biết nếu như không có Lê bên cạnh thì cuộc sống của cô sẽ ra sao? Cuối cùng, Kim đành phải ngậm đắng nuốt cay, giấu kín những ghen hờn đau đớn vào lòng để vui vẻ nhận đứa bé về nuôi dưỡng.
Kim bị mất ngủ kể từ ngày hôm ấy.
Đó là một đứa bé trai bụ bẫm, giống Lê như đúc. Cả nhà Lê mặc dù không dám tỏ rõ thái độ trước mặt Kim nhưng Kim biết ai cũng vui mừng ghê lắm.
Và cả Kim cũng vậy!
Kim luôn tỏ ra yêu thương đứa bé, Kim chịu khó chịu khổ vì nó. Mấy ngày đầu mới đem nó về, do nhớ mẹ nó khóc suốt đêm, Kim cũng thức suốt mấy đêm liền theo nó.
Lê xót vợ:
- Em ngủ đi, đã có chị vú lo cho thằng bé rồi!
Kim cười:
- Một khi em đã chấp nhận đón nó về đây thì em đã xem nó là đứa con ruột thịt của mình rồi, con em khóc như vậy, em làm mẹ thì anh kêu em ngủ làm sao được?
Lê vô cùng cảm động trước tấm lòng quảng đại bao la của vợ và càng thấy thương yêu, kính nể Kim hơn.
Tất cả mọi người đều khen Kim nức nở. Kim chỉ cười nói đơn giản:
- Thằng bé là máu mủ của anh Lê nên nó cũng là con của vợ chồng em, em cũng là mẹ nó!
Nhưng khi chỉ còn một mình Kim đối diện với thằng bé thì trong đầu cô lại tưởng tượng ra cảnh mẹ nó và Lê quấn quýt bên nhau, tưởng tượng ra những cuộc điện thoại, những gặp gỡ thường ngày giữa hai người để trao đổi về chuyện của thằng bé.
Mặc dù Lê đã nói rõ với Kim rằng, mẹ thằng bé sau khi giao con sẽ đi tới một nơi rất xa, có khi mãi mãi không quay lại, và mọi liên lạc giữa hai người là hoàn toàn không có, nhưng Kim làm sao tin được!
Kim ôm thằng bé lên, nhìn thật kỹ gương mặt nó, lòng Kim đau nhói từng cơn:
- Ông trời thật trớ trêu, phải chi đứa nhỏ này là con do mình đứt ruột đẻ ra thì còn gì hạnh phúc hơn nữa…
Nhưng nó lại là con của một người đàn bà khác! Người đàn bà đó mặt mũi ra sao Kim còn chưa biết được, nhưng hình bóng của cô ấy cứ mãi rình rập không cho Kim được yên. Kim luôn lo sợ một ngày vị trí của Kim trong nhà này sẽ không còn nữa, mà thay vào đó là mẹ ruột của đứa bé này.
- Họ mới là một gia đình! Còn mình… mình là ai chứ? Mình là gì trong nhà này chứ?
Kim luôn vằn vặt mình bởi những điều như thế.
Đứa bé thì ngược lại, càng ngày nó càng quấn quýt lấy Kim. Mỗi khi nó biếng ăn hoặc quấy khóc, chị vú dỗ hết hơi nó cũng không nghe theo, nhưng Kim vừa bế nó vào lòng là nó nín khóc, nhoẻn cười ngay.
Đối với mọi người đó là một niền vui, nhưng với Kim thì luôn nghĩ theo hướng ngược lại.
Tất cả những suy nghĩ, những vằn vặt của vợ, Lê hoàn toàn không biết. Anh đang ở trong một cảm giác ngập tràn hạnh phúc. Làm sao Lê không hạnh phúc được khi có một người vợ hiền lành, biết cảm thông, chia sẻ cùng chồng, khi có một đứa con trai đáng yêu như thế!
Chỉ mới một thời gian ngắn mà Lê đã có cảm giác Kim là mẹ ruột của thằng bé. Chính vì vậy, nhiều lúc đùa giỡn với vợ con, Lê vô tư nói:
- Thằng chó con cười giống mẹ nó chưa kìa, cái miệng đáng yêu quá!
Hoặc:
- Cục vàng của ba, đừng quấy nữa, để yên cho ba làm việc tạo dựng tương lai cho mẹ con con..
Những câu nói đó của Lê cứ như những cây đinh đâm thẳng vào trái tim Kim, mỗi ngày một thêm nhức nhối.
- Không thể để thằng bé tiếp tục tồn tại trong nhà này được!
Ý nghĩ đó đã xuất hiện trong đầu Kim từ lâu, nhưng càng ngày nó càng thúc giục Kim hơn.
Có lần, Kim định ôm thằng bé đi tới một nơi nào thật xa và cho nó cho người khác, sau đó trở về tìm cách nói dối Lê. Nhưng cách đó không ổn. Nếu sau này thằng bé quay về… không được! Chỉ có một cách duy nhất là làm cho nó biến mất khỏi thế gian này, có như thế hạnh phúc của Kim mới được đảm bảo.
Nhưng cách nào đây? Kim không sao nghĩ ra được! Thuê người bắt cóc rồi thủ tiêu? Chuyện đó không khó, nhưng Kim biết, chuyện gì mà có người thứ hai biết được ắt sẽ có người thứ ba, thứ tư và nhiều người khác cùng biết. Không thể nhờ tay ai, phải dựa vào bản thân mình thôi.
Từng ngày, từng ngày, Kim đều chú tâm theo dõi để lựa thời cơ tiêu diệt thằng bé. Nhưng khó ở chỗ làm sao để không ai nghi ngờ Kim? Kim là người khôn ngoan, Kim phải tính toán thật kỹ lưỡng để không để lại bất kỳ dấu vết nào, hoặc bất kỳ một mối nghi ngờ nào có hại cho mình.
Và rồi thời cơ đã tới.
Nửa đêm hôm đó Kim thức giấc và đi sang phòng thằng bé như thường lệ. Thằng bé ngủ say trong nôi, đôi má phúng phính hồng hào trông thật đáng yêu.
Dưới sàn nhà cạnh đó chị vú đang ngủ say như chết.
Kim chợt nhớ chiều này chị vú kêu bị cảm, Kim đã đưa thuốc cho chị uống, mà loại thuốc đó Kim biết khi uống vào thì ngủ rất say.
Một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu Kim. Kim đi đến bên cạnh chị vú gọi khẽ mấy tiếng, chị vú vẫn không hay biết gì, miệng há hốc thở khò khè nặng nhọc.
Kim cúi xuống lấy chiếc gối rồi nhón chân tới gần nôi của thằng bé, tay cầm chiếc gối, Kim nhìn nó một lúc rồi bất thần đè chặt chiếc gối lên mặt đứa nhỏ. Thằng bé giật mình nhưng không phát ra được tiếng kêu, hai chân hai tay nó chòi đạp quơ quào một lúc rồi xụi lơ bất động!
Kim không dám giở gối ra mà cố tình đè thêm một hồi lâu nữa, đến lúc chắc chắn thằng bé không còn thở nữa Kim mới nhẹ nhàng lật úp thằng bé xuống, cầm cái gối trả về chỗ chị vú rồi âm thầm quay lại phòng mình.
Cố gắng nằm im gần một tiếng hồ sau Kim mới giả vờ  rên rỉ gọi Lê dậy:
- Anh Lê! Em đau bụng quá… anh làm ơn dậy lấy thuốc giùm em đi…
Lê giật mình lồm cồm ngồi dậy mở đèn lục tìm thuốc cho vợ. Mỗi tháng khi hành kinh Kim vẫn thường bị những cơn đau bụng dữ dội như thế, đau quằn quại, đau đến mức không đi đứng được.
- Sao rồi em, đỡ chút nào không?
Lê lo lắng hỏi.
Kim không trả lời, chỉ nhăn mặt rên rỉ.
Lê ngồi bên vợ một lúc, khi thấy Kim có vẻ dịu bớt đã lim dim ngủ, anh rón rén đứng lên đi sang phòng thằng bé.
Kim hé mắt nhìn theo dáng chồng.
- Trời ơi! Con tôi sao vầy nè…
Tiếng kêu của Lê đánh thức chị vú dậy, nhưng chị vẫn còn ngơ ngác chưa biết chuyện gì đã xảy ra.
Kim vừa ôm bụng vừa cố lê bước chạy sang.
- Chuyện gì vậy anh?
Kim hớt hãi hỏi chồng.
Lê run rẩy chìa đứa bé đang nằm mềm oặt trên đôi tay:
- Thằng bé… nó… nó… chết rồi!
- Hả? Cái gì?
Kim như thất thần nhào tới ôm chầm lấy đứa nhỏ rồi kêu thét lên, ngã vật ra bất tỉnh.
Chị vú lúc này mặt cắt không còn hột máu, lính quýnh không biết làm gì trước cảnh gia đình rối loạn như vầy. Chị cúi xuống đỡ Kim dậy, Kim vùng lên nhào tới ôm chặt đứa bé vào lòng, tiếng kêu khóc xé lòng của Kim, tiếng nghẹn ngào của Lê, tiếng thổn thức sợ hãi của chị vú khuấy động cả màn đêm yên tĩnh.
Thằng bé chết do ngộp thở vì nó lật sấp trong nôi và không trở người lại được. Trách nhịêm này thuộc về chị vú vì đã bất cẩn không coi chừng bé chu đáo, nhưng Kim năn nỉ chồng đừng làm khó cho chị vú, thật ra chị ấy cũng đâu muốn thế!
Một tháng sau, khi nỗi tang tóc, buồn đau chưa kịp vơi đi thì Kim báo tin mình vừa mang thai khiến Lê và gia đình vui mừng khôn xiết.
Người vui mừng nhất chính là Kim!
Kim quan tâm đến bào thai một cách rất chu đáo. Cô quyết tâm bằng mọi giá phải sinh được cho Lê một đứa con thật khỏe mạnh. Nếu được vậy, Kim sẽ không còn điều gì để lo sợ nữa!
Đúng như mong ước của vợ chồng Kim, tám tháng sau Kim hạ sinh một đứa con trai xinh xắn và khỏe mạnh. Khỏi phải nói hai bên dòng họ ai nấy đều vui hơn bắt được vàng!
Kim không chịu mướn vú nuôi mà tự tay chăm sóc cho con từng miếng ăn giấc ngủ.
Nỗi đau buồn của Lê chừng như giờ đây đã tiêu tan hết. Anh rất vui vẻ, hạnh phúc bên mẹ con Kim.
Khi thằng bé được tròn tháng tuổi, Kim cho đặt chiếc nôi của nó ngay trong phòng của vợ chồng cô. Lê không phản đối điều đó, vì anh biết Kim vẫn còn bị ám ảnh bởi cái chết của đứa nhỏ lần trước. Vả lại tự bản thân Lê, anh cũng muốn được ở gần con bất cứ lúc nào.
Một đêm Kim đang ngủ bỗng có cảm giác ai đó nhìn mình chăm chú, cô mở choàng mắt ra, và trong cái ánh sáng mờ mờ của bóng đèn ngủ, Kim không thể nào tin được khi thấy đứa con thương yêu của mình đang đứng bên cạnh nhìn lom lom vào mặt Kim.
Kim muốn thét to lên nhưng miệng cô cứng ngắt, tay chân cũng không sao cử động được. Bên cạnh Kim, Lê đang ngủ rất say, tiếng thở của anh nghe đều đều trong đêm vắng.
Đứa bé nhìn Kim một lúc rồi nhoẻn cười, giơ bàn tay nhỏ xíu của nó bịt lấy mũi Kim rồi buông ra như đang đùa giỡn.
Mồ hôi tuôn ra dầm dề nhưng Kim vẫn không sao nhúc nhích được. Đứa bé cứ thoải mái cười đùa, ê a nói chuyện, mặc cho Kim gần như chết cứng trên giường.
Thật lâu sau, dường như đã chán trò chơi đó, thằng bé bóp nhẹ vào mũi Kim rồi tuột xuống giường, trèo trở vô nôi nằm ngủ ngon lành như không có gì xảy ra.
Kim thấy mí mắt mình đột nhiên nặng trĩu, và thiếp đi lúc nào không biết.
Sáng hôm sau vừa thức dậy là Kim nhớ ngay đến chuyện tối qua, cô vùng ngồi lên, chạy tới bên chiếc nôi thì thấy thằng bé vẫn nằm ngoan trong đó.
Kim ngồi bệt xuống đất ôm đầu nghĩ ngợi.
- Có lẽ do mình bị ám ảnh chuyện trước đây nên đã nằm chiêm bao thấy điều bậy bạ!
Kim cố nhủ lòng mình như vậy nhưng khi đứa bé thức giấc đòi được mẹ bế, Kim bế con mà vẫn cảm thấy run rẩy cả người. Nhưng nỗi lo lắng này Kim không thể san sẻ cho bất kỳ ai.
Lê ăn sáng xong, nựng nịu con một chút rồi đi làm như thường bữa. Còn lại hai mẹ con trong phòng tự nhiên Kim thấy không an tâm, cô vội bế thằng bé đi xuống phòng khách, vừa trông con vừa nói chuyện với chị giúp việc cho đỡ sợ.
Chị giúp việc lui cui lau bàn ghế, Kim ôm thằng bé lên cho nó bú. Bất ngờ thằng bé giơ thẳng cánh tay lên bóp mũi Kim một cái đau điếng.
- Á….
Tiếng la của Kim làm chị giúp việc giật mình quay lại hỏi:
- Gì vậy cô?
Kim bối rối:
- Không!... Không có gì, chân nó đạp trúng bụng tôi đau quá…
Nói xong câu đó, Kim thấy rõ ràng thằng bé nhoẻn miệng cười và ánh mắt nó nhìn Kim thật là đáng sợ.
Quá sợ hãi, Kim gọi chị giúp việc:
- Chị Hoa, chị bế thằng nhỏ giùm tôi chút!
Vội vã trao đứa bé cho chị Hoa, Kim chạy nhanh về phòng mình ngã vật ra giường nằm thở hổn hển.
- Trời ơi… mình bị sao thế này? Chẳng lẽ…
Kim không dám nghĩ tiếp nữa.
Tối hôm đó Kim rụt rè đề nghị với Lê:
- Anh à, hay mình mướn người trông coi thằng bé giúp em đi, nó ngày lớn càng làm em đuối sức…
Lê hơi ngạc nhiên nhưng cũng đồng ý:
- Ừ, nếu em muốn thì cứ thuê người! Hồi mới sinh chẳng phải anh đã đề cập tới việc này rồi sao? Chỉ tại em quá mê con, cứ đòi để tự mình chăm sóc, giờ mới biết mùi phải không?
Kim cười như người có lỗi:
- Dạ, em cũng rất muốn tự mình chăm sóc con mình, chứ giao cho ai em cũng không an tâm, nhưng dạo này sức khỏe em giảm súc quá… Chờ một thời gian nữa khỏe lại, em cũng sẽ không giao con cho ai đâu!
Lê cười, bẹo má vợ.
Mấy ngày sau trong nhà Kim có thêm một cô nuôi trẻ. Đó là một người phụ nữ đứng tuổi, sạch sẽ và mềm mỏng.
Đêm đầu tiên dời chiếc nôi sang phòng khác, thằng bé cứ khóc ngằn ngặt, chị vú dỗ cách nào nó cũng không nín. Kim xót ruột chạy sang bế con. Vừa được mẹ bế thằng bé nín khóc và ngủ ngay lập tức. Kim ứa nước mắt vì thương và sợ.
Thật tình Kim không muốn mướn vú nuôi, nhưng lúc này Kim lại sợ vì thằng bé có những cử chỉ rất lạ với cô, thành ra Kim bắt buột phải làm như vậy.
Đợi nó ngủ say, Kim nhẹ nhàng đặt trở xuống nôi, lúc cô cúi người kê lại chiếc gối nhỏ xíu trên đầu thằng bé, thì rõ ràng nó trợn trừng hai mắt nhìn Kim khiến Kim bật lùi lại phía sau lảo đảo suýt té.
- Sao vậy cô?
Chị vú ngạc nhiên hỏi.
- Không sao… Tôi… tôi hơi chóng mặt…
Kim lúng túng trả lời.
Những ngày kế tiếp, thỉnh thoảng Kim vẫn bị thằng bé làm cho hết hồn một trận, nhưng rồi dần dần mọi việc trở lại bình thường như cũ.
Tuy vậy, Kim vẫn chưa hết sợ. Những lúc thương con quá, Kim rất muốn ôm chặt nó vào lòng để hát ru cho nó ngủ, nhưng cô lại không dám, chỉ ngồi xa xa nhìn nó mà thôi.
Thắm thoát gần một năm trôi qua, lúc này Kim không còn sợ con trai nữa, vì đã lâu lắm nó không hề có một cử chỉ nào kỳ lạ nữa.
Đôi lúc Kim tự hỏi, có khi nào tất cả những chuyện đó đều là ảo giác do mình quá sợ hãi mà ra? Ban đầu thì Kim không tin, nhưng dần dần Kim đã thuyết phục được mình. Giờ đây, đã có những đêm Kim và con trai ôm nhau đùa giỡn rồi cùng lăn ra ngủ.
Khi thằng bé chập chững đi những bước đầu đời, Kim mừng đến rơi nước mắt.
Lúc này tuy chị vú vẫn còn ở trong nhà nhưng hầu như mọi việc chăm sóc thằng bé đều do một tay Kim lo liệu.
Mà cũng lạ, thằng bé hồi nhỏ khỏe mạnh là vậy nhưng lớn lên nó lại thường hay đau ốm. Không gì nặng nhưng cứ vài ba hôm là bị ấm đầu sổ mũi, đêm nó ngủ không yên cứ quấy khóc liên tục. Kim vì chăm con nên cũng gầy sút đi trông thấy.
Sinh nhật lần thứ nhất của con trai được Lê và Kim tổ chứ thật lớn. Những người tới dự toàn là những người có vai vế trong giới kinh doanh. Mục đích của Lê không phải tổ chức sinh nhật con để thu lợi mà là để khoe cậu quý tử của mình.
Ai nấy đều tấm tắt khen Lê có phước, sinh được một thằng con kháu khỉnh đến như vậy, mới mười hai tháng tuổi mà đã đi những bước vững vàng.
Lê và Kim hãnh diện lắm.
Tối đó vì uống nhiều rượu nên Lê ngủ rất say, chỉ còn một mình Kim trăn trở không ngủ được. Cô đang nghĩ tới viễn cảnh tương lai đứa con yêu quý của mình. Lớn chút nữa, nhất định Kim sẽ cho nó vào học ở trường tốt nhất thành phố, rồi sau này sẽ cho nó đi nước ngoài du học. Khi đó, chắc chắn Kim phải đi theo chứ không thể để con một mình nơi xứ lạ quê người được!
Càng nghĩ Kim càng thấy phấn chấn. Cô không ngủ được nên chạy sang phòng con thăm nó.
Thằng bé vẫn chưa ngủ, nó nằm nói chuyện ê a một mình với cái lục lạc trên tay. Kim vui vẻ bế con lên nựng nịu.
Hai mẹ con giỡn với nhau một lúc, Kim nằm dài xuống sàn nhà để con trai lên bụng cho nó ngồi chơi.
Bất chợt, nó chồm tới vơ lấy chiếc gối gần đó và cố hết sức đè chặt lên mặt mũi Kim, Kim hốt hoảng vẫy vùng và thật khó khăn mới đẩy chiếc gối ra được.
Thằng bé vẫn vô tư ê a nói chuyện với Kim.
Kim ngồi bật dậy sững sờ nhìn con trai và bỗng nhiên cảm giác sợ hãi lại ập đến, mặc dù trông thằng bé lúc này rất đỗi bình thường, ngoan ngoãn dễ thương…
Nó lại lấy chiếc gối tự ấp vào mặt mình rồi lại đưa ngoài, miệng cứ nói liếng thoắng:
- Cúp… hà! Cúp… hà!
Kim như sực tỉnh. A, có gì đâu, nó đang chơi cướp hà với mẹ đây mà, trò chơi này Kim vẫn thường chơi với con mỗi ngày, sao tự nhiên lúc nãy Kim lại liên tưởng tới chuyện không hay nhỉ?
Mừng quá, Kim ôm con vào lòng hôn rối rít.
- Mẹ hư quá phải không con?
- Ừ, hư lắm! Đáng chết lắm!
Kim bật té ngửa khi bất thần thằng bé nói rõ ràng từng tiếng. Cô vừa bò vừa lết ra khỏi phòng con, run rẩy trèo lên nằm cạnh bên chồng.
Sợ hãi vô cùng nhưng Kim vẫn lo tới sự an nguy của con trai. Cô kêu lớn:
- Chị vú ơi! Chị Vú! Mau qua phòng coi thằng bé sao rồi!
Có tiếng chị vú đáp rồi tiếng chân chị đi vào phòng thằng bé, Kim hơi an lòng ôm chặt lấy Lê để lấy lại bình tĩnh.
Sáng hôm sau, tất cả mọi việc vẫn bình thường, chỉ có tinh thần của Kim là bất ổn.
Lê vừa xỏ giầy vừa bảo Kim:
- Em qua bế thằng bé về cho anh nựng nó một tí!
Kim không tự đi như mọi ngày mà ra trước cửa phòng gọi chị vú bế nó sang.
Hai cha con giỡn với nhau trong lúc Kim cứ đứng nhìn chăm chú. Kim cố tình tìm ra cái sự lạ lùng của đứa nhỏ nhưng hoàn toàn không thấy gì.
Lê đi làm rồi, Kim chợt hỏi chị vú:
- Chị ơi, hổm nay chị thấy thằng bé biết nói chưa?
Chị vú hơi ngạc nhiên trước câu hỏi lạ lùng của Kim nhưng chị vẫn trả lời một cách lễ phép:
- Dạ, bé chưa biết nói gì khác ngoài mấy tiếng “ba, ba”, “má, má” thôi cô ạ!
Kim vẫn chưa hết thắc mắc:
- Có đứa bé nào bằng tuổi này mà nói được tròn câu rõ tiếng không vậy chị?
Chị vú bật cười:
- Dạ, chắc không có đâu cô! Ít nhất là tôi chưa nghe nói tới chuyện đó bao giờ…
Suốt những ngày sau đó Kim vẫn sờ sợ khi tới gần con trai. Thái độ đó của Kim làm Lê chú ý.
- Em bị sao vậy? Mấy hôm nay không thấy em nựng nịu thằng nhỏ?
Lê thắc mắc hỏi.
Kim ấp úng:
- Em…
Kim không biết viện lý do gì để biện hộ cho hành vi không bình thường của mình nên cứ ngắt ngứ hoài không nói được.
- Có gì vậy? Em nói cho anh biết đi…
Lê hỏi dồn.
Kim suy nghĩ một chú rồi nói:
- Anh à, tự nhiên mấy hôm nay em cứ nằm mơ thấy con mình lạ lắm… giấc mơ đó cứ ám ảnh em, mỗi lần tới gần con là em có cảm giác sợ hãi… enm không biết tại sao nữa…
Lê lo lắng:
- Chắc thần kinh của em có vấn đề rồi! Anh nghĩ sáng mai em nên đến gặp bác sĩ để tư vấn đi, đừng coi thường bỏ qua, không nên đâu nghe em!
Nghe Lê nói vậy, Kim như vớ được phao. Cô rất mong tất cả những sự việc vừa qua là do thần kinh của cô bị trục trặc chứ con trai cô vẫn hoàn toàn bình thường!
Sáng hôm sau Kim đi khám bệnh theo lời khuyên của chồng. Sau khi kể cho bác sĩ nghe một số biểu hịên không bình thường, tất nhiên Kim làm sao dám kể ra cái nguyên nhân dẫn đến điều này, bác sĩ chẩn đoán Kim bị suy nhược thần kinh rồi kê toa ra thuốc.
Kim uống thuốc rất đều đặn với hy vọng cải thịên được mọi sự.
Nhưng hình như Kim đã không cải thiện được gì mà tình trạng còn tồi tệ hơn trước nữa!
Một buổi tối như thường lệ, Lê nằm trên sa-lông đọc báo, Kim ngồi bên cạnh vừa xem ti- vi vừa chơi với đứa bé.
Thằng bé chơi với chiếc máy bay một lúc đã thấy chán nên sà lại ôm cổ mẹ. Kim chìu con, vác nó trên vai rồi đưa tới đưa lui như đang cho con đi tàu lượn. Thằng bé thích chí bật cười nắc nẻ.
Lê bỏ tờ báo qua một bên nhìn hai mẹ con chơi giỡn với nhau rồi mỉm cười thật hạnh phúc.
Nhưng đột ngột, hai cánh tay đang vòng qua cổ Kim bỗng siết thật mạnh, Kim gần như nghẹt thở. Cô té quỵ xuống đất, lưỡi lè ra khổ sở, hướng ánh mắt cầu cứu về phía Lê nhưng Lê như không hề trông thấy gì, vẫn cứ mỉm cười ung dung bình thản…
Đứa bé bỏ tay ra cũng đột ngột như lúc nó siết vào. Kim hoảng hốt hất nó xuống đất rồi ho lên sặc sụa. Thằng bé bị mẹ hất văng ra đang khóc ngất dưới sàn.
Lê vụt đứng lên đỡ con và ngạc nhiên hỏi:
- Em sao vậy? Sao tự nhiên quẳng con xuống vậy, rủi nó có gì thì sao?
Kim uất ức la lên:
- Sao lúc nãy nó suýt giết chết em thì anh không lên tiếng?
Lê trố mắt nhìn vợ:
- Em nói gì vậy? Em có còn tỉnh táo không?
Nước mắt Kim trào ra, cô  ngồi phịch xuống đất nức nở:
- Lúc nãy nó siết cổ em, em tưởng mình chết đến nơi rồi mà anh vẫn cứ nằm đó mỉm cười…
Lê hốt hoảng đặt con trai xuống rồi chạy tới ôm vợ:
- Kim, Kim ơi! Em phải tỉnh táo nghe chưa? Sao tự nhiên em nói năng lung tung quá vậy? Em bị sao rồi?
Kim hất tay Lê ra, vùng vằng đứng dậy:
- Mặc xác tôi! Cha con các người cứ vui đùa với nhau đi, tôi thế nào mặc kệ tôi!
Kim bỏ về phòng, Lê đứng ngẩn ngơ giữa nhà không hiểu chuyện gì đang xảy ra với vợ mình. Thằng nhỏ thì cười như nắc nẻ với con lật đật mà nó đang cầm trên tay.
Sáng hôm sau Kim có vẻ bình tĩnh hơn nhưng vẫn không dám tới gần con, mà thằng bé cứ nằng nặc đòi mẹ bế. Lê phải dỗ dành:
- Con trai ngoan, con chơi với vú đi nghen! Hôm nay mẹ không khỏe nên không chơi với con được… Con đừng quấy mẹ nhe…
Khi chị vú đã bế thằng bé đi chỗ khác, Lê quay sang vợ ân cần nói:
- Anh thấy cần phải đưa em đi khám lại đó Kim à!
Kim ngồi lặng một lúc rồi ngước đôi mắt đẫm lệ lên nhìn Lê, nói trong tiếng nghẹn ngào cố nén:
- Anh ơi… có khi nào… có khi nào hồn ma của thằng lớn về phá em không? Tại sao lâu nay em luôn nhìn thấy những cử chỉ lạ lùng đáng sợ của con mà không ai thấy? Em biết thần kinh em không có gì đâu, chỉ là… em bị ma ám mà thôi! Hay là anh cho em đi tìm thầy bùa thầy pháp về trừ tà trong nhà mình nghe anh?
Lê thật sự bất ngờ khi nghe Kim nói vậy. Anh phản đối quyết liệt:
- Em đừng có điên như vậy! Nhà cửa đang sống đàng hoàng vui vẻ vầy mà tà ma cái gì? Anh không hiểu sao em lại đổ lỗi lên đầu vong hồn một đứa con nít? Nó chỉ là đứa nhỏ mới có mấy tháng tuổi, nó có gì thù hằn với em đâu mà về ám em kia chứ? Đúng là thần kinh em không ổn nên mới nghĩ ra những chuyện như vậy!
Bình thường Lê rất hay chìu theo ý vợ, nhưng riêng lần này Lê kiên quyết tới cùng, mặc cho Kim khóc lóc van xin.
- Đứng lên! Em đứng lên thay áo quần, anh sẽ đưa em đi khám bệnh!
Lê ra lệnh.
Kim không làm sao khác hơn được nữa.
Mặc dù hàng ngày Lê vẫn cho vợ uống thuốc đầy đủ theo lời dặn của bác sĩ, nhưng tinh thần Kim ngày càng trở nên hoảng loạn, suy sụp. Đã hơn một tuần qua Kim không hề chạm tới con trai, cũng không cho chị vú bế nó vào phòng ngủ của vợ chồng cô. Bất kỳ tiếng cười, tiếng khóc của thằng nhỏ cũng làm cho Kim giật bắn người hốt hoảng.
Mỗi lúc Lê vắng nhà là Kim chốt chặt cửa phòng và nằm lì trong đó.
Cái tin Kim bị tâm thần đã lan ra cả hai bên gia đình, tất cả những người thân đều rất ái ngại cho Lê. Họ khuyên Lê nên làm cách này cách khác, nhưng không có cách nào đem lại cho Kim sự bình an trong tâm trí.
Chỉ riêng một mình Kim biết mình vẫn tỉnh táo bình thường, và Kim cũng biết, những hàng động kỳ lạ của con trai mình chính là sự trả thù đứa bé con Lê! Nhưng chuyện này Kim phải cay đắng giữ chặt trong lòng, không dám thổ lộ cho bất kỳ một người nào khác biết, mà nhất là Lê.
Thời gian đầu, mặc dù rất sợ nhưng Kim vì quá thương con nên cố gắng viện ra đủ thứ lý do để tin chắc con trai mình vẫn bình thường, nhưng đến lúc này thì Kim không thể dối lừa mình được nữa. Và hình như lúc này đứa bé càng đeo bám theo Kim để quấy rối cô hơn.
Hơn một tuần không đến gần thằng bé, Kim có phần ổn định hơn. Thấy vậy, Lê hỏi:
- Em nhớ con không? Anh đem nó qua đây cho em nựng một chút nhé?
Kim đang ngồi trên giường nghe chồng hỏi thế giật nảy người lui sát vào một góc:
- Không! Không… em không muốn trông thấy nó! Anh à… hay là… mình gởi nó đi đâu đi…
Lê nhìn sững vợ, rồi bất chợt anh thở dài thườn thượt:
- Kim ơi… nếu em cứ thế này, dù không muốn chút nào nhưng chắc có lẽ anh phải đưa em vào viện để chữa trị thôi!
Kim òa khóc:
- Không, anh ơi… em không có bị điên đâu! Em vẫn hoàn toàn tỉnh trí mà… anh không được đưa em vào đó!
Lê nắm chặt hai vai vợ lắc lắc:
- Em nói mình tỉnh trí, vậy tại sao em lại sợ chính đứa con mà em mang nặng đẻ đau, đứa con mà em từng yêu thương hơn cả mạng sống của mình?
Kim ôm lấy chồng thổn thức:
- Sao anh không chịu tin em? Em nói là hồn ma của thằng lớn đã nhập vào con mình rồi, nó luôn muốn hãm hại em!
Lê khổ sở:
- Em càng nói càng bậy bạ! Sao tự nhiên lại bảo thằng bé bị ma nhập? Có người mẹ nào nói con mình như vậy không kia chứ? Mà cho dù là như vậy, nhưng nếu là hồn ma của anh nó thì sao lại muốn làm hại em? Thằng lớn luôn quấn quýt yêu thương em mà, đúng không? Và tại sao đối với tất cả mọi người, con mình vẫn là đứa là một đứa bé hoàn toàn bình thường, chỉ riêng em lại nói vậy?
Kim cứng họng không biết làm sao giải thích cho Lê hiểu vì không thể phơi bày sự thật mà cô đã cố tình chôn dấu thật kín trong lòng.
Kim khóc, ngày nào cũng khóc. Cô suy sụp cả tinh thần lẫn thể xác, mà đứa bé vẫn không chịu buông tha.
Một buổi trưa, chờ cho chị vú dỗ thằng bé ngủ xong rồi Kim mới len lén đi xuống nhà bếp để lấy thức ăn. Đang loay hoay, Kim có cảm giác như ai đó đang níu lấy vạt áo mình. Quay lại, Kim suýt nghẹt thở khi thấy thằng bé đứng bên cạnh từ lúc nào, một tay nó nắm lấy vạt áo Kim, một tay lôi theo chiếc gối. Nó nhìn Kim bằng ánh mắt như vừa giễu cợt, vừa căm thù.
- Mầy… mầy… muốn gì đây?
Kim như muốn hụt hơi.
Nó ngoác miệng ra cười rồi nói:
- Mẹ… con muốn chơi với mẹ, chơi cúp hà với mẹ!
Vừa nói, nó vừa đưa cái gối lên che kín gương mặt mình rồi ngoẻo sang một bên cười với Kim một cách hết sức vô tư, vui vẻ.
- Không… tao không rảnh… Ai dắt mầy xuống đây?
Kim lùi dần, nhìn lên thang lầu và hỏi.
Thằng bé vẫn không chịu buông áo Kim ra, nó lẳng nhẵng bám theo và nói rất rành rạch:
- Con tự đi tìm mẹ mà… con phải chơi cúp hà với mẹ… mẹ phải chơi với con, chơi với con nghen mẹ?
- Không! Không… Chị vú ơi…
Kim hét thật lớn, nhưng cả chị vú và chị giúp việc nhà hình như không ai nghe thấy, không ai có mặt để giúp đỡ Kim trong lúc này.
Kim giằng mạnh chiếc áo mà vẫn không sao dứt ra khỏi tay thằng bé được. Quá hốt hoảng, Kim vớ lấy cây kéo trên kệ bếp và rạch thẳng một đường đứt lìa vạt áo mà thằng nhỏ đang nắm chặt.
Thoát được nó, Kim chạy thật nhanh lên lầu, chui vào phòng mình và đóng sầm cửa lại. Kim còn đang đứng tựa lưng vào cửa mà thở dốc thì bất thần cô nhìn thấy thằng bé đang ngồi chễm chệ trên giường, hai tay nó ôm khư khư chiếc gối.
- Mẹ… chơi cúp hà với con đi mẹ!
Kim suýt ngất xỉu, nhưng cô đã cố lấy hết bình tĩnh để tông cửa chạy ra ngoài, nhảy một lúc mấy bậc thang lầu và cắm đầu cắm cổ chạy thục mạng ra vườn.
Trời ạ, trước mắt Kim, thằng bé đang ngồi đung đưa trên chiếc xích đu, hai cánh tay giang ra như muốn ôm chầm lấy Kim vậy!
Lúc này thì Kim không còn đủ tinh thần và sức lực nữa, Kim khụyu xuống ngay bậc thềm, đôi mắt thất thần và miệng thì ú ớ kêu rên.
Thằng bé thấy Kim té ngã, nó đứng lên rồi lẫm chẫm đi tới kéo tay Kim:
- Mẹ hư quá! Mẹ đáng chết quá! Mau về phòng chơi với con nè mẹ ơi… Mẹ thích chơi với con lắm mà?
Không hiểu sao Kim lại ngoan ngoãn đứng lên và đi theo sau thằng bé. Nó bước lên thang lầu một cách vững chãi không giống như một đứa bé thông thường ở tuổi đó. Kim xiêu vẹo bước theo sau lưng. Hai mẹ con đi vào phòng Kim, Kim quay lưng chốt chặt cửa phòng.
Kim chậm chạp leo lên giường, thằng bé vừa cười nắc nẻ vừa đè Kim nằm ngửa ra giường rồi lấy chiếc gối úp lên mặt Kim. Đôi tay nhỏ bé của nó lại có một sức mạnh phi thường, Kim không sao đẩy ra được!
- …hà!
Chờ cho Kim gần tắt thở, thằng bé lại giở gối ra. Nó đùa với Kim như mèo giỡn chuột.
- Vui không mẹ? Vui không?
Kim nhướng mắt nhìn con trai, nhưng ánh mắt Kim không hề biểu lộ một cảm xúc vui buồn nào hết.
- Chơi nữa nghe mẹ?
Thằng bé hỏi nhưng không cần nghe Kim trả lời, nó lại tiếp tục đè gối lên mặt Kim. Lúc này nó không cười nữa mà nói với giọng hằn học:
- Mẹ đáng chết! Mẹ thật đáng chết! Mẹ thật đáng chết!
Hơn mười phút sau, đứa bé dường như đã đuối sức, nó ngã ra nằm cạnh bên Kim rồi từ từ nhắm mắt lại.
Lê mở cửa vào phòng, trước mặt Lê là một cảnh tượng hãi hùng: Kim nằm trên giường hai mắt trợn trừng, cạnh bên là đứa bé cũng đã không còn thở nữa, hai bên khóe mép nó là hai dòng máu chảy dài xuống gối…
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:18:45 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:47:32
MA NHÁT
 
Năm tôi học lớp bảy, ba tôi được thuyên chuyển về Sài Gòn nên cả nhà tôi cũng phải chuyển đi theo.
Nói là Sài Gòn, chứ thật ra nơi chúng tôi chuyển đến thuộc địa phận Thủ Đức, nhưng hồi đó Thủ Đức còn hoang sơ, vắng vẻ lắm chứ chưa được phát triển như hiện nay.
Theo lời giới thịêu của người quen, ba tôi tìm mua được một căn nhà tương đối rộng rãi mà cũng vừa với túi tiền của ba mẹ tôi lúc đó.
Khỏi phải nói mấy anh em tôi vui mừng đến mức nào! Ba mẹ sinh cả thảy ba người con, toàn là con trai, nghịch phá suốt ngày làm mẹ tôi vô cùng vất vả. Nhưng năm ấy tôi cũng đã lớn nên ý thức được mọi việc, và biết giúp mẹ tôi coi sóc hai đứa em.
Mấy ngày đầu mới dọn tới chúng tôi phải khiêng dọn, xếp đặt đồ đạc trong nhà nên ai nấy mệt đừ. Tối chúng tôi lên giường là ngủ say chẳng biết trời đất gì nữa!
Tuần sau đó thì mọi việc đã ổn định; vẫn còn là mùa hè nên ba anh em không bị mẹ buộc phải đi ngủ sớm. Thường thì chúng tôi thường thức coi truyền hình đến gần mười một giờ đêm mới chịu đi ngủ.
Một đêm kia sau khi đã lên giường nằm hơn cả tiếng đồng hồ mà vẫn không sao ngủ được, tôi có cảm giác muốn đi tiểu nên dậy mò ra cầu tiêu, vì lười nên tôi không bật đèn ở hành lang.
Khi tới gần cửa phòng tắm tai tôi nghe có tiếng động ở phòng khách, tiếng chân bước nhẹ rồi tiếng lịch kịch như ai đặt vật gì đó xuống bàn. Tôi mò mẩm trong bóng đêm lại chổ công tắc điện định bật sáng đèn lên để xem, nhưng không hiểu sao cả ba bóng đèn đều không cháy sáng, và đồng thời còn nghe cả tiếng thở gấp gáp của một người nào đó ngay sát bên cạnh mình.
- Á… ma!
Tôi sợ quá thét lên một cách khủng khiếp.
- Chuyện gì? Chuyện gì vậy con?
Ba mẹ tôi tung cửa phòng chạy ào về phía tôi hốt hoảng hỏi. Lúc đó tôi đã té nằm dài xuống sàn nhà. Ba tôi vội vã bật đèn, khi ánh sáng đã soi rọi mọi thứ, tôi lồm cồm ngồi dậy lắp bắp:
- Ba, mẹ!... Con vừa… gặp ma!
Mẹ giật mình ôm tôi vào lòng, nhưng ba thì khác. Ba trừng mắt nạt:
- Con đừng có bày đặt nói láo nghe chưa, ba không thích nghe chuyện này lần thứ hai đâu đó!
Tôi mếu máo:
- Ba… con nói thiệt mà… rõ ràng lúc nãy đi vệ sinh qua đây, con nghe có tiếng chân người, rồi tiếng ai đó làm gì ngoài này, con tính bật đèn lên coi thử nhưng đèn không cháy, con còn biết có người nào đó đứng sát bên con, hơi thở phả vào cổ con nóng hổi…
Vừa nói, tôi vừa đưa tay chạm vào cổ mình. Ba tôi chau mày:
- Ba không ngờ con hư đến như vậy! Bây giờ khuya rồi, vô ngủ đi, ngày mai ba sẽ nói chuyện với con.
Tôi quá ấm ức vì ba cứ cho là tôi đặt điều nói láo nên bật khóc mà không chịu đứng lên về phòng ngủ tiếp.
Mẹ tôi dỗ dành:
- Thôi, nín đi con, đừng khóc, về ngủ đi!
- Nhưng… ba… nói… nói con nói láo…
Tôi thổn thức.
Mẹ xoa đầu tôi, dịu dàng:
- Thôi thôi, mẹ xin lỗi, mẹ biết con trai mẹ vì còn đang say ngủ nên mơ màng chứ con thì đời nào nói láo, đúng không? Con yên tâm đi, để rồi mẹ sẽ giải thích cho ba hiểu.
Quá thất vọng, tôi nhìn mẹ:
- Cả mẹ cũng không tin con sao? Con gặp ma thiệt mà!
Mẹ tôi chỉ lắc đầu mỉm cười ra vẻ không tin.
- Nghe lời mẹ, đứng lên về phòng ngủ đi con!
Tôi chán nản đứng lên đi về phòng, nhưng không dám nằm một mình một giường nữa mà chui vào nằm cạnh thằng em kế. Nó đang ngủ rất say, không hề biết giang sơn của nó đang bị tôi xâm lấn.
Nằm co rút bên cạnh đứa em, tôi suy nghĩ mãi về những chuyện vừa rồi và quả quyết đó chính là ma chứ không thể là gì khác được! Mãi tới khi trời gần sáng tôi mới thiếp đi lúc nào không biết.
Sáng hôm sau khi chúng tôi đang ngồi ăn sáng trong nhà bếp, mẹ tôi lên tiếng cằn nhằn:
- Tụi con có ăn uống gì, nhớ đem chén dĩa dơ bỏ ra ngoài cho mẹ rửa, đừng có vứt lung tung dưới gầm bàn, mẹ không có thời gian đi nhặt nhạnh các thứ đâu nghen!
Ba anh em tôi đưa mắt nhìn nhau. Tôi lên tiếng:
- Chiều hôm qua thằng Hùng ăn chè đậu xanh, có phải em bỏ chén dơ xuống gầm bàn không vậy?
Hùng la lên:
- Không! Em để chén ngoài sàn nước! Anh Hai không được đổ thừa cho em đâu nghe!
Tôi liếc sang thằng Út:
- Vậy là em hả Út?
Thằng Út giãy nãy:
- Không có! Hôm qua em ăn cơm chiều xong là lên phòng luôn, đâu có ăn thêm gì đâu!
Tôi nhún vai:
- Hai đứa đều chối, chẳng lẽ là anh Hai sao?
Hùng và Út ngó nhau tủm tỉm cười, tôi nóng máu nạt lớn:
- Hai đứa làm trò gì vậy? Đừng có cười mai mỉa vậy nghen, nếu là anh Hai lỡ làm thì anh Hai nhận lỗi liền, không chối đâu…
Mẹ tôi thấy mấy anh em bắt đầu gây chiến nên lên tiếng can ngăn:
- Mẹ chỉ nhắc vậy thôi, để các con có ý thức mỗi người một tay lo dọn dẹp nhà cửa. Chuyện này lỡ rồi mẹ không bắt các con phải nhận là ai làm, nhưng nhớ lần sau đừng vậy nữa!
Tôi vẫn còn tức khí vì thấy hai đứa em đứng về phía nhau mà nghi ngờ tôi chính là kẻ phạm tội nên vội hỏi:
- Mẹ, mẹ nói tụi con bỏ cái gì dưới gầm bàn vậy?
Mẹ vừa lau bếp vừa nói:
- Hai cái dĩa, một ly sữa! Thiệt tình…
Tôi ngớ người, cả hai thằng em tôi rát ít khi nào chịu ăn gì bằng dĩa, còn sữa thì lại kỳ lạ hơn, chỉ mỗi thằng Út uống sữa, nhưng lúc tối rõ ràng chính tay tôi đem sữa cho nó và cũng chính tôi đã mang ly đi rửa sạch rồi mà?
Mẹ tôi chỉ tay vào cái ly thủy tinh trong đồ hốt rác:
- Cũng vì các con vứt bừa bãi nên mẹ đá phải, suýt chút nữa đã đứt chân rồi còn gì!
Tôi hơi đổi sắc mặt, vì đó chính là cái ly có mà tôi đã cất vào tủ chén tối hôm qua!
Tôi nói với mẹ:
- Tối qua lúc cho thằng Út uống sữa xong, chính tay con đã rửa và đem cất nó đàng hoàng rồi mà?
- Thôi đi con ơi! Có lỡ quên thì mẹ chỉ nhắc nhở cho con nhớ, mẹ không mắng đâu, con đừng tập tính chối quanh như vậy!
Mẹ tôi nói với vẻ không hài lòng.
Tôi nín lặng không dám cãi lại vì chỉ gây thêm phiền phức mà thôi. Có ai tin lời tôi nói bây giờ? Trong lòng tôi lấy làm lạ lắm, rõ ràng là chính tay tôi đã cất nó mà?
Mang trong đầu nhiều nỗi thắc mắc nên tối hôm đó tôi cũng không ngủ ngon giấc được. Sau khi xem hết chương trình truyền hình, tôi và thằng Hùng lên phòng một lượt.
Thấy tôi nằm vào giường của nó, thằng Hùng ngạc nhiên:
- Ủa, sao tự nhiên anh Hai nằm đây?
- Ờ… thì tại tự nhiên anh Hai thích ngủ chung với em!
Tôi cười giã lả.
Thằng Hùng nhăn mặt:
- Thôi, ngủ hai người chật chội lắm, anh về giường của anh Hai đi!
Tức giận thì bị thằng em xua đuổi, tôi ôm mền gối ngồi phắt dậy, nhưng không về giường mình mà lại chui vào nằm cạnh thằng Út ở chiếc giường trong góc phòng.
Thằng Hùng ngạc nhiên thò đầu ra hỏi:
- Tự nhiên tối nay anh Hai kỳ cục vậy? Hay là… anh Hai sợ ma?
Tôi chột dạ, nói lớn:
- Sức mấy mà sợ! Chỉ tại… chỉ tại tao làm biếng giăng mùng!
Tôi đã tìm ra được một lý do hết sức thuyết phục để giải thích cho cái sự không dám ngủ riêng của mình. Thằng Hùng chừng như cũng thấy đó là lý do hợp tình hợp lý nên không dò hỏi gì thêm nữa mà chui vào mền và ngủ ngon lành, chỉ riêng mỗi một mình tôi là con thao thức.
Một lúc sau, khi đã mơ màng sắp chìm vào giấc ngủ, tôi lại nghe có những tiếng động ở phòng khách vọng về, lần này tôi hơi run nên chẳng dám mò ra xem. Nằm nghe tiếng lịch kịch mà tôi không dám nhúc nhích hay thở mạnh nữa.
Trưa hôm sau lúc giúp mẹ lặt rau dưới bếp tôi nói:
- Mẹ ơi, tối qua mẹ có nghe tiếng gì dưới phòng khách không?
Mẹ tôi ngừng tay nhìn chăm chú vào tôi, lo lắng:
- Con định nói với mẹ là tối vừa rồi con lại gặp ma nữa sao?
Tôi lắc đầu:
- Dạ không, con không ra ngoài nên không gặp ma, nhưng con… con nghe có tiếng động lạ lắm mẹ à!
Mẹ tôi gạt đi:
- Chắc là mấy con chuột mò ra ăn đêm thôi con! Nó lịch kịch suốt đêm mẹ cũng có nghe nhưng mặc kệ chúng. Để vài bữa mẹ nói ba con xem coi có kẻ hở nào bít lại là yên thôi.
Nghe mẹ nói vậy tôi nín thinh, không biết phải nói gì thêm nữa.
Bất chợt nhớ ra, mẹ trách tôi:
- Mẹ đã nhắc nhở rồi mà sao con vẫn vậy hả Thiện? Tối cho em uống sữa xong rồi thì đem ly đi rửa liền, còn nếu không thì cũng để có nơi có chỗ chứ, ai lại để ngay giữa lối đi, may mà mẹ trông thấy, chứ không lại bể thêm cái ly nữa rồi!
Tôi há hốc miệng. Cái ly thằng Út uống sữa tối qua tôi vẫn còn để nguyên trên phòng chưa đem xuống, thì làm sao nó lại ở giữa lối đi được chứ?
Nhưng biết nói ra mẹ sẽ không tin nên tôi đứng dậy chạy ngay về phòng cầm cái ly đem xuống chìa ra trước mặt mẹ làm bằng chứng:
- Ly thằng Út uống sữa nè mẹ, con để trên phòng mà!
Lần này tới lượt mẹ tôi ngạc nhiên:
- Vậy… cái ly này?
Mẹ với tay vào thau chén dơ cạnh bên lấy chiếc ly đưa lên cho tôi xem, trong ly vẫn còn một ít sữa! Trong nhà tôi, ngoại trừ thằng Út, đâu có ai uống sữa?
Thấy mẹ có vẻ hoang mang, tôi nói tiếp:
- Tối nay mẹ thử ráng thức, chờ tới nửa đêm rồi thế nào mẹ cũng nghe, tiếng động lạ lắm, giống như có người lục lạo đồ ăn thức uống dưới bếp rồi đem ra phòng khách ngồi ăn vậy đó mẹ! Con không óni dóc, cũng không phải nằm mơ đâu!
Mẹ nhìn tôi đầy vẻ nghi hoặc:
- Con nói thiệt hả? Trời, đừng có bày điều hù doạ mẹ nghe con?
Tôi nghiêm mặt:
- Con cũng sợ lắm, không dám đặt chuỵên bậy bạ đâu. Hai đêm nay con… con không dám ngủ một mình nữa đó mẹ!
Đã tin những gì tôi kể nên mẹ gật đầu:
- Được rồi, tối nay mẹ sẽ thử lắng nghe xem sao!
Tối đó mẹ thức xem truyền hình với anh em tôi, đến mười một giờ, cả ba mẹ con tắt đèn đi ngủ. Mẹ không về phòng mình mà tới nằm cạnh bên tôi.
Thằng Hùng ngạc nhiên:
- Sao mẹ lại ngủ chung anh Hai?
Mẹ tôi cười:
- Không, mẹ chỉ nằm chơi chút xíu, khi nào các con ngủ hết, mẹ về phòng mẹ! Mẹ thích ngắm các con ngủ mà!
Thằng Hùng cười ngỏn ngoẻn rồi nhắm mắt lại cố vờ ngủ, nhưng lát sau thì nó đã ngủ thật, ngực nó phập phồng theo từng hơi thở đều đều.
- Mẹ có nghe gì đâu, con?
Lát sau, mẹ khẽ lay nhẹ tôi và hỏi.
Tôi đưa ngón tay lên mịêng thầm thì:
- Mẹ ráng chờ thêm chút nữa đi!
Quả đúng như lời tôi nói, chưa đầy năm phút sau, cả tôi và mẹ cùng nghe những tiếng động vang lên từ dưới nhà bếp, cả tiếng nước chảy ra từ vòi nữa.
Mẹ nhổm dậy, tôi kéo tay mẹ lại:
- Mẹ… chờ thêm chút nữa đi!
Hai mẹ con rón rén nhón chân đi lần lại tới cửa phòng. Tiếng động dưới nhà vẫn vang lên rõ mồn một. Rồi như có tiếng chân người đi từ dưới bếp lên phòng khách, tiếng mở tủ lạnh, tiếng đổ nước vào ly. Rồi bước chân tiến dần tới bộ sa-lông, nơi mới lúc nãy ba mẹ con tôi ngồi bên nhua xem truyền hình.
Có tiếng nhai nhóp nhép, tiếng uống nước… Mẹ tôi run bắn nhưng vẫn cố thu hết can đảm nắm tay tôi đi nhanh ra ngoài và bất thần bật công tắc của cây đèn pin đã được chuẩn bị sẵn từ chập tối.
Cả hai mẹ con đều hoảng hốt khi thấy trên bàn là một ly sữa đang uống dở, một cái dĩa nhỏ đựng vài miếng bách ngọt, mấy vụn bánh còn rơi trên sa-lông chứng tỏ mới vừa rồi đã có người ngồi ăn chỗ đó!
- Anh ơi! Anh!
Mẹ tôi thảng thốt gọi lớn.
Ba từ trong phòng giật mình chạy ra ngơ ngác hỏi:
- Hai mẹ con có chuyện gì vậy?
Mẹ lia ánh đèn pin chiếu vào chiếc bàn dưới phòng khách:
- Anh nhìn kìa!
Ba tôi ngạc nhiên:
- Có gì lạ đâu?
Mẹ tôi bảo:
- Anh mở đèn lên đi!
Ba tôi chợt nhớ, chạy nhanh tới cầu thang bật công tắc đèn. Aùnh sáng bừng lên soi rõ sự hoảng hốt còn hằn sâu trên mặt của hai mẹ con tôi.
- Nhà mình… nhà mình có ma!
Mẹ tôi run rẩy nói.
- Em nói gì?
Ba tôi cau mày hỏi lại.
Mẹ dằn bớt sợ hãi và bắt đầu kể lại tất cả những sự việc lạ lùng đã xảy ra trong hai ngày hôm nay. Ba tôi vẫn chưa tin lắm:
- Có thật lúc nãy không phải em và các con bày mấy thứ này ra rồi quên sao?
Mẹ tôi lắc đầu khó chịu:
- Em đã nói với anh rồi, chính thằng Thiện kêu em ráng thức để nghe tiếng động mà mấy hôm nay nó vẫn thường nghe… Em nghĩ… mình nên tìm hiểu ngôi nhà này rõ hơn, nếu có gì thì phải cúng kiếng đàng hoàng thì mới ở yên được anh à!
Ba tôi tán đồng:
- Thôi được rồi, nếu em đã chắc chắn vậy thì anh giao cho em làm chuyện đó, được không?
Mẹ tôi gật đầu:
- Dạ được! Sáng mai em sẽ đi tìm hiểu.
Sáng hôm sau, khi đã hoàn tất việc nhà, mẹ tôi lân la sang thăm hỏi mấy nhà láng giềng bên cạnh. Những người ở đây cũng vui vẻ, cởi mở. Họ đón tiếp gia đình chúng tôi một cách nhiệt tình, hào hứng.
Sau một lúc nói chuyện lòng vòng, mẹ tôi đi thẳng vào vấn đề:
- Con mua được ngôi nhà này với giá rẻ như vậy, thiệt mừng hết sức! Nhưng bác ạ, con chắc nó cũng có vấn đề gì nên người ta mới bán với giá đó. Bác ở đây lâu năm, nếu có biết gì xin làm ơn kể lại cho con nghe để con biết đường mà cư xử…
Nghe mẹ tôi hỏi, người đàn bà đắn đo một chút rồi nói:
- Đáng lẽ tôi không nên nói, nhưng nghe cô hỏi, tôi đoán chắc gia đình cô cũng đang gặp phải việc gì, đúng không? Thôi thì tôi biết sao kể lại vậy để cô lo cúng kiếng cho phải phép, nghen?
Người đàn bà cẩn thận nói.
Mẹ tôi gật đầu:
- Dạ, được vậy là nhà con mang ơn bác nhiều lắm!
Người đàn bà nhìn mẹ tôi rồi nói luôn:
- Nhà đó có ma lâu rồi! Đứa con gái nhỏ của chủ nhà chết cách đây hai năm, nó chết do uống nhầm thuốc. Từ đó linh hồn nó cứ quanh quẩn trong nhà, đêm đêm lục lọi đồ đạc trong bếp, có khi người ta còn nghe nó bật truyền hình nữa. Chủ nhà dọn đi nơi khác, cho sơn sửa lại nơi đây để cho thuê, nhưng ai vào ở một hai tuần cũng phải dọn đi vì sợ. Không hiểu sao con lại mua nó?
Mẹ tôi rầu rĩ:
- Tụi con ở xa, đâu biết lai lịch nhà này ra sao, nghe người ta chỉ, thấy vừa với số tiền mình đang có nên mừng quá mua liền, ai ngờ đâu…
- Bây giờ con phải làm sao hở bác?
Mẹ tôi lo lắng hỏi.
Người phụ nữ suy nghĩ một chút rồi nói:
- Thật tình tôi cũng không biết phải làm sao, nhưng ông bà ta thường nói hễ đức trọng thì quỷ thần kinh, các cháu cứ ăn ở cho ngay thẳng, đêm đêm cầu nguyện các vong linh để gia đình được yên ổn làm ăn… Đầu tiên, cháu về nấu mâm cơm cúng rồi làm theo lời bác thử coi có kết quả gì không?
Từ giã người hàng xóm, mẹ tôi vội vã đi chợ mua thức ăn về làm một mâm cơm thật thịnh soạn, van vái hết lời.
Chiều ba tôi đi làm về, mẹ kể lại toàn bộ câu chuyện và nói thêm:
- Nếu em đã cúng vái, nguỵên cầu mà không yên thì… chắc vợ chồng con cái mình phải dọn đi nơi khác thôi anh!
Ba tôi thở dài thườn thượt khi nghe mẹ nói đến hai tiếng “dọn đi”!
Nhưng có lẽ vì chúng tôi là những người hiền lành, nên đêm hôm đó và mãi về sau này, không bao giờ chúng tôi còn nghe những tiếng động lạ dưới nhà vang lên nữa.
Ban đầu tôi vẫn còn sợ, không dám thức dậy đi xuống nhà một mình, nhưng rồi theo thời gian tôi đã quên đi cảm giác sợ hãi.
Mẹ nói:
- Ma cũng giống như người…
Và tôi tin điều đó!
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:20:07 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 2 của 4 trang, bài viết từ 31 đến 60 trên tổng số 99 bài trong đề mục