Truyện ma của Nguyễn Thị Mộng Thu
Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 3 của 7 trang, bài viết từ 31 đến 45 trên tổng số 99 bài trong đề mục
nguyenthu 10.08.2009 20:52:50 (permalink)
KHÚC NHẠC MA
 
Tâm có một thú vui rất lớn, đó là thú sưu tầm những chiếc cassette cổ, chiếc nào càng cổ càng được cô quý trọng nâng niu.
Nhưng Tâm không giàu có, không thừa thãi tiền bạc như những người có thói quen sưu tầm khác. Cô chỉ là một công nhân tầm thường, sống tiện tặn với đồng lương eo hẹp của mình.
Tâm sưu tầm chủ yếu bằng cách… xin hoặc trao đổi. Thời buổi bây giờ, dù là những người ở nông thôn họ cũng thích se sua, sắm sửa cho bằng chị bằng em. Hễ thấy nhà bên cạnh có tivi màu, thì nhà bên này cũng cố sống cố chết ráng mua cho được. Cassette là thứ mà bây giờ người ta ít khi dùng tới, thay vào đó là các loại đầu đĩa năm số, sáu số hợp thời và tiện dụng. Những chiếc cassette cũ thường thì người ta đem bán ve chai, hoặc gặp người tiếc của thì cứ bỏ vào một góc nào đó trong xó nhà cho xong.
Cái cassette đầu tiên Tâm có được là đổi bằng mấy gói mì tôm. Sau đó lần lượt cô có được nhiều cái khác cũng bằng những cách tương tự như thế. Và hiện giờ thì Tâm đã có trong tay mười chín chiếc!
- Ê, mai chủ nhật, về nhà mình chơi đi!
Hải vừa bỏ áo quần vào ba lô vừa rủ rê.
Tâm chần chừ:
- Nhưng…
Hải gạt phắt:
- Còn nhưng nhị gì nữa? Mệt bà quá đi! Mau soạn đồ đạc đi với tui, về đó tui kiếm thằng nào coi được tui gả cho.
Tâm cười khì:
- Tui chỉ muốn làm chị dâu bà thôi, được không?
Hải thở dài:
- Đáng ra là rất được, nhưng vì tui thương bà, tui không muốn bà khổ nên hổng đời nào tui gả bà cho ông anh mắc dịch của tui đâu.
Tâm ngạc nhiên:
- Ủa, lâu nay mình tưởng anh Vũ tu tâm dưỡng tánh rồi chứ?
Hải chép miệng than:
- Phải được vậy thì tốt biết mấy! Nhà tui thiệt vô phước, chỉ có một ông con trai mà không nên thân nên hình gì, suốt ngày quậy quạng làm má tui khóc hết nước mắt. Mới hai mươi mấy tuổi đầu mà sáng say chiều xỉn, có đứa con gái nào mà dám đâm đầu vô làm vợ?
Tâm tò mò:
- Rồi bây giờ anh Vũ vẫn ở nhà cho ba má Hải nuôi sao?
Hải lắc đầu:
- Không! Ổng cũng đi làm! Nghe đâu hiện tại đi làm thợ hồ ở một công trình nào đó trên tỉnh, nhưng mệt lắm Tâm ơi, đi vài tháng về là ba má mình phải chạy vạy một số tiền trả nợ cho ổng, bởi mắc ổng nên nhà mình cất đầu lên hổng nổi đó!
Tâm an ủi bạn:
- Thôi, đừng quá bi quan như vậy, biết đâu mai mốt ảnh thay đổi, lo lắng cho gia đình trở lại.
- Cầu cho bà nói trúng giờ linh!
Hải cười.
- Sao? Đi với tui nghen?
Hải lại hỏi.
Tâm cười gật đầu:
- Ừ, đi thì đi, ở nhà một mình không làm gì cũng buồn.
Hải cười tươi:
- Ừ, phải vậy mới được chứ! Bà tối ngày cứ đi làm về là loay hoay với cái đống ve chai đó, riết chắc bà cũng trở thành phế thải như nó luôn cho coi!
Tâm không nói gì chỉ mỉm cười. Hải làm sao hiểu được niềm vui của Tâm mỗi khi nâng niu một chiếc máy cũ. Cô đã từng tưởng tượng ra cảnh những gia đình ấm cúng, quây quần bên nhau dưới đêm trăng sáng để nghe Thanh Sang – Thanh Nga hát vở tuồng Bên cầu dệt lụa; cảnh đôi vợ chồng già nằm đu đưa trên võng những buổi trưa hè oi ả thả hồn mình theo giọng hát của Nữ hoàng sầu muộn Út Bạch Lan hoặc những giọng ca không thể lẫn vào đâu được của Bạch Tuyết, Út Trà Ôn… Hay những cặp vợ chồng mới cưới, đêm đêm gối đầu lên tay nhau nghe Lệ Thủy, Minh Vương hát những vở tuồng yêu đương tha thiết…
Mỗi một chiếc cassette gắn liền với một gia đình, với những niềm vui và nỗi buồn dưới một mái nhà nào đó.
Mười chín cái, mười chín cuộc đời. Tâm đang cố phấn đấu trong năm nay tìm được một chiếc nữa cho đủ với số tuổi hai mươi tròn trịa của mình!
- Xong chưa? Lên đường!
Hải xốc lại ba lô trên lưng giục Tâm.
Tâm cười, đứng lên bwosc theo sau Hải, và khi cả hai đã ra khỏi phòng, Tâm quay vào khóa cửa rồi nhẹ nhàng ngồi sau xe cho Hải chở.
Hải sửa lại chiếc mũ bảo hiểm trên đầu cười nói:
- Ôm cho chặt vào nghen, tay lái lụa bắt đầu khởi động đây!
Tiếng động cơ nổ giòn giã, cùng với tiếng đùa vui vẻ của hai cô gái vang lên trong buổi sớm ban mai ở khu nhà trọ ọp ẹp dành cho công nhân nghèo thuê mướn.
 
***
Hơn ba tiếng đồng hồ sau Hải và Tâm và đến nơi. Đứa em gái của Hải vừa nghe tiếng xe dừng trước nhà đã vội vã chạy ra mừng chị, té nhào nơi bậc cửa khóc váng lên.
- Ôi, tội nghiệp chưa! Nín đi em, nín đi!
Tâm chạy vội tới đỡ bé Thi lên, chắc con bé vẫn còn đau nên miệng méo xệch và vẫn nức lên nho nhỏ mặc dù trong tay đã ôm thật nhiều quà bánh của hai chị dỗ dành.
Nhà Hải chỉ có ba anh em, nhưng anh Hai của Hải lại làm cho gia đình buồn phiền và nhiều phen xấc bấc. Hải thì ngược lại, học chưa hết phổ thông, thấy gia cảnh nhà mình thiếu trước hụt sau, cô quyết định nghỉ học đi làm, chắt chiu từng đồng đem về cho cha mẹ. Bé Thi em Hải mới lên sáu.
Hai năm gần đây, đất ruộng nhà Hải bị giải tỏa và được đền bù một tiền khá lớn, nhờ có vốn làm ăn buôn bán nên gia đình Hải có khá hơn trước, nhờ vậy gánh nặng trên vai Hải cũng vơi bớt.
Tâm và Hải chơi thân với nhau từ mấy năm nay, cả hai vẫn thường xuyên về nhà nhau chơi trong những ngày nghỉ nên mối thân tình rất sâu đậm. Cả Hải và Tâm đều rất tự nhiên, thoải mái mỗi khi về chơi nhà bạn, và gia đình Hải, gia đình Tâm cũng coi cả hai cô như con cái trong nhà.
Khi cả nhà vừa ngồi vào bàn ăn thì thật bất ngờ anh Hai của Hải về tới.
Với cái dáng đi khệnh khạng, nghênh ngang, Vũ đi vào nhà, nhăn nhở mỉm cười chứ không chào hỏi riêng ai.
Ông Năm, ba Hải ngó vũ trừng trừng:
- Mầy lại lết đầu về rồi sao? Lại gây ra bao nhiêu nợ nần rồi?
Bà Năm chưa kịp can thì Vũ bật cười hềnh hệch:
- Ba nói gì kỳ vậy ba? Con đi làm ăn xa, nhớ ba má, nhớ mấy em nên về thăm… Con bây giờ khá giả rồi, ba má đừng lo cũng đừng khinh thường con như trước nữa.
Ông Năm khịt khịt mũi không thèm lên tiếng.
Bà Năm vội đứng lên lấy thêm chén đũa:
- Ngồi vô bàn ăn cơm luôn đi con!
Vũ đi tới bên bàn, nghiêng ngó nhìn mấy món ăn đơn giản trong mâm cơm và lắc đầu:
- Con thương ba má và các em quá, quanh năm suốt tháng vẫn chỉ những món này. Từ nay con sẽ báo hiếu cho ba má, con không để ba má sống kham khổ nữa đâu.
Không dằn được, ông Năm dằn mạnh chén cơm xuống bàn:
- Mầy có dẹp ngay cái giọng phách lối đó đi cho tao nhờ không? Thiệt đúng là đồ…
Bà Năm lầm bầm:
- Thôi thì ông cứ mặc nó nói gì thì nói, coi như thằng điên nói đi, hơi đâu tức giận cho mệt.
Rồi quay sang Vũ bà nói với vẻ mệt mỏi:
- Còn mầy có ăn thì ngồi vào, không thì đi chỗ khác, đừng làm người khác bực mình!
Vũ lại cười hề hề, vòng ra sau lưng bà Năm, ôm lấy vai bà nịnh nọt:
- Má! Con thương má nhứt trong cái nhà này! Má đừng lo cho con, con trai của má phát tài rồi!
Vừa nói, Vũ vừa cười hô hố rồi ngồi bệt xuống sàn nhà, mở cái giỏ xách đeo trên vai ra, lục lọi lấy ra một con vịt quay béo ngậy.
Vũ hất hàm nói với Tâm:
- Ê! Em là Tâm phải hôn? Nè… đứng lên chặt con vịt này dọn ăn đi em! Còn Hải, mầy cũng đứng lên, lấy bánh mì nè dọn cho ba má với mấy em ăn cho ngon lành đi…
Tâm và Hải cùng đứng lên, nhưng Hải cằn nhằn:
- Mới giờ này mà ông xỉn rồi đó hả? Tui không biết tới năm nào tui gặp ông mà không thấy ông say xỉn.
Vũ không phật lòng mà còn cười trước lời nói của Tâm:
- Xỉn đâu mà xỉn mậy, mấy đứa bạn rủ uống chút đỉnh thôi mà! Mầy sao khắt khe với anh trai quá, mai mốt lấy phải thằng chồng mầy mới biết thông cảm cho anh mầy!
Hải trề môi:
- Tui mà lấy nhầm thằng chồng giống ông, tui ly dị liền!
Bà Năm rầy:
- Thôi, hơi đâu mà đi đôi co với mấy thằng nhậu! Tụi mầy cũng rảnh hơi lắm hay sao?
Tâm lẳng lặng đi chặt vịt, Hải cắt bánh mì và dọn ra mâm. Sau đó cả nhà ngồi vào ăn nhưng Vũ vẫn còn ngồi dưới đất.
- Mầy không ăn luôn cho tụi nó dọn dẹp?
Bà Năm hỏi.
Vũ lắc đầu:
- Con mua về cho ba má với mấy em ăn đó chớ, con mà ăn uống gì má ơi!
Hải vừa cắn miếng bánh mì vừa nói bâng quơ:
- Ăn cơm xong ra ôm củi vô nghen Thi, lát nữa thế nào trời cũng bão.
Thi ngây thơ hỏi lại:
- Chị coi dự báo thời tiết hả chị?
Hải không nói gì còn Tâm thì liếc nhìn Thi rồi tủm tỉm cười.
Bé Thi láu táu, ăn một hơi mấy miếng thịt quay nên đâm ra ngán, nó vừa tuột khỏi bàn thì Vũ đã ngoắt lại:
- Ê, út Thi! Lại đây anh Hai lì xì cho nè!
Thi hí hửng sán lại kế bên Vũ.
Vũ thò tay vào túi lấy ra một nắm tiền lẻ nhăn nhúm đưa hết cho Thi:
- Nè, anh Hai lì xì!
Thi mừng rối rít:
- Em cám ơn anh Hai!
Con bé nói xong, cũng ngồi bẹp xuống bên cạnh, cầm từng tờ tiền vuốt ra cho thật phẳng phiu.
Vũ ngồi nhìn em và cười thật hiền.
Bất chợt như nhớ ra, Vũ lục trong giỏ xách ra mấy thứ lặt vặt:
- Cho em nè, cho em làm đồ chơi!
Vừa lựa ra mấy món đồ vụn vặt, Vũ vừa nói. Con bé Thi còn đang mãi vuốt tiền, nó chỉ đưa tay quơ vội đống quà hỗn tạp đó vào lòng mà không chú ý gì đến.
Nhưng có một người đang rất chú ý, đó là Tâm. Bởi trong lúc vô tình, Tâm nhìn thấy trong đồ chơi Vũ cho Thi có một chiếc cassette cũ mèm và nhỏ xíu.
Dọn dẹp chén bát xong xuôi, Tâm đến bên bé Thi:
- Cho chị mượn cái này chút nghen bé Thi?
Vừa nói Tâm vừa cầm cái cassete lên.
Thi mỉm cười gật đầu:
- Dạ, em cho chị chơi chung đó!
Hải từ dưới bếp đi lên trông thấy cười thật tươi:
- Rồi, trúng hệ của cô nàng rồi!
Tâm cười. cô cầm chiếc cassette lên ngắm nghía. Nó cũng bình thường giống những chiếc khác cùng thời, nhưng lại nhỏ nhắn một cách đáng yêu. Chắc đây là vật dành riêng cho một người chứ không phải dùng chung cả gia đình, và chắc hẳn người này thường đi đây đi đó.
Thời đó, có lẽ đây là một vật đắt tiền, vì lớp vỏ của nó đã qua rất nhiều năm mà vẫn sáng lên một cách kỳ lạ, không xỉn màu như những chiếc mà Tâm đã có. Chỉ duy nhất có mấy cái nút là cũ kỹ, có cái xục xịch như sắp sửa rơi ra.
- Thi tặng chị Tâm cái đó đi nghen?
Hải ngồi xuống dỗ dành.
Bé Thi ngước lên chưa kịp nói gì thì Vũ đã xen vào:
- Ôi, ba cái đồ bỏ đó mà lấy làm gì? Nếu Tâm thích chút nữa anh đi mua tặng em một cái thật tốt.
Hải bụm miệng nín cười, rồi lại le lưỡi với Tâm. Tâm cũng cười theo nhưng không nói gì.
- Anh Hai không biết rồi, con Tâm nó đang sưu tầm cassette cũ, chứ đâu phải nó cần dùng.
Hải vừa cười vừa nói.
Vũ ngạc nhiên:
- Sưu tầm? Sưu tầm ba cái đồ ve chai này làm gì vậy Tâm?
Tâm cười:
- Dạ, em thích để chơi vậy thôi chứ có làm gì đâu anh Vũ!
- Thiệt hết biết!
Vũ nói. Rồi quay sang móc túi đưa cho bé Thi mấy cục kẹo, hất mặt về phía Tâm:
- Nè, anh đền cho mấy cục kẹo, cho chị Tâm cái máy đó đi nhe bé Thi?
Thi cười lỏn lẻn, liếc nhìn Tâm:
- Em cho chị luôn đó!
Tâm cười tươi:
- Chị cám ơn bé Thi rất nhiều. Mai mốt chị Hải về, chị sẽ gởi tặng bé Thi một con gấu bông thiệt lớn nghen?
Bé Thi cười toét miệng, phô hai hàm răng sún.
Tâm cảm thấy một niềm vui kỳ lạ đang len lỏi trong lòng. Đã hai mươi lần Tâm đón nhận những món đồ như vầy, nhưng không hiểu sao lần thứ hai mươi này Tâm mới cảm thấy lạ kỳ như thế. Giống như giữa Tâm và chiếc cassette này có một mối dây liên kết nào đó vô cùng mật thiết.
Cầm nó trong tay, Tâm nghe lòng mình chợt rưng rưng xúc động, một nỗi xúc động mà lâu nay Tâm chưa lần nào trải qua.
Tối hôm đó, khi đã trở về nhà trọ, Tâm say sưa lau chùi, đánh bóng lại những chỗ hoen rỉ, cố gắn lại mấy cái nút bị lung lay. Chỉ một loáng sau, chiếc cassette đã như lột xác, mới tinh, sáng bóng một cách kỳ lạ.
Tâm nằm xuống giường ngủ mà trên tay vẫn còn cầm chiếc cassettte không chịu rời ra.
Đêm hôm ấy, Tâm mơ một giấc mơ thật lạ. Cô thấy mình tay trong tay với một chàng trai, đi tới một miền đất nào đó hoàn toàn xa lạ, nơi đó có rất nhiều hoa, rất nhiều bướm và đặc biệt là lúc nào cũng có tiếng nhạc du dương êm dịu bên tai.
- Đó là khúc hát ru dành cho người con gái anh yêu!
Chàng trai thì thầm bên tai Tâm.
Tâm đỏ mặt mỉm cười.
Tâm thấy chân mình bước đi rất nhẹ nhàng, hình như cô đang lướt nhẹ trên mây, tất cả đều huyền hoặc, mơ hồ nhưng cảm xúc lại rất sâu đậm.
Giật mình choàng tỉnh, Tâm vẫn còn nghe văng vẳng bên tai khúc nhạc du dương kỳ ảo ấy.
Từ hôm đó, mỗi khi đi làm Tâm luôn có cảm giác nóng ruột, cứ mong ngóng được về phòng.
- Bà làm gì mấy bữa rày lạ vậy?
Hải thắc mắc.
Tâm mỉm cười:
- Mình cũng không biết tại sao nữa, tự nhiên cảm thấy nôn nao muốn về phòng. Mỗi khi về tới nhà trọ của mình là trong lòng thấy vui lắm, thấy hạnh phúc lắm.
Hải bật cười:
- Bà có tương tư ông nào ở đó không vậy?
Giả bộ suy nghĩ một lát Hải reo lên:
- Ê, tui biết rồi nghe! Bà tương tư ông chủ nhà chứ không ai vào đây hết! Bởi vì đám công nhân tụi mình đứa nào khô ng đi làm, bà đâu có nôn về làm gì? Chỉ có ông chủ nhà là tối ngày ngồi ở cổng, bà mong về để nhìn mặt ổng cho đỡ nhớ chứ gì?
Tâm thụi vào lưng Hải một cái thật đau:
- Đồ quỷ! Ăn nói bậy bạ!
Hải cười hắc hắc:
- Chứ ai biểu bà thân xác ở đây mà hồn vía thả đi đâu, suốt ngày cứ ngơ ngơ ngác ngác như kẻ si tình!
Tiếng kẻng báo hết giờ giải lao vang lên, Tâm và Hải hòa vào dòng người đông đúc trở về vị trí của mình.
Sau lúc cười đùa với Hải, giờ đây Tâm vẫn thấy lòng mình nôn nóng một cách lạ lùng.
Và hôm nào cũng vậy, vừa về tới phòng là Tâm nhào lên giường ôm cái cassette vào lòng, nhắm mắt lại nghe thật thanh thản, bình yên. Bên tai Tâm lại vẳng lên khúc nhạc du dương êm ái đêm nào.
Ngày tháng cứ trôi qua như thế, Tâm mỗi lúc một xa rời với tất cả bạn bè, kể cả Hải. Sau giờ làm việc, niềm vui, niềm hạnh phúc duy nhất của Tâm là nằm yên lặng một mình trên giường, thỉnh thoảng Hải chạy qua nằm chung cũng khiến cho Tâm khó chịu.
Những thay đổi đó của Tâm dần dần ai cũng nhận ra. Hải rất lo lắng:
- Mình thấy dạo này Tâm lạ quá! Hay tại bọn mình làm gì đó khiến Tâm phật lòng nên không muốn chơi với mình nữa?
Tâm ôm Hải thân thiết:
- Sao lại nói vậy? Hải không hiểu mình à? Mình lúc nào cũng yêu thương và quý mến Hải cùng các bạn, mình có không chơi với ai đâu?
- Nhưng tại sao? Tâm có biết mình thay đổi nhiều lắm không?
Hải nhìn vào mắt Tâm.
Tâm thở dài:
- Thật sự mình cũng không thể hiểu nỗi. Hình như mình mắc phải một chứng bệnh gì đó, lúc nào mình cũng muốn ở một mình, không muốn giao tiếp với ai. Mình chỉ thật sự cảm thấy vui vẻ, hạnh phúc khi được ở một mình…
Hải trố mắt nhìn Tâm:
- Lạ đến thế sao? Mình cũng nghe nói nhiều đến các dạng tâm thần, trầm cảm hay xì- trét gì gì đó, nhưng mà những người bịnh đó thường buồn bã lo lắng, u sầu ủa dột… Còn Tâm thì lại vui vẻ thế này, nhìn Tâm ai không biết còn tương mới lấy chồng hay sao ấy, hạnh phúc cứ ngời ngời trên mặt. Nhưng sao lại thế chứ?
Tâm lắc đầu và trở lại giường của mình, ôm chiếc máy cassette vào lòng lim dim nhắm mắt.
- Ê Tâm, bộ cái máy đó còn hát được hả? Sao thấy lúc nào bà cũng ôm nó hết vậy?
Phượng nằm kế giường Tâm bỗng hỏi.
Tâm nhoẻn cười:
- Đâu có! Mình chưa bỏ pin vô nên không biết nó còn hát được không nữa, chỉ tại mình thấy thích nó quá vậy thôi!
Phượng lắc đầu:
- Hết biết bà! Tối ngày đi tha về mấy đồ ve chai, rồi bây giờ lại ôm ấp nâng niu nó nữa. Đừng nói một ngày nào đó bà tương tư một cái cassette cổ nào nhe?
Tâm và Phượng cùng bật cười. Nhưng Hải thì khác, vừa nghe Phượng nói câu đó cô thoáng giật mình thầm nghĩ:
- Có khi nào?... Trời ơi… nếu thế thì phải làm sao đây?
Hồi nhỏ, Hải thường nghe người ta kể rằng có những món đồ cũ, những gốc cây lâu năm sẽ biến thành ma quái, hoặc là hồn người chết vì quá yêu quý đồ vật của mình nên không nỡ rời xa, linh hồn đeo bám mãi vào món đồ đó. Bây giờ khi nghe Phượng nói đùa như vậy Hải lại lo sợ vô cùng.
Hôm sau khi tan tầm, trong lúc Tâm còn ghé qua chợ mua thức ăn về nấu bữa cơm chiều thì Hải vội vã về trước. Cô lục lọi đồ đạc của Tâm và lấy cái cassette cũ đem giấu kỹ dưới rương quần áo của mình.
Vừa về đến nhà, chưa kịp thay quần áo, Tâm đã tìm chiếc máy hát ấy.
- Có bạn nào thấy cái cassette của mình không?
Tâm hớt hơ hớt hãi hỏi.
Mọi người đều lắc đầu. Và thế là Tâm xới tung lên mọi thứ quyết tìn cho bằng được chiếc cassette đó. Tất cả mền mùng chiếu gối đều bị Tâm xổ tung ra, vứt ngổn ngang dưới đất, nhưng chiếc máy hát vẫn bặt vô âm tín.
Tuyệt vọng, Tâm ngồi thừ ra giường rồi đột ngột úp mặt vào hai bàn tay khóc lên rưng rức.
Các bạn cùng phòng hết sức lo lắng cho Tâm. Không ai hiểu cái máy đó có gì là quý giá khiến Tâm phải tiếc đến như vậy? Trong khi hồi nằm ngoái, Tâm đã làm mất trọn một tháng tiền lương mà thấy cô có đau đớn đến mức đó đâu?
- Cái đó đem bán đâu được mấy ngàn, nên chắc không phải ăn trộm vô lấy đâu. Tâm tìm kỹ lại đi, coi nó có lẫn vào đâu không?
Phượng vừa giúp Tâm giũ giũ mấy cái mền vừa nói.
- Mình đã tìm rất kỹ rồi, không biết nó ở đâu nữa!
Phượng lại an ủi:
- Thôi đừng buồn, mình biết đó là cái thứ hai mươi của Tâm, nếu lỡ mất rồi thì để ít ohom nữa mình về quê sẽ đến nhà ông chú xin cho Tâm cái khác. Gì mà khóc dữ vậy làm bọn mình xót ruột quá nè!
Nhưng mặc cho bạn bè hết lời khuyên dỗ, Tâm vẫn không thôi khóc. Cô khóc lặng lẽ, đau đớn như một đứa thất tình.
Hải thấy lòng ray rứt quá, đã mấy lần cô muốn lên tiếng nhưng rồi Hải quyết tâm thực hiện cho xong cuộc thử nghiệm này.
Xuống bếp nấu cơm một mình, xong đâu đấy Hải dọn lên và nói với Tâm:
- Tới ăn cơm nè, đừng ở đó khóc than nữa, để rồi mình nhờ anh Hai tìm cái khác giống vậy cho!
Tâm vẫn không nói gì và… vẫn khóc!
Đêm hôm đó hầu như Tâm không ngủ được chút nào. Cô ngồi lặng trên giường xong rồi lại đi ra hành lang, đi vào mấy lượt.
Sáng hôm sau, Tâm xin nghỉ phép vì bệnh.
Cả phòng trọ đồn ầm lên cái chuyện Tâm sinh bệnh do mất cái máy cassette cũ. Ai cũng tỏ ra ngạc nhiên trước cái tin lạ đời đó. Tâm bỏ qua hết những lời đàm tiếu dị nghị, cô chỉ biết ôm lấy nỗi buồn đang nặng trĩu trong lòng mình.
Hải lén mang cái cassette ấy ra công viên, cô mua pin lắm vào, chưa kịp kiểm tra lại các nút thì từ trong chiếc máy vang lên một tiếng rú rùng rợn đến ghê người. Hải hốt hoảng bật tung cái hộc chứa băng ra thì thấy trong hộc trống trơn không hề có cuộc băng nào trong đó. Mà cái cassette này lại không có chứ năng radio, thế thì cái tiếng quái quỷ kia từ đâu mà có?
Hoảng sợ, Hải run rẩy tháo pin ra và đem trở về phòng lén đặt lên đầu giường của Tâm.
Vừa đi ra ngoài về, Tâm suýt ngất đi vì mừng rỡ. Cô reo váng lên:
- Tìm thấy rồi! mình tìm thấy nó rồi!
Tâm ôm chặt cái cassette vào lòng như sợ một lần nữa nó rời bỏ mình và sẽ không bao giờ quay trở lại.
- Tâm nói thiệt cho mình biết đi, cảm giác của Tâm với cái vật này là sao vậy?
Hải đặt tay lên tay Tâm hỏi nhỏ.
Tâm cúi mặt, ấp úng:
- Mình… mình không biết! Hình như là mình với nó có một mối liên hệ đặc biệt nào đó không phân tích được. Chỉ biết rằng từ ngày có nó, đêm nào mình cũng mơ những giấc mơ êm đềm, hạnh phúc lắm. Từ trong chiếc máy này, mình luôn nghe vẳng lên một điệu nhạc du dương kỳ bí, điệu nhạc làm cho tâm hồn mình như bay lên chín tầng trời…
- Tiếng nhạc du dương?
Hải kinh ngạc hỏi lại.
Tâm gật đầu xác nhận:
- Đúng! Khúc nhạc như ru mình vào giấc ngủ, như dìu mình đi vào cõi mộng đầy hoa đầy bướm…
- Không phải tiếng kêu rùng rợn sao?
Hải thắc mắc.
- Sao? Sao Hải lại nghĩ đó là tiếng kêu rùng rợn?
Tâm hỏi lại.
Hải ấp úng:
- Ờ… thì tại mình đoán vậy thôi mà!
Tâm mơ màng:
- Không phải tiếng kêu thét gì đâu, đó là một khúc hát ru tuyệt vời, khúc hát ru của người yêu dành tặng người yêu…
Hải ngẩn người ra nghe Tâm nói. Trong lòng cô đầy ắp sự lo lắng hoang mang. Hải biết mình cần phải làm điều gì đó để kéo Tâm ra khỏi giấc mộng liêu trai này.
Sáng hôm sau Hải xin nghỉ quê có việc gia đình.
Tâm ân cần hỏi:
- Nhà có chuyện gì vậy Hải?
Hải lắc đầu:
- Mình cũng không biết, nghe má nhắn về vậy thôi hà!
- Ờ, mình mong mọi việc tốt đẹp!
Tâm động viên.
Hải gật:
- Ừ, mình đi nghen!
Vừa về đến nhà, Hải xộc vào như cơn gió:
- Má, anh Hai có nhà không má?
- Trời đất! Con này hôm nay bị làm sao vậy? Về tới nhà chưa kịp chào hỏi ai, lo kiếm nó làm gì mà hớt hãi vậy?
Bà Năm vừa mắng yêu con gái xong chợt lo lắng:
- Hay nó đã gây ra chuyện gì nữa rồi?
Hải lắc đầu:
- Dạ không! Anh Hai đâu rồi má?
Bà Năm chép miệng than:
- Cả tuần nay nó nằm nhà, không biết tiền ở đâu mà khoe nhiều lắm, rồi sáng nào cũng ra quán ngồi tới trưa, từ trưa ngồi tới chiều… Thiệt là con với cái!
Hải gọi lớn:
- Thi ơi, Thi! Em chạy ra quán kêu anh Hai về gấp giùm chị nghen! Có chuyện gấp lắm!
- Dạ!
Thi dạ một tiếng thật lớn rồi lon ton chạy ra cổng.
Bà Năm ngạc nhiên hỏi Hải:
- Chuyện gì vậy con?
Hải ngồi phịch xuống võng thở gấp:
- Con muốn hỏi anh Hai về chuyện cái cassette.
- Trời đất! Tưởng chuyện gì quan trọng, ba cái đó mà làm tao hết cả hồn vía!
Bà Năm trách con.
Vừa lúc đó Vũ từ ngoài cửa đi vào cười toe toét:
- Em mới về hả Hải? Có chuyện gì mà gọi anh gấp vậy?
Hải đang nằm trên võng, nghe tiếng Vũ cô chồm dậy:
- Anh Hai, anh đang tỉnh hay có uống rượu vậy?
Vũ nhăn răng cười:
- Mầy cứ nghĩ xấu cho anh! Có chuyện cần anh mới uống chứ!
Hải kê sát mặt vào Vũ, mỉm cười:
- Ờ… mới thấy lần đầu đó! Công nhận anh Hai có tiến bộ. Chiều nay em đãi cho một bữa!
Vũ cười, hỏi lại:
- Kiếm anh có chuyện gì?
Hải không cười nữa, cô nhìn Vũ hỏi:
- Anh nói cho em biết đi, cái cassette hôm rồi ở đâu anh có vậy?
Vũ giật mình lùi lại:
- Sao… sao em lại hỏi câu đó?
Thấy thái độ của Vũ, Hải nhăn mặt nói dồn:
- Vậy là anh Hai biết rõ phải hôn? Biết mà còn cố tình đem về phải hôn? Rồi lại còn làm như tốt bụng đem tặng cho Tâm nữa chứ. Anh làm hại nó rồi đó, anh có biết không?
Bà Năm đứng gần đó nghe câu được câu mất, lo lắng hỏi:
- Cái gì vậy bây? Thằng Vũ lại làm hại ai nữa rồi?
Vũ gãi gãi tai:
- Đâu có gì, má đừng nghe nó nói bậy!
Nói xong, Vũ kéo tay Hải đi ra sân, hai anh em ngồi bệt xuống hành lang nói chuyện.
- Mầy đừng nói cho ba má biết, ổng bả buồn tội nghiệp!
- Anh cũng biết tội nghiệp ba má nữa sao? Biết tội nghiệp sao anh còn ác vậy?
Hải ấm ức.
Vũ vò đầu:
- Khổ quá, tao có ác ý gì đâu, tại thấy Tâm thích quá tao cho chứ có gì. Nó bị sao rồi, có ai nhận ra hả?
Hải không thèm trả lời câu hỏi của anh mà hỏi lại:
- Nhưng anh biết cái máy đó có ma, sao lại còn đem về nhà?
Vũ ngẩn người ngạc nhiên:
- Em nói gì? Cái gì mà có ma cỏ ở đây nữa?
Hải trố mắt nhìn anh:
- Ủa… vậy… anh không biết gì về nó sao?
Vũ cũng nhìn Hải trân trối:
- Còn em…em biết gì về nó?
Hải ngồi sững một lúc rồi nói:
- Thôi được rồi, anh nói cho em biết đi, anh lấy cái máy đó từ đâu?
Vũ liếc mắt ngó xung quanh rồi ngồi sát lại Hải nói thầm:
- Anh nói cho một mình em biết thôi nhe, không được nói với ai khác đó!
Hải gật đầu đồng ý:
- Được rồi! anh nói đi, em hứa!
- Mà cũng không được mắng anh!
Vũ dặn thêm
- Được rồi, anh nói mau lên!
Vũ lấm lét ngó Hải và nói:
- Anh… anh đào trộm một ngôi mộ vô chủ.
Hải giật bắn người, run rẩy:
- Anh… anh dám… dám làm chuyện đó?
Vũ đưa hai tay lên che mặt:
- Anh đã dặn rồi, không được mắng anh mà!
Hải nuốt giận, gằn giọng:
- Thôi được, anh kể tiếp đi!
Vũ khẽ liếc Hải, lắp bắp kể:
- Anh… anh đào trộm ngôi mộ đó, ở dưới đó có một số vàng, một cây đàn và một chiếc cassette. Anh lấy đồ đạc rồi chôn lại đàng hoàng tử tế, anh cũng có khấn vái, người chết rồi đâu có dùng được những thứ này, xin cho anh dùng, vậy thôi!
Hải nghiến răng:
- Thiệt hết biết anh! Chuyện như vậy mà anh cũng làm được!
Vũ ngồi ủ rũ vẻ hối lỗi, bỗng sự nhớ ra Vũ hỏi:
- Em nói cái cassette đó có vấn đề gì à?
Hải thở dài:
- Hình như nó có ma!
Vũ giật bắn người:
- Có chuyện đó nữa sao?
Hải kể lại tỉ mỉ cho Vũ nghe tất cả mọi chuyện xảy ra với Tâm từ hôm có cái cassette bên mình.
Nghe xong, Vũ ngồi đăm chiêu rồi ôm đầu khổ sở.
- Má không ngờ con lại dám làm những chuyện như vậy!
Hải và Vũ đều giật mình khi bất ngờ nghe tiếng bà Năm.
Bà Năm từ từ đi ra, buồn bã:
- Má nghi lắm mà, nghi thế nào con cũng làm chuyện gì không hay nên mới có tiền tiêu pha mấy ngày nay. Nhưng má thật không ngờ con lại dám làm những chuyện vô đạo đức như vậy. Đào mồ cuốc mả người ta, con không còn là con người nữa rồi Vũ ơi…
Bà Năm nghẹn ngào.
Hải đứng lên ôm vai mẹ, an ủi:
- Má đừng buồn, anh Hai lỡ làm chuyện không phải đó rồi, giờ mình có trách mắng gì cũng vậy thôi. Bây giờ má có cách nào tạ tội với người chết thì chỉ giúp cho con, con Tâm đang bị ma ám rồi, phải tìm cách cứu nó mới được má à!
Bà Năm thở dài:
- Má có biết gì đâu. Thì cứ nghĩ theo như người sống của mình đi, có lỗi thì thành tâm xin lỗi, ai cũng vậy, “đánh người chạy đi chứ ai nỡ đánh người chạy lại” bao giờ. Mầy đào mồ người ta ở đâu, mau dẫn tao tới đó mau lên!
Vũ sợ sệt nhìn bà Năm:
- Ở… ở xa lắm, má không đi nổi đâu!
Bà Năm thở hắt ra:
- Mũi dại thì lái phải chịu đòn, tao đã lỡ sanh ra một thằng con vô nghì như mầy thì tao phải chịu, phải cất công đi tạ lỗi với người ta dù đường xa vạn dặm…
Rồi quay lại nhìn Hải, bà Năm nói:
- Con cũng nên dẫn con Tâm đi cùng. Phải có nó mới được chứ!
Hải tức tốc trở về Sài Gòn nài nỉ Tâm về nhà mình có việc gấp. Tâm rất hoang mang nhưng vẫn đi theo bạn, không quên mang theo cái cassette bên người.
Sáng hôm sau, bà Năm, Vũ, Hải và Tâm đi chuyến xe đò sơm nhất để đến một tỉnh lân cận.
Mãi đến xế trưa, Vũ mới đưa mọi người tới bên một khu nghĩa địa hoang tàn.
- Đây! Chính là chỗ này!
Vũ chỉ tay vào một ngôi mộ đất đã bị bào mòn theo năm tháng, giờ chỉ còn là một mô đất hơi nhô cao khỏi mặt đất một chút mà thôi.
Tâm lo sợ hỏi nhỏ:
- Chuyện gì vậy Hải?
Hải kéo tay Tâm vào đứng dưới bóng mát của một tàng cây cổ thụ, nói thầm:
- Tâm à… mình… mình muốn nói với Tâm điều này… Thật ra… thật ra cái cassette mà hôm rồi anh Vũ đem về là do… là do ảnh ăn trộm dưới ngôi mộ này đó! Mình nghi ngờ nó đã bị ma ám nên mới gây ra cho Tâm những chuyện lạ lùng như vậy.
Tâm hốt hoảng bước lùi lại, ôm chặt cái cassette trong tay:
- Không! Không đâu… Không phải vậy đâu mà…
Hải nhăn mặt:
- Tâm đừng cố chấp như vậy. Anh Vũ đã thú nhận điều đó, và hôm nay má mình phải đến tận đây để tạ tội với vong hồn người chết nè, Tâm không thấy sao?
Tâm run rẩy không nói lời nào, chỉ ôm khư khư chiếc máy trong lòng như sợ bị người khác tước đoạt đi mất.
Tỏng lúc Tâm và Hải nói chuyện thì bà Năm đã quỳ xuống trước ngôi mộ, bày ra một mâm trái cây và một số giấy tiền vàng bạc cùng một bó hương.
Bà Năm thắp hương và lầm rầm khấn vái với vẻ thành tâm, cung kính.
Trời đang nắng chang chang bất ngờ mây đen kéo đến đầy trời, gió thổi mạnh cuốn theo vô số lá cây làm thành một màn mỏng trước ngôi mộ hoang vu. Giấy tiền vàng bạc chưa kịp đốt cũng bị hất tung lên bay tá lả trong không trung. Bà Năm nhìn theo bằng ánh mắt lo âu, sợ hãi.
Bất ngờ có tiếng nhạc du dương êm ái vang lên, khiến tất cả những người có mặt đều ngẩn người ngạc nhiên.
Tiếng nhạc dặt dìu một lúc rồi lại chuyển thành tiếng khóc than ai oán nghe rất thương tâm.
Định thần lại, Tâm biết tiếng nhạc quen thuộc ấy phát ra từ chiếc cassette mình đang cầm trên tay. Và lúc này cô có cảm giác nó đang cựa quậy, đang muốn thoát khỏi vòng tay siết chặt của Tâm.
Rất nhẹ nhàng, Tâm từ từ tiến gần bên ngôi mộ, cô quỳ xuống đặt chiếc máy hát xuống đó và tiếng nhạc lại vang lên bay bổng…
Một người đàn ông từ ngoài cổng nghĩa trang đi vào, thấy có người tụ tập ông tò mò đi lại.
- Khúc nhạc này là có thật hay sao?
Người đàn ông kêu lên vừa ngạc nhiên, vừa mừng rỡ.
Hải vội hỏi:
- Bác ơi, khúc nhạc này là sao vậy bác?
Người đàn ông xúc động trả lời:
- Cháu không biết sao? Đây là nấm mồ của một chàng nhạc sĩ tài hoa mất cách đây gần năm chục năm về trước. Cái chết của anh ta rất hy hữu. Trước khi mất, anh vẫn khỏe mạnh bình thường, chỉ là khẳng định với bạn bè: Tôi sẽ đem hết tình yêu thương, khát vọng trong tôi để viết lên một khúc hát ru dành tặng cho người con gái mà tôi yêu sau này… Và thế là anh ta giam mình trong nhà rất nhiều ngày,. Giống như con tằm rút ruột nhả tơ, người nhạc sĩ tài hoa ấy đã viết lên một khúc nhạc có một không hai. Lần đầu anh ta dạo lên, những người dân quanh đó bỗng như ngơ ngẩn vì những hạnh phúc, những niềm vui mà tiếng nhạc kia mang tới. họ ùa đến vây kín nhà anh ta, nhưng hỡi ơi, khi tiếng nhạc vừa chấm dứt cũng là lúc người nhạc sĩ trút hơi thở sau cùng. Cây nến bên cạnh ngã lăn ra làm cháy luôn tờ giấy chép nhạc của anh. Và thế là bài nhạc thất truyền. Nhưng người ta đồn rằng, thỉnh thoảng khúc nhạc đó vẫn vang lên tỏng những đêm trăng thanh gió mát… Tôi cứ ngỡ đó là huyền thoại, không ngờ hôm nay chính tai mình đã nghe được khúc nhạc này…
Tiếng nhạc vẫn vút cao, mọi người như mê đi trong khúc ru huyền diệu.
Tâm đứng lên, cô thấy rõ ràng người thanh niên vẫn thường dắt tay cô trong giấc mơ hàng đêm đang đứng trước mặt cô vẫy tay kêu gọi. Tâm tiến tới, tiến tới thật gần, người thanh niên mỉm cười, khẽ nghiêng đầu nhìn Tâm và hỏi:
- Em có nghe khúc nhạc đó không? Em có thích nó không? Anh viết nó dành tặng riêng cho em đó!
Tâm ngỡ ngàng:
- Tặng cho em? Nhưng… anh đã viết nó cách nay hơn năm mươi năm rồi kia mà?
Người thanh niên mỉm cười, mắt lấp lánh:
- Đúng! Anh đã viết nó hơn năm mươi năm trước, và khi đó em là người con gái mà anh thầm thương trộm nhớ… Nhưng số kiếp của chúng ta, định mệnh của chúng ta không cho phép… Bây giờ được tặng nó cho em là anh đã mãn nguyện lắm rồi.
- Anh… anh…
Tâm bối rối chưa biết nói gì thì bóng người thanh niên đã dần dần tan biến, vẫn còn đâu đó bàn tay vẫy vẫy lẩn khuất trong gió trong mây, khúc nhạc vẫn vang lên da diết…
Tâm từ từ quỳ xuống, hai dòng nước mắt lặng lẽ tuôn trào…
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:36:09 bởi nguyenthu >
#31
    nguyenthu 10.08.2009 20:55:04 (permalink)
    NGÓN TAY BÁO OÁN
     
    Đã bốn ngày trôi qua rồi mà những người dân trong vùng vẫn chưa hết bàng hoàng bởi cái chết thương tâm của chị Hà và cái bào thai năm tháng tuổi đang nằm trong bụng chị!
    Ông Tư, cha đẻ của chị Hà ngồi rũ như tàu lá héo trước bàn thờ đứa con gái lớn, nghẹn ngào khóc không thành tiếng. Bà Tư và Nụ, em gái chị Hà thì ra vào ngơ ngẩn như kẻ mất hồn.
    Không ai có thể ngờ chị Hà chết một cách oan uổng đến như vậy!
     
    ***
    Hà là một cô gái đẹp người đẹp nết nhất trong vùng. Rất nhiều chàng trai đeo đuổi, nhưng với ai Hà cũng lắc đầu:
    - Em còn có bổn phận giúp mẹ nuôi em vài năm nữa, nên chưa nghĩ tới hạnh phúc riêng của bản thân mình được!
    Những gì Hà nói đều là sự thật chứ không phải chị kiếm cớ để làm cao giá với đám trai làng.
    Hà đảm đang từ việc bếp núc, heo gà trong nhà đến chuyện ngoài đồng ruộng. Cô làm lụng không ngơi tay, vì vậy cuộc sống của gia đình ông bà Tư không đến nỗi chật vật mặc dù chỉ có vào sào ruộng trong tay.
    Ngày tháng cứ bình thản trôi qua, cô thôn nữ vẫn sống vui với ruộng đồng, với gia đình yêu dấu của mình và không hề có một điều tiếng gì về Hà cả.
    Nhưng đùng một cái, làng xóm chợt xôn xao bàn tán.
    - Hình như con Hà nhà bà Tư có bầu rồi hay sao ấy!
    - Chứ gì nữa, nhìn cái cổ nó là biết ngay!
    - Cái bụng cũng đã nhô lên rồi đó, vậy mà gia đình ông bà Tư cũng chưa biết hay sao vậy ta?
    - Ừ, thói đời vẫn thường như vậy mà, chuyện ngoài đường thì sáng nhưng chuyện của nhà mình thì quáng, mấy bà không biết sao?
    - Con đó tưởng nhu mì hiền thục, ai ngờ cũng quá cỡ thợ mộc!
    - Bà không nghe câu “lù khù vác lu mà chạy” đó sao?
    - Mà nó đã ăn ở với thằng nào mấy bà có biết không? Tui chưa nghe ai kể nó hẹn hò với đứa nào ở làng mình hết!
    - Ừ, cũng chẳng thấy nó thân thiết với đứa con trai nào, vậy mà…
    Những câu bàn tán vụt im bặt khi thấy bóng bà Tư đi tới. Bà Tư hơi ngỡ ngàng, thái độ của mọi người có gì đó không bình thường khi tiếp xúc với mình khiến bà Tư lo lắng không ít.
    Trên đường từ chợ về nhà bà Tư luôn nghĩ tới những ánh nhìn như cười cợt, như mỉa mai, những cái chỉ trỏ, những câu nói thầm vụt im bặt khi bà đi tới…
    - Chắc chắn mọi người đang bán tán điều gì đó về gia đình mình!
    Bà Tư khẳng định điều đó, nhưng bà nghĩ tới nghĩ lui vẫn không sao biết được chuyện gì có thể khiến mọi người đàm tiếu?
    - Sáng nay má đi chợ về sớm vậy má?
    Hà đón lấy cái giỏ xách trên tay bà Tư và hỏi.
    Bà Tư ngồi xuống bộ ván, gỡ nón lá ra quạt lấy quạt để rồi thở dài thườn thượt:
    - Tao ra chợ, mọi người nhìn tao lạ lắm, họ xì xầm gì đó, chắc chắn chuyện của nhà mình, nhưng tao không biết là chuyện gì… Cái chợ nhỏ xíu như lòng bàn tay, tao đi tới quầy nào cũng gặp cảnh tương tự như vậy nên thôi, về hắt cho rồi!
    Hà cúi xuống lục lọi giỏ đồ rồi xách đi xuống bếp không nói câu nào. Bà Tư cũng không để ý tới thái độ của con gái, đầu óc bà còn mải mê nghĩ ngợi tới chuyện bực mình vừa mới xảy ra.
    Hai ngày sau, giữa lúc cả nhà bà Tư đang quây quần bên mâm cơm thì cô Quyên, cô ruột của Hà xồng xộc bước vào.
    - Hà, ra đây tao hỏi chuyện một chút!
    Cô Quyên vừa nói vừa kéo tay Hà ra sân trước sự thắc mắc của bao người. Riêng Hà, cô xanh mặt riu ríu đi theo Quyên mà không hề phản kháng.
    - Nói cho tao biết, mầy có bầu với thằng nào?
    Cô Quyên vừa liếc vào cái bụng đã hơi nhô cao của Hà vừa hỏi.
    Hà tái mặt ấp úng:
    - Con… con…
    - Đã tới giờ phát nào rồi mà mầy còn định giấu hả con? Cả làng cả xã người ta đồn rần lên, chỉ có người trong nhà là không biết gì hết. Tao thiệt thất vọng về mầy đó Hà ơi!...
    Cô Quyên rên rỉ.
    Thấy Hà vẫn cứ đứng cúi mặt không nói lời nào, cô Quyên tức giận:
    - Mầy phải nói cho cô biết mầy ăn nằm với thằng nào đến bụng mang dạ chửa thế này, để cô và mẹ mầy tới bàn bạc với gia đình người ta, còn lo cưới hỏi cho tụi bây nữa chứ, chẳng lẽ mầy muốn bôi tro trát trấu vô mặt gia đình khi sinh ra một đứa nhỏ không có cha hay sao?
    Hà khóc ròng nhưng vẫn không khai ra tên người đã chung đụng với cô.
    Cô Quyên xuống nước dỗ dành:
    - Con dại quá Hà ơi, con đã lỡ dại với ai thì phải nói ra cho cô biết chứ, không giấu được mãi đâu con, con nói ra sớm có khi còn giải quyết được…
    Hà ngước lên nhìn cô Quyên, nghẹn ngào nói:
    - Con với anh ấy lỡ thương nhau, nhưng… chúng con không thể cưới nhau được cô ơi!
    Cô Quyên giật mình:
    - Tại sao? Nó đã có vợ rồi à?
    Hà lắc đầu:
    - Dạ không, nhưng vì ba anh ấy mới mất, không thể làm đám cưới được!
    Cô Quyên bóp trán suy nghĩ:
    - Ba mới mất…? Vậy nó là thằng Tiến ở làng bên đúng không?
    Hà không nói gì, cúi đầu im lặng.
    Cô Quyên giận dữ nói:
    - Đâu có được, đâu thể vì lý do đó mà nó bỏ mặc con hứng lấy hết mọi tai tiếng được. Để tao vô bàn với ba má mầy rồi gọi nó xuống nói chuyện chứ!
    Hà sợ hãi níu áo cô Quyên:
    - Cô ơi, đừng nói cho ba má con biết…
    Cô Quyên nhìn thẳng vào bụng Hà, nghiêm khắc nói:
    - Mầy nghĩ còn giấu được bao lâu nữa hả con?
    Hà khóc nấc lên:
    - Ba má con giết con chết mất cô ơi…
    Cô Quyên có vẻ thông cảm:
    - Chuyện đã lỡ như vậy rồi, có giết chết mầy thì cũng đâu lấy lại được tiếng xấu đã đồn xa. Thôi, để đó cô khuyên can cho ba má mầy bớt giận, nhưng phải tính chuyện này càng nhanh càng tốt.
    Cô Quyên dứt lời vội vã đi vào nhà, Hà lo sợ rón rén về phòng mình đóng chặt cửa ở lì trong đó.
    Ông bà Tư bàng hoàng trước cái tin động trời ấy.
    - Tui sẽ giết nó!
    Ông Tư gầm lên.
    Bà Tư thì gục xuống bàn khóc không thành tiếng.
    - Anh giết nó thì được gì? Bây giờ anh chị cần phải bình tĩnh để tính đường mà lo liệu cho nó chứ! Dù gì nó cũng là con gái anh chị…
    Sau khi bàn bạc, ngay tối hôm ấy cô Quyên cho người đi mời Tiến xuống nhà để nói chuyện. Tiến thừa nhận bào thai trong bụng Hà chính là của anh, nhưng lại nói:
    - Ba con mới mất, không thể cưới Hà được, phải ba năm sau con mới có thể cưới Hà…
    - Đâu thể nào nói khó nghe như vậy được? Thôi, sáng mai bên đây sẽ sang nhà cháu để nói chuyện với ba má cháu.
    Ông Tư nén giận nói với Tiến.
    Sáng hôm sau, ông bà Tư và cô Quyên tới nhà Tiến để nói chuyện phải quấy. Bà nội và mẹ Tiến sau khi nghe xong câu chuyện lên tiếng điều đình:
    - Xin anh chị thông cảm cho, ông nhà tôi mới mất chưa được bao lâu, nếu bây giờ mà làm đám cưới cho tụi nó ngay thì coi không được với làng xóm. Vậy xin cứ để cháu Hà sinh con, rồi sau giỗ đầu của ông nhà tôi chúng tôi sẽ sang bên đó nói chuyện cưới xin đàng hoàng. Chúng tôi vẫn có trách nhiệm với mẹ con cháu Hà…
    Mẹ Tiến nói.
    Cô Quyên gạt ngang:
    - Hôm nay chúng tôi đến đây nói chuyện hoàn toàn với tính cách tình cảm chứ không ràng buộc trách nhiệm gì hết. Nếu bên đây không tổ chức cưới cho hai đứa thì gia đình chúng tôi cũng sẽ để cháu Hà sinh con và lo lắng cho nó đàng hoàng. Lỡ mang tiếng xấu rồi, đâu còn gì mà sợ nữa…
    Những ngày sau đó, thỉnh thoảng Tiến có đến chơi với Hà nhưng không hề nói gì tới chuyện cưới xin.
    - Mầy coi nè, con mầy là con trai, khỏe mạnh bình thường đó, sướng chưa?
    Cô Quyên đưa tờ kết quả siêu âm mà sáng nay cô vừa đưa Hà đi khám cho Tiến xem, Tiến đón lấy và liếc sơ qua một cách hờ hững.
    - Mầy đem về cho mẹ với nội mầy xem đi, cho họ mừng cháu trai.
    Cô Quyên giục.
    Tiến cười nhẹ:
    - Cô không thấy nhà con có đến sáu thằng con trai sao? Nghe tới con trai chắc nội với mẹ con chạy dài…
    Và rồi kể từ hôm đó, Tiến không tới thăm Hà lần nào nữa.
     
    ****
    - Cô Quyên ơi, chị Hà bị làm sao nè cô Quyên ơi!...
    Tiếng gọi thất thanh của Thảo, em gái Hà khiến cô Quyên giật mình bỏ bữa cơm đang ăn dở, vội vã chạy sang.
    - Có chuyện gì vậy?
    Cô Quyên hớt hãi hỏi khi thấy Tiến đang nâng đầu Hà lên đổ nước đường vào miệng.
    - Sao vậy Thảo?
    Cô Quyên quýnh quáng quay sang hỏi Thảo đang mếu máo đứng một bên.
    Thảo sợ hãi nói:
    - Lúc con về nhà thì thấy chị đang ngồi nói chuyện với anh Tiến. Con đi lên gác một hồi trở xuống thì thấy chị Hà đang nằm trên giường, anh Tiến thì ngồi một bên đỡ lấy đầu chị. Thấy con, anh Tiến kêu đi lấy pha nước cho chị uống…
    Con bé chưa kể xong, cô Quyên vội quay lại nhìn Hà, lúc này Tiến đang để hai ngón tay trong miệng Hà để đổ nước đường vào, mắt Hà trợn ngược lên rất đáng sợ.
    Tiến vừa đổ được một tí nước đường vào thì Hà lập tức nôn ra, toàn nước và máu!
    - Mầy cho cháu tao uống gì, hả?
    Cô Quyên hét lên.
    Tiếng xanh tái mặt mũi, hất cái đầu tóc rũ rượi lên gắt:
    - Uống gì mà uống!
    - Đưa nó đi bệnh viện ngay, mau lên!
    Cô Quyên vừa nói vừa chạy ra sân hô hoán lên:
    - Bà con ơi, cứu cháu tôi với…
    Bà con hàng xóm lục tục chạy vào, khi ấy máu vẫn còn chảy ra từ miệng Hà, Tiến thì vẫn ngồi ì ra đó chần chừ không muốn đưa Hà đi bệnh viện.
    - Có đưa cháu tao đi bệnh viện ngay không?
    Cô Quyên lại hét lên, lần này có thêm nhiều người láng giềng đốc thúc, Tiến mới chịu bế Hà ra xe, nhưng thật kỳ lạ, hai ngón tay của Tiến vẫn bị mắc cứng trong miệng Hà không sao rút ra được!
    Khi lên tới bệnh viện thì tim Hà ngừng đập, lúc này từ ngực lên đến mặt Hà bị tím đen lại. Các bác sĩ chẩn đoán là bị trúng độc bả chuột.
    Cô Quyên nhào tới túm lấy áo Tiến:
    - Mầy giết cháu tao phải không?
    Tiến đổ mồ hôi hột, ấp úng trả lời:
    - Tụi con đang ngồi chơi với nhau thì Hà cắn vào tay con. Tay con vừa dính thuốc chuộc nên mới xảy ra như thế!
    Cô Quyên khóc ngất lên từng cơn:
    - Mầy nói láo! Chính mầy đã giết cháu tao…
    Cô Quyên nhào tới đánh tới tấp vào người Tiến, Tiến không sao né tránh được vì hai ngón tay vẫn còn kẹt cứng trong miệng của Hà.
    Sau đó, bác sĩ phải làm phẫu thuật cắt bỏ hai ngón tay của Tiến và Tiến cũng chính là đối tượng để công an điều tra về cái chết tức tưởi của Hà.
    Chưa được xuất viện do vết thương bị nhiễm trùng nặng, nhưng sáng sớm hôm sau, mọi người hốt hoảng không thấy Tiến trong phòng.
    Đổ xô đi tìm khắp nơi, ai cũng nghĩ Tiến bỏ trốn vì sợ tội trước pháp luật, nhưng đến chiều tối hôm ấy người ta phát hiện ra Tiến nằm gục chết bên cạnh nấm mồ còn mới tinh của Hà, điều khủng khiếp nhất là, cả mười ngón tay của Tiến đầu không còn!
    Hai ngón tay kia đã bỏ lại trong bệnh viện, tám ngón còn lại đang nằm rãi rác xung quanh ngôi mộ chưa khô…
    Hết
    Nguyễn Thị Mộng Thu 
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:37:37 bởi nguyenthu >
    #32
      nguyenthu 10.08.2009 20:56:53 (permalink)
      TRÒ CHƠI MA QUÁI
       
      Chiếc xe chạy chậm dần rồi dừng hẳn lại. Đám thanh niên đang cười nói ồn ào bỗng trở nên nhốn nháo. Ai nấy cố nhoài người ra để nhìn xem điều gì xảy ra ở phía trước.
      Đoạn đường phía trước bị ách tắc bởi mấy chiếc xe lớn có, nhỏ có và cả một đám đông vây kín xung quanh. Người tài xế mở cửa xe bước xuống đứng bên vệ đường nói chuyện với mấy người tò mò quanh đó.
      Phương, Hậu chồm người lên hỏi:
      - Ê, ông có thấy cái gì ngoài đó không vậy Thắng? Tai nạn giao thông phải hôn? Có ai bị gì không ta?
      Thắng xoay người mở cửa sổ, chui đầu ra ngoài nhìn ngó một chút rồi rụt trở vào:
      - Thua luôn! Có thấy gì được đâu! Toàn thấy đầu mấy người đến xem thôi! Chắc tai nạn nghiêm trọng lắm mới đông người tụ tập vậy chớ! Ê, hay để mình xuống dưới xem rồi lên tường thuật lại nghen?
      Diệu kéo áo Thắng nhăn mặt:
      - Thôi đi, xem làm gì mấy chuyện đó, ghê thấy mồ!
      Phương cũng đồng tình:
      - Ừ, xem chi ghê lắm!
      Hậu cười:
      - A… Vậy khám phá ra mấy người này nhát gan rồi nhé?
      Diệu trề môi:
      - Xời! Ở đó mà nhát! Chỉ tại mình hổng thích mấy chuyện máu me chết chóc thôi, chứ mình hả, gan số một đó nghe bạn!
      Mọi người cười ồ.
      Đĩnh lên tiếng:
      - Ở đây có bạn nào nhát gan thì lên tiếng đi!
      Diệu nheo nheo mắt nhìn Đĩnh:
      - Để cho bạn đỡ lẻ loi chứ gì?
      Đĩnh hất mặt vẻ ngang tàng:
      - Ơ… đừng có vội khinh người nghe bạn! Mình mà nhát gan chắc trên đời này không có ai dạn hết!
      Hậu xen vào:
      - Giỏi ghê ta… Để mình còn xác minh lại đã!
      Đám thanh niên còn đang đùa giỡn thì dưới đường lực lượng cảnh sát đã giải tỏa đám đông để cho người xe lưu thông bình thường trở lại.
      Anh tài xế bước lên, và nói:
      - Mấy người chạy ẩu dễ sợ! tội nghiệp con người ta!
      - Sao vậy chú?
      Phương tò mò hỏi.
      Anh tài xế lắc đầu:
      - Xe tải đụng xe gắn máy, hai người chết tại chỗ!
      Đám thanh niên ai nấy rùng mình, không khí chợt trầm lắng xuống.
      Xe từ từ lăn bánh, khi đi ngang qua hiện trường, Đĩnh bỗng nhoài người ra cửa sổ đưa máy quay phim lên quay lấy cảnh người chết bên đường.
      Mấy cô gái la lên oai oái. Hậu túm áo Đĩnh kéo giật vào trong:
      - Trời ơi, ông ơi! Ông quay chi mấy cảnh thấy ớn như vậy? Bộ tính làm vậy để chứng tỏ ta đây là gan dạ đó sao?
      Đĩnh rụt đầu vào, ngồi trở xuống ghế cười hềnh hệch:
      - Đâu có, chỉ là mình khoái ba cái chuyện kinh dị này lắm!
      Mấy đứa con gái liếc xéo Đĩnh. Đĩnh giả vờ như không biết cứ đưa cái máy quay phim quay khắp lượt mọi người trong xe.
      Lâu lắm rồi đám bạn này mới có dịp ngồi lại vui đùa với nhau như thế. Từ ngày tốt nghiệp đại học, mỗi đứa một nơi bận bịu với việc riêng của mình, chỉ thỉnh thoảng gọi điện hỏi thăm nhau, hoặc may lắm là gặp gỡ một vài người, cùng uống ly cà phê vậy thôi.
      Nhưng lần này, cả bọn quyết định cùng nhau đi chơi xa một chuyến. Nói là đi chơi, thật ra họ muốn về Cà Mau để thăm Sĩ, một người bạn cùng lớp năm xưa.
      Sau khi tốt nghiệp, Sĩ về quê và ít khi liên lạc với ai nên hầu như tin tức về Sĩ gần như mất hẳn. Nhưng thật bất ngờ, hôm tuần rồi Phương nghe được một tin không hay cho lắm, rằng sau một cơn bệnh nặng tưởng không qua khỏi, Sĩ bỗng trở thành một người khác. Sĩ không còn những ham muốn đời thường, không còn niềm say mê công việc nữa, mà thay vào đó Sĩ đắm mình vào nghiên cứu những bùa phép, ma thuật, nghiên cứu cái thế giới huyền bí mà lâu nay chưa ai khám phá được.
      - Mình về đó một chuyến đi, coi hư thực ra sao và nhất là coi mình có thể giúp gì cho Sĩ được không? Đôi khi gặp lại bạn bè cũ, bao nhiêu hoài bão ấp ủ năm xưa lại trỗi dậy cũng không chừng.
      Phương buồn buồn nói.
      Diệu hăng hái:
      - Ừ, đi đi, nhất định nhóm mình phải tới với Sĩ.
      Thế là Diệu, Phương, Hậu, Thắng, Đĩnh đồng xin nghỉ phép và thuê xe về Cà Mau ngay lập tức.
      Chỉ có năm người mà thuê chiếc xe mười lăm chỗ nên mặc tình cả đám ngồi nằm đùa giỡn với nhau. Gặp anh tài xế cũng là người trẻ tuổi, vui tính nên những câu chuyện tiếu lâm, những câu đùa tếu táo trên dọc đường đi đã làm khoảng đường như ngắn lại.
      Vừa chạy trờ qua chỗ hiện trường tai nạn thì xe đột ngột chết máy, anh tài xế xem xét lại các bộ phận không thấy có gì trục trặc nên mở cửa bước xuống kiểm tra.
      Thắng cũng đẩy cửa bước xuống đường đứng vươn vai:
      - Lâu lắm mới được hít thở không khí trong lành thế này đó nhe!
      Vừa nói Thắng vừa vung vẩy hai chân một cách khoan khoái.
      Anh tài xế đã đê pa xe trở lại, tiếng nổ giòn giã như không hề có gì xảy ra, anh thò đầu ra gọi Thắng:
      - Ê, lên xe chứ! Hay muốn ở lại đây luôn?
      Thắng nhảy phốc lên cười cười:
      - Ở đây mà có cô nào chứa là em ở liền!
      Thắng chưa kịp đóng cửa xe thì Đĩnh trông thấy một người con gái trạc độ hai mươi tuổi tay dắt đứa bé trai bước lên sau Đĩnh và ung dung ngồi vào chiếc ghế trống chỗ cửa lên xuống.
      Đĩnh muốn nói:
      - Đâyl à xe hợp đồng, không rước khách dọc đường đâu cô ơi!
      Nhưng nhìn lại thấy các bạn đều bình thường không tỏ thái độ phật ý nào nên Đĩnh cũng im luôn. Thôi kệ, cho người ta đi nhờ một quãng đường cũng tốt chứ có sao đâu.
      Cô gái có gương mặt đẹp nhưng lại buồn rười rượi. Đĩnh cứ chốc chốc lại liếc khẽ sang nhìn lén. Có lần cô gái bắt gặp ánh nhìn của Đĩnh, cô chỉ cúi mặt mỉm cười vẻ thẹn thùng.
      Các bạn của Đĩnh vẫn nói cười một cách thoải mái tự nhiên, không ai quan tâm đến sự hiện diện của chị em cô gái lạ, hình như trong mắt họ không có sự tồn tại của chị em cô.
      - Ông Đĩnh này làm gì nãy giờ cứ ngồi ngẩn người ra vậy?
      Diệu hích khẽ vào vai Đĩnh.
      Đĩnh giật mình cười bối rối:
      - À… ừ… có gì đâu! Mình đang ngắm cảnh mà…
      Diệu cười ranh rãnh:
      - Ông ngắm cảnh gì mà mặt mày khờ câm, đờ đẫn như ngắm người đẹp vậy?
      Đĩnh sợ cô gái ngồi bên nghe được, lúng túng nói:
      - Bậy bạ quá nghe!
      Đám bạn cười rần rần, và câu chuyện lại được chuyển sang đề tài khác.
      Suốt đoạn đường hơn ba mươi cây số, hai chị em cô gái ngồi lặng lẽ không ai nói với ai lời nào. Đứa bé có vẻ thấp thỏm, chốc chốc nó lại hơi nhướn người nhìn về phía trước. Mỗi lúc như vậy cô chị lại khẽ níu vạt áo nó kéo  ngồi trở xuống.
      - Bác tài ơi, dừng lại đi! Dừng lại mua trái cây đi!
      Tiếng Phương gọi rối rít khi xe chạy ngang qua một khu chợ nhỏ bày bán rất nhiều trái cây ven đường. Anh tài xế dừng xe, cả đám mở cửa ùa xuống sà vào các sạp trái cây mạnh ai nấy chọn lựa theo ý thích của mình.
      Đĩnh không xuống cùng các bạn. Anh còn do dự không biết nói câu gì để bắt chuyện cùng cô gái thì đã thấy cô nắm tay đứa bé thong thả bước xuống xe.
      Xuống tới đất, cô gái khẽ quay lại nhìn Đĩnh mỉm cười và gật nhẹ một cái như lời chào rồi dắt em đi vào con hẻm nhỏ ngay gần đó.
      Đĩnh ngơ ngác nhìn theo không nói được lời nào.
      - Đĩnh! Mau xuống lựa trái cây nè, tươi ngon lắm ông ơi!
      Hậu lớn tiếng gọi.
      Đĩnh xuống xe nhưng không đi tới hàng trái cây mà đứng nhìn hút vào con hẻm đó, tự nhiên anh thấy có điều gì đó không bình thường trước những cử chỉ lạ lùng của cô gái kia. Tại sao khi cô lên xe không ai nói gì, khi cô xuống xe, cô cũng không nói đến chuyện tiền bạc hoặc một lời cảm ơn cho phải phép?
      Lát sau, mấy người bạn lục tục trở lên, ai nấy đều xách theo mấy túi trái cây đủ loại.
      - Anh có quen với chị em cô gái lúc nãy không?
      Đĩnh thò đầu vào hỏi anh tài xế.
      Anh tài xế ngơ ngác:
      - Hai chị em nào? Cô gái nào?
      Đĩnh cười cười:
      - Vậy mà em tưởng quen với anh chứ!
      Anh tài xế ngớ người không hiểu gì cả, nhưng Đĩnh đã quay trở ra sau.
      Xe lại tiếp lăn bánh. Đám bạn bày trái cây ra vừa ăn vừa ném vào nhau tá lả.
      Diệu can:
      - Ê, mấy bạn, đừng quăng như vậy, mắc công bác tài dọn xe lắm đó!
      - Đừng lo, mình xung phong dọn xe cho anh tài, anh tài há?
      Hậu cười, lên tiếng chọc ghẹo anh tài xế.
      - Thôi đi cô ơi, tôi đủ tiền để trả công cho cô!
      Anh tài xế cười đáp.
      Phương liếng thoắng:
      - Anh khỏi lo, nó hổng có đòi tiến công đâu, chỉ cần anh nuôi cơm nó là được rồi, mà con nhỏ này ăn dexa lắm đó nghe, hổng biết anh nuôi nổi không nữa?
      Anh tài xế cười khà khà, Hậu chồm lên phát vào vai Phương:
      - Dám bêu xấu bạn bè vậy hả? Bà chết với tui nghen!
      - Ê, chết một mình được rồi, rủ tui theo làm gì? Tui còn yêu đời lắm bà ơi!
      Phương nghiêng người né, cười rũ rượi.
      Trên xe ai nấy đều cười nói vui vẻ, ngoại trừ Đĩnh. Anh luôn tư lự, đầu óc cứ quẩn quanh về chuyện cô gái lúc nãy.
      Hích nhẹ vào tay Thắng, Đĩnh hỏi:
      - Mầy thấy cô gái đẹp không?
      - Mầy nói ai?
      Thắng ngạc nhiên không khác gì anh tài xế.
      Đĩnh lại một phen lúng túng:
      - Ờ thì… cái cô gái chỗ bán trái cây đó!
      Thắng phá ra cười:
      - Trời đất! Mấy bạn biết trong lúc mình lo lựa chọn trái cây thì chàng Đĩnh lại bận ngắm người đẹp không? Hèn gì nó đâu mua được gì…
      Đĩnh rất muốn kể cho mọi người một cách rõ ràng, nhưng anh lại sợ các bạn chế mình chết nhát, thấy ai cũng nghĩ là ma. Vì vậy Đĩnh cố gắng xua đuổi hình ảnh cô gái ấy ra khỏi trí óc của mình. Đĩnh lại nhập cuộc ăn uống, nói cười với đám bạn.
      Mãi đến chiều tối mọi người mới tới nhà Sĩ. Xe vừa dừng trước cổng, một con chó nhỏ chạy từ trong nhà ra sủa váng lên.
      - Sĩ ơi! Có nhà không Sĩ?
      Thắng lên tiếng gọi.
      Sĩ từ nhà sau chạy lên, ngạc nhiên khi thấy đám bạn thân xuất hiện đầy đủ trước nhà mình.
      - Các bạn… các bạn…
      Sĩ lắp bắp không nói được thành câu.
      Đĩnh bước tới choàng tay qua vai Đĩnh cười nói:
      - Bọn mình xuống chơi thăm Sĩ nè! Lâu qua không gặp cũng nhớ nên cả bọn quyết định kéo nhau xuống đây quậy Sĩ một vài hôm đó!
      Sĩ tươi cười:
      - Hân hạnh cho mình quá! Mời các bạn vô nhà chơi! Đi đường xa chắc ai cũng mệt hết rồi phải không?
      Sĩ không đưa các bạn vào ngôi nhà lớn ngay đó mà dẫn họ đi vòng ra phía sau, vào một ngôi nhà nhỏ hơn nhưng không có vẻ âm u như ngôi nhà phía trước.
      - Đây là nhà riêng của mình, trên kia là nhà mẹ!
      Sĩ giới thiệu.
      Hậu reo lên:
      - Vậy là Sĩ sướng nhất rồi, có nhà riêng! Còn bọn mình chỉ toàn ở nà thuê thôi, chán lắm!
      Sĩ mỉm cười không nói gì, anh lúi húi rót nước, dọn bánh ra mời đám bạn.
      Vì là bạn bè thân thiết với nhau suốt mấy năm Đại học, nên giữa họ không só khoảng cách, không có sự khách sáo nào cả. Mấy người bạn nghỉ ngơi một chút rồi cùng nhau xuống bếp, mỗi người một tay nên không lâu sau mâm cơm nóng sốt đã được dọn lên, sáu người bạn quây quần bên nhau vừa ăn uống, vừa nói cười rôm rả.
      - Đêm nay có trăng, các bạn ra sân ngồi chơi ngắm trăng, sẽ thú vị lắm đó!
      Sĩ vừa choàng vai Đĩnh vừa nói. Cả bọn ồn ào kéo nhau theo Sĩ.
      Ngoài sân, một bộ ghế đán được đặt dưới tàn cây vú sữa sum xuê, ánh trăng sáng rỡ xuyên qua kẽ lá, lấp lánh ánh vàng.
      Hậu, Diệu và Phương thích thú ngước mặt lên nhìn bầu trời cao rộng tràn ngập ánh trăng.
      - Có rượu không Sĩ?
      Thắng hỏi.
      Sĩ lúng túng:
      - Mình… mình bỏ rượu, bỏ thuốc lâu rồi nên ở nhà không có sẵn. Nếu các bạn muốn uống mình sẽ đi mua.
      Sĩ dợm người đứng lên, nhưng lập tức Phương níu lại:
      - Thôi đi Sĩ, đừng cho mấy ông này uống rượu làm gì!
      Quay sang Thắng, Phương trừng mắt:
      - Uống trà được rồi ông ạ! Ông đừng có lộn xộn đó nghe?
      Thấy cái nhìn sắc lẻm của Phương, Thắng đã nhớ ra mục đích chuyến đi thăm Sĩ lần này, anh mỉm cười như biết lỗi:
      - Hỏi chơi vậy thôi mà, ai đòi hỏi gì đâu!
      - Ờ, thử giỏi mà đòi hỏi đi!
      Phương nguýt dài.
      Sĩ cười cười hiền lành:
      - Có gì đâu Phương, các bạn uống một ít cũng vui mà!
      - Không được! Mình đã nói rồi, ít cũng không được!
      Phương dứt khoát.
      Sĩ ngồi xuống nhìn các bạn, đột ngột cất tiếng hỏi:
      - Sao tự nhiên các bạn lại có ý tưởng về nơi xa xôi hẻo lánh này để thăm mình vậy?
      Mấy người bạn liếc nhìn nhau, cuối cùng mọi ánh mắt đổ dồn về Diệu, người có tài ăn nói lưu loát nhất trong đám.
      Diệu nhìn quanh một lượt rồi khẽ nói:
      - Tụi mình vừa nghe kể về Sĩ, nghe nói Sĩ vừa trải qua một cơn bệnh thập tử nhất sinh, vậy mà bạn bè không đứa nào biết, thật tệ!
      Sĩ cười:
      - Có gì đâu Diệu, các bạn ở xa, không biết cũng là bình thường thôi mà! Giờ thì mình đã khỏe mạnh trở lại rồi, không sao rồi!
      Hậu chồm tới gần Sĩ, hỏi:
      - Sĩ bệnh gì mà nặng đến mức đó? Kể cho bọn mình nghe với. Hôm rồi nghe nói Sĩ bệnh mà không ai biết rõ thế nào.
      Sĩ cầm tách trà xoay xoay trong lòng tay:
      - Mình cũng không biết mình bị bệnh gì nữa. Vì thật ra các bác sĩ không ai chẩn đoán được bệnh, rồi sau khi làm rất nhiều các xét nghiệm cũng không đem lại được một kết quả cụ thể nào. Họ cứ nói là mình mắc phải một căn bệnh lạ, trước giờ trong y văn chưa từng nói đến.
      - Bệnh lạ là sao?
      Phương tò mò.
      Cả mấy người bạn cũng đều căng thẳng theo dõi câu chuyện của sĩ.
      - Tự nhiên hôm đó mình đi làm về rồi cảm thấy người mệt mỏi rã rời, nên nằm nghỉ. Sáng hôm sau thì mình có dấu hiệu suy tim nên gia đình hoảng hốt đưa vào bệnh viện. Ở đó mình được các bác sĩ theo dõi chặt chẽ nhưng đến trưa hôm đó thì mình ngưng thở. Gia đình đã làm xong các thủ tục để đưa mình về mai táng thì bỗng nhiên mình ngồi dậy và đi khắp nơi, nhưng tim vẫn ngừng đập!
      Sĩ kể chậm rãi.
      Diệu kêu lên:
      - Trời! Có chuyện kỳ lạ vậy sao? Tim không đập mà Sĩ vẫn đi khắp nơi được?
      Sĩ gật đầu xác nhận:
      - Đúng đó! Mình đi khắp nơi, đi đến đâu là người ta chạy theo coi như gánh hát…
      - Nhưng lúc đó ông có biết gì không?
      Thắng hỏi.
      Sĩ gật rồi lại lắc đầu:
      - Mình biết! À, mà không, coi như không biết!
      - Biết mà không là sao?
      Đĩnh thắc mắc.
      Sĩ trầm ngâm:
      - Mình kể ra có khi các bạn lại không tin, nhưng thật sự lúc đó mình đang lạc vào một thế giới khác. Thế giới của những hồn ma!
      Phương đang đứng tựa lưng vào gốc vú sữa, nghe Sĩ nói đến đó, cô hốt hoảng chạy tới chen vào ngồi giữa Đĩnh và Sĩ, làm cả bọn một phen cười lăn lộn.
      - Trời đất, vậy mà hồi sáng không ai chịu nhận mình là nhát gan, giờ thì nhìn kìa, mặt ai cũng xanh lè!
      Diệu vừa cười vừa nói.
      Thắng chỉ tay vào mặt Diệu:
      - Mặt bà cũng cắt không còn hột máu chứ có hơn ai!
      Đĩnh vỗ vỗ hai bàn tay vào nhau la lên:
      - Thôi đi, đừng cãi nhau nữa, để yên nghe Sĩ kể tiếp câu chuyện nè các bạn!
      Lập tức mọi người im lặng, chăm chú hướng ánh nhìn về phía Sĩ.
      Sĩ đằng hắng một tiếng rồi nói:
      - Lúc ấy mình có cảm giác thân thể rất nhẹ nhàng, mình đi rất nhanh. Làng mạc xóm thôn xa lạ với mình, nhưng những người dân ở đó thì cũng có người quen mặt. Mình đi khắp nơi nhưng không ai thèm nói với mình một câu, người nào người nấy đều có vẻ buồn rầu ủ dột, mình không thấy được nụ cười nào ở đó. Tất cả đều lặng lẽ, lặng le đến mức rợn người. Mình đi ngang qua họ, họ coi như không thấy, mình hỏi gì họ cũng làm ngơ, mình cũng không thấy họ trò chuyện với nhau. Mình muốn hỏi thăm đường về nhà nhưng không ai giúp mình nên cứ đi mãi, đi mãi… Sau cùng, mình trông thấy một đứa bé đứng bơ vơ bên đường, mình tiến đến làm quen:
      - Em bé, nhà em đâu? Sao lại đứng một mình nơi này? Sắp tối rồi, mau về nhà đi em!
      Đứa bé ngước nhìn tôi lạ lẫm, nó quay người đi nhưng rội lại quay ngược lại:
      - Anh không biết mình đang ở đâu sao?
      Tôi gật đầu:
      - Ừ, anh không biết thật! Anh bị lạc đường rồi!
      Đứa bé chợt cười khanh khách, đây là tiếng cười và giọng nói tôi nghe được đầu tiên trong suốt một ngày rong ruổi nơi này.
      Nó cười đã đời rồi chỉ tay xuống chân tôi hỏi:
      - Anh thấy gì chưa?
      Tôi vừa tính nói “có gì đâu?” thì bất chợt nhận ra hai bàn chân mình không hề chạm đất!
      Tôi hoảng hốt lùi lại, la lớn:
      - Tại sao? Tại sao lại như thế?
      Thằng bé lại cười:
      - Anh chết rồi!
      Tôi lạnh toát cả người khi nghe thằng bé nói vậy. Nhưng tôi vẫn chưa chịu tin, hỏi lại nó:
      - Anh chết rồi sao? Vậy đây là nơi nào?
      - Anh chết rồi! còn đây là nơi chuyển tiếp, giống như trạm xe trên trần gian vậy, anh muốn đi đâu thì sẽ có chuyến tàu riêng đưa anh tới đó khi thời khắc điểm.
      Thằng bé giải thích rành rẽ, nhưng tôi vẫn chưa hết thắc mắc:
      - Vậy cả em và những người kia đều đã chết?
      - Đúng! Tất cả đều là những hồn ma!
      Thằng bé khẳng định.
      Tôi quá hoảng sợ ôm đầu ngồi thụp xuống. Tôi không thể chết một cách dễ dàng như vầy được! tôi còn mẹ già không ai chăm sóc, tôi còn biết bao mơ ước chưa đạt thành, sao tôi lại có thể chết một cách vô lý như vậy được?
      Có lẽ sự đau khổ tột cùng của tôi đã khiến cho thằng bé mủi lòng. Nó cũng ngồi xuống bên cạnh tôi và an ủi:
      - Anh đừng buồn rầu như vậy!
      Tôi khóc nức lên:
      - Sao lại không buồn được chứ? Anh chết quá vô lý, anh không cam tâm, anh đâu có đau bệnh gì mà phải chết…
      Thằng bé ngồi im một lúc rồi hỏi tôi:
      - Từ sáng giờ anh có nói chuyện với ai ở đây, ngoại trừ em không?
      Tôi lắc đầu:
      - Anh có hỏi nhưng không ai trả lời, hình như họ không nhìn thấy anh hay sao ấy!
      Thằng bé tỏ vẻ mừng rỡ:
      - Vậy là coi chừng anh bị chết nhầm! anh chưa tới số, nên khi linh hồn xuống đây nó không tụ lại thành hình hài được, nên không ai nhận ra!
      - Vậy sao em lại nhận ra anh?
      Tôi ngạc nhiên hỏi lại.
      Thằng bé cười cười:
      - Em thì khác họ! Ông nội em trước đây là một thầy pháp đại tài, nhưng không may ông lại tham lam tiền tài vật chất nên dùng bùa phép vào những chuyện không hay, vì thế mà đến đời ba em và các đời sau nữa phải chịu hậu quả. Ba em chết trong đau đớn tột cùng và chính mắt em đã trông thấy sự ghê gớm của cái thứ gọi là bùa ngãi một khi nó phản lại chủ mình. Vì vậy em đâm ra tò mò và nhất định phải tìm cho ra phương cách để giải cứu cho dòng họ. Em lục lọi đồ đạc của ông nội và tìm được một cuốn sách. Nội dung cuốn sách rất hấp dẫn, em đã cố gắng học được một vài chương cho nên em có thể nhìn thấy anh mặc dù linh hồn anh vẫn chưa hội tụ.
      Tôi lo sợ hỏi:
      - Vậy nếu là chết nhầm, thì làm cách nào anh có thể sống lại được, em làm ơn giúp anh đi?
      Thằng bé trầm tư một lúc rồi nói:
      - Em sẽ giúp anh! Nhưng anh phải hứa với em một điều.
      Tôi vội vã gật đầu lia lịa:
      - Được rồi, anh hứa! Điều gì anh cũng có thể hứa với em, miễn sao anh được sống lại!
      Thằng bé nghiêm nghị nhìn vào mắt tôi:
      - Chuyện không đơn giản đâu, anh đừng vội hứa như vậy, anh còn chưa biết em muốn anh hứa gì mà?
      Tôi bối rối trước lời trách cứ của thằng bé, cố chống chế:
      - Thì anh nghĩ mọi việc anh cũng sẽ cố gắng làm được hết…
      Nó nhìn tôi rồi nói từng tiếng một:
      - Nếu được sống trở lại, anh phải thay em để nghiên cứu quyển sách này, và dùng nó để làm điều thiện giúp người. có như thế mới hóa giải được tội lỗi năm xưa ông nội em gây ra…
      Vừa nói nó vừa lấy trong người ra một quyển sách cũ mèm, cầm trên tay với vẻ trân trọng lắm.
      Tôi khựng lại một lúc, vì thật ra, một tỏng những nguyên nhân khiến tôi tha thiết muốn quay về với cuộc sống là được biến những ước mơ, những hoài bão của mình thành sự thật. Nếu bây giờ nhận lời cậu bé, thì coi như con đường đó tôi đã tự mình lấp kín, và tôi sẽ phải đặt chân cào một con đường khác, hoàn toàn xa lạ, nơi mà tôi chưa từng có một ý niệm nào về nó!
      Nhưng nếu tôi không đồng tình, có nghĩa là tôi không được quay về trần thế. Mẹ tôi sẽ đau khổ ra sao, ai sẽ là người chăm lo cho mẹ tôi lúc người xế bóng? Các bạn chơi thân với tôi, chắc cạn đã từng nghe tôi kể về hoàn cảnh của mình, về những nỗi đau đớn vất vả mà mẹ tôi phải chịu đựng để nuôi tôi khôn lớn? Tôi không thể bỏ đi trước mẹ tôi được…
      Nghĩ tới nghĩ lui, cuối cùng tôi gật đầu:
      - Được rồi! Anh hứa!
      Thằng bé mừng rỡ, nhưng lập tức nó lại có vẻ ỉu xìu:
      - Anh phải nhớ, anh không thể chỉ hứa suông đâu nhé? Bằng bất cứ giá nào anh cũng phải thực hiện cho đúng lời hứa, nếu không thì cả anh và những người thân tỏng gia đình anh sẽ bị quả báo thảm hại. Đó là lời nguyền tai ác trong cuốn sách này. Liệu anh có còn dám nhận lời không?
      Tôi trả lời dứt khoát:
      - Dám chứ! Anh đã nghĩ chính chắn rồi, anh sẽ nhận lời!
      Lần này thằng bé mới thật sự yên tâm. Nó vui vẻ trao cho tôi cuốn sách rồi nói:
      - Bây giờ em sẽ lên đó giữ xác cho anh, nếu không người ta sẽ đem anh đi chôn, lúc đó thì trời cứu anh cũng không được!
      Tôi hoảng hốt:
      - Em đi giữ xác cho anh, còn anh thì sao? Anh phải làm gì?
      Nó nhón lên đặt bàn tay bé nhỏ lên vai tôi như một người bạn:
      - Anh đừng lo! Anh cứ ở đây, hai ngày nữa sẽ có người tới điểm danh, nếu thật sự anh bị chết nhầm thì sẽ không có tên trong danh sách. Khi đó chắc chắn họ sẽ đuổi anh đi bằng cách xô anh ra khỏi thế giới chuyển tiếp này. Khi ấy, nếu xác anh không còn, anh sẽ trở thành một con ma vất vưởng, không nơi trú ngụ. Nhưng nếu xác vẫn còn được giữ ấm thì anh sẽ sống lại!
      Tôi vừa mừng vừa lo:
      - Nhưng… có thật là anh chết nhầm không?
      Thằng bé động viên:
      - Em không dám khẳng định, bởi vì… hiểu biết của em còn có giới hạn, nhưng những gì em biết được là như vậy. Nếu tất cả những hồn ma ở đây không nhận thấy anh thì chín mươi phần trăm là anh bị chết nhầm rồi!
      Rồi nó vụt nói:
      - Thôi, bây giờ em phải đi kẻo trễ. Chuyện có nhầm hay không thì hai ngày sau sẽ rõ. Anh giữ kỹ cuốn sách giúp em nhé?
      Thằng bé vừa nói dứt câu đã lướt đi nhanh như một cơn gió thoảng. Tôi tần ngần cầm cuốn sách trong tay lật qua lật lại một lát rồi cất kỹ vào người.
      Đúng như lời thằng bé nói, hai ngày sau, những người dân trong làng lặng lẽ tập trung về một góc, không lâu sau một người đàn ông mặt mày dữ tợn đi tới và bắt đầu gọi tên tuổi, quê quán từng người.
      Số người tụ tập quá đông, mà tôi lại rất nóng lòng muốn trở về nhà cho nên tôi cố chen lấn, huých người nầy, đẩy người kia để tiến lên phía trước. May mà không ai nhận ra tôi nên tôi không bị ai phản đối.
      Khi đã tiến tiến đến cạnh người có nhiệm vụ điểm danh, tôi vội nói:
      - Trương Văn Sĩ, hai mươi tám tuổi, quê quán làng X huyện Y tỉnh Cà Mau có trong danh sách không ạ?
      Người điểm danh ngước lên nhìn tôi một cái rồi dò từ trên xuống dưới cái bảng danh sách dài dằng dặc đang cầm nơi tay. Ông ta dò đi dò lại mấy lượt, rồi như bực mình cáu có, ông ta vung chân đá vào tôi một cái và nói:
      - Chỗ tao làm việc, đừng có lộn xộn nghe chưa?
      Tôi mất thăng bằng ngã chúi về phía trước. Khi tôi lồm cồm ngồi được dậy cũng là lúc nghe tiếng mẹ tôi kêu lên thất thanh:
      - Tim nó đập lại rồi! Con tôi sống rồi!
      Câu chuyện là như vậy. Các bạn thấy có huyền bí lắm không?
      Sĩ kể xong, nhìn khắp lượt bạn bè, ai nấy đều còn nghệt mặt ra dường như còn chưa tin hẳn vào những gì Sĩ vừa mới kể.
      - Nhiều khi trong lúc ngất đi, ông mơ màng thấy chuyện đó cũng hổng chừng!
      Thắng là người lên tiếng đầu tiên.
      - Ừ, chắc là mơ thôi! Làm gì có chuyện lạ lùng như vậy được!
      Phương cũng tiếp lời.
      Hậu, Diệu và Đĩnh tuy không nói gì nhưng có vẻ tán đồng với ý kiến của hai bạn.
      - Nếu có cuốn sách làm bằng chứng thì còn có thể!
      Phương lại nói tiếp.
      Sĩ không nói gì lẳng lặng đi vào nhà, chỉ một loáng sau anh trở ra trên tay cầm theo một cuốn sách cũ rích, ố vàng.
      Đặt cuốn sách lên bàn, Sĩ nói:
      - Đây chính là quyển sách mà thằng bé đưa cho tôi hôm ấy! Các bạn giải thích sao về điều này?
      Thắng tò mò, vừa đưa tay ra muốn cầm lấy quyển sách nhưng Sĩ vội gạt tay Thắng ra và nói:
      - Nếu bạn chạm vào nó, bạn sẽ phải vướng vào lời nguyền! Bởi vậy đừng ai đụng vào nó nhé, các bạn muốn giở trang nào thì nói với mình, mình sẽ giở cho mà xem!
      Cả mấy người bạn đều rụt cổ vẻ sợ hãi.
      Sĩ từ từ lật các trang sách để các bạn nhìn sơ qua.
      Bỗng nhiên Diệu reo lên:
      - Ủa, trong sách này cũng có trò chơi nữa hả?
      Sĩ gật đầu, tay dừng lại ở trang sách có tựa đề: “Trò chơi dành cho những người hùng”
      - Nó là như thế nào vậy?
      Đĩnh hỏi.
      Sĩ ngước lên giải thích:
      - Đây là các trò chơi giúp cho những người tham gia nhìn thấy được ma.
      - Nhìn thấy được ma? Rồi… rồi sau đó thế nào?
      Diệu lắp bắp hỏi.
      Sĩ cười:
      - Rồi thôi chứ thế nào nữa! Nó chỉ là trò chơi để rèn luyện lòng dũng cảm cho những ai muốn đi vào con đường này.
      - Vậy, những người không muốn và không hề có ý định làm pháp sư có chơi được không? Như bọn mình hiện tại nè, muốn chơi có được không?
      Thắng hỏi.
      Sĩ gật đầu:
      - Được chứ! Đây cũng là một phương pháp giúp những người không tin vào ma quỷ sẽ phải tin. Mình chỉ sợ các bạn không dám chơi thôi. Bởi vì trò chơi này, một khi đã bước vào cuộc chơi thì phải đi cho đến hết con đường, không thể nghỉ chơi giữa chừng được!
      Giữa lúc Đĩnh, Hậu, Diệu và Phương đang căng thẳng nghe Sĩ giảng giải thì đột ngột Thắng bật cười ha hả, vừa cười Thắng vừa vỗ hai bàn tay vào nhau một cách khoái trá.
      - Tôi phải công nhận ông Sĩ này giỏi ghê nha! Hồi đó tuy biết ông là dân kinh tế mà có máu văn chương, nhưng tôi thật không ngờ bây giờ ông lại chuyển ngành nhanh như vậy! Ông mà viết truyện giả tưởng, ma quái chắc có nhiều độc giả mến mộ lắm đây! Trí tưởng tượng của ông trên cả tuyệt vời!
      Thắng vừa cười nghiêng ngả, vừa chỉ vào mặt các bạn nói tiếp:
      - Coi kìa… coi mọi người sợ xanh mặt hết rồi kìa! Vậy mà ai cũng nói mình là anh hùng!
      Sĩ không tỏ vẻ phật lòng khi thấy Thắng phản bác lại những gì mình nói. Anh chỉ lặng lẽ ngồi nhìn các bạn bằng ánh mắt trìu mến, hiền lành.
      Diệu nhìn Thắng, hỏi:
      - Ông không tin câu chuyện của Sĩ?
      Thắng nín cười, ngạc nhiên:
      - Vậy ra Diệu tin sao?
      Diệu trầm ngâm:
      - Thật ra câu chuyện này quá sức hoang đường, khó tin lắm. Nhưng vì mình hiểu Sĩ không bao giờ nói dóc với bạn bè, nên mình tin.
      Thắng cười:
      - Sĩ đâu có nói dóc? Sĩ chỉ nói giỡn chơi để hù dọa mình thôi mà, đúng không Sĩ?
      Sĩ cười hiền lành:
      - Mình không nói dóc, mình cũng chẳng nói đùa. Đó là tất cả sự thật đã xảy ra với mình. Và chính vì điều đó mà mình phải chuyển hướng, phải dẹp bỏ hết những công việc mà mình luôn yêu mến.
      Thắng gật đầu:
      - Ok! Điều này rất dễ chứng minh. Bây giờ tụi mình cùng chơi trò chơi nhìn thấy ma đi! Nếu thật sự thấy ma thì mọi người ai cũng sẽ tâm phục khẩu phục, còn không thấy ma thì cả bọn đè Sĩ ra dần cho một trận nên thân, các bạn đồng ý không?
      Thắng nhìn quanh, nhưng đám bạn vẫn còn rụt rè bán tín bán nghi. Mãi hồi lâu sau Đĩnh mới đưa tay lên:
      - Tôi đồng ý!
      Thấy Đĩnh – người thường bị chê là nhút nhát – tham gia trò chơi, cả Phương, Diệu và Hậu đều lần lượt đồng ý.
      Sĩ lo lắng:
      - Mình chỉ kể vậy thôi, không bắt buộc các bạn phải tin đâu. Và mình cũng khuyên các bạn đừng thma gia vào trò chơi này, đôi lúc cũng nguy hiểm đó!
      - Sao lại nguy hiểm? Chẳng phải lúc nãy Sĩ bảo là không sao mà?
      Hậu ngạc nhiên.
      Sĩ gật đầu:
      - Đúng là sẽ không có gì nguy hiểm nếu các bạn có đủ can đảm đi đến khi trò chơi kết thúc. Nhưng nếu các bạn bỏ giữa chừng thì… không được đâu!
      - Không được là sao?
      Phương hỏi thêm.
      - Khi đó các bạn sẽ bị mắc kẹt trong thế giới ma quỷ, không trở về được!
      Sĩ nói rõ.
      Mấy cô gái nhìn nhau le lưỡi tỏ ý sợ hãi. Nhưng Thắng vẫn kiên quyết:
      - Có gì mà sợ! Chưa chắc trò chơi này là thật, mà nếu là thật thì mình ráng chơi đến hết bàn, sợ gì!
      Sau một hồi bàn tán, cả đám quyết định bước vào trò chơi ma quỷ.
      - Chọn trò nào đơn giản nhất nghe Sĩ?
      Diệu căn dặn.
      Sĩ lật qua lật lại mấy trang sách rồi nói với các bạn:
      - Mình chơi trò “Gọi hồn ma đói” đi nhe?
      - Trò đó là sao?
      Phương nghiêng đầu nhìn vào trang sách nhưng cô vẫn không hiểu được.
      - Trong sách nói rằng, các hồn ma vất vưởng do bị chết oan, chưa có nơi để về, phải sống lang thang trên dương thế. Những hồn ma đó thường bị đói và thường tập trung ở gần các ngã ba, các giao lộ. Nếu tham gia vào trò chơi này, chúng ta mỗi người phải có một cái chén và một đôi đũa, quỳ tại ngã ba đường và luôn tay gõ đũa vào miệng chén để chúng phát ra những tiếng kêu lanh canh, kêu gọi hồn ma tập hợp về. Cạnh đó, mình sẽ để một vài đĩa thức ăn cho họ. Họ sẽ xuất hiện. Mỗi người sẽ  nhìn thấy những con ma không giống nhau, không ai nhìn thấy giống ai… Họ ăn hết thức ăn sẽ tự động bỏ đi, lúc đó trò chơi kết thúc.
      - Ồ, vậy thì có gì mà lo! Mình chơi liền đi!
      Thắng phấn khởi nói.
      Sĩ nghiêm giọng:
      - Nhưng các bạn phải nhớ không được ngừng tay gõ chén đó nhe? Phải gõ liên tục đến khi nào họ ăn hết thức ăn.
      - Được rồi! Không thành vấn đề. Nào, chúng ta tiến hành ngay đi, tôi cũng muốn nhìn thấy ma lắm rồi!
      Cũng vẫn là Thắng thúc giục.
      Sĩ đứng lên đi vào nhà chuẩn bị mấy đĩa thức ăn và chén đũa cho sáu người. xong đâu đấy anh đi ra ngoài, và hỏi lại một lần nữa:
      - Các bạn có muốn đổi ý thì lúc này vẫn còn kịp đó!
      Thắng có vẻ bực:
      - Đã nói rồi, không có gì thay đổi đâu! Tiến hành đi, ông nhát hoài các bạn sẽ sợ còn hơn thấy ma thiệt nữa đó!
      - Vậy thì đi theo tôi!
      Sĩ nói ngắn gọn.
      Sĩ đi trước, năm người bạn nối bước theo sau. Hậu và Phương cố chen vào đi giữa mọi người.
      Đi tới một ngã ba đường cách nhà không xa, Sĩ dừng lại nhìn xung quanh và nói:
      - Thôi, chỗ này được rồi!
      Cả đám bạn đứng lại. Sĩ hướng dẫn cho mọi người đặt đĩa thức ăn và quỳ xuống sát cạnh nhau thành một hàng ngang. Trước mặt mỗi người để sẵn một cái chén và một đôi đũa.
      - Các bạn cầm đũa lên đi, mình bắt đầu!
      Sĩ nói nhỏ.
      Khi nhìn thấy cả năm người bạn của mình đều đã cầm đũa sẵn sàng trên tay, Sĩ lầm rầm khấn nguyện rồi hô:
      - Bắt đầu!
      Tiếng hô vừa dứt, Sĩ liên tục gõ đũa vào miệng chén, năm người bạn cũng làm theo giống y như thế. Tiếng bát đũa va nhau lanh canh vang lên giữa đêm trường thanh vắng tạo thành một thứ âm thanh kỳ quặc, chói tai.
      Khoảng hơn năm phút trôi qua vẫn không thấy gì lạ, Đĩnh bắt đầu cảm thấy chán, anh nghĩ thầm trong bụng:
      - Thằng cha Sĩ này chơi anh em!
      Nhưng cái ý đó vừa kịp đến trong đầu, Đĩnh chợt trông thấy từ xa một bóng đen đang chậm chạp lướt tới. Đĩnh sững người, quên cả việc gõ đũa. Diệu quỳ bên cạnh phải hích nhẹ vào người để nhắc nhở Đĩnh.
      Giật mình, Đĩnh cắm đầu gõ liên tục nhưng mắt vẫn liếc về phía bóng đen đó. Khi bóng đen tới gần, máu trong người Đĩnh như đông cứng lại vì anh thấy rõ ràng gương mặt của nó mới gớm ghiếc làm sao!
      Năm người bạn nhận thấy sự sững sờ kinh hãi của Đĩnh, ai nấy đều hồi hộp. Diệu hỏi nhỏ:
      - Đã thấy gì chưa mà kỳ vậy Đĩnh?
      Đĩnh ú ớ:
      - Kìa… kìa…
      Một tay vẫn gõ đũa, một tay Đĩnh đưa lên chỉ về hướng bóng đen.
      Diệu ngơ ngác:
      - Mình có thấy gì đâu?
      Đúng lúc đó Diệu có cảm giác như có vài giọt mưa rơi trúng đầu mình. Cô vội ngước lên thì trời ơi… ngay phía trên đầu Diệu là một thây ma đang nằm sấp, bay là đà ngang qua, nước dãi từ miệng nó chảy ra có giọt.
      Diệu điếng người, ngừng tay gõ.
      Thắng hỏi:
      - Gì vậy Diệu? Gõ đi chứ!
      Diệu hoảng hốt gõ tới tấp vào miệng chén, nhưng không còn đủ sức để trả lời câu hỏi của Thắng.
      Lần lượt Phương, Hậu, Sĩ đều nhìn thấy ma. Những bóng ma đó tới bên mấy đĩa thức ăn và xúm vào bốc hốt một cách thèm thuồng, tham lam. Không lâu sau dưới đất chỉ còn trơ lại mấy cái đĩa không, chẳng còn dính lại dù chỉ là một mẩu nhỏ.
      Các bóng ma tan biến dần đi. Sĩ mệt mỏi quăng đũa và ngã lăn ra đất thở hổn hển.
      Phương, Diệu, Hậu, Đĩnh ôm chầm lấy nhau vừa mừng vừa sợ.
      Thắng bực tức đứng lên đá văng cái chén trước mặt ra xa:
      - Ai cũng nhìn thấy sao tôi lại không nhìn thấy gì hết vậy? Các người có về phe với nhau để dọa tôi không đấy?
      Diệu run run nói:
      - Không… không có đâu Thắng à! Đúng là mình đã trông thấy ma thật rồi. thật mình không thể tin được, ngoài sức tưởng tượng!
      Đĩnh góp lời:
      - Trước đây mình thật không sao ngờ được song song với thế giới của mình lại có một thế giới khác đầy bí ẩn như vậy!
      Phương và Hậu thì vẫn còn run như cầy sấy, chưa thể cất thành tiếng nói.
      Sĩ nằm ngửa mặt lên nhìn trời, hỏi nhỏ:
      - Bây giờ các bạn tin những điều mình kể rồi chứ?
      - Tôi vẫn chưa tin, vì tôi có thấy gì đâu?
      Thắng ngoan cố.
      - Những người nặng bóng vía thường rất khó gặp ma!
      Sĩ kết luận.
      Thắng không đồng tình:
      - Còn trò nào nữa, đem ra chơi luôn đi, thử xem ở trò thứ hai này mình có thấy gì không cho biết.
      Sĩ bật ngồi dậy ngạc nhiên hỏi:
      - Thắng định chơi tiếp sao?
      Thắng gật:
      - Ừ, chơi tiếp! Mình phải thấy ma mới được!
      Sĩ liếc nhìn mọi người:
      - Các bạn thấy sao?
      Sĩ hỏi.
      - Không! Mình không chơi nữa! Sợ muốn chết rồi!
      Phương, Hậu, Đĩnh và Diệu đồng thanh kêu lên.
      Thắng hậm hực:
      - Đồ chết nhát!
      Rồi quay sang Sĩ, Thắng hỏi:
      - Có trò nào chơi một mình không Sĩ? Lựa trò đó cho tôi đi!
      Sĩ lặng im một lát rồi đứng lên đi trở về nhà, mấy người bạn cũng thu dọn chén đũa bỏ vào một góc rồi cùng về với Sĩ.
      Sĩ đem cuốn sách bùa phép ra ghế đá và các bạn chụm đầu lại xem chung. Dừng lại ở một trang, Sĩ ngước lên nói với Thắng:
      - Đây là trò chơi mà xác suất gặp được ma rất cao, tuy nhiên mức độ nguy hiểm của nó cũng không ít.
      - Nguy hiểm thế nào?
      Thắng nóng nảy hỏi.
      - Ở trò chơi này, nếu người chơi không đủ dũng cảm, hoảng loạn trong lúc nhìn thấy ma thì sẽ bị thất lạc trong cõi của ma giới, không thể tự tìm về được nữa!
      Mấy người bạn rùng mình ngăn cản:
      - Thôi đi Thắng ơi! Nhìn thấy ma làm gì, ghê lắm! Lỡ có gì thì chết chứ chẳng chơi. Tụi mình lỡ dại một lần khi nãy là đủ lắm rồi, kết thúc đi, đừng chơi gì nữa hết.
      Càng nghe các bạn can ngăn, máu anh hùng trong người Thắng lại sục sôi. Anh dứt khoát nói với Sĩ:
      - Cho tôi chơi trò này đi, không sao đâu mà lo. Trước khi vào cuộc chơi tôi đã chuẩn bị sẵn tinh thần rồi thì còn gì ma sợ nữa chứ?
      Sĩ do dự một lúc rồi hỏi lại lần nữa:
      - Thắng nhất định phải chơi trò này?
      - Ừ, nhất định thế!
      Thắng khẳng định lại lần nữa.
      Sĩ gật nhẹ rồi đi thật nhanh vào nhà ôm ra một con mèo đen. Nó nằm im trên tay Sĩ, hai con mắt long lên xanh lè một cách ghê rợn.
      Hậu và Diệu thoáng rùng mình khi nhìn thấy con mèo. Phương quay đi lấy tay che mắt:
      - Trời ơi, con mèo gì mà ghê quá vậy Sĩ?
      Sĩ đặt con mèo xuống bàn, nhè nhẹ vuốt ve nó. Con mèo nằm im một cách hết sức ngoan ngoãn.
      - Đây là con mèo mun. Nó là vật có thể giao tiếp được với những linh hồn ở cõi âm. Nếu muốn tham gia trò chơi này, bạn cứ việc ôm con mèo mun này đi tới một nơi thật rậm rạp rồi nói tên tuổi và mong ước hiện tại của bạn lúc đó. Xong, thả con mèo xuống đất và đi theo nó, nó sẽ dẫn dắt bạn vào thế giới bên kia.
      Đĩnh kéo tay Thắng:
      - Đừng chơi nữa ông ơi! Tụi mình ngồi đây ăn bánh, uống trà không tốt hơn sao? Trò này nghe qua rùng rợn quá!
      Thắng cười hềnh hệch:
      - Tưởng mình chết nhát lắm sao? Nhất định đêm nay mình phải tận mắt nhìn thấy được ma quỷ.
      Thắng tỏ vẻ dứt khoát, đón lấy con mèo trong tay Sĩ và hỏi:
      - Gần đây có chỗ nào là rậm rạp vậy ông?
      Sĩ chỉ tay ra hướng sau nhà:
      - Ở đó còn một cánh rừng nhỏ người ta chưa khai phá hết. Thắng có thể chơi trò chơi này ở đó!
      Sĩ đứng lên dẫn đường, Thắng và đám bạn lại lục tục đi theo sau.
      Chỉ cách nhà Sĩ chừng vài chục mét nhưng ở đây mọi vật lại hoàn toàn khác hẳn. Cỏ mọc ken dày, cây cối rậm rạp, lại vào lúc đêm trăng thế này trông càng có vẻ huyền bí đáng sợ nhiều hơn.
      Sĩ ra hiệu cho các bạn dừng lại, và hỏi Thắng lần nữa:
      - Sao? Bạn có chơi không?
      Mặc dù trong bụng không kém phần hồi hộp, nhưng Thắng vẫn cố giữ vẻ bình thản trước mắt bạn bè. Thắng không thể để lại tiếng xấu được. Các cô gái và cả một đứa chết nhát như Đĩnh mà còn dám gặp được ma, thì sao Thắng lại thua kém chứ?
      Nhìn các bạn, Thắng cười pha trò:
      - Các bạn chờ mình ở đây nhe! Mình sẽ đi vào thế giới của những hồn ma, biết đâu những việc sắp xảy ra với mình sẽ rất hấp dẫn, rồi khi ấy các bạn đừng ghanh tị với mình nhe?
      Bạn bè không ai cười nổi vì lo cho Thắng, nhưng Thắng đã quyết định rồi, không thể làm gì khác hơn.
      Thắng đưa tay lên vẫy các bạn rồi một mình lầm lủi đi sâu vào bên trong cánh rừng.
      Đi một lúc lâu, Thắng nhận thấy nơi này không còn được ánh trăng chiếu sáng rỡ ràng nữa, mà chỉ loang loáng một vài đốm sáng xuyên qua kẽ lá, nhọn cây. Cây rừng chằng chịt, cành lá đan nhau che kín như một mái nhà, tiếng sột soạt của những con chuột rừng hoặc tiếng kêu thảng thốt của một con chim đêm ngái ngủ khiến Thắng rùng mình sợ hãi.
      Bóng tối bao quanh, Thắng đứng giữa đất trời mà cảm thấy ngột ngạt như ngồi trong căn phòng máy lạnh trong những trưa hè mất điện vậy. Giờ đây thật sự Thắng muốn quay trở lại, nhưng không thể! Thắng biết điều đó, Sĩ đã căn dặn rất nhiều lần, một khi đặt chân vào trò chơi thì không thể bỏ cuộc giữa chừng, phải đi đến cùng, chờ cho cuộc chơi tự kết thúc mới có thể quay về một cách bình yên.
      - Thôi,  cũng đành liều mạng một phen!
      Thắng lẩm bẩm.
      Cúi người xuống, Thắng chưa kịp mở hết tay thì con mèo mun đã nhảy phốc đi , bỏ rơi lại mấy tiếng  kêu “ngao…ngao” nghe nổi cả gai ốc.
      Thắng vội vã chạy đuổi theo con mèo. Thân hình con mèo đen thui, nó hòa vào bóng đêm tăm tối này thì dù có căng mắt ra hết cỡ Thắng cũng không làm sao nhìn thấy nó cho được!
      Nhưng kìa, may quá! Hai con mắt xanh sáng như hai luồng điện cứ thỉnh thoảng lại hiện ra, ý chừng con mèo vẫn còn nhớ rõ phận sự dẫn đường của nó. Và nhờ vào ánh sáng phát ra từ đôi mắt của con mèo mun đã dẫn lối cho Thắng không bị lạc đường.
      Thắng không biết mình đã luồn lách qua bao nhiêu thân cây, đám cỏ, đã bị té ngã rồi lồm cồm bò dậy bao phen, bị gai cào xước trầy trụa bao nhiêu lần mà con mèo đen vẫn cứ chạy chờn vờn trước mặt.
      Thắng mệt mỏi, chán ngán và cảm thấy hối hận vô cùng chỉ vì muốn tỏ ra anh hùng đã dấn thân vào một thứ trò chơi ma quỷ chết người này. Thắng biết mình không thể quay trở lại. Nhưng khi nào thì trò chơi này mới đi vào hồi kết, đó là điều mà Thắng cũng không sao biết được!
      Tựa lưng vào một thân cây, Thắng từ từ tuột xuống ngồi bệt trên mặt đất ẩm ướt, dơ bẩn. Giá mà lúc này có được một ly trà nóng, nhấm nháp một miếng bánh ngọt và tán gẫu với bạn bè thì hạnh phúc biết bao! Vậy mà…
      Con mèo mun nhảy chờn vờn phía trước, cặp mắt sáng của nó cứ thoáng ở phía bên này lại thoắt chuyển sang phía bên kia. Nó bật kêu lên mấy tiếng “ngao ngao…” thảm thiết như muốn kêu gọi, nhắc nhở Thắng không được bỏ cuộc giữa chừng!
      Mặc cho con mèo thúc giục, Thắng vẫn cứ ngồi ỳ ra đấy không chịu nhúc nhích. Ma quỷ là cái quái gì mà mình phải khổ sở đến thế này? Đêm hôm khuya khoắt một mình trong rừng rậm hoang vu, đúng thật là một trò chơi điên khùng không thể tả!
      Con mèo cứ kêu mãi, Thắng tức giận bẻ một cành cây nhỏ trước mặt ném vụt về phía nó. Nó giương mắt nhìn Thắng thật lâu rồi buông ra mấy tiếng “ngao… ngao” buồn thảm. Sau đó nó lủi mất tăm, đôi mắt sáng mất hẳn, Thắng không còn nhìn thấy được nữa.
      Nhắm mắt một lúc cảm thấy người đỡ mệt, Thắng đứng lên vung chân vung tay lấy lại tư thế và chuẩn bị đi tiếp. Lúc này anh lại không biết mình phải đi theo đi hướng nào, bởi vì con mèo dẫn đường đã không còn nữa.
      Thắng kiên nhẫn đứng chờ. Thời gian trôi qua thật chậm, Thắng có cảm giác đêm đã tàn và ngày đã sắp lên, nhưng sao chỗ này vẫn còn là một màn đêm tăm tối? Và con mèo mun thì vẫn mất dạng nơi nào!
      Bây giờ thì Thắng đã thật sự hoảng sợ. Bởi Thắng biết, không còn con mèo dẫn lối, Thắng sẽ không đến được thế giới của những hồn mà, mà nếu không đến được thì cứ phải loay hoay trong cái trò chơi chết tiệt này. Thắng chỉ có thể trở về khi trò chơi kết thúc, trò chơi không kết thúc thì mãi mãi Thắng bị giam cầm ở một nơi khủng khiếp thế này sao?
      Càng nghĩ càng hoảng sợ, Thắng chạy tán loạn trong rừng, vừa chạy vừa gào to:
      - Sĩ ơi, Đĩnh ơi… các bạn ơi! Các bạn có nghe tiếng mình không?
      Không một tiếng trả lời. Xung quanh Thắng hoàn toàn vắng lặng.
      - Meo! Meo! Mèo ơi… mầy ở đâu rồi?
      Thắng kêu như khóc nhưng cả con mèo cũng chẳng thấy tăm hơi.
      Và thế là Thắng cứ chạy, chạy hết hướng này sang hướng khác, vấp ngã nháo nhào, mặt mũi trầy trụa và nước mắt cứ tuôn từng dòng trên má Thắng…
       
      ***
      Diệu sốt ruột ngó chừng đồng hồ mấy lần rồi lên tiếng:
      - Không biết Thắng có gặp chuyện gì không hay trong đó không mà đã mấy tiếng đồng hồ trôi qua rồi vẫn không thấy quay trở lại?
      Gương mặt Sĩ căng thẳng đến tột độ.
      Phương, Hậu, Đĩnh nhìn nhau không dám nói gì. Cả bọn cứ nhớn nhác ngó vào rừng mãi không thôi.
      - Mình vô trong đó tìm Thắng đi!
      Diệu phá tan sự im lặng nặng nề.
      Sĩ lắc đầu:
      - Vô ích thôi! Nếu Thắng gặp trục trặc gì đó, Thắng sẽ bị lạc trong ma giới, mình không thể nào tìm được thắng.
      Diệu bật khóc.
      Phương rụt rè:
      - Hay mình lại chơi một trò khác để nhìn thấy ma, hy vọng sẽ nhìn thấy Thắng?
      Sĩ lại vẫn lắc đầu:
      - Thắng chưa chết nên không phải là ma, mình không thể nhìn thấy Thắng được đâu!
      - Mặc kệ! mặc kệ có tìm được Thắng hay không, có nhìn thấy Thắng hay không mình cũng phải vào trong đó! Mình không thể đứng ngoài này mà bỏ mặc Thắng được đâu!
      Diệu vừa nói vừa khóc nấc lên từng cơn.
      Hậu, Phương, Đĩnh lại nhìn nhau. Từ lâu, mọi người đều biết Thắng có tình cảm với Diệu, nhưng không ai ngờ Diệu cũng đáp lại tình cảm đó. Có lẽ ngay cả bản thân mình, Thắng cũng chưa biết điều này. Bởi vì mới hôm tuần trước, Thắng còn than thở với Đĩnh về điều đó.
      Chính trong lúc nguy khốn thế này Diệu mới không giấu được cảm xúc thật của mình. Trông thấy cô đau đớn vật vã, những người bạn càng thêm rối ruột.
      Sĩ chạy trở về nhà lấy mấy bó đuốc đem ra, chia cho bạn rồi dắt nhau luồn lách vô rừng.
      - Thắng ơi! Thắng ơi…
      Những tiếng kêu không ngừng vang lên bốn phía, nhưng Thắng vẫn bặt tăm.
      Diệu đi như chạy, nước mắt cô trào ra ướt nhòe nhoẹt nhưng cô cũng chẳng buồn lau. Bàn chân Diệu đạp bừa lên những bụi gai sắc nhọn, bật cả máu mà Diệu vẫn không hề suýt xoa hay dừng lại. Cô cứ dấn bước thật nhanh như sợ trễ một chuyến tàu quan trọng nhất trong đời mình.
      - Ngao…!
      Cùng lúc với tiếng kêu ớn lạnh là một bóng đen phóng vụt ngang qua mặt Diệu.
      - Con mèo! Con mèo nè Sĩ ơi!
      Diệu la lên.
      Con mèo mun đứng cách Diệu không xa, nó giương cặp mắt như hai ngọn đèn lên nhìn Diệu với vẻ dữ dằn, hằn học.
      Sĩ chạy tới, ôm còn mèo lên, lập tức đôi mắt của nó như khép lại, hiền lành ngoan ngoãn.
      Sĩ ngồi thụp xuống ôm đầu than:
      - Thắng không may rồi!
      Diệu đang bừng bừng hy vọng vì nhìn thấy con mèo cô ngỡ Thắng cũng ở đâu quanh đây, giờ nghe Sĩ kêu lên như vậy Diệu khựng lại như chết sững.
      Đĩnh lắc lắc vai Sĩ hỏi dồn:
      - Thế này là thế nào hả Sĩ?
      Nước mắt ứa ra, Sĩ nói nhỏ:
      - Có lẽ Thắng không đủ kiên nhẫn để đi hết trò chơi, Thắng đã bỏ cuộc nửa chừng. Cho nên trò chơi sẽ không bao giờ kết thúc được và… Thắng cũng sẽ không bao giờ thoát ra được thế giới đó!
      - Trời ơi!
      Diệu rú lên thảm thiết.
      Phương, Hậu chạy vội tới đỡ lấy Diệu, dìu cô ngồi xuống một gốc cây cạnh đó.
      Lúc này trời đã rạng sáng, tiếng chim chóc hót vang, cỏ cây bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài. Tất cả đều tràn đầy sinh khí, tất cả đều lấp lánh tươi vui như không hề có sự cố đau lòng đã và đang xảy ra ở một miền quê lặng lẽ này vậy.
      Đám bạn khó nhọc lắm mới dìu được Diệu về nhà Sĩ. Mọi người lặng lẽ ngồi nhìn nhau, ai nấy mình mẩy cũng đầy các vết trầy xước và gương mặt thì hốc hác như trải qua nhiều đêm mất ngủ.
      Diệu nằm mê man trên giường, chốc chốc lại nấc lên. Hậu và Phương cố dỗ dành cách nào cũng không ép được Diệu ăn dù chỉ là một muỗng cháo.
      - Phải làm điều gì đó đi chứ? Mình không thể ngồi nhìn thế này mãi được!
      Đĩnh chạm tay vào Sĩ nói nhỏ.
      Sĩ gật đầu:
      - Các bạn lo chăm sóc Diệu giúp mình, mình sẽ dốc lòng nghiên cứu tiếp cuốn sách này, hy vọng ở đâu đó có nói tới cách hóa giải.
      - Được rồi, Sĩ cố gắng nhé! Mọi người đặt hết hy vọng vào Sĩ đó!
      Hậu nói.
      Đĩnh can:
      - Đừng tạo áp lực cho Sĩ! Cứ để từ từ đi…
      Nhưng đã ba ngày trôi qua mà Sĩ vẫn chưa tìm ra được một manh mối nào khả dĩ cứu được người bạn không may của mình ra khỏi trò chơi ác nghiệt đó.
      Các công ty lần lượt gọi điện truy tìm mấy nhân viên trễ phép.
      - Bọn mình phải trở về Sài Gòn thôi! Nhưng Sĩ vẫn phải cố gắng nhé! Cuối tuần này bọn mình lại trở xuống!
      Đĩnh buồn bã vừa dọn đồ đạc của Thắng vào túi xách vừa nói.
      Diệu gắng gượng ngồi dậy nhưng vẫn khong nói câu nào.
      Trưa hôm đó Phương, Hậu, Diệu và Đĩnh từ giã Sĩ để quay về thành phố. Không còn sự ồn ào tươi trẻ như hôm mới tới mà lúc này ai nấy không dám nhìn thẳng vào mắt nhau, không khí tang tóc như bao trùm lấy tất cả.
      Về tới Sài Gòn, Diệu phải làm đơn xin nghỉ phép tiếp tục vì lý do sức khỏe.
      - Mình và Hậu sẽ thay phiên nhau tới với Diệu mỗi ngày!
      Phương nói.
      Diệu buồn buồn:
      - Không cần đâu! Các bạn cũng còn công việc của mình chứ! Mình sẽ về sống với đứa em gái ít hôm cho khuây khỏa. Các bạn đừng lo.
      - Nếu vậy, mình đưa Diệu đi nhé?
      Hậu đề nghị.
      Diệu lắc đầu:
      - Không! Mình đã nhắn cho đứa em, chiều nay nó sẽ tới chở mình về. Các bạn yên tâm đừng lo gì cho mình hết.
      Hậu và Phương nhìn nhau, không biết phải nói câu gì để an ủi Diệu.
      Ngay sáng hôm sau, mọi người phải quay trở lại với cuộc sống thương nhật của mình. Suốt ngày bận rộn với công việc còn đỡ, nhưng mỗi khi về tới nhà là Hậu lại có cảm giác bất an, hình như có điều gì đó đang đeo bám bên cạnh mà cô không thể nhận ra.
      Hậu nhớ hồi còn nhỏ thường nghe bà ngoại kể chuyện ma và kết luận một câu:
      - Ai tới thời vận suy kiệt mới gặp ma! Một là làm ăn lụn bại, hai là sức khỏe sa sút. Gặp ma là một điều rất xui xẻo.
      Hậu tự trách mình tò mò một cách điên khùng, tự nhiên lại tham gia vào mấy trò chơi ma quái, chết người ấy làm gì, để bây giờ những hình ảnh rùng rợn đó cứ lảng vảng hoài trong tâm tưởng khiến cô như kẻ mất hồn.
      Chiều nay sau giờ làm, Hậu gọi điện cho Diệu để hỏi thăm sức khỏe bạn ra sao nhưng cô không thể liên lạc được vì điện thoại của Diệu đã tắt.
      Lòng không yên, Hậu cứ đi vơ vẩn phía dưới khu nhà Diệu trọ mặc dù biết cô không còn ở đó. Mãi đến chiều tối Hậu mới về nhà mình.
      Không hiểu sao hôm nay cả dãy nhà trọ như đã đi đâu vắng hết. Mọi bữa, giờ này đám con nít thường chơi đùa chạy giỡn ầm ĩ dọc theo hành lang, đôi lúc khiến Hậu phát bực. Vậy mà lúc này không thấy bóng dáng một ai.
      - Bịch!
      Quả bóng từ đâu bay tới đập vào bức tường rồi dội ra rơi xuống ngay cạnh chân Hậu. Cô mỉm cười nghĩ thầm:
      - Nhắc tiền nhắc bạc mà được vậy thì tốt biết mấy!
      Cúi người xuống nhặt quả banh, Hậu xoay lại định trao trả cho một đứa bé nào đó nhưng thật kỳ lạ, sau lưng Hậu và cả dãy hành lang vắng hoe không có một bóng người.
      - Vậy trái banh này từ đâu tới? Ai đá nó vào đây?
      Hậu hốt hoảng lắp bắp.
      Cô vội vứt trái banh và cắm cúi bước đi tiếp tục.
      - Bịch!
      Trái banh lại văng vào tường rồi dội trở ra rớt đúng cạnh chân Hậu giống y như lúc nãy. Hậu toát mồ hôi hột quay phắt người lại vẫn không thấy bóng dáng một người nào. Có đi như chạy, chỉ mong mau chóng về tới phòng mình.
      Nhưng quả banh tai ác kia không chịu dừng lại, nó cứ một bình bay tưng tưng lên không rồi lại rơi trở xuống. Hậu quay lại nhìn thì nó đứng im lơ lửng giữa không trung, nhưng hễ Hậu vừa bước đi thì nó lại tưng tưng chạy theo, không chịu rời xa Hậu.
      Tới trước cửa phòng mình, Hậu run rẩy tra chìa khóa vào ổ nhưng lập cập thế nào mà loay hoay mãi mở vẫn không ra. Thật lâu sau cánh cửa mới chịu mở toang, Hậu chui ngay vào trong và vội vàng đóng thật kín cửa
      Ngã người nằm dài ra giường, Hậu vừa lau mồ hôi trán vừa lắng tai nghe những tiếng “binh… binh” vọng từ ngoài hành lang vào, chứng tỏ trái banh vẫn còn bị một người vô hình nào đó đùa giỡn.
      - Có khi nào người vô hình đó là Thắng không?
      Hậu bật nhổm dậy vì ý nghĩ đó chợt đến trong đầu.
      Vội vã chụp lấy điện thoại, Hậu run rẩy gọi:
      - A lô, Sĩ phải không?
      Đầu dây bên kia giọng Sĩ lo lắng:
      - Mình đây! Có việc gì vậy Hậu?
      - Sĩ hãy nói cho mình biết có cách nào nhìn thấy ma dễ nhất, nhanh nhất hay không? Mình cần xác định rõ cái người vô hình trước cửa nhà mình có phải là Thắng không?
      - Cái gì? Ai là người vô hình? Sao lại liên quan đến Thắng?
      Sĩ ngạc nhiên.
      Hậu thúc giục:
      - Mình sẽ giải thích sau. Bây giờ Sĩ hướng dẫn cho mình cách nào để nhìn thấy ma một cách nhanh nhất, đơn giản nhất. Lẹ lên đi!
      Nghe giọng hấp tấp của Hậu, Sĩ vô cùng lo lắng, anh nói nhanh:
      - Mình vừa biết được một cách rất đơn giản nhưng chưa thử nghiệm. Hậu có làm không?
      - Làm như thế nào? Nhanh lên!
      Hậu vội vã.
      - Hậu cứ tới trước chỗ nghi ngờ có ma, xoay lưng về phía đó rồi lầm rầm khấn vái tên họ tuổi tác của mình và ước muốn hiện tại là được nhìn thấy người khuất mặt kia. Sau đó Hậu khom người xuống, nhìn lại phía đó qua hai kẽ chân. Hậu làm thử đi, rồi có gì báo cho mình biết sau nhe?
      Sĩ hướng dẫn một cách rành mạch.
      - Được rồi! Cảm ơn Sĩ!
      Hậu gác máy, chạy vội tới bên cửa. Cô đứng lại nhắm mắt hít một hơi thật sâu rồi từ từ mở hé cánh cửa ló đầu nhìn ra ngoài. Bên ngoài hành lang, quả bóng vẫn một mình tung lên rớt xuống.
      Hậu mạnh dạn bước mấy bước đứng hẳn ngoài hành lang, cô xoay lưng về phía quả bóng và làm theo những lời Sĩ hướng dẫn. Khi cúi người nhìn qua hai kẽ chân, Hậu bủn rủn muốn sụm xuống vì ở đó, giữa hành lang rất gần nơi cô đứng là một cậu bé trạc mười lăm, mười sau tuổi đang một mình đá bóng. Cậu ta nhoản cười khi bắt gặp ánh mắt kinh ngạc của Hậu.
      Hậu đứng thẳng người lên và chạy biến vào phòng, khóa chặt cửa lại.
      Nhảy phốc lên giường kéo mền trùm lên tới đầu nhưng Hậu vẫn chưa hết run.
      Như vậy quả đúng là có một con ma đang ở trước cửa nhà mình. Nếu tối nay nó vào tận đây thì sao? Hậu thường nghe người ta kể, ma thì có thể đi xuyên cả tường, cửa thế này nhằm nhò gì đến nó!
      Trời ơi! Phải làm sao đây? Hậu ôm đầu rên rỉ.
      Cô chợt nhớ ra, vội cầm lấy điện thoại gọi tiếp:
      - A lô! Phương ơi, đang ở đâu vậy? Tới nhà mình ngay đi!
      Phương lo lắng:
      - Có chuyện gì vậy Hậu? mình đang đi công tác ở Vũng Tàu, chiều mai mới về…
      Hậu thất vọng nói nhỏ:
      - Không! Không sao… tại tưởng Phương còn ở Sài Gòn rủ tới cho đỡ buồn vậy mà! Thôi, bye nhé?
      Cầm điện thoại trong tay, Hậu tần ngần một lúc rồi lại gọi tiếp:
      - A lô, Đĩnh ơi! Bạn đang làm gì vậy?
      - Mình đang uống cà phê với mấy đứa bạn. Có gì không Hậu?
      Đĩnh hỏi lại.
      Hậu mừng rỡ reo lên:
      - Tới ngay nhà mình đi! Gấp lắm, tới liền nhe Đĩnh?
      - Có chuyện gì xảy ra với bạn à?
      Đĩnh hỏi.
      - Có ma! Có ma ngay trước nhà mình, Đĩnh tới ngay đi!
      Nhưng Đĩnh chưa kịp trả lời là Hậu đã tắt máy, như vậy Đĩnh đâu còn cách nào khác là phải đến đó ngay.
      - Xin lỗi các bạn, mình bận tí việc!
      Đĩnh đứng lên vội vã cáo từ rồi đi thẳng tới nhà trọ của Hậu.
      Vừa đặt chân vô khu nhà trọ vắng lặng, Đĩnh bỗng có cảm giác lạnh dọc theo sống lưng. Chắc có lẽ Đĩnh bị ám ảnh bởi câu nói “có ma ngay trước nhà mình” của Hậu khi nãy.
      Nhưng không biết hôm nay mọi người đi đâu mà cả khu nhà vắng vẻ lạ thường. Đĩnh vừa đi vừa ngó dáo dác xung quanh, mong có được một người bạn đồng hành cho bớt sợ. Nhưng tuyệt nhiên dãy hành lang không có lấy một bóng người.
      Vừa rẽ qua hành lang hướng về phòng Hậu, Đĩnh thoáng thấy dáng một cô gái đang đi phía trước, anh vội vã chạy đuổi theo, đến lúc vượt qua cô gái, vừa quay lại nhìn, Đĩnh sửng sốt kêu lên:
      - Cô… có phải cô là..?
      Đĩnh nói chưa hết câu nhưng cô gái đã mỉm cười gật đầu xác nhận.
      Đĩnh vui mừng quá đỗi, anh nói một hơi:
      - Hôm đó cô xuống xe giữa đường không nói với ai câu nào làm tôi cứ thắc mãi. À, mà cô đến thăm ai ở đây?
      Cô gái cười vẻ thẹn thùng, chỉ tay vào phòng của Hậu.
      Đĩnh lại reo lên:
      - Cô đi thăm Hậu? Cô và Hậu biết nhau? Trời đất, vậy mà hai người giấu kín ghê luôn nhe!
      Vừa nói đến đó cũng là lúc Đĩnh và cô gái tới trước cửa phòng của Hậu. Vừa đưa tay lên gõ cửa, Hậu chưa kịp ra mở, Đĩnh đã bị một quả bóng bay vụt qua ngang người, may nhờ anh nghiêng mình né kịp lúc.
      Đĩnh quay lại định mắng cho đứa bé nào vô ý một trận nhưng cả dãy hành lang không có một bóng người!
      Còn đang ngơ ngác, thì quả bóng một lần nữa lại bay vụt qua Đĩnh. Lần này Đĩnh thật sự hoảng sợ, còn cô gái thì cứ đứng che miệng cười một cách tinh nghịch.
      Cánh cửa phòng vừa mở, Đĩnh nắm tay cô gái lôi tuột vào trong. Vừa thở hổn hển Đĩnh vừa nói:
      - Ma… có phải Hậu muốn nói tới con ma đá bóng ngoài kia không?
      Hậu run rẩy gật đầu và hỏi lại:
      - Vậy ra… Đĩnh đã nhìn thấy rồi?
      - Có thấy gì đâu? Mình chỉ thấy quả bóng tự bay lên thôi…
      Đĩnh lo sợ nói.
      Hậu vẫn còn quấn mền quanh người, giương ánh mắt sợ hãi nhìn Đĩnh:
      - Trời ơi… tối nay làm sao mình dám ngủ đây?
      Đĩnh khẽ liếc nhìn về phía cô gái đang đứng tần ngần cạnh cửa nói với Hậu:
      - Thì đã có bạn đến rồi còn gì! Mình đoán Hậu sợ ma nên gọi bạn đến ngủ chung chứ gì?
      Hậu vứt liên tiếp mấy cái gối vào người Đĩnh:
      - Ông đừng có nói bậy nghen! Tui sợ quá nên gọi ông tới bàn chút chuyện vậy thôi, ai cho ông ngủ lại đây mà mơ?
      Đĩnh ngạc nhiên kêu lên:
      - Ủa, mình có nói Hậu kêu mình tới ngủ chung đâu? Đừng đổ oán cho mình nghe bạn!
      Ném thêm một chiếc gối, Hậu la lên:
      - Còn giả bộ nữa hả? Ai mới vừa nói đó?
      Đĩnh nhảy tránh sang một bên cười ngất:
      - Nhầm rồi bạn ơi! Mình nói là nói cô bạn này nè!
      Đĩnh chỉ tay vào góc nhà, nơi cô gái đang đứng im lặng mỉm cười. Lúc này đến lượt Hậu ngẩn người ra:
      - Ai? Đĩnh bảo ai?
      Đĩnh trố mắt ngạc nhiên:
      - Hậu không thấy ai đây sao?
      Hậu lùi vào rồi ngồi phịch xuống giường, lập cập nói:
      - Đĩnh… Đĩnh đừng nới với mình là có người khác vào đây với Đĩnh nhe?
      Đĩnh hoảng hồn, ngó lại thì không thấy cô gái đứng đó nữa, nhìn khắp phòng cũng thấy đâu.
      Đĩnh hốt hoảng:
      - Cô gái… chính cô gái hôm trước đi nhờ xe… cô ta mới vào đây một lúc với mình. Cô đứng tại đó, vừa mới đây thôi mà!
      Hậu ngơ ngác:
      - Đĩnh nói gì mình không hiểu? Cô gái nào đi nhờ xe?
      Đĩnh ngồi xuống cạnh bên Hậu, hồi hộp kể:
      - Thì cái hôm bọn mình đi xuống nhà Sĩ đó, qua khỏi chỗ tai nạn giao thông một chút thì có hai chị em cô gái lên xe đi cùng, Hậu quên rồi sao?
      Miệng Hậu há hốc, khó khăn lắm cô mới nói được:
      - Làm gì có… có chị em cô gái nào?
      Đĩnh chồm tới sát Hậu:
      - Hậu nhớ kỹ lại đi, họ lên xe gần chỗ tai nạn giao thông và xuống xe chỗ các bạn xuống mua trái cây đó, nhớ chưa?
      Hậu kinh hãi:
      - Không hề có chị em cô gái nào hết! hôm đó bọn mình còn thắc mắc không hiểu sao Đĩnh lại không xuống mua trái cây vì mọi thường Đĩnh rất ham vui, thấy ai làm gì cũng bắt chước mà.
      Bất chợt Hậu nhớ ra, cô run rẩy nói:
      - Đĩnh còn nhớ không, hôm đó anh tài xế có nói tai nạn giao thông làm chế hai người chở nhau trên xe gắn máy. Có khi nào…
      Hậu không dám nói tiếp.
      Mồ hôi tuôn ròng ròng hai bên thái dương, Đĩnh đưa tay lên quệt ngang rồi hấp tấp lục tung cái túi xách đeo bên mình lôi ra một cái máy quay phim.
      - Ti vi nhà Hậu còn xài được chứ?
      Đĩnh hỏi.
      - Được!
      Hậu vừa nói vừa đứng lên điều khiển ti vi.
      Đĩnh hồi hộp lắp các thiết bị. Mấy phát sau, trên màn hình hiện ra cảnh đám bạn đang đùa giỡn trên xe, cảnh Phương và Diệu làm đủ trò để cho Đĩnh quay. Và kế tiếp là cảnh tại hiện trường tai nạn.
      Đĩnh điều chỉnh cho hình ảnh hiện ra rõ hơn, trên màn hình, một người cảnh sát bước tới bên cạnh cái xác chết đã được đắp kín mặt bằng một chiếc chiếu của những người hảo tâm gần đó, ông ta khẽ lật chiếc chiếu qua một bên để lộ rõ khuông mặt của người xấu số.
      Đĩnh bật ngã người vì hoảng hốt. Cô gái trên màn hình đúng là cô gái đi nhờ xe hôm đó và cũng đúng là người con gái mới vừa đi cùng Đĩnh mấy phút trước đây!
      - Sao rồi Đĩnh?
      Hậu hồi hộp.
      Đĩnh nói không ra hơi:
      - Đó là… chính là cô gái ấy… mình đã gặp ma… từ lúc… từ lúc còn ngồi trên xe…Lúc nãy…. Cô ấy cũng có vào đây mà…
      Hậu nhảy nhổm:
      - Vậy cô gái ấy đâu rồi?
      Vừa hỏi Hậu vừa nhìn quanh nhưng không thấy một ai. Đĩnh cũng run bần bật kéo tay Hậu:
      - Mình đi thôi Hậu! Đi mau lên!
      Vừa nói Đĩnh vừa lôi Hậu chạy ra khỏi phòng, chiếc mền quấn quanh người Hậu rơi xuống ngay bậc cửa, cô cũng không còn tâm trí để cúi nhặt trở lại.
      Căn phòng vắng lặng. Trên màn ảnh, những cảnh quay lại tiếp tục hiên ra, đột ngột như có người điều chỉnh cho nó tua trở lại để cảnh chết chóc tang thương một lần nữa hiện rõ trên màn hình.
      Từ trong góc phòng, một làn sương khói mờ mờ dần dần kết tụ lại, lát sau đã ra hình dạng một người con gái, một hình dạng mong manh sương khói…
      Cô gái từ từ tiến tới đứng trước màn hình, đặt bàn tay lên hai xác chết nằm trên đó. Nước mắt lăn dài trên gương mặt xanh xao xinh đẹp của cô. Lát sau, cô rút máy quay ra khỏi ti vi, mở lấy thẻ nhớ và bẻ vụn nó ra rồi thả rơi xuống đất…
      Hình hài sương khói của cô gái lại tan ra rồi mất hẳn trong ánh đèn sáng trắng của căn phòng vắng vẻ cô liêu.
       
      ***
      - Không chạy nổi nữa rồi!
      Hậu giật tay ra khỏi tay Đĩnh đứng lại thở dốc.
      Đĩnh cũng dừng chân thở không ra hơi, nhưng vẫn cố gắng nói:
      - Mình phải trở xuống dưới đó gặp Sĩ mới được Hậu à!
      Hậu ngạc nhiên:
      - Gặp làm gì? Chẳng phải mình đã hẹn cuối tuần sẽ về đó xem chuyện của Thắng ra sao mà?
      - Ừ, mình về đó vừa là chuyện của Thắng vừa là chuyện của bản thân bọn mình nữa. Hậu có thể sống mãi trong cảnh này không? Tình trạng này kéo dài ít ngày nữa thôi là mình chết hoặc điên lên mất!
      Đĩnh đau khổ nói.
      - Vậy ý của Đĩnh là?...
      Hậu ngập ngừng.
      - Đúng! Ý của mình là về đó nhờ Sĩ làm điều gì đó để bọn mình có được cuộc sống giống như trước đây, không bị ám ảnh bởi những điều ma quái này nữa.
      - Biết có kết quả không?
      Hậu nghi ngờ hỏi lại.
      Đĩnh buồn rầu:
      - Mình vẫn phải hy vọng, dù tỉ lệ thành công không cao lắm, nhưng có cái để mình hy vọng thì vẫn hơn…
      - Đĩnh tính khi nào đi?
      Hậu hỏi.
      - Ngay sáng mai!
      Đĩnh trả lời dứt khoát.
      - Còn Phương và Diệu thì sao?
      Hậu lo lắng.
      - Mình có điện cho Phương nói ý định này nhưng Phương đi công tác, tuần này Phương không thể đi được. Riêng Diệu, mình muốn Diệu được yên ổn thêm chút nữa. Sáng mai hai đứa mình đi thôi, được không Hậu?
      Hậu khẽ gật đầu:
      - Ừ, có lẽ cũng phải đi thôi, chứ nếu không mình cũng chẳng làm gì được nữa…
       
      ***
      Sĩ trầm tư ngó hai bạn thật lâu rồi mới nói chậm chạp:
      - Mình vừa biết một cách có thể đem Thắng trở về…
      Hậu và Đĩnh đều mừng rõ chồm tới hỏi:
      - Cách gì? Nói mau đi Sĩ?
      - Nhưng cần người giúp đỡ mới được!
      Sĩ nói thêm.
      - Giúp đỡ là giúp làm sao? Sĩ nói rõ hơn đi…
      Hậu giục.
      Sĩ nhìn thẳng vào Hậu và Đĩnh nói:
      - Mình cần có hai người tự nguyện giúp đỡ, mà phải là hai người thân của Thắng. Hai người ấy sẽ tạm thời chết đi trong một thời gian ngắn. Chính trong khoảng thời gian ấy, linh hồn của hai người sẽ đi vào thế giới của các hồn ma và tìm gặp Thắng, đem bạn ấy trở về.
      - Tạm thời chết đi là sao?
      Đĩnh thắc mắc.
      - Có nghĩa là, hai người đó sẽ được mình làm phép cho xuất hồn ra, thân xác thì mặc đồ tang chế, giống y như người sắp bị đem đi tẩn liệm.
      Sĩ giải thích.
      - Rồi họ trở về bằng cách nào?
      Hậu run run hỏi.
      Sĩ nhìn Hậu nói nhỏ:
      - Suốt trong khoảng thời gian họ xuất hồn ra đi, mình sẽ luôn lắc chuông nhắc nhở họ, khi nào tiếng chuông vang lên theo nhịp hai hai, tức là sắp hết thời gian quy định, dù có tìm được Thắng hay chưa họ cũng phải chạy tới cái quầng ánh sáng trắng và chính quầng sáng đó sẽ đưa họ trở về, kể cả Thắng.
      - Còn nếu… nếu họ không tới kịp?
      Đĩnh run rẩy nhìn Sĩ.
      Sĩ lắc  đầu:
      - Thì tất cả sẽ phải ở mãi nơi đó!
      Hậu khẽ liếc nhìn Đĩnh. Đĩnh cúi mặt một lát rồi ngẩng lên nói:
      - Hậu có dám làm không?
      Nước mắt tràn ra, Hậu gật đầu:
      - Dám! Thắng là bạn thân của bọn mình, nếu còn có cách để cứu bạn ấy thì làm sao mình có thể từ chối được chứ?
      Đĩnh hít một hơi rồi thở phì, đứng lên nói:
      - Vậy Sĩ chuẩn bị đi, hai đứa mình sẽ đi bắt anh chàng mê chơi đó đem về xử tội!
      Sĩ rơm rớm nước mắt:
      - Tất cả những chuyện này cũng do mình mà ra hết. Nếu như mình đừng đem cuốn sách đó ra, đừng đưa các bạn vào những trò chơi nguy hiểm như vậy thì đâu có gì ân hận… Mình đã hứa với cậu bé sẽ học theo cuốn sách để giúp đời, vậy mà chưa gì hết mình lại làm hại chính những người bạn thân thương nhất của mình rồi!
      Đĩnh đến bên cạnh an ủi Sĩ:
      - Sĩ đừng tự trách mình như thế! Đây là lỗi của mọi người. Nếu bọn mình đừng quá tò mò, thì cũng chẳng có việc gì đâu. Bây giờ không nên ngồi đó mà dằn vặt bản thân nữa, chúng mình hãy thực hiện ngay phương cách đó đi, để đem Thắng trở về.
      Sĩ cầm tay Đĩnh và Hậu căn dặn:
      - Nhưng hai bạn phải hứa chắc với mình một điều, dù có tìm được Thắng hay không, dù sao đi nữa hai bạn cũng phải về cho kịp lúc, nhớ chưa? Khi tiếng chuông theo nhịp hai hai, các bạn phải chạy thật nhanh đến đứng vào khoảng giữa của quầng ánh sáng trắng. Nhớ chưa?
      Đĩnh và Hậu lặng lẽ gật đầu.
      Ngay chiều hôm đó Sĩ bày biện một mâm đồ cúng lên giữa bàn thờ nghi ngút khói hương, Đĩnh và Hậu đã được cho mặc bộ quần áo dùng để tẩn liệm người chết.
      Hai người nằm cạnh nhau trên chiếc giường kê trước bàn thờ, cả hai đều hồi hộp, như nghe được cả tiếng tim mình đập vang trong lồng ngực.
      Sĩ bắt đầu đốt bùa làm phép. Sau một hồi khấn vái lầm rầm, Sĩ hươ hươ lá bùa đang cháy lên giữa mặt Hậu và Đĩnh. Ban đầu hai người còn có cảm giác nóng nên chớp mắt lia lịa, nhưng chỉ vài giây sau, cả hai như lịm đi, như trôi vào một miền sương khói nào đó thật xa lạ, lạnh lẽo.
      Hậu sợ hãi nắm thật chặt tay Đĩnh nói khẽ:
      - Đĩnh ơi! Mình đã chết rồi phải không?
      Đĩnh cũng không ngăn được sợ hãi:
      - Ừ, nhưng chỉ là chết tạm thời thôi mà! Mình vẫn còn nghe được tiếng chuông nhắc nhở của Sĩ trên trần gian mà, đúng không?
      Hậu gật đầu:
      - Vậy mình phải đi tìm Thắng thật nhanh, kẻo trễ giờ thì nguy hại lắm!
      Thế là Đĩnh nắm chặt tay Hậu, cả hai chạy nhanh trên đường, vừa chạy vừa cất tiếng kêu vang:
      - Thắng ơi! Thắng ơi! Bạn ở đâu rồi?
      Hai người chạy qua không biết bao nhiêu con đường, bao nhiêu ngõ ngách mà bóng dáng Thắng vẫn còn mãi bặt tăm.
      Chán nản, Hậu ngồi thụp xuống đất bưng mặt khóc thút thít:
      - Thắng ơi, bạn ở đâu rồi, mau mau ra gặp bọn mình đi…
      Bất chợt Hậu nghe tiếng Đĩnh reo:
      - Kìa, ai như Thắng kìa, Hậu ơi!
      Mở bừng mắt nhìn theo tay Đĩnh chỉ, rõ ràng đi giữa dòng người đông đúc là cái dáng cao gầy khó lẫn lộn của Thắng. Hậu vùng lên chạy bổ tới gọi to:
      - Thắng! Thắng! Mình đây nè…
      Thắng giật mình quay lại, tổng thấy Hậu, Thắng mừng hét lên:
      - Hậu! Cuối cùng mình cũng tìm được mấy bạn rồi sao?
      Đĩnh chạy tới đập liên tiếp mấy phát lên vai Thắng đau điếng:
      - Ông có biết bọn tôi khổ sở vì ông đến chừng nào không? Diệu đã vì ông chết lên chết xuống… Ông thiệt tình…
      Thắng chụp lấy vai Đĩnh lắc mạnh, hỏi dần dập:
      - Đĩnh! Ông nói sao? Ông vừa mới nói Diệu vì tôi mà chết lên chết xuống, thật vậy sao?
      Hậu gật đầu, nước mắt nước mũi chảy dài trên mặt:
      - Bọn mình cũng không ai ngờ Diệu nó thương ông đến vậy! Ông mau mau về mà lo cho nó đi!
      Thắng nhảy cẫng lên:
      - Trời ơi! Tôi sung sướng quá! Về, mình về thôi các bạn!
      Đĩnh cũng giục:
      - Ừ, thời gian cũng sắp hết rồi đó, mau lên nào, đừng để xảy ra điều gì không hay nữa đó!
      Ba người nắm tay nhau chạy thật nhanh trở về con đường cũ. Tiếng chuông nhắc nhở của Sĩ vẫn vang lên đều đều.
      - Anh Thắng!
      Tiếng gọi thảng thốt của Diệu làm cả ba giật mình quay lại. Từ đằng xa Diệu đang chạy tới, dang hai tay ra ôm chầm lấy Thắng.
      - Diệu! Thật không ngờ… không ngờ…
      Diệu bật khóc nức nở:
      - Em cứ ngỡ không còn gặp anh được nữa!
      Hậu và Đĩnh ứa nước mắt đứng nhìn Thắng và Diệu đang ôm nhau mừng mừng tủi tủi.
      Bất chợt, tiếng chuông chuyển sang nhịp hai hai gấp rút.
      Đĩnh giục:
      - Sắp hết giờ rồi! Mau mau lên các bạn!
      Đĩnh nắm tay Hậu chạy đi, Thắng cũng nắm tay Diệu, nhưng Diệu ngơ ngác hỏi lại:
      - Cái gì? Mấy bạn nói gì mà hết giờ?
      Hậu hấp tấp giải thích:
      - Thì tiếng chuông báo giờ của Sĩ đó! Nếu mình tới trễ sẽ bị mắc kẹt ở đây luôn không về được nữa, mau mau lên đi các bạn!
      - Tiếng chuông? Sao mình không nghe gì hết vậy?
      Diệu vẫn ngơ ngác.
      Đĩnh khựng lại nhìn Diệu chằm chằm:
      - Vậy Diệu tới đây bằng cách nào? Không phải do Sĩ đưa tới sao?
      Diệu buồn bã lắc đầu.
      Hậu, Thắng và Đĩnh đều giật mình ngó Diệu đăm đăm.
      Diệu từ từ đưa cánh tay mình ra, ở chỗ cổ tay cô có một vết cứa sâu hoắm đến tận xương!
      - Trời ơi! Sao lại thế này hả Diệu?
      Thắng kêu lên thảng thốt.
      Diệu ứa nước mắt, nghẹn ngào nói:
      - Em…em cứ tưởng anh đã chết rồi… tưởng sẽ không bao giờ còn gặp lại anh trên trần thế… Vì vậy… em… em làm cách này để được đến với anh… em thật không ngờ…
      Tiếng chuông giục giã, Đĩnh kéo tay Thắng:
      - Mau lên đi, không còn kịp nữa bây giờ…
      Thắng rút tay lại cười đau đớn:
      - Mình cấm ơn các bạn rất nhiều, nhưng các bạn về đi, mình ở lại đây với Diệu. Diệu đã vì mình mà tới đây, mình không thể bỏ cô ấy bơ vơ nơi này được! Các bạn về đi!
      Diệu đứng khóc ròng.
      Đĩnh và Hậu còn lưỡng lự chưa biết tính sao thì tiếng chuông càng lúc càng trở nên gấp rút. Quầng ánh sáng đang ở trước mặt, nhưng cả Hậu và Đĩnh không ai nỡ bước vào. Bởi vì cả hai đều biết, một khi họ đặt chân vào đó thì mãi mãi, mãi mãi họ sẽ không còn cơ hội để gặp lại hai người bạn đang đứng trước mặt kia.
      Tiếng chuông giục giã, quầng ánh sáng càng lúc càng như nhạt đi, Thắng hoảng hốt thúc giục:
      - Hai bạn đi nhanh lên đi, nhanh lên đi kẻo không còn kịp nữa!
      Đĩnh và Hậu đã dợm đặt chân vào nhưng lại rút trở ra, bất thần Thắng nhào tới xô mạnh hai người ngã vào trong quầng sáng đang yếu ớt mờ dần.
      Đứng trong quầng sáng, Hậu úp mặt vào vai Đĩnh bật khóc nức nở, Đĩnh vừa quẹt nước mắt trên mặt mình vừa cố an ủi Hậu.
      Ngoài kia, Thắng và Diệu tay trong tay nhìn theo bóng hai người bạn đang khuất dần rồi từ từ mất hẳn…
       
      ***
      Đĩnh ngồi bật dậy ngơ ngác nhìn quanh, bên cạnh Hậu vẫn còn nằm im nhưng hai chân mày cô đã hơi động đậy rồi bắt đầu nhíu lại.
      Sĩ vẫn quỳ nhắm mắt bên bàn thờ, tay cầm quả chuông nhưng không rung nữa.
      - Bọn mình đã về rồi đây!
      Đĩnh đặt tay lên vai Sĩ buồn rầu nói.
      Sĩ quay lại, ngó dáo dác.
      Hậu uể oải ngồi lên, mắt mọng nước, nghẹn ngào nói:
      - Họ sẽ không trở về nữa rồi, mãi mãi sẽ không về…
      - Họ? Hậu muốn nói tới ai?
      Sĩ ngạc nhiên.
      - Thắng và Diệu. Cả hai người đó sẽ cùng nhau ở lại cái thế giới quỷ quái ấy, không trở về…
      Hậu nấc lên sau câu nói.
      - Diệu? Sao lại có Diệu ở đó?
      Sĩ hốt hoảng.
      - Diệu đã cắt cổ tay tự vẫn để đi tìm Thắng…
      Đĩnh thờ thẩn nói.
      Sĩ buông người rơi xuống đất một cách nặng nề, rồi ôm đầu khó rống lên:
      - Trời ơi…Tôi đã gây ra tai họa cho chính những người mà tôi thương yêu… Tại sao lại như thế này? Tại sao?
      Bất chợt có tiếng trẻ con cười khanh khách:
      - Bởi vì anh đã không giữ đúng lời hứa, anh đã đem những bài học đó ra sử dụng một cách bừa bãi, phung phí. Anh nên nhớ, bùa phép bao giờ cũng là một con dao hai lưỡi…
      Tiếng cười của đứa bé dần xa, Sĩ vẫn còn ngồi ôm đầu đau đớn.
      Hậu và Đĩnh lặng lẽ đứng lên ra về. Khi đi ngang qua Sĩ, cả hai đều dừng lại siết thật chặt vào vai bạn thầm thì:
      - Cố gắng nhé! Cố gắng quên hết những đau thương để làm lại từ đầu…
       
      ***
      Hậu gà gật ngủ, nhưng Đĩnh không tài nào nhắm mắt được mặc dù cơ thể anh mệt mỏi rã rời.
      Chiếc xe bon bon trên đường rồi đột nhiên dừng hẳn lại. Cửa xe mở ra và… Đĩnh như không tin ở mắt mình khi trông thấy chính cô gái hôm nào đang dắt tay đứa em trai ung dung bước lên và ngồi vào chiếc ghế trống gần đó.
      Đĩnh dụi mắt liên tục, nhưng cô gái vẫn ngồi đó không thay đổi, lúc sau cô còn quay lại khe khẽ mỉm cười với Đĩnh như vừa nhận được người quen…
      Đĩnh nắm chặt tay Hậu, than thầm:
      - Làm sao mình có thể thoát khỏi trò chơi ma quái này hở Hậu?
      Hậu vẫn ngủ say. Trong mơ, cô thấy mình đang dự tiệc cưới của Diệu và Thắng. Hai người thật vừa lứa xứng đôi…
      Hết
      Nguyễn Thị Mộng Thu
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:39:05 bởi nguyenthu >
      #33
        nguyenthu 10.08.2009 21:00:20 (permalink)
        BÓNG MA TRONG NGÔI NHÀ CỔ
         
        Anh Phú được nhận vào làm quản gia cho nhà ông Cả đúng ba tháng sau ngày cô Thùy Trang – con gái ông Cả – đột ngột qua đời.
        Khắp làng khắp tổng này tiếng tăm ông Cả Bưởi nổi như cồn, không ai là không nghe tới. Ông nổi tiếng vì ông là người giàu có nứt đố đổ vách và sự nổi tiếng đó còn ở một khía cạnh khác, đó là sự nghiêm khắc đến mức tàn độc của ông.
        Cái chức Hương Cả này là do cha mẹ ông bỏ tiền ra mua từ lúc ông còn là một thanh niên mới cưới vợ. Sau này giàu có hơn nhiều, ông thừa cơ hội để tiến lên những địa vị cao hơn nữa, nhưng ông Cả Bưởi là người thực tế, ông biết khi chức danh càng cao thì các khoản giao tế với bậc cao hơn càng phải nặng cân, càng có nhiều vấn đề cần phải chi phí. Mà ông Cả Bưởi là kẻ chỉ biết yêu duy nhất một thứ đó là tiền bạc! Ông thấy cái chức Hương Cả nhỏ mọn vậy cũng được rồi, đủ để dân trong làng nể trọng, không dám xem thường ông, mà khỏi phải quỵ lụy với ai khác. Cứ ung dung nhàn nhã ở nhà như thế có phải hơn không?
        Sự giàu có ngày hôm nay là do một tay ông gầy dựng, chứ của cải cha mẹ để lại cũng không nhiều lắm. Nhưng nhờ vào tài năng riêng của bản thân, dần dần ông Cả đã thu tóm toàn bộ ruộng đất trong vùng vào tay mình, và nghiễm nhiên ông trở thành người giàu có, uy quyền nhất xứ.
        Dưới tay ông Cả là đội ngũ tá điền, làm công đông đúc, kẻ nào dám làm phật lòng ông hoặc bê trễ việc nợ nần là ông trị thẳng tay không hề nương nhẹ dù bất cứ ai, bất cứ hoàn cảnh nào.
        Dân trong làng rất sợ ông, rất oán ông nhưng người ta vẫn phải cúi đầu cắn răng lao vào làm việc dưới quyền cai quản của ông.
        Có nhiều người rỉ tai nhau rằng, ông Cả Bưởi đã giết chết một cô tớ gái chỉ vì cô này dám chống cự khi ông sàm sỡ. Chuyện đó được ém nhẹm nhờ vào tiền bạc mà ông vung ra bịt miệng bịt mắt những kẻ có nhiệm vụ điều tra vụ án.
        Rồi việc ông cho người đánh một tá điền tới mức tàn phế phải ngồi lết suốt đời… Những câu chuyện về sự tàn độc của ông Cả Bưởi thì nhiều lắm, nhưng công bằng mà nói, cũng có chuyện là thật, có chuyện là giả, và rất nhiều chuyện thật được thổi phồng, thêm thắt.
        Ông Cả Bưởi chỉ có một người con duy nhất, mà lại là con gái. Điều đó làm ông rất tức giận. Ông đã cưới thêm nhiều bà vợ nữa và dùng tiền, dùng quyền thế để ép uổng nhiều người khác nhưng không hề có được thêm một mụn con nào nữa. Bởi thế, địa vị của vợ con ông vẫn không bị lung lay.
        Trái ngược với ông Cả Bưởi, vợ và con gái của ông lại rất hiền lành và giàu lòng nhân hậu. Những người tá điền, làm công trong nhà đều biết nên họ thường lén lút đến mượn bà Cả ít tiền, ít gạo những lúc gia đình họ bị ông Cả vơ vét đến hột lúa cuối cùng.
        Bà Cả tuy thương người, nhưng sự giúp đỡ của bà cũng chỉ có giới hạn vì tất cả quyền hành, tiền bạc trong nhà đều do ông Cả nắm giữ, mỗi ngày phân phát cho bà đủ tiền để chi tiêu thế thôi. Cho nên, mang tiếng làm vợ lớn ông Cả, nhưng thật ra bà Cả cũng không khác mấy với những cô vợ lẻ hoặc nàng hầu.
        Nhưng với Thùy Trang lại khác, ông Cả rất mực cưng chìu cô con gái, mặc dù thật lòng ông chỉ ước sao Thùy Trang là một cậu con trai để nối dõi tông đường.
        Thùy Trang muốn gì ông cũng đáp ứng ngay, được cái là cô vốn sống bình dị giống mẹ nên chưa bao giờ đòi hỏi điều gì quá đáng.
        Nhờ có Thùy Trang mà bà Cả cũng được ông Cả nể nang đôi chút, bởi vì mỗi lúc ông quát nạt bà, Thùy Trang lại rưng rưng khóc, ông thương con gái đành phải nén giận cho qua…
        Tất cả những cô gái trong làng đều chỉ học qua các lớp vỡ lòng để tạm gọi là biết mặt chữ, ngoại trừ cô Thùy Trang, chẳng những học hết trường làng, cô còn được tiếp tục lên tỉnh học trường Tây. Mộng ước của ông Cả không nhỏ chút nào, ông biết con gái mình có nhan sắc, ông nhất định để cái nhan sắc đó được vươn ra khỏi cái làng quê nghèo nàn quê mùa này, ông phải để cô con gái cưng có điều kiện để trở thành một “quý bà” sang trọng. Ông Cả nhất định con gái ông sẽ được lên xe xuống ngựa, được người người cúi đầu mỗi khi cô cất bước đi qua…
        Cô Thùy Trang lên tỉnh học được hơn hai năm, bất ngờ một hôm cả nhà ông Cả nhốn nháo, xe cộ chạy đi rần rần, qua đến ngày hôm sau lại chở về một chiếc quan tài đỏ chót và những tiếng khóc than nỉ non, đau đớn của bà Cả. Người làng tò mò, thì được một anh gia nhân cho biết, cô Thùy Trang không may qua đời vì tai nạn khi đang đi học. Chiếc quan tài sơn son thếp vàng ấy, bên trong là thi thể của cô!
        Cả làng ai cũng xót xa thương cho cô gái hiền lành, tài hoa bạc mệnh. Có nhiều người rỉ tai nhau rằng, do ông Cả ăn ở thất đức nên cô Thùy Trang phải nhận lãnh hậu quả không hay, vì xưa nay ông bà ta thường nói: “Con gái nhờ đức cha” mà!
        Đám tang cô Thùy Trang không kéo dài như người ta dự đoán, ông Cả chỉ làm gọn trong một ngày. Khi các nghi lễ cúng bái đã xong, ông không đưa quan tài đi thổ táng như những đám chết thông thường mà là đưa vào ngôi nhà cổ bên cạnh nhà ông.
        Số là từ thời xa xưa, ông bà của ông Cả ở trong ngôi nhà cổ ấy, về sau, tới đời cha mẹ ông Cả thì ngôi nhà cổ ấy đã xuống cấp lắm rồi, họ chê không ở nữa nhưng cũng không đập bỏ vì để làm kỷ niệm, làm nơi tưởng nhớ, thờ cúng các vong linh tiên tổ. Ngôi nhà ông Cả đang sống hiện nay là nhà mới được xây cất sau này, ngay bên cạnh ngôi nhà cổ ấy.
        Ông Cả nói rằng vì ông quá thương yêu con gái, ông không muốn thân xác con phải bị vùi chôn dưới lòng đất lạnh, nên ông quyết tâm lấy ngôi nhà cổ đó làm nhà mồ để quàn xác Thùy Trang. Những lời giải thích của ông Cả nghe ra rất hợp lý nên cũng không ai thắc mắc gì nữa. Nhưng từ hôm đó trở đi, dân làng càng ít dám bén mảng tới khu vực đó, vì ai cũng sợ khi nghĩ tới một chiếc quan tài nằm chơ vơ trong căn nhà trống!
        Từ sau đám tang, nhà ông Cả lặng lẽ hẳn đi, lần lượt từng người, từng người một đều phải xin thôi việc vì theo lời họ nói, cô Thùy Trang đã trở thành một bóng ma ngày đêm quanh quẩn trong nhà, họ tuy đói khổ, rất cần có việc làm nhưng lại không đủ can đảm khi bên cạnh mình bất kỳ lúc nào cũng có thể xuất hiện một bóng ma.
        Chị bếp quả quyết:
        - Từ ngày cô Hai chết đi, mọi người ở nhà ông Cả ai cũng thấy có điều bất thường xảy ra… Nửa đêm có tiếng khóc hoặc tiếng hát, có khi thấy cả bóng trắng lướt qua lướt lại ngoài vườn… Sợ quá… Những sự việc như vậy nhiều người nghe, nhiều người thấy chứ đâu phải một hoặc hai người mà bảo là quáng mắt, trông gà hóa cuốc! Thôi, tui thà về đi kiếm chỗ khác làm, không dám ở lại đó nữa…
        Có những người làm, dù đã gắn chặt đời mình với gia đình ông bà Cả từ lâu, họ thật sự không muốn có sự thay đổi, nhưng vì quá sợ hãi mà họ không thể nào tiếp tục sống ở đó được nữa.
        Ban đầu ông Cả giận dữ lắm, ông quát tháo ầm ĩ:
        - Đứa nào muốn đi thì cứ đi! Cút xéo hết đi! Có khối người van lạy để được vào đây làm, bộ chúng mầy tưởng chúng mầy cao giá lắm sao? Đứa nào làm chưa đủ ngày tháng mà muốn đi thì đi đi, tao không thí cho một xu…
        Thằng nhỏ giữ việc chăn nuôi heo gà tiếc tiền công của mình nên ráng gắng gượng ở lại cho tròn một tháng, tuy nhiên nó đã phải ngã ra bất tỉnh trong một đêm tình cờ trông thấy bóng một người con gái xoã tóc đi đi lại lại trong vườn.
        Tỉnh lại, nó cuống cuồng gom góp áo quần ra đi, không dám nói gì tới khoản tiền công của nó.
        Bà Cả thương tình, lén giấu chồng nhét cho nó được một ít tiền, cũng xấp xỉ với khoản tiền công mà ông Cả nhất định không chi trả vì lý do nó chưa làm đủ tháng!
        Trong làng cũng bắt đầu dậy lên những lời đồn đại về bóng ma thường xuất hiện trong khu vực nhà ông Cả Bưởi.
        Một người kể lại với giọng run rẩy:
        - Tui đi soi cá về ngang qua đó, bất ngờ thấy bóng một người con gái tóc xoã dài ngang lưng, mặc bộ đồ bà ba trắng, giống y cô Thùy Trang hồi còn sống! Bóng ma đó ngồi vắt vẻo trên cành mận ngay trước sân nhà, vừa nghe tôi ú ớ la lên là nó nhảy phốc xuống rồi chui tọt vào trong ngôi nhà cổ! Tui cam đoan là cô Thùy Trang hiện hồn về chứ không ai khác. Cổ còn trẻ quá mà, lại phải chết thảm, hồn phách đâu có dễ gì siêu thoát được…
        Lại có người kể:
        - Tui đi chợ sớm, ngang qua đó rõ ràng nghe có tiếng khóc văng vẳng, hoảng hồn chạy một hơi không kịp thở!
        - Tui thì lại nghe thấy tiếng hát! Mà lạ lắm nghe mấy bà! Có cả tiếng trống tiếng kèn, giống y như dàn nhạc đám ma đang biểu diễn vậy! Tui sợ run sợ rét…
        - Nói nào ngay, ban đầu tui cũng không tin, cứ tưởng người ta đơm đặt mua vui hoặc để hù dọa con nít chơi, hoặc do mấy người nhát gan hay tưởng tượng ra việc này việc nọ. Tui có tiếng là gan dạ nè, tới mùa chăn vịt thả đồng, tui ngủ suốt mấy tháng trời ngoài nghĩa địa mà có sợ gì đâu. Thế nhưng mới vừa rồi tui phải công nhận họ nói đúng! Bữa đó tui cắm một số cần câu ở dọc lối đi, nửa đêm dậy đi thăm câu. Đang lúi húi khom người gỡ cá ở gần đó thì nghe có tiếng hát. Mà mới nghe tui cũng hổng có sợ đâu nghen, vì cứ tưởng cô nàng nào thất tình đêm không ngủ được nên hát vớ hát vẩn.
        Tui tò mò, lắng tai nghe ngóng xem coi con nào thất tình để sáng ra chọ cho nó một trận, nhưng nghe không đoán được, vì tiếng hát lạ lắm, không quen. Tui thắc mắc quá trời, bèn bỏ mớ cần câu với giỏ cá lại đó, mon men đi sát vào hàng rào để định hướng xem tiếng hát kia xuất phát từ đâu?
        Ai có dè… Mấy người biết tui nhìn thấy gì không? Dwosi ánh trăng mờ mờ, tui thấy rõ ràng một người con gái đứng thẫn thờ. Dáng dấp thì giống cô Hai nhà ông ba Cả lắm, nhưng cái mặt… trời ơi… bây giờ nhắc lại tui vẫn còn cảm giác muốn rùng mình nè… Cái mặt kinh khiếp lắm, mọi người không tưởng tượng nổi đâu!
        Thế là tui bỏ hết cần câu, bỏ luôn giỏ cá chạy thục mạng về nhà. Mà khổ, nào có dám chạy một cách đàng hoàng đâu, bởi vì tui nghe người ta nói, khi gặp ma mà mình sợ quá la lên hoặc bỏ chạy mà để nó phát hiện được nó sẽ bắt hồn mình. Tui cũng là người gan dạ và bình tĩnh lắm mới có thể chạy một cách nhẹ nhàng để thoát thân đêm đó…
         
        ***
         
        Càng ngày người ta càng đồn đại dữ hơn. Nào là hồn ma le chiếc lưỡi dài xuống tận bụng, nào là gan ruột lòng thoòng đung đưa theo mỗi bước chân đi, nào là hai con mắt lộ ra như hai bóng đèn xe ô tô, có người lại nói gương mặt cô gái không còn thịt da gì cả, mà chỉ là một khung xương với những cái hốc mắt trông rất đáng sợ.
        Chỉ trong vòng chưa đầy ba tháng mà trong nhà ông Cả không còn lại người nào, ngoại trừ một con hầu tên Thảo, bị câm không nói được.
        Thảo đã ở với gia đình ông từ bé, vì mẹ nó trước kia cũng là người làm trong nhà ông, sinh nó ra được hơn ba tuổi thì bà qua đời, và đứa bé lớn lên trong nhà ông Cả từ đấy. Ngoài gia đình ông Cả ra nó không có nơi nào, người nào là thân thuộc! Nó rất sợ ông Cả, nhưng với bà Cả và cô Thùy Trang thì lại như chỗ thâm tình. Hai người thương yêu nó hết mực. Thùy Trang lớn hơn Thảo năm tuổi, nên từ nhỏ đã thích chơi đùa với nó. Về sau, lớn lên Thùy Trang xem Thảo như em gái của mình. Cũng chính vì lẽ đó nên Thảo rất ít khi nào bị ông Cả la mắng hay đánh phạt.
        Những năm Thùy Trang lên tỉnh học, Thảo cũng chính là người được đi theo săn sóc cho cô.
        Bây giờ trong nhà ông Cả chỉ còn lại vợ chồng ông và Thảo. Các bà vợ bé đều được ông cất nhà ra riêng ở ngoài khuôn viên này từ lâu. Ngôi nhà nhà khu vườn rộng lớn của ông càng trở nên đìu hiu vắng lạnh.
        Ngày ngày, Thảo làm mọi việc trong nhà, rồi sang dọn dẹp quét tước bên trong ngôi nhà cổ, việc đem cơm nước sang đó cúng mỗi ngày cũng do một tay Thảo lo liệu. Bà Cả cũng thường sang, mỗi lần sang đó bà ở lại rất lâu mới chịu quay về.
        Riêng ông Cả thì ít khi nào léo hánh tới. Hoạ hoằn lắm ông mới vào một chút, nhưng khi trở ra thì gương mặt đằng đằng sát khí như đang giận dữ một ai đó.
        Những việc đó đối với dân làng này cũng không có gì khác lạ, người ta bàn tán rằng ông Cả mỗi khi nhìn thấy quan tài con gái là lòng lại tức giận kẻ đã gây ra cái chết cho cô, mặc dù nghe nói kẻ đó đã bị luật pháp xử lý thích đáng rồi! Còn bà cả, dĩ nhiên, mỗi lần vào thăm con bà phải ngồi bên tâm tình kể lể chứ!
        Chỉ một thời gian sau thì mọi việc lắng đi, không ai còn bàn tán gì tới cái chết của cô Thùy Trang và chuyện gia đình ông bà Cả nữa.
        Công việc trong nhà thì nhiều mà chỉ có mỗi mình thảo nên không thể nào làm hết được. Ông Cả đã có lời tuyển chọn người làm với giá cả rất cao nhưng cũng không ai dám tới nhận lãnh.
        Nhưng đúng ba tháng sau ngày cô Thùy Trang mất, có một thanh niên, không biết là người từ xứ nào trôi dạt tới đây, đến xin vào giúp việc cho nhà ông Cả.
        Vợ chồng ông Cả mừng như bắt được vàng khi mướn được anh thanh niên trẻ trung, khỏe mạnh và siêng năng, cẩn thận.
        Anh ta tên là Phú, trạc ba mươi tuổi, mặt mày dáng vóc trông cũng sáng láng đẹp đẽ lắm, chỉ tội một điều là vô cùng ít nói!
        Ai không biết có thể nghĩ anh ta là người câm, nhưng không phải thế! Anh ta nói được, nghe được một cách rất bình thường, chỉ có điều là không thích mở miệng, thế thôi!
        Phú là dân miệt dưới Cà Mau, nhưng cũng không còn gia đình hay người thân thuộc, lâu nay anh sống một mình, quanh năm suốt tháng trôi nổi lênh đênh ngoài biển vì anh làm nghề chài lưới trên một chiếc tàu đánh bắt cá xa bờ.
        Mấy tháng trước đây, tàu cá đó bị bão dìm đắm, Phú may mắn trôi dạt được vào bờ biển vùng này, và anh ở lại đây kiếm việc làm sống lây lất qua ngày, không trở về Cà Mau nữa.
        Ban đầu Phú đi làm dủ thứ việc, tối lại kiếm một chỗ nào đó để ngủ vạ vật qua đêm. Sau nghe nhà ông Cả Bưởi tuyển người giúp việc, Phú đến xin làm, hy vọng sẽ có được chỗ làm và nơi ăn ngủ ổn định.
        Không phải anh Phú chưa từng nghe về những chuyện ma quái xảy ra trong ngôi nhà này, nhưng anh hoàn toàn không tin. Anh nghĩ, có thể những người đó họ sợ khi thấy ông Cả hành động khác người, không đem con gái đi chôn hay hỏa táng mà lại để chình ình cái quan tài trong nhà. Chính vì quá sợ nên họ tưởng tượng ra nhiều việc mà cứ ngỡ đó là thật. Chứ nếu thật sự có ma, sao cô Thảo vẫn ngày ngày mấy lượt ra vô ngôi nhà cổ ấy mà có bị gì đâu, cũng chẳng thấy cô tỏ vẻ gì là sợ hãi.
        Nghĩ vậy nên từ khi vào ở trong nhà ông Cả, Phú cũng chẳng mấy quan tâm đến ngôi nhà cổ kế bên.
        Suốt ngày Phú quần quật với đủ thứ vịêc trong nhà, ngoài vườn, giúp Thảo những việc nặng nhọc. Anh là người siêng năng tháo vát, nên ông bà Cả rất ưng lòng.
        Chỗ ngủ của anh Phú là một chiếc giường tre ọp ẹp dược kê trong căn chái bếp nhỏ ở sau, giáp với phía ngôi nhà cổ.
        Cả một ngày lao động mệt nhọc nên đêm nào vừa ngã lưng xuống giường là Phú ngủ như chết!
        Nhưng có một đêm Phú không ngủ được, nằm gác tay lên trán suy nghĩ chuyện đâu đâu, rồi lại cố dỗ nhưng giấc ngủ vẫn còn đỏng đảnh không chịu đến.
        Bực mình, Phú đứng lên đi ra sau vườn cho khuây khỏa.
        Đêm tuy không trăng nhưng bầu trời quang đãng, chi chít những ngôi sao lấp lánh. Phú lững thững đi dạo quanh vườn.
        Đây là khu đất trống quanh nhà, nếu được trồng hoa chắc sẽ làm cho ngôi nhà càng thêm đẹp và có sức sống, nhưng ông Cả lại không đồng ý, ông không thích trồng hoa, ông thích những gì thực tế hơn kìa! Nên khu đất này được dùng vào việc trồng rau, trồng cải, xa ra chút nữa ngoài kia là chuồng gà, chuồng heo…
        Chỉ có ở chỗ hiên ngôi nhà cổ là có trồng một cây sứ, chắc đã lâu năm nên thân cây to sụ, và càh lá thì hình như không hề được cắt xén, nó cứ mọc um tùm một cách thoải mái, tự do, tàn cây xòe ra, chạm cả lên nóc ngôi nhà cổ.
        Phú tuy là đàn ông nhưng lại có tật thích ngửi mùi hoa. Buổi tối, hương thơm của hoa sứ càng trở nên nồng đượm. Anh di lần về phía đó, trong bụng tính thầm sẽ nhặt lấy một ít hoa đem về để trên giường cho mùi thơm thoang thoảng dễ ngủ.
        Bất chợt Phú đứng khựng lại, tim đập liên hồi vì anh mới vừa nghe có tiếng nho nhỏ vẳng ra từ bên trong ngôi nhà cổ!
        Em làm một đám tang
        Chôn mình của ngày buồn diệu vợi
        Vòng khăn sô quấn vội
        Không điếu văn, không trống nhạc kệ kinh
         
        Em đào huyệt cho mình
        Bằng đôi tay yếu mềm vụng dại
        Quan tài kết bằng đau thương khổ ải
        Vải liệm may bằng nước mắt những ngày qua
         
        Em kết một vòng hoa
        Không phải hoa hồng hay cúc trắng
        Vòng hoa tang của em màu đỏ thắm
        Nhuộm bằng máu con tim
         
        Đám tang im lìm không tiếng khóc
        Chỉ mình em khó nhọc
        Nâng chiếc quan tài
        Đi qua đoạn đường dài
        Để đến nơi an táng...
         
        Trời đã chiều rồi hoàng hôn chạng vạng
        Đắp vội nấm mồ
        Nước mắt em rơi...
         
        Ngủ ngoan tôi ơi
        Mi buồn đã khép
        Từ nay hãy mơ toàn mộng đẹp
        Xa cuộc đời rồi, đau khổ cũng lìa xa...
        Xa cuộc đời rồi, tình yêu cũng trôi qua...
        Xa cuộc đời rồi, tất cả sẽ phôi pha...
        Lạ thật, chẳng lẽ có ma? Vì Phú cũng đã được biết, ngôi nhà đó là nơi để quan tài của cô con gái cưng nhà ông Cả.
        Về làm ở đây đã gần một tháng nhưng Phú chưa một lần đặt chân vào đó, vì anh không có nhiệm vụ gì bên trong đó cả. Có một lần thấy Thảo khệ nệ bưng mâm cơm sang đó cúng, Phú đã chủ động đến giúp nhưng Thảo nhất định không đồng ý, lại xua tay rối rít như muốn bảo Phú hãy tránh ra xa.
        Tại sao đêm nay Phú lại nghe có tiếng hát vẳng ra từ đó? Ma ư? Hay do mình nghe nhầm? Phú đứng im, cố lắng tai nghe ngóng lần nữa nhưng hoàn toàn không nghe được gì ngoài tiếng gió xạc xào và thỉnh thoảng lại có tiếng mèo hoang kêu lên như trẻ con gào khóc.
        - Hôm nay mình lạ thật!
        Phú bực mình lẩm bẩm rồi quay vào, không còn hứng thú gì để đi nhặt hoa sứ nữa.
        Chuyện đó rồi cũng trôi qua không để lại dấu ấn gì trong lòng Phú. Nhưng cách đó không lâu, bỗng một hôm Phú lại phát hiện ra một chuyện lạ. Đó là chuyện có liên quan tới mâm cơm cúng trong nhà mồ.
        Do vô tình, lúc Thảo dọn mâm cơm Phú có đi ngang qua và nhìn thấy ba cái chén, cái nào cũng có lưng cơm. Canh, cá, thịt đầy đủ cả. Nhưng rồi lúc Thảo bưng mâm từ bên trong nhà mồ ra, cũng do vô tình Phú nhìn thấy cả ba cái chén đều trống không, canh, cá thịt gì cũng vơi đi gần hết.
        Trời, chẳng lẽ hồn ma mà cũng biết ăn sao? Hay là Thảo? Phú thở phào khi nghĩ ra điều đó. Nhưng chỉ một lát sau, Thảo lại rất đàng hoàng ngồi ăn cùng mâm với Phú.
        Không thể được! Không thể một đứa nhỏ gầy còm như Thảo lại có thể mới ăn gần hết mâm cơm kia, giờ lại ăn thêm ba chén đầy một cách ngon lành như vậy được!
        Phú thắc mắc lắm nhưng không biết làm cách nào để hỏi Thảo, với lại anh vốn ít lời lẽ, nếu biết cách chắc anh cũng sẽ không mở lời để hỏi.
        Nhưng bắt đầu từ hôm ấy, Phú luôn quan tâm đến những việc xảy ra liên quan tới ngôi nhà cổ. Nhưng thời gian trôi qua, mãi mà Phú cũng chẳng phát hiện được gì thêm.
        Mấy lần Phú có việc ra đường là người ta lại vây lấy anh để hỏi thăm, nhưng lần nào Phú cũng chỉ cười cười, lắc đầu mà không nói thêm một lời nào cả!
        Trước mặt người ngoài Phú không nói gì, nhưng trong thâm tâm Phú cũng rất thắc mắc, bởi vì anh cũng đã mấy lần bắt gặp hiện tượng lạ gần giống với một vài điều người ta đồn đại bên ngoài.
        Vốn là người gan dạ, không vì những lời lẽ đó mà Phú lo sợ, trái lại anh còn quyết tâm tìm hiểu để khám phá ra sự thật.
        Đêm đêm, Phú thường đi vơ vẩn ra sân nhưng tuyệt nhiên anh không thấy có vấn đề gì khả nghi, riết rồi đâm nản, cũng chẳng thèm theo dõi nữa!
        Một đêm, Phú không ngủ, cũng không đi lang thang ngoài vườn mà ngồi im trên giường nhìn trăng qua kẽ vách.
        Bất ngờ Phú trông thấy Thảo rón rén đi về hướng ngôi nhà cổ, trên tay có ôm theo một xấp gì đó, như là mền gối hay quần áo.
        Thảo vừa đi vừa liếc mắt về phía chái bếp như muốn xem Phú có động tĩnh gì không.
        Trăng mười sáu sáng rờ rỡ, Phú không thể nhìn lầm được!
        Phú ngồi im, chờ cho Thảo mở cửa đi vào trong rồi anh mới nhẹ nhàng đi ra, vọt nhanh về phía đó và bám sát vào tường nhà để lắng nghe.
        Bên trong có tiếng nói chuyện thì thầm, là tiếng con gái! Vậy là loại trừ được khả năng Thảo hò hẹn với nhân tình. Vì Thảo bị câm không nói được, mà tiếng nói kia lại không phải tiếng của đàn ông.
        Dù có cố gắng đến mấy, Phú cũng không thể nào nghe rõ được người đó nói gì, lát sau lại nghe có tiếng dội nước ào ào, giống như có người đang tắm trong đó.
        Lâu lắm Thảo mới đi ra, trước khi ra, cô cũng mở hé cửa, quan sát thật kỹ rồi mới lẹ làng chui tọt ra ngoài, trên tay vẫn ôm một xấp đồ như lúc nãy.
        Phú đợi cho Thảo vào hẳn trong nhà rồi mới tiếp tục đi vòng quanh ngôi nhà cổ. Bên trong có chân bước rất nhẹ, rồi lại có tiếng hát khẽ nhưng âm điệu nghe thật thê lương…
        Vậy là bên trong ngôi nhà cổ này có người sống! Người hay ma? Người! Chắc chắn thế, bởi Thảo đã đến đây và tiếp xúc cùng người ấy kia mà! Vậy ai là người đang ẩn náu trong đó?
        Phú lưỡng lự, nửa muốn gõ cửa xem thử là ai, nửa lại ngại ngần. Cuối cùng Phú quyết định về chỗ của mình, vì anh nghĩ việc trong ngôi nhà cổ có người ở chắc chắn là ông bà Cả có biết, vì không thể nào Thảo dám qua mặt ông bà như thế. Mà một khi ông bà Cả không nói gì với Phú, có nghĩa là người ta muốn giấu, thì mình còn tìm hiểu làm gì?
        Thôi, việc mình mình làm, việc người người biết vậy!
        Dù đã dặn với lòng như vậy, nhưng Phú không sao gạt bỏ được những ý nghĩ cứ chạy dọc chạy ngang trong đầu mình, những câu hỏi cứ xoay quanh vấn đề người con gái nào đang sống trong ngôi nhà cổ đó?
        Trước đây Phú là người vô tư, hễ đặt lưng xuống nằm là ngủ như chết, nhưng từ lúc có mối bận tâm này Phú lại hay nghĩ ngợi vu vơ. Anh không hiểu người con gái kia có liên hệ gì với gia đình ông bà cả, hoàn cảnh thế nào mà phải sống ẩn thân, cam tâm làm một bóng ma như vậy?
        Bất chợt, Phú nhớ tới việc con gái ông Cả mới vừa chết và quan tài cô ấy còn đang nằm bên ngôi nhà đó. Phú bật người nhổm dậy vỗ đánh đét vào đùi mình:
        - Đúng rồi! Rất có thể! Có thể bóng ma đó chính là cô con gái của ông bà Cả, cho nên mỗi ngày Thoa đều đặn mang thức ăn sang phục vụ núp dưới danh nghĩa là cúng cho người đã khuất. Và đêm đêm cô lại mang áo quần sang để người con gái kia thay đổi. Vậy mà lâu nay mình nghĩ không ra! Nhưng… vì lý do gì mà ông bà Cả phải làm như vậy?
        Nghĩ tới đây thì Phú hoàn toàn bí lối, không biết đường nào mà suy diễn nữa.
        Ngày tháng lặng lẽ trôi qua, câu chuyện về bóng ma trong ngôi nhà cổ cũng dần dần chìm vào quên lãng, giờ đây đêm đêm người làng đã có thể đi lại một cách bình thường ở đoạn dường trước nhà ông Cả. Họ cũng không còn tò mò, xoi mói mỗi lần gặp Phú hoặc Thảo ngoài đường. Với dân làng, có lẽ bóng ma kia đã được đi đầu thai hóa kiếp rồi.
        Nhưng riêng với Phú lại khác, càng ngày Phú tin chắc trong ngôi nhà hoang vắng đó chắc chắn có người đang cư ngụ.
        Một hôm, ông bà Cả có việc phải đi xa mấy ngày. Trước khi đi, ông Cả dặn dò Phú rất kỹ lưỡng về việc quán xuyến nhà cửa ra sao. Riêng với Thảo, cả hai ông bà nói chuyện riêng với cô thật lâu trong phòng, vì thảo tuy bị câm nhưng lại nghe được chứ không điếc như những người câm khác. Thảo bị câm là do một tai nạn hồi mới lọt lòng mẹ, chứ không phải là dị tật bẩm sinh mà ông trời đặt để.
        Đêm hôm đó vì ông bà chủ vắng nhà nên Phú rất lo lắng, sợ lỡ có việc gì không hay xảy ra thì biết ăn nói làm sao với hai ông bà, thành thử anh không tài nào chợp mắt được.
        Đến nửa khuya, Phú bỗng nghe có tiếng chân bước nhè nhẹ bên hông nhà. Nhẹ nhàng ngồi dậy, vớ lấy cây đòn tay để cạnh bên để thủ thế, Phú lắng tai nghe ngóng tiếp. Có tiếng mở cửa, rồi tiếng nói chuyện nho nhỏ và tiếng ú ớ quen thuộc của Thảo. Vô cùng ngạc nhiên, Phú nhất định tối nay mình phải khám phá cho ra sự thật!
        Rón rén lách người ra khỏi cánh cửa bếp, Phú lần từng bước lên nhà trên.
        Có tiếng con gái vui vẻ:
        - Lâu lắm rồi chị mới được về lại nhà mình! Chị vui quá… em cho chị ngủ lại đây một đêm nhe? Đừng bắt chị trở về bên kia nữa mà… chị chán bên đó lắm…
        Chỗ Phú đứng không nhìn thấy được cô gái lạ, mà chỉ thấy Thảo đang đứng ngây người ra có vẻ suy tính lắm. Cuối cùng Thảo gật đầu đồng ý và huơ huơ hai bàn tay chừng như giao hẹn gì đó với người kia.
        Một bóng trắng có mái tóc xõa dài đến tận thắt lưng nhào đến ôm chầm lấy Thảo:
        - Cảm ơn em! Chị cảm ơn em nhiều lắm! Đêm nay, chị lại được ngủ trong căn phòng của mình… Nào, em đi với chị…
        Hai người dắt tay nhau đi như chạy qua mấy gian nhà để tới được phòng của cô gái. Phú không vội vàng bám theo, vì giờ đây anh đã biết chắc chắn cô gái kia là con gái của ông bà Cả rồi, nhưng lý do nào khiến cô ấy phải sống ẩn dật thì còn phải tìm hiểu tiếp, nhưng nhất định mọi việc sẽ phải sáng tỏ trong đêm nay.
        Qua những câu đối đáp vừa rồi, Phú hiểu được rằng đã lâu rồi cô gái không được phép bén mảng vào ngôi nhà này, có lẽ hôm nay do ông bà Cả đi vắng nên Thảo mới đánh bạo đưa cô chủ về lại nhà mình.
        Chắc chắn trong câu chuyện này phải có một điều bí mật gì đó ghê gớm lắm!
        Phú đi tới trước phòng cô Thùy Trang thì cửa phòng đã được đóng kín, nhưng bên trong vẳng ra tiếng reo vui, tiếng lục soạn đồ đạc và lát sau lại có tiếng hát nữa. Phú đoán rằng người con gái ấy được về lại với những kỷ niệm thân thương của mình nên mới vui đến vậy.
        Nhưng rồi sau đó lại là những tiếng nấc nghẹn ngào:
        - Chị buồn quá Thảo ơi, chị không biết mình phải sống cảnh này cho đến bao giờ nữa? Thà rằng lúc đó ba má để cho chị chết luôn đi còn hơn… Em… em cho chị mượn chiếc gương soi mặt đi, lâu rồi chị chưa được soi gương, không biết mấy vết sẹo này ra sao rồi nữa?
        Giọng cô gái rất khẩn khoản nhưng có lẽ Thảo từ chối nên Phú lại nghe:
        - Chị van em mà, làm ơn đi, cho chị mượn gương soi đi…
        Không nghe thấy gì, tiếp sau giọng cô gái có vẻ giận dỗi:
        - Thôi được rồi, em không đi lấy thì chị tự đi vậy!
        Cô gái vùng vằng mở bật cánh cửa phòng ra làm Phú phải vội vã nép người kẹt tủ, suýt chút nữa đã bị lộ rồi!
        Nhưng, cũng đúng lúc đó, Phú phải đưa tay bụm miệng để khỏi thốt lên tiếng kêu sợ hãi.
        Cô gái bước ra từ trong phòng kia có bộ mặt giống y như ác quỷ!
        Trong lúc Phú còn đang bàng hoàng vì phát hiện bất ngờ đó thì có tiếng cô gái rên rỉ:
        - Trời ơi… tại sao tất cả gương soi trong nhà đều mất hết vậy? Thảo ơi… chẳng lẽ… chẳng lẽ gương mặt chị đáng sợ đến nỗi ba má chị phải vứt bỏ tất cả gương đi sao? Nói cho chị biết đi em ơi… gương mặt chị sao rồi?
        Mặc cho cô chủ khóc lóc van xin, Thảo chỉ đứng lặng im, nước mắt chảy tràn trên má cô bé!
        Vậy là Phú hiểu rồi! Có thể do một tai nạn nào đó mà gương mặt cô gái bị hủy hoại nặng nề như thế, ông Cả vì sĩ diện không muốn mọi người cười chê bàn tán nên đã dựng lên cái chết của con, và từ hôm đó bắt con gái mình phải sống kiếp ma trong ngôi nhà hoang lạnh.
        Hiểu ra được điều đó, Phú cảm thấy lòng mình như chơi vơi, hụt hẫng… Anh lặng lẽ rút lui ra nhà sau, để mặc hai cô gái đau khổ ôm nhau mà khóc!
        Lang thang ra vườn, và chân Phú cứ bước đi không định hướng trong khi đầu anh trống rỗng không nghĩ được điều gì.
        Bất chợt Phú giật mình khi thấy mình đã đứng dưới gốc cây sứ cạnh ngôi nhà cổ. Mùi hương thơm ngát của hoa sứ trong đêm không còn làm cho Phú say mê nữa.
        Anh nhẹ nhàng đưa tay chạm vào cánh cửa, cửa chỉ khép hờ.
        Phú lách người vào trong. Anh muốn bật khóc khi thấy bên trong ngôi nhà hoàn toàn trống rỗng, chỉ có chiếc quan tài nằm chơ vơ giữa nhà, sát vào tường là một chiếc tủ thờ lớn quá khổ. Dịch xuống phía dưới một chút, có kê mấy miếng xi măng và để một vài xô chậu, chắc là nơi để cô gái làm vệ sinh, tắm rửa…
        Phú mở cửa tủ nhìn vào, bên trong trống rỗng, chỉ có một cái gối, cái mền được xếp gọn ghẽ để trong đó.
        Trời ơi, vậy là hơn nửa năm nay, cô gái kia đã phải sống như thế này đây sao? Tại sao ông Cả lại có thể tàn nhẫn với con ruột của mình như vậy?
        Không kìm chế được sự phẫn uất trong lòng, Phú hấp tấp quay trở về nhà ông Cả. Lần này anh không đi nhẹ nhàng rón rén nữa, mà cố tình nện mạnh gót chân để báo hịêu cho hai người con gái trên kia biết sự xuất hiện của mình.
        Đèn trong phòng cô gái vụt tắt, tất cả chìm vào lặng im, không một tiếng động nhỏ.
        Phú dừng chân trước cửa phòng, do dự một lúc rồi lên tiếng:
        - Xin hai cô thứ lỗi, tôi đã biết được mọi việc rồi, hai cô đừng trốn tránh tôi nữa! Tôi muốn được thưa chuyện cùng với cô Hai. Thảo có thể mở cửa giúp tôi được không?
        Bên trong vẫn lặng im không có tiếng trả lời. Nhưng chỉ một lát sau có tiếng bước chân ngập ngừng tiến ra cửa, rồi tiếng đánh diêm châm đèn và sau đó là cánh cửa mở xịch ra trước mắt Phú.
        Thảo đứng chận giữa cánh cửa, giương đôi mắt đầy vẻ sợ hãi nhìn Phú. Nép sau lưng Thảo là cô Thùy Trang, con gái ông bà cả.
        Thùy Trang có lẽ cũng cảm nhận được sự biến dạng của gương mặt mình, nên cô đã ý tứ kéo một nửa mái tóc che đi bên mặt, bên còn lại cô cố tình nghiêng về phía bên kia cho Phú không nhìn thấy. Cô không ngờ rằng, Phú đã nhìn rất rõ gương mặt cô rồi, nhưng sau giây phút giật mình thảng thốt, Phú không thấy sợ hãi gì cả, mà từ trong sâu thẳm lòng anh dâng lên một nỗi niềm thương cảm vô bờ bến…
        - Thưa cô… Hai, nếu tôi không lầm thì cô chính là cô Hai nhà ông bà Cả… Tôi rất xúc động và phẫn uất khi biết thời gian qua cô phải sống khốn khổ trong căn nhà đó… Nhưng tôi thật không hiểu tại sao ông bà Cả lại làm như thế? Cô có thể giải thích giúp tôi không?
        Phú vừa dứt lời, Thùy Trang bỗng lảo đạo rồi té quỵ xuống. Thảo, Phú hốt hoảng chạy vội đến đỡ cô ngồi vào ghế.
        Thảo xua tay ra hiệu cho Phú đừng nói nữa gì nữa, rồi cô đẩy Phú ra ngoài, chỉ tay xuống bếp, chắc múôn Phú hãy về chỗ của mình, đừng xen vào chuyện của nhà này nữa.
        Phú còn đang lưỡng lự, không biết có nên tiếp tục hay không thì Thùy Trang ngẩng lên, khoát tay với Thảo:
        - Không sao đâu em, hãy để anh Phú ở lại đây! Chị cũng đang rất cần một người để san sẻ…
        Rồi quay sang Phú, cô nói:
        - Anh Phú ngồi ghế đi, câu chuyện tôi kể hơi dài, anh cứ đứng hoài như vậy không được đâu!
        Phú lúng túng định từ chối, nhưng rồi cuối cùng anh cũng ngồi xuống một chiếc ghế cạnh đó, Thảo thì chạy tới đứng sau lưng Thùy Trang, như sẵn sàng để bảo vệ cho cô chủ của mình.
        - Tôi đã biết anh từ lúc anh mới vào làm việc tại đây. Cũng có nhiều lần tôi cố tình giả ma giả quỷ để nhát anh mong anh sớm rời bỏ nơi này, nhưng anh thật gan dạ, anh chẳng những không bỏ đi mà sau đó còn không thèm quan tâm đến. Nhưng cũng nhờ anh không quan tâm tới nữa nên tôi mới được an tâm…
        - Nhưng… nhưng tại sao… cô… Cô có thể sống ở đó…
        Phú ấp úng.
        Thùy Trang mỉm cười:
        - Anh nói đúng! Tôi đã phải trải qua những ngày tháng sống không bằng chết. Cả ngày phải chui rúc trong xó nhà, đêm đến mới được bước ra khỏi cửa để thở hít khí trời… Tôi phải giả ma giả quỷ để hù dọa người ta, làm cho người ta sợ hãi không dám bén mảng tới khu vực này, có như thế thì cái tự do của tôi mới được nới lỏng ra chút nữa…
        Thùy Trang kể với giọng dửng dưng, nhưng nước mắt lại rơi chan hòa trên mặt. Gương mặt chi chít những vết sẹo lồi lõm, hằn lên một nét khổ đau cùng cực.
        - Nhưng tại sao ông bà Cả lại không đưa cô đi chạy chữa mà giấu cô vào đây?
        Phú vẫn thắc mắc.
        Thùy Trang nhếch môi cố nở một nụ cười nhưng chỉ làm cho khuôn mặt méo mó hơn thôi.
        Cô nói:
        - Có nhiều khi tôi cũng trách ba má tôi, nhưng không phải trách như ý anh nói, mà tôi trách là sao ba má không để tôi chết đi, cứu sống tôi làm gì mà suốt kiếp tôi phải sống chui rúc như một thứ hoang hồn không nơi thừa nhận. Anh nhìn gương mặt tôi đây này…
        Thùy Trang nhích người ra sáng và đưa tay vén mớ tóc từ nãy giờ vẫn phủ lòa xòa hai bên má, rồi từ từ ngước lên nhìn thẳng vào Phú:
        - Anh thấy chưa? Gương mặt của tôi là thế! Làm sao ba má tôi dám cho tôi sống một cách bình thường? Người ta sẽ thêu dệt biết bao nhiêu chuyện về tôi, liệu ba má tôi có đủ sức đương đầu với dư luận không? Vả lại, ba tôi là người rất trọng danh dự, danhh giá gia đình, ông không đời nào cho phép vì tôi mà nó bị hủy hoại… Nhưng ông lại không để cho tôi chết đi, ông bắt tôi phải sống thế này đây….
        Không còn gắng gượng được nữa, Thùy Trang gục đầu xuống nấc lên từng cơn. Thảo bối rối chỉ biết vỗ nhè nhẹ lên bờ vai cô chủ.
        Phú nghe trong lòng mình một nỗi xót xa dâng lên đầy ứ. Một cô gái đang ở vào lứa tuổi đẹp nhất của đời người mà phải sống đời ma quỷ, anh thật không chịu nổi…
        Phú không biết nói ra những lời lẽ gì để an ủi người con gái kia, để có thể làm cho cô vơi đi sầu tủi… Không, có lẽ không gì có thể làm được điều đó đâu… Đối với người con gái, việc bị hủy hoại nhan sắc còn đau hơn cái chết gấp trăm ngàn lần…
        - Anh có sợ tôi không?
        Đột ngột Thùy Trang ngẩng lên hỏi Phú.
        Phú thật thà:
        - Lúc mới thoạt trông thấy cô tôi không tránh khỏi giật mình, nhưng rồi cảm giác đó chỉ thoáng qua thôi, cô đâu có gì đáng sợ? Đành rằng gương mặt cô không được bình thường, nhưng giờ đây tôi dã không nhìn thấy cô qua gương mặt nữa, mà là nhìn qua tâm hồn cô kia…
        - Cảm ơn anh đã không ghê tởm mà còn an ủi tôi, tôi cảm ơn anh nhiều lắm…! Anh… anh không hỏi tại sao tôi lại bị như thế này sao?
        Thùy Trang vẫn không rời ánh nhìn khỏi Phú.
        Phú đáp:
        - Tôi rất muốn biết nhưng lại không dám hỏi cô. Vì tôi sợ sẽ động vào một vết thương khác nơi cô. Tôi nghĩ, nếu nói ra được thì tự cô sẽ nói…
        Thùy Trang cúi mặt, nhìn chăm chăm vào hai bàn tay để yên lành trên gối. Khe khẽ kể:
        - Từ ngày đưa tôi lên học ở trường tỉnh, ba tôi luôn căn dặn tôi không được gởi gắm tình cảm của mình cho bất cứ người nào. Chồng tôi sau này phải theo đúng ý của ba tôi và do ba tôi lựa chọn. Tôi là đứa con gái biết vâng lời, nên ba má dặn sao tôi làm đúng y như vậy. Rồi một hôm, ba tôi dẫn đến giới thiệu với tôi một người đàn ông trung niên sang trọng, bảo rằng người ấy làm chức lớn, gia sản kếch sù, nếu tôi đồng ý làm vợ người đó thì cả đời tôi sung sướng. Mới đầu tôi phản đối dữ lắm, vì tôi và ông ta cách xa nhau về tuổi tác. Nhưng ba tôi khuyên nhủ đủ điều, lại bảo rằng chỉ muốn đời tôi hạnh phúc. Tôi nghĩ cũng phải, người lớn bao giờ cũng có cái nhìn đúng đắn hơn mình. Thế cho nên tôi bắt đầu xiêu lòng, nhưng cũng chưa dứt khoát chuyện tiến tới hôn nhân.
        Nhưng tôi không ngờ, cả ba má tôi cũng không ngờ, người đàn ông ấy đã có vợ con. Một buổi chiều, tôi vừa từ trường về, đến đoạn đường vắng bất ngờ có mấy người phụ nữ nhào ra chặn đường, túm tóc ghì tôi xuống rồi dùng dao lam rạch nát mặt tôi…
        Tôi đau đớn, hoảng loạn và hoàn toàn không hiểu mình phạm tội gì mà phải bị trừng phạt nặng nề như thế? Sau khi đánh đập tôi chán chê, người phụ nữ ấy mới cho tôi biết nguyên nhân, là tôi đã “cướp chồng của chị ta”…
        Trời ơi… anh không thể hiểu được tâm trạng của tôi lúc đó đâu. Đau đớn tột cùng, vừa đau thể xác, vừa đau cả linh hồn. Đau đớn và tủi nhục, tôi chỉ muốn chết đi cho xong… Khi người ta bỏ đi hết, tôi lê lết người vào ven đường và nằm gục xuống đó, tôi muốn mình được chết đi như thế…
        Nhưng có lẽ số phần tôi chưa dứt, nợ hồng trần tôi trả chưa xong, nên mới có người phát hiện ra tôi, cả người bê bết máu. Người ta hô hoán lên cũng vừa đúng lúc Thảo đang tìm tôi nháo nhào trên khắp các ngả đường…
        Ba má tôi lên, đưa tôi vào bệnh viện cấp cứu, và khi tôi vừa tỉnh lại thì ông bà vội vã đem tôi về đây và giấu biệt, dựng lên một cái đám tang để hợp thức hóa việc tôi sẽ vĩnh viễn không được chường mặt ra trước bàng dân thiên hạ nữa…
        Cho mãi tới lúc này, tôi cũng chưa một lần được nhìn thấy khuôn mặt mình, nhưng tôi biết nó rất là kinh khiếp. Đúng vậy không anh Phú? Tất cả gương và những gì có thể soi mặt được đều bị má tôi vứt bỏ hết, ngay cả việc soi mặt mình xuống nước tôi cũng không có điều kiện để làm… Anh thấy không anh Phú, tôi sống như thế này thì sống để làm gì? Anh có cách nào giải thoát giúp tôi không? Anh có cách nào làm cho tôi thật sự biến mất khỏi cuộc đời này không anh Phú?
        Thùy Trang chừng như bị kích động quá mức nên gần như hoảng loạn. Cô níu lấy tay Phú van xin.
        Phú vô cùng bối rối. Anh cố gắng nuốt những xót xa vào lòng để an ủi người con gái không may đang quằn quại trước mặt mình:
        - Cô Hai à… cô đừng nên nghĩ quẩn như thế! Mạng sống của con người ta là quý nhất, cô đừng nên hủy diệt nó đi. Tôi nghĩ ông trời không nỡ dồn ai vào bước đường cùng đâu cô ạ!
        - Anh nói ông trời không dồn ai vào đường cùng à? Thế tôi thì sao? Đây chưa phải là bước đường cùng của tôi sao? Mà tôi có tội gì mới được chứ? Ông trời không công bằng! Lâu nay tôi luôn tin tưởng vào trời phật, tôi luôn tin vào câu “ở hiền gặp lành”, “gieo nhân nào gặt quả nấy”. Nhưng bây giờ thì sao? Ha ha ha… Bây giờ thì sao đây? Có lúc tôi tự an ủi mình, rằng sở dĩ bây giờ tôi phải hứng lấy tội nghiệt này là do hồi kiếp trước tôi gieo điều độc ác… Nhưng… rồi tôi lại không cam tâm… Tất cả những gì tôi gieo kiếp trước sao trời phật không bắt tôi phải trả cho xong ở kiếp đó, để chi đến kiếp này, khi mà tôi không thể nhớ được kiếp trước mình đã làm những việc gì, tôi không cam tâm… tôi thật sự không cam tâm được anh Phú à…!
        Thùy Trang cắt ngang lời Phú và nói luôn một thôi một hồi, nhữngcâu nói xen lẫn những tiếng cười đau đớn lẫn những tiếng nấc nghẹn ngào…
        - Ông bà cả lắm tiền của như thế, sao không đưa cô đi chữa trị?
        Phú đột ngột hỏi.
        Thùy Trang mở to mắt nhìn anh:
        - Điều trị? Anh nghĩ người ta có thể trả lại cho tôi dung mạo trước đây sao? Điều đó không thể được đâu anh…
        Phú lắc đầu, quả quyết:
        - Không! Tất nhiên là họ không thể trả về cho cô gương mặt khi xưa, nhưng họ có thể làm cho gương mặt cô không còn… không còn…
        Phú ấp úng vì chưa biếp tìm từ nào cho hợp.
        Thùy Trang cay đắng:
        - Thì anh cứ nói thẳng ra là “kinh tởm” đi… Tôi không giận anh đâu, tôi quen rồi, tôi vẫn luôn nghĩ về mình như thế mà…
        - Không, không có gì kinh tởm hết! Tôi muốn nói là mặt cô bây giờ đầy những vết sẹo, người ta có thể xóa nó đi để cô có được một gương mặt dễ nhìn mà sống, không phải mặc cảm trốn lánh người đời…
        Phú thật thà nói.
        Thùy trang ngạc nhiên:
        - Anh nói thật? Người ta làm được điều đó sao?
        Phú gật đầu:
        - Thật! Chính mắt tôi đã chứng kiến. Hồi đó, lúc tôi còn ở Cà Mau, bà vợ của một chủ Ba Tàu giàu có chẳng qua bị phỏng lửa, mặt mày, tay chân còn nặng nề hơn cô nhiều. Ông ấy đã tận lực chạy chữa, cuối cùng bà vợ cũng có lại một khuôn mặt đàng hoàng, tất nhiên là không được tự nhiên như xưa, nhưng dẫu sao vẫn là một gương mặt không gây tò mò, đàm tiếu cho người đời…
        Giống như người sắp chết chìm giữa biển cả mênh mông, vô tình vớ được một chiếc phao, Thùy Trang mừng rỡ quay lại nắm chặt hai Thảo, reo lên:
        - Em có nghe anh Phú nói gì không Thảo? Có thật chị sẽ được lành lặn không? Có thật như thế không em?
        Thảo tuy không biết gì nhưng cũng cứ gật đầu lia lịa và nước mắt thì không ngừng tràn ra.
        Phú bảo:
        - Sáng mai ông bà chủ về, tôi sẽ thưa chuyện cùng ông bà chủ, hy vọng những điều tốt đẹp nhất sẽ đến với cô, cô Hai ạ!
        Thùy Trang cảm động:
        - Cảm ơn anh! Tôi rất cảm ơn anh… Nhưng… việc này anh nên để tôi nói, vì nếu ba tôi biết anh đã khám phá ra điều bí mật của gia đình, tôi sợ ông sẽ tức giận mà đối xử không phải với anh…
        Phú xua tay:
        - Cô đừng lo, bất quá ông chủ đuổi tôi ra khỏi nhà là cùng chứ gì! Mà tôi thì đã quen với cuộc sống lênh đênh rày đây mai đó rồi, không có gì đáng sợ nếu việc đó lại xảy đến một lần nữa trong đời. Nhưng, tôi phải nói vì hai lẽ:
        Thứ nhất: Tôi nói để ông bà chủ hiểu rằng không thể giấu nhẹm việc cô còn tồn tại được! Chỉ một thời gian nào đó thôi rồi tất cả cũng sẽ phơi bày ra hết thôi. Vì không thể giấu được nên ông bà phải mau mau tìm cách tìm cách để chữa trị cho cô, nếu không muốn người đời mỉa mai cười cợt…
        Thứ hai: Vì tôi là người đã tận mắt chứng kiến kết quả điều trị tuyệt vời mà lúc nãy tôi đã kể với cô, nên tiếng nói của tôi sẽ có tính thuyết phục hơn. Tôi sẽ nói rõ danh tánh, địa chỉ của người đó để nếu cần thì ông chủ có thể trực tiếp tìm hiểu…
        Cô nghĩ xem, như thế có nên chăng?
        Thùy Trang ngẩng người ra một lúc rồi gật đầu:
        - Anh nói cũng phải! Vậy anh làm ơn giúp tôi nhé! Tôi rất đội ơn anh…
        Phú lúng túng:
        - Cô Hai đừng nói vậy, tôi thấy mình chưa làm gì được cho cô hết… cô nói vậy tôi ngại lắm đó!
        Quay sang Thảo, Phú nói:
        - Cô Thảo đưa cô Hai đi nghỉ đi, khuya lắm rồi đó, đừng để cô Hai thức khuya quá không tốt đâu…
        Thùy Trang mỉm cười, chua chát nói:
        - Anh Phú quên rằng tôi đã ngủ suốt ngày rồi sao? Hiện nay tôi sống kiếp quỷ ma mà, đêm tối mới là ngày của tôi…
        - Cô hãy vững tin, rồi đây mọi việc sẽ trôi qua hết!
        Phú động viên và xin phép Thùy trang để trở về nơi chốn của mình.
        Thùy Trang ngồi nhìn theo Phú bằng ánh mắt dịu dàng, bịn rịn…
        Qua ngày hôm sau vợ chồng ông Cả về tới. Việc đầu tiên khi bước vào nhà của ông Cả là gọi Thảo lên hỏi han gì đó rất lâu. Tiếp đến, ông cho gọi Phú lên để hỏi về công việc ở nhà trong suốt mấy ngày vợ chồng ông đi vắng.
        - Chú mày làm việc tốt lắm!
        Ông Cả phán một câu sau khi nghe Phú trình bày mọi việc. Đáng lẽ lúc này là lúc Phú cúi chào rồi quay về với công việc của mình. Nhưng hôm nay Phú cứ nấn ná đứng lại dường như có điều gì muôn nói.
        - Còn gì nữa không?
        Ông Cả Bưởi ngạc nhiên hỏi.
        Phú lúng túng:
        - Dạ… dạ thưa ông, về phần công việc thì xong hết rồi ạ!
        - Vậy chớ còn gì nữa? Bộ mới vừa nghe khen một câu là tính vòi tiền ngay hay sao thế?
        Giọng ông Cả hách dịch.
        Phú đáp:
        - Dạ không ạ! Tôi chỉ muốn nói đến chuyện của… cô Hai!
        Ông Cả Bưởi đang ngồi trên ghế, nghe mấy lời Phú nói chợt giật thót người như bị phỏng nước sôi.
        Ông rít lên:
        - Mày nói gì? Mày biết những gì rồi?
        Lúc này Phú đã lấy lại được tự tin, ôn tồn đáp:
        - Dạ thưa ông, tôi đã biết toàn bộ sự thật. Nhưng xin ông yên tâm đi, tôi thề sẽ giữ kín những điều đó…
        - Đã thề giữ kín mà mầy còn đem ra để nói với tao làm gì? Tính làm tiền tao sao? Đừng có mơ đi nhé?
        Phú không hề tức giận trước những lời xách mé mỉa mai của ông Cả, anh bình tĩnh đáp:
        - Không, điều tôi muốn nói ra đây là vì cô Hai, tôi muốn những điều tốt đẹp nhất sẽ đến với cô!
        - Ha ha ha… mầy đã nhìn thấy nó chưa mà còn nói đến hai từ “tốt đẹp”? Nó bây giờ giống như một con ngạ quỷ…
        Ông Cả cay cú nói.
        - Chính vì vậy tôi mới muốn kể cho ông nghe một chuyện!
        - Mầy muốn giở trò gì cứ giở phứt mẹ nó ra đi, nói vòng vo hoài tao mệt quá, chán quá!
        Ông Cả đâm cáu, cắt lời Phú.
        Phú vẫn không nao lòng:
        - Hồi tôi còn ở Cà Mau, chính mắt tôi đã trông thấy một người bị phỏng nước sôi, hậu quả còn tàn khốc hơn cô Hai nhiều, nhưng vì gia đfinh họ có tiền, nên không lâu sau người đó đã được chạy chữa và khỏi hẳn, đã có lại một gương mặt bình thường…
        - Sao? Mầy nói sao? Có thể chữa trị à?
        Ông Cả bắt đầu chú ý, ông chồm cả thân người qua mặt bàn để hỏi Phú.
        Phú gâït đầu quả quyết:
        - Dạ thưa, đúng như vậy! Ông cứ đến xóm… làng… ở Cà Mau hỏi thăm nhà chú Chệt Dùng là biết, người đàn bị phỏng đó chính là vợ chú chệt Dùng!
        - Ông ơi… vậy là con gái mình có hy vọng được cứu rồi ông ơi…
        Không biết bà Cả đã lên đứng phía sau từ lúc nào, khi nghe tới đó bà mừng quá khóc rống lên.
        Ông Cả run rẩy:
        - Đi, tui với bà đi liền xuống đó thăm hỏi đường đi nước bước với lại coi tận mặt xem sao, nếu thật vậy tui có tiếc gì tiền bạc mà không lo cho con gái, tui cũng chỉ có mỗi mình nó thôi mà…
        Nhìn ông Cả mếu máo, Phú cũng thấy động lòng. Đúng là “hổ dữ cũng không nỡ ăn thịt con mình”, ông Cả độc ác, tàn nhẫn với ai thì với, nhưng với con mình ông vẫn rất mực yêu thương…
        Hai vợ chồng già vừa đi xa về tới nhà, chưa kịp nghỉ ngơi cho lại sức đã vội vàng quay ra đi tiếp.
        Hai ngày sau ông bà Cả trở về, mặt mày hớn hở lắm.
        Ông Cả cho gọi Phú lên bàn chuyện:
        - Tao với bà mày đã đến tận nơi và nhìn thấy tận mắt rồi! Quả thật khó ai ngờ được y học lại có khả năng đó! Nhưng… có một điều hơi khó, ông bà muốn bàn bạc lại cùng mầy…
        Tự nhiên thấy ông Cả có vẻ nhún nhường, Phú ngạc nhiên:
        - Dạ thưa ông, có chuyện gì ông cứ việc dạy bảo ạ!
        Ông Cả vặn vẹo hai bàn tay như có điều khổ sở khó phân bày:
        - Mầy cũng biết rồi đó, dang vọng của tao ở cái xứ này không phải là nhỏ, nếu để chuyện xấu trong nhà lan ra đến bên ngoài thì tao với bà mầy thật không còn mặt mũi gì mà sống trên đời này nữa… Vả lại vợ chồng chú Chệt Dùng đó cũng có chỉ biểu, nói rằng nếu có điều kiện thì đưa cô Hai mầy sang… Tây để điều trị, kết quả sẽ mỹ mãn hơn. Tao với bà mầy nghe cũng có lý, nhưng ngặt nỗi… ngặt nỗi nhà neo đơn quá, đâu có ai đi theo lo lắng săn sóc cho cô Hai được. Chỉ có mỗi con Thảo, mà nó thì khù khờ, không thể để hai đứa nó đi tới xứ lạ quê người được…
        - Ý ông là…?
        Phú thăm dò.
        - Ừ! Ý của ông bà là nếu mầy đồng ý đi theo bảo vệ cô Hai, ông bà sẽ tăng tiền lương cho mầy một cách xứng đáng!
        Ông Cả lật đật nói.
        Phú thở phào nhẹ nhõm:
        - Tưởng gì! Nếu là chuyện đó thì ông bà yên tâm đi. Ở đây tôi cũng chẳng có ai là thân thuộc thì dù ở đây hay đi tới xứ xa thì cũng giống như nhau thôi. Đi theo bảo vệ cô Hai là sự vinh dự cho tôi đó chứ… Ông bà không cần phải tăng thêm lương, vì nhân dịp này tôi mới được trời Tây ra sao…
        Thấy Phú nhận lời một cách dễ dàng, nhanh chóng, ông Cả mừng quýnh, vỗ vai Phú đồm độp:
        - Trời! Cảm ơn… ông bà cảm ơn mầy nhiều lắm…
        Bà Cả từ nhà dưới đi lên, sụp xuống chân Phú vái lấy vái để:
        - Tôi cảm ơn cậu, cậu đã cứu được mẹ con tôi, nếu không có cậu chỉ vẽ, chắc chắn con Hai nhà tôi phải sống chui rúc trọn cả kiếp này, giờ đây cậu lại sẵn sàng theo chân nó đến trận trời Tây xa xôi để giúp nó trong thời gian điều trị. Tôi đội ơn cậu biết chừng nào…
        Phú quýnh quáng đỡ bà Cả lên, ấp úng nói:
        - Kìa… bà.. xin bà đừng nói vậy! Đó là nhịêm vụ của tôi mà!...
        Tối hôm đó, được sự cho phép của ông bà Cả, Phú và Thùy Trang đã ngồi tâm sự cùng nhau đến tận khi gà gáy sáng.
        Phú cảm thấy trong lòng mình dường như có một điều gì là lạ vừa len đến… Anh rất vui khi nghĩ tới một ngày, cô gái khổ đau đang ngồi trwosc mặt anh đây sẽ quay trở lại nhà mình với một gương mặt lành lặn và không phải sống đời ma quỷ nữa…
        Một tháng sau, lúc nửa đêm có một chuyến xe được che kín bịt bùng chạy từ nhà ông bà Cả lên tỉnh. Tỏng xe chỉ có ba người: Phú, Thảo và Thùy Trang.
        Bà Cả đứng lặng trước thềm nhà nhìn theo chiếc xe ngựa lắc lư, tiếng nện gót lộc cộc của chú ngựa như gieo vào lòng bà một niềm hy vọng lớn lao không bờ bến…
         
        ***
         
        Một chiếc xe hơi màu đen bóng lộn dừng lại trước cổng nhà ông bà Cả, dân trong xóm đứng lấp ló bên hàng rào chỉ trỏ bình phẩm với nhau. Còn đám trẻ con trong làng thì rồng rắn chạy theo sau chiếc xe, reo hò vang dậy. Đến khi xe dừng, lũ trẻ lại xúm đen xúm đỏ xung quanh khiến bác tài phải la đứa này, hét đứa khác vì sợ chúng làm bể kính chiếc xe hơi sang trọng.
        Một cặp nam nữ từ trên xe bước xuống, dáng vẻ thanh tao, sang cả.
        Tiếp sau là một cô gái nhỏ có nét mặt quen quen.
        Vừa chui ra khỏi xe, cô gái liếc nhình xung quanh và mỉm cười thật tươi với người phụ nữa đứng bên bờ rào nhà bên cạnh đang tò mò theo dõi:
        - Chị Hiền, nhớ em không? Em là Thảo nè!
        Người phụ nữ nghệnh mặt ra một lúc rồi như chợt nhớ ra, reo to lên mừng rỡ:
        - Em là Thảo? Trời ơi, đúng rồi! Đúng là con Thảo câm ngày nào đây rồi! Nhưng… nhưng sao…
        Thảo hí hửng:
        - Chị thắc mắc sao hôm nay em nói được chứ gì? Mấy năm qua em được ông bà chủ đưa qua bên Tây để trị bệnh… Thôi, chuyện còn dài lắm, để chiều hay mai rảnh rỗi chị em mình tâm sự. Giờ em phải vào nhà đây!
        Nói xong, Thảo le te lôi mấy cái va-li to tướng vào nhà.
        Chưa đầy một giờ sau, cả làng đều biết tin cô Thảo câm giúp việc nhà ông bà Cả năm nào bây giờ không những đã trở thành một thiếu nữ phổng phao xinh đẹp, mà còn nói được rõ ràng! Nhưng người ta vẫn chưa thể đoán ra cặp nam nữ đi cùng xe với Thảo là ai, có quan hệ gì với gia đình ông bà Cả?
        Nghe tiếng xe hơi ngừng trước nhà mình, bà Cả đưa tay che mắt nheo nheo nhìn ra, thầm nghĩ:
        - Ai đến thăm ông nhà mình mà trông sang trọng đến thế kia? Mấy năm nay ổng đau yếu nằm một chỗ có thấy ai thăm nom bao giờ đâu?
        Nghĩ vừa dứt câu, bà Cả chợt như muốn nghẹt tim vì nghe một tiếng reo sung sướng:
        - Má ơi! Con về rồi nè má!...
        Người con gái sang trọng chạy ào tới ôm chầm lấy bà Cả.
        Bà Cả run rẩy:
        - Con… có thật là con Hai của má đã về với má rồi không?
        Cô gái khóc nấc lên, dụi đầu vào ngực bà:
        - Má ơi, con nè… con là con của má nè! Má không nhận ra con sao?
        Bà Cả ôm chặt con gái vào lòng, nghẹn ngào:
        - Má nhận ra con chứ, vừa chạm vào tay con là má đã nhận ra hơi ấm của tình thâm mẫu tử rồi… Má hỏi vậy để con xác nhận là má không phải đang mơ… Con ơi… con ngước mặt lên cho má nhìn nào….
        Thùy Trang – Vâng, cô gái ấy chính là Thùy Trang – ngước mặt lên nhìn mẹ. Bà Cả đưa hai bàn tay run lẩy bẩy lên vuốt ve từng mi li mét trên mặt con gái.
        Đó là một gương mặt đẹp nhưng không giống với con gái bà khi xưa, tuy nhiên bà Cả vẫn nhận thấy đâu đó vẫn phảng phất những đường nét của đứa con yêu mà bà đã thuộc nằm lòng…
        Gương mặt đẹp của cô gái đẫm nước mắt, nước mắt của mình và của cả người mẹ già khốn khổ.
        - Ba con đâu rồi má?
        Thùy Trang vừa lau mắt vừa hỏi.
        Bà Cả thở dài:
        - Ba con nằm một chỗ hơn một năm nay rồi… ổng nằm trong kia, con vào thăm ba đi con…
        Thùy Trang thảng thốt:
        - Sao? Má nói sao? Má nói ba con nằm một chỗ? Sao má không cho con biết?
        Bà Cả chậm rãi nói:
        - Ba con không cho má nói! Ba biểu để cho các con yên tâm điều trị và học hành. Khi ngã bệnh nằm xuống rồi ổng mới có thời gian chiêm nghiệm lại những việc làm của mình, ổng hối hận lắm, ray rứt lắm. Chính vì vậy ổng mới đánh dây thép qua cho phép con Thảo chữa bệnh và thằng Phú học nghề bên đó… Bây giờ hai đứa nó thế nào rồi con?
        Từ nãy giờ bà Cả vì quá mừng con gái nên không nhìn thấy Thảo và Phú đang đứng một bên nhìn cảnh mẫu tử tương phùng mà không cầm được nước mắt. Hai người cũng không dám cất tiếng chào hỏi vì sợ làm mất đi cái không khí thân tình của hai mẹ con.
        Giờ nghe bà Cả hỏi đến, Phú và Thảo lật đật bước lên cúi đầu chào.
        - Bà vẫn khỏe ạ? Con nhớ bà lắm…
        Thảo nắm lấy cánh tay bà Cả, cất giọng trong trẻo.
        Bà Cả ôm chầm Thảo vào lòng, nức nở:
        - Con đã nói được rồi! Con đã nói được rồi! Bà vui mừng quá con ơi! Con mau mau vào nhà nói cho ông nghe đi! Lâu nay ông vẫn thường tự nhủ, nếu như con có thể cất lên tiếng nói là trời phật đã hỉ xả tha tội cho ông… con mau vào nói cho ông nghe đi con, để ông được nhẹ lòng…
        Thùy Trang dắt tay Thảo vội vã bứoc nhanh vào trong.
        Còn lại Phú và bà Cả. Bà nắm lấy tay Phú rưng rưng:
        - Nhà bác có được ngày hôm nay là ở cháu…  bác cám ơn cháu nhiều lắm Phú à…
        - Bà… bác…
        Phú lúng túng vì sự thay đổi bất ngờ trong cách xưng hô của bà cả. Anh chưa kịp nói gì thì bà hỏi tiếp:
        - Việc học hành của con sao rồi?
        Phú đáp:
        - Dạ, cũng nhờ sự thương yêu giúp đỡ của hai…. Bác mà cháu mới có được ngày hôm nay. Ở bên đó, cháu đã rất cố gắng học ngày học đêm, giờ thì cháu đã có được bằng cấp trong tay rồi, cháu đã có thể mở cửa hàng sửa chữa cho riêng mình rồi… Cháu đội ơn hai bác nhiều lắm…
        Bà Cả kéo Phú ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh, khẽ liếc mắt nhìn vào trong và nói nhỏ:
        - Mấy năm nay hai bác ở nhà đã bàn tính với nhau rất cặn kẽ. Cháu chính là người đem con Hai nhà bác từ cõi chết trở về, giải thoát cho nó ra khỏi kiếp sống ẩn thân giả ma giả quỷ. Nếu cháu không chê nó, thì hai bác xin giao nó cho cháu…
        Phú xúc động:
        - Bác ơi… bác nói quá lời rồi… cháu có làm được gì đâu? Chính cháu mới là người chịu ơn gia đình bác… Cô Hai đối với cháu luôn là người cao quý, sao cháu lại dám chê cô…
        - Vậy là tốt rồi! Vậy là tốt rồi! Ông ơi… mọi việc tốt đẹp rồi ông ơi…
        Bà Cả ngắt lời Phú bằng một câu như nói với chính mình.
        Bà đứng lên di vào trong, Phú đi theo sau.
        Thùy Trang và Thảo đang quỳ bên cạnh giường bệnh ông Cả. Thấy bà Cả và Phú đi vào, ông ngước mắt nhìn lên, lấp lánh niềm vui.
        - Dạ thưa… ông!
        Phú vẫn không dám dùng tiếng “bác” để xưng hô với ông Cả.
        Ông cả chỉ tay xuống giường, ra hiệu cho Phú ngồi xuống cạnh bên mình, Phú ngập ngừng chưa dám, nhưng trước ánh mắt ông nhìn, anh không thể nào cưỡng lại được.
        Ghé người ngồi xuống cạnh bên ông Cả, Phú xúc động khi thấy ông bây giờ đã mất hết cái vẻ oai phong lẫm liệt, mất hết cái vẻ hách dịch năm xưa. Bây giờ, ông nằm đây trông thật hiền lành và yếu đuối.
        - Trong người ông lúc này ra sao ạ?
        Phú hỏi.
        Ông Cả xua tay:
        - Đừng gọi bằng ông… xa cách lắm!... bác… bác không sao… Các con về là bác yên lòng rồi, bác vui lắm rồi, nay mai bác sẽ khỏe lại thôi… Bây giờ từng đứa kể cho bác nghe về mình đi…
        Phú không dằn được xúc cảm. Anh nắm chặt lấy bàn tay gầy guộc của ông cả, nghẹn ngào:
        - Bác ơi…
        Ông Cả mỉm cười, khóe mắt tràn ra hai giọt lệ. Bàn tay ông giữ lấy tay Phú, bàn tay còn lại ông run rẩy lần tìm tay Thùy Trang và đặt tay cô nằm lên tay Phú, nói trong hơi thở mệt nhọc:
        - Đây là ước nguyện cuối đời của ba…
        Tất cả những người có mặt trong nhà đều khóc, nhưng những giọt lệ của họ trong giây phút này là những giọt hạnh phúc!
         
        ***
         
        Nhà ông Cả Bưởi tổ chức đám cưới!
        Tin đó vang ra thật xa khiến ai nấy không khỏi ngỡ ngàng thắc mắc. Ông tổ chức tiệc cưới cho ai? Đứa con gái duy nhất trong nhà đã qua đời từ lâu rồi kia mà?
        Người ta xôn xao bàn tán nhưng không ai dám bạo gan đến tận nơi tìm hiểu. Những người thích buôn chuyện thì ngồi đứng không yên, cứ lảng vảng trước nhà để chờ Thảo ra sẽ đón lại hỏi cho rõ nguồn cơn.
        Và họ lại phải một phen tá hỏa khi biết đó chính là đám cưới của cô Hai nhà ông bà Cả với anh quản gia tên Phú năm nào!
        Bây giờ thì vợ chồng ông Cả không còn sợ gì những lời đàm tiếu xung quanh, họ cho phép Thảo kể rõ ngọn ngành, nhưng Thảo cũng đủ khôn ngoan mà kể lại rằng:
        - Do một tai nạn, gương mặt cô Hai bị biến dạng. Vì mặc cảm cô đã phải trốn lánh mọi người. Sau đó được đưa đi Tây điều trị…
        Dân làng ai nấy mới vỡ lẽ cái bóng ma năm nào chính là cô gái nhân từ mà họ hằng yêu quý!
        Đám cưới cô Thùy Trang không bao lâu thì ông Cả qua đời. Nghe nói ông ra đi cũng nhẹ nhàng êm ái lắm.
        Khi mới vừa lâm bệnh không lâu, ông Cả đã chia chác của cải cho các bà vợ lẻ để họ tự tìm kế sinh nhai, và toàn bộ quyền hành đã trao về cho bà vợ lớn.
        Tội lỗi ông gây ra không ít, nhưng quãng thời gian cuối đời ông Cả đã kịp ăn năn sám hối. Có lẽ vì vậy mà ông không phải chịu đựng hình phạt quá nặng nề của đấng hóa công.
        Ông ra đi nhẹ nhàng về thể xác cũng như linh hồn, vì mọi việc trong nhà đã ổn thỏa, ước mơ cuối đời của ông cũng đã được thực hiện.
        Vợ chồng Phú và Thùy Trang rất mực thương yêu nhau và hiếu thảo với bà Cả. Hai vợ chồng coi Thảo như em ruột của mình.
        Những người dân trong làng thỉnh thoảng có dịp nhắc tới luật nhân quả thường lấy tấm gương của gia đình ông Cả ra để giáo dục con em mình. Rằng mẹ con cô Thùy Trang ăn ở hiền lành, nên dù cô Trang có phải nhận lấy hậu quả thảm khốc do những việc làm không tốt của cha mình, thì cũng được hóa giải. Và người lỡ gây nên tội lỗi mà thành tâm sám hối thì tội lỗi kia cũng sẽ được vơi đi…
        Hết
        Nguyễn Thị Mộng Thu
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:40:58 bởi nguyenthu >
        #34
          nguyenthu 10.08.2009 21:05:07 (permalink)
          UẤT KHÍ CHƯA TAN
           
          Tuy không phải vào dịp nghỉ cuối tuần hay lễ tết gì đặc biệt, nhưng nhà hàng Trùng Dương vẫn đông nghịt khách khứa ra vào, bãi đỗ xe phía trước nhà hàng chật kín những chiếc xe hơi đời mới sang trọng và bóng lộn.
          Đội ngũ tiếp tân và bồi bàn bận tối mặt tối mũi, ngay cả ông chủ Lập Phát ngồi sau quầy tính tiền cũng bận rộn tíu tít với những hồi chuông điện thoại gọi đến và xấp đơn đặt hàng dày cộm để cạnh bên.
          Dù không có được một chút hở tay, nhưng ông Lập Phát mặt mày hớn hở ra vẻ vừa ý lắm.
          Không vui sao được khi mà ông đã bỏ toàn bộ vốn liếng dành dụm hơn nửa đời người cùng với số nợ kếch sù vay của ngân hàng vào việc đầu tư cho nhà hàng này. Ngày ngày nhìn những đoàn thực khách tấp nập vào ra ông Lập Phát như mở cờ trong bụng. Thời gian chưa lâu mà gần như ông đã sắp thu lại được vốn liếng rồi.
          Nhớ lại khoảng thời gian trước, khi nhà hàng này còn chưa được thành hình, mà nó chỉ mới là ý tưởng trong đầu ông thôi thì toàn bộ người thân, bạn bè không có lấy một người ủng hộ, ai cũng cho rằng ông liều lĩnh, không biết suy tính trước sao, dám đem toàn bộ tài sản của mình đặt vào một ván cờ không nắm chắc phần thắng.
          Nhưng vốn là người dám nghĩ dám làm, vả lại ông Lập Phát cũng hiểu được trong kinh doanh, đôi khi chỉ với một tỉ lệ thành công rất nhỏ nhưng nó giúp người ta phát đạt không ngờ! Không có gan thì không thể làm giàu một cách nhanh chóng được, cứ lựa chọn con đường bằng phẳng trơn tru thì thì khó mà đạt được thành tựu lớn. Đôi khi con người ta cũng phải biết phiêu lưu mạo hiểm một chút mới được.
          Ông Lập Phát quyết định mua lại khu biệt thự rộng lớn này với hai lý do, một là vì giá cả của nó quá hời, với cùng số tiền ấy không thể tìm mua ở đâu được một mảnh đất đắt địa và rộng lớn như thế. Hai là vì nó rất hợp với ý định mở nhà hàng của ông.
          Khu biệt thự này nằm ngay trên một con đường lớn của thành phố biển này, nhưng lại không quá ồn ào bụi bặm, con đường mát rượi, thơ mộng và vắng vẻ, rất phù hợp với sự lựa chọn của khách du lịch nước ngoài cũng như của người bản xứ.
          Cái lý do mà một khu như vậy lại đượckêu bán với một giá quá hời là vì người ta đồn đại ở đó có ma.
          Hai năm trước, đôi  vợ chồng trẻ chủ của khu biệt thự này đã chết thảm trong đó, và hồn ma của họ không ngừng quấy nhiễu khiến những người sống trong khu vực gần đấy cũng phải hoảng sợ.
          Vì thế cho nên không một người nào dám bỏ tiền ra để ra mua nó để ở hoặc kinh doanh, vì những câu chuyện ma quái được kể lại, truyền mịêng nhau rất rùng rợn, thêm thắt nhiều chi tiết kinh hoàng trong đó đáng sợ nhất là lời nguyền độc địa sẽ không có bất kỳ người nào được hạnh phúc, sung sướng khi sống trong ngôi nhà đó.
          Với đầu óc thương mại sẵn có, ông Lập Phát nhanh chóng nhìn ra mối lợi. Ông mua được khu biệt thự này với giá rẻ mạt, sau đó đập bỏ đi và xây lên nhà hàng Trùng Dương như ngày hôm nay.
          Thấy sự thành công của ông Lập Phát, nhiều người suýt xoa tiếc rẻ, ở đời ai mà học được chữ ngờ, nếu biết thì có lẽ ai cũng làm giàu rồi.
          Tên nhà hàng Trùng Dương cũng là do ông Lập Phát nặn óc mấy ngày liền mới nghĩ ra. Bạn ông Lập Phát có người đoán xa đoán gần ông muốn mở quán nhậu, bán thịt dê, có người thì nổ dùm cho ông, nói ông là chân truyền đệ tử đời thứ ba mươi lăm của Vương Trùng Dương bên Tàu.
          Sự thật rất là đơn giản, ông Lập Phát chỉ muốn lấy tên Trùng Dương để trị tà. Ông là người tin có quỷ ma, có oan hồn, ma ở cõi âm, nếu muốn cho ma đừng quấy phá, lấy Dương trị Âm, Dương mà Trùng một cặp nữa thì chắc ăn như bắp. Bởi vậy nên nhà hàng ông Lập Phát càng ngày càng đông khách .
          Thực khách vẫn ra vào tấp nập, bàn này vừa xong thì lớp khách khác liền được xếp vào chỗ. Ông Lập Phát nghe xong một cuộc điện thoại đặt bàn vào ngày mai với số lượng lớn, mặt ông giãn nở ra một cách khoan khoái. Đặt điện thoại xuống bàn, vừa ngước mặt lên ông Lập Phát bắt gặp một gương mặt quen thuộc đang tươi cười nhìn ông:
          - Chào bác! Lúc này bác làm ăn thế nào?
          Người thanh niên đứng trước quầy cất tiếng. Ông Lập Phát trễ kính xuống, nhíu mày nhìn cho kỹ rồi reo lên:
          - Trời đất ơi, thằng Thiện! Cháu ra tới hồi nào sao không gọi cho bác biết trước? Lâu dữ lắm rồi mới gặp lại cháu đó nghen!
          Ông Lập Phát khựng lại vì nhận thấy bên cạnh Thiện còn có một cô gái đang đứng khép nép.
          Ông Lập Phát chưa kịp hỏi thì Thiện dã nhanh nhảu giới thiệu:
          - Dạ thưa bác, đây là Loan, vợ sắp cưới của cháu! Còn đây là bác Lập Phát mà lúc nãy anh đã nói với em. Chào bác đi em!
          - Dạ, cháu chào bác!
          Cô gái ngoan ngoãn cúi đầu thật thấp để chào ông Lập Phát.
          Nhìn đôi trai gái, ông Lập Phát thật hài lòng bởi vì trông hai đứa nó thật xứng đôi.
          Thiện tuy không phải cháu ruột của ông nhưng ông rất thương yêu và quý trọng. Ông Lập Phát với cha mẹ Thiện là chỗ anh em bạn chí cốt với nhau.
          Thuở ông Lập Phát còn hàn vi, cha mẹ Thiện chính là người đã cưu mang và giúp đỡ ông từng bước một trong con đường kinh doanh lắm bon chen này.
          Bây giờ, dù gia thế ông Lập Phát đã vượt xa hẳn gia đình Thịên, nhưng ông vẫn giữ một lòng cung kính, thương yêu.
          Trong số ba người con của bạn, ông Lập Phát đặc biệt quan tâm đến Thiện nhiều nhất, vì từ nhỏ hai bác cháu đã luôn quấn quýt bên nhau. Có đôi khi ông cảm thấy Thiện giống như một đứa con trai ruột thịt của mình chứ không phải chỉ là con của người bạn thân.
          Từ hồi ông Lập Phát chuyển nhà về thành phố biển này sinh sống, ông và gia đình Thiện tuy vẫn giữ mối liên hệ chặt chẽ, nhưng ít có dịp gặp nhau vì ai nấy đều bận bù đầu với công việc của mình.
          Thiện cũng đã tốt nghiệp Đại học, ra trường về phụ trách một chi nhánh của cha mình ở một tỉnh xa nên lại càng ít có dịp gặp mặt ông Lập Phát.
          Hôm nay Thiện đưa vợ sắp cưới ra tận đây giới thiệu với ông làm ông vô cùng cảm động.
          Tiếp tân đã kịp mang ghế và nước uống tới tiếp đãi khách của ông chủ, nhưng ông Lập Phát vẫn chưa hài lòng. Ông bảo:
          - Hai cháu lại bàn này ngồi, bác cháu ta vừa nói chuyện vừa gọi món ăn luôn thể!
          Thiện cười từ chối:
          - Dạ thôi khỏi , hai đứa tụi cháu chưa thấy đói. Chúng cháu ngồi đây nói chuyện với bác được rồi ạ!
          Ông Lập Phát gật gù:
          - Ừ, thôi vậy cũng được! Mà hai cháu hôm nay ra tận đây thăm bác, có mời đám cưới luôn chưa?
          - Dạ, chưa đâu ạ! Cháu đưa Loan ra đây ra mắt bác, đồng thời muốn nhờ bác một việc… Mà đáng lẽ ba má cháu phải ra đây thưa chuyện với bác mới là phải phép, nhưng sẵn cháu đưa vợ sắp cưới đi chào bác, cháu xin phép thưa luôn…
          Thiện cười.
          Ông Lập Phát nhanh nhẹn nói:
          - Có chuyện gì cháu cứ việc trình bày, bác sẵn sàng giúp cháu… Đừng có khách sáo như vậy mà làm bác buồn lòng. Mình là người trong nhà với nhau mà, bác coi cháu như con trai của bác vậy, cháu không phải ngại. Nào, chuyện đó là chuyện gì?
          Thiện ngó Loan rồi quay sang nói với ông Lập Phát:
          - Dạ… tụi cháu dự định sẽ tổ chức tiệc cưới ở thành phố biển này, nhưng các nhà hàng tiệc cưới ở đây đều đã có người đặt trước vào hôm đó hết rồi. Cháu… cháu muốn nhờ bác giúp đỡ… Nhà hàng của bác có thể tổ chức tiệc cưới không ạ?
          Ông Lập Phát thở phào nhẹ nhõm, tươi cười:
          - Cháu làm bác hồi hộp, cứ tưởng là chuyện gì to tát lắm! Nhà hàng của bác từ hồi khai trương đến nay chưa từng nhận đặt tiệc cưới, nhưng ý định này đã có trong đầu bác rồi. Nay nhân tiện đám cưới của hai cháu, bác sẽ khai trương luôn thể! Biết đâu hai cháu mở hàng lấy hên cho bác, bác còn cảm ơn không hết nữa là…
          Thiện nhìn Loan nháy mắt:
          - Em thấy chưa, anh đã bảo nhất định bác sẽ lo được cho mình mà em cứ không tin. Ở đây rộng rãi đẹp mắt, tha hồ cho khách khứa hai họ đến chung vui, tha hồ cho cô dâu chụp ảnh nhé?
          Loan thẹn, khẽ chạm vào tay Thiện tỏ ý không cho Thiện nói nữa.
          Ông Lập Phát cười thật tươi:
          - Bác nhất định sẽ không làm cho ba mẹ các cháu và các cháu phải thất vọng đâu. À, mà còn bao lâu nữa, cháu cho bác biết để bác  còn chuẩn bị?
          - Dạ, là ngày mười lăm tháng mười một tới đây ạ! Có gấp lắm không bác? Định ngày rồi nhưng thịêp cưới cháu vẫn chưa cho in, vì phải còn chờ chọn được địa điểm…
          Thiện có vẻ lo.
          Ông Lập Phát nhẩm tính một chút rồi nói:
          - Không sao, được! Còn một tháng nữa là được rồi, bác kịp thời gian chuẩn bị mọi thứ…
          Thiện cảm động nắm chặt hai bàn tay ông Lập Phát lắc lắc:
          - Cảm ơn bác, chúng cháu cảm ơn bác thật nhiều!
          Bàn xong việc tiệc tùng cưới hỏi, ba bác cháu lại xoay quanh hỏi han nhau về gia đình và công việc làm ăn, chuyện trò thật say mê, vui vẻ.
          Liếc nhìn đồng hồ thấy đã hơn chín giờ tối, ông Lập Phát hối bồi bàn dọn thức ăn đãi khách.
          Chỉ trong chớp nhoáng, trên bàn đã bày la liệt các món ăn ngon lành nhất, nổi tiếng nhất của nhà hàng Trùng Dương, khiến Thiện và Loan rất cảm động.
          Aên uống xong, mặc dù ông Lập Phát hết lời mời mọc Thiện và Loan về nhà ông nghỉ ngơi, nhưng Thiện khéo léo từ chối bởi anh biết Loan còn ngại lắm. Hai người sẽ về một khách sạn ở gần đó để được thoải mái, tự do hơn.
          Đưa Thiện và Loan ra tận cổng, chờ cho hai người cháu lên tắc xi đàng hoàng rồi ông Lập Phát mới chịu quay vào.
          Lúc này nhà hàng đã dần thưa khách nhưng nhân viên trong nhà hàng vẫn còn bận bịu luôn tay.
          Ông Lập Phát không trở vào chỗ ngồi của mình bên trong quầy thu tiền mà đi thẳng xuống bếp. Tôi nay ông muốn bàn với hai người bếp trưởng của ông về vấn đề nhà hàng sẽ mở thêm dịch vụ tổ chức tiệc cưới. Và trước mắt là phải lập thực đơn cho đám cưới của Thiện vào đúng một tháng tới đây.
          Nhà hàng Trùng Dương có hai bếp trưởng, một người chuyên nấu các món thuần Việt, một người lo các món Tây, Tàu. Đám cưới của Thiện vừa là đám trong gia đình, vừa là đám khai trương nên ông Lập Phát muốn tổ chức thật linh đình về mặt nghi lễ, hình thức cũng như tiệc tùng. Các món ăn thì ông muốn chúng phải được kết hợp với nhau một cách thật độc đáo, gây dấu ấn đặc biệt cho tất cả thực khách ngày hôm đó.
          Muốn thực hiện được như vậy, nhất thiết ông phải bàn bạc thật kỹ lưỡng trước với chú Tân và chú Dũng.
          Ông Tân là bếp trưởng phụ trách các món Tây - Tàu, đồng thời lại có thêm tài tổ chức rất khéo léo.
          Dũng tuy nhỏ tuổi hơn nhưng tay nghề nấu các món ăn thuần Việt thì không chê vào đâu được.
          Ông Lập Phát nhờ có hai tay đầu bếp này nên nhà hàng Trùng Dương mới nổi tiếng nhanh như vậy. Ông Lập Phát đã phải trả lương cho hai người này rất cao và đối xử với họ rất tốt nên mới có thể giữ chân họ ở lại đây hơn một năm nay.
          Tính tình ông Tân có hơi khó chịu. Ông thường hay cáu bẳn nạt nộ mọi người mỗi khi có chuyện gì không vừa ý. Nhưng bù lại, ông luôn bênh vực họ khi ông chủ có ý phiền hà hay muốn đuổi việc một ai khi họ phạm lỗi.
          Tối nay, khi ông Lập Phát vừa bước chân vô tới bếp đã nghe tiếng ông Tân quát tháo om sòm trong đó. Ông Lập Phát phải gọi đến lần thứ hai ông Tân mới nghe thấy và quay lại:
          - Dạ, ông chủ gọi tôi có việc gì?
          Ông Lập Phát không trả lời mà hỏi lại:
          - Ai chọc gì chú mà chú gận dữ vậy?
          Cơn giận trong người ông lại được dịp bùng lên, ông kể lể:
          - Con dao chặt thịt tôi mới vừa để ra đó, quay đi một cái là biến mất tiêu, hỏi ai cũng không nhận, vậy có tức không chứ? Chẳng lẽ con dao có cánh bay lên hay mọc chân đi ra chỗ khác sao? Không có con dao đó tôi còn làm ăn gì được, giỡn đâu có kiểu giỡn kỳ lạ thế! Mà dù có ai đó ghét tôi, thù tôi thì bản thân tôi cứ đánh cứ chửi thẳng vào, mắc mớ gì lại đi giấu đồ nghề của tôi…
          Vừa nghe ông Tân hậm hực trút bầu tâm sự, ông Lập Phát vừa đưa mắt ngó bao quát qua căn bếp, bất ngờ ông nhìn thấy trên giá gỗ là con dao to bản mà ngày thường ông Tân vẫn thường sử dụng đang nằm lù lù trên đấy.
          - Phải con dao của chú đó không?
          Đưa tay chỉ lên giá, ông Lập Phát hỏi.
          Ông Tân ngó lên và bỗng trợn trừng mắt, mồ hôi rịn ra trên trán:
          - Ủa… trời ơi… sao nãy giờ tôi tìm không thấy? Kỳ thiệt đó nghen, tôi đã lục tung tất cả rồi, nếu nó nằm chình ình vầy mọi người cũng phải thấy chứ! Hổng lẽ thật sự có ma?
          Mọi người trong nhà bếp đều biết ông Tân có tính nóng nảy cục cằn, nhưng lần này bị mắng oan họ cũng ức lắm, tuy nhiên họ cũng tỏ ra thắc mắc vì đúng là lúc nãy ai ai cũng ngó quanh quất mà đâu có thấy con dao treo trên đó.
          - Lần sau có muốn chửi ai thì nhớ coi trước coi sau rồi hãy chửi nghen cha nội!
          Dũng lên tiếng. Vì anh cũng rất bực tức từ nãy đến giờ.
          Ông Lập Phát không muốn không khí bất hòa kéo dài nên đứng ra can thịêp:
          - Thôi thôi, có gì đâu, anh em với nhau mà, chỉ là hiểu lầm thôi! Xí xóa hết cho rồi…
          Ông Tân quay trở lại với cái chảo và bếp lửa đang cháy hừng hực, mùi dầu mỡ thơm lừng bốc lên xèo xèo, tay ông làm việc thoăn thoắt nhưng miệng vẫn lầu bầu:
          - Tôi mà nói sai thì cho quỷ tha ma bắt tôi đi, lúc nãy rõ ràng con dao không có ở đây, nếu không phải là người phá thì là mấy con ma phá tôi, chứ không có chuyện tôi nhìn xớn xác được…
          Ông Tân giật mình, hơn một năm qua, hầu như mọi người đã quên đi, không ai nhắc lại chuyện ma quái trước đây. Bây giờ biết đâu do câu nói vô tình của ông Tân mà sẽ làm mọi người hoảng hốt. Lo sợ điều đó nên ông Lập Phát vội nói át đi:
          - Có thể hôm nay chú Tân mệt mỏi nên bị hoa mắt cũng hổng chừng! À, tôi có chuyện có quan trọng cần bàn với chú Tân và cậu Dũng đây. Chút nữa xong việc, hai người ở lại gặp tôi, mình cùng trao đổi vài vấn đề nhé?
          Thấy ông Tân, Dũng và những người phụ việc trong bếp đều nhìn mình với vẻ lo ngại, ông Lập Phát nói rõ hơn để họ yên tâm:
          - Là chuyện làm ăn quan trọng, tôi muốn hỏi ý kiến hai người…
          Nói xong, ông Lập Phát trở lên quầy để chuẩn bị tổng kết sổ sách. Những người trong bếp lại tiếp tục công việc của mình.
          ***
          Đã hơn mười một giờ đêm, nhà hàng Trùng Dương trở nên vắng lặng hẳn đi, bãi đậu xe phía trước trống trơn không còn lại một chiếc nào, tất cả thực khách và đa số nhân viên đều đã ra về.
          Dưới ánh sáng còn lại của bóng đèn trắng duy nhất chiếu ra từ phía trong, tiếng tích tắc của cái đồng hồ treo tường và chiếc tủ lạnh loại súp bờ trong nhà bếp lâu lâu giật nẩy người lên kêu xè xè vọng ra làm không khí trở nên tĩnh mịch lạ thường.
          Ông Lập Phát lôi gói thuốc lá ra mời ông Tân và Dũng. Ông Tân xua tay tỏ ý cám ơn, tối nay ông cảm thấy muốn bịnh, nên tự rót cho mình một ly trà nóng uống vào cho tỉnh táo. Miệng ông Tân vẩu ra theo thói quen, tay cầm tách trà đưa lên miệng.
          Bên chiếc bàn tròn, ba người đàn ông ngồi chơ vơ trên ba chiếc ghế, mấy cái ghế còn lại đều được dựng ngược gác lên bàn cho dễ quét dọn.
          Ông Tân hỏi, giọng bồn chồn:
          - Có chuyện gì vậy ông chủ?
          Ông Lập Phát nhịp nhịp mấy ngón tay lên mặt bàn, mắt lơ đãng ngó quanh như đếm, như ước lượng số bàn ghế khoảng không gian của nhà hàng Trùng Dương vậy.
          - Tôi đang dự định nhận thêm tiệc cưới ở đây, chú Tân và cậu Dũng nghĩ sao? Nếu cần thì tôi sẽ mướn thêm đầu bếp về phụ giúp hai người?
          Dũng đưa tay vuốt vuốt mấy sợi tóc lòa xòa trên trán mình chừng như đang suy nghĩ. Anh biết thêm việc là tất nhiên tiền lương sẽ tăng lên nhưng đồng thời trách nhiệm cũng nặng nề hơn nữa. Nhưng dẫu sao mỗi tháng lại có thêm một khoản thu nhập không nhỏ để lo cho cái tổ ấm vừa xây dựng cùng cô người vợ mới cưới thì vẫn tốt hơn.
          Nhưng thật bất ngờ, ông Tân đang ngồi bỗng đứng bật dậy nói dõng dạc:
          - Không! Không được! Nhất định là không được đâu…
          Đến lượt ông Lập Phát ngạc nhiên trợn mắt hỏi:
          - Sao lại không được? Chú nói tôi nghe xem sao?
          Ông tân nhìn chăm chăm vào góc nhà hàng, nơi đặt dàn nhạc mà đã lâu rồi không ai sử dụng tới, rồi lại nhìn ông Tân, nói một cách chậm rãi:
          - Bộ ông chủ không nhớ chỗ này có người chết sao?
          Dũng ngạc nhiên ngó sững ông Tân.
          Thấy vậy ông Lập Phát thở dài nói:
          - Làm sao tôi quên được, chính tôi đã nhờ chú đi mời thầy địa lý, coi phong thổ địa lý dùm cho tôi, trước khi tôi quyết định mua chỗ này ma...
          Ông Tân ngắt lời:
          - Thì đó! Cũng nhờ mạng ông chủ khắc với mạng của người đã chết, vả lại lúc đó ông chủ chỉ nói sẽ mở nhà hàng phục vụ ăn uống. Tôi vẫn còn nhớ, lúc đó ông thầy địa lý có nói với tôi, mở nhà hàng ăn uống thì được nhưng đừng có nhận đặt tiệc cưới xin, vì các vong hồn ở đây rất ghen ghét với những ai hạnh phúc hơn họ… Chính vì vậy tôi khuyên ông chủ đừng có mở thêm cái khoản này, không phải tôi lười nhác gì đâu mà là tôi thật sự sợ…
          Ông Lập Phát chưa kịp nói gì thì Dũng đã tò mò hỏi:
          - Chú có biết ai chết không? Mà tại sao họ chết vậy? Mình biết rõ thì có thể rước thầy về tụng kinh cầu siêu cho họ…
          Nghe Dũng hỏi như được gãi trúng chỗ ngứa, ông Tân hăng máu lên nói:
          - Xin phép ông chủ, sẵn tối nay nói về chuyện này tôi xin kể hết cho ông chủ và cậu Dũng đây nghe về cái chết của họ. Đây là câu chuyện hoàn toàn thật chứ không phải những chuyện đã được nêm nếm gia vị mà người ta kể rần rần dạo trước. Bởi vì… tôi có quen với người đã chết.
          Ông Tân hỏi nhưng không chờ ông Lập Phát có đồng ý hay không đã vội kể ra một tràng liên tiếp:
          - Đó là hai vợ chồng còn rất trẻ. Hai đứa nó mới cưới nên thương yêu nhau lắm. Khu biệt thự này là do gia đình thằng chồng để lại cho tụi nó. Thằng chồng tuy giàu có nhưng lại rất hiền lành, chưa bao giờ lớn tiếng cãi cọ với ai, lại rất mực cưng chìu vợ. Vì con vợ quá đẹp nên nó càng cưng chìu dữ tợn lắm. Đi làm thì thôi, hễ về tới nhà nó quấn lấy vợ không rời, đưa vợ đi dạo phố, đi mua sắm trông rất là hạnh phúc.
          Cứ tưởng giàu có như tụi nó thì cuộc sống không có gì phải lo, vợ chồng không có gì phải cắn đắng xích mích nhau. Ai dè đâu… người giàu cũng khóc! Cưới nhau chưa đựơc tròn năm là bắt đầu có chuyện. Bởi vì con vợ quá đẹp nên không tránh khỏi những ánh mắt dòm ngó bên ngoài.
          Mà giống đờn bà con gái họ nhẹ dạ lắm, cả tin lắm, cứ ai nói thật ngọt ngào thật bùi tai vào là trước sau gì họ cũng đổ thôi. Mới đầu con vợ còn lén lút quan hệ với một tay Việt kiều đại gia, nhưng về sau nó ngang nhiên bỏ nhà đến sống hẳn với gã đó.
          Thằng chồng nài nỉ van xin hoài không được cũng đành phải buông xuôi chứ nhất quyết chưa chịu ly dị, vì nó vẫn còn mong mỏi một ngày nào đó con vợ nó quay trở lại với gia đình.
          Một hôm, tưởng thằng chồng đi làm nên con vợ kêu gã nhân tình chở về nhà cũ để lấy thêm một ít đồ đạc. Khi xe tới cổng, thằng nhân tình ngồi đợi ngoài xe, còn con vợ đi thẳng vô nhà. Ai dè hôm đó thằng chồng buồn bã nằm nhà uống rượu.
          Gã nhân tình ngồi chờ mãi vẫn không thấy con vợ trở ra, lo lắng nên hắn xông thẳng vào bên trong, thì hỡi ôi, một cảnh tượng hãi hùng đang bày ra trước mắt: Con vợ nằm giữa nhà, trên người đầy thương tích, thằng chồng gục xuống kế bên với một nhát dao đâm vào bụng và kéo dài xuống làm ruột gan đôt ra có nùi… máu me lênh láng khiến thằng Việt kiều sợ vãi cả ra quần, vừa bò vừa lết ra ngoài không kêu cứu được mà chỉ ú ớ chỉ tay vào trong nhà.
          Người ta phán đoán, thằng chồng trong lúc say rượu đã không làm chủ được mình nên chém chết con vợ bằng nhiều nhát rồi vì quá thương yêu vợ nên tự kết liễu luôn đời mình. Hai đứa tụi nó chết đều không nhắm mắt…
          Dưới bếp có tiếng chén bát rơi vỡ loảng xoảng cắt đứt câu chuyện tình đau thương mà ông Tân đang kể, cả ba người không ai bảo ai cùng giật mình nhìn nhau.
           Dũng đứng lên trước tiên, anh bước nhanh ra sau nhà bếp, nhìn quanh, anh chẳng thấy gì lạ ngoài mấy cái chén vỡ nát trên sàn gạch.
          Ông Lập Phát và chú Tân bước theo sau Dũng, hai người đều cùng một ý nghĩ nhưng không ai nói gì. Chú Tân lẳng lặng cầm cây chổi rơm quét sơ mấy mảnh chén vỡ mà mắt lại lấm lét nhìn quanh.
          Dũng vừa ngó quanh quất vừa nói:
          - Chắc mấy con mèo nhảy lên làm rơi chén…
          Chú Tân cãi:
          - Ở đây chưa khi nào có mèo vô được!
          Trong lòng bỗng có cảm giác bất an, để mặc cho chú Tân và Dũng dọn dẹp, ông Lập Phát chán nản bước ra khỏi bếp, chuyện làm tiệc cưới tối nay chắc khó mà nói cho xong được rồi!
          Ông Lập Phát đứng giữa nhà hàng, thừ người ra một lát, bỗng ông có cảm giác là lạ, quay phắt người lại, ông không thấy ai, tiếng nói của chú Tân và Dũng vẫn vang vang ở dưới bếp.
          Đưa tay lên xoa gáy, ông Lập Phát cảm thấy rờn rợn như có ai đang đứng sát ngay sau lưng ông, thổi một làn hơi nóng vào cổ mình.
          Ông Lập Phát lắc đầu, cố xua đuổi những ý nghĩ không hay, bất giác ông nhìn lại chung quanh nhà hàng, ông buột miệng la lên, những tiếng cuối cùng ông nói với giọng run run:
          - Chú Tân à... chú Tân... Dũng ơi... lên đây mau...
          Chú Tân lật đật chạy ra:
          - Có chuyện gì vậy ông chủ ?
          Ông Lập Phát đưa tay chỉ:
          - Ai... ai đã xếp... những cái ghế như vầy?
          Lúc đó Dũng cũng vừa lên tới, cả chú Tân và Dũng đều ồ lên một lượt, không ai bảo ai, ba người đàn ông tự dưng đứng đâu lưng vào nhau nhìn những cái ghế như những con quái vật biết di chuyển, trừ ba cái ghế của ba người ngồi lúc nãy, tất cả những cái ghế xếp đứng trên bàn đều được đặt xuống đất ngay ngắn!
          Vừa lúc đó, kim đồng hồ trên tường vừa điểm đúng số 12!
          ***
          Tuy đã dặn dò chú Tân và Dũng đừng tiết lộ chuyện đêm hôm qua, ông Lập Phát vẫn đến nhà hàng Trùng Dương sớm hơn thường lệ, ông làm như có mặt ông ở đó thì sẽ bịt được cái miệng hay la hoảng của chú Tân vậy!
          Cả đêm hôm qua ông Lập Phát không tài nào chợp mắt được một lát, ông cần phải uống một ly cà phê cho tỉnh táo.
          Lái xe vô bãi đậu xe, ông Lập Phát thoáng thấy có bóng mấy đứa con nít chạy từ nhà hàng Trùng Dương chạy ra. Ông nhấn còi, trừng mắt nhìn tụi nhỏ, hừm, bộ hết chỗ chơi rồi sao ra đây phá. Tắt máy xe, ông vội vàng ra cửa bên hông.
          Nhà hàng Trùng Dương có cả thảy ba lối ra vào, lối cửa chính là lối khách hàng ra vô, nằm ngay mặt tiền, mỗi ngày mười một giờ sáng ông Lập Phát mới cho mở cửa chính. Lối cửa sau thông vô nhà bếp là cửa giao thịt, cá và thực phẩm linh tinh, nhân viên nhà hàng cũng thường đi cửa sau.
          Đường vô cửa sau được xây rộng rãi để xe hàng ra vô cho dễ nhưng sau này chật hẹp lại vì cây ngọc lan ở góc tường càng ngày càng lớn.
          Ông Lập Phát cũng không ngờ mới có hơn một năm mà từ một cây nhỏ tầm thường bây giờ cây ngọc lan lớn như cây cổ thụ, rậm rạp, âm u, lá to và xoè kín trùm lên cả mái nhà hàng.
          Lối đi nhỏ bên hông chỉ có mình ông Lập Phát sử dụng, thật ra đó là lối ra vào dành lúc khẩn cấp cho những lúc bị hoả hoạn. Là người có tính cẩn thận, cuối ngày trước khi rời nhà hàng, lần nào ông Lập Phát cũng kiểm soát hết từng cánh cửa, ba lối ra vào.
          Cánh cửa bên hông có hai lớp, một lớp gỗ bên trong và cửa bằng song sắt phía bên ngoài. Hai cánh cửa sáng nay đều mở hé, ông Lập Phát sững sờ vài giây, nhà hàng có trộm viếng!
          Ông hấp tấp bước vào, đồ đạc trong nhà hàng đều y nguyên!
          Có điều lạ là những cánh cửa trong nhà hàng đều không khoá, ngay cả những cánh cửa sổ cũng được mở tung ra, hèn gì tụi con nít dám chạy vô đây như chỗ không người.
          Ông Lạp Phát vội vàng bốc điện thoại lên tính kêu cảnh sát nhưng ông ngừng lại ngẫm nghĩ:
          - Nhà hàng không bị mất gì, không lẽ mình báo là... có ma?
          Ông Lập Phát không phải là người nhát gan, yếu bóng vía, tuy rằng ông tin có ma, nhưng ông cũng tin có quả báo, ông tin rằng người và ma là hai thế giới khác nhau, ông không đụng “họ” thì “họ” sẽ không chạm tới ông.
          Nếu chỗ này có oan hồn hay ma quỷ ám chướng chi đó, tại sao lại chờ tới lúc này mới phá? Ông Lập Phát nhìn ra cửa trước nhà hàng, đối diện ngay cánh cửa, nằm sát tường, ở dưới đất là cái bàn thờ nhỏ bằng gỗ ông đã mua hồi mới xây nhà hàng. Trong bàn thờ ông đặt một cái tượng ông Địa, tượng trưng cho Thần Tài, để mong cho nhà hàng Trùng Dương làm ăn khấm khá.
          Hình ảnh ông Địa với cái bụng to và nụ cười rộng tới mang tai làm ông Lập Phát sực nhớ tới mấy ông thầy pháp bắt ma. Ông tự nhủ với mình, thế nào cũng phải đi tìm cho bằng được một ông thầy thật cao tay để mời về đây trấn áp lũ yêu ma nếu thật sự chúng lộng hành quấy phá.
          Lăn lộn trong thương trường đã lâu, cũng lắm phan đối đầu với khó khăn gian khổ nhưng chưa lần nào ông Lập Phát cảm thấy nản lòng như lần này. Chiến đấu với một cái gì cụ thể thì còn có thể lập ra kế họach được, còn giờ đây ông không biết thật sự mình đang đối đầu với điều gì nữa?
          - Chút nữa mình sẽ cho người đi mua đồ về cúng cho vợ chồng nó… Có lẽ cả hai đều chưa được đi đầu thai, oan hồn còn lảng vảng, uất khí còn chưa tan nên mới… như vậy!
          Ông Lập Phát lẩm bẩm một mình.
          Vừa lúc đó ông nghe thấy tiếng xe máy quen thuộc của Dũng dừng lại ở ngoài sân, ông biết hai đầu bếp cưng của mình đã đến.
          Lâu nay hai người vẫn luôn đi chung xe của Dũng vì trên đường từ nhà Dũng tới đây phải đi ngang qua nhà ông Tân, sẵn đó hai người đi chung cho tiện.
          Vừa bwosc xuống xe, trông thấy ông Lập Phát là ông Tân đã vội nói:
          - Ông chủ ơi, tối hôm qua tôi nằm mơ thấy con vợ tôi về báo mộng…
          Nói xong câu mở đầu giựt gân, ông Tân liếc nhìn ông Lập Phát để dò phản ứng, không thấy ông Lập Phát nói gì, ông Tân hơi thất vọng nhưng vẫn xổ một tràng không đầu không đuôi, khi ông nói nhanh, tiếng này vướng vào tiếng kia rất khó nghe:
          - Từ lúc con vợ tui nó mất tới giờ, ông chủ biết đó, tui đâu có dám nghĩ đến bà nào, cũng may cho tui , tui mà lấy vợ là tiêu đời với hai con ma này rồi! Ông chủ có nghe qua chuyện ma tìm người chết thế chưa vậy? Tui biết nói ra thế nào ông chủ cũng la tui... mà tui cũng chỉ nói cho mình ông chủ nghe, chỗ ở của vợ chồng thằng Vũ, ở ngay đây nè, chỗ bếp này là phòng ngủ của vợ chồng nó...
          Cho dù bình tĩnh tới đâu, ông Lập Phá cũng không khỏi giật thót người, ông đưa mắt nhìn bao quát căn bếp, tưởng tượng ra một khung cảnh đầm ấm của đôi vợ chồng trẻ, rồi sau đó là vụ thảm sát, biết đâu chỗ ông đang đứng là nơi họ nằm chết?
          Trong lòng đang bất an, nghe ông Tân nói vậy ông Lập Phát nạt ngang:
          - Vợ chú chết lâu rồi, chú nhớ bả nên nằm mơ thấy cũng là chuyện thường tình mà! Thôi, hai người mau vào chuẩn bị đi, hôm nay có nhiều đơn đặt hàng lắm đó!
          Ông tân cụt hứng vừa đi xăm xăm vào bếp vừa càm ràm:
          - Tui nói thiệt đó, ông chủ không tin thì đừng có hối hận à nghen! Linh tính của tôi nhạy lắm…
          Ông Lập Phát không nói gì, giả đò như không nghe thấy những lời nói lảm nhảm của Tân vừa rồi.
          Ông Tân đặt con dao xuống, quay sang mở tủ lạnh, lôi từng con gà đã làm sẵn ra xếp thành hàng lên khay, lát nữa đây, ông sẽ ra tay đao phủ thủ đưa đám gà lên bếp lửa hồng.
          Quẹt cánh tay lên trán lau mồ hôi, mới sáng sớm mà ông Tân đã đổ mồ hôi nhễ nhại.
          Ông than thở:
          - Tui có linh tính là sẽ có chuyện xảy ra... tui chỉ mong là đừng gặp, đừng thấy. Ông bà mình nói không sai mà, gặp ma xui lắm, xui ba năm, uýnh bài đâu là thua đó!
          Bỗng ông Tân la hoảng lên:
          - Ủa, đâu mất tiêu ba con gà rồi?
          - Gà gì mà mất?
          Ông Lập Phát đang bước ra mở cửa trước, nghe ông Tân la hoảng vội quay lại hỏi.
          Ông Tân gãi đầu gãi tai:
          - Rõ ràng tối hôm qua tôi đặt vào đây năm con gà, sao giờ chỉ còn lại hai? Ba con nữa đi đâu mất rồi?
          - Chú đếm lại coi, mà chú có nhớ lộn không đó?
          Ông Lập Phát nhắc nhở với giọng lo lắng.
          Ông Tân giở cuốn số nhỏ chìa ra trước mặt ông Lập Phát, khẳng định:
          - Đây nè, ông chủ nhìn đi, tôi có ghi sổ rõ ràng nè, không sao nhầm lẫn được!
          Đúng lúc đó có tiếng chó sủa dồn dập từ phía sau cửa bếp cắt ngang lời nói của ông Tân.
          Một anh phụ bếp lau hai bàn tay vào tạp dề ló đầu ra cửa ngơ ngác. Chó hàng xóm hôm nay bỗng dưng ồn ào quá. Mọi khi tụi chó đâu có cãi nhau, những tiếng chó sủa càng lúc càng lớn, lâu lâu lại gừ gừ như sợ hãi, như dọa nạt.
          Nghĩ là đám trẻ chọ phá lũ chó nên ông Lập Phát cùng anh phụ bếp bước hẳn ra ngõ sau để quan sát.
          Đường phố vắng tanh, giữa mùi thơm thoang thoảng của hoa ngọc lan, ông Lập Phát ngửi thấy có mùi thịt sống tanh tưởi, ông bước lại gần gốc cây tìm tòi. Khuất sau gốc cây, dưới đám ruồi vo ve là đống xương vịt còn dính chút thịt và da xếp thành ba đống ngay ngắn.
          ***
          Loan cầm từng tấm thịêp lên săm soi rồi lại đặt xuống. Kiểu nào cũng đẹp, thật khó mà lựa chọn.
          Thiện thì chỉ thỉnh thoản cầm vài tấm thiệp lên ngắm nghía rồi đưa lên mũi hít hà, còn quyền quyết định anh đã dành trọn cho Loan rồi.
          Ông chủ nhà in niềm nở:
          - Anh chị cứ từ từ mà lựa chọn cho thật vừa ý, ở chỗ chúng tôi có rất nhiều kiểu dáng mới lạ. Với lại giá cả cũng phải chăng, không sợ bị hố vì chúng tôi làm ăn uy tín…
          Thật lâu sau Loan mới quyết định chọn một mẫu và ký vào đơn đặt hàng của nhà in.
          Ông chủ tươi cười:
          - Xin anh chị vui lòng ghi thật rõ ràng các chi tiết…
          Loan hý hoái một hồi rồi thở phài, chìa tấm thịêp cho ông chủ:
          - Xong rồi!
          Ông chủ nhà in liếc sơ qua một thoáng đã phát hiện được thiếu sót vội kêu lên:
          - Dạ… còn thiếu ngày tháng và nơi tổ chức, anh chị vui lòng cho biết?
          - Ngày mười lăm tháng mười một, tổ chức tại nhà hàng Trùng Dương!
          Thiện nhanh nhảu lên tiếng.
          Ông chủ tiệm sững sờ vài giây, nhìn Thanh trân trân:
          - Phải anh muốn nói nhà hàng Trùng Dương của ông Lập Phát?
          Thiện gật đầu hãnh diện, không ngờ nhà hàng Trùng Dương và bác mình lại nổi tiếng như vậy:
          - Dạ đúng đó bác, nhà hàng đẹp, chỗ đậu xe rộng rãi, chủ nhà hàng lại là chỗ thân tình với gia đình cháu.
          Ông chủ tiệm mấp máy môi toan nói gì đó nhưng ông lại ngưng, dù sao cũng không phải chuyện của ông, ông nói lảng:
          - Ờ, phải rồi, tui thấy địa điểm ở đó rất tốt cho đám cưới, tuy nằm gần khu thương mại nhưng lại không ồn ào, khu đất đó mới sửa sang... hình như anh chị không phải là người sinh sống ở đây, phải không?
           
           
          Thiện ngạc nhiên nhìn Loan:
          - Bác tài thiệt, gia đình cháu ở xa. Cả bên vợ cháu cũng không phải là người ở đây, nhưng vợ chồng cháu lại thích tổ chức đứm cưới của mình ở thành phố biển này, cũng là dịp để bà con hai họ được một chuyến du lịch. Cháu tính một công đôi việc như vậy, bác thấy có tiện không?
          Thiện vừa nói vừa cười. Ông chỉ tiệm in cũng nhăn nhở cười theo nhưng trông không được tự nhiên mấy.
          Ngày mười lăm tháng mười một!
          Đó là ngày hạnh phúc của Thiện, ngày mà Thiện chính thức cưới được người mình thương yêu mấy năm dài đằng đẵng về làm vợ, nên lúc nhắc tới ngày đó trông Thiện hí hửng ghê lắm.
          Nhưng Loan thì lại khác. Giữa lúc ông chủ tiệm đang cúi xuống ghi lại câu Thiện vừa thông báo, Loan hỏi khẽ:
          - Anh có chắc nhà hàng Trùng Dương có tổ chức tròn vẹn không đó, vì lâu nay họ chưa tổ chức cưới bao giờ?
          Câu hỏi này mấy hôm nay Loan đã hỏi anh mấy lần rồi nhưng Thiện nghĩ chắc là do Loan quá lo cho đám cưới, sợ nhà hàng tổ chức không được như ý mình mong muốn, vì thế lần nào anh cũng khẳng định:
          - Em đừng có lo, anh biết tính bác Lập Phát lắm! Một khi bác đã nhận làm một việc gì thì bác sẽ thực hiện thật chu đáo. Mà nhất là tiệc cưới này là của đứa cháu cưng, đồng thời cũng là tiệc khai trương, nên anh càng tin chắc tiệc cưới của tụi mình không thể chê vào đâu được. Em cứ yên tâm đi nhé?
          - Em thấy bàn ở đó hơi ít so với số lượng khách mời của mình, em lo…
          Loan vẫn chưa yên bụng.
          Thiện bật cười:
          - Anh đã nói rồi, em cứ lo làm một cô dâu thật đẹp trong ngày đó cho anh. Còn mọi việc khác em không cần nghĩ tới chi cho mệt. Bác Lập Phát có nói với anh rồi, hiện nay bàn ở nhà hàng của bác ấy là loại bàn vuông, đến lúc tiệc cưới sẽ đổi sang bàn tròn, sẽ chiếm diện tích ích hơn, lại dễ sắp xếp. Bàn tròn tiết kiệm rất nhiều chỗ, nếu xếp khéo có thể để được rất nhiều bàn, tính ra mình còn có thêm sân khấu cho ban nhạc và một khoảng trống dưới sân khấu để nhảy đầm. Bác Lập Phát nói với anh là bác ấy sẽ đặt mua loại bàn tròn, vì sau này dù sao nhà hàng cũng cần tới cho các tiệc cưới khác. Tiệc cưới của mình là tiệc khai trương nên cái gì cũng mới nhé. Bàn mới, khăn trải bàn cũng mới… tha hồ thích nhé?
          Dù Thiện đã khẳng định như vậy rồi nhưng Loan vẫn có vẻ chưa thật an tâm.
          Hai người dắt tay nhau ra về, trông rất hạnh phúc. Vừa lúc đó có tiếng chuông điện thoại reo vang, Loan áp điện thoại vào tai, nét mặt cô tự dưng biến đổi, cô xoay mặt nghiêng mình nhìn ra cửa.
          Tuy không nghe người bên kia nói gì nhưng Thiện biết Loan đang bực mình, cô gắt gỏng:
          - Loan đã nói rồi, dạo này Loan bận lắm, đừng gọi tới làm phiền Loan nữa…
          Nói xong, cô vội vã tắt máy, vẻ mặt bồn chồn lo lắng.
          Thiện ngạc nhiên:
          - Ai gọi mà anh thấy em không thích nghe thế?
          Loan ấp úng:
          - Dạ… đó là một đứa bạn… nó cứ gọi điện rủ em đi chơi hoài… thiệt là bực mình..
          Thiện chưa kịp nói gì thì lại có tiếng chuông điện thoại, Loan giật thót người nhưng đó không phải tiếng chuông điện thoại của Loan mà là của Thiện.
          Tiếng người nói văng vẳng bị ngắt quãng từng chập trong điện thoại làm Thiện phải bịt một bên tai lại để nghe:
          - Dạ, bác Lập Phát đó hả, bác nói gì cháu nghe không rõ? Dạ, cháu là Thiện đây bác...
          Giọng ông Lập Phát rè rè, tiếng được tiếng mất:
          - Bác tính vầy không biết có được không... Tiệc cưới của cháu... có lẽ... không... để bác hỏi...
          - Đúng một tháng nữa, dạ kịp mà bác, tụi cháu mới đặt in thiệp cưới nè bác.
          - ... Không... được... bác...
          - Bác ơi, điện thoại bị gì đó, hay là do ở đây sóng yếu cháu nghe không rõ, hay để lát nữa cháu gọi lại cho bác nhe?
          - À, ừ... gọi lại cho bác... nhớ nghen cháu!
          Loan lo lắng:
          - Anh đừng nói với em là bác đổi ý đó nghen, thiệp cưới thì đặt rồi, tới giờ này mà đổi ngày là... là không có nên đâu! Ba má em dặn rồi, tất cả những gì liên quan đến việc cưới hỏi nhất định không được có sự thay đổi nào hết.
          Thiện lắc đầu:
          - Anh có nghe được bác Lập Phát nói gì đâu, để lát nữa tới chỗ nào có sóng mạnh anh gọi lại, không biết sao điện thoại khó nghe quá, dù sóng ở đây cũng đâu phải là yếu lắm?
          Loan nhìn đồng hồ tay:
          - Nhà hàng Trùng Dương cách đây không xa, sẵn em đang đói bụng, hay là mình tới đó ăn trưa nha anh?
          Thiện đồng ý:
          - Ừ, ý kiến của em thật hay đó!
          Thiện vừa quay đầu xe hướng về phía nhà hàng Trùng Dương, anh vừa nghĩ thầm:
          - Tiệc ở nhà hàng chỉ là phụ, không đãi tiệc vẫn có thể làm đám cưới được như thường. Mình thì không cần thiết việc đó, chỉ cần hai vợ chồng thật lòng yêu thwong nhau là đủ rồi, nhưng… Loan và gia đình cô ấy thì lại khác…
          Loan thường mơ mộng nói với Thiện:
          - Anh có còn nhớ đám cưới của công nương Diana không anh? Linh đình và đẹp quá anh hén? Hồi nhỏ em mê tới bây giờ. Vương giả vua chúa thì làm đám cưới kiểu vương giả, người thường như mình mà làm đám cưới tuy không thể so với bậc vương giả được nhưng cũng cần phải long trọng phải không anh? Em thấy mình không nghèo đến nỗi không có khả năng tổ chức được một đám cưới như người ta. Em muốn có một ngày đám cưới khó quên cho cả hai đứa mình. Khi đãi tiệc, mình phải tìm một nhà hàng thật lớn, thật nhiều bàn, có phòng trang điểm cho cô dâu, rồi còn phải có chỗ để bày cái bánh cưới, chung quanh xếp hoa tươi...
          Nếu Loan trọng hình thức bao nhiêu thì Thiện lại thích giản dị bấy nhiêu. Qua lời những thằng bạn thân đã lấy vợ của Thiện kể lại, đoạn trường ai có qua cầu mới hay, ngày đám cưới là ngày của hai họ, của tất cả mọi người, không phải của riêng gì cô dâu và chú rể, phong tục người Việt Nam mình là vậy. Bao giờ cũng phải nghĩ đến cái vui của số đông hơn là vui riêng, cô dâu và chú rể thì mệt đừ người ra, có khi cả ngày không được ngồi xuống mà uống một miếng nước, miệng thì lúc nào cũng phải nhoẻn cười như là sung sướng lắm.
          Tính tới tính lui, rốt cuộc rồi Thiện cũng phải chọn đám cưới truyền thống, đãi tiệc tại nhà hàng Trùng Dương cho Loan và gia đình cô ấy được hài lòng.
          Giờ ăn trưa ở nhà hàng Trùng Dương khách khứa ra vào đông không kém gì giờ ăn tối. Thiện phải lái xe vô tận phía bên trong, dọc theo bờ tường mới kiếm được chỗ đậu.
          Theo thói quen, Loan kéo tấm kiếng trước mặt xuống để tô lại son môi. Nhìn vô gương, Loan thoáng thấy có bóng người đàn ông từ phía sau nhà hàng đi ra, Loan sợ hãi thụp đầu xuống khiến Thiện ngạc nhiên hỏi:
          - Gì đó em?
          Loan hồi hộp ngồi lên nhìn lại trong gương lần nữa, bóng người đàn ông biến mất sau nhà bếp. Cô ngẩn ngơ, không lẽ tình cờ như vậy sao? Loan nghiêng mặt để mái tóc rũ sang một bên, che bớt đi một nửa khuôn mặt:
          - Dạ không có gì! Tự dưng em thấy nhức đầu, hết muốn ăn, nắng quá anh à, hay là anh cho em về…
          Thanh tắt máy xe, hơi lạnh cũng theo đó tắt theo, không khí trong xe trở nên nóng và ngột ngạt hơn:
          - Đã tới đây rồi thì vô một tí đi em, không ăn cũng được, nhưng chờ anh nói chuyện với bác Lập Phát đã chứ!
          Khi hai người vào đến bên trong không nhìn thấy ông Lập Phát ngồi ở quầy thu tiền như lần trước, Loan lại có vẻ mệt nên Thiện bảo cô ngồi xuống bàn.
          Một người bồi bàn nhanh nhẹn đi tới, đưa tờ thực đơn cho Thiện rồi lặng lẽ đứng yên chờ đợi.
          Nhà hàng đang đông khách mà thái độ kiên nhẫn của người bồi bàn làm Thiện hơi lạ, Thiện nói:
          - Anh cho nước uống trước đi, chút nữa tôi sẽ gọi món sau…
          Từ lúc bước vào nhà hàng, Loan vẫn im lặng như một hình thức phản đối ngầm, cô ngồi xoay mặt ra phía ngoài đường, ánh mắt xa xôi, lạc lõng. Nhìn quanh không thấy ông Lập Phát, có lẽ ông mới đi ra ngoài.
          Đợi người bồi bàn trở lại với hai ly nước, Thiện hỏi:
          - Ông chủ Lập Phát đi đâu vắng vậy anh?
          Người bồi bàn, là một người thanh niên có khuôn mặt khôi ngô và nước da trắng nõn như một chàng công tử bột con nhà giàu, ú ớ lắc đầu, một tay anh chỉ vô miệng mình, một tay chỉ về góc nhà hàng.
          Khuất sau đám thực khách ồn ào, ông Lập Phát đang cúi đầu thì thầm nhỏ to với một người đàn ông khác với vẻ mặt nghiêm trọng.
          Điều làm Thiện ngạc nhiên không phải là vẻ bí mật của ông Lập Phát mà là người bồi bàn đang đứng trước mặt anh. Điệu bộ của người thanh niên đó rõ ràng là nghe và hiểu được Thiện nói gì, nhưng anh ta hình như bị câm.
          Nét mặt của người bồi bàn vẫn thản nhiên, khi Thiện nói, anh ta ghi ghi chép chép cẩn thận lên cuốn sổ nhỏ rồi mỉm cười xã giao trước khi quay lưng bỏ đi, anh có hàm răng thật trắng, những chiếc răng nhọn đều đặn. Thanh ngơ ngẩn nhìn theo bóng người thanh niên khuất sau cửa bếp, cố lục lọi trong trí nhớ, không biết tại sao khuôn mặt của người đàn ông này anh thấy quen quen, nhất là nụ cười của anh ta, một nụ cười... câm, không có tiếng.
          Ông Lập Phát ở góc bàn phía bên kia chừng như mới nhận ra sự có mặt của Thiện và Loan, đây cũng là một thói quen ông Lập Phát có được kể từ khi mở nhà hàng Trùng Dương, tuy bận mấy thì bận, ông vẫn thỉnh thoảng dõi mắt trông chừng đám thực khách.
          Ông Lập Phát đứng lên ngoắc Thiện, vỗ vai người đàn ông trước mặt nói mấy câu gì đó, người đàn ông xoay mặt ra nhìn Thiện và Loan, khuôn mặt hao hao giống ông Lập Phát.
          Không để ông Lập Phát lên tiếng gọi lần thứ hai, Thiện kéo tay Loan:
          - Đi em, đi lại kia nói chuyện với bác một chút!
          Loan miễn cưỡng đứng lên đi theo Thiện, trong lòng cô vẫn chưa thoải mái được, hình ảnh người đàn ông lúc nãy ở chỗ bãi đậu xe vẫn còn ám ảnh Loan không ngớt. Loan thầm mong đó chỉ là mình đã hoa mắt nên mới thấy ra như vậy.
          Đi tới chỗ bàn ông Lập Phát, Thiện và Loan cúi đầu chào thật lễ phép. Ông Lập Phát vui vẻ đứng lên giới thiệu:
          - Đây là anh trai của bác, hai cháu cứ gọi là bác Hai cũng được. Bác Hai đây cũng là chủ một nhà hàng ăn, nhà hàng Thùy Dương nổi tiếng ở thành phố này, chắc hai cháu đã có nghe qua?
          Thiện reo lên:
          - A, cháu biết nhà hàng đó rồi! Hôm trước cháu cũng dự định tổ chức ở đó nhưng khi đến thì phía nhà hàng không nhận được vì ngày hôm đó đã có người đặt trước mất rồi! Thật cháu không ngờ nhà hàng đó là của bác Hai, anh ruột của bác!
          Ông Lập Phát mỉm cười, khẽ liếc ông Hai một cái rồi nói:
          - Bác Hai đang bàn chuyện làm ăn với bác. Hai anh em bác dự định sẽ hùn vốn để mở thêm chi nhánh, nhưng còn kẹt ở khâu quản lý đây…
          Thiện kín đáo quan sát ông Hai, càng nhìn càng thấy giống bác Lập Phát, hai anh em ruột có khác, đều thích mở nhà hàng.
          Loan bấm tay Thiện nhắc khéo, Thiện ngập ngừng:
          - Dạ, hồi nãy bác Lập Phát gọi điện thoại cho cháu, không biết có chuyện gì không vậy bác, lúc đó tự nhiên cháu không nghe được bác nói gì? Tụi cháu mới vừa đặt thiệp cưới xong rồi...
          Ông Lập Phát hắng giọng:
          - À, thì bác cũng đang tính bàn với cháu, bác thấy nhà hàng của bác Hai đây lớn hơn nhà hàng Trùng Dương, đầu bếp lại nấu ăn ngon, hay là... cháu tổ chức tiệc cưới ở Thùy Dương đi, bác nói một tiếng là bác Hai sẽ sắp được liền mà, hai cháu thấy sao?
          Thiện lắc đầu:
          - Có chuyện gì vậy bác? Làm đám cưới ở đây có gì không tốt? Vả lại tối hôm qua bác có nói với cháu là nhà hàng Trùng Dương cũng đang dự định mở tiệc cưới mà? Hay bác giận cháu vì đã không nghĩ tới việc tổ chức ở Trùng Dương trước mà đến khi các nơi khác từ chối rồi mới quay sang cầu cứu bác?
          Ông Lập Phát vội vã lắc đầu:
          - Không... không! Cháu đừng nghĩ vậy! Chúng ta là người trong nhà, bác đâu có hẹp hòi gì mà giận dỗi vô cớ như vậy… Trước nay nhà hàng Trùng Dương của bác chỉ phục vụ ăn uống bình thường chứ có bao giờ tổ chức cưới hỏi gì đâu, cháu không nghĩ tới trước cũng là chuyện đương nhiên thôi mà! Bác tính như vậy là muốn thật tốt cho các cháu thôi, bác chỉ sợ lần đầu đứng ra tổ chức, có điều gì sơ sót thì sẽ có lỗi với gia đình. Trong khi đó nhà hàng Thùy Dương của bác Hai đây thì đã quen với việc này rồi, đứng ra làm thì mọi việc sẽ trôi chảy hơn nhiều!
          Nghe ông Lập Phát nói vậy, ông Hai không dằn được sự tò mò, ông cũng thắc mắc như Thiện, nghe Thiện hỏi ông mới dám lên tiếng.
          Tuy là hai anh em, nhưng ông lúc nào cũng ngấm ngầm ganh tị với sự thành công nhanh chóng của ông Lập Phát, ông không tin là ông Lập Phát có thể dễ dàng bỏ qua một dịp để khoa trương thanh thế, vả lại ông Hai cũng dư biết ông Lập Phát có ơn sâu với gia đình Thiện, không phải chỉ vì lý do đơn giản vậy mà đã nhận lời tổ chức rồi mà lại muốn giao lại cho ông. Chắc chắn nhà hàng Trùng Dương có vấn đề gì rồi!
          Ông làm bộ đẩy đưa:
          - Nếu chú giao thì anh cũng sẽ đứng ra lo liệu đàng hoàng cho cháu, nhưng anh thấy ở Trùng Dương cũng tốt lắm mà, không gian thoáng đãng, rộng rãi và yên tĩnh hơn bên Thùy Dương của anh nhiều…
          Thiện cũng tiếp lời, đầy lo lắng:
          - Dạ, cháu cũng thấy ở đây tốt lắm đó bác! Với lại… bên phía gia đình vợ cháu không đồng ý bất kỳ sự thay đổi nào trong việc cưới xin. Bây giờ thiệp cưới chúng cháu cũng đã đặt in xong, nếu thay đổi như vậy cháu e rằng…
          Ông Lập Phát cúi đầu ngẫm nghĩ, ông phải kín miệng, chuyện ma quỷ vớ vẩn nói ra là dẹp tiệm, xưa nay ông lại là người giữ lời hứa, bây giờ với chỗ thân tình của mình mà làm vậy cũng khó chịu lắm, thôi thì một liều ba bảy cũng liều liều... Hy vọng mọi việc rồi đâu sẽ vào đấy, không có gì nghiêm trọng như mình lo sợ!
          Ông ngẩng đầu lên nhìn Thiện và Loan một lần nữa rồi hỏi một câu thừa thãi:
          - Hai cháu đã suy nghĩ kỹ chưa? Có muốn thay đổi ý kiến không?
          Thiện ngơ ngác:
          - Ủa, sao bác lại hỏi vậy? Tụi cháu có muốn thay đổi gì đâu?
          Ông Lập Phát gật gù:
          - Thôi, vậy thì mình quyết định vậy đi nhe, không gì thay đổi! Đám cưới là chuyện quan trọng của cả một đời người, hai cháu đã nhờ tới bác, nếu bác không làm đàng hoàng sẽ có lỗi… Bác sẽ cố gắng hết sức, bác nhất định sẽ nhờ bác Hai đây tư vấn cho nhiều việc… Thôi, hai cháu đừng lo…!
          Thiện thở phào nhẹ nhõm, quay sang nhìn Loan, anh thấy Loan vẫn có vẻ gì đó không được bình thường. Thiện nghĩ chắc do Loan bị mệt nên anh vội vã xin phép:
          - Dạ thưa hai bác, cháu rất cảm ơn hai bác đã quan tâm. Bây giờ chúng cháu xin được về trước ạ!
          Ông Lập Phát đứng lên:
          - Đâu có được, hai đứa phải ở lại dùng cơm trưa với anh em bác chứ!
          Khẽ liễ nhanh qua Loan, Thiện thấy một nét chau mày rất nhẹ của cô và anh hiểu ý nên nói dối:
          - Dạ… để dịp khác ạ, hôm nay chúng cháu còn nhiều việc phải làm… Vả lại lúc nãy chúng cháu mới vừa ăn xong…
          Ông Lập Phát nhăn nhó:
          - Hai đứa thiệt là…
          Rồi ông lại cười xòa:
          - Thôi, vậy đành phải chờ hôm khác vậy! Nhất định hôm khác hai cháu phải tới đây ăn với bác đó nghen, bộ chê thức ăn nhà hàng tui dỏ hay sao mà không ăn?
          Thiện cũng cười theo:
          - Dạ đâu có… chỉ là vì…
          - Thôi, bác nói chơi mà, cháu không phải ngại!
          Ông Lập Phát cười ha ha vỗ vai Thiện.
          - Mà nè, không ăn gì thì cũng phải uống một chút chứ, chẳng lẽ hai cháu tới đây rồi về không như vậy sao?
          Ông Lập Phát nói tiếp.
          Thiện cười:
          - Dạ, lúc mới vào đây tụi cháu có gọi đồ uống rồi, anh bồi bàn câm ấy sao cháu thấy quen mặt ghê bác à!
          Ông Lập Phát ngạc nhiên:
          - Ủa, trong nhà hàng của bác làm gì có anh bồi bàn nào bị câm nhỉ?
          Thiện trố mắt:
          - Cháu… cháu không biết có phải anh ấy bị câm không nữa… chỉ tại cháu thấy anh ấy chỉ vào miệng mình mà không nói năng gì? Cái anh ốm cao, có nước da trắng nõn như công tử bột ấy!
          Ông Lập Phát dường như đã linh cảm thấy có chuyện không bình thường ở đây nên ông không dám hỏi thêm gì nữa, cũng không cản khi Thiện và Loan chào từ giã ra về.
          Tiễn chân Thịên và Loan ra tới cửa xong, ông Lập Phát vội vã đi nhanh xuống bếp đứng nhìn qua một lượt.
          Ở trong bếp, ngoài hai đầu bếp chính là ông Tân và Dũng là đội ngũ phụ bếp và bồi bàn rất đông đúc, nhưng chắc chắn không có một người có dung mạo giống như Thiện vừa diễn tả lúc nãy, không có một người nào có nước da trắng nõn đâu, ông Lập Phát quả quyết như thế!
          Bởi vì tuy nhà hàng rất đông nhân viên phục vụ, nhưng ông Lập Phát không thuê theo kiểu giờ công mà là thuê tháng, nên không có trường hợp người làm ra vô thay đổi xoành xoạch đến nỗi ông không nắm bắt được.
          Ông Lập Phát lại là người chu đáo, tinh tế, ông rất quan tâm đến đội ngũ phục vụ trong nhà hàng của mình, mỗi một nhân viên ông đều biết được sơ lược về hoàn cảnh và nhân thân của họ.
          Vậy thì cái người lúc nãy Thiện gặp là ai? Ông Lập Phát đành chịu, không thể nào biết được, ông đang cố dẹp đi cái câu trả lời đang nằm sẵn trong đầu, đó là… người phục vụ ấy không nằm trong đội ngũ của ông, không thuộc về thế giới này…
          Tới giờ phút này, sau rất nhiều việc kỳ quái đã liên tiếp xảy ra trong nhà mấy ngày gần đây đã làm ông Lập Phát tin một điều là ma quỷ đang bắt đầu lộng hành rồi!
          Ông Lập Phát hối hận vì ông đã quá coi thường các thế lực cõi âm, hơn một năm nay ông không hề cúng kiếng gì cho họ, ngoại trừ lần đầu tiên khi mới dọn về. Ông tự trách mình và quyết định sẽ làm lễ cúng cầu siêu thật đàng hoàng cho họ. Chỉ mong họ đừng quấy phá gì thêm nữa, để cho ông được yên ổn làm ăn, chứ nếu cái tin nhà hàng Trùng Dương có ma mà bị phát tán ra ngoài thì lập tức sẽ làm sống dậy những câu chuyện hoang đường đơm đặt trước đây, và cái viễn cảnh rõ ràng trước mắt là nhà hàng của ông sẽ phải đóng cửa dẹp tiệm thôi!
          Ông Lập Phát vừa suy nghĩ vừa đi dần về phía bàn có người anh đang ngồi đợi, trên mặt ông không giấu được vẻ lo lắng và căng thẳng.
          Ông Hai nhìn em chăm chú một lúc rồi hỏi:
          - Nè chú, bây giờ chỉ còn lại anh với chú, có chuyện gì chú nói cho anh nghe thử coi có giúp được gì không? Anh thấy sắc mặt chú không được bình thường, chắc có chuyện gì nghiêm trọng lắm hả?
          Ông Lập Phát buông người xuống ghế, lên tiếng hỏi:
          - Anh… anh có tin vào chuyện ma quỷ không? Hồi nhỏ em nhớ có lần anh kể em nghe là anh đã gặp ma, mà có thật không vậy?
          Nghe ông Lập Phát hỏi vậy là ông Hai đã có thể lờ mờ đoán ra việc gì rồi, hèn gì trông mặt mày ông em cứ đờ đẫn như thế.
          Ông Hai cười chia xẻ:
          - Lúc nhỏ là anh chỉ nói dóc để hù chú thôi, người và ma âm dương khác biệt, người có cấm kỵ của người thì ma cũng vậy, nếu biết rõ lằn ranh giới giữa ma và người và mình không làm điều gì trái với lương tâm, không làm ác thì ma không thể hại mình được, gặp ma coi như cũng là một duyên phận ...
          Ông Lập Phát nóng nảy:
          - Em không làm điều gì trái với lương tâm, cũng không ham gặp ma để làm gì… Cái duyên phận đó để khi khác mình bàn tới đi! Bây giờ anh nói cho em biết, ma sợ nhất điều gì, và mình làm cách nào để các vong hồn được siêu thoát không? Ý em là ...giải oan cho “nó” để cho người sống được yên tâm hơn?
          Ông Hai vẫn bình tĩnh:
          -Chú để yên anh nói, ông bà mình hồi xưa đã có những cách trị ma rất công hiệu, như là dùng cây dương liễu, cây dâu tằm để đánh ma. Ma là âm, thuộc lạnh, sợ những gì nóng, cho nên ông bà mình dùng máu tươi, mà phải là máu của con chó mực, tức là chó đen tuyền, rồi những vật được cho là ô uế như quần áo dơ của đàn bà trong những ngày hành kinh...
          Nói tới đây, ông Hai cười nhẹ như để trấn an ông Lập Phát, ông tiếp:
          -Vụ quần áo dơ đàn bà và máu tươi chó mực thì ở đây, nhất là những nơi công cộng không nên dùng tới, nhưng có một chuyện anh nghĩ chú có thể làm được... đó là nuôi một con chó. Chó là loài vật có linh tánh, nhìn được bóng ma, và có thể báo hiệu cho mình biết, có điều... có điều... nhà hàng ăn không tiện nuôi súc vật, không hợp vệ sinh, theo anh nghĩ, chú có thể xây một cái chuồng chó xa khu nhà bếp, tối đến mới thả chó ra. Nếu chú muốn, chiều nay anh có thể xin ngay cho chú một con, hàng xóm bên cạnh nhà anh có giống chó bẹc giê mới đẻ được một lứa, giống chó này dữ lắm, người còn sợ, huống hồ gì ma...
          Ông Lập Phát như vớ được cái phao:
          - Sao anh không nói sớm? Có vậy mà em không nghĩ ra, nuôi chó đâu có tốn nhiều cơm gạo, em nhờ anh, anh đi xin liền cho em đi, có nó em mới ăn ngon, ngủ yên được!
          Đột nhiên, ông Lập Phát vỗ trán, những sự kiện lạ liên tiếp xảy ra làm ông hồ đồ quên khuấy đi mất, ông sực nhớ ra chuyện lúc trưa:
          - Hèn gì... hèn gì hồi nãy mấy con chó đằng sau dãy nhà bên kia cứ sủa hoài, làm em cũng cảm thấy không ổn, em cứ nghĩ không lẽ ban ngày ban mặt mà có trộm! À này anh Hai, em hỏi câu này có hơi ngớ ngẩn, giống chó bẹc giê tuy có dữ thiệt, nhưng dù sao cũng là chó con, hù ăn trộm còn khó nữa là đuổi... ma? Ý em muốn nói... chỉ còn có một tháng là tới ngày đám cưới của thằng Thiện, em chỉ sợ...
          - Trời ơi, chú sợ quá hoá khờ rồi sao? Ma có ma mới ma cũ, nhưng chó thì không cần, chó con mà anh nói đã được sáu tháng tuổi rồi, có răng, biết sủa từ lâu rồi...
          Ngừng một chút để uống miếng trà lấy hơi, ông Hai nói tiếp:
          - Ma hù người bằng bóng thì chó hù ma bằng tiếng sủa. Người sợ ma vì ma trong tối, người ngoài sáng, bây giờ có con chó báo động dùm, biết đâu đám ma này đỡ lộng hành, tác yêu, tác quái.
          Ông Lập Phát lại giật mình, ông tính hỏi lại tại sao ông Hai kêu là “đám ma” mà không phải là "con ma", không lẽ ông Hai biết được sự tình có tới “hai con ma” bị chết oan?
          Tuy nghĩ vậy nhưng ông Lập Phát im lặng, từ hôm qua đến nay, ông đã gặp những chuyện bất ngờ và khó hiểu, có lẽ còn nhiều chuyện ông chưa biết mà ông Hai lại biết rõ hơn ông. Bởi vì trước đây, khi nghe ông có ý định mua khu biệt thự này, chính ông Hai đã hết lời ngăn cản. Ông Lập Phát vẫn nhớ rõ lời anh mình nói khi đó:
          - Chú đừng liều lĩnh như vậy, khu đất đó không yên ổn đâu, nếu chú không nghe lời mọi người cứ một mực làm theo ý mình thì sẽ có ngày chú phải hối hận đấy!
          Thật sự thì mãi cho tới lúc này ông Lập Phát vẫn không hề hối hận chút nào về sự quyết định liều lĩnh của mình ngày ấy. Ông chỉ cảm thấy bực mình và lo lắng mà thôi.
          Ngay chiều hôm đó ông Hai mang đến cho em mình một chú chó con rất đẹp. Gọi là chó con vì tuổi đời của nó còn nhỏ, chứ thoạt nhìn nó là một chú chó to lớn lắm rồi!
          Ông Lập Phát rất thích con chó này, thích vì nó đẹp mà cũng là vì hy vọng có nó, có tiếng sủa của nó sẽ xua đuổi được tà ma lẩn khuất quanh đây.
          Các nhân viên trong nhà hàng cũng thích con chó ấy lắm, đặc biệt là Dũng. Anh nhanh nhẹn đặt cho nó một cái tên mà theo lời Dũng nói, đó là tên của con chó mà anh nuôi hồi nhỏ, con chó “khôn như người” vậy! Ông Lập Phát không cần biết tên nó là gì, chỉ nghe câu “khôn như người” là ông đồng ý ngay. Thế là chú chó nhỏ đã có một cái tên ngay khi vừa tới nhà hàng Trùng Dương, Lúc – Ky, đó là tên gọi củachú chó nhỏ.
          ***
          Một đêm không trăng sao, chìm trong bóng tối tĩnh mịch, nhà hàng Trùng Dương im lìm say giấc ngủ, mọi người đã ra về từ lâu.
          Thỉnh thoảng mới có một ánh đèn xe hơi ngoài đường lớn chạy ngang rọi vào khung cửa kính lóe lên thành những vệt dài rồi tắt ngúm, trả lại bóng tối cho nhà hàng.
          Từng tiếng động nhỏ cũng làm con chó Lúc – Ky ngóc đầu lên vểnh tai nghe ngóng. Ban ngày Lúc – Ky nằm dài ngủ vùi trong chiếc lồng sắt to đùng được ông chủ đặt làm riêng cho nó, nhà hàng bao nhiêu người ra vô nó không cần để ý. Tới đêm mới là lúc Lúc – Ky làm nhiệm vụ.
          Một vệt trắng mờ vụt bay ra từ trong đám lá của cây ngọc lan, tiến dần về cửa bếp, cánh cửa run rẩy kẽo kẹt mở ra từ từ cho bóng trắng lách vào.
          Lúc – Ky nhổm dậy, chiếc mũi ướt của nó như ngửi được một điều gì không bình thường, nó rít lên từng chập rồi từ trong chiếc chuồng con, với những bước chân êm như nhung, Lúc – Ky rón rén bò ra nhìn lên tàng câ. Cặp mắt của Lúc – Ky chiếu ra những tia sáng hung dữ, lông cổ con chó dựng đứng hẳn lên, Lúc – Ky khum hai chân trước thủ thế, gừ gừ trong cổ họng, nó đã nhìn ra trên ngọn cây cao, giữa cành lá rậm rạp, thêm một bóng đen khác xuất hiện.
          Lúc – Ky chạy vụt ra, nó quên khuấy mất sợi dây cột cổ không đủ dài, giựt ngược cả thân mình Lúc – Ky ra phía sau làm nó loạng choạng. Lúc – Ky không nao núng, lần này nó đứng lại ngửa cổ cất tiếng sủa vang, tiếng sủa của Lúc – Ky như đánh thức lũ chó hàng xóm, cả đám bạn của nó cùng cất tiếng, những tiếng chó tru truyền đi vang cả một khu phố. Bóng đen bị tiếng chó sủa làm cho khựng lại, im lìm một hồi thấy Lúc – Ky không tiến được xa hơn ngoài chu vi mấy thước từ cái chuồng con góc sân, bóng đen thản nhiên tiến vô nhà hàng Trùng Dương bằng lối cửa bếp, cánh cửa khép lại sau lưng và tiếng sủa của Lúc – Ky vẫn vang lên xua đuổi không ngừng .
          Sủa một hồi cảm thấy mệt, Lúc – Ky lững thững đi qua đi lại dòm chừng vô cánh cửa bếp, miệng nó không ngớt gầm gừ dọa nạt. Hai tai con chó rung động, nó nghe được tiếng còn tiếng mất văng vẳng từ trong "căn nhà của ông chủ", những tiếng nói chuyện thầm thì rền rĩ như khóc than, thì ra hai cái bóng, một trắng, một đen đang cãi nhau:
          - Em van anh, anh hãy tha cho họ, anh hại em chưa đủ hay sao mà còn muốn hại thêm người khác? Cũng tại vì em mà giờ đây em trở thành cô hồn ma trơi ...
          Giọng khác ồm ồm, chắc là đàn ông, giận dữ cất lên:
          - Cô im đi, tôi đã đợi cơ hội này một năm trời rồ. Có trách là trách số mạng tụi nó xui xẻo, nhất là cái con nhỏ đó, tôi thấy nó y hệt như cô lúc còn sống...
          Có tiếng khóc rấm rức của người phụ nữ:
          - Em đã lỡ gây ra lầm lỗi, đã làm cho anh bị tổn thương nặng nề, nhưng anh đã bắt em đền bằng mạng sống của mình rồi còn gì, sao lòng thù hận trong anh vẫn chưa nguôi vậy? Họ đâu có lỗi gì với anh? Em xin anh, em xin anh đó, hãy tha cho họ đi anh…
          Tiếng người đàn ông hằn học:
          - Không đời nào! Đây là nhà của tôi, đây là nơi tôi đã phải sống những ngày đau khổ, tuyệt vọng đến cùng cực. Tôi không cho phép bất cứ ai ngang nhiên phô bày cái hạnh phúc lứa đôi của họ ở nơi này… Hừ… cô nói cô đã đền tội bằng mạng sống của cô à? Vậy còn tôi thì sao? Vì cái gì, vì ai mà tôi bây giờ cũng là một oan hồn vất vưởng?
          Những cánh cửa sổ phía ngoài nhà hàng tự động mở ra rồi đóng lại từng chập, có lẽ con ma đàn ông kia ngứa tay muốn đập phá cho hả cơn giận chất chứa trong lòng hắn.
          Gió lốc từ ngoài cửa sổ cuốn theo một lớp bụi mù hất tung tượng ông Địa ngã lăn ra mấy vòng rồi úp mặt xuống đất.
          Ngoài sân, con chó Lúc – Ky lại sủa lên từng hồi cảnh cáo.
          ***
          Chỉ còn đúng một tuần nữa là đám cưới mà Thiện và Loan lại cãi nhau. Vẻ mặt đau khổ, những giọt nước mắt của Loan và nhất là câu nói của cô làm đầu óc Thiện muốn nổ tung ra:
          - Em nói sao? Đình lại đám cưới lại à? Thiệp đã gửi, nhà hàng đã đặt, rồi bây giờ em lại như con nít, nói đổi là đổi? Em nói em có điều khó nói, khó xử, nếu em coi anh là chồng em, thì tại sao không để cho anh cùng xử cùng chia xẻ với em, hả Loan?
          Giọng nói tuy nóng nảy nhưng ấm áp đầy thương yêu của Thiện làm Loan càng thấy hối hận. Cô cúi đầu, kể lại sơ qua về người yêu cũ mà cô đã quen hồi mới chân ướt chân ráo vào Đại học.
          Sợ Thiện buồn, Loan không dám dài dòng chi tiết nhiều, cô chỉ nói vì tính tình hai người không hợp, Loan quyết định chia tay chỉ sau một thời gian ngắn quen nhau.
          Rồi sau đó Loan gặp Thanh, hai người yêu thương nhau thắm thiết. Từ lúc đó tới giờ, Loan không còn liên lạc với người cũ nữa.
          Sau này không biết tình cờ hay cố ý, hắn đã chuyển về công tác ở một công ty có quan hệ làm ăn mật thiết với công ty của Loan. Rồi một lần Loan đến gặp đối tác để bàn việc, tình cờ đã gặp lại hắn. Loan chỉ chào hỏi qua loa và cố tình tránh mặt, nhưng hắn vẫn bám lấy không thôi.  Đã mấy lần Loan từ chối lời mời đi uống nước của hắn, rồi đổi số phone, nhưng hắn vẫn không buông tha, nói nếu Loan không đổi thái độ, hắn sẽ tìm cách nói chuyện với Thiện và sẽ nói những điều không có lợi cho cô. Đó là điều mà Loan sợ nhất vì hắn là người dám nói dám làm, bản chất hắn lại không lương thiện, có thể đơm đặt ra nhiều chuyện để gây hiểu lầm giữa Thiện và cô.
          Thiện nhìn Loan chăm chú, ánh mắt của anh làm Loan ngượng ngùng hơn, cô rụt rè hỏi:
          - Anh có giận em không anh Thiện? Anh còn thương em và muốn giữ ngày cưới của tụi mình không hả anh?
          Thiện không trả lời mà hỏi ngược lại Loan:
          - Anh đang tự hỏi là em có thương anh không mới đúng, chuyện chỉ có vậy mà sao em không kể cho anh nghe? Hồi đó em quen với ai cũng là chuyện quá khứ, nếu bây giờ em thay đổi, anh mới trách em.
          Loan lại khóc, cô bối rối quá, người tình cũ như bóng ma, lúc nào cũng lởn vởn làm cô sợ hãi, cô đi đâu hắn cũng tìm ra như để nhắc nhở cô không thể nào thoát được bàn tay của hắn.
          Loan nắm tay Thiện như tìm một sự che chở:
          - Nói ra cho anh nghe em mới đỡ sợ, quen với người này đối với em là một lỗi lầm lớn. Có lẽ anh sẽ nghĩ là em lo vớ vẩn, em có linh tính là tới ngày cưới của hai đứa mình, hắn sẽ tới phá!
          Thiện siết chặt tay Loan:
          - Em đừng lo lắng nữa, đã có anh đây rồi! Chúng mình thật lòng yêu thương nhau thì dù hắn có dùng bất kỳ âm mưu thâm độc nào cũng không thể chia cắt được chúng ta.
          Loan vô cùng cảm động trước tình yêu mà Thiện dành cho mình. Cô ngã đầu lên vai người chồng sắp cưới để mặc cho những giọt nước mắt hạnh phúc tuôn ra…
          ***
          Khí hậu ở thành phố biển này thật lạ, mới mấy giờ trước còn nắng chang chang, vậy mà chỉ một loáng sau trời lại mưa tầm tã.
          Ông Tân làu bàu, bước thấp bước cao, cố tránh mấy vũng nước mưa trước khi mở cửa sau vô nhà bếp. Hôm nay Dũng bị cảm cúm không đi làm được, ông Tân phải đi xe buýt tới nhà hàng, tuy vậy ông không vội vã, vì ông biết trời mưa, nhà hàng sẽ vắng khách, ông sẽ có dư thời giờ uống cà phê và đọc báo.
          Tửng, cậu phụ bếp nhỏ tuổi, trí óc hơi chậm phát triển nhưng được cái rất siêng năng là hiền lành như cục đất. Đây là cậu nhỏ mà chính ông Tân đã nài nỉ ông chủ Lập Phát nhận vào giúp việc trong bếp cho ông.
          Bây giờ thì Tửng đã quen việc, giúp ông Tân được rất là nhiều việc, nào là gọt khoai, tỉa ớt, ngay cả việc xào mì ông cũng để cho Tửng làm luôn. Nay mai, có lẽ ông sẽ bàn với ông chủ về việc tăng thêm tiền lương cho Tửng.
          Ông tân còn dự định nói cho ông chủ biết tới ngày nhà hàng làm tiệc cưới, ngoài việc phải mượn thêm người chạy bàn cho ngày đó, ông sẽ cần thêm nhiều phụ bếp nữa.
          Từ hai tuần nay, ông Tân đã bình tĩnh trở lại, không phải là vì có thêm con chó Lúc - Ky làm hộ giá ở sân sau, lý do là ông chủ Lập Phát đã thoả thuận cho ông Tân hưởng thêm một khoản tiền nữa mỗi tháng và nhờ ông đi tìm người cầu kinh siêu độ cho đôi vợ chồng chết oan trong khu biệt thự này.
          Thấy Tửng đang đứng ngó mưa, mắt nó đang ngó ra phía sân sau, ông Tân gọi:
          - Nè Tửng, làm biếng hả mậy? Bày đặt mơ với mộng, hỏng biết ngó gì mà ngó hoài, không chịu vô lo soạn đồ đạc...
          Tửng lắc đầu, đưa tay ra chỉ về phía chuồng chó góc sân, nó gọi:
          - Lúc - Ky? Lúc - Ky?
          Ông Tân tò mò ngó theo, giờ ông mới nhớ tới con chó. Làm thân chó cũng sướng, trời mưa kiếm một góc nằm ngủ. Chuồng chó tối thui, nhìn kỹ ông Tân biết là chuồng trống không, vì sợi dây cột cổ Lúc - Ky  nằm trơ trọi phía ngoài chuồng...
          Con chó Lúc - Ky đã đi mất rồi!
          Con chó Lúc - Ky bị mất tích, ông Tân không quan tâm cho lắm, việc mà ông bực mình nhất là con dao bầu của ông treo trên tường lại không cánh mà bay.
          Ông Tân hầm hầm đi tới đi lui, kéo từng ngăn kéo, mở cả cái tủ lạnh ra coi cũng không thấy con dao đâu hết.
          Ông Tân ngó Tửng với vẻ ngờ vực, nó là người tới sớm nhất, nãy giờ nó đứng sững nhìn ông với vẻ sợ hãi.
          Dạo này ông thấy Tửng hay mắt la mày lét ngó trộm ông. Không biết đám phụ việc trong bếp có xúi biểu nó làm điều gì không nữa?
          Thường ngày tuy ông Tân luôn tỏ ra thân thiện với Tửng, mỗi khi vui vẻ, ông trò chuyện, chỉ bảo Tửng rất tận tình. Nhưng những lúc ông nổi nóng, mặt chú đỏ lên, mắt chú tròn vo, môi dưới của chú trề ra làm cho Tửng sợ phát khiếp lên được, nó có cảm tưởng như ông Tân sắp sửa đem nó ra làm cái thớt băm nát ra như tương để cho hả cơn giận.
          Từ khi hành nghề nấu bếp tới nay, ông Tân lúc nào cũng nhớ nằm lòng bài học đầu tiên sư phụ dạy cho ông: Muốn nấu ăn cho ngon, quan trọng nhất là thức ăn phải tươi, bếp lửa phải hồng, bảo kiếm phải bén.
          Không có con dao làm bạn, ông Tân cảm thấy bứt rứt, bàn tay của ông lại ngứa ngáy.
          Ông Tân linh cảm có chuyện gì ghê gớm đã xảy ra trong căn nhà bếp mà nhất thời ông đoán không ra, mỗi khi bàn tay trái của ông giựt giựt là ông biết có điềm không lành.
          Sau khi lục lọi như muốn lật tung cái nhà bếp, ông Tân thất vọng thở dốc, ông kéo một chiếc ghế đẩu nhỏ ra tạm ngồi xuống, đưa mắt nhìn mông lung xuống sàn bếp với hy vọng cuối cùng, tia mắt ông dừng lại ở góc cửa bếp, có một vài vết máu rơi rớt còn đỏ tươi hiện rõ trên nền gạch men trắng.
          Chấm ngón tay xuống vệt máu khô, ông Tân ngơ ngẩn xuất thần, ngày nào ông và Dũng cũng lau chùi sạch sẽ nhà bếp trước khi ra về thì làm sao bây giờ có vết máu vương vãi ở chỗ này được?
          Ông Tân ngờ ngợ là những vệt máu này mới xuất hiện đây thôi.
          Ngoài trời, mưa vẫn rơi như trút nước, tàn lá cây ngọc lan làm cho cảnh vật đã tối lại tối hơn, những cành lá xanh đen run rẩy từng hồi, nước mưa được thể cuốn theo chiều gió, vội vàng xối từng hàng nước dài thành một bức màn trắng đục, rửa sạch đi những bụi bậm trên mặt đất.
          ***
          Loan giật mình mở mắt, cảnh vật chung quanh làm Loan hốt hoảng chống tay ngồi dậy, tưởng mình nằm mơ, cô lấy tay đập nhẹ vô đầu, đầu cô đau quá, không, cô không nằm mơ, trước mắt cô là bóng đêm mát rượi, cái mát rượi của làn gió đêm hòa cùng với mùi thơm thoang thoảng của hoa ngọc lan làm cho Loan tỉnh táo hơn.
          Loạng choạng đứng dậy, Loan rùng mình nhận ra mình đang đứng trên đất với đôi chân trần, phải mất đến vài phút Loan mới vùng bỏ chạy ra khỏi con hẻm.
          Đêm đã khuya...
          ***
          Ngày trọng đại đã đến.
          Thật là kỳ lạ, Loan không cảm thấy nôn nao và háo hức chờ đợi như một cô gái sắp sửa lấy chồng. Những lúc tự mâu thuẫn với chính mình, Loan có cảm tưởng như có một tiếng nói vô hình nào đó, đang cố gắng nhắc nhở bên tai cô, phải rời xa nơi này, chạy trốn cho thật xa, xa tất cả mọi người.
          Đứng trước bồn rửa mặt, Loan rùng mình ớn lạnh, không khí mát mẻ buổi sáng sớm cùng với tiếng chim hót vang ngoài khung cửa sổ, báo hiệu một ngày đẹp trời nhưng Loan lại cảm thấy cô đơn lạnh lẽo, thế giới đáng yêu này, sự sống đầy hy vọng ngoài kia, hình như không còn thuộc về cô nữa. Nhìn khuôn mặt hốc hác của mình trong gương, Loan chớp mắt mấy cái, dùng đôi bàn tay lùa từng làn nước mát lên rửa mặt cho tỉnh táo, cô nhớ lại giấc mơ đêm hôm qua, cô bị té xuống một cái hố sâu cùng với Thiện. Cái hố nhỏ hẹp và khó thở, khi Loan ngước đầu lên nhìn Thiện, cô nhìn thấy một khuôn mặt rữa nát với hai hốc mắt sâu hoắm, bộ mặt kinh tởm đó cứ từ từ cúi sát xuống và nó đang định hôn cô... Loan vùng vẫy và cố gắng thoát ra khỏi cơn ác mộng.
          Tiếng gõ cửa phòng tắm dồn dập khiến Loan giật mình trở về hiện thực, dạo này cô hay bị bịnh lãng trí, giống như người sống trên mây.
          Loan nói lớn:
          - Xong rồi, con ra liền đây...
          Cả một buổi sáng quay cuồng, nào là trang điểm, chải tóc, sau đó tới thủ tục đưa dâu, rước dâu dài dòng, lời thề hứa trọn đời... cuối cùng Loan cũng được thoải mái ngồi bên Thiện trong chiếc xe hơi màu trắng.
          Thiện hôn lên tóc Loan, mái tóc được chải bới xịt keo một cách cẩn thận trở nên cứng ngắc, hai bên lọn tóc mai rủ xuống ôm lấy khuôn mặt Loan. Khẽ đưa tay vuốt tóc vợ, Thiện hỏi:
          - Mệt không em?
          Loan lắc đầu, cô tựa đầu vào vai Thiện, nhớ đến hình ảnh cái đầu lâu trong giấc mơ, Loan bật người ngồi dậy, Thiện ngạc nhiên:
          - Em sao thế? Ráng mà nghỉ ngơi một tí, lát nữa tụi mình còn phải đứng chào khác. Vừa rồi làm lễ cưới em cứ như người mất hồn!
          Loan ngơ ngác hỏi cho có lệ:
          - Vậy hả anh? Em có nói sai, làm sai gì không?
          Thiện mỉm cười nói giỡn:
          - Thôi chết rồi, anh lấy phải cô vợ khờ khạo rồi, mới đây mà em đã quên, em đâu có làm sai, lấy anh là một việc làm đúng nhất của em đó. À, anh nhớ rồi, em làm sai một việc nhỏ, lúc anh đeo nhẫn cho em, em quên... không có hôn anh!
          Xe hoa lăn bánh chầm chậm rẽ vô bãi đậu xe trước nhà hàng Trùng Dương.
          Nhà hàng hôm nay trang hoàng thật là lộng lẫy, hai cánh cửa lớn được mở rộng như chào đón, hai bên cửa là hai chậu hoa tươi rực rỡ cùng với những quả bong bóng trắng và hồng rải rác từ ngoài cửa vô tới trong nhà hàng.
          Màu hồng và màu trắng là hai màu nền trang trí cho tiệc cưới, theo ý của cô dâu và chú rể, khăn trải bàn màu trắng, trên mỗi bàn là những chậu hoa hồng cánh nhỏ.
          Nhân viên phục vụ trong nhà hàng, trừ đầu bếp và ông chủ, đều mặc đồng phục đỏ.
          Lần này ông Lập Phát tốn kém hơi nhiều, nhưng ông hy vọng trong một thời gian ngắn, vào những đám tiệc kế tiếp, ông sẽ mau chóng thu lại cả vốn lẫn lời.
          Xoa hai bàn tay vào nhau một cách hài lòng, ông Lập Phát nhìn đồng hồ trên tường, đã sáu giờ ba mươi phút chiều, coi vậy mà cô dâu và chú rể rất đúng giờ.
          Thiện dìu Loan bước từng bước chậm, một tay Loan vịn lấy Thiện, tay kia Loan phải túm lấy một góc chiếc áo cưới dài lê thê để bước đi khỏi vướng víu. Đôi giày cao gót nhọn hoắc càng khiến Loan khổ sở, không được thoải mái, toàn thân cô như đang đi trên sóng nước.
          Loan nhăn mặt hối hận, sau ngày hôm nay, cô sẽ cho đôi giày này vô thùng rác. Lúc mua giày ướm thử, cô thấy những hạt cườm lóng lánh đính chung quanh đôi giày thật xinh xắn, bây giờ chính những hạt cườm đó lại như gai nhọn đâm vào gót chân cô mỗi khi cô cất bước.
          Tuy đã bắt đầu vào đông nhưng khí hậu ở thành phố biển này vẫn còn nóng nực nên những chiếc máy lạnh trong nhà hàng đều được xử dụng tối đa.
          Thiện thở phào nhẹ nhõm khi bước hẳn vào phía trong nhà hàng, ánh sáng tự nhiên tối xầm hẳn lại, nhường chỗ cho không khí dịu mát dễ chịu. Ông Lập Phát niềm nở bắt tay Thiện hỏi một tràng:
          - Chúc mừng hai cháu, ba má cháu đâu rồi? Nhà hàng trang trí vầy hai cháu thấy sao?
          Thiện sung sướng nắm tay Loan, cảm động gật đầu:
          - Cám ơn bác, cháu đâu dám mong gì hơn, lát nữa bác ra chung vui cùng với gia đình cháu nha bác?
          Thiện đảo mắt nhìn về phía sân khấu, trên chiếc bàn nhỏ là ổ bánh cưới màu hồng bốn tầng đồ sộ xếp theo hình trôn ốc, rải rác trên mặt bánh điểm những cánh hoa màu đỏ tươi rất mỹ thuật. Thiện lo lắng nghĩ thầm, không biết từ giờ cho đến tối, bánh cưới có bị chảy ra thành nước không nữa.
          Ông Lập Phát kéo tay Thiện:
          - Ra đây mấy bác cháu mình chụp một tấm hình làm kỷ niệm, sợ lát nữa không có dịp!
          Ông Lập Phát và những người chạy bàn mặc đồng phục đỏ đứng tề chỉnh đằng sau cô dâu và chú rể, khuôn mặt của ai cũng cười rạng rỡ.
          Ông thợ chụp hình ra dấu:
          - Hai người trong góc tươi lên tí nhé, một, hai, ba...
          Ánh đèn flash loé lên, tiếng cười nói sau vài giây yên lặng lại tiếp tục ồn ào. Ông thợ chụp hình đứng ngẩn người ra, ông gãi đầu, hai người đàn ông và đàn bà có khuôn mặt trắng toát đứng bên phía bên phải cô dâu và chú rể, mới đây đã biến mất!
          Tiếng nhạc xập xình bên ngoài thỉnh thoảng lại vang lên vài âm thanh chát chúa lạc lõng khiến ông Tân khó chịu. Ông dằn mạnh con dao mới mua xuống tấm thớt, quay qua bên cạnh chú nói lớn với Dũng:
          - Ban nhạc gì đâu mà nghe cứ như nhạc đám ma!
          Nhà bếp chật chội một cách khác thường, hơi nóng từ những lò bếp sùng sục từ sáng đến giờ càng làm cho không khí ngột ngạt khó thở.
          Dũng đang quây quần với hai người phụ bếp bên cạnh, mỗi người ôm một cái chảo dầu to tướn.
          Đập cái xẻng vô chảo cho từng hạt cơm rơi xuống, Dũng nói như hét lên:
          - Nhạc sống hay vậy mà còn chê, có nhạc nghe là khá lắm rồi đó!
          Ông Tân quay đi lầu bầu những gì không rõ, bàn tay trái của ông lại run run.
          Ông tân bước từng bước nặng nhọc ra phía cửa bếp, cặp mắt mệt mỏi nhìn chăm chăm về phía cô dâu và chú rể, đúng vừa lúc Loan xoay người nhìn ông. Cô nhoẻn miệng cười như gặp lại người quen. Ông Tân luống cuống lùi lại, nép vào góc tường để tránh ánh mắt của Loan, đôi mắt có những tia lửa.
          Một bàn tay đột nhiên đập mạnh vào vai khiến ông Tân giật thót người suýt té, phản ứng của ông làm người kia chưng hửng:
          - Chú có sao không ?
          Thì ra là ông Lập Phát!
          Ông Tân mệt mỏi lắc đầu:
          - Dạ không, trong bếp nóng quá, tui đứng đây một lát cho mát.
          Ông Lập Phát nhìn ông Tân ái ngại, có lẽ vì quá lo lắng cho buổi tiệc ngày hôm nay mà gương mặt ông hốc hác hẳn, đôi mắt đen hõm sâu trên làn da tái ngắt.
          Ông Lập Phát an ủi:
          - Chú có mệt thì đừng đứng ở đây, chỗ này là lối ra vào, ra phía sân sau hít thở lát cho tỉnh táo. Có cần tôi dặn Dũng và mấy người kia lo giùm các món cho chú không?
          - Không sao đâu ông chủ. Tôi... được mà, bây giờ tôi đi làm ngay.
          ***
          Khi buổi tiệc cưới trở nên nhộn nhịp cũng là lúc trời chiều bắt đầu xâm xẩm tối.
          Con chó Lúc - Ky đi qua đi lại vẫy đuôi trước cửa lớn nhà hàng Trùng Dương, người nó lấm lem toàn bùn đất, nó buồn rầu rít lên từng tiếng nhỏ, nhưng không ai để ý đến nó.
          Lúc - Ky le lưỡi thở, nó đang hy vọng chờ đợi, biết đâu ông chủ Lập Phát nhìn ra sẽ trông thấy nó.
          Mấy ngày nay Lúc - Ky không dám về nhà, lang thang trong khu phố lân cận, Lúc - Ky bươi từng thùng rác kiếm ăn.
          Hôm nay nhà của ông chủ người ra, người vào tấp nập, mùi đồ ăn thơm lừng bay ra tận ngoài cổng lớn làm Lúc - Ky đói bụng cồn cào, thở hồng hộc.
          Mon men lại gần cánh cửa nhỏ phía bên hông nhà hàng, cánh cửa khép hờ, Lúc - Ky đưa cái mũi ướt vô ngửi, thơm quá, nào là mùi súp, mùi thịt quay, còn có mùi... ah... mùi gì đây, Lúc - Ky hít một hơi dài, mũi nó phập phồng... mùi người chết!
          Đưa một chân lên cào sồn sột vô cánh cửa, Lúc - Ky lại rít lên lo lắng, tiếng đàn hát cùng với tiếng cười nói ồn ào làm át hẳn âm thanh kêu cứu tuyệt vọng của nó.
          Quang cảnh bên trong thật là hào hứng, mọi người đang vỗ tay làm nhịp để hối thúc cô dâu và chú rể hôn nhau.
          Thiện từ từ cúi đầu xuống, khuôn mặt cô dâu đỏ hồng, hai hàng mi cong run rẩy, vợ tôi thật là đẹp, Thiện sung sướng nhủ thầm.
          Trong một thoáng ngắn ngủi hôn vợ, Thiện có cảm tưởng như hai người đang lao vào một cái hố sâu không đáy!
          ***
          Ông Tân vội vã bước ra sân, sau khi khép lại cánh cửa bếp. Trời đã tối, ông Tân hối hả bước đi như chạy trốn, đột nhiên ông kinh hãi nhận ra có vật gì đang di động từ phía cây ngọc lan lao về phía ông.
          Khẽ lấy tay dụi mắt, ông Tân há miệng á khẩu, trời ơi, con chó Lúc - Ky, nó đang dụi cái đầu đầy đất cát dơ bẩn vào chân ông. Bị ông Tân đá ra xua đuổi, Lúc - Ky không nản chí, nó lảng ra xa rồi chạy vòng quanh cây ngọc lan, công trình nó đào xới nãy giờ mới lôi được con dao bầu và một khúc chân... người rữa nát, Lúc - Ky vẫy đuôi nhìn ông Tân và cất tiếng sủa liên hồi.
          ***
          Giữa khung cảnh hỗn loạn, tiếng còi hụ của xe cảnh sát, tiếng la hét nhốn nháo của mọi người, ông Lập Phát phải đuổi đám khách tò mò lên phía trên nhà hàng, trong khi ông Tân đứng mửa thốc mửa tháo ở sân sau, miệng đắng nghét, toàn thân ông như lên cơn sốt rét, run lẩy bẩy.
          Bên cạnh ông Tân là Dũng và đám người phụ bếp, mặt ai nấy đều u ám buồn thảm.
          Nhà hàng Trùng Dương bao trùm một màu tang ngút trời . Tiếng nhạc đã tắt tự bao giờ, không kèn không trống, bàn tiệc ly chén lộn xộn, thức ăn không còn hấp dẫn nữa. Đám thực khách đứng ngồi không yên, một số người đứng tụm lại thành nhóm bàn tán cho đỡ sợ.
          Một bà khách với cái giọng the thé, có tên là bà Lý, biệt danh là bà Tám Lý, đang thao thao thêu dệt thêm thắt chung quanh cái xác người mới đào lên ở đằng sau nhà hàng Trùng Dương.
          Tuy chưa rõ nạn nhân là ai, nhưng dựa theo áo quần thì có thể là một người đàn ông. Không có lửa, sao có khói, người chết bị chôn ngay đằng sau nhà bếp, lẽ thường tình là đám người trong nhà hàng thể nào cũng biết, hoặc có dính dáng ít nhiều.
          Bà Tám Lý đoán xa đoán gần, chính chú đầu bếp có chín ngón tay là thủ phạm, vì con dao bầu, đào lên cùng với xác chết, là của chú, vừa rồi chẳng phải thằng nhỏ đần độn đã làm chứng và nhận diện con dao đó sa? Với vẻ khẳng định của một quan toà không cho tội nhân kháng cáo, bà Tám Lý đắc ý nói tiếp:
          - Vả lại cái bản mặt ông ấy cũng ngầu lắm! Múa dao là nghề của ổng mà. Nếu ổng không làm sao lại có tật giật mình sợ run như thế?
          Nhiều giả thuyết được đặt ra, có người còn nhân dịp này phao tin đồn nhảm, nói chắc như đinh đóng cột, người chết là tình địch của ông Tân!
          Trong lúc mọi người xôn xao, cảnh sát an ninh khu vực đứng chặn ngay cửa lớn, kêu gọi mọi người yên lặng và tuần tự khai báo tên tuổi, trả lời vài câu hỏi chi tiết quanh vụ án, sau đó có thể ra xe đi về.
          Những người làm việc trong nhà hàng sẽ là những người ở lại sau cùng.
          ***
          Khi đồng hồ trên tường điểm mười một giờ đêm, số người hiện diện trong nhà hàng không còn bao nhiêu, cô dâu và chú rể mệt mỏi ngồi trong một góc, chờ cảnh sát tới làm biên bản.
          Ông chủ Lập Phát buồn bã bước lại gần Thiện và Loan, giọng ông trầm xuống chia buồn, cũng là lời chia buồn cho bản thân ông:
          - Bác xin lỗi hai cháu và gia đình, thiệt tình ngoài ý muốn của bác, không ngờ ra cớ sự này. bác thiệt ngại quá, không còn mặt mũi nào gặp ba má cháu, khi nào về tới nhà, hai cháu cho bác gửi lời xin lỗi một lần nữa. Lắc đầu chán nản, ông Lập Phát nói tiếp:
          - Không tin cũng phải tin, có một chuyện mà bác dấu hai cháu, nhà hàng Trùng Dương thật sự có... ma!
          Thú tội xong, ông Lập Phát nhìn Thiện và Loan ngượng ngập, chuyện xác người chết một cách bí mật ông Lập Phát không biết nguyên nhân, nhưng ông tin là có liên quan đến mấy con ma xui xẻo kia.
          Cô dâu đang cúi đầu bỗng ngửng lên chậm rãi nói từng chữ , tiếng nói cô khàn đục trong cổ họng, cô phát âm một cách khó khăn:
          - Ngày trùng... giờ... trùng... đi về thôi!
          Trước thái độ kỳ lạ của Loan, ông Lập Phát và Thiện đều sửng sốt. Thiện ôm vai Loan lắc nhẹ, có lẽ Loan mệt mỏi và sợ hãi quá độ nên mới bị mê sảng.
          Một người cảnh sát mặc thường phục tiến lại gần ba người:
          - Xin lỗi, xin mọi người cho biết tên tuổi…
          Loan nhoẻn miệng cười, ánh mắt cô nhìn vào khoảng không, cô lập lại như mơ ngủ :
          - Tôi là… Nguyễn Thanh Vũ!
          Nói xong, Loan ngả người ra và cô ngất đi, không còn biết gì nữa.
          Loan giật mình mở mắt, ánh nắng lên cao ngoài khung cửa sắt khiến cô phải quay mặt đi trốn tránh, cô nhắm mắt lại suy nghĩ mông lung, đầu óc cô trống rỗng, tại sao cô không nhớ gì hết?
          Khi đã quen với ánh sáng, Loan ngồi dậy, cô đang ở trong một căn phòng có song sắt, một căn phòng trắng toát và không có đồ vật gì trong phòng ngoài cái giường cô đang ngồi.
          Loan loạng choạng đứng dậy, khi hai bàn tay cô chạm tới song sắt lạnh như đá, Loan bắt đầu la hét kêu cứu .
          ***
          Ngồi đặt hai bàn tay lên đùi, Loan ngoan ngoãn như một đứa bé, cô đang lắng nghe Thiện nói .
          Giọng Thiện đều đều mệt mỏi:
          - Anh sẽ chờ em cho tới lúc em hết bịnh, mọi người ở nhà ai cũng lo cho em. Anh vẫn không tin là em đã làm chuyện ấy, cho dù cảnh sát đã có bằng chứng, chứng minh em có tội. Họ nói hắn là người tình cũ của em, phải, chuyện đó anh biết rồi. Hắn cứ quấy rầy em, anh cũng biết, nhưng đó không phải là lý do em giết hắn, có phải không Loan?
          Loan gật nhẹ đầu, cô tựa người vào Thiện như tìm một sự che chở.
          Thiện nói tiếp:
          - Em còn nhớ hôm mình tới nhà hàng Trùng Dương trước đám cưới một tháng không? Hôm đó, anh đã gặp kẻ giết người, người đàn ông có nước da trắng nõn, anh không thể nào quên được nụ cười của hắn. Ông Tân có dẫn anh ra thăm mộ vợ chồng hắn, tên hắn là... Nguyễn Thanh Vũ!
          Ngừng lại vuốt tóc Loan, giọng Thiện nghẹn lại:
          - Có một sự trùng hợp là ngày chết ghi trên mộ bia của vợ chồng họ chính là ngày mười lăm tháng mười một!
          ***
          Sau chuyện ồn ào hôm đám cưới đầu tiên diễn ra ở nhà hàng Trùng Dương, ông Lập Phát đành phải tạm đóng cửa nhà hàng trong một thời gian ngắn.
          Trong thời gian ấy, ông Lập Phát khẩn trướng đi mời những thầy Pháp có tên tuổi, mời cả các nhà sư uy tín mà ông nghe giới thiệu để về cúng tà ma, dọn sạch những ám khí còn vướng vít ở khu đất đó.
          Ông tự thấy ân hận vì mình đã không tích cực làm những việc này trước khi bắt tay vào mở rộng việc kinh doanh.
          ***
          Loan cũng không bị xử tội nặng, vì theo giám định tinh thần cô có vấn đề, không làm chủ được hành động của mình.
          Sau một thời gian ở trại giam, Loan được giảm án tha về vì có thành tích đột xuất, đó là cô đã cứu được một bạn tù khi người này không may bị rơi xuống sông.
          Về nhà, tinh thần Loan vẫn chưa hoàn toàn bình phục, nhưng bằng tình yêu của mình, Thiện đã tận tình chạy chữa cho cô.
          Chỉ một thời gian ngắn sau Loan đã về được trạng thái cũ. Hai vợ chồng trẻ sống bên nhau ấm êm, hạnh phúc. Nhưng có một điều đặc biệt là mãi về sau này, không bao giờ Loan đặt chân đến nhà hàng Trùng Dương lần nữa, dù nhiều năm trôi qua, nhà hàng Trùng Dương lại làm ăn phát đạt hẳn lên, và những chuyện ma quái không hay ngày trước đã thật sự lùi sâu vào dĩ vãng!
          Thiện cũng chìu theo vợ, bởi vì dù sao, nhà hàng Trùng Dương cũng đã để lại trong ký ức hai người một kỷ niệm không vui!
          Hết
          Nguyễn Thị Mộng Thu 
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:43:33 bởi nguyenthu >
          #35
            nguyenthu 10.08.2009 21:11:57 (permalink)
            ĐỨA CON
             
            Cả xóm xôn xao bàn tán khi hay tin con bé Ty mới sáu tháng tuổi, con của chị Diễm qua đời. Mà phải nó đau bệnh gì cho cam, đằng này chính tay anh Thức, cha nó giết chết nó mới có chuyện để mọi người mổ xẻ mấy ngày nay.
            Sự việc bắt đầu từ một chuyện không đâu. Hôm ấy, mới sáng sớm chị Diễm đã dọn dẹp nhà cửa tinh tươm, cho bé Ty ăn bột và đã pha sẵn một bình sữa ủ ấm để trên bàn.
            Chị Diễm nói với chồng:
            - Anh ở nhà trông chừng giùm con bé Ty, em sang nhà bác Bảy giúp một tay, bên ấy có giỗ.
            Anh Thức cằn nhằn không, từ chối thẳng thừng:
            - Cô có đi đâu thì ẵm nó theo! Tui là đàn ông con trai, đừng bắt tui làm mấy chuỵên của đàn bà con gái!
            Chị Diễm nhìn chồng, mỉa mai:
            - Anh nói nghe hay quá! Anh là đàn ông, anh làm được gì cho cái nhà này mà lên giọng? Đàn ông trên đời này không có trách nhiệm gì với con cái hết sao? Đi phụ đám giỗ mà kêu ẵm con nhỏ theo, như vậy ở nhà còn hơn!
            Anh Thức khinh khỉnh:
            - Vậy thì mời cô ở nhà! Tui đâu có khiến cô đi!
            Chị Diễm tức giận:
            - Sống kiểu như anh thì vô kẹt núi sống một mình đi! Bà con chòm xóm có chuyện gì mình qua giúp một tay, mai mốt tới nhà mình mới có người giúp lại chứ?
            Anh Thức đập bàn quát lớn:
            - A! Cô giỏi thật đấy! Cô dám trù ẻo hả? Nhà mình có gì là có gì? Phải chăng cô muốn tui chết lắm? Được rồi, cô muốn nhà này có đám tang chứ gì? Chống mắt lên mà coi!
            Chị Diễm trào nước mắt:
            - Không ngờ anh là người ăn nói quàng xiên như vậy! Thôi được rồi, anh muốn nói gì thì nói, cứ ở nhà nói một mình cho sướng miệng đi. Con bé Ty ngủ rồi, không cần anh trông coi nó, tui đi chút xíu tui về!
            Nói xong, chị Diễm đi nhanh ra cửa, vừa đi vừa đưa tay lên quẹt nwosc mắt.
            Chị với anh Thức thành chồng thành vợ không phải do hai người tự ý yêu thương mà là do mai mối.
            Anh Thức quê ở tuốt dưới miệt Châu Đốc – Long Xuyên, cha mẹ không còn một mình trôi dạt về đây làm thuê làm mướn qua ngày kiếm sống. Chị Diễm cũng có hoàn cảnh tương tự. Nhưng chị hơn anh ở chỗ còn có được vài công đất và một mái nhà ọp ẹp để che nắng che mưa.
            Thấy hai người có hoàn cảnh tương đồng, lại là người hiền lành, chăm chỉ làm ăn nên bà con chòm xóm vun vào, cuối cùng họ cũng có một bữa tiệc nhỏ để chính thức thành chồng thành vợ.
            Hồi chưa lấy vợ, anh Thức rất được lòng chòm xóm vì cái nết hiền lành chất phác. Nhưng không hiểu sau, lấy vợ một thời gian anh lại thay đổi hẳn tính tình.
            Mặc dù hai vợ chồng cũng vẫn nghèo khó, tay làm hàm nhai nhưng anh Thức lại trở nên kênh kiệu và xa lánh xóm giềng, anh cũng hay chê bai những công việc mà người ta thuê mướn. Do vậy, thời gian làm việc của anh dần dần giảm lại rất nhiều, suốt ngày hầu như anh chỉ ăn rồi rong ruổi chơi bời khắp nơi, bỏ mặc chị Diễm một mình lo trước lo sau.
            Hai năm sau chị Diễm sinh bé Ty. Con bé bụ bẫm xinh tươi và dễ như cục đất. Đặt nó nằm chỗ nào là nó nằm im chỗ đấy, rất ít khi quấy khóc.
            Bé Ty là nguồn vui bất tận của chị Diễm. Có nó, chị Diễm không còn biết những mệt nhọc hàng ngày. Và chị cũng hy vọng có con rồi anh Thức sẽ biết lo, sẽ cố gắng làm ăn.
            Thế nhưng anh Thức thì vẫn chứng nào tật nấy. Chị Diễm khóc lóc, giận hờn hoài không được nên đành bỏ phế, coi như phải nuôi thêm một mịêng ăn trong nhà.
            Thời gian gần đây, tính tình anh Thức lại càng trở nên khó chịu. Anh gia trưởng một cách cực đoan, những cuộc cãi vã giữa hai vợ chồng ngày càng thường xuyên hơn, mặc dù chị Diễm cũng đã cố nín nhịn, chỉ những khi không thể chịu đựng nỗi nữa chị mới phải tức nước vỡ bờ!
            - Ổng dạo này giống như bị khùng vậy!
            Đó là câu mà chị Diễm thường nói với chòm xóm mỗi khi có ai phàn nàn anh Thức điều gì, mà cũng là câu để chị tự an ủi bản thân mình.
            Chị Diễm cự nự với chồng xong thì bỏ đi sang nhà hàng xóm. Mặc dù chị đã nói không cần nhờ anh trông con nữa, nhưng trong bụng chị vẫn đinh ninh khi chị đi rồi lẽ tất nhiên anh Thức phải có trách nhiệm với đứa bé.
            Nhà bà Bảy cách nhà chị Diễm không xa, chỉ hơn hai trăm mét. Khi đi tới cửa nhà bà Bảy, chị Diễm cẩn thận dặn mấy đứa nhỏ đang chạy giỡn trước sân:
            - Mấy đứa chơi ở đây có nghe bé Ty nhà cô khóc thì kêu giùm cô nghen!
            Mấy đứa nhỏ dạ rân, chị Diễm yên tâm xăng xái đi xuống bếp giúp bà Bảy chuẩn bị thực phẩm làm đám giỗ.
            Ngồi chưa bao lâu, tự nhiên chị Diễm cảm thấy nóng ruột vô cùng. Thấy đứa nhỏ đứng gần đó, chị gọi lại bảo:
            - Con chạy tới cửa nhà cô, nghe coi em có khóc không con?
            Đứa bé chạy đi, lát sau quay lại nói:
            - Em không có khóc!
            - Con thấy chú làm gì ở nhà?
            Chị Diễm hỏi thêm.
            - Dạ, chú đang ngồi uống nước trà.
            Đứa bé trả lời rành rọt.
            Chị Diễm yên tâm vừa làm vừa góp chuyện với các chị em trong bếp.
            Gần một tiếng đồng hồ sau, chị Diễm thấy công việc cũng đã vơi bớt nên đứng lên đi về.
            Vừa bước vô nhà, chị Diễm vội chạy ngay tới cái võng mà con bé đang ngủ nhưng không thấy nó đâu, cả anh Thức chị cũng không nhìn thấy.
            Tự nhiên trong lòng chị Diễm như có điều gì bất an, mặc dù chị cố nghĩ rằng có lẽ đứa bé thức dậy và chồng chị đã bế nó đi đâu đó!
            - Anh ơi! Anh!
            Chị Diễm ra sau nhà gọi lớn nhưng không nghe anh Thức lên tiếng.
            Chị lại đảo ra trước cổng đứng ngó dáo dác khắp nơi, không biết chồng mình bế bé Ty đi đâu mất.
            Chị Diễm trở vô nhà, định lấy nón đội để đi dài dài trong xóm kiếm chồng con, nhưng chị thật bất ngờ thấy anh Thức đang nằm ngủ trong buồng. Chị hoảng hốt lay gọi anh Thức:
            - Bé Ty đâu? Bé Ty đâu anh?
            Anh Thức ú ớ mấy tiếng rồi càm ràm:
            - Để yên cho người ta ngủ! Bực mình!
            Chị Diễm nhéo vào chân anh Thức một cái thiệt đau và hét lớn:
            - Con bé Ty đâu?
            Anh Thức mở mắt ra ngó chị rồi cười mai mỉa:
            - Cô giỏi lắm mà, cô đâu có cần tui trông chừng con! Cứ tự đi mà tìm nó, đừng hỏi tui!
            Chị Diễm xuống nước:
            - Anh làm ơn nói cho tui biết đi, anh giấu con nhỏ ở đâu? Tui van xin anh mà, anh làm ơn đi!
            Anh Thức cười ha hả:
            - Có vậy chứ! Đàn bà là phải vậy, đàn bà lúc nào cũng phải dưới quyền chồng…
            - Con đâu anh? Chỉ cho em đi, giờ này chắc nó đói lắm rồi đó!
            Chị Diễm cố gắng ngọt ngào.
            Anh Thức cười cười:
            - Không đói đâu, tui đã cho nó uống no say rồi, giờ nó ngủ ngon lắm rồi.
            Chị Diễm nghi ngờ nhìn chồng:
            - Nhưng nó đâu, anh chỉ cho em đi!
            Anh Thức bẹo má vợ:
            - Ngoan lắm! Phải chi lúc nào cô cũng hiền lành ngoan ngoãn như vầy có tốt hơn không? Thôi, để tui nói cho mà biết, nãy giờ tui dạy nó tập bơi, nó bơi giỏi lắm, trong lu nước sau nhà đó, ra mà coi, vui lắm!
            Chị Diễm bủn rủn tay chân, há hốc mịêng nhìn chồng mà không nói được câu gì.
            Đột nhiên chị như tỉnh lại, chị chạy ào ra sau hè, cúi đầu nhìn vào lu nước, thì trời ơi, cái áo màu đỏ của con bé đang bập bềnh trong đó.
            - Á………….
            Chị Diễm kêu thét lên một tiếng và ngã ra bất tỉnh.
            Lúc chị tỉnh dậy thì xác con bé đã được mấy người hàng xóm vớt ra để nằm trên bộ ván giữa nhà.
            Chị Diễm nhào tới bên cái xác bé bỏng của con mà vật vã kêu khóc. Anh Thức thì vẫn cứ ngồi rung đùi tủm tỉm cười hoài.
            Những người hàng xóm vừa thương xót chị Diễm, vừa sợ hãi liếc nhìn anh thức. Họ không hiểu chuyện quái quỷ gì đã diễn ra trong căn nhà này. Tại sao một đứa bé mới mấy tháng tuổi lại có thể chết trong lu nước, nếu không có người cố tình bỏ nó vào trong đó? Tại sao trước cái chết của con mà anh Thức lại có vẻ vui sướng đến như vậy?
            Người ta không dám hỏi han gì anh Thức, còn với chị Diễm thì càng không hỏi được gì. Chị đang hoảng loạn gần như phát điên, cứ một hai ôm xác con bé lên cho nó bú.
            Mấy người lớn tuổi trong xóm vừa khóc vừa phải giằng lấy đứa bé trong tay chị:
            - Nó đã chết rồi! Bây phải bình tĩnh lại mới được, Diễm à…
            Nhưng làm sao chị Diễm có thể bình tĩnh được trước cái chết thảm của đứa con yêu quý. Chị lăn lộn, chị khóc ngằn ngặt mà không còn giọt nước mắt nào rơi ra được nữa.
            Lúc công an đến nhà, chị Diễm vẫn chưa hoàn toàn tỉnh trí. Mọi người không ngớt lời động viên, khuyên nhủ, mấy chị trong hội phụ nữ địa phương cũng có mặt để chia sẻ nỗi đau quá lớn này cùng chị Diễm. Do đó chị đã có phần tỉnh trí.
            Chị Diễm nhìn anh Thức bằng đôi mắt vô hồn:
            - Chính anh ấy đã giết con bé!
            Mọi người giật mình hoảng hốt khi nghe chị Diễm nói vậy.
            - Chị bình tĩnh kể lại đầu đuôi câu chuyện cho chúng tôi biết. Tại sao chị lại khẳng định chồng chị đã giết chết đứa bé?
            Một anh công an lên tiếng hỏi.
            Chị Diễm oằn người một cái như cố đè nén cơn đau, rồi chị bắt đầu kể thật chậm rãi tất cả những gì diễn ra giữa vợ chồng chị từ sáng đến khi chị phát hiện ra xác đứa bé nằm trongl u nước sau nhà.
            Trong lúc chị Diễm kể, anh Thức vẫn ngồi rung đùi một cách khoái trá. Những người có mặt ở đó nổi cả gai ốc khi chứng kiến sự việc. Người ta bắt đầu xầm xì bàn tán:
            - Thằng Thức bị điên rồi, nhìn nó kìa, người bình thường nào lại như vậy?
            Một người xen vào:
            - Tui coi mòi thằng này hổng phải điên mà giống bị ma quỷ gì nhập vô quá! Mấy người nhìn cặp mắt nó coi, dễ sợ quá đi!
            Trong lúc những người dân bàn tán không ngớt thì các anh công anh ghi lời khai của Diễm. Xong đâu đấy họ bắt đầu hỏi tới anh Thức.
            - Xin anh cho biết, lúc chị Diễm đi rồi, chỉ còn mình anh ở nhà với đứa bé, đúng không?
            - Đúng!
            Mặt anh Thức vẫn nhơn nhơn.
            - Anh đã làm gì đứa bé sau đó?
            Anh công an hỏi tiếp
            - Tui đâu có làm gì? Tui ngồi đây uống nước, nó thức dậy đòi tập bơi thì tui cho nó đi bơi, có làm gì nó đâu?
            Cái cách trả lời tưng tửng của anh Thức làm mấy anh công an trở nên lúng túng. Sau khi hỏi thêm anh Thức một số câu nữa, công an quyết định mời anh Thức về trụ sở để chờ khám nghiệm thần kinh.
            Đứng lên đi theo mấy người công an mà anh Thức hí hửng như được người ta long trọng mời đi đâu đó.
            Cả xóm bu lấy nhà chị Diễm, vì thương cảm cho chị cũng có, vì tò mò cũng có, và vì đủ thứ chuyện trên đời nữa.
            Cuối cùng rồi đứa bé cũng được đưa đi an táng bằng cái quách nhỏ xíu của chú Sáu thợ mộc ở gần đó thương tình đóng cho.
            Từ lúc chôn đứa bé xong, chị Diễm gần như người ngớ ngẩn. Bà con chòm xóm thương tình thay phiên nhau chăm sóc và an ủi, đến gần một tháng mới thấy chị tạm nguôi ngoai.
            Về phần anh Thức, kết quả khám nghiệm cho biết anh mắc một chứng bệnh gọi là tâm thần dạng hoang tưởng, nên đã được đưa đi nhà thương điên để điều trị. Ở nhà thương mới có hai ngày, anh Thức đã nhảy lầu chết tại chỗ.
            Chị Diễm tiếp nhận tin đó một cách hờ hững như giữa chị và anh Thức chưa từng có mối dây liên hệ gì với nhau.
            Đám tang anh Thức diễn ra một cách lạnh lẽo, chị Diễm không đội tang chồng, cũng không để rơi một giọt nước mắt. Chị giống như một hình nộm cứ đi đứng trong nhà nhưng vô can với mọi thứ.
            Chị Diễm không hề nhắc tới bé Ty lẫn anh Thức, chị cũng không múôn nghe ai nhắc tới họ. Suốt ngày chị cặm cụi hết việc này đến việc khác và gần như kiệm lời đến mức tối đa. Ai nói gì chị cũng cười, nụ cười héo hắt.
            Rồi bất ngờ một hôm người ta nghe tiếng chị Diễm hát vang trong nhà. Tò mò, mấy người hàng xóm lấp ló rình xem điều gì khiến chị phấn chấn đến như vậy. Nhưng hoàn toàn không có gì lạ, chị Diễm đang cầm chổi quét nhà, vừa quét vừa líu lo ca hát.
            Nghe con dâu về kể lại sự việc bất thường đó, bà Bảy chắc lưỡi:
            - Tội nghịêp con nhỏ, có khi nào nó buồn quá hóa điên không? Thôi, tao phải qua đó thăm nó mới được!
            Bà Bảy với tay lấy khăn đội lên đầu rồi đi qua nhà chị Diễm.
            Chị Diễm đang nấu cơm thì thấy bà Bảy vào, chị lễ phép mời:
            - Bác Bảy ngồi chơi, con lỡ tay nấu nồi cơm chút.
            Bà Bảy cười:
            - Khách khứa gì đâu mà lo bây ơi, làm gì thì làm đi, tao ngồi đây được mà!
            Vừa nói bà Bảy vừa tự nhiên ngồi lên chiếc võng gần bếp và kiếm chuyện nói với chị Diễm:
            - Lúa nhà bây chừng nào cắt?
            Chị Diễm vui vẻ trả lời tất cả những câu hỏi của bà Bảy về chuyện đồng áng, mùa màng. Trông chị lúc này không khác gì khi bé Ty còn sống. Trên gương mặt chị cũng vẫn rạng ngời một niềm hạnh phúc chứ không còn ủ rũ héo tàn như mấy ngày trước đây.
            Nhìn chị Diễm, bà Bảy biết ngay có điều gì đó đã xảy ra với chị, nhưng bà không hiểu điều đó là điều gì?
            - Thấy bây vui vẻ vậy tao cũng mừng!
            Bà Bảy dò xét.
            Chị Diễm vun tro vào dưới đáy nồi cơm rồi đứng lên đi gần lại bà Bảy rồi lót dép ngồi cạnh đó nói chuyện:
            - Con biết rồi bác Bảy à, dù sao thì mình cũng phải sống, mà có vui mới sống nổi chứ, phải không bác Bảy?
            - Ờ, bây nói đúng đó! Nhưng…
            Bà Bảy nhìn chị Diễm chăm chăm.
            Chị Diễm cười lớn:
            - Bác Bảy đừng có lo, tại con đã ngộ ra được mọi việc rồi nên hổng còn buồn nữa chứ con không có tâm thần đâu mà bác Bảy sợ!
            Bà Bảy nắm lấy bàn tay chị Diễm nói giọng thương cảm:
            - Ừ, bác cũng chỉ mong sao con ổn định lại tinh thần, rồi mọi việc sẽ lại đâu vào đó thôi con ạ! Con còn trẻ, tương lai còn dài…
            Chị Diễm lắc đầu:
            - Con sẽ không lấy chồng lần nữa đâu bác Bảy ơi, đối với con như vậy là quá đủ rồi!
            Bà Bảy xót xa:
            - Bác hiểu nỗi đau mà con đang phải chịu đựng, nhưng theo thời gian nó sẽ vơi dần con à, rồi con sẽ mở lòng ra với cuộc đời thôi.
            Chị Diễm không nói gì, chỉ mỉm cười với bà Bảy.
            Ngồi nói chuỵên một lúc bà Bảy đứng lên cáo từ:
            - Thôi bác về nghen, bây có rảnh thì chạy qua tao chơi, ở nhà một mình làm gì, buồn lắm!
            Chị Diễm đứng lên tiễn bà Bảy ra sân.
            - Dạ, rảnh con qua liền!
            Chị Diễm vui vẻ nói.
            Sự việc chị Diễm đột ngột vui vẻ bất thường cũng khiến chòm xóm xôn xao một dạo, người ta tò mò tiếp cận để tìm hiểu chị, nhưng dù có cố gắng cũng không ai nhận biết được sự thay đổi đó là do nguyên nhân gì. Riết rồi thôi, mọi người quen với điều đó, họ cũng không xăm soi bàn tán nữa. Chị Diễm được yên thân với thế giới nhỏ bé của mình, không sợ ai dòm ngó nữa.
            Hàng ngày, sau mỗi lúc làm việc, chị Diễm thường đóng kín cửa và ở trong nhà. Ai hỏi thì chị nói dạo này chị nghiên cứu kinh phật, muốn được yên tịnh một mình để tụng niệm.
            Mà quả thật, chị lên chùa thỉnh về rất nhiều sách kinh. Mặc dù hồi bé không được ăn học bao nhiêu, nhưng chị Diễm đọc chữ thông thạo lắm. Hồi chưa lấy chồng, chị chuyên là người đọc các cuốn tiểu thuyết tình cảm lâm li bi đát rồi kể lại cho đám bạn gái trong xóm nghe.
            Cái xóm nhỏ mà chị Diễm sinh sống có một thói quen truyền đời. Hình như nhà ai cũng vậy, cứ vào khoảng bảy giờ tối là cửa đóng then cài, không còn ai lai vãng ngoài đường, trừ những trường hợp bất khả kháng như ốm đau, bệnh tật.
            Cái lệ này nghe nói xuất phát từ một tai nạn đã giết đi hơn phân nửa dân trong xóm. Chuyện do truyền miệng nên không biết tính chính xác được bao nhiêu, nhưng ai cũng tin, cũng sợ, mà dù không tin họ cũng sợ và đề phòng cho chắc ăn.
            Nghe kể rằng xưa kia làng này trù phú lắm. Người dân trong làng thường đỗ đạt rất cao vì có ông thành hoàng linh thiêng phò hộ. Người ta đã xây dựng một cái miếu rất to để thờ thành hoàng, cúng kiếng linh đình lắm.
            Năm đó có một cặp trai gái yêu nhau thắm thiết nhưng bị gia đình ngăn cấm, vì hai gia đình có thù với nhau từ trước. Cặp trai gái đã khóc hết nước mắt van xin nhưng không được người lớn động lòng. Chính vì vậy, họ quyết tâm dâng hiến cho nhau trọn vẹn rồi cùng chết với nhau. Nhưng khổ thay, họ lại chọn miếu thành hoàng làm phòng hoa chúc!
            Sau đêm đó, cặp trai gái kia không chết được nhưng họ lại mắc phải một căn bệnh quái ác, cả người nổi lên những nốt sần ngứa ngái không chịu nổi, gãi tới đâu là nước loang ra tới đấy, rồi thân người lở loét, đau đớn mà chết dần chết mòn.
            Căn bệnh đó đã lây lan hơn nửa số dân trong làng, người chết như rạ, tiếng khóc than vang trời dậy đất.
            Thành hoàng đã hiện ra và nói rõ nguyên do. Từ đó, dân làng cấm tiệt, không cho ai ra đường sau khi mặt trời lặn để tránh những điều tai hại tương tự như thế xảy ra.
            Câu chuyện nghe như huyễn hoặc đó hiện nay cũng chẳng mấy ai tin, nhưng họ đã quen với nếp sống ấy rồi, tối đến là ở rịt trong nhà khong đi đâu hết.
            Một đêm, cô con dâu nhà bà Bảy đau bụng đẻ. Anh chồng quýnh quáng chạy đi mời bà mụ tới lo cho vợ, gấp rút tới nỗi không kịp đốt đèn đốt đuốc gì mà cứ chạy thầm trong bóng đêm như vậy.
            Khi đi ngang qua nhà chị Diễm, bất ngờ anh chồng phải đứng sững lại vì anh thấy rõ ràng trong khoảng sân nhỏ trước nhà, chị Diễm đang nô đùa với một đứa bé con.
            - Có lẽ chị ấy rủ con cái nhà ai về ngủ cho vui!
            Nghĩ vậy nên anh chồng không quan tâm nữa mà mải miết lo đi tìm mụ cho vợ.
            Mấy ngày sau, trong lúc ngồi nựng đứa con đỏ hỏn, người chồng vô tình nói:
            - Tội nghiệp chị Diễm, sống một mình chắc buồn không chịu nổi nên phải mượn con người ta về ngủ với mình.
            Bà Bảy và cô con dâu giương mắt ngó anh ngạc nhiên.
            Bà Bảy hỏi:
            - Mầy nói con Diễm làm sao?
            Anh con trai cười ngất:
            - À… cái đêm con đi rước bà mụ, ngang qua nhà chị Diễm thấy chị chơi đùa với đứa nhỏ nào đó, vui vẻ lắm!
            Chị vợ nhăn trán nghĩ ngợi:
            - Đứa nhỏ nào ta? Có ai dám cho con mình tới đó ngủ qua đêm đâu? Nhà mới có hai người chết một lúc mà?
            Bà Bảy cũng đồng tình:
            - Phải rồi, tao có nghe xóm này ai có con nhỏ mà cho tới đó ngủ với nó đâu? Vả lại nó cũng đâu có thân thiết với đứa nhỏ nào trong xóm? Mầy có thấy rõ không đó?
            Anh con trai gật đầu quả quyết:
            - Thiệt mà! Chính mắt con trông thấy rõ ràng! Mới đầu con hết hồn, nhưng sau đó con nghĩ vậy nên không quan tâm nữa!
            Bà Bảy ngồi thừ ra một lúc rồi nói:
            - Dạo này tao thấy con Diễm có cái gì đó kỳ lắm! Hỏi thì nó nói không có gì, nhưng tao linh cảm được chuyện không hay. Tao với nó tuy không có bà con thân thuộc gì, chỉ là bạn thân với má nó ngày xưa. Nhưng trước khi nhắm mắt, má nó đã có lời gởi gắm nó cho tao, nhờ tao để mắt trông nom nó, tao đã nhận lời nên cũng thấy mình có trách nhiệm.
            Bà Bảy tư lự một chút rồi nói tiếp:
            - Chắc tao phải để ý theo dõi, trước mắt là dọ hỏi cho ra đứa bé nào ở với nó ban đêm.
            Anh con trai cười cười:
            - Con thấy má nên kiếm ông nào được được, rồi gả chị Diễm cho ổng như vậy khỏe hơn đó má!
            Bà Bảy mắng yêu con trai:
            - Mầy cứ hay nói xàm, chồng con nó mới chết, mồ chưa xanh cỏ mà gả với bán gì mậy!
            Anh con trai cười hê hê rồi bế đứa bé lên hôn lấy hôn để.
            Bà Bảy mỉm cười trước niềm hạnh phúc của dâu con.
            Ngay chiều hôm đó bà Bảy đi lân la khắp xóm để dọ hỏi về chuyện đứa bé. Chập tối bà quay về nhà, kêu anh con trai tới hỏi lại lần nữa:
            - Mầy thấy rõ con Diễm đùa giỡn với đứa nhỏ hả con?
            - Dạ, con thấy rất rõ mà!
            Anh con trai gật đầu quả quyết.
            - Vậy là kỳ thiệt, má đã đi hỏi thăm khắp xóm rồi, nhà nào có con nhỏ cũng sợ cái huông nên đâu dám cho tới ở nhà con Diễm. Chắc có chuyện gì rồi!
            Bà Bảy đăm chiêu nói.
            Anh con trai lo lắng:
            - Má thân cận với chị Diễm, đâu má làm bộ lân la qua đó chơi dò xét thử xem sao!
            - Ờ, con tính vậy cũng đúng! Ngày mai má sẽ giả bộ qua đó mượn kinh rồi nhờ nó giảng kinh.
            Bà Bảy nói.
            Đêm đó bà Bảy không sao ngủ được. Bà với chị Diễm không máu mủ ruột rà, nhưng bà thương Diễm lắm, từ hồi nó còn nhỏ cho tới tận bây giờ cũng vậy.
            Sáng hôm sau cơm nước xong, bà Bảy đi qua nhà chị Diễm.
            Diễm đang trồng cải sau vườn, thấy bà Bảy qua chơi, chị đon đả:
            - Bác Bảy tới chơi!
            Vừa nói, chị Diễm vừa đứng lên phủi tay nhưng bà Bảy đã khoát tay:
            - Thôi, bây làm gì cứ làm đi, tao buồn nên qua mượn cuốn kinh đọc một chút, khách khứa gì mà lo tiếp, con!
            Chị Diễm cười tươi:
            - Bá  Bảy đọc kinh nữa ha?
            - Đọc chớ bây! Tao thích lắm chớ, chỉ tại bận bịu chồng con riết rồi không có thời gian, thấy bây khoe có nhiều kinh hay tao nôn nóng lắm. Để kinh đâu tao mượn coi, bây khỏi vô chi cho mắc công.
            Bà Bảy cười nói.
            Chị Diễm lau mồ hôi trán:
            - Dạ thôi, để con vô lấy cho, để tuốt trên đầu tủ, bác Bảy không lấy tới đâu!
            Chị Diễm đi vào nhà, bà Bảy theo sát sau lưng.
            Lâu lắm rồi, từ ngày anh Thức chết đến nay bà Bảy mới bước lên nhà trên của chị Diễm. Vì từ ngày ấy, nhà chị hầu như lúc nào cũng đóng cửa trên chỉ mở cửa nhà dưới mà thôi.
            Lên nhà trên, bà Bảy đưa mắt nhìn khắp nơi. Căn nhà âm u vì tất cả các cánh cửa đều đóng kín nhưng không hề hôi mùi ẩm mốc hgoặc bụi bặm dơ bẩn, chứng tỏ chị Diễm vẫn thường xuyên quét dọn tươm tất.
            Trên chiếc giường kê trong góc nhà, chỗ ngày trước mẹ con chị Diễm ngủ, mền gối được xếp rất ngăn nắp, nhưng ở giữa giường lại có mấy thứ đồ chơi của con nít để đó, và lạ lùng hơn là trên chiếc võng kế bên có một con búp bê rất to đang nằm trên đó!
            Tim bà Bảy đập thình thịch, nhưng bà vẫn cố bình thản hỏi:
            - Trời đất! Bây mua con búp bê lớn dữ vậy, Diễm? Bây lớn đầu rồi mà còn chơi thứ đó hay sao?
            - Dạ, hồi đó con mua tính để dành cho bé Ty chơi. Giờ nhớ nó, thỉnh thoảng con lại lấy ra chơi cho đỡ nhớ vậy mà!
            Chị Diễm đáp.
            Bà Bảy chợt xót xa khi nghe Diễm nói.
            Diễm lấy cuốn kinh xuống đưa cho bà Bảy:
            - Cuốn này hay lắm, bác đem về đọc đi, đọc hết qua lấy cuốn khác.
            - Ờ, bác cám ơn nghen! Thôi, bây làm gì làm đi, tao về!
            Bà Bảy nói.
            - Dạ, bác Bảy về!
            Chị Diễm đưa bà Bảy ra sân rồi tiếp tục công việc trồng cải của mình.
            Bà Bảy về tới nhà, vội kêu con trai lại nói:
            - Má biết rồi mầy ơi! Có con nít nào đâu, tại nó nhớ con nó quá nên chơi với búp bê đó mà! Má thấy trong nhà nó có con búp bê bự lắm, cỡ đứa con nít sáu bảy tuổi lận! Con nhỏ này tiện tặn vậy mà dám bỏ tiền ra mua con búp bê lớn chừng ấy mới biết nó thương con cỡ nào!
            Anh con trai nghe bà Bảy nói vậy, cố nhíu mày nghĩ một lúc rồi nói:
            - Hổng phải đâu má ơi, hôm đó con thấy rõ ràng đứa nhỏ chạy bị vấp té, nhưng nó vừa khụy xuống thì chị Diễm tới đỡ rồi hai người cười vang, con có nghe tiếng cười của đứa nhỏ nữa mà!
            - Thôi đi ông ơi! Ông đừng có trông gà hóa cuốc rồi nhát người ta!
            Bà Bảy cười trách con.
            - Tức quá! Con sẽ để ý chuyện này mới được!
            Anh con trai càu nhàu.
            - Ờ, mầy ráng tìm cho ra đứa nhỏ đó nghen!
            Bà Bảy cười chế giễu.
            Mọi việc lại bình thản trôi qua, nhưng chỉ khoảng hai tháng sau đó, người ta lại râm ran đồn thổi những chuyện lạ lùng, rằng chị Diễm đi chợ thường mua áo quần cho bé gái, mua đồ chơi và cả thức ăn mà trẻ con thường thích nữa. Ai hỏi chị mua làm gì, chị chỉ cười cười mà không nói.
            Những kẻ ác mồm ác miệng thì bảo chị Diễm bị ma ám, nhưng những người biết cảm thông hơn thì nói:
            - Chắc tại nó nhớ con quá nên mua về để nhìn mà tưởng tượng vậy mà!
            Mặc kệ người khác đoán già đoán non, chị Diễm vẫn cứ vui vẻ làm việc, vui vẻ với cuộc sống riêng tư của mình. Anh con trai nhà bà Bảy mặc dù cũng đã để tâm dò xét nhưng rồi cuối cùng cũng phải nhìn nhận chắc tối hôm đó mình đã trông lầm.
            Một buổi trưa hè nóng nực, bà Bảy không ngủ được nến nói với con dâu:
            - Má qua bên con Diễm chơi với nó nghen!
            - Dạ, lúc này má mê đàm đạo chuyện kinh kệ với chị Diễm dữ nha!
            Cô con dâu cười cười.
            Bà Bảy nói:
            - Ờ, già rồi, tìm vui vậy thôi con ơi!
            Nói xong bà Bảy đi thẳng ra ngõ.
            Cổng nhà diễm không có khóa nhưng thường khép kín. Bà Bảy nhẹ nhàng đẩy cổng đi vào, thẳng luôn xuống nhà bếp vì nhà trên cửa vẫn đóng kín.
            Không thấy Diễm, bà Bảy vừa định cất tiếng gọi thì bỗng nghe tiếng Diễm nói nựng:
            - Con gái ngoan, ngồi dậy cho mẹ mặc áo đẹp vô nè! Đừng có nhõng nhẽo, mẹ không thương, mẹ đánh đòn đó nghe chưa!
            Bà Bảy chưa kịp giật mình thì nghe tiếng trẻ con:
            - Con không thích mặc áo này… Con muốn mẹ dẫn con ra ngoài chơi… con muốn đi chơi…
            Tiếng Diễm dỗ dành:
            - Con nghe lời mẹ rồi mẹ thương, tối mẹ sẽ dẫn con đi, ban ngày mẹ con mình không ra đó được đâu con…
            Rồi hình như đứa bé đã chịu ngồi dậy theo lời mẹ nó nên bà Bảy chỉ nghe tiếng hai người cười nho nhỏ với nhau mà thôi.
            Mồ hôi bà tuôn dầm đề, bà Bảy hoảng sợ vội đi thụt lùi ra cửa, cố gắng không phát ra tiếng động vì sợ Diễm biết sự có mặt của bà.
            - Ủa, má! Gì vậy má? Sao mặt mày má xanh lè thấy ghê vậy?
            Anh con trai vừa trông thấy bà Bảy đã kêu lên.
            Bà Bảy ngồi phịch xuống thềm nhà thở hổn hển:
            - Trời ơi… khủng khiếp! Khủng khiếp quá đi…
            - Chuyện gì mà khủng khiếp vậy má?
            Anh con trai lo lắng ngồi xuống cạnh mẹ.
            Bà Bảy run giọng kể:
            - Con biết không, lúc nãy má qua nhà con Diễm, nghe nó nói chuyện với con nó!
            Anh con trai cười ngất:
            - Thì má vẫn thường nói với con, là chị Diễm nhớ thương con quá nên tưởng tượng ra rồi nói chuyện, đùa giỡn một mình, sao giờ má sợ dữ vậy?
            Bà Bảy lắc đầu:
            - Không! Không phải… má sợ là vì… má nghe rõ ràng có tiếng con nít gọi nó bằng mẹ!
            Anh con trai trợn mắt:
            - Má nói chơi hay nói giỡn vậy? Giữa ban ngày ban mặt má tính nhát con hả?
            - Không đâu, má nói thiệt mà! Tim má còn đập thình thình đây nè!
            Nghe mẹ nói nghiêm chỉnh, anh con trai không cười nữa mà nhìn bà Bảy lom lom:
            - Trời, thiệt vậy sao? Lần đó con thấy, giờ tới má nghe?
            - Ừ, lâu nay má không tin nhưng giờ má tin rồi, má biết chắc trong nhà con Diễm có ma!
            Bà Bảy khẳng định.
            - Bây giờ mình tính sao má?
            Anh con trai lo lắng hỏi.
            Bà Bảy rầu rĩ:
            - Bỏ mặc nó thì má không nỡ, còn không thì biết làm sao đây?
            Anh con trai ngồi im một lúc rồi khẽ kêu lên:
            - Hay là… hôm nào má làm bộ rủ chị Diễm đi đâu đó, con sẽ lén vô nhà chỉ để nắm rõ mọi việc rồi mình tính tiếp?
            Bà Bảy nhìn con trai nghi ngờ:
            - Con dám sao? Không sợ ma sao?
            Anh con trai mỉm cười:
            - Không phải con không sợ, nhưng má nhớ anh Bảo bạn con không? Anh ấy học nghề thầy pháp, con sẽ rủ anh đi thì không sợ nữa!
            Bà Bảy suy nghĩ một lát rồi nói:
            - Ờ, vậy để ngày mốt, ngày mốt là ngày rằm, má sẽ nhờ con Diễm dắt lên ngôi chùa mà nó hay tới để nói chuyện với các sư ở đó. Nhân cơ hội ấy con rủ bạn vô nhà nó nghen? Nhưng khoan đã, để má hỏi ý nó trước, coi nó có đi được hay không.
            - Dạ!
            Chiều hôm dó, bà Bảy tuy rất sợ nhưng vẫn cố gắng bình tĩnh đi ngang qua nhà Diễm, thấy Diễm đang quét sân, bà Bảy dừng lại nói chuyện:
            - Ngày mốt bây có đi cúng chùa không?
            - Dạ có chứ bác! Bác đi không, đi với con cho vui?
            Diễm vui vẻ nói.
            Bà Bảy gật gù:
            - Ờ, bác cũng có nhiều câu hỏi muốn được hòa thượng trên chùa giải thích giúp về luật nhân quả của nhà Phật. Nếu tiện thì hôm đó con dắt bác Bảy lên đó nghen!
            Diễm mau mắn:
            - Dạ, con sẽ đi với bác!
            Sáng sớm ngày rằm, bà Bảy đã soạn sẵn nhang đèn, hoa quả tới rủ chị Diễm đi chùa. Trong khi đó, Phi, con trai của bà Bảy đã hẹn với Bảo, người bạn học nghề pháp sư đi qua nhà chị Diễm để điều tra.
            Nhà chị Diễm cũng giống như nhiều nhà khác trong xóm, cửa chỉ đóng vạy thôi chớ thật ra không có khóa, vì trong nhà cũng chẳng có của cải gì mà sợ kẻ trộm ra vào.
            Không chút khó khăn, Phi và Bảo đã vào được bên trong ngôi nhà của chị Diễm. Hai người còn đang loay hoay thì nghe có tiếng trẻ con:
            - Ai đó? Ai vô nhà tui đó?
            Phi bất chợt nổi da gà, nhưng Bảo vẫn tỉnh bơ:
            - Mấy cậu tới chơi, cháu đang làm gì vậy? Mẹ đâu cháu?
            - Cháu đang chơi đồ hàng, mấy cậu chơi với cháu đi, mẹ đi vắng rồi! Cháu buồn quá…
            Đứa bé trả lời nhưng cả Bảo và Phi đều chưa nhận biết nó đang ở chỗ nào.
            - Cháu đâu rồi?
            Bảo hỏi.
            - Cháu đây, mấy cậu lên đây chơi với cháu đi!
            Lần theo giọng nói của đứa bé, Bảo di dần lên nhà trên, Phi bám sát theo sau lưng Bảo.
            Vừa đặt chân lên đến nhà trên, Bảo và Phi bất chợt khựng lại vì thấy trên giường một con búp bê to lớn đang ngồi cầm mấy thứ đồ chơi trẻ con.
            Phi rất muốn thụt lùi trở lại nhưng Bảo đã nắm tay anh lôi tới trước.
            Bảo nhìn con búp bê rồi hỏi:
            - Cháu tên gì vậy?
            Búp bê ngước lên nhìn Bảo, đôi mắt nó dường như sinh động hẳn lên:
            - Mẹ gọi con là bé Ty!
            - Nhưng con có phải là bé Ty không?
            Bảo lại hỏi tiếp
            Búp bê lắc đầu:
            - Con hổng biết! Trước đó nữa thì con biết con tên là bé Mai.
            - Làm sao con quen với mẹ Diễm?
            Bảo ngồi gần búp bê, hỏi.
            - Mẹ Diễm vô nghĩa địa chơi gặp con trong đó, mẹ hỏi có muốn về sống với mẹ không, con mừng quá nên theo mẹ về đây!
            Bảo gật gù:
            - A, cậu hiểu rồi!
            - Cậu chơi với cháu đi!
            Búp bê nài nỉ, nó ngước nhìn Bảo rồi nhìn Phi:
            - Cả hai cậu nhé? Cháu buồn lắm, cháu thích được đi chơi nhưng mẹ không chịu…
            - Ờ, để cậu đi mua kẹo cho cháu nghen, mua kẹo rồi cậu trở lại chơi với cháu!
            Bảo đứng lên nói.
            - Cậu nói thiệt nghen?
            Búp bê hỏi.
            Bảo cười:
            - Thiệt chứ! Cháu chơi một mình đi, lát nữa hai cậu về chơi với cháu mà!
            Nói xong, Bảo kéo tôi đi nhanh ra ngoài.
            Vừa ra tới cổng, Bảo thở dài và nói:
            - Không hay rồi! Có lẽ cô Diễm vì quá nhớ thương con nên đã rủ rê vong hồn đứa bé này về nhập vô xác con búp bê. Bây giờ thì không sao, vì thật ra con bé này chưa có tí ma lực nào, chỉ là một linh hồn vậy thôi. Nhưng nếu nó được nuôi dưỡng theo cách này thì không lâu sau nó sẽ trở thành một loài quỷ dữ mà khó ai có thể khống chế được.
            Phi hoảng hốt:
            - Vậy mình phải làm gì bây giờ hả anh Bảo?
            Bảo trầm ngâm một lúc rồi đáp:
            - Phải giết đứa bé đó! Nhưng nếu mình làm vậy, cô Diễm sẽ lại đau đớn lần nữa, y như con gái cổ chết lần hai vậy mà… thật tình anh không nỡ! Nhưng nếu không làm vậy thì cả làng cả xóm sẽ bị họa lây…
            - Có thể nào mình giải thích cho chị Diễm hiểu được không anh?
            Phi hồi hộp hỏi
            Bảo lắc đầu:
            - Chắc Diễm sẽ không chịu hiểu đâu! Bây giờ đối với cô ấy đứa bé này là quan trọng nhất rồi mà!
            Phi thở dài rồi chợt nói:
            - Anh Bảo nè, anh cứ trục xuất cái hồn ma trong thân thể của con búp bê kia, chừng về nhà, chị Diễm sẽ không biết có người nhúng tay vào mà tưởng là đứa bé tự ý bỏ đi, chị sẽ đỡ đau đớn hơn không?
            Bảo lắc đầu:
            - Không được! Đứa bé đó không hề có ý định rời bỏ chị Diễm, cho nên nếu con búp bê còn tồn tại là không sao đuổi nó đi được. Chỉ có một cách là phá hủy con búp bê đó thôi… Nhưng nếu làm vậy chắc chắn cô Diễm sẽ rất đau lòng…
            Phi nói:
            - Hay mình về bàn lại với mấy người lớn tuổi trong xóm rồi hãy quyết định, nghen anh Bảo?
            Bảo gật đầu:
            - Em nói đúng, mình cần cân nhắc kỹ trước hoàn cảnh này!
            Và ngay tối hôm đó một cuộc họp kín giữa các ông bà lớn tuổi trong làng được triệu tập khẩn trương. Bảo đã đứng ra phân tích tình hình một cách hết sức rõ ràng. Mọi người ai cũng hoang mang lo sợ, nhưng đồng thời ai cũng cảm thương cho cảnh nhà chị Diễm.
            Cuối cùng, sau một hồi bàn bạc, một ông lão nói:
            - Mình có thương con Diễm đến đâu thì cũng phải lo cho vận mệnh của cả làng, không thể vì một mình nó mà để yêu quái sống lẫn với người ta được. Để vậy, bản thân con Diễm cũng sẽ phải cịhu hậu quả không hay. Quyết định đi, trục xuất con ma đó đi!
            Tất cả mọi người đều hưởng ứng.
            Sáng hôm sau, chị Diễm bất ngờ khi tháy một đoàn người kéo đến nhà mình, trong đó có cả bà Bảy, người hàng xóm thân tình nhất với chị.
            - Bác Bảy… chuyện… chuỵên gì vậy bác Bảy?
            Chị Diễm lắp bắp hỏi, linh tính báo có điều không tốt sắp xảy ra.
            Mặc dù chị Diễm chưa kịp cất tiếng mời, nhưng cả đoàn người đã tiến vào nhà dưới của chị.
            Bà Bảy kéo chị Diễm ngồi xuống bộ ván và nói với giọng nghẹn ngào:
            - Diễm à, bác và bà con ở đây ai cũng thương yêu cháu, điều đó chắc cháu cũng biết mà, đúng không? Trước cái chết thương tâm của bé Ty, bà con ai cũng đau lòng… Nhưng Diễm à, con còn trẻ, rồi con còn lấy chồng và sinh ra những đứa con khác nữa… Tội lệ gì con phải sống như vậy?
            Có lẽ đã đoán dược điều bà Bảy muốn đề cập tới, chị Diễm xanh mặt đứng phắt dậy với vẻ tự vệ. Chị run giọng:
            - Bác Bảy ơi, bà con ơi… xin hãy để con yên…
            Nước mắt chị rơi lả chã, chị lùi dần lên nhà trên, mấy người dân trong làng cũng tiến lên theo chị. Bảo di lẫn trong đám người nhìn chị Diễm đầy vẻ thương cảm.
            Eân tới nhà trên, chị Diễm chạy ào tới ôm con búp bê vào lòng như sợ mát nó. Con búp bê ngước nhìn chị hỏi:
            - Mẹ ơi, ai tới nhà mình đông quá vậy mẹ?
            Rồi bất chợt nó reo lên khi trông thấy Bảo và Phi:
            - A, có cả hai cậu! Hai cậu giữ lời hứa tới chơi với cháu đó hả?
            Phi bối rối nhìn sang Bảo, Bảo cúi gằm mặt như người có lỗi.
            Bà Bảy tiến đến nắm tay Diễm:
            - Con để con búp bê xuống đi, ra ngoài này nói chuyện!
            Chị Diễm liếc nhìn mọi người và se sẽ đặt con búp bê trở xuống giường.
            Nhanh như cắt, hai anh thanh niên lực lưỡng trong làng đã được sự phân công, nhào tới giữ chặt chị Diễm.
            Bảo lách người ra khỏi đám đông, chạy ào tới dán một lá bùa lên giữa trán con búp bê.
            - Á… Mẹ ơi… cứu con với…!!!
            Tiếng trẻ con thét kinh hoàng làm tất cả mọi người đều sởn gai ốc. Chị Diễm vùng vẫy:
            - Trời ơi… đừng làm hại con tôi… đừng giết con tôi…
            Sức mạnh của một người mẹ trỗi dậy khiến chị hất văng cả hai thanh niên lực lưỡng sang một bên, chị nhào tới định ôm lấy con búp bê, nhưng khi hai tay chị vừa chìa ra, chưa kịp chạm tới nó thì con búp bê dần dần rời rã rã từng bộ phận, trong thân nó một dòng máu đỏ tuôn ra…
            - Trời ơi! Các người đã giết chết bé Ty của tôi rồi!
            Chị Diễm gào lên rồi khuỵu xuống đất bất tĩnh.
            Bảo căn dặn mọi người thu xác con búp bê lại đem ra chôn ngoài nghĩa địa giống như chôn cất một đứa trẻ đàng hoàng. Sau đó Bảo bế chị Diễm lên giường rồi đứng nhìn, hai hàng nước mắt lăn dài trên gò má Bảo…
             
            ***
            Ba năm sau.
            Căn nhà chị Diễm rộn rã tiếng cười. Chị Diễm đã sinh được một đứa bé trai hết sức kháu khỉnh, giờ đây nó vừa lẫm chẫm bước đi.
            Chồng chị Diễm không ai khác mà chính là Bảo.
            Sau lần đó, Bảo cứ ân hận vì mình đem đến đau buồn cho chị Diễm nên anh thường xuyên tới lui an ủi, chăm sóc. Dần dần tình cảm giữa hai người nảy nở.
            Được sự vun vào của bà con chòm xóm, nhất là của bà Bảy và vợ chồng Phi, chị Diễm đồng ý làm vợ Bảo.
            Từ ngày cưới chị Diễm, Bảo thôi không hành nghề thầy pháp nữa mà ở nhà chí thú làm ruộng làm vườn, quây quần bên vợ bên con.
            Hết
            Nguyễn Thị Mộng Thu 
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:44:41 bởi nguyenthu >
            #36
              nguyenthu 10.08.2009 21:13:39 (permalink)
              BÓNG NGƯỜI TRONG ĐÊM
               
              Khi chiếc xe đò vào tới bến cũng là lúc trời chạng vạng tối. Suốt một ngày trời say xe nhừ tử, giờ đây tôi trở nên bèo nhèo, nhừ tử như dúm giẻ rách. Cố lôi chiếc va-li xuống xe, tôi lui vào sát hàng rào đứng thở dốc cho đỡ mệt. Cái bao tử trống rỗng sau khi đã nôn thốc nôn tháo tất cả những gì chứa trong đó, giờ đây đang co thắt từng cơn khiến tôi phải khom người xuống để đè nén bớt cơn đau.
              Nhiều lúc tôi tự hỏi, không biết hồi kiếp trước tôi đã ăn ở thất nhơn ác đức ra sao mà kiếp này tôi phải chịu đựng quá nhiều điều khổ ải. Đồng thời là con gái, mỗi tháng mấy ngày hành kinh, người khác vẫn bình thường còn tôi thì đau bụng lăn lộn, không ăn uống được bất cứ thứ gì trong những ngày đó. Lên xe, mọi người vẫn cười vui, ăn uống thoải mái, tôi lại nôn hết mật xanh đến mật vàng… và còn nhiều những điều tệ hại khác nữa. Nói chung tôi là một kẻ luôn phải hứng chịu những khổ sở, đau đớn của kiếp con người.
              Trầy trật lắm tôi mới được cùng người yêu đứng bên nhau trước bàn thờ gia tiên để làm lễ tơ hồng. Tưởng vậy là hạnh phúc. Ai có ngờ đâu, chỉ sau hơn ba tháng sống đời chồng vợ, người tôi yêu thương suốt bốn năm ròng đã rời bỏ tôi để đi theo người con gái khác.
              Buồn đau, thất vọng, chán chường… có lúc tôi nghĩ mình không còn sức để tiếp tục sống nốt quãng đời còn lại trên thế gian này. Nhưng rồi tôi cũng không thể chết được! Cái cảnh dở sống dở chết làm tôi điêu đứng. Và cuối cùng tôi đã quyết tâm đứng thẳng người lên, đối mặt với những thử thách mà ông trời giáng xuống cho cuộc đời tôi.
              Tôi ghi tên xung phong nhận công tác ở một nơi heo hút cách xa trung tâm thành phố hơn một trăm cây số.
              Tất cả đồng nghiệp đều bất ngờ khi biết tôi có quyết định lạ lùng như vậy.
              Trong khi rất nhiều người cố sống cố chết, dùng đủ mọi biện pháp, thậm chí mọi thủ đoạn để được về giảng dạy ở tại thành phố đầy đủ tiện nghi, thì tôi, một giáo viên nhiều năm liền đạt được những thành tích cao nhất trong giảng dạy, được rất nhiều ngôi trường tên tuổi trong thành phố mời thỉnh giảng lại chọn nơi thâm sơn cùng cốc để xin về.
              Gọi là nơi “thâm sơn cùng cốc” thì cũng hơi quá đáng. Đó chỉ là một huyện nghèo ở vùng sâu, dân cư thưa thớt và các phương tiện hiện đại cũng không nhiều.
              Khi chuẩn bị hành lý về đây, tôi đã cắn răng vứt bỏ cả chiếc điện thoại di động, phương tiện liên lạc nhanh nhất mà đáng ra tôi sẽ rất cần khi về nơi hẻo lánh.
              Tôi bỏ nó như muốn đoạn tuyệt với quá khứ, với những cuộc gọi, những tin nhắn hẹn hò yêu dấu năm xưa… Tôi đã quyết tâm gột bỏ tất cả để làm lại từ đầu.
              Và giờ đây, tôi đã đặt chân tới vùng đất xa lạ, đìu hiu vắng vẻ này rồi!
              Mặt trời sắp lặn, ở phía chân trời còn một đám mây đỏ rực cố níu lấy trần gian, nhưng chỉ lát nữa thôi bóng tối sẽ bao trùm vạn vật.
              Tôi kéo chiếc va-li ra cổng bến xe, mắt ngó dáo dác mong thấy một anh xe ôm nào đó nhưng tuyệt nhiên không thấy bóng người nào.
              Dừng chân trước một chiếc xe nước mía cũ kỹ, người bán nước mía cũng không đon đã chào mời, chỉ ngước mắt nhìn tôi dò hỏi.
              Tôi cố mỉm cười, hỏi:
              - Chị ơi, từ đây vô tới trường Trung học X còn xa không chị?
              Người bán nước mía nhìn tôi lom lom một lúc rồi nói:
              - Xa lắm! Hơn hai cây số lận, cô đi bộ nổi không?
              Tôi ngán ngẫm nhìn con đường gồ ghề trước mắt.
              - Ở đây không có xe ôm sao chị?
              Người bán hàng nói chậm rãi:
              - Trước kia cũng có mấy chiếc, nhưng rồi làm ăn không được, vì không mấy người có tiền đi xe ôm, dân ở đây toàn đi xe đạp hoặc cuốc bộ thôi, nên họ dẹp luôn, kiếm nghề khác  làm ăn!
              Tôi thở dài:
              - Cám ơn chị!
              Nói xong, tôi cúi xuống kéo va-li đi tiếp.
              Chừng như cám cảnh trước dáng vẻ của tôi, chị chủ hàng gọi lại:
              - Cô… cô gì ơi! Đứng đó đi, để tôi kêu thằng nhỏ lấy xe đạp đưa cô vô trường, đi bộ xa lắm!
              Mừng như bắt được vàng, tôi vội đứng lại nhìn chị chờ đợi.
              Chị quay vào trong gọi lớn:
              - Tí à, Tí! Ra má biểu chút con!
              Một đứa con trai chừng mười sáu, mười bảy tuổi, thân hình ốm nhom, cao nhồng đi từ dưới nhà lên:
              - Má kêu con chi vậy má?
              Chị bán hàng nhìn về chỗ tôi, hất hàm nói với con trai:
              - Con vô lấy xe đưa giùm cô giáo về trường đi! Biết đâu cô dạy lớp con cũng nên đó!
              Cậu bé nhoẻn miệng cười chào tôi:
              - Dạ, cô chờ em chút nghen! Cô mới đổi về hả cô?
              Tôi cười, gật đầu:
              - Ừ, cô mới chuyển về!
              Chỉ một lát sau, cậu nhỏ đã dẫn chiếc xe đạp cũ kỹ ra, tươi cười nói:
              - Cô lên xe, em chở!
              Tôi hơi bối rối, đề nghị:
              - Hay… em ngồi sau xách va-li giùm cô, để cô chở cho!
              Chừng như hiểu được những ý nghĩ trong đầu tôi, chị bán hàng bật cười:
              - Cô đừng coi thường nó nghen! Coi vậy mà khỏe lắm, cô cứ lên ngồi cho em nó chở, không có sao đâu!
              Tôi cười, gật đầu chào chị bán hàng rồi ngồi lên xe.
              Thằng bé khỏe thật. Đường đá gồ ghề như thế mà nó cứ đạp xe phăng phăng, vừa đạp xe vừa hỏi đủ thứ chuyện:
              - Cô ơi, cô dạy môn gì vậy cô?
              Tôi cười, trả lời:
              - Cô dạy Văn.
              Thằng bé nói tiếp:
              - Em đang học lớp mười một, hồi lúc trước bệnh một trận quá cỡ, tưởng đâu nghỉ học luôn rồi chớ, nhưng má thương em quá, tìm hết mọi cách em mới được đi học lại đó cô!
              Tôi chưa kịp nói gì thì thằng bé lại hỏi:
              - Cô dạy Văn lớp mấy vậy cô? Cô có dạy lớp em không?
              Dù trong người rất mệt, nhưng tôi không thể không thể trả lời đứa bé tốt bụng và vui tính này. Tôi nói:
              - Cô cũng chưa biết em à! Tùy sự phân công của nhà trường thôi mà!
              - À, có vậy mà em cũng không biết! Em dở thiệt, cô há? Mà… về đây cô sống ở đâu vậy cô?
              Thằng bé lại liến thoắng.
              Tôi cười:
              - Hôm rồi cô nghe nhà trường nói sẽ sắp xếp cho cô ở một phòng ngay trong khuôn viên trường. Nghe đâu phòng đó trước là lớp học, nay bỏ trống nên họ tạm thời bố trí cho cô ở đó!
              Tôi vừa nói xong thằng bé reo lên:
              - A, em biết căn phòng đó rồi, trước kia em cũng học ở phòng đó! Vậy mai mốt em tới chơi với cô mỗi ngày, được không cô?
              Tôi cười:
              - Được chứ em, cô sẽ rất vui!
              Thằng bé ngoái lại nhìn tôi:
              - Cô nói thiệt nghen?
              Tôi bật cười:
              - Ừ, thiệt mà!
              Chợt nhớ ra, tôi hỏi:
              - Em tên là Tí phải không?
              Thằng bé bật cười lớn:
              - Tí là tên ở nhà má em gọi, tên trong khai sinh của em đẹp hơn nhiều. Đố cô biết đó?
              Tôi phì cười trước vẻ vô tư của đứa bé:
              - Thôi, cô chịu thua! Em nói ra đi, cô không đoán được…
              Thằng bé cười ngất:
              - Em tên là Tính! Nhưng ở nhà má cứ gọi là Tí. Nhưng mà Tí hay Tính gì cũng được, cô há?
              - Ừ!
              Tôi nói xuôi theo nó.
              - Cô ơi, tên cô là gì vậy cô?
              Thằng Tính lại hỏi
              - Cô tên Nga, Bích Nga!
              Tôi trả lời.
              - Tên cô đẹp quá!
              Thằng Tính buột mịêng khen, tôi chỉ cười không nói gì.
              Lát sau nó dừng xe trước cổng trường và bảo:
              - Tới trường rồi đó cô! Cô vào đi!
              Tôi xuống xe, cười với Tính:
              - Cô cám ơn em nhiều lắm, Tính nghe! Giờ cô vô trường, mai mốt sẽ có dịp gặp lại em nhé?
              Thằng Tính cười hiền lành:
              - Dạ, đâu có gì đâu cô! Có gì cần cô cứ gọi em, em sẽ tới giúp.
              Tôi gật đầu, dợm bước vào sân trường.
              Thằng Tính đã quay đầu xe, nhưng chợt nhớ ra điều gì đó nó quay lại dặn tôi:
              - Cô ơi, tối ngủ cô nhớ đóng thật kín các cánh cửa lại, nghen cô!
              Tôi buồn cười vì cái sự cẩn thận như người lớn của thằng Tính:
              - Được rồi! Cám ơn em.
              Nó lại nhoẻn miệng cười và lên xe chạy đi.
              Tôi lững thững kéo va-li vào trường.
              Cổng trường không khóa chỉ khép hờ. Khi vào đến sân, tôi không biết mình sẽ đi đâu vì nhìn thấy dãy văn phòng đóng cửa im ỉm.
              - Có ai ở đây không?
              Tôi cất tiếng gọi lớn. Không có ai trả lời. Tôi mệt mỏi ngồi xuống chiếc ghế đá gần cổng chờ đợi.
              Lúc này bóng tối đã nhập nhòe. Sân trường buồn hiu hắt với những hàng cây lim lá rụng lả tả. Ánh đèn đường vàng nhợt nhạt hắt vào trong sân làm tôi thấy buồn vô kể.
              Lúc này tôi nghĩ giá như có điện thoại, tôi sẽ gọi liên hệ với ông hịêu phó chuyên môn của trường, nhưng tôi vội vã lắc đầu, tự nhủ:
              - Mình đã quyết vứt bỏ tất cả rồi mà, đừng luyến tiếc gì nữa hết! Cô gắng chờ một chút đi, người ta đã biết hôm nay mình đến thì chắc sẽ có người tiếp, ít ra là bảo vệ chứ!
              Tôi nghĩ quả không sai. Chỉ một lát sau, có tiếng người húng hắng ho từ phía sau. Tôi còn đang dớn dác nhìn ngó để tìm chủ nhân của tiếng ho thì một bóng người đã lù lù xuất hiện trước mặt tôi làm tôi không khỏi giật mình.
              - Ai đây?
              Một giọng đàn ông cất lên.
              - Dạ, tôi là giáo viên mới chuyển đến, xin hỏi…
              Tôi chưa kịp nói hết câu, người đàn ông đã cắt ngang:
              - À, cô là cô Nga chứ gì? Tôi được phân công đón cô nhưng chờ mãi từ chiều không thấy, tưởng ngày mai cô mới tới.
              Tôi mỉm cười:
              - Dạ, tại xe chạy chậm quá nên tới trễ. Bác đây là…
              Tôi gọi người đàn ông trước mặt bằng bác bởi nhận thấy ông ta không còn trẻ và dáng dấp không giống một thầy giáo của trường.
              Người đàn ông nói:
              - À, tôi là bảo vệ của trường. Tôi làm ở đây gần hai chục năm rồi đó cô! Cô chờ tôi một chút nhé!
              Nói xung, người đàn ông nhúc nhắc đi tới căn phòng kế đó loay hoay mở khóa. Lát sau ông ta bật công tắc và căn phòng tràn ngập ánh đèn. Mấy bóng đèn ngoài sân trường cũng sáng lên, xua bớt cái vẻ ảm đạm khi nãy.
              Người đàn ông bảo vệ bị tật ở chân nên dáng đi hơi khập khiễng. Mái tóc ông ta lơ thơ bạc, dáng người dong dỏng và gương mặt khắc khổ đến tội nghịêp.
              - Bác ơi…
              - Gọi tôi là bác Năm đi! Ở đây ai cũng gọi tôi như vậy!
              Bác  Năm nhúc nhắc đi trở ra, cười nói.
              Tôi đứng lên, chưa kịp hỏi gì thì bác Năm đã mau miệng:
              - Bây giờ không có ai ở trường, nên mọi thứ giấy tờ thủ tục cô hãy cứ để đó sáng mai rồi tính. Giờ tôi đưa cô lên phòng cô nghen?
              Tôi chưa kịp nói gì thì bác Năm đã nói tiếp:
              - À, mà chắc cô chưa ăn tối. Từ đây ra tới chỗ bán thức ăn cũng hơi xa, nếu cần thì cô lấy xe đạp của tôi mà đi, còn không thì tôi có sẵn mì tôm đây.
              Tôi mỉm cười:
              - Dạ, cháu cảm ơn bác Năm! Giờ bác vui lòng cho cháu về phòng để tắm rửa nghỉ ngơi một chút. Lát nữa nếu có đói, cháu sẽ xuống làm phiền bác sau nhé?
              Bác Năm vui vẻ:
              - Không sao! Không sao! Bất cứ khi nào đói cô xuống cũng được. Tôi già rồi đâu có ngủ nghê bao nhiêu đâu cô.
              Rồi bác Năm bật sáng chiếc đèn pin trên tay:
              - Đi, tôi đưa cô lên phòng.
              Tôi đứng lên đi theo bác Năm.
              Bác Năm dẫn tôi đi băng ngang qua khoảng sân trường tương đối rộng, về phía góc sân có một dãy lầu cũ kỹ tối om.
              Bác Năm mở khóa cửa cầu thang và rọi đèn cho tôi đi theo.
              - Cô chịu khó, đèn ở đây hư hết rồi mà lâu nay không thay vì không cần đến. Ngay ngày mai tôi sẽ lắp bóng đèn mới cho cô.
              Tôi hơi chột dạ:
              - Vậy… trên phòng cũng không có đèn sao bác Năm?
              Bác Năm cười:
              - Có chớ! Cô đừng lo, trên phòng cô ở có đèn đàng hoàng, chỉ đèn ở cầu thàng và dọc lối đi là bị hư thôi.
              Tôi thở phào nhẹ nhõm.
              Lên hết thang lầu, bác Năm dẫn tôi đi dọc theo dãy hành lang dài hun hút. Thấy vẻ tiêu điều hoang vắng ở đây, tôi cất tiếng hỏi:
              - Bộ không có học trò học ở dãy lầu này sao bác? Cháu thấy vắng lặng quá!
              Bác Năm vừa đi vừa nói:
              - Ờ, cũng lâu rồi dãy phòng này bỏ trống. Vì họ sắp đập dãy này để xây mới. Phòng ốc ở đây xuống cấp hết rồi cô ạ, các lớp học đã được dời sang dãy bên kia. Bây giờ ở đây được tận dụng như nhà kho. Cô được bố trí ở tạm trong một phòng tương đối tốt nhất đó!
              Vừa nói tới đó, bác Năm và tôi cũng đã đi tới cuối dãy hành lang tối thui, ẩm mốc.
              Bác Năm cầm đèn pin rọi và mở khóa cửa phòng.
              Sau khi bác Năm đật đèn, tôi cảm thấy nhẹ cả người khi thấy căn phòng quả thật đúng như lời bác Năm nói trước, phòng cũng tương đối và đã được quét dọn sạch sẽ, sắp xếp cẩn thận để đón tôi.
              - Chỉ phiền một điều là ở đây không có nhà vệ sinh, nếu cần đi vệ sinh cô phải đi xuống dưới kia.
              Vừa nói, bác Năm vừa kéo tôi đứng sát hành lang chỉ tay về góc sân phía bên kia.
              - Nhà vệ sinh dưới đó nghen cô! Cô có cần dùng đèn pin không, tôi để lại cho cô mượn?
              Bác Năm ân cần nói thêm.
              Tôi lắc đầu:
              - Dạ cháu cảm ơn bác, chắc cháu không cần đâu. Muốn xuống nhà vệ sinh thì đã có đèn dưới sân rồi, không sao đâu bác!
              - Vậy cô đi tắm rồi nghỉ ngơi đi, tôi xuống phòng nhé?
              Bác Năm quay đi. Tôi nhìn theo cái dáng đi nghiêng về một phía của ông một lúc rồi mới đi vào khép cửa phòng lại.
              Việc đầu tiên tôi làm là ngã người ra giường nhăm mắt lại thư giãn. Suốt một ngày dài bị hành xác trên chiếc xe đò đầy nhóc người và gà vịt, giờ đây tôi thấy thật hạnh phúc khi được nằm thoải mái trên giường dù rằng thân thể đầy bụi bặm và cái bao tử trống không đang réo gọi.
              Nằm khoảng hai mươi phút tôi ngồi dậy lục đục soạn đồ đạc ra khỏi va-li và lấy đồ chuẩn bị đi tắm.
              Ôm gói áo quần, khăn tắm và mấy thứ lặt vặt khác tôi bước ra khỏi phòng, khép hờ cửa lại rồi mò mẫm đi xuống lầu.
              Nói là mò mẫm chứ thật sự chỉ một chút là mắt tôi quen dần với bóng tối và quãng đường dài dọc hành lang cũng như cái cầu thang tối om không còn làm tôi lo sợ nữa.
              Lúc đi băng ngang qua sân trường, tôi liếc nhìn về phòng bảo vệ thấy bác Năm đang ngồi hút thuốc. Tôi không rẽ vào đó mà đi thẳng xuống khu nhà vệ sinh luôn.
              Khu nhà vệ sinh không sạch sẽ lắm nhưng cũng không đến nỗi tởm lợm như một số nhà vệ sinh ở một vài nơi mà tôi có dịp đi qua. Tôi đã nhàn thấy được công tắc điện và mở sáng đèn. Nhưng không hiểu sao người ta không mắc bóng đèn màu trắng cho sáng sủa mà đi mắc đèn vàng khiến mọi thứ trông cứ nhợt nhạt, ma quái thế nào ấy.
              Cũng may tôi không là đứa gan nên điều đó cũng không ảnh hưởng gì mấy.
              Tắm rửa sạch sẽ xong tôi cảm thấy thật nhẹ nhàng, thoải mái. Và lúc này thì cái đói lại bắt đầu cồn cào dữ dội.
              Bỏ mớ đồ dơ vào túi ni-lông cầm theo khi nãy, tôi tắt đèn rồi đi ra, định bụng sẽ ghé phòng bảo vệ xin tạm gói mì tôm của bác Năm cho qua đêm nay, mai mới tính tới chuyện mua sắm xoong nồi lo cơm nước.
              Vừa bước xuống bậc thềm, tôi loáng thoáng nghe có tiếng nước chảy. Nghĩ mình quên khóa vòi nước tôi lại trở vào bật đèn kiểm tra lại. Quả đúng là một vòi nước đang chảy. Nhưng thật lạ là vòi nước này khi nãy tôi đâu có mở?
              Tôi đứng lặng một hồi, mắt ngó đăm đăm vào cái vòi đang tuôn nước xối xả. Không thể nào có chuyện nhầm lẫn được, lúc nãy tôi chỉ đứng ở góc bên kia để tắm, có nhìn thấy cái vòi nước bên này nhưng không hề đụng tới. Vậy tại sao khi tôi đi ra nó lại tự mở nước? Thật là lạ lùng, tôi không thể nào giải thích được.
              Cuối cùng, tôi đành phải ráng nghĩ tới một lý do, tuy không thuyết phục nhưng cũng tạm thời đè nén được thắc mắc của tôi. Lý do đó là, có thể lúc đi ra, tôi đi ngang qua vòi nước đó và vô tình đụng vào nó làm nó mở ra! Thôi thì cứ nghĩ vậy đi, tôi cố an ủi mình như vậy.
              Khóa nước cẩn thận xong, tôi tắt đèn và đi lên phòng bác Năm.
              Vừa trông thấy tôi, bác Năm tươi hẳn nét mặt:
              - Cô đói rồi phải không? Vô đây, vô đây tôi nấu mì cho mà ăn! Tội nghịêp, con gái con đứa mà đi xa nhà, cực khổ như vầy…
              Câu nói của bác Năm bất chợt làm tôi tủi thân muốn khóc, nhưng tôi đã cố kìm nén lại, nở một nụ cười với bác:
              - Dạ, cháu đói quá, từ sáng giờ không ăn gì, bác Năm cho cháu xin gói mì!
              Bác Năm nhúc nhắc đứng lên mở chiếc tủ nhỏ lấy ra một cái tô, một gói mì kèm theo một trứng gà, cười nói:
              - Ở chỗ tôi, cái gì không có chứ mì tôm thì bao la, khi nào muốn ăn cô cứ xuống lấy. À, mà quên nữa, chắc trên đó đâu có gì để nấu. Thôi, để tôi nấu cho!
              Bác Năm nhanh nhẹn châm lửa vào chiếc bếp dầu để trong góc phòng rồi đặt ấm nước lên đó.
              Tôi ngồi khoanh tay nhìn dáng bác Năm lom khom mà thấy thương đến lạ.
              Tôi gợi chuyện:
              - Nhà bác có gần đây không, bác Năm?
              Bác Năm mỉm cười:
              - Tôi ở xa lắm cô ơi! Chiến tranh trôi giạt, cả gia đình không còn ai, buồn quá nên tôi bỏ xứ đi luôn, tới đây và nhận nơi đây làm quê hương, nhận ngôi trường này làm gia đình…
              Là kẻ đang mang nặng tâm trạng buồn thương, giờ nghe chuyện không vui của bác, tôi mủi lòng quá, nước mắt lăn dài:
              - Vậy ra bác sống một mình?
              - Ừ, một mình đã hơn hai mươi năm! Nhưng cũng quen rồi cô ạ…
              Bác Năm nói, giọng không buồn không vui.
              Tôi thở dài:
              - Cháu thì không biết đến khi nào mới quen được!
              Bác Năm nhìn tôi một lúc rồi lại cúi xuống nói nhỏ:
              - Tất cả mọi vết thương đều sẽ lành theo thời gian. Cô hãy tin điều đó!
              - Dạ, cháu cũng tin vậy và mong sao thời gian sớm hàn gắn những vết thương trongl òng cháu.
              Tôi buột miệng.
              Vừa nói xong tôi chợt không hiểu tại sao mình lại dễ dàng bộc bạch tâm tình với một người còn rất xa lạ thế này? Trước giờ tôi luôn được mọi người đánh giá là một người kín kẽ, ít khi cởi mở với ai. Chắc có lẽ trong hoàn cảnh này, trước một thân phận như bác Năm tôi đã dễ dàng đồng cảm nên có ý muốn sẻ chia chăng?
              - Xong rồi đây! Cô ăn đi cho nóng!
              Tiếng bác Năm cắt đứt dòng suy nghĩ của tôi. Tôi mỉm cười đón lấy tô mì từ tay bác và sì sụp ăn một cách rất ngon lành. Có lẽ đây là tô mì ngon nhất trong đời tôi.
              Tôi vừa bỏ đũa xuống, bác Năm nhanh nhẹn đặt trước mặt tôi một ly trà bốc khói:
              - Uống nước đi cô!
              Tôi nhìn bác mỉm cười:
              - Bác cứ gọi cháu là Nga cho thân mật nghen bác, bác đừng gọi bằng cô nữa!
              Bác Năm gật gù:
              - Ừ, vậy cũng được! Bác cũng có một đứa con gái, nếu nó còn sống bây giờ chắc cũng trạc bằng cháu đó Nga ạ!
              Tôi rất muốn hỏi thêm chị ấy chết trong hoàn cảnh nào, nhưng thật sự tôi không dám chạm vào nỗi đau của bác Năm, sợ sẽ làm vỡ vết thương đã lành miệng. Vì vậy tôi lãng sang chuyện khác:
              - Trường mình tập trung học lâu chưa bác?
              - À, cũng hơn tuần nay rồi đó cháu! Mới đầu nghe đâu tới ngày 5 tháng 9 làm lễ khai giảng xong rồi học luôn, nhưng hổng biết sao mấy ổng lại cho tập trung học trước hai tuần.
              Bác Năm trả lời rồi hỏi tôi:
              - Cháu có dám ngủ một mình trên đó không?
              Tôi cười:
              - Dạ, dám chứ bác. Cháu dạn lắm!
              Bác Năm gật gù:
              - Ừ! Vật thì tốt. Mấy hôm nghe nhà trwofng nói sẽ có một cô giáo ở xa về dạy và sống ở đây, bác cũng lo lắm, không biết cô giáo có dám ở trong trường không nữa. Bác tính nếu cháu không dám thì bác sẽ kiếm nhà cho cháu trọ.
              Tôi cười:
              - Dạ, không sao đâu bác. Mà… trong trường mình có xảy ra chuyện gì không mà bác sợ cháu không dám ở?
              Bác Năm lắc đầu:
              - Không, có chuyện gì đâu! Bác sống ở đây mấy chục năm rồi có gì? Bác chỉ sợ cháu là nữa, mà nữ thường nhát gan, không dám ở một mình nơi vắng vẻ, vậy thôi!
              Tôi ngồi nói chuyện với bác Năm một lúc nữa rồi đứng lên:
              - Dạ, bác Năm nghỉ ngơi đi, cháu về phòng đây! Cháu cảm ơn bác Năm rất nhiều!
              - Có gì đâu cháu!
              Bác Năm nói và đứng lên tiễn tôi ra sân.
              - Để bác đưa cháu lên phòng.
              - Dạ, khỏi! Cháu lên một mình được rồi bác ơi!
              Tôi ngăn không cho bác Năm đi theo. Bác đứng lại dưới sân trường cầm đèn pin rọi theo tôi một lúc, mãi tới khi tôi bước lên thang lầu bác mới chịu tắt đèn đi trở vào phòng.
              Trời bắt đầu chuyển mưa, bầu trời đen kịt không còn trông thấy một vì sao. Gió thổi mạnh dần, các tàng cây lắt lay trong gió phát ra những tiếng răng rắc như sắp gãy đổ. Lá cây rụng rào rào xuống sân, tôi chạy nhanh về phòng để tránh những con gió đang như quất mạnh vào da thịt.
              Đi gần tới cửa phòng mình, tôi thoáng thấy một cái bóng vụt qua, giống như bóng một người mặc toàn đồ trắng.
              Tim tôi thót lại, tôi la lớn:
              - Ai đó?
              Không ai trả lời tôi. Tôi hồi hộp, nửa muốn đẩy cửa phòng đi vào, nửa muốn chạy trở xuống phòng bảo vệ. Nhưng cuối cùng sự gan dạ đã không cho phép tôi làm phiền bác Năm lần nữa. Tôi nghĩ có lẽ là ăn trộm nên mạnh dạn đẩy cửa phòng.
              Tất cả mọi thứ trong phòng vẫn y nguyên, kể cá chiếc bóp mà lúc nãy do quá mệt mỏi tôi đã vứt bừa ra giữa giường. Tôi cầm bóp lên kiểm tra, tiền bạc, giấy tờ vẫn còn nguyên vẹn.
              Đóng chặt cửa phòng, tôi nằm xuống giường, vẫn để đèn sáng, đầu óc suy nghĩ tới bóng trắng vừa sớt qua ngang tôi lúc nãy.
              Từ nhỏ tôi vốn không tin vào mấy chuyện ma quỷ, mê tín dị đoan nhưng thật sự từ tối tới giờ đã có hai việc khíên tôi không lý giải nỗi. Suy nghĩ đến bể đầu cũng không đoán ra, tôi mệt mỏi chìm vào giấc ngủ lúc nào không biết.
              Khi tôi giật mình thức dậy thì trời đã sáng rõ. Bầu trời quang đãng, sạch bong sau cơn mưa dai dẳng tối qua. Dưới sân hoa lim rụng vàng như trải thảm. Tôi thấy bác Năm đang lom khom quét dọn dưới đó.
              Sau một giấc ngủ ngon, giờ đây tôi đã thật sự tỉnh táo. Nghĩ tới những chuyện đêm qua, tôi tự cười mình. Rằng do mệt mỏi, đầu óc mụ mị nên tôi dễ nhầm lẫn trong bóng tối nhập nhòe.
              Nghĩ vậy nên tôi không bận tâm về những điều đó nữa. Tôi đi rửa mặt, làm vệ sinh cá nhân xong thì bắt tay ngay vào việc sắp đặt lại đồ đạc cá nhân trong phòng.
              Lúc mọi việc vừa xong cũng đã tới giờ làm việc. Tôi cầm xấp giấy tờ đi xuống phòng giám hiệu.
              Mọi việc diễn ra thật mau chóng, vì thật ra tôi chỉ đến để trình diện vàd nhận sự phân công giảng dạy, chứ mọi thủ tục đã hoàn tất từ lâu.
              Thầy hiệu trưởng vắng mặt do bận công tác, chỉ có thầy Hiệu phó tiếp tôi một cách rất niềm nở.
              Sau khi trao đổi một số việc về chuyên môn và đưa cho tôi thời khóa biểu để tôi bắt đầu dạy vào tuần sau, thầy hiệu phó cười hỏi:
              - Chỗ ăn ở như vậy, có điều gì không ổn không cô? Có gì cô cứ nói, nếu khắc phục đowjc chúng tôi sẽ khắc phục ngay. À, lúc nãy bác Năm đã nói chuỵên về mấy bóng đèn ở thang lầu và hành lang, chút nữa sẽ có người tới thay ngay.
              Tôi mỉm cười:
              - Dạ, cảm ơn thầy! Tôi thấy không có gì phải phàn nàn ạ! Với tôi như vậy là tốt rồi.
              Thầy hiệu phó cười, vẻ hài lòng:
              - Cô cứ ở đây sắp xếp việc riêng để ổn định, tuần sau mới bắt đầu dạy. Nếu có gì cần, cô cứ liên hệ với bác Năm. Bác ấy rất tốt.
              - Dạ, tôi biết rồi ạ!
              Tôi cười đáp lại.
              Sáng đó, sau khi làm xong các thủ tục ở phòng giám hịêu, tôi khong về phòng mà hỏi đường đi vô chợ.
              Từ trường tới chợ cũng không xa lắm, khoảng chừng hơn năm trăm mét nên tôi thả bộ mặc dù bác Năm có đề nghị tôi nên lấy xe của bác mà đi.
              Mặc dù mang tiếng là chợ huyện, nhưng nó lèo tèo vắng vẻ đến thảm hại. Khi đi ngang qua một hàng ăn, bao tử tôi lại réo lên sùng sục, có lẽ gói mì tôm chữa cháy tối qua đã tan biến hết rồi trong đó!
              Rẽ vào một tiệm bán cháo, gọi một tô cháo lòng. Trong khi chờ đợi chủ quán đem ra, tôi cứ ứa nước miếng vì mùi hành phi bốc lên thơm ngậy. Tôi tự cười thầm, không ngờ mình cũng xấu tính đến như vậy.
              Người chủ quán bưng cháo ra tôi, và hỏi:
              - Cô dùng chi?
              Tôi ngạc nhiên, chỉ tay vào tô cháo bốc khói:
              - Tôi đã gọi cháo rồi đây mà!
              Người chủ quán mỉm cười, hất đầu sang bên cạnh tôi:
              - Không, tôi không hỏi cô, tôi hỏi cậu bé này!
              Tôi ngơ ngác nhìn sang, bên cạnh tôi đâu có ai, cả mấy cái bàn kế đó cũng không có một người nào. Trong quán chỉ có tôi và hai người nữa ngồi tuốt trong góc phía bên kia.
              - Ủa, ai đâu?
              Người chủ quán cười cười:
              - Chị em cô vui tính thiệt!
              Nói xong ông ta bỏ đi để lại trong đầu tôi thật nhiều câu hỏi. Nhưng rồi mùi cháo nóng đã kích thích cái dạ dày tôi cực độ, tôi vội vàng cắm cúi ăn, không còn nghĩ đến bất cứ điều gì nữa.
              Ăn xong, tôi lững thững đi vào chợ mua một số đồ cần dùng cho sinh hoạt hàng ngày. Khi trên tay đã lỉnh kỉnh tôi mới rời chợ quay trở về nhà.
              Suốt ngày hôm đó tôi loay hoay với đủ thứ việc nên không còn tâm trí nào để buồn rầu hay nghĩ vẩn vơ.
              Tối đó, tôi nấu cơm canh chua và mời bác Năm ăn cùng nhưng bác từ chối, bảo rằng bao tử bác không ăn canh chua được.
              Tôi hơi thất vọng nhưng cũng đành dọn chén bát chuẩn bị ăn cơm một mình. Vừa dọn xong mâm cơm thì đèn tắt phụt.
              Có tiếng bác Năm từ dưới sân trường vọng lên:
              - Nga ơi, cúp điện rồi, cháu có đèn dầu không? Không có thì xuống đây bác cho mượn?
              Tôi chạy ra hành lang khom người nói xuống:
              - Dạ, hồi sáng này cháu đi chợ có mua rồi bác!
              - Ờ, vậy thắp đèn dầu lên đi cháu! Ở đây hay cúp điện thất thường lắm!
              Bác Năm vừa nói đi ra phía trước.
              Tôi trở vào phòng, chưa kịp cầm đũa đã nghe tiếng gọi:
              - Cô ơi, cô Nga ơi!
              Nghe giọng quen quen, tôi chợt nhớ ra, reo lên:
              - Tính phải không? Vô chơi đi em!
              Tính đẩy cửa bước vào, mặt tươi cười:
              - Cô ăn cơm hả? Sao cô ăn trễ vậy?
              Tôi cười:
              - Cô quen ăn giờ này rồi em à! Em ăn với cô cho vui nghen Tính?
              Tính không khách sáo từ chối. Nói nhanh nhẹn ngồi xuống xếp bằng trước mặt tôi.
              - Cơm cô nấu ngon quá!
              Nó vừa và mấy đũa đã khen.
              Tôi cười:
              - Thôi đi, đừng có nịnh cô! Em là người đầu tiên khen cô nấu ăn ngon đó! Cô vụng lắm, cô biết mà!
              Tính ngước lên nhìn tôi, vẻ mặt nghiêm nghị:
              - Em nói thiệt đó, lâu lắm rồi em mới được ăn bữa cơm ngon như vầy!
              Tôi bất chợt nhói lòng, có lẽ vì nhà nghèo nên những bữa cơm của nó luôn thiếu thốn và đạm bạc nên chỉ với bữa cơm canh chua cá kho vầy mà nó khen nức nở.
              Tôi gắp cho Tính một khúc cá to, cười nói:
              - Em ăn đi, ăn cho mập thêm chút nữa! Con trai đang tuổi lớn mà ốm nhom…
              Tính cười thẹn thò nhưng không nói gì.
              Hai cô trò ăn xong bữa cơm rất vui vẻ. Tôi hài lòng vì cuộc viếng thăm này của Tính. Ở một nơi xa lạ như vầy, có một anh bạn nhỏ như thằng Tính kể ra cũng hay!
              Sau khi giúp tôi dọn rửa chén bát, thằng Tính còn siêng năng chạy xuống đất mấy bận để xách nước đổ đầy cái lu nhựa mà tôi mới mua hồi sáng.
              Vóc dáng nó gầy nhom nhưng tôi phải công nhận là nó khỏe thật. Nó hình như không hề mệt mỏi khi xách nước lên thang lầu, vừa nhảy một lúc hai bậc thang, nó vừa líu lo chuyện trò hoặc ca hát.
              - Cô đừng có mét với bác Năm là có em tới nghen!
              Thằng Tính nghiêm mặt dặn tôi.
              Tôi ngạc nhiên:
              - Sao vậy?
              Nó cười, vẻ bí mật:
              - Buổi tối không được để ai vào trường, nhiệm vụ của bác ấy mà! Bác biết em vô ra, bác sẽ la cô đó!
              - Ủa, vậy em đi vô đường nào?
              Tôi tò mò.
              Thằng Tính đưa một ngón tay lên miệng:
              - Sụyt! Bí mật! Em có con đường bí mật riêng mà bác Năm không biết được!
              Tôi cười, giỡn với nó:
              - Thôi mà, bật mí cho cô biết với, không thôi cô chết vì tò mò mất!
              Thằng Tính đứng sát vào tôi, kề vào tai tôi thầm thì:
              - Trường mình có một cánh cửa thông qua sân banh bên cạnh, trước đây mấy thầy bên này thường sang bên đó đánh banh với mấy anh bộ đội, nhưng sau này bộ đội chuyển đi, bên kia bỏ hoang, mấy thầy cũng không đánh banh nữa. Em đi ngã đó, em có chìa khóa của cổng đó, vì hồi trước em là đứa chuyên môn đi lượm banh giúp mấy thầy.
              Tôi bất chợt rùng mình, nhưng không phải rùng mình vì câu chuyện của thằng Tính mà vì luồng hơi lạnh phả ra từ thân thể nó.
              Tôi không quan tâm đến việc nó tới bằng đường nào nữa, mà điều tôi quan tâm hơn hết lúc này sức khỏe của nó:
              - Tính à, em lạnh lắm hả?
              Nghe tôi hỏi đột ngột, thằng Tính sựng lại một giây rồi nhoẻn cười:
              - Không có đâu cô!
              Tôi lắc đầu:
              - Em đừng có giấu cô, rõ ràng cô thấy em bị lạnh ngắt rồi nè! Thôi, mau mau vô phòng cô lấy máy sấy tóc sưởi cho!
              Thằng Tính nhăn nhó cười đi theo tôi. Vô tới trong phòng, sọ gió lạnh, tôi khép cửa lại rồi lấy máy sấy tóc cắm điện sấy khắp người nó.
              Thằng Tính cười hăng hắc:
              - Em nói thiệt mà cô hổng chịu tin, em hổng có lạnh đâu!
              Tôi cầm lấy bàn tay giá lạnh của nó, nghiêm giọng nói:
              - Tay lạnh cóng như vầy mà còn chối hả? Coi chừng bệnh nặng có ngày đó nghe chưa?
              Thằng Tính cười cười rụt tay lại:
              - Tại cô không biết đó thôi, mấy năm trước em bị bệnh, nặng lắm, rồi từ đó tới giờ thân thể em lúc nào cũng lạnh như băng vậy đó, chứ em đâu có cảm thấy lạnh đâu, mà cô có sưởi tới mai nó cũng không ấm lên được!
              Tôi nhìn sững Tính, ngạc nhiên:
              - Em nói thiệt hả? Bệnh gì mà kỳ vậy?
              Tính cười:
              - Em cũng không biết em bị bệnh gì nữa, má cũng hổng biết! Mới đầu má chạy thầy chạy thuốc dữ lắm, đến nỗi bán nhà luôn đó cô, nhưng rồi má cũng đành bó tay thôi. Nhưng mà… giờ thì em với má sống rất vui vẻ…
              - Thân thể em giá lạnh một cách kỳ lạ vầy mà em vẫn khỏe mạnh được sao?
              Tôi nghi ngờ hỏi lại.
              Tính lại mỉm cười, một nụ cười thật vô tư, thơ trẻ:
              - Dạ, em khỏe lắm! Tại cô hổng biết đó thôi, mấy đứa trong trường này đứa nào cũng sợ em!
              Tôi bật cười:
              - Ghê vậy sao?
              Tối đó Tính ở chơi với tôi đến gần mười giờ mới ra về, và còn hẹn ngày mai sẽ lại tới nữa. Lúc đưa Tính tới chỗ thang lầu, Tính xua tay ngăn tôi lại:
              - Cô trở vô đi, em đi một mình được rồi! À, tối ngủ nhớ đóng chặt cửa nghen cô!
              - Biết rồi, ông cụ non!
              Tôi cười với Tính.
              Nó nhảy một lúc mấy bậc thang, không mấy chốc đã xuống tới sân trường. Tôi đứng trên hành lang nhìn xuống, hơi thắc mắc vì thấy nó vẫn đi hiên ngang giữa sân không có vẻ gì là sợ bác Năm bảo vệ phát hiện ra sự có mặt của nó cả!
              - Chắc nó biết giờ này bác Năm đã đóng cửa phòng bảo vệ.
              Tôi thầm nghĩ vậy và vui vẻ trở về phòng.
              Nằm trên giường đọc sách một chút tôi có cảm giác bức bối khó chịu. Chợt nhớ ra lúc sáng đi chợ không mua một cái quạt máy nhỏ. Đêm nay trời lặng gió, đã mười giờ đêm rồi mà vẫn còn nóng bức, nóng còn hơn cả buổi tối, vì buổi tối tôi mở toang các cánh cửa nên thoáng mát hơn, giờ tất cả đều được đóng kín, tôi như không thở được vì cái không khí oi nồng, hừng hực.
              Đứng lên đẩy cánh cửa sổ gần giường ngủ, tôi nhìn ra ngoài. Cửa sổ này nhìn ra hướng đường lộ, con đường ban ngày đã vắng ngắt thì vào cái giờ khuya khoắt này càng vắng vẻ thêm lên. Không một bóng người, không một tiếng động cơ của xe cộ, chỉ có những ánh đèn vàng nhạt buồn bã soi rọi xuống lòng đường.
              Bỗng dưng tôi thèm nghe một tiếng rao đêm, thèm nghe tiếng chổi sột soạt của những công nhân vệ sinh, và thèm cả tiếng chuông điện thoại hối thúc ngày nào…
              Tôi thở dài quay trở lại giường và nằm xuống.
              Tuy ngoài trời không có gió, nhưng khi mở cửa sổ ra tôi đã bớt cảm giác ngộp thở nên bắt đầu mơ màng chìm vào giấc ngủ. Đêm nay tôi không để đèn sáng như tối qua nữa ,à chỉ để một bóng đèn ngủ nhỏ xíu mà thôi.
              Khi hai mắt tôi đã nhắm díp lại, bất thần tôi nghe thấy có tiếng cười giòn giã của mấy đứa trẻ con. Mở choàng mắt ra lắng tai nghe ngóng thì lại chẳng có gì, không gian vắng lặng, cả một tiếng gió xào xạc cũng không!
              - Mình mơ ngủ rồi chắc!
              Tôi lẩm bẩm rồi nhắm mắt cố dỗ giấc ngủ.
              Tiếng cười lại lanh lảnh vang lên, nhưng lần này tôi không thể mở mắt ra được nữa. Tôi thấy như mình đang trôi vào một khoảng không nào đó đầy gió và lồng lộng ánh trăng.
              Tôi thấy trước mắt mình là một đám chừng năm, sáu đứa trẻ con vừa trai vừa gái. Chúng đang chơi đùa rượt đuổi nhau rất vui vẻ.
              Một đứa bé gái chừng sau tuổi chạy tới ôm lấy chân tôi nũng nịu:
              - Cô ơi, mấy anh chị ăn hiếp con kìa…
              Đám trẻ kia chạy lại vây lấy tôi, mạnh đứa nào nấy nói tôi nghe không kịp thở:
              - Cô ơi, bé Hà nhõng nhẽo đó cô, nó nhớ mẹ nên thấy ai giống mẹ là chạy tới làm nũng vậy đó chứ tụi con đâu có ăn hiếp nó…
              - Cô ơi, cô có kẹo không cô, cho con ăn với cô!
              - Cô ơi, mai cô nấu cơm cho con ăn với, tụi con đói quá!
              - Cô ơi, cô đừng đóng cửa, cô cho tụi con vô chơi với cô, giống như anh Tính vậy, nghen cô!
              Tôi còn đang lúng túng chưa kịp nói gì thì thấy thằng Tính đi từ xa lại.
              Nó trợn mắt nhìn đám trẻ rồi nói:
              - Tao đã dặn tụi bây rồi, không được làm ồn, để cho cô ngủ mà tụi bây không nghe! Muốn ăn đòn phải hôn?
              Đám trẻ len lét đứng nép vào nhau vẻ sợ hãi.
              Tôi chợt phì cười:
              - Tính oai thiệt nghen!
              Thằng Tính không cười như tôi tưởng, nó nghiêm mặt nhìn tôi, tổng nó già giặn hơn rất nhiều:
              - Em đã dặn cô rồi, ngủ thì phải đóng kín cửa lại chứ!
              - Cô… cô xin lỗi!
              Tôi ấp úng nói và cũng không biết tại sao mình lại thấy có lỗi khi không nghe lời thằng Tính đóng cửa lại khi ngủ.
              - Cô về phòng đi!
              Thằng Tính đẩy nhẹ tôi một cái, nhưng tôi mất thăng bằng gần như chúi nhủi về phía trước.
              Khi gượng lại được, thì trước mắt tôi không còn một ai, cả thằng Tính lẫn lũ trẻ.
              - Chúng biến đi đâu nhanh đến vậy kìa?
              Tôi lẩm bẩm rồi cất tiếng gọi:
              - Tính ơi, Tính!
              Chính tiếng gọi ấy đã đánh thức tôi dậy. Tôi mở choàng mắt ra, ngỡ ngàng nhìn khắp căn phòng.
              - Thì ra là một giấc mơ!
              Tôi lau mồ hôi trán, và nhắm mắt lại nhưng không tài nào ngủ được nữa. Tự nhiên trong lòng tôi như có một cái gì bất an đang xâm chiếm.
              Trằn trọc hoài không ngủ tiếp được, tôi ngồi dậy mở đèn lấy tập sách ra ngồi soạn bài.
              Lúc này ngoài trời đã có gió nhẹ, thỉnh thoảng một vài cơn gió thổi vào cửa sổ mát rượi khiến tôi thích thú.
              Đang chăm chú vào việc soạn bài, bất chợt tôi nghe như có tiếng hát từ dưới đường vọng lên. Tò mò tôi đứng dậy đến bên cửa sổ nhìn xuống. Dưới đường vẫn không có một bóng người.
              Tôi đang ngẩn ngơ thì lại nghe tiếng hát, nhưng lần này tôi đã xác định được nó không xuất phát từ dưới đường mà là ở phía trong sân trường.
              Tôi tò mò quá khong chịu nổi nên nhẹ nhàng mở cửa phòng, đi ra hành lang đứng nhìn xuống dưới.
              Sân trường cũng vắng lặng không có một ai. Vừa định quay vào, bất chợt tôi thấy rõ ràng bóng dáng một người đàn bà từ trong phòng bảo vệ đi ra, trên tay bà ta là một cái thau lớn. Bà bưng cái thau đi về hướng nhà vệ sinh, vừa đi vừa cất tiếng hát, lời bài hát nghe buồn đến nao lòng:
              Có phải ta buồn nên nắng cũng hanh hao?
              Gió mệt mỏi lá cây lay rất nhẹ
              Ta một mình giữa trưa quạnh quẽ
              Chợt nghe thèm lời dịu ngọt từ ai...
              Có khóc đâu sao khóe mắt lại cay?
              Ta đã dặn lòng mình từ lâu lắm
              Rằng tình yêu với ta là vực thẳm
              Đừng đến gần sẽ có lúc sa chân
              Cớ sao lòng vẫn cứ mãi bâng khuâng
              Cứ vương vấn một điều gì hư ảo
              Để có lúc ta thấy đời giông bão
              Không bờ bến nào chở che...
               
              Có những lúc ta thèm nghe
              Một câu hỏi hay một lời nhắc nhở
              Để ta biết dẫu muôn trùng cách trở
              Vẫn còn có người nhớ nghĩ về ta
              Mỗi đêm trăng ánh sáng vỡ òa
              Ta ước được cùng ai vai kề má tựa
              Để ta trải lòng mình theo điệu nhạc
              Mơ một vầng trăng...
              Thôi đừng buồn và cũng chớ băn khoăn...
              Người đàn bà đó là ai? Tôi băn khoăn suy nghĩ và bất chợt một tia sáng lóe lên:
              - Thôi, mình hiểu rồi! Bác Năm là đàn ông, sống một mình vò võ bao nhiêu năm qua, tất nhiên bác cũng cần có người tâm sự…
              Tôi nhẹ nhàng đi trở vào phòng khép cửa lại, không múôn làm ảnh hưởng tới cái hạnh phúc vụng trộm nhỏ nhoi mà bác Năm đang được hưởng.
              Bất chợt tôi lại nhớ đến người đàn ông đã nhẫn tâm phụ bạc mình, nước mắt tôi lại lăn dài hai bên má. Thế mới biết, trốn chạy một người là không khó nhưng trốn chạy một hình ảnh trong tim thì khó đến vô cùng!
              Tiếng hát dưới sân vẫn vang lên văng vẳng, tôi ngồi thừ trước cuốn tập mở ra lắng nghe và đột nhiên tôi hý hoáy ghi lại từng câu hát mà người đàn bà kia đang ngân nga bên dưới sân trường.
              Một lúc sau tiếng hát không còn vẳng đến tai tôi nữa. Tôi lẩm nhẩm hát lại mấy lượt rồi tập trung vào việc soạn bài.
              Soạn bài xong thấy vẫn còn sớm, tôi đứng lên khép cửa sổ lại đi ngủ tiếp. Và có lẽ khí trời giờ này đã dịu lại nên tôi ngủ rất ngon.
              Sáng hôm sau, tôi vẫn loay hoay với những việc giống như hôm trước. Tức là cũng đi chợ để mua sắm thêm mấy thứ còn thiếu và về nhà dọn dẹp, tìm chỗ làm chỗ phơi áo quần, chỗ nấu nướng cho gọn gàng, tươm tất.
              Chiều tối, mệt nhoài với bao nhiêu việc linh tinh trong ngày, tôi không vội nấu cơm mà nằm dài ra giường nghỉ ngơi cho lại sức.
              Trong giấc ngủ lơ mơ tôi lại thấy đám trẻ con tối qua, chúng đứng ngay trước cửa phòng tôi vòi vĩnh:
              - Cô ơi, con đói quá, cô nấu cơm cho con ăn với!
              - Cô ơi, cô có kẹo không? Cho con ăn kẹo đi cô…
              Tôi giật mình thức giấc, ngơ ngác ngó ra ngoài. Lúc này bóng tối đã bao trùm, đèn trong phòng tôi cũng chưa mở. Đám muỗi đói vo ve bu quanh tôi. Tôi ngồi dậy mở đèn và sửa soạn nấu cơm.
              Tôi có một tính xấu, dù sống một mình tôi cũng không thể nấu cơm ngày một lần như nhiều người khác. Tôi có thể chịu đựng được khó khăn, vất vả, thậm chí có thể nhịn đói được một vài cữ, nhưng nếu ăn cơm đàng hoàng thì cơm canh phải nóng sốt.
              Vừa nấu cơm, tôi vừa nhớ lại giấc mơ khi nãy và chắc lưỡi than thầm:
              - Đầu óc mình có vấn đề rồi cũng nên! Sao cứ mơ màng tới chuyện gì đâu kỳ lạ thế không biết!
              Khi cơm vừa chín, tôi lại nghe tiếng thằng Tính ngoài cửa:
              - Cô ơi! Em tới chơi với cô nè!
              Tôi mừng rỡ:
              - Vô đây đi Tính, cả ngày cô ở nhà một mình buồn muốn chết, cứ trông em mãi! Lúc sáng cô đứng ngó xuống sân trường chỉ mong gặp em, kêu em chiều tới chơi với cô mà không thấy!
              Thằng Tính không nói gì, chỉ cười tủm tỉm.
              Tôi chợt giật mình tự trách mình không chịu nấu cơm nhiều một chút, giờ có thằng Tính tới thì sao đây? Thôi kệ, cứ ăn một tí cho có, tối có đói thì nấu mì ăn thêm vậy.
              Nghĩ thế, tôi kêu thằng Tính dọn chén đũa rồi hai cô trò lại ngồi ăn rất vui vẻ.
              Cũng giống như hôm qua, thằng tính không ngớt lời trầm trồ khen thức ăn tôi nấu.
              Tôi nửa đùa nửa thật:
              - Em về xin má tới sống với cô đi, mỗi ngày cô đều nấu thức ăn ngon cho em ăn!
              Thằng Tính cười, vẻ tư lự:
              - Không được đâu cô! Má chỉ có mình em, em phải ở nhà với má… Nhưng nếu cô cho phép, mỗi ngày cứ chiều tối là em tới chơi với cô, ăn cơm với cô. Mà cô có đủ gạo nuôi em không đó?
              Thằng Tính vừa hỏi vừa nhìn vào cái nồi cơm nhỏ xíu của tôi. Hôm qua vì chủ ý nấu cơm mời bác Năm cùng ăn nên tôi nấu nhiều, hôm nay tôi không nghĩ thằng Tính tới, chỉ tưởng nấu một mình mình, giờ có nó đâm ra chỉ mới xới mỗi người một chén mà cái nỗi chỉ còn tráng lại một lớp cơm dưới đáy.
              Tôi cười giã lã:
              - Gạo thì bao la, em cứ yên tâm ăn đi! Hôm nay cô không đói nên nấu ít thôi.
              Thằng Tính cười lỏn lẻn:
              - Cơm nhà cô ngon quá, em rất thích ăn…
              - Vậy thì từ mai ngày nào cũng tới nghen, cô sẽ nấu cơm phần em, hôm nào mà để dư cơm nguội cô sẽ đánh đòn đó, nghe không?
              Tôi nhìn Tính, âu yếm nói và tưởng đâu Tính sẽ vui vẻ đồng ý tức thời. Nhưng không, Tính buông đũa, ngồi thừ ra một lúc rồi mới nói thật chậm rãi:
              - Em cũng không biết em còn được tới chơi với cô trong bao lâu nữa!
              - Sao vậy?
              Tôi ngạc nhiên hỏi Tính
              Tính cười buồn:
              - Thôi, cô đừng quan tâm tới chuyện đó. Hôm nào tới được, nhất định em sẽ tới với cô. Em rất thích được tới đây chơi với cô!
              Tôi nhìn Tính rồi nói:
              - Cô biết rồi, mai mốt chính thức vô năm học, em sợ má không cho đi chơi chứ gì? Yên tâm đi, nay mai cô sẽ tới nhà em, xin phép má cho em tới chơi với cô, em sẽ tới đây học bài cũng được mà!
              Tính không nói gì, chỉ ngồi cười thật buồn.
              - Ăn cơm đi em!
              Tôi giục.
              Tính bưng chén cơm lên ăn một cách uể oải.
              Ăn xong, nó không liếng thoắng kể cho tôi nghe đủ thứ chuyện như hôm qua nữa mà cứ ngồi thẩn thờ, tôi hỏi gì nó cũng ậm ừ cho qua chuyện.
              Ngồi một lúc nó đứng lên xin phép ra về. Thấy còn sớm, tôi rất muốn giữ nó ở lại nhưng thấy tâm trạng nó dường như có gì đó không vui nên tôi không nói gì, chỉ tiễn nó ra tới cầu thang. Bao giờ tới đó cũng đủôi tôi trở lại. Lần này cũng vậy, nó vẫn không quên căn dặn:
              - Cô nhớ đóng kín cửa phòng nghen cô!
              Tôi tò mò hỏi:
              - Tại sao em lại dặn cô chuyện đó hoài vậy? Có gì quan trọng lắm à, Tính?
              Tính lưỡng lự một chút rồi cười gượng gạo:
              - Dạ, đâu có gì đâu cô! Tại em nghe má nói gió ở miền này độc lắm, ai không quen là bị xâm nhập vào cơ thể, chết chứ chẳng chơi. Em sợ cô bị trúng gió nên dặn vậy thôi!
              Tôi xúc động trước lời nói của Tính, mỉm cười với nó:
              - Ừ, cô nhớ rồi! Cô cám ơn em rất nhiều, cho cô gởi lời thăm má nghen Tính, nay mai cô sẽ tới chơi.
              Tính dạ lớn rồi chạy ào xuống sân.
              Tôi vào phòng, dọn dẹp một tí rồi lấy bài ra soạn.
              Tối đó khí trời dịu mát nên tôi không cần phải mở cửa phòng và đã ngủ một giấc rất ngon không hề mộng mị.
              Hôm sau, tôi chẳng còn công việc gì để làm. Suốt ngày tôi hết đọc truyện lại lấy bài vở ra xem lại rồi ngủ một giấc đến hơn hai tiếng đồng hồ.
              Chiều mát, khi học sinh đã tan học từ lâu, sân trường quạnh vắng, tôi lang thang xuống chơi với bác Năm, nhưng có lẽ bác đã đi đâu đó, trong phòng bác không có ai.
              Một mình thơ thẩn đi dạo quanh sân trường, tôi chợt nhận ra mình đã đi tới cánh cổng sau lúc nào không hay, cánh cổng ăn thông với sân banh mà hôm trước Tính đã kể cho tôi nghe.
              Tôi mỉm cười nghĩ tới cảnh Tính một mình lén lút mở cổng này để vào thăm tôi. Nhưng ánh mắt tôi chợt chạm phải cái ổ khóa lủng lẳng trên cánh cổng. Tôi đi nhanh tới cầm ổ khóa lên nhìn thật kỹ, cái ổ khóa đã cũ lắm rồi và hình như đã lâu không ai đụng chạm tới. Một lớp rỉ sét bao quanh nó. Vậy sao Tính vào được mỗi đêm? Thằng nhóc này cũng ma lanh thiệt!
              Tôi lại không bận tâm nhiều tới chuyện đó nữa. Lang thang quay trở vào, tôi thấy bác Năm đang kéo ống nước tưới mấy bồn hoa ở sân trường.
              - Bác để cháu tưới giúp cho, bác Năm!
              Tôi giành lấy ống nước trong tay Năm, ông mỉm cười đưa cho tôi và nói:
              - Cháu làm được không đó?
              Tôi cười:
              - Trời! Bộ bác nhìn cháu ra vẻ tiểu thơ lắm sao? Chuyện gì cháu cũng làm được hết nghen bác!
              - Giỏi! Giỏi…
              Bác Năm cười khà khà và lấy thuốc ra hút, vừa nhìn tôi rê ống nước tưới cây.
              - Bác Năm ơi, mấy chục năm qua bác cứ sống một mình vậy sao bác?
              Tôi vừa làm vừa gọi chuyện.
              Bác Năm ngồi xuống chiếc ghế đá cạnh đó phì phà thuốc và chậm rãi nói:
              - Không sống một mình vậy chứ cháu biểu bác sống với ai đây?
              Tôi nháy mắt cười với bác:
              - Sao bác không tìm một người để chia sẻ buồn vui?
              - Cháu nghĩ dễ tìm lắm sao?
              Bác Năm hỏi mà không nhìn tôi.
              Tôi kéo ống nước đi tới góc sân bên kia, bác Năm cũng đứng lên lững thững đi theo, rề rà kể chuyện:
              - Thiệt ra mấy năm trước bác cũng tưởng đời mình sẽ thay đổi, vì đã tìm thấy một người phụ nữ biết thông cảm và thương yêu mình. Những người trong trường cũng mừng giùm cho bác, lãnh đạo nhà trường đã lên kế hoạch cấp cho bác mượn miếng đất phía sau để bác dựng một ngôi nhà nhỏ vợ chồng hôm sớm có nhau. Nhưng thật không ngờ số phận hẩm hiu, người phụ nữ đó chưa kịp về sống với bác thì đã qua đời… Từ đó đến nay bác không nghĩ tới chuyện lấy vợ nữa. Một phần vì tuổi bác đã cao rồi, phần nữa bác vẫn chưa quên được người đó, và một phần cũng vì bác tin số phận mình đen đuổi, dính vào ai là người đó sẽ bị tai họa.
              Tôi đứng sững nghe bác Năm kể chuyện đời mình. Nước trong ống tuôn ra xối xả, tràn khỏi bồn hoa, chảy xuống sân đọng vũng.
              Bác Năm đi nhanh tới vòi khóa nước lại rồi cuộn ống dây dẹp vào một góc. Tôi tới ngồi thừ lên ghế đá cạnh đó.
              Làm xong công việc, bác Năm tới ngồi cạnh bên tôi thủ thỉ:
              - Mỗi người đều có số phận riêng cháu ạ! Sung sướng hạnh phúc hay vất vả đau thương chắc là do cái nghiệp từ kiếp trước, bây giờ mình có khóc lóc, oán than cũng không thay đổi được gì, thôi thì đành cắn răng mà chấp nhận, rồi ráng ăn ở hiền lành để hy vọng vào kiếp sau…
              Tôi nghe bác Năm kể chuyện đời bác mà như bác đang nói về tôi. Nước mắt tôi cứ thánh thót rơi xuống không ngăn lại được.
              Bác Năm cũng không tỏ vẻ gì ngạc nhiên khi thấy tôi đột nhiên khóc ròng như vậy.
              - Hôm mới gặp cháu, bác đoán biết ngay cháu về công tác ở đây là để trốn chạy tình cảm. Chỉ có chuyện đó mới khiến cháu buồn ngẩn ngơ  như vậy mà thôi. Cháu còn trẻ, rồi mọi chuyện sẽ qua thôi cháu ạ!
              Bác Năm nhỏ nhẹ an ủi.
              Tôi chỉ khóc mà không nói gì được.
              Bác Năm lảng sang chuyện khác.
              - Mấy hôm nay cháu đã quen với cuộc sống ở đây chưa? Khi nào buồn thì xuống chơi với bác.
              Tôi quẹt nước mắt, cố mỉm cười:
              - Dạ, cháu cũng quen rồi bác Năm à! Vả lại cháu vốn thích sự yên tĩnh nên nơi này cũng hợp với cháu.
              Bác Năm vỗ vai tôi cười khà khà:
              - Ừ, vậy thì được đó! Ráng đi cháu, rồi tất cả sẽ qua hết thôi. Ít lâu nữa để bác tìm đứa nào dễ thương bác làm mai cho!
              Tôi cười héo hắt:
              - Không, cháu chờ khi nào bác cưới vợ đi đã!
              Bác Năm thở dài:
              - Chuyện đó kiếp này không tới nữa đâu cháu ơi!
              Tôi nhìn bác Năm mỉm cười:
              - Bác đừng có giấu cháu, cháu biết hết rồi nghen!
              Bác Năm ngạc nhiên:
              - Cháu nói cháu biết hết, mà biết gì?
              Tôi thật buồn cười trước vẻ mặt làm như ngây thơ vô tội của bác Năm. Tự nhiên lúc đó tôi thấy mình cần phải nói ra và sẽ cố gắng vun đắp cho mối tình của bác.
              Tôi nháy mắt nhìn bác:
              - Cháu muốn bác giới thịêu bác gái với cháu!
              Bác Năm càng ngơ ngác dữ dội hơn:
              - Cháu nói gì bác không hiểu được?
              Tôi bật cười khanh khách và nói:
              - Cháu muốn nói tới người phụ nữ đêm hôm kia, người đang đêm mang áo quần của bác đi giặt đó!
              - Người phụ nữ đêm hôm kia? Cháu muốn ám chỉ cái gì vậy?
              Bác Năm nhíu mày lặp lại câu nói của tôi.
              Tôi không cười nữa mà bắt đầu ngạc nhiên giống bác:
              - Bác Năm không nhớ sao? Tối hôm kia cháu thấy có người phụ nữ đi từ trong phòng bác ra mà, bưng theo cái thau đi xuống nhà vệ sinh nên cháu đoán là người đó đem quần áo của bác đi giặt.
              - Người đàn bà đó vóc dáng ra sao? Cháu… cháu nói cho bác biết với!
              Giọng bác Năm như sắp hụt hơi.
              Lúc này tôi hoang mang cực độ:
              - Bác… thật sự bác không biết sao? Người đó cao cỡ này này, dáng dấp thon thả, mặt mũi thì cháu không thấy rõ, nhưng ấn tượng nhất là giọng hát!
              Tôi vừa nói vừa làm điệu bộ để diễn tả dáng dấp của người phụ nữ kia.
              Khi nghe tôi nhắc tới giọng hát, bác Năm như giật bắn người, bác hấp tấp hỏi dồn:
              - Giọng hát người đó ra làm sao? Người đó hát gì hở cháu?
              Tôi lúng túng một thoáng rồi nói theo trí nhớ của mình:
              - Giọng hát của người đó rất hay nhưng thật buồn bác ạ! Cả lời bài hát cũng buồn nữa.
              - Lời bài hát thế nào, cháu có nhớ không?
              Bác Năm hổn hển hỏi dồn.
              Tôi căng đầu óc cố nhớ lại nhưng không tài nào nhớ ra. Bất chợt tôi reo lên:
              - A, cháu nhớ rồi! Hôm đó nghe lời bài hát là lạ, hay hay nên cháu có chép lại. Bác chờ chút để cháu lên lấy xuống cho bác xem!
              - Ừ, cháu lên lấy mau đi!
              Bác Năm dường như đang run rẩy.
              Tôi chạy nhanh lên lầu, mở cửa phòng vào lục tung đống sách vở trên bàn và nhanh chóng tìm thấy cuốn tập có chép bài hát đó. Tôi cầm cuốn tập chạy trở xuống sân trường.
              Bác Năm lấy thuốc ra hút, nhưng tôi thấy hai bàn tay bác run lên bần bật, đánh rơi diêm quẹt đến mấy lần. Tôi ngồi xuống cạnh bác Năm lật cuốn tập ra và hắng giọng rồi cất tiếng hát:
              Có phải ta buồn nên nắng cũng hanh hao?
              Gió mệt mỏi lá cây lay rất nhẹ
              Ta một mình giữa trưa quạnh quẽ
              Chợt nghe thèm lời dịu ngọt từ ai...
              Có khóc đâu sao khóe mắt lại cay?
              Ta đã dặn lòng mình từ lâu lắm
              Rằng tình yêu với ta là vực thẳm
              Đừng đến gần sẽ có lúc sa chân
              Cớ sao lòng vẫn cứ mãi bâng khuâng
              Cứ vương vấn một điều gì hư ảo
              Để có lúc ta thấy đời giông bão
              Không bờ bến nào chở che...
               
              Có những lúc ta thèm nghe
              Một câu hỏi hay một lời nhắc nhở
              Để ta biết dẫu muôn trùng cách trở
              Vẫn còn có người nhớ nghĩ về ta
              Mỗi đêm trăng ánh sáng vỡ òa
              Ta ước được cùng ai vai kề má tựa
              Để ta trải lòng mình theo điệu nhạc
              Mơ một vầng trăng...
              Thôi đừng buồn và cũng chớ băn khoăn...
              Hát xong, tôi quay sang nhìn bác Năm và thật bất ngờ khi thấy bác ngồi ngây người như một pho tượng. Điếu thuốc trên tay bác đã cháy hơn phân nửa nhưng bác vẫn không buồn đưa lên miệng phì phà.
              - Bác Năm! Bác sao vậy?
              Tôi chạm khẽ vào tay bác, hỏi.
              Bác Năm giật mình thảng thốt kêu lên:
              - Trời ơi! Thì ra là bà ấy! Bà ấy vẫn luôn theo tôi sao?
              Tôi mở to mắt nhìn bác Năm không dám hỏi gì thêm trước nỗi đau đang hằn lên trên gương mặt bác.
              Hai hàng nước mắt từ từ lăn xuống gò má già nua khắc khổ. Bác Năm khóc lặng lẽ một hồi rồi chậm rãi kể cho tôi nghe bằng cái giọng nghèn nghẹn đến tội nghiệp:
              - Bà ấy chính là vợ bác năm xưa. Vợ chồng bác hết mực yêu thương nhau và đã có với nhau một đứa con gái, chắc cũng trạc bằng tuổi cháu. Lúc đó bác đi buôn bán rày đây mai đó, năm bữa nửa tháng mới về tham nhà. Có những khi đi một lúc hơn hai tháng trời mới quay về. Rồi bác nghe người ta xì xầm bàn tán, rằng vợ bác vì không chịu được nỗi cô đơn nên đã có quan hệ bất chính với một người trong xóm. Bác rất buồn đau, nhưng vợ bác khăng khăng cho là mình bị oan. Bác cũng hoang mang chưa xác định được. Nhưng rồi sau đó, người ta trưng ra cho bác thấy những bằng cớ hiển nhiên không thể không tin được. Một lần nữa bác gặng hỏi, nếu cô ấy đã lỡ sa ngã bác sẵn sàng tha thứ và vợ chồng sẽ làm lại từ đầu, nhưng cô ấy một mực kêu oan. Thế là bác lẳng lặng bỏ nhà ra đi, vì nghĩ cô ấy không còn thành thật nữa. Bác đi hơn bốn tháng, không hề biết chút nào tin tức ở quê nhà. Năm đó chiến tranh loạn lạc, bom đạn liên miên. Trong một lần đi cùng với mấy người bạn, nhóm của bác vấp phải mìn nhưng bác may mắn chỉ bị thương nơi chân không nguy tới tính mạng. Trong khi đó, người bạn thân cùng quê bị rất nặng. Trong cơn hấp hối anh ta đã thú nhận vì quá mê say nhan sắc của vợ bác, anh ta đã đặt điều vu khống để vợ chồng chú ly tan, anh ta sẽ thừa cơ hội chiếm lấy trái tim cô ấy. Nhưng anh ta không ngờ cô ấy là một phụ nữ chặt dạ, dù bị bác đối xử không tốt nhưng cô ấy vẫn một lòng yêu thương bác, dẫn con đi tìm kiếm bác khắp nơi. Người bạn ấy thú nhận xong tội lỗi thì cũng trút hơi thở sau cùng. Bác đau đớn khôn xiết và vội vàng trở về quê tìm lại vợ con. Nhưng hỡi ơi quê nhà loạn lạc, cô ấy dắt con phiêu bạt phương nào không ai hay biết. Bác cứ lần theo từng dấu vết dù mờ nhạt mỏng manh để tìm cho bằng được vợ con. Hơn một năm sau bác mới nghe tin có một phụ nữ với những đặc điểm giống như vợ bác dắt theo một đứa con nhỏ về giảng dạy tại ngôi trường này. Hồi đó chiến tranh, người ta học chủ yếu là để biết chữ, lớp học xô bồ đủ các lứa tuổi. Vợ bác ngoài dạy chữ còn dạy cho học trò hát. Cô ấy là một phụ nữ có tài, say mê âm nhạc và thơ ca. Bác và cô ấy đã từng có những năm tháng hạnh phúc ngập tràn trong tình yêu lãng mạn. Nhưng thật đau lòng, khi bác tìm tới được nơi này thì biết tin, trước đó hai ngày một trận bom dội xuống đây, gần như toàn bộ lớp học của vợ bác đã tan xác hết, chỉ còn sót lại một vài thi thể bị văng ra tận ngoài xa là nguyên vẹn… Dù không nhìn được mặt vợ con, hồ sơ giấy tờ trong trường cũng không còn để bác xác minh có đúng đó là vợ con mình không nhưng bác vẫn linh cảm là đúng. Vả lại bác cũng quá mỏi mệt, chán chường rồi, không còn đủ sức để tìm kiếm nữa. Bác ở lại đây từ đó, coi như nơi này là gia đình mình từ đó! Nhưng bác thật sự không ngờ bà ấy vẫn luôn ở bên cạnh bác. Sao bà ấy không để cho bác thấy mặt mà cháu thì lại nhận ra? Chẳng lẽ cho đến tận bây giờ bà ấy vẫn chưa chịu tha lỗi cho bác hay sao? Còn con gái bác, con bé Hà nữa, nó giờ ra sao?
              Bác Năm gục xuống khóc nghẹn ngào. Tôi chợt thấy có điều gì đó như lóe lên trong đầu. Hà, bé Hà! Đúng rồi, đúng là con bé vẫn đeo theo tôi để xin kẹo có tên là Hà. Có đúng nó là con gái của bác Năm không?
              Bất chợt tôi hỏi:
              - Bác có hình của mẹ con bác gái không? Cho cháu xem với!
              Bác Năm gật đầu rồi đứng lên nhúc nhắc đi vào phòng. Lát sau bác trở ra, trên tay cầm một một tấm ảnh đã ố vàng theo năm tháng:
              - Đây là hình mẹ con nó chụp trước lúc bác bỏ nhà ra đi…
              Tôi cầm lấy tấm ảnh, và rõ ràng tôi thấy đứa bé trong hình đang mỉm cười nũng nịu với tôi:
              - Cô ơi, cho con kẹo đi cô!
              - Nga! Nga! Cháu sao vậy?
              Giọng bác Năm hốt hoảng gọi tôi. Tôi bừng tỉnh nhìn bác bằng ánh mắt thất thần, lắp bắp:
              - Bác Năm ơi… cháu… cháu đã gặp người này rồi! Mấy hôm nay cháu vẫn cứ thấy có một đám trẻ vây lấy cháu đòi ăn cơm, ăn kẹo. Cô bé trong hình quả có tên là Hà, luôn xin cháu kẹo…
              - Thật vậy sao? Thật vậy sao?
              Bác Năm lẩm bẩm.
              Tôi bỗng nhớ ra và hỏi gấp rút:
              - Bác Năm ơi, có phải cánh cổng phía sau trường lúc trước mấy thầy bên đây thường sang sân banh bên kia để chơi phải không bác?
              Bác Năm ngạc nhiên nhìn tôi:
              - Sao cháu biết chuyện đó?
              Tôi không trả lời mà hỏi tiếp:
              - Bác biết một thằng bé tên là Tính thường lượm banh giúp các thầy không?
              Bác Năm nhìn tôi lạ lẫm:
              - Sao cháu biết nó?
              Tôi đáp nhanh:
              - Tối nào nó cũng tới ăn cơm với cháu!
              Bác Năm đứng phắt dậy nhìn tôi đăm đăm. Dự cảm có điều không hay, tôi run run hỏi:
              - Bác Năm, bác kể cho cháu nghe hết mọi chuyện đi bác!
              Bác Năm thở dài đánh thượt một cái rồi ngồi xuống cạnh tôi nói:
              - Thằng Tính chết cách đây hơn hai năm rồi!
              Mồ hôi tôi bắt đầu nhỏ giọt hai bên thái dương mặc dù buổi chiều tối hôm nay gió thật lớn.
              Bác Năm chậm rãi kể tiếp:
              - Nó đang học lớp mười một thì mắc phải một căn bệnh lạ. Thân thể cứ mỗi ngày một xanh xao vàng vọt. Má nó đã phải bán nhà bán cửa để chạy thầy chạy thuốc mà không khỏi được. Cuối cùng thằng Tính chết, má nó quá đau buồn nên loạn trí, nhảy xuống sông chết luôn.
              - Má nó cũng chết luôn?
              Tôi lắp bắp hỏi lại nhưng không chờ bác Năm trả lời tôi nói tiếp:
              - Vậy cái xe nước mía và người đàn bà kia… đều là ma sao?
              Bác Năm gật đầu:
              - Có lẽ đúng vậy rồi cháu à! Lâu nay người dân ở đây thường đồn đại chỗ gần khu vực bến xe có một xe nước mía ma, khác phương xa tới thường ghé vào đó uống, tuy không ai bị hại gì nhưng người ta không khỏi hoảng sợ khi sau đó thấy những tờ tiền mà người đàn bà đó thối lại chỉ là những tờ tiền âm phủ. Nhưng mà mẹ con nhà đó cũng đã cứu giúp nhiều người lắm, bởi vậy nên người ta lập một cái miếu nhỏ tại đó để thờ mẹ con thằng Tính đó cháu à!
              Tôi bủn rủn cả người khi nghe bác Năm kể chuyện. Bất giác tôi òa khóc:
              - Trời ơi! Tại sao lại là cháu chứ? Tại sao ma lại chọn cháu để hiện ra chứ?
              Bác Năm an ủi:
              - Cháu đừng buồn, có lẽ cháu là người hiền lương nên họ mới chọn cháu để nhờ cháu giúp đỡ.
              - Nhờ cháu giúp đỡ… là sao?
              Tôi ngơ ngác hỏi
              Bác Năm suy nghĩ một chút rồi nói:
              - Bác cũng không biết. Lâu nay bác không quan tâm mấy tới chuyện ma quỷ, nhưng bác biết có một người ở trong chợ huyện rất giỏi môn này. Ngay sáng mai bác sẽ cùng cháu tới đó. Cháu thấy được không?
              Tôi gật đầu nhưng vẫn chưa hết thút thít:
              - Nhưng… tối nay… cháu… cháu không dám về phòng…
              Bác Năm nhìn tôi thông cảm:
              - Lát nữa cháu cứ xuống phòng bác, nếu cháu không sợ người ta dị nghị.
              Tất nhiên đối với tôi lúc này lời dị đâu đáng sợ bằng những hồn ma. Tôi nói:
              - Để cháu lên phòng ôm mền gối xuống.
              - Ừ, có cần bác đi theo không?
              Bác Năm ân cần hỏi.
              Tôi nhìn quanh thấy trời vẫn còn sáng, mặc dù trong lòng khong an nhưng tôi sợ làm phiền bác, bác đi đứng khó nhọc vậy, tôi không muốn vì mình mà bác phải lên xuống cầu thang vất vả.
              Vì vậy nên tôi cố làm ra vẻ bình tĩnh:
              - Dạ, không sao đâu bác, còn sớm mà!
              Nói xong, tôi đứn lên đi về phòng, bác Năm cũng đi vô phòng bảo vệ.
              Tôi mở cửa phòng bật sáng đèn và hồi hộp nhìn quanh. Bất chợt tôi xót xa khi thấy nồi cơm tôi vừa nấu khi nãy và nghĩ tới cảnh thằng Tính sẽ đến ăn cơm với tôi như lời hứa.
              Tôi ôm mền gối định đi ra khỏi phòng nhưng tự nhiên lòng tôi không nỡ. Thằng Tính sẽ tới, không thấy tôi nó sẽ buồn biết mấy, tôi là người lớn đã hứa với nó rồi sao lại không giữ lời trong khi nó chỉ là một đứa trẻ, thậm chí chỉ là một hồn ma nhưng nó không hề tùy tiện hứa hẹn gì với tôi kia mà?
              Không được! Dù thằng Tính là ma nhưng cư xử của nó từ lúc biết tôi đến nay lại rất “người” thì có gì tôi phải sợ nó? Nó đâu có làm gì hại tôi? Ngay khi tôi bơ vơ đặt chân tới mảnh đất này, mẹ con nó là người giúp đỡ tôi đầu tiên, tôi không thể cư xử với người ơn của mình như vậy được.
              Tôi đi trở vào, để mền gối xuống giường rồi ra hành lang nói vọng xuống:
              - Bác Năm ơi, cháu bận làm việc một chút, tối tối cháu mới xuống nghen bác!
              - Ờ, cháu cứ làm cho xong đi!
              Tiếng bác Năm từ dưới vọng lên.
              Tôi đi trở vào phòng dọn chén bát ngồi chờ thằng Tính.
              Mặt trời đã lặn từ lâu, bóng tối đã bao trùm vạn vật mà thằng Tính vẫn chưa thấy tới.
              Tôi vẫn kiên nhẫn ngồi chờ. Lát sau tôi nghe tiếng chân rón rén ngoài hành lang như do dự, tự nhiên tôi không còn cảm giác sợ hãi gì nữa và lên tiếng:
              - Tính phải không em? Vào đây với cô đi, cô chờ em từ nãy giờ…
              Thằng Tính rụt rè một chút rồi đẩy cửa bước vào, mặt mũi buồn xo chứ không vui vẻ liếng thoắng như mọi bữa.
              - Ngồi xuống đi em, cô đói rồi nè!
              Tôi ân cần nói với nó.
              Nó ngồi một cách khép nép, bưng chén cơm một cách rụt rè, tôi làm như không để ý tới, vui vẻ hỏi:
              - Sao? Hôm nay thức ăn cô nấu dở quá hay sao mà ăn miễn cưỡng vậy Tính?
              Thằng Tính đặt chén cơm xuống ngước nhìn tôi bằng đôi mắt long lanh nước:
              - Cô… cô không sợ em sao?
              Tôi vờ ngạc nhiên:
              - Sao cô lại phải sợ em kia chứ?
              Thằng Tính cúi đầu nói thật nhỏ:
              - Cô đã biết em là ai rồi kia mà! Cô không sợ ma sao?
              Nhìn dáng vẻ tội nghịêp của thằng Tính, trong lòng tôi trào lên một tình cảm thương yêu vô hạn. Tôi muốn kéo nó vào lòng, ôm nó thật chặt như ôm đứa em bé bỏng xa cách lâu ngày giờ mới gặp lại. Tôi không còn sợ dù biết rõ nó là ma.
              Nước mắt tôi rớt xuống chén cơm đang ăn dở. Tôi nghẹn ngào không nuốt nổi nữa, đạt chén xuống mâm tôi nói với thằng Tính những lời chân thành xuất phát từ trong đáy lòng tôi:
              - Lúc mới biết em là ma, quả thật cô rất sợ! Cô nghĩ tới cảnh cô và em đã từng ăn cơm và cười giỡn với nhau mà nổi cả da gà! Nhưng rồi sau phút giây bàng hoàng đó, bình tâm lại cô suy nghĩ thật cặn kẽ, em là ma thì sao chứ? Em có làm gì tổn hại tới cô đâu? Ngược lại, em còn mang tới cho cô niềm tin vào lòng tốt của con người, em đã đem tới cho cô sự ấm áp, không khí gia đình ở nơi xa lạ này… Cô không sợ em nữa Tính à… Cô hứa với em, mỗi chiều cô vẫn sẽ nấu cơm chờ em tới ăn. Em vẫn tới với cô chứ, Tính?
              Thằng Tính ngồi đờ người ra nghe từng lời tôi nói. Nó không nói gì nhưng lát sau thì bắt đầu chảy nước mắt mà miệng nó lại cố nhoẻn cười:
              - Em rất thích tới đây ăn cơm với cô. Cơm cô nấu rất ngon, nhưng má nói em với cô thuộc hai thế giới khác nhau không thể nào cùng hòa hợp được, nếu như em cứ tiếp xúc với cô hoài, chắc chắn sẽ có lúc cô bị phần âm của em xâm chiếm, như vậy cô sẽ đua bệnh rồi chết dần chết mòn. Mà em thì không muốn điều đó, má cũng không cho phép em làm vậy. Nên hôm nay em định tới đây ăn với cô bữa cơm cuối cùng… Có lẽ nay mai em sẽ phải đi xa...
              Tôi hốt hoảng hỏi:
              - Em đi đâu vậy Tính?
              Thằng Tính buồn rầu nói:
              - Đáng lẽ em đi lâu rồi, nhưng vì em thương má, không nỡ bỏ má lại một mình nên em cứ dùng dằng hoài…
              Rồi bất chợt thằng Tính nhìn tôi bằgn ánh mắt cầu khẩn:
              - Cô ơi…  Hay là… cô giúp cho em đi, nghen cô?
              Tôi ngạc nhiên:
              - Cô giúp gì được cho em?
              Thằng Tính gật đầu:
              - Má nói chỉ có cô mới giúp được cho má con em và cho mấy người ở đây nữa!
              - Mấy người ở đây? Ý em nói là…
              Tôi ấp úng hỏi
              Thằng Tính gật đầu:
              - Dạ, mấy người đó toàn là ma. Tụi nó chết trước em lâu lắm, nhưng ở cõi âm không phân biệt như cõi trần, cứ hồn ma nào lớn hơn là làm anh, bởi vậy tụi nhóc rất sợ em. Nếu em không rầy la tụi nó thì cô không yên mấy hôm nay đâu. Cả cô Huệ cũng vậy, cô ấy cũng cấm không cho tụi nhỏ quấy rầy cô.
              - Cô Huệ? Có phải cô ấy là mẹ của bé Hà, đúng không?
              Tôi hỏi
              Thằng Tính gật đầu:
              - Dạ, đúng rồi đó cô!
              Tôi chợt nhơ, hỏi Tính:
              - Lúc nãy em nói cô giúp gì được cho em và mọi người? Nếu được cô sẽ không từ nan đâu em ạ!
              Thằng Tính run run xúc động:
              - Má nói thật không sai. Má nói ngay lúc đầu nhìn thấy cô má đã biết cô là ân nhân rồi.
              Thằng Tính lặng đi một chút rồi nói tiếp:
              - Trong tất cả những hồn ma phảng phất quanh đây, chỉ có mỗi mình em là được chôn cất tử tế, còn tất cả đều bị nát thay dưới đạn bom, không mồ không mả. Mẹ em thì không bị bom đạn nhưng thân xác đã bị rửa nát dưới lòng sống, nắm xương tàn cũng không biết trôi dạt về nơi chốn nào. Cô biết không, những người chết mất xác như vậy không thể nào siêu thoát được, trừ khi có người lập đàn cầu siêu cúng tế cho họ. Vì không siêu thoát được nên các oan hồn uổng tử cứ loanh quanh khu vực này, mặc dù chưa từng làm hại ai nhưng âm khí của tụi em khiến cho nơi đây không thể nào phát triển được, kể cả việc học hành của học trò ở đây cũng vậy.
              - Nhưng tại sao cô mới là người có thể lập đàn cầu siêu cho họ được?
              Tôi vẫn không ngừng thắc mắc.
              Thằng Tính nói rành rẽ như một người lớn tuổi:
              - Cõi âm cũng có những quy luật khắt khe mà con người không thể nào ngờ được cô ạ! Lễ cầu siêu giống như một tờ giấy bão lãnh, chỉ có thể có giá trị bởi một người có đủ các yếu tố bắt buộc mà họ đòi hỏi. Những điều đó nếu em kể ra đây thì dài dòng, rắc rối lắm, cô chỉ cần biết cô là người hội đủ các điều kiện đó, nên chỉ cô mới có thể bảo lãnh cho những vong hồn này siêu thoát đầu thai kiếp khác mà thôi.
              Thấy tôi ngồi thừ người không nói gì, thằng Tính lo lắng hỏi:
              - Cô ơi, cô có đồng ý giúp tụi em không cô?
              Tôi nhìn nó, mỉm cười gật đầu:
              - Có chứ! Nhất định là cô sẽ làm. Nhưng Tính nè, em cho cô biết biết thêm một chuyện nữa nhé?
              - Dạ, cô cứ hỏi, nếu chuyện gì em biết em sẽ nói với cô!
              Thằng Tính gật đầu đồng ý.
              - Tại sao cô Huệ và bé Hà không xuất hiện cho ông Năm bảo vệ thấy mặt trong khi ổng luôn thương nhớ mẹ con họ, mà cô nghĩ mẹ con họ cũng thương nhớ ông Năm lắm, đúng không em?
              Tôi quyết tâm hỏi cho rõ điều này để giúp bác Năm gỡ bỏ những vướng mắc trong lòng.
              Thằng Tính nhìn tôi một lúc rồi nói:
              - Đáng lẽ em không được nói ra điều này, nhưng em không thể giấu cô được. Cô nói với ông Năm, nếu ông muốn gặp lại mẹ con cô Huệ thì ông nên gỡ bỏ cái nanh heo rừng đang đeo ở cổ. Cái nanh đó đã được ếm bùa nên ma quỷ không thể xuất hiện trước mặt ông Năm được. Điều này cũng làm cô Huệ và bé Hà buồn lắm đó cô!
              Thằng Tính nói xong đứng lên bịn rịn:
              - Thôi, em phải về đây! Có thể em sẽ không gặp lại cô được nữa, nhưng lúc nào em cũng sẽ nghĩ về cô và phù hộ cho cô… em cảm ơn cô đã cho em những bữa cơm ngon lành và sẽ giúp tụi em được siêu thoát.
              Tính nói xong đi nhanh ra cửa.
              Tôi hoảng hốt gọi giật lại:
              - Tính! Tính ơi! Khoan đã, em cho cô hỏi thêm một điều nữa…
              Thằng tính dừng chân quay nhìn tôi chờ đợi. Tôi nói như muốn hụt hơi:
              - Cô… cô đã từng nghe mấy đứa trẻ xin cơm, xin kẹo, như vậy là...
              Tôi lúng túng không biết nên dùng từ gì cho phù hợp.
              Nét mặt Tính giãn ra, nó mỉm cười nói với tôi:
              - Lúc nãy em cũng định thưa với cô chuyện này, nhưng em sợ như vậy là đòi hỏi ở cô nhiều quá, em không dám. Bây giờ cô đã hỏi thì em xin nói thật: Các bạn ấy và cả cô Huệ từ lâu nay luôn đói khát vì đâu có ai cúng kiếng gì đâu. Mà họ cũng không có đủ ma lực để tự tìm lấy cái ăn…
              - Họ không thể vào đây để ăn cơm như em sao?
              Tôi hỏi lại.
              Tính gật đầu:
              - Dạ, họ không thể! Họ là ma nhưng không có ma lực, họ rất yếu ớt không làm gì được…
              - Nếu muốn cho họ ăn, cô phải làm sao?
              Tôi hỏi nhanh.
              Tín mừng rỡ nói:
              - Nếu cô muốn cho họ ăn, cô phải đem xuống sân trường và nói rõ, kêu họ về ăn thì họ mới dám…
              Tôi gật đầu:
              - Cô hiểu rồi! Cô cảm ơn em thật nhiều nghen Tính! Cô tin rằng nay mai em và tất cả mọi người sẽ được siêu thoát!
              Tính không nói gì chỉ mỉm cười rồi lặng lẽ bước đi. Tôi không tiễn Tính tới cầu thang như thường bữa mà đứng ngó theo bóng Tính dần xa.
              Lát sau tôi khép cửa phòng đi xuống dưới nhưng không ôm theo mền gối.
              Bác Năm ngồi thẩn thờ trong phòng, đôi mắt ngầu đỏ như vừa mới khóc.
              - Ủa, sao đi tay không vậy cháu?
              Bác Năm ngạc nhiên hỏi khi thấy tôi không mang theo mền gối để xuống ngủ dưới này.
              Tôi không trả lời bác mà lẳng lặng ngồi xuống chiếc ghế đối diện nói với bác Năm rằng:
              - Bác có muốn gặp lại bác gái và Hà không?
              Bác Năm như không tin vào tai mình, lắp bắp hỏi lại:
              - Sao? Cháu… cháu nói sao?
              Tôi cố gượng cười:
              - Có lẽ bác đang đau buồn vì nghĩ bác gái vẫn chưa tha thứ cho bác? Đừng buồn nữa bác ạ, bác gái đã tha lỗi cho bác từ lâu rồi, mẹ con bác gái vẫn mong muốn được hiện ra trước mặt bác nhưng họ không thể, chỉ vì…
              - Vì sao?
              Bác Năm hỏi dồn.
              Tôi chỉ tay vào sợi dây chuyền đang lủng lẳng trên cổ bác:
              - Chỉ vì cái nanh heo rừng này đã ngăn cách gia đfinh bác có cơ gặp lại nhau. Bác cởi bỏ nó ngay đi, rồi bác sẽ gặp.
              - Thật hả cháu? Làm sao cháu biết vậy?
              Bác Năm vừa luýnh quýnh cởi bỏ sợi dây chuyền vừa hỏi tôi.
              Tôi khẽ cười, nói:
              - Thằng Tính cho cháu biết!
              Bác Năm ngó tôi trân trân:
              - Vậy ra nãy giờ cháu nói chuyện với thằng Tính trên đó? Cháu… cháu không sợ sao?
              Tôi cười buồn:
              - Cháu đã ngộ ra rồi bác ạ, có rất nhiều con người còn đáng sợ hơn ma, vậy mà mình vẫn luôn thương nhớ họ, còn những hồn ma, họ có làn gì tổn hại tới mình đâu sao mình lại sợ họ kia chứ? Cháu nói vậy đúng không bác Năm?
              Bác Năm cầm sợi dây chuyền đưa lên ngang mắt nói chậm rãi:
              - Ngày bác mới vào làm ở đây, một người bạn của bác nói rằng, nơi này diễn ra nhiều sự chết chóc, hồn ma lẩn khuất rất nhiều, để phòng thân, người bạn tặng cho bác sợi dây chuyền này, nói rằng nó đã được yểm bùa, không có ma quái nào tới gần được. Bác thật không ngờ, chính vì vậy mà suốt bao nhiêu năm qua vợ con bác ở ngay sát một bên mà bác không hề hay biết! Cháu nói đúng, ma thì có gì đáng sợ đâu?
              Vừa nói, bác Năm vừa đứng lên đi ra ngoài thẳng tay ném sợi dây chuyền xuống cái hồ bên cạnh.
              Tôi nhìn bác thở dài rồi nói:
              - Thôi, cháu lên phòng đây, mong rằng đêm nay bác sẽ gặp lại vợ con. Ngày mai cháu còn phải bàn với bác nhiều chuyện khác nữa.
              Bác Năm lặng lẽ gật đầu không nói gì.
              Tôi đi về phòng mình lòng thật bình lặng.
              Sáng sớm hôm sau, tôi chưa kịp ra khỏi mùng đã nghe tiếng chân nặng nhọc của bác Năm dừng trước cửa phòng và giọng bác cất lên nghèn nghẹn:
              - Nga à, bác cám ơn cháu nhiều lắm! Nhờ cháu mà đêm qua bác và mẹ con Hà đã giải tỏa được với nhau hết tất cả những nỗi ấm ức nhớ thương suốt mấy chục năm dài. Bây giờ, dù cho có phải nhắm mắt xuôi tay bác cũng không còn gì phải hối tiếc.
              Tôi lật đật chui ra khỏi mùng, không kịp đánh răng rửa mặt gì hết, kéo bác vào phòng kể lại tất cả những gì tối hôm qua thằng Tính đã nói với tôi.
              Khi kể xong, tôi nói:
              - Hôm nay là chủ nhật, trường không có học, bác đi vô chợ tìm ông bạn của bác để hỏi về cách thức lập đàn cầu siêu cúng tế. Còn cháu, cháu sẽ lo nấu cơm nước cho họ ăn một bữa ngon lành, mặc dù điều này đối với cháu thật khó khăn, vì cháu vốn là người vụng về, chưa khi nào nấu cơm cho bốn người ăn, nhưng cháu sẽ cố gắng. Vậy nhé bác Năm?
              Bác Năm đưa tay áo quệt dòng nước mắt, mỉm cười với tôi:
              - Bác sẽ nghe lời cháu, ngay tối nay mình tiến hành nghen cháu?
              - Dạ!
              Tôi mỉm cười gật đầu.
              Tôi làm vệ sinh cá nhân xong là vội vàng ra chợ. Tôi mua đủ thứ đồ ăn thức uống, không quên mua mấy bịt kẹo đủ màu sắc để cho bé Hà, đứa bé vẫn thường gặp tôi là xin kẹo.
              Chiều hôm đó, khi mặt trời vừa lặn, tôi và bác Năm bày ra một góc sân trường một mâm cơm thịnh soạn.
              Bác Năm nước mắt rưng rưng đứng lầm rầm khấn vái.
              Tôi ngồi nhìn bác mà nói thầm:
              - Tính ơi, em có mặt ở đây không? Hãy cùng bạn bè ăn với cô bữa cơm nghen Tính!
              Bất chợt tôi thấy trong bóng đêm chập choạng thằng Tính đang tươi cười dẫn bọ trẻ ra chỉ trỏ sắp xếp chỗ ngồi cho chúng. Nó dành chỗ trang trọng nhất cho mẹ nó và cô Huệ. Con bé Hà mắt sáng bừng lên khi thấy trước mặt nó là thật nhiều kẹo bánh.
              Khi tất cả đã ngồi vào chỗ và bắt đầu cầm đũa, thằng Tính ngước nhìn tôi nước mắt rưng rưng không nói một lời.
              Lúc mọi người ăn uống xong xuôi cũng là lúc bạn của bác Năm lập đàn cầu siêu cúng tế. Vì làm ngay trong sân trường nên chúng tôi chỉ làm một cách đơn giản nhất nhưng không kém phần long trọng.
              Vị hòa thượng không ngừng đọc kinh cầu nguyện, tôi và bác Năm thành kính quỳ một bên.
              Đêm đã khuya, gió thổi lạnh buốt và sương đã đẫm ướt mái tóc của chúng tôi nhưng không ai nao núng.
              Bất chợt tôi thấy trong làn khói hương nghi ngút loáng thoáng bóng dáng từng người, từng người một đang chấp chới bay lên.
              - Bay lên, bay lên đi hỡi những vong hồn tội nghiệp… Hãy siêu sinh đầu thai kiếp khác, nhưng xin đừng vấp phải những đau khổ của kiếp này…
              Tôi lầm rầm khấn vái, và bỗng dưng tôi cảm thấy trong lòng mình nhẹ hẫng. Tất cả những đau thương, nhung nhớ chừng như cũng đã tan theo làn khói mong manh kia…
              Khi vị hòa thượng ra dấu buổi lễ đã kết thúc. Tôi đứng lên và thấy như mình cũng đã bay lên…
              Hết
              Nguyễn Thị Mộng Thu
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:46:10 bởi nguyenthu >
              #37
                nguyenthu 10.08.2009 21:14:42 (permalink)
                CHIẾC VÒNG CẨM THẠCH
                 
                Diệp xắn tay áo lên khoe:
                - Nè, mấy bạn nhìn xem, đẹp hôn?
                Cả bốn đứa chúng tôi đều trố mắt khi nhìn thấy trên cánh tay tròn lẳn, trắng muốt của Diệp là một chiếc vòng cẩm thạch đẹp đến lạ kỳ!
                Năm đứa chúng tôi học chung một lớp, cùng là con nhà khá giả nên những khi rỗi rảnh là nhóm: “Ngũ long công chúa” lại rảo khắp các gian hàng thời trang, các cửa hàng, cửa hiệu để mua sắm hoặc chỉ để ngắm nhìn, bình phẩm một vài món hàng nào đó mà thôi.
                Là con gái nên không đứa nào hờ hững với các loại trang sức. Chúng tôi thường la cà ở các cửa hàng nữ trang, vàng bạc đá quý, mua sắm thì ít mà “dòm ngó” thì nhiều, đến nỗi hầu như chủ các cửa hàng ở khu vực này đều nhẵn mặt mấy đứa tôi.
                Nhưng thật sự chưa bao giờ chúng tôi thấy được một chiếc vòng cẩm thạch đẹp đến như vậy.
                Lan kéo tay Diệp lại gần xuýt xoa:
                - Trời ơi! Dịêp kiếm ở đâu ra vậy? Các bạn nhìn nè, nó long lanh như mắt người vậy đó, lạ thiệt nghen!
                Diệp cười hãnh diện:
                - Ờ, ngay lúc mới nhìn thấy nó mình đã mê liền nên mua mà không cần kỳ kèo giá cả gì hết đó!
                - Diệp mua ở cửa hàng nào vậy?
                Thảo hỏi.
                - Không, mấy hôm vừa rồi Diệp theo người chị bà con lên Đắc Lắc chơi. Tình cờ có một phụ nữ đem bán chiếc vòng này, thấy mê quá nên Dịêp mua liền đó! Bởi vậy, đi chơi về tới nhà sạch túi luôn!
                Dịêp cười giòn giã, nhưng tôi và các bạn khác không ai quan tâm đến cái sự rỗng túi của Dịêp, mà chỉ quan tâm đến xuất xứ của chiếc vòng thôi.
                - Chiếc vòng đẹp vầy chắc mắc tiền lắm há?
                Ngọc hỏi.
                Diệp lắc đầu:
                - Không, không mắc như các bạn tưởng đâu. Chắc là người nhà quê, họ không biết được giá trị thật sự của món đồ trang sức nên bán rẻ, vì lúc đó chị ấy đang cần tiền gấp.
                - Vậy là Diệp may mắn quá rồi! Bây giờ mà có ai bán chiếc giống vầy, đắt mấy mình cũng mua!
                Tôi nói.
                Diệp sung sướng đưa chiếc vòng lên ngắm nghía:
                - Các bạn biết hôn, lúc mới đeo chiếc vòng vào tay, tự nhiên mình xúc động ghê lắm, cả đêm không ngủ ngon giấc… Hình như chiếc vòng này không giống với bất kỳ chiếc vòng nào khác!
                Lan đùa:
                - Ê, mấy bạn có nghe nói tới chuyện đồ vật để lâu năm cũng biến thành tinh không? Coi chừng chiếc vòng này cũng vậy đó nghen!
                Diệp phát nhẹ vào vai Lan, cười:
                - Tính nhát ma để tui bán lại chiếc vòng hả? Còn khuya, đừng có ham!
                Cả mấy đứa cùng cười vui vẻ.
                Thảo đề nghị:
                - Tậu được chiếc vòng quý, phải rửa chứ, Dịêp?
                Dịêp tươi cười:
                - Được thôi! Được thôi! Các bạn muốn rửa bằng gì nè? Nước phông-tên nhe?
                - Đồ quỷ! Keo kiệt vừa phải thôi chứ!
                Thảo phản đối.
                Tôi đề nghị:
                - Nghe Diệp than đi chơi về hết tiền, cũng tội nghiệp, nên mình đừng đòi hỏi gì nhiều nghen các bạn, một chầu bánh xèo A Phủ, được chứ?
                Lan, Ngọc, Thảo vỗ tay hoan hô. Diệp giả vờ ngã ra:
                - Trời ơi! Tui xỉu…
                Cả đám cười rần rần rồi kéo nhau ra xe lên đường đi tới quán bánh xèo A Phủ nức tiếng Sài Gòn.
                Ngồi trong quán, vừa ăn bánh mà chúng tôi vẫn không ngớt bàn tán về chiếc vòng.
                Chiếc vòng lên nước xanh một màu rất lạ. Đúng như Lan nhận xét, nhìn chiếc vòng, bất giác người ta liên tưởng tới ánh mắt long lanh của một người con gái đẹp, ánh mắt làm xao xuyến bất cứ ai, làm dịu lòng bất cứ ai nhìn thấy nó.
                Diệp không sung sướng sao được khi mua chiếc vòng chỉ với giá mấy trăm ngàn, trong khi những chiếc vòng có giá bằng mấy chỉ vàng, thậm chí cả lượng vàng cũng không có được vẻ đẹp huyền hoặc như thế!
                Tôi không nói ra, nhưng trong lòng thầm ganh tị với Dịêp và ước gì mình cũng có một chiếc giống như vậy.
                Mấy ngày sau tôi nhận được điện thoại của Diệp vào sáng sớm, giọng Diệp đầy vẻ mệt mỏi:
                - Phương xin phép cho Diệp nghỉ học hôm nay nghen, Diệp bệnh rồi!
                Tôi cười:
                - Bệnh sao vậy? Hay là đêm nào cũng thức ngắm chiếc vòng nên không còn sức lực?
                Diệp mắng:
                - Đồ quỷ! Bạn bè gì kỳ vậy, nghe bạn bệnh hổng biết hỏi thăm lại còn trêu chọc?
                Rồi bất ngờ Diệp nhỏ giọng:
                - Mà cũng lạ thiệt Phương à, hình ảnh chiếc vòng lúc nào cũng phảng phất trong đầu mình…
                - Thôi đi bà, đã đeo nó trong tay rồi mà còn tương tư giống gì nữa! Ở nhà tịnh dưỡng cho khỏe đi, tui đi học đây!
                Tôi cắt lời Diệp và vội vã ôm tập đến lớp.
                Chiều hôm ấy tôi rủ Lan, Thảo, Ngọc đi thăm Dịêp. Nói là thăm vậy thôi chứ thật ra chúng tôi định đến nhà kéo Diệp đi ăn kem.
                Nhưng thật không ngờ, khi chúng tôi đến nhà thì nghe tin Diệp đã mê man không còn biết gì nữa, hiện đang nằm trong bệnh viện để các bác sĩ theo dõi.
                Chúng tôi vội vã chạy vào bệnh viện.
                Vừa đẩy cửa phòng, chúng tôi thật sự bất ngờ khi thấy Diệp nằm im trên giường, mắt khép hờ nhưng từ thân thể Diệp hình như không còn tỏa ra sức sống nữa, duy chỉ có chiếc vòng trên cánh tay diệp là vẫn sinh động đến lạ lùng!
                Mẹ Diệp ngồi ủ rủ một bên, thấy chúng tôi vào bà bỗng trào nước mắt.
                - Mới hồi sáng Diệp gọi địên cho mình, chỉ hơi mệt thôi chứ đâu có gì?
                Tôi hoang mang nói.
                Mẹ Diệp rầu rĩ:
                - Bác cũng không biết sao, sáng ra nó kêu mệt, bác xung tưởng không có gì nên vẫn đi làm bình thường, ai ngờ đâu tới trưa thì chị giúp việc gọi điện bảo Diệp mê sảng rồi. Bác về đưa nó vô bệnh viện thì người ta không tìm được nguyên nhân. Giờ nó chỉ nằm thiêm thiếp vậy…
                Chúng tôi nhìn nhau không biết phải nói gì để an ủi mẹ Dịêp.
                Diệp mồ côi cha từ nhỏ, hai bên nội ngoại cũng không còn thân thích nên giờ đây chỉ một mình mẹ Diệp vừa phải lo cho con, vừa lo việc ở công ty.
                Thông cảm với hoàn cảnh của bạn, chúng tôi bàn với nhau rồi nói với mẹ Diệp:
                - Bác à, tuần này lớp tụi con được nghỉ trọn tuần. Tụi con sẽ thay phiên nhau chăm sóc cho Diệp, bác cứ yên tâm điều hành công việc ở công ty.
                Mẹ Diệp rưng rưng cảm động:
                - Bác cảm ơn các cháu, cảm ơn nhiều lắm! Thật sự bác bối rối vô cùng, bác không thể bỏ mặc việc ở công ty, cũng không thể giao phó Diệp cho người làm săn sóc được. Nay các cháu đã nói vậy, bác thật yên tâm, bác nhờ các cháu vậy nhé!
                Thế là bắt đầu từ hôm đó chúng tôi thay phiên nhau tới bệnh viện lo cho Diệp.
                Đã ba ngày trôi qua, Diệp vẫn không mở mắt mà bác sĩ cũng chưa tìm được nguyên nhân nào khiến Diệp lâm vào tình trạng đó!
                Ba ngày, nhưng thân xác Dịêp vàng võ xanh xao như người ốm nặng từ lâu. Chúng tôi đứa nào cũng không cầm được nước mắt khi thấy diệp như vậy.
                Cánh tay của Diệp mới đây còn tròn lẳn, đẹp tuyệt vời với chiếc vòng cẩm thạch trên đó, mà giờ đây trông cánh tay với chiếc vòng lại tương phản ghê gớm. Mới mấy ngày trước chiếc vòng còn ôm khít lấy cổ tay mà giờ đây nó đã trở nên lỏng lẻo đến mức có thể tuột ra một cách dễ dàng.
                Chiều ngày thứ tư, là phiên của Ngọc. Ngọc vừa nhúng khăn vào nước ấm lau mặt mũi tay chân cho Dịêp xong thì mẹ Dịêp đến, hai bác cháu ngồi nhìn Dịêp mà lòng không khỏi lo sợ.
                - Bác… bác tính sao hả bác?
                Ngọc rụt rè hỏi.
                Mẹ Diệp thở dài:
                - Bác cũng không biết tính sao nữa con à! Các bác sĩ ở đây cũng giỏi lắm mà không tìm được nguyên nhân, bác còn biết đưa nó tới đâu nữa?
                Bất ngờ Diệp cựa mình. Mẹ Diệp và Ngọc mừng rú lên, chạy vội tới quỳ xuống cạnh giường Diệp.
                Hai mắt Diệp chớp nhẹ rồi từ từ mở ra, đảo qua đảo lại một lúc.
                Mẹ Diệp vừa khóc vừa hỏi:
                - Diệp ơi, con tỉnh rồi phải không? Con có nhận ra mẹ, ra bạn Ngọc của con không?
                Diệp nhìn mẹ, nhìn Ngọc rồi cố gượng cười ra dấu cho mẹ đỡ Diệp ngồi lên.
                Ngọc và Diệp mỗi người một bên đỡ Dịêp ngồi dậy tựa lưng vào tường.
                Diệp mệt mỏi nói:
                - Con nằm đây lâu chưa, mẹ?
                - Bốn ngày rồi đó con! Giờ trong người con thế nào rồi? Con có biết đói không? Để mẹ đi mua cháo cho con nghen?
                Mẹ Dịêp lo lắng hỏi.
                Dịêp lắc đầu, cười héo hắt:
                - Mẹ ơi… con mệt lắm… chắc con không sống nổi đâu!
                Mẹ Diệp khóc òa lên:
                - Con nói gì bậy bạ quá vậy? Mẹ cấm con không được nói chuyện đó nữa, nghe không? Trời phật thương mẹ con mình nên con đã tỉnh lại rồi nè, từ từ con sẽ khỏe lại thôi…
                Ngọc đứng kế bên cũng không cầm được nước mắt.
                Diệp không nói gì nữa, chỉ khẽ đưa cánh tay mình lên nhìn rồi cười với vẻ xót xa:
                - Chiếc vòng này đẹp quá mà con không thể đeo nó được nữa rồi… Mẹ, mẹ giúp con cởi nó ra đi mẹ!
                - Sao vậy con? Con đeo vẫn đẹp lắm mà?
                Mẹ Diệp an ủi
                Diệp lắc đầu:
                - Mẹ cởi ra giùm con đi…
                Mẹ Diệp chìu theo con gái nên đưa tay cởi chiếc vòng ra khỏi cánh tay khẳng khi của Diệp.
                Khi chiếc vòng đã rời khỏi tay mình, Diệp cầm lấy xoay xoay, vẻ tiếc nuối rồi nhìn sang Ngọc mỉm cười:
                - Ngọc ơi, mình tặng Ngọc nè! Tay Ngọc đeo vào cũng đẹp lắm đó!
                Ngọc giật mình từ chối:
                - Không! Không… Dịêp cứ để đó, mai mốt hết bệnh có da có thịt rồi đeo vào vẫn đẹp như trước thôi mà!
                Diệp tha thiết nói:
                - Đừng cãi lời mình, mình biết sức lực mình mà Ngọc… Đây là kỷ vật mình trao cho Ngọc, Ngọc đành lòng không nhận sao?
                Mẹ Diệp chạm nhẹ vào tay Ngọc:
                - Dịêp đã nói vậy rồi thì con cứ nhận cho bạn vui đi con!
                Ngọc run rẩy đi tới sát bên Diệp.
                Dịêp mỉm cười nhìn mẹ:
                - Mẹ giúp con đeo vào cho Ngọc đi mẹ!
                Mẹ Diệp hơi lúng túng nhưng trước ánh mắt van nài của dịêp bà cũng không thể chối từ. Nhưng cả mẹ Dịêp và Ngọc đều tưởng sẽ không làm sao đeo vào được, vì ở đây không có chất gì bôi trơn đowjc, mà cổ tay Ngọc lại vừa khít với chiếc vòng.
                Aáy vậy mà không ai ngờ được, chỉ một cái đẩy thật nhẹ nhàng, chiếc vòng đã tuột vào tay Ngọc một cách nhanh chóng.
                Ngọc cũng có cánh tay tròn lẳn như Diệp trước kia, nên trông rất đẹp khi có chiếc vòng làm vật tô điểm.
                Một sự xúc động lạ kỳ đang xâm chiếm toàn bộ con người Ngọc. Nhưng Ngọc biết, không hẳn mình xúc động vì được nhận món quà quý báu này, mà đó là một sự xúc động huyền bí không sao lý giải được!
                Diệp cười:
                - Thấy chưa, mình biết ngay mà, Ngọc đeo vào sẽ đẹp lắm!
                Diêp nói xong nhắm mắt lại và đầu Diệp từ từ ngoẻo sang một bên, nụ cười vẫn chưa tắt hẳn trên môi.
                - Diệp! Diệp ơi! Trời ơi… con tôi…
                Mẹ Dịêp hốt hoảng gào lên thảm thiết, Ngọc thì đứng sững giữa phòng, không thể tin vào sự ra đi đột ngột của Dịêp.
                Sau đám tang Dịêp, nhóm “Ngũ long” của chúng tôi chỉ còn lại “Tứ long”, nhưng bốn con rồng còn lại không thể nào vui vẻ như trước được.
                Ngồi bên ngôi mộ mới xây của Diệp, Ngọc nhìn chiếc vòng trên cánh tay, tư lự nói:
                - Mình không ngờ Dịêp lại mất một cách đột ngột như vậy! Chết mà không ai biết chết bởi nguyên nhân gì, đó mới là nỗi đau lớn của mẹ Dịêp…
                - Thôi, đừng nhắc nữa, mình không chịu nỗi đâu!
                Lan nghẹn ngào.
                Một cơn gió thổi thốc tới, lá cây bay lả tả. Bầu trời như sụp xuống, mây đen kéo tới ùn ùn, báo hiệu cơn mưa rất lớn sẽ xảy ra.
                Bốn đứa chúng tôi đứng lên vội vã rời khỏi nghĩa trang. Nhưng vừa đi mấy bước mưa đã tuôn xuống ào ào. Thấy không có chỗ nào trú mưa được, chúng tôi đành phải dầm mình dưới mưa chạy tuốt ra chỗ gửi xe.
                Tối đó về nhà cả bốn đứa đều bị cảm.
                Ngày hôm sau tới lớp không thấy Ngọc, tôi lo lắng hỏi:
                - Mấy bạn có biết tại sao Ngọc vắng không?
                Thảo vừa chùi nước mũi vừa nói:
                - Coi chừng bệnh rồi cũng nên! Đâu, gọi địên lại nhà thử xem.
                Như có một linh tính không lành, tôi hấp tấp lấy địên thoại ra gọi về nhà Ngọc.
                Tiếng chuông reo hối hả mà mãi vẫn không có người nghe máy. Tôi tức tối gọi số di động của Ngọc nhưng lại không liên lạc được.
                Cả bốn đứa đều lo lắng nhưng lúc đó giờ học đã bắt đầu, đành phải nén lòng vào lớp học.
                Tiếng chuông báo giờ vừa vang lên, Thảo chạy ào xuống bàn tôi nói:
                - Giờ tụi mình tới nhà Ngọc đi!
                Bốn đứa tôi dù bụng đói meo vì từ sáng đã không ăn gì nhưng không đứa nào thiết tha tới chuyện đó nữa, bốn đứa vội vã lên xe chạy thẳng tới nhà Ngọc.
                Cánh cổng đóng kín, cửa trong nhà có một ổ khóa to lủng lẳng bên ngoài chứng tỏ cả nhà Ngọc đều đi vắng.
                Bốn đứa còn đang đứng lưỡng lự trước cổng nhà thì chị bán cà phê bên kia đường trông thấy chạy qua hỏi:
                - Mấy em đi thăm Ngọc hả? Nó tở trong bệnh X rồi, vô đó đi, nghe nói nặng lắm đó!
                Chúng tôi sững sờ hỏi lại:
                - Chị nói sao? Ngọc… Ngọc bị làm sao vậy chị?
                Chị chủ quán ngạc nhiên:
                - Ủa, vậy là mấy đứa chưa biết gì hết trơn hả? Nghe nói Ngọc bị cảm lạnh từ chiều hôm qua, đến hồi khuya này thấy tình hình nguy kịch quá, gia đình đã đưa Ngọc đi bệnh viện. Lúc nãy chị thấy anh trai nó về, vừa khóc vừa dọn dẹp nhà cửa chuẩn bị đem Ngọc về, nghe đâu khó qua khỏi…
                Cả bốn đứa chúng tôi đều bủn rủn tay chân. Quýnh quáng cảm ơn chị chủ quán rồi lên xe chạy tiếp.
                Khi chúng tôi vào tới phòng bênh của Ngọc thì mẹ Ngọc đã khóc gần như lả người.
                Có một điều làm chúng tôi vô cùng sợ hãi đó là thân thể Ngọc đã gầy sọp đi một cách kỳ lạ, không thể tưởng tượng được!
                Mẹ Ngọc quỳ bên cạnh con gái khóc nghẹn ngào:
                - Ngọc ơi… con tỉnh dậy, tỉnh dậy mà nói với mẹ một lời đi con… Trời ơi… tại sao con tôi lại ra nông nỗi này không biết…
                Rồi bà quay sang chúng tôi:
                - Có phải chiều hôm qua Ngọc đi với tụi con không?
                Cả bốn đứa đều sợ hãi, có cảm giác như mình chính là nguyên nhân khiến Ngọc ra nông nỗi như thế này.
                Lan hắt xì liên tiếp mấy cái, Thảo thì nước mũi ròng ròng, cứ phải luôn tay chùi quẹt, tôi đỡ hơn một chút nên cố lấy bình tĩnh nói:
                - Dạ, chiều qua tụi con đi chung với nhau…
                - Đi đâu? Tụi con đã đi tới đâu? Và chuyện gì đã xảy ra mà khiến con Ngọc của Bác như vầy?
                Mẹ Ngọc níu lấy tay tôi hỏi dồn
                Tôi gần như sụm xuống, khóc nhọc lắm tôi mới trả lời được:
                - Tụi con… tụi con đi thăm mộ Dịêp, lúc đó… lúc đó trời mưa… tụi con mắc mưa, đứa nào cũng bị cảm, nhưng… tụi con không ngờ Ngọc lại như vầy…
                Mẹ Ngọc buông tay tôi ra, ngồi phịch xuống đất. Bà ngẩn ngơ một lát rồi kêu lên:
                - Đi thăm mộ Dịêp! Trời ơi… vậy là con Ngọc bị ma bắt hồn rồi, bị ma làm hại rồi, chứ dù có bệnh hoạn gì đi nữa thì cũng đâu lạ lùng đến mức này…
                Nghe mẹ Ngọc nói tới tiếng “ma”, cả ba đứa tôi đều rùng mình. Có phải không? Mấy hôm nay dù không nói ra nhưng trong đầu đứa nào cũng loáng thoáng nghĩ tới điều đó. Nếu không phải là ma, thì tại sao lại thân xác của dịêp và bây giờ là Ngọc lại biến đổi mau chóng đến như vậy?
                Mọi người còn đang hoang mang cực độ thì bất ngờ Ngọc tỉnh lại.
                Ngọc ú ớ:
                - Mẹ… mẹ ơi…
                Nghe tiếng con gái, mẹ Ngọc giật mình quay lại, Ngọc đã mở mắt nhìn xung quanh. Thấy chúng tôi Ngọc không có vẻ gì là ngạc nhiên, chỉ gượng nói:
                - Mấy bạn tới tiễn đưa mình phải không?
                Thảo không dằn được, khóc òa lên:
                - Ngọc… Ngọc không được nói bậy! Tụi mình tới đưa Ngọc về nhà, Ngọc hết bệnh tụi mình sẽ cùng nhau đi học, đi chơi…
                Mẹ Ngọc choàng tay qua thân xác xẹp lép của con, nghèn nghẹn nói:
                - Phải rồi, con sẽ hết bệnh, sẽ về nhà đi học cùng các bạn, đi chơi cùng các bạn nghe con?
                Ngọc cố giơ cánh tay lên xoa mặt người mẹ, bất chợt trông thấy chiếc vòng, Ngọc cười héo hắt, rồi liếc nhìn ba đứa chúng tôi, Ngọc nói:
                - Trong ba bạn, chỉ có Lan là có cánh tay tròn nhất, vậy mình tặng lại cho Lan chiếc vòng này, Lan đeo nó bên mình để lúc nào cũng nhớ tới Diệp, tới Ngọc nghe Lan?
                Lan hắt xì mấy cái nữa rồi nói:
                - Không đâu, mình không nhận, đó là quà tặng của Dịêp dành cho Ngọc, Ngọc phải đeo nó suốt đời để nhớ Diệp…
                Ngọc cười buồn:
                - Đời mình sắp kết thúc rồi…
                Nói rồi Ngọc tự mình lần mở chiếc vòng ra khỏi cánh tay gầy guộc, giơ lên nói:
                - Lan, Lan mau lại đây… mình đeo vào cho Lan…
                Muốn cho con gái đạt được tâm nguyện, mẹ Ngọc vừa khóc vừa đẩy Lan tới gần giường Ngọc.
                - Nhận lời cho bạn vui lòng đi con…
                Lan run rẩy bước tới và chìa cánh tay ra. Ngọc cầm lấy cánh tay Lan vuốt ve:
                - Cánh tay này đeo chiếc vòng này sẽ rất hợp, các bạn thấy không?
                Tự nhiên lúc đó tôi chợt nhìn thấy trong mắt Ngọc có cái gì đó rất xa lạ, hoàn toàn không giống với Ngọc thường ngày. Và cũng trong một tích tắc, tôi nhìn thấy rõ ràng chiếc vòng cẩm thạch xanh biếc mà Ngọc đang cầm trên tay chuẩn bị đeo vào cho Lan, bên trong chiếc vòng đó có một dòng máu đang rào rạt chảy.
                - Không! Không được đeo vòng!
                Tôi la lớn lên, chạy ào tới hất mạnh tay Ngọc, không cho Ngọc đeo vòng vào tay Lan.
                Vì cú hất của tôi quá mạnh nên chiếc vòng vuột khỏi bàn tay run rẩy của Ngọc văng tuốt vào góc phòng, chạm vào tường rồi rớt xuống đất.
                Mọi người còn đang trố mắt nhìn tôi thì Thảo hét lên:
                - Trời ơi… nhìn kìa…
                Mọi ánh mắt đổ dồn về phía góc nhà, nơi chiếc vòng vừa rơi xuống: một vũng máu đỏ thẫm, bên trên trôi lềnh bềnh hai tròng mắt!
                - Ha ha ha…
                Một giọng cười lạnh lẽo vang lên cùng với lúc thân người Ngọc giật lên từng cơn rồi từ từ im lặng hẳn.
                Mẹ Ngọc khóc òa, chúng tôi cũng không nén nỗi thương tâm và lo sợ. Tất cả lùi về cửa phòng, không ai dám rời mắt khỏi vũng máu kia, chỉ có mẹ Ngọc là quên tất cả, chỉ biết ôm chặt xác thân con gái…
                 
                ***
                - Tất cả những tang thương đều bắt đầu từ chiếc vòng đó!
                Tôi khẳng định.
                Thảo, Lan cũng gật đầu đồng ý.
                Lan nói thêm:
                - Cũng may mà Phụng can ngăn kịp lúc, không thôi bây giờ chắc tới lượt mình phải bỏ mạng rồi…
                - Nhưng… chiếc vòng đó có nguồn gốc từ đâu? Tại sao ai đeo nó cũng có cái chết lạ lùng như vậy? Mình rất muốn lý giải điều đó.
                Thảo đăm chiêu nói.
                Tôi gật đầu:
                - Các bạn còn nhớ không, hôm mới khoe với bọn mình chiếc vòng đó, Dịêp có nói là mua được nó trong chuyến đi Đắc Lắc. Vậy để tìm ra chủ nhân của chiếc vòng, mình phải tìm cho ra được người bạn nào của Diệp ở Đắc Lắc, rồi từ đó mới phăng tiếp ra được!
                - Ừ, điều này chắc không khó! Chiều nay mình sẽ tới nhà hỏi lại mẹ Dịêp. Thế nào mẹ Dịêp cũng biết Dịêp lên Đắc Lắc với ai.
                Lan nói.
                Tôi đứng lên:
                - Chỉ còn hai tuần nữa mình nghỉ hè rồi! Nhất định ba đứa mình phải tìm cho ra bí mật này để giải thích với gia đình Diệp và Ngọc… Các bạn có dám cùng mình phiêu lưu một chuyến không?
                Lan và Thảo nhìn nhau rồi nói:
                - Vì hai người bạn xấu số, tụi mình rất sẵn sàng!
                Tôi cắn chặt môi để ngăn dòng nước mắt đang sắp sửa tuôn trào.
                Ba chúng tôi nắm chặt tay nhau, quyết tâm sẽ khám phá ra sự thật!
                Ngọc ơi, Dịêp ơi… các bạn hãy yên nghỉ nhé!
                Hết
                Nguyễn Thị Mộng Thu 
                <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:47:40 bởi nguyenthu >
                #38
                  nguyenthu 10.08.2009 21:15:46 (permalink)
                  CÂY ĐA XÓM ĐÌNH
                   
                  Chiếc dù mất màu che chênh chếch, cơn mưa nhẹ, thiệt nhẹ, hạt mưa như bụi theo gió bay tứ tán. Những ngọn đèn đường rọi vào làm từng hạt lấp lánh.
                  Chị đã về, tôi biết chị luôn về vào giờ này. Con hẻm nhỏ ngoằn ngoèo lởm chởm gạch đá làm bước chân chùng. Người phụ nữ đẹp, dáng cao, khuôn mặt nghiêm, mắt to, mũi thẳng, môi như cánh hồng hé. Chị đẹp thiệt là đẹp.
                  Cái Xóm Đình của tôi không phải là nơi chốn của chị. Nó chỉ là chỗ trú tạm cho qua ngày, những tháng ngày khó!
                  Người phụ nữ đẹp này bước ra với cái đầu luôn ngẩng cao. Chiếc cổ nhỏ thanh thoát, nét cằm mịn màng. Nhưng khi đêm thả xuống nhân gian màu đen, khi chị bước về, luôn là đầu cúi gằm, có dấu hiệu mệt mỏi trên khuôn mặt, đuôi mắt. Có thằng nhỏ hay ngồi tới khuya ngoài đầu đường, không phải để chờ chị về mà nó ngồi chờ giấc ngủ.
                  Cái nhà của nó nhỏ chút xíu với cả chục mạng người chen chúc, chỉ khi nào buồn ngủ rục người nó mới mò về nhà và lăn ra ngủ, còn không thì nó sẽ thức mãi, thức mãi, mà có ngủ gục thì cũng lập tức ngồi dậy vì ma đè.
                  Cũng lạ, nó bị ma đè hoài thành quen, không biết sợ là gì nữa. Hì hì, cả người tê cứng và bên tai ong ong những tiếng gào dị thường, mồ hôi túa trên mặt, ướt đẫm tóc. Nó phải chiến đấu, chỉ cần nhúc nhích một ngón tay được là cả người được tự do.
                  Ngồi miết ngoài đầu hẻm tới díp mắt mới về ngủ là nó không còn bị ma đè. Và như vậy nó trở thành người đón chị bất đắc dĩ.
                  Vậy đó, chị và tôi, quen nhau bằng cái nhìn, rồi quen tới cái bóng. Chỉ cần nhìn thấy bóng tôi cũng nhận ra chị, và chị cũng vậy, cứ thấy một khối đen đen lù lù trong góc là biết ngay tôi. Không lời, không chào hỏi, không cười, chỉ là một cái nhìn và nhìn thôi...
                  Cái đình, cây đa, quán nước... Ba thứ này đem đặt vào một làng quê Bắc bộ với con đường làng cong cong, luỹ tre lả lơi hóng gió. Và tất cả nằm trên cái đồi cao, thoáng thì thiệt là một cảnh quan mang nhiều hơi hướm quê hương.
                  Dĩ nhiên là cây đa nằm trước cái đình, con đường chạy ngang và quán nước, nơi có cô hàng chè xanh làm say lòng người.
                  Khách giang hồ không biết say chè, say thuốc hay say cô bán chè! Có khi là say cả ba, ừ thì say cả. Có cút rượu làng Vân sủi tăm nồng nàn nữa. Nhưng không nói chuyện rượu ở đây, hì hì, nói chuyện cái đình, cây đa, quán nước mà thôi.
                  Không có tre, không có gió, không có chè xanh, chỉ có những li "cafe kho" nóng tuột lưỡi. Mỗi li cafe đen nho nhỏ, ngồi oai vệ trên cái dĩa xinh xinh, rót cafe ra dĩa, thổi phù phù cho mau nguội mà uống, khi uống bưng nguyên cái dĩa húp cái trót. Mấy tay rủng rẻng tiền bạc thì uống cafe sữa. Cũng rót ra dĩa, lấy cái giò cháo quẩy chấm vô nhai nhóp nhép. Chắc là ngon lắm.
                  Hồi nhỏ tôi chỉ mong mình mau lớn để bước ra ngồi đỉnh đạc trên cái ghế, kêu một li cafe sữa, chơi hai cái giò cháo quẩy cho sang hơn người, he he…
                  Người chuyên môn chơi kiểu này là ông thầy bói lừng danh. Ông Sáu Hoà! Đừng có mà khi dễ nghe, vợ ông Tổng thống từng mời ổng vô dinh coi bói chứ hổng phải tầm thường.
                  Hai ngón tay út ổng móng tay dài thượt, mấy ngón kia thì nhẫn đầu rắn, đầu cọp đeo đầy. Ông thầy bói này còn có mấy cái răng bịt vàng sáng chói.
                  Chỗ ổng ngồi coi bói khói nhang phưởng phất, có trồng mấy cây ngãi ăn trứng gà, có con rắn hổ mang nhồi trấu mang từ Ấn Độ về nữa.
                  Ông này với ông chủ quán không ưa nhau. Li cafe có cả chiếc muỗng bé tí xíu, chủ quán đục cái lổ trên muỗng, không biết để làm gì. Muỗng chỉ dùng để khuấy, không múc được, mà có ai cần múc bằng cái thứ muỗng nhỏ chút này đâu, múc uống hết li cafe chắc là hết cả ngày!
                  Cái quán cũng nằm dưới gốc cây đa. Cây đa nằm cạnh cái đình. Mớ rễ phụ thò xuống mái đình, mái quán, bình đẳng, cành tới đâu, che tới đó và thả lá làm dơ hai cái mái như nhau.
                  Cây đa và cái đình già lắm. Nghe nói hơn trăm năm trước có ông thầy đồ đẹp trai trốn Tây về mở trường dạy học dưới mái đình này. Không biết lớp học ở chỗ nào, chỉ thấy trong tấm hình vẽ từ hồi nào có một nhánh đa thò đầu học cọp.
                  Thầy đồ chắc không tính tiền cây đa. Cây đa hay chữ lắm mà cũng nghĩa khí vô song! Mấy ông bà già gần trăm tuổi kể chuyện ông thần cây đa là học trò thầy đồ nghe cứ như chuyện Chu Văn An dạy thuồng luồng tinh. Truyền thuyết trôi từ Bắc vào Nam cải biên chút xíu. Thay vì lấy nghiên mực làm mưa đen thì thần cây đa thò tay đỡ viên đạn đồng tàu Tây bắn vô đình. Cây đa gãy ngay chỗ nhánh to nhất, bị phạt ngang, vết như cưa. Chỗ đó da cây lồi ra, làm thành mấy vòng tròn trông như miệng con quái vật chờ nuốt mấy thằng nhỏ sợ ma!!!
                  Có mấy thằng không nhỏ phá như ma thỉnh thoảng buồn tình lấy búa nện vô ngay miệng vết thương vài cây đinh chơi. Nhưng trò này phải làm buổi trưa đứng bóng, không thì ông Hai Hủ Tíu chủ quán cafe dưới gốc đa chửi cho mà ê cái đầu.
                  Ông Hai là ông thần cây đa trong con mắt dân xóm này. Ông là ông kẹ, già lắm, chừng vài trăm tuổi!!!
                  Trời đất, già dữ vậy sao? Nhưng bà Hai vợ ổng thì trẻ. Nói trẻ chứ bả nhỏ hơn ổng chừng trăm mấy tuổi chớ hổng bao nhiêu.
                  Hồi xưa nghe nói bả đẹp lắm, chắc cỡ bằng hoàng hậu hay là công chúa gì gì đó thôi! Hai ông bà không con sống trong cái quán dưới gốc cây đa. Bán cafe cho cả xóm đình, cái thứ cafe bột cho vô túi lọc dài thoòng bỏ nấu trong những cái ấm nước cao nhòng bằng nhôm. Ấm nước nấu bằng than củi đước cháy lửa đượm và thơm.
                  Sáng chưa thấy mặt người ông Hai dậy nấu nước sôi pha cafe. Cái dáng người thấp to ngang phè phè, lửa cháy bập bùng hắt cái bóng ông già nhảy nhót như có sự sống riêng. Mà nó sống thiệt!
                  Cái bóng của ông Hai Hủ Tíu hay bỏ ông đi hoang lắm. Mỗi khi nó đi mất, ông uống quá trời rượu. Uống đã ông lủi thủi bò vòng vòng quanh tượng ông Hổ thờ phía trước đình, chửi thôi là chửi. Ông chửi tổng thống, chửi chính quyền, chửi thằng Hai An Ninh, khóm trưởng, chửi bà vợ trẻ, chửi ông thầy bói mò, chửi ông thần hoàng bất tài vô dụng. Chửi đã ông đấm đá cái tượng con cọp tới khi tay chân bật máu. Máu chảy từ miệng cọp chảy lên tới mắt cọp. Mắt cọp dính máu từ tay ông Hai dòm như con cọp khóc ra máu.
                  Đến khi mệt đừ, ông Hai chui vô cái giường kê ngay trong bếp của cái quán nằm ngủ khò. Ngày hôm sau, cái bóng về băng bó tay cho ông, nó vừa quấn băng vừa khóc. Nước mắt thành khói, thứ khói như khói bếp, bám đen thui mấy cái mái tole cũ mèm.
                  Cái bóng của ông Hai hay khóc lắm hay sao mà nóc quán đen thui bò hóng. Mỗi lần như vậy nó hứa không đi hoang nữa, nó hứa sẽ không rời ông Hai nữa.
                  Nhưng chứng nào tật nấy, mỗi sáng, khi gió thổi ngọn lửa phừng phực là nó lại nổi máu giang hồ. Cái bóng đi hoang của ông Hai thành một câu chuyện như truyền thuyết!
                  Ở Xóm Đình này ai mà không biết ông Hai thỉnh thoảng là người không có bóng!!!
                  Bà chủ quán, bà Hai thì khác hẳn ông chồng. Bà hiền lắm, bà chỉ ra vô trong quán như cái bóng ma, hai con mắt nhìn đâu đâu! Hai con mắt của bà cũng có chuyện!
                  Người ta đồn là hai con mắt bà Hai không thấy người, không thấy đường, không thấy bất kì cái gì tồn tại trong thế giới thực. Hai con mắt bà chỉ nhìn thấy ngày hôm qua. Ngày hôm qua bước đi trả cho nhân gian bóng tối. Trong bóng tối mò mò, bà Hai nhìn thấy mọi thứ. Hai con mắt của bả sáng như cú mèo. Miệng bả cười toe! Bả nói chuyện thì thầm một mình, cười một mình, khóc một mình.
                  Ông chồng già nằm há họng ngủ khì một bên không tồn tại trong thế giới hôm qua. Thế giới hôm qua của bà Hai có người đẹp sầu muộn ngồi chờ ai? Chờ hoài, chờ hoài không thành cục đá! Chờ lâu quá thành tinh! Thành loại yêu tinh không bắt người nhai xương, không bắt người ép tình. Chỉ là yêu tinh nhìn thấy hôm qua, không thấy hôm nay!!!
                  Bà Hai thường đeo vàng vòng đầy tay, đầy cổ. Mỗi khi bà rót cafe cho khách, tiếng những chiếc vòng chạm nhau kêu leng keng nghe như tiếng chuông gió! Mấy bà nhiều chuyện trong xóm nói là vàng giả nên mới kêu leng keng? Vàng thiệt không biết kêu!!! Nhưng bà Hai là người phụ nữ sang trọng. Bước chân, dáng đi, cái nhìn đều hiển hiện rõ ràng bà không phải là người của cái quán này. Bà cũng không phải là người của Xóm Đình nhếch nhác này. Bà lại càng không phải là người của thế giới hỗn độn và tào lao này.
                  Không biết cái thế giới ngày hôm qua có đàng hoàng, đài các, kiêu sa như bà không? Không biết, thiệt tình là không làm sao mà biết được.
                  Hai ông bà trong cái quán nhỏ xíu. Buổi tối, khi người khách cà chớn cuối cùng thôi không ngồi húp cafe trong dĩa nữa thì ông Hai đóng quán. Đóng quán chứ không phải đóng cửa! Quán không có cửa! Những miếng tole làm mái hạ xuống biến thành vách. Vách hộp chứ không phải vách nhà. Cái quán đóng lại như cái hộp to. Ngay chỗ cái bếp có một khung cửa sổ nhỏ. Cửa sổ lá sách để thông hơi, nhưng cái cửa mất tiêu chỉ có cái chắn song còn lại.
                  Hai con người sống trong cái hộp bằng thiếc này. Khuya! Nếu có ai gan dạ bước qua gốc đa nhìn vào trong khung cửa thì sẽ thấy bà Hai ngồi nhìn ra, tóc đen thả dài, mắt sáng như mắt cú! Con cú này thức hay ngủ? Có trời biết?
                  Đối diện với cái gốc đa có cái hẻm phụ nhỏ chút xíu. Nhà tôi trong cái hẻm phụ đó. Ngồi trong nhà nhìn ra cửa sổ tôi dòm thấy cây đa và cái quán.
                  Thỉnh thoảng tôi cũng thấy ông Hai lò dò bước vô trong này. Ổng tà tà tới trước cây trứng cá xeo xéo nhà tôi đứng vạch quần đái. Ông già mắc dịch, không bao giờ vô cầu tiêu cho cái chuyện này.
                  Trong nhà tôi cũng có ma. Người lạ vô nhà ngủ thế nào cũng bị ma đè. Hì hì, nhẹ hơn thì thấy có hai mẹ con bà áo trắng ốm nhách tới giựt áo xin cơm ăn.
                  Ngày nào trên bàn ăn nhà tôi cũng có chén cơm cúng. Một chén cơm, có đồ ăn, đôi đũa gác ngang.
                  Má tôi thường xuyên bị bà già níu áo xin cơm trong giấc ngủ, thành ra má siêng cúng lắm. Hai mẹ con bà ma đói này tồn tại trong ngôi nhà cũng lâu lắm.
                  Ông Hai Hủ Tíu kể là mẹ con bà Nguyệt tội lắm. Hai mẹ con sống thui thủi bên nhau. Bà mẹ già, đau ốm liên miên, đứa con gái thì liệt nằm một chỗ. Đâu chừng sáu bảy chục năm trước hai mẹ con là chủ căn nhà vách gỗ, mái lá nằm trên chỗ đất bây giờ là nhà tôi.
                  Bà mẹ bịnh hoạn vẫn ngày ngày buôn bán ở chợ để nuôi đứa con gái. Rồi bà mẹ bịnh, lúc đó chỗ này thưa người, không có đường, chỉ là một cánh đồng đầy rau, lúa và cỏ thôi. Trong căn nhà nằm chơ vơ giữa đồng, hai mẹ con ôm nhau chết đói trên giường. Đến khi người ta thấy lâu ngày nhà không thắp đèn và bà mẹ không ra chợ bèn xông vào nhà thì hai người chết khô rồi.
                  Ông Hai nói người chết khô ngộ lắm, da như bị hít chặt vào trong xương. Còn xương thì xốp xộp, nhẹ như bông!!!
                  Mẹ con bà Nguyệt chết vì đói, thành ra ai về chỗ này ở đều bị hai mẹ con níu áo xin ăn.
                  Trời ơi! Má tôi sợ xanh mặt. Bà đi chùa thỉnh cái tượng Quan Thế Âm Bồ Tát bự sư về thờ cúng thành kính.
                  Ông Hai Hủ Tíu bước ngang qua nhìn trừng trừng vô bức tượng, miệng mím chặt, mặt đỏ phừng phừng như muốn xông vô lôi cái tượng xuống đập nát mới hả dạ.
                  Nắng chiếu thẳng xuống đầu ông ta, chiếu tuột luôn xuống đất, rồi ánh sáng dội trở lên. Dưới hai chân ông già này không có bóng.
                  Từ khi nhà tôi thờ tượng Quan Âm, má tôi tưởng là hai mẹ con bà Nguyệt sẽ siêu thoát, ai dè hai người còn quậy dữ hơn. Tôi là nạn nhân, nhưng tôi cóc có sợ, có đè thì đè. Nếu mình càng sợ thì ma càng làm dữ, tôi cứ coi như không.
                  Ông Hai hay hỏi cắc cớ tôi:
                  - Sao lúc này thằng Đẹt con bà giáo mặt xanh như quỷ ám?
                  Tôi cười ré lên:
                  - Ông là thằng cha già quỷ ám suốt kiếp không siêu sinh chớ ai. Cho ông sống ngàn năm mà trả hồn cho ma với quỷ...
                  Ông già cười ha hả, nói:
                  - Mấy trăm năm nay tao mới thấy có thằng dám nói về chuyện tao sống ngàn năm. Mày cũng ngon, nhỏ mà dám bẻ đầu con hạc đá trong đình!
                  - He he he…, không dám đâu ông già. Con hạc đá trong đình mấy thằng thợ quấn kẽm gai đổ bê tông dỏm. Mới leo lên ngồi tính cỡii hạc làm tiên thì cái cổ gãy cái cốp. Tại đồ dỏm chứ không phải tại tôi. Mấy thằng ăn chận thánh thần còn không bị vật chết thì con nít mắc cái giống gì. Ông thần Hoàng cái đình này bị con quỷ nhập tràng hối lộ che con mắt rồi. Thế gian còn mỗi cây đa thôi, ông liệu cái thần hồn của ông, ngàn năm, tức cười, biết còn bao lâu nữa mà nói.
                  Tôi vừa cười vừa lý luận.
                  Cha Sáu Hoà ngồi vỗ tay cười muốn rụng lưỡi. Ông Hai tính kí đầu tôi nhưng nghĩ sao lại thôi.
                  Cha thầy bói mò khen:
                  - Thằng Đẹt nói chuyện có tiên khí. Muốn theo thầy học đạo không con?
                  Tôi ôm bụng cười:
                  - He he he…, ông về mà mò mấy cây ngãi của ông đi! Ai thèm!!!
                  Má tôi cũng tốn cho cha này mớ tiền bộn chứ không ít. Trừ ma con khỉ khô, chẳng làm được gì ráo. Hai con ma đói cứ theo chọc ghẹo tôi triền miên.
                  Tôi nhớ hồi vợ tôi vô nhà lần đầu, trưa ngủ đã bị hai mẹ con bà Nguyệt vô níu áo xin cơm. Báo hại người ta mặt xanh lè!
                  Ghét cái giống ma không ra ma, quỷ không ra quỷ, âm hồn bất tán này quá. Nhà kề cái đình, thần thánh trong đình nhóc. Vậy mà ma quỷ lộng hành như chỗ u minh.
                  Tôi chỉ khoái cái đình khi có cúng đình thôi. Hương chức hội tề từ đời thuở nào tề tựu về đây ăn ké lộc thánh thần. Khắp nơi, những người con của xóm Đình quay về cúng bái thành tâm.
                  Xôi từng mâm, bánh quy từng mâm, heo quay, heo sống, bò nguyên con, thịt gà, thịt vịt, trái cây các loại. Người ta lũ lượt bưng vô sắp trên hai dãy bàn cao, dài tít tắp.
                  Bàn nào cũng trải khăn che kín chân. He he, dưới chân bàn có thằng con nít chui vô, tay quờ lên một cái là có đồ ăn. Ăn cho đã lăn ra ngủ luôn bên dưới. Ngủ dậy chạy ra coi hát bội. Thỉnh thoảng cất tiếng dạ hùa theo đám quân sĩ bèo nhèo ngồi ngáp trong cánh gà.
                  Trong xóm người ta nói thằng Đẹt sáng dạ nhờ chôm đồ của Thần Hoàng ăn hoài.
                  Mấy thằng cha sắm vai học trò lễ ghét tôi lắm. Nhưng còn khuya mới bắt được tôi, tôi nhỏ chút chun như con chuột, chạy toàn dưới gầm bàn, mấy chả đố mà chui vô rượt tôi nổi. Mà có cùng lắm thì nhảy lên bàn thờ thần ngồi.
                  Có lần bị rượt nà tôi nhảy tót lên đó giả như ông nhập, miệng ú ớ, tay chân quơ quào. He he he, dòm xuống dưới thấy người ta chổng mông lạy như cuồng, cười xì hơi, nhảy xuống chạy tuốt lên tới chợ trốn cả ngày. Tối về má tôi đập cho một trận te tua...
                  Nhất quyết trả thù. Tối đó ra ngồi coi hát tới khúc Phàn Diệm huơ giáo khiêu chiến Tạ Ôn Đình trong tuồng San Hậu Thứ Ba, lấy cây thọt giò Phàn Diệm té lăn cù. Ông già đánh trống chầu nện cho cha Phàn Diệm này một hồi ba mươi tiếng trống chửi... Sướng như lên mây he he, đáng kiếp cái thằng kép Tâm đóng vai Phàn Diệm, nó mét má tôi chứ ai.
                  Mấy cái chuyện này bây giờ nghĩ lại thấy hồi xưa ngộ thiệt...
                  Hồi xưa! Câu chuyện này sẽ dẫn tôi đi về đâu? Chắc là về hồi xưa, bởi vì tôi vừa mới viết hai chữ hồi xưa đấy thôi!
                  Ừ hồi xưa. Thầy đồ đẹp trai nho nhã về mở trường dạy học ở Đình. Học trò theo học cũng đông. Người ta cho con đi học không còn vì cái giấc mơ thi đổ vinh quy nữa.
                  Tây chiếm đất rồi. Học chữ Tây chứ chữ nho làm gì nữa? Còn chứ! Học để giữ đạo tổ tiên ông bà. Học để giữ lại cái gốc thôi. He he, cái gốc như gốc đa!
                  Thầy mở lớp đã thấy cái quán của hai vợ chồng ông Hai bán dưới gốc đa. Lúc đó ông Hai được kêu là Hai Hổ. Hai Hổ từ đâu về sống trước đình, cái quán và cây đa có từ hồi nào chắc ông từ gác đình cũng không biết. Những bậc bô lão trong làng, lúc đó người ta kêu là làng chứ không kêu là xóm như bây giờ, cũng không biết Hai Hổ về đình sống từ lúc nào.
                  Từ khi thầy đồ về đình, bà Hai tự dưng thích theo học chữ. Ba cái chữ thánh hiền ngày xưa cũng có dạy cho con gái nhưng hạn chế. Thời cuộc thay đổi, con gái ham học cũng tốt. Thầy dạy hết.
                  Hai Hổ thấy vợ học cũng theo học. Đám học trò tự nhiên có một cô gái. Cô là cô học trò duy nhất trong cái trường này. Tấm hình vẽ treo trên vách đình cũng có cô đấy thôi.
                  Sau đình, trước đình đất hoang mênh mông, rừng Đông Nam bộ bò tới gần sát nhíp cái hiên nơi thầy đồ ngồi đọc sách hàng đêm. Cọp tối tối mò tới trước ngọn đèn đớp muỗi. Thứ muỗi mập ù, chuyên môn chích trâu chích bò chứ không thèm chích người. Cỏ tranh mọc lút đầu, chiến chinh không ai thèm dọn.
                  Hai Hổ tối nào cũng thủ cây mác bén ngót ngồi trước mái hiên canh cọp cho thầy mình. Canh cọp?
                  Cái lớp học nằm dưới gốc đa, mùa đa chín, sáo đen bay về từng bầy ăn nhậu ê hề. Trái đa rụng lộp độp trên mái, trước sân đình. Chân học trò dẫm đạp chèm nhẹp. Mùi mật từ trong những trái đa nát bay lên dụ bầy ong ruồi làm tổ trong bọng cây bay ra hút mật. Rồi những con kiến bù nhọt đen thui to như con ong bò vẽ cũng chạy ra từng đàn khiêng trái đa về tổ làm lương thực. Tiếng con ve mồ côi sầu đời kêu khóc hè nóng quá um xùm.
                  Thầy dạy học trò lễ, nghĩa, nhơn, trí, tín... Rồi thầy trò làm thơ, đọc thơ, bàn chuyện chính sự. Chiều thì bình thơ, bình văn, đấu cờ.
                  Bà Hai luôn dẫn đầu cả lớp trong chuyện văn thơ này. Người coi yếu vậy mà giọng bà ta sang sảng. Thuyết minh hùng hồn, phân tách cặn kẽ, luận đàm sâu sắc. Thầy đồ đắc ý nhất cô học trò này. Y như Tào Phi bảy bước làm thơ cả mớ.
                  Hai Hổ trái hẳn vợ. Trong lớp chúng bạn kháo nhau Hai Hổ trước đây là lính trong ngũ của Trương Công. Trương Công thua bị bắt giết, Hai Hổ bỏ về xóm đình lấy vợ rồi theo thầy học lấy cái gốc lễ giáo luôn.
                  Anh ta cạy miệng không lòi ra một chữ. Người lầm lì thấy bắt ớn. Đám học trò nho nhỏ không đứa nào dám nói chuyện với anh ta. Thậm chí có đứa thấy anh ta tới gần là khóc thét lên, có khi té đái trong quần luôn!!! Nói vậy thôi chứ Hai Hổ cũng hiền. Những đứa học trò nhà xa thường được Hai Hổ đưa rước đi học. Đường tới trường băng qua cái truông cỏ tranh nhiều rắn rít, cọp beo. Hai Hổ bảo vệ cho đám nhỏ đi học bình yên vô sự.
                  Cái trường của thầy đồ cũng bình yên vô sự hoài nếu như... Nếu như thầy không bận lòng với chuyện chính sự!!! Thầy bỏ đám học trò đi mất. Cô học trò trong lớp nhỏ hoài không chịu lớn theo sự dạy bảo của thầy.
                  Hai Hổ bỏ trường đi luôn theo thầy. Cô học trò nhỏ ngày ngày tựa cửa chờ ai? Ngày kia đạn đồng ngoài tàu Tây bắn cái đùng vô đình. Đạn vướng nhánh đa văng ra xa. Cái đình vô sự. Cây đa gãy một nhánh lớn rớt cái đụi.
                  Khi người ta lôi nhánh đa ra thì thấy Hai Hổ nằm chèo queo dưới đất, cánh tay gãy nát, máu me tùm lum. Từ đó Hai Hổ sống luôn tại xóm đình. Mở lại cái quán nước dưới gốc đa. Cuốc dẫy đám cỏ tranh mênh mông làm thành đồng trồng rau. Rau xanh mịt mù, chở bằng xe ngựa đem lên bán trên chợ Đũi!
                  Người ta nuôi ngựa đầy vùng này. Những chiếc xe thổ mộ hai cái bánh bằng gỗ to chà bá nghiến trên con đường đất thành hai rảnh sâu. Rau chất đầy tràn trong xe, hoa thì móc hai bên cho khỏi dập. Chiếc xe chạy trước, đằng sau nhìn tới cứ tưởng cái chậu vạn thọ to tổ bố biết đi chớ.
                  Những ông xà ích miệng ngậm điếu thuốc gò chánh hẩu Gò Vấp một bên, tay roi, tay cương nhịp nhàng. Khói thuốc mù mịt che mất mặt người. Chỉ nghe tiếng nạt trầm khàn. Có những con ngựa già rạt, lông rụng còn lởm chởm, quen đường chạy khỏi cần la.
                  Không biết dân vùng chợ Đũi sao mê vạn thọ quá tay. Trồng không kịp nhổ bán, nhất là những ngày rằm, vọng!!!
                  Cái xe thổ mộ bây giờ về mút tận Trảng Bàng cũng ít thấy. Mà có thì hai bánh gỗ cũng thay bằng bánh cao su rồi. Tôi khoái ngồi xe ngựa lắm, he he, chiếc xe lắc theo nhịp kiệu của con ngựa. Ngồi phía sau, nhìn xuống đường, ráng lắc thêm cho đã. Lắc cố mạng té nhào đầu xuống đất liền! Không sao! Đứng dậy kéo quần, chùi mũi cắm cổ rượt theo.
                  Nói vậy chứ con ngựa dù già, dù kéo nặng chạy cũng lẹ hơn người. Mấy thằng nhỏ con chân ngắn thì chạy theo hả họng cũng không xong...
                  Ông Hai Hổ từ khi biến thành ông Hai chủ quán gốc đa coi mòi thích uống rượu liên miên. Còn hai con mắt cô học trò ngày xưa, hay bà Hai thì cứ nhìn miết, trông miết về phía ông thầy đi biền biệt...
                  Thời gian chạy ào ào qua cái Xóm Đình, nhiều cái mười năm trôi qua như giấc ngủ nhẹ. Con đường lớn mở qua đất ông Hai. Đất thành vàng, Hai Hổ ra đường bán hủ tíu Nam Vang. Quán đắt như tôm tươi bỏ trên hủ tíu. Giàu!!!
                  Hai người sống lâu quá mà không thấy già. Ông Hai Hổ thành Hai Hủ Tíu, hơi sần một chút chứ bà Hai thì không. Bà không phụ thuộc thời gian, bà trôi nổi lềnh bềnh trên cái mà ai cũng sợ.
                  Trăm năm, hai trăm năm, là cái gì? Ai biết được ông bà Hai bao nhiêu tuổi.
                  Ông Hai từ khi giàu, mua vàng ủ bà Hai trong tiếng leng keng. Trời thần! Vàng đeo đỏ người. Bà Hai đẹp và sang thành sang và đẹp hơn nữa. Nhưng đời mà, cái bóng của ông Hai tự dưng nổi cơn khùng, lâu lâu bỏ đi bụi đời. Nó đi đã rồi lê cái thân tàn trở về.
                  Mỗi khi nó về ông Hai lại biết thêm nhiều chuyện mới. Trong những chuyện mới đó có trò nấu ăn, nấu cafe bán, và cờ bạc...
                  Ông Hai Hổ mê ngựa lắm. Ổng nói hồi xưa phải có mấy con ngựa chiến như ngựa bây giờ thì đánh nhau với Tây cũng ngon. He he, ngựa hồi đó lùn xịt, chạy tẹt tẹt, dở quá. Đạn Tây bắn lẹ như điện, né không kịp, thua là phải.
                  Người ta mở trường đua ngựa. Ông Hai cùng cái bóng thành hai người khách sộp!!! Thiệt là!
                  Cái trường đua với mấy con ngựa trở chứng lúc chạy lúc nghỉ làm cho tài sản, nhà cửa của ông Hai rủ nhau chuyển qua cho người khác. Mèo hoàn mèo, Cuội già ôm gốc cây đa, Hai Hủ Tíu lại quay về gốc đa, bán cafe quán cóc!
                  Bà Hai không nói một tiếng. Bà ngoan ngoãn theo ông quay về gốc đa.
                  Cái xóm nhỏ nhiều chuyện này không có việc gì mà người ta không biết. Mấy bà già hết thời ngày nào cũng túm tụm nơi quán cafe dưới gốc cây đa.
                  Cái cây đa cổ thụ mấy trăm năm, xù xì, cằn cổi. Mớ rể phụ từ trên cao thòng xuống cũng cằn, khô quắt, rách te tua. Những chiếc bình vôi vỡ, những ông lò bể chất chồng nơi gốc.
                  Gốc đa có nhiều ngách, lắm bọng. Những cái bọng thành hình từ rễ chính của cây đa, có cái nhỏ xíu, có cái to tướng. Bọng to người vừa vừa chui vô cũng lọt. Nhưng ai mà dám chui vô đó, lỡ mà kẹt trong đó ra không được thì đám kiến bù nhọt khổng lồ cắn chắc là còn bộ xương.
                  Nói tới mấy con kiến bù nhọt thì thiệt là hết ý. Giống kiến đen thui, bự con, cặp càng mạnh thần lực. Cắn phát nào là để dấu phát đó. Mấy thằng con nít, mấy người nhạy cảm bị kiến cắn sốt li bì như ong bò vẽ chích vậy.
                  Lũ kiến làm tổ trong cây đa nơi nào thì có trời mà biết. Mùa mưa chúng rúc lên trên các bọng cây. Mùa nắng thì kéo nhau xuống đất đào hang. Hang kiến chắc là lớn và sâu lắm.
                  Người ta đồn nhau hang kiến bù nhọt thấu xuống tới âm phủ. Lũ kiến xin Mã Diện, Ngưu Đầu cái chỉa ba làm cặp càng nên càng mạnh quá ể!!! Có người đem con chuột chết quăng vô gốc đa, chút xíu chỉ còn trơ cái bộ xương trắng nhách thấy ớn!
                  Kiến bù nhọt là bộ tướng của thần cây đa. Trong cây đa còn hai con cắc kè bông to chà bá. Hai thằng cắc kè này hay bò qua mái quán ông Hai nằm hóng khói chơi.
                  Ông Hai cưng hai con cắc kè này lắm. Trưa trời nắng tụi nó kêu ai oán. Mấy thằng nhỏ trong xóm cho rằng hai con này là quân sư của thần cây đa.
                  Dưới trướng quân sư cắc kè còn có hàng ngàn con ma bay qua bay lại trên những cọng rễ phụ như Tazan. Mấy con ma bùn này thích nhất là chơi trò bắt người nhốt vô trong bọng cây.
                  Ma giấu! Ừ cái từ thường được nói là ma giấu.
                  Đám ma hiện thành gái đẹp, thành người già bịnh hoạn dụ người ta chui vô gốc đa, nhét phân bò với lá đa đầy họng. Người bị ma giấu thường ngu ngu ngơ ngơ, ngồi khít rịt trong cái lổ. Muốn lôi ra được cũng là kì công. Có người ra rồi nhìn lại cũng không hiểu sao mình chui vô trong được. Người tối ngày bị ma giấu trong gốc đa là ông Chín Đèn.
                  Cha này thợ điện, làm nhà đèn. Bự con, nhiều vợ, nhiều con, khoái nhậu. Nhậu phải tới chỉ mới mò về, thường là quá giờ giới nghiêm.
                  Hai An Ninh, khóm trưởng nhốt chả hoài cũng chán, thành ra cho thoải mái mà nhậu, không can gì. Nhậu tuần đủ bảy ngày, tháng dư tháng thiếu ba mươi, ba mốt đều đặn.
                  Cứ hai ba tháng lại thấy chả ngồi trong bọng cây đa. Bầy vợ và con bu nhau lôi kéo mướt mồ hôi mới chui ra được. Ra rồi cứ dòm bà Hai Hủ Tíu thất thần.
                  Con ma bùn nào thích biến thành bà Hai vậy ta? Bà vợ lớn của ông Chín bán cháo đậu đen, thứ cháo đậu nấu nhừ nhuyễn, béo béo bùi bùi ăn với dưa mắm, củ cải muối thiệt là khoái khẩu. Gánh cháo của bả có ba bà bán chung, bả múc, hai bà kia kéo bàn kéo ghế và rửa chén. Bán ngay phía sau đình, dưới bụi tre bên cái hồ nước cạn nhách.
                  Cái hồ này ngày xưa tên là bàu sấu. Trong bàu có đại tướng cá sấu trấn ngự. Thần Hoàng thả con ngựa bạch bên bàu, ngồi nghỉ dưới bụi tre. Con cá sấu bò lên tính đớp ông Thần Hoàng, ngựa bạch kịp hí một tiếng cho chủ hay. Thần Hoàng của Đình rút gươm chém một phát. Cá sấu da dày như thép, gươm gãy ngang. Phần lưỡi bay tuốt phập ngang cây đa, bây giờ dấu còn y. Nhiều người thử lay, đục nhằm lôi lưỡi gươm ra nhưng không ai thành công ráo.
                  Mấy trăm năm, cây đa tham báu kiếm sinh không biết bao nhiêu lần da ôm chặt lấy. Những mép da tham lam nuốt lần nuốt lần, lưỡi gươm lọt vào tận lõi cây rồi. Trong tay Thần Hoàng chỉ còn cái cán gươm. Con sấu tinh há họng như cái máy dập mấy chục tấn chực táp Thần Hoàng. Ngựa bạch bèn lồng đứt dây cương chạy tới chịu cho cá sấu đớp một phát đứt làm hai.
                  Thần Hoàng lôi đình thịnh nộ, giận tới nỗi tóc tai dựng đứng, niệm chú gọi ngũ lôi đánh cho con quái vật cháy đen thui. Con sấu tinh sợ quá chạy tuốt xuống Nhà Bè tác quái.
                  Thần Hoàng từ khi ngựa chết trong lòng buồn thiu, tháo ấn từ quan về sống nơi này. Sau chết được vua Minh Mạng phong cho làm Thần Hoàng. Con ngựa bạch trung liệt cũng leo lên bàn thờ ngồi chung với chủ.
                  Cái bàu nước sâu ngày xưa cạn dần, cạn dần thành cái hồ bơi cứt vịt. Trong hồ mực nước chừng bảy, tám tấc, bèo sinh sôi kín mặt hồ. Hai bên hồ người ta nuôi vịt mấy đàn. Bầy vịt vừa bơi vừa rúc vừa ị xuống hồ luôn. Nhất cử tam tứ tiện.
                  Mấy thằng con nít thích ra đó tập bơi lắm. Nước dơ ơi là dơ. Mấy bà mẹ cấm con không được ra đó dầm nước. Còn con ma da đàn em của đại tướng cá sấu núp trong hồ đó.
                  Có con bé sáng sớm ra hồ nằm úp mặt xuống nước mà chết đuối rồi, nhưng mấy ông nhóc làm sao mà quản cho nổi. Trưa nào tụi nó cũng đợi ba má ngủ là mò ra tập bơi trong cái hồ cứt vịt này.
                  Mấy bà mẹ cứ thấy con về trên tóc có dính bèo là đè ra đét đít. Hì hì, tụi nhỏ cởi hết áo quần nhảy xuống bơi cho đã rồi nhong nhỏng chạy ra phông ten ngoài trại cùi mà tắm. Nước máy thời miễn phí. Cứ dội thiệt kĩ, xong nhảy tưng tưng cho khô nước rồi bận quần vô chạy về nhà. N
                  Nói vậy chứ tụi nó vừa tắm vừa sợ mấy ông cùi trong trại thò tay ra nắm của quý hay là vuốt mông lắm, thành ra tắm mà phải có thằng dòm chừng.
                  Ngoài mấy ông cùi còn có mấy cô lớn lớn ra gánh nước về nhà xài nữa. Mấy bà này thấy đám con nít cởi truồng chạy ra là hét như xe lửa kéo còi liền. Hét rồi thế nào cũng mét cho tụi nó ăn đòn. Chơi ác thiệt!!!
                  Còn mấy bà già hết thời ngồi quán lê la từ sáng tới chiều đa phần là dân giang hồ. Giang hồ ở đây không phải là anh chị mà thiệt là dân trôi nổi, sông nước từ tứ phương lưu lạc về chốn này.
                  Có hai chị em bà Mười Lựu Đạn là dân Bắc di cư. Hồi xưa ngoài Hà Nội là gái nhảy. Di cư vô Nam cũng làm gái nhảy, nhưng già hết thời, biến thành hai mụ già chuyên chửi đời và nhậu.
                  Bà Mười tên gì không còn ai nhớ. Bà bị kêu là Mười Lựu Đạn vì có lần nhậu xỉn, đình cúng, đang hát bội tuồng Lưu Kim Đính giải giá Thọ Châu, tự nhiên có cô đào hát chèo nhảy lên sân khấu làm nguyên một khúc Xuý Vân giả dại. Trống chầu do ông Lai cúng đại kì dộng ầm ầm. Cái này kêu là trống chửi!
                  Cô đào hát say sưa như điếc. Đến cái khúc xé quần xé áo toèn toẹt thì cổ làm thiệt.
                  Trời thần ơi! Là bà Mười! Đúng là con mụ lựu đạn. Mấy ông học trò lễ áo thụng xanh mũ cánh chuồn nhảy lên lôi bà xuống. Náo loạn, bả gào thét chửi inh trời.
                  Bà Nhì, Nhì ở đây là thứ mười hai, em bà Mười ngồi nhậu mấy thứ thịt thà người ta bỏ lại khi cúng xong ở đằng sau đình nghe chị mình gào bèn chạy ra, vác ngay cái trường đao dựng trong giá mười tám món binh khí chém loạn xà ngầu. Hương chức hội tề mặt xanh như đít nhái chạy rạt gáo.
                  Bà em cũng ngà ngà nhảy lên sân khấu múa vòng vòng. He he, là Quan Vân Trường quá ngũ quan trảm lục tướng. Xuý Vân với Quan Công màn cuối nên duyên sắt cầm, trời đất!!!
                  Ông Hai Hủ Tíu tới giờ mới hay, bước lên sân khấu núm từng bà liệng xuống như liệng cái bao cát.
                  Hai bà này cộng thêm mấy cô đào hạng bét dạt ra từ những gánh hát hạng bét làm thành vô số những câu chuyện trên trời dưới đất.
                  Sáng nào mấy bà cũng trét bột trắng nhách cái mặt như mặt nạ ra ngồi quán. Mấy bà này theo bà Chín Tỵ, em gái ông Ba Vân kép nghiện, trôi dạt về đình, sáng ra ngồi thêu chuyện.
                  Ngồi tới cỡ tám chín giờ thì rủ nhau vô thêu áo quần, phông màn cho mấy gánh hát. Rồi có mấy bà làm me Tây, Tây chuồn hết không còn là me nữa, chắc là cóc. Mấy bà này cũng ra quán ngồi ngóng gió ngáp chơi. Bà cóc nào không có con thì không nói chứ bà nào có con thì mèn ơi, mấy đứa Tây lai này đẹp hết ý.
                  Trong xóm Đình hoa đẹp mọc nhiều như cỏ hoang. Chỉ trừ cái bông sen một mình trong hóc là hoa bày trong bình bông thôi!!!
                  Ông bà Hai thiệt là dễ chịu. Bà nào ngồi bao lâu cũng được. Muốn uống cafe thì cứ tự nhiên vô bếp rót ra mà uống, miễn phí, he he, cái thứ cafe giảo nước hai nước ba mà.
                  Chỉ có ba cái bàn kê đối diện bàn thờ ông Hổ là đám đàn ông ngồi. Bàn nào cũng có bàn cờ tướng. Dân ngồi đây thì trả tiền đàng hoàng và là dân anh chị thứ thiệt. Tay đại ca đầu tiên khống chế những tay chém trong xóm là Đực Lớn. Thằng cha này to con, mạnh như kiến bù nhọt! Ông Sáu thầy bói lỡ miệng phán chả chết bất đắc kì tử bị chả đập bèo nhèo, gãy hết mấy cái răng thiệt.
                  Sau khi thống nhất giới giang hồ từ chợ Hoà Hưng sang đến khu Cống Bà Xếp, vọt lên tới chùa Định Thành. Đực Lớn bắt đầu mở sòng bài và động điếm. Sòng bài thì phục vụ cho mấy tay lính nhảy dù thuộc trại Nguyễn Trung Hiếu. Trại này nằm đối diện nghĩa địa Chí Hoà. Còn cái hang nhền nhện thì để dành cho lính Mỹ.
                  Đực Lớn trấn thống khu vực này bằng mã tấu, cái thứ đồ nghề rèn từ những thanh nhíp xe jeep mài bén lên nước. Tướng bự cộng với cây mã dài thước hai coi bộ hù người ta sợ chết được.
                  Tết Đinh Mùi, có hai tay lính nhảy dù đem trái lựu đạn quăng ra sòng đặt thay tiền, rồi rút chốt hù hồ lì, xong hốt hết tiền dọt. Đực Lớn ở trần đang nhậu, nghe tin có lính lật sòng, vác mã chạy ra.
                  Chả ra tới đầu đường thì trong này bà con nghe súng nổ ran ran cả băng. Rồi Đực Lớn hai tay ôm bụng bang bang chạy vô, máu chảy ướt cả đường hẻm. Vô tới quán cafe gốc đa, chả ngã ngữa vô trong tay ông Hai, hai tay buông ra, ruột đổ ra cả nùi.
                  Đực Lớn kết thúc nghiệp đại ca trong cái chết đầy nuối tiếc, hai con mắt mở trừng trừng vuốt cách gì cũng không nhắm... Xóm Đình tiếc thằng cha hảo hớn này bạo nghe.
                  Sau đó Tứ, đàn em lên thay Đực Lớn. Vẫn là cách kinh doanh như cũ, nhưng không xài mã tấu nữa. Tứ xài súng và là tay ăn cướp thứ dữ!
                  Ác giả ác báo, cảnh sát bao vây nhà Tứ. Chả nhảy từ nóc nhà chả xuống nhà đối diện, vừa chạy trên nóc nhà vừa bắn trả. Đạn lạc trúng ngay con bé Lan, con bà đào hát Hoàng Điệp.
                  Tội nghiệp con bé mới mấy tháng tuổi bị bắn bể mỏm xương đùi, lớn thành tật cà nhắc, tụi con nít trong xóm kêu là con Lan què hay Lan khùng.
                  Cha Tứ nhảy loi nhoi trên mấy cái nóc nhà, xui sao cái nóc nhà bà Mười Lựu Đạn nát mẹ nó rồi, rớt xuống đất cái bộp như trái mít sút cùi, còn làm dữ, nã thêm mấy phát.
                  Đám cảnh sát điên lên bắn thôi người lủng như cái rổ thưa, chết ngắt! Đại ca Tứ chết bỏ lại con vợ đẹp như tiên, bà Nhan.
                  Thiệt là tên như người, Nhan Như Ngọc, mặt như ngọc, người cũng như ngọc. Tiếc thay viên ngọc vần dưới bùn. Đại ca Tứ đi đứt thì bà chủ động nhền nhện thành gái điếm cao cấp liền.
                  Bắt đầu có chuyện với cái bóng của ông Hai. Nó mê bà Nhan này quá! Từ sáng sớm cho tới sáng sớm hôm sau, tức là suốt ngày đêm nó cà rà quanh bà Nhan.
                  Mê muội! Nó bỏ ông Hai đi tuốt luốt, không thèm quay về nữa. Ông Hai Hủ Tíu già thấy rõ, tóc ông bạc trắng như bông. Hồi xưa tới giờ tóc ông bạc rồi đen, đen rồi bạc tuỳ theo cái bóng đi về về đi. Bây giờ nó không thèm về nữa thì làm sao?
                  Ông Hai lò mò vô cái hang tối thui sau đình, năn nỉ cái bóng về với ông. Thất bại! Ông trở ra gốc đa uống thôi trời sầu đất thảm! Uống rồi chửi, chửi rồi đấm đá tượng ông Hổ.
                  Bình thường sau công đoạn đó là ông đi ngủ, nhưng lần này ông Hai đấm đá xong lại quay về uống. Máu tươi nhỏ giọt giọt chỗ mắt cọp. Máu chảy nhiều như máu Đực Lớn đổ trước bàn thờ ông Hổ.
                  Không biết ông Hai uống, chửi, đánh bao nhiêu ngày? Người ông tóp teo, tay chân và mặt lòng thòng một mớ da nhùng nhằng, nhăn nhúm. Ông già bất tử mấy trăm tuổi trong một thời gian ngắn già chảy xệ ra.
                  Bà Hai vẫn tỉnh bơ, cái nhìn của bà thả đi đâu đâu. Mặc kệ ông chồng làm gì thì làm, trong bà không có người đàn ông đó nữa rồi. Hơn trăm năm trước ông ta đã chết cùng ông thầy dễ thương rồi.
                  Rồi một đêm trời mưa như thác đổ, trong cái hộp bít bùng, bà Hai ngồi xõa tóc cười như khùng, hai con mắt bà nhìn thấu qua màn nước dầy như hai cây đèn măng xông cháy sáng rực.
                  Con Lan què, con bà Hoàng Điệp, nửa đêm dậy khóc thôi là khóc. Tiếng khóc xé ruột xé gan của nó cũng xé nát màn mưa, bay tới khắp các nhà trong xóm. Sấm sét đánh liên hồi kì trận vô cây đa. Trong những căn nhà nhỏ dột nát, người ta nói với nhau quỷ nhập tràng muốn nhập vô cây đa, đang đánh nhau với ông thần cây đa. Cuộc chiến căng thẳng quá, ồn ào quá!
                  Tiếng mưa, tiếng sấm, tiếng khóc, tiếng cười trộn nhau thành một thứ ồn ào làm cho cái bóng thức dậy. Nó nhìn người đàn bà mà nó mê muội nằm co rúm trong đám mền gối. Bèo nhèo! Người đẹp sao mà bèo nhèo như cái giẻ rách vậy nè?
                  Rồi nó nghe như có tiếng ông chủ nó hú ngoài gốc cây đa. Nó bật dậy, chạy như bay ra. Mưa tạnh! Cơn mưa tạnh ngang hông như chưa bao giờ mưa. Bà Hai thôi cười, con Lan thôi khóc, thế gian trong một phút im lặng.
                  Ông Hai bất tử mấy trăm tuổi không biết chết treo toòng ten trên một nhánh đa, thân hình ông căng phồng như cái túi đầy hơi cột thắt nơi cổ, mớ da thừa nhùng nhằng tròn ủng.
                  Cả xóm túa ra, trong im lặng tuyệt đối. Ông thần cây đa chết trong trận chiến cùng quỷ nhập tràng rồi. Ông chết vì thiếu mất cái bóng, vì uống nhiều quá, vì thể lực hao mòn quá.
                  Tượng ông Hổ thờ trên bệ nước mưa chảy thành dòng trên mặt cọp, nước tuôn ra từ khoé mắt cọp. Cái bóng nhìn ông chủ mình như cái túi hơi treo lủng lẳng trên cây trong im lặng một hồi lâu, rồi tự nhiên nó hét lên.
                  Sét đánh cái đùng, cái bóng biến thành một luồng khói trắng bay mất. Tượng ông Hổ tét làm hai, từ đầu tới đuôi, cả cái của quý được tạc cẩn thận bên dưới cũng tét hai. Cái tượng rỗng ruột, bên trong một bộ xương người khô quắt lăn ra.
                  Bà Hai trong cái hộp rú những tiếng như cú mèo chạy ra ôm chầm bộ xương. Bộ xương nát vụn nằm trên nền sân đình. Cái nền ướt sũng nước mưa, bà Hai nằm sấp, nguyên người bà úp tròn lên bộ xương. Nước mắt bà chảy như suối, nước mắt chảy tới đâu, bộ xương tan ra, thấm vào người bà tới đó.
                  Cái túi da người treo trên cây tự nhiên xì ra một đám hơi thúi hoắc. Thúi kinh khủng! Người ta rần rần bỏ chạy. Khi người ta chạy hết thì sợi dây treo đứt ngang, ông Hai rơi trở lại mặt đất.
                  Trời sáng!!!
                  Trời hết tối rồi thì sáng, lẽ tự nhiên. Trong ánh sáng trần trụi cuộc đời cũng thành đơn giản hơn. Người ta quan tâm tới bữa ăn nhiều hơn, cần có cái thứ gì đó nhét cho đầy cái túi rỗng trong người.
                  Bà Hai, sau khi ông chồng chết trở thành câm. Bà không nói nữa, quán cafe dưới gốc đa ế ẩm, không ai còn huỡn mà ngồi nhâm nhi cafe nữa, ai cũng chạy kiếm ăn hết.
                  Quán ế hay đắt, bà không cần biết, ăn hay ngủ không còn là chuyện bà quan tâm nữa. Sau khi bộ xương trong tượng ông Hổ thấm hết vào người bà, bà trở thành già quá sức. Mái tóc đen thui dài thướt tha bạc trắng như Ngũ Tử Tư, da dẻ nhăn nheo khủng khiếp rồi nổi mốc đen mốc trắng.
                  Một đêm, tóc bà rụng trắng cái giường, đầu bà thành trọc lóc như thầy chùa. Hai con mắt mờ đục, không còn cháy rừng rực nữa.
                  Một hôm bà bỏ quán, dọn cái giường vô trong cái hóc kẹt sau cái bếp của đình. Bà vào sống trong đó.
                  Cái quán người khác bán. Bà chủ mới của cái quán là một người đàn bà của ban ngày. Ông chồng đi học xa lắc vì thời thế, bỏ lại bà vợ lanh lẹ và ba đứa con gái nhỏ chút chun như ba cái li. Bà phải chạy ra đường kiếm cái sống cho bốn mạng trong nhà.
                  Quán ngày càng đông trở lại vì bà chủ quán biết ăn nói và chiều khách. Quán đông một phần cũng nhờ những tay kép, cô đào dạt tứ xứ bây giờ kéo hết về sống trong cái xóm này. Những con người này sống về đêm, ban ngày rảnh hơi ngồi mòn đít trong quán.
                  Bà Hai sống trong hóc đình. Bà sống lặng lẽ. Những cái vòng leng keng trên tay bán lần hồi cho chuyện ăn uống. Té ra đó là vàng thiệt!
                  Bà sống lâu quá, lâu tới mức số vòng vàng hết trọi mà bà vẫn còn sống. Ai đâu mà nuôi, bởi vậy bà phải đi xin.
                  Trời ơi! Người đàn bà của ngày hôm qua chống gậy mò ra đường. Hai con mắt mờ đục, nhưng bà không ngửa tay xin ai cả, bà đàng hoàng đi vô nhà những người quen ngày xưa. Ai cho bao nhiêu thì cho, và bà sống mãi bằng cách đó.
                  Sống ốm yếu, hom hem. Người bà khô lần, khô lần như con cá phơi ngoài nắng. Rồi bỗng nhiên bà biến mất, không ai thấy bà đâu. Người ta bàn tán lung tung, nhưng câu chuyện cũng mau chóng rụng vào quên lãng. Người ta có những chuyện khác gay cấn hơn để bàn, như chuyện thằng Hải Mèo bị trùm bao bố, hay là con Lan què có bầu!
                  Con Lan què lớn lên hồi nào có ai mà biết. Nó khùng khùng, ai đụng vô nó nó chửi tan nát hết. Má nó, bà Hoàng Điệp nghỉ hát từ lâu. Bà đào hạng bét này chuyển qua rao bánh mì. Sáng nào tiếng bà cũng lảnh lót khắp hang cùng ngỏ hẻm. Chưa có tay bán bánh mì nào rao ngon như bà.
                  Hì hì! Trời mờ mờ sáng, bà Điệp đã đi ra lò lãnh bánh bán. Con Lan ở một mình trong nhà. Nói cái nhà cho nó oai chứ thiệt ra chỗ hai mẹ con bà Điệp ở còn tệ hơn cái hộp của ông bà Hai.
                  Không biết khi con nhỏ ngủ say, thằng khốn nạn nào mò vô làm bậy mà nó có bầu. Mấy thằng xích lô hay ngủ ngoài mấy cái xe xích lô để dưới gốc đa bị các bà vợ lôi về đe nẹt quá chừng, thằng nào thằng nấy thề sống thề chết là hổng có rớ vô con Lan què.
                  Chỉ có bà Điệp và con Lan là im re. Con Lan cũng có biết ai đâu, thành ra có hỏi nó cũng như không. Trong số những người bị nghi ngờ nhất có cha Tư.
                  Cha này là phế binh, què giò, mặt rổ như tổ ong. Chả phụ bán trong quán cafe dưới gốc đa, tối chui vô cái hộp ngủ trong đó coi chừng luôn. Mà cái ổ của má con con Lan thì gần sát cái quán. Cha Tư què ráp với con Lan què thì xứng đôi quá!!!!
                  Ông Tư chỉ biết trợn con mắt vàng khè nhìn chăm chăm vô li rượu cây Lý mỗi khi có ai đó nói bóng gió chuyện ổng với con Lan. Thiên hạ ác mồm, hồi con Lan còn nhỏ ổng bồng ẵm nó hoài mà.
                  Ông Tư què thiệt tình không có. Ai không biết ổng chứ bà Hoàng Điệp thì rành ông Tư quá. Ổng về xóm đình này cũng vì bà Điệp.
                  Ngày xưa, anh chàng biệt động quân Tư mê cô đào có giọng hát ngọt như mía lùi Điệp. Mê giọng hát, anh không quan tâm tới cô nàng mập ú, xấu như ma. Anh theo cô đào lưu lạc về Xóm Đình, xong cắm dùi đây luôn. Bà Điệp mãi không chịu ông Tư, thành ra ổng tối ngày mượn rượu giải sầu.
                  Rồi chuyện tào lao đổ lên đầu, trăm miệng cũng hổng cãi nổi. Ông Tư uống tới một ngày trào máu họng, chở vô bịnh viện thì đã chết vì vỡ gan. Ngày con Lan què sinh con, má nó khóc như mưa. Tiền không có làm sao vô nhà thương, bà chủ quán cafe móc ra một cục bạc gói tròn. Ông Tư què để lại cho mẹ con bà Điệp.
                  Mấy bà đưa con Lan đi sinh về kể chuyện trong bịnh viện nghe như hí kịch. Con nhỏ đau quá, chửi từ bác sĩ tới y tá, chửi cái bụng to, chửi má nó sinh ra nó, chửi hết trọi rồi thì thằng con trai lọt ra cái ọt. Thằng nhỏ nghe má nó chửi quá tức cái mình khóc như gào.
                  Con Lan hết khùng. Nó hết khùng luôn từ khi thằng con nó khóc chửi đời. Ngày nó ẵm con về nó đi thẳng vô nhà Đực Nhỏ. Cha Đực Nhỏ này là em ruột của đại ca Đực Lớn.
                  Thì ra người làm bậy là Đực Nhỏ. Thằng nhỏ dòm giống y như thằng cha, hết chối!
                  Đực Nhỏ bị Hai Nhái chửi như điên, phải chu cấp cho mẹ con con Lan. Con Lan từ đó chống cây nạng, đeo cái giỏ theo má nó đi bán bánh mì. Sáng sáng, tiếng nó rao bánh mì nóng giòn nghe vút cao, giòn tan như bánh mì nó bán.
                  Thằng Đực con lớn như gió thổi! Cái mặt nó từ hồi đó tới giờ vằn vện như mặt cọp. Nó lăng quăng dưới gốc đa chơi một mình, mấy con kiến bù nhọt từ hồi ông Hai Hủ Tíu ngủm củ từ trở nên hung hăng ghê gớm, nhưng chừa thằng Đực con này ra, không cắn nó.
                  Thằng Đực con khoái nhất cái trò chui vô những cái bọng dưới gốc đa trốn má nó. Con Lan què kêu con nghe áo não như tiếng cú đêm.
                  À, trên ngọn cây đa có con cú mèo về sống mồ côi một mình, mấy thằng nhỏ hay vác ná bắn nó.  Vô ích thôi, cây đa cao quá, viên đá bay hết tầm chưa tới được hai phần ba chiều cao của cây đa già. Con cú sống thoải mái bằng những con chuột chui rúc bên dưới cái cống phía sau quán cafe, khuya khuya nó buồn buồn rúc những tiếng kêu nghe nổi da gà.
                  Con Lan què kêu con cũng y thinh. Thằng nhỏ có khi chui ra cười hì hì, có khi ngủ khò trong đó kệ má nó rú thê thảm. Một bữa thằng nhỏ chui từ trong cái bọng cây đa ra với một cục trắng trắng tròn tròn. Nó bỏ xuống đất làm trái banh đá chơi.
                  Trời thần ơi! Là cái sọ người trắng hếu, không còn cái răng nào. Cả xóm lại đổ xô vô coi, thằng Đực con được mướn bằng mấy cục kẹo để chui vô lôi hết những thứ trong bọng cây ra. Nó móc ra đủ thứ xương, là nguyên bộ xương người hoàn chỉnh, có thiếu chắc là ba cái lặt vặt như ngón tay, ngón chân. Thằng Đực con còn lôi ra hai cái bông tai hột bẹt.
                  Bà chủ quán cafe mặt xanh lè, đôi bông hột bẹt của bà Hai Hủ Tíu!!! Ngày hôm sau xóm Đình thêu dệt nên những câu chuyện nghe li kì rùng rợn. Con quỷ nhập tràng sau khi bị thần cây đa là ông Hai Hủ Tíu đánh bị thương nghiêm trọng đã quay về. Nó lặng lẽ túm vợ thần cây đa nhét vô trong bọng cây cho kiến bù nhọt gặm còn trơ xương. Hồn bà Hai không siêu thoát thành con cú mồ côi đậu trên cây đa trách đời.
                  Bà chủ quán cafe sau này cúng thôi là cúng. Ông chồng bà học giỏi, tốt nghiệp về sớm. Chồng về, việc buôn bán càng thuận lợi, bà cúng thôi lu bù.
                  Cái gốc đa sau khi thằng Đực con lôi bộ xương của bà Hai ra không ai dám ngồi gần. Bà Hoàng Điệp dắt con gái với cháu ngoại bỏ xóm đi mất. Một phần vì con Lan què sợ quá lâu lâu lại nổi cơn khùng lên, phần khác bà sợ thằng Đực con chui riết vô trong gốc cây có ngày thành quỷ nhập tràng.
                  Cây đa, quán nước, cái đình, ba thứ gắn kết vào nhau với những chuyện kì quặc về người đàn ông bất tử, người đàn bà nhìn thấy hôm qua và tượng thờ ông Hổ. Chuyện râm ran, đồn đại lung tung. Trưởng xóm cử người đốn bỏ cây đa.
                  Nhóm thợ thứ nhất đưa cưa máy treo lên trên ngọn thì đứt dây, cái cưa rơi từ trên cao xuống đập ngay đầu ông trưởng xóm. Ông này té xuống nằm liệt luôn tới chết. Chấn thương sọ não.
                  Nhóm thợ thứ hai, một người trèo cây chưa gì té gãy chân, lại thêm phù cả người mấy tháng.
                  Nhóm thứ ba, dùng xe thang chuyên dụng móc vô cây, sét đánh cái đùng, chiếc xe cháy đen thui, phải kéo đi sửa.
                  Cây đa có thần hay là có ma? Ai mà biết, nhưng thôi, người ta để nó yên chỗ đó rồi.
                  Cây đa dẹp không được thì dẹp cái quán nước. Cái quán cafe này là trung tâm thông tin nhảm nhí, dẹp phức cho rồi!
                  Cái hộp sắt như vậy được tháo tung. Cái bếp xây bị đập bỏ. Ngày người ta dỡ quán, chuột bên trong chạy ra có mấy trăm con. Con nào con nấy mập múp. Cả xóm tưng bừng đập chuột. Chó thì sủa, người lớn, con nít reo hò như phát cuồng. Chuột chết la liệt khắp xóm. Ai hay dưới cái quán là một ổ chuột khổng lồ như vậy.
                  Cái quán dẹp xong, tối đó mưa nho nhỏ, con cú mồ côi trên cây đa kêu miết cả đêm. Sáng hôm sau nó nằm chết bẹp trên đống tole gỗ ngổn ngang bên dưới.
                  Ngày con cú chết thì chị cũng dọn nhà đi qua chỗ khác...
                  Chị và hai đứa con gái hì hục cột đồ chất lên xe. Nhà nhỏ, đồ đạc không có bao nhiêu. Phần chị vứt bỏ không mang theo cũng nhiều nên số đồ mang theo chỉ vừa sắp đầy cái sàn chiếc xe tải nhỏ.
                  Ba mẹ con mồ hôi đọng thành hạt trên cánh mũi. Nắng soi hồng má mẹ lẫn má con. Những cọng lông măng như khói như sương mịn màng trên má. Ai cũng đẹp. Không biết sao mà có người đẹp đến như vậy. Tức cười là chị và hai đứa con đẹp quá ể mà bị chồng bỏ.
                  Thằng chồng chị thì tôi rành quá. Cha này là con cháu hoàng tộc, nhà giàu lắm lại là con một. Chị và ông ta không có con trai nên ông ấy xua chị ra đường cũng phải.
                  Mà công nhận ông chồng chị đẹp trai ác chiến, nhìn như Tây lai. He he, tôi gọi là ông Bão Tố, khi tôi vui, còn khi buồn bực tôi kêu là cha Bão Táp, dĩ nhiên là táp cái thứ tôi muốn cho chả táp thôi!!!
                  Chị, thân gái chưa đủ hết mấy chứng chỉ Văn Khoa, đã vội lấy chồng. Ai biểu! Bướm vàng đậu nhánh mù u, lấy chồng càng sớm lời ru càng buồn mà!!! Học Văn Khoa mà hổng biết chuyện này sao?
                  Tới giờ, không nghề nghiệp, hai con, lủi thủi ra đường. Thành ra chị chọn xóm Đình để ở cũng dễ hiểu. Nhà rẻ! Buổi sáng chị làm nhân viên văn thư, chiều chị đi làm người giới thiệu chương trình cho đoàn kịch nói mang tên cái loại hoa thiệt là sang trọng.

                  Chị sống trong cái xóm này như người bên lề cuộc đời. Hai đứa con bị nhốt trong nhà không cho thò đầu ra đường. Ngày chị hay tin người chồng trước đi lấy vợ, tôi thấy chị say. Bước chân chị về khi tối trời cũng chưa bao giờ loạng choạng mà lần này chị mấy lần muốn té. Rồi tôi thấy chị khum người bên hàng rào nhà Ý Ba. Chị ói!
                  Trời ơi, tôi muốn chạy ra đỡ chị quá. Nhưng tôi vẫn ngồi yên nhìn chị. Cái quy định của chúng tôi là nhìn và chỉ là nhìn. Tôi không muốn vượt qua giới hạn đó, vì chỉ bước qua một cái là thằng con nít như tôi lập tức cháy tiêu, cháy như cái bóng của ông Hai Hủ Tíu vậy.
                  Rồi chị cũng đứng dậy được, cũng vô nhà được. Chị chỉ nhìn tôi một cái, cái nhìn như cảm ơn. Tức cười, mắc cái giống gì mà cảm ơn hả! Chị đứng dậy được, và bước đi luôn.
                  Hết trơn rồi cái thứ tình yêu ngọt ngào ngu ngơ của cô bé sinh viên Văn Khoa vừa từ Đà Lạt xuống Sài Gòn. Chị biết thứ mình cần là gì và biết từ đâu lấy được cái thứ đó.
                  Một năm sau, chị dọn nhà và lấy ông chồng giám đốc công ty xuất nhập khẩu. Căn nhà mới nghe nói nằm trên con đường toàn biệt thự. Nhà chị cũng là một cái biệt thự thiệt bự.
                  Rồi chị làm thơ, cái thứ thơ tình yêu ngột ngạt và nóng như lửa của chị đăng đầy trên báo.
                  Chị thành nữ thi sĩ thứ dữ, cái tên loài hoa giúp ông Mạc Đĩnh Chi làm trạng nguyên của chị bây giờ làm xôn xao Tao Đàn.
                  Lại nghe nói chị in được chín, mười tập thơ bán chạy. Cái xóm Đình chị bỏ lại sau lưng.
                  Cây đa bây giờ còn có một nhúm cành khô khốc. Nó sắp chết già. Ừ, nó rồi chết già, chết như ông thần cây đa vậy đó.
                  Tôi thấy con quỷ nhập tràng trong cây đa rồi! Nó bay xẹt từ tượng ông Hổ sang cái bọng sâu nhất, tối thui trong cây đa. Con quỷ có hai con mắt đỏ như lửa, nhưng nó giống hình ông thầy đồ đẹp trai trong bức tranh treo trên vách đình quá mạng...
                  Bí mật đó... Chuyện này giữ trong bụng lâu quá rồi, tức bụng phải xì ra thôi. Hừm! Rồi mai mốt cúng đình sao dám về! Con quỷ nhập tràng tác quái mà ông thần Hoàng giả ngu ngồi chóc ngóc trong bàn thờ. Cũng phải thôi! Cây gươm thì gãy, con ngựa chết rồi. Vua chúa cũng thôi không còn mống nào, lấy gì mà trị đây!!!
                  Hết
                  Nguyễn Thị Mộng Thu
                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:48:58 bởi nguyenthu >
                  #39
                    nguyenthu 10.08.2009 21:17:18 (permalink)
                    HỒN MA TRÊN CÂY TRỨNG GÀ
                     
                    Thời thơ ấu tôi ở trong nhà ngoại tôi. Sau này khi lớn lên, đi xa, rồi trở về thăm lại quê hương mới thấy căn nhà này có tí xíu. Nhưng lúc nhỏ thì thấy nó bự thật bự đi từ đầu này qua đầu kia không biết khi nào hết.
                    Nhà ở quê hồi xưa, nhất là những nhà không xây theo kiểu Tây, hầu như không có phòng ngủ riêng.
                    Căn nhà bên nội tôi, chẳng hạn, xây theo kiến trúc điển hình của Huế nói riêng và Việt Nam nói chung. Nhà có ba gian, gian chính giữa là gian thờ. Gian bên phải (từ ngoài đường nhìn vô) có cái giường gỗ. Ở Huế gọi đó là cái "phản". Ban ngày phản là nơi tiếp khách, đánh bài tứ sắc, ăn trưa, ăn chiều. Buổi tối phản là giường ngủ. Gian bên trái cũng là nơi để ngủ.
                    Nhà bên ngoại tôi thì hơi Âu hóa cho nên nguyên gian bên trái được sửa thành một phòng ngủ dài. Trong phòng kê chừng bốn cái giường cho các dì tôi ngủ. Phía cuối phòng là cánh cửa đi vào sân sau. Phòng có hai cửa sổ, một nhìn ra sân trước và cửa sổ kia nhìn bên hông nhà. Từ cửa sổ này nhìn ra có cây trứng gà. Cây trồng từ bao giờ không ai biết rõ.
                    Đi ra khỏi cánh cửa sau một chút xíu là một cái giếng đá cổ. Giếng có từ lúc nào tôi không biết, chỉ biết là trước khi ông bà ngoại tôi dọn về đó xây nhà đã có cái giếng này. Giếng cổ, đá xanh rong rêu trông rất lạ. Lúc nhỏ tôi nghe người lớn trong xóm xầm xì rắng giếng đó có ma. Năm tôi lên bốn tuổi, có một chuyện xảy ra làm tôi không bao giờ quên. Bác hàng xóm chạy qua mặt mày hoảng hốt miệng thì ú ú ớ ớ. Sáng sớm bác ra giếng rửa mặt, thấy một người con trai và con gái đứng cạnh giếng bác ngỡ là ông cậu bà dì bên nhà tôi nên mở miệng chào. Khi đến gần thì cả hai người này tan dần vào sương sớm.
                    Ở Huế từ nhỏ tôi cảm thấy cõi âm và cõi dương không bao giờ thật sự cách biệt. Mỗi buổi ăn vài dĩa đồ ăn được bày lên bàn thờ cho người đã khuất cùng hưởng với người sống. Trong gian thờ có nhiều bàn thờ nhỏ và trên mỗi bàn thờ có một cái dĩa nhỏ và hai đồng tiền để "xin keo". Khi xin keo, người ta xin một câu - gọi là "khấn" một câu - rồi gieo hai đồng tiền vào dĩa như thảy cục xí ngầu, xin một đồng úp một đồng ngữa thì xem như người khuất mặt chấp thuận, hay trả lời là "đúng", còn ngược lại thì xem như là "không".
                    Mỗi lần có bánh kẹo ngon lành bày lên trên bàn thờ là tôi chạy vào "xin keo" riết cho đến khi có đồng úp đồng ngữa, thế là lượm bánh kẹo chạy ra ăn. Tuy không đến nỗi ranh mãnh như Trạnh Quỳnh trong "tiền múa chúa mừng", nhưng cũng có lần bị bắt quả tang và ăn một trận đòn đích đáng.
                    Sống trong một cõi nửa âm nửa dương như thế nhưng như đa số trẻ con vô tư khác không bao giờ tôi suy nghĩ nhiều về chuyện ma quái. Cho đến một tối sau tết Mậu Thân thì thế giới hồn nhiên đó bị thay đổi ít nhiều.
                    Tết Mậu Thân! Tết năm 1968, đến nay đã bốn mươi năm mà nhắc đến trong lòng tôi còn rất nhiều cảm giác đau thương mà một thành phố đầy tang tóc để lại trong tâm hồn của một đứa trẻ lên năm. Nhà ngoại tôi bị Mỹ dội bom tan tành khi tái chiếm thành phố, nhưng may mắn thay không ai mất mạng. Khi loạn lạc dữ dội cả nhà tạm lánh ra nhà một người quen phía bên Hồ Tịnh Tâm. Hồ Tịnh Tâm là nơi Trần Cao Vân giả dạng đi câu để gặp vua Duy Tân bàn việc nước. Sau này nhà dân xây ra sát gần đó, nên mấy ngày tản cư tôi có dịp thấy cảnh hồ, khá đẹp.
                    Sau tết, khi Huế yên ổn, cả nhà về lại căn nhà cũ. Trong sân còn xác vài ba người chết vội vàng không kịp chôn cất. Trong sân phía sau có một ụn đất trong khi lộn xộn không ai để ý đến. Vài tháng sau con chó trong nhà đào đất móc lên một khúc xương chân còn dính dép trông thật kinh hồn.
                    Những ngày đầu tiên về nhà thật thê lương. Mái nhà bị sập không còn miếng ngói, phải lợp tạm mái tôn che mưa nắng. Điện cúp liên tục cả tháng, nhưng lúc đó không có truyền hình, Internet nên không thấy thiếu thốn nhiều. Cả nhà tối đến quây quần chung quanh bàn ăn và chiếc đèn Huê Kỳ duy nhất để nói chuyện. Cứ một hai hôm một lần khi nhàm chán cả nhà lại rủ nhau chơi cầu cơ.
                    Cầu cơ là một chuyện lạ lùng mà chỉ ở xứ Huế trong không khí thời đó người ta mới có thể nói "chơi cầu cơ" một cách tỉnh táo như là chơi cá ngựa, chơi cờ tướng. Hứng lên là chơi cầu cơ, và bàn cơ đôi khi được làm sơ sài từ phía sau của tấm lịch treo tường. "Con cơ" là miếng giấy xếp lại thành hình tam giác. Lúc đó còn nhỏ nên tôi không nhớ rõ hình thức của bàn cơ. Đại khái chỉ nhớ từ 24 đến 36 mẫu tự chính, 10 con số từ 0 đến 9, 2 chữ "đúng", "sai" và phía trên là mấy chữ đại khái như "Phật, Tiên , Thần, Thánh, Quỷ, Ma, Yêu, Tinh". Sau này khi coi phim "The Exorcist"  của Mỹ, tôi mới biết bàn cầu cơ của mình xuất phát từ "Ouija Board" bên Tây phương nhưng qua tới xứ mình thì được Việt hóa khá nhiều.
                    Một buổi tối trong thời gian sau tết Mậu Thân này cả nhà lại rủ nhau "chơi" cầu cơ. Huế đang tang thương, đất còn đẫm máu đỏ, hễ cầu cơ là cơ lên liền. Cả nhà say sưa theo dõi con cơ, hỏi thăm về tương lai đất nước hay số phận những người chưa liên lạc được, thì tôi mắc tiểu muốn rủ ai đi chung cho bớt sợ nên phán một câu lãng xẹt là "hỏi cơ coi có ai mắc tiểu thì đi chung". Bị ăn liền một bợp tai tủi quá tôi lủi thủi, quên sợ, quên mắc tiểu rút vào trong phòng nằm một mình.
                    Giường tôi ngủ lại ở góc sau của phòng ngủ, nhìn ra cửa sổ nơi có câu trứng gà. Bình thường ở đây tôi ngủ chung với ông cậu, nhưng lúc đó ông cậu còn ngồi hầu cơ ở ngoài. Tôi nằm trên giường vừa khóc thút thít vừa nhìn ra màn đêm đen kín ở ngoài. Bỗng đâu thấy rõ một bóng người đứng ngay trên cửa sổ nhìn vào, tôi sợ hãi kinh hoàng nhưng lạ thay không nhắm mắt lại nổi. Trước mắt bóng người đó bay qua cửa sổ vào phòng. Cửa có song sắt thì người thường không thể chui qua được nhưng cái bóng mờ này bay xuyên qua tự nhiên như một làn khói.
                    Làm sao có thể thấy được một bóng đen trong bóng tối? Ánh đèn dầu leo lét từ phòng khách không chiếu nổi vào trong phòng ngủ. Tôi không hiểu rõ. Chỉ nhớ rằng trong khoảnh khắc của thế giới siêu nhiên tôi nhận ra hình dáng của một thiếu nữ đang bồng một em bé. Thiếu nữ này tiến gần và nhìn sát vào mặt tôi. Đôi mắt buồn vời vợi và sâu thăm thẳm chiếu thật sâu vào trong lòng tôi. Khi cô ta âm thầm ngồi xuống một góc giường thì lúc đó tôi mới có đủ sức để nhắm mắt lại.
                    Lạ thay khi nhắm mắt lại thì tôi dường như càng thấy rõ trong tâm thức mình hình dáng của người xa lạ này. Có thể sau đó tôi ngủ thiếp đi và nằm mơ thấy, có thể khi nhắm mắt chặt lại thì thần thức cho mình thấy rõ hình dáng của người muốn nói chuyện với mình. Không hiểu vì sao đêm đó tôi biết rõ một câu chuyện, câu chuyện như một khúc phim mà đầu óc non nớt lên năm tôi không hiểu nổi.
                    ...
                    Sau tết Mậu Thân tôi cùng cha mẹ lên sống ở Pleiku. Được vài năm cả gia đình tôi dọn về Sài Gòn. Ra đi và mang trong lòng một niềm đau khôn tả. Quê hương từ đây rồi sẽ cách xa...
                    Nhưng quê hương không cách biệt quá lâu; cuộc sống gia đình tôi dần dần ổn định, lúc đó tôi đã học ra trường đi làm, lấy vợ, tôi rủ vợ về Huế thăm nhà.
                    Vợ tôi là người Nam gốc Bắc, nên hai vợ chồng rủ nhau đi một chuyến từ Sài Gòn đi máy bay ra Hà Nội, rồi từ Hà Nội lại đi bằng tàu hỏa vào Huế để thăm đủ bà con hai bên.
                    Tháng 7, trời Hà Nội nóng kinh hồn. Lâu ngày trong người không quen phong thổ ngoài ấy nên khi rời Hà Nội vào Huế tôi bắt đầu nhuốm bệnh, và khi đến Huế thì tôi lên cơn sốt nặng.
                    Nằm ở Huế mùa hè năm đó và tình cờ nằm lại trên cái giường trong góc phòng ngày xưa, tuy bệnh nhưng tôi cảm thấy hạnh phúc khi có dịp trở lại trong quê hương, ngay chỗ chôn nhau cắt rốn ngày nào. Một đêm, trong cơn sốt kinh hoàng tôi cảm thấy có người ngồi bên cạnh đưa tay sờ đầu hỏi thăm. Lạ, cả nhà đang ăn tối ngoài kia và không có tiếng mở cửa. Rồi, trong đầu tôi như quay lại khúc phim tôi coi lần đầu năm 1968.
                    ...
                    Trong giấc mơ tôi thấy khu đất nhà ông bà tôi xưa kia của một gia đình khá giả. Cô con gái trong nhà cùng một anh chàng trai trẻ - không thấy rõ là một anh lính trong nhà quan, hay một anh gia nhân trong nhà giàu - yêu nhau. Ông cha ác độc đánh chết chàng trai, ném xuống giếng. Không ai biết cô con gái đã mang thai. Cô ta treo cổ trên cây trứng gà mang theo niềm tâm sự u uẩn này.
                    Lý do nào đã khiến oan hồn này chia xẻ câu chuyện đau lòng từ khi tôi còn thơ dại? Mấy ngày sau tôi bớt bệnh và tỉnh táo hơn để nghĩ lại câu chuyện này. Có thể tôi đã bị ảnh hưởng của bao nhiêu câu chuyện tiểu thuyết. Câu chuyện trong mơ kể lại như "Lá ngọc cành vàng" quá không?
                    Dù sao đi nữa tôi cũng không mang trong lòng một mình câu chuyện này mãi. Đem câu chuyện này kể lại cho bà tôi thì bà tôi đồng ý rằng từ trẻ bà đã thấy hai bóng ma trên cây trứng gà. Bà không biết đó là hai mẹ con và oan hồn người con không ai biết đến để đọc cho một bài kinh. Biết rõ chuyện bà đặt bàn thờ cúng cho cả ba oan hồn và nhờ thầy đọc kinh cầu siêu cho oan hồn chưa một lần mở mắt chào đời.
                    Chuyến đi về thăm quê năm đó mang lại một cơ duyên làm thay đổi cuộc đời tôi khá nhiều. Sau đó tôi được một công việc đòi hỏi phải đi lại giữa Nam – Trung - Bắc thường xuyên. Mỗi lần về Huế, tôi lại ghé ngang quê cũ, và lần nào tôi cũng ra vườn ghé ngang cây trứng gà.
                    Một ngày mùa hè, tôi chợt hiểu ra là oan hồn bà mẹ dù biết rõ số phận sinh tử của mình nhưng không rời được gốc cây oan nghiệt này vì oan hồn người con không hiểu được mình chưa sống nhưng đã chết vì vậy nên không ra khỏi được cõi ta bà giữa những kiếp tái sinh.
                    Có thể là những bài kinh cầu siêu, có thể tâm hồn của những người xót thương và thông cảm đã làm cho người con yên tâm bỏ đi những tiếc nuối không tên và lên đường. Tại sao tôi biết được họ đã ra đi? Chắc không bao giờ tôi biết rõ, nhưng có cái gì đó cho tôi linh cảm như vậy.
                    Hết
                    Nguyễn Thị Mộng Thu
                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:49:56 bởi nguyenthu >
                    #40
                      nguyenthu 10.08.2009 21:18:40 (permalink)
                      NGÔI NHÀ HOANG
                       
                      Cách đây sáu năm, vì công việc làm ăn gia đình tôi phải rời bỏ thành phố Sài Gòn để dọn về một tỉnh miền Trung.
                      Vì việc chuyển đổi đó mà vợ tôi đã phải bỏ luôn nghề làm tiếp thị mà từ lâu nay nàng vốn không ham thích gì mấy.
                      Chỗ ở mới không có thân nhân, lạ nước lạ cái. Vợ tô sẽ ở nhà trông con, hai đứa con trai, đứa lên ba, đứa lên hai đều nằm trong độ tuổi cần người chăm sóc thường xuyên.
                      Đồng lương kỹ sư điện ở mà phải nuôi cả gia đình bốn nhân khẩu, cho nên chúng tôi mướn một căn nhà nhỏ cách sở làm chừng mười lăm phút đi xe gắn máy.
                      Tôi làm việc cho một công ty nước ngoài, lương bỗng tuy khá cao nhưng thời gian lại vô cùng chặt chẽ. Chính phòng nhân sự giới thiệu tôi đến mướn căn nhà đó. Cạnh sát nhà có trường tiểu học và nhà trẻ rất thuận tiện cho gia đình chúng tôi.
                      Sáng sáng vợ tôi ẵm đứa nhỏ đưa đứa lớn qua trường học. Sau đấy, cô ấy về nhà, vừa chăm nom đứa nhỏ vừa nấu nướng và làm tất cả những công việc trong nhà, không để tôi phải mó tay vào.
                      Như đã nói, vì nhà không xa sở làm nên tôi tà tà chờ đến bảy giờ mới chạy xe vào sở. Vào đó, ghé qua căn – tin uống  ly cà phê bàn chuyện thời sự với bạn bè chút xíu rồi bắt tay vào việc cũng còn kịp giờ.
                      Tôi gặp Lan Anh vợ tôi trong thời gian hai đứa cùng đi học ở Đại học ở Sài Gòn. Tôi là dân miền Tây Nam bộ, Lan Anh lại là Bắc Kỳ chính cống. Khi tôi học năm thứ ba Đại học thì Lan Anh mới vào năm thứ nhất. Lúc đó nàng vừa tròn mười tám tuổi, còn tôi thì đã hai mươi bảy. Cách nhau tròm trèm chín tuổi và cả đại dương về phong tục, tính cách, nhưng chắc do duyên số nên yêu nhau và khi nàng xong cử nhân Kế Toán thì chúng tôi lập gia đình.
                      Ra trường, chúng tôi nhất quyết không chịu về quê mà cố sống cố chết bám lại thành phố.
                      Nhờ có chút vốn liếng ngoại ngữ Anh và Pháp nên tôi cũng không mấy khó khăn trong khi tìm việc.
                      Công việc dần dần ổn định, nhưng rồi do yêu cầu công tác và nhiều lý do khó nói khác, chúng tôi phải chuyển về một chi nhánh ở miền Trung. Ở đây, tuy có buồn hơn vì ít bạn bè thân thuộc, nhưng nói chung cuộc sống cũng tạm ổn.
                      Chuyện dài dòng hơi lạc đề nhưng không ngoài mục đích để diễn tả cuộc sống của vợ chồng chúng tôi suốt mấy năm đầu ở nơi ở mới: bình yên, thầm lặng và không dám mong muốn gì hơn.
                      Sau một năm làm việc tôi được lên chức. Tiền bạc chưa nhiều nhưng vì lúc đó nhà ở các quận vùng ven còn rẻ như bèo nên tôi cứ băn khoăn muốn mua một căn nhà cho ổn định cuộc sống. Khu tôi đang ở là khu khá giả, không dễ gì mà mua được một căn trông cho được mắt. Vợ tôi thì nhất định không chịu dọn vì hai đứa con.
                      Tôi có vấn đề với hai thằng con. Thằng Đức - con đầu - không xuất sắc lắm nhưng bù lại cần cù và chăm chỉ nên học hành qua ngày. Thằng Thịnh - đứa sau - thuộc loại đặc biệt là phá phách thầy chạy và không khi nào ngồi yên một chỗ. Không phải là phá phách như những đứa con nít bình thường khác, mà phá sao cho tan nhà tan xóm. Vì tương lai của con, chúng tôi phải gửi thằng Thịnh vào học ở một ngôi trường cao cấp.
                      Nhà trường mời chuyên gia tâm lý vào làm việc, và sau khi bị phán là thần kinh bất thường, nó được vào chương trình giáo dục đặc biết và từ đó ít vấn đề hơn.
                      Như vậy nói rõ ra vì thằng Thịnh mà sự bình yên của chúng tôi như một sự chịu đựng thầm lặng.
                      Lan Anh không còn ý hướng nào muốn đi làm trở lại như đã tính từ trước. Nàng trở nên ít nói và mọi hy vọng đều bám vào chương trình dạy dỗ đặc biệt mà thằng Thịnh đang theo.
                      Một năm trôi qua rồi năm năm. Thằng Đức lên tám, vào lớp ba. Thằng Thịnh theo thầy giáo chuyên trị loại khó dạy lên đến lớp hai. Gia đình ai mà không có nổi khổ riêng. Gia đình tôi không nằm vào ngoại lệ. Nhưng vì không ngừng lo lắng cho thằng Thịnh, cuộc sống gia đình tụi tôi khép kín vào riêng tư, không giao tiếp với ai ngoài giờ đi làm việc.
                      Như vậy thì tưởng tượng sự ngạc nhiên của tôi chiều hôm đó khi nhận được cú điện thoại của anh Thành.
                      Anh Thành lớn hơn tôi năm tuổi, là một người bạn thân thiết trong thời gian tôi ở vùng kinh tế mới.
                      Anh Thành vốn là người quen cũ trong gia đình tôi trước khi tôi gặp và chơi thân với anh ở vùng đất mới ấy. Ngày gia đình tôi chân ướt chân ráo đi khai hoang lập nghiệp, gặp anh như gặp một vị cứu tinh.
                      Anh đưa chúng tôi về căn nhà ọp ẹp của anh ở, sau đó anh dẫn chúng tôi vào rừng đốn cây gỗ và các loại lá rừng về cất lên một chỗ rộng rãi hơn cho cả nhà.
                      Anh Thành đi kinh tế mới cùng với một người em trai là Công. Công lớn hơn tôi chỉ chừng ba tuổi, tức là gần tuổi tôi hơn anh Thành, nhưng tôi lại thích đi chơi với anh Thành hơn Công.
                      Cùng khu nhà mới của tôi có một cô bé xinh xắn tên là Hằng. Anh Thành có vẻ thích Hằng từ ngày đầu, và hay kéo tôi đi qua nhà Hằng để nói chuyện.
                      Tôi biết Hằng từ lúc hai đứa còn ngồi chung trên chuyến xe đưa dân lên đây. Như đã nói, Hằng rất xinh, nhưng cô bé có vẻ dễ dãi và thích đi chơi với nhiều đứa con trai khác nhau nên tôi không thấy gần gũi lắm.
                      Khi anh Thành tỏ ý muốn tán tỉnh Hằng tôi có nói vài câu khuyên can, nhưng cuối cùng không cản được sự đam mê mãnh liệt của anh ta.
                      Sau đó Hằng lại hay qua chơi chỗ tụi tôi, và anh Thành vui vẻ ra mặt. Khi nào cũng ba chân bốn cẳng săn sóc cho cô nàng.
                      Một buổi tối không thấy Hằng đâu, tôi và anh Công ra bìa rừng chơi. Ngồi một chút anh nóng lòng muốn về nhà. Khi đi ngang một tảng đá kia chợt thấy một cặp thanh niên thiếu nữ ôm nhau quằn quại dưới ánh trăng. Nhìn kỹ chúng tôi thấy ra đó là Hằng và Công.
                      Anh Thành không nói gì, im lặng đi một mạch về nhà và từ đó anh không nhắc gì đến Hằng nữa.
                      Một năm trời trôi qua lẹ làng trên vùng đất mới. Đầu năm 1979 anh Thành trở về Sài Gòn cùng Hằng và Công. Công lấy Hằng ngay khi về tới thành phố.
                      Nhờ ba anh Thành còn ở lại nhà nên anh Thành và Công ổn định cuộc sống tương đối dễ dàng.
                      Sau đó không lâu, tôi cũng trở về quê cũ, cuộc sống vất vả thiếu thốn đã khiến cho chúng tôi không còn giữ được mối dây liên lạc với nhau. Đã có lúc tôi tưởng, mãi mãi chúng tôi sẽ không còn dịp để gặp lại nhau thêm một lần nào nữa.
                      Hôm nay nghe giọng anh Thành sau hơn mười hai năm mà tôi nổi da gà. Giọng anh giống hệt như ngày nào hai anh em còn ở vùng kinh tế mới. Tôi còn nghe như có tiếng lá rừng lay động ở đằng sau.
                      - Tứng hả?
                      Tôi tên Tuấn, nói theo giọng dân Nam bộ nghe như Tứng nên anh cứ gọi tôi là Tứng.
                      - Anh Thành!
                      Tôi reo lên.
                      Tôi nhận ngay ra giọng anh. Hai anh em nói chuyện liên tục suốt hai tiếng đồng hồ. Qua câu chuyện tôi biết anh vẫn đang sống ở Sài Gòn, anh đã cố công học tập lấy được tấm bằng ngoại ngữ và hiện đang làm một giáo viên dạy ngoại ngữ của một trung tâm trong thành phố. Cách đây hai tháng anh tình cờ xem ti vi, thoáng nhìn thấy tôi trong một cuộc hội thảo. Anh đã cố công lần mò ra công ty tôi đang làm việc, và từ đó phăng ra mà tìm được ra số điện thoại của tôi.
                      Câu chuyện tự nhiên ngừng lại, và tôi hỏi một câu bâng quơ:
                      - Bây giờ Công - Hằng ra sao rồi anh?
                      Bên kia đầu máy im đi một tí, rồi anh dần dà kể tôi nghe đủ mọi chuyện. Về Sài Gòn Công đi học ba năm lấy được bằng Đại học. Hằng đi học Anh Văn thêm nhưng không vào nổi đại học nên ra đứng bán ở mấy tiệm tạp hoá lớn.
                      Cách đây nửa năm, Công nghỉ việc ở nhà, lương tháng của Hằng không thể nuôi nổi hai miệng ăn giữa đất Sài Gòn cái gì cũng đắt đỏ.
                      Thế là Công đăng báo tìm việc. Tìm mãi mới ra việc làm nhưng ở tận miền Trung, ban đầu vợ chồng Công – Hằng cũng phân vân dữ lắm, nhưng rồi hai người nghĩ  hiện thời chưa có con cái gì, cũng nên phiêu lưu một chuyến. Thế là hai vợ chồng dọn ra đó.
                      - Em ở miền Trung nè!
                      Tôi reo lên, trong đầu chợt nhớ lại hình ảnh Công và Hằng đêm năm nào ở bìa rừng trên vùng kinh tế mới hoang vu.
                      - Anh biết!
                      Anh Thành bảo.
                      - Thằng Công nó ra đó nhưng không cho ai biết số phone. Anh phải ra tận nơi để báo nó biết tin ông già anh mới chết ở Cần Thơ.
                      Anh Thành buồn bã nói thêm.
                      Tôi bùi ngùi chia buồn với anh Thành. Hai anh em trao đổi thêm địa chỉ, số phone cầm tay, rồi hẹn ngày gặp lại.
                      Lan Anh vợ tôi từ ngày có thằng Thịnh trở nên ít nói, và tôi cũng không màng gợi chuyện. Từ lâu vợ tôi nằm ngủ trong phòng hai thằng con trai, nằm với thằng Thịnh. Còn tôi thì đêm nào cũng nằm ngoài phòng khách coi truyền hình rồi ngủ thiếp đến sáng.
                      Tôi ít khi nào gọi điện thoại cho ai. Di động thì hầu như hoàn toàn cho trong sở gọi hỏi chuyện kỹ thuật mỗi tối. Cha mẹ tôi thì vài tháng tôi mới gọi một lần, ậm ừ vài câu cho có lệ.
                      Hôm nay thấy tôi nói chuyện trên điện thoại thật lâu và vui vẻ, vợ tôi ra nhìn vài lần hơi thắc mắc. Nói chuyện xong tôi kể chuyện cũ cho vợ tôi nghe. Lan Anh có vẻ vui vui, nhưng không bàn tán gì thêm.
                      Một thoáng vui vừa xảy ra thì ngay hôm sau có ngay mấy chuyện bực mình. Thằng Thịnh lén mang con dao vào trường tính đâm ai đó thì bị bắt gặp. Hiệu trưởng kêu cả hai vợ chồng vào nói chuyện và bắt thằng Thịnh nghỉ ở nhà hai tuần.
                      Về đến nhà sẵn bực mình vì phải bỏ việc chạy về tôi bợp tai cho thằng con một cái thật mạnh. Thằng con đã bảy tuổi nhưng chưa nói sõi rống lên như một con heo.
                      Lan Anh nhảy vào can bị thêm một bợp. Lấy vợ lúc đó đã mười năm tôi chưa bao giờ vũ phu như thế.
                      Ngọn lửa trong lòng tự nhiên bị dập tắt khi thấy vợ ôm con nằm khóc dưới đất. Tôi nhìn vào bàn tay thô lỗ của mình và cảm thấy mình rõ ràng là một con vật sống trong một cuộc đời khốn nạn. Chán nản tôi bỏ vào công ty, nhưng nửa đường tôi lại ghé ngang một quán rượu ngồi uống vài ly bia.
                      Tôi không biết uống rượu nhưng từ lâu vẫn uống bia rất nhiều. Nhiều khi tan sở xong không muốn về nhà tôi ghé ngang mấy quán bình dân uống tà tà đến chín, mười giờ mới về đến nhà.
                      Có hôm chạy xe lang thang dọc bờ biển mấy vòng mà không biết phải làm gì, phải đi đâu cho tinh thần thoải mái.
                      Ở một quán bia bình dân nằm ven bờ biển, tôi quen một cô tiếp viên có cái tên rất sến là Lệ Thu.
                      Lệ Thu vừa già vừa tiều tụy, nhưng trong cơn sốt của nhục dục và ánh đèn mù mờ cái gì trông cũng được.
                      Có một thời gian tôi và Lệ Thu thỉnh thoảng vẫn gặp nhau gặp nhau ở một nhà trọ rẻ tiền gần ngay chỗ Lệ Thu làm. Sau này Lệ Thu biến mất và không ai biết bà ta đi đâu.
                      Những người làm việc chung chỉ nói là một ngày kia Lệ Thu không đi làm, chủ quán gọi điện đến nhà không ai trả lời. Hai hôm sau một cô gái khác vào làm việc và mọi người quên mất Lệ Thu là ai.
                      Tôi không yêu Lệ Thu. Bà ta như căn phòng khách sạn hôi hám và tối đen tôi ghé ngang rồi cất giấu trong lòng như chưa từng ghé đến.
                      Mỗi lần gặp nhau tôi quăng lại trên giường ít tiền rồi ra xe về. Phòng tắm ở đó vừa hôi vừa ẩm thấp nên tôi không buồn rửa mình trước khi đi. Về nhà người ngợm vừa hôi mùi bia thuốc lá và nhục dục, nhưng Lan Anh sau khi cằn nhằn vài lần cũng không thèm hỏi han gì.
                      Chuyện ẩu đả với Lan Anh chiều nay làm tôi thoáng hối hận. Câu chuyện đêm qua với anh Thành đánh thức lại lương tâm của tôi ngày còn trai trẻ, ngày còn muốn yêu đời và yêu người.
                      Từ lâu tôi cảm thấy như bị cầm tù trong cuộc sống mình và người cai ngục chính là vợ con.
                      Bây giờ soi chiếu lại tôi thấy chỉ vì không yêu được chính mình tôi không cho vợ con tôi tình thương của chồng và cha.
                      Điện thoại cầm tay reng lên một tiếng, số máy bàn ở nhà hiện ra, tôi buồn tình đưa tay cúp máy. Chuông lại kêu, nhưng tôi không thèm trả lời. Cầm cái điện thoại lạnh tanh trong tay, tôi hơi hối hận và ra lấy xe để về nhà. Bên ngoài trời đã tối từ lúc nào.

                      Mùa Đông ở miền Trung lạnh hơn ở Sài Gòn rất nhiều. Ra khỏi quán rượu, một cơn gió lạnh làm tôi tỉnh táo. Về đến nhà sương đã đẫm ướt bờ cỏ hai bên lối đi. Tôi hơi ngạc nhiên khi thấy đèn trong nhà bật sáng.
                      Bình thường Lan Anh chỉ để một ngọn đèn trong bếp nơi nàng nấu ăn và cho hai thằng con học bài. Thói quen này có từ ngày tôi cằn nhằn tiền điện cao quá. Nhưng hôm nay cả đèn trước thềm và trong phòng khách đều bật sáng trưng.
                      Vào đến nhà tôi ngạc nhiên khi thấy anh Thành đang ngồi chơi với hai thằng con.
                      Anh la lên:
                      - Tứng! Đi đâu mà anh và vợ em gọi không thấy?
                      Tôi bẽn lẽn nhìn vợ tôi, muốn nói một câu xin lỗi nhưng tôi vốn chưa bao giờ xin lỗi nên hai chữ nhỏ xíu này nghẹn ngay cuống họng.
                      Lan Anh ấp úng mời anh Thành và tôi ra bàn ăn để ăn cơm tối. Hai thằng Đức và Thịnh đã ngồi sẵn chờ đợi. Đúng ra chỉ có thằng Đức là đợi còn thằng Thịnh hễ thấy đồ ăn thì nó ăn ngay.
                      Lâu lắm mới thấy vợ tôi nói chuyện vui vẻ như thế. Nhìn ánh mắt long lanh hứng khởi, tôi thấy lại cô gái mà tôi đã yêu một thời nào.
                      Tôi hơi xót xa và ân hận vì bấy lâu nay coi nàng như một cái bóng đáng ghét bên mình.
                      Sẵn vui câu chuyện tôi đề nghị cả nhà theo anh Thành đi tìm Công và Hằng. Tôi không thích Công, và càng không muốn gặp Hằng, nhưng muốn vợ tôi có dịp nói chuyện tiếp với anh Thành cho vui.
                      Anh Thành thì đương nhiên là hoan nghênh ý kiến của tôi, nhưng Lan Anh thì tròn xoe mắt nhìn tôi:
                      - Con mình còn phải đi học mà anh?
                      Tôi khoác tay rất rộng rãi:
                      - Mới lớp ba nhằm nhò gì, cho nghỉ vài ngày đi chơi luôn đi!
                      Thằng Đức đến lúc đó mới hiểu kịp, la to lên rất vui vẻ, còn thằng Thịnh thì chắc không hiểu gì nhưng vỗ tay theo anh nó.
                      Sáng hôm sau tôi dậy sớm để gọi điện thoại vào công ty xin mấy ngày phép, và gọi đến trường xin cho thằng Đức nghỉ học, rồi cả nhà lên chiếc xe bảy chỗ của anh Thành.
                      - Chiếc xe này tôi mượn của một người bạn.
                      Anh Thành cười cười giải thích khi thấy vợ chồng tôi trầm trồ khen ngợi chiếc xe sang trọng.
                      Tôi và anh Thành coi lại địa chỉ để tìm đường. Công tuy nói chung là ở cùng tỉnh với tôi, nhưng thực là ở một huyện nhỏ cách chỗ tôi khoảng chừng một trăm cây số về hướng Đông Nam.
                      Không có xa lộ lớn dẫn từ trung tâm tỉnh lỵ xuống huyện Công ở nên phải cho xe chạy qua các lộ nhỏ, có đoạn chạy xuyên qua một vùng rừng núi hoang vu mới có thể xuống tới đó.
                      Anh Thành là người khéo nói chuyện nhưng Lan Anh ngồi ở băng sau không tiện góp chuyện.
                      Ra khỏi tỉnh lỵ,  tôi viện cớ buồn ngủ đòi ra băng sau nằm, nhờ Lan Anh ra trước nói chuyện cho anh Thành tỉnh ngủ để lái tiếp.
                      Thái độ vợ tôi có vẻ lúng túng, rồi cuối cùng chịu lên ngồi. Tôi nằm sau giả bộ nhắm mắt để nghe lén, nhưng câu chuyện chỉ quanh quẩn từ thằng Đức đến thằng Thịnh nên tôi ngủ thiếp đi lúc nào không hay.
                      Trong giấc ngủ chập chờn tôi mơ thấy mình trở lại vùng kinh tế mới và đứng sau bụi rậm nhìn Công và Hằng say đắm lăn lộn dưới ánh trăng. Mặt trăng lên cao và Hằng cởi chiếc áo thun mỏng dính trên người ra. Nhìn kỹ tôi thấy người con gái đó không phải là Hằng mà chính là vợ tôi, và người con trai chính là anh Thành.
                      Máu ghen nổi lên tôi chạy ra nhưng khi đến nơi thì thấy tôi và Lệ Thu trong tư thế cực lạc.
                      Sự ghen tuông và hổ thẹn dồn nén trong bụng, tôi giật mình toát mồ hôi tỉnh dậy thì nghe anh Thành nói khẽ:
                      - Tới rồi!
                      Xe lăn bánh từ từ vào một con đường nhỏ, ở đầu đường thấp thoáng tấm bảng đề “Làng cổ Vinh Phong”
                      Vinh Phong là một làng cổ nhỏ nằm gọn giữa hai rặng núi trong dãy Trường Sơn hùng vĩ. Mới gần mười một giờ sáng nhưng vì thời tiết mùa đông nên sương mờ giăng đầy dưới những đám mây đen mù, làm ở nơi đây vừa đẹp não nùng vừa đen tối bí ẩn.
                      Vì sương mờ quá dầy nên anh Thành đi từ từ cẩn thận. Phía dưới đất nằm sạp một tấm biển đá với dòng chữ "Bệnh viện tâm thần”
                      Bất giác tôi vội nhìn sang thằng Thịnh, lúc này khuôn mặt nó vừa hãi kinh vừa mừng rỡ như người quen lâu năm trở lại nhà. Trên băng trước vợ tôi gục đầu vào cửa sổ ngủ tự hồi nào, và thằng Đứccũng ngủ say.
                      Cuối cùng xe dừng lại trước một tòa biệt thự khổng lồ. Tòa nhà có vẻ bỏ hoang từ lâu, và đang có dấu hiệu sắp được sửa sang trở lại. Gạch đỏ rêu phong phủ kín hai tháp cao.
                      Anh Thành không để ý là tôi đã thức dậy, mở cửa xe đóng nhẹ lại và đi vào phía trong. Một lúc lâu sau anh trở ra nét mặt có vẻ thất vọng.
                      Anh ra xe tôi chào anh, rồi đề nghị anh lái xe một vòng ra sau tìm Công. Khu đất quá rộng, và con đường quanh co qua nhiều tòa nhà bỏ hoang. Cuối cùng chúng tôi tìm thấy Công đang đứng trước một ngôi nhà tuy to nhưng không bằng một góc toà nhà lúc đầu.
                      Anh Thành mừng rỡ bóp còi, và Công vẫy vẫy tay chào nét mặt ngạc nhiên không biết ai là ai.
                      Chút xíu sau tôi thấy Hằng xuất hiện ở cửa.
                      - Hằng kìa!
                      Tôi reo lên.
                      Anh Thành nhìn ngơ ngác ra ngoài .
                      Lan Anh và thằng Đức nghe ồn giật mình thức dậy. Vợ tôi tò mò nhìn ra ngoài, không nói gì.
                      Anh Thành đậu xe lại, chạy ra gấp gáp nói câu gì chắc là báo tin cha chết nên hai anh em ôm nhau khóc.
                      Hằng chưa hiểu chuyện gì ái ngại đứng bên cạnh chưa biết khách nào đến nhà và nên chào hỏi ra sao.
                      Bước xuống xe tôi có dịp nhìn nàng kỹ hơn. Hơn mười hai năm từ ngày cuối gặp nhau, Hằng phát triển đầy đặn ra thành một người đàn bà khá quyến rũ.
                      Tôi lắc lắc đầu xua đi hình ảnh hồi nãy trong giấc mơ. Lúc này thì anh Thành đã ngừng khóc, xoay ra giới thiệu gia đình tôi:
                      - Tứng hồi ở kinh tế mới đó, em nhớ không?
                      Lúc này thì sự thắc mắc nãy giờ của Hằng mới được giải toả, nàng cười tươi:
                      - Trời, anh Tuấn bây giờ đẹp trai quá em nhận không ra. Chào chị, mấy cháu đây hả chị?
                      Vợ tôi cười nhè nhẹ rồi xoay qua nắm tay thằng Thịnh. Thằng Thịnh cứ oé oé đòi đi về hướng tòa nhà cao trên đỉnh đồi hồi nãy. Thằng Đức còn ngái ngủ đứng ngơ ngơ nhìn chung quanh.
                      Công, mắt còn đỏ hoe, đang phụ với anh Thành khiêng hành lý vào nhà. Chúng tôi dự tính đi theo anh Thành chỉ có vài ngày cho anh có bạn, nhưng mang theo khá nhiều màng chiếu vì nghĩ rằng nhà Công Hằng không đủ giường chiếu cho nhiều khách đến.
                      Dù chuẩn bị khá kỹ lưỡng nhưng tôi không khỏi ngán ngẫm khi bước vào nhà Công.
                      Chỗ Công ở nằm trong dãy nhà một tầng nằm phía sau tòa nhà hai tầng nơi Công giải thích vốn là khu chữa bệnh lao cho các bệnh nhân tâm thần ngày trước ở trên đồi.
                      Thấy tôi ái ngại nhìn ra khu nghĩa trang ngay sát trước cửa, Công giải thích:
                      - Ngày xưa mà bệnh lao thì chỉ có nước chết. Mang từ trong này ra vùi ngoài đó cho khoẻ.
                      Vào nhà, không khí ẩm thấp làm cho tôi muốn buồn nôn. Rõ ràng chỗ này đã bị bỏ hoang từ nhiều năm, và Công chỉ thu vén một góc phòng để ở.
                      Có khách đến Công mang búa ra nạy mở mấy tấm ván phòng bên cạnh để có thêm phòng cho chúng tôi ngủ lại. Trong phòng có sẵn hai cái giường đơn chắc là giường bệnh ngày trước. May sao hai tấm nệm trông còn dùng được.
                      Chúng tôi xếp hành lý vào một góc. Lan Anh vẫn còn giằng kéo với thằng Thịnh nãy giờ la khóc như heo bị thọc huyết. Một cảm giác buồn cười là vì thằng Thịnh nãy giờ làm ồn mà không khí ở đây bớt ngột ngạt khó chịu.
                      Nhà Công Hằng chỉ có ít đồ ăn vặt, nhưng nhờ vợ tôi mang sẵn ít bánh mì sandwich và mấy thứ thịt nguội để ăn trưa. Thằng Thịnh bị dộng thuốc ngủ nằm ngủ say như chết trên giường, nhưng tiếng ngáy của nó cũng to như tiếng nó rống.
                      Anh Thành lấy bình thủy cà phê ra rót cho mỗi người một ly nhỏ. Thằng Đức vừa ăn bánh mì vừa hút sữa tươi trong hộp của nó.
                      Lan Anh mệt mỏi sau khi quần thảo với thằng Thịnh cả tiếng nên không ăn, chỉ âm thầm ngồi uống cà phê trên đầu giường chỗ thằng Thịnh nằm.
                      Tôi để ý thấy Công và Hằng luôn luôn vui miệng nói chuyện với mọi người nhưng không hề nói chuyện với nhau hay thậm chí nhìn nhau một cái.
                      Ăn xong anh Thành rủ Công đi chợ mua đồ ăn chiều chắc để nói chuyện riêng trong gia đình.
                      Thằng Đức leo lên góc giường kia ngủ từ hồi nào. Còn Lan Anh đã xoay qua nằm vừa ôm thằng Thịnh vừa ngủ.
                      Tôi mượn Hằng cái máy hát nhỏ từ phòng Hằng qua để cho vợ con tôi ngủ. Riêng tôi thì đã đánh một giấc trên xe nên không buồn ngủ mấy. Tiếng nhạc êm êm. Không khí im lặng, chỉ còn tôi và Hằng trong phòng.
                      Nãy giờ một điều hơi làm tôi ái ngại là vợ tôi và ngay cả anh Thành đều tỏ thái độ khá lạnh nhạt, không đếm xỉa gì đến Hằng.
                      Tôi nghĩ anh Thành sau bao nhiêu năm nay vẫn chưa qua khỏi mối thất tình trên vùng đất mới, còn vợ tôi thì chắc vì linh tính đàn bà không muốn thân thiện với Hằng.
                      Trong phòng bây giờ chỉ còn Hằng với tôi. Tôi không thể tìm câu chuyện nào đó nói cho bớt nhạt nhẽo không khí. Thấy Hằng ngồi ôm gối nhìn ra nghĩa trang, tôi đẩy một chiếc ghế đến gần để nói chuyện.
                      Có lẽ Hằng đang buồn. Giọng cô ta nhè nhẹ như thì thầm bên tai tôi. Hằng tâm tình là hôn nhân của nàng không được hạnh phúc. Tính Công ghen tuông kinh khủng không cho nàng một chút xíu tự do nào. Lấy nhau  hơn mười hai năm rồi mà Hằng vẫn chưa được Công cho đi đâu chơi một mình.
                      Có lần Công đi làm trễ, ông già bảo vệ ở tiệm tạp hóa cho Hằng quá giang về. Không may khi mới lên xe thì Công vừa đến, và nhảy ra ẩu đả với lão bảo vệ tại chỗ.
                      Sau đó Hằng xin nghỉ việc vì quá xấu hổ. Phần Công thì bao nhiêu tiền dành dụm được đem ra chơi bài bạc, cá độ và bị thua sạch. Tiếp theo thì bị đuổi việc và sau mấy tháng túng quẫn phải nhận liều cái công việc ở giữa khu nhà bỏ hoang này.
                      - Từ lâu anh Công không còn gần gũi em nữa!
                      Hằng chợt thốt lên.
                      Công mất việc làm, ở nhà buồn tình nên theo bè bạn đua xe, ngờ đâu trong một lần bị tai nạn Công té dập phía dưới. May mắn lắm mới sống sót, nhưng từ đó không đoái hoài đến chuyện chăn gối trong khi tính ghen thì ngày càng lên.
                      Tôi nhắm mắt ngồi nghe không nói tiếng gì cả. Bản thân tôi là một người chồng xấu xa và người đàn ông không ra gì. Nhưng hôm nay tính anh hùng rơm bùng lên và tôi nghĩ giá như hồi đó tôi lấy Hằng thì nàng không đến nỗi đau khổ như vầy.
                      Nhìn Hằng cúi gục xuống khóc rung rung bờ vai tôi muốn quàng vai nàng an ủi, nhưng không dám. Không chịu nổi không khí ngột ngạt tôi xô ghế đứng dậy tìm cớ về phòng coi vợ con ngủ có ấm không. Bên phòng Hằng bây giờ lạnh buốt và buồn thảm. Tôi tự trách mình vô tình đã mang cái máy hát duy nhất qua phòng bên kia.
                      Qua đến nơi thì Lan Anh vẫn ngủ yên với thằng Thịnh. Thằng Đức thì tung chăn lên nên tôi kéo chăn đắp lại sẵn đó nằm xuống bên cạnh.
                      Tôi ngủ thiếp đi lúc nào không hay và khi thức dậy chung quanh đã tối sẩm. Không gian yên ắng chắc anh Thành và Công chưa về.
                      Đột nhiên tôi nghe có tiếng nước róc rách như ai đang tắm.
                      - Ai mà tắm giữa trời lạnh như vầy?
                      Tôi thắc mắc.
                      Có lẽ là Hằng. Tôi không dằn nỗi sự thắc mắc vô cớ, và nếu quả như Hằng đang tắm thì coi như là tôi gặp hên!
                      Phòng tối thui không có đèn, tôi lặng lẽ mò ra cửa rồi bước qua phòng bên kia.
                      Phòng bên Hằng tối om. Tôi mò mẫm theo tiếng nước róc rách thì thấy quả thật là Hằng đang tắm. Phòng tắm không đóng cửa, và Hằng không kéo màn. Có chiếc đèn chạy pin để trên bồn rửa mặt soi rõ từng đường nét trên cơ thể của nàng.
                      Phòng lạnh, và có lẽ vì nước nóng nên hơi nước bốc đầy chung quanh Hằng. Tôi nuốt nước miếng không ngừng và như bị thôi miên cứ tiến lại gần đến cửa phòng tắm. Như không biết sự hiện diên của tôi, Hằng mãi mê kỳ cọ từ đôi ngực xuống đến dưới chân.
                      Khi đến sát cửa, tôi không ngừng được một tiếng thở mạnh. Hằng nhìn lên, không một chút ngạc nhiên hay ngại ngùng, lườm tôi một cái sắt lẻm rồi nói:
                      - Dữ không! tưởng anh chê em luôn rồi chứ.
                      Cánh cửa sau lưng tôi chợt có tiếng mở ra và đóng vội lại. Tôi giật mình vội vàng chạy ra cửa.
                      Có thể Lan Anh vừa thức giấc và bắt gặp tôi tại trận. Có thể là anh Thành hay Công vừa mới về.
                      Tôi lao theo bóng đen chạy ra phía trước sân. Bóng đen chạy băng băng trên mặt đất đầy đá sỏi. Cùng lúc đó tôi thấy ánh đèn của chiếc xe bảy chỗ trờ tới.
                      Anh Thành không thấy tôi trong bóng tối. Xuống xe hai người còn tranh cãi gì đó tôi không nghe rõ. Chợt anh Thành đấm mạnh vào cửa xe và chỉ vào mặt Công hét to lên:
                      - Đồ khốn nạn, đồ sát nhân!
                      Tôi quay lại nhìn ra phía tòa nhà thì bóng đen kia đã mất hút vào trong bóng tối của tòa nhà cao sừng sững trên đồi.
                      Hy vọng đó không phải là Lan Anh tôi lẩn thẩn đi bộ về phòng. Chưa đến nơi tôi nghe tiếng thằng Thịnh rống to lên, rồi thấy nó chạy ra khỏi cửa phòng theo sau là Lan Anh. Thằng Đức chạy chậm chậm theo sau sợ hãi khóc to lên.
                      Thằng Thịnh chạy nhanh như một người lớn, vợ tôi chới với chạy theo không kịp. Tôi chạy theo phía sau nữa sau khi kéo thằng Đức giao qua cho anh Thành.
                      Thịnh chạy nhanh như cắt theo lối chạy của bóng đen hồi nãy và Lan Anh không cách nào theo kịp, vừa chạy vừa té trên đường. Tôi còn tệ hơn nàng nhiều và chạy cách khoảng một đoạn phía sau.
                      Thằng Thịnh đã lên đến đỉnh đồi, và chạy không ngừng vào toà nhà thương điên cũ.
                      Khi đến nơi giọng nó hú mừng rỡ trong âm thanh oé oé không khác gì khi nó tức giận. Nó vào cửa một chút xíu thì có tiếng la thất thanh của nó từ trong đó vọng ra.
                      Nghe tiếng Thịnh, vợ tôi khóc to và chạy theo vào tòa nhà. Một chút xíu sau tôi chạy đến kịp trước cửa, và sau lưng thấp thoáng thấy anh Thành cầm đèn pin chạy theo.
                      Vào trong tòa nhà, tôi không nghe tiếng của Thịnh hay Lan Anh. Trong bóng tối dầy đặc của căn nhà, tôi thấy một bóng mờ chạy nhanh lên lầu. Tôi không còn biết đó là Thịnh, Lan Anh hay là ai khác. Cắm đầu lao theo, từ cầu thang này đến cầu thang khác và cuối cùng thì tôi ở trên đỉnh cao của tòa nhà.
                      Bóng đen hồi nãy đứng lại, thở hổn hển ở một góc phòng, rồi móc túi lấy  hộp quẹt thắp lên điếu thuốc lá. Ánh lửa tí hon nhoé lên rồi chợt tắt cho tôi thấy đó là một người đàn bà, nhưng rõ ràng không phải là Lan Anh!
                      Bà ta quay lại; tôi ngạc nhiên nhận ra đó là Lệ Thu.
                      - Lệ Thu, cô làm gì ở đây?
                      - Câu chuyện dài lắm. Lúc nhỏ tao ở đây. Cha tao thì bị thần kinh, còn mẹ tao thì giả điên để sống lây lất quanh đây vì không có nhà cửa.
                      Lệ Thu kể thao thao chuyện đời của bà. Đã bao nhiêu lần chăn gối với nhau, chúng tôi chưa bao giờ kể chuyện riêng tư cho nhau nghe. Bây giờ thì tôi biết cha bà qua đời trong nhà thương lao giữa thập niên 1970. Mẹ bà kiệt sức mà theo sau. Năm 1993 nhà thương điên bị đóng cửa. Bà ra ngoài sống vô gia cư một thời gian thì theo nghề gái gọi, sau đó vì quá ế ẩm bà đi làm tiếp viên ở quán bia mà tôi gặp bà.
                      Điếu thuốc tắt ngúm từ lúc nào và Lệ Thu chỉ còn là một bóng mờ trong không gian đen đặc. Giọng bà không còn rõ tiếng mà nghe như hơi thở trộn lẫn với tiếng gió thổi rít qua khe hở của tòa nhà.
                      Tôi đứng chết trân nghe Lệ Thu kể từ chuyện này qua chuyện khác. Tôi mơ hồ hiểu rằng Lệ Thu đã qua đời.
                      - Tao bị giết quăng xác mà không ai thèm tìm kiếm.
                      Bà ta thở dài.
                      - Kiếp người nghèo quả là kiếp khốn nạn. Kiếp tứ cố vô thân không ai biết, sau khi bị hãm hiếp và hành hạ cho đến chết.
                      Bóng bà Lệ Thu cúi xuống khóc âm thầm. Chợt ngước lên nhìn tôi bà rít trong khe răng:
                      - Trong đời tao, hình như chỉ có mỗi mình mầy là đối xử tương đối tốt với tao thôi… Chính vì thế nên tao phải cứu mầy khỏi bàn tay ác độc của con kia…
                      Tôi ngơ ngác không biết bà nói gì thì bóng bà Lệ Thu bay qua sát tôi. Trong đen nghịt không hiểu sao tôi nhìn thấy ánh mắt của bà và sâu trong đó là một khoảng buồn cô đơn tột cùng làm tôi sợ hãi và ngất đi.
                      Tôi rơi vào một khoảng sâu thăm thẳm, và văng vẳng còn nghe tiếng anh Thành gọi tên tôi và Lan Anh.
                      Bóng tối dầy đặc phủ xuống cuộc đời tôi từ đó. Ba năm sau tôi được thả ra khỏi nhà thương điên. Trong ba năm tôi nửa mê nửa tỉnh nhưng tôi chỉ muốn mê đi để quên đi tất cả và quên nổi buồn gậm nhấm không ngừng trong lòng tôi.
                      Đêm hôm đó thằng Thịnh bị té xuống một lổ thủng trong sàn tòa nhà cổ và bể đầu chết liền tại chỗ. Lan Anh khi chạy theo bị vào một lổ hổng khác nhưng may sao chỉ bị thương nặng. Tôi nhờ linh hồn bà Lệ Thu đưa lên sân thượng nên không chịu chung số phận của vợ con, nhưng mãi đến sáng hôm sau anh Thành mới tìm ra tôi và khi đó tôi đã mất trí.
                      Tại nhà thương lao hôm đó không ai thấy Hằng ngoài tôi. Sau khi chuyển về miền Trung, Hằng và Công càng xung đột với nhau, và trong lúc vì quá chán nản Hằng đã uống thuốc độc quyên sinh. Công mang xác Hằng ra vùi trong nghĩa trang trước nhà thương lao.
                      Hình như anh Thành và Lan Anh đã lấy nhau. Ngày tôi ra khỏi nhà thương không ai đến đón. Một thân một mình với một túi áo quần nhỏ trên tay tôi đi cất bước đi về một nơi nào đó mà hình như chỉ có khi mê man tôi mới hiểu ra được. Một chốn nơi Hằng đang đợi tôi bước vào. 
                      Hết
                      Nguyễn Thị Mộng Thu
                      <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:51:11 bởi nguyenthu >
                      #41
                        nguyenthu 10.08.2009 21:20:05 (permalink)
                        HỒN MA BÁO THÙ
                          
                        Chỉ chưa đầy năm phút, hai tên cướp đã giết chết đôi vợ chồng chủ cơ sở xuất nhập khẩu phụ tùng xe gắn máy.
                        Lúc ấy là 8 giờ tối.
                        Cơ sở làm ăn của hai vợ chồng là một tòa nhà ba tầng lầu nằm ngay mặt tiền một con đường xe cộ đông đúc ở Bình Thạnh.
                        Chủ cơ sở, một kỹ sư cơ khí, mới ba mươi ba tuổi nhưng đã thành công mỹ mãn trong con đường kinh doanh.
                        Vợ chàng, một sinh viên đại học tài chính kế toán mới ra trường. Cô xinh đẹp, hiền lành và tháo vát.
                        Cưới nhau được một năm, hai người đã có con. Đứa con của họ nay đã gần hai tuổi, kháu khỉnh dễ thương.
                        Nhìn đôi vợ chồng, ai cũng thầm khen họ may mắn, hạnh phúc.
                        Thế nhưng lưỡi dao oan nghiệt của hai tên cướp tối nay đã lấy đi mạng sống của họ trong chưa đầy năm phút đồng hồ.
                        Vào lúc bảy giờ tối, hai tên cướp đã lảng vảng ở trước tòa nhà. Vì cánh cửa khép kín nên chúng không thể quan sát được gì cả. Một tên liền gọi điện thoại vào nhà. Một người phụ nữ bốc máy:
                        - Alô.
                        Tên cướp nghe tiếng, biết là người giúp việc nhà.
                        Hắn hỏi:
                        - Ông Sinh về nhà chưa?
                        - Dạ, thường thì tám giờ mới về ạ.
                        Tiếng người bên kia đáp lại.
                        Tám giờ kém, Sinh chạy chiếc SH, chở vợ về nhà. Người giúp việc mở cửa cho Sinh vào. Sinh thay đồ rồi bế con. Hoa, vợ Sinh thì đi xuống bếp.
                        Đây là giờ phút hạnh phúc nhất của đôi vợ chồng. Một ngày làm việc mệt mỏi kết thúc, họ quây quần bên nhau để cơm nước và thư giãn.
                        Bỗng có tiếng chuông cửa. Sinh ra mở cửa. A, hai anh chàng vẫn thường tới lấy hàng mấy tuần nay.
                        Một gã nói:
                        - Anh cho em lựa một ít ổ bi
                        Cơ sở của Sinh bán sỉ hàng hóa nhưng thỉnh thoảng chàng vẫn bán lẻ cho một vài khách hàng, là những người thợ sửa xe gắn máy.
                        Sinh để họ dắt xe vào nhà. Xong xuôi anh đóng cửa lại, đến bên chỗ mấy thùng hàng, cùng chọn ổ bi với họ.
                        Chàng vừa chọn ổ bi vừa xem một chương trình  giải trí trên chiếc ti vi đặt gần đó.
                        Tên cướp bất thần vung dao đâm vào cổ Sinh. Chàng á lên một tiếng. Lập tức, tên kế bên ôm chặt lấy Sinh. Sinh vừa vùng vẫy vừa la to. Hai tên cướp thi nhau đâm dao vào người chàng.
                        Hoa từ trong bếp chạy ra. Vừa thấy cảnh tượng ấy, thay vì mở cửa chạy ra ngoài, thì Hoa lại vừa xông đến vừa la làng.
                        Lúc này Sinh đã bớt giãy giụa. Một tên cướp quay qua, vung dao vào bụng Hoa.
                        Cảnh tượng kinh hoàng xảy ra chưa đầy 5 phút.
                        Bà giúp việc nhà mở cửa toa lét bước ra, há hốc mồm kinh ngạc. Một tên cướp lao đến ôm lấy bà.
                        Bà giúp việc van xin:
                        - Xin ông tha mạng cho con. Con chỉ là người giúp việc.
                        Tên cướp mở cửa toa lét, đẩy bà giúp việc vào, rồi đóng cửa lại.
                        Chúng ôm tiếp đứa bé hai tuổi,  mình mẩy dính đầy máu, bỏ vào căn phòng kế bên rồi đóng cánh cửa lại.
                        Tất cả diễn ra như một cuốn phim rùng rợn của Mỹ.
                                                                                  *
                        Sinh lãnh gần ba chục nhát dao vào người. Chàng ngã xuống, lịm dần trên nền nhà. Trong một khoảng thời gian, chàng thấy mình chới với. Rồi người bỗng nhẹ như không.
                        Chàng nhìn xuống, thấy thân xác mình nằm trên nền gạch bông. Bên cạnh là xác Hoa, vợ chàng. Rồi hai người nhìn thấy nhau.
                        Hoa đang chới với trên trần nhà. Đứa con tội nghiệp của nàng khóc ngất, người nhuộm đỏ máu. Nhưng nàng không thể đến để bế nó lên.
                        Sinh lặng lẽ quan sát căn nhà. Bọn cướp lên lầu, Sinh liền đi theo. Sinh thấy chúng lục tung tủ. Sau đó chúng xuống dưới nhà, ôm chiếc két sắt nặng hai mươi ký, trong đó chứa tiền và vàng. Chàng không bỏ sót một hành động nào của chúng.
                        Một lát, bọn cướp ra khỏi nhà.
                        Trong khi đó, Hoa lượn lờ quanh đứa con. Nàng ngắt vào con nàng cho nó khóc to hơn. Nàng muốn làm thế để báo động cho hàng xóm biết.
                        Thời gian trôi qua. Giờ thì họ đã có thể nói chuyện được với nhau.
                        Sinh đau đớn nói:
                        - Chúng ta đã chết rồi.
                        Hoa buồn rầu:
                        - Vâng, em cũng biết thế.
                        Sinh kéo tay Hoa:
                        - Đi thôi em.
                        Hoa dùng dằng:
                        - Không, em thương con lắm ...
                        Sinh kiên quyết:
                        - Nhưng không thể ở lại đây. Chúng mình phải theo bọn nó.
                        Hoa ngạc nhiên hỏi:
                        - Theo để làm gì anh?
                        Sinh nghiến răng trèo trẹo:
                        - Phải bắt nó đền tội. Nếu không, nó trốn thoát mất.
                        Nước mắt rơi lã chã, Hoa nghẹn ngào:
                        - Vậy mình hôn con đi, rồi cùng đi.
                        Có tiếng người ngoài cửa, Sinh kêu lên:
                        - Kìa, có người vào nhà rồi. Vậy là hàng xóm đã biết rồi.
                        Hoa mừng rỡ:
                        - May quá, hàng xóm đã biết rồi. Thôi, mình đi nhanh kẻo mất dấu bọn cướp.
                        Hoa lại nhìn đứa con mình đẫm máu:
                        - Anh ơi, em thương con quá.
                        Sinh đặt tay lên vai Hoa:
                        - Anh cũng vậy. Nhưng chúng ta phải báo thù.
                        Hoa giật mình:
                        - Kìa, anh. Công an đã tới.
                        Sinh gật đầu:
                        - Ừ, công an tới rồi. Hãy để cho họ làm việc. Còn chúng ta đi.
                        Hoa vẫn chưa thôi bịn rịn:
                        - Anh ơi, con của chúng ta.
                        Sinh đẩy vợ ra cửa:
                        - Thôi em, chúng mình đi đi.
                        Hoa quay lại nhìn con, mếu máo:
                        - Con ơi con ơi!
                         
                                                                                  *
                         
                        Tin tức về vụ án mạng lan ra nhanh chóng. Người ta tụ tập vòng trong vòng ngoài quanh ngôi nhà. Công an đến phong tỏa hiện trường.
                        Bà giúp việc nhà cùng cháu bé được đưa ra ngoài.
                        Trên sàn nhà, xác Sinh và Hoa nằm cách nhau không xa. Mỗi người bị mấy chục nhát dao, mình đầm đìa máu.
                        Một điều tra viên bần thần đứng nhìn hai cái xác:
                        - Thật quá dã man!
                        Ngày hôm sau, báo chí đăng tải những thông tin kinh hoàng về vụ án. Qua lời khai của bà giúp việc, người ta xâu chuỗi được sự việc. Theo đó, bọn cướp đã biết được Sinh có rất nhiều tiền, nên giả làm người mua hàng đến theo dõi. Và bọn chúng quyết ra tay, giết chết cả hai vợ chồng Sinh để cướp của.
                        Lúc đầu, người ta nghi ngờ có thể bà giúp việc có liên quan đến vụ cướp, vì bà ta không bị giết chết. Nhưng sau đó công an nhanh chóng loại trừ nghi vấn nói trên. Tuy nhiên thông tin về bọn cướp cũng mịt mờ, vì bà giúp việc không biết gì nhiều về bọn chúng, ngoài vài chi tiết nhỏ về nhân dạng.
                                                                                  *
                        Hai tên cướp ôm chiếc két sắt, phóng xe về phòng trọ của chúng. Chiếc két sắt dính đầy máu, nhưng nhờ có cái bao tải bọc bên ngoài nên không ai nghi ngờ gì.
                        Tại phòng trọ, có một tên đã chờ sẵn.
                        Tại đây, chúng bắt đầu phá két sắt. Nhưng phá mãi không xong, chúng phải điều động thêm một tên chiến hữu nữa. Tên này đem dụng cụ hàn xì mini tới, mới phá được két sắt.
                        Chúng lấy ra được một số khá lớn đô la, tiền Việt Nam và vàng.
                        Đêm hôm đó chúng tạm thời ngủ lại trong căn phòng trọ để chờ trời sáng. Dự định ngày mai chúng sẽ trốn đi mỗi đứa mỗi đường. Căn nhà trọ cũng đã sắp hết hạn thuê nhà.
                        Chúng không dám uống rượu say để ngủ vì sợ ngủ quên. Vì thế cả bọn chập chờn không yên giấc. Đại, một trong hai tên cướp tham gia giết người, nằm phía ngoài cùng. Quá nửa đêm, nó thức giấc. Chỗ nó nằm nhìn thẳng ra một cửa sổ nhỏ. Nó bỗng lạnh toát người. Một bóng trắng, hình dáng như người con gái, bay chập chờn phía ngoài cửa sổ. Nó hoảng hốt nằm chen vào giữa ba tên kia.
                        Dù lần đầu tiên giết người, nhưng Đại không thua gì một tên sát thủ chuyên nghiệp máu lạnh, ra tay quá tàn độc. Khi giết người hắn không run tay nhưng giờ đây hắn lại lo sợ. Nỗi sợ lớn nhất là sợ công an bắt. Còn hồn ma báo thù thì hắn không nghĩ đến, vì hắn không tin là có ma. Nhưng giờ đây giữa đêm khuya, cái bóng trắng chập chờn ngoài kia làm cho hắn rùng mình.
                        Đại cố nằm im không nhúc nhích. Hắn nhắm nghiền mắt lại. Được một lát, lại nghe tiếng sột soạt bên trên. Hắn hé mắt nhìn ra. Bóng trắng bay chập chờn phía bên ngoài rõ mồn một. Người hắn toát mồ hôi, tay chân lạnh ngắt.
                        Rõ ràng là một bóng người bay chập chờn bên ngoài cửa sổ.
                        Nhưng rồi trời cũng sáng dần. Bóng người ngoài cửa sổ biến mất.
                        Sáng sớm hôm sau, xảy ra một sự kiện làm cả 4 tên vô cùng lo sợ. Bà chủ căn nhà trọ bỗng dưng đến thật sớm, khi chúng chuẩn bị ra đi. Bà chủ nói đêm qua nằm mơ thấy trong căn nhà bà có người chết, lo quá, nên sáng tới thăm sớm.
                        Bà chủ cười:
                        - Mình hồi nào tới giờ có mơ đâu. Đúng là mơ tầm bậy tầm bạ.
                        Đại cũng cố gắng cười:
                        - Dạ, tối hôm qua mấy anh em ở  lại nhậu chơi. Thằng nào thằng đó mạnh như con trâu, sao chết được bác.
                        Bà chủ nhìn Đại, cười nói:
                        - Hì hì, chắc hôm nay tao phải đánh số đề mới được.
                        Bà chủ nấn ná một lát rồi về.
                        Đại giục:
                        - Thôi, dọt lẹ lên tụi bay.
                        Hiệp gà, tên chủ mưu giết người nói:
                        - Dọt sao được. Còn cái két sắt máu me tùm lum, vứt đâu đây?
                        Đại ngẫm nghĩ rồi nói:
                        - Thôi để tao với thằng Kiên lo. Hai đứa bay dọt trước đi.
                        Hiệp gà và Trường quắn nghe nói vậy thì chịu liền. Hai đứa liền đứng lên:
                        - Thôi tụi tao biến đây. Hai thằng bay ở lại mần cho gọn nghe. Nhớ bỏ mấy bộ áo quần dính máu vô cái két sắt luôn đi.
                        Đại gật đầu:
                        - Biết rồi, tụi bây cứ yên tâm đi.
                         
                                                                        *
                        Hùng lái xe taxi nay đã được ba năm. Đêm qua anh nằm mơ thấy một giấc mơ kỳ lạ. Có người con gái đẹp gặp anh khóc lóc:
                        - Anh ơi, em biết anh là người tử tế và dũng cảm. Em muốn nhờ anh một việc.
                        Hùng ngạc nhiên, hỏi:
                        - Việc gì em nói đi.
                        Người con gái gạt nước mắt:
                        - Sáng mai, anh hãy chạy xe tới bệnh viện Từ Dũ. Sẽ có người nhờ anh chở một vật nặng. Anh hãy nhận lời người đó.
                        Lúc năm giờ sáng anh thức giấc. Ngồi uống cà phê anh nhớ lại giấc mơ đêm qua. Thật là kỳ lạ. Tại sao lại có chuyện như thế!
                        Anh nghĩ:
                        - Mơ với chả mộng. Làm gì có chuyện vớ vẩn ấy. Thôi mình không lên đó đâu.
                        Chợt có chuông điện thoại gọi vào máy di động của anh:
                        - Alô, anh Hùng hả!
                        Hùng trả lời:
                        - Ừ, tôi đây. Ai đó?
                        Tiếng người bên kia đầu dây tiếp:
                        - Dạ, em có số điện thoại anh từ lâu. Anh có thể lên bệnh viện Từ Dũ đón em được không? Em cần đi Biên Hòa ngay.
                        Hùng giật mình:
                        - Ủa, mình có quen ai đâu ta? 
                        Đầu dây kia tiếng người con gái nói:
                        - Anh đến đi. Em cần đi công chuyện nhưng không muốn bắt xe người lạ. Em sẽ trả tiền cho anh xứng đáng. Anh yên tâm đi.
                        Hùng định hỏi thêm thì đầu dây đã tắt máy. Anh ngồi thần người suy nghĩ:
                        - Thôi, mình cứ tới đó xem sao.
                        Ăn sáng xong, Hùng vội vàng chạy xe lên bệnh viện Từ Dũ. Chạy được một đoạn, anh chợt nhớ là quên điện thoại di động ở nhà. Phải chạy ngược về nhà lấy. Về nhà, thấy có cuộc điện thoại gọi nhỡ. Số máy của cô gái lúc nãy.
                        Hùng cho xe đậu trước bệnh viện. Anh bốc máy gọi lại cho số máy của cô gái, nhưng không liên lạc được. Gọi mấy lần vẫn không liên lạc được. - Kêu người ta tới đây rồi không chịu mở máy. Thật bực mình!
                        Anh bực mình lẩm bẩm.
                        Bỗng có một thanh niên đi xe gắn máy tới, nói với Hùng:
                        - Anh ơi, tôi cần chở một ít đồ về quê, anh ghé nhà tôi được không?
                        Hùng quên phắt giấc mơ hồi tối, trả lời:
                        - Tôi đang chờ người ta đây này.
                        Tay thanh niên năn nỉ:
                        - Thôi người ta không đến thì thôi, anh chở cho em đi.
                        Hùng bốc máy điện thoại gọi lại cho cô gái, nhưng máy vẫn không liên lạc được. Anh bực mình bỏ máy xuống và hỏi:
                        - Anh đi về tới đâu lận?
                        Người thanh niên nhanh nhảu:
                        - Tới Trà Vinh anh à. Anh lấy bao nhiêu?
                        Hùng nhẩm tính một lát rồi trả lời:
                        - Trà Vinh, xa lắm đó. Anh cho tôi hai triệu nhé.
                        Tay thanh niên nói:
                        - Ô, dữ vậy anh! Một triệu được không?
                        Hùng nhún vai:
                        - Giờ xăng cộ mắc mỏ, một triệu làm sao đủ sở hụi. Đúng hai triệu tôi mới đi.
                        Người thanh niên lưỡng lự một chút rồi nói:
                        - Thôi, vậy thế này, anh chở giúp cho tôi ít đồ ra bến xe miền Tây, tính theo cây số đồng hồ cũng được.
                        Hùng gật:
                        - Vậy từ đây về chỗ anh ở, anh phải tính tiền cho tôi luôn nhé.
                        Người thanh niên cười:
                        - OK, bắt đầu tính tiền từ đây luôn mà.
                        Hùng lại liên lạc với cô gái một lần nữa nhưng vẫn không được. Anh liền quyết định cho xe chạy theo tay thanh niên.
                                                                                  *
                        Cháu bé được đưa về nhà ông chú ruột của Sinh ở quận 3. Đêm đầu tiên, nó khóc ngằn ngặt, không chịu ngủ. Nó chưa biết gì nhưng vì thiếu hơi mẹ nên nó khóc. Ai nhìn cảnh ấy cũng thấy đau lòng.
                        Bà giúp việc cũng nhanh chóng được cơ quan công an lấy lời khai, sau đó trở lại gia đình ông chú Sinh để tiếp tục chăm sóc cháu bé. Nhưng bà như người mất hồn, không làm được việc gì nên đầu nên đũa.
                        Gia đình Sinh và Hoa đang trên đường từ ngoài Bắc vào Sài Gòn.
                        Đó là chuyện những người sống.
                        Còn với Sinh và Hoa, hai linh hồn vẫn chưa thể rời khỏi Sài Gòn. Có một hồn ma thương tình, rủ họ về một góc nhỏ tại nghĩa trang Bình Hưng Hòa ở tạm.
                        Hồn ma ấy của một người con gái cũng chết trẻ như Hoa, tên là Trang. Cô ấy vẫn còn nán lại trần gian vì chưa thể siêu thoát. Thành ra Hoa có bạn để chia sẻ.
                        Ba hồn ma ngồi nói chuyện với nhau.
                        Hoa nói:
                        - Bây giờ xử lý thằng Đại thế nào?
                        Trang cười:
                        - Anh chị cứ để việc này em lo. Nó sẽ bị bắt ngay hôm nay thôi. Em có nhiều bạn bè lắm, chị đừng bận tâm.
                        Hoa nói:
                        - Anh chị mới chết, đang còn bỡ ngỡ. Thân xác cũng còn nằm trên mặt đất. May nhờ có em giúp đỡ.
                        Trang thông cảm:
                        - Chị ơi, cõi âm cũng như cõi dương thôi. Người đi trước sẽ giúp đỡ người đi sau mà.
                        Hoa lo lắng:
                        - Cháu bé con chị nó khóc quá, không biết làm sao đây.
                        Trang có vẻ suy tư:
                        - Thế à, sao chị không nói em sớm. Để em nhờ con Liên nó giúp cho.
                        Hoa mừng rỡ:
                        - Chị cám ơn em nhiều lắm. Chị mong cho tới giờ phút công an bắt được thằng Đại.
                        Trang nghiêm mặt:
                        - Không còn lâu đâu. Em đã khiến anh Hùng lái taxi đi đón nó rồi đó.
                        Hoa nói:
                        - Em thông minh thật, chị không nghĩ ra cách làm đó.
                        Mắt Trang thoáng buồn:
                        - Thằng Đại thằng Hiệp gà, hai thằng tàn ác đó phải đền tội. Chỉ thương cho mẹ thằng Đại ở quê. Bà ấy chỉ có một mình nó. Thật là vô phúc cho bà ấy.
                        Hoa cũng đồng tình:
                        - Thằng đó thấy tướng cũng không đến nỗi dữ dằn. Chắc tại thằng Hiệp gà rủ rê nó.
                        Trang gật:
                        - Ờ, có lẽ vậy.
                        Đêm hôm ấy ở nhà ông chú của Sinh. Người nhà ngoài Bắc đã vào đông đủ. Vào lúc chập tối, đứa bé vẫn khóc ngằn ngặt trong tay bà vú nuôi. Từ bà ngoại, bà nội cho đến cô dì đều dỗ nhưng nó không nín.
                        Ông chú Sinh bèn thắp mấy cây nhang lên bàn thờ và khấn:
                        - Các con ơi, các con sống khôn thác thiêng. Chú cầu xin các con làm cho cháu bé nín khóc đi, cho khỏi đau lòng người sống.
                        Có một luồng gió nhẹ thoáng qua làm ai nấy cảm thấy lạnh sống lưng. Luồng gió xoáy một vòng quanh cháu bé rồi bốc lên, thoát ra khỏi cửa.
                        Cháu bé bỗng nhiên nín khóc. Nó ngơ ngác nhìn chung quanh rồi đưa tay nắm lấy tay bà vú nuôi. Từ đó trở đi nó không còn khóc nữa, mà ngoan ngoãn như thể mẹ nó đang bế nó trong tay vậy.
                                                                        *
                        Hùng lái taxi đi chừng ba cây số, dừng lại trước một con hẻm. Tay thanh niên ra dấu cho Hùng chờ ở đó, rồi chạy khuất vào trong con hẻm. Chừng ba phút sau, tay thanh niên chở ra một thanh niên khác. Đó chính là Đại.
                        Đại ôm chiếc bao tải, bên trong có cái két sắt dính đầy máu, bỏ lên phía sau xe. Xong hắn leo lên ngồi kế bên. 
                        - Đi thôi anh ấy ơi.
                        Đại vừa nói vừa ngoái lui. Kiên cũng vù máy xe vọt luôn. Như vậy là xong. Mỗi đứa một phương.
                        Xe chạy tới đường Ba Tháng Hai, Hùng chợt nhớ tới câu chuyện trong mơ vào tối hôm qua. Tất cả những chi tiết hầu như trùng khớp với thực tế bây giờ. Hùng nhìn qua kiếng chiếu hậu, quan sát Đại. Trông khuôn mặt hắn trắng nhợt.
                        Bỗng Đại nói:
                        - Anh ấy ơi, em dọn nhà, còn bao đồ cũ của người bạn, không biết để đâu, chủ nhà bắt buộc phải đem theo. Giờ anh kiếm chỗ nào có cây cầu dừng lại để em quăng nó xuống cho nhẹ xe.
                        Hùng vốn là người thông minh nhạy bén. Chỉ cần nghe như vậy là anh đã hiểu gã thanh niên này muốn phi tang vật gì đây rồi.
                        Hùng ngẫm nghĩ rồi nói:
                        - Từ đây ra bến xe miền Tây đâu có chỗ nào có có sông lớn đâu. Anh mà dừng lại thả xuống mấy con kênh nhỏ nhỏ, cảnh sát giao thông nó thấy nó bắt phải lấy lên đem chỗ khác mất công lắm. Thôi cứ chạy vô bến xe đi. Trong đó có mấy thùng rác bự mình bỏ vô đó cũng được.
                        Trong khi Đại đang nín thở đưa chiếc két sắt đi phi tang thì Hiệp gà đã xuống tới thị xã Bến Tre. Dự tính của hắn là tạm thời nghỉ lại đây một hai bữa nghe ngóng tình hình rồi có thể chuồn qua Campuchia làm ăn. Với số vốn trong tay, hắn tin rằng hắn có thể bắt đầu khởi nghiệp ở bên đó được. Bằng cách giải phẫu thẩm mỹ để thay hình đổi dạng, rồi dùng tên họ giả, hắn có thể thoát được sự truy bắt của pháp luật.
                        Nhưng hắn không thể biết được rằng, hắn có thể trốn thoát được sự truy đuổi của công an nhưng sẽ không bao giờ trốn thoát được sự báo thù của những oan hồn.
                                                                                  *
                        Chiếc taxi chạy vào bến xe miền Tây. Hùng liếc nhìn quanh. Kia rồi! Hùng cho xe vào giữa mấy chiếc taxi đang đậu. Một tài xế ngạc nhiên nhìn Hùng, không hiểu tại sao khi không lại chen xe vào chỗ chật chội thế này.
                        Tắt máy xe, Hùng vội vòng ra phía sau. Anh đưa tay đỡ chiếc bao tải nặng của khách. Đại bấy giờ mới giật mình. Hắn nghĩ nhanh:
                        - Xách cái bao tải to thế này đi ra khỏi xe nguy hiểm quá!
                        Hắn liền gạt tay Hùng ra:
                        - Thôi, anh cho xe chạy tiếp ra ngoài kia đi. Tui muốn đi thêm một đoạn nữa.
                        Hùng lắc đầu:
                        - Thôi anh xuống xe ở đây đi. Tui đói bụng quá, phải đi ăn sáng chút đã.
                        Hùng xấn tới, xách chiếc bao của Đại. Đại vội giằng lại.
                        Hùng giả vờ la to:
                        - Anh này kỳ ghê. Anh đem đồ xuống xe đi chứ.
                        Mọi người xung quanh nghe Hùng la to, vội xúm quanh. Hùng nói:
                        - Thôi anh trả tiền cho tui rồi đi đâu thì đi.
                        Đại run cầm cập. Mọi người chung quanh dường như đã biết có sự bất thường. Chiếc ví được Đại rút ra.
                        Hùng nói:
                        - Một trăm bảy mươi lăm ngàn
                        Tờ giấy bạc năm trăm được Đại rút ra khỏi ví. Loang lổ vết máu.
                        Hùng la lên:
                        - Nè, anh đổi tờ khác đi, tờ này dính máu không à. Ghê quá.
                        Lúc bấy giờ, hàng mấy chục người đã vây quanh. Có cả bảo vệ bến xe. Đại nói:
                        - Hết tiền rồi, anh lấy đỡ đi.
                        Hùng lắc đầu:
                        - Không được, tờ bạc dính máu không, tui không có lấy.
                        Đại nhìn quanh. Hắn dợm chân bước đi.
                        Hùng la lên:
                        - Anh em ơi, bắt lại giùm tui. Trả tiền đây.
                        Ba bốn tài xế lực lưỡng vây quanh hắn. Đại bị khóa chặt giữa vòng vây.
                        Một người liền rút điện thoại di động ra, gọi ngay cho cảnh sát 113.
                        Trong lúc đó, Đại đứng im, thủ thế. Hắn biết là đang ở vào thế kẹt.
                        Cùng vào thời khắc đó, Hiệp gà đã xuống tới Bến Tre. Hắn đến một khách sạn nằm khá khuất, thuê một căn phòng. Vào trong căn phòng rồi, hắn thở phào:
                        - Mẹ kiếp! Mệt thật. Chiếc xe đò chạy rù rù. 
                        Hắn nằm vật ra nệm, suy nghĩ. Hắn cảm thấy kế hoạch của hắn có hơi luẩn quẩn. Lẽ ra hắn không nên xuống Bến Tre làm gì mà phải đi thẳng lên Tây Ninh mới đúng. Vì lên Tây Ninh, hắn sẽ nghỉ ngơi chốc lát rồi qua cửa khẩu ngay. Hắn đã quá rành với cách thức qua biên giới rồi. Chỉ cần tốn chút ít tiền chừng vài trăm ngàn là có thể sẽ qua được biên giới ngay trong đêm.
                        - Mẹ kiếp! Sao mình ngu thế! Xuống đây làm gì cho xa!
                        Hiệp kêu hai lon bia, ngửa cổ tu ừng ực.
                        - Giờ mà qua tới Campuchia thì kiếm một con nhỏ vô thư giãn một chút. Tiếc thật. Ở đây thì đéo dám. Tiền cả đống đây mà đành chịu nằm không. Mẹ kiếp! Lâu nay không có tiền chịu ăn chay nằm đất đã đành, nay có tiền rủng rỉnh mà cũng phải đành chịu khổ.
                        Hiệp gà đâu có biết, tất cả những chuyện này đều có bàn tay sắp xếp của một hồn ma. Đó là Trang, cô gái chết trẻ mà giờ đây là bạn của Hoa.
                        Tại nghĩa trang Bình Hưng Hòa, Trang và Hoa nói chuyện với nhau.
                        Trang nói:
                        - Em điều thằng Hiệp gà xuống Bến Tre rồi đó. Nó không thể kịp đi Tây Ninh vì công an sẽ bắt nó sớm. Chắc chừng vài tiếng đồng hồ nữa là công an sẽ tới rồi đó chị.
                        Hoa lo lắng:
                        - Có khi nào nó đi Tây Ninh bây giờ không em?
                        Trang tự tin:
                        - Nó không thể đi được. Em đã nhờ chiến hữu cầm chân nó lại rồi.
                        Hoa vẫn nghi ngại:
                        - Như vậy là nó cứ ở mãi dưới Bến Tre cho tới lúc bị bắt à?
                        Trang gật:
                        - Nó chỉ đi loanh quanh dưới đó thôi. Nó sẽ tính toán rất lú lẫn, không còn sáng suốt như bình thường nữa đó chị.
                        Hoa phân vân:
                        - Thằng đó khôn lắm. Coi chừng nó thoát đi được đó.
                        Trang cười:
                        - Không đâu chị. Chiến hữu em đã có thể ám ảnh người sống, làm cho họ mụ mẫm đi được chị à.
                        Hoa hơi yên lòng:
                        - Vậy thì thằng Hiệp sẽ sớm bị bắt thôi em nhỉ?
                        Trang cười tươi, nói:
                        - Dạ, đúng vậy đó chị.
                                                              *
                        Cảnh sát 113 hụ còi tiến vào Bến xe miền Tây. Đại hoảng hốt khi nghe tiếng còi hụ. Hắn nhớn nhác muốn thoát thân nhưng mấy cánh tay lực lưỡng của bảo vệ bến xe cùng anh em tài xế đã giữ chặt hắn lại.
                        Mọi người bàng hoàng khi cảnh sát lôi chiếc két sắt từ trong bao tải ra. Chiếc két đã bị phá khóa. Bên ngoài có những dấu máu tươi chưa kịp chùi sạnh.
                        Chiếc ví của hắn cũng bị kiểm tra tại chỗ. Nhiều tờ giấy bạc, trong đó có cả mấy tờ USD bị dính máu. Toàn bộ tang vật cùng với Đại bị áp tải về công an phường để lập biên bản.
                        Hùng, tài xế taxi cũng được mời đi theo để làm chứng và cung cấp tiếp thông tin cho cảnh sát.
                        Tại công an phường, Đại đã khai một phần vụ án. Lúc này, cũng chưa ai nghĩ tới vụ án mạng vừa xảy ra hôm qua tại cơ sở xuất nhập khẩu của vợ chồng Hoa và Sinh.
                        Nửa tiếng đồng hồ sau, tại trụ sở công an quận, khi vừa đọc biên bản vừa lập xong tại công an phường, một điều tra viên ngay lập tức à lên một tiếng rồi đập tay xuống bàn:
                        - Trời đất! Vụ giết hai vợ chồng bên Bình Thạnh nè. Vậy mà nó dám khai ở Đồng Nai.
                        Ngay lập tức, Đại được đưa vào lấy khẩu cung khẩn cấp.
                        Và chỉ chưa đầy 1 tiếng đồng hồ nữa, toàn bộ chi tiết vụ giết người dã man đã được Đại khai đầy đủ.
                        Vụ án được báo cáo lên cấp trên, do tính chất nghiêm trọng của vụ án, và do địa bàn xảy ra vụ án ở quận khác.
                        Công an thành phố lập tức rút toàn bộ hồ sơ về và triển khai ngay bộ phận truy bắt các hung thủ còn lại.
                        Hai tiếng đồng hồ sau, trừ Hiệp gà ra, còn lại đều bị bắt.
                         
                        *
                         
                        Một mình Hiệp gà lang thang ở cái thị xã nhỏ xíu, hắn nôn nóng vì không liên lạc được với bất kỳ thằng nào. Không biết tính sao, Hịêp gà nhất định quay trở về Sài Gòn để tìm đồng bọn.
                        Khi hắn vừa bước xuống xe ở xa cảng miền Tây, lập tức cảnh sát tiếng đến mời hắn tra tay vào còng.
                        Khi đã ngồi trên chiếc xe áp tải phạm nhân bịt bùng, Hịêp gà vẫn không sao hiểu được tại vì sao mình lại ngu ngốc đến mức độ đó? Tự nhiên lại quay trở về để nộp mạng?
                        Hắn hoàn toàn không biết, tất cả mọi người đều không biết những hành vi của bọn cướp đã bị đám bạn bè của Trang khống chế. Trang đã giữ đúng lời hứa với vợ chồng Hoa, cô đã đưa cả bọn vào tù.
                        Gây nợ máu ắt phải trả bằng nợ máu. Bọn Hiệp gà rồi sẽ bị pháp luật trừng trị đích đáng. Chỉ thương cho vợ chồng Hoa không nỡ rời bỏ đứa con thơ dại.
                        Trang an ủi:
                        - Anh chị đừng quá đau buồn, mỗi người đều có một số phận, mình khó mà cưỡng lại được...
                        Mãi tới lúc này, Hoa mới đủ bình tâm để hỏi Trang:
                        - Vì sao em chết? Em chết lâu chưa mà hồn vẫn chưa siêu thoát được?
                        Trang cười thật buồn:
                        - Chị ạ, chị có biết không, trước đây em cũng là một đứa con gái giang hồ. Em là người yêu của Đại. Vì thương yêu hắn ta, nghe lời hắn ta mà em đã bị gia đình từ bỏ. Theo Đại một thời gian, lúc hết tiền, hắn buộc em làm đủ thứ  “nghề” để đem tiền về cho hắn. Quá uất ức và tủi nhục, em đã chống cự lại hắn. Trong lúc xô xát, Đại lỡ tay xô em té đập đầu vào cạnh cửa. Em chết vì lý do đó... Em không siêu thoát được chỉ vì... cho mãi đến hôm nay, thân xác em vẫn còn bị vùi dập cẩu thả ở trong một cánh rừng cao su.
                        Hoa thương xót:
                        - Sao em không báo mộng để gia đình biết mà tìm đến đưa hài cốt em về quê nhà an táng đàng hoàng?
                        Trang cúi mặt giấu dòng nước mắt:
                        - Em đã về báo mộng nhiều lần, nhưng ba em là một người cứng rắn. Từ khi đăng báo từ bỏ em, ổng đã không còn nghĩ tới em nữa...
                        - Thế còn mẹ em?
                        Hoa nôn nóng.
                        - Mẹ mất từ sau khi em bỏ nhà đi... Ngày mẹ mất em cũng không về... em nghe nói mẹ đã chết mà không nhắm được mắt.
                        Trang không dằn được nữa, cô bật khóc nức nở.
                        Hoa ôm Trang vào lòng dỗ dành:
                        - Thôi, mọi việc đã qua rồi, em đừng quá đau buồn nữa... Chị sẽ nhờ người thân của chị đem hài cốt của em về an táng...
                        Trang mừng rỡ, ngước mắt nhìn Hoa:
                        - Chị nói thật, phải không chị?
                        Hoa mỉm cười, gật đầu:
                        - Thật! Em yên tâm đi... Rồi em sẽ cùng anh chị siêu thoát...
                        Tang lễ của vợ chồng Sinh – Hoa vừa xong, công việc trong nhà cũng được người thân của hai vợ chồng sắp xếp tạm ổn.
                        Tối đó, mẹ Hoa đang ngủ bỗng bà có cảm giác một bàn tay đang kéo chân bà dậy.
                        - Ai đó?
                        Mẹ Hoa hoảng hốt hỏi lớn.
                        Không một tiếng trả lời, mà câu nói của bà cũng không đánh thức ai khác trong nhà. Tất cả đều ngủ mê mệt sau mấy ngày đêm liên tiếp vất vả lo đám.
                        Mẹ Hoa co chân lên, xoa xoa vào chỗ có người nắm khi nãy, lòng bà còn hơi nghi hoặc, không biết mình mơ hay có thật thì bỗng bà thấy có một bóng trắng đứng sát bên giường.
                        - Mẹ... Mẹ đừng sợ, con là Hoa đây!...
                        Bà mẹ thảng thốt kêu lên:
                        - Trời! Hoa... có phải là con thật không?
                        Hoa nghẹn ngào chìa tay ra:
                        - Mẹ... mẹ cho con bế con của con một chút đi, con nhớ nó lắm...
                        Bà mẹ có hơi ngần ngại, nhưng rồi tình thương con, thương cháu trong bà đã trỗi dật mãnh liệt, lấn át nỗi sợ hãi trước một vong linh mờ ảo. Bà ngồi dậy nhường chỗ cho Hoa nằm xuống cạnh bên con.
                        Hoa vừa vuốt ve, nựng nịu con vừa nói chuyện với mẹ trong tiếng khóc nghẹn ngào, tức tưởi.
                        Thời gian chầm chậm trôi qua. Một luồng gió lạnh từ đâu bỗng thổi thốc vào nhà làm lay động mùng và màn cửa. Hoa ngồi bật dậy:
                        - Mẹ ơi, sắp tới giờ con phải đi rồi! Con xin gởi lại đứa con này cho mẹ...
                        Hoa lại khóc nấc lên. Bà mẹ ôm con vào lòng an ủi:
                        - Con hãy yên lòng, mẹ và những người còn sống sẽ chăm sóc cho con của con nên người...
                        - Mẹ ơi, con nhờ mẹ giúp cho con một việc nữa...
                        Hoa hấp tấp.
                        - Việc gì, con cứ nói.
                        Bà mẹ nhìn Hoa chờ đợi.
                        Hoa thầm thì:
                        - Sáng ngày mai, ba mẹ hãy đến rừng cao su Bình Lực, tại lô số hai mươi bốn, từ mé lộ đi vào độ chừng hơn tám trăm thước, dưới đó là hài cốt của một cô gái. Cô Trang này là ân nhân của vợ chồng con, nhờ có cổ nên bọn cướp mới bị bắt gọn một cách nhanh chóng như vậy. Con xin ba mẹ hãy đem hài cốt cô ấy về chôn cất cạnh mộ của vợ chồng con. Có như vậy, hồn vía cô Trang mới có thể siêu thoát được. Mẹ, mẹ giúp con nghe mẹ?
                        Mẹ Hoa gật đầu:
                        - Được rồi, mẹ ghi nhớ lời con nói. Nhất định ba mẹ sẽ làm theo yêu cầu của con. Con hãy yên tâm, đừng bận lòng gì nữa...
                        Hai mẹ con bị rịn chia tay mãi mà không rời nhau ra được.
                        - Chị ơi, nhanh lên đã tới giờ rồi...
                        Có tiếng gọi nho nhỏ vang lên. Cái bóng trắng của Hoa mờ dần, mờ dần rồi tan biến hẳn.
                        Lúc này bà mẹ mới khụyu xuống khóc nấc lên. Từ nãy giờ bà cố cắn chặt vành môi đwsn ứa máu để dằn tiếng khóc, vì bà nghe nói, nếu người thân khóc lóc, hồn người chết sẽ vương vấn hoài không thể đi đầu thai kiếp khác được...
                        Hết
                        Nguyễn Thị Mộng Thu 
                        <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:52:21 bởi nguyenthu >
                        #42
                          nguyenthu 10.08.2009 21:21:13 (permalink)
                          KỲ NHƠN CHÁNH ĐẠO
                           
                          Trong cái xóm nhỏ có cái nhà nhỏ. Trong cái nhà nhỏ có một thằng nhỏ. Cái thằng nhỏ có tính lê la và tò mò quá cỡ. Tối ngày nó ở trần, mặc có cái quần xà lỏn dây thun dãn chạy loanh quanh trong xóm, thấy cái gì cũng ghé vào coi ké.
                          Nó đứng chân chèo chân chống, một tay nắm quần kéo lên, một tay quẹt mũi lia lịa. Cái bộ dạng ròm nhom, còi xương của nó cả xóm ai cũng quen hết thành ra không ai thèm để ý làm khỉ gì.
                          Nó la cà quanh cái đình tối ngày. Mấy chỗ đó có nhiều chuyện lạ, những câu chuyện in đậm vào đầu nó lâu thiệt là lâu. Mấy chục năm có dư nó cũng cứ nhớ miết. Mỗi lần hết chuyện kể cho bạn bè nghe là nó lại ngồi lục lọi trong đầu, thế nào cũng lòi chuyện ra thôi, he he...
                          Đầu những năm 70 của thế kỷ trước, cái thời chiến tranh như cơn bão ùa về khắp nơi. Dân khắp nơi cũng kéo nhau vào thành phố sống. Cho dù nghe tiếng những chiếc máy bay um xùm trên bầu trời, cho dù những chiếc xe nhà binh chạy ào ào khắp nơi thì chiến tranh hình như cũng còn xa lắm.
                          Có nghĩa là an toàn. Ừ, an toàn thì ở. Cái hồ vịt bơi cạn nhách phía sau xóm bị lấp đi để xây nhà. Dân tứ phương về xây lên những căn nhà coi ngộ lắm. Cái nhà nào cũng có mấy cây tràm cong queo làm cột. Những miếng tole sét đỏ lè làm mái. Mọi thứ có thể gọi là miếng thì dùng làm vách!!! He he, nhà kiểu đó thì lổ thủng tùm lum, cứ dán con mắt vô là trong nhà có cái gì cũng thấy ráo!!! Mà trong mấy cái nhà đó thì có cái gì đâu! Chỉ có những con người là coi được thôi...
                          Cái sự lộn xộn của thời thế cũng làm cho người ta tin nhiều vào những điều khó hiểu, tạm gọi là huyền bí đi. Những con người khổ sở với cuộc sống nhứt thì lại tin tưởng mạnh mẽ vào những thứ bói toán, chiêm tinh, lên đồng gọi cốt ghê lắm.
                          Phía cuối xóm, cuối những con hẻm nhỏ xíu và tối thui có một cái miểu. Cái miểu này thờ cậu Bảy! He he, thằng nhỏ đó cũng thứ bảy, nó thấy nó với cậu Bảy ngồi trong miếu tâm linh với nhau lắm nghe.
                          Mỗi ngày nó đi học, chân bước ngang qua cái nhà sơn đỏ đỏ vàng vàng, bên trong tối om om và mù mù nhang khói nó lại thấy người khoan khoái. Có khi nó trốn học, chui núp trong tán cây bồ đề trước sân để xem người ta lên đồng.
                          Hì hì, Cậu Kim Hoàn, cậu đồng của miểu ngồi trước cái bàn thờ, trên đầu phủ cái khăn đỏ, cả người mặc áo đỏ coi ngộ thiệt. Tiếng nhạc, tiếng song loan, tiếng mấy bà cốt phụ lầm rầm hát bài chú nghe huyền bí hơn trong màn khói nhang nghi ngút.
                          Khi cậu đồng run run người là lúc thằng nhỏ cũng cảm thấy mắc tè nhứt. Người nó lạnh ngắt, run theo nhịp run của cậu đồng. Rồi cậu đồng đứng dậy, nhảy múa uốn éo như con rắn. Người cứ lắc lắc, giựt giựt y hệt mắc kinh phong. Cuối cùng một tiếng hét vang trời. Cậu Bảy nhập rồi!!!
                          Mấy người tới nhờ lên đồng vái thôi là vái, cong lưng cụp xương sống, hì hì. Cậu Bảy lại ngồi xuống. Rồi cậu nói. Cậu nói giọng con nít y như thằng nhỏ. Cậu nói năng nhỏ nhẹ, thưa gửi lễ phép lắm. Thiệt là con nhà có học mà!!!
                          Lúc này bà con bắt đầu những câu hỏi. Hỏi gì cậu Bảy cũng trả lời đàng hoàng. Cúng nhiều tiền trả lời nhiều, cúng ít trả lời vài câu là thăng. Cậu Bảy thăng cái rụp! Không cần lôi thôi như lúc nhập. Cậu đồng Kim Hoàn chỉ gục cái đầu xuống là người ta biết cậu thăng rồi.
                          Rồi mấy bà cốt phụ lấy cái khăn ra. Cậu Kim Hoàn ngồi rũ rượi, mặt mày trắng xanh như mới bị hút hết máu. Nhưng tới lúc này thì hết vui rồi, thằng nhỏ leo xuống, khéo léo lòn ra sau nhấc cái vách thủng của miểu lên để chui vô. Hì hì, ngay dưới cái bàn thờ đầy khói và tối mù của cậu Bảy chớ đâu. Tay quơ một cái chớp đại thứ gì người ta cúng trên bàn thờ rồi từ từ chui trở ra. Xong, a lê dọt cho lẹ...
                          Mấy thằng con nít trong xóm khoái coi nhập đồng như nó lắm nhưng đứa nào cũng sợ. Lỡ mà cậu Bảy thấy mình hạp nhãn hơn cậu đồng Kim Hoàn bèn nhập vô trong người mình luôn, không chịu thăng nữa thì có mà tiêu đời!
                          Thằng nhỏ cũng sợ muốn té đái nhưng cái tính tò mò của nó còn nhiều hơn. Thành thử nó coi hoài rồi ra kể cho tụi kia nghe.
                          Kim Hoàn là cái tên người ta kêu cậu đồng thôi. Thiệt ra cậu tên là Hoàng. Cậu là con gái của bà già xây cái miểu cậu Bảy.
                          Cậu Hoàng là một cô gái nhỏ người, hai con mắt một mí nhỏ nhỏ mà dài mút. Thằng nhỏ cứ kêu cậu có con mắt phượng! Trong cái đầu con nít của nó biết cái gì phượng với loan mà cứ bày đặt. Nhưng không kêu như vậy thì làm sao tả cho mấy thằng kia biết con mắt cậu Hoàng.
                          He he, cậu Hoàng chỉ ru rú trong nhà, không khi nào thấy bước ra ngoài xóm, nên không có mấy người biết mặt mũi cậu đâu! Cậu Hoàng trắng lắm, trắng nhợt luôn. Thằng nhỏ cho là cậu bị cậu Bảy hút máu hoài nên mới như vậy thôi.
                          Có khi nó lầm bầm chửi cậu ngu quá mạng, cứ ngồi cho cậu Bảy nhập hoài thế nào cũng có ngày tửng luôn thì hết biết. Trời ơi! nó làm sao mà biết cậu Hoàng không ngồi như vậy thì đói nhăn răng còn đâu mà sống để xanh với xao, hì hì, con nít mà...
                          Cuối xóm là miểu cậu Bảy, đầu xóm có ông chiêm tinh gia Sáu Hòa. Hì hì, ông này coi sáng láng, tóc dày chải sáp thơm láng cón. Răng thì ba bốn cái bịt vàng, một hai cái bịt bạc. Hai bàn tay đeo thôi lủ khủ nhẫn, đá có vàng có... Thêm cái kiếng trắng gọng vàng, và bộ đồ Tây trắng phau trông ổng như mấy tay chơi hạng dách lầu chớ hổng giỡn nhe.
                          Ông này coi chỉ tay, bói bài, bói ngải, xem tướng, xem nút ruồi... Ổng toàn coi bói cho nhà giàu, người ta đi xe hơi tới coi không à. Hoặc xe hơi tới rước ổng đi chớ không có thấy ai từ sau hẻm ra nhà ổng coi bói ráo. Nhưng ông Sáu Hòa là người rộng rãi, thỉnh thoảng ổng hay coi miễn phí cho vài người đi ngang qua mặt ổng mà hổng chào hỏi. Thường thường là phán rằng mặt mày ấn đình đen thui, coi chừng bịnh ngặt nghèo hay coi chừng xe cán bấy nhầy nghe con.
                          He he, những người được coi miễn phí thường chửi váng trời xong lại chui vô miểu cậu Bảy coi lại cho chắc ăn!!!
                          Nhà ông Sáu Hoà là cái nhà lầu duy nhứt trong xóm. Nhà được đúc có cái từng lửng để cho phía trước cao mút cà tha. Căn phòng ông Sáu ngồi coi bói cao vút lên tăng thêm vẻ huyền bí cho những lời phán thiên cơ của ổng. Hai bên vách lại được anh Bay con trai ổng vẽ những hình thù kì dị. Những người đàn bà ở trần, mắt mũi lệch lạc, những con vật kì lạ nằm trên vách tường trong khung cảnh tối sẩm làm cho người ta thêm rót ổng!!!
                          Ông Sáu Hoà trồng ngải đầy trước cửa nhà ổng. Hôm nhà làm xong, ăn tân gia ông Sáu mời một ông Chà Và đen thui tới nhà. Hai người nói chuyện bằng thứ tiếng gì nghe không ai hiểu ráo.
                          Ông Chà và ăn bốc bằng tay không à! Ăn xong ổng móc trong người ra một cái củ gì đỏ lét, to và tròn như củ hoa huệ tây, tặng cho ông Sáu!!!
                          Ông Sáu mừng lắm, cầm tay ông than củi lắc lắc miết. He he, hai anh Bom và Bay con ông Sáu khoe rằng cái củ đó là củ ngải chúa. Nhà nào trồng củ ngải chúa thì gặp toàn chuyện hên. Ai mà lấy cắp củ ngải chúa thì nó phá cho mà tàn mạt. Ngải chúa chỉ được tặng thì mới có giá trị.
                          Còn nữa, cây ngải mọc lên từ củ ngải này dùng làm bùa yêu thì bá chấy. Chỉ cần bỏ bùa cho ai là người đó thương mình chết mê chết mệt!!! Lá ngải lại độc lắm, chưa chế biến mà cắn một phát thì lăn ra sùi bọt mép, giãy đành đạch mà chết. He he, cây ngải chiến thiệt! Ai đi ngang qua cũng tránh xa xa chứ hổng dám lại gần...
                          Đầu xóm, cuối xóm có hai nhà khoa học huyền bí. Giữa xóm là cái đình mái cũ rêu phong. Kế bên cái đình có một ông đạo! Như vậy thì cái xóm nhỏ mới cân bằng chớ.
                          Ông đạo già chưa thì thằng nhỏ hổng biết. Vì ổng để tóc dài, búi tó một cục bự trên đầu, lại râu ria năm chòm dài như Đổng Kim Lân trong tuồng San Hậu vậy.
                          Cái nhà ổng không phải là cái nhà lầu như ông Sáu Hoà, cũng hổng phải cái nhà chắp như miểu cậu Bảy mà là căn nhà nhỏ tường gạch mái ngói có cái gác gỗ. Trên cửa, hai cánh cửa lá sách, là một cái biển nhỏ có mấy chữ Kì Nhơn Chánh Đạo!
                          Kì Nhơn! Nghe là khoái rồi! Ông đạo cũng kì thiệt là kì! Sao kì? He he, trong nhà không có một cái thứ gì bằng kim loại hết. Toàn là bằng gỗ hay đá không à. Ổng ăn chay trường với gạo lức và rau đậu thôi. Mà gạo ổng ăn cũng không phải chuyện chơi. Ổng lên Hóc Môn vác một bao lúa về, thứ lúa không gặt bằng liềm mà dùng cái lược bằng gỗ suốt từng bông. Rồi ổng đổ ra phơi. Lúa khô, đem bỏ vô cái cối giã. Giã miết, cái chày gỗ cứ thọc thẳng vô giữa cối, không thọc cạnh cối, nát gạo hết. Giã một hồi, đem đổ vô cái thúng rồi thằng đệ tử đứng trên cái ghế bưng cái thúng đổ xuống. Ông đạo kẹp chiếc chiếu giữa hai đùi, hai tay nắm hai mí chiếu làm thành cái quạt, khép vô, mở ra quạt phành phạch. Trấu bay tá lả còn gạo và lúa chưa tróc vỏ rớt xuống. Quạt cho tới khi sạch trấu, ông đạo cho mớ hổ lốn còn lại vô cái sàng. Sàng tới sàng lui, lúa như bị ếm xì bùa gom một đống vô giữa. Tay ổng hốt nhẹ một cái, mớ lúa bị gom vào tay cho vô cối. Còn lại trên sàng là gạo, thứ gạo chưa tróc vỏ lụa còn nâu nâu vàng vàng. Lúa chưa giã lại cho thêm vào cối giã tiếp. He he, bữa ăn nhiêu khê thiệt.
                          Chưa hết, Kì Nhơn còn nấu đồ ăn bằng nồi đất không à. Rau đậu thì lặt và cắt bằng con dao gỗ và dao đá. Ông này sống y như đang ở thời đồ đá vậy.
                          Ai hỏi sao phải làm như vậy cho mệt thì ổng cười cười hông thèm trả lời. Chỉ có thằng nhỏ là ổng trả lời thôi vì nó cũng hơi kì công khi ngồi xem thầy trò ổng lạch cạch làm ra hột gạo!
                          Ổng nói là kim loại chỉ đem lại cho con người toàn là đau khổ và chiến tranh. Ổng chủ trương con người không nên dùng kim loại.
                          Coi nè, ngày xưa thì cung tên, đao kiếm, bây giờ thì súng đạn, xe tăng, máy bay, đại bác. Hết thảy những thứ đó toàn là chế tạo từ kim loại. Kim loại làm cho cuộc sống con người tiện nghi hơn, loài người mạnh mẽ hơn thành ra họ hăng máu chém giết hơn!!!
                          Thằng nhỏ gật riết cái đầu chứ có hiểu khỉ mốc gì. Nó nghĩ thầm lấy đá bự chọi cũng bể đầu chết queo chớ hổng giỡn à nhe!!! Với lại ông đạo kì thị kim loại chớ cái bàn cái ghế trong nhà ổng cũng dùng cưa mà cưa ra chớ sao làm được. Cả cái lược gỗ suốt lúa của ổng cũng phải dùng cưa lọng mà lọng ra chớ đâu!!! Còn lúa của ổng suốt về người ta cũng bỏ xe ngựa chở lên, xe ngựa bằng cây cũng chêm sắt tùm lum thì sao?
                          Nói vậy thôi, ông đạo nghĩ và cố làm như vậy cũng là hay quá rồi. Nếu là nó thì chịu thua thôi! Sống như vậy hèn gì ổng cho mình là Kì Nhơn cũng phải.
                          Ông đạo cây! Thằng nhỏ sau khi về nhà hỏi ba nó thì quyết định kêu ông Kì Nhơn là ông đạo cây, vì ổng kị kim loại, mà kim khắc mộc nên ổng thuộc mộc, chánh hẩu là cây!
                          Nó mang cái tên mới chạy tót ra méc cho ông đạo, ổng cười khà khà hông nói gì.
                          Ông đạo cây sống trong căn nhà với thằng đệ tử chừng mười mấy tuổi. Cái thằng này tên Sĩ mà không biết vì sao trong xóm kêu là Xăng!
                          Thằng Xăng đen thui vì hồi ở quê nó đi chăn bò tối ngày. Nó đá cầu số dách. Hai cái chân thẳng dẻo lắm. Đá hoài cầu hổng rớt. Hai con mắt nó tròn, bự thô lố và lộ trao tráo thấy cũng huyền bí!!!
                          Ông đạo cây cũng hơi giống Cậu Hoàng. Cả hai ít khi ra ngoài. Chỉ lâu lâu ổng đi lấy lúa về ăn. Còn chuyện chợ búa là của thằng đệ tử. Thằng nhỏ thấy Kì Nhơn tối ngày ngồi trong nhà đọc sánh, không biết là sách gì toàn chữ Nho không.
                          Sau này nó ráng ghi nhớ mấy chữ ngoài bìa đem hỏi ba nó thì mới biết là mấy bộ tứ thư ngũ kinh thời xưa nhà nho học đi thi...
                          Ông đạo cây đọc đi đọc lại rồi suy nghĩ, ổng nghĩ cái gì thì ai mà biết? Cả xóm đều kính trọng ổng ghê lắm, Kì Nhơn mà.
                          Lâu lâu ổng ngồi ngoài cửa nói chuyện khơi khơi. Người đi qua, người đi lại, mấy thằng nhỏ bu đông ken nghe ổng nói. Ổng nói cái gì về ngũ hành, âm dương, lẽ trời, lòng người... ôi buồn ngủ muốn chết. Thằng Xăng ngồi sau lưng hai con mắt trợn trừng trừng mà cái đầu cứ gục xuống lia... Nó là đệ tử lâu ngày mà còn ngủ gục thì nói gì mấy thằng con nít nhóc nhóc như thằng nhỏ.
                          Thằng nhỏ khoái nhứt là những buổi tối trời không trăng. Hai thầy trò ông đạo ra sân tập võ! Ui trời, những bài quyền kiện thân của ông đạo uyển chuyển và đẹp mắt như thái cực quyền của Võ Đang vậy đó. Lâu lâu ông lại nhún một cái nhảy ào qua đầu thằng Xăng nhẹ nhàng.
                          Thằng Xăng còn nói ngày ba mươi tối trời ông đạo nhảy một cái lên tới nóc đình luôn á! Khinh công cao siêu thiệt. Còn nữa! Cái đầu ông Kì Nhơn cũng nhóc kì vật, vì ổng không chịu gội đầu bằng xà bông. Cả năm ổng mới gội đầu một lần vào dịp ba mươi tết bằng bồ kết. Nhưng bộ râu thì ổng chăm sóc dữ lắm. Chải cả ngày, rồi tắm cho nó nữa chớ.
                          He he, kì vật không sống trên râu Kì Nhơn nổi đâu...
                          Rồi có cái mùa hè nghe tiếng bom đạn khắp nơi. Người ta nháo nhác tìm kiếm nhau. Có người tìm hoài không thấy, nước mắt chảy khô như Vân Tiên khóc mẹ.
                          Ông Sáu Hoà tìm ở đâu về một trái cầu bằng pha lê trong suốt. Ổng đem trái cầu để trước nhà rồi kêu hết đám con nít tới dòm vô. Dòm xong, bước ra ổng hỏi, thấy gì không? Mỗi đứa nói một kiểu! Thằng nhỏ nói thấy có mây trong trái cầu, ông Sáu cho nó hai chục đồng rồi biểu đứng qua một bên. He he, cái đồng hai chục tám góc cầm nằng nặng trên tay nghe thiệt mát quá!
                          Tới thằng Xăng, con mắt lồi trao tráo cũng vô dòm, xong trả lời thấy mây trong trái cầu!!! Ông Sáu cũng móc cho nó hai chục rồi biểu đứng qua một bên. Tới đó ổng đem trái cầu vô cất. Mấy thằng nhỏ tới sau không được coi đứng tẻn tò y như anh chàng bị cô nàng cho leo cây vậy!!!
                          Ông Sáu hỏi:
                          - Hai thằng có muốn giúp tao coi vong không?
                          - Không được là không được!
                          Thằng nhỏ nói liền:
                          - Ba tui mà biết ổng đánh tui nát mông.
                          Ông Sáu gật đầu:
                          - Ừ, mày là hổng được rồi, ba mày không chịu cho con làm chuyện đó đâu. Còn thằng Xăng, thì sao?
                          - Ông có trả tiền không?
                          Xăng hỏi liền.
                          - Có chớ mày, mỗi lần coi xong là trả liền. Ông Sáu nói thiệt nghe, con là có con mắt hay lắm, người xưa kêu là huệ nhỡn chứ hổng có chơi à. Con mắt của con mới giúp người ta coi vong được, biết không?
                          Ông Sáu nhìn Xăng, cười nói.
                           À, quên nói cho bà con biết, coi vong tức là coi người ta có chết chưa, nếu chết rồi thì có vong hồn hiện ra trong trái cầu pha lê. Kể cho khổ chủ biết hồn ra sao, đói, rách, lạnh lẽo và quan trọng nhất là xác đang ở đâu?
                          Ông thầy bói sẽ làm phép hay đốt ngải trên trái cầu pha lê, có phủ cái khăn đỏ. Sau khi làm phép xong, lật cái khăn đỏ ra, kiếm một đồng nam có huệ nhỡn mà dòm vô đó coi rồi kể cho người ta nghe.
                          Dạo đó người ta coi vong ồ ạt. Mấy bà vợ lính tối ngày đi coi vong, coi mà thấy vong thì khóc như mưa, còn không thấy thì vui như tết.
                          Ôi! Rồi chiều bữa đó, ông Sáu Hoà biện một cái khay gỗ có cả đống trái cây mang sang nhà Kì Nhơn xin phép cho thằng Xăng sang giúp ổng coi vong.
                          Kì Nhơn trầm ngâm không thấy nói gì. Ông Sáu ngồi tán thằng Xăng thành Kì Đồng, nào là nhờ theo ông đạo lâu ngày, ăn chay trường lại nghe giảng toàn đạo lí nên thằng nhỏ có huệ nhỡn. Gặp cái thời mạt pháp, ra giúp cho người ta cũng là làm phước chớ có sao đâu...
                          Ông đạo cây im lặng. Ông Sáu nói mỏi miệng đành ra về. Ông Sáu vừa về thì Cậu Hoàng lò dò vô! He he, bên miểu cậu Bảy cũng mới sắm một trái cầu pha lê để coi vong. Nghe nói thằng Xăng có huệ nhỡn nên cậu Hoàng sang nhờ ông đạo cây cho nó qua giúp.
                          Thiệt tình, cái thằng mới hôm qua còn lo giã gạo giúp thầy nó hôm nay thành người có giá quá xá!
                          Thằng Xăng tự sang nhà ông Sáu lẫn bên miểu cậu Bảy để coi vong. Mỗi lần coi xong có tiền, hổng biết bao nhiêu. Nó coi miết, hết nhà ông Sáu tới miểu cậu Bảy.
                          Rồi từ từ chiến cuộc bớt ác liệt, người coi vong cũng ít đi. Ông Sáu không còn nhờ thằng Xăng coi vong nữa. Chỉ còn bên miểu cậu Bảy là có người coi hoài. Không phải là coi vong mà là coi số đề!
                          He he, bà con tới miếu đông như đi chợ. Thằng Xăng coi hay lắm, số nó đọc ra trúng hoài nên nó trở thành người nhà của cậu Hoàng luôn. Tối nó chui về nhà ông đạo ngủ, sáng qua trực luôn bên miểu.
                          Ông đạo chỉ còn mình ên lui cui lo giã gạo nấu cơm ăn. Ổng ít ra nói chuyện nữa. Có lần ông nói về nồi canh, trong nồi canh nấu xong, mở nắp thấy có con sâu nổi lình bình trong đó thì làm sao? Thì đổ chớ sao! Ừ, đem đổ đi chớ ai mà dám ăn. Bởi vậy ngày xưa ông bà nói là con sâu làm rầu nồi canh. Nồi canh cho dù không tội gì, cũng chỉ vì con sâu mà thành đồ bỏ đi. Vậy mà có người tỉnh bơ vớt con sâu ra, canh lấy bán cho thiên hạ ăn tiếp. Nói là rau có sâu thì không có thuốc trừ sâu, ăn tốt hơn là rau toàn thuốc trừ sâu.
                          He he, cũng nồi canh thôi mà nhìn khác đi thì mọi chuyện cũng khác đi rồi. Cuộc sống là như vậy, đạo giảng hoài, người nghe một lần hiểu liền, người nghe riết hai con mắt trao tráo cũng không hiểu. Quan trọng là cái tâm chứng đạo chớ còn huệ nhỡn, thòi lòi nhỡn, mắt to, mắt hí cũng có gì là hay đâu!
                          Thằng nhỏ há hốc cái miệng đứng kéo quần nghe ông đạo cây nói. Hiểu khỉ khô gì, chỉ nhớ như in cái mặt ông đạo buồn thiu, miệng chảy dài làm cho hàm râu đã dài còn dài hơn mấy lần...
                          Thằng Xăng lớn bộn, đã thấy bóng mấy cha quân cảnh trên quân vụ thị trấn lò dò về xóm tìm bắt lính. Mấy thằng con trai lớn lớn trong xóm lo học bài chết luôn. Rớt tú tài anh đi trung sĩ nghe!
                          Thằng Xăng vừa đủ tuổi vô lính. Nó không thèm về bên nhà ông đạo cây nữa, ở luôn bên miểu cậu Bảy với cậu Hoàng.
                          He he, cậu Hoàng với nó bi giờ xà nẹo, xà nẹo với nhau như hai con sam. Thằng nhỏ có bữa dòm qua cái vách thủng của miểu thấy Thằng Xăng với cậu Hoàng trần truồng ôm nhau lăn vòng vòng trên cái đi văng trong buồng cậu Hoàng. He he, nó sợ xanh mặt, nhắm hi hí hai con mắt cắm đầu chạy như bay sang nhà ông đạo cây. Vừa hổn hển thở nó vừa mét ông đạo.
                          Ông đạo thở dài, cái đầu gục xuống như khi cậu Hoàng bị cậu Bảy thăng. Vậy thôi, không thấy ổng nói gì, thằng nhỏ cụt hứng!
                          Tưởng đem cái chuyện động trời mét ổng thì ổng sẽ phi thân sang miểu lôi thằng Xăng ra đập cho một trận chớ, ai dè...
                          Tới khi thằng nhỏ quay lưng đi về ổng mới kêu vô dặn:
                          - Mai mốt đừng bao giờ thò con mắt dòm vô khe nhà người ta nữa nghe chưa?
                          Thằng nhỏ tiu nghỉu:
                          -  Dạ, nghe rồi, tởn rồi, mấy người lớn làm cái chuyện gì kì thiệt... Thằng Xăng lên Quang Trung, cậu Hoàng vác cái bụng lum lúp ra đưa nó đi. Ông đạo đứng xa xa như tránh cái đống rác.
                          Thằng Xăng bỏ đi không nói gì với ông đạo. Ông Sáu Hoà cũng vậy. Nó bang bang đi qua lẹ quá nên ông Sáu không kịp kêu nó lại để tặng câu ấn đình đen thui...
                          Nó lên trên đó mấy tháng ra lính. Cậu Hoàng chạy tiền cho nó về làm lính kiểng ở bộ tổng tham mưu. Chưa được ba bữa, hôm đó láng cháng ra chỗ ngã sáu Hiền Vương để đón xe vô Từ Dũ thăm cậu Hoàng đẻ thì xe nhà binh tông một cái chết ngắt.
                          Thằng Xăng chết rồi! Ông đạo cây giảng một bài nghe ghê tới bây giờ. Ổng nói dưới quê ổng, có con sông nhỏ, một ngày kia cóc kéo nhau nhảy xuống sông bơi sang bờ khác, đàn đàn lũ lũ. Cóc mà bơi gì! Chết đuối quá chừng, xác trôi nghẹt sông, vậy mà cóc cứ rủ nhau sang sông.
                          Thì ra bên này sông có con rắn chúa có mào như con gà. Con rắn chúa gáy te te, bầy cóc sợ rắn chúa ăn hết nòi giống nhà cóc, ăn tới tuyệt tử tuyệt tôn nên rủ nhau bơi qua sông mà trốn đi.
                          Con cóc còn biết đất không sống được mà bỏ đi thì con người làm sao mà không bỏ đi. Gần đến ngày ông đạo bỏ xứ mà đi, trên sông có những thứ trái không biết của cây gì trôi đầy. Trái y như cái đầu người nhỏ cở ngón chân cái. Cũng có mắt mũi miệng và tóc tai um xùm. Những cái đầu còn có mũ mão y như những quan viên ngày xưa.
                          Có người làm gan vớt lên, đem chẻ ra thấy chảy nhớt lấy nhầy, màu xanh xanh, mùi tanh bắt ói.
                          Ông đạo bỏ xứ đi luôn, tâm lo tu, trí lo dạy cho thằng Xăng nên người. Có biết đâu số trời khó tránh, dây dợ cứ vướng vất hoài. Thằng nhỏ bây giờ không còn lo kéo quần nữa, chỉ đứng chu mỏ nghe ông đạo nói. Cái mỏ nó chu ra y như mỏ khỉ...
                          Thằng mỏ khỉ nghe tiếng cậu Hoàng hát ru con ầu ơ phía cuối xóm. Cái miểu cậu Bảy không còn bàn thờ vàng vàng đỏ đỏ nữa. Cậu Hoàng có tiền đã xây lại thành cái nhà gọn gàng, mái ngói, tường gạch, gác gỗ y như nhà ông đạo cây...
                          Ông đạo cây giảng bài đó là bài cuối. Thằng nhỏ cũng gặp ông lần đó là lần cuối. Thì ra ông muốn nói chỗ này không còn ở được nữa, ông phải ra đi. Cùng trời cuối đất! Chỗ nào là đất lành cho ông đây?
                          Kì Nhơn ơi là Kì Nhơn, ba chục năm sau thằng nhỏ thành thằng già lắm chuyện đọc thấy Chiêu Hổ ngày xưa viết những điều tai dị giống y như chuyện cóc nhái với sọ người mà ông kể. Thì cũng như nồi canh có con sâu thôi, nhìn khác thì ra khác, muốn thì ăn không muốn thì đổ...
                          Hết
                          Nguyễn Thị Mộng Thu 
                          <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:53:19 bởi nguyenthu >
                          #43
                            nguyenthu 10.08.2009 21:22:38 (permalink)
                            NHÂN DUYÊN ĐỊNH SẴN
                             
                            Con đường chia một cái xóm cũ làm hai. Bên đông là phần xóm có cái miếu Bà, bên tây là đình thờ Ông!
                            Không biết cái thằng kiến trúc sư nào vạch một nhát vẽ vô tình như vậy? Hai vợ chồng bao năm vẫn thuộc chung một làng, một xóm bây giờ lập tức bị chia hai.
                            Bọn con nít đứng dòm đám phu lục lộ đổ đá làm đường kháo nhau Ông thần bị vợ bỏ, hì hì!
                            Rồi không biết sao cái tin đó lan truyền như thư hoả tốc. Người ta nói Bà chán Ông nên nhập vô thằng kiến trúc sư vạch một nhát trên bản đồ. Ôi cái vệt chì mỏng teng ấy bi giờ là con đường nhựa to chà bá, xe cộ chạy như điên. Xe nhiều quá, con nít bên này không chạy sang chơi với con nít bên kia được nữa. Cây đa bên này cũng đứng dòm cây đa bên kia trong nỗi tuyệt vọng cắt chia...
                            Cái miểu Bà thờ vợ ông Thần Hoàng, chuyện này ai mà không biết. He he, thiệt không? Đám dân lao động chữ nghĩa không nhét tròn cái lá mít biết gì mà nói!!! Rành rành hàng chữ ghi trên miếu là Thiên Hậu miễu kia! Miếu bà vợ ông Trời chứ có phải vợ Thần Hoàng bẹt hạng đâu.
                            Nhưng kệ, ông Trời xa chết mẹ biết là ông nào! Đem gả Bà cho ông Thần Hoàng có lý hơn!!!
                            Vậy là tự nhiên Thần Hoàng có vợ. Ngày xưa nghe nói đám cưới thánh thần to lắm. Long Vương mưa một trận thiệt là trời đất mịt mờ để làm quà cưới. Chim sáo đen bay kín trời kêu chí chát y như dàn đồng ca. Cua đồng bò lổn ngổn đi ăn cưới. Ừ cua đồng nhiều nhóc! Trước cửa miếu bà lúc nào cũng có vài con cua đồng bò ra bò vào. Con đường nhựa làm xong, xe chạy vụt qua cán một cái dẹp lép. Những chú cua dẹp lép, bốc mùi teng teng như mùi rỉ đồng.
                            Vì lúc nào cũng có cua đồng phục trước miếu nên bọn con nít lại nói bà tên là bà Còng!!?? Trời thần thiên địa ơi! Sao không là bà Cua mà là bà Còng? Dễ ẹt, nghe câu hát ru nè:
                            Gió đưa gió đẩy
                            Về rẫy ăn còng
                            Về sông ăn cá
                            Về đồng ăn cua...
                            Vùng đất này xưa là đám rẫy trồng bầu bí dưa cà rau mướp mà. Rẫy thì có còng, còn đồng mới có cua. Bởi vậy bà Còng là con còng tu lâu quá thành thần. Bà thành thần rồi thì cua còng gì cũng phải về chầu phục. Nhưng còng là con cháu nên bà miễn, bắt cua chầu cho đã, he he...
                            Thánh thần cũng có tình riêng chớ. Hổng riêng tây gì ráo thì lấy chồng mần chi!!!
                            Cây đa bên miếu Bà không có ma. Đàn bà con gái sợ ma lắm nên cây đa bên đó hiền hơn. Nó cũng là cây đa con gái. Nhỏ chút chun, không có ba cái mớ rể phụ loà xoà lung tung.
                            Cây đa bên đình là cây đa đực rựa. Râu ria thò ra tứ phía như râu Tạ Ôn Đình. Nội dòm hai cây đa thấy cũng khác nhau rồi. Dưới gốc đa bên miếu bà cũng không có quán nước như bên này.
                            Dân bên miếu bà cũng hiền như con gái. Đám giang hồ ba trợn không thích sống bên đó. Bên đó chỉ có mấy nhà giáo hay là công chức quèn chui về ở thôi. Ở bển thì yên bển, không có ai dám láng cháng chạy qua đường vô xóm đình mà chơi hết.
                            Trái lại đám con nít bên đình thích sang chơi bên miếu lắm. Thiệt ra là qua bắt cua về cột dây cho tụi nó kéo xe chơi. He he, cái trò cho cua kéo xe đua này thiệt là vui bá chấy bò chét. Thằng nào thằng nấy lụm cái lon sữa bò hay là lon nước ngọt. Đục hai cái lổ hai đầu rồi xỏ cây qua. Xong cột dây vô hai đầu, vòng dây quấn vào mai cua. Thằng khôn thì cho con cua bị quấn ngang, thằng ngu quấn lung tung, con cua bò không được! Lấy cái cây chận cho con cua bò sao cũng phải đẩy cái lon, hay là chỉ bò ra phía trước thôi. Vậy là bắt đầu cho cua đua. He he, tụi cua chạy lẹ lắm, nhưng có điều chạy không bao giờ thẳng thớm dùm. Quanh quẹo một hồi đâm đầu vô nhau nháo nhào cười chết bỏ...
                            Có mấy thằng khờ lắm, cứ nghĩ là nhiều cua thì chạy nhanh hơn thành ra làm xe nhị cua, tứ cua gì gì đó. Ha, thiệt tình là hai con cua thì cũng lôi thôi hung chớ hổng cần gì phải tới bốn cua. Không có con nào bò cho đúng hướng nhau cả, xà quần tại chỗ chẳng bao giờ đi được tới đâu hết. Nghĩ đơn giản quá, cua có phải là ngựa đâu. Cua ngang ngạnh như người chớ hổng chơi nghe!!!!
                            Ngang như cua, người gì mà ngang như cua! Nói chuyện thấy mà ghét.
                            Bọn con nít nói với nhau bên miếu bà có cái chợ ma! Sáng sớm hai ba giờ ma tới họp chợ bên miếu cả đàn. Trời ơi mua bán dữ lắm nghe. Ma xài tiền giấy vàng mã mà. Sáng dậy sớm chút, chạy ra thấy nước nôi chảy lung tung ra đường. Giấy vàng mã vứt la liệt! Tờ nào cũng ướt nước bám chặt xuống mặt đường. Mà phải dậy sớm chút chứ không bà Mắm quét đường quét sạch trơn không còn gì. Mà dậy sớm quá ma còn đang mua bán thì tiêu. Thò đầu ra cho ma ngửi thấy mùi người là nó bắt đem đi luôn. Đem vô nghĩa địa nhét xuống mồ. Ở đó làm đầy tớ cho nó suốt đời, không bao giờ ngóc đầu lên được. Úi trời sợ quá, sao bà không làm phép dẹp cái đám ma đó đi. Tầm bậy, dẹp sao được, cái chợ đó bà mở ra mà. Mở chợ làm gì! Ngu quá, chợ mở ra để lấy thuế chớ làm gì. Ma quỷ muốn vô chợ mua bán thì phải nộp tiền cho bà. Tiền làm gì? Người ta cúng quá chừng còn ham tiền làm gì? Thì lấy để dành, phòng khi nào hết lộc thì có cái ăn cái để chứ làm gì. Bởi cái chợ ma mà ông thần với bà gây miết. Gây tới nổi bà vạch ra con đường chia hai. Cái chợ ma họp bên miếu, không có con nào dám chui qua bên này, mà lính ông thần cũng không chui qua bển hạnh hoẹ đám ma được. Lính ông thần cũng toàn là ma chứ hay ho gì? Ừ thì cũng vậy, nhưng ma của ông thần có luật lệ, còn ma của bà là ma cà bông, muốn gì làm nấy, cóc có sợ gì hết, hì hì...
                            Bà Mắm quét đường làm cái nghề này lâu lắm rồi. Nghề gia truyền! Trời đất, công nhân vệ sinh mà cũng gia truyền sao? Ừ, cái nghề này không phải là con cháu trong nhà thì không ai thèm làm mà. Mẹ, cha làm nghề thì con cái mới làm, còn không thì khó kiếm người dám làm như vậy lắm. Bởi vậy đừng nói làm thầy ngon, làm người quét rác cũng phải có xuất thân gia thế đàng hoàng chứ không phải là chơi... Bà Mắm có đứa con gái dễ thương lắm, nhưng tóc tai lúc nào cũng rối bù, mặt mày nhem nhuốc. Mấy thằng con trai bên miếu mắt đui, có thấy cái đẹp của cô bé đâu. Bên đình có thằng nhóc mắt tinh như mắt mèo khoái con Muối lắm.
                            Con Muối sau khi giúp má nó đẩy cái xe rác đầy như cái núi tới bãi rác rồi là lật đật chạy về tắm rửa đi học. Nó ôm cái cặp đi bộ lon ton tới trường. Nhìn cái dáng nó đi học đố thằng nào dám nói nó quét rác. Người thon, áo dài trắng, dù cũ xì ngả màu cháo lòng, tà áo bay bay, trời thần con nhỏ xinh như mộng...
                            Thằng nhóc bên đình ngơ ngẩn chạy theo như cái thằng ngốc. Nhưng chạy theo thì chạy theo chứ có xơ múi gì! Bà Còng định rồi, con gái bên miếu không bao giờ thương con trai bên đình! Con Muối ghét cái mặt thằng nhóc muốn chết. Thấy là ngứa miệng muốn chửi liền!
                            Ngang như cua, người gì mà ngang như cua! Nói chuyện thấy mà ghét.
                            Thằng nhóc bên đình nói hoài câu đó. Cũng phải thôi, con nhỏ toàn nói chuyện xóc họng nó. Mới mở miệng chào hỏi là con bé phang vô mặt những câu độc địa liền. Thôi thì làm người theo đuôi cho đỡ nhớ và đỡ mắc cở!
                            Con Muối là phe bà Còng thành ra ngang như con cua cũng phải thôi. Tránh cua không sợ xấu mặt mà! Nhưng dòm thấy mấy thằng ranh bên miếu chọc ghẹo con Muối nó ngứa gan quá. Mấy thằng mất dạy, cứ "Harrode tiểu thư" mà kêu. Mẹ con bà Mắm mà không làm việc thì cho tụi bây sống trong ngập ngụa là rác. Bởi vậy nó cứ ra mặt anh hùng binh mĩ nhân.
                            Nhưng hỡi ơi, càng binh thì tới nó cũng bị chọc ghẹo. Chọc riết nó nổi khùng! Rồi một bữa sáng người ta thấy nó lom khom kéo cái xe rác cho bà Mắm. He he, hai bên cả đình lẫn miếu có chuyện li kì để tám cho đã. Con Muối mặt mày đỏ phừng không cho thằng nhóc làm. Còn bà Mắm thì cười, bà cười nhưng hai con mắt long lanh như muốn khóc. Cũng có người không khi dễ mẹ con bà chớ bộ...
                            Nhờ đẩy xe rác mà thằng nhóc mới biết cái chợ ma có thiệt. Người ta buôn bán náo nhiệt, mỗi khi chợ họp thì mây đen hay là sương mù đen đặc che tối thui mấy cái đèn đường. Không gian mờ mịt không rõ mặt người. Hàng hoá từng bao từng bao vác ra vác vô kìn kịt. Những con người cõi a tì chạy vác hàng nhẹ nhàng như bay.
                            Ai nói chợ ma không có trả giá, ma cũng buôn bán cãi cọ, chửi bới um trời. Có điều cái âm thanh nghe rin rít như tiếng cưa kéo, à, mà hình như là tiếng đàn cò đám ma thì mới đúng. Cái thứ âm thanh não nuột, ai oán đó chính là thứ tiếng ma trao đổi với nhau. Bán buôn cái quái quỷ gì nhỉ? Hàng hoá là gì không biết, chỉ biết là hết thảy đều có mùi tanh tưởi rất ghê. Nghe như mùi cá ươn hay là cua chết. Tiền bạc thanh toán thì thằng nhóc biết là giấy vàng mã. Có điều tay người trần gian cầm vào thì mớ giấy vàng bạc nát vụn thành tro tức thì. Chợ ma chuyên họp vào những ngày mưa nho nhỏ. Ma đi chợ thiệt là đông. He he, người chết cũng có nhu cầu chớ bộ.
                            Mua bán coi náo nhiệt vậy chứ không là gì so với nói chuyện hay cãi nhau. Khi có tiếng đàn cò rít vút lên cao, thì sau đó không gian lập tức im bặt. Là tiếng bà báo chợ tan. Ma mau chóng tản mát, những hình hài tan loãng vào không gian, mờ dần, mờ dần như trong cơn mơ... Thằng nhóc thấy bà Mắm và con Muối xuất hiện. Cả hai bước tới đâu thì không gian sáng lên tới đó. Hai con người làm cái nghề không ai thèm y như có hào quang từ trong thân thể thoát ra.
                            Mà cũng ngộ, con Muối bước nhẹ tênh như bay. Những nhát chổi của nó như phép màu, chổi đùa tới đâu thì mọi thứ rác rưởi âm ti bay biến tới đó. Có khi nó bay bổng lên không, cây chổi xoay tròn, cơn gió tràn ánh sáng xuất hiện cuốn phăng những tối tăm mịt mờ... Thằng nhóc núp bên này đường nhìn chết trân. Nó không hay hai cái ống quần của nó ướt nhẹp cái thứ nước khai khai mà người phàm hay xả ra khi sợ quá!
                            Thằng nhóc phải đi bịnh viện tâm thần. Sau cái đêm rình coi chợ ma thằng nhóc về nhà cứ tửng tửng. Miệng cứ lảm nhảm kêu tên nàng tiên Muối. Rồi nó cười, nó khóc, có khi hét lên câu người gì mà ngang như cua...
                            Không biết vì sao nó không còn sống trong thế giới thực tại nữa. Nó chìm vào thế giới ma quỷ mộng mị! Bà Nội, má nó chạy vô trong đình cúng quá mạng, rồi qua bên miếu cúng nữa. Những mâm giấy tiền vàng bạc đầy như cái núi được đốt suốt cả tháng. Bà Mắm và con Muối là hai người bị chửi suốt! Người cả hai bên đình lẫn miếu đều kháo nhau hai mẹ con bà Mắm là thứ ôn thần quỷ nhập. Con Muối tự nhiên thêm chức ma da rút ruột, chuyện tháo đầu khỏi cổ bay lơ lững trong không gian tìm ám các chàng trai.
                            Người ta chửi hai mẹ con suốt, nhưng chỉ dám chửi sau lưng. Thấy mặt hai mẹ con bà Mắm là người ta lật đật bỏ đi một nước. Con Muối không đi học nữa, hai mẹ con chỉ biết ngồi trong nhà khóc suốt. Mà cái nhà của hai người cũng không giống nhà cho lắm, nó cũng là một nắm những thứ tạp nham che chắn quanh bốn cái cây tràm cong quẹo. Bên trên là một cái mái bằng tole cao bồi. Thứ tole người ta dùng dập lon bia hay là dập thùng đó mà... Con Muối thắp nhang vái cho thằng nhóc lành bịnh mau mau về minh oan cho nó...
                            Thằng nhóc chưa kịp lành bịnh thì nhà bà Mắm cháy tiêu! Hai mẹ con ngủ nữa đêm nghe nóng lật đật tung vách chạy ra. Căn nhà cháy cái xèo! Cháy nhanh như mớ giấy vàng bạc thôi. Cái xe rác cũng cháy luôn. Lửa chập chờn soi rọi khuôn mặt khủng khiếp của hai mẹ con con Muối. Lửa cũng chiếu sáng hai con mắt đầy thù hận của bà nội thằng nhóc. Người ta tản ra khi thấy hai mẹ con con Muối chạy ra. Không ai chạy đi lấy nước hay kêu xe cứu hoả gì cả. Những khuôn mặt người trông vô hồn như mặt những con ma trong phiên chợ ma bên miếu bà. Hai mẹ con đứng sát nhau, họ nhìn cái nhà xẹp xuống, xẹp xuống thành một đống tro than. Lửa cháy leo lét mà leo lét cháy hoài tới sáng. Khi khói thôi không bay lên nữa thì hai mẹ con bà Mắm bỏ xóm đi luôn. Họ đi đâu? Hai cái bóng leo lét nhập nhoạng trong nắng mai...
                            Đêm đó trong bịnh viện thằng nhóc leo rào trốn ra ngoài. Nó vướng chân té đập cái đầu xuống đất. Bịnh viện tâm thần chở nó xuống bịnh viện thường cấp cứu. Nó mê man một tuần rồi tỉnh dậy. Hết tửng! Qua nhiều thứ xét nghiệm, các bác sĩ cho nó về nhà.
                            Thằng nhóc về xóm đình, tỉnh táo hẳn. Học giỏi gấp mười ngày xưa, y như cái tên Kinh Luân của nó. Chỉ có điều nó không biết bà Mắm là bà nào và con Muối là ai? Nó quên sạch trơn chuyện chợ ma miếu bà. Rồi năm sau nó được giải thưởng và học bổng đi du học. Nó khăn gói sang cái xứ có những con chuột túi nhảy tưng tưng để học... Chuyện mơ mộng đầu đời quên sạch trơn!
                            Nói vậy chứ ai cho mà quên! Có những thứ đất trời như định sẵn. Thằng nhóc đi rồi thì trong nước biến động lớn. Nó ở luôn bên cái xứ đó, học ra trường, đi làm, lấy vợ. Gần hai chục năm sau, nó dắt vợ và con về nước. Bà nội nó mất lâu rồi, chỉ còn má nó hai con mắt kèm nhèm nhìn con nhìn cháu nhìn dâu không rõ. Cả nhà đoàn tụ vui vẻ, chuyện nói hoài không hết. Nói suốt cả đêm, cái thứ đêm sáng trưng đèn điện. Bà cụ hơi mệt, nằm ngả lưng trên chiếc võng nhìn con nhìn cháu nhìn dâu trong hạnh phúc. Bà thấy con dâu bà mặt mày sáng trưng, càng lúc càng sáng, sáng tới chói chang. Bà nhắm mắt lại. Ơ! lạ kìa, sao vẫn thấy rõ mọi thứ vậy nè. Con dâu bà vẫn cười hồn nhiên trước mặt. Nó sáng lung linh, bà chợt thấy nó quen quá. Trời ơi, nó là con Muối đó mà. Con muối con bà Mắm quét rác. Nó bay lên cao kìa, trong tay nó có cây chổi, nó quơ một nhát. Xoay tròn, ánh sáng thoát ra từ cây chổi đẩy mọi thứ tối tăm dơ bẩn tan biến vào hư vô. Những con người chập chờn, khuôn mặt lạnh tanh như mặt ma bị ánh sáng đẩy dạt ra xa, xa tít và tan biến... Bà cụ hét lên!
                            Bên miếu Bà có bà cụ ngày nào cũng qua cúng, làm công quả. Bà già nhà giàu mà siêng năng ác, lụm cụm làm hoài. Bà chùi cái bàn thờ sạch bóng như gương, không thấy một hạt bụi. Nghe nói cái chợ ma lâu lâu cũng còn họp một lần. Trong xóm đình có tụi con nít rình xem chợ ma hoài, mà nói ra cũng tức, thức suốt thì không thấy, hể ngủ quên chút xíu thì chợ ma vừa tan... Chỉ kịp thấy những bóng ma tan thành hư ảo, còn lại chăng là cái thứ mùi tanh tưởi như cua chết, cá ươn của những thứ hàng ma bán ma mua. Muốn kể lại cho bà con nghe tường tận, nhưng thảy chỉ như tờ giấy trắng. Đem đốt lên thành cái tàn tro đen thui. Ừ, giấy dù trắng mấy mà đốt cũng cháy đen thui hết trơn, hì hì.
                            Hết
                            Nguyễn Thị Mộng Thu
                            <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:54:40 bởi nguyenthu >
                            #44
                              nguyenthu 10.08.2009 21:24:42 (permalink)
                              CON QUỶ MỘT GIÒ
                               
                              Tiếng gió hú nghe thật thê lương trong màn đêm thâm u tĩnh mịch. Tân khẽ rùng mình, kéo lại cổ áo rồi rảo bước thật nhanh để vượt qua đoạn đường vắng đi xuyên qua bãi tha ma rộng lớn mang đầy âm khí này.
                              Trong xóm đã bắt đầu râm ran có tiếng chó sủa. Ban đầu chỉ là những tiếng sủa rời rạc, chừng như mới chỉ là những lời báo hiệu cho bạn bè chúng biết rằng có một người lạ đang đi về xóm. Và chỉ một loáng sau đó, những tiếng sủa lại rộ lên, đủ mọi thanh âm phá vỡ sự im lặng của một thôn xóm bình yên trong đêm tối.
                              Aùnh trăng đầu tháng lờ mờ treo lơ lửng trên bầu trời tỏa xuống trần gian một thứ ánh sáng lạnh lẽo, huyền hoặc làm cho cảnh vật xung quanh thêm phần kỳ bí.
                              Tân vốn là một thanh niên cường tráng, chưa từng biết run sợ trước điều gì, nhưng bỗng dưng tối nay lại cảm thấy trong lòng như có điều bất an đang len nhẹ…
                              Lâu lắm rồi Tân mới lại tìm về cái xóm nhỏ đìu hiu quạnh vắng này. Ở đây, Tân có một người chú họ, tuổi đã ngoài năm mươi mà chẳng vợ con gì, sống một mình cu ki suốt quãng đời dài dằng dặc.
                              Hơn mười năm trước thì Tân ở với chú, hai chú cháu thân thiết, thương yêu nhau vừa như cha con, vừa như bè bạn.
                              Nhưng rồi Tân phải trở về quê để làm tròn bổn phận của đứa con trai độc nhất đối với cha mẹ. Tân cưới vợ, rồi lo làm ăn sinh sống, và những tất bật cơm áo gạo tiền cứ cuốn phăng Tân đi, làm Tân cũng ít khi nào nhớ tới chú, nghĩ về chú.
                              Mấy năm vừa qua, Tân liên tiếp gặp những chuyện đau buồn. Cha mẹ qua đời chỉ cách nhau một năm. Hai cái tang chồng chất vẫn chưa mãn thì vợ Tân cũng bỏ Tân mà đi trong một ca sinh khó, cả đứa bé mà vợ chồng Tân thiết tha mong đợi cũng chưa được cất tiếng khóc chào đời…
                              Tân đau đớn, bơ vơ… bỏ bê công việc, vùi mình vào những cuộc nhậu thâu đêm suốt sáng để cố quên đi những nỗi buồn đau mà ông trời đã giáng xuống cuộc đời Tân không một chút xót thương nương nhẹ…
                              Nhưng có quên được đâu, dẫu cả ngày say sưa lướt khứơt? Nhìn quanh mình, chỗ nào cũng đầy ắp hình bóng của những người ruột thịt, thân yêu…
                              Tân không chịu đựng nỗi nữa, Tân muốn làm một điều gì đó để phá hủy tất cả, nhưng cuối cùng Tân chẳng biết phải làm gì ngoài việc gom góp chút hành lý đơn sơ, khóa cửa nhà và tìm về với ông chú họ…
                              Vì lỡ mất một chuyến xe, Tân phải lội bộ gần mười cây số nên khi về tới xóm này thì màn đêm đã buông xuống từ lâu, nhà nhà đã tắt hết đèn, chìm trong giấc ngủ.
                              Mặc những con chó hung tợn cứ như chực chờ nhảy bổ vào mình, Tân vẫn điềm nhiên cất bước.
                              Những hàng cây bên đường đứng lù lù, trông giống như những người khổng lồ đang gườm gườm với kẻ lạ mặt không mời mà đến trong đêm.
                              Cuối cùng, Tân dừng bước trước một căn nhà ngói ba gian nằm khuất trong vườn chuối ở cuối xóm.
                              Căn nhà đã cũ kỹ, già nua theo thời gian, trong một đêm như thế này trông nó càng có cái vẻ tội nghiệp vì nó giống như một ngôi nhà mồ hơn là nhà của người sống.
                              - Chú ơi! Chú…
                              Tân cất tiếng gọi to.
                              Trong nhà vẫn không có tiếng ai đáp lại, cũng không có một con chó nào nhảy xổ ra như tưởng tượng của Tân.
                              Tân run run… Chẳng lẽ… chẳng lẽ cả đến chú cũng không còn?
                              - Chú ơi… chú có nhà không?
                              Bây giờ thì những con chó của các nhà bên cạnh lại xộc ra sủa ỏm tỏi, như muốn ăn tươi nuốt sống Tân, như muốn đánh thức cả xóm cả làng thức dậy.
                              Tân lùi lại một bước, đứng thủ thế trước những cái miệng ngoác ra lộ hàm răng trắng nhỡn của mấy con chó nhà bên.
                              Có tiếng lục đục mở cửa, rồi tiếng một người đàn ông cất lên ồm ồm:
                              - Ai đó? Ai kêu réo gì lúc đêm hôm khuya khoắc thế này đây?
                              Cánh cửa xịch mở, và với ánh đèn dầu leo lét đủ để Tân nhìn thấy gương mặt già nua nhăn nhúm đến tội nghiệp của người chú họ.
                              Tân run giọng vì những xúc cảm đột ngột trào dâng:
                              - Chú… chú ơi! Con là thằng Tân nè! Thằng Tân về thăm chú nè chú!
                              Ông già giơ cao ngọn đèn lên, đôi chân bước dần ra cổng. Tân sải bước tiến gần lại chú để ông nhìn cho rõ mặt mình.
                              - Mầy… mầy đúng là thằng Tân?
                              Ông già giương đôi mắt đục lờ lờ nhìn thẳng vào mặt Tân mà dường như không thể nào thấy rõ, ông hỏi lại như để khẳng định cái điều mình vừa nghe được là sự thật chứ không phải giấc mơ.
                              Tân đỡ lấy cây đèn trên tay ông, cánh tay còn lại đưa ngang qua lưng dìu ông trở lại vào nhà.
                              - Chú ơi! Mấy năm rồi chú sống ra sao? Chú không được khỏe hay sao mà trong chú… không được như trước?
                              Tân vừa đi vừa hỏi.
                              Ông già cười móm mém:
                              - Mồ tổ cha mầy, làm như mầy mới đi có mấy ngày không bằng! Hơn mười năm rồi đó nghe con, hơn mười năm rồi mầy chưa một lần thăm lại lão già này…
                              Tân chua xót:
                              - Dạ… cháu biết cháu có lỗi nhiều với chú… nhưng… mà thôi, để từ từ cháu kể chuyện nhà mình cho chú biết. Dù sao hôm nay cháu trở về, thấy chú còn đi đứng được vầy là cháu mãn nguyện lắm rồi chú ạ!
                              - Tao còn sống đây cũng là để chờ mầy đó con ạ!
                              Ông già nhìn Tân trìu mến.
                              Một nỗi hối hận nghẹn ứ trong cổ Tân. Bao nhiêu năm qua, tuy cuộc sống nhiều khó khăn vất vả, nhưng nếu thật sự muốn, Tân vẫn có thể thu xếp để về thăm chú, thậm chí vẫn có thể đón chú về sống với gia đình mình.
                              Vậy mà Tân đã không làm! Để bây giờ, khi chỉ còn trơ lại một mình, khi đã cảm nhận được nỗi cô đơn tê tái, Tân mới chợt nhớ tới người chú cô độc nơi này… Mình quả là đứa bỏ đi… Tân tự trách mắng mình như thế.
                              - Mầy cơm nước gì chưa con? Ở dưới bếp còn cơm với mấy con cá kho, xuống hâm lên mà ăn tạm đi…
                              Ông già vẫn như ngày nào, lúc nào cxung lo cho đứa cháu cưng, dù bây giờ nó đã không còn nhỏ nhoi gì nữa!
                              Bụng Tân đang đói cồn cào, vả lại về với ông chú này, cũng giống y như về với gia đình ruột thịt của mình, Tân không có một chút e ngại hay khách sáo gì hết.
                              Anh lặng lẽ cầm đèn xuống bếp, quơ vội mấy cọng là dừa đốt lên hâm lại nồi cá rồi bới một tô cơm, bỏ mấy con cá với mấy trái ớt hiểm đỏ lòm, rồi bưng lên ngồi cạnh bên ông, vừa ăn vừa nói chuyện.
                              Hai chú cháu tỉ tê tâm sự đến gần nửa đêm thì cả hai đều rõ hết hoàn cảnh của nhau.
                              Ông già đau lòng khi nhớ tới anh chị mình, buồn vì ngày anh chị mất mình không về được, mà cũng không hay tin để ở đây thắp cho anh chị một nén nhang tưởng niệm.
                              Ông thương cho thằng cháu mà ông cưng yêu như con đẻ của mình. Cái số nó sao mà khổ, cha mẹ chết, vợ con cũng không còn… Nhìn tướng tá nó đâu có gì ứng vào cung “sát” mà sao giờ chỉ còn bơ vơ nó lại trên đời?
                              Cũng may, cũng may là mình còn sống đây, để có vài ba câu an ủi nó, chứ nếu về đây mà nó thấy mình cũng không còn, chắc nó đau khổ lắm…
                              Hai giọt nước mắt trong vắt chảy ra từ đôi khóe sâu hóm của ông già.
                              Ông lẳng lặng rót trà vào tách rồi chậm rãi uống từng ngụm một.
                              - Chú ơi… mấy năm qua chú sống thế nào?
                              Tân hỏi.
                              - Thì cũng vậy thôi cháu à! Tao vẫn sống nhờ vào mảnh vườn và đám ruộng kế bên. Dẫu già cả rồi, tao không làm vườn, làm ruộng gì nổi nữa nhưng tao cho người ta mướn cũng sống đắp đổi qua ngày.
                              Ngừng một lát, ông già nói tiếp:
                              - Cũng may là con về kịp lúc… Tao tính nay mai nhờ người viết thư gởi xuống đó tìm mầy, kêu mầy về ít hôm có việc…
                              - Có việc gì thế chú?
                              Tân ngạc nhiên.
                              - À… cũng không có gì! Chỉ là tao muốn thằng Tân mầy là người thừa kế. Tao viết di chúc để lại toàn bộ gia tài cho mầy… Vì ngoài mầy ra, tao đâu còn ai là thân thuộc nữa…
                              Tân rớm nước mắt:
                              - Cháu cảm ơn chú rất nhiều. Nhưng chú vẫn còn mạnh khỏe thế này, nói làm gì đến chuyện đó sớm chú?
                              Ông già cười, lắc đầu:
                              - Có gì mà sớm hở con? Đời người sống nay chết mai, ai biết được chữ ngờ… Vả lại già cả như chú bây giờ, có khi tối ngủ một giấc là sáng không còn thức dậy được nữa cũng hổng chừng…
                              - Chú đừng nói vậy…
                              Tân can.
                              Ông già cười cười:
                              - Thôi, khuya rồi, chú cháu mình vô ngủ đi! Cháu đi đường cả ngày nay cũng mệt lắm rồi! Nghỉ ngơi đi, có chuyện gì ngày mai chú cháu mình tâm sự tiếp.
                              Ông già mở tủ lấy mùng mền đưa cho Tân. Vẫn cái mền, cái mùng cách đây hơn mười năm mà Tân vẫn ngủ, giờ nó đầy mùi ẩm mốc vì đã lâu ngày không được phơi phong mà cứ ủ kín trong tủ.
                              Vẫn bộ ván ở góc nhà, nơi đã gắn liền với Tân rất nhiều năm trước. Một cảm giác ngùi ngùi khiến Tân cay cay nơi sống mũi…
                              Vừa đặt lưng xuống, Tân đã ngủ rất ngon vì cả ngày đã vượt một quãng đường xa ngái. Nhưng, một tiếng hú rùng rợn giữa đêm yên tĩnh làm Tân giạt bắn người và choàng dậy, ngơ ngác nhìn quanh.
                              Không có gì… không có gì cả! Trong buồng, tiếng ngáy phì phò của ông chú vẫn vang lên đều đều. Và tiếng mọt ăn gỗ kèn kẹt trên mái nhà vọng xuống rõ mồn một trong đêm.
                              Vậy tiếng hú vừa rồi xuất phát từ đâu? Chẳng lẽ là do mình ngủ mơ thấy thế?
                              Không đâu, rõ ràng chính tiếng hú đó đánh thức mình dậy chứ không phải mình mơ thấy nó…
                              Nhưng đó là tiếng gì? Tiếng của ai? Nhưng rõ ràng mình nghe tiếng hú vang lên lanh lảnh, to như thế sao không thấy xóm làng náo động gì cả? Cả đến lũ chó ồn ào lúc tối giờ cũng đã ngủ lặng trang… Sao tiếng hú đó không đánh thức ai, ngoài Tân?
                              Vậy thì… có lẽ mình mơ thật rồi chăng…?
                              Tân thầm nghĩ rồi an tâm ngủ tiếp.
                              Sáng, Tân thức dậy thì đã thấy ông chú lọ mọ chống gậy từ ngoài ngõ đi vào.
                              Tân vội hỏi:
                              - Chú đi đâu sớm thế?
                              Ông già cười móm mém:
                              - Tao sang bên nhà thằng Sậu dặn nó có cá lóc thì trưa để cho một con, nướng trui cho mầy nhậu…
                              Tân kêu lên:
                              - Trời! Chú… chú lo cho con như vậy, chìu con như vậy con sẽ hư mất thôi! Với lại… con đã tự hứa với mình rằng sẽ bỏ rượu rồi chú ạ! Con không uống nữa đâu…
                              Ông già cười khà khà:
                              - Vậy được đó con! Nhậu nhẹt làm gì, chẳng ích lợi chi hết, chỉ toàn khổ thân, khổ cả gia đình… Như nhà thằng Năm vậy đó…
                              - Nhà thằng Năm sao vậy chú?
                              Tân tò mò hỏi.
                              Thằng Năm lớn hơn Tân chừng ba, bốn tuổi gì đó, thế nhưng hồi nhỏ nó lại là đứa thường xuyên bị Tân ăn hiếp. Mà cái thằng thật hiền, tướng tá to đùng như thế mà chẳng khi nào dám chống đối lại Tân, trong khi Tân chỉ là một thằng ốm tong teo, chỉ cần một cú đạp của nó cũng làm Tân xẹp ruột. Thế nhưng nó chưa bao giờ đánh Tân, bị Tân ăn hiếp chỉ biết xụ mặt xuống rồi bỏ về nhà hoặc bỏ đi ra chỗ khác mặc bao nhiều lời cười nhạo xung quanh.
                              - Nó giờ vợ con gì chưa chú?
                              Ông già chép miệng:
                              - Rồi! Nó có vợ rồi, có một đứa con nhỏ đâu chừng năm sáu tuổi… Nhưng thật tội nghiệp… nó chết rồi!
                              - Chú nói ai chết? Thằng Năm hay đứa bé?
                              Tân ngạc nhiên.
                              - Thằng Năm! Nó chết rồi!
                              Tiếng ông già buồn bã.
                              Tân kinh ngạc hỏi dồn:
                              - Thằng Năm chết? Chết lâu chưa chú?  Nó đau bệnh hay tai nạn gì vậy chú?
                              Ông già dựng cây gậy rồi ngồi bệt xuống thềm nhà, Tân cũng đến ngồi sát một bên.
                              - Cũng không ai rõ nguyên nhân nào nó chết, chỉ biết tối hôm trước nó có nhậu nhẹt với bạn bè đến say quắt cần câu. Đến sáng vợ nó không thấy đâu, chạy tìm quáng quàng lên, không ngờ nó bị chết trôi sông, mà lạ một điều, cái xác của nó lại bị cụt một giò mới ác chứ!
                              - Cụt một giò? Sao vậy chú? Ai hại nó rồi quăng xác xuống sông à?
                              Tân tròn mắt.
                              Ông già lắc nhẹ mái đầu đã bạc trắng:
                              - Không biết! Không ai biết! Dạo đó cảnh sát điều tra ghê lắm, nhưng cuối cùng vụ án cũng phải khép lại vì không tìm được gì mới mẻ.
                              Thằng Năm tuy nhậu nhẹt nhưng là đứa hiền lành, biết nhường nhịn dẫu ai có nói trên đầu trên cổ nó cũng cứ nhăn răng ra cười, nên nó không có kẻ thù. Nó cũng không giàu có gì mà nghĩ tới khả năng cướp của… Cái chết của thằng Năm đúng là chết oan uổng, chết trong tức tưởi. Tức tưởi cho người chết và cả người sống nữa!
                              - Rồi vợ con nó bây giờ sống ra sao hở chú?
                              Tân thở một hơi thật dài, ái ngại giúp cho hoàn cảnh của bạn mình.
                              Ông già vuốt chòm râu cười:
                              - Cũng không đến nỗi nào! Giờ thì vợ nó đã chồng khác rồi! Mà thằng sau này cũng biết điều, cũng cưng yêu con của thằng Năm lắm! Muốn gì là nó chìu theo ngay. Ai không biết sẽ tưởng đứa bé là con của hắn đó chứ! Vợ chồng nó làm cũng đủ ăn, hơi khá một tí, vì tụi nó kín lắm nên công việc làm ăn thế nào cũng ít ai hay. Tụi nó lại không sống kiểu khoa trương…
                              - Chồng của vợ thằng Năm là đứa nào vậy chú? Nó cũng người làng mình à?
                              Ông già lắc đầu:
                              - Không! Nó là dân ở xứ khác tới… không ai biết gì về thằng đó cả!
                              - Nó quen với ai mà tới xóm mình?
                              Tân hỏi.
                              - Nó quen với thằng Năm. Trong một lần theo ghe buôn bán đi dọc các tỉnh miền Tây, thằng Năm quen với nó, rủ rê nó về nhà chơi mấy lần. Anh em cũng thân thiết lắm. Ngày thằng Năm mất, cũng một tay nó đứng ra lo liệu, gánh vác cho vợ thằng Năm. Chắc có lẽ vì cảm cái ơn đó nên vợ thằng Năm mới gá nghĩa vợ chồng với nó…
                              Ông già khề khà kể chuyện.
                              Tân bỗng hỏi:
                              - Hồi tối, chú có nghe tiếng gì lạ không?
                              Ông già đưa đôi mắt đục lờ nhìn Tân:
                              - Không! Tao đâu có nghe gì? Có gì vậy con?
                              Tân đắn đo một chút rồi nói:
                              - Con đang ngủ thì giật mình thức dậy vì nghe có tiếng hú ghê rợn lắm. Nhưng lúc thức rồi con lại chẳng nghe thấy gì nữa. Cho nên con cứ hoang mang, không biết là mơ hay thực nữa? Nếu là mơ thì giấc mơ này lại quá, tự nhiên chỉ có một tiếng hú dài, còn nếu thực thì…
                              Tân bỏ lửng câu nói. Ông già không tỏ thái độ gì đặc biệt mà chỉ khẽ khàng dặn Tân:
                              - Ở làng xóm mình bây giờ có nhiều chuyện xảy ra lắm, chú quên nói cho con biết để con đề phòng. Con có đi đâu thì đừng đi khuya, một mình trong đêm tối không tốt.Với lại… với lại…
                              Thấy ông già ngập ngừng Tân càng sốt ruột hỏi tới:
                              - Có chuyện gì ở làng mình hay sao vậy chú? Chú nói cho con biết đi, đừng giấu con làm gì!
                              Ông già chắc lưỡi:
                              - Chú không muốn cháu biết, nhưng giấu thì không được, lỡ vì không biết mà cháu gây ra điều gì đó thì càng nguy hiểm nhiều hơn… Thôi thì chú nói cho mầy biết luôn đây. Từ ngày thằng Năm chết, mà không, đúng ra là trước ngày nó chết, ở làng đã xảy ra một số chuyện ly kỳ, mờ ám mà người ta không sao giải thích được…
                              - Là những chuyện gì thế chú?
                              Tân nôn nóng.
                              Ông già vân vê cọng cỏ trong tay, chậm rãi nói:
                              - Chẳng hạn, thỉnh thoảng trong đêm có người nghe tiếng hú, chắc là giống như tiếng hú cháu nghe được tối qua. Nhưng không phải ai cũng có thể nghe, đôi khi hai người cùng ngồi kế bên, một người nghe rõ, một người lại không nghe… Cũng không ai hiểu vì sao nữa…
                              - Chỉ có tiếng hú vậy thôi sao chú? Có hiện tượng gì lạ nữa không?
                              Tân tò mò.
                              Ông già trầm ngâm:
                              - Có, có chứ! Thỉnh thoảng có người đi đâu về khuya, bắt gặp một bóng ma ở trên đường, về nhà run rẩy kể lại, ban đầu không ai tin đâu, nhưng chỉ hai hôm sau là người đó chết. Mà sự việc cứ lặp đi lặp lại mấy lần rồi…
                              - Lặp đi lặp lại mấy lần? Tức là chú muốn nói đã có mấy người chết kỳ lạ như vậy rồi sao?
                              Tân hỏi.
                              - Ừ, tính đến nay cũng đã bốn người chết rồi, mà người nào cũng không ốm đau bệnh hoạn gì hết, chỉ là tình cờ gặp bóng ma, rồi chết, thế thôi!
                              Ông già hạ thấp giọng như sợ ai nghe thấy, dặn Tân:
                              - Bởi vậy, chú dặn cháu phải nhớ nghe không, có đi đâu thì đi vào ban ngày ban mặt, buổi tối tuyệt đối không được ra đường. Cứ ở yên trong nhà đóng kín cửa nẻo lại cho an tâm.
                              Tân dường như không nghe được lời chú dặn, vì còn mãi suy nghĩ:
                              - Chú nói cả bốn người đều không bệnh hoạn, vậy nguyên nhân nào họ chết?
                              - Họ gặp ma, về sợ hãi, cứ rúc trong góc nhà rồi lăn đùng ra tắt thở! Đơn giản vậy, mà không ai tìm ra nguyên nhân, cả nhà chức trách…
                              Ông già thở dài ngao ngán:
                              - Gần đây, người ta đồn ầm lên, rằng trong xóm lại xuất hiện một con quỷ một giò rất hung ác… Mà họ nói vậy là ám chỉ thằng Năm rồi chứ còn ai vô đây! Thiệt tội nghịêp cho nó, hồi còn sống hiền lành như cục bột, giờ chết rồi tự nhiên bị đồn là biến thành quỷ về phá xóm phá làng… Thiệt tình, tao sống đến từng tuổi này rồi, chuyện gì cũng biết qua, nhưng không tin được thằng Năm lại thành quỷ…
                              Tân lắc đầu:
                              - Nghĩ cũng lạ! Xóm mình tưởng bình yên, hóa ra lại nhiều chuyện khó hiểu đến vậy… Mai mốt con về dưới, bỏ chú lại một mình thật không yên tâm được!
                              Ông già giật mình:
                              - Bộ mầy tính đi nữa sao? Mầy còn có ai ở dưới đó đâu mà đòi về? Ở lại với chú đi con, chú cháu hôm sớm có nhau không hơn sao? Mầy về đó cũng thui thủi một mình, tao ở đây cũng chẳng còn ai…
                              Nghe giọng nói run run của ông chú già nua Tân cũng động lòng. Chưa kịp nói gì thì ông già đã tiếp tục:
                              - Chú đã tính đâu vô đó hết rồi! Chú còn mảnh vườn mảnh ruộng này để lại cho cháu, cháu cứ ở lại đây mà sinh cơ lập nghiệp, rồi coi đứa nào được được thì gá nghĩa vợ chồng mà sống với nhau. Đi về dưới đó làm gì, nơi đó cũng đâu phải quê hương gốc gác gì của cháu đâu? Chú nay cũng gần đất xa trời rồi, tao muốn có người hủ hỉ, với lại tao cũng sợ lúc nhắm mắt không có một ai bên cạnh…
                              Tân xót xa:
                              - Chú nói gì nghe buồn quá… Thôi, vậy thì cháu sẽ ở lại…
                              Thế là Tân chính thức ở lại nhà ông chú. Nhưng hiện tại ruộng vườn còn đang cho người ta mướn chưa hết thời gian, nên tạm thời Tân chỉ lo quét dọn và nấu bữa cơm, còn lại là lông bông chơi cả ngày.
                              Bạn bè hồi nhỏ của Tân giờ đứa nào cũng có gia đình, gặp lại Tân chúng mừng lắm, cứ kéo Tân vào bàn nhậu. Nhưng Tân đã quyết đoạn tuyệt với rượu rồi nên chỉ ngồi nói chuyện suông với bạn.
                              Sau mấy ngày rong chơi khắp xóm, Tân biết thêm một vài chi tiết mà ông chú quên chưa kể. Đó là từ ngày thằng Năm chết tới nay, tất cả trẻ con trong làng được sinh ra đều không tồn tại được!
                              Đó là một nỗi đau rất lớn mà người dân ở đây phải gánh chịu. Bởi thế có những cặp vợ chồng trẻ đã bỏ làng ra đi, không quay trở lại.
                              Những câu hỏi không lời giải đáp cứ mỗi ngày một chất chồng thêm trong đầu Tân. Tân vô cùng thắc mắc, về cái chết của thằng Năm, về tiếng hú giữa đêm khuya, về những bóng ma lảng vảng, về những cái chết kỳ bí của người không may gặp ma, rồi cả sự hủy diệt trẻ sơ sinh nữa… Tại sao trong ngôi làng nhỏ bé này lại xảy ra nhiều việc động trời đến vậy?
                              Bóng ma kia là ai? Có thật là bóng ma của thằng Năm không? Nó có gì oan ức mà về quậy phá như thế?
                              Thắc mắc chỉ để thắc mắc thế mà thôi, Tân hoàn toàn không tìm được lời giải ở bất cứ nơi nào trong xóm.
                              Cũng đã lâu lắm, Tân không nghe lại tiếng hú, trong xóm cũng không ai chết nữa, tưởng mọi việc bình yên, ai ngờ nó lại xảy ra cho chính người chú thân yêu của Tân, khiến Tân vô cùng đau đớn.
                              Tối hôm ấy ông già bị chột bụng, Tân bảo ông đi vào bô rồi Tân sẽ dọn nhưng ông nhất định không chịu. Ông bảo:
                              - Chỉ sơ sơ thôi, tao còn mạnhk hỏe thế này mà, mầy đừng có lo!
                              Thế là ông mở cửa chống gậy ra sân đi ngoài ở mảnh đất trống sau vườn.
                              Tân không yên tâm, nên mỗi lần ông già đi, Tân lại đứng tựa cửa nhìn theo. Ông đi hai lần như thế, cũng không có dấu hịêu gì mệt mỏi lắm, nên đến lần thứ ba Tân vì buồn ngủ nên chỉ nằm võng nghe ngóng thôi mà không đứng trông theo ông nữa.
                              Đang mơ mơ màng màng, Tân nghe tiếng hú lạnh lẽo vang lên, cùng lúc đó là tiếng kêu thét không ra hơi của ông chú.
                              Hoảng hốt, Tân ngồi bật dậy và lao nhanh ra sau vườn.
                              - Có chuyện gì thế chú?
                              Tân lo lắng hỏi
                              Ông già run lập cập, kéo tay Tân vào nhà, vừa đi vừa nói:
                              - Thôi, thôi, vô nhà, vô nhà đi cháu! Vô mà chuẩn bị hậu sự cho chú…
                              - Chú… sao chú lại nói gở thế? Mới đi ngoài có mấy lần mà chú đã bi quan đến thế rồi sao?
                              Tân vô cùng lo sợ nhưng ráng pha trò cho ông chú nguôi đi.
                              Ông già lúc này đã lấy lại bình tĩnh, nhưng tay bưng ly trà vẫn còn run rẩy:
                              - Thôi, thế là phần số chú tới đây là hết rồi! Nó đã về báo tin cho chú rồi con ơi…
                              - Ai? Ai báo tin gì vậy chú?
                              Mặc dù đã lờ mờ đoán ra rồi nhưng Tân vẫn làm bộ hỏi.
                              Ông già hớp một ngụm trà, nuốt ực một cái rồi bảo:
                              - Lúc nãy cháu có nghe tiếng hú không? Chú đã nhìn thấy bóng ma rồi… Thấy rất rõ… đúng là bóng ma đó chỉ có một giò… Mà cháu còn nhớ không, chú đã nói với cháu rồi, ai nhìn thấy bóng ma đó đều phải chết… Tối nay chú đã thấy nó, chú sẽ không qua khỏi đâu… cũng may, cũng may là toàn bộ giấy tờ chuyển tên cho cháu chú đã làm xong hết rồi, chứ nếu không thì cháu lại gặp rắc rối…
                              Tân rớm rớm nước mắt nắm chặt tay ông chú:
                              - Chú đừng nói thế! Chú gan dạ mà, chú đâu có sợ bóng ma! Mấy người kia chết là do quá sợ hãi, chú không sợ nên chú sẽ không sao mà…
                              Tân cố tìm lời lẽ để động viên.
                              Ông già cười móm mém:
                              - Không sao! Tuổi chú cao rồi, có phải ra đi cũng không có gì mà hối tiếc… Chú chỉ sợ… bóng ma đó cứ hoành hành mãi thế này thì người dân làng ta làm sao mà sống được?
                              Một sự ấm ức đột ngột dâng lên trong lòng Tân.
                              Tân cương quyết nói:
                              - Cháu sẽ cố gắng tìm ra sự thật của chuyện này!
                              Vừa nghe Tân nói thế, ông già giật bắn người lên:
                              - Không! Không! Dứt khoát cháu không được dính dáng gì đến những chuyện này… Cháu là đứa cháu duy nhất còn lại của dòng họ, cháu không được… không được…
                              Vừa nói tới đó, bất giác ông già nấc lên mấy cái liên tiếp rồi máu từ trong miệng ông trào ra ào ạt…
                              - Chú… Chú ơi! Chú…
                              Tân nhào người tới xốc lấy ông chú định chạy đi bệnh xá, nhưng khi chân Tân vừa bước ra tới thềm nhà thì thân người ông khẽ giật lên một cái, Tân nghe bên tai mình một luồng hơi hắt ra, cùng lúc đó tay chân ông già đã buông thõng xuống…
                              Tân cuống cuồng quay trở vào nhà, đặt ông xuống giường rồi cố áp tai vào mũi, vào ngực ông để lắng nghe một chút sự sống nào đó còn sót lại trong cái cơ thể gầy gò, nhăn nhúm của ông già. Nhưng dù có cố gắng đến mấy, Tân cũng không sao nhận được một hơi thở nhẹ nào. Tân biết, ông chú đã qua đời!
                              Tân sụp xuống khóc không ra tiếng. Vậy là bây giờ đây chỉ còn lại mình Tân trơ trọi giữa cuộc đời…
                              Mình chính là ngôi sao xấu, đi đến đâu là sát hại người thân đến đó hay sao? Không! Chú mình chết là do hồn ma khốn kiếp kia, là do cái con quỷ một giò đáng nguyền rủa kia chứ hoàn toàn không phải tại mình… Mình sẽ làm cho ra lẽ! Chú ơi… cháu sẽ tìm ra sự thật…
                              Sau đám tang của ông chú, Tân ngơ ngẩn suốt mấy ngày, nhưng chính trong những ngày ngơ ngẩn ấy, một quyết định sắt đá đã hình thành trong con người Tân. Bằng mọi cách phải khám phá cho ra chuyện ma quỷ chết tiệt ở làng này! Nếu có chết thì cũng không sao, bởi lẽ hiện nay Tân cũng chẳng cảm thấy một điều gì vui vẻ trong cuộc sống.
                              - Chú ơi, chú sống không thác thiêng, xin chú phù hộ cho con, con sẽ cố gắng làm tất cả để trả lại cho xóm làng mình tiếng khóc trẻ thơ, để đêm đêm gái trai làng còn có thể hẹn hò nhau những đêm trăng sáng, để những cái chết rùng rợn không còn treo lo lửng trên đầu của mỗi ngwofi dân… Chú ơi, xin chú phù hộ độ trì cho cháu…
                              Tân quỳ mọp trước mộ chú lầm rầm khấn vái trong ngày mở cửa mả.
                              Tối hôm đó, Tân nằm trên giường đến khoảng hơn mười giờ đêm thì lẳng lặng đi vơ vẩn ra vườn.
                              Đêm đầu tháng, vầng trăng non không đủ ánh sáng để soi rõ vạn vật trên mặt đất, mà nó chỉ chiếu rọi lờ mờ chút ánh sáng yếu ớt của mình xuống trần gian.
                              Tân đứng ngây người giữa sân, không biết mình phải bắt đầu từ đâu? Tìm hiểu từ đâu? Ai sẽ là người hướng dẫn Tân đi đúng con đường cần phải đi? Hoàn toàn lạc lõng, hoàn toàn không có phương hướng…
                              Tân ngao ngán ngồi xuống một đoạn rễ cây gồ cao trên mặt đất. Cứ ngồi bó gối mà suy nghĩ mông lung…
                              Thật lâu sau Tân vẫn chưa nghĩ ra cách nào để tiếp cận với hồn ma, bất chợt Tân nghe như có tiếng người thì thầm đâu đó rất gần.
                              Nín thở tập trung lắng nghe, Tân nhận ra giọng nói là của hai người một nữ một nam.
                              - Quái lạ, làng xóm bất ổn như vậy, thế mà cặp trai gái nào dám cả gan hẹn hò nhau vào nửa đêm khuya khoắt thế này?
                              Tân thầm nghĩ trong bụng.
                              Bỗng Tân nghe tiếng người nữ rõ hơn:
                              - Em van anh, em xin anh… xin anh dừng tay lại đi, đừng nhúng vào tội ác nữa… cuộc sống của vợ chồng mình như thế này đã quá đầy đủ rồi, anh còn muốn gì hơn nữa?... em sợ lắm anh ơi…
                              - Cô sợ thì cô cút ngay về đi, mặc tôi làm gì thì làm, cô đừng quan tâm tới, cứ coi như không biết gì về những chuyện này…
                              Tiếng đàn ông cáu gắt.
                              Người phụ nữ khóc thút thít:
                              - Em sợ… em sợ quả báo! Em sợ con trai của chúng ta phải nhận lãnh hậu quả… Suốt mấy đêm nay em cứ nằm chiêm bao thấy anh Năm về hoài… Anh cứ về đòi cái giò của ảnh… em sợ lắm anh ơi…
                              - Cô có câm đi không thì bảo?
                              Tiếng người đàn ông rít lên:
                              - Tôi đã nói với cô bao nhiêu lần rồi, bùa ngãi của tôi là độc nhất vô nhị, không có thế lực nào có thể phá vỡ được. Nó có là hồn ma hay ác quỷ gì thì cũng phải khuất phục trước bùa ngãi này của tôi… Ha ha ha… cái giò của nó… cái giò của nó là một trong những vị luyện nên loại bùa thượng đẳng này đó, nó có dám về lấy lại không? Để tôi chỉ chỗ cho mà đến lấy, cô hỏi nó thế nhé?
                              - Không… anh ơi… em van anh…
                              Người phụ nữ vẫn không thôi thút thít.
                              Rồi Tân nghe tiếng hai người giằng co, xô đẩy gì nhau, rồi bất thình lình một tiếng hú vang lên làm cả người Tân dựng hết gai ốc.
                              Sau một lúc Tân định thần lại và xác định tiếng trao đổi vừa rồi không phải là tiếng của ma quỷ, cũng không phải là của một cặp nhân tình hò hẹn, mà là của một cặp vợ chồng mà người vợ đang cố ngăn cản chồng mình đi vào con đường tội lỗi. Và cái tiếng hú kia ít nhiều chắc chắn có liên quan tới cặp vợ chồng đó!
                              Nhưng cặp vợ chồng ấy là ai? Họ làm gì ở đây vào lúc nửa đêm? Người đàn ông nói tới một thứ bùa ngãi thượng đẳng nào đó, và cũng có nhắc tới con quỷ một giò, tới cái giò của nó…
                              - Đúng rồi! Người đàn ông đó chính là kẻ giết chết thằng Năm và cắt giò của nó, nếu đúng con quỷ một giò mà họ đề cập tới là thằng Năm!
                              Tân reo lên nho nhỏ khi khám phá ra được một mấu chốt trong chuỗi sự việc.
                              Vui mừng và tự tin, Tân nhẹ nhàng nương theo bóng tối để đi tới hướng mà lúc nãy nghe tiếng vợ chồng cự cãi nhau. Nhưng Tân quanh đi quẩn lại nhiều lần mà vẫn không phát hiện được gì, cũng không nghe thêm bất cứ một âm thanh khác lạ nào khác nữa.
                              Vẫn không nao núng, Tân cứ lần mò trong bóng tối đi khắp cả khu vườn, đi dài qua vườn nhà hàng xóm, nhưng đặc biệt hôm nay Tân lại không bị một con chó nào cất tiếng sủa.
                              - Ngay cả chó trong xóm cũng không bình thường!
                              Tân lẩm bẩm.
                              Khi ở chân trời phía đông vừa ửng lên những tia hồng thì Tân cũng đã mệt mỏi nên vào nhà lăn ra ngủ.
                              Đang ngủ say sưa, Tân nghe có tiếng gọi:
                              - Chú Tân ơi, có nhà không? Làm ơn cho tôi xin một nắm lá sả…
                              Tiếng ai sao nghe quen quen nhỉ?
                              Tân vừa dụi mắt đứng lên vừa nghĩ.
                              Khi cánh cửa vừa mở xịch ra, trước mắt Tân là một người phụ nữ có gương mặt đẹp nhưng rất buồn.
                              Vừa trông thấy Tân, chị ta cố nở nụ cười:
                              - Chào chú Tân, tôi đã làm mất giấc ngủ của chú à? Tôi xin lỗi nhé, không biết chú chưa thức dậy…
                              Tân cười xởi lởi:
                              - Dạ… không có gì đâu chị! Trời cũng đã trưa trờ trưa trật rồi, tôi còn phải cảm ơn vì chị đánh thức nữa chứ! À, mà chị kiếm tôi có việc gì không?
                              - Tôi muốn hỏi xin nắm lá sả!
                              Người phụ nữ nói nhẹ.
                              Tân cười:
                              - Tưởng gì! Cả một đám um tùm ngoài ấy, chị cần bao nhiêu thì cứ lấy về dùng…
                              - Cảm ơn chú nhe! À, mà chắc chú chưa biết tôi, nãy giờ tôi cũng quên giới thiệu, trước đây tôi là vợ của anh Năm, bạn chú. Chú còn nhớ anh Năm không? Thời gian gần đây biết chú về đây sinh sống mà tôi lu bu nhiều việc quá nên chưa sang chào chú được!
                              Người phụ nữ gật đầu chào Tân toan bước đi, rồi không biết vì sao lại đứng lại nói một hơi như thế.
                              Tân ngạc nhiên:
                              - Chị… chị là chị Năm? Thật tôi có lỗi quá…
                              Người phụ nữ cười héo hắt:
                              - Anh Năm mất lâu rồi…
                              Tân gật nhẹ đầu như muốn chia sẻ nỗi đau cùng chị.
                              Thoáng cái, người phụ nữ ngước lên nhìn Tân:
                              - Không sao… không sao… Tôi ra vườn cắt lá sả đây… Cảm ơn chú nhé!
                              Tân không nói gì chỉ đứng lặng nhìn theo dáng người thon thả của người phụ nữ đang thoăn thoắt đi ra vườn.
                              Người phụ nữ này trước đây Tân chưa hề gặp qua, sao giọng nói lại nghe quen thế nhỉ? Bất chợt Tân rùng mình:
                              - Tiếng nói đó là của người phụ nữ hồi đêm!
                              Ý nghĩ này vụt qua đầu làm Tân hồi hộp vô cùng… Trời ơi… chẳng lẽ mọi việc đều bắt đầu từ người đàn bà đẹp này sao? Cầu trời… cầu trời… mọi việc không như mình nghĩ…
                              Nhưng vì ý nghĩ đó đã đến rồi, Tân nhanh nhẹn xuống bếp rửa mặt rồi đi ra vườn kiếm chuyện thăm hỏi để một lần nữa nghe lại giọng nói của người phụ nữ.
                              Khi người phụ nữ đó lấy đủ số lá sả mình cần và đã ra về rồi, Tân vẫn còn đứng trầm tư suy nghĩ một mình giữa sân…
                              Trước đây, có lần ông chú kể cho Tân nghe chồng hiện giờ của vợ thằng Năm là bạn nó, một người bạn quen biết tình cờ trên dọc đường sông nước… Có khi nào? Có khi nào….
                              Tân không dám nghĩ tiếp nữa, mà vội quay vào nhà lục đục nấu cơm rồi ăn qua loa vài chén.
                              Suốt ngày vì không có chuyện gì làm, Tân cần mẫn xới đất rồi gieo một vạt cải bên hông nhà, rồi rất siêng năng chăm bón.
                              Những bụi cải được tưới nước và chăm sóc đàng hoàng nên xanh mướt và cây nào cây nấy rất to. Nghĩ tới nghĩ lui, Tân nhổ mấy bụi cải xách đi qua nhà chị Liễu, vợ thằng Năm.
                              Nhà Liễu không xa nhà Tân là mấy nhưng từ ngày về đây tới giờ cũng đã gần một tháng mà Tân vẫn chưa lần nào trông thấy vợ chồng con cái Liễu.
                              Nhà Liễu cất thụt sâu vào trong khoảng vườn um tùm cây trái. Từ ngoài đường, muốn vô nhà Liễu phải đi qua một cái sân thật rộng mà cánh cổng rào hình như lúc nào cũng khóa im ỉm.
                              Người dân thôn quê vốn không có thói quen làm cổng rào trước nhà, nếu có cũng chỉ là để rào gà vịt, không cho chúng đi lung tung chứ hoàn toàn không phải để ngăn ngừa người lạ hoặc những khách không mời mà tới. Bởi thế, chẳng cổng rào nhà ai có khóa. Ngay cả cửa nhà cũng ít khi khóa.
                              Thế nhưng nhà Liễu thì ngoài đến trong đều đóng khóa im ỉm, cả thằng bé con nhà Liễu cũng không thấy chơi bời chạy nhảy ngoài sân.
                              Nhưng Tân đã có chủ ý riêng của mình nên không ngại ngần gì việc kêu cửa nhà Liễu:
                              - Chị Liễu ơi… có nhà không? Tôi mang qua cho anh chị mấy cây cải vườn nhà đây này…
                              Không có tiếng trả lời nhưng Tân nhìn thấy cánh cửa nhà sau xịch mở và một gương mặt đàn ông ló ra.
                              Vừa nhìn thấy Tân, người đàn ông nhoẻn cười rồi nhanh nhẹn bước hẳn ra ngoài mở rộng cánh cổng:
                              - Mời anh vào chơi… vợ tôi đi vắng rồi… mình là chòm xóm với nhau mà cứ lo cơm áo gạo tiền nên chẳng mấy khi gặp mặt, thiệt mắc cỡ với anh quá…
                              - Dạ không có gì đâu anh, tôi cũng mới về đây thôi, không gặp nhau cũng bình thường thôi mà… Tôi trồng đám cải, nhổ qua cho anh chị mấy cây ăn lấy thảo…
                              Vừa nói, Tân vừa đưa bó cải cho người đàn ông rồi dợm bước định quay về, nhưng người đàn ông lại khẩn khoản:
                              - Chẳng mấy khi anh tới chơi, xin vô nhà uống với tôi ly nước rồi hãy về, anh em xóm giềng mà xa lạ với nhau quá tôi cũng buồn… Nên có dịp thế này càng tốt…
                              Tân mỉm cười ưng thuận, chân bước theo sau người đàn ông mà mắt không ngừng quan sát xung quanh.
                              Người đàn ông đã đứng tuổi, hình dáng bên ngoài rất xứng đôi với Liễu, không như thằng Năm trước đây.
                              Thằng Năm là một đứa cục mịch, tướng tá đô con nhưng không có nét nào hấp dẫn. Ở con người nó toát lên cái vẻ mộc mạc, chất phát của đồng quê chứ không gợi cho người ta một nét đẹp nào của hình thức.
                              Còn người đàn ông này, từ giọng nói trầm ấm, đến dáng đi, mái tóc đều có một vẻ gì đó rất hấp dẫn, rất lôi cuốn. Tân là đàn ông mà còn cảm nhận được điều đó thì các cô gái khó lòng mà không biết tới.
                              Trước đây ông chú có kể vợ chồng nhà này sống biệt lập, nhưng hóa ra họ cũng vui vẻ xởi lởi lắm mà!
                              Vừa vô tới nhà, người đàn ông kéo ghế mời Tân rồi quay ra phía sau gọi nhỏ:
                              - Con trai, lên chào bác đi con!
                              Một đứa bé trai đi từ hướng đó ra, ngoan nogãn khoanh tay cúi đầu chào Tân rồi lại trở về với mớ đồ chơi hỗn tạp của nó.
                              Tân liếc mắt nhìn kỹ thằng bé, trông nó không có nét nào của thằng Năm cả, mà lại… hao hao giống người đàn ông này!
                              Trái tim Tân nhói đau, Tân thầm than thở:
                              - Xin đừng cho những gì tôi nghĩ trong đầu là sự thật…
                              - Uống nước đi anh!
                              Người đàn ông đẩy tách trà về phía Tân mời.
                              Tân mỉm cười hỏi:
                              - Cháu năm nay mấy tuổi rồi anh? Thằng bé ngoan lắm!
                              Người đàn ông mỉm cười sung sướng:
                              - Nó lên sáu rồi đó anh à! Vợ chồng tôi chỉ có một mình nó nên cũng ráng dạy dỗ…
                              Rồi như lỡ lời, người đàn ông hạ thấp giọng nói thêm:
                              - Tuy nó không phải con ruột của tôi, nhưng tôi luôn yêu quý nó và xem nó như máu mủ của mình…
                              Tân vờ ngạc nhiên:
                              - Ủa, sao anh lại nói thế? Cháu đây là…
                              - Là con của vợ tôi và chồng trước của cô ấy!
                              Người đàn ông tiếp lời Tân.
                              Tân gật gù:
                              - À… thì ra thế! Anh Năm trước đây là bạn thân với tôi hồi tôi còn nhỏ, lâu lắm rồi không gặp lại, không ngờ khi tôi về lại đây thì ảnh đã không còn! Thiệt là tội nghiệp…
                              Người đàn ông liếc nhanh qua Tân một cái rồi nói:
                              - Con người ta có số cả thôi anh ạ…
                              Tân và người đàn ông nói chuyện thêm một lúc nữa rồi Tân đứng lên cáo từ ra về.
                              Đưa Tân ra tận cổng, người đàn ông còn dặn với theo như một chủ nhà hiếu khách:
                              - Hôm nào rảnh anh em mình làm một chầu rồi tâm sự tiếp nhé?
                              Tân cười:
                              - Dạ… tôi bỏ rượu lâu rồi ạ! Làm một chầu trà thì được!
                              Người đàn ông bật cười ha hả.
                              Tân ra về mà lòng nghĩ ngợi lung tung. Tân không xác định được giọng nói của người đàn ông này có phải là giọng nói của người mà Tân đã nghe trong đêm trước hay không, vì hôm đó thật sự Tân nghe tiếng anh ta không rõ lắm, mà anh ta thì cứ rít lên hoặc gằn giọng xuống chứ không nói giọng bình thường…
                              Nhưng dù sao lần này Tân cũng đã thu thập thêm được một chi tiết nữa, đó là về phần đứa bé. Tân tin vào cặp mắt và linh cảm của mình, rằng đứa bé đó không phải là con trai của thằng Năm mà chính là con của Liễu và người đàn ông ấy!
                              Vậy có nghĩa là Liễu đã có quan hệ với người này ngay từ lúc thằng Năm còn sống. Có phải vì lẽ đó mà thằng Năm phải chết một cách mờ ám thế không? Điều này tại sao dân làng ở đây lại không nghĩ tới chứ? Họ không nhìn thấy thằng bé giống người đàn ông ấy lắm sao? Thật là lạ quá…
                              Tân khẳng định một điều, cặp vợ chồng này không bình thường, ở họ có một điều gì đó mà người ngoài chưa khám phá được, và Tân nhất định phải khám phá cho ra.
                              Tối hôm ấy Tân không ra chỗ góc vườn hôm qua nữa mà ngồi giấu mình trong lùm cây mắt hướng về phía nhà vợ chồng Liễu.
                              Tân ngồi như thế suốt mấy tiếng đồng hồ, chân cẳng tê cứng nhưng vẫn không nao lòng. Tân đã nhất định rồi, dù có phải chết Tân cũng quyết đưa vụ này ra ánh sáng!
                              Hơn mười một giờ đêm, Tân đưa tay lên che miệng ngáp. Bất thần nghe một tiếng động rất khẽ phía nhà Liễu rồi Tân nhìn thấy người đàn ông ấy lách mình ra cửa, mặc cho Liễu níu kéo sau lưng.
                              Ra khỏi nhà, người đàn ông vội trùm lên đầu mình một tấm vải đen rồi lom khom đi vòng ra phía sau. Nhanh như cắt, Tân cũng nhẹ nhàng theo dõi sát phía sau.
                              Bóng đen lùng nhùng trong tấm vải của người đàn ông lần dò đi về phía mảnh vườn của nhà Tân. Hắn cứ mải miết đi, không hề biết sau lưng hắn có một người đang bám sát.
                              Lâu nay hắn biết dân làng không ai ra ngoài ban đêm, nên hắn cũng không mấy giữ gìn tung tích.
                              Đi tới gốc cây đa phía góc vườn, bóng đen ngồi thụp xuống làm gì đó giống như đào bới để lấy một vật gì đó được chôn dưới đất.
                              Đúng như Tân nghĩ, chỉ một loáng sau, bóng đen đứng lên, trên tay cầm một theo một hũ nhỏ.
                              Hắn đi như lướt trên ngọn cỏ làm Tân vất vả lắm mới đuổi theo kịp mà không gây ra tiếng động nào khả nghi.
                              Thì ra hắn đang tiến dần về hướng nghĩa địa làng. Nhưng không hiểu sao tất cả chó trong xóm đều lặng hơi im tiếng, không một con nào sủa mặc dù cái bóng đen của hắn đôi lúc bay bay sát cạnh nhà người ta, và cả Tân nữa, vì phải bám theo hắn nên Tân cũng có khi phải đi băng ngang qua sân nhà người, vậy mà chó vẫn không sủa!
                              Ra tới nghĩa địa, Tân cúi người vừa nép vừa len theo mấy ngôi mộ để tiến dần theo bóng đen. Hắn cứ đi xăm xăm về phía trước không ngần ngừ, không nhìn ngó gì hai bên đường, hình như việc này đối với hắn đã vô cùng quen thuộc!
                              Qua gần hết nghĩa địa, bóng đen đột ngột rẽ ngoặt về phía trái, suýt chút nữa đã chạm mặt với Tân nếu như Tân không nhanh chân lủi vào một bụi cây gần đó.
                              Hắn tới bên một tảng đá, nặng nhọc nhấc tảng đá lên rồi lại ngồi xuống đào bới bằng một đoạn ống sắt mà hắn mang theo từ nhà.
                              Một chập sau, hắn lôi lên một gói ni lông dài dài mà dưới ánh sáng mờ mờ Tân không nhìn rõ được.
                              Hắn ngồi xoay lưng về phía Tân và bắt đầu mở gói ni lông ra, Tân tò mò quá, cố nép sát vào mấy ngôi mộ đá để tiến sát lại gần bóng đen.
                              Tân như muốn ngừng thở khi nhìn thấy cái vật dài dài được bao bọc bằng ni lông ấy chính là một cái chân người! Một cái chân người được cắt rời từ giữa đùi!
                              Bóng đen đã để cái chân đó ra ngoài và bắt đầu mở cái hũ trên tay, thò tay vào nhón từng chút chất bột gì đó rắc đều lên khúc chân, miệng lầm rầm giống như đang đọc thần chú.
                              Trong lồng ngực, trái tim Tân đang đập thình thịch, Tân đưa tay mình lên cố đè nó lại vì có cảm giác tiếng đập đó rất lớn, có thể bóng đen kia sẽ nghe thấy!
                              Bóng đen cứ rắc rắc gì đó lên khúc chân và đọc đi đọc lại những câu gì đó mà Tân không nghe rõ được. Hơn nửa giờ sau, có lẽ thủ tục đã hoàn tất, hắn lại cuộn khúc chân vào bao ni lông rồi chôn trở xuống đất.
                              Cúi người nhấc tảng đá đặt trở lên trên, hắn mỉm cười khoái trá rồi bất ngờ hú lên một tràng ghê rợn…
                              Tấm vải đen trên người hắn không ngừng phát ra tiếng loạt soạt theo mỗi bước chân.
                              Tân loạng choạng chạy theo, cố ghìm mình không nôn thốc nôn tháo và cố giữ cho bước chân mình đặt thật khẽ xuống mặt đất để đừng gây ra tiếng động.
                              Bóng đen lại trở về gốc đa sau vườn nhà Tân để chôn trở lại  cái hũ mà khi nãy hắn đã đào lên.
                              Hành tung của hắn quả thật bí hiểm, nhưng hắn không ngờ đã có người khám phá ra được.
                              Mặc dù Tân chưa hiểu gì lắm, nhưng vì đêm trước đã nghe loáng thoáng cuộc cải vả giữa hai vợ chồng hắn nên Tân cũng lờ mờ đoán ra, hắn đang luyện một thứ bùa phép nào đó lên chính cẳng chân của người đã chết!
                               
                              Chôn xong cái hũ, hắn lại cất lên tiếng hú thật thê lương rồi lướt nhanh về hướng nhà hắn. Hình như đã chờ đợi sẵn, Liễu nhanh nhẹn mở cửa đón hắn vào nhà, cô còn thò đầu ra nhìn dáo dác xung quanh một lượt…
                              Tân mệt lả người, vừa vào tới nhà là nằm dài ra giường thở dốc. Trời ơi, sự thật… sự thật này còn kinh khiếp hơn cả ma quỷ lộng hành!
                              Nhưng hắn làm sao, làm sao hắn có thể buộc lũ chó trong làng câm miệng mỗi khi hắn xuất hiện? Làm sao hắn giết được tất cả trẻ sơ sinh? Làm sao hắn giết được những người tình cờ trông thấy hắn, tiêu biểu là cái chết mới đây của ông chú? Tân quay cuồng với những câu hỏi đó…
                              - Từ từ… đừng nôn nóng… rồi mình sẽ khám phá ra tất cả thôi mà…
                              Tân động viên mình như thế và cố gắng nhắm mắt lại nhưng vẫn không tài nào ngủ được… Mãi đến khi gần sáng Tân mới chợp mắt được một chút.
                              Sáng hôm sau, người thuê ruộng vườn của ông chú đến báo với Tân là đã hết hạn, hôm nay họ trả tất cả về cho Tân.
                              Thế là Tân mượn cớ dọn lại mảnh vườn, nên suốt ngày loay hoay chỗ giáp ranh với nhà Liễu. Tay làm, nhưng mắt và tai Tân lại để cả theo những động tĩnh dù rất nhỏ bên ngôi nhà đó.
                              Một hôm, Tân thấy người đàn ông đó dắt đứa con trai ra khỏi nhà chắc là  đi đâu đó, một lúc sau lại thấy Liễu bưng thau quần áo ra ngồi sau bờ ao.
                              Trông Liễu thẫn thờ và buồn bã ghê lắm. Vì không biết có người luôn theo dõi nên Liễu cứ ngồi ngó đăm đăm xuống mặt nước rồi bất chợt ôm mặt khóc ròng.
                              Trong lòng Liễu đang cất giữ một điều bí mật khổ đau nào đó? Cũng đúng thôi, theo phán đoán của Tân, Liễu và người đàn ông kia đã có quan hệ với nhau từ lúc Năm còn sống, và có thể cái chết của Năm có bàn tay của Liễu nhúng vào.
                              Suốt nhiều ngày bỏ công tìm hiểu và theo dõi, Tân được biết người đàn ông chồng Liễu tên là Hùng, hiện đang làm ăn buôn bán gì đó ở trên thị xã, ngày nào cũng sáng đi tối về, Liễu ở nhà chăm sóc con trai.
                              Một hôm, canh chừng lúc Hùng đã đi được một lúc, Tân đi ra gốc đa sau vườn, quan sát thật kỹ mặt đất xung quanh rồi ngồi xổm xuống đào ngay chỗ đã thấy Hùng đào trong đêm trước.
                              Không phải mất nhiều thời gian và công sức, Tân đã chạm tay vào cái hũ sành và nhấc nó lên khỏi mặt đất.
                              Rất cẩn thận, Tân từ từ mở nắp hũ ra, một mùi hăng nồng xộc ra làm Tân phải vội vàng ngoảnh mặt đi nơi khác.
                              Một tay bịt mũi, Tân nhìn vào hũ thì thấy trong đó chứa một chất bột mịn có màu xam xám, nhưng đó là chất gì thì Tân chịu, không biết và không thể đoán được.
                              Tần ngần hồi lâu, Tân đặt cái hũ về chỗ cũ và lấp đất lại giống y như khi chưa đào lên.
                              Tân lưỡng lự, không biết mình có nên đi ra nghĩa địa và đào khúc chân kia lên hay không? Một cảm giác rờn rợn xâm chiếm lấy Tân. Tân nghĩ, mình đào lên thì làm được gì? Không chừng còn bị quy vào tội giết người hay tội gì khác nữa thì khốn, chi bằng mình cứ theo dõi rồi báo chính quyền đi bắt quả tang hành vi mờ ám của Hùng, như vậy chẳng tốt hơn sao?
                              Nhưng rồi nghĩ tới nghĩ lui, Tân thấy vậy cũng không ổn. Phải có ai đó nắm được đầu đuôi câu chuyện đứng ra tố cáo thì dễ dàng hơn, chứ mình là người xa lạ, tự nhiên tới nói mấy chuyện có vẻ huyễn hoặc đó biết ai người ta tin?
                              Bất chợt Tân nghĩ tới Liễu. Mấy lúc gần đây Tân để ý thấy Liễu cứ khóc một mình hoài, có lẽ sự hối hận ăn năn đang giày vò cô ấy. Hay là… hay là mình động viên Liễu đi tố cáo Hùng? Trời! Mình điên hay sao ấy nhỉ? Người ta đang là vợ chồng với nhau mà mình lại đi xúi vợ kiện chồng… Mình điên mất rồi…
                              Liên tiếp những ngày sau đó cuộc sống của vợ chồng Liễu diễn ra vẫn bình thường, và đêm đêm dù Tân có cố gắng đến mấy vẫn không thấy Hùng lặp lại trò dị thường như hôm trước nữa.
                              Chán nản, Tân không biết phải làm gì khi trong tay chỉ có một vài bằng chứng mỏng manh, không đủ để nói lên một sự việc gì hết.
                              Có đôi lúc Tân muốn dẹp bỏ tất cả, quên đi tất cả, mặc kệ mọi việc ra sao thì ra, nhưng khi nhìn lên bàn thờ ông chú và nhớ tới những cái chết mà mình đã nghe kể Tân lại không dẹp bỏ được. Không bỏ được mà cứ quẩn quanh một chỗ, lúng túng như con gà mắc lưới mới thật là đau cho Tân!
                              Giữa lúc mọi việc gần như bế tắt thì một việc may mắn bất ngờ xảy đến.
                              Trưa hôm đó Tân đang ngồi tra lại lưỡi cuốc ở sau vườn thì bất ngờ nghe tiếng khóc thút thít của Liễu bên kia rào vọng sang. Không cưỡng được sự tò mò, Tân rón rén đi dần lại đó thì thấy Liễu đang ngồi úp mặt lên gối khóc ròng, đôi bờ vai tròn lẳn cứ không ngừng run lên theo từng cơn thổn thức.
                              Biết chắc Hùng không có nhà, Tân mạnh dạn đến cạnh Liễu – dĩ nhiên là cách một bờ rào dâm bụt – lên tiếng hỏi:
                              - Có chuyện gì mà chị khóc thế, chị Liễu?
                              Liễu giật thót mình ngước lên, trông thấy Tân, Liễu có vẻ ngại ngùng, luống cuống:
                              - Không… không! Không có gì…
                              Nhìn đôi mắt đỏ hoe và sưng húp của Liễu, Tân biết Liễu không những khóc mà đã khóc rất nhiều.
                              Tân nhẹ nhàng ngồi xuống, rút một điếu thuốc ra châm lửa hút, vừa nhìn theo những vòng khói bay lảng vảng xung quanh Tân vừa nói:
                              - Chị đừng giấu tôi! Tôi biết nhiều điều về cái chết của anh Năm… Có một lần anh Năm đã về báo mộng cho tôi biết…
                              Tân cũng chẳng biết do đâu bỗng dưng mình lại nói dối một cách trơn tru đến như thế.
                              Vừa nghe nhắc tới chuyện Năm về báo mộng là Liễu lại giật bắn người, ấp úng:
                              - Anh… anh Năm thật sự về báo mộng cho anh hay sao? Anh ấy đã nói gì?
                              Đã lỡ phóng lao thì phải theo lao, Tân quyết định dùng cách này để khai thác Liễu, và biết đâu nhân cơ hội này Tân sẽ giục Liễu nói ra toàn bộ sự thật thì sao?
                              - Anh âùy đã cho tôi biết nguyên nhân nào anh ấy chết, và cả… cả chuyện anh Hùng chồng chị hiện nay đang luyện một thứ bùa ngãi gì đó làm nguy hại tới cuộc sống của những người trong làng… Nói chung là anh Năm đã cho tôi biết hết rồi…
                              Liễu sợ hãi:
                              - Có thật không anh? Tôi… tôi cũng sợ lắm! Thời gian gần đây tôi cũng nằm mơ thấy anh Năm luôn…
                              Tân cất giọng đều đều:
                              - Tôi và anh Năm đều biết chị không cố ý, nhưng dù sao chị cũng gián tiếp gây ra cái chết cho ảnh và nhiều người khác nữa… Tôi cũng biết lúc này trong lòng chị giày vò khổ sở lắm… Vậy tại sao chị không ngăn chặn những hành vi tội ác của anh Hùng?
                              Liễu bật khóc nức nở, hai tay ôm đầu một cách khổ sở:
                              - Trời ơi… tôi là người đáng chết mà sao tôi vẫn cứ sống, sống để ngày qua ngày bị lương tâm cắn rứt, để hoảng hốt sợ một điều gì đấy sẽ đến với mình… Tôi đã nhiều lần ngăn cản… nhưng không được…
                              - Chị có thể kể tất cả với tôi không? Có thể sau khi nghe đầu đuôi câu chuyện tôi sẽ có cách giúp được chị…
                              Tân mạnh dạn đề nghị.
                              Liễu chùi nước mắt, giọng nghẹn ngào:
                              - Đáng lẽ những việc này tôi sẽ không bao giờ nói ra, nhưng dù sao anh cũng đã biết rồi, thì tôi kể lại luôn cho lòng nhẹ đi đôi chút. Anh nghe xong rồi có muốn định tội tôi thế nào cũng được… Thú thật là mấy lúc gần đây tôi rất muốn giãy bày với ai đó, thậm chí muốn kể hết với nhà chức trách rồi sau đó mọi việc ra sao thì ra, tôi không còn đủ sức để chịu đựng nữa rồi…
                              Liễu lại nấc lên.
                              Tân an ủi:
                              - Biết ân hận cũng là một điều tốt đấy chị ạ! Tôi tin anh Năm sẽ nghe được những lời chân thành từ chị…
                              Liễu cố gắng ghìm cơn thổn thức đang trào lên từng chập và bắt đầu kể:
                              - Tôi với anh Năm thành chồng vợ là do mai mối chứ thật sự cả hai không thương yêu gì nhau. Anh Năm tuy rất hiề lành nhưng tính tình cục mịch, không biết nói với tôi những lời ve vuốt, cũng không biết có những cử chỉ trìu mến dành cho tôi. Là đứa con gái tuổi mộng mơ, tôi thật sự thất vọng khi về làm vợ anh ấy, mặc dù tôi biết anh ấy rất yêu thương tôi, nhưng yêu thương theo cái cách của ảnh.ơMojt thời gian sau, anh Năm dẫn một người về giới thiệu với tôi, bảo đó là người bạn thân tình cờ gặp gỡ trên đường làm ăn buôn bán, hai người đã từng nương tựa, giúp nhau rất nhiều. Tôi cũng không thắc mắc gì khi thấy tình cảm giữa chồng tôi và người đó rất thân thiết. Từ đấy, người bạn ấy thường xuyên tới nhà tôi chơi và mỗi lần tới vẫn ở lại nhiều ngày. Những ngày ở nhà tôi, người ấy làm việc luôn tay, vun xới chỗ này, làm lụng chỗ khác nên cả vợ chồng tôi đều rất ưng bụng. Đặc biệt, người đàn ông đó có vẻ ngoài khác xa với chồng tôi. Bên cạnh cái vẻ đẹp tài tử, anh ta còn là người khéo ăn nói, khéo lấy lòng người. Bởi thế không lâu sau tôi nhận ra trong tôi đã bắt đầu nhen nhóm một thứ tình cảm khác thường dành cho người đàn ông đó. Với tôi, người đó cũng vậy, mặc dù không nói ra lời, nhưng những ánh mắt, nụ cười và cử chỉ của người đó đã nói lên tất cả…
                              Một đêm khuya chồng tôi say khướt sau cuộc nhậu với bạn bè, tôi cảm thấy tủi thân nên ra sau bếp ngồi khóc. Người đó đã đến gần an ủi, sẻ chia. Và rồi… việc gì đến đã đến, tôi đã bắt đầu có quan hệ mật thiết với người ấy kể từ đêm hôm đó! Tôi đã không làm chủ được mình, không ngăn được những xúc cảm rạo rực của người phụ nữ khi được một người khác phái xưng tụng, nâng niu và rót vào tai toàn những lời mật ngọt…
                              Khi biết mình có thai, tôi cuống cuồng lo sợ và báo cho người ấy biết, vì tôi biết chắc đứa con này không phải của chồng tôi. Người dó rất đỗi vui mừng và xui tôi ly hôn với chồng để cả hai được danh chánh ngôn thuận mà nuôi dạy con cái. Nhưng… tôi không thể ly hôn với anh Năm được, vì… nhiều lẽ khác nhau. Bởi thế quan hệ giữa chúng tôi cứ nhùng nhằng mãi như thế. Người ấy không ngày nào không thúc giục…
                              Rồi một hôm, tình cờ anh Năm đã phát giác ra sự phản bội của chúng tôi. Anh không làm lớn chuyện mà đau đớn bỏ đi. Anh đi nhậu ở nhà người bạn, đến tối hôm đó thì không về nữa… Sáng ra tôi chạy đi tìm khắp nơi và tìm được xác anh dưới lòng sông, cái xác đã bị cắt mất một giò!
                              Tôi ân hận, đau đớn, nhưng tôi không thể nào ngờ được cái chết của anh Năm không phải do tai nạn mà là… chính người đàn ông kia ra tay… Chuyện đó mãi sau này tôi mới biết… Tôi biết nhưng không làm gì được, vì thật sự người đàn ông ấy cũng rất thương yêu mẹ con tôi…
                              - Hắn giết anh Năm vì tình thì tôi hiểu rồi, nhưng tại sao hắn phải cắt giò anh Năm đi chứ?
                              Tân không dằn được, lên tiếng hỏi.
                              Liễu nghẹn ngào nói tiếp:
                              - Một ông thầy bùa người Miên dạy cho người đó cách luyện một thứ ngãi độc nhất vô nhị nào đó, khi luyện thành thì sẽ giàu sang tột đỉnh, quyền uy tột đỉnh… Người đó đã không ngăn được lòng tham mà lao vào việc luyện ngãi. Công việc ấy đòi hỏi nhiều thời gian và nhiều thứ nguyên liệu đáng sợ… Đầu tiên là phải có một cẳng chân bên trái của một người đàn ông mạnh khỏe, rồi phải bắt tám con cóc đem chôn sống ở giữa ngã ba đường, đến đúng ngày giờ ấn định thì đào lên đem đi phơi khô rồi tán nhuyễn ra thành bột. Mỗi tháng hai lần, lấy chất bột ấy rắc lên trên cái cẳng chân kia, đúng một năm sau thì cái cẳng chân ấy sẽ hóa thành một thứ tay sai đắt lực giúp cho chủ nhân nó đạt được mọi ước muốn trong đời…
                              - Thế thì tại sao lại phải giết chết trẻ sơ sinh? Tại sao lại giết những người tình cờ trông thấy hắn?
                              Tân phẫn nộ hỏi.
                              - Trong thời gian luyện ngãi, xung quanh đó bắt buộc không có trẻ sơ sinh, nên nhà nào vừa có người sinh con là người đó tìm cách giết chết. Còn tại sao lại giết những người nhìn thấy hắn ư? Đấy là do hắn đề cao cảnh giác, không muốn hành tung của mình bị phát giác…
                              - Thật khốn nạn!
                              Tân không dằn được, bật lên tiếng chửi. Rồi liền sau đó Tân lại lúng túng:
                              - Xin lỗi chị… tôi… tôi không cố ý…
                              Liễu không khóc nữa, giờ đây trông cô thảm hại như một người vừa qua một trận ốm thập tử nhất sinh. Cô gượng môi mỉm một nụ cười cay đắng:
                              - Không… anh không có lỗi gì cả! Tôi đúng là kẻ khốn nạn… tôi đã giết chết chồng mình, đã gây ra muôn vàn tội ác…
                              - Rồi bây giờ chị tính sao? Chẳng lẽ chị cứ ngồi im mà nhìn anh Hùng lún sâu vào con đường tàn bạo ấy hay sao?
                              Tân hỏi.
                              Liễu buồn ngơ ngác:
                              - Tôi đã cố ngăn cản anh ấy đừng luyện ngãi đó làm gì nữa, nhưng anh một mực không nghe, hình như… bây giờ anh ấy đã bị tà khí xâm nhập vào quá nhiều rồi, không thể bứt ra được… Anh có biết không… có nhiều khi tôi muốn chết… muốn hủy hoại mạng sống của cả hai mẹ con tôi để cho anh ấy sáng mắt… Nhưng thật nhục nhã… tôi không đủ can đảm…
                              - Sao chị không đi tố cáo với chính quyền?
                              Tân thắc mắc.
                              Liễu cắn môi:
                              - Dù sao thì người ấy cũng là chồng tôi, có tội lỗi gì thì tôi cũng cam tâm hứng chịu, tôi không thể… không thể đi tố cáo chồng mình, dù tôi biết như vậy là sai… là không tốt…
                              Đột nhiên Liễu vùng lên, chồm người qua hàng rào gấp rút hỏi:
                              - Anh Tân, anh có sẵn lòng giúp tôi không? Tôi nhớ ra rồi, chỉ có anh mới có thể giúp cho tôi, giúp chồng tôi thoát khỏi vòng tội ác… Chỉ có anh thôi, anh có sẵn lòng giúp tôi không? Tôi van xin anh, van xin anh đấy, anh Tân ơi…
                              Thấy Liễu bị kích động quá Tân cũng đâm ra sợ, e dè hỏi:
                              - Tôi giúp được gì cho chị? Chị nói đi, nếu giúp được tôi nhất định không từ chối…
                              Vừa nghe Tân nói thế Liễu vội quỳ sụp xuống đất lạy lấy lạy để liên tiếp làm Tân vô cùng bối rối:
                              - Chị… chị Liễu à, chị đứng lên đi, có gì chị nói, đừng làm như vậy…
                              Liễu khóc sướt mướt:
                              - Chỉ có một cách duy nhất mới có thể phá bỏ toàn bộ công trình lâu nay của anh ấy, mới có thể lôi anh ấy trở lại với cuộc sống đời thường, mà cách này phải đòi hỏi sự gan dạ quên mình…
                              - Nghĩa là sao? Chị nói rõ hơn đi, tôi không hiểu…
                              Tân căng thẳng không thua Liễu.
                              - Là như thế này, còn ba hôm nữa là tới ngày anh Hùng phải đi đào các chân kia lên để rắc thuốc vào đó. Nếu có một người gan dạ đi theo, đợi đúng lúc anh ấy vừa rắc thuốc xong là nhào vô giật cái chân đó đốt đi, thì tất cả sẽ mất hết… Tất nhiên người ấy sẽ gặp sự phản kháng kịch liệt của anh Hùng, mà lúc ấy trong người anh Hùng đã có ma lực nên rất mạnh mẽ và hung tợn. Nếu thắng được anh ấy là coi như xong mọi việc, còn nếu như thua, nếu như người đó bị anh ấy khống chế thì cuộc đời người đó coi như chấm dứt và ngay lập tức cái bùa phép đó sẽ linh nghiệm tức thời mà không cần có thêm một thời gian khổ luyện nào nữa… Bởi thế lâu nay anh Hùng cũng mong có một người xuất hiện đúng lúc đó…
                              Liễu vừa nói vừa nhìn Tân một cách cầu khẩn.
                              Tân hơi dao động:
                              - Chị nói sao? Lúc đó anh hùng có ma lực trong người?
                              - Phải… phải! Lúc đó anh Hùng sẽ có ma lực trong người nên sức mạnh trở nên khác thường… Nhưng… anh Tân ơi, anh cố nghĩ ra cách gì đó để khống chế anh ấy giúp em… Nhưng… nhưng anh đừng làm hại anh ấy nhé?
                              Liễu gần như bấn loạn. Chính trong lúc đó, Tân nhận thấy một tình yêu to lớn mà Liễu đã dành cho Hùng. Tân thầm nghĩ, giá như Hùng đừng động tay vào tội ác, thà cứ sống một cuộc sống bình thường bên một người vợ yêu thương mình, bên một đứa con ngoan thì còn hạnh phúc nào bằng. Hùng cần sang giàu, cần quyền lực để làm gì nhỉ?
                              - Thôi được rồi, để tôi suy nghĩ… Chị bảo còn đúng ba hôm nữa là tới ngày Hùng đi đào cái chân kia lên, đúng không?
                              Hùng hỏi.
                              Liễu gật đầu:
                              - Đúng, ba hôm nữa! Khoảng mười một giờ đêm thì ảnh sẽ đi, địa điểm khởi đầu là ở gốc đa sau vườn nhà anh…
                              Tân đứng lên:
                              - Thôi được! Chị vào nhà nghỉ ngơi đi, đừng tỏ vẻ gì cho anh Hùng biết. Tôi nhất định sẽ nghĩ ra cách…
                              Liễu run run:
                              - Mọi việc tôi trông cậy hết vào anh… Xin anh thương lấy mẹ con tôi… Anh phải ráng giữ mình… và giữ lại mạng sống cho anh Hùng nữa…
                              Tân gật đầu và quay bước vào nhà. Sau lưng Tân, Liễu vẫn đứng im lặng nhìn theo.
                              Từ lúc đó, Tân không còn tâm trí đâu để làm việc được nữa mà tập trung hết tư tưởng vào việc tìm ra cách nào khả thi nhất để chống chọi lại Hùng.
                              Giữa Tân và Hùng thì khó nói ai sẽ thắng ai nhưng đằng này Liễu đã cảnh báo rằng lúc đó trong người Hùng có thêm sức mạnh ma quỷ, thế thì Tân không thể trông cậy vào sức mạnh cơ bắp của mình được rồi, mà nhất định phải có một mẹo nào đó, một cách nào đó…
                              Tân nhất định không để mình thua cuộc, vì nếu thua cuộc là mình sẽ chết, nhưng điều đó không sao, có chết một mình mình cũng không sao, nhưng mình thua cuộc thì làng xóm này sẽ mãi mãi không được bình yên… Rồi khi cái thứ bùa ngãi quỷ quái gì đó được luyện thành thì sẽ còn những chuyện gì xảy ra ở đây nữa? Mình không được quyền thua cuộc!
                              Việc theo dõi Hùng thì không khó, vì Tân đã thực hiện một lần rồi, nhưng làm cách hạ được Hùng mới là điều nan giải…
                              Nghĩ tới nghĩ lui, Tân thấy chỉ còn mỗi một cách là bất ngờ đánh úp, cộng với phương pháp đánh ghen của mấy bà chằn tinh mà Tân thường nghe kể. Đó là thủ sẵn một gói muối ớt hoặc vôi bột, bất thần tung ra để đối phương không kịp trở tay…
                              Tân lại thắp nhang trước bàn thờ ông chú lâm râm cầu nguyện và đi vào nhà ngủ một giấc thật ngon.
                              Ba ngày sau, đúng đêm hôm nay Hùng sẽ hành sự và Tân sẽ thực thi bổn phận của mình. Một chút hồi hộp trỗi lên nhưng nó nhanh chóng biến mất khi Tân nghĩ tới những cái chết oan ức của dân làng, nghĩ tới thằng bạn hiền như cục đất mà khi chết thân thể lại không được vẹn nguyên… Nỗi căm phẫn lấn át đi mọi sợ sệt trong Tân.
                              Tối đó, Tân tranh thủ ngủ một chút cho tinh thần sảng khoái. Gần mười giờ đêm Tân thức dậy và chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ cần thiết cho công việc đêm nay.
                              Lần này Tân không ngồi rình bên hông nhà Liễu nữa mà thu mình nép vào một bụi cây um tùm ở cạnh gốc đa.
                              Lâu sau, Tân phát hiện một bóng đen đang lướt tới. Gọi là lướt không ngoa chút nào, vì thật sự những bước đi của hùng rất nhanh nhẹn và nhẹ nhàng như không hề chạm xuống mặt đất.
                              Bóng đen không tới chỗ cũ mà tót một cái trèo lên cây đa, thò tay vô chỗ bọng cây chỗ chạc ba đem ra cái hũ sành hôm trước.
                              Tân lo lắng nghĩ:
                              - Hắn đổi chỗ giấu cái hũ, không biết có đổi chỗ chôn khúc chân không? Cũng may là mình ngồi đây chờ, chứ nếu không có thể mình đã vuột mất cơ hội này…
                              Sở dĩ Tân nói vậy là do lúc chiều Tân dự định khi trời tối sẽ lẻn vào nghĩa địa trước rồi đến gần chỗ chôn khúc chân mà tìm chỗ nào thuận tiện nhất để ra tay. Nhưng rồi Tân lại không làm vậy, sợ rằng có điều chi thay đổi. Quả thật Tân đoán không sai.
                              Tân lẽo đẽo bám theo anh ta. Hắn vẫn lao như bay qua các khoảng vườn trong xóm. Tân vừa bò, vừa trườn bám theo anh ta không để lạc mất, lại vừa phải cố gắng không cho anh ta biết.
                              Trời không trăng không sao, màn đêm vây bủa xuống thôn xóm, cứ nhấp nhem những thứ gì không rõ lắm, chúng giống như những quái thú ẩn nấp trong đêm. Những con chim lạ cứ kêu hoài không thôi, và mấy thứ lá cây hay loại động vật nào đó không nhìn rõ lắm cứ lấp la lấp loáng.
                              Sau đó, Tân đi như cái máy. Động lực giúp Tân tiếp tục đi là chiếc bóng đen đang phất phơ phía trước, vì nếu để lạc mất anh ta Tân sẽ khó có được cơ hội lần thứ hai.
                              Đêm nay hắn không đi theo đường cũ mà cứ lộn vòng trong các khu vườn rậm rạp, các bãi đất hoang cây cỏ mọc cao gần lút đầu người. Tân phải cố gắng lắm mới bám theo hắn được.
                              Không biết đã đi được bao lâu, bỗng Tân hẫng người như đi vào khoảng trống, ngã lăn nhào lộn tròn mấy vòng… khi dừng lại, trên vai đau buốt như bị ai đâm, nhưng cũng may là không bong gân hay trật khớp gì. Các thứ Tân mang theo vẫn còn nguyên trong túi.
                              Ngẩng đầu lên, không thấy bóng đen đâu nữa, Tân ngẩn người một lát rồi nhanh chóng nhận ra phương hướng và lồm cồm bò dậy chạy tiếp. Vừa chạy vừa đưa mắt ngó dáo dác xung quanh, một hồi lâu sau Tân mừng muốn reo lên khi thấy bóng đen thấp thoáng ngay phía trước mặt mình.
                              Hắn dẫn theo Tân đi quanh co nhiều lối nhưng cuối cùng cũng đi vào khu nghĩa địa, nhưng lần này điểm mà hắn chôn khúc chân kia lại là chỗ khác, nếu Tân không bám theo sẽ khó tìm ra được hắn.
                              Trong lúc hắn hì hụcmoi đất thì Tân đã nhẹ nhàng trườn lên tới một vị trí thích hợp nhất để ra tay.
                              Khi hắn vừa rắc xong chất bột trong hũ lên khắp cẳng chân của người đã chết thì bất thần Tân nhoài người ra khỏi bia mộ, tung mạnh nguyên cả gói ớt bột trộn vôi vào mắt hắn.
                              Gã áo đen hoảng hốt, theo phản xạ tự nhiên hai tay hắn đưa lên dụi lia lịa vào mắt, nhưng hắn có biết đâu càng dụi thì mắt hắn càng không thể mở ra được.
                              Thừa thắng xông lên, Tân nhào tới dùng hết sức lực hất ngã hắn xuống. Nhưng mặc dù mắt không mở được và đang rát buốt nhưng hắn không dễ gì để khuất phục.
                              Hai người quần nhau tơi tả, nhưng phần thắng nghiêng hẳn về phía Tân, do Tân đã có sự chuẩn bị chu đáo từ trước, còn hắn, lâu nay hắn không nghĩ tới việc có một người nào đó ngang nhiên chống đối lại mình nên không hề phòng bị….
                              Khi tay chân của hắn đã bị Tân trói chặt, hắn giương đôi mắt trắng dã lên nhìn Tân một cách đầy căm hờn, miệng hắn luôn gầm gừ:
                              - Buông tao ra… thả tao ra… tao còn chưa kịp đọc thần chú…
                              Tân không nói gì, giờ phút này Tân không cảm thấy hả hê, cũng không thấy kiêu hãnh chút nào mà trong lòng Tân lại dâng lên một nỗi buồn khó tả…
                              - Làm ơn thả tao ra đi, làm ơn đi… sắp hết giờ rồi…
                              Hắn lại chuyển sang màn van xin năn nỉ. Tân vẫn lặng lẽ đứng im suy nghĩ. Tân không biết giờ đây mình phải làm sao? Dẫn tên này cùng với tang vật đến chính quyền địa phương để trình báo, hay là vác cái xác thân đã bị trói nghiến của hắn đem về cho Liễu?
                              Tân còn đang phân vân chưa biết tính lẽ nào thì từ ngoài cổng nghĩa địa có ánh đuốc và bóng một người sấp ngử chạy vào.
                              - Anh Hùng ơi… Anh Tân ơi…
                              Tiếng gọi nhỏ cất lên, Tân nhận ngay ra là Liễu. Thì ra Liễu lo sợ mình làm hại chồng cô ấy nên cô đã tìm đến tận đây để can thịêp?
                              - Chúntg tôi ở đây!
                              Tân lên tiếng.
                              Liễu chạy về hướng Tân đứng và cô sững lại khi nhìn thấy chồng mình đang quằn quại trên mặt đất:
                              - Thả anh ra… mở dây trói cho anh Liễu ơi… sắp hết giờ rồi…
                              Liễu run rẩy:
                              - Không… anh ơi… em không thể…
                              Hùng hét to lên:
                              - Em có biết nếu để thời gian trôi qua thì anh sẽ trở thành người như thế nào không? Sẽ điên, anh sẽ điên đấy, em biết không?
                              Liễu quỳ xuống cạnh chồng, khóc ngất:
                              - Anh Hùng ơi… anh có điên có dại gì em cũng không bỏ anh đâu… em sẽ chăm sóc, lo lắng cho anh chu đáo… chứ em không thể… không thể để anh tiếp tục trượt dài vào con đường tội lỗi…
                              - Liễu ơi… em giết chết anh rồi…
                              Hùng rên rỉ và tiếng rên của hắn yếu dần rồi im bặt. Nhưng chỉ mấy giây sau đó hắn lại lồng lên một cách điên loạn, hai hàm răng hắn như ra, mắt mở trừng trừng kinh khiếp…
                              Liễu lùi lại và vấp chân vào khúc chân nằm bên cạnh té lăn cù, nằm vắt qua khúc chân giá lạnh.
                              Khi nhận ra cái gì nằm dưới người mình, Liễu thét lên sợ hãi và không còn đủ sức lực để đứng lên. Tân bước tới đỡ Liễu lên và đặt cô ngồi tựa vào một ngôi mộ gần đó. Liễu khóc ngất từng cơn, mắt nhìn người chồng thương yêu đang vật vã, đồng thời cũng nhìn khúc chân ghê rợn của người một thời từng là chồng mình, cô đau đớn nghẹn lòng, không biết làm gì ngoài việc khóc.
                              Thật lâu sau, cơn điên loạn của Hùng có phần dịu lại, và Liễu cũng chỉ còn sụt sịt Tân nói:
                              - Bây giờ tôi đưa anh Hùng về nhà chị phải không?
                              Liễu lảo đảo đứng lên:
                              - Dạ… anh làm ơn… làm ơn…
                              Mắt Liễu nhìn về phía cái chân đang nằm chỏng chơ trên tấm vải ni lông, Tân hiểu ý cô nên đi tới đó, khom người xuống vịn lấy một góc tấm ni lông định gói cái khúc chân ấy lại, thì thật không thể ngờ được, cái khúc chân kia từ từ tan ra thành những hạt li ti như bụi cát, rồi một cơn gió thốc qua, tất cả không còn lại gì, không còn lại một dấu vết gì của khúc chân ấy nữa.
                              Tân và Liễu trố mắt nhìn mà không kêu được lên lời…
                              Khó khăn lắm Tân và Liễu mới dìa được Hùng về tới nhà. Hùng như một kẻ hoàn toàn xa lạ, mở mắt ngơ ngác nhìn ngó khắp nơi…
                              - Có cần trói anh ta vào cột không chị?
                              Tân hỏi.
                              Liễu đến bên Hùng, nhẹ nhàng vuốt lên mái tóc bồng bềnh của hắn và nói:
                              - Không… không cần đâu! Tôi rất cảm ơn anh… Thôi, khuya rồi, anh về ngủ đi!
                              Tân lưỡng lự một lát rồi ra về. Trong đầu trống rỗng.
                              Về tới nhà Tân chạy vội xuống nhà sau múc nước xối ào ạt vào mình như muốn rửa sạch tất cả những điều xấu xa kinh khiếp mà Tân vừa chứng kiến.
                              Khi người đã nhẹ nhàng sạch sẽ, Tân lên thắp nhang bàn thờ chú, lầm rầm nói chuyện:
                              - Chú ơi… con đã làm được rồi… đã làm được rồi…
                              Mệt mỏi rã rời, Tân thổi tắt đèn rồi ngã người ra giường nằm nhắm mắt không kịp mắc màn. Miệng Tân không ngừng lảm nhảm:
                              - Cầu cho tất cả chỉ là một giấc mơ… chỉ là một giấc mơ…
                              Hai mí mắt Tân khép lại và trên môi Tân nở một nụ cười…
                              Từ đó trong xóm không còn ai nghe tiếng hú trong đêm nữa và một thời gian sau thì đã có tiếng trẻ sơ sinh oe oe khóc đòi sữa mẹ.
                              Người người mừng vui hớn hở, bảo rằng con quỷ một giò đã rời đi rồi, đã trả lại cho xóm làng sự yên bình muôn thủơ.
                              Những đêm trăng sáng, trai gái lại có thể hẹn hò tình tự với nhau, và những cặp vợ chòng mới cưới không phải chạy đôn chạy đáo để tìm một nơi ở khác khi vợ mình bắt đầu có dấu hiệu cấn thai…
                              Tất cả dân làng không ai biết được con quỷ đã làm xấc bấc cả làng chính là người đàn ông dở điên dở dại mà Liễu phải chăm nom săn sóc hàng ngày.
                              Trên gương mặt đẹp mà buồn của Liễu từ ấy càng thêm u tối vì không còn nở được nụ cười.
                              Có đôi lúc, nằm bên nhà mình, nghe những câu nói tiếng cười ngô nghê của người đàn ông to xác là Hùng, nghe những câu dỗ dành của Liễu mà Tân cảm thấy ái ngại cho cô quá. Tuổi của Liễu vẫn còn rất trẻ, thế mà cô phải sống trọn đời với một người chồng điên dại như thế hay sao? Aâu đó cũng là luật nhân quả của ông trời mà không ai có thể tránh khỏi.
                              Liễu và Hùng đã gây ra tội ác tày trời, nếu ông trời bắt họ chết thì chẳng là nương nhẹ với họ quá sao? Ông trời đã để cho họ sống, nhưng sống một cuộc đời đày đoạ đớn đau như vậy…
                              Mấy năm sau Tân cưới vợ.
                              Hai vợ chồng Tân chăm chỉ làm ăn nên cuộc ssông ngày một khấm khá hơn lên. Ba năm sau, trong nhà Tân đã vang lên tiếng cwofi đùa của trẻ con.
                              Còn nhà bên cạnh, thằng bé con của Liễu tuy thần kinh nó vẫn bình thường, nhưng chẳng bao giờ ai thấy được nó cười, Liễu bảo từ nhỏ nó đã không biết cười rồi!
                              Những khi nghe tiếng đứa bé bên nhà Tân cười lên hăng hắc là Liễu lại ngậm ngùi quay đi lau nước mắt,  nhìn đứa con lặng lẽ trong nhà…
                              Hết
                              Nguyễn Thị Mộng Thu
                              <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:56:36 bởi nguyenthu >
                              #45
                                Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 3 của 7 trang, bài viết từ 31 đến 45 trên tổng số 99 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 3 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2025 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9