Truyện ma của Nguyễn Thị Mộng Thu

Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 3 của 4 trang, bài viết từ 61 đến 90 trên tổng số 99 bài trong đề mục
Tác giả Bài
nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:48:59
                                                             MA ÁM

 
Sau khi mẹ tôi mất, do sự xúi giục của chị dâu nên anh Hai tôi quyết định kêu bán ngôi nhà, mảnh vườn và mấy công ruộng của cha mẹ để lại mặc cho tôi khóc hết nước mắt.
Những người bà con  xa cố tình khuyên can, anh Hai nói:
- Dạ, con cảm ơn mấy chú mấy bác đã có lòng quan tâm tới anh em con. Nhưng các chú bác cũng biết hoàn cảnh nhà con rồi đó, chỉ có hai anh em. Vợ chồng con thì có công ăn việc làm ổn định trên Sài Gòn rồi, đâu thể về quê sinh sống được. Còn con Mai, nó là con gái lại mới chừng ấy tuổi đầu, vợ chồng con không sao yên tâm khi để nó sống một mình dưới này. Bởi vậy con tính kỹ rồi, con sẽ bán hết nhà cửa, đất đai ở đây để lên đó mua một căn nhà rộng hơn một chút và đem con Mai về trển luôn…
- Em chỉ biết làm ruộng, trồng vườn… lên Sài Gòn em làm gì được?
Tôi vừa khóc vừa nói.
Chị Hai đến bên ngọt ngào:
- Em không phải lo, anh chị đã tính hết rồi! Em ở dưới quê quanh năm dầm mưa dãi nắng đâu có ích gì, lên Sài Gòn với anh chị, chị sẽ xin cho em vào làm ở các công ty, xí nghịêp nào đó, thí dụ như xin làm công nhân may, công nhân hãng giày… ối, thiếu gì công việc em ơi, chỉ sợ lười biếng không chịu làm mà thôi, chứ siêng năng thì khối việc chờ mình. Em lên đó sống cho có anh có em, như vậy anh Hai em và chị mới yên tâm được. Rồi sau này anh chị kiếm chỗ đàng hoàng gả em trên đó cho nhàn nhã tấm thân.
Những người bà con nghe anh chị Hai tôi nói những lời đầy tính thuyết phục nên cũng gật gù:
- Ờ, vợ chồng thằng Hai tính cho em gái nó vậy cũng phải. Con gái con đứa mới lớn, ở một mình làm sao yên tâm được…
Thế là số phận của tôi đã được quyết định. Một tháng sau, nhà đất bán hết cho người khác, tôi khăn gói theo anh chị về Sài Gòn, giã biệt những năm tháng tuổi thơ trong ngôi nhà ấm áp, giã biệt những kỷ niệm hồn nhiên với đám bạn bè hàng ngày vẫn thường hát hò, chọc ghẹo nhau trên ruộng lúa…
Tôi đi lên Sài Gòn mà trong lòng không một niềm vui, không có cái háo hức giống như trước đây thỉnh thoảng mỗi lần mẹ dẫn tôi lên thăm anh Hai là cả đêm tôi không ngủ được vì nôn nóng.
Lúc mới lên, cả anh chị Hai và tôi ở chung trong một căn phòng bé tẹo, đi ra đi vào người này cứ  như chạm sát vào người kia, giường ngủ của anh chị chỉ cách giường tôi một tấm ri-đô mỏng mảnh, cho nên những ngày đó là những ngày cực kỳ khó chịu cho cả tôi lẫn anh chị Hai.
Có lẽ chíh vì vậy nên chị Hai ngày nào cũng thúc hối anh tôi đi tìm nhà. Cuối cùng thì anh chị cũng tìm được một ngôi nhà khá rộng rãi lại vừa với túi tiền của anh chị, chỉ tội một điều ngôi nhà đó nằm ở nơi còn khá là hẻo lánh, dù vẫn trong địa bàn thành phố.
Tôi rất vui khi được dọn về nhà mới. Thứ nhất, ở đây có vẻ gần gũi với thôn quê, nó gợi cho nhớ về những điều thân thương trong quá khứ nên thoạt nhìn là tôi đã có cảm tình với nó ngay. Thứ hai, dọn qua ngôi nhà này, tôi được anh chị dành hẳn cho một phòng riêng, hoàn toàn cách biệt với anh chị. Bởi vì phòng của tôi ở tầng trệt, nằm giữa phòng khách và nhà bếp, còn anh chị Hai tôi thì ở trên gác.
Thế là tôi đã có riêng mình một thế giới!
Hàng ngày, trong lúc anh chị đi làm thì tôi ở nhà dọn dẹp, nấu cơm. Sau hơn một tháng ổn định ở nhà mới, chị Hai nói với tôi:
- Bây giờ mọi việc trong nhà đã được sắp xếp ổn thỏa hết rồi, em chuẩn bị đi làm nhé? Sống ở đất Sài Gòn này  hễ mở mắt ra là phải tiêu tiền, nên em không thể ngồi không ở nhà được.
Anh Hai có vẻ hơi xót vì anh biết mỗi đêm tôi vẫn còn khóc vì nhớ mẹ, anh can:
- Để thủng thẳng rồi hãy tính đi em, cho nó có thời gian làm quen với cuộc sống ở đây đã. Với lại có nó ở nhà thì em đỡ phải lo nấu nướng, chợ búa…
Chị Hai liếc chồng một cái bén ngót:
- Anh nói buồn cười thật đó! Con Mai đã lên Sài Gòn hơn ba tháng rồi, còn lạ lẫm gì nữa. Hồi đó anh không nhớ sao, ngày đầu tiên vợ chồng mình đặt chân tới đây là bước thẳng vô công ty liền, có chờ đợi cái gì đâu? Công việc nhà này thì có gì, chỉ có bữa cơm, loáng một cái là xong. Em thấy nó cần phải đi làm, thứ nhất để cho nó có tiền mà tiêu xài, chứ chẳng lẽ chuỵên lớn nhỏ gì cũng ngửa tay xin chị dâu, vậy cũng tội cho nó chớ! Thứ hai, vợ chồng mình cũng đâu dư dã mà có thể lo lắng cho nó hoài, mỗi người phải phụ một chân một tay mới duy trì được cuộc sống được chứ!
Anh Hai ngồi im cố nén tiếng thở dài.
Tôi thương anh Hai, tôi hiểu được tâm trạng của nhal úc này và tôi cũng không muốn để anh chị phải xóch mích vì chuyện của tôi.
Tôi giả bộ tươi cười:
- Chị Hai xin cho em làm gì vậy? Nghe nói đi làm em mừng quá, ở nhà buồn lắm, em không chịu nổi.
Chị nhìn anh Hai với vẻ đắc thắng:
- Anh thấy chưa? Anh là đàn ông làm sao hiểu tâm lý phái nữ như em được?
Anh Hai nhìn tôi, không nói gì chỉ lặng lẽ bưng chén cơm lên cố gắng ăn cho hết.
Tôi biết, anh Hai thật sự hiểu được tôi!
Thật ra tôi không phải là đứa lười biếng, nhưng chỉ có điều tôi rất nhát gan, tôi sợ những điều xa lạ. Tôi luôn lo lắng, không biết khi đi làm mình sẽ phải thế nào đây giữa hàng trăm hàng ngàn người hoàn toàn xa lạ? Tôi không ngừng run rẩy khi nghĩ về điều đó.
Tôi thèm biết bao được dầm chân xuống lớp bùn nhão nhoẹt, được cắm từng rẻ mạ non xuống lòng đất để ngày ngày thấp thỏm chờ nó ra bông kết hạt… Ôi, phải chi Sài Gòn gần với quê tôi, tôi sẽ không thèm đi làm hãng xưởng gì hết mà chạy về cấy lúa, nhổ mạ kiếm tiền phụ giúp chị Hai. Nhưng giờ đây với tôi quê hương đã xa vời vợi, mỗi khi nhớ tới tôi lại thấy nước mắt mình cay xè nơi đầu lưỡi…
Sau bữa cơm hôm đó tôi đã tự nhủ với lòng mình rằng, trước hay sau gì thì tôi cũng sẽ phải hòa nhập vào cuộc sống hối hả nơi đây, thì những gì chị Hai nói cũng đúng, tôi phải đi làm, phải lao động, phải có một chỗ đứng trong xã hội, dù rằng chỗ đứng đó thật nhỏ nhoi, khiêm tốn.
Đêm xuống, chờ cho anh chị Hai ngủ yên, tôi len lén đi lên nhà trên thắp nhang cho mẹ. Quỳ trước bàn thờ người mẹ thân yêu tôi âm thầm khấn vái:
- Mẹ ơi… mẹ phù hộ cho con…
Ba hôm sau chị Hai đưa tôi đi làm ngày đầu tiên. Chị xin cho tôi vào làm ở một xưởng may, vì trước đây tôi cũng có học sơ qua nghề này và cũng đã từng may mấy thứ đơn giản như quần áo trẻ con và những thứ không đòi hỏi phải có tay nghề thật vững.
Làm thợ may ở đây thì sướng hơn nhiều, vì người ta chia ra rất nhiều công đoạn, mỗi cái áo, cái quần được phân ra thành từng chi tiết nhỏ, mỗi một khâu chỉ lo phần chi tiết của mình thôi.
Do đó, ngày đầu tiên làm việc của tôi trôi qua thật nhẹ nhõm.
Buổi chiều tan ca, tôi lớ ngớ đi giữa dòng người ồn ào cười nói. Tính tôi ít nói, mặt mày lại nghiêm nghị nên cũng ít người muốn kết thân. Tôi lặng lẽ ra về, và theo lời chỉ dẫn của chị Hai, tôi đến trạm xe buýt và đón đúng chuyến xe về gần tới nhà mình.
Nói là gần chứ thật sự từ trạm dừng xe buýt, tôi còn phải đi bộ gần nửa tiếng đồng hồ mới về tới nhà. Mà con đường đó rất vắng vẻ, hai bên đường còn nhiều cây cỏ hoang vu. Cũng may, tuần lễ đầu tiên tôi đi làm toàn làm ca ngày nên tôi không cảm thấy sợ hãi mỗi lúc đi một mình trên đường vắng.
Mỗi sáng, tôi thức dậy thật sớm để nấu cơm và dọn sẵn ra bàn chờ anh chị dậy cùng ăn. Trưa thì tôi ăn cơm trong xưởng, anh chị Hai cũng ăn đâu đó cho qua bữa, đến buổi chiều hễ ai về sớm thì người đó lo phần cơm nước.
Nói chung thì công việc này cũng không có gì vất vả, vì mỗi tuần chị Hai đi chợ vào ngày nghỉ, chị mua đủ thức ăn dùng cả tuần, làm sạch sẽ rồi để vào từng hộp nhỏ cho từng ngày, tới bữa, chỉ cần đem ra nấu là xong.
Từ hôm tôi đi làm, chị Hai có phần vui vẻ với tôi hơn. Cũng đúng thôi, ai lại vui được khi phải nuôi báo cô đứa em chồng lớn xác!
Mấy ngày sau, tôi đã có được vài người bạn trong xưởng. Cũng mới chỉ là bạn để nói chuyện xã giao cho đỡ buồn thôi chứ bạn thân thì chưa có.
Tuần sau bắt đầu tôi phải làm tăng ca nên về trễ. Có hôm chín giờ tối mới tan ca, không còn xe buýt để về, chị Hai chỉ cho tôi mấy con đường tắt để đi bộ cho gần, và hẹn khi tôi lãnh lương chị sẽ mua cho tôi chiếc xe đạp để thuận tiện cho việc đi lại.
- Hay hôm nào em tăng ca báo cho anh biết, anh sẽ tới đón!
Anh Hai đề nghị, nhưng chị Hai gạt phăng đi:
- Ôi, đưa đón làm gì cho phiền phức, nó đi bộ từ đó về nhà cũng như tập thể dục chứ có gì mà lo! Anh không thấy mỗi sáng mỗi tối đàn bà con gái rủ nhau chạy bộ mấy tiếng đồng hồ đó sao? Nó còn con gái, vận động nhiều vào thì mới giữ được dáng vẻ chứ anh!
Tôi cũng nói xuôi theo:
- Dạ, chị Hai nói đúng đó anh, từ nhà tới xưởng em đi bộ cũng được, anh khỏi đón chi cho mắc công.
Thấy tôi là đứa biết điều, chị Hai tươi cười gắp cho tôi một miếng cá thật ngon.
Mới đó mà một tháng đã trôi qua, cầm tháng lương đầu tiên tôi mừng muốn rơi nước mắt. Tối đó về nhà, khi tất cả ngồi vào mâm cơm, tôi rụt rè đứng lên nói:
- Thưa anh Hai, chị Hai… chiều này em vừa mới lãnh lương, em xin gởi anh chị!
Vừa nói, tôi vừa trao hết tháng lương vừa nhận cho chị Hai. Chị Hai tươi cười đón nhận. Anh Hai lên tiếng:
- Tháng lương đầu tiên em nên để nó giữ cho nó mừng…
Chị Hai quay lại trợn mắt:
- Anh nói kỳ! Em đâu có cần chi tiêu gì phải không Mai? Mọi thứ chị đã lo hết rồi mà? Với lại đi làm về đêm hôm, để tiền trong người nguy hiểm lắm… Nhưng nè, em cầm lấy muốn ăn gì thì mua…
Vừa nói, chị Hai vừa đưa lại cho tôi tờ giấy năm chục ngàn.
Anh Hai nhắc:
- À, phải rồi! Lát nữa mình đi mua cho nó chiếc xe đạp đi, nghe em?
Chị Hai cười mơn trớn:
- Ờ… chị cũng tính mua xe đạp cho em, nhưng cái đó chưa cần thiết lắm mà, phải không Mai? Chị thấy em đi bộ có tác dụng ghê chứ, dáng người thon thả, đẹp lên nhiều đó Mai à! Thôi, xe đạp để từ từ mua sau…
Tôi chưa ăn miếng cơm nào mà đã có cảm giác nghẹn cứng nơi cổ họng. Anh Hai cũng giống như tôi, không làm gì hơn được.
Tôi cúi mặt nói nhỏ:
- Dạ… chị tính sao cũng được!
Bữa cơm trôi qua trong tiếng cười nói vui vẻ của chị Hai, còn anh em tôi chỉ lặng lẽ cố ăn cho tròn bữa.
Thế là tôi vẫn tiếp tục cuốc bộ vào những ngày tăng ca, mà dạo này hàng nhiều nên tăng ca liên tục. Có khi mệt quá, tôi cứ muốn gọi một chiếc xe ôm nào đó để ngồi lên, nhưng khi sờ lại số tiền ít ỏi trong túi tôi lại nản lòng…
Tối hôm đó tổ chúng tôi tăng ca đến gần mười giờ đêm. Khi ra tới cổng, mấy đứa bạn ái ngại nhìn tôi hỏi:
- Mai về nhà bằng gì? Không ai tới đón Mai sao?
Tự nhiên tôi cảm thấy tủi thân, nước mắt chực trào ra nhưng tôi đã cố kìm nén lại:
- Mình đi bộ, nhà cũng gần thôi…
Một đứa lên tiếng:
- Thôi, Mai lên xe mình đưa về cho, đêm hôm vầy mà đi bộ gì…
Nhưng tôi không thể nhận lời được, vì tôi biết, sau hơn một ngày trời làm việc, giờ này ai cũng thèm khát được ngã lưng xuống chiếc giường êm ấm của mình, tôi không thể để vì tôi mà bạn phải thêm một chặng đường xa nữa.
- Không cần đâu, mình đi một chút có thể anh mình sẽ đón, các bạn yên tâm về đi…
Mấy đứa bạn nghe tôi nói vậy nên lần lượt lên xe về hết, tôi một mình đi qua các ngõ hẻm để về nhà.
Con đường tắt về nhà phải băng ngang qua một cái nghĩa địa. Gọi là nghĩa địa nhưng thật ra nó đã được giải tỏa mấy tháng trước, giờ đây bên trong còn đầy rẫy những hố sâu, nơi trước đây là những phần mộ, giờ thân nhân đã bốc lên dời đi nới khác.
Lần đầu tiên đi qua đây tôi không khỏi rùng mình hoảng sợ, nhưng riết rồi cũng quen, cái cảm giác đó không còn nữa.
Tối nay cũng vậy, tôi cũng không thấy hồi hộp khi bước chân vào khu nghĩa địa, nhưng vừa lúc đó trời chuyển mưa đột ngột, mây đen kịt như sắp sà xuống mặt đất, gió thổi thốc từng cơn lạnh buốt. Cả một khu đất trống trải vắng vẻ không có lấy một mái hiên để trú mưa, chỉ trừ tán cây to lớn ở góc bên này.
Tôi ngần ngừ đứng lại ngước lên nhìn bầu trời. Hôm nay thật là xui xẻo vì ban sáng tôi quên không mang theo áo mưa. Nếu chạy thật nhanh thì tôi cũng không thể nào tránh được cơn mưa rào đã bắt đầu rơi xuống. Mà tôi biết mình chịu lạnh rất dở, nếu mắc mưa đêm thế này thế nào tôi cũng bệnh cho mà xem.
Không dám liều lĩnh, tôi nán lại đứng dưới tán cây, vì dẫu sao đứng đây cũng đỡ ướt hơn.
Tôi vừa lùi vào sát gốc cây thì bỗng thấy một người nữa lao vụt vào bên cạnh, hoảng hốt, tôi ú ớ:
- Ơ…
Người mới tới là một chàng trai, thấy tôi ngạc nhiên anh chủ động cười, vừa vuốt nước trên mặt vừa nói:
- Xin lỗi bạn… vui lòng cho mình cùng đứng đây trú mưa một lát nhé?
Tôi vừa lúng túng lại vừa lo sợ, trong cảnh gió mưa thế này lại đang ở nơi hoang vu vắng vẻ, nếu lỡ có chuyện gì không hay tôi biết phải làm sao? Nhưng lúc này tôi cũng thể bỏ chạy được rồi, thôi thì đành phó mặc số phận cho ông trời định đoạt mà thôi.
Tôi co ro nép sát vào gốc cây. Người thanh niên đứng im một lúc rồi gợi chuyện:
- Xin lỗi… bạn đi đâu mà về khuya vậy?
Tôi ấp úng:
- Tôi… tôi đi làm về!
Người thanh niên cười:
- A… tôi đoán bạn là công nhân hãng may gần đây, đúng không?
Tôi đề phòng:
- Sao… anh biết?
Người thanh niên bật cười:
- Tôi đoán vậy thôi mà, vì khu vực này chỉ có xưởng may thường tăng ca nên công nhân về trễ. Bạn… bạn chắc nhỏ tuổi hơn tôi quá?
Tôi cúi đầu, gần như gật mà cũng gần như không.
Người thanh niên tự nhiên nói:
- Tôi tên Huy, nhà cũng ở gần đây. May mà tối nay gặp bạn, nếu không đứng đây một mình tôi… sợ ma!
Tôi bật cười trước câu nói đùa của Huy.
- Bạn là con gái mà gan thiệt đó nghen, dám đi một mình trong đêm tối, lại ở những chỗ như vầy, tôi phục bạn thiệt đó!
Huy nói, vẻ chân thành.
Tôi cười buồn:
- Có gì đâu mà phục, cũng là do hoàn cảnh nên bắt buộc phải vậy thôi anh Huy à!
Huy nhìn tôi một lúc rồi nói:
- Nếu không có gì phiền, bạn có thể cho tôi biết tên được không?
Tự nhiên không hiểu sao lúc đó tôi cảm thấy không cần thiết phải giấu giếm điều gì với người con trai hoàn toàn xa lạ ấy.
- Em… em tên Mai. Anh Huy cứ gọi em là Mai đi, chắc chắn em nhỏ tuổi hơn rồi!
Một ánh chớp lóe lên giúp tôi thấy được nụ cười thân thiện của Huy:
- Vậy thì cho phép anh được xưng anh và gọi Mai bằng tên nhé?
Tôi mỉm cười đứng nhìn ra màn đêm mưa gió.
Huy nói:
- Mấy hôm trước thỉnh thoảng anh cũng thấy Mai đi qua đây.
Tôi ngạc nhiên:
- Ủa, anh ở đâu sao thấy em?
Huy cười cười:
- Anh là công nhân cơ khí, cũng hay đi làm về muộn như Mai vậy, có khi Mai đi trước anh đi sau, tại Mai không để ý nên không biết đó chứ!
- Vậy à!
Tôi nói cho có.
Lúc đó ngoài trời mưa đã bắt đầu tạnh. Tôi đưa một tay lên che đầu và nói với Huy:
- Thôi, tạnh mưa rồi, em về nhé?
Huy vội nói:
- Ừ, anh cũng về! Nhà Mai ở đâu, để anh đưa về cho!
Tôi cười:
- Cảm ơn anh Huy, em đi một mình được rồi, không dám làm phiền anh đâu ạ!
Huy tỏ vẻ phật lòng:
- Sao Mai lại nói vậy? Không biết nhau thì thôi, đã biết nhau rồi thì coi nhau như bạn, anh không thể nào để bạn đi một mình trong đêm vậy được đâu!
Trời vẫn còn mưa lất phất, nên tôi cứ vừa từ chối Huy vừa rảo chân đi nhanh ra khỏi khu vực nghĩa địa, Huy cũng đi theo không rời.
Ra tới lộ lớn, Huy nói:
- Nhà anh rẽ hướng này, nhưng anh sẽ tiễn Mai về trước!
Biết không thể đứng lại đôi co hoài, tôi bỏ mặc Huy muốn đi theo thì đi, cứ cắm đầu đi như chạy.
Tới trước cửa nhà, tôi dừng lại mỉm cười:
- Tới nhà em rồi, cảm ơn anh Huy nhiều lắm. Chào anh!
Huy nhìn tôi nói nhỏ:
- Tội nghịêp Mai quá, một mình phải đi cả một quãng đường dài trong đêm tối. Từ nay, anh sẽ đưa Mai về mỗi tối nghen?
Tôi bật cười:
- Em quen rồi, không sao đâu anh Huy ơi! Với lại làm sao anh Huy có thể đưa em hoài được?
- Được chứ! Nhất định thế nhé? Thôi, anh về đây, Mai vào nhà đi!
Huy nói xong quay lưng đi nhanh trở lại.
Tôi đứng nhìn theo và mỉm cười đi vào nhà. Có lẽ lâu lắm rồi tôi mới có được niềm vui như vậy.
Đêm đó tôi không sao ngủ liền như thường ngày được, mà đầu óc cứ vẩn vơ suy nghĩ mãi tới Huy. Tôi cảm ơn trời phật đã cho tôi gặp được một thanh niên tốt như vậy, chứ nếu Huy là kẻ xấu, thì không biết giờ phút này tôi ra làm sao nữa.
Tối hôm sau tôi tan ca lúc tám giờ. Vừa ra khỏi cổng công ty, bất ngờ tôi nghe tiếng gọi:
- Mai! Mai!
Ngạc nhiên nhìn sang bên kia đường, tôi thấy Huy đang vẫy tay với mình.
Tôi còn đang đứng sững vì ngạc nhiên thì Huy đã băng qua, tới gần bên tôi cười nói:
- Anh đi làm về, đứng đây chờ Mai nè!
Tôi lúng túng:
- Anh Huy… thật làm phiền anh quá!
Huy cười:
- Có gì đâu, Mai đừng ngại, trên đường về có bạn phải vui hơn không? Dù sao thì anh với Mai cũng đi chung một quãng xa mà?
Mấy đứa bạn nhìn tôi dò xét. Có đứa đến bên hỏi nhỏ:
- Anh của Mai đó hả? Còn trẻ quá hén?
Tôi chỉ cười, không giải thích gì thêm nên đám bạn cứ tưởng Huy là anh Hai của tôi.
Từ đó mỗi đêm tôi tăng ca là có Huy về cùng. Một lần tôi thắc mắc:
- Sao ngày nào anh Huy cũng làm ra cùng giờ với em vậy? Em nghi quá nghen…
Huy bật cười:
- Anh không giấu nữa, anh nói thiệt nè, tại anh cố tính đón Mai thôi, giờ giấc của anh không quan trọng.
Tôi tròn mắt:
- Anh Huy cố tình đứng đó chờ Mai?
Huy mỉm cười gật đầu.
Tôi vừa cảm thấy sung sướng lại vừa cảm thấy ái ngại.
Tình bạn giữa tôi và Huy ngày càng trở nên thân thiết, mỗi ngày đi làm về đối với tôi là một niềm vui vô bờ bến. Tôi thật không ngờ ở giữa Sài Gòn xa lạ này, tôi lại có một người bạn, một người anh hết sức quan tâm tôi, lo lắng cho tôi từng li từng tí.
Với Huy, giờ đây tôi hoàn toàn không có gì để e ngại nữa, tôi đã kể cho anh nghe về hoàn cảnh của mình, về những nỗi buồn những niềm vui mà tôi đã từng trải qua. Lúc nào Huy cũng chia sẻ với tôi một cách chân thành.
Ngày tháng trôi qua êm đềm như thế. Những hôm không tăng ca, tôi lại cảm thấy buồn, thấy hình như mình đang nhớ Huy nhiều lắm… Lần đầu tiên trong đời con gái, tôi cảm nhận được một thứ tình cảm thật khác lạ đang chi phối mình, nhưng tôi vẫn chưa dám gọi nó bằng hai tiếng tình yêu, vì tôi sợ…
Nếu mọi chuyện cứ diễn ra suông sẻ như vậy thì chắc không có gì để nói. Nhưng cuộc sống của tôi đã bị xáo trộn sau hai tháng tôi và Huy quen biết.
Tối hôm đó tôi đi vào nhà vệ sinh của công ty. Vừa đẩy cánh cửa, tôi đã hoảng hốt kêu lên vì thấy rõ ràng bên trong là một thân thể đang treo lủng lẳng trên trần nhà.
Nghe tiếng la kinh hãi của tôi, mấy công nhân đi vệ sinh gần đó chạy tới hỏi:
- Có chuyện gì vậy?
Tôi run rẩy chỉ tay vào phòng vệ sinh, miệng cứng lại không nói được thành lời.
Mọi người đổ xô tới mở toang cánh cửa ra thì bên trong hoàn toàn không có gì lạ. Họ nhìn tôi bằng ánh mắt nghi ngờ:
- Đâu có gì trong này? Sao vậy?
Tôi cố gắng phát ra tiếng nói:
- Có… có mà… em thấy rõ ràng có một người treo cổ trong đó!
Mấy chị lớn tuổi bá vai nhau cười rần rần:
- Em thức quá nên mơ ngủ rồi đó em ơi! Nè, tiến tới gần nhìn đi, có gì đâu? Ai treo cổ đâu?
Vừa nói, một chị vừa đẩy tôi tới gần cánh cửa. Tôi run rẩy tiến lên. Quả thật trong phòng lúc này hoàn toàn không có gì! Tôi dụi mắt mấy cái, nhìn lại lần nữa, vẫn vậy!
Xấu hổi trước mọi người, tôi ấp úng:
- Em… em xin lỗi… có lẽ lúc nãy em bị hoa mắt!
Đám đông tản ra, có người thông cảm, có người dè bỉu nhưng tôi mặc kệ, tôi đang tự thắc mắc với bản thân mình.
Rõ ràng lúc nãy không phải tôi hoa mắt hay ngủ mơ gì cả. Khi đi xuống đây tôi hoàn toàn tỉnh táo, không hề buồn ngủ chút nào. Bây giờ hình ảnh của cái thi thể đó vẫn còn in đậm trong đầu tôi…
- Cái gì đang xảy ra với mình thế này?
Tôi lo lắng quá nhưng không biết chia sẻ cùng ai, sẽ chẳng có một ai tin tôi đâu. Vì tôi chỉ có hai con mắt, còn lúc nãy đám đông đó có tới hàng chục con mắt, người ta phải chính xác hơn tôi nhiều chứ.
Chiều hôm đó tan ca tôi lại gặp Huy trước cổng công ty. Khi chỉ còn lại tôi và Huy trên đường, Huy hỏi:
- Trông Mai hôm nay không giống như mọi khi, có chuyện gì xảy ra với em sao, Mai?
Tôi ngước lên nhìn Huy, định kể cho Huy điều đó. Nhưng tôi không dám, bởi vì tôi biết Huy sẽ không bao giờ tin đó là sự thật, Huy cũng sẽ bảo rằng do cơ thể tôi mệt mỏi nên mới sinh ra ảo giác bậy bạ. Nghĩ vậy nên tôi không kể mà nói trớ:
- Dạ… tự nhiên em thấy không khỏe trong người!
Huy lo lắng:
- Em muốn bệnh rồi sao? Có cần đi khám bác sĩ không Mai?
Tôi mỉm cười khi thấy Huy cuống quýt như thế:
- Không sao đâu anh Huy à, em về nhà ngủ một giấc sẽ khỏe lại thôi mà, anh đừng lo!
Tôi cố gượng cười và làm ra vẻ tự nhiên thoải mái như thường ngày nhưng không được, Huy vẫn nhìn tôi bằng ánh mắt xa xót, thương cảm.
Lúc tôi và Huy đi vào khuôn viên nghĩa địa, bất chợt tôi lại trông thấy cái thi thể ban chiều treo ngược trên cành cây.
Tôi níu chặt tay Huy:
- Anh Huy… kìa… kìa…
Tôi không nói được gì nhiều vì sợ đến líu cả lưỡi, chỉ còn đủ sức giơ tay chỉ về hướng đó.
Trong một giây, tôi thấy mặt Huy biến sắc.
Huy cầm chặt tay tôi nói lớn tiếng:
- Gì vậy Mai? Em sao vậy?
Lúc này cái xác tòng teng trên cây cũng đã biến mất nhưng tôi vẫn còn sợ toát mồ hôi hột.
- Anh không thấy gì sao, anh Huy?
Tôi ngạc nhiên hỏi.
Huy đưa mắt nhìn ra xa nói:
- Có gì đâu? Em thấy gì mà sợ dữ vậy?
Tôi nuốt khan nơi cổ họng rồi lắp bắp nói:
- Một … một người! Một người treo cổ trên cành cây… Mà… hồi chiều… lúc đi vệ sinh em cũng đã… đã thấy người đó treo trong phòng vệ sinh…
Huy siết chặt hai bàn tay tôi:
- Em đừng sợ, có anh bên cạnh đây rồi, không ai làm hại được em đâu… Có lẽ em không khỏe nên…
Tôi nhìn thẳng vào mắt Huy, cắt lời anh:
- Anh muốn nói vì không khỏe nên em có ảo giác, phải không? Không thể… không thể… lúc chiều em đã thấy người đó một lần rồi, bây giờ là lần thứ hai…
Huy nắm tay tôi dắt đi nhanh ra khỏi nghĩa địa, vừa đi Huy vừa cố gắng giải thích:
- Anh nghĩ có lẽ em hoa mắt nên trông thấy bậy bạ, rồi cái hình ảnh bậy bạ đó khắc sâu trong đầu em, ám ảnh em nên em mới thấy nó lần nữa đo thôi… Không có gì đâu, tin anh đi, không có gì đâu Mai à!
Tôi ngoảnh lại nhìn vào tán cây ở góc nghĩa địa, đúng là không có gì, mấy cành lá đang đong đưa hiền hòa dưới bóng chiều tàn hiu hiu gió thổi.
Không biết nói sao, tôi cũng phải ráng tin vào lý lẽ của Huy. Đưa tôi về tới cổng nhà, Huy dừng lại âu yếm nói:
- Em vô nhà tắm mát rồi nghỉ ngơi! Đừng cố phân tích điều gì hết, đừng nghĩ ngợi gì bậy bạ nữa hết, nghe Mai?
- Dạ!
Tôi trả lời cho Huy an lòng rồi đi vào nhà.
Vừa vào nhà, tôi đẩy cửa phòng mình ra và nhào lên giường nằm liền, không còn sức lực để làm gì nữa hết. Mí mắt tôi nặng dần, tôi như chìm vào giấc ngủ, nhưng thật sự tôi chưa ngủ hẳn, tai tôi còn nghe được tiếng mở khóa lách cách ở nhà ngoài, không biết anh Hai hay chị Hai về tới, nhưng tôi không thể nào mở mắt ra, cũng không thể nào ngồi lên hoặc cất tiếng hỏi được.
Có tiếng chân bước nhẹ, rồi tiếng cửa phòng tôi hé mở. Chắc là anh Hai, vì tôi có cảm giác một bàn tay ấm áp đang sờ lên trán tôi.
- Tội nghịêp, chắc con bé mệt quá!
Tiếng anh Hai than thở làm tôi cảm động suýt trào nước mắt. Tôi rất muốn giơ tay ra để níu lấy anh mà nói là em không sao đâu, anh Hai đừng lo lắng, nhưng tôi chỉ nằm bất động như vẫn đang say ngủ.
Tôi nghe tiếng anh Hai lục đục dưới bếp, chắc là đang nấu cơm chiều, chứ lát nữa, chị Hai về mà trông thấy cả hai anh em có mặt ở nhà, cơm nước lại chưa nấu thì chắc chị sẽ nói mát mẻ không ai chịu nổi.
Tôi nằm đó không ngủ nhưng mắt nhắm nghiền, tai vẫn nghe rõ mồn một từng tiếng động nhỏ vang lên từ căn bếp.
Bất chợt, tôi nghe có tiếng gọi thì thào ở phía cửa sổ:
- Mai… Mai cô… không được, tôi cấm cô không được…
Tôi cố hết sức để xoay người về hướng ấy, và tôi không biết thật sự mình có mở mắt ra không, nhưng rõ ràng tôi lại nhìn thấy cái người treo cổ lúc chiều. Nhưng lần này người đó không diễn trò treo cổ lủng lẳng nữa mà đang bám vào cửa sổ, thò đầu vào phòng tôi.
Đây là lần thứ ba trong ngày tôi trông thấy người này, nhưng chỉ lần này tôi mới nhìn được rõ ràng. Đó là một người con gái có mái tóc dài và gương mặt xinh xắn nhưng lại buồn rười rượi đang ngó tôi như van nài. Tôi rất muốn hỏi cô ấy cấm không cho tôi làm gì nhưng tôi không sao mở lời được.
- Ủa, con Mai chưa về hả anh?
Tiếng chị Hai tôi vang lên bên ngoài, cô gái bên cửa sổ vụt biến mất. Tôi vẫn nằm nghiêng một bên, thấy trong người mình bải hoải một cách lạ kỳ!
- Con bé về rồi, nhưng không biết nó bệnh hay mệt mà nằm ngủ như mê trong đó!
Anh Hai tôi nói với giọng lo lắng.
Chị Hai cười lớn:
- Trời ơi, đi may thôi chứ làm gì nặng nhọc đâu mà mệt, anh khéo lo quá! Cô nàng này không khéo nhiễm thói của mấy cô gái Sài Gòn rồi cũng nên!
- Em không nên nói vậy, con nhỏ chỉ mới không nấu cơm một buổi mà em đã nghĩ xấu cho nó rồi!
Anh Hai cự nự.
Tiếng chị Hai mát mẻ:
- Em xin lỗi… em quên câu “máu ai thâm thịt nấy”, dù sao trong nhà này em cũng là người dưng, em không có quyền nhận xét, đánh giá ai hết mới phải!
- Mỗi lần góp ý em là có chuyện, thiệt bực mình!
Anh Hai càu nhàu.
Tiếng chân chị Hai dậm thình thình trên thang gác. Tôi cảm thấy chán nản kinh khủng, tôi chỉ muốn đi khỏi ngôi nhà này, đi tới một nơi nào đó thật xa để cuộc sống của anh Hai tôi khỏi phải dằn vặt nữa. Nhưng thật khốn khổ, lúc này đây tôi không thể mở mắt, không thể nhúc nhích gì được, chỉ biết nằm im mà nghe cay đắng trong lòng.
Tôi ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Cả trong giấc mơ, hình bóng của cô gái kia vẫn đeo bám lấy tôi không lúc nào rời. Tôi thấy cô ấy lại treo cổ ở bất kỳ chỗ nào tôi đến. Quá hoảng sợ tôi đã bỏ chạy thục mạng, đã kêu cứu vang trời…
- Mai! Mai! Em mơ thấy gì mà la hét dữ vậy?
Mở choàng mắt ra, tôi trông thấy anh Hai đang đứng bên cạnh vẻ mặt đầy lo lắng. Tôi muốn khóc òa lên và kể cho anh nghe điều đáng sợ từ chiều, nhưng vừa lúc đó tiếng chị Hai từ trên gác vọng xuống khiến tôi không thể mở lời được nữa:
- Đi làm mệt nhọc cả ngày, tối về có giấc ngủ cũng không được yên. Không biết kiếp trước tui đã nợ nần gì mấy người mà kiếp này phải khổ sở như vầy!
Tôi kìm nước mắt, nói nhỏ với anh Hai:
- Em xin lỗi… Em mơ thấy ác mộng… Anh Hai lên trển đi, em không sao đâu!
Anh Hai buồn bã nhìn tôi và nói:
- Em dậy ăn miếng cơm đi, lúc tối thấy em ngủ say quá nên anh không gọi dậy. Nếu bệnh thì sáng mai đừng đi làm nghen, nói anh Hai mua thuốc cho.
Tôi cố gượng cười cho anh Hai yên tâm.
- Em không sao đâu, anh Hai đừng lo!
Và để chứng tỏ cái “không sao” đó, tôi gắng gượng ngồi lên, mỉm cười:
- Em đi ăn cơm đây, anh Hai lên ngủ đi!
Anh Hai ngập ngừng một chút rồi đi lên gác sau khi căn dặn:
- Có gì thì kêu anh Hai, nghe chưa?
- Dạ!
Tôi gật đầu nhìn theo cái dáng khòm khòm của anh mà nước mắt cứ chực trào ra.
Nhìn lên đồng hồ thấy đã gần mười giờ đêm, tôi chợt nhớ từ trưa hôm qua tới giờ tôi chưa có gì vô bụng cả. Nhất quyết không để sức khỏe mình bị suy sụp, tôi cố gắng đứng lên đi lần xuống bếp.
Không dám mở đèn dưới nhà vì sợ chị Hai không ngủ được lại cằn nhằn nên tôi chỉ mở cái bóng đèn lù mù sau nhà bếp. Tôi đi thẳng vào nhà tắm lấy nước rửa mặt.
Nhìn mình trong gương tôi bất giác giật mình, gương mặt tôi hốc hác và đờ đẫn đáng sợ. Mới chưa đầy một ngày mà tôi thay đổi đến vậy sao? Có lẽ tại cái bóng ma của cô gái kia khiến tinh thần tôi suy sụp nặng nề. Tôi không biết cô gái ấy là ai, tại sao lại đeo theo tôi như vậy? Mặc dù cố nặn đầu để nhớ lại nhưng tôi vẫn không sao tìm được chút gì quen thuộc từ cô ấy.
Bất chợt, tôi nhìn thất trong gương, bên cạnh khuôn mặt bơ phờ của tôi là một gương mặt khác với mái tóc dài tấp tả trước mắt.
- Á….
Tiếng thét của tôi làm cả nhà thức giấc. Anh Hai chạy vội xuống bật sáng mấy ngọn đèn, trông thấy tôi đang nằm sóng xoài trong phòng tắm, anh hoảng hốt hỏi:
- Chuỵên gì vậy Mai? Có chuỵên gì xảy ra với em vậy?
- Ma… có ma…!
Tôi lắp bắp chỉ tay vào tấm gương.
Chị Hai từ trên gác đi xuống mỉm cười mai mỉa:
- Thiệt chị hết biết em rồi Mai à, sao tự nhiên em lại trở chứng như vậy? Em không muốn để anh chị được yên giấc sao?
Anh Hai tôi nạt:
- Thôi đi, đừng có kiểu đó nữa! Để coi con nhỏ bị cái gì nè!
Chị Hai nhếch mép cười và đứng nhìn tôi như đang nhìn một trò hễ diễn dở.
Lúc này do quá hoảng sợ, tôi không giấu gì được nữa nên kể cho anh Hai nghe tất cả mọi việc, từ lúc trông thấy cô gái treo cổ ở nhà sinh của công ty đến gương mặt cô ấy vừa xuất hiện trong gương khi nãy.
Anh Hai nghe tôi kể xong chỉ cau mày suy nghĩ mà không nói gì. Chị Hai thì khác, chị đi tới đi lui gật gù:
- Chị khám phá ra ở em có một khả năng đặc biệt đó Mai à! Em chuyển sáng nghề viết văn chắc sẽ nổi tiếng lắm đây, công nhận đầu óc em tưởng tượng phong phú thiệt đó!
Anh Hai bực dọc nhìn chị nhưng không nói gì thêm, bởi anh thừa sức biết, hễ nói động tới chị thì giống như một thứ thuốc kích thích sẽ khiến chị càng thêm cay độc.
Anh Hai đỡ tôi về giường, an ủi:
- Không sao đâu, không có gì đâu em à!
Tôi níu chặt lấy cánh tay anh Hai không muốn rời, nhưng khi trông thấy ánh nhìn gườm gườm của chị dâu tôi lại vội vàng buông ra.
Nhắm mắt lại, kéo mền trùm kín đầu, cảm nhận được hai dòng nước ấm nóng đang chảy dài xuống má, tôi nói nhỏ:
- Thôi, em ngủ! Anh Hai lên phòng đi!
Anh Hai vẫn ngồi im bên giường tôi, chị dâu chì chiết:
- Giờ sao đây? Giờ anh không lên ngủ phải hôn? Vậy thì tui lên, để cho anh em mấy người giở hết trò ra đi!
Nói xong chi dùng dằng bỏ lên gác, anh Hai thở dài thườn thượt, hỏi tôi:
- Em dám ngủ một mình không?
Tôi cố lấy bình tĩnh đáp:
- Dạ… anh Hai lên đi, nhưng… đừng tắt đèn!
- Ừ, anh sẽ để đèn sáng! Em đừng sợ nghe, không có gì đâu!
Anh Hai đi lên gác rồi, tôi giở mền ra khỏi đầu cho bớt ngột ngạc. Căn phòng sáng đèn nên tôi có cảm giác yên tâm hơn. Người tôi lúc này như đang hâm hấp sốt. Thôi chết rồi, tôi bệnh rồi chứ không chơi!
Tôi lẩm bẩm trong miệng:
- Mẹ ơi, xin mẹ phù hộ cho con… con không muốn đau ốm gì lúc này, sẽ chẳng có ai lo lắng cho con đâu, con mà bệnh là anh Hai khổ lắm đó, mẹ ơi!... Mẹ phù hộ cho con nghe mẹ?
Dù tôi cố bám víu vào người mẹ đã khuất nhưng hình bóng của gái ma quái kia vẫn không sao thoát ra khỏi đầu tôi.
- Tôi với chị có nợ nần gì với nhau đâu? Xin buông tha cho tôi, đừng nhát tôi nữa, tôi sợ lắm…
Lòng tôi thổn thức những câu như vậy.
Tối hôm đó tôi đã ngủ với cái bao tử rỗng và cái đầu nặng trịch lo âu. Sáng ra không tài nào tôi dậy nổi.
Chị Hai dẫn xe ra sân còn ngoái lại dặn:
- Ở nhà ban ngày rồi, đèn đóm làm ơn tắt dùm đó, tới tháng không có tiền đâu mà trả tiền điện!
Anh Hai làm như khong nghe thấy, anh vào ngồi xuống giường sờ tay lên trán tôi, nhẹ nhàng hỏi:
- Em sao rồi? Anh đi mua thuốc cho em uống nghen?
Tôi cố gượng ngồi dậy nói:
- Không sao đâu anh Hai à, em nghỉ chút nữa là khỏe thôi. Hôm nay tới chín giờ em mới vô ca, khi đi em ghé tiệm mua thuốc luôn cũng được mà!
- Không được! Hôm nay em phải nghỉ làm một bữa đi, đừng quá ráng sức, sẽ không tốt đâu!
Anh Hai nghiêm giọng.
Tôi nói cho anh Hai vừa lòng:
- Dạ, nếu chút nữa vẫn còn mệt thì em ở nhà! Thôi, anh đi làm đi, trễ lắm rồi đó!
Anh Hai dắt xe đi ra mà vẫn lo lắng dặn dò:
- Nhớ nghe chưa, đừng có cãi lời anh Hai đó!
- Dạ, em nhớ rồi! Anh Hai yên tâm đi!
Tôi vừa nói vừa nằm vật trở xuống giường.
Tiếng xe anh Hai xa dần, tôi cũng bắt đầu lơ mơ chìm vào giấc ngủ.
- Mai ơi, Mai! Em có nhà không Mai?
Tôi choàng thức giất bởi tiếng gọi cửa. Định thần lại tôi nhận ra đó là giọng của Huy. Vừa ngạc nhiên, vừa vui mừng, tôi gượng đứng lên lảo đảo đi ra ngoài mở cửa.
Huy đứng trước thềm nhà nhìn tôi bằng cặp mắt chứa đầy lo lắng:
- Trời ơi! Em sao vậy Mai? Trông em phờ phạc đáng sợ quá!
Tôi cười mệt mỏi:
- Anh Huy vô nhà chơi! Sao anh biết em ở nhà mà đến vậy?
- Hôm qua biết em không khỏe, sáng nay anh cố tình chờ hoài mà không thấy em vô công ty, anh lo em có chuyện gì nên tới đây…
Vừa theo tôi vào nhà Huy vừa nói.
- Em sao rồi Mai?
Tôi ngồi xuống chiếc ghế đối diện với Huy, buồn bã nói:
- Em không biết tại sao em cứ thấy đó hoài. Hình như em đang làm một điều gì đó phật ý cổ, cổ cấm em không được làm… Nhưng… em không biết điều đó là gì thì làm sao em giúp cổ vừa ý được chứ? Anh Huy ơi, nếu cứ như vầy hoài chắc em không sống nổi quá…
Tôi thấy gương mặt Huy đanh lại một cách đau đớn, hai bàn tay anh nắm chặt vào như đang cố kìm nén một sự tức giận cực độ.
- Em yên tâm đi, anh sẽ có cách giải quyết chuỵên này!
Huy nói.
Tôi ngạc nhiên:
- Anh có cách? Cách gì?
Huy ấp úng:
- Anh… anh chưa nghĩ ra, nhưng chắc chắn rồi anh sẽ có cách, em cứ tin vào anh đi Mai!
Tôi cười chán nản:
- Anh đừng cố sức vì em nữa anh Huy à! Em nghĩ cô gái ấy không phải là người mà là một hồn ma. Em không biết mình đã làm gì đắc tội với cổ, anh không có cách gì giúp em đâu, anh không chống chọi lại thế lực của ma quỷ đâu anh…
Huy không tranh cãi với tôi nữa, anh chuyển sang đề tài khác:
- Chắc Mai chưa ăn uống gì phải hôn? Để anh mua cháo cho Mai nghen?
Tôi cười:
- Dạ khỏi, lúc sáng anh Hai có nấu cháo cho em, lát nữa em ăn…
Huy ngồi nói chuyện với tôi thêm chút nữa rồi đứng lên ra về, tôi cũng khép cửa nhà vào trong phòng nằm nghỉ. Tôi rất mệt mỏi, không thể đi làm hôm nay được!
Tôi nằm trên giường, mắt nhìn lơ đãng bầu trời bên ngoài cửa sổ. Tự nhiên một cảm giác chán chường vây bủa lấy tôi. Tôi muốn ngồi bật dậy gom hết áo quần bỏ nơi này trở về quê hương, về đó tôi sẽ đi làm mướn làm thuê kiếm sống nhưng tinh thần sẽ nhẹ nhàng thanh thản hơn nhiều.
Đầu óc tôi muốn nổi loạn vậy thôi chứ đời nào tôi dám thực hiện, tôi không muốn anh Hai tôi phải mang tai tiếng với chòm xóm láng giềng là có một đứa em gái mà cũng không bảo bọc được.
Nhưng tôi buồn lắm, tôi không hiểu sao tôi đã chấp nhận tất cả chỉ để được sóng những ngày tháng yên bình mà cũng không được? Tôi đã làm chuyện gì khiến cô gái kia theo ám tôi mãi thế?
Vừa nghĩ tới đó, bất chợt tôi trông thấy cô gái xuất hiện bên cửa sổ. Lúc này đang giữa ban ngày nên tôi nhìn thấy rất rõ, không thể nào lầm lẫn được! Tôi thấy cả cái nốt ruồi nhỏ xíu đậu trên vành môi của cô nữa!
- Mai ơi… cô không thể… cô không thể…
Lần này tự nhiên tôi không thấy sợ nữa, chắc có lẽ vì tôi đã quá chán chường, tôi muốn mọi thứ phải rõ ràng. Ngồi bật dậy, tôi hỏi lớn:
- Cô là ai? Tại sao cô luôn đeo bám lấy tôi? Tôi đã làm gì có lỗi với cô sao?
Bóng ma ngoài cửa sổ có lẽ cũng bất ngờ trước sự phản kháng mạnh mẽ của tôi, cô ta trố mắt nhìn tôi rồi bật chợt òa khóc nức nở:
- Thật ra… thật ra cô không làm gì có lỗi với tôi… Nhưng… cô đã làm cho trái tim tôi vỡ tan, đau đớn… tôi van cô, xin cô hãy thương lấy tôi… Tôi… tôi yêu anh ấy, tôi không thể mất anh ấy… Tôi van cô…
- Nhưng tôi đã làm gì? Anh ấy là ai?
Tôi lớn tiếng.
Bóng ma chưa kịp trả lời câu hỏi của tôi đã vộ ivàng biến mất vì trước cửa nhà tôi vang lên tiếng gọi của anh Hai:
- Mai ơi, em sao rồi?
Anh Hai đi nhanh vào đẩy cửa phòng tôi, thấy tôi ngồi trên giường anh lo lắng:
- Em bớt chút nào không? Anh lo quá nên tranh thủ giờ nghỉ trưa mua thuốc đem về cho em uống nè!
Vừa nói, anh Hai vừa thò tay vào túi lấy bịt thuốc rồi đi rót ly nước bưng lên đưa cho tôi:
- Em uống thuốc đi, uống đi rồi sẽ khỏe…
Tôi mỉm cười, ngoan ngoãn cho mấy viên thuốc vào miệng rồi uống một nước để anh Hai được yên lòng.
- Em đỡ hơn nhiều rồi!
Tôi nói.
- Ừ, được vậy anh cũng mừng, chỉ sợ em ở nhà một mình không ai chăm sóc…
Rồi liếc nhìn đồng hồ anh Hai cuống quýt nói:
- Thôi, anh đi nhé! Sắp tới giờ làm rồi!
Tôi gật đầu:
- Dạ, anh Hai đi đi!
Anh Hai tất tả đi ra, tôi uể oải ngồi dậy đi xuống bếp lục cháo ăn cho đỡ đói. Ăn xong mấy muỗng cháo như được hồi tỉnh. Lên giường nằm sắp xếp lại mọi chuyện kỳ lạ xảy đến với tôi từ hôm qua tới nay, tự nhiên có một thứ linh tính nào đó mách bảo tôi rằng, tất cả những chuyện đó đều lien quan đến Huy!
Tôi nhớ lại từng cử chỉ của Huy lúc tôi chỉ cho anh thấy bóng người treo cổ trên cành cây ngoài nghĩa địa, rồi lúc tôi kể với Huy người con gái đó đã ám ảnh tôi thế nào, tôi biết chắc Huy hiểu chuyện gì đang xảy đến với tôi.
Nhưng đó là chuỵên gì? Huy là ai? Tôi chơi thân với Huy một thời gian nhưng thật sự tôi không biết gì về Huy trừ những điều anh tự kể.
Bóng ma kia đã nhắc tới một người con trai, người đó là ai nếu không phải là Huy? Ở Sài Gòn này tôi có chơi thân với ai ngoài Huy đâu?
Không được! Nhất định tôi phải gặp Huy và hỏi cho ra lẽ. Nhưng bây giờ tôi còn chóng mặt quá, chưa thể đi ngay lúc này. Tôi thấy mình cần phải ngủ một giấc cho đầu óc tỉnh táo lại mới có thể giải quyết mọi việc một cách sáng suốt được.
Tôi lên giường và ngủ một giấc rất ngon.
Lúc tôi thức giấc trời đã về chiều. Thấy trong người dường như đã khỏe hẳn, tôi xuống bếp nấu cơm, làm thức ăn. Và khi mọi việc xong xuôi thì mặt trời cũng đã lặn.
Tôi đóng cửa nhà và đi tìm gặp Huy để hỏi cho rõ.
Nhưng khi đã ra tới đường lộ, tôi chợt cười thầm trong bụng vì thấy mình ngớ ngẩn quá. Tôi muốn đi tìm gặp Huy, nhưng biết Huy ở đâu mà tìm? Nơi Huy làm việc, nhà Huy ở tôi đều không biết thì phải làm sao? Tôi dừng lại, do dự muốn quay về, nhưng dù sao cũng đã ra ngoài đường, tôi muốn đi dạo một chút cho mát mẻ.
Nhưng không hiểu cái gì đưa đẩy mà tôi lại đi vào khuôn viên của nghĩa địa. Vừa bước vào, tôi chợt nhận ra hai bóng người đứng bên cạnh một lùm cây rậm rạp. Hai cái bóng đó không xa lạ gì với tôi, tôi biết chắc, một người là Huy, còn người kia không ai khác chính là cái bóng ma đã làm tôi khốn khổ!
Cô gái kia giả ma giả quỷ để nhát tôi nhằm mục đích gì đây? Giữa Huy và cô ấy có mối liên hệ ra sao? Lúc này trong đầu tôi đầy ứ những câu hỏi tương tự như thế.
Vì nghĩ họ không phải là ma nên tôi không thấy sợ hãi gì nữa, tôi quyết tìm cho ra sự thật nên cố tình nhón chân đi thật nhẹ, vòng tới gần chỗ hai người đang đứng. Khi tới vừa đủ tầm để nghe họ trao đổi gì với nhau tôi mạnh dạn chui tọt xuống cái hố gần đó để ẩn mình.
Tôi nghe Huy gằn từng tiếng:
- Tôi cấm cô! Tôi không cho phép cô làm bất kỳ điều gì tổn hại đến Mai! Mai hoàn toàn vô tội, cô không được phép tới gần cô ấy!
Tiếng người con gái nức nở:
- Huy… anh nỡ lòng nào đối xử với em như thế sao anh? Em yêu anh… anh biết điều đó mà, phải không Huy?
Huy bật cười chua chát:
- Biết! Tôi biết rất rõ cái mà cô gọi là tình yêu! Nhưng cô nhầm rồi, đó không phải là tình yêu mà là sự chiếm hữu, do bản tính ích kỷ của mình cô muốn tôi phải thuộc về cô, đúng không? Khi biết tôi không yêu cô, cô đã làm mọi cách để hãm hại tôi, tôi đã ra nỗng nỗi này rồi mà cô cũng chưa vừa lòng sao?
Người con gái khóc lớn hơn nữa:
- Sao anh phũ phàng đến vậy? Vì em yêu anh, em muốn chúng mình luôn bên nhau nên mới làm như vậy… em cũng vì anh, vì anh mới một lòng một dạ theo anh. Lúc anh chết đi rồi em đau đớn tột cùng nhưng em lại vui sướng hơn ai hết, vì em nghĩ anh sẽ ở bên em mãi mãi… Em đã lập tức tìm tới cái chết để theo anh, anh biết đó, cái chết của em đâu có dễ dàng gì…
Tôi không thể tin những gì mà chính tai mình vừa nghe thấy! Cái gì mà “lúc anh chết đi” rồi “lập tức tìm tới cái chết để theo anh”? Tôi tự nhéo vào người một cái thật đau để xem thử tôi đang mơ hay đang tỉnh? Tôi biết, tôi đang rất tỉnh! Vậy thì chuỵên này là thế nào đây?
Tôi chồm lên khỏi hố để nhìn rõ hai người, trời ơi… không thể nào tin được, cả Huy và người con gái kia đang đứng lơ lửng trước mắt tôi, chân họ không hề chạm đất!
- Á…
Âm thanh cuối cùng mà tôi nghe được chính là tiếng thét kinh hoàng của mình. Tôi đã ngất đi ngay lúc đó!
Tôi không biết mình đã mê man bao nhiêu ngày đêm, cho đến khi tôi mở mắt ra được thì thấy anh Hai tôi giống như một ông già với gương mặt hốc hác, râu ria tua tủa đang ngồi ủ rũ bên cạnh tôi.
- Mai! Em tỉnh rồi hả Mai? Cám ơn trời phật, anh lo sợ quá Mai ơi…
Anh Hai reo lên khi thấy tôi mở mắt.
Tôi hỏi nhỏ:
- Anh Hai… đây là…?
Anh Hai chùi nước mắt và nói:
- Đây là bệnh viện! Em đã nằm ở đây đúng mười ngày rồi đó! Anh luôn lo sợ, anh sợ em sẽ không bao giờ tỉnh lại…
Tôi hốt hoảng:
- Trời! Anh Hai nói em đã nằm ở đây mười ngày rồi sao? Vậy… anh Hai luôn ở đây với em à?
Anh Hai gật đầu:
- Ừ, anh xin nghỉ phép để chăm sóc cho em!
Anh Hai vừa nói tới đó thì chị dâu tôi đẩy cửa bước vào, trên tay chị là cái gàu-mên thức ăn đem cho anh Hai tôi ăn bữa trưa.
Thấy tôi đã tỉnh, chị cất giọng ngọt ngào:
- Em gái rồi cũng tỉnh lại, thật may mắn quá! Chị đang chuẩn bị kêu bán nhà để lo cho em đây…
Anh Hai trừng mắt nhưng chị dâu vờ như không thấy:
- Sao, em tính nằm đây nghỉ dưỡng sức mấy ngày nữa vậy Mai?
Tôi ấp úng:
- Em… chị ơi… chị xin cho em xuất viện về nhà đi, em… em muốn về…
Chị Hai không nói gì chỉ khẽ liếc nhìn anh tôi.
Chiều tối hôm đó tôi được xuất viện.
Về nhà, tôi thuật lại toàn bộ câu chuyện từ lúc quen Huy cho đến khi tôi ngất lịm ngoài nghĩa địa. Nghe xong, anh Hai tôi tỏ ra lo lắng:
- Không được rồi, vậy đúng là em đã bị ma ám rồi! Sáng mai anh phải đi tìm thầy về trừ tà cho em mới được!
Chị Hai đứng phắt dậy, lớn tiếng:
- Chị không ngờ em lại là đứa xảo trá đến vậy nghe Mai! Em có lười biếng không muốn đi làm thì cứ nói thẳng ra, mắc chứng gì phải viện cái lý do mà đến con nít ba tuổi cũng không tin được…
Anh Hai quát:
- Cô có im đi không? Cô không thấy nó bất tỉnh mười ngày nay sao?
Chị Hai cười nhạt:
- Có chứ, tôi thấy chứ! Vì mười ngày nay tôi phải đầu tắt mặt tối vừa đi làm vừa lo phục vụ cho anh em các người, sao tôi lại không thấy được! Nhưng chuyện nó ngất cũng là bình thường thôi, đang bệnh, nhà không ở lại lang thang ra ngoài, không nhiễm gió mới là lạ! Đừng có đem mấy cái hồn ma vớ vẩn ra mà hù dọa tôi!
Anh Hai tức tối:
- Mặc xác cô có tin hay không, nó là em tôi, tôi có bổn phận phải lo cho nó đàng hoàng!
Chị Hai tru tréo:
- A… anh giỏi thật! Vậy thì được, được rồi! Ngay bây giờ tôi sẽ giao cái nhà này lại cho anh em anh, tôi đi, đi khỏi đây!
Vừa nói, chị Hai vừa ôm mặt chạy nhanh lên gác.
Tôi nói với anh Hai:
- Anh lên dỗ chị đi, giữ chị lại đi anh!
Anh Hai lắc đầu mệt mỏi:
- Tuỳ cô ấy muốn làm gì thì làm, anh không còn đủ sức để chìu chuộng nữa…
Anh Hai vừa nói tới đó thì cả anh và tôi đều giật bắn người khi nghe tiếng thét kinh hoàng của chị Hai từ trên gác vọng xuống.
Anh Hai lao như tên bắn ra khỏi phòng. Khi anh Hai bước vào phòng ngủ của mình, ở giữa phòng, chị Hai đang té ngồi dưới sàn, ánh mắt thất thần nhìn sững vào một thi thể đang treo lủng lẳng trên trần nhà…
Sáng hôm sau, cả anh chị Hai đều nghỉ làm, anh Hai đi hơn một buổi sáng mới mời được một pháp sư cao tay ấn.
Sau khi làm phép xua đuổi tà ma, pháp sư dặn tôi:
- Cô đừng nên đi một mình ở những nơi vắng vẻ, nhất là đừng đi vào các nghĩa địa, nghe chưa? Cô yếu bóng vía, rất dễ bị ma quỷ quấy rối…
Ngay hôm sau, chị Hai bắt tôi phải nghỉ may và sau đó xin cho tôi làm cùng công ty với chị, hàng ngày chị em đi về cùng nhau, tình cảm gia đình chúng tôi ngày càng trở nên khắn khít.
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.08.2009 08:22:08 bởi Mars >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:50:06
NGÔI NHÀ MA
 
Mấy hôm nay cả Quân và Liên đều lo sốt vó. Căn nhà nhỏ của hai vợ chồng vắng hẳn tiếng cười đùa, khiến thằng bé Khang cũng ngạc nhiên không ít.
Nhưng nó còn quá nhỏ để hiểu được gánh nặng cơm áo gạo tiền đang đè nặng xuống đôi vai của ba mẹ nó, và nguy cơ không có việc làm, không có chỗ ở đang chực chờ ngay trước hiên nhà, chính điều đó khiến ba mẹ nó tột cùng lo lắng.
Quân và Liên cưới nhau sau hơn bốn năm dài yêu thương và vượt qua rất nhiều thử thách, có lúc hai người tưởng không thể đến được với nhau được, bởi những điều khắt khe của hai bên gia đình.
Nhưng cuối cùng thì tình yêu mãnh liệt của họ cũng đã chiến thắng tất cả. Nhưng sau đám cưới, hai vợ chồng lại phải đối mặt với cuộc mưu sinh vất vả.
Hai năm nay Quân làm công nhân cho một hãng cơ khí ở Sài Gòn, còn Liên ở nhà phụ mẹ buôn bán sạp hàng tạp hóa ngoài chợ huyện.
Gia đình Liên và gia đình Quân có những mâu thuẫn nặng nề từ rất lâu, nhưng do Quân và Liên quá quyết tâm họ đành phải nhân nhượng đứng ra tổ chức lễ cưới, chứ thật sự không bên nào hài lòng về gia đình của dâu hoặc rễ mình.
Trước tình hình căng thẳng đó, Quân quyết định đưa vợ lên Sài Gòn tìm việc làm và chung sống bên nhau.
Ở đất Sài Gòn muốn làm giàu thì khó chứ chỉ muốn có công ăn việc làm kiếm sống qua ngày thì tương đối dễ dàng.
Quân xin cho Liên vào làm ở một công ty may mặc, hai vợ chồng mướn một căn phòng nhỏ gần đó và sống rất hạnh phúc bên nhau.
Hơn một năm sau, Liên sinh bé Khang và phải nghỉ làm để ở nhà chăm sóc con. Gánh nặng gia đình từ đó một mình Quân phải hứng lấy. Nhưng nhờ Liên biết kim chỉ tiện tặn nên cuộc sống của họ cũng không đến nỗi nào.
Mấy tháng gần đây các công ty rục rịch giảm bớt nhân công do tình hình khủng hoảng kinh tế đang diễn ra trên thế giới nhưng Quân chẳng mấy quan tâm vì nghĩ đó là những công ty có vốn đầu tư nước ngoài, còn chỗ Quân làm là của Việt Nam, có gì mà lo!
Ấy vậy mà tuần rồi Quân được lệnh tạm nghỉ việc trong hai tháng, hưởng năm mươi phần trăm lương! Cả Quân và Liên đều chao đảo trước tin này.
Hơn tuần nay quân chạy đôn chạy đáo tìm việc mới. Công việc thì cũng có, nhưng không tìm được công việc nào mà đồng lương khả dĩ có thể trang trải cho cuộc sống của ba người!
Những ngày gần đây bữa cơm của gia đình nhỏ chỉ toàn là rau dưa, có một tí cá thịt là phần dành cho thằng bé. Nhìn vợ gầy sút đi Quân thương lắm, anh tự hứa với lòng bằng mọi cách sẽ lo cho vợ con được đầy đủ dù bản thân mình có phải cực khổ vất vả nhiều hơn nữa cũng cam.
Nghe nói trên các trang quảng cáo của mấy tờ nhật báo thường đăng tải rất nhiều thông tin tuyển lao động, Quân vì tiết kiệm nên không mua báo mà chờ cho ông chủ nhà xem xong rồi mượn về nghiên cứu.
Sáng nay cũng vậy, trong lúc Liên đang cho con ăn thì Quân ngồi khom người dưới sàn nhà dò từng hàng chữ li ti trên trang quảng cáo. Bất chợt anh reo lên:
- Liên ơi! Chỗ này người ta tuyển người… anh thấy gia đình mình phù hợp quá nè em!
- Ủa, tuyển làm gì mà lại phù hợp cả gia đình vậy anh?
Liên ngạc nhiên hỏi chồng.
Quân cầm tờ báo lên đọc cho Liên nghe:
- Cần tuyển người trông coi nhà. Yêu cầu: Có đủ vợ chồng, con cái. Lương cao, ăn ở tại chỗ. Chi tiết xin vui lòng liên hệ…
Liên đi tới gần chồng tò mò:
- Ngộ quá há anh, trông coi nhà gì mà phải đủ vợ chồng con cái? Có khi nào họ đăng chơi vậy thôi không?
Quân cười:
- Bộ em tưởng đăng một mẩu tin như vầy rẻ lắm sao mà đăng chơi? Mắc lắm đó em! Thôi, để anh thay đồ đi ngay tới đó liên hệ với họ xem cụ thể ra làm sao rồi mình tính, để chậm chân có người khác xí phần thì uổng lắm.
Liên nhìn chồng cười:
- Dạ, anh đi đi… Nhưng sao em cứ thấy kỳ kỳ…
Quân đứng lên, bẹo má thằng con một cái rồi nói:
- Kệ, tới đó rồi sẽ biết.
Quân vội vã thay áo quần rồi dắt chiếc xe đạp cà tàng đi nhanh ra cửa. Liên đứng nhìn theo chồng, trong mắt cô không hề có tia hy vọng nào dù chỉ là le lói.
Gần một tuần nay, quân đã liên hệ với nhiều chỗ rồi mà vẫn chưa xin việc làm phù hợp, lần này, với mẩu quảng cáo lạ lùng như vậy càng khó có kết quả hơn.
Liên lặng lẽ quay trở vào đút cơm cho con. Thằng bé mới biết đi lẫm chẫm là nguồn hạnh phúc lớn nhất của vợ chồng cô, chỉ mong nuôi nó ăn học đàng hoàng là đã thỏa ước mơ rồi!
 
***
Quân hoàn toàn không ngờ, mình vừa đọc xong tờ báo là đi ngay, vậy mà trước cửa phòng phỏng vấn tuyển người lại có rất nhiều người đang ngồi chờ tới lượt. Ai nấy đều có vẻ căng thẳng ghê lắm.
Nhìn qua một lượt, Quân hiểu những người này chắc cũng cùng hoàn cảnh với mình, miếng cơm manh áo, chỗ ở của vợ con tùy thuộc vào họ, họ đến đây với trọng trách nặng nề mang trên vai.
Nhìn thấy nhiều người như vậy, thật sự Quân không còn mấy hy vọng, nhưng đã đến đây rồi không lẽ lại quay về? Thôi thì cũng ngồi lại xem sao! Quân tự nhủ lòng và ngồi vào hàng chờ đợi.
Mỗi lần cánh cửa phòng mở ra, là một lần tim Quân thót lại vì hồi hộp. Anh phải cố dán mắt vào những tờ giấy quảng cáo đủ loại dán trên tường để đầu óc bớt căng thẳng.
- Tới lượt anh rồi kìa, mau lên!
Người thanh niên ngồi phía sau hích nhẹ vào vai làm Quân giật bắn người. Anh vội vã đứng lên đi vào trong.
Ngồi sau chiếc bàn đặt giữa phòng là một người đàn ông khoảng chừng sáu mươi tuổi, vẻ mặt tương đối dễ chịu.
Ông ta chỉ tay vào chiếc ghế đối diện:
- Mời anh ngồi!
Quân gật đầu chào rồi khẽ khàng ngồi xuống.
Người đàn ông nói tiếp:
- Anh vui lòng cho biết về hoàn cảnh gia đinh hiện tại của anh?
- Dạ, tôi một vợ và một con nhỏ, hiện đang ở nhà thuê. Vợ tôi ở nhà chăm con, công ty tôi làm vừa mới tạm đóng cửa.
Quân nói một hơi không cần suy nghĩ.
Người đàn ông hơi mỉm cười, gật gù kéo trễ cặp kín xuống nhìn Quân rồi hỏi thêm:
- Anh có theo đạo nào không?
- Dạ không!
Quân thành thật đáp.
- Anh hoặc vợ anh, có ai tin ma quỷ, có ai sợ ma không?
Quân rất ngạc nhiên vì câu hỏi kỳ lạ của người phỏng vấn nhưng vẫn trả lời thật thà:
- Vợ chồng tôi đều là người nhà quê, từ nhỏ đã quen với cảnh đìu hiu quạnh vắng, quen với những đêm đi soi cá, bắt ếch ven nghĩa địa, chúng tôi chưa biết sợ ma bao giờ. Nhưng… nhưng sao ông lại hỏi những điều này?
Người đàn ông bật cười:
- À… thì tại vì… ngôi nhà mà chúng tôi cần thuê người coi sóc nằm ở một nơi rất vắng vẻ, nếu là người nhát gan sẽ không dám ở đó đâu!
- À, ra vậy!
Quân gật đầu cười.
- Có lẽ anh đã đáp ứng được những yêu cầu của chúng tôi rồi đó!
Người đàn ông nhìn Quân cười cười.
Quân đứng bật dậy lắp bắp hỏi:
- Ông… ông nói sao? Tôi… tôi đã… đã…
Thấy Quân quá xúc động, người đàn ông cười vẻ thông cảm:
- Đúng rồi! Anh đã được tuyển dụng!
Quân bấu chặt tay vào cạnh bàn, thân người chồm hẳn về phía trước, hỏi gặng lại lần nữa:
- Ông đã nhận tôi vào làm?
- Đúng vậy! Anh đã sẵn sàng nhận việc chưa?
Người đàn ông đáp.
Quân như người vừa mới được chắp thêm đôi cánh để bay lên, anh hồ hởi nói:
- Dạ, sẵn sàng, rất sẵn sàng rồi ạ!
Người đàn ông chỉ tay vào ghế:
- Anh bình tĩnh ngồi xuống đi, tôi cần trao đổi với nah thêm một vài vấn đề về công việc.
Quân sực nhớ ra, anh ngồi trờ lại và hỏi:
- Dạ, xin ông cho tôi biết tôi sẽ phải làm gì ạ?
Người đàn ông gỡ cặp kính xuống cầm tay và nói:
- Anh cũng không phải làm gì đâu! Trước tiên anh phải đưa vợ con lên sống tại ngôi nhà đó! Ở đó, chúng tôi đã trang bị đầy đủ những tiện nghi cần có của một gia đình, anh không phải lo sắm sửa gì hết, không phải mất tiền cho việc ăn uống, đi lại hay điện nước gì hết. Ngoài ra, ở đó cũng có một người giúp việc mà vợ chồng anh được toàn quyền sai bảo. Chúng tôi sẽ ký hợp đồng với anh trong mười hai tháng, mức lương mỗi tháng là hai trịêu đồng. Sau mười hai tháng, khi hợp đồng kết thúc, vợ chồng anh sẽ được nhận thêm một khoản tiền thưởng tương đương với năm chỉ vàng và chiếc xe gắn máy mà anh sử dụng trong mười tháng sẽ là của anh!
Quân ngồi há hốc, anh không thể nào tin được những câu mình mới vừa nghe là sự thật. Bất chợt anh cười xòa:
- Ông thật vui tính! Nhưng thật sự lúc này tôi không có tâm trạng để nghe chuyện tiếu lâm. Vợ con tôi đang đứng bên bờ của sự đói khổ, tôi rất cần việc làm, xin ông đừng trêu đùa tôi như vậy!
Người đàn ông nghiêm giọng:
- Những gì tôi vừa nói với anh hoàn toàn là sự thật chứ không phải chuyện giỡn chơi. Đây, anh xem văn bản hợp đồnng đã ghi rõ!
Vừa nói, người đàn ông vừa lấy đưa cho Quân mấy tờ giấy A4 đã được đanh máy chi chít trên đó.
Quân khẽ liếc nhìn người đàn ông một cách đầy nghi ngờ rồi đưa mắt liếc qua tờ giấy. Quả thật, những gì ông ta nói khi nãy đã ghi rõ trong đây.
Quân ấp úng:
- Nhưng… thưa ông… tôi không thấy nhiệm vụ tôi phải làm gì ở đó?
Người đàn ông cười sảng khoái:
- Tôi đã nói rồi, anh không cần phải làm gì hết, chỉ cần vợ chồng anh sống thật vui vẻ, hạnh phúc với nhau là đạt yêu cầu rồi.
- Ông… nhưng… như vậy… các ông mướn tôi để làm gì?
Quân vẫn không sao yên lòng được.
Người đàn ông thôi không cười nữa, ông ngồi thẳng người lên, đeo kiếng vào mắt rồi nói nghiêm túc:
- Để anh khỏi phải lo âu thắc mắc, tôi xin nói rõ cho anh hiểu. Số là ngôi nhà đó từng xảy ra một vụ án mạng kinh hoàng, tất cả mọi người đều đồn ầm lên là ngôi nhà đó đã bị ma ám, không một ai dám thuê hay mua lại. Vì vậy ngôi nhà được kêu bán rất rẻ. Nhưng bản thân ông chủ tôi lại không tin mấy chuyện ma quỷ, ổng đã tranh thủ cơ hội mua ngôi nhà này, và bỏ ra một số tiền để thuê người tới sống ở đó, nhằm chứng minh cho mọi người thấy ngôi nhà đó hoàn toàn bình thường, vợ chồng con cái vẫn sống hạnh phúc như bao nhiêu ngôi nhà khác. Sau một năm, anh sẽ chứng minh được điều đó, và tất nhiên, giá trị ngôi nhà sẽ tăng lên một cách không thể tưởng tượng được. Tôi nói vậy chắc anh đã hiểu?
Người đàn ông dứt lời, nhìn Quân chằm chằm như dò hỏi.
Quân ngồi thừ một lúc rồi gật đầu:
- Hiểu! Thưa ông, bây giờ thì tôi hiểu rồi! Nhưng xin ông cho phép tôi được tò mò thêm chút nữa, ông có thể kể về vụ án mạng trong ngôi nhà đó cho tôi biết được không?
- A, được! Tất nhiên là được chứ!
Người đàn ông reo lên. Ông ta kể rành mạch:
- Cách đây hơn hai năm, ngôi nhà đó là tổ uyên ương của đôi vợ chồng trẻ, cả hai bên gia đình đều là những người giàu có tiếng tăm trong nước. Hai vợ chồng mới có một đứa con trai ba tuổi. Một hôm đứa bé sẩy chân rơi xuống hồ bơi và chết dưới đó. Khi người mẹ phát hiện được, chị ta quá đau lòng nên đã thắt cổ tự tử chết theo con. Đến lúc người chồng về, trông thấy xác đứa con thân yêu nằm dưới sàn nhà, còn vợ mình thì lủng lẳng bên trên. Quá kích động anh ta đã phát điên, lấy xe chạy hết tốc lực ra khỏi nhà. Vừa đến cua quẹo, anh ta đã rơi xuống vực sâu nát bấy cả thân thể. Từ sau những cái chết kinh hoàng đó, ngôi nhà đó bị bỏ hoang tới giờ!
Tuy không sợ ma, nhưng quân vẫn cảm thấy ớn lạnh dọc sống lưng. Quả thật đó là một thảm họa lớn lao, khó ai có thể chịu đựng nỗi.
Thấy Quân ngồi im không nói gì, người đàn ông cất tiếng:
- Sao? Anh có đổi ý khi biết rõ lai lịch ngôi nhà đó không?
Quân ngước lên nhìn thẳng vào người đàn ông, mỉm cười:
- Dạ không, tôi không có gì thay đổic đâu ạ!
Người đàn ông cười tươi, chồm qua bàn bắt tay Quân với vẻ thân tình:
- Có thế chứ! Quả thật tôi đã nhìn không lầm người, tôi biết anh có khả năng mà! Cứ gọi tôi là chú Thịnh, đây là số điện thoại cầm tay của tôi, có gì cần anh cứ liên hệ trực tiếp.
Quân xúc động hỏi:
- Vậy khi nào tôi mới nhận việc?
Người đàn ông vỗ vai Quân:
- Bất cứ khi nào! Anh có thể nhận việc vào lúc nào?
Quân không cần đắn đo suy nghĩ, trả lời thật nhanh:
- Sáng mai, sáng mai chúng tôi đến nhé?
Người đàn ông vui vẻ nói:
- Tốt lắm! Vậy sáng mai anh đưa chị và cháu tới đây chúng tôi sẽ cho xe đưa cả nhà lên đó! Anh khỏi cần đem theo bất kỳ vật dụng trong nhà, trên đó đủ hết rồi!
- Dạ, cảm ơn ông!
Quân đứng lên cúi chào.
Người đàn ông đứng dậy tiễn Quân ra cửa, cả hai người đều có vẻ hài lòng, phấn khởi.
Quân ra khỏi cửa, vớ lấy chiếc xe đạp một mạch về nhà không hề biết mệt. Vừa về tới nơi, Quân quẳng chiếc xe ngã ngửa ngoài hiên, chạy ào vào căn phòng nhỏ xíu của mình.
Thằng bé Khang đang nằm ngủ trên giường, Quân bế xốc nó lên quay mấy vòng, thằng bé giật mình khóc thét lên nhưng Quân không quan tâm tới, anh vẫn quay thằng bé vù vù, miệng la lớn:
- Con ơi! Vận may đã mỉm cười với gia đình mình rồi con ơi! Chúng ta sống rồi con ơi!
Liên đang giặt quần áo, nghe tiếng con khóc thét và tiếng chồng reo hò ầm ĩ, chị vội vã chạy lên, hai tay quệt quệt vào hai bên vạt áo, chị Liên hớt hãi hỏi:
- Có chuỵên gì vậy anh?
Quân đặt con nằm xuống, bế thốc chị Liên lên, hôn đánh chụt vào trán chị:
- Em ơi, chúng ta gặp may rồi!
Chị liên mắc cỡ giãy nãy:
- Bỏ em xuống! Bỏ em xuống rồi kể đầu đuôi cho em nghe đi! Nhìn anh kìa… y như người tâm thần!
Quân cười thật tươi khi nghe giọng trách yêu của vợ. Anh đặt chị Liên xuống đất rồi nói:
- Anh đã xin được việc làm rồi! Một công việc ngoài sức tưởng tượng nhé?
- Việc gì thế anh?
Liên hồi hộp.
- Là… làm chủ đó!
Quân hí hửng nói.
 Liên khựng lại một chút rồi cười thật buồn:
- Em hiểu, thời buổi này không dễ gì có được công việc thích hợp, anh khỏi phải ái náy với mẹ con em. Từ từ thế nào cũng tìm được mà anh!
Quân không cười nữa, nghiêm trang nhìn vợ:
- Em tưởng anh buồn quá nên nói khùng hả? Không có đâu, anh xin được việc thiệt mà, đây, em xem nè, hợp đồng anh vừa ký xong!
Quân vừa nói vừa thò tay vào túi áo lấy ra mấy tờ giấy A4 gấp tư đưa cho Liên.
Liên run run cầm tờ giấy, không đọc mà hỏi chồng:
- Anh nói lại cho em nghe đi, công việc đó là công việc gì?
Quân kéo vợ ngồi xuống sàn. Chị Liên ôm thằng Khang vào lòng, nó không khóc nữa mà mở mắt ngó cha mẹ lom lom, chắc nó cũng nhận ra sự không bình thường của cha nó nãy giờ.
- Người ta mình về đó sống, làm chủ ngôi nhà đó trong vòng một năm. Mà nè, có cả người giúp việc để vợ chồng mình sai khiến nữa đó, đã chưa?
Quân cười tít mắt.
Liên chau mày:
- Em hổng hiểu gì hết trơn! Nghe giống chuyện tầm xàm quá!
Quân nắm tay vợ, nghiêm nghị:
- Không phải chuyện tầm xàm đâu em. Số là ngôi nhà đó trước kia có xảy ra vụ án mạng, người ta đồn đãi nhà có ma nên hổng ai dám mua hay thur gì hết. Một ông chủ lợi dụng cơ hội này để mua với giá rẻ mạt, sau đó thuê vợ chồng mình đến sống trong  một năm để chứng tỏ cho mọi người thấy ngôi nhà đó hoàn toàn bình thường, như vậy ổng sẽ bán được với giá rất cao. Đó, toàn bộ sự việc là vậy đó em à, lúc đầu anh cũng hoang mang ghê lắm!
Liên không mừng rõ như Quân tưởng, chị e dè hỏi:
- Nhưng… án mạng như thế nào hả anh?
Quân do dự, lúc đầu anh không kể lại chuyện ghê rợn đó cho vợ biết, nhưng rồi anh sợ lỡ mai này về đó sống, Liên lại nghe những lời đồn thổi bên ngoài sẽ có tác hại hơn là chính anh kể cho vợ biết sự thật. Thế là Quân kể lại không sót chi tiết nào câu chuyện lúc nãy mới được nghe.
- Anh nghĩ em cũng không sợ, đúng không?
Kể xong, Quân hỏi vợ.
Liên băn khoăn một chút rồi nói:
- Thật sự em không sợ, nhưng có hơi e ngại khi nghe cái chết của đứa bé kia. Thằng Khang con mình còn nhỏ…
Quân cắt lời:
- Em yên tâm đi, anh đã tính trước hết rồi, cả hai vợ chồng mình đâu có làm gì ngoài chuyện giữ con? Chẳng lẽ cả hai mà giữ một đứa nhỏ không nên thân? Nhưng để đảm bảo hơn, ngay khi về đó, anh sẽ cho bơm cạn cái hồ bơi ấy. Em chịu chưa?
Liên khe khẽ gật đầu:
- Giữa lúc này, đó là một cơ hội vàng cho gia đình mình, sao em lại khong đồng ý được. Nhưng… thật sự em cứ lo lo thế nào ấy anh à!
Quân cười xòa:
- Thôi, không có gì đâu! Tại em vừa nghe chuyện chết chóc nên ám ảnh vậy thôi, mọi việc sẽ bình thường thôi mà!
Tối hôm ấy, cả hai vợ chồng bắt tay vào chuẩn bị hành lý để sáng sớm lên đường đến với nơi ở mới. Thật ra đồ đạc của Quân và Liên cũng không có bao nhiêu. Cả hai quyết định đem chiếc xe đạp rệu rã, cái lò xô cũ kỹ, mấy cái móc phơi áo quần, mấy cái rổ, thau, chén bát cùng một vài thứ vặt vãnh khác cho lại mấy đứa phòng bên, tội nghịêp, tụi nó cũng là công nhân may, sống tiện tặn, dè xẻn từng chút một mà cũng chẳng thấy dư giả được gì!
Đúng như lời hẹn, sáng sớm hôm sau vợ chồng Quân vừa tới đã thấy chú Thịnh chờ sẵn. Chú nựng thằng nhóc Khang và nói:
- Thằng bé giống cha như đúc. Chú chúc các cháu có được cuộc sống mới thật thoải mái.
Quân và Liên đều xúc động trước cửa chỉ và cách xưng hô thân tình của chú Thịnh.
Trao cho Quân xâu chìa khóa, chú Thịnh bảo:
- Đây là chìa khóa nhà trên đó! Bây giờ tài xế sẽ đưa các cháu lên trên ấy, hôm nào rảnh chú sẽ lên thăm. Nhớ nhé, có gì cần thì liên lạc với chú theo số điện thoại hôm qua.
Quân và Liên mỉm cười cúi chào chú Thịnh rồi chui vào xe. Thằng bé Khang thích thú nhảy chồm chồm lên nhìn ngắm cảnh vật bên ngoài cửa kính. Nói gì đến thằng bé, cả Quân và Liên từ nhỏ tới giờ, đây cũng là lần đầu tiên được ngồi vào xe du lịch bốn chỗ.
Hai vợ chồng cứ ngồi nhìn nhau tủm tỉm cười hoài.
Sau khi dừng lại ăn cơm dọc đường, anh tài xế mỉm cười nói:
- Anh chị lên xe ngủ một giấc là đến nơi!
Nói vậy thôi chứ làm sao Quân và Liên ngủ được? Tâm trạng lúc này của cả hai vợ chồng đều giống nhau, vừa vui mừng vừa lo âu, không biết mình sẽ đi tới đâu và điều gì đang chờ đợi gia đình nhỏ bé của mình ở đấy?
Xe chạy hơn hai tiếng đồng hồ nữa thì tới chỗ.
Đó là một ngôi nhà đồ sộ nằm sâu trong một khoảng vườn rộng lớn. Từ ngoài cổng có một con đường lát gạch chạy ngoằn ngoèo, uốn khúc theo mấy khóm hoa vào tới tận thềm nhà.
Liên nhanh chónh nhận ra ở góc sân có một cái hồ bơi rất lớn. Vừa nhìn thấy nó, bất chợt Liên cảm thấy một điều lo sợ mơ hồ vây bủa lấy mình.
Quân thì khác, anh hoàn toàn hài lòng và sung sướng khi bỗng chốc được làm chủ ngôi nhà to lớn cỡ này, điều mà dù nằm mơ cũng không bao giờ anh thấy được!
Thằng Khang vừa đặt chân xuống đất là đã lẫm chẫm chạy đi, vấp té chúi nhủi mà vẫn cười nắc nẻ.
Một người phụ nữ đứng tuổi từ sau nhà chạy lên khi nghe tiếng còi xe ô tô. Trông thấy vợ chồng Quân, chị cúi đầu chào:
- Cô chú mới lên tới?
Liên và Quân mỉm cười chào lại.
Anh tài xế vui vẻ giới thịêu:
- Đây là vợ chồng anh Quân, chị Liên. Anh chị sẽ sống ở đây bắt đầu từ hôm nay. Còn đây là chị Ba, anh chị có cần gì thì nói với chị ba nhé?
Quân và Liên thật sự lúng túng vì không sao quen được với vai trò làm chủ. Khi tất cả đã vào hết trong nhà, anh tài xế nói:
- Chị ba giúp đỡ cho vợ chồng anh Quân nhé? Bây giờ tôi phải trở về Sài Gòn.
Nói xong, anh tài xế gật đầu chào mọi người rồi đi ra xe.
Chị Ba bắt đầu hướng dẫn cho Quân và Liên làm quen với từng căn phòng trong ngôi nhà thênh thang rộng lớn này.
Quân không thể tin những gì đang diễn ra trước mắt mình. Thật khó mà tưởng tượng mức sang trọng và tính thẩm mỹ cực kỳ ở từng chi tiết trang trí trong các phòng nghỉ, phòng khách... Đúng y như truyện thần thoại nghìn lẻ một đêm hay những cảnh sang trọng tột cùng trong các bộ phim mà anh đã từng nghe kể hoặc xem qua.
- Liên nè, em có thấy là vợ chồng mình quá may mắn không?
Quân đi sát vào vợ, hỏi nhỏ.
Vì không muốn làm tắt niềm vui của chồng, chỉ Liên gượng gạo mỉm cười:
- Dạ, mình may thật!
Bé Khang thì không ngừng chạy tới chạy lui vì mê ly, vui sướng... Chỉ một mình Liên là không đồng cảm với chồng con.
Một lúc sau, không dằn nổi, Liên thầm thì với chồng:
- Anh à, sao em thấy lo quá!
Quân ngạc nhiên:
- Em sợ gì? Em mắc cười thiệt đó nghen! Trong đời anh chưa từng thấy ngôi nhà nào sinh động và ấm cúng như thế!... À, chị Ba ơi, chị làm ở đây được lâu chưa?
Hình như Quân không chú tâm đến nỗi lo của vợ nên anh quay sang hỏi chuyện chị Ba.
Nghe Quân hỏi, chị Ba lễ phép trả lời:
- Ông Thịnh đã thuê tôi về đây làm được hai tháng rồi ạ.
Quân hỏi chị Ba nhưng mắt lại nhìn Liên cười cười:
- Vậy hai tháng qua sống một mình ở đây, chị có thấy bóng ma nào chưa? Chị có nghe tiếng động khác thường nào vào ban đêm không, chị Ba?
Chị Ba mỉm cười:
- Dạ không hề, mọi việc đều bình thường. Tôi sống có một mình, mới đầu cũng hơi ái ngại nhưng rồi qua mấy đêm thấy không có gì lạ tôi rất yên tâm, giờ thì không còn gì lo lắng nữa. Cô chú mới tới nên chưa quen đó thôi, ở vài bữa sẽ thấy thích thú ngay thôi.
Quân nháy mắt, cười với Liên:
- Em có nghe chị Ba nói không, cô vợ tội nghiệp của anh! Đừng quá lo lắng như vậy nữa, em phải vui vẻ lên chứ! Vợ chồng mình được chú Thịnh trả lương để hưởng cuộc sống đế vương này trong một năm đấy. Sau một năm, vợ chồng mình lại phải quay về với căn phòng ẩm thấp, chật chội, chừng đó em tiếc thì muộn rồi em à!
Liên biết bây giờ dù có lo sợ thì cũng không thể làm khác hơn. Thôi thì ráng vui cho chồng con khỏi phải phiền lòng. Nghĩ vậy nên Liên cố tập trung vào những việc khác để xua tan những nỗi ám ảnh không may trong tâm trí.
Một tuần lễ trôi qua, Quân, Liên và bé Khang đã hoàn toàn thích nghi với cuộc sống mới. Đang là những người sống cảnh nghèo hèn, bỗng chốc trở thành chủ nhân của cả một tòa nhà sang trọng, Quân và Liên thật sự không quen được với cuộc sống ăn không ngồi rồi.
Bởi vậy, suốt ngày hai vợ chồng tìm hết việc này đến việc khác để làm. Buổi sáng, Quân tưới cây làm cỏ ngoài vườn thì Liên giúp chị Ba nấu cơm, dọn dẹp nhà cửa. Mới đầu chị Ba nhất quyết không cho vợ chồng Liên đụng tay vào công việc, chị nói:
- Ông Thịnh mà biết tôi để cô chú làm việc nhà, ổng sẽ đuổi việc tôi đó!
Quân và Liên cùng cười:
- Không sao đâu mà chị sợ, tự chúng tôi thích làm mà, ngồi không là tụi tôi chết đó chị!
Dần dần họ sống với nhau thân mật, vui vẻ như một gia đình.
Mảnh vườn rộng xung quanh nhà đã được đôi bàn tay siêng năng cần cù của vợ chồng Quân biến thành một vườn rau với đủ chủng loại. Mỗi ngày đi chợ, chị Ba khỏi phải lựa chọn từng mớ rau mà vẫn có rau xanh tươi tắn cho mỗi bữa cơm.
Riêng với cái hồ bơi thật rộng ngoài sân, giữ đúng lời hứa với vợ, Quân đã bơm cạn nước.
Chiều chiều vợ chồng con cái ra dân dạo chơi, có khi bé Khang nổi hứng leo xuống lòng hồ bơi chơi đùa dwosi đó, còn Quân và Liên thì ngồi trên thành hồ chuyện vãn.
Liên cũng đã quen với nơi ở mới, chị không còn cảm giác sợ hãi lo lắng thường xuyên nữa, nhưng thỉnh thoảng vẫn có lúc Liên cảm thấy bất an, mỗil úc như thế, Liên lại nhanh chóng xua đuổi nó bằng ý nghĩ, mình ở đây bao nhiêu ngày qua rồi, có gì đâu mà sợ?

Mười một tháng lặng lẽ trôi qua, cho đến giờ thì dường như sự lạc quan yêu đời của Quân là có lý. Mọi việc diễn ra bình thường, không một âm thanh cót két nào phát ra từ cánh cửa, không một tiếng gió hú bất thường nào được nghe thấy. Ngược lại, mọi thứ đều như trong mơ.
Đôi lúc Quân vẫn đem cái sự nhát gan của Liên ra mà trêu chọc, những lúc như vậy chị Ba luôn là người bênh vực cho Liên:
- Đàn bà con gái cũng vậy hết chú à, họ không lo gì cho bản thân mình đâu, mà sự an nguy của chồng con mới là trên hết đó!
Quân cười:
- Dạ, chọc Liên cho vui vậy thôi, chứ tôi cũng hiểu lòng cô ấy lắm chị ạ!
Vợ chồng Liên đã dành dụm được trọn mười một tháng lương mà ông Thịnh phát cho đều đặn mỗi tháng. Bởi vì ở đây hầu như họ không phải tốn tiền vào bất kỳ khoản nào. Vả lại với vườn rau sau nhà, thỉnh thoảng Liên và chị Ba còn đem ra chợ bán bớt, lấy tiền chia nhau để dành tiêu vặt.
Liên bàn với Quân:
- Theo lời chú Thịnh hứa, thì sau khi hợp đồng kết thúc vợ chồng mình sẽ có được khoản tiền thưởng là năm chỉ vàng, chiếc xe gắn máy mình đang sử dụng, cộng với mười hai tháng lương nguyên vẹn. Như vậy là mình đã có được một số vốn khá lớn rồi phải không anh? Em tính vầy anh nghe coi được không nhe?
Quân ôm vợ vào lòng:
- Em tính là được rồi, anh luôn tin tưởng vào em mà!
- Không, em muốn bàn bạc với anh!
Liên không đồng ý với cách chìu vợ của Quân.
Quân cười khì:
- Thôi được rồi, em tính sao, nói anh nghe coi!
Liên chậm rãi nói:
- Em tính khi hợp đồng kết thúc, mình về lại Sài Gòn, thuê một căn phòng nhỏ y như lúc trước. Nếu anh xin được việc ở các hãng xưởng thì tốt, còn không thì cũng không phải lo. Mình có xe gắn máy, anh có thể chạy xe ôm. Còn em thì kiếm gì đó buôn bán, vậy chắc cũng sống được phải không anh?
Quân gật đầu:
- Em tính vậy là chu đáo quá rồi. Thiệt là trời phật thương vợ chồng mình, nếu không có cái hợp này, anh không biết bây giờ vợ chồng con cái nhà mình lang thang ở đâu nữa?
Quân kéo vợ vào sát bên mình, anh muốn tận hưởng thật trọng vẹn sự sung sướng trong những ngày ngắn ngủi còn lại ở nơi đây.
Mấy ngày nay, dòng người đến dọ mua ngôi biệt thự tăng lên đáng kể. Theo lời dặn của chú Thịnh, vợ chồng Quân Liên phải tỏ ra hết sức phấn chấn, trên môi luôn nở nụ cười. Họ phải thể hiện trước mặt khách hình ảnh của một gia đình hạnh phúc tuyệt đối.
Nhưng nếu không có sự dặn dò cẩn thận ấy thì Quân và Liên cũng sẽ rất phấn khởi, vui vẻ vì hạnh phúc mà họ đang có  và viễn cảnh tương lai êm đẹp đã được vẽ ra trước mắt.
Hôm ấy, Liên và Quân hướng dẫn đôi vợ chồng doanh nhân giàu có ở Sài Gòn đi thăm ngôi biệt thự. Sau khi xem xét hết mọi ngóc ngách trong nhà, người vợ tách Liên ra nói chuyện riêng.
- Tôi nghe nói mấy năm trước đã xảy ra một thảm kịch trong ngôi nhà này thì phải? Cô có nghe nhắc tới chuyện đó không?
Bà vợ doanh nhân tò mò hỏi.
Liên gật đầu:
- Đúng là có chuyện đó xảy ra, nhưng bà hỏi chuyện này để làm gì?
Bà vợ doanh nhân lúng túng:
- Vì… vì tôi cũng có nghe rất nhiều lời đồn đại rằng ngôi nhà này từ lúc xảy ra thảm kịch đã bị các vong hồn đeo bám, không chịu rời xa, nói chính xác là nhà này bị ma quỷ ám rồi, người ta không sống được!
Liên bật cười:
- Thật là vô lý! Nếu có chuyện đó thì làm sao gia đình tôi sống hạnh phúc trong gần suốt năm nay? Đó chỉ là những chuyện thêu dệt thôi bà ạ, bà đừng quá tin!
Bà vợ doanh nhân mỉm cười:
- Ừ, tôi thật ngốc mới tin vào những điều đơm đặt như vậy. Ông nhà tôi muốn mua ngôi nhà này mà tôi cứ lần khân cản trở, cũng vì sợ mấy lời đồn đại đó. Nay tận mắt chứng kiến cuộc sống đầm ấm của vợ chồng con cái nhà cô, lại nghe cô khẳng định vậy tôi rất yên tâm. Tôi sẽ đồng ý cho ông nhà tôi mua ngôi nhà này!
Giữa lúc hai người còn đang nói chuyện vui vẻ với nhau thì có điều bất thường xảy ra. Thằng bé Khang lâu nay vẫn là một đứa bé ngoan ngoãn và có phần hơi nhút nhát trước người lạ, vậy mà không hiểu sao nó lại chạy tới, dùng đôi tay nhỏ xíu của mình đấm liên tục vào bà vợ doanh nhân, vừa đánh vừa la:
- Bà đi đi, bà về đi, bà đừng ở đây nữa, bà xấu lắm!
Sửng sốt trước thái độ lạ thường của bé Khang, Liên cố giữ chặt hai tay thằng bé lại và mắng:
- Con bị điên rồi hay sao vậy? Mẹ cấm con không được hỗn hào như vậy nghe chưa?
Bị mẹ mắng, thằng bé khóc sướt mướt nhưng hai tay vẫn cố níu lấy vạt áo của người khách mà giật mạnh không thôi.
Phải cố gắng lắm, Liên mới khống chế được cậu con trai yêu dấu. Bà khách vì bất mãn trước thái độ hỗn láo của thằng bé nên cũng bỏ đi lại chỗ chồng bà và Quân đang đứng.
Tối hôm ấy, Liên lo lắng nói với chồng:
- Anh nè, tự nhiên hồi chiều này bé Khang có thái độ như vậy làm em lo quá!
Quân ngạc nhiên:
- Em lo gì? Con nít thì cũng khi vầy khi khác. Có lẽ tại nó thấy em cứ nói chuyện với khách hoài mà không quan tâm gì tới nó, nó ganh tị nên mới xử sự vô lễ như vậy thôi. Mình rầy dạy, cắt nghĩa cho nó hiểu là xong chứ gì, nó vốn là đứa bé ngoan và hiểu biết mà em!
Liên thở dài:
- Đó chỉ là một phần thôi anh à! Em sợ… mai này vợ chồng mình trở lại cuộc sống lam lũ trước đây, thằng bé sẽ không chấp nhận, vì nó đã quen sống trong đầy đủ như vầy rồi. Nếu vậy mình phải làm sao hả anh?
Nghe vợ nói cũng có lý, Quân cau mày suy nghĩ một lúc rồi an ủi vợ:
- Chắc không đến nỗi nào đâu em ạ, có lẽ thời gian đầu nó sẽ khó chịu nhưng từ từ lại quen thôi. Bắt đầu từ ngày mai vợ chồng mình làm công tác tư tưởng cho nó trước, nói với nó là một năm qua cả nhà đi du lịch, giờ phải trở về làm lụng để kiếm tiền, sau này sẽ đi du lịch nữa… Mình sẽ giải thích cho con và nó sẽ thích ứng dần thôi em ạ.
Liên vẫn buồn rầu:
- Vợ chồng mình thì dễ dàng thôi, nhưng Khang thì khó lắm anh à. Thời gian gần đây tính khí nó thay đổi bất thường lắm.
Bất chợt có tiếng thét lớn phát ra từ phòng của bé Khang. Liên hốt hoảng chạy đi, theo sau là Quân.
Bé Khang đứng cạnh giường, vẻ mặt căng thẳng lắm.
Liên nhào tới ôm thằng bé vào lòng. Nó mếu máo nhìn Liên:
- Mẹ, con thấy thằng bé!
Liên ngạc nhiên hỏi lại:
- Thằng bé nào hả con? Trong nhà mình, ngoài ba mẹ và dì Ba đâu có thằng bé nào nữa? Con ngủ mơ phải không?
Bé Khang dậm chân cãi lại:
- Con không ngủ mơ, nãy giờ con chưa ngủ mà! ?Thằng bé rủ con xuống hồ bơi, mà cái hồ nhà mình cạn hết nước rồi, làm sao bơi được, thằng đó khùng thiệt, mẹ há?
Liên quay sang nhìn Quân, giọng thảng thốt:
- Anh ơi, mình phải rời khỏi đây ngay thôi.
Quân nghiêm mặt:
- Không được! Chỉ còn hai tuần nữa là mãn hợp đồng, nếu bỏ đi lúc này mình sẽ mất một tháng tiền lương, năm chỉ vàng và chiếc xe mà chú Thịnh hứa thưởng. Em buồn cười thiệt đó, chỉ vì một chuyện không đâu của con nít lại quan trọng vấn đề rồi lo sợ này nọ… Thôi, ráng đi, sau hai tuần nữa dù có muốn ở lại người ta cũng không cho đâu!
Liên vẫn run rẩy:
- Em không thể ở đây thêm ngày nào nữa đâu anh ơi!
Quân hơi lớn tiếng, cằn nhằn:
- Đã sống ở đây gần một năm trời, hoàn toàn yên bình, không có gì đáng ngại, bây giờ sắp đến giờ phút chót mà em lại làm vậy… Em có biết năm chỉ vàng với chiếc xe đó có khi cả đời mình cũng không sắm được không?
Liên không nói gì. Chị biết, biết rất rõ cái giá trị vật chất mà vợ chồng chị sắp được nhận, chị cũng không dễ dàng gì mà từ bỏ nó, nhưng sao trong lòng chị lại thấp thỏm lo sợ đến thế này? Khi vừa nghe bé Khang nói tới chuyện thằng bé nào đó rủ nó đi bơi, là tự nhiên Liên nghĩ ngay tới hôn ma đứa bé đã chết dưới hồ bơi năm xưa.
Trời ơi, có khi nào… xin trời phật phù hộ cho gia đình con, cho chúng con được bình yên thêm hai tuần nữa… Liên ôm con vào lòng, âm thầm van vái.
Quân đặt tay lên vai vợ, dịu giọng:
- Con mình mơ màng hoặc tưởng tượng thôi em à, không sao đâu, không có gì đâu!
Rồi Quân cúi xuống bế bé Khang lên cười nói:
- Con trai ba ngoan lắm đúng không? Giờ con lên giường ngủ nhe, khuya lắm rồi đó! Ngủ ngoan đi, mai ba làm diều cho con chơi, chịu không nè?
Thằng bé nghe nhắc tới diều liền nhoẻn miệng cười:
- Dạ chịu! Ba nhớ làm diều cho con nghe!
Quân hôn đánh chụt vào má thằng bé, gật đầu:
- Ba nhớ chứ, nhưng con phải ngoan, không được la hét om sòm nữa nghe chưa?
- Dạ, con biết rồi!
Khang vừa nói vừa trèo lên giường. Nó nằm duỗi thẳng chân tay và khép mắt lại, cất tiếng khò khò giả như đang ngủ.
Liên bật cười, dí tay vào trán con trai:
- Cái thằng! Thiệt là hay làm bộ làm tịch quá!
Hai mắt bé Khang nhúc nhích, miệng nó cố nén một cái mỉm cười.
Quân và Liên đứng nhìn con một lúc rồi tắt đèn đi ra ngoài khép cửa lại.
Suốt những ngày sau đó, dù đã được Quân giải thích cặn kẽ nhưng không hiểu sao Liên như sống trong cơn ác mộng.
Khuya nào Liên cũng thức giấc vì nghe tiếng hét hãi hùng của con trai. Nhưng thực tế bé Khang vẫn ngủ rất ngoan, không hề la hét gì cả.
Quân nói:
- Chỉ tại trong đầu em luôn bị ám ảnh vì điều đó nên em mới tưởng tượng ra vậy thôi. Cả anh và dì Ba, có ai nghe thằng Khang la lối gì đâu? Mà mỗi khi giật mình thức giấc, em đều chạy sang phòng nó và vẫn thấy nó ngủ ngon lành mà?
Liên biết những gì chồng nói hoàn toàn đúng, chị không thể cãi lại được, nhưng thật sự linh tính đang báo cho Liên một sự việc gì đó rất đáng sợ đang sắp sửa xảy ra.
Để yên tâm hơn, Liên không cho bé Khang ngủ riêng phòng nữa, mà kê thêm một chiếc giường nhỏ cho con trai ngủ cùng phòng với vợ chồng mình.
Quân không phản đối, để Liên được an lòng thì có làm gì Quân cũng đồng ý.
Chỉ còn ba ngày nữa thì hợp đồng sẽ kết thúc. Buổi sáng hôm ấy, Liên thức dậy bình thản hơn mấy hôm trước vì hai đêm qua Liên không còn nghe tiếng bé Khang la hét như những đêm trước nữa.
Liên cùng chị Ba đi chợ mua thức ăn về chuẩn bị đổ bánh xèo để chia tay.
Khi hai người vừa từ ở chợ về thì trời đổ mưa như trút nước, sấm chớp đì đùng, bầu trời đen kịt.
Bé Khang không ra sân chơi được nữa nên quanh quẩn chơi trong nhà. Quân nằm xem ti vi, Liên và chị Ba lo nấu nướng.
Khi bữa ăn kết thúc, lúc này trời cũng đã xế chiều mà mưa vẫn chưa chịu tạnh.
Quân đứng bên cửa sổ nhìn ra sân nói:
- Ông trời có bao nhiêu nước thì hôm nay đem đổ xuống hết luôn chắc? Không làm việc ngoài vườn được thì mình làm việc trong nhà vậy!
Nói xong, Quân dắt chiếc xe gắn máy ra gần cửa ngồi lau chùi cẩn thận. Trong đầu Quân dang diễn ra hình ảnh khi về Sài Gòn, mình sẽ dùng chiếc xe này chở vợ con đi chơi vào những buổi tối rảnh rỗi. Chiếc xe này sắp thuộc quyền sở hữu của mình rồi. Đầu tiên, mình sẽ đưa vợ con về thăm quê, chắc mọi người sẽ phải ngạc nhiên đến tròn mắt, khong hiểu tại sao chỉ mới có một năm mà vợ chồng mình lại khá lên như vậy? Liên và mình lúc này đều mập mạp, trắng trẻo, y như những người giàu có thứ thiệt… Còn nhìn vô thằng Khang, đố ai biết nó là một đứa bé con nhà nghèo, đến túp lều để chui ra chui vào cũng không có được?
Quân mỉm cười vì những ý nghĩ đó. Anh vừa làm vừa huýt sáo rất vui vẻ.
Sau khi cùng chị Ba dọn dẹp bếp núc xong xuôi, Liên vào phòng sửa soạn hành lý của gia đình mình.
Cũng như ngày mới lên đây, đồ đạc của vợ chồng con cái cô không có bao nhiêu, chỉ dồn hết vô một cái ba lô lớn.
Trời vẫn mưa, mưa từ sáng đến tối vẫn không tạnh, nước vẫn tuôn xối xả và sấm chớp vẫn đì đùng…
Liên ôm thằng Khang lên giường hai mẹ con đùa giỡn một lúc, mệt quá nó khong chơi nữa mà vòi vĩnh:
- Mẹ kể chuyện Thánh Gióng cho con nghe đi!
Chìu theo con trai, Liên kéo mền đắp cho con rồi bắt đầu kể:
- Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão chăm làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân to quá, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai và mười hai tháng sau sinh một thằng bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ. Bèn truyền cho sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tin, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này".
Kể mới tới đó Liên bất chợt mỉm cười vì thấy bé Khang đã ngủ say. Liên kéo mền đắp cho con thật kín rồi nhè nhẹ ngồi dậy đi trở qua giường mình.
Quân đi vào hỏi:
- Con ngủ sớm vậy em?
Liên cười:
- Chắc tại trời mưa lạnh dễ ngủ, nó đòi em kể chuyện, mới kể mấy câu cu cậu đã ngủ khò, thật đúng là con nít, mới đó là ngủ liền!
Quân một tay ôm chầm lấy vợ, một tay với lên tắt đèn:
- Giờ tới lượt em phải kể chuyện cho anh nghe nè, bảo đảm là anh không ngủ như con đâu!
Liên cười khúc khích:
- Anh cứ vậy hoài…
Hai vợ chồng cười đùa vui vẻ với nhau thật lâu rồi cũng chìm giấc ngủ ngon lành. Ngoài trời vẫn mưa tầm tã…
Liên giật mình thức dậy vì ánh nắng chiếu thẳng vào mắt. Chớp mắt mấy cái liên tiếp, Liên ngồi dậy nhìn sang giường con, trên giường mền gối ngổn ngang mà bé Khang lại không có đó.
Thương ngày vẫn có những những lúc Khang dậy trước mọi người, nhưng tự nhiên lúc này Liên lại thấy trong lòng mình rất hoảng sợ. Liên vội lay chồng:
- Anh ơi! Dậy đi, thằng Khang dậy rồi kìa…
- Kệ nó, để anh ngủ thêm chút nữa mà!
Quân không mở mắt, chỉ khẽ cựa mình và nói giọng ngái ngủ.
Thật sự Liên không biết nói sao với Quân nữa, chẳng lẽ chỉ vì lý do thằng con dậy trước mà Liên lại kêu réo chồng sao?
Liên đứng lên không đi vào nhà vệ sinh như thwofng ngày mà chạy tìm con khắp nhà.
Thấy chị Ba đang lui cui dưới bếp, Liên hỏi:
- Nãy giờ chị thấy thằng Khang có xuống dưới đây không, chị Ba?
Chị Ba ngước lên mỉm cười:
- Không, sáng giờ tôi không thấy nó, tưởng nó còn ngủ trong phòng chớ. Chắc nó chạy chơi đâu đó thôi, lo gì!
Nhưng Liên đang rất lo lắng, trong lòng Liên như có lửa đốt, cô quáng quàng chạy khắp ngôi nhà vẫn không thấy thằng bé đâu.
Như có linh tính, Liên mở cửa, đi chân đất ra sân.
Vừa ra tới sân, Liên chạy ngay tới chỗ hồ bơi… thì trời ơi… cái hồ bơi lúc này đã đầy ngập nước, và chiếc áo thun màu xanh mà thằng Khang mặc đang lập lờ phía dưới.
- Khang ơi! Trời ơi… con tôi!
Tiếng thét kinh hoàng của Liên làm Quân tỉnh hẳn ngủ, anh phóng vội ra sân, chị Ba cũng từ dưới bếp vội vã chạy lên.
Thấy Liên đứng chết sững bên cạnh hồ bơi, Quân đã đoán được điều gì đang xảy ra, anh lao như điên đến bên vợ. Rồi cũng như Liên, Quân đứng bất động trong một giây khi trông thấy chiếc áo của Khang dưới hồ, rồi bất chợt Quân nhảy ùm xuống nước… nhưng đã quá trễ, thân thể của bé Khang đã lạnh cóng tự bao giờ…
Một tiếng hét khủng khiếp phát ra từ miệng Liên khi nhìn thấy cảnh Quân bồng xác bé Khang từ dưới hồ bước lên. Liên nhào tới ôm con nhưng bàn tay Liên chưa kịp chạm vào thân thể đứa bé thì Liên đã ngã ra bất tỉnh.
Quân vừa ôm thi hài đứa con vừa giúp chị Ba dìu Liên vào phòng và đặt cô nằm xuống giường.
Trong lúc chị Ba hốt hoảng lo xức dầu giật tóc cho Liên tỉnh lại thì Quân ngồi nhìn đăm đăm vào xác chết của đứa con trai yêu dấu.
Liên thở đều rồi nhướng mắt, cô chợt nhớ lại tất cả nên bất thần nhào tới ôm chặt thi thể bé Khang vào lòng. Quân cố nén nước mắt, giằng ra:
- Liên… con đã chết rồi…
Liên gào lên điên dại:
- Không! Không… bé Khang của mẹ không thể chết được, phải không con? Con chỉ đùa giỡn với mẹ thôi mà… đúng không? Mẹ chịu thua con rồi đó, con mau mau mở mắt ra cười với mẹ đi Khang ơi, mẹ van con, mẹ xin con, con đừng làm mẹ sợ mà, Khang ơi….
Liên khóc nấc lên rồi ngã quỵ xuống bên cạnh xác con trai.
- Liên… cô đừng quá đau thương như vậy Liên à!
Chị Ba an ủi.
Quay sang Quân, chị Ba nói:
- Chú chạy vô trại cây trong chợ đặt họ đóng một cái quách đi, ở nhà tôi sẽ nấu nước tắm rửa cho bé sạch sẽ…
Quân như kẻ mất hồn đứng lên đi ra theo lời chị Ba dặn.
Liên khóc chán chê thì nằm bên xác con chừng như thiêm thiếp ngủ. Chị Ba biết giữa lúc này dù có khuyên lơn, an ủi cách gì cũng không thể giúp Liên nguôi được nỗi thương đau, thôi thì để cho Liên một mình với con lần cuối…
Nghĩ vậy nên chị Ba xuống bếp lo nấu nước và chuẩn bị đồ đạc để tẩn liệm cho bé Khang.
Khi mọi việc đã xong xuôi, chị Ba lên phòng Liên định tắm cho thằng bé, nhưng khi vừa đẩy cánh cửa phòng, chị Ba đã rụng rời buông rơi thau nước ấm vừa mới pha làm nước bắn tung tóe khắp sàn nhà: Ở giữa phòng thân thể Liên đang treo lủng lẳng!
Tiếng kêu hoảng loạn của chị Ba cất lên cũng là lúc Quân vừa về tới. Anh đứng sững nhìn thi thể vợ con mà mặt không hề biểu lộ một cảm xúc nào.
Bất thần Quân chạy vụt ra ngoài.
- Chú Quân! Chú Quân! Chú đi đâu đó?
Chị Ba chạy theo vừa khóc vừa gọi lớn, nhưng quân không hề đáp lại. Chiếc xe gắn máy còn để dưới sân nhà, Quân nhanh nhẹn leo lên và cắm đầu nổ máy chạy đi…
***
Chiếc Toyota lướt êm ru trên con đường vắng người qua lại. Trong xe, ông Thịnh ngồi tựa người vẻ khoan khoái.
- Chút nữa ông có lên trên đó không, ông chủ?
Anh tài xế hỏi.
Ông Thịnh cười ha hả:
- Đi, đi chứ! Hôm nay tôi sẽ lên để ký giấy tờ bán ngôi nhà đó! Thật không thể tưởng mối làm ăn này lại mang đến lợi nhụân cao như vậy! Từ nay tôi phải chú tâm hơn vào những thứ mà người khác không dám đụng tới…
- Giờ đi luôn hay sao, thưa ông?
Anh tài xế lại hỏi.
- Không, cho tôi ghé vào công ty một chút!
Anh tài xế dừng xe, ông Thịnh bước xuống và ung dung xách cặp táp đi vào công ty.
Đi gần tới cổng, bất ngờ ông trông thấy Quân đang ngồi trên xe gắn máy nhìn ông lom lom.
Hơi chột dạ, ông Thịnh hỏi:
- Ơ kìa… Quân phải không? Sao giờ này lại có mặt ở đây?
Vừa cất tiếng hỏi xong, ông Thịnh bất giác rùng mình khi trông thấy Quân đang nhìn ông bằng cặp mắt vằn đỏ như vừa tóe máu. Ông Thịnh muốn chạy nhanh tới cổng bảo vệ, nhưng khong kịp, Quân bất ngờ rú ga cho chiếc xe vọt lên đâm sầm vào ông Thịnh rồi tiếp đó đâm thẳng vào tường. Cả Quân và ông Thịnh đều văng đi một quãng khá xa.
Ngay chiều hôm đó các báo đồng loạt đưa tin về cái chết thảm hại của ông Thịnh, họ cũng không quên nhắc tới cái chết của gia đình bé nhỏ Quân – Liên.
Cầm tờ báo trên tay, bà vợ doanh nhân run rẩy nhấc máy gọi cho chồng:
- Anh đã đọc báo chưa? Trời ơi… mình thật là may mắn, chỉ vài tiếng đồng hồ nữa thôi là mình đã mua ngôi nhà đó rồi…
Đặt địên thoại xuống, bà vợ doanh nhân chợt nhớ tới hình ảnh của cặp vợ chồng trẻ đã tiếp đón vợ chồng bà niềm nở hôm rồi. Bà quỳ xuống trước bàn thờ lâm râm khấn vái:
- Cầu cho vong hồn họ được siêu thoát!
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:23:38 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:51:32
MA THẦN VÒNG
 
Cái tin Phượng tự tử chết làm tôi sửng sốt.
Không, không thể nào đâu, chắc là có sự nhầm lẫn nào đó ở đây rồi! Mới chiều hôm qua tôi còn gặp Phượng lúc dừng chân mua cho con gái bịt nước mía ở ven đường mà, lúc đó Phượng còn hỏi tôi:
- Ê, mầy tin trên đời có ma không?
Tôi thần người ra một lúc rồi trả lời:
- Tao cũng hổng biết nữa! Mà sao mầy hỏi vậy?
Phượng nháy mắt với tôi:
- Hôm nào rảnh tao kể mầy nghe…
Tôi thấy hình như Phượng còn muốn nói chuyện với tôi nhiều nữa, nhưng lúc đó tôi vội vã đem bánh về cho con ăn rồi còn đưa nó tới lớp học thêm nữa nên không có thời gian đứng lâu với Phượng.
Tôi và Phượng ở cùng một thành phố, trước đây hai đứa liên lạc với nhau thường xuyên lắm, nhưng từ lúc tôi có con rồi công ty giao cho nhiều việc, tôi không còn thời gian nào để dành cho Phượng được nữa.
Có hôm Phượng tới nhà chơi tôi cũng không tiếp đón chu đáo mà cứ phải vừa làm việc vừa chuyện trò.
Chắc Phượng cũng nhận ra những tất bật của tôi nên mấy lúc sau này Phượng cũng ít đến.
Phượng thì đỡ hơn tôi nhiều, nó là nhân viên văn phòng, chỉ làm việc ngày tám tiếng giờ hành chánh. Hai vợ chồng nó lại chưa có con nên sau giờ làm việc, hoặc vào các ngày nghỉ thì tha hồ mà rong chơi thỏa thích.
Còn như tôi, mỗi tuần chỉ có một ngày chủ nhật mà cũng đâu khi nào được nghỉ trọn vẹn đâu. Tôi vẫn phải mang hàng đống hồ sơ, sổ sách về nhà để giải quyết.
Nhưng thỉnh thoảng tôi và Phượng cũng gặp nhau đâu đó trên đường, và trao đổi một vài câu, còn lại chỉ là điện thoại nhắn tin thăm hỏi.
Có lẽ nào chưa được hai mươi bốn tiếng đồng hồ mà Phượng đã trở thành người thiên cổ?
Phượng với tôi là bạn thân từ hồi học cấp một, có chuyện gì buồn vui hai đứa đều tâm sự hết với nhau.
Thế nhưng mấy lúc gần đây ngoài việc thỉnh thoảng Phượng có than phiền ông xã dạo này bê tha nhậu nhẹt nhiều quá thì đâu nghe Phượng nói gì tới chuỵên chán đời mà tìm tới cái chết.
Tôi bỏ cả bữa cơm đang nấu dở, vội vàng lấy xe chạy ngay tới nhà Phượng để coi hư thực ra sao.
Khi vừa cho xe rẽ vào con hẻm nhà Phượng là tôi đã bủn rủn tay chân và lờ mờ nhận ra đó không phải là sự nhầm lẫn hay lời đồn nhảm nào mà đúng là sự thật.
Tôi nghe tiếng khóc, tôi thấy người ta ra vào nhà Phượng thật đông làm hai chân tôi như không còn đứng vững được nữa.
Cố gắng lắm tôi mới dựng được chiếc xe tựa bên hàng rào và lập cập bước vô nhà.
Ngôi nhà này vợ chồng Phượng vừa dọn về ở cách đây mới hai tháng. Vợ chồng nó không đủ tiền mua, phải vay mượn của cả hai bên nội ngoại mới đủ tạo cho mình một tổ ấm riêng tư.
Trước kia, điều làm Phượng buồn phiền nhiều nhất chính là sự chug đụng, va chạm với những người bên gia đình chồng.
Vợ chồng Phượng ở chung với ba mẹ chồng và bốn đứa em chồng mà đứa nào đứa nấy đã lớn phổng phao nhưng vẫn cứ xòe tay xin anh chị từng đồng ăn quà bánh. Chúng lại không ngừng xoi mói, xét nét từng điệu bộ, cử chỉ đến lời ăn tiếng nói của Phượng làm nó cảm thấy bức bối khó chịu vô cùng.
Nó vẫn thường bảo với tôi:
- Tao mà sống trong nhà đó chừng nửa năm nữa thì một là tao phát điên, hai là tao sẽ ở tù vì tộ igiết người!
Tôi khuyên:
- Mầy đừng có nghĩ bậy bạ quá không nên! Nếu ở đó không thoải mái, mầy có thể đề nghị chồng dọn ra riêng. Chồng mầy đâu phải con một mà sợ việc ra riêng khó khăn? Trên và dưới chồng mầy trai gái đều có đủ, nếu vợ chồng mầy xin phép ra riêng chắc không có trở ngại gì đâu, hổng chừng người ta còn mừng là đằng khác.
Phượng thở dài đánh thượt:
- Tao cũng biết vậy, nhưng cả hai vợ chồng đều là công chức văn phòng, đồng lương hạn hẹp biết chừng nào tao mới có đủ khả năng để mua cho mình một căn nhà riêng mà dọn đi chứ mậy?
Tôi cười:
- Nếu mầy đừng đòi hỏi nhà cao cửa rộng, mặt tiền mặt phố gì hết thì cũng không quá khó khăn đâu. Này nhé, cả hai gia đình đều khá giả, vợ chồng mầy có thể mượn cả hai bên mà, đúng không? Mầy mua một căn nho nhỏ trong hẻm, giá cả cũng không đến nỗi nào đâu!
Sau lần nói chuỵên đó, không biết Phượng nó về tỉ tê với chồng thế nào không biết mà một thời gian sau nó hí hửng gọi điện khoe với tôi:
- Có một ngôi nhà khá ngon lành nhưng họ lại kếu bán rất rẻ, ông xã tao đã chấm rồi, hai bên cũng hứa cho mượn tiền. Tao mừng quá mầy ơi… Vậy là vợ chồng tao sắp sửa có được cái tổ chim cúc cu của riêng mình rồi đó, mầy mừng cho tao nhé?
Theo như lời Phượng nói, ngôi nhà đó bỏ hoang đã lâu vì chủ nhà đã định cư ở nước ngoài, cho ngôi nhà đó cho một người bà con xa. Người bà con đó cũng không sinh sống ở đây nên căn nhà cứ đóng cửa im ỉm từ hơn mười năm nay, chỉ thỉnh thoảng một năm vài ba bận người bà con về đảo qua một tí xem xét rồi lại ra đi.
Giờ đây người bà con đó cũng đã lớn tuổi rồi nên muốn bán đi để không phải tới lui thăm nom gì nữa.
Tôi thật sự mừng cho bạn! Ngày vợ chồng Phượng dọn nhà tôi cũng đã bỏ ra trọn một ngày chủ nhật để lăn xả vào giúp bạn. Và tôi cũng là người khách duy nhất có mặt trong bữa cơm đầm ấm đầu tiên trong ngôi nhà đó.
Trong bữa cơm “tân gia” ấy, tôi cảm nhận được niềm vui, niềm hạnh phúc rạng ngời trong mắt Phượng.
Nó vẽ ra cho tôi thấy một cảnh sống yên bình hạnh phúc của vợ chồng nó trong ngôi nhà này khiến tôi phát ghen lên được.
Vậy mà chưa được mấy tháng, hôm nay ngôi nhà đó lại nhộn phịp người lui tới, nhưng không phải để chia vui với vợ chồng Phượng mà là tới để đưa tiễn Phượng lần sau cuối…
- Bác sĩ pháp y đang khám nghiệm xác cô ấy ở căn phòng phía bên kia!
Tôi được một người cho biết khi hỏi việc tẩm liệm Phượng đã tiến hành chưa.
Nghe nói thế ngực tôi đau như thắt lại, nhưng tôi phải cố nén lại, nhấc từng bước chân nặng nề đi thẳng xuống nhà sau.
Vừa trông thấy tôi mẹ Phượng khóc òa lên, bà ôm chầm lấy tôi rồi gần như lả đi trong tay tôi. Tôi phải cố gắng hết sức mới có thể dìu bà ngồi vào chiếc ghế bên cạnh.
Nước mắt tôi cũng đã chảy ròng ròng hai bên má.
- Bác ơi… Tại sao Phượng lại…
Biết là làm cho người thân của Phượng sẽ đau thêm khi hỏi câu đó, nhưng tôi không sao đè nén được lòng mình, đè nén được nỗi thắc mắc đang chiếm lĩnh trọn tâm tư tôi.
Mẹ Phượng khóc ngất từng cơn, không thể nào nói lên lời gì với tôi được.
Mây, em chồng Phựơng đứng bên cạnh đỡ lời:
- Chị Phượng chết quả thật bất ngờ đối với tất cả mọi người chị ạ! Trưa hôm nay anh Nam em đi làm rồi bận tiếp khách nên không về trưa như thường lệ. Chị Phượng mấy lần gọi di động cho anh đều nghe báo không liên lạc được nên chị đam ra nghĩ ngợi lung tung. Sự thật theo anh Nam nói là tại máy anh hết pin, nhưng chị Phượng lại không nghĩ vậy. Chị nghĩ anh Nam đi đâu đó không đàng hoàng nên mới phải tắt máy.
Chị buồn, có ghé qua nhà hỏi em biết anh Nam đi đâu không. Em nói đùa:
- Chắc ảnh đi thăm bà nhỏ rồi chứ gì!
Nói xong thấy mặt chị Phượng tỏ ý không vui nên em lảng qua chuyện khác. Hai chị em nói vài ba câu bâng quơ nữa thì chị Phượng ra về. Vậy mà chỉ mấy tiếng đồng hồ sau em nghe tin báo chị Phượng thắt cổ chết. Em điếng cả người và thấy ân hận quá, có thể câu nói đùa của em cũng là một trong những tác nhân gây ra cái chết cho chị.
Mây vừa kể vừa sụt sịt khóc.
Tôi thấy cái lý do đó không thể chấp nhận được! Dẫu biết rằng tính tình Phượng hay giận hờn, nhưng sự việc đâu có gì, đâu đến mức Phượng phải tự kết liễu đời mình như thế!
Mẹ Phượng cố nén tiếng tức tưởi trong lồng ngực:
- Không hẳn vậy đâu con… Tại con chưa biết, cách đây mấy hôm Phượng có về chơi nó kể cho bác nghe nhiều chuyện lạ xảy ra trong nhà nó. Bác thì cứ tưởng nó nghĩ ngợi suy diễn lung tung nên đã cố mắng át nó đi…
- Chuyện gì thế hở bác? Chẳng lẽ anh Nam con…
Mây lo lắng hỏi.
Mẹ Phượng lắc đầu:
- Không! Chuyện không dính tới thằng Nam. Phượng bảo, những lúc ở nhà một mình, mà nhất là vào ban đêm, những hôm Nam bận trực cơ quan hoặc đi đâu đó về khuya, Phượng thường thấy lảng vảng bóng một người nào đó trong nhà mình, cầm cái vòng dây đưa ra, đồng thời có tiếng nói thầm thì rủ rê Phượng cùng chơi một trò chơi gì đó rất thú vị. Và Phượng nói, tự nhiên lúc đó Phượng không cảm thấy sợ hãi gì mà trái lại còn rất muốn tham gia chơi đùa cùng người ấy. Nhưng lần nào cũng vậy, khi Phượng chuẩn bị chui đầu vào cái vòng để bắt đầu trò chơi thì Nam về tới hoặc có một chuyện gì đó làm cho Phượng bừng tỉnh, đồng thời cái bóng người kia cũng biến mất. Lúc đó Phượng mới thấy sợ. Sự việc ấy cứ lặp đi lặp lại nhiều lần rồi mà Phượng không dám kể cho Nam biết. Nó kể với bác, hy vọng bác cho nó một lời khuyên vậy mà bác lại la mắng nó, thật tội nghiệp cho con tôi… Con ơi là con ơi…
Bà lại khóc nghẹn ngào.
Tôi và Mây cùng sững sờ khi nghe mẹ Phượng kể lại câu chuyện đó. Và tôi cũng nhớ lại chiều hôm qua chính Phượng cũng đã nói loáng thoáng với tôi về chuyện ma quái gì đó rồi!
Trời ơi… chẳng lẽ cái chết của Phượng lại là do ma quái gây ra? Tôi hồi hộp trong lòng, cố quay sang Mây hỏi thêm câu nữa:
- Phượng chết thế nào? Ai là người phát hiện đầu tiên vậy Mây?
Mây kéo tay áo quệt nước mắt nước mũi đang chảy tràn trên mặt, nói trong tiếng tức tưởi:
- Chị ấy treo cổ tự vận. Chính đứa bé nhà kết bên hàng ngày vẫn thường sang chơi với chị phát hiện đầu tiên. Anh Nam nhà em rất yêu thương chị ấy. Tụi em có nhiều khi không phải với chị, nhưng nói đúng ra không có ai ác ý gì, tụi em cũng không ai thù ghét chị… không thể nào vì anh Nam hay vì tụi em mà chị chết một cách đau đớn như vậy. Có thể bác nói đúng… có thể chị chết vì… vì một thế lực nào khác cũng nên…
Mây vừa nói tới đó thì Nam đi từ nhà trên xuống, gương mặt Nam thất thần, trông như già hơn mấy tuổi.
Vừa trông thấy tôi, Nam vồ tới chụp lấy hai tay tôi lắc lấy lắc để:
- Hạnh ơi… Phượng có nói gì với Hạnh không? Tại sao Phượng lại chết tức tưởi như vậy chứ Hạnh? Hạnh nói cho tôi biết đi, tại sao Phượng lại chết? Tại sao?...
Mặt Nam co rúm lại đau đớn nhưng không có bất kỳ một giọt nước mắt nào chảy ra, có lẽ khi nỗi đau đã ở mức tột cùng rồi thì không làm người ta chảy nước mặt được nữa!
Tôi nhăn mặt nhưng để yên cho Nam bóp hai cổ tay đau điếng:
- Không… mấy hôm nay bận việc nên Hạnh và Phượng chưa có thời gian nói chuyện nhiều với nhau. Chỉ mới chiều hôm qua gặp Phượng một thoáng ở bên đường, Phượng có hẹn sẽ kể cho Hạnh nghe chuyện ma cỏ gì đó, nhưng… chưa kịp thực hiện thì Phượng đã bỏ đi rồi…

Nam nhìn tôi đau đáu:
- Hạnh nói sao? Chuyện ma quái à? Trời ơi… chẳng lẽ nào… Phượng ơi… anh có lỗi với em rồi, anh đã không tin những gì em kể nên mới xảy ra nông nỗi ngày hôm nay…
Mẹ Phượng, Mây và tôi cùng ngạc nhiên, há hốc miệng khi nghe Nam kêu lên như thế.
Tôi là người bình tĩnh nhất trong số đó nên cố gắng vừa an ủi vừa khai thác Nam:
- Nam đừng như vậy, có gì thì từ từ nói ra cho mọi người cũng hiểu và chia sẻ với Nam…
Giờ thì Nam khóc òa lên, không, không phải khóc, mà phải dùng từ “rống lên” mới chính xác.
Nam rống lên một tiếng thê thiết rồi từ từ đổ sụp xuống cạnh chân mẹ Phượng.
Nam ôm chặt hai gối bà, nức nở:
- Mẹ ơi, mẹ ơi hãy mắng chửi con đi, mẹ hãy giết con đi, chính tại con, tại con mà Phượng mới chết, tại con mà con gái yêu quý của mẹ mới phải lìa đời! Trời ơi là trời… tại sao tôi không chết luôn đi, tôi còn sống mà làm gì nữa? Làm sao tôi có thể sống hết quãng đời còn lại mà không có Phượng, mà phải đeo đẳng trong lòng sự ân hận vô biên này hở trời? Trời ơi…
Dù đau đớn thắt lòing thắt dạ, mẹ Phượng cũng cố nén để dỗ dành cậu con rễ mà bà yêu thương còn hơn con ruột:
- Không sao, không sao đâu con! Con đừng nghĩ như vậy, con đừng tự dằn vặt làm khổ mình như vậy. Con Phượng chết là tại số phần nó đến đây là hết, con cứ nghĩ vậy sẽ thấy an ủi được phần nào… Mẹ cũng đang cố gắng, mẹ con ta cùng cố gắng…
Lòng tôi đau như cắt trước cái chết của đứa bạn thân, và càng đau hơn khi phải chứng kiến những người thân yêu của Phượng đang vật vã và tự nhận lỗi về mình.
Trong tôi, sự thắc mắc kia chưa được giải tỏa thì lại tiếp tục bị những thắc mắc lớn hơn bủa vây.
Tôi nhất định phải làm cho sáng tỏ mọi việc. Tại vì sao trong câu chuyện của mẹ Phượng và Nam đều có liên quan tới những lời kể gì đó của Phượng, Phượng đã kể mà mọi người không tin, vì vậy họ cho rằng chính điều đó đã gây ra cái chết của Phượng.
Phượng đã kể gì? Những chuyện hư ảo, ma quái như lời mẹ Phượng nói hay còn điều gì khác hơn nữa không?
Tôi khom người xuống kéo Nam đứng lên rồi một tay kéo tay Nam, một tay kéo tay Mây, lôi cả hai người đi băng băng ra sau nhà, mặc cho bao nhiêu ánh mắt tò mò nhìn theo sau lưng.
Ra tới khu vườn phía sau, nơi không có ai ngoài ba chúng tôi, tôi buông cả tay ra rồi ngồi phịch xuống đất, Nam và Mây cũng ngồi xuống bên tôi, nhìn tôi như chờ đợi.
Tôi nuốt ực một cái rồi lên tiếng:
- Hai người nói cho tôi biết rõ ràng đi, tại sao Phượng phải thắt cổ chết?
Mây ôm đầu khổ sở:
- Em đã nói rồi… em không biết! Nhưng em nghĩ chị chết là do chị ghen hờn anh Nam… Mà lúc nãy thì bác lại nói khác… em không biết, em thật sự không biết mà…
Tôi quay sang nhìn chằm chằm vào Nam.
Nam nhìn thẳng vào tôi, run giọng nói:
- Phượng không ghen, tôi biết chắc điều đó, vì tôi chưa hề làm chuyện gì có lỗi với Phượng dù là chuyện nhỏ. Phượng biết điều đó. Có đôi khi Phượng cằn nhằn tôi ăn nhậu, thế thôi, chứ chuyện ghen tương thì tuyệt đối không có. Và cũng không bao giờ chỉ vì chuyện không liên lạc được với tôi có mấy tiếng đồng hồ mà Phượng lại giận dỗi đến mức treo cổ tự tử. Tôi thật tình không hiểu nỗi  điều quái quỷ gì đã xui khiến Phượng làm chuyện đó. Pháp y người ta đang khám nghiệm vì có thể Phượng bị giết chết trước rồi, việc treo cổ chỉ là hiện tượng giả để đánh lạc hướng mà thôi. Đó là ý của người ta, còn tôi, tôi cũng không nghĩ có ai đó giết Phượng. Giết gì cái gì chứ? Tất cả của cải trong nhà vẫn còn đủ, không mất một thứ gì, vậy là nhất định không phải giết người cướp của rồi. Còn giết vì thù oán, vì tình ư? Hạnh cũng biết rồi, cuộc sống của vợ chồng tôi rất bình thường, chưa hề có oán thù với ai, quan hệ của vợ chồng tôi lại rất đơn giản không có gì là phức tạp lăng nhăng, nên khả năng đó cũng không thể xảy ra. Tôi đang điên người thì nghe Hạnh nói hôm qua Phượng có đề cập tới chuỵên ma với Hạnh. Đúng là hơn một tuần trước, Phượng có nói với tôi:
- Anh ơi… em nói điều này anh đừng có la em nhe, từ nay hết giờ làm thì anh về nhà ngay với em đi, em ở nhà một mình sợ lắm. Hình như… hình như trong nhà mình có… có ma hay sao ấy!
Tôi phì cười vì thấy Phượng thật trẻ con. Lúc đó tôi cứ nghĩ cô ấy đưa ra lý do đó để tôi không la cà nhậu nhẹt với bạn bè thôi. Một lý do hết sức trẻ con, phải không Hạnh?
Thế nhưng tôi vẫn hỏi để trêu Phượng:
- Ma à? Sao em nói vậy? Em có thấy ma chưa?
Phượng ngồi sát vào tôi, thu hai chân lên ghế ra vẻ rất sợ sệt. Tôi còn thầm nghĩ cô ấy đang đóng kịch trước mặt tôi:
- Em… em… có lẽ em đã thấy rồi! Không rõ ràng lắm và lần nào sau đó em cũng có cảm giác giống như mình mới ngủ dậy nên cũng không chắc lắm. Nhưng anh à, là thật đó, không phải em mớ ngủ đâu…
- Ha ha ha… thật à? Sao? Ma hiện ra nói gì với em?
Tôi bật cười.
Phượng giận dỗi:
- Anh không được cười nhạo em, anh phải tin em chứ! Em nói thật đấy, không phải em bịa ra đâu…
Vì không muốn Phượng hờn nên tôi làm ra bộ nghiêm chỉnh:
- Thì anh lúc nào chẳng tin em? Nào, kể anh nghe đi, em thấy gì?
Phượng run run:
- Lần nào em cũng chỉ thấy loáng thoáng bóng một người, không rõ là đàn ông hay đàn bà nữa… Bóng người đó cầm trên tay một sợi dây dài lắm, một đầu có thắt vòng tròn. Người đó cứ vung vẩy sợi dây trước mắt em, đồng thời bên tai em lại văng vẳng nghe như có ai đó rủ rê cùng tham gia chơi một trò chơi rất lý thú. “Nào, chui đầu vô vòng dây, chui đầu vô… sẽ khám phá…”. Tiếng nói ấy cứ không ngừng thúc giục em…
Đến nước này thì tôi không thể nín cười được nữa. Tôi cười bò ra, cười chảy cả nước mắt. Vừa cười tôi vừa nói:
- Em ơi em, bắt đầu từ ngày mai, em nên viết văn đi, đầu óc em tưởng tượng hay lắm! Em mà viết, anh bảo đảm bà J. K. Rowling tác giả của bộ sách Harry Potter nổi tiếng thế giới sẽ phải nghiêng mình chào thua em đó. Và tên em sẽ được nằm trong danh sách những người có thu nhập cao nhất thế giới vào một ngày không xa!
Phượng đấm thùm thụp vào lưng tôi, lấy gối ném vào tôi loạn xạ, tôi vừa chạy tránh vừa cười không ngớt.
Vì tôi cười quá nên Phượng cũng thôi không giận nữa và tôi cũng xem đó là một sự vòi vĩnh trẻ con của Phượng mà thôi.
Thật không ngờ… tôi thật không sao ngờ được Phượng lại chết bởi cái vòng dây mà đã có lần Phượng đề cập tới…
Hạnh ơi… trước nay tôi không tin vào chuỵên ma quỷ, nhưng… trước sự việc này, tôi hoang mang quá! Hạnh nói gì đi, nhận xét của Hạnh về chuyện này ra sao?
Tôi thật sự bối rối trước vẻ hoảng loạn và tuyệt vọng của Nam.
Là người theo đạo Công giáo, tôi không bao giờ tin vào chuyện ma quỷ, nhưng những gì Nam vừa nói cũng khớp với mẹ Phượng nói lúc nãy. Vậy chuyện đó có dính dáng gì tới cái chết của Phượng hay không?
Mây mặt xanh như tàu lá, tay nó bấu chặt vào tay tôi mà vẫn run lên bần bật.
- Chị ơi… có khi nào… ma thần vòng đã giết chết chị Phượng của em không?
Tôi hít vào một hơi thật sâu và cố nói giọng thật bình tĩnh:
- Em để cho chị có thời gian suy nghĩ đã! Mọi việc quá bất ngờ và nằm ngoài hiểu biết nên chị không thể có kết luận gì được trong chuyện này. Đúng là chiều hôm qua, lúc gặp chị trên đười, Phượng có nhắc tới chuyện ma quỷ gì đó nhưng chị không quan tâm lắm. Ai dè hôm nay lại ra sự thể thế này… Thôi, Nam với Mây vô nhà lo sắp xếp công việc đi…
Nam gục mặt xuống gối nấc lên mấy cái liên tiếp rồi đứng lên lảo đảo đi vô nhà như người say rượu.
Tôi nhìn theo Nam mà thấy lòng dâng lên một nỗi niềm chua xót…
Nam và Phượng yêu nhau từ lâu, nhưng hai đứa cứ chờ đợi khi nào công việc thật ổn định mới tiến tới hôn nhân.
Cưới nhau hơn hai năm rồi mà vẫn chưa có con, nhưng chúng nó vẫn rất hạnh phúc, hai vợ chồng yêu thương gắn bó với nhau không ai không nhìn thấy. Vậy mà…
Mây đứng im bên cạnh nhìn tôi một lúc rồi lại khóc thút thít:
- Hồi chị Phượng còn sống, đôi khi em có gây ra lỗi lầm với chị ấy, nhưng… bây giờ em biết em thương chị ấy biết bao nhiêu… Giá mà chị ấy chỉ bị xỉu thôi chứ không phải chết, để chút nữa chị tỉnh lại, em sẽ nói với chị lời xin lỗi…
Tôi vuốt tóc con bé, an ủi nó:
- Không sao đâu, Phượng sẽ hiểu lòng thôi mà, em đừng dằn vặt mình nữa…
Mây vừa tốt nghiệp cấp ba, đang chờ kết quả kỳ thi Đại học tháng rồi. Hồi đó, thỉnh thoảng Phượng có kể với tôi, Mây thường nói ra nói vào để mẹ chồng Phượng có cái nhìn không tốt về cô. Nhưng giờ đây, chắc có lẽ Phượng cũng đã hiểu rồi, vì tính ích kỷ trẻ con nên Mây mới có những hành động đó, chứ thật ra cô bé cũng đâu có oán ghét gì Phượng!
Mây kéo tay tôi:
- Chị, chị đi với em vô phòng chị Phượng…
Tôi toan hỏi “để làm gì?” nhưng không hiểu sao tôi lại chẳng nói gì mà chân cứ bước theo Mây một cách lặng lẽ.
Mây đẩy cánh cửa chỉ khép hờ và lách mình vào trong, đồng thời nó cũng lôi tôi vào theo rồi khóa trái cửa lại.
Phòng của Phượng là một căn phòng rộng rãi và có phần hơi sang trọng. Hôm trang trí, Phượng có nói với tôi:
- Từ nhỏ tao đã phải sống trong cảnh nghèo nàn, mấy chị em phải chen chúc trong một ngôi nhà bé như hộp diêm. Đến lúc lấy chồng cũng không khá mấy, hai vợ chồng đêm đêm không dám cười đùa giỡn hớt vì sợ mấy đứa em chồng ở bên kia tấm vách mỏng tang nghe được. Nay nhờ trời mới mua được một ngôi nhà thế này, tao phải ráng tự thưởng cho mình để bù đắp lại!
Là người phụ nữ chu đáo nên căn phòng của Phượng mọi thứ đều gọn gàng ngăn nắp.
Mây chỉ tay vào xấp áo quần để trên giường nghẹn ngào nói:
- Lâu nay em thấy chị Phượng mỗi khi ra đường đều đẹp đẽ, em cứ tưởng chị ấy lo cho bản thân nhiều lắm, ai ngờ lúc nãy khi soạn đồ chuẩn bị lát nữa pháp y khám nghiệm xong tẩm liệm chị em mới hay quần áo chị không có bao nhiêu, mà có những bộ chị mặc từ hồi mới cưới, nhưng chắc do chị kỹ lưỡng nên cái nào cũng như còn mới. Chị biết không, đồ chị ấy còn ít hơn đồ của anh Nam nữa đó…
Nói xong Mây lại khóc tức tưởi, chắc cô bé thương cho sự hy sinh của chị dâu mình.
Tôi không biết nói gì, thật sự không biết phải nói gì trong hoàn cảnh như thế này. Nỗi đau trong lòng tôi còn như thế, huống hồ chi những người thân yêu trong gia đình của Phượng!
Dẫu ai cũng biết rằng sự sống và cái chết vốn dĩ chỉ cách nhau một lằn ranh nhỏ hơn sợi tóc, thế nhưng tôi không thể nào ngờ được Phượng lại chết một cách nhanh chóng và đầy bí ẩn như thế.
Càng nghĩ tới cái chết của Phượng tôi càng cảm thấy bất an. Tôi hiểu, Phượng không phải là loại người dễ đầu hàng số phận dù cho có gặp nhiều gian khổ thử thách, thì không thể nào Phượng lại tự mình tìm tới cái chết thảm thiết như vậy!
Tôi đưa mắt nhìn khắp nơi trong phòng ngủ của Phượng và vô tình mắt tôi chạm phải cuốn sổ bìa đen khá dày đặt dưới gối. Bất chợt tim tôi run lên, một ý nghĩ chợt lóe sáng trong đầu tôi.
Tôi biết Phượng vẫn luôn có thói quen viết nhật ký mỗi ngày. Thói quen đó Phượng đã có từ thời chúng tôi còn học phổ thông.
Hình như chưa có một ngày mà Phượng không đặt bút vào nhật ký, mặc dù có hôm chỉ viết một vài câu ngắn ngủi, thậm chí chỉ một chữ như “buồn” hay “vui” chẳng hạn.
Hồi ở ký túc xá, có một lần Phượng bệnh rất nặng nhưng lại không nhắn về cho gia đình biết. Bạn bè cùng phòng thay nhau chăm sóc Phượng. Nó sốt mê man, nhưng dù tỉnh lại lúc giữa khuya hay bất cứ lúc nào nó cũng đòi chúng tôi đưa cho nó cây viết và quyển nhật ký.
Nó vẫn thường khoe với tôi, bây giờ gia tài lớn nhất của nó nhật ký, nó đã có hàng mấy chục cuốn, mà cuốn nào cũng được nó giữ gìn, bảo quản rất cẩn thận.
- Sau này khi về già, tao sẽ đọc lại tất cả để hồi tưởng lại quá khứ của mình…
Nó tự hào nói với bạn bè như vậy.
Và một điều dặc biệt nữa là, Phượng chỉ viết nhật ký trên một loại sổ bìa đen có cùng một kích cỡ với nhau.
Cuốn sổ mà tôi tình cờ trông thấy kia đúng là giống với loại sổ Phượng dùng để viết.
Đúng rồi! Chắc chắn những sự việc gì xảy đến với Phượng mấy lúc gần đây chắc chắn là Phượng sẽ ghi vào nhật ký của mình. Đọc được nhật ký của Phượng thì mọi việc sẽ sáng tỏ thôi mà!
Tôi quýnh quánh mở cửa chạy ra ngoài bỏ mặc Mây đang ngơ ngác nhìn theo không biết tôi vừa gặp phải điều gì ?
 Tôi quáng quàng chạy đi tìm Nam, nhưng chợt thấy Nam đang trao đổi gì đó với nhà chức trách nên tôi đành phải khựng lại đứng chờ.
Mãi một lúc lâu sau, những người có thẩm quyền trong việc điều tra cái chết bất ngờ của Phượng đã lục tục ra về, Nam thẩn thờ ngồi phịch xuống ghế, mặt nghệch ra như người ngây dại.
Mẹ Phượng hấp tấp tiến lại gần Nam hỏi:
- Kết quả ra sao con?
Nam ngước đôi mắt đỏ hoe lên nhìn bà mẹ vợ, đau đớn nói:
- Bước đầu, người ta nhận định đúng là Phượng chết do thắt cổ…
Bà mẹ bám tay vào thành ghế mà vẫn lảo đảo. Nam đứng phắt dậy đỡ lấy bà rồi dìu bà tới chiếc ghế tựa đặt bà ngồi vào ngay ngắn. Nam cũng không còn đủ tâm trí và sức lực để an ủi mẹ vợ câu nào, mà chỉ đứng thừ người ra một chỗ.
Tôi đi tới bên Nam, nói khẽ:
- Nam, Nam có biết Phượng có thói quen ghi nhật ký mỗi ngày không?
Nam gật đầu một cách hờ hững:
- Biết!
- Vậy Nam cho phép Hạnh được xem nhật ký của Phượng nghen, biết đâu sẽ tìm được nguyên nhân chính xác nhất dẫn đến sự việc đau buồn này, có như thế mọi người mới đỡ vằn dặt bản thân mình…
Tôi nói tiếp.
Mắt Nam chợt sáng bừng lên:
- Trời ơi, vậy mà tôi cũng nhớ ra! Cảm ơn… cảm ơn Hạnh thật nhiều…
Nam vừa nói vừa sãi chân bước vội vào phòng, bà mẹ Phượng cũng lập cập đi theo, tôi phải dìu một bên mới giúp bà đi được.
Khi tôi đưa mẹ Phượng vào phòng thì thấy Nam đang lục tung cái hộc tủ, lôi ra một đống sổ bìa đen và cầm lên từng cuốn để xem ngày tháng.
Tôi thấy mình cũng không cần giữ thái độ quá lịch sự trong giờ phút này nên đã tự tiện đi đến chỗ cuốn sổ bìa đen tôi vừa thấy lúc nãy và cầm nó lên nói với Nam:
- Đây rồi! Đây đúng là cuốn nhật ký gần đây nhất của Phượng!
Nam chồm tới cầm lấy cuốn sổ, nhưng rồi lại đưa cho tôi, run run nói:
- Hạnh… Hạnh làm ơn đọc lớn cho mọi người cùng nghe đi, chứ tôi…. Thật sự tôi không biết mình có đọc được không nữa…
Tôi liếc nhìn vẻ hồi hộp của mẹ Phượng, của Nam, của Mây và lắng nghe tiếng tim mình đang đập thình thình trong lồng ngực.
Tôi mở suốn nhật ký ra, định đọc nhưng chợt nhớ:
- Mình phải đọc ngược mới đúng, phải không Nam? Như vậy sẽ nhanh tìm ra điều cần tìm hơn…
Nam gật đầu.
Tôi lại xoay ngược cuốn nhật ký và bắt đầu đọc ngược lên:
“Ngày… tháng… năm…
Tại sao không ai chịu tin những điều mình kể nhỉ? Cả anh Nam, cả mẹ nữa đều coi đó là trò nũng nịu trẻ con hoặc là những ý nghĩ hoang tưởng của mình. Không ai giúp mình xua tan nỗi lo âu sợ hãi ấy…
Chiều nay tình cờ gặp Hạnh, mình mừng quá nhưng không thể kể với nó tất cả ở giữa đường giữa chợ như vậy! Chán thật, có một đứa bạn thân mà nó cứ đầu tắt mặt tối, đã mấy lần mình đến tìm nhưng nó vẫn không có nhà. Mình hy vọng nó sẽ không cho là mình hoang tưởng… Nhưng mà… hình như ngay cả nó cũng đâu có tin?
Mình chỉ hỏi sơ qua thôi cũng có thể nhận thấy điều đó rồi!
Buồn quá…
Hay là mình hoang tưởng thật? Trời, nếu vậy là thần kinh mình có vấn đề trầm trọng rồi! Tại vì tất cả những điều mình nghe và thấy rất thật, không giống những hình ảnh trong mơ… Cả cái trò chơi quái quỷ đó nữa… Đó là trò chơi gì mà sao lần nào nghe tiếng rủ rê là mình lại cảm thấy háo hức, một cảm giác rất lạ, muốn được chui ngay đầu vào đó…
Sao thế nhỉ? Mình không hiểu nổi…
Ngày… tháng… năm…
Anh Nam ơi… tối nay anh lại về muộn rồi! Anh có biết không, mấy lúc gần đây mỗi khi em ở nhà một mình em lo sợ vô cùng, em muốn có anh bên cạnh biết bao! Bởi vì những lúc có anh thì không bao giờ em trông thấy những điều như thế… Mà anh lại chẳng chịu tin em. Anh nghĩ em kiếm cớ sợ ma để ép anh về nhà, không cho anh bù khú với bạn bè chứ gì?
Em khổ quá… kể với anh, anh không tin, kể với mẹ mẹ lại bảo em rảnh rỗi quá nên đâm ra vớ vẩn…
Đôi lúc em muốn đi chơi đâu đó, rồi đợi khi nào anh về anh gọi điện em mới về nhà. Nhưng anh à, em không làm vậy được! Đây là nhà mình, là tổ ấm mà lâu nay vợ chồng mình mơ ước, em phải chăm lo săn sóc nó, em không thể bỏ nhà bỏ cửa mà đi chơi lang thang một mình được…
Ngày… tháng… năm…
Anh ơi, em sợ quá… Cái hình bóng ma quái ấy vẫn không chịu buông tha em mà hình như càng ngày nó càng bám chặt lấy em hơn. Trước đây chỉ những đêm anh vắng nhà em mới trông thấy nó, nhưng hai hôm nay nó xuất hiện cả vào ban ngày. Và… anh biết không, cái tiếng gọi mời thúc giục em tham gia vào cuộc chơi ấy mỗi lúc một thêm mãnh liệt. Nó như có một sức mạnh thần bí lôi kéo em, khiến em rất muốn chơi… nhưng mà lúc tỉnh táo lại em bỗng thấy sợ, sợ vô cùng, anh có hiểu không?
Em linh cảm có một điều gì đó không hay đang lảng vảng bên mình. Em thèm được sự bảo vệ chở che của anh, của gia đình, nhưng giờ không ai giành cho em điều đó cả! Trước mắt mọi người em chỉ là một đứa ngớ ngẩn mà thôi….
Anh, hồi bé em có nghe kể về một loài ma tên gọi Ma Thần Vòng, chuyên đi thắt cổ người khác. Bây giờ bỗng dưng em liên tưởng tới điều đó… Có khi nào Ma Thần Vòng đang muốn bắt em đi nên nó mới thúc giục em chui đầu vào vòng dây đó?
Anh ơi… nếu một ngày em không còn đủ sức chống chọi lại với sức cám dỗ của lời gọi mời thúc giục kia, em chui đầu mình vào vòng dây oan nghiệt đó thì chắc… thì chắc vợ chồng mình sẽ không bao giờ còn gặp nhau được nữa… Lúc đó anh có ân hận vì đã không tin lời em thì cũng đã muộ rồi…
Nhưng anh ơi, em không buồn, không trách gì anh đâu, bởi nếu phải thế thì có lẽ là tại số phần em đã đặt để vậy rồi anh ạ…
Nhưng thôi, em cứ cầu mong em đúng là hoang tưởng như mọi người nhận định đi, để mình mãi được bên nhau, vì… vì mình vẫn còn chưa kịp có con với nhau mà, phải không anh?
Ngày… tháng… năm…
Đó là trò chơi gì nhỉ? Tại sao những lúc không nghe có tiếng nói bên tai nhưl úc này thì mình lại sợ hãi chứ không hề có một chút xíu nào sự háo hức, tò mò muốn thử chơi một lần cho biết. Nhưng lúc đó, lúc bóng người đó lượn lờ trước mặt và giọng nói văng vẳng bên tai thig mình lại ham thích đến vậy?
Cái gì đã xui khiến mình? Có trời mới biết được!
Chán nản quá! Mình thật sự chán nản rồi!
Anh Nam ơi, anh cứ đi mãi, cứ vui chơi với bạn bè mà không biết vợ anh đang phải sống trong hoảng loạn thế này đây….
Em phải làm sao đây? Tôi phải làm sao đây?
Có ai không? Có ai giúp tôi không?....”
Đọc tới đâu nước mắt tôi tràn ra tới đó, những giọt nước mắt nóng hổi, nặng trĩu rớt lộp độp xuống những trang nhật ký còn tươi rói màu mực mới…
Mẹ Phượng oằn người xuống, bà không khóc nên lời…
Nam đứng chết trân giữa nhà, cơ mặt hai bên không ngừng giật giật liên tục…
Tôi hiểu, lúc này hai người đau đớn nhất chính là mẹ và chồng của Phượng.
Cả hai đau nỗi đau mất đi người yêu thương, đồng thời còn cộng thêm nỗi ân hận dày vò, cắn rứt…
Nam khoát tay ra hiệu cho tôi đừng đọc nữa. Mà nếu Nam không bảo thì tôi cũng không còn sức. Tất cả những điều đó ngoài sức chịu đựng của tôi rồi. Tôi gần như té ngồi xuống sàn nhà, và tôi bật khóc nức nở…
Theo yêu cầu của Nam, chuyện cuốn nhật ký không được để lọt ra ngoài để tránh những lời xầm xì bàn tán gì thêm nữa.
Đám tang Phượng diễn ra trong nước mắt của bao người thân yêu còn đang hiện diện nơi trần thế…
Sau đám tang, Nam như biến thành một người hoàn toàn khác. Trước đây Nam là một người vui vẻ hoạt bát, ở đâu có sự hiện của Nam là có những câu chuyện bông đùa, những lời tiếu lâm chọc cười khiến ai cũng cảm thấy không khí tươi vui phấn khởi.
Còn bây giờ Nam như kẻ không hồn, suốt ngày vào ngơ ra ngẩn. Công việc Nam vẫn hoàn thành tốt, nhưng anh lặng lẽ, trầm tư u uất đến nỗi đứng gần anh người khác không dám ho, làm như sợ phá vỡ đi không khí của riêng anh vậy!
Mấy lần vợ chồng tôi tới thăm, Nam vẫn tiếp đón bình thường, vãn nhắc tới những kỷ niệm trước đây của bốn đứa. Nhưng tuyệt nhiên Nam không lần nào nhắc tới mấy cuốn nhật ký của Phượng nữa.
Tôi nghĩ có lẽ Nam đau lòng lắm khi nghĩ mình đã gián tiếp đẩy vợ vào cái chết.
- Em thật không hiểu nổi… Thật sự trên đời này có sự hiện diện của ma sao anh?
Một lần tôi đã hỏi chồng tôi như vậy.
Chồng tôi là một nhà khoa học có tài, tôi nghĩ anh sẽ mắng tôi đi tin vào những điều viễn vông, phản khoa học. Nhưng thật bất ngờ khi chồng tôi lại nói:
- Cho đến ngày nay, mặc dù con người đã khám phá ra rất nhiều điều, đã đi lên được mặt trăng, đã xuống tận đáy đại dương để thám hiểm, nhưng vẫn còn những điều mà nền khoa học tiến bộ vẫn chưa tìm hiểu nghiên cứu được, một trong số đó là các hiện tượng siêu nhiên như ma quái chẳng hạn… Bởi thế anh cũng không dám nói chắc điều gì về lĩnh vực này em ạ!
Tôi càng hoang mang dữ hơn nữa khi nghe chồng tôi nói thế.
Đến thăm mẹ Phượng, thấy bà gầy rộc đi, mái tóc trên đầu đã không còn nhìn thấy sợi màu đen nữa, tôi nghe lòng mình đau đớn quá!
Một hôm, bà cụ nắm chặt tay, nhờ cậy:
- Hạnh ơi, con ráng giúp bác… con tìm hiểu xem ngôi nhà đó có gì bí ẩn không? Bác… thật sự bác không thể yên tâm trước sự ra đi đột ngột của Phượng…
Tôi vuốt ve bàn tay gầy guộc, nhăn nheo của bà:
- Bác yên tâm đi, con sẽ thay bác đi tìm hiểu tất cả mọi việc xung quanh ngôi nhà đó!
Nói là làm, ngay ngày hôm sau, tôi bắt đầu tranh thủ mấy ngày nghỉ phép để loanh quanh đi vào khu vực gần đó tìm hiểu.
Chỉ sau hai lần ngồi quán cà phê và mấy bữa ăn sáng ở đầu hẻm, thì tôi đã nắm được nhiều điều quan trọng mà trước đây khi mua nhà Phượng và Nam đã sơ suất bỏ qua không tìm hiểu, hoặc do không tin tưởng vào ma cỏ nên hai đứa nó không quan tâm dù có nghe kể loáng thoáng.
Theo như người ta kể lại, chủ nhân của ngôi nhà đó là một cặp vợ chồng rất giàu có nhưng lại không con.
Người chồng sinh thói trăng hoa, ve vãn cô gái giúp việc. Một thời gian sau tình cờ bà vợ phát hiện ra và làm dữ, buột hai người phải cắt đứt. Cô gái giúp việc khóc lóc van xin khiến bà chủ nhà cũng động lòng nên không đuổi đi mà chỉ bắt thề thốt là sẽ không dính dáng tới ông chủ nữa, nếu không giữ đúng lời hứa sẽ phải treo cổ chết tại đây.
Bẵng đi một thời gian dài im ắng, bà chủ nhà cũng đã mừng thầm vì chồng mình đã sửa đổi và con bé giúp việc cũng biết giữ lời.
Có ai đâu ngờ, cả hai người qua mặt bà một cách trắng trợn mà bà không biết được. Đến lần thứ hai phát giác ra chồng và người ở cấu kết nhau lừa gạt mình, bà tức lồng lộn. Trong cơn ghen điên cuồng, bà đã bắt buộc cô gái kia thực hiện lời thề.
Cô gái không mảy may run sợ vì tin chắc đã có sự bảo vệ của người tình.
Cô ung dung cầm sợi dây, bắt ghế đứng lên để quấn đầu dây vào cổ mình với sự tưởng tượng tình nhân yêu quý của mình sẽ nhào tới đấm mạnh vào mặt bà vợ và chạy tới bế thốc lấy mình mà đưa xuống!
Cô không ngờ người tình của cô tuy là kẻ trăng hoa nhưng khi đứng trước mặt vợ, ông lại yếm thế và nhát gan còn hơn thỏ đế. Ông không dám phản kháng lại bất kỳ điều gì vợ ông ra lệnh.
Khi cô gái bắt đàu chui đầu vào vòng dây, bà vợ trừng mắt nhìn chồng và quát lớn:
- Ông cút mau xuống nhà dưới cho tôi!
Thế là ông riu ríu làm theo, không còn dám đoái hoài gì đến người tình bé nhỏ của mình đang nằm trong tay con sư tử Hà Đông đang cơn thịnh nộ.
Ông vừa quay lưng đi khuất bên hiên nhà, bà vợ nhanh chân đá bay cái ghế mà cô gái đang đứng. Đá ghế xong bà cũng bỏ xuống nhà sau cùng chồng, không thèm chứng kiến sự giãy giụa đau đớn của người tớ gái.
Sau cái chết của cô người ở, nghe đâu vợ chồng bà cũng phải chạy chọt dữ dằn lắm mới ém nhẹm được vụ việc đó. Rồi theo năm tháng mọi việc cũng lắng xuống. Và ai cũng biết một điều rằng người giàu có thể bỏ tiền ra để che kín bầu trời!
Nhưng cũng từ sau cái chết của người tớ gái, bà chủ nhà không còn được sống thanh thản được. Đi tới bất kỳ chỗ nào trong nhà mình bà cũng thấy thấp thoáng dáng hình cô người ở.
Rồi đêm đêm, có người xách vòng tới tìm bà làm bà ăn ngủ không yên suốt mấy tháng trời.
Cuối cùng, không thể chịu đựng nỗi, vợ chồng bà quyết định bỏ quê hương xứ xở để ra đi, hy vọng sẽ quên hết, sẽ xóa nhòa hết những tội lỗi trong quá khứ.
Ngôi nhà đó hai vợ chồng tặng lại cho người cháu.
Ban đầu người cháu cho thuê.
Nhà rộng, đẹp và thoáng mát nên có rất nhiều người tranh nhau thuê mướn. Nhưng không có một ai ở đó được quá ba tháng. Cuối cùng, tiếng tăm đồn thổi quá nên không còn ai hỏi mướn nữa, người cháu đành phải đóng cửa để hoang mãi cho tới khi bán được nó cho vợ chồng Phượng.
Những người dân sống gần đó đã từng đồn đại trong nhà ấy có con ma thần vòng rất đáng sợ, nó đang tìm kiếm người thay thế canh giữ cái vòng cho nó được đi đầu thai.
Vì theo truyền thuyết kể lại, Ma Thần Vòng phải giữ lấy cái vòng đó, không được xa rời nó, chỉ khi nào trao nó lại cho người “kế nhiệm” thì mới được tự do đi đầu thai kiếp khác, còn nếu như không bắt được người để thế chỗ thì vĩnh viễn nó phải sống kiếp Ma Thần Vòng như thế!
Đêm đêm, thỉnh thoảng người ta nghe có tiếng khóc than vang lên trong ngôi nhà ấy. Nhưng ngoài những chuyện đó, Ma Thần Vòng chưa hề xuất hiện bên ngoài ngôi nhà, nó cũng không nhát ai trong xóm, nên dần dần người ta cũng quên lãng nó đi.
Khi nghe tôi kể lại tất cả những điều đó, mẹ Phượng và Nam vô cùng lo sợ. Họ sợ vong hồn của Phượng bị bắt buộc thay thế làm người giữ vòng dây và phải sống vật vờ như thế mãi cho tới khi tìm được người thay thế nữa.
Mẹ Phượng khóc lóc, kể lể:
- Con ơi là con, con còn quá trẻ, tại sao lại phải lâm vào hoàn cảnh khốn khổ như vậy? Chi bằng mẹ sẽ hy sinh cái thân gì để cho con gái của mẹ được siêu thoát…
Rồi như nhớ ra điều gì, bà chồm lên nói với Nam:
- Đúng rồi, ngay hôm nay mẹ sẽ dọn về đó ở. Mẹ sẽ tình nguyện chui đầu vào vòng dây để con gái của mẹ được tự do… Mẹ sẽ về đó ở…
Tôi và Nam hết lời can ngăn nhưng vẫn không cản được sự quyết tâm của một bà mẹ thương con, muốn hy sinh thân mình vì con…
Tôi thất thểu ra về, lòng nặng trĩu như đeo đá.
May mắn làm sao hôm đó mẹ tôi từ dưới quê lên chơi. Trông thấy vẻ mặt khó coi của tôi, mẹ lo lắng hỏi:
- Bộ vợ chồng chúng bây có chuyện không vui à?  
Tôi lắc đầu:
- Không đâu mẹ! Mẹ còn nhớ Phượng không? Phương chơi thân với còn từ hồi còn ở dưới quê mình ấy!
Mẹ tôi gật đầu:
- Nhớ chứ sao không con, giờ nó chồng con gì chưa?
- Nó chết rồi mẹ ạ, thắt cổ chết!...
Tôi nói nhỏ.
Mẹ tôi giật bắn cả người:
- Sao? Chết rồi à? Thắt cổ à? Trời… sao lại đến nông nỗi đó? Chồng nó phụ bạc hay sao thế?
Tôi lắc đầu nhè nhẹ và kể lại toàn bộ câu chuyện cho mẹ tôi nghe, không giấu cả việc mẹ Phượng khăng khăng đòi hy sinh cho Phượng.
Mẹ tôi cau mày suy nghĩ một lát rồi bảo:
- Con ăn cơm đi rồi chở mẹ đi đằng này một chút!
Tôi hơi phật ý vì thấy mẹ không quan tâm tới bạn của con mình mà giữa lúc này lại nói tới việc kêu tôi chở đi thăm viếng ai đó.
Nhưng dẫu bất bình mẹ tôi cũng đâu dám cãi.
Tôi lẳng lặng xuống bếp ăn cơm rồi trở lên nói với mẹ:
- Con xong rồi, mẹ đi đâu ra con chở!
Trong lúc tôi ăn cơm thì mẹ đã chuẩn bị quần áo xong xuôi rồi, nên tôi vừa cho xe nổ máy thì mẹ đã ra đến.
- Đi đâu mẹ?
- Đi tới chùa nào gần đây nhất!
Mẹ bảo:
- Đi chùa? Không phải mẹ đi thăm người quen sao?
Mẹ tôi điềm tĩnh trả lời:
- Thăm người quen thì mẹ sẽ đi vào lúc khác, giờ phải lo cho bạn con trước đã chứ!
Tôi giật mình hối hận vì lúc nãy mình đã trách oan cho mẹ. Mặc dù tôi chỉ lo mơ đoán rằng mẹ đi chùa để cầu an cho Phượng nhưng tôi thật sự cảm động trước hành động này của mẹ.
Tôi chở mẹ đi lòng vòng một lát, thấy một ngôi chùa nhỏ trong hẻm vắng tôi liền rẽ vào.
Mẹ xuống xe, tất tả đi vào chánh điện để thắp nhang vái lạy.
Tôi theo công giáo nên chưa khi nào thắp nhang hay cúng bái, tôi chỉ đứng bên ngoài quan sát mẹ mà thôi.
Khi đã thắp nhang khắp lượt các bàn thờ trong chánh điện, mẹ tôi tìm gặp sư trụ trì và hai người nói chuyện gì đó với nhau rất lâu.
Tôi ngồi đợi mẹ ngoài sân chùa với một niềm hy vọng mơ hồ, tôi cũng chẳng biết mình hy vọng điều gì nữa?
Phượng thì đã chết rồi, không thể hy vọng ngày mai ngày kia nó sẽ sống lại như trong truyện cổ tích hay như trong các bộ phim kiếm hịêp được!
Ở đời sống thực tế này một khi đã chết, đã được chôn sâu dưới ba tấc đất nhiều ngày qua thì không thể có khả năng nào sống trở lại được.
Vậy thì tôi đang hy vọng điều gì?
Có lẽ tôi hy vọng một sự yên bình cho những người thân của Phượng. Mẹ Phượng, chồng Phượng, những người trong gia đình Phượng đang từng giờ từng phút hối hận ăn năn vì những điều đã gây ra cho Phượng, vì đã vô hình trung không đưa tay ra cứu vớt Phượng giữa lúc cô cần sự giúp đỡ đến cháy lòng….
Tôi chỉ biết hy vọng thế mà thôi chứ còn biết hy vọng điều gì nữa?
Lâu lắm mẹ tôi mới chào sư cụ để ra về. Vẻ mặt mẹ lúc này đã có vẻ giãn ra không còn căng thẳng nữa.
Ngồi lên xe, mẹ bảo:
- Con chở mẹ tới nhà Phượng!
Tôi ngoan ngoãn làm theo lời mẹ. Cxung may hôm nay có Nam ở nhà vào giờ này.
Sau một hồi lâu thăm hỏi ân cần, mẹ tôi vào đề một cách thẳng thắn:
- Bác đã nghe Hạnh kể về chuyện không may của gia đình cháu. Từ lâu nay bác vẫn luôn thương yêu quý mến Phượng gần giống như Hạnh, bác coi Phượng cũng như con gái của mình vậy. Nghe tin này bác cũng đau lòng lắm. Có thể con là đàn ông con trai, con không tin vào những chuyện mê tín dị đoan, nhưng bác xin phép con cho phép bác được cúng kiếng một chút tại đây để cầu siêu cho vong linh của Phượng. Rất mong con đừng từ chối.
Nam rơm rớm nước mắt:
- Thưa bác, con vô cùng cảm động trươc tình cảm bác dành cho vợ con. Nay nó đã không còn mà bác vẫn nhớ và tới thăm đã là một điều quý báu, bác còn muốn cúng cầu siêu cho vợ con nữa thì con càng đội ơn bác nhiều hơn, làm sao ocn dám không đồng ý ạ?
Được sự đồng ý của Nam, mẹ giục tôi xách xe chạy đi đón mẹ Phượng và ra chợ mua đủ thứ hoa quả, giấy tiền vàng bạc, và đặc biệt là hình nhân một người nữ.
Tôi làm theo mọi điều mẹ sai bảo mà không dám thắc mắc bất cứ điều gì.
Chẳng mấy chốc, mẹ tôi đã bày lên trên bàn thờ Phượng một mâm cúng tươm tất.
Mẹ thắp nhang, lầm rầm khấn vái gì đó rồi bưng ly nước để ngang trán lẩm nhẩm đọc kinh.
Đọc kinh xong, mẹ cầm ly nước vừa nãy tưới đều xuống nền nhà rồi rót thêm một ly nước khác, lặp lại quá trình giống y như thế, nhưng chỉ khác một điều là ở khâu cuối cùng, mẹ không tưới xuống nền nhà nữa mà lấy cành hoa nhúng vào ly nước đó rồi vẩy vẩy cho nước văng ra khắp bàn thờ Phượng.
Sau hàng loạt câu kinh kệ, cuối cùng mẹ tôi cầm hình nhân lên và đốt cháy.
Hình nhân rất to, khi mẹ đốt tôi có cảm tưởng như từ trong đám lửa rừng rừng đó đang bước ra ngoài một người con gái hoàn toàn xa lạ, rồi từ bên trong, loáng thoáng bóng một người quen quen tiến ra chầm chậm. Cái bóng người đó được bao quanh bằng một vầng mây xám xịt, dơ bẩn, nhưng tôi vẫn nhận ra.
- Phượng! Trời ơi… đúng là Phượng rồi! Phượng kìa bác ơi, Nam ơi…
Tôi gọi giật giọng dù tôi thấy rõ ràng lúc này mẹ Phượng và Nam cũng đang ngây người ra nhìn chăm chú giống như tôi.
Phượng nhìn mẹ, nhìn Nam thật buồn rồi nó khẽ liếc qua tôi, nhẹ gật đầu như lời chào hỏi…
Nó không nói gì, không tỏ một thái độ gì rõ rệt, chỉ  thoáng hiện ra trước mắt chúng tôi, rồi lờ đờ đi tới cô gái hình nhân đang đứng đợi.
Trên tay Phượng là một sợi dây thật dài mà ở một đầu có thắt một vòng tròn rất khéo!
Phượng chầm chậm giơ cái vòng lên, chầm chậm tròng vào đầu cô gái hình nhân rồi ra sức thít chặt. Cô gái hình nhân kêu lên ằng ặc, lưỡi thè ra dài và đỏ lòm rất đáng sợ. Hai mắt cũng bắt lồi ra một cách khủng khiếp. Và chỉ một loáng, cô gái hình nhân biến mất, chỉ còn lại mấy vụn tro tàn bay lả tả dưới nền nhà.
Phượng quay lại nhìn chúng tôi thật âu yếm.
Nó đưa tay lên vẫy chào chúng tôi rồi từ từ, từ từ bay lên khỏi mặt đất. Xung quanh nó bây giờ không còn đám mây màu xám xịt lúc nãy nữa mà là một vầng hào quang lấp lánh, nó như đang đứng trên một chiếc cầu vồng đủ màu sắc.
- Phượng ơi… con đã thật sự được siêu độ rồi phải không con?
Mẹ Phượng nức nở.
Lúc này mẹ tôi đã hoàn thành xong công việc, bà tới bên đỡ mẹ Phượgn dậy. Hai người bạn già tựa vào nhau cùng hướng nhìn lên bầu trời, ở đấy đang có một chiếc cầu vồng rất lớn nằm vắt ngang qua.
Văng vẳng trong gió, nghe như có tiếng chim hót, tiếng gió xạc xào và cuối cùng tất cả lắng đọng lại, nghe từ xa xăm vọng về tiếng của Phượng:
- Chào tất cả những người thân yêu… Con đã mãn số rồi, xin mọi người đừng quá đau lòng mà hãy an hưởng bình yên trong những ngày còn lại… Xin chào tất cả, con đi…
Nước mắt đang chảy tràn trên mặt hai người đàn bà lớn tuổi và cả trên mặt tôi và Nam, nhưng có lẽ trong lòng của mỗi người giờ đây đã vơi bớt phần nào niềm đau đớn…
Tối hôm đó trong giấc mơ tôi gặp Phượng.
Biết Phượng không còn, nhưng trong mơ tôi vẫn rất vui mừng ôm chầm lấy cô bạn thân thiết và cả hai cùng khóc một hồi lâu.
- Mầy đừng buồn, mỗi người đèu có một phần số riêng, mình không sao biết trước được. Tao đã trả xong nợ trần gian, giờ đây tao không đầu thai làm người nữa. Tao xin mầy hãy vì tình bạn của chúng mình mà giúp tao dòm ngó mẹ già và tìm người thay tao chăm sóc, lo lắng cho anh Nam.
Phượng cầm tay tôi nói như cầu xin.
Tôi ngắc ngứ:
- Tao… làm sao tao tìm được ai để thay mầy làm chuyện đó? Việc trông mẹ mầy thì có thể tao làm được, còn chuỵên này thì…
Thấy tôi thoái thác, Phượng mỉm cười:
- Mầy đừng lo, tất cả sẽ đi đúng theo con đường của nó mà thôi, tao nhờ mầy như thế mầy cứ nhận lời đi, rồi sau này mầy sẽ thấy…
Tôi chưa kịp nói lời gì thì thoắt một cái Phowjng đã biến mất, chỉ để lại một mùi hương thoang thoảng quanh tôi.
Giật mình thức dậy, tôi vẫn còn nghe mùi hương đặc biệt đó phảng phất bên mình.
 
***
Tám năm sau.
Mẹ Phượng đã mất sau một trận bệnh kéo dài hơn tuần lễ.
Các em của Phượng đều đã có gia đình và cuộc sống riêng của mỗi đứa.
Nam lúc này cũng đã có hai đứa con một trai một gái sinh năm một, đứa nào cũng kháu khỉnh đáng yêu.
Vợ Nam sau này chính là cô văn thư ở cơ quan tôi. Trong một lần đến nhà tôi dự tiệc, tình cờ hai người gặp gỡ và cảm mến nhau.
Nhận thấy tình cảm giữa họ có chiều hướng phát triển, chợt nhớ lại lời của Phượng trong giấc mộng trước đây nên tôi đã ra sức vun vào.
Ừ, cuối cùng rồi thì mọi việc cũng đã đi theo đúng của mình rồi, phải không Phượng?
Tôi thầm nghĩ như thế và thấy lòng mình nhẹ nhõm…
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:25:21 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:53:01
NHỮNG NGÀY KINH HOÀNG
 
1.       Phiêu lưu
 
Thế là cuối cùng bốn đứa chúng tôi cũng đã đáp ứng được lời mời về thăm quê của Khải sau nhiều lần khất tới khất lui.
Quê Khải ở tận trong vùng rừng núi hoang vu cách đường cái hơn bốn mươi cây số mà không có bất kỳ một phương tiện giao thông nào ngoài loại xe “Căng – hải” như chúng tôi vẫn thường đùa vui với Khải.
Dân cư ở đó thưa thớt, sống chủ yếu bằng nghề săn bắn và trồng trọt. Tất cả những sản phẩm mà họ có được thường dùng để trao đổi lẫn nhau, hoặc thỉnh thoảng mới có người đem ra “thế giới bên ngoài” để trao đổi.
Họ thật sự không phải là người dân tộc thiểu số nhưng cuộc sống của họ có vẻ rất đơn sơ đạm bạc và ẩn dật như một vài dân tộc ít người chưa hòa nhập được với cộng đồng.
Gia đình Khải gốc là người Hà Nội. Nhưng mẹ Khải do đã phải trải qua rất nhiều khổ ải của đời sống tình cảm lẫn kinh tế nên mới phải trôi dạt về đó.
Và sau cùng bà nhận ra cuộc sống ở đó phù hợp với bà hơn, nên mặc dù ý định ban đầu của bà chỉ là tạm lánh vào đây để chờ ngày sinh nở và trốn tránh nợ nần, nhưng cuối cùng bà đã chọn nơi này làm quê hương thứ hai và bắt đầu tạo dựng cuộc sống.
Mẹ Khải là một cô gái đẹp được nhiều chàng trai săn đón, nhưng bà chỉ thật sự cảm thấy rung động khi đối diện với Hoàng, một anh chàng lãng tử giang hồ phiêu bạt bốn phương.
Cuộc tình đó của bà bị tất cả mọi người từ gia đình cho tới bạn bè phản đối. Nhưng trái tim vốn có những lý lẽ riêng của nó mà lý trí không sao điều khiển nổi, thế cho nên bà vẫn yêu say đắm mặc bao nhiêu lời dè bỉu ngăn cấm của người thân.
Những lời nói ngọt ngào của Hoàng đã dìu bà đi vào một thế giới thần tiên đầy hoa thơm cỏ lạ, những lời hứa hẹn sắt son đã hướng bà tới một viễn cảnh vô cùng hạnh phúc của một gia đình nhỏ bé nhưng đầy ắp tiếng cười đùa của đôi vợ chồng và những đứa con bé bỏng xinh tươi…
Vì tất cả những điều đó, bà đã trao cho Hoàng cái quý giá nhất của đời người con gái, đồng thời cũng đã vay mượn một số tiền lớn để Hoàng “làm ăn” kiếm tiền lo tương lai hai đứa.
Khi nghe bà báo tin đã có mang, Hoàng tỏ ra vô cùng hạnh phúc. Nhưng ngay hôm sau đã bỏ ra đi biền biệt không về mặc cho bà ngày đêm trông ngóng.
Cái thai trong bụng ngày một lớn dần lên, những chủ nợ cũng đã bắt đầu hỏi tới. Bà không còn biết cách nào ngoài việc chạy trốn khỏi nơi cư trú lâu nay.
Nhưng chạy đi đâu? Một cô gái chưa từng lăn lộn với cuộc sống biết phải đi đâu với hai bàn tay trắng và đứa con đang mang trong bụng? Bà chẳng biết mình sẽ phải đi đâu về đâu, cứ bước đi mải miết mà nước mắt không ngừng tuôn chảy…
Bà cảm thấy sợ hãi sự ồn ào náo nhiệt của phố thị, sợ những cái nhìn mà bà tưởng như mang đầy vẻ mai mỉa miệt khinh.
Thế cho nên bà đã chọn hướng đi vào rừng làm đích đến cho cuộc hành trình vô định của mình.
Suốt mấy ngày mấy đêm, bà cứ mệt thì nghỉ, múc nước suối uống tạm, hái trái cây rừng ăn đỡ đói rồi lại lê bước đi sâu vào rừng rậm để trốn tránh loài người.
Đến một hôm bà không còn sức lực để đi tiếp và đã ngã quy bên bờ suối bất tỉnh.
Khi bà tỉnh lại thì đã thấy mình đang ở trong một mái nhà xa lạ…
Một người dân trong làng đi rẫy đã phát hiện ra bà nên đã mang về làng để cứu chữa.
Những người dân trong làng này, đa số cũng là những người gặp phải hoàn cảnh trái ngang, nghèo đói mới tìm về nơi đó để kiếm kế sinh nhai.
Biết được hoàn cảnh của bà, tất cả dân làng đã rất nhiệt tình cưu mang giúp đỡ.
Ban đầu bà ở tạm trong nhà một người, nhưng sau khi biết ý định bà sẽ sinh sống lâu dài tại đây nếu dân làng cho phép thì họ chung tay nhau đi đốn cây, cắt lá để dựng cho bà một túp lều nho nhỏ gần đó.
Và Khải đã ra đời trong môi trường đó!
Mẹ Khải chưa từng phàn nàn một điều gì về những thiếu thốn mà bà phải chịu đựng khi sống ở đó, duy chỉ có một điều mà bà luôn lo lắng là làm sao cho Khải được ăn học đàng hoàng ở một nơi heo hút như thế này?
Lúc Khải lên năm tuổi, ngoài những lúc làm việc, bà đã hết sức tận tụy dạy cho con tập đọc, tập viết và làm những phép tính đơn giản. Không có giấy viết cũng như phấn bảng. Dụng cụ dạy và học của hai mẹ con chỉ là những cành cây khô vẽ lên nền đất.
Thế nhưng cậu bé Khải rất sáng dạ. Học hành một thời gian ngắn cậu đã có thể đánh vần rồi sau đó là đọc trôi chảy tất cả những chữ mà mẹ cậu viết ra.
Bà hài lòng lắm. Bà đã nhờ người mua giúp mấy quyển sách và giấy bút cho Khải.
Việc học hành của Khải bắt đầu dừng lại khi bà mẹ không còn biết phải dạy gì cho con trai nữa.
Từ đó Khải dùng giấy bút để chơi đùa. Cậu vẽ nghuệch ngoạc lên giấy những gì trong đầu cậu nghĩ ra. Rồi dần dần khắc họa lại những điều mắt mình trông thấy.
Bà mẹ vừa vui mừng vừa lo lắng khi thấy con trai mình rất có khiếu về hội họa.
Năm Khải lên mười tám tuổi, bà đã dẫn Khải ra thị trấn để ghi danh Khải vào một lớp hội họa.
Chúng tôi quen biết Khải từ dạo đó.
Cái dáng vẻ lớ ngớ vụng về buồn cười không chịu nổi của Khải đã làm mọi người chú ý.
Có đứa không tiếc lời chọc ghẹo, nhưng với đám bạn thân chúng tôi thì tuyệt đối không làm những trò đó.
 Chúng tôi nhận ra Khải là một chàng thanh niên tốt, rất thật thà, chỉ tội một điều là hình như anh ta không hề biết chút gì về xã hội mà chúng tôi đang sống, giống như anh ta lạc từ một thế giới khác đến vậy!
Sau một thời gian quen biết, chúng tôi thật sự cảm mến và nể phục tài hoa của Khải. Và cũng được Khải kể cho nghe về quê mình làm cả bọn chúng tôi cứ há hốc mồm ra tưởng như đang nghe kể chuyện cổ tích hoặc chuyện kể về một bộ lạc nào đó đang tồn tại trong rừng sâu mà xã hội loài người đông đảo này chưa phát hiện ra được.
Học vẽ một thời gian Khải đã phát huy được tài năng bẩm sinh của mình, đường tương lai của Khải dường như đang rộng mở thì đùng một cái Khải thôi học trở về quê.
Khi được hỏi, Khải cười thật hiền:
- Mẹ mình chỉ muốn mình học để biết thôi, không có hướng đi theo con đường này. Mình sẽ về quê sống với mẹ. Nếu các bạn thích, các bạn hãy đến thăm quê mình, ở đó có rất nhiều cảnh đẹp, tha hồ cho các bạn múa bút…
Đó là lần đầu tiên Khải mời chúng tôi về quê.
Háo hức vì những câu chuyện Khải kể, chúng tôi cũng rất muốn đi nhưng rồi vì việc này việc khác nên mãi vẫn chưa thực hiện được.
Khải về quê, nhưng thỉnh thoảng những lần đem sản vật rừng núi ra thị trấn đổi chác, mua bán Khải vẫn tìm tới thăm chúng tôi.
Và hôm vừa rồi, bốn đứa chúng tôi đã quyết định dẹp qua một bên tất cả công việc thường ngày để đi một chuyến về cái làng quê nghe như huyền thoại của người bạn lạ lùng tên Khải ấy.
Nói là dẹp công việc qua một bên, chứ kỳ thực chuyến đi này chúng tôi lại thực hiện một nhiệm vụ quan trọng.
Đã được Khải chỉ vẽ tận tường nên việc tìm đường đi đối với chúng tôi không quá khó khăn.
Sau một chặng đường đi xe ô tô, chúng tôi lại đi một chặng xe thồ mới tới được bìa rừng và từ đó bắt đầu vận dụng sức mạnh và sự dẻo dai của đôi chân để tiến bước.
Vì đã được nghe kể trước, nên cả bốn đứa chúng tôi đều cố gắng sắp xếp để chỉ mang theo những vật dụng tối cần thiết, cố thu gọn nhẹ hành lý đến mức tối đa.
Vậy mà sau hơn hai tiếng đồng hồi lội bộ, đứa nào đứa nấy cũng đã mệt lè lưỡi.
Cây cối hai bên đường mòn thì cứ mỗi lúc một thêm dày đặc. Tiếng chim chóc hót vang, tiếng những con vật gì đó mà chúng tôi chưa từng nghe qua, chưa từng biết đến cứ chốc chốc lại làm cho cả bốn đứa phải giật thót cả người!
- Thôi, nghỉ mệt thôi! Tớ không thể nào cất bước nổi nữa rồi đây!
Đạo vừa thở phì phò vừa nói.
Tôi, Tân và Phục đều nhất trí với lời đề xuất đó, vì thật ra đứa nào đứa nấy có khác chi nhau.
Đi trong khu rừng rậm rạp, mặt trời không chiếu rọi nổi những tia nắng gay gắt của mình xuyên qua lớp cây lá dày đặt phía trên, nên chúng tôi không cảm thấy nắng nóng, vậy mà đứa nào cũng mê mết mồ hôi.
Ngồi tựa lưng vào một cây, Đạo vừa phe phẩy quạt bằng cái nón kết vừa nói:
- Đường đi tới nhà thằng Khải sao giống như đi vào một thế giới khác quá! Có khi nào nó là ma, nó ra thị trấn để quyến dụ bọn mình dẫn xác tới đây để nộp mạng không vậy?
Thằng Phục đang ngửa cổ uống nước từ trong chai nước suối mang theo, nghe Đạo nói vậy nó suýt sặc vì cười:
- Ôi trời ơi, thằng Đạo đã chọn sai nghề rồi! Đáng lẽ ra cậu phải theo học ngành sáng tác văn học hay biên kịch gì gì đó mới phù hợp! Không ngờ đầu óc cậu lại phong phú đến mức đó, nghĩ được những chuyện kinh dị như thế! Hay!
Nó kết thúc cho câu nói của mình bằng mấy cái vỗ tay lẹt đẹt vì không ai hưởng ứng.
Tôi cười:
- Tính ra chuyến này mình đi như vầy cũng hấp dẫn quá chứ, mai mốt về vừa có những tác phẩm hội hoạ, đồng thời lại có thêm một tác phẩm văn học hoặc kịch bản điện ảnh cũng không biết chừng!
Đạo cười:
- Hơ hơ… Các cậu cứ việc cười nhạo tớ đi, rồi mai mốt đừng có quấn lấy tớ khi sợ hãi nhé!
Bốn đứa chúng tôi cứ lời qua tiếng lại đùa vui tếu táo một lúc thì cơn mệt mỏi cũng đã tạm rút lui nên đứng lên đi tiếp.
Cứ đi và nghỉ như vậy mãi đến tận chiều tối chúng tôi mới thấy được cái cổng làng cao nghệu giống y như lời mô tả của Khải.
Phục là người phát hiện ra đầu tiên, nó nhảy cẫng lên reo to:
- Tới rồi! Tới rồi! Tối nay không sợ phải làm mồi cho cọp beo trong rừng rồi!
Nhìn theo tay chỉ của Phục, cả đám chúng tôi đều nhận ra cái cổng làng vươn cao như muốn đâm toạc bầu trời.
- Cả cái cổng làng cũng quái dị, chẳng giống ai!
Tân buông một lời nhận xét.
Tôi dặn:
- Ê, bọn mình vào làng người ta làm khách, không được có những lời bình phẩm không hay về họ, mình làm họ tức lên, biết đâu… cả đám không còn đường để quay về?
Tân gậït gù:
- Biết rồi, biết rồi! Tớ chỉ nói đùa cho bọn mình nghe thôi mà! Ai mà dám nhận xét thế với chủ nhà…
Chúng tôi đi chưa tới cổng làng thì đã tháy Khải vừa đi vừa chạy ra tiếp đón.
Phục hí hửng:
- Ê, ê… bộ ở trong làng này có đặt trạm quan sát hay sao mà cậu biết chúng tớ đến thế?
Khải cười:
- Không, không! Làng mình không đặt trạm quan sát gì cả nhưng những người dân sống ở đây đều có những khả năng đặc biệt mà các cậu không thể ngờ được đâu. Vì phải thích nghi với cuộc sống ở nơi hoang dã này cho nên mỗi một người đều có khả năng cảnh giác rất cao, họ có thể nhận biết những dấu hiệu lạ khi chúng xuất hiện còn cách rất xa mình…
Tôi có vẻ tò mò hỏi:
- Thế… cậu có khả năng đó không, Khải?
Khải thẹn giống như một cô gái khi nghe lời trêu chọc của đàn ông:
- Hi hi… ừ thì mình… cũng có đôi chút…
Chúng tôi tay bắt mặt mừng rồi cả bốn đứa bước nhanh theo những bước chân sãi dài của Khải.
2. Ngôi làng kỳ dị
 
Mẹ Khải tỏ ra rất vui và hiếu khách khi tiếp đón bốn đứa chúng tôi.
Vì chúng tôi đến bất ngờ không báo trước, nên mặc dù bụng đã đói meo nhưng vẫn phải ôm bụng chờ mẹ Khải lui cui xuống bếp làm cơm.
Chỉ một loáng sau, một mâm cơm đã được dọn ra tươm tất. Tuy chỉ là những món ăn đơn giản như lời mẹ Khải nói mà đối với bốn thằng con trai đang đói cào cấu này thì nó còn ngon tuyệt hơn cả những món đặc sản trong các nhà hàng lớn ở thành phố.
Tôi nói vậy cũng không ngoa chút nào đâu. Vì thật sự đó là những đặc sản thật mà! Nào là măng rừng, thịt thỏ, thịt nai, thịt nhím… Ôi thôi, lần đầu tiên chúng tôi được ăn một bữa cơm trong khung cảnh núi rừng u tịch như thế này, làm cho không khí càng trở nên ấm cúng lúc mấy đứa tôi ngồi quây quần bên mâm cơm nghi ngút khói…
Cái sự ăn coi vậy mà đơn giản hơn cái sự ngủ đây!
Nhà Khải thật ra chỉ là một túp lều bé xíu, chỉ đủ kê hai chiếc giường tre nứa ọp ẹp dành cho mẹ con Khải và một góc bếp nhỏ phía sau.
Khải có vẻ áy náy:
- Các cậu tới bất ngờ quá, tớ chưa chuẩn bị kịp…
Mẹ Khải cắt ngang lời con trai:
- Con đừng lo, hôm trước nghe con bảo vài hôm nữa sẽ có bạn về chơi, mẹ đã hỏi xin ông trưởng làng cho các bạn con được ở nhờ trong ngôi nhà thờ tự của làng và đã được chủ làng đồng ý. Bây giờ các con cứ ngồi đây chuyện vãn, để mẹ chạy tới nhà chủ làng thông báo các bạn con đã đến rồi con đưa các bạn tới đó nghỉ ngơi.
Khải cười tươi, ôm lấy vai mẹ:
- Mẹ của con lúc nào cũng chu đáo vô cùng!
Bà mẹ mỉm cười âu yếm nhìn cậu con trai rồi nhanh nhẹn đẩy cửa bước ra ngoài.
Tôi thật sự cảm kích hai mẹ con Khải, và thầm ước ao mình cũng có được một gia đình như thế, tuy nghèo nàn thiếu thốn vật chất nhưng về mặt tinh thần thì có vẻ như họ đang rất giàu có.
Không như tôi, sinh ra và lớn lên trong một gia đình khá giả, nhưng ba mẹ lại bất hòa, hai người lại không thể ly hôn vì nhiều vấn đề như sợ ảnh hưởng đến uy tín và địa vị xã hội, và vì nhiều vướng mắc khác.
Thế cho nên cả ba và mẹ tôi mỗi người đều có cuộc sống riêng và tìm lấy hạnh phúc riêng cho mình, không ai thắc mắc ai, chỉ có tôi là bỗng nhiên trở nên thừa thãi.
Về vật chất tiền bạc tôi không thiếu, tôi muốn gì là có ngay thứ đó. Vì cả ba lẫn mẹ đều muốn bù đắp cho tôi những mất mát bằng vật chất, nhưng họ có biết đâu, tôi chỉ cần sự quan tâm yêu mến… mà điều đó thì có lẽ lâu lắm rồi tôi chưa nhận được!
Giờ đây, nhìn thấy cảnh sống nghèo nàn nhưng đầm ấm của mẹ con Khải, nhất là nhìn ánh mắt của mẹ con họ dành cho nhau mà tôi nghe lòng chua xót quá…
Không lâu sau mẹ Khải về tới. Bà giục Khải đốt đuốc đưa chúng tới ngôi nhà ở tận cuối làng để chúng tôi còn nghỉ ngơi sau một ngày vất vả.
Khải đốt một bó đuốc thật to rồi cầm đi trước dẫn đường. Ban đầu mẹ Khải tính đi theo để sắp xếp cho bốn đứa tôi, nhưng chúng tôi không đồng ý.
Tân nói:
- Dạ, tụi con lớn cả rồi, tụi con làm được, bác đừng lo lắng ạ! Trời tối lắm, bác nên ở nhà nghỉ ngơi, để Khải đưa tụi con đi là được rồi!
Nghe Tân nói vậy, mẹ Khải đành dừng chân ở bậc cửa và nhìn theo chúng tôi đi mỗi lúc một xa.
Con đường trong làng tuy không lớn lắm nhưng rất bằng phẳng và hai bên được trồng một loại cây gì đó để làm hàng rào trông rất đẹp mắt. Ban đêm tuy không nhìn rõ lắm nhưng chúng tôi vẫn cảm nhận được sự sạch sẽ, ngăn nắp của ngôi làng lạ lùng này.
Khải dẫn chúng tôi đi quanh co qua nhiều lối rẽ. Tưởng đâu làng nhỏ, đường đi gần, ai dè cứ đi mãi miết mà vẫn chưa thấy đến.
Tôi nôn nóng:
- Con xa nữa không Khải? Hai cẳng chân tới sắp rụng ra rồi đây này!
Đạo, Phục, Tân đều phụ họa:
- Đúng rồi đó, tụi này sắp rớt hết bù loong, con tán trong chân ra hết rồi Khải ơi! Cậu bảo làng cậu nhỏ, chỉ vài mươi hộ gia đình vậy mà đi mấy cây số vẫn chưa tới cuối làng sao?
Khải cười hềnh hệch:
- Làng ít người, nhưng nhà ở không quây quần nhau mà cách xa nhau lắm! Thành thử làng rất rộng. Nhưng các cậu yên tâm đi, cũng sắp tới nơi rồi, chỉ hết con đường này, quanh một khúc quanh nữa là tới thôi mà!
Cả bốn đứa chúng tôi lếch thếch cố gắng bước theo những bước chân mạnh mẽ sãi dài của Khải.
Đi qua khúc quanh một đỗi, Khải đưa tay chỉ cho chúng tôi thấy một khối to đồ sộ ở phía trước mặt và nói:
- Đó, tới rồi đó! Các cậu sẽ ở trong đấy!
Đạo ngạc nhiên hỏi:
- Ủa, ở nơi này mà cũng có nhà lầu như ngoài phố chợ sao?
Khải cười:
- Không phải đâu, ngôi nhà này được dựng lên toàn bằng gỗ, loại gỗ quý nhất trong khu rừng này. Người ta làm gác cao nên nhìn từ xa trong đêm tối các cậu tưởng vậy thôi, chứ nơi này làm gì có nhà xây chứ đừng nói gì đến lầu đài…
- Ở nhà gác gỗ à? Thích nhỉ?
Tân reo lên.
- Hiện nay có ai ở trong đó không Khải?
Phục tò mò hỏi.
- Có ông Từ. Ông ở đó để coi sóc nhà cửa, quét tước dọn dẹp mỗi ngày. Trước kia, lúc chưa có ông thì dân làng thay nhau mỗi ngày đến đây làm những công việc đó. Nhưng mấy năm sau này ông Từ từ phương xa trôi dạt tới đây. Người ta thấy ổng đơn thân độc mã không gia đình vợ con gì ráo nên đề nghị ông dọn tới đây ở để chăm sóc nơi thờ cúng của cả làng.
Khải vừa đi vừa giải thích. Và khi câu nói của Khải vừa chấm dứt thì chúng tôi cũng vừa đúng lúc tới trước cổng nhà.
Có lẽ biết chúng tôi sẽ đến nên cánh cổng mở toang chào đón và trong nhà sáng rực ánh đèn.
Khải dẫn chúng tôi đi qua một khoảng sân rộng lớn mới tới được cửa chính ngôi nhà.
- Bác Từ ơi, chúng con tới làm phiền bác đây!
Khải nói lớn.
Có tiếng húng hắng ho từ dưới nhà sau vọng lên, rồi một người đàn ông cỡ tuổi ngoài năm mươi, dáng gầy gò xuất hiện, trên tay cầm một cây đèn to tướng.
Nhìn ông có vẻ khắc khổ, gương mặt không biểu cảm nên khiến mấy đứa chúng tôi hơi lo, trừ Khải.
Ông Từ đưa mắt nhìn quét một lượt qua cả đám rồi nói:
- Bốn đứa lên trên gác. Mỗi tầng ở hai đứa. Có gì cần thì xuống đây gặp bác.
Dường như ông không muốn bắt chuyện với người lạ, vì thế chúng tôi chỉ chào hỏi ông qua loa rồi cả đám dẫn nhau lên gác.
Ngôi nhà gỗ ở nơi hoang vu này có kiểu dáng rất đẹp không thua những ngôi nhà mới vừa xây dựng theo thiết kế của những tay kiến trúc sư có tên tuổi ở thành phố.
Nhà có ba tầng, một tầng trệt và hai tầng phía trên. Tuy không to lớn đồ sộ như lúc nãy chúng tôi hình dung ra khi thoáng nhìn trong đêm tối, nhưng tất cả mọi thứ trong nhà đều được bày biện ngăn nắp và sạch sẽ. Tôi thoáng ngạc nhiên, một người đàn ông như vậy lại có thể gìn giữ ngôi nhà sạch đẹp thế này sao?
Nhưng ý nghĩ đó chỉ thoáng qua trong đầu tôi thôi, chứ tôi không nói ra cho các bạn biết.
Đạo với Tân giành ở tầng hai với cái lý do thật buồn cười:
- Giờ đây tụi tao không còn sức để leo lên tầng trên nữa!
Tôi với Phục chỉ biết cười rồi dắt nhau lên trên.
Khải giúp Tân, Đạo kê dọn đồ đạc xong là lên tầng trên với hai đứa tôi ngay.
- Ở đây gió lạnh, ban đêm các cậu nhớ đóng kín tất cả cửa sổ lại nhé, không nên mở ra, nhỡ gặp phải gió độc thì khốn! Mình thì không sao rồi, vì mình đã quá quen thuộc với khí hậu vùng này, chỉ lo các cậu mới tới chưa thích nghi được với thời tiết, khí hậu ở đây.
Vừa nói, Khải vừa giúp chúng tôi đóng chặt mấy cánh cửa sổ.
Tôi với Phục vừa đặt hành lý gọn ghẽ là nằm vật ra sàn nhà thở dốc.
Ôi, sung sướng biết bao!
Cả một ngày vất vả, những đôi chân vốn chỉ quen với việc bước ra khỏi cổng nhà là nhảy phốc lên xe, vậy mà hôm nay đã vượt qua hàng chục cây số đường rừng núi gian nan…
Giờ đây, được ngã lưng xuống sàn nhà mới hạnh phúc làm sao! Cả hai đứa tôi đều dang thẳng tay chân ra để tận hưởng sự sảng khoái vô cùng này!
Đứng nhìn chúng tôi một lúc Khải cười nói:
- Hôm nay các cậu mệt lắm rồi, nên ngủ sớm đi, mình về đây. Ngày mai khỏe lại, bọn mình thức đêm tán gẫu nhé?
Vì mắt cũng đã lim dim nên cả hai đứa chúng tôi đều gật đầu đồng ý chứ không ai lên tiếng giữ Khải lại để chuyện trò.
Dường như Khải cũng biết điều đó nên vội vã ra về để chúng tôi được ngon giấc.
Ở tầng dưới chắc hai thằng bạn của tôi cũng đã ngủ rồi hay sao mà không nghe động tịnh gì nữa.
Tôi nằm một hồi rồi ngủ quên lúc nào không biết.
Tôi ngủ một giấc thật ngon, nhưng bất ngờ giấc ngủ ấy bị đánh thức bởi một âm thanh vang lớn trong đêm thanh vắng.
Mở choàng mắt ra, tôi nhận thấy trời đã lờ mờ sáng, mà ánh sáng được chiếu rọi vào vào từ khung cửa sổ phía bên kia.
- Cậu thức dậy khi nào thế, Phục?
Tôi cất tiếng hỏi khi trông thấy Phục đang đưng nhìn ra cửa sở, lưng quay về phía tôi.
Nghe tôi hỏi, Phục quay lại, vẻ không bình thường:
- Cậu thức rồi à? Nãy giờ tớ muốn đánh thức cậu đấy nhưng sợ cậu mệt nên thôi…
- Có chuyện gì thế?
Tôi ngạc nhiên hỏi.
Phục vẫy tay rối rít gọi tôi lại:
- Đến đây! Đến đây! Cậu hãy đến đây mà xem!
Tôi ngồi bật dậy, đến bên cạnh Phục với đôi mắt còn chưa tỉnh ngủ.
- Cậu xem sau núi có mồ mả kìa!
- Đâu nào?
Tôi vừa cố nhoài người ra cửa sổ vừa hỏi với thái độ rất hiếu kì.
Nhìn ra ngoài tôi thấy có nghĩa trang màu xám xịt, cái màu giống hẹt như màu của một buổi chiều mùa đông ảm đạm, điểm thêm cho cái vẻ hoang vu chết chóc của rừng núi.
- Có gì lạ đâu?
Tôi ngơ ngác hỏi.
Phục có vẻ căng thẳng.
- Không phải, hình như có mấy ngôi mộ nhằm ngay vào cửa sổ… tự nhiên… tự nhiên tớ có cảm giác rờn rợn sao sao ấy!
Phục vừa nói vừa kéo hai cánh cửa sổ khép lại và bảo tôi:
- Thôi, mình xuống dưới xem hai đứa kia đêm qua ngủ nghê thế nào đi! Mà không chừng tụi nó cũng đang chờ mình đấy!
Hai đứa chúng tôi lục đục soạn đồ đạc để lấy bàn chải đánh răng và các thứ khác cho yêu cầu cá nhân rồi đi xuống tầng dưới.
Thấy cửa phòng còn đóng im ỉm và bên trong vắng lặng, hai đứa tôi nháy mắt với nhau rồi lẳng lặng xuống đất làm vệ sinh trước.
Khi tất cả đã tươm tất, tôi và Phục mới quay trở lên tầng một gõ cửa:
- Dậy! Dậy đi hai ông tướng! Mặt trời đã lên cao rồi kìa! Mẹ con Khải chắc đang đợi chúng ta ở trong làng đấy!
Chúng tôi nghe có tiếng vươn vai uể oải rồi tiếng lục đục bên trong. Mãi một lúc sau hai thằng Tân, Đạo mới xuất hiện với cái đầu tóc bờm xờm trông rất buồn cười.
Tôi và Phục vào phòng ngồi chơi chờ hai đứa đi làm vệ sinh xong rồi cùng nhau đi vô làng.
Khi chúng tôi xuống dưới đất, nhìn quanh quất không thấy ông Từ đâu, Đạo lên tiếng gọi:
- Bác Từ ơi… Bác ơi!
Tiếng gọi vừa dứt, chúng tôi nghe có tiếng húng hắng ho rồi tiếng ông Từ vang lên:
- Cứ đi đi…
Bốn đứa tôi nhìn nhau, đứa nào cũng muốn hỏi xem ông có đi đâu không, nếu trưa hoặc chiều chúng tôi về có ai ở nhà mở cửa cho chúng tôi vào không, nhưng nghe giọng nói hơi khó chịu của ông chúng tôi đành im lặng đi ra mà không dám hỏi thêm gì nữa.
Tuy đường đi quanh co và xa đến mấy cây số nhưng vì không có nhiều ngã rẻ nên chúng tôi không hề bị lạc đường mà dễ dàng trở lại được nhà của mẹ con Khải.
Vừa thấy bóng dáng chúng tôi, mẹ Khải đon đả:
- Các cháu ngủ một giấc, giờ đã khỏe chưa? Lúc nãy thằng Khải nhà bác định tới đó đón các cháu nhưng bác không cho, bảo nó cứ để các cháu ngủ cho thỏa thích. Vì bác biết hôm qua đi đường đứa nào cũng mệt đừ người rồi, phải không?
Đạo cười:
- Dạ, một giấc ngủ tuyệt vời bác ạ!
- Khải đâu rồi bác?
Tân nhìn quanh nhà rồi hỏi.
Mẹ Khải cười hiền từ:
- Nó mới chạy ra suối, sẽ về ngay thôi mà!
Quả thật, khi mẹ Khải vừa dứt lời chúng tôi đã thấy Khải về tới, trên tay cầm một xâu cá tươi rói, con nào con nấy to hơn cổ tay còn đang quẫy mình như muốn trốn thoát.
Phục reo lên:
- Cậu đi bắt cá à? Thích quá! Sao không chờ bọn mình tới rồi cùng đi?
Khải nheo mắt:
- Các cậu đừng có lo, rồi mình sẽ dẫn các cậu đi bắt cá, đi đặt bẫy thú, bắn chim rừng… đủ thứ hết, chỉ sợ các cậu không đủ thời gian thôi!
Tôi cười lớn:
- Cậu yên tâm đi! Bọn tớ đã nhát định đi chuyến này đúng một tháng mới quay về cho bõ công trèo đèo vượt suối, vả lại cũng để hoàn thành nhiệm vụ.
- Hoàn thành nhiệm vụ?
Khải ngạc nhiên hỏi lại.
- Ừ, bốn đứa mình được công ty giao cho một bộ truyện tranh, thời hạn là một tháng. Mà đây là bộ truyện phiêu lưu mạo hiểm nên cả bống đứa nhất trí chọn quê cậu làm nơi thực hiện. Khung cảnh hoang vu thế này rất thích hợp cho bọn tớ thực hiện… Chỉ sợ…
Tôi cười, ngập ngừng.
Khải lo lắng:
- Các bạn sợ gì?
- Chỉ sợ nhà cậu không đủ cơm gạo để nuôi bọn tớ thôi!
Tôi  vừa cười vừa nói.
Khải chưa kịp phản ứng thì mẹ Khải đã nói:
- Ôi, các cháu đừng có lo, ở nơi này đâu sợ gì thiếu ăn, này nhé, gạo bắp có sẵn trên nương rẫy, rau quả có trong rừng, cá ở dưới suối, thịt thì có chim có thú… các cháu không phải lo đâu! Các cháu có ở lại đây cả đời, rừng núi này vẫn cưu mang được các cháu mà!
Khải tiếp lời mẹ:
- Mẹ tớ nói đúng đó, nếu mình siêng năng thì không lo gì đói!
Tân cười cười:
- Gì chứ cái khoản săn thú bắn chim và bắt cá dưới suối là số một, bọn tớ tình nguyện làm việc cả tháng không mệt mỏi…
Cả nhà cùng cười.
Mẹ Khải bảo:
- Thôi, giờ mấy đứa vào ăn sáng rồi theo Khải lên rẫy hoặc vào rừng chơi cho biết!
Chúng tôi thật ngạc nhiên khi nhìn mâm cơm mẹ Khải vừa dọn lên. Với xâu cá lúc nãy Khải mang về, chỉ trong một thời gian ngắn mà bà đã chế biến thành nhiều món ăn khác nhau, mà món nào trông cũng hấp dẫn, mùi thơm ngào ngạt khiến mấy cái bao tử háu đói của chúng tôi đều sôi lên sùng sục.
Không khách sáo, cả bốn đứa chúng tôi vui vẻ ngồi vào mâm cơm, cả nhà vừa ăn vừa rôm rả chuyện trò như một gia đình đầm ấm.
Khải bảo:
- Ở làng này, từ lúc tớ chào đời đến nay, tớ mới thấy cảnh vui vẻ thế này lần đầu tiên đấy nhé! Tớ cảm ơn các cậu đã mang đến cho mẹ con tớ niềm hạnh phúc này…
Mẹ Khải cũng cảm động lắm, bà đặt chén cơm đang ăn dở xuống bàn, mắt rưng rưng mà không nói nên lời.
Đạo ngại ngùng:
- Sao cậu lại nói thế? Bọn mình phải cảm ơn bác và cậu mới đúng chứ!...
Tôi xen vào để phá tan cái không khí  “ơn huệ” này, đồng thời cũng để giải tỏa chút thắc mắc cá nhân:
- Ủa, vậy chứ ở đây không hề có tiệc tùng đình đám hay khách khứa viếng thăm sao, Khải?
Khải lắc đầu, đưa mắt nhìn mẹ.
Mẹ Khải thở dài:
- Làng này có một điểm đặc biệt chung, đó là tất cả dân cư ở đây đều từ những nơi khác trôi dạt đến, mà người nào cũng có một quá khứ rất nặng nề, nặng nề đến nỗi đáng lẽ họ đã tìm tới cái chết để giải thoát, nhưng có lẽ vì chưa hết số nên họ không thể chết được. Và họ đã đến đây để trốn lánh cuộc sống bình thường bên ngoài. Họ cắt đứt toàn bộ các mối dây liên lạc năm xưa. Đặt chân tới đây là coi như họ đơn thân độc mã, không bạn bè, không người thân, không có bất cứ sự giao tiếp thân tình nào với bên ngoài. Chỉ có Khải là người duy nhất không như thế, vì bác muốn con trai bác được nhìn thấy thế giới bên ngoài, dù bác không muốn nó sống trong cái thế giới đó, nhưng bác vẫn muốn nó biết để tìm hiểu và chọn lựa cuộc sống của riêng nó khi bác không còn sống trên đời này nữa.
Mẹ Khải trầm ngâm một chút, cả mấy đứa chúng tôi không ai dám lên tiếng.
- Tuy họ đã rời xa chốn cũ, cắt đứt mọi liên lạc thân thiết với bên ngoài nhưng họ vẫn không sao xóa nhòa được nỗi đau mà bản thân họ đã phải hứng chịu. Cho nên ngày qua ngày, tháng qua tháng rồi năm lại qua năm, họ vẫn làm lụng để kiếm sống nhưng họ luôn ôm ấp nỗi đau của mình, không mở lòng ra được.
Không ai quan tâm tới ai, nhưng khi có ai đó cần giúp đỡ thì họ rất sẵn lòng, chứ họ không phải là những người bàng quang, ích kỷ hay độc ác. Mà chỉ vì nỗi đau của họ quá lớn, che khuất tầm nhìn của họ, chỉ khi nào có ai đó lên tiếng thì họ mới để mắt tới.
Cũng như hiện tại, mặc dù sự xuất hiện của các cháu trong làng này là một điều đặc biệt, chưa từng xảy ra, nhưng sẽ không ai tò mò thắc mắc. Đó là điều đặc biệt ở làng này!
Chúng tôi đã từng nghe Khải kể về những chuyện “không giống ai” của làng mình, nhưng hôm nay nghe mẹ Khải nói thêm về những điểm đó, cả mấy đứa đều không khỏi ngạc nhiên.
- Kể ra sống như vậy cũng có nhiều điều hay, nhưng…
Tân đang nói dở dang thì nhận được một cái bấm nhẹ vào chân để nhắc nhở của tôi, cậu ta lập tức lấp liếm:
- Nhưng… lạ quá!
Khải gật gù:
- Tớ sinh ra và lớn lên ở tại đây, mà khi đem so sánh làng mình với xã hội bên ngoài còn thấy lạ huống hồ gì các cậu!
Thế là suốt bữa cơm hôm đó, chúng tôi cứ nói chuyện xoay quanh những chuyện lạ trong làng.
Kể ra như vậy cũng tốt, không ai xoi mói, dòm ngó lẫn nhau thì cuộc sống cũng sẽ nhẹ nhàng nhiều lắm.
Người ta có thể thoải mái sống theo ý thích của mình mà không sợ điều tiếng gì, không phải sống gò bó vào một khuôn khổ nào đó!
Xong bữa cơm, dù mẹ Khải cố ngăn cản những chúng tôi nhất quyết không để bà phải đụng tay vào chuyện dọn dẹp. Tuy là con trai, nhưng bốn đứa chúng tôi cũng đã sống tự lập từ lâu nên chuyện dọn dẹp chén bát không hề có sự lóng ngóng ngỡ ngàng nào.
Chỉ loáng một cái tất cả đều gọn sạch. Mẹ Khải cười tươi:
- Các cháu giỏi quá!
Và sau một loáng ồn ào vui nhộn, cả đám chúng tôi chào mẹ Khải rồi hí hửng theo Khải lên rừng.
Chương trình hôm nay của chúng tôi hôm nay là theo Khải đi rẫy cho biết rồi sau đó sẽ đi sâu vào rừng bẫy thú, đến chiều mát sẽ quay về.
Thức ăn đem theo được mẹ Khải gói ghém cẩn thận bằng mấy chiếc lá rừng trông như một cái bánh, trông rất thích mắt.
Khỏi phải nói cũng biết chúng tôi mê mẩn thế nào với việc săn bắn và bẫy thú đó. Nhưng do tính nóng nảy và bộp chộp của mấy đứa con trai thành phố chúng tôi mà làm cho cuộc đi săn hôm ấy bị thất bại. Tuy nhiên cũng không đến nỗi phải về tay không, Tân hãnh diện xách lủng lẳng hai con thỏ rừng với mấy chú chim y như chiến tích của mình vậy, nhưng thật ra, chính do sự ngăn cản kịp thời của Khải, không cho Tân nhào ra sớm mới đạt được kết quả đó.
Tối hôm đó, chúng tôi ăn uống nói cười với nhau đến tận mười giờ mới lúc tục kéo về chỗ ngủ. Dù chúng tôi cố ngăn cản nhưng Khải vẫn một mực theo tiễn chúng tôi đến trước cổng nhà. Khi cả bốn đứa đều đã vào trong sân, Khải mới chịu quay về.
Chúng tôi hơi lo lo, không biết đi về khuya khoắt thế này có làm phiền ông lão Tứ hay không, nhưng lúc nãy mẹ Khải có nói rồi, ông sẽ không phiền trách gì đâu, nên nỗi lo của chúng tôi cũng nhẹ đi đôi chút.
Trong nhà tối thui không một tia sáng nhỏ nào. May nhờ tôi có mang theo cây đèn pin, các bạn vẫn cười tôi có tính lo xa, chu đáo như phụ nữ, nhưng trong nhiều trường hợp, chính nhờ cái tính đấy của tôi đã giúp ích được rất nhiều việc.
Bật đèn pin, quét một lượt quanh nhà vẫn không thấy ai mà cửa lại không khóa chỉ khép hờ.
Tôi vừa định lên tiếng gọi ông Tứ thì đã nghe tiếng ông:
- Cứ về phòng ngủ đi!
Thế là chúng tôi chẳng ai nói lời nào, nhanh nhẹn nhảy phốc lên cầu thang về phòng mình.
- Cái ông lão này hà tiện từng lời nói, khiến mình cũng dám bắt chuyện để làm thân!
Phục cằn nhằn.
Tôi cười:
- Cậu quên những lời mẹ Khải kể lúc sáng rồi sao? Những người ở làng này đều như thế cả mà! Họ không muốn kết thân với ai và cũng không muốn ai bắt chuyện làm thân với họ. Bởi thế cậu hãy quên ngay cái ý nghĩ ấy đi!
Nghe tôi nói vậy, Phục làu bàu gì đó trong miệng rồi ngã người xuống sàn với vẻ thoải mái.
Những ngày tiếp sau đó, chúng tôi vẫn giữ nếp sinh hoạt đều đặn. Sáng sáng xuống nhà Khải dùng cơm sáng rồi đi rẫy, đi rừng với Khải trọn buổi sáng. Chỉ sau một tuần lễ, chúng tôi đã khá thành thạo với việc đồng áng và cũng có một vài kinh nghiệm trong việc săn bắn.
Buổi chiều chúng tôi không tham gia vào công việc với Khải mà bắt tay vào công việc của riêng mình. Có hôm chúng tôi về nơi ở để vẽ, có hôm chúng tôi mang theo mang theo dụng cụ để làm việc trong rừng hoặc ngay trên nương rẫy mà mẹ con Khải đang làm lụng.

Có lúc, ban ngày chúng tôi lại đi dạo quanh làng hoặc lên rừng ngắm cảnh mà không săn bắn…
Và rồi vì công việc, có hôm chúng tôi không đi chung nhau, mà mỗi đứa đi lang thang riêng một hướng để tìm ý tưởng cho mình.
Chúng tôi đã quen với sự thờ ơ của ông Từ nên việc đi sớm về muộn, đứa về trước đứa về sau cũng không lo lắng gì nữa, và coi đó là nơi có thể đi về bất cứ lúc nào không làm phiền phức tới ai.
Bởi vậy, có khi mấy ngày liền chúng tôi không thấy ông Từ và cũng không ai thắc mắc ông đang làm gì, đang ở đâu.
Ngày ngày cứ trôi qua như thế.
3. Những ngày kinh hoàng
 
Một hôm, sau khi ăn cơm tối xong, tôi hơi mệt nên về trước. Về tới nơi, tôi lăn ra ngủ thiếp di lúc nào không hay. Đến lúc thức dậy không thấy ai cả nên tôi đi xuống tầng dưới để tìm xem các bạn đã về hay chưa.
Gõ mãi cửa mới mở, tôi đang định hỏi Đạo làm gì thì thấy nó với Tân đang xịu mặt ra nhìn tôi. Tôi cứ tưởng hai chúng nó cãi nhau.
Vừa tính mượn cớ để rút lui thì Đạo nói:
- Này, Đăng… tớ hỏi cậu chuyện này nhé… tối hôm qua cậu có nghe tiếng khóc không?
- Khóc? Tiếng khóc gì?
Tôi giật mình hỏi lại.
Đạo nói nhỏ:
- Hai giờ đêm hôm qua, hai đứa chúng tớ đang ngủ thì bỗng nhiên tỉnh dậy, nghe bên ngoài có tiếng khóc hu hu. Mẹ kiếp! Nó làm tớ sợ chết khiếp! Suốt ngày hôm nay đã mấy lần tớ muốn kể nhưng Tân cản lại, không muốn các cậu hoang mang, nhưng thật sự khi màn đêm buông xuống thế này thì tớ và Tân đều cảm thấy rất không an toàn, rất sợ hãi…
- Cậu nói có tiếng khóc? Ở đâu?...
Tôi hỏi.
Tân run run đưa tay chỉ.
Tôi chau mày lại nhìn ra bên ngoài cửa sổ, nơi mà tối hôm chúng nó bảo có người khóc và nói:
- Tớ nhát gan, hay sợ, các cậu đừng dọa tớ đấy! Chuyện này là thật hay giả?
- Ai nói gạt cậu làm gì?
Đạo nhìn thẳng vào tôi. Tân đang đứng bên cạnh cũng hướng ánh mắt vào tôi.
- Vậy… vậy… ngoài kia có ai ở không?
Tôi nhìn đi nhìn lại cánh cửa phòng và tấm vách gỗ.
Đạo nói:
- Lúc trưa, tớ có xuống hỏi ông Tứ, nhưng không nhắc đến chuyện hôm qua, sợ ông ta cho rằng chúng ta bịa đặt nhiều chuyện. Ông Tứ bảo bên kia vách của phòng này là cái kho chứa đủ thứ đồ vật linh tinh… Bình thường cánh cửa đó khóa suốt, không có ai ra vào được, cũng không có ai sống trong đó.
Lập tức tôi sởn hết gai ốc nói:
- Trong đó không có ai, vậy tiếng khóc đó từ đâu ra? Cậu… hai cậu có nghe đúng là tiếng khóc không? Hay là tiếng gió?
Đạo quả quyết:
- Rõ ràng cả hai đứa chúng tớ cùng nghe chứ nào phải đâu riêng tớ mà bảo là mơ ngủ hay hoang tưởng gì gì ấy! Nửa đêm lặng ngắt như tờ, nên vừa có tiếng khóc là nghe rất rõ, nghe tiếng thì biết chắc là con gái, mà không, là tiếng khóc của phụ nữ đứng tuổi thì đúng hơn. Tiếng khóc nghe thảm lắm, nghe tức tưởi thế nào ấy…
Tôi ấp úng:
- Bây giờ mình phải làm sao đây? Có cần gọi ông Tứ lên để hỏi lại không?
Đạol nghe tôi nói lắc đầu bảo:
- Thôi được rồi! Thôi được rồi! Muộn thế này mà còn hỏi gì… nếu trong đó có người thật thì đáng sợ quá!
Đạo vừa dứt lời, cái cảm giác sợ hãi đã tràn ngập bủa vây lấy tôi.
Tôi cắn răng mím môi hỏi:
- Vậy tối nay các cậu định thế nào?
- Còn định thế nào được nữa? Đành phải ráng mà ngủ thôi chứ biết làm sao bây giờ?
Tân ngao ngán nói.
Tôi gợi ý:
- Hay các cậu lên trên ngủ với tớ và Phục đi!
Đạo lắc đầu:
- Không được, mình phải giữ đúng nguyên tắc chứ! Phải để cho mỗi người có không gian sáng tác riêng, nếu dồn lên đó ở một đêm thì không sao chứ ở hoài làm sao chúng ta làm việc được trong cái khung cảnh nhỏ hẹp chật chội như thế? Mà ở tạm một đêm thì ở làm gì, chi bằng cứ cố ở lại đây…
Ngập ngừng một chút, tôi nói:
- Vậy tớ sẽ mở điện thoại nhé! Có chuyện gì cứ gọi cho tớ. Mấy hôm rồi bọn mình sợ máy hết pin nên không dám mở, tối nay thì phải sử dụng thôi!
Đạo và Tân gật đầu đồng ý.
Khi ra về tôi liếc nhìn căn phòng chứa đồ linh tinh kia, chỉ thấy chiếc khóa to tướng nằm ngang trên then cửa đã han gỉ chứng tỏ lâu lắm rồi không ai ra vô căn phòng đó.
Tôi về phòng không bao lâu thì Phục về tới. Tôi ngại Phục lo sợ nên không kể lại với cậu ấy, chỉ nằm đọc sách với vẻ trầm tĩnh.
Phục cởi giày rồi lăn ra sàn nhà vớ lấy một quyển sách cùng xem chung một ngọn đèn với tôi.
Đột nhiên Phục ngẩng đầu lên hỏi:
- À đúng rồi, khi nãy vừa lên phòng tớ ngửi có mùi lạ, cậu có ngửi thấy gì không?
- Không! Cậu ngửi thấy mùi gì thế?
Tôi hỏi lại.
- Trong phòng này hình như có mùi gì đó, giống như là mùi chuột chết!
Phục vừa nói vừa nhìn quanh.
- Không có đâu, trong phòng này có chỗ nào chất đồ đạc hay rác rưởi gì đâu? Làm sao có chuột chết được? Hơn nữa ở đây lạnh thế này làm sao có chuột được?
Tôi nói.
Phục ngắt lời:
- Không, không! Tớ chưa nói hết, có mùi là lạ nhưng sau đi vài bước lại không thấy mùi đó nữa!
- Đột nhiên không ngửi thấy mùi đó nữa à? Cậu nói thế là sao?
Tôi thắc mắc.
- Khi tớ phát hiện ra mùi lạ, tớ nhìn quanh quất để tìm xem mùi thối ở đâu ra, đúng lúc đó tự nhiên có người đến…
- Có người đến à? Ai thế?
Phục đang kể, tôi ngắt lời vì quá nôn nóng.
Phục lắc đầu:
- Tớ không biết, xem cách ăn mặc thì cô ta có vẻ cũng nghèo nàn lắm, cô ta không nhìn thẳng vào tớ mà chỉ đi lướt qua bên tớ một cái rồi xuống thang gác.
- Cô ấy là người trong vùng này à? Có phải mùi tỏa ra từ người cô ta không?
Tôi càng thắc mắc.
- Hình như không phải, vì khi cô ta đến gần tớ thì mùi thối đó tớ không còn ngửi thấy nữa…
Phục nói.
- Cậu có thấy lạ không?
Tôi nhổm lên nhìn Phục.
- Lúc đó tớ không thấy gì lạ cả, nhưng nghĩ lại càng lúc càng thấy vô lý! Thôi… thôi… không nói chuyện này nữa! Tớ đã hơi hoang mang mà thái độ của cậu làm tớ sợ rồi đây này!
Trong đầu tôi bỗng hiện ra một bóng đen, đồng thời tôi còn tưởng tượng ra cả hình dáng của người đó nhưng không nói gì thêm nữa.
Cầm điện thoại lên xem, tôi thấy đã hơn mười giờ nhưng còn lâu mới đến cái giờ nghe có tiếng người khóc mà Đạo nói.
Hôm nay tôi mở điện thoại suốt, tôi dự cảm có điều gì đó sắp xảy ra.
Tôi vất cuốn sách sang bên, nằm nghĩ lan man về cái mùi thối mà Phục vừa nói.
Phục cũng đã vất sách đi nãy giờ, co rúm người lại trong chăn, không biết vì lạnh hay là vì sợ.
Lúc đó, tôi như sực nhớ ra chuyện gì, quay đầu lại hỏi Phục:
- Đúng rồi, cậu bảo cô ta đi từ đâu xuống?
- Ai cơ?
Phục hỏi.
- Chính là người mà cậu đã gặp trên cầu thang đó!
Tôi lại nhổm dậy.
- Tầng hai!
Phục khẳng định.
- Chỗ nào của tầng hai? Là mặt nào của phòng Đạo ở?
- Là ở chỗ… là ở chỗ… tớ cũng không nhớ rõ!
Phục ấp úng.
- Có phải vách tường phía đông không? Có phải cái góc dể hành lý trong phòng Đạo không?
Tôi hấp tấp hỏi.
- Tớ cũng không nhớ hành lý đặt ở góc nào nữa. Cậu hỏi làm gì mà khẩn trương thế?
Phục nhìn tôi tò mò.
Tôi cười chống chế:
- Ồ, không có chuyện gì… chỉ tại… tớ hỏi cho biết thôi…
Tôi lại nằm vật xuống, vớ lấy quyển sách rồi lại vất đi. Cầm điện thọai lên xem, hơn mười một giờ đêm. Tôi đặt điện thoại ở đầu nằm, tắt đèn, căn phòng trở nên tối om, hai mắt tôi cố nhắm lại nhưng không tài nào ngủ được.
Tôi biết mình đang đợi điện thoại, nhưng thật lòng mà nói, tôi rất sợ phải nghe cuộc điện thoại này.
Không biết đã qua bao nhiêu thời gian, Phục đã ngủ say, tiếng thở yên tĩnh chầm chậm, nhưng nhịp tim tôi cứ đập liên hồi.
Tôi lại bật điện thoại lên xem, đúng mười hai giờ!
Trong đêm tối, cứ đợi mãi nhưng điện thoại vẫn không động tĩnh gì, tôi không chịu được nữa. Tôi quay đầu lại nhìn Phục, cậu ta vẫn đang ngủ say.
Tôi mò mẫm đi, lấy điện thoại soi đường, lón nhón đi dần ra ngoài. Gần đến cửa bỗng có điện thoại của Đạo gọi tới:
- A lô, thế nào rồi?
Tôi hỏi
- Chưa, chưa có gì cả!
Đạo trả lời.
- Nói đi, thần kinh tớ sắp đứt tung ra đây này, cậu gọi điện cho tớ làm gì thế?
Tôi cáu.
- Ha ha… thì gọi để cậu biết không có gì xảy ra, để cậu yên tâm mà ngủ! Vậy cũng mắng tớ được sao?
Đạo làm ra vẻ vô tội.
Tôi bực nhưng cố nén lại:
- Thế thì tốt rồi! Vậy chúng ta đi ngủ nhé?
- Ừ!
Tôi ngắt điện thoại, trở vào nằm xuống định ngủ. Nào ngờ vừa mới nhắm mắt chưa được mấy phút, chiếc điện thoại bên tai bỗng rung lên bần bật.
Tôi ngồi bật dậy, lật nắp điện thoại ra xem thì ra là Đạo đang gọi.
Trấn tĩnh một lúc tôi mới có thể bật nút nghe. Chỉ nghe trong điện thoại có tiếng gió, hình như Đạo sợ quá nên không nói được lời nào.
- Sao? Sao rồi?
Tôi hoảng quá.
Tiếng Đạo thì thào:
- Cậu đừng nói nữa, hãy lắng nghe đi, lắng nghe trong điện thoại đi!
Tôi liền im bặt, đặt loa điện thoại sát tai, chỉ nghe thấy tiếng xào xào nho nhỏ, hình như đó là tín hiệu nghe không rõ, ngoài ra không nghe thấy gì nữa.
Vừa toan hỏi thì bỗng “a”, tiếng khóc của một người phụ nữ vang đến, tiếng khóc như đâm vào màng nhĩ tôi. Không chịu được, tôi lắp bắp mấy tiếng và nhìn sang bên một cách vô thức, thấy Phục cũng đã tỉnh giấc từ lúc nào, đang sững sờ nhìn tôi.
Tôi trấn tĩnh lại, vừa nhìn Phục đang thần người ra vừa nói:
- Sao rồi? Sao rồi?
Chỉ nghe thấy tiếng lắp bắp bên kia đầu dây của Đạo, hình như cậu ta đang cố an ủi Tân đừng sợ… nhưng trong điện thoại vẫn còn nghe thấy tiếng gì đó từ xa nữa… có tiếng ồn nhưng không nghe rõ tiếng gì.
Tôi gần như hét lên:
- A lô, alô, nói đi chứ! Nói gì đi chứ!
Lúc đó Phục đã trườn lại gần bên tôi, ngước mắt hỏi:
- Có chuyện gì thế?
Tôi khoát tay ra hiệu cho Phục im lặng rồi nói:
- Alô, alô!...
Bên kia diện thoại có tiếng trả lời, nghe giọng Đạo run run nói:
- Lại… đến… nữa rồi! Cậu… các cậu nhanh xuống đay đi… cô ta hịen đang ở trước phòng tớ!
Tôi có cảm giác như trái tim sắp vọt ra khỏi miệng, nghẹn ở cổ họng không nói được.
Xuống đó ư? Như vậy không phải tự tìm đến cái chết sao?
Lúc đó cả hai đầu điện thoại không ai nói gì thêm nữa, vừa đờ ra được một lát, bên kia Đạo hét lớn:
- Cậu nghe đi! Cậu nghe đi, có nghe rõ không?
Thực ra, ngoài tiếng thở hổn hển của cậu ta ra, tôi không nghe thấy gì nữa cả. Nhưng tôi thấp thoáng nghe thấy tiếng xì xào, như có cái gì đó đang đi từ dưới tầng hai lên tầng tôi đang ở.
- Tớ không nghe thấy gì cả!
Tôi hét vào máy.
Và tôi bỗng nghe “ực” một tiếng, giống như Đạo vừa nuốt vật gì rất to vào cổ họng.
- Bây giờ thì hết rồi! Tiếng khóc đó đã ngưng rồi! Giờ các cậu có thể xuống đây không?
Đạo hỏi tôi.
- Bây… bây giờ ấy à?
Tôi nghiến chặt răng lại không biết nói gì, quả thật chúng tôi là bạn bè tốt của nhau, nhưng bây giờ mà cậu ta yêu cầu thế thì cũng khó cho tôi quá!
- Các cậu xuống đây đi!
Giọng nói của Đạo đáng thương quá, không giống như giọng nói thường ngày của cậu ta nữa.
Tôi nghiến chặt răng, liếc nhìn cánh cửa phòng nhưng cả người tôi như có ai đang ấn xuống đất, không thể đứng dậy, sau lưng tôi thì từng trận từng trận tê cứng.
- Tớ không dám xuống đó! Tớ quả thạt không dám xuống đó, các cậu lên đây đi!
Tôi nói gần như rên rĩ.
- Hai đứa bọn tớ không dám… ra cửa!
Đạo nói như khóc.
- Tớ cũng không dám, thật lòng tớ rất sợ!
Tôi cảm thấy không khí lúc này như đông lại.
Phục đứng bên cạnh tôi nói:
- Rốt cuộc có chuyện gì vậy? Cậu nói cho tớ biết, nhanh đi!...
Tôi biết không thể tiếp tục giấu Phục được nữa, và lúc này tôi cũng rất cần có người để chia sẻ và hỗ trợ nhau.
- Dưới đó có người khóc!
Tôi vừa nói xong, Phục giật thót người lại rồi kéo chăn cao hơn một tí và cứ nhìn vào mặt tôi trân trối.
- Không được! Không thể được! Chúng tớ không đứa nào dám xuống đó… Đúng rồi! Cậu gọi với xuống, kêu ông lão Từ dưới nhà đi!
Đạo vội vàng đáp:
- Được… được! Tớ quên mất. Cậu đợi điện thoại tớ nhé. Khi nào ông ta lên đây tớ lại gọi cho các cậu…
Tôi ném điện thoại xuống như ném quả lựu đạn, hai tay xoa mạnh với nhau cho đỡ tê lạnh. Phục chui đầu ra khỏi chăn, giương mắt nhìn tôi, chúng tôi bốn mắt nhìn nhau không nói được gì!
Lúc đó, tôi nghe tàng dưới có tiếng gọi to của Đạo:
- Bác Từ ơi… Bác Từ ơi… làm ơn lên đây chút…
Không nghe tiếng ông Từ trả lời, nhưng ngay sau đó có tiếng “Bùng! Bùng! Bùng!” như tiếng ai đang chạy trên cầu thang, rồi nghe cả tiếng mở cửa, trong đêm tối đầy căng thẳng, tôi nghe như bốn bức tường nhè nhẹ rung…
Tôi nghĩ là tiếng bước chân người dưới đất chạy lên mạnh quá nên như thế, cũng tại Đạo và Tân không chịu xuống dưới nhà mà gọi người ta…
Một lúc sau tiếng ồn đã hết, điện thoại tôi lại đổ chuông, là Đạo gọi cho tôi.
- Xuống đây đi! Có ông Từ đến rồi!
Cậu ta nói lớn.
Tôi vội vàng đứng lên kéo Phục chuẩn bị xuống tầng dưới.
Cầu thang tối om không thấy gì cả mà tôi lại quên cầm theo đèn pin, cũng không bíet sao lúc đó tôi không dùng điện thoại để soi đường. Hai chúng tôi lần mò trong bóng tối xuống tầng hai.
Ai ngờ đâu, vừa mới đi được mấy bước, chúng tôi bỗng ngửi thấy mùi xác thối.
- Chính là mùi thối này đấy!
Phục run giọng nói.
Tôi sợ đến nỗi không dám bước tiếp, dừng lại thì không ngửi thấy mùi thối đó nữa.
Tôi mơ hồ cảm thấy có gì đó đang vật vờ trước mặt, nhưng không nhìn rõ. Tôi ý thức được rằng không thể đứng đây lâu được, liền kéo tay Phục tiếp tục đi. Trong lúc đi, tôi cố gắng nện chân thật mạnh để lấy can đảm.
Cả hai chúng tôi ngoặt qua một ngã rẽ tiến tới phòng của Tân và Đạo, đèn trong phòng cậu ta vẫn còn sáng. Lúc đó tôi mới thấy một người đang khom lưng ngồi trước cửa phòng.
Tôi đang sợ đến thừ cả người không cất tiếng kêu được thì bỗng người đó quay lại nhìn tôi, khuôn mặt đen ngòm.
Tôi định thần nhìn kỹ thì ra là ông Từ. Lúc đó tôi mới nhẹ cả người, đi mạnh mấy bước để tiến đến gần, hóa ra ông ta đang lom khom lục lọi cái gì đó trước phòng kho.
Tôi và Phục đến trước cửa phòng Đạo mới phát hiện thấy cửa bên ngoài nơi vào phòng kho vẫn đóng im ỉm, nhưng cánh cửa gỗ bên trong đã mở tự bao giờ.
Đạo và Tân đang theo dõi ông Từ phía bên kia cánh cửa, không nói không rằng, khi thấy chúng tôi xuống tới mới vội vàng mở cửa cho chúng tôi vào phòng rồi nói với ông Từ:
- Bác Từ ơi… có khả năng… có ai ở trong đó không?
Ông Từ nói:
- Nhà này ngoài các cậu ra thường chỉ có mỗi mình tôi ở.
Rồi ông không nói gì thêm, chỉ lấy chùm chìa khóa đủ các cỡ chìa trong người ra, rồi cắm cúi mở cửa.
Lúc đó Phục bỗng nói:
- Này cậu, không còn nghe thấy mùi xác thối đó nữa!
- Ừ!
Tôi nói sau khi hít một hơi không thấy mùi gì cả.
Tân quay sang hỏi chúng tôi:
- Mùi gì? Hai cậu nói mùi gì thế?
- Hôm nay, Phục khi đi lên tầng trên thì ngửi thấy mùi gì là lạ, vừa nãy lúc đi xuống đây cả hai chúng tôi lại ngửi tháy mùi thối đó!
Tôi kể.
- Mùi thối? Các cậu muốn nói mùi thối gì?
Tân tò mò giương mắt nhìn tôi.
- Cũng không rõ mùi thối gì… nói không chừng… nhưng thoắt một cái đã không ngửi thấy mùi gì nữa cả!
Tôi ngao ngán trả lời. Tân và Đạo không hỏi gì thêm nữa, hình như cả hai đứa đang bận suy nghĩ gì ghê lắm.
Tôi thấy lòng mình xáo trộn lên khi nghe Tân hỏi về chuyện này. Hình như những chuyện kỳ quái này có liên quan với nhau, nhưng tạm thời tôi không biết chúng liên quan như thế nào.
Lúc đó ông Từ lấy chiếc chìa khóa để tách hẳn với các chìa khóa khác ra rồi đi về phía cánh cửa phòng kho.
Đúng là chìa khóa của phòng đó rồi, ông vặn nửa vòng, “tách” một tiếng, ổ khóa mở ra, tim tôi như đông cứng lại trong khi ông Từ mở cửa căn phòng.
Tôi liếc mắt nhìn qua ông và có cảm giác như mặt ông trắng bệch.
Tôi hồi hộp chờ đợi hành động tiếp theo của ông Từ, tưởng tượng ông sẽ thét lên một tiếng, lùi lại mấy bước rồi tháo chạy như ma đuổi.
Nhưng chỉ thấy ông ta đưa tay đẩy nhẹ cánh cửa, tách một tiếng, cánh cửa mở toác ra.
Ông Từ có vẻ rất điềm tĩnh, ngồi xổm trước cửa rọi đèn nhìn vào trong, rồi quay đầu lại nói với chúng tôi:
- Không có gì trong đây cả!
- Không có gì cả sao?
Đạo vừa thốt lên vừa nhìn tôi. Hơi do dự, Đạo nhè nhẹ đẩy cửa, hai chúng tôi cùng nhau đi vào. Cánh cửa giờ đây đã mở toang ra, ánh đèn trên tay Đạo soi rọi khắp căn phòng. Căn phòng nhỏ cỏn con, chỉ rộng khoảng hai đến ba mét vuông gì thôi, ngoài một chiếc tủ gỗ đã xiêu vẹo không còn cánh cửa còn lại toàn là những thứ linh tinh nhỏ nhặt nằm rải rác khắp dưới nền nhà.
Trên tất cả mọi thứ đồ đọc trong đó đều có một lớp bụi phủ dày như một minh chứng rằng đã qua một khoảng thời gian rất lâu không hề có ai đặt chân vào căn này cả.
Ngoài những điều đó ra hoàn toàn không phát hiện được gì thêm nữa!
Tôi như trút được gánh nặng, nói với Tân và Phục đang đứng trước cửa rằng:
- Thôi, không có việc gì cả, mình về phòng ngủ thôi!
Ông Từ khoát tay rồi đóng chặt cửa lại, lầm bầm:
- Không có việc gì cả, ngủ đi!
Nói xong ông đi xuống, rồi chẳng thấy gì nữa, phía dưới chỉ toàn là bóng đêm.
Cả bốn đứa chúng tôi thở phào nhẹ nhõm, tôi nhìn Đạo, cậu ta nhớ lại chuyện lúc nãy, đưa tay bối rối gãi đầu nói:
- Không sao rồi, các cậu lên ngủ tiếp đi!
Tôi chợt phá ra cười ngặt nghẽo làm cả mấy đứa bạn trố mắt ra nhìn không hiểu lý do gì.
- Sao cậu lại cười?
Tân hỏi.
Tôi cố nén cơn buồn cười cứ dồn lên đến nghẹn thở:
- Hi hi hi… ha ha ha… có trải qua những lúc như thế này mình mới test được lòng dũng cảm của mình! Hóa ra… cả bốn thằng đều nhát như thỏ đế!
Đạo, Tân và Phục đều cười lỏn lẻn, như xác nhận cho cái tật sợ ma của chính bản thân mình.
Suốt đêm hôm đó, chiếc điện thoại của tôi quả nhiên không đổ chuông nữa, cũng chẳng ngửi thấy mùi gì nữa, đến lúc này chúng tôi mới cảm thấy hoàn toàn yên tâm.
Sáng sớm hôm sau, vừa thức dậy là tôi nhảy phốc xuống tầng hai, gõ cửa phòng của Tân và Đạo hỏi xem có gì lạ không.
Đạo và Tân đều bảo không có gì  xảy ra nữa nhưng suốt đêm cả hai vẫn không sao ngủ yên được, cứ thao thức bồn chồn mãi.
Chuyện trò một lúc rồi cả bốn đứa rủ nhau về nhà Khải.
Mắt Tân đỏ ngầu vì đêm qua không ngủ được. Cậu ta vừa đi vừa ngáp:
- Các cậu này, mình có nên nói với Khải không?
- Nói chuyện gì?
Tôi hỏi
- Chuyện ma lúc nửa đêm ấy!
Tân đáp.
- Bộ cậu tính để cho Khải cười bọn mình đến chết luôn sao? Ma quái cái gì kia chứ? Hôm qua cậu thấy cả rồi đấy, chẳng có cái khỉ gió gì cả, toàn là do bọn mình quá sợ hãi mà tưởng tượng ra thôi…
Tôi gạt đi.
Nhưng Đạo vẫn không đồng ý:
- Vậy cậu nói tiếng khóc lúc nửa đêm hôm qua là tiếng gì?
Tôi ngắc ngứ:
- Tôi nghĩ… tôi nghĩ đó là do mình tưởng tượng ra. Nơi mà chúng ta đang trọ phía sau là rừng rậm, tiếng gió thổi vào lá cây xào xạc, mình cả nghĩ lại khéo tưởng tượng nên nghe thành tiếng khóc thế thôi. Thôi, đừng nghĩ nhiều nữa, cũng đừng đem chuyện này ra kể với ai, người ta cười cho đấy!...
Đạo không nói gì thêm, chắc là ít nhiều cũng đã bị tôi thuyết phục nên cảm thấy yên tâm hơn.
Sau bữa cơm sáng, chúng tôi lại chia nhau đi lang thang như thường lệ. Đến quá trưa, tôi tìm không thấy Đạo và Tân đâu, nghĩ chắc chúng đã về nhà trọ để ngủ bù cho đêm qua. Tôi cũng cảm thấy người mỏi mệt nên rủ Phục cùng quay về.
Khi vào nhà, hai đứa tôi gặp ông Từ đang ngồi hút thuốc bằng một chiếc tẩu thật dài, tiếng rít thuốc òng ọc và khỏi tỏa ra dày đặc khiến tôi phải đưa tay che mũi mới có thể bước vào nhà.
Hai đứa tôi khẽ gật đầu chào ông như tỏ ý muốn cảm ơn ông về chuyện hôm qua, nhưng ông Từ làm như không hề nhìn thấy chúng tôi, ánh mắt ông vẫn nhìn ra xa một cách vô cảm.
Phục bấm nhẹ vào vai tôi và hai đứa nhanh chân bwosc lên cầu thang, không dám nấn ná làm phiền ông thêm nữa.
Vừa lên tới tầng hai tôi bỗng thấy hình như có một người phụ nữ nào đó đang đứng lấp ló ở góc cầu thang, mặc áo màu xanh, mái tóc rối bời đã điểm bạc.
Bà ta quay lưng lại phía chúng tôi, đang cầm giẻ lau lau nền cầu thang, bên cạnh bà ta có chiếc thùng đựng rác bằng nhựa màu đỏ hồng.
Tôi nhìn lướt qua bà ta, chân vẫn bước đều tiếp tục đi lên tầng ba, nhưng bất ngờ Phục bấu chặt vào tay tôi. Tôi bị Phục bấu liền dừng lại ngay, quay đầu nhìn Phục, chỉ thấy cậu ta đang nhìn chằm chằm vào người đàn bà kia vẻ mặt đầy căng thẳng.
- Gì thế?
Tôi hỏi.
Phục lắc đầu hoảng hốt nhưng không nói gì.
Phía rẽ ngoặt lên tầng ba chỉ có hai chúng tôi, không biết người đàn bà kia có biết được hai chúng tôi xuất hiện không nhưng chắc là không vì vì vẫn một mực lau chùi sàn nhà…
Tôi linh cảm có điều gì đó bất ổn nhưng không dám nói bừa, trong lúc tinh thần hoảng loạn, tôi đưa tay chỉ về phía cửa phòng Đạo ra ý nói với Phục rằng, chúng ta nên đi tìm Đạo và Tân.
Phục khoát tay lia lịa rồi dùng sức đẩy tôi tiếp tục đi lên tầng ba, vừa đi vừa chỉ xuống chân tôi ý nói nên đi nhẹ tiếng một chút.
Hai đứa chúng tôi nắm chặt tay nhau nhón từng bước nhè nhẹ lên trên, không dám để phát ra tiếng động nào, đồng thời thỉnh thoảng lại liếc nhìn xem bóng người đó có lên theo chúng tôi không. Nhưng hình như bà ta không có động thái gì, cứ xoay lưng lại với chúng tôi nên hai đứa tôi không nhìn rõ mặt bà ta.
Khó khăn lắm chúng tôi mới lên được tầng ba, tôi hết sức nhẹ nhàng mở cửa, rồi cả hai lẻn vào trong như hai tên trộm.
Vào phòng, tôi thấy trán mình vả mồ hôi và Phục cũng không khá hơn là mấy. Trong lòng tôi lại cứ thấp tha thấp thỏm.
- Người phụ nữ đó là ai? Có chuyện gì mà cậu có vẻ hoảng hốt khi trông thấy bà ấy đến thế?
Tôi thắc mắc hỏi Phục.
- Người mà tớ thấy hôm trước chính là bà ta!
Phục bảo.
- Cậu nói là người có mùi thối phát ra? Tại sao vừa rồi chúng ta chẳng ngửi thấy thấy mùi gì cả?
Tôi ngạc nhiên.
- Không biết… tớ thật sự không biết…
Phục ôm đầu khổ sở.
- Mấy hôm trước sao không thấy người đàn bà đó? Mùi hôi thối kia liệu có liên quan gì đến bà ta hay không?
Trong đầu tôi cứ tua đi tua lại cảnh tượng vừa trông thấy ở chân cầu thang lúc nãy, nhớ lại vóc dáng bà ta. Bà ta không cao, nhìn từ sau cũng đoán được bà ta có nước da đen đen, đầu tóc đã bạc quá nửa, chắc có lẽ tuổi cũng đã khá cao…
Lúc đó bất chợt tôi nhớ đến câu nói của Đạo, cậu ta nói tiếng khóc lúc nửa đêm là tiếng khóc của một người phụ nữ khá lớn tuổi.
- Tuổi bà ấy khá lớn…
Tôi nhẩm đi nhẩm lại câu nói ấy của Đạo, rồi tưởng tượng vóc dáng của người đàn bà, không nhịn được nên miệng tôi cứ lắp bắp.
Trong lúc suy nghĩ, bỗng một cảm giác cứ rõ ràng hiện lên trong đầu tôi, có thể là gặp phải ma quỷ rồi đây.
Tôi vẫn thường nghe người ta nói nơi núi rừng thâm u chính là nơi các hồn ma thường tìm về nương náu, phải chăng căn nhà này, những căn phòng này là nơi trú ngụ của các vong hồn không nơi nương tựa, mà chúng tôi đã vô tình chiếm giữ nên mới đánh động cuộc sống bình yên của họ, khiến họ đêm đêm phải khóc than kể lể và ban ngày thì hiện hình để dọa nạt hòng đuổi chúng tôi ra khỏi nơi đây?
Tôi còn đang run rẩy với cái ý nghĩ ấy thì nghe ở tầng dưới có tiếng chân nện mạnh và tiếng cười đùa của Đạo và Tân.
Mừng quá, tôi đứng phắt dậy chạy tới mở toang cánh cửa và gọi to:
- Tân, Đạo! Các cậu đã về rồi phải không?
- Ừ, chúng tới vừa về đến! Hôm nay chúng tớ làm việc hăng say lắm nhé! Đạt được bao nhiêu là thành quả!...
Tiếng Tân vui vẻ phấn chấn như chưa từng trải qua cơn hoảng loạn đêm qua. Nhưng nhờ sự phấn chấn đó của Tân đã phá tan cái không khí âm u mà tôi có cảm giác như nó đang bao bọc lấy ngôi nhà.
Liếc mắt nhìn về phía goc cầu thang, nơi có người đàn bà hiện diện khi nãy, tôi thấy không còn ai ở đó. Nền nhà sạch bóng, chắc chắn là nhờ sự lau chùi cẩn thận của bà ta.
Tôi quay vào phòng, vẫy tay ra hiệu cho Phục rồi chạy tót xuống tầng hai.
Tôi định kể cho Đạo và Tân nghe chuyện vừa xảy ra lúc nãy và những ý nghĩ phán đoán của mình, nhưng tôi kịp thời dừng lại. Hai đứa nó vừa trải qua một đêm thức trắng vì lo sợ, tôi không nên làm chúng hoang mang thêm nữa. Thôi thì cứ giữ kín chuyện này, nếu những ngày tiếp theo sau mọi việc bình thường thì không có gì để nói nữa, còn nếu lại tiếp tục xảy ra những việc không hay, thì khi đó tôi sẽ nói ra rồi cả bọn sẽ từ giã nơi đây để quay về với thành phố ồn ào náo nhiệt.
Thành thực mà nói, chúng tôi đứa nào cũng yêu thích cuộc sống ở đây. Công việc của chúng tôi cũng rất hiệu quả khi sáng tác trong một môi trường thích hợp như thế này. Nếu bắt buộc phải quay về khi mọi việc còn dang dở thì quả thật đó là một sự tiếc nuối vô cùng!
Tôi ngồi chơi, nói chuyện lếu láo với hai đứa bạn một lúc rồi trở về phòng mình lăn ra ngủ một giấc ngon lành. Mãi đến chiều tối, Phục gọi dậy đi xuống nhà Khải ăn cơm mà tôi vẫn chưa tỉnh ngủ.
Tối hôm đó khi từ nhà Khải về, vừa tới cổng nhà, cả mấy đứa chúng tôi giật bắn người khi nghe tiếng kêu quái dị ngay trên mái nhà.
Bốn đứa chúng tôi đều sởn cả gai ốc, đứng túm tụm lại bên nhau. Cũng may là lúc đó Khải vẫn chưa quay về. Thấy chúng tôi có vẻ lo lắng thái quá, Khải bật cười:
- Các cậu đừng lo, đó chỉ là tiếng kêu của con chim cú mèo thôi mà! Mặc dù có người bảo, đó là loài chim mang đến điềm xấu, nhưng tớ thì không tin lắm… Thôi, các cậu mau vào nhà đi, ở ngoài này sương xuống nhiều lắm rồi không khéo sẽ ngã bệnh đấy!
Khải mở rộng cánh cổng cho chúng tôi vào rồi cậu ta cẩn thận đóng kín lại trước khi quay trở lại nhà mình. Đêm nào Khải cũng đi mấy cây số để đưa chúng tôi về nơi ngủ như thế!
Bốn đứa tôi cố gắng ổn định tinh thaafn, rằng đó chẳng qua chỉ là tiếng của một loài chim không có gì đáng quan tâm lo sợ.
Tất cả về phong mình cố dỗ giấc ngủ nhưng rồi khong đứa nào ngủ yên được vì con chim ấy cứ kêu lên những tiếng ghê rợn suốt đêm…
Trời hừng sáng, tiếng chim không còn kêu nữa. Tôi gọi Phục:
- Dậy! Tớ với cậu chạy ra ngoài xem con chim đó thế nào mà có tiếng kêu rùng rợn đến vậy?
Không phải chúng tôi không biết chim cú mèo, nhưng thật sự chưa lần nào được chứng kiến tận mắt.
Tôi và Phục vừa lò dò xuống tới tầng hai thì gặp Tân và Đạo cũng từ trong phòng bước ra. Hóa ra cả bốn đứa chúng tôi đều có chung ý đi xem cho tận mắt loài chim đó!
Xuống tới tầng trệt, chúng tôi thấy ông Từ đang ngồi trầm ngâm bên chiếc bàn kê giữa nhà.
Tôi nhanh miệng:
- Chào bác, bác dậy sớm thế à?
- Ừ!
Ông Từ trả lời, vẻ mặt không có vẻ hờ hững như những lần trước. Vì vậy tôi đánh bạo hỏi tiếp:
- Bác ở đây bao lâu rồi ạ?
- Nửa năm!
Ông Từ vẫn trả lời ngắn gọn
- Thế ạ! À, hôm qua chúng cháu thấy có một người đàn bà lên gác, bà ta là…
Ông Từ không đợi tôi hỏi hết câu đã cắt ngang trả lời:
- Bà ấy giúp dọn vệ sinh ở đây!
- Thế à!
Tôi gật gật đầu thấy hơi yên tâm.
Ông Từ đứng lên đi vào căn buồng cạnh đó như muốn chấm dứt câu chuyện vớ vẩn với mấy đứa bọn tôi.
Bốn đứa nhìn nhau thở phào và cùng đi ra sân. Dù sao biết bà ấy là ai cũng đã giải tỏa những nỗi lo sợ vu vơ trong lòng mỗi đứa.
Vừa ra đến khoảnh sân, cả bốn đứa tôi cùng hốt hoảng đứng khựng ngay lại.
Trên giữa lối đi là một đống gì đó đang nằm im bất động nhưng trông rất ghê! Đó là một vật lông lá dày đặc, màu đỏ thẫm, dài khoảng hơn nửa thước, trông giống như hai cánh tay…
Chúng tôi chưa kịp kêu lên thì ông Từ ra tới, thoáng trông thấy vật đó, ông nhanh nhẹn đi về phía hiên nhà cầm một cây sào tre tới bên khèo cái đống lông lá gớm ghiếc đó!
Một lát sau, sự tưởng tượng của tôi đã được chứng thực, quả nhiên đó là một cánh tay, một cánh tay hoàn chỉnh lộ ra. Cánh tay dài khoảng một thước, rộng khoảng nửa thước, lông lá đầy như một chiếc quạt lông. Ông Từ không ngừng tay chọc lấy phía dưới cẳng tay, rồi dùng sức lật ngửa đống lông lá đó lên.
Đó là một con chim lớn, hai cánh giang rộng, đầu cúi xuống không nhúch nhích, nó đã chết rồi!
Lúc này tôi nhìn rõ hình dáng con chim, con chim quả rất quái dị, mặt tròn mỏ ngắn, trên đầu có chóp, hai mắt như hai viên bi cứ mở trừng trừng nhìn lên, không biết đang nhìn gì.
Dù đã lờ mờ đoán ra nhưng tôi vẫn hỏi:
- Thưa bác, đây là chim gì ạ?
- Là cú đầu mèo!
Ông Từ đưa mắt nhìn về phía sườn núi bên kia và nói nhỏ với tôi.
Nói xong ông quay mặt đi vô nhà.
Đây là lần đầu tiên chúng tôi nhìn thấy tận mắt chim cú mặt mèo. Tôi ngước mắt nhìn lại sườn núi, nhìn đến chỗ có màu xám xịt đó. Không biết đó là mộ của ai. Xung quanh ngôi mộ đó thấp thoáng có vật gì đang chuyển động, tôi định thần nhìn kỹ, thì ra ở đó có người đang đi lại.
Tân chợt nói:
- Tớ nhớ rồi, có lần tớ nghe mấy người già trong ngõ nhà tớ nói chuyện về loài chim cú mèo này. Họ nói mỗi khi con chim này xuất hiện và cất tiếng kêu trước ngõ nhà ai thì chắc chắn trong nhà đó sẽ có người chết. Người ta bảo tiếng kêu của chim cú mèo là tiếng báo tang.
Cả ba đứa tôi, Phục và Đạo bất chợt rùng mình khi nghe Tân nói thế.
Trước nay chúng tôi không nghĩ mình lại nhút nhát và lại tin dị đoan đến thế, nhưng chỉ mới một thời gian ngắn vào sống ở địa phương này chúng tôi mới khám phá ra mình không phải là những kẻ gan dạ, vững vàng như lâu nay vẫn tưởng!
Lúc này thì thật sự cả ba đứa đều rất hoang mang lo lắng. Nếu thật sự con chim kia đến để báo tang thì ai trong ngôi nhà này sẽ chết? Một trong bốn chúng tôi hay là lão Từ khắc khổ? Và ai là kẻ ra tay hạ thủ?
Nghĩ tới chuyện đó thì hình ảnh người đàn bà lạ lùng kia lại lảng vảng trong đầu tôi. Bà ta có mùi xác thối, con chim cú mèo báo tang, hai sự việc đó chắc chắn là phải có sự liên hệ với nhau. Có thể, chim đến báo tang và người đàn bà kia chính là người sẽ đem chết chóc tới cho một ai đó trong số năm người cư ngụ tại đây.
Tôi run bắn người lên khi nghĩ tới điều đó. Vì vậy tôi đề nghị:
- Bọn mình xuống nhà Khải kể hết mọi chuyện cho mẹ Khải biết đi. Bác ấy sống lâu ở đay rồi, có thể bác ấy biết nhiều điều bí ẩn trong đấy!
Việc khuyên nên giấu nhẹm chuyện sợ ma cũng do tôi đề xuất do cái tính sĩ diện hão, giờ đây cũng lại chính tôi khuyên nên nói thật với gia đình Khải. Tuy nhiên bạn bè không đứa nào lên tiếng cười nhạo tôi cả vì hiện tại lúc  này cả bốn đứa đều trĩu nặng lo âu, không còn lòng dạ nào mà đùa giỡn được hết!
Vừa dợm bước đi, tôi chợt nhơ mình để quên mấy vật cần thiết ở trên phòng nên nói với các bạn:
- Các cậu đi trước đi, tớ lên phòng mấy mấy thứ rồi đi theo sau.
- Chúng tớ cùng lên với cậu chứ?
Phục hỏi
Tôi lắc đầu:
- Được rồi, không sao đâu, cậu yên tâm đi, ban ngày ban mặt không sao đâu. Các cậu cứ đi trước đi!
- Ừ, vậy thì bọn tớ đi trước ra tới bờ suối ngoài kia ngồi chờ cậu nhé?
Đạo nói.
Tôi gật đầu đồng ý.
Ba người bạn đi với nhau hướng về phía làng, một mình tôi quay trở lên gác.
Tôi cẩn thận đi vòng quanh co chim cú mèo rồi đi vào nhà. Nhưng lúc đó ở dưới nhà không thấy ông Từ đâu cả, không biết mới đây mà ông đã lỉnh đi đâu mất tiêu.
Tôi vội lên tầng trên. Trong cầu thang và cả ngôi nhà hình như không có ai hết, tôi nhìn chung quanh, chỉ nhìn thoáng chứ không đủ gan nhìn lâu. Tôi lao nhanh như bay, nhoáng cái đã đến cửa phòng của Đạo.
Tôi đảo mắt nhìn lại phòng kho và chiếc khóa cửa phòng đó, không chút động tịnh, vẫn khóa chặt thin thít. Aùnh sáng không chiếu vào hành lang và cầu thang qua chiếc cửa sổ, khiến nền nhà lỗ chỗ lốm đốm trắng đen, một sự yên tĩnh rợn người!
Bỗng dưng tôi có cảm giác lạnh toát phía sau lưng, vội quay đầu lại thì… trông thấy một con cú mèo nằm bệt trên sàn nhà gò thành một đống, một con mắt mở to nhìn chằm chằm vào tôi.
Hai chân tôi như nhũn lại, suýt nữa đã gục xuống nền nhà. Trong hành lang yên tĩnh quá, tôi nghe rõ từng nhịp tim mình đập, nghe rõ từng hơi thở của mình.
Không biết tôi lấy đâu ra dũng khí, nghiến chặt răng lại, dẫm mạnhl ên sàn nhà mấy bước tiến đến xác con cú mèo, quả nhiên không sai, con cú mèo đã chết, đã chết thật rồi.
Nếu nó đã chết thật rồi thì làm sao lại bò lên đây được?
Giữa lúc đó tôi nghe thấy tiếng bước chân người vang vang lúc rõ lúc không, hình như có tiếng gì chạm vào nền nhà, âm thanh đó càng lúc càng gần.
Máu trong người như dồn hết lên đầu, tôi thấy đầu mình như sắp nổ tung ra… tôi thụt lùi mấy bước, vừa để mắt đến xác con cú mèo vừa để ý đến nền nhà mà rút lui cho khỏi ngã. Nhưng vừa lùi mấy bước thì tôi vấp phải bệ cửa sổ – sau lưng là tận cùng hành lang, không òcn đường nào để tôi lui nữa!
Tiếng xà xà của vật gì chà vào nền nhà càng lúc càng gần, tôi dán mắt vào chỗ rẽ ở cầu thang, ban đầu thấy chiếc thùng nhựa màu đỏ lăn ra rồi tiếp theo là một người mặc áo xanh từ từ xuất hiện…
Đúng là người dọn vệ sinh đó rồi! Bà ta mặc cái áo giống hệt cái áo đã mặc lần trước khi tôi gặp bà…
Tôi nhìn thấy bà ta, bà ta cũng nhìn thấy tôi, trong chớp mắt, máu trong người tôi như đông lại.
Tôi dán chặt mắt vào bà ta, giả vờ ra vẻ bình tĩnh nhưng tay chân đã run lên bần bật, tôi đưa tay quờ quạng mò mò phía sau định nhặt vật gì đó ném cho bà ta một cái. Nhưng thật đáng tiếc, sau lưng tôi không có bất cứ thứ gì để nhặt cả!
Khuôn mặt bà ta đen xám lại khô không khốc, đôi mắt không to không nhỏ nhìn thẳng vào mắt tôi, thần sắc trầm tĩnh.
Rồi bà ta cúi người xuống, tay trái nghiêng chiếc thùng xuống mặt đất, tay phải cầm chổi đẩy xác con chim vào thùng rồi đi về phía ngã rẽ nơi cầu thang.
Động tác của bà ta quá nhanh khiến tôi vừa kịp nhìn xuống nền nhà thì không thấy xác con chim cú mèo đâu nữa.
Lúc đó, phía góc cầu thang có tiếng bước chân vọng lại.
Khắp người tôi mồ hôi vã ra như tắm, lấy hết sức vuốt lại mặt mình, tôi lê bước đi nhưng lúc này hai tay hai chân đã không còn nghe theo lệnh của tôi nữa mà chúng cứ nhũn ra như bún.
Tôi tựa vào tường để người từ từ ngồi xuống, hơi thở tôi lúc này hổn hển như người sắp chết. Một lúc lâu sau mới bình tĩnh được đôi chút.
Vừa rồi tôi như trải qua một cơn ác mộng.
Xung quanh tôi giờ đây không còn bất cứ một âm thanh gì nữa. Tôi lấy sức chống tay xuống nền nhà để đỡ lấy thân dậy.
Chim cú mèo là chim báo tang, vậy người đàn bà dọn vệ sinh kia rốt cuộc làm gì? Bà ta muốn dùng con cú mèo để báo tang cho ai đây?
Càng nghĩ tôi càng hoang mang, vật vờ chạy xuống đất, rất kỳ quái là không thấy người phụ nữ dọn vệ sinh ấy đâu nữa. Nhìn khắp căn nhà cũng không thấy ông Từ đâu cả, tôi tháo chạy một mạch ra khỏi ngôi nhà.
Trên lối đi trước nhà không còn xác con chim cú mèo kia nữa!
Tôi không được phép nghĩ nhiều, cứ thế lấy một hơi chạy tháo mạng về hướng bờ suối, nơi ba đứa bạn đang ngồi chờ tôi.
Lúc đó, mặt trời đã lên cao, xa xa có một vài người đi lại nhưng tôi cũng không quan tâm gì đến họ nữa, tôi chỉ biết cắm đầu cắm cổ chạy một hơi ra bờ suối.
Vừa trông thấy các bạn, tôi đã ngã vật ra đất và thở như sắp chết đến nơi làm cả bọn chúng nó một phen hoảng vía.
- Chuyện gì? Có chuyện gì xảy ra với cậu thê?
Cả ba đứa nhao nhao lên hỏi.
Tôi không làm sao trả lời được mà cứ nằm ngửa mặt lên trời há miệng ra để thở.
Mãi một lúc thật lâu tôi mới tạm ổn và lồm cồm ngồi dậy, vừa phủi bụi bám đầy trên người vừa thuật lại câu chuyện cho đám bạn nghe.
Đứa nào đứa nấy mặt mày căng ra đầy vẻ lo lắng.
- Đi thôi, đi nhanh vào làng kể hết với mẹ Khải!
Đạo thúc giục.
Cả bốn đứa chúng tôi rảo cẳng đi nhanh vào làng. Tới nhà Khải đúng lúc mẹ Khải vừa nấu xong bữa cơm sáng.
Bà lấy làm lạ khi thấy thần sắc của chúng tôi không được bình thường nên ngạc nhiên hỏi:
- Đêm qua ở ngoài đó có chuyện gì xảy ra cho các cháu sao?
Bốn đứa chúng tôi đưa mắt nhìn nhau, mãi một lúc sau thấy các bạn đều nín lặng nên tôi ấp úng nói:
- Dạ thưa bác… ở ngoài đó mấy hôm gần đây có rất nhiều chuyện lạ mà chúng cháu không sao hiểu nổi, do đó chúng cháu quyết định kể hết cho bác nghe để bác chỉ bảo chúng cháu phải làm cách nào…
- Chuyện gì thế?
Khải và mẹ đồng thanh hỏi.
Thế là tôi kể lại toàn bộ câu chuyện một cách tỉ mỉ không bỏ sót một tình tiết nào.
Nghe xong, mẹ Khải có vẻ trầm ngâm tư lự lắm, nhưng chỉ một thoáng qua là bà lại mỉm cười:
- Không sao đâu, các cháu yên tâm đi, để rồi bác sẽ tìm hiểu cặn kẽ. Bây giờ chúng ta dùng cơm trước đi, tối nay các cháu cứ ở lại đây một đêm, kệ, trải chiếu dưới nền nhà ngủ tạm cũng được, vì bác và Khải còn bận một số việc gấp trên rẫy. Sau đó bác sẽ đi cùng các cháu tới đó. Được chứ?
Bốn đứa chúng tôi mừng rơn và vừa ăn cơm vừa bắt đầu nhạo báng cái sự sợ ma của nhau làm cho mẹ con Khải không nín được cười.
Aên uống và dọn dẹp tươm tất xong, mẹ Khải bảo chúng tôi ở nhà chơi chờ bà lên rẫy làm cho xong phần việc rồi sẽ trở về cùng đi với chúng tôi về nơi ở.
Bốn đứa tôi theo Khải ra bờ suối bắt cá, việc đó hấp dẫn đến nỗi cả bốn đứa hoàn toàn quên hết bao nhiêu nỗi lo sợ đang mang nặng trong lòng.
4. Cái chết.
 
Đến xế trưa hôm sau mẹ Khải mới về tới. Lúc đó chúng tôi cũng đã làm xong bữa cơm ngon lành với món cá tươi vừa bắt được.
Bà nhìn mâm cơm rồi nhìn chúng tôi, mỉm cười có vẻ hài lòng lắm.
Xong bữa cơm trưa, mẹ Khải nhất định không chịu nghỉ ngơi theo như lời đề nghị của bọn tôi mà quyết định cùng bọn tôi trở về nơi ở.
Thế là bốn đứa chúng tôi cùng với mẹ con Khải lên đường.
Con đường làng lúc nào cũng vắng vẻ, hoạ hoằn lắm chúng tôi mới gặp một người trên đường đi, nhưng nếu gặp, học cũng chỉ gật đầu chào ơ hờ chứ không hề tỏ vẻ quan tâm xem chúng tôi là ai, từ đâu đến.
Về ở làng này một thời gian ngắn, bốn đứa chúng tôi cũng đã khá quen với những sự thờ ơ lạnh lùng như thế.
Vừa đi, mẹ Khải vừa giới thiệu cho chúng biết tên những loài cây cỏ lạ mắt mọc ven hai bên đường, bà còn kể cho chúng tôi nghe về sự tích của một vài loài cây cỏ đó.
Khải bấm tay tôi cười cười:
- Các cậu biết không, đáng lẽ ra mẹ tớ phải là một nhà văn mới đúng. Tất cả những câu chuyện mà mẹ kể cho tớ nghe từ thuở bé cho đến nay toàn là do mẹ tưởng tượng ra thôi đó, kể cả những câu chuyện mẹ vừa kể với các cậu.
Bốn đứa tôi dừng lại tròn xoe mắt:
- Thật ư?
Tân ngạc nhiên kêu lên.
Mẹ Khải mỉm cười, khẽ cốc lên đầu cậu con trai yêu quý.
Khải lí lắc như một đứa trẻ nghịch ngợm:
- Thì các cậu cứ nghĩ mà xem, mẹ tớ tới đây từ lâu, từ lúc làng này chỉ mới có vài ba người đến sinh sống lập nghiệp. Họ lại sống biệt lập, ít giao tiếp với nhau thì tất cả những huyền thoại, những sự tích đó ai là người kể cho mẹ tớ? Tất cả là do mẹ tớ tự nghĩ ra để có cái làm quà cho tuổi thơ của tớ! Nhưng mà nè, các cậu có nhất trí với tớ rằng chuyện mẹ tớ kể cũng hay và hấp dẫn có thua kém gì các câu chuyện trong kho tàng cổ tích Việt Nam đâu, đúng không?
Bốn đứa tôi đồng loạt gật đầu. Không phải chúng tôi muốn lấy lòng mà thật sự là như thế.
Tôi thật sự nể phục và cảm động trước tấm lòng mẹ Khải. Tôi nhìn bà âu yếm hơn, trìu mến hơn:
- Bác… thật sự con rất kính phục bác…
Mẹ Khải có vẻ thẹn, cười cười:
- Có gì đâu, các cháu đừng nghe lời thằng Khải…
Vui chuyện nên chẳng mấy chốc chúng tôi đã đến trước cổng nhà. Cánh cổng vẫn khép hờ, cửa nhà cũng để mở, chúng tôi đi vào nhưng không có ai, chiếc ấm trà mới uống một nửa vẫn nằm nguyên trên bàn, tẩu thuốc gác một bên đó.
- Bác Từ ơi… Bác Từ ơi!
Khải cất tiếng gọi to nhưng không ai đáp lại.
Bỗng nhiên tôi nghĩ, sáng hôm qua ông lấy cây chọc vào con chim cú mèo, không biết có chuyện gì xảy ra với ông ấy không?
- Bác Từ ơi, bác đang ở đâu?
Tự nhiên Đạo nhìn về phía chân cầu thang và gọi to lên như thế khiến tôi phát hoảng.
Không ai trả lời, chỉ nghe tiếng vọng lại rất lớn trong nhà vang ra. Sau tiếng vọng lại, ngôi nhà như càng im lặng hơn, cái im lặng của sự chết chóc.
Chúng tôi không dám đi lại lung tung, chỉ nhìn theo mẹ Khải.
Mẹ Khải hỏi Tân:
- Cháu ở phòng nào?
- Dạ, thưa bác, cháu với Đạo ở tầng hai.
Tân trả lời.
Mẹ Khải ra lệnh:
- Lên đấy xem sao!
Thế là mẹ con Khải đi tiên phong, chúng tôi bám theo từng bước. Chúng tôi đi thẳng lên tầng hai, không thấy một bóng người nào.
Tới chỗ ngoặt ở phía cầu thang, chúng tôi hướng về phía phòng của Đạo và Tân.
Căn phòng vẫn đóng cửa im ỉm. Đạo vừa toan mở cửa thì tôi bỗng phát hiện cánh cửa nhò của phòng kho không biết từ bao giờ để hé ra, cái ổ khóa đã không còn nằm trên đấy mà nó đang nằm yên dưới sàn nhà cạnh đó.
Tôi giống như bị điện giật, thần ra một lúc rồi vỗ mạnh vào vai Đạo chỉ về phía cánh cửa phòng đó.
Lúc đó ai cũng nhìn theo phía tay tôi chỉ, mọi người sợ quá thụt lùi mấy bước, duy chỉ có mẹ con Khải là vẫn giữ được vẻ bình tĩnh.
Khải tiến lên gõ cửa hỏi:
- Có ai trong đó không?
Không có tiếng trả lời.
Khải đẩy mạnh cửa ra, trong phòng vẫ chỉ có chiếc tủ hư đứng chơ vơ một mình, dưới nền nhà đủ thứ đồ đạc linh tinh vụn vặt. Aùnh sáng yếu ớt chiếu từ kẽ hở của khe cửa vào, quét ngang qua chiếc tủ còn nửa kia quệt thẳng xuống nền…
Bỗng Phục chỉ vào một góc của chiếc tủ nói lớn:
- Xem kìa, ở đó có dấu tay người!
Chúng tôi quay đầu nhìn lại, quả nhiên trên chiếc tủ, nơi ánh sáng chiếu đến có năm dấu ngón tay in rất rất rõ, nhưng năm ngón tay đó không in đủ hình dáng của bàn tay, mà dấu tay cứ kéo dài xuống, giống như có ai đó đưa tay ra vuốt lên tủ rồi bị tuột xuống vậy!
Lúc đó Khải cũng nói nhỏ:
- Xem trên nền nhà kìa, có dấu chân…
Mọi người cùng nhìn xuống nền nhà, thấy đầy vết chân bấn loạn không phải đi lại mà… trên đó còn có hình thù kỳ quái rất lớn, hình như có ai bò qua trên vùng nền nhà này, cắt ngang vết bụi bám trên nền nhà.
Bỗng nhiên trong đầu tôi hiện ra một cảnh tượng hết sức hãi hùng.
Tôi hình dung ông lão Từ tối hôm qua không ngủ được thức dậy uống trà, bỗng nhiên ông nghe tiếng khóc của một người phụ nữ vang lên từ căn phòng này, thế là ông lão từ từ lên lầu, nhưng khi lên đến nơi ông không thấy ai cả, cửa phòng vẫn đóng chặt. Ông lão mở cửa ra, bên trong đen ngòm không thấy gì, bỗng nhiên tay ông bị vật gì giữ lại, ông ta kinh hãi vùng vẫy hai tay, đập đập lên cái tủ, trong lúc đó có một bàn tay đen ngòm vuốt lên khuôn mặt ông, ông ta sợ quá ngất lăn ra đất, lát sau tỉnh dậy ông lại đưa tay mò mẫm lên tủ…
Tưởng tượng đến đó tôi bất chợt ngẩng đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy mấy ngôi mộ như đang nhìn vào, tôi thấy từng luồng âm khí tràn ngập vào nhà, sợ quá tôi không dám tiếp tục nhìn về phía đó nữa.
Đsung lúc đó dưới nhà vọng lên tiếng húng hắng ho quen thuộc của lão Từ.
- Ai?
Mẹ Khải hỏi lớn.
Phía cầu thang có tiếng bước chân ngày càng lại gần, cả sáu người chúng tô iđều dồn mắt về phía đó.
Một cái đầu hói đen trũi từ từ lộ ra…
Ông Từ, đó chính là ông Từ!
- Bác à, bác không sao chứ?
Đạo hỏi.
Ông lão nghe hỏi liền đi nhanh mấy bước, đến trước mặt chúng tôi. Người ông ướt đẫm mồ hôi, hơi thở như bị đứt, hơi trước không tiếp nổi hơi sau, nói với chúng tôi:
- Có người chết! Có người đã chết…
- Có người chết? Ai chết vậy?
Bốn đứa tôi hoảng hồn hỏi. Riêng mẹ con Khải vốn đã quen tính thờ ơ nên vẫn lặng lẽ đứng quan sát một bên.
- Bà Hoa!
Lão Từ vẫn với cách trả lời ngắn ngủn.
- Ai cơ?
Đạo ngạc nhiên
- Chính là người đàn bà dọn vệ sinh ấy!
Lão từ vừa nói vừa thở hổn hển.
- Trời ơi, sao bà ta chết? Chết lúc nào?
Phục hoang mang.
- Vừa mới chết sáng nay. Sáng nay bà ta đến dọn dẹp lau chùi nhà cửa, thông thường cứ hơn mười phút bà ấy lại xuống lấy nước một lần, nhưng hôm nay tôi đợi đến cả nửa giờ vẫn không thấy bà ta xuống, thế là tôi lò dò lên đó thử xem sao. Khi đến cửa này, thấy cửa mở, tôi cứ tưởng bà ta vào trong đó dọn dẹp nên đẩy cửa đi vào, vừa vào đã thấy nằm đơ ra giật giật, mồm sủi đầy bọt mép… Tôi hoảng quá, vực bà ta dậy để xem xét thì thấy dưới gót chân có vết rắn cắn… Do có nghề bắt rắn gia truyền, tôi không khó khăn gì bắt được con rắn độc ấy! Thì ra nó làm ổ trong cái tủ này từ lâu rồi mà không ai biết. CoÙ lẽ bà ta vào dọn dẹp, làm đánh động đến nó nên nó mới cắn bà ta ra nông nỗi thế… Mọi người hãy xuống đây mà xem!
Nói xong ông Từ chạy một mạch xuống dưới, chúng tôi cũng chạy theo. Xuống tới đất chúng tôi vây lấy ông. Trên mặt ông mồ hôi chảy đầm đìa, hai bàn tay run run cầm một cái chai thủy tinh bên trong có chứa một rắn nhỏ, dài chừng hai gang tay, màu xám nhưng ở đỉnh đầu và chóp đuôi lại có màu đỏ rực.
Mặc dù không rành lắm nhưng thoáng nhìn qua con rắn ấy, chúng tôi cũng đoán được đó là một loại rắn kịch độc, ai đã bị nó cắn rồi thì khó lòng qua thoát qua cửa tử!
- Chả trách hôm qua có con chim cú mèo xuất hiện, óha ra nó báo tin cho bà Hoa kia…
Ông Từ hổn hển nói.
Bốn chúng tôi nghe lão từ nói xong ai nấy nhìn nhau, trong lòng xuất hiện hàng mớ ngổn ngang hỗn độn.
Chúng tôi nghĩ bụng, thì ra con chim ấy không phải nhằm chúng tôi hay ông Từ mà là vào người phụ nữ đó, người mà tôi còn nghi ngờ là sẽ đem đến cái chết cho người khác!
- Người nhà bà ta biết chưa?
Tôi hỏi.
- Người nhà á?
Mẹ Khải khẽ thở dài hồi lâu mới nói tiếp:
- Nhà bà ta không có ai cả! Hai vợ chồng đến đây lập nghiệp, chẳng may ông ấy đoản mệnh qua đời đã mấy năm nay. Họ lại chưa có con cái với nhau, nên từ ngày chồng mất, bà Hoa chỉ sống cô đơn thui thủi một mình thôi!
Chúng tôi im như thóc, lắng nghe mẹ Khải thuật lại cuộc đời bất hạnh của người phụ nữ kia, không biết nói lời nào.
- Bác Từ à, như bác nói thì chim cú mèo báo tang như thế nào? Làm sao nó biết người nào sắp chết?
Đạo thắc mắc.
- Người ta bảo chim cú mèo có thể ngửi thấy mùi xác chết của người còn sống, người nào có cái mùi đó thì chắc không thọ được bao lâu nữa.
Lão Từ đáp.
- Mùi người chết? Mùi người chết như thế nào?
Bất chợt tôi nhớ lại cái mùi thối mà tôi và Phục ngửi thấy.
- Cái mùi này thì các cháu chưa ngửi thấy bao giờ, các cháu cũng sẽ không bao giờ phải ngửi cái mùi cái mùi ấy…
Mẹ con Khải chỉ đứng lặng im, không hỏi han gì nữa. Còn bốn đứa chúng tôi thì lại có rất nhiều điều muốn hỏi nhưng thái độ của lão Từ có vẻ mệt mỏi nên chúng tôi không đứa nào dám mở miệng.
Chúng tôi quyết định đêm nay lại về nhà Khải, dù có phải nằm ngủ dưới sàn nhà lạnh lẽo ẩm thấp cũng còn đỡ hơn phải ngủ cạnh nơi vừa diễn ra cái chết đáng sợ… Biết đâu đêm hôm, sẽ còn có những con rắn khác bò ra tìm tới chúng tôi?
Phong tục mai táng ở làng này rất đơn giản và nhanh chóng. Sau khi trworng làng đến xem xét cái chết của người xấu số là bắt đầu tẩm liệm rồi ngay chiều tối hôm ấy sẽ đem chôn ngay lập tức.
Bà Hoa cũng được chôn ở nghĩa địa làng, tức là khu nghĩa địa mà đứng ở cửa sổ phòng chúng tôi sẽ nhìn thấy rất rõ!
Sau cái chết của bà Hoa, chúng tôi đã chính thức dọn hết đồ đạc và nói lời chào từ giã với ông Từ để về ở hẳn trong nhà Khải. Nhưng thật ra, cứ chiều tối là bốn chúng tôi cùng Khải lên rẫy ngủ trên đấy.
Ở trong chòi canh rẫy có một chiếc chõng tre, chúng tôi cùng nhau đốn cây đóng thêm một cái giường dã chiến nữa, thế là năm thằng đực rựa đã có chỗ để ngủ. Nhưng chỉ ngủ thôi chứ không vẽ vời sáng tác gì được!
Một buổi trưa, năm đứa đang ngồi bên bờ suối cạnh chòi canh rẫy tán chuyện gẫu thì mẹ Khải tìm lên, trên mặt lộ vẻ không bình thường.
Vừa trông thấy chúng tôi, mẹ Khải thông báo:
- Lão Từ đã bị trưởng làng đuổi đi rồi!
- Sao thế? Sao thế bác?
Tôi và Tân đồng thanh hỏi.
- Bà Hoa là do chính ông ta giết!
Mẹ Khải hơi run giọng.
- Trời, mẹ nghe ai nói vậy?
Khải hỏi.
- Lúc nãy trưởng làng đã mời dân làng đến họp mặt để tuyên bố trục xuất ông lão Từ ra khỏi làng… Chính trưởng làng đã kể tội và lão Từ đã cúi đầu nhận lỗi…
Mẹ Khải vẫn chưa hết xúc động giải thích thêm:
- Đáng lẽ những người gây tội ác phải bị bắt giải đến cho người có chức trách, nhưng vì làng này chủ trương không dính líu tới chuyện bên ngoài nên từ lâu ở đây đã có quy định, bất cứ dân cư nào trong làng gây ra tội ác, sẽ bị trục xuất ra khỏi làng, vĩnh viễn không được quay trở lại!
- Nhưng… nhưng tại sao ông lão Từ lại giết bà Hoa thế bác?
Tôi nôn nóng hỏi, vì đầu tôi đang căng ra như sắp đứt hết các sợi dây thần kinh vì bao nhiêu tò mò thắc mắc…
Mẹ Khải trầm ngâm nói:
- Bà Hoa không được khỏe nên không thể làm lụng nặng nhọc trên rừng trên rẫy được. Chính vì thế ông lão Từ kêu bà tới lau chùi dọn dẹp ngôi nhà thờ tự mà ông đang canh giữ, đổi lại ông sẽ chu cấp đầy đủ lương thực thực phẩm để nuôi sống bà. Nói một cách khác, bà Hoa gần như sống lệ thuộc vào ông Từ.
Vin vào điều đó, lão Từ  tự cho mình cái quyền được làm nhục bà Hoa. Bà Hoa nhiều lần không chịu nổi nhưng lại không dám lên tiếng vì sợ lão trả thù và cắt nguồn bảo trợ.
Mỗi lần bị nhục bà ta thường ngồi khóc một mình. Tiếng khóc lúc nửa đêm mà các cháu nghe thấy chính là tiếng khóc của bà Hoa ấy…
Hôm các cháu về đây, bà Hoa đến dọn dẹp như thường lệ. Vừa mới vào nhà, bà Hoa đã bị lãi ghì chặt lại toan giở trò sàm sở. Hôm đó bà Hoa không được khỏe nên xin lão buông tha mà lão vẫn không đồng ý. Quá uất ức, bà Hoa vùng vẫy rồi tát vào mặt lão, vừa tát, bà ta vừa la lên rằng sẽ nói cho cả làng biết chuyện này, bà thề rằng sẽ nói hết rồi tự kết liễu đời mình…
Lúc đó lão Từ hoảng quá, lấy gối nhét vào miệng bà ta cho đến chết, nhưng lão vẫn không yên tâm nên bóp cổ suốt mấy chục phát. Rồi lão lại nghĩ cái trò cho rắn cắn bà Hoa rồi dựng hiện trường giả để đánh lạc hướng mọi người.
Ông nghĩ mọi việc sẽ trót lọt êm xuôi thôi, vì dân làng này vốn không thích xen vào chuyện người khác. Nhưng trời bất dung gian, chính trưởng làng đã phát hiện ra vết dấu tay ở cổ nạn nhân. Mà ở làng này không ai được biết trưởng làng trước đây là một cảnh sát chuyên điều vụ án, sau vì một chuyện phản trắc của đàn em mà phải lâm vào vòng tù tội, gia cảnh tiêu tan nên mới trôi nổi vào đây.
Trước những câu hỏi sắc bén của trưởng làng, ông lão Từ ban đầu còn chối quanh nhưng sau cùng đã ngoan ngoãn cúi đầu nhận tội và âm thầm cuốn gói ra đi…
Tất cả mọi việc đã được làm sáng tỏ nhưng chúng tôi vẫn còn có những thắc mà chưa ai giải thích thỏa đáng được. Đó chính là sự xuất hiện của con chim cú mèo và mùi xác thối từ người của bà Hoa.
Tôi đem điều thắc mắc đó hỏi mẹ Khải. Bà suy nghĩ một lát rồi bảo:
- Chuyện đó thì bác không biết. Phía trưởng làng không nói chuyện này, bản thân lão Từ cũng không thấy nhắc đến. Có thể con cú mèo do lão bắt lấy để làm cái cớ thần bí cho cái chết của bà Hoa, nhưng cũng có thể nó là loài chim báo tang thật sự. Nhưng, chuyện báo tử của cú mèo có thật cũng được, không thật cũng được, các cháu đừng hoang mang nữa… đừng nghĩ nhiều về chuyện này nữa…
Bốn đứa chúng tôi gật đầu trước lời khuyên của mẹ Khải.
Một tháng trôi qua như chớp mắt, mới đó mà đã tới ngày chúng tôi phải quay về thành phố. Hành trang của chuyến về là một bộ tranh hoàn chỉnh rất được chúng tôi ưng ý cùng với những kỷ niệm khó quên ở nơi rừng sâu núi thẳm này, và còn có thêm vụ án li kì này nữa.
Khi đã đặt chân xuống thành phố, Đạo thì thầm:
- ĐưØng đứa nào hé môi về những ngày kinh hoàng vừa qua nhé? Hãy giữ lấy hình ảnh trai tráng của mình trong mắt các cô gái, đừng để họ khám phá ra hai cái tai thỏ mọc dài ngoằng trên đầu của mỗi đứa chúng ta…
Cả bốn đứa chúng tôi cùng bật cười:
- Nhất trí!
Sau đó bộ tranh của chúng tôi được chủ nhiệm đánh giá rất cao. Chúng tôi thường kể với bạn bè về một tháng phiêu lưu nơi miền sơn cước ấy, nhưng chẳng đứa nào dám hé răng tiết lộ về những chuyện “đáng xấu hổ” của một đấng nam nhi.
Bởi thế, mấy cô gái cứ phục lăn bọn tôi và một hai đòi một dịp nào đó bọn tôi phải cho các cô đi cùng lên thăm lại nơi đó.
Bốn chúng tôi liếc mắt nhìn nhau đầy ẩn ý.
Khi chỉ còn lại bốn đứa, Đạo bật cười:
- Ha ha ha… tự nhiên bốn thằng thỏ đế tụi mình lại trở thành người hùng trước mắt bọn con gái ở đây… Hi hi hi… thích quá!
Tân đưa tay bụm miệng Đạo lại nhắc nhở:
- Rừng có mạch, vách có lỗ tai đó nghen cậu, chớ có nhiều lời, kẻo sáng mai ra chúng mình không còn dám ngước mặt nhìn ai hết thì khổ!
Ừ nhỉ, nếu sáng mai ra, cả đám con gái thành phố này biết hết sự thật trong ngôi làng đó, liệu trong mắt chúng bốn thằng tôi sẽ như thế nào đây?
Thế nhưng, cả bốn đứa chúng tôi lại cam đoan với nhau rằng chắc chắn một ngày không xa sẽ quay về nơi đó để xem ngôi làng kỳ dị kia còn có điều khủng khiếp nào nữa xảy ra hay không?
Biết đâu, sau mỗi chuyến đi như vậy, con thỏ đế trong lòng mỗi đứa sẽ dạn dĩ dần lên!
Dĩ nhiên, điều này thì chỉ có bọn tôi biết với nhau thôi đấy, bạn đừng có mà bép xép kể ra…
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:27:46 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:54:05
HỒN MA NƠI CỬA PHẬT
 
Sư Thuận Thành về đây đã được hai năm. Sư mong mỏi có thêm ít tiền của bá tánh đóng góp để làm lại hàng rào khuôn viên chùa, nhưng không có.
Chùa tọa lạc trên một vùng đất thật hoang vu. Xa dân cư, xa chợ búa. Từ khu dân cư gần nhất vào đến chùa phải ba mươi cây số, băng qua nhiều bãi tha ma. Ban đầu, chùa chỉ là một ngôi nhà ọp ẹp dựng trên khu đất chừng hơn mẫu. Khu đất này do một Phật tử cúng dường.
Hồi mới tới đây, khung cảnh thật hoang liêu. Đi theo sư Thuận Thành còn có hai sư trẻ hơn, một người chừng ba mươi tuổi và người kia chừng hai mươi tuổi.
Tuy nhiên, chỉ ở được một thời gian, hai vị sư trẻ không chịu được cảnh cô liêu u tịch nên đã khăn gói lên đường, bỏ lại sư phụ một mình.
Sư Thuận Thành cũng cảm thấy lòng mình có đôi phần cô đơn từ ngày hai đệ tử bỏ đi. Tuy vậy sư vẫn quyết tâm ở lại đây, vì sư đã thề nguyện điều này khi mới bước chân đến mảnh đất này.
Ở đây, ban đêm không có điện, phải thắp bằng đèn dầu. Vì vậy cảnh chùa càng thêm u tịch, buồn thảm.
Một đêm cách nay đã lâu. Khi đó sư Thuận Thành vừa mới đến đây được vài tháng. Sư đang lom khom thắp lại ngọn đèn dầu vừa bị gió thổi tắt, bỗng nhiên nghe có tiếng bước chân ai đi vào. Nhưng khi ngọn đèn được thắp lên, thì chẳng thấy có ai cả.
Nhưng ngọn đèn lại phụt tắt, dù rằng chẳng có cơn gió nào. Và lại có tiếng bước chân đi vào.
Sư Thuận Thành là một người xuất gia từ lúc nhỏ. Sư chưa hề sợ hãi trước uy lực ma quỷ nào. Vì vậy, sư không thắp ngọn đèn dầu lên nữa, mà cứ để bóng tối tràn lấp một màu đen kịt như thế, rồi ngồi kiết già niệm Phật.
Tiếng tụng kinh lại vang lên đều đều trong đêm khua, hòa với tiếng gõ mõ, tạo ra một khung cảnh tràn ngập sự từ bi.
Sư nghe rõ tiếng bước chân trong đêm khuya. Sư dừng tụng kinh, đằng hắng một tiếng rồi nói:
- Cửa Phật rộng mở, xin mời vào.
Xong sư lại tiếp tục tụng kinh niệm Phật trong bóng tối.
Sư cảm nhận có một vài bóng người đi vào trong chùa, ngồi xuống phía sau lưng mình. Sư vẫn cứ mặc kệ, bình thản làm nhiệm vụ của mình.
Thật ra, sư dù không ngoảnh lại, vẫn biết có bao nhiêu hồn ma đang quỳ gối trước uy vũ của Phật.
Xong buổi tụng kinh đêm ấy, sư Thuận Thành lại nói:
- Bữa sau xin cứ vào tự nhiên. Cửa Phật luôn rộng mở với mọi loài mọi giới.
Từ đó trở đi, đêm nào cũng có vài hồn ma đến quỳ sau lưng sư.
Một đêm, sư đang nằm ngủ, bỗng có tiếng động. Sư giật mình thức giấc. Ngoài trời gió thổi mạnh, làm cửa sổ bật tung ra. Thấp thoáng có bóng người đi ngang qua cửa sổ. Sư thổi tắt ngọn đèn rồi nằm ngủ tiếp, trước khi nói:
- Nam mô a di đà Phật. Đêm đã khuya, xin mời vong hồn lánh đi nơi khác. Đêm mai, xin mời tới đọc kinh cho tâm hồn thanh thản.
Sư thiếp dần vào giấc ngủ.
Trong giấc ngủ, sư Thuận Thành bắt đầu cơn mơ. Sư gặp một người đàn ông.
Người ấy nói với sư:
- Thưa thầy, con chết cách nay đã 20 năm, không người thân thích nào biết con nằm ở đây. Con không biết nhờ ai giúp cho con. Nay con được gặp thầy, xin thầy thương tình báo cho gia đình con biết chỗ con nằm.
- Gia đình vong hồn ở đâu?
Sư Thuận Thành hỏi.
- Thưa thầy, ngày mai con sẽ đưa cho thầy địa chỉ của gia đình con ở.
Người ấy trả lời
- Được rồi, nhưng vong cho biết, hiện thân xác vong đang ở đâu, có gần chùa hay không?
Sư Thuận Thành hỏi tiếp.
- Thân xác con đang nằm ở tảng đá phía góc vườn sau chùa.
Người đàn ông chỉ tay ra sau chùa.
Buổi sáng, sư Thuận Thành dậy sớm. Hôm nay sư phải đi ra chợ để mua một ít vật dụng. Băng qua bãi cát rộng, băng qua hai bãi tha ma, sư ra tới đường cái. Từ đây phải đi bộ thêm mười tám cây số nữa mới tới được một thị tứ nhỏ, có thể mua ít vật dụng cần thiết.
Sư vừa đi vừa nhớ đến mấy học trò thân thiết của mình. Họ còn trẻ quá, chưa thể chịu đựng được sự cô đơn. Vì thế họ trở về ngôi chùa cũ trước đây để tu hành. Họ mới vào thăm sư ngày hôm qua.
Bỗng nhiên có một người đuổi theo sư kêu ơi ới:
- Thầy ơi, thầy, chờ con với.
Sư ngoảnh lại phía sau. Có một người mang cái ba lô rất nặng chạy theo.
Bắt kịp sư, người ấy thở hổn hển: 
- Ôi chao, mệt quá. May có thầy cùng đi cho vui chứ không thì buồn lắm.
Thế là sư Thuận Thành và người khách lạ cùng đi với nhau trên con đường vắng vẻ.
Hai người vừa đi vừa nói chuyện.
Sư Thuận Thành hỏi:
- Anh ở đâu mà về vùng này?
- Thầy ơi, con ở Sài Gòn. Con về vùng này để đi tìm đất làm trang trại nuôi dê đó thầy.
Người khách vui vẻ.
- À, thế à. Vùng này nuôi dê tốt lắm đó.
Nhà sư gật đầu.
Hai người nói chuyện với nhau về việc nuôi dê. Sư Thuận Thành tỏ vẻ am hiểu chuyện nuôi dê, dù sư chỉ đọc qua sách vở và nghe cư dân trong vùng kể chuyện, khiến người khách lạ thích thú.
Lúc ra gần tới thị tứ, người khách lạ nói:
- Thầy ơi, con cho thầy địa chỉ của người bác ruột con. Người này sùng đạo Phật lắm, đặc biệt rất quý mến những vị chân tu như thầy. Khi nào thầy vào Sài Gòn thì ghé thăm bác con.
Sư Thuận Thành cầm tờ giấy ghi địa chỉ của người khách lạ cất kỹ.
Tối hôm ấy, sư Thuận Thành lại nằm mơ. Người đàn ông trong mơ của đêm trước nói:
- Thưa thầy, thầy đang cầm trong tay địa chỉ của gia đình con đó. Xin thầy viết thư báo cho họ biết ngay đi.
Thế là sư lật đật ngồi dậy, viết ngay một phong thư. Trong thư, sư cẩn thận vẽ sơ đồ đường đi từ thị trấn vào chùa. Sư nói rõ tên người đàn ông báo mộng cho sư.
Một tuần sau, gia đình người đàn ông ở Sài Gòn đến gõ cửa chùa vào lúc giữa trưa. Họ vui mừng xiết đổi khi gặp sư.
Dưới tảng đá sau chùa, đào sâu xuống cỡ chừng hơn một mét, họ gặp ngay thi hài của người con trai họ. Những dấu hiệu nhận biết trùng khớp. Đó là chiếc răng cửa bịt vàng cùng với vài vật dụng khác.
Trước lúc chia tay, sư Thuận Thành nói:
- Cho tôi gửi lời thăm người cháu của gia đình nhé. Nói anh ấy khi nào mua được trang trại ở đây để nuôi dê thì ghé thăm tôi với.
- Ủa, gia đình đâu có người cháu nào ra đây mua trang trại đâu thầy!
Người đó ngạc nhiên
- Thì cái người cho tôi địa chỉ này đấy.
Sư Thuận Thành vào trong tủ lấy tờ giấy ra, thì nét mực trên tờ giấy hầu như đã phai nhạt hết, chỉ còn thấy lờ mờ.
- Trời ơi, nét chữ dù phai nhạt hết, nhưng đây là nét chữ của nó thầy ơi.
Người đó kêu lên.
- Thế à! Thôi gia đình thế là phước đức lắm rồi. Về nhà cố gắng tụng kinh niệm Phật cho cậu ấy mau siêu thoát nhé.
                                                * 
Sư Thuận Thành sắp đặt các thứ lên bàn thờ Phật. Hôm qua có Phật tử ghé thăm chùa, cúng dường một ít hoa quả trái cây, lại cúng thêm một ít tiền để sư mua sắm vài thứ.
Buổi tối, người khách ở lại chùa luôn. Sư và khách trò chuyện cho tới khuya.
- Thưa thầy, tiếng tăm của thầy lan xa ra ngoài thị trấn, rằng thầy là một nhà tu hành đức độ. Việc xây dựng ngôi chùa thì chúng con rất muốn, nhưng ngặt vì dân đây cũng còn nghèo. Nhưng chúng con muốn mua một cái máy phát điện để nhà chùa có thể dùng vào những dịp lễ Phật đản hay là ngày rằm mùng một, để thắp sáng chùa.
- Đó là một ý kiến rất hay. Nhà chùa sẵn sàng nhận lễ vật ấy. Vì vừa rồi lễ Phật đản, mà khung cảnh chùa u tối quá.
Sư Thuận Thành đồng ý.
Vị Phật tử đưa vào tặng cho chùa một cái máy phát điện nhỏ, chạy bằng xăng rất tiện lợi, có thể thắp sáng những ngọn đèn trên bàn thờ Phật.
Hôm đầu tiên, vị Phật tử vận hành chiếc máy để chạy thử. Tiếng máy chạy rất trơn tru. Sư Thuận Thành vui lắm. Sư cứ đi đi lại lại, ngắm nhìn những ngọn đèn nhấp nháy trên bàn thờ Phật.
Hôm sau, vào chập tối, sư lại khởi động chiếc máy phát điện nhỏ. Đèn trên bàn thờ Phật nhấp nháy sáng. Tiếng máy chạy êm ru. Sư bắt đầu tụng kinh. Bỗng nhiên đèn phụt tắt. Sư vội vàng chạy ra ngoài xem. Chiếc máy phát điện đã bùng cháy, không chữa kịp. Mấy phút sau, chiếc máy chỉ còn lại một đống sắt vụn.
Sư Thuận Thành lẩm bẩm:
- Vong nào mà nghịch phá quá vậy. Thầy chỉ cho chạy máy vào những dịp quan trọng thôi chứ có chạy suốt đâu mà đốt máy của thầy.
Nói rồi, sư vào trước điện, bắt đầu làm lễ trong đêm tối. Sư hắng giọng:     
- Thôi, bỏ qua chuyện đó đi. Ai muốn vào lạy Phật thì cứ tự nhiên. Cửa Phật không từ một ai cả đâu.
Mấy cái bóng đen lom khom lần lượt bước vào phía sau lưng sư.
                                                                   *
Một buổi chiều mưa. Trời tối rất nhanh. Sư Thuận Thành bị sốt, nằm mê man, không tụng kinh niệm Phật được. Mưa rả rích từ chiều tới tối. Đang mơ màng, nghe có tiếng gõ cửa cộc cộc.
Sư cố gắng bước ra và lẩm bẩm:
- Giờ này chẳng lẽ có thí chủ nào tới cửa chùa! Hay là mấy vong nghịch ngợm đó thôi?
Sư Thuận Thành mở cửa. Hai ba bóng đen lom khom phía ngoài. Sư nói:
- Thôi, hôm nay nghỉ tụng kinh một bữa đi. Thầy mệt lắm rồi.
Sư vào nhà, đóng cửa lại và cười:
- Không biết làm chi mà mê tụng kinh quá vậy không biết!
Sư đặt lưng nằm xuống được mấy phút, lại có tiếng gõ cửa cộc cộc.
- Ôi dào, thật là mệt.
Sư ngồi dậy, đi ra cửa, vừa đi vừa nói:
- Thôi thế này, tôi mở cửa cho mà vào tụng kinh niệm Phật tự do. Còn tôi đi ngủ.
Sau đó sư mới yên giấc cho đến sáng.
Hôm sau, sư đã khỏe chút ít, có thể tụng kinh niệm Phật được.  Trời cũng đã bớt mưa. Sư bèn đi thăm một vòng quanh chùa. Khung cảnh chùa sau mấy ngày mưa trông đìu hiu quạnh quẽ. Sư Thuận Thành ước mơ có được một ít đá để rải chung quanh tượng Phật ngoài vườn cho sạch sẽ. Tối hôm đó, trước giờ lễ Phật, sư bỗng nhớ tới chuyện hồi trưa, sư nói:
- Ngày kia thầy phải đi ra thị trấn ít hôm để kiếm tiền mua vật liệu xây dựng về làm cho tượng Phật ngoài vườn sạch sẽ. Đi mấy hôm thì tạm nghỉ tụng kinh niệm Phật nghe.
Nhưng hôm sau, rồi hôm sau nữa, sư còn mệt người nên chưa ra thị trấn được. Đến bữa sau nữa, chùa có khách. Đó là một người đàn ông trung niên. Ông đến vào lúc hai giờ chiều.
- Bạch thầy, con làm chủ một cơ sở sản xuất đá làm đường ở cách đây mấy chục cây số. Con biết chùa dựng đây khá lâu nhưng chưa ghé vào thăm chùa được.
Sư Thuận Thành nói:
- Mô Phật, cửa chùa rộng mở mà. Lúc nào đến cũng được. Đến sớm đến muộn gì cũng tốt cả.
- Bạch thầy, hai hôm nay vợ con cứ thúc giục vào thăm chùa. Con không rõ lý do gì. Mà vợ con hồi xưa tới giờ đâu phải là người siêng đi lễ Phật đâu.
- Ờ, thì cũng có lúc người ta bỗng nhiên siêng đi lễ Phật, cái đó là do nó phát từ tâm thôi.
Nói đến đây, sư bỗng chau mày, ra chiều suy nghĩ. Sư “à” lên một tiếng.
Người khách hỏi:
- Thưa thầy, có chuyện gì hả thầy?
- Không, không có chuyện gì cả. Thầy nhớ một việc chưa kịp làm.
Trong thâm tâm, sư chợt hiểu:
- Hiểu rồi, thì ra mấy con ma này khiến bà vợ ông chủ cơ sở sản xuất đá nằng nặc kêu ổng vào đây, để mình khỏi đóng cửa chùa đi xin tiền mua đá về rải trong vườn.
Người khách lạ bỗng đứng dậy:
- Thưa thầy, con muốn dạo qua trong vườn chùa một chút được không thầy?
- Xin mời xin mời – Sư Thuận Thành vội vàng nói.
Đứng trước vũng bùn lầy lội ngay chân tượng Phật ngoài vườn, người khách nói:
- Bạch thầy, chỗ này lầy lội quá. Thật đau lòng khi phải nhìn tượng Phật nằm nơi nhếch nhác này. Xin thầy cho phép con ngày mai đưa đá vào đây rải lên làm sạch sẽ chỗ này.
Sư Thuận Thành mỉm cười, lòng thầm nghĩ: “Mấy con ma này thật là tinh ranh. Nhưng mà cũng được việc đó chứ. Tuy vậy phải răn đe nó mới được. Làm một lần thế này thì còn tha thứ chứ làm hoài thì đâu có được”.
Vị khách chở tới chùa mấy xe ben đá, cùng với cát và xi măng. Một tốp thợ làm trong một ngày, từ sáng tới tối mịt, láng xi măng sạch sẽ cả một khoảng rộng dưới chân Phật đài. Coi như là vượt quá mơ ước của sư Thuận Thành. Làm xong, hôm sau vị khách lại đưa cả gia đình vào lễ Phật. Thật là một ngày vui.
Tối hôm sau, trước giờ lễ Phật, sư vừa cười vừa nói:
- Quý vị làm vậy thì cũng tốt cho chùa. Nhưng chỉ làm một lần thôi, chớ làm lần thứ hai nghe. Vì cúng dường cho Phật là tại tâm, chớ không được ép buộc người ta. Tuy vậy riêng việc này, vì lỡ làm rồi nên thầy cũng cám ơn quý vị.
                                                *
Một hôm, sư Thuận Thành có việc phải ra ngoài thị trấn. Tối mịt mới về.
Về tới đoạn đường ngang nghĩa địa, thầy bỗng gặp hai người chạy từ hướng chùa ra. Giáp mặt, thì ra hai vị đệ tử của thầy. Ai nấy thở hổn hển:
- Thầy ơi, chúng con vào thăm thầy, không có thầy ở chùa, cũng không dám ở lại chờ thầy về. Chúng con tính ra ngoài thị trấn, tìm ngôi chùa nào đó ở lại, sáng mai vào thăm thầy.
- Giờ có thầy về đây rồi thì vào ở lại với thầy chứ?
- Thôi thầy ơi. Thầy cho đệ tử ra ngoài thị trấn ở đi. Trong này nhiều vong quá.
- Có vong nào đâu mà nhiều? – Sư Thuận Thành vừa cười vừa hỏi.
- Lúc chúng con vào tới chùa, trời đã tối. Nhưng cửa chùa mở nên chúng con nghĩ thầy có ở nhà. Khi vào trong thì quả đúng là thấy thầy đang làm lễ. Chúng con vội tiến vào thì không thấy thầy đâu nữa, mà toàn là những bóng người. Nhìn trước nhìn sau nhìn chung quanh, đâu cũng thấp thoáng bóng người. Chúng con biết là ma, sợ quá thầy ơi. Chùa sao nay nhiều ma vậy hả thầy?
- À, thì họ tới nương tựa cửa Phật, chẳng lẽ mình không cho!
- Ôi thầy ơi, thầy lớn tuổi rồi thầy không sợ chứ chúng con sợ lắm. Chắc mai tụi con mới vào thăm thầy được. Thầy thông cảm nghe thầy.
- Ừ, thôi hai đệ tử đi đi, rồi sáng mai vào thăm thầy và làm lễ Phật cũng được.
Hai vị sư trẻ tạm biệt sư Thuận  Thành rồi đi ngược ra thị trấn. Đi mới được mấy chục bước, một trong hai người đã khuỵu chân xuống không đi tiếp được. Vì phía trước họ, nhiều bóng người chạy qua chạy lại. Một người la lên:
- Thầy ơi thầy.
Sư Thuận Thành vội chạy trở lại chỗ hai đệ tử:
- Thôi vào chùa ở lại đi. Họ không muốn cho hai đệ tử ra thị trấn thì cứ ở lại đây.
Một vị sư trẻ nói:
- Thầy ơi, thầy tu ở chỗ lam sơn chướng khí này, tụi con chỉ dám tới thăm thầy một lần thôi, chớ không có lần thứ hai đâu.
Sư phì cười:
- Có gì đâu. Các con ở lại đây với thầy ít bữa rồi sẽ quen đi thôi mà. Họ cũng như mình vậy. Vì khi xưa họ là người. Mình nói phải thì họ nghe thôi chứ có gì đâu các con!
- Vẫn biết là cũng vốn là người, nhưng xưa nay người luôn luôn sợ ma đó thầy ạ.
- Nếu mình thành thật coi họ như mình thì không có chi phải sợ cả đâu.
- Thầy ơi, vậy vì sao họ nhát chúng con.
- Đó là tại vì chúng con yếu bóng vía, nên sinh ra như vậy.
Ba thầy trò vừa đi vừa nói chuyện, chẳng mấy chốc mà đã đến chùa. Sư Thuận Thành bước vào, nói:
- Thôi, hôm nay đã trễ rồi, không lễ Phật nữa. Quý vị ở nhà chắc đã lễ Phật xong rồi, còn thầy thì hôm nay mệt quá. Vậy mời quý vị ra vườn nghỉ ngơi. Bây giờ quý vị để cho thầy thắp đèn lên cho sáng sủa nghe. Hôm nay thầy có khách, xin quý vị vui lòng để cho khách của thầy nghỉ ngơi cho trọn vẹn.
Những bóng đen vụt biến mất khi ngọn đèn cầy được thắp lên. Không gian hoàn toàn yên tĩnh. Ánh sáng đèn hắt ra tận ngoài vườn chùa, nhưng tuyệt nhiên không thấy có một bóng ma nào thấp thoáng.
- Đó, các con thấy chưa? Có gì đâu! Thầy nói là họ nghe liền ấy mà.
- Thầy hay thật đó.
- Chỉ cần lòng thành với nhau là đủ. Người hay ma gì cũng vậy thôi. Không có lòng thành thì không làm bạn với nhau được các con à.
- Vậy là thầy có thể làm bạn với họ được sao!
- Không chỉ làm bạn. Thầy còn giúp họ và ngược lại họ cũng giúp thầy vài việc.
- Thật vậy hả thầy?
- Thật đó. Họ vốn là người mà. Các con quên rồi sao!
                                                          *
Một hôm, sư Thuận Thành đang ngủ, thì nghe có tiếng khóc nho nhỏ sau vườn. Sư ngồi bật dậy và nói:
- Nam Mô A Di Đà Phật! Nếu có nỗi oan ức gì thì cho thầy biết. Thầy giúp được gì thì sẽ gắng sức giúp.
Nói rồi sư lên giường nằm ngủ.
Trong mơ, sư gặp một người con gái. Người ấy nói:
- Tôi ở cách chùa này mười lăm cây số về phía Nam. Ở đó có hai ngôi mộ. Một ngôi mộ là của tôi, một ngôi mộ là của chồng tôi. Chúng tôi cùng chết oan lúc còn trẻ, chưa có con cái gì. Chúng tôi hồn chưa siêu thoát, nên quấn quýt nhau chốn trần gian. Vừa rồi có một việc xảy ra. Đó là người ta có kế hoạch làm một con đường ngang qua chỗ chúng tôi nằm. Nhưng con đường này chỉ đụng chạm vào phần mộ của chồng tôi, nên mộ chồng tôi phải dời đi chỗ khác. Còn mộ tôi vẫn nằm lại. Như vậy là hai chúng tôi bị chia cắt. Chuyện này làm cho chúng tôi đau buồn. Xin thầy giúp đỡ cho chúng tôi.
Sáng hôm sau tỉnh giấc, sư Thuận Thành bần thần nhớ lại giấc mơ. Sư không biết giải quyết việc này bằng cách nào. Vì đây là việc của nhà nước, làm sao có thể can thiệp vào được. Bây giờ mà kể chuyện này ra thì có ai tin mình. Không chừng lại bảo mình thần kinh có vấn đề nữa.
Sư Thuận Thành ngẫm nghĩ: “Chẳng lẽ lại nhờ mấy con ma kia làm giúp!”.
Nhưng rồi tối hôm đó, trước lúc làm lễ Phật, sư buột miệng nói ra ý nghĩ của mình:
- Có một cô gái tới đây van xin thầy giúp cho cô ta, làm sao nhà nước đừng dời ngôi mộ của chồng cô ấy đi nơi khác. Nhưng việc này là việc nhà nước, thầy đành chịu. Có ai giúp được cho cô ấy thì thầy xin nhờ, chứ thầy thì chịu”.
Và một việc xảy ra khiến sư Thuận Thành nhớ mãi, lấy đó làm bài học. Một vong nhập vào giấc mơ của sư và nói:
- Thầy ơi, cô gái ấy thật là ích kỷ. Mấy hôm nay cô ấy nhờ chúng tôi nhưng chúng tôi không làm. Biết là dời ngôi mộ chồng cô ấy đi nơi khác thì họ không được gần nhau. Nhưng chỉ là không nằm gần nhau thôi chứ họ vẫn đi chơi với nhau bình thường được mà. Còn con đường là lợi ích chung của cộng đồng, trong đó có cả người thân của chúng tôi, của cô ấy. Vậy thì hy sinh một chút đâu có sao. Chứ cứ luôn luôn nghĩ đến cái lợi cho riêng mình như vậy đâu có tốt. Tối mai, lúc lễ Phật, chúng tôi sẽ mời vợ chồng cô ấy vào đây cho thầy nói chuyện. Thầy cứ nói như chúng tôi đi.
Sư Thuận Thành lấy làm xúc động trước lời lẽ chân thành của mấy con ma. Cứ tưởng là họ chỉ luôn suy nghĩ cho bản thân, ai ngờ họ cũng sâu sắc như vậy chứ.
Trước giờ lễ Phật tối hôm ấy, sư thấy có cái bóng trắng lom khom đi vào phía sau lưng mình. Sư biết là cô gái được mời tới. Một lát sau, một cái bóng nữa ngồi kề cô ta. Sư hiểu đấy là người chồng của cô ta. Chung quanh là nhiều cái bóng quen thuộc khác. Khi đã cảm thấy đông đủ, sư Thuận Thành nói:
- Hôm nay, quý vị tới lễ Phật thật là đông đủ. Lại có thêm hai vị mới. Vì vậy tôi xin nói chuyện trước lúc lễ Phật.
Hôm trước, có cô gái ngồi sau lưng tôi đây, nhờ tôi về việc làm sao cho nhà nước khi làm đường không di dời ngôi mộ của chồng cô đi xa. Đó là một yêu cầu xuất phát từ tình cảm thiêng liêng của hai người. Tôi rất tôn trọng tình cảm đó.
Tuy nhiên qua tìm hiểu thì tôi biết, con đường đã được thiết kế rồi, cây cầu cách đó không xa đã được xây xong. Như vậy con đường không thể dời qua chỗ khác. Nếu dời đi sẽ rất tốn kém cho người sống. Tôi có hỏi ý kiến nhiều anh em ở đây, họ nói tôi nên khuyên cô chấp nhận hy sinh một chút tiêng tư để vì việc chung.
Tôi cho rằng, lợi ích của thế giới người sống cũng chính là lợi ích của thế giới người chết. Vì mai đây, quý vị sẽ đầu thai lại thế giới người sống, sẽ hưởng thụ những lợi ích vật chất sẵn có. Vì vậy tôi xin cô và chồng cô hãy chấp nhận việc dời một trong hai ngôi mộ đi nơi khác.
Sư Thuận Thành ngừng lại một chút, rồi nói tiếp:
- Tôi xin cô hãy vui lòng chấp nhận chuyện này. Nó cũng giúp cho hai người mau siêu thoát khỏi kiếp này.
Nếu cô đồng ý với tôi như vậy, cô hãy báo mộng cho tôi biết. Còn nếu không, tôi sẽ đi tìm gia đình cô, để yêu cầu họ dời ngôi mộ của cô cùng đi với chồng cô đến chỗ mới.
Sau đó, sư Thuận Thành được cô gái báo mộng là sư không cần phải làm gì cả. Cô ấy rất ân hận về yêu cầu không hợp lý của mình. Cô ấy chấp nhận hai người tạm nằm cách xa nhau. Việc dời ngôi mộ của cô ấy đi, cô ấy cũng không đặt ra. Vì như vậy lại phiền phức tốn kém cho gia đình cô ấy.
Thế là giải quyết xong một việc khá rắc rối.
                                                          *
Mùa xuân đến, có nhiều khách thập phương viếng thăm chùa. Một số người cúng dường cho chùa, nên sư Thuận Thành có thể xây dựng thêm vài công trình trong khuôn viên chùa. Ngoài ra, sư cũng xây dựng được cổng chùa cùng hàng rào vây quanh. Bây giờ, nét hoang vu u tịch đã giảm bớt đi một phần.
Khu nghĩa địa phía ngoài chùa nghe đâu có kế hoạch di dời đi nơi khác, để nhà nước làm công trình gì đó. Bởi vì bấy giờ, con đường chạy ngang qua vùng này đã làm xong, tráng nhựa phẳng lỳ.
Buổi sáng báo đăng tin về kế hoạch giải tỏa nghĩa địa thì buổi tối, các hồn ma chen chúc về trò chuyện với sư trong giấc mơ.
Một vong nữ nói với sư:
- Thưa thầy, nghĩa địa dời đi nơi khác, chùa trở nên nhộn nhịp, đông đúc người dương thế, không còn thích hợp với chúng tôi nữa. Chúng tôi buồn lắm. Chúng tôi cũng không có chỗ nào đến lễ Phật nữa. Như vậy thì chúng tôi buồn lắm. Mong thầy làm sao giúp cho chúng tôi về chuyện này.
Sư hỏi:
- Vậy quý vị muốn thầy giúp như thế nào đây?
- Thầy có thể làm thêm một cái chùa ở nơi vắng vẻ hơn, cho chúng tôi lui tới.
Sư Thuận Thành ngẫm nghĩ rồi nói:
- Làm một ngôi chùa không phải là dễ. Phải có đất, có tiền. Thầy cũng biết quý vị sẽ buồn khi ngôi chùa này trở nên đông đúc nhộn nhịp, người dương thế lui tới nhiều, quý vị không còn chỗ nương náu.
Một vong khác nói chen vào:
- Thầy ơi, tôi nghĩ thầy phải có bổn phận nói với người dương thế biết rằng, chúng tôi cũng cần có nhu cầu được an ủi tinh thần trong bóng từ bi của Phật. Chúng tôi không nói được điều đó, nhưng thầy thì nói được. Thầy nói thì người dương thế sẽ tin thầy.
Sư Thuận Thành nói:
- Thôi được, quý vị hãy để cho thầy suy nghĩ đã. Nhưng còn chuyện này cũng rất quan trọng. Như quý vị thấy, lâu nay chùa này chỉ một mình thầy tu hành, không có ai chịu tới ở với thầy. Nên nếu mai này ra đi, thầy không biết giao chùa này lại cho ai trông nom.
- Thầy cứ để chúng tôi làm việc đó. Chúng tôi sẽ mời đệ tử tới ngay cho thầy.
- Ấy, không nên chút nào. Lần trước quý vị đã bắt buộc ông chủ mỏ đá đem vật liệu tới làm láng nền trong vườn chùa. Thầy đã dặn quý vị chỉ được làm một lần thôi. Vì lòng thành với Phật thì phải để người ta tự nguyện.
Vong nam nói:
- Thầy ơi, có những việc phải làm áp lực, chứ để tự nguyện không thôi thì khó thành công lắm. Người dương thế cũng vậy mà người cõi âm cũng vậy. Chúng tôi sẽ mời một đệ tử đến ngay cho thầy.
Ba hôm sau, một vị khách đặc biệt đến thăm chùa. Một phụ nữ rất quý phái, đi xe hơi đời mới, dừng xe ngoài đường lớn rồi lội bộ vào chùa. Bà ấy gặp sư Thuận Thành thì mừng rỡ, nói:
- Bạch thầy, nhà con thật là có phúc lớn. Con sinh được đứa con muộn màng, nhưng mới lên ba tuổi, nó đã biết niệm Phật. Ai cũng cho đó là sự lạ, nhưng con nghĩ đó là phúc. Con đang tính tìm chùa nào để gửi cháu vào, thì hôm kia có người báo mộng, là hãy gửi cháu vào chùa này. Vì thế nên con vội tới đây.
Sư Thuận Thành thở dài, ngẫm nghĩ:
- Phật ơi, đứa bé ba tuổi này thì làm sao mà thay con để trụ trì ngôi chùa này được!
Sư nói với bà mẹ:
- Thế là phúc lớn cho bà, nhưng cháu bé còn nhỏ quá. Bà hãy mang cháu về, khi nào được mười tuổi, mời bà mang cháu tới đây. Cửa Phật luôn rộng mở, bà không phải lo.
Người phụ nữ năn nỉ:
- Bạch thầy, xin thầy hãy nhận cháu.
Nhưng sư Thuận Thành kiên quyết từ chối. Sư nghĩ: “Mấy con ma này thật quá đáng. Ai đời lại đi ép một bà mẹ đem đứa con nít nhỏ xíu đến chùa”.
Năn nỉ mãi không xong, bà mẹ đành ra về. Bà ta nói:
- Thưa thầy, đây là số điện thoại của con. Khi nào thầy suy nghĩ lại, thầy hãy điện thoại cho con. Con sẽ mang cháu tới liền.
Buổi tối hôm đó, các hồn ma chen chúc về gặp sư Thuận Thành trong mơ. Sư nói:
- Quý vị thật buồn cười! Ai đời đem đứa bé ba tuổi tới cho thầy!
Vong nữ liền nói:
- Thầy ơi, đứa bé ấy thầy không nhớ ra thôi. Ba năm về trước, chính là người bạn của chúng tôi ở đây. Anh ấy rất siêng lễ Phật, mong muốn mai này đầu thai thành người sẽ nương tựa nơi cửa Phật. Rồi anh ấy được đầu thai sớm, và nhân quả báo đáp, nên mới lên ba tuổi đã muốn vào chùa. Chúng tôi chỉ là người báo mộng cho bà mẹ thôi.
Sư cười:
- Thế à! Thầy đâu có biết. Nếu vậy là hồng phúc cho cậu ấy rồi. Nhưng bây giờ cậu ấy bé tí như thế, làm sao thay thầy làm được nhiệm vụ nặng nề nơi cửa Phật.
- Thầy cứ nhận cậu bé ấy đi. Cậu bé ấy còn có một người chú, hiện là một vị sư có đức hạnh tốt, đang tu ở một ngôi chùa cách đây mấy trăm cây số. Chúng tôi sẽ báo mộng cho người đó.
Sư Thuận Thành cười:
- Thật là một gia đình có hồng phúc.
Thế là hôm sau, sư Thuận Thành điện thoại cho bà mẹ. Rồi mấy ngày sau, người chú cũng tìm đến theo lời báo mộng. Hai chú cháu, cũng là hai thầy trò, từ đó tu tập trong chùa.
          *
Khi chùa đã trở nên đông đúc như thế, các hồn ma không còn chỗ lui tới nữa. Đêm đêm họ lang thang ngoài nghĩa địa, chứ không vào chùa. Vì thế họ quyết tâm tìm một chỗ làm ngôi chùa mới cho sư Thuận Thành. 
Một buổi sáng, có một người khách đến chùa. Người này nói với sư:
- Bạch thầy, con muốn thưa chuyện riêng với thầy.
Sư dẫn vị khách vào thư phòng. Người này nói:
- Thưa thầy, con nay đã bảy mươi, một đời xuôi ngược buôn bán làm ăn. Lúc trẻ làm được nhiều tiền nhiều của. Tuy nhiên, để có được những đồng tiền ấy, con cũng phải gian dối với người đời nhiều lắm. Bây giờ về già, con muốn làm phúc để tránh họa nhân quả cho con cháu.
Con có một khu vườn cách đây chừng mấy chục cây số. Trong đó hoang vu u tịch nhưng đất đai tươi tốt, có thể làm vườn sinh sống và xây chùa để thờ Phật. Xin thầy vui lòng nhận lấy mảnh đất ấy của con, rồi thầy tùy nghi sử dụng.
Thế là sư Thuận Thành nhận mảnh đất ấy. Một thời gian sau, ngôi chùa nhỏ đã mọc lên. Những hồn ma lang thang lại quy tụ trở về, nương tựa nơi cửa Phật. 
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:29:13 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:55:24
QUỶ NHẬP TRÀNG
 
Cả xóm Giồng Cát chiều nay bỗng xôn xao hẳn lên trước một chuyện lạ vừa xảy ra ở gia đình ông Bảy Tấn.
Bà Bảy, vợ ông, năm nay đã ngoài bảy mươi, ốm đau rề rề từ lâu, sáng này vừa trút hơi thở sau cùng. Con cái đã tề tựu đủ mặt, chỉ còn chờ tới giờ là tẩm liệm bà vô quan tài.
Tư Quýnh là người chuyên đi tẩm liệm giúp cho các nhà trong xóm. Việc này anh làm không công, không nhận bất cứ một thứ quà biếu xén nào ngoại trừ mấy xị rượu anh uống trước khi bắt tay vào việc.
Ai cũng khen Tư Quýnh khéo tay. Trước khi đặt người chết vào áo quan, Tư Quýnh bao giờ cũng tắm rửa sạch sẽ và trang điểm cho họ.
Anh nói:
- Con người ta bất kỳ lúc nào cũng muốn mình đẹp, cho nên khi tiễn họ về thế giới bên kia mình cũng phải lo cho họ được tươm tất!
Người ta quý anh là ở chỗ đó.
Khi Tư Quýnh đang phủ một lớp phấn hồng trên mặt bà Bảy, đột nhiên bà mở trừng mắt rồi ngồi bật dậy làm cho Tư Quýnh một phen hoảng vía vừa bò vừa lết, miệng thì ú ớ không thành câu:
- Bà… Bảy… hơ… hơ…
Lúc mọi người đổ xô vào thì bà Bảy đang đứng trơ ra giữa phòng, mắt ngó lơ láo, trên người vẫn còn mặc nguyên bộ quần áo trắng rộng thùng thình dành cho người chết.
Ông Bảy run giọng:
- Bà!... Bà sống trở lại rồi sao?
Hai Lê, con gái lớn của ông bà Bảy rụt rè đứng cạnh bên cha:
- Ba coi kỹ lại, có phải má sống thiệt hay là do con linh miêu gì đó nhảy ngang mình, con nghe người ta thường nói vậy…
Ông Bảy gạt ngang:
- Nhà mình đâu có nuôi mèo chó gì đâu mà miêu với miếc!
Lúc này Tư Quýnh cũng đã lấy lại bình tĩnh, anh xen vào:
- Tui cam đoan là hổng có con gì nhảy ngang qua người bà Bảy hết trơn, tự nhiên tui đang trang điểm cho bả thì bất thần bả mở to mắt rồi ngồi bật dậy… Cái này… một là bả hoàn dương thật sự, hai là… hai là…
Nói tới đó Tư Quýnh im bặt làm mọi người lo lắng:
- Hai là sao? Nói tiếp đi chứ mậy!
Có tiếng người giục, Tư Quýnh ấp úng:
- Thì tui cũng nghe người ta đồn đại thôi chứ thực hư ra sao không rõ…
- Đồn đại thế nào anh Tư, nói đi mà?
Cô Hai Lê nóng ruột hỏi.
Tư Quýnh lấm lét ngó bà Bảy rồi kéo tay cô Lê ra ngoài nói nhỏ:
- Tui nghe nói hiện tượng quỷ nhập tràng cũng giống vậy đó…
Hai Lê hốt hoảng:
- Quỷ nhập tràng là sao hả anh Tư? Anh làm ơn nói rõ một chút đi, cứ úp mở vậy hoài làm tui sợ muốn chết nè!
Tư Quýnh hạ thấp giọng:
- Quỷ nhập tràng tức là hồn người chết thật sự đã lìa khỏi xác rồi, nhưng xác đó lại bị một hồn khác chiếm giữ… Tui cũng chỉ biết đại khái thế thôi. Nhưng… trường hợp người ta chết đi sống lại cũng đã từng xảy ra. Có người sau khi hoàn dương còn sống tiếp hàng chục năm nữa mới chết thật sự. Bởi vậy có thể bà Bảy hoàn dương cũng hổng chừng…
Nghe Tư Quýnh nói năng lấp lửng, nước đôi, Hai Lê bực mình:
- Tưởng gì, anh nói tới nói lui cũng không xác định được gì ráo trọi! Thôi, để tui vô xem bà già thế nào!
Nói xong Hai Lê quày quả bước trở vô buồng. Lúc này bà Bảy đã được ông Bảy dìu tới ngồi vào chiếc ghế tựa để cạnh giường.
- Má sao rồi ba? Má có biết gì không?
Hai Lê hỏi ông Bảy.
Ông lắc đầu:
- Bây giờ bả còn ngơ ngác lắm, có biết gì đâu! Chết đi sống lại mà, cứ để từ từ rồi bả sẽ dần dần tỉnh táo thôi mà!
Bà Bảy sống lại là niềm vui to lớn đối với ông Bảy. Gần chục năm nay, từ lúc con cái có gia đình và ra riêng hết, vợ chồng ông Bảy sống quấn quýt với nhau, chăm sóc lẫn nhau nghĩa tình còn mặn mà, đằm thắm hơn thời còn son trẻ.
Sáng này, khi bà Bảy thở hơi cuối cùng, ông Bảy đau thắt lòng thắt dạ, ông vẫn thầm mong bà đừng vội bỏ ông mà đi như vậy, thà rằng bà cứ sống với ông, dù bà ốm đau không làm gì được thì ông cũng vẫn vui vẻ được phục vụ bà mọi việc như lâu nay. Ông rất sợ cảnh cửa nhà quạnh vắng, không có bà, ông biết ăn cùng ai, nói chuỵên cùng ai?
Bởi vậy, khi thấy bà Bảy mở mắt ngồi dậy, ai sợ hãi chứ ông thì tuyệt đối không, ông mừng vui nữa là khác. Có lẽ bà đã hiểu thấu lòng ông, bà không nỡ để ông bơ vơ một mình nên đã trốn từ quỷ môn quan mà trở lại với ông đây.
Ngồi một bên bà Bảy, nhìn vẻ mặt ngơ ngác của bà ông thấy thương đứt ruột.
Sự việc bà Bảy hoàn dương chỉ mới đó mà đã lan nhanh ra khắp làng khắp xóm, người ta ùn ùn tới nhà ông Bảy, đứng kín vòng trong vòng ngoài để theo dõi chuyện hy hữu đó.
Đám con ông Bảy một phen vất vả mới có thể mời họ ra khỏi nhà và đóng chặt hai cánh cổng rào mà lâu nay vốn chỉ nằm lấy lệ ở đấy, lúc nào cũng mở toang.
Trong nhà chỉ còn lại những người thân thuộc.
Ông Bảy rót một ly nước trà đưa tận tay bà, nhỏ nhẹ nói:
- Bà uống nước đi…
Bà Bảy không nói không rằng, nhưng ngoan ngoãn đón lấy ly nước từ tay ông đưa lên miệng uống một hơi cạn sạch.
- Bà có mệt không?
Ông Bảy hỏi.
Bà Bảy gật đầu, lộ rõ vẻ mỏi mệt.
- Con coi dẹp đồ đạc trên giường cho má con nằm nghỉ!
Quay qua Hai Lê, ông Bảy nói.
Hai Lê vội vã bước tới gom toàn bộ áo quần, vải vóc mà lúc nãy cũng chính tay cô đã soạn ra để đem theo vào quan tài cho mẹ.
Khi chiếc giường đã sạch sẽ, cô Hai Lê khè liếc nhìn bộ quần áo liệm mà mẹ cô đang mặc trên người, ái ngại nói:
- Ba… có cần… thay đồ cho má không?
Lúc này ông Bảy mới sự nhớ, ông nhìn vợ rồi hấp tấp nói:
- Thay! Phải thay liền đi chớ con! Để vầy đâu có nên! Má con đã sống lại thật sự rồi không thấy sao? Ba hỏi gì bả cũng hiểu rồi…
Vừa nói ông vừa xăng xái đứng lên đỡ vợ tiến lại gần giường, mấy người bà con giữ ý lui ra ngoài để cô Hai Lê thay áo quần cho mẹ.
Khi mọi việc xong xuôi, bà Bảy được chồng và con gái đặt nằm lên giường, bà khép mắt lại, vẻ khoan khoái.
Ông Bảy nói nhỏ:
- Để má con ngủ một chút. Bây giờ tụi con lo dọn dẹp hết các thứ này đi!
Ông chỉ tay vào mấy dĩa đèn cầy để dưới chân giường, chiếc quan tài cạnh đó và nhiều vật dụng khác mà gia đình chuẩn bị đưa bà Bảy sang thế giới bên kia.
Hai Lê nhanh nhẹn ra nhà ngoài chỉ bảo cho chồng và các em trai khiêng quan tài đem giấu tuốt sau hè, gom góp mọi thứ, cái thì đem cất đi, cái thì đốt bỏ.
Trong lòng cô Hai Lê lúc này ngổn ngang thật nhiều cảm xúc, cô vừa mừng vừa lo lắng. Nhưng không hiểu sao sự lo lắng trong cô lại lớn hơn, nó lấn át đi phần vui vì mẹ mình sống lại.
Khi nhà cửa đã dọn dẹp tươm tất, những người thân thuộc cũng đã hết lời động viên cha con ông Bảy. Họ đưa ra thật nhiều trường hợp người chết sống lại để cha con ông yên tâm. Hai Lê ngoài mặt vẫn vui vẻ nói cười, nhưng trong thâm tâm cô vẫn cứ lo ngái ngái.
Thật sự lúc này nếu ba cô bảo cô vào ngồi một mình cạnh mẹ chắc cô cũng không dám. May nhờ ông Bảy vì quá thương vợ nên cứ ngồi lỳ ở đó, Hai Lê thì tất bật hết việc này sang việc khác nên cô không phải khó xử.
- Chị, theo nhận xét của chị thì má thế nào?
Ba Thành, cậu em trai kế  đang dỡ bỏ chiếc rạp vừa che trước nhà, đột ngột hỏi khi trông thấy Hai Lê đi ra:
Hai Lê bối rối:
- À,… ừ… thì má hình như đã đỡ hơn nhiều rồi!
- Không, ý em hỏi chuyện má đột nhiên sống lại kìa, có gì bất thường không?
Ba Thành cãi.
- Thì tất nhiên đã chết rồi mà sống lại thì cũng không thể gọi là bình thường được rồi, nhưng như mọi người đã nói, hiện tượng này cũng thường xảy ra, không phải là chưa từng có…
Hai Lê nói cứng. Cô vừa muốn ổn định tinh thần cho em trai và cũng muốn tự trấn an mình.
Ba Thành gật gù:
- Cũng phải, chuyện này em cũng nghe kể nhiều rồi! Chị còn nhớ không, hồi nhỏ má còn kể cho mình nghe chuyện “Cô Ba bán cháo gà”? Cô đó chết rồi, đã xuống tới chín tầng địa ngục rồi mà còn trở về sống lại và kể cho mọi người nghe những việc mà cô chứng kiến được. Má mình hoàn dương sau mấy giờ đồng hồ nghỉ thở thì cũng không lạ lắm…
Hai Lê nghe em trai nhắc lại chuyện Cô Ba cháo gà mà hồi nhỏ cô rất thích nghe mẹ kể, suy nghĩ lại thì cũng đúng, má mình chết chưa lâu mà, khả năng hồn quay trở về cũng rất lớn. Nghĩ vậy nên Hai Lê thấy vững bụng. Lúc này cô mới mon men vào cạnh giường mẹ.
Ông Bảy vẫn không chịu rời vợ một bước. Nhà có điện, có quạt máy vậy mà ông cứ ngồi một bên, tay phe phẩy chiếc quạt lá dừa quạt mát cho bà Bảy.
Nhìn hình ảnh cha mẹ, Hai Lê bất giác ứa nước mắt. Cô khẽ bảo cha:
- Ba nằm nghỉ chút đi, để con ngồi với má được rồi! Từ tối hôm qua tới giờ ba có nghỉ ngơi được chút nào đâu!
Ông Bảy thở dài:
- Lo gì con ơi, má bây khỏe mạnh lại là ba mừng lắm, bao nhiêu vất vả, mệt nhọc bay biến mất hết rồi! Ba muốn ngồi đây để chút nữa bả tỉnh dậy không thấy tủi thân.
Hai Lê biết mình không thể nào thuyết phục được ba rời khỏi má lúc này, cô bắc ghế ngồi cạnh một bên, nhẹ nhành bóp bóp cánh tay xương xẩu của mẹ. Cánh tay sáng này đã lạnh ngắt nhưng bây giờ lại ấm nóng bình thường.
Bất chợt Hai Lê cảm thấy cuộc đời có rất nhiều điều lạ lùng không sao đoán biết trước được. Cô không quên, thuở cô còn bé cha mẹ cô luôn khắc khẩu, cự nự nhau luôn. Có nhiều khi chỉ vì một chuyện vớ vẩn không đâu mà cha mẹ cãi nhau kịch liệt, mới đầu còn lời qua tiếng lại, sau thì chén bát vỡ loảng xoảng. Chị em cô thường ao ước, giá mà cha mẹ mình được hòa thuận, yêu thương nhau như vợ chồng nhà hàng xóm thì tốt biết bao.
Vậy mà lúc về già hai người lại nhường nhịn, thương yêu nhau rất mực. Có lần cô Hai Lê đón mẹ lên nhà mình chơi, khi đi bà Bảy sắp soạn đồ đạc dự định ở chơi với cháu ngoại một tháng mới về, nhưng lên mới hai ngày đã không chịu nổi.
- Tao đi đây bỏ ba mầy ở nhà không ai lo cơm nước cho ổng, tội nghiệp!
Đó là lý do để bà Bảy nằng nặc đòi con gái phải chở trả bà về với ông.
Phần ông Bảy cũng không khác gì, ông cứ đi ra đi vào, đến ngày thứ hai vắng bà ông hết chịu nổi, sáng sớm đứng ngoài đường đón mấy đứa nhỏ đi học trên thị xã, nhắn:
- Con nói giùm cô Hai đưa bà Bảy về coi bán gà giùm ông, nó cứ qua nhà hàng xóm phá hoài, ông sợ mích lòng!
Hai Lê giận mẹ không chịu ở chơi với mình, nhưng trong thâm tâm cô lại rất vui khi thấy cha mẹ mình đối với nhau như thế. Cô còn thầm ao ước, sau này vợ chồng cô cũng được khắn khít keo sơn như thế.
Nhà có ba chị em mà mỗi mình cô là gái, nên mọi việc lo toan trong ngoài đều do một mình Hai Lê gánh vác. Mấy đứa em trai vô tâm, sai biểu gì chúng làm nấy chứ chẳng biết suy nghĩ gì cho cha mẹ cả.
Mấy hôm nay thấy sức khỏe bà Bảy mỗi lúc một yếu đi, Hai Lê đã lo mẹ mình không qua khỏi. Bên cạnh nỗi lo và tình thương dành cho mẹ, Hai Lê còn canh cánh bên lòng một mối lo khác, đó là sau khi bà Bảy mất, ông Bảy sẽ sống sau đây? Đón ông về ở với gia đình cô hoặc mấy đứa em trai thì chắc chắn ông sẽ không bằng lòng, vì ông sống ở quê, nhà cửa rộng rãi, vườn tược xung quanh quen rồi, lên thành thị nhà hẹp người đông, đi ra đi vào tù túng, ông chịu không được. Điều này thì ông đã nói từ lâu lắm rồi.
Ông không lên sống với các con, chẳng lẽ bỏ ông sống một mình thui thủi ở quê? Cả mấy chị em cô Hai Lê đều có nhà cửa riêng, có công ăn việc làm ổn định trên thị xã, cũng không thể nào về quê sống để phụng dưỡng cha già. Đó là một bài toán nan giải đối với Hai Lê.
- Con coi má con ngủ hay mê vậy Lê?
Giọng nói lo lắng của ông Bảy cắt đứt dòng suy tưởng của Hai Lê, cô giật mình đưa tay sờ nhẹ lên ngực mẹ. Nhịp tim bà Bảy đập nhịp nhàng, hơi thở đều đặn không có vẻ gì là nặng nhọc.
- Chắc má ngủ thôi ba à! Hay là con đánh thức má dậy xem sao nhé?
Hai Lê đề nghị.
Ông Bảy gật đầu:
- Ừ, con đánh thức thử xem, ba cứ sợ bà ấy hôn mê thì khổ!
Hai Lê lay nhẹ vay bà Bảy:
- Má, má ơi! Má dậy uống thuốc đi má!
Bà Bảy khẽ nghiêng người rồi nhướng mắt nhìn lên, điệu bộ như còn đang say ngủ.
- Má, dậy chút đi má!
Hai Lê vẫn thúc giục.
Bà Bảy mở mắt nhìn chồng, nhìn con, không nói gì nhưng xem chừng đã tỉnh ngủ hẳn.
Hai Lê mừng rỡ rót một ly nhỏ nước sâm đem tới đỡ mẹ ngồi lên:
- Má uống chút này vô cho khỏe nha má!
Cô vừa dỗ dành vừa kề ly nước vào miệng bà Bảy. Ông Bảy cầm chiếc khăn nhỏ hứng bên dưới.
Bà Bảy giơ tay ra cầm lấy ly nước, tự mình đưa lên miệng uống. Ông Bảy nhìn Hai Lê vẻ phấn khởi.
Hai Lê cũng vui mừng không kém, cô tin chắc mẹ mình đã khỏe lại rồi, nhờ ơn trời phật, mẹ cô được sống thêm vài năm nữa là điều hạnh phúc mà chị em cô luôn khao khát.
- Bà thấy đói bụng không?
Ông Bảy hỏi với giọng dịu dàng.
Bà Bảy nhìn ông rồi gật đầu.
Hai Lê chợt nhớ nãy giờ mình lo đủ thứ chuyện mà quên không nấu cho mẹ nồi cháo. Cô vội bảo ông Bảy:
- Ba đỡ má giùm con, để con đi bắc miếng cháo…
Hai Lê chưa nói hết câu, bà Bảy chỉ tay vào bụng, lắp bắp:
- Đói… ăn… cơm…
Ông Bảy nóng ruột:
- Chờ nấu cháo thì lâu lắm! Con coi xới đỡ ít cơm nhão cho má ăn tạm trước đi, mấy hôm nay bả đâu có gì trong bụng.
- Dạ!
Hai Lê nhanh nhẹn chạy xuống bếp lục lạo. Cô bới cho mẹ mấy muỗng cơm, chan canh súp vào rồi tán nhuyễn.
- Má, con đút cho má nghen?
Hai Lê bưng chén cơm tới mặt bà Bảy đề nghị.
Bà Bảy lắc đầu, chìa hai tay ra.
Hai Lê do dự một chút nhưng rồi cũng đưa chén cơm cho mẹ. Bà Bảy vừa cầm lấy chén cơm đã vội vàng ăn lấy ăn để, không giống như người mới khỏi bệnh chút nào.
- Từ từ… Bà ăn từ từ thôi kẻo mắc nghẹn bây giờ!
Ông Bảy lo lắng cản.
Bà Bảy ngước nhìn ông, miệng như hơi mỉm cười rồi lại cúi xuống ăn tiếp, nhưng lần này ăn một cách nhỏ nhẻ, từ tốn hơn.
Hai Lê đứng nhìn mẹ mà không cầm được nước mắt. Đã bốn ngày nay rồi mẹ cô đâu ăn gì ngoài mấy muỗng sữa mà cô đã cố công đổ vào. Bây giờ nhìn mẹ ăn như vậy chứng tỏ mẹ đã khỏe thật rồi. Cô thầm nhủ với lòng, rằm tháng này sẽ vô chùa cúng trả lễ, trời phật đã thương cha con cô mà trả mẹ trở về dwong thế.
- Bà ăn nữa không?
Thấy bà Bảy vét hết muỗng cơm cuối cùng, ông Bảy lật đật hỏi. Bà chưa kịp trả lời thì Hai Lê cản:
- Từ từ thôi ba à, mấy hôm nay má không ăn gì giờ một lúc ăn nhiều quá không tốt. Giờ cho má uống nước rồi nằm nghỉ, con đi nấu cháo chút nữa cho má ăn tiếp!
- Ừ, con nó nói cũng phải đó bà! Bà nằm xuống đi, tui lấy nước.
Ông Bảy gật gù.
Hai Lê cầm cái chén không đi xuống bếp lo nấu cháo cho mẹ. Ở trong buồng ông Bảy thì thầm với vợ điều gì không biết mà mỗi lúc đi ngang qua Hai Lê đều nghe thấy tiếng rì rầm nho nhỏ. Cô mỉm cười, không muốn phá vỡ giây phúc hạnh phúc của cha mẹ mình.
- Má sao rồi, chị Hai?
Mấy đứa em trai đã dỡ xong xuôi cái rạp che trước sân nhà, thấy Hai Lê bước ra chúng lo lắng hỏi.
Hai Lê mỉm cười:
- Má khỏe thật rồi, mới vừa ăn hết chén cơm. Giờ chị đang nấu cháo…
Tư Bo cười cười:
- Bà già tạo xì – căng – đan chơi há!
Hai Lê liếc em:
- Không được ăn nói bậy bạ! Chắc tại trời phật thương tình nên cho má về sống với chúng mình thêm một thời gian nữa đó, lo mà cảm tạ phật trời đi, ở đó mà phát biểu linh tinh.
Tư Bo le lưỡi, cổ rụt lại ra vẻ sợ bà chị khó tính.
Ba Thành đứng lên:
- Tao với mầy vô thăm má chút, Bo!
Tư Bo phủi phủi bàn tay dính đầy đất cát đứng lên đi theo sau anh. Hai Lê nhìn theo lặng lẽ mỉm cười.
Tối đó, rải rác một vài người tới thăm và chia vui, chị em Hai Lê tiếp khách, còn ông Bảy vẫn nhất quyết cứ ngồi bên cạnh vợ không chịu đi đâu.
Sáng hôm sau, bà Bảy đã tự đi đứng được, nhưng vì sức còn yếu nên chao vao, đi tới đâu đều được ông bảy và mấy đứa con kè sát một bên.
Khách khứa tới thăm nườm nượp. Có người thật sự quan tâm, muốn tới thăm và chia sớt nỗi vui mừng, nhưng cũng không ít kẻ chỉ vì hiếu kỳ, tới chỉ cốt xem bà Bảy có gì lại so với hồi chưa chết hay không.
Nhưng những người tới thăm đều không được chủ nhà cho vào phòng bà Bảy, viện cớ bà còn mệt.
Chuyện chết đi sống lại của bà Bảy được người ta thêu dệt thêm nhiều tình tiết ly kỳ hấp dẫn, lan truyền đi thật xa, đi tới đâu cũng nghe người ta sôi nổi bàn tán. Nhưng rồi chỉ một thời gian ngắn chuyện đó cũng nhanh chóng lắng xuống, khi bà Bảy đã trở về với những sinh hoạt bình thường hàng ngày của mình.
Chị em cô Hai Lê sau nhiều ngày quây quần bên mẹ, giờ cũng thật yên tâm trở về nhà mình, trong ngôi nhà ngói ba gian rộng lớn giờ chỉ còn hai người già nương tựa vào nhau.
Sau sự cố đó, bà Bảy đã khỏe hơn trước rất nhiều. Mọi việc trong nhà một tay bà quán xuyến. Mỗi sáng ông đạp xe đi chợ, cái chợ quê cách đó chỉ vài trăm mét, nhưng ông vẫn thích đạp xe cọc cạch, tới chợ dựng xe, vào quán nhâm nhi mộpt ly cà phê, chuyện vãn dăm ba câu với mấy ông bạn già rồi mới đủng đỉnh ra mua một vài thức ăn theo lời bà Bảy dặn.
Khi ông về thì nhà cửa đã được quét dọn tươm tất, vịt gà cũng được bàg cho ăn no và mở cửa chuồng thả chúng xong xuôi hết. Bà bảy đón lấy giở thức ăn trên tay chồng, lui cui nấu nướng, còn ông thì đi tăùm heo và cho heo ăn.
Đến trưa, sau khi cơm xong, bà Bảy thường nằm đong đưa trên võng để nghe chương trình ca nhạc cải lương từ chiếc radio cũ rích, ông Bảy sabng nhà hàng xóm bên cạnh uống trà, hoặc mấy ông hàng xóm qua nhà ông ngồi đàm đạo.
Nhịp điệu sinh hoạt hàng ngày của đôi vợ chồng già là như thế.
Ông Bảy tuy là đàn ông, nhưng tính tình lại rất ngăn nắp, sạch sẽ. Nhất là từ khi bà Bảy đau yếu, việc quét dọn nhà cửa một tay ông lo. Bây giờ bà Bảy khỏe lại đã đỡ đần cho ông được nhiều việc, nhưng thỉnh thoảng ông vẫn làm hết những việc phần bà.
- Nhà có chuột chết hay sao mà tui nghe có mùi thum thủm vậy kìa?
Ông Bảy ngạc nhiên. Bởi vì nhà ông không nuôi mèo chó, chẳng lẽ chuột tự chạy vào đây rồi ngã lăn ra chết hay sao?
Ông Bảy đã bỏ cả buổi để sục sạo khắp các gầm giường, gầm tủ, khắp các ngóc ngách trong nhà nhưng không thấy gì. Vậy mà mùi hôi thối cứ thỉnh thoảng lại xộc vào nhà khiến ông rất khó chịu.
Rất nhiều ngày như vậy, ông Bảy vẫn không thể nào tìm ra nguyên nhân, cuối cùng đành phải buông xuôi, chịu trận.
Mà nói nào ngay, không phải trong nhà ông lúc nào cũng hôi thối, chỉ thỉnh thoảng thôi. Những lúc đó ông rất lo cho bà Bảy, sợ sức khỏe bà yếu, dễ bị nhiễm hơi độc. Nhưng bà Bảy thì cứ tỉnh bơ, bảo rằng không nghe thấy mùi gì lạ hết.
 
***
- Hổm nay sao ngày nào cũng mất một con vịt, để tui đi một vòng trong xóm, coi nó có nhập bọn với vịt nhà ai không?
Sau khi lùa đàn vịt vô chuồng, ông Bảy nói. Ông thật bực mình, lâu nay xóm này không hề xảy ra chuyện mất mát, tự nhiên liên tiếp mấy hôm nay ngày nào nhà ông cũng mất một con vịt, mà chẳng nghe đứa nào hó hé vịt nhà nó dư ra. Chiều nay ông nhứt định phải đi dò la mới được.
Nghe ông Bảy nói vậy bà Bảy chỉ ậm ờ cho qua.
Ông Bảy cũng không thắc mắc, vì từ lúc chết đi sống lại tới nay bà Bảy có nhiều khác lạ mà giờ ông đã quen rồi.
Trước kia, mỗi bữa cơm bà Bảy chỉ ăn lưng chén, còn bây giờ bà ăn như người còn trẻ khỏe, bữa cơm nào cũng ba chén đầy. Mấy ngày đầu ông Bảy cũng lo lắm, nhưng rồi sau quen dần ông lại mừng vì thấy bà khỏe khoắn. Mà bà khỏe thật. Trước kia, bà quét cái sân trước nhà cũng đã vất vả vì đau lưng, cứ vài nhát chổi lại nghỉ mệt, nhưng bây giờ bà làm một loáng là sạch trơn, không than vãn đau lưng gì nữa hết.
Bà lại cực kỳ ít nói. Trước kia, bà Bảy là một người đàn bà quê mùa xởi lởi, những lúc rảnh rang hay ngồi nói chuyện này nọ với các bà bạn già trong xóm, nhưng từ ngày ấy bà tránh các cuộc tụ tập, có ai tới nhà chơi bà cũng tiếp qua loa rồi viện cớ bận việc này việc khác, thành thử dần dần người ta ngại, không ai dám tới chơi với bà nữa.
Bây giờ bên cạnh bà Bảy chỉ có mỗi mình ông, mà việc chuyện vãn với ông cũng hiếm hoi lắm. Thường thì suốt ngày ông là người nói, bà chỉ ừ  hử, thỉnh thoảng mới góp vào một vài câu. Ông Bảy cũng đã quen dần với điều đó!
Thì cũng phải thôi, bà đã đi qua một khúc quanh “lịch sử” trong đời, thì vịec thay đổi tính tình cũng là lẽ được nhiên. Có người, sau khi giải phẫu cũng đã đổi tính nết nói chi tới chuyện chết đi sống lại như bà Bảy!
Tới tối mịt ông Bảy mới quay về. Vừa bước vô nhà ông đã thở dài:
- Thiệt không hiểu nổi, cả xóm này chỉ có nhà mình với nhà thằng Đẩu là nuôi vịt, mà vịt nhà nó với nhà mình một trời một vực, không thể nào lẫn lộn được! Chẳng lẽ trong xóm lúc này bày đặt sanh ra nạn trộm cắp vặt hay sao chứ?
- Coi chừng nó bị chồn, chó gì bắt mất đó ông ơi, đừng nghi ngờ oan cho người ta mà mang tội!
Bà Bảy đột ngột nói.
Ông Bảy gật gù:
- Ừ, bà nói cũng phải! Nhưng nếu có chồn chó gì thì cũng có người phát hiện, hoặc là nó để lại dấu vết, còn đằng này sao mà sạch trơn, hổng biết nữa?
Bà Bảy im lặng, dọn cơm lên cùng ăn với chồng.
Liên tiếp những ngày sau nữa nhà ông Bảy vẫn mấy mỗi ngày một vịt. Đến nước này thì ông không chịu nổi rồi. Ông vác cây đi lùng sục khắp bờ bụi gần đó suốt mấy ngày vẫn không phát hiện dấu vết nào.
- Ông Bảy! Ông mau tới đây xem nè!
Đẩu cất tiếng gọi.
Mấy hôm nay Đẩu là người đi tìm dấu tích chồn cùng với ông Bảy. Vì tuy nhà mình chưa bị mất mát gì, nhưng thấy tình trạng vịt nhà ông Bảy mất liên tiếp như vậy Đẩu cũng sợ, anh quyết tâm cùng ông Bảy bắt cho bằng được con chồn ranh ma đó mới thôi.
Nghe tiếng Đẩu gọi, ông Bảy vội chạy đến. Đẩu một tay cố ghìm chặt con chó, một tay chỉ vào lùm cây rậm rạp:
- Lúc nãy tui tấy con chó vừa cào đất lia lịa, vừa sủa ăng ẳng có vẻ không bình thường nên chạy lại xem thì phát hiện… vịt của bác bị chôn trong đó!
Ông Bảy sửng sốt:
- Sao? Mầy nói sao? Nó chôn vịt của tao trong đó? Chôn sống?
Đẩu lúng túng:
- Dạ, con cũng chưa coi kỹ, vì mắc giữ con chó lại, sợ nó tha đi tùm lum. Đâu, bác vô coi sao!
Đẩu vừa dứt lời, ông Bảy hấp tấp vén bụi rậm, ngồi khom người gần như bò vô trong chỗ đất cát bị chó đào xới, ló lên một nửa thân con vịt.
Ông run run moi cho miệng hố rộng thêm chút nữa rồi lấy cây khều lên, đúng là mấy con vịt nhà ông, có con mới chết, có con chết đã lâu, thân thể đã mục rữa dòi bọ lúc nhúc. Ông cầm cái cây, lật qua lật lại, xem xét thật kỹ mấy con vịt còn chưa thối rữa.
Lát sau ông Bảy thẫn thờ ngồi bệt xuống đất, mặc cho mùi hôi thối nồng nặc đang xông lên mũi. Đứng bên ngoài mà Đẩu không chịu nổi, anh giục ông Bảy:
- Bác coi phải vịt của bác không? Lẹ lên rồi đi chỗ khác, hít mùi này chút nữa chút nữa về bịnh luôn chứ hổng chơi đâu nghen bác!
Nghe Đẩu nói ông Bảy mới sực tỉnh lồm cồm chui ra khỏi lùm cây, sải bước đi tuốt ra cái ao gần đó. Vừa khoát nước rửa tay, ông Bảy vừa lẩm bẩm:
- Tại sao lại như thế được chứ? Tại sao…?
Đẩu tò mò:
- Phải vịt bác không? Người ta bắt trộm rồi đem đi chôn là sao nhỉ? Chôn sống nguyên con luôn, phải không bác Bảy?
Ông Bảy lắc đầu:
- Không! Nó moi hết bộ đồ lòng, chỉ chôn cái thân con vịt!
Đẩu thảng thốt:
- Trời đất! Chuyện này lạ dữ à nghen! Nào giờ ăn trộm vịt thì làm thịt cả con, ai đời chỉ lấy bộ đồ lòng…
Ông Bảy ôm đầu suy nghĩ một lát rồi ngước lên nhìn Đẩu khẩn khoản:
- Mầy giúp bác giữ kín chuyện này nghe Đẩu, để bác điều tra. Mình mà tiết lộ ra kẻ gian sẽ đề phòng, không bắt được quả tang. Bác với mầy cứ làm bộ như chưa hề tìm thấy dấu vết nào, để từ từ coi sao, Đẩu nghe?
Đẩu sốt sắng gật đầu:
- Dạ, bác cứ yên tâm đi! Con kín miệng lắm! Vả lại vụ này cũng ly kỳ, con muốn bác cháu mình phải bắt được tận tay kẻ biến thái đó!
- Ừ, nhất định thế!
Ông Bảy lầm bầm.
- Mà lạ ghê, đây là đất vườn nhà bác, thằng nào điên khùng, cả gan đi bắt trộm vịt của người ta, moi lấy bộ đồ lòng rồi đem chôn xác con vịt tại trong khuôn viên nhà người ta luôn! Đúng là… hết biết đường nào mà suy đoán…
Đẩu vừa dắt chó đi vừa nói. Trong lòng ông Bảy cũng đầy thắc mắc trước sự việc lạ lùng này. Lúc chưa phát giác ra, ông rất tức giận, dù thủ phạm là chồn hay là bọn trộm cắp ông cũng tức như nhau. Nhưng giờ đây, ông thà rằng vịt của ông vô tay chồn cáo hoặc bị trộm đạo bắt đi còn hơn là nằm sờ sờ ra đó khiến ông hoang mang lo sợ…
Ông Bảy dựng cây gậy bên mé hiên nhà, uể oải bước vô.
- Có thấy dấu vết gì không ông?
Bà Bảy tò mò:
Ông Bảy lắc đầu:
- Không, không thấy gì! Chắc mai mình đừng thả vịt ra nữa bà ạ, cứ để trong chuồng ráng nuôi thêm ít ngày rồi bán luôn. Tui mệt mỏi quá rồi!
- Để trong chuồng chật chội, tụi nó cũng không lớn được đâu…
Bà Bảy trả lời lấp lửng.
Ông Bảy thở dài không nói gì thêm.
Ngày hôm sau, đàn vịt vẫn được ông thả ra như thường lệ, nhưng đặc biệt hôm nay ông luôn để mắt ngó chừng theo chúng.
Mãi tới xế trưa, bà Bảy gọi:
- Ông không đi chở thức ăn cho heo sao? Chỉ còn chiều nay nữa là hết rồi đó!
Ông Bảy sực nhớ,vội dắt xe ra cửa, vừa đi vừa căn dặn:
- Bà ở nhà dòm chừng bầy vịt nghen, cho nó ăn gần gần nhà thôi, có động tĩnh gì mình còn biết!
Hôm nay ông Bảy đi mua thức ăn cho heo một cách vội vã chứ không thong thả dừng lại chỗ này chỗ nọ nói đôi ba câu chuyện với mấy ông bạn già như mọi hôm. Chưa đầy nửa tiếng sau ông đã về tới.
- Bà ơi! Bà đâu rồi!
Ông Bảy cất tiếng gọi khi thấy nhà cửa vắng tanh.
Không nghe tiếng bà Bảy trả lời, ông lo lắng đi như chạy ra vườn vì sợ bà sảy chân rơi xuống ao không ai biết.
Vừa ra sau nhà một đoạn ông đã thấy bà Bảy thấp thoáng sau lùm cây. ÔNg Bảy mừng húm, cất tiếng hỏi:
- Bà làm gì ngoài này, làm tui hết cả hồn vía?
Giật mình vì nghe tiếng ông, bà Bảy vội vã đi vào, vừa đi vừa đưa tay lên lau mặt:
- Tui đi hái mớ rau đắng đất, chiều luộc ăn cơm.
Nghe vợ nói vậy ông Bảy không hỏi gì nữa nhưng khi bà tới gần, ông Bảy giật mình vì ở khóe mép bà có dính chút gì đó màu đỏ như máu.
- Bà… bà vừa… ăn gì thế?
Ông Bảy lắp bắp.
Bà Bảy dừng chân, nhổ toẹt xuống đất miếng bả trầu, cười cười:
- Tui mới tập ăn trầu, bà Hai kế bên cho mấy miếng ăn thử…
Ông Bảy thở phào:
- Trời! Tự nhiên từng tuổi này rồi lại đi tập ăn trầu? Bà làm tui hết hồn!
- Sao lại hết hồn?
Bà Bảy ngơ ngác.
Ông Bảy cười xòa, chống chế:
- Tui tưởng bà té ở đâu chảy máu chứ!
Hai vợ chồng vừa đi vừa nói chuyện vui vẻ.
Chiều tối lùa vịt về ông đếm lại vẫn mất một con như thường lệ.
- Tui chịu hết nổi rồi! Lát nữa tui tới nhà thằng Đẩu hỏi nó có mua thì bán hết cả đàn cho nó nuôi luôn, cứ cái kiểu này chịu sao thấu!
Ông Bảy rên rỉ.
Bà Bảy ngó ông, định nói gì đó rồi lại thôi.
Ăn cơm tối xong, ông Bảy nói với vợ:
- Bà ở nhà ngủ trước đi, cửa khép hờ đó cho tui. Tui tới nhà thằng Đẩu chơi một chút, sẵn bàn với nó chuyện bầy vịt.
- Ông định bán bầy vịt cho thằng Đẩu thiệt sao?
Bà Bảy hỏi.
Ông Bảy buồn rầu:
- Tui cũng đâu muốn bán làm gì, nhưng ngày nào cũng mất một con thế này thì nuôi làm gì cho cực khổ? Nếu nó chịu mua thì bán hết, chứ vịt mới bi lớn đem ra chợ đâu có ai mua.
Bà Bảy lại im lặng lò dò tới võng nằm.
Đêm tuy không trăng nhưng bầu trời quang đãng, vả lại con đường này vô cùng quen thuộc, có nhắm mắt lại ông Bảy cũng hình dung ra được chỗ nào có rễ cây, chỗ nào bằng phẳng. Tuy đã ngoài bảy mươi tuổi nhưng ông Bảy còn khỏe mạnh lắm, việc đi đêm đi hôm thế này với ông có nhằm nhò gì.
Nhà Đẩu ở đầu xóm, cách nhà ông Bảy chừng ba trăm thước. Khi ông Bảy vừa tới cửa thì đám chó trong nhà Đẩu nhảy sổ ra sủa lên inh ỏi.
Nhà Đẩu nuôi chó nhiều nhất xóm, mà anh huấn luyện cũng tài lắm, con chó nào cũng khôn ngoan đáo để.
- Mi – lu! Mi – na! đi vô! Lúc – ky, vô con!
Đẩu vừa đi ra vừa xua mấy con chó vào nhà. Trông thấy ông Bảy đứng trước cửa, Đẩu ngạc nhiên:
- Ủa, bác Bảy tới chơi tối quá vậy? Con cứ tưởng ai…
- Ừ!
Ông Bảy buông một tiếng gọn lỏn rồi theo Đẩu vào nhà.
- Dạ, bác Bảy tới chơi!
Vợ Đẩu đon đả chào ông Bảy rồi vội xuống bếp nấu nước pha trà cho chồng tiếp khách.
Vợ chồng Đẩu cưới nhau đã mấy năm mà vẫn chưa có con. Cả hai đều chăm chỉ làm ăn nên cơ ngơi giờ cũng khang trang, khá giả. Ông Bảy mến vợ chồng Đẩu vì cái tính hiền lành, biết làm ăn đó. Mỗi khi có chuyện gì Đẩu đều tới hỏi ý kiến ông Bảy. Cả hai tuy không bà con thân thích gì nhưng từ lâu nay đã ngầm coi nhau như ruột thịt.
Mấy hôm nay bên nhà ông Bảy có chuyện, Đẩu cũng lo lắng lắm. Đã mấy lần anh muốn đem điều thắc mắc trong lòng ra tâm sự với vợ, nhưng anh ngại, lỡ vợ mình vui miệng kể cho người khác biết nữa thì sự việc bung ra không còn giữ kín được, như vậy thì ông Bảy sẽ giận mình lắm. Nghĩ vậy nên anh Đẩu phải ráng ôm nỗi thắc mắc cam chịu một mình.
Tối nay thấy ông Bảy đột ngột tới chơi anh đã nghi ngờ có chuyện dính líu tới bí mật kia, vì lâu này nếu có tới ông Bảy cũng chỉ tới ban ngày chứ đâu có đi đêm hôm thế này. Ở quê, bảy giờ tối đã là khuya khoắt lắm rồi.
- Lúa nhà mầy chừng nào gặt, Đẩu?
Ông Bảy hỏi vu vơ.
- Dạ, chắc chừng mươi bữa nữa bác à!
Đẩu trả lời. Anh biết chắc ông Bảy hỏi chuỵên lúa thóc chỉ là cho có chuyện để nói, còn vấn đề chính ông khó nói ra được vì sự có mặt của vợ anh.
Hiểu ý vậy nên Đẩu xuống bếp hỏi vợ:
- Nước sôi chưa em? Để anh pha trà cho, em đi ngủ sớm đi, anh với bác Bảy nói chuỵên chút.
Vợ anh Đẩu biết ý chồng, chị mỉm cười đưa ấm nước cho chồng rồi lẳng lặng vào phòng riêng đóng kín cửa lại.
- Bác Bảy uống nước!
Đẩu châm trà vào ly mời.
Ông Bảy nhìn Đẩu, than:
- Hôm nay tao đã canh rất kỹ mà cũng vẫn mất con mầy à!
- Bác giữ suốt ngày sao?
Đẩu ngạc nhiên.
- Ừ, từ lúc thả chúng ra khỏi chuồng là tao theo sát, chỉ có lúc đi mua thức ăn cho heo, nhưng tao có dặn bác gái mầy ngó chừng giúp, vậy mà cũng không tránh khỏi! Thiệt tình tao vừa tiếc của vừa rầu vì cái hành tung bí ẩn của kẻ gian… bởi vậy tao tính tới đây bàn với mầy một việc.
- Dạ, việc gì xin bác cứ nói!
Đẩu nhanh nhẹn.
- Bác tính, nếu vợ chồng mầy chịu thì bác sẽ sang lại hết bầy vịt cho vợ chồng mầy nuôi luôn. Tuy nhà bác với nhà mầy cách nhau không xa, nhưng lâu nay nhà mầy không mất con nào, trái lại nhà bác thì thì cứ đều đặn mỗi ngày một con, thiệt là tức chết đi được!
Ông Bảy nói thẳng.
Đẩu hơi bất ngờ trước đề nghị của ông Bảy. Anh suy nghĩ một chút rồi nói:
- Dạ, tụi con sang lại bầy vịt của bác cũng không có vấn đề gì, nhưng con thấy bác không nên nóng vội. Bác cứ theo dõi thêm một vài ngày nữa xem sao, chắc chắn mình phải bắt được quả tang chứ, chỉ trừ trường hợp kẻ đó biết phép tành hình.
Ông Bảy ngao ngán:
- Hôm trước bác cũng quyết tâm lắm, nhưng nay bác thật sự mệt mỏi rồi, nội cái chuyện suy nghĩ thôi cũng đã phát điên mà vẫn không lần ra manh mối gì…
Anh Đẩu chồm người qua bàn, nói với ông Bảy:
- Con đề nghị với bác chuỵên này nghen! Sáng mai, bác cứ thả vịt ra như bình thường đi, con sẽ núp đâu đó theo dõi. Con sẽ bỏ ra ba ngày, nhứt định bắt cho được kẻ gian!
Ông Bảy mừng rỡ:
- Mầy nói thiệt không Đẩu? Mầy mà chịu giúp bác thì còn gì bằng! Bác tiếc bầy vịt thì ít mà thắc mắc nhiều hơn.
- Dạ, con cũng vậy đó bác! Không hiểu chuyện này là sao nữa, nên con rất muốn bắt cho được kẻ đó, khi ấy mình mới có được lời giải đáp.
Đẩu cười nói.
Ngồi nói thêm với Đẩu mấy câu nữa rồi ông Bảy đứng lên từ giã ra về, lòng ông nhẹ nhỏm hẳn đi trước lời hứa của Đẩu.
Bà Bảy vẫn chưa ngủ, nghe tiếng ông đẩy cửa, bà khẽ cựa mình hỏi vọng ra:
- Ông về đó phải không?
- Ừ, tui nè! Đã dặn bà ngủ đi, thức chờ làm gì!
Ông Bảy càm ràm.
- Tui đâu có thức chờ ông đâu! Chỉ tại tui chưa ngủ đó thôi. À, vợ chồng thằng Đẩu có chịu sang lại bầy vịt của mình không ông?
Vừa lồm cồm chui ra khỏi mùng, bà Bảy vừa hỏi.
- Không, thằng Đẩu nói…
Ông Bảy kịp thời dừng lại, vì ông không muốn để bà phải lo âu nên những việc khó hiểu vừa rồi ông đã giấu nhẹm không kể cho bà biết.
- Thằng Đẩu nói vịt mình với vịt nó không cùng cỡ, bất tiện nên không chịu mua.
Ông Bảy nói trớ qua.
- Ừ, cũng phải!
Bà Bảy thở phào.
- Thôi, bà ngủ đi!
Ông Bảy vừa nói vừa chiu vô mùng đã giăng sẵn từ chiều trên bộ ván bên cạnh giường của vợ ông.
Vô mùng nằm nhưng ông Bảy vẫn cứ trằn trọc không yên, ông hy vọng Đẩu sẽ nhanh chóng bắt được thủ phạm để giải tỏa hết những thắc mắc đang quay cuồng trong đầu ông.
Sáng hôm sau ông Bảy thả vịt rồi đi uống cà phê như bình thường. Cả ngày hôm đó ông cũng không quan tâm gì tới bầy vịt nữa. Chiều tối lùa vịt về chuồn, ông phấn khởi khi thấy còn nguyên vẹn, không mất thêm con nào nữa.
- Hôm nay không mất con nào bà ơi!
Ông reo lên mừng rỡ, nhưng bà Bảy không tỏ vẻ mừng vui với niềm vui của chồng, bà lặng lẽ lên võng nằm không nói một câu, vẻ mặt dàu dàu, ủ dột.
Lát sau bà dọn cơm lên bàn nhưng không ăn cùng ông.
- Ủa, sao bà không ăn cơm luôn?
Ông Bảy ngạc nhiên hỏi. Từ lâu nay hai vợ chồng luôn ăn cơm chung với nhau đã thành thông lệ rồi mà.
- Ông ăn đi, tui thấy trong người không được khỏe!
Bà Bảy nói.
Ông Bảy đặt chén cơm xuống bàn, lo lắng:
- Bà bị làm sao? Có cần tui đi mua thuốc hay nhắn tụi con về không?
- Không sao đâu, chỉ hơi mệt chút xíu thôi, ông đừng bận tâm làm gì!
Bà Bảy trả lời dấm dẳng.
Ông thật không hiểu hôm nay bà có gì bực bội mà cau có như vậy, nhưng rồi ông lại nghĩ có lẽ mệt trong người nên bà mới như thế.
- Bà ăn cháo không, tui nấu?
Ông Bảy ân cần hỏi.
- Không, tui không đói! Hồi chiều tui có ăn cơm nguội rồi, không sao đâu, ông đừng lo!
Giọng nói của bà Bảy lúc này đã có phần dịu lại.
Ăn cơm xong, ông Bảy còn đang ngồi xỉa răng thì nghe tiếng Đẩu gọi từ bên nhà ông Hai bên cạnh:
- Bác Bảy ơi, ăn cơm chưa, qua đây uống nước chơi chút!
Ông vội đứng lên:
- Tui qua nhà anh Hai chơi, bà cứ ngủ trước đi nghen!
- Ừ, ông đi đi!
Bà Bảy vui vẻ nói.
Ông Bảy vừa ra tới cửa đã thấdy Đẩu đón ông ở đó.
- Sao bác, vịt có mất con nào không?
Đẩu hấp tấp hỏi.
- Không mất! Còn đủ hết! Bộ mầy theo dõi suốt hả con?
- Dạ, con theo suốt, có lúc suýt ngủ gục rồi đó chớ, may nhờ bác gái ra con mới giật mình.
Đẩu cười ngất.
- Ủa, bả thấy mầy hả? Rồi có hỏi mầy làm gì không?
- Dạ có chớ, con nói con tức mấy thằng ăn trộm nên quyết rình bắt cho kỳ được mới thôi!
- Trời ơi, tao quên dặn mầy đừng nói gì cho bác gái biết, tao sợ bả lo!
Ông Bảy kêu lên.
Đẩu cười:
- Bác tưởng con khờ lắm sao, con chỉ nói việc mất vịt thôi, chứ mấy vụ kia con đâu có nói ra, mắc công bác gái rầu thêm chứ ích gì, để khi nào bác cháu mình tìm hiểu rõ ràng rồi hãy kể.
- Giỏi! Mầy giỏi đó con!
Ông Bảy vỗ vai Đẩu cười ha hả.
Hai bác cháu khoác vai nhau đi vào nhà ông Hai vừa uống nước trà vừa rôm rả bàn chuyện lúa thóc, heo gà đến hơn một tiếng đồng hồ sau mới giải tán ai về nhà nấy.
Ông Bảy cứ tưởng bà Bảy không được khỏe, chắc đã ngủ rồi, nào ngờ khi về ông vẫn thấy bà còn thức, vẻ mặt phẩn khởi, vui vẻ hơn ban chiều nhiều lần.
- Ủa, bà khỏe không mà còn ngồi đây giờ này?
Ông Bảy ngạc nhiên.
Bà cười:
- Tui khỏe rồi, đã nói chỉ hơi mệt một chút thôi mà, ông cứ khéo lo!
Ông Bảy ngồi xuống cạnh vợ, nói dăm ba câu rồi hai vợ chồng tắt đèn đi ngủ.
Sáng ra, lòng vẫn còn phấn chấn, nhưng đột nhiên ông Bảy phát hiện con vịt có đốm lông trắng trên đầu đã biến mất. Thường buổi sáng ông không quan tâm đến bầy vịt, chỉ đếm lại chúng sau một ngày thả rong bên ngoài, nhưng sáng nay tình cờ ông liếc qua mà không thấy con vịt đó. Nó giống như con vịt đầu đàn vậy, mới chiều qua rõ ràng ông còn nhìn thấy vậy mà sáng nay nó lại biến mất tiêu. Nghi ngờ, ông Bảy đóng vội cửa chuồng lại, đếm trước khi thả thì đúng là thiếu mất một con!
Kỳ lạ! Hết sức kỳ lạ! Hổm nay toàn mất vào ban ngày, hôm qua có Đẩu rình theo suốt ngày, chiều về đếm đủ thì lại mất vào ban đêm!
Kẻ gian nếu lẻn vào bắt vịt tại chuồng thì chắc chắn bầy khi bị đánh động sẽ kêu lên ồn ào chứ, ông Bảy lại rất sẻ thức, làm sao có chuyện ông không hay biết được?
Ông ôm nỗi ấm ức trong lòng, định bụng tối nay gặp Đẩu sẽ kể cho nó biết.
Chiều tối hôm đó lùa vịt về chuồng vẫn đủ với số lượng lúc sáng thả ra. Cơm nước xong, ông Bảy tới nhà Đẩu nhưng anh đi công việc vắng, ông đành tiu nghỉu quay về, lòng rất buồn bực.
Đêm dó ông Bảy không tài nào ngủ được, cứ trăn qua trở lại mãi, cuối cùng ông rón rén đi xuống sau nhà, ngồi thu lu một góc, mắt chăm chăm ngó vào chuồng vịt.
Ngồi thật lâu, bầy muỗi vo ve mà ông không dám đuổi. Lát sau ông nghe tiếng bà Bảy trở mình, rồi húng hắng ho. Không gian lại im vắng hoàn toàn. Ông Bảy đã bắt đầu cảm thấy mệt mỏi và chán nản. Ông vừa định đứng lên đi trở vào giường thì nghe tiếng chân bước rón rén từ nhà trên đi xuống.
Lấy làm lạ, ông Bảy ngồi thụp xuống lắng tai nghe ngóng. Thường thường, bà Bảy đi hay lê dép lệt sệt, nặng nề, sao hôm nay bước đi của bà lại nhẹ nhàng và có vẻ lén lút như vậy?
Từ chỗ ông Bảy ngồi có thể nhìn rõ bao quát từ cửa sau ra đến khoảng sân. Ông thấy rõ ràng bà Bảy đi lại nhanh nhẹn một cách không ngờ được. Bà đi tới cạnh bên chuồng vịt không gây ra một tiếng động, bầy vịt vẫn im ắng ngủ.
- Tội nghiệp, bả cũng lo như mình!
Ông Bảy cứ nghĩ bà ra sân kiểm tra bầy vịt. Nhưng khi ý nghĩ ấy vừa hiện ra trong đầu thì ông chợt hốt hoảng khi thấy bà Bảy cúi xuống và nhanh như cắt, tay bà nắm ngang cổ một con vịt xách lên, con vịt quẫy đạp một cách vô vọng nhưng hoàn toàn không phát ra một tiếng kêu nào, cả chuồng vịt cũng vẫn im phăng phắc.
Bà Bảy xách cổ con vịt tới ngồi vắt vẻo trên thân một cây dừa ngã nằm dài gần sát mặt đất cạnh đó.
Tuy ánh trăng non mờ mờ nhưng cũng đủ soi rõ cho ông Bảy thấy được vẻ mặt thích thú của bà Bảy lúc cầm con vịt đưa lên trước mắt. Bà liếm mép mấy cái rồi nhẹ nhàng và nhanh chóng, bà xỉa mấy ngón tay vào bụng con vịt, lôi ra nguyên cả đùm gan ruột lòng thòng.
Bà Bảy đặt con vịt đã bị moi hết bộ đồ lòng xuống đất, hai tay bà cầm mớ gan ruột đưa lên miệng cắn nhai một cách ngon lành.
Ông Bảy có cảm giác trạo trực trong bụng khiến ông muốn nôn ọe, nhưng ông vội vã đưa tay lên bịt chặt miệng mình lại tránh phát ra tiếng động. Ông bàng hoàng đến điếng cả hồn vía.
Thật sự thì hôm phát hiện ra mấy cái xác vịt chôn sau vườn, ông có thoáng nghĩ đến bà Bảy nhưng rồi lập tức sau đó ông đã cố xua đi ý nghĩ điên khùng ấy, và sau lần thấy bà Bảy ăn trầu, ông lại càng hối hận vì đã có ý nghi ngờ bà. Nhưng ông thật sự không ngờ bà Bảy chính là thủ phạm!
Hồi bà Bảy mới sống lại, ông có nghe loáng thoáng người ta đồn ầm lên chuyện quỷ nhập tràng, nhưng vì quá thương vợ ông không hề tin vào những việc vớ vẩn như thế.
Sau này thấy bà Bảy thay đổi tính tình, ông cũng đã viện đủ lý do để bào chữa cho bà.
Ngay như đêm nay, chính mắt ông Bảy đã chứng kiến cảnh tượng khủng khiếp này rồi nhưng ông vẫn không dám tin vào chuyện bên trong thân xác quen thuộc của vợ ông là một linh hồn ma quái xa lạ.
- Có thể bà ấy bị lẫn!
Ông Bảy lẩm bẩm. Ông lại cố tìm ra thêm một lý do nào đó để tin rằng bà ấy vẫn là người vợ hiền lành của ông.
Ông Bảy còn nhớ, đã có lần ông nghe người ta kể về bệnh lẫn của người già. Nhiều khi con cái chăm sóc đàng hoàng, cho ăn uống tử tế nhưng hễ ai tới thăm là người già đó lại than thở, rằng con cái bỏ đói họ. Họ có thể ăn bất cứ thứ gì, mèo chuột, cá sống… Có thể bà Bảy cũng đang lâm vào trường hợp đó!
Ông Bảy đau đớn quá! Ông nửa muốn chạy ra ngăn cản bà lại, nửa không muốn đánh động.
- Thôi thì dù sao hôm nay bà ấy đã lỡ thế rồi, mình không nên làm bà hốt hoảng, ngày mai mình sẽ tìm cách ngăn cản bà ấy…
Ông Bảy nhủ thầm trong bụng.
Sau khi ăn hết đùm gan ruột, bà Bảy khoan khoái kéo tay áo lên chùi mép rồi khom người nhặt lấy con vịt xách tuốt ra sau vườn. Lợi dụng lúc đó, ông Bảy lẻn trở vào giường mình nằm im không dám động đậy.
Không lâu sau bà Bảy trở vào nhà, vẫn với những bước đi hết sức nhẹ nhàng, lanh lẹ.
Sáng hôm sau, ông Bảy vờ như không biết gì, lại hét toáng lên về việc mất thêm một con vịt nữa. Bà Bảy không nói không rằng, chỉ lặng lẽ làm những phần việc của mình như mọi ngày.
Ông Bảy viện cơ phải đi thị xã để mua một vài thứ cần thiết, nhưng thật sự là ông lên tìm cô Hai Lê để bàn bạc việc gia đình.
Thấy ba mình lên thăm đột ngột, Hai Lê hỏi:
- Ba lên chơi hay có việc gì không ba?
Ông Bảy nhìn con gái rồi nhìn sang con rễ thở dài:
- Hôm nay ba lên đây bàn với các con một chuyện hệ trọng…
- Có gì ba cứ nói, tụi con sẽ lắng nghe và góp ý với ba nếu có thể!
Anh con rể thành thật nói.
- Chuyện này làm ba rất khó xử các con ạ! Từ hồi má con sống lại đến nay bả thay đổi tính tình, thay đổi sở thích… lạ lắm con à!
Ông Bảy rầu rĩ.
Hai Lê ngạc nhiên:
- Má với ba cãi nhau à?
Ông Bảy lắc đầu:
- Không! Nếu là cãi nhau thì ba đâu lên đây làm phiền các con. Má con bây giờ…
Ông Bảy chậm rãi kể cho vợ chông Hai Lê nghe toàn bộ sự việc diễn ra ở nhà mình. Cả hai vợ chồng đều không ngăn được vẻ sửng sốt.
Lát sau, chồng Hai Lê nói:
- Có lẽ má bị lú lẫn đó ba!
- Ba cũng ráng nghĩ vậy! Nhưng con à… ngoài chuyện đó ra thì bả vẫn bình thường lắm, không lẫn lộn việc gì hết, bởi vậy ba mới sợ…
Ông Bảy nhìn vợ chồng Hai Lê như chờ đợi một sự giúp sức.
Hai Lê run giọng:
- Ba, lúc má mới sống dậy, con có nghe anh Tư Quýnh nói tới hiện tượng quỷ nhập tràng, hay là…
- Em nói gì lung tung vậy! Không sợ ba la sao?
Chồng Hai Lê rầy vợ.
Ông Bảy khoát tay:
- Không sao đâu con, cứ để vợ con nó nói hết suy nghĩ. Hôm nay ba lên đây là muốn cùng các con bàn bạc xem phải làm gì với má con bây giờ? Nói thiệt, ba rối lắm rồi, không còn tính toán gì được nữa hết…
Chồng Hai Lê an ủi:
- Thôi, ba đừng lo lắng nữa. Để con cho vợ con về dưới đó một thời gian chăm sóc cho ba má.
Quay sang Hai Lê, anh dặn:
- Em soạn đồ về với ba đi! Việc nhà anh lo được, em đừng bận tâm.
Hai Lê nhìn chồng biết ơn. Cô vội vã vào phòng soạn đồ đạc rồi hai cha con lập tức quay về.
Thấy Hai Lê về chơi, bà Bảy không tỏ vẻ vui mừng như dạo trước, bà chỉ hỏi lấy lệ:
- Con về chơi?
- Dạ, lúc này con hay bị đau đầu nên chồng con kêu con về quê một thời gian để tịnh dưỡng. Con về sống ba má là nhất rồi, má há?
Hai Lê vui vẻ.
Bà Bảy lắc đầu:
- Vợ chồng còn trẻ thì chồng đâu vợ đó con à, mỗi đứa một nơi dễ sanh ra chuyện này chuyện khác.
Hai Lê phụng phịu:
- Má! Bộ má hổng muốn con về đây hay sao mà nói vậy? Con chỉ tạm xa nhà một thời gian ngắn thôi, có gì đâu mà má phải lo lắng như vậy?
Bà Bảy không nói gì nữa nhưng vẻ mặt không được vui.
Hai Lê và ông Bảy đã thỏa thuận với nhau, bất kỳ lúc nào bên cạnh bà Bảy cũng có người, khi thì Hai Lê, khi thì ông Bảy.
Bà tỏ vẻ khó chịu ra mặt nhưng không biết nói sao. Tối đến, Hai Lê viện cơ thương nhớ mẹ nên ngủ chung giường với bà Bảy. Vì trong lòng luôn thấp thỏm lo sợ nên chẳng đêm nào Hai Lê ngủ được ngon giấc. Ở giường bên cạnh, ông Bảy cũng đề cao cảnh giác, hễ nghe bà Bảy rục rịch là ông giả bộ ho lên để cảnh báo cho bà biết ông vẫn còn thức.
Hai cha con ông Bảy nhất định không để bà làm chuyện bậy bạ nữa.
Ba ngày trôi qua, gà vịt không mất một con nhưng sức khỏe của bà Bảy lại suy yếu đi thấy rõ. Bà không ăn uống gì nhiều, suốt ngày chỉ nằm trên giường và ăn một ít cháo do Hai Lê nài ép từng muỗng.
- Ba ơi, con coi bộ không phải má bị lẫn đâu…
Hai Lê lo lắng.
Ông Bảy gật đầu:
- Ừ, ba cũng nhận thấy vậy! Để ba đi hỏi dò xem…
- Ba tìm anh Tư Quýnh đi, có khi ảnh biết nhiều về chuyện này đó ba!
Hai Lê góp ý.
Ông Bảy tới nhà lúc Tư Quýnh rượu đã ngà ngà. Thấy ông Bảy, Tư Quýnh ngạc nhiên:
- Ủa, bác Bảy! Bác tìm cháu chơi hay có chuyện gì?
Ông Bảy cười gượng gạo:
- Thì lâu lâu tới tìm mầy không được sao?
- Dạ được! Dạ được chứ bác! Mời bác ngồi ghế!
Tư Quýnh cười mắt , vội vã kéo ghế mời ông Bảy.
Ông Bảy vừa uống trà, vừa hỏi thăm Tư Quýnh công việc làm ăn, chập sau ông mới đi vào vấn đề:
- Thằng Tư mầy làm nghề này lâu rồi, chắc mầy biết nhiều chuyện ma quỷ lắm há?
Tư Quýnh ngạc nhiên:
- Sao bác lại hỏi vậy? Cháu cũng chỉ nghe người ta kể lại thôi chứ chưa tận mắt nhìn thấy bao giờ bác à!
- Mầy có thể nói cho bác biết rõ về chuyện quỷ nhập tràng không?
Ông Bảy nhỏ giọng.
- Bác… bác gặp chuyện gì sao? Hay là bác gái…
Tư Quýnh lắp bắp hỏi.
Ông Bảy ôm đầu khổ sở:
- Tao cũng không nói giấu thằng Tư mầy làm gì! Đúng là bác gái mầy từ hôm sống lại đến nay có nhiều biểu hiện lạ lắm, nên tao sợ…
Tư Quýnh kéo ghế ngồi sát lại ông Bảy thì thầm:
- Bác gái có biểu hiện sao bác?
- Ôi, nhiều lắm! Mà thôi, mầy kể cho bác nghe trước đi đã!
Ông Bảy thoái thác.
Tư Quýnh nhăn nhó:
- Cháu cũng không biết chắc đâu nghen! Là cháu nghe người ta kể lại. Nếu như người chết không may chết nhằm vào giờ gì đó, thì khi linh hồn thoát xác, sẽ có một linh hồn khác nhập vào, nên người đó sẽ sống lại. Người đó cũng sẽ có những hoạt tương đối bình thường, nhưng ăn uống mạnh bạo hơn, và nhất là… nhất là lúc nào họ cũng phải ăn thịt sống, nhất là ăn đồ lòng của động vật!
Mồ hôi rịn ra ướt đẫm trán ông Bảy, ông hấp tấp hỏi:
- Nếu bị như vậy, thì phải làm cách nào?
Tư Quýnh ngó ông Bảy:
- Theo con biết, chỉ có một cách là rước thầy chùa về tụng niệm thôi bác à! Mà… bác gái có những hiện tượng đó không bác?
Ông Bảy khẽ gật đầu, nước mắt lưng tròng:
- Mầy đừng tiết lộ chuyện này ra ngoài nghen Tư? Mầy giúp bác đi Tư ơi, bác rối quá không biết làm sao nữa…
Nhìn thấy cảnh tượng ông già đầu bạc đang ngồi khóc lặng lẽ trước mặt mình, Tư Quý thấy lòng xót xa vô hạn. Anh ngước nhìn ông an ủi:
- Bác Bảy yên tâm đi, con không lộ chuyện ra đâu. Nếu bác cần thì ngay bây giờ con sẽ đi tìm thầy giúp cho bác, công việc của con cũng thường tiếp xúc với các sư thầy nên con quen biết nhiều…
- Ừ, mầy giúp bác đi, bác giao hết cho mầy đó, Tư nghe!
Ông Bảy nắm chặt hai bàn tay Tư Quýnh, run rẩy nói.
Tiễn ông Bảy ra về, Tư quýnh cũng vội vã thay quần áo để lên chùa tìm sư cụ.
Xế trưa hôm đó Tư Quýnh đã mời được vị sư trụ trì ở một ngôi chùa cách đó rất ra.
Nhà ông Bảy lúc này các con ông đã tụ họp về đủ mặt, vì sức khỏe của bà Bảy cũng đã sắp cạn kiệt rồi. Từ sáng đến giờ bà chỉ còn thở thoi thóp, mắt nhắm lờ đờ, không còn sức sống.
Vị sư cụ tay lần tràng hạt đứng trước giường người bệnh không nói một câu. Ông quan sát người bệnh một cách chăm chú rồi sau đó lấy ra mấy chiếc Phật ấn đưa cho Ba Thành, Tư Bo dặn hai người đem dán ở hai đầu chái nhà và trên nóc nhà.
Một chiếc bàn nhỏ được dọn ra ngay giữa nhà làm nơi cho vị sư cụ trì tụng.
Tụng đến ngày thứ ba, sư cụ gọi ông Bảy đến gần và dặn:
- Lấy một tấm vải nhựa thật lớn và đặt người bệnh nằm lên đó, vì khi bài tụng cuối cùng này chấm dứt, người bệnh sẽ trút hơi thở sau cùng và thân xác nhanh chóng phân hủy. Bởi thật ra cái thân xác này đã chết từ mấy tháng trước rồi…
Cha con ông Bảy vừa khóc vừa làm theo lời căn dặn của nhà sư.
Bà Bảy được mọi người nhấc lên đạt nằm vào giữa tấm ni – lông trải trên giường, ông Bảy, Ba Thành, Tư Bo và Tư Quýnh đứng chực sẵn một bên, còn Hai Lê thì ngất lên ngất xuống.
Đúng như lời nhà sư đã nói, bài kinh vừa chấm dứt, bà Bảy khẽ nảy mình một cái rồi thở hắt ra, ông Bảy và các chưa kịp kêu lên thì trong chớp mắt, thân xác bà tan rửa ra, dòi bọ lúc nhúc, một mùi hôi thối bốc lên nồng nặc.
Ba Thành, Tư Bo và Tư Quýnh vội vã túm tấm ni – lông lại nhưng vẫn không ngăn được cái mùi khủng khiếp ấy.
Cả làng lại một phen nhốn nháo.
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:30:36 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:56:29
NGÔI NHÀ MA ÁM
 
Vợ chồng Quý và Loan vừa cưới nhau hơn ba tháng. Toàn bộ số tiền mừng của hai họ hai vợ chồng được toàn quyền sử dụng để làm vốn làm ăn.
Trước đây, Quý làm bảo vệ cho một công ty nước ngoài, lương cũng tạm đủ sống, Loan là thợ trong một tiệm uốn tóc gần đó, những lúc rỗi rãi Quý thường lân la sang chơi và tình cảm giữa họ phát sinh từ đó.
Hai vợ chồng gom góp hết tiền dành dụm lâu nay, cộng với số tiền mừng cưới cũng được một số vốn không nhỏ.
- Nếu em cứ làm thợ như vậy hoài thì biết chừng nào mình khá nổi, vả lại rồi mai kia sanh con, không đi làm được, một mình lương anh lo cho cả nhà thì khổ lắm. Mình phải nghĩ cách nào đi anh?
Loan đề nghị.
Quý gật đầu:
- Ừ, anh cũng tính rồi. Ba má nói mình có thể buôn bán, nhưng anh thấy nghề này không thích hợp với cả anh và em, đúng không em?
Loan ôm cổ chồng nũng nịu:
- Đúng rồi đó anh, em sợ buôn bán lắm, em đâu có lanh lẹ bằng người ta, làm sao dám bon chen vào lãnh vực đó?
Cô vuốt mái tóc đang phủ lòa xòa trên trán chồng, nói khẽ:
- Hay… anh sang cho em một tiệm uốn tóc, mình tự đứng ra làm chủ nghen anh? Đời sống bây giờ khá giả, mấy bà mấy cô chăm chút nhan sắc mình ghê lắm. Em nghĩ làm nghề này vừa phù hợp với khả năng của em, lại vừa không sợ ế… Anh nghĩ sao?
Quý choàng tay qua lưng vợ, cười tươi:
- Hai đứa mình thiệt là tâm đồng ý hợp đó nghe em! Anh cũng tính nói với em ý đó…
Loan mừng rỡ:
- Thiệt vậy hả anh? Trời ơi, em mừng quá…
Quý thật hạnh phúc khi nghĩ tới viễn cảnh đầm ấm của gia đình mình. Anh ôm chặt Loan vào lòng:
- Tối nay anh với em sẽ về thăm hai bên nhà, trình bày ý kiến với cha mẹ, rồi ngày mai tốt ngày mình đi kiếm nhà luôn nghen em?
Loan sung sướng dụi đầu vào ngực chồng. Mơ ước lâu nay của cô sắp thành hiện thực rồi, không mừng vui sao được!
 
***
Xe đang chạy bon bon trên đường, Loan hấp tấp nói:
- Kia! Đến rồi kìa anh!
Quý cho xe chạy chậm lại rồi ngừng hẳn trước một tiệm uốn tóc nằm sát bên đường.
Đứng ngoài nhìn vào, thấy căn tiệm này cũng rộng rãi nhưng có lẽ không được chủ nhân chăm sóc mấy nên nó có vẻ cũ kỹ, không mời gọi được khách hàng.
Quý đã thầm nghĩ, nếu mình mà sang được, mình sẽ sửa chửa, tân trang lại thì nó sẽ trở thành một căn tiệm đẹp phải biết. Ai đi làm đẹp lại không muốn vào những nơi sang trọng, đẹp đẽ?
Quý và Loan đẩy cửa bước vào tiệm.
- Dạ, chào anh chị!
Cô chủ tiệm đon đả.
Quý tự giới thiệu:
- Tôi là Quý, lúc nãy tôi đã có điện thoại cho chị!
- À, vậy ra anh chị tới để xem tiệm? Dạ, mời anh chị, anh chị cứ nhiên nhe!
Cô chủ tiệm cười tươi, đưa tay chỉ bao quát căn nhà có ý mời vợ chồng Quý xem qua.
Vừa lúc đó có khách vào nên cô chủ tiệm quay sang phục vụ khách, để vợ chồng Quý tự nhiên.
Quý bước vào trong xem thiết bị và phòng ốc trong tiệm. Tiệm tương đối cũ, thiết kế lại đơn giản. Từ ngòai vô trong thuôn đuột như nhà kho, chỉ có ngăn ra một phòng vệ sinh và phòng ăn nằm tuốt đằng sau. Trong phòng ăn có kê một bàn nhỏ trên đó có để một mâm trái cây, bát nhang, và mấy dĩa xôi chè.
Loan tuy không lòng lắm về căn nhà nhưng Quý đã hứa với cô, nếu thỏa thuận được thì sau đó anh sẽ sửa chữa lại theo ý của cô. Mà Quý đã nói là làm nên Loan rất vững bụng.
Căn tiệm này tuy có vẻ xấu xí nhưng được cái có vị trí tốt, mà giá sang tiệm lại rẻ một cách không ngờ, nếu bỏ qua cơ hội này là thật đáng tiếc.
Quý đưa mắt hỏi dò Loan, cô khe khẽ gật đầu đáp lại để chồng hiểu ý mình cũng đã bằng lòng.
Hai vợ chồng đi xem quanh quẩn khắp nhà, nhỏ to bàn bạc nhiều vấn đề một lúc lâu mới quay trở lại.
Lúc này cô chủ tiệm đang gộ iđầu cho khách nên vợ chồng Quý ngồi cạnh đó xem ti vi.
- Sao? Anh chị có bằng lòng với căn tiệm này không?
Khi người khách vừa ra khỏi cửa, cô chủ tiệm hỏi.
- Nói chung thì nếu nó thuộc về chúng tôi, chúng tôi sẽ phải sửa chữa lại rất nhiều đó cô ạ!
Cô chủ tiệm có vẻ buồn buồn:
- Dạ, anh nói cũng phải! Tại vì lâu nay tôi không hề sửa sang gì hết. Do hoàn cảnh gia đình, tôi biết mình không trụ lại đây lâu nên không dám bỏ tiền đầu tư vào đây. Tôi chỉ làm cầm chừng để kiếm cơm qua ngày thôi. Chứ thật ra ở khu vực này, nếu anh chị chịu đầu tư đàng hoàng, khuếch trtương thêm tí nữa thì khách sẽ ra vào nườm nượp đấy!
- Biết vậy sao chị không làm? Ai thấy tiền mà lại chê cơ chứ?
Quý cười cười.
Cô chủ tiệm thở dài:
- Không giấu gì anh chị, vợ chồng tôi mỗi người một nơi nên tôi cũng không dồn hết tâm trí vào đây được. Tôi cứ mong ngóng anh ấy mau mau ổn định để chúng tôi về chung sống bên nhau, vì thế nên tôi xem chỗ này như chỗ làm tạm bợ thôi. Hiện nay công việc làm ăn của chồng tôi đã ổn định rồi, đã đến lúc tôi về với anh ấy.
- Lâu nay chị làm một mình, không có thợ phụ việc sao?
Loan tò mò.
Cô chủ tiệm cười duyên dáng:
- Dạ không, có bốn đứa phụ việc chớ, nhưng tụi nó biết tôi sắp sang tiệm nên nhảy qua tiệm khác làm rồi. Mùa này sắp tết nên tiệm nào cũng cần thợ lắm, mình cũng phải tạo điều kiện cho tụi nó sống chứ. Tuy nhiên tôi cũng còn hai đứa “ruột”, hôm nay hai đứa nó đi ăn cưới. Hai đứa nó hứa sẽ ở với tôi đến ngày sau cùng!
- Chị có thể giới thịêu hai cô ấy làm với tôi không? Nếu tôi tiếp quản tiệm này?
Loan đề nghị.
Cô chủ tiệm mừng rỡ:
- Được vậy thì còn gì bằng! Hai đứa nó khéo léo lại biết lấy lòng khách, chị mà có được hai đứa là yên tâm rồi đó! Để tôi sẽ nói vào, thế nào tụi nó ưng, vì tụi nó gắn bó với tiệm này cũng lâu lắm rồi!
- Mọi chuyện đều suông sẻ hết rồi, giờ mình gút lại chuyện tiền bạc đi! Tánh tôi mau lẹ nên làm gì cũng muốn giải quýet dứt khoát, khỏi phải tốn công đi tới đi lui năm bảy bận!
Quý nhìn cô chủ tiệm chờ đợi.
- Thì giá cả em đã đăng rõ ràng trên báo rồi!
Cô chủ tiệm đứng lên vén tấm rèm cửa vừa bị gió thổi bay phất phơ.
- Chị không bớt chút đỉnh sao? Tụi tôi còn phải sửa sang lại nhiều lắm…
Quý kèo nài.
Cô chủ tiệm nhăn mặt:
- Dạ không được đâu anh ơi! Giá cả như vậy là quá rẻ rồi. Tại vì tôi cần sang gấp và lấy tiền một lần nên mới kêu giá đó cho được việc sớm, chứ nếu muốn thì tôi còn có thể nói giá cao hơn nhiều. Chắc anh chị cũng biết thời buổi này tấc đấc tấc vàng, ở vị trí này mà giá hời như vậy không tìm được chỗ thứ hai đâu…
Quý và Loan vẫn biết sang được căn tiệm này với giá cả như vậy là điều may mắn hiếm có, nhưng hai vợ chồng vẫn cố nì nèo một lúc nữa, cuối cùng cô chủ tiệm nói dứt khoát:
- Bây giờ tôi bớt cho anh chị đúng hai triệu. Nếu được thì chúng ta tiến hành thủ tục ngay, còn không thì tôi bán cho người khác.
Cuộc mua bán diễn ra chóng vánh và hai tuần sau đó mọi giấy tờ hồ sơ đều đã hoàn tất, căn tiệm bây giờ đã thật sự là của vợ chồng Quý – Loan. Khỏi phải nói niềm vui của đôi vợ chồng trẻ đến thế nào! Đây sẽ vừa là tiệm, vừa là tổ ấm của hai vợ chồng mới cưới.
 
***
Hôm vợ chồng Quý chính thức nhận căn tiệm, khi hai người chuẩn bị ra về thì gió mây vần vũ, bầu trời đen kịt, sấm chớp sáng lòa, rồi mưa như trút. Trần nhà bị dột ở chỗ phòng ăn, nơi có kê cái bàn thờ bữa nọ, nước chảy thấm vào tường rịn rịn thành dòng, rồi loang ra thành hình giống khuôn mặt với mái tóc dài thượt.
Đang đứng đằng trước tiệm, tự nhiên Loan thấy lạnh, rùng mình, rồi buồn tiểu. Nàng vội vàng xuống phòng vệ sinh. Khi nàng vừa ra cửa thì trợt vũng nước té nằm sóng sòai.
Nghe tiếng la phía sau, Quý vội chạy xuống vừa đỡ vợ dậy vừa lo lắng hỏi:
- Trời ơi, em có bị làm sao không?
- Không… em… tự nhiên em thấy choáng váng, chẳng biết tại sao nữa.
Loan nói.
- Giờ em thấy trong người sao rồi? Chút nữa anh đưa em đi khám bác sĩ nhé?
Quý lo lắng.
- Dạ không sao đâu anh, em khỏe rồi!
Loan gượng cười nói để chồng an tâm, chứ thật ra trong lòng cô đang hồi hộp ghê lắm. Bởi vì lúc nãy Loan có cảm giác như có một ai đó xô cô té ngã chứ không phải là trượt té thông thường. Nhưng ở trong căn bếp này ngoài cô ra đâu còn ai?
Quý đỡ Loan đứng lên, cô vừa phủi phủi quần áo vừa đưa mắt ngó khắp xung quanh, mọi vật vẫn bình thường, không có điều gì đáng chú ý, nhưng Loan hình như thấy có một cặp mắt nào đó luôn nhìn chăm chú vào người cô.
Níu chặt tay vào người chồng, Loan giục:
- Mình về đi anh! Mưa tạnh rồi!
Ngoài trời mưa đã tạnh. Quý dẫn xe ra rồi trở lại khóa cửa cẩn thận. Vừa ngồi lên xe sau lưng chồng, Loan quay lại nhìn căn tiệm mà từ hôm nay mình sẽ là chủ với một niềm vui khôn tả, nhưng thật bất ngờ, cô thấy thấp thoáng một bóng người sau khung cửa kính.
- Anh! Dừng lại đi anh!
Loan hốt hoảng gọi.
Quý thắng gấp, bánh xe rít lên và chiếc xe như muốn chồm lên phía trước.
Anh quay lại hỏi vợ:
- Có chuyện gì vậy em?
- Em thấy… hình như có ai đó ở bên trong tiệm!
Loan ấp úng.
Quý nhìn cô ngạc nhiên:
- Trời đất, em bị sao vậy? Lúc nãy em té có bị đập đầu xuống đất không vậy? Làm gì có ai ở trong đó?
- Không mà… em thấy thật đó! Hình như là một người con gái!
Loan ngước nhìn chồng đầy vẻ lo lắng.
Quý xuống xe, dựng chống rồi nói:
- Thôi được rồi, mình trở vô kiểm tra kỹ lại cho chắc ăn!
Loan sợ hãi nép sát vào Quý. Hai vợ chồng đi từ nhà trước ra nhà sau, căn tiệm trống trơn không có chỗ cho bất kỳ ai lẩn trốn. Khi đã xem xét cẩn thận từ phòng ăn cho đến toa – lét, Quý nhìn vợ mỉm cười:
- Giờ thì em yên tâm rồi nhé? Mới được làm bà chủ đã lo trộm viếng nhà mình rồi, em thiệt là…!
Loan xấu hổ không biết nói gì với chồng, nhưng trong thâm tâm, cô vẫn nghĩ hình bóng lúc nãy mình thấy là thật, thật trăm phần trăm chứ không phải là ảo giác. Nhưng thật kỳ lạ, trong nhà lại không có ai! Hay là… hay đó là ma? Loan thoáng rùng mình với ý nghĩ đó, nhưng rất nhanh chóng cô đã xua đi bằng việc nghĩ tới người chủ cũ, người ta đã sống ở đây bao nhiêu lâu rồi, mình còn sợ gì!
Lần thứ hai ngồi sau lưng chồng Loan ngoảnh nhìn lại căn tiệm của mình, nhưng lần này thì không có gì phía sau cánh cửa đóng im ỉm nữa. Lúc này Loan mới chịu nhận những lời của Quý là có lý. Có thể lúc nãy khi té ngã, Loan bị va chạm nhẹ, đầu óc còn choáng váng nên sinh ra ảo giác vậy thôi.
Nghĩ vậy nên Loan yên lòng, áp mặt vào lưng chồng thủ thỉ:
- Em vui quá anh ơi! Mình sắp có nhà, có tiệm rồi! Em sẽ cố gắng thật nhiều, vì tương lai của vợ chồng mình, của các con sau này…
Quý cười:
- Anh tin em sẽ làm tốt!
Trời lại bắt đầu mưa lất phất. Quý cho xe tăng tốc để mau chóng về tới nhà, tránh cho vợ bị ướt, vì lúc chiều cả hai vợ chồng đều không mang theo áo mưa.
 
***
Ban đầu Quý chỉ định thuê thợ lợp lại mái nhà chỗ bị dột và sửa chữa một vài chỗ không được ưng ý mà thôi, nhưng trong quá trình làm, anh phát hiện ra bức tường ngăn cách phòng ăn cũng đã hư hao khá nặng. Thế là Quý quyết định cho làm lại luôn.
Loan bỗng đề nghị Quý nên xây thêm hai phòng, một phòng để se lông mặt, xăm mi xăm mắt…, còn một phòng để massa đấm bóp vì cả khu vực này chưa tiệm nào có dịch vụ này. Loan hy vọng khi mở thêm dịch vụ massa, tiệm của cô sẽ thu hút được một lượng khách sang đáng kể.
Quý còn cho làm thêm một căn gác lửng để vợ chồng mình sẽ dọn tới ở hẳn tại tiệm, khỏi phải tốn tiền thuê nhà, mà việc trông coi tiệm được thuận lợi hơn.
Đêm trước ngày phá bỏ bức tường, Quý nằm mơ thấy một người con gái có gương mặt buồn bã đứng ở đầu giường nói:
- Anh không nên phá bức tường đó! Không nên…
- Sao lại không chớ?
Trong mơ Quý cãi lại nhưng không thắc mắc cô gái ấy là ai, tại sao lại ngăn cản mình việc đó.
- Anh không cần biết! Nếu anh vẫn tiến hành thì anh đừng trách tôi nhé, anh sẽ phải đền bằng mạng sống của mình đó!
Cô gái nghiêm giọng nói.
Quý chưa kịp hỏi thêm câu nào thì cô gái đã thoắt đi ra cửa.
Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, Quý nửa nghi nửa ngờ phân vân chưa biết làm sao, vội vã chạy xe đến tiệm thì thấy tốp thợ đã phá và ngăn phòng như anh đã giao hẹn với họ.
Chỉ trong vài ngày sau đó, bốn phòng ngay ngắn vuông vức, đèn điện, trần nhà, ống nước, đã được lắp đặt hẳn hoi. Quý và Loan thật ngạc nhiên và hài lòng với tốc độ xây dựng nhanh chóng của nhóm thợ này.
Lu bu với việc giúp vợ lắp đặt các thiết bị máy móc mới và cách sắp xếp sơn sửa tiệm nên Quý cũng quên đi cô gái trẻ đẹp đêm nọ.
Ba tuần sau đó, vợ chồng Tiêm hòan tất công trình trùng tu và khai trương tiệm lại. Khách vào hòan tòan không nhận ra tiệm cũ. Họ tấm tắc trầm trồ khen ngợi thiết kế, kiểu mã của các cụm đèn trang trí trên tường, bức tranh, đồng hồ, và các bàn ghế thiết bị trông rất thanh lịch, ấm cúng, và hài hòa với màu sơn từơng của tiệm.
Tiệm mới cộng với tài quản lý và đôi tay khéo léo của Loan và năm cô thợ mới vào, cộng với hai cô thợ đã làm lâu năm phát đạt rất nhanh.
Song song với dịch vụ uốn tóc, làm móng tay và chân, dịch vụ xăm mắt xăm môi, dịch vụ massa cũng khá phát đạt.
Khách tới massa ngày một đông, hầu hết là các bà sồn sồn, tiền của rủng rỉnh nhưng thân hình đã không còn săn chắc, thon thả. Các bà sẵn sàng bỏ ra thật nhiều tiền để níu kéo bằng được một chút gì đó của tuổi trẻ.
Công việc làm ăn ngày càng phát đạt, Loan có lần đề nghị Quý nên nghỉ việc ở công ty mà về giúp cô trông coi tiệm, nhưng quý không đồng ý, anh nói anh không quen với công việc này, mỗi ngày ngồi nhìn các bà các cô ra vào để tân trang nhan sắc anh không thích chút nào.
Cuộc sống của hai vợ chồng diễn ra êm đềm, hạnh phúc. Loan cũng không còn nhớ gì đến những sự việc lạ lùng diễn ra vào những ngày đầu nữa, và Quý cũng đã quên bẵng giấc mơ kỳ lạ trước đây.
Một đêm Quý vắng nhà, do anh phải về quê dự lễ thượng thọ của một người trong dòng tộc. Còn lại một mình ở nhà, Loan lười biếng không thèm nấu cơm chiều, cô mua mấy ổ bánh mì về ăn tạm.
Khi khách khứa đã về hết, mấy người thợ dọn dẹp nhà cửa xong xuối cũng đã lần lượt ra về. Loan nằm một mình trên gác vừa nhai bánh mì vừa xem chương trình ca nhạc trên ti vi.
Bỗng cô nghe có tiếng nước chảy trong phòng tắm. Hơi ngạc nhiên vì Loan nhớ rõ ràng trwosc khi lên gác, cô đã loay hoay ở dưới bếp khá lâu, nếu mấy cô thợ có ai đó quên khóa vòi nước trong phòng tắm thì Loan cũng đã phát hiện ra rồi, chứ đâu đợi đến lúc này cô mới nghe tiếng nước chảy?
Vặn nhỏ volum ti vi để lắng nghe xem lần nữa, Loan xác định đúng là tiếng nước chảy phát ra từ phòng tắm. Cô vội vã chạy xuống nhà, quả nhiên trong phòng tắm nước tràn lênh láng.
- Chắc khi nãy cúp nước hay sao ấy?
Vừa khóa vòi nước Loan vừa lẩm bẩm.
Khóa nước và lấy chổi quét sơ phòng tắm xong, Loan lại trở lên gác xem ti vi tiếp. Kohảng chừng ba mươi phút sau, Loan lại nghe có tiếng nước chảy.
- Trời, tại sao kỳ vậy?
Loan hồi hộp khi thấy vòi nước trong nhà tắm đang tuôn xối xả.
- Chắc cái vòi này bị hư rồi! Mai anh Quý về mình phải nói ảnh thay cái khác mới được! Thiệt là bực mình, cái vòi này mới lắp có mấy tháng đã hư rồi!
Loan lầm bầm một mình rồi đi tới khóa chặt van ở đồng hồ nước.
Xem hết chương trình ca nhạc, Loan bấm remod lung tung mà không thấy đài nào có chương trình hay nữa nên cô tắt ti vi rồi vô mùng nằm ngủ.
Vừa mới mơ màng, Loan nghe có tiếng gõ cửa. Giật mình choàng dậy, Loan thắc mắc ai lại gọi cửa giờ này? Chẳng lẽ anh Quý về sao? Mà không đâu, lễ thượng thọ sáng mai mới tiến hành, làm sao tối nay anh Quý về được!
Loan lo lắng nên không dám xuống dưới nhà, cô đứng trên gác hỏi vọng xuống:
- Ai đó? Ai gọi cửa giờ này?
Không có tiếng trả lời, chỉ có tiếng gõ cửa ngày một gấp rút.
Loan sợ quá, cô lùi dần vào giường rồi trèo lên nằm trùm mền kín mít. Cô biết nếu tới đứng cạnh cửa sổ nhìn xuống có thể thấy được người đang gõ cửa nhà mình, nhưng Loan lại không dám đi tới đó. Bây giờ đã gần mười một đêm rồi, chẳng lẽ còn có đứa con nít nào phá phách chọc ghẹo gì mình sao?
Cô nhớ lại những câu chuyện đã từng xem qua hoặc nghe kể lại, có những trường hợp kẻ gian cố tình gọi cửa để nói gì đấy, để khi chủ nhà vừa mở cửa ra là chúng xông vào, giết hại chủ nhà và cướp đi toàn bộ tài sản.
Càng nghĩ Loan càng run rẩy. Cô không sợ bị cướp, vì thật ra trong nhà cô lúc này đâu có tiền bạc của cải gì đâu, khi sang tiệm và sửa chữa lại gần như toàn bộ căn nhà, vốn liếng của hai vợ chồng không đủ nên phải vay mượn của hai bên gia đình, mấy tháng nay tuy làm ăn khấm khá nhưng tiền kiếm được đều phải đem trả nợ hết, hai vợ chồng chưa kịp tích lũy gì được.
Nhưng điều đó thì kẻ gian đâu biết được, thấy mình làm ăn rần rần, khách ra vào nườm nượp chắc chúng tưởng mình giàu có lắm, chúng biết tối nay không có anh quý ở nhà, mình mà lạng quạng tụi nó giết chết oan mạng!
Loan nằm im không dám thở mạnh. Tiếng gõ cửa dwosi nhà lúc chậm lúc nhanh, lúc thong thả như đùa chơi lúc lại dồn dập cấp bách.
Loan thầm mong những nhà kế bên nghe thấy, nhưng tuyệt nhiên cả khu phố như chìm sâu vào giấc ngủ, cả tiếng xe cộ ngoài đường cũng vắng hẳn. Có lúc Loan muốn hét lên kêu cứu, nhưng cả đến điều đó cô cũng không dám.
Khoảng một tiếng đồng hồ sau tiếng gõ cửa im bặt. Thay vào đó là tiếng gió thổi hù hù giống như trời đang chuyển mưa to. Sắp tết rồi, sao trời lại nổi giông kỳ cục vậy?
Từng làn gió lạnh buốt luồn qua các khe hở tràn vào nhà, thổi thốc các tấm rèm cửa. Cánh cửa sổ phía sau dù đã đóng kín nhưng vẫn dập rầm rầm, Loan cũng không dám ngồi lên để đi chêm lại.
Cô càng co rúc người trong chiếc mền dày mịn màng, nhưng hai tai và đầu óc lại căng ra để nghe ngóng từng tiếng động bên ngoài.
Gió thổi trên ngọn cây bên hè nghe như tiếng rú rít của bầy ma quái. Và rồi bỗng chốc những tiếng rú ấy chuyển sang một âm điệu nhẹ nhàng hơn, nghe như tiếng than thở hay tiếng khóc ti tỉ của một người nào đó.
Loan sợ quá, cô bịt chặt hai tai lại nhưng những âm thanh quái ác đó cứ xoáy vào tai cô rõ mồn một. Nước mắt Loan trào ra, chưa bao giờ cô thấy cần có Quý bên cạnh như lúc này. Nếu có Quý, chắc chắn cô sẽ vững tâm hơn rất nhiều, dù đó có là gì đi nữa!
Một lúc sau, tiếng gió ngừng thổi, tiếng khóc than cũng ngừng theo. Đêm lại trở về với sự tịch mịch, im vắng thwofng ngày của nó.
Loan khóc một lúc nữa rồi cô ngủ thiếp đi. Đêm ấy, cô đã mơ những giấc mơ kỳ quái. Trong mơ, có một người con gái xinh đẹp nhưng gương mặt lại buồn rũ rượi, người con gái ấy đến bên Loan, chạm tay vào cô, một luồng hơi lạnh như nước đá ngấm vào da thịt Loan khiến cô choàng tỉnh. Đèn trong phòng ngủ vẫn còn sáng trưng, Loan nhìn quanh quất không thấy gì. Cô cố trấn tĩnh mình rằng chắc do lúc nãy quá sợ hãi nên nằm mơ thấy bậy bạ.
Nhưng trong giấc mơ kế tiếp, Loan vẫn thấy đúng người con gái lúc nãy. Lần này cô ta không chạm vào người Loan nữa mà chỉ đứng lặng một bên nhìn Loan, nhìn thật chăm chú rồi bỗng thở dài thườn thượt.
Đêm đó Loan mơ liên tiếp ba lần. Cả ba lần đều gặp người con gái kỳ lạ ấy!
Tỉnh dậy lần thứ ba, Loan nhìn đồng hồ thấy mới hơn ba giờ sáng, nhưng cô không dám ngủ tiếp mà nằm mở mắt đếm thời gian, mong mỏi cho trời mau sáng.
Ngoài đường đã nghe có tiếng xe, tiếng người qua lại. Loan có phần hơi an tâm. Giữa lúc này, cảm giác buồn tiểu lại đến. Loan cố nín nhịn nhưng không được, cô cắn răng ngồi dậy đi xuống thang gác.
Loan mở sáng tất cả đèn trong nhà, nghe tiếng động nhà kế bên, biết bên đó người ta cũng đã thức giấc nên trong lòng Loan mừng lắm. Cô cố tình nện gót thật mạnh xuống sàn nhà, cố tình khua động bất kỳ thứ gì tay cô chạm vào để tiếng động lấn át đi nỗi sợ hãi trong cô.
Khi vào toa – lét, theo thói quen sau khi đi vệ sinh Loan lại xả nước. Nước tuôn ào ào. Cô đến bên la-va-bô vặn vòi nước để rửa tay, nước cũng tuôn xối xả.
Đang rửa tay, bất chợt Loan nhớ mình đã khóa đồng hồ nước lại rồi, tại sao bây giờ nước vẫn chảy?
Hốt hoảng, Loan chạy tới bên đồng hồ nước xem xét thì thấy van đã được mở ra rồi!
- Trời ơi, mình điên lên mất!
Loan ôm đầu khổ sở. Cô còn trẻ, trí óc còn minh mẫn, cô không nghĩ mình có thể lẩn thẩn đến độ đó. Những việc cô làm cô nhớ rất rõ, thế thì tại sao lại xảy ra việc này?
Loan chạy trở lên gác, đèn vẫn để sáng khắp nhà.
Khi ánh nắng mặt trời chiếu thẳng vào giường mình, Laon vẫn chưa dám ngồi dậy. Cô vừa sợ, vừa mệt mỏi rã rời sau những việc xảy ra đêm qua nên cứ nằm im trên giường, đầu óc mải miết nghĩ suy để tìm ra lời giải thích cho hiện tượng lạ lùng đó.
- Chị Loan ơi, chị Loan! Ngủ gì nướng ghê vậy? Khét nghẹt rồi kìa chị ơi!
Xuân – cô thợ vui tính đứng trước cửa hét vang lên.
Loan mừng hơn bắt được vàng, cô vội vã tung mền chạy xuống mở cửa cho Xuân.
- Ý trời, chị làm sao thế này? Bộ chị bệnh hả?
Xuân kêu lên khi nhìn thấy bộ dạng bèo nhèo của Loan.
Loan muốn đem toàn bộ chuyện đêm qua ra kể hết với Xuân để có người chia sẻ. Nhưng rồi cô nghĩ lại, chuyện này không nên để lộ ra ngoài, người ta đồn đại không tốt cho việc làm ăn của tiệm. Nghĩ vậy nên Loan gượng gạo trả lời Xuân:
- Ừ… Tối qua chị mệt nên không ngủ được!
Xuân bật cười:
- Chồng mới đi vắng có một đêm đã không chịu được rồi sao bà chị?
Loan phát nhẹ vào vai Xuân:
- Đồ quỷ! Nghĩ đi đâu thế? Người ta bệnh chứ bộ…
Xuân vừa né người tránh vừa cười hăng hắc.
- Giỡn với chị chút cho vui thôi! Chị lên nghỉ đi, để em dọn tiệm cho!
Xuân cầm chổi bắt đầu quét dọn. Ở tiệm này, theo quy định của Loan, mỗi ngày các cô thay phiên nhau một người tới sớm để quét dọn và giúp Loan mở cửa đón khách. Loan đưa ra nhiều quy định và yêu cầu các cô thợ phải thực hiện nghiêm túc, đồng thời các khoản lương và đãi ngộ của Loan dành cho thợ khá tốt nên cả toán thợ đều vui vẻ chấp nhận. Vả lại tính tình của vợ chồng Loan dễ gần, Loan cũng đã từng làm thợ cho người ta nên cô hiểu được tâm lý của thợ mà đối đãi với họ nên có đowjc cảm tình với họ.
Tiệm có bảy người thợ, cả bảy đều mến Loan và coi Loan như người chị trong gia đình. Khi có chuyện vui buồn gì họ cũng tâm sự, có khi chủ và thợ đùa giỡn với nhau giống y như bạn bè cùng giai cấp.
Mà nói vậy cũng không sai, Loan chưa bào giờ có ý nghĩ mình là chủ và các cô kia là người làm thuê của mình. Trong đầu cô luôn coi họ như chị em, cùng làm cùng hưởng.
Loan mỉm cười với Xuân rồi trở lên gác. Bây giờ cô đã có thể an tâm mà ngủ một giấc đàng hoàng, bù cho đêm qua.
- Em làm sao vậy?
Một bàn tay đặt nhẹ lên trán Loan làm cô giật mình thức dậy. Trước mắt cô là Quý, gương mặt anh căng ra vì lo lắng.
Vừa trông thấy Quý, Loan mừng rỡ ngồi lên ôm chầm lấy anh và khóc thút thít.
- Em, em sao vậy?
Quý hoảng hốt.
Loan lau nước mắt, thổn thức kể lại những chuyện xảy ra đêm qua, cô cố hạ thấp giọng để những người thợ dưới nhà không nghe được.
Quý ôm vợ vào lòng an ủi:
- Trán em hâm hấp sốt nè, chắc tại em nhuốm bệnh lại ở nhà một mình, hoang mang lo lắng nên mới tưởng tượng ra bậy bạ như vậy thôi em à! Thôi, từ nay anh không để em ở nhà một mình nữa đâu. Anh đâu có biết vợ anh nhát hơn thỏ đế vầy nè!
Loan lắc đầu:
- Không phải! Em chắc chắc không phải tất cả những sự việc đó là do em tưởng tượng ra! Xưa nay em cũng không phải là đứa nhát gan lắm đâu anh à!
Quý xoa dịu:
- Ừ, ừ… thôi được rồi, để tối nay anh rình bắt hết mấy con ma đó, nó dám làm vợ yêu quý của anh sợ đến nông nỗi này…
Loan vừa mắc cười vừa giận vì thái độ của chồng:
- Em nói thiệt mà anh cứ coi em như một đứa con nít…
Quý cười xòa, đứng lên lấy nwosc và thuốc đem tới tận giường dỗ cho vợ uống. Giờ đây có Quý bên cạnh rồi, tự nhiên bao nhiêu nỗi sợ hãi lo âu của Loan biến đâu mất hết. Cô ngoan ngoãn uống thuốc, ngoan ngoãn nằm xuống giường ngủ tiếp. Và lúc này mới thật sự là giấc ngủ bình yên không mộng mị đến với Loan.
 
***
- Chị Loan, chị có cất cây kéo của em đâu không?
Hà, thợ làm đầu giỏi của tiệm hỏi Loan.
Loan ngạc nhiên:
- Ủa, sao em lại hỏi chị? Có khi nào chị cất đồ đạc của mấy đứa đâu? Các em tự cất đồ của mình trước khi đóng cửa tiệm mà!
Hà thất vọng:
- Dạ, rõ ràng tối qua em để cây kéo vô hộc bàn trwosc khi về, vậy mà giờ không thấy đâu, em hỏi chị cầu may vậy mà, hy vọng tối qua chị lấy nó làm gì đó mà chưa cất vào…
- Đâu có! Chị đâu có lấy kéo làm gì? Tối qua lúc các em về là chị cũng tắt đèn lên gác luôn, có biết gì đâu? Em tìm lại xem có để lẫn lộn đâu đó mà quên không?
Loan nhắc nhở.
Hà vừa lục tung các hộc bàn hộc tủ vừa lầm bầm  mãi một câu:
- Lạ thiệt! Lạ thiệt đó! Y như là có ma giấu!
Tìm khắp nơi không thấy, Hà bực mình không thèm tìm nữa mà lấy cây kéo khác để sử dụng, nhưng cô vẫn thích cây kéo đã mất nhiều hơn.
Trưa hôm đó, lúc tiệm vắng khách, Xuân chạy ra đường mua mấy trái ổi vào bày ra ăn uống. Lúc xuống bếp lấy dao, Phương bỗng reo lên:
- Ê, Hà ơi, cây kéo của mầy nằm đây nè!
Hà vội buông bịt muối ớt xuống, chạy ra nhà sau, cây kéo của Hà đang nằm ở chỗ dùng để giắt dao. Mừng rỡ, Hà chụp lấy nó cười thật tươi:
- Tao dám chắc bà Loan nhà mình chứ hổng ai! Bả lấy rồi quên đó thôi!
Phương cùng cười, gật đầu đồng tình:
- Ừ, chắc vậy!
Chuyện đó rồi cũng trôi qua, Hà và Phương cũng không nói gì với Loan vì nghĩ cô quên. Nhưng rồi liên tiếp những ngày sau đó, đám thợ trong nhà cứ hết mất thứ này lại đến thứ khác. Ngày nào cũng có người la oai oái và lùng sục tìm tòi đồ của mình.
Lạ một điều, tất cả những thứ đó không mất đi đâu, mà chúng chỉ nằm ở những vị trí hết sức kỳ cục! Khi thì nằm ở chỗ để lược, kem đánh răng trong phòng tắm, khi thì nằm trong ống đũa muỗng, khi trong sống chén, tủ lạnh… vân vân, nói chung là chỗ nào cũng có thể có, những chỗ mà dù cho đám thợ có vô ý đến đâu cũng không thể nào để nhầm được.
Một hai ngày đầu thì không ai quan tâm lắm, tìm được đồ của mình rồi thôi, nhưng khi sự việc đó cứ liên tiếp xảy ra, lặp đi lặp lại mỗi ngày thì tất cả đều hoang mang đem chuyện đó nói với Loan.
Trước mặt đám thợ, Loan cố ra vẻ bình tĩnh để trấn an họ, nhưng thật ra trong lòng Loan đang run sợ lắm. Cô có cảm giác trong nhà mình có điều gì đó không bình thường đang xảy ra, cảm giác này luôn túc trực bên Loan từ cái đêm khủng khiếp trước đó.
- Anh à, hổm nay nhà mình xảy ra nhiều chuyện lạ quá đi!
Tối hôm đó Loan mở lời với Quý.
- Chuỵên gì mà lạ vậy em?
Quý ngạc nhiên hỏi vợ. Nhưng khi Loan kể lại tỉ mỉ sự việc Quý lại cười xòa:
- Trời đất, cứ tưởng chuyện gì động trời lắm! Em nên nhớ mấy cô thợ của em đang ở vào lứa tuổi mơ mộng, bởi vậy chuyện quên nhớ của họ cũng bình thường thôi em à, không có gì lớn đâu…
Loan muốn cãi lại chồng, nhưng cô thật sự không biết lấy bằng chứng gì để nói. Quý là người không tin dị đoan, anh không tin vào ma quỷ thần thánh gì hết. Bởi vậy hôm mới sang lại tiệm, cô chủ cũ có dặn nhỏ với Loan:
- Muốn làm ăn tốt, tôi nghĩ chị nên cúng kiếng thường xuyên!
Loan cũng định làm theo lời khuyên của người chủ cũ, nhưng Quý lại gạt phắt đi:
- Em ơi, bây giờ đã là thế kỷ nào rồi mà còn đi tin vào ba cái chuyện vớ vẩn như vậy? Người ta đã lên tận cung trăng rồi nhé em!
Loan không muốn làm phật lòng chồng nên cô cũng bỏ qua luôn việc cúng kiếng. Bây giờ tiệm xảy ra những việc này, cộng với việc đêm hôm trước làm Loan hoang mang ghê lắm.
- Hà ơi, em làm ở đây lâu năm rồi phải không?
Một buổi, Loan kêu Hà lại nói chuyện.
- Dạ, em làm lâu rồi, có gì không chị?
Hà ngạc nhiên hỏi.
Loan cười:
- Không, đâu có gì! Chị chỉ muốn hỏi em một việc mà lâu nay chị thắc mắc hoài. Thường thì chị thấy các tiệm khác ngwofi ta chỉ có bàn thờ ông Địa và Thần Tài thôi, nhưng khi mới vô tiệm này chị lại thấy người ta cúng nguyên một mâm trái cây, chè xôi là sao vậy em? Mà lại cúng ở nhà sau nữa mới kỳ!
Hà ngập ngừng một chút rồi nói:
- Chuyện này là em nghe kể lại, không biết hư thực ra sao nghen! Em nghe nói nhà này có ma, người chủ cũ thường xuyên bị ma nhát nen phải cúng đều đặn mỗi ngày như vậy đó!
Loan cố gắng giữ cho giọng mình bớt run:
- Rồi cúng như vậy, ma còn nhát không em?
Hà e dè đáp:
- Em nghe đâu chị chủ trước vẫn cứ bị nhát hoài nên mới vội vã bán đổ bán tháo căn tiệm này đó chị. Tiệm làm ăn được lắm, chỉ tội chuyện đó, nên những người ở quanh đây thèm lắm mà họ đâu dám mua. Hồi anh chị mới về em cũng định hỏi nhưng thấy mọi người vẫn sống yên ổn, em nghĩ “ma bắt cũng coi mặt người ta”.
Rồi Hà đột ngột hạ giọng:
- Mà em hỏi thiệt, từ hồi về đây tới giờ, chị có thấy gì lạ chưa?
Loan chối:
- Không, chị đâu có thấy gì lạ đâu…
Hà thở phào nhẹ nhõm:
- Vậy là mừng rồi!
Sau cuộc nói chuyện với Hà, Loan định bụng sáng mai sẽ đi chợ mua một mâm trái cây và nấu bữa cơm thịnh soạn để cúng, nhưng cô biết nếu nói ra Quý sẽ lại cười cô giống “mấy bà già âm lịch”, vì vậy Laon quyết định sẽ không nói gì với Quý.
Tối đó Loan ngủ sớm, quý vẫn còn thức xem đá bóng trên ti vi. Đang hào hứng với những pha bóng đẹp mắt, Quý nghe tiếng gõ cửa gấp rút dưới nhà. Anh giật mình chạy xuống, vừa nhìn qua khe cửa vừa hỏi:
- Ai? Ai kêu cửa giờ này?
Bên ngoài không có một ai, ánh trăng mười sáu sáng rỡ, soi rõ cả một khoảng sân.
- Thiệt tình, đứa nào giờ này còn đi phá phách!
Quý lầm bầm quay vô. Nhưng khi anh vừa xoay người thì tiếng gõ cửa lại vang lên như thúc giục. Một lần nữa Quý nhìn ra ngoài, bên ngoài cũng chẳng có ai, nhưng tiếng gõ cửa vẫn vang lên rõ mồn một.
Lần đầu tiên trong đời, quý cảm thấy rùng mình.
Anh cố gắng xua đuổi những ý nghĩ không hay, cố gắng quên đi tiếng gõ cửa bí ẩn ấy. Đi vội ra nhà sau, Quý vốc nước rửa mặt. Vừa ngẩng lên, anh thoáng thấy bóng một người đang phản chiếu trong tấm gương trước mặt. Nhìn kỹ, Quý nhận ra đó rõ ràng là một cô gái có nét mặt quen quen, dường như anh đã gặp ở đâu đó rồi. Aùnh mắt cô gái nhìn anh thật lạ.
Quay phắt người lại, Quý thấy sau lưng mình không có ai, nhìn trở lại chiếc gương, bóng cô gái khi nãy cũng đã biến mất.
Vừa sợ, vừa bực mình, Quý di nhanh lên gác. Loan vẫn đang ngủ say trên giường, nhưng lúc nãy trước khi đi xuống nhà, rõ ràng Quý đang xem chương trình đá bóng của đài Thành phố, nhưng bây giờ ti vi lại đang ở đài Tây Ninh!
Quý chụp vội remod tắt phụt tivi rồi lên giường nằm cạnh vợ. Anh bắt đầu nhớ lại tuần tự những sự việc đã xảy ra, nhớ lại giấc mơ và những gì vợ kể lại.
Cuối cùng, Quý cũng phải công nhận một điều ở nhà mình đang diễn ra hiện tượng không bình thường!
Quý trở mình nằm xoay mặt vào trong. Loan đã ngủ say, nét mặt cô đẹp một vẻ ngây thơ dịu dàng khiến Quý càng ngày càng thấy thương yêu vợ nhiều hơn nữa. Anh biết, cửa tiệm này là mơ ước lớn nhất trong đời Loan, nó lại đang làm ăn phát đạt, hai vợ chồng anh không thể vì chuyện ma cỏ quấy rối mà sang lại tiệm được. Nhưng nếu cứ để tình trạng này kéo dài thì vợ chồng Quý cũng không còn sức lực đâu mà làm việc, mà thợ thầy dần dần cũng sẽ bỏ đi hết mà thôi!
Hay cho vợ mình cúng kiếng đi? Quý thầm nghĩ, nhưng rồi anh chợt nhớ lại ngày đầu tiên đến coi tiệm, cô chủ trước cũng cúng một đầy, vậy mà vẫn sang tiệm một cách gấp rút, cô ấy nói lý do là về sống với chồng, nhưng nguyên nhân sâu xa có lẽ chính là vì chuỵên này đây. Hèn gì lúc đó Quý cũng đã lấy làm thắc mắc, không hiểu vì sao một căn tiệm ở vị trí tốt vậy, lại sang với giá rẻ mạt mà không thấy ai đến coi. Chắc là họ đã dò la biết được chuyện gì rồi, chỉ có vợ chồng anh là ngây thơ, đọc báo xòn là gọi điện tới liền, không chị đi dò hỏi gì xung quanh hết!
- Không… không… tui sợ.. Á…. Aù……
Tiếng hét của Loan làm Quý giạt bắn người. Anh ôm vợ vào lòng lay gọi:
- Loan, Loan ơi! Tỉnh dậy đi em! Em mơ gì mà la dữ thế?
Loan nấc lên mấy cái rồi mới choàng tỉnh, ngơ ngác nhìn xung quanh.
- Anh đây! Em gặp ác mộng à?
Quý áp má vào cô, ân cần hỏi.
- Anh ơi… em sợ quá! Em lại thấy cô gái hôm trước…
- Em ngủ đi, không sao đâu chỉ là mơ thôi mà! Có anh đây rồi, em yên tâm ngủ đi!
Quý dỗ dành. Lần này anh không còn dũng khí để mắng Loan là người dị đoan mê tín nữa.
Loan ôm chặt chồng, thổn thức:
- Anh ơi… em không chịu đựng nổi những chuyện thế này đâu! Chắc có ngày em điên mất! Anh phải tin em, có những chuyện em thấy rõ ràng chứ không phải trong giấc mơ đâu anh ạ… Mình phải làm gì đây anh?
Quý vuốt tóc vợ, buồn buồn:
- Ừ, anh tin em rồi! Nhưng anh cũng không biết phải làm sao đây? Cả hai vợ chòng mình đều non nớt, chưa biết xửa lý những việc như thế này ra sao cả!
Loan chợt nhớ ra, cô mừng rõ reo lên:
- Em nhớ ra rồi! Ngày mai em sẽ về kể hết với mẹ, chắc chắc mẹ sẽ có cách giúp vợ chồng mình!
Quý ái ngại:
- Có được không em? Hay lại bị ba má mắng cho một trận rằng con bé này hư quá, đã lấy chồng ở riêng rồi mà chỉ mỗi việc trông chừng nhà nó cũng phải cầu cứu đến mẹ?
Loan phì cười:
- Nếu mẹ nói vậy em sẽ thưa rằng: Mẹ ơi, ai biểu mẹ tuyệt vời quá chi, nên bất cứ chuỵên gì con cũng muốn mẹ giúp đỡ…
Hai vợ chồng lại tạm gác qua một bên những nổi sợ hãi mà đùa giỡn vui cười với nhau. Tuổi trẻ vốn thế, khóc đó rồi lại bật cười như nắc nẻ đó!
 
***
 
Thấy Loan về chơi bất thường, bà mẹ mừng rỡ:
- Công việc làm ăn thế nào rồi mà bỏ đi đó con?
Loan cười:
- Dạ, công việc cũng tốt lắm mẹ ạ!
Hai mẹ con rối rít thăm hỏi chuyện vãn một lúc lâu sau Loan mới ôm mẹ khẽ nói:
- Mẹ, hôm nay con về thăm ba mẹ, đồng thời cũng muốn nhờ mẹ giúp con một việc…
- Gì đây cô nương? Vợ chồng con cần vốn để khuếch trương cái tiệm đó thêm ra nữa sao?
Bà mẹ đoán.
Loan vội lắc đầu:
- Dạ không! Đời sống vợ chồng con đã tạm ổn, chúng con đâu dám làm phiền cha mẹ thêm về tiền bạc. Con chỉ muốn mẹ giúp con… trừ ma!
- Trừ ma?
Bà mẹ ngạc nhiên hỏi lại.
Loan gật đầu, gương mặt buồn thiu:
- Dạ. Tiệm con đang làm ăn ngày một tốt hơn, nhưng mấy lúc gần đây hình như ma quái lộng hành quá mẹ ạ! Con sợ…
- Chuyện thế nào con kể tỉ mỉ cho nghe xem!
Bà mẹ không giấu được vẻ lo lắng.
Loan thuật lại tất cả những điều lạ lùng mà cô gặp phải từ lúc té ngã trong nhà tắm cho đến tận hôm nay. Bà mẹ chăm chú lắng nghe, đôi chân mày nhíu lại vẻ suy nghĩ.
- Để mẹ tới ở với con ít ngày!
Cuối cùng bà mẹ quyết định.
Loan rất đỗi vui mừng, vì cô luôn tin tưởng mẹ sẽ có cách nào đó giúp vợ chồng cô trừ được hết yêu ma quỷ quái để công việc làm ăn của cô diễn ra suông sẻ, vui tươi.
Thế là bà Tư mẹ Loan chờ ông Tư về, trình bày lại sự việc một lần nữa cho ông Tư nghe rồi xin phép ông đến ở với con và rể vài ngày xem tình hình thực tế ra sao rồi mới định lịeu được.
Ông Tư cũng lo không kém. Tuy là đàn ông nhưng vì thuở còn trai trẻ ông đã từng sống ở vùng rừng thiêng nước độc một thời gian dài, cho nên những chuyện mà nhiều người khi nghe qua có thể cho là hoang đường, nhưng với ông Tư thì ông biết điều đó rất có thể xảy ra. Ông tin và sợ các đấng vô hình, kể cả trời phật, thánh thần hay yêu ma quỷ quái.
Ngay hôm đầu tiên tới ở nhà Loan bà Tư đã gặp sự cốởtosi đó, sau khi thợ thầy về hết, Quý dọn chiếc giường xếp để giữa nhà, anh dự định sẽ ngủ dưới nhà để mẹ và vợ ngủ trên gác, nhưng bà Tư nhất định không nghe.
- Mẹ tới đây là để coi tình hình ra sao, chứ đâu phải tới nói chuyện tâm tình với con Loan! Với nó thì còn bao nhiêu là thời gian… Cứ để mẹ ngủ ở đây, con à!
Thuyết phục mẹ vợ không được, Quý cẩn thận mắc màn cho mẹ xong xuôi rồi mới lên gác.
Đêm khuya, đèn trong nhà đã tắt hết chỉ chừa lại một bóng cà na màu đỏ quạch ở bàn thờ ông Địa đặt sát tường. Ở trên gác cũng chỉ có ánh đèn ngủ mờ mờ chiếu xuống.
Lạ nhà, bà Tư cứ trằn trọc hoài không ngủ được. Bà lắng tai nghe, hình như có tiếng nước chảy ri rỉ dưới nhà tắm. Bà lồm cồm ngồi dậy chui ra khỏi mùng, không mở đèn mà cứ để ánh sáng mờ ảo ấy, đi chân trần xuống bếp.
Bà bật đèn trong phòng tắm để kiểm tra thì thấy nước không phải chảy ra từ vòi mà chảy từ trên trần nhà xuống.
- Lạ kìa, trời đâu có mưa?
Bà Tư lẩm bẩm.
Bà đứng im, ngước mặt lên quan sát dòng nước ngoằn ngoèo đang nhỏ tong tong xuống đất. Bất giác khi vô tình lướt mắt ngang qua tấm gương treo trên tường, bà hốt hoảng khi thấy một đôi mắt đang mở to nhìn bà. Định thần nhìn kỹ lại, bà thấy đó là một người con gái trạc tuổi hai mươi sáu, hai mươi bảy gì đó. Hình cô gái hiện rất rõ trong gương, nhưng mỗi khi bà Tư quay lại để tìm người thật thì thấy sau lưng chỉ là một khoảnh tường tróc sơn, không có một người nào.
Biết mình đã bị ma quỷ đùa cợt, bà Tư lẩm nhẩm trong mịêng bài kinh Cứu khổ cứu nạn của Bạch y Quán Thế Aâm Bồ Tát. Mỗi lần bà đọc đến chữ “Mô phật” là hình ảnh trong gương mờ dần, mờ dần.
Đọc bài kinh qua mấy lượt, rồi bà Tư lại chuyển sang khấn với vong hồn:
- Hồn sống khôn thác thiêng, nếu có gì uất ức níu kéo không cho hồn đi đầu thai kiếp khác được, xin hồn cứ đến đây gặp tôi để báo mộng. Nếu có thể giúp gì được cho hồn, nhất định gia đình chúng tôi không quản ngại. Chỉ xin hồn đừng làm các con tôi lo lắng, sợ hãi, xin cho nó được làm ăn lương thiện để kiếm cơm… Cúi xin hồn hiểu cho tấm lòng của một bà mẹ…
Cái bóng trong gương đã hoàn toàn biến mất. Bà Tư xem xét chung quanh một tí nữa rồi tắt đèn, lặng lẽ trở lên nhà trên.
Lúc bà còn mơ màng, chưa kịp ngủ thì thấy có một người con gái đến ngồi cạnh giường, hình như có điều gì buồn phiền đau khổ lắm.
Bà Tư muốn cất tiếng hỏi, nhưng không hiểu sao bà lại không thể phát ra lời. Lòng bà cũng hồi hộp lắm, nhưng từ lúc về làm vợ ông Tư, bà luôn được ông chỉ dạy rằng, ma quỷ không đáng sợ bằng những con người làm điều ác.
Cô gái ngồi một lúc rồi bỏ đi, không nói tiếng nào.
Sáng hôm sau, bà Tư đích thân đi chợ mua thức ăn về làm một mâm cơm thịnh soạn để cúng cho những người  "khuất mặt khuất mày”.
Nhưng có lẽ hồn ma trong ngôi nhà này không cần những bữa cơm!
Tối đêm đó, khi vào phòng vệ sinh, Loan chỉ khép hờ cửa nhưng lúc ra cô lại không mở được, như đã bị khóa từ bên ngoài. Loan còn đang lúng túng, chưa kịp lên tiếng gọi mẹ và chồng gíup đỡ, thì một luồng hơi lạnh ngắt phả ra ngay sau lưng cô. Giật mình quay lại, Loan suýt đứng tim khi thấy phía sau cô là một người con gái  trên người đầm đìa máu.
Không kịp kêu lên một tiếng, Loan ngã xuống bất tỉnh.
Ở bên ngoài, Quý giúp mẹ vợ dọn cơm xong, chờ mãi vẫn không thấy Loan ra, anh gọi đùa:
- Loan ơi, em ngủ quên trong đó hay sao thế?
Không nghe tiếng Loan trả lời, Quý lặng im nghe ngóng, bên trong cũng hoàn toàn không có tiếng động nào.
Vội vã bước tới kéo cửa phòng tắm ra, Quý la lớn:
- Trời ơi, mẹ ơi, Loan bị làm sao rồi…
Bà mẹ hoảng hốt chạy tới giúp Quý đỡ Loan ra để nằm trên chiếc giường xếp cạnh đó, hai người hối hả xức dầu, xoa bóp giúp cho Loan hồi tỉnh.
- Ma… có ma…
Vừa mở mắt ra được, Loan đã lắp bắp nói với mẹ, bàn tay run rẩy chỉ vào phòng tắm.
- Không sao rồi! Đã có mẹ và anh, em đừng lo! Em nghỉ cho khỏe chút đi rồi kể lại sự việc cho anh biết.
Quý vừa đỡ Loan ngồi dậy vừa an ủi.
Loan ôm chặt lấy Quý, cố vẫn chưa hết sợ hãi:
- Em thấy rõ lắm… một người con gái… mình mẩy toàn máu… đứng trong đó… làm sao bây giờ anh ơi? Mẹ ơi… con sợ quá…
Bà Tư đau đớn ôm con gái, không biết nói sao. Mấy hôm nay thấy Loan có vẻ tiều tụy bà rất lo lắng, nếu để tình trạng này cứ tiếp tục xảy ra, một là Loan lo sợ quá sẽ hóa điên, hoặc hai con bà phải bán lại ngôi tiệm này mất!
- Tội nghiệp hai đứa nhỏ, vừa mới gầy dựng được nơi này, nếu phải bán đi chắc chúng nó sẽ phải đau khổ lắm. Không! Không thể được! Bằng mọi giá, mẹ sẽ giúp các con giữ lại căn tiệm này!
Bà Tư thầm nghĩ trong bụng.
Chờ cho Loan qua cơn hoảng loạn, cả nhà ngồi vào bàn ăn cơm, nhưng không khí thật nặng nề. Ai cũng cố gắng nhai trệu trạo cho xong.
- Ban đầu con không tin việc này mẹ à, nhưng rồi… đến giờ con cũng phải tin là có thật!
Quý mệt mỏi nói.
- Chắc tụi con phải sang lại tiệm thôi mẹ! Con sợ vợ con bị ảnh hưởng việc này…
Quý vừa dứt lời, Loan giật mình rơm rớm nước mắt:
- Anh… không… đừng sang lại tiệm anh ơi!
Quý ôm đầu:
- Anh cũng không muốn! Nhưng chúng ta có thể sống mãi với những nỗi lo lắng, bất an thế này không?
- Các con khoan nói tới chuyện sang tiệm, cứ để đó cho mẹ. Mẹ sẽ tìm cách giải quyết việc này.
Bà Tư cắt lời con rể.
- Mẹ có cách gì hả mẹ?
Loan nhìn bà Tư chờ đợi.
Bà Tư trầm ngâm giây lát rồi khẽ nói:
- Theo mẹ nghĩ, ma thì cũng như con người thôi. Mẹ cũng đã gặp qua hồn của cô gái ấy. Có lẽ cô gặp phải một điều gì đó nên hồn vía không siêu thoát được nên mới lảng vảng mãi nơi này. Cô liên tiếp hiện ra chắc có điều gì muốn chúng ta giúp đỡ. Mẹ hy vọng, cô ấy sẽ trình bày rõ để chúng ta còn biết đường mà giúp.
- Nếu có gì cần, tại sao cô ấy không nói ngay mà cứ thoắt ẩn thoắt hiện làm khổ người khác chứ?
Quý nói với vẻ bực bội.
Bà Tư nghiêm mặt:
- Quý! Con không nên nói như vậy! Giữa người và ma là hai thế giới cách biệt nhau, thế giới nào cũng có những quy luật riêng của nó, đâu phải muốn nói là nói, muốn làm gì thì làm đâu con! Nhiều khi phải chờ đợi khi cơ duyên đến…
Quý không dám cãi lại lời mẹ vợ, nhưng anh thật sự tức tối sự sự quấy rối của bóng ma người con gái ấy.
Loan ủ rũ ngồi bên cạnh, không nói lời nào. Cô đang tưởng tượng tới cảnh phải sang lại cửa tiệm này, khi ấy vợ chồng cô lại tiếp tục đi làm thuê làm mướn, biết khi nào có được cơ hội để có riêng cho mình một căn tiệm như ý thế này?
Thấy con gái đăm chiêu lo lắng, bà Tư an ủi:
- Con đừng quá buồn phiền như vậy. Sáng mai mẹ sẽ lên chùa, trình bày hết mọi việc với nhà sư trụ trì, có thể mẹ sẽ xin lá bùa về để giữ yên lành trong nhà trong cửa… Nhưng việc này mẹ làm vì bất đắc dĩ thôi. Bởi mẹ biết, nếu như hồn ma kia bị bùa trấn áp thì lại càng không siêu thoát được… Chút nữa mẹ sẽ cầu nguyện, nếu như cô gái ấy thật sự có điều gì oan khuất, cần chúng ta giúp đỡ thì nên báo mộng cho mẹ biết…
Loan tuy không tin tưởng lắm vào sức mạnh của bùa phép như mẹ nói, nhưng giữa lúc này cô giống như kẻ đang bơi giữa biển, bất cứ một cành cây trôi dạt nào cũng có thể trở thành chiếc phao quý giá để cô bấu víu vào đó.
Khi hai con đã lên gác, bà Tư lặng lẽ kéo chiếc bàn nhỏ ra để giữa nhà, lặng lẽ thắp nhang khấn vái. Bà khấn giống như đang thầm thì kể chuyện với một người thân.
Đến tận nửa đêm, bà Tư mới vào giường nằm ngủ. Nhưng bà chưa kịp nhắm mắt thì cô gái đã hiện ra đứng sát bên giường.
Đè nén sự sợ hãi, bà Tư muốn cất tiếng hỏi, nhưng lúc này bà mới phát hiện ra mình không thể thốt nên lời, cả chân tay bà cũng không sao cử động được.
Nằm im như khúc gỗ, bà Tư chỉ biết giương mắt nhìn chăm chú vào cô gái. Đó là một cô gái trạc tuổi với Loan, gương mặt buồn rượi, trên người đẫm máu, máu bết cả một nửa mái tóc dài.
Cô gái đứng im một lúc lâu rồi từ từ quỳ sụp xuống lạy bà Tư, vừa lạy vừa khóc:
- Con xin lỗi vì đã gây ra cho gia đình những chuyện không vui… nhưng thật sự con rất cần sự giúp đỡ mà không biết phải làm sao… May nhờ hôm nay lời cầu nguyện của bà được chứng giám, nên con mới có thể cất tiếng kể rõ hoàn cảnh với bà… Cách đây hơn mười năm, khi chỗ này còn là bãi đất trống, con đã bị người ta hãm hại, giết chết rồi chôn xác tại đây… Gia đình con đã tìm kiếm mỏi mòn mà vẫn không có được chút tin tức nào của con cả. Sau này, khi người ta mua đất cất nhà, người ta lại vô tình làm phòng tắm ngay trên chỗ con nằm. Từ đó, con đã phải chịu biết bao điều khổ sở… con xin bà thương con, hãy báo cho gia đình con biết…
Bà Tư tuy không nhúc nhích cửa động và nói nên lời được, nhưng đầu óc bà vẫn rất tỉnh táo. Nghe cô gái nói đến đó, bà rất muốn hỏi biết gia đình cô ở đâu mà báo, nhưng bà không sao hỏi được.
Chừng như đoán được ý nghĩ của bà Tư, cô gái nói tiếp:
- Bà không phải lo, sáng ngày mai, người khách đầu tiên của tiệm là em gái của con… Bà cứ nói với nó, chị gái nó tên Như, có đeo một chiếc vòng tay bằng bạc có khắc dấu của gia đình, hiện nay chiếc vòng đó vẫn còn nằm chung với xwong cốt của con… Bà giúp con, bà nhé?
Cô gái lại sụp xuống lạy thêm ba lạy nữa rồi vụt biến mất như chưa từng tồn tại trước đó. Bà Tư lồm cồm ngồi dậy, mồ hôi rịn ra ướt trán.
Bà thắp mấy nén nhang và nói:
- Cô yên tâm, tôi sẽ làm hết khả năng của mình để giúp cô…
Sáng hôm sau, khi vợ chồng Quý vừa thức dậy, bà Tư vội gọi hai con ngồi lại để bàn bạc.
- Tối qua cô gái ấy đã hiện về…
Quý và Loan sững sờ trước câu thông báo ngắn gọn của bà Tư.
- Cô ấy hiện về?
Quý ngạc nhiên hỏi lại mẹ.
Bà Tư gật đầu:
- Đúng! Cô ấy hiện về và nói với rằng, hơn mười năm trước cô ấy bị người ta giết chết rồi chôn xác ở tại đây. Sau này người ta xây nhà, vì không biết nên làm phòng tắm ngay trên chỗ cô ấy nằm…
- Thôi đúng rồi! Con nhớ ra rồi…
Quý chợt la lên làm mọi người giật mình.
- Chuyện gì con?
Bà Tư hỏi.
Loan không nói gì nhưng nhìn chồng chăm chú.
Quý ôm đầu, kể:
- Lúc mới mua căn tiệm này, con đã từng ngủ chiêm bao gặp cô ấy, và nhớ hình như cô ấy cũng có đề nghị với con là nên dời nhà tắm đi chỗ khác, nhưng rồi sáng ra con cứ nghĩ đó là chuyện chiêm bao bậy bạ thông thường, vả lại nhà tắm nằm chỗ đó cũng tiện rồi, không cần sửa đổ igì nữa hết, nên bỏ qua luôn, ai dè…
- Rồi bây giờ mình phải làm sao hở mẹ? Dời nhà tắm đi à?
Loan lo lắng hỏi.
Bà Tư gật gù:
- Dời là một lẽ, nhưng điều cần thiết nhất là phải báo cho gia đình cô ấy biết để đến nhận lại hài cốt của cô…
- Báo cho gia đình cô ta? Trời… mình biết gia đình cổ ở đâu mà báo bây giờ?
Quý la lên.
Bà Tư cười:
- Con không lo, cô ấy có nói, người khách đầu tiên của tiệm trong ngày hôm nay sẽ là em gái của cô ấy…
Bà Tư kể lại tỉ mỉ chuyện xảy ra hồi đêm cho hai con nghe. Loan và Quý vừa mừng lại vừa lo lắng.
Hôm đó nhằm ngày chủ nhật nên Quý không đi làm. Thương những ngày nghỉ như thế này anh thường chở vợ đi chơi hoặc về thăm cha mẹ hai bên, nhưng hôm nay cả nhà đều tập trung dưới nhà để chờ đợi người khách đầu tiên xuất hiện.
Các cô thợ đã tới đông đủ, cửa tiệm đã được bày biện sạch sẽ khang trang rồi mà mãi tới hơn chín giờ sáng vẫn không có một người nào ghé qua.
Xuân vừa chẳy tóc cho Diễm vừa than:
- Hôm nay không biết sao tiệm ế dữ vậy ta?
Nhưng cô không biết trong lòng những người chủ của cô còn nôn nóng gấp mấy lần!
- Dạ, mời chị vào ạ! Chị muốn làm gì ạ?
Tiếng chào mời khách đon đả của Hà làm bà Tư và vợ chồng Loan giật mình cùng ngó ra cửa.
Một cô gái chừng mười chín, hai mươi tuổi, vai khoác ba lô tươi cười bước vào. Cô đặt chiếc ba lô lên ghế rồi nói:
- Dạ… mấy chị làm móng giùm em đi! Em đi ngang đây tự nhiên xe hư, phải bỏ sửa ở tiệm kế bên. Ngồi bên đó nóng nực, với lại đầy mùi dầu mỡ nên em ghé vô tiệm làm móng luôn…
Xuân nhanh nhẹn đem mấy thau nhỏ đựng nước ra để cô gái ngâm chân tay.
- Nhà em không ở gần đây sao?
Loan gợi chuyện.
- Dạ không, em ở tuốt trên Thủ Đức, đi học dưới này.
Cô gái vừa để hai tay vào thau nước vừa cười nói:
- Mấy chị có tin không, từ hồi nhỏ tới giờ em chưa đi làm móng lần nào, tự nhiên hôm nay nổi hứng…
Thấy cô gái vui vẻ xởi lởi, Loan tiếp tục:
- Em học Đại học à?
- Dạ, em học năm ba rồi chị. Mẹ em cứ giục học hành nhưng lên để đi lấy chồng…
Cô gái nhanh nhảu kể chuyện.
Loan cười xòa:
- Chắc nhà có một mình em là gái nên mẹ em lo chứ gì?
Cô gái gật đầu:
- Dạ. Nhà chỉ có hai mẹ con. Ba em mất lâu rồi, hồi em còn nhỏ lận. Mà đúng ra em còn có người chị nữa, nhưng… chị ấy mất tích hơn mười năm rồi, gia đình em đã tìm kiếm khắp nơi, đăng báo suốt mấy năm trời mà vẫn không có tin gì của chị ấy…
Nghe cô gái nói thế, Loan càng thêm hồi hộp. Cô rất muốn nói rõ mọi chuyện nhưng vì dưới nhà hiện có mặt nhiều thợ thầy, Loan không thể nói hết được, cô đành giả vờ:
- Không biết có phải chị của em tên Như không? Đó là bạn của chị… chị thấy em giống Như quá…
Cô gái nhổm ngay dậy:
- Dạ… đúng rồi chị! Chị của em tên Như. Chị… chị có biết tin tức gì của chị ấy không?
Loan còn đang ấp úng chưa biết trả lời sao thì quý đã xen vào:
- Hay em đưa cô bé lên gác lấy hình Như cho cô xem đúng không đi?
Loan mừng rỡ:
- Ừ, em bỏ mấy thau nước đó đi, theo chị lên gác chút xíu…
Cô gái nghe tin tức về người chị đã thất lạc từ lâu của mình, hấp tấp đứng lên bwosc theo Loan lên gác. Bà Tư và Quý cũng theo sau.
Mấy cô thợ dưới nhà ngơ ngác nhìn theo chủ.
- Chị Loan hôm nay bị gì vậy trời? Mới người khách mở hàng đầu tiên mà cũng không để người ta làm cho trọn vẹn?
Xuân lẩm bẩm.
Loan kéo ghế mời cô gái ngồi và nói:
- Chị xin lỗi vì đã phải gạt em lên đây…
Vừa nghe Loan nói vậy, cô gái hoảng hốt nhổm người lên, nhưng Laon đã vộ ivàng trấn an:
- Em yên tâm, chị không có ý đồ gì xấu đâu… Chỉ là thật sự chị không có hình ảnh gì của chị Như cả, mà chị chỉ muốn cho em biết tin tức của chị ấy, ở dưới chị không tiện nói…
Nhìn vẻ mặt chân thật hiền lành của những người chủ nhà, cô gái đã yên tâm phần nào nhưng vẫn không tránh khỏi hồi hộp vì sự bí mật này.
- Chị biết tin tức của chị em?
Cô gái hỏi lại.
Loan gật đầu.
- Đêm hôm qua bác đã gặp chị của con!
Bà Tư nói.
Cô gái kinh ngạc nhìn sững vào mặt bà Tư. Cô không nhận thấy ở đó có một dấu vết nào của sự đùa cợt hay gian trá.
- Chị con hiện về báo cho bác biết…
Bà Tư đem toàn bộ sự việc ra kể lại cho cô gái nghe. Gương mặt cô gái từ đỏ hồng giờ đã chuyển qua xanh tái.
- Thật sự… chị con… đã… đã chết?
Cô gái lắp bắp hỏi.
Bà Tư khe khẽ lắc đầu:
- Bác cũng không biết chắc, chỉ là chị con hiện về nói với bác như vậy. Chị con còn cho biết, trên tay chị con có đeo một chiếc vòng bằng bạc, trên đó có khắc dấu của gia đình… Bác chỉ biết có vậy thôi con à…
Cô bé kêu lên:
- Vậy thì đúng rồi! Hai chị em con mỗi đứa đều có một chiếc vòng, nhưng giờ con không đeo nữa vì nó chật rồi…
- Nếu bây giờ nhìn thấy chiếc vòng đó, cô và mẹ cô có thể nhìn ra đúng là của nhà mình không?
Quý tò mò hỏi.
Cô gái gật đầu quả quyết:
- Dạ, nhất định là mẹ em và em sẽ nhìn ra ngay thôi!
Quý thở phào nhẹ nhõm:
- Vậy thì được rồi! Vậy hôm nay cô về báo cho mẹ biết tin, ngay ngày mai tôi sẽ cho thợ nghỉ, tiệm tạm đóng cửa ít hôm để phá bỏ cái nhà tắm, xem xét mọi việc có đúng như vậy không nhé?
Cô gái mừng rỡ:
- Dạ, nếu được vậy thì may mắn cho mẹ con em quá, em xin cảm ơn gia đình ta…
Như đã thỏa thuận trước, hôm sau tiệm đóng cửa, Loan cho các cô thợ nghỉ việc ba hôm với lý do để xây lạ inhà tắm cho đúng với phong thủy.
Mới sáng sớm, mẹ con Thảo – em gái Như – đã có mặt ở nhà Loan, tất cả đều hồi hộp chờ đợi chờ tới khi toán thợ bổ những nhát cuốc đầu tiên xuống nền nhà tắm…
Quả đúng với những gì hồn ma cô gái đã nói với bà Tư. Ngay dưới nhà tắm, không sâu lắm là một bộ xương người mà không khó khăn gì mẹ Thảo đã xác nhận đó chính là Như, vì ngoài chiếc vòng bạc vẫn còn mắc trên xương cánh tay, còn nhiều vật khác làm bằng chứng.
Bà mẹ vừa đau đớn, vừa mừng vì đã tìm được con mình sau hơn mười năm trời khắc khoải kiếm tìm, lo lắng, dù giờ đây đứa con gái thương yêu chỉ còn lại nắm xương tàn, nhưng đó cũng là nguồn an ủi lớn với một bà mẹ như bà…
Bà Tư nấu mâm cơm cúng cho Như và hai gia đình thống nhất sẽ lấy ngày này để làm giỗ cho Như hàng năm. Vợ chồng Loan cũng hứa sẽ coi Như và Thảo như em của mình, hai gia đình kết tình thân thiết từ một sự bất ngờ ngoài ý muốn.
Từ khi hài cốt Như được gia đình đưa về an táng đàng hoàng, cửa tiệm của Loan đã không còn xảy ra những việc kỳ lạ nữa và công việc làm ăn ngày một trôi chảy. Loan thầm nghĩ chắc chắn cô cũng được sự phù hộ của vong linh Như.
Nhiều năm trôi qua, dù hai vợ chồng Loan luôn bận bịu vì công việc ngày càng phát đạt và bận vì con cái, nhưng hàng năm đến ngày giỗ của Như chưa bao giờ vợ chồng Loan quên.
Ngày đó, họ tổ chức một bữa tiệc nhỏ, để nhớ ngày Như được về đoàn tụ với gia đình!
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:32:19 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:57:44
MÁU NHUỘM ĐẢO HOANG
 
Câu chuyện bắt đầu ở một làng chài nhỏ ven biển miền Trung.
Nghe nói những người đầu tiên đến sống ở đây là những người dân ở miền Bắc không chịu được nạn đói vào những năm thiếu kém nên mới tập nhau đi dần về phương Nam tha phương cầu thực.
Chuyến hành trình đầy gian khổ của họ đã cướp đi sinh mạng của hơn một nửa số người. Phần lớn những người chết là vì đói rét và bệnh tật.
Cho đến ngày họ đến được vùng biển này thì cả đoàn người chỉ còn lại khoảng vài chục. Một phần là vì họ đã quá mệt mỏi vì đã đi qua một đoạn đường quá dài, một phần là do cuộc sống ở vùng biển này cũng khá ổn. Vừa có rừng, núi và biển lại không xa thị trấn là mấy nên họ đã quyết định sống định cư ở đây.
Họ lấy gỗ trong rừng về làm nhà, đóng thuyền. Cuộc sống những năm đầu ở đây cũng hết sức khó khăn nhưng nhờ lòng quyết tâm nên họ cũng vượt qua được.
Ở ngọn đèo gần nơi họ định cư lúc ấy có một ngôi nhà nguy nga tráng lệ của một thương nhân ở Sài Gòn xây lên để cùng vợ con đến đây nghỉ ngơi sau những chuyến buôn bán lớn từ nước ngoài trở về.
Do đồng cảm với những người ở đây, vì ông cũng là người từ Bắc vào và cũng xuất thân từ tầng lớp nghèo hèn giống như họ, nên ông thường xuyên giúp đỡ những người dân sinh sống trong làng.
Ông sẵn sàng bày vẽ cách làm ăn cũng như cho mỗi một gia đình mượn một số tiền nhỏ để làm vốn.
Nhờ vào sự giúp đỡ tận tình của người thương gia giàu có ấy mà chỉ hơn năm năm sau ngày định cư ở đây, người dân làng chài này đã có được một cuộc sống ổn định.
Tối tối họ ra biển đánh cá, sáng thì vợ con họ mang những gì chồng, cha mình bắt được trong đêm đem ra chợ buôn bán. Cuộc sống tuy vất vả nhưng thật hạnh phúc.
Sau đó không lâu, có một toán cướp xuất hiện ở vùng này.
Ban đầu người ta đồn ầm lên có cướp về làng, nhưng tuyệt nhiên cuộc sống của người dân trong làng vẫn được diễn ra một cách yên bình. Thành thử, theo thời gian, dân làng cũng không còn đề phòng gì nữa, những kẻ được gọi là “bọn cướp”, đối với người dân ở đây cũng trở thành những người láng giềng dễ mến.
Họ có cướp của giết người hay không, không ai xác định được. Nhưng nếu có đi chăng nữa thì sự việc ấy cũng diễn ra ở một nơi nào đó, ngoài phạm vi ngôi làng này.
Nhưng tai họa bỗng chốc đổ ập xuống, tang thương xảy đến tại nơi đây, lại nhằm vào đúng gia đình của một người nhân đức, là người ơn của toàn thể dân làng.
Nghe nói vì thấy tài sản kếch sù của người thương nhân giàu có và tốt bụng ấy nên họ đã nổi lòng tham vào nhà cướp hết tài sản của người thương nhân.
Và độc ác hơn, chúng đã giết chết tất cả những người có mặt trong nhà rồi châm lửa đốt sạch. Kể cả đứa con trai chưa đầy một tuổi của ông cũng phải cùng chung số phận.
Lúc đó, cả làng đã khóc thương cho người ân nhân xấu số, và ai cũng căm thù lũ cướp bất nhân.
Họ đã sát cánh cùng chính quyền địa phương vây bắt lũ cướp, quyết không để một tên nào chạy thoát.
Bọn cướp không ngờ những người láng giềng vốn thường ngày hiền lành như cỏ của họ hôm nay đã quay mặt trở thành đối thủ, chúng có thể lẩn tránh nhà chức trách một cách dễ như trở bàn tay, nhưng tránh được người dân trong vùng là điều không thể.
Không phải mất nhiều thời gian và công sức, dân làng nhà nhà chức trách địa phương đã tóm gọn băng cướp.
Phiên tòa xử tội bọn cướp có đông đủ dân làng đến tham dự, người nào cũng mang theo nỗi bất bình và lòng căm hận.
Trong phiên tòa, bọn chúng đã nhận hết  tội lỗi ở các vụ án xảy ra trước đó ở các khu vực xung quanh, nhưng tất cả đều khăng khăng không chịu nhận tội cướp của, giết người và đốt sạch gia đình người thương nhân đó.
Người ta suy đoán, có lẽ ở các vụ án trước, tài sản chúng cướp đi không lớn lắm, vả lại nạn nhân chỉ là một hoặc hai người chết, hoặc chỉ bị thương.
Còn lần này, tội ác chất chồng vì cả nhà người nhân trên dưới chục người đều bị tàn sát, của cải mất sạch, nhà cửa ra tro.
Sự việc trọng đại như vậy chúng không dám nhận cũng là lẽ đương nhiên.
Nhưng dù chúng có nhận tội hay không thì cuối cùng, dưới áp lực của quần chúng và những chứng cứ mà dân làng thu nhặt được, toà án cũng tuyên bố xử tử hình cả băng cướp năm người.
Không bao lâu sau bản án được thi hành. Vì người thương nhân đó là một người lương thiện và là một Mạnh Thường Quân chuyên đóng góp tiền của cho địa phương nên mọi người quyết định án tử hình năm tên cướp ấy ở ngay sân vườn của ngôi nhà mà gần mười mạng người đã chết thảm trong đó.
Nghe dân làng kể lại, hôm ấy trời mưa như trút nước, có lẽ nhà Trời đang khóc thương cho số phận bi thảm của cả gia đình người thương nhân.
Trước khi chết, bọn cướp đứa nào cũng khóc và luôn miệng thề thốt rằng chúng không hề dính dáng vào chuyện này.
Tiếng khóc than của chúng cũng khiến những người đến xem phải chạnh lòng.
Dù hết sức căm thù chúng nhưng tất cả dân làng lại bị tiếng kêu la thảm thiết ấy làm cho họ không dám nhìn vào bọn cướp khi chúng bị tử hình.
Mỗi một tiếng súng như xé toạt bầu trời, và sau mỗi lần như vậy, tiếng kêu la của những tên còn lại lại càng dữ dội hơn, thảm thiết hơn.
Chỉ còn lại một tên cuối cùng, cũng là tên đầu đảng.
Hắn không khóc than như những tên trước mà trước khi chết hắn đã la lên rất to, tiếng la của hắn ăn sâu ăn sâu vào tâm trí của tất cả những người đến xem, họ nhớ mãi dù thời gian đã trải qua mấy mươi năm.
Tiếng thét của hắn lớn hơn tiếng mưa, át cả tiếng gió:
- Ta thề trước vong linh của những người đã chết trong ngôi nhà này, nếu bọn ta đúng là hung thủ thì cho bọn ta vạn kiếp không thể siêu thoát, vạn kiếp phải làm thân ngạ quỷ bị đoạ đày dưới âm phủ, còn nếu như có ai đó ném đá giấu tay, cố tình hãm hại bọn ta thì xin tất cả những oan hồn chết trong căn nhà này hãy cùng ta sống lại để ….
Hắn chưa kịp nói hết câu thì tiếng súng đanh nhọn vang lên kết liễu cuộc đời một tên tướng cướp.
Khi hắn ngã xuống, ánh mắt ngập tràn sự thù hận của hắn hướng thẳng về phía đám đông làm mọi người bất chợt rùng mình.
Bỗng dưng họ cảm thấy bứt rứt như vừa gây ra một lỗi lầm gì đó rất lớn.
Sau đó cả làng được phép chôn xác bọn cướp ở cạnh bên những ngôi mộ của gia đình người thương nhân ở phía sau vườn nhà. Vì hiện tại gia đình người thương nhân không còn ai là người thừa kế, khu vực này trở nên đất hoang, vô chủ.
Sau khi mọi việc đã đâu vào đó thì bỗng dưng râm ran có nhiều tin đồn rằng bọn cướp bị chết oan và hàng đêm chúng vẫn hiện về than khóc, thề rằng sẽ tìm ra thủ phạm.
Nhưng tất cả những lời đồn đại ấy rồi cũng chìm vào quên lãng. Người dân ở làng chài cũng thôi không nhắc tới những chuyện đau lòng đã qua. Cuộc sống của họ lại trở về với nhịp điệu quen thuộc hàng ngày.
Thời gian thắm thoát trôi qua, mới đó mà đã hơn bốn mươi năm trôi qua, cuộc sống của người dân ngày càng sung túc.
Làng chài nhỏ bé ngày nào chỉ lưa thưa hơn hai mươi hộ gia đình, bây giờ đã trở nên tấp nập đông vui.
Ngày ngày, cánh lái buôn đổ xô về đây mua bán. Vùng biển này vốn còn rất hoang sơ nhưng phong cảnh lại hữu tình hiếm có.
Một vài người có đầu óc kinh doanh từ nơi khác đã khám phá ra được vị thế đắt địa của vùng này nên đã không ngừng đầu tư vào khai thác xây dựng, biến nơi đây trở thành một địa điểm du lịch, nghỉ ngơi dưỡng sức được nhiều người biết đến.
Tuy tất cả đã đổi thay nhiều, nhưng ngôi nhà cháy ở trên ngọn đồi đằng xa kia vẫn còn là một nơi âm u lạnh lẽo, ít ai dám bén mảng đến, nhất là vào ban đêm.
Trước kia, con đường từ dưới chân đồi dẫn lên ngôi nhà được trải sỏi, hai bên là hai hàng phi lao cao vút, giờ đây con đường ấy đã bị xuống cấp, hư hỏng theo thời gian, không ai tu bổ nên bây giờ chỉ là một con đwofng sình đất, cỏ hoang rậm rạp, chỉ còn lại một lối mòn nhỏ ngoằn ngoèo chủ yếu do những đứa trẻ chăn trâu và những người đi hái củi tạo nên.
Cách chỗ ngôi nhà khoảng hơn một trăm mét, giờ đây đã có một con đường trải nhựa phẳng lì chạy thẳng qua tới thị trấn phía bên kia. Chiều chiều du khách thường thả bộ hóng gió nên con đường cũng bớt đi phần nào sự vắng vẻ.
Bọn trẻ con trong làng, đứa nào cũng nghe qua câu chuyện xảy ra hơn bốn mươi năm trước cùng với những lời đồn thổi, những oan hồn bạt gió đêm đêm… nên chẳng đứa nào dám bén mảng một mình đến đó.
Hàng năm, người dân trong làng đều tụ tập về đó để cúng bái cầu nguyện các vong linh, nhất là các vong linh trong gia đình người thương nhân tốt bụng giúp cho họ được no ấm, thanh bình. Đồng thời họ cũng thỉnh các vị cao tăng đến đó đọc kinh cầu an siêu độ cho những người chết.
Họ coi nơi đó là nơi linh thiêng, là nơi quỷ thần hội tụ, nên có chuyện cần thề thốt là họ lại dắt nhau lên đó để tạo thêm phần đảm bảo cho lời thề nguyện của mình.
Mọi việc cứ diễn ra đều đặn hết năm này sang năm khác như thế, thế hệ trẻ lớn lên cũng bắt chước cha anh mình, vừa sợ hãi vừa tôn kính khu đất hoang vu ấy.
Cho đến một ngày, có một bọn cướp khác do bị truy đuổi gắt gao nên đã kéo về lánh mặt ở đây.
Bọn chúng quây quần cùng nhau trong ngôi nhà gần như đổ nát ấy để chia chác món tiền mà chúng vừa mới cướp được.
Không hiểu chúng phân chia thế nào mà đã xảy ra tranh chấp. Cả ba thằng đàn em hợp nhau làm phản, giết chết tên đầu đảng để cướp hết tiền của hắn.
Nhưng khi cả ba tên cướp vừa xuống tới thị trấn thì đã bị cảnh sát tóm gọn.
Hình ảnh tên cướp đầu đảng bị dàn em bắn một phát ngay giữa đỉnh đàu, mắt mở trừng trừng mang đầy oán hận khiến cho dân làng nhớ lại hình ảnh khủng khiếp và tiếng thét cuối cùng của tên cướp cách đay mấy mươi năm.
Sự việc vừa xảy ra thì cả làng lại đồn ầm lên về sự báo thù của những người đã chết trong căn nhà này năm xưa.
Mọi việc lại càng trở nên căng thẳng hơn khi nghe những tin tức vô cùng kỳ lạ, bí hiểm xảy ra từ chỗ giam giữ ba tên cướp vừa mới bị bắt vài ngày trước.
Trong lúc hắn đang bị cảnh sát hỏi cung thì bỗng ngã lăn ra, máu chảy từ hai bên mắt, mũi, miệng, hai lỗ tai đỏ lòm cả người hắn.
Cũng trong lúc ấy, một tên khác đang ở trong phòng giam bỗng nhiên bị ngộp thở, mắt mở trừng trừng, lưỡi thè dài ra, hai tay cào cấu, vùng vẫy như muốn thoát ra khỏi một sức mạnh vô hình nào đó đang siết chặt cổ mình.
Dù đã được những người bị giam cùng phòng phát hiện nhưng hắn vẫn không sao thoát khỏi cái chết lạ lùng.
Sau hai cái chết bí ẩn và rùng rợn của hai tên đồng bọn, tên cuối cùng còn lại phải sống trong tình trạng vô cùng hoảng loạn, hắn trở thành người nửa điên nửa tỉnh, luôn miệng van xin:
- Đại ca… xin đại ca tha cho tụi em… Tụi em đã lỡ động lòng tham nên mới giết chết đại ca… Xin đại ca tha cho em, em biết tội của mình rồi! Đại ca tha cho em, em thề sẽ lo cúng kiếng cho đại ca đàng hoàng tử tế để vong linh đại ca được siêu thoát…”
Hắn cứ lẩm bẩm câu nói ấy mãi suốt từ khi hai tên đồng bọn chết. Cả đồn cảnh sát cũng hoang mang về chuyện ấy.
Người ta chờ đợi những khi tến cướp còn lại có vẻ tỉnh táo để hỏi hắn một vài điều, nhưng hắn chỉ lắp bắp:
- Tôi… Tôi không biết gì hết… đại ca ơi! Tôi không biết gì hết, thật mà… Xin hãy tha cho tôi…
Rồi trong lần lên cơn, do sự sơ hở của người quản thúc, hắn đã nhảy từ trên lầu ba xuống đất, va đầu vào một gờ xi măng và chết ngay tại chỗ.
Chuyện cướp bóc, ma quái được đồn thổi một cách nhanh chóng, làm giảm sút hẳn lượng khách du lịch đến địa phương.
Những người sống bằng nghề kinh doanh du lịch không ngớt than trời trách đất.
Giữa lúc cả làng đang xôn xao bàn tán về cái chết của những tên cướp vừa rồi và nhắc lại vụ án năm xưa, Nam – cháu trai nhà ông An, một gia đình giàu có vào bậc nhất nhì trong làng, đang theo học cấp hai ở Sài Gòn về quê nghỉ hè.
Gia đình ông An sống chủ yếu bằng nghề kinh doanh khách sạn, phòng trọ, nên trong tình trạng chung này ông không khỏi bị thất thu.
Do rất gan dạ và tính tò mò của tuổi trẻ thôi thúc nên Nam đã rủ rê một số bạn bè đồng trang lứa đi đến ngôi nhà hoang để thám hiểm. Và trong thâm tâm, Nam cũng muốn nhân cơ hội này để giải tỏa hết mọi nghi vấn ma quái trong lòng mọi người, vì thật sự chưa bao giờ Nam tin tưởng trên đời này lại có chuyện ma quái được.
Nam được ăn học đàng hoàng, mọi việc xảy ra trên đời đều được khoa học chứng minh rành rẽ, Nam không tin có các hồn ma, và càng không tin vào việc các hồn ma đã chết mấy chục năm về trước mà vẫn còn quanh quẩn nơi đây để làm điều gì đó không tốt.
Tối hôm đó, Nam cùng với bốn người bạn là Tuấn, Hải, Long, Hoa mang theo đèn pin, gậy gộc đi men theo con đường mòn, cỏ mọc cao lút gối để lên đến đỉnh ngọn đồi.
Tuấn là đứa ít tuổi nhất trong bọn, và cũng là đứa có phần nhút nhát nhất. Vừa đi, Tuấn vừa níu chặt tay vào áo của Nam và luôn miệng hỏi:
- Anh Nam ơi, liệu mình đi như vầy có sao không? Sao anh không mời thêm thầy pháp đi theo cho đỡ sợ… Chứ chỉ có tụi mình như vầy, lỡ đâu ở trên đó…
Long nạt ngang:
- Đồ nhát gan! Nếu mầy sợ sao khong ở nhà bú mẹ đi, đi theo tụi tao làm gì mà cứ nói toàn chuyện tầm bậy tầm bạ, làm cho người khác nao núng trong lòng…
Hải cười nói:
- Tao thì nghĩ giống thằng Nam. Chẳng có cái quái gì ở đó đâu. Chẳng qua là mấy ông cụ ở làng mình rảnh quá hổng có chuyện gì làm nên nghĩ ra câu chuyện hoang đường mấy chục năm trước chứ trên đời này làm gì có ma?
Hoa vội chen ngang:
- Vậy anh giải thích sao về vụ ba thằng cướp mới chết vừa rồi? Báo chí có đăng tin rõ ràng là không kết luận được nguyên nhân tử vong mà?
Hải lắp bắp:
- Thì… thì… có lẽ là do một tên bị trúng gió chết, một tên nhảy lầu tự tử thì rõ rồi, còn tên kia… tên kia…
- Tên kia thì thế nào?
Tuấn cười hỏi.
Hải nói tiếp:
- Thì tên kia chết là do bị tra tấn đến chết đó mà! Bọn cảnh sát quần áo rằn ri đó không dám nhận trách nhiệm, rồi thêm mấy ông già làng mình tin dị đoan nên bồi thêm cho câu chuyện có màu sắc ma quái vậy mà. Năm nay đã là năm 1972 rồi, đâu phải thời hoang sơ mới khai thiên lập địa mà ma quỷ lẫn lộn với con người?
Lúc này Nam mới lên tiếng:
- Cái thằng này, nhà tù còn rộng chỗ lắm, chắc thế nào cũng còn chỗ cho mầy! Cứ việc phát ngôn bừa bãi đi, rồi vô đó ngồi xé lịch nghỉ mát!
Hải cười:
- Ở đây chỉ có đám tụi mình thôi, tao mới dám ăn nói thẳng thừng như vậy, ai mà biết chứ? Chẳng lẽ một trong các cậu đi tố cáo tớ? Hi hi,… mà các cậu có tố cáo thì cũng không ai rảnh để đi điều tra một việc nhỏ xíu như đầu cây tăm thế này đâu!
- Thôi, đừng tán dóc nữa! Chúng ta sắp đến nơi rồi kìa! Đi sát vào nhau nhé, tự nhiên mình có cảm giác bất an quá…
Nam từ tốn nói, giọng trầm hẳn xuống.
Hoa mỉm cười:
- Trực giác của cậu lúc nào mà chả đúng!
Mọi người cùng đồng thanh:
- Ừ, đúng rồi đó!
Nam cau mày:
- Ê, tính ghẹo tui đấy phải không?
Cả bọn cười ồ lên.
Tiếng cười chưa kịp dứt thì Tuấn đột ngột nói:
- Mấy anh có để ý gì không? Hôm nay hình như gió thổi lạnh hơn bình thường và sóng biển kia kìa, cũng khác thường nữa…
Hoa chen ngang:
- Sóng nhè nhè, gió rì rào… chứ gì? Nhìn mặt trăng kìa, hôm nay trăng cũng sáng hơn bình thường, làm mình có cảm giác rợn cả người lên ấy chứ!
Long gắt:
- Đừng có chơi trò hù doạ nhe! Tụi mình kể chuyện gì vui vui đi, nói toàn chuyện này dễ làm nhụt chí anh hùng lắm đó!
Nam cười bảo:
- Ừ, nãy giờ tao cũng có cảm giác lành lạnh rồi đấy! Tại tụi bây nói chuyện gì đâu không…
Cả bọn vừa đi vừa kể những câu chuyện tiếu lâm. Tuy bề ngoài ai cũng cười cười nói nói, nhưng thật ra cả đám đứa nào cũng đang rất sợ hãi, chúng đi sát vào nhau hơn.
Cảnh vật mỗi lúc mỗi âm u hơn, những bụi cây, khóm cỏ và những bóng cây đại thụ ven đường giống như những bóng ma với hình thù kỳ quái, mà những cái đầu giàu trí tưởng tượng của mấy đứa nhỏ có thể liên tưởng tới hàng ngàn hình dáng khác nhau.
Gió biển lướt thướt thổi dọc theo hàng phi lao tạo ra một thứ tiếng u u u như tiếng quỷ ma rên khóc hoặc tiếng gọi hồn từ một thế giới xa xăm nào vọng tới.
Cả năm đứa tự nhiên im bặt. Mồ hôi rịn ra trên lưng áo mặc dù gió thổi lồng lộng và cảm giác lành lạnh vẫn chạy dọc sống lưng.
Ánh trăng sáng vằng vặc chiếu xuyên qua những tán cây làm hiện rõ lên vết tích của con đường lát sỏi ngày nào.
Cả bọn dừng lại trước cánh cửa lớn của ngôi nhà.
Hoa chỉ tay về phía góc vườn:
- Nhìn kìa!
Cả bọn hoảng hốt, thì thào:
- Gì thế?
Tuấn khẽ nói:
- Có thấy năm cây cột đó không?
Long nhanh miệng:
- Thấy rồi! Chẳng qua là năm cây cột bình thường thôi mà, có gì đặc biệt đâu?
Tuấn lắp bắp:
- Em nghe bố em bảo… năm cây cột đó… chính là…
Tuấn dừng lời, hít thở một hơi thật sâu rồi nói một cách rõ ràng:
- Đó là nới năm tên cướp bị cột vào để xử bắn cách đây hơn bốn chục năm về trước. Nhưng… nhưng tại sao năm cây cột đó lại đứng thẳng như vậy? Em nhớ mới ba tháng trước đây em theo ông nội đến đây dự lễ cầu siêu thì thấy chúng đã bị xiêu vẹo lắm rồi mà? Em còn nhớ có cả cây cột đã gãy đổ rơi ra toàn bụi xi măng…
Cả bọn đứng nín thinh, không đứa nào biết nói gì trước sự thật lạ lùng đó. Bất ngờ Tuấn lại ngồi thụp xuống, hốt một nắm cát giơ lên trước mặt ra vẻ săm soi.
Nam nuốt nước bọt, hỏi bằng giọng run run:
- Mầy… mầy làm gì vậy Tuấn? Mầy.. điên à?
Tuấn không trả lời, cứ cúi gầm mặt dùng tay bóp vụn đống đất cát dưới chân. Không lâu sau, trong tay Tuấn xuất hiện một chiếc vỏ đạn đã rỉ sét.
Tuấn cầm chiếc vỏ đạn giờ lên cao để ánh sáng trăng soi rõ cho mọi người cùng nhìn thấy.
Rồi bỗng dưng Tuấn cất tiếng cười to, tiếng cười vừa cất lên lại tắt đi đột ngột. Tuấn bắt đầu nói, nói một cách rất rõ ràng mạch lạc, tự tin, nhưng âm điệu nghe thật ghê rợn, rõ ràng không phải là giọng nói thường ngày của Tuấn:
- Đây là vỏ của viên đạn đã lấy đi mạng sống của tao mấy mươi năm trước. Bọn ranh con chúng mầy mau về báo lại cho chúng biết câu nói còn bỏ dở của tao ngày ấy là: Sống lại để trả thù những kẻ hại ta. Và những người ở đây… bảo chúng cứ ở đó mà đợi bọn ta đến trả thù… Giờ phút cáo chung của bọn chúng đã đến rất gần rồi đó! Ha ha ha… cái lũ ném đá giấu tay chúng bay sẽ bị chết hết, chết từng đứa một! Ha ha ha…
Nghe đến đây cả bọn rụng rời chân tay, mồ hôi đổ đầm đìa, tay chân quíu cả lại nên mặc dù rất hoảng sợ mà không đứa nào bỏ chạy được.
Cả đám còn nghe có tiếng trẻ con khóc và tiếng nói chuyện lao xao của nhiều người khác từ trong nhà vẳng ra.
Tất cả bốn đứa đứng chết lặng, không đứa nào còn cửa động được, không phải do một thế lực siêu nhiên nào kiềm giữ chúng lại mà là do chúng quá sức sợ hãi.
Nam là đứa gan dạ nhất trong đám mà giờ phút này cũng chỉ biết đứng bất động, thậm chí tay chân cứng đờ, không còn run rẩy được nữa.
Tuấn từ từ ngước mặt lên, dưới ánh trăng hiện ra một gương mặt trắng bệt và trên gương mặt như được đúc bằng sáp ấy một dòng máu đỏ tươi đang chảy xuống từ trên đỉnh đầu.
Tuấn chỉ tay về phía làng, rên rỉ:
- Bọn chúng vu oan cho ta…!
Lúc bấy giờ ánh trăng chiếu vào mặt Tuấn làm rõ lên ánh mắt mang đầy uất hận và khát khao trả thù, khuôn mặt bây giờ không còn là của Tuấn nữa. Nó là một khuôn mặt dễ sợ, đầm đìa máu, đôi mắt nhìn các bạn mình như muốn ăn tươi nuốt sống.
Tuấn không hề mở miệng nhưng âm thanh lại phát ra từ chính con người Tuấn.
Tuấn đột ngột hét lên:
- Biến! Trước khi tao đổi ý!
Giống như có một luồng điện chạy vào cơ thể, cả bọn ù té chạy, chạy nhanh đến mức chính chúng cũng không thể tưởng tượng được.
Băng qua rừng dương, đạp bừa lên những bụi gai, đám cỏ, da thịt chúng bị cào xướt bởi những cành táo dại ven đường, những bụi gai mắc  cỡ dưới đất làm cho tóe máu nhưng bọn chúng không đứa nào dám dừng chân, cứ nhắm mắt nhắm mũi mà đâm đầu chạy miết.
Chúng cũng không còn tâm trí đâu mà định hướng, cứ chạy cho thật xa nơi khủng khiếp đó chứ hoàn toàn không biết mình đang chạy về đâu, chạy về hướng nào và phía sau lưng có ai rượt đuổi theo không?
Trong đầu mỗi đứa chỉ có mỗi một câu thúc giục:
- Chạy đi! Chạy nhanh lên! Chạy thật xa cái nơi chết chóc rùng rợn đó, chạy tới đâu cũng được…
Bọn chúng cứ chạy và chạy mãi, không nhớ gì đến đứa bạn tên Tuấn của chúng còn lại một mình ở ngôi nhà rùng rợn đó…
Khi Nam tỉnh dậy thì thấy mình và các bạn đang nằm ở nhà mình. Trưởng làng và rất đông dân chúng đang tụ tập lại đó, trên gương mặt ai cũng hằn lên nét lo âu.
Gia đình của bốn đứa Tuấn, Nam, Hoa, Long, Hải đang vây kín xung quanh.
Vừa thấy Nam mở mắt ra, mẹ Tuấn vội lay lấy lay để vai Nam, mếu máo:
- Thằng Tuấn đâu? Thằng Tuấn đâu rồi?
Nam còn chưa kịp nhớ lại những gì đã  xảy ra trước đó, nó ngơ ngác nhìn xung quanh.
Giường bên cạnh là Long, Hải, Hoa đứa nào cũng nằm thiêm thiếp, mặt mũi thật khó coi.
- Thằng Tuấn đâu con? Lúc chiều tụi con đi với nhau mà?
Bà Nội nhẹ nhàng hỏi Nam.
Giờ thì Nam đã nhớ ra rồi, mặt nó tái ngắt, co rúm lại, nó không nói được rõ lời, tay chỉ về phía ngôi nhà cháy, mịêng ú ớ:
- Thằng Tuấn… ma… nhà cháy…
Vừa nghe Nam nói vậy, ba mẹ và gia đình Tuấn cùng một số dân làng vội vã thắp sáng đèn chạy rần rật lên ngọn đồi hoang vắng.
Số người còn lại cố gặng hỏi Nam đủ điều, nhưng Nam không nói được gì, nó chỉ trào nước mắt và cơ thể thì rúm ró lại, dường như nỗi kinh hoàng vẫn chưa rời bỏ nó, dù giờ đây xung quanh nó là cha mẹ, là người thân và đông đảo láng giềng chòm xóm.
Thấy tình trạng của Nam như vậy, trưởng làng đưa tay ra hiệu cho mọi người rồi cất giọng ôn tồn bảo:
- Thôi, chúng ta hãy để yên cho cháu nó nghỉ ngơi!
Rồi quay sang Nam, ông bảo:
- Con cứ nằm nghỉ cho khỏe, đừng sợ hãi gì nữa! Bây giờ các con đã được an toàn rồi. Khi nào con thật bình tĩnh, ta sẽ đến nói chuyện với con sau.
Nói xong, trưởng làng đứng lên ra về, dân trong làng cũng lục tục kéo về hết, chỉ còn lại gia đình Long, Hải, Hoa đang ngồi ủ rũ bên cạnh con mình.
Mãi đến trưa hôm ấy, khi đã thật sự tỉnh táo, Nam, Hải, Long và Hoa mới có thể kể lại cho mọi người nghe những gì mình đã chứng kiến vào tối đó.
Mọi người nghe xong, ai nấy đều hoảng hốt. Mọi người lại đổ dồn đi xin bùa thỉnh phép ở các ngôi chùa lân cận.
Về phần Tuấn, đêm đó, sau khi các bạn đã chạy rất xa nó vẫn còn nằm bất tỉnh một mình trong khoảnh sân đầy cỏ dại.
Mãi tới lúc cả nhà nó đổ xô lên tìm kiếm, đèn đuốc soi rọi khắp nơi, tiếng kêu khóc vang trời mà nó vẫn không tỉnh dậy. Cuối cùng, ba nó là người tìm thấy nó đầu tiên.
Ông bế xốc đứa con lên vai, chạy thục mạng xuống đồi. Cả một đoàn người đèn đuốc sáng rực chạy sấp ngửa theo sau.
Người dân trong làng biết tin đã tìm được Tuấn về, họ lại kéo đến vây kín quanh nhà Tuấn, nhưng không mấy người dám bước chân vào trong. Họ chỉ thập thò bên ngoài nghe ngóng cho thỏa mãn sự tò mò mà thôi, ít ai có can đảm vào tận trong nhà để nhìn mặt Tuấn.
Những người giàu trí tưởng tượng còn hình dung ra giờ đây Tuấn không còn là thằng Tuấn hiền như cục đất trước đây nữa, mà nó có thể phùng mang trợn má, xông ra cắn xé mọi người.
Những người thực tế hơn thì bảo:
- Nó chỉ bị ma nhập một lúc thôi mà, có gì đâu? Khi hồn ma xuất ra rồi thì nó vẫn là nó, mà hổng chừng còn hiền lành hơn, khù khờ hơn nữa kia! Những người bị ma nhập thường hay trở nên khù khờ sau đó…
Mặc dù đã nghe được những lời trấn an như thế nhưng ai ai cũng rất dè dặt, đề phòng.
Đêm ấy, có lẽ dân trong làng, trừ những đứa bé, khó ai có thể ngon giấc được. Người ta mơ hồ cảm thấy một tai họa khủng khiếp nào đó đang lơ lửng trên đầu mình.
Sáng hôm sau, trưởng làng triệu tập một cuộc họp khẩn cấp để bàn bạc kế hoạch sau những vụ việc nghiêm trọng vừa mới xảy ra ở địa phương mình.
Sau một hồi xôn xao bàn tán, toàn thể dân làng nhất trí với biện pháp đầu tiên là đi thỉnh mời các vị đại sư ở gần đó lên ngôi nhà hoang trên đồi để làm lễ cúng vong.
Khi hai nhà sư đức cao vọng trọng được mời đến thì dân làng đã chuẩn bị sẵn nơi làm lễ tế đất trời, nơi cầu an, cầu siêu cho các vong hồn oan khuất.
Nhưng thật lạ kỳ, dù hôm ấy gió không thổi mạnh nhưng không làm sao đốt được nhang đèn, mặc dù người ta đã dùng hết cách, nào là nhúng xăng dầu, nào là che chắn gió… nhưng ngọn lửa chỉ bùng lên trong chốc lát rồi lại tắt ngúm một cách nhanh chóng.
Cuối cùng, hai nhà sư phải niệm chú vào mấy lá bùa rồi đem quấn quanh nhang đèn mới có thể thắp được một cách bình thường.
Hai nhà sư bắt đầu ngồi thiền cầu kinh.
Thời gian chầm chậm trôi qua, mặt trời đã lên cao, những người dân quỳ xung quanh đã bắt đầu mệt mỏi, mồ hôi rịn ra hai bên thái dương mà hai vị đại sư vẫn như  đang chìm trong cõi mộng.
Đến lúc hai nhà sư đứng lên kết thúc buổi lễ, một người chỉ vào mấy cây nhang.
Bấy giờ dân làng mới để ý rằng dù đã mấy tiếng đồng hồ trôi qua, nhang vẫn không tàn, không cháy bớt chút nào, mà vẫn cứ như vừa mới được thắp lên.
Một vị sư bảo:
- Ở đây có nhiều người bị chết oan, oán khí rất nặng lại thêm ý chí trả thù rất mạnh nên khó có thể siêu độ cho họ được.
Trưởng làng liền hỏi vị đại sư:
- Nếu vậy tại sao mấy chục năm nay không sao, thời gian qua rất lâu rồi bây giờ họ mới bắt đầu gây ra chuyện?
Vị đại sư lúng túng:
- Điều này bần tăng cũng không biết rõ. Có thể bao nhiêu năm nay họ không có đủ điều kiện để quay về, bây giờ do một sự việc nào đấy giúp họ mở ra con đường này. Đó chỉ là suy đoán của bần tăng, còn sự việc chính xác ra sao thì thật sự bần tăng không nắm được…
Đúng lúc ấy từ đằng xa có một vị tiểu sư phụ tay lần tràng hạt, vừa đi vừa niệm phật đang tiến tới gần.
Vừa trông thấy vị tiểu sư phụ, hai vị đại sư liền tỏ thái độ cung kính cúi chào thật lễ phép.
Những người dân làng đang có mặt ở đó rất lấy làm ngạc nhiên, không hiểu tại sao các vị đại sư tên tuổi như vậy lại tỏ ra vô cùng kính nể vị tiểu hòa thượng xa lạ này.
Tuy nhiên, họ cũng bắt chước cúi chào rất thành kính.
Trưởng làng chấp tay nói:
- Xin đại sư cho hỏi, tại sao hai vị đây tuổi đời và chức sắc cũng cao hơn vị tiểu hòa thương này, mà lại có thái độ tôn kính với vị tiểu hòa thượng như vậy?
Vị đại sư cười bảo:
- Chắc các vị thí chủ không thường đến với cửa phật nên không biết rõ, đây chính là vị sư trụ trì và cũng là sư phụ của chúng tôi. Trụ trì đã tu hành đắc đạo mấy kiếp rồi nên đạo hạnh rất cao. Chính chúng tôi trước khi đi, không dám chắc mình có đủa đạo hạnh nên đã nhờ trụ trì tới giúp đỡ.
Tuy không mấy tin tưởng vào lời giới thiệu của vị đại sư, vì vị tiểu hòa thượng kia gương mặt còn quá non nớt, và dân làng cũng chưa từng nghe nhắc nhở tới bao giờ, nhưng họ cũng lặng im chấp nhận để vị tiểu hòa thượng đứng vào sân lễ.
Dân làng hiện nay như người sắp chết đuối, cứ hễ bám được gì là cứ bám, không dám chọn lựa, chê khen gì cả.
Vị sư trụ trì nhỏ tuổi hình như không hề quan tâm đến những gì đang diễn ra xung quanh mình. Trụ trì lấy mười bảy cây nhang đốt lên rồi cặm tất cả vào cùng một lư hương ở giữa bàn lễ.
Một người trong làng buộc miệng hỏi nhỏ vị đại sư đứng bên cạnh:
- Xin đại sư giải thích giùm, tại sao lại dùng mười bảy cây nhang?
Đại sư chưa kịp trả lời thì lại có tiếng xì xầm:
- Rồi cũng chẳng đốt cháy được đâu…
Trưởng làng ra lệnh:
- Tất cả im lặng! Đại sư làm gì tất nhiên phải có lý do của người, chúng ta không biết gì thì cứ thành tâm mà cầu nguyện, đừng xen vào chuyện của đại sư.
Vị sư trụ trì trẻ tuổi bất giác mỉm cười, và mãi cho đến lúc này mới mở lời:
- Không sao đâu, xin trưởng làng cứ để cho các thí chủ được quyền thắc mắc, nhưng bần tăng xin được thứ lỗi được, bởi vì có những điều huyền diệu mà bần tăng không thể nào giải thích ngắn gọn ở đây cho các thí chủ hiểu rõ được. Nếu có thí chủ nào muốn hiểu rõ, xin dời bước tới thăm nhà chùa, bần tăng hứa sẽ hóa giải hết những gút mắc trong lòng của thí chủ.
Nói xong, vị trụi trì trẻ tuổi quay lại thắp cháy mười bảy cây nhang cầm trên tay, tất cả các cây nhang đều bắt lửa và cháy một cách dễ dàng.
Sư trụ trì đứng im một lúc, cả làng cũng nín thở dõi theo. Không một tiếng động nào ngoại trừ tiếng gió thổi ngang qua làm lay động ngọn cây bụi cỏ.
Vị sư trụ trì cứ đứng im như thế thật lâu, đến khi các cây nhang đã cháy gần quá nửa, ông mới quay sang nói với dân làng:
- Nguyên nhân mà mấy mươi năm nay họ không trả thù các vị là do hàng năm, dân làng đều không quên việc cúng bái, cầu siêu khiến vong linh của họ cũng được vơi đi phần nào thù hận…
- Nhưng tại sao họ phải trả thù? Chẳng phải ngày xưa chính năm tên cướp đó đã giết cả nhà người thương gia rồi còn châm lửa thiêu rụi nhà người ta. Giết người thì đền mạng, đó là luật nhân quả từ xưa đến nay mà! Còn tên cướp vừa mới chết tuần trước là do đồng bọn chúng hại lẫn nhau, tất cả đâu có liên quan gì đến người dân lương thiện trong làng này mà họ đòi trả thù? Vả lại năm nay làng chúng tôi cũng có cúng bái đàng hoàng, đâu có làm gì vô lễ…
Mẹ Tuấn la lên.
Lúc này có lẽ dân làng đã phần nào tin tưởng vào vị sư trẻ tuổi nên một vài người phản đối những lời của mẹ Tuấn:
- Bà thiệt là… Con trai bà vừa rồi bị ma nhập nên bà bức xúc cũng phải thôi… Nhưng họ có làm gì con bà đâu, nếu họ muốn hại con bà thì họ đã không cho con bà trở lại bình thường như vậy rồi. Thôi, bà im lặng đi, để nghe đại sư nói tiếp kìa!
Vị sư trụ trì ôn tồn nói:
- Không có gì! Là phụ mẫu ai chẳng xót thương con mình và oán giận những người làm hại nó. Họ không có ác ý với con của nữ thí chủ đâu, chẳng qua là họ chỉ muốn mượn lời của nó thôi, đừng sợ! Họ sẽ không làm gì tổn hại đến những người vô can đâu.
Trưởng làng kinh ngạc hỏi vị trụ trì:
- Đại sư nói họ nói, chẳng lẽ đại sư có thể nói chuyện được với họ?
Vị trụ trì trẻ tuổi gật đầu:
- Đúng vậy! Họ nói rằng mấy chục năm trước, họ đã bị một vài người dân ở làng này hãm hại . Họ không phải là những kẻ đã nhúng tay vào cuộc thảm sát đó, họ bị oan!
- Họ bị oan thật à? Hèn gì hôm xử tử họ trời mưa gió ghê quá…
Mấy người già nhớ lại câu chuyện đã xảy ra từ mấy chục năm trước.
Trưởng làng hỏi tiếp:
- Kính xin đại sư giải đáp giùm những thắc mắc của toàn thể dân làng: đó là tại sao bao nhiêu năm nay họ im lìm, những tưởng đã đi đầu thai kiếp khác từ lâu lắm. Đột nhiên đến bây giờ họ lại muốn đòi nợ máu năm xưa?
Vị đại sư đưa cái nhìn hiền lành khắp xung quanh rồi ôn tồn nói:
- Mặc dù họ là những linh hồn sống trong một thế giới khác. Nhưng xin các thí chủ nhớ rằng, dù là thế giới nào đi nữa đều có những quy tắc  riêng của nó. Các linh hồn chết oan này đã không đủ sức để trả thù, vì các thí chủ ở đây đã thành tâm cầu nguyện, tụng kinh siêu độ mỗi năm. Đáng lẽ các oan hồn này sẽ nằm im chờ đợi cho đến khi thật sự mãn số họ đđi đầu thai kiếp khác. Nhưng có một điều… đó là lời nguyền cuối cùng của tên cướp chưa được hóa giải, họ không thể nào siêu thoát được. Họ lại không có đủ năng lực để trả thù. Bởi vậy họ cứ phải tồn tại một cách khổ sở. Vừa rồi, chính máu của tên cướp vừa bị bọn đàn em giết chết đã tưới xuống lòng hận thù của họ, giúp nó hồi sinh. Họ hiện nay đã có đủ sức để thực thi lời nguyền năm xưa…
Trưởng làng hỏi:
- Thưa đại sư, có cách nào ngăn họ lại và hóa giải lời nguyền không? Chẳng lẽ cứ để…
Vị trụ trì đáp:
- Bần tăng sẽ cố gắng thuyết phục họ, và cố gắng tìm cách để hóa giải lời nguyền. Hy vọng mọi việc sẽ không đến nỗi… Nhưng có lẽ trở ngại lớn nhất chính là ở vị thương gia và tên cầm đầu bọn cướp. Lòng thù hận ở hai vong hồn ấy là rất lớn…
Các cụ già trong làng nhìn nhau như muốn nói gì. Một lúc saumột người trong số họ bước ra chấp tay kính cẩn trước mặt vị tiểu hòa thượng:
- Bạch đại sư, chúng tôi rất lấy làm lạ, không biết tại sao đại sư lại bảo lòng thù hận của vị thương nhân kia là rất lớn? Ngày xưa ông ấy là một người nhân hậu nhất làng mà?
Vị đại sư giải thích:
- Dù là người tốt, là người nhân đức nhưng người thương nhân ấy cũng vẫn là một con người, có đầy đủ những hỉ, nộ, ái, ố. Khi ông bị chính những người mà ông đã cưu mang, giúp đỡ sát hại, thì bao nhiêu phẫn uất trong người ông đã bùng phát. Nhưng nếu bây giờ ông ấy có thể bỏ hết lòng thù hận thì chắc chắn ông sẽ được siêu thoát ngay tức khắc. Mà thôi, xin các vị thí chủ hãy trở về nhà ngơi nghỉ, vì trời cũng đã trưa xế rồi, mọi việc ở đây tôi và hai vị sư đây sẽ lo liệu chu toàn, xin thí chủ cứ yên tâm.
Dân làng nấn ná thêm một chút nữa rồi kéo nhau về. Trên đường đi, họ không ngừng bán tán, suy đoán xem ai là kẻ đã ra tay tàn ác năm xưa? Họ bàn tán xôn xao, thầm thì nghi hoặc lẫn nhau. Làng chài không còn bình yên nữa rồi, dân làng đã không còn tin vào chính láng giềng mình!
Khi dân làng đã về hết, hai vị đại sư hỏi trụ trì:
- Kính thưa sư phụ! Theo đệ tử nhận thấythì sư phụ đã biết người nào đã ra tay trong cuộc thảm sát năm xưa, vậy tại sao người không nói rõ ra?
Sư trụ trì mỉm cười:
- Nhân nào quả nấy, giết một mạng người là một tội lỗi rất lớn, huống hồ trong vụ này đã có rất nhiều người chết rồi. Họ cần phải tự giác nhận ra tội lỗi của mình và phải thành tâm chuộc lỗi thì mới có thể hóa giải được hết hận thù. Chứ nếu chờ người khác vạch mặt chỉ tên và trưng ra bằng chứng cụ thể thì dù họ có bị đền tội, có chết đi cũng khó mà siêu thoát được. Ta muốn tạo cho họ một cơ hội để tự họ thú nhận tất cả.
Đêm hôm đó.
Ông nội của Nam là ông An và chủ trại đóng tàu là ông Dương dẫn nhau đến nhà của trưởng làng. Cả hai đều là những người giàu có nhất nhì ở cái làng chài này.
Vừa trông thấy trưởng làng, ông An và ông Dương lo lắng hỏi:
- Bây giờ phải làm sao? Chúng ta cũng đâu có muốn làm như vậy, chỉ tại hoàn cảnh lúc đó… Vả lại chúng đã hối hận thật nhiều rồi, hàng năm đều đứng ra đôn đốc, tổ chức việc cúng bái cho họ, đồng thời cũng đã tham gia vào các hoạt động từ thiện khác nữa. Tại sao họ vẫn không để cho mình được yên?
Trưởng làng cất giọng lạnh lùng:
- Sựo cái quái gì chứ? Lúc còn sống chúng đã không làm gì được chúng ta, giờ chết rồi thì làm gì được nào? Dọa ta chết à? Đừng có mơ! Hai ông cứ về nhà và xem như không có gì xảy ra. Chuyện này bây giờ chỉ còn lại ba chúng ta biết, tôi không nói, hai ông không nói thì được rồi!
- Nhưng…
Ông An ấp úng.
Trưởng làng quát:
- Nhưng, nhưng cái gì? Nói ra xem nào?
Ông An nói nhỏ:
- Chẳng phải vị đại sư trẻ tuổi kia có thể giao tiếp được với các oan hồn đó sao? Chắc chắn rồi đây ông ta sẽ biết chúng ta…
Trưởng làng nhếch mép:
- Nếu biết thì hẳn đã nói ra rồi! Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, dù biết cũng không dám nói ra đâu, vì lấy gì làm bằng chứng? Tất cả dấu vết đề không còn, nói ra làm sao được!
Ông Dương gãi đầu gãi tai:
- Thật sự… thật sự chúng tôi không sợ chịu tội trước pháp luật, vì biết chẳng ai có căn cứ gì để bắt bớ chúng ta. Chỉ là… chỉ là chúng tôi sự báo thù của các oan hồn, chúng tôi sợ con cháu mình bị vạ. Như thằng Nam cháu ông An đây vừa rồi đấy…
Ông An gật đầu phụ hoạ:
- Đúng đó! Giờ đây tôi chỉ sợ các hồn ma…
Trưởng làng nghe hai người nói rất đúng, nhưng ông ta không muốn chấp nhận sự thật đó, ông cố làm ra vẻ phớt lờ:
- Thôi, thôi… hai ông đừng lo nữa! Sư trụ trì hứa sẽ tận tình tìm cách hóa giải lời nguyền năm cũ. Hai ông cứ về nhà mà ăn no ngủ kỹ, mà hưởng phước vào đi! Đừng có lo lắng gì nữa hết. Mấy chục năm nay, chúng ta đã cùng nhau làm biết bao nhiêu chuyện công đức, chẳng lẽ không cứu vãn được chút nào hay sao? Nếu các oan hồn muốn đòi mạng thì tôi chính là người mà họ sẽ tìm đến đầu tiên nè! Các ông yên tâm chưa?
Nghe trưởng làng nói cứng như vậy, ông An và ông Dương cũng tạm yên lòng.
Hai ông đứng lên từ giã ra về.
Sau khi khách về hết, trưởng làng mới thật sự đối mặt với sự lo sợ của mình. Gieo nhân nào sẽ gặt quả đó quả thật không sai! Mấy chục năm yên lành, tưởng đâu mọi việc yên ngủ dưới nấm mồ dĩ vãng, không ai có thể ngờ được khi sắp cuối đời rồi phải nơm nớp lo âu, sợ hãi vì cái tội tày trời mình gây ra từ rất lâu.
Trong thâm tâm nghĩ vậy, nhưng miệng trưởng làng vẫn lẩm bẩm:
- Rõ chán! Ngày đó có gan giết người, vậy mà bây giờ lại hốt hoảng trước một việc vớ vẩn như vậy! Ma cỏ chưa làm gì cho mình rúng động mà chỉ có hai thằng thỏ đế ấy làm mình mất hết tự tin! Hai thằng kia làm mình cuống cả lên, chúng nó sợ đến phát khiếp! Biết vậy ngày xưa mình chẳng thèm rủ chúng nó tham gia, để bây giờ khỏi phiền phức. Mà dù bây giờ chúng có trả thù thì có sao đâu? Chết bây giờ hay vài năm nữa chết già thì có gì khác nhau cơ chứ? Tất cả đều đã gần đất xa trời hết rồi…
Nhưng mà… nhưng mà… xin các người đừng động tới con cháu tôi nhé! Tội lỗi tôi gây ra, có muốn đền mạng thì cứ lấy cái mạng già này của tôi, xin đừng…
Trưởng làng miên man suy nghĩ, ông châm hết điếu thuốc này tới điếu thuốc khác, mắt vẫn cứ liếc nhìn về hướng ngọn đồi hiu quạnh.
Còn về phần ông Dương, khi từ nhà trưởng làng về tới nhà mình, tự nhiên trong lòng ông cảm thấy bất an đến lạ thường.
Ông mở hết tất cả các ngọn đèn có trong nhà, mong muốn ánh sáng chan hòa ấy sẽ xua tan được những điều u ám đang vây lấy tâm trí ông.
Ông ngồi thừ trên sa lông ở phòng khách, mắt nhìn lên bàn thờ, tay cầm ly trà đã nguội ngắt mà ông chưa buồn hớp một ngụm nào.
Chưa bao giờ thấy trong người có cái cảm giác lo lắng, sợ sệt như đêm nay. Hai tay ông run rẩy, mắt luôn đảo nhìn xung quanh như để xác định chắc chắn rằng khnôg có ai, hay bất cứ cái gì đang dõi theo mình.
Ông ngồi như vậy hơn một gờ đồng hồ. Đột ngột tim ông đập mạnh hẳn lên, hơi thở thì như nghẹn lại. Các tế bào trong cơ thể ông như đang co cứng lại. Tất cả như muốn cảnh báo cho ông biết rằng diều khủng khiếp đang sắp xảy ra.
Ông Dương có cảm giác ở phía sau lưng mình đang có một cái gì đó rất đáng sợ, nếu quay lại chắc chắn mình sẽ biết được nó là cái gì. Nhưng ông không đủ can đảm để quay lại. Trong đầu ông vang lên một tiếng than thê thiết:
- Đã đến rồi sao? Giờ phán xét đã đến rồi sao?
Giữa lúc đó, ngoài trời bắt đầu nổi gió. Cơn gió biển mang theo nó những âm điệu u uất ghê rợn, thổi thốc vào nhà ông vang lên những tiếng rú rít ma quái đến gai người.
Ông Dương cảm nhận được hơi lạnh làn gió vừa mang vào, ông đứng lên, định kiểm tra lại xem các cửa sổ đã được đóng kín hết chưa, nhưng vừa lúc đó ông phát hiện ra hình như ông lạnh không phải vì gió, mà là vì một bàn tay vô hình lạnh ngắt nào đó đang chạm vào cơ thể ông.
Tim ông như ngừng đập, các mạch máu căng lên đến mức có thể vỡ ra bất cứ lúc nào. Mồ hôi chảy ròng ròng, mặt mũi tái xanh.
Ông Dương vận dụng toàn bộ sự can đảm còn lại của mình, đứng phắt dậy và lớn tiếng nói một mình:
- Mệt mỏi rồi, đi ngủ sớm thôi! Chỉ là gió thôi mà, có gì đâu phải sợ…
Rồi ông dợm chân bước nhanh vào phòng. Nhưng chính lúc này ông không thể dối mình được nữa, rõ ràng có một ai đó đang đi phía sau ông. Ông nghe rõ từng làn hơi thở phả vào gáy ông lạnh ngắt.
Vội vã đẩy cửa phòng ngủ, dưới ánh đèn mờ mờ, ông thấy bà vợ ông đang nằm xoay mặt vào tường, thở đều đều vì đang say ngủ.
Ông Dương chồm tới, xô mạnh vợ vào phía trong, hy vọng sự va chạm đó làm vợ ông thức tỉnh. Có thêm một người bên cạnh ông sẽ đỡ sợ hơn.
Vợ ông thường ngày rất sẽ thức, vậy mà hôm nay ông có làm gì bà áy cũng cứ ngây ngất ngủ. Ông Dương vừa định bước chân lên giường thì như có một thế lực nào đó kéo giật lại khiến ông không thể tiến thêm lên nữa, mà cứ đứng cạnh bên giường ngủ của mình.
Ông thét lên:
- Dậy! Bà ơi… thức dậy đi!
Tiếng kêu của ông đã có tác dụng. Bà vợ ông khẽ cựa mình rồi trở mình xoay mặt ra ngoài. Ông Dương mừng rỡ, nhưng nụ cười chưa kịp đậu lên môi ông đã nhanh chóng tan biến để nhường chỗ cho cái mồm há hốc của ông.
Trời ơi, thật khủng khiếp! Người đàn bà đang nằm trên giường kia khong phải là vợ ông, mà chính là bà vợ của người thương gia năm xưa!
Khi khuôn mặt của bà ta vừa hiện ra dưới ánh đèn, ông Dương thấy rõ ràng nó trắng bệt như mặt của một tượng sáp, nhưng chỉ một cái chớp mắt, nhìn lại ông đã thấy nó đỏ lòm những máu là máu…
Người đàn bà ngồi dậy, từ từ đưa tay vén tóc, để cho ông nhìn thấy rõ một bên má, chỗ sát tai là một lỗ đen sâu hoắm, máu từ chỗ đó khnôg ngừng chảy ra lai láng…
Khuôn mặt đó dần dần tiến sát vào, dí sát vào mặt ông Dương. Khi ông định la lên thì bà ta vớ lấy chiếc khăn cạnh đó nhét vội vào miệng ông làm ông không thể nào thở được nữa.
Ông Dương cố vùng vẫy, nhưng tay chân ông lúc này dường như đã hoá thành đá. Sự sợ hãi đã lên đến tột đỉnh, ông Dương khong còn biết gì nữa hết.
Khi ông giật mình tỉnh dậy thì thấy mình đang nằm trên chiếc trường kỷ kê trong góc phòng khách nhà mình. Đưa mắt nhìn quanh, ông thấy vợ con, trưởng làng và một ngày người thân cận đang đứng kế bên, mặt ai cũng đầy vẻ lo âu.
Vừa thấy ông Dương mở mắt ra, trưởng làng vội nói:
- Này ông bạn già! Chắc dạo này công việc làm ăn gặp nhiều khó khăn quá nên bị kiệt sức phải không? Tôi đã nhiều lần nói với ông rồi, mình đã lớn tuổi, giao hết lại cho con cái quản lý, ôm đồm làm chi cho khổ cái thân già!
Rồi quay qua những người bên cạnh, trưởng làng nói:
- Ông ấy đã tỉnh rồi, mọi người yên tâm về lo làm việc đi, để yên cho ông ấy nghỉ ngơi.
Mọi người nhìn ông Dương một cách đầy ái ngại, ai nấy đều nói một vài lời chúc mừng tai qua nạn khỏi rồi cáo từ ra về.
Lúc này ông Dương cũng chỉ biết ậm ờ cho qua chuyện.
Trước khi ra về, trưởng làng nói nhỏ vào tai ông Dương:
- Bình tĩnh, mọi việc sẽ có cách giải quyết. Khi nào ông thật khoẻ chúng ta bàn bạc với nhau sau.
Chiều hôm đó, khi đã khỏe lại, ông Dương và ông An quyết định đến nhà trưởng làng. Lần này nhất định phải bàn cho rốt ráo, vì ông đã khẳng định tất cả không phải là chỉ là lời đồn đại mà là sự thật không thể chối cãi được.
Sau khi nghe ông An kể lại tất cả những gì đã xảy đến với mình vào tối hôm qua, trưởng làng quyết định:
- Tối mai cả ba chúng ta lên đó!
Ông An và ông Dương kinh ngạc:
- Anh nói sao? Lên đó à? Anh có điên không? Hay là anh đã chán sống?
Trưởng làng chậm rãi:
- Sựo cái gì nữa? Họ đã mò đến tận nhà rồi thì dẫu có trốn cũng không thoát được đâu. Thay vì ngồi đó chờ chết, ta nên chủ động đến đó rồi tùy cơ mà ứng biến. Nếu van xin không được thì ta tìm cách nào đó không thể chạm được vào chúng ta…
- Cách gì là cách gì? Mình là người trần mắt thịt, làm sao có thể đối phó được với các thế lực siêu nhiên?
Ông An lẩm bẩm.
- Trước tiên, chúng ta sẽ nhận tội và xin họ tha thứ. Chúng ta sẽ kể ra những việc tốt đã làm trong suốt mấy chục năm qua. Nếu họ vẫn không đồng ý thì…
Trưởng làng ngập ngừng.
- Thì như thế nào?
Ông Dương sốt ruột hỏi.
- Thì ta đem theo máu chó mực vẩy vào đó cho họ mãi mãi không bao giờ siêu thoát được, không bao giờ còn có thể hại ta được nữa. Sau đó ta sẽ lấy cốt họ đem gởi lên chùa. Vậy là xong! Điều này tôi đã suy nghĩ rất cặn kẽ rồi đấy!
Trưởng làng nghiêm nghị trử lời.
Ông An phản đối:
- Anh nói nghe thật dễ dàng, làm như họ ngồi im đó để mình muốn làm gì thì làm vậy sao? Có khi mình chưa kịp làm gì thì cả gia đình dòng họ đã phải vướng vào kiếp nạn rồi cũng nên!
Trưởng làng vẫn giữ giọng bình thản:
- Lúc vừa nghe tin anh gặp chuyện, tôi đã đi gặp các vị đại sư và may mắn gặp được vị sư trụ trì trẻ tuổi tài cao ấy, ông ta vẫn đang rất tích cực trong vịec cúng kiếng cầu siêu. Tối mai chúng ta cùng nhau đến đó nhận lỗi với họ, hy vọng mọi việc sẽ êm xuôi.
Ông An hỏi nhỏ:
- Vậy có cần đem theo máu chó mực hay không?
Ông Dương trừng mắt:
- Đem theo để làm gì? Chúng ta đi cúng bái xin tha tội mà đem theo thứ đó chỉ làm cho họ càng thù ghét chúng ta thêm, lúc đó thì khỏi có hy vọng gì nữa hết, chết là cái chắc.
Trưởng làng cười khà khà, vỗ vai ông Dương, nói:
- Chỉ mới chết hụt một lần mà có nhiều kinh nghịêm quá nhỉ? ÔNg nói cũng đúng, chúng ta chỉ cần đem nhang đèn, hoa quả là được rồi, không cần máu me làm gì hết!
Ông An mừng rỡ:
- Ờ vậy nghe được hơn đó! Mình cứ thật lòng đi, họ tha hay không cũng phải chịu, có chết cũng được, chỉ mong rằng đừng ai trong gia đình bị lây vạ…
Khi từ nhà trưởng làng về, ông Dương cảm thấy trong lòng mình buồn bã và khó chịu vô cùng. ÔNg đã không còn cái cảm giác sợ hãi như trwosc nữa. Hình như một khi đã đối diện với sự việc đó rồi, ông không còn sợ nữa.
Mấy chục năm nay, tội lỗi tày trời ấy luôn dày vò ông, nên mặc dù sống một cuộc sống đủ đầy, thoải mái về vật chất, ông Dương vẫn không có lấy một ngày thật sự thảnh thơi.
Ông vùi đầu vào công việc để buộc mình không nghĩ gì về quá khứ, coi như tất cả chỉ là một giấc mơ kinh hoàng, một cơn ác mộng. Nhưng hỡi ơi, không thể được, khi mỗi một ngày ông đều nhớ lại cơ nghiệp của ông dựng lên từ đâu? Từ những đồng tiền nhuộm đỏ máu của chính ân nhân mình.
Ông Dương là người đầu tiên đốc thúc việc cúng tế hàng năm. Ngoài ra, ông luôn tìm cách giúp đỡ những có hoàn cảnh khốn khó neo đơn trong vùng với một hy vọng nhỏ nhoi là có thể chuộc được phần nào tội lỗi.
Giờ đây, ông biết, dẫu ông có chết đi thì tội lỗi tày trời kia cũng không dễ gì xóa được.
Ông Dương nhận thấy trưởng làng tuy bề ngoài coi bộ như đã đồng tình nhưng bên trong hình như ông ta vẫn đang toan tính một điều gì đó.
Mà thôi, bây giờ thì ai lo phận nấy, ông cũng không cần có sự ủng hộ của trưởng làng và ông An làm gì nữa. ÔNg đã chán ngán lắm rồi…
Không chờ được đến tối hôm sau, ngay tối đó ông Dương một mình lặng lẽ đi lên ngọn đồi.
Đứng trước ngôi nhà gần như đổ nát, tự nhiên ông Dương nghe trong lòng mình dâng lên một niềm cay đắng tái tê.
Con người ta cứ đâm đầu vào những thứ vật chất phù phiếm, cố đạt được bằng mọi giá, đạt được rồi thì sao? Có bình an thanh thản mà hưởng thụ hay không? Hay cứ phải suốt đời sống trong sự cắn rứt khổ đau đày đoạ của linh hồn?
Ông Dương chầm chậm bước lần vào. Khung cảnh hoang tàn đổ nát của ngôi nhà hiện ra trước mắt ông như một bằng chứng chưa phai của quá khứ. Ông Dương bất chợt giật mình khi trông thấy vị sư trụ trì đang ngồi xếp bằng trong góc nhà, hai tay chắp trước ngực, hai mắt nhắm nghiền không hề mở lên nhìn ông, nhưng miệng lại nói:
- Cảm ơn thí chủ đã đến!
ÔNg Dương hoàn hồn, ngạc nhiên hỏi lại:
- Bẩm đại sư, ngài biết rằng tôi sẽ đến đây sao?
Trên mặt vị sư trẻ tuổi thoáng hiện một nụ cười bác ái:
- Bần tăng không biết, nhưng bần tăng tin là như thế!
Ông Dương quỳ mọp xuống, hai tay nắm chặt:
- Xin đại sư từ bi dẫn lối chỉ đường giúp tôi. Ngày xưa do trẻ người non dạ, tôi đã gây ra tội lỗi lớn. Nay tôi kính nhờ đại sư chuyển giúp lời tôi đến với những người đã khuất, rằng bao nhiêu năm qua tôi đã thật sự hối hận ăn năn nhiều lắm… Tôi sẵn sàng đem tính mạng của mình ra để trả, chỉ xin… chỉ xin…
Ông Dương không nói được hết câu. Ông thật xấu hổ khi ngày xưa, bon ông cũng đâu có tha cho ai trong nhà này, dù đó chỉ là một đứa bé còn rất nhỏ tuổi.
Nhà sư vẫn không mở mắt, nhẹ nhàng nói:
- Nếu thí chủ đã thật sự hối lỗi thì hãy xin với những người kia!
ÔNg Dương ngơ ngác nhìn quanh quất, vừa quay đầu lại phía sau, ông muốn đứng tim khi nhận thấy rất nhiều bóng trắng đang chập chờn phía sau mình. Nhưng rồi ông định thần lại ngay, ông khẽ quay hẳn người lại, để đối diện với tội ác ngày nào.
Kìa là một bóng phụ nữ đang bế trên tay đứa bé, kìa là những bóng người ủ rũ đang lượn lờ mờ ảo vây quanh…
- Xin tha thứ cho tôi! Xin tha thứ tội lỗi cho tôi… Thật sự ngày ấy tôi không cố ý gây ra…
Một giọng nói lạnh lùng vang lên:
- Không cố ý mà cả gia đình người ta chết thảm? Không cố ý mà đem tội lỗi của mình đổ vấy lên đầu kẻ khác, bắt họ phải chết trong oan ức…
Ông Dương quỳ mọp dưới đất, nước mắt nước mũi nhòe nhoẹt cả gương mặt già nua cằn cỗi của ông.
Nhà sư trẻ tuổi đứng lên, bước tới bên cạnh đỡ ông Dương đứng dậy:
- Nếu thí chủ đã thành tâm, vậy tại đây, trước vong linh những ngwofi đẫ khuất, thí chủ hãy kể lại tất cả câu chuyện một cách thành thật, không che dấu.
Ông Dương đưa tay áo lau mặt rồi cúi đầu xấu hổ, bắt đầu kể lại:
Năm đó, do liên tiếp bị bão lụt đan trong làng chài nhà nào cũng gặp đôi chút khó khăn. Người thwong nhân tốt bụng đã không ngần ngại sẵn sàng cho họ mượn tiền để mua sắm các dụng cụ chài lưới để mưu sinh.
Vốn là người nhiều tham vọng, ông Kha – trưởng làng hiện tại – đã rủ rê ông An và ông Dương dùng hết số tiền còn lại của gia đình để đầu tư vào một canh bạc lớn với hy vọng sẽ được đổi đời, sẽ giàu có.
Nhưng cuối cùng cả ba đều thua trắng. Họ không dám về nhà, không biết phải đối diện với vợ con ra sao khi tất cả của cải và chút ít vốn liếng vừa được người thương gia giúp đỡ chỉ trong phút chốc đã tiêu tan.
Trong lúc túng cùng, chính ông Kha đã nảy ra ý định tới nhà người thương nhân giàu có ấy để ăn trộm. Ban đầu cả hai ông An và Dương đều không đồng ý, nhưng nghe ông Kha nói một hồi cũng xiêu lòng, vả lại hai ông cũng không thể vác mặt về gặp lại vợ con trong tình trạng đó.
Kế hoạch được ông Kha bàn tính kỹ lưỡng lắm.
Đầu tiên, ông An sẽ là người vô nhà đàng hoàng bằng cửa chính. Ông là người ăn nói hoạt bát, vui vẻ lại có thể tùy cơ ứng biến một cách nhạy bén.
Theo kế hoạch, ông An sẽ đến chơi, nói lời cảm ơn gia đình đã gíup đỡ ông cùng với bà con trong làng vượt qua cơn khốn khó. Sau đó, ông sẽ kể chuyện vui để tập trung mọi người trong nhà về phòng khách, vì ai nấy đều biết rõ gia đình người thương nhân rất hiếu khách và thân thiện với mọi người.
Trong khi đó, ông Kha và ông Dương sẽ vào nhà bằng lối cửa sau, tranh thủ lúc mọi người vui cười ngoài phòng khách, hai ông sẽ lẻn lên lầu, vào phòng ngủ của vợ chồng chủ nhà để trộm.
Ban đầu mọi việc diễn ra đúng như kế hoạch, hai người đột nhập lên lầu một cách dễ dàng, nhanh chóng. Nhưng khi ông Dương đang lúi húi mở ngăn tủ thì bất ngờ đứa con gái lớn trong nhà đẩy cửa chạy ào vào. Nó khựng lại khi nhìn thấy hai người đàn ông trong phòng mẹ nó. Còn đang đứng há hốc chưa kịp kêu lên, nó đã bị ông Kha từ phía sau chồm tới, dùng hai bàn tay to khỏe của mình bóp chặt lấy miệng mũi. Con bé ra sức vùng vẫy, ông Kha bị nó cắn một phát vào tay đau đớn. Ông cáu tiết, dộng mạnh đầu nó xuống cạnh bàn làm đứa bé tóe máu và xuội lơ, không còn cựa quậy gì được nữa.
Ông Dương đưa tay lên mũi con bé thấy không có chút hơi thở nào, hoảng quá, ông đứng bật dậy, tay chân run lẩy bẩy.
Trong lúc đó vợ người thương nhân chờ hoài không thấy con gái đem quần xuống thay cho em, bà nghĩ con gái mê chơi gì đó trên lầu nên bà bế đứa con trai nhỏ lên phòng mình thay đồ cho nó.
Vừa đẩy cửa phòng, bà thấy ngay con gái nằm bất động, máu me lênh láng xung quanh. Bà chưa kịp la lên thì nhanh như cắt, ông Kha đã chụp lấy cây dầu vuông trong góc phòng nện tới tấp vào gáy bà, nện cả vào đứa bé mà bà đang ẵm trên tay.
Vợ người thương nhân ngã xuống, bà quá đỗi ngạc nhiên khi nhìn thấy kẻ hại mình chính là người mới sáng nay thôi đã xòe tay nhận sự giúp đỡ của vợ chồng mình.
Trông thấy ánh mắt vợ người thương nhân nhìn mình thảng thốt, ông Dương quá sợ hãi, ông sợ mọi việc lỡ vỡ ra, bà ta biết mặt mình thì không tránh khỏi cái chết. Trong cơn hoảng loạn, ông Dương thấy trên bàn có để cái dao nhỏ dùng gọt trái cây, ông chộp lấy và không nghĩ suy gì, cứ đâm liên tiếp nhiều nhát vào ngực người đàn bà xấu số.
Ông Dương như kẻ điên loạn, chỉ đến khi ông Kha giữ chặt tay lại ông Dương mới hoàn hồn. Ông bủn rủn khuỵu xuống khi thấy khắp xung quanh mình là máu và xác chết.
Ông rên rỉ:
- Trời ơi, tôi đã giết người rồi! Tôi đã giết người rồi! Không… tụi mình chỉ đến đây ăn trộm thôi mà… mình không giết người… không giết…
Ông Kha gắt nhỏ:
- Giờ phút này không phải là giờ phút để nói những chuyện đó ! Đây là giờ phút sống còn của cả ba đứa mình, ông phải bình tĩnh lại, chúng ta nhanh nhanh lên còn chạy thoát…
Vừa nói tới đó thì đứa con trai của người thương nhân lại chạy vào. ÔNg Kha quơ cây dầu vuông nãy giờ vẫn còn trên tay lên đầu thằng bé, nó hét lên:
- Ba ơi…
Khi thằng bé vừa ngã gục xuống cũng là lúc người thương nhân và những người còn lại trong nhà chạy vội lên lầu vì nghe tiếng kêu hoảng hốt của con trai.
Biết mọi chuyện sắp đổ bể, sợ mình không khỏi dính vào, ông An nhanh trí giả như chen lấn đã nhanh tay xô người thương nhân té xuống thang lầu.
Trong nhà lúc đó ngoài hai đứa con trai nhỏ, chỉ có người thương nhân là đàn ông mạnh khỏe, nếu ngăn được ông ấy là có thể thoát được rồi!
Ông An lại giả vờ đỡ người thương nhân dậy rồi dìu ông ta lên lầu.
Lúc đó, ông Kha và ông Dương biết mình bị phát giác, hoảng loạn đã khiến họ như điên loạn, cuồng sát.
Một người cầm cây dầu vuông, một người cầm dao cứ quất, đâm tới tấp vào bất cứ người nào xuất hiện trước cửa phòng.
Khi ông An và người thương nhân lên tới phòng thì gần như tất cả người trong nhà đều đã ngã gục. Ông Khavừa nhìn thấy người thương nhân lập tức giáng liên tiếp hàng chục cây lên người ông, người thương nhân không kịp nói một tiếng nào, chỉ cố né người tránh đòn.
Trong cơn nguy cấp, ông An luýnh quýnh không biết phải làm gì, nghe tiếng ông Kha hét lên:
- Xô nó!
Giống như kẻ mất hồn, ông An lập tức đẩy mạnh người thương nhân xuống thang lầu. Một lần nữa, người thương nhân tội nghịêp ấy lại lăn lông lốc xuống mấy chục bậc thang.
Ông Kha như say máu, vác cây chạy bổ theo nện tới tấp vào thân thể bất động của người đàn ông nhân hậu.
Khi cả ba người như bừng tỉnh thì trong nhà đã trở thành một bãi chiến trường đẫm máu.
Ông Dương cứ ngó sững vào con dao đang cầm trên tay, mắt như kẻ vô hồn. Còn ông An cũng điếng người khi trông thấy xác người nằm la liệt.
Chỉ có mỗi một mình ông Kha là coi bộ bình tĩnh hơn cả.
Ông Kha gục xuống, nhưng chỉ trong chốc lát ông đứng bật dậy, chỉ huy cho hai người còn lại gom góp tất cả tiền vàng trong nhà. Khi mọi việc xong xuôi, chính ông là người châm lửa và đổ nguyên mấy thùng xăng để xóa bớt đi chứng cứ.
Ông Kha trấn an hai bạn:
- Hai ông đừng lo, sẽ không ai nghi ngờ gì mình đâu! Thời gian vừa rồi, bọn cướp về đây, điều này ai cũng biết, ngay cả nhà chức trách địa phương. Vậy nhân đó, ta đổ hết tội lỗi lên đầu chúng, hai ông đừng lo gì cả…
Ông Dương run sợ:
- Hay là mình tạm lánh đi đâu đó một thời gian…
Ông An nạt:
- Đừng có ngu! Giữa lúc này mà bỏ đi, chẳng khác nào lạy ông tôi ở bụi này, làm cho mọi nghi vấn tập trung cả vào bọn mình. Chỉ có mỗi một cách là làm theo lời ông Kha nói. Mình cứ bình tĩnh, giả vờ như vô can, và nhất là không nên vội vàng dùng tới số tiền này. Đến khi nào mọi việc im ắng mình mới có thể sử dụng nó.
Và sau đó mọi việc đã diễn ra đúng như ông Kha và ông An liệu trước.
Chính ba ông là người hăng say nhất trong việc giúp đỡ nhà chức trách tóm gọn băng cướp năm xưa.
Kể đến đây ông Dương bật khóc. Những cái bóng trắng thấp thoáng mờ ảo cũng đang rên xiết những tiếng ai oán não nề…
Lúc này, hồn ma của tên đầu đảng băng cướp năm xưa đưa bộ mặt đầy máu của mình đến sát mặt ông Dương, gằn giọng:
- Các người là một lũ hèn mạt! Chúng ta tuy làm nghề cướp bóc, nhưng chúng ta còn có lòng nhân đạo, chưa bao giờ chúng ta cướp của những kẻ hiền lương, sống với láng giềng chúng ta cũng là những người đàng hoàng, dế mến. Còn các người, các người mang bộ mặt lương dân mà lòng dạ ác độc còn hơn loài ma quỷ, các người dám giết chính ân nhân của mình lại còn đổ vấy tội lỗi lên đầu kẻ khác. Vậy mà… chẳng hiểu sao ông trời lại để các người sống yên ổn mấy chục năm nay?
Vừa nói hết câu, hồn ma tên tướng cướp đè ngã ông Dương xuống đất, hia bàn tay lạnh ngắt của hắn từ từ đưa gần cổ ông Dương.
Ông Dương không van xin cũng không chống đỡ, lúc này ông rất múôn được đền tội. Nước mắt ông lã chã rơi ra:
- Xin ông hãy giết tôi đi! Tôi xin nguyện lấy cái chết của mình để trả bớt một phần nào tội ác. Xin các người hãy giết tôi đi…
Giữa lúc ấy, giọng nói nhỏ trầm ấm của vị sư trẻ tuổi cất lên:
- Mô Phật! Oan oan tương báo… Nếu cứ mãi giết chóc trả thù thì thù hận đến kiếp nào mới dứt? Bần tăng xin các người hãy hướng về cõi Phật mà rũ bỏ hết oan khiên…
Hồn ma tên cướp chựng lại rồi từ từ rút tay về, hắn thở dài áo não:
- Aâu cũng là nghiệp chướng!
Một chuỗi cười lạnh sắc cất lên:
- Đừng giết hắn! Hãy để cho hắn sống, sống trong đau khổ tột cùng, để hắn sống không bằng chết, có như thế hắn mới đền được tội lỗi đã gây ra…
Tiếng người thương nhân cất lên nghe có vẻ ôn hòa hơn:
- Dù sao hắn cũng là người biết hối hận… Ta đã từng muốn trả thù, từng muốn giết chết từng đứa, từng đứa một… nhưng bây giờ trông thấy bộ dạng thảm hại của hắn, ta cũng chẳng còn chút hứng thú nào…
Có nhiều tiếng xôn xao bên dưới:
- Không được! Không tha cho chúng được! Không thể để cho chúng sống nhởn nhơ…
- Mô Phật!
Nhà sư cất tiếng:
- Mọi người sống trên đời đều có một tiền kiếp. Và tất cả những gì xảy ra ở kiếp này cũng có nguyên nhân xâu xa từ kiếp trước. Tất cả những việc làm dù nhỏ nhất đều không thể qua mắt được, không thể che đậy mãi được. Lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà không lọt. Gieo nhân nào thì chắc chắn sẽ phải gặt về quả ấy. Cái hậu quả đến sớm hay muộ là do tiền căn đưa đẩy, sẽ không một ai thoát khỏi. Ngay như các vong hồn ở đây, các người oán thán vì bị chết oan, nhưng nếu các người nhớ lại được những gì ở kiếp trước của mình, thì bần tăng tin rằng các người cũng sẽ thở dài chấp nhận. Bần tăng mong mỏi các linh hồn hãy rũ bỏ hết ân oán mà nhanh nhanh siêu thoát, đừng sống vất vưởng như thế này nữa, cũng đừng quan tâm đến kẻ đã giết mình, họ sẽ bị trừng phạt thôi, việc đó không cần các người phải ra tay.
Nhà sư trẻ tuổi cứ nói mãi, nói mãi đến lúc những tiếng rên rỉ khóc than của các hồn ma dứt hẳn mới thôi.
- Kính bẩm đại sư, giờ đây chúng tôi phải làm sao?
Nhà sư mỉm cười:
- Hãy tuân theo quy luật tự nhiên…
Những bóng ma dường như đã được tỉnh ngộ.
Tất cả lặng lẽ tan biến đi, không còn ai đoái hoài gì đến ông Dương đang gần như mê đi trong góc nhà.
Nhà sư trẻ tiến đến bên cạnh ông Dương, đỡ ông ngồi lên rồi từ từ dìu ông xuống chân đồi.
 
***
Sáng hôm sau ông Dương đã trở thành một người hoàn toàn khác. ÔNg ngơ ngơ ngẩn ngẩn, nói nói cười cười như kẻ tâm thần. Con cháu ông dù tận tình chạy chữa đến đâu vẫn không cải thiện được tình trạng ấy.
Người làng đồn ầm lên, do ông Dương bị ma nhập, hồn vía ông đã không tìm được đường về với thân xác.
Từ đó ông trở thành người điên loạn, nhưng lại rất hiền, ông không phá phách đánh chửi ai mà suốt ngày cứ đi rong ngoài đường nhặt từng viên sỏi, miếng mảnh chai, sợi rác để con đường trong làng luôn sạch sẽ. Trong nhà có thứ gì ăn được ông lại len lén lấy đem ra cho lũ trẻ con nhà nghèo khó.
Nhà ông Dương từ xưa tới nay sống bằng nghề đóng tàu, gia đình khá giả làm ăn phát đạt. Bỗng đâu một hôm cả xưởng đóng tàu bị cháy rụi, làm chết cả đứa con trai duy nhất của ông đang ngủ say trong đó.
Gia đình tang tóc mà ông Dương vẫn cứ cười cười:
- Thế là xong! Thế là xong!
Chẳng ai hiểu ông nói gì, mà cũng không ai muốn tìm hiểu lời nói nhảm của một người điên.
Từ khi thấy ông Dương không còn tỉnh táo, ông An càng trở nên sợ hãi. Ông đem đất hiến cho chùa, hiến cho chính quyền địa phương để xây trường học. Ông bỏ hết công việc làm ăn, suốt ngày đi làm từ thiện ở nơi này nơi khác mặc cho vợ con ông phản đối.
Cũng may là ông An chỉ có hai người con. Người con trai đầu sinh sống tại Sài Gòn, người con gái út có chồng ở gần đó.
Anh con trai không quan tâm lắm đến chuyện cha mình lấy tài sản đi làm công quả vì từ lâu nay anh hoàn toàn tự lập. Gia đình bên vợ của anh lại là người biết tu hành nên cũng không ai dè bỉu gì hành động của cha anh.
Ông An chia cho hai đứa con mỗi đứa một khách sạn trong khu du lịch. Còn ngôi nhà rộng lớn mà hai vợ chồng đang ở ông cũng đem bán nốt, gom góp hết tiền bạc ông đem lên ngọn đồi hoang vắng đó để xây một ngôi chùa nhỏ và ngày ngày đọc kinh niệm phật.
Ban đầu vợ ông khóc lóc phản đối, bà giận dỗi về sống với con gái, nhưng rồi cuối cùng bà cũng theo ông lên ở trên chùa để chăm sóc cơm nước cho ông.
Riêng về phần ông Kha. Trông thấy sự thay đổi của hai ông bạn già, ông Kha không khỏi tức giận, thầm chửi họ là hai thằng ngu! Có gì đâu phải đày đọa bản thân mình như vậy? Ở đời mà, quy luật sinh tồn hễ kẻ nào mạnh là kẻ đó thắng, trong bất cứ trường hợp nào mình cũng phải ráng mà chiếm giữ thế thượng phong.
Ông tự hào mình là người khôn ngoan, biết khéo léo trong mọi tình huống nên bao nhiêu năm nay được dân trong làng tôn kính, mỗi lời ông nói ra là một mệnh lệnh đối với dân làng.
Ông không thể vì một nỗi sợ hãi vu vơ mà hủy đi tất cả.
Nhưng số trời đã định, ông Kha không thể cãi lại được.
Gia đình ông từ xưa đến nay vốn rất nề nếp, trên nói dưới nghe không hề có sự xào xáo xảy ra bao giờ.
Bỗng dưng thằng con trai lớn của ông đâm ra đổ đốn, không lo làm ăn mà suốt ngày la cà ở các sòng bài hoặc các tụ điểm ăn chơi khác. Nó cặp bồ với hết cô ca ve này lại đến cô ca ve khác, bao nhiêu tiền của trong nhà đều bị nó đem đi hết.
Vợ nó khóc lóc than van, nó chẳng những khnôg tỉnh ngộ mà còn thẳng thừng tuyên bố sẽ bỏ vợ để cưới một cô ca ve mà nó hiện say như điếu đổ.
Ông Kha la mắng cũng không xong, bây giờ dường như lời nói của ông không còn giá trị gì đối với nó nữa.
Chuyện thằng con trai lớn chưa giải quyết xong lại đến hai thằng kế giành nhau mảnh đất dẫn đến đâm chém lẫn nhau.
Vụ việc lớn thêm khi một đứa bị đâm vỡ động mạch suýt chết.
Dân làng phế truất chức trưởng làng của ông An không lâu sau những sự việc không hay liên tiếp xảy ra trong gia đình ông.
Buồn chuyện gia đình, mắc cỡ vì mất chức trước dân làng, ông An lao vào rượu chè cờ bạc.
Từ ngày vợ ông mất đi, mặc dù các con ông toàn là trai, trong nhà thiếu vắng bàn tay người phụ nữ chăm sóc, nhưng vì cái chức trưởng làng, ông đã cố gắng giữ nề nếp nhà mình thật đâu vào đấy.
Bây giờ đùng một cái bao nhiêu chuyện xảy ra, ông không còn lòng nào để giữ gìn gì nữa.
Giờ thì gia đình ông, cha ăn chơi mặc cha, con lêu lổng mặc con, không ai còn quản ai được nữa.
Các con dâu ông lại tranh giành nhau từng chút, từng món vật dụng trong nhà.
Đứa con trai suýt chết vừa từ bệnh viện trở về đã vội tìm anh nó để trả thù, chỉ một nhát dao rất ngọt, nó đã kết liễu cuộc đời người anh ruột thịt của mình.
Một thằng con chết, một thằng con vào tù chờ ngày toà tuyên án.
Ông An đau đớn tột cùng, nhưng ông vẫn cố gắng gượng, vẫn cố tin vào tương lai của những giọt máu còn lại trong nhà.
Hai thằng cháu nội mà ông An đặt nhiều hy vọng nhất đang theo học Đại học ở Sài Gòn, ai có ngờ đâu chúng đã dính vào ma túy từ lâu mà gia đình không hay biết.
Giữa lúc nhà cửa đang lộn xộn nhiều chuyện, tin hai đứa cháu bị bắt vì tội tham gia mua bán heroin bay về khiến ông An suy sụp hẳn.
Đêm đó ông không ngủ, ông ngồi ủ rủ trước sân nhà suy nghĩ về những việc xảy ra trong quá khứ của mình, lòng ông đau đớn lắm.
Ông đã nhúng tay vào máu để mong gầy dựng cho con cái có được cuộc sống giàu sang sung túc, ai ngờ đâu kết cuộc lại bi thảm như thế này.
Thế này thì thà sống đời chài lưới kiếm sống từng ngày còn vui vẻ hơn.
Hay là ta đang phải đền tội?
Những gì ta cướp lấy của người, giờ đây ta phải trả? Trả dần từng thứ một…
Bây giờ ông Kha chỉ còn lại hai đứa con, một thằng lêu lổng ngoài đời, một thằng giam hãm trong tù cùng với hai đứa cháu nội.
Hết rồi! Hết thật rồi! Không còn hy vọng gì nữa đâu…
Ông Kha đứng lên, cất bước chầm chậm không định hướng.
Ông lầm lũi đi, đi mãi đến khi bất chợt nhận ra mình đang đứng trước cánh cổng chùa mới xây dựng trên đỉnh đồi hoang vắng. Ông Kha chần chừ không dám bước chân vô.
Tiếng mõ công phu vang lên đều đều khiến ông cảm thấy sợ hãi.
Ông quỵ xuống trước cổng chùa khóc nức nở.
Đến lúc trời hửng sáng, ông An bắt gặp ông bạn già của mình đang nằm bất tỉnh, ông hoảng hốt vực đem vào chùa đốt lửa sưởi ấm.
Mãi tới chiều hôm đó ông Kha mới dần hồi tỉnh.
Tin ông Kha trúng gió đang nằm tại chùa đã được nhắn gửi về gia đình nhưng dâu con không ai buồn lên thăm viếng ông, bỏ mặc ông cho vợ chồng ông An chăm sóc.
Đến hki thật khỏe, ông Kha xin ông Dương cho ông được ở lại chùa để ngày ngày tụng kinh sám hối, nhưng ngay chiều hôm ấy ông đã nhận được hung tin, thằng con trai lớn của ông đi nhậu về, té úp mặt xuống khe suối và đã chết.
Ông Kha không nói không rằng, cũng không chảy một giọt nước mắt. Ông chào tạm biệt người bạn già, lủi thủi quay về.
Ngày đám tang con trai, trong nhà ông lại xảy ra một trận chiến kịch liệt giữa các nàng dâu.
Ai cũng kể công khó nhọc của mình và đòi được hưởng quyền lợi nhiều hơn. Họ ngang nhiên bàn tới chuyện chia chác tài sản mà không thèm nói với ông câu nào.
Sau khi chôn cất con trai, ông Kha tập hợp các nàng dâu lại và đem hết tiền bạc có trong nhà chia hết cho chúng.
Việc chia chác đó dĩ nhiên không đơn giản chút nào, ai cũng tranh phần hơn. Cuối cùng ông nổi điên lên đổ nguyên cả thùng xăng giữa nhà rồi châm lửa đốt.
Các nàng dâu vơ vội lấy phần của mình chạy ra ngoài kêu cứu.
Ông Kha tay lăm lăm cây mác đứng trước cổng, ngăn không cho ai vào cứu hỏa.
Đến chiều tối thì căn nhà của ông đã hoàn toàn thành tro.
Ông lặng lẽ gánh từng gánh nước đổ vào mớ tro than còn hừng hực hơi nóng.
Hì hục đến tận nửa đêm, ông vứt thùng rồi nằm dài ra giữa sân cất lên một tràng cười man dại.
Những người ở gần đó bảo với nhau rằng ông đã lên cơn điên loạn.
Nhưng thật ra ông không điên, ông tỉnh táo hơn bao giờ hết. Ông biết mình đang bị trừng phạt.
Vài ngày sau, trên nền đất còn vương đầy tro than ấy, ông Kha dựng lên một căn chòi nhỏ.
Ngày ngày ông ra biển nhặt nhạnh và làm một vài việc lặt vặt như vá lưới thuê, phơi cá khô mướn cho người ta. Ông góm góp từng đồng để tới tháng lặn lội đi thăm con, thăm cháu…
Thỉnh thoảng ông An sai vợ mang xuống cho ông bạn già một ít gạo và thức ăn.
Ông Kha chỉ nhận của ông An, ngoài ra dân làng thương tình cho gì ông cũng từ chối.
Ông sống như một cái bóng lầm lũi giữa cuộc đời…
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:34:00 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 21:58:56
SỨ GIẢ CÕI ÂM – DƯƠNG
 
Ở khu phố này không ai là không biết đến cô Ngọc. Cô khoảng độ bốn mươi tuổi, dáng người cân đối, gương mặt phúc hậu. Cô đã có chồng và có hai con. Chồng cô, một anh người hiền lành như đất. Vì vậy, tuy cô Ngọc không phải loại đàn bà lấn lướt chồng, nhưng mọi việc trong gia đình đều do một tay cô quản lý, chỉ huy.
Nói chung, ở cô cũng chẳng có điểm gì nổi bật lắm, ngoài một biệt tài mà khó ai có được. Đó là tài… giao tiếp với cõi âm.
Trước kia, cô cũng là một người bình thường như bao nhiêu người khác. Năm mười lăm tuổi, một lần vô ý cô bị trượt chân té xuống ao nước sau nhà, nếu không có mấy đứa trẻ vào vườn ăm trộm ổi thì cô đã chết lúc đó.
Nghe tiếng kêu cứu của bọn trẻ, người ta đã vớt được cô lên, nhưng cô cũng đã đứng bên lằn ranh giữa sự sống và cái chết rồi.
Hơn một tháng sau cô Ngọc mới dần khoẻ lại, nhưng từ đó ở cô phát sinh một năng lực thần bí.
Người phát hiện đầu tiên là mẹ cô.
Một buổi chiều tối, hai mẹ con đang ngồi với nhau trên bậc thềm, cô Ngọc bỗng chỉ tay ra cổng, nói với mẹ:
- Đoàn hát ở đâu kéo về đông quá, sao từ sáng giờ không nghe ai nói hết vậy mẹ?
Bà mẹ ngơ ngác hỏi:
- Con nói gì? Đoàn hát nào đâu?
Cô Ngọc ngạc nhiên:
- Họ đi rần rần vậy mà mẹ không nhìn thấy sao?
Bà mẹ lo lắng:
- Không… mẹ có thấy gì đâu? Hay… hay là con bị gì rồi?
Ngọc không nói không rằng, cô đứng lên chạy vụt ra cửa, níu áo một cô lại hỏi:
- Cô ơi, tối nay đoàn hát về hát tại đây phải không cô?
Cô đào buồn bã nhìn Ngọc:
- Không em à, các anh chị chỉ nhớ ngày kỷ niệm nên quay về thăm lại chốn xưa thôi…
Nói xong, cô đào rảo bước đi nhanh lên phía trước.
Ngọc ngơ ngẩn nhìn theo, thấy lá cờ ghi mấy chữ: “Đoàn cải lương Trăng Quê” đang phần phật bay giữa đoàn người rồng rắn.
Quay vào nhà, Ngọc bảo:
- Họ không phải về hát ở đây mẹ ơi, cô kia bảo chỉ là họ nhớ ngày kỷ niệm gì đó nên trở về thăm thôi.
Bà mẹ lo lắng:
- Con đã nói chuyện với họ à?
- Dạ, lúc nãy mẹ không nhìn thấy sao? Con đã hỏi một cô đẹp ơi là đẹp, chắc là cô đào chính của đoàn, con đứng nói chuyện ngay trước cổng nhà mình mà, mẹ phải thấy chứ!
Ngọc ngây thơ nói.
Bà mẹ rất hoang mang, hỏi tiếp:
- Thế, con có biết đó là đoàn cải lương nào không?
- Dạ, hình như là đoàn Trăng Quê mẹ ạ! Con không hỏi, nhưng con thấy lá cờ của họ có thêu dòng chữ “Đoàn cải lương Trăng Quê”
Ngọc hớn hở.
Bà mẹ cảm thấy cả người nổi gai ốc. Bà nhớ lại, cách đây hơn ba mươi năm, lúc bà còn rất nhỏ nơi này đã xảy ra một cơn bão kinh hoàng, giết chết rất nhiều người, trong đó có cả đoàn cải lương Trăng Quê đang về đây biểu diễn phục vụ.
Thật ra hồi ấy bà còn nhỏ lắm, bà cũng không nhớ được gì, chỉ nhớ lại lời kể của người lớn trong làng mà thôi.
Bây giờ đây, tự nhiên nghe con gái nhắc tới tên đoàn cải lương, nó lại còn chạy ra đường nói chuyện với người ta trong khi bà hoàn toàn không nhìn thấy bóng dáng một người nào.
Quá hoảng sợ, bà mẹ vộ ivàng kéo cô Ngọc vào nhà, đóng kín cửa lại rồi giả bộ lảng sang chuỵên khác để con gái không nhắc tới đoàn người trước nhà nữa.
Sáng hôm sau, bà mẹ vội vã tìm tới ông lão cao tuổi nhất vùng, hỏi thăm về cơn bão năm xưa, về đoàn cải lương đã bị bão dìm trong trong bể nước.
Theo lời kể của ông lão thì hôm qua chính là ngày mà cách đó mấy chục năm về trước cơn bão lụt đã tràn qua địa phương này.
Vậy những gì con gái bà nói là thật sao? Đoàn hát đã tìm về đúng vào ngày giỗ của họ? Con gái của bà giao tiếp được với những hồn ma?
Lo sợ, hồi hộp nhưng bà mẹ không dám thổ lộ cùng ai.
Trước đây mẹ con bà đã bị người ta dè bỉu nhiều rồi, bà không muốn ai biết đến điều này, không muốn trở thành đầu đề bàn tán của mọi người nữa.
Ngọc là đứa con gái duy nhất của bà. Một đứa con gái ra đời mà láng giềng không biết ba nó là ai, thế nên biết bao lời dèm pha đổ xuống mà bà phải cắn răng hứng chịu.
Nỗi lo lắng cho đứa con trong lòng người mẹ cũng tạm lắng xuống khi thời gian mấy tháng trôi qua, Ngọc vẫn sinh hoạt bình thường, không có chuyện gì lạ lùng xảy ra nữa.
Đến một ngày, trong xóm có người thanh niên chết đuối dưới sông. Ai trong làng cũng nghĩ anh ta nhậu say về đi qua cầu khỉ vô tình rơi xuống nước rồi không đủ sức bơi vào bờ. Đấy là một kẻ nát rượu, ngày nào cũng uống đến say khướt rồi về đánh mắng vợ con. Thế nên cái chết của anh ta cũng chẳng gây ra nhiều thắc mắc.
Giữa lúc đang cử hành tang lễ, Ngọc cùng với đám trẻ con trong xóm cũng túm tụm lại đó đứng xem. Bất ngờ Ngọc níu áo chị Bê, vợ của người chết và nói:
- Chú Bê nói chú bị người ta xô xuống nước, sao cô không trả thù cho chú?
Không riêng gì chị Bê, những người đứng gần đó đều hoảng hốt nhìn Ngọc chăm chú. Chị Bê nạt:
- Đừng ăn nói tầm bậy, đi ra chỗ khác chơi đi con, không thôi người ta đánh chết!
Ngọc vẫn không chịu thôi:
- Chú Bê nhờ con nói với cô như vậy mà, con đâu có nói bậy! Chú nói hôm đó chú không có uống rượu, chú đi chơi đánh bài, một người tên Út đánh bài thua nên kiếm chuyện với chú. Hai người đánh nhau, cuối cùng chú bị người đó bóp cổ đến chết rồi mới quăng xuống sông. Chú nói chú chết trôi mà trong bụng không có nước, sao cô không chú ý? Với lại trên thân thể chú có rất nhiều vết bầm lẫn trầy xước do đánh nhau.
Nghe Ngọc nói một hơi, tất cả những người có mặt đều tỏ ra vô cùng hoảng sợ, nhất là những người có tham gia tẩn liệm, những người có trông thấy xác chết của anh Bê. Tất cả những gì Ngọc nói đều không sai!
Sau đó nhà chức trách vào cuộc điều tra theo yêu cầu của chị Bê, và cuối cùng sự thật được làm sáng tỏ, thủ phạm cũng đã cúi đầu nhận tội. Tội ác hắn gây ra trong bóng tối chính là điều mà Ngọc đã kể vanh vách trước đám đông hôm rồi!
Tin tức đó lập tức được lan truyền rất nhanh. Tiếng tăm của Ngọc cũng bắt đầu nổi lên từ đó.
Lớn lên một chút, Ngọc cảm nhận được sự khấc thường của mình nhưng cô vẫn không có cách nào để giải thích được.
Cô chỉ biết rằng mình có thể nhìn thấy và nói chuyện được với các hồn ma. Cô thấy họ cũng bình thường như những người còn sống vậy thôi chứ hoàn toàn không có gì là đáng sợ.
Người dân quanh vùng và cả những người ở rất xa, nghe tiếng Ngọc đều tìm tới nhờ cô giúp đỡ những khi có vướng mắc gì đó liên quan tới người đã chết.
Tuy nhiên không phải bất kỳ trường hợp nào Ngọc cũng có thể giúp được. Bở vì cô không thể tìm được hồn ma nếu linh hồn đó không tự tìm đến với cô.
Bà mẹ rất lo lắng khi số lượng người tìm tới ngày một đông hơn. Nếu cứ tiếp tục như thế này thì làm sao con gái bà có thể học hành đàng hoàng được? Chẳng lẽ nó phải sinh sống bằng nghề đồng cốt hay sao?
Suy nghĩ mãi vẫn không có cách nào để giải quyết, cuối cùng bà mẹ phải cắn răng bán đi ngôi nhà đang ở và hai mẹ con dắt díu nhau tới một nơi thật xa để lập nghiệp. Hai mẹ con ra đi không hề để lại một chút tin tức nào.
Lúc ấy Ngọc cũng đã lớn nên cô ý thức được những phiền toái mà cô và mẹ sẽ gặp phải nếu khả năng đặc biệt của cô bị mọi người phát hiện. Vì thế, Ngọc rất cẩn trọng trong giao tiếp và lời ăn tiếng nói.
Tuy nhiên thỉnh thoảng vẫn có một vài linh hồn tìm tới nhờ cô làm việc này việc khác.
Ngọc không thể chối từ, nhưng cô cũng không trực tiếp giải quyết mà lại làm như vô tình gợi ra cho người thân của hồn ma một vài vấn đề mấu chốt nào đó rồi để tự họ lần theo sự thật.
Có những oan hồn chết đi không cam tâm khi thấy kẻ thủ ác vẫn sống nhởn nhơ trên trần thế; có những người đã chết nhưng chưa kịp làm một chuyện quan trọng nào đó cho gia đình, chưa kịp để lại lời trối trăn cần thiết… Họ tìm đến với Ngọc, nhờ cô làm nhịp cầu nối giúp họ thực hiện được tâm nguyện sau cùng.
Nhưng do kín đáo vì lường trước được những rắc rối có thể xảy ra, suốt nhiều năm liền tuy vẫn gíup được cho các linh hồn nhưng cuộc sống của mẹ con Ngọc vẫn giữ được sự bình yên.
Ngọc tốt nghiệp Đại học, về công tác ở một công ty lớn trong thành phố. Với nămg lực của mình, không bao lâu Ngọc đã được đề bạt lên một chức vụ quan trọng trong công ty.
Cô đón mẹ về Sài Gòn sinh sống. Rồi sau đó Ngọc lấy chồng, một anh chồng tài giỏi trong kinh doanh nhưng lúc ở nhà với vợ lại ngoan chưa từng thấy!
Có lần cô Ngọc kể với chồng về khả năng đặc biệt của mình, ban đầu anh chồng không tin, cứ tưởng cô đùa giỡn.
Ngọc nghiêm mặt hỏi:
- Có phải anh có một ông chú lưu lạc phương xa, đến tận bây giờ vẫn không rõ tin tức?
Tân, chồng cô Ngọc ngạc nhiên:
- Em nghe ai nói thế? Anh nhớ anh chưa kể với em mà?
Ngọc cười cười:
- Không những em biết, mà em còn biết chú anh hiện giờ ở đâu nữa kìa!
Tân nhổm dậy:
- Em biết? Ở đâu vậy em? Chú anh hiện đang ở đâu?
Ngọc ngồi xuống bên cạnh chồng, nắm lấy tay anh:
- Chú đã có vợ con ở Cà Mau, nhưng cách đây tám năm chú qua đời do một cơn bạo bệnh. Hiện mồ mả chú vẫn còn ở Cà Mau.
- Em… tại sao em biết?
Tân ngạc nhiên hỏi.
Ngọc khẽ liếc chồng:
- Thì em đã nói với anh rồi, em có năng lực đặc biệt là giao tiếp được với người chết mà, anh lại không tin…
Tân nghi ngờ:
- Em nói thật?
Ngọc gật đầu:
- Thật, em dối anh làm gì?
Tân vẫn chưa tin, anh hỏi lại:
- Nếu thật sự em giao tiếp được với người chết, vậy em hỏi chú giúp anh đi, tại sao bao nhiêu năm mà chú không quay về, cũng chẳng liên lạc gì với gia đình, làm cả nhà cứ nghĩ là chú đã chết. Nếu em giải đáp được thì anh mới tin…
Cô Ngọc nhìn chồng, ngập ngừng một chút rồi nói:
- Chỉ vì…. Chú bỏ ra đi đúng vào ngày chút Út cưới vợ. Vì… vợ của chú Út chính là người yêu của chú. Chú sợ nếu còn ở lại nhà, không dằn được lòng mình sẽ gây ra điều bại hoại, chú muốn bỏ đi đến bao giờ lòng mình dửng dưng sẽ trở về, nhưng mãi mà hình bóng thím út vẫn cứ hiện rõ trong lòng chú, chú không dám về, không dám liên lạc với gia đình cũng vì lẽ đó. Chắc anh cũng biết chuyện trwosc khi lấy chút Út, thím Út đã có tình cảm với chú phải không?
Tân tròn mắt:
- Em nói quả không sai! Nhưng hồi ấy mọi người không ai nghĩ chú ra đi vì tình, vì trước đó chú hoàn toàn không có dấu hiệu thất tình nào cả.
Ngọc cười:
- Chú bảo, chú sợ chú Út buồn nên phải ráng coi như không có việc gì… Đó, bây giờ anh tin em chưa?
Tân nghi ngại:
- Tin thì cũng có phần tin, nhưng sao anh vẫn thấy có cái gì…
Ngọc cười xòa:
- Thôi đi, em cũng không bắt buộc anh tin làm gì! Nếu anh để ý, thì từ từ anh sẽ biết thôi.
Cuộc sống của vợ chồng cô Ngọc vẫn diễn ra trong bình thản dù sau đó nhiều việc xảy ra khiến anh Tân không còn nghi ngờ gì về khả năng lạ lùng của vợ mình. Anh không ngăn cấm cô Ngọc giúp đỡ các hồn ma, nhưng anh cũng khuyến khích. Anh chỉ dặn cô phải cẩn thận đừng để gây ra rắc rối.
Hôm ấy, cô Ngọc đang trên đường từ chợ về nhà, tình cờ cô va chạm vào một phụ nữ trung niên có dáng người sang trọng.
- Xin lỗi… xin lỗi chị!
Cô Ngọc hấp tấp cúi xuống nhặt mấy quyển sách của người phụ nữ văng tung tóe bên đường, vừa rối rít xin lỗi.
Khi cô ngẩng lên thì bất thần nhìn thấy phía sau lưng người phụ nữ thấp thoáng một linh hồn mờ ảo. Vừa bắt gặp ánh mắt sáng rực của Ngọc, linh hồn vội vã tan loãng ra trong không khí.
Ngọc vô cùng ngạc nhiên. Trước nay, những linh hồn vất vưởng, mỗi lần gặp cô đều rất vui mừng vì có thể trao đổi với cô một vài chuyện nơi trần thế. Vậy tại sao linh hồn kia lại có vẻ như muốn lánh mặt cô?
Người phụ nữ nhận lấy tập tài liệu trên tay Ngọc rồi tiếp tục rồi cất bwosc trên đường. Ngọc không vội vã về nhà, cô đứng lại một lúc rồi chầm chậm đi theo người phụ nữ đó.
Đi một quãng xa, Ngọc lại nhận thấy bên cạnh người phụ nữ kia lại là hồn ma khi nãy, mà theo nhận xét của Ngọc hồn ma đó không có ý định đem lại điều tốt lành cho người phụ nữ, mà ngược lại thì đúng hơn.
Không nén được tò mò, cũng không thể bỏ qua thái độ mờ ám của hồn ma nọ, Ngọc quyết tâm tìm ra sự thật.
Cô đã bỏ không ít công sức theo dõi, cuối cùng đã biết được đôi nét về người phụ nữ đó.
Người phụ nữ đó tên Khuê, một họa sĩ có tên tuổi trong làng hội hoạ, cô ấy cũng là một giảng viên có uy tín ở Trường Đại học Mỹ thuật.
Cô Khuê là một phụ nữ độc thân, có cuộc sống tương đối khép kín. Ngoài giờ lên lớp, cô chỉ thui thủi một mình trong nhà, ít giao du với bè bạn cũng như ít tìm tới các trò vui giải trí xung quanh.
Có lẽ niềm vui duy nhất của cô Khuê lúc này là nhìn ngắm những bức tranh treo trong nhà mình, nghiên cứu tài liệu và thả tâm hồn bay bỗng theo từng nét vẽ.
Một buổi chiều, đang loay hoay với các tập tranh vẽ của học trò, cô Khuê nghe có tiếng chuông gọi cửa.
Cô thoáng giật mình, thắc mắc, vì đã lâu lắm rồi, từ độ… thì hầu như ít khi có người nhấn chuông gọi cửa nhà cô.
Cánh cổng vừa mở ra, cô Khuê bất ngờ khi nhìn thấy bên ngoài chính là cô gái xinh xắn vừa mới hôm rồi va phải mình trên đường phố.
- Dạ, chào chị!
Ngọc xởi lởi.
Cô Khuê dè dặt hỏi:
- Cô… cô tìm tôi?
- Dạ, em tới thăm chị, đồng thời cũng có tí chuyện.
Ngọc mỉm cười nhỏ nhẹ nói.
Cô Khuê bất đắc dĩ phải mời Ngọc vào nhà:
- Em vào nhà chơi.
Đứng nép một bên nhường đường cho Ngọc đi trước, cô Khuê vô cùng thắc mắc.  Tại sao người này biết mình ở đây? Tìm mình có chuyện gì? Bao nhiêu câu hỏi cứ xoáy tròn trong đầu cô Khuê khiến cô có thái độ vô cùng cảnh giác đối với Ngọc.
Khi cả hai đã yên vị trong phòng khách, cô Khuê rót mời Ngọc ly nước rồi vào thẳng vấn đề:
- Xin lỗi… tôi chưa biết cô là ai? Vì sao cô lại tới đây tìm tôi?
Ngọc từ tốn nhấp một ngụm nước rồi nói:
- Thưa chị, chị cho phép em xưng hô như vậy để dễ nói chuyện. Chắc chị còn nhớ, em chính là người đã va vào chị trên đường phố hôm vừa rồi?
Cô Khuê gật đầu:
- Có, điều đó thì tôi nhớ. Nhưng…
Ngọc tiếp lời:
- Xin chị nghe em trình bày. Không giấu gì chị, từ lâu nay trong em có một khả năng hơi lạ, đó là em thể nhìn thấy và nói chuyện được với các linh hồn. Chị có tin điều đó không?
Cô Khuê nhếch môi cười có vẻ nhạo báng:
- Xin lỗi, tôi không có hứng thú với những chuyện đó!
Nói xong, cô Khuê nhổm người dợm đứng lên ra điều muốn đuổi khách.
Ngọc giơ tay cản lại:
- Xin chị đừng vội! Em tới đây không nhằm bất cứ một mục đích cá nhân nào hết. Chẳng qua là hôm gặp chị trên đường, em vô tình nhìn thấy bên cạnh chị có một hồn ma đang đeo bám. Em thấy hồn ma đó không có thiện ý với chị, muốn hỏi nguyên nhân nhưng hồn ma cố tình lánh mặt. Em thấy chị đang có nguy cơ gặp nạn nên muốn giúp chị…
Cô Khuê xua tay cắt ngang lời Ngọc:
- Xin cảm ơn cô! Nhưng thật sự tôi không tin vào những chuyện ma quái như thế. Vả lại cuộc sống của tôi cũng không có oán thù với ai, tôi chẳng có gì phải lo lắng.
Ngọc khẩn khoản:
- Chị ráng nhớ lại đi, những người chị quen biết, có ai đã qua đời không?
Cô Khuê cười nhạt:
- Tôi không nhớ, tôi cũng chẳng quan tâm! Xin lỗi cô, thật sự tôi không có thời gian để ngồi đây nghe cô nói những điều vớ vẩn thế này đâu!
Cô Khuê đứang phắt lên tỏ rõ quyết tâm đuổi khách.
Ngọc miễn cưỡng ra về, nhưng cô vẫn không nản chí:
- Nếu có gì xin chị liên lạc với em ngay nhé, đây là địa chỉ của em!
Ngọc mở bóp lấy đưa cho cô Khuê tấm visiting card của mình, cô Khuê đón nhận một cách hờ hững rồi vội vàng khép cửa khi Ngọc vừa bước chân ra.
Một mình trở vào nhà, cô Khuê vẫn chưa thôi thắc mắc. Cô liếc nhìn vào tấm card đang cầm trên tay. À, thì ra người phụ nữ lạ lùng đó là Phó giám đốc một công ty tên tuổi đàng hoàng, không phải loại người chuyên đi lừa bịp.
Ô, nhưng biết đâu đấy, thời buổi này có cái gì mà không làm giả được, huống gì chỉ một cái card giản đơn này.
Nhưng cô ta tiếp cận mình nhằm mục đích gì nhỉ? Ai chẳng biết mình không có gia tài hay của cải gì to tát cả.
Cô ta nói gì tới một linh hồn? Nghĩ tới đó, bất chợt cô Khuê khẽ rùng mình.
Thuận, một trong những học trò xuất xắc nhất của cô vừa qua đời cách đây ba tháng, mà cái chết ấy cũng ít nhiều có liên quan tới cô.
Chẳng lẽ… chẳng lẽ hồn ma của Thuận vẫn đeo bám theo mình? Cô Khuê bần thần ngồi phịch xuống ghế cố nhớ lại những việc xảy ra gần đây.
Quả thật, từ sau ngày Thuận chết, thỉnh thoảng cô lại cảm nhận một điều gì đó không bình thường bên cạnh mình, là điều gì thì cô không xác định được, chỉ biết rất lạ lùng. Nhưng cô cứ nghĩ đó là do mình quá tiếc nhớ Thuận, một người tài hoa bạc mệnh.
Từ ngày Thuận chết, sức khỏe cô Khuê cũng ngày một sa sút, công việc làm của cô gặp hết rắc rối này đến trở ngại khác, đôi lúc cô cũng đâm ra chán nản, cô cũng muốn tìm tới cái bờ biển vắng lặng đó mà chôn vùi thân xác mình… Nhưng trách nhiệm cô đang mang nặng trên vai, cô không thể rũ bỏ tất cả để tìm lấy sự thanh thản cho riêng mình.
Suốt đêm hôm ấy, cô Khuê không tài nào ngủ yên được vì những lời của Ngọc cứ ám ảnh cô không thôi.
Sáng sớm, đáng lẽ hôm nay cô Khuê cho phép mình được ngủ nướng thêm chút nữa vì không có giờ lên lớp, nhưng cô lục đục dậy từ sớm, ăn sáng xong, cô sửa soạn đi ra ngoài.
Cô cho xe chạy chậm lại khi sắp đến công ty của Ngọc, thấy một quán cà phê gần sát đó, cô Khuê mừng rỡ tấp xe vào lề rồi bước vào quán, chọn một chỗ ngồi ngó ra ngay cổng công ty đễ dễ quan sát.
Khi ly cà phê vừa cạn cũng là lúc cô Khuê trông thấy Ngọc xuất hiện trước công ty. Ngọc bước xuống từ một chiếc xe con bóng lộn, khoan thai đi vào trong.
Vậy cô ta không gạt mình. Khuê thầm nghĩ. Nhưng để cho chắc ăn, cô quay sang hỏi cô bé phục vụ:
- Em ơi, em biết ai là phó Giám đốc công ty bên cạnh không?
Cô bé cười toe:
- Dạ, bên đó thì tụi em rành lắm, vì thường xuyên đem nước qua đó mà. Ở đó có nhiều Phó Giám đốc, nhưng chỉ có một nữ. Đó, cô thấy không, cái cô xinh đẹp đang đi kia chính là một trong những phó Giám đốc đấy. Cô ấy dễ thương lắm, làm sếp mà rất hòa đồng, cả với tụi em cô ấy cũng tỏ ra thân mật.
Khuê gật đầu hài lòng, cảm ơn cô bé rồi tính tiền ra về.
Từ lúc ở nhà cô Khuê về, Ngọc cũng không yên tâm lắm. Có một cái gì đó cứ thôi thúc cô phải nhúng tay vào việc này. Đây là lần đầu tiên cô làm như vậy, làn đầu tiên cô phải đi xin người ta cho cô dược giúp đỡ.
Hôm qua, thái độ cô Khuê có vẻ không thiện cảm với mình. Mà cũng phải thôi, ai đời tự dưng xồng xộc chạy vào nhà người ta, nói với người ta là có ma theo ám, hỏi ai không bực mình. Cô Khuê đối với mình vậy cũng là lịch sự lắm rồi, gặp người thô lỗ nóng tính, hổng chừng họ nắm đầu mình mà quẳng ra sân chứ chẳng chơi.
Ngọc phì cười khi nghĩ tới cảnh đó.
Tân ngạc nhiên hỏi:
- Có chuyện gì mà thấy em vừa mới lo âu căng thẳng đó giờ lại phì cười như con nít vậy?
Ngọc bá vai chồng:
- Em đang vác tù và hàng tổng đây anh ơi!
- Là sao? Anh không hiểu!
Tân ngạc nhiên.
Thảo cười, kể:
- Hôm rồi em đi ngoài đường, vô ý va vào một chị. Rồi em phát hiện ra có một vong hồn đang đeo bám chị ấy với ý đồ không tốt. Em muốn gíup chị ấy giải quyết, nên đã bỏ công tìm hiểu về chị. Em tìm tới nhà trình bày việc đó, chị có vẻ không tin anh à!
Tân nghe xong, cốc nhẹ lên trán vợ:
- Em đúng là… Chuyện giữa đàng lại đem quàng vô cổ chi cho mệt. Em làm thế, có khi người ta nghĩ em đang giở trò gì đó để lừa gạt người ta cũng hổng chừng.
Ngọc nũng nịu:
- Thì đó, cứ nghĩ tới cảnh người ta túm lấy cổ em mà quẳng ra sân nên em mới buồn cười. Nhưng anh à, tự nhiên với vụ này em lại có một mối quan tâm đặc biệt, em cũng không giải thích được nữa. Nhưng em nghĩ, ông trời đã ban cho em cái thiên tính đó là muốn em giúp đỡ người khác. Thà em không biết thì thôi, chứ đã biết mà làm ngơ, nếu lỡ một ngày nào đó cô kia bị hãm hại, em cũng sẽ không sống bình yên được với lương tâm mình anh ạ!
Tân vuốt tóc vợ:
- Anh cũng biết thế! Anh không ngăn cản em, nhưng anh rất sợ em gặp phải những điều không hay khi xen vào chuyện của người khác mà không được họ đồng ý.
- Dạ, em hiểu. Nhưng em nhất định thuyết phục cô ấy cho bằng được. Anh yên tâm đi, em biết cân nhắc mà!
Ngọc ngó Tân chờ đợi.
Tân khẽ gật đầu:
- Ừ thì em nên cẩn thận! Anh có bao giờ phản đối em đâu?
Ngọc âu yếm hôn lên trán chồng, đùa giỡn:
- Thế mới là chồng ngoan!
Ngọc cười rộn rã. Tân cũng cười theo. Anh yêu biết bao cái tính tình rất trẻ con của Ngọc…
 
****
Ngọc đưa tay nhấn chuông rồi đứng chờ, chừng năm phút sau mới thấy cô Khuê từ trong nhà đi ra.
Trông thấy Ngọc, cô Khuê khẽ mỉm cười gật đầu. Lần này thái độ của cô Khuê có chiều hướng tốt hơn rồi. Ngọc vui mừng vì nhận ra điều đó.
Ngọc đi thẳng vào vấn đề sau khi chủ khách xong màn chào hỏi:
- Chị, những gì em nói hôm trước chị có suy nghĩ kỹ chưa?
Cô Khuê không trả lời câu hỏi của Ngọc mà nhìn thẳng vào Ngọc và đưa ra một câu hỏi khác:
- Thật sự em giao tiếp được với hồn ma à?
- Dạ!
Ngọc xác nhận và kể tóm tắt cho cô Khuê nghe về mình.
- Thật sự, em nhìn thấy bên cạnh chị có một hồn ma, chị có biết người đó là ai không?
Sau khi kể xong câu chuyện, Ngọc lại hỏi.
Cô Khuê chậm rãi trả lời:
- Nếu thật sự có hồn ma theo chị thì… Chị nghĩ… đó là một người học trò của chị. Cậu ấy mới mất cách đây ba tháng.
- Chị có quan hệ đặc biệt gì với cậu ấy không? Hoặc là có gì xích mích giữa hai người không? Cậu ấy chết trong trường hợp nào?
Ngọc hỏi dồn dập.
Cô Khuê cúi mặt nhìn xuống đất, giọng buồn buồn:
- Chúng tôi chỉ là quan hệ thầy trò bình thường. Chị rất quý cậu ấy, vì cậu ấy thật sự có tài. Nhưng… thật đáng tiếc, cậu ấy lại qua đời sớm vì… bệnh.
Ngọc nhận thấy hình như cô Khuê chưa thật sự nói hết những gì chất chứa trong lòng cô, nhưng Ngọc biết dù mình có nài ép cách nào cũng khó mà bắt cô nói ra khi cô thật sự chưa muốn thổ lộ.
Không ngăn được tiếng thở dài, Ngọc cầm ly nước đưa lên miệng nhấp một hớp nhỏ.
Vừa lúc đó tiếng chuông điện thoại đổ dồn, cô Khuê đứng lên bước tới chiếc bàn làm việc kê bên cạnh nghe điện thoại. Ngọc đưa mắt liếc nhìn quanh căn phòng, bất ngờ mắt Ngọc bắt gặp những hình ảnh lạ lùng đang hiện ra trên màn hình ti vi nằm phía đối diện chỗ Ngọc ngồi.
Ngọc nhớ rất rõ, từ lúc mới đđặt chân vô phòng tới giờ, ti vi không hề được bật lên, và vừa mới rồi, cô Khuê đứng lên nghe điện thoại cũng không hề mở, vậy tại sao ti vi lại tự bật thế kia? À, hay là cô Khuê đã cài chế độ tự mở sau một thời gian nào đó?
Nhưng kìa, trên màn ảnh là một cảnh tượng rất đáng sợ cứ chiếu lặp đi lặp lại mấy lần: Một thanh niên dong dỏng cao đang bước dần ra bãi biển, anh cứ tiến ra, tiến ra mãi. Nước ngập đến ngực rồi đến cằm. Ngọckhẽ kêu lên khi thấy anh ta bỗng dưng mất hút rồi vùng vẫy trồi lên, tay chân quơ loạn xạ một lúc rồi lại mất hút trong làn nước bao la…
Cảnh khủng khiếp ấy cứ diễn đi diễn lại như một đoạn điệp khúc của bài hát. Ngọc ngồi nhìn trân trối, linh tính báo cho cô biết đây không phải là một đoạn phim của một bộ phim hay một chương trình nào đó của ti vi, mà là một cảnh có thật, đã được ai đó ghi lại và muốn tố cáo một điều gì đó.
Tất cả mọi việc càng trở nên rối rắm. Ngọc chưa mở được nút thắt này thì lại tiếp tục gặp nút thắt khác.
Nghe điện thoại xong, cô Khuê quay lại bàn và vô cùng ngạc nhiên khi thấy Ngọc đang há hốc nhìn sửng vào màn hình trước mặt.
- Em! Có chuyện gì vậy em?
Cô Khuê lay nhẹ vào vai Ngọc.
Ngọc như choàng tỉnh, cô đưa tay chỉ vào màn hình:
- Đó là cái gì vậy chị?
Cô Khuê ngơ ngác:
- Em muốn hỏi gì? Chị không hiểu?
Giờ đến lượt Ngọc ngạc nhiên, cô quay lại hỏi cô Khuê:
- Chị không thấy gì đang chiếu trên ti vi sao?
- Sao? Ti vi đang chiếu à? Chị có thấy gì đâu? Chị chưa mở ti vi mà?
Cô Khuê kinh ngạc.
Ngọc sững sờ một lúc rồi thở hắt ra:
- Thôi, em hiểu rồi!
Cô Khuê lo lắng:
- Em hiểu gì? Chị… thật tình chị chẳng hiểu gì cả!
Ngọc nhìn thẳng vào mắt cô Khuê:
- Em nói điều này mong chị thứ lỗi! Có lẽ những gì chị kể với em chưa đúng là sự thật, hoặc chưa đủ hết các tình tiết. Mấy hôm nay em đã cảnh báo với chị rằng có một hồn ma đang bám theo chị với ý đồ xấu, có lẽ chính hồn ma đó đã cố tình để cho em thấy cảnh này…
- Em thấy gì?
Nhìn thấy thái độ cô Khuê có lẽ tò mò nhiều hơn lo lắng, Ngọc ngập ngừng:
- Em nhìn thấy một chàng trai trẻ đang trầm mình dưới nước… Cái chết của chàng trai cí dính líu gì tới chị không?
Cô Khuê tái xanh mặt mũi. Cô bối rối một lúc rồi mới lấy bình tĩnh. Bây giờ thì trên gương mặt cô đượm nét u buồn sâu sắc.
Cô im lặng hồi lâu mới cất tiếng:
- Bây giờ chị sẽ không giấu em nữa. Chị sẽ kể cho em nghe toàn bộ sự thật. Mấy tháng nay chị cũng đã nặng lòng vì điều này lắm rồi, hôm nay chọ sẽ nói ra hết cho nhẹ đi để còn tiếp tục sống…
Ngọc nhẹ nắm lấy bàn tay cô Khuê như để động viên.
Cô Khuê nhấm một ngụm nước, bắt đầu kể:
- Thuận là một học trò của chị. Cậu ấy là một thanh niên sôi nổi và có tài. Ngay ở tiết học đầu tiên chị đã chú ý tới anh chàng sinh viên đó. Một thời gian sau, quan hệ thầy trò giữa chị và cậu ta trở nên khắng khít. Sau giờ học, cậu ta thường lui tới để giúp đỡ chị việc này việc khác hoặc là học hỏi thêm những kinh nghiệm ngoài phạm vi bài giảng. Phòng vẽ của chị cũng là nơi cậu ta có mặt thường xuyên. Có hôm cả hai thầy trò nhốt mình trong đó suốt ngày với ngổn ngang bột màu, vải toan và hàng trăm thứ linh tinh của người làm hội họa. Những bức tranh cậu ấy vẽ ra thật sinh động, thật có hồn.
Chắc có lẽ do sự gần gũi lâu ngày nên tình cảm phát triển. Một hôm, chị nhận ra cậi ta không còn đối với chị như một học trò đối với cô của mình. Ánh mắt cậu ta nhìn chị thật da diết, thật lạ lẫm khiến chị không khỏi bồi hồi. Chị cũng nên cho em biết một chi tiết, lúccòn trẻ chị đã từng yêu mãnh liệt một lần và đã bị phản bội. Từ đấy chị không dám tin ai cả, chị khép cửa lòng mình lại, sống một đời cô độc, chỉ biết làm việc kiếm tiền để nuôi mẹ, nuôi em và cả một bầy cháu nhỏ. Nhưng trước tình cảm và sự quan tâm của cậu học trò này, chị không còn vững lòng được nữa.
Chị lớn tuổi hơn cậu ta rất nhiều. Chính điều đó đã ngăn cản chị xác nhận tình cảm của mình. Chị đã trốn chạy, đã dối mình và dối cậu ta. Trước mặt cậu ta, chị cố tỏ ra lạnh lùng, nguyên tắc. Tình cảnh đó cứ kéo dài mãi. Cậu ta thật kiên trì, dẫu chị thờ ơ cách nào cậu ta vẫn một mực đối xử với chị không thay đổi.
Đến lúc nhà trường ra thông báo mở cuộc thi để tuyển lựa tranh của sinh viên đem đi dự thi ở một cuộc thi quốc tế.
Trong cuộc thi quốc tế này, nếu tranh của sinh viên nào có mặt thì con đường tương lai của người đó coi như đã được mở rộng ra trước mắt.
Thuận hy vọng nhiều lắm. Cậu ta ngoài ăn ngủ và những nhu cầu thiết yếu của cơ thể, còn lại là nhốt mình trong phòng vẽ, đặt hết tâm tư nguyện vọng và tình cảm của mình theo từng nét vẽ.
Đem tranh đi dự thi, cậu ta tràn trề hy vọng.
Quả thật, trong hàng trăm bức vẽ, bức vẽ của cậu ta là nổi trội hơn hết. Nhưng… chính tôi đã không chấm cho cậu ta.
Cô Khuê đột ngột ngưng lời.
Ngọc định lên tiếng phản đối, rằng tại sao chị lại làm vậy, chuyện công ra công, chuyện tư ra tư, sao chị đối chị với cậu ta thế kia. Nhưng Ngọc chưa kịp cất lời thì cô Khuê tiếp, giọng thật buồn:
- Sở dĩ tôi không chấm, vì tôi nhận ra trong mỗi một đường nét của cậu ta đề thể hiện sự tự mãn, háo thắng. Nếu như lần này cậu ta được đưa đi dự giải quốc tế, tính tự phụ ấy càng có dịp để phát triển mạnh mẽ hơn. Tôi không muốn một người tài hoa trẻ tuổi như vậy sớm kết thúc sự nghiệp của mình vì tính háo thắng, kiêu căng. Chính vì vậy, tôi đã vạch ra những hạn chế để thuyết phục cho cả hội đồng giám khảo đồng ý với mình.
Khi biết tranh của mình không được chọn, cậu ta rất đỗi khổ sở, nhưng khi nghe ai đó mách lại, rằng tôi chính là người cản con đường của cậu ta thì cậu suy sụp hẳn.
Suốt mấy ngày liên tiếp, cậu ta đắm mình trong bia rượu. Rồi một hôm, sau khi viết cho tôi một bức thư tuyệt mệnh rất dài, cậu ta đã tìm tới bờ biển để kết liễu đời mình…
Cô Khuê ôm mặt gục xuống bàn.
Ngọc không biết nói gì để an ủi cô, chỉ biết nhè nhẹ vỗ lên vai ngwofi phụ nữ cô đơn tội nghịêp ấy.
Thật lâu sau, cô Khuê ngẩng lên nói với Ngọc:
- Chị đã kể toàn bộ sự thật cho em nghe rồi đó! Trong cái chết của Thuận, ít nhiều gì chị cũng là người có lỗi. Có lẽ mãi tới khi chết đi rồi Thuận vẫn còn oán chị nên mới muốn trả thù như em nói…
Ngọc khẽ liếc nhìn lên màn hình ti vi, giờ đây những hình ảnh đó đã không còn. Cô hỏi cô Khuê:
- Chị có bao giờ nhìn thấy đoạn phim lúc nãy không?
- Đoạn phim lúc nãy là gì? Chị đâu có nhìn thấy…
Cô Khuê ngơ ngác.
- À, em quên! Lúc nãy chỉ mình em nhìn thấy!
Ngọc nhớ ra.
- Em đã thấy gì?
Cô Khuê tòm mò.
- Em thấy một thanh niên đi ra biển trầm mình!
Nghe Ngọc nói vậy, mặt cô Khuê càng xanh hơn:
- Trời! Vậy là thật sự có ma sao?
- Tới lúc này chị vẫn chưa tin những gì em nói mấy hôm nay là sự thật sao? Hay chị vẫn nghĩ em là người lường gạt, tiếp cận chị, nói với chị những chuyện đó để nhằm một ý đồ đen tối nào đó?
Ngọc nhìn thẳng vào cô Khuê. Cô Khuê bối rối ngó đi chỗ khác, nhưng chỉ một lát sau, cô lại nhìn Ngọc rồi nói:
- Em đừng buồn! Thật sự lúc vừa rồi chị cũng chưa tin lắm vào những điều em nói. Khi em đến đây lần đầu tiên chị đã không có cảm tình và nghĩ chắc chắn em đang thực hiện một âm mưu gì đấy mà chị không biết được. Chị đã âm thầm điều tra, khi biết được thân thế và gia đình em, chị có phần yên tâm nhưng vẫn chưa hết nghi ngại. Giữa thời buổi công nghịêp này, nói chuyện ma quỷ ra e ít có ai chấp nhận được!
Ngọc bật cười trước những lời nói thẳng thắng của cô Khuê.
- Chị nói đúng! Ngay cả chồng em, trước đây ảnh cũng đâu có chịu tin! Sống với nhau một thời gian dài ảnh mới tin được những gì em nói.
- Nhưng thật ra chị đã một lần trông thấy đoạn phim đó!
Cô Khuê đột ngột lên tiếng.
- Chị trông thấy ở đâu?
Ngọc hỏi.
Cô Khuê buồn bã:
- Câu chuyện có nhiều tình tiết. Lúc nãy chị kể với em về khía cạnh riêng chị và Thuận mà thôi. Bên cạnh đó, Thuận lại được một cô gái đem lòng yêu thương. Nếu không có chị, có thể hai người ấy đã hạnh phúc bên nhau rồi cũng nên. Cô gái ấy rất yêu Thuận. Và ban đầu Thuận cũng thường xuyên lui tới chuyện trò với cô ấy. Từ lúc có tình cảm với chị, Thụân chỉ còn biết mỗi chị thôi, mặc dù chị luôn tỏ ra thờ ơ lãnh đạm với cậu ta. Sau khi Thuận mất, cô gái ấy đã tìm tới đây mắng chị một trận và cho chị xem đoạn phim trên. Đoạn phim đó được quay lại bằng chính chiếc điện thọai di động của Thuận, nhưng ai là người quay thì cho đến nay vẫn không ai biết. Cô gái đó nhặt được trên bãi biển chỗ Thụân tự sát.
- Cô gái ấy hiện giờ ở đâu, chị có biết không?
Ngọc hỏi.
Cô Khuê lắc đầu:
- Chị không biết chính xác, nhưng chị nhớ có lần chị nghe Thuận kể, cô ấy ở chung cư X, trên đường Y.
Ngọc gật đầu:
- Thôi được rồi, em sẽ tìm gặp cô ấy sau. Em không biết tại sao trong trường hợp này em lại quan tâm một cách đặc biệt, và em sẽ cố gắng làm rõ mọi chuyện. Trước nay thường là các hồn ma chủ động tới tìm em, nhưng lần này, em đã cố gắng rất nhiều mà vẫn không tiếp cận được với hồn ma của Thuận. Cậu ấy cố tình né tránh em.
- Chị không nghĩ Thuận có ý muốn hãm hại chị đâu, nên nếu em bỏ cuộc cũng không sao em ạ!
Cô Khuê băn khoăn.
Ngọc cương quyết, cô vừa đứng lên chào từ giã vừa nói:
- Không, em nhất định phải làm rõ vụ này, để xem hồn ma của Thuận muốn gì nơi chị? Thôi, chào chị em về, hôm khác em sẽ đến.
- Ừ, em về!
Cô Khuê tiễn Ngọc ra cửa rồi quay vào nhà với nỗi niềm u uất khong phai.
Trên các bức tường nhà cô treo đầy tranh, mà toàn là tranh của Thuận vẽ. Ngày ngày cô đều nhìn ngắm chúng và thấy nhớ Thuận đến quặn lòng.
Thuận ơi, nếu thật sự em là hồn ma luôn đeo bám bên cô, thì em phải hiểu được lòng của cô chứ?
Cô Khuê lầm rầm nói chuyện một mình mà tưởng như mình đang tâm tình cùng Thuận.
Sau lần thất bại trong tình yêu, cô Khuê đã đóng chặt lòng mình lại, mãi cho tới khi Thuận xuất hiện. Thuận đã khơi dậy trong cô những yêu thương, những khao khát… Rất nhiều lần, cô Khuê muốn được ngã vào vòng tay Thuận nhưng cô gượng lại, cô không muốn mình một một lần nữa bị tổn thương.
Cô nghi ngại tình yêu đó, bởi vì cô lớn hơn Thuận gần mười tuổi, cô lại không phải người có nhan sắc nổi bật. Cô chỉ là một phụ nữ bình thường. Thế thì tại sao Thuận lại yêu cô? Gia tài ư? Không, hơn ai hết Thuận biết rõ cô không có tài sản, Thuận biết bao nhiêu tiền cô làm ra đều chảy vào hết cái túi không đáy ở dưới quê. Tài cán ư? Cô thấy mình cũng chẳng có tài cán gì, bây giờ biết bao nhiêu cô gái trẻ đẹp, tài ba, giàu có, so với họ, cô chẳng là gì!
Suy đi nghĩ lại, cô Khuê chỉ thấy có một lý do duy nhất để Thuận yêu cô: Đó là Thuận muốn dùng cô làm bậc thang để cậu ta bước lên con đường vinh quang của mình!
Thuận yêu cô vì muốn lợi dụng cô!
Cái ý nghĩ đó đã làm cho cô Khuê không dám chấp nhận tình cảm của Thuận, không dám mở rộng lòng mình, mặc dù theo thời gian, cô Khuê cũng nhận ra được Thuận yêu cô chân thành, không vụ lợi.
Khi đánh rớt Thuận trong cuộc thi vừa rồi cô Khuê vừa muốn ngăn chặn tính tự phụ của Thuận, đồng thời cô cũng âm thầm muốn nâng Thuận lêân một bậc cao hơn.
Những bức vẽ của Thuận, cô đa làm thủ tục để đưa đi dự triễn lãm ở một nước lớn trong thời gian sắp tới.
Vậy mà… Thuận đã quá nông nổi, vội kết liễu đời mình khi việc đó xảy ra.
Cô Khuê nghĩ, cái chết của Thuận là do mình. Việc không được chọn đi dự thi, Thuận buồn lắm nhưng có lẽ không đến nỗi đi tìm cái chết, chỉ khi biết cô là người đã thuyết phục các thành viên Ban giám khảo đánh rớt mình, Thuận mới đau như vậy!
Cô Khuê đã đau đớn, đã dằn vặt lòng mình biết bao nhiêu từ sau khi Thuận chết.
Nhưng tất cả đã muộn màng.
Giờ đây, cô Khuê chỉ biết mong mỏi vong hồn linh thiêng Thuận hiểu được lòng cô, tha thứ hay không tha thứ không quan trọng, nhưng cô muốn Thuận biết, cô cũng dành cho Thuận một tình cảm sâu sắc không kém, chỉ có điều đó là một tình cảm âm thầm lặng lẽ và điềm tĩnh hơn mà thôi.
Ôm lấy bức vẽ của Thuận, nước mắt cô Khuê chảy dài trên má…
 
***
 
Không mất nhiều thời gian dò la, Ngọc đã tìm được nơi ở của cô gái, người tha thiết yêu Thuận theo lời kể của cô Khuê.
Chẳng những biết nơi ở, Ngọc còn biết thêm một vài chi tiết quan trọng. Cô gái ấy tên Bích, là nhân viên của một công ty liên doanh với nước ngoài. Nhưng mấy tháng gần đây cô đã xin nghỉ việc không rõ nguyên nhân. Hiện nay những người quen biết với cô cũng không ai biết cô hiện làm gì và có còn ở đó hay không. Có lẽ Bích có cuộc sống khép kín, nên những người cùng làm với cô đã mấy năm vẫn không ai biết nhiều về cô cả.
Khi Ngọc tới, nhằm lúc thang máy của chung cư gặp sự cố gì đó, người ta đang sửa chữa. Cô đành phải lội bộ lên tuốt tầng sáu của chung cư.
Đứng trước cửa căn phòng mà một người đã cho Ngọc biết, đó là nơi ở của Bích, Ngọc do dự một lúc rồi mạnh dạn gõ mấy tiếng lên cánh cửa.
Có tiếng dép lệt sệt, khong lâu sau cánh cửa hé mở, một khuôn mặt trẻ trung ló ra, ngạc nhiên khi trông thấy Ngọc:
- Chị tìm ai ạ?
Cô gái hỏi.
Ngọc mỉm cười xã giao:
- Xin lỗi, em có phải là Bích không? Chị cần gặp Bích!
Một nét ngạc nhiên thoáng qua trên mặt cô gái. Rồi cô vụt trở nên khác lạ, ngó Ngọc chăm chăm:
- Chị là ai mà tìm Bích?
Ngọc cười:
- Chị là… là bạn với cô Khuê!
Vẻ mặt cô gái đanh lại một cách đáng sợ.
Cô mím môi, mở rộng cửa:
- Chị vào nhà chơi, đứng đây nói chuyện không tiện!
Ngọc bước vào nhà, đưa mắt nhìn một lượt khắp căn phòng.
Căn phòng nhỏ, đồ đạc có vẻ hơi bề bộn, bốn bức tường ngoài một bức tranh vẽ hình cô gái chủ nhà ra hoàn toàn không được trang trí thêm một vật gì khác. Trên bàn, bên cạnh vỏ chai bia nằm lăn lóc còn có một chiếc gạt tàn, trong đó chỏng chơ mấy cái đầu lọc.
Cô gái xinh đẹp dịu dàng thế này lại có cuộc sống có vẻ phóng túng thế sao? Ngọc thầm nghĩ.
Cô gái mở tủ lạnh, lôi ra một chai nước lọc, đặt trước mặt Ngọc:
- Chị uống nước!
Ngọc mỉm cười gật đầu.
Cô gái nhìn Ngọc, hỏi:
- Chị tìm Bích có việc gì không chị?
Ngọc không vội trả lời mà hỏi lại cô gái:
- Em có phải là Bích không?
Cô gái lắc đầu:
- Dạ không, em là Hà, chị song sinh với Bích!
- Ô, thế à?
Ngọc kêu lên, vì tình tiết này cô mới được nghe qua.
- Bích đi vắng hả em?
Ngọc hỏi.
Hà thoáng buồn:
- Dạ không! Bích… Bích qua đời rồi!
- Bích qua đời? Bao lâu? Vì sao?
Ngọc quá đỗi ngạc nhiên, hỏi dồn dập.
Hà thở dài:
- Chuyện dài lắm chị ạ! Mà chị lại là bạn với cô Khuê, em không biết có nên kể cho chị nghe không?
Ngọc thẳng thắn:
- Chị tới đây không phải với danh nghĩa là bạn của cô Khuê, mà tìm tới đây để giải đáp thắc mắc cho chính bản thân mình em ạ!
- Thắc mắc của chính bản thân? Chẳng lẽ chị cũng có… quan hệ gì với Thuận sao?
Hà ngạc nhiên.
Ngọc cười:
- Không! Chỉ là chị biết cái chết của Thuận có chút gì đó hơi vô lý, chị tò mò muốn tìm hiểu sự thật chứ chị chưa từng gặp Thuận lúc cậu ấy còn sống.
- Chị là nhà báo? Hay công an?
Hà nghi ngờ.
Ngọc bật cười:
- Em trông chị giống lắm sao? Thật tình chị không là nhà báo hay công an gì đâu, chỉ là… mà chị nói ra, có lẽ em cũng không tin!
- Thì chị cứ nói đi!
Hà giục.
Ngọc gật đầu và nói:
- Chị… chị có thể nhìn thấy và giao tiếp được với người đã chết. Một lần tình cờ, chị thấy có một hồn ma đi theo cô Khuê với ý đồ không tốt, chị đã tìm gặp cô Khuê, thuyết phục mãi cô mới kể cho chị nghe về cái chết của Thuận. Nhưng chị vẫn không thể nói chuyện trực tiếp với Thuận được, có lẽ Thuận muốn tránh chị. Hôm nay chị tìm tới Bích, để câu chuyện được khách quan hơn là chỉ nghe từ một phía. Nhưng em nói Bích đã qua đời, tự nhiên chị lại nghĩ cái chết của Bích cũng có liên quan dây chuyền với cái chết của Thuận?
Cô gái tên Hà cúi mặt xuống, đưa tay lau dòng lệ đang lăn dài trên má, giọng nghèn nghẹn:
- Chị nói đúng! Cái chết của Thuận, của Bích đều do một tay cô Khuê gây ra cả!
- Cô Khuê gây ra?
Ngọc ngạc nhiên hỏi lại.
Hà gật đầu xác nhận:
- Tuy cô Khuê không trực tiếp giết người, nhưng chính hành động của cô đã giết chết họ. Chị biết không, trước kia Bích và Thuận rất thương nhau, tình cảm của họ đang đẹp đẽ thì bỗng chốc tan vỡ vì cô Khuê xen vào. Cô là một phụ nữ lớn tuổi, có nhiều kinh nghiệm và lại là người mà Thuận kính mến hơn cả. Cô Khuê đã dùng mọi mưu mô, địa vị của mình để lôi kéo Thuận, khiến cho Thuận bị mê muội, chia tay với người yêu trẻ trung xinh đẹp, để đến với một phụ nữ lỡ thì, dung mạo không có chi là đặc sắc, lại lớn hơn Thuận rất nhiều tuổi.
Chỉ tội cho Bích, bị người yêu phụ rẫy, nó vẫn một dạ thủy chung và hy vọng một lúc nào đó Thuận sẽ tỉnh ngộ và quay về.
Không ngờ, cô Khuê giống như một con hồ ly tinh trong truyện liêu trai, cô đã dùng mọi áp lực đêû buộc Thuận cưới cô làm vợ. Thuận không bằng lòng, để cảnh cáo, cô nhẫn tâm đánh rớt Thuận trong một cuộc thi mà đáng ra là Thuận có đủ điều kiện để đạt kết quả tốt. Thuận đã thức tỉnh và cảm thấy có lỗi với Bích. Trước khi tìm tới cái chết, Thuận đã gọi điện cho Bích xin nó tha lỗi và nói lời giã biệt. Chính Bích là người đầu tiên biết Thuận trầm mình.
Thuận chết rồi, Bích tìm tới nhà cô Khuê, muốn xin lại tất cả tranh vẽ của Thuận để lưu giữ nhưng cô Khuê nhất định không cho, cô bảo cô đã đốt bỏ hết rồi.
Quá uất ức và thương cho Thuận nên Bích nông nổi, lại đi vào con đường của Thuận…
Ngọc không ngờ sự việc lại diễn biến theo một hướng hoàn toàn khác. Cô không đủ bình tĩnh để suy nghĩ cho thấu đáo vào lúc này. Ngọc chỉ biết nói vài câu an ủi Hà rồi xin phép ra về.
Cô cảm thấy mệt mỏi, rất mệt mỏi.
Từ hôm vướng vào vụ này tới nay, trong lòng Ngọc không có lấy một giờ thảnh thơi, thoải mái. Ngọc bỗng cảm thấy giận dỗi cái linh hồn kia, nếu nó chịu gặp gỡ và chuyện trò với cô thì mọi việc đâu đi vào rối rắm thế này!
 Chỉ một kẻ biết rõ sự thật, đí là linh hồn của chàng sinh viên tên Thuận, vậy mà anh ta năm lần bảy lượt né tránh Ngọc. Tại sao lại thế nhỉ?
Ngọc muốn buông xuôi, thôi mặc kệ họ, họ yêu đương, tàn nhẫn với nhau thế nào thì cũng đâu dính dáng tới mình, tội vạ gì mình lại dây vào để nghe trống đánh xuôi kèn thổi ngược?
Nhưng suy đi nghĩ lại, Ngọc nhất định không bỏ dở nửa chừng. Nhưng bây giờ thật sự Ngọc không thể hiểu nổi trong cái chết của Thuận và bây giờ có thêm Bích, ai là người có lỗi? Cô Khuê là một phụ nữ đáng thương hay đúng là người đã gây ra mọi việc theo như lời kể của Hà?
Buổi chiều hôm ấy, từ công ty ra, Ngọc lái xe như vô thức, cô chạy loanh quanh một lúc chợt nhận ra mình đã ra tận ngoại ô thành phố từ lúc nào mà chẳng hay! Bỗng một ý chợt lóe lên trong đầu, cô Ngọc vội vã quay xe trở về.
Vừa bước vào phòng, Ngọc lên tiếng:
- Anh ơi, ngày mai là ngày nghỉ, gia đình mình đi Vũng Tàu một chuyến nghe anh? Lâu rồi vợ chồng mình chẳng đi đâu chơi cả!
Tân mỉm cười nhìn vợ:
- Anh tưởng em đang bị vụ án của con ma đó lôi cuốn rồi, không còn nhớ gì tới ngày nghỉ chứ!
Ngọc đấm nhẹ vào lưng chồng, nhưng cô cũng cảm thấy chột dạ, vì cái ý định rủ cả nhà đi Vũng Tàu cũng là vì vụ án này mà!
Tân vốn quen chịu chuộng vợ, nên mặc dù còn ngổn ngang anh vẫn cố gắng thu xếp để đi cùng vợ con ra biển đổi gió.
Hai đứa con cô Ngọc, đứa lớn đang học lớp mười hai, đứa nhỏ cũng đã lớp mười rồi, nên hai vợ chồng không phải vướng bận gì với con nữa. Ra tới biển là chúng nó tự tìm niềm vui riêng của tuổi trẻ, còn lại chỉ riêng hai vợ chồng như đang thời kỳ trăng mật.
Tân vốn hiền lành ít nói, tính tình lại đơn giản không chút lãng mạn nào, nên sau khi tắm táp, chơi đùa một lúc, anh rủ vợ về phòng để giải quyết một số hồ sơ mang theo. Ngọc từ chối, vì cô còn muốn đi dạo một lúc nữa trên bãi biển.
Tân về một mình, còn lại Ngọc lang thang trên bãi vắng.
Cô nhớ rất rõ Hà đã chỉ cho mình nơi Thuận tìm đến để trầm mình. Chiều nay, Ngọc nhất định phải đến đó, hy vọng sẽ gặp được Thuận, vì cô nghe nói, hồn người chết trôi luôn quanh quẩn nơi mình chết.
Chờ cho chồng đi khuất, Ngọc vội ra đường đón một chiếc xe ôm đi đến địa điểm Hà chỉ dẫn.
Đó là một bãi biển vắng lặng, không có du khách, cạnh đó cũng không một ngôi nhà nào.
Ngọc đi tới đi lui mấy lượt. Mặt trời đã bắt đầu lặn xuống biển, phía xa ngoài kia là chút ánh sáng còn vương vấn lại cõi trần.
Ngồi xuống bên một mõm đá ngay sát bờ biển, Ngọc trầm tư suy nghĩ. Cô thì thầm:
- Thuận ơi, cái chết của cậu có gì oan khuất, hịên nay cậu còn điều gì cần giải quyết thì tôi xin cậu hãy chia sẻ với tôi, tôi hứa sẽ giúp cậu giải quyết mọi việc đâu ra đấy để cậu yên lòng siêu thoát đầu thai kiếp khác, cậu đừng lẩn quẩn trên chốn trần gian này nữa…
Hình ảnh người thanh niên tiến chầm chậm ra biển hôm nào trên màn ảnh ti vi nhà cô Khuê giờ đây lại hiện ra rõ rệt trong mắt Ngọc.
Cô đứng lên quan sát chung quanh.
Đúng rồi! Mõm đá này, bờ cây này đúng là những hình ảnh mà cô đã trông thấy.
Ngọc đứng lên, nhớ lại từng chi tiết rồi cô lần lần bwosc ra biển, giống như những gì trong đoạn phim kia.
- Cô kia, cô định làm gì vậy?
Bất ngờ Nọgc giật bắn người khi nghe tiếng gọi lớn phía sau lưng.
Ngoảnh nhìn lại, Ngọc trông thấy một người đàn ông đang tất tả chạy ra, vừa tới trước mặt cô, ông ta vội chộp lấy cánh tay và hất cô ngã dùi xuống bãi cát.
Chưa kịp hoàn hồn, Ngọc nghe ông ta mắng xối xả:
- Cô có điên hay không? Cha mẹ đã sinh ra cô, dù cho thế nào cô cũng phải biết quý sinh mạng của mình chứ, sao lại có thể hủy hoại một cách nhẫn tâm như vậy được chứ?
Ngọc ngơ ngác:
- Thưa bác, bác nói gì cháu không hiểu? Ai hủy hoại ai ạ?
Người đàn ông chưa hết hậm hực:
- Quỷ tha ma bắt cô đi! Tôi mà đến chậm một chút là giờ đây cô đã làm mồi cho cá mập rồi, đúng không?
Giờ thì Ngọc đã hiểu ra. À, thì ra người đàn ông này tưởng mình sắp tự tử!
Ngọc cười phá lên, người đàn ông ngơ ngác:
- Cô… cô vẫn bình tĩnh đó chứ? Hay thần kinh của cô có vấn đề?
Ngọc cố nín cười:
- Bác ơi, cháu vẫn rất tỉnh táo đây! Cháu đi chơi thôi, nào có gì mà tự vẫn đâu? Bác bị ám ảnh chuỵên tự vẫn hay sao thế?
Người đàn ông nhìn chăm chú vào Ngọc. Quả thật ông ta không bắt gặp một nét buồn khổ bơ phờ nào trên gương mặt khả ái của người phụ nữ có vẻ sang trọng này.
Có vẻ bối rối, ông ta mỉm cười:
- Xin lỗi cô vì tôi đã lầm! Tôi cứ tưởng…
- Bác tưởng tôi đi tự vẫn à?
Ngọc vừa hỏi vừa cười.
Người đàn ông gãi gãi đầu:
- Mong cô thông cảm, mới có mấy tháng nay mà tôi đã phải chứng kiến mấy sự việc không hay xảy ra tại chính khu vực này, nên… tôi… có lẽ tôi đã bị ám ảnh thật rồi!
Linh cảm đã tìm được chút manh mối, Ngọc hỏi:
- Bác ơi, bộ mới đây cũng có người tới đây tự vận hả bác?
Người đàn ông ngồi bệt xuống bãi cát, giở cái nón lá trên đầu ra quạt lất quạt để dù gió biển đang lồng lộng thổi.
Ngọc lót dép ngồi xuống đối diện người đàn ông, lắng nghe câu chuyện ông ta kể:
- Cách đây độ chừng ba tháng, có một chàng trai người Sài Gòn đã tìm tới đây tự tử. Lạ một điều là sau khi chết, xác anh ta không bị sóng gió cuốn đi mà lại dạt vào đúng nơi này. Rồi sau đó không lâu, lại một cô gái tìm tới đây đi chết. Tôi chẳng hiểu nơi này có gì đặc biệt mà ai muốn chết lại cứ tìm tới cho dân tình ở đây thêm hoang mang sợ hãi. Nếu hôm đó tôi tới trễ một chút thôi thì cô gái đó đã không còn!
Vừa nghe tới chi tiết này, Ngọc vội hỏi:
- Bác nói vậy tức là… cô gái ấy chưa chết?
- Ừ, chưa chết! Mà lạ lắm nghe, hầu như những kẻ tự tử, sau khi được cứu sống thì chẳng bao giờ dám tự tử lần thứ hai, hình như một khi đã chạm tới cái chết thì người ta mới thấy cuộc sống là quý giá biết chừng nào, dù đó là một cuộc sống cơ cực, khổ đau…
Ngọc vô cùng ngạc nhiên khi nghe ngườii đàn ông có vẻ ngoài lam lũ chất phát như vậy lại nói lên những câu đầy vẻ triết lý thế kia. Thế mới biết, đâu phải những kẻ được ăn học đàng hoàng mới có được những suy nghĩ sâu sắc.
- Bác ơi, lúc bác hiện, cô gái đó như thế nào hở bác?
Ngọc tò mò hỏi.
Người đàn ông thở dài:
- Hôm đó, từ đằng xa tôi chợt phát hiện một người đang đi dần xuống nước, tôi đã la lên ngăn cản nhưng hình như người đó không hề nghe thấy, cứ tiền dần, tiến dần vào vòng tay tử thần. Tôi vội vã chạy tới, phóng mình xuống nước kéo cô ấy lại. Cũng may, tuy đã uống no nước, cô ấy vẫn sống và đã bình an trở về Sài Gòn sau một ngày một đêm nằm viện.
- Cô ta có cho bác biết vì sao cô ta tìm tới cái chết không? Cô ấy tên gì, bác biết không?
Nhọc hồi hộp hỏi dồn.
Người đàn ông nhăn trán suy nghĩ:
- Tôi nhớ hôm đó khi cứu được cô gái lên, cô đã bất tĩnh nhân sự. Tôi đã bế thốc cô ấy vào trạm xá gần đây, cũng may là chạy ngang qua mõm đá kia tôi kịp thấy chiếc túi xách của cô gái nên cầm lấy mang theo luôn. Nhờ những giấy tờ trong đó mà tôi biết được tên họ, địa chỉ cư trú của cô gái, nếu tôi nhớ không lầm thì cô gái có tên là Bích hay Bình gì đó, sống ở Sài Gòn. Chính tôi đã gọi điện theo số điện thoại tình cờ trông thấy, thì hình như đó là công ty… à, hình như là công ty X. nơi cô ấy làm việc.
- Cô ta có cho bác biết nguyên nhân nào cô ta tự tử không?
Ngọc hỏi.
- Không đâu, cô ta không nói mà tôi cũng chẳng hỏi. Lúc cô ta tỉnh dậy, tôi mắng cho cô ta một trận nên thân, cũng tội nghiệp, con bé chỉ biết khóc rồi lại rối rít cảm ơn…
Người đàn ông mỉm cười đôn hậu.
- Từ sau vụ đó, còn có ai tới đây tự tử không vậy bác?
Ngọc tò mò hỏi tiếp.
Người đàn ông liếc mắt nhìn Ngọc:
- Người kế tiếp chính là… cô đó!
Ngọc bật cười:
- Bác lầm rồi bác ơi! Cháu còn đang rất yêu đời và yêu người, Diêm Vương có bắt cháu cũng cương quyết cãi lại nữa là… nói gì tới việc đi tìm cái chết. Nhưng bác ơi, bác nhớ chính xác không? Từ sau cái chết của chàng trai kia, ở đây không còn xảy ra cái chết nào nữa chứ?
Người đàn ông nhìn Ngọc, ngạc nhiên hỏi:
- Ô hay, sao cô lại quan tâm nhiều tới cái chết thế? Chẳn lẽ cô mong muốn mỗi ngày đều có kẻ chán đời hay thất tình tìm đến đây vùi mình hay sao? Hay gia đình cô có người thất lạc, nghi ngờ đã chết nên tìm tới đây dò la tung tích?
Ngọc nghiêm mặt:
- Dạ không! Cháu chỉ quan tâm vì… cháu có một người bạn, nghe nói đã tìm tới đây tự vận sau cái chết của người mình yêu, là chàng trai mà bác kể khi nãy đó!
Mắt người đàn ông sáng lên:
- Đúng rồi!! Cái cô gái chết hụt ấy chính là người yêu của chàng trai kia!
Ngọc ngạc nhiên:
- Ủa, sao bác biết?
Người đàn ông mỉm cười:
- Tôi đoán thế! Vì sau khi sống lại, cô gái đã tìm lại chỗ này, bày ra cúng tế và khóc lóc một trận ra trò nên tôi đoán thế mà!
Ngọc lẩm bẩm:
- Vậy ra Bích không chết? Vậy hóa ra Hà đã nói dối mình? Nhưng Hà nói dối nhằm mục đích gì?
Người đàn ông ngơ ngác:
- Cô nói gì thế?
Ngọc giật mình cười xòa:
- Dạ không! Dạ không, chỉ là cháu tự nói với mình thôi!
Nhìn thấy bóng tối đã bắt đầu lan tỏa khắp nơi trên bờ biển hoang vu vắng lặng, Ngọc đứng lên:
- Xin phép bác, con về khách sạn đây, không thôi chồng con của con lại lo lắng.
Người đàn ông gật đầu:
- Ừ, cô về đi! Đừng một mình lảng vảng khu vực này không nên đâu, người ta bảo mấy chỗ như vầy thường có… huông!
Ngọc mỉm cười, giã từ ông già chân chất.
Khi về tới khách sạn, quả thật chồng con đang trông chờ Ngọc.
Chiều hôm sau cả nhà quay lại thành phố. Trong lúc Tân vùi đầu vào đống hồ sơ thì Ngọc lại quẩn quanh suy nghĩ về Bích, về Hà.
Không đợi được đến mai, Ngọc dắt xe ra cổng nói với chồng mình cần đi có chút việc riêng.
Đứng trước căn phòng ở tầng sau chung cư hôm nọ, chưa kịp gõ cửa thì Ngọc đã trông thấy Hà từ trong thang máy bước ra.
Trông thấy Ngọc, Hà thoáng giật mình, nhưng cô nhanh chóng lấy lại bình tĩnh:
- Chị tìm em?
Hà hỏi.
Ngọc mỉm cười gật đầu.
Hà lục túi xách tìm chùm chìa khóa rồi mở cửa mời Ngọc vào nhà.
Căn nhà vẫn bừa bộn không khác gì hôm trước.
Hà có vẻ mắc cỡ khi bắt gặp cái nhìn của Ngọc, cô nói nhỏ:
- Chị thông cảm, em bận việc suốt, không còn thời gian để dọn dẹp nhà cửa…
Ngọc cười:
- Em nghỉ làm ở công ty X rồi, hiện nay em làm ở đâu, Bích?
Cô gái giật bắn người:
- Sao chị hỏi vậy? Em… là Hà mà! Chị nhầm rồi, Bích đã chết!
Ngọc nhìn thẳng vào mắt cô gái:
- Chị không nhầm, chị biết Bích chỉ chết hụt thôi, một người đàn ông đã cứu Bích ở bãi biển. Em nói cho chị biết đi, tại sao em lại muốn đổ lỗi cho cô Khuê?
Biết không thể dối quanh được nữa, cô gái ôm mặt bật khóc:
- Em thù ghét cô Khuê! Chính cô Khuê đã giết chết người em yêu, thì có khác gì cô Khuê giết chính em đâu? Em muốn sự việc này sẽ lan rộng ra để cô Khuê mất hết danh dự, mất hết uy tín, để cô phải sống khổ sở như em đã và đang khổ sở…
Ngọc bỗng thấy tội nghiệp cho cô gái nông nổi ngồi trước mặt mình. Cô nhẹ nhàng khuyên bảo:
- Theo chị, trong việc này hình như không ai có lỗi. Cô Khuê thật ra không xấu như em tưởng. Cô chưa bao giờ dùng mưu mô để cướp Thuận của em. Thậm chí khi đã thật lòng thương Thuận, cô còn không dám thể hiện ra vì biết giữa hai người quá chênh lệch về tuổi tác. Chính vì sự hờ hững của cô Khuê cộng với những thất vọng khác mà Thuận đi tìm cái chết, điều đó chắc em đã rõ?
Cô gái bịt chặt hai tai, hét lên:
- Em không biết, em không cần biết! Em chỉ biết một điều, nếu không có Khuê thì Thuận đã là của em rồi, em không mất Thuận, em không phải sống khổ như thế này! Em thù ghét cô Khuê…
Mặc cho Ngọc khuyên giải cách nào, cô gái vẫn khóc ròng và luôn miệng đôû hết tội lỗi lên đầu cô Khuê.
Hơn chín giờ tối, Ngọc đứng lên ra về mà lòng trĩu nặng.
Cô không biết làm cách nào để có thể hóa giải mọi hận thù giữa người sống và kẻ chết, làm thế nào để người chết nhẹ nhàng siêu thoát, người sống không phải khổ đau dằn vặt nữa…
Tối đó Ngọc không dằn lòng được nữa, cô đem tất cả sự việc kể hết với chồng.
Tân mỉm cười:
- Vậy hóa ra cha con anh chỉ là phương tiện để em thực hiện công cuộc điều tra của mình à? Trời ơi, vậy mà anh cứ tưởng vợ anh thương chồng thương con, muốn cả nhà đi nghỉ mát với nhau, ai ngờ đâu… em chỉ muốn làm thám tử…
Ngọc giả lả:
- Đâu có… em cũng muốn gia đình mình đi đổi gió thật mà…
Tân chọc ghẹo vợ một chút nữa rồi bắt đầu nghiêm chỉnh. Anh gợi ý:
- Em giao tiếp được với hồn ma, thì em phải tìm mọi cách để nói chuyện một lần với linh hồn của Thuận chứ?
Ngọc thở dài:
- Em đã cố, nhưng lần nào vừa nhác thấy em là Thuận lại trốn mất, làm sao em tìm được?
- Em không tìm được Thuận, nhưng em có thể tìm được những hồn ma khác, em nói với họ những điều căn bản nhất rồi nhờ họ nói lại với Thuận, kèm theo lời nhắn là em rất cần gặp Thuận. Anh tin cuối cùng em sẽ thành công.
Tân đặt tay lên vai vợ động viên. Trong lòng anh thầm tội nghịêp cô, việc đâu đâu mà thời gian này cô ấy cứ căng thẳng mãi. Thế mới biết những người có khả năng đặc biệt cũng đâu có gì là sung sướng!
Thật trùng hợp may mắn, qua ngày hôm sau một hồn ma vừa mới chết gần đó tìm tới nhờ Ngọc nhắn giùm với gia đình các loại giấy tờ liên quan tới Ngân hàng mà hồi còn sống người đó đã thực hiện, chết bất đắc kỳ tử do bị nhồi máu cơ tim, không kịp trăn trối gì lại cho vợ con.
Ngọc vui vẻ nhận lời và nhờ anh ta tìm gặp Thuận.
Kể ra hồn ma của người vừa mới chết cũng có tài thuyết phục, lúc còn sống anh ta làm nghề tiếp thị quả thật không sai.
Ngay tối hôm ấy, khi ngồi một mình trong phòng làm việc, Ngọc bất ngờ khi thấy Thuận đột ngột xuất hiện trước mắt mình.
Dù chưa một lần thấy rõ Thuận, nhưng vừa thấy anh ta Ngọc đã nhận ra ngay.
Mừng rỡ, Ngọc đứng lên theo thói quen cô định đưa tay ra bắt, nhưng Thuận lại lùi về phía sau một chút, có vẻ như còn do dự nhiều lắm.
Ngọc ôn tồn nói:
- Chào cậu! Tôi đã được nghe kể về cậu qua cô Khuê và Bích. Tôi nhận thấy trong câu chuyện này, hiện nay cả người sống và người chết chưa ai được giải thoát. Cũng vì lý do đó nên tôi rất cần gặp cậu để giúp mọi người được giải tỏa hết với nhau. Khi ấy, cậu có thể nhẹ lòng đi đầu thai kiếp khác, mà cô Khuê và Bích, hai người thân của cậu cũng được sống yên lành hơn. Tôi nghĩ một thanh niên tốt như cậu cũng không nỡ nhìn thấy những người thân yêu của mình và ngay cả bản thân mình phải sống lắt lay, khổ sở.
Thuận dần dần tiến tới trước mặt Ngọc.
- Chị có biết hết câu chuyện giữa chúng tôi không? Chị có biết vì lý do nào mà tôi phải tìm tới cái chết giữa lúc tuổi đời còn rất trẻ thế này không?
Ngọc ngồi xuống ghế, khẽ nói:
- Tôi đã được nghe cô Khuê và Bích kể. Tôi không biết những gì tôi nghe được có chính xác trăm phần trăm hay không, nhưng tôi dám chắc một điều, cả cô Khuê và Bích, hai người ấy đều dành cho cậu một tình yêu rất lớn. Nếu tôi là cậu, tôi sẽ không tìm cái chết một cách vô nghĩa như vậy đâu!
Thuận buông một tràng cười sắc lạnh:
- Chị nói sao? Cả hai người đều dành cho tôi một tình yêu lớn à? Chị có lầm không đấy? Bích yêu tôi, điều đó đúng, nhưng từ trwosc tới giờ tôi chỉ xem Bích là một cô bạn rất thân thế thôi, chưa và sẽ không bao giờ tôi có tình yêu với Bích. Tình yêu của tôi đã dành trọn cho cô Khuê, mặc dù tuổi tác giữa tôi và cô chênh lệch nhau rất lớn, nhưng điều đó có ý nghĩa gì đâu khi tôi đã thật dạ thương yêu. Cô Khuê không đáp lại tình cảm của tôi cũng được đi, nhưng tại sao cô lại dằn mặt tôi bằng cách đó? Cô thừa biết tôi đã đầu tư, đã dồn hết tâm huyết của mình vào bức vẽ với thật nhiều hy vọng, nếu nó không đạt giải một cách bình thường thì không có gì phải nói, đằng này chính cô Khuê… người mà tôi thương yêu hơn ai hết, kính trọng hơn ai hết lại đá cho tôi một cú đau điếng như vậy, tôi thật sự không giữ được bình tĩnh nữa!
- Vì sự thù hận đó, cậu muốn hãm hại cô Khuê?
Ngọc hỏi.
Thuận nhìn Ngọc chăm chăm:
- Ai bảo với chị là tôi thù hận cô Khuê? Không, tôi chưa hề thù hận, tình yêu tôi dành cho cô vẫn luôn đong đầy dù nó làm cho tôi đau đớn, nó làm cho tôi mãi vương vấn trần gian này…
- Cậu bảo cậu không thù hận cô Khuê? Không thù hận thì sẽ không hãm hại, đằng này cậu đã làm ra một số việc giống như tố cáo cô ấy, sao lại nói là không thù hận được?
Ngọc thắc mắc.
Thuận bật cười:
- Chị hoàn toàn không hiểu gì rồi! Tôi không muốn hãm hại Khuê. Tôi chỉ muốn cô ấy mãi nhớ đến tôi, đến cái chết thương tâm của tôi, tôi muốn cô ấy dằn vặt và sẽ tìm tới cái chết giống như tôi, để ở chốn này tôi vẫn được bên cạnh cô như hồi còn sống.
Lần này lại đến lượt Ngọc cười lớn:
- Cậu thật là trẻ con Thuận ạ! Thế mà gọi là tình yêu sao? Đó chỉ là sự chiếm hữu mà thôi. Nếu thật sự cậu yêu cô ấy, thì cậu phải làm mọi cách để cô ấy được sống nhẹ nhàng, thoải mái chứ! Mà nè, cậu có biết cậu chết như vậy là đúng số hay chết oan không?

Thuận cúi đầu nói nhỏ:
- Tôi chết đúng số!
Ngọc nhổm dậy:
- Đấy! Đã gọi là đúng số rồi thì cái chết của cậu không ai là người có lỗi, ngay cả bản thân cậu, người đã gây ra cái chết cho bản thân mình. Cậu đã hết phần số thì chỉ nay mai thôi cậu phải đi đầu thai kiếp khác đúng với luật tuần hoàn. Vậy cậu muốn cô Khuê chết xuống để làm một hồn ma vất vưởng sao?
Thuận ngớ người ra một lúc, có lẽ như đã thức tỉnh trước những lời nói thẳng thắn của Ngọc, Thuận buồn rầu:
- Chị bảo tôi phải làm sao đây? Chẳng lẽ cả đời tôi chỉ có một tình yêu duy nhất mà tới khi chết đi tôi cũng không được đáp lại, tôi không cam tâm…
Ngọc hỏi:
- Cậu không nhận ra tình cảm cô Khuê dành cho cậu sao?
Thuận ngơ ngác:
- Chị nói vậy… chẳng lẽ… chẳng lẽ cô Khuê cũng có tình cảm với tôi? Vậy tại sao cô ấy lại có thái độ…
Ngọc cười nhẹ:
- Cậu thật trẻ con! Cậu chỉ biết yêu mà không hiểu được người mình yêu. Cậu phải nhớ, cô Khuê và cậu không cùng một thế hệ, những suy nghĩ và hành động của hai người không thể tương đồng với nhau được. Cậu là một chàng trai mới lớn, yêu tình yêu đầu đời, sôi nổi mãnh liệt. Còn cô Khuê đã là một phụ nữ đứng tuổi, va vấp tình cảm một lần rồi như con chim bị tên, đâu dễ gì tin vào tình yêu nữa, nhất là với một chàng trai trẻ như cậu? Cô Khuê rất yêu cậu, chỉ có điều cô ấy không dám thể hiện ra vì sợ một lần nữa bị phản bội, bị thất vọng mà thôi. Cậu có biết tại sao cô Khuê lại đánh rớt cậu trong cuộc thi đó không?
Thuận há hốc, ngó sững Ngọc:
- Vì sao? Tôi… tôi không hiểu được…
Ngọc nhún vai:
- Cũng chính vì cô Khuê quá yêu cậu, quá hiểu cậu. Cô ấy biết nếu cậu đạt giải trong kỳ thi đó, sự kiêu căng tự phụ trong cậu sẽ có cơ hội phát triển nhanh chóng, điều đó sẽ lập tức giết chết tài năng của cậu. Cô Khuê muốn cậu phải biết nếm lấy thất bại để rèn luyện mình, để nhìn rõ mình hơn. Đánh cho cậu rớt, không có nghĩa là cô Khuê ngăn chặn con đường tiến thân của cậu, mà trái lại cô đã dọn sẵn cho cậu một con đường khác, đầy hoa thơm trái ngọt, chỉ tiếc là cậu đã quá vội vàng… Mà không, đúng hơn chỉ tiếc vì phần số của cậu lại quá ngắn ngủi, cậu chưa kịp dặt chân lên đó…
Thuận ngồi phịch xuống ghế:
- Tôi vẫn chưa hiểu hết những điều chị nói!
Ngọc hơi chồm người về phía trước, nhìn thẳng vào Thuận:
- Cậu có biết không, cô Khuê đã làm hồ sơ thủ tục để đưa các bức vẽ của cậu đi dự một triển lãm có tiếng ở nước ngoài. Dù bây giờ cậu không còn nữa, cô vẫn nhất quyết thực hiện cho bằng được. Chính vì lý do đó mà khi Bích tới xin lại các bức vẽ của cậu, cô Khuê khăng khăng từ chối. Không lâu nữa các bức vẽ của cậu sẽ lên đường đi dự triển lãm.
Thuận ngồi ngây người ra một lúc rồi bất chợt từ hai khóe mắt trào ra hai dòng lệ. Thuận thổn thức:
- Khuê ơi, tại sao cô lại như vậy, tại sao cô lại khép chặt nỗi lòng để không ai hiểu được cô? Nếu cô nói ra, thì ít gì trước lúc chết tôi cũng có được những ngày hạnh phúc… Còn đằng này…
Ngọc buồn buồn:
- Aâu tất cả cũng là số phận của mỗi người!
Thuận ngước lên nhìn Ngọc:
- Bây giờ chị bảo tôi phải làm sao đây?
- Việc trước tiên cậu cần làm là đừng nên quẩn quanh bên cạnh cô Khuê nữa. Cậu cũng biết rồi đó, khi một người bị ma ám thì không thể nào có đủ sức khỏe để sống tốt và công việc của họ cũng liên tiếp gặp trở ngại. Cô Khuê là người ít nói, lại giỏi chịu đựng, chưa bao giờ cô than thở gì nhưng qua tìm hiểu, tôi biết cô đang gặp rất nhiều khó khăn, mà chung quy cũng do bị cậu ám đấy! Việc thứ hai, cậu phải báo mộg hay làm cách nào tùy cậu, để cho Bích biết rõ, dù có cô Khuê hay không cậu cũng sẽ không yêu Bích, để Bích nhận rõ cô Khuê không phải tình địch của mình, có như vậy cả Bích, cả cô Khuê và cậu nữa, mới có thể bình yên.
Thuận vừa muốn nói gì đó, bất ngờ đứa con của Ngọc từ ngoài chạy ùa vào làm Thuận giật bắn người và tan ra như làn khói.
Ngọc muốn gọi với theo, nhưng sợ gây thắc mắc cho con nên thôi. Cô quay sang trách con:
- Vô phòng mà không gõ cửa gì cả, con gái nhé?
Đứa nhỏ lè lưỡi:
- Ui, con quên! Con xin lỗi mẹ! Chỉ tại con vui quá nên quên mất!
Ngọc kéo con lại gần âu yếm hỏi:
- Chuỵên gì làm cho con gái cưng của mẹ vui như vậy?
Trong phòng vang lên tiếng cười của hai mẹ con khi đứa bé thuật lại cho Ngọc nghe chuyện vui của nó.
 
***
 
Cô Khuê đang ngồi bên khung vải trắng. Tự nhiên cô cảm thấy bần thần không thể đưa tay cọ lên được.
Đứng lên, bước tới bên cửa sổ, tì tay vào thành cửa đứng nhìn ra mấy chậu hoa nhỏ ngoài sân, bất chợt lòng cô Khuê rưng rưng muốn khóc.
Kìa là những bụi hồng mới hôm nào Thuận hí hửng mang về trồng, kìa là mấy cây hướng dương mà Thuận đã phải đi xin giống tận trên Thủ Đức, đem về gieo hạt rồi tỉ mỉ bón chăm trông chờ ngày nó trổ ra bông hoa đầu tiên. Nhưng bây giờ, khi bông hoa đầu tiên sắp sửa bung ra để đón ánh nắng mặt trời thì Thuận đã không còn nữa.
Nước mắt cô Khuê lăn nhẹ trên má. Khung vải trong phòng bỗng nhiên lay động nhẹ, mặc dù ngoài trời đang im ắng, không có một ngọn gió nào.
Cô Khuê ngạc nhiên cứ đứng nhìn sững vào khung vải.
Lạ lùng! Từng nét, từng nét vẽ đang từ từ hiện rõ trên nền vải. Không lâu sau, trên khung đã xuất hiện một người phụ nữ, cô ,đúng rồi, người phụ nữ trong tranh chính là cô, chính là cô trong chính giờ phút này!
Người phụ nữ tựa cửa nhìn ra vườn, bên ngoài là một bông hướng dương đang vươn mình hứng từng giọt nắng long lanh, vàng rực!
Bức tranh đẹp đến không ngờ, sống động đến không ngờ! Nhìn vào đó, người ta có cảm giác nghe được từng hơi thở nhẹ của người con gái, thấy được cái lung lay rất nhẹ của mỗi cánh hoa.
Một bức vẽ hoàn mỹ!
Sau phút sững sờ, cô Khuê nhào tới bên khung vải, rối rít gọi to:
- Thuận ơi! Thuận! Có phải Thuận không?...
Nước mắt cô lã chã rơi, cô như người hoảng loạn đang cố níu giữ điều quý giá sắp vuột khỏi tay mình.
Trong một giây, cô Khuê chợt trông thấy rõ ràng Thuận đứng ngay trước mặt mình, bằng xương bằng thịt.
Thuận cười thật tươi và vẫy tay chào cô giôùng y lần cô đưa Thuận lên xe đi thực tập.
- Thuận ơi!...
Hình dáng Thuận mờ dần qua màn nước mắt, rồi nó vụt biến mất như chưa từng xảy đến với cô.
Cô Khuê gục xuống, nghẹn ngào rên xiết:
- Thuận ơi…!
 
***
Tiếng chuông cửa hôm nay nghe có vẻ rụt rè làm cô Khuê thắc mắc. Cô bỏ tập tài liệu đang xem dở xuống bàn, xỏ chân vào dép lật đật đi ra cửa.
Cánh cổng vừa mở ra, người đứng trước mặt cô là Bích. Cô gái dạo trước đã một lần đến đây lớn tiếng nặng lời với cô.
- Em tới có việc gì không?
Cô Khuê có vẻ cảnh giác.
- Dạ… em… em muốn tới đây để xin lỗi cô!
Bích cúi mặt xuống đất nói nhỏ.
Bất ngờ trước thái độ nhu mì và lời nói của Bích, cô Khuê đứng im một lúc mới cất tiếng:
- Mời em vào nhà!
Bích riu ríu dắt xe đạp đi theo sau lưng cô Khuê.
Vừa ngồi xuống ghế, một lần nữa Bích tỏ vẻ hối hận:
- Hôm nay em tới đây mong được cô tha lỗi! Trước đây em đã quá hồ đồ nên có những lời lẽ và hành vi xúc phạm tới cô, em… em thật xấu hổ! Mong cô bỏ qua cho em…
Cô Khuê đặt tay mình lên bàn tay nhỏ bé của Bích:
- Không, cô không hề để bụng chuyện đã qua. Nhưng… cô thật bất ngờ, không biết tại sao hôm nay thái độ của em lại hoàn toàn khác như vậy? Em có thể cho cô biết được không?
Bích buồn buồn:
- Thưa cô… Em không biết giải thích sao với cô đây! Chỉ biết rằng chính anh Thuận đã phân tích cặn kẽ mọi sự việc, giúp em nhận thấy rõ sai lầm của mình. Cả em, cả anh Thuận đều có lỗi với cô. Tụi em quả thật quá nông nổi và trẻ con…
- Em nói sao? Thuận phân tích cho em thấy à?
Cô Khuê ngạc nhiên.
Bích gật đầu:
- Dạ, đúng là chính anh Thuận. Anh ấy bảo anh ấy sắp phải đi xa lắm, không bao giờ còn có thể quay về được nữa, nên trước khi đi ảnh muốn làm hai việc, một là để lại cho cô cái gì đấy gọi là tình yêu mãnh liệt của ảnh, em nghe mà không hiểu rõ. Hai là ảnh muốn em sống thanh thản, dứt ra khỏi những thù hận không đâu. Ảnh đã phân tích cho em thấy những sai lầm trong suy nghĩ của mình. Và em đã nhận ra một điều thật hiển nhiên nhưng lâu nay em lại không chịu chấp nhận: Đó là, dù không có sự xuất hiện của cô, anh Thuận vẫn không yêu em.
Cô Khuê với tay lấy chiếc khăn giấy, nhẹ nhàng chậm lên những giọt nước mắt đang lăn dài trên má cô bé nhỏ nhoi đang ngồi trước mặt mình, nhưng trong tâm tưởng cô lại nhớ tới món quà sau cùng Thuận để lại cho cô, đó chính là bức vẽ sau cùng của một người tài hoa bạc mệnh.
 
***
- Em ơi em! Em nhìn này!
Tân vội vã từ trong phòng ngủ đi ra, trên tay vung vẩy tờ báo.
Ngọc ngạc nhiên:
- Gì thế anh? Anh đừng nói với em là anh trúng xổ số đấy nhé?
Tân cười, sà xuống bên cạnh vợ, chìa ra trước mặt một cái tít lớn trên tờ báo: “Một tác phẩm được đông đảo người xem chú ý ở triển lãm mỹ thuật…”, dưới đó là bức ảnh chụp bức tranh vẽ một phụ nữ đứng tự cửa nhìn ra vườn, nơi có một đoá hướng dương đang vươn mình lên đón ánh mặt trời!
Ngọc reo lên:
- Ôi, chị Khuê đã thành công rồi! Chị Khuê đã đưa được tác phẩm cuối cùng của Thuận ra thế giới rồi…
Tân mỉm cười nhìn vợ. Ngọc vẫn trẻ con như thế, nhưng anh yêu biết bao cái tính hồn nhiên con trẻ và nhân hậu vô cùng nơi Ngọc!
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:35:37 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 22:00:10
ĐỨA BÉ MA
 
Xe vừa vào đến bến, Thùy dắt tay con bé An bước xuống ngơ ngác nhìn quanh. Tiếng anh lơ xe làm Thùy giật mình:
- Chị kia, không lấy hành lý xuống hả?
Thùy luống cuống đỡ lấy cái va li cùng mấy cái túi lỉnh kỉnh từ tay anh lơ xe. Anh ta nhìn Thùy có vẻ thương hại:
- Vô đất Sài Gòn này mà cô cứ lớ ngớ như vậy, coi chừng không còn gì đó nghen! Nè, bé con, xách cái túi nhỏ này cho mẹ đi!
Anh ta dúi vào tay bé An cái ba lô nhỏ.
- Dạ, cảm ơn anh!
Thùy gật đầu chào người lơ xe rồi lôi đống hành lý cùng đứa bé đi về phía cổng.
Vừa đi được một đoạn, Thùy trông thấy Mai bèn gọi lớn:
- Mai ơi, Thùy đây!
Nghe gọi, cô gái giật mình quay lại, trông thấy mẹ con Thùy cô cười tươi:
- Trời, đứng đây nãy giờ mà không nhìn thấy! Hai mẹ con đi đường vất vả lắm không?
Bé An ngoan ngoãn khoanh tay trước ngực:
- Dạ, con chào dì Mai!
Mai cười tít mắt, đỡ con bé đặt lên trước xe:
- Ôi, con gái xinh và ngoan ghê chưa! Nào, bây giờ con ngồi đây, mẹ Thùy ngồi sau, chịu khó xách cái túi này nhe, còn cái va li đưa đây, mình để phía trước.
Mai đặt cái va li to đùng lên phía trước xe, chờ Thùy ngồi lên cẩn thận rồi rồ ga cho xe vọt lên phía trước.
Đường phố Sài Gòn ồn ào đông đúc, bé An thích thú ngắm nhìn từng dòng người, những tấm panô quảng cáo giăng mắc khắp nơi và các ngôi nhà to đẹp hai bên đường. Trông bộ dạng nó thật hí hửng.
Ngược lại với con gái, Thùy có vẻ mệt mỏi và u buồn. Suốt quãng đường đi, Thùy chỉ trả lời ậm ờ các câu hỏi của Mai.
Chưa đầy ba mươi phút sau, Mai dừng xe trước một căn nhà nhỏ trong hẻm, nhấc bé An để xuống đất và bảo:
- Tới nhà dì Mai rồi đây! Hai mẹ con vô nhà nào!
Đây là một căn nhà nhỏ, hơi ẩm thấp, từ ngoài cổng vào nhà chỉ có một khoảnh sân nhỏ xíu đủ dựng chừng ba chiếc xe máy.
- Để đồ đạc đây, hai mẹ con đi tắm cho mát rồi ăn cơm! Con gái chắc đói bụng lắm rồi đây!
Mai vừa gỡ chiếc ba lô trên vai bé An ra vừa hỏi.
Bé An cười:
- Dạ không, lúc nãy mẹ có cho con ăn bánh mì rồi, con không đói đâu dì Mai!
Thùy đặt mấy chiếc túi vào góc nhà, ngước nhìn Mai hỏi:
- Hai đứa em Mai đâu rồi?
Mai cười ngất:
- Ê, bộ quên hôm nay thứ hai sao? Tụi nó phải đi làm chứ! Nhà này chỉ đông đủ vào buổi tối thôi, sáng ra là mạnh ai nấy đi. Mỗi đứa một chìa khóa, muốn về lúc nào thì về, riết rồi mình cũng chẳng quan tâm nữa!
- Tối nay mẹ con Thùy ở lại đây một đêm có phiền phức gì không?
Thùy lo lắng hỏi Mai vì thấy diện tích ngôi nhà quá nhỏ hẹp.
Mai lắc đầu:
- Thùy đừng có lo, thì ngủ chật một hai hôm có sao đâu!
- Cái nhà mà Mai đã đi xem qua giúp Thùy có ở gần đây không?
Thùy hỏi.
- Cũng không gần lắm! Hai mẹ con tắm rửa, ăn uống rồi nghỉ ngơi cho khỏe, chừng xế chiều mình chở tới đó để Thùy xem có vừa ý không nhé?
- Hễ Mai thấy được là được rồi, mình cũng chẳng đòi hỏi gì cao đâu.
Thùy trả lời bạn.
Cô mở túi xách lấy áo quần và khăn tắm đưa cho con gái. Mai dẫn bé An vào phòng tắm, đùa:
- Con tắm một mình được không? Hay dì Mai tắm cho con nhe?
- Dạ, con tắm được!
Bé An nhanh nhẹn bước vào phòng đóng cửa lại.
Khi con bé đi rồi, Mai quay sang Thùy nhìn bạn đăm đăm:
- Thùy quyết định thế thật sao? Anh Tùng không ngăn cản mẹ con Thùy à?
Thùy cười thật buồn:
- Mình đã đắn đo cân nhắc rất lâu mới đi được đến quyết định này. Anh Tùng cũng ngăn, nhưng chủ yếu là ảnh ngăn không cho mình dắt theo con bé, chứ mình đi thì ảnh càng thích thôi Mai ạ!
Mai siết tay bạn:
- Mình thật không ngờ, chỉ mới mấy năm mà một mối tình đẹp đã làm cho bao nhiêu bạn bè ngưỡng mộ như mối tình giữa Thùy và anh Tùng lại có thể đi đến nông nỗi này…
Thùy khẽ chớp mắt để đè nén cảm xúc:
- Chắc tại phần số mình không may nên mới khiến xui như vậy! Thật sự mình cũng không trách gì anh Tùng. Bởi mình biết, tình yêu là thứ không thể muốn là được. Một khi ảnh không còn yêu mình, thì càng gượng ép càng làm khổ cả hai. Thôi thì mình cứ toại nguyện cho ảnh, như vậy có lẽ sẽ tốt hơn.
Mai nhìn bạn không dằn được tiếng thở dài:
- Thôi, đừng thèm nghĩ đến nữa! Bây giờ Thùy có An cũng là nguồn an ủi lớn rồi!
Thùy mỉm cười:
- Ừ, cũng may là mình còn có nó!
Sự nhớ ra, Mai hỏi bạn:
- Hôm nào Thùy bắt đầu nhận công tác?
- Hai hôm nữa, vì chi nhánh trong này đang cần người gấp nên mình mới dễ dàng chuyển tới, bởi vậy phải bắt tay vào công việc ngay Mai à!
Thùy nói.
Mai gật đầu:
- Vậy cũng tốt! Ngày mai ổn định nơi ở, ngày mốt đi làm, bạn sẽ không còn thời gian để mà buồn bã nữa!
- Ừ, mình cũng hy vọng là như thế!
Thùy đứng lên tỏ vẻ muốn chấm dứt câu chuyện. Bé An cũng đã tắm xong. Mai giục bạn:
- Thùy tắm đi! Mình dọn cơm nhe?
Thùy gượng cười bước vô phòng tắm.
Bé An vừa đứng lau khô tóc vừa đưa mắt ngó khắp nhà. Mai âu yếm hỏi An:
- Con có mệt không con? Từ nay vô đây sống với dì nghen?
An ngây thơ hỏi:
- Con ở đây hả dì? Rồi con với mẹ ngủ chỗ nào?
Mai bật cười:
- Không, tối nay mẹ con con nghỉ tạm ở đây một đêm thôi, chiều nay dì Mai dẫn hai mẹ con đi coi nhà mới rồi ngày mai dọn tới đó ở. Nhà tui nghèo vầy, làm sao hai má con ở được?
Bé An tuy còn bé nhưng cũng đủ khôn ngoan:
- Dạ không, con thích ở đây lắm!
Mai tươi cười hôn lên má bé An, mắng yêu nó:
- Con khéo nói chuyện lắm, giống y như mẹ con vậy!
Lúc Thùy tắm xong thì Mai cũng đã dọn sẵn mâm cơm trên bàn ăn. Bữa cơm thật đơn giản nhưng đầm ấm. Mẹ con Thùy đi đường xa tuy mệt mỏi nhưng trước sự hiếu khách của Mai, hai người vẫn ăn uống rất vui vẻ.
Aên cơm xong, bé An lên võng nằm chơi một chút đã ngủ ngay, riêng Thùy vẫn trằn trọc mãi không ngủ được.
Lần này Thùy quyết định chuyển công tác vào Sài Gòn tức là đã quyết định chia tay với Tùng. Đó không phải là điều dễ dàng đối với Thùy.
Hồi còn đi học, Thùy được rất nhiều bạn đeo đuổi vì vẻ đẹp dịu dàng và tính tình đôn hậu của cô. Thế nhưng trong số đó Thùy lại chọn Tùng.
Tùng con nhà nghèo, so bề ngoài thì kém xa nhiều người khác, nhưng Thùy quý Tùng ở chỗ rất chân thành và luôn có chí cầu tiến. Tình yêu của hai người kéo dài suốt ba năm ở trường Đại học, một tình yêu đẹp khiến nhiều người ngưỡng mộ.
Ra trường, được sự giúp đỡ của một người quen, cả Tùng và Thùy đều được về nhận công tác ở Nha Trang, đúng với chuyên ngành mình đã học.
Khi mọi việc đã được ổn định, hai người tổ chức đám cưới và bắt đầu tận hưởng những ngày tràn đầy hạnh phúc bên nhau.
Thế nhưng… cuộc đời luôn có những chữ “nhưng” đáng ghét như thế! Khi bé An được hơn ba tuổi thì cũng là lúc Thùy phát hiện Tùng có quan hệ với một người phụ nữ khác.
Đau đớn, hụt hẫng Thùy đã một lần muốn lìa bỏ Tùng khi ấy. Nhưng cô lại mềm lòng trước những lời giải thích, van xin và hứa hẹn của chồng.
Tùng luôn là người chồng tốt, là người có trách nhiệm với vợ con. Sau lần đó, Tùng càng quan tâm chăm sóc hai mẹ con Thùy hơn, nên dần dần nỗi đau trong lòng Thùy cũng nguôi ngoai đôi chút.
Vết thương chưa kịp lành, lòng tin chưa kịp lấy lại cho trọn vẹn, một hôm Tùng thú thật với Thùy rằng người phụ nữ kia sắp sinh con cho anh!
Vậy là suốt thời gian hai năm qua, Tùng vẫn không hề rời xa người đó như đã hứa với Thùy. Suốt hai năm qua, Thùy cứ ngỡ anh ăn năn hối lỗi. Suốt hai năm qua, mẹ con Thùy sống trong sự dối gạt, lọc lừa!
Đến nước này Thùy không thể chịu đựng nổi nữa. Cô đề nghị ly hôn, Tùng không đồng ý nhưng cũng không phản đối, anh chỉ bảo cô đừng nóng vội, cả hai cần phải có một khoảng thời gian để suy nghĩ lại.
Mai chuyển công tác vào đây cũng vì lý do đó.
Ở Sài Gòn này cô có rất đông bạn bè cùng học ngày xưa, nhưng thân thiết nhất vẫn là Mai. Vì thế, trước khi vào đây, Thùy đã nhờ Mai tìm thuê nhà giúp để khi vào tới, mẹ con cô không bị bỡ ngỡ, lúng túng.
Mai vẫn chưa yêu ai sau lần tan vỡ mối tình đầu. Cô bảo cô rất không tin tưởng đàn ông. Sau chuyện của Thùy, Mai càng chán ngán hơn nữa.
Ban đầu Mai có dịnh để mẹ con Thùy ở lại nhà cô, nhưng rồi nghĩ lại thấy nhà mình quá chật hẹp, lại thêm hai đứa em ồn ào, mẹ con Thùy đã quen sống đời khá giả, ở đây sợ không tiện, vì vậy nên cô không mở lời.
Mai thương bạn, nhưng cô không biết làm gì hơn để san sẻ cùng Thùy nỗi đau to lớn đó.
Cả Mai và Thùy trưa hôm ấy đều không ngủ được, nhưng ai cũng giả vờ nhắm mắt để bạn yên lòng.
Mãi đến lúc bé An thức dậy, Thùy giục:
- Mai, đưa mình đi xem nhà đi!
- Ừ! Hai mẹ con chuẩn bị nhanh lên, ở đó mà thúc giục mình!
Mai cười nhìn bé An đang lúng túng với cáo áo đầm dây nhợ chằng chịt phía sau lưng. Cô giúp con bé cột dây nơ rồi bắt nó xoay một vòng làm tà áo tung lên như người ta đang múa Ba – lê:
- Úi trời ơi, cháu của dì xinh quá đi thôi!
Mai nhấc bổng con bé lên, hôn chùn chụt vào hai bên má và dụi mặt vào cổ nó làm An cười hăng hắc.
Thùy lặng lẽ mỉm cười.
Mai chở mẹ con Thùy đi lòng vòng khá xa mới tới khu chung cư mà Mai đã hỏi thuê một phòng cho mẹ con cô.
Sau khi gửi xe, ba người dắt nhau vào thang máy đi lên tầng sáu.
Mai giải thích:
- Ở chỗ này tuy cao, nhưng thang máy hoạt động hai mươi bốn trên hai mươi bốn, không sợ phải leo cầu thang, an ninh khu vực này tốt, người dân sinh sống ở đây đại đa số đều là công chức nên dễ chịu hơn những chỗ khác nhiều, phòng ốc lại đẹp nữa. Chút nữa lên tới phòng Thùy sẽ biết.
Thùy nhìn bạn cười tủm tỉm:
- Mai làm tiếp thị cho trung tâm môi giới từ lúc nào thế?
Mai phá ra cười, đấm vào lưng bạn thùm thụp.
Thang máy vừa dừng lại, Mai dắt tay bé An bước ra rồi rảo bước tới một căn phòng gần đó. Cô tra chìa vào ổ khóa, vặn kêu một cái “tạch”, cánh cửa bật mở.
Trước mắt Thùy là một căn phòng khang trang, đẹp mắt.
Căn phòng đã được Mai cho người dọn dẹp và bày trí đúng với sở thích của Thùy. Cô rất cảm động trước sự chu đáo của người bạn gái thân thương đã dành cho mình.
Bé An ngơ ngác đứng ngó khắp nơi trong nhà, mặc cho mẹ và dì dẫn nhau đi xem xét từng xó xỉnh. Cả hai chỉ trỏ, bàn tán đủ thứ chuyện trên đời. Nhưng nói chung lại, Thùy rất hài lòng với căn phòng mà Mai đã chọn.
Cô nắm chặt tay bạn, nghẹn ngào:
- Mình cảm ơn Mai rất nhiều…
Mai vỗ nhẹ lên tay Thùy, mắt cô cũng rân rấn nước:
- Có gì đâu! Mình không muốn giúp bạn việc này tí nào đâu! Mình vẫn muốn được thấy bạn sống cuộc sống trước đây trong ngôi nhà hạnh phúc ở Nha Trang kia!
Thùy khẽ lắc đầu rồi quay vội đi chỗ khác để che giấu dòng nước mắt đang vỡ khỏi bờ mi.
- Mẹ ơi, mình sống ở đây hở mẹ?
Bé An níu vạt áo Thùy, ngước đôi mắt thơ ngây lên hỏi.
- Ừ, hai mẹ con mình từ ngày mai sẽ dọn tới đây ở.
- Còn ba? Chừng nào ba vào đây với con hở mẹ?
Thùy ôm con vào lòng, thủ thỉ:
- Ba bận nhiều việc lắm con à, khi nào ba rảnh ba sẽ vào ngay, con đừng buồn nhe!
Bé An gật đầu:
- Dạ, con nghe lời mẹ!
Thấy Thùy lại sắp khóc trước những câu hỏi vô tình của con bé, Mai xen vào để phá vỡ cái không khí nặng nề đó:
- Bé An ơi, con thấy nhà này đẹp không?
Bé An ngước lên nhìn trần nhà rồi ngó Mai, trả lời:
- Dạ, con thích lắm! Nhưng mà… sao nóc nhà mình nhiều nước thế hở dì Mai? Con ngủ, nước có rơi xuống ướt mình con không?
Cả Mai và Thùy đều ngạc nhiên ngẩn lên nhìn trên nóc. Nóc nhà sạch sẽ, màu sơn còn mới tinh, không hề có vệt nước nào trên đó.
Thuỳ lấy làm lạ hỏi con gái:
- Ủa, sao con nói nước trên nóc nhà? Mẹ có thấy gì đâu?
Bé An chỉ tay lên:
- Đó, mẹ thấy chưa? Nước loang ra nhiều như vậy mà mẹ và cả dì Mai đều không nhìn thấy sao?
Một lần nữa Mai và Thùy cùng ngước nhìn lên rồi cả hai lại nhìn nhau ngơ ngác:
- Ôi, con bé này hôm nay làm sao vậy nhỉ?
Thùy kêu lên.
Mai bấm nhẹ vào vai bạn, nói thầm:
- Chắc nó đi đường mệt quá nên mắt mờ đi đấy! Thôi, bỏ qua đi, đừng hỏi gì nó nữa hết!
Nói xong, Mai quay sang kéo bé An vào lòng:
- Vài hôm nữa khai trường, con vào học lớp hai rồi phải không? Nè, nhớ phải nịnh dì Mai nhiều nhiều, để dì Mai giúp mẹ đưa đón con đó nghen!
Bé An tươi cười, choàng tay qua vai Mai, đặt lên má cô một nụ hôn âu yếm.
Mai vả vờ ngả người ra sau:
- Ôi, tôi hạnh phúc quá đi mất! Tôi chết mất! Con bé này thương tôi đến thế kia sao?
Thấy Mai giả vờ như vậy, bé An lại nhào tới hôn cô tới tấp. Hai dì cháu cười đùa vang vọng khiến Thùy tâm trạng đang không vui mà cũng phải bật cười.
Thế là nhờ vào sự xếp đặt của Mai, mẹ con Thùy đã không phải lo lắng gì đến chuyện nơi ăn chốn ở của mình.
Tối đó, Mai chở hai mẹ con Thùy đi dạo mấy vòng rồi về nhà cho con bé ngủ. Riêng Mai và Thùy nằm sát bên nhau, bao nhiều tâm sự vui buồn đều đem ra san sẻ cùng nhau. Hai người mãi thầm thì chuyện vãn đến tận gần hai giờ đêm mới ngủ.
Sáng hôm sau, Mai giúp mẹ con Thùy dọn đồ đạc tới nhà mới. Ngoài mấy cái va li, túi xách mà hôm qua Thùy mang vào, Mai còn mua thêm cho cô một ít vật dụng khác cần thiết trong nhà, trong đó không thiếu mấy món đồ chơi nho nhỏ dành cho bé An.
Cuộc sống của hai mẹ con Thùy sớm đi vào ổn định. Hai ngày sau, Thùy bắt đầu đi làm, bé An ở nhà một mình vì các trường học còn đang trong thời gian nghỉ hè.
Trước khi đi, Thùy không quên dặn con đủ mọi việc cần thiết, mặc dù cô đã tự nhủ mình là đừng lo lắng quá. Bởi vì trước đây, khi còn sống ở Nha Trang, bé An vẫn thường xuyên chơi một mình ở nhà như thế.
Tuy nhiên vì đây là nơi mới chuyển tới nên Thùy cũng không hoàn toàn yên tâm. Trước đó cô đã đi sang căn bên cạnh để làm quen.
Thùy biết căn bên cạnh nhà cô là của một đôi vợ chồng ở tuổi năm mươi. Người chồng làm kế toán ở một công ty trong thành phố, người vợ ở nhà lãnh đồ về may gia công. Nhà không có trẻ con, vì hai con của ông bà đã lớn và đã có gia đình riêng.
Biết Thùy mới đến và sẽ đi làm vào ngày mai, bỏ đứa bé ở nhà một mình, người đàn bà bên cạnh đã mở lời bảo cô để bé An qua đó bà sẽ trông coi giúp, nhưng Thùy sợ người ta vợ chồng lớn tuổi, nhà không có trẻ nít đã quen, sợ con mình sẽ gây phiền toái cho người ta nên cô từ chối, mà chỉ nhờ họ nếu có thấy gì lạ bên nhà thì chạy qua xem giúp.
Căn phòng kế đó nữa thì không ai ở. Thùy nghe nói trước đây không lâu có một cặp vợ chồng và đứa con gái nhỏ ở trong căn phòng đó, nhưng rồi họ dời đi một cách lặng lẽ, mọi người không ai biết họ đi đâu, đi lúc nào nữa. Căn phòng đó cũng đẹp lắm nhưng không hiểu sao ai tới thuê nhà cũng không chịu ở đó.
Không chỉ gởi gắm con cho người láng giềng bên cạnh, Thùy không quên nhờ bác bảo vệ chung cư dòm ngó giúp.
Nhưng suốt cả ngày hôm đó, cứ chốc chốc Thùy lại điện thoại về thăm con, đến nỗi bé An phải kêu lên:
- Mẹ ơi, con ở nhà được mà! Mẹ làm việc đi, đừng lo như vậy nữa!
Thùy phì cười. Cái con bé này đôi lúc nói năng y như người lớn!
Buổi chiều, vừa tới giờ tan sở là Thùy vội vàng chạy về với con.
- Ở nhà một mình, có sợ không con? Có buồn không con?
Vừa ôm hôn con, Thùy vừa hỏi dồn dập.
Bé An cười tươi:
- Con đâu có buồn, cũng không có sợ gì hết mẹ ơi! Con chơi với mấy thứ dì Mai mua cho con nè! Với lại con cũng có học bài nữa đó mẹ!
- Con gái mẹ ngoan quá!
Thùy âu yếm hôn con một lúc lâu nữa rồi mới đi vào thay áo quần xuống bếp nấu cơm.
Bữa cơm chiều hôm đó tuy rất đạm bạc vì Thùy chỉ mua vội một vài thứ bán ven đường, nhưng cả hai mẹ con đều ăn rất ngon miệng. Bữa trưa, Thùy và bé An ai cũng ăn một mình nên khi ngồi bên nhau thế này cả hai đều rất thích thú.
Khi hai mẹ con vừa ăn cơm xong thì Mai đến. Vừa vào tới cửa, Mai đã lên tiếng:
- Ôi giời ơi, hôm nay lão sếp đì mình đến ngất ngư luôn, trưa tính ghé qua xem con vịt con này thế nào mà cũng đâu có được! Chẳng biết lão thù mình từ hồi thâm căn cố đế nào mà cứ hễ có việc gì ở xa là lại đẩy mình đi, chán thế không biết!
Vừa nói, Mai vừa ngã ra nằm dài trên chiếc giường kê ở góc phòng.
Thùy cười:
- Ông sếp còn trẻ không?
- Lớn hơn mình vài tuổi, này, đẹp trai lắm nhé, chỉ phải cái tội khó tính, khó chịu, khó khăn… nên ế vợ! Hi hi…
Mai cười ngất.
Thùy nheo mắt nhìn bạn, cười cười:
- Hay là lão ta đang “thử thách” bạn đấy? Sau thời gian thử thách, nếu ô kê là rước nàng về dinh?
Mai giẫy lên:
- Thôi thôi, cho mình xin đi! Mình thà làm… ni cô còn hơn làm tình nhân của cái lão khó ưa đó!
- “Ghét của nào trời trao của nấy” đấy bạn nhe!
Thùy dí ngón tay vào trán bạn, cười nói.
Mai lắc đầu, lè lưỡi ra vẻ khiếp đảm lắm.
Bé An trông thấy thái độ lạ lẫm của dì Mai, nó cứ đứng nhìn rồi cười một mình.
Chờ Thùy dọn dẹp, thay áo quần xong, Mai chở hai mẹ con Thùy đi mua xe.
Ở cái thành phố năng động này mà không có chiếc xe để làm chân đi thì có mà… tụt hậu!
Thùy mới đi làm ngày đầu tiên bằng xe buýt mà đã nếm mùi đó rồi!
Mai này có thêm chiếc xe, việc đưa đón bé An đến lớp cũng sẽ thuận tiện hơn.
Một tuần trôi qua, cuộc sống của mẹ con Thùy trôi qua trong êm ả, bình lặng.
Chỉ có một điều Thùy hơi lấy làm lạ. Đó là, mấy ngày nay Thùy thường bắt gặp bé An ngồi nói chuyện một mình, đôi lúc nó lại cười khúc khích, giống như đang nói chuyện rất vui vẻ với một người nào khác nữa vậy.
Thùy đem thắc mắc đó nói với Mai thì Mai gạt đi:
- Con nít đứa nào chả thế! Mấy đứa cháu của mình cũng vậy, cứ ngồi buồn là nói chuỵên một mình hoài hà! Bạn đừng có lo.
Tuy nghe Mai nói vậy nhưng Thùy vẫn chưa an tâm, cô lại đem điều đó hỏi mấy chị lớn tuổi làm cùng công ty. Giống như Mai, ai cũng khẳng định trẻ con đứa nào cũng có giai đoạn thích nói chuỵên một mình, thích tưởng tượng ra đủ thứ, đó không là điều gì bất thường cả!
Nghe nhiều người nói nên Thùy cũng tạm yên tâm.
Một hôm, giữa lúc Thùy đang lúi húi làm cơm dưới bếp, cô bỗng nghe tiếng bé An cười ngất trên nhà. Cô vội vã chạy lên, trông thấy bé An như đang đùa giỡn với một người vô hình bên cạnh. Cô ngạc nhiên hỏi con gái:
- Con chơi giỡn với ai mà cười dữ vậy?
Bé An vẫn chưa dứt chuỗi cười:
- Hi hi, bạn Yên cứ thọc lét con hoài…
- Bạn Yên? Bạn Yên nào?
Thùy kinh ngạc.
Giữa lúc đó bé An thôi không cười nữa và nhìn ra cửa một lúc rồi mới trả lời câu hỏi của mẹ:
- Mẹ làm bạn Yên sợ, bạn Yên bỏ về rồi kìa!
- Con nói bạn Yên nào?
Thùy ngơ ngác ngó xung quanh.
Bé An liếng thoắng kể:
- Bạn Yên ở cùng chung cư với mình nè! Ngày nào bạn cũng tới chơi với con. Con đọc sách cho bạn nghe, bạn dạy con hát, bạn chơi với con rất vui…
Thùy lo lắng sờ tay lên trán con thì thấy nhiệt độ cơ thể bé An vẫn bình thường, hoàn toàn không bị nóng sốt mê sảng gì cả.
Suốt đêm Thùy lo âu không chợp mắt. Cô không hiểu sao con gái mình lại như vậy, nó có vấn đề gì ở thần kinh không?
Nỗi lo chưa được giải tỏa thì hôm sau bé An lại làm cho Thùy càng lo hơn nữa.
Đi làm về, Thùy bắt gặp trong nhà mình có một chiếc cặp dành cho trẻ em gái có hình chú mèo thật dễ thương và dòng chữ Hello Kitty màu đỏ rất đẹp.
Thùy ngạc nhiên:
- Cái này ở đâu ra vậy con?
Bé An hí hửng khoe với mẹ:
- Bạn Yên tặng cho con đó mẹ! Mẹ thấy có đẹp không? Bạn Yên nói bạn tặng để mai mốt con đi học.
Đến nước này thì Thùy không chịu nỗi nữa. Cô muốn chia sẻ sự hoang mang này với Mai, nhưng hai hôm nay Mai đi công tác ở tỉnh rồi.
Ngay hôm sau, tranh thủ giờ nghỉ trưa Thùy tìm tới một bác sĩ tâm thần để được tư vấn tình trạng của con.
Sau khi nghe Thùy trình bày chi tiết, ông bác sĩ đứng tuổi mỉm cười, ôn tồn nói:
- Cô không phải lo, trẻ con ở vào lứa tuổi đó thường đứa nào cũng thế! Nhất là đối với những trẻ phải thường xuyên sống ở nhà một mình, vì buồn, vì thiếu người bầu bạn, sẻ chia nên bé tự tưởng tượng ra một người bạn thân của mình. Vậy thôi! Khi bé được tiếp xúc với nhiều người, hoặc khi lớn hơn một chút thì tự nhiên sẽ khỏi thôi cô ạ!
Thùy vẫn chưa hết lo lắng:
- Nhưng còn cái cặp xách, con bé cứ nhất quyết là của bạn Yên tặng cho nó!
Ông bác sĩ cười hiền từ:
- Có thể vì đứa bé quá ham thích vật đó, một vật mà nó vô tình nhặt được ở đâu đó, cũng có thể do nó ăn cắp, rồi nó tưởng như thế để thấy an tâm mà sử dụng.
Ông bác sĩ còn nói rất nhiều điều khác nữa, đến lúc Thùy đứng lên chào từ giã ra về thì cô đã hoàn toàn tin tưởng con gái cô không có vấn đề đáng lo ngại, mà chỉ là tâm lý bình thường ở lứa tuổi đó thôi như lời ông bác sĩ nói.
Chiều hôm đó về nhà, Thùy nhẹ nhàng hỏi con về chiếc cặp một lần nữa, nhưng bé An vẫn nhất quyết khẳng định là bạn Yên tặng cho mình. Thùy phải dỗ dành con:
- Bạn Yên còn bé, thì làm gì có tiền mua quà tặng con được? Có thể bạn nhặt chiếc cặp này của người khác rồi đem tặng con cũng không chừng. Bây giờ con nghe lời mẹ, để mẹ đem chiếc cặp này xuống gởi bác bảo vệ, nếu có bạn nào bị mất thì mình trả lại cho bạn ấy, nhé con? Rồi mẹ sẽ mua cho con một chiếc cặp khác cũng đẹp giống y như thế này!
Bé An phụng phịu nhưng cũng nghe theo lời mẹ. Hai mẹ con mang chiếc cặp xuống phòng bảo vệ.
Nhìn thấy hai mẹ con bước vào, bác bảo vệ ngạc nhiên:
- Cô tìm tôi?
Thùy gật đầu chào rồi khẽ nói:
- Dạ, con bé nhà cháu nhặt được cái cặp này không biết của ai. Cháu xin gửi ở đây, nếu có ai nhìn thì bác vui lòng giúp cháu gửi lại cho họ, cháu cảm ơn bác thật nhiều!
Bác bảo vệ tươi cười:
- Có gì đâu cô, cô cứ để đây, nếu ai mất tôi sẽ gửi lại ngay!
- Dạ, cháu cảm ơn bác!
Thùy chào bác bảo vệ xong, vừa định quay ra thì bé An níu tay cô lại. Con bé lễ phép nói:
- Thưa ông, nếu không ai mất cái cặp này thì con có thể nhận trở về không ạ?
Bác bảo vệ xoa đầu con bé, cười thật tươi:
- Tất nhiên! Tất nhiên! Con cứ để đây ít hôm, ông thông báo ai mất đến nhận, nếu không ai nhận thì nó sẽ lại trở về với con thôi, con gái ạ!
Bé An sung sướng quay sang Thùy:
- Thế nào con cũng sẽ lấy lại cái cặp đó! Vì không ai làm mất đâu, đúng là của bạn Yên mà!
Thùy không nói gì, chỉ kéo tay con ra đường và rồi hai mẹ con tung tăng đi dạo phố.
Từ hôm đó, chiều nào bé An cũng chạy xuống phòng bảo vệ để hỏi tình hình cái cặp.
Một tuần trôi qua, một buổi chiều, sau khi xuống phòng bảo vệ trở lên, mặt mày con bé bí xị trông rất tội nghiệp.
Thùy tò mò:
- Có người nhận cái cặp rồi phải không con?
Bé An gật đầu:
- Dạ, bác bảo vệ nói rằng đã có người nhận, nhưng con biết bác ấy nói dối!
Thùy trừng mắt nhìn con, rầy:
- Sao con dám nói vậy? Bác lớn tuổi rồi, sao con dám bảo bác nói dối con? Không được như vậy nhe chưa?
Bé An xịu mặt:
- Tại vì con biết chắc không có ai mất cái cặp đó hết! Bạn Yên nói với con rồi, cái cặp đó là của mẹ bạn mua cho bạn để bạn đi học. Nhưng bây giờ bạn Yên không đi học nữa nên cho lại cho con.
Thùy thấy con bé lại nhắc nhở bạn Yên nào đó một cách thân tình, gần gũi quá, cô lại bắt đầu lo và tìm cách lãng qua chuyện khác.
Nhưng tối đó, lúc đem rác đi đổ, Thùy vô cùng sửng sốt khi thấy chiếc cặp đó nằm trong thùng rác chung của chung cư chứ không phải đã được trao trả cho người mất như lời ông bảo vệ đã nói.
Thùy bắt đầu cảm thấy có điều gì đó không ổn ở đây, nhưng thật sự cô không thể lý giải được.
Hơn lúc nào hết Thùy mong mỏi Mai về nhanh lên để cô được Mai tư vấn phải giải quyết chuyện này như thế nào.
Mặc dù cả hai bằng tuổi nhau, nhưng Mai có vẻ mạnh mẽ và quyết đoán hơn Thùy nhiều.
Đổ rác xong, trở lên nhà, Thùy giấu biệt chuyện trông thấy cái cặp vì không muốn cho bé An nhắc đến người bạn vô hình của nó nữa. Thế nhưng nó vẫn nhắc. Nó kể cho Thùy nghe, những lúc cô vắng nhà, nó với bạn Yên chơi đùa ra sao, học hành thế nào… y như thật!
Thùy nghiêm mặt lại:
- Mẹ dặn con điều này, từ nay, mẹ không muốn con nói chuyện với bạn Yên đó nữa, con nghe lời mẹ không?
Bé An ngạc nhiên:
- Sao mẹ không cho con chơi với bạn? Bạn tốt với con lắm mà?
- Mẹ không nói bạn xấu, nhưng mẹ không muốn con nói chuyện với bạn nữa! Lý do thì sau này khi con lớn thêm chút nữa mẹ sẽ giải thích với con. Bây giờ mẹ yêu cầu con thực hiện điều đó, con có làm được không? Ngày mai con bắt đầu đi học rồi, mẹ không muốn con chơi đùa suốt ngày nữa đâu!
Thùy nói như muốn hụt hơi. Cô không biết viện ra lý do gì để cấm con gái không được chơi với người bạn vô hình đó nữa, nên đành phải lập luận như thế.
Bé An rưng rưng nước mắt:
- Dạ, con nghe lời mẹ!
Thùy xoa đầu con:
- Ừ, vậy mới là con gái ngoan của mẹ chứ! Thôi, con dọn dẹp đồ chơi đi, mẹ tắm xong rồi dọn cơm mẹ con mình cùng ăn nhe con?
Thùy vừa mới đứng lên định lấy áo quần vào nhà tắm thì bỗng nhiên nước từ trong phòng tắm tràn ra ào ạt, mới chớp mắt mà đã lan ra hết cả căn phòng, ngập hơn mắt cá chân.
Hoảng hốt, Thùy chạy vội vào nhà tắm thì trông thấy tất cả các vòi nước trong đó đều mở hết cỡ, nước đang tuôn chảy ào ào. Cô vội vã nhào tới, khóa vòi nước lại, sức nước đang chảy mạnh gặp bàn tay Thùy cản lại nên bắn tung tóe, ướt hết cả người cô.
Chừng khóa xong hết các vòi nước thì cả người Thùy từ đầu tóc trở xuống đều loi ngoi những nước. Cô vừa vuốt dòng nước chảy tràn trên mặt, vừa nhìn ngó khắp phòng tắm, không hiểu lý do gì tất cả các vòi nước, kể cả vòi sen đều tự động mở? Thường ngày, nước lại không chảy mạnh được như thế bao giờ?
Nhưng rồi Thùy cũng chẳng có thời gian để đứng đó ngẫm nghĩ, cô xắn cao ống quần bắt tay vào việc quét dọn toàn bộ căn phòng.
Bé An đã tót lên giường từ lâu, nó ngồi im, mặt mày phụng phịu, len lén nhìn mẹ rồi nhìn sang bên cạnh.
- Con làm gì đó An?
Thùy hỏi khi thấy con cứ nhìn sang bên mãi.
- Mẹ dặn con không được nói chuyện với bạn Yên, nhưng bạn ấy cứ tới nói chuyện với con hoài!
Đang bực mình, nghe con nói vậy, Thùy gắt lên:
- Từ nay, chẳng những con không được nói chuyện với bạn Yên, mà con còn không được nhắc tới tên bạn ấy nữa, nghe không?
Con bé ngơ ngác nhìn mẹ. Nó chẳng hiểu sao bỗng nhiên người mẹ vốn dịu dàng của nó lại bất ngờ giận dữ như vậy? Trong thâm tâm bé An, nó không chấp nhận những câu mẹ nói, vì nó thấy bạn Yên đâu có làm gì khiến mẹ phải ghét bạn ấy đến vậy?
Những lúc mẹ vắng nhà, chính bạn Yên là người bầu bạn, là người đem lại cho nó nguồn vui, thế mà chẳng hiểu sao mẹ lại ngăn cấm? Dù rất muốn phản kháng, tuy nhiên bé An vốn là một đứa bé ngoan nên nó vẫn cúi đầu tuân theo lời dạy bảo của mẹ.
Thùy nhìn căn nhà lênh láng nước, nhìn đứa con gái bé nhỏ đang giận dỗi ngồi co ro trên giường, nỗi tủi cực trong lòng cô bỗng nhiên trào lên khiến cô không cầm được nước mắt và những lời thổn thức.
Thấy mẹ bậc khóc, bé An lýnh quýnh, nó cứ nghĩ mẹ khóc là do nó không ngoan, không chịu nghe lời mẹ. Con bé bất chấp nước ngập dưới chân, bất chấp cả người mẹ nó đang sũng nước, nó chạy ào tới bên mẹ, ôm lấy cánh tay mẹ:
- Mẹ ơi, mẹ đừng khóc nữa, mẹ đừng buồn nữa, từ nay con sẽ nghe lời mẹ, con sẽ không nói chuyện, không nhắc đến… bạn ấy nữa! Mẹ đừng giận con, nghe mẹ!
Thùy vứt cây chổi đang cầm trên tay xuống sàn nhà, cô ôm chầm lấy đứa con bé bỏng, dụi mặt vào mái tóc thơm mùi thơ ấu của nó mà đè nén những cảm xúc đang dậy sóng trong lòng.
****
Bé An đã bắt đầu đến lớp nên Thùy cũng đỡ lo hơn.
Sáng sớm cô thức dậy nấu nướng, hai mẹ con ăn sáng xong là Thùy chở con đến trường rồi tới cơ quan làm việc. Trưa, bé An ăn ngủ tại trường, Thùy lang thang đâu đó ăn cơm bụi một mình hoặc ăn cùng một vài đồng nghiệp. Chiều về, cô ghé chợ mua thức ăn rồi đón con bé về nhà.
Cuộc sống của hai mẹ con cứ trôi đi bình thản như thế. Thỉnh thoảng Mai đến chơi, và đó là những lúc trong căn phòng của Thuỳ vang lên những tiếng cười giòn giã.
Thế nhưng công việc của Mai quá nhiều, cô lại nặng nợ gia đình, phải lo cho em cho cháu, nên thời gian Mai đến với mẹ con Thùy cũng không được bao nhiêu.
Từ sau khi hứa với mẹ không nói chuyện, không nhắc nhở gì tới bạn Yên, những lúc ở nhà Thùy thấy con bé có vẻ lạ lắm.
Có những trưa, Thùy nằm đọc sách, nhìn sang thấy con giống như đang giằng co, xô đẩy với một người nào đó khiến cô đôi lúc phải rùng mình. Nhưng ngoài những biểu hiện đó, tất cả đều rất bình thường nên Thùy cũng tự an ủi rằng nó vẫn chưa thôi tưởng tượng.

Một thời gian sau, Thùy phải đi công tác ở tỉnh xa một tuần lễ, lúc đó Mai cũng đang vắng mặt ở thành phố vì đang tháp tùng sếp đi nước ngoài. Thùy lo lắng thật sự, không biết gởi con bé cho ai chăm sóc. Nhưng thật may mắn, khi biết được hoàn cảnh đơn chiếc của mẹ con Thùy, cô giáo phụ trách lớp bé An nói:
- Chị yên tâm, giao bé An cho em đi! Trong lúc chị vắng mặt, em sẽ đưa bé về nhà em sống tạm.
Được lời như bắt được vàng, Thùy mừng rỡ dặn dò con, soạn đồ đạc cho con rồi đưa nó tới ở nhờ nhà cô giáo.
Cô giáo có một đứa con gái, nhỏ hơn bé An hai tuổi, hai đứa nhanh chóng kết thân với nhau nên cả cô giáo và Thùy đều thấy an lòng.
Đi công tác về vùng sâu vùng xa, các phương tiện liên lạc đều rất khó khăn. Muốn gọi điện về thành phố để thăm hỏi con, mỗi ngày Thùy phải vượt qua mấy cây số đường sông mới tới được trạm liên lạc, bởi vậy, ở đây chỉ cô gọi về chứ hoàn toàn không thể nhận được thông tin từ phía con gái.
Trong khi đó ở Sài Gòn, tại lớp học của mình, bé An gây ra một điều hệ trọng.
Trong giờ tập vẽ, cô giáo cho cả lớp vẽ lại cái bình hoa to tướng cô đang để làm mẫu trên bàn.
Bé An là đứa có hoa tay, có năng khiếu hội hoạ, bài tập vẽ nào của bé cũng đạt điểm rất cao.
Thế nhưng hôm ấy, sau khi cô giáo ra đề, cả lớp cắm cúi vào tờ giấy trắng tinh đang bày ra trước mặt mình, phát họa lên đó dần dần những nét chì, những màu sắc.
Bé An lúc đầu cũng thế, nhưng chỉ một lát sau, cô giáo để ý thấy tay cầm viết của em cứ liên tục nghoạch lung tung trên tờ giấy.
- Con làm gì thế này?
Cô giằng tờ giấy trên tay An ra, đưa lên cao. Trên tờ giất là những đường gạch lung tung ngang dọc như người ta thường làm khi thử bút trước khi mua.
Cả lớp cười ồ lên trong khi An mếu máo.
Cô nghiêm mặt trách:
- Hôm nay con bị làm sao vậy? Lấy tờ giấy khác và bắt đầu vẽ lại đi!
Bé An riu ríu làm theo lời cô bảo. Bé mở tập lấy ra một tờ giấy khác, và trải lên bàn đúng theo hướng dẫn của cô. Cây viết trong tay bé An cẩn thận tô vẽ những đường cong của chiếc bình hoa đang để làm mẫu trên bàn.
Hài lòng, cô giáo vừa quay đi thì nghe tiếng cười khúc khích của đứa bạn ngồi cạnh bên An. Cô quay lại, thật bất ngờ, trên trang giấy trước mặt An lại là những đường gạch xóa lung tung, bàn tay An vẫn còn liên tục nghuệch ngoạc những đường gạch xóa trên trang giấy.
Tức giận, cô giáo lớn tiếng:
- Tại sao con không vẽ mà lại quệt quạc như thế? Con thật cứng đầu!
Cô giáo vừa dứt tiếng, bé An khóc òa lên:
- Không phải tại con! Cô ơi, bạn Yên đẩy tay con chứ không phải tại con!
- Bạn Yên? Bạn Yên nào?
Cô giắo thắc mắc.
Bé An tức tửi nói:
- Bạn An ở gần nhà con. Mẹ cấm con không được chơi, không được nói chuyện với bạn ấy, nhưng bạn ấy cứ đeo theo bắt con nói chuyện hòai, con không nói thì bạn ấy không cho con học, còn nếu con nói thì mẹ con sẽ buồn, sẽ khóc!
Cô giáo và cả lớp cùng ngẩn ra trước những lời kể của bé An. Một lúc sau, cả lớp cười ồ lên chế nhạo, riêng cô giáo lại thấy lo lắng vô cùng.
Mấy hôm nay ở nhà cô, thỉnh thoảng cô cũng nhận thấy bé An có những dấu hiệu lạ như thường xô đẩy, giằng co và nói chuyện một mình, nhưng cô chỉ nghĩ đơn giản nó là con nít, thì chuyện lẩm bẩm, đùa giỡn một mình cũng không có gì đáng quan tâm, thế nhưng trước sự việc này, thì rõ ràng con bé có vấn đề gì đó ở thần kinh, cần phải điều trị kịp thời mới được.
Trưa hôm đó, cô giáo cố gắng liên lạc với Thùy nhưng hoàn toàn không được. Cô đành phải gọi điện cho ba bé An và nói sơ qua về hoàn cảnh cũng như triệu chứng bệnh của bé An.
Vừa nghe xong cuộc điện thoại của cô giáo, Tùng hấp tấp dẹp bỏ hết công việc đang còn ngổn ngang ở công ty để bay gấp rút vào Sài Gòn.
Gặp mặt con, Tùng có vẻ yên tâm hơn lúc còn ngồi trên máy bay. Lúc đó anh cứ tưởng tượng ra cảnh con gái gầy ốm xanh xao, nhưng đứng trước mặt anh lúc này vẫn là đứa con gái mũm mĩm xinh xắn của anh ngày nào.
Gặp ba, bé An mừng lắm, nó vẫn chưa biết gì về sự rạn nứt của gia đình mình:
- Ba ơi, ba vào đây với mẹ và con phải không ba? Con nhớ ba quá, mẹ cũng nhớ ba nữa… Con thấy tối nào mẹ cũng khóc…
Tùng chạnh lòng khi nghe câu nói vô tình của con trẻ. Anh ôm bé An vào lòng mà cảm thấy thật xót xa.
Thật sự anh vẫn còn yêu thương Thùy nhiều lắm. Chỉ vì một lần nông nổi, anh đã đến với cô gái khác để tìm vui và không cách nào rứt ra được nữa khi cô ấy báo tin đã có thai với anh rồi!
Lúc Thùy quyết định dẫn bé An ra đi, Tùng không kiên quyết ngăn cản, không phải vì anh muốn cô ra đi mà là Tùng biết, nếu còn ở lại đó Thùy sẽ rất đau khổ. Anh muốn cô được nguôi đi trong khoảng thời gian hai người xa cách. Anh muốn những lúc anh phải lo cho người phụ nữ kia trong khi sinh nở Thùy sẽ đỡ tổn thương khi mỗi ngày phải chứng kiến chồng mình chăm lo cho người khác.
Tuyệt nhiên trong lòng Tùng không bao giờ nghĩ tới chuyện ly hôn. Với anh, Thùy là mối tình đầu tuyệt đẹp, Thùy là người vợ hiền mà anh luôn trân trọng, thương yêu.
Tùng xin phép cô giáo đón bé An về khách sạn với anh. Bé An vui lắm, nhưng nó cứ tiếc nuối vì lúc đi mẹ không để lại chìa khóa, chứ nếu không bây giờ có ba, ba sẽ về nhà sửa lại các vòi nước cho mẹ, để mẹ không phải vất vả như hôm vừa rồi.
Nghe con gái kể lại cuộc sống của hai mẹ con những ngày vừa qua, Tùng rất khổ tâm, anh nghĩ sau chuyến đi này, nhát định sẽ phải tìm ra được một cách nào đó để giải quyết tất cả mọi chuyện, để đón mẹ con Thùy trở lại bên anh. Cả gia đình anh sẽ lại sống những ngày ấm êm hạnh phúc.
Sau khi đã dắt con đi ăn và dọn dẹp xong hành lý, Tùng bắt đầu dò hỏi tới chuyện người bạn trong tưởng tưởng của con.
Bé An hồn nhiên kể cho cha nghe tất cả, những lúc mẹ vắng nhà bạn Yên đã tới chơi đùa với con ra sao, bạn tặng con những gì, mẹ cấm đoán thế nào… An đem ra kể hết.
Tùng hoàn toàn không hiểu gì hết! Tại sao Thùy lại cấm con chơi với bạn? Đứa bé đó không tốt? Không, theo lời kể của bé An thì đứa bạn tên Yên của nó cũng là một đứa bé ngoan đấy chứ! Vậy thì tại sao Thùy lại ngăn cấm? Chắc phải có một nguyên nhân nào đây, chứ Thùy không phải là người bốc đồng nông nổi.
Tùng nghĩ, từ việc bị mẹ cấm đoán, bé An đã nảy sinh sự chống đối ngầm nên mới nghĩ ra việc bạn Yên đẩy tay không cho nó viết. Anh không còn lo lắng như lúc mới nghe cô giáo gọi điện, bây giờ điều anh quan tâm nhất là cuộc sống của mẹ con Thùy.
Ba ngày liên tục, sáng Tùng đưa con đến trường, chiều đón nó về khách sạn. Việc Tùng vào Sài Gòn Thùy đã biết vì hôm trước Thùy gọi điện về nhà cô giáo thăm con thì được cô giáo kể cho nghe mọi chuyện.
Vô cùng lo lắng cho tình trạng bất ổn của con gái, Thùy gấp rút hoàn thành nhiệm vụ và kết thúc chuyến công tác sớm hơn dự định.
Vừa về tới Sài Gòn, Thùy vội vã tìm tới khách sạn, nơi bé An đang ở cùng cha.
Thùy và Tùng gặp lại nhau sau hơn một tháng trời xa cách, lòng ai cũng rưng rưng nhưng ngoài mặt vẫn giữ vẻ bình thường.
Tùng hỏi thăm Thùy một số việc về công việc của cô ở cơ quan và sinh hoạt hàng ngày của hai mẹ con.
- Anh yên tâm đi, mẹ con em sống rất thoải mái! Bé An cũng đã nhanh chóng thích nghi với môi trường mới rồi.
Thùy nói.
Tùng đắn đo một chút rồi đề nghị:
- Em cho phép anh đưa hai mẹ con về nhà để biết nơi em sinh sống?
Thùy khe khẽ gật đầu mà phải ráng nuốt nước mắt vào tim.
Tại sao Tùng phải xin phép đưa mẹ con cô về để biết nơi sinh sống? Tại sao nơi cô sinh sống không phải là mái nhà đầm ấm mấy năm qua? Tại sao mẹ con cô phải trôi dạt vào đây sống cảnh bơ vơ lạc lõng?...
Lúc Thùy vừa mở cửa phòng, cả ba người đều sửng sốt trước cảnh tượng nước ngập lênh láng cả nhà, mực nước hôm nay còn cao hơn hôm trước rất nhiều.
Thùy quăng vội túi xách lên bàn, chạy vội vào nhà tắm thì thấy các vòi nước vẫn còn được khóa kín.
Cô lại chạy ra ngoài xem xét. Thì ra nước tràn từ căn phòng bỏ trống bên cạnh.
Thùy vừa xô nhẹ thì cánh cửa căn phòng đó bật mở ra, cô và Tùng cùng nhào vào một lúc. Cả hai ra sức tìm các vòi nước để vặn khóa lại.
Nước ngập lênh láng, áo quần hai người đều ướt sũng.
Khi thấy cha mẹ về nhà trong tình trạng ướt như chuột lột như thế, bé An bật cười giòn giã. Lâu lắm rồi, từ ngày vào đây Thùy mới lại nghe được tiếng cười đó của con.
Cô khẽ liếc nhìn Tùng, anh cũng có vẻ bối rối không ít.
Quần áo ướt hết, trong nhà Thùy lại không có đồ đạc của đàn ông nên cuối cùng Tùng phải bằng lòng cho Thùy về khách sạn lấy đồ cho anh thay.
Khi mở chiếc va li của chồng, Thùy không ngăn được dòng nước mắt. Trước đây, mỗi lần anh đi công tác, cô chính là người sắp xếp mọi thứ cần dùng vào đây cho anh. Bây giờ… tất cả đã xa, tất cả đã trở thành dĩ vãng…
Tùng lưu lại Sài Gòn thêm hai ngày nữa rồi mới chịu quay về Nha Trang. Trong hai ngày đó, anh luôn quan tâm lo lắng cho mẹ con Thùy. Đôi lúc Thùy muốn kể với Tùng về mối lo sợ của cô đối với đứa bạn tên Yên vô hình nào đó của con gái, nhưng rồi cô lại không dám kể. Cô sợ Tùng nghĩ mình bịa ra chuyện như vậy để níu kéo anh. Chính vì thế, khi Tùng đề cập tới chuyện đó, Thùy chỉ trả lời qua quýt cho xuôi.
Nhưng khi Tùng về rồi, Thùy bắt đầu suy nghĩ cặn kẽ từng sự việc và càng thêm lo lắng.
Chiều hôm đó hai vợ chồng nhà bên cạnh vừa về sau chuyến đi thăm con gái ở Bình Dương hai hôm. Thùy lân la sang chơi, rồi giả vờ hỏi thăm:
- Ở chung cư mình có đứa bé nào cỡ tuổi với con bé nhà cháu không hở hai bác? Cháu thấy con bé một mình tội quá, muốn cho nó có bạn chơi cùng.
Người đàn bà ngước nhìn Thùy:
- Trước đây mấy tháng, căn nhà bỏ trống cạnh bên phòng cô, cặp vợ chồng đó cũng có một đứa con gái trạc tuổi bé An, cũng dễ thương lắm! Nhưng con nhỏ thật tội, hai vợ chồng đó không thương yêu nhau, ngày nào cũng chửi bới, mắng nhiếc nhau ỏm tỏi. Bởi thế những người sống ở đây đều xa lánh gia đình họ. Con bé thui thủi một mình, nghe đâu cha mẹ nó định chia tay mà chẳng ai chịu nuôi con bé. Rồi chẳng biết sao họ lại dọn đi âm thầm thế nữa. Ban đầu là anh chồng bỏ đi biệt hơn tuần, sau đó đến cô vợ, cả hai đi mất, bỏ lại con bé một mình, chúng tôi phải đem cơm qua cho nó ăn tạm. Nhưng có lẽ đêm đó mẹ cha nó về đón nó hay sao ấy, sáng lại không ai thấy con bé đâu nữa. Từ lúc con bé dọn đi, ở đây chẳng có thêm đứa trẻ nào, bé An là duy nhất đấy!
Người đàn ông chủ nhà chép miệng góp lời:
- Tội nghiệp con bé kia, tên Bình Yên mà chẳng thấy yên bình gì cả!
Thùy giật thót người, hỏi lại:
- Sao? Bác… bác nói con bé đó tên là Bình Yên à?
Người đàn ông ngạc nhiên:
- Ừ, có gì không cháu? Cháu biết nó à?
Thùy vộ lắc đầu:
- Dạ không, không… chỉ là cháu thấy thương cho đứa bé!
-  Con bé rất tội nghiệp!
Người đàn ông nói tiếp câu nữa rồi châm thuốc hút. Thùy nói vài câu bâng quơ rồi cũng đứng lên ra về.
Tới phòng mình, cô nằm vật ra giường nghĩ ngợi lung tung.
Trong căn phòng nhỏ bên cạnh, bé An đang chăm chỉ ôn bài.
Lát sau Thùy gọi:
- Đi tắm đi con gái, mẹ nấu cơm! Tắm xong mẹ con ta ăn cơm sớm rồi mẹ chở con tới nhà Mai. Hôm nay dì Mai về tới rồi đó!
Nghe nói được tới chơi với dì Mai bé An thích lắm. Nó đã mến Mai lắm rồi.
Bé An xếp dọn tập vở ngay ngắn trên bàn rồi ôm áo quần chạy vào phòng tắm.
Thùy ngồi dậy bắt tay vào nấu bữa cơm chiều.
Thùy đang nấu cơm thì có điện thoại từ công ty gọi tới, cô vừa nấu nướng, vừa nghe và trả lời điện thoại. Lúc ấy, bé An từ trong phòng tắm bước ra, trùm chiếc khăn tắm màu trắng trên đầu và ngồi im trên giường.
Thùy đi đến bên con, một tay cầm điện thoại, một tay cô cầm lấy chiếc khăn xoa xoa lên đầu con gái để lau khô mái tóc cho nó. Đến lúc cô nâng mặt đứa bé lên để lau thì… cô rụng rời cả chân tay, chiếc điện thoại rơi nhanh xuống đất! Bởi vì… đứa bé đó hoàn toàn xa lạ, hoàn toàn không phải bé An!
Vừa thoáng một cái, Thùy đã không còn thấy đứa bé nữa, cô hoang mang chạy vội vào phòng tắm thì thấy bé An vẫn còn đang ngâm mình trong bồn tắm, hai bàn tay huơ huơ đù nghịch với đám bọt xà phòng.
Thùy lùi ra, ngồi phịch xuống giường thở dốc. Cô dụi mắt mấy lần rồi ngơ ngác ngó quanh. Căn phòng vẫn không có gì lạ, vẫn không có thêm một bóng người nào.
Chẳng lẽ mấy hôm nay mình quá căng thẳng đầu óc nên sinh ra ảo tưởng? Thùy thầm hỏi nhưng cô vẫn rất lo sợ vì cái cảm giác lúc nãy là rất thật, không giống như một giấc mơ.
Bất chợt nhớ tới nồi canh đang sôi trào trên bếp, Thùy vội vã đứng lên chạy vào.
Vừa quay ra, đứa bé lạ hoắc kia lại hiện ra rõ ràng trước mặt. Trên người nó vẫn còn choàng chiếc khăn tắm giống y như của bé An.
Thùy đánh bạo run giọng hỏi:
- Con… con là ai?
Đứa bé cười rất tươi, nó với tới nắm lấy tay Thùy:
- Con là Bình Yên! Con muốn mẹ là mẹ của con!
Một cảm giác giá lạnh thấm nhanh vào cơ thể Thùy khiến cô rùng mình liên tiếp mấy cái.
- Mẹ là mẹ của con, nhe mẹ?
Đứa bé lắc lắc cánh tay Thùy, nài nỉ.
Thùy cố rút tay mình ra khỏi tay đứa bé nhưng không được, mặc dù thoáng nhìn thì nó chỉ nắm hờ trên cổ tay cô thôi.
- Không được… con có ba mẹ của con! Cô… không thể…
Thùy khó khăn lắm mới thốt lên được câu nói đó.
Đứa bé thất vọng buông tay Thùy ra. Nó ngước nhìn Thùy bằng ánh mắt buồn thảm khó có được ở lứa tuổi này:
- Ba mẹ con không cần con! Con muốn mẹ là mẹ của con…
Thùy lùi dần tới cửa phòng tắm với ý nghĩ sẽ bảo vệ bé An đang ở trong đó. Nhưng Bình An không có vẻ muốn làm hại ai, con bé đứng im giữa nhà nhìn theo Thùy một cách tuyệt vọng.
Trong thâm tâm, Thùy thấy con bé thật tội nghịêp, nhưng cô không dám có những cử chỉ thân thiết, trìu mến với nó, vì cô có cảm giác nó không phải là một con người.
- Con… làm sao con vào đây được?
Thùy lắp bắp hỏi.
Bình An cúi đầu, buồn bã nói:
- Con luôn ở đây…
Thùy sửng sốt khi nghe con bé nói thế, cô vừa định cất tiếng hỏi thêm thì con bé đã biến đâu mất, không còn để lại một dấu vết gì!
Mồ hôi ướt đẫm cả lưng áo, Thùy vội vã xô cửa phòng tắm gọi bé An ra. Bé An đang lụng thụng trong chiếc áo ngủ mới tinh mà ba nó vừa mua cho hôm qua.
Thùy mừng rỡ, sung sướng ôm chặt con vào lòng, nước mắt tràn ra nhưng cô cố giấu không để con trông thấy.
Dẫn con ra ngoài, Thùy giúp nó lau thật khô mái tóc mà lòng cô lại nghĩ tới chuyện vừa rồi.
Bất chợt bé An chỉ tay lên nóc nhà và nói:
- Mẹ ơi, nước lại tràn trên nóc nhà mình kìa!
Nhìn theo tay con, Thùy thấy rõ ràng vết nước cứ loang dần trên mái, ngày một rộng ra. Mấy hôm nay trời không mưa, nước ở đâu lại thấm vào được chứ?
Thùy tò mò. Cô bắc ghế trèo lên trên quan sát.
Phía trên nhà cô còn một tầng nữa. Nhưng trên đấy không có người ở hay phòng ốc gì, mà trên đó chỉ là một sân thượng nhỏ.
Thùy lần theo cái cầu thang tối thui bước dần lên đó.
Hình như lâu lắm rồi không có ai lên đây, thế nên thang lầu thì bẩn thỉu, tối om om, trên sân thượng đầy những phân chim và rơm rác.
Thùy giật thót cả người khi trông thấy chiếc cặp đỏ có dòng chữ Hello Kitty dạo trước đang nằm chơ vơ một góc, dưới chân một bồn nước cao.
Trên mặt sân thượng hoàn toàn khô ráo.
Hồi hộp, thắc mắc và lo sợ, Thùy trở xuống phòng mình. Trên mái lúc này nước đã loang rộng và có vẻ như từng giọt nước đang sắp rơi xuống giữa nhà.
Thùy vội vã chạy xuống phòng bảo vệ để nhờ bác ấy báo cho Ban quản lý chung cư.
Rất may, khi tới phòng bảo vệ Thùy gặp người quản lý đang đứng đó, thế là cô nhanh chóng dẫn người đó lên phòng mình.
Bước vào phòng, Thùy chỉ tay lên mái nhà để chứng minh cho những lời nói của mình khi nãy, thì lạ lùng thay, mái nhà vẫn sạch sẽ, khô ráo bình thường.
Thùy ngớ người ra không biết giải thích làm sao với người quản lý. Cô ngắc ngứ mấy câu trong miệng. Người quản lý nhìn cô dò hỏi rồi lẳng lặng quay trở xuống.
Thùy hỏi bé An:
- Con thấy mái nhà mình còn nước không con?
Bé An ngây thơ:
- Dạ hết rồi! Mẹ biểu mấy chú sửa lại rồi phải không mẹ?
Thùy ôm đầu khổ sở. Cô không biết cái gì đang diễn ra trong nhà mình những lúc gần đây?
Suốt những ngày sau đó mặc dù công việc dồn dập, nhưng lúc nào Thùy cũng cảm thấy bất an. Cô có cảm giác đứa bé đó lúc nào cũng hiện diện bên cạnh mẹ con cô.
Chắc mình phải dời nhà đi chỗ khác thôi! Ý nghĩ đó đã bắt đầu xuất hiện trong Thùy.
Cô gọi điện cho Mai, nhưng Mai đang chuẩn bị một buổi họp quan trọng sắp tới, nên hai người chỉ nói vội vã mấy câu, Thùy cũng không tiện kể cho bạn nghe tất cả.
Cô dự định nay mai sẽ kể hết với Mai và nhờ Mai tìm giúp cho mẹ con cô nơi ở mới.
Chiều hôm đó, giữa lúc bé An đang tắm và Thùy đứng nấu nướng trong bếp như thường ngày, thì bé Yên lại xuất hiện.
Lần này nó mặc một chiếc áo đầm thật đẹp, nhưng mái tóc lại được cột một cách vụng về.
- Con muốn mẹ là mẹ của con!
Con bé vẫn lặp lại câu nói cũ.
Thùy run rẩy hỏi:
- Thế ba mẹ con đâu? Con nói thật cho cô biết đi…
Con bé cất giọng buồn bã:
- Ngày trước gia đình con sống ở căn phòng sát bên cạnh phòng này. Nhưng cả ba và mẹ con đều không cần con. Ba con bỏ đi, muốn giao con cho mẹ, nhưng rồi mẹ con cũng đi sau khi nhắn người quen bảo ba về dắt con theo. Cả ba và mẹ không ai muốn nuôi con, người này đùn đẩy cho người kia, người này cứ tưởng người kia dắt con theo, rốt cuộc họ bỏ con lại một mình ở đây. Ngày đầu tiên, con được mấy người láng giềng cho ăn cơm. Ở nhà một mình buồn quá, con mang chiếc cặp lên sân thượng chơi. Sau đó… con để chiếc cặp dưới chân bồn nước rồi trèo lên đó xem thẻ có gì bên trong cái bồn to đùng ấy. Cuối cùng… cuối cùng con bị rơi xuống đó… Đến tận hôm nay vẫn chưa có ai phát hiện ra…
Nghe đứa bé kể tới đâu mồ hôi Thùy toát ra tới đó.
- Con muốn mẹ là mẹ của con! Con muốn được mẹ yêu thương như bạn An, con muốn mẹ…
Đứa bé vẫn luôn miệng nói leo lẻo.
Thùy thở gấp gáp:
- Con… con để cô tính lại…
- Con muốn cô là mẹ của con!
Đứa bé lặp lại lần nữa bằng giọng quả quyết.
Thùy chưa kịp phản đối thì nóp đã biến đi đâu mất.
Thùy vùng lên chộp lấy cái điện thoại để trên bàn:
- A lô, Mai ơi! Mai ơi… mình sợ quá!
Tiếng Mai bên kia đầu giây đầy lo lắng:
- Có chuyện gì thế? Mình sẽ tới ngay!
Mai nói vậy nhưng Thùy vẫn không chịu buông điện thoại, cô cuống quýt kể lại với Mai:
- Mai ơi, bạn không thể ngờ được đâu! Trong nhà mình có ma! Đứa bé đó trước kia sống trong căn phòng bỏ trống bên cạnh phòng mình. Ba mẹ nó bỏ đi không ai dắt theo nó vì người này cứ tưởng người kia sẽ dẫn nó theo. Con bé trèo lên sân thượng, trèo lên bồn nước rồi rơi xuống chết chìm trong đó, bây giờ… bây giờ nó muốn mình làm mẹ nó, Mai ơi! Mình lo sợ quá!
Thùy vừa kể đến đó thì nghe tiếng quẫy đạp trong phòng tắm, cô hoảng hốt vứt điện thoại lên bàn rồi chạy vào.
Trong phòng tắm, Bình Yên đang cố dìm bé An xuống bồn tắm đầy nước, bé An ra sức vùng vẫy nhưng vẫn bị uống nước sặc sụa.
Thùy nhào tới kéo tay Bình Yên:
- Con tha cho bạn! Con ơi, con tha cho bạn đi…
Bình Yên quay lại nhìn Thùy, lạnh lùng nói:
- Con không cần nó! Con cần mẹ là mẹ của con! Con không cần nó!
Thùy nói như đang mê sảng:
- Được rồi! Mẹ sẽ là mẹ của con, con buông tay, bỏ bạn An ra đi! Mẹ sẽ là mẹ của con…
Bình Yên cười vang lên rồi bỏ tay ra.
Bé An mệt lả người, lồm cồm bò dậy bước ra khỏi bồn tắm.
Thùy đẩy bé An ra nhà ngoài, dặn với theo con gái:
- Lau khô người, mặc áo quần vào nhanh kẻo lạnh nghen con!
Thùy nói vừa dứt câu, Bình Yên đã nhào tới ôm chặt lấy cô:
- Mẹ! Từ nay con có mẹ rồi! Con thương mẹ lắm mẹ ơi!
Thùy mơ màng:
- Ừ, mẹ cũng rất thương con, con gái ạ!
- Mình về nhà mình nhe mẹ?
Bình Yên nắm tay Thùy lắc nhẹ.
Thùy gật đầu:
- Ừ, mình về… Về nhà mình… Về nhà mình…!
Bình Yên nắm tay Thùy kéo cô lại gần bồn tắm.
Bình Yên bước vào bồn tắm, đưa tay vẫy Thùy:
- Mẹ! Đi mẹ!
- Ừ, mẹ đi đây…
Thùy lơ đãng trả lời, chân cô đã bước vào bồn nước…
***
- A lô! A lô! Thùy ơi, chuỵên gì vậy Thùy? Chuyện gì? Bạn đâu rồi? A lô!
Mai cuống cuồng lo sợ khi nghe tiếng hét của Thùy vang lên trong điện thoại rồi không nghe Thùy nói thêm gì nữa. Đầu dây bên kia chỉ còn lại tiếng nước tuôn chảy ào ào, nghe như tiếng thác đổ.
Mai vơ vội cái túi xách rồi cắm đầu chạy ra ngoài, mặc cho hai đứa em nhìn theo kinh ngạc.
Mai hấp tấp gõ cửa phòng, bé An mở cửa cho cô, trên mặt nó vẫn còn hằn sâu nét kinh hoàng.
Thế nhưng thấy bé An, Mai thở phào nhẹ nhõm, cô hỏi:
- Mẹ đâu con?
Bé An chỉ tay vào nhà tắm.
Bất giác Mai thoáng rùng mình, cô nhào vô thì trông thấy Thùy nằm sấp trong bồn tắm, không có vẻ gì là còn sống!
Nghe tiếng kêu cứu của Mai, những nhà lân cận và bảo vệ chung cư chạy tới.
Người ta đỡ Thùy lên thì cô đã chết từ lúc nào rồi!
Tùng nhận được tin dữ cùng lúc với việc anh biết ra đứa bé mà cô nhân tình mang trong bụng không phải con anh.
Đau đớn tưởng chừng như không gượng nổi, nhưng Tùng phải gắng gượng bay vào Sài Gòn, vì ở đó còn có bé An, đứa con gái máu mủ ruột thịt của anh đang bơ vơ trong đó, ở đó còn có thân xác của người vợ hiền đáng thương…
Khi nghe Mai kể lại nội dung cuộc nói chuyện giữa cô và Thùy trước khi Thùy chết, mọi người có vẻ không tin, nhưng đến lúc người ta trèo lên bồn nước trên sân thường thì mọi việc được phơi bày: Xác con bé Bình An đang phân hủy trong đó!
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:36:48 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 22:01:17
THAY HỒN ĐỔI XÁC
 
Chiều nào đi làm về, ra khỏi cổng công ty, Lan cũng dừng lại trước một người đàn ông gầy gò ngồi thu lu bên vệ đường, trước mặt ông là một chiếc thau nhôm nhỏ cũ kỷ, trong đó thường nằm chơ vơ một vài tờ tiền lẻ.
Lan mỉm cười với ông rồi cất tiếng hỏi:
- Hôm nay kiếm đỡ không anh?
Người đàn ông mỉm cười đáp lại và có khi gật đầu, có khi lắc đầu để trả lời câu hỏi của Lan, tùy theo tình hình “làm ăn” trong ngày của ông.
Lan không biết người đàn ông tội nghiệp ấy đã chọn nơi đó làm chỗ hành nghề của mình từ bao lâu rồi, chỉ biết hơn một năm trước, khi cô chuyển về đây công tác, ngay ngày đầu tiên cô đã gặp ông ta.
Hôm đó, Lan rời công ty với một đống hồ sơ trên tay, vừa ra khỏi cổng cô đã bị một đám choai choai chạy xe lạng lách đâm sầm vào. Cũng may cô không bị tai nạn gì, chỉ là toàn bộ giấy tờ rơi vãi tứ tung.
Lan hoảng hốt chạy theo nhặt từng tờ giấy một.
Đường phố đông người, nhưng ai cũng thờ ơ đi qua, chỉ riêng người đàn ông ấy là không thế.
Ông ta vội vàng lao ra đường, mặc dòng người xe đang dập dìu xuôi ngược để đuổi theo nhặt giúp Lan những tờ giấy đang bay tản mác khắp nơi.
Đó là số hồ sơ quan trọng mà Lan cần phải nghiên cứu nên cô mới phải mang theo về nhà, dự định sẽ phải thức cả đêm để làm việc.
Nếu mất đi một tờ thì cũng đủ khiến cô xấc bấc xang bang.
Nhờ sự giúp đỡ của người đàn ông ấy, Lan đã thu lại toàn bộ, không thiếu tờ nào.
Lan thở phào nhẹ nhõm, và lúc này cô mới có thời gian nhìn kỹ ông ta.
Đó là một người đàn ông dị tật. Chiếc lưng ông gù lên một cách khổ sở, tay chân thì quều quào, thế mà ông ta lại dám băng ra đường để giúp đỡ cô.
Lan thật xúc động. Cô nói:
- Tôi thành thật cảm ơn anh! Bây giờ anh về đâu, tôi sẽ chở anh về?
Người đàn ông lắc đầu, miệng ú ớ và tay ông chỉ trỏ vào lề đường, nơi có trải một mảnh ni lông nhỏ, và trên đó là một chiếc thau nhôm.
Lòng Lan quặn lại. Thì ra đây là một người ăn mày. Một người ăn mày tàn tật đã không quản ngại đến tính mạng mình, sẵn sàng giúp đỡ người trong lúc khốn khó!
Giữa lúc Lan còn đang đứng bần thần, người đàn ông đã nhúc nhắc bước lên và ngồi lại vào chỗ của mình, trên gương mặt bé choắt của ông vẫn nở một nụ cười như muốn để Lan an lòng mà lên xe về nhà vậy.
Lan ngần ngại, cô nửa muốn mở ví lấy tiền trao cho ông, nửa lại sợ, mình làm vậy là xúc phạm tới người ta. Hành động vừa rồi của người ta đâu phải vì tiền?
Nghĩ tới nghĩ lui, Lan chắc lưỡi rồi chào người đàn ông, cho xe vọt đi.
Được một đoạn, cô dừng lại, gọi một đứa bé bán vé số đến, mua giúp nó mấy tờ rồi nhờ nó đến đưa cho người ăn mày một số tiền, Lan không quên dặn đứa bé đừng nói cho người đó biết ai là người nhờ nó.
Đứa bé chạy tới, đặt số tiền vào chiếc thau nhôm trước mặt người đàn ông rồi vội vàng chạy vụt đi, Lan đứng nhìn theo hài lòng, còn người đàn ông thì đang ngơ ngác vì số tiền đó là quá lớn so với một đứa bé nghèo khổ ấy.
Ông không hiểu sao nó lại đem cho ông số tiền ấy mà không nói một tiếng nào. Ông muốn gọi nó lại hỏi, nhưng những âm thanh phát ra từ miệng ông chỉ là những tiếng ú ớ mà thôi.
Từ đó, thỉnh thoảng Lan lại mang tới cho ông khi thì một ít trái cây, một ít bánh kẹo. Vào những ngày lĩnh lương, không bao giờ Lan quên trích ra một khoản nho nhỏ để biếu ông sau giờ tan sở.
Điều đó đã trở thành một thói quen của Lan và cả người đàn ông đó nữa.
Có lẽ ông ta không lớn hơn Lan bao nhiêu, lớn hơn chừng năm, bảy tuổi là cùng, nhưng vì dãi gió dầm sương và thân hình như thế nên trông như một ông già.
Nhiều hôm rảnh rỗi, Lan thường dừng lại nói chuyện với ông ta lâu hơn. Lan hỏi thăm hoàn cảnh và nơi sinh sống của ông.
Mặc dù không nói được thành lời, nhưng ông cũng đủ khôn khéo diễn tả bằng cử chỉ, và do tiếp hàng ngày nên Lan cũng có thể đoán ra được những điều ông muốn nói.
Biết ông sinh sống dưới một gầm cầu gần đó, Lan về nhà lấy cho ông một chiếc mền và một cái gối, cùng với mấy chiếc áo gió cũ của Tài, chồng Lan đem đến cho ông.
Ông cảm động lắm, đón nhận bằng cả hai tay và rối rít gật đầu cảm tạ lòng tốt của Lan.
Vậy mà chiều nay giữa Lan và người đàn ông đó lại xảy ra một việc quan trọng không thể nào ngờ tới được!
***
Trong chiếc phòng vuông vắn, tiếng máy sưởi chạy rầm rì. Người bảo vệ công ty bận bộ quần áo màu xám, trên vai có huy hiệu của một công ty bảo vệ có uy tín ở thành phố. Chiếc mũ đã được lột ra, bỏ bên cạnh. Ngồi trước mặt ông là một người đàn bà mặt mày bơ phờ, mệt nhọc, đôi mắt dáo dác nhìn ra ngoài như đang tìm kiếm một người nào, trong khi người bảo vệ cầm cây bút ghi ghi, chép chép. Một hồi, ông ta ngẩng đầu lên nhìn người đàn bà:
- Chị nói trước đó chị có nói chuyện nhiều lần với người đàn ông đó phải không?
Người đàn bà tên Lan nói giọng mệt mỏi:
- Phải, tôi có nói chuyện với ông ta rất nhiều lần. Hầu như chiều nào khi tan sở, khi đi qua chỗ ông ta ngồi xin tiền, tôi đều có dừng lại nói một hai câu gì đấy.
- Câu chuyện thường thường kéo dài bao lâu?
Người bảo vệ ngước nhìn Lan.
- Vài phút.
Cô cáu kỉnh trả lời
- Vài phút là bao nhiêu? Năm phút? Mười phút hay mười lăm phút?
Người bảo vệ vẫn cất giọng đều đều.
Lan cau mặt:
- Nói lâu hay mau có gì quan trọng không?
Người bảo vệ nhếch mép:
- Có chứ. Tôi hỏi gì, chị cứ trả lời. Nếu chị nói chuyện thường và nhiều sẽ khiến ông ta cảm thấy thân với chị hơn. Chị có thể kể cho tôi nghe chị quen ông này như thế nào?
- Ai làm việc ở chung quanh đây, cũng đã một đôi lần nói chuyện với ông ta. Tôi chắc anh cũng biết ông ta thường xuyên ngồi ở trước công ty mình. Ngày đầu tiên tôi về đây nhận công tác, tôi đã gặp phải sự cố và chính ông ta là người đã giúp đỡ tôi một cách tận tình. Vì cảm cái ơn đó, đồng thời vì kính nể nhân cách của ông ấy nên tôi luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho ông ta. Ông sống lây lất nhờ lòng thương xót của mọi người. Tôi thấy nghiệp cho hoàn cảnh của ông nên giúp đỡ ông có thể nhiều hơn người khác một chút, thế thôi.
Lan chợt nhớ đôi mắt lèm nhèm của ông nhìn cô một cách hiền lành, trìu mến.
Lan thấy thật tội nghiệp cho ông, ông cô đơn quá. Ông ta không có con cái, không một người thân.
Lan chợt thở dài nhớ tới hoàn cảnh của mình và Tài. Không biết giờ đây anh đang làm gì? Chắc khi thua hết tiền, đời sống của Tài cũng không khác gì mấy với cuộc đời của những kẻ lang thang đầu đường xó chợ.
Tuy giận chồng, nhưng Lan làm sao không nhớ kỷ niệm êm đềm của hai vợ chồng lúc mới lấy nhau. Lan nghe người ta nói, nếu mình giúp cho ai điều gì, người khác sẽ giúp cho người thân của mình như thế đó. Cũng vì điều đó, Lan cành nhiệt tình giúp đỡ người đàn ông ấy, với hy vọng rằng ở đâu đó sẽ có người khác gíup đỡ cho Tài.
Đã hơn hai tháng không nghe tin tức gì của Tài...
Người bảo vệ cắt ngang ý tưởng của Lan:
- Vậy đúng là chị hay nói chuyện với ông ta, chính vì vậy ông ta cảm thấy thân với chị, rồi từ thân, ông ta đi tới có cảm tình.
Lan nhăn mặt:
- Tôi xin anh ăn nói giữ gìn một tí, không lẽ tôi...
Người bảo vệ lại nhếch mép:
- Tôi không có ý hạ giá trị của chị, nhưng chuyện tình cảm khó nói lắm. Nhất là ông ta cô đơn, nghèo khổ, có người từ tâm như chị...
Lan ngắt lời:
- Vậy thì anh làm ơn giải thích giùm tôi tại sao ông ta đang câm mà bỗng dưng lại bật lên tiếng nói được?
- Chuyện này thì chúng tôi phải chuyển lên nhờ nhà chức trách điều tra xem thật sự ông ta hoàn toàn là người câm hay trước đây ông ta chỉ giả vờ không nói được. Chị cũng biết đó, có rất nhiều người, để gây được thương tâm ở người khác, họ đã giở đủ mánh lới, đủ trò xảo quyệt để đạt được mục đích của mình. Lúc này tôi chỉ là người lập biên bản ghi nhận sơ bộ vụ việc mà thôi, còn lại sẽ do chính quyền giải quyết, chừng đó trắng đen thế nào sẽ biết ngay thôi.
Lan chợt liên tưởng đến việc người đàn ông khốn khổ đó bị bắt đưa đi tạm giam, cô bỗng thấy lo sợ và không cam lòng. Lan nhận thấy trường hợp của người đàn ông này rất lạ lùng. Ông này trước đây không hề nói được một tiếng nào với cô cả, không lẽ tự nhiên bây giờ ông mới mở miệng thử cô? Ông giả câm để làm gì trong khi cái hình hài của ông cũng đã đủ khơi mối thương tâm cho người qua kẻ lại trên đường rồi?
Bất giác Lan rùng mình nhìn ra ngoài đường, gương mặt lo âu. Người bảo vệ biết ý nói:
- Bây giờ chị có thể ra về được rồi. Ngày mai, nếu cần, cảnh sát sẽ tiếp xúc với chị. Chút nữa tôi sẽ đích thân đưa người đàn ông đó và biên bản này tới cơ quan cảnh sát.
Lan ngập ngừng:
- Hay là… anh… Thôi, xin anh tha cho ông ta đi, trông ông ta khốn khổ vậy mà còn bị lên đồn cảnh sát nữa, thật tình tôi không muốn.
Người bảo vệ nhìn Lan ngạc nhiên:
- Vậy chứ chị không muốn kiện anh ta về tội quấy rối nữa à?
Lan gật đầu:
- Tôi xin lỗi, anh cho tôi hủy bỏ vụ này đi! Anh coi như chưa có gì xảy ra đi! Tôi thấy ông ta rất tội nghiệp. Chắc là có điều gì đó mà tôi chưa roc được, chứ lâu nay tôi nhận xét thấy ông ta không phải loại người đó anh ạ!
Người bảo vệ lắc đầu:
- Đúng là phụ nữ! Chị dễ mềm lòng quá! Con người chị thật tốt. Hèn gì chị mới về đây công tác chưa bao lâu mà nhiều người yêu mến chị như vậy!
Lan mắc cỡ:
- Anh quá khen tôi rồi! Tôi đâu có được như lời anh nói.
Người bảo vệ trầm ngâm:
- Lâu nay tôi cũng nhận thấy người đàn ông ăn mày đó là người rất có nghĩa khí. Ông ta đã nhiều lần gíup đỡ người qua đường, tôi cũng nghĩ như chị, chắc có điều gì đó mà chị chưa biết rõ. Nếu bây giờ chị không muốn thưa kiện gì nữa thì chị có thể về, tôi cũng sẽ cho ông về, khỏi mất công dẫn lên đồn cảnh sát.
Người bảo vệ nói xong cười hề hề.
Lan đứng lên nói mấy câu cảm ơn rồi bước vội ra khỏi phòng.
***
- Dù mai này có chết đi, linh hồn anh cũng sẽ theo em mãi mãi.
Trái tim Lan tự nhiên đập loạn xạ. Cô nhớ lại lời Tài sau khi hai người cãi nhau.
Một linh cảm không hay chợt hiện ra trong đầu.
Lan nhớ lại những câu chuyện về hồn người chết nhập vào một người khác đã được nghe và đọc trong sách vở.
Không lẽ lời của Tài đã ứng nghiệm và hồn chàng đã nhập vào người đàn ông ăn xin đó?
Lan vẫn nghe rõ ràng tiếng của người ăn xin lẽo đẽo theo sau:
- Lan! Lan! Anh đây nè! Em không nhận ra anh à?
Lan quay phắt lại, lấy tay bụm miệng khi thấy ông ta, người đàn ông ăn xin thường ngày vẫn ngồi ở góc phố chờ người đi đường qua lại bỏ vào vài đồng, vài xu mua đồ ăn trưa. Lan đưa mắt nhìn chung quanh để coi mình có nghe lộn hay không.
Thật là dễ sợ khi tiếng của ông ta vẫn tiếp tục, âm thanh rõ ràng là giọng nói của Tài, thoát ra từ đôi môi xám, vẩu lên một cách bướng bỉnh của ông ta! Lan thấy lạnh toát cả người, giọng hắn vẫn rõ mồn một, tha thiết:
- Lan! Anh đi xa lắm mới gặp được em. Sao em cứ đi như chạy vậy? Đứng lại nói chuyện với anh một chút, nếu có thể thì em chở  anh về nhà luôn. Thằng Thái con mình vẫn còn sốt cao, sao em không nghỉ ở nhà chăm sóc nó?
Lan bụm miệng, mặt mày xanh ngắt. Miệng cô há hốc, mắt nhìn quanh để cầu cứu. Trời ơi! dễ sợ quá! Tại sao người đàn ông câm này đột nhiên lại cất tiếng nói và giọng của hắn đúng là giọng của chồng cô?
Và quái đản hơn hết là hắn nói đúng tên đứa con trai của cô đang bị bệnh ở nhà.
Lan lùi lại, người đàn ông vẫn tiến lên.
Lan hét:
- Đứng lại! Đứng lại! Nếu không tôi la lên kêu cứu đó!
Người đàn ông đưa tay ra ngăn lại:
- Đừng! Tại sao em lại làm thế? Anh là chồng em, chúng ta vẫn là vợ chồng, sao em lại đòi kêu cứu khi gặp anh?
- Ông... ông là ai? Tại sao ông lại giả tiếng nói của chồng tôi? Ông là người câm không nói được kia mà?
Một nét ngạc nhiên hiên ra trong đôi mắt của người đàn ông:
- Em nói gì anh không hiểu? Anh là chồng chính thức của em. Dầu gì mình cũng đã có hai mặt con với nhau. Nếu em không thương anh nữa, thì cũng từ từ... không lẽ em tính dứt khoát liền với anh như vậy sao?
Lan vẫn lùi lại, trong lòng hy vọng sẽ có người tới bên cạnh để cứu cô. Chắc chắn hôm nay cô đã gặp một kẻ điên.
Trời ơi! đúng là hắn điên rồi. Phải thoát ra khỏi nơi này rồi hãy tính. Trong đầu Lan hiện ra thật nhanh nhiều câu hỏi, nhiều nghi vấn.
Tên này không biết làm thế nào mà lại biết hoàn cảnh của mình và chồng mình, rồi hắn bày đặt trò này để hù dọa mình đây.
Lan dáo dác tím kiếm người đi đường quanh đó, hy vọng họ thấy thái độ kỳ quặc của hai người sẽ gọi cảnh sát giùm.
Lan liếc vào hai bàn tay của người đàn ông. Hắn không có vũ khí trong tay, không đáng ngại lắm, vì cơ thể hắn gầy gò ốm yếu thế kia, dẫu hắn có làm càn Lan vẫn có đủ sức chống chọi lại.
Tâm đâm ra ân hận, tại mình trước nay hay thân mật với hắn nên bây giờ khi nổi điên hắn mới gây khó khăn thế này cho mình đây.
Lan nhìn người đàn ông, đôi mắt cô chứa đầy lo âu:
- Ông có phải là người hàng ngày vẫn ngồi ở góc đường trước cổng công ty tôi để xin tiền phải không?
Người đàn ông nhìn theo hướng tay của Lan, rồi lắc đầu:
- Em nói gì anh không hiểu gì cả. Anh là Tài, là chồng của em, là cha của thằng Thái và con Nhung. Anh biết em vẫn còn giận anh lắm. Nhưng anh đã hứa với lòng sẽ làm lại từ đầu để em đừng buồn anh nữa.
Đến nước này thì đúng là một sự gì không ổn rồi.
Tâm toát mồ hôi, chân tay run lảy bẩy.
Không còn nghi nghờ gì nữa, tên này biết được câu chuyện giữa vợ chồng Lan không sai một ly một tí.
Lan bước dần về hướng công ty, người đàn ông cũng khập khiễng bước theo.
- Anh Nam ơi, cứu tôi với! Cứu tôi!
Lan hét to lên khi thoáng thấy bóng người bảo vệ vừa thoáng qua ở cổng.
Nghe tiếng gọi hoảng hốt của Lan, người bảo vệ vội vàng chạy ra.
Lan chạy ào lại phía người bảo vệ.
Trong khi người đàn ông lúng túng mặt mày thất sắc, Nam ra lệnh cho người đàn ông:
- Anh dừng lại! Không được tiến lên!
Người đàn ông đứng khựng lại
Ông bảo vệ hỏi Lan:
- Chuyện gì vậy chị Lan? Tên này làm gì chị vậy?
Lan chợt bật khóc:
- Hắn giả giọng chồng tôi và nài nỉ tôi đi về theo hắn.
Người bảo vệ nhíu mày nhìn người đàn ông.
Người đàn ông lắp bắp nói:
- Thưa ông! Bà này là vợ tôi. Tôi nói chuyện với vợ tôi thì có gì là sai quấy?
Ông bảo vệ hầm hừ nhìn gã:
- Ông nói sao? Chị Lan là vợ của ông? Ông có điên không vậy?
Lan rên rỉ:
- Trời ơi! Làm ơn cứu tôi! Tôi đã có chồng, chồng tôi đâu phải là ông này. Hắn điên rồi. Anh làm ơn bắt hắn đưa lên đồn cảnh sát đi. Hắn chỉ muốn làm hại tôi thôi.
Đến lượt người đàn ông rên rỉ một cách đau khổ:
- Trơi ơi! tôi không điên! Đây là vợ của tôi. Tôi không hiểu tại sao cô ấy không nhận ra tôi. Ông làm ơn đi theo tụi tôi về nhà để điều tra, xem tôi có nói đúng sự thật hay không. Con trai út chúng tôi đang bị đau, chị nó đi làm chưa về. Tôi nóng ruột đi tìm vợ tôi về.
Người bảo vệ nhìn Lan và nhìn người đàn ông ra vẻ không hiểu câu chuyện kỳ cục này.
Ông ta mời hai người vào phòng bảo vệ của công ty để làm việc.
***
Bước vô nhà Lan thấy nhà cửa vắng hoe. Cô vội chạy vô phòng. Thái đang ngủ.
Lan thở phào nhẹ nhõm. Nghe tiếng động, Thái mở mắt quay mình lại nhìn mẹ:
- Mẹ mới về hả? Hôm nay mẹ về trễ vậy?
Lan đặt tay lên trán con:
- Ừ! hôm nay me có nhiều việc quá. Con thấy bớt tí nào không?
- Dạ con cũng đỡ rồi. Con khát nước quá.
Lan cầm chai nước lạnh đã cạn trên chiếc bàn nhỏ gần giường lên nói:
- Để mẹ đi lấy chai khác cho con. Chị Nhung chưa về à?
- Dạ chưa. Chị Nhung nói chị đi ngang chợ mua cam cho con.
Lan không nói gì, vừa đi vừa ngẫm nghĩ thương đứa con gái lớn. Nó thật quán xuyến. Việc gì trong nhà cũng lo lắng đầy đủ.
Nhung sợ mẹ buồn phiền vì ba đã bị thất nghiệp, không làm gì giúp cho mẹ lại còn mang bệnh cờ bạc. Ba hay lấy tiền của mẹ, lại còn lấy đồ đạc trong nhà bán rẻ để đi đánh bài.
Vợ chồng Lan cãi nhau hoài làm đứa bé cũng buồn.
Nhung tốt nghiệp Đại học và đã đi làm ở một công ty hơn bốn tháng nay, tháng nào con bé đưa hết tiền lương cho mẹ, rồi chỉ xin lại một ít để tiêu vặt.
Còn Tài thì lấy cớ buồn vì mất việc, đi sòng bài nói là để nghe nhạc cho vui. Nhưng ai cũng biết Tài đã lậm vào môn này rồi, khó mà dứt ra được. Không chịu nỗi sự bực bội, Lan đòi ly dị. Tài hối hận hứa với vợ con không đi cờ bạc nữa.
Nhưng con ma đỏ đen đã ăn vào máu của anh rồi, vì vậy, không đi khoảng hai tuần là chân tay Tài ngứa ngáy chịu không nỗi.
Bao nhiêu tiền của vợ giấu trong hộc tủ, góc rương, Tài moi ra đi nướng hết. Con cái có đồng nào Tài cũng tìm cách nói đưa.
Mỗi lần về tới nhà là hai vợ chông gây gỗ. Lần cuối cùng Tài nói sẽ không thèm về nhà nữa.
Đã hơn hai tháng rồi, mẹ con sống lủi thủi với nhau. Biết hai con vẫn thương ba, nhưng Lan đã nhất quyết. Cô không muốn sống trong cảnh này mãi được.
Tài như một chiếc răng sâu cần phải nhổ. Để chỉ làm cho cả thân thể đau nhức mà thôi.
Thấy mẹ trở vào phòng với chai nước mới, Thái ngồi dậy, nhưng hơi chóng mặt, nó lại nằm xuống:
- Mẹ mệt không? Mẹ làm việc nhiều quá, mệt lắm phải không? Con thấy mẹ hơi xanh!
Lan cười cho con yên lòng:
- Con đừng lo, mẹ biết sức mẹ mà.
Cô lảng sang chuyện khác:
- Con đói bụng lắm rồi phải không? Để mẹ xuống bếp hâm lại cháo con ăn.
Thái đưa tay cản:
- Con không đói, miệng con lạt lắm. Mẹ đói ăn đi. Một lát chị Nhung về thế nào cũng mua thêm vài món.
- Không biết chị con đi đâu bây giờ chưa về? Ở nhà có gì lạ không con?
Thái không biết mẹ nói lạ là lạ chuyện gì. Nó bệnh nằm thiêp thiếp cả ngày, chuyện lạ chắc chắn không xảy ra ở trong nhà này rồi. Nó cười cho mẹ an lòng:
- Con ngủ cả ngày, không thấy gì lạ hết. Mẹ đi làm có gì lạ không?
Lan thấy tim tự nhiên thắt lại, nhớ đến sự việc ngày hôm nay, giọng cô run run:
- Không! À có... không... con có nghe tin tức gì của ba con không?
Thái tư lự:
- Dạ... con nghe thằng Nghĩa nói tuần rồi nó gặp bên sòng bài.
- Nó cũng đi đánh bài à?
- Không biết nó có đánh bài hay không, nhưng nó nói rạp hát gần đó có chương trình ca nhạc hay lắm, cả nhà tụi nó đi coi rồi tình cờ thấy ba trong sòng bạc mà nó thường lui tới.
Lan cũng nhớ đã thấy tờ quảng cáo trên báo, có các ca sĩ hay trình diễn trong dịp cuối năm. Mới đó mà năm cũ đã đội nón sắp bước đi, nhường một năm mới đang xách dù trở về.
Lan chợt liếc nhìn hình mình trong gương. Mái tóc Lan xơ xác với gió lạnh bên ngoài. Làn da tái, đôi mắt thâm quầng.
Không biết Tài đã sống như thế nào cả tháng nay.
Lan chợt nghe tiếng của anh qua đôi môi vẩu, thâm tái của người đàn ông gù lưng trước cổng cơ quan. Trời ơi! Tại sao lại có chuyện quái đản như vậy xảy ra chứ?
Lòng Lan chợt xao xuyến, bất an. Lan nghĩ, một lát nữa, khi Nhung về, sẽ kể chuyện này cho hai con nghe cùng một lúc.
Nhung chững chạc, khôn trước tuổi. Nó có thể phân tích cho Lan nghe chuyện này. Thái thì còn bé quá, chắc không giúp cô giải quyết được gì.
Gió bên ngoài chợt như thổi mạnh hơn. Đêm xuống thật nhanh. Những tiếng động sột soạt trên mái nhà cũ kỹ.
Lan kéo tấm màn lại và nói:
- Hôm nay coi bộ gió lớn lắm. Không biết sao con Nhung vẫn chưa về mà không thấy gọi điện thoại.
Thái ngừng chai nước đang uống, nghe ngóng bên ngoài rồi nói:
- Hình như chị Nhung về tới đó mẹ!
Vừa nói xong, cánh cửa mở tung. Nhung chạy vào như cơn gió lốc.
Cô oà khóc:
- Mẹ! mẹ!
Lan hoảng hốt hỏi:
- Nhung! Chuyện gì vậy con?
Thái cũng vội vàng nhảy xuống giường:
- Sao vậy chị? Có chuyện gì vậy?
Nhung mếu máo nói:
- Con nghe người ta nói có một cuộc xô xát xảy ra ở chỗ sòng bài mà ba thường tới đánh, có mấy người chết....
Lan lay vai Nhung:
- Hả? Có biết ai chết không?
Nhung nấc lên:
- Có! Ba!
Lan ôm ngực ngồi lảo đảo xuống ghế.
Thái khóc rống lên:
- Ba? Có thật không? Trời ơi! Ba! Ba chết rồi hả chị Nhung?
***
Bản tin được đăng trên báo địa phương:
"Một cuộc xô xát từ sòng bài: Ba người bị thương nặng, một người tưởng chết nhưng tự nhiên sống lại, sau hơn một ngày. Trước đó, bác sĩ khám nghiệm, tuyên bố ông này đã qua đời"..
Người chết đã sống lại, đó là Tài, chồng của Lan.
Ba mẹ con đón xe đi giữa đêm. Khi đến nhà xác, ba mẹ con đã nhào lại khóc thảm thiết, nhất là đứa con trai út. Nhưng ngày hôm sau, Lan được cảnh sát báo tin là chồng cô đã sống lại.
Tài được đưa vào bệnh viện chữa trị trước khi về trở về nhà.
Từ khi sống lại, như có một phép lạ, Tài thay đổi thành một người hoàn toàn mới.
Tuy vẫn chưa tìm được việc làm, nhưng ở nhà, Tài chăm chỉ dọn dẹp, sơn sửa nhà cửa, vườn tược, chăm sóc con cái hết mực khi Lan đi làm.
Lan cũng cảm thấy an ủi và vui trong lòng. Tuy nhiên, có những lúc Lan bắt gặp chồng ngồi nhìn vô tấm gương to treo ở cánh cửa tủ áo trừng trừng. Anh lấy tay xoa xoa lên lưng như thể tìm kiếm một cái gì. Khi thấy vợ nhìn mình nhừ dò hỏi, Tài quay ngoắt đi.
Và một điều đặc biệt nữa, trước kia lúc ngủ bao giờ Tài cũng nằm ngửa ra ngay ngắn, nhưng sau lần chết hụt trở về, Tài toàn nằm nghiêng một bên để ngủ, chưa bao giờ Tài nằm ngửa người ra được.
Mấy ngày sau, một sáng vừa vào tới công ty, anh bảo vệ tên Nam gọi Lan lại ra vẻ có việc gì quan trọng lắm.
- Chuyện gì thế, anh Nam?
Lan tò mò hỏi.
Người bảo vệ nhìn Lan một cách lạ lùng:
- Chị có thấy câu chuyện của chồng chị và người ăn mày trước cổng công ty mình có liên quan với nhau không?
Lan ngơ ngác:
- Tôi không hiểu anh muốn nói gì?
Người bảo vệ nhìn ra ngoài sân, ánh sáng nhảy múa lăn tăn qua kẽ lá. Anh quay lại nhíu mày nhìn sâu vào mắt Lan:
- Tôi muốn nói, quả thật hồn của chồng chị đã nhập vào xác người đàn ông ăn mày đó!
Lan giật mình suýt ngã ra khỏi ghế:
- Anh Nam nói giỡn sao chớ? Chồng tôi và xác người đàn ông đó? Tại sao anh lại nói xác ông ấy? Ông ấy chết hồi nào?
- Ông ta chết cách đó một tiếng trước khi gặp chị. Cùng lúc với tai nạn xảy ra ở sòng bài, nơi chồng chị gặp nạn.
Lan nhìn đăm đăm vào mặt người bảo vệ:
- Anh muốn nói gì?
- Tôi chắc chị đã hiểu. Tôi là người công giáo, tôi không tin lắm về những chuyện ma quỷ này, nhưng chuyện này khá ly kỳ, vì chị biết sao không?
- Anh nói nhanh đi, tôi đang nóng lòng chờ nghe anh giải thích!
Giọng anh ta chợt trầm hẳn bên tai Lan:
- Theo bản báo cáo bên công an mà người bạn tôi làm bên đó cho hay thì khi chồng chị chết vì  xô xát thì cùng lúc, người đàn ông ăn mày ấy bị một kẻ lạ mặt đánh chết dưới gầm cầu. Rồi ông ấy đã xuất hiện theo chị trên đường phố nhận mình là chồng chị. Khi chị về rồi, tôi bảo ông đi đi nhưng ông vẫn lảm nhảm: " Tại sao vợ tôi không nhìn ra được tôi?" Ông ta đã la lên: "Tôi muốn có một cái gương để xem tại sao vợ tôi không nhận ra tôi!" Rồi ông ta chạy một mạch tới tiệm uốn tóc bên kia đường. Khi nhìn vào tấm gương....
Người bảo vệ ngừng lại vì xúc động:
- ... Ông ta rú lên!
Giọng Lan thảng thốt:
- Ông ta rú lên làm sao?
- Ông ta chỉ nói hai tiếng "Trời ơi!" rồi ngã ra và chết trở lại!
Lan lẩm bẩm như người mất hồn:
- Chết trở lại?
- Phải! Xác ông ta bị giết dưới gầm cầu được người qua đường nhìn thấy, báo cáo với cảnh sát. Nhưng khi cảnh sát, tới nới thì xác ấy biến mất. Đó là lúc ông đi theo chị tới đây.
Gai ốc đã nổi lên đầy lưng Lan.
Cô chợt hiểu lờ mờ trong đầu, chưa kịp hình dung thì tiếng người bảo vệ đã vang lên:
- Hồn chồng chị trong xác của người đàn ông ăn mày đã không hiểu tại sao chị không nhận ra ông, vì thế ông đòi soi gương. Khi soi gương ông mới thấy mình không giống mình. Hồn ông hoảng hốt, vội rời thi thể người ăn mày.... Và... như chị đã biết, hồn chồng chị lại nhập vào xác của chính ông trở lại....
Lan nhớ đến gương mặt thẫn thờ của Tài khi đứng trước gương với bàn tay xoa lên lưng như để tìm cái cục gù to tướng. Không biết anh có nhớ chuyện gì đã xảy ra hay không...
Người bảo vệ tiếp:
- Tôi đã nhờ người xem kỹ các hồ sơ, khi người ăn mày la xong hai tiếng "Trời ơi!" và ngã vật ra chết, cũng giờ phút đó, xê xích một vài giây, chồng chị sống lại trong nhà xác!
Lan bước lùi ra cửa, mặt xanh ngắt.
Người bảo vệ bước theo nói vọng ra:
- Mong mọi việc tốt lành sẽ đến với gia đình chị!
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
     
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:37:47 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 22:03:27
TRANG BLOG MA
 
Tôi là một đứa con gái sinh ra bị ông trời bắt xấu. Ở tôi, tập trung tất cả những gì thừa thãi của cả gia đình. Nếu như chị tôi có đôi mắt tròn to, sống mũi cao thanh tú thì mắt tôi con lớn con bé, mũi lại khoằm như mũi két. Em gái tôi có nước da trắng hồng và cặp giò thon thả, thì ở tôi lại là một màu da đen đúa, mốc thếch như của những người nông dân thường xuyên dãi nằn dầm mưa, hai cẳng chân tôi khẳng khiu và chi chít những vết sẹo để lại do những nốt ghẻ từ thuở nhỏ. Giọng nói của tôi lại không được êm ái du dương như những người con gái khác.
Không những ông trời bắt tôi xấu, mà ông còn bắt tôi hứng chịu nhiều nỗi đắng cay hơn nữa.
Gia đình tôi đang ăn nên làm ra thì đùng một cái, lúc tôi chào đời tất cả  tan theo mây gió. Mẹ tôi lại suýt chết vì bị băng huyết sau khi sinh tôi.
Một bà thầy bói nào đó đã phán tôi chính là khắc tinh của gia đình!
Từ đó, tôi bị cả nhà ruồng rẫy.
Mẹ đem tôi về quê gởi cho bà ngoại nuôi lúc tôi vừa đúng hai ngày tuổi.
Ngoại già yếu, nghèo nàn lại phải cưu mang một đứa bé ốm đau quặt quẹo quanh năm suốt tháng nên sức lực của ngoại cũng suy kiệt đi rất nhanh chóng. Tôi ba tuổi thì ngoại lìa đời.
Tôi được mẹ đón về sống với gia đình từ đó.
Và cũng từ những năm tháng ấu thơ đó tôi đã nhận ra sự khác biệt giữa mình và chị em trong nhà.
Bọn trẻ con quanh đó xem tôi như một trò đùa của chúng. Chúng trêu chọc, chúng vứt vào tôi bất kỳ thứ gì chúng thích. Trong đám đó có cả chị và em gái của tôi.
Tôi sống trong nhà mình mà thật bơ vơ, lạc lõng.
Tôi mặc áo quần của chị để lại. Tôi chơi những món đồ chơi em tôi vứt đi. Tôi bị mắng chửi, bị đánh đòn vì bất cứ một lỗi lầm nào, dù không phải do tôi gây ra.
Không ai thương xót tôi, ngay cả mẹ!
Họ nuôi tôi vì không thể vứt bỏ tôi thôi. Tôi lớn lên trong nhà còn thua cả con chó, con mèo. Vì chó mèo còn được ba mẹ tôi, chị em tôi ôm ấp nâng niu, chăm lo từng miếng ăn, chỗ ngủ.
Còn tôi thì không! Không ai đoái hoài gì đến tôi cả.
Tôi biết thân biết phận mình từ nhỏ nên tôi đã sống im lìm như một cái bóng trong nhà.
Đến bữa ăn ai cho gì tôi ăn nấy, ai cho gì tôi mặc nấy, tôi không dám đòi hỏi, không dám xin xỏ bất cứ một thứ gì.
Nhưng dù đã sống như vậy tôi cũng không được yên thân.
Mỗi lần ba tôi nhậu say về là lại lôi tôi ra mắng chửi. Ba bảo tôi là “đồ tội báo oan gia, đồ yêu nghiệt đầu thai lên để phá hoại gia đình”.
- Mầy nhìn mầy trong gương đi, xem mầy có giống con người không? Kiếp trước tao nợ mầy bao nhiêu? Mầy nói đi tao sẽ bán nhà trả hết cho mầy rồi mầy cút xéo khỏi đây cho tao gầy dựng lại sự nghiệp! Mồ hôi nước mắt của tao với mẹ mầy bao nhiêu năm vất vả, vì mầy mà đổ sông đổ biển! Mầy là con quái vật, mầy là đứa phá gia… Mầy là…
Ba tôi đổ lên đầu tôi tất cả mọi tội lỗi, tất cả mọi danh từ xấu xa nhất mà ông có thể nghĩ ra.
Những lúc như thế tôi lại rúc mình thật sâu trong một xó xỉnh nào đó để khóc âm thầm, lặng lẽ. Vì nếu tôi khóc to thành tiếng, chắc chắn ba tôi sẽ bảo: “Mầy còn muốn trù ai chết nữa đây?”.
Mẹ tôi thì khác.
Bà không chỉ mắng chửi tôi những khi tức giận, mà ngay cả những lúc bình thường nhất bà cũng bóng gió xa xôi.
Khi có người quen nào đó qua đời, bà thường hay nói:
- Đứa cần chết lại không chịu chết cho người khác nhờ…
Tôi biết mẹ đang ám chỉ tôi.
Tôi đau đớn, tủi buồn và đã nhiều lần muốn tìm tới cái chết, muốn giải thoát cho bản thân mình và cho cả nhà thoát khỏi những ức chế quá sức nặng nề này.
Thế nhưng, có lẽ tôi còn nặng nợ với cuộc đời nên dù sống không có lấy một niềm vui nhỏ, không một sự ủi an nào dù rất nhỏ nhoi, vậy mà tôi vẫn cứ sống, sống sởn sơ, giống như một loài cỏ dại vẫn kiên nhẫn bật chồi xanh dẫu người đời nhiều lần nhổ vứt đi chỗ khác.
Chị và em gái tôi được ba mẹ quan tâm chăm sóc, thương yêu nhưng lại cứ nay ốm mai đau. Còn tôi, không được một bàn tay nào chăm đến mà vẫn âm thầm, dai dẳng mọc lên.
Thỉnh thoảng tôi cũng bị ấm đầu sổ mũi, nhưng rồi nó tự hết cũng như nó đã tự tìm đến với tôi.
Cả một quãng đời thơ dại, hình như tôi chưa từng biết tới thuốc men là gì.
Chính điều đó lại càng giúp mọi người khẳng định tôi không phải là con người bình thường, mà là một thứ ma nào đó đầu thai lên để làm hại gia đình, làm hại ba má tôi.
Lớn lên chút nữa tôi được cắp sách tới trường, nhưng tình hình vẫn không có chút khả quan hơn.
Trong lớp, bạn bè vẫn lánh xa tôi, tôi như người cùi hủi, như một sinh vật gớm ghiếc mà không một ai dám tới gần.
Tôi học giỏi. Và điều đó càng làm cho đám bạn trong lớp càng ghét tôi hơn nữa.
Thầy cô cũng có người quan tâm đến tôi, tỏ ra thương hại tôi, nhưng sự quan tâm, sự thương xót đó cũng chỉ dừng lại ở một giới hạn nhất định. Tôi vẫn là đứa trẻ cô đơn, khốn khổ.
Có nhiều lúc tôi thèm được mẹ âu yếm đặt tay lên trán, thèm được ba công kênh trên vai đi khắp làng trên xóm dưới, thèm được chạy nhảy tung tăng cùng đám bạn, thèm được cười đùa, thèm được ca hát… Nhưng tất cả những điều đó chỉ có trong mơ ước của tôi thôi.
Suốt những năm học Phổ thông rồi lên Đại học, tôi chưa từng có một người bạn thân chứ đừng nói gì tới chuỵên có một người bạn trai đặc biệt.
Ra trường, dù với một kết quả học tập rất cao, nhưng bất cứ nơi nào tôi tới xin việc đều tỏ ra ngại ngần khi trông thấy ngoại hình tôi.
Người ta thường bảo “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, nhưng có mấy ai trên đời lại đi bỏ tiền mua một món đồ xấu xí đem về xài thử xem nó có tốt không?
Trầy trật mãi, cuối cùng tôi cũng xin được việc làm ở một công ty. Công việc mà người ta bố trí cho tôi là một công việc ở “hậu trường” hoàn toàn không tiếp xúc gì tới khách hàng hay đối tác. Nói chung, người ta cho tôi ngồi ở một góc thật kín đáo để không làm ảnh hưởng tới bộ mặt của công ty.
Tôi đã quen như vậy rồi nên cũng không cảm thấy buồn phiền hay thất vọng gì cả!
Ngày đầu tiên tôi đi làm, vừa về tới nhà mẹ tôi đã bảo:
- Tao nuôi mầy đến đây là đã trả hết nợ hồi kiếp trước rồi! Bây giờ mầy đã có việc làm, tự nuôi sống bản thân được rồi thì dọn ra ở riêng đi, để tao với ba mầy còn có cơ hội làm ăn gầy dựng lại gia đình.
Dũ đã quen thuộc với những việc phũ phàng như thế nhưng sao nước mắt tôi vẫn cứ trào ra.
Tôi lặng lẽ gom góp mớ áo quần ít ỏi, cúi chào cả nhà rồi bước ra khỏi cửa vào lúc trời vừa tối.
Cả ba mẹ, cả chị và em gái không ai hỏi tôi một lời xem tôi sẽ đi đâu, sẽ sống ra sao? Hình như sau lưng tôi, mọi người đang thở phào nhẹ nhõm.
Với số tiền dành dụm được từ những việc làm thêm thủ công lặt vặt hồi còn đi học Đại học tôi mướn được một căn phòng nhỏ và mua một bộ máy vi tính tương đối tốt để phục vụ cho công việc của mình.
Với năng lực của mình, những công việc ở cơ quan tôi thực hiện không mấy khó khăn nên thời gian sau giờ làm việc của tôi hoàn toàn rảnh rỗi.
Tôi không có bạn để đi chơi, tôi không có gia đình để tìm về, tôi không có bất cứ một nguồn vui, nguồn an ủi nào khác.
Bước ra khỏi cổng cơ quan là thời gian cứ dài ra, dài chừng như vô tận.
Hình hài tôi dị dạng nhưng trong lồng ngực tôi lại chứa đựng một trái tim khỏe mạnh. Tôi cũng có những khao khát đời thường giống như bao nhiêu thiếu nữ cùng tuổi với tôi.
Tôi khát khao yêu và được yêu. Tôi khát khao có ai đó cho tôi tâm sự, cho tôi tựa đầu vào vai những lúc tôi yếu lòng, buồn bã… Nhưng bên cạnh tôi chỉ là những đồ vật vô tri và khoảng không gian vắng lặng.
Trong một đêm khó ngủ, tôi đã lên mạng và tạo cho mình một trang blog, tôi đặt tên cho blog là BÓNG ĐÊM. Tôi chọn avatar cho blog là hình một bóng người lầm lũi trong đêm tối.
Bắt đầu từ hôm đó, sau giờ làm việc là tôi lại miệt mài gõ bàn phím, ghi lại tất cả tâm tư, tình cảm của mình.
Những entry của tôi không có tiêu đề, không có minh hoạ, đơn giản nó chỉ là những dòng chữ mà tôi gởi vào đó những nỗi buồn, những khát khao thầm kín nhất của mình.
Thỉnh thoảng có một vài blog khác ghé vào thăm và để lại những lời chào, những lời thăm hỏi làm quen hoặc những commment, chân tình cũng có mà cợt đùa cũng có.
Nhưng tôi chưa bao giờ đáp lại bất kỳ một ai.
Đôi lúc tôi cũng cảm thấy ấm lòng với một vài lời sẻ chia của một bloger nào đó, nhưng chỉ thoáng qua thôi, thoáng qua rất nhẹ. Tôi không muốn giao lưu vì tôi sợ nếu một mai họ biết được hình dáng thật của tôi thì…
Ngày tháng cứ trôi qua như thế. Được giãi bày tâm tư, dù là bằng hình thức nào đi nữa cũng có tác dụng làm nhẹ người hơn đôi chút.
Một đêm không ngủ được, tôi mở máy tính và online vào lúc hai giờ khuya.
Một blog có tên “LINH HỒN TRONG BÓNG ĐÊM” vừa đến thăm. Avatar của blog này giống y như Avatar của blog tôi. Ngoài cái biểu tượng mặt cười để lại, người ấy không nói gì thêm.
Lần này tự dưng tôi cảm thấy thật tò mò, muốn biết về người này rõ hơn. Người ấy là nam hay nữ? Tại sao người ấy lại tự cho mình là linh hồn trong bóng đêm? Cuộc đời người ấy có điều gì u ám giống mình không?
Thật nhiều câu hỏi cứ xoay quanh trong đầu tôi.
Tôi nhấp vào biểu tượng và đi sang đó để tìm hiểu.
Blog này có hình nền rất lạ, đó là hình một bãi đất hoang vu xơ xác, chơ vơ một ngôi mộ đất ở phía dưới màn hình.
Tự nhiên nước mắt tôi ứa ra. Tôi cảm thấy người này có một số phận không khác gì tôi.
Linh hồn trong bóng đêm không giới thiệu gì về mình trên blog. Không tên tuổi, không địa chỉ…
Tôi lật từng entry và bắt đầu đọc ngược, đọc từ trang đầu tiên của blog.
Trang đầu tiên chỉ là một bản nhạc, bài “Cát bụi”.
Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi,
Để một mai tôi về làm cát bụi
Ôi, cát bụi mệt nhoài
Từng ngày qua mòn ngóng tin vui…

Bao nhiêu năm làm kiếp con người
Chợt một chiều tóc trắng như vôi
Lá úa trên cây rụng đầy
Cho trăm năm vào chết một ngày…
Nước mắt tôi cứ lăn dài theo từng con chữ, từng lời ca thổn thức...
Những tâm tư, tình cảm của người đó sao quá giống tôi? Tôi có cảm giác như nỗi lòng của mình đang được trãi ra trong đó.
Những cô độc, những khát khao, những nỗi bơ vơ nơi trần thế…
Nhưng có lẽ Linh hồn trong bóng đêm là một người con trai.
Không có entry nào khẳng định điều đó, chỉ là tự nhiên tôi cảm nhận vậy thôi.
Tôi đã thức đến sáng để đọc tất cả entry của Linh hồn trong bóng đêm.
Tôi để lại một lời chào trước khi ra về chứ hoàn toàn không nói gì, cũng không comment vào entry của người ấy.
Suốt ngày hôm đó, tôi làm việc mà tâm hồn cứ nghĩ về người đó, nghĩ về những nỗi buồn mà người đó đeo mang.
Ôi, chưa bao giờ tôi lại nghĩ nhiều tới một người đến vậy! Mà người đó với tôi lại hoàn toàn xa lạ.
Trưa, ăn cơm xong tôi không nghỉ ngơi như mọi hôm mà tranh thủ online để tiếp tục xem những thông tin của Linh hồn trong bóng đêm.
Nhưng thật buồn, mở trang blog ra, tôi không thấy gì mới. Có lẽ từ sáng tới giờ, người ấy chưa đọc được lời chào của tôi gửi lại.
Lần đâu tiên trong đời tôi biết hồi hộp đợi chờ.
Tôi chờ hết giờ làm việc, tôi chờ khi đêm xuống, vì thường người ta hay viết blog vào ban đêm, lúc không phải đến cơ quan hay tất bật việc gia đình.
Tôi post xong cái entry của mình thì lại bắt đầu lang thang đi khắp các blog khác như mọi đêm.
Có những blog thật đông bạn bè, họ trao đổi với nhau thật vui, thật lý thú, nhưng tôi vẫn cảm thấy nơi đó không có chỗ cho mình, mình chỉ có thể đứng bên lề quan sát một cách lặng lẽ mà thôi.
Chốc chốc tôi lại trở qua blog Linh hồn trong bóng đêm, nhưng mãi mà cũng không thấy một dấu hiệu nào của người ấy.
Người ấy không online đêm nay?
Blog của người này rất giống blog tôi, ngoài avatar, còn giống ở chỗ danh sách bạn bè là danh sách rỗng, cũng không để chế độ cho phép người khác add mình.
Cô đơn ngoài đời, trên blog cũng cô đơn.
Buồn quá, tôi lại quay về “Bóng đêm” của mình.
Ô kìa, người đó đã đến và để lại cho tôi một câu: “Chào em, chúc em buổi tối bình yên. Em đừng thức khuya quá như đêm vừa rồi nhé!”
Tôi ngạc nhiên quá đỗi. LaØm sao người ấy biết biết đêm qua tôi thức?
Thật không sao hiểu nổi.
Nhưng với lời nhắn này, tôi càng vững tin đó là một chàng trai.
Tôi lại trở qua “Linh hồn trong bóng đêm”, bây giờ thì ở đó đã có thêm một entry mới.
Đọc nội dung này tôi có cảm giác người đó đang viết về tôi.
Nỗi xúc động bỗng trào dâng. Tôi comment cho người đó bằng những lời lẽ thật chân thành.
Từ tối hôm đó chúng tôi bắt đầu qua lại thường xuyên với nhau, nói chuyện, tâm tình cùng nhau qua từng entry hoặc comment của mỗi blog.
Tôi sung sướng, tôi hạnh phúc. Vì lần đầu tiên trong cuộc đời đầy bất hạnh của mình tôi có được một người bạn. Một người bạn đồng cảm với tôi, hiểu được và chia sẻ được với tôi những nỗi buồn số kiếp.
Sau một thời gian quen biết không lâu, tôi đã kể cho người ấy nghe hết về cuộc đời tôi, và người ấy cũng cho tôi biết về bản thân mình.
Linh hồn trong bóng đêm tên thật là Khôi, lớn hơn tôi bốn tuổi. Anh là một đứa bé ngoài ý muốn của mẹ anh. Bà đang sống với chồng nhưng anh lại là bào thai của bà với người đàn ông khác.
Khi mẹ anh báo tin đã mang thai thì người đàn ông đó dứt áo ra đi không một lời từ biệt, trước khi đi còn lừa lấy của mẹ một số tiền rất lớn mà mẹ anh phải cầm cố ngôi nhà mới có được.
Bi kịch gia đình liên tiếp xảy ra. Mẹ cha anh (anh vẫn luôn xem người đàn ông, chồng của mẹ là cha, mặc dù anh biết là không phải) không ly dị nhau vì nhiều sự ràng buộc khác. Họ tiếp tục sống với nhau trong đau khổ, trong dằn vặt.
Nhưng người khổ nhất là anh.
Mẹ anh hận người đàn ông bội bạc nên xem anh như kẻ thù, vì anh giống người đó như hai giọt nước.
Cha anh coi anh là cái gai trước mắt mà không làm sao nhổ đi được. Anh là bằng chứng phản bội của vợ ông, thì làm sao ông không oán ghét anh cho được?
Anh sống trong gia đình giống như một con chó ghẻ.
Năm tháng cứ lần lượt trôi qua, anh lớn dần lên. Và khi anh đã trở thành một chàng thanh niên sức dài vai rộng, tương lai anh đang mở ra trước mắt, anh đang khấp khởi mừng thầm vì mình sắp được tung cánh ra khoảng trời tự do bao la ngoài khung cửa thì tai hoạ lại ập tới.
Cha mẹ anh tham gia bán ma túy, trong một lần bị khám xét, họ đã đổ tất cả tội lỗi lên đầu anh. Mà anh thì không thể giải thích, chứng minh mình vô tội, anh không muốn làm điều đó.
Anh muốn nhân dịp này anh sẽ trả cho họ công ơn đã nuôi dưỡng anh mấy chục năm qua.
Thế là anh vào tù.
Đến khi được tha, tương lai trước mắt đã khép lại. Anh bây giờ sống như một bóng ma vờ vật trong đêm…
- Đời anh buồn lắm em ạ! Nên anh hiểu được nỗi buồn của em. Anh cảm thấy chúng mình thật giống nhau, rất tiếc là mãi đến bây giờ anh mới gặp được em…
Anh comment cho tôi như thế.
- Sao lại rất tiếc hở anh? Chẳng lẽ hiện nay anh đã có gia đình?
Tôi hỏi lại, tất nhiên cũng là comment.
- Không, anh không có gia đình. Chỉ là… mà thôi, cũng không có gì đáng nói. Bởi vì dù sớm hay muộn thì lúc này đây anh vẫn trân trọng em, biết ơn em đã chia sẻ với anh.
Anh trả lời tôi.
- Em mới là người cảm ơn anh mới phải. Trước anh, chưa có một người nào nói với em những lời như thế. Em vẫn tưởng mãi mãi, suốt đời này của mình, sẽ không bao giờ em có được…
- Em là một cô gái tốt. Em xứng đáng để người khác nâng niu, tôn trọng. Chỉ tiếc là cuộc đời luôn tàn nhẫn với những người như chúng ta…
Dù tôi đã nhiều lần gặng hỏi, anh vẫn không nói cho tôi biết anh đang sống ở đâu và đang làm gì?
Anh chỉ nói rằng anh sống rất gần tôi, thế thôi, và anh xin tôi đừng hỏi gì anh nữa. Nếu chuyện gì kể được anh đã kể hết với tôi, chuyện không kể được dù tôi có nằn nì cách nào anh cũng không thể nói.
Tình cảm của tôi và anh cứ thế mà gắn bó và tiến triển dần dần. Bay giờ không những chúng tôi trao đổi với nhau qua trang blog, mà chúng tôi đã add nick của nhau để có thể chuyện trò qua chat, có thể nhắn gửi qua email.
Nhưng tôi vẫn chưa biết mặt anh, chưa nghe được giọng nói mà tôi nghĩ là rất êm đềm của anh.
Chừng như hiểu được nỗi khát khao đó nơi tôi, trong một lần chát, anh bảo tôi lắp headphone để cả hai có thể chuyện trò với nhau.
Mừng vui như được chắp cánh, ngay tối hôm sau tôi và anh đã có thể trao đổi với nhau bằng lời nói. Tôi đã cố gắng thật nhiều để giọng mình mềm đi những vẫn không có tác dụng. Anh hầu như không quan tâm tới điều đó.
Giọng nói của anh quả thật rất ấm áp, tôi cảm thấy cơ thể mình run lên bởi những xúc cảm vu vơ…
Bất ngờ anh còn bật cả webcam để tôi nhìn thấy được anh: Một chàng trai to cao, tuấn tú nhưng sao ánh mắt anh lại buồn vời vợi?
- Anh ơi, em không có webcam! Nếu anh cần, ngay sáng mai em sẽ đi mua…
Tôi ngập ngừng.
Anh cười rất nhẹ:
- Không cần đâu em, bởi vì… lúc nào anh cũng “nhìn thấy em” mà!
Tôi ngơ ngác một lúc nhưng bỗng hiểu anh nói vậy là vì anh luôn nghĩ đến tôi, thế thôi.
- Em rất xấu xí, phải không anh?
Tôi khẽ hỏi
Anh trên màn hình nhìn thẳng vào mắt tôi:
- Với anh, em là cô gái đẹp nhất!
Nước mắt tôi trào ra. Trong đời mình, có bao giờ tôi được nghe những lời dịu ngọt âu yếm thế này bao giờ đâu?
Cám ơn ông trời đã ban anh cho tôi, dù có thể những lời anh vừa nói ra kia là không thật lòng, dù có thể mai này tôi và anh mãi mãi cách xa, nhưng những gì hôm nay và những ngày vừa qua đã là một món quà vô giá dành cho tôi rồi, một món quà dù trong giấc mơ tôi cũng không dám nghĩ tới.
- Đừng khóc nữa em! Cuộc đời hai chúng ta đã trải qua nhiều khổ đau, đã đắm mình trong nước mắt nhiều rồi, anh không muốn nhìn thấy em rơi lệ nữa…
Tiếng anh thầm thì bên tai tôi, nghe rất gần gũi chừng như anh đứng sát bên tôi vậy.
Tôi nhìn quanh phòng. Không, trong căn phòng nhỏ bé này vẫn không có ai ngoài tôi.
- Anh ơi, sao anh biết em đang khóc?
Tôi ngạc nhiên.
- Anh cảm nhận được bằng trái tim mình!
Lần này tôi không thể nén lòng mình được nữa, tiếng khóc thút thít của tôi đã vang đến tai anh.
- Em, anh không muốn thấy em khóc nữa mà! Em nín đi…
Anh cuống quýt.
Tôi mỉm cười qua màn nước mắt:
- Không anh ơi, giờ phút này anh hãy cho em được khóc! Đây là những giọt nước mắt sung sướng, hạnh phúc nhất trong đời em…
Tôi có cảm giác như mình đang được anh ôm vào lòng và vỗ về:
- Ừ, nếu em nói vậy thì em cứ khóc đi, tựa vào anh mà khóc, nghe em!
Và như kẻ bị thôi miên, tôi nghiêng đầu sang bên, tôi có cảm giác một bờ vai rộng đang kề sát cạnh tôi đón mái đầu tôi ngã vào nương tựa.
Tôi cảm giác hơi thở anh nhẹ nhàng phả vào mặt tôi, bàn tay anh vuốt ve mái tóc xơ xác của tôi.
Tất cả những cảm giác đó sao mà thật đến lạ lùng!
- Anh ơi!
Tôi bật kêu lên.
- Gì thế em?
Tiếng anh thầm thì bên tai tôi.
- Sao em có cảm giác anh đang ở bên em? Giờ này anh đang ở đâu thế? Có phải anh đang ở cạnh em không?
Tôi thổn thức.
- Em cứ tin là như thế! Lúc nào anh cũng luôn ở bên em. Khi vui, em hãy mỉm cười với anh, lúc buồn, em hãy tựa đầu vào anh mà khóc, như lúc này đây, em nhé?
Giọng anh vang lên tha thiết.
- Anh biết em đang tựa đầu vào anh à?
Tôi ngạc nhiên hỏi.
- Ừ, khi yêu nhau thật lòng, người ta có thể cảm nhận tất cả. Chẳng phải em cũng đang cảm nhận như anh đang ôm em trong vòng tay hay sao?
- Anh ơi, anh nói đúng rồi, giờ đây em thấy y như mình đang ở bên nhau vậy, rất thật anh à!
Tình yêu của anh và tôi đẹp như một bài thơ.
Từ hôm ấy, các entry trên blog “Bóng đêm” và “Cô đơn trong bóng đêm” đã bớt đi vẻ u ám vì đã có ánh sáng của tình yêu soi rọi.
Tôi đến cơ quan, nhiều đồng nghịêp nhìn tôi rồi xì xầm bàn tán.
Có lần tôi nghe loáng thoáng họ bình phẩm về tôi, rằng dạo này trông tôi hớn hở, mắt tôi long lanh như thiếu nữ đang yêu.
Họ đoán già đoán non xem tôi đang yêu thầm ai ở cơ quan, và rồi có người độc miệng đẫ nói:
- Cái thằng nào xấu số dữ, lọt vô mắt… sâu của nó!
Có người cũng tội nghiệp cho tôi, vì họ nghĩ tôi đang thầm thương trộm nhớ ai đó, họ sợ một khi bị từ chối, còn sẽ đau khổ thật nhiều.
Tôi không cảm thấy bực mình hay khó chịu trước những lời to nhỏ sau lưng. Có lẽ khi yêu, người ta dễ dàng tha thứ cho mọi lỗi lầm của những người xung quanh.
Tôi đang yêu, đúng đấy! Nhưng tôi không yêu thầm đâu!
Tôi muốn hét to lên như thế, không phải để thanh minh hay đề cao bản thân mình, mà là tôi muốn cả thế giới biết tôi đang vui sướng, đang hạnh phúc đến tột cùng.
Chuyện tình yêu của tôi và anh diễn ra đằm thắm như thế một thời gian dài. Thời gian đó tôi như được sống trên mây, xung quanh tôi ngập tràn hạnh phúc.
Tôi không còn mặc cảm mỗi khi bước ra đường nữa. Ai nhìn tôi bằng ánh nào cũng kệ họ, ai bình phẩm gì tôi cũng chẳng thèm quan tâm tới. Trong suy nghĩ của tôi, chỉ có anh và công việc.
Anh là tất cả của tôi.
Nhưng tình yêu giống như một con vật tham lam, nó đâu chịu bằng lòng với những gì đang có.
Tôi lại cảm thấy buồn, thấy thèm khát được gặp gỡ anh, được cùng anh tay trong tay đi dạo như những cặp tình nhân khác mà mỗi ngày tôi đều gặp trên đường.
Dường như tất cả những gì tôi nghĩ đến, tôi khát khao anh đều biết hết.
Tối hôm đó, anh hỏi tôi:
- Có phải em rất nuốn gặp anh?
- Dạ, em rất muốn gặp anh!
Tôi nói nhỏ.
Anh im lặng một lúc lâu rồi bảo:
- Tối mai, lúc tám giờ, anh đợi em ở công viên gần nơi em ở nhé?
- Ơ… anh, sao anh biết nơi em ở?
Tôi vô cùng ngạc nhiên.
Anh lại cười:
- Em quên anh đã từng nói với em sao, lúc nào anh cũng “nhìn thấy” được em!
Anh đã đưa tôi đi từ ngạc nhiên này đến thắc mắc khác.
Tại sao anh luôn biết mọi việc về tôi? Kể cả những điều nằm sâu trong suy nghĩ của tôi?
Anh yêu tôi, tôi yêu anh, chúng tôi yêu nhau đến mức đọc được ý nghĩ của nhau từ xa hay sao?
Mà không đúng, vì chỉ có anh là “nhìn thấy” được tôi thôi, chứ tôi thì đâu biết gì về anh, ngoài những điều anh kể?
Hay tại anh yêu tôi nhiều hơn tôi đã yêu anh?
Hay anh là người sống ở gần đây?
Điều này có vẻ có khả năng hơn cả.
Thế là tôi bắt đầu sàng lọc từng người mà tôi biết ở quanh đây. Số người tôi biết cũng quá ít ỏi, xem đi xét lại cũng không ai có thể là anh được!
Vậy thì anh là ai?
Câu hỏi đó cứ đeo đẳng tôi suốt đêm, suốt ngày hôm sau. Và tôi luôn nôn nóng trời mau mau tối để tôi được gặp anh. Lần hò hẹn đầu tiên trong cuộc đời đen đủi của tôi.
Đi làm về, tôi vội vã tắm gội và chọn cho mình một bộ áo quần vừa ý nhất. Tôi muốn đêm nay tôi phải thật đẹp trong mắt anh.
Lúc trưa nay, tôi đã len lén ra chợ mua một thỏi son, một hộp phấn và một cây chì kẻ, những dụng cụ làm đẹp đơn giản nhất mà bất kỳ người con gái nào cũng có, chỉ riêng tôi, gần ba mươi năm sống trên đời, đây là lần đầu tiên tôi chạm tay vào những vật đó.

Đứng trước gương, tôi cẩn thận tô son, đánh phấn, kẻ mắt vẽ mày… Nhìn mình trong gương không khác gì một thằng hề trên sân khấu!
Tôi thất vọng, gục xuống khóc rấm rứt.
Tôi cảm thấy như có một vòng tay nào đó đang choàng qua ôm lấy tôi, đặt lên đôi má đang nhòe nhoẹt nước mắt lẫn phấn son của tôi một nụ hôn thật nhẹ.
Tôi ngước lên, ngơ ngác nhìn quanh vẫn không có ai khác ngoài tôi trong nhà.
Vào phòng tắm, tôi rửa sạch mặt mũi và quyết định cứ để thế này đi đến gặp anh.
Tôi đến công viên sớm hơn nửa giờ đồng hồ. Bên trong công viên cũng có lác  đác mấy người, tình nhân có, bạn bè có, họ đang cùng nhau chuyện trò gì đó, có một nhóm bạn cứ chốc chốc lại cười phá lên rất vui vẻ.
Tôi không dám vào công viên một mình nên cứ đạp xe qua lại mấy lượt để chờ tới giờ hẹn gặp anh.
Đến vòng thứ tư, lúc tôi đang đạp chầm chậm qua cổng công viên, bỗng hoảng hồn vì một bàn tay của ai đó đặt khẽ lên vai mình. Vừa quay lại, tuy không nhìn rõ mặt mũi nhưng tự nhiên tôi biết ngay đó là anh.
Tôi vui mừng quá đỗi, nếu không có anh đỡ kịp là cả người và xe tôi đã ngã lăn kềnh ra đất.
Tôi bước xuống xe, ngượng nghịu nhìn anh.
Anh vẫn giống y như người hàng đêm đối diện với tôi qua màn hình máy tính, không một chút nào khác biệt!
Anh nhìn tôi thật trìu mến:
- Mình vào đây nghe em?
Tôi dạ thật nhỏ và thấy tay chân trở nên luống cuống vô cùng.
Anh giành lấy chiếc xe trong tay tôi, dắt đi chầm  chậm vào con đường rải sỏi trong công viên.
Ngọn đèn vàng hắt chùm ánh sáng nhạt nhòa xuống từng thảm cỏ.
Tôi và anh ngồi xuống nơi một ghế đá ngay cạnh lối đi.
Ngồi bên anh, lòng tôi như reo vui, con tim tôi đập muốn vỡ tung cả lồng ngực. Nhưng tay chân tôi lại trở nên lóng ngóng, miệng lưỡi tôi không thốt được thành câu.
Mỗi lần nói chuyện với anh qua màn hình, tôi vẫn nghĩ nếu một ngày nào đó gặp được anh, chắc hẳn tôi sẽ ngã vào vòng tay anh, sẽ ríu rít bên anh mà không một chút e dè sợ sệt.
Nhưng lúc này đây tôi lại  luống cuống không ngờ.
Chừng như hiểu được những tâm sự ngổn ngang của tôi, anh ngồi nhích lại gần và kéo tôi vào sát bên anh.
- Anh thật hạnh phúc!
Anh thốt lên bên tai tôi câu nói đó.
Nước mắt tôi lại chảy dài trong đêm tối, tôi không muốn làm anh mất vui nên đã cố dằn lại nhưng vẫn không sao làm chủ được mình.
Nhưng kìa, trên má anh đang lăn dài hai dòng lệ!
Vậy là tôi ôm chặt lấy anh, không còn gì ngăn cách nữa.
Đêm đó chúng tôi ngồi bên nhau thật khuya, nhưng không nói với nhau nhiều. Mỗi người chúng tôi đều muốn lặng im để tận hưởng trọn vẹn cái cảm giác hạnh phúc tuyệt vời mà chúng tôi đã đem đến cho nhau.
Từ hôm đó tôi và anh thỉnh thoảng lại gặp nhau, đều vào những đêm tối, vì tôi và anh ban ngày đều phải đi làm, chỉ buổi tối mới rảnh rang.
Một lần anh chợt hỏi:
- Bây giờ em mơ ước nhất điều gì?
Tôi ngước nhìn anh thật lâu rồi trả lời:
- Em không định nói, nhưng anh đã hỏi thì em không giấu. Điều em mơ ước nhất bây giờ là… được làm vợ anh.
Anh lặng lẽ siết chặt tôi trong vòng tay.
- Nếu như… nếu như anh không phải là anh như hình hài này, em có còn ước mơ như vậy không em?
Anh hỏi.
Tôi tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Sao anh lại hỏi  em câu đó? Dù hình hài anh có ra sao em vẫn yêu thương anh. Anh nhìn lại xem, hình hài em có khác gì ma quỷ đâu?
Nghe tôi nói anh cười thật buồn rồi bảo:
- Anh muốn biết, nếu… anh đúng là linh hồn trong bóng đêm, thì em sẽ thế nào?
Tôi ôm chặt lấy anh:
- Anh là người cũng được, là linh hồn cũng được, em luôn yêu thương anh, luôn mong muốn được làm vợ anh!
Anh nhìn thật sâu vào mắt tôi:
- Thật không em?
- Anh vẫn thường nói anh luôn hiểu rõ em mà? Chẳng lẽ điều này anh lại không hiểu đựơc?
Tôi hờn dỗi.
Anh đặt lên tóc tôi một nụ hôn:
- Không phải anh không hiểu, mà anh muốn được nghe chính em xác nhận điều đó với anh, anh muốn nghe em nói!
Tôi ngồi ngay lên, nhìn anh và bảo:
- Em nói thật lòng mình, dù anh có là ai, có như thế nào em vẫn một lòng thương yêu và muốn được làm vợ anh!
Anh mỉm cười sung sướng.
- Chúng mình cưới nhau, em đồng ý không?
Tôi bật khóc trước lời đề nghị bất ngờ của anh.
Ngay đêm đó anh đưa tôi đi chọn áo cưới.
Hôm sau tôi về nhà, định thưa với ba mẹ cho phép anh tới nói chuyện về ba mẹ để hỏi cưới tôi.
Tôi trình bày chưa xong thì ba tôi gạt đi:
- Ôi, tao nuôi mầy đến lúc đủ lông đủ cánh là tròn nghĩa vụ rồi, dứt nợ nần rồi! Giờ mầy muốn lấy ai, muốn theo ai thì mặc mầy, nhà này không quan tâm đâu. Tao với mẹ mầy cũng không rảnh mà đứng ra lo liệu cưới hỏi. Thôi, tụi mầy cứ dắt nhau đi đâu thì đi, làm gì thì làm, nhà này không dính dáng tới, đừng làm phiền gia đình này nữa.
Mẹ tôi cũng không hỏi một lời xem người tôi muốn lấy làm chồng là người như thế nào, bà chỉ khẽ thở phào:
- Vậy cũng may cho mầy rồi đó!
Tôi nghe tiếng em gái tôi nói với bà chị ở phòng bên cạnh:
- Không biết ông nào mặt mũi ra sao mà dám cưới bả làm vợ?
Tiếng chị tôi:
- Thì nồi nào vung nấy chứ mậy! Trời sanh Thị Nở cũng phải sanh thêm ra thằng Chí Phèo cho nó đỡ cô đơn chứ!
Tôi quay lưng đi nhanh ra cửa vẫn còn nghe tiếng cười của chị và em gái tôi đuổi theo sau lưng.
Thế là tôi với anh quyết định, ngày cưới của chúng tôi chỉ có hai đứa, không một ai khác nữa. Anh có vẻ rất vui khi thấy tôi đồng ý điều đó một cách nhanh chóng và vui vẻ.
Tôi cũng đồng ý với anh, sẽ tổ chức ở một quán ăn nhỏ vùng ngoại ô thành phố.
Tôi nôn nao hồi hộp đợi chờ ngày đó.
Vì muốn dành cho tôi sự bất ngờ nên anh không cho tôi biết địa điểm tiệc cưới diễn ra.
Tối hôm ấy, anh đến đón tôi trên một chiếc tắc xi có kiểu dáng lạ mắt, được kết hoa thật đẹp, mà người cầm lái lại chính là anh.
Anh bảo chiếc xe này anh mượn của một người bạn. Tôi và anh sẽ được sử dụng nó đến hết tuần này.
Lòng tôi ngập tràn hạnh phúc. Tôi xách theo va li đồ cưới cùng anh tiến ra ngoại ô thành phố.
Tuy anh gọi đó là một quám ăn nhỏ nhưng thật sự cách bày trí và không gian không khác gì một nhà hàng sang trọng. Chỉ có một điều hơi lạ là nơi đây không để đèn điện mà chỉ thắp nến. Người phục vụ cũng rất ít.
Cả khu vực đều vắng vẻ.
Thấy tôi có vẻ thắc mắc, anh mỉm cười:
- Đêm nay anh đã bao trọn gói chỗ này. Anh muốn chỉ có anh và em nơi đây mà thôi, em ạ!
Niềm hạnh phúc trong tôi càng được dâng cao hơn nữa.
Tôi xúng xính trong chiếc áo cưới trắng tinh, mái tóc xác xơ thường ngày của tôi được buộc túm lên giữa đỉnh đầu, anh bảo như thế trông tôi rất dễ thương!
Chắc có lẽ không có cái đám cưới thứ hai nào giống như thế! Cả một nhà hàng lung linh ánh nến, cô dâu không phấn son ngây ngất bên chú rể hiền hòa mắt ngời hạnh phúc.
Một đám cưới ngoài cô dâu, chú rể không có lấy một người thứ ba!
Nhưng tôi đâu cần gì nữa? Cuộc đời tôi có được như thế này cũng đã vượt xa mơ ước rồi.
Tiếng nhạc dặt dìu. Tôi như kẻ mộng du đang bay trong một bầu trời hạnh phúc tuyệt vời.
Sau khi thực hiện đủ các thủ tục, và đã uống với nhau cạn mấy ly rượu, anh dìu tôi vào phòng tân hôn.
Căn phòng nằm ngay trong nhà hàng, được trang trí thật thanh nhã nhưng rất sang trọng và ấm cúng.
Anh có vẻ mệt vì uống rượu hơi nhiều nên trong lúc tôi thay áo quần thì anh đã nằm vật ra giường.
Khi tắm xong, tôi bước ra ngoài định gọi anh đi tắm thì thấy anh đã ngủ nên thôi không gọi nữa.
Đứng trước gương, tôi nhìn thấy tôi trong đó thật rạng ngời. Tôi thấy hôm nay hình như mình đẹp lên gấp bội.
Nhưng ơ kìa, anh đâu rồi? Tôi nhìn vào kiếng chỉ thấy chiếc giường chơ vơ hai chiếc gối.
Tôi quay lại, anh vẫn nằm đó!
Tôi nhìn trở vào kiếng thì vẫn chỉ chiếc giường không có người nằm.
Một cảm giác gai gai len đến trong tôi.
Tôi nhẹ nhàng đến bên anh, ngồi cạnh anh rồi nhìn vào tấm gương trước mặt.
Trong gương, trên giường chỉ có mỗi một mình tôi!
Tôi bàng hoàng và cảm thấy đau thắt nơi ngực trái.
Anh ơi! Anh thật sự chỉ là một linh hồn trong bóng đêm sao anh?
Những gì anh nói với em hôm trước đều là sự thật phải không anh?
Nước mắt tôi rơi ra, lòng tôi đau thắt lại. Nhưng tôi hoàn toàn không sợ hãi.
Tôi khóc, tôi đau lòng vì quá thương anh.
Tôi nằm xuống bên cạnh, nhẹ nhàng xoay người choàng tay qua người anh.
Dù tôi đã cố không làm anh thức giấc, nhưng khi vòng tay vừa chạm vào anh đã mở bừng mắt nhìn tôi.
- Sao em lại khóc?
Anh ngạc nhiên khi thấy nước mắt lăn dài trên má tôi.
Tôi dụi đầu vào ngực anh thổn thức:
- Em thương anh quá! Dù anh chỉ là một linh hồn vất vưởng, em vẫn yêu thương anh…
Anh ngồi dậy nhìn tôi đăm đăm:
- Em biết rồi sao?
Tôi gật đầu và chỉ tay vào tấm gương bên cạnh.
Anh hiểu ra và ôm đầu khổ sở.
- Anh xin lỗi em, đáng lẽ ra anh không nên… không nên đưa em vào hoàn cảnh này…
Tôi ôm chặt lấy anh:
- Không! Không anh ơi! Em đang hạnh phúc, rất hạnh phúc! Em cảm ơn vì tất cả những gì anh đã làm cho em…
- Nhưng… anh chỉ là một bóng ma…
Anh đau đớn nói.
- Em nói với anh rồi mà, anh có là gì thì em vẫn là vợ của anh!
Tôi khẳng định lại lần nữa và tựa vào anh tin tưởng.
- Em có trách anh tại sao lại giấu em không?
Anh hỏi.
Tôi mỉm cười:
- Có lẽ anh không nói vì anh sợ em sẽ sợ hãi khi biết anh không phải là người? Nhưng anh ạ, con người trên trần gian này đã đối xử với em ra sao thì anh biết rồi đó, em cần tình thương, dù là tình thương của ma, em vẫn thấy mình hạnh phúc vô biên… Nhưng em muốn biết, tại sao anh chết?
- Anh xin lỗi vì đã chưa kể thật hết với em. Sau thời gian anh vô tù nhận tội thay cho cha mẹ, anh được trả tự do sớm vì đã có nhiều biểu hiện tốt trong quá trình cải tạo, đồng thời anh đã cứu được hai bạn từ khác khỏi bị dòng nước lũ cuốn đi. Về nhà, anh tưởng ba mẹ sẽ đối xử với anh tốt hơn một chút, nhưng không ngờ, cả mẹ và ba đều cấm cửa không cho anh vào. Họ bảo họ không thể chứa chấp một thằng mới ra tù, không thể chứa chấp một phần tử xấu của xã hội. Quá đau đớn, anh lang thang ra đường trong tình trạng đói khát và tinh thần suy nhược. Vì đầu óc mải nghĩ lung tung, anh đã bị một chiế xe đâm phải và chết ngay tại đó. Ba mẹ anh vẫn nhẫn tâm không đem xác anh về. Cuối cùng, người ta phải đem chôn anh ở một nơi hoang vắng…
Anh buồn bã kể.
- Có phải hình nền trên blog anh đúng là nơi an nghỉ của anh?
Anh gật đầu xác nhận.
- Cuộc đời này đã bạc đãi chúng ta, rất may là chúng ta đã gặp được nhau. Em hứa sẽ yêu thương anh hết lòng để bù đắp những gì mà anh đã từng mất mát…
Tôi vuốt ve cánh tay anh.
Đêm tân hôn của chúng tôi không vì chuyện tôi phát giác ra anh không phải là người mà bị phá vỡ, trái lại nó càng giúp chúng tôi hiểu nhau một cách sâu sắc hơn nữa.
Bây giờ, tôi càng nhận rõ ra một điều, một khi con người đã tàn ác thì còn đáng sợ hơn ma quỷ gấp vạn lần.
Cho dù anh là ma, trong cái thân xác mà tôi đang ôm ấp thương yêu không còn luân chuyển dòng máu đỏ, nhưng anh đã thật sự sưởi ấm cuộc đời tôi, anh đã đem đến cho tôi một cuộc sống tràn đầy ý nghĩa.
Thì có sá gì dẫu anh không phải là người?
Sáng hôm sau, khi tôi thức giấc thì anh đã đi vắng, để lại trên bàn mảnh giấy nhỏ: “Anh xin lỗi vì không nỡ đánh thức em dậy! Khi mặt trời lên, tất cả phải trở về đúng vị trí của nó em ạ. Đừng giận anh, tối nay anh sẽ đến. Hôn em”
Nước mắt rưng rưng vì thương anh. Tôi bỗng giật mình khi nhìn lại xung quanh. Nơi đây không phải là căn phòng sang trọng mà tối hôm qua tôi đã thấy, đây chỉ là một căn nhà nhỏ có lẽ đã bỏ hoang từ lâu vì mạng nhện giăng đầy cả lối đi, trên nền nhà, bàn ghế đều phủ một lớp bụi dày.
Tôi vội vã đứng lên thay quần áo rồi xách chiếc va li ra cửa.
Vừa bước ra sân, tôi bắt gặp một chiếc tắc xi chạy trờ tới, hoàn toàn không phải chiếc xe kết hoa tối vừa rồi anh chở tôi đi.
- Thưa cô, có phải cô đang cần về đường X, quận Y trong thành phố?
Tôi ngạc nhiên, hoang mang không biết có phải là anh đang đùa giỡn với tôi không:
- Sao anh biết tôi cần về đó?
Người tài xế mỉm cười:
- Dạ, lúc nãy ông xã cô dặn tôi như vậy. Anh ấy bận việc gấp nên không đi đón cô được nên gọi xe tôi.
Người tài xế đỡ lấy chiếc va li rồi mở cửa xe cho tôi bước vào.
Dù tôi rất buồn vì không được đi cùng anh, nhưng tôi cũng thật ấm lòng về sự quan tâm mà anh dành cho tôi.
Anh sợ ở nơi hoang vu vắng vẻ này, tôi không thể trở về thành phố bằng cách nào nên mới đón xe giúp tôi như vậy.
Hôm trước tôi đã xin nghỉ phép mấy ngày, nhưng không nói cho ai biết là tôi nghỉ để lấy chồng.
Bây giờ về nhà, không có anh, tôi thấy ngày thật dài đằng đẵng. Tôi không biết làm gì để thời gian nhanh chóng trôi qua, để tôi lại được gặp anh vào buổi tối.
Tôi mở máy tính và lên mạng để vào blog của mình. Tôi dự định sẽ viết một entry mới kể về niềm hạnh phúc vô biên mà tôi đang có trong tay.
Nhưng thật lạ lùng, blog của tôi hôm nay đã hoàn toàn đổi khác, hình như đó là sự giao hòa giữa blog tôi và blog anh.
Hình avatar không còn là một bóng người lầm lũi trong đêm nữa mà bây giờ đã có hai bóng người nắm chặt tay nhau.
Hình nền của blog tôi cũng có vẻ sáng lên khác hẳn ngày thường.
Tôi vội vàng chạy sang blog anh, thì kia rồi, blog anh giống y hệt blog tôi. Hai chúng tôi đã thật sự giao hòa, bóng đêm và linh hồn đã thật sự hòa quyện vào nhau.
Tôi sung sướng nhìn kỹ lại làn nữa. Có một entry mới vừa xuất hiện, chỉ một câu duy nhất:
“Cảm ơn cuộc đời đã cho chúng mình tìm được nhau!”
****
Chúng tôi sống với nhau gần một tháng trong tình trạng đó. Tức là ban ngày anh luôn luôn vắng mặt, anh chỉ có mặt bên tôi khi bóng tối đã bao trùm lên vạn vật mà thôi.
Tôi ngày một xanh xao vàng vọt. Những người ở công ty nhìn tôi ái náy. Nhưng tôi không quan tâm, thân xác đối với tôi không nghĩa lý gì nữa, tôi chỉ cần tâm hồn tôi được thảnh thơi, vui sướng mà thôi.
Nhưng một hôm anh đến, anh không cười đùa với tôi nữa mà cứ lặng lẽ nhìn tôi rồi lặng lẽ thở dài.
- Anh, có việc gì sao anh?
Tôi lo lắng.
Anh phân vân một lúc lâu rồi nói:
- Anh rất thương em. Và anh cũng biết em thương anh nhiều lắm, nhưng… có lẽ chúng mình không thể sống như vầy được nữa đâu em!
- Sao thế anh?
Tôi run run hỏi.
Anh kéo tôi lại gần, nắm lấy cánh tôi trìu mến:
- Anh là hồn ma, hồn ma thì không thể chung đụng với con người. Nhưng vì chúng mình quá thương nhau, chúng mình đã vượt qua lề luật. Em nhìn xem em nè, cơ thể em đã tiều tụy rất nhiều do em tiếp xúc với phần âm nhiều quá. Nếu mình không tách rời nhau ra… anh e có một ngày…
Anh nói tới đó rồi im bặt.
Tôi đã biết anh muốn nói gì nên vội tiếp lời anh:
- Có phải anh lo sợ một ngày không xa, em cũng sẽ lìa đời?
Anh khẽ gật đầu.
Tôi sung sướng reo lên:
- Đó chính là điều mà em chờ đợi đó anh! Em vẫn muốn mình thật sự sống bên nhau, cả ngày lẫn đêm. Nơi nào có anh là có em. Em không muốn hàng ngày anh phải lang thang vất vưởng đâu đó để đợi đêm về mới tìm về được nhà mình. Anh đừng lo cho em điều đó! Em nhất định không lìa xa anh, không bao giờ mình lìa xa nhau, nghe anh?
- Anh không muốn em làm hại chính bản thân mình!
Anh nhìn tôi đăm đắm.
Tôi cũng quay lại nhìn thật lâu rồi nói:
- Em đã nhất đinh vậy rồi, anh đừng ngại ngần gì nữa hết.
Nhưng anh có vẻ tự lắm. Tôi biết anh không nỡ nhìn thấy tôi suy kiệt từng ngày.
Trong đầu tối lúc ấy đã lóe lên một ý nghĩ. Tôi cố gắng quay đi và không nghĩ nhiều tới nó nữa vì sợ anh sẽ đoán ra.
Đêm hôm ấy chờ khi anh ngủ, tôi len lén ngồi lên lấy ra hộp thuốc ngủ lâu nay tôi vẫn thường mang theo bên mình và đổ ra uống hết.
Xong xuôi, tôi trở lại nằm bên anh, thư thái và hạnh phúc!
Giờ đây chúng tôi đang sống bên nhau những ngày tháng thật tươi đẹp. Trang blog của chúng tôi không khép lại mà luôn để mở để tất cả các bạn có thể đọc được, đọc và hiểu chúng tôi, hiểu những người bất hạnh khác đã và đang sống trên đời.
Entry cuối cùng này tôi đã kể lại toàn bộ cuộc đời và tình yêu của chúng tôi.
Bây giờ, chúng tôi là một cặp vợ chồng ma vô cùng hạnh phúc.
***
Vy thừ người khi đọc đến dòng chữ cuối cùng của trang blog. Một trang blog kỳ lạ luôn chấp chới mỗi lúc Vy sign in blog.
Cái avatar hình hai người dắt tay nhau đi trong đêm tối, cái hình nền thấp thoáng lờ mờ một ngôi mộ đất cứ luôn ám ảnh Vy.
Và đêm nay cô đã đọc hết trang blog đó.
Vy chợt nhận ra tình yêu của họ đẹp biết bao nhiêu.
Vy porward đường link trang blog ma đó cho bạn bè với lời giới thiệu: Một mối tình đẹp, một câu chuyện buồn để ta soi lại bản thân mình.
Có người tin đó là sự thật, có người không tin, bảo rằng đó chỉ là trò chơi của một ai đó, nhưng với riêng Vy, Vy biết ơn trang blog đó, nó giúp cho Vy nhận ra sai lầm của mình.
Lần đầu tiên Vy ôm đứa cháu của mình vào lòng, đặt lên má nó một nụ hôn âu yếm. Đứa bé dị dạng do anh trai Vy nhiễm chất độc màu da cam từ nhiều năm trước…
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:38:59 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 22:05:03
MA DƯỚI CHÂN CẦU
 
Nghỉ hè năm nay tôi không được ba mẹ đưa về quê nội ở Quảng Bình như dự tính, vì công việc ở công ty ba mẹ đang gặp nhiều rắc rối cần phải giải quyết.
Ở nhà một mình suốt ngày vừa buồn vừa chán, mà mẹ cũng không yên tâm để tập trung vào công việc. Vì vậy khi nghe dì Út rủ về quê chơi với con dì cho có bạn, tôi mừng còn hơn bắt được vàng, ba mẹ cũng đồng ý ngay lập tức.
Nhà dì Út nằm ở một huyện vùng sâu của miền Tây Nam bộ. Xuống xe đò, tôi phải lội bộ gần ba cây số rồi đi thêm một chặng đò nữa mới tới nhà dì. Aáy thế mà tôi chẳng thấy mệt mỏi gì cả!
Vốn được sinh ra và lớn lên tại thành phố ồn ào đông đúc, bước ra cửa là lên xe, hiếm có dịp nào tôi được chạy nhảy tung tăng trên con đường quê rợp bóng mát của những vườn dừa, vườn nhãn và các loại cây ăn trái khác, hiếm có khi nào tôi được bềnh bồng trên sông nước dịu êm như thế này.
Đò vừa cập bến là thằng Tài, con Huệ mấy đứa em con dì đã chạy ùa ra đón rước.
Mà cũng mắc cười thiệt, tôi giữ vai anh của chúng nó, vậy mà ngay khi đặt chân lên vùng đất quê hương xanh mát này tôi lại phải răm rắp làm theo lời chỉ dẫn của bọn nó, kể cả bé Huệ, con gái út của dì tôi mới vừa tám tuổi.
Mấy ngày đầu mới về, tôi rất thích được tắm sông, mò bắt ốc dừa đeo trên các thân cây dừa nước dọc hai bên bờ. Buổi tối thì theo bọn thằng Tài với mấy đứa trong xóm đi cắm câu, soi ếch vui thiệt là vui.
Sau đó, vào những buổi trưa, chờ cho dì dượng ngủ yên, ba anh em chúng tôi lại len lén tụt khỏi giường, đi rảo trên khắp các nẻo đường tìm bắn những con chim se sẻ.
Nói là bắn cho oai vậy thôi, chứ bé Huệ đời nào cho phép chúng tôi làm vậy! Nó bảo:
- Chim hót rất hay, các anh bắn chết nó, vừa tội nghiệp, vừa không có con gì hót mỗi trưa, quê mình sẽ buồn lắm.
Vì vậy, mặc dù cũng trang bị đầy đủ giàn thun và những viên đạn được vo bằng đất sét, nhưng đi cả buổi cũng chỉ là đi dạo loanh quanh, ngắm chim giương ná cho thỏa thích vậy thôi, chứ có bao giờ chúng tôi hạ sát được chú chim nào đâu!
Nhưng tôi thì lại khoái cái cảm giác được xách toòng teng trên tay một chú chim nào đó, để minh chứng cho tài “thiện xạ” của mình. Vì thế cho nên một buổi chiều nọ, tôi rủ thằng Tài, hai đứa lén con Huệ đi dài theo con đường làng để tìm những chú chim ngơ ngác.
Có lẽ đoán trước được những hiểm hoạ đang rình rập mình hay sao mà không có chú chim nào chịu đậu trên cành cho tôi thử nghiệm! Hai đứa đi tới đầu cầu, ranh giới giữa làng này và làng bên kia, thì thằng Tài níu tay tôi lại, bảo:
- Thôi, anh ơi! Mình đừng qua đó!
- Sao thế?
Tôi nhìn nó ngạc nhiên hỏi.
- Tại vì… tại vì cây cầu đó có ma… Em sợ lắm!
Thằng Tài vừa trả lời tôi, vừa lấm lét nhìn về phía cây cầu.
Tôi bật cười:
- Trời đất ơi, tưởng gì! Em đừng sợ, làm gì có ma mà sợ?
Thằng Tài nghiêm mặt:
- Anh đừng có đùa, ở đây ai ai cũng biết chuyện này. Nếu không tin, chút nữa về nhà anh hỏi mẹ em đi!
Nhìn bộ dạng của nó, tôi không nỡ chế nhạo nên gật gù:
- Ừ, vậy em kể cho anh nghe đi!
Nó tằng hắng mấy cái liên tục rồi mới bắt đầu:
- Em nghe người ta kể lại, cách đây lâu lắm rồi, có một người đàn bà người làng bên kia, trong lúc giận chồng dẫn đứa con gái nhỏ ba tuổi ra ngồi ở chân cầu. Giữa lúc người mẹ đang đau khổ khóc lóc một mình, thì đứa bé vẫn vô tư chạy nhảy. Khóc thỏa thuê, chừng sự nhớ tới đứa con, người đàn bà hoảng hốt tìm gọi khắp xung quanh mà vẫn không thấy nó. Bà lên tiếng kêu cứu, dân cả làng đổ xô ra, người ta lặn xuống sông thì mò được đứa bé, nhưng nó đã chết rồi! Quá đau đớn, người đàn bà gần như điên loạn, ngày nào bà cũng lang thang ra sông để tìm con. Rồi một hôm không thấy vợ quay về, người chồng cùng dân làng lại ra bến sông này tìm kiếm thì thấy xác người vợ trôi lềnh bềnh trên mặt nước. Từ đó, hồn người vợ cứ quẩn quanh ở bến sông này để tìm con, đã rất nhiều người gặp rồi, em sợ lắm!
Tôi bắt đầu tò mò:
- Có thật thế không? Hay là người lớn kể vậy để nhát bọn con nít?
Thằng Tài nghiêm nghị:
- Có thiệt đó anh, nhiều lần em lén nghe người ta nói với nhau, họ không có dọa mình đâu! Ở đây người lớn cũng vẫn sợ.
- Nhưng ma thì ban đêm mới hiện ra, giờ còn là ban ngày mà em sợ gì chứ?
Tôi hỏi thằng Tài.
Nó rụt đầu, lè lưỡi:
- Tại anh không biết đó thôi, con ma đó hiện ra bất kể giờ giấc, em không bao giờ dám đi qua lối này một mình.
- Thì anh có bảo em đi một mình đâu? Đi với anh mà!
Tôi thúc giục.
Thằng Tài vẫn một mực từ chối. Nó xoay lưng lại, dợm bước trở về. Tôi đành phải xuống nước:
- Ừ thì thôi vậy! Anh em mình đi theo hướng này!
Thế là tôi với thằng Tài bọc theo lối khác về nhà. Trên đường đi, cũng mấy lần gặp chim đậu trên cành, nhưng chẳng lần nào tôi bắn trúng. Rốt cuộc, dù không có bé Huệ đi theo, hai đứa tôi vẫn tay không trở về. Thằng Tài vừa đi vừa nhìn tôi cười tủm tỉm. Chắc trong bụng nó đang thầm cười ông anh thuộc dòng họ “nổ” này, vì mấy hôm nay tôi luôn khoe với nó tôi có tài thiện xạ, bách phát bách trúng.
Mắc cỡ với thằng Tài, tôi làm bộ nói lãng qua chuyện khác:
- Anh không tin chuỵên ma em kể lúc nãy đâu! Để mai anh đi qua đó thử xem sao?
Thằng Tài xanh mặt:
- Anh nói thiệt hả?
- Ừ, thiệt chứ!
Tôi vênh mặt lên. Mình cũng phải gỡ gạt chút đỉnh cái vụ bắn tỉa này chớ, đâu thể để hình ảnh ông anh thành phố bị… hạ thấp trước mắt thằng em quê mùa? Ít nhất, mình cũng phải làm một điều gì đó cho nó phải nể phục mình sát đất.
Mà ở đây, có cái trò nào mình hơn được nó đâu? Thôi thì đành phải lấy cái sự gan dạ trời sinh của mình ra “chơi” với nó vậy!
Tối đó, tôi rủ thằng Tài, con Huệ và mấy đứa khác trong làng đi qua làng kế bên chơi điện tử. Anh em thằng Tài không đứa nào dám đi theo, chỉ có tôi cùng một vài đứa “cứng cựa” khác. Tôi còn tuyên bố, tôi sẽ dẫn đầu cả đám khi đi qua chiếc cầu đó.
Chúng tôi cả đám rồng rắn đi ra khỏi làng, tiến về phía chiếc cầu. Tôi hùng dũng tiến lên phía trước, cả đám nhìn tôi nể phục và vội vã chạy theo.
Tất cả đều bình thường, không có gì khác lạ. Tôi len lén thở phào nhẹ nhõm.
Qua làng bên, chúng tôi chơi điện tử một lúc rồi chui vô quán chè ăn mỗi đứa một ly. Tôi không quên mua hai bịt đem về cho thằng Tài, con Huệ.
Bận quay về, chúng tôi chẳng đứa nào quan tâm đến chiếc cầu và những chuyện ma quái xung quanh nó, cả đám vừa đi vừa ríu rít nói cười đủ thứ chuyện trên trời dưới đất.
Đi gần tới bờ sông, tôi trông thấy phía trước có người nên dấn bước tiến lên.
Người đi trước đi tới giữa cầu bỗng đứng khựng lại nhường đường cho cả đám chúng tôi. Khi chúng tôi đã qua hết cây càu, bỗng người đó gọi với theo:
- Các cháu ơi, các cháu có thấy con cô đâu không?
Tôi quay lại nhìn thì… trời ơi! Dưới ánh trăng sáng rỡ, tôi thấy rõ ràng đó là một người đàn bà có gương mặt vô cùng kinh khiếp, một gương mặt nhầy nhụa máu thịt với hai con mắt thòng xuống hai bên cánh mũi.
- áaaaaaaaaaaaaaaa!!
Tôi hét lên rồi co giò chạy thục mạng, cả đám con nít chạy theo tôi mà không hiểu lý do gì.
Về tới nhà, tôi vẫn còn run bần bật. Dì dượng tôi phải hỏi mãi tôi mới lập cập kể lại sự việc.
Dì tôi trách:
- Đêm hôm con đi chơi làm gì không biết! Đi mà không xin phép dì dượng, lỡ có chuyện gì, dì biết ăn nói sao với ba mẹ con đây?
Thằng Tài, con Huệ đang ngủ, nghe ồn ào nên lồm cồm ngồi dậy. Nhìn thấy dáng vẻ tôi lúc ấy cả hai đã đoán được điều gì rồi.
Nhưng thằng Tài, con Huệ không đứa nào cười nhạo tôi như tôi nghĩ mà trái lại chúng tỏ ra lo lắng cho tôi nhiều lắm.
Tôi thấy ân hận vô cùng. Chỉ vì một chút anh hùng rơm mà tôi đã làm cho cả nhà lo lắng và bản thân mình ra nông nỗi thế này….
Dì ôm tôi vào lòng:
- Thôi, cũng may là con không việc gì! Mấy hôm nay dì sợ con sợ nên không dám nói với con về chuyện con ma dưới chân cầu ấy. Thường những người lạ đi qua đó đều bị nó chận lại hỏi thăm về đứa con. Có người còn bị nó dụ lội xuống sông tìm con giúp nó nữa đó! Con vậy là may rồi! Từ nay nhớ đừng đi đâu ban đêm tới khu vực đó nữa nghe không?
Suốt đêm hôm đó hễ nhắm mắt lại là tôi lại gặp ác mộng. Gương mặt gớm ghiếc của người đàn bà kia cứ chập chờn trước mắt tôi khiến tôi vô cùng sợ hãi.
Sáng hôm sao, tôi mếu máo xin dì đưa tôi trở về thành phố.
Thằng Tài, con Huệ rất buồn vì phải chia tay tôi sớm hơn dự định. Tôi cũng bùi ngùi không kém chúng nó, nhưng tôi không thể nào ở lại đây được nữa vì tôi quá sợ hãi rồi.
Trước khi đưa tôi về, dì Út đã vắt mấy vắt cơm đem ra bờ sông cúng vái vong hồn người đàn bà đó, mong bà ta đừng bám theo tôi.
Từ đó, tôi không bao giờ tỏ ra anh hùng nữa!
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:39:57 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 22:06:36
MẸ GHẺ - CON CHỒNG
 
Nhung gấp xong mớ quần áo đứng lên vươn vai than thở:
- Không hiểu sao tự nhiên mình lại đâm đầu về đây để làm Osin cho mấy cha con nhà này? Đúng là nợ báo oan gia từ kiếp trước…
Đồng đang ngồi đọc báo, nghe vợ cằn nhằn, anh bực bội ném tờ báo lên bàn đứng dậy bỏ ra ngoài sân.
Nhung cố tình nói lớn hơn cho Đồng nghe rõ:
- Cũng vì mình ngu dại, nghe lời đường mật của người ta nên giờ mới khổ thân thế này đây!
Không thể nín nhịn được nữa, Đồng quay vào rít qua kẽ răng:
- Cô nói gì nói lại tôi nghe xem sao? Cô khổ là khổ thế nào? Ăn sung mặc sướng, nhà cao cửa rộng… cô còn đòi hỏi gì nữa đây?
Chỉ chờ có vậy, Nhung lập tức lu loa kể lể:
- Vậy là anh nói tôi sung sướng lắm sao? Trời ơi ngó xuống mà coi nè trời! Suốt ngày tôi phải lo lắng phục vụ cho cha con anh, phải nhân nhượng, chìu lòn hai đứa con anh… Sao cái số tôi lại ra nông nỗi như vầy. Ngày trước biết bao người đeo đuổi, không hiểu tôi ăn bùa mê thuốc lú gì mà lại đâm đầu vào đây…
Đồng đập tay xuống bàn:
- Cô nói cho tôi nghe đi, cô muốn tôi phải làm sao đây?
Nhung không trả lời câu hỏi của Đồng mà lại nói loanh quanh:
- Anh có biết là tôi đã phải cố gắng đến mức nào chưa? Vậy mà con anh có tôi là mẹ nó đâu? Người ngoài có ai thông cảm với tôi đâu? Họ cứ đem câu “Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời mẹ ghẻ lại thương con chồng” ra mà khích bác hai đứa nhỏ…
- Nhưng cả hai đứa, có đứa nào dám hỗn hào gì với cô hay không? Sao cô lại ăn nói vô căn cứ như vậy?
Đồng tức giận.
- Tại anh không biết đó thôi, trước mặt anh bọn nó giả vờ ngoan ngoãn hiền lành, nhưng khi anh vắng nhà, lại đối xử với tôi không ra gì, lại còn đi rêu rao khắp làng trên xóm dưới tôi thế này thế khác…
Nhung vừa khóc vừa nói.
Đồng cười gằn:
- Tôi chưa từng chứng kiến sự hỗn hào của hai đứa nhỏ, tôi cũng chưa từng nghe làng xóm nói gì… Cô có tự nghĩ ra không vậy?
Nhung tức lồng lên:
- A… anh hay thật! anh nói tôi đặt điều vu khống cho con anh à? Trời ơi là trời…
- Nói tóm lại, bây giờ cô muốn tôi làm sao cho cô vừa lòng đây? Cô nên nói rõ ra đi để khỏi ấm ức trong lòng nữa?
Đồng chán nản hỏi.
Nhung không nói gì chỉ ôm mặt khóc tức tưởi.
- Dù cô không nói ra tôi cũng biết, ý cô muốn là tôi phải nhường quyền nuôi dưỡng hai đứa bé lại cho ngoại nó, đúng không? Tôi xin cô, cô muốn gì tôi cũng có thể chìu cô được hết, riêng việc này thì dứt khoát là không! Tôi là cha, tôi phải có trách nhiệm nuôi dưỡng con tôi một cách đàng hoàng tử tế, tôi không thể để các con tôi sống cảnh mồ côi được.
Đồng gằn mạnh từng tiếng.
Nhung ngước đôi mắt sũng nước nhìn Đồng, hạ giọng:
- Vậy là… nếu phải chọn lựa giữa hai đứa nhỏ và em, anh sẽ chọn hai đứa nhỏ, đúng không?
Đồng ngồi xuống cạnh vợ, buồn rầu nói:
- Tại sao em không thông cảm cho anh hả Nhung? Em đừng đẩy anh vào chỗ khó xử…
Nhung lau nước mắt, nói với giọng lạnh tanh:
- Sao trước đây, khi ngỏ lời với em anh lại bảo rằng chỉ chăm sóc con bé vài tháng, khi nào nó cứng cáp khỏe mạnh anh sẽ để ngoại nó đón về? Anh biết em không quen cực khổ, không quen nuôi dạy trẻ con mà?
Đồng nhìn Nhung như van lơn:
- Thì anh đã bảo em thuê người về chăm lo cho chúng, tại em không đồng ý đó thôi!
Nhung cười nhạt:
- Em không quản ngại khó khăn vất vả, ngày đêm lo lắng quan tâm, vậy mà còn không thoát khỏi mấy tiếng mẹ ghe con chồng. Nếu thuê người khác về chăm sóc chúng, em còn bị xã hội bêu rếu đến mức nào đây? Em thấy mọi việc không có gì khó giải quyết. Anh vẫn có thể làm tròn bổn phận người cha khi hai đứa nhỏ về bên ngoại. Ở đó nó có ông bà ngoại, có người dì lớn tuổi góa chồng, mà người ta thường nói dì cũng như mẹ, anh không biết sao? Sống trong môi trường đó nó còn được phát triển tốt hơn nữa kìa…
Đồng thở dài:
- Em thử đặt mình trong hoàn cảnh của anh xem sao. Lúc đầu anh cũng có ý định đưa các con về bên ngoại, nhưng cái lần con bé Hạ bị bệnh, trong cơn mê sảng nó không ngừng kêu van: “Ba ơi, ba đừng bỏ chúng con… ba đừng đuổi chị em con đi…”. Từ ngày đó anh biết mình không thể xa chúng nó được. Em thương anh, xin hãy chia sẻ cùng anh nỗi khó khăn này…
Nhìn thấy thái độ dứt khoát của Đồng, Nhung biết dù có làm mình làm mẩy đến đâu cũng không đạt được kết quả như ý muốn, vì vậy cô cố gắng kìm nén lòng mình lại.
Đặt tay lên tay Nhung, Đồng khẽ nói:
- Xin em tha lỗi cho anh! Đôi lúc em làm nóng giận nên nói năng không giữ lời được, chứ anh hiểu em không phải là một kẻ ác tâm. Anh biết em cũng bị nhiều áp lực… Thôi thì vì anh, vì tình yêu của vợ chồng mình em và anh cùng nhau cố gắng vượt qua tất cả, nghe Nhung? Anh sẽ luôn nhắc nhở hai con phải thương yêu kính trọng em như mẹ ruột. Em yên tâm đi, rồi mọi việc đâu sẽ vào đấy hết thôi.
Nhung gục đầu lên vai Đồng thút thít khóc:
- Em chấp nhận khổ cực, chỉ xin anh hiểu cho em, hiểu được những nỗi khổ mà em phải mang vác trên người… Em sợ dư luận bên ngoài tác động đến anh, rồi một ngày nào đó anh sẽ coi em như một người mẹ ghẻ tầm thường độc ác…
Đồng nghiêm mặt nói:
- Em không được nghĩ bậy! Người ta có nói gì mặc kệ người ta, em đừng thèm quan tâm tới. Thói đời vẫn vậy mà em, họ thích thóc mách chuyện nhà người khác, kích động người này người khác khiến gia đình xào xáo lên thì họ mới có chuyện mà đàm tiếu tiếp tục chứ! Vợ anh thế nào anh hiểu, em đừng lo!
Đồng dỗ dành thêm chút nữa, thấy vợ đã nguôi ngoai, anh đứng lên xoa tay vào bụng cười cười:
- Bụng anh đang biểu tình đây này em ơi…
Nhung nhoẻn cười đi xuống bếp dọn cơm.
Đồng đứng nhìn theo vợ khẽ lắc đầu mỉm cười. Anh biết Nhung tính tình trẻ con nông nỗi, hay cằn nhằn nhưng thật lòng thật dạ yêu thương anh.
Ngày ấy, khi Mai, vợ Đồng đột ngột qua đời vì tai biến, anh những tưởng mình sẽ ở vậy suốt đời, sẽ không còn yêu ai được nữa. Thế nhưng không lâu sau Đồng tình cờ gặp Nhung và đã yêu say mê cô từ giây phút ban đầu.
Nhỏ hơn Đồng mười hai tuổi, Nhung không đẹp lắm nhưng rất có duyên nên có không ít những chàng trai đeo đuổi. Ấy thế mà Nhung lại bằng lòng về làm vợ Đồng, một gã đàn ông góa vợ, có hai đứa con riêng và lớn hơn mình đúng một con giáp. Đồng biết đó là một sự hy sinh rất lớn của Nhung.
Mỗi lần đến chơi nhà Đồng, hai đứa bé luôn quấn lấy Nhung và cô cũng tỏ ra rất mực thương yêu chìu chuộng chúng. Đồng những tưởng khi đã sống cùng một nhà, niềm vui sẽ được nhân lên.
Ấy vậy nhưng khi đã chính thức thành chồng vợ thì mọi việc lại không êm đẹp. Hình như những ngày hạnh phúc của họ rất ngắn ngủi, còn lại chỉ là sự gượng gạo, nín nhịn mà thôi.
Đồng tự nhủ mình sẽ cố gắng quan tâm vợ nhiều hơn nữa để Nhung không cảm thấy tủi thân, nhưng tính Nhung hay cằn nhằn, mai mỉa, và điều đó khiến Đồng nhiều phen điên tiết.
Trong thâm tâm, Đồng nghĩ Nhung không vui vì phải vất vả lo toan cho hai đứa con chồng, phải chịu đựng dư luận bàn ra tán vào và nhất là không được hưởng trọn vẹn tình cảm vợ chồng son như cô hằng mong muốn. Cũng đúng thôi, một cô gái trẻ vừa mới lấy chồng lại phải mang trên vai gánh nặng thì làm sao Nhung không khó chịu cho được? Nhưng Đồng tin, Nhung chắc chắn sẽ vượt qua được hết vì tình yêu hai người dành cho nhau.
 
***
- Hai đứa học hành chưa mà ngồi đây xem ti vi hoài vậy? Thôi, tắt dẹp, lên học đi!
Nhung vừa nói vừa bấm remote khiến tivi tắt phụt.
Con bé Thu mếu máo:
- Dì… dì cho con xem hết hoạt hình đi, xong rồi con lên liền!
Nhung trừng mắt:
- Không được! Hai đứa không được cãi lời dì! Dì mà chìu tụi con, lỡ việc học hành bị sa sút, chừng đó ba các con lại bảo là dì không quan tâm. Thôi, mau lên học hành đi!
Hạ xị mặt không nói tiếng nào, đứng lên kéo tay Thu:
- Đi em, lên phòng mình!
Lúc đi ngang qua Nhung, Hạ không giấu được ánh mắt giận dỗi. Nhung nhìn theo hai chị em Hạ lẩm bẩm:
- Mới bây lớn mà bày đặt liếc xéo liếc xiên tao rồi hả? Tao không phải là người dễ ăn hiếp đâu nhé!
Ngồi một mình ở phòng khách Nhung càng nghĩ càng tức. Trước khi cưới, nếu biết phải chung sống cùng hai đứa con chồng thế này chắc Nhung sẽ không đồng ý. Bây giờ thì lở dở hết rồi! Đồng sẽ không bao giờ để hai đứa nhỏ về bên ngoại, nếu Nhung làm căng thẳng thì chỉ có nước dẫn tới chuyện ly hôn mà thôi.
Nhưng nếu việc ly hôn xảy ra, chính Nhung mới là người chịu thiệt thòi nhiều nhất. Nhung biết mình không thể ly hôn, mặc dù tình yêu dành cho Đồng đã vơi bớt rất nhiều trong lòng cô từ mấy tháng nay rồi! Nhưng Nhung cũng không thể sống cảnh này mãi được. Chắc chắn cô phải làm điều gì đó để thay đổi, mà đó là điều gì thì cô vẫn nghĩ chưa ra…
Nhung buông người xuống sa-lông một cách chán nản. Bạn bè ai cũng khen Nhung có phước, lấy được một người chồng giỏi giang, giàu có lại hết lòng yêu thương chìu chuộng vợ… Họ nói không sai, nhưng họ lại không biết những điều mà Nhung phải gồng mình chịu đựng.
Những ngày đầu tiên mới về nhà chồng, Nhung rất muốn được sống trong cảnh vui vẻ yêu đương, ngọt ngào hạnh phúc. Thế nhưng vừa về nhà chồng, Nhung đã phải tất bạt lo cho con bé Hạ đang bệnh nặng. Rồi sau đó, những âu yếm giữa hai chồng cũng bị hạn chế rất nhiều do sự có mặt của đứa bé. Nhưng điều làm Nhung buồn nhất là sự quan tâm của Đồng dành cho hai con hơn hẳn dành cho cô.
Hờn ghen ngấm ngầm kéo dài theo ngày tháng khiến Nhung trở thành một người phụ nữ chua cay và hiểm độc. Có khi Nhung ước cả hai đứa đều chết đi, biến mất khỏi cuộc đời này đi thì khi ấy Đồng mới có thể thuộc về cô trọn vẹn được!
Những ngày đầu, cả hai chị em Hạ, Thu đều tỏ vẻ quyến luyến thương yêu Nhung, nhưng dần dần về sau chúng đã đổi dần thái độ. Một phần do người ngoài xúc xiểm, nhưng một phần cũng do Nhung đã không còn thương yêu gần gũi chúng như trước kia nữa. Nhưng Nhung lại không nhìn nhận lỗi về mình. Vì vậy mối ác cảm giữa Nhung và hai đứa con chồng cứ ngày một tăng lên.
Bé Thu còn nhỏ nên nó chưa thể hiện gì nhiều, đôi lúc nó vẫn còn làm nũng với Nhung. Nhưng Hạ lại khác. Hơn một tháng nay, hình như nó chưa bao giờ mở miệng nói với Nhung một tiếng nào, cần bất cứ điều gì nó cũng chỉ nói với ba nó. Khi phải đối diện với Nhung, lúc nào mặt nó cũng hầm hầm, nhăn nhó.
Nhung thở dài ngao ngán. Cô rón rén đi tới phòng hai đứa nhỏ để xem chúng đang làm gì trong đó.
Căn phòng được trang trí đẹp mắt, sáng sủa, nơi mà Đồng luôn tự hào về sự khéo léo của Mai, người vợ trước vắn số của anh. Hạ và Thu đang ngồi xoay lưng ra cửa, nhưng hình như không phải chúng đang học bài. Hạ đang nói với Thu điều gì đó rất sôi nổi, Nhung phải cố gắng lắm mà vẫn không sao nghe rõ được, chỉ bấp bõm một vài tiếng rời rạc, nhưng đem xâu chuỗi lại với nhau, Nhung biết Hạ đang nói về mình.
Tức giận và cả tò mò nữa, Nhung rón rén đi lại gần hơn chút nữa, lúc này cô có thể nghe được những lời của Hạ:
- Em phải nhớ lời chị dặn, không được đến gần bà đó, bà đó là phù thủy, sẽ giết chết chị em mình để cướp lấy ba, cướp lấy gia tài của mẹ để lại…
Máu nóng dồn lên mặt, Nhung không sao kìm nén nỗi, cô lao tới thẳng tay giáng liên tiếp vào mặt Hạ mấy cái tát. Hạ và Thu bàng hoàng nhìn sững Nhung, một lúc sau Hạ mới cảm nhận được nỗi đau, nó kêu khóc vang trời:
- Hu hu hu… ba ơi! Ba ơi… ba mau về đi, ở nhà bà phù thủy đánh con… Ba ơi, về với con đi ba…
Vẫn chưa hả cơn giận, Nhung lôi con bé ra giữa phòng quát lớn:
- Mầy dám gọi tao là phù thủy sao? Tao không ngờ mầy hỗn láo đến như vậy? Uổng công tao đã chăm sóc chị em mầy lâu nay, giờ mầy trả ơn tao bằng cách này phải không? Quỳ xuống! quỳ gối xuống, mau lên!
Con bé Hạ cũng cứng đầu, nó vừa khóc vừa vùng vẫy ra khỏi cánh tay Nhung, nhất định không chịu quỳ xuống như lời Nhung bảo.
Thu tuy không bị đòn nhưng trước cảnh này và nhất là thấy chị nó bị đòn đau đang khóc ngất, nó cũng khóc rống lên, và nhớ lại những lời chị nó vừa mới dặn dò khi nãy, nó kêu lên:
- Bà phù thủy đừng đánh chị con nữa! Bà phù thủy độc ác…
Như bị châm dầu vào lửa, Nhung lồng lên:
- Giỏi! Giỏi lắm! Tao sẽ cho tụi bây biết thế nào là phù thủy!
Nhung vớ lấy cây chổi lông gà trên bàn và quất tới tấp vào hai đứa bé. Vừa quất, Nhung vừa mắng chửi cho thỏa lòng. Hai đứa bé thì kêu khóc vang trời, nhưng lúc này Nhung đã như một kẻ lên cơn điên, những tiếng kêu la của bọn trẻ càng kích thích sự hung hãn trong Nhung.
- Dừng lại! cô có dừng tay lại ngay không!
Tiếng quát thất thanh của Đồng khiến Nhung giật nảy mình. Đồng xông vào giật mạnh cây chổi trong tay Nhung và quẳng ra ngoài cửa sổ. Anh nhào tới ôm lấy hai đứa bé.
Lúc về tới cửa nhà Đồng đã nghe văng vẳng tiếng kêu khóc nhưng anh không xác định được đó có phải tiếng phát ra từ truyền hình hay không. Nào ngờ khi đặt chân vào nhà Đồng mới biết đó là tiếng kêu của con mình, nhưng anh không biết đang xảy ra chuyện gì trên đó.
Đồng đã nhảy một bước mấy bậc thang để đến với con, tỏng lúc vì tức giận, vì tiếng khóc la của hai đứa nhỏ, Nhung không hề nghe tiếng xe của Đồng về tới.
Trông thấy Đồng, Hạ và Thu càng khóc ngất. Đồng xót xa nhìn hai đứa con thơ dại khắp người còn in rõ những lằn roi ngang dọc.
- Cô thật khốn nạn! Tôi không ngờ cô độc ác đến mức này!
Đồng nghiến răng nói.
Lúc này Nhung đã sự tỉnh, cô run rẩy nhìn hai đứa bé, nhìn Đồng rồi lắp bắp:
- Em… em xin lỗi! Chỉ tại… em nghe hai đứa gọi em là bà phù thủy, Hạ đã nói xấu về em rất nhiều, em không dằn được nóng giận…
Đồng giở áo con lên, chảy nước mắt nói:
- Cô nhìn đi, chúng nó chỉ là hai đứa bé thôi mà, nếu lỡ chúng có nói gì sai, đáng lẽ với vai trò người mẹ, cô phải ôn tồn dạy bảo nó mới đúng chứ, đằng này cô lại hành hạ con tôi một cách man rợ như vầy, thiệt tình… cô còn hơn cả Tào Thị! May mà tôi về kịp lúc, không thì chắc con tôi chết dưới tay cô rồi!
Nhung biết mình đã gây ra chuyện lớn, cô quỳ sụp xuống trước mặt Đồng:
- Xin anh tha lỗi cho em! Lúc đó… lúc đó em không làm chủ được mình, em không biết mình đang làm gì… Thật sự em không muốn thế đâu anh!
Hạ đang nằm trong vòng tay ba nó, nghe Nhung van xin, nó khóc rống lên, ấm ức nói:
- Bà phù thủy độc ác! Mỗi lần ba đi vắng là bả lại mắng chửi hai đứa con, bả không cho em xem hoạt hình, bả không cho con ăn cơm no…
Đồng rụng rời khi nghe con gái nói, anh quay sang Thu để xác minh lời của Hạ:
- Thu, con nói cho ba biết đi! Có phải mỗi lúc ba đi vắng, dì lại hà khắc với hai chị em con?
Thu mếu xệch cái miệng vì khóc:
- Dạ… bà phù thủy không cho con coi hoạt hình…
Nhung run rẩy trước những lời buộc tội của hai đứa con chồng. Cô níu lấy tay Đồng cố thanh minh:
- Em không cho con xem ti vi là muốn nó học hành; không cho con bé Hạ ăn nhiều là vì… là vì…
Nhung ngắc ngứ, không biết giải thích sao cho Đồng hiểu. Trong thâm tâm, thật sự Nhung chưa bao giờ nghĩ tới chuyện sẽ bỏ hai đứa con chồng nhịn đói, chẳng qua cô thấy con bé Hạ ăn nhiều, quá nhiều đồ ngọt trong khi dáng dấp của nó mỗi ngày một phì ra, cô muốn nó giữ được vẻ thon gọn. Nhưng liệu nói những điều đó ra giữa lúc này Đồng có tin hay không? Chắc chắn là không rồi. Có lẽ Đồng sẽ nghĩ cô nói vậy là để chống chế, là bào chữa cho hành vi độc ác của mình…
Nghĩ vậy nên Nhung im bặt, không nói tiếp nữa.
Đồng cười cay đắng:
- Tôi thật không ngờ mình đã lầm cô! Cứ tưởng cưới cô về là con tôi sẽ có được tình yêu thương của một người mẹ, có được sự quan tâm, chăm sóc dịu dàng. Nhưng không ngờ…
Nước mắt chảy tràn trên mặt Nhung, cô lùi dần về phía cửa phòng rồi vụt ôm mặt chạy ra ngoài, vừa chạy vừa khóc nức nở.
Tối đó Đồng không về phòng mình mà ngủ lại với hai con. Nằm một mình trong phòng, Nhung hết khóc tức tưởi lại khóc âm thầm, cô thấy mình thật tội nghiệp, nỗi oan ức này sẽ không ai có thể rửa sạch giúp cô được.
Nhung không ngờ con bé Hạ lại có thể đặt điều vu khống cô như vậy! Nó quá điêu ngoa xảo quyệt so với đứa bé mới tám tuổi như nó. Sự việc cô đánh đập hai đứa, có thể nay mai Đồng nguôi giận cô giải thích và xin lỗi được, nhưng cộng thêm tội bỏ đói con Đồng, tội hà khắc với chúng mỗi lúc anh vắng mặt thì có lẽ Đồng không bao giờ tha thứ cho Nhung đâu.
Nhung nhớ lại những đêm cô thức trắng bên cạnh Hạ, những đêm mà đáng ra cô phải được tận hưởng cái hạnh phúc thiêng liêng của người con gái lần đầu tiên xuất giá vu quy, vậy mà vì Hạ cô đã không còn trọn vẹn… Và nhiều, rất nhiều điều khác nữa. Thành thật mà nói, Nhung không thể yêu thương con của Đồng như những đứa con do mình đứt ruột đẻ ra được, nhưng với chúng Nhung vẫn chu toàn trách nhiệm. Ấy vậy mà nó nỡ lòng đối xử nhẫn tâm với Nhung như vậy…
- Hừ… cướp ba mầy à? Cướp của cải của mẹ mầy à? Tao chưa hề có ý nghĩ đó khi đặt chân về đây, nhưng cảm ơn mầy đã chỉ lối cho tao đi! Tao không thể phí hoài những ngày tháng đã qua, tao không thể hy sinh một cách ngu ngốc như vậy được! Rồi chúng bây sẽ coi mụ phù thủy này hành động. Đừng trách tao, tất cả là do tụi mầy muốn thế!
Nhung nghiến răng trèo trẹo. Cô nhất định phải trả cho được mối hận này. Nuốt nước mắt, Nhung cố dỗ giấc ngủ, cô biết những ngày tới đây mình sẽ phải đối mặt với thật nhiều thử thách khó khăn. Nhưng không sao, một khi người ta đã có mục tiêu của mình rồi thì sợ gì gian khó nữa!
Sáng ra Nhung thức dậy thật sớm, nấu bữa sáng hợp với khẩi vị của ba cha con Đồng.
Khi Nhung vào phòng hai đứa bé thì Đồng đã thức nhưng anh vẫn nằm im giả vờ như không nhận biết sự có mặt của Nhung.
Nhung rón rén dọn dẹp, rón rén lau chùi, xong rồi thì lẳng lặng lui ra. Những tức giận trong lòng Đồng tối qua như vơi đi đôi chút.
Bữa ăn sáng đã được Nhung dọn sẵn trên bàn, Đồng đi ngang qua nửa muốn dừng lại nửa muốn dắt xe đi luôn để trừng trị Nhung cho biết mặt.
- Anh à, dù có giận có ghét em đến đâu, anh cũng phải giữ gìn sức khỏe của mình nhé? Có thể mai này em không còn ở đây nữa, khi đó anh phải tự lo cho mình và lo cho các con…
Nhung nhỏ nhẹ nói với Đồng mà mắt lại cúi nhìn xuống đất.
Đồng ngạc nhiên hỏi lại:
- Em nói sao? Em muốn rời khỏi nhà này sao?
Nhung rơm rớm nước mắt, ngẩng lên nhìn chồng buồn bã nói:
- Em biết em đã gây ra tội lỗi lớn, em không dám xin anh và các con tha thứ, nên em sẽ ra đi để anh và các con có được cuộc sống nhẹ nhàng hơn. Nhưng trước khi ra đi, em xin anh hãy tin một điều là em không ác tâm, em không có chủ định làm như vậy. Chẳng qua đó chỉ là phút cuồng điên mà em không kìm chế được. mong anh hiểu cho em…
Thái độ hạ mình và những lời thiết tha của Nhung đã làm bao nghi ngờ, tức bực trong Đồng trôi tuột đi mất hết. Anh lại cảm thấy tội nghiệp cho Nhung, cô ấy bị nhiều áp lực quá, có lẽ stress nặng rồi cũng nên.
Bước tới đặt tay lên vai vợ, Đồng nói nhỏ:
- Anh không ghét bỏ em, nhưng thật tình mà nói anh thất vọng về em nhiều lắm. Nếu đã thương yêu anh, thì em cũng phải thương lấy các con chứ, nó là máu thịt của anh mà…
- Em biết! Cả đêm hôm qua em không ngủ được chỉ vì ray rứt hối hận… Em không biết tại sao mình lại điên cuồng như vậy nữa… Có lẽ em… thần kinh em có vấn đề rồi…
Nhung vừa nói vừa khóc thút thít.
Đồng dỗ dành:
- Thôi, mọi chuyện đã qua thì cho nó qua đi, đừng nhắc lại nữa, nhưng anh muốn em hứa với anh một điều là từ hôm nay, không bao giờ còn lặp lại sự việc đó nhé? Nếu trong việc dạy dỗ các con gặp phải điều gì khó khăn, em cần nên bàn bạc với anh, chúng ta sẽ tìm ra cách giải quyết. Em đồng ý không?
Nhung se sẽ gật đầu, nước mắt vẫn không ngừng tuôn chảy.
Đồng kéo tay Nhung ngồi vào bàn:
- Mình cùng ăn sáng đi em!
Nhung ngồi xuống cạnh chồng nhưng không ăn mà nói:
- Anh ăn trước để đi làm, em sẽ chờ các con dậy rồi cùng ăn với chúng.
Đồng hài lòng:
- Ừ thôi cũng được!
- Nhưng anh à… em sợ…
Nhung ngập ngừng.
Đồng ngạc nhiên:
- Em sợ gì?
- Em sự Hạ và Thu sẽ không tha thứ cho em…
Nhung cúi mặt nói nhỏ.
Đồng tỏ vẻ cảm thông:
- Anh hiểu! Nhưng em à, trẻ con mau quên lắm, nếu em đối xử tốt với nó, nó sẽ quên ngay. Tối nay về anh cũng sẽ cắt nghĩa cho chúng hiểu. Nếu ôhm nay ở nhà các con có lỡ làm gì cho em phật ý, em cũng hãy vì anh mà cố gắng bỏ qua cho chúng nó nhé?
- Em sẽ không tái phạm nữa đâu mà! Chỉ cầu mong cho hai đứa nhỏ đừng căm thù, oán ghét em…
Đồng mỉm cười:
- Em đừng lo, rồi mọi chuyện cũng sẽ ổn thỏa, trở lại như trước thôi mà!
Ăn sáng xong Đồng đi làm như thường lệ, Nhung lặng lẽ lên phòng hai đứa nhỏ. Đứng trước cửa phòng, Nhung hít một hơi thật sâu cho không khí căng đầy buồng phổi rồi từ từ nhè nhẹ thở ra, cô đang bắt đầu dấn thân vào một cuộc chiến, mà bằng bất cứ giá nào, cô phải là người giành được chiến thắng mới thôi!
- Dậy đi các con, dì nấu bữa sáng cho hai đứa xong rồi kìa… Dậy ăn rồi dì dẫn đi chơi!
Nhung ngồi xuống bên mép giường âu yếm gọi.
Hạ mở choàng mắt khi nghe tiếng Nhung, nó xoay người ôm cứng lấy bé Thu như muốn tự vệ.
Thu ư e trở mình rồi cũng thức giấc, nó ngạc nhiên nhìn quanh.
Hạ nói nhỏ:
- Em đừng sợ, có chị đây rồi, em đừng sợ!
Nhớ lại trận đòn khủng khiếp tối qua, Thu co rúm người lại trong cánh tay chị nó.
Nhung nói với vẻ khổ sở:
- Dì xin lỗi hai con! Hôm qua dì như người điên vậy, hai con đừng ghét bỏ dì… Từ nay không bao giờ dì đối xử với hai con như vậy nữa đâu!
Ngạc nhiên trước những lời ngon ngọt của Nhung, Hạ và Thu không nói gì, hai đứa cứ ngó Nhung chằm chằm.
Nhung đứng lên mở mùng, gấp chăn màn gọn ghẽ, hai đứa nhỏ vẫn chưa chịu ngồi dậy. Cô nhoẻn cười thân thiện đưa hai tay ra:
- Nào, công chúa bé bỏng, ngồi lên di bế đi rửa mặt nào…
Bé Thu len lén nhìn chị nó, không thấy phản ứng gì, nó lồm cồm ngồi dậy và tiến đến gần Nhung. Thu là một đứa ngoan và nhút nhát nhưng sống rất tình cảm. Nó lại còn quá nhỏ để ghi nhớ những điều không hay, cho nên trước thái độ của Nhung lúc này, Thu dễ dàng thấy gần gũi với cô hơn.
Đưa tay nhấc bổng Thu, Nhung đặt lên má con bé một nụ hôn rồi nghiêng đầu cười với Hạ:
- Con dậy nhé con! Dì bế em đi rửa mặt, rồi chờ hai đứa ăn sáng xong, dì dẫn đi chơi…
- Đi chơi ở đâu, dì?
Thu thắc mắc.
Nhung cười:
- Dì đã có lỗi với các con, dì muốn chuộc lỗi, muốn các ocn tha thứ cho dì, nên hôm nay các con muốn đi đâu dì cũng xin chìu hết!
- A! Thích quá! Thích quá! Con muốn đi siêu thị… Chị Hai ơi, đi siêu thị nghe chị Hai?
Thu hỉ hửng vỗ tay và nói.
Hạ từ từ ngồi dậy, chưa tin hẳn vào lời hứa của Nhung:
- Dì có cho bé Thu đi siêu thị không?
Nhung dứt khoát gật đầu:
- Tất nhiên là có rồi, nếu con chịu đi cùng! Hai cô công chúa xinh đẹp của dì mau mau lên đi kìa, nắng lên cao rồi…
Hạ nhảy phốc xuống giường, nó cũng vui mừng không kém. Lâu lắm rồi chị em nó chưa được ai dắt đi chơi, nhất là chơi ở siêu thị. Siêu thị ở xa nhà nó lắm, nghe ba nói cách đến gần bốn chục cây số. Nó chưa ý thức được một cây số là bao xa, nhưng nó vẫn biết là siêu thị ở rất xa. Cái hồi ba nó và dì Nhung chưa cưới nhau, có một lần ba nó, dì Nhung dắt chị em nó đi siêu thị. Cả bốn người đi trên một tuyến xe buýt thật dài mới tới nơi.
Nhưng lâu rồi, không ai quan tâm đến nhu cầu vui chơi giải trí của chị em nó nữa. Trong khi ở lớp, mỗi sáng thứ hai đầu tuần là đám bạn của nó lại nhốn nháo khoe khoang, rằng chúng nó vừa được ba mẹ dắt đi siêu thị hôm chủ nhật… khiến Hạ thấy buồn và ganh tị ghê lắm.
Bây giờ nghe Nhung hứa dắt đi siêu thị, Hạ vui mừng khôn xiết, nó quên hết trận đòn tối qua cùng những mối ác cảm giữa mẹ ghẻ con chồng mà hàng xóm láng giềng đã nhồi nhét vào trong đầu nó. Cứ nghĩ tới chuyện sáng thứ hai được khoe với bạn bè rằng mình vừa đi siêu thị về là nó cảm thấy thích mê đi rồi!
Hai đứa nhỏ ăn sáng rất nhanh. Ăn xong, Nhung chọn hai bộ áo quần đẹp nhất để thay cho chúng rồi còn bày đặt trang điểm thêm một tí môi hồng, một viền kẻ mắt khiến hai đứa nhỏ vui mừng như tết.
Hạ nắm tay Thu đứng trước tấm gương lớn trong góc nhà, cả hai đứa xúng xính trong bộ đầm trắng giống như hai cô công chúa nhỏ.
Nhung liếc nhìn hai đứa bé rồi nhấc điện thoại gọi cho Đồng.
- Có chuyện gì vậy em?
Đồng lo lắng hỏi.
Nhung cười nhẹ:
- Dạ không, hai con rất ngoan, em gọi để nói với anh em sẽ đưa hai đứa đi siê thị chơi vậy mà!
Đồng ngạc nhiên:
- Sao không chờ anh cùng đi?
- Thì hôm khác mình lại đi nữa! Hôm nay là ngày đặc biệt mà anh, anh không biết sao?
Nhung vui vẻ nói.
Đồng hiểu ra, anh bật cười:
- À… ra vậy! Thái độ của Hạ thế nào em?
Vẫn chưa hết lo âu, Đồng hỏi.
Nhung không trả lời mà hướng về phía Hạ, chìa điện thoại cho nó:
- Hạ, Thu! Hai con lại nói chuyện với ba nè, xin phép ba mẹ con mình đi chơi nha!
Hai đứa bé chạy ào tới cạnh Nhung, Hạ đón lấy điện thoại từ tay Nhung, nói với ba nó bằng giọng phấn chấn:
- Ba ơi, dì dắt tụi con đi siêu thị…
- Con với chị Hai mặc áo đầm đẹp lắm nè ba ơi!
Thu đứng cạnh bên nói xen vào.
Nghe thấy không khí vui vẻ đầm ấm từ nhà mình Đồng vui lắm:
- Ừ, hai đứa đi chơi thiệt ngoan và thiệt vui nghen! Nếu ngoan, muốn mua gì cứ nói, dì sẽ mua cho các con…
- Dạ thưa ba tụi con đi!
Hạ hí hửng trao địên thoại lại cho Nhung.
Nhung vui vẻ nghe Đồng dặn dò, cô cứ gật đầu liên tục.
Nhung dẫn hai đứa nhỏ ra trạm xe buýt, không bao lâu sau thì xe tới, ba mẹ con ríu rít lên xe, chuyện trò cười giỡn ríu rít khiến những người ngồi gần đó cứ ngoái lại nhìn bằng ánh mắt ngưỡng mộ. Ai cũng nghĩ đó là ba mẹ con đang vui tươi hạnh phúc, không ai có thể biết được những ấm mưu đen tối đang lớn dần lên trong con người Nhung.
Ngày hôm đó hai đứa nhỏ có được một chuyến đi chơi hết sức thú vị. Nhung mua cho chúng thật nhiều kẹo bánh, thật nhiều đồ chơi, mặc tình cho chúng khoe với bạn bè.
Niềm vui thơ trẻ đó đã xóa tan khoảng cách với người mẹ kế mà mới tối qua hai đứa còn dùng từ phù thủy để ám chỉ, và cả trận đòn nhừ tử tối qua…
Từ ngày hôm đó trở đi, Nhung rất kiên nhẫn dịu dàng, kiên nhẫn chìu theo những sở thích đôi khi hơi quá quắt của hai chị em Hạ, Thu. Mà nhất là Hạ, mặc dù không còn ghét cay ghét đắng Nhung như trước nữa, nhưng thỉnh thoảng nó cũng chứng lên và ra sức chống đối cô. Nhưng tuyệt nhiên Nhung không tức giận, rầy la hay mắng chửi gì nữa.
Rất nhiều lần đồng len lén quay về nhà giữa buổi hoặc lén trốn trong nhà để thử xem thái độ của Nhung có thật sự thành khẩn hay không, và anh đã rút ra kết luận là Nhung thay đổi hoàn sau sự cố không hay lần trước. Có lẽ Nhung thật sự nhận ra lầm lỗi của mình.
Đồng hài lòng lắm, từ đó anh luôn tin tưởng vào Nhung. Cuộc sống gia đình Đồng cũng trôi qua một cách rất nhẹ nhàng, rất nhẹ nhàng hơn trước…
Hạ nhiều phen giở chứng trẻ con do sự tác động phía ngoài, nhưng chưa lần nào Nhung có phản ứng mạnh với nó, cô bỗng trở nên hiền lành, dịu ngọt một cách phi thường.
Thời gian cứ thế trôi qua, trong ngôi nhà ấy luôn vẳng lên tiếng cười vui rộn ra. Bây giờ thì cả Hạ và Thu đều hết lòng yêu mến Nhung, còn hơn cả những ngày Nhung chưa chính thức về làm mẹ kế.
Đồng không còn gì phải lo lắng nữa, anh yên tâm dồn hết tâm trí và sức lực vào những hợp đồng làm ăn, những chiến dịch mới của công ty. Cuộc sống kinh tế của gia đình Đồng phất lên nhanh chóng.
Hè năm đó Đồng đưa vợ con ra Phan Thiết nghỉ mát. Họ đã trải qua những ngày thật đáng nhớ trên biển. Và có lẽ vượt lên trên hết là tin mừng Nhung vừa mới cấn thai. đồng hết sức phấn khởi trước niềm vui to lớn ấy, anh hy vọng Nhung sẽ sinh cho anh một đứa con trai.
Ngày cuối cùng ở lại Phan Thiết, Nhung nói với chồng:
- Em thấy hơi khó chịu, để em đi bệnh viện khám xem sao. Anh ở lại trông chừng hai đứa nhỏ nhé?
Vừa đón ly cam vắt từ tay Nhung, Đồng lo lắng:
- Hay anh đi cùng em?
Nhung cười hiền lành:
- Anh đừng quá lo lắng như vậy, em đi một mình được rồi, anh phải ở nhà trông con chứ! Bệnh viện cũng đâu có xa, em gọi tắc xi đi một chút về ngay, anh đừng lo!
Nghe Nhung nói cũng đúng nên Đồng mỉm cười:
- Ừ, vậy em đi cẩn thận nhé!
- Anh uống hết nước đi, em dẹp luôn!
Nhung thúc giục chồng.
Đồng ngửa cổ uống một hơi cạn sạch ly nước, trao chiếc ly không cho Nhung, anh mỉm cười:
- Cám ơn em! Em thật là một người vợ tuyệt vời!
Nhung không nói gì, cười nhẹ rồi đi vào trong thay quần áo.
Tiễn Nhung lên tắc xi xong, ba cha con đồng dắt nhau vào phòng đùa giỡn.
Hạ đề nghị:
- Mình đi tắm biển đi ba!
Đồng cười:
- Thôi, chờ dì về rồi mình cùng đi, bây giờ hai ocn lên giường ngủ một chút đi cho khỏe, ba cũng buồn ngủ lắm rồi đây!
Thu bật cười khanh khách:
- Mới giờ này mà ba buồn ngủ, chắc tối qua ba lại thức khuya xem đá banh rồi! Vậy mà ba dặn tụi con không được thức khuya…
Đồng cốc nhẹ vào trán Thu:
- Con bé này! tụi con còn nhỏ, phải ăn ngủ điều độ mới lớn được chứ, ba thì khác vì ba lớn rồi mà!
- Vậy sau này con lớn con cũng được thức khuya hả ba?
Thu ngây thơ hỏi.
Đồng phì cười:
- Đún rồi cô nương, mai này lớn, con phải thức khuya dậy sớm để chăm lo cho chồng con của con, để chăm sóc cho ba nữa chứ, vì lúc đó ba già rồi, ba không ngủ được nhiều, chưa sáng ba đã đòi ăn nên ocn phải dậy sớm lo cho ba…
Cả ba cha con bật cười vui vẻ.
Hạ và Thu về phòng mình lôi mấy cuốn truyện tranh ra đọc, còn Đồng, anh ngã lưng xuống giường và không lâu sau cơn buồn ngủ ập đến không tài nào cưỡng lại nổi. Đồng chìm vào một giấc ngủ thật say.
- Anh ơi! Hai con đâu rồi?
Đồng choàng tỉnh bởi những cái lay người của Nhung. Mở mắt ra, đồng ngơ ngác nhìn Nhung.
- Em khám xong rồi, bác sĩ bảo đó là chuỵên bình thườg khi mới bắt đầu mang thai anh à! Ủa, con đâu rồi anh?
Nhung tươi cười hớn hở nói với chồng.
Nghe nhắc tới hai đứa nhỏ, Đồng chỉ tay sang phòng bên cạnh:
- Tụi nó ngủ rồi! Lúc nãy đòi đi tắm biển mà anh không cho, hứa chờ em về rồi sẽ đi đó!
Nhung cười:
- Dạ, nhưng bây giờ nắng quá, mình chờ mát mát một chút rồi hãy tắm nghe anh?
Đồng gật đầu:
- Ừ, em nằm xuống nghỉ chút đi!
Nhung thay áo xong ngã lưng nằm cạnh bên chồng, đưa cho anh xem tờ giấy có ghi kết quả khám bệnh vừa rồi, đồng thời cầm lấy tay anh đặt lên bụng mình, nhỏ nhẹ nói:
- Em vui quá, em sắp được có con với anh rồi! Nhưng anh đừng lo, dù em có con, nhưng em cũng sẽ thương yêu Hạ, Thu như con ruột của mình vậy! tình cảm giữa em và hai đứa nó bây giờ đã khắng khít lắm rồi anh ạ!
Đồng kéo Nhung sát vào mình hơn nữa, âu yếm nói:
- Anh biết! Tất cả những chuyển biến tốt đẹp trong gia đình mình thời gian qua anh đều biết rất rõ. Vì vậy anh càng cảm thấy thương yêu và quý trọng em hơn…
Như chợt nhớ ra điều gì, Nhung ngồi bật dậy nói:
- Em thấy có mấy thứ đồ chơi mà Thu rất thích nên mua cho nó! Để em qua xem con ngủ dậy chưa nghe anh?
Đồng mỉm cười gật đầu.
Nhung nhanh nhẹn đi sang phòng bên cạnh.
Bất chợt Đồng nghe tiếng Nhung gọi to:
- Anh ơi! Các con đâu cả rồi?
Đồng giật mình nhổm dậy chạy sang, căn phòng vắng ngắt, trên giường còn vương vãi hai bộ áo quần Hạ và Thu vừa mặc khi nãy.
- Hay… tụi nó đi tắm biển rồi?
Đồng hoảng sợ kêu lên.
Nhung vội vã mở tủ tìm hai bộ đồ tắm của Hạ và Thu thì không thấy nữa, cô ngó sững Đồng rồi không ai bảo ai, cả hai đều đứng ngay dậy lao nhanh về phía biển.
Bãi biển vắng ngắt không một bóng người. Vì thật ra nơi này không phải là điểm vui cơhi, tắm biển. Đây là ngôi nhà của người bạn làm cùng công ty với Đồng. Ngày trước dòng họ anh ấy xây dựng ngôi nhà này để cho một người chú bị tâm thần an dưỡng. Chính vì vậy nên họ chọn nơi vắng vẻ, tránh sự ồn ào dễ gây kích động cho người bệnh.
Khi biết Đồng có ý định đi nghỉ ở biển, người bạn đã rất nhiệt tình mời họ về đây ở vì ngôi nhà này không ai sống từ hai năm nay.
Đồng và Nhung chạy dài trên bãi biển, vừa chạy vừa cất tiếng gọi vang tên hai đứa nhỏ.
Đến chiều hôm ấy, mặc dù lực lượng cứu hộ và một số dân chài gần đó đã hết lòng truy tìm, rà soát khắp nơi vẫn không tìm ra được dấu vết nào của hai đứa nhỏ, ngoại trừ chiếc cặp tóc của Thu rơi trên bãi, chứng minh rằng hai chị em nó đã có ra đây.
Nán lại Phan Thiết thêm mấy ngày nữa nhưng mọi chuyện vẫn là vô vọng, vợ chồng Đồng dắt nhau trở về quê như hai kẻ mất hồn.
Nhung vật vã ngất lên ngất xuống do bị thai hành đồng thời do cô cứ luôn tự trách mình, tại sao lại đi khám thai làm gì để xảy ra sự cố ngày hôm đó. đồng thời bên phía ngoại của hai đứa nhỏ không ngớt lời nguyền rủa chỉ trích và bóng gió xa xôi, rằng chính vợ chồng Nhung đã rắp tâm giết chết cháu họ.
Đồng gần như mất hết cả sức lực, nhưng trong tình cảnh khó khăn ấy, anh vẫn phải gắng gượng để động viên và che chở cho Nhung trước búa rìu dư luận.
Trong những ngày này đồng cảm thấy thương Nhung hơn bao giờ hết, vì anh nghĩ mọi chuyện là do sự bất cẩn của mình, vậy mà người hứng chịu lại là Nhung. Vậy mà cô ấy một mực cắn răng nín nhịn, không thanh minh lấy một lời nào.
Mấy ngày sau đó người ta đã tìm được xác của hai đứa bé, nhưng lúc này thì thân xác gần như rất khó nhận ra nếu không nhờ vào áo quần và những chiếc vòng tay mà hai đứa mang trên người.
Đám tang Hạ và Thu xong, mọi việc cũng dần dần lắng xuống nhưng trong ngôi nhà của đồng thì khống khí tang tóc vẫn luôn bao trùm.
Đồng bỏ bê công việc gần một tháng trời, khiến những người có trách nhiệm ở công ty phải thường xuyên lui tới để an ủi, động viên và lôi kéo đồng trở lại với công việc.
- Anh phải cứng rắn lên! Anh là chỗ dựa duy nhất của mẹ con em, anh mà có bề gì làm sao mẹ con em sống được? Hạ và Thu cũng không muốn nhìn thấy anh ra nông nỗi này đâu!
Nhung thầm thì khuyên nhủ đồng như thế.
Sau những ngày dài dã dượi, Đồng cũng biết mình không thể như thế này mãi được, nhưng nếu bắt tay vào công việc thì quả thật anh không còn chút sức lực và hứng thú nào.
Cho nên, trước những lời khuyên bảo động viên của vợ và mọi người, Đồng vẫn cứ hứa hẹn, xin thêm một thời gian ngắn nữa. Và trong những ngày đó, Đồng lại sa vào nhậu nhẹt bê tha.
Nhung có khóc lóc, giận hờn cách nào cũng không làm Đồng thay đổi được. Trong khi đó ở công ty, người ta không thể nuông chìu Đồng mãi được, cái ghế Phó giám đốc của Đồng phải bàn giao cho người khác, nếu mai này Đồng có quay trở về làm việc thì vị trí cũng không còn được như xưa.
Điều này làm Nhung đau đớn lắm. Việc làm ăn của Đồng đang phất lên như diều gặp gió, thu nhập mỗi tháng tăng vọt đến mức không ngờ, vậy mà giờ đây Đồng vứt bỏ tất cả.
Nhung tức giận trong lòng, nhưng ngoài mặt cô vẫn làm ra vẻ cảm thông với Đồng nhiều lắm. Cô vẫn còn hy vọng vào tài năng của Đồng, nếu trở lại làm việc thì Đồng cũng sẽ lấy lại vị trí cũ mà thôi, chỉ có điều lại phải tốn công tốn sức…
Sáng sớm là Đồng ra khỏi nhà, ngồi quán cà phê tán dóc với bạn bè đến tận trưa, ai rủ đi đâu sẽ đi tiếp đến đấy, có khi mãi tới nửa đêm mới mò về nhà trong tình trạng say khướt.
Nhung vò võ một mình, nhưng cũng còn may là Nhung đã có đứa con trong bụng để tự nói chuyện với mình.
Hai ngày rồi Đồng chưa về, Nhung bỗng cảm thấy chán nản vô cùng. Cô đã làm tất cả, để mong có được hạnh phúc trọn vẹn cho mình, vậy mà giờ đây trong căn nhà rộng thênh chỉ mình Nhung ra vào một bóng, không khí u buồn ảm đạm luôn bao phủ khắp nơi. Đứa con vừa mới tượng hình trong bụng Nhung chỉ được chào đón vui vẻ có mấy ngày rồi cả ba nó cũng dường như đã quên lãng nó.
Trưa nay nằm một mình tỏng phòng, tự nhiên nước mắt Nhung ứa ra, cô thấy tiếc cho cuộc đời mình, nếu ngày trước đừng về làm vợ Đồng có lẽ giờ đây cô đã khác!
Bất chợt Nhung nghe có tiếng trẻ con cười đùa ở phòng bên cạnh, căn phòng mà trước đây dành cho hai chị em Hạ và Thu.
Nghĩ là mình nghe lầm, Nhung nhổm người dậy lắng tai cho thật kỹ. Quả thật không sai, đó chính là tiếng cười đặc biệt của Thu, tiếng cười lúc nào cũng như sắp hụt hơi ở đoạn cuối.
Cả người Nhung lạnh toát. Cô run rẩy đứng lên men theo tường nhà đi rón rén qua đó. Khi đã đứng trước của phòng, Nhung nghe rất rõ cái giọng nói thánh thót của Hạ:
- Em mặc thêm áo vào đi, lạnh tím người rồi kia kìa…
Rồi có tiếng Thu:
- Em muốn gặp ba…
Hạ dỗ dành:
- Ừ, em ngoan, em mặc áo vào đi, rồi chị dẫn đi tìm ba…
Nhung lẩy bẩy chạy về phòng đóng chặt cửa và lên giường nằm trùm mền kín mít nhưng vẫn cố dỏng tai lên nghe ngóng.
Tiếng cười tiếng nói vụt im bặt, hình như hai chị em Hạ, Thu đang bận làm gì đó. Lát sau Nhung nghe có tiếng bước chân nhè nhẹ ngoài hành lang. Nhung co rúm người lại, mồ hôi tuôn dầm dề mà người Nhung lại run lên bần bật.
- Dì ơi, mở cửa thay áo cho em! Em bị ướt hết rồi, đang lạnh lắm…
Tiếng Hạ vang lên ngay trước cửa phòng.
Nhung đưa hai tay lên bịt chặt tay mình lại, tiếng Hạ vẫn xoáy vào nhức buốt tai Nhung. Cô vớ chiếc gối ụp lên mặt, kéo che kín hai tay, mắt nhắm nghiền lại.
Bất chợt Nhung có cảm giác mấy đầu ngón chân mình lạnh buốt, có cái gì ướt nhẹp đang ngọ ngoậy dưới chân cô. Nhung rảy chân để hất vật đó ra, nhưng thật kỳ lạ, nó càng đeo bám chặt hơn nữa.
Nhung hé mền, vừa tính nhổm người dậy để xem đó là cái gì thì cô không thể tin vào mắt mình được nữa, phía dưới chân giường Hạ và Thu đang đứng đó! Thân thể hai đứa đều ướt sũng, nước nhỏ giọt xuống nền nhà. Gương mặt xanh xao, mái tóc bết có mấy sợi rong bám lòng thòng xuống vai Hạ. Bàn tay nhỏ xíu của Thu nắm lấy mấy ngón chân Nhung.
- Dì ơi…thay áo cho em…
Hạ lại rên rỉ.
Nhung hoảng hốt bật dậy tông cửa chạy ào xuống đất, nhưng khi xuống gần hết thang lầu, Nhung trượt chân té nhào, đầu va vào cạnh bàn và ngã lăn ra bất tỉnh.
Nhung không biết mình đã nằm đó bao lâu, chỉ biết rằng lúc cô tỉnh dậy thì trời đã tối, nhà cửa tối đen, cửa nẻo vẫn mở toang chứng tỏ Đồng vẫn chưa về đến.
Nỗi sợ hãi lẫn tủi cực trào lên, Nhung bật khóc nức nở. Vừa khóc, Nhung vừa nhớ lại toàn bộ những chuyện kỳ lạ vừa xảy ra lúc nãy, tiếng khóc của Nhung giờ lại chuyển sang ai oán… Khóc chán chê, Nhung gắng gượng đứng lên đi đóng các cửa nẻo. Đèn đã được bật sáng nhưng Nhung vẫn không dám trở lên phòng mình, cô cứ ngồi thu lu trên sa-lông đưa ánh mắt sợ hãi nhìn khắp nơi trong nhà.
Bất chợt bụng Nhung sôi lên sùng sục, cô chợt nhớ ra từ sáng giờ cô vẫn chưa kịp ăn gì. Nghĩ đến bào thai đang mang trong bụng, Nhung cố gắng đi xuosng bếp tìm gì đó ăn cho qua bữa. Nhưng khi xuống tới nhà dưới, Nhung lại muốn đi vệ sinh. Vừa đẩy cửa phòng vệ sinh, Nhung hoảng hốt rú lên vì bên trong là một đứa bé mặt mày lở loét đang há hoác miệng cười với Nhung.
Nhung lùi dần, lùi dần rồi cô quay người cắm đầu chạy, mở toang cửa chạy bổ ra sân và đâm sầm vào Đồng ở ngay trước cổng nhà mình.
- Em làm gì vậy?
Đồng ngạc nhiên kêu lên.
Nhận ra chồng, Nhung mừng rú, ôm chầm lấy anh khóc ngất:
- Ma… anh ơi… trong nhà mình có ma…
Cũng may là hôm nay Đồng không say như mọi bữa. Anh giữ chặt tay Nhung hỏi lại:
- Em nói gì bậy bạ vậy? Ma là sao?
- Hai… hai đứa nhỏ… Hạ và Thu… chúng nó tìm về…
Nhung lắp bắp nói không ra hơi.
Nghe nhắc đến hai đứa con, Đồng sững người:
- Sao? Em nói sao? Hai con về à?
Đồng hỏi dồn dập nhưng Nhung chưa kịp trờ lời thì anh đã bỏ Nhung đứng đó một mình, chạy vội vào trong, gọi lớn:
- Hạ ơi, Thu ơi! Các con đâu rồi? Các con đâu?...
Đồng chạy lên lầu, tìm khắp các phòng vẫn không thấy, anh đi xuống nhà nhưng xuống hết thang lầu thì ngồi phịch xuống ôm đầu đau đớn.
Nhung phần nào lấy lại được bình tĩnh, cô rón rén đi vào, nhìn thấy chồng ngồi ủ rũ, Nhung đến bên không nói một lời.
Hai vợ chồng im lặng một hồi lâu, Đồng thở hắt ra một tiếng lớn rồi vỗ vào vai Nhung:
- Thôi, lên nghỉ đi em! Không có gì đâu!
Nhung níu tay Đồng lại:
- Anh à, em nghe rõ ràng và cũng chính mắt em nhìn thấy… Anh không tin em sao?
Đồng lắc đầu:
- Không phải anh không tin em, nhưng có lẽ vì quá lo lắng nhớ thương nên em tưởng tượng bậy bạ thôi, chứ nếu thật sự có hồn ma của hai đứa nó thì tại sao anh lại không nhìn thấy? Thì tại sao hai đứa nó không tìm gặp anh? Anh là cha của chúng kia mà?
Nhung nín thinh không biết phải nói gì, cô không thể kể cho Đồng biết nguyên nhân nào mà Hạ và Thu lại về tìm cô được.
- Thôi, về phòng ngủ đi em!
Đồng nhắc lại lần nữa, Nhung uể oải đứng lên đi theo chồng. Vừa đặt lưng xuống giường chưa bao lâu, Đồng đã ngáy khò khò, còn Nhung vẫn cứ hoài thao thức.
Nhung đói bụng , rất đói nhưng lại không dám xuống dưới nhà tìm gì đó ăn tạm.
Một nỗi tủi thân ào ạt dâng lên, cô trách Đồng đã quá vô tâm không cần biết tâm trạng vợ mình ra sao giữa lúc bụng mang dạ chửa. Và ý nghĩ rời bỏ nơi này bất chợt hiện đến với Nhung.
Nhung khóc, ban đầu chỉ là chảy nước mắt nhưng rồi sau đó Nhung lại khóc nghẹn ngào, tức tưởi. Tiếng khóc nức nở của cô đã làm cho Đồng tỉnh giấc.
- Có chuyện gì vậy em?
Đồng hoảng hốt hỏi.
Nhung không nói tiếng nào mà càng khóc dữ hơn. Đồng ngồi dậy mở đèn, nhìn Nhung chăm chú:
- Có chuyện gì? Nín khóc, nói anh nghe?
- Sáng mai… sáng mai em về với mẹ em…
Nhung vẫn chưa hết tức tưởi.
Đồng ngạc nhiên:
- Sao em lại muốn về nhà mẹ?
Nhung cố nuốt nghẹn ngào:
- Chứ em ở đây làm gì nữa? Nhà này đâu còn ai… Anh bỏ đi biền biệt, một mình em ra vào trong nỗi cô đơn, sợ hãi… Trong lúc em đang có thai, cần được người thân quan tâm chăm sóc thì ở đây em có được gì?
Đồng cúi mặt ngồi nghe Nhung trách móc. Lát sau anh từ từ ngẩng lên buồn bã nói:
- Anh xin lỗi em, Nhung ạ! Xin em hãy tha thứ cho anh, mất mát vừa rồi quả là một cú sốc quá nặng trong cuộc đời anh, anh khó mà gượng dậy trong một sớm một chiều được… Nhưng thôi, vì tương lai của đứa con sắp chào đời này anh sẽ cố gắng làm lại từ đầu. anh hứa với em, anh sẽ không như trước nữa. Bắt đầu ngay ngày mai anh sẽ làm lại tất cả… em hãy ở lại đây với nah nhé? Em đừng rời bỏ anh Nhung ơi…
Nhung ôm chặt lấy Đồng, nước mắt rơi lã chã…
Giữ đúng lời hứa với Nhung, ngay sáng hôm sau Đồng trở vào công ty. Còn lại một mình, Nhung không biết làm gì, cô xuống phòng khách mở ti vi lên xem.
Thật ra, Nhung cũng không dám ở một mình trên lầu. Bởi vì trên đó phòng vợ chồng Nhung và phòng hai đứa liền kề nhau, mà những hình ảnh mới hôm qua vẫn còn khắc đậm trong trí nhớ của Nhung khiến cô lúc nào cũng hoang mang lo sợ.
Ti vi đang phát chương trình thế giới động vật, nói về những loài cá sống dưới đại dương. Nhung mê mải nhìn những rặng san hô, những đàn cá lấp lánh sắc màu bơi lội. cô thầm khâm phục những người đã bỏ ra biết bao tâm huyết để quay cho được những thước phim đẹp và quý giá như thế này.
Bất chợt, Nhung chú ý đến bầy cá đang bơi lội tung tăng ở một góc màn hình. Hình như trong bầy đó có hai con khác lạ. Khi chiếu gần lại, Nhung bật ngửa người ra vì thấy rõ ràng, đó không phải là hai con cá lạ  mà chính là hai chị em Thu và Hạ!
Hai đứa cũng bơi tung tăng giữa đàn cá, trên người chúng mặc bộ đồ tắm do chính tay Nhung mua hôm chuẩn bị đi Phan Thiết. Khi bơi đến giữa màn hình, Thu còn cố tình áp mặt nó ra ngoài như muốn cho Nhung nhìn thấy được rõ hơn.
Nhung dụi mắt mấy cái nhìn lại màn hình thì không có gì lạ, vẫn là quang cảnh dưới đáy đại dương, vẫn là những sinh vật sống dưới đó, nhưng hoàn toàn không có sự hiện diện của Thu và Hạ!
- Mình điên rồi hay sao thế này?
Nhung ôm đầu rên rỉ.
Cô đứng lên đi vào phòng tắm để rửa mặt cho tỉnh táo. Vục nước vào mặt, Nhung vừa vuốt nước, vừa nhắm mắt lại cho thư thả một chút, và rồi cô cúi người xuống để vục thêm tí nước mát, đồng thời mắt Nhung mở hé ra. Ngay lập tức, Nhung lại kêu rú lên:
- Trời ơi…
Nhung bật người lùi lại, nhưng mắt vẫn nhìn sững vào vật kỳ lạ ở ngay trước mặt mình! Cái lavabor đầy nước rửa mặt mà lúc nãy chính Nhung xả cho nước tràn vào, bây giờ trong đó nổi lềnh bềnh một chỏm tóc, trông như có một xác người chết đuối đang trồi lên mặt nước vậy.
Nhung muốn chạy ra khỏi căn phòng quái đản này, nhưng cô không đủ sức. Nhung cứ lùi mãi, lùi mãi vào tường. Nếu muốn chạy ra khỏi phòng, bắt buộc Nhung phải chạy ngang qua chỗ cái lavabor đó, mà cô thì không dám, bởi cái chòm tóc ấy vẫn cứ đeo dính lấy mắt cô.
Nước trong lavabor bị khuấy động, chỏm tóc trôi bềnh bồng một lúc rồi lật nghiêng qua, để lộ rõ gương mặt trắng bệch của Thu. Hai con mắt nó nhìn Nhung chòng chọc.
- Dì ơi… con lạnh…
Nhung không còn biết gì nữa cả, cô tông chạy ra ngoài. Ra đến sân nhà, Nhung ngồi thụp xuống thở hổn hển. Mặt trời đã lên cao, nắng chiếu xuống gay gắt. Nhung rất muốn đi đâu cho khuây khỏa nỗi kinh hoàng này, nhưng lúc này trên người cô chỉ là bộ quần áo mỏng manh mặc ở nhà thì làm sao ra đường được? Còn trở lên phòng thay áo quần ư? Quả thật Nhung không thể, cô sợ lắm… Trong ngôi nhà này hình như ở mọi ngõ ngách đều có bóng dáng của hai đứa bé. Chúng quyết không chịu buông tha cho Nhung, chúng quyết dồn cô vào chỗ chết hay sao?
Vốn là một cô gái mạnh mẽ, Nhung đâu dễ cam tâm chịu cảnh thế này. Tỏng lúc ngồi giữa cái nắng như thiêu như đốt này, bất chợt trong đầu Nhung hiện ra một lối thoát. Cô mừng rỡ đứng lên.
Rón rén đi vào nhà, Nhung cầm lấy điện thoại trên bàn vội vã bấm số gọi đi.
- A lô! Xin lỗi có phải nhà của Liên không ạ?
Nhung hồi hộp.
- Liên đây, ai thế?
Đầu dây bên kia có tiếng trả lời.
Nhung reo lên:
- Liên hả? Nhung nè! Nhớ mình không? Mình có việc gấp lắm nhờ Liên giúp. Đến đây với mình ngay nhé?
Nhung đặt điện thoại xuống bàn rồi ra hành lang đứng ngóng ra đường chờ Liên tới.
Liên là bạn với Nhung, bạn rất thân, nhưng từ ngày Nhung đi lấy chồng, mối liên hệ giữa hai người hầu như bị cắt đứt. Liên là con gái của một người đàn bà làm nghề trừ ma bắt quỷ, cái nghề mà những người đàng hoàng trong xã hội thường không coi trọng. Chính vì vậy nên Liên mặc cảm với gia đình Đồng, chủ động không liên lạc với Nhung nữa. Còn Nhung thì cũng vì nhiều chuyện phải lo toan, cô cũng không nhớ tới người bạn ngày xưa.
Giờ đây, khi thấy mình bị dồn vào bước đường cùng, Nhung bỗng nhớ ra Liên có người mẹ làm nghề trừ tà, cô muốn nhờ Liên về nói mẹ tới giúp.
Nhung đứng đợi hơn ba mươi phút thì Liên tới. Vừa dẫn xe vào sân nhà, Liên giật mình hỏi bạn:
- Trời ơi! Nhung bị làm sao mà mặt mày xanh lét thế kia?
Nhung không trả lời, kéo Liên vào phòng khách. Vừa đảo mắt ngó quanh, Nhung vừa đi thẳng vào vấn đề, không hỏi thăm gì đến cuộc sống của Liên hiện tại.
- Liên ơi, giúp mình với! Mình chết mất thôi…
Thấy vẻ khẩn trương, hốt hoảng của Nhung, Liên trấn an:
- Bình tĩnh lại đi, có gì thì bình tĩnh kể rõ đầu đuôi, nếu giúp được Nhung chắc chắn mình không chối từ đâu!
Nhung nuốt ực một cái rồi cố gắng kể rành mạch:
- Hai đứa con của anh Đồng, chúng nó chết trôi ngoài biển… Liên biết chuyện này chứ?
Liên gật:
- Ừ, mình biết! Hôm đám tang hai đứa nhỏ mình cũng có tới thăm mà!
- Lúc còn sống, quan hệ giữa hai đứa và mình không được tốt, cho nên… khi chết đi chúng nó thường xuyên về quấy phá, ám ảnh mình. Mình sợ lắm Liên ơi…
Nhung run rẩy kể.
Liên tò mò:
- Nhung nói chúng nó về? Về là về làm sao?
Nhung liếc quanh nhà một cái nữa rồi nói:
- Chúng nó thường hiện ra trước mắt mình, chỉ một mình mình thấy chúng, nghe được chúng chứ anh Đồng thì không, nên ảnh cứ cho là mình sợ quá rồi tưởng tượng ra…
Liên quan sát Nhung một lúc rồi chợt hỏi:
- Nhưng… Nhung nên nói thiệt cho mình biết, Nhung có làm điều gì không phải với hai đứa nhỏ đó không?
Nhung tỏ ra bối rối trước câu hỏi của Liên, cô lúng túng cúi mặt xuống đất ấp úng trả lời:
- Không… mình đâu có làm gì… Nhưng là mẹ ghẻ con chồng, rất khó hòa hợp được Liên ạ!
Rồi Nhung ngước lên nhìn Liên van vỉ:
- Liên, mình mong Liên về nhờ mẹ tới giúp mình đi! Nếu không chắc mình không thể sống nổi trong ngôi nhà này. Vì bất cứ ở chỗ nào mình đều nhìn thấy chúng.
Liên cười nhẹ:
- Mẹ mình mất hai tháng trước rồi Nhung ạ!
Nhung sững sờ:
- Trời! Vậy mà mình thiệt tệ, mình không hay biết gì…
Liên lắc đầu:
- Không sao, mình hiểu Nhung gặp nhiều rối rắm trong cuộc sống mà, không quan tâm đến ai cũng phải thôi.
Nhung ôm đầu than vãn:
- Vậy là tiêu mình rồi! Mình cứ hy vọng sẽ được mẹ Liên giúp!
Liên cười nhẹ:
- Không có gì phải lo đâu Liên ạ! Tuy mẹ mất rồi, nhưng trước đó mẹ cũng dạy cho mình một số điều căn bản. Theo như mẹ mình thì ma quỷ chỉ theo qwuaasy phá, làm hại những ai có oán thù với nó, còn thì tất cả đều vô hại. Có thể có một vài con ma hay hiên ra để nhát người, nhưng đó là do nó không cố ý, hoặc chỉ muốn đùa vui thôi. Bởi vậy, hai đứa bé nhà Nhung cũng có thể nằm trong trường hợp đó. Chúng còn nhỏ, không muốn xa nhà nên hay lui về thăm viếng, rồi vì không thích Nhung nên chúng hiện ra cho Nhung sợ vậy thôi. Một vài ngày nữa ma lực của chúng sẽ tiêu tan, chừng ấy dù có muốn cũng không biết được nữa. Nhung yên tâm đi!
- Không! Không phải vậy đâu mà! Mình biết, hai đứa nhỏ ấy muốn mình phải chết… Chúng nó, chúng nó…
Nhung la lên, nhưng cô lại ngắc ngứ không biết phải giải thích sao cho Liên hiểu. Nhung nhìn vào mặt Liên đánh thêm đòn tâm lý:
- Mình đang có thai, dù hai đứa nhỏ chỉ là đùa giỡn cũng sẽ ảnh hưởng ghê gớm đến mẹ con mình… Mình chết mất Liên ơi!
Trông thấy vẻ thảm hại của bạn, Liên thở dài:
- Thôi được rồi, để mình đưa cho Nhung cái này, có thể trừ được tàm a quấy nhiễu.
- Cái gì? Trừ được tà ma à?
Mắt Nhung sáng rỡ, cô hau háu nhìn vào bàn tay thọc sâu vô túi xách của Liên.
Lát sau Liên lôi ra một gói nhỏ được gói thật cẩn thận. Nhẹ nhàng mở lớp giấy gói bên ngoài, Liên cầm lên một lá bùa được xếp thành hình tam giác đưa cho Nhung:
- Nhung hãy luôn giữ lá bùa này trong người, sẽ không có bất cứ thế lực bóng tối nào xâm hại được Liên đâu. Thế nhưng, đối với kẻ ác lại khác…
Liên đột ngột bỏ lửng câu nói, Nhung sốt ruột hỏi dồn:
- Khác là khác làm sao vậy Liên?
Liên lắc đầu:
- Thôi đi, Nhung đừng quan tâm đến chuyện đó, chỉ cần Nhung luôn giữ tâm trong sáng, có lá bùa này thì đảm bảo không gì làm hại Nhung được đâu. Hãy nhớ luôn giữ tâm trong sáng nghe chưa?
Nhung không biết làm gì hơn là lặng lẽ gật đầu.
Liien đặt lá bùa vào tay Liên rồi đứng dậy:
- Thôi, mình về đây! Hôm nay có nhiều việc cần giải quyết, khi nãy nghe giọng Nhung hối hả quá nên mình nóng ruột đến đây xem thử chuyện gì. Bây giờ mình đi, sẽ trở lại thăm bạn đó, hãy nhớ lấy lời dặn của mình!
Tiễn Liên ra cổng, Nhung buồn bã quay vào. Cô hồi hộp bước vào phòng khách, tay cầm chặt lá bùa. Ngồi tỏng phòng khách một lúc lâu vẫn không thấy gì xảy ra, Liên đánh bạo đi vào nhà vệ sinh. Đứng trong nhà vệ sinh, cửa không đóng, Nhung lo lắng ngó vào lavabor, ngó vào bồn tắm chuẩn bị tinh thần đón đợi một điều gì đó ghê gớm sẽ xảy ra, nhưng hoàn toàn không có!
Khấp khởi mừng thầm trong bụng, Nhung khoát nước rửa mặt rồi đi trở ra bếp lục tìm thức ăn. Tủ lạnh không còn gì ngoài mấy gói mì và một ít đồ nguội. Nhưng giữa lúc đói ngấu nghiến thế này cái gì mà ăn chẳng ngon!
Nhung nấu nước chế vào tôi mì, khoan khoái ngồi xuống ghế chờ cho mì nở. Mấy phút sau cô mở nắp, mùi thơm bay lên bát ngát, Nhung hít lấy hít để như kẻ nghèo khó lâu lắm mới được thưởng thức món ăn rất đỗi bình dân này.
Gắp một đũa mì cho vào miệng, Nhung vừa ăn vừa xuýt xoa vì cay, vì nóng và vì thỏa mãn cơn đói đang cồn cào trong bao tử. Đang nhai ngon lành, bất chợt Nhung có cảm giác miệng mình bị lướng vướng cái gì trong ấy, cô cúi xuống, nhè mì trong miệng ra thì hỡi ơi đó không phải là những sợi mì vàng rực mà là mớ tóc đen thui.
Nhung nôn ọe tới mật vàng mật xanh mà vẫn còn tóc vướng trong cổ họng. Nhìn lại tô mì, Nhung càng choáng váng hơn nữa, vì trong tô là những sợi tóc nổi lềnh bềnh trên mặt nwosc váng dầu mỡ.
Tại sao lại như vậy? rõ ràng Nhung đã nấu mì, đã gắp những sợi mì, sao bỗng dưng tất cả biến thành tóc thế này? Không thể hiểu nổi!
Nhung đổ vội tô mì rồi ngán ngẫm đứng lên, tưởng đâu được một bữa ăn ngon, nào ngờ đâu lại phải ói hết những gì còn sót lại trong bao tử.
Mệt mỏi rã rời, Nhung tới nằm dài trên ghế sa-lông.
Giữa lúc Nhung thiu thiu ngủ thì cô lại nghe có tiếng trẻ con cười đùa. Mở choàng mắt, Nhung thấy con bé Thu đang ngồi cạnh bên cô. Người nó sũng nước, mặt mũi bị cá rỉa lở lói gớm ghê, nó đặt tay lên bụng Nhung và nói:
- Dì ơi, con muốn dẫn em bé đi tắm biển… Vui lắm đó dì…
- Không! Không được!
Nhung hốt hoảng la lớn. Cô hất cánh tay bé Thu ra khỏi người mình, nhưng nó vẫn ngoan cố không chịu đứng lên mà cứ lải nhải:
- Con muốn dẫn em bé đi tắm biển… Con muốn dẫn em đi…
- Không! Không được!
Nhung vừa la vừa ngồi bật dậy.
Cô ngơ ngác nhìn quanh không thấy có điều gì lạ.
- Là mình mơ hay thật thế này?
Nhung đặt tay lên trán mình nhíu mày suy nghĩ. Cô nhìn xuống chỗ lúc nãy Thu ngồi thấy ghế vẫn khô ráo, chứng tỏ đó không phải là sự thật vì lúc nãy người Thu toàn nước.
Cầm chặt tấm bùa trong tay, Nhung nằm xuống lẩm bẩm:
- Không sao! Không có gì đâu mà!
Nhung nhìn lên chiếc đồng hồ treo tường và vui mừng vì thấy sắp đến giờ Đồng về tới. Cầu trời anh đừng la cà vui chơi với bè bạn. Nhưng Đồng đã hứa sẽ không chơi bời lêu lỏng nữa mà sẽ chí thú làm ăn, lo cho vợ cho con mà!
Tin tưởng vào lá bùa đang cầm trong tay sẽ ngăn chặn không cho ma quỷ ám hại được mình, Nhung mạnh dạn đi lên lầu, về phòng chuẩn bị áo quần đi tắm, vì cô không muốn Đồng nhìn thấy vẻ tiều tụy, nhàu nhè của mình như thế này.
Đang lom khom lấy đồ trong tủ, Nhung nghe có một luồng hơi lạnh phả tới sau lưng mình, cô quay phắt người lại và muốn đứng tim khi thấy Hạ và Thu nắm tay nhau đứng ngay sau lưng cô.
- Dì lấy đồ cho con thay với! con tìm khắp phòng mình không thấy quần áo đâu cả… Chị em con lạnh lắm… Dì bỏ tụi con lạnh lắm…
Hạ ngước mặt nhìn Nhung, gương mặt Hạ lủng lổ chỗ, có những nơi còn lủng lẳng một vài miếng da thịt bầy nhầy trông muốn nôn ọe.
Nhung lùi lại và té ngồi xuống đất. Hạ kéo tay Thu tới gần rồi ngồi xuống cạnh bên Nhung.
Thu lại đặt tay lên bụng Nhung nói đều đều, giọng không vui cũng chẳng buồn, không thể hiện một chút tình cảm nào trong đó:
- Dì ơi, con muốn dẫn em đi tắm biển…
Nhung lết dần về phía cửa phòng. Hai đứa nhỏ thì vẫn ngồi nguyên chỗ cũ. Chúng giương mắt ngó Nhung không rời.
Ra tới cửa, Nhung vội đứng lên rồi cắm đầu bỏ chạy. Thang lầu trơn nhớt những rong rêu, Nhung đã rất cẩn thận nhưng vẫn bị trượt chân té lăn lông lốc.
 
***
Nhung cố gắng nhướng mắt lên nhưng hai mí mắt cô lúc này lại nặng trịch như đã bị ai dán chặt. Khó khăn lắm cô mới he hé được một tí xíu.
Xung quanh vắng lặng rợn người, ánh đèn sáng trưng, vách tường trắng toát. Nhung thật sự không biết mình đang ở đâu nữa. Cô cố gắng nhớ lại sự việc, nhưng rồi chỉ nhớ tới chỗ mình ngã lăn từ trên lầu xuống đất, còn lại là một khoảng trống, không ghi lại được điều gì.
Lát sau, Nhung mới mở được mắt. Cô thấy mình đang nằm trong một căn phòng rộng thênh thênh, tràn đầy hơi lạnh. Có lẽ nơi này là bệnh viện. Ai đã đem mình vào đây? Nhung căng đầu ra để suy nghĩ.
- Chắc chắn là Đồng rồi! Nhà mình ít người lui tới, sẽ không ai phát hiện ra mình đâu, chỉ có anh thôi! Đồng ơi, anh đâu rồi?
Nhung lẩm bẩm. Cô dáo dác nhìn quanh. Trên những chiếc giường bên cạnh cũng có vài người nằm đó, nhưng không hiểu sao họ lại đắp chăn trùm kín hết cả đầu? Lại không thấy một thân nhân nào ra vô?
- Anh Đồng ơi!
Nhung cất tiếng gọi nhưng không nghe ai đáp lại.
Một cảm giác sợ hãi xâm chiếm lấy Nhung. Cô ngồi bật dậy và ra khỏi giường.
- Phòng bệnh sao lại để lạnh thế này? Hèn gì họ đều trùm kín hết cả!
Nhung vừa quan sát vừa nhận xét.
Bất chợt cô nhìn xuống và thấy hai bên đùi mình có hai dòng máu đang chảy xuống.
- Trời ơi, con tôi! Con tôi…
Nhung hoảng hốt kêu lên. Cô linh cảm được bào thai trong bụng đã có vấn đề. Nhưng mặc cho Nhung gào rát cả cổ vẫn không có một người nào xuất hiện. Tất cả đều lặng im, tất cả đều lạnh lẽo vô hồn.
Nhung chạy tới mở cửa nhưng cánh cửa đã bị khóa kín, cô không sao mở được.
Vừa đập ầm ầm vào cánh cửa, Nhung vừa kêu gào nhưng vô hiệu! Không ai, không có bất cứ điều gì đáp trả lại lời Nhung. Tuyệt vọng, Nhung ngồi bệt xuống đất ôm mặt khóc thảm thiết.
Bất chợt Nhung thấy nắm đấm cửa xoay nhẹ, cô mừng rỡ đứng bật dậy vì biết có người đang mở cửa đi vào. Chưa kịp reo lên Nhung đã rụng rời chân tay, vì kẻ vào phòng chính là chị em Hạ, Thu, hai kẻ mà Nhung không bao giờ muốn trông thấy mặt!
- Dì ơi, em tắm biển rồi, vui lắm! Lát nữa con dắt dì đi!
Hạ ríu rít nói.
Thu nhìn Nhung cười cười:
- Con cũng bắt chước dì, con bỏ em một mình ngoài biển…
Nhung sợ hãi đưa tay sờ bụng mình, và cô biết chắc đứa con của cô đã không còn trong đó nữa!
- Không! Trời ơi… xin hai ocn hãy tha cho dì, tha cho em con… Dì xin hai con mà, hai con hãy tha cho dì đi!...
Nhung quỳ sụp xuống khóc nức nở.
Hạ nói như một người lớn:
- Muộn lắm rồi dì ạ! Chúng con những tưởng gia đình mình sẽ có được những ngày vui vẻ dài lâu, nào ngờ lòng dạ dì quá ác độc! Dì đang tâm giết hại một lúc hai chị em con. Tội lỗi đó dì nghĩ có thể được tha thứ sao?
Nói dứt câu, Hạ quay người nắm lấy tay Thu toan đi ra cửa, Nhung nhoài người muốn níu giữ Hạ lại để tiếp tục van xin, nhưng khi bàn tay cô vừa chạm vào người Hạ, cô có cảm giác mình chạm vào một thứ nước gì nhớt nhợt, bàn tay không thể bám được mà nó trơn tuột và rơi xuống làm Nhung mất đà ngã úp mặt xuống sàn.
Hạ và Thu đi ra, cánh cửa lại đóng kín. Nhung như thấy mình bị giam cầm trong căn phòng khủng khiếp.
Nhung đứng lên nhìn quanh. Tại sao mọi người đều nằm im một cách ghê rợn thế này? Họ ngủ cùng một tư thế thẳng đơ người thế này hay sao? Nhung rất muốn thử giở một tấm chăn để xem mặt người nằm gần đó ra sao nhưng cô chưa dám. Bất ngờ, Nhung liếc nhìn lại chiếc giường mình nằm khi nãy và cô bỗng giật bắn người khi thấy ở đó cũng có một người nằm dài, trùm chăn kín mít!
Nhung hồi hộp tiến lại gần, run rấy đưa tay giở tấm mền che mặt người đang nằm đó. Khi tấm vải vừa được kéo ra một chút, Nhung không ngăn được tiếng thét kinh hoàng:
- Trời ơi!
Người nằm trên giường đó chính là thân xác của Nhung!
Nhung hốt hoảng giật tung chiếc mền trắng toát, rồi ra sức lay gọi cái xác vô tri đang nằm bất động. Nước mắt cô lăn dài, rơi lã chã xuống mặt xác chết.
Một hồi lâu sau chừng như đã thấm mệt và đã quá tuyệt vọng, Nhung không còn cố sức làm gì nữa, cô ngồi thụp xuống sàn nhà khóc không ra tiếng.
Không biết qua bao nhiêu thời gian, khi nghe tiếng cửa xịch mở, Nhung từ từ ngước lên và vô cùng mừng rỡ khi thấy Đồng đang tiến vào.
Nhung chạy vội tới níu lấy tay Đồng:
- Anh ơi! Em sợ quá, mau dắt em về đi, anh Đồng ơi!
Đồng không hề óc một phản ứng nhỏ nào, anh cứ tiến thẳng tới chỗ xác chết của Nhung với vẻ mặt đau đớn và căng thẳng.
Nhung chạy tới chặn ngang trước mặt Đồng:
- Em đây! Em đây mà, anh không nhìn thấy em sao? Trời ơi…
Đồng vẫn tiến tới như không hề có Nhung đang làm vật cản.
Nhung cố làm mọi cách vẫn không sao khiến Đồng nhận biết được sự tồn tại của cô bên cạnh. Tuyệt vọng, Nhung lại khóc ròng…
Đồng tiến hành các thủ tục một cách mau chóng, và xác chết của Nhung được đưa đi an táng ngay ngày hôm sau. Còn linh hồn Nhung cứ phải vất vơ vất vưởng trên đường.
Đau đớn làm sao khi Nhung tận mắt chứng kiến cảnh người thân đang khóc mình mà không thể nói gì cùng họ được.
Chị em Hạ, Thu thỉnh thoảng lại kéo đến cười cợt, đùa vui trước mắt Nhung, nhưng cô làm như không quan tâm tới nữa.
Gần một tuần sau, Nhung đã quá khổ sở vì phải sống trong cảnh ấy. Cô níu lấy Hạ và hỏi:
- Dì phải làm sao bây giờ?
Hạ nhìn vào Nhung và gằn từng tiếng:
- Dì phải sám hối!
- Sám hối? sám hối là sao?
Nhung như kẻ ngu ngơ.
Hạ cười lớn:
- Cho tới giờ phút này dì vẫn chưa thừa nhận tội lỗi của dì sao?
Không chờ Nhung trả lời, vừa nói dứt câu nó đã vội dắt tay em biến mất.
Nhung đứng một mình giữa bãi tha ma, cô nghĩ lại những tính toán nhỏ nhen, những điều được mất trong đời và bỗng thấy cuộc ssoong vừa qua của mình sao mà mệt mỏi quá! Hạnh phúc đã có trong tay mà Nhung lại không biết nâng niu gìn giữ, lòng tham, tính đố kỵ đã đưa đẩy cô vào con đường tội lỗi không có lối ra.
Giờ đây, Nhung có giữ gì được cho mình? Nhà cửa, tài sản? Một người chồng hiền lành giỏi giang? Một đứa con mơ ước chưa kịp chào đời? Tất cả đều như cát bụi phù du chỉ thoáng qua trong đời Nhung phút chốc…
Nhung lang thang về lại ngôi nhà cũ. Ngôi nhà âm u đầy mùi nhang khói. Chiếc bàn thờ để giữa nhà, trên đó có ba tấm ảnh: Nhung, Hạ và Thu.
Đồng ngồi lặng lẽ trong góc nhà, điếu thuốc trên tay cháy hơn phân nửa mà Đồng vẫn chưa nhớ đưa lên miệng hút.
Nhung đi tới bên Đồng thầm thì:
- Hãy tha lỗi cho em!
Đồng ngơ ngác ngó quanh rồi nhổm dậy kêu lên:
- Nhung! Có phải em vừa về đó không Nhung?
- Tha lỗi cho em!
Tiếng Nhung thảm thiết.
- Em nói đi Nhung! Có gì cần nói, em nói hết với anh đi! Anh đã nghe được tiếng nói của em rồi nè…
Đồng đau đớn quay người khắp nơi mong được nhìn thấy vợ, dù là một lần sau cuối.
- Chính em đã hãm hại hai con!
Nhung rên lên tự thú.
- Em nói sao? Chính em hãm hại? Có lẽ em muốn anh không bị dày vò nên nói thế thôi. Anh biết đó là lỗi do anh gây ra…Nếu hôm đó có em ở nhà thì mọi việc đã không như vậy!
Đồng kêu lên.
Nhung cười đau đớn:
- Không! Anh lầm rồi! Anh đã bị em lừa gạt rồi! hôm đó em đã bỏ thuốc ngủ vào ly cam vắt của anh. Em đi loanh quanh một lúc rồi về, khi anh đang say ngủ. Em rủ hai con đi tắm, em dẫn chúng ra thật xa bờ… thế rồi… thế rồi em bỏ mặc chúng ở đó, em lên bờ, bí mật thay quần áo rồi đi khám bệnh như không có gì xảy ra…
Đồng thảng thốt:
- Trời ơi… anh thật không ngờ… Nhưng tại sao em lại làm vậy? Không phải thời gian đó giữa em và hai con đã có mối quan hệ rất tốt hay sao?
Nhung nghẹn ngào:
- Không đúng! Tất cả là do em diễn kịch mà thôi. Từ cái đêm em đánh Hạ và bị anh mắng, em biết nếu còn sự hiện diện của hai đứa nó thì hạnh phúc của em mãi mãi không bao giờ tròn vẹn được. Và thế là em phải cố gắng hết sức để nhẫn nhịn, để gầy dựng lòng tin nơi anh, gầy dựng tình cảm nơi hai đứa bé…em nhất định sẽ có một ngày hất chúng ra khỏi cuộc đời anh. Nhưng thật tình em cũng chưa biết sẽ làm cách nào. Rồi khi biết mình mang thai, em càng nung nấu ý muốn chiếm trọn gia tài cho con mình, em không muốn anh san sẻ tình yêu thowng và vật chất cho hai đứa nó. Ý định đó nung nấu sôi sục trong em. Và cơ hội ngàn vàn đưa đến khi anh quyết định đưa em và các con về chơi vùng biển. em biết, nếu không hành động trong những ngày ở đó thì sẽ không còn cơ hội nào nữa. Thế là…
- Trời ơi! Độc ác! Cô quả thật là độc ác…
Đồng nghiến chặt hàm răng, rít lên đau đớn.
- Và em đã bị trả giá! Hai đứa con anh ngày nào cũng về ám ảnh em, hành hạ em, không để cho em có được một giây phút thanh thản tâm hồn… em sống mà còn hơn chết… Và rồi em lại phải trả giá bằng mạng sống của em lẫn đứa con tội nghiệp chưa kịp mở mắt chào đời… Bây giờ em ân hận thì đã quá muộn màng rồi… em chỉ muốn thú nhận hết tội lỗi để lòng được nhẹ hơn đôi chút và để anh hiểu đó không phải là lỗi của anh. Em xin anh hãy tiếp tục sống mạnh mẽ… Cuộc đời anh vẫn còn dài phía trước… Bây giờ em đi đây, em đi đền tội lỗi của mình…
Giọng nói nghẹn ngào đứt quãng của Nhung nhỏ dần rồi mất hẳn. Đồng nhổm dậy gọi to:
- Nhung! Nhung ơi…
Một con mèo hoang không biết từ đâu nhảy phốc lên bàn thờ, cào mạnh vào tấm ảnh tươi cười của Nhung khiến nó rơi xuống đất vỡ loảng xoảng.
Đồng quỳ xuống nhặt từng mảnh kiếng bể, cầm tấm ảnh Nhung trên tay và ngước nhìn hai đứa bé trên bàn thờ, anh lẩm bẩm:
- Tha lỗi cho ba! Xin hai con hãy tha lỗi cho ba…
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:41:20 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 22:09:10
TUẦN TRĂNG MẬT
 
Diễm Thy hí hửng ngã đầu lên vai chồng, lim dim mắt. Tiếng cô thật nhẹ nhàng:
- Bắt đầu từ hôm nay, hai đứa mình thật sự bước vào một cuộc sống khác, một cuộc sống với những trách nhiệm và bổn phận lớn lao, phải không anh?
Duy bật cười:
- Ồ, sao em lại nói vậy? Phải nói là một cuộc sống ngập tràn hạnh phúc mới đúng chứ!
Diễm Thy mở mắt, cắn nhẹ vào vai chồng:
- Người ta vẫn thường nói “Hôn nhân là mồ chôn tình yêu”, anh không nghe sao?
Duy nghiêm mặt, đặt tay lên miệng vợ, trách:
- Em không được nói gở như vậy, nghe chưa? Mình vừa cưới nhau xong, hạnh phúc như vầy sao lại nói chi câu đó? Em thiệt kỳ…
Diễm Thy có vẻ biết lỗi, dụi mặt vào vai Duy nũng nịu:
- Em đâu có nói mình đâu, em nói người khác kia mà…
Duy cốc vào trán Diễm Thy:
- Không được nói bậy, cũng không được suy nghĩ bậy bạ, nghe chưa?
Diễm Thy không trả lời mà chỉ cười khúc khích.
Chiếc xe chạy bon bon trên đường, Diễm Thy ngồi thẳng dậy với tay mở cửa xe đón làn gió sớm ùa vào mát rượi. Gió thổi tung mái tóc Diễm Thy, đánh lòa xòa vào gương mặt tươi tắn của Duy đang ngồi bên cạnh. Duy dịu dàng túm gọn mái tóc dài của vợ, mái tóc mà anh đã vuốt ve hàng trăm lần vẫn không biết chán, mái tóc thoảng một mùi hương thơm nhẹ nhàng, quyến rũ…
Duy và Diễm Thy yêu nhau từ nhiều năm nay, nhưng vì hai bên gia đình có những mâu thuẫn sâu xa, lâu đời cho nên tình yêu của họ phải vượt qua thật nhiều thử thách. Cuối cùng, họ cũng chính thức thành chồng thành vợ.
Duy luôn nhớ mãi ngày mới yêu nhau, Diễm Thy có một mơ ước rất dễ thương, lãng mạn:
- Em mơ ước ngày mình cưới nhau, em sẽ không đòi anh đưa đi hưởng tuần trăng mật ở các khu nghỉ mát du lịch nào đâu, mấy chỗ đó ồn ào lắm. Em chỉ ước mình được đến một nơi thật hoang vắng, nơi đó chỉ có anh và em, hai chúng mình sẽ sống bên nhau những ngày thật tuyệt vời, anh nhé?
Vì vậy, trước ngày cưới, mặc dù bận trăm công ngàn việc, Duy vẫn cố gắng dò hỏi bạn bè để tìm ra được một nơi gần giống với mong muốn của Diễm Thy. Anh muốn dành cho cô một bất ngờ thú vị.
- Anh ơi, mình đi đâu đây?
Diễm Thy ngạc nhiên kêu lên khi thấy xe chạy qua khỏi ngã ba Vũng Tàu mà không rẽ về hướng Vũng Tàu, nơi mà từ sáng giờ Diễm Thy cứ ngỡ Duy sẽ đưa mình tới.
Duy nhìn vợ nheo mắt:
- Bí mật! Rồi em sẽ biết khi tới nơi.
Diễm Thy bĩu môi:
- Xời ơi, bày đặt bí mật với em! Không đi Vũng Tàu thì đi Phan Thiết chứ gì?
Duy choàng tay qua người vợ:
- Đã bảo là bí mật rồi mà còn hỏi!
Diễm Thy tựa vào người chồng cười nói:
- Ờ há, em cũng đâu cần hỏi làm gì! Bất cứ nơi nào anh đưa em tới em cũng sẽ rất thích, rất vui!
Hai vợ chồng nhìn nhau mỉm cười sung sướng.
Đến quá trưa thì chiếc xe đỗ xịch trước cổng một trang trại có vẻ hoang vu vắng lặng. Người tài xế lôi mấy chiếc vali xuống đất rồi nhìn hai vợ chồng vẻ ái ngại:
- Anh chị còn đi bao xa nữa mới tới nơi? Sao không để tôi chở đến đó luôn? Đồ đạc lỉnh kỉnh như vầy liệu có kham nổi không?
Duy cười:
- Dạ, cảm ơn anh! Đường từ đây vô đó xe không chạy được, nhưng không sao, chúng tôi lo được mà! Chào anh nhé, hẹn gặp lại!
Anh tài xế đưa tay bắt lấy cánh tay chìa ra của Duy và nói:
- Tuần sau, đúng mười giờ, tôi sẽ đón anh chị ở chỗ này nhé?
Duy gật đầu, siết mạnh tay anh tài xế. Người tài xế nhìn về hướng Diễm Thy:
- Chào tạm biệt chị. Chúc anh chị thật hạnh phúc.
- Cảm ơn anh!
Diễm Thy gật đầu duyên dáng đáp lại lời chào của người tài xế.
Hai vợ chồng đứng sát vào nhau nhìn theo chiếc xe đang khuất dần trên con đường nhỏ.
- Đây là đâu vậy anh?
Diễm Thy ngó xung quanh, tò mò hỏi.
Đạt cười:
- Thì đây chính là nơi mà em từng mơ ước đó! Nơi chỉ có hai chúng mình, em quên rồi sao?
Diễm Thy tròn mắt nhìn Duy rồi bất chợt cô nhảy tới bá vai chồng reo lên:
- Trời ơi! Em không ngờ anh vẫn còn nhớ tới điều đó!
Duy âu yếm nhìn vợ:
- Vì đó là mơ ước của em mà!
Diễm Thy đặt lên má chồng một nụ hôn thật dài, rồi buông Duy ra cô hỏi:
- Mình còn đi bao xa nữa anh?
- Không xa lắm đâu em! Các vali đều có bánh xe để kéo, em đừng lo chuyện mang vác mấy thứ này!
Duy vừa nói vừa chọn đưa cho Diễm Thy hai chiếc vali nhỏ nhất, còn lại anh dành hết về mình.
Diễm Thy sung sướng:
- Anh thật là chu đáo!
Vợ chồng Diễm Thy thong thả vừa kéo vali đi vừa ngắm cảnh. Con đường đất nhỏ ngoằn ngòeo đi qua những vườn cây rậm rạp như một cánh rừng. Cảnh vật nơi này thật hoang sơ, nhìn bốn phía không thấy một bóng người.
Từ nãy giờ, Diễm Thy mãi lo vui với hạnh phúc của mình mà quên đi thực tại, bây giờ cô bất chợt nhớ ra nên buông vali níu lấy tay Duy lo lắng hỏi:
- Anh Duy! Mình tới đây rồi sẽ ở đâu và sẽ sống bằng gì?
Duy quay lại nheo nheo mắt:
- Không cần ăn mình vẫn no mà, vì mình đang hạnh phúc! Không cần nhà mình vẫn ấm mà, vì mình đang có nhau!
Diễm Thy dậm chân nũng nịu:
- Em không giỡn nữa, anh nói mau lên đi!
Duy cười xòa:
- Đùa với em thôi! Đây là trang trại của người quen với thằng bạn thân của anh. Nơi đây đã bị bỏ hoang nhiều năm rồi, giờ người ta mới bắt đầu xây dựng lại. Trong này hiện tại cũng có một số người ở, nhưng vì đất rộng, nên em yên tâm đi, chắc chắn là vợ chồng mình sẽ có được khoảng trời riêng như ý muốn! Ông lão quản gia sẽ lo cơm nước cho mình em ạ! Anh đã bàn bạc, thỏa thuận xong hết rồi, bây giờ em chỉ việc hưởng hạnh phúc thôi.
Nghe Duy nói, Diễm Thy tỏ ra vô cùng thích thú. Lâu nay cô sống ở thành phố ồn ào xe cộ và khói bụi, giờ đây được sống những ngày trăng mật ở một nơi lý tưởng như vầy hỏi sao không vui mừng cho được!
Hai vợ chồng đi một đoạn nữa thì thấy trước mặt có một ngôi nhà nhỏ. Từ trong nhà, một người đàn ông đi ra dõi mắt nhìn về phía họ như đang chờ đợi.
Khi cả hai đến gần, Duy nhanh nhảu lên tiếng:
- Chào bác! Đây là Diễm Thy, vợ con, người mà hôm trước con đã nói với bác đó!
Rồi quay sang Diễm Thy, anh giới thiệu:
- Đây là bác Lý, người coi sóc trang trại. Vợ chồng mình phải nhờ vào bác ấy rất nhiều trong những ngày sống ở đây đó em ạ!
Diễm Thy cúi chào bác Lý. Bác Lý cũng tươi cười gật đầu chào lại.
Bác Lý là một người đàn ông gầy gò, khắc khổ, nhưng khi ông nở nụ cười thì gương mặt lại sáng bừng lên. Tuy nhiên, Diễm Thy vẫn thấy ở ông có một điều gì đó khiến cô lo sợ không yên tâm.
Bác Lý chỉ tay vào nhà và nói:
- Hai cháu vào nhà chơi, uống ly nước rồi bác đưa vô trong đó!
Duy đặt mấy chiếc vali sát cạnh hàng rào rồi nắm tay Diễm Thy đi theo bác Lý vào nhà.
Bác Lý rót trà mời hai vợ chồng Diễm Thy và hỏi:
- Hai cháu đi đường chắc mệt lắm rồi phải không? Đói chưa? Nếu đói thì ngồi đây nghỉ mệt, để bác đi nấu cơm cho…
Duy xua tay:
- Dạ khỏi bác ơi! Tụi cháu vừa dừng lại ăn ở dọc đường, chắc chiều nay mới làm phiền tới bác.
Bác Lý mỉm cười:
- Ờ, không có gì đâu! Chiều tối bác sẽ đem cơm vào trong đó cho hai cháu. Hai cháu cứ việc vui chơi thỏa thích, mọi việc có bác lo.
Chờ vợ chồng Diễm Thy uống xong ly nước, bác Lý đứng lên lấy xâu chìa khóa rồi nói:
- Giờ bác đưa hai cháu vào trong đó nghen?
- Dạ!
Duy gật đầu.
Diễm Thy đứng lên, đi theo sau lưng Duy.
Lúc này bác Lý đã giành phần kéo hai chiếc của Diễm Thy, cô chỉ thong thả vừa đi vừa ngắm cảnh. Cả ba người tiến theo con đường uốn éo và sâu hun hút, đường này chỉ có thể đi bằng xe gắn máy, các loại xe khác đều không thể vào được.
- Như vậy khi xây cất trong này, người ta vận chuyển vật liệu bằng phương tiện gì vậy bác?
Diễm Thy tò mò hỏi bác Lý.
- À, có một con đường khác lớn hơn, xe tải có thể ra vào thoải mái nhưng xa hơn cháu à!
Diễm Thy nhìn chồng như ngầm hỏi tại sao lúc nãy anh không kêu tài xế chở vào tận nơi.
Duy cười tủm tỉm:
- Em phải đi bộ qua con đường này mới cảm nhận được vẻ đẹp ở nơi đây! Với lại nó sẽ để lại trong em một ấn tượng rất lớn…
Diễm Thy nguýt chồng, nói nhỏ không để bác Lý nghe được:
- Anh hay chê em lãng mạn, không ngờ anh còn lãng mạn hơn em!
Duy bật cười:
- Thì tại… anh bị lây nhiễm từ em đó thôi!
Đi hơn một cây số thì Diễm Thy thấy hiện ra trước mặt một ngôi nhà gỗ được xây dựng theo kiểu rất lạ mắt và rất đẹp.
Diễm Thy giống như một cô bé con, reo lên mừng rỡ:
- Anh Duy, mình sống ở đây phải không?
Duy rất hài lòng khi thấy Diễm Thy vui đến vậy. Anh gật đầu:
- Ừ, mình sẽ sống một tuần lễ trong ngôi nhà này. Tí nữa em vô đó mà coi, còn nhiều điều thú vị lắm!
Diễm Thy nghe Duy nói xong, cô chạy ào về phía trước, bỏ Duy và bác Lý lại sau lưng.
Đó là một ngôi nhà sàn bằng gỗ rất rộng lớn, lại có đến hai tầng. Diễm Thy đứng dưới đất nghển cổ nhìn lên trên, nhìn lối kiến trúc lạ mắt mà từ hồi nào tới giờ đây là lần đầu tiên Diễm Thy được tận mắt chứng kiến.
Bác Lý và Duy đã về tới, cả hai nhấc mấy chiếc vali lên nhà, Diễm Thy lúc này lại rụt rè bước theo sau.
Sàn nhà được lát bằng loại gỗ quý, đã nhiều năm nên màu gỗ sậm lại và bóng lên vô cùng đẹp mắt.
Vừa bước lên mấy bậc thang là đến phòng khách. Nơi này được bày trí tuy đơn giản nhưng rất hấp dẫn, chứng tỏ chủ nhà có con mắt thẫm mỹ rất cao. Gây ấn tượng nhất ở phòng khách là một chiếc búa lớn giắt trên vách. Nó như một vật trang trí làm tăng thêm vẻ hấp dẫn của lối bày trí lạ mắt này.
Nhà gồm nhiều phòng, phòng nào cũng rộng rãi nhưng đồ đạc bày trí bên trong còn rất hạn chế.
Bác Lý mở cửa căn phòng ở gần chân cầu thang và nói:
- Đây là căn phòng đẹp nhất trong nhà này, dành riêng cho hai cháu. Ở đây cũng đã được chủ nhà sắm sửa đủ vật dụng rồi, hai cháu không phải lo!
Diễm Thy tò mò nghiêng đầu ngó vào. Quả thật căn phòng rộng rãi và thoáng mát. Bên trong kê một chiếc giường nệm mới tinh tươm, một bàn trang điểm và một chiếc tủ áo lớn kéo dài suốt chiều ngang của căn phòng. Một ngôi nhà và một căn phòng thế này ở nơi hoang vu hẻo lánh quả là tuyệt vời không còn chỗ để chê!
Trao chùm chìa khóa cho Duy, bác Lý dặn:
- Hai cháu muốn tham quan ngôi nhà thì cứ tự tiện, nhưng bác nói trước, chỉ có căn phòng của hai cháu là đủ tiện nghi thôi, các phòng khác còn sơ sài lắm vì chưa có người ở. Trên lầu càng bề bộn hơn, vì không có người quét dọn hàng ngày. Từ khi biết hai cháu sẽ đến đây, ông bà chủ nhà mới dặn bác quét dọn khu vực này để chào đón hai cháu đó!
Duy cầm lấy xâu chìa khóa, mỉm cười:
- Dạ, không sao đâu bác! Tụi cháu chỉ cần có căn phòng này là đủ rồi bác ạ!
Bác Lý tủm tỉm cười:
- Ừ, vậy thôi bác về, trả tự do lại cho hai cháu đó! Mỗi ngày bác sẽ ba lần mang thức ăn tới cho hai cháu vào các buổi sáng, trưa và tối. Nếu có cần gì thêm các cháu cứ việc tìm gặp bác nhé!
- Dạ! Chúng cháu rất cảm ơn bác!
Duy cúi chào bác Lý, Diễm Thy cũng gật nhẹ và nhìn bác bằng ánh mắt thân thiện hơn lúc nãy.
Vừa dợm bước chân xuống bậc thang, bác Lý sực nhớ quay lại dặn thêm:
- À, ở đây có hai điều hơi bất tiện, thứ nhất là ở đây không có điện, thứ hai là nhà vệ sinh lại nằm xê ra phía ngoài kia! Bác có mua sẵn đèn pin, đèn dầu và cả nến nữa, các cháu muốn dùng cái nào tùy thích nhé!
Diễm Thy vừa nghe nói đến chuyện không có điện, cô thoáng giật mình, nhưng rồi cô chợt nhớ bên cạnh mình là Duy, người chồng mới cưới, tuần lễ này này là tuần lễ trăng mật của hai vợ chồng, và nhất là khoảng thời gian này trăng cũng rất sáng, cô vui vẻ nói:
- Dạ, không sao đâu bác! Không có điện càng hay, tụi cháu sẽ được ngắm trăng thỏa thích!
Duy nhìn Diễm Thy tủm tỉm cười.
Bác Lý cũng gật đầu:
- Ờ! Vậy bác về nghen!
Dứt lời, bác Lý thoăn thoắt bước xuống cầu thang rồi đi nhanh về hương lúc nãy.
Duy kéo tay Diễm Thy vào phòng:
- Em vô nằm nghỉ chút đi, gần cả ngày đi đường mệt nhoài rồi còn gì nữa!
Diễm Thy ngoan ngoãn đi theo chồng.
Khi vừa ngã lưng xuống giường, Diễm Thy xoay người hôn lên má Duy và nói:
- Em cảm ơn anh rất nhiều! Không ngờ anh lại mang đến cho em niềm hạnh phúc lớn lao như thế này!
Duy ôm vợ vào lòng:
- Tại vì hạnh phúc của em cũng chính là hạnh phúc của anh kia mà!
Diễm Thy nhìn lên trần nhà mơ màng nói:
- Ước gì vợ chồng mình mãi mãi sống những ngày như thế này, anh nhỉ?
Duy nhổm lên nhìn vào mắt Diễm Thy:
- Sẽ như vậy mà, em yên tâm đi!
Bất thần Diễm Thy chồm lên bá lấy cổ Duy, Duy mất thăng bằng té sấp xuống giường trong tiếng cười giòn tan của cô vợ trẻ.
 
***
Lúc Diễm Thy thức dậy trời đã nhá nhem tối. Bên cạnh, Duy vẫn còn đang ngủ rất say. Mấy ngày qua Duy phải lo lắng đủ thứ chuyện nên chắc anh mệt lắm. Nghĩ vậy, Diễm Thy không gọi chồng mà nhẹ nhàng chuồi ra khỏi tay Duy rồi đi ra khỏi phòng.
Đứng tựa lan can nhìn ra rừng cây bên ngoài bất chợt Diễm Thy thấy trong lòng run rẩy, bất an. Cánh rừng đen thẫm dưới bóng hoàng hôn, vang vẳng tiếng kêu bầy xao xác của một vài con chim nào đó, và gió thì không ngừng rú rít trên mái nhà…
Kéo cao cổ áo để ngăn bớt gió, Diễm Thy đi quay vào, cô không dám đứng một mình ngoài đo nữa. Vừa xoay lưng, bất chợt cô thấy có một bóng người lướt nhanh qua dưới đất, dừng chân nhìn kỹ lại thì không thấy ai. Diễm Thy cúi người nhìn qua lan can vẫn không thấy có gì lạ.
- Chắc bóng cây mà mình nhìn lầm!
Thầm nghĩ thế nên Diễm Thy cũng không quan tâm tới nữa.
Vào tới phòng, Diễm Thy nhẹ nhàng thắp đèn rồi xếp dọn đồ đạc trong vali vào chiếc tủ tô kềnh đối diện với giường ngủ. Khi mọi thứ đâu vào đó ngăn nắp rồi cũng là lúc Duy trở mình thức giấc.
Duy ngồi dậy, vươn vai nhìn quanh phòng, khen ngợi:
- Trời, không ngờ vợ tui giỏi vậy! Mới đây đã thu xếp gọn gàng hết rồi! Đúng là tui cưới vợ không lầm mà!
Diễm Thy nguýt dài, cười nói:
- Thôi đi ông tướng, mau dậy đi tắm! Chắc bác Lý cũng sắp tới rồi đó!
Vừa nói Diễm Thy vừa soạn áo quần cho mình và cho Duy.
Hai vợ chồng cầm theo cây đèn Hoa Kỳ đi ra nhà vệ sinh mà lúc chiều bác Lý đã chỉ.
Nhà vệ sinh là một phòng nhỏ xíu cũng được dựng bằng gỗ. Nhưng chắc có lẽ chỗ này họ làm tạm bợ nên mọi thứ đều rất sơ sài, ngay cả gỗ làm vách cũng chỉ là loại gỗ tạp không được tốt.
Dĩ nhiên chỗ này thì không thể nào có nước máy. Người ta sinh hoạt bằng nước múc từ giếng lên. Trong nhà tắm có để sẵn một chiếc lu lớn, Duy vục nước bằng chiếc gàu và đổ đầy lu nước.
- Em tắm trước đi!
Duy giục.
Nhưng lúc đó Diễm Thy đang mãi nhìn mặt trăng vừa nhô lên ở một góc rừng, vẻ đẹp huyền ảo đó đã cuốn hút cô một cách mãnh liệt.
- Anh tắm trước đi! Em muốn ngắm trăng thêm tí nữa!
Duy lắc đầu trước cái tính khí vừa trẻ con vừa lãng mạn của vợ.
Diễm Thy ngồi trên thành giếng mê mãi nhìn trăng, tiếng nước xối ào ào bên trong đã ngưng lại hồi nào cô cũng không quan tâm. Mãi đến lúc Duy đặt tay lên vai cô mới sực tỉnh:
- Trăng đẹp quá anh ơi! Lần đầu tiên em mới được ngắm trăng trọn vẹn thế này!
Duy nheo mắt:
- Thôi, vô tắm đi rồi ra ngắm tiếp, kẻo chị Hằng chê em ở dơ bây giờ!
Diễm Thy nhéo chồng một cái rồiv đứng lên ngúng nguẩy đi vào phòng tắm. Diễm Thy vừa tắm vừa hát khe khẽ.
Vừa lúc đó cô nghe bên ngoài có tiếng Duy nói:
- Bác Lý đem cơm vào cho mình kìa em!
Diễm Thy vuốt nước trên mặt trả lời chồng:
- Anh vô nói chuyện với bác đi!
- Em ở đây một mình được không đó?
Duy hỏi lại.
Diễm Thy bật cười:
- Anh làm như em là trẻ con không bằng? Hay anh sợ có kẻ nào đó rình bắt cóc vợ yêu quý của anh?
- Cả hai!
Duy cười lớn.
- Thôi, anh vào trước nghe, bác Lý đang tìm mình ở trong đó!
- Dạ, anh đi đi!
Tiếng chân Duy xa dần, Diễm Thy khoan khoái vốc nước lên mặt, lên khắp cả thân người rồi nhẹ nhàng xoa sữa tắm, mùi hương thoang thoảng lan tỏa khắp cả một góc vườn.
Trong lúc mơn man da thịt mình, Diễm Thy hoàn toàn không biết thân hình diễm tuyệt của cô đang bị người ta rình xem trộm. Đó là bốn gã đàn ông vạm vỡ được chủ nhà thuê về để cải tạo trang trại. Họ sống trong một căn lều cách ngôi nhà gỗ không xa. Sự hiện diện của vợ chồng Diễm Thy làm họ chú ý.
Từ chiều, khi thấy thấp thoáng bóng hai vợ chồng trong căn nhà gỗ, đám đàn ông đó đã bàn tán xôn xao, đã lén lút nhìn Diễm Thy bằng con mắt khát thèm đầy dục vọng. Và cả bốn đều căng mắt theo dõi hai vợ chồng.
Đến lúc trông thấy vợ chồng Diễm Thy cầm đèn đi về hướng này, cả bốn gã đều mừng rỡ, vì họ biết chắc cô chuẩn bị đi tắm. Bốn gã đàn ông lặng lẽ mò mẫm tới nới, nấp vào một chỗ kín. Họ không dám làm gì bởi sự có mặt của Duy. Đến lúc thấy Duy bỏ đi vào nhà, cả bốn tranh nhau được dán mắt vào một cái lỗ tròn nhỏ xíu trên miếng gỗ vách nhà tắm.
Muốn kê được mắt vào đó, bọn chúng cũng phải vất vả lắm, phải trèo đứng lên một tảng đá chông chênh và phải được đồng bọn nâng đỡ.
Hai tên đã xem xong, đến tên thứ ba thì lì lợm hơn, mặc cho gã thứ tư mấy lần ra hiệu hắn vẫn không chịu rời mắt khỏi thân hình mờ ảo của Diễm Thy. Hắn nuốt nước bọt ừng ực, khiến gã thứ tư càng thêm điên tiết. Gã thứ tư cấu vào chân hắn, hắn suýt kêu lên, loạng choạng suýt ngã hắn mới chịu nhường vị trí cho gã cuối cùng.
Khi gã thứ tư chưa kịp dán mắt mình vào lỗ ván thì có ám hiệu báo có người, cần phải rút lui.
Hậm hực vì mình bị thua thiệt, gã thứ tư không thể cam tâm, hắn gần như muốn nổi điên lên khi có bàn tay ai đó cào cấu vào chân hắn. Hắn co chân và đá vào kẻ đang cố kéo hắn xuống, nhưng hắn chợt giật mình vì hình như hắn đang đá phải một vật gì kỳ lạ lắm.
Cúi nhìn xuống, lập tức gã thứ tư buông tay té nhào. Dưới chân gã là một xác người quấn vải liệm trắng toát, chỉ chừa lại khuôn mặt, nhưng khuôn mặt lại vô cùng gớm ghiếc bởi chiếc miệng bị may kín, những lằn chỉ chồng chéo lên nhau kéo dài từ mép tai bên này sang tận mép tai phía bên kia, hai tay, hai chân của cái thây ma đó cũng bị trói chặt. Vậy mà cái thây ma cứ không ngừng uốn éo và dùng hai bàn tay đã bị trói đó ra sức cào vào người gã.
Gã sợ đến nỗi không thể kêu lên được! Vừa khi đó ba gã kia cũng trông thấy, vậy là cả bốn đều run rẩy, vừa bò vừa lết lùi ra xa khu vực đó.
Trong khi bên ngoài xảy ra những sự việc kinh hoàng như thế nhưng Diễm Thy vẫn vô tư. Cô có nghe thấy tiếng động bên ngoài, nhưng cô cũng không quan tâm mấy và không sợ vì cô nghĩ đó là tiếng động của chồn chuột gì đó mà thôi.
Diễm Thy vẫn kỳ cọ thân mình một cách chậm chạp, khoan thai và vẫn hát nho nhỏ một bài tình ca êm dịu.
Trông thấy Diễm Thy bưng đèn đi vào với đầu tóc còn ướt sũng, bác Lý hất hàm hỏi:
- Sao? Đã biết ngán sống cảnh thôn dã thế này chưa vậy cháu?
Diễm Thy mím môi cười:
- Dạ, cháu không những không biết ngán mà trái lại còn thích nữa đó bác. Ở đây đẹp quá, đẹp hơn thành phố nhiều! Cháu thích sống giữa thiên nhiên thế này vô cùng bác ạ!
Bác Lý gật gù:
- Nếu vậy, bác sẽ bày thêm cho cháu một cách hòa mình vào thiên nhiên nè!
Diễm Thy tò mò:
- Là sao vậy bác?
Bác Lý mỉm cười nói với Duy:
- Cháu giúp bác dọn cái này ở ngoài kia, như vậy chắc vợ cháu sẽ thích hơn đó!
Vừa nói bác Lý vừa chỉ tay ra khoảng vườn trước mặt.
Duy, diễm Thy và bác Lý, người cầm đèn, người bưng mâm chén bát, thức ăn di chuyển ra vườn. Ở đó có một bộ bàn ghế được làm bằng đá, có lẽ được đặt chỗ này lâu lắm rồi, xung quanh rêu bám xanh rì.
Thế là bữa cơm tối hôm đó của vợ chồng Duy tràn ngập ánh trăng. Điều này khiến Diễm Thy đặc biệt thích thú. Cô kéo tay bác Lý:
- Bác ngồi xuống dùng cơm với tụi cháu cho vui!
Bác Lý lắc đầu:
- Thôi, hai cháu cứ tự nhiên, bác ngồi đây chơi được rồi! Tối về bác ăn sau, bác không quen ăn giờ này!
Bác Lý là một người đàn ông khắc khổ nhưng không ngờ lại có tài nấu nướng tuyệt vời!
Bữa cơm tối nay dành cho vợ chồng Diễm Thy mặc dù chỉ được nấu bằng những nguyên liệu đơn giản hàng ngày nhưng qua bàn tay chế biến của bác, món nào cũng ngon tuyệt. Cả Duy và Diễm Thy, cả hai vừa ăn vừa tấm tắc khen không ngớt. Bác Lý ngồi bên cạnh chỉ mỉm cười không nói gì.
Bất chợt khi ngước lên, Diễm Thy trông thấy có bóng người lấp ló ở chỗ đầu đường, cô hốt hoảng gọi Duy:
- Anh… kìa anh… hình như có người!
Duy giật mình khi nghe Diễm Thy kêu, anh chưa kịp nhìn thấy gì thì bác Lý đã lên tiếng:
- À… bác xin lỗi vì quên nói cho hai cháu biết. Trong trang trại này còn có mấy người công nhân mà ông bà chủ thuê về làm việc. Họ ở trong căn lều tuốt trong kia, và hiện nay họ cũng đang làm việc ở khu vực bên đó, không ảnh hưởng gì đến các cháu đâu, chỉ là thỉnh thoảng họ phải đi qua lại trên con đường ngoài kia thôi!
Diễm Thy thở phào nhẹ nhõm:
- Trời! Vậy mà làm cháu hết cả hồn vía!
Bác Lý có vẻ ái nái:
- Cho bác xin lỗi, bác quên mất, không nói cho hai cháu biết việc này!
Duy cười:
- Đâu có gì đâu bác, thì cũng phải tập cho vợ cháu quen với mọi tình huống đi chớ! Có chồng rồi, phải can đảm lên, không được nhút nhát như hồi còn con gái nữa!
Rồi Duy chuyển sang đề tài khác:
- À, cháu nghe nói vợ chồng ông chủ cũng ở gần đây phải không bác?
Bác Lý gật đầu:
- Ừ, ông bà chủ ở cách đây khoảng chừng tám cây số. Cũng là trong khuôn viên trang trại thôi.
Duy chắc lưỡi thán phục:
- Họ sướng thiệt bác hén? Có cả một khu đất bao la như thế này!
Bác Lý tư lự:
- Mình nhìn vào thì thấy sướng vậy đó, nhưng theo bác chắc họ cũng có những nỗi khổ riêng cháu à! Hình như trong cuộc sống của họ cũng còn vướng mắc điều gì đó!
- Đất này là do ông bà chủ mua hay dòng họ để lại vậy bác?
Duy tò mò hỏi.
Bác Lý chậm rãi đáp:
- Bác nghe kể đất này là ông chủ thừa kế của bên vợ. Mà hồi đó ở đây không hoang vu đến như vầy đâu. Không hiểu sao có một dạo ông bà chủ bỏ trang trại đi nơi khác sinh sống, họ mới trở về mấy năm nay và có ý gầy dựng lại đó cháu.
Câu chuyện cứ kéo dài từ trang trại qua đến thú rừng, đến cuộc sống của những người dân ở địa phương… mãi đến lúc bữa cơm của vợ chồng Duy kết thúc, cũng là lúc mặt trăng đã lên cao.
Bác Lý đứng lên từ giã:
- Thôi, khuya rồi, bác về nhé! Chúc hai vợ chồng thật hạnh phúc!
Duy mỉm cười:
- Dạ, cháu cảm ơn bác.
Diễm Thy nhìn ra đường rồi than:
- Trời ơi, giờ này mà bác Lý một mình cuốc bộ về tuốt ngoài đó sao?
Bác Lý đưa tay chỉ ra chỗ hàng rào, một chiếc xe đạp đang dựng tựa vào đó.
- Đâu có, bác cưỡi ngựa mà, đâu có đi bộ!
Cả ba cười nói vui vẻ. Vợ chồng Diễm Thy đi theo tiến bác Lý ra tới đầu đường rồi mới thong thả trở vào.
- Ngồi chơi chút nữa đi anh!
Diễm Thy kéo chồng ngồi xuống chiếc bàn đá, lúc này đã được dọn dẹp sẽ.
Duy trèo lên bàn, ngồi co chân ngửa mặt ngắm trăng. Diễm Thy ngồi tựa vào lưng chồng, hai chân đong đưa bên dưới.
- Oái!
Bất thần Diễm Thy kêu lên.
- Gì vậy em?
Duy giật mình quay lại hỏi.
Diễm Thy co hết hai chân lên bàn sợ sệt nói:
- Em… hình như có ai nắm lấy chân em giật mạnh…
Duy phì cười:
- Trời đất! Em đừng có tưởng tượng quá đó nhe?
Vừa nói Duy vừa cầm cây đèn Hoa Kỳ đang cháy sáng khom người rọi xuống dưới bàn. Dưới đó một con mèo đen đang ngồi chễm chệ.
Con mèo rất gan dạ, nó không hốt hoảng lao đi khi thấy người ta đã phát hiện ra sự có mặt của nó, mà còn giương mắt nhìn chằm chằm vào vợ chồng Diễm Thy. Ánh mắt con mèo sáng quắt, sáng một cách đáng sợ khiến Diễm Thy không khỏi rùng mình.
- Anh ơi, đuổi nó đi đi!
Diễm Thy kéo tay Duy thúc giục.
Duy dứ dứ cây đèn về phía con mèo rồi “hừ hừ” mấy tiếng, con mèo cất tiếng “ngao…” thảm thiết rồi vụt phóng đi, nhanh như một mũi tên vừa được bắn ra khỏi cung.
- Chắc là mèo hoang! Lũ mèo hoang này dạn ghê!
Duy nhận xét.
Diễm Thy ngồi nép sát vào Duy:
- Trông nó đáng sợ quá!
- Ôi, sao tự nhiên em lại trở thành người nhút nhát thế này? Anh nhớ em cũng gan dạ lắm mà?
Duy làm bộ ngạc nhiên.
Diễm Thy phụng phịu:
- Gan thì gan ở chỗ quen thuộc của mình, còn giữa chốn rừng núi hoang vu thế này em không sợ mới lạ…
- Nhưng đã có anh bên em rồi, vẫn còn sợ sao?
Duy đặt cây đèn trở lên bàn nhín vợ hỏi.
Diễm Thy cười bẽn lẽn:
- Thì có anh em mới dám ở đây, không có anh làm sao em có thể…
Duy tỏ vẻ hài lòng:
- Vậy mới được chứ!
Trông thấy Diễm Thy rùng mình vì một cơn gió thổi qua, Duy vội nói:
- Thôi, mình vào nhà đi em, gió quá không khéo em bị bệnh thì nguy!
Diễm Thy ngoan ngoãn đứng lên và như một đứa bé, cô tựa hẳn người mình vào Duy để được anh dìu lên từng bậc thang.
Đêm đó, dưới ánh nến lung linh và ánh trăng huyền hoặc, vợ chồng Diễm Thy đã có một tối tân hôn thật đúng nghĩa.
Sáng hôm sau vẫn Diễm Thy là người dậy sớm. Thói quen này cô đã tập được từ lâu lắm. Buổi sáng, trước khi đi làm, bao giờ Diễm Thy cũng khởi động bằng những bài tập thể dục nhẹ nhàng nhưng đều đặn, có lẽ nhờ vậy mà vóc dáng Diễm Thy luôn là nỗi khát khao mơ ước của rất nhiều phụ nữ.
Sáng nay cũng vậy, Diễm Thy xuống sân chạy một vòng. Không khí buổi sáng ở đây thật trong lành sảng khoái, cô căng lồng ngực để hít thở khí trời, niềm sung sướng hân hoan khiến Diễm Thy nhìn thấy nơi nào cũng dễ thương và tuyệt đẹp.
Trong lúc cúi người làm một động tác thể dục, bất chợt Diễm Thy như trông thấy một con người với hình dạng vô cùng kỳ quái. Đó là một con người, một phụ nữ, rõ ràng là vậy, cô ta từ phía vườn cây tiến tới Diễm Thy bằng những cái quẫy mình như cá, vì hình như cả tay và chân của cô ta đều bị trói chặt. Cô ta nghển cao đầu như muốn nói với Diễm Thy điều gì đó mà cô không tài nào nghe được, bởi vì miệng của cô ta đã bị may dính lại bằng những sợi chỉ thô ngang dọc kéo dài hai bên mang tai.
Diễm Thy sững người. Sau phút bàng hoàng cô đứng thẳng dậy thì hình ảnh đó biến mất như chưa từng xuất hiện. Dụi mắt mấy lần, Diễm Thy không thể tin được đó là sự thật, nhưng không thể có khả năng cô trông gà hóa cuốc được. Bởi vì xung quanh Diễm Thy đâu có điều gì tương tự khiến cô liên tưởng tới cái hình ảnh ma quái đó đâu?
Ngó quanh quất bốn bên, vẫn không thấy có gì lạ. cỏ cây còn đọng hơi sương, toát lên một mùi hương ban mai dịu dàng, tinh khiết. Tất cả bình yên, gần gũi thế này kia mà, tại sao lại có thể xen vào một điều kỳ lạ đến thế?
Diễm Thy thật sự không sao giải thích được, nhưng trong lòng cô lại bắt đầu cảm thấy bất an.
Bỏ bài tập thể dục còn dang dở, Diễm Thy chạy trở lên nhà định kể cho Duy nghe, nhưng thấy anh vẫn còn đang ngủ thật ngon, đầu hơi ngoẹo sang một bên giống như đứa trẻ đang làm nũng mẹ.
Diễm Thy âu yếm đứng nhìn chồng một lúc rồi khe khẽ đi ra ngoài. Sau khi làm vệ sinh cá nhân, cô chợt muốn khám phá căn nhà mà mình đang tạm thời làm chủ.
Nghĩ là làm, Diễm Thy đi lên tầng trên bằng những bước chân rất nhẹ. Cầu thang đầy bụi, cả dãy hành lang trên đó cũng vậy, quả đúng như những gì bác Lý đã nói chiều hôm qua.
Mà cũng phải, nhà không người ở, hơi sức đâu mà dọn dẹp mỗi ngày.
Trên tầng một có ba phòng, các phòng đều khép hờ cửa. Diễm Thy tò mò quan sát từng phòng một. Nơi nào cũng đầy bụi và mạng nhện, đồ đạc bên trong thì gần như không có gì.
- Không có gì đặc biệt!
Diễm Thy lẩm bẩm. Cô đã thấy chán nên không muốn đi tiếp lên tầng hai mà muốn quay trở xuống dưới.
Đứng tựa người vào lan can, Diễm Thy phóng tầm mắt ra tận cánh rừng ở tuốt đằng xa và thầm nghĩ lát nữa Duy thức giấc, cô sẽ rủ anh đi vào đó chơi cho biết.
Bất chợt Diễm Thy có cảm giác mu bàn chân mình đau nhói như vừa bị một con kiến hay con ong nào đó đốt phải. Cô ngồi xuống, vừa gãi nhẹ vào chỗ đau vừa nhìn xuống sàn để tìm thủ phạm.
Diễm Thy không hề thấy kiến, ong hoặc bất kỳ con vật nào có thể cắn đốt được mình, chỗ đau trên chân cũng không có dấu mẩn đỏ như thông thường.
Vừa toan đứng lên, Diễm Thy bỗng phát hiện sàn gỗ dưới chân mình có gì đó không giống những chỗ khác. Tò mò, cô đưa tay khợi thử thì đúng là bên trên ván gỗ thông thường, chỗ này còn được dán lên một lớp gỗ thật mỏng.
- Chi vậy ta?
Trí tò mò của phụ nữa trỗi dậy. Diễm Thy nhẹ nhàng khợi lớp ván mỏng bên trên ra để xem phía dưới có khuyết điểm gì mà người ta phải tìm cách che giấu đi như vậy.
Khi lớp gỗ mỏng được giở lên phân nửa, Diễm Thy nhận thấy miếng ván phía dưới có màu sắc thật lạ lùng, nó đỏ sậm lại như bị nhuốm máu.
Cô còn đang thắc mắc thì Duy đã thức dậy, anh vừa bước ra khỏi phòng và rất ngạc nhiên khi trông thấy Diễm Thy ngồi xổm dưới sàn nhà, đang chăm chú nhìn vào mặt ván lát sàn.
- Gì vậy em?
Duy vừa đi tới gần vừa hỏi.
Diễm Thy nhìn chồng nhoẻn cười:
- Anh dậy rồi sao? Em thấy chỗ này lạ quá nên tò mò thôi mà…
- Có gì lạ vậy em?
Duy cũng ngồi xuống cạnh vợ, dụi dụi mắt.
Diễm Thy chỉ tay vào mặt ván sàn:
- Anh thấy cái này có phải là máu không? Hình như chỗ này bị thấm máu nên người ta mới phải lót thêm một lớp ván mỏng bên trên để che lại đó anh. Nhưng sao lại nhuộm màu máu ở đây thế nhỉ?
Duy phá ra cười:
- Trời đất! Anh không ngờ em lại còn có cả cái máu thám tử trong người nữa đó nha!
Diễm Thy nghe chồng chọc quê, cô thẹn quay sang thụi vào lưng anh một cái nhẹ:
- Thì người ta thấy lạ nên mới tò mò, còn chọc nữa em giận cho coi…
Duy nhún người đứng lên, vẫn chưa dứt cười:
- Không chừng sau tuần trăng mật của vợ chồng mình, em chuyển nghề cũng nên… anh ủng hộ em đó!
Diễm Thy đứng lên nhào tới chụp Duy nhưng Duy né khỏi và chạy tuốt xuống sân. Diễm Thy đuổi theo, hai vợ chồng rượt đuổi nhau chạy khắp khu vườn, tiếng cười vui vang lên lanh lảnh…
Sau khi ăn bữa sáng do bác Lý mang vào, vợ chồng Diễm Thy dắt nhau vào khu rừng gần đó để dạo chơi, mãi đến xế trưa mới quay trở lại.
Khi hai người về đến nhà đã thấy bác Lý ngồi chờ với bữa ăn trưa. Diễm Thy hí hửng khoe với bác Lý:
- Bác coi cháu hái được gì nè!
Vừa nói, Diễm Thy vừa chìa ra trước mặt bác Lý một bó hoa rực rỡ sắc màu. Đó là những bông hoa dại ven đường mà Diễm Thy chọn lọc để hái mang về. tiếp theo đó, cô lại chì một nón đủ thứ quả rừng.
Bác Lý nhăn mặt:
- Cháu đừng ăn lung tung nhé, nguy hiểm lắm đó! Có những thứ quả rừng vô hại nhưng cũng có những thứ rất độc, có thể gây chết người.
Diễm Thy le lưỡi:
- Ghê vậy sao bác? Bác xem giùm cháu mấy trái này ăn được không?
Bác Lý đón lấy chiếc nón đựng đầy quả rừng trên tay Diễm Thy, cầm lên mấy trái để quan sát.
- Những trái này thì không sao, nhưng có thể khi ăn vào cháu sẽ bị ngứa nhẹ ở miệng đó!
Trả chiếc nón lại cho Diễm Thy, bác Lý kết luận.
Duy cười:
- Vợ cháu tính tình trẻ con, thích mấy thứ lạ mắt vậy thôi chứ không có ăn uống gì đâu bác ơi…
Bác Lý cũng cười đáp lại:
- Ờ, thì bác cũng chỉ dặn hờ vậy thôi mà! Thôi, hai cháu mau dọn cơm ra ăn đi, nguội hết cả rồi, mà ở đây đâu có lò bếp gì để hâm lại…
Duy xua tay:
- Không sao đâu bác, tụi cháu ăn nguội vầy cũng được mà bác!
Hai vợ chồng Diễm Thy cũng dọn bữa trưa ra chiếc bàn đá tối hôm qua. Đã xế trưa nhưng chỗ đó vẫn mát rượi bởi một cây cổ thụ đang xòe tàn che chở.
Bữa cơm trưa thật ngon lành, bởi cả Duy lẫn Diễm Thy đều đói meo sau hơn một buổi chạy rong trong rừng.
Dọn dẹp bàn ăn xong, bác Lý hỏi:
- Chiều nay hai cháu có dự tính đi đâu chơi không?
Diễm Thy liếc nhìn chồng rồi tủm tỉm cười nói:
- Anh Duy rủ cháu chiều nay hai đứa thi leo núi, nhưng cháu mệt quá hẹn lại sáng mai. Có lẽ chiều nay cháu phải nằm nhà dưỡng sức đó bác!
- Ờ, cháu phải ráng thắng cho được cậu Duy nghen!
Bác Lý động viên.
Mọi người đang cười nói rôm rả thì có tiếng xe gắn máy chạy vào, ai nấy đều ngước mắt nhìn về con đường phía ngoài.
Chiếc xe dừng lại cách chỗ mọi người ngồi không xa, trên xe là một người đàn ông và một người đàn bà, có vẻ là vợ chồng vừa bước xuống.
Bác Lý quay lại nói với vợ chồng Diễm Thy:
- Ông bà chủ tới thăm hai cháu đó!
Duy và Diễm Thy chưa kịp có phản ứng gì thì ông bà chủ đã tới trước mặt. Cả ba người lễ phép đứng lên chào hỏi.
- Hai cháu có hài lòng với nơi này không?
Bà chủ nhà không chờ giới thiệu, vui vẻ hỏi.
Duy lễ phép:
- Dạ thưa, chúng cháu rất hài lòng, ở đây quả là tuyệt! Nhất là vợ cháu, cô ấy rất thích phong cảnh và khí hậu nơi này!
Bà chủ nhà mỉm cười nhìn sang Diễm Thy:
- Hai bác mong các cháu có được những ngày thật ý nghĩa cho tuần trăng mật của mình.
Diễm Thy bẽn lẽn cười.
Đặt lên bàn một giỏ trái cây, vợ chồng người chủ nhà ngồi xuống bên cạnh.
- Bác đem trái cây tới cho hai cháu đây! Trái cây vườn nhà vừa mới hái xuống, hai cháu ăn đi, ngon lắm đó!
Ông chủ nhà ngó Duy:
- Khi trở về cải tạo chỗ này, bác cũng có ý định sẽ xây dựng một khu nghỉ mát, hai cháu là người mở hàng cho bác đó nghe!
Duy cười:
- Dạ! Nhất định là khi nào xây dựng xong, chúng cháu sẽ trở lên lần nữa.
- Mà không chỉ hai người đâu nhé? Phải thêm vài cô cậu nhóc tì mới được! Hai bác sẽ dành cho gia đình cháu căn phòng tốt nhất!
Bà chủ nhà thêm vào.
Mọi người cùng cười nói hết sức thoải mái, vui vẻ.
Lúc đầu Diễm Thy còn hơi ngại với vợ chồng chủ nhà, nhưng sau đó cô cũng hòa vào không khí ấm áp, vui tươi.
Đặt giỏ trái cây sang bên, Diễm Thy bắt đầu lấy con dao nhỏ gọt vỏ và chia đều cho mọi người.
- Hai cháu ăn chôm chôm đi, ngọt lắm!
Bà chủ nhà vừa nói vừa xoay người định lấy chôm chôm trong giỏ ra mời, nhưng thật kỳ lạ, giỏ trái cây mới vừa để đó ai cũng trông thấy giờ không cánh mà bay mất biệt. Bà chủ nhà ngơ ngác, Diễm Thy cũng không giấu được vẻ ngạc nhiên. Cô cúi người nhìn xuống đất thì thấy giỏ trái cây nằm dưới bàn, cạnh chân bà chủ nhà!
Điều này hết sức vô lý! Bởi vì lúc nãy chính tay Diễm Thy đặt giỏ trái cây sau lưng mình, tức là chỗ đối diện với bà chủ. Như vậy, nếu muốn lấy giỏ trái cây đem đặt chỗ khác, bà chủ nhà phải đi vòng qua chỗ Diễm Thy, hoặc phải nhờ Diễm Thy chuyền sang. Nhưng từ nãy tới giờ, những người có mặt ở đây đều ngồi yên chỗ của mình, và cũng không ai chuyền cái giỏ trái cây ấy đi đâu cả.
Bà chủ nhà nhìn theo ánh mắt của Diễm Thy, bất chợt mặt bà tái xanh khi thấy giỏ trái cây nằm đó. Bà giật bắn người, lúng túng nói:
- Sao… sao tự nhiên nó lại nằm đây?
Ông chủ nhà nhanh chóng xóa đi sự ngạc nhiên đến sững sờ của mọi người:
- Chắc tại mấy người vui quá nên quên đó mà, không lẽ nó có chân sao?
Ông bật cười.
Bà chủ nhà cũng cố gắng lấy lại bình tĩnh bằng cách thúc giục:
- Hai cháu ăn đi! Ăn đi! Ngon lắm đó…
Lúc này thì lại không tìm được con dao! Rõ ràng con dao nằm trên bàn, gần chỗ Duy và Diễm Thy nhưng bây giờ không ai còn thấy nó đâu cả.
Tìm khắp xung quanh vẫn không thấy, bác Lý kêu lên:
- Hôm nay sao nhiều chuyện kỳ khôi thế này?
Vợ chồng người chủ nhà bỗng tỏ ra lo lắng. Hai người lén nhìn nhau rồi đồng loạt đứng lên cáo từ:
- Thôi các cháu ở lại chơi vui vẻ, hai bác phải về có việc.
Bà chủ nhà nói, rồi quay sang căn dặn bác Lý:
- Anh nhớ giúp đỡ hai cháu khi nó cần điều gì nhé?
- Tôi biết rồi, bà chủ yên tâm.
Bác Lý gật đầu.
Vợ chồng người chủ nhà ra về một cách vội vã, không bình thường. Diễm Thy và Duy cứ đứng nhìn theo mãi tới khi chiếc xe gắn máy khuất sau chỗ ngoặt của conc đường mới chịu ngồi trở xuống.
Thì lạ chưa, con dao gọt trái cây lại nằm ngay trên bàn, dúng chỗ mà lúc nãy Diễm Thy đặt nó!
- Trời ơi, hổng lẽ ở đây có ma!
Diễm Thy kêu lên thảng thốt.
Duy nghiêm mặt:
- Em đừng có nói gở như vậy!
- Anh giải thích việc này thế nào?
Diễm Thy hồi hộp nhìn chồng.
Duy lắc đầu:
- Anh cũng không biết, có khi… có khi vợ chồng ông chủ nhà muốn chọc mình chơi. Hai người cố tính giấu nó đi, rồi lúc mọi người lo chào từ giã họ lại lén đặt nó trở lại…
- Thiệt không sao hiểu nổi!
Diễm Thy than.
Bỗng cô quay sang bác Lý hỏi:
- Bác sống ở đây nhiều năm nay, có khi nào bác nghe nói ở đây có ma không vậy bác?
Bác Lý bật cười:
- Tui cũng rất muốn xem mặt ma quỷ thế nào đây mà không sao thấy được! Cháu yên tâm đi, bác sống ở đây có một mình mà có thấy gì đâu… Ma quỷ chỉ là do sự tưởng tượng của con người thôi cháu ạ!
Duy đứng lên cốc vào trán vợ:
- Em nghe bác Lý nói chưa? Tối ngày sợ bậy bạ không hà! Thôi, vô ngủ, anh mệt quá rồi nè!
Mặc dù vẫn còn nhiều thắc mắc trong lòng, nhưng Diễm Thy vẫn ngoan ngoãn đứng lên, cúi chào bác Lý rồi đi theo Duy về phòng.
Nằm bên cạnh Duy, Diễm Thy không sao ngủ được vì những hình ảnh, những sự việc kỳ lạ hai hôm nay cứ hiện ra trước mắt. Cô muốn kể cho Duy nghe về hình ảnh người phụ nữ bị trói chân tay, bị may miệng mà cô vừa chợt thoáng trông thấy sáng nay, nhưng lại sợ Duy cười, cho là mình giàu trí tưởng tượng!
Từ trước tới nay Diễm Thy chưa hề quan tâm đến chuyện ma quỷ, cô cũng chưa lần nào tự hỏi mình rằng ma quỷ có thật hay không nữa. Đôi lúc xem phim, đọc truyện hoặc nghe ai đó kể chuyện ma, Diễm Thy cũng có cảm giác rợn người, nhưng chỉ ngay trong lúc đó mà thôi, chưa khi nào có sự liên tưởng.
Vậy mà hai hôm nay liên tiếp Diễm Thy cứ thấy lòng mình thon thót vì những chuyện không bình thường.
- Nhưng thôi, dẫu sao có Duy ở bên cạnh mình rồi, mình còn gì phải lo sợ nữa đâu?
Diễm Thy thầm nhủ rồi xoay người áp mặt vào ngực chồng cố dỗ giấc ngủ.
 
***
- Diễm Thy ơi! Dậy đi em, em mơ thấy gì mà la ghê vậy?
Duy lay mạnh người Diễm Thy, cô mở mắt và ngồi bật dậy ôm chầm lấy Duy khóc ròng.
Duy hoảng hốt:
- Gì vậy em? Em mơ thấy điều gì?
Diễm Thy cố dằn tiếng khóc:
- Rất khủng khiếp anh ơi… em sợ quá…
Duy ôm Diễm Thy vào lòng an ủi:
- Chỉ là giấc mơ thôi mà! Kể anh nghe xem, mơ gì mà khiến em hoảng sợ đến mức này?
Diễm Thy kể trong tiếng khóc cố kìm nén lại:
- Em thấy… thấy vợ chồng mình bị bốn kẻ lạ mặt tấn công, ngay tại căn phòng này nè! Chúng… chúng trói chặt anh lại rồi giở trò đồi bại với em… Chúng… chúng còn muốn giết chết anh, giết bằng cây búa treo ngoài phòng khách kia… Em sợ quá! Giấc mơ y như thật anh à!
Duy siết chặt vợ vào lòng:
- Không sao rồi! Không phải là thật rồi! anh đang ôm em đây mà, em đừng sợ nữa… Có lẽ do em bị căng thẳng bởi những sự việc vừa rồi nên mới có cơn ác mộng đó thôi. Em bình tâm lại đi, không có gì phải sợ đâu em!
Diễm Thy ngước nhìn chồng:
- Anh cũng biết trước đây em không phải là người quá duy tâm, cũng không nhút nhát… vậy mà không hiểu sao hai hôm nay em toàn thấy những điều kỳ lạ…
Diễm Thy muốn kể cho chồng nghe về người phụ nữ bị may miệng, nhưng Duy đã cản lại:
- Thôi, em đừng nghĩ nhiều đến chuyện đó nữa! em mà nghĩ tới nó hoài thì nó sẽ làm cho em bị ám ảnh, rồi lại mơ thấy chuyện không hay! Em quên hết đi, chỉ nhớ tới một mình anh là đủ rồi, nhé?
Diễm Thy rất muốn cười trước câu nói đùa của Duy nhưng thật sự cô không thể gượng nỗi. Trong lòng Diễm Thy đầy ắp sự sợ hãi, lo âu và thắc mắc. Nhưng Diễm Thy lại không muốn Duy không được vui, không muốn làm tuần trăng mật của vợ chồng mình mất ý nghĩa, vì vậy cô phải cố gắng xua đuổi khỏi đầu những hình ảnh rối rắm đó.
Tối đó bác Lý mang thức ăn đến cho vợ chồng Diễm Thy nhưng không ở lại chơi mà vội vã cáo từ vì có hẹn với mấy người bạn đi nhậu. Hai vợ chồng Diễm Thy lại dọn cơm ngoài vườn ngồi ăn dưới ánh trăng sáng mát dịu.
Vừa cầm chén cơm, Diễm Thy chợt nhớ lại một chuyện, cô reo lên:
- A, anh chờ em một chút! Em quên mất!
Duy ngạc nhiên:
- Gì vậy em?
Diễm Thy đặt chén cơm xuống bàn, mỉm cười:
- Bí mật! Anh ngồi yên ở đây đợi em, cấm đi theo rình đó nghen! Bảo đảm anh sẽ có một bất ngờ thú vị!
Nói xong, Diễm Thy đi nhanh vào nhà, Duy ngó theo vợ, mỉm cười một mình.
Diễm Thy chạy vào phòng, cô mở tủ, cúi người định lấy chai rượu hôm trước cô đã cố tình mang theo mà không cho Duy biết, lúc lên tới đây, Diễm Thy đã giấu nó thật kín trong góc tủ, vì muốn dành cho Duy một bất ngờ.
Vừa cúi người xuống, bất giác từ phía sau một vòng tay choàng lấy người Diễm Thy, cô vừa định kêu lên “đã dặn anh không được đi theo…” vì tưởng là chồng mình, nhưng chưa kịp cất tiếng thì một bàn tay thô ráp, to bè đã bịt ngang miệng cô lại.
Diễm Thy hoảng hốt chống cự, nhưng cô không làm sao chống trả nỗi một gã thanh niên lực lưỡng. Hắn vừa bịt miệng Diễm Thy vừa bế thốc cô lên giường. Trong đầu Diễm Thy, hình ảnh giấc mơ lúc chiều hiện về, đúng y như vậy!
Diễm Thy vô cùng lo sợ, cô gắng hết sức để giãy dụa nhưng tất cả cố gắng của Diễm Thy đều là vô ích.
Duy ngồi một mình bên bàn ăn, anh cố suy đoán vợ mình đang bày ra trò gì cho mình vui đây? Sao cô ấy đi lâu rồi mà không thấy trở lại? Tự nhiên Duy cảm thấy nóng ruột một cách kỳ lạ, anh đứng lên, đi vào nhà mặc cho lời dặn dò không được đi theo của Diễm Thy.
Vừa đặt chân lên bậc thang đầu tiên, Duy đã té nhào do bị ngáng chân. Hai bóng người hai bên nhào tới ôm chặt lấy Duy và trói quặt tay anh lại. Duy hết sức hoảng hốt, giờ phút này anh khong lo cho mạng sống của mình mà tâm trí dồn hết cả cho Diễm Thy. Chắc chắn là cô ấy đang gặp nạn rồi!
- Diễm Thy…Em đâu rồi? Mấy người làm gì vậy?
Sơn hét to nhưng không có tiếng trả lời.
- Câm miệng!
Một người nữa từ trên nhà bước xuống, vừa rít lên nho nhỏ vừa nhét vào miệng Sơn một chiếc khăn cuộn tròn không để cho anh lên tiếng.
- Lôi nó lên đây!
Một người ra lệnh.
- Sao không để nó nằm đây? Lôi lên đó làm gì?
Có tiếng hỏi lại.
- Mầy đừng cãi lời tao! Cho nó chứng kiến tận mắt mới tăng thêm phần hấp dẫn chứ! Ha ha ha…
Hắn cất tiếng cười đểu cáng rồi quay người bước lên cầu thang, hai tên còn lại hì hục lôi kéo Duy lên theo.
Vừa tới cửa phòng, Duy như muốn phát điên khi trông thấy Diễm Thy đang bị một gã đàn ông đè nghiến trên giường, hắn giật phăng chiếc áo cô đang mặc trên người ném mạnh xuống đất.
Diễm Thy chống trả quyết liệt, và lúc này Duy cũng giống như một con thú bị dồn vào đường cùng, anh lao lên, lấy đầu húc vào bụng hai gà đàn ông đứng gần nhất khiến bọn chúng lảo đảo suýt té.
Một tên chạy ra phòng khác giật phăng chiếc búa xuống, lăm lăm cầm chặt trong tay.
- Mầy giỏi! giỏi!
Gã đàn ông có vẻ là cầm đầu giáng vào gáy Duy một cú đấm khiến anh ngã ra bất tỉnh. Cùng lúc, Diễm Thy trông thấy tên cầm búa đi vào, cô gần như lả đi vì sợ hãi.
- Á…
Đó không phải là tiếng thét kinh hoàng của Diễm Thy, vì miệng cô đã bị bịt kín bởi lớp băng keo, đó chính là tiếng kêu của tên cầm đầu!
Hắn vừa trông thấy một quái nhân bò từ dưới gầm giường ra. Quái nhân ấy đã một lần làm cho bọn chúng bò lê bò càng lúc rình xem trộm Diễm Thy tắm!
Vâng, bọn chúng chính là bốn tên làm vườn ngày hôm kia đã có dịp nhìn thấy thân thể tuyệt mỹ của Diễm Thy, và chính hình ảnh đó của cô đã không ngừng ám ảnh chúng, thôi chúc chúng nhúng tay vào tội ác.
- Tao thèm con nhỏ đó quá! Tao phải bắt cóc nó thôi!
Gã cầm đầu mở lời.
- Đại ca! Cho em… cho em với, em cũng không chịu nổi!
Một tên nuốt nước miếng tiếp lời ngay sau đó. Rồi lần lượt hai tên còn lại cũng không sao ngăn được dục vọng của mình.
- Vậy cả bốn đứa cùng hợp tác nhé? Mọi việc sẽ rất dễ dàng vì ngoài hai vợ chồng nó ra, ở khu vực này không còn ai, không ai có thể phát hiện ra hoặc giải cứu cho nó được. Chúng ta chỉ việc không chế thằng chồng là xong!
Gã cầm đầu vạch kế hoạch.
- Nhưng sau đó… sau đó thì sao, đại ca?
Một tến ấp úng hỏi.
Gã cầm đầu ngửa mặt lên trời cười ha hả:
- Mình là dân giang hồ tứ chiếng. Ngay tên họ, quê quán thật của mình ở đâu còn không ai biết thì có gì phải sợ? Xong việc thì a lê hấp, cả bọn chuồn đi nơi khác làm ăn, có gì phải bận tâm đâu nào?
Ba đứa còn lại cũng nhận thấy những lời gã cầm đầu nói quả thật không sai. Mọi việc sẽ diễn ra một cách êm thắm, không có gì phải lo sợ. Nhưng không ai ngờ, chính trong lúc quyết định này lại xuất hiện một quái nhân kinh tởm như thế!
Tên cầm đầu đứng như trời trồng, mắt mở to nhìn vào cái thân xác quái dị đang uốn éo trườn lên từng chút, cái đầu nghển cao để lộ hai hố mắt sâu hoắm và chiếc miệng bị khóa kín bởi những đường may khủng khiếp.
Lúc đó cả ba tên kia cũng nhìn thấy, tất cả đều rụng rời không nói được một câu.
Gã cầm đầu lấy lại bình tĩnh trước hết, hắn hét to lên:
- Chạy, tụi bây, chạy nhanh lên!
Sau tiếng hét của hắn, ba gã kia như sực tỉnh, chúng phóng nhanh xuống sân nhà rồi chạy ào vào bóng tối của rừng cây rậm rạp.
Sau phút bàng hoàng, Diễm Thy bật dậy nhào tới cạnh Duy, cô không kịp mặc cả áo. VỪa giật chiếc khăn trong miệng Duy ra, Diễm Thy vừa lay gọi:
- Anh Duy! Trời ơi… anh ơi, mau tỉnh lại đi anh! Anh đừng làm em sợ…Tỉnh lại đi anh…
Diễm Thy ôm lấy lấy chồng bật khóc nức nở, những giọt nước mắt của Diễm Thy rơi lã chã xuống mặt Duy.
Duy khẽ cựa mình rồi mở mắt nhìn Diễm Thy một cách ngỡ ngàng. Nhưng ngay lập tức anh đã nhớ ra mọi chuyện.
- Thy ơi, em có sao không?
Duy hốt hoảng hỏi.
Diễm Thy mừng rỡ, nước mắt vẫn lăn dài:
- Không! Không… em không sao… Em lo cho anh quá…
- Em mở trói giùm anh!
Duy nhắc.
Diễm Thy sực nhớ, cô vội vã tháo mấy sợi dây trói quanh cổ tay Duy. Vừa được tự do, Duy ngồi bật dậy ôm chầm lấy vợ, xót xa đau đớn:
- Thy ơi, anh có lỗi với em, anh đã không bảo vệ được em…
- Không sao rồi, mọi việc đã qua rồi…
Diễm Thy nức nở.
Duy nhoài người nhặt lấy chiếc áo dưới sàn nhà mặc vào cho Diễm Thy. Mãi đến lúc này Diễm Thy mới nhớ ra mình chưa mặc áo, cô bối rối vừa cài nút vừa lắp bắp:
- Không sao… không sao rồi…
Duy nắm chặt hai vai Diễm Thy, nhìn thẳng vào mắt cô hỏi:
- Tại sao chúng lại có thể buông tha bọn mình? Em nói cho anh nghe đi?
Diễm Thy đưa mắt nhìn quanh, Duy sốt ruột:
- Em tìm gì vậy? Mau nói cho anh biết đi…dù cho có chuyện gì xảy ra cũng không phải là lỗi do em mà!
Diễm Thy đặt tay lên tay chồng nhỏ nhẹ:
- Không có chuyện gì đâu anh, bọn chúng chưa kịp làm gì được em… Mình đã được cứu giúp và bây giờ em đang muốn tìm vị ân nhân ấy!
- Ân nhân? Em muốn nói tới ai vậy? Không phải là bác Lý chứ?
Duy ngơ ngác.
- Không! Một ân nhân đặc biệt!
Diễm Thy khó nhọc kể lại hết mọi diễn biến cho Duy nghe, cô còn nói thêm:
- Sáng sớm hôm nay, lúc xuống sân nhà tập thể dục, đã có lúc em có “cảm giác” như mình “nhìn thấy” vị ân nhân ấy rồi anh ạ! Em muốn kể với anh nhưng lại sợ anh cho là em tưởng tượng những chuyện tầm phào…
Duy nhíu mày suy nghĩ, anh biết trong giờ phút này những gì Diễm Thy vừa kể không thể là sản phẩm của trí tưởng tượng được, mà chắc chắn đó là sự thật. một sự thật kỳ lạ, bí ẩn mà anh không thể nào giải thích được!
Duy đỡ Diễm Thy đứng lên:
- Anh sẽ hỏi bác Lý chuyện này!
- Em mệt quá, em muốn ngủ…
Diễm Thy uể oải ngồi xuống giường.
Duy khẽ gật:
- Ừ thôi, em ngủ đi!
Nói xong, Duy đứng lên đóng chặt cửa phòng rồi vào nằm xuống bên cạnh vợ. Bữa cơm tối chưa kịp ăn nhưng giờ thì không ai còn có thể nuốt nổi. Biết bao điều ngổn ngang, thắc mắc trong lòng nhưng cả Duy lẫn Diễm Thy đều quá mệt mỏi, không ai muốn nói.
Diễm Thy chìm vào giấc ngủ nặng nề đầy mộng mị. Cô thấy người phụ nữa bị may miệng ấy đang lết dưới sàn nhà, nhìn cô bằng ánh mắt van xin, cầu cứu, mặc dù ở nơi là hai con mắt trước kia giờ đây chỉ còn là hai hố sâu đen ngòm nhưng Diễm Thy vẫn nhận ra được vẻ cầu khẩn đó.
- Tôi giúp được gì cho chị?
Con người khốn khổ dưới sàn lại quẫy mình tiến ra phía cửa, Diễm Thy từ từ ngồi dậy đi theo…
Duy chợt thức giấc, anh hốt hoảng khi phát hiện Diễm Thy không nằm cạnh bên mình. Cánh cửa phòng mở toang, xung quanh im lặng một cách ghê người. Vội vã ngồi lên, Duy lao ra ngoài gọi to:
- Diễm Thy, Diễm Thy ơi! Em đâu rồi?
Không có tiếng trả lời. Duy nháo nhào chạy ra phía nhà tắm, vẫn không thấy Diễm Thy ở đó. Anh vừa chạy vừa gọi váng tên cô:
- Thy ơi! Diễm Thy ơi…
Một bóng người thấp thoáng ở chỗ bàn đá, Duy thót tim lại vì mừng vui lẫn lo sợ. Anh chạy vội tới và nhận ra bóng người đó chính là Diễm Thy. Nhưng cô đang làm gì thế kia? Duy không thể tin vào mắt mình được nữa! Diễm Thy ngồi xổm dưới đất, ra sức dùng hai tay cào đất, những ngón tay của cô bật cả máu mà Diễm Thy dường như không hề hay biết.
- Thy! Em làm sao thế?
Duy chụp hai tay vợ lại, thảng thốt kêu lên.
Diễm Thy lúc này giống như một kẻ ngây dại không hề ý thức được việc mình làm, cũng như không hề nhận biết được ai đang hiện diện xung quanh. Cô ngước đôi mắt to tròn nhìn Duy một cách đờ đẫn, vô hồn.
Duy đau đớn ôm chặt vợ vào lòng, dìu cô đứng lên và nói:
- Anh sẽ đưa em về phòng! Không sao, không sao đâu em…
Từng tiếng: “không sao, không sao đâu” Duy nói ra như để động viên vợ và động viên cả chính bản thân mình.
Đưa Diễm Thy về phòng, Duy tìm bông băng, thuốc sát trùng để rửa và băng bó hai bàn tay Diễm Thy lại. Cô vẫn cứ lờ đờ như kẻ không hồn vía.
- Ngủ đi em! Anh sẽ thức canh cho em ngủ. Sáng mai anh sẽ đưa em trở về thành phố…
Đỡ Diễm Thy nằm xuống giường, Duy ngồi bó gối bên cạnh nhìn vợ mà lòng đầy đau đớn, xót xa. Anh không ngờ tuần trăng mật tưởng rất tuyệt vời này lại có thể xảy ra những điều tồi tệ…
Chốc chốc, Duy lại liếc nhìn vào đồng hồ đeo tay, anh mong cho trời mau sáng để anh có thể đưa người vợ yêu dấu của mình rời khỏi nơi khủng khiếp này.
Nhưng thật không ngờ, sáng hôm ấy trong trang trại lại xảy ra một chuyện động trời: cả bốn người đàn ông làm vườn đều chết đột ngột! Bác Lý là người phát hiện ra chuyện đó đầu tiên.
Khi cảnh sát đến lập biên bản, vợ chồng người chủ nhà cũng được mời về chứng kiến. Bà chủ nhà run như cầy sấy, đi không muốn vững. Ông chủ tuy cố làm ra vẻ bình tĩnh, nhưng ai ai cũng nhận thấy ông đang run rẩy một cách khác thường.
Qua kết luận sơ bộ của nhà chức trách, cả bốn tên làm vườn chết do quá sợ hãi. Có thể cả bốn người đều nhìn thấy một cái gì đó quá sức ghê rợn. Người ta đặt ra rất nhiều giả thiết nhưng vẫn không thể kết luận được ddiefu khủng khiếp đó là gì, chỉ riêng vợ chồng Diễm Thy là lờ mờ đoán ra nhưng họ không thể nói được, vì chắc chắn sẽ không có ai tin.
Chính do sự cố bất ngờ ấy mà Duy và Diễm Thy không thể về thành phố được như ý định lúc tối, bởi vì họ phải ở lại để phục vụ cho công tác điều tra của cảnh sát.
Sau khi làm xong một số thủ tục, bốn xác chết được đem đi, cảnh sát và những người hiếu kỳ cũng đã tản đi hết, trang trại chỉ còn lại vợ chồng Diễm Thy, ông bà chủ và bác Lý. Năm người ngồi quanh chiếc bàn đá, bàn tán về sự việc vừa mới xảy ra.
- Kinh khủng thật! tui không thể tưởng tượng nổi! Không biết cái gì khiến họ sợ đến mức đó? Cả bốn người một lúc…
Bác Lý lên tiếng đầu tiên.
Ông chủ nhà thở dài:
- Trang trại bỏ hoang đã lâu, giờ mới bắt đầu gầy dựng lại xảy ra chuyện không hay…
Bà chủ nhà nhăn nhó:
- Tui đã nói với ông đừng tiếc làm gì, bán đổ bán tháo cho người ta đi, về lại nơi này làm gì nữa…
Ông chủ trừng mắt ngó vợ, bà chủ chợt im bặt, không dám nói tiếp.
Duy thở dài, ngước nhìn ông chủ:
- Hai bác sống ở đây xưa nay, có nghe kể về một người phụ nữ nào đó bị may miệng không?
Ông bà chủ nhà giật bắn người khi nghe câu hỏi đó. Thái độ hoảng sợ của họ khiến Duy càng thêm lo ngại. Chẳng lẽ người phụ nữ ám ảnh vợ anh mấy hôm nay là có thật?
Ông chủ run rẩy hỏi:
- Sao… sao cháu lại nhắc tới người đàn bà đó?
Duy nhìn thẳng vào ông chủ:
- Bởi vì mấy hôm nay chính người đó luôn ám ảnh vợ cháu. Chẳng lẽ có người đàn bà như vậy thật sao?
Ông chủ nhà lắc đầu:
- Không… không đâu… bác chưa nghe nói tới bao giờ!
Duy ngạc nhiên:
- Vậy mà cháu cứ ngỡ là bác biết, sao thấy hai bác có vẻ hoảng sợ như vậy? Xin hai bác đừng giấu cháu.
Ông chủ nhà lắp bắp:
- Bác không… không giấu gì đâu! Thật tình là… lần đầu tiên nghe cháu nói tới người đàn bà may miệng, ghê quá!
Duy thở dài thất vọng.
Bà chủ nhà đứng lên kéo tay chồng:
- Về… về thôi ông ơi…
- Không được về! Cả hai phải đứng lại đó!
Ông chủ nhà chưa kịp đứng lên, đột ngột Diễm Thy buông một câu khiến mọi người có mặt đều phải sững sờ, kinh ngạc.
- Diễm Thy, em lại làm sao thế này?
Duy lo sợ chạm vào tay vợ.
Diễm Thy dường như không quan tâm đến Duy, cô bỗng ngồi xuống và dùng hai bàn tay còn bị băng bó của mình mà cáo cấu lớp đất dưới chân.
- Em cần tìm cái gì dưới đó, để anh làm cho?
Duy giữ tay Diễm Thy lại, hỏi.
Ông chủ nhà hoảng sợ can ngăn:
- Không! Có gì dưới đó đâu mà tìm? Thôi, cháu đưa vợ cháu vào nhà đi, chắc cô ấy bị kích động do chứng kiến cả bốn cái chết cùng lúc!
Duy cũng muốn làm theo lời ông chủ là đưa vợ về phòng, nhưng Diễm Thy kiên quyết không nghe. Cô nhất định phải đào cho được mảnh đất dưới chân.
- Hai cháu đứng qua một bên, để đó cho bác!
Bác Lý tay cầm cuốc, ra hiệu cho Duy đỡ Diễm Thy tránh sang chỗ khác. Bà chủ nhà kêu lên:
- Đừng! Đừng đào! Có gì dưới đó đâu?
Duy lấy làm lạ trước thái độ kích động quá mức của vợ chồng người chủ nhà. Anh kiên quyết:
- Hai bác cho phép chúng cháu đào lên thử xem có gì dưới đó mà vợ cháu phải ra nông nỗi như vầy…
Vừa nói, Duy vừa cầm hai bàn tay bật máu của Diễm Thy chìa ra cho mọi người cùng nhìn thấy.
Anh nói tiếp:
- Đang nửa đêm, cô ấy đã đi ra đây để đào bới, cháu không sao hiểu nổi…
Biết không thể ngăn cản được Duy, bà chủ nhà tuyệt vọng ngồi phịch xuống ghế, gục đầu lên vai chồng khóc không thành tiếng.
Bác Lý nhìn bà chủ bằng ánh mắt lạ lẫm, hơi do dự một chút, nhưng rồi ngay sau đó bác quyết tâm bổ mạnh nhát cuốc xuống mặt đất rắn đanh.
Những người có mặt đều căng thẳng nhìn theo đôi cánh tay bác Lý. Mồ hôi chảy thành dòng hai bên thái dương ông chủ nhà. Bàn tay ông đặt trên vai vợ đang run lên theo nhịp cuốc.
- Có cái gì đây rồi!
Bác Lý kêu lên.
Duy buông Diễm Thy ra, tới giúp bác Lý kéo vật gì đó bị vùi chôn bên dưới. Trong lúc hai người đang hì hục khoét thêm cho rộng miệng hố thì vợ chồng người chủ nhà gần như ôm chặt lấy nhau run rẩy.
Cuối cùng thì vật đó cũng được đem lên mặt đất.
- Đừng!... đừng mà…
Bà chủ nhà kêu lên và bật khóc nức nở.
Bác Lý chậm rãi giở mấy lớp ni lông và mền bọc bên ngoài, để lộ ra phía trong một thi thể người ta vẫn còn nguyên vẹn!
Duy, Diễm Thy và vợ chồng chủ nhà đều rụng rời khi nhìn thấy thi thể ấy. Một người phụ nữ bị trói chặt chân tay, miệng bị may kín bằng những đường may thô vụng kéo dài đến hai bên mép tai. Đúng là người phụ nữ mà Diễm Thy đã từng trông thấy!
- Bác Lý ơi, bác phải đi báo cho nhà chức trách biết việc này ngay mới được!
Duy lên tiếng.
Ông chủ nhà hoảng hốt ngăn lại:
- Không… không cần thiết đâu!
Duy ngạc nhiên:
- Sao lại không hả bác? Đây là một vụ án mạng xảy ra có lẽ chưa lâu, mình không báo sẽ có tội đó!
Bà chủ nhà đột ngột quỳ sụp xuống:
- Không… không… bác xin cháu… cháu đừng báo… Chuyện xảy ra lâu lắm rồi, hơn mười năm rồi…
Duy và bác Lý đều tỏ vẻ không tin, riêng Diễm Thy vẫn chưa thật sự hoàn hồn, cô chỉ giương mắt nhìn mọi người vẻ sợ sệt.
- Là thật đó… hơn mười năm rồi…
Ông chủ nhà ôm đầu rên rỉ.
- Chuyện này là sao vậy bác?
Duy hỏi.
Ông chủ nhà mắt mờ lệ nói nhỏ:
- Tạm thời cháu đậy xác chết đó lại đi, bác kể hết mọi chuyện cho nghe, rồi sau đó các cháu muốn sao cũng được…
Duy chạy lên phòng mang ra một chiếc mền đắp kín xác chết, rồi dìu vợ ngồi xuống lắng nghe ông chủ nhà kể lại câu chuyện năm xưa. Bác Lý khong nói năng gì, lẳng lặng đặt cây cuốc sang một bên rồi ngồi bệt xuống ngay bên cạnh xác chết của người phụ nữ.
Bà chủ nhà vẫn quỳ bên cạnh xác chết, bà không còn khóc nữa nhưng trên gương mặt lộ rõ sự đau đớn tột cùng.
Ông chủ nhà lùi lại ngồi vào vị trí lúc nãy, mắt ông nhìn xa xăm như muốn nhớ lại cả một quãng đời quá khứ mà từ lâu nay ông cố tình lãng quên, vùi chôn nó trong tận cùng tâm thức của mình. Giọng ông đều đều, có lúc ngắt quãng. Từng câu nói của ông như tái hiện lại cảnh tượng tang thương, khủng khiếp ngày nào…
 
***
Khang ngồi chống cằm nhìn ra đường bằng ánh mắt buồn bã. Bên cạnh, Mỹ Phương vẫn không ngừng khóc lóc, than vãn:
- Tui biết anh không hề thật lòng yêu tui… anh chỉ giả vờ thôi, đúng không? Tại tui ngu dại, tin vào những lời đường mật của anh nên giờ tui phải ráng chịu…
- Em có thôi đi không!
Khang quát lớn.
Mỹ Phương càng khóc tợn:
- Anh lừa dối tui… anh nói anh sẽ thương yêu tui đến trọn đời, vậy mà bây giờ…
- Em có biết là anh khổ tâm đến mức nào hay không? Người mình yêu thương không được sống chung mà hàng ngày phải ra vào chạm mặt với kẻ không có tình cảm, phải giữ tròn vai trò một người làm chồng, điều đó rất khổ sở, em có biết không?
Khang ôm đầu nói.
Mỹ Phương nín khóc, gằn từng tiếng:
- Vậy tại sao anh không chịu ly dị đi? Hay anh tiếc?
- Sao em không chịu hiểu cho anh? Anh làm tất cả, phải chịu đựng mọi thứ cũng chỉ vì tương lai của chúng ta thôi.
Khang nhìn Mỹ Phương âu yếm nói.
Mỹ Phương thút thít khóc:
- Em mệt mỏi rồi, em không chịu đựng được nổi đâu! Em không cần cái tương lai huy hoàng mà anh vẽ ra đó, em chỉ cần mình sống bên nhau thôi, dù nghèo cũng được!
Khang nghiêm mặt:
- Không được! Anh đã mất rất nhiều công sức rồi, không thể bỏ ngang thế này được đâu! Em phải tin tưởng anh, ráng chờ thêm một thời gian ngắn nữa, nhất định khi có điều kiện thuận lợi là anh sẽ chấm dứt ngay mọi việc. Chừng đó trong tay mình sẽ có toàn bộ gia tài. Em có thể không cần, nhưng còn con cái chúng ta thì sao? Em phải nghĩ tới điều đó mà chấp nhận hy sinh một chút chứ?
Khang nói một thôi một hồi, Mỹ Phương chỉ biết ôm mặt khóc. Thật ra trong kế hoạch này người ủng hộ Khang đầu tiên là Mỹ Phương, nhưng bây giờ thì cô hối hận, cô không chịu đựng nỗi sự ghen tương đang giết lần giết mòn cô theo ngày tháng.
Khang và Mỹ Phương yêu nhau đã nhiều năm nhưng chưa thể thành chồng thành vợ được vì cả hai đều quá nghèo. Khang làm công cho gia đình Nguyệt, một gia đình điền chủ giàu có nhất trong vùng.
Nguyệt là cô con gái duy nhất, nên lúc vợ chồng ông điền chủ qua đời trong một tai nạn đắm thuyền, chỉ có cô là người thừa kế toàn bộ tài sản đất đai của cha mẹ.
Tuy là con nhà giàu có nhưng Nguyệt lại là một cô gái xấu xí, tính tình cũng không được nhu mì hiền thục nên đám trai làng không ai quan tâm đến. Thứ nhất, họ biết vị trí của họ không thể với tới địa vị của Nguyệt nên không dám tơ tưởng được làm rể nhà điền chủ. Thứ hai, dung nhan Nguyệt dưới mức trung bình nên không ai muốn chọc ghẹo dù chỉ để mua vui.
Nguyệt chú ý tới Khang từ ngày đầu tiên anh vào làm cho nhà điền chủ. Bởi vì Khang là một thanh niên khỏe mạnh, đẹp trai và nói năng cuốn hút mọi người.
Lúc còn sống, ông bà điền chủ biết con gái yêu quý của mình ngày đêm tơ tưởng đến Khang, trong thâm tâm, ông bà vẫn biết Nguyệt rất khó lấy được một tấm chồng môn đăng hộ đối, nhưng cả hai ông bà đều vì sĩ diện quá lớn, không muốn mang tiếng gả con cho người làm thuê, một kẻ không cha không mẹ, trôi nổi giang hồ… Ông bà tin rằng với số của hồi môn kếch sù thì sớm muộn gì cũng sẽ có người khá hơn tìm đến.
Khi ông bà điền chủ qua đời, Nguyệt càng tỏ rõ thái độ với Khang hơn. Điều đó khiến ai ai cũng biết.
Một lần Mỹ Phương nói đùa với người yêu:
- Cô Nguyệt thương anh quá trời, anh lấy cổ làm vợ đi để hưởng lấy gia tài, yêu em làm gì cho khổ tấm thân?
Khang quay sang nhìn Mỹ Phương, đắn đo một chút rồi nói:
- Mấy ngày gần đây anh cũng có ý định gần như vậy!
Mỹ Phương tái mặt:
- Anh… anh nói sao? Anh có ý định…?
Khang vịn tay lên vai Mỹ Phương nhìn vào mắt cô nói thật nhỏ:
- Anh yêu em, rất yêu em! Điều đó em cũng biết mà, đúng không? Nhưng cả hai chúng ta đều quá nghèo, chỉ có hai bàn tay trắng, đến một túp lều để chui ra chui vào cũng không có thì làm sao mình sống với nhau, rồi còn sinh con đẻ cái nữa chứ! Do đó, anh muốn… giả vờ ưng thuận làm chồng cô Nguyệt, sau đó anh sẽ tìm ra khuyết điểm gì đó của cổ, hoặc tự tạo ra lỗi lầm gì đó gán cho cổ và ly dị. Như thế, ít ra cũng có được một số vốn để làm ăn… Khi đó mình sẽ chính thức đến với nhau. Em thấy anh tính vậy có được không?
Nét mặt Mỹ Phương dần dần giãn ra. Cô thừa biết giữa cô và Nguyệt thì chắc chắn Khang phải dành trọn tình yêu cho cô rồi, nhưng nghĩ tới cảnh người mình yêu trở thành chồng kẻ khác thì cũng đau lòng lắm. Thế nhưng cái viễn cảnh tươi đẹp mà Khang vẽ ra trước mắt Mỹ Phương lại quá hấp dẫn, cô không đủ can đảm để chối từ.
- Nhưng… nhưng có khi nào… không thể li dị được, anh sẽ phải sống với cô ta trọn đời?
Mỹ Phương băn khoăn hỏi.
Khang nhếch môi cười:
- Em nghĩ anh có thể sống suốt đời với một người như Nguyệt sao?
Rồi không đợi Mỹ Phương trả lời, Khang tiếp tục:
- Mà cho dù có vì lý do nào mà không thể li dị được với cô ta, anh cũng sẽ tìm cách tẩu tán tài sản rồi mình cùng nhau cao chạy xa bay, tới một nơi xa lạ nào đó xây tổ ấm.
Mỹ Phương thở dài:
- Em thấy anh tính vậy cũng được, nhưng thật tình là em buồn lắm!
Khang choàng tay qua vai người yêu, âu yếm:
- Anh biết chứ! Anh cũng giống như em thôi, nhưng mình phải ráng hy sinh em à…
Sau ngày hôm đó, Khang có vẻ thân mật, quan tâm đến Nguyệt nhiều hơn. Nguyệt rất sung sướng vì điều đó.
Không lâu sau đám cưới của Nguyệt và Khang được tổ chức thật linh đình, bởi vì Nguyệt muốn phô trường cho mọi người thấy mình cũng có thể lấy được một người chồng đẹp trai, phong độ như Khang.
Tất cả mọi người đều biết rất rõ Khang vì cái gì mà đồng ý lấy Nguyệt làm vợ, có lẽ Nguyệt cũng biết, nhưng cô lại không muốn tin. Cô muốn nghĩ Khang đến với cô là thật lòng, là từ sự thương yêu cảm mến sau những ngày tháng ra vô gặp mặt nơi đây.
Khang bỗng chốc bước lên một giai cấp khác. Ngoài mặt anh luôn tỏ vẻ thương yêu, chìu chuộng Nguyệt. anh muốn Nguyệt tin tưởng anh hoàn toàn để có thể giao cho anh hết số tài sản mà hịên cô đang đứng tên. Chính vì lẽ đó mà Khang ít dám gặp Mỹ Phương. Anh tin vào câu “rừng có mạch, vách có tai”, “đi đêm có ngày gặp ma” nên mọi liên lạc với Mỹ Phương gần như bị Khang cắt đứt hết.
Mỹ Phương cảm thấy chới với, vì trước đó cô cứ ngỡ dù có là chồng cô Nguyệt thì Khang và cô vẫn như trước đây, vẫn gặp nhau hàng ngày không gì thay đổi.
Vậy mà gần nửa năm trôi qua, Khang chỉ gặp Mỹ Phương một vài lần vội vã. Mỹ Phương bắt đầu lo sợ, sợ Khang ham phú quý bạc tiền sẽ không rời xa Nguyệt nữa.
Hôm nay Mỹ Phương nhất định buộc Khang phải chọn lựa một trong hai, hoặc là cô hoặc là Nguyệt. cô không cần tiền tài nữa, cô chỉ cần có Khang thôi.
- Bây giờ em biết phải làm sao đây?
Mỹ Phương khóc nức nở.
Khang đứng lên đi đi lại lại một lúc rồi nói dứt khoát:
- Em cho anh thêm hai tuần nữa. Nếu sau hai tuần anh vẫn chưa tìm được cách nào thì mình trốn đi với nhau. được không em?
Mỹ Phương ngước đôi mắt đẫm lệ lên nhìn Khang, cô cũng nói một cách vừa đau thương lại vừa cứng rắn:
- Được, em sẽ cố gắng chờ đợi anh thêm hai tuần nữa. Nếu khi ấy anh vẫn chưa li hôn được mà cũng không thể trốn đi với em, thì chính em sẽ là người đến nói tất cả cho cô ấy biết để đòi anh trở về!
Khang mỉm cười gật đầu:
- Quyết định vậy nhe? Vậy thì em phải cười lên thật tươi xem nào. Khóc lóc làm em trở nên xấu xí rồi đây này!
Mỹ Phương ngã đầu lên vai Khang, cố gượng cười mặc dù lòng cô vẫn còn ngổn ngang trăm mối.
 
***
- Anh ơi, trăng đêm nay đẹp quá, anh mau ra ngồi ngắm với em nè!
Nguyệt gọi chồng bằng giọng nũng nịu.
Khang từ trong phòng nói vọng ra, cố giấu vẻ bực mình:
- Em ngắm một mình đi, anh bận tí việc mà!
- Không được! Việc gì cũng bỏ hết đó đi, chút nữa em sai người làm cho! Ra mau đi anh!
Nguyệt vẫn không buông tha.
Khang đóng vội cửa tủ, lẩm bẩm:
- Con quái này bày ra lắm trò thật! Nữ trang tiền bạc thì lại không biết nó giấu kín ở đâu…
- Mau lên đi anh!
Nguyệt thúc giục.
- Anh ra tới ngay đây!
Khang vừa đi vừa nói.
Trông thấy Khang, Nguyệt ngồi nép sang một bên chừa chỗ trên chiếc ghế mây cho Khang ngồi xuống bên cạnh. Nguyệt đứng lên bước tới đứng tựa người vào lan can, nhưng Khang lập tức kéo cô trở lại:
- Em quên cái lan can đó gãy rồi sao? Ngày mai anh sẽ cho người làm lại, không khéo em tựa vào rồi té lăn xuống dưới thì nguy!
Nguyệt mỉm cười sung sướng vì được chồng quan tâm. Cô đưa tay chỉ lên bầu trời, nơi đó vầng trăng lơ lửng, tỏa ánh sáng rờ rỡ, dịu dàng:
- Anh thấy chưa? Đẹp ghê chưa?
Nguyệt tựa người vào Khang, nũng nịu hỏi.
- Ờ, đẹp quá!
Khang đáp hờ hững.
- Mình mà cải tạo trang trại này để làm khu du lịch nghỉ mát chắc đông khách lắm anh ạ! Những cặp uyên ương sẽ hội tụ về đây, vì đây là nơi lý tưởng để hưởng tuần trăng mật của đại đa số những người bình dân mà!
Nguyệt mơ màng nói.
Khang cười cười:
- Anh công nhận em giỏi thiệt, nhìn vào đâu em cũng thấy được nguồn lợi của nó, nhìn vào đâu em cũng thấy được cơ hội làm ăn…
Nguyệt bật cười khanh khách:
- Di truyền mà anh! Chắc em thừa hworng từ ba đó, ba em là người làm kinh doanh mà!
- Ờ…
Khang nói ngắn gọn.
Thấy thái độ của Khang không giống thương ngày, Nguyệt thắc mắc:
- Hôm nay anh bị làm sao vậy? Nếu không được khỏe thì để em lấy thuốc cho anh nhe?
Khang xua tay:
- Thôi khỏi, anh chỉ bị đau đầu, nghỉ tí sẽ khỏi thôi mà!
Nguyệt ngó Khang ngờ vực:
- Hai hôm nay em thấy tâm trạng anh không bình thường, có chuyện gì anh đừng giấu em nhe?
Khang gượng cười:
- Đâu có gì đâu em, chẳng qua anh cứ mơ thấy những điều không hay nên lo lắng chút thôi.
- Anh mơ thấy điều gì?
Nguyệt tò mò hỏi.
Khang thở dài:
- Anh mơ thấy… nhà mình bị bọn cướp tấn công, chúng bắt em làm con tin rồi buộc anh phải chỉ chỗ để nữ trang vàng bạc, nhưng anh… anh thật sự không biết… Anh đau đớn vô cùng vì lo sợ chúng sẽ hãm hại em…
Nguyệt bá cổ Khang cười tươi:
- Thật thương cho anh quá, cả trong giấc mơ vẫn còn lo lắng đến sự an nguy của em… Em thật may mắn mới lấy được người chồng như anh đó! Anh yên tâm đi, em sẽ làm cho anh không còn gì phải sợ hãi nữa. Lát nữa đây em sẽ chỉ cho anh biết nơi em cất giữ toàn bộ tài sản của cha mẹ để lại cho chúng ta. Mình là vợ chồng mà, em đâu muốn giấu anh điều gì, chẳng qua lâu nay em quên nghĩ tới vấn đề đó!
Khang kéo Nguyệt sát vào bên mình, đặt lên môi cô nụ hôn say đắm.
- Vợ yêu quý của anh! Anh yêu em nhất trên cõi đời này…
Khang thầm thì.
Nguyệt sung sướng đón nhận những biểu lộ tình cảm nồng cháy của Khang. Hai người đang quấn lấy nhau trong mê mải, không ai quan tâm đến sự có mặt đột ngột của Mỹ Phương.
- Các người có thôi đi không!
Mỹ Phương hét lên.
Khang và Nguyệt đều giật mình buông nhau ra. Nguyệt ngỡ ngàng nhìn người con gái xa lạ đang đứng trước mặt mình giữa đêm hôm khuya khoắt. Còn Khang, anh rất muốn kéo Mỹ Phương ra một góc để nói rằng kế hoạch của mình sắp thành công rồi, nhưng vì Nguyệt ngồi ngay bên cạnh, Khang không thể nào hành động được.
Mấy lần Khang cố đưa mắt ra hiệu cho Mỹ Phương nhưng cô không nhận thấy hoặc cố tình không nhận thấy.
- Cô là ai? Tại sao lại đến đây giờ này?
Nguyệt hất hàm hỏi một cách kênh kiệu.
Mỹ Phương nhếch mép cười:
- Muốn biết tôi là ai ư? Cô nên hỏi người đàn ông đang ngồi cạnh bên cô kìa!
Nguyệt quay nhìn Khang, giọng lạnh tanh:
- Cô ta là ai?
Khang lúng túng:
- Cô ta… cô ta là người quen…
- Ha ha ha… Người quen? Anh nói nghe hay quá đấy anh Khang ạ! Sao anh không dám thừa nhận mối quan hệ giữa chúng ta?
Mỹ Phương bật cười đau đớn.
Nguyệt đứng phắt dậy nghiến răng:
- Chuyện này là thế nào?
Mỹ Phương càng cười to hơn:
- Ở cả khu vực này ai cũng biết anh Khang vì cái gì mà chịu lấy cô làm vợ, chỉ có kẻ ngốc như cô mới không nhận biết điều đó mà thôi!
Nguyệt tức lồng lên:
- Cô… cô…
Đột ngột, Nguyệt quay lại túm lấy ngực áo Khang:
- Anh nói mau, chuyện này là gì? Cô gái này là gì của anh?
Khang ôm đầu rên rỉ:
- Trời ơi… tại sao lại thế này… Tôi không biết, tôi không biết! Hai người muốn làm gì đó thì làm đi…
Nói dứt câu, Khang vùng ra khỏi tay Nguyệt bỏ chạy xuống sân.
Nguyệt chỉ tay vào mặt Mỹ Phương:
- Cô cút ra khỏi nhà tôi ngay lập tức!
Mỹ Phương nhún vai:
- Tôi chả ham thích gì khi đứng đây đâu! Nhưng tôi phải chờ người yêu tôi đi cùng, anh ấy đã hứa sẽ cùng đi với tôi. Chúng tôi sẽ sống bên nhau…
- Nhưng anh ấy là chồng tôi!
Nguyệt hét lên.
Mỹ Phương cười mai mỉa:
- Nhà cô không có gương soi mặt sao? Cô nên nhìn lại mình đi! Thật tội nghiệp cho cô…
Không thể nào kiềm chế được trước những lời xúc phạm nặng nề của Mỹ Phương, Nguyệt nhào tới túm tóc Mỹ Phương giật mạnh. Mỹ Phương cũng không vừa, nhanh như chớp tát vào mặt Nguyệt một tát như trời giáng.
Hai người cứ giằng co, kéo níu nhau xà quần, ai cũng muốn ném vào tình địch những cú đánh đấm hết sức lực, những lời miệt thị chua cay nhất.
Tuy Nguyệt và Mỹ Phương có dáng vóc gần như nhau, nhưng làm sao một cô tiểu thư con nhà giàu ăn không ngồi rồi từ nhỏ đến lớn như Nguyệt có được sức lực dẻo dai của một cô gái lao động như Mỹ Phương? Thế cho nên không bao lâu Nguyệt đã có vẻ đuối, cô cứ lùi dần trước sự tấn công của Mỹ Phương.
Dồn Nguyệt vào sát lan can, Mỹ Phương co chân đá một đá vào người đối thủ, không ngờ lan can gãy “rắc” một tiếng, thân thể Nguyệt bay vèo xuống đất khiến Mỹ Phương không khỏi sững sờ…
Vừa định thần lại, Mỹ Phương gọi lớn:
- Anh Khang ơi, có chuyện rồi, anh Khang ơi!
Vừa gọi, Mỹ Phương vừa phóng nhanh xuống cầu thang. Dưới sân nhà, Nguyệt nằm sóng soài, một bên thái dương đang rỉ máu. Ánh trăng sáng rỡ soi rõ dòng máu đỏ tươi bên má của Nguyệt.
- Anh Khang! Anh Khang ơi…
Mỹ Phương hốt hoảng.
Khang từ ngoài vườn đi vào, nhìn thấy Mỹ Phương quỳ dưới sân anh đã đoán ra phần nào, vội vã chạy đến.
- Xảy ra chuyện gì thế này?
Khang kinh hãi hỏi.
- Em… em không biết! Em và cô ta đánh nhau, không ngờ… không ngờ cô ta rơi xuống đây!
Mỹ Phương lắp bắp nói.
- Trời ơi! Bây giờ biết tính sao đây? Anh đã dặn em rồi, mọi việc sắp thành công thì em lại gây ra chuyện như vầy…
Mỹ Phương ấm ức khóc:
- Anh không giữ đúng lời hứa… đã quá ngày hẹn với em rồi… Em cũng đã nói với anh, nếu quá ngày hẹn thì chính em sẽ đến tận đây để nói rõ với cô ta, và hôm đó anh cũng đồng ý kia mà?
Khang nhăn mặt:
- Thôi đi! Bây giờ không phải là lúc để tranh cãi xem ai đúng ai sai. Chúng ta phải xử lý thế nào với Nguyệt đây?
- Anh… anh xem thử cô ấy… còn sống không?
Mỹ Phương hồi hộp nói.
Khang đặt tay lên mũi Nguyệt, áp tai vào ngực cô vẫn không có được tín hiệu nào cho biết cô còn sống.
Ngước lên nhìn Mỹ Phương, Khang sợ hãi nói:
- Chắc cô ấy đã chết rồi! Mình phải làm sao đây?
Mỹ Phương giật mình té ngồi xuống đất.
- Chết… chết rồi sao anh?
Mỹ Phương nói không ra tiếng.
Khang khe khẽ gật đầu.
Hai người ngồi lặng đi bên xác chết của Nguyệt. Nhưng không lâu sau, Khang định thần lại và đứng lên nói nhỏ:
- Mình phải chôn giấu xác chết này ngay thôi. Em giúp anh một tay!
Mỹ Phương lập cập đứng lên theo.
- Em lên phòng lấy cái mền xuống đây cho anh, anh ra vườn tìm cuốc…
Khang ra lệnh.
Mỹ Phương co rúm người lại:
- Em… em sợ…
- Lúc này không được quyền nói tới từ đó, em phải can đảm lên giúp anh một tay, còn không thì có thể cả hai đứa mình đều phải ngồi tù đó!
Khang kiên quyết.
Nghe nhắc đến chuyện ở tù, Mỹ Phương còn sợ hơn chuyện một mình lên phòng tìm mền đem xuống cho Khang. Cô vội vã chạy đi, vừa chạy, vừa láo liên đưa mắt nhìn khắp bốn bên.
Khi Mỹ Phương đem mền xuosng thì Khang cũng đã tìm được cuốc. anh nhìn Mỹ Phương, giục giã:
- Em mau trải rộng cái mền ra rồi giúp anh khiêng xác cô ta đặt vào đó, mình phải kéo ra xa ngoài kia một chút…
Mỹ Phương vừa run lẩy bẩy vừa làm theo lời Khang, nhưng lúc Khang vừa túm bốn góc chiếc mền lại chuẩn bị kéo đi, Mỹ Phương chợt nhớ ra, cô kêu lên khe khẽ:
- Khoan… chưa đem đi được đâu anh!
- Sao vậy?
Khang giật mình.
- Có lần em nghe bà nội em kể, hồn người chết oan rất linh, nó sẽ luôn đeo bám không bao giờ buông tha kẻ đã làm hại nó, hoặc nó sẽ về báo mộng cho ai đó biết để giải oan giúp nó…
Mỹ Phương run giọng kể.
Khang nóng ruột:
- Vậy bây giờ mình phải làm sao?
Mắt Mỹ Phương sáng lóe lên:
- Có một cách có thể khống chế hồn ma đó, may mà em vẫn còn nhớ rất rõ…
- Cách gì? Em nói mau lên đi!
Khang sốt ruột giục.
- Phái trói tay chân và may kín miệng nó lại để nó không thể đi đâu, mà cũng không thể nói gì với ai được nữa…Anh… anh tìm kim chỉ cho em, nhanh lên!
Khang buông bốn góc mền xuống lúng túng:
- Anh có biết kim chỉ để chỗ nào đâu?
Chợt nhớ ra, Khang reo lên:
- Có rồi! Lúc chiều thằng nhỏ làm vườn vá lưới, nó còn để kim chỉ ở đây!
Vừa nói Khang vừa chạy tới bên chiếc bàn đá lấy cuộn nhợ gân và một cây lẹm đem đến cho Mỹ Phương.
Lúc này Mỹ Phương không còn run rẩy nữa, cô đã tự trấn an mình, nếu như không làm tốt được việc này thì mãi mãi cô và Khang sẽ không có được điều gì tốt đẹp hết.
Đón lấy kim chỉ từ tay Khang, Mỹ Phương nói tiếp:
- Để đây em may, còn anh đi lấy dây trói tay chân cô tay lại!
Trong lúc Khang lục lọi tìm dây thì Mỹ Phương tiến gần tới bên xác chết. Cô run run giở mền ra, nhắm mắt mở mắt mấy lần cho đỡ sợ rồi bặm môi nói lớn:
- Mỗi người đều có số phận, xin đừng trách tôi, thật sự tôi cũng không muốn xảy ra việc này… Cô có muốn trách thì hãy trách ông trời đi!
Dứt lời, Mỹ Phương đâm phập nhát kim đầu tiên xuống miệng Nguyệt, và như một kẻ đang lên cơn điên, Mỹ Phương cứ đâm liên tiếp hết mũi này đến mũi khác, chằng chịt, chồng chéo lên nhau một cách khủng khiếp. Gần nửa khuôn mặt của Nguyệt giờ đây là những đường may rối rắm…
- Thôi đi! Em có điên không vậy?
Khang rít lên khi thấy Mỹ Phương cứ điên cuồng đâm tới tấp vào miệng Nguyệt.
Mỹ Phương như sực tỉnh, cô vứt kim xuống đất và ôm mặt khóc nức nở, sợi chỉ vẫn còn nối giữa trôn kim và mép tai của Nguyệt.
Không còn thời gian cũng như lòng dạ nào để an ủi hay dỗ dành Mỹ Phương, Khang bỏ mặc cô ngồi khóc một mình, anh quỳ gối xuống đất, lật thi thể Nguyệt nằm sắp lại và bắt đầu trói quặt chân tay cô bằng sợi dây dù được gỡ ra từ chiếc võng dưới tàn cây mà hàng ngày Nguyệt vẫn thường ngồi ở đó.
Khi mọi việc xong xuôi, Khang và Mỹ Phương ra sức kéo thi thể Nguyệt đi. Ban đầu họ định kéo ra tận bìa rừng, nhưng không hiểu sao xác chết lại quá nặng, mới nhích đi vài mét mà cả Khang và Mỹ Phương đều đã đuối sức.
Mỹ Phương ngồi phịch xuống ghế đá kéo tay áo lau mồ hôi đang chảy ròng ròng trên mặt, than thở:
- Em không còn sức nữa rồi…
Khang cũng ngã ngồi bên cạnh, thở hồng hộc.
- Thôi, mình giấu ở đây đi! Đôi lúc những chỗ không kín đáo thế này lại không gây chú ý…
Khang bật nói và vùng ngay dậy.
Khang ra sức đào bới bằng cây cuốc bén ngót của những người làm vườn, chẳng mấy chốc trước mắt Khang đã là một huyệt mộ có độ sâu tương đối.
- Thôi, chắc được rồi! Em giúp anh với nè…
Khang lên tiếng gọi, Mỹ Phương tới bên cột chặt bốn góc của chiếc mền lại rồi cả hai xô mạnh xác chết xuống chiếc hố vừa mới đào.
Khang và Mỹ Phương hấp tấp khỏa lấp miệng hố, xóa đi những dấu vết còn lưu lại trên quãng đường từ dưới sân nhà ra tới đây.
- Giúp anh kê bàn xê qua đây một chút!
Khang gọi.
Khang và Mỹ Phương phải tốn rất nhiều công sức mới có thể xê dịch được chiếc bàn đá nặng nề, giờ đây, chiếc bàn đã được đặt lên trên nấm mồ bí mật của Nguyệt, và chắc hẳn sẽ không ai phát hiện ra đâu, bởi vì khu vực này ít ai lui tới ngoài vợ chồng Khang.
- Về đi anh! Bây giờ mình trốn đi ngay phải không anh?
Mỹ Phương lo lắng hỏi.
Khang bặm môi dứt khoát:
- Không được! Giờ cô ấy đã chết rồi, toàn bộ gia sản này sẽ thuộc về anh, mình không thể bỏ trốn được đấu em!
- Vậy… vậy mình phải làm sao?
Mỹ Phương ngước mắt hỏi.
Khang không nói gì chỉ lầm lũi đi nhanh về hướng ngôi nhà, Mỹ Phương líu ríu chạy theo.
Tới chân cầu thang Mỹ Phương khựng lại:
- Anh Khang… em… em về nghe?
Khang quay lại nhìn Mỹ Phương rồi nói:
- Không được! Từ bây giờ em phải ở lại đây!
- Ở lại đây? Rồi anh giải thích sao với mọi người?
Mỹ Phương ngạc nhiên kêu lên.
Khang nắm tay Mỹ Phương kéo cô lên thang lầu.
Nhưng lúc vừa đặt chân lên sàn nhà, cả hai đều giật bắn người lùi lại. Dưới chân họ là một vũng máu đỏ tươi trông như còn đang sủi bọt.
- Cái gì… cái gì thế này? Sao lại có nó?...
Mỹ Phương thảng thốt kêu lên.
- Lúc nãy hai người đánh nhau có ai bị chảy máu không?
Khang hỏi.
Mỹ Phương níu chặt tay Khang lắc đầu:
- Không! Nhất định là không hề có ai bị chảy máu… với lại vũng máu này đâu thể là máu từ những vết thương nhỏ đâu anh? Mới khi nãy lên đây lấy mền em có thấy gì đâu?
Khang bóp trán một cái rồi thở hắt ra, nói:
- Mặc kệ nó là máu gì, mình lau sạch đi! Để anh xách nước…
Khang vội vã chạy đi lấy nước trong khi Mỹ Phương ra sức lau chùi, nhưng dù cả hai cố gắng đến mấy vẫn không sao chùi sạch được dấu vết của nó.
- Thôi, bỏ đi em! Sáng mai anh sẽ lót thêm một lớp ván mỏng lên trên để che khuất nó lại, không sao đâu…
Khang nói xong đứng lên nắm tay Mỹ Phương đi thẳng vào phòng, căn phòng mà chỉ mấy tiếng đồng hồ trước đây còn là của Nguyệt.
Khép cửa lại, Khang ngã người nằm dài ra giường vẻ mệt mỏi. Mỹ Phương sợ sệt ngồi khép nép một bên.
Lặng im một lúc Khang đột ngột ngồi bật dậy nắm lấy tay Mỹ Phương:
- Anh đã nghĩ ra cách rồi! Từ trước tới nay vốn tính kênh kiệu nên Nguyệt rất ít tiếp xúc với bọn người làm, ít có ai đến gần cô ta, mọi hoạt động đều do anh điều hành theo ý của cổ. Vì vậy, em cứ ở đây, thỉnh thoảng thoáng qua thoáng lại cho người ta thấy có bóng dáng phụ nữ vậy thôi. Anh sẽ giả vờ như vợ chồng chuẩn bị đi du lịch xa, tỏng thời gian vài ngày, anh sẽ thu xếp cho thợ nghỉ bớt, chỉ để lại người quản gia và một vài người cần thiết mà thôi. Rồi chúng ta sẽ đi vào sáng sớm. Cô ấy biết dung nhan mình xấu xí nên lần nào ra đường cũng che khăn rất cẩn thận, và em cũng làm vậy, mọi người sẽ tưởng em là cô ấy, may mà dáng dấp hai người lại gần với nhau…
- Rồi sau đó?...
Mỹ Phương lo lắng.
Khang nhún vai:
- Sau đó thì còn gì mà lo lắng nữa? Chúng mình sẽ đi du lịch một vài tháng, thậm chí một vài năm. Rồi anh sẽ loan tin cô ấy mất đột ngột vì lý do nào đó, sau đó nữa thì mình chính thức về lại đây cùng nhau… Em nghĩ xem kế hoạch này của anh có tuyệt vời không?
Mỹ Phương khe khẽ gật đầu. Cô công nhận Khang tính toán rất giỏi, ngay cả trong tình huống rối rắm như vầy mà anh có thể nghĩ ra được điều như vậy! Nhưng tận trong thâm tâm Mỹ Phương vẫn chưa thấy yên lòng.
Đêm đó, Khang và Mỹ Phương ngủ trên chính chiếc giường của vợ chồng Khang trước đây. Và mặc dù vừa trải qua một sự cố nghiêm trọng khủng khiếp, Khang vẫn ngủ một cách say sưa, bình thản sau khi đã thỏa mãn niềm thương nỗi nhớ với Mỹ Phương.
Còn Mỹ  Phương, vốn là một cô gái gan lì nhưng cô vẫn thót tim mỗi khi nghe tiếng thạch sùng chắc lưỡi…
Những ngày tiếp sau đó mọi việc diễn ra đúng y như bài bản mà Khang đã vạch sẵn. Sàn nhà đã được lót thêm một lớp mỏng mà nếu không để ý sẽ không ai nhận ra được, chỗ chiếc bàn đá vẫn không có gì lạ xảy ra…
Khang luôn tươi cười với mọi người, nói với họ rằng vợ chồng anh muốn đi chơi xa một chuyến. Và Khang đã thu xếp mọi việc ở nông trại một cách gọn gàng nhanh chóng.
Ngày ngày, Mỹ Phương có nhiệm vụ đi qua đi lại trên hành lang để những người làm công đang làm ở bìa rừng có thể nhìn thấy nhưng không thể nhận ra người đó không phải là bà chủ của mình.
Khi mọi việc đã được sắp xếp đâu vào đấy, Khang và Mỹ Phương đã lên đường vào buổi sáng sớm, khi chiếc xe con vừa đỗ xịch trước thềm nhà.
Ngồi trên xe, Khang và Mỹ Phương còn giơ tay vẫy chào người quản lý đang đứng bên đường nhìn theo…
 
***
Đầu ông chủ nhà gục xuống một cách thảm hại khi chấm dứt câu chuyện.
Duy thở dài:
- Vậy là ông bà đã ngang nhiên ra đi bằng cách đó? Và ông bà đã đánh lừa được tất cả mọi người trong suốt quãng thời gian vừa qua?
Ông chủ ngước lên, đôi mắt nhìn đau đáu phía xa:
- Phải! Chúng tôi đã giấu kín hơn mười năm nay, và cuộc sống của vợ chồng tôi vẫn không có gì đáng phàn nàn lắm chỉ trừ việc không có con nối dõi và thỉnh thoảng chuyện cũ hiện về ám ảnh chúng tôi… Cứ tưởng hồn ma của cô ấy đã không còn nên chúng tôi mới dắt nhau quay về gầy dựng lại cơ nghiệp, nào ngờ đâu…
Bác Lý từ nãy vẫn ngồi im, giờ đột ngột lên tiếng:
- Ông bà không biết sao? Chính ông bà đã giam cầm linh hồn đó lại không để cho nó có điều kiện siêu thoát đầu thai kiếp khác. Ngày xưa, ông nội tôi làm nghề pháp sư cho nên tôi cũng có nghe nói nhiều về những chuyện tương tự thế này…
Bà chủ nhà mừng rỡ níu tay bác Lý:
- Anh Lý! Anh làm ơn nói cho tôi biết, giờ đây tôi phải làm sao?
Bác Lý trầm ngâm một chút rồi nói:
- Theo như tôi biết, đầu tiên bà chủ phải làm một buổi lễ cầu siêu, cắt bỏ hết những gì trói buộc. Sau đó… bà chủ phải đền tội!
Bà chủ nhà giật bắn người:
- Sao? Đền tội?
Bác Lý gật đầu:
- Đúng! Bà phải ra tự thú mới được. Có thể bà sẽ được hưởng sự khoan hồng bởi bà tự ý khai nhận, và vụ án này cũng đã xảy ra từ lâu. Nếu bà vẫn cố tình trốn tránh thì dù bà có trốn được pháp luật dương gian nhưng không thoát khỏi luật nhân quả báo ứng đâu bà ạ! Điều báo ứng đó đã tới, bà không tránh được đâu!
Bà chủ nhà rã rời gục xuống…
 
***
Duy đặt mấy chiếc vali xuống vệ dường, chìa tay ra bắt lấy bàn tay thô ráp của bác Lý, mỉm cười:
- Cháu cảm ơn bác rất nhiều. Cầu mong bác nhiều sức khỏe, khi nào có điều kiện chắc chắn tụi cháu sẽ trở lại đây thăm bác.
Bác Lý gật gật đầu nhưng lại nhìn Diễm Thy cười hỏi:
- Liệu vợ cháu có dám trở về đây không?
Diễm Thy dõi mắt về hướng nông trại buồn buồn nói:
- Dạ, dám chứ bác! Mặc dù cháu đã phải trải qua những giây phút hoảng sợ kinh hoàng, nhưng dẫu sao nó cũng để lại trong ký ức vợ chồng cháu một kỷ niệm đặc biệt trong tuần trăng mật của mình.
Bác Lý thở dài:
- Cũng tội cho vợ chồng ông chủ! Ngày xưa họ độc ác thế nào mình không tận mắt chứng kiến, nhưng từ hồi biết vợ chồng ổng thì bác chỉ biết đó là hai con người tốt bụng, dễ thương… Thế nhưng họ đã gây ra tội lỗi thì bây giờ phải đền tội thôi, đó là lẽ đương nhiên…
Duy tiếp lời bác Lý với vẻ suy tư:
- Bởi thế nên rất khó nhìn người. Cũng đồng thời là con người ấy, nhưng ở một giai đoạn nào đó phần con trong họ lại trội hơn, khiến cho phần người bị đè bẹp…
Tiếng còi xe tin tin từ xa làm cắt đứt câu chuyện của ba người. Chiếc xe hôm trước đến thật đúng hẹn.
Anh tài xế bước xuống mỉm cười rạng rỡ:
- Nhìn anh chị là biết ngay hạnh phúc đến mức nào!
Diễm Thy e lệ ngó xuống đất.
Duy vừa hỏi thăm anh tài xế đôi ba câu xã giao vừa giúp chất mấy chiếc vali lên xe.
Khi xe bắt đầu lăn bánh, cả hai vợ chồng Diễm Thy đều nhoài người ra cửa vẫy tay chào bác Lý đang đứng chơ vơ một mình bên đường vắng. Bác cũng đưa cánh tay khẳng khiu, đen đúa lên vẫy chào đáp lại vợ chồng Diễm Thy.
Họ về lại với thành phố ồn ào náo nhiệt, về lại với cuộc sống tất bật hàng ngày, khép lại những ngày trăng mật vừa qua. Nhưng trong lòng hai vợ chồng không ai quên được những chuyện kinh hoàng khủng khiếp đã xảy ra, và Diễm Thy vẫn luôn tự hỏi, tại sao hồn ma cô Nguyệt lại tìm cô để nhờ giải oan?
Không thể có được câu trả lời, nhưng thôi, dẫu sao thì vợ chồng Diễm Thy cũng đã làm được một việc rất có ý nghĩa trong những ngày trăng mật của mình!
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:43:56 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 22:10:12
BÍ MẬT PHÍA SAU CÁNH CỬA
 
Cuối cùng rồi tôi cũng tìm được cơ hội để thoát khỏi cái thành phố này. Cái thành phố ở mà ở mỗi nơi, mỗi góc tôi đều nhìn thấy hình bóng của anh hiển hiện.
Tôi muốn thoát khỏi nó, muốn chạy trốn những ký ức, những kỷ niệm đẹp và không đẹp về anh.
Liên tục nhiều tuần lễ, tôi đăng ký tìm việc trên các báo cũng như theo dõi các thông tin tuyển nhân sự, nhưng vẫn không tìm thấy nơi nào có thể làm chốn trú thân vững chắc cho tôi.
Tôi đang công tác ở một công ty nước ngoài đang trên đà làm ăn phát triển. Lương tháng của tôi là niềm mơ ước của nhiều người, nhưng bây giờ thì tôi sẵn sàng vứt bỏ tất cả để đi đến một nơi nào đó thật xa, nơi nào đó không có chút gì khiến gợi nhớ lại những hạnh phúc bên anh, để tôi có thể hàn gắn lại vết thương đang làm tơi tả trái tim mình…
Đang lúc chán nản, tôi bất chợt có được thông tin mà mình luôn chờ đợi: Một nông trang cần tuyển một nữ quản lý!
Ngay lập tức tôi liên lạc với nơi đó và được biết mình có thể đáp ứng được tất cả những yêu cầu mà họ đặt ra.
Hôm sau tôi trực tiếp đến nông trang.
Đó là một nơi hẻo lánh cách xa thành phố hơn hai trăm cây số. Chủ nhân của nông trang là một bà lão bảy mươi tuổi, nhưng nếu không do bà tự nói ra, khó ai có thể đoán được tuổi thật của bà.
Bà lão có dáng người to lớn, khác với những phụ nữ nông thôn cùng trang lứa. Mặc dù tuổi đã cao, nhưng trên gương mặt và dáng vóc vẫn còn phảng phất vẻ đẹp của tuổi thanh xuân. Có lẽ ngày còn trẻ, bà là một tuyệt sắc giai nhân được nhiều người đeo đuổi.
Vừa trông thấy tôi, bà đã niềm nở:
- Cô thật đúng hẹn! Tôi rất thích những người như thế!
Tôi gật đầu chào bà và ngồi xuống một chiếc ghế nhỏ đối diện.
Bà tự giới thiệu:
- Tôi là chủ nhân của trang trại này. Cô cứ gọi tôi là bà Hai cho thân mật nhé, cô Hương?
Tôi khẽ mỉm cười, mừng thầm vì thấy bà chủ có vẻ gần gũi và dễ tính.
- Trước đây cô đã từng làm công việc quản lý này chưa?
Bà Hai hỏi tiếp.
Tôi nhỏ nhẹ trả lời:
- Dạ thưa bà, tôi đã làm công tác quản lý rất nhiều năm, nhưng thú thiệt, tôi chưa quản lý nông trang lần nào!
Bà Hai tươi cười:
- Không sao, không sao! Tất cả cũng tương tự nhau thôi mà, rồi cô sẽ nhanh chóng quen dần với công việc mà thôi. Nói chung, công việc ở đây cũng không nhiều, mỗi khâu đã có người lo liệu chu tất, cô chỉ có nhiệm vụ tổng hợp các báo cáo từ các khâu và để mắt bao quát chút thôi.
- Dạ, tôi nghĩ mình có thể làm được!
Tôi tự tin nói.
Bà Hai mỉm cười hài lòng:
- Vừa trông thấy cô, tôi cũng rất hy vọng cô sẽ gắn bó lâu dài với chỗ chúng tôi. Trước nay có rất nhiều người tới xin việc nhưng rồi không bao lâu họ lại bỏ đi…
- Bỏ đi? Chẳng lẽ điều kiện sống ở đây không được  tốt?
Tôi ngạc nhiên hỏi.
Bà Hai xua tay:
- Không đâu! Trái lại, đời sống ở nông trang này thoải mái hơn nhiều so với những nơi khác, chỉ trừ nó là nơi hẻo lánh nên không có được cái không khí nhộn phịp, ồn ào như ở thành phố.
Tiếp theo đó, bà Hai cho tôi biết mức lương thử việc trong ba tháng đầu của tôi. Mới vừa nghe qua tôi đã giật mình, không thể tin đó là sự thật! Ở nơi heo hút thế này mà mức lương không thua mấy mức lương tôi đang nhận ở thành phố!
- Các khoản ăn, ở và sinh hoạt nơi đây cô đều không phải mất tiền, tất cả tôi bao hết!
Bà Hai nói thêm.
- Cảm ơn bà. Tôi thật sự bất ngờ khi thấy bà trả lương hậu hĩnh đến như vậy!
Bà Hai nhìn tôi trìu mến:
- Cô đúng là một cô gái lương thiện!
Rồi bà hỏi tiếp:
- Khi nào cô bắt đầu nhận việc, ngay hôm nay nhé?
Tôi cười, lắc đầu:
- Thưa bà, bà cho tôi xin thêm hai ngày nữa để tôi có đủ thời gian giải quyết những việc công việc tư còn dang dở ở thành phố. Đúng hai ngày sau, tôi sẽ về ở hẳn nơi đây.
Bà Hai vui vẻ đồng ý.
- Được! Được! Tôi rất vui vì thấy cô nhanh nhẹn, dứt khoát thế này! Bây giờ tôi mời cô đi xem qua căn phòng tôi dành cho cô nhé?
- Dạ, cảm ơn bà!
Tôi gật đầu.
Bà Hai gọi chị giúp việc lên, tươi cười nói:
- Con đưa cô Hương đi xem phòng nhé?
Chị giúp việc gật đầu rồi đưa mắt nhìn tôi. Tôi đứng lên đi theo chị.
Đây là một ngôi nhà cổ rộng lớn, mái ngói rêu phong, màu sơn tường cũng đã cũ, chắc lâu lắm rồi bà chủ nhà không cho người sơn phết lại.
Đi theo chị giúp việc vượt qua một khoảng sân rộng, tôi thấy trước mắt mình là một dãy nhà đồ sộ được xây dựng theo kiểu kiến trúc hiện đại.
- Ồ, đẹp quá!
Không ngăn nổi sự thích thú, tôi bật ra tiếng trầm trồ khen ngợi. Chị giúp việc dường như không nghe những lời tôi nói, chị không hề có bất cứ phản ứng gì, cứ lầm lũi đi nhanh về phía trước.
Ngôi nhà cổ và cả ngôi nhà hiện đại này nữa vô cùng rộng lớn, nhưng người trong nhà tôi lại chẳng thấy được mấy người. Ngoài bà Hai chủ nhà, chị giúp việc, bây giờ tôi chỉ nhìn thấy hai người nữa đang lom khom ngoài vườn, chắc đang trồng trọt hay xén cây ngoài đó.
Tôi dấn bước lên sánh đôi với chị giúp việc, hỏi:
- Chị ơi, nhà lớn quá, chắc có đông người lắm hả chị?
Chị giúp việc hơi chậm chân lại một tí, ngoảnh nhìn tôi rồi cười nhẹ, lắc đầu:
- Không đâu cô, cũng không đông lắm!
Nói xong, chị lại rảo chân bước tiếp. Tôi còn rất nhiều câu hỏi, nhưng thấy thái độ không thiết tha của chị tôi ngại nên không dám hỏi thêm gì nữa, chỉ cắm cúi đi theo chị.
Đi qua rất nhiều hành làng, rất nhiều lối rẽ, cuối cùng chị dừng trước một căn phòng và nói:
- Đây là chỗ ở của cô, xin mời cô tự nhiên!
Vừa nói, chị vừa đưa tay đẩy cánh cửa. Gọi là căn phòng chứ thật sự nó rộng lớn và đầy đủ tiện nghi giống như một ngôi nhà! Tôi thật sự bàng hoàng, thích thú!
Thật không thể nào ngờ được, ở nơi đèo heo hút gió như vầy lại có một nông trang thuê người làm với mức lương cao ngất ngưỡng, đời sống vật chất, sinh hoạt hàng ngày lại rất tiện nghi, thoải mái đến mức này! Có nằm mơ tôi cũng không thể nào tưởng tượng ra được. Tôi thầm cảm ơn trời phật thương tình đã đưa đẩy tôi tìm tới nơi đây.
Phải chăng trời phật đã động lòng trước nỗi khổ đau của tôi khi bị anh phụ bạc? Phải chăng trời phật muốn xoa dịu nỗi đau trong tôi, bù đắp lại cho tôi phần nào những thiệt thòi, mất mát mà tôi đã phải gánh chịu trong quãng đời đã qua của mình?
Mà thôi, dù sao thì bây giờ tôi cũng đã cảm nhận được sự thoải mái mà mình sắp sửa được hưởng. Hy vọng với hoàn cảnh và những điều kiện thế này, tôi sẽ nhanh chóng quên được anh, đẩy lùi được hình bóng anh ra khỏi tim tôi, để ngày ngày tôi không phải nuốt nước mắt vào lòng mà cố gắng hoàn thành công việc, để đêm đêm tôi không phải thao thức với nỗi đau cào xé lồng ngực mình….
Tôi đứng ngây người ra giữa nhà, đầu óc nghĩ ngợi lung tung, không tập trung vào một vấn đề gì cụ thể.
- Cô có hài lòng không?
Tôi thoáng giật mình khi nghe tiếng chị giúp việc hỏi.
Quay lại nhìn chị, tôi mỉm cười:
- Dạ, em rất vui chị ạ! Em thật không ngờ…
- Bây giờ tôi sẽ đưa cô đi xem qua các phòng khác.
Chị giúp việc nói xong không cần tôi có đồng ý hay không, quay ngoắt người đi ra. Tôi vội vã đi theo chị.
Càng đi, tôi càng thấy ngỡ ngàng. Ở vùng nông thông quạnh vắng lại có một ngôi nhà với những căn phòng thế này thì thật là quá sức tưởng tượng!
Hơn một tiếng đồng hồ sau, chị giúp việc dẫn tôi trở về chỗ cũ. Bà chủ nhà đón tôi bằng cái nhìn thân thiện:
- Sao, cô có đồng ý không?
- Dạ, tôi rất vui được làm việc ở đây, thưa bà!
Tôi mỉm cười đáp.
Bà Hai mời tôi ở lại dùng cơm nhưng tôi từ chối. Tôi cần phải quay lại thành phố để thu xếp mọi chuyện.
Hai ngày sau tôi lên đường về nông trang với mớ hành lý ít ỏi. Tất cả những gì có dính dáng tới anh tôi đã bỏ lại hết, dù đó là những thứ tôi rất quý, rất cần. Tôi muốn, kể từ hôm nay, hình bóng anh sẽ dứt ra hẳn khỏi trái tim tôi, ra khỏi cuộc đời tôi…
Tôi đến với nông trang cùng mớ hành lý nhẹ hẫng và một tâm hồn nặng trĩu những buồn đau.
Công việc ở nông trang thật ra chẳng có gì. Đúng như lời bà Hai nói, tất cả các mảng, các khâu đều có người theo dõi sít sao, tôi không cần bận tâm tới, mỗi cuối tháng tôi chỉ cần tổng hợp các báo cáo là đủ. Sau một tháng làm việc, tôi vô cùng thắc mắc, tại sao lại nó người bỏ ra ngần ấy tiền mỗi tháng để thuê người về làm những chuyện giống như cưỡi ngựa xem hoa? Hay vì mới tháng đầu chưa, bà Hai chưa giao việc nhiều để tạo điều kiện cho tôi quen dần với cuộc sống ở đây?
Khi trao cho tôi tháng lương đầu tiên, bà Hai nhìn tôi thật lâu rồi nói:
- Cháu có thể giúp bà một việc nữa không? Bà sẽ tăng thêm lương cho cháu!
Từ ngày tôi chính thức về làm việc ở đây, bà Hai không còn gọi tôi bằng tiếng “cô” nữa mà chuyển sang gọi bằng “cháu” rất thân mật, và tôi cũng thế, tôi cảm động trwosc tình cảm đơn giản, chân thành của bà Hai và những người ở đây dành cho mình, cho nên tôi cũng xưng hô thân mật với bà và tất cả mọi người.
Nghe bà Hai hỏi, tôi sốt sắng trả lời:
- Dạ, có điều gì bà cứ sai biểu, cháu sẽ làm, không cần tăng thêm lương đâu bà ạ!
Bà Hai vuốt ve cánh tay tôi:
- Cháu ngoan lắm, bà cảm ơn cháu!
Tôi mỉm cười, thật sự không hiểu sao bà Hai lại tỏ ra đặc biệt yêu mến tôi như vậy? Vì năng lực của tôi ư? Không đâu, thật ra một tháng nay tôi có làm gì thể hiện năng lực của mình đâu? Vậy thì tại sao? Tôi không thể biết được.
Ở trong ngôi nhà này, cuộc sống thật thoải mái và đầy đủ tiện nghi, nhưng có rất nhiều điều kỳ quặc khiến tôi cứ thắc mắc không thôi. Việc đầu tiên tôi thắc mà, tại sao với điều kiện sống và mức lương thế này mà các cô quản lý khác lại bỏ đi sau một thời gian ngắn? Tại sao nông trang rộng mênh mông thế kia mà tôi không thấy được mấy người? Ở đây, ngoài bà Hai, chị giúp việc và hai người làm vườn ra, tôi chưa từng gặp một người nào khác. Những báo cáo tháng cũng do bà Hai đưa lại cho tôi.
- Bà cần cháu làm việc gì ạ?
Tôi hỏi lại.
Bà Hai không cwofi nữa, mà gương mặt trở nên khắc khổ hơn, đầy vẻ cam chịu. Bà nhìn tôi rồi nói:
- Bà không nói giấu gì cháu, bà có đứa cháu trai bị bệnh đã mấy năm, chạy thầy chạy thuốc biết mấy cũng không khỏi được…
- Anh ấy bị bệnh gì vậy bà?
Tôi tò mò hỏi.
Bà Hai thở dài thườn thượt:
- Trong một lần đi chơi cùng cha mẹ nó, chiếc xe không may rơi xuống vực sâu, cả ba mẹ nó đều bỏ mạng, chỉ riêng một mình nó còn sống sót. Từ đó nó trở thành kẻ mất hồn…
- Bà có đưa anh ấy đi chữa bệnh tâm lý không?
Tôi hỏi.
Bà Hai cười nghẹn ngào:
- Có, bà đưa nó đi khắp nơi, kể cả ở nước ngoài. Nhưng ở đâu người ta cũng lắc đầu trước bệnh tình lạ lùng của nó. Bà chỉ có một đứa con trai duy nhất, và nó là đứa cháu nội duy nhất của bà. Cả dòng họ nhà bà không còn ai nối dõi…
Tôi cảm thấy xúc động trước hoàn cảnh của bà Hai.
- Nếu cháu giúp gì được cho bà, cháu sẽ sẵn sàng bà ạ!
Bà Hai lau nước mắt nhìn tôi âu yếm:
- Bà nghĩ một cô gái hiền lương như cháu nhất định sẽ làm được!
- Vậy cháu phải làm gì?
Tôi thắc mắc.
- Cũng không có gì nặng nhọc cháu ạ! Mỗi ngày cháu vào phòng nó, ngồi đó chuyện trò với nó, đọc sách cho nó nghe. Chỉ vậy thôi, nhưng…
- Nhưng sao ạ?
Tôi nôn nóng hỏi
Bà Hai ngập ngừng một lúc mới nói:
- Nhưng cháu đừng bao giờ bước qua cánh cửa ngăn trong phòng nó, nó không đồng ý để bất kỳ ai bước vào chỗ nó nằm!
- Tại sao lại như vậy hả bà?
Tôi vô cùng thắc mắc.
- Tại vì… trong tai nạn đó, thân thể nó không còn được nguyên vẹn như xưa nên nó mặc cảm cháu à. Cháu cố gắng nhé, bà sẽ tăng lương cho cháu gấp đôi.
Tôi giật mình, xua tay lia lịa:
- Dạ không cần đâu bà ạ! Cháu thấy lương hiện nay bà trả cho cháu đã cao lắm rồi, mà cháu thì không làm được bao nhiêu việc, bây giờ chỉ thêm việc chuyện trò với anh ấy mà bà tăng gấp đôi lương thì cháu thật tình không dám nhận.
- Thôi cũng được, nếu cháu đã nói vậy thì để từ từ rồi bà sẽ tìm cách khác để trả công cho cháu. Cháu phải nhớ kỹ câu bà dặn nghen, đừng bao giờ bước chân qua khỏi cửa ngăn trong phòng nó!
Bà Hai căn dặn tôi thêm lần nữa.
Tự nhiên trí tò mò trong tôi thúc giục. Tôi hỏi:
- Khi nào cháu mới bắt đầu trò chuỵên với anh ấy được?
- Bất cứ lúc nào cháu muốn!
Bà Hai mừng rỡ nói với tôi.
Tôi gật đầu:
- Cháu muốn nói chuỵên với anh ấy ngay hôm nay.
- Vậy thì còn gì tốt hơn! Thảo ơi, Thảo!
Bà Hai mừng quýnh, cất tiếng gọi chị giúp việc.
Chị Thảo từ dưới bếp chạy lên. Bà Hai vừa lau nước mắt vừa nói:
- Con dẫn cô Hương tới phòng cậu Thắng đi con, nhớ giới thiệu cho cậu biết rõ nghe!
- Dạ!
Chị Thảo nhìn tôi thật lạ rồi nói:
- Cô đi theo tôi!
Tôi cúi đầu chào bà Hai rồi đi theo sau chị Thảo. Chị dẫn tôi đi lên tầng ba của ngôi nhà đồ sộ phía sau. Tầng lầu này chưa một lần tôi đặt chân tới.
Tôi không hiểu sao nhà rộng mênh mông như thế, trong nhà lại không có nhiều kẻ ăn người ở mà chỗ nào cũng sạch bong như được lau chùi, chăm sóc thường xuyên lắm.
Tất cả các căn phòng trên tầng ba đều đóng cửa im lìm, hình như không có người nào ở đây. Chị Thảo dẫn tôi đến căn phòng ở cuối hành lang rồi dừng lại, nói nhỏ:
- Đây là phòng của cậu chủ!
Nói xong, chị Thảo đưa tay gõ nhẹ mấy cái lên cửa.
- Ai đó?
Một giọng nói trầm trầm cất lên.
- Dạ, tôi đây, Thảo đây!
Chị Thảûo đáp nhỏ.
- Có chuyện gì không chị?
Giọng nói lại cất lên.
- Bà bảo tôi đưa cô Hương lên đây giới thiệu cùng cậu. Cô Hương là người quản lý mới của nhà mình.
Chị Thảo vừa nói vừa nhìn tôi.
Trong phòng im lặng một hồi lâu. Lát sau giọng trầm trầm ấy nói:
- Chị mời cô Hương vào giúp tôi đi!
- Dạ!
Chị Thảo đáp rồi đẩy nhẹ cánh cửa, nhường lối cho tôi vào trước.
Căn phòng này cũng rộng rãi, đầy đủ tiện nghi giống như các căn phòng tôi đã được xem qua, chỉ khác một điều, giữa phòng khách và bên trong được ngăn bằng một cánh cửa nhôm nhưng hình như không có khóa.
Đây đúng là cánh cửa mà bà Hai đã dặn đi dặn lại nhiều lần, rằng tôi không được phép bước qua.
- Chào anh Thắng!
Tôi mở lời trước.
- Chào cô Hương! Xin cô tha lỗi, tôi… tôi không thể ra đó tiếp chuyện với cô được. Mong cô thông cảm cho tôi.
Thắng đáp, lời lẽ rất ôn hòa, lịch sự.
Chị Thảo khẽ đưa mắt ra hiệu cho tôi ngồi xuống rồi chị khép cửa lại đi trở xuống dưới nhà.
Tôi đứng một mình, lắng nghe tiếng chân chị Thảo xa dần, lúng túng không biết nói chuyện gì với Thắng nữa.
- Tôi tên Thắng, ba mươi tám tuổi. Còn cô Hương?
Đột nhiên Thắng hỏi.
Tôi vội đáp:
- Dạ, em tên Hương, mới hai mươi sáu. Vậy là em nhỏ hơn anh Thắng mười hai tuổi.
Thắng cười nhẹ:
- Hương ngồi ghế đi!
Tôi giật mình, sao Thắng biết tôi còn đứng nhỉ? Chắc là anh ấy đoán mò thôi. Tôi kéo chiếc ghế bên cạnh, ngồi xuống và nói:
- Anh Thắng ăn cơm trưa chưa vậy? Nếu chưa thì em đi dọn cho.
Thắng cười:
- Cảm ơn Hương, lúc nãy chị Thảo đã cho anh ăn rồi. Hương đến đây làm đúng tháng rồi phải không?
Tôi giật mình:
- Ủa, sao anh biết?
- Thì… anh ở đây nhưng vẫn nắm được tình hình cả nhà mà!
Thắng nói, giọng có vẻ vui vui.
- Bà nội anh đối xử với Hương có tốt không? Hương đã quen với cuộc sống buồn tẻ ở nơi này chưa?
Giọng Thắng ân cần, cởi mở.
Tôi cười:
- Dạ, anh yên tâm đi, bà Hai đối với em rất tốt. Còn ở đây thì quả là tuyệt vời lắm rồi, em đâu có mong ước nào hơn nữa.
- Hương nói vậy chứ anh thấy mấy cô gái trẻ bây giờ ai cũng thích chốn phồn hoa đô hội, chỗ khỉ ho cò gái như vầy, có ai bám trụ được lâu đâu. Rồi nay mai Hương cũng sẽ đi thôi…
Giọng Thắng có vẻ buồn buồn.
Tự nhiên trong lòng tôi dậy lên một nỗi xót xa đối với người con trai tật nguyền đang nằm giấu mặt trong kia.
- Có lẽ anh không tin, nhưng rồi dần dần anh sẽ thấy. Em không hề có ý định rời khỏi nơi này đâu anh Thắng ạ! Thành phố là nơi đáng sợ đối với em…
- Có lẽ Hương đang trốn chạy một điều gì đó?
Thắng hỏi.
Tôi cười:
- Anh đoán tài thế? Đúng là Hương đang chạy trốn… trốn nợ anh à!
- Nợ tình, đúng không Hương?
Thắng lại đoán đúng, nhưng tôi không trả lời mà chỉ bật cười:
- Ôi, em không ngờ anh Thắng lại có tài bói toán nữa! Hôm nào anh xem giúp Hương một quẻ trọn đời nhé?
Thắng cười thật nhẹ:
- Không riêng gì anh, ai cũng được thôi mà!
Tôi và Thắng nói chuỵên có vẻ rất hợp nhau. Mới trao đổi lần đầu tiên mà đã có vẻ gần gũi, thân tình ghê lắm.
Từ hôm đó, mỗi ngày tôi đều ở phòng của Thắng gần hết khoảng thời gian làm việc của mình, nhưng tôi chưa bao giờ coi đó là một công việc. Trong đầu tôi chỉ nghĩ tới một chàng trai tuổi đời còn phơi phới mà phải nằm một chỗ, tinh thần bất an, hoang mang trước cuộc sống đang rất cần có người bầu bạn sẻ chia. Còn tôi, một người con gái cô đơn cũng đang rất cần có người tâm sự. Tôi sẽ đem niềm vui lại cho Thắng và ngược lại, Thắng cũng sẽ giúp tôi quên đi hình bóng anh luôn ám ảnh tôi suốt ngày đêm không chịu rời.
Tình cảm của tôi và Thắng ngày càng gắn bó. Bà Hai có vẻ rất vui vì điều đó.
Khi đưa cho tôi tháng lương thứ hai, bà rưng rưng nói:
- Hãy cố gắng giúp bà nghen cháu, cháu đừng rời bỏ bà, đừng rời xa thằng Thắng!
Tôi ngạc nhiên:
- Sao bà lại nói vậy? Cháu đâu có ý định đi đâu?
Bà Hai khẽ đưa tay lau nước mắt:
- Bởi vì trước cháu, các cô quản lý khác đều không ở lại để nhận tháng lương thứ ba!
Tôi há hốc miệng ngó bà Hai:
- Tất cả? Bà muốn nói là…
Bà Hai cười buồn:
- Trước cháu, bà đã tuyển cả thảy năm người. Cô nào lúc mới đến đây cũng tỏ ra thích thú, sung sướng lắm, nhưng chỉ sau hai tháng làm việc các cô ấy đều bỏ đi…
- Sao thế nhỉ? Cháu thấy công việc ở đây có là gì?
Bà Hai gật gù:
- Đúng rồi! Bà không yêu cầu các cháu làm việc cực nhọc. Bà chỉ yêu cầu các cháu một điều duy nhất: Đừng bao giờ bước qua cánh cửa ngăn trong phòng thằng Thắng.
Tôi giật mình thầm hỏi, cánh cửa đó quan trọng đến như vậy sao? Cái gì phía sau cánh cửa? Thì là anh Thắng chứ gì? Cho dù ảnh có tật nguyền, dị dạng đến đâu cũng đâu thể làm năm cô quản lý trước phải bỏ việc ở nơi tốt đẹp thế này?
Chẳng lẽ khi các cô ấy cãi lời và bước qua cánh cửa thì Thắng nổi giận và đuổi họ đi sao? Mà không, Thắng hiền dịu, tình cảm thế thì không đời Thắng đuổi việc người ta chỉ vì một cái lỗi hết sức nhỏ nhặt như vậy. Với lại chính bà Hai nói là các cô ấy đòi nghỉ, không chịu ở lại dù bà hết lời năn nỉ kia mà?
Càng ngay, tôi thấy bà Hai càng tỏ ra chìu chuộng tôi hơn nữa. Nhưng tôi không vì vậy mà đòi hỏi nọ kia. Tôi vẫn hoàn thành thật tốt những công việc bà giao, vẫn đều đặn đến chuyện trò cùng Thắng.
Thắng là người cởi mở, dễ gần chứ không phải là kẻ tâm thần khó chịu như lúc đầu tôi mới hình dung. Tôi nhận thấy Thắng không có bất cứ dấu hiệi nào của bệnh tâm thần cả. Nhưng có lẽ do quá mặc cảm nên Thắng không dám đối mặt với người khác mà thôi.
Tôi dự định, một thời gian nữa, khi tfinh bạn giữa tôi và Thắng khắn khít hơn nữa, tôi sẽ dần dần khuyên Thắng nên giở bỏ cánh cửa kia đi, để hòa nhập trở lại với cộng đồng.
Tôi và Thắng đã kể cho nhau nghe thật nhiều chuyện. Những kỷ niệm tuổi thơ của Thắng, và cả mối tình đầu vụng dại Thắng cũng kể cho tôi nghe. Về phần mình, tôi cũng không giấu Thắng bất cứ điều gì. Giờ đây, Thắng là người bạn thân duy nhất của tôi trên cõi đời này. Tôi kể Thắng nghe về mối tình thơ mộng của tôi, về những ước mơ hạnh phúc mà tôi đã từng ấp ủ, về nỗi bàng hoàng đau đớn khi tôi biết tin anh đi cưới vợ… Tôi kể Thắng nghe và không ngăn được dòng nước mắt.
- Nỗi đau này em cứ tưởng sống để bụng, chế mang theo, nhưng không biết sao bây giờ em lại kể cho anh nghe…
Tôi vừa khóc vừa nói.
Giọng Thắng thật ấm áp vang bên tai tôi:
- Hương ơi, anh rất thương em! Anh rất hiểu nỗi khổ tâm mà em đang mang nặng trong lòng. Nhưng em đừng buồn quá, em hãy vứt bỏ hình bóng người đàn ông không xứng đáng đó ra khỏi tâm trí em đi. Em còn trẻ, tương lai em còn dài trước mặt, chắc chắn rồi mai này em sẽ gặp một người yêu thương em chân thành, biết quý trọng những tình cảm của em… Em đừng buồn nữa nghe Hương?
Nghe những lời an ủi của Thắng, đáng lẽ tôi được xoa dịu, nhưng không hiểu sao trong tôi lại nổi dậy một thứ tình cảm nào đó rất khó xác định được. Tôi phản đối Thắng:
- Anh nói thì nghe dễ lắm Thắng à, nhưng đâu phải nói muốn quên là quên được, muốn vứt bỏ là vứt bỏ được đâu? Anh là đàn ông con trai mà anh còn không dám đối diện với sự thật, em chỉ là một đứa con gái nhỏ nhoi, làm sao em có đủ sức…
Thắng bất ngờ trước những lời tôi nói. Anh ấp úng:
- Hương… em nói vậy có nghĩa là…
Tôi thổn thức không nói gì thêm nữa.
Thắng im lặng thật lâu rồi mới nói tiếp:
- Hương ơi, anh hiểu những gì em muốn nói. Nhưng… có rất nhiều điều không thể giải thích cho em rõ hết đâu Hương…
Tự nhiên lúc đó tôi thấy cần phải nói ra hết những gì tôi nghĩ trong đầu:
- Anh Thắng à, em thấy anh còn yếu đuối hơn cả em…
Thắng đột ngột cắt ngang lời tôi:
- Em lầm rồi, anh không yếu đuối như em tưởng đâu!
- Thế tại sao anh không dám đối diện sự thật? Tại sao anh luôn giấu mình sau cánh cửa kia? Anh trốn ở đó đến suốt đời được sao, anh Thắng?
Tôi bướng bỉnh.
Thắng chừng như đang lặng đi vì xúc động. Lát sau anh nói, giọng nhỏ nhẹ, ôn tồn:
- Em có muốn biết tại vì sao anh phải làm như vậy không?
- Có, em rất muốn biết.
Tôi trả lời dứt khoát.
Tôi nghe tiếng Thắng thở dài:
- Thật tình anh không muốn mất em! Từ lâu nay đã có bao người khi rõ cái bí mật này đã phải rời xa nơi đây nhưng anh không buồn. Nhưng nếu em cũng vậy, em cũng rời xa anh chắc anh sẽ buồn nhiều lắm, Hương à!
Tôi xao lòng trước những lời chân thành của Thắng, nhưng sự tò mò càng thôi thúc tôi dữ dội hơn.
- Nếu anh và bà Hai không đuổi việc em, chắc chắn em sẽ không bỏ nơi này mà đi đâu!
Tôi mạnh bạo trả lời.
Thắng hỏi gặng lại:
- Em sẽ không đi, dù sự thật mà em biết có như thế nào đi nữa?
- Dạ, dù thế nào em cũng không đi!
Tôi xác định.
Thắng im lặng. Thời gian trôi qua thật chậm, tôi thấp thỏm muốn mở lời hỏi Thắng, nhưng tôi chưa kịp hỏi thì Thắng đã lên tiếng:
- Thôi được rồi, em đọc cho anh nghe hết đoạn cuối của cuốn tiểu thuyết “Tiếng chim hót trong bụi mận gai” đi!
Tôi thất vọng:
- Anh Thắng… Thế còn…
- Em đừng nôn nóng. Cứ đọc cho anh nghe đi, anh không muốn nghe dang dở câu chuyện đó, mà anh cũng không muốn đoạn kết lại do người khác đọc cho anh nghe…
Thắng nói, giọng thật buồn.
Tôi định cãi lại, nhưng rồi tôi cố dằn lòng mình lại, ngồi xuống ghế cầm quyển sách lên đọc tiếp cho anh nghe đoạn cuối:
- “… Vười hoa đẹp và sống động vô cùng. Nhìn những chồi nụ và những mầm xanh nẩy nở rồi héo tàn; rồi những ước mơ mới lại đến, tiếp tục môt chu kỳ không thay đổi, mãi mãi không hề dừng lại ở nơi kết thúc.
Thế là Drogheda không còn nữa. Vâng, đã đến lúc, thật đúng lúc. Chu kỳ cứ tiếp tục với những người xa lạ. Hình phạt tôi xin chịu một mình, tôi không thể phiền trách ai. Và tôi chẳng luyến tiếc gì….”
Tôi gấp sách lại đã lâu mà không nghe Thắng bình phẩm gì như những lần trước, tôi tự hỏi có khi nào ở sau cánh cửa đó Thắng đã ngủ quên? Tôi muốn lên tiếng đánh thức Thắng nhưng rồi lại thôi.
Tôi vẩn vơ đến bên cửa sổ nhìn xuống sân vườn. Chỗ này tôi đã có đi quan nhưng không quan tâm lắm. Bây giờ đứng trên cao nhìn xuống tôi mới phát hiện ra năm gò nhỏ cao cao trông như năm ngôi mộ nằm liền kề nhau dưới tàn cây cây ngọc lan xum xuê tàn lá.
Đó là mộ của ai? Những người thân trong gia đình Thắng hay là những người làm công? Tôi còn đang thắc mắc thì nghe tiếng Thắng hỏi:
- Em đã nhìn thấy rồi phải không Hương?
Tôi giật mình:
- Anh Thắng muốn hỏi em thấy gì?
- Mộ của năm cô quản lý trước em!
Thắng nói rõ ràng từng tiếng.
Tôi có cảm giác ớn lạnh chạy dọc sống lưng. Gai ốc tôi dựng đứng lên và theo phản xạ tự nhiên tôi lùi ra cửa phòng.
- Em đừng sợ, không ai làm hại gì em đâu!
Giọng Thắng vẫn nhẹ nhàng, thân thiết.
Tôi lắp bắp:
- Tại sao… tại sao cả năm người quản lý đều chết ở đây?
- Tại vì… họ cũng giống như em, họ cũng muốn biết sự thật về anh!
Thắng vẫn nhỏ nhẹ.
Tự nhiên trong tôi lúc đó trào lên một sự phẫn uất đến cùng cực. Tôi hét lên:
- Dù có họ có thế nào đi nữa, anh cũng không có quyền giết họ! Anh thật là tàn nhẫn, tôi đã lầm anh rồi!
Vừa hét, tôi vừa mở cửa phòng định bụng sẽ về ôm hành lý rời xa chỗ kinh tởm này mãi mãi, nhưng không hiểu sau cánh cửa vẫn đóng chặt tôi không tài nào mở ra được.
- Em nghĩ oan cho anh rồi đó Hương ạ, anh không hề giết họ. Cái chết của họ khiến anh và gia đình rất đau đớn…
Tôi hơi sững người khi nghe Thắng nói câu đó.
- Anh không giết họ? Vậy tại sao họ chết? Cả năm người…
- Chính sự tò mò đã giết chết họ đó em!
Thắng buồn bã nói.
Tôi ngồi phịch xuống ghế, giơ hai tay lên ôm lấy đầu rên rỉ:
- Em điên lên mất thôi, anh làm ơn giải thích cho em rõ được không?
- Vì tò mò, họ đã tự động mở cửa để nhìn thấy anh… và họ chết vì quá sợ hãi…
Thắng buồn rầu nói.
Tôi lại ngẩn ngơ:
- Sao lại như thế được? Dù anh có tàn phế kinh khủng đến đâu cũng không thể làm người ta vỡ tim mà chết một cách dễ dàng như vậy được đâu, anh đừng có lừa gạt em…
Giọng Thắng thật buồn:
- Anh chưa bao giờ lừa gạt em và cũng không có ý định làm vậy. Em là cô gái mà anh quý nhất trong đời. Anh phải cám ơn em vì em đã đè nén được tính tò mò của mình… chứ nếu không, có lẽ em cũng cùng chung số phận với họ rồi…
Tôi bất giác rùng mình:
- Anh nói vậy có nghĩa là…
- Năm người trước không hề nói với anh về sự tò mò của họ, nên không được anh chuẩn bị sẵn tâm lý. Họ tự mở cửa đi vào và… kết quả như em thấy đó!
Tôi đứng phắt dậy:
- Vậy thì ngay bây giờ em sẽ bước vào trong đó xem anh là thứ quỷ quái gì mà có thể khiến người ta phải bỏ mạng như vậy!
- Khoan, em chờ anh một chút!
Thắng hốt hoảng nói.
Tôi khựng lại:
- Chờ anh? Để làm gì? Để anh mài sẵn gươm dao à?
Tôi phá lên cười giễu cợt.
Thắng không tỏ vẻ bất bình mà lại nói với tôi bằng cái giọng chân thành và tha thiết nhất:
- Trước khi em vào đây, anh muốn nói với em một điều: Anh rất yêu em, Hương ạ, dù rằng anh chỉ là… chỉ là… một hồn ma!
Tôi bủn rủn cả chân tay, không biết tôi bủn rủn vì nghe lời tỏ tình của Thắng hay vì nghe Thắng nói anh chỉ là một hồn ma?
Tôi không còn đứng vững nữa, hai tay tôi bấu vào cạnh bàn, run giọng hỏi:
- Anh… anh nói sao? Anh là gì?
- Anh là một hồn ma! Anh đã chết cách đây hơn một năm rồi Hương ạ!
Giọng Thắng thật thê thảm. Lúc này tôi biết chắc Thắng không đùa giỡn với tôi.
- Giờ thì em biết rồi, em có còn múôn vào đây nữa không?
Thắng hỏi.
Tôi gắng gượng lấy lại bình tĩnh:
- Vẫn muốn! Em sẽ vào ngay bây giờ!
Thắng không nói gì nữa, một sự im lặng nặng nề bao trùm lấy căn phòng. Tôi hít vào một hơi thật sâu rồi từ từ buông hai tay ra khỏi cạnh bạn, tập trung tinh thần và đi từ từ lại cánh cửa ngăn trước mặt.
Lúc bàn tay tôi đặt lên canh cửa, tôi nghe tiếng Thắng nghẹn ngào:
- Hương, anh yêu em…
Câu nói của Thắng như tiếp thêm sức mạnh cho tôi, tôi đẩy mạnh cánh cửa và bàng hoàng nhận ra trước mắt tôi là một chiếc quan tài màu đỏ, có nắp bằng kính. Tôi mạnh dạn tiến vào nhìn kỹ, người nằm trong quan tài có dáng dấp của một thanh niên cao to mạnh khỏe nhưng toàn bộ gương mặt đã nát bấy, tay chân có lẽ cũng đã gãy làm nhiều khúc.
Lúc ấy tôi hoàn toàn không sợ, tôi chỉ đau lòng, đau đến thắt ruột thắt gan khi chứng kiến nỗi đau mà Thắng phải hứng chịu. Nước mắt tôi trào ra, tôi đảo mắt ngó quanh, căn phòng này trống trơn, ngoài chiếc quan tài đặt ở giữa, chỉ có chiếc bàn thờ kê sát tường, trên bàn thờ là khung ảnh một thanh niên đẹp trai đang cười rạng rỡ.
Tôi đi dần lại bàn thờ, run run cầm tấm ảnh của Thắng xuống rồi bất giác tôi ghì chặt vào lòng. Bên tai tôi vẫn còn âm vang lời nói lúc nãy của Thắng:
- Hương, anh yêu em…
Tôi ôm tấm ảnh và đến bên quan tài quỳ xuống, khóc nấc lên.
Tôi có cảm giác như có một bàn tay ai đó vuốt nhẹ tóc mình, tôi quay lại thì không có ai bên cạnh.
- Thắng ơi, có phải là anh không? Anh đâu rồi? Em muốn nói chuyện với anh!
- Anh đây, anh vẫn luôn ở cạnh bên em…
Tiếng nói của Thắng thật gần, nhưng tôi không thể nào xác định được anh đang ở trước mặt hay sau lưng tôi, đang ở bên trái hay bên phải.
- Kể cho em nghe tất cả đi Thắng, tại sao lại có chuyện này hở anh?
Tôi lại có cảm giác như Thắng đang ngồi cạnh bên tôi, nhưng khi quờ tay chỉ là một khoảng không trống trãi.
Giọng Thắng cất lên buồn bã:
- Cách đây hơn một năm, cả nhà anh đi chơi và gặp tai nạn. Chiếc xe ba anh lái đã đâm sầm xuống vực sâu. Cả ba mẹ và anh đều chết tại chỗ, chỉ riêng bà nội còn sống sót và không hề bị một chút thương tích nào. Nhưng bà nội lại không thể nào thoát ra được. Bà sống hai ngày trong xe với ba xác chết của những người thân yêu nhất đời, tinh thần bà hoảng loan đến cực độ. Đến ngày thứ ba, người đi đường phát hiện và cứu bà. Bà nội về nhà nhưng không thể chấp nhận được sự mất mát quá lớn lao như vậy. Bà đem chôn ba mẹ anh, nhưng với anh thì bà không nỡ. Tâm trí bà bỗng lóe lên một ý nghĩ, bà muốn nuôi dưỡng linh hồn anh, sau đó tìm cho anh một người vợ để bà có cháu nối dòng.
- Nhưng… anh đã chết rồi kia mà? Làm sao cưới vợ sinh con được mà có cháu nối dòng?
Tôi không kìm nỗi đã cắt lời Thắng.
Anh cười nhẹ và nói tiếp:
- Nội anh có quen với một thầy bùa cao tay ấn, ông ấy có thể điều khiển được quỷ ma. Bà đã nhờ ông làm phép thuật để giữ xác anh, giữ hồn anh lại. Nếu có một người con gái nào đó thật lòng thương yêu anh thì anh có thể sống lại một khoảng thời gian ngắn, rất ngắn…
- Rồi sau đó?
Tôi hỏi nhỏ
Anh buồn buồn:
- Rồi sau đó anh sẽ tan biến vào cõi hư vô, người con gái đó sau khi sinh nở cũng không thể tiếp tục sống được. Chính vì vậy anh đã chống lại cái ý định ích kỷ của nội anh, nhưng bà đã dùng phép thuật để khống chế anh, anh không thể làm gì khác hơn được nữa em à…
Anh lặng đi một lát rồi nói tiếp:
- Nhưng anh cũng an ủi được một điều là, chẳng có bất kỳ cô gái nào có thể thật lòng yêu thương anh khi chứng kiến sự thật thế này, đúng không em?
Tôi không trả lời Thắng. Tôi đang hỏi kỹ lại lòng mình rằng tôi có thật lòng yêu Thắng hay không?
Tôi nhìn vào bức ảnh người thanh niên đang cười rạng rỡ rồi nhìn cái xác bầm dập đang nằm kia, tự nhiên trong lòng tôi trào lên một tình thương yêu vô bờ bến.
Tôi không nói gì, tôi lẳng lặng đứng lên đặt trả bức ảnh về chỗ cũ, rồi thật chậm, tôi tiến đến bên chiếc quan tài, nhẹ nhàng đẩy nắp nó ra.
- Hương! Đừng… em đừng làm thế!
Thắng hốt hoảng.
Tôi mỉm cười không nói gì, chỉ cúi xuống đặt một nụ hôn cháy bỏng lên đôi môi của xác chết, nước mắt tôi không ngừng rơi xuống mặt anh.
Gương mặt nham nhở vết thương bỗng chốc thay đổi hẳn. Tôi sững sờ đứng ngó trân trân những chuyển biến khó tin đang diễn ra trên thi thể nằm trước mắt tôi.
- Anh… Anh Thắng!
Tôi run run gọi.
Xác chết, mà không, giờ phút này đó không còn là một xác chết đáng sợ nữa mà đã là Thắng, Thắng của tôi, một chàng thanh niên khỏe mạnh, bình thường. Thắng mở mắt ra nhìn tôi, cái nhìn vừa tràn ngập hạnh phúc vừa đầy nỗi xót xa. Đôi môi Thắng giờ đây cũng đã hồng hào, từ đôi môi ấy phát ra giọng nói mà tôi đã quá chừng quen thuộc:
- Em… Hương…
Tôi quỳ xuống đỡ Thắng ngồi dậy, áp mặt mình vào má anh:
- Anh đừng nói gì nữa hết, đừng nói gì nữa hết nghe anh! Chúng ta hãy tận hưởng cái khoảnh khắc ngắn ngủi mà anh có được…
Thắng ôm tôi vào lòng siết chặt.
Tôi nhắm mắt lại, cảm thấy lòng bình yên, chưa bao giờ tôi có được cảm giác bình yên như thế này, ngay cả những lúc trong vòng tay anh – người yêu đã làm tôi đau khổ!
 
***
- Hương ơi, con có giận nội không con? Con có trách nội không con?
Bà Hai, không, bà nội nắm lấy bàn tay tôi khóc ròng.
Tôi cố gắng nở nụ cười:
- Không, con phải cảm ơn nội. Nội đã cho con những ngày tháng thật hạnh phúc. Giờ đây con sắp phải đi xa, con cũng rất yên tâm gởi đứa con tội nghịêp của con lại cho nội…
Bà nội không nói gì được nữa, chỉ khóc nghẹn ngào. Đứa bé nằm bên cạnh tôi không biết tại sao lại mỉm cười, gương mặt bừng sáng như một thiên thần.
Tôi cầm lấy bàn tay bé bỏng của con, thầm nói:
- Thắng ơi, anh trông thấy con của chúng mình chưa? Anh hãy nhìn con đi anh, nhìn thật kỹ nghen anh, rồi vợ chồng mình gởi con lại cho bà chăm sóc, chúng mình cùng nhau ra đi…
Dù cố gắng gượng, nhưng nước mắt tôi vẫn trào ra không ngớt.
Bất chợt tôi trông thấy Thắng từ ngoài cửa đi vào, anh vẫn cười rạng rỡ.
Anh đến bên tôi, hôn nhẹ lên trán tôi rồi cúi xuống ôm choàng lấy đứa bé. Nhìn cảnh cha con anh âu yếm bên nhau, trong tôi dâng lên niềm hạnh phúc lẫn nỗi đau vì sắp phải chia lìa.
Hôn con thật lâu, lát sau anh quay sang cầm tay tôi nói khẽ:
- Tới giờ rồi, mình đi thôi em!
Thắng dắt tay tôi đi ra cửa, tôi không nỡ rời xa con nên cố ngoái lại nhìn. Trên chiếc giường quen thuộc xác tôi nằm đó thảnh thơi như đang ngủ. Bà nội gục đầu bên cạnh khóc không thành tiếng.
Đứa bé nằm huơ huơ hai bàn tay như muốn vẫy chào…
 
Hết.
Nguyễn Thị Mộng Thu
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 15:33:21 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 22:12:04
XÁC CHẾT TRONG LÒNG GIẾNG
 
- Con có thôi đi không? Để cho mẹ nghỉ ngơi một chút chứ! Và con nữa, con cũng cần ngủ một giấc cho tỉnh người đi, lúc nãy con chẳng mệt lắm sao, vậy mà bây giờ... Mẹ thiệt hết biết!
Tôi nói với lên gác, giọng không ngăn được bực dọc.
Từ lúc ba giờ sáng, tôi đã phải dậy để chuẩn bị sẵn mọi thứ và hai mẹ con tôi đã lên đường ngay sau đó. Suốt một ngày trời ngồi trên chiếc xe tải nhỏ, cả mẹ lẫn con đều mệt lử lả do bị say xe.
Vậy mà khi tới nơi, nào tôi có được lăn đùng ra nghỉ mệt đâu. Bao nhiêu thứ cần phải lôi hết vào nhà, dù chưa thể sắp xếp ngăn nắp được nhưng không thể bỏ chúng ngoài sân qua đêm, tôi sợ mình không đủ tiền để mua sắm lại thứ mới.
Khi mọi việc đã tạm ổn, tôi chưa kịp tắm rửa, ngã lăn ra giường muốn nhắm mắt một chút cho nhẹ người, vậy mà thằng nhỏ ở trên gác lại làm trò gì mà cứ dẫm đùng đùng trên ấy.
Thú thật, khi mới nghe nó làm ồn, tôi đã muốn lên mắng cho nó một trận, nhưng vì mệt quá, không còn hơi sức nào để trèo lên cái gác ọp ẹp đó, cũng không muốn la mắng gì nữa.
Nhưng tôi không sao chợp mắt được vì cái âm thanh khó chịu ấy, chẳng hiểu thằng bé làm quái gì trên đó nữa?
Tiếng la mắng của tôi cuối cùng cũng đã có tác dụng, thằng bé không còn làm ồn nữa, nhưng hình như vẫn không chịu nghỉ ngơi, cứ đi đi lại lại trên đó, tôi nghe tiếng chân nó rón rén đến tội nghiệp.
- Thôi kệ, muốn làm gì thì làm, khi nào mệt mình khỏi cần nhắc nó cũng ngủ thôi mà!
Tôi tự nhủ với mình như thế và không quan tâm đến thằng bé nữa. Hai mắt tôi díp lại, trong người vẫn chưa hết hẳn cái cảm giác nhộn nhạo khó chịu của người bị say xe.
Tôi chỉ định chợp mắt một chút rồi sẽ dậy, ít nhất là để nấu cho hai mẹ con một bữa ăn tối. Ấy vậy mà khi tôi giật mình thức dậy thì đã thấy ánh nắng chói chang xuyên qua khung cửa sổ mà tối hôm qua tôi chưa kịp đóng lại.
Trong nhà vắng hoe, không có một tiếng động nào.
- Bin ơi, thức dậy chưa con?
Tôi lên tiếng gọi nhưng không có tiếng thằng bé trả lời.
Sau một giấc ngủ dài, lúc này tôi đã thật sự khỏe khoắn. Bước một lúc hai ba bậc thang để lên đến căn phòng nhỏ trên gác, căn phòng mà lần đầu tiên đến đây xem nhà, Bin đã nhanh nhảu xí phần:
- Mai mốt khi nào về đây sống, mẹ cho Bin ở trên gác nhé? Bin thích căn phòng này lắm…
Đó là một căn phòng nhỏ mà có lẽ chủ nhà trước kia không dùng đến ngoài việc chứa mấy thứ linh tinh, cho nên trông rất lộn xộn. Vậy mà Bin thích mới lạ chứ!
Tôi nghĩ, chắc có lẽ nó thích, vì khi đứng trên đó, nhìn qua khung cửa sổ sẽ thấy được cánh rừng ở phía xa kia. Nhưng dù với lý do nào đi nữa thì cũng không sao, miễn nó thích chỗ ở mới là tôi có thể yên tâm rồi.
Đáng lẽ hai mẹ con tôi không phải trôi dạt về một nơi hẻo lánh như thế này để sinh sống. Tôi đang có một công việc tốt với thu nhập tương đối khá ở tại Sài Gòn. Nhưng cũng vì tôi quá nhẹ dạ cả tin nên mới thành ra khốn đốn.
Hiện tại, tôi nợ người ta một số tiền lớn mà không có khả năng chi trả, cũng may người đó cũng biết tôi chỉ là nạn nhân nên không truy tố tôi ra trước pháp luật mà đồng ý cho tôi viết giấy cam kết trong vòng ba năm sau sẽ thanh toán dứt điểm. Ngoài ra, người bạn đó còn giúp tôi kiếm được công việc ở đây, tuy xa xôi, nhưng đồng lương hậu hĩnh, việc chi tiêu ở đây lại không đắt đỏ như ở Sài Gòn, nhờ vậy tôi sẽ có điều kiện tích lũy để mà trả nợ.
Ngay cả ngôi nhà mà mẹ con tôi vừa mới dọn đến cũng không phải mất tiền mua hay thuê mỗi tháng, vì đây là nhà một người quen của bạn tôi, cả gia đình đã sang định cư ở nước ngoài, ngôi nhà này bỏ trống từ nhiều năm nay, họ cũng muốn cho người ở để khỏi bỏ hoang.
Ngôi nhà được xây dựng toàn bằng gỗ, cả sàn nhà cũng lát bằng gỗ. Nhà không lớn lắm nhưng cũng khá rộng rãi, lại có thêm một cái gác lửng nên mặc tình mà bày biện.
Xung quanh nhà được bao bọc bằng một khoảnh đất rộng có trồng mấy cây xoài, cây mít, nhưng có lẽ do không được ai chăm sóc nên chẳng thấy hoa trái gì, thân cây thì còi cọc. Chỉ có đám cỏ hoang là xanh tốt mà thôi.
Sáng nay đứng trên gác nhìn ra xung quanh, tôi mới cảm nhận được hết sự trong lành của khí hậu miền quê, và tự nhiên tôi thấy thật vui thích sau nhiều ngày tháng nặng nề u ám.
Trong phòng, thằng Bin vẫn còn đang say ngủ. Chắc tối qua mãi chơi, cu cậu ngủ quên nên không chịu lên giường mà cứ nằm dài ngủ ngay trên sàn gác.
Tôi mỉm cười ngồi xuống cạnh con trai, vuốt ve mái tóc hoe vàng của nó.
- Mẹ… sáng rồi hả mẹ?
Nó mở choàng mắt, trông thấy tôi và hỏi.
Tôi gật đầu:
- Ừ, trời sáng từ lâu rồi con à! Con đã khỏe chưa?
Nó vươn vai và ngáp thật to rồi cười nói:
- Con khỏe rồi, nhưng… đói bụng quá!
Tôi bật cười, vừa đỡ thằng bé ngồi dậy vừa nói:
- Tại mẹ hư quá! Tối qua mẹ mệt nên ngủ quên luôn, làm cả hai mẹ con mình đều bỏ bữa cơm chiều! Mà sao tối qua con không gọi mẹ dậy?
Thằng bé đứng lên, nói:
- Con hả? Vừa lên tới đây là con ngủ luôn rồi, có thức đâu mà kêu mẹ? Còn mẹ, mẹ thức tới mấy giờ?
Tôi ngạc nhiên:
- Tối qua mẹ nghe tiếng con chơi đùa, dọn dẹp gì trên này lâu lắm mà? Lúc mẹ mắng con xong là mẹ ngủ luôn đó!
- Ủa, mẹ mắng con khi nào?
Thằng bé quay lại nhìn tôi, thắc mắc.
Tôi cười xòa:
- Thôi đi chú ơi, chú ngủ cho mê vào, chẳng nhớ gì cả!
Thằng bé nhíu mày như không hiểu, nhưng rồi hai mẹ con tôi dắt nhau xuống đất vệ sinh và nấu nướng, không nhắc tới chuyện đó nữa.
Bữa sáng tuy đơn giản, chỉ với mấy thứ thức ăn mang theo từ hôm qua nhưng cả hai mẹ con đều ăn rất ngon lành, vì ai cũng đã đói cồn cào gan ruột.
Cơm nước xong, chúng tôi bắt tay vào dọn dẹp nhà cửa. Tuy mới có chín tuổi, nhưng thằng Bin cũng khá khỏe để làm một cánh tay đắt lực trợ giúp tôi được rất nhiều việc.
- Xong giai đoạn một!
Tôi mỉm cười nói với con trai.
Lúc này tầng dưới đã ngăn nắp lắm rồi, từ phòng khách tới phòng ngủ của tôi, nhà bếp và cả nhà vệ sinh đều được hai mẹ con tôi cọ rửa đến bóng loáng. Đồ đạc trong nhà không thiếu, vì hầu như chủ nhà để lại toàn bộ vật dụng, không đem theo gì cả.
Thằng bé nằm lăn dưới sàn nhà vẻ thích thú:
- Nghỉ một tí rồi mình dọn tới trên gác hả mẹ?
Tôi cũng nằm xuống cạnh con trai:
- Ừ, nhưng nếu con mệt thì cứ nằm chơi, để mẹ dọn, trên gác dọn nhanh thôi mà!
Nó xoay người qua ôm lấy tôi:
- Con thương mẹ quá, con không để mẹ vất vả một mình đâu!
Mắt tôi cay xè như sắp khóc khi nghe mấy lời con trai nói. Tội nghiệp, từ nhỏ nó đã phải chứng kiến mẹ một mình vất vả ngược xuôi, nó đã biết đỡ đần cho tôi từ khi còn rất bé.
Chồng tôi mất từ khi thằng Bin chỉ mới là cái bào thai vừa mới tượng hình trong bụng, anh mất mà chưa biết mình sắp sửa được làm cha, vì ngay cả tôi lúc đó cũng chưa biết mình mang thai.
Chồng tôi là con trai duy nhất của một gia đình giàu có ở một tỉnh lỵ ven Sài Gòn. Ba mẹ anh có đến bốn người con, nhưng hết ba người là gái. Đáng lẽ khi ba mẹ anh chết đi, mẹ con tôi cũng sẽ được hưởng phần thừa kế không ít của cải, nhưng chắc tại cái số tôi không may, thành ra mang tiếng con dâu nhà giàu mà khi ra đi chỉ có hai bàn tay trắng.
Hơn một tháng sau ngày chồng tôi ra đi đột ngột do tai nạn giao thông tôi mới biết mình mang thai. Nhưng lúc đó vì quá đau buồn, chán nản, tôi cũng không biết mình có sống nổi mà sinh con không nên không nói cho ai biết. Sau đó một thời gian, khi đã tạm ổn định thần và quyết sẽ sinh nở và nuôi dạy con anh thật đàng hoàng, tôi mới nói cho mọi người biết. Lúc nghe tôi thông báo thì các bà chị chồng tôi lại xa gần, cạnh khóe:
- Ba mẹ cần phải kiểm tra cho kỹ lại đó nghen! Coi chừng người ta thấy gia đình mình giàu có, nên đem con của ai về nói là con của thằng Út nhà mình cũng không chừng… Đời bây giờ nhiều trò lường gạt lắm… Thằng Út chưa bao giờ nói gì tới chuyện vợ nó có thai, mà hồi nó mới mất cũng có nghe người ta nói gì đâu, tự nhiên bây giờ nhà này lại sắp có cháu nội! Thật là lạ!
Ông cha chồng tôi cũng nghe theo nên căn dặn:
- Ba không có ý nghi ngờ gì con, nhưng để tránh mọi điều dị nghị, khi nào con sinh cháu ra, xét nghiệm ADN đàng hoàng rồi thì ba mới tính tới chuyện chia tài sản được. Mong con hiểu cho ba, ba làm vậy cũng là vì thằng Út nhà này, mà cũng là vì con nữa đó…

Tôi chỉ mỉm cười cay đắng chẳng nói gì.
Tôi được thuyên chuyển về tổng công ty ở Sài Gòn, nhân dịp đó tôi rời xa cái tỉnh lỵ đầy ắp kỷ niệm của chồng tôi, của những ngày tháng chúng yêu thương nhau, và cả của những tháng ngày chồng vợ, rời xa luôn gia đinh chồng, mà từ ngày anh mất đi, đối với tôi nó chỉ còn là cái địa ngục giữa trần gian khổ ải.
Tôi đi, mấy bà chị chồng thở phào nhẹ nhõm như đã trút được gánh nặng, đã nhổ được cái gai trong mắt. Còn ba mẹ chồng tôi cũng không can ngăn, không khuyến khích, chỉ dặn dò một câu duy nhât:
- Khi nào sanh cháu ra, cho nó xét nghiệm ADN rồi mang kết quả về, con nhé! Ba mẹ không thể nhận giọt máu bên ngoài, nhưng cũng sẽ bỏ bê giọt máu của mình, con cứ yên tâm đừng nghĩ ngợi gì…
“Đừng nghĩ ngợi gì!...” Câu nói nghe sao mà nhẹ nhàng đến vậy! Tôi có thể yên tâm sao? Có thể không nghĩ ngợi gì sao? Thật là buồn cười…
Tôi với gia đình nhà chồng cắt đứt mối dây liên lạc một cách rất chóng vánh và nhẹ nhàng như thế đó!
Ngày tôi sinh thằng cu Bin, bên cạnh tôi chỉ có mấy người bạn đồng nghiệp chứ không có thân nhân nào cả. Ba mẹ tôi mất lâu rồi, gia đình không còn ai ngoài những người bà con xa lắc, mà bây giờ nếu tình cờ gặp lại chúng tôi chưa chắc gì đã nhận ra nhau. Gia đinh chồng thì đâu có ai quan tâm tới tôi, tôi cũng chẳng báo tin lúc mình sinh nở. tôi cũng không đưa Bin đi xét nghiệm theo yêu cầu của gia đình bên nội nó. Tôi không cần tài sản, tôi không cần phải xét nghiệm làm gì, vì tôi biết nó là con của ai mà.
Hai mẹ con tôi bơ vơ từ đó.
Chín năm dài, tôi đã phải chống chọi với thật nhiều thử thách, và lần thử thách vừa rồi quả là trận đòn đau đớn.
Tôi đã bị lừa bởi chính người bạn gái thân thiết nhất, đã cùng tôi chia ngọt xẻ bùi biết bao năm… Thôi, cũng đành, coi như đó là tôi trả công ơn cho nó, những năm tháng cu Bin còn nhỏ, nó đã cùng tôi săn sóc, thương yêu thằng bé hết lòng…
Nằm bên cạnh con trai ở một nơi hoàn toàn xa lạ này, tôi thầm nhủ:
- Mình sẽ làm lại từ đầu… Sẽ bắt đầu làm lại từ hai bàn tay trắng… Ngày xưa mẹ mình đã từng dạy, còn người là còn của đó thôi. Mình phải kiên trì, phải cố gắng, vì đứa con thân yêu này, mình sẽ vươn lên không ngừng nghỉ…
Và bỗng dưng tôi nổi hứng, ngâm nga lại mấy câu thơ, điều mà lâu lắm rồi, từ ngày  chồng tôi mất đi, chưa bao giờ tôi thực hiện:
“Em sẽ học cách sống từ sợi cỏ
Kiên nhẫn vươn lên và xanh đến kiệt cùng…”
Thằng bé có vẻ rất ngạc nhiên, cứ len lén ngước nhìn tôi với vẻ thích thú lắm. Lát sau nó dụi đầu vào ngực tôi và nói:
- Mỗi ngày mẹ ngâm thơ cho con ngủ, giống như hôm nay, nhe mẹ?
Tôi ôm chặt con trai vào lòng, trêu ghẹo:
- Lớn già đầu rồi mà còn muốn được mẹ ru ngủ nữa sao con? Được rồi, mẹ hứa, hôm nào không quá bận bịu, mẹ sẽ hát hoặc ngâm thơ cho con trai mẹ ngủ nhé?
Thằng bé cười tươi:
- Nhưng con thích nghe mẹ ngâm thơ hơn…
Tôi cốc nhẹ vào đầu nó:
- Dám chê mẹ hát dở hén?
Hai mẹ con cười vang. Tôi vừa xoa nhẹ lên lưng con trai, vừa khe khẽ ngâm hết bài thơ này đến bài thơ khác. Tôi cũng không ngờ sau một khoảng thời gian dài như vậy, chưa khi nào nhẩm lại, thế mà tôi vẫn còn thuộc được rất nhiều bài…
Gió thổi hiu hiu làm hai mẹ con tôi thiếp đi lúc nào không biết.
- Mẹ ơi, dậy đi mẹ! Có cái gì trên gác kìa, mẹ với con lên xem đi!
Thằng Bin lay lay người khe khẽ gọi tôi.
Tôi nhướng mắt lên nhìn nó:
- Gì vậy con?
- Con nghe hình như có ai ở trên gác…
Thằng bé tỏ vẻ sợ sệt.
Tôi xoa đầu con mỉm cười:
- Con trai gì mà nhút nhát dữ vậy trời? Mẹ với con nằm đây, nhà đóng cửa kín mít thì ai lên gác được chứ? Chắc là chuột thôi con à! Ở trên đó đồ đạc lung tung như vậy, không là thiên đường của lũ chuột mới là lạ đó! Thôi, giờ hai mẹ mình dậy ăn trưa rồi làm việc tiếp hén?
Thằng bé hơi thẹn khi nghe tôi chê nó nhút nhát, nhưng rồi nó cũng chẳng nói gì, kéo tôi đứng lên, hai mẹ con vui vẻ dọn bữa trưa là món mì tôm nấu trứng.
Trên gác, ngoài căn phòng rộng rãi dành cho cu Bin, cạnh đó còn một phòng nữa nhưng nhỏ hơn, không biết hồi làm nhà người ta thiết kế như vậy nhằm mục đích gì, còn tôi, tôi nghĩ ngay tới việc đặt cái bàn thờ chồng tôi ở đấy.
Từ bao nhiêu năm nay, tôi vẫn biết mỗi năm đến ngày giỗ anh gia đình chồng tôi đều tổ chức linh đình, nhưng từ ngày rời khỏi nhà, tôi chưa một lần quay trở lại. Mặc kệ ai nghĩ sao thì nghĩ, tôi không quan tâm, tôi chỉ biết tôi vẫn một lòng với chồng với con là đủ.
Đến ngày giỗ anh, tôi làm một mâm cơm nhỏ, dắt con trai đến trước bàn thờ, dạy cho nó những câu để nguyện cầu, khấn vái. Mấy năm sau này thằng bé lớn hơn, nó không còn lặp lại lời tôi dạy một cách máy móc nữa, mà đã biết tự nói với ba nó những điều muốn nói.
Nhớ hồi năm vừa rồi, thằng bé bị tôi đánh một trận đòn nên thân vì cái tội bỏ sang nhà bạn chơi mà không xin phép, báo hại tôi một phen thất kinh hồn vía, nhờ người quen chạy tìm nó khắp nơi, mãi đến trưa nó mới lửng thửng về nhà.
Hôm đó đúng vào ngày giỗ chồng tôi. Tôi tức giận, kéo thằng bé tới quỳ trước bàn thờ anh, vừa đánh nó mà tôi vừa khóc ròng.
Thằng bé bị tôi đánh đau, mà cứ ôm lấy tôi:
- Mẹ ơi, mẹ đừng khóc nữa… Mẹ cứ đánh Bin thiệt đau cho mẹ bớt giận. Bin biết Bin có lỗi với mẹ, nhưng mẹ đừng khóc nữa…
Rồi nó lại hướng lên tấm ảnh của ba nó mà cầu nguyện:
- Ba ơi, ba dỗ cho mẹ nín khóc giúp con đi! Con hứa, từ nay con sẽ không làm cho mẹ buồn, mẹ khóc nữa. Ba dỗ mẹ nghe ba…
Ở trong góc phòng có một cái tủ nhỏ, tuy không còn mới nhưng vì được đóng bằng gỗ tốt nên sau khi được lau chùi sạch sẽ trông nó không tệ.
Tôi nói với con trai:
- Bây giờ mẹ đi xuống dưới nhà xách nước lên lau sàn. Con ở đây lôi hết các thứ trong tủ ra, rồi quét cho thiệt sạch. Mình sẽ dùng cái tủ này để làm bàn thờ cho ba con đó, được không con?
Thằng bé hí hửng:
- Dạ, mẹ để đó con làm cho, con sẽ lau thật sạch, bàn thờ ba phải thật sạch, đúng không mẹ?
Tôi xoa đầu nó rồi xách cái xô đi xuống dưới nhà. Lúc tôi trở lên không thấy thằng bé đâu, mà đồ đạc trong tủ thì còn bỏ dang dở.
Ngạc nhiên, tôi gọi lớn:
- Bin ơi… con đâu rồi? Bin ơi…
Không có tiếng trả lời, hơi lo nên tôi chạy sang phòng bên cạnh. Phòng này vẫn chưa dọn dẹp nên đồ đạc còn để lung tung. Nhìn quanh quất cũng không thấy thằng bé đâu, tôi hốt hoảng chạy trở xuống dưới nhà tìm khắp nơi từ trong bếp tới nhà vệ sinh vẫn không thấy.
- Bin ơi… Con đâu rồi? Đừng có đùa với mẹ như vậy nghe không? Con có trốn ở đâu thì ra mau lên, mẹ mà tìm được mẹ sẽ đánh đòn con đó!...
Xung quanh tôi vẫn lặng im. Tôi cuống cuồng, không biết phải làm gì lại chạy ào lên gác.
Cánh cửa tủ nãy giờ vẫn mở toang, đồ đạc còn lung tung, chứng tỏ khi tôi đi lấy nước, thằng bé ở lại soạn đồ trong tủ ra, vậy mà mới thoáng một cái, nó lại biến mất là sao?
Tôi đến gần bên chiếc tủ, bất ngờ trông thấy bàn chân nó ló ra. Tức giận điên cuồng, tôi định lôi nó ra đánh cho một trận, nhưng rồi tôi thật bất ngờ khi phát hiện nó đang say sưa ngủ.
- Tại sao có chuyện lạ lùng vậy trời?
Tôi đứng như trời trồng, lẩm bẩm một mình.
Thằng bé và tôi vừa mới ngủ một giấc dưới nhà lúc nãy. Mà cho dù nó có buồn ngủ đi nữa thì cũng không thể ngủ bằng cái kiểu này, ai đời lại chui vô cái tủ tối tăm hôi hám này mà ngủ, với lại tôi xuống nhà lấy nước rồi trở lên thời gian chỉ hơn năm phút, sao nó lại có thể ngủ một cách lạ lùng đến vậy?
Tôi nhẹ nhàng bế thằng bé về phòng, đặt nó lên giường và phát hiện trên tay nó có cầm một món đồ chơi lạ. Đó là một đứa bé trai được làm bằng sáp.
Tôi lại tiếp tục công việc của mình. Trong tủ, chỉ toàn là đồ đạc của trẻ con, chắc trước kia cái tủ đó dành riêng cho đứa bé con của chủ nhà. Ngoài mấy bộ quần áo, mấy quyển truyện tranh còn lại toàn là các thứ đồ chơi dành các trẻ em trai.
Tôi rất vui vì thấy các thứ đều còn mới, chắc thằng bé sẽ thích lắm đây. Vì thế tôi gom hết các thứ lại, lau sạch bụi bặm và để riêng vào một góc, còn những thứ không cần dùng đến tôi dự định sẽ dồn hết vào một góc nào đó hoặc đem đốt đi. Vì lúc giao nhà cho tôi, người bà con của chủ nhà có căn dặn:
- Chị về dọn dẹp, thấy cái gì còn xài được thì xài, không thì đem bỏ bớt giùm chứ để đó lâu ngày thêm gián chuột.
Khi tất cả đều gọn gàng, tôi đánh thức thằng bé dậy.
- Này, con trai, dậy đi! Chiều rồi, dậy mẹ dẫn đi một vòng quanh đây cho biết…
Tôi phải gọi đến lần thứ ba nó mới nhương mắt lên nhìn tôi một cách khó nhọc:
- Mẹ… mẹ gọi con?
- Ừ, dậy đi nào, con trai! Hôm nay con hư lắm nghen, đang làm giúp mẹ lại lăn ra ngủ, bỏ mẹ một mình, mẹ vừa làm vừa khóc hu hu vì buồn đó…
Tôi cười.
Nó dụi mắt rồi ngồi lên, vẻ mệt mỏi:
- Ủa… con đâu có ngủ? Con đi chơi với bạn mà. Bạn rủ con đi chơi và hứa khi về sẽ giúp con dọn dẹp… con đi chơi vui lắm, đang chơi thì nghe mẹ gọi…
Tôi tò mò nhìn gương mặt hí hửng của thằng bé:
- Con nói gì lạ vậy? Con đi chơi với bạn nào? Kể cho mẹ nghe với…
- Bạn ấy dẫn con đi chơi và bảo rằng sẽ giúp con làm quen với nơi ở mới. Bạn ấy dẫn con ra cái giếng tuốt ngoài sau vườn kia kìa, hai đứa con chơi vui lắm…
Nó hớn hở.
Tôi hơi lo:
- Con nói bạn nào? Bạn mới quen hay bạn con ở Sài Gòn?
- Không, bạn mới! Bạn nói nhà bạn cũng ở đây…
Thằng bé trả lời.
Tôi thầm nghĩ, có lẽ do tâm lý nên nó mới mơ màng như vậy nên thôi cũng không quan tâm lắm. Tôi đưa thằng bé xuống nhà tắm cho nó, rồi hai mẹ con dắt tay nhau ra đường.
Tuy nơi chúng ở rất vắng vẻ, nhưng chỉ đi một đoạn đường ngắn là đã ra tới chợ. Cái chợ tuy không lớn lắm nhưng cũng buôn bán khá nhiều mặt hàng.
Vì ở nhà không còn thức ăn, mà lúc này cũng đã chiều tối rồi, tôi quyết định dẫn con vào quán ăn phở trừ cơm.
Ăn xong, hai mẹ con đi dạo một vòng cho quen đường xá, mãi đến khi tối mịt mới quay trở về nhà.
Đứng từ ngoài đường nhìn vào, ngôi vẻ có vẻ hoang vắng, u ám quá! Tôi quyết định, nhân những ngày chưa nhận nhiệm sở sẽ cải tạo lại mảnh vườn. Trước hết, phải làm cho sạch đám cỏ xung quanh nhà, sau đó sẽ trồng rau cải và các loại bông hoa cho vui mắt.
Tối hôm đó mẹ con tôi ngủ thật ngon vì cả ngày bận rộn. Hừng sáng, thằng bé từ trên gác chạy xuống cười nói:
- Tối qua bạn tới chơi con, bạn ấy dẫn con đi chơi vui thiệt là vui…
- Vẫn là người bạn hôm qua sao con?
Tôi ngạc nhiên hỏi lại.
Thằng bé gật đầu:
- Dạ, bạn nói bạn tặng hết đồ chơi cho con, vì bạn không thích chơi nữa. Bạn chỉ thích nhất mỗi một con búp bê này, nhưng bạn cũng cho con luôn rồi đó mẹ!
Vừa nói thằng bé vừa đưa con búp bê sáp lên cho tôi thấy.
Tôi bắt đầu lo lắng.
- Con nói nhà bạn ấy ở đâu?
- Bạn ấy bảo nhà bạn ở đây. Cái phòng mà con ngủ chính là phòng của bạn ấy. Nhưng lâu lắm rồi bạn không được về phòng ngủ nữa…
Thằng bé trả lời.
Tôi ngạc nhiên:
- Sao lại không được về phòng ngủ? Thế bạn ngủ ở đâu?
Cu Bin lắc đầu:
- Cái đó… cái đó con không biết… Bạn không nói tới… Bạn dẫn con đi chơi, vui ơi là vui…
Tôi lo sợ và nghiêm mặt:
- Mẹ không thích nghe con nói tới những chuyện như vậy nữa, biết chưa? Con mơ ngủ hay con lại sinh thêm tật nói dối mẹ vậy? Mẹ ngủ dưới nhà, mẹ có mở cửa cho ai vào nhà đâu mà con bảo bạn con tới chơi?
Thằng bé xịu mặt:
- Con nói thiệt mà mẹ hổng chịu tin…
- Thôi được rồi, nếu là thật, khi nào bạn ấy tới, con bảo bạn phải xuống chào hỏi mẹ đàng hoàng nhé?
Tôi muốn chấm dứt câu chuyện hoang đwofng của thằng bé ở đó nên cắt ngang như thế. Sau đó hai mẹ con ăn sáng và ra vườn làm cỏ.
Trước khi bắt tay vào, tôi đi dạo một vòng quanh chu vi ngôi nhà, vừa đi vừa lấy một cây sào thật dài khua khua đám cỏ xung quanh vì sợ gặp rắn.
Thằng bé tung tăng đi trước, nó đưa tay chỉ về phía góc vườn và nói với tôi:
- Ở đó có cái giếng nước đó mẹ!
- Sao con biết?
Tôi quên khuấy câu chuyện nó kể nên ngạc nhiên hỏi.
Thằng bé nhìn tôi rồi nói nhỏ:
- Bạn dẫn con tới chơi mà…
Tôi sực nhớ và giật thót người, đi nhanh tới đó để xem lời nói của con trai có đúng sự thật hay không.
Quả thật, nơi đó có một cái giếng thật to, xung quanh giếng còn được tráng xi măng sạch sẽ, nhưng vì lâu ngày không có người lai vãng tới nên nền xi măng đã bị bao phủ bởi một thảm cỏ dày đặc.
Trống ngực tôi đập thình thịch. Tôi bắt đầu linh cảm thấy điều bất an đang xả đến với mẹ con tôi.
- Đi vào nhà, nhanh lên con!
Tôi kéo tay thằng bé đi như chạy.
- Ủa, mình không làm cỏ sao mẹ?
Nó ngạc nhiên hỏi lại làm tôi sực nhớ ra. Tôi đứng lại thở dốc một lúc rồi nói:
- Ừ, thì làm, nhưng mình bắt đầu làm từ bên trong ra con à…
Có lẽ thằng bé không thích công việc này, nó chỉ giúp tôi một cách chiếu lệ rồi cứ đứng lên đi bắt chuồn chuồn, châu chấu. Tôi cũng không ép con, nhưng cả ngày hôm ấy không lúc nào tôi dám rời mắt khỏi nó. Lòng tôi cứ nơm nớp sợ hãi, mà sợ hãi điều gì tôi cũng không biết rõ ràng.
Chiều tối, tôi đang nấu cơm dưới bếp thì nghe tiếng thằng bé cười hắc hắc một mình trên gác. Tò mò, tôi nhẹ nhàng đi lên xem thử có chuyện gì mà nó thích thú đến thế.
Nó đứng sát bên cửa sổ, một tay cầm con búp bê bằng sáp, một tay huơ huơ như đang đùa giỡn với người nào ở dưới sân. Tôi đi tới một bên mà nó cũng chẳng hay. Nhìn theo hướng nhìn của thằng bé, tôi hoàn toàn không thấy gì ngoài đám cỏ dưới bóng tối lờ mờ. Mắt tôi liếc nhìn về chỗ có cái giếng cũng không thấy gì lạ.
- Con làm gì thế?
Tôi lên tiếng.
Thằng bé giật mình quay lại, gương mặt vẫn còn ánh lên niềm vui:
- Con chơi với bạn…
- Bạn con đâu?
Tôi nghiêm giọng hỏi.
Nó chỉ tay xuống sân:
- Lúc nãy bạn đứng dưới đó, giờ thấy mẹ chắc bạn sợ nên về rồi…
- Con bảo nhà bạn ở đây cơ mà, bạn về là về đâu?
Tôi hỏi vặn lại.
- Không… Bạn nói nhà bạn ở đây, nhưng lâu rồi bạn không được vào đây ngủ mà, mẹ quên rồi sao?
Vậy là nó vẫn không quên những gì từng kể với tôi. Vậy điều đó là gì? Là do tâm thần con trai tôi có vấn đề hay ở đây có điều gì không bình thường vậy?
Tôi run rẩy đóng kín cửa sổ lại và nói:
- Từ nay con đừng mở cửa sổ này nữa nhé?
- Sao vậy mẹ? Con thích đứng đây ngắm cảnh lắm mà…
Thằng bé không vui.
Tôi dỗ dành:
- Lúc nào có mẹ, mẹ sẽ cùng con ngắm cảnh. Ở đây gió độc lắm, mẹ sợ con bị trúng gió, nên đóng cửa cho chắc ăn con à…
Thằng bé không dám cãi lại tôi nhưng có vẻ như nó không đồng tình với lời giải thích ấy. Mặc kệ, tôi cũng không biết làm sao. Cứ tạm thời vậy đi, rồi từ từ sẽ tính tiếp.
- Thôi, xuống dưới nhà chuẩn bị ăn cơm đi con!
Thằng bé theo tôi xuống thang gác, nhưng trông nó không được vui lắm. Tôi lờ đi, nói đủ thứ chuyện khác cho nó quên vấn đề không bình thường đó.
Ăn cơm xong, thằng bé không lên gác ngay mà vào phòng tôi nằm chơi. Tôi giữ lời hứa, vừa ôm con vào lòng để xoa lưng và ngâm thơ cho nó nghe. Mới đầu tôi cứ chọn mấy bài thơ vui, nhưng thơ vui thì tôi lại thuộc rất ít, nên đành ngâm cho nó nghe thơ buồn luôn vậy. Aáy thế mà thằng bé khen:
- Bài này mẹ ngâm mới hay…
Một lúc sau thằng bé ngủ khò trong vòng tay tôi. Rất nhẹ nhàng tôi bế con lên gác, buông mùng cẩn thận xong xuôi tối mới về phòng mình.
Chỉ còn bốn ngày nữa là tôi vào công ty để nhận việc. Tuy chưa chính thức đi làm, nhưng trước khi về đây, tôi đã được giao cho một số hồ sơ tài liệu để nghiên cứu trước một vài khía cạnh. Tối nay tôi cảm thấy thư thái nên lôi đống giấy tờ ấy ra và bắt tay vào tìm hiểu.
Say mê với công việc, đến lúc tôi sực nhớ ra thì đã hơn hai giờ sáng. Tôi che miệng ngáp dài rồi đứng lên dọn dẹp, tắt đèn đi ngủ.
Vừa mới mơ mơ màng màng, tôi nghe có tiếng chân đi rón rén từ trên gác xuống, cứ tưởng là thằng bé dậy đi tiểu, tôi lên tiếng:
- Sao không bật đèn để thấy đường mà đi, con?
Không nghe tiếng nó trả lời, tôi hơi ngạc nhiên lồm cồm ngồi dậy, đi ra ngoài với tay bậc sáng ngọn đèn ở giữa nhà. Cửa nhà tắm vẫn mở toang nhưng không có thằng bé trong ấy, nhìn quanh cũng không thấy nó, tôi lấy làm lạ bèn đi lên gác.
Trên giường, thằng bé vẫn đang ngủ ngon làng, thân người nghiêng qua một bên ôm chặt chiếc gối ôm mềm mại.
- Sao thế nhỉ?
Tôi vừa đi xuống nhà vừa lẩm bẩm.
Nhưng rồi nghĩ chắc do mình mớ ngủ nên tôi cũng bỏ qua, vào giường nhắm mắt định ngủ lại.
Vẫn giống y như lần trước, lúc tôi sắp chìm vào giấc ngủ thì tiếng bước chân kia lại nhè nhẹ vang lên. Tôi giật mình thức giấc nhưng vân nằm im không nhúc nhích, lắng tai nghe ngóng thử xem chính xác đó là tiếng gì.
Tiếng bước chân – đúng là tiếng bước chân đi khẽ tới trước cửa phòng tôi rồi dừng lại. Tôi hồi hộp, nửa muốn lên tiếng để phá tan cái không khí vắng lặng rợn người này, nửa lại muốn giả vờ như say ngủ để xem chuyện gì sẽ xảy ra.
Tôi kéo mền đắp ngang ngực, mắt mở to nhìn chăm chăm về hướng cửa phòng. Cánh cửa vẫn đóng kín im lìm.
- Cô ơi… giúp cháu với…
Tôi đang nằm trên giường mà cả thân người như muốn giật nảy lên vì nghe có tiếng nói trẻ con vang lên ngay bên cạnh. Ánh mắt tôi di chuyển theo hướng tiếng nói vừa mới phát ra, và trời ơi… phía dưới chân tôi có một đứa con đang đứng!
Mặc dù ánh đèn ngủ lờ mờ, nhưng cũng đủ để tôi nhìn được rõ ràng đứa bé đó là một đứa bé trai, trạc tuổi với cu Bin con tôi, nhưng nó hơi cao hơn một chút.
- Cô ơi… giúp cháu với…
Nó lặp lại câu nói đó một lần nữa.
Tôi run rẩy hỏi:
- Con… cháu… cháu là ai?
Nó không trả lời câu hỏi của tôi mà chỉ lấy tay giật giật một góc mùng và miệng thì không ngừng rên rỉ:
- Cô ơi… giúp cháu với…
Tôi quá hoảng sợ, hét to lên:
- Cháu nói đi, cháu là ai?
Trong tích tắc, thằng bé biến mất, nhưng chiếc mùng vẫn còn lay động bởi cái giật của nó vừa lúc nãy. Tim tôi đập thình thích, tôi ngồi hẳn dậy thở dốc và với tay bật sáng ngọn đèn bàn cạnh đó. Trong phòng tôi không có gì lạ, cả cánh cửa phòng từ đầu tới cuối cũng không hề nhúc  nhích!
Tôi đưa tay dụi mắt rồi nhìn quanh một lần nữa, mọi thứ vẫn bình thường.
- Trời ơi! Hôm nay đầu óc mình bị làm sao vậy nhỉ?
Tôi ôm đầu ngồi một lúc nữa rồi tắt đèn nằm trở xuống. Khi lưng vừa chạm xuống giường, tôi lại một phen hú vía, vì có cái gì đó dưới lưng tôi. Thì ra đó là chú búp bê bằng sáp, có lẽ lúc đầu hôm thằng bé mang xúông đây rồi vì ngủ quên mà bỏ lại. Tôi cầm con búp bê lên, kéo cái hộc trên đầu giường boe vào đó, định bụng sáng mai sẽ trả về cho thằng bé.
Tôi nằm xuống, hồi hộp không dám nhắm mắt, nhưng rồi không có gì xảy ra nữa, và tôi dần dần chìm vào giấc ngủ thật say.
- Tối qua ngủ có ngon không, con trai?
Tôi cất tiếng hỏi khi thấy thằng bé tung tăng từ trên gác xuống.
- Dạ, con ngủ rất ngon! Thế còn mẹ?
Thằng bé vui vẻ hỏi lại tôi.
Tôi ngập ngừng:
- Ừ… à…, mẹ thức làm việc, ngủ trễ, nhưng cũng ngủ rất ngon!
Tôi nói dối vì không muốn làm thằng bé sợ hãi.
Suốt ngày hôm đó hai mẹ con tôi lại tiếp tục dọn đám cỏ phía sau nhà. Đến lúc mặt trời sắp lặn thì khoảnh đất quanh nhà gần như đã được dọn sạch bong.
Tôi cảm thấy thật vui trước thành quả của mấy ngày lao động. Tôi chỉ cho con trai biết chỗ nào sẽ được trồng loại cây nào, và thằng bé rất thích thú khi nghe nói tới chuyện trồng trọt.
- Mẹ ơi, nhà mình không nuôi chó sao mẹ?
Nó hỏi, tôi chợt nhớ ra:
- Ừ, để thong thả rồi mẹ tìm cho con một con chó nhỏ nhé? Mẹ đã hứa với con rồi thì mẹ giữ lời mà, con đừng lo!
Ngày chuẩn bị về đây, tôi có hứa với cu Bin sẽ mua cho nó một con chó để làm bạn, suýt nữa tôi lại quên mất.
- Con trai ngủ ngoan, sáng mai dậy sớm, hai mẹ con mình đi chợ mua hạt giống về trồng, nghen con?
Vừa hôn lên trán con, tôi vừa nói.
Thằng bé nhổm lên hôn vào má tôi một cái rồi cười tít mắt:
- Dạ, mẹ cũng ngủ ngon!
Tôi mỉm cười tắt đèn rồi đi về phòng mình.
Đêm nay tôi không làm việc nữa mà lên giường nằm đọc sách. Cuốn tiểu thuyết đang đọc dang dở mấy hôm nay chưa đụng tới, tối nay tôi quyết đọc cho xong!
Nhưng mới đọc hơn mười trang thì hai mí mắt tôi nặng trĩu, không nhướng lên nổi nữa. Tôi thò tay ra tắt đèn rồi xoay mặt vào tường ôm gối ngủ. Cả hai mẹ con tôi đều có nết ngủ rất giống nhau như thế!
- Cô ơi… cô ơi… giúp con với, cô ơi…
Có tiếng gọi khe khẽ, tôi giật mình choàng tỉnh. Đưa mắt nhìn xuống chân giường, chỗ hôm qua tôi mơ thấy đứa bé xa lạ nào đó, nhưng không thấy ai, tôi còn đang hoang mang thì tiếng gọi của nó lại vang lên ngay bên tai tôi:
- Cô ơi… cô ơi… giúp con với, cô ơi…
Một khuôn mặt bé bỏng đang áp sát vào mùng, ngay sát mặt tôi.
Tôi hốt hoảng:
- Cháu là ai? Cháu cần gì?
Lúc này tôi biết chắc chắn không phải mình mơ màng mà là điều có thật! Nỗi sợ hãi khiến tôi gần như nằm bất động, không nhúc nhích được chân tay.
Đứa bé lại nói:
- Con… ở dưới giếng… cô giúp con với… cô ơi…
Tôi lắp bắp:
- Tại sao… sao cháu lại ở… đó?
Đứa bé không nói gì, chỉ nhìn tôi thật lâu, ánh mắt nó buồn thật buồn. Một lát sau nó nhẹ nhàng quay người đi ra. Tôi thấy rõ ràng nó đi về phía cửa, nhưng cánh cửa vẫn đóng im mà nó thì biến mất khi vừa tới đó.
Tôi tung vội mền ra, vì lúc này mồ hôi tôi đã đổ ra ướt đẫm. Tôi thấy mình tỉnh táo hơn bao giờ hết.
Tôi không dám ngồi dậy, chỉ nằm im một chỗ mà nhớ lại tất cả những sự việc từ hôm mới dọn về đây. Những câu chuyện kỳ quặc mà cu Bin kể với tôi là thật, “bạn” nó chắc chắn là đứa bé này đây. Và đứa bé này thì chắc chắn… không phải là người!
Càng nghĩ, tôi càng thấy lạnh toát cả người. Trời ơi, vậy là mấy ngày vừa qua, con trai tôi đã chơi đùa với ma sao? Liệu nó có bề gì thì tôi biết làm sao đây?
Hoảng hốt, tôi bật dậy và chạy ào lên gác, chui vô mùng ôm chặt lấy con trai. Đêm đó tôi ngủ luôn trên gác.
- Mẹ? Đêm qua mẹ ngủ với con à?
Cu Bin ngạc nhiên khi thức dậy thấy nằm cạnh bên tôi. Tôi vuốt tóc con mỉm cười:
- Ừ, tự nhiên mẹ thích ngủ với con quá!
Thằng bé thích thú ôm chặt lấy tôi và hôn lên trán tôi.
Hai mẹ con vừa đi chợ về thì nhà có khách. Đó là chú Tam, bà con xa của chủ ngôi nhà này, cũng chính là người bàn giao chìa khóa nhà và dặn dò mọi thứ lúc tôi mới tới.
Trông thấy chú, tôi reo lên:
- Chào chú Tam, cháu đang định đi tìm chú đây!
Chú Tam cười tươi, xoa đầu thằng Bin và hỏi:
- Sao, có chuyện gì cần đến chú phải không?
Tôi chưa vội trả lời mà mời chú vào nhà. Vừa bước vào trong, chú kêu lên ngạc nhiên:
- Trời ơi, hai mẹ con dọn nhà khéo thế? Chú không còn nhận ra nữa rồi nghen! Đúng là có chủ có khác! Từ bao nhiêu năm nay, ngôi nhà này lúc nào hôi hám, ẩm thấp, đồ đạc thì lung tung. Cháu mới dọn về có mấy ngày thôi mà mọi thứ đâu vô đó hết rồi, cháu thiệt là đảm đang quá!
Tôi cười:
- Chú quá khen! Cháu chỉ quét dọn một loáng thôi mà!
Chú Tam đi xem xét khắp nơi từ dưới nhà tới trên gác, chỗ nào chú cũng gật gù đồng ý. Nhưng khi vào tới căn phòng nhỏ trên gác, trông thấy bàn  thờ của chồng tôi, tự nhiên chú hơi khựng lại một chút.
- Có chuyện gì thế chú?
Tôi lo lắng hỏi khi thấy thái độ không bình thường ấy.
Chú lúng túng:
- À… ừ… không có gì… Chỉ là… nhìn thấy cái tủ này lại được dùng làm bàn thờ, chú bỗng chạnh lòng…
Tôi hồi hội:
- Bộ trước đây ở nhà này…
Chú Tam thở dài, mắt khẽ liếc nhìn thằng Bin nãy giờ vẫn lẽo đẽo đi theo tôi và chú. Hiểu ý chú Tam không muốn nói chuyện trước mặt trẻ con, tôi quay lại đưa gói hạt rau muống dặn cu Bin:
- Con ra vườn, chỗ mấy luống đất hôm qua mẹ nói sẽ trồng mau múông, con gieo mớ hạt này đi!
Bin mừng rơn:
- Mẹ cho Bin làm một mình?
Nó hỏi lại.
Tôi mỉm cười:
- Ừ, con làm một mình, con lớn rồi mà!
Thằng bé rất thích thú mỗi khi nghe tôi khen nó đã lớn. Cầm gói hạt giống trong tay, nó chạy vụt xuống đất.
Tôi nhoài người ra cửa sổ, chỉ trỏ hướng dẫn nó vài câu nữa rồi quay vào tiếp tục nói chuỵên với chú Tam.
Chú Tam lúc này đã ngồi bệt xuống sàn nhà, vẻ mặt buồn bã.
- Hình như trước kia ở đây cũng có một đứa bé trạc tuổi con trai của cháu, phải không chú?
Tôi rụt rè hỏi.
Chú Tam ngạc nhiên:
- Sao cháu biết?
Tôi chưa kịp trả lời thì chú tiếp:
- Thật buồn! Anh chị cả, chủ ngôi nhà này là người giàu có, cứ tưởng cuộc sống sẽ ấm êm hạnh phúc. Vậy mà… bất hạnh đã giáng xuống gia đình họ không thương tiếc.
Chú Tam nói xong câu đó rồi ngồi im, lâu lâu lại cất một tiếng thở dài.
Tôi tò mò:
- Chú có thể kể về gia đình chủ nhà cho cháu biết, được không chú?
Chú Tam nhìn tôi dò xét một lúc rồi nói:
- Ừ, có lẽ chú cũng nên cho cháu biết, kẻo không mai mốt những người quanh đây nói ra nói vào tam sao thất bổn, cháu lại hoang hoang.
Tôi đứng lên chạy sang phòng thằng Bin rót ly nước và mời chú Tam ngồi ghế. Chú cầm ly nước và bắt đầu kể với vẻ tư lự, buồn buồn:
- Hai vợ chồng anh Cả cưới nhau đã nhiều năm mà chỉ sanh được một đứa con trai duy nhất. Sau lần sanh nở đó, chị Cả được bác sĩ cho biết sẽ không còn khả năng có con được nữa. Thằng bé khỏe mạnh, thông minh nên cả nhà đều yêu mến và quên đi nỗi bất hạnh kia của người mẹ. Ngay cả chú đây, tuy là bà con xa, nhưng cũng thương thằng bé như cháu ruột của mình. Trong nhà, ngoài hai vợ chồng anh Cả và thằng bé, còn có nuôi một người giúp việc. Đó là một phụ nữ xinh xắn và giỏi giang. Người phụ nữ đó khi về giúp việc ở nhà này có dắt theo một cậu con trai cũng suýt soát với bé con của anh Cả.
Hai đứa bé nhanh chóng kết bạn và chơi thân với nhau, những người lớn cũng thương yêu cả hai đứa cùng một lúc. Họ sống những năm tháng thật hạnh phúc. Nhưng rồi tai họa lại ập tới vào năm thằng bé lên mười tuổi. Một ngày, tự dưng đứa bé con anh Cả mất tích. Cả nhà cuống cuồng đi tìm kiếm khắp nơi, mãi đến ngày hôm sau mới phát hiện ra một mảnh vải áo của nó bê bết máu trong cánh rừng đằng kia. Theo suy luận của mọi người, có lẽ đứa bé mải chơi nên đi vào rừng và bị thú dữ ăn thịt. Mặc dù việc này hiếm hoi lắm, vì rừng ở đây nhiều năm rồi không hề có dấu vết thú dữ. Nhưng dù sao thì đứa bé cũng không còn.
Chị Cả quá đau buồn thương nhớ con nên phát bệnh cuồng điên, anh Cả chạy thầy chạy thuốc dữ lắm mà vẫn không khỏi. Cái bệnh cuồng của chị cũng lạ lắm. Chị không la hét mắng chửi ai, chỉ khóc khóc cười cười và đêm nào cũng ngồi đốt nến, đốt hết cây nến này tới cây nến khác. Vừa nhìn những dòng sáp chảy xuống chị vừa khóc hu hu. Ban đầu anh Cả sợ chị làm cháy nhà nên không cho chị đốt, chị khóc dữ lắm, bỏ ăn bỏ uống, anh Cả đành chịu thua. Nhưng chị không gây ra tai họa cho ai, chị chỉ đốt thật nhiều nến rồi gom sáp lại làm thành một con búp bê, một đứa bé trai bằng sáp. Trước đây chị là nhà điêu khắc, nên con búp bê chị làm trông rất tinh xảo, nó có gương mặt của con trai chị.
Từ ngày có con búp bê đó, chị cả vui vẻ hẳn lên. Trong cơn điên của chị không còn tiếng khóc nữa. Lúc nào chị cũng ôm ấp nâng niu, hát ru cho nó ngủ, không ai có thể động vào được. Suốt ngày, chị hết cười đùa lại nói chuyện rì rầm với con búp bê ấy, như là đang nói chuyện với chính con trai mình vậy.
Anh Cả cũng mừng vì thấy chị có phần ổn hơn. Tức là không còn rên rỉ khóc than và thức thâu đêm suốt sáng nữa.
Chị Cả ăn uống, ngủ nghê rất đúng giờ,  nhưng có lẽ người điên thường có cảm giác nóng bức trong người, nên chị Cả ít khi nào chịu ngủ trong phòng, mà cứ len lén trốn ra ngủ bên cạnh cái giếng ở góc vườn.
Người phụ nữ  giúp việc ngày càng bận rộn hơn vì phải chăm sóc một người điên trong nhà, nhưng chị ta vẫn đối xử rất tốt, rất dịu dàng với chủ, ai ai cũng khen ngợi.
Nhưng không hiểu sao chị Cả cứ mòn mỏi dần dần rồi chết đi. Anh Cả đau buồn quá, mai táng vợ xong cũng bỏ nhà đi luôn, đi tuốt ra nước ngoài và ở luôn bên đó!
- Còn mẹ con người giúp việc?
Đột nhiên tôi hỏi câu đó mà không hề suy nghĩ.
Chú Tam đáp:
- Anh cả dẫn mẹ con họ theo luôn, vì anh bảo ở Việt Nam họ cũng không còn ai là thân thích, đưa sang bên đo để có người chăm sóc cho anh. Nhưng miệng đời thị phi, một dạo dư luận đồn ầm lên rằng, cô gái đó chính là nhân tình của anh Cả, và đứa bé kia là con của anh Cả với cô ta. Người ta còn độc mồm độc miệng đồn rằng, chính cô gái đó đã hãm hại mẹ con chị Cả để độc chiếm gia tài.
Tôi khẽ liếc nhìn chú Tam và hỏi:
- Theo chú nhận xét, khả năng đó có thể xảy ra không?
Bất ngờ trước câu hỏi thẳng thừng của tôi, chú Tam lúng túng:
- Ơ… ơ… theo chú thì… khó có thể xảy ra lắm, vì cô gái đó hiền lành lắm, cổ không làm mấy chuyện ác độc đó đâu…
- Trước kia ở đây sử dụng nước giếng phải không chú?
Tôi đột ngột hỏi một câu tưởng chừng như không ăn nhập gì tới câu chuyện đang nói nãy giờ.
- Lâu lắm rồi cháu ạ, hồi anh chị Cả mới về đây. Sau này, từ lúc chị Cả sinh con, ở đây có nước máy là cái giếng bị bỏ hoang luôn, đâu ai dùng tới nữa.
Chú Tam đáp.
- Chú à… lúc đứa bé mất tích, gia đình có tìm dưới giếng không? Có khi nào nó té xuống giếng không?
Tôi ấp úng hỏi.
Chú Tam ngạc nhiên:
- Sao tự nhiên cháu lại hỏi vậy? Lúc đó tuy không có người lặn xuống, nhưng anh Cả cũng đã cho người dùng cây khuấy tơi bời, mà có thấy xác chết nổi lên đâu. Cái giả thiết đó là không xảy ra cháu à, một thời gian sau khi đứa bé mất tích, cũng đâu có ai phát hiện xác chết nổi lên?
Và chú Tam nhìn tôi với vẻ nghi hoặc:
- Mà tại sao cháu lại quan tâm đến chuyện này vậy? Có gì không cháu?
Tôi cắn môi, do dự một chút rồi quyết định kể lại cho chú Tam hết mọi việc. Bởi vì tôi mới tới đây lạ nước lạ cái, không quen biết ai ngoài chú,k mà đứa bé kia cứ theo cầu cứu tôi hoài, tôi đang cần có người giúp đỡ để làm rõ mọi chuyện.
- Cháu… mấy hôm nay cháu gặp phải sự lạ… Nếu hôm nay chú không tới chơi chắc cháu cũng sẽ đi tìm chú.
Tôi ngập ngừng.
Chú Tam động viên:
- Có gì cháu cứ nói ra cho chú biết, để xem chú có giúp gì được cho cháu không?
Tôi gật đầu, kể:
- Lúc mới dọn về, ngày nào thằng bé con của con cũng mơ thấy một người bạn mới nào đó. Bạn ấy đùa vui với nó, và nói với nó rằng đây là nhà của bạn ấy, mà đã lâu rồi bạn ấy không được ngủ trong nhà. Sau đó, tới lượt cháu. Đã mấy lần cháu gặp cậu bé hiện về, hiện về lúc cháu còn thức, chứ không phải là trong giấc mơ chú ạ! Cậu bé ấy cứ van nài cháu phải giúp cho cậu, mà thật tình cháu khong biết phải giúp chuyện gì? Cậu bé cứ chỉ tay ra giếng và bảo mình ở đó… Chính vì vậy…
Tôi bỏ dở câu nói vì thấy gương mặt chú Tam đã tái xanh vì sợ hãi:
- Cháu… thật tình cháu đã thấy vậy sao?
Tiếng chú Tam run run.
Tôi gật đầu xác nhận:
- Dạ, rõ ràng cháu đã gặp cậu bé ấy. Mà cháu thấy, hình như nếu con búp bê bằng sáp đó ở cạnh ai, thì người đó sẽ trông thấy cậu ta…
- Con búp bê nào?
Chú Tam ngó sững tôi và hỏi.
Tôi đáp:
- Có lẽ là con búp bê do bà chủ nhà làm ra. Để cháu lấy cho bác xem nhé?
Vừa nói, tôi vừa chạy vội xuống dưới nhà lấy con búp bê đem lên đưa cho chú Tam.
Chú tam cầm lấy, trố mắt ngạc nhiên:
- Đúng rồi! Đây đúng là con búp bê do tự tay chị Cả đã nhào nặn nó bằng máu và nước mắt của mình. Chị ấy luôn giữ chặt nó bên người. Ngay cả tới lúc chết, tay chị vẫn còn nắm chặt con búp bê này không chịu rời ra. Chú nhớ rất rõ khi tẩn liệm, mọi người đã cố mở mấy ngón tay chị để lấy nó ra mà không được, cuối cùng anh Cả bảo cứ chôn chị như thế đi, đó là món đồ chị quý nhất thì hãy để chị mang theo… Thế nhưng… tại sao… tại sao cháu lại có được nó?
Tôi có cảm giác cái lạnh chạy dọc sống lưng. Giọng nói của tôi không giấu được sự run sợ:
- Cháu… là thằng bé nhà cháu tìm thấy trong chiếc tủ này!
Vừa nói, tôi vừa chỉ tay vào chiếc tủ thờ bên cạnh.
- Ở trong đó, cháu còn tìm thấy nhiều thứ đồ chơi khác, và cả mấy bộ áo quần nữa… Cháu còn để tất cả mọi thứ trong kia.
Tôi nói thêm.
Chú Tam ôm đầu nghĩ ngợi:
- Những cái kia không quan trọng! Quan trọng là vật này… Tại sao lại có chuyện lạ đời như vậy chứ? Chính mắt chú trông thấy chị cả được tẩn liệm cùng với con búp bê này trong tay mà?
Cả chú Tam và tôi cùng ngồi ngẩn ra, không biết phải làm gì, không biết phải lý giải sao cho phù hợp.
- Chú ơi… theo cháu nghĩ… có khả năng cái giếng kia…
Tôi ấp úng.
Chú Tam gật gù:
- Nếu cháu đã tận mắt thấy tai nghe đứa bé bảo nó ở dưới giếng thì có lẽ đã có vấn đề gì ở đó rồi…
- Bây giờ chú tính sao?
Tôi hồi hộp hỏi.
Liếc nhìn đồng hồ, có lẽ thấy còn sớm, chỉ mới tám giờ sáng nê chú Tam đứng lên và nói:
- Ngay bây giờ chú về nhà gọi người tới giúp.
Nói xong, chú Tam rảo bước xuống nhà và đi xăm xăm ra ngõ. Còn tôi, tôi chạy ào ra vườn, cùng với con trai gieo trồng hạt rau muống mà lòng thắc thỏm không yên.
- Trời ơi… hai mẹ con khốn khổ mới phải trôi dạt ra đây, nếu ở đây không yên ổn không biết sẽ phải tính sao nữa?
Tôi than thầm trong bụng.
Không lâu sau, chú Tam trở lại có dắt theo mấy thanh niên lực lưỡng và chở tới một chiếc máy bơm.
- Mẹ ơi, ông chú làm gì vậy mẹ?
Thằng bé thắc mắc khi thấy nhiều người tới vây quanh miệng giếng.
Tôi chưa kịp trả lời thì nó đã nói tiếp:
- Bạn con ở đó…
Tôi giật mình:
- Mấy hôm nay con có gặp bạn không?
Nó buồn bã lắc đầu:
- Dạ không, chắc tại mẹ không cho con gặp nên bạn ấy sợ…
Tôi đặt bàn tay dính đầy đất cát của mình lên bàn tay cũng lấm lem của con trai, dỗ dành:
- Không đâu, có lẽ bạn về quê hay sao đó con à!
Nhưng hình như nó không chú ý nghe tôi nói, mắt cứ dõi ra chỗ góc vườn. Cuối cùng không dằn được, nó xin phép:
- Mẹ cho con ra đó chơi với ông bác chút nghen?
Tôi lưỡng lự một chút rồi gật đầu và cũng đứng lên đi nhanh ra đó.
Mãi đến xế trưa hôm đó cái giếng mới được bơm cạn. Và không ai tránh khỏi kinh ngạc khi thấy rõ ràng dưới đáy giếng là một bộ xương trẻ con còn nguyên vẹn, bị cột chặt vào mấy tảng đá!
Chú Tam quỳ mọp bên thành giếng khóc nấc lên từng cơn.
Hài cốt của đứa bé lập tức được đưa lên khỏi giếng, và sau khi làm một số thủ tục, chú Tam đưa nó đi hỏa táng.
Ban đầu chú định đem hũ tro cốt của đứa cháu vô phước về nhà mình, nhưng tôi can:
- Xin chú hãy để tro cốt của đứa bé lại đây. Đây mới đúng là nhà của nó. Cháu sẽ thờ cúng thật đàng hoàng…
Suy nghĩ một lúc, chú Tam đồng ý:
- Thôi, cháu tính vậy cũng phải. Chắc cũng do duyên nghiệp nên nó mới chọn cháu là người để kêu cứu…
Tôi mỉm cười:
- Dạ, cháu cũng nghĩ vậy! Nhưng cháu chỉ cầu xin cậu bé đừng làm đảo lộn cuộc sống của mẹ con cháu. Như chú cũng biết rồi đó, cháu khổ lắm mới phải trôi dạt ra đây, xin cho mẹ con cháu được bình yên…
Chú Tam gục gặt cái đầu:
- Chú tin là thằng bé sẽ hiểu. Nó vốn là một đứa bé thông minh và rất ngoan ngoãn. Nó sẽ hiểu… cháu yên tâm đi!
Thế là từ đó, trên bàn thờ, bên cạnh di ảnh của chồng tôi còn có thêm hũ tro cốt của chú bé con chủ nhà, sát cạnh hũ tro cốt là con búp bê bằng sáp.
Chú Tam đã do dự nói với tôi:
- Chú không biết có nên báo tin này cho anh Cả biết không? Anh Cả năm nay đã lớn tuổi rồi, gần đất xa trời rồi, nghe nói cũng ốm đau luôn, nếu biết tin này chú sợ anh không chịu đựng nổi đâu cháu ạ…
Tôi ngập ngừng nói:
- Theo cháu, cứ để mọi việc ngủ yên… Đừng làm bác Cả nhớ lại những chuyện đau buồn, không giải quyết được gì mà còn làm bác ấy đau khổ nhiều hơn nữa…
Chú Tam lại hỏi tôi:
- Theo nhận xét của cháu, ai đã ra tay làm chuyện này?
Tôi nhìn chú thật lâu và nói:
- Hãy quên đi chú ạ! Đừng tìm hiểu nữa…
Chú Tam buồn bã gật đầu.
Đêm hôm đó, tôi mơ một giấc mơ lạ lùng: Đứa bé ấy nắm tay mẹ nó, một phụ nữ xanh xao ốm yếu đến bên cạnh tôi và nói:
- Cháu cảm ơn cô… Giờ thì cháu đi đây! Bao nhiêu năm qua, mẹ cháu vì cháu mà phải ở lại… Bây giờ hai mẹ con cháu đi đây…
Người phụ nữ nhìn tôi và mỉm cười. Hai mẹ con họ từ từ tan dần rồi mất hút.
Sáng hôm sau chú Tam mang đến một chiếc bài vị, và tôi choáng váng la lên:
- Thì ra… đứa bé này sinh cùng ngày tháng với thằng cu Bin!
Chú Tam nghĩ ngợi một lúc rồi nói:
- Chắc có lẽ chính vì điều này nên nó mới tìm đúng mẹ con cháu để nhờ giúp đỡ đó thôi cháu ạ…
Tôi gật đầu nói nhỏ:
- Có lẽ… có lẽ đó chính là cơ duyên huyền bí mà mình không sao lý giải được… Phải không chú Tam?
Hai chú cháu đang nói chuyện thì từ ngoài cổng có người đi vào. Tôi còn đang ngạc nhiên chưa biết người đó là ai thì đã nghe tiềng chào mời đon đả:
- Dạ, bác ơi, chị ơi… làm ơn mua giúp cháu mấy tờ vé số!
Chú Tam cười hề hề:
- Chuyện lạ à nghen! Tự nhiên hôm nay lại có người đem vé số vô tận ngôi nhà vắng vẻ này để bán? Để coi… để coi… Thôi, tui lấy mười tờ.
Quay sang tôi, chú Tam đưa cho tôi năm tờ và nói, nửa như giỡn chơi, nửa như thật tình ao ước:
- Nè, chú cho mẹ con bây năm tờ! Nếu may mắn trời thương, bây trả sạch nợ!
Tôi đưa tay nhận lấy mấy tờ vé số chú đưa cho, mặc dù trong lòng không có chút hy vọng nào, vì tôi vốn không quen với những trò đỏ đen, nhưng mắt tôi lại rưng rưng vì cảm động:
- Dạ, con xin cảm ơn chú!
Khi tiễn chú Tam về rồi, tôi đem năm tờ vé số cất kỹ vào túi hồ sơ đưng các loại giấy tờ quan trọng. Tôi không nghĩ tới chuyện trúng số, tôi chỉ muốn giữ gìn một kỷ niệm, một tấm lòng của ông chú xa lạ mới quen.
Chiều đó, lúc hai mẹ con đang ngồi ăn cơm, chú Tam hộc tốc chạy tới. Không kịp dựng xe, chú quẳng luôn cho chiếc xe ngã chổng kềnh giữa sân, chạy ào vào nhà, hấp tấp như một chàng trai trẻ:
- Đâu rồi? Vé số đâu rồi con? Tao nói… trời thương mẹ con bây mà… trúng độc đắc rồi con ơi!
Tôi chưa kịp có phản ứng gì, chú Tam đã hạ thấp giọng thì thào:
- Mà nè, đừng có la lớn nghen! Kẻ gian biết được thì nguy…
Tôi đứng nhìn sững chú Tam không tin được những gì chú vừa mới nói.
Tôi thật không ngờ, cuộc đời có biết bao điều không thể nào ngờ trước được! Số nợ khổng lồ tôi đã trả xong, nhưng tôi lại không muốn quay về thành phố.
Ở đây, tôi có nhiều kỷ niệm, tôi có được tình người bao la, về làm gì nữa…
Cuộc sống của mẹ con tôi trở lại nhịp điệu bình thường. Mỗi ngày tôi đưa con đi học rồi đến công ty làm việc. Gia đình tôi và gia đình chú Tam đã trở nên thân thiết lắm rồi. Chú thím nhận tôi là con nuôi. Và ở đây, thằng Bin con tôi lần đầu tiên được cất lên tiếng gọi “ngoại ơi” trìu mến…
Người ta nói “phước bất trùng lai” là chưa thật chính xác. Vì ở vào trường hợp của tôi, có rất nhiều may mắn đến gần như cùng trong một khoảng thời gian ngắn.
Gần một tháng sau ngày đem hài cốt đứa bé lên khỏi giếng, nhà tôi có khách lạ đến thăm. Đó là một thanh niên cao ráo, đẹp trai và nhìn có vẻ sang trọng lắm.
Vừa bước vào nhà, cậu ta ngó quanh quất một lúc rồi hỏi:
- Dạ xin lỗi chị, có phải… chú Tam đã giao nhà này cho chị trông coi?
Tôi ngạc nhiên nhìn người thanh niên và hỏi lại:
- Đúng rồi! Xin hỏi… anh là ai?
Người thanh niên mỉm cười chưa kịp trả lời thì có bóng chú Tam từ ngoài cửa đi vào. Chú cười nói:
- Ba xin giớùi thiệu với con, đây là là cậu Hải, đứa bé từng lớn lên trong nhà này mà có lần ba đã kể với con đó!
Rồi quay sang người thanh niên, chú Tam – mà giờ đã là ba nuôi của tôi nói:
- Còn đây là cô Mai, người mà lần trước bác có nói với anh Cả.
Người thanh niên xin phép đi một vòng quanh nhà. Sau đó khi trở lại phòng khách, anh ta nói với vẻ quan trọng:
- Hôm nay, tôi về đây là có việc muốn bàn cùng bác Tam và chị…
Tôi bắt đầu thấy lo lắng, vì sợ người thanh niên này sẽ đuổi mình ra khỏi nhà.
- Nhưng trước khi bàn đến chuyện chính, tôi xin được kể lại câu chuyện này. Đáng lý ra tôi chỉ kể với bác Tam thôi, nhưng hiện tại chị đã được bác nhận làm con nuôi và hiện chị đang sống trong nhà này. Bởi thế, tôi nghĩ chị cũng cần biết qua…
Người thanh niên dừng lại đưa mắt ngó quanh nhà. Hai cha con tôi đều hồi hộp, không biết chuyện anh ta sắp nói là chuyện gì.
- Tôi là con trai của ông Cả!
Người thanh niên đột ngột nói.
Ba tôi giật mình nhìn sững anh ta. Tôi tuy trước đó cũng mang máng nghĩ tới giả thuyết này, nhưng lúc này cũng không tránh khỏi bất ngờ.
- Ba và mẹ tôi đã có mối tình vụng trộm với nhau. Sau khi tôi ra đời, ba vì muốn ở cạnh tôi nên năn nỉ mẹ cố gắng nhẫn nhục về làm người giúp việc trong nhà để hàng ngày cả ba người được sống gần nhau. Vì thương ba, vì thương tôi nên mẹ đồng ý. Cuộc sống của mẹ con tôi trong nhà này cũng êm đềm lắm, vì má lớn là người nhân hậu, đối đãi với mẹ tôi như chị em trong nhà chứ không xem là tôi tớ. Nhưng mẹ tôi, vì thương cho tôi, thương cho cái sự thiệt thòi của tôi, cũng đồng là con mà tôi thì không có gì, còn anh tôi lại có tất cả. Chính từ lòng thương đó mẹ tôi dần dần trở thành ích kỷ và tàn nhẫn. Mẹ thề với lòng sẽ đem lại cho tôi những thứ mà anh tôi có.
Hôm đó, ba tôi vắng nhà. Má lớn bị đau đầu nên ngủ trong phòng, tôi và anh Mẫn – con của má lớn – chạy chơi ngoài vườn. Trong lúc hai anh em giành nhau đồ chơi, anh Mẫn đã xô tôi ngã làm tay tôi bị rớm máu.
- Mẹ ơi… anh Mẫn ăn hiếp con…
Tôi mếu máo chạy vào nhà mách mẹ. Mẹ cầm lấy tay tôi, thổi phù phù mấy hơi liên tiếp vào đó cho tôi bớt đi cảm giác nóng rát rồi dỗ dành:
- Không sao rồi! Không sao rồi… Con ngoan về phòng ngủ đi nhé, đừng chơi nữa, trời nắng lắm…
Tôi ấm ức vì không nghe mẹ bênh vực tôi và mắng mỏ anh Mẫn, nhưng tôi cũng nghe lời về phòng và ngủ ngay sau đó.
Trong lúc ấy, mẹ ra sau vườn tìm anh Mẫn, ngọt ngào:
- Trời nắng quá, chơi mệt chưa con? Dì đem nước mát cho con uống nè!
Anh Mẫn thích thú đón lấy ly nước mát từ tay mẹ tôi và uống một hơi cạn sạch.
- Aùo con dơ rồi kìa, để dì cởi ra thay áo khách cho con nghen?
Mẹ tôi vừa kéo anh Mẫn lại gần để cởi áo, vừa thủ thỉ nói chuyện với anh. Chưa đầy năm phút sau, anh Mẫn đã lăn ra ngủ say trong lòng mẹ tôi. Và lúc đó, mẹ tôi thực hiên hành vi tội ác của mình.
Trong lý nước mẹ tôi đưa cho anh Mẫn uống có pha một liều thuốc ngủ cực mạnh. Khi anh Mẫn đã ngủ, mẹ dùng tay siết thật cổ anh, đến lúc biết chắc anh không còn sống nữa thì mẹ đi tìm mấy tảng đó ở góc vườn, cột chặt anh vào đấy và mang thả xuống giếng.
Mẹ tôi lấy chiếc áo của anh Mẫn xé toang ra rồi đem nhuộm với máu gà, sau đó lén đem bỏ vào rừng để đánh lạc hướng, khiến mọi người nghĩ anh Mẫn bị thú rừng hại chết.
Vì quá đau đớn, má lớn tôi trở thành điên loạn. Nhưng một thời gian sau, tinh thần của má lớn hình như dần dần được hồi phục, đồng thời má lớn cứ suốt ngày rì rầm trò chuyện với một người vô hình nào đó, hỏi thì má bảo người đó là anh Mẫn. Má lớn lại thường xuyên ra ngồi bên cạnh bờ giếng, do đó mẹ tôi lo sợ mọi việc đổ bể. Đã phóng lao thì phải theo lao, mỗi ngày sắc thuốc Bắc cho má lớn uống, mẹ tôi bỏ vào đó một ít độc dược. Chất độc đó không giết người ngay lập tức, nhưng nó sẽ ngấm dần vào cơ thể, không lâu sau người bệnh sẽ kiệt sức mà ra đi. Má lớn tôi đã chết như vậy.
Sau đó, ba đưa mẹ con tôi ra nước ngoài, vừa để trốn tránh những đau thương, vừa để chúng tôi có thể sống công khai bên nhau mà không phải sợ người đời dị nghị dèm pha.
Mẹ tôi vui lắm, cứ tưởng sang bên đó sẽ được danh chánh ngôn thuận làm vợ của ba, nhưng ông trời có mắt, ông không cho phép mẹ tôi được hưởng hạnh phúc dù chỉ một đôi ngày.
Vừa đặt chân xuống sân bay là mẹ tôi ngã ra ốm nặng. Ba tôi nghĩ chắc mẹ chưa quen với khí hậu ở đó, hy vọng một vài hôm sẽ khỏi.
Rồi thì mẹ tôi cũng khỏi thật, nhưng không ngờ lại chuyển sang bị thần kinh! Mà bệnh thần kinh của mẹ tôi thật đáng sợ chứ không hiền lành như má lớn tôi dạo trước đâu! Gặp bất cứ ai, mẹ tôi cũng cào cấu, cắn xé hoặc mắng chửi vang trời. Không thể giữa mẹ lại trong nhà, ba tôi phải đưa mẹ vào nhà thương điên từ đó!
Hải ngừng kể thở dài, ánh mắt buồn rầu xa xăm.
Ba tôi kêu lên:
- Trời ơi… Té ra cô ấy đặt chân ra nước ngoài để sống trong nhà thương điên sao? Tôi không thể nào ngờ được sự việc lại ra đến nông nỗi đó… Rồi bao lâu sao bệnh tình cô ấy mới thuyên giảm?
Nghe câu hỏi của tôi, Hải cúi mặt kể tiếp:
- Bệnh của mẹ không hề thuyên giảm, dù ba đã chữa chạy khắp nơi, mời đến những bác sĩ tiếng tăm nhất. Nhưng rồi đột ngột mấy tháng trước mẹ trở lại bình tỉnh khác thường. Mẹ nhớ lại tất cả những chuyện xảy ra hồi còn ở Việt Nam. Ba tôi mừng lắm, lúc này ông đã già lắm rồi, chuyện xưa lúc nhớ lúc quên, nhưng vẫn biết sung sướng khi nghe tôi báo tin mẹ đã bình phục. Tôi đón mẹ về nhà với cha con tôi.
Mẹ rất vui khi được về nhà. Suốt buổi sáng mẹ cứ luôn tay dọn dẹp nhà cửa. Trưa hôm đó mẹ bảo tôi đừng đi đâu hết mà ở nhà, mẹ có chuyện cần nói. Mẹ đã tự thú với tôi tất cả những tội ác mà mẹ đã gây ra.
- Dù mẹ làm rất khéo léo, bao nhiêu năm qua vẫn chưa ai phát hiện được, nhưng con ơi, lưới trời lồng lộng, thưa mà không lọt được… Mẹ đã phải nhận lấy hậu quả những việc mình làm… Bây giờ… mẹ có linh cảm mẹ không còn sống được bao lâu nữa, mẹ chỉ có một ước nguyện sau cùng, con có thể thay mẹ thực hiện, được không con?
Mẹ tôi vừa khóc vừa nói. Nhìn những dòng nước mắt lăn dài trên gương mặt già nua khốn khổ của mẹ mà tôi đau lòng như ai cắt.
- Mẹ ơi, mẹ đừng nói thế! Bây giờ mẹ đã khỏe rồi, mẹ sẽ sống với ba và con… Mẹ muốn con làm gì con cũng sẽ làm cho mẹ yên lòng!
Tôi ôm chầm lấy mẹ.
Bà đây tôi ra, nhìn tôi thật lâu rồi quỳ sụp xuống lạy khắp bốn phương, vừa lạy vừa khóc lóc:
- Xin trời phật tha cho con trai tôi, nó là đứa vô tội. Tất cả mọi việc tôi làm nó không hề hay biết… Xin đừng làm gì tổn hại đến con trai tôi…
Khóc một hồi, mẹ quay về phía tôi dặn dò:
- Con hãy về lại quê hương, tìm vớt hài cốt anh con lên mà an táng cho đàng hoàng. Và hãy thay mặt mẹ, làm một bữa cơm cúng má lớn và anh Mẫn, xin hai người họ tha thứ lỗi lầm, mẹ nguyện sẽ đền tội, chỉ xin tha cho con thôi…
Mẹ cứ vật vã khóc than, đến khi tôi hứa sẽ thực hiện điều đó ngay thì mẹ mới nở nụ cười mãn nguyện.
- Thôi, con lên phòng nghỉ ngơi đi, mẹ tắm xong sẽ lên với ba con coi ổng có cần gì không?
Vừa nói mẹ vừa đứng lên đi vào phòng tắm.
Tôi về phòng mình, nằm nhớ lại những chuyện đau lòng mẹ vừa mới kể và thấy lo lắng cho quãng đời còn lại của mẹ biết bao.
Tôi vẫn còn nhớ như in cái ngày tang thương khi biết tin anh Mẫn bị thú rừng ăn thịt… Vậy mà… Tôi là con, tôi không có quyền lên án mẹ, nhất là khi mẹ vừa mới tỉnh trí sau nhiều năm điên loạn.
Hơn hai tiếng đồng hồ sau, tôi xuống nhà và tình cờ phát hiện mẹ tôi đã chết trong bồn tắm.
Theo kết quả pháp y, mẹ tôi chết do bị đột quỵ trong lúc đang tắm. Nhưng theo tôi, cái chết của mẹ còn có liên quan đến những vấn đề tâm linh thần bí khác nữa.
Bây giờ thì mẹ tôi đã được an táng, tôi trở về quê lần này là để thực hiện lời trối trăng của mẹ, đồng thời cũng muốn làm một vài việc riêng mình.
Hải kết thúc câu chuyện, ba tôi ngồi lặng đi một lúc thật lâu rồi đứng lên, nói:
- Cậu đi theo tôi!
Hải tỏ vẻ ngạc nhiên nhưng cũng không hỏi gì, chỉ đứng lên theo gót ba tôi và tôi lên gác.
Khi vào đến căn phòng nhỏ trên gác, Hải sửng người khi thấy trên bàn thờ là di ảnh của bà chủ nhà và bài vị của cậu con trai.
À, tôi quên không kể, thời gian gần đây, tôi đã đưa chồng tôi về thờ tại phòng con trai, để căn phòng đó thờ mẹ con bà chủ nhà.
Ba tôi chậm rãi kể lại cho Hải nghe toàn bộ sự việc diễn ra trong thời gian gần đây và cả chuyện tôi nằm mơ thấy mẹ con bà chủ nhà dắt tay nhau bay lên bầu trời cao rộng…
- Cháu có còn nhớ vật này không?
Ba tôi cầm con búp bê bằng sáp lên, hỏi Hải.
- Dạ… con nhớ chứ! Nhưng… tại sao?
Ba tôi lắc đầu:
- Bác cũng không biết tại sao! Nhưng thôi, mọi việc đến hôm nay coi như đã ổn thoả rồi, cháu Mẫn cũng đã siêu thoát rồi, mọi tội lỗi đã được phán xét, chúng ta không nên nhắc lại làm gì nữa… Từ hôm nay chúng ta hãy quên đi, nhé?
- Thưa bác, cháu có việc này cần thưa với bác và chị Mai…
Hải nói.
Ba tôi ngạc nhiên hỏi lại:
- Ủa, lại còn chuyện gì sao?
Hải lúng túng:
- Dạ… chuyện là thế này ạ! Mấy năm trước, khi nhận thấy sức khỏe mình đã sa sút, ba cháu đã trao toàn bộ tài sản lại cho cháu, trong đó có cả ngôi nhà này. Lúc chuẩn bị về nước, cháu đã nghĩ rất nhiều. Biết tội lỗi mẹ mình gây ra là rất lớn, dù có làm cách nào cũng không thể xóa được, nhưng cháu vẫn hy vọng và cố gắng làm tất cả để mong mẹ cháu được vơi bớt, linh hồn bà không phải bị đọa đày… Cháu dự định sẽ bán ngôi nhà này lấy tiền bảo trợ cho một trại trẻ mồ côi… Nhưng hôm nay, khi biết rõ mọi chuyện xảy ra ở đây, cháu muốn được tặng lại ngôi nhà này cho cô Mai… Ý của bác và cô thế nào ạ?
Tôi quá bất ngờ, và không thể tin những gì vừa nghe là sự thật nên cứ đứng trơ ra đấy.
Còn ba tôi, ông cười khà khà:
- Được quá đi chớ! Hổng phải vì nó là con gái nuôi của tao mà tao nói vào, nhưng rõ ràng mẹ con nó với gia đình này chắc hẳn kiếp trước cũng có liên quan gì với nhau đây, nên mới có những sự trùng hợp vậy. Cả hai đứa nhỏ cũng có cùng ngày tháng sinh…
Hải ngạc nhiên:
- Thật vậy sao? Quả là hiếm có! Vậy là coi như việc này xong, chị Mai nhé? Mong chị đừng từ chối tấm lòng của tôi. Chị ở lại ngôi nhà này, tôi nghĩ má lớn và anh Mẫn tôi cũng sẽ hài lòng lắm.
Hải ngừng lời một chút rồi mới nói tiếp:
- Còn tôi, khi trở về bên ấy, tôi cũng sẽ chuyển nhượng bớt các cơ sở làm ăn để bảo trợ lâu dài cho trại trẻ mồ côi ở quê mình.
Ba tôi gật gù:
- Thằng Hải mầy tính vậy là tốt lắm đó con! Nhưng… theo bác nghĩ, anh Cả tuổi đã cao, mà cuộc sống ở nước ngoài đối với ảnh làm sao bằng ở quê nhà được? Hay là… con coi đưa ảnh về quê hương, hổng chừng ảnh khỏe ra cũng nên.
Hải thở dài:
- Dạ! Quả thật ba con sống bên đó buồn lắm, suốt ngày loanh quanh trong bốn bức tường, mà con thì cứ đi suốt, đến ngay cả người nói chuyện cùng ba cũng không có. Nhưng…  nếu con đưa ba về đây thì…
Tôi lên tiếng:
- Anh cứ đưa bác về đây đi! Đây là nhà của bác, khi về lại nơi này chắc bác sẽ hạnh phúc lắm. Tôi tình nguyện làm người chăm sóc bác, anh đừng lo!
Hải nhìn tôi, do dự:
- Như vậy… như vậy có được không?
Tôi cười lớn:
- Được quá đi chứ! Tôi là con cái trong nhà mà!
Cả ba cùng cười vui vẻ.
Từ sau hôm đó, tôi và con trai chuẩn bị đón thêm một người đến ở cùng mình.
Tôi nói với con trai:
- Ông nội sắp về rồi đó con à!
Thằng bé hớn hở:
- Ô, thích quá! Con vừa có ông bà ngoại, lại sắp có ông nội nữa, thích quá đi!
Tôi lặng lẽ mỉm cười và cảm ơn cuộc đời đã mang đến cho mẹ con tôi những may mắn hiếm hoi như vậy!
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 15:34:53 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 22:13:07
NGƯỜI CANH NHÀ XÁC
 
Tôi trở thành người coi nhà xác một cách hoàn toàn bất ngờ. Một thằng con trai hơn hai mươi tuổi, sức vóc hơn người, quanh năm quần quật với những công việc nặng nhọc, đùng một cái lại đi làm cái nghề mà ai nghe qua cũng sợ. Điều đó ngay chính bản thân mình, nhiều lúc tôi cũng không dám tin.
Lâu nay tôi chơi thân với ông bạn già cùng xóm: Ông Tư! Ông ấy là người coi nhà xác của bệnh viện. Nghề này của ông là cha truyền con nối, nghe đâu từ thời ông cố của ông lận.
Đến đời ông Tư, nghề nghiệp không còn đơn giản như lúc trước nữa, mà nó đã thay đổi theo sự tiến bộ của xã hội.
Ngoài vịệc canh giữ những xác chết chờ thân nhân đến nhận về, hoặc chờ nhà nước có biện pháp nào đó với các xác chết vô thừa nhận, ông Tư còn kiêm thêm nghề trang điểm cho xác chết.
Trong số ít những nghề phải tiếp xúc với xác người như pháp y, vớt xác, trang điểm xác… thì coi nhà xác là nghề “sát” với tử thần ở tần suất cao nhất. Vậy mà ông bạn vong niên của tôi vừa coi nhà xác, vừa trang điểm xác, mới biết sự tiếp xúc của ông với thần chết gần gũi đến mức nào.
Chính vì chơi thân với ông mà lâu nay tôi đã ra vào nhà xác nhiều lần, mặc dù vẫn không sao quen được với cái phòng lạnh vắng vẻ rợn người, mùi tử khí quyện với mùi thuốc sát trùng bao trùm lên người đàn ông có gần hai mươi năm làm nghề giữ xác, nhưng tôi đã không còn quá sợ hãi như lần đầu đến đây với ông nữa.
Vì ông Tư là người độc thân, không vợ không con, và tôi cũng vậy. Và có thể vì lý do đó nên tôi là kẻ nối nghiệp của ông một cách bất đắc dĩ.
Lần đầu tiên tôi thật sự tiếp xúc với xác chết là cái lần tôi và ông đang nhậu lai rai ở căn phòng nhỏ xíu của ông ngay cạnh bên nhà xác. Lúc đó có mấy người chết do môït tai nạn giao thông thảm khốc mới được đưa vào, thân nhân chưa tới kịp nên ông Tư phải tiếp nhận đưa vào phòng bảo quản xác chết của mình.
Một mình ông với bốn xác người quả là vất vả. Ông loay hoay một hồi rồi gọi lớn:
- Ê, Thanh! Mau ra giúp tao một chút rồi vô nhậu tiếp mầy!
Lúc đó trong người đã có chút hơi men, nên dũng khí trong tôi bất chợt bốc cao. Tôi không ngần ngại mà xắn tay áo lên cùng ông Tư đem họ vào phòng, lau rửa, rồi đặt từng người vào mỗi ngăn riêng biệt có đánh số hẳn hoi.
Khi công việc xong xuôi, tôi và ông Tư vừa ngồi vào bàn nhậu chưa lâu thì thân nhân người xấu số tìm tới. Họ đau đớn, khóc than thảm thiết khi thấy người thân của mình chết mà không được toàn vẹn thi thể.
Một người phụ nữ không ngừng rên rỉ:
- Mẹ ơi là mẹ, khi còn sống, lúc nào mẹ cũng sợ mình già mình xấu, bây giờ mặt mày mẹ lại như vầy, con đau lòng quá đỗi, mẹ ơi!
Rồi sau đó, khi được sự chỉ dẫn của mấy cô hộ lý, thân nhân của người quá cố lại tìm gặp ông Tư.
- Chú làm ơn giúp giùm… gia đình chúng cháu rất mang ơn… Chúng cháu không nỡ để xác của người thân trong tình trạng này được chú ơi…
Người ta năn nỉ ông Tư ra tay giúp đỡ. Thế là mâm rượu của tôi và ông đành phải gác lại thêm lần nữa.
- Đi mầy, theo tao!
Ông Tư đứng lên, ra lệnh ngắn gọn cho tôi như vậy.        
Tôi lấy cái lồng bàn cũ mèm đậy lại mâm cơm rượu ăn uống dở dang, vừa lầm bầm vừa bước theo ông đi trở qua nhà xác.
Đến bên xác của một người quá cố, ông Tư giở tấm giấy che mặt ra nhìn lại một lần cho thật kỹ: hai con mắt lồi ra ngoài, gương mặt co dúm, dị dạng, phần trán đã bẹp lép, rạn, từng mảng sọ còn đọng những vết máu khô...
Ông Tư  ra lệnh cho tôi lấy rượu trắng lau lại người và gương mặt cho xác chết rồi bắt đầu lấy dụng cụ trang điểm.
Ông Tư dùng tay day day nhẹ vào mắt của người chết để cho đôi mắt khép hờ lại và vuốt những phần co dúm của gương mặt rồi thoa nhẹ một lớp phấn lên trên.
Tiếp đó, ông đánh một lớp phấn hồng khá đậm trên gương mặt tử thi và bắt đầu dùng son, bút vẽ tô lại những phần còn lại của môi, chân mày còn nguyên vẹn của người quá cố...
Khoảng ba mươi phút, việc trang điểm hoàn tất. Ông Tư xịt nước hoa khắp thân thể tử thi.
Lần lượt như thế với ba xác chết tiếp theo. Thời gian trang điểm lâu mau còn tùy thuộc vào xác chết đó có bình thường, nguyên vẹn hay không.
Phải thừa nhận, qua bàn tay trang điểm của ông Tư, gương mặt những người vắn số lúc này trông đã đỡ... kinh hãi hơn lúc đầu.
Ông Tư cho biết, trang điểm theo kiểu... cõi âm khác dương chút đỉnh nên mặt người chết được đánh phấn khá đậm và lông mày kẻ xếch lên như kiểu... hát bội.
Kể từ cái hôm đó, thỉnh thoảng rảnh việc, tôi thường tới chơi và giúp ông Tư một số việc liên quan đến xác chết.
Rồi một lần, người bà con xa của ông Tư ở tuốt dưới Cà Mau bệnh nặng có thể không qua khỏi, ông cần nghỉ mấy ngày để về đó viếng thăm.
- Giám đốc nghỉ còn có người thay, còn tao, cả cái bệnh viện này có ai làm thay công việc của tao được đâu mậy! Mầy thấy tao oách chưa?
Ông Tư cười khà khà nói với tôi như thế.
Rồi ông dụ khị:
- Mầy làm giúp tao mấy ngày nghe? Lâu nay tao cho mầy học nghề rồi mà… Công việc của tao chỉ có mầy là giúp được thôi đó con ạ!
Tôi giật mình phản đối:
- Thôi đi cha! Con không dám đâu, một mình con ở đây sợ ma bắt lắm!
Ông Tư ngó tôi rồi phì cười:
- Mầy nhìn lại mầy coi, có cái xác nào trong đây đủ sức oánh lộn với mầy không con?
Tôi cãi:
- Ông nói vậy chứ ma phải khác người, họ có sức mạnh phi thường!
Ông Tư ngạc nhiên kêu lên:
- Trời đất! Mầy mà cũng dị đoan dữ vậy sao?
Tôi cười:
- Chứ sao cha!
Bất chợt ông Tư thôi không cười nữa, ông nhìn tôi bằng ánh mắt không vui cũng không buồn, chỉ có điều nó thật xa vắng, mông lung.
Ông chậm rãi nói:
- Thanh à, mầy phải biết người chết cũng giống như người sống vậy thôi. Mà hổng chừng họ còn hiền hơn cả người sống nữa đó mầy! Mình ở đây lo bảo vệ, giữ gìn thân xác họ để chờ thân nhân họ đến đưa về an táng, sao họ lại làm hại mình kia chứ? Mầy phải tin vào điều đó con à!
Rồi ông nói thêm:
- Lâu nay mỗi lần mầy giúp tao, tao vẫn luôn âm thầm quan sát cách làm việc  của mầy, tao nhận thấy mầy rất có cái tâm, vì vậy tao rất yên lòng nếu mầy chịu nhận lời thay tao ít ngày…
Tôi vẫn lắc đầu quầy quậy:
- Không được, cha biểu con làm gì con cũng làm, chỉ riêng chuỵên này cho con xin, con không dám nhận.
Ông già buồn bã, không nài ép tôi nữa mà tỏ ra buồn bực, bứt rứt ghê lắm.
Tôi tò mò hỏi:
- Thì ông cứ xin nghỉ, chẳng lẽ bệnh viện họ không cho? Làm việc phải có nghỉ phép chứ cha?
Ông Tư gật gù:
- Đành là vậy, nhưng tao rất ái náy khi biết xin nghỉ phép là gây khó khăn cho bệnh viện…
Cuối cùng, tôi không sao chịu được cái ánh nhìn mênh mông xa vắng của ông mỗi khi nhắc tới người bà con đang hấp hối ở quê nhà. Lúc thức, lúc ngủ tôi đều bị ánh nhìn của ông bạn già ám ảnh.
Thế là sáng hôm sau tồi xồng xộc tới gặp ông:
- Cha nội lo thu xếp về quê đi, tui thế cho!
Ông Tư ngó sững tôi một lúc rồi bật cười ha hả:
- Tao biết ngay mà! Tao biết ngay mà!
Rồi ông Tư lên đường, lần đầu tiên tôi ở một mình nơi nhà xác quạnh hiu, lạnh lẽo.
Cũng may, hai ngày đầu không có chuyện gì cho tôi làm, cứ suốt ngày ra vào cho có.
Đến ngày thứ ba, ngày phép cuối cùng của ông Tư thì có việc. Một đứa bé qua đời do tai nạn giao thông, chưa có mặt thân nhân nên tôi phải nhận xác về bảo quản.
Mặc dù lúc này tôi cũng đã hơi thạo việc, nhưng thật sự khi làm việc một mình tôi vẫn cảm thấy sợ hãi không ít.
Tôi đón xác đứa bé về, rồi cũng làm đủ các thao tác như ghi chép vào sổ sách, lau rửa thi thể rồi để vào ngăn lạnh, rồi đeo bảng số lên ngăn… Nhưng lúc bế đứa bé đặt vào hộc ướp, cửa hộc khép lại, lòng tôi bỗng trào lên một nỗi thương tâm, nỗi thương tâm đó đã xua tan sự sợ hãi luôn đeo bám tôi từ lúc ôm xác đứa bé về.
Trong tiếng máy chạy xè xè của tủ ướp, tôi lại mở cánh cửa thép. Khói lạnh phun ra... Ở trong hộc, thi thể đứa bé được quấn vải trắng toát, nằm gọn gàng. Đó là một đứa bé trai cỡ sáu, bảy tuổi. Không biết khi cha mẹ nó hay tin sẽ đau đớn tới mức nào?
Tôi chạnh lòng khi nghĩ tới cảnh lát nữa đây cha mẹ đứa bé tới, những tiếng kêu khóc lại vang lên…
Và trong lúc đó, tự nhiên tôi lại ôm xác đứa trở ra, đặt nằm ngay ngắn lên bàn rồi bắt chước ông Tư, tôi lôi hộp đồ nghề trang điểm của ông ra và bắt tay vào trang điểm cho đứa bé. Tôi muốn lát nữa đây, gia đình nó sẽ bớt được phần nào thương tâm khi nhận xác con mình.
Khi mọi việc xong xuôi, tôi đặt đứa bé trở vào hộc ướp và cảm thấy lòng mình tràn ngập nỗi buồn.
Một sinh linh bé bỏng đã về bên kia thế giới. Ở bên ngoài, trần gian vẫn rực rỡ nắng vàng với dòng người xe nhộn nhịp.
Sau chuyến nghỉ phép của ông Tư, ông không ngừng rủ rê tôi để cuối cùng tôi chấp nhận nộp đơn xin vào đây làm việc cùng ông.
Đơn xin việc của tôi nhanh chóng được phê duyệt. Vì đúng ra bệnh viện này cần thêm người coi nhà xác đã lâu nhưng không tìm được. Vả lại ở đây mọi người đều biết tôi, và biết luôn việc tôi đã làm thế ông tư trong những ngày ông nghỉ phép.
Tôi trở thành người coi nhà xác từ đó.
Rồi hai năm sau ông Tư qua đời vì một cơn cảm nhẹ. Trong căn phòng nhỏ quạnh hiu cạnh bên nhà xác còn lại một mình tôi, ngày đêm tôi ra vào thui thủi.
Tôi đang ở tuổi thanh niên, nên không thể không có những cuộc vui cho bản thân mình.
Tôi quen Lan trong đám cưới của một người bạn. Lan là một cô gái xinh đẹp và dịu dàng, mới gặp lần đầu tôi đã choáng ngợp trước Lan.
Lan mở một tiệm may tại nhà và sinh sống bằng nghề đó.
Khi Lan hỏi thăm nghề nghiệp của tôi, tôi thật sự lúng túng và không dám nói thật với Lan tôi là người canh giữ nhà xác của bệnh viện mà nói loanh quanh, đại để là làm một chân bảo vệ ở bệnh viện. Lan cũng không hỏi gì nhiều thêm.
Quen nhau một thời gian không lâu, tôi tỏ tình và được Lan đồng ý. Khỏi phải nói cũng biết tôi vui sướng, hạnh phúc đến đâu rồi!
Nhưng sự đời quả thật có những điều không thể biết trước được! Do một sự tình cờ, Lan biết rõ tôi làm nghề canh nhà xác, thế là ngay lập tức Lan nói lời chia tay.
Tôi đau buồn vô hạn khi nghe Lan dịu dàng nói rằng:
- Em không thể tiếp tục đến với anh được nữa anh Thanh à, mong anh hãy hiểu cho em…
Tôi không thể chấp nhâïn, tôi hỏi Lan:
- Tại sao lại như thế hả em? Đó cũng là một nghề lương thiện mà?
Lan cười thật buồn:
- Đúng vậy! Em cũng biết đó là một nghề lương thiện, em không trách gì anh. Nhưng… em không thể chịu đựng được khi nghĩ tới cảnh đôi bàn tay đang ôm ấp vuốt ve mình đã từng ôm bao nhiêu xác chết, người đàn ông đang ngồi cạnh bên mình ngày đêm cận kề bên những tử thi vô thừa nhận… Em… em không chịu đựng nỗi anh à! Những hạnh phúc, những niềm vui thật sự không thể tồn tại được trước những lo sợ ám ảnh trong em. Em mong anh hãy hiểu mà tha thứ cho em…
Tôi buồn, buồn thật nhiều nhưng tôi không trách Lan, bởi vì em có quyền đi tìm cái hạnh phúc thật sự mà em cần, em có quyền đi tìm cho mình người đàn ông có thể đem lại cho em sự bình an, sự chở che chứ không như tôi, kẻ chỉ đem lại cho em nỗi sợ hãi, lo lắng và những ám ảnh nặng nề.
Thôi cũng đành, biết làm sao hơn, cũng đành chấp nhận nỗi đắng cay mà mối tình đầu đời mang lại. Tôi buồn và từ đó hầu như không thiết tha gì tới chuyện giao tiếp với người khác, nhất là những người khác phái.
Sau này, có lúc tôi tự hỏi, sao lúc đó mình không nói với Lan là sẽ bỏ nghề canh giữ xác chết để tìm lấy một nghề nào đó thật “sống” để được tiếp tục yêu em? Nhưng tôi đã tự trả lời cho mình rằng, canh giữ nhà xác lúc này hình như không còn là một cái nghề đơn giản để kiếm cơm nữa, mà nó đã trở thành cái nghiệp của tôi rồi, tôi không thể dứt nó ra khỏi cuộc đời mình!
 
***
Căn phòng nhỏ xíu nằm sát cạnh nhà xác hầu như không ai lui tới nhưng với tôi nó lại là nơi ấm áp thân quen. Và những tử thi vô tri vô giác kia dường như có mối dây liên hệ nào đó rất gần gũi với tôi. Có rất nhiều lần tôi tự mình trang điểm nhan sắc cho người chết không theo yêu cầu của thân nhân, mà là do tự lòng tôi cảm thấy cần phải thế!
Giờ đây tôi mới hiểu hết những gì trước đây ông Tư thường nói với tôi:
- Đã là con người thì ai cũng có nhu cầu làm đẹp mầy à, kể cả khi họ chết đi, chắc chắn họ cũng không muốn hình ảnh mình để lại không được đẹp trước mắt mọi người. Tao làm công việc này không phải vì tiền, mà là vì cái tình của tao đối với người đã khuất. Thôi, nghĩa tử là nghĩa tận, mình vất vả một chút có là gì đâu!
Hồi đó, khi nghe ông Tư nói vậy, tôi đã bật cười:
- Hèn gì người ta kêu cha nội là ông Tư “hâm”! Nếu như cha làm việc đó là vì tiền thì con còn hiểu nỗi, đằng này… thiệt hết biết!
Tôi nói câu đó, ông Tư không những không giận mà còn cười hề hề rót rượu vào đầy ly đưa cho tôi và nói:
- Người ta làm sao hiểu được tao hả mậy? Họ làm sao biết được xác chết cũng có tình…
Tôi nhìn ông Tư bằng ánh mắt giễu cợt, đưa ly rượu lên uống một hớp rồi cười:
- Cha ơi, cha say lắm rồi!
Ông Tư nhìn tôi thật trìu mến:
- Mầy ở đây với tao lâu ngày rồi mầy cũng sẽ nhận biết điều đó thôi con ạ!
Tôi cười vang:
- Tức là cha nội muốn nói, con mà tới lui chỗ này thường xuyên, thế nào con cũng hâm giống cha nội chứ gì?
Tôi và ông Tư, hai người bạn vong niên cùng bật cười vui vẻ.
Bây giờ thì tôi đã thật sự hiểu và cảm nhận được những gì trước đây khi ông Tư nói ra tôi cười vì cho là điên dại.
Khi đón một xác chết về, tôi cảm nhận rõ nỗi đau đớn mà người đó phải chịu đựng trước khi trút hơi thở cuối cùng, cảm nhận được nỗi dằn vặt của họ vì còn có những điều quan trọng chưa kịp giãi bày với người thân, cảm nhận được cả những buồn vui, sướng khổ của đời họ…
Và sau khi được tôi lau rửa sạch sẽ, tôi lại thấy họ như vơi đi những đau buồn, phiền não, họ có thể thanh thản hơn đôi chút để chờ đợi người nhà…
Cứ thế, cứ thế… cuộc sống của tôi trôi đi đều đặn và âm thầm như thế!
Tuổi trẻ của tôi đã qua đi, bây giờ tôi đã ngoài tuổi bốn mươi, tóc trên đầu đã có nhiều sợi bạc nhưng bên cạnh tôi vẫn chỉ là những xác chết, không một con người nào chia sẻ cùng tôi những nỗi vui buồn.
Đôi lúc tôi thèm lắm một không khí gia đình, thèm một bữa cơm đầm ấm bên cạnh một người phụ nữ hiền hòa và những đứa bé bụ bẫm xinh tươi…
Nhưng rồi tôi lại thở dài:
- Tất cả là do số phận!
 
***
 
Buổi tối trời mưa nặng hạt. Tôi từ bên nhà xác trở về căn phòng nhỏ, nằm một mình nghe tiếng mưa rơi mà dầu óc cứ nghĩ tới cô gái xấu số mới chết chiều nay.
Đó là một người con gái trạc tuổi hai mươi lăm, có nước da trắng mịn màng và gương mặt hao hao giống Lan, người yêu của tôi thời còn trai trẻ.
Cô gái bị tai nạn, khi người ta đưa vào phòng cấp cứu thì cô đã chết lâu rồi. Trong người cô không hề có giấy tờ tùy thân, nên việc tìm thân nhân cho cô không phải là đơn giản.
Cô gái chết mà mặt mày tươi tỉnh như đang say ngủ, không một vết trầy xước, không một giọt máu rơi ra, tôi thầm hỏi không biết cô có phải chịu đựng nỗi đau thể xác trước khi mất hay không? Tôi hỏi rồi chính mình lại trả lời, có lẽ là không, cái chết đến với cô nhanh quá, cô chưa kịp nhận ra thì nó đã xâm chiếm toàn bộ cơ thể cô rồi, thế nên gương mặt cô mới có thể tươi tắn như thế!
Tôi thẩn thờ trước thi hài của người xấu số, hộp đồ trang điểm trên tay tôi lúc này gần như trở thành vô dụng.
Nhưng cuối cùng tôi cũng quyết định tô thêm lên môi cô gái một lớp son, phủ nhẹ lên hai gò má cô một lớp phấn hồng, để vài gờ nữa đây khi người thân cô đến, cô vẫn đẹp, vẫn tươi trước mắt họ.
Vừa trang điểm cho cô gái, tôi vừa chạnh lòng thương cho thân phận của cô, một thiếu nữ đang giữa thời xuân sắc mà phải ra đi một mình lặng lẽ thế này.
Tự nhiên hai dòng lệ lăn dài bên khóe mắt, tôi chưa kịp đưa tay lên lau, nó đã rơi thánh thót xuống má của cô gái.
Trong tích tắc đó, tôi có cảm giác như ánh mắt cô sinh động hẳn lên, tròng đen dường như đang nhúc nhích. Tôi chớp mắt mấy cái, định thần nhìn kỹ lại thì thấy mọi việc vẫn bình thường, đôi mắt cô gái vẫn khép một cách hờ hững, không có dấu hiệu nào cho thấy vừa có một chút sự sống thoáng qua cơ thể cô.
Aáy vậy mà tôi cũng không tin hoàn toàn. Tôi cúi sát xuống để lắng nghe phía dưới vòm ngực đang nhô cao một cách thách thức kia có chút động tĩnh gì của quả tim hay không, tôi sờ tay vào mũi cô gái với hy vọng được cảm thấy một làn hơi nhè nhẹ phả ra.
Nhưng không, tuyệt nhiên không có bất cứ dấu hiệu nào của sự sống!
Tôi buồn bã đặt cô vào ngăn lạnh rồi làm các thủ tục tiếp theo sau.
Bây giờ, khi đã đặt lưng xuống chiếc giường quen thuộc của mình rồi mà tôi vẫn còn vương vấn không nguôi hình ảnh người con gái đó.
Tôi tự hỏi, cô gái đó tên là gì? Đang làm gì, nhà cửa ở đâu và hoàn cảnh thế nào? Cô vẫn còn độc thân hay đã có chồng con hoặc người yêu? Những người thân trong gia đình cô sẽ tiếp nhận hung tin này với thái độ nào đây? Bất ngờ sửng sốt hay thờ ơ lạnh nhạt, đau đớn cuống cuồng hay thầm lặng núôt nước mắt vào tim? Thật nhiều, thật nhiều những câu hỏi tôi tự đặt ra, nhưng không sao tự trả lời cho mình được.
Tôi ngồi lên tắt bớt ngọn đèn neon sáng chói, chỉ để lại một ngọn đèn ngủ vàng vọt nơi góc phòng.
Ngã lưng trở xuống giường, tôi cố xua đuổi hình ảnh người con gái xa lạ đó để tìm giấc ngủ cho mình.
Ngoài trời mưa vẫn rơi nặng hạt. Tiếng sấm chớp đì đùng, tiếng gió gào rú thê lương. Nằm trong nhà, nghe tiếng mưa rơi lộp độp trên mái, khi đều đặn, lúc nhặt lúc thưa, tôi có cảm giác như có rất nhiều người đang đuổi bắt nhau trên ấy.
Đầu óc tôi đang lơ mơ bỗng tôi nghe dường như lẫn trong tiếng gió mưa rú rít có tiếng đập cửa khẽ khàng.
Tôi tỉnh hẳn ngủ, ngồi lên bật đèn. Nhưng xui xẻo thiệt, bóng đèn chớp chớp mấy cái rồi vụt tắt.
- Tổ cha mầy, hết lúc đứt bóng rồi hả con?
Tôi vừa lầm bầm vừa lê bước ra cửa. Tiếng đập vào cửa vang lên nghe rõ mồn một.
- Ai đó? Ai khuya khoắt mưa gió thế này mà còn gọi cửa làm chi?       
Tôi cất tiếng hỏi.
Một tiếng nổ lớn như xé toạc cả bầu trời. Lẫn trong tiếng sấm dữ dội đó, tôi nghe có tiếng run rẩy của một người con gái:
- Anh… anh ơi… làm ơn mở cửa cho em với!
Tôi giật mình, ai đến đây giờ này? Ma ư? Không, không thể nào. Tôi đã ở đây hơn mười năm rồi, có thấy ma cỏ gì đâu?
Tôi mạnh dạn mở hé cánh cửa ra. Một làn gió lạnh buốt thổi thốc vào kèm theo sự ướt át của cơn mưa như trút hết nước xuống trần gian.
Một cô gái nhỏ nhắn lách mình nhanh vào bên trong. Trong ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn ngủ, tôi cũng đủ nhận thấy cô đang rét run lập cập. Mái tóc cô gái ướt nước, gương mặt và đôi môi tái xanh, đôi tay lóng ngóng như thừa thãi.
Tôi lùi vào, nhanh tay đóng chặt cánh cửa rồi nhắc ghế mời cô gái:
- Cô ngồi nghỉ, tôi lấy khăn cho cô lau nước, ướt át thế này lạnh chịu sao nỗi?
Vừa nói tôi vừa bước lại gần chiếc tủ nhỏ, lấy cái khăn bông to bản mới mua chiều hôm trước còn chưa kịp xài ra đưa cho cô gái:
- Cô lau tóc cho khô đi!
Cô gái riu ríu nhận lấy và làm theo lời tôi nói.
Tôi quay lại giường lấy cái mền đưa tiếp cho cô:
- Cô choàng vào cho ấm, nhà tôi không có quần áo nữ cho cô thay…
Cô gái ấp úng:
- Dạ… dạ không cần đâu! Em cám ơn… nhiều lắm!
Tôi ngồi xuống mép giường nhìn cô và hỏi:
- Cô đi đâu mà đêm hôm khuya khoắt thế này?
Cô gái cúi đầu lặng im một lúc mới nói:
- Dạ, em nghe tin chị em bị tai nạn, xác còn nằm ở đây, em định tới… để… nhận về!
Tôi giật mình:
- Vậy ra… cô gái kia là chị của cô à?
Cô gái ngước nhìn tôi, mắt long lanh sáng:
- Anh nói cô gái nào?
Tôi đáp:
- Chiều này tôi mới tiếp nhận một thi hài nữ chưa biết thân nhân, chết do tai nạn giao thông, trong người không giấy tờ tùy thân. Đó là chị của cô à? Sao cô biết vậy?
Cô gái nhỏ nhẹ:
- Thì… gia đình em căn cứ vào chiếc xe bị nạn mà đoán ra… nhưng em cũng cần nhìn thấy mặt chị mới xác nhận được.
Tôi gật gù:
- Ừ đúng rồi đó!
Lúc này mắt tôi đã quen với ánh sáng lờ mờ, tôi chợt nhận ra nét mặt hao hao giữa xác chết bên kia và cô gái đang ngồi cạnh bên tôi.
Tôi nói:
- Cô rất giống cô gái đó!
Người con gái tỏ ra lúng túng:
- Dạ… tụi em là chị em song sinh với nhau!
Tôi khẽ kêu lên:
- Hèn gì càng nhìn càng thấy giống! Nhà cô ở đâu mà biết tin sớm vậy?
Cô gái dường như không thiết tha tới chuyện trả lời câu hỏi của tôi:
- Dạ, cũng gần.
Tôi nhìn qua kính cửa sổ thấy mưa vẫn chưa tạnh nên nói với cô:
- Cô ngồi chờ chút, khi nào trời tạnh mưa, tôi sẽ dẫn cô qua đó để nhìn mặt chị cô nghen?
Cô gái đáp nhỏ:
- Dạ!
Tôi hơi lâùy làm lạ trước thái độ của cô gái nhưng cũng không nói gì.
Đột nhiên tôi nhận thấy cô gái ngồi trước mặt mình đang run lên bần bật. Tôi hốt hoảng hỏi:
- Cô… cô bị làm sao vậy? Tôi đưa cô sang bệnh viện nhé?
Cô gái vội vã xua tay, mắt nhìn tôi như cầu khẩn:
- Em không sao đâu, chỉ bị lạnh chút thôi mà, chút nữa sẽ khỏi, anh không cần đưa em qua bên đó làm gì, em sợ lắm…
Tôi ngạc nhiên:
- Sợ? Cô sợ gì?
Cô gái ấp úng:
- Em sợ… bệnh viện! Sợ cái mùi của bệnh viện…
Tôi phá ra cười ngặt nghẽo:
- Ha ha ha… một người sợ bệnh viện lại tìm tới nhà xác vào lúc đêm tối gió mưa… cô thật là khác người!
Bỗng nhiên cô gái bật khóc nức nỏ làm tôi không tránh khỏi hoảng hốt:
- Cô… sao vậy? Tôi nói gì không phải à? Thôi, cho tôi xin lỗi nếu đã lỡ lời nghen?
Cô gái không nói gì chỉ ngồi đó không ngừng thút thít.
Lúc này thì tôi bối rối thật sự. Khi khổng khi không, đang đêm có một người con gái tới phòng mình ngồi khóc rấm rứt, đèn trong phòng lại không cháy sáng, nếu lỡ ai vô tình bắt gặp cảnh này, dẫu tôi có kêu oan đến đâu cũng chẳng ai tin tôi là người trong sạch.
Nghĩ vậy nên tôi tìm cớ đi ra ngoài:
- Cô ngồi đây nghen, tôi đi… mua thuốc hút!
Cô gái đột ngột đứng lên:
- Dạ, em không làm phiền anh nữa, em về đây!
Tôi ngạc nhiên:
- Ơ kìa…! Cô… cô không ở lại xem mặt coi có phải chị mình không sao?
Cô gái quay lại nhìn tôi với nụ cười héo hắt:
- Dạ thôi đi, dù sao cũng tới sáng mới làm thủ tục được, chỉ tại lúc nãy em nôn nóng quá… em về đây, xin cảm ơn anh!
Ngoài trời vẫn còn mưa, tôi không dám cầm chân cô gái ngồi nán lại, nhưng cũng không đành lòng để người con gái nhỏ bé yếu đuối thế này dầm mình trong mưa lạnh. Tôi đi vội vào trong lấy chiếc áo mưa đưa cho cô gái:
- Cô mặc áo mưa vào mà đi về, không thôi cảm lạnh là nguy lắm đó!
Cô gái thoáng một chút do dự nhưng cuối cùng cũng đưa tay nhận lấy chiếc áo tôi trao.
Cô lí nhí nói:
- Cảm ơn anh!
Nói xong, cô gái trùm áo mưa lên người và bước vội ra ngoài.
Tôi đứng bên thềm nhà nhìn theo cái dáng nhỏ liêu xiêu dần khuất dưới làn mưa mù mịt.
Lát sau tôi đóng cửa quay vào giường ngủ, nhưng vừa đặt lưng nằm xuống thì lạ lùng thay, bóng đèn neon đột ngột sáng lên.
Tôi không khỏi càu nhàu khi ngồi dậy tắt đèn, lúc đó tôi nghĩ chắc do nó bị lỏng con chuột nên lúc nãy không cháy được!
Sáng hôm sau, tôi chuẩn bị sẵn giấy tờ để làm thủ tục giao thi hài của cô gái xấu số hôm qua, bởi tôi nghĩ thế nào cô gái lúc tối cũng sẽ quay lại sớm nhất.
Nhưng tôi chờ từ sáng tới trưa, rồi từ trưa tới tối vẫn không thấy một ai đến liên hệ. Quá đỗi ngạc nhiên, nhưng tôi cũng không biết làm gì hơn là chờ đợi tiếp.
Đêm hôm ấy trời quang mây tạnh, tôi không ngồi trong căn phòng chật chội của mình mà bắc ghế ngồi chơi ngoài sân.
Một bóng người đi dần về phía tôi. Vừa trông thấy, tôi đã nhận ra đúng là cô gái tối qua đã đến nhà tôi.
- Sao mãi tới giờ này cô mới đến? Tôi trông cô cả ngày nay.
Cô gái tự nhiên ngồi xuống chiếc ghế trống cạnh bên tôi, nhỏ nhẹ nói:
- Tôi… đêm qua về tôi bị cảm, không thể ngồi dậy nổi!
Tôi cáu:
- Thế mà chị em song sinh à? Cô bị cảm vậy còn những người thân khác của cô đâu? Sao không nhờ ai tới đem chị cô về?
Cô gái đầu cúi thấp, cất giọng run run:
- Tôi… chúng tôi không có ai là thân nhân…
Tôi ngạc nhiên:
- Cô nói sao? Không có ai là thân nhân à? Các cô mồ côi sao?
Cô gái tay vân vê cái gói nhỏ cầm trên tay đáp khẽ:
- Dạ, cũng gần như thế!
Rồi đột ngột, cô gái ngước lên nhìn tôi, cặp mắt ướt rượt, long lanh như sắp khóc:
- Anh… có thể giúp em được không?
- Giúp cô? Cô muốn tôi giúp chuyện gì?
Tôi hỏi lại.
Cô gái cắn nhẹ vành môi như có vẻ đắn đo, một lúc sao mới nói với giọng nhát gừng:
- Em… muốn nhờ anh chôn giùm xác chị em!
Tôi giật thót người:
- Cô nói sao? Chôn chị cô à? Trời ơi… cô ơi… tôi làm sao chôn được? Tôi không có tiền, cũng không có đất, tôi biết chôn chị cô ở đâu đây?
Cô gái nói nhanh:
- Anh yên tâm đi, em sẽ đưa cho anh một số tiền để lo hậu sự cho chị giúp em…
- Nếu có tiền, sao cô không nhờ bên dịch vụ họ làm cho?
Tôi ngạc nhiên.
- Em… bởi vì em muốn chị em được đưa tiễn bằng một người có tâm, có tình như anh!
Cô gái buồn buồn nói.
Chuyện này quả thật khiến tôi lúng túng. Nhưng trước ánh mắt van lơn tội nghiệp của cô gái tôi không thể chối từ, tôi đành phải nhận lời và nói:
- Thôi được, sáng sớm ngày mai cô đến làm thủ tục nhận xác, xong đâu đấy tôi sẽ giúp cô lo hậu sự cho chị cô.
Cô gái lặng lẽ đặt cái gói nhỏ cầm trên tay vào tay tôi:
- Em gởi trả anh chiếc áo mưa tối qua, cùng với một số tiền nhỏ, rất mong anh giúp đỡ… Nhưng… sáng mai em không thể tới được anh à!
- Tại sao?
Tôi quá đỗi ngạc nhiên trước hành tung kỳ quặc của cô gái.
- Em… em không thể nói được, nhưng không thể… mong anh hãy cố gắng giúp em…
Cô gái nhìn tôi cầu khẩn.
Tôi bực bội:
- Rồi tôi lấy danh phận gì để đứng ra lo hậu sự cho chị cô? Thiệt tình tôi không sao hiểu nổi chuyện này…
Cô gái vụt khóc òa rồi chạy nhanh ra cổng khiến tôi bất ngờ đến ngơ ngẩn cả người, không kịp chạy đuổi theo hoặc gọi cô một tiếng.
Tôi thở dài mở cái gói cô gái đưa khi nãy. Trong gói là chiếc áo mưa của tôi được gấp cẩn thận, cùng với một gói nhỏ khác nữa. Tôi mở cái gói nhỏ ra thì giật mình kinh hãi vì bên trong là một xấp tiền mệnh giá lớn nhất, độ chừng có đến mấy chục triệu bạc.

Tôi là một người nghèo, cả đời chưa khi nào cầm trong tay số tiền lớn đến như vậy nên tôi đâm ra sợ hãi. Đầu óc tôi nghĩ tới những chuyện đen tối đâu đâu…
Vì vậy, tôi không dám cất giữ số tiền đó trong người mà vội vã qua bệnh viện báo cáo toàn bộ sự việc.
Mọi người đều ngạc nhiên không khác gì tôi. Người ta làm biên bản cất giữ số tiền đó, rồi chờ đợi thêm mấy ngày nữa vẫn không thấy ai tới nhận thi hài cô gái, lãnh đạo bệnh viện quyết định tìm nơi an táng cô gái. Và việc đó họ giao cho tôi lo liệu.
Khi mọi việc đã xong xuôi, cô gái xấu số giờ đây đã được mồ yên mả đẹp tôi cũng thấy lòng nhẹ nhõm rất nhiều.
Chuyện đó cứ tưởng sẽ chìm dần vào quên lãng, không ngờ một đêm cách đó quãng hai tuần, tôi đang mơ màng ngủ thì lại nghe có tiếng gõ cửa rụt rè.
- Ai đó?
Tôi vừa lồm cồm ngồi dậy vừa cất tiếng hỏi.
- Dạ em…
Giọng nói nhỏ nhẹ quen thuộc của cô gái làm tôi giật mình. Tôi vội vã mở cửa.
- Cô vào nhà chơi!
Vừa nói tôi vừa với tay bật công tắc đèn nhưng lại một lần nữa đèn không chịu cháy!
Ánh trăng sáng vằng vặc chiếu rọi khắp nơi. Tôi đành phải nhắc hai chiếc ghế ra sân ngồi nói chuyện cùng cô gái.
- Cô đi đâu mà tới hôm nay mới trở lại? Việc hậu sự của chị cô tôi đã lo xong…
Cô gái cắt ngang lời tôi:
- Em biết, chính vì vậy nên em mới tới để cám ơn anh. Thật sự em rất mang ơn anh…
Tôi không nói gì chỉ chăm chú ngồi nhìn cô gái. Càng nhìn càng thấy rõ sự giống nhau giữa hai chị em cô. Gương mặt cô lúc này cũng rạng rỡ tươi vui giống như gương mặt chị cô lúc vừa chết vậy!
- Tôi thật sự không hiểu… cô thương yêu, lo lắng cho chị mình như vậy sao cô không hề có mặt trong đám tang? Sao cô không nhìn chị mình lần sau cuối? Có nỗi khổ gì xin cô nói ra cho tôi biết…
Nghe tôi hỏi, cô gái im lặng hồi lâu mới từ từ ngẩng lên hỏi lại tôi một câu không ăn nhập gì tới chuyện tôi và cô đang trao đổi:
- Anh làm nghề này đã lâu, chắc anh không biết sợ ma?
Tôi bật cười:
- Cô đừng nói với tôi vì sợ nên cô tránh xa chị cô nghen? Bởi vì nếu cô sợ đến mức đó thì chắc chắn cô không bao giờ dám léo hánh tới khu vực này dù là giữa ban ngày chứ nói chi ban đêm như vầy!
Cô gái dường như không nghe những lời tôi nói, cô nhìn tôi và lặp lại câu hỏi:
- Anh có sợ ma không?
Tôi không cười nữa mà ngó cô đầy thắc mắc:
- Không! Tất nhiên là tôi không sợ rồi! Làm cái nghề này mà sợ ma thì sao làm được hả cô?
Cô gái khẽ cười rồi nói tiếp:
- Nếu như em nói… em là ma thì anh sợ không?
Tôi lại bật cười lần nữa:
- Ha ha ha… không ngờ cô vui tính thiệt! Cô định nhát tôi chắc?
Cô gái không cười mà nét mặt trở nên nghiêm trang, ánh mắt buồn rười rượi:
- Không… em nói thật, em là ma…
Nụ cười vụt tắt trên môi tôi. Một cái gì nghẹn cứng trong lồng ngực khiến tôi không thể xác định được cảm giác của mình lúc đó ra sao nữa. Tôi lắp bắp:
- Cô là… là ma?
Cô gái khẽ gật đầu:
- Dạ… em chính là người con gái xấu số mà anh vừa giúp an táng…
Một thoáng lạnh dọc sống lưng, nhưng rồi tôi lập tức lấy lại bình tĩnh.
- Cô chính là cô gái đó?
- Dạ!
Cô gái vẫn nhỏ nhẹ
- Sao cô không về báo tin cho gia đình mà lại nhờ tôi giúp đỡ?
Tôi hỏi.
Cô gái rưng rưng:
- Em đã nói với anh rồi, em không còn ai là người thân thích trên đời này…
- Nhưng sao cô lại chọn tôi?
Tôi vẫn chưa hết thắc mắc.
Cô gái nhìn tôi một lúc rồi mới chậm rãi nói:
- Em chọn anh vì hai lẽ: Thứ nhất, anh là người làm việc ở đây, mọi thủ tục sẽ dễ dàng hơn, anh cũng không sợ chuyện dính líu tới xác chết. Thứ hai, anh là người có tâm và có tình. Lúc anh trang điểm lại cho em, lúc giọt nước mắt thương tâm của anh rơi xuống mặt em, em đã biết anh đúng là người em cần…
Cô gái im lặng một lúc nữa rồi nói như thủ thỉ:
- Cả đời em sống trong bơ vơ buồn tủi, nhưng em vẫn ráng cố gắng vươn lên, cố gắng sống thật tốt, thật tươi vui để được cuộc đời đáp lại cho mình điều đó! Nhưng anh ạ, em đã không được cái may mắn ấy, em phải giã từ trần gian mà chưa có được một hạnh phúc dù nhỏ nhoi nhất trong đời… Bởi vậy, lúc nước mắt anh rơi xuống mặt em, em vô cùng xúc động, anh là người đàn ông đầu tiên và duy nhất khóc vì em. Anh có biết anh đã mang lại cho em niềm hạnh phúc to lớn đến mức nào không?
Cô gái ngước nhìn tôi, nước mắt lăn dài trên má.
Tôi không cầm lòng được, tôi đứng lên đi tới bên cô, ôm chặt cô gái vào lòng với tất cả tình thương yêu trìu mến nhất.
Thân thể giá lạnh của cô gái run nhè nhẹ trong vòng tay ấm áp của tôi. Tôi dìu cô gái vào phòng. Cô ngoan ngoãn theo tôi không hề kháng cự.
- Tên em là gì?
Tôi hỏi trong tiếng thở gấp rút.
- Em tên Liên. Nguyễn Thị Liên
Tôi đặt Liên ngồi xuống giường, hai tay tôi vẫn ôm chặt lấy Liên như sợ cô tan biến mất.
Liên chợt cười khe khẽ rồi ngước lên hỏi tôi:
- Anh không sợ em sao?
Tôi áp đôi bàn tay bé nhỏ lạnh giá của Liên vào má mình, nghe một niềm thương cảm dâng đầy khác lạ.
- Anh không sợ… Bởi vì chúng ta giống nhau…
Liên tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Giống nhau? Chẳng lẽ anh nói anh cũng là hồn ma như em sao?
Tôi lắc đầu:
- Không, anh không là hồn ma, nhưng anh đã chung sống cùng với những thây ma hơn mười năm nay, và anh cô độc giữa cuộc đời này, điều đó không giống em sao?
Liên xúc động ôm ghì lấy tôi.
- Tại sao trước khi chết, ông trời không cho em được gặp anh?
Tôi cười thật buồn:
- Nếu gặp anh lúc em còn sống, thì cũng giống như bao người khác thôi em ạ, dù cho em có cảm tình với anh đi nữa, nhưng khi biết rõ cái nghề anh đang làm, em có đủ can đảm để đến với anh không?
Liên không trả lời tôi mà chỉ ôm chặt tôi hơn nữa.
Đêm đó chúng tôi thật hạnh phúc bên nhau, hai linh hồn cô độc tình cờ gặp gỡ rồi quyến luyến không nỡ rời xa nhau…
Khi tiếng chổi quét đường của những người công nhân vệ sinh xạc xào vọng đến, báo hiệu một buổi bình minh sắp tới, Liên ngồi bật dậy nhìn tôi và nói:
- Em phải đi đây…
Tôi hoảng hốt níu cánh tay Liên:
- Rồi em có trở lại với anh không?
Liên rưng rưng nước mắt:
- Anh thật sự yêu thương một hồn ma như em sao?
Tôi cười đau đớn:
- Anh thấy mình cũng không khác gì một hồn ma, em ạ!
Liên lại ôm ghì lấy tôi, cố mỉm cười:
- Em sẽ tới, anh chờ em nghen?
Tôi gật đầu, nhìn theo bóng Liên dần dần tan loãng trong màn đêm nhập nhoạng.
 
***
Những người trong bệnh viện bàn tán xôn xao:
- Ông Thanh dạo này tâm thần nặng rồi, tối ngày cứ cười cười, mà trông vẻ mặt mới vui sướng, hạnh phúc biết bao, cứ như ổng mới lấy vợ vậy đó!
- Ờ, ổng sống chung với xác chết nhiều năm quá mà, không tâm thần sao được! Mà hổng chừng… ổng bị ma ám cũng nên!
Một người khác chen vào:
- Tôi còn nghe dạo này ổng thường ra vô nghĩa trang nữa, ổng đâu có ai là thân nhân trong đó?
Những lời bàn tán đó tôi nghe hết, nhưng tôi không quan tâm để buồn rầu hay cải chính. Họ muốn nói sao mặc họ, tôi không hơi sức đâu để ý tới, bởi vì lúc này toàn bộ tâm trí tôi đã đặt hết vào Liên.
Mối tình giữa tôi và Liên diễn ra vô cùng tốt đẹp. Mỗi tối Liên đều đến với tôi, chúng tôi ở bên nhau thật vui vẻ, hạnh phúc.
Ban ngày, ngoài những lúc dành cho công việc, tôi luôn nghĩ tới Liên, hồi hộp, trông chờ cho màn đêm mau buông xuống, để trong căn phòng quạnh vắng của tôi lại có thêm tiếng cười, tiếng nói.
Ngày tháng trôi qua, chúng tôi đã sống với nhau hơn ba tháng mặn nồng ân ái. Tôi những tưởng cuộc sống êm đẹp đó sẽ kéo dài mãi mãi. Nhưng không, một đêm Liên đến với tôi nhưng gương mặt trông cứ rầu rĩ, áo não vô cùng.
- Có chuỵên gì vậy em?
Tôi gặng hỏi.
Liên nhìn tôi thật lâu rồi bật khóc:
- Chúng mình sắp phải xa nhau… em không đành lòng rời xa anh…
Tôi hốt hoảng:
- Sao lại phải xa nhau hở Liên?
Liên buồn bã giải thích:
- Linh hồn em đã ở lại trần gian quá lâu rồi, đúng hạn một trăm ngày, nếu em không về thì mãi mãi em sẽ không siêu thoát được…
Tôi ôm chặt Liên vào lòng, bướng bỉnh:
- Em cần gì siêu thoát? Chúng ta cứ sống với nhau thế này, rồi một ngày nó anh từ giã cõi trần, mình lại là bóng ma kề cận bên nhau, như vậy không tốt hơn sao em?
Liên cười buồn, lắc đầu:
- Ở cõi âm cũng có những luật lệ gắt gao không khác gì trần gian anh ạ! Nếu sau một trăm ngày em không trở về, linh hồn em sẽ không còn giữ được những phần thánh thiện, mà cái ác trong mỗi con người sẽ được phát huy, khi đó, em sẽ trở thành một thứ quỷ dữ… Em sẽ không còn tình yêu, không còn gì hết…
Nước mắt tôi và cả nước mắt Liên nữa lã chã rơi xuống. Chúng tôi cảm thấy mình là những người vô cùng khốn khổ, cần một tình yêu chân thành, dù chấp nhận tình cảnh âm dương mà cũng không thể được.
Gió xào xạc thổi ngoài hiên, tiếng côn trùng kêu rên rỉ rả như tiếng thở than của những vong hồn trong đêm tối.
Đêm đó Liên ân cần dặn dò tôi đủ mọi điều. Có một chuyện, Liên cứ dặn đi dặn lại vì sợ tôi quên:
- Anh hãy nhớ, kiếp sau mình sẽ tìm lại nhau, dấu vết để nhận ra em là cái bớt đỏ phía sau vành tai này, anh nhớ không anh?
Tôi miễn cưỡng gật đầu cho Liên vừa lòng, chứ thật ra tôi không quan tâm lắm đến điều đó, tôi chỉ nghĩ tới chuỵên lát nữa đây tôi và Liên phải xa nhau mãi mãi mà thôi…
Khuya đó Liên đi, đi mãi không về.
Biết bao đêm tôi ngồi tựa cửa chờ Liên nhưng trước mắt tôi chỉ là một khoảng trống mông mênh, một màn đêm u buồn tê tái.
Lại một đêm mưa, tôi trằn trọc một mình trên chiếc giường đã từng có những ngày hạnh phúc của chúng tôi. Tiếng mưa rơi lộp độp trên mái nhà khiến lòng tôi càng thêm buồn áo não.
Và bỗng nhiên, tôi nghe có tiếng trẻ con khóc ngay trước cửa phòng mình. Tiếng khóc rõ mồn một làm tôi hốt hoảng bật dậy chạy ra.
Vừa mở cánh cửa, tôi đã thấy ngay dưới thềm nhà là một bọc to, từ trong cái bọc đó đang phát ra tiếng khóc oe oe của trẻ sơ sinh.
Tôi cúi xuống ôm đứa bé lên chạy vội vào phòng bật sáng ngọn đèn.
Đây là một đứa bé gái, chắc mới được sinh ra chừng hơn một tháng. Khi nó nhìn thấy tôi nó không khóc nữa mà nhìn tôi như mỉm cười. Nó ngoan ngoãn nằm im trong tay tôi, nhìn tôi như dò hỏi.
Tình huống này quả thật khiến tôi lúng túng, tôi không biết phải làm sao với một đứa bé như thế này.
Tôi đặt đứa bé xuống giường, vội vã mặc quần áo vào định bụng sẽ ôm nó chạy qua bệnh viện báo cáo rồi giao nó cho mấy cô y tá, hộ lý bên đó chăm sóc, chứ tôi thì làm sao đây?
Vừa cài xong chiếc nút áo cuối cùng, với tay cầm chiếc áo mưa thì đứa bé lại khóc ngằn ngặn như muốn chống đối lại những dự định của tôi. Tiếng khóc của nó tự nhiên làm lòng tôi run rẩy.
Tôi cúi xuống ôm đứa bé lên đong đưa nhè nhẹ trên tay như dỗ dành:
- Nín, nín! Ngoan nào… ngoan nào…
Nhưng đứa bé không nín, cũng không ngoan, nó quẫy đạp lung tung, nghiêng bên này, nghiêng bên kia và miệng không ngớt khóc.
Bất chợt, tim tôi nghẹn thắt như bị ai đó thò tay vào bóp chặt, tôi vừa chợt trông thấy cái bớt đỏ nằm phía sau vành tai của đứa bé, cái bớt giống y như cái bớt của Liên!
 
***
 
Người trong bệnh viện lại đồn ầm lên:
- Ông Thanh nhà xác dạo này hâm dữ tợn rồi, tự nhiên xin một đứa con còn đỏ hỏn về nuôi, tự nhiên làm thân gà trống nuôi con khốn khổ… Thiệt hết biết ông này!
Không ai hiểu được tôi, chỉ đứa bé là hiểu được. Nó luôn mỉm cười mỗi khi tôi bế nó vào lòng…
Thỉnh thoảng, vào lúc đêm khuya, trong căn phòng nhỏ xíu nằm cạnh nhà xác của bệnh viện lại vang lên tiếng tiếng hát của một người đàn ông:
Thương nhau mấy núi cũng trèo
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua
Thương nhau bất kể người – ma
Đầu thai kiếp khác đôi ta trùng phùng…
 
Hết

Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 15:37:16 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 22:15:31
MƯỢN XÁC HOÀN HỒN
 
Chị Hậu lo lắng sờ tay lên trán thằng bé. Vẫn còn sốt cao lắm! Từ sáng tới giờ chị đã cho nó uống hai liều thuốc hạ nhiệt và không ngừng chườm mát vậy mà hình như nhiệt độ trong cơ thể nó càng lúc càng tăng lên cao thêm.
Thỉnh thoảng nó nhướng cặp mắt lờ đờ lên nhìn chị, cố gắng nhếch môi nở một nụ cười gượng gạo để chị được yên tâm.
Nó bắt đầu sốt từ tối hôm kia, nhưng chị chỉ nghĩ đó là cảm sốt thông thường thôi nên chạy ra hiệu thuốc gần nhà mua một ngày thuốc về cho con. Nhưng cơn sốt không hề thuyên giảm.
Bây giờ thì chị thật sự lo lắng!
Đã vậy, sáng này lúc đi mua thuốc hạ nhiệt, cô dược sĩ có nói với chị một câu làm chị càng hoang mang hơn nữa:
- Chị ơi, nếu em bé ở nhà sốt cao không dứt, chị nên đưa em tới bệnh viện để bác sĩ khám xem sao. Mùa này đang có dịch sốt xuất huyết, nguy hiểm lắm đó chị!
Chị thương con quá nhưng cứ ngần ngừ không đưa nó lên bệnh viện. Thứ nhất là vì chị hy vọng chỉ chút lát nữa thôi, cơn sốt kia sẽ giảm, thằng Ân của chị sẽ ngồi dậy húp vội chén cháo như những trận đau ốm khác của nó. Thứ hai là… hiện tại trong nhà chị chỉ còn được mấy chục ngàn đồng, hai hôm nay con bệnh, chị không đi làm được, chị biết xoay sở sao đây?
Nhưng bây giờ thì lòng chị đã như lửa đốt. Đôi môi thằng bé đã bỏng rộp lên rồi, nó cứ nằm mê man không còn ăn uống gì nổi nữa!
Chị Hậu quyết định dù thế nào cũng phải đưa con tới bệnh viện!
Chị đứng lên, vội vã lấy mấy bộ quần áo của hai mẹ con nhét vào cái túi xách nhỏ, rồi hối hả chạy sang nhà bà Tám bên cạnh mượn tạm ít tiền.
Bà Tám tuy không giàu có gì, nhưng bà rất sẵn lòng giúp đỡ những ai trong cơn hoạn nạn.
Bà đã ngoài bảy mươi tuổi, nhưng trông còn khỏe mạnh lắm! Bà sống một mình vì con cháu đều có nhà cửa và công ăn việc làm ổn định ở xa. Tiền con cái gởi về cho hàng tháng, bà Tám không xài hết. Bà già rồi, ăn uống có bao nhiêu. Vì thế, nếu ai đó trong xóm gặp phải hữu sự giữa lúc nhà túng bấn thường tìm tới bà, bà như vị cứu tinh của những người nghèo ở đó.
Trông thấy chị Hậu tất tả chạy sang, bà Tám hỏi:
- Có chuyện gì mà trông hớt hãi vậy con?
- Dạ… thằng Ân nhà con bị sốt mấy ngày nay, con cho nó uống thuốc hoài vẫn không thấy đỡ chút nào. Lúc nãy cô bán thuốc bảo con nên đưa nó vô bệnh viện, vì lúc này đang có dịch sốt xuất huyết… Mà con thì… thì..
Bà Tám chắc lưỡi:
- Tội nghịêp dữ hôn! Ba nó bao giờ mới về? Con có nhắn cho ba nó biết tin chưa?
Chị Hậu buồn buồn:
- Dạ, hôm đi ảnh nói hết tháng mới về, bây giờ mới được ba tuần… Mấy hôm nay con đinh ninh thằng Ân ở nhà cảm sốt thông thường nên cũng không nhắn ảnh về… Chút nữa lên bệnh viện, con ghé gọi điện nhắn ảnh về…
- Thôi, thôi! Vô nhà lấy điện thoại nhắn ba sấp nhỏ về cho mau rồi tao đưa cho ít tiền lo cho thằng nhỏ! Lẹ, lẹ lên đi con!
Bà Tám gạt ngang. Bà kéo tay chị Hậu vô nhà, tới bên chiếc điện thoại để trên đầu tủ ly, bà Tám sốt sắng:
- Đó! Điện thoại đó, gọi cho nó đi con!
Chị Hậu lúng túng:
- Dạ, con… con đâu có biết …
Nghe chị Hậu nói vậy, bà Tám cười xòa.  Bà quên rằng ở cả cái xóm này chỉ mới nhà bà có điện thoại.
Bà cẩn thận bấm từng số theo lời chị Hậu. Tới chừng bên kia đã có người bắt máy, bà vội vàng trao ống nghe qua tay chị, khẽ bảo:
- Nói đi con!
Chị Hậu đỡ lấy chiếc điện thoại nói mấy câu với người quản lý công trình, nhờ nhắn lại với chồng chị là anh Kha, công nhân xây dựng về nhà gấp, con trai đang đau nặng.
Chừng chị  đặt ống nghe xuống đã thấy bà Tám đứng kế bên, trên tay cầm sẵn mấy tờ giấy một trăm ngàn đồng.
Bà dúi tiền vào tay chị, dặn dò:
- Nè, cầm tạm năm trăm ngàn về lo cho thằng nhỏ đi! Nếu cần thêm thì bà đưa một ít nữa! Bà không dám đưa một lúc nhiều tiền, sợ trong lúc bận rộn, lỡ rơi mất thì khổ! Thôi, về đi con, về lo cho thằng nhỏ!
Chị Hậu lí nhí cảm ơn bà Tám rồi vội vã chạy ra đầu đường kêu một chiếc xe ôm tới nhà chở con đi bệnh viện.
Thằng bé vẫn nằm thiêm thiếp. Chị lấy thêm áo khoác lên người cho con trai rồi khóa cửa, ôm con ngồi lên xe.
Vừa bước vô phòng cấp cứu, trình bày qua loa về tình trạng của con, chị đã bị một cô y tá mắng té tát:
- Trời ơi, thằng nhỏ đã sốt thế này mà chị còn ủ nó vô cả đống áo quần! Ở nhà, chị có chườm mát cho nó không?
- Dạ… tui mua nước đá về chườm…
- Trời ơi là trời, chị muốn giết thằng nhỏ hả? Chị chườm đá, tuyến mồ hôi co lại thì làm sao nhiệt trong người thoát ra được? Chị phải pha nước ấm thấp bằng thân nhiệt bình thường mà lau liên tục cho nó chớ!
Chị sợ sệt:
- Tui… tui không biết!
Đám đông thân nhân đi nuôi bệnh đứng bên cạnh nhìn chị bằng cặp mắt thương hại. Có người chép miệng:
- Đâu phải ai cũng được ăn học, được hiểu biết như cô…
Cô y tá nguýt dài một cái rồi cầm tập hồ sơ đi ra khỏi phòng.
Bác sĩ trưởng khoa được mời đến. Sau khi xem xét thằng bé, bác sĩ quay sang chị, trách nhẹ:
- Sao chị để cháu sốt đến độ này mới chịu đưa vô bệnh viện?
Chị Hậu ú ớ còn chưa biết giải thích sao thì bác sĩ đã quay sang nói với cô y tá trực:
- Lo hồ sơ nhập viện. Đưa thằng bé đi xét nghiệm máu để chuẩn bị tiếp máu cho nó!
Chị Hậu rụng rời tay chân khi nghe nói tới hai từ “tiếp máu”. Chị lýnh quýnh làm theo mọi lời chỉ dẫn của y tá, bác sĩ mà không dám hỏi thêm điều gì.
Chị cảm thấy hình như tình trạng trầm trọng của con trai là tại do chị gây nên. Lòng chị nóng như lửa đốt. Chị thầm van vái trời phật cứu hộ độ trì cho con trai tai qua nạn khỏi, cầu mong cho anh Kha mau mau về với mẹ con chị lúc này…
Sau khi hoàn tất một loạt xét nghiệm, bác sĩ Hùng nói với chị:
- Cũng may là máu cùng loại với máu con chị ở bệnh viện còn được một ít, chứ nếu không thì cũng gay đấy!
Chị Hậu vừa mừng vừa lo, hết chạy đầu này đóng tiền, chạy đầu khác lấy giấy theo lời chỉ bảo của các cô y tá, hộ lý. Lúc chị về đến phòng bệnh của con thì thấy bác sĩ Hùng và hai cô y tá đang chuẩn bị các dụng cụ tiếp máu.
Nhưng chưa kịp thực hiện thì bất ngờ một cô y tác khác từ ngoài chạy xồng xộc vào phòng, kéo tay bác sĩ Hùng, nói trong tiếng thở:
- Bác sĩ… Bác sĩ ơi! Bé An… con bác sĩ nhập viện… nguy lắm!...
Bác sĩ Hùng khoát tay ra hịêu cho các cô y tá ngưng cuộc truyền máu lại rồi vội vã chạy về phòng cấp cứu.
Vừa nhìn thấy chồng, chị Phương – vợ bác sĩ Hùng – khóc nấc lên:
- Anh ơi, anh phải cứu lấy con mình…
Bác sĩ Hùng không kịp nói lời nào với vợ, anh chạy vội đến bên giường nơi con trai anh đang nằm mê man.
- Sao em để con tới tình trạng này?
Bác sĩ Hùng hỏi vợ.
Chị Phương mếu máo:
- Nó sốt mấy hôm nay, em tính về nhưng lại sợ đi đường gió máy, ráng đợi con bớt bớt một chút sẽ về, ai đâu ngờ, càng ngày nó càng sốt dữ hơn… Ông bà ngoại hoảng quá nên phải bao xe cho hai mẹ con em về gấp.
Bác sĩ Hùng làu bàu mấy tiếng trong miệng rồi lập tức trịêu tập cuộc hội chẩn để xác định tình trạng của con mình.
Chị Phương bàng hoàng khi nghe chồng thông báo: Bé An con trai chị bị sốt xuất huyết tuýp hai, đã sang thể tràn dịch màng phổi, tràn dịch ổ bụng và suy gan cấp.
Như một cơn động đất, sụp đổ gì đó không thể kiểm soát… Con bé bỏng, ốm yếu thế kia mà chừng đó thứ nguy nan đang hịên hữu, đang tàn phá con…
Chị níu tay chồng để xin nhắc lại vì không tin nổi vào tai mình nữa.
- Suy gan cấp? Có phải con chúng mình chớm suy gan không anh?
Bác sĩ Hùng lắc đầu không nói gì, vẻ mặt đau đớn.
- Đang lẽ khi thấy con bệnh, em phải đưa con về ngay hoặc ít ra em cũng phải điện tọhai cho anh chứ…
Cuối cùng, không ngăn nổi, bác sĩ Hùng quay sang trách vợ.
Chị Phương chỉ biết ôm mặt khóc. Tất cả lỗi lầm là do chị.
Cách đây bốn hôm, sau một cuộc tranh cãi nho nhỏ với chồng, chị Phương đùng đùng dẫn con về ngoại. Lúc thằng bé chớm bệnh, ông bà ngoại đã nhắc:
- Thôi, đưa nó về cho cha nó xem thế nào! Con đừng có như vậy! Từ nhỏ con được ba má nuông chìu nên hư mất rồi! Chuỵên bất đồng ý kiến giữa vợ chồng là điều không thể tránh khỏi, con là vợ con phải biết nhún nhường đôi chút mới phải. Đằng này, lúc nào con cũng bắt chồng con phải nghe theo con… Ba má thấy như vậy là không được!
Ba má đã hết lời khuyên bảo, nhưng với cái tính bướng bỉnh, quen được nuông chìu, chị Phương nhất định không chịu về.
Vì chị biết, cuối tuần được nghỉ, chắc chắn chồng chị sẽ về đây để đón hai mẹ con. Bây giờ mà quay về  là sẽ trở nên “lép vế” trước mắt chồng! Chị phải chờ anh hết lời năn nỉ ỉ ôi mới chịu trở về.
Mãi đến khi bé An sốt vọt lên tới ba mươi chín độ bảy, thì chị không còn đủ minh mẫn để quyết định bất cứ điều gì nữa. Ông bà ngoại phải hấp tấp đi thuê xe.
Trong lúc chờ xe, chị cuống cuồng cởi hết quần áo cho con. Thằng bé mới mười hai tuổi, đang đau ốm vậy mà vẫn ngượng rúm người, lại thêm cảm giác lạnh vì sốt, nài nỉ chị phủ thêm cho nó cái khăn mỏng. Biết là rất không nên nhưng chị Phương vẫn phải chìu con.
Chị muốn ôm con vào lòng quá mà lại sợ thành vô tình ủ con nóng thêm.
Là vợ bác sĩ, ít nhiều gì chị Phương cũng có đôi chút kiến thức. Vậy mà… vậy mà chị đã để con mình lâm vào nguy kịch thế này!
Trời ơi, nếu nó có mệnh hệ gì thì làm sao chị sống nổi? Nó là đứa con duy nhất của vợ chồng chị, bởi vì chị không còn khả năng sinh nở được nữa!
Mười hai năm qua, vợ chồng chị đã thương yêu chăm bẵm bé An như vàng như ngọc.
Thằng bé tuy được nuông chìu nhưng lại rất mực ngoan ngoãn, học hành chăm chỉ, chưa bao giờ làm cho cha mẹ bận lòng.
Giờ đây trong lòng chị Phương rối bời những lo âu, hối hận…
Bác sĩ Hùng ngước lên nhìn vợ bằng ánh mắt xót xa:
- Con mình cần truyền máu gấp, nhưng loại máu đó hiện nay ở bệnh viện chỉ còn lại một lượng rất nhỏ. Vừa rồi anh đã chỉ định truyền cho một đứa bé khác…
Bác sĩ Hùng chưa nói hết câu, cô y tá bên cạnh rụt rè xen vào:
- Thưa bác sĩ… đứa bé đó vẫn chưa tiếp máu! Lượng máu… vẫn còn nguyên…
Như bắt được vàng, chị Phương chồm lên nắm chặt vai chồng lắc lấy lắc để, vừa nói vừa khóc nức nở:
- Anh ơi, anh phải tiếp máu cho con mình! Nó là đứa con duy nhất của chúng ta… Anh cứu con đi! Cứu con đi, tội lỗi em thì anh xử gì cũng được… Chỉ xin anh cứu lấy con mình…
Bác sĩ Hùng gỡ tay vợ ra, khổ sở nói:
- Nhưng anh đã nói người ta là đứa bé được tiếp máu! Với lại… con mình dù có tiếp máu thì… khả năng… cũng không cao…
Chị Phương té ngồi xuống ghế, khóc rống lên:
- Anh phải cứu lấùy con! Bằng mọi giá anh phải cứu con… Con có bề gì em cũng sẽ chết theo nó… Anh ơi…
Cô y tá vỗ nhè nhẹ lên vai chị Phương, đồng thời nói với bác sĩ Hùng:
- Bác sĩ, còn nước thì còn tát… Bác sĩ nên tập trung cứu chữa em An… Dù sao nó cũng là con của bác sĩ… Còn đứa bé kia… tình trạng của nó không nguy kịch lắm, có thể… có thể không tiếp máu cũng vượt qua được…
Bác sĩ Hùng đưa hai tay ôm đầu, anh đau khổ tột cùng, lương tâm người thầy thuốc và trách nhiệm của người cha đang giằng xé anh…
Cuối cùng, theo sự thống nhất của các bác sĩ và y tá trong bệnh viện, lượng máu hiếm hoi đó sẽ được truyền vào cơ thể bé An.
Là bác sĩ, nên Hùng biết rất rõ ranh giới sống còn của con trai mỏng manh như sợi tóc.
Bé An đã bị xuất tiểu cầu thì phải mất rất nhiều thời gian mới tách được thành phần đó ra mà tiếp. Nếu tiếp cho người bị thể xuất huyết thông thường sẽ dễ hơn nhiều, chỉ truyền trực tiếp máu là xong.
Bác sĩ Hùng lặng lẽ đến bên, cầm chặt tay vợ:
- Chúng mình phải chuẩn bị tinh thần em ạ! Con sốt xuất huyết tuýp hai, dạng hiếm, độ ba trên bốn, mấp mé bờ hôn mê sâu… Nếu sau bảy mươi hai tiếng nữa mà không bị tràn dịch não, tim và con không hôn mê sâu thì sẽ là phép thần kỳ có thật trên đời, con sẽ sống!...
Chị Phương như lã đi trong tay chồng, miệng không ngừng lập đi lặp lại:
- Con em sẽ sống… con em sẽ sống!...
 
***
Chị Hậu vô cùng hoang mang khi thấy các cô y tá trở vào lấy đi các dụng cụ lúc nãy đem đến chuẩn bị tiếp máu cho bé Ân. Níu lấy một cô, chị sợ sệt hỏi:
- Thưa cô… sao không tiếp máu cho con tôi? Tôi.. tôi đã đóng tiền rồi mà?
Cô y tá nhỏ nhẹ giải thích:
- À, tại vì sau khi hội ý, các bác sĩ thấy tình trạng của con chị không nguy kịch lắm, chưa cần phải tiếp máu. Lát nữa người ta sẽ trả lại khoản tiền đó cho chị, chị yên tâm đi!
Chị Hậu không hiểu biết gì nhiều, nên khi nghe nói con mình không đến nỗi nguy kịch, không cần tiếp máu là chị mừng rơn trong dạ. Chị thở phào nhẹ nhõm rồi đến bên giường chăm sóc cho con.
Mãi tới chiều tối anh Kha chồng chị mới về tới. Nhìn thấy chồng quần áo lôi thôi, tay chân chưa sạch các vết vôi vữa, chị Hậu thương chồng thắt ruột. Chị hiểu rằng anh đang làm việc ở công trường, nghe tin con đau ốm là vội vã về ngay nên mới xộc xệch thế.
Anh Kha hấp tấp dặt tay lên trán con, nhưng rồi thấy bàn tay mình không được sạch sẽ, anh vội vàng rụt ngay lại.
Chị Hậu trấn an chồng:
- Lúc em đưa co vô, họ nói phải tiếp máu làm em sợ quá anh à! Nhưng rồi họ hội ý lại sao đó mà không tiếp máu, họ nói con mình không sao…
Anh Kha thắc mắc:
- Ủa, sao lại lúc bảo tiếp, lúc bảo không? Thôi, em ở đây đi, để anh tìm bác sĩ hỏi cho rõ!
Chị Hậu ngăn chồng:
- Thôi, thôi anh ơi! Người ta là bác sĩ, người ta có quyền quyết định. Với lại người ta biết phải làm sao mà, mình nói tới nói lui người ta ghét thì khổ cho con mình đó!
Nghe vợ nói cũng hợp lý nên anh Kha đành ngồi xuống ngắm gương mặt thân yêu của con.
Chị Hậu giục:
- Anh về tắm rửa đi, rồi lên với con cho em về nấu cho con miếng cháo…
Anh Kha tần ngần một lúc rồi đứng lên:
- Ừ thôi anh về! Tắm xong anh trở lên liền! Em ở đây với con nghe!
Rồi chợt nhớ, anh Kha lục trong chiếc ba lô bạch thếch lấy ra một gói nhỏ đưa cho chị Hậu:
- Nghe tin thằng Ân bệnh nặng, anh vội vã về ngay. Gấp quá, không có ông thầu ở đó để ứng trước lương. Anh phải mượn tạm của mấy anh em cùng làm, mỗi người một ít, chỉ được một triệu rưỡi…
Chị Hậu rưng rưng nước mắt an ủi chồng:
- Chắc không sao đâu anh! Bấy nhiều chắc đủ rồi! Bác sĩ nói con mình không sao mà!
Anh Kha khẽ gật đầu rồi đi nhanh ra cửa.
Ngoài đường phố đông đúc người qua lại. Đi ngang qua một tiệm Internet, thấy đám trẻ con bằng tuổi thằng Aân đang ngồi chơi đầy bên trong, anh Kha lại càng thương con đứt ruột.
Tháng trước, lúc hai cha con đang đùa giỡn với nhau, anh hỏi con:
- Mai mốt ba đi làm về, con thích ba mua cho con cái gì nè?
Thằng bé nhìn anh một chập rồi đắn đo:
- Con thích gì ba cũng mua cho con?
- Ừ, thích gì ba cũng mua! Con trai ba là nhất trên đời mà!
Anh Kha cười lớn.
Nghe cha nói vậy, thằng bé Ân hí hửng:
- Vậy ba mua cho con cái máy vi tính nghen! Cái máy đó chơi “đã” lắm!
Nụ cười trên môi anh Kha tắt hẳn.
Anh ôm con trai vào lòng giải thích:
- Con à! Cái máy đó mắc tiền lắm! Con thấy mấy đứa con nhà khá giả ở xóm mình đó, tụi nó còn chưa có được! Ba đi làm thợ hồ, biết chừng nào mới có đủ tiền mua máy đó cho con? Thôi, con nói món khác đi, món nào rẻ rẻ một chút…
Bé Ân phụng phịu:
- Vậy mà ba nói con thích gì là ba mua cho con cái đó…
Chị Phương đang dọn cơm bên cạnh, nghe con trách chồng, chị cười xòa gỡ thế bí cho anh:
- Tại vì ba con đâu có ngờ con trai mình “con nhà lính tính nhà quan”! Ba tưởng con thích mấy loại đồ chơi như xe hơi, kiếm nhựa thôi, ai ngờ con đòi thứ đồ chơi “quý tộc” đó! Mình có bán cái nhà này cũng không mua nổi đâu con ơi!
Thằng bé Ân sửng sốt:
- Mắc dữ vậy hả mẹ? Vậy thôi… con hổng thèm…
Nhớ lại chuyện đó anh Kha thấy cay cay nơi sống mũi. Anh cắm cúi bước thật nhanh, miệng thầm thì như đang nói chuyện với con:
- Mai mốt con hết bệnh, ba sẽ dắt con ra tiệm Internet, ba cho con chơi thỏa thích một buổi. Ráng mau hết bệnh nghe con trai!
Trong lúc đó ở tiệm Internet xảy ra một hiện tượng lạ.
Khi hai người khách ở máy số bốn và số năm gọi tính tiền rồi đứng lên, bà chủ tiệm đã cẩn thận tắt hai máy đó rồi mới quay về chỗ ngồi xem tiếp bộ phim Hàn Quốc đang tới hồi lâm ly bi đát. Lát sau nhìn lại, bà thấy máy số bốn và năm vẫn đang hoạt động mà trên ghế không thấy bóng một ai!
Bà tới gần hỏi đứa trẻ đang ngồi ở máy số ba:
- Con mở máy này phải không?
Thằng bé không hề nghe thấy tiếng bà hỏi, vì trên tai nó đang đeo cặp headphone, miệng nó hú hét theo trò chơi và cả thân hình thì đang lắc lư theo điệu nhạc. Bà nhìn quanh quất khắp phòng, đứa trẻ nào cũng đang say sưa với những trò chơi đầy bạo lực. Bà lắc đầu, một lần nữa tắt phụt hai máy vắng người. Bà đinh ninh rằng, một đứa nào có định đổi máy nên mới mở lên như vậy!
Nhưng thật kỳ lạ, bà mới bước đi vài bước, chừng quay lại, hai máy đó lại hoạt động bình thường! Mấy chiếc xe trên màn hình vẫn rượt đuổi nhau tới tấp, y như có người đang điều khiển.
“Quái lạ!” Bà lẩm bẩm. Bà bấm nút shut down máy lần nữa rồi không đi đâu mà đứng ngó chăm chăm vào hai cái máy vừa được tắt. Không lâu sau, bỗng dưng màn hình lại cháy sáng, mấy chiếc xe lại vùn vụt lao đi trong nỗi kinh ngạc đến tột độ của bà.
Bà chủ tiệm ú ớ định kêu lên, nhưng rồi bà kịp dừng lại. Thằng con trai bà, đứa chịu trách nhiệm kỹ thuật ở đây, giờ này đi ăn cưới đứa bạn, bà có kêu lên cũng không ai giúp mà không chừng òcn làm mất khách cũng nên. Thời buổi kinh tế thị trường, làm ăn gì cũng cạnh tranh kinh khủng. Chỉ một đoạn đường ngắn mà có đến ba tiệm Internet mọc lên, không khéo giữa khách sẽ phải ế dài dài.
Bà không rành rẽ chuyện máy móc, thỉnh thoảng nghe con trai nói “lỗi kỹ thuật” gì đó, bà không hiểu gì nên giờ đây bà tự động viên mình, tự trấn an mình bằng cái từ nghe rất khoa học ấy:
- Chắc có lẽ máy này bị lỗi kỹ thuật! Thôi, mình rút điện ra chờ nó về xem sao!
Vừa lẩm bẩm, bà chủ tiệm vừa lom khom rút hết phích cắm từ hai máy số bốn và số năm ra khỏi nguồn điện rồi bà thong thả về xem phim tiếp. Nhưng thỉnh thoảng ba vẫn liếc chừng hai cái máy. Lần này thì nó thật sự tắt hẳn rồi.
Bà chủ tiệm không ngờ, mà cũng chẳng có ai ngờ được là, sở dĩ hai máy ấy vẫn hoạt động sau khi tắt, không phải do lỗi kỹ thuật gì hết, mà là do… hai con quỷ ham vui đã ghé vô tiệm!
Hai con quỷ đó, một đứa tên là Hắc Vô Thường, một đứa là Bạch Vô Thường, nhiệm vụ chính của chúng ở âm phủ là… đi bắt hồn người.
Hắêc Vô Thường và Bạch Vô Thường là một cặp hoàn toàn đối lập. Một đứa thì từ đầu tới chân toàn một màu đen, chỉ trừ hàm răng là trắng; một đứa trắng toát từ trên xuống dưới, chỉ đen mỗi hàm răng!
Aáy vậy mà bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào hai đứa cũng đều cặp kè bên nhau như hình với bóng! Đến nỗi, mọi người ít khi nào phân ra tách bạch tên gọi của riêng từng đứa, mà thường gộp chung lại, gọi là Hắc Bạch Vô Thường!
Hôm nay, mới sáng sớm Diêm Vương đã cho gọi Hắc Bạch Vô Thường. Tối qua, vì mãi chơi khuya, nên hai đứa còn chưa tỉnh ngủ, gật gà gật gù tiến đến quỳ trước điện nghe chỉ thị của Diêm Vương.
- Hôm nay, có một đứa bé mười hai tuổi sẽ mãn phần số! Hai ngươi phải tới ngay bệnh viện Khánh Thiện để đón nó.
Diêm Vương đưa tay ra hiệu, một con quỷ đầu tóc bù xù tiến tới dâng lên một tờ giấy. Diêm Vương cầm lấy đưa cho Hắc Bạch Vô Thường:
- Đây là sơ yếu lý lịch của thằng bé! Trong đó có cả giờ giấc phải bắt hồn nó lìa ra khỏi xác! Hai ngươi căn cứ vào đó mà thực hiện cho nghiêm túc! Nhớ kỹ, phải nghiêm túc đấy nhé!
Hắc Bạch Vô Thường kính cẩn nhận tờ giấy từ tay Diêm Vương rồi cúi chào, khúm núm bước ra.
Vừa ra khỏi cửa, hai đứa hí hửng nhảy cẫng lên:
- Ô… Ô! Thích quá! Thích quá… hôm nay tụi mình lại được đi dạo trần gian rồi…
Hắc Bạch Vô Thường nắm tay nhau tung tăng chạy nhảy tung tăng trên khắp các đường phố tấp nập người xe.
Dù đã nhiều lần lên xuống trần gian để đón hồn về âm phủ, nhưng với hai kẻ ham vui như Hắc Bạch Vô Thường, trần gian vẫn là nơi mà chúng cần phải khám phá.
Hai đứa giở đủ thứ trò tiêu khiển. Nào là nhảy lên một chiếc xe đang chạy; choàng tay qua vai một khách bộ hành; chui vào các hàng quán ngắm nghía các loại hàng hóa đủ kiểu đủ màu sắc được bày la liệt trên sạp, hoặc căng mũi ra hít lấy hít để mùi thơm bát ngát từ một hàng ăn nào đó.
Mãi tới trưa, hai đứa mới tới trước cửa bệnh viện. Hắc Vô Thường cẩn thận mở tờ giấy ra lẩm nhẩm đọc lại lần nữa:
- Nguyễn Thanh An, mười hai tuổi, mãn số vào giờ…
Đọc xong hắn reo lên:
- Còn sớm chán! Giờ mình đi đâu chơi chút nữa đi!
Bạch Vô Thường gật đầu đồng ý.
Thế là cả hai đi ngược trở ra cổng bệnh viện. Ngang qua tiệm Internet, Bạch Vô Thường thắc mắc:
- Ủa, trong tiệm này bán cái gì mà bọn trẻ xúm vô đông quá vậy? Hay mình vô xem thử?
Hắc Bạch Vô Thường lại dắt tay nhau hiên ngang đi vào tiệm.
Trong tiệm các máy đã kín người ngồi. Hai đứa đứng sau lưng mấy đứa nhỏ theo dõi từng động tác, thích thú với trò chơi mà hai đứa nhỏ đang chơi mê mải.
Hắc Vô Thường nói nhỏ:
- Tớ khoái quá! Cậu thế nào?
- Tớ cũng thế!
Bạch Vô Thường cười nhe hàm răng đen như một cục than hầm.
Hắn gãi gãi đầu, đề nghị:
- Hay cậu với tớ ngồi đây chơi một lúc đi, chờ tới giờ rồi mình vô trỏng?
Hắc Vô Thường mừng quýnh khi thấy thằng bạn chí cốt cũng có ý nghĩ giống như mình. Hắn gật đầu lia lịa rồi một tay giắt tờ giấy của Diêm Vương đưa cho lên cổ áo, một tay sờ nhẹ vào bụng thằng bé đang chơi. Thằng nhỏ đột ngột co rúm người lại, rên lên:
- Ối, ối… đau bụng quá mẹ ơi…
Bạch Vô Thường cười thích thú, bắt chước bạn, hắn đưa một tay xoa vào đầu đứa trẻ ngồi bên cạnh. Thằng bé nhăn mặt:
- Trời ơi! Nhức đầu quá!
Hai đứa bé cứ liên tục bị những cơn đau bụng, nhức đầu làm chúng không tài nào gượng nỗi, đành phải gọi chủ quán tính tiền rồi cùng nhau ra về, vừa đi vừa nhăn mặt đau đớn.
Lúc hai đứa bé vừa đứng lên, Hắc Bạch Vô Thường nhanh nhẹn ngồi vào chỗ đó, và cả hai bắt đầu mê mải với trò chơi hấp dẫn, mới lạ mà chúng vừa được biết lần đầu tiên trong đời.
Mãi đến lúc bà chủ tiệm Internet rút chuôi điện ra khỏi ổ cắm, Bạch Vô Thường mới chợt nhớ tới nhiệm vụ quan trọng mà chúng phải thi hành.
Hắn đập mạnh vào lưng Hắc Vô Thường:
- Đi thôi, sắp đến giờ rồi! Lẹ lẹ lên, kẻo trễ là khó sống với Diêm Vương đó!
Hắc Vô Thường luyến tiếc đứng lên. Hai đứa chạy vội vào khu bệnh viện.
Tới cửa phòng bệnh, Bạch Vô Thường quay sang hỏi bạn:
- Lý lịch thằng nhỏ đâu? Đưa đây tớ xem kỹ lại chứ nếu để bắt nhầm hồn thì rắc rối to đấy!
Hắc Vô Thường cười hềnh hệch. Hắn đưa tay lên cổ áo tìm hoài nhưng không thấy tờ giấy đâu. Gương mặt đen của hắn giờ càng đen hơn nữa. Hắn lắp bắp:
- Tờ giấy… tờ giấy mất tiêu rồi!
- Cậu để đâu mà mất?
Bạch Vô Thường hoảng hốt hỏi lại.
- Chắc… chắc lúc nãy tớ đánh rơi ngoài chỗ trò chơi gì đó… Thôi, để tớ ra tìm lại.
Hai đứa co giò phóng thẳng ra tiệm Internet, cúi lom khom tìm khắp phòng vẫn không thấy tờ giấy nào. Chúng không ngờ lúc nãy bà chủ tiệm đã nhặt được tờ giấy viết vẽ nghuệch ngoạc gì đó không đọc được nên bà lấy nó để… hốt đống phân chó trước sân nhà!
Tìm hồi lâu không thấy, nhìn ra ngoài trời thấy giờ bắt hồn đã đến, Hắc Vô Thường quýnh quáng cầu cứu bạn:
- Bạch Vô Thường ơi! Mình phải làm sao bây giờ?
Thấy bạn run rẩy, Bạch Vô Thường động lòng nên bày kế:
- Lúc nãy cậu đọc tớ còn nhớ, tên đứa bé là Nguyễn Thanh An, mười hai tuổi. Giờ mình cứ vô bệnh viện tìm, gặp được đúng người có tên tuổi đó thì mình dẫn về, giấu nhẹm vụ mất tờ giấy. Tớ không nói, cậu không nói thì Diêm Vương làm sao biết được?
Hắc Vô Thường thỏ phào nhẹ nhõm:
- Tớ cám ơn cậu rất nhiều! Có dịp tớ sẽ đền ơn! Giờ thì tớ với cậu đi làm nhiệm vụ nào!
Hắc Bạch Vô Thường đi dọc theo dãy phòng cấp cứu và chăm sóc đặc biệt. Chúng đã có kinh nghịêm, nên biết rằng những kẻ sắp mãn phần hết số thường tập trung ở khu vực này.
Hôm nay, Hắc Bạch Vô Thường không thèm dòm ngó từng giường bệnh như những lần trước, hai đứa xăm xăm tiến thẳng tới khoa nhi, vì hồn đứa bé mà chúng dẫn đi hôm nay chỉ mới mười hai tuổi.
Trong phòng chăm sóc đặc biệt của khoa nhi hôm nay chỉ có hai đứa bé.
Một đứa có lẽ là con nhà nghèo, một đứa con nhà khá giả. Vì nhìn qua cách ăn mặc của bệnh nhân và người chăm sóc, cũng như nhìn những thứ lỉnh kỉnh để trên bàn của mỗi bệnh nhân thì sẽ dễ dàng nhận ra điều đó.
Hắc Vô Thường mừng rỡ chỉ tay vào chiếc giường trong góc phòng. Trên giường, một đứa bé trai đang nằm thiêm thiếp, cạnh đó là một người đàn bà dáng vẻ rầu rĩ, ngồi chống cằm nhìn chăm chú đứa con.
- Kìa, cậu thấy không, có phải nó không?
Bạch Vô Thường lắc đầu:
- Không phải, cậu xem kìa!
Hắn chỉ vào cái bảng tên bệnh nhân được treo lủng lẳng phía dưới chân giường, trong bảng nổi bật dòng chữ: NGUYEN THANH AN.
Hắc Vô Thường quay vội sang giường bên cạnh.
Thằng bé bên này bệnh tình có vẻ trầm trọng hơn. Xung quanh người nó bao nhiêu là dây nhợ chằng chịt. Người ta đang truyền vào người nó một chất dịch màu đỏ, có lẽ là máu!
“A, thằng này bệnh nặng đây!” Hắc Vô Thường reo lên nho nhỏ và mừng thầm trong bụng, nhưng ngay lập tức nụ cười lóe sáng hàm răng tắt ngúm trên môi hắn khi mắt hắn chạm vào tấm bảng treo dưới chân giường, cũng đang nổi bật dòng chữ: NGUYEN THANH AN!
- Làm sao bây giờ? Mình đi một vòng quanh bệnh viện xem còn ai khác không?
Hắc Vô Thường bứt đầu bứt tóc khổ sở.
Bạch Vô Thường trầm ngâm một lúc rồi nói:
- Bệnh viện này nhỏ xíu, đâu còn chỗ nào để mình tìm! Lần trước tớ có nghe lén các Phán quan nói chuyện với nhau, rằng bây giờ ở trần gian người đời họ văn minh lắm. Họ không xài chữ viết tay như hồi xưa nữa, mà xài chữ vi tính gì đó, tớ lại còn nghe Phán quan than thở rằng, dạo này xem xét hồ sơ mệt lắm vì con người hay dùng chữ quốc tế, không có bỏ dấu… Chắc hôm nay mình gặp đúng trường hợp đó rồi…
Hắc Vô Thường run lẩy bẩy:
- Vậy… bây giờ biết tính sao?
Bạch Vô Thường đi tới đi lui mấy vòng, miệng lẩm bẩm:
- Phải chi có tờ giấy đó, mình coi thêm thành phần gia đình, tên cha mẹ… như vậy dễ phân biệt, còn đằng này… Thiệt rắc rối quá!
Nghĩ ngợi một lúc, Hắc Vô Thường rụt rè hỏi:
- Hay… mình bắt đại một đứa?
- Không được! Không thể tùy tiện được! Mình chỉ có thể bắt đứa nào thật sự tới số! Nếu bắt lầm, về dưới không khớp thì mình sẽ bị phạt! À, tớ nghĩ ra rồi!
Bạch Vô Thường reo lên.
- Này nhé, tớ với cậu cùng suy nghĩ xem. Hai đứa bé này cùng tuổi, cùng tên với nhau. Như vậy, đứa mà mình phải bắt là một trong hai đứa này! Thằng bé kia lúc nãy mình nghe loáng thoáng là con của ông bác sĩ trưởng khoa ở đây, nên người ta mới tích cực lo cho nó như vậy. Còn thằng bé này trông rất nghèo nàn, coi mòi ba má nó không đủ tiền cho nó uống thuốc. Nó nằm mê man vậy mà có y tá, bác sĩ nào tới lo cho nó đâu? Thằng này chết là cái chắc!
Hắc Vô Thường mừng rỡ:
- Ừ, cậu phân tích nghe có lý quá! Vậy mình dắt hồn thằng bé này đi nhé! Sắp hết giờ rồi…
Khoái trá vì sự thông minh đột xuất của mình, Bạch Vô Thường cười toe toét. Hai đứa tiến sát tới giường bệnh nhân.
Chị Hậu đang ngồi theo dõi từng cử động của con trai, bỗng giật mình vì nghe thấy một luồng hơi hạnh phả vào sau lưng. Chị ngoảnh nhìn lại, trong phòng không có ai, ngoài hai đứa bé trên giường bệnh và hai bà mẹ đang ngồi túc trực một bên!
Vừa lúc đó, chị thấy bé Ân cử động mạnh. Trán nó cau lại, chân tay nó co duỗi, đạp lung tung như đang chống cự với một sức mạnh vô hình nào đó!
Chị Hậu hoảng hốt la lên:
- Bác sĩ ơi, y tá ơi… con tôi… con tôi bị làm sao nè…
Nghe tiếng gọi hốt hoảng của chị Hậu, chị Phương vội vã chạy đến cùng lúc với mấy cô y tá và bác sĩ trực tình cờ đi ngang qua.
Trên giường bệnh, thằng bé vẫn nhắm mắt nhưng tay chân nó đang vùng vẫy dữ dội, miệng nó lắp bắp điều gì đó mà không ai nghe được. Chị Hậu ôm chặt lấy con, khóc ngất.
Bác sĩ vội vã đặt ống nghe, vạch mí mắt thằng bé để khám. Xét theo biểu hiện thì không có gì đáng ngại lắm, vì nhịêt độ của thằng bé đã giảm từ lúc nãy, triệu chứng hồi phục đang tốt dần lên, không ngờ lại xảy ra tình trạng lạ lùng này.
Lập tức, thằng bé được đưa vào phòng cấp cứu.
Nhưng mọi phương pháp đều vô hiệu. Nó cứ quẫy đạp, cứ vùng vẫy… Và cuối cùng tay chân nó buông xuôi, hắt ra một hơi thở cuối…
Anh Kha vừa từ nhà lên tới bệnh viện, vào phòng con nằm nghe nói người ta đưa con lên phòng cấp cứu, anh hoảng hốt chạy vội đến, nhưng khi vừa tới cửa, anh đã thấy chị Hậu đang quỳ mọp trước cửa phòng, khóc gào như điên loạn, mặc cho các cô y tá kẻ đỡ, người nâng, chị vẫn không chịu đứng lên, mà cứ quỳ sờ soạng khắp nơi như đang tìm kiếm vật gì vô cùng quý giá.
- Con ơi… Con của mẹ… Con không thể chết được con ơi…
Anh Kha lau vội mấy giọt nước mắt, tiến tới ôm vợ vào lòng, muốn nói một câu an ủi nhưng giọng anh đã tắt nghẹn, không thể thốt được nên lời…
Trong khi đó, cả anh Kha, chị Hậu cùng tất cả những người có mặt đều không thể chứng kiến cảnh giằng co kịch liệt giữa bé Thanh An và hai tên Hắc Bạch Vô Thường.
Bạch Vô Thường nắm tay cậu bé kéo ra khỏi phòng, nhưng bé An một mực không nghe theo. Cậu bé sợ hãi trước hai người đàn ông có hình dạng quái đản. Cậu gào lên:
- Mẹ! Mẹ ơi. Ba ơi… cứu con với…
Nhưng cậu bé thấy ba mẹ mình hoàn toàn không nhận ra tiếng kêu cứu khản giọng của mình.
Mẹ cậu vật vã khóc than, không ngớt gọi tên cậu. Còn ba, ba không la khóc như mẹ nhưng nhìn gương mặt ba thật đáng sợ, chưa bao giờ cậu bé Ân thấy cha mẹ mình đau khổ đến như vậy.
Cậu bé vùng khỏi tay Bạch Vô Thường, chạy đến ôm chầm lấy mẹ:
- Mẹ ơi, con đây nè! Mẹ đừng khóc nữa! Con đây nè mẹ ơi…
Thấy mẹ vẫn gào, vẫn khóc, bé Ân quay sang cha nắm chặt tay ông:
- Ba ơi! Ba nói mẹ đừng khóc nữa! Con đây nè…
Ánh mắt người cha vẫn nhìn đờ đẫn làm cậu bé An hoảng hốt:
- Trời ơi, mẹ ơi, ba ơi! Ba mẹ làm sao vậy? Sao ba mẹ làm như không hề nhìn thấy con, không hề nghe tiếng con vậy?
Cậu bé nhào tới níu áo cô y tá:
- Cô ơi, ba mẹ cháu bị làm sao vậy? Cô ơi…
Nhưng cả cô y tá cũng không nghe thấy.
Cậu bé Ân quay sang nhìn hai người đàn ông kỳ dị đang đứng ngay cửa ra vào:
- Chú ơi, ba mẹ cháu làm sao vậy? Mọi người ở đây làm sao vậy? Sao không ai nghe cháu, không ai nhìn thấy cháu?
Hắc Vô Thường nhe hàm răng trắng dã, cười cười:
- Bây giờ ở đây chỉ có hai chú là nhìn thấy cháu và nghe cháu nói được thôi!
Cậu bé Ân mếu máo khóc:
- Họ… họ bị làm sao vậy chú?
- Họ không bị làm sao hết cháu ạ! Chỉ là… chỉ vì cháu đã chết rồi, mà họ thì không thể nhìn hay nghe một hồn ma được!
Bé Ân sửng sốt:
- Cháu chết rồi?
Hắc Vô Thường chỉ tay vào phòng cấp cứu:
- Cháu hãy nhìn xem ai đang nằm kia? Có phải cháu không?
Bé Ân bàng hoàng nhận ra thân xác nó đang nằm im lìm trên giường. Nó run giọng hỏi:
- Cháu… cháu đã chết thật rồi sao?
Hắc Bạch Vô Thường không ai trả lời nó. Cả hai đưa cánh tay dài ngoằng nắm lấy tay thằng bé:
- Đi cháu! Mình tới giờ đi rồi!
Bé An ngơ ngác:
- Đi? Mà đi đâu?
Bạch Vô Thường thở dài:
- Thì đi về nơi mà cháu cần phải đến…
Bé Ân hét toáng lên:
- Không! Cháu không đi với hai chú đâu! Cháu muốn về nhà với ba mẹ cháu…
Bạch Vô Thường dỗ dành:
- Không được đâu cháu! Cháu thấy rồi đó, bây giờ ba mẹ cháu đâu còn nhận ra cháu nữa, dù cháu có về nhà chỉ thêm đau lòng mà thôi! Đời người rồi ai cũng vậy thôi cháu ơi…
Hắc Vô Thường nóng nảy lôi thằng bé chạy băng băng ra ngoài, làm nó vừa khóc vừa gào đến khản cả tiếng.
Bóng chiều đã nhập nhòa trên đường phố, dòng người xe trên đường trông có vẻ hối hả hơn.
Bé Ân giật tay mình ra khỏi tay Hắc Vô Thường và đâm đầu vào một chiếc xe đò đang chạy tới. Nhưng lạ kìa, chiếc xe chạy vù qua rồi, cậu bé thấy mình vẫn đứng trơ giữa đường…
“Vậy là… vậy là những gì hai chú này nói đều đúng cả sao?”. Bé Ân không tin lắm, cậu bé muốn thí nghiệm một lần nữa nên cậu đâm sầm vào một đám trẻ con đang đứng trước một xe kem, nhưng bọn chúng vẫn không có phản ứng gì…
Hắc Bạch Vô Thường đến bên an ủi:
- Cháu đừng cố thử làm gì! Không ai cảm nhận được cháu nữa đâu! Thôi, mau theo hai chú…
Bé Ân đành phải lếch thếch đi theo, vừa đi vừa khóc thút thít.
Đường đi cứ mỗi lúc một tối dần, đến khi không còn nhìn thấy gì nữa, bé Ân sợ hãi níu chặt tay Hắc Bạch Vô Thường, ba linh hồn nương vào nhau bước tới.
Đi hết đoạn đường tối như mực lại đến một nơi tranh sáng tranh tối, không khí lạnh lẽo âm u.
Hắc Bạch Vô Thường dẫn bé Ân vô một căn phòng nhỏ, rồi bỏ nó lại đó cả hai đi ra không quên dặn dò:
- Cháu cứ ở yên trong này, đừng có đi lung tung đấy nhé! Để hai chú đi báo cáo với Diêm Vương, khi nào Diêm Vương cần, hai chú sẽ tới đưa cháu đến ra mắt.
Còn lại một mình trong căn phòng trống trơ trống hoác, bé An lấy làm lạ là sao lúc này mình không cảm thấy sợ hãi, cũng không thấy lòng đau buồn dữ dội như lúc chiều?
Nhưng rồi nhớ đến mẹ cha, cậu bé không cầm được nước mắt. Cậu biết ba mẹ cậu sẽ rất đau khổ khi cậu chết đi. Ân muốn nói cho mẹ biết là giờ đây mình vẫn bình yên để mẹ được yên tâm, nhưng làm sao cậu bé thực hiện được điều đó?
Mãi suy nghĩ, bé Ân ngủ gục lúc nào không biết…
 
***
Hắc Bạch Vô Thường hoàn thành nhiệm vụ, lòng vui phơi phới. Hai đứa tìm đến trình diện Diêm Vương. Diêm Vương tỏ ý hài lòng khi thấy bọn chúng làm việc nhanh nhẹn, bảo đảm giờ giấc. Ông ra lệnh cho hai đứa được về nghỉ ngơi và không quên ban cho một mâm rượu nhỏ.
Đêm đó, Hắc Bạch Vô Thường được một bữa cơm rượu no say. Bọn hắn vừa ăn uống, vừa nhắc lại cái trò chơi vô cùng hấp dẫn mà hôm nay chúng đã được tham gia.
Hắc Vô Thường tỏ vẻ luyến tiếc:
- Phải chi mình được tự do lên trên đó thì vui biết mấy! Trần gian quả có lắm trò giải trí… Lần sau, mình phải tranh thủ đi thật sớm để chơi tiếp, tớ nhất định phải thắng…
- Ừ, tớ cũng quyết phải thắng!
Hắc Bạch Vô Thường nằm bên nhau, vẽ vời vô số điều sẽ làm nếu lần sau chúng trở lại trần gian.
Đột nhiên, một tên ngạ quỷ hớt hơ hớt hãi chạy đến gọi to:
- Hắc Bạch Vô Thường! Mau tới trình diện Diêm Vương! Hai người làm gì mà Diêm Vương nổi giận đùng đùng vậy?
Hắc Bạch Vô Thường hốt hoảng ngồi bật dậy, cố van nài tên ngạ quỷ nói rõ nguyên nhân tức giận của Diêm Vương, nhưng tên ngạ quỷ một mực lắc đầu:
- Tôi không biết! Hai anh cứ đến đó khắc biết thôi mà!
Vừa trông thấy Hắc Bạch Vô Thường, Diêm Vương đập tay xuống bàn nghe cái rầm, quát lớn:
- Hai ngươi đã dẫn hồn đứa bé về đây chưa?
Hắc Bạch Vô Thường run lập cập:
- Dạ… dạ rồi! Hồn đứa bé đang ở phòng nghỉ tạm ngoài cổng…
- Thế tại sao quan trông coi đèn sinh mệnh lại vừa tâu lên, ngọn đèn của Nguyễn Thanh An cứ cháy leo lét mãi mà không tắt? Hai ngươi có bắt đúng hồn không?
Diêm Vương gằn giọng.
Hắc Vô Thường lau mồ hôi, trả lời lí nhí:
- Dạ… bẩm… đúng ạ!
- Mau dẫn đứa bé tới đây!
Nghe Diêm Vương quát, Hắc Bạch Vô thường vội vã chạy ra phòng nghỉ tạm, xốc nách bé Ân đang say ngủ đem vào trước điện.
Bé Ân ngơ ngác ngó xung quanh.
Diêm Vương hạ thấp giọng hỏi cậu bé:
- Cậu bé kia, tên con là gì?
Bé Ân lễ phép:
- Dạ thưa, con tên là Ân, Nguyễn Thanh Ân ạ!
Diêm Vương gầm lên:
- Hắc Bạch Vô Thường! Hai ngươi có nghe không? Ta sai các ngươi di dắt hồn của đứa bé tên gì? Ta đã dặn nó tên là Nguyễn Thanh An! Các ngươi mau đưa tờ giấy ban sáng ra đây! Đưa ra ngay!
Nghe Diêm Vương hỏi đến tờ giấy, Hắc Bạch Vô Thường run rẩy quỳ xuống dập đầu cộp cộp xuống nền nhà.
- Xin Diêm Vương tha mạng! Xin Diêm Vương tha mạng! Chúng con… chúng con lỡ đánh rơi mất tờ giấy đó rồi…
Diêm Vương chỉ tay vào mặt Hắc Bạch Vô Thường:
- À, thì ra do đánh mất tờ giấy mà hai ngươi lại tùy tiện bắt người? Hai ngươi có biết hậu quả của việc này sẽ ra sao không? Ta không ngờ hai ngươi lại vô dụng đến vậy! Bây giờ ta có một cuộc họp gấp, không thể vắng mặt được! Hai ngươi ở đây mà suy nghĩ cho ra cách giải quyết, khi họp xong ta trở lại, nếu vẫn chưa có cách gì cứu vãn chuyện này, ta quyết không tha cho hai ngươi!
Nói dứt câu, Diêm Vương đùng đùng bỏ ra ngoài.
Bé Ân đã lờ mờ hiểu ra câu chuyện. Nó đến bên Hắc Bạch Vô Thường hỏi nhỏ:
- Hai chú… có phải hai chú bắt nhầm hồn cháu không?
Bạch Vô thường khe khẽ gật đầu, Hắc Vô Thường không ngừng rên rỉ:
- Trời ơi… mình phải làm sao đây? Làm sao để cứu vãn chuyện này đây? Cậu nói cho tớ biết đi, tớ phải làm sao đây?...
Bạch Vô Thường cúi đầu ủ rũ.
Bé Ân xen vào:
- Có gì mà hai chú phải lo? Hai chú đã bắt nhầm cháu, thì bây giờ hai chú dẫn cháu về trả lại cho ba mẹ cháu, rồi đi bắt đúng cái ngwofi mà hai chú cần phải bắt, như vậy có phải vẹn toàn không?
Hắc Bạch Vô Thường ngồi bật dậy, ôm lấy bé Ân tung lên cao, miệng cười lên ha hả:
- Thằng bé này thật thông minh! Có vậy mà hai thằng già đầu như mình lại không nghĩ ra! Thôi, đi , đi mau lên!
Nghĩ tới lúc được trở về với ba mẹ, bé Ân rất phấn khởi nên chạy nhanh không thua gì Hắc Bạch Vô Thường.
Chẳng mấy chốc, cả ba đã đứng trước cổng bệnh viện. Bé Ân hồi hộp thúc giục:
- Đi mau lên chú! Đi vô gặp ba mẹ cháu!
Nhưng ba chú cháu đi khắp mọi nơi trong bệnh viện vẫn không thấy ba mẹ bé Ân đâu.
Chợt nghĩ ra, Bạch Vô Thường reo lên:
- Về nhà! Chắc chắn ba má nó đã mang xác nó về nhà rồi!
Cả ba lại hộc tốc chạy ra, ngược về phía con đường đã đi qua lúc nãy.
Khi đến trước cửa nhà mình, bé Ân vui mừng chạy ào vào nhà ôm chầm lấy người mẹ đang ngồi ủ rủ trên võng.
- Mẹ ơi! Con về với mẹ rồi mẹ ơi!
Thấy mẹ vẫn ngồi im, Ân mới chợt nhớ ra giờ đây mình chỉ là một hồn ma không hình không dạng. Cậu bé tiu nghỉu quay qua Hắc Bạch Vô Thường:
- Hai chú làm ơn cho cháu trở về làm người, nhanh nhanh đi hai chú! Mẹ cháu nhớ cháu nên khóc sưng cả mắt rồi kia kìa…
Bé Ân bất ngờ khi thấy hai gương mặt một đen một trắng lúc này còn ủ rũ hơn cả gương mặt của mẹ cậu.
- Hai chú… Hai chú làm sao vậy?
Hắc Vô Thường nghẹn giọng:
- Họ… họ đã chôn xác cháu rồi…
Bạch Vô Thường rầu rĩ nói thêm:
- Hai chú quên rằng mỗi một tiếng đồng hồ ở dưới âm phủ là bằng cả một ngày trên dương thế! Bây giờ đã mấy ngày trôi qua rồi, xác cháu đã được người nhà chôn cất, và nó… nó đã sình thúi lên rồi… Làm sao… làm sao hai chú cho cháu nhập hồn vào được?
Nghe dứt lời, bé Ân té ngồi xuống đất. Bao nhiêu niềm vui, bao nhiêu hy vọng trong lòng cậu bé giờ đã tiêu tan.
Trong nhà, người mẹ thương yêu của cậu cứ ngồi im lìm như một bức tượng, bà Tám dỗ dành an ủi cách nào mẹ cậu vẫn không chịu ăn một muỗng cơm.
Và kia, trên chiếc võng sau hè, ba cậu đang nằm gác tay lên trán, hai má hóp vô thấy rõ, râu ria thì đâm ra tua tủa.
Mãi mãi ba mẹ sẽ không nhìn thấy mình được sao? Ân òa khóc nức nở. Hai tên Hắc Bạch Vô Thường cũng lặng lẽ ngồi xuống cạnh bên cậu bé, không ai nói một câu.
Khóc một hồi, Ân quay sang hỏi:
- Bây giờ hai chú tính sao?
Bạch Vô Thường thểu não trả lời:
- Bây giờ hai chú trở về dưới là chết chắc! Hai chú cũng không biết phải làm sao nữa…
Hắc Vô Thường đứng bật dậy:
- Tớ có cách rồi!
- Cách gì?
Bạch Vô Thường và bé Ân đồng thanh hỏi.
Hắc Vô Thường thầm thì:
- Này nhé! Thằng bé tên An kia đã tới số, bây giờ mình tới bệnh viện dắt hồn nó đi rồi để cho thằng bé này nhập hồn vô xác thằng bé kia, thế là xong! Thanh Ân vẫn sống, Thanh An thì ta dẫn về trình diện Diêm Vương! Cậu nghĩ như vậy có được không?
Bạch Vô Thường đắn đo:
- Tính vậy có được không? Như vậy… như vậy thằng bé này phải sống bằng thân xác của thằng bé kia à?
Bé Ân giãy nãy:
- Không, không! Cháu không chịu đâu! Cháu không muốn sống bằng xác của người khác đâu!
Hắc Bạch Vô Thường xúm lại dỗ dành:
- Không có sao đâu, cháu đừng sợ! Thằng đó con nhà giàu, được ba má nó thương yêu dữ lắm! Cháu mà làm được nó, cháu sẽ sung sướng cả đời luôn đó!
Bé Ân vẫn không nín khóc:
- Cháu không muốn! Cháu không thèm, cháu chỉ muốn ba mẹ hiện nay của cháu thôi…
Hắc Vô Thường nghiêm giọng:
- Cháu là đứa bé thông minh, sao chú nói hoài mà cháu không chịu hiểu? Hai chú đây cũng rất muốn đưa được cháu vào đúng xác của mình, nhưng ngặt nỗi xác cháu bây giờ không còn nữa, hai chú đành bó tay thôi! Bây giờ chú cho cháu chọn một trong hai đường nhé! Cháu suy nghĩ cho kỹ đi rồi hay trả lời. Cách thứ nhất: Cháu sẽ sống trở lại nhưng bằng thân xác của thằng bé kia; cách thứ hai, cháu mãi mãi là một vong hồn không có nơi để đi mà cũng không có chốn để về, phải vất vưởng hoài đến bao giờ phần số của cháu chính thức mãn thì cháu mới được về trình diện Diêm Vương. Đấy, cháu cứ chọn! Hai chú có lỗi, hai chú rất muốn giúp cháu sống lại để gỡ bớt lỗi lầm của mình, nhưng nếu cháu không đồng ý thì chú cũng không ép!
Nghe Hắc Vô Thường nói một thôi một hồi, bé Ân thật sự hoang mang. Cậu bé rất sợ phải sống cảnh vất vơ vất vưởng, đi ngoài đường không ai nhìn thấy, muốn nói gì cũng chẳng ai nghe… Thà là mình được sống lại, dù với hình hài nào cũng đỡ hơn!
Cậu bé ngần ngại hỏi:
- Nhưng… nếu cháu sống lại bằng thân xác của thằng kia, liệu ba mẹ cháu có nhận ra cháu không?
Hắc Bạch Vô Thường nhìn nhau lắc đầu:
- Có thể ban đầu ba mẹ cháu không nhận được, nhưng dần dần cháu sẽ nhắc nhở thì ba mẹ cháu nhận ra ngay…
Bé Ân nghi ngờ:
- Hai chú nói thật không?
Bạch Vô Thường thở dài, giảng giải:
- Đáng lẽ khi một vong hồn đi đầu thai, sẽ được uống một thứ nước để xóa hết trí nhớ, để khi đầu thai kiếp khác sẽ không còn nhớ gì đến kiếp trước của mình. Nhưng trường hợp của cháu là ngoại lệ, vì thật ra cháu chưa tới số, nên không thể gọi là đầu thai kiếp khác được. Cháu vẫn phải sống tiếp kiếp này của mình, chỉ khác là sống bằng thân xác người khác vậy thôi. Vì thế, cháu vẫn nhớ những gì cháu đã trải qua…
Hắc Vô Thường nói chen vào:
- Nhưng cháu ạ, dẫu sao thì cháu cũng phải sống bằng thân xác của người khác. Thân xác đó cũng có cha có mẹ đàng hoàng. Nếu cháu một mực từ chối, nói mình không phải là con của họ thì tội nghiệp cho họ lắm! Bởi vậy, dù sao cháu cũng phải chấp nhận gọi họ là ba mẹ, và phải thương yêu họ như chính ba mẹ ruột của mình, nghe không? Họ là ba mẹ của thân xác cháu, còn ba mẹ ở đây là ba mẹ của linh hồn cháu. Cháu không thể tách rời linh hồn và thân xác được, vì hai cái đó phải hòa nhập vào nhau thì cháu mới có thể tồn tại trong đời sống ở trần gian được! Chú nói vậy chắc cháu hiểu?
Bé Ân ấp úng:
- Dạ… cháu hiểu!... Vậy thì… vậy thì cháu đồng ý!
Hắc Bạch Vô Thường mừng rỡ đứng lên kéo tay bé Ân ra cửa. Bé Ân không quên nhìn lại ngôi nhà thân quen và ba mẹ kính yêu của mình, cậu thầm nhủ ngày mai mình sẽ quay về kể cho ba mẹ nghe tất cả!
 
***
Chị Phương gục đầu bên cạnh con trai, mệt mỏi rã rời nhưng chị vẫn không dám chợp mắt đi một chút. Chị lo sợ, chị hồi hộp theo từng hơi thở yếu ớt của đứa con yêu quý.
Chị không còn hốt hoảng, không còn tê dại, chỉ còn lại là con người hành động. Chị không ăn gì suốt bảy mươi tiếng đồng hồ đó. Không thể… Không thể trả lời bất kỳ một câu hỏi nào dù đơn giản nhất từ bất kỳ ai, trừ bác sĩ, y tá trong bệnh viện.
Bác sĩ Hùng mạnh mẽ hơn, anh đi lại như con thoi, vừa lo cho vợ con, vừa lo cho các bệnh nhân khác, lại còn phải tiếp người thân và bạn bè đến thăm viếng.
Chị Phương cầm lấy bàn tay với những ngón thon dài của con đưa lên môi hôn khẽ. Chị thì thầm: “Con trai, con mau chóng khỏe lại để về nhà với ba mẹ nghe con! Bàn tay này của con sẽ lại dạo lên phím đàn mỗi tối để cả nhà mình tràn ngập tiếng nhạc vui… Con trai, con nhất định phải sống, con không được bỏ mẹ… Hôm nay là ngày thử thách cuối cùng của con, phải vượt qua nhé con, mẹ con mình phải vượt qua! Con hứa với mẹ đi An ơi…”
Hắc Vô Thường kéo bé Ân đến bên cạnh giường bệnh, rồi đưa cánh tay dài khẳng khiu như que củi lên vẫy, linh hồn bé An từ từ bay lên khỏi thân xác, mong manh như một làn khói. Cùng lúc đó, Bạch Vô Thường nhanh tay xô bé Ân ngã nhào lên xác bé An. Cả hai đồng thanh:
- Hai chú chào cháu nhé!
Ân nghe tiếng cười của họ xa dần rồi cậu ngủ thiếp đi, không biết gì nữa cả.
Bác Sĩ Hùng khẽ khàng bước vào, nhìn thấy vợ xanh xao vàng vọt ngồi lặng bên con anh thở dài, kéo ghế ngồi cạnh một bên.
Chị Phương trông thấy chồng, hấp tấp giục:
- Anh! Anh khám lại cho con lần nữa đi anh! Con mình sẽ tỉnh lại phải không anh?
Dù không còn chút hy vọng nào, nhưng trước ánh mắt van nài của vợ, bác sĩ Hùng không thể từ chối được. Anh uể oải đứng lên lấy dụng cụ khám lại cho con trai lần nữa cho vợ vui lòng.
Thật lạ lùng, bác sĩ Hùng không thể ngờ được! Đúng là phép màu đã xảy ra! Bé An đã có dấu hiệu hồi dịch tràn, bụng xẹp dần, thở cũng dễ hơn.
Trước những dấu hiệu phấn khởi đó, bác sĩ Hùng lập tức cho làm thêm vài xét nghiệm, và kết quả thật không ngờ!
Tiểu cầu của bé An đã hồi, men gan cũng giảm. Dù chưa hết nguy kịch, nhưng nếu vượt qua được sẽ không có di chứng nào để lại.
Chị Phương mừng như điên khi nghe chồng cho biết tình trạng hiện tại của con trai. Suốt đêm hôm ấy, chị cứ ngồi bên con mà lầm rầm khấn vái bốn phương trời phật.
Gần sáng, bác sĩ Hùng reo lên:
- Em ơi! Con mình sống rồi! Con mình vượt qua thử thách rồi em ơi!
Chị Phương như mọc cánh bay lên trước tin vui đó! Nhưng khi vừa đứng dậy, chị lảo đảo ngã ngồi xuống ghế. Bác sĩ Hùng âu yếm ôm chầm lấy vợ:
- Anh đi mua thức ăn cho em! Em phải ăn để có sức mà chăm sóc cho con chứ! Con mình sống rồi… Con mình sống rồi…
Hai người ôm lấy nhau vừa cười vừa khóc làm mấy cô y tá cũng không cầm được nước mắt.
- Cuối cùng trời phật đã thương vợ chồng mình!
Chị Phương nghẹn ngào, tay chị run run đón lây ly sữa mà cô y ta đưa cho nhưng vẫn chưa vội uống, nỗi vui mừng khiến chị cũng không còn cảm giác đói, cũng như mấy ngày qua, sự lo âu cũng làm chị không thấy đói. Cô y tá giục:
- Giờ cháu đã qua thời kỳ nguy hiểm rồi! Chị càng phải lo cho bản thân để có sức khỏe mà chăm sóc cháu những ngày tiếp theo. Chị phải ăn uống đi chứ!
Chị Phương vui ve nói lời cảm ơn với mấy cô y tá rồi bưng ly sữa lên uống. Từng dòng sữa ngọt lịm, ấm áp đi vào cơ thể chị tiếp thêm cho chị nguồn sinh lực.
Đến trưa, bé An mở mắt. Nó gọi yếu ớt:
- Mẹ ơi!
Nghe tiếng gọi của con, nước mắt lại chảy tràn ra trên má chị Phương. Chị sà lại bên con:
- Mẹ đây con ơi! Con đã tỉnh rồi… Mẹ mừng quá con ơi…
Trong lúc chị gọi với ra cửa để nhờ y tá đi báo cho bác sĩ Hùng biết con trai anh đã tỉnh, thì cũng là lúc bé An ngơ ngác nhìn xung quanh.
“Người đàn bà đang ôm chặt mình trong vòng tay đâu phải mẹ của mình! Tại sao… tại sao bà ấy lại gọi mình là con?”. Cậu bé không nhớ ra điều gì cả, lúc này cậu cảm thấy rất mệt mỏi, còn cái đầu thì ngầy ngật, bao nhiêu thứ lùng nhùng trong đó, cậu bé không tài nào suy nghĩ được, cậu chỉ biết chắc một điều, ngwofi phụ nữ xinh đẹp này không phải là mẹ mình! Mẹ mình đâu? Ba mình đâu? Sao mọi người xung quanh toàn xa lạ với mình?
- Mẹ… mẹ con đâu?
Không dằn được, cậu bé hỏi với giọng yếu ớt.
Chị Phương đặt một nụ hôn âu yếm lên trán con trai, nhỏ nhẹ:
- Mẹ đây, mẹ đây nè con! Mấy ngày qua, mẹ luôn luôn ngồi sát bên con để chờ con trai yêu quý của mẹ tỉnh dậy đó!
Bé An thấy lạ lẫm quá, cậu muốn kêu to lên “Không, bà không phải là mẹ của con”, nhưng vì quá mệt mỏi, cậu bé lại chìm vào giấc ngủ.
Khi bác sĩ Hùng đến, chị Phương lo âu nói với chồng:
- Anh ơi, con tỉnh lại rồi! Em mừng quá! Nhưng sao… hình như nó không nhận ra em anh à!
Bác sĩ Hùng cười, trấn an vợ:
- Con mình mê man đã máy ngày mấy đêm rồi, vừa tỉnh lại đầu óc nó làm sao linh hoạt được? Em yên tâm đi, không sao đâu!
Nghe chồng nói vậy, chị Phương nhoẻn cười vì sự lo âu thái quá của mình.
Bé Ân ngủ một mạch suốt mấy giờ liền, tới chiều, khi thức dậy nó co cảm giác khỏe khoắn hơn rất nhiều và trong đầu cậu bé lúc này cũng đã lờ mờ nhớ ra một số chuyện. Dù không rõ ràng lắm, nhưng cậu nhớ là mình đã chết, đã xuống trình diện Diêm Vương, nhớ cả việc hai chú Hắc Bạch Vô Thường bị Diêm Vương quát nạt vì tội bắt nhầm hồn; Rồi hai chú đưa mình lên lại trần gian mà nhập vô thân xác của đứa bé xa lạ này.
Cậu bé nhổm dậy nhìn lại thân thể mình một lượt.
Cái thân xác này có cao hơn mình lúc trước một chút, nhưng trông có vẻ yếu ớt quá! Da mình thì rám nắng, còn làn da mình đang mang lại trắng trẻo, bàn tay mềm mại như tay con gái…
Mải nhìn ngắm thân thể mình, bé Ân giật bắn người khi một bàn tay chạm nhẹ vào lưng cậu.
- Con trai ngồi dậy được rồi! Ba mừng quá!
Bé Ân ngẩng lên nhìn vào mắt người đàn ông mặc áo bác sĩ đang đứng kề bên, cậu muốn bảo rằng mình không phải con ông ta, nhưng suy đi nghĩ lại dù sao mình cũng đang mang xác thân của của con ông ấy, mình có nói gì chưa chắc mọi người chịu tin. Thôi, tạm thời mình cứ chấp nhận sống như thế này, mọi việc để từ từ sẽ giải quyết. Lời dặn dò của Hắc Bạch Vô Thường vẫn còn âm vang trong đầu cậu bé. Mình phải chấp nhận thôi, từ hôm nay mình sẽ là người có hai ba, hai mẹ…
Nghĩ vậy nên bé Ân mỉm cười với người đàn ông rồi nằm trở xuống giường. Cậu bé thầm nhủ, mình phải nhớ, mình phải gọi những người này là ba, là mẹ. Bất chợt nhớ tới ba mẹ mình, cậu bé muốn bật lên tiếng khóc, nhưng cậu dã kịp dằn lại. Những biến cố mà cậu đã phải trải qua giúp cậu bé trưởng thành hơn cái tuổi mười hai của cậu rất nhiều…
Vợ chồng bác sĩ Hùng đón con trai ra viện trở về nhà với niềm hân hoan khôn tả.
Ngoài niềm vui khi con trai thoát khỏi lưỡi hái tử thần, bác sĩ Hùng còn có một niềm vui khác, đó là sự thay đổi của Phương, vợ bác sĩ. Cô ấy đã trở nên một người khác hẳn, không còn bướng bỉnh, ngang tàng như lúc trước.
Bác sĩ Hùng mỉm cười khi nghĩ tới những ngày hạnh phúc trước mắt của gia đình mình.
Ngày đầu tiên về sống trong một ngôi nhà sang trọng, bé Ân vô cùng lúng túng. Thái độ lạ lẫm đó khiến niềm vui của vợ chồng bác sĩ Hùng bỗng nhiên chùng xuống.
Đầu tiên là việc đi tiêu tiểu.
Chị Phương lui cui dọn dẹp, ngoảnh lại thì không thấy An đâu. Chị gọi to:
- An ơi! An! Con đâu rồi!
- Dạ, con đây!
Tiếng thằng bé đáp lại từ vườn sau. Chị Phương vội chạy ra nhìn xem con làm gì ngoài ấy. Chị vừa ra tới cửa sau thì trông thấy An lững thững đi vào.
- Con ra vườn làm gì vậy con?
Chị Phương âu yếm hỏi.
An đáp, có vẻ thẹn:
- Dạ… con… con đi ị!
Chị Phương mở to mắt ngạc nhiên:
- Con nói sao? Con đi… con đi tiêu ngoài đó? Toilet trong nhà sao con không sử dụng?
An há hốc miệng, định hỏi xem toilet là cái gì, nhưng rồi cậu bé dằn lại sự tò mò, chỉ mỉm cười không nói.
Chị Phương thầm nhủ, có lẽ mấy ngày liền nằm trong bệnh viện, không gian tù túng chật hẹp, bây giờ con chị cần nơi thoáng mát nên cũng thôi không còn thắc mắc nữa.
Nhưng từ đó tới chiều, trước bao nhiêu sự ngớ ngẩn của con trai, chị Phương không còn yên tâm nữa.
Lúc chị bảo:
- Mở ti vi lên xem đi con, giờ này đang chiếu tiếp bộ phim thiếu nhi mà con rất thích đó!
Thằng bé lúng túng đứng trước màn hình, rờ rẫm lung tung mà không sao mở được. Chị Phương phải lấy remoete hướng dẫn con cách tắt mở, cách dò đài, chuyển kênh ra sao.
Rồi đến chiếc máy vi tính. Thằng bé có vẻ thích thú lắm, cứ sà vào bên cạnh mà ngắm nghía, vuốt ve rồi hỏi chị:
- Mẹ ơi, cái máy này mắc tiền lắm phải không mẹ?
Chị Phương bật cười, xoa đầu con:
- Ừ, mắc lắm! Nhưng có mắc mấy ba mẹ cũng mua cho con! Nào, bây giờ con mở máy lên checkmail đi! Mấy hôm con nằm viện, thế nào các anh chị họ của con ở bên Canada cũng gửi mail về thăm hỏi và động viên con đó! Nhưng ba mẹ bận lo cho con ở trong ấy, cũng chẳng có thời gian đọc nữa!
Thằng bé cứ nhìn chị như đang nghe một thứ ngôn ngữ nào đó hoàn toàn xa lạ đối với nó. Gương mặt nó nghệch ra trông đến tội. Trông thấy con như vậy, chị Phương không khỏi ngỡ ngàng.
Chị thảng thốt kêu lên:
- An! Con sao vậy? Con đừng nói với mẹ là con không còn nhớ gì cả đấy nhé?
Bé An cúi mặt xấu hổ, nói giọng ngập ngừng:
- Con… thật sự… con không… con không còn nhớ gì hết mẹ à!
Chị Phương bật khóc.
Chị cuống cuồng gọi điện cho chồng, bảo anh về nhà ngay vì con trai có biểu hiện kỳ lạ lắm.
Nghe điện thoại vợ, anh Hùng hốt hoảng vội vã bàn giao ca trực rồi phóng ào lên xe chạy vội về nhà. Trong đầu anh bao nhiêu thắc mắc. Chẳng lẽ nào bệnh của con anh lại trở nặng? Không, không đâu, sáng nay nó đã hoàn toàn khỏe mạnh rồi mà? Vậy thì chuyện gì? Chuyện gì khiến vợ anh hốt hoảng đến mức đó?
Tim anh nghẹt lại với những lo sợ vu vơ.
Nhưng khi về tới nhà, bác sĩ Hùng thở phào nhẹ nhõm khi trông thấy hai mẹ con bé An đang ngồi với nhau trên chiếc xích đu bên hiên nhà.
Anh trách vợ:
- Con làm sao mà em lại hối thúc anh như vậy? Làm anh sợ hết cả hồn…
Chị Phương nhìn con một lúc rồi nhẹ nhàng đứng lên, kéo tay chồng đi vào phòng khách.
Khi cả hai đã ngồi xuống ghế, chị Phương thầm thì với chồng:
- Con lạ lắm anh ơi! Em có cảm giác con mình như một người khác lạ hoàn toàn vậy! Có nhiều lúc em nghĩ nó không phải là con mình nữa…
Bác sĩ Hùng bật cười ha hả:
- Trời ơi! Trên đường về anh cứ tưởng là con trở bệnh, nhưng hóa ra lại là em! Em làm sao vậy? Tại sao em lại có thể nghĩ nó không phải là con mình được chứ?
Chị Phương rưng rưng nước mắt:
- Em nói thật đó! Tại anh bận việc lu bu, không tiếp xúc con nên anh không biết đó thôi! Mới về nhà chưa được một ngày mà con đã làm cho em đi từ ngạc nhiên này tới hoang mang khác. Nó không biết mở tivi, không biết sử dụng máy vi tính. Thậm chí… thậm chí nó không biết sử dụng toilet nữa đđó anh!
Nghe vợ kể lể, bác sĩ Hùng cứ ngẩn người ra, anh không tin lại xảy ra việc kỳ lạ như vậy.
Bệnh sốt xuất huyết của con, nếu có di chứng để lại đi nữa thì cũng là di chứng ở gan, chứ làm sao lại ảnh hưởng đến hệ thần kinh của nó được?
Suy nghĩ một lúc, bác sĩ Hùng vỗ vai vợ an ủi:
- Thôi được rồi, em đừng lo! Ngay bay giờ anh sẽ gọi điện tới bệnh viện xin nghỉ phép ít hôm để có thời gian ở nhà chơi đùa với con và tìm hiểu bệnh tình của nó. Nếu thật sự có vấn đề, mình sẽ đưa con đi khám thần kinh em ạ!
Chị Phương khóc thút thít:
- Thấy con hết bệnh, em mừng quá đỗi! Không ngờ… con lại như vậy! Em cầu trời đừng có chuyện gì không hay xảy ra với con mình nữa…
- Thôi, em đừng khóc! Phải vui lên cho con mình vui chứ! Em mà khóc, tinh thần thằng bé sẽ xấu hơn đấy!
Nghe lời chồng, chị Phương lau nước mắt:
- Giờ anh ra chơi với con đi! Em lo chuẩn bị cơm nước. Anh nhớ theo dõi xem có phải thật sự con mình mất trí nhớ không nhe?
- Ừ, anh biết rồi! Em yên tâm đi!
Chị Phương xuống bếp nấu cơm. Bác sĩ Hùng cũng đứng lên vào phòng thay quần áo rồi ra trước hiên nhà ngồi với con trai.
Thằng bé trông thấy anh, nó không mừng rỡ liếng thoắng như thường ngày mà còn có vẻ rụt rè xa lạ.
Dù đã được vợ cho biết trước những biểu hiện bất thường của con trai, nhưng bác sĩ Hùng vẫn cảm thấy bị sốc, huống hồ gì vợ anh.
Làm như không để ý tới sự khác thường đó, bác sĩ Hùng ôm con vào lòng:
- Con thật khỏe chưa? Trong người con có chỗ nào không ổn không con?
- Dạ, con khỏe rồi!
Thằng bé đáp.
- Nào, khỏe rồi thì vô nhà dạo một khúc nhạc cho ba nghe đi con trai! Mấy hôm nay nhà mình vắng tanh và buồn hết biết, bởi vì thiếu tiếng đàn của con đấy!
Vừa nói, bác sĩ Hùng vừa đỡ con đứng dậy.
Thằng bé lúng túng:
- Con… con… đánh đàn à?
- Ừ, chứ sao! Con quên con là một tài năng dương cầm ở trường sao?
Bác sĩ Hùng tự hào nói với con trai.
Mắt thằng bé cụp xuống, nó ngắt ngứ:
- Con… con… bây giờ con không biết đánh đàn…
Bác sĩ Hùng ngồi chồm hổm xuống đất để nhìn thẳng vào mắt con. Anh lo lắng hỏi:
- Con nói thật cho ba biết đi, thật sự con không biết đánh đàn sao?
Thằng bé ngó chỗ khác để tránh tia nhìn của người cha. Nó đáp nhỏ trong miệng:
- Con… thật sự con không biết gì hết! Con… con không phải…
- Con không phải là sao? Nói cho ba biết đi con?
Bất chợt thằng bé òa khóc làm chị Phương từ dưới bếp hấp tấp chạy lên lo lắng hỏi chồng:
- Anh, sao anh làm con khóc vậy?
Rồi không đợi bác sĩ Hùng trả lời, chị quay sang con, âu yếm:
- Ba lại chọc ghẹo gì con nữa à? Thôi, con nín đi mẹ thương! Để rồi mẹ con mình hợp sức nhau chọc ghẹo lại ba cho huề nhé con!
Thằng bé được mẹ ôm vào lòng dỗ dành lại càng khóc lớn hơn khiến chị Phương càng thêm lo lắng. Vừa dỗ con, chị vừa đưa mắt dò hỏi chồng, nhưng bác sĩ Hùng không nói gì, anh chỉ khẽ lắc đầu rồi buồn bã đứng lên đi vào phòng.
Từ chiều hôm dó, vợ chồng bác sĩ Hùng thay nhau chỉ dẫn cho con tỉ mỉ từng việc nhỏ trong nhà. Dù trước đó thằng bé hoàn toàn xa lạ với mọi đồ đạc, công cụ sử sụng  quen thuộc hàng ngày trong gia đình, nhưng chỉ sau một lần hướng dẫn là nó lại thành thục ngay.
Bác sĩ Hùng không chuyên khoa về thần kinh, nhưng ít nhiều gì cũng biết qua đôi chút. Trước những biểu hiện lạ lùng của con trai, bác sĩ hoàn toàn không biết nó mắc phải chứng bệnh gì.
Thằng bé vẫn ăn nói lễ phép, khôn ngoan bình thường, xét về góc độ thần kinh, nó không có gì là bất thường cả! Chỉ không bình ở chỗ, hình như ngôi nhà này hoàn toàn xa lạ với nó, nó như từ một nơi khác đến đây vậy!
- Sẵn dịp anh được nghỉ phép, ngày mai mình đưa con đi Vũng Tàu chơi, hy vọng thay đổi không khí giúp cho con được hồi phục nghe em?
Bác sĩ Hùng bàn với vợ.
Nghe chồng nói vậy, chị Phương mừng rỡ vội đứng lên thu xếp đồ đạc bỏ vào va li để sáng mai cả nhà đi du lịch.
Bất cứ điều gì có khả năng giúp con trai bình phục chị Phương đều nhiệt tình thực hiện.
***
Thằng bé tỏ ra rất thích thú khi được ba mẹ dẫn đi tắm biển.
Sáng này lúc trên đường đi, sự hồ hởi của nó cũng khiến vợ chồng bác sĩ Hùng vui lây.
Nó chồm lên nhìn ra quang cảnh hai bên đường, luôn miệng hỏi chuyện này chuyện khác. Bác sĩ Hùng và chị Phương tận tình giải thích cặn kẽ cho con, không ai tỏ ra bực mình trước những câu hỏi vô cùng ngớ ngẩn của nó.
Tới Vũng Tàu, cả ba đến khách sạn thuê phòng xong xuôi, vợ chồng bác sĩ Hùng định nghỉ ngơi cơm nước, đến chiều mới dắt nhau ra biển, nhưng thấy vẻ háo hức của con trai, hai vợ chồng đành chìu theo nó, cả ba ra biển lúc trời đang nắng gắt.
Vừa ra tới bãi biển, bé An chạy nhanh ra lao xuống nước, làm bác sĩ Hùng một phen hoảng vía. Anh nhảy bổ theo, kéo con trở lại:
- Không được đâu con! Con chưa biết bơi mà! Để từ từ ba dạy cho con…
Thằng bé cười vang:
- Ba yên tâm đi, con bơi được mà!
Bác sĩ Hùng ngẩn ra một lúc. Anh không quên lần đi biển vừa rồi mới cách đây ba tháng, anh đa  cố nài nỉ con trai xuống biển tập bơi nhưng nó đã một mực từ chối. Nó bảo nó sợ sóng.
Bây giờ nghe bé An nói vậy, bác sĩ Hùng thật sự không tin, nhưng cũng để thử xem sao. Anh buông tay con ra và bản thân mình thì ở trong tư thế sẵn sàng tiếp ứng cho con.
Vừa rời khỏi bác sĩ Hùng, bé An đã xoãi tay bơi một cách vô cùng thành thục. Nó cười vang mỗi khi con sóng ập vào. Vợ chồng bác sĩ Hùng đứng chôn chân trên bãi cát nhìn theo kinh ngạc…
Bơi lội tung tăng suốt máy tiếng đồng hồ bé An mới chịu lên bờ theo cha mẹ về khách sạn ăn cơm trưa.
Lúc này thằng bé trông hoạt bát hẳn lên, mất đi cái vẻ rụt rè nhút nhát lúc từ bệnh viện về nhà.
Làn da bé An đỏ ửng lên vì rám nắng, chị Phương xuýt xoa mãi vì quên không thoa kem chống nắng cho con, nhưng thằng bé hoàn toàn không để tâm đến chuyện đó.
Ăn cơm xong bé An lên giường nằm cạnh mẹ, cố nhắm mắt ngủ với lời hẹn ước:
- Con ngủ dậy, ba mẹ lại cho con ra biển!
Chị Phương do dự:
- Nhưng con vừa mới khỏi bệnh, dầm mình trong nước hoài liệu có ảnh hưởng gì không?
Bác sĩ Hùng lắc đầu. Anh thấy hiện tại, con trai anh đã hoàn toàn bình phục, bình phục một cách khác thường, cũng giống như sự thay đổi khác thường của nó vậy!
Khi hai mẹ con chị Phương đã ngủ say, bác sĩ Hùng vẫn không sao chợp mắt được. Trước mặt vợ con, anh luôn tỏ ra người rắn rỏi, luôn tỏ ra rằng tất cả chỉ là chuyện nhỏ không đáng quan tâm. Nhưng thật sự anh vô cùng lo lắng.
Mấy hôm nay anh đã tìm đọc rất nhiều sách về thần kinh, nhưng triệu chứng kỳ lạ của con trai anh vẫn chưa thấy sách nào đề cập tới.
Bác sĩ Hùng nhẹ nhàng kéo ghế đến ngồi cạnh bên giường ngắm vợ con. Thằng bé đang say ngủ, từng nhịp thở đều đều khỏe khoắn và gương mặt trẻ thơ sáng bừng làm lòng anh rung động.
Hình hài này đã quá đỗi thân quen với anh. Nhìn nó nằm ngủ thế này, anh thấy cuộc đời thật bình an, thật tươi đẹp. Nhưng sao khi thức dậy, nó lại khác lạ hoàn toàn so với những ngày chưa mắc bệnh? Nếu anh là một người già luôn tin vào những điều dị đoan mê tín, ắt hẳn anh sẽ cho rằng con trai mình đã thay hồn đổi vía cũng nên!
Nhưng anh là một bác sĩ, anh nhìn mọi việc với góc nhìn của một nhà khoa học. Chính vì vậy anh luôn dằn vặt vì không sao giải thích được những hiện tượng lạ mà vợ chồng anh phải đối mặt mấy ngày qua.
Không dằn lòng được, bác sĩ Hùng ra khỏi phòng, đi xuống sân khách sạn, tìm tới một ghế dá vắng vẻ ngồi gọi điện cho Lâm, người bạn thân hiện là bác sĩ chuyên khoa tâm thần ở thành phố.
Sau mấy câu chào hỏi thông thường, bác sĩ Hùng đi thẳng vào vấn đề. Anh nói vắn tắt về trận sốt xuất huyết vừa qua của con trai, rồi kể tỉ mỉ với bạn về những biểu hiện lạ lùng của con từ sau khi xuất viện. Bác sĩ Hùng hy vọng sẽ nhận được những lời tư vấn thiết thực của bạn mình.
Lắng nghe toàn bộ câu chuyện, bác sĩ Lâm suy nghĩ một lúc rồi nói:
- Cậu yên tâm đi! Tạm thời vợ chồng cậu cố gắng giúp bé hồi phục sức khỏe cơ thể và sức khỏe tinh thần. Sau khi ở Vũng Tàu về, vợ chồng cậu hãy đưa bé đến gặp tớ, khi ấy tớ mới có thể xác định được tình trạng. Chứ nghe cậu kể nãy giờ, thú thật… tớ cũng lấy làm lạ lắm! Trường hợp như vậy tớ chưa từng gặp qua, cũng chưa thấy y văn nào ghi chép lại.
- Ừ, vợ chồng mình sẽ đưa con đến gặp cậu ngay sau khi từ Vũng Tàu về!
Bỏ điện thoại vào túi, bác sĩ Hùng ôm đầu suy nghĩ.
Cứ nghĩ sau khi gọi điện cho bạn sẽ được yên tâm hơn, ai ngờ lại càng thêm lo lắng!
Rồi để tự trấn an mình, bác sĩ Hùng nhủ thầm, nó còn sống đã là may mắn, đã là một kỳ tích rồi, thì cho dẫu bây giờ nó có quên hết những chuyện đã qua cũng không sao, vợ chồng mình sẽ dạy nó lại từ đầu! Không sao hết! Không có gì phải lo sợ hết!
Nghĩ vậy, bác sĩ Hùng mỉm cười nhưng trên mí mắt hai dòng lệ lại trào ra. Anh lặng lẽ kéo tay áo lau vội…
Ba ngày ở thành phố biển Vũng Tàu có lẽ sẽ là ba ngày hạnh phúc vô biên của gia đình bác sĩ Hùng nếu đừng ai nhớ gì đến những ngày trước kia của bé An.
Thằng bé vô tư chạy nhảy trên bãi biển, đùa giỡn với từng con sóng vỗ bờ. Buổi sáng, nó thích ngồi chồm hổm trên bãi cát sì sụp húp từng muỗng tàu hũ thơm lựng mùi gừng. Chiều tối nó kéo tay mẹ sà xuống hàng bắp nướng… Chìu theo con, vợ chồng bác sĩ Hùng cũng la cà theo các hàng quà vặt, các gánh hàng rong trên bãi biển, những chỗ mà trước đây không bao giờ gia đình bác sĩ chịu ghé lại vì lý do vệ sinh ở những nơi đó không có gì bảo đảm.
Những lúc dẫn con vào ăn ở những nhà hàng, tiệm ăn sang trọng, thái độ của thằng bé lại trở nên rụt rè, lúng túng đến tội nghiệp. Nó không phản đối nhưng có vẻ không thích lui tới những chỗ như vậy.
Nó giống y như một đứa trẻ được sinh ra và lớn lên trong một gia đình khó khăn, nghèo khổ…
Có lúc, chị Phương bất chợt giật mình, không hiểu con mình còn nhớ mặt chữ và những gì đã học ở trường lớp hay không. Chị vội vã kiểm tra thì thở phào nhẹ nhõm vì thằng bé rất rành rẽ kiến thức trong các chương trình phổ thông đã học!
Cũng còn may! Nó mà quên hết mặt chữ, mười hai tuổi đầu lại phải học từng chữ cái i tờ, lại phải tập ráp vần thì còn gì tương lai của con chị nữa!
Mỗi khi thuận tiện, vợ chồng bác sĩ Hùng lại nhắc nhở và làm như vô tình hỏi con về những việc đã xảy ra trước kia, nhưng thằng bé khi thì tránh né không trả lời, khi lại ngơ ngác thú nhận không còn nhớ. Nghe nhắc đến ông bà nội ngoại, nó vẫn dửng dưng như không hề biết họ là ai!
Vừa từ Vũng Tàu về nhà, bé An rụt rè xin phép mẹ:
- Mẹ ơi! Mẹ cho con đi một chút…
Chị Phương ngạc nhiên:
- Con muốn đi đâu? Ba mẹ sẽ chở con đi?
- Dạ… không, không! Con chỉ muốn đi bộ loanh quanh đây một chút thôi!
Chị Phương còn chưa biết trả lời sao với ocn thì bác sĩ Hùng khẽ bảo:
- Ừ, con đi đi! Nhưng con còn nhớ đường về không đấy?
Bé An mừng rơn:
- Dạ nhớ chứ ba! Con đi một chút sẽ về thôi!
Nhìn nó vui vẻ nhảy chân sáo ra cửa, chị Phương âu lo bảo chồng:
- Hay anh đi theo con…
Bác sĩ Hùng gạt đầu rồi lặng lẽ đi theo thằng bé, cố tình không nó nhận ra mình đang bị cha theo dõi.
Nó chạy một mạch ra ngoại ô thị xã, rồi rẽ vào một xóm nhỏ nhà cửa lô xô chen chúc.
Gặp một đám con nít đang chơi bắn bi ngoài đầu hẻm, bé An sà vô mừng rỡ như đã từng quen thuộc với chúng. Nhưng ngay lập tức, bọn trẻ nhìn nó ngạc nhiên làm nó chợt nhớ ra thân phận hiện tại của mình. Nó ngõ ngàng buông rơi viên bi, lùi ra xa đứng nhìn một lúc rồi cúi mặt đi tiếp.
Phía sau, bác sĩ Hùng vẫn lặng lẽ bám theo con.
Tới trước một căn nhà nhỏ ở cuối hẻm, thái độ thằng bé trở nên nôn nóng, hồi hộp và cả lo âu nữa.
Nó đứng thập thò nhìn qua hàng rào một lúc rồi len lén đẩy cánh cổng tre bước vào trong sân.
Bác sĩ Hùng muốn ngăn con lại, nhưng anh dằn lòng, đứng nép người vào thân cây me xem thử con mình làm gì trong ấy.
Hình như trong nhà không có ai. Thằng bé nhìn quanh quất một chút rồi xăm xăm tiến tới chậu hoa bên hè, lấy lên một cái chìa khóa.
Thằng bé muốn mở cửa vào nhà, nhưng không hiểu sao nó đứng tần ngần trước cánh cửa một lúc rồi đem chìa khóa để lại chỗ cũ, buồn bã quay trở ra.
Sợ bị con trai phát hiện, bác sĩ Hùng chạy vội qua bên kia đường núp vào bên hông một chiếc xe gác, chờ bé An đi một quãng xa anh mới dám bwosc dám bước ra.
Chiều hôm ấy bé An có vẻ tư lự, buồn bã lắm.
Bác sĩ Hùng kể sơ cho vợ nghe hành vi của con trai lúc nãy rồi nói:
- Sáng mai vợ chồng mình đưa con lên Sài Gòn. Mình phải để bác sĩ chuyên khoa thần kinh khám cho nó em ạ!
Chị Phương gục đầu vào ngực chồng, cắn răng dằn tiếng khóc…
***
Vợ chồng bác sĩ Lâm đón gia đình bác sĩ Hùng thật nồng hậu. Đã mấy năm nay hai người chưa gặp lại, chỉ thỉnh thoảng liên lạc với nhau qua mail hoặc điện thoại, cho nên ngày hội ngộ cả hai đều có thật nhiều điều để trao đổi cùng nhau.
Hàn huyên suốt mấy giờ, bác sĩ Lâm không hề hỏi han gì đến tình trạng sức khỏe của bé An, khiến chị Phương cảm thấy hơi phật lòng, nhưng khi thấy ánh mắt của bác sĩ Hùng, chị Phương lại vững lòng dắt con ra vườn chơi cùng vợ con bác sĩ Lâm.
Khi mọi người dã ra hết bên ngoài, bác sĩ Lâm đột ngột hỏi:
- Thằng bé thế nào? Cậu nói cặn kẽ lại cho tớ nghe lần nữa?
Bác sĩ Hùng kể cho bạn nghe thật chi tiết về nguyên nhân con mắc bệnh, tình trạng bệnh diễn biến ra sao, bình phục thế nào và những biểu hiện lạ kỳ của thằng bé. Bác sĩ Hùng kể hết, không  giấu bất kỳ chi tiết nào. Cuối cùng kết luận:
- Nói chung, nó hoàn toàn là một đứa trẻ bình thường. Nhưng nó với đứa con trước kia của tớ như là hai người hoàn toàn khác nhau vậy! Cả đến tình cảm đối với vợ chồng tớ vẫn như có cái gì đó gượng ép lắm, không được tự nhiên.
Trầm ngâm một lúc, bác sĩ Lâm nói:
- Tớ cần gặp riêng bé An một lúc, vợ chồng cậu có thể đi chơi đâu đó  để lánh mặt khoảng vài tiếng đồng hồ nhé! À, mà thôi! Vợ chồng cậu cho tớ mượn bé An, tớ sẽ chở nó đi một vòng thành phố có lẽ sẽ tốt hơn… Quyết định thế nhé?
Bác sĩ Hùng vui vẻ gật đầu.
Hai người đứng lên ra vườn.
Trông thấy bé An đứng đùa với chú chim đang nhảy nhót trong lồng, bác sĩ Lâm làm như vô tình nói:
- Tớ có việc đi ra ngoài một tí, vợ chồng cậu ở nhà chơi nhé! À, bé An này, lên xe bác chở đi một vòng dạo quanh thành phố nhé!
An có vẻ mừng, cậu bé nhìn cha mẹ dò hỏi.
Bác sĩ Hùng gật đầu khuyến khích:
- Ừ, con đi với bác cho vui đi con!
Bác sĩ Lâm chở An tới thẳng bệnh viện mình đang làm việc để lấy một tập hồ sơ. Xong việc, anh chở bé An đi khắp nơi, vừa đi vừa chỉ trỏ, giới thiệu cho cậu bé một số cảnh quan bên đường. An rất thích thú.
- Bây giờ bác đưa cháu đi ăn kem nhé?
Nghe bác sĩ Lâm đề nghị, bé An nhanh nhẹn gật đầu đồng ý.
Dừng xe ở bến Bạch Đằng, bác sĩ Lâm dắt bé An đến ngồi ở một chiếc bàn khuất trong góc vắng. Anh gọi hai ly kem và kín đáo quan sát thằng bé.
Từ lúc thằng bé đặt chân tới nhà, bác sĩ Lâm luôn kín đáo quan sát nó. Tất cả mọi biểu hiện đều bình thường. Trước mắt mọi người, An là một đứa ngoan, rất thông minh và lễ phép. Nếu không có lời kể của Hùng, chắc chắn bác sĩ Lâm cũng không bận tâm gì tới vấn đề sức khỏe tâm thần của đứa bé.
- Sao, cháu thấy đi chơi có vui không?
Bác sĩ Lâm đột ngột hỏi.
- Dạ, vui lắm ạ! Cháu thích lắm!
Bé An vừa ăn vừa nói.
- Ba mẹ vừa đưa cháu đi chơi ở Vũng Tàu về phải không?
- Dạ! Cháu thích Vũng Tàu lắm! Ở đó được tắm biển rất vui…
- Lần này ra Vũng Tàu, cháu thấy có gì khác với lần trước không?
Mất hẳn vẻ liếng thoắng từ nãy đến giờ, trước câu hỏi như vô tình của bác sĩ Lâm, bé An trở nên lúng túng:
- Dạ… cháu… cháu không biết…
Bác sĩ Lâm mỉm cười:
- Sao lại không biết? Thì cháu cứ nói cho bác nghe xem nào. Lần trước ra Vũng Tàu, gia đình cháu ở khách sạn nào? So với khách sạn đó, khách sạn cháu vừa ở có tốt hơn không? Cảnh quan ở Vũng Tàu có gì khác không?
Đặt ly kem xuống bàn, bé An trở nên tư lự:
- Cháu… cháu không nhớ…
- Cháu thấy ba mẹ thương cháu nhiều không? Lo lắng cho cháu nhiều không?
Bác sĩ Lâm đột ngột chuyển đề tài.
Bé An gật đầu:
- Dạ, ba mẹ rất thương cháu, rất lo cho cháu…
- Thế sao cháu không nói thật hết với ba mẹ?
Bác sĩ Lâm đánh đòn tâm lý. Anh nghĩ với câu hỏi có thể bé An sẽ ngơ ngác hỏi lại: “Nói thật chuyện gì với ba mẹ ạ?”
Nhưng anh thật không ngờ, bé An hoàn toàn không có phản ứng mạnh trước câu hỏi đó. Nó cúi gầm mặt xuống bàn một lúc rồi ngẩng lên nhìn thẳng vào anh, vẻ nghiêm trọng.
- Bác, cháu nói điều này… bác có tin cháu không?
Bác sĩ Lâm cười xòa, vỗ vai cậu bé:
- Sao cháu lại hỏi vậy? Tất nhiên là bác tin cháu chứ! Nào, có gì thì nói cho bác nghe đi! Bác cháu mình nói chuyện với nhau như hai người đàn ông thực sự đấy nhé!
Bé An cầm lấy muỗng, dầm mấy cái vô ly kem rồi đột ngột nói:
- Cháu… thật sự cháu không phải là con của ba mẹ cháu hiện giờ!
Bác sĩ Lâm giật mình:
- Sao? Cháu nói sao?
- Đó, vậy mà bác nói bác tin cháu…
Thấy bé An có vẻ hờn giận, bác sĩ Lâm ngồi thẳng người lên:
- Tin! Tất nhiên là bác tin cháu! Nhưng bác muốn biết rõ vì sao cháu lại có ý nghĩ như vậy? Ba mẹ đánh mắng cháu, không thương cháu? Hay đã làm điều gì, đã nói câu gì khiến cháu nghĩ cháu không phải là con ruột?
Bé An buồn rầu:
- Không, không đâu bác ơi! Ba mẹ rất thương yêu cháu, hết lòng lo lắng chăm sóc cho cháu. Chính vì vậy… vì vậy mà cháu mới khó nói ra sự thật, cháu sợ ba mẹ cháu không chịu đựng nỗi. Nhất là mẹ cháu… cháu không muốn mẹ phải khóc…
- Bây giờ cháu nói hết với bác đi, rồi bác sẽ giúp cháu.
Bác sĩ Lâm ân cần động viên cậu bé.
Bé An nhìn bác sĩ Lâm tin cậy:
- Bác nhớ phải giúp cháu nhé?
- Ừ, bác hứa với cháu! Nào, có gì cháu trình bày thật rõ ràng cho bác nghe xem!
- Cháu… tên thật của cháu là Nguyễn Thanh Ân chứ không phải là An như mọi người gọi đâu! Nhà cháu nghèo lắm. Ba cháu đi làm thợ hồ, mẹ cháu đi bán ngoài chợ. Cuộc sống của cháu rất vui, rất hạnh phúc. Mặc dù… mặc dù hồi đó cháu chưa bao giờ được đi chơi xa, được ở nhà đẹp hay được ăn ngon mặc đẹp như bây giờ nhưng… cháu rất thích những ngày đó! Rồi cháu bị bệnh, vô bệnh viện một lượt với con của ba má cháu hiện giờ. Cháu chỉ bị bệnh thôi chứ chưa tới số, chỉ có con trai của ba mẹ cháu, tức là cái thằng An ấy mới thật là tới số. Nhưng lúc Hắc Bạch Vô Thường đi bắt hồn lại nhầm lẫn bắt phải cháu. Họ dẫn cháu về gặp Diêm Vương, Diêm Vương la mắng họ quá trời luôn! Để sửa sai, họ dẫn cháu trở lên trên này để cho cháu sống dậy. Nhưng không ngờ khi về tới nhà cháu thì ba má cháu, ấy là cháu muốn nói tới ba má thật sự của cháu kia, đã chôn xác cháu rồi. Chính vì vậy, hai chú Hắc Bạch Vô Thường mới biểu cháu nhập hồn vô xác của con trai ba mẹ cháu hiện giờ, tức là cái xác này nè, để tiếp tục sống, còn hồn của con trai ba mẹ hiện nay, tức là cái đứa tên An ấy, đã bị hai chú Hắc Bạch Vô Thường dẫn đi rồi!
Nghe thằng bé kể câu chuyện đầy đủ đầu đuôi, vô cùng mạch lạc, bác sĩ Lâm không ngờ trí tưởng tượng của nó lại phong phú đến mức đó. Tưởng tượng ra một câu chuyện vô cùng lý thú, tuy phản khoa học nhưng lại rất lô gích, mọi tình tiết đều chặt chẽ.
Giả làm mặt nghiêm, bác sĩ Lâm hỏi tiếp:
- Thế… từ hôm đó tới nay, cháu đã gặp lại ba mẹ thật của cháu lần nào chưa?
Thằng bé rân rấn nước mắt:
- Dạ chưa! Có một lần cháu về lại nhà cũ, nhưng lúc đó cả ba mẹ cháu đều không có nhà. Cháu đi tới chỗ giấu chìa khóa, cái chỗ mà mẹ cháu để chìa khóa để ai về nhà trước thì mở cửa ấy, cháu lấy chìa khoá định mở cửa vô thăm lại nhà mình. Nhưng rồi cháu sợ… cháu sợ ba mẹ không nhận ra cháu, sợ bảo cháu là ăn trộm rồi mọi việc sẽ trở nên phức tạp, rối rắm thêm lên. Vì vậy, cháu đành phải nén lòng chờ đợi… Cháu tính sẽ nói thật cho ba mẹ hiện nay của cháu biết cháu không phải là con thật của họ, rồi sau đó cháu sẽ về nhà cháu kể hết mọi chuyện với ba mẹ thật của cháu…
- Bác hỏi thật nhé, cháu có thương ba mẹ hiện nay của cháu không?
- Dạ, cháu cũng thương ba mẹ hiện nay lắm! Vì… vì ba mẹ rất thương cháu, rất lo cho cháu…
- Thế thì tốt rồi! Bây giờ cháu đừng nghĩ ngợi gì nhiều. Cháu cứ xem ba mẹ hiện nay là ba mẹ thật của cháu đi…
Bé An cắt ngang lời bác sĩ Lâm khi nghe câu đó:
- Nhưng… cháu không phải là con thật của ba mẹ mà?
Bác sĩ Lâm xoa đầu cậu bé, ôn tồn giải thích:
- Bác nói cháu nghe điều này nhé! Có phải thân xác này đúng là con của ba mẹ cháu hiện nay không?
Bé An gật đầu, bác sĩ Lâm nói tiếp:
- Đấy nhé! Thân xác này là con của ba mẹ hiện nay, mà theo như cháu nói thì hiện giờ cháu tồn tại được, cháu sống được là nhờ thân xác này, đúng không?
Bé An lại gật đầu lần nữa.
- Thì đấy! Trước sau gì ba mẹ hiện nay vẫn là ba mẹ thật của cháu, ý bác muốn nói là ba mẹ thật của thân xác cháu. Do đó cháu phải luôn ngoan ngoãn, luôn nghe lời, không được làm điều gì để ba mẹ cháu phải buồn rầu lo lắng.
- Thế còn ba mẹ kia của cháu? Bao giờ cháu mới được về với họ?
Bé An nôn nóng hỏi.
Bác sĩ Lâm ấp úng:
- Ờ thì… cháu cứ yên tâm đi! Bác sẽ từ từ khuyên ba mẹ hiện nay hiện nay của cháu, khi nào họ chấp nhận được sự thật, dĩ nhiên họ sẽ dẫn cháu về với ba mẹ kia. Mà người lớn nói chuyện với người lớn sẽ dễ dàng hơn cháu ạ! Chứ bây giờ, bất thình lình cháu chạy về nhà cũ, tự xưng là con ba mẹ ở đó, ai người ta tin cháu?
Nghe bác sĩ Lâm phân tích, bé An ngồi thừ người ra một lúc rồi buồn bã xác nhận:
- Bác nói không sai, lần trước cháu về lại nhà cũ, gặp mấy đứa bạn, cháu mừng ghê lắm nhưng… nhưng chẳng có đứa nào nhận ra cháu, chúng nó cứ nhìn cháu chằm chằm…
Bác sĩ Lâm ra vẻ thông cảm:
- Ừ, ừ… Bác hiểu, bác hiểu lòng cháu rồi! Bác sẽ cố gắng giúp cháu, nhưng đồng thời cháu cũng phải hứa với bác là không được nghĩ ngợi lung tung đấy nhé! Phải luôn luôn nghĩ mình là con thật sự của ba mẹ hiện nay…
- Dạ, cháu nhớ…
Hai bác  cháu ngồi tâm sự với nhau thật nhiều chuyện, sau đó bác sĩ Lâm chở bé An đi một vòng để cho bé biết quang cảnh Sài Gòn về đêm tấp nập ra sao. Mãi đến gần tám giờ tối hai bác cháu mới về tới nhà.
Tối đó, khi mọi người đã ngủ, bác sĩ Lâm ra hiệu cho bác sĩ Hùng theo mình ra vườn nói chuyện.
Lúc tối thấy hai bác cháu đi với nhau về, cả hai đều vui vẻ, bác sĩ đã rất nôn nóng không biết bạn mình đã tìm được nguyên nhân nào khiến con trai trở nên lạ lẫm như vậy hay không. Mấy lần anh muốn hỏi nhưng thấy bác sĩ Lâm cứ huyên thuyên hết chuyện này đến chuyện khác anh lại thôi. Bây giờ, đi sau lưng bạn mà Hùng cảm thấy rất lo lắng.
Thế nhưng bác sĩ Lâm không nói ngay vào vấn đề mà bất ngờ hỏi:
- Có phải cậu nói trước kia, bé An có khuynh hướng âm nhạc?
- Ừ, nó rất có khiếu âm nhạc, cô giáo dạy dương cầm luôn khen ngợi nó. Không những âm nhạc, mà cả văn thơ và hội họa nó đều ham thích.
Bác sĩ Hùng xác nhận.
Bác sĩ Lâm hỏi tiếp:
- Trước khi bé An bệnh, vợ chồng cậu có cự cãi nhau?
- Ừ, nhưng… nhưng chuyện đó thì liên quan gì?
Bác sĩ Hùng ngạc nhiên.
- Thì cậu cứ trả lời tớ đi đã!
- Đúng là trước hôm bé An bệnh, tớ và Phương cãi nhau. Cô ấy giận dỗi nên dắt thằng bé về bên ngoại. Cũng chính vì giận mình mà cô ấy nông nỗi để bệnh tình thằng bé nguy kịch mới chịu đưa lên bệnh viện…
Bác sĩ Lâm khoát tay:
- Không, cậu đừng đổ lỗi cho cô ấy! Ở đây tớ chỉ muốn tìm hiểu nguyên nhân nào khiến bé An trở nên bất ổn tâm lý mà thôi. Theo những gì cậu nói, tớ có thể tạm thời rút ra được kết luận thế này.
Bác sĩ Lâm im lặng một chút, Hùng nóng nảy giục:
- Thế nào, cậu nói mau lên đi, tớ nóng rụôt lắm rồi đây!
Bác sĩ Lâm trầm ngâm:
- Tớ nghĩ con trai cậu là người có một tâm hồn yếu đuối và vô cùng nhạy cảm. Có lẽ sự cãi cọ giữa vợ chồng cậu đã làm cho nó mất tinh thần, thêm nữa trận đau ốm thập tử nhất sinh đó khiến cơ thể nó bị suy nhược. Bởi vì tinh thần lẫn cơ thể đều không khỏe mạnh vững vàng nên những ý nghĩ tiêu cực trong đầu nó bộc phát.
- Cậu có thể nói rõ hơn chút nữa không? tớ chẳng hiểu gì cả!
- Này nhé! Có thể lúc hai vợ chồng cậu cự cãi nhau đã làm thằng bé thất vọng và buồn khổ. Trong thâm tâm nó muốn phản kháng chuyện đó. Nó không muốn chứng kiến cảnh ba mẹ cãi nhau, nó không muốn sống trong một gia đình khá giả mà cha mẹ lại không hòa thuận. Rồi chính cái tinh thần yếu đuối, lãng mạn của nó đã đưa nó đến với một ước mơ, ước mơ được sống trong một gia đình nghèo khó nhưng tràn ngập tiếng cười và niềm vui. Cái mơ ước đó đã lập đi lập lại nhiều lần trong tâm trí nó suốt những ngày dài mê man trên giường bệnh, nên khi nó tỉnh lại điều đó đã in sâu như một sự thật rồi…
- Trời ơi, tớ vẫn không hiểu cậu muốn nói gì?
Bác sĩ Lâm nhìn bạn thông cảm:
- Cậu có biết chiều này con trai cậu đã nói gì với tớ không? Nó bảo thật ra nó không phải là con của vợ chồng cậu!
Bác sĩ Hùng kinh ngạc nhìn sững bạn. Choàng tay qua vai Hùng, bác sĩ Lâm chậm rãi kể hết những gì chiều nay bé An đã nói với anh.
- Có thể bé An đang mắc phải chứng hoang tưởng, một dạng bệnh tâm thần phân liệt đấy cậu ạ!
- Tớ phải làm sao bây giờ?
Bác sĩ Hùng run giọng hỏi.
Lâm trấn an:
- Không sao đâu, cậu đừng hoang mang như vậy! Tớ nhận thấy ngoài cái ước muốn được làm con một nhà ngheo khó nhưng hạnh phúc ra, bé An hoàn toàn phát triển bình thường ở các mặt khác. Tớ tin rằng không lâu sau, An sẽ trở lại bình thường thôi cậu ạ!
Bác sĩ Hùng rầu rĩ:
- Cậu kê đơn thuốc giúp tớ nhé!
- Không cần!
Bác sĩ Lâm khoát tay.
- Phương pháp điều trị hữu hiệu nhất chính là ở vợ chồng cậu đấy, Hùng ạ! Vợ chồng cậu phải tạo ra được một mái gia đình thật sự ấm êm hạnh phúc để bé An yên tâm, và vợ chồng cậu phải hết lòng quan tâm đến nó, hết lòng chăm sóc lo lắng để chứng tỏ với nó rằng đấy chính là ngôi nhà thật sự của nó, và vợ chồng cậu chính là ba mẹ thật sự của nó. Một khi nó đã cảm thấy yên tâm, tất nhiên những ý nghĩ chối bỏ, trốn chạy gia đình sẽ không còn tồn tại trong đầu nó nữa. Tớ nói vậy chắc cậu đã rõ rồi chứ?
Bác sĩ Hùng gượng cười, khẽ gật đầu:
- Ừ, tớ rõ rồi! Cảm ơn cậu, cảm ơn cậu rất nhiều!
Siết chặt tay bạn, bác sĩ Lâm động viên:
- Cố gắng nhé! Tớ tin gia đình cậu sẽ nhanh chóng vượt qua thử thách này! Có gì cần thì liên lạc ngay với tớ nhé!
Bác sĩ Hùng nhìn bạn, khẽ gật đầu.
Rồi chợt nhớ ra, bác sĩ Hùng nắm tay Lâm dặn dò:
- Chuyện lúc nãy cậu vừa kể với tớ, xin cậu đừng để vợ tớ biết, kẻo cô ấy lại hoang mang lo lắng…
- Tớ biết! Tớ biết mà. cậu yên tâm đi!
***
Chị Hậu cầm lấy củ khoai mì, bẻ một miếng nhỏ vừa đưa vào miệng chợt có cảm giác như có ai đang nhìn mình chăm chú.
Quay phắt lại chị bắt gặp vẫn cậu bé đó! Nó đứng xéo ngoài cửa quán ngó lom lom vào trong, nơi chị Hậu đang ngồi mua mấy củ khoai mì.
Chẳng hiểu thằng bé con cái nhà ai mà dạo này cứ hay xớ rớ gần khu nhà chị ở. Trông dáng người và cách ăn mặc của nó ra vẻ con nhà khá giả chứ không phải đám trẻ con lang thang đầu đường xó chợ chực chờ để ăn cắp vặt.
Ấy vậy mà không hiểu sao dạo gần đây chị cứ thấy nó lảng vảng ở khu vực này hoài.
- Chị Tư, chị có biết thằng nhỏ đó con cái nhà ai không?
Chị Hậu hỏi người chủ quán.
- Tao cũng hổng biết nữa! Mấy hổm rày thấy nó tới lui khu này, tao cứ tưởng nó con cháu nhà ai ở đây chứ!
Chị Tư trả lời, mắt nhìn ra hướng thằng bé đứng.
- Thằng nhỏ coi bộ lịch sự dữ hén, chắc con nhà giàu à!
Chị Tư nói thêm.
- Này con, ăn khoai mì không, dì cho con nè?
Chị Hậu vẫy tay gọi thằng bé.
Vừa nghe tiếng chị, nó hớn hở chạy tới nhận lấy của khoai mì từ tay chị nhưng ánh mắt lại nhìn chị một cách trìu mến lạ lùng.
Trông thấy ánh mắt cậu bé, chị Hậu lại xót xa nhớ tới con trai…
Con trai chị cũng trạc tuổi như thằng bé này. Từ ngày nó qua đời, chị không còn thiết tha gì với cuộc sống nữa. Có lúc chị muốn tự tử chết theo con, nhưng rồi lại thương anh Kha bơ vơ một mình nên chị không nỡ. Bà con lối xóm mỗi người khuyên giải một câu khiến chị cảm thấy được an ủi và gượng dậy nổi.
Nhưng mỗi khi nhớ tới con, chị lại thấy có gì đó không ổn trong cái chết của nó. Nguyên nhân nào nó chết? Thật sự chị không biết được! Anh Kha và một số người đòi đi thưa kiện bệnh viện vì họ đã không tiếp máu cho con chị như chỉ định ban đầu, anh bảo đó chính là nguyên nhân gây ra cái chết của con trai anh.
Nhưng chị Hậu một mực ngăn cản. Bây giờ dù có làm gì đi nữa thì xác thân con chị cũng đã vùi sâu dưới lòng đất lạnh rồi, đâu ai có thể đem nó về mà đền lại cho chị được? Vả lại, chắc bác sĩ người ta cũng có lí do gì đó mới không truyền máu cho con chị, mà có lẽ do thiếu hiểu biết nên anh Kha và gia đình mới trách họ, đổ lỗi cho họ. Chị tin tưởng bác sĩ luôn muốn cứu người, không ai muốn con chị chết.
Có những đêm chị ngồi một mình trong bóng tối, ôm tấm hình con trong tay mà nước mắt chảy dài.
Chị ước một lần được gặp lại con, dù là hồn ma bóng quế chị cũng không sợ! Chị muốn gặp lại để biết con chị hiện giờ ra sao, no đói thế nào, ấm lạnh thế nào… nhưng mãi vẫn không có một dấu hiệu nhỏ nào khả dĩ tin rằng hồn con trở về với chị. Cả trong giấc mơ, cũng chưa một lần chị gặp lại nó, dù rằng chị thường nghe người ta bảo nếu ban ngày mình nghĩ về chuyện gì đó thì đêm ngủ hay mơ thấy. Suốt ngày chị không lúc nào không nghĩ về con trai, thế nhưng chưa khi nào chị gặp lại nó, dù chỉ gặp trong giấc ngủ mơ màng đong đầy nước mắt.
Mỗi khi trông thấy thằng bé này là chị lại liên tưởng tới con trai.
- Ăn khoai đi con!
Chị nhắc khi thấy thằng bé cứ mân mê củ khoai trong tay, mắt nó vẫn không rời khỏi chị.
- Dạ.
Thằng bé đưa củ khoai lên miệng ăn một cách ngon lành. Tự nhiên chị Hậu cảm thấy ở thằng bé này có một điều gì đó rất giống thằng Ân con chị, dù rằng nhìn mặt mũi tay chân nó hoàn toàn không giống con chị chút nào.
Chị Hậu kéo thằng bé lại gần, khẽ vuốt tóc nó:
- Tên con là gì?
- Dạ, con tên là… An ạ!
Thằng bé trả lời với giọng ngập ngừng.
- Nhà con ở đâu mà trước nay dì không gặp con?
- Dạ… nhà con… nhà con ở trong thị xã!
Thằng bé vẫn trả lời chị với giọng không được tự nhiên.
- Con có bạn bè hay người thân ở xóm này à?
- Dạ… có, dạ… mà không có ạ!
Chị Hậu bật cười, vỗ vào mông nó:
- Cái thằng! Làm gì mà cứ ấp a ấp úng thế không biết!
Chị Hậu đứng lên, với tay cầm cái nón lá trên đầu tủ:
- Thôi, dì về đây! Con ăn bánh kẹo gì nữa không dì mua cho?
Thằng bé lắc đầu nhìn chị có vẻ buồn bã.
Như có điều gì thúc giục, chị Hậu gợi ý:
- Hay con tới nhà dì chơi nghen? Nhà dì ở một bên đây thôi…
- Dạ, dạ… dì… dì cho con về nhà chơi…
Thằng bé hấp tấp trả lời như sợ chị Hậu sẽ đổi ý.
Chị mỉm cười:
- Đi con!
Rất tự nhiên, thằng bé nắm lấy tay chị làm chị Hậu khẽ rùng mình. Chị bỗng có cảm giác chính bàn tay con trai đang nắm chặt tay chị. Có một điều gì đó không thể giải thích được, không thể nói rõ được nhưng chị Hậu cảm nhận một sự ấm áp lạ lùng lan tỏa trong tâm hồn lúc bàn tay thằng bé chạm vào tay chị.
Chị Hậu khe khẽ nhìn xuống bàn tay thằng bé. Bàn tay nhỏ nhắn với những ngón tay thon dài mềm mại khác hẳn với thằng Ân con chị trước kia.
Nhưng sao… sao cái cảm giác này, cái cách nắm tay đi bên cạnh, vừa đi vừa nhảy nhót của thằng bé này lại giống con trai chị như in?
Vô tới nhà, thằng bé tỏ thái độ rất vui, và nó cũng chẳng có vẻ gì là xa lạ hay rụt rè cả. Chị Hậu nhắm mắt lại nghĩ thầm, nếu mình không trông thấy hình dáng nó, chắc chắn mình sẽ bảo đây chính là thằng bé Ân, con trai của mình vừa quay trở lại với mình…

Chị Hậu vừa khuấy ly nước chanh vừa tò mò dõi theo thằng bé. Nó đi từ nhà trước xuống nhà sau, vòng ra hè đứng nhìn ngó khắp nơi. Nhìn ánh mắt lấp lánh vui của nó chị Hậu tưởng như con trai mình đang mừng vui vì được trở lại mái nhà quen thuộc thân yêu.
Loanh quanh một lúc thằng bé tới ngồi lên chiếc võng trong góc nhà. Chị Hậu đưa cho nó ly nước chanh, một tay nó cầm ly nước, một tay nó đẩy vào cạnh giường để đung đưa chiếc võng.
Trời ơi! Cái cử chỉ này sao giống thằng Ân đến thế? Lúc nào ngồi võng thằng bé Ân con chị cũng dùng tay đẩy vào cạnh giường cho chiếc võng đung đưa chứ không chịu dùng chân đạp xuống đất như người khác. Có lần cũng vì đẩy vào cạnh giường, nó trượt tay thế nào mà đẩy luôn thúng gạo chị để trên giường rơi xuống đất, gạo đổ tung tóe. Hôm ấy chị đã đánh cho nó mấy roi.
Chị Hậu kéo khăn chậm nước mắt rồi nói với thằng bé:
- Con… không hiểu sao dì thấy con giống con trai dì quá!
Thằng bé đứng lên bước tới cầm lấy tay chị Hậu:
- Con… con chính là…
Cứ ngỡ  nó thấy mình khóc nên đến an ủi, chị Hậu mỉm cười vuốt tóc thằng bé:
- Dì không sao đâu con! Tại … tại dì thấy con rồi nhớ tới con trai dì quá đó thôi! Con trai dì cũng bằng tuổi với con, nó mới chết tháng trước!
Không cầm được nước mắt, chị Hậu đến bên bàn thờ, lấy khung ảnh con trai đem xuống lau chùi một cách vô cùng tỉ mỉ.
Bé An đứng bên cạnh mẹ, nó chỉ muốn ôm chầm lấy mẹ mà khóc mà nói với mẹ rằng: “Mẹ ơi, con chính là con trai của mẹ đây, là thằng Ân của mẹ đây! Chính con đây… mẹ đừng đau buồn nữa, đừng khóc nữa mẹ ơi!...”, nhưng nó không biết khi nghe nó nói vậy liệu mẹ nó có tin không? Làm sao tin được khi hình hài nó bây giờ hoàn toàn xa lạ? Rồi mẹ nó sẽ tưởng nó là một thằng điên, sẽ không cho nó tới nhà nữa…
Lòng bé Ân vô cùng đau đớn, nhưng nó chỉ biết vuốt ve bàn tay xương xẩu của chị Hậu mà thôi.
- Em ơi, nấu cơm chưa?
Nghe tiếng chồng, chị Hậu lau nước mắt rồi nhẹ nhàng đặt khung ảnh trở lên bàn thờ. Vừa lúc đó anh Kha bước từ ngoài vào. Bé Ân mừng rỡ chạy vội đến bên anh, buột miệng:
- Ba… bác mới về!
Anh Kha khựng lại giữa thềm khi bất ngờ có một đứa bé từ trong nhà chạy ra cầm lấy tay mình. Còn chị Hậu, chị cũng khựng lại khi nghe rõ ràng tiếng “Ba…” phát ra từ miệng thằng bé, dù sau đó nó đã nhanh chóng chuyển thành tiếng tiếng “bác”, nhưng rõ ràng chị đã nghe nó gọi chồng chị bằng “ba”!
- Cháu… cháu đây là…
Sau phút ngỡ ngàng, anh Kha hỏi.
- Thằng bé này nhà ở trong thị xã, nó tới đây chơi, gặp em ngoài quán chị Tư. Thấy nó dễ thương, em rủ về nhà mình chơi đó anh!
Chị Hậu giải thích.
Anh Kha vui vẻ:
- Anh bắt được mấy con cá lóc nè, sẵn có cháu đây tới chơi, em coi nấu nồi cháu cá đi, rồi mời cháu ở lại ăn với vợ chồng mình cho vui!
Chị Hậu đón lấy giỏ cá trên tay chồng, quay sang cười với thằng bé:
- Con ở đây chơi, dì đi ra sau nhà làm cá nấu cháo đãi con nhe? Hồi thằng Ân nhà dì còn sống, nó cũng thích ăn cháo cá lắm…
Bé An cười toe toét:
- Con cũng thích cháo cá lóc…
Chị Hậu vừa làm cá nấu cháo, vừa nghe tiếng cười đùa của thằng bé từ nhà trên vọng xuống khiến lòng chị nôn nao khó tả.
Từ lúc thằng Ân chết đi, ngôi nhà nhỏ của chị vắng hẳn tiếng cười, cả chị và anh Kha, người nào cũng cố nén những tiếng thở dài để tránh làm người kia phải đau lòng.
Vậy mà hôm nay tiếng cười thơ trẻ lại vang lên trong nhà chị. Có phải ông trời thương xót cảnh đìu hiu của chị nên đã xui khiến đứa bé này tìm tới đây để mang lại cho gia đình một luồng sinh khí?
Chị Hậu nhắm mắt lại, chị hình dung tiếng cười giòn giã đó là tiếng cười của thằng Ân con chị, và đứa bé đang đùa giỡn với chồng chị trên kia cũng chính là đứa con máu mủ của vợ chồng chị chứ không phải là một đứa bé xa lạ mà chị vừa biết mặt…
Cháo chín, anh Kha và cả thằng bé đều xuống bếp giúp chị Hậu dọn chén bát. Và một lần nữa thằng bé làm tim chị Hậu như thắt lại khi một lần nữa chị nhận ra cử chỉ quen thuộc của con trai từ đứa bé lạ lùng này.
Khi chị vừa bê nồi cháo đặt lên bàn, thằng bé tranh phần mở nắp vung. Nó mở một cách chậm rãi, từ từ, hai mắt nó nhắm tít lại, mũi thì chun lại hít lấy hít để mùi cháo, mùi cá, mùi tiêu hành quyện với nhau bốc lên bát ngát…
Cái cử chỉ quen thuộc đó của con trai, chị Hậu không nhầm vào đâu được!
Thằng bé ăn uống rất tự nhiên thoải mái. Nó dẻ một miếng cá lớn gắp bỏ vào chén anh Kha, một miếng lớn nữa để vào chén chị Hậu, khiến hai vợ chồng len lén nhìn nhau, cả hai đều rưng rưng nước mắt.
Lâu lắm rồi nhà chị Hậu mới có được bữa ăn vui vẻ, đầm ấm như thế, và cũng lâu lắm rồi, vợ chồng chị mới cảm thấy ngon miệng khi ăn.
Gần năm giờ chiều thằng bé xin phép ra về.
Vợ chồng chị Hậu tiễn nó ra cửa với vẻ luyến tiếc.
Thằng bé cũng tỏ ra vô cùng bin rịn lúc chia tay.
Nó hứa chắc sẽ quay trở lại thăm vợ chồng chị Hậu.
Nhìn theo bóng thằng bé khuất dần nơi đầu hẻm, chị Hậu nói với chồng:
- Anh có nhận thấy đứa bé này có gì đó rất giống thằng Ân con mình không?
Anh Kha tư lự:
- Anh cũng thấy có gì đó… Nhưng… nhưng chắc tại vì mình thương nhớ con quá nên mới có cảm giác thôi em à!
Theo chân chồng vào nhà, chị Hậu lại cảm thấy không khí vắng lạnh bao quanh. Ôi, chị ước sao tiếng cười giòn giã kia, là của con chị cũng được, của đứa bé kia cũng được, hãy mãi mãi vang lên trong ngôi nhà của chị, để xua đi những nỗi buồn bã ảm đạm này…
***
Vừa trông thấy con trai bước vào nhà, chị Phương mừng rỡ:
- Con đi đâu từ trưa tới giờ làm mẹ lo quá!
- Con xin phép mẹ đi chơi rồi mà?
- Ừ, thì con có xin phép, nhưng mẹ vẫn cứ thấy lo vì thấy con đi lâu quá. Con tới chơi nhà ai vậy?
Chị Phương tò mò hỏi.
Bé An cười:
- Con nói mẹ cũng hổng biết đâu, nhà bạn con.
Chị Phương cốc nhẹ lên trán con trai, mắng yêu:
- Bày đặt bí mật với mẹ nữa hả? Bạn bè con, có đứa nào mà mẹ không biết đâu? À, hay con đến tập đàn với bạn Huy?
- Dạ không phải đâu mẹ! À, ba về chưa vậy mẹ?
Bé An né tránh.
- Ba cũng sắp về tới rồi đó con! Con đi tắm rửa cho sạch sẽ, chờ ba về mẹ dọn cơm cả nhà cùng ăn nhe?
- Dạ!
Bé An đáp lời mẹ rồi đi nhanh xuống nhà sau.
Chị Phương nhìn theo thắc mắc. Chị không biết thời gian gần đây con trai chị thường lui tới nhà ai, chơi với đứa bạn nào mà có hỏi mấy nó cũng không chịu nói.
Nó thường xin phép đi đâu đó một lúc, rồi lần nào khi trở về vẻ mặt nó cũng trầm tư buồn bã như người lớn.
Chỉ có hôm nay là khác hơn mọi ngày. Hôm nay nó đi từ xế trưa, mãi đến hơn năm giờ chiều mới về, mà coi bộ tinh thần nó hôm nay phấn khởi lắm. “Không được, mình phải nói với anh Hùng việc này, phải tìm hiểu xem nó đi đâu, giao du với hạng người nào mà không thể nói cho cha mẹ biết được? Ngoài xã hội bây giờ rất nhiều cạm bẫy, lỡ nó sa vào đó thì nguy hiểm biết bao! Mình phải nói với anh Hùng mới được!” chị Phương suy nghĩ và thấy lòng lại lo sợ vu vơ.
Cơm chiều dọn lên, bé An chỉ ăn qua loa vài miếng rau làm chị Phương lo lắng:
- Sao con ăn ít thế? Con có bị gì không?
Bé An cười thật tươi:
- Con đâu có bị gì đâu mẹ! Tại con… con no rồi!
- Con ăn gì mà no rồi?
Chị Phương thắc mắc.
- Con… con ăn cháo cá lóc ở nhà bạn con!
Bác sĩ Hùng và chị Phương nhìn nhau ngạc nhiên.
Trước đây, bé An vốn không thích ăn cá! Nó bảo cá tanh lắm, khó ăn! Bác sĩ Hùng đã tốn không ít thời gian giảng giải cho con về lợi ích của cá, nhưng cuối cùng nó vẫn ăn cá một cách gượng ép, mà chỉ ăn cá chiên, cá nướng, chứ cháo cá thì tuyệt nhiên không bao giờ đụng tới.
Vậy mà chiều nay nó lại bảo ăn cháo cá no rồi!
Tối đó, bác sĩ Hùng được vợ cho biết dạo này con trai thường xin phép ra ngoài, nhưng không bao giờ nói rõ ràng sẽ đi đâu, chơi với ai. Anh thật sự lo lắng nên căn dặn vợ:
- Từ mai em phải quản lý con chặt hơn! Nếu nó xin phép đi, em phải hỏi rõ ràng nó đi đâu, chơi với ai… em nhớ nhé!
Hôm sau, chị Phương nhắc nhở con trai chuẩn bị xem lại bài vở vì mùa hè sắp hết. Nó ngoan ngoãn nghe lời chị. Nhưng tới xế chiều nó lại xin phép đi chơi.
Lần này chị Phương không dễ dãi nữa mà gặng hỏi:
- Con phải nói cho mẹ biết con đi đâu thì mẹ mới cho con đi được, chứ nếu ba con gọi điện về hỏi, mẹ làm sao mà trả lời đây? Chừng đó ba con lại mắng mẹ…
Ngần ngừ một chút bé An nói:
- Con… con đi vô xóm Me!
- Xóm Me? Con quen ai ở đó?
Chị Phương ngạc nhiên.
- Con quen… một dì trong đó, dì hay nấu cháo, làm bánh cho ăn mỗi khi con tới chơi…
Chị Phương nhìn con, trách:
- Con muốn ăn gì thì nói mẹ sẽ nấu, sẽ làm món đó cho con ăn ngay mà, mẹ đâu có tiếc gì với con mà con phải tới nhà người ta ăn chực ăn chờ như thế?
Bé An cúi mặt khổ sở:
- Không phải vậy đâu mẹ ơi! Con tới đó vì… ở đó hai vợ chồng dì ấy rất thương con!
Chị Phương rưng rưng nước mắt:
- Con nói cho mẹ nghe đi! Ở nhà này chẳng lẽ ba mẹ không thương con sao?
Bé An ôm vai mẹ, nói như người lớn:
- Mẹ ơi, con có nói ra mẹ cũng không hiểu được đâu, rồi từ từ bác Lâm sẽ nói cho mẹ hiểu. Lúc đó, mẹ sẽ thương con và không còn trách hay giận con nữa…
Chị Phương ngạc nhiên:
- Con nói sao? Bác Lâm sẽ nói cho mẹ hiểu? Sao lại có bác Lâm ở đây nữa?
- Mẹ đừng hỏi gì con nữa, bác Lâm đã hứa với con, rồi bác sẽ từ từ giải thích mọi chuyện với ba mẹ… Bây giờ mẹ cho phép con đi nha mẹ? Con hứa với mẹ con sẽ về sớm, con sẽ không làm điều gì để ba mẹ phải buồn lòng đâu! Con chỉ đến đó để thăm dì ấy thôi…
Nghe con trai van nài, chị Phương không cầm lòng được. Vả lại anh Hùng chồng chị thường căn dặn, đừng để con buồn sẽ có hại cho tinh thần của nó.
Chị Phương căn dặn:
- Con đi đi, nhưng nhớ về sớm đó!
Bé An mừng rỡ chào mẹ rồi chạy vụt ra ngoài.
Chị Phương nhìn theo lòng đầy ắp nỗi niềm âu lo, thắc thỏm.
Dù hôm trước anh Lâm đã nói rõ có thể do bị sốc nên con trai chị tạm thời mắc phải chứng bệnh hoang tưởng, chị cố chấp nhận lý giải đó nhưng tận trong thâm tâm chị vẫn thấy có điều gì đó không ổn.
Với bản năng người mẹ, chị cảm thấy dường như có lúc bé An không phải là con chị!
Nó có thể hoang tưởng gì thì hoang tưởng, chứ sao lại có những cử chỉ, những thái độ khác xa với chính nó trước kia.
Bé An của chị trước kia là một đứa bé đầy tình cảm. Tối tối, nó thường rúc vào lòng chị, thầm thì kể cho chị nghe những chuyện xảy ra trong lớp học, kể cả những ước mơ bay bổng thầm kín của nó.
Vậy mà từ lúc khỏi bệnh tới giờ, có lần nào bé An chịu rúc vào lòng chị?
Đêm ngủ, chị có ôm nó vào lòng thì khi thức giấc nó cũng khe khẽ gỡ tay chị ra.
Dường như nó khó ngủ khi có chị nằm bên cạnh.
Từ hôm đó, đêm đêm chị chỉ dám ngồi bên cạnh ngắm con một lúc rồi lại trở về phòng mình.
Mỗi chiều anh Hùng đi làm về, nó cũng không nhảy tới bá cổ, đòi ba công kênh một chút như thường bữa, nó chỉ đón ba về bằng nụ cười trên môi mà thôi!
Tất cả mỗi một hành vi cử chỉ của nó đều không có chút gì là của thằng An trước đó!
Nó không đụng tới chiếc đàn dương cầm, vật mà trước kia nó quý trọng nhất nhà. Mỗi khi nghe nhắc tới âm nhạc, văn thơ hay hội họa, thằng bé cứ dửng dưng không hề quan tâm đến!
Rồi tại sao nó bất ngờ biết bơi lội một cách tài tình như vậy? Quên thì có thể quên, nhưng muốn thành thục một điều gì đó cần phải có thời gian tập luyện chứ? Vậy thì con trai chị tập bơi lúc nào? Ở đâu?
Chị Phương nhận thấy hình như có một con người khác, một đứa trẻ khác đang tồn tại bên trong thân xác của con trai chị.
Cái ý nghĩ đó cứ đeo đẳng chị Phương từ lúc chị phát giác ra những điều bất thường ở con trai chị.
Nhiều lần chị tâm sự với chồng về mối nghi ngờ đó, nhưng lần nào anh Hùng cũng gạt đi, rằng tại con đau ốm mới vậy, tại em quá nhạy cảm đấy thôi!
Gần đây chị không nói điều đó với chồng nữa, nhưng từng ngày, từng ngày, ý nghĩ đó cứ lớn dần trong chị.
Chị muốn về quê kể cho cha mẹ nghe hết mọi chuyện, nhưng chồng chị đã căn dặn, ông bà nội ngoại đã già yếu rồi, chuyện riêng của gia đình phải tự giải quyết, đừng để ông bà lo lắng mà sinh bệnh, lúc đó lại phải bận bịu thêm hơn…
Nhưng nếu giữ mãi trong lòng thì quả thật chị Phương không tài nào chịu đựng nỗi. Chị Phương viết thư kể hết với người chị lớn đang định cư ở Canada. Theo lời khuyên của chị, dạo này ngày nào chị Phương cũng tranh thủ đi chùa lạy phật.
Thời gian chưa bao lâu mà tất cả đền chùa, am miếu lớn nhỏ ở khắp thành phố này chị Phương đã đi gần hết.
Tới nơi nào chị cũng thành tâm khấn vái, cầu trời khẩn phật thương xót cho vợ chồng chị, giúp cho con trai chị trở lại bình thường.
Mỗi lần van vái chị lại khóc ròng. Ở nhà, trước mặt chồng con, chị phải luôn làm ra vẻ tươi vui, hạnh phúc, chỉ những khi trải lòng mình ra, giãi bày cùng các đấng linh thiêng chị Phương mới được khóc, khóc thật nhiều, khóc cho vơi bớt những khổ đau mà một người làm mẹ như chị đang phải gánh chịu…
Bao nhiêu lời van vái của chị như trôi vào vô vọng…
Hôm nay nó lại nói cái gì mà bác Lâm sẽ giải thích cho ba mẹ hiểu. Giữa nó với anh Lâm có điều gì bí mật? Anh Lâm đã cho chồng mình biết điều gì chưa? Sao mình không nghe anh Hùng nói gì ngoài việc anh Lâm đoán con trai mình bị sốc tâm lý do thấy cha mẹ cãi nhau nên rơi vào tình trạng hoang tưởng; việc vợ chồng mình phải làm sao để giúp con tin tưởng vào gia đình mà vượt qua… Ngoài những điều đó, anh Hùng đâu có nói gì với mình! Vậy thì… vậy thì lúc nãy nó nói bác Lâm sẽ giải thích điều gì mới được chứ? Trời ơi! Mình phát điên lên mất với đứa con trai này…
Chị Phương ngã gục xuống bàn, rã rời, buồn chán…
Bé An giữ đúng lời hứa với mẹ. Nó về nhà thật sớm. Tắm rửa sạch sẽ rồi lên ngồi cạnh mẹ xem ti vi, chờ ba về.
Bữa cơm chiều hôm đó, bé An ăn thật ngon miệng. Dạo này nó vui vẻ hoạt bát hẳn lên.
Chờ con trai ngủ yên, chị Phương ra dấu bảo chồng ra phòng khách.
Anh Hùng lo lắng:
- Ở nhà có chuyện gì sao em? Con lại làm gì à?
Chị Phương nhìn chồng, thở dài:
- Con mình thật lạ lùng, em không còn hiểu được nó!
- Nó lại làm gì nữa?
Anh Hùng hồi hộp:
- Không, nó không làm gì hết! Chỉ là… chỉ là chiều nay nó đã cho em biết nó đi đâu…
- Đi đâu?
Anh Hùng chồm lên hỏi.
Chị Phương ủ rũ:
- Nó tới tận xóm Me! Nó bảo ở đó có hai vợ chồng nào đó rất thương yêu nó, thường làm bánh cho nó ăn… Nghe con nói vậy em thật buồn quá, nó làm như mình không thương yêu nó, mình để nó sống thiếu thốn, thèm khát không bằng…
- Xóm Me? Xóm Me à?
Bác sĩ Hùng lẩm bẩm
- Đúng rồi! Xóm Me! Đúng là cái xóm nhỏ mà có lần anh theo dõi đã thấy con đến đó…
Chị Phương hồi hộp:
- Vậy anh có biết nhà đó của ai không?
- Không! Anh không biết! Nhưng ngay ngày mai anh sẽ tìm hiểu…
Chợt nhớ ra, chị Phương hỏi chồng:
- Hôm rồi anh Lâm có nói gì với anh không?
Bác sĩ Hùng ngơ ngác:
- Nói gì là nói gì chứ? Anh không hiểu…
Chị Phương lại thở dài:
- Em cũng không biết chuyện gì nữa! Lúc trưa, khi thấy em gặng hỏi đủ điều, bé An đã xin em đừng hỏi thêm gì ở nó nữa, nó bảo rồi bác Lâm sẽ giải thích cho ba mẹ hiểu. Em thắc mắc lắm… Hay… hay anh gọi điện hỏi anh Lâm thử xem?
Bác sĩ Hùng giả vờ đồng ý:
- Ừ, để rồi anh sẽ hỏi!
Nhiều lần bác sĩ Hùng muốn kể cho vợ nghe về câu chuyện hoang tưởng hết sức hoang đường của con trai, nhưng anh lại dằn lòng nín lặng. Anh sợ vô tình gieo rắc vào đầu óc vợ thêm những suy nghĩ tiêu cực khác. Không ít lần chị Phương đã nói với anh rằng chị cảm nhận hình như bên trong thân xác của bé An là một linh hồn khác, một con người hoàn toàn khác. Nếu biết thêm việc này nữa, không chừng chị Phương cũng bị tâm thần mất!
Bây giờ nghe vợ kể về đôi vợ chồng nào đó ở xóm Me đã đối xử tốt với con mình, bác sĩ Hùng thật sự thấy lo lắng. Anh quyết tâm ngày mai sẽ phải tìm hiểu thật rõ việc này.
Sáng sớm, bác sĩ Hùng tới bệnh viện nhờ người trực giúp một buổi vì đột xuất có việc quan trọng ở nhà.
Bạn bè trong bệnh viện ít nhiều cũng biết qua tình trạng của con trai bác sĩ nên ai nấy đều thông cảm, sẵn sàng gíup đỡ bác sĩ Hùng trong điều kiện cho phép.
Bác sĩ Hùng cho xe chạy chầm chậm vào con hẻm nhỏ. Anh dừng lại một quán nhỏ bên đường hỏi thăm về đứa bé trai hay đến khu vực này trong thời gian gần đây, và anh được cô chủ quán cho biết mấy ngày nay, ngày nào đứa bé ấy cũng đến chơi với vợ chồng chị Hậu, nhà cũng kề bên quán.
Trao đổi thêm một vài câu nữa, anh Hùng cảm thấy hơi yên tâm vì gia đình mà con mình lui tới là một gia đình đàng hoàng tử tế.
Anh cảm ơn cô chủ quán rồi lên xe chạy rề rề, đến trước ngôi nhà cô chủ quán chỉ, bác sĩ Hùng nhận ra đó đúng là ngôi nhà lần trước bé An tìm tới, anh dừng xe, gạt chân chống rồi chậm rãi đi vào.
Ngôi nhà lá nhỏ bé nhưng thật ngăn nắp, chứng tỏ chủ nhân không phải người bừa bãi. Đồ đạc trong nhà toàn bộ đều sơ sài, rẻ tiền nhưng cái nào cũng sạch sẽ tinh tươm.
Giở nón cầm tay, vừa bước qua thềm cửa, chưa kịp cất tiếng gọi chủ nhà, tim bác sĩ bỗng đập thình thịch khi nhìn thấy tấm ảnh một đứa bé trai trạc tuổi con anh trên chiếc bàn thờ kê giữa nhà.
Đặt tay lên ngực đè nén sự sợ hãi bất thình lình ập đến, bác sĩ Hùng gọi to:
- Chủ nhà ơi! Có chủ nhà ở nhà không?
- Dạ, ai gọi đó?
Tiếng phụ nữ đáp lại từ sau nhà.
Lát sau một phụ nữ tất tả đi lên. Trông thấy người lạ, chị ngạc nhiên:
- Dạ… dạ ông tìm ai ạ?
Bác sĩ Hùng cúi chào và tự giới thiệu:
- Dạ, chào chị! Tôi tên Hùng, nhà tôi ở ngoài thị xã. Hôm nay tôi đến đây có chút chuyện nhờ anh chị giúp đỡ. Xin hỏi, anh nhà có ở nhà không ạ?
Chị Hậu kéo ghế, rót trà mời khách rồi bảo:
- Ông ngồi chơi, để tôi ra sau nhà gọi anh ấy!
Bác sĩ Hùng cười:
- Dạ, nhưng… nhưng chị đừng gọi tôi bằng ông như vậy, tôi… tôi cũng chưa già lắm đâu!
Chị Hậu đáp lại bằng một nụ cười héo hắt rồi trở ra sau vườn gọi chồng.
Lát sau vợ chồng chị Hậu cùng nhau đi lên. Anh Kha vừa chào khách, vừa lau vội đôi tay còn ướt nước vào vạt áo. Chị Hậu ngồi nép vào một góc theo dõi câu chuyện giữa chồng và người khách lạ.
- Anh … anh đây là…
Anh Kha ấp úng.
Bác sĩ Hùng nói thẳng:
- Dạ, không giấu gì anh chị, tôi chính là ba của bé An, thằng bé hay tới đây chơi cùng anh chị đó!
Nghe nhắc tới bé An, mắt hai vợ chồng chị Hậu sáng lên những tia vui tươi lấp lánh.
- Dạ, mấy lúc gần đây cháu hay tới đây chơi! Chẳng hay… có phải điều đó làm anh…
Không chờ anh Kha nói hết câu, bác sĩ Hùng vội trấn an:
- Không, không… anh chị đừng lo! Tôi nghe bé An thường nhắc tới anh chị, nó nói anh chị rất thương yêu nó, thường làm bánh cho nó ăn mỗi khi nó tới đây chơi. Bởi vậy, tôi tới đây, trước là muốn cảm ơn anh chị vì đã thương yêu con tôi, sau nữa… Tôi nói thật, mong anh chị đừng buồn. Lúc chưa đến đây thật sự tôi lo lắm. Tôi không biết con trai mình giao du với ai… Chắc anh chị đã từng làm cha mẹ, anh chị cũng hiểu được nỗi lo lắng của người cha như tôi… Nhưng khi vào đây, rồi được gặp anh chị, tôi thật sự an tâm và vui mừng vì con tôi đã tìm tới một gia đình tử tế như anh chị!
Anh Kha rót thêm cho khách một ly trà rồi nói:
- Vợ chồng tôi mới là người phải cảm ơn anh chị và cháu An…
- Ủa, sao anh lại nói vậy?
Bác sĩ Hùng ngạc nhiên.
Anh Kha cười buồn.
- Chẳng giấu gì anh, vợ chồng tôi cũng có một đứa con trai bằng tuổi với cháu An, nhưng nó không may vắn số đã qua đời hồi tháng trước. Vợ chồng tôi buồn rầu không ai thiết sống. Suốt ngày không ai nói tới ai, nhà cửa lạnh lẽo âm u. Từ ngày vợ tôi tình cờ gặp bé An ngoài đường, có lẽ vì thấy cỡ với con trai mình nên cô ấy tỏ ra quyến luyến, rủ cháu về nhà chơi. Từ đó tới nay gia đình tôi như có thêm sức sống…
Bác sĩ Hùng đảo mắt nhìn lên bàn thờ rồi nhìn chị Hậu đang ngồi chậm nước mắt trong góc nhà, anh bỗng nhiên rùng mình, lắp bắp hỏi:
- Dạ… xin anh cho biết, cháu bé ở nhà vì sao mà chết?
Anh Kha thở dài áo não:
- Tôi làm thợ hồ, theo công trình trên Sài Gòn. Lúc ấy ở nhà thằng nhỏ bị sốt xuất huyết, vợ tôi không biết, cứ nghĩ nó bị cảm sốt thông thường, hai ba ngày cứ ra tiệm thuốc Tây mua thuốc về cho con uống. Đến lúc thấy thằng nhỏ coi bộ trở nặng vợ tôi mới đưa nó vô bệnh viện. Ban đầu, bác sĩ cũng nói nó bị nặng, đã đóng tiền và chuẩn bị truyền máu, rồi không biết sao người ta ngưng, không truyền máu, trả tiền lại và bảo với vợ tôi rằng bệnh tình thằng nhỏ chưa đến nỗi phải tiếp máu. Tối đó thì thằng nhỏ chết! Tôi ức lắm, muốn tìm bác sĩ hỏi cho ra lẽ, nhưng vợ tôi can, cô ấy nói là chắc tại con mình vắn số, đừng trách ai làm gì, bác sĩ người ta phải biết hơn mình…
Bác sĩ Hùng choáng váng khi nghe những lời anh Kha kể. Anh run giọng hỏi:
- Cháu bé… cháu bé tên gì vậy anh?
- Cháu tên Ân anh à, Nguyễn Thanh Ân!
Đất trời như chao đảo trước mắt bác sĩ Hùng, đang ngồi trên ghế mà anh như sắp ngã nhào, mồ hôi túa ra ràn rụa trên gương mặt.
Anh Kha hốt hoảng:
- Anh… anh bị sao vậy? Em, em ơi, em xem anh đây bị trúng gió hay sao nè?
Chị Hậu lật đật chạy vô buồng tìm chai dầu, nhưng bác sĩ Hùng gượng dậy từ chối:
- Dạ… không sao… tôi… tôi bị xây xẩm chút thôi! Xin lỗi vì đã làm phiền anh chị! Bây giờ tôi xin phép về, hôm khác tôi sẽ đến chơi với anh chị lâu hơn…
Nhìn người khách lạ lảo đảo đứng lên, anh Kha ái ngại:
- Anh như vậy làm sao về được? Thôi, vô nhà nằm nghỉ một chút, chừng thật khỏe rồi hãy về…
Bác sĩ Hùng cố gắng hết sức để lấy lại bình tỉnh. Anh gượng nở một nụ cười:
- Dạ, không sao… không sao… Tôi vẫn thường bị như vầy, chỉ một loáng là hết thôi, anh chị đừng lo… Xin phép anh chị!
Cúi chào vợ chồng chủ nhà một lần nữa, bác sĩ Hùng cố gắng bước những bước chân vững chắc ra ngoài…
Vừa cho xe chạy ra tới đầu hẻm, bác sĩ Hùng tấp vội vào lề đường đứng thở dốc. Trên mặt anh, mồ hôi vẫn chảy thành từng dòng nhưng anh cũng chẳng buồn lau.
Trời ơi! Chẳng lẽ đây là sự thật? Chẳng lẽ tất cả những gì bé An kể với anh Lâm đều là sự thật sao? Chẳng lẽ con trai anh, bé An của vợ chồng anh giờ đây chỉ còn lại thân xác đó? Chẳng lẽ linh hồn kia thật sự là bé Ân, con trai của vợ chồng nhà này sao? Nếu không phải sao lại có sự trùng hợp lạ kỳ đến như vậy? Sự hoang tưởng của bé An không thể ăn khớp với những việc có thật đã xảy ra…
Và tại sao lại là đứa bé đó chứ? Đứa bé mà chính anh đã quyết định cho tiếp máu, rồi cũng chính anh là người cho ngưng lại, không thực hiện?
Trời ơi! Giá mà tất cả những gì mình vừa nghe, vừa thấy được trong ngôi nhà đó chỉ là một giấc mơ, là một sự hoang tưởng thì tốt biết bao…
Bác sĩ Hùng rên rĩ… Nhưng dù đang trong cơn bấn loạn anh vẫn biết đó là những điều có thật, rất thật, đã và đang xảy ra với gia đình anh, xảy ra ngay trên thân thể đứa con trai duy nhất của anh…
Lát nữa đây, anh biết phải nói sao với vợ? Vợ anh làm sao có thể chịu đựng nỗi cú sốc kinh hoàng này?
Anh phải đối diện với con trai thế nào đây? Trời ơi, sao ông trời lại đem tới cho anh cảnh trái ngang khó xử này…
Bác sĩ Hùng gục mặt xuống tay lái, khóc ngất lên làm mấy người đi đường tò mò xúm lại:
- Chú ơi, chú bị sao vậy?
- Chắc chú trúng gió hả?
- Chú có cần giúp gì không?
Bác sĩ Hùng giật mình khi nhận ra đám đông đang xúm xít quanh mình. Anh ngượng ngùng, bối rối:
- Dạ, dạ… tôi không sao… xin cám ơn, xin cám ơn… tôi không sao…
Vừa trả lời, bác sĩ Hùng vừa vội vã rồ ga cho xe chạy đi, bỏ lại phía sau rất nhiều cặp mắt nhìn theo ngơ ngác.
Bác sĩ Hùng cho xe chạy không định hướng. Lúc này anh không thể về bệnh viện, anh không còn tâm trí nào mà làm việc được! Và… anh cũng không thể về nhà… Anh không thể về nhà khi chưa tìm được câu trả lời cho chính bản thân mình…
Bác sĩ Hùng thấy trước mắt mình cần phải tìm một nơi nào đó thật yên tĩnh để suy nghĩ mọi việc cho thật cặn kẽ.
Nghĩ vậy, anh cho xe rẽ vào một ngôi chùa.
Không khí yên tĩnh bên trong chùa khiến bác sĩ Hùng có cảm giác lòng mình nhẹ nhàng hơn đôi chút.
Thuở nhỏ, đôi khi anh có theo mẹ lên chùa vào những ngày rằm lớn. Nhưng từ khi trưởng thành, anh chưa lần nào đặt chân vào chùa nữa.
Hôm nay, lần đầu tiên sau bao nhiêu năm lăn lộn trong đời, bác sĩ Hùng mới nhận thấy mình đang rất cần một chỗ dựa tâm linh.
Quỳ trước bàn thờ Phật, bác sĩ Hùng không thốt được lời van vái nào, anh chỉ chỉ nghẹn ngào khóc. Ban đầu còn dằn được, lát sau anh để mặc cho nước mắt tuôn trào và những tiếng nức nở vang lên không ngớt.
Anh úp mặt vào chân tượng Phật khóc ròng…
***
Phật Bà Quan Âm cho gọi một tiên nữ lên trước ngai, nhỏ nhẹ hỏi:
- Các ngươi có biết người đàn ông đang khóc dưới kia là ai không? Có chuyện gì khiến anh ta đau lòng đến vậy?
Tiên nữ liếc nhìn xuống bác sĩ Hùng rồi bẩm:
- Dạ, người đó hiện làm bác sĩ ở một bệnh viện, nghe nói gia đình ông ta đang gặp phải một chuyện rất đau lòng…
- Chuyện gì?
Phật Bà hỏi tiếp.
Cô tiên ấp úng;
- Dạ… con không rõ lắm! Hôm trước vợ ông ta có đến đây mấy lần… hình như… hình như nhà ông ta hiện có đứa con trai mà… xácvới hồn không phải là một…
- Sao lại có chuyện đó?
- Dạ… chuyện này… chuyện này chắc phải hỏi lại Diêm Vương mới rõ được ạ!
Phật Bà đưa nhành dương liễu lên ra hiệu:
- Ngươi mau truyền lệnh cho Diêm Vương làm một bản báo cáo chi tiết về vụ này, nội nhật hôm nay phải hỏa tốc gởi về cho ta xem xét!
- Dạ! Con đi ngay ạ!
Tiên nữ cúi lạy rồi nhẹ nhàng bay ra cửa, tà áo tung bay trong gió, để lại một làn hương thơm ngát không gian…
***
Thấy chồng về nhà sớm hơn thường lệ, sắc mặt lại có vẻ khác thường, chị Phương lo lắng:
- Anh không được khỏe à?
- Ừ, em cho anh xin ly nước…
Bác sĩ Hùng mệt mỏi ngã người trên sa lông.
Chị Phương vội vã làm cho chồng một ly chanh ấm.
Bác sĩ Hùng hớp một ngụm rồi dặn vợ:
- Anh mệt lắm! Anh muốn ngủ một chút! Mẹ con em cứ ăn cơm trước đi, đừng chờ anh, chút nữa ngủ dậy anh ăn sau…
Có rất nhiều điều chị Phương muốn hỏi chồng, nhưng nhìn thấy chồng mệt mỏi như vậy, chị không dám nói gì thêm, chỉ lặng lẽ tháo giày, cởi bớt áo cho chồng rồi xuống bếp cho con ăn cơm.
Bé An thấy cha không khỏe, nó cũng chẳng dám tới gần, chỉ đứng nhìn từ xa…
Bác sĩ Hùng nằm nhắm mắt nhưng anh hoàn toàn không ngủ. Lúc nãy anh đã quyết định nói hết sự thật với vợ rồi cả hai sẽ cùng nhau suy tính để tìm ra cách giải quyết chuyện này thế nào cho hợp tình hợp lý.
Đã quyết định vậy rồi, nhưng thật sự không thể mở lời, anh không biết phải nói câu gì nữa…
Không, mình không nên nói lúc này! Mình phải chờ khi nào mình thật tỉnh táo, mình thật bình tâm, lúc đó mình mới có thể làm chỗ dựa cho vợ được. Mình đang bất an thế này, nếu nói ra thì làm sao mình trấn an cô ấy được?
Bác sĩ Hùng gượng dậy. Anh xuống ăn cơm với vợ con. Không khí trong nhà bỗng trầm hẳn xuống.
Khẽ liếc nhìn thằng bé, lòng bác sĩ Hùng lại đau quặn thắt ruột gan…
Ăn xong bữa cơm, anh hỏi con qua loa vài câu rồi vào phòng ngủ sớm.
Cả ngày mệt mỏi, căng thẳng nên không mấy chốc bác sĩ Hùng chìm sâu vào giấc ngủ nặng nề…
- Anh! Anh ơi! Dậy mau anh ơi! Khủng khiếp quá… em sợ quá!
Bác sĩ Hùng bừng tỉnh bởi tiếng lay gọi kinh hãi của vợ. Anh nhổm dậy bật sáng ngọn đèn.
Trên giường, chị Phương đang ngồi run rẩy, mặt mũi tái xanh.
Anh Hùng ngồi sát vào vợ, lo lắng hỏi:
- Chuyện gì vậy? Em mơ gặp ác mộng à?
Hai hàm răng chị Phương vẫn còn va nhau nhau lộp cộp. Chị run lên từng chập, không thể trả lời câu hỏi của chồng.
Bác sĩ Hùng ôm vợ vào lòng vỗ về:
- Thôi, không có gì phải sợ! Nằm xuống ngủ đi em! Không có gì phải sợ! Chỉ là mơ thôi mà…
Chị Phương gục mặt vào vai chồng khóc nấc lên:
- Anh ơi… em mơ… em mơ thấy chuyện kỳ lạ lắm!
- Chuyện kỳ lạ thế nào, em nói anh nghe đi?
- Em thấy… em thấy Phật Bà báo mộng, nói là… nói là… bé An không phải con mình…. Không, không phải vậy! Thân xác là của con mình, nhưng linh hồn lại là của người khác…
Lần này đến lượt bác sĩ Hùng run rẩy.
Anh với tay ra ngoài mùng, lập cập rót ly nước đưa cho vợ:
- Em uống một chút cho bình tĩnh lại rồi kể tỉ mỉ cho anh nghe…
Chị Phương uống một hơi cạn sạch ly nước. Rồi vừa níu chặt lấy tay chồng, chị vừa thổn thức kể:
- Em vừa mới chợp mắt. Thật sự… thật sự em còn chưa kịp ngủ nữa kìa… Bỗng đâu trước mắt em hiện ra một vầng hào quang sáng lóa. Định thần nhìn kỹ, em nhận ra người đứng giữa vòng hào quang đó chính là Phật Bà, giống y như những bức tượng thường thấy trên chùa vậy. Hai bên Phật Bà là hai cô tiên đứng hầu. Em ngạc nhiên quá hỏi Phật Bà đến có việc gì. Bà cười rồi nói với em, em vẫn còn nhớ rất rõ ràng… Bà nói… bé An con trai mình thật ra đã chết rồi…
Chị Phương lại nức nở một hồi mới nghẹn ngào kể tiếp:
- Bà nói bé An con mình kiếp trước tạo được nhiều phước đức, đáng lẽ được làm thần tiên trên trời, nhưng vì còn vướng mắc một chút nợ duyên với vợ chồng mình nên phải đầu thai sống kiếp người thêm mười hai năm nữa. Ngày bé An mãn số, do sự nhầm lẫn sao đó mà quỷ sứ bắt nhầm hồn của một đứa bé khác. Chừng Diêm Vương phát hiện ra sự nhầm lẫn thì xác đứa bé kia đã bị đem đi chôn rồi. Chính vì vậy, họ phải cho đứa bé nhập hồn vào xác con mình, còn con mình thật sự thì… thì giờ đây đã thành thần tiên trên thượng giới… Phật Bà còn nói, vợ chồng mình với đứa bé kia cũng có căn duyên không nhỏ, nếu không có sự nhầm lẫn này thì tương lai vợ chồng mình cũng nuôi nấng nó…
Từng lời, từng lời kể thấm đẫm nước mắt của vợ như cứa vào tim bác sĩ Hùng.
Vậy thì đúng là sự thật rồi, không còn nghi ngờ gì nữa…
Anh lau những giọt nước mắt đang rơi lả chả trên má vợ, trong khi trên mặt anh nước mắt cũng đang dầm dề tuôn chảy.
Anh ôm vợ vào lòng:
- Tất cả là sự thật rồi em ơi! Là sự thật rồi…
Chị Phương đẩy chồng ra, nhìn sâu vào mắt anh:
- Anh cũng tin đó là sự thật?
Bác sĩ Hùng gật đầu.
Anh lết đến ngồi tựa vào tường, kéo vợ ngả đầu trên vai mình rồi từ từ kể hết cho vợ nghe những chuyện trước đây bác sĩ Lâm kể lại theo lời tự thú của bé An, và cả chuyện vợ chồng nhà anh Kha mà sáng nay anh vừa chứng kiến.
Tất cả là một.
Tất cả đều trùng khớp.
Không thể có một lập luận khoa học nào có thể lý giải tường tận những điều kỳ lạ đó!
Tất cả là sự thật!
- Bây giờ mình phải làm sao hả anh?
Chị Phương hỏi chồng trong nước mắt.
Bác sĩ Hùng đắn đo một chút rồi nói:
- Suốt từ sáng anh đã suy nghĩ mãi về chuyện này. Tuy linh hồn đứa bé kia không phải là con mình, nhưng thân xác nó đang mang lại là thân xác thân yêu của con trai chúng ta… Mình không thể tách rời linh hồn và xác thân được! Em nghĩ kỹ đi, liệu em có sống nổi không nếu vĩnh viễn em không nhìn thấy được hình dáng của con? Dù bây giờ linh hồn đó là ai đi nữa thì hàng ngày chúng ta vẫn được trông thấy con, được thấy nó cười, được nghe nó nói, được chăm sóc thương yêu nó, được trông thấy nó lớn lên từng ngày… Và công bằng mà nói, mình vẫn nhận được tình yêu thương mà nó đáp lại. Linh hồn đó cxung là một đứa bé đáng thương… nó chết đi cũng có phần lỗi ở vợ chồng mình…
Chị Phương ngạc nhiên:
- Sao lại do lỗi vợ chồng mình?
Bác sĩ Hùng buồn bã:
- Em còn nhớ hôm con mình mới vào phòng cấp cứu không? Anh đã nói với em không còn máu để tiếp cho con, vì lượng máu ít ỏi còn lại ở bệnh viện, anh đã ký quyết định tiếp cho người khác… nhưng rồi cuối cùng… lượng máu đó vẫn được tiếp cho con mình, người kia… người không được tiếp máu chính là… đứa bé đó!
Chị Phương sau phút kinh ngạc lại òa lên khóc ngất.
- Anh nghĩ mình vẫn xem bé An hiện tại là con mình, thật sự là con mình. Mình vẫn thương yêu nó như chưa hề xảy ra chuyện gì…
- Nhưng bé An… Anh thấy đó, bé An luôn nhớ thương cha mẹ ruột của nó, liệu nó có chịu sống mãi với vợ chồng mình không? Còn hai vợ chồng người kia nữa… chẳng lẽ mình giấu kín không cho họ biết sự thật này sao anh?
- Anh đã tính kỹ rồi em ạ! Mình không thể giấu họ chuyện này được! Vợ chồng mình phải tới đó, nói rõ hết mọi chuyện với người ta… Rồi mời vợ chồng họ về sống cùng mình để cùng chăm sóc đứa con chung. Có như vậy bé An mới chịu sống với mình, và lương tâm mình cũng đỡ bị cắn rứt… Anh tính vậy, em nghĩ có được không?
Chị Phương không biết nói sao, chỉ lặng lẽ vùi mặt vào ngực chồng mặc cho nước mắt tuôn rơi…
***
Mới sáng sớm mà bỗng dưng chị Hậu thấy trong người bứt rứt lạ! Mắt chị cứ nháy liên hồi từ chiều hôm qua tới giờ, không biết báo điềm lành hay điềm dữ nữa.
Tối qua, cả hai vợ chồng chị đều không ngủ được, cứ nằm trằn trọc nhắc nhở thằng Ân rồi nhắc tới thằng nhỏ An nữa.
Không hiểu giữa hai đứa nó có mối dây liên hệ gì mà vợ chồng chị và nó cứ quấn quýt lấy nhau như người ruột thịt?
Sáng nay ba thằng nhỏ đã tìm tới nhà mình rồi, không biết từ đây ổng có còn cho phép nó đến đây thăm vợ chồng mình không nữa? Nếu nó không đến, chắc sẽ buồn lắm…
Sáng ra, thấy chồng chuẩn bị đi làm chị Hậu ngăn lại:
- Thôi, anh ở nhà một hôm đi! Tối qua thức trắng, giờ sao mà làm nổi! Với lại bây giờ chỉ còn có hai vợ chồng mình, cần gì phải cày cục như vậy hả anh? Chiều qua tới giờ mắt em cứ giật liên tục, em lo không biết có xảy ra chuyện gì hay không, anh mà đi làm là em ở nhà lo lắm, không yên tâm đâu! Anh nghe lời em, nghỉ một bữa đi!
Nghe vợ thuyết phục, anh Kha đành phải chìu theo. Anh vừa quay vào thay áo thì nghe có tiếng xe gắn máy ngừng trước sân nhà, tiếp đó là tiếng chị Hậu gọi;
- Anh ơi, có ba… ba mẹ của bé An tới chơi…
Anh Kha thắc mắc. Có chuyện gì mà hôm qua ba bé An tới, rồi hôm nay mới sáng sớm hai vợ chồng cùng tới?
Anh cài vội nút áo rồi bước ra ngoài. Vừa trông thấy bác sĩ Hùng, anh Kha xởi lởi:
- Anh chị tới chơi! Dạ… mời anh chị ngồi ghế!
- Anh đã thật khỏe chưa? Suốt ngày hôm qua chúng tôi lo quá, sợ trên đường đi…
Bác sĩ Hùng cười:
- Dạ, không sao! Tôi khỏe rồi!
Chị Hậu rót nước mời khách.
Anh Kha ngập ngừng hỏi:
- Chẳng hay anh chị đến thăm vợ chồng tôi hay có chuyện gì không ạ? Tôi thấy hình như…
Vợ chồng bác sĩ Hùng nhìn nhau. Bắc sĩ Hùng đứng lên nói:
- Dạ thưa anh chị, vợ chồng tôi đến đây có một số việc muốn cùng bàn bạc với anh chị… nhưng tôi xin anh chị hãy bình tĩnh, hãy thật bình tĩnh…
Chị Hậu nhìn khách khó hiểu.
Anh Kha cười:
- Có chuyện gì thì anh chị cứ nói! Tôi đâu có gì mà không bình tĩnh…
- Trước khi nói ra câu chuyện lạ kỳ này, tôi xin anh chị cho dẹp cái bàn thờ của cháu đây…
Chị Hậu xanh mặt nhìn chồng, anh Kha run giọng hỏi:
- Tại sao anh lại nói vậy? Tại sao tôi không được quyền thờ cúng con trai tôi?
- Tại vì… thật sự con trai anh chị còn sống!
Bác sĩ Hùng nói rõ từng tiếng một.
Anh Kha bật cười trong nước mắt:
- Anh nói chuyện gì lạ vậy? Chính tay tôi đã chôn con mình thì làm sao mà lầm lẫn được? Anh nói chuyện gì thật tình tôi không hiểu nổi! Vợ chồng tôi đã quá đau khổ, xin anh chị nếu không chia sẻ được thì thôi, đừng đem nỗi đau của vợ chồng tôi ra mà bỡn cợt như vậy!
Thấy chủ nhà bắt đầu nổi nóng, chị Phương nhỏ nhẹ chen vào:
- Xin anh chị bình tĩnh mà lắng nghe câu chuyện chúng tôi sắp kể ra đây! Hiện tại chúng tôi và anh chị đều có chung một cảnh ngộ, làm sao chúng tôi có thể bỡn cợt được chứ…
Chị Hậu nuốt nước mắt khuyên chồng:
- Anh cứ bình tĩnh mà nghe anh chị đây nói rõ sự việc! Đâu còn có đó, anh đừng nổi nóng như vậy!
- Tôi… tôi xin lỗi…
Anh Kha hối hận.
Bác sĩ Hùng ngồi xuống ghế, tuần tự kể hết câu chuyện một cách rõ ràng khúc chiết, nhưng vợ chồng chị Hậu cứ tưởng mình đang trôi bềnh bồng trong một giấc mơ kỳ ảo…
- Có lẽ nào… Có lẽ nào… Hèn gì ngay lần đầu tiên gặp thằng nhỏ tôi đã cảm nhận được một sự gắn bó mật thiết giữa nó và tôi… hèn gì…
Chị Hậu lảm nhảm như người nói mê, rồi bất chợt chị nhào tới ôm chầm lấy anh Kha đang ngồi chết sững như một tượng. Chị khóc òa lên:
- Con mình còn sống! Anh ơi, con chúng ta còn sống! Anh mau mau dẹp bỏ bàn thờ đi anh, mau mau đi anh!
Rồi chị quýnh quáng chạy vội tới bàn thờ lấy khung hình thằng bé xuống, ôm chặt vào lòng. Chị dẹp bát hương, đổ bỏ bình hoa… chị làm lăng xăng, hoảng loạn…
Cả bốn người, trên mặt ai cũng chan hòa nước mắt….
Nhưng anh Kha là người đàn ông mạnh mẽ, anh chưa từng tin vào những câu chuyện hoang đường vớ vẩn. Trước vấn đề đề khó tin này tuy lòng anh có chút dao động vì nó gắn liền với con trai anh, gắn liền với nỗi khao khát được gặp lại đứa con yêu quý. Khi phút xúc động qua đi, anh đứa cặp mắt ngầu đỏ nhìn bác sĩ Hùng rồi nhìn tới chị Phương, anh nói chậm rãi:
- Tôi cảm ơn anh chị đã nói với vợ chồng tôi chuyện đó, nhưng… thật tình tôi thấy trong chuyện này vẫn còn một cái gì đó mơ hồ, khó mà chấp nhận được…
Chị Phương sụt sịt khóc:
-  Tôi cũng mong sao tất cả chỉ là một giấc mơ hoang đường, để bé An trọn vẹn là của chúng tôi. Nhưng… thật đau lòng, đó lại là sự thật… Tôi cũng đau lòng không thua kém gì anh chị đâu…
Chị Hậu sợ chồng lại phản đối nên vội xen vào:
- Mấy lần thằng nhỏ tới đây, tôi nhận ra ở nó có rất nhiều điều giống thằng Ân của chúng tôi trước đây… Nhưng thật ra… thật ra chuyện này cũng không phải là đơn giản. Vậy anh chị có thể vui lòng cho chúng tôi được tiếp xúc bé An, hỏi han cháu một số chuyện. Nếu đúng linh hồn con trai chúng tôi đang nương nhờ thân xác con anh chị, thì chắc chắn nó sẽ biết những chuyện trước kia…
Anh Kha gật gù khi nghe ý kiến của vợ.
Bác sĩ Hùng siết chặt tay anh Kha:
- Tất nhiên! Tất nhiên chúng tôi phải để anh chị kiểm chứng lại cho mọi việc rõ ràng chứ! Sở dĩ hôm nay vợ chồng chúng tôi tìm tới anh chị là vì chúng tôi đã dám chắc đó là sự thật, chúng tôi muốn cho anh chị biết để rồi mình cùng nhau bàn bạc, tính xem sau khi đã được xác định rồi, chúng ta phải làm sao cho cuộc sống của thằng bé không bị xáo trộn?
Anh Kha nhìn bác sĩ Hùng dò xét:
- Giả sử tất cả những gì anh chị nói đúng là sự thật thì sao? Bé Ân nhà tôi, bé An nhà anh chị… Chúng ta… chúng ta làm sao tách chúng về với gia đình mình được đây?
Bác sĩ Hùng cười như mếu:
- Vợ chồng tôi cũng đã tính nát óc rồi… Thú thật, chúng tôi không thể xa bé An được, không thể trả nó về sống với anh chị được…
Nhìn thấy chị Hậu run rẩy trước câu nói của mình, bác sĩ Hùng nhìn chị nói tiếp:
- Xin chị đừng quá xúc động, hãy nghe tôi nói tiếp! Chúng tôi không thể xa rời cháu được. Tuy nhiên tôi cũng biết, một khi anh chị đây biết được một nửa bé An nhà tôi là của anh chị thì anh chị cũng khó mà xa cách nó…
Ngừng lại nhấp một hớp trà, bác sĩ Hùng nói tiếp:
- Chính vì vậy, tôi nghĩ ra một cách thế này, anh chị xem có được không nhé?
Liếc nhìn qua vợ chồng anh Kha, chị Hậu, bác sĩ Hùng thấy hai người đang căng thẳng nhìn mình:
- Anh tính sao?
Anh Kha hỏi.
- Tôi… Nói ra có hơi đường đột, tôi xin anh chị nếu có gì không hài lòng thì bỏ qua cho, đây chỉ là suy nghĩ của tôi, trình bày để anh chị xem xét… Tôi… vợ chồng tôi tính thế này: Dù sao thì hiện nay bé An cũng trở thành một đứa con chung của hai gia đình chúng ta. Vợ chồng tôi và anh chị chắc chắn ai cũng thương yêu nó, muốn được chăm lo nuôi dạy cho nó thành người, ai cũng muốn được kề cận nó… Ngay cả bản thân bé An cũng vậy! Một tháng qua sống cùng vợ chồng tôi nhưng lòng nó luôn hướng về với anh chị… Chính vì vậy… chúng tôi muốn mời anh chị dọn về chung sống với vợ chồng tôi. Hai gia đình chúng ta chắc hồi kiếp trước cũng có liên quan mật thiết gì đây nên kiếp này mới được đặt vô hoàn cảnh thế ấy…
Nước mắt chảy dài trên mặt chị Hậu, chị chưa kịp nói gì thì nghe anh Kha bảo:
- Tôi cám ơn anh chị đã nghĩ cho chúng tôi đến việc đó! Nhưng… hiện tại chúng tôi chưa thể quyết định được điều gì khi chưa xác định rõ sự việc. Nhưng dù sao, vợ chồng tôi cũng rất cám ơn anh chị…
Bác sĩ Hùng đứng lên gật đầu:
- Anh nói vậy cũng phải. Thôi, anh chị cứ suy nghĩ đề nghị đó của vợ chồng tôi. Bây giờ xin phép anh chị chúng tôi về, chút nữa tôi sẽ cho phép bé An về chơi với anh chị trọn ngày hôm nay.
Chị Hậu mừng rỡ:
- Tôi… chúng tôi cám ơn anh chị nhiều lắm!
Bác sĩ Hùng ngập ngừng một chút rồi nói:
- Không, chính chúng tôi mới là người có tội với gia đình anh chị, chúng tôi cần được anh chị thứ tội…
Vợ chồng anh Kha ngơ ngác:
- Anh nói gì tôi không hiểu?
Bác sĩ Hùng dừng chân, cầm chặt hai bàn tay anh Kha, ánh mắt đau đớn:
- Tôi chính là bác sĩ điều trị cho bé Ân nhà anh chị…
Anh Kha ngó sững bác sĩ Hùng một lúc rồi thở hắt ra, rụt tay lại vỗ mạnh lên vai bác sĩ Hùng:
- Thôi anh ạ, mọi việc đã qua rồi…
***
Hai mươi năm sau.
Bác sĩ Hùng hiện làm Giám đốc bệnh viện lớn nhất thị xã, chị Phương vợ ông vẫn theo đuổi việc kinh doanh mặc hàng quần áo may sẵn. Đứa con trai độc nhất của vợ chồng bác sĩ Hùng nay đã là một tiến sĩ có tên tuổi trong ngành Hóa học.
Hai mươi năm trước đây, sát bên nhà bác sĩ Hùng mọc lên một ngôi nhà khang trang khác, đó là nhà của vợ chồng chị Hậu, anh Kha.
Sau khi xác minh bé An đích thực là con trai mình. Vợ chồng chị Hậu rất đỗi bàng hoàng, vui sướng.
Ban đầu, anh Kha cương quyết không chịu về sống chung với vợ chồng bác sĩ Hùng, anh không muốn nương nhờ, không muốn lệ thuộc vào người khác.
Ngày nào chị Hậu cũng than vắn thở dài vì nhớ thương con. Bé An thương mẹ, về với mẹ Hậu thường xuyên thì ở trên thị xã mẹ Phương lại chẳng yên lòng. Thằng bé cứ phải chạy tới chạy lui giữa hai nhà khiến việc học tập của nó có phần sa sút.
Vợ chồng bác sĩ Hùng nhiều lần tới lui thuyết phục, cộng với tình thương nên anh Kha mới đồng ý dọn đi.
Nhờ sự giúp đỡ ban đầu của bác sĩ Hùng, và tính tình siêng năng, cần mẫn của mình, bây giờ cuộc sống của vợ chồng anh Kha, chị Hậu đã trở nên sung túc. Anh Kha theo nghề xây dựng, nhưng không còn làm công nhân nữa, nhiều năm nay anh đứng ra làm thầu, nhận được rất nhiều mối làm ăn, công việc của anh luôn gặp được nhiều may mắn.
Chị Hậu thì có một sạp hàng ở chợ thị xã
Anh Kha là người khẳng khái, nên số tiền ban đầu bác sĩ Hùng giúp đỡ, được anh quy ra vàng và đã trả sòng phẳng khi việc làm ăn của hai vợ chồng bắt đầu phát triển.
Cuộc sống của hai gia đình thật đầm ấm, yên vui.
Chiều chiều, sau một ngày làm việc, năm người lại quây quần bên nhau trong mảnh vườn nhỏ trước nhà cùng nghe bé An cười đùa, cùng dạy nó điều hay lẽ thiệt.
Bé An được lớn lên trong bầu không khí đầy ắp tình thương yêu của hai mẹ, hai ba…
Nhiều lần bạn bè tới nhà chơi, ai cũng thắc mắc không biết người nào mới thật sự là ba mẹ của An. Hỏi thì An chỉ cười rất tươi:
- Cả bốn người đều là ba mẹ ruột của An đấy!
An không biết giải thích sao để bạn bè hiểu.
Mà cần gì phải giải thích, bởi trong lòng An, mẹ Hậu, mẹ Phương, ba Kha, ba Hùng đều là những người ruột thịt…

Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 15:39:47 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 22:17:23
CÂU CHUYỆN LIÊU TRAI
 
Vừa thi xong môn cuối cùng, tôi vội vàng ba chân bốn cẳng chạy về phòng trọ thu xếp vài ba bộ quần áo rồi nhờ thằng bạn thân đưa ra xa cảng Miền Đông.
May quá, thằng bạn vừa quăng tôi xuống là gặp ngay một chiếc xe đò sắp sửa chuyển bánh, khỏi phải mất thời gian chờ đợi.
Làm thân học trò nghèo đi học xa nhà, một năm ba trăm sáu mươi lăm ngày, gặp mặt được gia đình đâu có được bao nhiêu, nên hễ có dịp về quê là nhấp nhổm y như ngồi trên đống lửa tam muội, mong mau mau chóng chóng đem được tấm thân gầy còm về cho cha mẹ là hạnh phúc lắm rồi.
Mặc kệ cái không khí ồn ào, ngột ngạt của bến xe, mặc kệ luôn cái nóng hầm hập của buổi chiều mùa hạ, tôi khoan khoái ngồi vào chỗ của mình, không thèm có phản ứng gì với đám người bán hàng rong đang thay nhau mời chào đon đả.
Xe chạy chầm chậm ra khỏi bến, ra tới xa lộ là bắt đầu tăng tốc. Từng cơn gió chiều thổi lùa vào trong xe mát rượi. Vì ngồi sát cạnh cửa sổ nên tôi mặc sức đón gió và ngắm quang cảnh hai bên đường.
Nghĩ đến chặng đường dài thăm thẳm trước mắt tôi cũng hơi oải, nhưng thôi, về tới nhà là sẽ được đền bù xứng đáng!
Tôi là đứa con trai độc nhứt trong một gia đình toàn phụ nữ. Mẹ và bốn chị gái hợp thành đủ bộ “Ngũ long công chúa”, tôi trở thành “gươm lạc giữa rừng hoa” nên rất được cưng yêu, chìu chuộng.
Gia cảnh nhà tôi không khá giả gì mấy nhưng “ngũ nương” nhất quyết lo cho tôi được học hành tới nơi tới chốn. Trái lại, tôi cũng không để mọi người thất vọng.
Suốt mười hai năm học phổ thông tôi đều đạt được thứ hạng cao trong lớp. Rồi sau đó lại thi đỗ vào một trường Đại học “ngon lành”, biết bao nhiêu người mơ ước ở Sài Gòn.
Cũng giống như bao đứa sinh viên nghèo khác, cuộc sống của tôi ở cái thành phố ồn ào đông đúc ấy vô cùng… túng thiếu. Mì gói là món ăn gần như có mặt thường xuyên trong căn phòng trọ chật chội của chúng tôi.
Vì vậy, những dịp về thăm nhà, ngoài niềm vui được gặp mặt người thân yêu, tôi còn có niềm vui được thưởng thức những bữa cơm nóng sốt, đầm ấm với gia đình.
Ba mất từ lúc tôi còn nằm trong bụng, nên mẹ và các chị muốn bù đắp cho sự thiệt thòi của đứa con trai độc nhất trong nhà, ai cũng dành cho tôi sự quan tâm quá mức.
Năm chị em cách nhau năm một nên ngoài tình em, chúng tôi còn xem nhau là bạn, bất cứ có chuyện gì tôi đều tâm sự hết với các chị, Bởi lẽ đó nên tôi lại càng được các chị cưng thêm.
Có lần mẹ tôi phải la lên:
- Các con chìu em thì cũng chìu vừa vừa thôi nhá, hắn mà hư thân là lỗi ở các chị đấy!
Các chị tôi chỉ cười. Tôi vẫn được duy trì ngôi vị “số một” trong nhà!
Nghĩ tới cảnh mình được cả nhà đón mừng tíu tít tôi bất chợt mỉm cười.
Lần này về tôi phải giục bà chị cả, chị hai đi lấy chồng đi thôi, kẻo không qua thời xuân sắc… Tội nghịêp, cũng vì lo cho tôi mà các chị không ai nỡ đi lấy chồng, sợ một mình mẹ tôi lo không xuể, tôi lại phải bỏ học dở dang…
Xe vô tới thành phố Biên Hòa thì trời cũng bắt đầu tối. Hành khách trên xe không còn ồn ào chuyện vãn nữa mà hình như ai cũng muốn nhắm mắt lại một chút để thu ngắn quãng đường. Tiếng động cơ rì rì, chẳng mấy chốc đám hành khách đi vào giấc ngủ mơ màng, trong đó có cả tôi.
Khoảng ba bốn tiếng đồng hồ gì đó thì có tiếng bánh xe xiết gấp, dừng lại để đón thêm khách. Hai người mới bước lên xe một già một trẻ, có lẽ là hai cha con.
Thấy băng ghế của tôi còn chỗ trống, cô gái nhã nhặn xin phép ngồi vào hai chiếc ghế trống bên cạnh tôi.
Cơn buồn ngủ vụt biến mất ngay khi tôi bắt gặp nụ cười của cô gái.  Tôi đã từng đọc nhiều thơ văn, người ta hay ví nụ cười mỹ nhân giống như hoa hàm tiếu, thì có lẽ hôm nay tôi đã được biết “nụ cười hàm tiếu” là thế nào, và thế nào là “hoa cười ngọc thốt đoan trang”!
- Xin phép… Nếu anh không phiền, anh làm ơn cho em ngồi cạnh cửa sổ, em hay bị say xe…
Cô gái lúng túng đến tội nghịêp.
Làm sao tôi có thể từ chối, nhất là từ chối lời đề nghị của một người con gái dễ thương đến như vậy chứ? Thế là tôi vội vàng đứng lên nhường chỗ cho hai người. Cô gái nhẹ nhàng lách qua tôi để vào ngồi sát bên trong. Một mùi hương thơm dịu từ người cô gái phả vào mặt tôi thật dễ chịu.
Thấy ông già còn đứng lựng khựng, tôi lễ phép:
- Dạ, mời bác vô trong ngồi ạ!
Ông cười:
- Thôi, cháu ngồi vào đó đi, để bác ngồi ngoài đây được rồi, chỉ tại con bé không quen đi xe, lần nào không được ngồi gần cửa sổ là nó nôn đến khổ sở.
Thật là ông trời thương người hiền! Tôi mừng quýnh, nhưng cũng giả bộ từ tốn ngồi xuống bên cạnh người đẹp.
Khi cả ba đã yên vị, tôi cất tiếng làm quen:
- Dạ thưa bác, bác với… chị đi về tới đâu ạ?
- Cha con bác về tới Quảng Ngãi. Còn cháu?
Tôi mừng rơn:
- Dạ, cháu cũng về Quảng Ngãi.
- Quê cháu ngoài ấy?
Ông già hỏi.
- Dạ. Cháu đi học trong Sài Gòn, nay về thăm nhà.
Tôi trả lời vui vẻ.
Ông già liếc nhìn con gái rồi nói khẽ:
- Con Thi nhà bác cũng học ở Sài Gòn, lần này bác vô đón nó về quê chơi ít bữa.
Quay sang cô gái tên Thi, tôi làm quen:
- Chị… chị học trường nào?
Cô gái cười chúm chím:
- Bộ… anh thấy em già lắm hay sao mà gọi bằng chị?
Tôi trở nên lúng túng:
- Tôi… tôi…
Thi bật cười:
- Anh gọi em bằng tên đi! Em tên Thi. Em học năm thứ nhất trường Đại học Sư phạm. Còn anh?
Thấy cô gái có vẻ tự nhiên nên tôi trở nên mạnh dạn:
- Vậy là… Thi nhỏ hơn… anh rồi! Anh học năm thứ tư Đại học Kiến Trúc.
Thi ngước nhìn tôi bằng ánh mắt lấp lánh:
- Tên anh là…
- Ồ, nãy giờ anh quên! Anh tên Hải.
Rồi chợt nhớ ra, tôi ngạc nhiên hỏi:
- Ủa, Thi học ở Sài Gòn về, sao lúc nãy lại đón xe ở khúc đường vắng vẻ tuốt ngoài này thế?
Thi ngó mông ra khoảng không ngoài cửa sổ một lúc mới trả lời tôi, giọng đượm buồn:
- Em với ba về từ chiều, nhưng vì say xe quá không chịu nổi nên em phải xuống đó nghỉ mấy tiếng đồng hồ, chừng khỏe lại mới đón xe đi tiếp!
Nhìn cô gái nhỏ nhắn ngồi bên cạnh, lòng tôi chợt dâng lên một niềm xúc cảm kỳ lạ.
Cứ nghĩ tới cảnh tượng hai cho con một già một trẻ mệt lả bơ vơ ngồi bên vệ đường, tôi không khỏi chạnh lòng thương cảm.
- Anh nghe nói có thuốc uống hoặc dán để trị say sóng, sao em không dùng thử?
Tự nhiên tôi chuyển qua gọi Thi bằng em một cách vô thức. Đến chừng câu nói thoát ra khỏi miệng mới giật mình, không khéo Thi lại đánh giá tôi là thằng bộp chộp, chưa chi đã… Nhưng có lẽ Thi không nghĩ thế, cô khẽ lắc đầu:
- Em dùng thử nhiều thứ rồi nhưng vẫn không có công hiệu. Hễ đi xe máy lạnh, đóng cửa bít bùng là em lại bị… Chắc tại cái số em nó nghèo…
Tôi bật cười trước câu nói của Thi.
Bên trái tôi, ông già che miệng ngáp một cách mệt mỏi rồi bỏ mặc hai đứa trẻ, ông tựa đầu vào thành ghế ru giấc Nam Kha.
Xe chạy bon bon trên đường, hành khách trên xe ai nấy gật gà gật gù theo từng nhịp xóc. Chủ xe chỉ để một bóng đèn vàng vọt nên tôi không nhìn rõ được Thi lúc này, nhưng tự nhiên tôi lại có cảm giác mình “nhìn” Thi rất rõ. Tôi vẫn xác định được rằng cô gái có khuôn mặt khá xinh nhưng có điều nước da cô ta trắng quá, trắng đến gần như... phát sáng trong đêm.
Thi nghiêng nghiêng chiếc đầu xinh xắn, mắt dõi nhìn ra những lùm cây ven đường, tôi “thấy” Thi có vẻ gì đó rất buồn ngay cả lúc cô cười nói với tôi.
Thường thì những đứa học trò khi ngồi xe về quê, bao giờ cũng có tâm trạng nôn nóng, háo hức và vui vẻ lắm chứ không giống như Thi bây giờ. Trông cô không giống đang đi về nhà, mà như đang đi đến một nơi ngoài ý muốn.
“Chắc có lẽ Thi còn mệt sau cơn say xe lúc nãy”, nghĩ vậy nên tôi cũng không thắc mắc nhiều nữa.
- Em về quê hôm nào trở lại trường?
Tôi cất tiếng hỏi, xua tan sự im lặng nãy giờ.
Thi buồn buồn:
- Không chắc em có trở lại trường hay không nữa…
- Sao thế?
Tôi ngạc nhiên kêu lên.
- Em đau bệnh hoài, ba mẹ không muốn em đi xa…
Thì ra là vậy! Có lẽ ba Thi vô Sài Gòn lần này để “bắt ép” con gái về quê, hèn gì trông cô có dáng vẻ như thế.
- Bệnh thì chữa! Ở Sài Gòn càng có điều kiện để chữa trị mà?
Tôi nói
- Em cũng nghĩ vậy, nhưng…
Bỏ dở câu nói giữa chừng, cô gái thay đổi hẳn thái độ, quay sang hỏi thăm tôi đủ mọi thứ, từ việc học hành, ăn ở đến việc quan hệ bạn bè…
Chúng tôi thầm thì kể cho nhau nghe đủ mọi chuyện. Thỉnh thoảng Thi lại bật cười khúc khích trước những câu nói đùa của tôi.
Quả thật, nếu suốt quãng đường đi từ Sài Gòn về Quảng Ngãi, được ngồi cạnh bên người con gái dễ thương và cởi mở như thế này thì dù xe có chở tôi chạy tuốt ra tận Hà Nội tôi cũng không thấy phiền lòng.
Đúng là cầu được ước thấy! Khi ý nghĩ ấy vừa xuất hiện trong đầu tôi, tôi có cảm giác như chiếc xe không chạy bình thường nữa. Nó phun ra những cơn ho khùng khục như một ông già bị lao kinh niên, báo hiệu điều chẳng lành, cuối cùng thì chiếc xe chấm dứt công cuộc phục vụ của mình bằng cách nằm ì lại giữa đường, ven một cánh đồng trống khi kim đồng hồ chỉ đúng... mười một giờ đêm.
Đám hành khách trong xe nhốn nháo hẳn lên:
- Chuyện gì vậy?
- Đây là đâu?
- Chuyện gì xảy ra vậy bác tài?
- Trời! Xui xẻo quá, xe hư kiểu này biết bao giờ mới tới nơi…
Tài xế và hai người lơ xe chẳng thèm đoái hoài gì tới những câu hỏi xôn xao phía dưới, ba người mang túi đồ nghề bước xuống bắt tay vào sửa chữa.
Sau một hồi hì hục, anh lơ xe nhảy lên thông báo:
- Bà con thông cảm, ai buồn ngủ cứ ngủ, ai có nhu cầu gì cứ tự nhiên đi giải quyết, chắc phải mấy tiếng nữa xe mới có thể sửa xong! Khi nào xong, chúng tôi sẽ bấm còi báo hiệu gọi bà con trở lại. Bây giờ thì xin mời bà con cứ nhiên…
Đám hành khách muốn phát khóc khi nghe lời thông báo đó. Họ than trời than đất, mặt mày ai nấy méo xẹo khi thấy mình đang đứng giữa một khoảng trống không, không có lấy bóng cây chứ đừng nói mái nhà.
Trên trời mấy vì sao đang nhấp nháy không biết thông cảm hay giễu cợt, dưới đất thì đám côn trùng đang chơi cùng nhau một giàn nhạc giao hưởng không có nhạc trưởng. Nhưng với tôi, bản hòa tấu ấy nghe mới vui tai và thích thú làm sao!
Xe dừng lại, không khí trong xe trở nên vô cùng oi bức, trong xe lại nêm đầy chặt người nằm ngồi ngả ngớn nên nhiều người không thể nào chợp mắt, họ giết thời gian bằng cách... đi dạo.
- Mình xuống đất một lúc cho giò cẳng thư giãn…
Tôi lên tiếng đề nghị và được sự hưởng ứng của Thi.
Nãy giờ ông già chỉ hơi hé mắt ra nhìn rồi lại tiếp tục ngáy pho pho.
- Sụyt!
Thi đưa một một ngón tay lên miệng ra hiệu rồi cùng tôi khe khẽ lách mình bước qua chân ông già.
Chúng tôi mon men tiến ra cánh đồng, gió tha hồ thổi ù ù làm tung cả mái tóc chấm lưng của cô gái.
- Thi lạnh không?
Tôi  rùng mình, hỏi Thi với ý định trở lại xe lấy áo khoác.
- Dạ không, gió mát mà… Em không lạnh đâu!
Một tay đưa lên giữ lấy mái tóc, một tay Thi trỏ về phía trước reo lên:
- Anh xem kìa!
Nhìn theo tay Thi, tôi thấy một căn nhà!
- Thật lạ, khi nãy trên xe anh không hề nhìn thấy nó mặc dù chỉ cách chỗ đậu xe vài trăm mét. Sao bây giờ nó lại xuất hiện đột ngột vậy?
Tôi kinh ngạc nói.
Thi bụm miệng cười:
- Anh Hải sợ ma hay sao thế?
- Không! Anh chỉ ngạc nhiên!
Tôi cãi.
Thi không cười nữa:
- Có lẽ khi nãy anh sơ ý không nhìn kỹ thôi…
- Ờ, có lẽ vậy…
Tôi đồng ý với Thi nhưng trong lòng vẫn thấy có gì đó kỳ kỳ.
- Mình tới đó xem thử đi!
Tôi rủ rê Thi.
Máu tò mò thúc tôi tiến đến gần để xem đó là cái gì bởi vì so với căn nhà thì nó quá nhỏ.
Hai đứa lò dò theo con đường đất nhỏ xíu đi dần về phía ánh đèn.
Khi tới nơi, tôi thoáng giật mình, nhưng hình như Thi không cảm thấy bất ngờ hay sợ hãi gì hết.
Đó là một căn nhà mồ!
Vốn là thằng gan lì, sau phút bất ngờ, tôi nhanh chóng lấy lại sự bình tỉnh vốn có, ghé mắt ngó vào. Nền gạch bông sạch bóng mời gọi một cách hấp dẫn không cưỡng lại được, tôi liền quyết định nghỉ ngơi tại đây hơn là chen lấn trong cái hộp sắt đầy ngẹt người và mùi ét xăng ngoài kia.
Nghĩ thế tôi liền quay lại hỏi Thi:
- Thi có sợ không?
- Có anh Hải đây rồi, em không thấy sợ gì hết!
Cô gái mạnh dạn đáp.
- Vậy mình ngồi ở đây trò chuyện cho thoải mái nhé? Khi nào nghe tiếng còi xe thì hãy ra
Thi vui vẻ gật đầu rồi đột ngột hỏi tôi:
- Anh Hải có sợ ma không?
- Sao Thi hỏi vậy? Thi là con gái mà còn không sợ, chẳng lẽ anh là trai mà lại kém Thi sao?
Tôi cười cười hỏi lại.
- Nhưng… nếu gặp ma, anh Hải có sợ không?
Thi vẫn hỏi tiếp.
Tôi bật cười:
- Gặp ma à? Anh cũng chưa biết nữa, vì hồi nào tới giờ anh có gặp ma lần nào đâu mà biết. Nhưng theo suy nghĩ của anh thì ma chắc cũng như người thôi, nếu mình không làm gì hại họ, chắc họ cũng sẽ chẳng hại mình. Vì vậy, chắc nếu có gặp ma anh cũng không sợ!
- Chắc nhé?
Thi gặng lại.
Tôi chỉ biết mỉm cười.
Dễ gì có cơ hội được đóng vai trò người bảo vệ cho mỹ nhân, nên tôi càng phải tỏ rõ cái “bản lĩnh đàn ông” của mình trước mặt Thi.
Tôi cùng Thi bước thẳng vào. Phần mộ được xây âm xuống đất, cho nên toàn bộ phần nền phía trên trống trải y như tấm phản hảo hạng. Phía trước phần mộ là một cây đèn dầu hỏa có bóng tròn chụp lại, có lẽ của người thân đến đây thắp nhang và để lại.
Ánh sáng leo lét chao qua chao lại nhưng cũng đủ để tôi nhìn được xung quanh. Trên bức tường lớn nhất có khắc tên họ, năm sinh của người quá cố, tôi liền soi đèn vào. Thì ra người mất là một cô gái còn rất trẻ, chỉ mới mười chín tuổi.
- Thật tội, cô gái còn quá trẻ mà đã lìa trần rồi!
Tôi chép miệng than.
Một thoáng bùi ngùi trong lòng tôi: một số phận quá ngắn ngủi, cái gì đã khiến cô gái quá trẻ thế này từ giã cuộc đời vội vã vậy? Chắc là thảm khốc lắm!
Thi không nói gì, chỉ nhẹ nhàng ngồi xuống nền gạch, dáng vẻ trở nên u buồn tư lự.
Bỗng tự nhiên cơn buồn ngủ ập đến, tôi ngồi tựa lưng vào thành mộ, che miệng ngáp dài.
- Anh chợp mắt một chút cho khỏe đi! Em thức canh cho, khi nào xe sửa xong em sẽ gọi.
Chừng như thấy tôi cứ ngáp vắn ngáp dài, Thi khuyên tôi như vậy.
- Anh vừa thi xong môn cuối chiều nay, tối qua thức đến gần sáng để học bài, vì thế…
Thi mỉm cười:
- Vậy anh ngủ đi!
- Em cũng nên… cũng nên nghỉ một chút!
Tôi ngượng với cô gái vì sự buồn ngủ vô duyên của mình.
- Không sao đâu anh! Em ngồi đây cho mát mẻ là được rồi, em chưa buồn ngủ, anh cứ tự nhiên đi…
Mặc dù hơi do dự nhưng rồi tôi cũng tự trấn an mình vì chỗ này không xa mấy nơi xe đậu, và cũng không phải ngồi đây một mình.
Tôi nhìn Thi, hơi ái ngại nhưng rồi không cưỡng lại được, hai mí mắt tôi bắt đầu kéo sấp xuống.
Cây đèn dầu chập chờn hắt từng cái bóng run rẩy lên tường, ngoài kia đêm và những cơn gió ù ù vẫn tiếp tục cuộc hành trình của nó.
Không biết tôi ngủ ngồi như thế bao lâu rồi, khi tôi giật mình thức giấc thì bắt gặp ngay một đôi mắt đang nhìn tôi chằm chặp. Giật bắn mình vì tưởng mình đang đối diện với hồn ma bóng quế nhưng rồi tôi lại thở khì ra ngay khi nhận ra Thi và nhớ lại mình đang ở đâu.
Bị bắt gặp nhìn trộm, cô gái cười bẽn lẽn cúi gầm mặt xuống.
- Nãy giờ em không ngủ chút nào sao?
Muốn chữa thẹn cho cô gái nên tôi lên tiếng hỏi.
Thi vẫn ngồi tựa lưng vào tường, hai tay bó gối, khẽ mỉm cười:
- Dạ không, em không buồn ngủ.
Bất chợt Thi hỏi:
- Mai mốt, nếu em được cha mẹ cho phép tiếp tục vào Sài Gòn học, em tìm anh ở đâu?
Tôi mừng rơn:
- Anh học lớp K… Mà thôi, đây là số điện thoại của anh, khi nào vô Sài Gòn em liên lạc với anh nhé?
Tôi thò tay vô túi áo định lấy giấy viết ghi số điện thoại cho Thi, nhưng chợt nhớ ra không mang theo. Thấy tôi có vẻ lúng túng, Thi cười, mở túi xách lấy ra chiếc điện thoại:
- Anh đọc số, em save vào máy!
- 090…
Dưới ánh đèn dầu tù mù, trông Thi càng trắng một cách… rùng rợn! Những ngón tay thon dài, trắng trẻo của cô bấm lên bàn phím một lúc rồi ngước lên cười:
- Em nhá máy anh để anh lưu lại số của em nhe?
Tôi gật đầu, thò tay móc chiếc điện thoại trong túi ra.
Một điệu nhạc nước ngoài vui tươi cất lên xua đi cái hoang lạnh ở nơi đồng không hiu hắt.
Trông thấy dãy số hiện trên màn hình, tôi bật khen:
- Số điện thoại của em đẹp quá!
- Khi vào Sài Gòn, nhất định em phải gọi cho anh đấy!
Vừa bấm phím lưu lại số điện thoại của Thi, tôi vừa nhắc.
Thi nhìn tôi ranh mãnh:
- Vậy là… mai về tới Quảng Ngãi thì  em không được phép gọi cho anh?
Tôi ngớ ra một giây rồi phá lên cười:
- Ôi, anh quên mất! Em có thể gọi cho anh bất cứ lúc nào!
Thi ngoảnh nhìn nghiêng, giấu đi cặp mắt long lanh rực sáng:
- Thế mà… em cứ tưởng anh có vợ ở quê… nên không dám nghe điện thoại  ở nhà chứ!
Tôi làm bộ nhăn nhó:
- Trời ơi, em nghĩ vậy là chết anh rồi! Anh còn… mồ côi vợ em ơi! Sinh viên tay trắng như anh, có ma nào thèm…
- À, em cho anh xin địa chỉ ở quê của em đi!
Chợt nhớ ra, tôi đề nghị.
Thi ngập ngừng một chút rồi xòe tay ra trước mắt tôi:
- Anh cho em mượn điện thoại, em chép địa chỉ của em vô phần tin nhắn cho anh.
Vui vẻ đưa cho Thi chiếc điện thoại, vô tình bàn tay tôi chạm khẽ vào bàn tay đang giơ ra phía trước của Thi. Một cảm giác lành lạnh rờn rợn chạy khắp châu thân làm tôi rùng mình mấy cái.
Nhận thấy thái độ bất thường của tôi, cô gái liền nhoẻn miệng cười làm tôi thấy mình sao mà ngớ ngẩn, có lẽ đó chỉ là cơn gió ẩm thấp ngoài kia thổi tạt vào đây thôi.
Tôi cảm thấy hơi quê. Ở một nơi như thế này giữa đêm, đáng ra người lo sợ phải là Thi mới đúng. Nhưng tuyệt nhiên, từ lúc bước vào đây tới giờ, chưa khi nào tôi nhìn thấy một nét lo âu, sợ sệt hay hoài nghi hiện trên mặt Thi, dù chỉ là thoáng qua thôi.
Với Thi, tôi là một kẻ hoàn toàn xa lạ, chỉ mới biết nhau cách đây mấy giờ đồng hồ, vậy mà Thi không chút ngần ngại đi theo tôi tới nơi hoang vắng này, nếu lỡ tôi là kẻ… không đàng hoàng, tôi giở trò đồi bại gì đó ra thì cô sẽ xoay sở sao đây?
Đã vậy, nơi đây lại là một cái nhà mồ! Thường thì đa số phái nữ đều nhút nhát, dù những người được xem là gan dạ đi nữa thì cũng ít ai dám ngồi tâm sự cùng một kẻ lạ ở một nhà mồ.
Thế mà Thi lại khác! Trông cô nhỏ bé, yếu đuối đến thế nhưng không hề tỏ ra e dè chút nào trong cái bối cảnh lạ đời này!
Có lẽ do cô quá ngây thơ, cô chưa bao giờ nghĩ tới những điều xấu có thể xảy ra, và có lẽ vì quá ngây thơ nên cô cũng tin tưởng vào sức mạnh của một gã trai như tôi mà không biết sợ hãi là gì!
Thi đã không sợ, sao tôi lại có cảm giác rùng mình? Hồi nhỏ, tôi từng ngủ ở nghĩa địa để canh lúa, tôi nổi tiếng gan lì, thì hoàn cảnh đêm nay đâu có gì đáng nói.
Được chứng minh sức mạnh trước người đẹp thì còn gì bằng, không thể để Thi cười vào mặt được! Tôi nhanh chóng xua đi cái cảm giác rờn rợn đó và cười thật tươi khi nhận lại điện thoại từ tay Thi.
Nhìn lướt qua dòng địa chỉ trên màn hình điện thoại, tôi bảo:
- Nếu rảnh, anh tới nhà thăm em được không? Từ nhà anh tới đây cũng không xa mấy, chừng vài chục cây số.
Thi ấp úng:
- Mẹ em… mẹ em hơi cổ hủ. Bà không thích con gái giao tiếp với bạn trai. Vả lại… vả lại cũng không chắc em về luôn Quảng Ngãi!
- Ủa, bộ em còn tính ghé đâu nữa sao?
- Em có người chú ở Cam Ranh, hồi chiều ba em bảo sẽ ghé đó thăm chú, ở chơi một vào hôm.
Thi trả lời tôi, mắt nhìn xuống đất.
Tôi thất vọng:
- Vậy mà nãy giờ anh mừng, anh tưởng có người chuyện trò về tới quê mình luôn đó chớ!
Thi cười như người có lỗi:
- Em cũng không muốn ghé, nhưng ba…
Cô gái vừa nói tới đó thì bên ngoài ông già xăm xăm bước vô. Lại một lần nữa tôi giật bắn người khi nhận thấy nước da ông già cũng trắng một cách lạ lùng như nước da cô gái, nhưng ở ông còn có thêm một vẻ gì đó… không thật, không phải là người!
- Chờ xe lâu quá, mình đón xe khác đi đi con!
Ông già bảo con gái.
Thi tỏ vẻ dùng dằng:
- Ba… hay ba cho con về quê…
Ông già nhìn Thi nghiêm nghị:
- Không được, ba đã nói rồi…
Thi uể oải đứng lên. Tôi cũng đứng lên theo. Cả ba chúng tôi lặng lẽ đi trở ra đường lộ, không ai nói với ai lời nào.
Tự nhiên trong lòng tôi trỗi dậy một nỗi buồn lênh láng… Tuy mới gặp gỡ và quen biết Thi không lâu, nhưng tôi cảm thấy thân thiết với cô như đã quen biết từ rất lâu rồi.
Rồi quãng đường dài dằng dặc còn lại phía trước, tôi sẽ phải một mình buồn bã hay phải ngồi cạnh một bà phì nộn hoặc một ông sồn sồn, lên xe là ngủ gà ngủ gật rồi kéo ò e suốt sáng…
“Gặp nhau đây, rồi chia tay… Ngày vàng như đã vụt qua trong phút giây…”, bất chợt một câu hát hiện ra trong đầu tôi. Thật ra, âm điệu bài hát đđó không buồn một chút nào, nhưng lúc này nó lại làm cho tôi bùi ngùi xao xuyến lạ…
Ra tới đường lộ, ông già vỗ vai tôi nói lớn:
- Cháu về quê mạnh giỏi!
Tôi gật đầu cảm ơn ông mà mắt vẫn nhìn Thi không chớp.
Thi lí nhí nói câu tạm biệt, hứa hẹn sẽ gặp lại tôi vào một ngày không xa nữa ở tại Sài Gòn.
Tôi cũng không nhớ lúc đó mình đã nói gì với Thi nữa, chỉ nhớ là tôi đứng bên đường nhìn theo dáng hai cha con Thi bước lên một chiếc khác mà lòng tiếc nhớ ngẩn ngơ…
Bỗng tôi chợt nhớ, lúc tối khi thấy cha con Thi lên xe thì có mang theo hành lý, sao bây giờ ngoài chiếc túi xách trên tay Thi họ không mang theo gì cả?
Tôi vội vã nhảy phốc lên xe, đến hàng ghế lúc nãy tôi và cha con Thi ngồi, cúi nhìn quanh quất nhưng không thấy gì.
Lạ thật! Tôi lẩm bẩm. Rõ ràng lúc nãy, ông già trước khi ngồi xuống còn cẩn thận đẩy cái giỏ xách sát vô gầm ghế ngồi mà?
Nhìn sang người khách ngồi dãy bên cạnh, ngang hàng với ghế của tôi, tôi cất tiếng lễ phép:
- Cô ơi, lúc nãy cô thấy ông già ngồi đây xuống xe có đem theo túi hành lý không cô?
Người phụ nữ ngồi bên trố mắt nhìn tôi, hỏi lại:
- Ông già nào?
- Thì… ông già với cô gái ngồi cạnh cháu từ tối đó!
Tôi cũng giương mắt lên nhìn.
Người phụ nữ ngạc nhiên:
- Ủa, từ tối tới giờ tôi thấy cậu chỉ ngồi một mình thôi mà, làm gì có ông già hay cô gái nào ở đây?
Tôi phản đối:
- Rõ ràng có ông già và cô gái ngồi cạnh cháu mà! Lúc nãy cháu và cô gái còn xuống xe cùng lúc với nhau…
Người phụ nữ bật cười:
- Thôi đi ông tướng! Chắc nãy giờ ngủ mê hay sao thế?
- Không, rõ ràng là có…
Tôi quả quyết.
Người phụ nữ lắc đầu, không thèm tranh cãi gì với tôi nữa. Một vài người khách ngồi gần đó bắt đầu ngoái lại nhìn tôi với vẻ ái ngại. Một bà trung niên ngồi ở hàng ghế sau nhoài người lên bảo:
- Cậu nói sao chứ? Từ lúc xe khởi hành ở Sài Gòn đến giờ chỉ có cậu ngồi ở hàng ghế này thôi, làm gì có ai bên cạnh!
Thoáng rùng mình, cái cảm giác lành lạnh lúc nãy lại ập đến với tôi.
Vừa lúc đó xe cũng đã được sửa xong, hành khách lại chen nhau trở về đúng chỗ của mình, tiếng cười nói, nhăn nhó ồn ào lên một lúc rồi lại lắng xuống khi xe bắt đầu chuyển bánh.
Tôi vẫn cố nhoài đầu ra ngoài hướng về phía căn nhà mồ. Không thấy gì cả, kể cả ánh đèn leo lét hay một cái bóng mờ ảo của ngôi nhà!
Tôi run bắn cả người lên, vội thụt vào trong, hấp tấp lôi chiếc điện thoại ra, tay tôi run run kiểm tra lại danh bạ. Rõ ràng có tên Thi ở đây, dãy số rất đẹp của cô tôi vẫn còn nhớ thì làm sao nhầm lẫn được! Một lần nữa tôi kiểm tra lại tin nhắn, số nhà, địa chỉ của Thi rành rành ra đấy!
Tôi thở phào nhẹ nhõm. Chắc hẳn mấy người ngồi quanh tôi đã ngủ say sưa từ lúc trời mới vừa nhập nhoạng tối nên không biết, không nhìn thấy cha con Thi lúc họ lên xe.
Để cho chắc ăn, tôi bấm số máy của Thi và gọi. Ở đầu dây bên kia vang lên một điệu nhạc chờ nhẹ nhàng.
- A lô! Anh Hải phải không?
Nghe đúng tiếng Thi, tôi mừng rỡ:
- Ừ, anh đây! Lúc nãy thấy cha con em lên xe mà không đem theo hành lý, anh tưởng ba em để quên, tìm khắp vẫn không thấy đâu nên… nên anh gọi hỏi thử em xem thế nào?
Có tiếng Thi cười nhẹ:
- Dạ, em cám ơn anh, ba em đã mang theo rồi!
- Ủa, sao lúc đó anh không…
Thi cắt ngang lời tôi:
- Chắc tại anh không nhìn rõ đó thôi, hành lý của hai cha con chỉ có một giỏ đồ đó, sao lại bỏ quên được hả anh? À, xe sửa xong chưa vậy anh Hải?
- Xong rồi, hiện giờ xe đang chạy! Phải chi… phải chi có thể, thì mai mốt về nhà anh tới thăm em!
Tôi tha thiết.
Thi nói thật nhỏ:
- Mẹ em khó lắm, chỉ sợ anh tới sẽ buồn lòng… Thôi, chắc chắn em sẽ vô Sài Gòn và đến tìm anh.
- Sao lúc nãy em bảo ba mẹ không cho em tiếp học nữa?
Tôi hỏi lại.
Thi cười:
- Thì đó là ý kiến của ba mẹ, nhưng em… em sẽ khóc nhè để phản đối! Em tin thế nào ba mẹ cũng sẽ chìu em thôi.
Tôi bật cười khi nghe giọng nũng nịu của Thi.
- Vậy hẹn gặp lại em ở Sài Gòn nhé! Tạm biệt em!
- Tạm biệt anh!
Tôi tắt điện thoại, lòng thật thư thái.
Vậy mà vừa nãy, nghe mấy người ngồi xung quanh bảo rằng từ lúc ở Sài Gòn tới bây giờ tôi chỉ ngồi đó một mình, tôi đã thoáng nghĩ tới việc cha con cô gái kia là ma mới buồn cười chứ!
Hồi xưa tới giờ, tôi nghe người ta kể chuyện ma cũng nhiều, nào là ma da, ma xó, ma thần vòng, ma vú dài, ma đem người đi giấu vô trong lùm trong bụi, ma thắt cổ đong đưa trên cành cây để nhát người ta, ma rút giò người đang bơi lội… nói chung là rất nhiều “chủng loại ma” với rất nhiều hành động tượng trưng của bọn nó, nhưng chưa khi nào nghe tới chuyện ma xài điện thoại di động cả!
Tôi bật cười một mình, mấy ngón tay bấm lung tung trên bàn phím. Vô tình, tôi bấm nhầm nút kiểm tra tài khoản.
- Ồ, lạ nhỉ? Mình vừa gọi điện nói chuyện với Thi cũng khá lâu, sao tài khoản vẫn không bị trừ?
Tôi kêu thầm trong bụng. Tôi nhớ rõ ràng hồi chiều tài khoản của tôi còn lại đúng hai mươi hai ngàn sau khi gọi về nhà báo tin tôi đã thi xong và chuẩn bị ra xe về quê. Vậy mà hiện giờ tài khoản vẫn còn nguyên vẹn số tiền đó.
Ừ, có thể nó chưa kịp trừ đấy thôi! Cũng giống như dạo trước, có đôi lúc gởi đi bao nhiêu là tin nhắn, thấy tài khoản không bị trừ, tôi cứ mừng rơn lên, tưởng tổng đài sơ suất gì đó nên mình được “lọt sổ”, nên hí hửng nhắn tá lả cho bạn bè, người quen, nhắn luôn mấy số quảng cáo này nọ trên tivi.
Ai ngờ đâu mấy hôm sau nó trừ “nguội”, tôi bị một phen méo mặt!
Liên tưởng tới việc đó nên tôi không thèm thắc mắc nữa, ngã đầu vô ghế nhắm mắt lại cố dỗ giấc ngủ.
Một mùi hương thoang thoảng quanh tôi, càng làm tôi nhớ Thi hơn nữa. Tôi mơ màng tưởng như mình đang tựa người vào cô và mùi hương êm dịu đó toát lên từ mái tóc đen óng ả xoã dài của cô gái…
 
***
Mấy ngày đầu mới về nhà, tôi quả thật không có thời gian để nhớ tới Thi. Hết mẹ rồi các chị, mọi người lần lượt hỏi han tôi đủ mọi thứ, bắt tôi phải kể chi li, tỉ mỉ việc ăn học trong đó thế nào, phố xá Sài Gòn ra sao? Con gái con trai Sài Gòn ăn diện, nói năng có giống trên phim không?
Hết thăm hỏi lại tới màn vỗ béo! Thôi thì đủ các món ăn mà tôi thích, kể cả những món hồi nhỏ tôi rất thích nhưng bây giờ… đã ớn rồi, mà chị tôi vẫn cố ép:
- Ăn đi em! Món này là em thích nhất phải không!
Trời ạ! Tôi cứ phải toét miệng ra cười và há miệng ra để tống thức ăn vào liên tục.
Tôi biết mẹ và các chị vì thương tôi nên mới làm vậy. Có những món, không đời nào ở nhà các chị dám bỏ tiền ra mua về ăn, chỉ trừ những lúc có tôi về.
Bởi vậy, cho dù có thích hay không thích tôi đều gật đầu khen ngon và ăn một cách nhiệt tình để khỏi phụ lòng thương yêu của mẹ và các chị.
Đến ngày thứ năm tôi ở nhà thì cái sự vồ vập ấy có phần lắng xuống một chút, một chút thôi nhưng cũng khiến tôi nhớ Thi vô hạn.
Mặc dù cái địa chỉ và cả số điện thoại của Thi tôi đã thuộc nằm lòng, vậy mà mỗi khi buồn tôi lại mở tin nhắn ra xem lại.
Mấy ngày nay, mỗi khi tôi gọi tới đều gặp lúc Thi tắt điện thoại. Có lẽ do mẹ Thi quá khó khăn, không cho phép con gái giao thiệp với nhiều người như lời Thi nói nên khi ở nhà Thi không dám mở điện thoại? Có lẽ thế thật!
Đôi lúc tôi muốn nhảy xe đò đi thăm Thi, nhưng muốn là muốn vậy thôi, chứ làm sao tôi dám đường đột trong khi Thi đã có lời cảnh báo trước! Đành thôi, đành chờ gặp lại Thi ở Sài Gòn như lời hứa hẹn…
Một tuần trôi qua thật nhanh, tôi trở lại Sài Gòn với lỉnh kỉnh quà quê. Một ba lô hành lý trên lưng, hai tay hai giỏ xách trĩu nặng.
Lúc đi qua khúc đường xe bị hư hôm trước, tôi cố dõi mắt nhìn để tìm lại ngôi nhà mồ, nơi “hẹn hò” đầu tiên của tôi với một người con gái, nhưng tôi không thể nhận ra nó nằm ở đâu dù đang giữa ban ngày!
Tôi lại tự an ủi mình là tại xe chạy nhanh quá, chỉ cần một phút lơ đễnh là lọt qua ngay!
Tối hôm đó, lúc tôi vừa mới tắm xong, định trèo lên giường nằm nghe lại mấy đoạn băng ngoại ngữ thì có tiếng chuông điện thoại ngân nga.
Nhác thấy chữ Thi trên màn hình, tôi mừng quá, vội vã hỏi:
- Thi phải không? Em vô Sài Gòn chưa?
- Dạ, em đây! Em vô tới hôm qua!
Giọng Thi vẫn nhỏ nhẹ.
- Anh mới vô trưa nay. Nếu anh đi sớm một chút, có thể mình lại ngồi chung xe cũng nên.
Thi cười:
- Dạ, nhưng… cũng khó lắm anh, đâu dễ gì trùng hợp vậy?
- Hiện giờ em có rảnh không? Anh muốn mời em đi uống nước?
Tôi hỏi liền, sợ chút nữa Thi cúp máy sẽ không nói kịp.
Thi lặng im một lúc rồi đồng ý:
- Dạ. Vậy anh đến ngay trước cổng công viên X đi, mình gặp nhau ở đó nhé?
Tôi ô kê ngay mà quên hỏi Thi sao chọn nơi tréo ngoe như thế. Công viên X  không gần chỗ tôi mà cũng chẳng thuận đường tới chỗ Thi ở. Đến lúc Thi tắt máy rồi tôi mới chợt nhận ra điều đó, và… cũng giống như bao lần khác, tôi lại tự giải thích với mình, rằng do Thi ngại gặp bạn bè, sợ họ đồn thổi tùm lum lên trong khi giữa tôi và Thi chưa “có gì” với nhau nên mới mới hẹn gặp nhau ở một nơi vừa xa vừa vắng vẻ đến thế.
Nhưng có xa mấy tôi cũng đâu có ngại! Và càng vắng vẻ tôi càng khoái chứ sao!
Vội vã thay bộ đồ “vía” rồi leo lên “con ngựa sắt” tôi co giò đạp một mạch mà trong lòng rộn rã reo vui.
Bốn năm học Đại học, bốn năm “lăn lộn” giữa Sài Gòn, cộng thêm mấy năm cấp ba nữa cũng thành ra một con số “bộn bộn”, vậy mà thằng tôi đây vẫn chưa có được một “mảnh tình rách vắt vai”, mặc dầu hình thức tôi tuy không được như… siêu mẫu Bình Minh nhưng cũng không đến nỗi “mặt thỏ mỏ dơi” hay đại loại xâu xấu như thế!
Thật ra thì cũng có một vài tình cảm bâng khuâng nhưng chả cái nào ra cái nào, tôi cũng chưa đặc biệt quan tâm đến một cô gái nào như đối với Thi hiện nay.
Có lẽ do cái hoàn cảnh gặp gỡ giữa tôi và Thi quá đặc biệt nên khắc sâu vào trí óc tôi? Chẳng biết nữa, chỉ biết rằng giờ đây tôi đang vui, rất vui khi được “hò hẹn” với Thi ngay tại Sài Gòn này chứ không phải giữa cánh đồng mông mênh quạnh vắng, trong một ngôi nhà mồ hoang vắng tịch liêu.
Mất hơn hai mươi phút đạp xe tôi mới đến được chỗ hẹn.
Đây là một công viên nhỏ, vắng người và hầu như không thấy cặp tình nhân nào lại đưa nhau vào đó để tâm sự, vì người ta sợ gặp phải bọn xì ke, chích choát.
Tôi dừng xe, một chân chống xuống đất, chân kia vẫn để hờ trên bàn đạp, mắt ngó quanh quất vẫn không thấy bóng dáng Thi đâu. Vừa định nhấn bàn đạp chạy loanh quanh một vòng công viên, tôi bỗng nghe tiếng Thi gọi khẽ từ phía sau:
- Anh Hải!
Quay lại, Thi đứng đó nhìn tôi cười rất tươi từ lúc nào không biết.
- Lên xe, anh chở đi… uống nước!
Tôi cười đáp lại và mời, nhưng Thi lại tỏ ra ngập ngừng, không tán thành ý định của tôi. Thi nói nhỏ:
- Hay… mình vô kia ngồi nói chuyện chơi đi anh! Em… em rất ngại tới những chỗ đông người…
Vừa nói, Thi vừa trỏ tay vào một chiếc ghế đá gần bên cổng công viên.
Tuy trong lòng tôi không thích mâùy, nhưng vì không muốn làm phật ý người đẹp nên tôi đồng ý, dắt xe lên lề rồi cả hai thả bộ đi vô.
Tôi và Thi ngồi trên ghế đá công viên, trong một đêm ít sao. Cả hai không làm gì cả, cũng không nói gì với  nhau, ngoài việc ngước lên và ngắm nhìn những ngôi sao lẻ loi trên bầu trời.
- Ba mẹ en đã đồng ý cho em tiếp tục học?
Cuối cùng tôi cất tiếng phá vỡ cái không khí ngại ngùng giữa hai đứa.
Thi nhìn tôi, khẽ gật đầu.
- Dạ! Em khóc quá, ba mẹ không chịu nổi…
Tôi thở phào:
- Được vậy là tốt rồi! Mấy hôm rồi không liên lạc được với em, anh lo quá, không biết cuộc đấu tranh giữa “quyền lực” và nước mắt ngã ngũ ra sao, cứ sợ không còn dịp nào gặp lại em nữa!
Thi nhìn tôi đăm đắm:
- Anh mong gặp lại em đến thế sao?
Thoáng chút bối rối, nhưng tôi nghĩ có gì mà phải ngại, lòng mình thế nào thì cứ mạnh dạn giãi bày cho người ta hiểu, như thế sẽ tốt hơn. Tôi cũng nhìn lại Thi bằng ánh mắt thật trìu mến (là tôi nghĩ vậy).
- Anh rất nhớ em, rất mong được gặp lại em! Mấy ngày vừa qua lắm khi anh muốn đến nhà tìm thăm em, nhưng rồi anh lại sợ làm ba mẹ em không đồng ý thì việc cho em đi học lại càng thêm phần khó khăn. Vì thế anh đành phải dằn lòng. Thú thật, từ nhỏ đến giờ, chưa khi nào anh thấy lòng mình… mong nhớ một người con gái nào như đã nhớ mong suốt trong mấy ngày qua. Nhưng em… em cũng thật tệ đấy nhé, suốt một tuần em không thèm gọi hay nhắn tin cho anh, mà anh gọi thì lúc nào điện thoại em cũng tắt máy.
Hình như Thi xúc động lắm trước những lời thật tình của tôi, cả lời trách yêu của tôi dành cho Thi nữa. Cô ngước nhìn tôi, mắt long lanh như sắp khóc:
- Em… em rất vui khi nghe anh nói vậy! Có ai đó mong chờ mình là một điều hạnh phúc lớn lao lắm, phải không anh? Từ nhỏ em đã luôn mơ ước… một ngày nào đó em gặp được một người… một người hiểu và thông cảm em, lúc nào cũng dành cho em tình cảm chân thành…

Tôi khẽ chạm vào bàn tay Thi đặt hờ hững trên thành ghế, vẫn cái cảm giác lạnh lẽo kỳ lạ hôm nào, nhưng có lẽ đã biết trước nên lần này tôi không bị giật bắn người lên nữa.
- Từ hôm nay, em có cho phép anh được là người chia sẻ cùng em những buồn vui trong cuộc sống?
Thi e thẹn cúi mặt và khe khẽ gật đầu.
Vậy là từ đây tôi không còn là kẻ… “mồ côi… ghệ” như lời trêu chọc của mấy thằng bạn quỷ quái nữa rồi!
Trước đây tôi từng phải khốn khổ vì bọn chúng không ít. Có đứa còn ác mồm, bảo tôi nên đi giám định lại giới tính xem có bị trục trặc gì không nữa mới đáng ghét chứ!
Hơ hơ… rồi tụi mầy sẽ phải lác mắt khi một ngày gần đây tao dẫn nàng về “ra mắt” nhé! Đừng có mà ganh tị với tao đấy nhé! Tao không phải là đứa vung vãi tình cảm một cách vô tội vạ như chúng mầy, tao dành trọn cho người thật xứng đáng. Và hôm nay, tao thật sự tìm được người xứng đáng rồi, tìm được “chiếc xương sườn” lưu lạc của tao rồi đấy chúng mầy ạ!
- Anh cười gì thế?
Thi nhìn tôi ngạc nhiên.
Tôi giật mình:
- Không… chỉ tại… anh… anh vui quá!
Thi cười khe khẽ, bàn tay trắng xanh của cô vân vê chiếc lá nhỏ vừa vô tình rơi xuống.
Tối đó tôi và Thi trao đổi cùng nhau thật nhiều tâm sự, tình cảm của hai đứa chúng tôi đã mau chóng trở nên khắn khít.
Mãi tới khi đường phố đã thưa người qua lại chúng tôi mới đứng lên từ giã nhau trong sự uyến luyến không muốn xa rời.
Tôi muốn đưa Thi về tận nơi cô sống nhưng Thi nhất định từ chối, cô nói  không muốn bạn bè dị nghị và ép tôi phải về trước.
Tôi đành phải chìu theo, đạp xe đi một đoạn, quay nhìn lại tôi đã không thấy Thi đâu nữa.
Những buổi hò hẹn của tôi và Thi cứ diễn ra đều đặn vài ba lần trong tuần, vẫn là nơi đó không thay đổi, dù tôi cố nài ép cách nào Thi cũng không chịu đi cùng tôi vào quán nước, quán kem như những cặp tình nhân khác.
Do vậy, tuy có người yêu nhưng tài khoản của tôi không bị hao hụt vì những khoản chi cho “tình phí” thông thường!
Ba tháng trôi qua một cách chóng vánh. Tình cảm tôi dành cho Thi cũng phát triển một cách không ngờ. Bây giờ thì trong đầu tôi không lúc nào vắng bóng hình Thi. Cả khi học, khi ăn và khi ngủ.
Những ngày không gặp Thi là lòng tôi lại thấp thỏm nhớ mong, lại nôn nao chờ đợi, không còn tâm trí đâu dành cho việc học hành.
Thi cũng vậy, cô cũng mong nhớ tôi không kém! Vậy mà, chưa khi nào Thi cho phép tôi đến nhà trọ thăm cô, mà Thi cũng không chịu đến thăm tôi, cũng chưa một lần chúng tôi được tay trong tay đi dưới ánh mặt trời!
Vì không chịu được nỗi nhớ nhung, tần suất hẹn hò của chúng tôi tăng lên. Trước đây mỗi tuần gặp nhau vài ba lần, bây giờ thì không ngày nào không gặp.
Mấy đứa bạn trọ cùng phòng đứa nào cũng thắc mắc và lo lắng trước sự thay đổi bất ngờ của tôi. Mấy năm qua, tôi luôn luôn là một sinh viên gương mẫu, sau giờ học trên giảng đường là rúc về phòng nghiên cứu sách vở, tài liệu, tôi không có thói quen lê la quán xá hay đam mê bất cứ thứ gì ngoài việc học.
Vậy mà chỉ mới mấy tháng ngắn ngủi tôi như biến thành một người hoàn toàn khác.
Tối nào tôi cũng xách xe đi đến khuya lơ khuya lắc mới chịu vác xác về, bạn bè có hỏi tôi chỉ cười bí mật:
- Mai mốt tụi bây sẽ biết!
Trong giờ học thì tôi hoặc là ngủ gà ngủ gật, hoặc là mơ mộng đâu đâu…
Lác đác trong đám bạn tôi đã có những lời đồn là tôi mắc bệnh “tâm thần” do học hành quá độ!
Mặc kệ, tôi bỏ ngoài tai hết mọi lời đàm tiếu, tôi bị cuốn vào dòng xoáy tình cảm với Thi một cách vô cùng mãnh liệt, không làm sao có thể gỡ ra, mà nào tôi có ý định gỡ ra đâu?
Thấy tôi quá vất vả vì tối nào cũng phải đạp xe đi về mấy chục cây số để đến nơi gặp gỡ với Thi, một hôm Thi đề nghị:
- Hay là anh Hải chuyển tới ở trọ gần chỗ của em nhe? Như vậy chúng mình sẽ có nhiều thời gian được ở bên nhau!
Được ở bên Thi là điều mong muốn lớn nhất của tôi lúc ấy, nhưng tôi ngại một điều là chuyện tiền nong, biết chỗ trọ mới giá cả thế nào, có phù hợp với túi tiền lép kẹp triền miên của tôi hay không? Cả khu vực mà Thi chỉ, tôi thấy toàn nhà cửa đẹp đẽ, riêng biệt, chắc chắn giá thuê không phải thấp.
Hình như đọc được nỗi lo của tôi, Thi mỉm cười:
- Anh Hải yên tâm đi, em có nhà một người bà con, cả gia đình hiện đã định cư ở nước ngoài, ngôi nhà ở đây đóng cửa để đó, nhờ một người bạn thỉnh thoảng tới lui dòm ngó giúp. Nếu anh Hải đồng ý, em sẽ giới thiệu anh tới ở đó. Nhà cửa rộng rãi, thoải mái hơn các phòng trọ thông thường, lại không phải mất tiền thuê nhà mỗi tháng.
Nghe Thi nói vậy tôi mừng hơn xí được vàng! Mừng vì khỏi tốn tiền lại được ở một mình trong một ngôi nhà đàng hoàng thì ít, mà mừng vì có điều kiện gần gũi Thi mới là điều quan trọng.
Ngay tối hôm sau Thi dẫn tôi đến đó.
Đứng trước ngôi nhà có vẻ xưa cũ giữa lòng thành phố tôi không khỏi hồi hộp. Tuy kiến trúc xưa, nhưng ngôi nhà lại rộng lớn và toát lên một vẻ huyền bí, sang trọng khác thường. Có lẽ chủ nhân ngôi nhà này trước đây cũng là người giàu có.
Ra mở cửa cho tôi và Thi là một người đàn ông trạc chừng sáu mươi tuổi, dáng người khắc khổ, gầy gò.
Sau mấy câu chào hỏi xã giao ban đầu, lúc Thi và người đàn ông kia trao đổi với nhau thì tôi lại lan man đưa mắt nhìn khắp nơi.
Ngôi nhà rộng lắm nhưng lại âm u vì quá thiếu ánh sáng. Người đàn ông cho biết vì nhà không có người ở nên chủ nhân đã cắt điện từ lâu, hệ thống nước máy cũng không có, nhưng bù lại phía sau nhà có một cái giếng nước ngọt quanh năm, không phải lo chuyện tắm giặt.
Khi biết tôi có ý định đến sống nhờ ở đây, người đàn ông tỏ ra rất vui mừng, ông lắc lắc cánh tay tôi:
- Ồ, như vậy thì tốt quá! Từ nay chú khỏi phải mất công chạy tới chạy lui thăm nom nhà cửa! Chú có thể yên tâm đi chơi đây đó, thăm con thăm cháu rồi! Lâu nay cứ quẩn quanh ở đây, không đi đâu, mà cũng không lagm gì được! Nay có cháu, chú thật mừng…
Một cảm giác lạnh buốt truyền từ tay người đàn ông sang tôi, giống y như lúc tôi cầm tay Thi, nhưng nay tôi đã quen rồi, cũng không lấy làm thắc mắc nữa.
- Nhưng mà nè, chú nói trước, cháu ở đây không được dẫn bạn bè tới nghe không? Nếu có buồn thì kêu cháu Thi lui tới bầu bạn với cháu cho vui, chủ nhà này không thích sự có mặt của người lạ, cháu là do Thi giới thiệu nên chú mới đồng ý!
Người đàn ông nghiêm nghị nói thêm.
- Dạ, chú cứ yên tâm! Cháu hứa sẽ làm đúng những gì chú dặn.
Tôi nhanh chóng đồng ý ngay điều kiện đó. Vì thật ra, trong đầu tôi đã sớm có ý định muốn dành nơi này làm tổ uyên ương cho riêng hai đứa tôi mà thôi, không muốn có bất kỳ một sự quấy rối nào của bè bạn.
Tính tình Thi lại quá kín đáo, cô không muốn mối quan hệ giữa hai đứa bị người ngoài dòm ngó, bàn ra tán vào nên điều kiện người đàn ông vừa mới đứa ra lại hoàn toàn hợp lý đối với tôi và cả Thi nữa.
Khi câu chuyện chấm dứt, tôi và Thi đứng lên cáo từ ra về, người đàn ông cũng đứng lên theo, trao cho tôi chùm chìa khóa rồi thổi tắt ngọn đèn dầu leo lét duy nhất trong nhà, ông khép cửa lại cùng chúng tôi ra đường.
Khi tôi chở Thi về, ông vẫn còn đứng trước cổng nhìn theo mỉm cười với vẻ hài lòng.
 
***
Thấy tôi thu dọn đồ đạc, tụi bạn thắc mắc, tôi chỉ đáp qua loa:
- Tao có người quen, kêu dọn tới ở cho tiện việc học hành.
- Ủa, người quen của mầy ở đâu xuất hiện bất ngờ vậy? Suốt mấy năm nay mầy luôn bảo mầy không quen biết ai ở đây mà?
Thằng Tú ngạc nhiên.
Tôi cười giả lả:
- Ừ… thì người quen mà tao mới biết được! Bà con xa, xa lắm nên trước đây tao không biết…
Hình như chẳng đứa nào tin vào lời nói của tôi, nhưng tụi nó cũng không tiện truy vấn tiếp.
Thằng Tú, thằng Bảo muốn giúp tôi chuyển đồ đạc tôi cũng thoái thác:
- Thôi khỏi, đâu có gì nhiều, làm phiền tụi mầy mất công, cứ để đó tao dọn từ từ cũng được!
Bọn nó nhìn tôi lạ lẫm, nhưng rồi chẳng ai nói gì nữa, mà tôi cũng không giải thích thêm lời nào.
Từ lúc tôi dọn về ở nơi mới, Thi cũng chưa khi nào chịu đến thăm tôi vào ban ngày. Cô hết viện lý do bận học hành lại viện lý do sợ người ta đàm tiếu.
Dù tôi có năn nỉ ỉ ôi cách nào cũng không làm lay chuyển được Thi. Nhưng bù lại, thời gian Thi ở bên tôi mỗi đêm lại dài ra thêm. Có khi mãi đến hơn nửa đêm Thi mới ra về, mà cũng không bao giờ Thi cho tôi được cái hân hạnh đưa đón cô.
Có lần tôi nói hết với Thi những thắc mắc của tôi về cô. Thi mỉm cười nhìn tôi, nhưng đằng sau ánh lấp lánh của nụ cười dường như lại trĩu nặng một nỗi buồn nào đó không tiện nói ra.
- Em yêu anh chân thành và anh cũng yêu em thành thật, đối với em như vậy là quá đủ rồi. Chẳng lẽ với anh, anh còn thấy là chưa đủ?
- Không phải! Ý anh không phải vậy. Anh chỉ muốn quan tâm tới em, muốn có trách nhiệm với em. Anh muốn biết em sinh sống ra sao, học hành thế nào và muốn được đưa đón em, được khoác tay em dạo phố như bao nhiêu cặp tình nhân khác. Chẳng lẽ những điều mong muốn đó của anh là không phải sao em?
Thi tựa hẳn người vào tôi, âu yếm nói:
- Tất cả những mong muốn đó của anh đều rất đúng, nhưng em lại muốn anh không phải bận lòng về những điều đó. Chúng ta hãy tận hưởng cho thật trọn vẹn những giây phút được sống bên nhau, em không muốn chia sẻ những giây phút đó cho ai hết, thế nên em chỉ muốn chỉ có hai đứa mình với nhau… Từ nay anh đừng có thắc mắc nữa nhé! Ngoan đi rồi em thương nhiều, nhé anh?
Vẻ nũng nịu trẻ con của Thi làm tôi như nhũn ra, Thi nói gì mà tôi có thể  không gật được chứ?
Ông bà ta có câu “lửa gần rơm” quả không sai chút nào! Hai đứa chúng tôi trai đơn gái chiếc, lại ở bên nhau trong những hoàn cảnh và bối cảnh rất ư thuận lợi thế kia thì làm sao ngăn được ngọn lửa dục tình đang rừng rực cháy trong hai cơ thể? Dù có cố gắng giữ gìn cho nhau đến mấy nhưng cuối cùng cũng không thoát khỏi cái bản năng tự nhiên của con người mà ông trời đã đặt để.
Một đêm, Thi vừa đến với tôi thì ngoài trời giông gió nổi lên rồi mây đen vần vũ, sấm chớp bắt đầu ì ầm và cuối cùng là một trận mưa xối xả. Trận mưa dai dẳng như muốn trút hết nước trên trời xuống cho nhân gian. Gió đập ầm ào, cây vú sữa bên hè ngả nghiêng chống chọi với những trận cuồng phong bão táp…
Mặc gió mặc mưa, tôi không quan tâm tới. Thậm chí ngay lúc này có xảy ra đại hồng thủy đi nữa cũng là “chuyện nhỏ” đối với tôi. Trong vòng tay tôi lúc này là Thi, người con gái bé nhỏ mong manh mà tôi yêu như điên như dại, thì bên ngoài mưa bão tơi bời càng làm cho chúng tôi có cảm giác ấm áp hơn lên.
Mấy lúc gần đây cơ thể Thi không còn giá lạnh như khi trước, không biết là do tôi đã quá quen thuộc nên cảm thấy như vậy hay do lửa tình đã sưởi ấm cho cô ấy?
Đôi tay Thi vòng qua cổ tôi, cô nũng nịu:
- Trời mưa như vầy làm sao em về được hả anh?
Tôi đặt lên bờ môi cong cong thơ trẻ của Thi một nụ hôn nồng nàn, siết chặt cô vào lòng:
- Đêm nay em ở lại đây với anh, anh không cho em về đâu…
- Không… không được!
Thi có vẻ hốt hoảng
Lúc đó tôi không còn làm chủ được mình nữa rồi, mặc cho sự phản kháng yếu ớt của Thi, tôi tới tấp hôn lên thân thể cô, khám phá tận cùng bí mật tuyệt diệu của ái tình, của hai cơ thể…
Đêm đó, bên ngọn đèn dầu leo lét chúng tôi đã thật sự là của nhau!
Sau phát giây hoan lạc tột cùng, Thi bỗng khóc nức nở làm tôi cũng bối rối không ít.
Tôi ôm lấy Thi:
- Anh xin lỗi, đáng ra anh không nên… không nên hành động như vậy. Nhưng vì… anh thương em quá… Rồi đây anh sẽ cưới em, chúng mình trước sau gì cũng thành vợ chồng. Anh xin em tha lỗi cho anh…
Gương mặt xinh đẹp của Thi giàn giụa nước mắt. Cô lắc đầu:
- Không, không phải lỗi do anh! Em không ân hận, tiếc nuối gì khi hiến dâng đời con gái của mình cho người em hết dạ yêu thương. Chỉ là… em không muốn… em không muốn anh vì em mà phải hủy đi tương lai và hạnh phúc của bản thân mình…
Tôi ngạc nhiên:
- Sao em lại nói vậy? Anh yêu em và được em yêu lại, đó là niềm hạnh phúc lớn lao của đời anh. Sao em lại nói vì em anh sẽ hủy đi tương lai, hạnh phúc?
Thi khóc òa lên, ôm chặt lấy tôi:
- Anh không hiểu đâu… Anh không hiểu hết được đâu… Em thương anh lắm, yêu anh nhiều lắm… Nhưng đáng lẽ em không nên làm như vậy, đáng lẽ em không nên yêu anh…
Cứ ngỡ Thi vì quá xúc động nên mới thốt ra những lời vô nghĩa như vậy, tôi không nói gì nữa mà chỉ ngồi lên, dang tay ôm chặt Thi vào lòng, ru cho cô ngủ.
Thi khóc một lúc rồi ngủ thiếp đi trên tay tôi. Tôi nhẹ nhàng đặt Thi xuống giường, còn mình thì cứ ngồi đó ngắm nhìn cô ngủ.
Hơi thở của Thi rất nhẹ. Thân hình mong manh của cô huyền hoặc như có như không, khiến tôi lắm lúc tự hỏi mình, thật sự có Thi, có mối tình cuồng nhiệt của chúng tôi thật không, hay tất cả chỉ là một giấc mộng, là một ước mơ siêu thực của một thằng con trai mới lớn muốn đặt chân vào vườn cấm của nhân gian? Mấy sợi tóc mai lòa xòa trên trán càng làm cho Thi tăng thêm vẻ đẹp liêu trai.
Bỗng dưng trong giờ phút ấy, máu nghệ sĩ trong tôi bùng dậy. Tôi nhẹ nhàng đi tới bàn học lấy ra một tập giấy và cây bút chì và bắt đầu phát thảo bức ký họa chân dung người đẹp.
Từ bé tôi đã có năng khiếu hội họa, lúc còn học phổ thông cũng đã giành được nhiều giải trong các cuộc thi vẽ các cấp. Nhưng lâu nay, ngoài vẽ những ảnh kỹ thuật trong chương trình học tập, tôi quên mất hẳn thói quen vẽ người và cảnh vật xung quanh.
Không chuẩn bị trước dụng cụ, nên bức vẽ đầu tiên tôi vẽ Thi lên giấy học trò bằng nguyên liệu bút chì.
Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, bức họa của tôi hoàn thành. Thi trong tranh cũng mang một điều gì đó thật bí ẩn như nguyên mẫu ngoài đời thật!
Tôi hí hửng đem bức họa dán lên tường. Đến lúc thức dậy, Thi rất ngỡ ngàng và tỏ ra thích thú khi ngắm mình trong tranh. Trông thấy Thi vui như vậy, tôi vô cùng hạnh phúc.
Vậy là hôm sau tôi chạy ngay ra chợ mua giấy, mua sơn, mua cọ… lỉnh kỉnh đủ thứ dụng cụ. Tôi quyết định nơi tôi sống phải tràn ngập hình bóng của Thi!
Từ đó, mỗi đêm Thi đến, sau lúc tỉ tê tâm sự và hoan lạc cùng nhau, tôi vẽ Thi ở nhiều kiểu dáng. Ban ngày không có Thi, tôi lại vẽ Thi bằng trí nhớ.
Không bao lâu, trên khắp các bức tường trong nhà đã được tôi treo kín hình vẽ của Thi.
Nhưng Thi lại giận hờn tôi vì chuyện đó.
- Anh Hải lo học hành với chứ! Nếu anh không lo học, em sẽ giận và sẽ không đến với anh nữa đâu! Em không muốn vì em mà anh phải dở dang việc học…
Thi hờn dỗi.
Tôi kéo Thi vào lòng, bàn tay tôi xoa nhẹ vào chỗ ba nốt ruồi son xếp thành một hình tam giác phía sau gáy của Thi.
Có lần Thi nửa đùa nửa thật bảo tôi:
- Ba nốt ruồi này sẽ là dấu tích để anh nhận ra em ở kiếp sau đó, anh phải ghi nhớ cho kỹ nhé!
Tôi cười xòa:
- Khắp thế gian này, chắc khó tìm ra người thứ hai có nốt ruồi đặc biệt như em! Yên tâm đi, nếu kiếp sau gặp lại người có ba nốt ruồi thế này, anh sẽ tóm ngay lấy, dứt khoát không buông tha.
Thi bật cười, đấm vào lưng tôi thùm thụp.
Lúc này, tôi vừa xoa tay lên nốt ruồi, vừa nói để Thi an lòng:
- Anh hứa anh sẽ không bỏ bê việc học, em chịu chưa? Nếu chịu rồi thì cười một cái thật tươi xem nào?
Thi phụng phịu:
- Anh chỉ mới hứa, anh chưa thực hiện, em chưa chịu đâu…
- Trời ơi, không ngờ bà xã tôi lại khó khăn như vậy, khổ thân tôi quá bà xã ơi…
Tôi giả vờ than vãn. Hai má Thi hơi hồng lên mỗi khi nghe tôi gọi mình bằng hai tiếng “bà xã”.
Suốt mấy tháng liền chúng tôi sống với nhau như vợ chồng. Mỗi ngày Thi đến với tôi từ lúc chập tối và ra về khi trời còn chưa sáng tỏ.
Gắn bó với nhau đến mức độ đó rồi mà tôi vẫn chưa hiểu nhiều về Thi. Từ ngày chúng tôi có quan hệ xác thịt với nhau, tôi thấy Thi thường buồn bã, âu lo hơn trước, nhiều lần tôi cố gặng hỏi nhưng Thi chỉ rơm rớm nước mắt mà không chịu trả lời. Hình như Thi còn một điều gì đó bí mật lắm, chưa thể cho tôi biết được.
Tôi yêu Thi đến mức gần như là mụ mị, tất cả những thái độ lạ lùng, những cử chỉ bí ẩn của cô đôi lúc tôi cũng có thắc mắc nhưng tôi lại không để tâm tìm hiểu đến tận cùng nguyên do, nó chỉ như một đám mây mờ thoáng qua trong đầu tôi rồi nhanh chóng tan biến đi theo làn gió. Tôi chỉ biết ngụp lặn trong tình yêu, trong thứ hạnh phúc ngất ngây tuyệt vời mà Thi đã dành riêng ban tặng cho tôi.
Tôi quên đi gia đình, quên đi trường lớp.
Việc học hành đối với tôi không còn quan trọng nữa, tôi đã xao lãng từ lâu! Nhưng tôi không bỏ học hẳn, tôi vẫn đến trường đều đặn, chỉ là tôi không còn chuyên tâm nữa. Mặc dù Thi luôn nhắc nhở, nhưng thật sự tôi không còn tâm trí nào để học hành.
Tôi đã làm cho không ít thầy cô và bạn bè phải thất vọng.
 
***
Nhìn thấy thân thể tôi ngày một gầy rộc đi, khí sắc hư hao và tinh thần thì ngơ ngẩn, đám bạn thân hết lời khuyên bảo tôi nên đi khám bác sĩ xem có mắc bệnh gì không để còn kịp thời chữa trị.
Có đứa tâm lý hơn thì tế nhị hỏi tôi có gặp khó khăn vướng mắc gì trong chuyện tình cảm riêng tư hay gia đình, nếu có thì mạnh dạn giãi bày để bạn bè cùng chia sẻ, đừng giữ kín trong lòng, dễ gây ra các bệnh thuộc dạng rối loạn thần kinh…
Ôi thôi, đủ mọi lời khuyên! Thật tình tôi cũng cảm kích và biết ơn bạn bè lắm, tôi rất muốn nói ra sự thật cho bạn bè yên tâm, nhưng tôi không thể hét to lên rằng: “Tao đang hạnh phúc!”. Bởi vì… Thi khăng khăng buộc tôi phải giữ thật kín mối quan hệ giữa hai người.
Tôi cũng không biết tại sao cơ thể tôi cứ gầy rộc đi như thế? Hàng ngày tôi vẫn ăn ngủ bình thường chứ có gì khác đâu. Trước đây, có khi tôi thức học bài râùt khuya, ăn uống thì kham khổ, nhưng sức khỏe vẫn dồi dào. Bây giờ chỉ khác một điều là tôi có Thi bên cạnh, nhưng chúng tôi cũng chỉ quan hệ với nhau một cách vừa phải, nên không thể đổ lỗi cho việc đó được!
Dạo này, mỗi bận gọi điện về nhà tôi cũng chỉ nói năm ba câu cho mẹ và chị yên lòng chứ không còn cái điệp khúc than thở nhớ nhung như trước nữa.
Cuộc sống hạnh phúc của tôi và Thi cứ trôi qua êm đềm như thế được hơn nửa năm.
Tôi bắt đầu nhận thấy thái độ bồn chồn, khổ sở của Thi mỗi đêm cô đến với tôi. Lần này thì tôi không thể cho qua được, tôi bắt buộc cô phải nói cho tôi biết sự việc quan trọng gì đang xảy ra khiến Thi trở nên bất ổn như vậy.
Ban đầu Thi cũng chỉ khóc không thôi, nhưng cuối cùng cô nói thật rằng ba mẹ cô đã nhất định bắt buột cô phải nghỉ học, lần này dù cô có làm gì cũng không thay đổi được quyết định của họ, chỉ vài ngày nữa thôi ba Thi sẽ vô Sài Gòn để đón cô về.
Đất trời có đổ sụp cũng không làm tôi bàng hoàng đến vậy! Trời ơi, chúng tôi đang sống những ngày nồng nàng hạnh phúc bên nhau, cớ sao ông trời lại khiến xui mỗi người một ngã? Làm sao hai đứa chúng tôi có thể sống xa nhau được?
Đêm ấy tôi và Thi cùng khóc.
Tôi đã vạch ra thật nhiều kế hoạch để được ở bên nhau, kể cả việc tôi chấp nhận bỏ học, về quê để cưới Thi ngay.
Nhưng tất cả những gì tôi nói ra Thi đều lắc đầu. Thi bảo cô đã có lỗi nhiều với tôi, đáng ra cô không nên xuất hiện trong cuộc đời tôi, để cho tôi bình yên ăn học mà sau này báo hiếu cho gia đình, cô không thể đem tới hạnh phúc trọn vẹn cho tôi được, cô cũng không muốn nhìn thấy tương lai tôi bị hủy hoại…
Đêm cuối cùng, tôi và Thi đã thức trắng bên nhau. Khi biết việc chia xa là điều không thay đổi được nữa, tôi đành phải chấp nhận, nhưng tôi hứa chắc chắn với Thi, tôi sẽ về thăm Thi thường xuyên, và sau khi ăn học thành tài, người tôi cưới làm vợ không ai khác ngoài Thi. Tôi chỉ cầu mong Thi hãy ráng chờ đợi tôi thêm vài năm nữa…
Dù tôi có nói gì, có hứa hẹn ra sao Thi cũng không phản kháng, cô lặng lẽ lắng nghe rồi nói với tôi:
 
- Nếu chúng mình thật sự có duyên nợ với nhau, chắc chắc sẽ còn gặp lại. Anh còn nhớ những gì em dặn anh không?
Thấy tôi có vẻ ngơ ngác, Thi nhẹ nhàng cầm lấy tay tôi đặt vào chỗ có ba nốt ruồi sau gáy:
- Anh nhớ nhé, đó là dấu tích để nhận ra em!
Tôi nhìn Thi, cười như mếu:
- Bây giờ là giờ phút nào rồi mà em còn lòng dạ đùa với anh như vậy? Em làm như khi về quê là mặt mày em biến đổi hoàn toàn khác hay sao mà bắt anh phải nhớ đến dấu tích đó?
Nhưng Thi lại không giống như đang đùa giỡn, cô cười thật buồn, ôm ghì lấy tôi và thút thít khóc:
- Chuyện gì cũng có thể xảy ra anh ạ! Anh cứ nhớ kỹ những lời em dặn nhé…
Tôi gật đầu lia lịa:
- Thôi được rồi, anh nhớ! Anh nhớ mà… em đừng khóc nữa… nhìn thấy khóc là lòng anh đau đớn lắm em có biết không?
Thi dụi đầu vào ngực tôi nức nở.
Tôi len lén lau vội giọt nước mắt đang rơi trên má mình, lòng quặn thắt từng cơn…
Phút chia tay, Thi chỉ xin tôi cho cô giữ bức họa đầu tiên tôi vẽ cô trên trang giấy học trò.
Tôi muốn đưa Thi ra xe, nhưng Thi bảo đã có ba tới đón. Cô không muốn cả hai phải thêm đau lòng trước cảnh kẻ ở người đi, vì thế, ngay cả việc đưa tiễn người yêu tôi cũng không có cơ hội để thực hiện.
Ở con người mảnh khảnh của Thi luôn toát ra một sức mạnh mơ hồ nào đó mà tôi luôn là người bị khuất phục.
Hôm đó tôi nằm nhà, nhìn ảnh Thi trên tường mà nước mắt không ngừng tuôn chảy…
Thi vừa đi thì tối ấy người đàn ông trông nhà tới gặp tôi, đề nghị tôi chuyển đi nơi khác vì chủ nhà ở nước ngoài sắp về Việt Nam, ông phải thu xếp, dọn dẹp để đón họ.
Tôi năn nỉ ông cho tôi ở lại thêm hai ngày nữa rồi sẽ chuyển đi. Ông cũng không khó dễ gì, đồng ý ngay và dặn tôi khi nào chuyển đi cứ để chìa khóa dưới chậu bông sứ ngoài hiên, khỏi phải chờ ông tới.
Sở dĩ tôi muốn ở lại thêm hai ngày nữa là vì tôi hy vọng có thể Thi sẽ quay lại tìm tôi, chứ đâu phải vì đồ đạc nhiều quá mà tôi không chuyển đi kịp trong chốc lát.
Nhưng hai ngày đã trôi qua mà Thi vẫn bặt vô âm tín. Điện thoại thì Thi tắt máy, Thi cũng chẳng điện cho tôi dù chỉ lấy một lần…
Tôi buồn bã gỡ tất cả hình vẽ Thi trên tường xuống xếp cẩn thận vào rương hành lý. Thểu não quay trở về nhà trọ trong ánh mắt ngỡ ngàng của đám bạn thân.
Tôi nghỉ học hai ngày, một mình lang thang trên phố muốn tìm lại kỷ niệm thân thương của hai đứa. Nhưng kỷ niệm của tôi và Thi ở giữa thành phố này chỉ diễn ra trong một phạm vi rất hẹp. Ban đầu là ghế đá công viên vắng vẻ, về sau là ngôi nhà cũ kỹ âm u.

Chúng tôi chưa một lần đi ăn uống cùng nhau hoặc cùng nhau dạo phố. Tôi cũng chưa bao giờ được nhìn thấy Thi vào lúc ban ngày.
Tại sao Thi lại bí ẩn đến như vậy?
Tôi không biết, và tôi cũng không thể lý giải được!
Ngày thứ hai tôi về sống ở phòng trọ thì có mấy đứa bạn tới thăm chơi. Tình cờ nhìn thấy tấm hình Thi dán ở đầu giường tôi, thằng Hiển reo lên:
- Ơ, mầy cũng quen biết cô gái này sao? Thật tội nghiệp…
Tôi vừa mừng vừa ngạc nhiên, hỏi lại:
- Mầy nói ai?
Thằng Hiển trỏ tay vào bức hình:
- Có phải cô gái này tên Thi, học trường Sư phạm không?
- Đúng, đúng rồi! Mầy biết Thi à?
Tôi mừng quýnh.
Hiển thở dài đánh thượt:
- Thi là bạn học với em gái tao, có về nhà tao chơi mấy lầ nên tao quen. Đúng là hồng nhan bạc phận, người đẹp như vậy mà lại vắn số mới đáng thương chứ!
Tôi té ngồi xuống giường, miệng lắp bắp:
- Mầy… mầy nói sao? Thi… chết rồi à? Chết hôm nào?
Nhận thấy vẻ thảng thốt nơi tôi, thằng Hiển trấn an:
- Chuyện xảy ra cũng lâu rồi, mầy đừng sợ, đừng nghe nói Thi chết rồi lại sợ tấm hình này. Mà ai vẽ cũng tài thật, y như là hình chụp!
- Mầy… làm ơn kể cho tao nghe về cái chết của Thi…
Hiển có vẻ ngạc nhiên trước thái độ khẩn trương của tôi, nhưng nó cũng ngồi xuống cạnh tôi và bắt đầu kể:
- Cách đây độ khoảng một năm, Thi cùng học năm nhất với em gái tao ở trường Sư phạm. Nghe đâu quê Thi ở Quảng Ngãi. Thi học giỏi, chăm ngoan nhưng thể chất lại yếu đuối, thường xuyên đau ốm.
Nghỉ hè năm đó Thi về nhà giữa lúc bệnh còn chưa hết. Bạn bè khuyên ở nán lại thêm vài hôm nữa cho thật khỏe hãy về nhưng Thi không chịu, phần vì nhớ nhà, phần thấy bạn bè tíu tít về quê nên cô cũng nôn nao.
Vậy là Thi quyết định về. Cơ thể còn đang yếu, cơn sốt cũng chưa dứt hẳn, lên xe Thi lại bị say xe, nôn mửa tới mật xanh nhưng cô vẫn nhất định ngồi cạnh cửa sổ và không chịu đóng cửa, vì Thi nói nếu đóng kín cửa cô sẽ nôn không chịu được.
Đêm ấy, khi xe ra tới đoạn Phan Thiết hay Phan Rang gì đó tao không nhớ rõ thì Thi bị trúng gió độc, chết ngay trên xe. Lúc người ta phát hiện thì thân xác cô đã cứng đờ rồi.
Chủ xe hoảng quá, dừng lại báo với chính quyền địa phương và gửi xác cô lại. Người ta lục tung hành lý của Thi để tìm tông tích, nhưng không may cho Thi, có lẽ chiếc ví đựng tiền và toàn bộ giấy tờ tùy thân của cô đã bị kẻ gian đánh cắp lúc nào rồi, bên hông giỏ xách của cô còn nguyên một đường rạch sắc ngọt được tạo ra bởi dao lam.
Không tìm được thân nhân của cô gái, cũng không thể để mãi cái xác như thế nên bà con trong vùng và chính quyền địa phương mua cho cô một cỗ áo quan và an táng cô trên mảnh đất của một người dân tốt bụng đem tặng.
Ở quê, gia đình Thi chờ mãi không thấy con gái về, điện thoại hỏi bạn bè Thi thì được biết cô đã về từ tuần trước.
Tá hoả, cả gia đình, bạn bè đổ xô đi tìm kiếm. Hơn một tuần sau nữa gia đình Thi mới lần được ra nơi đó. Sau khi xem xét lại một số di vật của Thi mà chính quyền còn lưu giữ, xác định cô gái xấu số kia đúng là con của mình, người mẹ mấy phen chết đi sống lại, người cha như quỵ hẳn khi nghe kể về cái chết của con.
Bình tĩnh lại, họ bàn với nhau không thể quật mồ đem xác con về quê được vì xác mới chôn chưa được bao lâu, thôi thì đành gởi con gái lại cho bà con quanh đây.
Hai vợ chồng nghẹn ngào cảm ơn và đền đáp những tấm lòng nhân hậu ở đấy.
Họ xây lại mồ mả, làm cho con gái một ngôi nhà mồ rồi gửi lại một số tiền, nhờ người sớm tối chăm lo đèn nhang nơi phần mộ. Một thời gian sau họ sẽ chuyển con gái về quê.
Nhưng nghe đâu người cha của cô gái vì quá đau buồn nên cũng chết sau đó không lâu.
Đó, toàn bộ câu chuyện là như vậy đó!
Thằng Hiển vừa kết thúc câu chuyện, nhìn thấy tôi nó hoảng hốt la lên:
- Trời ơi, Hải! Mầy bị làm sao vậy?
Tôi vẫn ngồi im như trời trồng, hai hàm răng nghiến chặt vào môi, một dòng máu đỏ tươi chảy dài từ miệng xuống càm.
Đám bạn xúm lại, đứa nào cũng ngạc nhiên lo sợ…
Tôi ngồi ngây ra như vậy chừng mấy phút rồi bắt đầu gào lên thảm thiết.
Tôi khóc, khóc mà không sợ ai cười chê thắc mắc, tôi chỉ biết khóc cho vơi bớt nỗi đau đang quằn quại trong lòng.
Trời ơi, tại sao tôi lại lâm vào hoàn cảnh trớ trêu khó tin được như thế này? Tại sao người tôi hết dạ yêu thương lại chỉ là một hồn ma bóng quế?
Đang khóc vật vã, tôi vùng dậy lấy điện thoại bấm số gọi cho Thi.
- Số máy quý khách vừa gọi không có thực, xin quý khách vui lòng gọi lại sau!
Đó là câu mà tôi nghe được từ đầu dây bên kia.
Bàn tay run rẩy của tôi bấm tìm lại tin nhắn có ghi địa chỉ của Thi, nhưng thật bất ngờ, lúc này đây nó chỉ là một tin trắng, không có chữ nào!
Tôi xoay qua lục tung chiếc rương, ôm ra toàn bộ số tranh tôi vẽ Thi, nhưng trước mắt tôi lúc này tất cả chỉ là những tờ giấy trắng, kể cả bức dán trên đầu giường mà lúc nãy rõ ràng Hiển đã trông thấy, giờ cũng chỉ là một tờ giấy trắng mà thôi!
- Hải, mầy nói đi, chuyện này là thế nào?
Tú lên tiếng trong khi mọi người vẫn còn há hốc miệng đứng trơ ra.
Tôi giơ tay ôm chặt lấy đầu mình, rên rỉ:
- Trời ơi… tao không ngờ… tao không sao ngờ được…
Lúc bấy giờ Hiển đã bình tĩnh lại và có lẽ đã lờ mờ hiểu ra chuyện gì đã xảy đến với tôi.
Nó nắm chặt vai tôi an ủi:
- Mầy đừng quá xúc động như vậy! Dù là chuyện gì đi nữa thì giờ đây cũng đã qua hết rồi. Nhưng mầy phải kể cho tụi tao nghe, không phải tụi tao tò mò chuyện riêng của mầy đâu, mà là muốn giúp được mầy thì tụi tao phải biết điều gì đã xảy đến với mầy chứ? Và còn một điều quan trọng nữa, mầy phải giải tỏa hết những u uất trong lòng thì mầy mới có cơ hội làm lại cuộc đời được, Hải ạ! Chúng mình là bạn thân bao năm nay, mầy phải tin tụi tao…
Tôi miết mạnh tay vào hai bên thái dương hồi lâu đầu óc mới thôi chao đảo.
Vết răng cắn trên môi tôi sâu hoắm, máu vẫn còn ri rỉ chảy ra nhưng tôi không còn cảm giác đau xót gì nơi đó, bởi vì lúc ấy trong cơ thể tôi, có một chỗ đang đau đớn gấp vạn lần, đó là trái tim tôi, trái tim tội nghiệp của tôi đang vỡ ra thành từng mảnh vụn…
Nước mắt vẫn lăn dài, tôi vẫn khóc như một thằng đàn ông yếu đuối.
Tôn trọng nỗi đau của tôi, mấy đứa bạn cũng không hỏi gì thêm nữa, chúng chỉ lặng lẽ ngồi xuống cạnh bên tôi.
Khóc một hồi nỗi đau dường như đã có phần lắng dịu. Tôi đứng lên đi rửa mặt, hỏi xin thằng Tú một điếu thuốc, dù trước đây tôi chưa từng hút bao giờ.
Thằng Tú ngạc nhiên, nhưng nhìn thấy ánh mắt ra hiệu của Hiển, nó bật quẹt mồi điếu thuốc và đưa cho tôi.
Rít mạnh một hơi, tôi ho sặc sụa, nước mắt, nước mũi, nước miếng trào ra làm tụi bạn lại thêm một phen lo lắng.
Nhưng rồi tôi đã bình tĩnh. Tôi lau mặt mũi, dụi tắt điếu thuốc nhưng vẫn cầm nó nơi tay, tôi bắt đầu kể cho đám bạn nghe về cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa tôi với Thi, về những cuộc hẹn hò và những tháng ngày chúng tôi chung sống bên nhau.
Một vài đứa bạn rùng mình, nhưng có đứa cũng bán tín bán nghi:
- Chuyện mầy vừa kể là thật hay là sản phẩm của trí tưởng tượng? Thời gian gần đây tao thấy mầy giống như người bị tâm thần, có khi nào mầy… ảo tưởng?
Tôi nhếch mép, cố rặn một nụ cười khổ sở:
- Tao ước gì tất cả chỉ là do tao tưởng tượng… Nhưng tụi mầy giải thích sao đây với đống tranh này? Cho là những bức vẽ tao để trong rương tụi bây không đứa nào biết thật giả thế nào đi, nhưng đây này, bức vẽ này tao dán lên từ hôm qua, có đứa nào chưa nhìn thấy không? Cả thằng Hiển mới tới phòng chơi mà cũng đã nhìn thấy và nhận ra người trong tranh là Thi. Bây giờ thì người trong tranh đi đâu, hình vẽ biến mất bằng cách nào? Mầy làm ơn lý giải giùm tao đi…
Sự thật đã quá sức rõ ràng, nên mặc dù câu chuyện tình yêu của tôi và Thi có sặc mùi tiểu thuyết liêu trai của Bồ Tùng Linh đi nữa, cuối cùng đám bạn cũng tin những gì tôi nói là thực.
Thằng Tú là đứa nhát gan và tin dị đoan nhất trong đám bạn. Nghe xong câu chuyện nó thì thầm:
- Hèn gì mấy lúc sau này mầy trở nên gầy mòn hốc hác như vậy! Mầy chung sống với ma, dương khí của mầy bị nó hút dần, cũng may là mầy vẫn còn sống vì con yêu tinh đó sớm rời bỏ mầy, chứ nếu không… chắc chỉ vài tháng nữa là mầy chỉ còn lại bộ xương. Con đó ghê thiệt! Mầy…
Mấy đứa bạn không ngừng ra hiệu nhưng thằng Tú không nhận thấy, nó cứ vô tư phát biểu.
Từng lời nói của nó giống như từng mũi dao đang chỉa mạnh và xoáy vào trái tim đang tơi tả của tôi.
- Mầy câm miệng đi!
Không chịu đựng nỗi, tôi hét lên.
Thằng Tú nín khe, dáo dác nhìn quanh mong tìm sự đồng tình của mấy đứa còn lại, nhưng đứa nào cũng nhìn nó với vẻ trách móc khiến nó trở nên bối rối, cụp mắt xuống, không dám nhìn vào tôi nữa.
Tôi run run nắm chặt hai bàn tay mình lại:
- Tao vẫn yêu Thi! Cho dù Thi có là ai đi nữa, có là yêu tinh quỷ quái gì đi nữa thì tình yêu tao dành cho Thi vẫn không gì thay thế được! Tao không ân hận, hoàn toàn không ân hận gì về những ngày tháng đã qua. Nếu được chọn lựa, tao vẫn sẽ chọn được chung sống trọn đời bên một hồn ma bóng quế như Thi…
Biết tôi đang xúc động mạnh, Hiển vỗ nhẹ vào lưng tôi:
- Mầy đừng quá kích động như vậy, không tốt đâu. Mầy nên bình tĩnh lại để suy nghĩ cho rốt ráo mọi việc. Tụi tao là người ngoài nên có thể có cái nhìn sáng suốt, khách quan hơn người trong cuộc. Bây giờ mầy bình tĩnh nghe tao phân tích nhé?
Thấy tôi không có phản ứng gì, thằng Hiển tiếp:
- Này nhé, theo lời mầy kể thì Thi cũng rất yêu mầy, đúng không?
 Tôi khẽ gật.
Hiển nói tiếp:
- Thi yêu mầy, thế thì tại sao cô ấy lại quyết định rời xa mầy? Điều cốt yếu là ở chỗ đó! Mầy kể trong thời gian sống với nhau, Thi luôn tỏ ra dằn vặt khi thấy sức khỏe và việc học hành của mầy sa sút, Thi nhiều lần khóc lóc nói rằng có lỗi với mầy, đúng không?
Hiển nhìn thẳng vào tôi.
Tôi lại gật đầu.
- Đấy! Theo tao, chính vì quá thương yêu mầy nên cô ấy mới có quyết định lìa xa. Bởi vì… như thằng Tú nói lúc nãy, người và ma thuộc về hai thế giới khác nhau, khó có thể nào hòa hợp được.
Kẻ âm người dương thì làm sao xây dựng được một hạnh phúc lâu bền, một gia đình yên ấm? Nếu đã có ma, tất nhiên phải có cõi âm và những luật lệ riêng ở đấy.
Trước đây, khi nghe kể chuyện ma, chúng ta chỉ xem đó là những câu chuyện giải khuây, hù doạ, nhưng bây giờ, đứng trước hoàn cảnh của mầy, tao lại nhớ rõ mồn một những chuyện kể thời thơ ấu.
Ở trong những câu chuyện ấy, bao giờ cũng vậy, nếu người và ma sống chung thì con người dần dần sẽ suy kiệt vì dương khí mất đi, âm khí nặng nề.
Chính bản thân mầy ngay lúc này đây là một bằng chứng cụ thể. Mầy đã soi gương chưa? Mầy có nhìn thấy trên mặt mầy đã mất dần sinh khí rồi không?
Có lẽ Thi đã biết hết những điều đó. Thi biết, nếu tiếp tục chung sống với mầy, vui vẻ với mầy thêm một thời gian ngắn nữa thì mầy cũng sẽ trở thành một bóng ma vật vờ trên dương thế, thế cho nên cô ấy mới chọn con đường đó.
Nếu thật sự mầy yêu thương cô ấy, muốn cho linh hồn cô ấy được nhẹ nhõm thì theo tao, mầy phải cố gắng vượt qua cú sốc này, biết rằng sẽ khó khăn lắm đây, nhưng mầy phải vượt qua, và tụi tao sẵn sàng giúp mầy mọi lúc mọi nơi. Mầy phải vượt qua vì chính bản thân mầy, vì gia đình mầy và vì Thi nữa. Mầy phải lấy lại sức khỏe, học hành đàng hoàng trở lại… có như vậy Thi mới có thể an lòng…
Những lời thằng Hiển nói không sai, nhưng có vượt qua được thử thách hay không còn là điều không sao biết trước được.
Vì lúc này trong tôi hoàn toàn rã rời, hoàn toàn mất hết ý chí. Tôi chỉ muốn được khép mắt lại, ngủ một giấc ngủ thiên thu không bao giờ thức dậy nữa…
Nhưng tôi biết, tôi không có quyền hành động như vậy! Tôi là niềm vui, là hy vọng của cả gia đình, các chị tôi hy sinh cả tuổi thanh xuân của mình để lo cho tôi ăn học, thì dẫu tôi có yêu Thi tha thiết tới đâu, tôi cũng không có quyền hủy hoại thân xác mình!
Tôi phải sống, dẫu trọn kiếp này không bao giờ tôi còn gặp lại Thi…
Nhìn qua từng gương mặt đang lo lắng vây quanh, tôi thấy mình thật có lỗi với chúng nó.
Gượng nở một nụ cười, tôi nắm chặt tay thằng Hiển, thằng Tú:
- Cám ơn tụi bây! Tao rất cảm ơn tụi bây đã không bỏ rơi tao, không xa lánh tao trong những lúc tao hụt hẫng như thế này… Tao sẽ cố gắng, tụi bây yên tâm đi, tao sẽ cố gắng…
Thằng Tú nhìn tôi, mắt nó cũng đang ngân ngấn nước:
- Ừ, mầy nói vậy mới phải chứ! Không được ngã quỵ đâu đấy! Mà dù cho mầy có ngã quỵ thì đã có tụi tao xốc mầy đứng lên, dìu mầy đi tiếp, không có gì phải sợ!
Sau câu nói chí tình của thằng Tú, mấy đứa chúng tôi cùng khoác tay nhau, mỉm cười trong màn nước mắt.
 
***
Thấy tôi xin phép nghỉ học mấy ngày, tụi bạn nhìn tôi lo lắng.
Tôi mỉm cười:
- Tụi bây yên tâm đi, tao không sao đâu! Tao hiểu ra rồi! Tụi bây hãy tin ở tao…
Tụi nó không đứa nào nói gì, nhưng đứa nào cũng nắm tay tôi rất chặt như muốn nói với tôi rằng, bất cứ lúc nào nếu tôi cần là tụi nó sẽ có mặt bên cạnh tôi. Tôi mỉm cười gật đầu mà khóe mắt cay cay…
Tôi đi chuyến xe sớm nên khi ra tới quãng đường dạo trước xe bị hư chỉ vào khoảng tám, chín giờ sáng.
Tôi xuống xe, đi bộ một đoạn, mắt luôn nhìn về phía cánh đồng để tìm ra ngôi nhà mồ đêm hôm ấy.
Cánh đồng vừa mới gặt xong, chỉ còn trơ lại gốc rạ.
Và kia, ngôi nhà mồ vẫn đứng trơ vơ trên con đường hai bên mọc toàn cỏ, cao đến gối người.
Lòng tôi lại quặn lên, nhưng tôi cắn chặt răng đè nén tình cảm đang dâng trào trong lồng ngực.
Tôi phải cứng rắn, tôi không được gục ngã. Tôi phải làm cho Thi được an lòng nơi chín suối…
Đẩy nhẹ cánh cổng nhà mồ chỉ khép hờ tôi bước vào trong. Tất cả vẫn y nguyên giống như cảnh vật mấy tháng trước.
Nhìn lên tường, đập vào mắt tôi là dòng chữ: TRƯƠNG THỊ MAI THI. Vậy mà không hiểu sao đêm hôm ấy tôi chỉ thấy đúng ba chữ TRƯƠNG THỊ MAI? Có lẽ tất cả những điều đó là do Thi, Thi không muốn tôi phải hoang mang liên tưởng.
Ngồi xuống bên ngôi mộ, nhìn thấy nhang đèn để sẵn nơi đó, tôi vội thắp chi Thi ba nén nhang và lâm râm khấn vái:
- Thi ơi, kiếp này mình không được sống bên nhau như mong ước, anh nguyện kiếp sau sẽ tìm lại em, chúng ta sẽ nối tiếp sợi tơ duyên dang dở… Em yên lòng… em yên lòng đi, anh sẽ không sao đâu, anh sẽ vượt qua được, em đừng lo lắng gì cho anh thêm nữa em nhé! Anh cảm ơn em đã cho anh những ngày hạnh phúc đã qua, dù hạnh phúc đó thật ngắn ngủi, nhưng cả đời này cũng sẽ không quên… Thi ơi…
Tôi không muốn khóc, tôi sợ Thi đau lòng, nhưng mà… nước mắt tôi vẫn cứ lăn dài trên mặt.
Tôi quỳ xuống, dang tay ôm lấy ngôi mộ mà tưởng như mình có thể ôm lấy thân hình bé bỏng của Thi.
Một người đàn ông đi ngang qua, bất ngờ trông thấy tôi có những cử chỉ lạ lùng bên trong nhà mồ, ông ghé vào hỏi:
- Chú em đây là…
Tôi vội vã đứng lên, nhanh tay lau mắt:
- Dạ… cháu là bạn của Thi. Hôm nay cháu đến thăm Thi.
Nét mặt người đàn ông giãn ra. Ông nhìn tôi nói:
- Thì ra cậu là bạn với cháu gái nằm đây! Thật tội nghiệp. Từ hồi chôn cất tới nay, ngoài cha mẹ cổ, chỉ có cháu là người bạn đầu tiên đến thăm thôi đấy! Mà cũng không trách được, xa xôi quá…
- Mà nè, nếu chú đoán không nhầm, cháu gái nằm đây là một người bạn rất quan trọng của cháu, phải không?
Tôi buồn bã gật đầu, buồn bã:
- Dạ, nếu Thi còn sống, cô ấy sẽ là vợ cháu… mà không, cháu dã xem cô ấy là vợ cháu từ lâu…
Người đàn ông ngạc nhiên:
- Ủa, nói vậy… Mà sao mãi đến hôm nay cậu mới tìm tới đây thăm cô ấy! Tội nghịêp cô ấy biết bao…
Tôi lúng túng, không biết phải giải thích sao với người đàn ông, cuối cùng đành phải nói trớ:
- Dạ… tại cháu ở xa, gia đình giấu không cho cháu biết. Mãi đến mấy vừa rồi cháu mới hay tin…
Người đàn ông gật gù:
- Ừ, ra vậy! Thôi, cháu thắp nhang rồi vô nhà chú uống ly nước. Nhà chú cũng ở gần đây. Gia đình cháu gái này nhờ chú chăm sóc mộ phần đấy cháu ạ! Tội nghịêp, hoàn cảnh của các cháu thật tội…
Tôi gật đầu với người đàn ông:
- Dạ, cháu cảm ơn chú! Cảm ơn vì chú đã giúp cháu và gia đình chăm sóc mộ phần của em Thi. Công ơn đó, cháu nguyền sẽ ghi khắc trong dạ. Nhưng hôm nay cháu còn phải về quê, xin hẹn chú dịp khác cháu sẽ đến nhà thăm chú cùng gia đình. Cháu xin phép…
Tôi cúi chào người đàn ông, một lần nữa nhìn lại mộ phần của Thi rồi cất bước trở ra đường.
Người đàn ông đứng nhìn theo, chắc cũng buồn lây trước cảnh tình của hai đứa trẻ.
Ra tới đường lộ, tôi hướng về mộ Thi khẽ nói:
- Tạm biệt em, Thi nhé!
Vẫy tay đón một chiếc xe đò, tôi leo lên ngồi và bắt đầu gà gật ngủ. Tâm trí tôi trôi miên man vào những giấc mơ lộn xộn, mà giấc mơ nào tôi cũng gặp được Thi.
Vừa thấy tôi bước chân vô sân nhà, mẹ và các chị tôi cứ tròn mắt ra nhìn giống như bắt gặp một người từ hành tinh xa lạ nào mới tới vậy.
Cuối cùng, mẹ tôi là người òa lên khóc trước:
- Trời ơi… con trai của mẹ! Sao mà con lại ra nông nỗi này… Ốm đau bệnh hoạn gì sao không nhắn về nhà một tiếng hả con? Thật tội cho thằng con trai vàng ngọc của mẹ… hu... hu…
Tiếng khóc của mẹ tôi như hiệu lệnh của người nhạc trưởng mà các chị tôi là những nhạc công. Cả năm người vừa sụt sịt, vừa thút thít, vừa xoắn lấy tôi làm cho tôi thấy mình vô cùng tội lỗi.
Tôi phải nói dối là do bài vở nhiều quá, tôi thức nhiều nên người có ốm đi đôi chút, nhưng sức khỏe vẫn dồi dào, không có gì đáng để mọi người phải “khóc kể” như vậy.
Và để chứng minh cho cái “sức khỏe dồi dào” ấy, chiều đó tôi đã gánh liền một mạch mấy đôi nước khiến cho chị cả tôi xót cả ruột, phải giằng lấy chiếc đòn gánh trên vai tôi, doạ sẽ không thèm quan tâm tới tôi nữa nếu tôi cứ mãi cứng đầu, đến lúc ấy tôi mới chịu thôi.
Hôm sau tôi xin phép gia đình đi công việc, nhưng thật ra tôi tìm tới nhà Thi. Mặc dù dòng địa chỉ trong tin nhắn không còn nữa nhưng mãi mãi nó vẫn còn ghi khắc trong trí óc của tôi.
Nhà Thi cách nhà tôi hơn bốn mươi cây số, cũng nằm dọc theo quốc lộ nên cũng rất tiện đường. Chỉ hơn một tiếng đồng hồ là tôi tới nơi.
Thấy tôi lấp ló trước cổng, từ trong nhà một người phụ nữ đi ra.
Có lẽ đây là mẹ của Thi vì trông hai người có nhiều nét giống nhau. Ngỡ ngàng khi nhận thấy người lạ, người đàn bà chưa kịp cất tiếng tôi vội chào:
- Dạ thưa bác, bác cho cháu hỏi thăm, đây có phải là nhà Thi không ạ?
- Cháu là bạn của Thi?
Người đàn bà tò mò hỏi.
Tôi đáp:
- Dạ. Cháu là bạn của Thi. Cháu đến đây xin phép được thắp cho Thi nén nhang…
Người đàn bà rưng rưng nước mắt mở cổng mời tôi vào nhà.
Ngôi nhà tuy không lớn lắm nhưng trông rất khang trang, ngăn nắp.
Ở giữa nhà là hai chiếc bàn thờ kề bên nhau. Một chiếc để ảnh người đàn ông, đúng là người mà tôi đã “gặp” trên chuyến xe đêm ấy, và một chiếc bàn thờ dành cho Thi.
Trên bàn thờ Thi, ngoài bức ảnh chụp bán thân Thi đang cười thật tươi, cạnh bên còn có một bức vẽ bằng bút chì trên tờ giấy học trò, bức họa do chính tay tôi vẽ Thi trong một đêm mưa to gió lớn…
- Thưa bác, bức vẽ này…
Sau khi thắp nhang cho Thi, tôi giả vờ hỏi đến bức vẽ.
Mẹ Thi buồn bã cất tiếng:
- Bác cũng không rõ ai vẽ nó nữa cháu ạ! Mới mấy hôm trước, tình cờ bác bắt gặp bức vẽ đó trên chồng tập vở của Thi còn để lại, nên bác lấy để lên bàn thờ cho em nó vui. Mà cũng lạ, hồi Thi mới mất, bác đã soạn rất kỹ đồ đạc của Thi mà không thấy bức vẽ này, bỗng nhiên nó lại xuất hiện một cách thật khó hiểu.
Tôi muốn nói cho bác ấy biết tôi chính là tác giả và hoàn cảnh ra đời của bức vẽ đó. Nhưng thôi, nói ra càng thêm đau lòng người làm mẹ như bà…
Cũng vẫn với danh nghĩa là một người bạn của Thi nhưng ở xa nên không hay chuyện tai nạn của Thi, tôi được mẹ Thi kể lại chuyện không may của con gái, cũng không khác mấy so với câu chuyện tôi đã được nghe Hiển kể hôm rồi.
Bà vừa kể, vừa khóc. Chưa tròn một năm mà người đàn bà này phải chịu đến hai cái tang, một của con gái và một của chồng, bà không ngã quỵ cũng đã là may mắn lắm!
Ngồi nói chuyện với mẹ Thi nhưng mắt tôi luôn nhìn về phía bàn thờ, nơi có tấm ảnh Thi cười tươi rói. Tôi chỉ muốn ôm lấy tấm ảnh đó, dặt vào đôi môi tươi thắm kia những chiếc hôn nóng bỏng của những ngày nhớ nhung khốn khổ.
Nhưng không… tôi không thể làm chuyện đó trước mặt mẹ Thi. Tình yêu tôi dành cho Thi giờ đây tôi chỉ có thể chôn chặt trong lòng. Mãi mãi, tôi không còn cơ hội để ôm hôn Thi, để tâm tình với Thi được nữa… Mãi mãi, phải không em?...
Khi chân tôi bước ra khỏi cổng nhà Thi, tôi đã xác định câu chuyện tình yêu âm dương của tôi và Thi là hoàn toàn có thật, không còn chút nghi ngờ nào cả!
Và cả việc không bao giờ tôi còn có thể gặp lại Thi cũng là có thật, không còn gì để mà hy vọng hão huyền nữa…
Mấy ngày ở nhà, được sự chăm sóc tận tình của… “năm vú em” tận tụy, sức khỏe tôi đã hồi phục, da dẻ tôi đã đỏ đắn hồng hào chứ không còn nhợt nhạt như hôm mới về nữa.
Tôi lại trở vào Sài Gòn. Lần này ngoài ba giỏ thức ăn dành cho tôi bồi bổ, hành lý tôi mang vác theo còn là hàng trăm lời dặn dò của “ngũ nương”…
Tôi trở về trường, làm lại một đứa học trò chăm ngoan dạo trước. Tuy nhiên học kỳ đó tôi cũng bị thi lại hai môn.
Không sao! Tôi sẽ làm lại từ đầu.
Thời gian đầu đám bạn thân luôn quan tâm lo lắng cho tôi, nhưng về sau bọn nó thấy tôi có vẻ khá vững vàng nên cũng yên tâm không còn lo lắng cho tôi nữa.
Trước mắt mọi người, tôi đã trở lại là thằng Hải của những năm học trước!
Nhưng tận sâu trong đáy lòng tôi, nỗi nhớ về Thi vẫn không ngừng âm ỉ. Đêm ngủ, thỉnh thoảng tôi vẫn mơ gặp Thi, Thi cười với tôi, cười rất tươi, giống hệt như tấm ảnh thờ ở nhà Thi vậy!
Em đã yên tâm về anh rồi, phải không Thi? Tôi vẫn thầm hỏi cô câu đó, nhưng mãi mãi, làm sao tôi còn nghe được tiếng trả lời…
 
***
Khi tôi tốt nghiệp ra trường, về nhận công tác tại tỉnh nhà, mẹ giục tôi cưới vợ.
- Con trai lớn rồi, lo mà cưới vợ đi để có người lo cho mẹ. Có như thế các chị con mới yên tâm đi xây dựng gia đình riêng của chúng nó. Con mà cứ lừng khừng hoài, các chị con đến thành bà cô già mất!
Ban đầu tôi còn khất dần, nhưng càng về sau cả mẹ và các chị đều thúc bách nên tôi đồng ý:
- Mẹ cứ xem cô nào mẹ vừa ý thì hỏi cưới cho con.
Nghe tôi nói vậy “ngũ long công chúa” tròn xoe mắt:
- Thế ra suốt những năm đi học, con chưa quen ai à?
Tôi cười, lắc đầu.
Mẹ tôi mừng rỡ:
- Thế thì may quá! Từ lâu mẹ đã chấm con gái bà bạn ở làng bên, nhưng chỉ sợ con đã có bạn gái nên đâu dám nói gì. Vậy ngay ngày mai, mẹ sẽ nhờ người đánh tiếng cho người ta, con nhé?
- Tùy mẹ, con thì sao cũng được!
Mẹ không hài lòng lắm với câu trả lời có vẻ hờ hững của tôi. Nhưng dù sao vẫn đỡ hơn là tôi cứ khăng khăng không chịu lấy vợ.
Sau đó không lâu đám cưới của tôi được tổ chức.
Vợ tôi là Hiếu, cô giáo dạy cấp một trường làng.
Hiếu tuy không đẹp lắm nhưng rất có duyên, tính tình lại nhu mì, chịu thương chịu khó. Về sống cùng với một lúc bốn “bà cô” nhà chồng nhưng Hiếu chưa bao giờ làm mất lòng ai, chưa xích mích với ai.
Mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu, chị chồng em dâu luôn êm thấm. Điều đó làm cho tôi ngày càng thương Hiếu.
Tôi cưới vợ đầu năm, đến cuối năm Hiếu sinh cho tôi một thằng con trai bụ bẫm, giống tôi như hai giọt nước. Hạnh phúc gia đình tôi như được nhân lên từ khi thằng bé chào đời.
Rồi các chị tôi lần lượt đi lấy chồng và mẹ tôi qua đời chỉ sau một trận cảm sốt thông thường khiến cả nhà tôi chới với.
Những lúc đó Hiếu chính là chỗ dựa cho tôi.
Ngay ngày đầu tiên về làm vợ tôi, Hiếu biết tôi không yêu cô, nhưng Hiếu vẫn dành cho tôi trọn vẹn tình yêu của người vợ đối với chồng, Hiếu luôn tôn trọng tôi và tôi cũng luôn tôn trọng Hiếu.
Hiếu là một cô gái tốt. Tôi vẫn luôn muốn dành cho Hiếu tình yêu nồng thắm nhưng… dù có cố gắng đến đâu, thì tình cảm tôi dành cho Hiếu vẫn chỉ là tình thương và lòng mến phục.
Có lần Hiếu hỏi tôi:
- Trước khi cưới em, anh Hải từng có một tình yêu sâu sắc với người nào đó phải không?
- Đúng… anh đã yêu… nhưng cô ấy… cô ấy qua đời rồi…
Tôi chỉ trả lời như vậy, nhưng từ đó Hiếu không hỏi gì tôi về những mối quan hệ trước hôn nhân, cũng không đề cập đến chuyện tình yêu chồng vợ nữa.
Hiếu cam tâm sống bên cạnh một người chồng không hề yêu cô.
Nhưng bù lại, tôi rất có trách nhiệm với gia đình, tôi không làm gì có lỗi với Hiếu. Có lẽ đó chính là điều an ủi duy nhất của Hiếu suốt những tháng ngày sống đời vợ chồng với tôi.
Vì công việc làm ăn, gia đình tôi phải từ giã quê hương, chuyển vào sinh sống tại Sài Gòn.
Công việc của tôi ngày càng phát triển tốt đẹp. Con trai của chúng tôi khỏe mạnh, chăm ngoan và học giỏi. Hiếu luôn làm tròn bổn phận của một người vợ, người mẹ đảm đang.
Cuộc sống gia đình tôi đáng để bao người mơ ước.
Nhưng dù đã bao nhiêu năm trôi qua, trong lòng tôi vẫn sống mãi tình yêu đầu đời, tôi vẫn luôn nhớ tới Thi!
Có những đêm, ôm Hiếu trong tay, bày tay tôi lại vô thức sờ vào gáy cô ấy, ước ao sẽ chạm được vào ba nốt ruồi xếp thành hình tam giác ngày xưa…
Rồi con trai tôi lớn lên, sau khi tốt nghiệp Trung học phổ thông, vợ chồng tôi cho nó ra nước ngoài du học.
Nhà vắng con, Hiếu có vẻ buồn nhiều. Tôi thương cô ấy nên tranh thủ những ngày nghỉ đưa Hiếu đi tham quan du lịch khắp nơi.
Sinh ra và lớn lên trong một làng quê nghèo miền Trung, cuộc sống của Hiếu lâu nay chỉ gắn với mảnh đất khô cằn nghèo khó, chỉ quanh quẩn với gia đình nhỏ của mình. Thế giới bên ngoài là điều hoàn toàn xa lạ đối với cô.
Bởi thế, khi được tôi đưa đi đây đi đó, Hiếu rất vui và tôi cũng cảm thấy lòng mình phần nào vơi đi nỗi niềm ray rứt.
Còn Hiếu, tội nghiệp cô ấy! Chắc có lẽ Hiếu nghĩ sau nhiều năm chồng vợ, đến lúc này tôi đã có được tình yêu với cô. Những ngày tháng đó Hiếu hạnh phúc lắm, nhìn cô như trẻ hẳn ra.
Tôi cũng muốn muốn Hiếu vui, nên càng tỏ ra quan tâm cô hơn nữa. Tôi cố quên Thi để yêu thương Hiếu, nhưng tình yêu lại là một thứ không tuân theo ý muốn của mình. Hình bóng Thi vẫn mãi chập chờn trong tâm trí tôi, thì làm sao trái tim tôi còn chỗ nào cho Hiếu.
- Sau cùng rồi em cũng có được tình yêu của anh, em thật hạnh phúc! Em không tiếc gì những năm tháng đã qua… Được anh yêu, dù chỉ một ngày là em cũng đã cảm thấy mãn nguyện lắm rồi…
Hiếu thầm thì với tôi như vậy. Tôi lặng im ôm cô ấy vào lòng.
Sự thật thế nào thì cứ để một mình tôi biết, đừng làm cô ấy mất vui. Hãy để Hiếu hạnh phúc trọn vẹn nửa đời còn lại…
Hiếu và tôi đều cảm thấy bằng lòng với hạnh phúc mà mình đang có.
Nhưng có lẽ kiếp trước tôi gây ra nhiều điều lầm lỗi, nên kiếp này con đường tình cảm, hạnh phúc riêng tư của tôi không được xuôi chèo mát mái, không được bằng phẳng êm đềm như người khác.
Cuộc sống vợ chồng giữa tôi và Hiếu tuy chỉ có tình yêu từ một phía, nhưng nó cũng đã đi qua một chặng đường dài hơn hai mươi năm, khoảng thời gian không phải là ngắn ngủi của một đời người. Tôi thầm mong nó cứ bình lặng mãi như thế.
Nhưng hai năm sau đó thì Hiếu mất. Cũng giống như mẹ tôi năm xưa, Hiếu mất chỉ sau một trận cảm xoàng.
Tôi vô cùng đau đớn và ân hận.
Con trai tôi từ nước ngoài về chịu tang mẹ xong lại ra đi.
Trước khi đi, nó nói với tôi:
- Con đi xa thật không yên lòng chút nào, vì bỏ ba ở lại một mình nơi đây. Số phần mẹ con ngắn ngủi, ba đừng quá đau buồn. Rồi đây ba hãy tìm lấy một người để cùng ba bầu bạn, được như vậy con mới yên tâm, và có lẽ mẹ cũng yên tâm nhắm mắt.
Nghe những lời của con trai, tôi càng nhớ Hiếu nhiều hơn. Cảm ơn em, vì em đã sinh ra, nuôi nấng và dạy dỗ con trai chúng ta nên người như thế!
Tôi lại bắt đầu sống kiếp độc thân khi ở vào lứa tuổi sắp chạm nấc năm mươi.
Bốn mươi tám tuổi, mái tóc trên đầu đã chớm vài sợi bạc nhưng tình yêu đầu đời trong tôi vẫn giữ mãi nét thanh xuân.
Có những chiều buồn, tôi cho xe chạy thật chậm qua lối cũ mà tưởng nhớ về những ngày tháng xa xăm.
Công viên nhỏ năm nào giờ đã được sửa sang và nới rộng. Ngôi nhà âm u, nơi một thời từng là thiên đường hạnh phúc của tôi giờ đây biến mất, thay vào đó là một ngôi nhà cao tầng sang trọng.
Cảnh cũ không còn và người xưa từ lâu mất dạng.
Ngoài những phút giây tưởng niệm đó, tôi dồn hết tâm trí của mình vào công việc làm ăn ở công ty.
Tôi không có thói quen rựơu chè, cờ bạc, cũng không có một thứ đam mê thời thượng nào.
Thấy tôi góa vợ, không ít người muốn rủ rê tôi tìm vui ở những quán bar, những vũ trường, hoặc những địa chỉ tươi mát có em út sẵn sàng phục vụ từ A tới Z. Nhưng tôi đều từ chối.
Tôi giải trí bằng các chương trình trên ti vi và những bài hát Trịnh Công Sơn mà tôi yêu thích, thi thoảng bày ra bàn cờ tướng, làm vài ván với bạn bè cũng đủ giải khuây…
Tôi chẳng còn mơ ước gì nữa, chỉ mong đi hết quãng đường còn lại của đời  mình một cách lặng lẽ, bình yên như thế.
***
Vừa băng qua ngã tư, tôi đâm sầm vào một chiếc xe đạp đi ngược chiều làm chiếc xe và cả cô gái ngồi trên ngã nhào xuống đất.
Tôi vội vã dừng xe chạy đến. Cô gái cồm cồm ngồi dậy, gương mặt nhăn nhó vì đau đớn.
- Cháu… cháu có bị làm sao không?
Tôi lo âu hỏi.
- Dạ… chắc không sao… Chỉ bị trầy xước đầu gối.
Cô gái gượng gạo trả lời.
Ở chỗ đầu gối, vải bị rách một mảng, lộ ra khoảng da thịt rướm máu do bị cọ xát xuống mặt đường.
Tôi bước tới đỡ cô gái lên, dìu cô vào lề, lấy khăn giấy đưa cô lau tạm chỗ vết thương rồi lo tới chiếc xe đạp đang nằm chình ình ở giữa đường làm cản trở giao thông.
- Cháu hết đau chưa? Có cần chú đưa vô bệnh viện không?
Cô gái xua tay rối rít:
- Dạ khỏi, khỏi cần… Chú để mặc cháu, ngồi chút nữa là hết đau thôi! Chú cứ đi đi ạ, lỗi là ở cháu… Tại cháu vượt đèn đỏ…
Tôi dắt xe đạp lên lề đường, nghiêm nghị:
- Sau này cháu phải cẩn thận. May là hôm nay vắng xe, chứ nếu không… chú không biết sẽ xảy ra chuyện gì nữa…
- Dạ, cháu nhớ rồi! Chú đi đi…
Cô gái cứ xua tôi đi, nhưng làm sao tôi bỏ đi cho được trong khi cô vẫn chưa đứng lên nổi.
Trông thấy mặt cô tái đi, có lẽ vì quá đau, tôi hoảng hốt:
- Cháu… cháu bị làm sao vậy? Chú tưởng…
Mặc dù cố gượng nhưng nước mắt cô gái vẫn trào ra.
- Cháu đau ở đâu?
Tôi gắt.
Cô bé sợ hãi:
- Dạ… cháu đau ở tay…
Cầm lấy cánh tay phải của cô, xem xét qua một lượt, thấy có dấu hiệu không bình thường, tôi bảo:
- Cháu lên xe, chú chở vô bệnh viện ngay!
- Dạ… thôi khỏi… cháu còn xe đạp… chắc chút xíu nữa là hết thôi…
- Không được! Có thể tay cháu bị gãy rồi đó, phải vô bệnh viện ngay! Để chú lo cho.
Nói xong, tôi vội vã dẫn chiếc xe đạp của cô gái đến gửi ở một trạm xăng gần đó rồi quay lại đỡ cô lên xe:
- Cháu ngồi cho vững nghe! Tay trái đỡ lấy tay phải… Ừ, đúng rồi, cứ như thế, ngồi cho vững chú chở đi!
Giọng cô như gần khóc:
- Chú ơi… tay cháu… tay cháu gãy thật không?
- Thật hay không thật chút nữa vô bệnh viện chụp hình mới biết, chú làm sao biết được! Cháu thấy hậu quả của việc không tuân thủ luật lệ giao thông chưa?
Cô gái biết lỗi nên nín khe, suốt quãng đường đi không dám nói hay hỏi thêm câu gì nữa.
Tới bệnh viện, tôi gởi xe rồi dìu cô vào phòng cấp cứu. Nét mặt cô đầy vẻ hoang mang, sợ sệt.
- Đi đóng tiền để chụp phim!
Bác sĩ bảo với cô gái sau khi xem qua cánh tay.
Cô ấp úng:
- Cháu… cháu…
Thấy vẻ mặt bối rối khổ sở của cô, tôi đã đoán được phần nào nên cất tiếng:
- Cháu đi theo chú!
Cô gái ngoan ngoãn nghe theo mọi mệnh lệnh của tôi, mặt mày rầu rĩ.
Ngồi trước cửa phòng X quang chờ lấy kết quả tôi mới có dịp ngắm cô bé một cách kỹ càng.
Đôi mắt to tròn ẩn dưới hàng mi dày cong vút là nét nổi bật nhất trên gương mặt của cô. Đôi chân mày rậm, mọc lòa xòa như chưa hề được tỉa xén. Hai cánh mũi hơi hếch lên làm cô càng có vẻ trẻ con.
- Tên cháu là gì?
Tôi hỏi.
- Dạ, cháu tên Nhi.
Cô bé đáp.
- Năm nay cháu hai mươi chưa?
- Dạ, cháu hai mươi mốt rồi ạ!
- Cháu còn đi học?
Một thoáng buồn trong mắt Nhi, cô khẽ đáp:
- Cháu... ban ngày cháu bán hàng ở siêu thị, ban đêm cháu học Đại học… Rồi với cái tay như thế này, làm sao cháu đi làm, đi học được đây?
Hai cánh mũi Nhi phập phồng, miệng cô gần như mếu.
Tôi không dằn được, giả vờ đưa khăn tay lên lau mặt để giấu nụ cười.
Đúng là trẻ con! Từng cử chỉ của cô đều rất trẻ con nên gây cho tôi cái cảm giác gần gũi và muốn chở che.
- Cháu yên tâm đi, rồi chuyện gì cũng giải quyết được hết thôi mà!
Nhi không nói gì nữa, cứ cúi nhìn chằm chằm vào chỗ đau trên cánh tay, như muốn nhìn xuyên qua da thịt để kiểm định lại hệ thống xương bên trong vậy!
Đến lúc có kết quả X quang, đúng là xương gần bả vai của Nhi bị gãy, tôi lại dìu cô lên tầng trên để tới phòng bó bột.
Khi ngồi, Nhi mãi lo tập trung vào chỗ đau nhiều trên cánh tay, nhưng khi bước đi thì với vết thương ở gối, cô di chuyển cũng rất khó khăn.
- Làm ơn cột giùm tóc cô này lên!
Người y sĩ làm nhiệm vụ bó bột có gương mặt cau có như mới vừa… cãi nhau với chồng ra lệnh cho tôi.
Tôi vội vã đi vòng ra phía sau lưng Nhi, tóm gọn mái tóc cô lại, luống cuống không biết lấy đâu ra cặp tóc hoặc dây thun, tôi cũng không biết làm cách nào để bới mái tóc đó lên cho gọn ghẽ, vì thế tôi cứ đứng giữ hoài.
Bất chợt, tôi không thể tin được vào mắt mình được! Nổi bật trên làn da trắng trẻo sau gáy Nhi là ba nốt ruồi son xếp thành hình tam giác!
- Anh làm cái gì vậy? Túm tóc lên!
Tôi bàng hoàng buông tóc Nhi ra, đến lúc nghe tiếng quát của cô y tá mới lật đật thực thi tiếp nhiệm vụ của mình.
Nhưng từ lúc đó, tôi không còn để tâm nhìn cách băng bó nữa, mắt tôi cứ nhìn chằm chằm vào gáy Thi, đôi tay tôi run rẩy, lòng tôi đang ngập tràn một thứ cảm xúc rất khó gọi tên.
Giờ phút này, hình ảnh Thi của hơn hai mươi năm trước lại hiện về rõ rệt trong đầu tôi. Tôi không quên lời căn dặn của Thi:
- Ba nốt ruồi này là vết tích để anh nhận ra em…
Trời ơi… có lẽ nào? Có lẽ nào cô gái này chính là hiện thân của Thi? Có lẽ nào Thi đã kịp quay về bên tôi khi kiếp người của tôi chưa mãn? Không.. không đâu… không thể… điều này thật khó tin… Nhưng mà… làm sao lại có sự trùng hợp lạ lùng như vậy?
Tới lúc băng bó xong, thấy tôi vẫn đứng thừ người ra, hai tay vẫn còn túm chặt mái tóc của cô giơ lên cao, Nhi khẽ nhắc:
- Chú ơi, xong rồi chú ơi!
Sự tỉnh, tôi buông tay ra và không biết nói gì với Nhi lúc này.
- Chú ơi, mình về được chưa chú?
Cô bé ngước nhìn tôi.
Tôi bối rối:
- Ừ, mình về! Mà không, để… chú đưa… cháu đi rửa vết thương ở đầu gối nữa chứ, để vậy lỡ bị nhiễm trùng thì thêm khổ…
Nhi níu lấy tay tôi:
- Chú ơi, khỏi đi chú ơi! Về nhà cháu tự làm được, ở đây… cháu sợ lắm…
Trông thấy vẻ mặt tội nghiệp của cô bé, tôi cũng không nỡ nài ép nữa. Dìu cô xuống sân bệnh viện, tôi ghé quầy thuốc mua thuốc, bông băng và một vài thứ cần dùng trong việc lau rửa vết thương. Xong đâu đấy tôi chở cô bé về.
Nhi có vẻ ân hận:
- Tại cháu… tại cháu làm chú phải vất vả cả buổi trời… cháu thật có lỗi, cháu xin chú đừng trách cháu…
Tôi cười:
- Không có gì đâu, cháu đừng bận tâm, nhưng nhớ từ nay đi đường phải thật cẩn thận. Hôm nay bị như vậy cũng là còn may cho cháu đấy!
- Dạ, cháu xin ghi nhớ!
Nhi vừa đỡ cánh tay bó bột trắng xóa, vừa nhăn nhó trông thật đáng thương. Tôi quay lại nhìn Nhi, muốn nói thật nhiều, muốn hỏi cô thật nhiều điều, nhưng rốt cuộc tôi không biết phải mở lời như thế nào cho thật đúng?
- Chú, cho xe xạy đi chú!
Nhi nhắc.
- Cháu ngồi vững chưa?
Tôi hỏi lại trước khi cho xe chuyển bánh.
- Chú ơi, chi phí hôm nay chú cho cháu mượn tạm, cuối tháng cháu lãnh lương sẽ gửi lại cho chú sau nhé?
Nghe giọng nói rụt rè của cô bé ngồi sau lưng, tôi phì cười:
- Cháu không cần nghĩ tới chuyện đó! Lo mà nghỉ ngơi dưỡng sức đi! Trong việc này chú cũng có lỗi, vì chính chú là người làm cho cháu bị té ngã mà!
- Không đâu, lỗi là do cháu…
Nhi cãi lại.
- Ừ, thì lỗi do ai cũng được, tay cháu cũng đã gãy rồi, đừng nghĩ gì nữa…
Không thấy Nhi nói gì, tôi nghĩ cô bé đã yên tâm về chuyện tiền bạc, không ngờ chỉ ít phút sau, tôi lại nghe có tiếng sụt sịt sau lưng.
- Sao thế? Cháu khóc à? Đau lắm sao?
Tôi dừng xe lại, lo lắng hỏi.
Nhi lắc đầu:
- Không… không phải đâu chú ơi! Cháu… cháu không đau nhiều nữa, nhưng cháu đang lo… tay cháu như vầy làm sao…
Tôi nhẹ nhàng an ủi:
- Thôi thôi, đừng khóc nhè nữa cô bé, để chú đưa cháu về tới nhà rồi tính tiếp, đừng có khóc dọc đường dọc xá như vầy, người ta lại tưởng là chú hiếp đáp cháu, công an bắt chú thì oan uổng lắm! Cháu nín đi cho chú nhờ với nhé!
Nhi cười mếu máo trước câu nói đùa của tôi. Cô đưa cánh tay làng lặn lên chùi nước mắt. Tôi lại cho xe đi tiếp.
Theo sự hướng dẫn của Nhi, tôi cho xe đi vào một con hẻm nhỏ, ngoằn ngoèo và sâu hun hút. Cuối cùng, dừng lại trước một căn nhà nhỏ, ngoài cổng có giàn bông giấy đang mùa trổ hoa đỏ rực.
Nhi bước xuống, mở cổng mời tôi vào.
Dắt xe vào sân, tôi lại phải giúp Nhi lục tìm chìa khóa trong giỏ xách bởi vì Nhi vẫn còn lúng túng khi phải làm việc chỉ với một cánh tay trái.
- Chú ngồi chơi ạ!
Nhi lễ phép.
- Được rồi, cháu để chú tự nhiên.
Tôi kéo ghế ngồi và trong lúc Nhi xuống nhà sau tôi đưa mắt nhìn bao quát xung quanh.
Căn nhà nhỏ, đồ đạc bên trong cũng rất giản dị, đơn sơ nhưng được bày trí một cách gọn gàng và khéo léo.
Nhi từ nhà trong đi ra, trên tay cầm ly nước.
Tôi vội vàng đứng lên đỡ ly nước trên tay Nhi và trách:
- Trời ơi, tay chân cháu như vậy mà còn… chú ngồi đây chơi một chút rồi về, nước nôi làm gì cho thêm bận bịu.
Nhi cười:
- Dạ, nhà không có gì ngoài nước lọc, chú dùng tạm nhé!
Tôi bưng ly nước, hớp một hớp cho Nhi vui.
- Cháu sống ở đây với ai?
Tôi tò mò.
Nhi ngồi xuống, để cho cánh tay bó bột tựa trên mặt bàn, khẽ nói:
- Trước kia cháu sống với bà ngoại, nhưng hai năm trước ngoại mất, cháu gọi một đứa bạn gái cùng quê về sống chung cho đỡ quạnh hiu. Nó lên đây đi làm công nhân.
- Quê cháu ở đâu? Ba má cháu còn đủ hết không?
Tôi hỏi tiếp.
Nhi buồn buồn:
- Dạ, quê cháu ở tuốt dưới Rạch Giá, Kiên Giang. Ba má cháu đều đã qua đời hồi cháu còn rất nhỏ. Cháu sống với ngoại từ hồi ấy…
- Hoàn cảnh của cháu thật đáng thương mà cũng đáng phục nữa. Cháu một mình vừa đi làm vừa đi học như vậy là có nghị lực và ý chí lắm đó. Chú rất cảm phục cháu.
Nhi mỉm cười:
- Dạ có gì đâu chú, cháu còn thua xa nhiều bạn khác có cùng hoàn cảnh, cháu còn phải phấn đấu nhiều hơn nữa.
Tôi gật gù:
- Chú cũng có một thằng con trai chắc trạc tuổi cháu. À, cháu sinh ngày tháng năm nào thế?
Tôi làm như vô tình hỏi Nhi câu ấy.
- Cháu sinh vào ngày mười lăm tháng thám năm một chín…
Nhi ngây thơ trả lời, còn tôi lại phải thêm một lần bất ngờ choáng váng nữa: Ngày sinh của Nhi đúng vào ngày Thi rời bỏ tôi hơn hai mươi năm trước…
- Chú! Chú sao vậy chú?
Có lẽ nhìn thấy vẻ thất thần trên mặt tôi, Nhi vội hỏi.
Tôi giật mình, bối rối:
- À… không có gì đâu cháu, chỉ là … bất chợt chú nhớ tới thằng con của chú mà thôi!
- Con chú ở đâu mà chú nhớ? Chú không sống với con chú sao?
Nhi ngạc nhiên.
Tôi cười:
- Con chú hiện đang du học ở nước ngoài, hai năm rồi nó chưa về thăm chú lần nào…
- Anh đó sướng thiệt…
Thi cũng cười rất tươi.
Chợt nhớ lại hoàn cảnh của Nhi, tôi không khỏi lo lắng:
- Cháu sống một mình, tay chân lại bị thương tật thế này, rồi những sinh hoạt hàng ngày ai giúp cháu đây?
Nhi chớp mắt mấy cái liên tục để dằn cảm xúc:
- Điều đó thì cháu không lo lắm, vì cháu có thể tự xoay sở được. Chỉ có điều… cháu không biết làm sao đi làm và đi học được đây? Cháu… cháu lại sắp phải thi nữa…
Suy nghĩ một lát, tôi đưa ra đề nghị:
- Hay là từ mai, mỗi tối chú sẽ tới đưa đón cháu đến trường cho tới khi nào tay cháu làng lại, cháu đồng ý không?
Nhi lắc đầu buồn bã:
- Không được đâu chú ơi! Để chú bận rộn với cháu cả nửa ngày hôm nay là cháu thấy… ray rứt lắm rồi, ai lại để chú phải đưa đón cháu hàng tháng trời như vậy? Cháu không báo hại chú thế đâu…
Tôi phì cười, quyết định:
- Vậy nhé! Cháu đừng từ chối, chú cũng không bận bịu gì lắm đâu, mỗi tối chú sẽ đến đây chở cháu đi học. Đừng nghĩ ngợi gì hết, cháu phải biết nghe lời chú đó!
Nói xong, không đợi Nhi phản ứng, tôi đứng lên cáo từ:
- Giờ chú xin phép về cho cháu còn nghỉ ngơi. À, còn chiếc xa đạp, cháu cứ để đấy, mai chú lấy về cho.
Nói dứt câu, tôi ra sân ngồi lên xe, mỉm cười chào Nhi lần nữa. Cô bé vẫn còn ấp úng điều gì đó trong miệng chưa kịp nói ra.
- Chú ơi… chú… không phải lỗi của chú mà…
- Đừng lo, đừng nghĩ gì tới chuyện lỗi phải nữa!
Tôi cười, cho xe vọt đi, cô bé vẫn đứng lặng dưới giàn bông giấy đỏ, ngơ ngác trông theo.
 
***
Về tới nhà, suốt buổi trưa hôm ấy tôi không tài nào dỗ được giấc ngủ. Lòng tôi nôn nao, hồi hộp và rối bời biết bao nhiêu chuyện.
Thi và Nhi, hai người con gái đó có liên hệ gì với nhau? Tại sao lại có điều trùng hợp như vậy?
Ngày trước, việc tôi gặp gỡ Thi, yêu thương rồi chung sống với Thi như vợ chồng đã là một điều hiếm thấy trên đời, chẳng lẽ hôm nay tôi lại gặp được một điều khó tin, hiếm khi xảy ra nữa?
Nghĩ ngợi lung tung làm cho đầu óc tôi càng thêm căng thẳng.
Tôi vùng dậy, gọi điện phá giấc ngủ trưa của Tú và Hiển, hẹn gặp hai người ở quán cà phê quen thuộc vì “có chuyện rất quan trọng”!
Tôi đợi không bao lâu thì Tú và Hiển hớt hãi chạy tới.
Trông thấy tôi, hai ông bạn đồng thanh hỏi:
- Việc gì mà khẩn trương thế?
Tôi không vội trả lời, gọi người phục vụ đem cà phê, thuốc lá ra mời đàng hoàng, xong đâu đấy tôi mới từ tốn cất lời:
- Hai ông còn nhớ chuyện tình cảm của tôi và người con gái tên Thi hồi mấy chục năm về trước không?
Hiển và Tú cùng giật nảy người lên:
- Sao? Ông đừng bảo với tụi này là ông vừa gặp lại cô ấy nhé!
- Không đúng!... mà cũng không sai!
Tôi mơ màng nhìn theo làn khói thuốc mong manh uốn éo trước mặt.
- Thế nghĩa là sao? Ông nói rõ ra coi, đừng ỡm ờ hoài như vậy chứ!
Hiển gắt.
Tôi mỉm cười:
- Ông để từ từ tôi mới nói được chứ! Hai ông còn nhớ ngày xưa tôi có nhắc đến ba nốt ruồi hình tam giác sau gáy Thi không? Sáng nay, tôi vừa gặp một cô gái có dấu tích giống hệt như thế!
Cả Tú và Hiển đều ngớ người ra kinh ngạc, chưa ai kịp nói lời nào thì tôi đã tiếp tục:
- Lại thêm một điều làm tôi choáng váng nữa, đó là… ngày tháng năm sinh của cô gái này lại trùng khớp với ngày Thi xa rời tôi hồi mấy mươi năm trước. Hai ông thử nghĩ xem, trên đời sao lại có chuyện trùng hợp lạ lùng đến như vậy chứ?
Tú trợn mắt:
- Những gì nãy giờ ông kể là hoàn toàn có thật, hay do ông sống cô độc một mình buồn quá, lại thêm ngày đêm tưởng nhớ tới Thi nên mơ màng ra câu chuyện đó?
Tôi cười buồn:
- Ông nghĩ tôi bị tâm thần hả?
- Tôi thấy chuyện gì cũng có khả năng xảy ra.
Hiển xen vào.
Tú quay sang Hiển:
- Vậy ông tin cô gái đó chính là do Thi đầu thai lên?
Hiển gật gù:
- Có thể lắm chứ! Mình vốn không tin có ma, nhưng rõ ràng Hải đã từng sống với ma một thời gian dài, rồi tận mắt bọn mình chứng kiến tấm hình vẽ Thi chỉ trong phút chốc hóa thành giấy trắng. Tất cả những chuyện đó nếu đem kể cho bất cứ người khác nào nghe, chắc chắn họ cũng sẽ bảo đó là sản phẩm của trí tưởng tượng phong phú, hoặc là do ảo tưởng của những hệ thần kinh không bình thường. Chắc chắn sẽ không ai tin đó là sự thật. Nhưng tụi mình lại biết nó đúng là sự thật, một sự thật rất rõ ràng, không muốn tin cũng không được. Chuyện khó tin như vậy đã xảy ra rồi, thì hôm nay sự việc này cũng có thể lại là một chuyện khó tin nhưng có thật nữa… Điều đó cũng không có gì là lạ!
Tú khuấy tròn chiếc muỗng trong ly cà phê:
- Ừ, ông phân tích nghe cũng phải! Có điều… có điều… bây giờ phải làm cách nào để xác minh?
Hiển cười ngất:
- Xác minh? Xác minh gì? Xác minh xem cô gái ấy có phải là Thi của hai mươi năm trước không à? Ông nên nhớ, ngoài ba nốt ruồi đặc biệt đó ra, cô gái hiện nay hoàn toàn khác, hoàn toàn không nhớ gì đến tiền kiếp của mình, thì cho dù có đúng là Thi đi chăng nữa, cô gái ấy cũng không thể chứng minh gì được.
Tú ngớ người ra.
Tôi nhìn Hiển khẩn cầu:
- Ông nghĩ bây giờ tôi phải làm sao đây?
Trong đám bạn của tôi thời đi học, Hiển luôn là đứa giữ được bình tĩnh và đưa ra những lời khuyên sáng suốt trong những hoàn cảnh đặc biệt khi ai nấy đều mất khả năng tư duy.
Hiển rít một hơi thuốc, ngó thẳng vào mặt tôi:
- Ông vẫn còn thương nhớ Thi lắm phải không?
Tôi gật đầu xác nhận:
- Đúng thế! Suốt mấy chục năm qua, mặc dù đã lấy vợ, sinh con nhưng trong trái tim tôi chỉ luôn duy nhất có một tình yêu, đó là tình yêu tôi dành tặng cho Thi ngày trước.
Hiển lại gật gù:
- Có lẽ mối tình chung thủy của ông và Thi đã làm động lòng Trời nên mới xui khiến cho ông có cuộc gặp gỡ ngày hôm nay với cô bé đó. Theo tôi, việc ông sẽ đưa đón cô bé đi học mỗi ngày cũng rất hợp tình hợp lý, vừa giúp đỡ người trong lúc hoạn nạn khó khăn, vừa là cơ hội để ông tiếp xúc, gần gũi và tìm hiểu kỹ hơn cô gái ấy. Sau một thời gian, nếu quả thật có duyên với nhau thì mạnh dạn tiến tới, dù cô ấy có đúng là Thi hay không cũng là điều tốt. Còn nếu không có duyên, tự nhiên mình sẽ khẳng được ba nốt ruồi kia chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Vì sao ư? Vì nếu cô ấy mang theo dấu vết cũ từ tiền kiếp về đây, là nhằm mục đích để cho ông nhận ra cô ấy, tất nhiên sợi dây liên hệ từ tiền kiếp sẽ thắt chặt hai người lại khi hai người gặp được nhau…
Tôi thở phào nhẹ nhõm:
- Ừ, ông nói có lý! Tôi sẽ không vội…
Hiển bật cười ha ha:
- Ông nói vội gì kia? Bộ ông tính chạy ngay đến chỗ cô gái ấy mà hét to lên rằng: Em chính là người yêu của anh trước đây, nay đã đầu thai trở lại, bằng chứng là ba nốt ruồi đặc biệt kia… Ông định làm như thế thật sao? Ông mà hấp tấp thế là hỏng… hỏng bét thôi ông ơi!
Nhìn thấy tôi và Tú đang nghệch mặt ra, Hiển nói rõ ràng hơn:
- Ông mà làm như vậy, cô gái kia sẽ sợ ông đến chết khiếp. Có hai trường hợp sẽ xảy ra. Thứ nhất, cô ấy có thể cho rằng ông là kẻ tâm thần; thứ hai tệ hại hơn, cô ấy sẽ nghĩ ông là loại người không đàng hoàng, vừa thấy con gái người ta thì muốn chiếm lấy làm sở hữu… Ông sẽ không còn cơ hội nào mà tiếp cận cô ta được nữa…
Tôi đồng tình:
- Ông nói không sai!
Trầm ngâm một chút, tôi nói tiếp:
- Điều tôi e ngại nhất lúc này là…
- Là điều gì?
Tú nôn nóng hỏi.
- Là giữa tôi và cô gái ấy chênh lệch quá nhiều về tuổi tác…
Không chờ tôi nói hết câu, Hiển cắt ngang:
- Chuyện chênh lệch tuổi tác không phải là vấn đề lớn. Điều đáng lo ngại là cô gái kia sẽ dành cho ông tình cảm như thế nào thôi… Chuyện ấy tùy thuộc hết vào cách cư xử của ông đấy, Hải ạ!
- À, mà nè! Hai người xưng hô với nhau là chú cháu à? Hê hê… mai sau cũng kẹt đây!...
Tú cười làm cả tôi và Hiển cũng cười theo.
Được sự chia sẻ và góp ý tận tình của hai người bạn thân thiết, giờ đây tôi đã cảm thấy an tâm và biết mình phải làm gì.
 
***
Ngay chiều tối hôm sau tôi bắt đầu thực hiện bổn phận tài xế của mình một cách vô cùng tận tụy.
Đầu tiên, tôi thuê một chiếc xích lô tới trạm xăng để chuyển “con ngựa sắt” của Nhi về nhà.
Vừa trông thấy tôi, Nhi mừng rỡ:
- Chú… cháu cứ tưởng…
- Tưởng chú trốn luôn rồi phải không?
Tôi cười, hỏi đùa.
Nhi hờn dỗi:
- Sao cháu lại dám nghĩ về chú như thế chứ? Chỉ là cháu không ngờ chú tới sớm vầ đâu…
Tôi giả bộ xoay lưng:
- Vậy thôi, chú về nhé, chút nữc chú quay lại đón cháu!
Nhi lật đật níu chặt tay tôi:
- Chú ơi… Cháu lỡ lời… Chú đừng giận… chú bỏ qua cho cháu đi! Cháu thấy chú tới, mừng quá nên nói năng lung tung vậy thôi…
Tôi cười xòa:
- Đùa với cháu chút cho cháu vui thôi, chú không giận hờn gì đâu! Sao rồi, từ hôm qua tới nay cánh tay còn đau nhiều không? Vết thương ở đầu gối sao rồi?
Nhi nhoẻn cười:
- Dạ, tay đỡ đau nhiều lắm rồi chú ạ! Còn chỗ này thì…
Nhi nhăn mặt, mũi lại hếch lên một cách nũng nịu.
- Sao, chỗ đó ra sao?
Tôi hỏi.
- Ngủ một đêm, sáng ra nó lành mặt, bước xuống đi… đau thấu trời xanh luôn chú ơi…
Nhi có vẻ muốn nhõng nhẽo.
Tôi cười lớn:
- Phải đau như vậy để cháu nhớ, mai này không còn dám phóng nhanh vượt ẩu nữa!
- Cháu biết lỗi rồi, chú cứ rầy cháu hoài…
Nhi phụng phịu.
Tôi phá ra cười rồi cùng cô vào nhà.
Tôi bắt Nhi phải lấy thuốc và bông băng ra để tôi tự tay lau rửa vết thương cho cô. Ban đầu Nhi không đồng ý có lẽ do ngại ngần trước một người đàn ông chưa quen biết lắm, nhưng sau đó, thấy tôi có vẻ tự nhiên, và cũng là người đàng hoàng nên cô không giữ ý nữa.
Rửa xong vết thương, tôi và Nhi ngồi nói chuyện với nhau rất lâu, mãi đến khi trời nhập nhoạng tối, Nhi đứng lên xin phép vào trong chuẩn bị đồ để đến lớp.
Lúc cho xuống ở cổng trường, cô nhìn tôi áy ngại:
- Trong khi cháu học, ở ngoài này chú làm gì?
- Chú có nhà người quen gần đây, chú sẽ tới cho chơi một ván cờ, chờ cháu tan học chú sẽ quay lại đón.
Tôi nói dối.
Nhi tươi cười:
- Vậy là cháu tạm yên tâm rồi! Chào chú, cháu đi đây!
Tôi gật đầu, nhìn theo dáng cô đi khuất dần trong sân trường rồi mới dẫn xe tới một quán cà phê gần đó ngồi chờ.
Mới đó mà đã một tháng trôi qua! Một tháng, đủ để tình cảm giữa tôi và Nhi trở nên khắn khít.
Đối với tôi, Nhi rất vô tư, cô thương yêu và quý trọng tôi như cha chú, như một “ân nhân” theo lời cô nói.
Trái lại, tôi đã không còn giữ được sự tự nhiên thoải mái lúc ban đầu.
Hồi mới gặp Nhi, dù có nghi ngờ cô chính là hiện thân của Thi trở về tìm lại tôi, nhưng ngoài sự xúc động nhất thời, tôi hoàn toàn không có bất kỳ một ý nghĩ đen tối nào trong đầu cả.
Nhưng thời gian gần gũi vừa qua đã làm tình cảm nảy sinh trong lòng tôi. Có nhiều lúc nhìn thấy Nhi cười cười nói nói, tôi lại khao khát được đặt lên đôi môi tươi thắm đó một nụ hôn, tôi thèm được ôm cô vào lòng, thèm áp mặt mình vào cái “dấu tích” năm xưa của Thi để lại.
Bao nhiêu tình cảm và dục vọng sôi sục trong tôi, khiến tôi luôn lo sợ một lúc nào đó mình không kiềm chế được. Lúc ấy… chắc chắn Nhi sẽ xem thường tôi, xa lánh tôi ngay lập tức.
Do vậy, tôi nghĩ mình phải mau chóng tỏ bày tình cảm với Nhi.
Nhưng như vậy liệu có vội quá không?
Tôi không biết phải làm sao cho đúng nữa…
Nhi là một cô gái rất ngoan hiền. Sống giữa nơi phồn hoa đô hội, dập dìu nam thanh nữ tú, nhưng Thi vẫn giữ được bản chất của một cô gái quê dịu dàng thùy mị.
Nhi không đua đòi ăn diện, không phóng túng như một vài cô gái vừa ở quê ra, choáng ngợp trước sự hào hoa của phố phường, lăn xả vào đời một cách bất cần cả tương lai.
Nhưng, điều làm tôi vui mừng nhất, ấm lòng nhất chính là khi biết được cho tới lúc này, Nhi chưa từng yêu một ai!
Tôi đến thăm Nhi rất thường xuyên. Mặc dù lúc này cánh tay cô đã tháo bỏ bột và hoàn toàn hồi phục, nhưng tôi vẫn là tài xế cho cô mỗi tối đến trường.
Dạo này tôi cũng ít ăn cơm chiều ở nhà. Một mình lúi húi nấu nướng, rồi lại một mình ngồi bên mâm cơm, buồn bã lắm, khi ăn không còn cảm giác ngon miệng nữa. Vì thế tôi thwofng đến ăn cơm ở nhà Nhi.
Gặp lúc có cô bạn của Nhi ở nhà, cả ba người ăn uống, cười đùa rất vui vẻ. Bữa ăn tuy đạm bạc nhưng lại mang đến một hương vị ấm áp tuyệt vời mà lâu lắm rồi tôi chưa có được.
Những hôm cô bạn bận tăng ca. Tôi ghé siêu thị đón Nhi, mua một vài món rồi khi về nhà hai chú cháu cùng xuống bếp.
Nhi thường bày ra các cuộc thi xem “ai nhanh hơn” và cười giòn giã mỗi khi tôi thua cuộc.
Tôi như thấy mình đang trẻ lại từng ngày. Chiếc kim đồng hồ của đời tôi đang chạy những vòng quay ngược.
Có lúc, tôi quên bẵng mình đang ở lứa tuổi xấp xỉ năm mươi, quên rằng tóc trên đầu tôi đã có nhiều sợi bạc, quên đứa con trai đang ở rất xa của tôi tuổi cũng gần với tuổi Nhi…
Tôi quên hết, tôi tưởng như mình đang là chàng sinh viên nghèo thưở trước, ăn tô mì gói không rau không thịt mà vẫn có cảm giác ngon tận ruột gan.
Những lúc Nhi bá cổ tôi reo mừng một điều gì đó, tôi phải cố gắng dằn lòng, không cho phép mình ghì chặt lấy thân thể trẻ trung đầy sức sống của cô.
Nhưng tôi không thể che giấu mãi tình cảm của mình, nhất là đối với người ngoài cuộc.
Cô bạn gái của Nhi đã sớm nhận ra điều đó.
- Chú… cháu hỏi thật, có phải chú đã dành cho Nhi một tình cảm không chỉ đơn thuần là tình chú cháu… Đúng không chú?
Lần tôi đến chơi gặp lúc Nhi đi vắng, Ánh – cô bạn gái cùng nhà – thay mặt Nhi tiếp tôi và bất ngờ đã đưa ra câu hỏi ấy.
Thọat nghe Ánh hỏi, tôi rất lúng túng và muốn chối phăng đi. Nhưng nghĩ lại, thấy trước sau gì thì chuyện này rồi tôi cũng sẽ nói ra, vì vậy nên tôi gật đầu xác nhận.
- Đúng, cháu quả thật tinh ý! Đúng là chú đã không xem Nhi như con cháu được nữa rồi…
Ánh nghiêm nghị nhìn tôi:
- Do gần gũi lâu ngày làm phát sinh tình cảm, hay… tại vì chú thấy Nhi đối với chú hồn nhiên thân thiết mà chú… xem thường nó, có ý nghĩ không tốt về nó?
Tôi lắc đầu:
- Cháu nghĩ chú thuộc loại người đó sao? Cháu cũng thấy rồi đó, mặc dù chú dành tình cảm đặc biệt cho Nhi, nhưng có bao giờ chú có thái độ hoặc cử chỉ gì sàm sỡ hay không tôn trọng cô ấy đâu? Đối với chú, tình cảm đó thiêng liêng lắm, chú có nói ra cháu cũng không hiểu hết được đâu, cháu ạ!
Ánh ngước nhìn tôi:
- Dạ, cháu cũng tin chú là người tốt. Cháu cũng hy vọng bạn cháu có được một người chồng hết lòng hết dạ thương yêu, lo lắng cho nó. Chú là người có thể mang tới hạnh phúc cho bạn cháu. Nhưng… cháu chỉ e ngại, tuổi tác giữa chú Nhi quá chênh lệch nhau, chắc chắn sẽ gặp nhiều cản trở về phía gia đình chú, nhất là con trai chú. Anh ấy có chấp nhận để cha mình cưới một người vợ mà tuổi chỉ mới xấp xỉ với mình không? Liệu chú có dám vượt qua tất cả mọi rào cản để đến với Nhi không? Hay là… sau này cháu phải là người lau nước mắt cho nó? Cháu mong chú suy nghĩ cho kỹ, cân nhắc cho thật kỹ trước khi thổ lộ tình cảm đó với Nhi…
- Cháu yên tâm đi, chú đã từng nầy tuổi đầu rồi, đâu còn bồng bột như đám thanh niên mà không suy nghĩ cặn kẽ trước khi làm. Chú thấy giữa chú và Nhi có rất nhiều cơ duyên mà sau này chú kể cho cháu rõ. Về phần gia đình chú, con trai chú thì cháu đừng lo lắng gì hết, nó sống ở nước ngoài, nó không có những định kiến hẹp hòi xưa cũ trong đầu đâu. Đã nhiều lần nó thúc giục chú cưới vợ để có người bầu bạn, vì sau khi tốt nghịêp nó cũng không về lại quê nhà mà nhận lời làm việc cho một công ty bên đó luôn.
- Anh ấy không phản đối chú cưới vợ, nhưng có chấp nhận để chú cưới một người vợ trẻ như vậy không? Anh ấy có chấp nhận gọi một người cùng lứa tuổi với mình bằng mẹ kế không?
Ánh lo lắng.
Tôi cười:
- Cháu đừng lo, hôm trước chú đã có dọ ý với nó rồi. Nó bảo chú cứ chọn lựa, đó là hạnh phúc của chú, nó không bao giờ cản trở. Còn về việc xưng hô, đâu nhất thiết phải gọi vợ của ba bằng mẹ kế đâu? Có thể  gọi bằng dì, bằng cô cũng được mà, phải không cháu?
Ánh thở hắt ra:
- Nghe chú nói vậy cháu cũng thấy nhẹ lòng. Thú thật với chú nhé, mấy lúc gần đây cháu cứ nơm nớm lo sợ, cháu sợ Nhi sẽ phải đau buồn lần nữa. Hồi ngoại nó mất, cháu đã chứng kiến nỗi đau tột cùng của nó rồi, cháu rất sợ, cháu không muốn nó bị như vậy lần thứ hai…
Tôi siết chặt tay Ánh:
- Cháu là một cô gái tốt. Nhi thật may mắn khi có được người bạn như cháu. Cháu yên tâm đi, chú không đem lại đau khổ cho Nhi đâu. Chú chỉ lo ngại một điều…
- Chú lo điều gì?
Thấy tôi ngập ngừng, Ánh hỏi.
- Chú lo… Nhi có chấp nhận chú không? Nhi còn quá trẻ trung, trong khi đó chú… chú già mất rồi cháu ạ.
Lần này Ánh lại là người động viên tôi:
- Chú đừng lo! Cháu nhận thấy Nhi cũng rất có tình cảm với chú. Gia đình Nhi cũng không còn ai, có nghĩa là cũng không sợ phải gặp sự cản trở nào một khi Nhi đồng ý.
Tôi thở dài:
- Đành rằng Nhi có tình cảm với chú, nhưng đó chỉ là tình chú cháu, nhưng nếu chú bày tỏ lòng mình và đề nghị Nhi chuyển sang mối quan hệ khác, chú e rằng… Nhi cũng khó mà chấp thuận.
Ánh bật cười:
- Chú phải thử mới biết! Chứ nếu mãi lo như vậy, chẳng lẽ chú cứ ôm ấp tình cảm đó rồi ngồi chờ Nhi đi lấy chồng sao? Chú cứ mạnh dạn nói hết lòng mình với Thi đi. Một khi cháu biết chú thật tình với Nhi thì cháu ủng hộ chú hai tay hai chân luôn. Cháu đứng về phe chú.
- Ủa, nhà mình hôm nay chơi trò gì mà chia phe nữa vậy ta?
Ánh vừa dứt lời thì nghe tiếng Nhi ngoài cửa.
Ánh nhìn tôi lè lưỡi.
Tôi mỉm cười ra hiệu cho Ánh đừng vội nói gì với Nhi.
- Chú… chú với Ánh về phe với nhau để bắt nạt cháu phải không?
Nhi làm bộ dỗi.
- Ai dám bắt nạt cô nương?
Ánh cười.
- Vậy hai người chia phe để làm gì?
Nhi thắc mắc.
- Hãy đợi đấy! Rồi sẽ biết!
Ánh đứng lên tát nhẹ vào má bạn rồi đi xuống nhà sau.
Tôi không khỏi bật cười trước hai cô gái nhỏ…
Hôm đó về nhà tôi cứ suy nghĩ mãi những lời Ánh nói.
Đúng rồi, tôi phải có can đảm bày tỏ tình cảm của mình với Nhi một cách rõ ràng, chứ không lẽ cứ phải đè nén mãi trong lòng, tuổi của tôi cũng đâu còn trẻ trung gì nữa?
Tôi hỏi ý kiến “quân sư” Hiển, nó cũng nhận thấy tôi không nên kéo dài hơn nữa.
Tối hôm sau Nhi không có giờ học ở trường, tôi đề nghị:
- Nhi đi ăn kem với chú nhé?
Nhi ngạc nhiên nhìn tôi:
- Ủa, chú cũng thích ăn kem nữa sao?
Tôi bật cười:
- Sao cháu lại hỏi vậy?
- Cháu tưởng chỉ có mấy đứa nhỏ tụi cháu mới thích vô quán kem thôi, cỡ chú thường người ta hay tới quán cà phê hoặc quán… nhậu.
Tôi nghe một nỗi buồn ập vào tim mình, nhưng vẫn cố gượng cười:
- Vậy là… cháu muốn nói chú già rồi, chú không thích hợp đi với cháu tới quán kem phải không?
Biết mình lỡ lời, Nhi ôm lấy cánh tay tôi lắc lắc:
- Chú… cháu xin lỗi… cháu không có ý đó! Chỉ là cháu thật tình nghĩ vậy thôi mà… Chú đừng giận cháu nha, chú mà giận, chút nữa cháu ăn một lúc bốn, năm ly cho chú trả tiền mệt nghỉ luôn đó!
Tôi bật cười:
- Ăn không hết là chết với chú đấy nhé!
Nhi nhoẻn cười, chạy vào nhà trong thay quần áo.
Vì đã có chủ đích trước nên tôi đưa Nhi tìm đến một quán kem thật vắng và chọn một góc ngồi cũng vắng.
Nhìn Nhi hồn nhiên xúc từng muỗng kem đưa vào miệng ngon lành, tôi không dằn lòng được nữa, nhưng việc mở lời đối với tôi lúc này cũng rất khó khăn.
- Cháu tin trên đời này có ma không, Nhi?
Bất ngờ nghe tôi hỏi, Nhi tròn mắt:
- Úi, chú đừng nhát cháu à nghen, cháu sợ ma lắm đó!
- Cháu sợ ma? Tức là cháu tin có ma?
Tôi hỏi lại.
Nhi tư lự:
- Cháu cũng hổng biết nữa… Nhiều lúc cháu tin, nhiều lúc cũng không tin, nhưng… sợ thì lúc nào cháu cũng sợ!
- Trời!
Tôi kêu lên.
- Mà sao tự nhiên chú lại hỏi cháu như vậy?
Nhi tò mò.
- Là vì… là vì chú muốn kể cho cháu nghe một câu chuyện.
Tôi không biết phải vào đề bằng cách nào, nên phải đi một vòng thật xa như thế.
- Chú kể chuyện ma cho cháu nghe à? Hấp dẫn đây!
Nhìn vẻ háo hức trẻ con của Nhi, tôi thật không đoán được phản ứng của cô sẽ như thế nào khi nghe tôi nói hết?
Thôi kệ, chuyện đó tính sau đi, lúc này đây tôi phải làm sao để cho Nhi hiểu được lòng mình.
Tôi bắt đầu kể cho Nhi nghe về cuộc gặp gỡ tình cờ của đôi trai gái trên một chuyến xe đêm, về những ngày tháng họ sống bên nhau ngập tràn hạnh phúc. Và rồi, để trả lại cuộc sống và tương lai cho người mình yêu, cô gái đã quyết định dứt áo ra đi… chàng trai đau khổ thế nào khi biết người mình yêu thương thời gian qua thật ra chỉ là một vong hồn của cô gái đã chết cách đó một năm trước.
Nhi quên cả muỗng kem cầm trên tay đang tan chảy, cô kéo ghế ngồi sát vào tôi, hai cánh mũi phập phồng hồi hộp.
- Tội nghịêp cho họ biết bao phải không chú? Rồi sau đó chàng thanh niên kia thế nào hả chú?
Nhi hỏi khi tôi vừa kết thúc câu chuyện.
Tôi nhìn Nhi:
- Rồi thì anh ta cũng lấy vợ, sinh con nhưng trong lòng vẫn không sao quên được mối tình ngang trái đó. Rồi vợ anh ta qua đời, con trai đi học xa, anh ta lại sống những ngày cô đơn buồn bã…
Nhi giật mình ngó sững tôi:
- Chú… vậy ra… vậy ra nãy giờ chú kể cho cháu nghe chuyện của chính chú phải không?
Tôi khe khẽ gật đầu.
- Tất cả những gì chú kể đều là sự thật? Hay là… thấy cháu sợ ma nên chú nhát cháu thế?
Tôi buồn bã:
- Tất cả đều là sự thật!
Trong lúc Nhi còn đang sững sờ, tôi nhìn thẳng vào mắt cô, nói tiếp:
- Cháu có biết ngày chia tay, cô gái ấy đã nói gì với chú không?
- Nói gì hả chú?
Nhi ngơ ngác hỏi.
- Cô ấy bảo nếu còn duyên thì ắt sẽ có ngày gặp mặt. Và điều mà cô ấy luôn nhắc đi nhắc lại với chú là dấu tích để nhận ra nhau khi cô ấy đầu thai kiếp khác.
Tôi vẫn nhìn thẳng vào Nhi.
- Dấu tích? Dấu tích gì vậy chú?
- Dấu tích đó là… ba nốt ruồi son xếp thành hình tam giác ngay sau gáy của cô ấy!
Tôi nói nhanh.
Nhi kêu lên thảng thốt:
- Chú… chú…!
Nhi buông rơi chiếc muỗng, sờ tay vào gáy mình, vẻ mặt hoang mang, lo sợ…
- Chú… chú đừng đùa như vậy, chú đừng nhát cháu như vậy, cháu… cháu sợ lắm…
Tôi nắm chặt bàn tay Nhi, nhìn sâu vào mắt cô:
- Không, chú không đùa, cũng không phải chú nhát cháu! Những gì chú kể hoàn toàn là sự thật, một sự thật hi hữu mà khó ai có thể tin được, nhưng nó đã xảy ra cho chú. Ngay lần đầu tiên nhìn thấy ba nốt ruồi đặc biệt ấy sau cổ cháu chú đã không khỏi bàng hoàng, chú không dám tin vào mắt mình, nhưng dù không muốn tin cũng không được…
Ngừng một lúc để quan sát Nhi, tôi nói tiếp:
- Cháu biết giữa cháu và cô ấy còn có điểm nào liên quan với nhau nữa không?
- Ý chú muốn nói là… cô ấy tên Thi, còn cháu tên Nhi?
Nhi lắp bắp.
Tôi lắc đầu:
- Không, chú không quan trọng vấn đề đó, tên người thì rất nhiều trùng hợp, không có gì lạ. Điều lạ kỳ là… ngày tháng năm sinh của cháu, chính là ngày cô ấy bỏ chú mà đi…
Nhi ngồi lặng đi rất lâu, mãi đến khi cơn xúc động qua đi, Nhi nhẹ rút bàn tay cô ra khỏi tay tôi rồi nhìn tôi với ánh mắt thật buồn:
- Vì thế nên bấy lâu nay chú luôn đối xử tốt với cháu?
Tôi chụp lấy tay Thi, giữ chặt nó trong tay mình:
- Không đâu, Nhi ơi… chú thương cháu… Ý chú muốn nói là… chú rất… yêu thương cháu… Cháu có hiểu điều đó không Nhi?
Nhi cười buồn bã:
- Chú thương cháu? Chú yêu cháu? Là vì qua cháu chú tìm lại được hình bóng người xưa?
Tôi lắc đầu:
- Không! Ngay giây phút đầu tiên nhận ra dấu vết người xưa trên người cháu, chú không khỏi bàng hoàng xúc động, nhưng khi những cảm xúc đó qua đi, trong lòng chú hoàn toàn không có bất kỳ một ý nghĩ đen tối nào với cháu. Bởi vì… ngoài dấu tích đó, giữa cháu và cô ấy hoàn toàn khác xa nhau, không có một điểm nhỏ nào giống nhau, về hình thức cũng như tính tình. Nên nếu bảo chú thương cháu vì qua cháu tìm lại bóng hình  người xưa là không đúng. Mãi đến khi có điều kiện tiếp xúc và gần gũi cháu, chú mới dần dần nảy sinh tình cảm…
- Chú nói thật?
Nhi rưng rưng nước mắt nhìn tôi.
- Có khi nào chú nói điều gì không thật với cháu đâu?
Tôi hỏi lại Nhi.
- Nhưng… nếu cháu… cháu không phải là hiện thân của cô ấy, kiếp trước của  cháu là một người hoàn toàn khác, thì liệu chú có… có dành cho cháu những tình cảm đẹp đẽ đó không?
Tôi khẳng định:
- Chú đã nói rồi, việc cháu có là cô ấy hay không không quan trọng nữa, vì đó chỉ là sự xúc động nhất thời ban đầu, tình cảm hôm nay chú dành cho cháu là vì cháu, hoàn toàn vì con người cháu chứ không chỉ vì ba nốt ruồi đặc biệt đó đâu. Lâu nay đã nhiều lần chú muốn giãy bày hết tâm sự của mình cho cháu hiểu, nhưng chú còn e ngại… chú sợ cháu không chấp nhận một người đáng tuổi cha chú như chú bây giờ… Chú biết… Chú không trách cháu đâu… Chú biết cháu khó lòng mà chấp nhận được một người như chú. Thôi thì… những gì cần nói với cháu hôm nay chú đã nói được hết rồi, dù sao thì chú cũng cảm ơn cháu đã chịu lắng nghe, cảm ơn cháu đã cho chú những ngày tháng thật sự vui tươi, thật sự đầm ấm trong ngôi nhà của cháu…
Tôi nói luôn một hơi rồi vội vã đứng lên dợm bước ra về.
Nhi níu tay tôi lại:
- Chú không muốn biết cảm nghĩ của cháu sao?
Tôi vỗ nhẹ lên vai Nhi, gượng cười:
- Chú biết… chú không trách gì cháu đâu… Cháu cũng đừng ngại, không cần an ủi chú đâu cháu ạ…
Bất chợt Nhi nhào tới ôm chầm lấy tôi, tay cô đấm thình thịch vào lưng tôi, nói trong nước mắt:
- Chú thật đáng ghét! Chú rất là đáng ghét… chú có biết không?
Quá bất ngờ, tôi cứ đứng sững như thế trong mấy giây, tới lúc chợt hiểu ta, tôi sung sướng ôm choàng lấy Nhi, nhấc bỗng cô lên xoay tít mấy vòng…
 
***
Sau khi chính thức công bố mối quan hệ mới giữa tôi và Nhi cho tất cả mọi người quen biết, điều đầu tiên tôi làm là đưa Nhi về Quảng Ngãi để thắp nhang cho ông bà cha mẹ và ra mắt các chị gái của tôi.
Trên đường đi, tôi không quên bảo tài xế dừng lại để đưa Nhi vào thăm lại nhà mồ của Thi. Nhưng… tuy nhà mồ vẫn còn đó mà ngôi mộ lại là mộ của người khác mất rồi.
Khi chúng tôi vào làng hỏi thăm thì được biết gia đình Thi đã bốc mộ cô từ lâu, nghe nói đưa về quê gửi ở một ngôi chùa nào ngoài đấy.
Về đến quê nhà, tôi đưa Nhi đi thăm viếng mộ phần cha mẹ và tất cả những người trong họ tộc, đưa Nhi ra mắt các chị tôi và bà con làng xóm.
Khi các cuộc viếng thăm đã gần như hoàn tất, tôi bảo Nhi:
- Ngày mai, anh đưa em tới một nơi…
- Nơi nào vậy anh?
Nhi tò mò.
Tôi mỉm cười:
- Bí mật, rồi mai em sẽ biết!
Sau bữa ăn sáng, tôi bảo tài xế lấy xe đưa hai chúng tôi chạy ngược theo quốc lộ, tìm tới ngôi nhà năm xưa Thi từng sinh sống.
Bà mẹ Thi năm nay đã ngoài tám mươi, mái tóc bạc bạc trắng, phất phơ lòa xòa trước trán.
Vừa nghe tôi và Nhi cất tiếng chào, bà hấp háy đôi mắt hom hem, run giọng hỏi:
- Thi phải không? Con mới về đó hở Thi? Hai à, Hai… em Thi con về rồi nè, nó về thăm mẹ rồi nè…
Thấy Nhi có vẻ lo sợ, tôi siết chặt cô ra dấu cứ yên tâm.
Bà lão kéo Nhi vào lòng sờ nắn, vuốt ve từ gương mặt đến cánh tay, đến từng ngón tay cô:
- Thi ơi, sao con con bỏ mẹ, con đi lâu quá mãi tới nay con mới chịu quay về… Con biết mẹ chờ đợi con mỏi mòn lắm không? Con có biết mẹ thương nhớ con lắm không? Thi ơi… Thi…
Anh Hai Thi có lẽ ngại với người khách lạ nên kéo tay mẹ:
- Mẹ! Mẹ lẩm cẩm rồi hay sao vậy? Đây là khách của nhà mình, đâu có phải là em Thi, mẹ làm vậy kỳ lắm đó!
Bà lão khóc ngất lên:
- Con đừng thấy mẹ già cả, mắt mờ tay run rồi bày trò dối gạt mẹ! LaØm sao mẹ lại không nhận ra đứa con gái tội nghiệp của mẹ được chứ? Con nhìn kỹ đi, nốt ruồi sau cổ của em con nè, có lầm với ai được mà con bảo mẹ lẩm cẩm…
Vừa nói, bà lão vừa tém mái tóc Nhi qua một bên, bàn tay nhăn nheo của bà cứ vuốt mãi mấy nốt ruồi đỏ rực.
Người anh Hai đứng ngây người ra nhìn, không hiểu nổi.
Mãi lúc sau, chừng như anh lấy lại bình tĩnh, mời tôi ngồi uống trà rồi chậm rãi cất tiếng:
- Mẹ tôi già rồi, cũng có hơi lẩm cẩm, mong anh chị vui lòng bỏ qua cho, đừng chấp nhất… Mà nghĩ cũng lạ, tuy bà đôi lúc có hay quên nhưng chưa bao giờ bà nhận lầm người như vậy, chưa bao giờ bà gọi ai là Thi, đứa em gái đã mất cách nay hơn hai chục năm của tôi. Lâu nay bà vẫn biết Thi đã chết. Vậy mà… không hiểu sao hôm nay vừa nghe thấy cô ấy, bà lại gọi ngay cô ấy là Thi… mà cũng lạ, cô ấy lại có mấy nốt ruồi giống hệt em gái tôi ngày trước…
Tôi mỉm cười, định kể tất cả mọi việc cho anh Hai của Thi được tường tận, nhưng nghĩ lại, thôi thì dù sao mọi việc cũng đã trôi qua rất lâu rồi, tất cả lùi vào quá khứ, khơi dậy làm gì cho người còn sống phải bận tâm thêm. Hãy để tất cả ngủ yên trong nấm mồ dĩ vãng…
Nghĩ thế nên tôi nói:
- Anh yên tâm, chúng tôi không nghĩ gì đâu. Trước kia tôi là bạn của Thi, nay có dịp về ngang qua đây nên ghé thăm gia đình. Còn việc mấy nốt ruồi đó chắc là do sự trùng hợp ngẫu nhiên thôi anh ạ! Anh cũng đừng nghĩ ngợi làm gì!
Trong lúc tôi và anh trai của Thi ngồi với nhau, thăm hỏi đủ điều thì nơi bộ ván giữa nhà, bà lão vẫn không thôi ôm Nhi vào lòng mà thủ thỉ nỗi nhớ niềm thương của người mẹ sau bao nhiêu năm dài mới được gặp lại đứa con yêu quý của mình.
Nước mắt bà lão lăn dài trên gương mặt nhăn nheo khốn khổ.
Nhi cũng không cầm được nước mắt.
Cô mồ côi từ bé, cô không được tận hưởng sự ấm áp của tình mẫu tử thiêng liêng. Suốt quãng đời tuổi thơ, Nhi được bà dưỡng nuôi dạy dỗ. Hai bà cháu một già một trẻ đã quấn quýt không rời, đã nương tựa vào nhau để chống chọi lại bao nhiêu thử thách của cuộc đời nhiều gian nan vất vả.
Bây giờ, nằm trong vòng tay già nua của bà lão, nghe những lời thống thiết bà nói ra Nhi tưởng như mình được nằm trong tay mẹ, tay bà như những ngày bà còn sống, nứơc mắt cô cũng tuôn chảy không ngừng…
Ban đầu tôi định đưa Nhi đến đó thăm hỏi một chút rồi lại quay về, nhưng thật không ngờ thái độ bà lão mẹ Thi lại như vậy, thành ra mãi đến trưa chúng tôi vẫn không có cách nào bứt bà ra khỏi Nhi để mà về được. ĐÀnh phải ở lại ăn bữa cơm trưa với gia đình.
Tất cả mọi người đều vui, nhất là bà lão.
Bà luôn nói:
- Mẹ gặp lại được con gái của mẹ rồi, có nhắm mắt mới được yên lòng, mẹ không còn hối tiếc điều gì nữa…
Tất cả những người trong nhà, ai nghe bà nói câu ấy đều cảm thấy mắt mình cay cay, đau xốn…
- Chúng tôi thật cảm ơn hai anh chị đã mang tới cho gia đình tôi niềm hạnh phúc lớn lao này… Nhờ có anh chị, mẹ tôi mới vui được như vậy!
Anh trai của Thi xúc động nói.
Tôi vỗ vào anh:
- Không có gì… chúng tôi cũng rất vui!
Mãi đến xế trưa, anh trai của Thi phải dỗ dành mãi bà lão mới chịu để cho chúng tôi ra về.
- Con qua bên Mỹ, nhớ lâu lâu về thăm mẹ nghe con?
Bà nắm tay Nhi dặn đi dặn lại mãi câu đó.
Bởi vì lúc nãy anh trai của Thi phải nói gạt bà:
- Mẹ để em nó đi đi, máy bay sắp cất cánh qua Mỹ rồi đó! Trễ chuyến bay em phải đi xe đò. Mẹ không nhớ em thường bị say xe sao? Mẹ không thương em sao?
Bà lão quýnh quáng:
- Ờ.. ờ… thôi con đi đi, kẻo trễ máy bay… Đi đi con… con không quen đi xe đò mà… Thôi, con đi máy bay đi…
Theo tôi ra về mà Nhi còn bịn rịn bà lão lắm.
Chúng tôi trao đổi số điện thoại và địa chỉ của anh trai Thi, hứa hẹn nếu có dịp sẽ tới thăm nhau.
Nhi căn dặn, khi nào bà lão trăm tuổi nhớ báo cho cô biết để cô về chịu tang thay thế cho Thi.
Người anh trai gật đầu, cười trong màn nước mắt.
Lên xe, Nhi ngã đầu vào vai tôi thút thít:
- Bà lão thật tội nghiệp. Phải chi ở gần, em sẽ nhận bà là mẹ, sẽ thay thế chị Thi mà yêu thương chăm sóc bà, để bà được yên vui, không còn buồn lo thương nhớ chị Thi lúc tuổi về chiều.
Tôi vuốt nhẹ lên mái tóc óng mượt của Nhi mà nghe lòng dâng tràn hạnh phúc. Tôi cảm thấy ông trời đã bù đắp lại tất cả những mất mát, đau thương mà tôi đã chịu trước kia bằng cách cho tôi có được người con gái hiền lành, nhân hậu này.
Và tôi nghĩ, ở dưới suối vàng, chắc Hiếu – vợ tôi – cũng hài lòng khi thấy tôi được một người như Nhi chăm sóc thương yêu và cùng tôi đi hết quãng đường còn lại của cuộc đời.
Tôi bảo tài xế tắt máy lạnh, mở toang hết cửa kính để đón những cơn gió mát rười rượi thổi từ cánh đồng lúa nằm dọc hai bên đường, những làn gió mang theo mùi mạ non thơm phưng phức…
Cuộc đời của mỗi con người có ai đoán được điều gì sẽ xảy ra?
Sau bao nhiêu mất mát đau thương, giờ phút này đây tôi thật sự hạnh phúc.
Tôi choàng tay qua vai Nhi, kéo cô sát vào tôi thêm nữa. Kề vào tai cô, tôi nói thầm:
- Nhi ơi… anh rất yêu em!
Gương mặt Nhi đỏ hồng lên.
Cô nhìn tôi, mỉm cười hạnh phúc nhưng trên khóe mắt cô lại long lanh chảy dài hai hàng nước mắt.
Ừ, đôi khi hạnh phúc tột cùng, người ta cũng khóc!
Tối đó về nhà, tôi gửi email cho con trai, nhắc nhở nó thu xếp công việc để về đúng ngày hôn lễ của chúng tôi.
Email vừa được gửi đi, thằng nhỏ đã gọi điện về chúc mừng, hứa chắc chắn với tôi:
- Ba yên tâm, con sẽ sớm một ngày! Dù công việc bận rộn đến đâu con cũng bỏ hết qua một bên. Ngày cưới của ba là quan trọng nhất đối với con mà! Con rất vui, ba ạ! Lâu nay ở bên này mà lòng dạ con không hề yên ổn. Tuổi ba ngày một cao, sống thui thủi một mình như vậy con thật không đành lòng.
Nó lại bảo tôi chuyển điện thoại cho Nhi:
- Con cảm ơn dì đã đến với ba con! Con thay mặt mẹ con, cảm ơn dì nhiều lắm…
Sau khi thăm hỏi Nhi đủ điều, nó kết luận bằng một câu như vậy, làm Nhi không cầm được nước mắt.
Tôi thấy mình thật hạnh phúc biết bao!
 
***
Về lại Sài Gòn, tôi và Nhi bắt tay ngay vào việc tổ chức hôn lễ.
Nhi chỉ muốn một đám cưới giản đơn đãi ở một nhà hàng bình dân nào đó.
Nhi cũng không muốn chọn những chiếc đầm, những chiếc xoa-rê lộng lẫy mà nếu mặc vào trông cô sẽ không khác gì những nàng công chúa trong truyện cổ tích hoặc những cô tiên xinh đẹp bay lượn trên trời…
Nhưng dù tôi cố nài ép mấy Nhi cũng không chịu, cô chỉ muốn một chiếc áo dài bình dị mà thôi.
Đám cưới của chúng tôi diễn ra thật ấm cúng, Khách mời toàn là các bạn bè thân thuộc. Ai cũng mừng cho hạnh phúc của tôi.
Tú, Hiển và mấy người bạn từng biết qua “thiên tình sử” của tôi với Thi năm xưa, khi nâng ly chúc mừng tôi, chúng nó không quên ghé sát tai tôi hỏi nhỏ:
- Lần này ông đã xác minh chưa? Có đúng là người thật không đó? Hay lại là một hồn ma?
Cả đám bật tiếng cười vang.
Nhi đứng khép nép bên cạnh tôi. Tuy với chiếc áo dài bình thường, nhưng hôm nay, trong mắt tôi Nhi lộng lẫy không khác một nàng công chúa…
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 15:42:01 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 22:19:02
ĐÁY AO OAN HỒN
 
Tiếng khóc ngằn ngặt của thằng bé từ gian nhà bên kia vọng sang làm bà Cả không tài nào ngủ được. Bà vừa cảm thấy bực mình, khó chịu lại vừa thấy xót cho thằng cháu đích tôn.
Liên tiếp mấy ngày nay, ngày nào nó cũng khóc, khóc đến khàn cả tiếng.
Bà đã giao cho đứa con dâu thứ hai của bà là cô Mỹ giúp trông nom thằng bé, chứ một mình ba nó thì chẳng làm được trò trống gì.
Càng nghĩ bà Cả càng thấy buồn tủi trong lòng.
Gia tài bà chỉ có ba mụn con. Phát là trưởng nam, anh trai kế là Đạt, và cô út Loan. Mấy năm nay cô út Loan đi học xa, nhà còn lại hai đứa con trai, đáng lẽ ra cũng vẹn bề êm ấm. Nhưng tất cả cũng chỉ tại Phát, đứa con trai khờ khạo của bà gây ra mọi chuyện.
Cả làng cả tổng này có thiếu chi con nhà quyền quý, danh gia vọng tộc, nó lại không thương, lại đem lòng thương yêu một đứa con gái nghèo xác nghèo xơ, một đứa mà bà ghét cay ghét đắng.
Mà theo bà, con nhỏ đó nào có yêu thương gì con trai bà, nó chỉ muốn dùng con trai bà càm cây cầu để một bước lên mây, để được bước chân vô cái nhà này và chờ ngày hưởng của.
Tất cả âm mưu quỷ quyệt của nó bà đều biết rất rõ qua đứa con dâu thứ hai là cô Mỹ.
Nhưng khi bà nói, Phát lại một mực bênh vực cho vợ nó mới tức chứ!
Cũng may, cũng may là ông trời còn có mắt, lòng dạ hiểm độc của nó đã sớm bị trời trừng phạt. Sanh cho bà thằng cháu đích tôn chưa được ba tháng, chẳng hiểu sao nó lại lộn cổ xuống ao mà chết đuối.
Kể ra cũng may! Cái gai trong mắt bà đã được nhổ đi rồi, bà lại lời thêm một thằng cháu nội. 
Từ hôm mẹ mất, thằng bé không chịu bú mớm gì cả! Bà đưa cho Mỹ bao nhiêu là tiền, dặn nó phải mua loại sữa nào tốt nhất, đắt tiền nhất để nuôi thằng cháu của bà, thế nhưng, sữa pha rồi đút vào mồm thằng bé lại nhè ra, nhất quyết không chịu bú. Thật là phí của.
Tiếc thì tiếc, nhưng vẫn phải tiếp tục mua, chẳng lẽ bà bỏ cho cháu nội yêu quý của mình chết đói?
Lâu lâu thì Phát cũng dỗ cho nó bú được chút ít, còn lại thì chỉ uống nước.
Mà lạ thật, sữa không uống mấy, lại mới vài ba tháng tuổi, sức lực ở đâu ra mà nó khóc khỏe đến thế không biết!
- Mỹ à, Mỹ! Con qua coi anh Hai con thức hay ngủ mà để thằng nhỏ khóc dữ vậy? Giúp nó dỗ một chút đi con!
Bà Cả lọ mọ ngồi lên, gọi với sang phòng vợ chồng thằng con trai thứ.
Nghe mẹ chồng gọi, Mỹ gỡ cánh tay chồng đang choàng qua người mình đặt xuống giường và thì thầm:
- Anh ngủ đi, em sang bên đó dỗ thằng nhỏ!
Đạt càu nhàu:
- Bóp cổ cho nó chết phức cho rồi, đồ tội báo oan gia, đêm ngày gì cũng không được yên với nó!
Mỹ đặt một ngón tay lên miệng chồng nói khẽ:
- Suỵt! Anh đừng ăn nói bừa bãi như vậy! Coi chừng “nhà có mạch vách có lỗ tai” đó! Mình đã vạch ra kế hoạch đâu đó rõ ràng rồi, lại cũng thực hiện được hơn phân nửa rồi, anh nôn nóng làm gì? Ráng nhẫn nhịn một chút đi anh, càng nhẫn nhịn má càng thương mình, mình càng có lợi chứ sao đâu! Thôi, ngủ trước đi cưng, để em đi làm nhiệm vụ đây!
Mỹ cúi xuống, hôn đánh chụt lên trán chồng một cái rồi õng ẹo đi ra.
Phòng của Phát vẫn sáng đèn, tiếng thằng bé khóc oe oe không ngớt vang ra nhưng lại không nghe tiếng Phát dỗ dành gì cả. Mỹ tức giận nhưng cố nén, cô dịu giọng gọi:
- Anh Hai! Anh Hai còn thức hay ngủ vậy? Sao thằng bé khóc mãi thế? Anh mở của cho em vào dỗ nó nín chút đi?
Không nghe tiếng Phát trả lời nhưng có tiếng dẹp lê trên nền nhà tiến ra cửa.
Phát một tay ôm đứa bé, một tay mở toang cánh cửa phòng.
Mỹ chìa tay ra:
- Anh Hai đưa cháu bé cho em!
Phát lặng lẽ trao đứa nhỏ cho Mỹ.
- Làm giống gì mà khóc dữ vậy con? Không để cho bà nội ngủ, bà nội đánh đòn con đó nghe chưa? Ngủ đi, ngủ ngoan đi rồi thím ba thương, thím ba mua sữa tốt về pha cho con uống, để con mau lớn nghe hôn?
Mỹ vừa đong đưa thằng bé trên tay vừa nói nựng.
- Anh Hai cho nó uống hết chỗ sữa em pha lúc nãy chưa vậy?
Mỹ quay sang hỏi Phát.
- Uống rồi, nhưng không hết! Sữa còn lại tôi để kia…
Phát trả lời.
Mỹ nói nhanh:
- Trời ơi, em đã dặn anh Hai biết bao nhiêu lần rồi mà anh hổng chịu nhớ giùm em. Thằng bé còn nhỏ, đồ ăn thức uống của nó phải thật vệ sinh, sữa nó uống không hết phải đem đổ đi ngay, rồi ngâm chai cho sạch, nhất là đừng bao giờ dùng miệng mình nút thử xem sữa có vừa hay chưa, làm như vậy dễ gây bệnh cho thằng nhỏ lắm, anh Hai phải nhớ! Nhà mình giàu có như vầy, má lại mới có đứa cháu nội đầu tiên, dù có tốn kém chút đỉnh em nghĩ má cũng không rầy la gì đâu!
Phát chừng như biết lỗi, ngồi ôm đầu:
- Tôi xin lỗi thím, tôi quên…
- Anh em trong nhà mà lỗi phải gì đâu, em chỉ muốn tốt cho con trai của anh mới nhắc nhở vậy thôi! Từ nay xin anh nhớ lấy!
Mỹ nhỏ nhẹ nói.
- Ừ, tôi sẽ ghi nhớ, tôi cám ơn thím nhiều lắm!
- Ơn nghĩa gì anh Hai, thằng nhỏ này là con của anh, là cháu đích tôn của má, nhưng nó cũng là cháu của em, vợ chồng em là chú thím, em cũng phải có trách nhiệm với nó chứ anh Hai. Còn anh nữa, chị Hai vắn số qua đời rồi, dù anh có thương nhớ đến đâu cũng không làm sao kéo chị ấy sống dậy được, anh phải biết chấp nhận sự thật mà đừng có tối ngày âu sầu ủ rũ như vậy nữa, anh biết má buồn biết mấy không? Má già rồi, mình làm con đừng để má buồn phiền nữa nghe anh Hai?
Mỹ vừa bế đứa nhỏ đi tới đi lui trong phòng, vừa nói chuyện với Phát.
Từng lời từng chữ của Mỹ bà Cả đều nghe rõ hết. Bà mát lòng mát dạ. Thật không uổng công bà đã hết lòng thương yêu vợ chồng nó.
Mỹ là đứa con dâu do một tay bà chọn lựa cho Đạt. Lúc ban đầu Đạt đâu có chịu cưới Mỹ, vì nhan sắc Mỹ chỉ ở mức trung bình, không được nổi bật như các cô gái khác trong làng mà Đạt từng quen biết.
Đạt sống phóng túng từ nhỏ, tiêu xài hoang phí, bồ bịch lăng nhăng. Chỉ tính nội trong cái làng này không thôi, Đạt đã từng tán tỉnh, yêu đương rồi bỏ rơi không dưới năm cô gái.
Bà Cả còn nghe đâu có một dạo, thằng Đạt nhà bà chết mê chết mệt cô Dịu, vợ của Phát sau này.
Đạt đeo theo Dịu sát nhíp, từng huênh hoang tuyên bố với bạn bè rằng trước sau gì Dịu cũng sẽ gục ngã dưới tay Đạt. Đạt vung tay không tiếc gì tiền của, chỉ muốn lấy tiền để mua chuộc, để lung lay tình cảm của Dịu. Nhưng dù hắn có làm cách nào thì Dịu vẫn một mực không ưng.
Cho dẫu nhà Đạt là một gia đình sang cả, tiền muôn bạc vạn, Dịu không hề quan tâm đến. Cô thẳng thắng nói với Đạt:
- Tôi không thương anh, dù anh có làm gì đi nữa tôi cũng không sao thương được anh. Xin anh từ nay đừng làm tôi khó xử nữa!
Bà Cả ghét cay ghét đắng Dịu từ dạo đó.
Việc Dịu thẳng thằng từ chối con trai bà giống như một cái tát mà Dịu đã gián tiếp tát vào mặt bà vậy!
Nó là ai? Nó là cái thá gì mà có quyền chê bai con bà? Dù nó có lạy lục van xin bà cũng không thể cưới một đứa nghèo rớt mồng tơi như vậy về làm dâu, nhưng nó không có quyền từ chối!
Nó chê con bà tức là nó chê cả gia đình bà. Mà nó chê gì chứ? Nó chê con bà ăn chơi, con bà không đàng hoàng, không đạo đức. Chẳng khác nào nó bảo bà không biết dạy con?
Bà Cả cay cú lắm.
Nhưng Dịu có nói những lời đó đâu? Tất cả những gì bà Cả nghe được là từ Mỹ.
Khi đó Mỹ chưa về làm dâu nhà bà. Má của Mỹ và bà Cả là chỗ bạn bè thân quen, hai người cũng có tính tới chuyện làm sui gia, bà Cả cũng đã nhiều lần đề cập với Đạt chuyện đó. Nhưng lần nào Đạt cũng bảo:
- Con nhỏ đó chỉ được cái dẻo miệng! Con không ưa! Vợ của con phải là đứa xinh đẹp chứ không thể là loại làng nhàng như vậy được!
Mỹ thì lại mê cái vẻ hào hoa của Đạt.
Cô tận dụng mối giao hảo giữa hai nhà để thường xuyên lui tới, to nhỏ chuyện này chuyện khác với bà Cả, chứ quanh năm suốt tháng bà có mấy khi ra khỏi ngõ đâu mà rành rẽ việc xảy ra bên ngoài.
- Con nghe nó nói mà con thấy tức giùm cho bác! Nó là đứa nghèo mạt hạng mà giả bộ làm cao. Chắc nó chỉ giả vờ giả vịt vậy thôi, để anh Đạt nhà bác phải không ngừng chu cấp của tiền cho nó. Nó ỷ vô chút nhan sắc trời ban đó mà lẳng lơ với hết thảy đám đàn ông con trai trong làng. Tại bác không biết đó thôi, làng này nó không chừa ai đâu, kể cả những người đã có vợ. Con cũng vì thương bác nên mới nói ra chuyện này, con sợ anh Đạt bị nó cho uống bùa mê thuốc lú rồi về khuân cả gia tài đem dâng cho nó cũng nên.
Những lời tỉ tê mỗi ngày của Mỹ đã nhen lên trong lòng bà Cả một ngọn lửa căm hờn.
Giữa lúc đang thất tình Dịu, lại bị bà Cả không ngừng thúc ép, Đạt đã bằng lòng cưới Mỹ.
Mỹ không đẹp, nhưng riêng cái khoản “chìu chồng” của cô thì lại không chê vào đâu được. Bởi vậy, ngay cả một đứa từng ăn chơi như Đạt mà sau khi cưới Mỹ về cũng phải chết mê chết mệt cô.
Đạt cưới Mỹ năm trước thì ngay năm sau, đùng một cái Phát báo tin Dịu đã có thai với anh và đòi bà Cả phải đi hỏi cưới Dịu cho anh.
Bà Cả tuy không ưa gì Dịu, nhưng nghe nói nó đã có thai, nghĩ tới cháu nội và nghĩ tới sự khờ khạo của con trai mình, bà cũng muốn chìu theo ý Phát.
Nhưng rồi bà lại kiên quyết từ chối, cũng chính do Mỹ bàn ra tán vô:
- Má ơi, tâm địa của con nhỏ đó sâu độc lắm, má ăn ở hiền lành quen rồi nên không hiểu hết nó đâu! Trước kia, nó giả làm cao, muốn cho anh Đạt phải quỳ lụy dâng gia tài cho nó. Nhưng anh Đạt là người thông minh, ảnh có bị lú lẫn gì đi nữa cũng là nhất thời nên đã sớm nhận ra bộ mặt thật của nó. Mất anh Đạt là coi như nó bị sẩy con cá lớn. Ngay lập tức nó quay qua mồi chài anh Hai. Mà má cũng biết rồi đó, anh Hai thì khờ khạo, hiền lành, làm sao thoát khỏi tay nó được. Nay nó nói nó đã có thai với anh Hai là muốn má rước vô nhà. Vô được đây rồi, con không biết nó sẽ tiếp tục giở thêm những trò gì ra nữa đây? Hổng chừng cả má, cả anh Hai lẫn vợ chồng con đều không sống nổi dưới bàn tay của nó. Cái nó nhắm vào chính là gia tài của má đó. Chứ má nghĩ xem, nó có nhan sắc như vậy, biết bao nhiêu người dòm ngó, không dại gì nó lại đi ưng một người… một người như anh Hai. Đứa nhỏ trong bụng nó cũng chưa chắc là con của anh Hai…
Bà Cả thấy những lời Mỹ nói hoàn toàn đúng!
Thằng Phát con trai bà là đứa khờ khạo, tuy đã lớn đầu như vậy mà trí óc của nó còn non kém lắm, không phát triển bình thường như người ta. Nó lại quá hiền, không giống như Đạt.
Vậy thì cái khả năng nó bị Dịu lợi dụng, nó là con cờ trong tay Dịu, khả năng đó rất lớn. Thằng con bà khờ, nhưng cũng còn bà, còn vợ chồng em nó, “cha nó lú thì cũng còn chú nó khôn”, Dịu đừng hòng mà xỏ mũi cả gia đình bà được.
Việc không chấp nhận Dịu về làm dâu, không nhìn nhận giọt máu trong bụng Dịu là cháu của bà là điều rất dễ giải quyết, vì lâu nay Phát luôn luôn nghe lời bà, chưa bao giờ Phát dám chống đối lại bà bất kỳ chuyện lớn chuyện nhỏ nào.
Nhưng, bà Cả không thể để xác suất giọt máu nhà bà lưu lạc bên ngoài xảy ra được.
Bà cho phép Phát đón Dịu về ở nhà sau, nơi mà các nhà sang trọng thường dành làm chỗ ở cho đám con hầu. Bà hứa hẹn, khi nào Dịu sinh con ra, nếu xác định đúng là con của Phát thì bà sẽ cho Phát cưới làm vợ, còn không thì phải lập tức tống cổ ra khỏi nhà.
Nhưng đến khi Dịu sinh, vừa trông thấy thằng bé, bao nhiêu hoài nghi, ngờ vực trong lòng bà Cả bỗng tiêu tan mất hết. Thằng bé giống Phát như in, nó chính là hình ảnh của Phát hai mươi năm trước!
Lòng bà Cả như mở hội. Bao nhiêu năm nay bà luôn mong mỏi được có một mụn cháu để bế bồng cưng nựng, để có người hương hỏa về sau. Vợ chồng thằng Đạt con bà cưới nhau hơn một năm rồi mà có nghe rục rịch gì đâu? Trong khi dáng người mông to ngực nở như Mỹ là dáng của đứa mắn con. Bà đã nhiều lần hối thúc, món ăn gì ngon bổ, dù đắt tới đâu bà cũng bắt mua về bồi dưỡng cho chúng nó, vậy mà hai đứa cứ trơ ra.
Giờ thì bà đã có được thằng cháu vàng cháu ngọc này rồi, mặc xác chúng nó, bao giờ có hẵng hay, bà không thèm quan tâm nữa!
Nhưng với mẹ nó, bà giải quyết cách nào đây?
Đứa bé vừa chào đời, nghe theo lời Mỹ, bà Cả không cho phép Dịu cho con bú với lý do người Dịu gầy ốm, sữa sẽ nóng, không tốt cho sự phát triển của em bé.
- Tao sẽ cho cháu nội tao bú loại sữa nào tốt nhất. Mầy yên tâm đi!
Bà Cả nói với Dịu như thế.
Dịu đau lòng lắm, nhưng cô biết phải làm sao?
Cô út Loan về mừng cháu, nói với mẹ:
- Dù chị ấy là người thế nào đi nữa, nhưng đã sinh cho anh Hai một đứa bé kháu khỉnh dễ thương như thế này rồi thì mẹ cũng nên cho chị ấy một danh phận chứ!
- Đành là vậy, nhưng vì con ở xa con không hiểu, con đó tâm địa sâu hiểm lắm, nó chỉ muốn chiếm lấy gia tài này thôi con ơi!
Bà Cả than thở.
- Sao má lại nghĩ xấu người ta như vậy?
Út Loan trách mẹ:
- Không phải má nghĩ xấu cho nó, mà bản chất nó là như vậy, nó giăng bẫy anh Ba con không xong mới quay sang bắt xác anh Hai con đó! Có có nhan sắc như vậy, nếu không vì của cải của gia đình mình, mắc mớ gì nó lại đi thương một đứa ngớ ngẩn như anh Hai con chứ?
Út Loan lắc đầu:
- Thiệt là rắc rối, nhưng con nghĩ cũng có thể chị ấy thương hại anh con, rồi từ thương hại chuyển thành thương thật cũng đâu mấy hồi, má đừng đối xử hà khắc quá tội nghiệp chị ấy. Với lại sau này thằng bé lớn lên, má phải nói với nó sau đây? Má đối xử không tốt với má của nó, liệu nó có đối xử tốt, có thương yêu má hết lòng không? Hay lúc ấy nó lại oán trách má?
Bà Cả giống như người đứng giữa hai dòng nước. Một bên là Mỹ bàn ra, một bên là Út Loan tán vô, mà bên nào cũng có cái lý của nó, bên nào nói nghe cũng phải. Vậy mới khó xử cho bà.
Ngày còn trẻ bà là người quyết đoán lắm, một khi bà đã quyết rồi thì khó ai có thể làm cho bà thay đổi được. Nhưng ngày nay bà đã già yếu lắm rồi, bà không còn tự tin vào bản thân mình nữa. Đứng trước vấn đề nào bà cũng phân vân lưỡng lự, do dự đắn đo. Huống hồ chi đây lại là một vấn đề lớn lao, trọng đại của gia đình.
Bà Cả hứa với Út Loan trước khi con gái trở lên trường để tiếp tục học:
- Má hứa, một thời ngắn nữa, để má dò xét thêm tính tình nó một chút, nếu quả thật nó thương yêu anh Hai con thì má cũng đâu có hẹp hòi gì mà không cho hai đứa nó chính thức thành chồng thành vợ. Con yên tâm đi, má là người biết suy xét.
Nghe mẹ nói vậy cô út cũng yên lòng. Thật ra, những việc xảy ra trong nhà cô út hoàn toàn không biết gì, cô lại còn nhỏ tuổi, không quan tâm lắm tới chuyện của người lớn. Những ngày nghỉ ngắn ngủi được về với gia đình là cô chỉ biết chuyện trò với mẹ, đòi hỏi các món ăn, mua sắm thêm nhiều vật dụng… Nên những thông tin cô nắm được rất ít ỏi, lại đến chủ yếu từ phía chị dâu thứ hai, thành ra cô phầ nào cũng có chút ác cảm với Dịu. Nhưng không hiểu sao cô cứ thấy thương thương và tội tội cho chị ấy, không rõ tại sao nữa.
Nhưng cô út và bà Cả, hai người hoàn toàn không biết tất cả sự thật lại không giống chút nào với những gì Mỹ kể.
 
***
Sinh ra trong một gia đình nghèo, đông anh chị em, Dịu chỉ được đi học đến khi biết ráp vần là phải ở nhà phụ giúp ba má giữ gà, giữ vịt và trông coi em bé. Lớn lên một chút cô ra đồng chăn trâu, mót lúa. Đến tuổi thiếu nữ, Dịu suốt ngày cấy gặt ngoài đồng.
Cuộc sống tuy vô cùng lam lũ, vất vả nhưng nét đẹp trời ban cho cô cứ ngày một rỡ ràng thêm.
Con gái trong làng đứa nào cũng thầm ghen với nhan sắc của Dịu. Còn với đám đàn ông con trai thì khỏi nói. Những anh hiền lành ít nói thì âm thầm nuôi mộng tương tư, những gã ba hoa mồm mép thì không ngần ngại tán dương khen ngợi, xun xoe đưa đón… Cả những ông sồn sồn đã có vợ con cũng không ít kẻ tòm tem dòm ngó.
Nhưng Dịu là một cô gái biết tự trọng.
Cô không vì những lời ve vãn ngọt ngào, những món quà đắt tiền mà cả trong mơ cô cũng không dám thấy, không vì cái vẻ hào nhoáng bề ngoài của đám công tử con nhà giàu mà dễ dàng rung động.
Dịu quen sống với cuộc đời đạm bạc, cô không có tham vọng gì, chỉ mơ ước có được một người chồng biết chí thú làm ăn, biết thương yêu cô chân thật.
Mặc cho ong bướm dập dìu, Dịu vẫn bình thản sống những ngày êm đẹp của đời con gái.
Nhưng rồi tình yêu đã đến gõ cửa trái tim cô. Và cuộc đời cô bắt đầu nổi lên sóng gió từ khi ấy.
Việc hai anh em con bà Cả đều có tình ý với Dịu thì cả làng này có ai không biết. Dịu cũng biết điều đó, nhưng lòng cô vẫn bình lặng trước cả hai người.
Nhưng cách đeo đuổi của anh em nhà ấy lại hoàn toàn trái ngược nhau.
Ban đầu thì Đạt không ngừng chọc ghẹo, bỡn cợt Dịu, sau đó Đạt lại vung tiền ra mua đủ thứ quà cáp, đưa tận tay Dịu không nhận, Đạt lại nhờ người đem tới tận nhà, thậm chí Đạt để quà ngay ở cửa ra vào nhà Dịu, nhưng cô nhất định không nhận bất kỳ món nào dù nhỏ hay lớn.
Không ít lần Đạt chặn Dịu lại giữa đường toan giở trò sàm sỡ.
Còn Phát, anh chỉ lặng lẽ dõi nhìn Dịu từ xa. Anh yêu Dịu ai cũng biết, nhưng chưa bao giờ anh trực tiếp tỏ tình hay bóng gió xa xôi. Có lẽ tại anh là kẻ khù khờ, không biết nói những lời hoa mỹ, không biết nịnh đầm, bợ đỡ như những thanh niên khác.
Có những buổi trưa, Dịu và những người nông dân khác cùng nhau về nhà ăn cơm, lúc quay lại, khi thì bờ cỏ Dịu đang làm dang dở, luống mạ Dịu chưa kịp nhổ xong, đám mía Dịu đang đánh lá… đã có người làm giúp.
Không nói ra nhưng Dịu biết người đó là ai.
Phát yêu Dịu một cách âm thầm, lặng lẽ, anh giống như một vị thần hộ mệnh của Dịu, luôn luôn xuất hiện vào những lúc Dịu gặp điều nguy hiểm nhất.
Lần đầu tiên cách nay đã lâu, trong một đêm trăng Dịu đi gánh nước ở ao làng. Đến chuyến thứ ba, vừa khỏa thùng xuống ao, chưa kịp múc đầy nước Dịu đã chới với suýt ngã nhào vì có ai đó từ phía sau bịt chặt miệng cô. Giữa lúc Dịu lảo đảo sắp té, một cánh tay khác vòng qua ôm ngang bụng cô, nhấc bổng cô lên các bậc thang cầu ao, kéo cô vào vườn chuối cạnh đó.
Dịu quẫy đạp, cào cấu, nhưng làm sao đủ sức chống chọi với một gã thanh thiên đang lên cơn dục vọng. Gã bật lên một tràng cười thỏa mãn:
- Rượu mời không uống, mầy muốn uống rượu phạt phải không con? Mầy đừng trách tao, tất cả đều do mầy tạo ra thôi… Ngoan, ngoan đi… Nếu sau lần này mà mầy thấy thèm mùi của tao thì tao cũng nghĩ tình hỏi cưới mầy đàng hoàng đó…
Dịu hoảng hốt nhận ra gã thanh niên đó chính là Đạt, người vừa bị cô thẳng thắng cự tuyệt lúc chiều.
Khi những chiếc khuy áo của Dịu vừa bung hết ra, phơi bày một vùng ngực trắng trẻo dưới ánh trăng thì bỗng đâu một bóng người từ ngoài nhảy bổ vào đánh tới tấp vào đầu, vào lưng Đạt.
Quá bất ngờ, Đạt không đủ sức chống chọi đành buông Dịu ra, ôm đầu bỏ chạy một hơi mất dạng.
- Em có sao không?
Người đàn ông cất tiếng hỏi.
- Anh là… anh Phát?
Trong ánh sáng nhập nhòa của bóng trăng soi qua những tàu lá chuối dày đặc, Dịu đã nhận ra người cứu mình chính là Phát, anh ruột của Đạt.
Dịu ngồi lên, run rẩy cài lại mấy chiếc nút áo đã bị bung ra.
- Em… em cám ơn anh Phát. Sao anh biết mà ra đây cứu em?
Nghe Dịu hỏi, Phát lúng túng:
- Tôi… tôi đi theo Dịu… rồi tôi nhìn thấy…
Dịu cài áo xong, gục mặt lên đầu gối khóc thút thít.
Phát cũng ngồi xuống đối diện với Dịu nhưng anh không nói một lời nào, hai bàn tay ngắt vụn đám lá chuối khô dưới chân, vẻ mặt anh vô cùng khổ sở.
Ngồi một lúc, Phát chợt nhớ ra đứng lên nói:
- Để tôi đi lấy thùng cho Dịu.
Dịu ngước gương mặt đẫm nước mắt lên, chưa kịp nói lời nào Phát đã quăng cái áo lên bờ rồi nhảy ùm xuống ao mò lấy hai chiếc thùng và tìm cây đòn gánh trôi trên mặt nước.
Xong đâu đấy, Phát đứng chờ mặt nước ao hoàn toàn phẳng lặng, anh cúi xuống vục đầy hai thùng nước gánh lên bờ đặt trước mặt Dịu:
- Em về đi Dịu, khuya rồi… đừng ở đây…
Dịu líu ríu đứng lên.
- Hay… để anh gánh giúp Dịu về nhà?
Phát ngập ngừng.
Dịu hoảng hốt lắc đầu:
- Không… không… anh Phát cứ để em gánh!
Phát không nói thêm câu nào, chỉ lặng lẽ trao cho Dịu chiếc đòn gánh.
Dịu lau nước mắt, khom người đặt gánh lên vai:
- Em cảm ơn anh Phát nhiều lắm! Em về…
Dịu chào Phát rồi tất tả gánh nước về. Qua khỏi ngã ba một đoạn, cô khé quay lại nhìn thì thấy Phát không rẽ về hướng nhà bà Cả mà vẫn âm thầm đi theo sau cô, nhưng giữ một khoảng cách thật xa, đủ để cô không bị những lời dị nghị.
Đó là lần đầu tiên Dịu cảm thấy lòng mình rung động trước tình cảm của một người đàn ông. Nhưng đó chỉ mới là những rung cảm mơ hồ, thoảng qua rất nhẹ.
Sau đêm ấy không lâu thì Dịu nghe tin Đạt đi cưới vợ. Từ đó hắn cũng thôi không chận đường chận lối chọc ghẹo gì cô nữa. Dịu mừng thầm trong bụng. Cô cũng bớt dần cảnh giác mỗi lúc đi đâu vào ban đêm hay lúc một mình giữa cánh đồng vắng vẻ.
Một đêm mưa tầm tã, Dịu một mình trong căn chòi nhỏ dựng tạm ven nghĩa địa để trông coi bầy vịt thả đồng.
Ở thôn quê, sau mỗi mùa gặt, khi cả cánh đồng bát ngát chỉ còn trơ lại gốc rạ và những hạt lúa vương vãi sau khi thu hoạch, người ta thường lùa đàn vịt có hàng trăm con đến thả rong ở đó.
Ban ngày cho chúng thỏa sức chạy tìm những hạt lúa rơi rớt, đêm xuống thì quây mành nhốt lại để sáng hôm sau lại tiếp tục thả chúng ra, mãi đến khi nào nhặt sạch mới thôi, mới lùa chúng tới một cánh đồng khác cũng vừa mới gặt xong.
Để tránh những trường hợp mích lòng có thể xảy ra khi vịt của người này nhập vào đàn vịt của người khác, hoặc trứng của đàn vịt này lại bị chủ của đàn vịt khác nhặt đi, người nông dân thường tự dàn xếp chia ranh giới với nhau. Đàn vịt của anh ở khu vực này, đàn vịt của tôi ở khu vực bên kia, cách nhau một khoảng đủ xa để không gây ra sự nhập nhằng khó xử.
Thường khi Dịu ở trông vịt cùng với đứa em trai kế, nhưng đêm ấy nó bị cảm sốt, Dịu bắt em phải về nhà ngủ vì sợ để nó ngủ ở giữa đồng nhiễm thêm sương gió.
Đêm ấy trời mưa lớn lắm. Nước tuôn xối  xả, gió giật muốn bật tung cả mái của căn chòi. Cây đèn bóng hột vịt để trong góc nhà bị gió làm cho tắt phụt đi mà Dịu cũng không muốn ngồi lên thắp lại.
Cô nằm co người, kéo chiếc mền mỏng tang lên đến tận cằm.
Dịu nghe đói bụng. Cô ước gì giữa đêm mưa gió ầm ào như vầy mà được ló đầu ra khỏi mền để ăn một trái bắp hoặc một củ khoai lang nướng thì sung sướng biết bao nhiêu!
Cái thói ăn vặt này là do thằng em trai của Dịu bày đầu. Ngủ trong rẫy thì nó nướng bắp, nướng khoai, ngủ chăn vịt giữa đồng thế này thì nó nướng… trứng vịt.
Nó lấy đất dẻo bao một lớp xung quanh trứng vịt, gom rơm rạ thành một đống nhỏ, đốt cho cháy bùng lên rồi lùi quả trứng đã bọc đất vào. Tới chừng lớp đất bên ngoài khô ran, bắt đầu xuất hiện những lằn rạn nứt thì khều ra, lấy tay gỡ bỏ lớp đất bên ngoài, vừa hít hà vì nóng, lại vừa hít hà không ngớt vì mùi thơm lựng của lớp trứng vịt bên trong.
Dịu mỉm cười khi nhớ lại niềm hạnh phúc đơn sơ đó.
Bỗng Dịu nghe tiếng bầy vịt rộ lên bên ngoài, chắc là có chó hoặc người lạ tới.
Cô lui cui ngồi dậy, còn đang đánh diêm châm lửa thì cánh liếp cửa bị ai đó nhấc xịch qua một bên, một  bóng người trùm áo mưa kín mít vừa lách người vào.
Ban đầu Dịu nghĩ đó là em trai, nhưng cô biết ngay là không phải khi que diêm lóe lên soi rõ một góc nhà.
Dịu rụng rời làm rớt que diêm xuống đất, cô bật dậy định tông cửa chạy ra ngoài vì gương mặt mà cô vừa trông thấy chính là Đạt, kẻ đã hơn một lần muốn giở trò đồi bại với cô.
Nhưng Đạt đã đứng sừng sững chận ngay lối ra vào duy nhất của căn chòi nhỏ.
Dịu hét to:
- Anh muốn làm gì? Anh đi ra khỏi đây mau lên, tôi… tôi la lên bây giờ…
Đạt lúc này đã cởi được áo mưa, hắn hất hất cái đầu để rũ hết những giọt nước còn bám trên mớ tóc lòa xoà trước trán.
Hắn nhìn Dịu, cười một cách đểu giả:
- La đi, mầy có giỏi thì cứ la làng lên đi! Lần trước là mầy gặp may, nhưng lần này mầy đừng hy vọng gì nữa! Giữa một đêm mưa gió như thế này, ở giữa cánh đồng vắng vẻ này chẳng khi nào lại xuất hiện một thằng cô hồn nào có thể ra tay nghĩa hiệp để cứu mầy đâu. Tao đã cảnh cáo mầy nhiều lần mà mầy vẫn ngoan cố không chịu nghe! Bất cứ cái gì mà cậu Ba này đã muốn thì phải lấy cho bằng được, mầy có hiểu không?
Vừa nói, Đạt vừa tự cởi phăng chiếc áo đang mặc trên người, vứt vào một góc, hắn cởi luôn chiếc quần cụt phía dưới.
Trước mặt Dịu lúc này hắn hoàn toàn trần truồng, ánh đèn trong góc nhà thỉnh thoảng lại hắt qua một bên, soi rõ thân hình hắn.
Dịu kĩnh hãi lùi dần mãi vào trong. Cô run rẩy:
- Tôi… tôi van anh… Anh đừng làm càn, anh không sợ tôi nói lại với vợ anh sao?
Đạt bật cười lớn:
- Mầy định hù doạ tao hả? Cô em ơi, đừng có quá ngây thơ như vậy! Ai tin? Cô nói ra liệu có ai tin? Ai là người làm chứng?... Thôi, cứ ngoan ngoãn mà chìu chuộng anh, biết đâu anh không nỡ vùi hoa dập liễu, anh sẽ đối xử đàng hoàng, nếu muốn, thì anh có thể cưới về làm mợ ba nhỏ để cả đời sung sướng…
Vừa nói hắn vừa tiến dần về phía Dịu. Lúc này Dịu đã lùi vào sát vách, không còn chỗ nào để cô tiếp tục bước lùi nữa.
Dịu ngồi thụp xuống, vòng tay qua ôm cứng phía trước mình.
Đạt nhảy bổ tới giống như con cọp vồ mồi, hắn nhấc bổng Dịu quẳng mạnh lên chiếc chõng tre bên cạnh.
Đau đớn, sợ hãi, Dịu bật lên những tiếng kêu cứu, nhưng tiếng gọi thảm thiết của cô gái yếu đuối đã nhanh chóng bị tiếng mưa tiếng gió ngoài kia nhấn chìm rồi tan mất hẳn.
Đạt chồm lên người Dịu, kéo tuột chiếc quần và xé nát chiếc áo bà ba cô đang mặc trên người. Bàn tay thô rám và nóng sực của hắn chạm vào khuôn ngực đầy đặn của Dịu khiến cô co rúm cả người.
Một cơn gió mạnh thốc vào, ánh sáng le lói nơi góc nhà vụt tắt.
Cả một khối thịt đổ sấp lên người Dịu. Nỗi hoảng loạn làm Dịu như điên lên được! Cô không không ngừng cào cấu, vùng vẫy nhưng thật tội nghiệp cô, cô chỉ là một cô gái mảnh mai yếu đuối…
Dịu đã mệt lả nhưng vẫn không ngừng kêu cứu. Đạt thì giống như loài mèo đang vờn con mồi nằm trong tầm tay mình. Đạt không có gì phải hấp tấp, phải vội vã. Cơ hội ngàn năm có một. Bữa tiệc linh đình đã bày ra sẵn sàng trước mắt hắn rồi, hắn phải tận hưởng một cách thật trọn vẹn.
Bất chợt cánh cửa liếp bị ai đó đạp tung ra, một bóng người từ ngoài ùa vào cùng với gió mưa lướt thướt.
- Buông cô ấy ra! Mầy buông cô ấy ra ngay!
Một giọng gầm lên.
Đạt giật mình ngồi bật dậy:
- Anh… anh Hai? Anh đi đâu giờ này?
Dịu quơ vội chiếc mền bên cạnh quấn chặt vào người, rúc vào ngồi im trong góc.
- Mầy đứng lên rồi đi về ngay!
Phát lại gầm lên. Bóng người vừa ào vào nhà chính là Phát.
Chiều nay, Phát thấy Đạt dạo qua dạo lại khu vực này mấy lần nên anh cũng hơi nghi ngờ Đạt đang rình rập Dịu, vì anh biết khu này là nơi gia đình Dịu đang cho vịt chạy đồng. Anh cũng biết đêm nào hai chị em Dịu cũng ngủ ngoài này.
Nghĩ vậy thôi chứ Phát không lo sợ lắm, vì Dịu có em trai bên cạnh. Đạt tuy là đứa ngổ ngáo nhưng nó cũng không dám hành động gì khi có mặt của người thứ ba.
Trời mưa to gió lớn, Phát đã vô giường ngủ, bất ngờ nghe tiếng Mỹ nói với mẹ chồng:
- Trời mưa như vầy mà anh Đạt đi đâu mãi tới giờ cũng chưa thấy về, chút nữa ảnh về má rầy ảnh giùm con nghe má, lúc này anh lại bắt đầu đi rong đi rêu khắp làng nữa rồi…
Phát bật dậy, len lén ra khỏi nhà rồi cắm đầu chạy một mạch về phía cánh đồng, không kịp lấy theo chiếc áo che mưa.
Nhờ ánh sáng của những tia chớp nhì nhoằng xẹt qua xẹt lại trên bầu trời, Phát nhanh chóng xác định được vị trí căn chòi của Dịu. Khi chạy gần đến, anh nghe lẫn trong tiếng mưa rơi, tiếng gió rít là tiếng người kêu cứu, tiết người vật nhau ì ạch.
Biết chắc đã có điều không may xảy ra cho Dịu, Phát không kịp suy nghĩ gì thêm, vớ ngay khúc cây bên ngoài đạp mạnh cửa tiến vào.
Điều anh nghi ngờ quả không sai chút nào.
- Mày cút ra khỏi đây ngay!
Phát lăm lăm khúc cây trên tay tiến dần vào trong, ánh chớp lóe lên, anh nhìn thấy rõ ràng thằng em trai mất dạy của mình đang trần truồng như nhộng.
Một nỗi uất ức dâng lên bóp nghẹt trái tim Phát. Nước mắt anh trào ra, anh quất tới tấp vào thằng em đang đứng ngẩn ngơ trước mặt.
- Anh Hai… em xin anh… Đừng đánh nữa… Em về đây… Đừng đánh nữa… Em chết mất anh Hai ơi…
Đạt quỵ xuống, ôm lấy chân Phát van xin.
Phát dừng tay, đứng thở dốc một chút rồi bảo:
- Mầy mặc quần áo vô, cút ngay!
Đạt quờ quạng dưới sàn nhà, vơ vội bộ áo quần rồi chạy bay ra cửa.
Từ nhỏ Đạt vốn đã rất sợ những trận đòn của Phát. Người anh đó tuy trí óc không bằng ai nhưng lại có một sức mạnh hơn người.
Khép cửa lại, Phát khẽ nói với Dịu:
- Tôi không đốt đèn lên lúc này đâu, em mặc quần áo vào đi!
Dịu sực tỉnh, cô òa lên khóc ngất.
Phát bối rối nhưng vẫn đứng yên một chỗ.
Dịu tìm được áo quần và mặc vào người, nhưng áo của cô đã bị Đạt xé rách toạt một mảng lớn trước ngực, thành ra Dịu vẫn phải quấn mền quanh người.
Mặc xong áo quần, Dịu mò vô góc nhà thắp lại ngọn đèn rồi tới giường ngồi nép vào một góc khóc mãi không thôi.
Phát lúng túng đi lại gần bên Dịu:
- Dịu nín đi… Dịu đừng khóc nữa! Dịu khóc hoài như vậy tôi chịu không nổi đâu…
Nước mắt hòa cùng với những giọt nước mưa đang chảy tràn từ tóc xuống mặt Phát.
Bỗng dưng Phát cảm thấy lạnh. Hai hàm răng va vào nhau lập cập, áo quần anh sũng nước.
Đang khóc nhưng Dịu vẫn nhận ra vẻ khác lạ nơi Phát. Cô hoảng hốt chạy vội tới cầm cây đèn soi vào mặt Phát. Đôi môi anh tái ngắt đang run lên bần bật, Phát đứng gần như không vững nữa, anh phải bấu tay vào vách.
Dịu lật đật đỡ Phát ngồi lên giường, lấy chiếc khăn nhỏ xíu gần đó lau mặt, lau tóc cho anh. Nhưng cả người Phát đang ướt sũng. Dịu lúng túng không biết phải tính làm sao.
Giữa lúc đó, Phát lại không thể nào gượng nỗi nữa, anh ngã vật xuống giường bất tỉnh.
Hoảng hốt, Dịu định lay gọi Phát dậy nhưng phát hiện người anh đang sốt cao nóng bỏng.
Phát đã bị cảm sốt hai ngày rồi, mới đây lại đàm mưa trong đêm tối, gió mưa ngấm vào người, hợp nhau quật anh xuống.
Dịu không ngại ngùng gì nữa, cô vội vã cởi bỏ áo quần của Phát, lấy khăn lau khô người anh rồi kéo mền đắp kín Phát lại.
Cô vắt thật khô bộ đồ rồi đem phơi lên vách.
Người Phát vẫn nóng sực nhưng anh lại rên hừ hừ và hàm răng vẫn không ngừng va đập.
Sợ hãi, lo lắng, Dịu không biết phải làm sao giữa đêm tối như thế này? Cuối cùng, cô nghĩ được một cách nhưng còn ngần ngại…
- Anh ấy đã hai lần cứu mình thoát khỏi tay tên khốn nạn đó, hôm nay cũng vì cứu mình mà anh ấy mới ra nông nổi như vậy. Mình còn tiếc gì với anh ấy nữa! Nếu không có anh, đời con gái của mình đã bị tên đốn mạt đó hủy đi rồi…
Dịu nói thầm với mình và mạnh dạn lên giường, nằm đè lên người Phát. Cô muốn truyền hơi ấm từ cơ thể mình sang Phát.
Đến lúc Phát tỉnh lại thì Dịu đã ngủ quên trên người anh.
Dẫu cho đầu óc kém phát triển, nhưng Phát cũng đủ tỉnh táo để biết Dịu đang làm gì. Anh xúc động đến nghẹn ngào.
Phát nhẹ nhàng nghiêng người để đặt Dịu nằm xuống giường.
Dịu choàng tỉnh, cô e ngại rồi bỗng dưng lại bật thành tiếng khóc không kiềm chế nỗi.
Phát âu yếm ôm chặt cô trong vòng tay, đặt lên môi lên má cô những nụ hôn nóng bỏng.
Việc gì đến đã đến, trong cái đêm mưa gió mịt mùng trong căn chòi nhỏ giữa cánh đồng hiu quạnh ấy, Dịu đã hiến dâng đời con gái của mình cho Phát, người mà cô cảm thấy rất xứng đáng với mình.
Đến lúc biết mình có thai, Dịu vô cùng lo lắng. Nhưng Phát lại rất vui.
- Em đừng lo, anh sẽ về nói má anh qua nhà hỏi cưới em về làm vợ anh, sắp có cháu nội rồi, má anh không từ chối em đâu.
Rồi thì bà Cả cũng cho người bước tới gia đình cô, nhưng không phải là hỏi cưới. Họ chỉ đến để thông báo với cô rằng bà Cả vì thương con trai nên đồng ý cho cô tạm thời tới ở nhà bà để chờ ngày sinh nở. Nếu khi sinh ra, đứa con đó đích thực là con của cậu Hai thì mọi việc sẽ tốt đẹp, còn nếu như không phải, nếu như cô đã cho ai ăn ốc mà để vỏ bắt cậu Hai đem đổ thì cô sẽ khó sống mà quay về.
Dịu biết mình sẽ không dễ gì sống yên thân trong ngôi nhà của bà Cả, nhất là trong ngôi nhà đó có sự hiện diện của Đạt, một kẻ luôn rình rập để hủy hoại cô. Dịu cũng biết, mặc dù hết lòng yêu thương Dịu nhưng Phát cũng không đủ khôn ngoan để bảo bọc, chở che cô trước những con người ranh ma quỷ quyệt trong ngôi nhà đó.
Nhưng nếu không về đó Dịu còn biết đi đâu?
Làm thân con gái chưa chồng mà bụng mang dạ chửa, ai dám cưu mang cô? Rồi còn gia đình, còn cha mẹ, còn dòng họ của cô nữa, mọi người sẽ xấu hổ mà chết mất thôi. Rồi sau này khi đứa con sinh ra, nó sẽ sống làm sao đây?
Thà rằng về đó, dẫu không được rỡ ràng cưới hỏi, nhưng dù sao cũng là đi làm dâu, làm vợ người ta, cha mẹ ông bà đỡ phải bị miệng đời thị phi đàm tiếu, con mình sinh ra cũng được có cha.
Và một điều quan trọng hơn hết là Dịu đã rất yêu thương Phát! Cô không muốn anh buồn khổ. Thà một mình cô chấp nhận để những người thân của cô, những người mà cô hết dạ thương yêu được sống một cuộc sống yên lành, vui vẻ.
Vậy là Dịu chấp nhận bước vô nhà bà Cả một cách âm thầm lặng lẽ.
Người ta dành cho cô một chái nhà phía sau, họ nói rõ ràng, nếu Phát có thương cô thì tìm xuống đó, chứ tuyệt đối cô không được ngủ ở phòng của Phát.
Không những thế, bà Cả còn bắt Dịu phải làm việc quần quật cả ngày còn hơn người ở.
Phát xót ruột khi thấy Dịu vất vả, nói với bà Cả thì bà cười như chẳng có việc gì quan trọng:
- Ối, nó bầu bì, phải vận động luôn tay luôn chân như thế thì sau này sanh đẻ mới dễ dàng chứ!
Phát không biết chống chế ra sao, đành phải lặng im nhìn người mình thương chịu nhiều khổ sở.
Thấy Phát buồn, Dịu phải làm ra vẻ vui tươi an ủi anh:
- Anh đừng lo, hồi ở nhà em làm lụng quen rồi, bây giờ làm công việc nhà cũng đâu có gì nặng nhọc. Bây giờ má không thương em vì không tin đứa con trong bụng em là con của anh, nhưng mai mốt khi con chào đời, em tin là má sẽ đối đãi với em tốt hơn. Vợ chồng mình ráng chịu đựng đi nghe anh! Có anh thương em, em không sợ gì hết, dù có cực khổ hơn nữa em cũng cam tâm.
Phát ôm vợ vào lòng, hy vọng một ngày không xa, khi đứa bé cháu đời vợ anh sẽ không phải chịu những thiệt thòi như vầy nữa.
Nhưng hai vợ chồng Phát không thể ngờ rằng người không muốn Dịu sống ở đây, người căm ghét Dịu nhất không phải là bà Cả, cũng không phải là Đạt, mà người đó không ai khác Mỹ – vợ Đạt.
Bà Cả không ưa Dịu chẳng qua do những lời xúc xiểm của Mỹ mà ra. Bản chất của bà Cả cũng không phải là người ác độc, tuy bà có phần hợm hĩnh, khinh người.
Đạt thì ghen tức vì Dịu đã từ chối mình để ưng lấy cái thằng anh ngu ngốc, đó là một sự sỉ nhục lớn đối với hắn. Nhưng mỗi ngày được nhìn thấy Dịu, được mơ màng nhớ tới cái cảm giác hai tấm thân trần trụi hôm nào, thật tình thì hắn cũng thấy khoái.
Với Đạt, Dịu có về sống ở đây hay không, điều đó cũng không có già quan trọng lắm.
Chỉ riêng Mỹ, cô không sao chấp nhận được sự xuất hiện của Dịu trong ngôi nhà này.
Từ lâu Mỹ đã ghét cay ghét đắng Dịu. Hàng ngày, Mỹ chưng diện quần là áo lụa, xức nước hoa thơm nức mũi, la cà làng trên xóm dưới để bẹo hình bẹo dạng trước mặt đám đàn ông con trai trong làng. Ấy vậy mà chẳng ai thèm đoái hoài gì tới. Chúng vây lấy Dịu, trong khi cô ấy quần phèn áo vá, cả người hăng hắc mùi sình.
Sự căm ghét ấy càng trở nên tột độ khi Mỹ biết Đạt cũng nằm trong số người đeo đuổi Dịu.
Má Mỹ và bà Cả má Đạt đã hứa hẹn cùng nhau kết thông gia. Mỹ lại mê đắm cái vẻ hào hoa phóng đãng của Đạt, cô cũng mê luôn cái gia tài của bà Cả mà theo cô suy đoán không lâu sau nó sẽ thuộc về Đạt.
Phát là kẻ ngu đần, bà Cả không dại gì giao gia tài lại cho một đứa con như vậy! Út Loan lại là con gái, nay mai nó đi lấy chồng rồi, nên không cần nghĩ tới.
Mỹ nhất định cái vị trí mợ Ba đó phải là của cô, phải thuộc về cô, không ai có quyền ngồi vào chỗ đó.
Mỹ đã dùng lời ngon tiếng ngọt, nói ra nói vào để tác động bà Cả. Cuối cùng rồi Mỹ cũng đạt được nguyện vọng của mình. Cô hài lòng lắm. Tất cả tài sản của nhà này không lâu nữa sẽ nằm gọn trong tay cô.
Cưới nhau đã gần một năm, dù đã rất cố gắng, đã chạy chữa thuốc thang nhiều nơi mà Mỹ vẫn chưa mang bầu được. Điều đó làm cô lo lắng. Cô sợ nếu mình không có khả năng sinh con, Đạt sẽ viện lý do đó để chơi bời bên ngoài, lỡ hắn ta có con với ai đó thì địa vị của mình trong nhà này lập tức tiêu tan.
Lo nghĩ như thế nên một mặt Mỹ lo thuốc thang cho mình, một mặt Mỹ ra sức chìu chuộng, giở hết các ngón nghề học lóm được của đám bạn ăn không ngồi rồi để quyến rũ Đạt, để cột hắn vào chân giường.
Mà quả thật, từ ngày cưới Mỹ, Đạt đã bỏ hẳn thói bay bướm bên ngoài. Chính điều đó càng củng cố lòng tin của bà Cả dành cho Mỹ. Bà cảm thấy biết ơn Mỹ, nhờ có Mỹ mà thằng con trai lêu lỏng của bà đã biết quay về đường ngay lối thẳng.
Đùng một cái xảy ra chuyện của Dịu. Dịu về đây một mình cũng đủ làm Mỹ ứa gan, đằng này Dịu còn mang theo người giọt máu của Phát. Vậy chẳng phải đứa bé đó, nếu là con trai, nó sẽ là cháu đích tôn, nó sẽ nắm toàn quyền, thì dẫu cho mai này Mỹ có mang thai rồi sinh ra một bầy con trai đi nữa thì cũng đâu còn ý nghĩa gì.
Không, nhất định Mỹ không để điều đó xảy ra. Bằng mọi cách, cô sẽ làm cho Dịu và đứa con trong bụng cô phải rời bỏ căn nhà này, vĩnh viễn không bao giờ có thể quay trở lại. Nếu cái ông anh ngu ngốc đó chạy theo nó luôn càng tốt chứ sao!
Mỹ đã tính trăm phương ngàn kế để hãm hại Dịu. Nhưng hầu như lúc nào Phát cũng quanh quẩn bên cạnh vợ, Mỹ không thể ra tay được. Cô ước mong sao Dịu ốm đau một lần để cô có thể tráo thuốc vào đó mà hủy bỏ cái thai đi. Nhưng Dịu vẫn mạnh sân sẩn dù phải vất vả suốt ngày.
Mỹ không ngừng tác động mẹ chồng, em chồng và cả Đạt nữa để ai cũng có ác cảm với Dịu, mong muốn mọi người đuổi Dịu đi.
Bà Cả không làm thế. Bà không thích Dịu, Dịu là cây gai trong mắt bà, bà cũng muốn sớm nhổ được nó ra, nếu đứa con ra đời không phải là con của Phát thì cây gai ấy lập tức sẽ được nhổ bỏ. Nhưng trong thâm tâm bà Cả luôn cầu nguyện cho đứa bé kia đúng là con của Phát để bà sớm có người nối dõi tông đường.
Bà già rồi, sống nay chết mai chưa biết chừng. Nếu lỡ đến lúc bà xuôi tay nhắm mắt rồi mà hai thằng con trai của bà vẫn chưa có con, thì bà biết ăn nói làm sao với ông bà tổ tiên nơi chín suối?
Bởi vậy, ngày đứa bé chào đời, người vui nhất có lẽ không phải là vợ chồng Dịu mà chính là bà Cả.
Người đau khổ, tức giận nhất là Mỹ.
Nhìn cảnh bà Cả ôm ấp tưng tiu đứa nhỏ, Mỹ chỉ muốn nhào tới siết lấy nó thật chặt, đến khi nào tắt thở mới thôi. Nhưng Mỹ cố dằn lòng. Cô tự nhủ trong hoàn cảnh này mình phải cố nhịn nhục, tạm thời mình lùi xuống một bước để lấy đà nhảy vọt về phía trước, mình không dễ gì đầu hàng đâu!
Phải giết chết thằng bé! Đó là ý nghĩ luôn sôi sục trong đầu Mỹ. Nhưng giết cách nào đây? Phải thật khéo léo để bà Cả hoàn toàn không có chút mảy may ngờ vực.
Nhưng mình phải mau chóng có con, để khi thằng bé đó chết đi, con mình sẽ được đặt ngay vào vị trí đó.
LaØm sao có con được đây?
- Đôi khi vợ chồng sống với nhau rất nhiều năm mà vẫn không sinh được con. Người này đổ lỗi người kia rồi đi đến chia tay nhau. Mỗi người lại đi lấy chồng, lấy vợ khác. Kết cuộc, chưa đầy một năm sau cả người chồng, lẫn người vợ trước kia đều sinh được cho mình những đứa con xinh xắn. Đấy, chẳng qua là do con trống và con mái không “hợp rơ” với nhau nên không sinh nở được. Chẳng cần thuốc thang điều trị gì, chỉ cần đổi trống đổi mái là xong!
Một lần đứa bạn đã nói với Mỹ như vậy.
Hay mình thử đổi xem sao?
Nghĩ là làm.
Dạo đó nhà bà cả có thuê một anh nông dân từ xứ khác đến về ở đó làm vườn.
Bà cất một căn chòi nhỏ tận phía cuối vườn làm nơi cất dụng cụ và cũng là nơi trú ngụ của người làm vườn.
Người nông dân tuy đen đúa nhưng mặt mày cũng sáng sủa, và nhất là sức vóc rất đáng nể phục. Mỗi khi anh cởi trần, những bắp thịt ở hai cánh tay cứ cuộn lên một cách đầy khiêu khích.
Người mà Mỹ chấm chính là anh.
Lấy đủ thứ lý do, ngày nào Mỹ cũng tìm cách gần gũi người làm vườn, rồi giả như vô tình, cô tạo ra những tình huống đụng chạm đầy gợi ý.
Một buổi xế trưa, trời bất thần đổ mưa, hai anh em Đạt lại vắng nhà, Mỹ thấy đúng là thời điểm thích hợp để thực hiện ý đồ.
Mấy ngày nay cô đã quan sát tỉ mỉ, anh ta đã cắn câu rồi! Có lúc, anh ta đã nhìn lén Mỹ rồi nuốt ực sự thèm thuồng xuống cổ họng. Mỹ cũng vậy, cũng có lúc cô khát khao đượctựa vào cái vồng ngực rắn chắc kia biết mấy!
Bà Cả đã ngủ, Dịu thì đang bận rộn với đứa nhỏ. Mỹ yên tâm rón rén chạy ra vườn.
Cô chạy ào tới căn chòi nhỏ, gõ cửa gấp rút:
- LaØm ơn cho tôi vào trú mưa chút, đang tính đi hái rau mà trời đổ mưa, ướt hết cả quần áo!
Gã làm vườn hé cửa cho cô vào rồi khép vội lại để ngăn những tia nước bắn từ ngoài vào.
Bộ quần áo mỏng dính của Mỹ dán sát vào người, lộ rõ màu hồng của da thịt.
Nhìn thấy trái cổ của gã làm vườn đã bắt đầu trồi lên thụp xuống không ngừng, Mỹ rất thích thú. Cô giả vờ co ro vì lạnh. Cô ngồi sát vào gã rồi bất thần ôm choàng lấy gã.
Hai người quấn lấy nhau quên cả trời đất. Mỹ cũng không còn nhớ mục đích lớn nhất của cô trong việc này là tìm một đứa con. Cô đã bị cuốn vào niềm đam mê xác thịt thì còn nhớ gì đến mục đích trước khi tới đây. Ngoài trời, mưa đã tạnh từ lúc nào họ cũng không hay biết.
Khi đã hoàn toàn thỏa mãn và nỗi đam mê kia đã dần dần dịu xuống, Mỹ giật mình hoảng hốt. Cô luống cuống mặc lại áo quần rồi vội vã đi ra. Khi Mỹ từ trong căn chòi nhỏ ấy bước ra, tóc tai còn rối bời, áo quần còn xốc xếch thì bắt gặp ánh mắt ngỡ ngàng của Dịu!
- Chị làm gì ở đây? Chị theo dõi tôi à?
Mỹ hoảng hốt hỏi dồn.
Dịu bình thản trả lời:
- Tôi giặt tã cho con. Tôi không rảnh để làm những trò vô bổ đó.
Mỹ chạy vội đến cầu ao, đứng cạnh Dịu:
- Chị đã thấy những gì?
Dịu mỉm cười:
- Tôi không thấy gì cả. Nhưng nếu cô không làm gì sai trái sao lại sợ người ta nhìn thấy?
- Chị… chị… tôi cấm chị?
- Cô không có quyền gì để cấm tôi cả. Nhưng tôi cũng xin nói để cô yên tâm, tôi không thích xen vào chuyện người khác đâu!
Mỹ tức tối nhưng nghẹn họng không biết nói sao.
Nhất định Dịu đã biết việc gì xảy ra rồi, cô ta nói thế trước mặt mình nhưng chắc chắc chắn cô ta sẽ mau chóng loan tin này ra để đánh gục mình ngay thôi. Không, không thể để chuyện này vỡ lỡ được! Mình phải ra tay trước, mình phải chặn họng cô ta lại… Chỉ có một cách… Chỉ có một cách… Chị đừng trách tôi nhé, tôi chưa nghĩ tới việc loại bỏ chị đâu, nhưng tại chị, tất cả là tại chị, chị nên trách mình đi, cái không nên biết mà chị đã biết, đừng trách tôi…
Những ý nghĩ đó vừa đến trong đầu, Mỹ vừa nhích gần tới Dịu hơn nữa. Dịu vẫn vô tư cúi người lo giặt giũ mớ áo quần dơ của đứa bé. Bất thình lình Mỹ đẩy Dịu ngã chúi xuống nước. Dịu không biết bơi, điều đó Mỹ biết rõ, ao nước này lại rất sâu, Dịu sẽ không thể nào thoát khỏi.
Dịu chới với, tay quờ quạng giơ lên, chân Dịu đạp lung tung, cô trồi lên hụp xuống mấy bận, hoảng loạn, cô muốn la lên nhưng càng muốn la nước càng xộc vào mũi miệng nhanh hơn nữa. Dịu đuối sức rồi chìm dần xuống dưới.
Mỹ vụt chạy về phòng, vội vã thay áo quần rồi lên giường nằm giả như đang ngủ.
Trong căn chòi nhỏ ở cuối vườn. Gã làm vườn đã chứng kiến từ đầu tới cuối. Gã run rẩy, không dám nói lời nào, cũng không dám nhào ra cứu người đàn bà khốn khổ đang từ từ chìm sâu xuống nước.
Nghe tiếng thằng bé khóc ré lên mà không ai dỗ, bà Cả lật đật chạy xuống xem sao. Thằng nhỏ nằm một mình, chiếc tã đầy phân mà Dịu đâu không thấy. Bà lên tiếng gọi mấy lượt vẫn không thấy ai thưa.
Bực mình bà gọi Mỹ:
- Vợ thằng Ba! Con ra coi ẵm thằng nhỏ cho má chút, cái con Dịu này không biết lại chạy đi đâu mất rồi.
Mỹ trong phòng đi ra, giả bộ sật sừ như mới vừa tỉnh ngủ:
- Má gọi con hả má? Lúc nãy đau đầu quá, con nằm rồi ngủ quên luôn!
- Con muốn bệnh hay sao mà nhức đầu vậy? Nè, thay giùm cái tã rồi ẵm nó một chút.
- Chị Dịu đâu rồi má?
Mỹ hỏi.
Bà Cả ngó quanh:
- Tao cũng không biết cái con này đi đâu nữa!
Vừa lúc đó trông thấy hai anh em Phát, Đạt về tới, bà cả gắt gỏng:
- Hai à, mầy coi ai như con vợ mầy không, giữa trưa như vậy đi đâu không thèm nói với ai tiếng nào, bỏ thằng nhỏ nằm một mình ở đây, rủi nó chòi đạp rồi lọt xuống đất có phải khổ không? Đồ thứ đàn bà hư…
Nghe mẹ nói, Phát lấy làm lạ. Lâu nay có bao giờ Dịu bỏ đi đâu mà không nói?
Ngó quanh quất khắp nhà và cất tiếng gọi nhưng không nghe tiếng trả lời, Phát cảm thấy lo sợ. Anh chạy vội ra vườn, dưới cầu ao là thau áo quần đang giặt dở, ở giữa ao trôi lềnh bềnh một chiếc áo trẻ sơ sinh.
- Trời ơi! Cứu lấy vợ tôi, cứu vợ tôi với!...
Phát kinh hãi hét to lên.
Vợ chồng Đạt trong nhà chạy ra cùng lúc gã làm vườn nghe tiếng la vội chạy ra và nhảy ào xuống ao lặn hụp.
Phát, Đạt cũng nhảy xuống mò tìm.
Chỉ một lát sau mọi người đem được Dịu lên, nhưng cô đã không còn sống nữa!
Phát ôm vợ vào lòng khóc không ra tiếng. Đứa bé trên tay Mỹ cũng bắt đầu ngặt ngặt khóc không thôi...
Vợ chết, Phát càng trở nên ngớ ngẩn. Ai hỏi gì thì trả lời, ai biểu gì làm nấy, còn thì anh cứ ngồi thẩn thờ ra đó, thậm chí đứa nhỏ khóc có lúc anh cũng dỗ, vì hình như tâm trí anh đã tận xa xôi, anh không còn nghe được tiếng khóc của con mình nữa.
Mỹ phải giúp Phát chăm sóc đứa nhỏ.
Nhiều lúc nửa đêm đang ngủ ngon lành, phải bò dậy ôm nó ru dỗ, mà nào nó có chịu yên ngủ đâu. Mỹ giận sôi gan, đã mấy lần cô muốn bóp chết nó. Nhưng cô biết làm vậy là không được, mẹ chồng cô sẽ nghi ngờ.
Đạt ghét đứa nhỏ lắm. Ghét từ lúc nó chào đời. Vì Mỹ thường thầm thì bên tai anh:
- Không ngờ anh Hai ngu đần vậy mà có phước hơn anh. Có được thằng con trai như vậy, sau này nó sẽ nắm hết quyền hành trong nhà này. Tới lúc má chết rồi, chưa chắc vợ chồng mình được ở yên ở đây nữa!
Đạt đã quen được cưng chìu, Từ nhỏ Đạt luôn lấn lướt anh mình, ngoài những lúc hai anh em cãi nhau dẫn đến đánh đập, Đạt sợ Phát vì Phát vốn có sức khỏe hơn Đạt, còn lại Đạt luôn coi anh mình giống như một cái bóng trong nhà. Tất cả mọi việc, Phát đều không biết đến, sau này cũng vậy, tất cả phải thuộc về Đạt, do Đạt quản lý chứ không thể giao nó vào tay một kẻ như Phát được. Điều này cũng đã có lần chính miệng bà Cả đã nói với Đạt.
Nhưng nay tất cả đã khác rồi. Phát tuy khờ khạo nhưng vợ anh ta lại khôn ngoan, rồi nay lại có thêm con trai anh ta nữa. Địa vị của anh ta đang dần dần được củng cố trong cái nhà này. Đạt không thể nào chấp nhận được điều đó!
Đạt và Mỹ cùng bàn tính với nhau tìm cách phá bỏ đứa bé lúc còn trong bào thai, nhưng chưa có cách nào thực hiện được.
Rồi khi Dịu chết, đứa bé trở thành nỗi ám ảnh của cả nhà vì tiếng khóc của nó. Không đêm nào Đạt ngủ yên giấc, hắn điên lên với đứa bé!Đã mấy lần hắn định ra tay với nó, nhưng lần nào cũng bị Mỹ ngăn cản.
Mỹ là người thâm độc, cô không muốn những việc làm của mình để lại bất cứ dấu vết nào.
Cô bàn với chồng, trước mắt phải làm cho bà Cả hoàn toàn tin cậy vào hia vợ chồng, ráng chịu cực khổ một thời gina ngắn. Đứa bé đó muốn giết lúc nào mà chẳng được, cần gì phải gấp rút ra tay.
Nó cứ khóc mãi, cứ không chịu uống sữa mãi như thế hóa ra lại hay. Rồi nó sẽ tự chết dần chết mòn, mình khỏi phải nhúng tay vô tội ác!
Tiền mẹ chồng đưa để mua sữa cho thằng nhỏ, Mỹ bỏ túi tiêu xài. Cô chỉ mua một ít sữa rẻ tiền rồi hòa với nước cơm sôi cho thằng nhỏ bú. Sợ bị phát hiện, nên Mỹ làm như vì quan tâm đến vấn đề vệ sinh của đứa nhỏ, cô không cho ai nút để thử sữa, sữa uống không hết phải lập tức đổ đi ngay.
Âm mưu thâm độc của cô lại hóa thành ân nghĩa bao la, vì bà Cả tưởng đâu con dâu của mình là người tốt bụng, biết thương yêu đứa cháu mồ côi, vừa phải chịu cực chịu khổ đêm hôm vì nó, vừa lo cho nó từng chai sữa mỗi ngày, lo luôn cả chuyện phòng ngừa đau bệnh cho thằng nhỏ. Mẹ ruột của nó chưa chắc lo được như vậy! Bà Cả nghĩ thầm.
Mang tiếng làm dâu con nhà giàu nhưng thật sự Mỹ không có tiền riêng. Tất cả mọi việc lớn nhỏ trong nhà đều do một tay bà Cả quản lý. Tiền chợ mỗi ngày cũng do bà phát, thỉnh thoảng bà cho dâu con một ít tiền tiêu vặt vậy thôi.
Từ lúc tiền sữa của thằng nhỏ chảy vô túi mình, vợ chồng Mỹ cũng thấy thích thú lắm.
Nhưng lạ một điều, thằng nhỏ không ăn mà sao vẫn có sức khóc khỏe đến thế?
Đến ngày thứ ba sau khi mẹ mất, thằng nhỏ vẫn không chịu uống bất kỳ thứ gì do Mỹ đút cho nó, nhưng đồng thời, mọi người nhận thấy ở nó có nhiều hiện tượng lạ.
Bà Cả tò mò hỏi Phát:
- Có phải buổi tối con cho nó uống được nhiều sữa không?
Phát lắc đầu, ánh nhìn xa xăm:
- Không, con cho nó không uống, mẹ nó cho thì nó mới uống. Mẹ nó cho nó uống gần hết một chai luôn đó má!
Bà Cả ngạc nhiên:
- Con nói sao? Con nói mẹ nó cho nó bú? Con nhớ lại hồi mẹ nó còn sống phải không con?
- Không, tối nào Dịu cũng về cho con bú…
Phát mơ màng nói.
Bà Cả giật mình. Bà không hỏi thêm gì nữa mà đứng lên đi tìm Mỹ kể lại cho con dâu nghe:
- Anh Hai mầy bây giờ không chỉ ngớ ngẩn mà trở nên mất trí rồi!
- Sao má lại nói vậy?
Mỹ ngạc nhiên hỏi lại.
Bà Cả chép miệng khổ sở:
- Nó quá thương con Dịu, nó bảo tối nào vợ nó cũng về cho thằng nhỏ bú sữa, thiệt khổ… Đầu óc thằng Phát bây giờ mơ màng quá đỗi rồi…
Nghe mẹ chồng nói, Mỹ thoáng giật mình:
- Anh Hai nói vậy thiệt hả má? Chuyện đó làm gì có…
- Ừ, thì làm sao mà xảy ra được, chỉ tại nó tưởng tượng nhiều quá! Má thiệt hết sức lo lắng. Tuổi của má đã cao rồi, má sống không được bao lâu nữa, anh Hai con lại ngày một u mê như vậy, chắc tới lúc chết đi má cũng hổng yên lòng nhắm mắt…
Bà Cả thở dài não ruột.
Mỹ an ủi mẹ chồng:
- Má đừng buồn, cũng đừng bận tâm! Vợ chồng con sẽ chăm lo cho anh Hai đàng hoàng, má đừng nghĩ ngợi nhiều mà sinh bệnh.
Bà Cả rưng rưng nước mắt nắm chặt tay Mỹ:
- Má cám ơn con, con đúng là đứa con dâu hiếu thảo hiếm có trên đời. Má thật yên tâm khi để lại việc nhà cho con quản lý…
Long Mỹ vui khấp khởi nhưng cô vẫn làm bộ vô tư:
- Má còn khỏe mà, má đừng tính tới chuyện giao việc quản lý cho con! Con còn nhiều non kém lắm!
Bà Cả âu yếm nhìn con dâu:
- Không, má tính kỹ rồi! Nay mai má sẽ cho mời người tới làm di chúc, tài sản nhà này má sẽ chia cho các con, tất nhiên là phần lớn sẽ thuộc về đứa cháu đích tôn của má, nhưng tất cả đều do vợ chồng con quản lý đến khi nào nó đủ lớn khôn. Má luôn tin tưởng ở con đó, Mỹ à! Những ngày qua, má càng tin con là người có đủ lòng nhân hậu để thay má lo cho thằng nhỏ, dù gì nó cũng là đứa cháu đầu tiên của má…
Mỹ choáng váng khi nghe bà Cả nói, nỗi căm tức dâng nghẹn trong lòng khiến cô không thể mở lời nói thêm một câu nào nữa, chỉ cố gắng gượng tạo ra một nụ cười cho bà Cả yên lòng.
- Phải nhanh chóng làm cho thằng nhỏ biến mất khỏi cuộc đời, không thể để má chồng mình chia của cải, gia tài cho nó, khi đó thì mọi việc càng trở nên rắc rối, phải nhanh chóng thực hiện thôi…
Mỹ nghĩ thầm trong bụng.
Vừa thấy Phát đi ra nhà sau, Mỹ nhanh chóng chạy vào phòng, dự tính sẽ đổ sữa vào mồm thằng bé rồi làm như nó qua đời vị bị sặc, thiếu gì con nít chết bởi lý do đó, chắc không ai nghi ngờ gì đâu.
Nhưng Mỹ thật không ngờ, không tin được cảnh tượng đang diễn ra ngay trước mắt mình.
Thằng bé đang nằm trên giường, chiếc miệng xinh xắn của nó đang chu ra nút lấy nút để, ánh mắt nó lấp lánh vui như đang đùa giỡn với một người nào đó.
Cử chỉ của thằng bé thật lạ lùng! Nó đang bú sữa? Bú tưởng tượng hay đang có một người vô hình nào cho nó bú? Chẳng lẽ những gì anh Hai nói là sự thật sao? Chẳng lẽ… đúng là Dịu hiện về chăm sóc cho con?
Mỹ lùi dần, lùi dần ra cửa rồi ù té chạy về phòng mình.
Thấy vẻ hoảng hốt của vợ, Đạt ngạc nhiên:
- Có chuyện gì vậy em? Làm gì mà em hốt hoảng dữ vậy?
Mỹ run rẩy chỉ tay ra ngoài:
- Anh… anh mau sang bên phòng anh Hai mà xem… Thằng nhỏ… có ai đó đang cho thằng nhỏ bú…
Đạt thắc mắc:
- Em nói gì anh thật không sao hiểu nổi? Ai cho nó bú thì mặc nó, miễn sao nó đừng khóc nữa là anh tạ ơn trời đất rồi, có gì mà em run rẩy đến thế?
Mỹ ngồi sát vào chồng:
- Tại anh không biết đó thôi, một người… một người vô hình… một bóng ma đang cho thằng nhỏ bú!
Đạt đặt tay lên trán vợ, mỉm cười:
- Em bị sốt hay sao vậy? Giữa ban ngày ban mặt mà nói chuyện ma cỏ, đầu óc em có vấn đề rồi đó!
Mỹ tức tối kéo tay Đạt:
- Đi, anh đứng lên đi qua đó xem coi sự việc ra sao rồi hãy nói!
Thấy vẻ mặt vợ, Đạt thôi không cười nữa, hắn đứng lên bước về phòng của Phát.
Trên giường, thằng bé chừng như đã được bú no, đang vo tròn chiếc miệng, ư e và chốc chốc lại cười toe giống như đang đùa giỡn.
Đạt sấn tới bế xốc thằng bé lên, nó ngỡ ngàng nhìn Đạt rồi ré lên khóc ngất, Phát chạy vội lên, trông thấy Đạt đang bế con mình, Phát hỏi:
- Nó bị sao vậy?
- Không, đâu có bị gì đâu! Em tính qua bế nó ra trước nhà cho nó sưởi nắng một chút thôi mà…
Phát chìa tay về phía Đạt:
- Thôi, trưa rồi, để cho nó ngủ!
Đạt lúng túng trả đứa bé lại cho Phát. Vừa nằm yên trong tay cha, thằng nhỏ lại cười thật rộng miệng, y như chưa từng mới khóc.
- Sao anh? Anh có thấy gì không?
Vừa trông thấy Đạt bước trở vô phòng, Mỹ hấp tấp hỏi.
Đạt ậm ờ:
- Ừ thì… anh thấy nó đang nằm cười giỡn một mình. Con nít đứa nào hổng vậy em, người ta nói mụ bà dạy nó đó…
Nghe chồng nói, Mỹ thấy cũng có lý, chắc tại lúc nãy do bị ám ảnh vì cái chuyện mỗi đêm Dịu về cho con bú mà mẹ chồng kể nên Mỹ mới hoảng sợ nhiều như vậy.
Ừ, con nít thì mụ bà dạy là chuyện bình thường thôi mà, mình đúng là lo sợ cái điều vớ vẩn.
Mỹ thở phào, đặt tay lên ngực mình nũng nịu:
- Vậy mà… em muốn rụng tin luôn! Ở đây chắc có ngày em chết sớm!
Đạt chồm lên kéo Mỹ ngã sấp xuống giường:
- Nói bậy không hà, em chết rồi bỏ anh lại cho ai đây? Bỏ tiền của của má anh lại cho ai đây? Hay anh ra ngoài kiếm cô khác về phòng hờ nhé, để khi em vừa chết là có người thế chỗ liền?
Mỹ véo vào mũi chồng, trừng mắt:
- Anh dám?
Đạt la lên oai oái:
- Ui da… đau! Đau! Thôi, anh xin chừa… anh không dám…
Tiếng cười đùa giỡn hớt của hai người vọng sang phòng Phát khiến anh càng thêm buồn khổ.
Mấy ngày qua, Phát vẫn không sao chấp nhận được cái chết của Dịu. Trong tâm trí, anh vẫn mong là Dịu bận việc gì đó, Dịu đi đâu đó, chỉ chốc lát nữa thôi cô sẽ quay về với cha con anh. Đôi bàn tay dịu dàng của cô sẽ lại bế con, hát ru cho nó ngủ. Hai vợ chồng anh sẽ lại kề sát hai mái đầu nhìn đứa bé đang ngủ yên trong lòng mẹ nó.
Nhưng Dịu vẫn không về…
Ngày đầu tiên Dịu mới mất, đứa bé gần như lả đi vì đói và vì khóc quá nhiều, tất cả những gì Mỹ đút vô miệng nó đều bị nó nhè ra hết. Hai mắt nó sưng mọng lên, đôi môi nó khô rộp như người đang sốt cao. Ai dỗ cách nào nó cũng không nín khóc.
Phát đã ôm nó tới quỳ trước chiếc quan tài bằng thứ gỗ tạp rẻ tiền mà bà Cả mua về cho Dịu. Anh khóc nấc lên từng cơn, nhưng kỳ lạ thay, đôi mắt vẫn ráo hoảnh, không rơi ra một giọt nước mắt nào.
- Dịu ơi, sao em nỡ bỏ cha con anh mà ra đi như vậy? Con chúng ta đang sắp lả đi rồi nè em có trông thấy không? Con chúng ta còn quá bé bỏng, em đừng bỏ nó, đừng bỏ anh, Dịu ơi…
Tiếng khóc nghẹn ngào và những lời nguyện cầu tha thiết của Phát không biết có làm lay động được trời đất hay không, nhưng thằng bé đã im, không khóc nữa và bắt đầu lim dim ngủ.
Nhưng chiều hôm đó, khi quan tài được ra chôn ở bãi đất hoang sau nhà, đứa bé lại tiếp tục khóc, khóc mãi không thôi.
Đến gần sáng, mọi người trong nhà đều đã ngủ yên, thằng nhỏ cũng nín khóc. Phát ngồi sững bên cạnh con trai, đôi mắt anh vô hồn nhìn con chằm chặp.
Bỗng dưng Phát cảm thấy như có ai chạm khẽ vào người mình, anh xoay người lại thì nhận ra Dịu.
Mừng rỡ, Phát nhào tới ôm chầm lấy vợ nhưng trong vòn tay anh chỉ là một khoảng không vô nghĩa.
Dịu cười rất buồn rồi lặng lẽ đến ôm con, lấy chai sữa đút cho nó bú.
Thằng bé đang đói, há miệng ra nút một cách tham lam, hồ hộc.
Dịu ngước lên nhìn chồng, hai hàng nước mắt chảy dài trên má cô.
Phát bàng hoàng không tin ở mắt mình. Anh run run hỏi:
- Dịu ơi… em đã về với cha con anh rồi phải không? Có thật là em đã về rồi không?
Dịu cúi xuống vuốt ve đứa bé và khe khẽ lắc đầu.
Phát tiến tới gần, quỳ sụp xuống cạnh vợ.
Dịu đặt thằng nhỏ đã bú no và bắt đầu lim dim ngủ xuống giường, chạm khẽ tay vào má chồng rồi lặng lẽ bay lướt ra ngoài. Phát hoảng hốt gọi theo rối rít:
- Dịu, Dịu ơi, em đừng đi, em đừng bỏ cha con anh Dịu ơi…
Phát tung cửa chạy theo vợ. Nhưng bên ngoài vắng ngắt không một bóng người, vầng trăng lưỡi liềm trên cao đang bị một áng mây che khuất. Tất cả hoàn toàn vắng lặng.
Phát thất thểu quay trở lại phòng mình và nằm vật xuống cạnh con.
Anh đã hiểu ra rồi, không phải Dịu trở về bằng xương bằng thịt, mà chỉ là hồn ma của cô không nỡ rời xa nên đã cố quay về.
Sáng ra, Phát muốn kể chuyện đó với cả nhà, nhưng rồi anh lại không nói. Anh biết, trong nhà này, ngoài anh ra đâu có ai thương yêu Dịu, đâu có ai mong đợi cô về, nếu họ biết hồn ma Dịu vẫn quanh quẩn quanh đây, có thể họ còn nhờ thầy bùa thầy pháp ngăn cản không cho Dịu về cũng nên.
Thế là Phát không nói, ngày nào anh cũng mong ngóng Dịu quay về. Mà Dịu quay về thật.
Đêm nào cô cũng về cho con bú, dỗ con ngủ. Dịu mỉm cười với chồng, nhưng cô hoàn toàn không nói một lời nào.
Phát cũng đã quen với việc đó, anh rất đau đớn, nhưng anh chấp nhận việc mỗi đêm đều được nhìn thấy vợ, dù không chạm được vào cô, cũng không tâm sự được gì, nhưng vẫn còn hơn mãi mãi không nhìn thấy cô được nữa…
 
***
- Anh phải nhanh chóng nghĩ cách nào để đối phó với thằng nhỏ đó đi, em thì chịu thua rồi! Tính để cho nó khóc, nó đói cho nó chết dần mòn, mình khỏi phải mang tiếng, nhưng không ngờ thằng này như là ma quái vậy. Lâu lâu mới uống được một tí xíu nước cơm, vậy mà anh nhìn xem nó vẫn cứ tròn vo, không teo tóp chút xíu nào mới lạ kỳ chứ! Lúc này nó lại hết khóc mà chuyển qua cười suốt ngày, cười như đang giỡn với ma vậy… Thật không sao hiểu nổi! Anh tính sao thì tính nhanh nhanh lên, má nói vài bữa nữa chờ cô út về má gọi người tới lập di chúc đó. Nếu mà di chúc được lập rồi, vợ chồng mình là người giám hộ cho thằng nhỏ, quản lý giùm tài sản của nó, khi ấy mình mới ra tay thì chắc chắn người ta sẽ nghi ngờ mình ngay thôi, phải làm trước đi anh à!
Mỹ than thở, thúc giục chồng.
Đạt nằm gác tay lên trán suy nghĩ hồi lâu rồi nhổm đầu lên nói với vợ:
- Thằng nhỏ đó hơi sức không bao nhiêu, chỉ cần bịt chặt mũi miệng nó chừng vài phút là xong! Nhưng… quan trọng là mình phải làm sao để tạo ra một cái chết thật tự nhiên cho nó, một cái chết mà ai cũng chấp nhận được, không để lại nghi ngờ gì… Em nghĩ giúp anh xem…
Nỹ ngồi bật dậy reo lên:
- Em có cách rồi!
- Cách gì?
Đạt cũng lồm cồm ngồi dậy.
Mỹ kề sát vào tai chồng thầm thì:
- Anh lợi dụng lúc anh Hai đi tắm, lẻn vô phòng bóp chết thằng bé rồi hất nó xuống đất, giả như nó tự mình chòi đạp rồi té xuống, đầu đập vô một vật cứng nào đó, như cái ghế chẳng hạn. Nó chết như vậy thì lỗi thuộc về anh Hai trông chừng con không cẩn thận, đâu có liên quan gì tới vợ chồng mình. Mà anh Hai thì khờ khạo như vậy, làm sao có đủ lý lẽ để biện minh? Anh thấy em tính vậy có được không?
Đạt vỗ tay đánh đét vào đùi một cái:
- Ba phát! Em đúng là vợ thông minh của anh!
Vì đã có sự toan tính trước, nên ngay buổi chiều hôm đó, khi thấy Phát ôm áo quần ra ao giặt, Đạt nhanh chân chạy vội vào phòng. Thằng bé đang ngủ yên, miệng vẫn còn mút ngón tay chùn chụt. Xung quanh thằng bé, Phát đã cẩn thận tấn một hàng gối ôm che nó lại.
Đạt tiến tới gần, giơ hai bàn tay to tướng vào chiếc cổ bé nhỏ của đứa bé. Lúc tay Đạt vừa chạm vào làn da mát rượi của nó thì bỗng dưng Đạt đau buốt ở đỉnh đầu như có ai đang đóng một cây đinh thật dài vào sâu trong đó.
Đạt hai tay ôm lấy đầu, mắt nổ đom đóm, loạng choạng chạy ra khỏi phòng của Phát.
- Anh bị làm sao vậy?
Mỹ giật mình khi thấy Đạt ngã nhào xuống giường, hai tay ôm lấy đầu lăn lộn, miệng không ngừng rên rỉ:
- Ôi, cha mẹ ơi… đau quá! Ối… ối, đau quá cha mẹ ơi…
Mỹ hoảng hốt la to lên, Phát từ ngoài vườn chạy ào vô, bà Cả ở nhà trên lụm cụm đi xuống, nhưng cả ba người cũng chỉ biết giương mắt đứng mình Đạt vật mình vật mẩy, không ai biết phải làm gì.
Một lúc sau, Đạt buông tay ra nằm thở dốc, cả người đầm đìa mồ hôi.
Mỹ lo sợ hỏi chồng:
- Anh ơi… anh bị sao vậy?
Đạt hổn hển nói trong tiếng thở gấp rút:
- Anh cũng không biết nữa! Tự nhiên… tự nhiên đau buốt ở đỉnh đầu, giống như có người lấy đinh đóng vô đó vậy…
Bà Cả tới sát bên con trai, sờ nhẹ vào đầu Đạt:
- Giờ sao rồi con?
- Giờ thì không còn đau chút nào cả, con chỉ mệt thôi!
Đạt trả lời.
Mỹ miết mấy ngón tay lên đỉnh đầu, nơi Đạt bảo có người đóng đinh vào đó. Ở đó hoàn toàn không có một vết trầy xước nào, dù là rất nhỏ.
Bà Cả trấn an:
- Chắc là bị trúng phong trúng gió gì rồi! Mỹ à, chút nữa cơm nước xong con nhớ tới nhà thầy lang Hộ để khai bệnh rồi bốc cho chồng bây vài thang thuốc. Còn nếu thằng Đạt khoẻ thì cùng đi cho người ta bắt mạch sẽ dễ điều trị hơn.
- Dạ
Mỹ ngoan ngoãn vâng lời.
- Thôi, nằm đó nghỉ ngơi chút đi con!
Bà Cả nói xong đi trở lên nhà trên, Phát cũng bỏ về phòng mình. Còn lại hai vợ chồng, Đạt cầm táy vợ lo lắng:
- Thật là lạ em à! Lúc anh… lúc anh vừa toan bóp cổ thằng nhỏ thì lập tức bị như vậy. Có khi nào… có khi nào đúng là mẹ nó về để che chở cho nó không?
Bất giác Mỹ rùng mình, nhưng cô biết trong giờ phút này không thể để Đạt hoang mang, không thể để kế họach của cô bị phá sản.
Mỹ gượng cười xoa đầu chồng:
- Anh đau quá nên hồ đồ mất rồi! Tội nghịêp cho chồng em biết bao nhiêu! Nhưng anh đừng có sợ, chắc là đúng như má nói, anh bị trúng gió trúng phong gì đó thôi, tất cả chỉ là sự trùng hợp…
- Ừ, có lẽ đúng thế thật! Trùng hợp… có lẽ…
Đạt lẩm bẩm.
Sau sự việc đó, mặc dù Mỹ và Đạt không ai chịu thừa nhận thằng bé được sự chở che của một thế lực vô hình nào đó, nhưng cả hai đều cảm thấy chùn tay nên chưa dám tiếp tục thực hiện ngay ý đồ đen tối.
Giữa lúc đó trong làng lại bắt đầu xôn xao lên vì những việc lạ liên tiếp xả ra.
Đầu tiên là nhà chị Nở. Chị cũng mới sinh con, nhưng sữa mẹ không đủ cho đứa nhỏ bú, chị phải cho nó bú dặm sữa ngoài.
Tối đó, chị nở pha sữa cho con xong, thấy còn nóng, chị để đó đi xuống bếp dọn dẹp. Lát sau trở lên thì… sữa trong bình đã cạn sạch, chỉ còn trơ lại cái chai.
Chị Nở vô cùng thắc mắc, vì lúc đó trong nhà không có ai ngoài chị và đứa bé.
Chiều, vừa thấy chồng về, chị Nở vội vàng kể lại cho chồng nghe việc lạ lùng ấy, nhưng nghe xong chồng chị chỉ cười hềnh hệch:
- Bà sắp già rồi nên bắt đầu lẩm cẩm, chưa pha sữa mà cứ nhớ pha rồi, chứ làm gì có chuyện đó! Hổng lẽ ăn trộm vô nhà uống trộm bình sữa của con bà? Nói chuyện vớ vẩn vậy mà cũng nói được!
Chị Nở tiu nghỉu không biết nói sao.
Nhưng liên tiếp những ngày sau, thỉnh thoảng chị lại bị mất sữa, giống y như lần trước, ngay cả lúc có chồng ở nhà, có anh làm chứng cho rằng rõ ràng sữa chị đã pha rồi chứ không phải là chuyện nhớ quên lẩm cẩm nữa. Cả anh chồng cũng không biết giải giải thích sao, chỉ biết từ đó, mỗi lúc pha sữa cho con xong, chị hoặc anh cứ phải ngồi đó nhìn chằm chặp, không dám rời xa bình sữa.
Sau nhà chị Nở thì những sự việc tương tự như vậy lại xảy đến với các nhà khác có con nhỏ trong làng.
Sữa, tã lót, khăn lau, phấn rôm sảy… những vật dụng thường dùng cho trẻ sơ sinh cứ thỉnh thoảng lại bị mất đi một cách kỳ bí trong mỗi gia đình.
Vụ việc ở những nhà có trẻ con vẫn còn đang tiếp tục diễn ra thì lại đến phiên các bà bán hàng tạp hóa kêu la oai oái.
Chuyện kể của các bà chủ tiệm đều tương tự như nhau:
Thỉnh thoảng vài ngày, vào lúc chập choạng tối, có một phụ nữ lạ mặt đến hỏi mua sữa và một vài thứ đồ dùng cho em bé. Khi cuộc mua bán đã xong và người phụ nữa kia đã đi khỏi thì người bán hàng mới phát giác ra những tờ giấy bạc mà người kia đưa cho thật chất chỉ là những chiếc lá cây đã khô quắt.
Tiếng đồn nhanh chóng lan ra xa, khiến cho các tiệm hàng hóa khác cứ vừa tắt mặt trời là vội vội vàng vàng đóng kín cửa. Chỉ khi nào nghe tiếng người quen gọi mới dám mở cửa đưa hàng ra.
Họ không bán hàng nhưng hàng của họ bị mất. Mỗi khi mất thứ gì đều có vài ba chiếc lá cây để vào chỗ đó…
Số lượng mất mát không lớn, người ta không báo cáo lên chính quyền địa phương nhưng nó lại trở thành đầu đề cho mọi chuyện ngồi lê đôi mách, mọi chuyện bàn tán trong làng.
Những chuyện đó cũng đã đến tai Mỹ và Đạt. Chỉ riêng bà Cả vẫn không biết gì. Vì bà vốn ít khi ra khỏi nhà, tất cả mọi việc đều do bà chỉ huy và người thực hiện là vợ chồng Đạt – Mỹ. Những gì xảy ra bên ngoài mà bà biết được là do vợ chồng Đạt – Mỹ nói lại, còn một khi họ đã giấu thì bà cũng khó lòng hay biết.
Chuyện này họ cũng không muốn bà biết.
Mỹ càng lo sợ trước những tin đồn, càng muốn nhanh chóng thủ tiêu thằng bé. Rất nhiều lần hai vợ chồng suýt ra tay, nhưng khi thì Phát hoặc bà Cả bất ngờ xuất hiện.
Những lúc tắm cho thằng bé, đáng lẽ phải pha nước ấm, phải tìm nơi kín gió, nhưng Mỹ lại cố tình mang nó tới sát cửa sổ, và toàn dùng nước lạnh. Mỹ mong muốn nó đổ bệnh. Nhưng từ ngày mẹ nó mất tới giờ, chưa khi nào nó bị ấm đầu sổ mũi.
Bà Cả cảm thấy yên lòng lắm. Thằng cháu nội mỗi ngày một tròn trĩnh, nó lại không mấy khi quấy khóc, nên bà càng đưa thêm nhiều tiền cho Mỹ để cô mua các thứ về bồi bổ cho nó.
- Má không cần đưa tiền mua sữa cho nó đâu, sữa thím ba mua về không bao giờ thằng chịu bú.
Phát nói khi trông thấy mẹ  mình đưa tiền cho Mỹ.
Bà Cả ngạc nhiên:
- Con nói sao? Nó không uống sữa do thím ba nó mua về? Vật nó uống sữa của ai?
- Con nói với má rồi đó! Mẹ nó lo cho nó!
Phát hờ hững nói.
Mỹ xen vào:
- Anh Hai nói gì kỳ vậy? Ngày nào em cũng mấy lượt pha sữa cho thằng nhỏ rồi chính tay em đút cho nó bú, anh nỡ lòng nào nói vậy?
Mỹ có vẻ ấm ức, sụt sịt khóc.
Bà Cả vỗ về con dâu:
- Thôi, con đừng chấp nhứt anh Hai con làm gì, từ ngày vợ nó chết, nó còn tỉnh táo gì nữa đâu. Nó muốn nói sao thì nói, ai mà nghe nó. Thuở đời nay, con nó mỗi ngày một lớn như vậy mà nó bảo không uống sữa là sao chứ?
Phát nghe mẹ nói vậy, chỉ cúi đầu rồi lặng lẽ bỏ đi.
Chợt nhớ ra, bà Cả bảo Mỹ:
- Tuần sau con út về nghỉ hè. Con nói chồng con ngày mai nó có quỡn thì lên xã nhờ người ta trước một tiếng để tuần sau mời người ta xuống đây giúp má lập di chúc cho xong. Chừng đâu đó xong xuôi rồi, má giao hết mọi việc lại cho con coi sóc, lúc này má cảm thấy mệt mỏi nhiều lắm rồi con ạ, cũng không biết còn sống tới lúc nào nữa?
Mỹ gượng cười:
- Má… sao má nói vậy… má còn khỏe lắm mà…
Tối hôm ấy Mỹ nói với chồng:
- Anh tính sao thì tính. Tuần sau cô út về, tuần sau má làm di chúc rồi đó! Nếu không giải quyết sớm là coi như mình khó có cơ hội nữa. Cô út về, nhà có thêm một người. Cô út lại khôn ngoan lanh lẹ, sợ mọi hành vi của mình khó qua khỏi mắt của cô út lắm đó! Mà em thấy cô út nhà này cũng có đôi chút cảm tình với bà Dịu…
Đạt chắp tay sau đít đi tới đi lui trong phòng nét mặt cau lại vì mải suy tính mưu ma chước quỷ.
Một lúc sau Đạt dừng lại mỉm cười:
- Tối mai, anh sẽ làm bộ nhờ ông Phát đi mua giùm vài thứ lặt vặt, trong thời gian đó ở nhà mình ra tay. Kệ, làm gấp gáp lên, không chờ đợi thời cơ nào nữa hết. Chắc cũng không ai nghi ngờ gì đâu, vì mình cũng đã nuôi nó mấy tuần rồi, có thể người ta nghĩ nó chết là do xui rủi mà thôi…
Mỹ thở dài:
- Anh tính sao cũng được, em mệt mỏi lắm rồi!
- Ừ, vậy thì cứ thế mà làm!
Nói xong câu đó Đạt lên giường ngủ. Mỹ đi ra nhà ngoài xem xét lại các cửa nẻo đã đóng chặt hết chưa. Cô vốn cẩn thận, luôn sợ có người rình mò trộm cắp nhà mình, nên ngày nào cũng đích thân đi xem qua một lượt.
Khi đã yên tâm vì tất cả các cánh cửa đều đã được đóng kín, Mỹ dợm quay vào buồng với chồng, bất chợt cô trông thấy một bóng người thoáng qua ở lối dẫn xuống nhà bếp.
Ai thế nhỉ? Bóng người đó chắc chắn không phải là Phát hay Đạt. Bà Cả ư? Không đâu, bà đâu còn cái nhanh nhẹn nhẹ nhàng như vậy. Vậy thì trong nhà này ngoài cô ra còn có ai nữa đâu?
Bỗng dưng Mỹ nghe lạnh dọc theo sống lưng, gai ốc trên người dựng đứng cả lên. Cô vừa há miệng toan la lớn lên nhưng vội ngậm chặt lại. Đạt đã hứa chắc ngày mai sẽ ra tay với thằng bé, nếu để Đạt biết nỗi lo sợ của mình e rằng Đạt cũng sợ lây mà không dám thực hiện.
Lòng ích kỉ tham lam đã che mờ tâm trí và lương tâm của Mỹ. Cô đã quyết định, dù thế nào cũng phải loại trừ cho bằng được thằng nhỏ đó.
Và nhất là trong lúc này!
Mỹ đã trễ kinh hơn một tuần. Cô nghĩ mình đang mang thai nhưng vẫn chưa dám công bố sớm, để chờ thêm vài ngày nữa cho thật chắc ăn.
Nhất định đứa con này của cô mới là người thừa kế gia tài một cách hợp pháp, thằng nhỏ kia đừng hòng phá bĩnh kế hoạch của cô.
Mặc dù rất lo sợ nhưng Mỹ không dám nói cho Đạt biết, cô vội vàng lên giường, chui rúc vào lòng Đạt. Đạt không biết gì, hắn chỉ nghĩ vợ đang làm nũng nên quàng tay ôm cô chặt cứng vào lòng.
Đạt đã ngủ say rồi, tiếng thở đều đều của Đạt phả vào tai Mỹ nhồn nhột, cô vẫn không sao ngủ được. Hễ mắt nhắm lại là Mỹ lại tưởng tượng ra những hình ảnh gớm ghiếc đang nhảy múa đằng sau nhà bếp.
Đêm thật vắng lặng. Giờ phút này, Mỹ cầu mong cho thằng bé bên kia khóc ré lên để phá vỡ sự thinh lặng khủng khiếp này. Thế nhưng bên căn phòng đó vẫn lặng im không hề có tiếng động.
Mỹ nằm im lắng nghe mấy tiếng chó sủa vu vơ ở đâu đó rất xa vọng lại. Tiếng côn trùng nỉ non than thở ngoài vườn.
Mỹ chợt nhớ lại hình ảnh Dịu hụp lặn mấy lần dưới nước, thấy bàn tay Dịu huơ huơ trên mặt nước rồi cứ vươn dài… vươn dài ra mãi. Cánh tay của Dịu như một con rắn khổng lồ đang uốn éo bò vào sát cửa phòng ngủ của Mỹ rồi. Mỹ nhắm tịt mắt lại, vẫn không sao xua đuổi được hình ảnh ghê rợn đó ra khỏi đầu mình.
Rồi Mỹ lại hé mắt nhìn ra, cô tưởng như đang nhìn thấy Dịu đứng sát cạnh giường, đầu cổ tóc tai, áo quần đều ướt sũng nước.
Mỹ sợ quá, kéo mền trùm kín đầu mặc dù đang đêm mùa hè khí trời vô cùng oi bức.
Mỹ ôm chặt lấy Đạt. Đạt làu bàu gỡ tay Mỹ ra, trở mình nằm xoay mặt ra ngoài. Mỹ vẫn lết vào nép sát lưng chồng. Mồ hôi tuôn dầm dề trên mặt Mỹ. Cô nhắm mắt rồi lại mở mắt. Những hình ảnh này nối tiếp những hình ảnh khác cứ lần lượt diễu qua mắt cô khiến cô hoang mang tột độ.
Thân người ướt sũng, tóc tai dã dượi của Dịu cứ tiến sát, tiến sát mãi vào chỗ Mỹ nằm, rồi bất thần nó hà cái gương mặt bầy nhầy máu thịt vô mặt Mỹ làm cô muốn ngất lịm đi. Mỹ không đủ sức la lên, cô chỉ cấu mạnh vào người Đạt.
Đạt giật mình hỏi:
- Cái gì vậy?
Mỹ ôm cứng lấy Đạt:
- Anh ơi… em sợ…
- Sợ cái gì? Tự nhiên mà sợ cái gì? Thôi, ngủ đi, đừng lộn xộn nữa, anh buồn ngủ lắm, đừng quấy rầy anh…
Nó dứt câu, Đạt xoay người chỗ khác ngủ tiếp.
Mỹ thở dài. Cô biết từ nãy giờ chỉ là do mình tưởng tượng ra thôi chứ hoàn toàn không có bóng ma bóng quỷ nào xuất hiện trong căn phòng này cả. Nhưng sao Mỹ vẫn cảm thấy lòng mình thật bất an.
Ráng đi, ngày mai… chỉ ngày mai thôi đứa nhỏ đó sẽ không còn. Nếu hồn ma Dịu vì vấn vương đứa con mà lâu nay còn lẩn khuất quanh đây, mất đứa nhỏ, nó cũng sẽ không về đây nữa.
Dịu ơi, cô đừng trách tôi. Tôi biết cô thương nhớ con cô lắm, thì ngày mai vợ chồng tôi sẽ toại nguyện cho cô. Rồi mẹ con cô sẽ sớm gặp nhau, cô tha hồ mà chăm sóc nuôi nấng nó.
Suy nghĩ lung tung, mãi đến gần sáng Mỹ mới chìm vào giấc ngủ.
Suốt ngày hôm sau, đầu óc Mỹ vô cùng căng thẳng, cô hồi hộp, nôn nao mong trời chóng tối để giải quyết cho xong mọi việc, cứ lằng nhằng mãi thế này cô không chịu nổi.
Chiều tối, khi mặt trời đã khuất hẳn dưới cánh đồng, màn đêm bắt đầu bao trùm lấy vạn vật. Đạt nhờ Phát sang làng bên cạnh làm giúp hắn một vài việc cần thiết.
Trước khi đi, Phát dỗ cho con trai ngủ. Xong đâu đấy anh căn dặn vợ chồng Đạt – Mỹ:
- Thằng nhỏ ngủ rồi, nếu nghe nó khóc, chú thím chạy vô xem chừng giúp tôi nhé!
Đạt cười cười:
- Anh yên tâm đi, để cháu ở nhà vợ em lo cho.
Phát vừa đi một lúc, Đạt chờ cho mẹ vào phòng đóng cửa xong xuôi mới cùng vợ vô thăm đứa bé.
Nó không ngủ. Nó nằm đó mắt mở to, miệng không ngớt ư e, chốc chốc lại cười lên hắc hắc.
- Anh… sao giống như nó đang giỡn với ai vậy?
Mỹ kéo áo Đạt, tay chỉ vào đứa bé, sợ sệt.
Đạt hất tay Mỹ ra, nạt lớn:
- Em thiệt là… con nít đứa nào hổng vậy! Đã nói bao nhiêu lần rồi mà cứ làm cho người ta bị phân tâm.
Đạt ngó quanh phòng một lượt rồi ra lệnh cho Mỹ:
- Em kéo cái ghế đẩu đó đem lại đây… ừ, được rồi… không, để cho cái ghế nằm xuống, chút nữa mình sẽ xô thằng nhỏ xuống, giống như nó bị rớt xuống đất, không may đập đầu vô cái ghế này vậy…
Mỹ làm theo lời chồng sai bảo, cô cảm thấy tay mình run run.
Đạt cúi người xuống giường, tay lăm lăm chiếc gối định đè lên mặt đứa bé. Đứa bé vẫn mở to mắt nhìn Đạt, toe miệng ra cười…
Khi chiếc gối chưa kịp chạm vào mặt thằng bé thì như có một mãnh lực vô hình nào đó xô bật Đạt ra ngoài khiến hắn ngã chổng kềnh ra đất. Mỹ hoảng sợ, nhưng lúc đó cái ác trong lòng cô cũng đang trỗi dậy. Mỹ không thèm đoái hoài gì tới chồng nữa, cô nhào tới dùng hai bàn tay bóp chặt lấy cổ thằng bé.
“Bốp! Bốp!”
Hai cái tát nẩy lửa vụt thẳng vào hai bên má Mỹ. Cô giật mình lùi lại, đưa tay lên bưng lấy mặt, mắt ngó dáo dác khắp nơi. Trong căn phòng lúc đó, ngoài vợ chồng cô và đứa bé vẫn không có một ai!
Đạt lồm cồm ngồi dậy hỏi Mỹ:
- Em sao dậy?
- Ai đó vừa mới tát em…
- Ai?
Đạt gầm lên.
Nhưng vẫn không một tiếng trả lời.
Trên giường, thằng bé chợt cười lên hăng hắc như chọc tức Đạt. Hắn tức tối nhào tới nhấc thằng bé lên định quật ngay nó xuống đất.
Giống như vợ lúc nãy, Đạt lãnh trọn hai cái tát như trời giáng vào mặt. Và đứa bé, lạ lùng chưa… đứa bé như một thiên thần đang bay lơ lửng trên không trung tiến dần ra cửa, bỏ lại những tiếng cười nho nhỏ tươi vui, bỏ lại hai vợ chồng Đạt – Mỹ trong cơn kinh hoàng tột độ.
- Con trai tôi đâu? Con trai tôi đâu?
Phát gào lên thê thiết.
Tiếng gào của Phát làm bà Cả thức giấc. Bà lo lắng hỏi vọng xuống:
- Mỹ à, Mỹ! Chuyện gì ở dưới đó vậy con?
Nghe tiếng mẹ chồng, Mỹ quýnh quáng chạy lên. Vừa trông thấy bà Cả bước từ trong phòng ra, Mỹ mếu máo:
- Má… thằng nhỏ… thằng nhỏ biến mất rồi!
Bà Cả đứng sững lại, lắp bắp:
- Biến mất? Cháu nội đích tôn của tao biến mất à? Là sao? Tao không hiểu gì hết? Biến mất là sao?
Mỹ run rẩy:
- Anh Hai đi công chuyện. Lúc ảnh đi là thằng nhỏ vừa mới ngủ. Ảnh có dặ vợ chồng con hễ có nghe nó khóc thì chạy qua xem giúp. Tụi con về phòng nằm nói chuyện, không nghe động tĩnh gì bên phòng anh Hai nên cũng không có qua làm gì… Tới chừng… tới chừng anh Hai về thì phát hiện thằng nhỏ không có trong phòng!
Bà Hai run bây bẩy níu chặt cánh tay Mỹ:
- Đi… dìu má đi xuống phòng anh Hai con.
Mỹ dìu mẹ chồng xuống nhà dưới, mặt mũi cô xanh mét, cắt không còn hột máu.
Phát và Đạt lúc đó cũng không hơn.
ĐaÏt đứng sát vào tường, mặt căng ra lo sợ. Phát thì cuống cuồng lồng lộn lên:
- Con tôi đâu? Nó ở nhà với chú thím rồi chú thím đã làm gì nó? Trả nó lại cho tôi… Trả con tôi lại cho tôi…
Phát nhào tới, túm chặt lấy ngực áo Đạt. Đạt không dám chống trả, chỉ biết nhìn mẹ cầu cứu.
Bà Cả can:
- Phát à, chuyện đâu còn có đó! Con đừng làm vậy, bình tĩnh lại, kể rõ đầu đuôi ngọn ngành cho má biết coi…
Phát buông Đạt ra, buông người ngồi xuống giường mắt vẫn long lên sòng sọc:
- Thằng Đạt kêu con đi công chuyện cho nó. Trước khi đi, con đã gửi thằng bé lại cho vợ chồng nó. Vậy mà lúc về lại không thấy thằng bé đâu, má nghĩ có phải nó đã giết chết thằng nhỏ rồi không?
Bà Cả run lẩy bẩy, hối thúc Mỹ thắp sáng tất cả đèn có trong nhà và bắt đầu soi tìm thằng bé khắp các ngõ ngách trong nhà, rồi tìm dần ra cả khu vườn quanh nhà.
Đang đêm, trông thấy đèn đuốc sáng rực trong nhà chủ túa ra sân, gã làm vườn tò mò chạy tới hỏi:
- Cậu Ba, có chuyện gì vậy?
- Thằng nhỏ con anh Hai tôi đâu mất rồi!
Gã làm vườn giật mình, đưa mắt liếc sang Mỹ, Mỹ vội cụp mắt xuống, lúp xúp chạy theo chồng.
Gã làm vườn chạy vội về căn chòi của mình lôi ra một bó đuốc rồi đốt lên cùng với mọi người tản ra đi tìm kiếm.
Trong lòng gã làm vườn giờ đây đang trào lên một nỗi sợ hãi. Gã sợ hãi sự độc ác tột độ của Mỹ.
Từ sau lần vụng trộm đầu tiên giữa hai người bị Dịu phát hiện, Mỹ đã “ăn quen bén mùi” nên cứ một, hai ngày là lại mò ra với gã.
Gã – một thằng đàn ông sức lực tràn trề, đang sống xa gia đình, thiếu thốn mùi vị đàn bà, thì làm sao gã có thể chối từ miếng mồi ngon lành, béo bở đó?
Mới cách đây mấy ngày, Mỹ đã tiết lộ cho gã biết rằng có thể cô đã mang thai, mà đứa con này chắc chắn là con của gã.
Trong lúc phấn khích, Mỹ miên man kể cho gã nghe về kế hoạch chiếm đoạt gia tài của mình.
Cuối cùng Mỹ khẳng định:
- Chỉ có đứa con em đang mang trong bụng mới có đủ tư cách để thừa hưởng gia sản này. Anh cố gắng chìu chuộng em đi, sau này con của chúng ta lớn lên, em sẽ dạy nó đối xử thật tốt với anh…
Hôm đó gã đã hết lời khuyên lơn Mỹ, van xin Mỹ hãy vì đứa con trong bụng mà đừng nhúng tay vào tội ác.
Thấy gã phản đối quá, Mỹ đã ậm ừ cho qua chuyện. Gã cũng hy vọng Mỹ chỉ nói thế thôi chứ không thể ra tay tàn độc đối với một đứa trẻ thơ hoàn toàn vô tội.
Vậy mà hôm nay sự việc lại ra thế này! Khi vừa nghe cậu Ba Đạt nói cho biết đứa nhỏ mất tích, gã đa biết ngay thủ phạm chính là Mỹ. Gã vừa đau đớn vừa lo sợ.
Ban đầu ga  làm vườn cũng cảm cấy thích thú mỗi khi được gần gũi Mỹ. Nhưng càng về sau, khi phát hiện Mỹ là một người đàn bà lòng dạ ác độc thâm sâu, gã bắt đầu lo sợ.
Gã sợ, đến một lúc nào đó nếu không may chuyện quan hệ mờ ám giữa gã và Mỹ đổ bể ra, rất có thể Mỹ sẽ ra tay giết luôn cả gã để bịt đầu mối. Liên quan tới Mỹ thì bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy ra!
Đã mấy lần gã định bỏ đi, nhưng rồi gã cứ nấn ná mãi cũng không rõ vì đâu nữa. Có lẽ, bên cạnh nỗi sợ hãi ấy, gã cũng còn chút đam mê xác thịt với Mỹ nên còn luyến tiếc khi phải rời xa.
Nhưng ngay lúc này đây, gã đã quyết định rồi. Sáng mai gã sẽ xin nghỉ việc ở nhà này, gã sẽ lại lang thang trôi dạt đến một nơi nào đó.
Lòng gã không khỏi bùi ngùi khi nghĩ tới đứa con – mà có thể đó chính là giọt máu của gã – sẽ được sinh ra ở đây, được lớn lên ở đây, được nuôi dạy bởi một người mẹ tàn ác như Mỹ, thì tương lai của nó sau này rồi sẽ ra sao?
Gã làm vườn cũng giống như Phát, Đạt và Mỹ soi đèn rọi vào từng lùm cây bụi cỏ để mong tìm được đứa bé, nhưng lùng nát cả khu vườn rồi mà tung tích của thằng bé vẫn không sao bíet được.
Gã làm vườn đinh ninh Mỹ giết chết nó rồi, có thể xác thân bó bỏng của nó đã bị cô vứt bỏ dưới sông hoặc chôn vùi đâu đó, gã không có hy vọng gì tìm thấy nó.
Tiếng khóc của bà Cả rền rĩ vọng ra làm cho mọi người càng thêm rối ruột.
Vợ chồng Đạt – Mỹ là người lo sợ nhất.
Chính mắt hai người đã thấy thằng bé bay lên, nhưng ai sẽ tin lời họ? Rồi ngày mai đây sự việc này lan ra ngoài, chắc chắn ai cũng nghĩ vợ chồng cô là người thủ tiêu đứa nhỏ.
Chứ sao nữa, Phát đi vắng gởi con lại cho vợ chồng cô, mấy tiếng đồng hồ trở về thì con mất. Thằng nhỏ lại chưa biết đi, chưa biết chạy, thậm chí đến bò nó cũng chưa biết thì làm sao có thể ra khỏi nhà cho được?
Chắc chắn mọi người sẽ nghĩ như vậy, kể luôn bà Cả, luôn cô út Loan sẽ về nay mai…
Vị trí của vợ chồng cô trong nhà này sẽ ra sao?
Chẳng lẽ bao nhiêu công sức của vợ chồng cô đã đổ ra giờ hóa thành tro bụi cả hay sao?
Nước mắt nhạt nhòa trên mặt Mỹ. Cô không phải khóc vì lo lắng cho đứa nhỏ, mà chính là lo lắng cho chính bản thân cô, lo lắng cho cái địa vị của vợ chồng cô trong nhà bà Cả.
Phát vứt cây đèn, ngồi phịch xuống sân ôm mặt khóc rống lên thảm thiết. Đạt cùng gã làm vườn chỉ biết đứng đó trơ mắt nhìn, không ai dám tới gần, cũng không ai dám nói lời nào an ủi.
Trong nhà, bà Cả không ngớt kêu trời kêu đất.
Phát khóc một hồi rồi vùng đứng lên chạy ra hướng bãi đất hoang, nơi có nấm mồ cô đơn của Dịu.
Gã làm vườn định chạy theo, nhưng Đạt cản lại:
- Thôi, cứ để anh ấy một mình! Đừng quấy rầy ảnh nữa.
Đạt thất thểu quay vào, Mỹ lủi thủi cầm đèn đi theo sau lưng chồng. Gã làm vườn nhìn theo họ một lúc rồi ngao ngán thở dài:
- Người giàu khổ hơn người nghèo nhiều quá!
Gã lững thững quay về căn chòi nhỏ, gom góp áo quần tính sáng hôm sau bỏ đi thật sớm, không cần lấy tiền công của tháng vừa rồi.
- Chết cha! Mình đi như vậy, họ sẽ vu oan cho mình bắt cóc đứa nhỏ thì chết là cái chắc! Thôi, thôi… không được rồi, dù muốn dù không cũng phải nán lại thêm ít bữa nữa, chờ việc này sáng tỏ rồi mình mới có thể muốn đi đâu thì đi!
Gã làm vườn ngao ngán cho tình đời, ngao ngán cho lòng dạ đàn bà hiểm sâu cay độc!
Phát cắm đầu chạy một mạch ra tới mộ vợ. Anh quỳ xuống úp mặt vào nền đất lạnh lẽo mà khóc nghẹn ngào:
- Dịu ơi… Anh là kẻ vô dụng quá phải không em? Anh thương em, anh yêu em nhưng anh không bảo vệ được em, không giữ gìn được em… Rồi bây giờ ngay đến đứa con trai bé bỏng của vợ chồng mình anh cũng không giữ được… Dịu ơi, em trừng phạt anh đi… em giết chết anh đi, anh muốn được gặp em, được gặp lại con của chúng ta… Dịu ơi…
Trời đêm lặng gió nhưng tàn cây trâm bầu gần đó lại không ngừng rung lên khe khẽ, tiếng lá cây xào xạc mà Phát nghe như tiếng vợ hát ru con. Anh ngẩng mặt lên, trên vòm lá hoàn toàn không có một bóng hình nào ẩn hiện!
Nhưng giữa lúc đó, Phát nghe rõ ràng có tiếng cười khúc khích của con trai. Anh bật dậy nghiêng tai nghe ngóng. Tiếng ư e của nó, tiếng cười của nó đó, rõ ràng là tiếng của con trai anh, không thể lẫn vào đâu được hết!
Tiếng cười khi gần khi xa khiến Phát càng thêm hoang mang lo lắng.
- Con ơi… con ở đâu? Dịu ơi… có phải em đang bế con không? Em trả lời anh đi Dịu ơi…
Một làn gió nhẹ thoảng qua, một bóng trắng lướt qua rồi dừng lại bên cạnh Phát.
- Dịu ơi… đúng là em rồi… Anh mừng quá Dịu ơi… Con mình đâu? Con mình đâu rồi em?
Phát quýnh quáng vừa cười vừa khóc.
Hồn ma của Dịu nhìn Phát rưng rưng nước mắt:
- Anh hãy ráng bảo vệ con mình… Người ta đang rắp tâm hại nó… Anh hứa với em đi, anh phải bảo vệ con nghe anh?
Dịu đứng cạnh bên anh nhưng Phát lại nghe tiếng vợ như từ ở nơi xa xôi vọng đến.
Từ ngày Dịu chết đến nay, tuy đã nhiều lần gặp lại mỗi lúc Dịu về chăm sóc cho thằng bé, nhưng đây là lần đầu tiên Phát nghe được tiếng nói của cô. Phát sung sướng đến trào nước mắt.
Anh đưa hai tay ra:
- Dịu ơi, em cho anh được cầm lấy tay em đi, một chút thôi, một chút thôi cũng được nghe em! Anh… anh nhớ em nhiều lắm!
Dịu lắc đầu buồn bã nhìn chồng:
- Vợ chồng mình bây giờ đã âm dương cách biệt, không thể nào anh có thể cầm được tay em như ngày trước… em thương anh nhiều lắm, nhưng em không thể… Thời gian em được phép quanh quẩn bên cạnh để bảo vệ anh và con cũng không còn nhiều nữa. Em sắp phải đi xa rồi. Anh hãy thay em mà chăm sóc cho con trai của chúng ta. Nhưng… anh hiền lành quá, anh nhân hậu quá, anh không đủ sức chống chọi với cái ác đâu… Trong nhà hiện giờ chỉ có cô út là có thể giúp được anh thôi. Anh nhớ lời em nói… Nhớ bảo vệ con mình…
Phát còn đang ngẩn người ra nghe những lời Dịu nói thì hình bóng cô trước mặt Phát mờ dần rồi biến mất trong làn gió nhẹ.
- Dịu ơi… em ơi…
Phát gọi to, nhưng xung quanh hiện tại vô cùng vắng lặng.
Chợt có tiếng con nít khóc gần đó, Phát vội vã dò tiếng khóc vòng qua phía chân ngôi mộ, anh trông thấy thằng bé đang nằm bình yên, dưới lưng nó được lót bằng mấy tàu lá chuối.
Mừng rỡ, Phát ôm chặt đứa nhỏ vào lòng, nước mắt anh trào ra rơi lộp độp xuống mặt thằng bé, nó huơ huơ bàn tay bé xíu như muốn lau khô dòng lệ cho cha.
Bên tai Phát lại nghe văng vẳng lời dặn dò của Dịu:
- Người ta đang rắp tâm hại nó… Anh phải bảo vệ con mình!
Một tay Phát ôm đứa bé, một tay anh choàng qua ngôi mộ, thầm thì như đang nói chuyện với người vợ thân yêu:
- Em yên tâm đi… Anh sẽ bảo vệ được con… Từ nay anh sẽ không để bất cứ người nào hãm hại được con trai của chúng ta…
Gió đêm bắt đầu thổi mạnh, đứa bé trong tay Phát chỉ phong phanh trong chiếc áo mỏng. Anh vội vàng cởi áo mình ra quấn chặt lấy con rồi bế nó về nhà.
Ở trong nhà, bà Cả vẫn còn đang khóc lóc kể lể:
- Trời ơi… tôi làm già mà ông trời nỡ đối xử với tôi như thế? Tôi già từng tuổi này rồi mới có được một chút cháu nội, vậy mà ai nỡ bắt nó đem đi… Làm sao tôi sống được nữa đây hở ông trời ơi… Nếu tôi gây ra tội lỗi gì thì ông cứ nhắm vào cái mạng già của tôi mà trừng phạt, cháu tôi nó còn bé bỏng quá, nó đâu làm gì nên tội… Ớ ông trời ơi là ông trời ơi…
Bà Cả than trời trách đất rồi quay sang chửi mắng vợ chồng Mỹ:
- Hai đứa chúng mầy đã làm gì thằng nhỏ? Tại sao thằng nhỏ lại mất tích? Tụi bây nói cho rõ đi, mau đem nó về trả lại cho tao đi…
Mỹ khóc lóc, giải thích cách nào bà Cả cũng không chịu nghe. Bà xô Mỹ ra, không cho cô lại gần khiến Mỹ càng thêm lo sợ. Cô sợ mẹ chồng sẽ không thương mình nữa, sợ cái di chúc sẽ được lập nay mai vợ chồng mình chỉ được hưởng một phần nhỏ bé mà thôi…
Đạt không nói gì, chỉ ngồi gục đầu trên ghế.
Trong giờ phút này Đạt hoàn toàn không nghĩ gì tới gia tài của cải, hắn cũng không nghĩ thương mẹ già cháu dại, thương người anh ruột thịt đang đau cắt lòng cắt dạ. Hắn chỉ đang lo sợ cho bản thân.
Rõ ràng hắn thấy thằng bé cứ nằm ngửa như vậy mà bay lên. Nếu nghe ai kể lại, chắc chắn hắn sẽ bảo là người đó trông gà hóa cuốc hoặc đang kể chuyện hoang đường. Nhưng đằng này chính mắt hắn trông thấy thì làm sao hắn còn nghi ngờ gì nữa?
Tất cả những lời đồn đại bên ngoài về một người mẹ ma đêm đêm đi mua sữa, đi ăn cắp sữa về cho con phải chăng là sự thật? Lời nói của anh Hai, những lời mà trước đây cả nhà không ai tin phải chăng cũng là sự thật? Đêm đêm Dịu hiện về cho con bú, dỗ cho con tròn giấc ngủ?
Đúng rồi! Đúng như vậy rồi! Thằng bé vốn bú rất ít những vẫn khỏe mạnh phổng phao, nếu không phải do mẹ nó chăm sóc thì là cách gì được như thế?
Rồi cả những lần vợ chồng Đạt toan ra tay giết đứa bé, lúc nào cũng có một cái gì đó ngăn cản kịp thời!
Trời ơi! Ma! Đúng là ma rồi! Biết từ nay con ma đó nó có chịu tha thứ cho mình không? Hay nó cứ bám riết lấy vợ chồng mình mà đòi nợ?
“Dịu ơi, cô chết là do tự nơi phần số của cô vắn, cô đừng về đây ám vợ chồng tôi… Trước kia tôi có lỗi lầm gì với cô, cũng xin cô từ bi hỉ xả cho tôi… Cô có cần gì thì cô cứ báo mộng cho tôi biết, tôi sẽ đáp ứng cho cô thật đầy đủ rồi cô bỏ qua hết mọi lỗi lầm của chúng tôi, cô Dịu ơi…” Đạt van vái thầm trong bụng.
Giữa lúc bà Cả còn đang lăn lộn khóc than thì Phát từ bên ngoài xồng xộc đi vào, trên tay ôm đứa bé lúc này đã ngủ yên.
Bà Cả mừng rỡ chồm lên:
- Trời ơi, cháu của tôi! Đứa cháu vàng cháu ngọc của bà! Cháu làm sao mà để bà khóc hết nước mắt như vầy hả cháu?
Bà ôm lấy thằng bé khóc hù hụ làm nó thức giấc, liếc mắt nhìn bà một cái, chóp chép chiếc miệng nhỏ xíu rồi lại nhắm mắt ngủ tiếp mặc cho đám người lớn đang ì xèo bàn tán xung quanh việc biến mất đột ngột của nó vừa rồi.
- Anh tìm thấy thằng nhỏ ở đâu vậy?
Đạt hấp tấp nhổm lên hỏi Phát.
Phát nhìn trừng trừng vào Đạt, vào Mỹ rồi lạnh lùng nói:
- Nó ở chỗ của mẹ nó!
Đạt té ngồi xuống ghế. Bà Cả và Mỹ sững sờ đứng trơ ra không kịp có phản ứng nào trước câu trả lời của Phát.
- Có kẻ muốn hãm hại nó, mẹ nó phải đưa nó đi để bảo vệ!
Phát nhìn vào Mỹ nói tiếp.
Mỹ cụp mắt ngó xuống mấy ngón chân đang di di trên nền nhà.
- Con nói… con nói có người muốn hại thằng nhỏ? Người đó là ai? Ai mà cả gan dám làm chuyện đó? Còn chuyện mẹ nó là sao? Chẳng phải mẹ nó đã chết cả tháng nay rồi sao?
Bà Cả thắc mắc hỏi dồn.
Phát lắc đầu:
- Con có nói thì má và mọi người cũng không ai hiểu, không ai tin con đâu! Vậy xin đừng ai hỏi gì con thêm nữa. Con chỉ muốn nói một điều là, kể từ hôm nay, bất kỳ ai muốn làm hại thằng bé này đều phải bước qua xác chết của con. Con không cho bất cứ kẻ nào tổn hại tới con trai con, dù kẻ đó là ai…
Bà Cả, Đạt và Mỹ vô cùng bất ngờ kinh ngạc trước những lời nói mạnh mẽ và không ngoan của Phát.
Mấy chục năm qua, chưa bao giờ Phát ăn nói lưu loát và dứt khoát đến như thế.
Bỏ mặc mọi người đang đứng ngẩn ngơ, Phát ẵm con vào buồng, đóng sầm cửa lại.
Bà Cả vẫn còn muốn hỏi thêm Phát nhiều điều nữa, nhưng thấy tâm trạng con trai đang như vậy bà cũng không dám làm phiền.
Dù sao thì đứa cháu vàng ngọc của bà cũng được bình yên trở về nhà rồi, đêm cũng đã khuya, để cho mọi người ngủ đi, việc gì hãy đợi đến ngày mai rồi hẵng giải quyết tiếp.
Bà Cả đứng lên chậm chạp đi về phòng, xua tay từ chối khi thấy Mỹ có ý dìu bà đi:
- Hai đứa về phòng ngủ đi, tao đi một mình được rồi!
Mỹ hẫng hụt đứng lặng nhìn theo dáng đi lụm cụm của bà mẹ chồng. Một nỗi cay đắng dâng lên trong lòng cô. Hơn một năm qua, Mỹ đã cố công mua chuộc, lấy lòng bà Cả, cô đã tính toán trăm điều, thậm chí đã nhúng tay vào tội ác giết người để cuối cùng đạt được kết quả như thế này hay sao?
Bà Cả đã tỏ vẻ lạnh nhạt với cô rồi thì bức di chúc kia cô còn gì mà hy vọng nữa?
- Má! Vợ chồng con sắp có em bé rồi!
Bất ngờ Mỹ gọi với theo, nói với mẹ chồng. Bà Cả đứng khựng lại, trong khi Đạt giương mắt lên nhìn Mỹ với vẻ ngạc nhiên pha lẫn nghi ngờ.
- Mầy có mang từ lúc nào?
Bà Cả quay đầu lại hỏi.
- Dạ, khoảng một tháng nay nhưng con chưa chắc nên chưa dám báo tin cho má biết. Mãi đến chiều này con mới khẳng định được. Tính nói cho má biết, nhưng mắc cái vụ lằng xằng của thằng nhỏ nên con chưa kịp thông báo…
Mỹ nói luôn một hơi.
Bà Cả nhìn Mỹ dò xét:
- Vì vậy, vì mầy đã có thai nên mầy muốn vứt bỏ đứa bé kia? Mầy muốn con của mầy độc chiếm hết tài sản của tao?
Mỹ bật khóc:
- Má… sao má lại nói vậy? Con… con không hề có ý đó…
- Có ý đó hay không thì từ từ sẽ biết. Khuya rồi, tất cả về phòng ngủ đi, việc gì thì để đến ngày mai nói tiếp.
Bà Cả vừa bước đi vừa nói.
Đạt chụp lên vai vợ:
- Em… có thật là em đã mang bầu rồi không?
Mỹ gật đầu, vẫn còn tức tưởi khóc:
- Nhưng bây giờ đâu còn ý nghĩa gì nữa đâu?...
Đạt đưa tay bịt mịêng vợ lại không cho Mỹ tiếp tục nói. Hắn dìu Mỹ về phòng.
- Anh nghĩ xem, má đang thương vợ chồng mình như vậy, đùng một cái lại quay mặt làm lơ, thiệt uổng công em lâu nay chìu lòn bả…
- Cũng tại em ngu, hết lúc báo tin hay sao mà nhằm vào lúc đó? Trong khi việc thằng nhỏ mất tích ai cũng quy tội cho vợ chồng mình rồi, em lại đột ngột báo mình mang thai, thì làm sao má lại không nghĩ tới chuyện em muốn loại bỏ đứa nhỏ kia để con mình lên ngôi vị độc tôn trong cái nhà này? Em thiệt là ngu ngốc. Có gì sao không nói trước với anh? Sao không bàn bạc với nhau trước?
Mỹ chống chế:
- Chỉ tại… chỉ tại lúc đó em hoang mang quá, rồi tự nhiên buột miệng nói ra chuyện ấy…
- Em có mang sao không cho anh biết?
Đạt nhìn Mỹ thắc mắc.
Mỹ lúng túng:
- Em định… định giành cho anh sự bất ngờ…
Đạt ngã người ra giường:
- Như vậy là tốt rồi! Mình sắp có con là tốt lắm rồi! Anh không muốn tranh giành gì nữa đâu, anh mệt mỏi lắm, anh cũng sợ hãi lắm rồi, anh không dám liều mạng lần nữa đâu…
Mỹ nín khóc nhìn chồng đầy vẻ trách cứ:
- Vậy chẳng lẽ anh muốn con mình sau này sống trong nghèo khổ? Anh muốn nó phải thua sút thằng kia nhiều mặt sao?
Đạt nhổm lên gay gắt:
- Chứ bây giờ em biểu anh phải làm sao? Anh đã cố gắng hết sức rồi, em còn muốn gì nữa? Mình là người, mình có đủ sức đấu lại với ma không? Nếu em muốn gì thì em cứ tự nhiên mà thực hiện một mình đi! Anh đã chào thua, anh xin rút chân ra ngoài, không tham gia vào bất cứ trò nào của em nữa…
Mỹ tức giận nói gằn từng tiếng:
- Em không chấp nhận sống như vầy! Mặc dù hiện tại em chưa biết phải làm gì, nhưng em dám nói chắc một điều là em không dễ gì bỏ cuộc nhanh chóng như thế này đâu!
- Thế thì tùy em vậy!
Đạt nói xong câu đó, nằm xoay mặt vô tường nhắm mắt lại ngủ.
Mỹ ấm ức nằm đâu lưng lại với chồng, nước mắt cô lăn dài trên má.
Hơn một tuần nay, Mỹ luôn hình dung ra cái cảnh tượng khi cô báo tin mình mang thai, mẹ chồng sẽ vui đến mức độ nào, cưng yêu chìu chuộng mình thế nào; chồng mình sẽ mừng rỡ ra sao… Vậy mà giờ đây, người ta đón nhận cái tin quan trọng đó với một thái độ lạnh nhạt, dửng dưng, thử hỏi làm sao Mỹ không cảm thấy đau lòng và cay cú được?
Tất cả cũng chỉ vì thằng nhỏ đó mà ra! Mỹ càng cảm thấy căm tức thằng bé hơn bao giờ hết.
Nhưng lúc này đây Mỹ cũng không khác gì Đạt. Cô sợ, rất sợ! Qua sự việc vừa mới xảy ra, đã khẳng định được một điều: Đúng là thằng bé được sự che chở bởi hồn ma của mẹ nó!
Vậy thì làm sao? Làm cách nào mới có thể loại bỏ nó khỏi gia tộc nhà này? Mỹ không từ bỏ dã tâm, mặc dù cô biết rằng kể từ hôm nay việc đối phó với thằng bé đã trở nên cực kỳ khó khăn, không những nó đã được bảo vệ bằng một thế lực siêu nhiên, mà chính trong ngôi nhà này, một khi xảy ra điều gì không hay cho nó, vợ chồng cô sẽ là người bị nghi ngờ nhiều nhất.
Nhưng gì thì gì, Mỹ cũng quyết tâm không từ bỏ!
Mỹ tự đặt ra các giả thuyết và tự mình lý giải: Một khi thằng bé kia chết đi, dù có nghi ngờ Mỹ và Đạt là kẻ ra tay, bà Cả cũng không có bằng chứng nào để kết tội, bởi vì cô cũng đâu có ngu dại gì mà để lại bằng chứng? Đồng thời, bà Cả làm sao có thể dám đi tố cáo với chính quyền về chuyện đó? Danh giá gia đình là điều mà bà Cả luôn coi trọng. Bà cũng đâu thể nào dám đẩy Đạt vô tù? Gia tài bà chỉ có hai thằng con trai, Phát thì bà không hy vọng gì rồi, chỉ còn lại Đạt – chồng Mỹ – mới là người có thể kế tục sự nghiệp, người gánh vác gia đình sau này, thì dù cho ghét hay thương, bà cũng phải cắn răng mà chịu. Vả lại, còn đứa con trong bụng của Mỹ nữa đây!
Tất cả những điều đó sẽ bảo vệ vợ chồng Mỹ. Nên đối với sự ngờ vực có thể xảy ra trong gia đình, Mỹ không còn sợ nữa!
Điều mà Mỹ cần tập trung đối phó lúc này chính là Dịu, là hồn ma của Dịu!
Thuở nhỏ, Mỹ đã từng nghe người ta kể nhiều chuyện ma. Cô nghe xong rồi thôi, không khi nào nghĩ ngợi gì tới nó nữa. Nhưng bây giờ, Mỹ lại chú tâm nhớ lại tất cả những gì đã từng nghe qua để từ đó tìm ra biện pháp chống lại cái hồn ma đáng ghét đó.
Lúc còn sống Dịu là cái gai trong mắt Mỹ, khi Dịu đã chết đi rồi, Mỹ tưởng cô sẽ được nhẹ lòng, nào ngờ đâu vẫn chẳng được yên? Đúng là nghiệt báo oan gia, chẳng hiểu kiếp trước cô và Dịu có nợ nần gì với nhau nữa không biết.
Mỹ suy nghĩ trong nỗi ấm ức, cay cú mà cô vừa phải chịu đựng.
 
****
Út Loan về nhà sớm hơn dự tính hai ngày. Vì ban đầu cô dự định sau khi thi xong, cô sẽ ở lại thêm một vài hôm để cùng bạn bè tụ họp đi chơi cho thỏa thích. Nhưng rồi lúc thi xong, cả đám bạn cô đứa nào cũng nôn nóng về thăm lại quê nhà nên đành chia tay nhau, hẹn khi hết hạn nghỉ hè sẽ cùng nhau trở lên trường sớm một chút để thực hiện cái kế hoạch đi vườn cây ăn trái ở Lái Thiêu, Thủ Đức…
Trong gia đình, út Loan tuy là con gái nhưng lại là người duy nhất được cho ăn học tới nơi tới chốn. Hai anh của cô thì chỉ học hết các lớp ở trường làng là nghỉ ở nhà, mang tiếng giúp đỡ bà Cả nhưng lông bông là chủ yếu.
Sau khi học xong lớp Năm, bà Cả cũng muốn cho Loan nghỉ học, nhưng cô không chịu, ngày nào cũng khóc lóc. Bà Cả vốn chìu chuộng Loan từ bé, bà thương con gái sớm thiệt thòi vì mồ côi cha từ lúc vừa mới tượng hình trong bụng mẹ. Vả lại mấy ông bà thầy bói mà bà Cả từng xem qua, ai cũng phán út Loan sau này đường công danh sẽ vô cùng rạng rỡ, ai cũng khuyên bà để cho cô đi tiếp trên con đường học vấn. Vì vậy bà Cả mới nén lòng cho con lên tỉnh học, chứ theo ý bà, chỉ có một đứa con gái, bà chẳng muốn rời xa nó, dù là chỉ một ngày.
Học hết mấy năm trường Tỉnh, út Loan lại tiếp tục theo học ở Sài Gòn. Lúc này bà Cả chỉ biết ngồi nhà đếm thời gian trôi qua, mong mấy năm học của út Loan sớm kết thúc để nó còn về nhà mà lấy chồng sinh con như bao nhiêu đứa con gái khác trong làng. Bằng tuổi với út Loan, nhiều đứa đã con bồng con bế.
Những lúc vui nhất của bà Cả là những ngày út Loan được về nhà nghỉ, cả gia đình đoàn tụ quanh bà. Những ngày ấy trong nhà bà Cả, ai nấy mặt mũi đều hớn hở, hân hoan…
Lần nào cũng vậy, trước ngày út Loan về là bà Cả lại chuẩn bị thật nhiều thứ cho con gái. Nào là dọn dẹp lại phòng cho nó, nào là ra chợ tìm mua những món ăn con gái bà ưa thích… Nhà bà Cả tuy giàu có nhưng bà không thuê mướn người ở, thành ra mọi việc lớn nhỏ trong nhà đều do một tay bà quán xuyến.
Ngày xưa, bà Cả là con gái một nhà phú hộ, nhưng ông Cả chồng bà chỉ là một kẻ trắng tay.
Tất cả sự nghiệp của chồng, tất cả gia sản bà có hôm nay đều do một tay bà gầy dựng.
Tuy là con nhà giàu, nhưng bà thuộc loại phụ nữ chịu thương chịu khó, biết tính toán làm ăn, bà tiện tặn, dành dụm từng đồng mới có được cơ ngơi ngày hôm nay.
Về tới nhà, sau những câu chào hỏi vồ vập ban đầu, út Loan nhận thấy trong nhà mình có một điều gì đó khác lạ, không được bình thường.
Cái chết của chị dâu thì út Loan cũng đã được báo tin, nhưng cô thừa biết, điều đó chỉ có mỗi một mình anh Hai cô buồn khổ mà thôi, còn mẹ cô và vợ chồng anh Ba hổng chừng còn cảm thấy nhẹ lòng nữa là khác.
Vậy thì tại sao không khí trong nhà lại trầm lắng một cách khó chịu đến vậy? Út Loan vô cùng thắc thắc, nhưng cô nhủ thầm, để rồi từ từ sẽ hỏi chuyện nhà sau.
- Anh Hai cho em ẵm cháu chút đi!
Út Loan chìa hai tay ra, nói với Phát.
Phát vui vẻ trao con trai cho Loan.
Từ ngày chào đời, đây là lần đầu tiên thằng bé được gặp măït cô út, nhưng nó không có vẻ gì là xa lạ, trái lại nó tỏ ra quyến luyến với cô như thân thuộc từ bao giờ.
Ôm đứa cháu trong tay, nhìn vẻ mặt của anh Hai mình, tự nhiên trong lòng út Loan trào dâng một nỗi niềm thương cảm.
Hôn hít, đùa giỡn với cháu bé một lúc, Loan trả cháu lại cho anh Hai rồi về phòng sửa soạn đi tắm và dọn dẹp hành lý. Lần này cô về nghỉ hè, nên thời gian ở lại nhà còn lâu, tha hồ mà hỏi han tâm sự.
Đến trưa, sau khi ăn cơm xong, Loan theo mẹ vào phòng.
- Má, nhà mình vừa xảy ra chuyện gì hả má?
Bà Cả vừa đặt lưng xuống võng, út Loan sà xuống cạnh mẹ, vuốt ve nhè nhẹ lên cánh tay bà vừa hỏi.
Bà Cả thở dài:
- Có rất nhiều chuyện mà má không sao hiểu được, hổm nay má cũng trông con về đặng giúp mẹ một tay.
- Chuyện gì má nói cho con nghe đi?
Út Loan tò mò.
Bà Cả ngồi đong đưa trên võng, ánh mắt buồn buồn:
- Từ ngày con Dịu chết đi, nhà mình liên tiếp xảy ra rất nhiều chuyện kỳ lạ. Đầu tiên là thằng nhỏ không chịu bú mà vẫn khỏe mạnh như thường. Anh Hai con thì bảo tối nào vợ nó cũng về cho đứa bé bú. Mới tối hôm qua, anh Hai con đi công việc, để thằng bé ngủ trong phòng, có nhờ anh chị ba con trông chừng giúp. Vậy mà lát sau khi anh Hai con về thằng nhỏ biến mất tiêu! Cả nhà tá hỏa đi tìm kiếm khắp trong nhà lẫn ngoài vườn vẫn không thấy. Má tưởng đâu vĩnh viễn má không còn gặp được cháu nội nữa… Ai ngờ, cuối cùng anh Hai con lại tìm thấy nó ở chỗ mộ con Dịu. Đã vậy anh Hai con còn nói có người muốn hãm hại nó nên mẹ nó về bảo vệ. Má thiệt không hiểu nổi… Rồi tự nhiên giữa lúc lộn xộn đó mà chị Ba con lại thông báo nó đã mang thai. Suốt đêm qua má không sao ngủ được, má không biết có phải anh chị ba con đã đem bỏ đứa nhỏ ngoài mả hay không nữa…
Loan nghe mẹ nói, hết sức kinh ngạc:
- Con không ngờ ở nhà lại xảy ra những chuyện như vậy. Nhưng sao má không hỏi anh Hai cho tỉ mỉ xem sự việc thế nào? Ai là người muốn hãm hại đứa bé? Hại nó để làm gì chứ?
Bà Cả có vẻ mệt mỏi:
- Thì con cũng biết tính anh Hai con rồi đó! Nó muốn nói lúc nào thì nói, chừng nó không muốn, dù có cạy miệng nó cũng chẳng hở lời nào. Cũng chính vì vậy, má mới trông ngóng con về. Trong nhà, anh Hai con chịu nghe lời con nhất, má muốn con nói chuyện với nó để tìm hiểu giúp má, chứ một mình má, má không biết tính sao nữa…
Út Loan gật đầu:
- Dạ, má yên tâm đi, con sẽ nói chuyện với anh Hai. Con hy vọng ảnh sẽ tâm sự hết với con. Anh Hai con tuy đôi lúc thường ăn nói không đầu không đuôi, nhưng những gì ảnh nói con tin là có thật. Vì từ hồi nào tới giờ, anh Hai chưa từng biết nói dối, cũng chưa từng nói giỡn chơi bất cứ chuyện gì. Nên khi má kể việc ảnh bảo tối nào chị Hai cũng về con thấy lo lắm… Chỉ mong điều đó là do ảnh quá thương nhớ chị Hai mà tưởng tượng ra…
Bà Cả trầm ngâm:
- Ừ, má cũng mong là như vậy! Nhưng lạ lắm con à, tối hôm qua anh Hai con không giống như bình thường. Nó nói năng lưu loát, khôn ngoan lại vô cùng cứng rắn. Má nuôi nó mấy chục năm nay rồi nhưng lần đầu tiên má mới thấy nó tức giận và khôn ngoan như vậy!

Út Loan ôm vai mẹ:
- Thôi má đừng nghĩ ngợi nhiều mà ảnh hưởng không tốt tới sức khỏe. Giờ má ngủ trưa đi, để con tới phòng anh Hai chơi với cháu bé, sẵn tiện con nói chuyện với ảnh luôn nghen má?
- Ừ, con đi đi! Hỏi khéo khéo nghe con, nó khôn dại bất thường không biết đâu mà lần đó.
Út Loan cười, đứng lên:
- Dạ, con biết rồi, má yên tâm đi!
Nói xong út Loan đi ra ngoài, bà Cả cũng ngã lưng xuống võng lim dim mắt.
Ra khỏi phòng bà Cả út Loan đi thẳng tới chỗ anh mình. Thấy cửa phòng chỉ khép hờ, cô gõ nhẹ rồi hỏi:
- Cháu bé ngủ chưa vậy anh Hai? Cho em vô chơi với cháu chút nghen?
Nghe tiếng em gái, Phát lật đật đứng lên mở rộng cánh cửa.
- Em vô đi, nó còn thức nè!
Thằng bé đang nằm chòi đạp trên giường, trông thấy út Loan nó mở miệng cười toe toét.
Loan bế nó lên, nói với anh Hai:
- Ở trong này nóng nực quá, em ẵm nó ra hàng ba ngồi chơi nghen, anh Hai ra đo chơi với cô cháu em luôn nghen?
Phát gật đầu:
- Ừ, anh đi với em.
Út Loan sực nhớ:
- Bé bú sữa chưa anh?
- Chút nữa thím Ba ngủ dậy sẽ pha sữa cho nó.
Phát trả lời.
Út Loan nhanh nhảu:
- Thôi khỏi, anh bế thằng bé ra ngoài trước đi, để em pha sữa đem ra cho, khỏi chờ chị Ba.
Trao đứa nhỏ lại cho Phát, út Loan cầm lấy chai sữa đi xuống bếp.
Út Loan lục lọi một hồi thì tìm thấy hộp sữa. Nhìn thấy nhãn hiệu hộp sữa cầm trên tay, út Loan thầm khen chị dâu mình tuy ở quê mà cũng biết chọn lựa mua loại sữa này cho cháu, hèn gì thằng bé cứ tròn vo, nhìn thấy là muốn cắn ngay cho một phát.
Nhưng khi mở nắp hộp, út Loan vô cùng ngạc nhiên. Bên trong là một thứ sữa hoàn toàn khác! Những hạt sữa không mịn màng khô ráo mà nó đã ngã sang màu vàng và vón thành từng cục, hăng hăng mùi ẩm mốc. Loại sữa này giống y như loại sữa quá đát, sữa tồn kho mà trước đây khi nhà còn nuôi một bầy heo nái, bà Cả thường mua về cho heo uống!
Trời ơi! Chị Ba cho cháu bé uống loại sữa này sao? Trong đầu út Loan chợt lóe lên một ý nghĩ. Cô vội vàng cất hộp sữa vào đúng vị trí cũ rồi đem chai sữa không để trở vào phòng anh Hai. Xong đâu đấy, cô ra hiên nhà ôm đứa bé vào lòng ngồi lên võng, Phát ngồi lên chiếc xích đu bên cạnh em gái.
Loan cười cười nói nựng với đứa bé:
- Cô thính đi pha sữa cho cháu, nhưng tìm không thấy sữa để đâu? Thôi, cháu ráng nhịn chút nữa nghen, thím Ba ngủ dậy sẽ cho cháu bú, chịu hôn nè?
- Thím Ba ngày nào cũng pha sữa nhưng nó có uống đâu…
Phát nói hờ hững.
Út Loan ngó anh:
- Anh nói sao chứ… nó không uống sữa thì làm sao sống nổi. Hay là anh tự mình mua sữa cho nó uống riêng?
Phát lắc đầu:
- Không, anh thì biết gì… Nó sống được là nhờ mẹ nó! Đêm nào mẹ nó cũng về…
Loan nhìn Phát chăm chú:
- Anh Hai, em biết khi chị Hai mất đi anh buồn khổ lắm, nhưng anh đừng nên như vậy! Chị đã chết rồi, không sống lại được đâu, anh Hai đừng suốt ngày tưởng nhớ rồi tưởng tượng ra những chuyện như vậy, không tốt đâu anh Hai.
Phát cúi mặt nhìn xuống đất, nói nhỏ:
- Cả em cũng không tin anh!
Út Loan nhận thấy vẻ mặt anh mình không có chút gì là mơ màng hay đang hoang tưởng, cô bèn hỏi:
- Anh Hai, nếu anh bảo những gì anh nói là sự thật thì anh kể cho em biết đi, tất cả sự việc là thế nào? Chị Hai là người thế nào? Có phải trước kia chị Hai từng cặp bồ với anh Ba, đến lúc anh Ba cưới vợ thì chị ấy lại quay sang đeo lấy anh, đúng như vậy không anh Hai?
Phát nhìn em gái bằng ánh mắt vô cùng đau khổ:
- Ai nói với em những điều đó? Hoàn toàn sai sự thật… Anh Ba em… cái thằng khốn nạn đó đã mấy lần định cưỡng hiếp Dịu nhưng may là anh kịp thời có mặt để cứu cô ấy. Cô ấy chưa bao giờ cặp bồ với ai… Dịu thương anh, chỉ một mình anh thôi, em có biết không? Về sống ở nhà mình cô ấy phải chịu trăm cay ngàn đắng, nhưng vì thương anh, thương con nên cô ấy chấp nhận… Anh không biết tại sao Dịu lại chết như vậy? Không phải tai nạn đâu, anh biết chắc như vậy, chắc chắn là có người hại Dịu, nhưng anh có hỏi thế nào cô ấy cũng chỉ khóc không thôi, không chịu nói ra.  Hôm qua, cô ấy bảo trong lúc anh đi vắng có người muốn hãm hại thằng nhỏ, cô ấy phải đem nó mộ để bảo vệ cho nó. Cô ấy còn nói… chỉ có em mới có thể giúp được cho cha con anh…
- Em? Em giúp được cho cha con anh?
Loan ngạc nhiên hỏi lại.
Phát gật đầu:
- Đúng rồi, Dịu nói với anh như vậy?
- Nhưng em làm gì để giúp anh và cháu bé được đây?
- Anh cũng không biết…
Loan quan sát anh một lúc rồi nói:
- Được rồi, em hứa với anh, nếu em giúp gì được cho anh là em sẽ rất sẵn lòng. Nhưng anh phải nói thật cho em biết, chuyện chị Dịu mỗi đêm đều về là có thật hay không?
Phát rớt nước mắt:
- Là thật! Cô ấy phải đi mua sữa, thậm chí đi lấy trộm sữa ở nhà người ta đem về cho thằng bé! Em không tin thì có thể ra cái quán ở đầu làng mình mà tìm hiểu. Lâu nay người làng này đồn ầm lên rằng có một người mẹ ma, đêm nào cũng hái lá cây làm tiền đi mua sữa cho con, rồi có nhà lại liên tiếp mất sữa… Những chuyện đó cả làng này ai cũng biết, anh chị Ba em cũng biết, chỉ có má là không biết…
Loan kinh ngạc:
- Thật vậy sao? Sao anh không nói cho má biết?
- Anh nói liệu má có tin anh không?
Phát buồn bã thở dài.
Út Loan gật gù:
- Những việc anh kể quả thật rất khó tin, nhưng em tin anh, em sẽ cố hết sức để giúp anh.
Hai anh em đang nói đến đó thì trông thấy Mỹ từ trong nhà bước ra, vừa đi vừa lắc lắc chai sữa:
- Nào… cô út cho chị mượn em bé chút đi, chị cho em bé bú nào…
Út Loan đưa tay ra trước mặt chị dâu:
- Chị đưa chai sữa đây, em cho cháu bú!
Thoáng chút ngần ngừ nhưng Mỹ cũng trao cho út Loan chai sữa.
Loan đưa chai sữa vô miệng thằng bé, nó tém lấy cái núm vú rồi nút lấy nút để, nhưng chỉ nút được mấy cái nó vội nhè cái núm vũ ra rồi khóc mếu, tè ra ướt hết cả tã.
Út Loan la lên:
- Úi, thằng bé hư, làm ướt hết người cô rồi nè thấy chưa? Chị Ba, chị vô lấy giúp em áo quần của nó
Mỹ vừa quay lưng đi, Loan vội vã mở nắp bình sữa hớp thử một ngụm, vừa hớp vào miệng Loan nhăn mặt phun vèo ra đất.
Phát nhìn em gái chưa kịp cất tiếng hỏi thì Loan đã ra dấu cho Phát đừng nói gì.
Trong bữa cơm chiều hôm ấy, khi nhắc tới thằng bé, Loan làm như vô tình hỏi mẹ:
- Má cho thằng nhỏ uống sữa gì vậy má?
Bà Cả cười:
- Ối, tao già rồi có biết gì, tao giao hết cho chị Ba mầy, dặn nó mua lọai sữa nào tốt nhứt, có tốn kém một chút cũng không sao, miến là cháu nội tao được khỏe mạnh.
Mỹ tươi cười xen vào:
- Phải đó cô út, bởi vậy tôi mua sữa mắc nhứt cho nó bú…
Út Loan cười cười không nói gì, trong đầu cô đã có kế hoạch. Hôm nay là ngày đầu tiên cô về nhà, để cho mọi việc qua đi, ngày mai cô sẽ làm rõ tất cả!
Đêm đó út Loan thức nói chuyện với mẹ thật khuya, đến lúc hai mí mắt díp cả lại mới đứng lên đi về phòng mình.
Đang lơ mơ, Loan cảm thấy có ai đó đang đẩy cửa phòng mình, cô cố nhướng mi mắt nặng trĩu lên nhìn thì thấy một bóng người mặc toàn đồ trắng, tóc xoã dài đến nửa lưng.
Cơn buồn ngủ lập tức biến mất, Loan liên tưởng ngay đến chuyện anh Hai kể lúc trưa, cô thấy hơi run nhưng cô tự động viên mình, nếu là chị Hai, chị ấy sẽ không làm gì hại mình đâu.
Loan ngồi dậy, vén mùng chui ra, bóng trắng vẫn đứng tần ngần ngay cửa, không chịu tiến vào.
- Chị… chị Hai phải không?
Loan mạnh dạn lên tiếng
Bóng trắng lướt tới bên giường, một luồng gió phất qua, thổi tắt ngọn đèn dầu để trên bàn.
- Chị Hai… có phải là chị không?
Út Loan run giọng hỏi lại lần nữa.
- Cô út ơi… xin cô hãy giúp anh Hai cô, hãy giúp cháu bé…
Một giọng nói thê thiết cất lên làm út Loan dựng cả tóc gáy.
Mặc dù theo Tây học, nhưng út Loan vẫn tin tưởng vào trời phật, thánh thần, cô cũng tin luôn chuyện ma quỷ, nhưng chỉ tin ở một mức độ vừa phải chứ không phải là người cuồng tín. Cô luôn tin rằng dù là ma quỷ hay thần thánh cũng không làm hại những người vô tội.
- Chị… nếu có điều gì uất ức, xin chị cho em biết, làm gì giúp được cho anh chị và cháu bé là em sẽ làm ngay không ngần ngại gì đâu, chị cứ mạnh dạn nói hết với em đi…
Bóng ma của Dịu ôm mặt khóc:
- Tôi… tôi bị người ta hãm hại
- Ai hãm hại chị? Xin chị nói mau cho em biết.
Loan nôn nóng.
- Là… thím Ba đã hại tôi, thím Ba đã xô tôi xuống ao nước…
Hồn ma nức nở.
Út Loan kinh hãi hỏi lại:
- Chị nói sao? Chính chị Ba đã… giết chị? Tại sao chị Ba phải làm thế?
Bóng ma lắc đầu:
- Chuyện dài lắm, tôi không nói hết được, cô út hãy tự tìm hiểu đi! Thím Ba làm hại tôi, việc đó tôi có thể bỏ qua, nhưng… vợ chồng thím Ba lại âm mưu hại chết con trai tôi… Tôi không thể chấp nhận được. Tôi chỉ là một oan hồn vất vưởng, tôi không có quyền can dự vào những chuyện của nhân gian, nhưng vì con tôi, tôi đã làm nhiều điều không phải… giờ đây tôi sắp bị phán xét rồi. Thời gian còn lại của tôi rất ít, tôi không thể chăm lo và bảo vệ con trai tôi được nữa… Tôi van xin cô, xin cô hãy thương xót đứa bé bất hạnh đó mà cứu lấy nó, đừng để cho người ta hại nó…
Nói xong, bóng ma quỳ sụp xuống chân giường chắp tay lạy út Loan mấy lạy.
Út Loan luống cuống muốn đưa tay ra đỡ chị dâu nhưng cô không dám. Cô chỉ kêu lên rối rít:
- Không.. không… xin chị đừng làm như vậy! Nếu có những chuyện như vậy xảy ra trong nhà này, dù chị không nhờ vả em cũng nhất định làm cho rõ trắng đen. Chị yên tâm đi, thằng bé là cháu của em, em cũng có bổn phận đối với nó. Nhưng em xin chị hãy nói cho em biết rõ, tại sao chị Ba lại muốn hại chị và đứa bé?
Hồn ma từ từ đứng lên:
- Tôi không nói hết được… cô út hãy tự tìm hiểu lấy, mọi việc… cũng dễ thấy thôi mà… Tôi xin cám ơn cô út…
- Chị…
Út Loan chưa kịp nói ra câu gì thì bóng ma của Dịu đã nhanh chóng bay lướt ra ngoài, bỏ lại trong phòng một luồng gió lạnh buốt.
Loan rùng mình, vội vã chui trở vô mùng kéo mền phủ kín đầu, nhưng từ đó tới sáng cô không tài nào ngủ được.
Mới sáng sớm bà Cả đã nhắc nhở Đạt:
- Chút nữa ăn cơm xong, con nhớ ra ngoài làng mời họ cho người vô đây giúp má lập di chúc nghe không?
- Gì mà gấp gáp quá vậy má? Hôm nay con bận lắm, còn nhiều việc trên chợ huyện chưa giải quyết xong, bây giờ con phải đi rồi, chắc tới chiều tối mới về được. Má để mai đi, ngày mai con ở nhà cả ngày, con sẽ đi mời họ về cho má.
Đạt vừa nói xong là dẫn xe ra cửa, Mỹ tiếp lời ngay:
- Dạ, đúng rồi đó má, chuyện đó đâu có gì gấp rút, cô út còn ở nhà chơi lâu mà, với lại má còn khỏe mạnh như vầy lo sớm là gì…
Bà Cả chép miệng:
- Tuổi tác ngày một cao rồi, biết sống chết lúc nào mà nói… Vậy thôi, để ngày mai cũng được, nhưng vợ chồng bây đừng có quên đó!
Nãy giờ út Loan lắng nghe câu chuyện, cô xen vào:
- Bộ má tính làm di chúc để chia gia tài cho tụi con hả?
- Ừ, hôm trước má có nói với chị Ba con, má già rồi, sống nay chết mai, má muốn việc nhà đâu ra đó đàng hoàng để lỡ má có theo ông theo bà thì anh em các con không xảy ra xào xáo.
Ngừng lại uống một hớp nước bà Cả nói tiếp:
- Má tính chia phần lớn nhất cho thằng nhỏ con anh Hai con. Vì nó là cháu nội đích tôn của má, anh Hai con lại không được lanh lợi như người ta, má phải bù đắp nhiều cho nó. Vả lại sau này, nó còn phải nuôi anh Hai con nữa.
Nghe bà Cả nói tới đó, Loan vụt hiểu ra nguyên nhân nào mà chị Hai và cháu bé của mình bị người khác hãm hại.
Bất chợt cô liếc nhìn Mỹ rồi hỏi một câu không ăn nhập gì tới nội dung câu chuyện mà cả nhà đang bàn tán:
- Chị Ba, chị mua sữa hiệu gì cho thằng bé uống vậy?
Mỹ bất ngờ, ngớ người ra một lúc mới trả lời:
- Thì… thì má biểu tôi mua sữa loại tốt nhất…
- Rồi chị có làm theo lời má dặn không?
Mỹ giả vờ ngây thơ:
- Thì má biểu sao tôi làm vậy. Có gì không cô út?
Loan cười cười:
- Vậy mà em tưởng chị sợ má tốn tiền nên mua toàn sữa hư, sữa quá đát về cho cháu bé…
Mỹ giật mình lúng túng:
- Cô út… cô út nói sao chớ…
Út Loan không nói gì, cô đứng lên đi nhanh xuống nhà bếp cầm hộp sữa đem lên mở nắp ra đưa lại trước mặt bà Cả:
- Má coi nè, chị ba mua sữa này về cho thằng nhỏ bú, hèn chi nó không chịu bú là phải rồi…
Bà Cả thò mấy ngón tay vào hộp, bốc một nhúm sữa lên nhìn ngó rồi đưa lưỡi nếm thử. Bà nhăn mặt phun ra đất rồi la lên:
- Trời ơi! Mầy… mầy nỡ lòng nào để cho một đứa nhỏ mới mấy tháng tuổi uống loại sữa mắc dịch này? Tại sao mầy ác độc như vậy chứ?
Mỹ hoảng hốt vội chống chế:
- Má… má với cô út hiểu lầm rồi! Đó là sữa của con, con mua về uống nhưng ngán nên bỏ đó lâu nay.
- Vậy sữa nào là của thằng bé? Mầy đem ngay lên cho tao xem!
Bà cả tức giận.
Mỹ bối rối:
- Dạ… sữa của thằng bé hết rồi, con tính… chút nữa mới đi mua…
Bà Cả cười nhạt trong khi mắt bà đang ứa lệ:
- Mầy nói hay lắm… Mới ngày hôm kia mầy nói với tao là mua sữa cho nó. Hôm nay mầy lại bảo hết rồi! Mầy lấy sữa tắm cho nó hay sao mà nhanh hết đến vậy hử?
Mỹ sợ hãi quỳ sụp xuống chân bà Cả:
- Má… má tha lỗi cho con… Sự thật là…
- Sự thật là sao?
Bà Cả gắt lên:
- Dạ… sự thật là anh Đạt đánh bài thua người ta một số tiền, ảnh biểu con đưa cho mượn đỡ số tiền đó
Mỹ vừa khóc vừa nói.
Bà Cả đập tay xuống bàn:
- Vợ chồng mầy là một lũ đốn mạt! Dám đi ăn cả phần của một đứa nhỏ vừa mới chào đời, chúng mầy có còn lương tâm không vậy?
Tức giận làm bà Cả run lên bần bật. Út Loan nhỏ nhẹ:
- Má… má đừng kích động quá như vậy! Má vô nằm nghỉ chút đi, để chị Ba tự suy nghĩ lại việc làm của mình…
Loan đỡ mẹ vào phòng.
- Ma không ngờ… lâu nay má luôn thương yêu nó, má luôn tin tưởng vợ chồng nó, vậy mà… vậy mà nó lại đối xử với má như vậy. Nó biết má thương yêu, quý trọng đứa cháu đó như thế nào, vậy mà chúng nó…
Bà Cả vừa nói vừa khóc.
Út Loan nhìn mẹ buồn rầu:
- Má phải bình tĩnh, phải thật bình tĩnh mới được, bởi vì… còn nhiều chuyện động trời hơn chuyện đó nữa má à!
Bà Cả ngạc nhiên:
- Con nói sao? Còn nhiều chuyện động trời…?
Út Loan khe khẽ gật đầu:
- Hôm qua anh Hai đã nói hết với con, và tối hôm qua… tối hôm qua chị Hai cũng đã hiện hồn về…
Bà Cả giật bắn cả người:
- Sao? Con nói gì? Con nói chị Hai con… con Dịu… con Dịu hiện về?
Út Loan rưng rưng nước mắt:
- Dạ, đúng như vậy đó má! Từ lâu nay vì nghe theo lời chị Ba mà má con mình hiểu lầm rồi ghét bỏ chị Hai, chứ thật sự chị Hai rất đáng thương. Chị Hai bị người ta xô xuống ao đó má!
Bà Cả kinh hãi:
- Ai? Ai xô nó?
Loan lắc đầu:
- Con cũng không biết! Chị Hai bảo con phải tự tìm hiểu. Nhưng con tin những gì chị Hai nói là thật, chị đã là hồn ma rồi, chị không nói dối mình đâu…
Bà Cả ngã vật ra giường ôm đầu khóc không thành tiếng.
Loan lên nằm cạnh mẹ, không ngớt lời an ủi vỗ về bà.
Một lúc sau bà Cả mệt mỏi thiếp đi nhưng Loan vẫn không sao ngủ được.
Còn một số điều cô muốn được làm rõ. Cô cần phải hỏi chị Ba thêm mấy chuyện.
Nhè nhẹ ngồi lên, Loan đi tới phòng Mỹ.
- Chị Ba, chị ngủ chưa? Cho em vào nói chuyện một chút!
Loan gõ cửa và gọi khẽ nhưng trong phòng lặng im không có tiếng trả lời.
Đẩy thử cánh cửa thì cửa không đóng, Loan thò đầu vào nhìn vẫn không thấy Mỹ đâu.
Nghĩ chắc Mỹ bận làm việc gì đó trong nhà nên Loan thơ thẩn ra vườn đi dạo.
Trời nắng chang chang, chẳng ai lại đi dạo lúc này, nhưng tâm trạng Loan đang rất bất ổn, cô không để ý gì tới chuyện trời mưa hay trời nắng.
Lang thang một hồi Loan đi tới căn chòi của người làm vườn. Bên hè có cây khế ngọt mùa này trái đang rộ chín.
Tự nhiên Loan nhớ lại ngày nhỏ, mấy anh em thường túm tụm ở đây, cô đứng dưới gốc ngóng lên, hai anh ở trên thả từng trái khế vàng ươm rơi xuống ngay vạt áo mà cô chìa ra để hứng.
Anh Ba tham ăn, lúc nào cũng lựa những trái ngon nhất ăn ngay trên đó, còn anh Hai thương cô lắm, trái nào to nhất, ngon nhất anh Hai đều dành phần cho cô.
Rưng rưng nhớ lại kỷ niệm xưa, Loan lặng lẽ tới bên cây khế, trèo lên ngồi vắt vẻo dưới tàn cây rợp lá. Quang cảnh xung quanh nhà cô vẫn bình yên như thuở nào, cây lá trong vườn vẫn hiền hòa lắt lay trong nắng gió nhưng sao những ngày yên bình, thân ái của anh em cô lại đang dần dần mất đi chỉ vì những tham vọng hèn mọn?
Và chiếc ao nhỏ bên cạnh nữa, đó là nơi hai anh đã dạy cho cô bơi lội, nơi đó đã từng vang lên những tiếng cười tràn trề hạnh phúc. Vậy mà… hôm nay đây nơi đó lại là nơi để người ta thực hiện những âm mưu tàn độc, nơi đó người chị dâu tội nghịêp của cô đã buột phải lìa bỏ cõi đời, bỏ lại đứa con đứa chỉ mới vừa mấy tháng tuổi, bỏ lại người chồng hiền lành, khờ dại…
Loan không biết mình phải làm cách nào để tìm ra được tất cả sự thật? LaØm cách nào để đảm bảo chắc chắn mạng sống của đứa cháu thơ ngây kia không còn bị đe dọa nữa?
Loan thở dài ngao ngán.
Cô vừa định trèo trở xuống để vào nhà tìm chị dâu, bất chợt cô nghe trong chòi có tiếng cười rúc rích, rồi tiếng rì rầm trò chuyện, rõ ràng là tiếng của một người nam và một người nữ.
Loan vội chuyền sang ngồi lên một cành khế gie sát mái căn chòi và lắng tai nghe ngóng.
- Em không cho anh đi đâu… Anh phải ở lại đây chứ, phải ở lại để chờ ngày em sinh nở. Anh không muốn nhìn thấy mặt con mình sao?
Út Loan rụng rời cả tay chân khi nhận ra tiếng nói đó chính là giọng của Mỹ, chị dâu cô! Bám chặt tay vào cành cây, Loan cố lấy lại bình tĩnh, tập trung lắng nghe những lời trao đổi của họ ở bên trong.
- Tôi không muốn ở đây nữa, ngày mai tôi sẽ ra đi!
Người đàn ông vừa dứt lời, Loan nghe có tiếng thút thít của Mỹ:
- Anh nỡ lòng nào bỏ em đi giữa lúc này sao? Hai hôm nay chồng em, má chồng em đều tỏ ra lạnh nhạt với em. ĐaÕ vậy còn thêm nhỏ em chồng phát hiện việc em cho thằng nhỏ bú sữa quá đát, bây giờ vị trí của em trong nhà này đang bị lung lay dữ lắm rồi, xin anh đừng đi, anh ở lại đây với em đi! Mà tại sao anh lại phải đi? Anh ở đây không phải là tốt lắm sao?
Người đàn ông thở dài:
- Đúng, cô nói không sai! Tôi sống ở đây rất tốt. Bà Cả mẹ chồng cô luôn đối xử tử tế với tôi, cả cậu Hai và cậu Ba nữa, họ cũng rất tốt. Nhất là cậu Hai… Nhưng mà… họ càng tốt với tôi bao nhiêu thì tôi càng cảm thấy xấu hổ bấy nhiêu, tôi không dám nhìn vào mặt họ. Tôi có tội với bà Cả, có tội với cậu Ba, nhưng… tội lớn nhất là với cậu Hai…
- Anh nói gì kỳ vậy? Nếu vì anh quan hệ với em mà thấy có tội, thì chỉ có tội với mỗi một mình chồng em thôi, bất quá thêm má chồng vô đi, chứ sao lại có tội lớn với anh Hai?
Tiếng Mỹ gắt.
Người đàn ông cười nhẹ:
- Ngày mai tôi đi rồi, tôi đã quyết định, bởi thế cho nên hôm nay tôi cũng muốn nói hết với cô để tôi được nhẹ lòng. Thứ nhất, tôi muốn cô đừng giữ lại cái thai đó. Dù tôi biết nó là con tôi, tôi cũng đau lòng lắm, nhưng tôi không muốn nó trở thành công cụ để cô tiếp tục làm hại đến người khác. Vả lại rồi đây, từ từ người ta cũng sẽ biết, lúc đó cả cô và đứa nhỏ đều khổ. Thà rằng bây giờ cô hủy bỏ nó đi, tuy có hơi ác một chút nhưng… tôi biết cô làm được.
Mỹ giẫy nẫy:
- Sao anh lại nói vậy? Bộ em ác độc lắm sao?
Người đàn ông lại thở dài:
- Điều thứ hai tôi muốn nói với cô là, cô nên dừng lại đi, đừng dấn sâu vào tội ác nữa, sẽ gặp quả báo ngay thôi cô ạ!
- Tại sao anh có thể nói về em như vậy? Anh… anh không thương em sao? Anh không thương em chút nào sao?
Mỹ khóc nấc lên.
Người đàn ông húng hắng ho mấy tiếng rồi mới chậm rãi nói tiếp:
- Cô đừng tưởng những việc làm của cô không ai hay biết! Cô hỏi tôi không thương cô ư? Đúng! Ngay lúc đầu gặp cô quả thật tôi rất rung động, lần đầu tiên cô với tôi gần gũi tôi cũng cảm thấy hạnh phúc lắm, tôi còn mơ ước một ngày nào đó cô sẽ từ bỏ tất cả để đi theo tôi, và tôi rất sung sướng với niềm mơ ước đó. Nhưng… nhưng khi tôi trông thấy cô dìm cô Hai xuống ao ngoài kia, tôi rất run sợ… Tất cả những tình cảm vừa nhen lên trong lòng tôi đã bị cô dập tắt một cách mau chóng. Tôi kinh sợ cô… và tôi… tôi sợ cả chính bản thân mình nữa. Tôi đã quá hèn yếu, đã quá nhu nhược, lúc đó tôi không dám xông ra để cứu lấy cô Hai, tôi cũng không dám tố cáo việc làm ác độc của cô… Tôi quả thật là một thằng đàn ông không ra gì…
Tiếng người đàn ông khóc nấc lên, cùng lúc đó có tiếng xô ngã bàn ghế, tiếng ly tách vỡ loảng xoảng và tiếng Mỹ rít lên nho nhỏ:
- Anh là một thằng đàn ông chó chết! Anh muốn đi đâu thì đi đi! Mặc xác anh, tôi không cần ngăn cản nữa, tôi cũng không cần loại đàn ông hèn nhát như anh nữa! Con của tôi tôi nuôi nó, anh không có quyền gì mà bảo tôi phải thế này thế khác! Anh cút đi cho tôi nhờ, cút đi!
Mỹ hét xong loạng choạng chạy ra khỏi nhà.
Út Loan ngồi trên cành khế cả thân người run lên bần bật.
Bây giờ thì cô đã rõ, sự thật đã bày ra trước mắt cô một cách quá rõ ràng rồi. Nước mắt cô trào ra lai láng.
Cô thương cho chị Hai chưa được một ngày sung sướng kể từ lúc về sống với anh Hai, chị chưa được chính thức làm dâu trong nhà, chưa được ngủ trong căn phòng của anh Hai cô nữa!
Tất cả cũng chỉ vì sự tham lam ích kỷ của chị Ba. Vậy mà từ bao lâu nay mẹ con cô luôn thương yêu người đàn bà đó như người ruột thịt. Cũng vì nghe lời ngon tiếng ngọt của con người độc ác kia mà má cô và cả cô nữa đã đối xử không phải với chị Hai. Giờ thì chị Hai chết rồi, cả cơ hội sửa sai cô cũng không còn nữa…
Chị Hai ơi, em có lỗi với chị, với anh Hai và cả với cháu bé nữa! Em quyết sẽ làm sáng tỏ việc này để đem lại công bằng cho chị, mong chị tha lỗi cho em…
Lau khô nước mắt, Loan nhẹ nhàng trèo xuống rồi len lén vòng ngã khác đi vô nhà, không để ai trông thấy.
Suốt buổi chiều hôm đó Loan cứ ẵm cháu đi ra đi vô nóng lòng trông đợi Đạt về.
Mãi đến chiều tối Đạt mới ngả nghiêng dẫn xe vô cổng, cả người nồng nặc mùi rượu.
Mỹ chạy vội ra giúp Đạt đem xe vô nhà, cô cằn nhằn:
- Anh lại rượu chè nữa, khổ quá, vợ đang bầu bì mà anh không thèm quan tâm gì tới… Sao mà cái số tôi khổ đến thế này…
Đạt cười hơ hớ:
- Nhậu với anh em chút đỉnh cho đời tươi hơn, có gì đâu mà em phải cằn nhằn cửi nhửi. Khổ gì mà khổ em ơi, em muốn gia tài của anh thì em sắp được rồi, còn than thở giống gì…
Mỹ muốn đưa tay lên bịt miệng chồng, nhưng trước mặt mẹ và em chồng cô không dám có cử chỉ đó, cô chỉ giả lả:
- Uống cho nhiều vào rồi ăn nói bậy bạ…
Đạt loạng choạng, vừa đi vừa gọi váng lên:
- Út đâu, út Loan đâu đâu, dọn cơm cho anh ăn đi, anh đói bụng lắm rồi đây này!
- Dạ, cơm em dọn từ nãy giờ rồi, cả nhà đang chờ về để cùng ăn đó!
Út Loan giở lồng bàn rồi nhắc ghế mời mẹ:
- Mời má dùng cơm! Mời anh Hai, anh Ba, chị Ba dùng cơm…
Từng người lặng lẽ ngồi vào vị trí của mình trong bàn ăn.
Vừa cầm chén cơm, và mấy miếng vào miếng vào miệng, Đạt đặt chén xuống bàn lúng búng hỏi:
- Má, ngày mai má làm di chúc phải hôn? Má tính chia phần cho tụi con ra sao vậy má?
Bà Cả gác đũa lên miệng chén:
- Má tính kỹ rồi! Gia tài này ba má phải vất vả lắm mới gầy dựng lên được. Má muốn tất cả các con đều phải biết quý trọng nó. Tài sản này má sẽ chia ra làm năm phần, út Loan tuy là gái nhưng nó cũng là con của má, má không biệt trai gái nên nó được một phần, hai anh em thằng Phát thằng Đạt, mỗi đứa một phần, hai phần còn lại để cho đứa bé con thằng Hai…
Không chờ nghe bà Cả nói dứt lời, Đạt đã đấm tay xuống mặt bàn nghe cái rầm:
- Má không có quyền đó! Còn đứa con trong bụng của vợ tôi, nó không phải là cháu nội của má sao?
Bà Cả bất ngờ trước hành động của Đạt, ngớ người ra một lúc.
Út Loan cất tiếng:
- Anh Ba, xin anh đừng như vậy! Má làm vậy là cũng có cái lý của má. Thằng bé sớm mồ côi mẹ, anh Hai lại không được thông minh lanh lợi như anh, gánh nặng của thằng bé sau này sẽ rất lớn. Nó lại là cháu đích tôn, sau này việc cúng giỗ thờ tự đều giao hết cho nó…
- Còn đứa nhỏ con của tôi thì sao?
Đạt vẫn ngoan cố.
Loan chợt hỏi:
- Chị Ba, chị có thai mấy tháng rồi?
- Tôi… tôi… khoảng chừng một tháng!
Mỹ trả lời, lo lắng không biết ý Loan hỏi vậy để làm gì.
Út Loan thở phào:
- Mới chừng một tháng… em nghĩ lúc  này chị còn kịp để phá bỏ nó…
Mọi người đều sửng sốt ngó Loan, chỉ trừ Phát, từ đầu bữa cơm tới giờ anh vẫn cắm cúi ăn, không tham gia bàn cãi cũng không chú ý lắng nghe mọi người nói gì, làm như xung quanh không có ai, làm như không có gì dính líu đến anh.
- Loan! Con ăn nói gì kỳ lạ vậy? Dù sao đó cũng là cháu của con, đừng nó điên như vậy.
Ngoài trời bất ngờ đổ xuống cơn mưa tầm tã, sấm chớp nổi lên đì đùng, gió thổi thốc vào nhà làm ngọn đèn chao qua chao lại.
Út Loan chạy vội tới đóng hết các cánh cửa rồi quay lại bàn, cô không ngồi xuống mà cứ đứng nhìn chị dâu không chớp mắt.
Mỹ lo lắng, cụp mắt xuống, đôi đũa trên tay cô cứ không ngừng xỉa mãi vào chén cơm.
- Chuyện con vừa nói ra, có thể cả nhà đều cho là không phải, nhưng con tin chị Ba biết tại sao con nói vậy, phải không chị Ba?
Mỹ ấp úng:
- Tôi… tôi đâu biết gì đâu? Cô nói gì tôi không hiểu?
Đạt nhìn em gườm gườm:
- Em đừng tưởng cả nhà cưng chìu em rồi em muốn nói gì cũng được nghe!
Út Loan nhìn anh đầy vẻ thông cảm:
- Từ trưa tới giờ em mong ngóng anh về để giải quyết việc nhà một lần cho sáng tỏ, nhưng lúc về thấy anh say rượu, đáng lẽ em chưa nói đâu, nhưng anh đã khơi chuyện ra trước, với lại ngày mai di chúc được lập, gia đình mình phải giải quyết xong trong hôm nay. Đứa con mà chị Ba đang mang trong bụng không phải là con của anh đâu, anh Ba ạ!
Mỹ xanh mặt, ngó chồng cầu cứu, Đạt giơ tay lên cao như muốn giáng một cái tát vào mặt em gái.
Út Loan nhẹ nhàng cầm lấy tay anh:
- Anh bình tĩnh nghe em nói nè, rồi sau đó có muốn đánh đập gì em cũng được! Chị Ba đã ngoại tình với gã làm vườn nhà mình, và đứa con đó chính là con của chị Ba với gã…
Đạt hạ tay xuống, quắt mắt nhìn Mỹ, Mỹ run rẩy:
- Không… không anh ơi… không phải…
Bà Cả thì không thể nào mở được ra lời, bà cứ ngồi đó miệng há hốc nhìn chằm chằm vào mấy đứa con.
- Chưa hết đâu, cũng vì chị Hai tình cờ phát hiện ra việc làm không chính đáng của chị Ba nên đã bị chị Ba dìm xuống nước cho đến chết. Chị Ba còn âm mưu giết chết thằng nhỏ để con của mình hưởng trọn gia tài. Những gì em nói có đúng không, chị Ba?
- Cô vu oan cho tôi, cô vu oan cho tôi! Tôi không có, tôi … Anh… anh phải bênh vực cho em chứ, anh không thể để em gái anh hỗn hào đặt điều nói xấu chị dâu như vậy…
Mỹ vừa khóc vừa la, vừa níu lấy tay Đạt.
Đạt lừ mắt nhìn Loan:
- Mầy… mầy có bằng chứng gì không?
- Anh cần bằng chứng? Thôi được, xin chờ em một chút.
Loan hỏi lại anh rồi bước tới mở cánh cửa nhà bếp, một người đàn ông cả người sũng nước đi vào, quỳ mọp xuống cạnh bàn ăn.
Vừa trông thấy người đàn ông, Mỹ hoảng hốt, rụng rời cả tay chân.
Đạt nhào tới túm lấy áo gã làm vườn:
- Anh… mầy… có phải mầy với vợ tao…?
Gã làm vườn nhìn Đạt với ánh mắt cầu khẩn:
- Tôi xin lỗi cậu. Tôi đã làm điều không phải… Lâu nay tôi luôn ray rứt về điều đó, đáng lẽ ra sáng ngày mai tôi sẽ âm thầm rời bỏ nơi này để trốn chạy khỏi mọi tội lỗi của mình, nhưng… như cô út đã nói, nếu làm như vậy thì cả đời này tôi cũng sẽ sống không yên. Cô út nói khong sai, tôi phải nhìn nhận tội lỗi của mình, phải trả giá cho nó, có như vậy tôi mới có thể sống tiếp trên đời.
Gã nhìn khắp mọi người một lượt rồi cúi đầu:
- Bây giờ tôi quỳ ở đây, xin bà Cả và hai cậu trừng phạt cách nào tôi cũng cam tâm nhận lấy…
- Mầy… mầy là thằng khốn nạn!
Đạt vung tay đấm liên tiếp vào mặt gã làm vườn, gã loạng choạng suýt ngã, máu từ mũi gã chảy ra nhưng gã vẫn không hề chống đỡ.
Út Loan hoảng sợ, sợ anh Ba trong cơn nóng giận sẽ đánh chết người ta, cô lắc lắc tay Phát:
- Anh Hai, anh Hai can họ ra đi!
Lúc này Phát mới như sực tỉnh. Anh không nói gì, chậm chạp đứng lên, lừ lừ bước tới giữ chặt hai cánh tay Đạt.
Đạt vùng vẫy:
- Anh buông tôi ra! Buông ra… tôi sẽ đánh cho nó chết mẹ…
Trên mặt gã làm vườn lúc này nhòe nhoẹt những máu, nước mắt và nước mũi.
Thấy Đạt đã bị Phát giữ chặt tay, không thể nào tiếp tục tấn công gã làm vườn, Mỹ căm tức tột độ. Không còn dằn được nữa, Mỹ nhào tới cào cấu, cắn xé gã:
- Mầy là tên khốn nạn…
Vẻ mặt gã làm vườn đanh lại. Gã vung tay gạt phắt ra làm Mỹ ngã chúi nhủi.
- Trong nhà này, bất kỳ người nào cũng có quyền mắng chửi và đánh đập tôi, ngoại trừ cô!
Gã làm vườn gằn từng tiếng.
Mỹ lồng lộn chửi rủa gã không tiếc lời.
Đạt vùng khỏi tay anh, giang tay tát thẳng cánh vô mặt Mỹ liên tiếp mấy tát nẩy lửa, hắn gào lên:
- Tất cả cũng chỉ vì mầy! Cũng chỉ vì con đàn bà độc ác, khốn nạn như mầy mà gia đình tao mới ra nỗng nỗi này! Vì nghe lời mầy, suýt chút nữa chính tay tao đã bóp chết con anh Hai rồi… Mầy là loài rắn độc, mầy không phải là con người…
Bị tát mấy cái như trời giáng, Mỹ kinh ngạc ngó sững Đạt, không ngờ chồng mình lại đối xử với mình như vậy.
Tất cả đã hết rồi! Bao nhiêu toan tính, bao nhiêu âm mưu giờ đây đã sụp đổ tan tành…
Đôi mắt Đạt long lên sùng sục, đôi mắt gã làm vườn khinh bỉ nhìn cô, đôi mắt Phát tuy mơ hồ vắng nhưng lại làm Mỹ lạnh dọc sống lưng…
Không! Cô không thể nào tiếp tục sống trong ngôi nhà này được nữa!
Mỹ lùi dần, lùi dần ra cửa, Đạt vẫn không buông tha cô, hắn bước từng từng bước chậm rãi tiến về phía cô, hai bàn tay hắn nắm lại thật chặt rồi bất thần duỗi ra, vồ lấy Mỹ, cô hoảng hốt tung cửa chạy ra ngoài.
Bên ngoài trời mưa như thác đổ, sấm sét như muốn xé toang cả bầu trời.
Mỹ lao vào bóng đêm.
Một tia chớp lóe lên, tiếp theo là tiếng sấm gầm hung bạo.
Trong ánh sáng đó, tất cả những người đang đứng trên thềm nhà bà Cả đều nhìn thấy rất rõ ràng Mỹ đang ngã xuống…
Sáng hôm sau, cả làng xôn xao lên với cái tin nóng hổi: con dâu thứ nhà bà Cả bị trời đánh chết tối hôm qua, cậu Ba Đạt không biết vì quá thương vợ hay sao mà bỗng trở thành người ngớ ngẩn.
Riêng cậu Hai Phát, hơn hai mươi năm qua làm người khờ khạo, chỉ sau một đêm bỗng hóa ra lanh lợi, khôn ngoan…
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 15:44:28 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 22:20:20
HỒN MA TRẢ NGHĨA

Cả cái thị trấn nhỏ này có lẽ không ai không biết tiếng ông Hai Phát, một đại gia trong ngành xây dựng lẫn ngành kinh doanh địa ốc.
Hơn chục năm trước, gia đình ông Hai Phát cũng không có gì nổi bật. Ông chỉ là một ông thầu xây dựng các công trình nhỏ lẻ, đơn giản. Nhưng rồi không biết do may mắn hay do đâu mà bỗng dưng có tin đồn, ông Hai Phát đứng ra xây cất nhà nào thì nhà đó sẽ làm ăn phát đạt, tấn tới.
Người ta kiểm chứng lại thì quả có thế thật!
Ông Hai Phát phất lên từ dạo ấy.
Khi đã có trong tay một số vốn lớn, ông lấn sân sang lĩnh vực kinh doanh bất động sản. Ban đầu thì cũng làm ăn kiểu cò con, sang tay được miếng đất này mới mua tiếp miếng đất khác khác. Nhưng lần hồi, nhờ nhạy bén với thời cuộc, cộng với tài ngoại giao giỏi, ông Hai Phát một khi đã nhắm vào đâu thì một đồng vốn của ông sẽ sinh sôi nảy nở thành ra mấy chục đồng lời.
Tài sản của ông cứ tăng dần theo cấp số nhân.
Trong giới làm ăn, bên cạnh những lời tán dương, khen ngợi cũng không ít tiếng xì xầm đàm tiếu về ông. Người ta bảo ông Hai Phát không từ bất cứ thủ đoạn nào để hạ gục đối thủ. Có người đã từng bị ông Hai làm cho khuynh gia bại sản.
Chẳng biết những lời đồn đại ấy có chính xác hay không, chỉ biết sự nghiệp của ông mười mấy năm nay cứ phăng phăng thẳng tiến.
Vợ chồng ông được hào của nhưng lại không đặng hào con.
Bà Hai Phát đã bốn lần thai nghén, nhưng hết lần này tới lần khác đều không giữ được.
Vợ chồng bà mua sắm nhang đèn lễ vật đi khắp các đền chùa, am miếu để thành tâm khấn vái. Chừng như trời phật cũng động lòng, đến lần mang thai thứ năm, bà sinh được một cậu con trai, mặt mày rất khôi ngô tuấn tú, nhưng lại èo uột, khó nuôi.
Hai vợ chồng đặt tên con trai là Quý và cũng yêu quý con hơn ngọc hơn vàng!
Từ lúc gia đình trở nên khấm khá, bà Hai luôn tìm cách giúp đỡ những người nghèo khó xung quanh với hy vọng tạo phước đức cho con trai mình được hưởng sau này.
Mười lăm tuổi, Quý vẫn nay ốm mai đau dù hàng ngày luôn được cả nhà quan tâm, bồi bổ.
Thấy con trai không được khỏe mạnh, ông bà Hai càng tỏ ra cưng yêu, chìu chuộng, Quý muốn gì cũng được đáp ứng ngay. Tuy vậy, bà Hai không quên dạy con những điều phải trái trong đời, không quên tập cho con tánh tình lương thiện, biết thương yêu và quan tâm đến những người có hoàn cảnh không may.
Chính vì vậy, dù được cưng chìu hết mực nhưng Quý không trở nên hư đốn như một vài cậu “con cầu con khẩn” khác.
Việc nuôi dạy và giáo dục Quý ông Hai yên tâm giao trọn cho vợ, ông dành hết tâm trí và thời gian của mình cho công việc làm ăn.

***
Một bữa khi trời vừa chạng vạng tối, bà Hai đang ngồi xem ti vi trong nhà thì nghe tiếng gọi khe khẽ trước sân, bà hỏi lớn:
- Ai đó? Cứ vào đây…
Vừa nói, bà Hai vừa đứng lên. Ra tới cửa, bà thấy một người phụ nữ lạ mặt rụt rè đứng giữa sân, trên tay ôm một chú chó con.
- Cô… cô tìm tôi?
Bà Hai ngạc nhiên hỏi.
Thiếu phụ ngước lên nhìn bà bằng ánh mắt sầu thảm:
- Dạ… Con nghe người ta chỉ dẫn nên mới dám tìm tới đây… để… để…
Thấy người lạ ấp úng, bà Hai động viên:
- Cô có gì cần cứ nói, nếu giúp được tôi sẽ không từ chối cô đâu! Mà cô ở đâu sao tôi không nhớ?...
Một tia hy vọng lóe lên trong mắt người thiếu phụ. Chị mạnh dạn:
- Thưa… thưa bác. Con không phải người vùng này. Quê con ở tận dưới Cà Mau. Vì hoàn cảnh riêng, con phải trôi dạt về đây làm thuê làm mướn kiếm miếng ăn hàng ngày. Không may… không may con bé nhà con mấy hôm nay lại mắc bệnh, mà con thì… con thì không còn tiền để lo thuốc men cho nó. Con đang ở trọ nhà dì Tư bên kia, thấy hoàn cảnh mẹ con con như vậy, dì Tư mới chỉ con tới đây… Bác… bác làm ơn… mua giúp con con chó nhỏ này, bác cho con ít tiền con mua thuốc cho cháu…
Nhìn vẻ cầu khẩn của thiếu phụ, bà Hai động lòng:
- Mua bán gì con chó đó! Thôi, cô vào nhà ngồi chơi một chút, tôi đưa cho ít tiền cầm về mà lo thuốc thang cho con, khi nào làm ăn có thì trả lại cho tôi cũng được!
Nghe bà Hai nói vậy, người thiếu phụ vừa mừng rỡ, vừa ngại ngùng bước theo sau. Con chó nhỏ trên tay chị kêu lên ăng ẳng khiến Quý đang mải xem hoạt hình giật mình quay lại.
Trông thấy con chó, cậu bé mừng rỡ sà ngay xuống bên con chó vuốt ve.
Bà Hai rầy:
- Đừng ghẹo nó con, coi chừng nó cắn trúng tay đó!
Người thiếu phụ mỉm cười:
- Dạ, xin bác đừng lo, con chó này hiền lắm, con bé nhà con rất thương yêu nó, suốt ngày cứ ôm ấp nó trong lòng, nó không cắn ai đâu!
Vừa nói, chị vừa thả con chó xuống nhà. Nó chạy lăng xăng khắp phòng, cái đuôi bé xíu không ngừng ve vẩy. Quý thích quá, chạy tới chạy lui chơi rượt đuổi với nó.
Sực nhớ, cậu bé đi tới tủ lạnh, lấy ra một cây xúc xích, cẩn thận lột vỏ đưa tận miệng chú chó, nói nựng:
- Cưng, ăn xúc xích đi cưng! Ăn đi rồi anh thương…
Chú chó vừa ăn vừa kêu ăng ẳng như lời cảm ơn người bạn nhỏ tốt bụng vừa mới quen.
Thấy cảnh đó bà Hai và người thiếu phụ cùng bật cười.
Bà Hai mở tủ, lấy đưa cho thiếu phụ ba trăm ngàn. Bà dặn:
- Cầm ít tiền này về lo cho con, nếu có gì cần cô tới đây, đừng ngại! Bà con xóm giềng, tối lửa tắt đèn có nhau cô à!
Người thiếu phụ nước mắt rưng rưng, đưa hai tay nhận lấy tiền bà Hai đưa cho.
- Con… thật con vô cùng đội ơn bác! Con với bác là người xa lạ, vậy mà bác không nghi ngờ gì, bác thương hoàn cảnh tứ cố vô thân của mẹ con con, con xin đội ơn bác! Kiếp sau, mẹ con con nguyện làm tất cả để đền đáp lại tấm lòng của bác…
Bà Hai bật cười:
- Thôi, thôi! Lo về mua thuốc cho con nhỏ uống đi! À, con bé mấy tuổi rồi?
- Dạ, cháu lên chín tuổi bác ạ!
- Ừ, vậy là nhỏ hơn thằng Quý nhà tôi! Thằng Quý tôi mười lăm rồi!
Người thiếu phụ nhìn Quý, nói khẽ với bà Hai:
- Con thấy cậu bé có vẻ thích con chó này lắm, hay là bác cho phép con để nó lại đây chơi với cậu?
Bà Hai khoát tay:
- Thôi, cô cứ ôm nó về! Tiền đó tôi đưa cô mượn tạm chứ phải đâu mua bán…
Người phụ nữ lúng túng:
- Dạ không, ý con không phải vậy…
- Được rồi, được rồi! Về lo cho con đi!
Bà Hai vừa nói, vừa bắt chú chó đưa lại cho người phụ nữ.
Quý nhìn theo mếu máo:
- Mẹ… cho con đi mẹ! Con thích con chó đó…
Bà Hai ra dấu bảo người phụ nữ đi ra rồi quay lại dỗ dành con trai:
- Con trai của mẹ ngoan nào! Đừng có khóc! Để rồi mai mẹ kiếm cho con một con chó khác đẹp hơn nữa, chịu không?
Quý ngồi bẹp xuống sàn nhà, hai chân giãy đành đạch:
- Không! Con không chịu… Con thích con chó đó…
Bà Hai nghiêm mặt:
- Lúc nãy con nghe cô đó nói gì không? Con gái của cổ đang bị bệnh, mà nó lại rất thương con chó này! Nếu bây giờ để con chó lại đây chơi với con, đứa bé đó sẽ nhớ con chó lắm, làm sao mà hết bệnh được, phải không?
Nghe mẹ giảng giải, Quý thôi không khóc nữa, nhưng vì chắc còn luyến tiếc lắm, nên ngồi xem phim mà lâu lâu cậu ta lại nấc lên một tiếng. Bà Hai nhìn thấy hết nhưng cố tình giả lơ, quay chỗ khác giấu một nụ cười.
Bẵng đi hơn tuần lễ, mẹ con Quý không ai còn nhớ và nhắc nhở gì đến người phụ nữ và con chó nữa thì chị Tư chủ nhà trọ khu phố bên kia tìm tới.
Trông thấy chị Tư, bà Hai chợt nhớ tới người phụ nữ hôm trước nên vội hỏi:
- À, mấy hôm trước đây có một cô ở trọ đằng nhà em, cổ nói con cổ bị bệnh sao đó, giờ hết chưa vậy Tư?
Chị Tư ngồi xuống chiếc ghế đá ngoài hành lang, cười buồn:
- Em tới chị cũng vì chuyện cô đó nè!
- Sao? Có chuyện gì?
Bà Hai ngạc nhiên.
Chị tư chắc lưỡi:
- Tội nghiệp! Thằng chồng nó vợ bé vợ mọn rồi về kiếm chuyện đánh đập liên miên, không chịu đựng xiết nên nó ôm con đi tuốt từ Cà Mau lên đây sống tạm. Ai ngờ cái số nó khổ. Công ăn việc làm vừa mới tạm ổn định, tưởng đâu hai mẹ con có thể đắp đổi qua ngày. Ai nào ngờ con gái nó lại phát bệnh. Mới đầu cũng tưởng sơ sài, tiền chị cho mượn nó cầm về mua thuốc, cháo lao cho con nhỏ. Hai hôm sau thì bệnh con bé bỗng nhiên trở nặng, nửa đêm em phải giúp đưa mẹ con nó vô bệnh viện, tới sáng thì con nhỏ chết! Mau vậy mới lạ chứ! Nó như điên như dại, em phải lục lọi đồ đạc của nó, tìm mãi mới được số điện thoại của người thân. Em gọi điện xuống Cà Mau thì gặp ngay ông anh nó. Nghe tin em gái như vậy, anh chị nó cấp tốc lên đây liền để đón nó về quê. Chị biết hôn, con nhỏ thiệt tốt tính, mặt mũi lại dễ coi như vậy mà gặp phải thằng chồng mắc dịch, nghĩ mà tiếc cho nó! Tâm trí đang hoảng loạn vậy đó mà nó vẫn không quên món nợ ân tình của chị. Nó kêu anh chị nó ghé đây để trả tiền và chào từ biệt chị, nhưng hôm qua chị đi đâu cửa đóng cả ngày, nên nó nhờ em tới đây gởi lại tiền cho chị, và nhắn với chị là dù có chết nó cũng không quên ơn! À, nó còn nói, hôm trước thấy thằng Quý nhà chị có vẻ mến con chó, nên nó để lại, nhờ em mang đến cho cháu nè!
Nói xong, chị Tư nhìn ra cổng cất tiếng gọi:
- Mi Lu! Mi Lu! Vô đây con…
Chú chó nhỏ nghe gọi rối rít chạy vào, quấn lấy chân chị Tư, miệng kêu ư ử như trẻ con đang nũng nịu.
Quý đang chơi trong nhà nghe tiếng con chó, cậu ta mừng quá chạy vội ra bế thốc con chó lên, hỏi chị Tư:
- Dì Tư ơi, tên con chó này là Mi Lu hả dì?
Chị Tư mỉm cười:
- Ừ, Mi Lu là tên nó! Cô chủ của nó tên Mi Lan nên đặt cho nó cái tên Mi Lu này đó! Con có thích nó không? Từ nay con nuôi nó nhé?
Quý do dự:
- Con thích lắm… Nhưng… mẹ con bảo không được để nó ở đây, vì như vậy con nhỏ kia sẽ buồn vì nhớ nó mà không hết bệnh được!
Chị Tư vuốt tóc Quý:
- Con yên tâm đi, cô bé kia hết bệnh rồi! Cô bé đã đi xa rồi nên gởi con chó này lại nhờ con nuôi giùm đó!
- Cô bé đi đâu? Sao không đem chó theo vậy dì?
Quý ngạc nhiên hỏi.
Chị Tư bối rồi:
- Ừ… à, thì cô bé về quê… Quê cô bé ở rất xa, nếu dắt theo con chó, cô bé sợ nó mệt đó mà! Với lại biết cháu thích, nên cô bé muốn tặng!
Quý tin lời chị Tư, cười thật tươi rồi quay sang nhìn mẹ:
- Mẹ ơi! Vậy là mẹ cho phép con nuôi con chó này được rồi phải không mẹ?
Vẫn còn xúc động bởi câu chuyện chị Tư vừa kể, bà Hai cúi xuống nhìn con chó một lúc rồi khẽ gật đầu:
- Ừ, mẹ cho phép con nuôi đó!
- Hoan hô mẹ! Cám ơn mẹ!
Quý nhảy tới ôm chầm lấy mẹ, đặt lên má bà Hai mấy cái hôn liên tiếp. Đẩy con trai ra, bà Hai mắng yêu:
- Thôi, đừng có mà nịnh tui, ông tướng!
Quý cười ngỏn ngoẻn rồi ôm con chó vào lòng chạy biến ra vườn.
Đó là một con chó lông trắng, nhỏ bé, chỉ chừng hơn hai tháng tuổi. Ở lứa đó, đáng ra khi xa nhà, xa chủ nó sẽ cắn khóc inh ỏi suốt đêm. Nhưng Mi Lu lại không như vậy, nó bám lấy Quý như hình với bóng, như một đứa trẻ con bám lấy ba mẹ mình vậy.
Cả ngày hôm đó, trong mảnh vườn sau nhà, nó tung tăng đào bới đất cát. Hai bàn chân trước như hai cái guồng vận hết tốc lực. Đào tối tăm mặt mũi, chẳng biết để làm gì?
Có lẽ đó là cái bản năng ngàn đời của loài chó, như thể đang tìm kiếm cái kho tàng xương quý giá tổ tiên chôn tự kiếp nào.
Đào mãi mệt phờ râu, nó rúc mình trong một cái lỗ nhỏ, thò đầu ra lúc lắc với Quý, Quý cười lên khanh khách. Lát sau, nó lại trườn ra rúc vào cạnh chân Quý như muốn tìm hơi ấm. Quý bế chú chó vào lòng, đút cho nó từng miếng chả, ân cần như người mẹ đang chăm chút cho đứa con bé bỏng của mình vậy!
Tuy chỉ là một giống chó thông thường nhưng Mi Lu lại rất khôn ngoan. Có lúc nó liếng thoắng, luôn tiên phong trong mọi trò khám phá với cậu chủ của mình, có lúc nó lại giống như một mẫu mực của sự ngoan ngoãn.
Cái cầu thang lên lầu quá dốc, mấy đứa trẻ con leo lên còn cảm thấy khó nhọc huống hồ Mi Lu chỉ mới mấy tháng tuổi. Buổi tối, thấy Quý lên lầu, nó cứ ngồi chồm hổm bên dưới mà trông theo như mơ tưởng chắc trên đó là chốn thần tiên, và chắc cũng muốn bám theo để chơi đùa cùng Quý.
Lên đến nửa thang lầu, Quý quay lại thấy chú chó nhìn mình như cầu khẩn, van lơn, cậu bé không đành lòng bỏ lại nó một mình dưới nhà nên đi ngược trở xuống.
Thấy chủ quay xuống, Mi Lu mừng rỡ, rối rít vẫy đuôi và ư ử rên lên sung sướng.
Quý ôm chú chó lên phòng ngủ của mình. Và bắt đầu từ hôm đó căn phòng của Quý có thêm một nhân vật mới: Chú chó Mi Lu đáng mến!
Có đêm, Quý ngủ trên giường còn Mi Lu nằm dài ở tấm thảm bên dưới, nhưng cũng có khi cao hứng, Mi Lu ta chồm hai chân trước lên giừơng cào cào, rên rỉ để Quý phải nhấc bổng nó lên cho ngủ bên cạnh.
Mới đầu bà Hai còn la rầy cầm chừng, nhưng riết rồi bà cũng quen mắt và cũng thấy thương mến con chó nhỏ nên thôi, bỏ mặc hai đứa chơi đùa, ăn ngủ cùng nhau.
Mỗi con chó ít nhiều đều có một cái “nghề”, ngoài cái “nghề” truyền thống là coi chừng nhà và chăn gia súc. Mi Lu không có máu săn bắt, song “nghề” giữ nhà của nó thì trên cả mức tuyệt vời! Bên cạnh đó, nó còn có “nghề” tìm lại đồ vật bị thất lạc!
Ai vào nhà ở đâu yên đó, lên nhà trên nó theo lên, xuống nhà dưới nó theo xuống, không gầm gè cắn xé ai bao giờ nhưng ánh mắt nó cứ gườm gườm khiến bất cứ kẻ nào có tà tâm đều phải chùn bước.
Có lần, Quý đánh rơi một chiếc vớ, tìm mãi không thấy. Quý dí chiếc vớ còn lại trước mặt Mi Lu nói giỡn:
- Ê, tìm giúp tao với! Sắp trễ giờ học rồi!
Nhưng thật không ngờ, Mi Lu nhà ta lập tức sục sạo khắp mọi xó xỉnh trong nhà, và chỉ trong nháy mắt đã gặm chiếc vớ trong miệng chạy đến lập công với Quý. Lần đó Mi Lu được chủ thưởng cho nửa ổ bánh mì thịt to đùng, và sau này, thỉnh thoảng khi mất gì Quý đều nhờ Mi Lu tìm giúp. Kể ra, nó làm việc cũng rất có hiệu quả!
Tình bạn giữa Quý và chú chó Mi Lu ngày càng trở khắn khít không rời.
Mỗi bữa gần tới giờ Quý đi học về, Mi Lu đều chạy ra cửa sủa ngóng. Nó rất thính tai và tinh mắt, chủ còn tít mù xa nó đã sủa đón rồi rúc cái đầu bé nhỏ vào khe hở của cánh cổng sắt.
Lúc Quý vừa dừng xe trước cổng là nó nhảy chồm lên, vẫy đuôi rối rít.
Nhưng ở Mi Lu có một điểm rất lạ, không giống với những chú chó bình thường khác!
Thỉnh thoảng Quý bắt gặp nó đứng bằng hai chân sau, hai chân trước chồm lên cào cào vào không khí, miệng ư ử mừng vui giống y như mừng rỡ đón chào lúc Quý đi đâu về.
Quý có cảm giác nó như đang chào đón, đùa vui với một người vô hình nào đó.
Có lần Quý chỉ cho bà Hai xem rồi nói:
- Mẹ thấy nó có lạ không? Tự nhiên nhảy lên đùa giỡn một mình, y như có một người nào đứng bên cạnh nó vậy!
Bà Hai không chú ý lắm, trả lời con:
- Mi Lu còn nhỏ, nó là chó trẻ con, giống như con nít, nó cũng thường hay chơi một mình, nói chuyện một mình vậy thôi, đâu có gì lạ đâu con! Hồi nhỏ con cũng vậy, con thường nói chuyện một mình lắm đấy!
Nghe mẹ nói vậy, Quý thôi không còn thắc mắc nữa, nhưng mãi mấy năm sau, khi chú chó Mi Lu không còn là một “chó trẻ con” nữa nó vẫn không bỏ đi tính nghịch ngợm ấy.
Quý cũng đã quen mắt nên cũng chẳng lấy đó làm lạ!

***
Cuộc sống của gia đình ông bà Hai Phát cứ trôi đi êm đềm như thế.
Từ ngày có con chó nhỏ bên mình, Quý vui và khỏe mạnh hẳn lên. Lúc nào người và chó cũng quấn quýt bên nhau.
Quý thi đỗ vào trường Cao đẳng Kinh tế, vợ chồng ông Hai lập tức mua ngay một căn nhà gần trường để cậu con trai thuận tiện việc học hành. Ngày chuyển về nhà mới ở Sài Gòn, Quý không quên dẫn theo con chó.
Chú chó nhỏ năm nào bây giờ đã lớn phổng phao. Bộ lông trắng mượt mà sạch sẽ, vì mỗi ngày dù bận rộn học hành hay mê mãi chơi bời gì Quý cũng không quên tắm rửa cho chú chó.
Từ ngày lên sống ở Sài Gòn hoa lệ, Quý giao du và kết thân với đông đảo bạn bè, gồm đủ các thành phần.
Từ nhỏ quen sống trong sự giáo dục của bà Hai, Quý luôn luôn  nhìn cuộc đời bằng đôi mắt màu hồng tươi sáng.
Với Quý, bạn bè nào cũng là người tốt, và Quý chưa một lần ngần ngại khi giúp đỡ các bạn về mặt tiền bạc, vật chất, cũng như mọi khía cạnh khác trong cuộc sống.
Vây quanh bên cạnh Quý không chỉ có những bè bạn thật lòng, mà còn có không ít kẻ rắp tâm kết thân để lợi dụng.
Sống xa nhà, không còn được giám sát của mẹ nên Quý rất đỗi tự do, bạn bè rủ rê gì Quý cũng nghe theo, một phần do ham vui, một phần không muốn làm mất lòng bạn.
Dần dần, Quý trở nên bê tha, suốt ngày có mặt ở các quán bar, vũ trường hoặc những cuộc đỏ đen tại nhà mình hay các chuyến đi chơi xa Vũng Tàu, Đà Lạt cùng với bạn bè.
Ông bà Hai Phát thấy con xin nhiều tiền để đóng tiền học thêm vi tính, ngoại ngữ và rất nhiều môn học khác…, ông bà lấy làm mừng vui lắm. Đôi lúc xót ruột con, bà Hai cản:
- Học bớt bớt lại một chút đi con! Nhìn con kìa, mỗi ngày một gầy ốm! Đừng có mà lao vào học suốt ngày đêm, sức nào chịu nổi…
Quý chỉ cười, không nói gì.
Thi thoảng, Quý ân hận vì đã dối gạt cha mẹ, nhưng rồi Quý không đủ bản lĩnh để vượt qua những cám dỗ mà đám bạn bè vây quanh luôn gọi mời, xô đẩy Quý bước vào.
Một đêm, Quý trở về nhà trong trạng thái ngà ngà say. Mở cửa vô nhà, không thấy Mi Lu nhảy tới đón mừng như thường lệ, Quý ngạc nhiên, lấy dĩa đổ túi thức ăn ra và lên tiếng gọi:
- Mi Lu! Mi Lu! Mầy đâu rồi? Sao không mừng tao hử? Mầy giận tao hay sao vậy? Có khi nào tao quên đem thức ăn về cho mầy đâu? Mi Lu… Mi Lu… ra đây ăn nè con!...
Mi Lu từ trong sàn giường lừ lừ đi ra, không vẫy đuôi, cũng không kêu mừng, nó chỉ ngước nhìn Quý bằng đôi mắt ướt rượt, buồn buồn.
Quý ngạc nhiên:
- Hôm nay mầy làm sao vậy? Có bệnh không đây?
Vừa nói, Quý vừa kéo dĩa thức ăn tới bên cạnh Mi Lu. Nó chúi mũi vô dĩa khịt khịt mấy tiếng rồi quay ra, mệt mỏi nằm xuống, gác mõm lên chân Quý.
Quý ôm Mi Lu vào lòng, dỗ dành:
- Thôi, đừng buồn nữa nha! Chủ bỏ đi suốt ngày nên mầy buồn chứ gì? Tao xin lỗi nhé! Những chỗ tao đến không thể dẫn mầy theo được! Nhưng mà nè, tao đã đem về cho mầy đủ thứ món ngon. Ăn đi, ăn đi cho tao vui, rồi sáng mai tao chở đi bác sĩ thú y khám xem sao…
Nghe lời chủ, Mi Lu chậm chạm đứng lên, ăn một cách nhỏ nhẻ khác thường.
Quý dỗ cho Mi Lu ăn gần hết dĩa mới chịu đi tắm rửa.
Mệt mỏi vì cả ngày ngồi hết sòng bài rồi chuyển qua bàn nhậu, vừa tắm xong, Quý nằm dài trên sa lông ngủ luôn, không kịp vào phòng.
- Anh Quý ơi! Quay lại đi anh… Rời xa chốn ăn chơi đó đi anh…
Nghe tiếng gọi văng vẳng bên tai, Quý cố hết sức để mở mắt ra nhưng cơn buồn ngủ lại cứ kéo sập xuống, nhướng lên mấy lần, Quý vẫn không nhận ra ai đang gọi mình. Chỉ thấy lờ mờ bóng dáng một cô gái đứng kề bên Mi Lu.
Cô gái nói nhỏ:
- Anh Quý ơi! Anh đừng giao du với đám bạn đó nữa! Bọn nó không tốt đâu, chúng chỉ lợi dụng anh thôi! Anh lo học hành đi!
Quý muốn cất tiếng cãi lại nhưng không được, hai mi mắt anh như đã bị dán chặt vào nhau và thật nhanh chóng, Quý chìm sâu vào giấc ngủ.
Sáng hôm sau, chợt nhớ lại chuyện đêm vừa rồi, Quý thầm nghĩ:
- Quái lạ! Sao mình lại mơ thấy chuyện gì kỳ thế không biết! Bạn bè mình có đứa nào lợi dụng gì mình đâu? Tụi nó mà biết được, sẽ chẳng đứa nào thèm chơi với mình nữa!... Cô gái đó là ai? Không giống bất cứ một cô bạn nào của mình?
Nhưng rồi chuyện giấc mơ và hình bóng mờ ảo của cô gái cũng nhanh chóng trôi vào quên lãng. Quý vẫn ngày ngày ăn chơi trác táng không thôi.
Quý không hề nghĩ ngợi gì đến chuyện tương lai phía trước. Quý chỉ biết hiện tại mình đang rất vui, và đinh ninh đó sẽ kéo dài bất tận…

***
- Quý! Quý ơi!
Nghe tiếng gọi hớt hãi của Tài, Quý đặt ly rượu xuống bàn, lên tiếng:
- Tao ở đây! Mầy làm gì khẩn trương vậy?
- Mầy phải về nhà ngay! Đứng lên, tao chở mầy về!
Quý hồi hộp:
- Có chuyện gì vậy?
Tài kéo tay bạn, giọng run run:
- Ba mẹ mầy… Ba mẹ mầy gặp tai nạn rồi!
Quý kinh hoảng đứng bật lên:
- Tai nạn? Tai nạn gì?
Tài lắc đầu:
- Tao cũng không rõ! Nghe nói… tai nạn giao thông!
- Bây giờ ba mẹ tao ở đâu?
- Hình như… ở nhà mầy dưới quê! Một người hàng xóm dưới đó vừa gọi điện lên trường báo tin, chuyện xảy ra thế nào cũng chưa ai rõ! Bây giờ mầy phải về dưới gấp! Tao chở mầy đi…
Quý lảo đảo đứng lên rồi bất thần nôn ọe ra, bẩn hết cả quần áo.
Tài cùng với mấy người bạn đang ngồi nhậu đỡ Quý về nhà, thay quần áo cho Quý rồi kéo Quý ra xe.
Xe vừa nổ máy, con chó Mi Lu trong nhà kêu lên thảm thiết, cào cấu kịch liệt vào cánh cửa đang đóng kín.
Quý bảo:
- Tài ơi, cho tao vô nhà dẫn theo con chó về quê!
Ban đầu Tài không chịu, nhưng thấy Quý cứ lằng nhằng năn nỉ hoài, cuối cùng Tài cũng phải để Quý mở cửa dắt theo con chó đi ra.
Mi Lu ngoan ngoãn ngồi im suốt quãng đường về.
Vừa về tới cổng, nhìn thấy trong nhà xôn xao người qua kẻ lại, Quý bủn rủn cả chân tay. Linh tính báo cho Quý biết ba mẹ mình đã xảy ra điều hệ trọng lắm rồi.
Mấy người đàn bà vừa trông thấy Quý bước vô đã bật khóc:
- Trời ơi, con ơi! Con về muộn mất rồi! Ba mẹ con đã không đợi được con về…!
Quý lảo đảo bấu tay vào cánh cửa. Ngay lúc đó, Mi Lu từ ngoài sân phóng ào vào nhà, chạy đến bên hai chiếc giường đặt ở giữa nhà, nó nhảy chồm chồm lên giường, cất lên những tiếng tru thật dài, nghe thê thiết…
Trên hai chiếc giường ấy là xác của vợ chồng ông Hai Phát.
Quý run rẩy giở tấm vải trắng phủ trên mặt ba mẹ để nhìn hai người lần sau cuối.
Gương mặt bà Hai trông vẫn thanh thản như đang ngủ, riêng ông Hai, mặt bị xây xát rất nhiều chỗ, cả người ông đầy thương tích.
Quý đau đớn gục xuống ôm lấy cha mẹ, khóc tức tưởi.
Mi Lu thôi không tru nữa. Nó đến bên Quý, thè cái lưỡi dài đỏ hồng ra liếm chân Quý như đang an ủi dỗ dành cậu chủ trước nỗi đau quá lớn này.
Quý khóc một hồi rồi gượng dậy, quay sang hỏi chú Dự – người em bà con xa với ông Hai Phát, cũng là người lâu nay được ông Hai Phát tín nhiệm, coi như cánh tay mặt của mình, giao trông coi rất nhiều công trình xây dựng. Ông Hai không coi Dự là một nhân viên bình thường mà là một người thân tín.
- Chú ơi… Ba mẹ con… tại sao ra nông nỗi?
Chú Dự cúi xuống khẽ lau nước mắt:
- Sáng sớm này ba con dặn chú ở nhà lo một số chuyện, ba và mẹ con đi thành phố để thăm con, vì hai tuần nay không thấy con về, mẹ con rất nhớ. Vừa ra khỏi thị trấn vài cây số thì không may… gặp phải một thằng chạy xe gắn máy ngược chiều tông phải. Mẹ con thì chết liền tại chỗ, ba con và cái thằng đó thì chết trong bệnh viện…
Quý cảm thấy buốt nhói trong lòng. Cũng tại mình, tại mình mà ba mẹ mới lâm tai nạn. Nếu chủ nhật vừa rồi mình đừng mải chơi cùng bè bạn, mình về thăm nhà thì hôm nay mẹ với ba đâu phải lặn lội đi thăm mình để xảy ra cớ sự!
- Tại con!... Tại con… Ba mẹ ơi, con đã làm hại ba mẹ rồi…
Quý gục đầu lên xác ông Hai nức nở.
Chú Dự cùng mấy người hàng xóm dìu Quý đứng lên, an ủi:
- Con đừng tự trách mình như vậy! Con người ta sống chết đều có số thôi con ạ! Con đừng quá đau buồn, phải tỉnh táo để lo chuyện hậu sự cho anh chị Hai. Trong nhà bây giờ chỉ còn lại một mình con thôi đó! Con không được ngã quỵ, dù thế nào con cũng phải cắn răng để gượng dậy…
Nhưng Quý không gượng dậy được!
Suốt mấy ngày cử hành tang lễ, Quý cứ lừ đừ như kẻ mất hồn, mọi việc hầu như đều do một tay chú Dự lo toan, sắp xếp. Quý chỉ biết làm theo những gì chú Dự sai biểu và gật đầu khi chú ấy hỏi qua ý kiến.
Quý và chú chó Mi Lu cứ quanh quẩn bên cạnh hai chiếc quan tài. Chó không sủa tru và người cũng thôi không khóc nữa nhưng cả hai đều ngơ ngác, u sầu…
Sau ba ngày tang lễ, vợ chồng ông Hai Phát được đưa đi an táng ở một miếng đất của gia đình cách nhà chừng non cây số.
Đám người đưa tang về hết chỉ còn Quý và Mi Lu ngồi lại bên hai nấm mồ trơ trọi giữa đồng không mông quạnh.
Quý cứ ngồi bó gối ngó trân trân, trong đầu không còn buồn vui hay nghĩ ngợi bất cứ điều gì.
Từ nhỏ, Quý vốn quen sống trong vòng tay bao bọc của mẹ cha, bất thình lình hai người bỏ Quý ra đi không một lời từ giã dặn dò, Quý cảm thấy mình thật trơ trọi, thật bơ vơ, thấy như mình vừa rơi từ một ngọn núi cao nào đó xuống.
Khi ánh mặt trời đã tắt hẳn ở phía trời Tây, Mi Lu gầm gừ cắn ống quần Quý lôi đi.
Quý sực tỉnh, đứng lên nhìn lại hai ngôi mộ lần nữa rồi lủi thủi ra về, sau lưng Quý, Mi Lu cũng lặng lẽ bám theo.
Ngôi nhà quạnh quẽ thê lương, tràn ngập mùi khói nhang làm lòng Quý đau quặn thắt.
Vẫn còn mặc nguyên bộ đồ tang trên người, Quý nằm dài xuống sàn nhà và bắt đầu khóc. Quý khóc như chưa bao giờ được khóc. Mi Lu nằm sát cạnh bên, mắt nó cũng dàn giụa nước…
Quý thiếp đi lúc nào không biết, đến chừng nghe thấy một luồng hơi nóng phả vào mặt mới giật mình thức dậy. Thì ra đó là Mi Lu, nó húc mõm vào mũi Quý, cọ vào mặt Quý.
Quý mệt mỏi ngồi dậy, vuốt ve con chó:
- Mầy đói rồi phải không? Từ mấy hôm nay chắc mầy cũng giống như tao, chưa ăn gì vào bụng phải không? Để tao xuống bếp tìm xem có gì cho mầy ăn không nhé?
Mi Lu âu yếm liếm nhè nhẹ vào tay Quý.
Thức ăn dưới bếp còn nhiều nhưng Quý không tài nào nuốt nổi. Quý lấy một dĩa thật đầy để xuống cho Mi Lu. Con chó không sục mõm vào ngay như mọi lần mà nó cứ nhìn Quý rồi kêu ăng ẳng.
Quý lại nằm dài xuống cạnh dĩa thức ăn, một tay vuốt ve lưng con chó nhưng mắt thì nhắm lại.

***
- Quý ơi! Quý! Cháu thức dậy chưa?
Nghe tiếng chó sủa inh ỏi cùng với tiếng gọi cửa, Quý lồm cồm bò dậy,  rửa vội qua mặt mày rồi chạy lên nhà trên chào khách.
Chú Dự bước vô nhà, trông thấy vẻ bơ phờ hốc hác của Quý, chú khẽ lắc đầu, than:
- Trời ơi! Coi cháu kìa! Cháu phải biết tự chăm sóc mình chứ! Giờ đây ba mẹ cháu không còn, cháu càng phải lo cho bản thân để vong hồn ba mẹ cháu được nhẹ nhàng thanh thản mà đi đầu thai kiếp khác chứ! Cháu mà như vầy, ba mẹ cháu sẽ không yên lòng nhắm mắt đâu.
Nghe chú Dự rầy, Quý không nói gì mà chỉ đứng im cúi đầu, mắt rưng rưng lệ.
Chú Dự tự kéo ghế cho mình và cho Quý, chú ngồi xuống rồi nói với Quý:
- Cháu ngồi đi! Ngồi xuống đây tính chuyện nhà với chú!
Quý lơ đãng nghe chú Dự tính toán các khoản chi tiêu mà chú đã ứng ra từ lúc ba mẹ mình gặp nạn đến khi mồ yên mả đẹp. Sau khi trình bày cặn kẽ, chú Dự gút lại:
- Hôm qua tới giờ cháu đã kiểm lại số tiền người ta đi phúng điếu chưa?
Quý lắc đầu:
- Dạ chưa! Tối hôm qua cháu mệt quá…
Chú Dự thông cảm:
- Không sao! Bây giờ cháu mang ra đi, chú cháu mình cùng kiểm.
Quý đứng lên mở tủ lấy chiếc túi đựng tiền phúng điếu đưa cho chú Dự. Hai chú cháu người ghi, người kiểm.
- Vậy là… cháu phải đưa thêm cho chú hai mươi triệu nữa mới đủ!
Quý ngơ ngác:
- Cháu?... Cháu làm gì có tiền?
Chú Dự gật gù:
- Chú biết! Chú biết chứ! Nhưng mong cháu hiểu mà thông cảm cho chú! Ba mẹ cháu gặp nạn bất thình lình như vậy, chú quá nóng ruột nên phải chạy đi vay mượn để lo cho anh chị… Hôm nay chú phải hoàn trả cho người ta…
Nhìn vẻ mặt khổ sở của chú Dự, Quý bảo:
- Để cháu kiểm lại xem, ba mẹ cháu còn tiền để trong tủ không?
Quý mở hết các tủ trong nhà, lục lọi một lúc thật lâu. Số tiền tìm được không nhiều nhưng lại có một số vòng vàng nữ trang của bà Hai.
Nhận gói nữ trang từ tay Quý, chú Dự ngần ngại nói:
- Cháu… cháu vui lòng đem bán số nữ trang này để gửi lại tiền cho chú chứ?
Quý buồn rầu:
- Dạ! Chú làm ơn đem đi bán giùm cháu luôn đi, cháu giờ không còn lòng dạ nào…
Chú Dự nhét gói nữ trang vào túi áo rồi nói tiếp:
- Ừ, nếu cháu nhờ thì chú sẽ đi bán giúp. Nhưng bây giờ chú muốn cho cháu biết về tình hình công việc của ba cháu…
Dự ngập ngừng nhìn Quý thăm dò, nhưng thấy Quý vẫn ngồi im, nghe một cách lơ đễnh.
- Chắc cháu không biết, thời gian gần đây việc làm ăn của ba cháu gặp nhiều khó khăn lớn?
- Dạ, cháu không nghe ba cháu nói, cũng không thấy mẹ than thở gì…
Quý đáp.
Dự thở dài:
- Cháu biết tính ba cháu rồi đó, ông không muốn vợ con phải phiền lòng nên cố chịu đựng khó khăn mà không một lời than vãn… Chú nói thật, hiện nay, ba cháu còn một số nợ rất lớn…
- Chú giúp cháu giải quyết mọi việc đi, trước giờ chú vẫn làm với ba cháu nên chú hiểu rõ chứ cháu đâu có biết gì?
Quý mệt mỏi nói như muốn chấm dứt cuộc nói chuyện.
Chú Dự đứng lên vỗ vai Quý:
- Được rồi, chú sẽ cố gắng dàn xếp một cách tốt nhất! Cháu cứ yên tâm nghỉ ngơi đi! Chú về nhé!
Những ngày tiếp sau đó rất nhiều người đến thăm hỏi động viên Quý, ai cũng tỏ ra ái ngại cho cuộc sống sau này của Quý,  có người nói xa nói gần khuyên Quý đề phòng chú Dự. Nhưng với ai thì Quý cũng dạ dạ vâng vâng, chứ thật sự Quý không hề để tâm đến bất cứ lời khuyên bảo nào. Đầu óc Quý như đã bão hòa rồi, không còn tiếp nhận bất cứ thông tin nào nữa!
Ông bà Hai Phát là người giàu có nhất nhì trong vùng, vậy mà khi chết đi, gia tài để lại cho cậu con trai duy nhất chỉ là ngôi nhà với vài mảnh đất ở quê cùng ngôi nhà ở Sài Gòn mà lâu nay Quý ở đi học.
Chuyện đó cũng không làm Quý thắc mắc. Quý tin tưởng chú Dự. Chú bảo chú đã cố gắng hết sức, lấy bên này tấp bên nọ mới giải quyết xong các khoản nợ nần của ông Hai mà không phải bán đi căn nhà cha mẹ để lại cho Quý.
Hơn một tuần sau, Quý đóng cửa ngôi nhà dưới quê, trở lên Sài Gòn, hành lý mang theo chỉ một số tiền ít ỏi và chú chó trung thành.
Nghe tin Quý trở lên, bạn bè tới thăm đông đảo. Ai cũng xót xa thương cảm, ai cũng khuyến khích động viên khiến Quý cảm thấy ấm lòng trước tình nghĩa bạn bè dành cho mình.
Quý lại bị cuốn vào những cuộc nhậu nhẹt thâu đêm, gọi là để vơi đi buồn khổ…
Từ ngày trở lên Sài Gòn, Mi Lu càng quấn quýt bên cậu chủ. Quý cũng vậy, đêm đêm thường ôm Mi Lu vào lòng mà khóc.
Trong những giấc ngủ chập chờn, Quý thường nghe văng vẳng tiếng ai đó gọi mình, rồi thỉnh thoảng lại thấy bóng dáng một người con gái thoáng qua, mà bao giờ người con gái đó cũng đi bên cạnh Mi Lu, Mi Lu có vẻ rất thân thiện với cô gái.
Cô gái quỳ xuống bên cạnh Quý, thầm thì khuyên can Quý đừng sa vào ăn chơi nữa, lo mà học hành thi cử…
Nhiều lần Quý cũng cảm thấy băn khoăn vì giấc mơ lặp đi lặp lại ấy, nhưng cuối cùng Quý vẫn trượt dài, không gượng nổi.
Liên tiếp thi rớt mấy môn, Quý chán nản quyết định không đi học nữa! Vậy là từ hôm đó, suốt ngày Quý cứ rong ruổi đi theo những lời rủ rê mời gọi của bạn bè.
Các vũ trường, quán bar, sòng bạc là những nơi Quý thường xuyên lui tới.
Khi tất cả đồ đạc có giá trị trong nhà cùng với chiếc xe gắn máy đều phải đem bán hết thì Quý bắt đầu lo lắng.
Là một cậu ấm con nhà giàu, được ba mẹ chăm chút từng li từng tí, chưa bao giờ Quý phải bận tâm đến cái ăn cái mặc hàng ngày. Tất cả đối với Quý đều là hiển nhiên, không gì phải băn khoăn lo nghĩ.
Nhưng lúc này thì Quý không còn gì cả!
Hai ngày liền Quý nằm nhà ăn mì gói trừ cơm, nhưng với Mi Lu, Quý vẫn dành cho nó khẩu phần ăn “cao cấp” là mấy cây xúc xích!

***
- Làm gì mấy hôm nay mầy trốn biệt vậy?
Tỉ dừng xe trước cửa nhà Quý bấm còi inh ỏi. Vừa thấy Quý ló mặt ra, nó hất hàm hỏi.
Quý cười ngượng nghịu:
- Mầy vô nhà chơi!
- Trời! Mầy bị bịnh hay sao vậy? Nhà mầy thì có giống gì ở trỏng mà vô chơi? Chán như con gián ấy! Đi! Lên xe tao chở đi! Tao mới khám phá ra một bar chiến lắm! Bảo đảm vô đó là mầy mê liền!
Tỉ tháo cặp kính đen to đùng trên mắt xuống, vừa kéo vạt áo lau, vừa nói với Quý.
- Tao… tao không đi đâu…
Quý trả lời nhát gừng.
Tỉ ngạc nhiên, nheo mắt hỏi:
- Ủa, sao vậy? Mầy đừng nói với tao là mầy tu nghe?
- Không! Nhưng tao… tao còn nợ tụi thằng Khoa, tao… hết tiền rồi!
Tỉ “à” lên một tiếng như hiểu ra rồi bật cười hô hố:
- Tưởng gì! Chuyện đó chỉ là chuyện nhỏ như con thỏ, vậy mà nhìn mặt mầy kìa, buồn như con chuồn chuồn, làm tao cứ ngỡ mầy sắp cạo đầu đi tu như thằng ngu ấy chứ!
Vừa nói, Tỉ vừa dẫn xe vào nhà theo lời mời của Quý.
Vào nhà, Tỉ đảo mắt nhìn khắp một lượt ngôi nhà giờ đã trống huơ trống hoác, bàn tay Tỉ nhịp nhịp như đang suy tính gì lung lắm.
Cuối cùng Tỉ hỏi:
- Mầy không còn chút vốn liếng nào à?
- Không!
Quý nói nhỏ.
Tỉ cười:
- Mầy nói cũng lạ! Ông già mầy giàu có như vậy mà không để lại gì cho mầy sao?
- Tao nghe nói trước khi mất, công việc làm ăn cũng ba tao đã sa sút, đã lâm vào cảnh nợ nần rồi, chỉ tại ba tao giấu…
Tỉ gật gù:
- Có lý như con chí! Đời bây giờ giàu nghèo đổi chỗ cho nhau chỉ trong một cái chớp mắt! Có người đang nghèo như cái cù nèo, ngủ một đêm sáng ra bỗng thành tỉ phú. Lại cũng có người đang giàu như con cào cào, chớp mắt một cái hóa ra ăn mày như trâu đi cày…
Tỉ vừa nói vừa đi tới đi lui trong phòng, rồi bất thần đứng dừng ngay trước mặt Quý, hỏi:
- Mầy có muốn phất lên không? Muốn trở lại những ngày vung tiền qua cửa sổ không?
Quý cười héo hắt:
- Giàu thì ai lại không muốn, nhưng… tao hiện nay đã không còn cơ hội rồi!
- Sao lại không? Chỉ cần mầy có một chút vốn, tao sẽ chỉ cho mầy cách làm ăn!
- Làm gì?
Quý hỏi.
Tỉ cười:
- Mua chứng khoán! Chắc mầy có nghe chuyện này rồi chứ gì? Bây giờ nhiều người phất lên nhờ chứng khoán lắm đó nghen mậy!
Quý thở dài:
- Đầu tư vô đó cũng hên xui thấy bà! Tao nghe cũng không ít người đã bị phá sản vì chơi chứng khoán.
Tỉ bật cười hô hố:
- Thì đó! Tao đã nói với mầy, đời bây giờ giàu nghèo chỉ cách nhau bởi một lằn ranh nhỏ như sợi tóc! Ăn thua là có cái đầu biết suy nghĩ và sự tính toán sát sao. Mầy thấy tao không? Tao không phải con nhà giàu như mầy. Hồi mới lên Sài Gòn tao phải làm thuê làm mướn đủ mọi nơi để kiếm sống. Tích cóp được một số tiền nhỏ, tao hùn với người ta, chơi theo kiểu cò con. Thế mà dần dần, giờ đây tuy tao chưa thuộc hàng đại gia, nhưng tao đã có thể phè phỡn giữa cái thành phố bon chen nầy rồi!
Ngừng một chút, Tỉ nói tiếp, giọng có vẻ bí mật:
- Tao nói cho mầy biết thêm thông tin nầy để mầy vững bụng. Tụi tao có “nội gián”, nên hễ đánh là thắng!
Quý thở dài:
- Nghe mầy nói tao cũng ham, nhưng tao đâu còn tiền!
- Không còn tiền nhưng mầy còn đất, đúng không?
Quý gật:
- Ừ, tao còn mấy mẫu đất dưới quê!
Tỉ vỗ tay đánh đét vào đùi:
- Vậy là nhứt rồi! Đất bây giờ là vàng ròng đấy con ạ! Mầy về bán mẹ nó mấy mẫu đất ấy đi, lên đây tạo dựng sự nghiệp!
Quý lắc đầu:
- Không, tao không bán đâu! Đất đai của ba mẹ tao làm lụng vất vả mới có được, hai ông bà chết chưa bao lâu, tao không thể đem đi bán hết được!
Nghe Quý nói vậy, Tỉ làm mặt giận:
- Thì tùy mầy! Tao chỉ muốn giúp bạn bè nên mới gợi ý chuyện đó, mầy không đồng ý thì thôi vậy! Bây giờ mầy đi bar với tao không? Hôm nay tao bao, khỏi phải lo chuyện tiền bạc!
Quý từ chối:
- Thôi, mầy đi đi, hôm nay tao không được khỏe!
- Vậy thì bye nhé! Khi nào cần gì mầy cứ tìm gặp tao, tao sẽ giúp đỡ mầy, tụi mình là bạn bè lâu năm với nhau, mầy đừng ngại nhé!
Tỉ vừa đi ra vừa huýt sáo.
Ra tới cổng, Tỉ quay lại cười cười rồi bất thần cho xe vọt lên, phả vào Quý một làn khói nóng…
Quý buồn bã đứng nhìn theo bạn một lúc rồi mới khép cửa quay vào.
Vừa xoay lưng, Quý nghe tiếng Khoa gọi giật:
- Ê, ê! Chờ chút! Chờ chút!
Quý chưa kịp mở cổng, Khoa vội bảo:
- Có tiền chưa? Đưa cho tao đi, tao đang cần lắm!
Quý cúi gầm mặt xuống đất:
- Tao… tao chưa có! Mầy thông cảm cho tao đi!
Khoa gắt:
- Thông cảm con mẹ gì! Bạn bè là bạn bè, tiền bạc là tiền bạc, đâu đó phải rõ ràng sòng phẳng, không thể nhập nhằng được. Tính tao là như vậy! Chẳng lẽ mầy không hiểu?
Quý nói nhỏ:
- Có gì mầy vô nhà nói chuyện với tao, đừng đứng ở đây la lối như vậy, người ta nghe được…
Chưa đợi Quý nói hết câu Khoa cười khẩy:
- Cái gì? Mầy sợ người ta cười mầy à? Trời! Còn ai không biết cậu ấm Quý bây giờ chỉ còn lại hai bàn tay trắng mà mầy sợ? Sĩ diện gì nữa cậu ấm ơi!
Nghe giọng giễu cợt của Khoa, Quý tức giận:
- Mày nói năng cho đàng hoàng một chút! Dù sao tao với mầy đã từng là bạn bè thân thiết suốt mấy năm qua. Chắc mầy không quên, suốt mấy năm liền, có khi nào đi quán bar, vũ trường hay ăn nhậu ở bất kỳ nơi đâu mà tao để cho mầy phải trả tiền chưa? Thậm chí, mầy đánh bạc thua người trả cũng là tao. Rồi chiếc xe của tao nữa, cũng chính mầy mượn đi rồi làm mất, có khi nào tao nặng nhẹ mầy chưa?
Khoa chống một chân xuống đất, ngửa mặt lên trời cười lớn:
- Ha ha… Không phải những lúc ấy mầy làm vậy để chứng tỏ ta đây là đại gia sao? Tao chỉ chìu theo cho mầy nổi bật lên, mầy không cám ơn tao thì thôi, sao còn kể lể? Thưa cậu, cậu là con nhà giàu, cậu có thể vung tiền ra cho thiên hạ lóa mắt, cho thiên hạ cúi đầu vị nể. Còn tôi, tôi không giàu có nên từng đồng, từng đồng của tôi mỗi khi bỏ ra đều phải có mục đích hẳn hoi, xin cậu hiểu giùm cho điều đó!
Quy tức nghẹn họng:
- Tao không ngờ mầy là kẻ vong ân bội nghĩa đến như vậy! Những lúc mầy thua bài bạc, mầy cần tiền làm điều gì mầy luôn than vãn với tao. Vì thương mầy nên tao không ngần ngại giúp đỡ, bây giờ mầy lại trở mặt mỉa mai tao. Còn số tiền mầy nói tao nợ mầy đó, thật sự tao đâu có mượn. Mầy rủ tao đi chơi bời, tao từ chối vì không còn tiền thì mầy bảo đừng ngại, đã có mầy lo hết. Vậy mà… vậy mà mầy lại giở thủ đoạn, chờ lúc tao say rượu, ép tao ký tên vào giấy nợ…
Khoa không cười nữa, nhìn thẳng vào Quý bằng vẻ mặt khinh khỉnh:
- Ủa, tới giờ mầy mới biết sao? Muộn quá rồi cậu hai ơi! Tất cả những trò ngu muội cậu làm trước kia, giờ đừng nhớ lại chi nữa mà thêm uất ức. Mình ngu thì ráng mà chịu! Điều mà cậu hai nên làm và phải làm ngay lúc này là tìm cho đủ số tiền để trả lại cho thằng này! Nghĩ tình mầy dại dột trước kia, tao gia hạn thêm cho hai tuần nữa, đến lúc đó vẫn không có thì đừng trách tao cạn tàu ráo máng đấy nhé!
Nói vừa dứt câu, Khoa phóng xe đi, không thèm nói một lời tạm biệt với Quý.
Quý giận run người nhưng biết hiện nay mình đang như cá nằm trên thớt. Giấy mượn nợ đã ký rồi, dù có nói gì thì trước pháp luật mình cũng là người thua cuộc.
Một nỗi cay đắng trào dâng trong lòng Quý.
Lê bước vào nhà, Quý buông người xuống giường, đau khổ.
Hình ảnh những ngày ăn chơi lại hiện ra trong đầu Quý thật rõ rệt như mới xảy ra ngày hôm qua thôi! Mà cũng đúng, mới đây thôi mà, mới đây Quý và Khoa vẫn còn là một cặp bài trùng ở các tụ điểm ăn chơi nổi tiếng Sài Gòn. Vậy mà… từ khi biết Quý không còn gì, và nhất là từ lúc ép được Quý ký tên vào tờ giấy nợ, Khoa đã quay ngoắt đi, trở mặt một cách không ngờ được.
Lúc mới quen nhau, Khoa còn là một đứa lông bông đói khát, Quý đã giúp đỡ tiền bạc bất kỳ lúc nào Khoa cần, mua cho Khoa từng bữa ăn, từng chiếc áo.
Quý không hề suy nghĩ gì khi giúp đỡ bạn. Quý đã quen với việc giúp đỡ những người thua sút hơn mình, bởi vì từ nhỏ, Quý đã được mẹ dạy cho điều đó. Quý đã rất vô tư giúp bạn như một lẽ tự nhiên chứ hoàn toàn không có ý vung tiền ra để mua danh, mua sự kính nể như lời Khoa nói lúc nãy!
Giờ phút này Quý mới thật sự nhận ra sự đen bạc của cuộc đời! Nhận ra được thì đã muộn!
Giờ đây Quý chỉ còn lại hai bàn tay trắng. Bạn bè xa lánh. Bên cạnh Quý chỉ còn mỗi một chú chó Mi Lu!
Những người bạn đàng hoàng trung thực thì đã xa Quý từ lâu, từ lúc Quý sa chân vào con đường ăn chơi thác loạn. Bạn bè đã cố gắng khuyên can, đã cố níu kéo nhưng Quý tự mình bứt ra, tự mình dấn thân vào con đường tăm tối!
Lúc ấy, Quý không bận lòng, vì vây quanh Quý là rất đông bạn hữu, những kẻ sẵn sàng thức thâu đêm suốt sáng để “sẻ chia” tâm sự cùng Quý, những kẻ sẵn sàng có mặt bất kỳ lúc nào Quý buồn, cần có người đi giải khuây với mình!
Bây giờ thì những kẻ đó cũng đã rời xa Quý!
Càng nghĩ Quý càng cảm thấy đắng chát trong lòng. Và bỗng nhiên Quý nhớ lại lời cảnh báo của cô gái trong mơ!
Cô gái ấy là ai?
Quý thẩn thờ ngồi lên ôm Mi Lu vào lòng thầm thì:
- Lần nào khi thấy cô gái ấy, tao đều thấy mầy đứng bên cạnh cổ, nhìn cổ âu yếm lắm. Mầy biết cô gái là ai phải không Mi Lu? Mầy nói cho tao biết đi Mi Lu!
Nói xong, Quý bật cười một mình, áp mặt mình vào mặt Mi Lu:
- Tao ngớ ngẩn quá phải không? Làm sao mầy có thể nói cho tao biết được? Bây giờ tất cả đã bỏ tao mà đi hết rồi… Cả ba mẹ tao, cả đám bạn bè chí cốt của tao, cả mấy đứa con gái từng chạy theo thề thốt mong muốn được lo lắng chăm sóc cho tao… Tất cả… tất cả đều bỏ tao đi hết rồi! Bây giờ tao thật bơ vơ giữa cuộc đời này, tao chỉ còn mỗi một mình mầy thôi đấy, Mi Lu ạ! Mầy đừng bỏ tao mà đi nhé!
Đáp lại lời cậu chủ, Mi Lu thè lưỡi liếm nhẹ khắp tay chân mặt mũi Quý rồi rúc vào lòng chủ, miệng rên lên nho nhỏ.
Quý vuốt ve bộ lông trắng giờ đây đã ngã màu và có phần xơ xác. Chợt nhớ ra Mi Lu đã sống, đã gắn bó với mình từ thời thơ ấu, giờ đây nó đã già rồi! Ánh mắt nó đã không còn lóe lên những tia sáng rỡ đầy vẻ tinh nghịch, giờ đây nó thường nhìn Quý bằng cái nhìn lặng lẽ u buồn.
Một nỗi ân hận lại trào lên trong lòng Quý. Quý thầm nghĩ, dù mình có rơi vào hoàn cảnh nào, mình cũng sẽ chăm sóc cho nó thật chu đáo, thật đầy đủ. Mình có thể nhịn đói, nhưng nhất quyết mình phải lo được cho nó đủ hai bữa ăn mỗi ngày. Nó là người bạn trung thành nhất của mình, mình không thể để tuổi già của nó phải đến trong đói rét.
Ôm chặt Mi Lu vào lòng, Quý lại hồi tưởng những ngày Mi Lu còn bé xíu, mới tới sống ở nhà mình. Ôi, những ngày tháng đó mới hạnh phúc làm sao, thần tiên biết chừng nào! Vậy mà trước nay Quý chưa hề nhận ra giá trị của quãng thời gian ấy…
Đêm đó Quý không ngủ được, Mi Lu cũng thức cùng chủ. Quý nằm dài dưới sàn nhà, Mi Lu gác mõm lên chân Quý. Chốc chốc nó lại đứng lên đi quanh quẩn một lúc rồi lại đến bên Quý, cọ mũi vào người chủ rồi rúc vào lòng chủ, ư ử tâm tình…
Quý nghĩ nát óc vẫn không tìm ra cách nào nhanh chóng có được số tiền mấy chục triệu để trả cho Khoa.
- Hay mình hỏi mượn tạm của Tỉ? Dù sao Tỉ cũng giàu có, mấy chục triệu đối với nó không là gì! Mình mượn tạm rồi tìm việc làm, kiếm tiền trả lại cho Tỉ sau, chẳng lẽ nó lại từ chối?
Nghĩ là làm. Sáng ra, Tỉ mua một chén bánh canh bán trước nhà đem vô nhà cho Mi Lu ăn rồi dặn nó:
- Mầy ở nhà nhé! Tao đi công việc một chút!
Thấy Mi Lu lại nhìn mình buồn thảm, Quý xoa đầu nó:
- Mầy yên tâm đi! Hôm nay tao không phải đi chơi bời nhậu nhẹt gì đâu! Tao hứa với mầy, từ nay tao không ăn chơi nữa, tao sẽ làm lại từ đầu, mầy tin tao nhé!
Hình như nghe và hiểu được những lời chủ nói, Mi Lu vẫy đuôi rối rít và ánh nhìn của nó cũng lấp lánh niềm vui…
Quý định gọi một chiếc xe ôm, nhưng nhẩm tính lại số tiền ít ỏi trong túi mình nên thôi không gọi nữa.
Quý thả bộ trên vỉa hè, trông như người nhàn nhã muốn dạo chơi thư giãn, nhưng kỳ thực trong lòng Quý đang chất chứa ngổn ngang tâm sự, lo âu, buồn chán…
Đi bộ gần mười cây số mới tới nhà Tỉ. Cửa đóng im ỉm, có lẽ Tỉ vẫn còn say ngủ!
Mấy lần Quý đưa tay lên định nhấn chuông nhưng rồi ngại ngần dừng lại. Quý nghĩ có lẽ tối qua Tỉ đi chơi khuya, giờ này mà phá giấc ngủ của nó sẽ làm nó bực mình, việc nhờ vả của mình có thể gặp khó khăn. Nghĩ vậy, Quý đành rảo bước tới lui, đến lúc hai chân mỏi rã rời Quý đành ngồi dưới một gốc cây bên vỉa hè mà chờ đợi.
Trên đường phố, người và xe vẫn dập dìu qua lại. Cuộc sống vẫn trôi đi, thành phố vẫn ồn ào… Tất cả không có gì thay đổi, tất cả đều bình thường như những gì vốn là của nó! Chỉ riêng Quý là có rất nhiều đổi thay…
Mới ngày nào Quý không phải lo toan gì đến cuộc sống, không tiếc nuối hay đắn đo khi phải chi ra hàng đống tiền cho những trò vô bổ. Vậy mà ngày hôm nay, Quý phải đắn đo cân nhắc khi mua một gói mì tôm, một điếu thuốc… Ngày hôm nay, vì mấy chục triệu đồng Quý phải lội bộ hơn mười cây số và phải chầu chực trước cửa nhà người ta như một con chó đói chầu chực bên cạnh một bàn tiệc…
Mặt trời đã lên cao, lưng áo Quý đã đẫm ướt mồ hôi mà cánh cổng nhà Tỉ vẫn còn đóng kín.
Mệt mỏi, chán chường, Quý đứng phắt dậy tiến tới cổng nhà, nhưng khi bàn tay vừa chạm vào chuông cửa, Quý đã nhận ra Tỉ đứng trên ban công từ lúc nào, đang nhìn xuống mỉm cười.
Chẳng lẽ Tỉ đã trông thấy mình ngồi đó từ nãy giờ mà nó cố tình không gọi? Ý nghĩ ấy thoáng qua làm tim Quý đau thắt lại, nhưng Quý vội xua đi. Không đâu, lẽ nào lại thế! Chắc nó vừa mới đi ra đó thôi!
Tỉ ung dung mở cổng đón Quý bằng nụ cười thân thiện:
- Chà, hôm nay rồng đến nhà tôm sớm thế!
Tự nhiên Quý có cảm giác dường như Tỉ đang mỉa mai mình. Lòng tự ái thúc giục Quý quay người chạy trở ra, nhưng sự túng bấn thì kéo ghì Quý lại. Quý cắn chặt răng, nuốt ực cay đắng vào lòng, nối goát theo Tỉ vào nhà.
Trước đây, Tỉ không sống bám vào Quý như Khoa, nhưng cũng không ít lần Quý giúp đỡ mỗi khi Tỉ cần tiền làm ăn gì đó. Hy vọng Tỉ không phải loại người bạc bẽo như Khoa.
- Này, uống cà phê đi! Nhìn mặt mầy ảm đạm như tấm thảm thế kia thì chán bỏ mẹ! Cuộc đời này có gì phải tâm đến vậy? Cứ sống, cứ vui chơi thỏa thích mầy ạ!
Đặt ly cà phê đen vừa pha trước mặt Quý, Tỉ nói.
Quý gượng cười:
- Ừ, tao cũng đang phấn đấu để sống đây này!
Tỉ ngạc nhiên:
- Úi trời! Thằng này hôm nay nói chuyện nghe hay nhỉ? Phấn đấu để sống à? Ha ha… vui nhỉ!
Cười ngất một hồi, Tỉ bỗng nín bặt rồi hỏi với vẻ nghiêm túc:
- Mầy định phấn đấu bằng cách nào?
Quý gãi gãi đầu:
- Tao… Trước tiên tao cần mầy giúp đỡ! Mầy có thể cho tao mượn tạm mấy chục triệu để trả cho thằng bạn chó má kia. Sau đó… sau đó tao đi xin việc làm rồi kiếm tiền trả lại cho mầy…
Tỉ lim dim mắt nhìn theo làn khói thuốc tỏa ra:
- Cho mầy mượn số tiền đó không có vấn đề gì! Nhưng Quý ạ, mầy phải nhìn thẳng vào thực tế! Mầy đừng mải sống trên mây nữa! Giờ đây mầy đã không còn nguồn cung cấp hàng tháng của ba má mầy rồi, mầy sẽ làm được việc gì ở Sài Gòn này đây? Mầy có bằng cấp gì không? Không nhé! Mầy có sức khỏe không? Cũng không! Mầy có vốn liếng không? Không luôn! À, phải nói chính xác là mầy có vốn chứ, có một số khá lớn nữa là khác, nhưng mầy cố chấp quá nên phải chuốc khổ vào thân. Rồi mầy sẽ làm gì? Bồi bàn? Bán vé số hay làm tiếp thị? Tao nói ra mầy đừng tự ái, một thằng công tử lỡ thời như mầy chẳng làm được gì bằng sức lực đâu! Hiện tại bây giờ, mầy kiếm được ngày hai bữa cơm đã là vất vả lắm rồi, thì thử hỏi đến khi nào mầy mới có thể kiếm ra mấy chục triệu đó để trả lại cho tao?
Tỉ dừng lại rít thêm một hơi thuốc nữa rồi thong thả nói tiếp:
- Là bạn bè, thấy hoàn cảnh mầy như vậy, tao rất muốn giúp đỡ. Tao cũng có thể cho hẳn mầy số tiền đó để mầy trả cho thằng Khoa. Nhưng sau đó thì sao? Tao chỉ có thể giúp mầy một lần chứ không thể nuôi mầy cả đời, mầy phải biết vận dụng đầu óc để có thể tồn tại được. Nếu mầy không muốn bán mấy mẫu đất dưới quê vì muốn lưu lại kỷ niệm của ông bà già mầy thì mầy có thể đem nó đi cầm cố. Có tiền, mầy đầu tư vào làm ăn, sau đó về chuộc lại mấy hồi! Tương lai của mầy rõ ràng vẫn đang sáng lạn, chỉ tại mầy không muốn đi tới mà thôi.
Quý im lặng lắng nghe những lời phân tích vừa ra vẻ kẻ cả, vừa ra vẻ thân tình của Tỉ. Tâm tư Quý rối bời.
Bao nhiêu nỗi nhục nhã ê chề của mấy ngày qua, viễn cảnh đen tối trước mắt thúc giục Quý phải vươn lên bằng mọi cách. Nhưng thật sự, ngoài cái cách mà Tỉ vạch ra, Quý không còn biết con đường nào khác nữa!
Quý tự biết bản thân mình rất khó chen lấn được trong cuộc sống ở cái thành phố đông đúc này nếu chỉ với sức vóc cơ thể! Mấy ngày vừa qua, Quý đã nếm trải rất nhiều vị đắng mà trước nay Quý chưa từng nghĩ tới, Quý đã hiểu được giá trị của từng đồng xu nhỏ! Nhưng trước cuộc đời, Quý vẫn còn nhiều bỡ ngỡ…
Mình không thể tiếp tục sống nhục nhã thế này được! Mình phải đứng lên, để một ngày nào đó có thể cười vào mặt loại người phản bạn như thằng Khoa, để không còn phải ứa nước miếng khi mùi thơm lừng của gánh bánh canh trước nhà bốc lên mỗi sáng, để không bao giờ còn tái diễn lại cảnh chầu chực trước cổng nhà người khác để mượn tiền như hôm nay…
Giàu!Mình phải giàu lên bằng mọi cách!
Ý nghĩ đó như một ngọn lửa chợt bùng lên đốt cháy khát khao trong lòng Quý, thôi thúc Quý!
- Mầy thấy tao nói đúng không?
Tỉ hỏi khi nhìn thấy trong mắt Quý vừa lóe lên những tia tham vọng.
- Đúng! Mầy nói rất đúng! Tao sẽ đứng lên bằng mọi cách! Rồi đây, những đứa như thằng Khoa sẽ không còn cơ hội để nhục mạ tao. Tao phải giàu lên bằng mọi cách!
Quý nghiến chặt răng, đấm tay xuống bàn làm ly cà phê sóng sánh văng mấy giọt ra ngoài.
Tỉ chìa tay ra:
- Ô kê! Vậy mới đúng là nam tử hán! Có đâu cái kiểu rụt rè e sợ như loại công tử bột được ấp kín trong lồng. Đời sống bây giờ, chỉ những thằng dám nghĩ, dám làm mới có thể đứng vững được! Mấy đứa xìu xìu ển ển chắc chắn sẽ bị đào thải…
Quý nắm lấy bàn tay chìa ra của Tỉ, siết chặt với một quyết tâm.
- Ngồi đây, tao sẽ lấy tiền đưa mầy để đem về quăng vô mặt thằng Khoa! Nhưng mà nè, cũng đừng nên trách nó, cách hành xử của nó cũng là một trong những cách để vươn lên đấy! Chỉ có điều hơi tồi một chút!
Tỉ cười vang, khệnh khạng lên lầu.
Quý ngồi im trên ghế, không nói gì nhưng quai hàm Quý bạnh ra, lòng Quý đang sục sôi một ý chí vô cùng mạnh mẽ.
Tỉ trở xuống đưa cho Quý một xấp tiền mới cứng, hất hàm:
- Đếm lại đi!
Quý nhận lấy đút ngay vào túi rồi đứng lên:
- Thôi khỏi! Tao về đây! Cảm ơn mầy rất nhiều!
- Ha ha… có gì mà ơn với huệ hả mậy?
Tỉ cười lớn, rồi bất chợt im ngang:
- Khi nào mầy về quê?
- Ngay chiều nay!
Quý quả quyết.
Tỉ vỗ vai Quý cười thật tươi:
- Có thế chứ! Mong rằng tao với mầy sẽ sớm hợp tác cùng nhau! Này, có cần tao cho mượn con “ngựa chiến” để cưỡi về làng không đấy?
- Không cần!
Quý trả lời dứt khoát rồi từ giã ra về.
Tỉ đứng nhìn theo, trên môi nở một nụ cười nham hiểm.
Khi Quý đã bước ra khỏi cánh cổng sắt nặng nề phía trước, Tỉ vung tay lên hét:
- Wow! Một con nai vàng sắp sửa đút đầu vào bẫy! Nghĩ thật tội cho anh chàng công tử Bạc Liêu! Mầy sắp phải trả giá cho sự ngu ngơ của mầy rồi đấy con ạ!
Là người thật thà, Quý không thể nào ngờ lòng người lại đen bạc đến mức độ đó!
Trời nắng chang chang, Quý vẫn xăm xăm bươn bã đi qua mấy con phố dài dàng dặc tìm tới nhà Khoa. Quý biết, tính Khoa vẫn thích lấy ngày làm đêm.
Quý đấm ầm ầm vào cánh cổng sắt trước nhà Khoa, từng cú đấm của Quý như muốn trút bỏ những căm hờn đang sôi sục trong lòng suốt mấy hôm nay.
Khoa chạy ra, vẻ mặt còn ngái ngủ:
- Làm cái quỷ gì ghê thế?
Khoa gắt khi trông thấy Quý.
- Giấy nợ của tao đâu?
Quý nghênh mặt hỏi.
Khoa ngó sững Quý như không tin vào những gì mà tai mình vừa mới nghe thấy. Một phút sau, chừng đã hiểu ra, gương mặt Khoa giãn ra và nở một nụ cười hết cỡ:
- Á à… Thì ra ông anh đến đây vì chuyện đó! Mời vào… mời vào… quý hóa quá! Cậu ấm vẫn là cậu ấm có khác!
Không thèm đếm xỉa đến lời châm chọc của Khoa, cũng không thèm theo Khoa vào nhà, Quý gằn từng tiếng:
- Mau đem giấy nợ ra đây!
- Hơ hơ… ông anh ghê thật! Thằng em này bắt đầu phục ông anh sát đất rồi đó! Chỉ trong vòng chưa đầy hai mươi bốn tiếng đồng hồ, ông anh đã có thể xoay được ngần ấy tiền rồi sao? Đừng có nói với thằng em đây rằng ông anh chỉ trả bớt một phần thôi nhé!
Khoa cười cợt, có vẻ bán tín bán nghi.
Quý gầm lên:
- Mầy có đem giấy ra ngay không?
Khoa làm bộ sợ sệt:
- Dạ, dạ… em đi lấy ngay đây! Ông anh làm thằng em nầy hết cả hồn vía rồi đấy!
Khoa nhảy ba bậc thềm lên nhà, thoáng chốc đã quay trở ra cổng, trên tay là tấm giấy nợ có chữ ký của Quý.
Quý móc túi lấy xấp tiền quăng thẳng vào người Khoa, Khoa vội vàng đưa tay ra bắt lấy. Quý giật phắt tờ giấy trên tay Khoa và lập tức xé nát, tung lên cao cùng với một tràng cười đau đớn:
- Cảm ơn mầy đã bán cho tao một bài học!
Nói dứt câu, Quý quay lưng đi thẳng.
Khoa đứng nhìn theo hơi có vẻ thắc mắt, nhưng chỉ thoáng chốc Khoa chẳng còn bận tâm gì nữa ngoài xấp tiền dày cồm trên tay. Khoa đưa xấp tiền lên, chu môi hôn đánh chụt vào nó rồi cười vang đắc thắng.
Quý không muốn ăn uống gì, cứ đi thẳng một mạch về nhà. Về gần tới nhà, Quý ghé tiệm ăn mua cho Mi Lu một cái đùi gà thật lớn.
Thấy chủ về, Mi Lu mừng rỡ vẫy đuôi rối rít, nhảy chồm lên người Quý. Quý cầm lấy hai chân trước của Mi Lu, rồi làm điệu bộ như cả hai đang khiêu vũ, Mi Lu rất thích trò đùa này, nên lúc Quý buông nó ra, nó vẫn tiếp tục chồm lên đòi hỏi.
- Thôi nào! Thôi nào! Tới đây xem tao đem gì về cho mầy nè? Mầy là số một đấy nhé Mi Lu! Từ sáng giờ trong bụng tao chưa hề có chút gì trong đó, nhưng tao ưu tiên cho mầy trước đó…
Mi Lu ngước cặp mắt ướt rượt âu yếm nhìn chủ, dụi đầu vào lòng một chập rồi mới chịu ngoan ngoãn ngoạm lấy cái đùi gà bóng mỡ.

***
Trở lại ngôi nhà lạnh lẽo dưới quê, Quý không khỏi bùi ngùi xúc động. Hình ảnh ba mẹ vẫn còn gắn chặt với từng nơi từng chỗ ở nơi này. Dù đã cố dằn lòng, Quý vẫn không sao ngăn được những giọt nước mắt nóng hổi vỡ tràn trên mí mắt.
Thắp ba nén nhang, Quý đứng trước bàn thờ ba mẹ lâm râm khấn vái:
- Ba mẹ ơi! Xin ba mẹ hãy phù hộ cho con! Ba mẹ ra đi đột ngột, còn lại một mình con bơ vơ lạc lõng trên đời. Con thật không biết phải làm sao nữa… Cuộc đời không như con vẫn nghĩ… Ba mẹ chết đi chưa lâu mà con đã bị cuộc đời vùi dập tan nát rồi ba mẹ ơi…
Quý ôm di ảnh cha mẹ vào lòng nức nở khóc. Bao nhiêu tủi buồn uất ức mà Quý phải chịu đựng một mình trong suốt những ngày qua, giờ đây Quý đem ra giãi bày cùng cha mẹ, tưởng chừng như sau đó sẽ nhận được những lời chỉ dạy khôn ngoan của ba của mẹ như thuở nào.
Nhưng giờ đây, trước mặt Quý chỉ là hai bức di ảnh với cái nhìn da diết của ông bà Hai Phát…
Loanh quanh trong nhà một lúc, Quý khép cửa đi tìm chú Dự. Trên đường đi, Quý gặp mấy người quen trong xóm. Họ có ý níu Quý lại thăm hỏi và nói chuyện, nhưng Quý chỉ gật đầu chào hỏi và trả lời lấy lệ, chân vẫn không dừng bước, thành ra mọi người chỉ biết nhìn theo Quý với thật nhiều ái ngại.
- Đi đâu mà vội vã vậy con?
Nghe hỏi, Quý gật đầu chào và đáp:
- Dạ, con tới thăm chú Dự!
- Thằng đó đang bị quả báo…
Người phụ nữ còn định nói tiếp nhưng Quý đã rảo bước đi rồi. Quý cũng không quan tâm gì tới những lời nói mà mình vừa thoáng nghe được lúc nãy.
Quý tần ngần đứng trước một ngôi nhà đồ sộ, không dám cất tiếng gọi. Quý nhớ rõ ràng nơi đây là nhà chú Dự. Nhưng sao bây giờ đã hoàn toàn đổi khác? Chỉ mới đây thôi, cả gia đình chú Dự còn sống trong một ngôi nhà nhỏ, ẩm thấp. Tuy cũng được xây tường gạch, mái lợp thiếc nhưng nhà chú rất tềnh toàng. Vậy mà bây giờ, nơi đây lại mọc lên một ngôi nhà đồ sộ theo lối kiến trúc Pháp, thì thử hỏi làm sao Quý tránh khỏi sự ngỡ ngàng xa lạ.
Một con bẹc-giê to lớn lừng lững đi từ trong nhà ra, nhe hàm răng trắng nhỡn gầm gừ rồi sủa lên đông đổng.
Quý giật bắn người vội lùi lại mấy bước.
Một người đàn bàn bà trong nhà nghe tiếng chó sủa nên nghiêng đầu ngó ra, nhìn thấy Quý, bà ta vội vã chạy ra kéo con bẹc-giê lại, cất giọng đon đả:
- Cháu Quý! Cháu về lúc nào thế? Vô chơi đi cháu!
Một tay giữ chó, một tay tháo chốt cửa, người đàn bà cười tươi mở rộng cánh cổng đón Quý vào nhà:
- Vô nhà đi cháu! Không sao đâu, đã có thím giữ nó rồi… Nó coi vậy chứ cũng hiền lắm.
Thím Dự trấn an khi thấy Quý có vẻ dè chừng con bẹc-giê to lớn.
Quý rụt rè bước vô, mắt vẫn không rời con chó. Nó vẫn còn gầm ghè, nhưng cũng biết nghe lời chủ, không vùng lên nhào tới Quý.
- Cháu về khi nào vậy?
Thím Dự hỏi lần nữa.
Quý đáp:
- Dạ, cháu cũng mới về tới. Ghé qua nhà một lát rồi cháu tới đây ngay!
- Cháu tới thăm chú thím hay còn có việc gì khác?
Thím Dự nhìn Quý thăm dò.
Quý ấp úng:
- Dạ… cháu tới thăm chú thím… cũng có chút chuyện cháu muốn hỏi ý kiến chú!
Gương mặt thím Dự thoáng một tia sợ hãi:
- Chuỵên gì vậy cháu? Cháu có thể nói cho thím biết được không?
- Dạ, cũng không có gì! Chú có nhà không thím?
Quý đánh trống lãng.
Thím Dự băn khoăn:
- Chú đi công việc, chút nữa sẽ về tới. Cháu ngồi đây chơi, chờ chú một chút nhé!
- Dạ, không sao đâu thím! À, nhà này chú thím mới xây à? Suýt tí nữa cháu tưởng mình đến nhầm nhà đấy! Thấy chú thím làm ăn khấm khá như vầy, cháu cũng mừng lắm!
Thím Dự cụp mắt xuống, bối rối:
- Toàn là vay mượn không thôi đó cháu ơi!
Quý cười:
- Thím nói lạ quá! Cháu không nghĩ vậy đâu!
Thím Dự len lén nhìn Quý rồi vội ngó chỗ khác, cười buồn:
- Cũng vì cái nhà này mà gia đình chú thím xảy ra bao nhiêu là chuyện?
- Chú thím cãi nhau vì chú vay tiền làm nhà sao?
Thí, Dự lắc đầu:
- Phải chi chỉ đơn giản là vợ chồng cãi nhau thì đâu có gì phải nói. Đằng này… nhà vừa xây xong, đứa con gái tám tuổi của thím té ao chết đuối. Mấy tháng sau, thằng con nhỏ hai tuổi đang mạnh sân sẩn vậy mà chỉ sau một đêm nóng sốt thì trở nên người bại liệt, nằm một chỗ, không thuốc thang nào cứu chữa được…
Thím Dự nghẹn ngào lấy ống tay áo chùi nước mắt.
Quý bàng hoàng:
- Trời ơi! Cháu thành thật chia buồn cùng chú thím! Cháu… không biết gì về những việc đó…
Thím Dự gượng cười:
- Không có gì đâu cháu, cháu đừng ái ngại! Tất cả đều do… số mạng cả thôi cháu ạ!
Nghe tiếng chó hực lên ngoài cổng, thím Dự ngoảnh nhìn trông thấy chồng về, thím vội vã lau nước mắt rồi đứng lên nói với Quý:
- Chú con về rồi kìa! Con đừng nói gì với chú về những điều thím vừa kể, không khéo chú lại mắng thím lắm điều…
Quý cũng đứng lên đáp nhỏ:
- Dạ, thím yên tâm đi! Cháu sẽ không nói gì đâu!
Quý cất tiếng chào lớn:
- Dạ thưa chú!
Vừa đặt chân lên thềm nhà, nghe tiếng chào của Quý, ông Dự ngẩng lên, trông thấy cháu, ông không mừng vui mà trái lại tỏ ra lo sợ. Ông lắp bắp hỏi:
- Mầy… cháu… có việc gì mà cháu tới đây?
Quý ngạc nhiên:
- Cháu tới thăm chú thím… Không được sao chú?
Chừng như đã lấy lại bình tĩnh, chú Dự cười xòa:
- Trời! Lúc này chú già cả rồi nên sinh ra lẩm cẩm vậy đó con ơi! Con về khi nào?
- Dạ, con mới về! Chú thím lúc này làm ăn khấm khá quá nhỉ?
Chú Dự khẽ chau mày:
- Cái thằng này, có gì đâu!
Rồi lập tức chú Dự chuyển sang đề tài khác:
- Lúc nà con học hành thế nào rồi? Sắp ra trường chưa con?
Quý cúi mặt đáp khẽ:
- Dạ, con… con nghỉ học rồi chú ạ!
- Nghỉ học?
Chú Dự sửng sốt hỏi lại. Quý gật đầu xác nhận.
- Mầy nghỉ học rồi làm gì đây con?
- Dạ… chính vì vậy nên hôm nay cháu tới nhờ chú giúp cháu một việc?
Quý nhỏ nhẹ.
Chú Dự nhìn Quý thăm dò:
- Chú giúp cháu? Giúp gì? Chú thì… nói thật, tiền bạc thì chú không có! Cơ ngơi nhà chú coi vậy chứ toàn là tiền vay bạc hỏi không đó cháu!
Quý xua tay:
- Chú hiểu nhầm ý cháu rồi! Không phải cháu muốn nhờ vả chú về chuyện tiền bạc đâu!
Chú Dự thở phào:
- Vậy chú có thể giúp cháu việc gì?
Quý ngập ngừng giây lát rồi nói:
- Dạ… cháu đang cần một số để làm ăn. Cháu muốn nhờ chú tìm giúp người để cháu cầm cố mấy mẫu ruộng…
- Cầm ruộng à? Cầm hết?
Chú Dự hỏi lại.
- Dạ, cháu muốn cầm hết!
Quý quả quyết.
- Cháu nhờ chú giúp đỡ, vì ở đây cháu không biết ai có đủ khả năng để bỏ ra một số tiền lớn như vậy…
Chú Dự ngồi xuống ghế bóp trán suy nghĩ:
- Phải chi cháu chỉ cầm vài ba sào đất thì dễ, đằng này cháu cầm hết mấy mẫu đó, chú e rằng người dân ở đây không ai đủ tiền đâu. Mà cháu cần nhiều tiền như thế để làm gì vậy?
Quý có ý lảng tránh:
- Cháu hùn hạp buôn bán với bạn bè.
Chú Dự có vẻ nghĩ ngợi lung lắm.
Riêng thím Dự, Quý không hiểu tại sao thím cứ ngồi cạnh bên chú ra chừng vô cùng thắc thỏm.
- Cháu nên tính kỹ lưỡng trong chuyện làm ăn! Đời bây giờ nhiều gian trá lắm, mà cháu thì dễ tin người, thím sợ…
Thím Dự rụt rè xen vào, nhưng thím chưa kịp nói hết câu, chú Dự đã gạt ngang, trừng mắt lườm thím:
- Đàn bà biết gì mà nhiều chuyện! Bà im lặng cho tui nhờ! Thằng Quý lớn bộn rồi, bộ bà tưởng nó còn nhỏ lắm sao mà dạy đời như vậy?
Thím Dự rân rấn nước mắt.
Quý cười giả lả:
- Dạ, thím dạy con như vậy là phải lắm đó chú! Con còn phải học hỏi thêm nhiều điều lắm!
- Bà xuống bếp lo cơm nước mời cháu Quý ở lại dùng bữa chiều với nhà mình!
Chú Dự ra lệnh, cố ý muốn đuổi thím đi chỗ khác.
Thím Dự đứng lên, ném cho chú một cái nhìn ai oán, rồi nhìn sang Quý một hồi lâu mới đi xuống bếp.
Không hiểu sao từ lúc bước chân vô nhà này, Quý có cảm giác vợ chồng chú Dự có điều gì đó thật lạ lùng, nhất là ánh mắt của thím Dự mỗi khi nhìn Quý, cứ như là van xin, là chất chứa đầy tội lỗi đang chờ được tha thứ vậy!
Im lặng hồi lâu, chú Dự bỗng nói:
- Để chú tính như vầy, cháu xem có được không nhé! Với số tiền lớn như vậy, chú điểm qua các nhà khá giả trong vùng cũng không ai có khả năng đâu. Bởi thế chú tính, để giúp cháu, chú sẽ tìm gặp ông chủ của chú, nhờ ổng bỏ tiền ra cầm giúp cháu một thời gian…
Quý mừng rỡ:
- Dạ, nếu được vậy thì may mắn quá! Chú ráng giúp cháu nhé!
- Ừ, chú sẽ cố hết sức! Bây giờ cũng sắp tối rồi, có đi cũng không kịp. Vậy cháu ở lại ăn với chú thím một bữa cơm rồi về đằng nhà mà nghỉ ngơi. Sáng mai chú sẽ tới báo kết quả cho cháu biết.
- Dạ, cháu thật biết ơn chú!
Chiều đó Quý ở lại ăn cơm cùng vợ chồng chú Dự. Suốt bữa cơm, chú Dự khề khà hết chuyện này sang chuyện khác, nhưng chuyện mà chú nhắc tới nhiều nhất là ngày xưa ông Hai Phát đã tin tưởng chú ra sao, giao cho chú những trọng trách thế nào, và chú là người mang về cho ông Hai lợi nhuận đáng kể đến đâu…
Thím Dự lặng lẽ ngồi bên cạnh đút cơm cho thằng bé bại liệt, ánh mắt thím buồn da diết, nét mặt thím đầy vẻ cam chịu, nhẫn nhịn…
Khi trời đã tối mịt Quý mới rảo bước về nhà. Mở cánh cửa, Quý mò mẫm bật công tắc điện. Một luồng ánh sáng bật lên lạnh lẽo bao quanh.
Quý ra ngồi bó gối trước thềm nhà, mắt ngó mông ra ngoài đường mà lòng trống vắng.
- Ủa, con về hồi nào đó Quý?
Tiếng chú Hai nhà bên cạnh làm Quý giật mình ngó lên. Chú Hai đi vô ngồi cạnh bên Quý.
- Dạ, con mới về lúc xế chiều! Chú thím và mấy em ở nhà đều khỏe?
- Ừ, cảm ơn cháu! Gia đình chú mạnh giỏi hết. Lúc này cháu còn đi học hay ra trường đi làm rồi?
- Dạ… cháu buồn quá, không học hành gì nổi nữa chú ơi! Cháu bỏ học luôn rồi!
- Tội nghiệp dữ hôn! Rồi bây giờ cháu làm gì sinh sống ở trển? Sao không về đây hở cháu?
Quý cười buồn:
- Cháu chưa tính tới chuyện trở về đây chú ạ! Chắc chắn cháu sẽ trở về nhưng chưa phải là lúc này!
- Cháu nói cũng phải, cần phải có thời gian để mọi việc nguôi ngoai…
Chú Hai im lặng một chút rồi hỏi Quý:
- Mấy tháng nay, chú Dự của cháu có giúp đỡ gì cho cháu không?
Quý cười:
- Dạ, về vật chất thì không, vì chú ấy còn phải lo nuôi vợ nuôi con. Nhưng chú ấy đối với cháu rất tốt, cháu nhờ việc gì chú ấy cũng sẵn lòng giúp!
Chú Hai đắn đo:
- Có chuyện này không biết chú có nên nói cho cháu nghe không?
- Chuyện gì vậy chú?
Quý tò mò.
- Chú nói ra xin cháu đừng cho chú là người nhiều chuyện, ăn cơm nhà đi nói chuyện hàng xóm nghe! Cũng vì thương cháu nên chú mới nói…
Chú Hai rào đón.
Quý cười:
- Dạ, cháu đâu dám nghĩ vậy! Có gì chú cứ nói, đừng ngại!
- Vì ở xa nên cháu không biết, chứ suốt mấy tháng nay ở đây người ta đồn ầm lên, nói rằng chú Dự đã chiếm đoạt một số lớn tiền bạc của gia đình cháu. Ba cháu chết bất đắc kỳ tử, không kịp trối trăng gì, mà cháu thì thuở nay không hề biết gì tới chuyện làm ăn của ba cháu, chỉ có chú Dự là rành rẽ. Ba má cháu chết không bao lâu thì chú Dự xây cất nhà cao cửa rộng, nếu không phải chiếm đoạt của ba cháu thì tiền đó lấy ở đâu ra? Ngày còn sống, gia đình cháu giàu có đến như vậy, tại sao lúc ba cháu vừa nằm xuống thì cháu đã trắng tay? Chuyện thực hư thế nào chú không dám quả quyết, nhưng những lời đồn đại nghe ra rất hợp tình hợp lý. Chú muốn nói để cháu biết mà đề phòng. Người ta còn nói, do ăn đồng tiền bất nghĩa nên gia đình chú Dự cháu phải trả quả, con thì đứa chết trôi, đứa bại liệt nằm một chỗ…
Quý cười buồn:
- Chuyện làm ăn của ba cháu quả tình cháu không biết chút gì, nên chú Dự nói sao thì cháu nghe vậy. Cháu cám ơn chú đã nhắc nhở cháu, nhưng mọi việc đã qua rồi, cháu cũng không muốn nhắc lại thêm đau lòng. Cháu tin ông trời có mắt, ai ăn ở sao thì sẽ được nhận lấy hậu quả y như vậy thôi chú ạ!
- Cháu thiệt là có lòng bao dung nhân hậu giống y như mẹ cháu trước đây!
Hai chú cháu chuyển qua nói chuyện mùa màng thóc lúa mãi đến khuya lắc khuya lơ chú Hai mới đứng lên từ giã ra về.
Quý vô giường nằm, nỗi nhớ cha mẹ lại trào lên dữ dội. Giấc ngủ đến với Quý một cách nặng nề.
Giữa lúc tâm trí Quý đang mơ màng thì cô gái hôm nào lại xuất hiện. Lần này Quý nhìn rõ mặt hơn một chút. Cô gái có gương mặt bầu bĩnh trẻ thơ, mái tóc dài xoã xuống ngang lưng, và bên cạnh cô gái vẫn là Mi Lu giống như các lần trước.
- Ở lại nhà đi anh Quý! Anh đừng lên Sài Gòn nữa…
Cô gái đứng ngay bên cạnh nhưng lời nói lại nghe như từ một nơi nào đó rất xa xôi vọng tới.
Quý cố chồm dậy nhưng tay chân nặng trĩu không thể nào nhấc lên được, chỉ ú ớ mấy tiếng mà thôi. Mãi một lúc sau Quý mới mở mắt ra được, cũng vừa đúng lúc hình bóng mờ ảo của cô gái tan ra.
Quý giật mình nhớ tới Mi Lu. Tối nay mình không về, chắc là nó trông mình lắm. Cô gái kia có liên hệ gì với Mi Lu, sao lần nào mình mơ thấy cô gái đều có Mi Lu bên cạnh?
Bao nhiêu câu hỏi cứ xoáy trong đầu Quý mà không cách nào giải thích được.
Quý xem đồng hồ, thấy mới bốn giờ sáng nhưng Quý không thể dỗ giấc ngủ lại được, cứ nằm thao thức nghĩ suy.
Những cử chỉ lúng túng, kỳ lạ của vợ chồng chú Dự chiều này, những gì chú Hai nhà bên kể lại khiến Quý hoang mang.
Chẳng lẽ nào chú Dự lại đối xử với gia đình mình như vậy? Trước đây ba mình rất tốt với chú kia mà! Nhưng biết đâu được, tình đời đen bạc ra sao thì mình đã nếm qua rồi, còn có gì mà không thể xảy ra đâu? Có thể vì thấy chú Dự xây cất nhà cửa, người ta ganh ghét nên đặt điều nói xấu, nhưng cũng có thể tất cả lời đồn thổi là sự thật cũng nên! Mình cũng nên đề phòng chú ấy.
Nghĩ tới đó Quý chợt phì cười. Mình còn gì nữa mà đề với chả phòng? Có mất thì đã mất rồi… Thôi, không nhắc nữa, không nhớ nữa… Hãy để cho những chuyện đó lùi vào quá khứ đi! Nếu thật sự chú Dự có chiếm đoạt tài sản của ba mình thì giờ chú ấy cũng đã bị trả giá đắt rồi còn gì…
Quý cứ miên man suy nghĩ hết chuyện này tới chuyện khác mãi đến khi trời sáng rõ mới uể oải ra khỏi giường.
Giữ đúng lời hứa, chú Dự tới. Vừa thấy chú, Quý hỏi ngay:
- Sao chú? Ông chủ của chú có đồng ý không?
Chú Dự gãi đầu:
- Nghe chú năn nỉ thì ổng đồng ý, nhưng ngặt một nổi tiền mặt của ổng không còn đủ số mà cháu yêu cầu, nếu cháu chịu cầm với hai phần ba số tiền đó thì ổng lấy, còn không thì… chú đành chịu thôi, hết biết cách nào để giúp cháu…
- Chỉ hai phần ba thôi sao? Thế thì ít quá…
- Đành thôi cháu ơi!
Cân nhắc một hồi, Quý quyết định:
- Thôi kệ, cháu đồng ý! Chú đưa cháu đi gặp ổng để làm hợp đồng.
Chú Dự cười tươi:
- Khỏi, không cần đâu! Vừa nãy ổng đã lên xe đi công tác rồi! Ổng đã giao hết quyền đại diện cho chú rồi! Lâu nay ổng vẫn tin tưởng vào chú mà! Chú sẽ thay mặt ổng để làm hợp đồng với cháu!
- Ồ, thế thì tiện lợi quá còn gì!
Không lâu sau hai người đã hoàn tất bản giao kèo, chú Dự trao tiền cho Quý rồi vui vẻ bắt tay từ biệt. Quý cũng vội vã trở về Sài Gòn, không quên thắp nhang lên bàn thờ ba mẹ.
***
Tỉ đón Quý bằng một chầu thịnh soạn, nhưng Quý không còn thiết tha gì đến chuyện nhậu nhẹt, chơi bời nữa, lúc nào trong đầu Quý cũng nghĩ đến việc làm cách nào để số tiền này phải sinh sôi nảy nở…
Ngay sáng hôm sau, Tỉ đưa Quý đến sàn giao dịch để tìm hiểu. Cứ thế ròng rã suốt hơn một tuần, Quý đã nắm chắc được quy luật cuộc chơi, nhưng vẫn chưa dám phiêu lưu đổ dồn hết vốn liếng.
Quý chơi nhấp nhử và lần nào cũng thắng.
Một hôm, mới sáng sớm Tỉ hấp tấp tới tìm Quý:
- Hôm nay ngưng nghe mậy! Có tin nội bộ, thị trường chứng khoán sắp đóng băng, đừng có ngu mà bỏ tiền vô đó.
Quý tiếc rẻ:
- Tao mới thắng có mấy bận mà đã phải ngưng lại rồi sao, uổng quá!
Tỉ cười:
- Mầy đừng có lo! Nay mai thôi, chứ phải đâu nó như vậy mãi. Mà nè, mầy có muốn làm một vố khác không? Hổng chừng còn trúng đậm hơn gấp mấy lần chứng khoán nữa đó!
Quý ngạc nhiên:
- Làm gì? Mầy nói tao nghe thử?
Tỉ ghé vào tai Quý thầm thì:
- Mấy hôm nay tao không tới sàn giao dịch là vì tao có mối làm ăn lớn. Hiện giờ tao đã gom được một số lượng rất lớn kỳ nam ở miền Trung, mà vốn của tao lại không đủ, đang chạy đi kiếm người hùn đây. Nếu mầy có hứng thú thì tham gia.
Quý do dự:
- Mà có chắc ăn không đó?
Tỉ cười lớn:
- Trời! Bộ mầy quên tao là ai hả? Có khi nào tao bày vẽ chuyện gì bất lợi cho mầy chưa? Đừng nói lần này tao đã đổ vô đó toàn bộ tài sản của tao, nếu không nắm phần thắng, đời nào tao dám liều mạng như vậy! Mà thôi, nếu mầy còn nhát thì để lần sau cũng được. Tao đi nghe, lúc nãy có mấy đứa gọi điện hỏi chuyện đó, giờ tao đi gặp tụi nó để bàn bạc. Vố này một vốn bốn năm lời, dại gì mà bỏ qua!
Vừa nói, Tỉ vừa rồ ga chuẩn bị cho xe vọt đi, Quý vội ngăn lại:
- Khoan, khoan! Chờ tao một chút, mầy làm gì gấp gáp vậy? Theo mầy, tao nên hùn bao nhiêu?
Tỉ nhếch môi:
- Không chơi thì thôi, đã chơi thì chơi cho đáng! Chứ không thì tới lúc chia lời lãi, mầy lại tủi thân khi cầm chút tiền còm. Mà nhiều khi ít quá cũng khó mầy ạ!
- Ý mầy nói tao nên dồn hết vô vố này?
Quý hơi ngần ngại.
Tỉ cười hềnh hệch:
- Mầy có dồn hết cũng chỉ là phần lẻ của mấy đứa kia thôi! Hay mầy để lần sau hãy tham gia nhé?
Máu tham trong người Quý nổi lên:
- Thôi được, tao chơi hết bóp!
- Bao nhiêu?
- Thì toàn bộ số tiền tao có hiện giờ!
Tỉ chép miệng:
- Chỉ vậy thì bõ bèn gì! Theo tao, ngay bây giờ mầy đem giấy tờ đi thế chấp căn nhà này đi, lời lãi bao nhiêu không quan trọng. Chỉ ba ngày nữa khi chuyến hàng đó về tới Sài Gòn, mầy đã trở thành tỉ phú rồi, chuộc lại chẳng mấy hồi…
Thấy Quý còn do dự, Tỉ dùng hết lời lẽ khôn ngoan để vừa thuyết phục, vừa làm như không cần thiết có sự tham gia của Quý, vừa kích thích máu ham làm giàu của Quý.
Cuối cùng Quý đã ngoan ngoãn nghe theo, lấy giấy tờ nhà theo Tỉ đi thế chấp cho một tay anh chị giang hồ khét tiếng.
Trao toàn bộ vốn liếng của mình cho Tỉ, Quý suốt ngày nằm nhà đùa giỡn với chú chó Mi Lu và chờ đợi giờ phút đổi đời đang nhích đến rất gần.
Ba ngày, bốn ngày rồi một tuần lễ trôi qua Tỉ vẫn bặt vô âm tín. Quý nóng ruột như hơ, liên tục gọi điện cho Tỉ, nhưng điện thoại của Tỉ luôn nằm ngoài vùng phủ sóng.
Lo âu, hoảng sợ, Quý tới sạp báo lục tung các tờ báo của mấy ngày vừa qua tìm xem có tin tức gì về chuyến hàng kỳ nam nào bị công an phát hiện không nhưng chẳng thấy gì. Linh tính báo điều không may đang ụp đến nhưng Quý vẫn chưa muốn tin. Ngày nào Quý cũng lội bộ hàng chục cây số tới đứng trước cánh cửa có một ổ khóa to đùng nhà Tỉ, đứng từ trưa tới lúc chiều tà mới thất thểu quay về…
Hai tuần lễ trôi qua chậm chạp. Hai tuần Quý không buồn cạo râu, không buồn tắm rửa. Ăn uống cầm hơi, nhưng riêng với Mi Lu Quý vẫn lo chu đáo. Mấy ngày trước Quý lo chuyến hàng bị bắt, hoặc xe gặp tai nạn dọc đường, nhưng giờ thì Quý biết chắc mình đã bị Tỉ lường gạt để chiếm đoạt toàn bộ số tiền.
Quý giận mình quá ngu muội, quá tin người! Giao cho Tỉ số tiền lớn vậy mà không đòi một chữ làm bằng chứng, thì cho dù bây giờ có gặp lại Tỉ ngay giữa Sài Gòn này cũng làm gì được nó? Ăn năn, hối hận thì đã quá muộn màng…
Rồi cũng tới ngày Quý bị người ta trục xuất ra khỏi nhà vì không có tiền trả nợ. Vai mang túi hành lý nhẹ hẫng, Quý rời nhà như một kẻ không hồn, Mi Lu lủi thủi bám theo chủ.
Quý đi lang thang khắp các nẻo đường, đi đến lúc hai chân mỏi rã rời mới chịu dừng lại ở một công viên vắng ngắt.
Về đâu? Đi đâu? Quý hoàn không biết! Về quê ư? Không, không thể trở lại quê nhà trong tình trạng thảm hại này, dù có chết gục ở đầu đường xó chợ mình cũng không thể về quê…
Cái thành phố bao la rộng lớn này cũng không còn nơi nào cho Quý nương thân. Quý mệt mỏi nằm dài trên ghế đá, Mi Lu buồn bã ghếch mõm lên tay chủ, mắt long lanh như sắp khóc…
Quý nằm im lặng, mắt ngó chăm chú lên vòm cây trên đầu, tâm hồn trống rỗng. Những tàn cây xao động nhẹ rồi buông rơi từng chiếc lá xuống mặt đất. Chốc chốc một cơn gió mạnh ùa đến làm cây lá lao xao rung động, Rồi bất chợt trời kéo mây đen kịt, gió thốc từng cơn, đám lá trên lối đi bị gió cuốn tung lên mù mịt.
Rồi mưa bắt đầu lộp bộp rắc xuống khắp đất trời. Người và xe ngoài đường càng trở nên vội vã, cuống quýt. Ai cũng muốn mau mau về với tổ ấm của mình.
Quý ngồi lên, ngơ ngác nhìn ra bốn phía.
Mi Lu dụi mõm vào chân chủ rên lên từng chập.
Quý như sực tỉnh, vội vàng ôm Mi Lu vào lòng, khom người che mưa cho nó.
Cả người Quý đã ướt sũng, nước mưa thấm vào da thịt, cộng với từng gió thổi qua khiến Quý lạnh buốt, hai hàm răng va vào nhau, tay chân run rẩy nhưng Quý vẫn cố hết sức che chắn cho Mi Lu. Chú chó nằm gọn trong lòng Quý không ngừng rên rỉ như than khóc.
Nước trên tóc, trên mặt Quý chảy xuống thành dòng, không biết lẫn trong đó có giọt nào là nước mắt của Quý đang rơi mặn đắng…
Mưa Sài Gòn đến bất chợt và cũng bất chợt bỏ đi. Vừa mới mưa như trút nước giờ thì bầu trời đã trở nên quang đãng, ở phía chân trời còn le lói một quầng sáng cuối ngày.
Quý thả Mi Lu xuống đất. Con chó lắc mình rũ những giọt nước bám trên bộ lông trắng xác xơ của nó. Còn Quý, cả người ướt đẫm. Quý vuốt nước trên mặt, giở túi quần áo ra định lấy một cái khác mặc vào thì hỡi ôi, túi quần áo cũng đã ướt sũng từ lúc nào.
Chán nản, Quý cởi cái áo đang mặc ra vắt cho ráo bớt nước rồi mặc trở lại.
Bỗng nhiên Quý cảm thấy đói cồn cào. Đã hai ngày nay, Quý chưa ăn gì, chỉ uống nước.
Thò tay vào lục hết các túi quần, Quý tìm được vài ngàn đồng, không đủ tiền ăn một dĩa cơm bình dân ven đường.
Nhìn Mi Lu đang nằm mẹp dưới chân Quý thấy tim mình thắt nghẹn lại vì thương nó.
Mới ngày nào Mi Lu còn là một chú chó mạnh mẽ với bộ lông trắng mướt rượt, bốn chiếc chân thon săn chắc, ánh mắt lấp lánh nghịch ngợm và cái mũi màu đen không ngừng nghếch lên nhìn Quý.
Vậy mà giờ đây nó đã trở nên chậm chạp, u sầu, bộ lông đã ngả màu bụi đất và mỗi ngày một xác xơ hơn.
- Mi Lu, ráng chịu đựng nghe! Tao sẽ đi mua chút gì về cho mầy ăn! Mầy phải kiên cường lên đó! Giờ đây bên cạnh tao chỉ còn mỗi một mình mầy thôi…
Thấy chủ khoác túi lên vai, Mi Lu nhổm dậy đi theo.
Quý ra đầu đường mua hai ổ bánh mì không rồi dắt Mi Lu trở vào công viên, xé ra từng miếng nhỏ đút cho nó ăn. Nó ăn hết một ổ nhưng có lẽ vẫn chưa no. Quý lấy tiếp ổ bánh thứ hai xé đưa cho thì nó nhất quyết không ăn, mà kêu lên ẳng ẳng.
Quý ứa nước mắt:
- Mầy nhường cho tao phải không?
Quý ngồi cạnh Mi Lu, trệu trạo ăn cho hết ổ bánh rồi cứ ngồi mãi như thế cho tới lúc trời tối hẳn.
Đêm đó Quý nằm co ro trên ghế đá, dùng cái túi ướt nước gối đầu, Mi Lu cũng trèo lên rúc vào lòng chủ. Nó có ý muốn dùng bộ lông của mình đem lại một chút hơi ấm cho Quý.
Quý ôm Mi Lu nằm trên chiếc ghế nhỏ bé trong góc công viên, người run cầm cập.
Khi ánh nắng gay gắt chiếu thẳng vào mắt Quý vẫn không ngồi dậy nổi. Đầu Quý nặng trịch như đang có một tảng đá lớn cột vào, hơi thở nóng hừng hực nhưng người lại lạnh không chịu nổi.
Mình cùng đường rồi, mình sắp chết rồi sao? Nước mắt ứa ra khi Quý nghĩ tới điều đó.
Bụng Quý đau quặn từng cơn, một thứ nước chua loét cứ trào lên từ bao tử. Quý chợt thấy thèm biết bao một tô cháo nóng.
Ngày nhỏ, mỗi lần đau ốm, mẹ vẫn thường nấu cháo cho Quý ăn. Khi thì cháo cá, lúc lại cháo thịt bằm. Mẹ cho nhiều tiêu vào, rắc thêm chút hành ngò thơm lựng, ăn vào tới đâu mồ hôi đổ ra tới đó… ƯơÙc gì giờ phút này mình được ăn một muỗng cháo đó, một muỗng thôi…
Quý lại lịm đi trong mùi cháo hành bát ngát…
Không biết Quý đã lịm đi như thế đến bao lâu. Mãi đến lúc có cản giác một vật gì nóng ấm, ram ráp đang mơn man trên má mình Quý mới cố nhướng mắt lên.
Mi Lu chồm hai chân lên ghế đá, thè lưỡi liếm khắp khuôn mặt Quý.
Bên cạnh Quý là mấy củ khoai lang nhem nhuốc.
Quý gượng với lấy một củ khoai, không đủ sức lột vỏ, bẻ ra đút cho Mi Lu một nửa, còn một nửa Quý bỏ vô miệng nhai ngốn ngấu.
Khi người và chó ăn hết mấy củ khoai, Quý cảm thấy khát nước vô cùng nhưng không thể nào đủ sức đứng lên đi qua bên kia đường xin nước uống. Quý nghiêng người, thò tay xuống vũng nước phía dưới, lấy chiếc lá cây múc lên một chút nước cho vào miệng rồi lại lã người nằm thiêm thiếp.
Quý nằm như vậy suốt hai ngày hai đêm thì cơn bệnh bị đẩy lùi. Quý đã ngồi dậy được.
Nhìn thấy Mi Lu, Quý thật không thể tin vào mắt mình được. Khắp người nó đầy thương tích, một chân sau đi tập tễnh…
Quý ôm Mi Lu vào lòng, khóc len nức nở.
Giờ thì Quý hiểu suốt mấy ngày qua, để có thức ăn cho chủ, Mi Lu đã phải xông pha vào đời để ăn cắp từng củ khoai, từng miếng bánh tha về đây, những thứ mà giữa lúc chập chờn trong cơn sốt Quý ăn nhưng không hề thắc mắc từ đâu mình có.
Tưởng tượng ra cảnh Mi Lu bị người ta rượt đuổi, vây đánh Quý không thể nào cầm được nước mắt…
Quý gượng dậy, lang thang vô chợ hỏi xin phụ rửa dọn chén bát cho mấy hàng ăn uống. Nhìn bộ dạng nhếch nhác của Quý, nhiều người lắc đầu quầy quậy. Nhưng rồi cuối cùng Quý cũng được nhận vào giúp cho một hàng phở nhỏ.
Thấy Quý cần mẫn làm việc lại không hỏi han gì tới tiền công, ông chủ quán có vẻ hài lòng lắm.
Từ hôm đó cuộc sống của Quý và Mi Lu có phần đỡ vất vả hơn. Tối ngủ ngay tại hàng phở, ban ngày thì Mi Lu được chủ dành cho những tô phở ngon lành, vì khi dọn bàn lúc nào Quý cũng sớt lại những sợi phở, những miếng thịt bò vụn khách ăn còn lại, tất cả những cái đó trở thành bữa ăn thịnh soạn cho Mi Lu.
Dù đã không phải ôm bụng đói nằm ngoài mưa gió, nhưng đêm đêm Quý vẫn trằn trọc không yên.
Quý tủi hổ khi nghĩ tới cha mẹ. Nếu linh hồn cha mẹ còn phảng phất đâu đây, chắc hẳn sẽ đau lòng vô hạn khi thấy đứa con trai vàng ngọc của mình bây giờ phải sống đầu đường xó chợ.
Quý tự trách mình ngu dại, rồi Quý lại trách ông trời không biết thương người tốt.
Từ ngày Quý ngủ ở chợ, cô gái trong giấc mơ lại đến thường xuyên hơn nữa. Cô đứng bên cạnh Quý, chăm chú nhìn rồi khẽ gật đầu nói nhỏ:
- Em sẽ giúp anh!
Một đêm, Quý đang ngủ say bỗng nghe tiếng Mi Lu ăng ẳng bên cạnh. Quý lười biếng không thèm mở mắt, chỉ quơ tay ra như muốn ôm nó vào lòng. Thường khi Mi Lu sẽ sà ngay vào vòng tay của Quý, nhưng hôm đó nó không làm thế. Gọi mãi quý không dậy, Mi Lu cắn tay áo Quý giật mạnh. Quỷ mở mắt ra trách:
- Mầy muốn gì đây? Sao không để tao ngủ hả? Tao buồn ngủ lắm, mầy không biết sao mà quậy tao như vậy?
Thấy Quý thức dậy Mi Lu mừng cuống quýt, nó làm ra vẻ lăng xăng khó hiểu khiến Quý ngạc nhiên ngồi dậy hỏi:
- Có chuyện gì vậy Mi Lu?
Mi Lu ngước nhìn Quý rồi chui vô gầm bàn lôi ra một túi ni lông, bên trong là một gói giấy báo vuông vức.
Quý ngồi xổm xuống, tò mò mở gói giấy ra. Khi lớp giấy cuối cùng được giở hết, Quý sửng sốt nhìn thấy những miếng vàng lá xếp chồng lên nhau ngay ngắn.
Quý run bần bật như đang lên cơn sốt rét, nhìn quanh quất bốn phía rồi vội vàng vơ mớ giấy báo gói lại, đem giấu kín vào túi quần áo.
Từ đó tới sáng Quý không tài nào chợp mắt được.
Nằm gối đầu lên chiếc túi mà chốc chốc Quý lại sờ nắn xem nó còn ở đó hay không.
Sáng ra, Quý như người mất hồn, vừa bưng bê chén bát, vừa liếc mắt ngó chừng túi hành lý để sát trong góc quầy, vừa lắng tai nghe ngóng bên ngoài, xem có ai nói chuyện mất mát gì không.
Riêng Mi Lu, từ sang sớm, lúc quý dậy nhóm bếp nấu nồi nước lèo là nó chạy tới nằm sát bên cái túi, mắt mở thao láo, lưỡi thè ra như thách thức kẻ nào cả gan dám đụng chạm vào đồ đạc của chủ nó. Và dường như nó cũng muốn nói với Quý rằng hãy yên tâm, sẽ không ai xâm phạm được!
Một ngày rồi hai, ba ngày trôi qua, Quý cố tâm đi nghe ngóng khắp xung quanh vẫn chẳng nghe ai nói về vụ mất mát nào. Quý thầm nghĩ: “Hay đúng là cô gái trong giấc mơ đã giúp mình?” Nhưng Quý vốn không tin lắm vào những chuyện hoang đường ma quỷ, thành ra Quý cũng nhanh chóng quên đi ý nghĩ ấy.
Chiều xuống, khi khu chợ nhỏ đã vắng hẳn người, các hàng quán đều đã dọn về hết, quý giấu gói vàng vào bụng rồi thong thả dẫn Mi Lu đi dài theo các đường phố, các công viên để dạo chơi.
Từ những buổi đi dạo đó, Quý phát hiện ra xung quanh mình có rất nhiều nghề dễ kiếm tiền.
Có lần đang lang thang trên đường, một người phụ nữ gọi Quý lại hỏi:
- Cậu em là người ở đâu mà tối nào cũng thấy đi lòng vòng khu vực này vậy?
Quý cười:
- Tôi không có nhà cửa gì hết chị ơi! Tôi phụ bán phở với người ta trong chợ kia, tối buồn nên đi dạo vậy mà!
- Cậu làm vậy lương có khá không?
- Lương bỗng gì đâu chị, tôi chỉ làm để kiếm qua ngày và có chỗ trú thân thôi!
Nghe Quý nói vậy, người phụ nữ bất bình:
- Trời đất! Ai đời lại đi làm mọi không công như thế! Còn biết bao nhiêu việc hái ra tiền sao cậu không làm mà đi làm chuyện đó?
Quý cười:
- Chuyện gì hái ra tiền, chị chỉ tôi đi, tôi làm liền! Nhưng tôi nó trước, một đồng bạc vốn tôi cũng không có à nghe!
Người phụ nữ cười toe toét:
- Ai mà cần vốn liếng gì ở cậu! Nè, bây giờ cậu làm giúp tôi chuyện này, tôi cho cậu hai trăm ngàn ngay lập tức!
- Chuyện gì?
Quý ngạc nhiên khi nghe số tiền công nhiều như vậy.
- Không có gì là khó khăn hay nặng nhọc hết. Cậu chỉ cần cầm giúp chị cái gói này rồi thong thả dẫn chó đi tới cuối đường đưa cho người đàn ông đeo kính đen ngồi gác chân trên xe máy. Thế là xong!
Vừa nói, người phụ nữ vừa len lén lấy ra một gói nhỏ dúi vào tay Quý. Quý rụt tay lại hỏi:
- Cái gì ở trỏng?
- Có gì đâu! Chỉ là… thư tình thôi mà!
Người phụ nữ cười xởi lởi.
Quý cầm lấy cái gói:
- Tôi nghi ngờ loại thư tình này lắm nhe! Nhưng thôi, đưa đây!
Quý bỏ cái gói cùng hai trăm ngàn của người phụ nữ đưa cho vào túi áo rồi bình thản cùng Mi Lu quay lại như người đi hóng mát.
Quý thừa biết trong cái gói nhỏ ấy là gì, và lúc này thật sự Quý cũng không cần thiết gì hai trăm ngàn đồng tiền công đó. Sở dĩ Quý chấp nhận một cách dễ nhàng, nhanh chóng vậy là vì trong đầu Quý vừa lóe lên một ý nghĩ.
Từ hồi còn lui tới các quán bar, vũ trường, Quý vẫn thường nghe nói tới ma túy, thuốc lắc và vô số các chất kích thích khác. Tuy chưa lần nào Quý tham gia dùng thử nhưng Quý không xa lạ gì nó.
Quý đã từng biết có những người trở nên giàu có nhờ buôn bán ma túy. Chính lúc này đây Quý muốn được như vậy!
Hiện tại Quý đang có một số vàng không phải là nhỏ, nhưng những ngày đói khổ vừa qua làm bùng phát trong Quý một sự khao khát khủng khiếp, khoa khát được trở nên giàu có, khao khát có thật nhiều tiền, thật nhiều vàng…
Lần này Quý nhất định phải dùng số vàng đó để đổi đời. Quý sẽ không tin tưởng ai nữa, sẽ không hùn hạp với ai nữa mà tự Quý sẽ làm một mình khi nào rành rẽ các mánh khoé.
Đi tới cuối đường, Quý nhận ra ngay người đàn ông đeo cặp kính đen to đùng đang ngồi gác chân lên xe máy. Quý giả bộ lại gần rồi ngồi xuống làm như đang vuốt ve con chó, nhưng tay Quý lại nhét cái gói giấy vào bàn tay đang đặt hững hờ bên hông của người lạ, nói nhỏ:
- Chị kia nhờ tôi trao cho anh cái này!
Người đàn ông nói mà không hề ngó Quý:
- Cám ơn nghe!
Quý đứng lên cùng với Mi Lu đi dạo mấy vòng nữa rồi mới quay về ngủ.
Cứ thế nhiều ngày nối tiếp Quý thâm nhập vào cái thế giới tối tăm đó, đến lúc đã hiểu được nguyên tắc làm ăn, Quý bắt đầu “ra quân”.
Ban ngày Quý vẫn phụ bán cho hàng phở không có gì thay đổi, chỉ đêm xuống Quý mới bắt đầu tham gia vào những cuộc bán mua mờ ám.
Gói vàng trong túi Quý ngày một nặng thêm, lòng tham của Quý ngày càng mãnh liệt.
Ban đầu Quý định bụng chỉ mua bán chừng vài chuyến rồi về quê chuộc lại ruộng đất cưới vợ làm ăn, vì đã chán ngán cảnh phồn hoa đô thị nầy rồi.
Nhưng những chuyến hàng cứ diễn ra trót lọt, tiền vàng cứ chảy vào túi thì làm sao Quý có thể dừng lại được. Quý như đang say mùi vàng, cứ lao vào, lao như một con thiêu thân…
Từ ngày Quý nhúng tay vào công việc đó, Mi Lu thường xuyên bỏ ăn, nó luôn nhìn Quý với vẻ van nài ai oán. Nhưng không tối nào nó không lếch thếch theo Quý ra đường.
Đêm đêm, cô gái lại hiện về trong giấc mơ của Quý, nước mắt ngắn dài và lần nào cũng gọi những lời thống thiết:
- Anh Quý ơi… Về quê đi anh Quý!...
Có khi Quý giật mình thức giấc mà trong tai vẫn còn nghe văng vẳng những âm thanh thê thiết đó.
Quý bắt đầu lo sợ khi mỗi đêm đều bắt gặp những hình ảnh đó, nghe những âm thanh đó.
Có khi giữa ban ngày, những lúc hàng vắng khách, Quý mơ hồ thấy bóng cô gái từ ngoài bước vào, gọi khẽ:
- Anh Quý… về quê đi anh Quý ơi….
Quý choáng váng, đưa tay dụi mắt, rõ ràng cô gái đứng ngay trước mặt. Người con gái này Quý chưa từng gặp qua trong đời sống thực lần nào. Vậy mà suốt bao nhiêu năm nay tại sao cô ấy lại cứ quanh quẩn bên cạnh Quý?
Quý lấy hết can đảm bước tới hỏi:
- Xin cô làm ơn cho tôi biết, cô là ai?
Vừa nó xong câu đó, Quý nghe tiếng ông chủ hàng phở kêu lên:
- Quý! Mầy nói chuyện với ai vậy? Bộ mầy bị mộng du hay sao vậy? Nhìn mầy kìa, y như đứa mất hồn.
Quý đưa tay ra định chỉ cô gái cho ông chủ quán, nhưng thật kỳ lạ, cô gái đã không còn đứng đó nữa!
Quý đành phải ú ớ giả lả cho qua chuyện.
Mấy hôm nay Mi Lu cũng ít khi cất tiếng sủa, nó chỉ tru lên đầy ai oán, như đang khóc than, đang trách hờn Quý vậy.
Quý mua về cho Mi Lu một cái đùi gà thật to, tỉ mỉ xé ra từng miếng cho nó ăn xong rồi Quý mới ăn phần của mình.
Khi cả hai đã no nê, Quý kéo nó lại gần vuốt ve:
- Hôm nay mầy chịu khó giúp tao một chút nhé! Ngoan đi rồi tao thương, tao lại mua đùi gà về cho mầy…
Thường thì những lúc Quý vuốt ve nói nựng như thế Mi Lu rất thích, nó sẽ ư ử đáp lại, sẽ chúi mõm vào người chủ, sẽ thè lưỡi liếm vào tay chủ để chứng tỏ nó cũng thương yêu chủ lắm đây. Thế nhưng hôm nay nó không có bất kỳ một động tác nào đáp lại, nó ủ rủ nhìn Quý rồi cụp đuôi lủi vào một góc.
Quý cười:
- Mầy lại giận tao rồi phải không?
Vừa nói, Quý vừa tiến tới gần bên Mi Lu tròng vào cổ nó một sợi dây nịt nhỏ, phía dưới có cột theo một gói ni lông.
Vỗ vỗ vào lưng Mi Lu, Quý năn nỉ:
- Đừng giận tao! Ráng giúp tao! Hôm nay không có mầy là không được đâu! Ngoan nào, đứng lên đi với tao một chút thôi! Tao năn nỉ mầy đó, mầy không thương tao sao?
Chừng như xiêu lòng trước những lời dỗ dành của quý, Mi Lu chậm chạm đứng lên rồi đi thẳng ra đường không chờ Quý.
Quý nhìn theo mỉm cười rồi lặng lẽ đi sau một quãng khá xa.
Mi Lu đlon ton chạy trên đường, tới địa điểm giao hàng đã được hẹn trước, một người đàn ông trung niên vừa cúi xuống gỡ lấy cái túi ni lông nơi cổ Mi Lu thì bất thần công an ập đến.
Ngay lập tức, người đàn ông bị bắt giữ. Mi Lu phóng vụt đi, phía sau mấy người nữa ra sức đuổi theo.
- Bắt lấy nó! Con chó đó vận chuyển ma tuý! Bắt lấy nó!
Quý kinh hãi, sững sờ dừng bước. Tưởng đâu Mi Lu sẽ phóng về bên cạnh chủ để được che chở, nhưng không, nó làm như nó với Quý không hề quen biết, cứ phóng vụt qua đường.
Tiếng thắng xe phanh vội rít lên, một tiếng kêu quen thuộc nhưng yếu ớt của Mi Lu xoáy sâu vào đầu Quý.
Tay chân Quý rụng rời, bủn rủn.
Ở giữa đường Mi Lu đang nằm trên vũng máu, bốn chân đưa lên trời co giật liên tiếp mấy cái rồi rơi xuống lặng im.
Quý muốn nhào ra đường ôm lấy xác Mi Lu nhưng công an đang vây quanh đó, họ đang cần tìm ra chủ của con chó, thì làm sao Quý dám bước ra nhận xác Mi Lu?
Những người hiếu kỳ xúm quanh đó nhưng Quý cũng không dám lại gần, Quý ngồi xuống lề đường mồ hôi tuôn ra ướt đẫm lưng áo.
Không lâu sau đám đông giải tán, người ta mang xác Mi Lu đi, Quý vẫn ngồi chôn chân tại chỗ.
Quý nhớ ánh mắt buồn thảm trách hờn của Mi Lu lúc nãy, một nỗi đau quặn thắt bóp chặt trái tim Quý, nỗi ân hận dày vò khiến Quý muốn vùng chạy ra đường lao vào xe để được chết cùng với Mi Lu.
Mi Lu là người bạn thân duy nhất, luôn kề cận bên mình lúc giàu sang cũng như khi khốn cùng. Chính nó đã không màng nguy hiểm đi tìm thức ăn về nuôi sống mình những ngày mình ốm đau khốn khổ. Rồi cũng chính nó đã đem tới cho mình một số vàng không nhỏ, đủ để mình tạo dựng một cuộc sống đành hoàng, lương thiện.
Vậy mà… chỉ vì lòng tham không đáy, mình đã đẩy người bạn trung thành của mình vào chỗ chết! Mình đã lợi dụng sự trung thành tuyệt đối của Mi Lu, mình không xứng đáng làm người! Mình thua cả một con chó! Ngay đến lúc hiểm nguy nhất nó cũng luôn bảo vệ mình, nó không nhận mình là chủ vì không muốn mình bị bắt!
Trời ơi! Mình phải làm sao đây? Mi Lu đã chết rồi! Chết thật đau đớn… Vậy mà mình cũng không được làm cho nó một nấm mồ!
Mi Lu ơi… Hãy tha thứ cho tao! Hãy tha thứ cho tao! Giờ đây tao không cần gì nữa cả! Vàng bạc, giàu sang… tất cả tao đều không cần nữa, tao chỉ cần mầy sống lại với tao thôi!
Tao sẽ dẫn mầy về quê! Mình sẽ rời xa vĩnh viễn cái nơi nhiều cạm bẫy, nhiều đau thương mất mát này… Mi Lu ơi… về với tao đi, tao van mầy, mầy hãy về với tao đi…
Quý gục mặt xuống đầu gối khóc nức nở.
Đường phố tấp nập người xe, đêm thành phố sáng rực ánh đèn, quý càng cảm nhận được nỗi cô độc của bản thân mình hịên tại.
Chưa khi nào Quý thấy mình bơ vơ lạc lõng như lúc này. Khi cha mẹ qua đời, khi bạn bè phụ rẫy, khi phải xách gói lang thang ra đường Quý cũng không cô độc vì bên cạnh còn có Mi Lu.
Bây giờ thì Mi Lu đã bỏ mình đi rồi! Mà không, không phải Mi Lu bỏ mình, chính mình… chính mình đã đẩy Mi Lu vào chỗ chết…
Quý chạy vào công viên khóc rống lên, rồi như điên loạn Quý cứ chạy, chạy mãi không thôi, đến khi mệt lả Quý gục xuống bên lề đường bất tỉnh.
Quý mở choàng mắt ra, trước mắt là một khung cảnh hòan toàn xa lạ. Tường vôi trắng toát, mùi ê te xộc vào mũi đến khó chịu, nhìn quanh thấy người nằm rải rác trên những chiếc giường bên cạnh. Sau phút định thần, Quý biết nơi này là bệnh viện.
Có lẽ một ai đó bắt gặp Quý ngất xỉu bên đường đã động lòng trắc ẩn mà đưa giúp tới đây.
Đặt tay lên bụng, Quý không thấy gói vàng ở đó nữa nhưng thật kỳ lạ, Quý không hề cảm thấy hoảng hốt hay tiếc nuối chút nào! Tất cả đối với Quý đã trở thành vô nghĩa.
Hình ảnh Mi Lu nằm trên vũng máu, bốn chân đưa lên cào vào không khí cứ hiện ra trước mắt Quý rõ mồn một.
Quý lặng lẽ đứng lên, lặng lẽ rời bệnh viện.
Không một đồng xu dính túi, Quý thất thểu đi một mình trong đêm, tìm lại con đường lúc tối.
Đường phố vắng người, Quý đi liêu xiêu, vờ vật như một bóng ma.
Từ xa, Quý đã nhận ra vết máu của Mi Lu.
Thật chậm chạm, Quý tiến tới và quỳ xuống đưa bàn tay run rẩy chạm vào vết máu trên đường, nước mắt chan hòa trên gương mặt.
- Anh Quý ơi! Về quê đi anh Quý…
Tiếng gọi xa  xăm quen thuộc ấy bỗng lại vẳng bên tai Quý, kế tiếp là tiếng sủa gâu gâu mà không thể nào Quý lầm lẫn được!
Quý đứng vụt lên gọi to:
- Mi Lu! Mi Lu ơi! Có phải mầy không? Ra đây với tao đi… Đừng trốn tao nữa Mi Lu ơi…
Quý vừa gọi vừa khóc nghẹn ngào.
Thấp thoáng trước mắt Quý là hình bóng cô gái cùng với Mi Lu!
Mi Lu nhìn Quý âu yếm, vẫy đuôi rối rít …
Quý nhào tới, nhưng những hình bóng đó như làn khói mỏng đã nhanh chóng tan ra…
Suốt đêm, Quý quanh quẩn khu vực đó, miệng lảm nhảm như người điên.
Sáng ra, Quý quay về hàng phở hỏi xin ông chủ một số tiền nhỏ để về quê.
Nhìn vẻ mặt bơ phờ không thần sắc của Quý, ông chủ vô cùng ái ngại  muốn cầm giữ Quý ở lại cho thật tỉnh táo, nhưng Quý đã quyết tâm nên ông phải chìu theo.
Ông cũng rất tiếc khi phải mất một người phụ việc chăm chỉ như Quý.

***
Quý về tới nhà lúc trời đã chập choạng tối.
Không buồn mở đèn, cũng không thèm ăn uống hay tắm rửa, Quý thắp nhang lên bàn thờ ba mẹ rồi cứ để nguyên thân người bẩn thỉu như thế mà ngã vật ra giường.
Quý ngủ rồi thức, thức rồi ngủ không biết bao nhiêu lần nhưng Quý vẫn không chịu dạy hẳn.
Khát nước thì lê xuống nhà sau, uống no lại trở nên nằm tiếp.
Có lẽ suốt hai ngày Quý chìm sâu trong tình trạng đó. Chòm xóm láng giềng vẫn chưa ai biết sự có mặt của Quý trong ngôi nhà hoang lạnh ấy.
Đến ngày thứ ba Quý tỉnh táo hẳn. Đã biết đói bụng và thèm ăn cơm. Quý lê người xuống bếp lục lạo một hồi thì có gạo để nấu cơm, nhưng toàn bộ nước tương nước mắm trong nhà đều đã hư không còn dùng được nữa. Mặc kệ! Cơm chín, Quý cứ cơm trắng mà ăn một cách ngon lành.
Khi đã no nê, Quý bắt đầu đi xem xét nhà cửa. Đâu đâu cũng giăng đầy mạng nhện. Mùi ẩm mốc xộ lên rất khó chịu.
Lúc đi ngang qua tấm gương lớn trong phòng ngủ của ba mẹ lúc trước, Quý sửng sờ không nhận ra mình trong đó.
Một thân hình ốm o, hai má hõm sâu vào, râu ria thì đâm ra tua tủa, đôi mắt Quý đầy vẻ chán chường mệt mỏi, không còn một chút sức sống nào trong đó.
Bất chợt Quý cất tiếng cười vang, tiếng cười chưa kịp dứt Quý đã khóc nghẹn ngào.
Quý không biết ngày mai của mình của sẽ ra sao, mình sẽ sống như thế nào? Quý chưa nghĩ tới điều đó, bởi vì giờ đây trong lòng Quý còn tràn ngập niềm hối hận, tiếc thương. Mặc cảm tội lỗi như đang nhấn chìm Quý xuống.
Có lúc Quý thèm được nhắm mắt mãi mãi, không bao giờ còn thức dậy được nữa. Cuộc đời đã vùi dập Quý, tàn nhẫn với Quý và Quý thì lại tàn nhẫn với chính con vật trung thành đã gắn bó với mình như hình với bóng suốt bao nhiêu năm tháng. Cuộc sống là một cái vòng lẩn quẩn sao? Không! Quý muốn thoát ra, Quý không muốn tiếp tục quay cuồng trong đó!
Nhưng làm sao để thoát ra đây? Muốn sống đã khó khăn, muốn chết cũng không phải dễ!
Quý đứng tần ngần trên cầu thang nhìn xuống dưới. Bất chợt hình ảnh chú chó nhỏ ngày nào lại xuất hiện trong đầu. Bên tai Quý văng vẳng tiếng đùa giỡn của Mi Lu, tiếng cười trong trẻo của chú bé vô tư của nhiều năm trước…
Suốt ngày hôm đó Quý cứ thơ thẩn đi tới đi lui khắp nhà, đầu óc vẫn còn mụ mị, chưa nghĩ được gì một cách rõ ràng…
Đêm ấy Quý ngủ rất sớm sau khi ăn hết phần cơm còn lại.
Trong giấc ngủ chập chờn, Quý lại thấy cô gái kia hiện đến. Khi vừa nhận ra bóng trắng của cô gái, thì một bóng trắng khác nhỏ hơn đã nhảy chồm lên giường, chui vào lòng Quý.
- Mi Lu! Mi Lu! Mầy về rồi phải không Mi Lu!
Hôm nay Mi Lu có vẻ phấn khích lắm. Nó rối rít liếm tay liếm mặt Quý, dụi đầu cọ mõm vào khắp thân thể Quý, Quý cũng muốn giang tay ôm lấy Mi Lu, nhưng hình như có một sức mạnh vô hình nào đó đè nặng khiến Quý cứ nằm im không hề nhúc nhích được.
Cô gái đứng bên cạnh, nhìn cảnh tượng đó mỉm cười thật dịu dàng.
Một lúc sau, cô gái vẫy tay, Mi Lu luyến tiếc rời khỏi Quý, tan ra cùng với bóng hình cô gái.
- Mi Lu! Mi Lu! Mầy đừng đi, Mi Lu ơi…
Quý thất thanh gọi và bật ngồi lên.
Xung quanh không một bóng người, nhưng rõ ràng hai bên má Quý vẫn còn cảm giác nóng ấm của Mi Lu để lại.
Quý mở toang cửa sổ nhìn ra ngoài. Trời còn tối lắm, giờ này vào khoảng nửa đêm, nhưng tinh thần Quý lúc này lại vô cùng tỉnh táo và sảng khoái.
Quý biết mình không thể chết. Vậy thì phải sống, phải sống cho đàng hoàng! Quý quyết tâm như vậy!
Quý bật đèn sáng trưng cả nhà và bắt đầu dọn dẹp.
Trước tiên, Quý dọn dẹp bản thân mình.
Tìm khắp nơi vẫn không có gì có thể cạo râu được, Quý xuống bếp lấy con dao nhỏ đem ra mài thật bén rồi dùng nó để tạm thời làm sạch mặt mình một cách tương đối.
Sau đó, Quý đi quét gián nhện, sắp xếp lại đồ đạc. Hì hục mãi đến khi trời sáng rõ thì mọi việc trong nhà đâu đã vào đó tinh tươm, ngăn nắp.
Mùi ẩm mốc vẫn còn, nhưng không sao, hôm nay Quý sẽ mở toang hết các cánh cửa để ánh nắng vào nhà, Quý sẽ đem mền mùng chiếu gối ra phơi. Tất cả sẽ ổn thôi.
Vừa mở cánh cửa lớn ra, Quý đã thấy mấy người hàng xóm thập thò trước cổng nhà mình. Trông thấy Quý thím Hai nhà bên cạnh thở phào:
- Trời! Con về lúc nào chẳng ai hay? Từ nửa đêm tới giờ nghe bên đây lục đục, đèn đuốc sáng choang, thím ngạc nhiên hết sức mà không dám chạy qua…
Quý cười:
- Dạ, con về hồi tối. Vì không ngủ được nên thức dậy dọn dẹp, không ngờ lại làm cho dì lo lắng…
- Ối, có gì đâu con ơi! Chỉ tại không biết cháu về mà nghe bên này có tiếng động, thím sợ không biết có kẻ gian nào vô không nữa. Giờ thì thím yên tâm rồi. À, con về chơi khi nào đi vậy?
Quý nói nhỏ:
- Lần này con về ở nhà luôn, không đi nữa thím à!
Thím Hai mừng rỡ:
- Ờ, vậy được đó! Ở nhà mà lo nhang đèn cho anh chị Hai chứ! Lâu nay cháu vắng nhà, bỏ nhang tàng khói lạnh, thiệt tình thím cũng thấy xót ruột lắm…
- Dạ, con cảm ơn thím!
- Thôi, con làm gì thì làm đi, thím về nhé! Trưa nay qua nhà ăn với chú thím bữa cơm nghen!
Quý khẽ gật đầu, nhìn theo thím Hai quầy quả bước đi.
Trưa ấy, Quý sang ăn cơm bên nhà hàng xóm. Bữa cơm đơn sơ với canh chua cá kho mà Quý cảm thấy ngon hơn sơn hào hải vị.
Lâu thật lâu rồi Quý mới lại được ngồi ăn bữa cơm trong không khí đầm ấm thế này.
Cơm nước xong, chú Hai cùng với Quý lên nhà trên ngồi uống trà.
Sự nhớ ra, chú Hai hỏi:
- Con nghe tin chú Dự con chưa?
- Tin gì hả chú?
Quý ngạc nhiên hỏi lại.
Nhấp một ngụm nước trà, chú Hai chậm rãi kể:
- Ở đời, làm điều phi nghĩa tất phải gặp quả báo thôi con à! Lần trước chú cĩ nĩi với con về chuyện đồn thổi xung quanh việc làm bất nghĩa của ơng Dự mà xem chừng con khơng mấy tin. Sau đĩ, hình như con cĩ cầm ruộng đất cho ơng Dự phải khơng?
Quý vội nĩi:
- Dạ khơng, con cầm cho ơng chủ của chú Dự, chứ chú ấy làm gì cĩ tiền mà cầm! Con nghe chú nĩi, ngơi nhà đĩ cũng tồn là tiền vay bạc hỏi thơi…
Chú Hai bật cười ha hả:
- Cái thằng này coi vậy mà khờ thiệt! Chẳng lẽ nào ơng Dự lại lại nĩi với con rằng: Tui xây nhà bằng tiền của ba cậu đĩ hay sao? Người ta phải nĩi trớ qua như vậy để che mắt thế gian, che giấu tội lỗi của mình!
Ngừng lại uống tiếp một ngụm nước, chú Hai nhìn Quý thương hại:
- Bởi vì con quá tin người, nên con lại một lần nữa đem ruộng đất dâng cho ổng. Chính ơng Dự bỏ tiền ra cầm chứ cĩ ơng chủ nào ở đây!
- Chú nĩi thật à?
Quý ngơ ngẩn giây lát rồi bình tỉnh lại:
- Mà thơi, coi như con cĩ thêm một bài học nữa!
Chú Hai gật gù:
- Ơng bà ta nĩi quả khơng sai!
Rồi chú bật ngâm nga hai câu:
- “Đời xưa quả báo thì lâu
   Đời nay quả báo một câu nhỡn tiền!”
Đĩ! Thấy rõ ràng trước mắt rồi đĩ! Hai đứa con thằng Dự, đứa thì chết, đứa thì nằm một chỗ. Phải vậy thơi sao, mới tháng trước, tức là sau khi con cầm đất cho nĩ khơng bao lâu, nĩ bị tai biến mạch máu tưởng đâu nằm một chỗ luơn rồi, cũng may… chắc nhờ phước đức ơng bà cịn để lại nên bây giờ miệng thì méo xệch một bên, bán thân bất toại. Hai vợ chồng nĩ mỗi lúc cãi nhau, lời qua tiếng lại, đến đứa con nít nghe qua cũng biết được những việc mờ ám mà nĩ làm với gia đình con đĩ Quý à!
Quý thở dài:
- Nghĩ cũng tội nghiệp chú ấy! Nếu quả thật chú ấy đã làm những điều tác tệ như vậy, chẳng qua cũng chỉ lịng tham. Lịng tham luơn đẩy con người ta đến bên vực thẳm…
Giữa lúc này, thật sự Quý khơng hề ốn trách gì chú Dự, mà trái lại Quý liên tưởng tới mình. Cũng vì lịng tham khơng đáy, Quý đã nhẫn tâm đẩy Mi Lu, người bạn trung thành thân thiết nhất vào cõi chết…
Thấy Quý cĩ vẻ buồn, chú Hai đổi đề tài:
- Con cĩ tính cách nào để sinh sống chưa?
Quý bối rối:
- Dạ, con thú thiệt với chú, hiện giờ con khơng cịn tiền bạc gì hết, bao nhiêu vốn liếng con đã đầu tư vào làm ăn trên Sài Gịn nhưng cuối cùng lại thất bại thảm thương. Con cũng chưa biết tính cách nào nữa…
Cĩ lẽ thơng cảm với một chàng trai cịn trẻ người non dạ như Quý, chú Hai mỉm cười chỉ dẫn:
- Khơng cĩ gì khĩ đâu con! Ơng trời ổng khơng cĩ phụ lịng người đâu! Chỉ cần con chịu chí thú làm ăn thì khơng lo gì chết đĩi. Tuy bây giờ ruộng đất con khơng cịn nữa, nhưng con cịn lại mảnh vườn quanh nhà cũng khá rộng lớn. Bây giờ con chịu khĩ dọn sạch cỏ, chăm bĩn cho những cây ăn trái cĩ sẵn, trồng thêm một số cây nữa, xen lẫn với một vài thứ rau cải… Chú đảm bảo con sẽ sống được, khơng giàu cĩ, nhưng chắc chắn cuộc sống ổn định. Con nhìn quanh đây xem, cũng cĩ rất nhiều gia đình, người ta đâu cĩ ruộng đất gì mà người ta vẫn sống tốt đấy thơi! Chú biết, con sẽ gặp rất nhiều khĩ khăn lúc mới bắt đầu, vì từ hồi nào tới giờ con đâu cĩ quen lao động chân tay, nhưng một khi con đã cĩ quyết tâm rồi thì chẳng cĩ gì là khơng giải quyết được!
Quý cảm động:
- Con rất biết ơn những lời chỉ dạy của chú! Từ hơm nay con sẽ làm lại cuộc đời. Con quyết tự nuơi sống mình bằng chính sức lao động của bản thân.
Chú Hai thân mật vỗ vai Quý:
- Vậy thì tốt rồi! Chú rất thích những thanh niên cĩ bản lĩnh. Cháu yên tâm đi, cĩ khĩ khăn gì chú sẽ giúp cháu! Mà nè, cháu phải nhớ, khơng phải cháu chỉ nuơi sống bản thân mình khơng thơi, mà cịn phải lấy vợ sinh con rồi phải lo cho cả một đồn tàu há mồm nữa đĩ!
Quý bật cười trước câu nĩi đùa của chú Hai:
- Dạ, hiện nay cháu chưa nghĩ tới chuyện ấy! Nhưng chú ơi, bây giờ cháu chỉ là một thằng con trai tay trắng, sức khỏe khơng bằng ai, tính tốn làm ăn cũng khơng biết thì cĩ cơ gái nào cả gan, dám liều mạng ưng làm vợ cháu đâu chú?
- Ê, đừng tự hạ thấp mình như vậy chứ cháu! Chú nhìn người khơng lầm đâu… Hay cháu đồng ý làm rể chú nghen? Cịn nhớ con Út Thảo của chú khơng? Chú đồng ý gả nĩ cho cháu đĩ, chịu khơng?
Quý mắc cỡ, chỉ cười cười, khơng nĩi gì.
Ngồi chơi với chú Hai đến tận xế trưa Quý mới đứng lên cáo từ ra về. nhưng về ngang nhà mình quý khơng quẹo vơ mà đi thẳng tới nhà chú Dự.
Ngơi nhà của chú Dự vẫn to lớn khang trang nhưng lại tốt lên một khơng khí u ám nặng nề.
Thấy cổng chỉ khép hờ nhưng Quý khơng dám tự tiện đi vào vì cịn ngại chú  chĩ bẹc – giê to lớn lần trước. Quý gọi to:
- Chú ơi! Chú thím cĩ nhà khơng?
Nghe tiếng gọi cổng, thím Dự từ sau nhà tất tả đi lên, vừa trơng thấy Quý thím mừng rỡ:
- Quý về rồi đĩ hả cháu! Vơ nhà, vơ nhà chơi đi cháu!
Mới gặp thím cách đây chưa bao lâu mà hơm nay Quý suýt khơng nhận ra thím Dự. Thân người thím gầy mịn, khắc khổ, gương mặt u buồn, nhìn thím cười một cách héo hắt Quý chợt thấy lịng đau buốt.
- Nghe nĩi chú bệnh nên cháu tới thăm. Chú cĩ khơng thím?
Nghe Quý hỏi, thím Dự gật đầu:
- Bây giờ ổng cịn đi đâu được nữa mà khơng ở nhà hả cháu? Nhà thím bây giờ khổ lắm cháu ơi, hết con rồi tới chồng, thím thiệt là…
Thím Dự rưng rưng khơng nĩi được hết câu.
Quý an ủi:
- Thím đừng buồn, mọi việc rồi sẽ quen dần thơi thím ạ! Mỗi người đều cĩ một số phận, biết sao bây giờ…
Nghe tiếng người nĩi chuyện trước nhà, chú Dự từ trong buồng chống gậy nhắc nhổm đi ra, một cánh tay buơng thõng thượt bên mình, một cảng chân kéo lên dưới sàn nhà…
Nhìn cảnh tượng ấy, nước mắt Quý chực tuơn ra nhưng Quý cắn chặt răng kìm nén lại.
Vừa trơng thấy Quý, chú Dự thảng thốt, cái miệng méo xệch của chú cứ há ra mà khơng nĩi được lời nào.
Quý chạy tới dìu chú Dự ngồi xuống ghế:
- Chú ngồi xuống đây đi chú! Cháu nghe tin chú bệnh nên tới thăm chú nè! Bây giờ chú thấy trong người thế nào?
- Chú… kh…ỏ…e! Cá…m ơn cháu
Khĩ khăn lắm chú Dự mới thốt ra được mấy câu ngọng ngịu để hỏi thăm Quý một cách qua loa. Rồi chừng như muốn tránh mặt Quý, chú Dự than mệt, ra dấu bảo vợ dìu vào buồng.
Quý nhanh nhẹn đứng lên đỡ một bên cùng đưa chú Dự trở vơ buồng. Căn phịng rộng rãi nhưng âm u, âm u như chính nỗi lịng chủ chủ nhân nĩ vậy.
Trở ra bàn ngồi nĩi chuyện với thím mà Quý khơng thể nào nén được tiếng thở dài.
Quý biết, nếu đúng chú Dự đã làm như những gì người bên ngồi đồn đãi thì chắc chắn giờ đây, khi phải nằm một chỗ như vậy lương tâm chú chắc khơng ngừng cắn xé. Một khi con người phải sống trong sự dày vị của lịng hối hận, trong sự cắn rứt của lương tâm thì cịn khổ sở, đau đớn gấp ngàn lần sống trong nghèo đĩi.
- Chú ơi, nếu thật sự chú đã làm gì cĩ lỗi với gia đình cháu, thì hơm nay, cháu thay mặt ba má cháu mà xĩa hết mọi lỗi lầm. Chú hãy sống thanh thản đi, hãy để cho nhà này vang lại tiếng cười…
Quý nĩi thầm trong bụng.
Khi được Quý cho biết từ nay sẽ về sống hẳn ở đây, thím Dự cĩ vẻ rất vui, nhắc đi nhắc lại:
- Cĩ gì cần cháu cứ nĩi với thím một tiếng, thím sẽ giúp cháu nghen! Cháu đừng ngại gì hết, từ xưa tới nay lúc nào thím cũng xem cháu như con cháu trong nhà…
Quý nắm chặt tay thím Dự:
- Dạ, cháu biết rồi! Cháu nhớ rồi! Bây giờ cháu cũng đâu cịn bà thân thích nào ngồi chú thím, cháu cũng thật lịng muốn được chú thím coi như người trong nhà vậy!
- Được vậy thì tốt biết mấy…
Nĩi thêm vài ba câu chuyện nữa Quý đứng lên từ giã chú thím ra về. Trên đường về, quý bỗng cảm thấy tinh thần mình trở nên sảng khối, vui vẻ lạ thường, như vừa trút bỏ được tảng đá lớn từ lâu nay luơn đè nặng trong lịng.
Ngay chiều hơm đĩ thím Dự mang đến cho Quý nào là gạo, mắm, muối, thức ăn nấu sẵn và một vài thứ lặt vặt khác nữa.
Quý cảm động:
- Thím bận bịu suốt ngày như vậy mà cịn dành thời gian lo lắng cho cháu nữa, cháu thật ngại quá!
Thím Dự tỏ ý khơng bằng lịng:
- Cháu đã bảo chúng ta là người cùng một nhà, vậy sao cịn khách sáo như thế? Cháu cứ để cho thím lo cho cháu phần nào, tới khi cháu cưới vợ, cĩ người lo cho cháu rồi thì thím mới yên tâm!
Quý mỉm cười, khơng thể chối từ thím được!
Thím Dự vừa ra khỏi nhà thì chú Hai bên cạnh chạy sang, đem qua cho Dự mấy cái liềm, cuốc, xẻng. Chỉ dẫn Quý cách sử dụng từng mĩn một.
- Sáng mai chú cũng rảnh, chú sẽ sang đây làm tiếp với cháu cho quen việc.
Quý mỉm cười nghe lịng ấm áp trước những tình cảm mộc mạc chân thành của những người dân quê chất phác.

***
- Anh Quý ơi, ngừng tay vô ăn bắp luộc đi anh!
Nghe tiếng gọi, Quý ngước nhìn lên rồi kéo tay áo lau mồ hôi vui vẻ mỉm cười.
- Chờ anh một chút, anh cắt mấy liềm nữa cho xong hết liếp rau này đã!
Quý quơ chiếc liềm bén ngót tới đâu thì đám rau muống xanh non mơn mởn ngã rạp xuống tới đó.
Cắt hết liếp rau, Quý đứng lên vươn vao một cách khoan khoái rồi thong thả đi vô nhà.
Đặt chân tới cửa bếp, Quý xuýt xoa:
- Ô, mùi bắp luộc thơm quá! Bắp nhà em phải không Thảo?
Thảo dừng tay tướt lạt, mỉm cười nhìn Quý:
- Dạ, bắp nhà em đó! Anh Quý ăn ngay đi cho nóng!
Thảo vừa nói vừa nhanh tay chọn một trái bắp ngon nhất lột vỏ đưa chio Quý.
Quý ngồi xuống lột một bên:
- Em cũng phải ăn với anh chứ! Ăn một mình anh… mắc cỡ chết!
Thảo lườm Quý rồi cả hai cùng cười vang.
Từ ngày về lại quê nhà, Quý luôn được sự quan tâm giúp đỡ của thím Dự và vợ chồng chú Hai nhà bên cạnh.
Chú Hai còn cho cả đứa con gái út của mình là Thảo sang đây phụ giúp Quý những khi cô rỗi rảnh.
Từ ngày có sự chăm lo quét dọn của Thảo, ngôi nhà rộng lớn này trở nên ngăn nắp gọn gàng giống y như hồi bà Hai Phát còn sống. Quý cũng đỡ phần cô đơn khi mỗi ngày có bóng dáng Thảo tới lui mấy lượt. Khi thì tới nấu giúp Quý bữa cơm, lúc mang qua cho Quý một món ăn nào đó…
Hồi còn ở Sài Gòn, Quý chưa từng yêu ai, nhưng Quý vẫn thường thích đi theo chọc ghẹo những cô gái trông được mắt. Vậy mà khi đối diện với Thảo, chưa bao giờ Quý dám nói một lời suồng sã, mặc dù lắm lúc Quý cảm nhận được trái tim mình đang thực sự rung động trước Thảo.
Thảo là một cô gái mùa hiền lành, bình dị, có nước da rám nắng và nét duyên dáng mặn mà của cô gái miền Tây. Tuy hơi ít nói nhưng tính Thảo lại vui vẻ, hay cười, khiến cho bầu không khí càng thêm ấm cúng.
Chú Hai nhiều phen nói xa gần ý muốn tác hợp cho Quý và Thảo. Quý còn mong đợi điều gì hơn nữa? Nhưng hiện nay Quý cho là chưa phải lúc. Quý mới bắt đầu gầy dựng lại mảnh vườn, ít nhất đến khi nào có thể đảm bảo được cuộc sống cho hai vợ chồng thì mới có thể tính tới chuyện hỏi cưới Thảo được.
- Anh làm gì ngồi trầm ngâm quá vậy? Bộ… bắp em nấu không được ngon sao anh?
Thảo hỏi khi thấy Quý cứ ngồi lặng im bên cạnh.
Giật mình, Quý cười lớn:
- Đâu có, bắp ngọt lắm! Mai em nhớ nấu cho anh ăn nữa nhe! Chỉ tại anh đang suy nghĩ một số việc?
- Anh suy nghĩ việc gì thế?
Thảo tò mò.
Quý ngập ngừng:
- Anh không biết mình làm tới khi nào mới có tiền cưới vợ?
Nghe Quý nói vậy, tự nhiên hai má Thảo nóng bừng lên, đôi tay luống cuống vơ lấy nắm lạt dưới đất, cười cười đánh trống lảng:
- Thôi, anh cứ ngồi đó vừa ăn vừa suy nghĩ đi! Để em ra bó rau muống, sáng đem ra chợ bỏ mối giúp anh, kiếm tiền để dành mai mốt anh cưới vợ nha!
Quý bật cười, đứng lên theo gót Thảo trở ra vườn.
Quý cắt hết hai liếp rau nữa rồi cùng Thảo bó thành từng lọn.
Hồi chưa quen việc, cả đến công bó rau đơn giản như vầy Quý cũng làm không xong! Thảo phải hướng dẫn cho Quý từ cách tuốt lạt, chọn dây đến cách quay từng nuột lạt quanh bó rau muống như thế nào. Bây giờ, có thể nói Quý đã thành một nông dân chính cống!
Khu vườn quanh nhà hồi Quý mới về cỏ mọc cao hơn đầu gối, giờ trở nên sạch sẽ đẹp mắt. Cây trái xum xuê, từng luống rau luống cải thẳng đều tăm tắp.
Khi những tia nắng yếu ớt cuối ngày đã tắt hẳn phía trời tây, Thảo và Quý cũng vừa bó xong hết đám rau vừa cắt.
Quý đứng nhìn Thảo lom khom quét dọn mà thấy trong lòng dâng tràn một thứ hạnh phúc ngọt ngào khó diễn tả.
Ngước lên, bắt gặp ánh mắt Quý đăm đắm nhìn mình, Thảo mắc cỡ nói vu vơ cho đỡ ngượng:
- Hôm nay rau nhiều quá!
- Khuya em nhớ gọi anh dậy để anh gánh ra chợ với em nghen!
Quý dặn.
Thảo lắc đầu:
- Thôi khỏi, nhiều thì có nhiều thật đó, nhưng một mình em cũng gánh được rồi, mắc công anh phải dậy sớm…
Quý làm bộ giận:
- Trời! Rau là của anh, bán về em đưa tiền cho anh, vậy mà còn sợ anh phải dậy sớm? Sao kỳ vậy ta, đáng lẽ phải ngược lại mới đúng chứ? Em đừng tưởng anh là công tử bột, chỉ biết ngồi nhà hưởng mát đâu nhe!
Thảo giấu một nụ cười dưới vành nón lá:
- Thôi đi, anh đừng có đứng đó cãi lý với em! Mau vô tắm rửa rồi qua nhà em ăn cơm. Ba má dặn em mời anh chiều qua ăn đó, hồi trưa ba cắm câu được con cá lóc lớn lắm… Giờ em về trước nghen, anh tắm xong nhớ qua liền, ba má em đợi…
Nhìn theo dáng người thon thả của Thảo thấp thoáng đi giữa hàng cây, Quý chỉ muốn chạy theo cầm lấy tay cô mà nói hết lòng mình… Nhưng rồi Quý vẫn đứng im một chỗ…
Quý giận mình vô dụng, với người không có chút cảm tình nào, thì bao nhiêu lời hoa mỹ, hẹn biển thề non cũng có thể nói ra được một cách dễ dàng, lưu loát. Vậy mà với người con gái mình thật sự yêu thương chỉ cần nói một lời cho người ta hiểu được lòng mình mà đã biết bao nhiêu lần ngập ngừng không thốt được nên câu.

***
Cuộc sống của Quý dần dần đã đi vào ổn định. Nhờ tính cần mẫn siêng năng của Quý, cây cỏ trong vườn được chăm bón rất đầy đủ nên mùa vụ nào trái cũng oằn cây.
Mới đó đã ba năm.
Ba năm, thời gian không phải là dài trong một đời người nhưng cũng không thể nói là ngắn.
Từ một thanh niên trói gà không chặt, chỉ sau ba năm Quý đã lột xác để trở thành một nông dân dẻo dai, mạnh khỏe.
Nhiều lần thím Dự đề nghị Quý lấy lại mấy mẫu đất để canh tác nhưng Quý đều từ chối. Quý bảo:
- Cháu đã nhờ chú Dự đem đi cầm cố rồi, thì dù có cầm cho ai cũng như nhau thôi. Một khi chưa có tiền để chuộc về thì cháu không thể nhận lại. Cháu rất biết ơn vì thím đã lo cho cháu, nhưng thím yên tâm đi, cuộc sống của cháu như hiện nay cũng rất tốt rồi, cháu không mong muốn gì hơn nữa!
Hình như khi được quan tâm lo lắng cho Quý thì mặc cảm tội lỗi trong lòng thím Dự có giảm đi đôi chút, nên về sau này trông thím có vẻ khá hơn trước nhiều. Thân hình thím không còn gầy gò thảm hại, nụ cười cũng bớt héo hon.
Mặc dù không phải là người trực tiếp nhúng tay vào tội lỗi, nhưng thím đang sống trong căn nhà đồ sộ được dựng lên bằng những đồng tiền phi nghĩa, những bữa cơm thím ăn hàng ngày cũng là từ những đồng tiền nhơ nhớp đó, thì làm sao thím Dự có thể thanh thản được.
Chỉ có điều, thím Dự không thể nào thú thiệt hết với Quý và tố cáo chồng mình được. Nên nỗi trầm uất trong lòng thím ngày một nặng nề. Chỉ từ khi Quý về lại quê hương, mỗi ngày thím tới lui khi thì giặt cho Quý mền mùng, lúc may cho Quý cái áo thì chừng như nỗi niềm u ất trong lòng thím có phần vơi bớt.
Về sau này, chú Dự tuy vẫn sinh hoạt bình thường nhưng đôi lúc có phần ngớ ngẩn. Tâm trí không hoàn toàn sáng suốt như xưa, thành ra mọi việc trong gia đình đều do thím Dự sắp xếp. Chứ còn trước kia, thím giống như nô lệ trong nhà. Bất cứ việc gì dù lớn hay nhỏ thím đều phải răm rắp tuân theo lời chỉ bảo của chú mà không được quyền có ý kiến phản bác nào.
Chính vì lẽ đó thím mới có thể bảo Quý lấy ruộng đất về canh tác.
Thấy Quý đã quyết liệt chối từ, thím Dự biết dù có nói cách nào cũng không khuất phục được thằng cháu, thím đành phải chuyển sang phương án khác.
Suốt mấy năm qua, thím Dự không để cho Quý mua dù là một lon gạo. Quý không thể từ chối được vì thím viện lẽ, trước đây bà Hai Phát đã giúp đỡ vợ chồng thím rất nhiều, ngày nay coi như Quý tạo điều kiện để thím được đền đáp lại một phần ơn nghĩa đó. Cuối cùng, Quý ra giao hẹn với thím Dự là, khi nào Quý cưới vợ thì Quý sẽ không nhận nữa.
Cuộc sống của Quý cứ bình lặng trôi qua. Nỗi nhớ mẹ cha cũng nguôi ngoai theo ngày tháng. Suốt ngày Quý quần quật hết việc này tới việc khác không ngơi tay, tới lúc vô mùng là đánh một giấc ngon lành tới sáng. Thi thoảng những khi thức giấc nửa đêm, Quý lại thèm được mơ giấc mơ có cô gái nhỏ và chú chó Mi Lu, nhưng lâu lắm rồi hai hình bóng đó rất ít khi hiện về bên Quý.
Mỗi lúc nhớ tới Mi Lu, trong lòng Quý vẫn cồn lên niềm ăn năn hối tiếc. Quý chỉ biết thầm hứa với bản thân là phải sống cho thật tốt, cho thật đàng hoàng để vong hồn ba mẹ và Mi Lu có thể yên lòng ở bên kia thế giới.
Chiều nay Quý bỗng thấy nhớ Mi Lu, nhớ thật nhiều…
Không phải tự nhiên mà nỗi nhớ dâng tràn đến vậy. Chỉ vì một câu nói vô tình của Thảo đã khơi dậy trong Quý cái tình cảm mà lâu nay Quý cố chôn sâu tận đáy lòng mình.
Lúc chiều, khi cùng ngồi nhổ cỏ với Quý, bất chợt Thảo khoe:
- Anh Quý, con chó nhà em sắp sinh con rồi đó! Anh có muốn nuôi không? Nếu anh thích thì em về nói ba để dành lại cho anh, chứ chó bây giờ đắt lắm, vừa sinh ra là người ta dặn hết trơn à!
Quý nghe tim mình nhói đau nhưng cố gượng cười:
- Ừ, em để cho anh một con, nuôi cho vui nhà vui cửa.
Chợt nhớ ra, Thảo hỏi:
- Hồi trước anh Quý có con chó khôn lắm phải không? Bây giờ nó đâu rồi anh Quý?
Quý giả bộ cắm cúi xuống nhổ cỏ để che đi đôi mắt đang ứa lệ của mình.
- Nó… nó chết rồi Thảo ơi!
- Tội nghiệp nó quá hả anh? Nó chết chắc anh buồn lắm phải không? Hồi trước anh với nó như hình với bóng…
Cũng may là Thảo không hỏi tiếp tới nguyên nhân cái chết của con chó, chứ nếu không chắc Quý không dằn lòng được. Nhưng từ đó tới tối, lòng Quý lại nặng trĩu u sầu.
Tối đó, nghe hết chương trình ca nhạc cải lương của Đài phát thanh Thành phố, Quý với tay tắt radio rồi chui vô mùng ngủ. Nhưng khi giấc ngủ chưa kịp kéo tới, Quý giật mình nhổm dậy vì phát hiện một bóng người thoáng qua bên ngoài cửa sổ.
Quý nhẹ nhàng đi chân trần tới áp mặt vào kính cửa nhìn ra ngoài. Rõ ràng một bóng trắng đang ung dung dạo bước.
Đêm nay trăng rất sáng, nhưng Quý không sao nhận ra người đó là ai vì những tàng lá cây che khuất.
Đánh bạo, Quý mở cửa đi ra sau vườn.
Đang ngó quanh quất thì bất ngờ bóng trắng xuất hiện ngay trước mặt Quý, chỉ đứng cách Quý chưa đầy một sãi tay.
- Cô… cô là ai?
Quý giật mình lắp bắp hỏi khi nhận ra bóng trắng đứng cạnh bên mình là một cô gái.
Cô gái xoay người lại làm Quý càng ngạc nhiên hơn nữa:
- Cô… cô chính là cô gái trong những giấc mơ của tôi?
Cô gái nhoẻn miệng cười:
- Đúng rồi! Người con gái thường đến trong mơ chính là em! Anh quý vẫn còn nhận ra em sao?
Quý mừng quýnh, chồm tới định nắm tay cô gái nhưng hai bàn tay Quý chỉ chạm vào khoảng không trống rỗng. Quý rụt tay về, hấp tấp hỏi:
- Mi Lu đâu? Sao hôm nay cô không dẫn nó tới thăm tôi? Những lần trước cô đều dẫn nó theo mà?
Cô gái làm mặt giận:
- Cũng vì chuyện của Mi Lu mà em rất giận anh đấy! Em đã từng muốn bỏ mặc anh rồi. Nhưng thấy anh đã thật lòng hối hận, nên em quyết định tha lỗi cho anh đó!
Quý ngơ ngác:
- Cô nói gì tôi không hiểu?
Cô gái nhìn Quý cười chúm chím:
- Anh từ từ suy nghĩ rồi sẽ tự hiểu ra thôi. Hôm nay em tới đây là để chào từ biệt anh!
- Từ biệt tôi? Cô làm đầu óc tôi rối lên rồi đây! Nhưng mà cô khoan nói những chuyện khác, cô làm ơn nói cho tôi biết Mi Lu đâu?
Quý khẩn trương, chỉ sợ cô gái lại nhanh chóng tan ra như những lần trước.
Cô gái nhìn Quý thông cảm:
- Anh đừng cuống lên như thế! Hôm nay Mi Lu không thể theo em đến thăm anh được, nhưng mà anh đừng có lo, ngay sáng ngày mai anh sẽ được gặp lại Mi Lu. Nhưng anh phải hứa với em là anh luôn luôn đối xử tốt với nó đấy nhé! Nếu anh mà còn làm gì tổn hại đến nó một lần nữa, em sẽ không tha cho anh đâu!
Quý lặp lại như kẻ mộng du:
- Sáng mai tôi được gặp lại Mi Lu sao? Nó sẽ sống với tôi như trước kia chứ? Tôi nhớ… tôi nhớ nó đã chết rồi mà?
Cô gái bật cười:
- Đúng là nó đã chết rồi nhưng duyên nợ với anh còn chưa dứt nên nó phải sống lại thôi! Mà thôi, anh đừng hỏi nhiều nữa, em không được phép nói nhiều đâu.
Cô gái bước tới gần Quý chút nữa rồi nói với giọng nghiêm trang:
- Kiếp nạn của anh đến đây là chấm dứt. Từ nay, cuộc sống của anh sẽ được yên ổn tới cuối đời, không còn gặp bất kỳ sóng gió nào đáng kể nữa. Như vậy là nhiệm vụ của em đã hoàn thành. Em tới chào anh em đi. Từ hôm nay, mãi mãi không bao giờ chúng ta còn gặp lại nhau nữa…
Quý cắt ngang lời cô gái:
- Khoan, tôi xin phép hỏi, giữa tôi với cô có quan hệ như thế nào? Tại sao cô lại có trách nhiệm gì đó với tôi? Tôi xin cô nói rõ cho tôi biết, đừng để tôi phải nát óc vì chuyện này! Từ những lần đầu tiên gặp cô trong giấc mộng, tôi đã rất lấy làm lạ, vì hình như tôi với cô hoàn toàn xa lạ, mình chưa từng gặp nhau trong đời thật, phải vậy không cô?
Cô gái do dự một lúc rồi cất tiếng:
- Đáng lẽ ra em không được nói gì với anh hết, nhưng thấy anh tỏ ra khổ sở như vậy em không cam lòng. Đúng là em với anh chưa từng gặp nhau trong đời thật, nhưng mẹ anh là người có ơn rất lớn với mẹ con em, mẹ em đã dặn dù sống hay chết gì cũng phải báo đáp ơn nghĩa đó. Vì vậy, suốt bao nhiêu năm qua, em luôn luôn có mặt bên cạnh anh, để bảo vệ anh. Anh đừng hỏi tại sao em không giúp anh thoát khỏi những tai ách, vì đó là kiếp nạn mà anh phải chịu, đó là những ân oán mà kiếp trước anh đã gây ra, không ai có thể thay đổi được. Thôi, em vậy cũng đã quá rõ ràng rồi, giờ đã tới lúc em phải đi…
Cô gái vừa dợm bước bỗng sực nhớ lại điều gì, dừng chân lại:
- À, quên nữa, suýt một tí em lại mắc lỗi lầm rồi, cũng tại anh hỏi nhiều quá làm em không tập trung được đó!
Quý vẫn đứng ngẩn ngơ không nói được lời nào, cũng không hỏi thêm câu gì được nữa.
Cô gái phì cười khi nhìn vẻ mặt đờ đẫn của Quý:
- Coi anh kìa, em sắp báo cho anh một tin vui nè, phải tươi tỉnh lên đi chứ!
- Tin vui à?
Quý hỏi lại.
- Dạ. Ông bà Hai còn để lại cho anh một số vốn khá lớn, ngày mai anh hãy sử dụng nó vào việc làm ăn chân chính, không được dại dột như những lần trước đâu nhé! Em nói rồi đó, nếu anh còn như vậy nữa em sẽ không tha…
Quý thắc mắc:
- Cô nói vốn liếng gì? Sao tôi không biết gì hết?
- Ngay phía dưới giường ngủ của anh, tại miếng gạch thứ ba tính từ trong tường, anh cứ đào đúng chỗ đó lên thì khắc biết. Em phải đi đây, chào anh nhé!
Bóng trắng đứng trước mặt Quý bắt đầu tan loãng ra, Quý cuống quýt gọi to:
- Cô ơi… cô ơi, tên cô là gì thế?
- Mi Lan… Mi Lan…
Tiếng cô gái từ xa xăm vọng đến. Bóng trắng đã hoàn toàn biến mất. Quý lẩm bẩm:
- Mi Lan! Cái tên này sao nghe quen quá… Thôi rồi, mình nhớ ra rồi, đó chính là tên của cô bé nuôi Mi Lu trước mình… Hèn gì… hèn gì lúc nào mình cũng thấy cô gái đó và Mi Lu quấn quýt bên nhau. Vậy mình không nghĩ ra được, mình đúng là quá ngu ngơ…
- Anh Quý! Làm gì giờ này anh đứng một mình ở đó vậy?
Quý giật mình khi nghe tiếng Thảo từ phía bên kia hàng rào.
- Anh… Trăng đêm nay đẹp quá… anh đứng ngắm trăng…
Quý dối.
Thảo cười khúc khích:
- Em không ngờ anh Quý cũng lãng mạn ghê đó nghe! Thôi, qua nhà em chơi đi, ba em cũng đang trãi chiếu ngoài sân vừa uống trà vừa ngắm trăng nè. À, anh Quý ơi, con chó nhà em vừa mới sinh xong, anh mau qua mà chọn chó con đi!
Bất chợt trong đầu Quý liên tưởng tới những câu vừa lúc nãy nghe Mi Lan nói: “Đúng là nó đã chết rồi nhưng duyên nợ với anh còn chưa dứt nên nó phải sống lại thôi”.
- Mi Lu sống lại? Có lẽ… có lẽ… phải rồi! Đúng rồi!
Quý lảm nhảm trong miệng rồi bỗng mừng rơn reo lên:
- Thảo ơi, anh qua liền…
Sang bên nhà Thảo, Quý chào hỏi ba má Thảo mấy câu rồi giục Thảo cho xem mặt chó con. Thảo bưng ổ chó ra khoe, Quý hồi hộp đỡ chú chó bé xíu có bộ lông trắng lên nhìn chằm chằm vào nó.
Đúng là Mi Lu rồi! Không sai đâu được! Bộ lông trắng với một chấm đen nơi cổ rất khác biệt… Quý trào nước mắt:
- Mi Lu! Mi Lu đã trở về…
Thảo ngạc nhiên:
- Anh sao vậy anh Quý? Anh vừa nói gì?
Quý nhoẻn cười:
- Không, tại anh thấy chú chó này giống con Mi Lu trước kia của anh quá nên anh xúc động vậy thôi. Em nói ba để con này cho anh nhé!
Thảo gật đầu bưng ổ chó để lại trong buồng, Quý nhìn theo vẻ đầy lưu luyến.
- Nãy giờ chấm được con nào chưa? Xong rồi thì ra đây uống trà với chú, Quý ơi!
Nghe tiếng chú Hai, Quý dạ lớn rồi vội vã ra sân, lòng quý giờ phút này ngập tràn hạnh phúc.
Ánh trăng sáng vằng vặc khiến khung cảnh trở nên đẹp một cách huyền ảo. Những tán lá cây khe khẽ rì rào như đang thủ thỉ cùng nhau muôn ngàn tâm sự.
Uống hết một bình trà, chú Hai từ tốn nghiêng bình thủy rót thêm ra. Chú cầm ly trà lên trầm ngâm nói:
- Cuộc sống của cháu bây giờ đã ổn định rồi, cháu có nghĩ tới việc cưới vợ chưa?
Quý bối rối:
- Dạ… cháu…
Thấy Quý ngắc ngứ, chú Hai di thẳng luôn vào vấn đề:
- Từ lâu nay chú luôn quý mến cháu, chú có ý muốn cháu về làm rể nhà chú, nhưng chú đã mở lời nhiều lần mà vẫn không thấy cháu có thái độ gì. Vì vậy hôm nay chú muốn hỏi thẳng cháu. Kể ra làm vậy thì cũng có hơi kỳ cục, nhưng cháu biết tánh chú rồi đó, chú rất thật tình, ăn nói thì huỵch toẹt không có gì phải giấu giếm. Chú muốn cháu trả lời thật lòng mình, cháu có tình cảm với con Thảo nhà chú không?
Quý im lặng một chút rồi mạnh dạn nói:
- Dạ thưa chú, từ ngày về đây, cháu luôn được chú thím và em Thảo hết lòng giúp đỡ nên cháu mới có được ngày nay. Quả thật lòng cháu rất cảm kích. Rồi sau một thời gian tiếp xúc với Thảo, cháu nhận thấy ở cô ấy có nhiều điều đáng quý, đáng trân trọng. Cháu đã cảm mến Thảo từ rất lâu rồi nhưng cháu chưa dám ngỏ lời vì… vì cháu ngại mình không xứng đáng với Thảo.
Nghe Quý nói tới đó, chú Hai cười hà hà:
- Có gì mà xứng với không xứng hả cháu? Chú chỉ sợ cháu chê con Thảo nhà chú quê mùa, đen đúa. Nếu cháu không chê nó là tốt rồi. Tuy bây giờ gia cảnh của cháu có phần hơi sa sút, nhưng điều đó đâu có can hệ gì, con người ta sống với nhau trên đời quan trọng là cái tình, phải không cháu?
Quý gật đầu:
- Dạ, nếu chú thím và em Thảo không chê cháu thì ngay ngày mai, cháu sẽ nhờ thím Dự bước tới chính thức ngỏ lời hỏi cưới em Thảo cho cháu, được không chú?
Chú Hai vỗ mạnh vào vai Quý:
- Được! Được quá đi chứ! Lâu nay thấy con Thảo quyến luyến cháu, chú chỉ sợ cháu không thương thì tội cho nó, nay biết được tình ý của hai đứa rồi thì chú thím sẵn sàng tác hợp ngay. Chú thím cũng không cần lễ vật hay tiệc tùng rình rang gì đâu, chú chỉ cần hai đứa thương yêu nhau, biết lo lắng cho nhau là được rồi.
- Dạ, cháu cảm ơn chú thím đã thương mà nghĩ cho cháu. Nhưng… biết em Thảo có đồng ý…
Quý lo lắng.
Chú Hai cất tiếng gọi lớn:
- Thảo à, Thảo! Ra đây ba hỏi chút con.
Thảo “dạ” rồi đi ra sân, trên tay bưng dĩa bắp vừa mới luộc xong.
Đặt dĩa bắp xuống giữa chiếu, Thảo lên tiếng:
- Con mời ba, mời anh Quý ăn bắp.
Chú Hai nhìn con gái gật gù:
- Ừ, để đó cho ba. Con ngồi xuống đây, ngồi xuống cho ba hỏi chuyện này!
- Chuyện gì vậy ba?
Thảo ngồi sát bên cạnh cha, ngạc nhiên hỏi
Chú Hai nhìn Quý rồi nhìn Thảo, chậm rãi nói:
- Anh Quý con vừa nói với ba là nó thương con, muốn bước tới hỏi cưới con đó! Ý con thì sao, con có bằng lòng không thì nói cho ba và anh Quý con biết.
Thảo thẹn cứng người, đứng lên vùng vằng nói:
- Ba… ba kỳ quá đi!
Nói xong Thảo chạy vụt vào nhà.
Chú Hai và Quý nhìn theo cùng nở nụ cười sung sướng.

***
ĐaÙm cưới của Quý và Thảo được tổ chức sau đó không lâu, hình thức đơn sơ nhưng không kém phần long trọng.
Bà con chòm xóm quanh đó ai cũng đều khen cặp vợ chồng rất xứng lứa vừa đôi.
Ngày hôn lễ, vợ chồng chú Dự được mời ngồi ở ghế thông gia. Thím Dự cảm động không cầm được nước mắt. Chú Dự cũng xúc động lắm nhưng suốt buổi không nói gì.
Mãi tới khi khách khứa về hết, chú Dự cho gọi Quý lên rồi ra hiệu cho thím Dự lấy một chiếc hộp nhỏ trong túi áo chú đặt lên bàn.
Bằng những câu ngọng nghịu khó khăn, chú Dự muôn trao toàn bộ giấy tờ của mấy mẫu đất lại cho Quý. Khi thấy Quý từ chối, thím Dự khóc lóc van xin:
- Nếu cháu thật sự tha lỗi cho chú thím thì thím xin cháu hãy nhận lại số giấy tờ này. Đây là những gì hoàn toàn thuộc về cháu, cháu nhận lại là lẽ đương nhiên…
- Nhưng… cháu vẫn chưa kiếm đủ số tiền để trả lại cho chú thím
Nghe Quý nói câu ấy, chú Dự chảy nước mắt, nói câu gì đó mà Quý không nghe rõ.
Thím Dự cúi mặt nói nhỏ:
- Từ lâu nay, chú thím vẫn biết cháu đã rất rõ những việc làm không phải của chú. Vậy mà cháu vẫn luôn kính trọng chú thím, chính điều đó đã làm chú Dự của cháu thức tỉnh. Bây giờ chú thím cũng không biết nói gì ngoài việc xin cháu tha thứ… Cháu nhận lại giấy tờ này, có như vậy chú con mới được nhẹ lòng đôi chút, chứ nếu không… chắc tới lúc chết, chú thím đây cũng không nhắm mắt được…
Trước những lời lẽ đầy thuyết phục của thím Dự và thái độ cầu khẩn thảm thương của người chú, Quý không thể chối từ.
Từ đó, mối quan hệ giữa nhà càng thêm khắn khít.
Số vàng ông bà Hai Phát chôn dưới gầm giường theo lời Mi Lan chỉ dẫn không biết hư thực thế nào, vì Quý không một lần nhắc tới. Nhưng cuộc sống của vợ chồng Quý thì đáng để cho bao người mơ ước.
Hai vợ chồng luôn quấn quýt bên nhau, khi ngoài đồng, lúc ở mảnh vườn con, khi thảnh thơi cũng như lúc bộn bề công việc.
Bên cạnh hai vợ chồng son còn có một nhân vật thứ ba xuất hiện trong gia đình: đó là chú con liếng thoắng.
Quý đã trải qua những ngày bơ vơ đói khổ, trải qua bao cảnh thăng trầm nên cuộc sống hôm nay Quý vô cùng trân trọng.
Ngôi nhà không vắng tiếng cười đùa.
- Mi Lu, đừng có lôi đất cát vào nhà, mẹ sẽ không bằng lòng đâu! Coi chừng mẹ sẽ đánh đòn con đấy! Mẹ bỏ đói con đấy!
Quý ôm chú chó nhỏ vào lòng, vừa nói vừa liếc nhìn Thảo.
- Ba con nói xấu mẹ phải không Mi Lu? Mẹ không bỏ đói con đâu, mẹ chỉ bỏ đói ba thôi, con đồng ý không?
Mi Lu chuồi ra khỏi tay Quý, chạy lăng xăng quanh chân Thảo. Quý giả bộ ôm đầu:
- Trời ơi, đến con cũng không thèm bênh vực ba sao? Con nghe mẹ hăm dọa bỏ đói ba là con ủng hộ liền vậy sao?
Mi Lu chạy trở lại bên cạnh Quý, chồm hai chân trước bám đầy đất cát lên ngực áo Quý làm cả hai vợ chồng bật cười vui vẻ.
Chú thím Hai ở nhà bên cạnh, lắng nghe tiếng cười đùa vọng sang, hai ông bà nhìn nhau tràn đầy hạnh phúc.
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 15:46:24 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 22:22:11
TRÒ CHƠI SINH TỬ
 
- Em chờ anh có lâu không?
Mai giật mình ngoảnh lại sau lưng, Khoa đã đứng đó từ lúc nào. Vậy mà nãy giờ cô cứ dõi mắt nhìn hút về phía đầu làng để trông ngóng.
- Bắt đền anh đó! Làm người ta chờ muốn… rụng cẳng luôn!
Mai giận dỗi.
Khoa ôm lấy Mai dỗ dành:
- Thôi, cho anh xin lỗi, đừng giận anh nữa nhe em! Con gái mà giận hoài mặt mày xấu lắm đó, lại mau già nữa…
Mai hất tay Khoa:
- Kệ tui! Tui biết tui quê mùa xấu xí, quần thô áo vải, anh đi mà tìm mấy cô mắt xanh môi đỏ má hồng đi!
Khoa cười xòa, nắm chặt tay người yêu:
- Coi em kìa, anh tới trễ có một chút, làm gì hờn trách dữ vậy?
Mai ngước nhìn Khoa, cặp mắt đỏ hoe:
- Anh có biết em mong anh biết chừng nào hôn? Suốt cả ngày nay em cứ bồn chồn, thấp thỏm, chỉ mong trời mau tối để được gặp anh. Vậy mà anh lại để em đứng đây cả buổi. Ngày mai anh đi rồi, mình không còn bao nhiêu thời gian để ở bên nhau, em chắt chiu từng chút, còn anh… anh thì không biết trân trọng gì hết…
Khoa kéo Mai sát lại gần mình:
- Anh biết chứ! Anh cũng mong từng giây từng phút để được gặp em, chỉ tại lúc nãy má sai anh đi công chuyện gấp, anh chạy muốn hụt hơi luôn mà em không thương, còn ở đó giận dỗi! Em xem nè, mồ hôi ướt áo anh luôn rồi nè!
Vừa nói, Khoa vừa kéo tay Mai vòng ra sau lưng mình. Quả thật, lưng áo Khoa ướt đẫm, bao nhiêu hờn giận, trách cứ trong lòng Mai trôi tuột một cách nhanh đến không ngờ. Cô âu yếm:
- Thôi… em xin lỗi! Tại em chờ lâu quá nên mới giận anh, tưởng anh không mong muốn gặp em, chứ một khi hiểu lòng anh rồi thì em không giận nữa!
Khoa đỡ Mai ngồi xuống bờ cỏ ven đường, vuốt ve mái tóc dài óng mượt của cô:
- Em không được nghĩ như vậy nữa nhé! Mình sắp xa nhau rồi, em phải tin tưởng ở tình yêu mà anh dành cho em chứ! Hễ mỗi chút mỗi nghi ngờ giận dỗi thì làm sao tình cảm của mình tròn vẹn được. Nhất là những lúc không được ở gần nhau, nếu em cứ mãi suy nghĩ vu vơ rồi buồn bã trách hờn, làm sao anh có thể dỗ dành em được…
Mai biết lỗi, dụi đầu vào ngực Khoa nũng nịu:
- Em biết em sai rồi, anh đừng la em nữa mà! Em hứa với anh, từ hôm nay em sẽ tuyệt đối tin tưởng vào anh. “Dù ai nói ngã nói nghiêng, lòng em vẫn vững như kiềng ba chân” há, anh chịu chưa?
Khoa cúi xuống đặt một nụ hôn lên má người yêu:
- Ừ, vậy phải ngoan hông! Vậy anh thương nhiều!
Mai ngẩng lên nhìn thẳng vào mắt Khoa:
- Nhưng mà… anh cũng phải hứa với em một điều!
- Điều gì? Em nói đi!
Khoa lại cúi xuống, hôn tới tấp lên gương mặt sáng rỡ của Mai. Mai xô Khoa ra, nghiêm giọng:
- Anh khoan tham lam như vậy, anh nghe em nói nè! Anh phải hứa, ngoài em ra anh không được để ý, không được có tình cảm với bất kỳ người con gái nào khác…
Khoa cũng làm mặt nghiêm hỏi lại:
- Với con gái thì không, nhưng với đàn bà chắc được phải không em?
Mai nhéo một phát thật mạnh vào tay Khoa:
- Lúc nào anh cũng giỡn được hết á! Em đang nói chuyện nghiêm túc mà! Đàn bà con gái gì cũng không hết, anh có chịu hứa với em không?
Khoa vừa xuýt xoa vừa cười:
- Cả làng này đều nói em hiền lành, thùy mị… Họ lầm hết rồi, em hung dữ y như sư tử Hà Đông vậy, lại còn ghen hơn cả Hoạn Thư nữa mới chết anh chớ!
Mai rân rấn nước mắt:
- Em hông có giỡn đâu… Em đang buồn thúi ruột nè…
Khoa thôi không cười nữa, anh đứng thẳng người, giơ một tay lên đầu vẻ long trọng:
- Con tên Trương Thái Khoa, năm nay con vừa đúng hai mươi tuổi, con xin thề có đất trời và vầng trăng kia chứng giám, suốt cuộc đời này của con, con nguyện yêu thương chỉ một mình Mai. Sau này khi tốt nghiệp ra trường, công thành danh toại, con sẽ cưới Mai về làm vợ. Nếu con thay lòng đổi dạ mà phụ bạc, ruồng rẫy Mai con xin được đất trời đem con ra xử bắn…
Vừa nghe Khoa nói tới đó, Mai hoảng hốt nhổm dậy bịt chặt miệng Khoa, lo sợ:
- Em không muốn anh thề độc như vậy đâu, em chỉ muốn anh hứa với em thôi mà! Anh thề độc địa vậy, lỡ sau này có chuyện gì…
Khoa cười xòa, đỡ Mai ngồi xuống:
- Em đừng lo, đó là những lời thật sự trong lòng anh, sẽ không bao giờ thay đổi, thì dù có thề độc hơn nữa anh cũng không sợ…
Mai ôm chầm lấy Khoa, nước mắt ràn rụa.
- Làm sao anh có thể thay lòng đổi dạ mà bỏ rơi em được hở Mai? Giữa chúng ta ngoài tình yêu mặn nồng còn có ân tình sâu đậm của em. Nếu không có em thì làm sao anh có thể tiếp tục ăn học, và nếu không có em thì ngày mai này làm sao anh có đủ khả năng để bước chân vào giảng đường Đại học?
Mai lắc đầu:
- Anh đừng nghĩ tới chuyện đó! Em yêu anh, được lo lắng cho anh là niềm vui, là hạnh phúc của em, em xin anh đừng bao giờ nói tới hai tiếng ân nghĩa!
Bàn tay Khoa mơn man trên má Mai, giọng bâng khuâng da diết:
- Con gái thời nay hễ có chút nhan sắc là nhắm đến các đại gia nhiều tiền lắm của, nhắm đến các anh chàng Việt kiều béo tốt rủng rỉnh đô la. Vậy mà em, một khoa khôi của vùng này, em lại không chê anh là một thằng học trò nghèo kiết xác, cơm không đủ no, áo không đủ mặc. Em thương anh, em không quản ngại nắng sương, tần tảo sớm hôm lo cho anh đủ mọi phương diện. Em giống như nàng Quỳnh Nga miệt mài bên khung cửi để kiếm tiền lo cho Trần Minh ăn học vậy…
Mai khẽ cười trong màn lệ:
- Em chỉ mong sao anh cũng giống như Trần Minh, đừng bao giờ tham sang phụ khó, được như vậy thì dù có vất vả hơn nữa em cũng cam tâm.
Khoa siết chặt Mai vào lòng, bồi hồi rung động.
Ánh trăng trãi rộng trên khắp cánh đồng lúa đang vào thời ngậm sữa, gió đêm nhè nhẹ thổi khiến cánh đồng như một mặt biển xanh lăn tăn gợn sóng. Từng làn sóng lúa nhấp nhô, phả vào không gian một mùi hương đằm thắm trong lành.
Thứ ánh sáng huyền hoặc đêm trăng càng làm nổi bật những đường nét thanh mảnh, đáng yêu và rất gợi tình của người con gái đẹp.
Ôm Mai trong vòng tay, cảm nhận được hơi ấm và mùi hương trinh nữ dịu dàng toát ra từ thân thể của người mình yêu, bỗng dưng lòng Khoa dâng lên một niềm khát khao cháy bỏng.
Anh cúi thấp xuống hôn lên mắt lên môi Mai những nụ hôn rừng rực lửa đam mê. Mai nhắm mắt tận hưởng niềm hạnh phúc ngút ngàn mà chỉ sáng mai thôi cô phải tạm thời xa vắng.
Từ khi quen biết rồi yêu thương nhau, Mai và Khoa chưa từng xa cách một ngày. Tuy không phải hai người mỗi ngày đều hẹn hò gặp gỡ, nhưng cả Mai và Khoa đều vững lòng vì luôn biết người mình yêu đang làm gì, và đang ở rất gần mình, chỉ cần đi qua một đoạn đường ngắn là có thể thấy mặt rồi.
Nhưng ngày mai… Ngày mai Khoa lên Sài Gòn nhập học. Sài Gòn với nơi đây chỉ cách nhau chưa tới hai trăm cây số, trong thời buổi xe cộ dập dìu như hiện nay có thể khoảng cách đó không phải là lớn. Nhưng bỗng nhiên Mai có cảm giác như cách trở nghìn trùng, xa xôi diệu vợi…
Rồi đây mỗi ngày Mai không thể nào biết được Khoa đang làm gì, đang ở đâu, mạnh khỏe thế nào đau ốm ra sao Mai cũng không biết được.
Người ta thường nói câu “xa mặt cách lòng”, ngày mai xa mặt rồi, chỉ xin lòng đừng cách!
Biết bao nhiêu cuốn tiểu thuyết, biết bao nhiêu vở cải lương đã nói tới chuyện người con trai lên Sài Gòn ăn học, rồi khi thành đạt lại phụ rẫy người yêu ở chốn quê mùa. Mai lo sợ mình cũng phải bước vào con đường đau thương đó. Một nỗi lo sợ đến mức hãi hùng làm cho Mai suốt từ hôm biết Khoa có giấy gọi nhập học đã ăn ngủ không yên, tinh thần chao đảo.
Có lúc Mai muốn Khoa bỏ tất cả, đừng thèm tới bằng cấp, đừng thèm tới dang vọng làm gì, hãy cứ ở lại đây, cùng nhau xây dựng một mái nhà hạnh phúc. Trong mái nhà ấy có người vợ hết mực chìu chồng và những đứa con ngoan ngoãn, xinh tươi; trong mái nhà ấy có người chồng biết yêu thương vợ, biết đem lại tiếng cười giòn giã cho vợ cho con.
Viễn cảnh đó thật đẹp biết bao và Mai chỉ cần có vậy. Nhưng cô không dám mở lời với Khoa, vì Mai biết với người đàn ông thì sự nghiệp luôn được đặt ở hàng đầu, nhất là với Khoa.
Nhà Khoa nghèo nhất làng. Cha theo người ta đi tàu đánh cá, không may gặp cơn bão lớn đã vĩnh viễn không về từ sáu năm trước. Từ lúc ấy mẹ Khoa trở nên ngớ ngẩn, không còn biết tính toán làm ăn gì.
Nhà có mấy sào ruộng, Khoa phải đem cho người ta thuê để lấy lúa ăn hàng năm và nhín nhút tiền ăn học.
Khoa học rất giỏi, vì vậy năm nào cũng được nhận học bỗng và vì hoàn cảnh khó khăn như thế nên được nhà trường miễn giảm nhiều khoản tiền. Tuy nhiên, cuộc sống của hai mẹ con Khoa luôn thiếu trước hụt sau. Bởi vì cuộc sống đâu chỉ có ăn cơm trắng và việc học hành đâu chỉ có các khoản lệ phí ở trường.
Thi thoảng mẹ Khoa cũng kiếm được chút ít khi những người trong làng thuê làm một vài việc lặt vặt nào đó. Khoa cũng vậy, tranh thủ những ngày hè, ngày nghỉ, ai mướn làm gì Khoa cũng làm. Nhưng thu nhập của cả hai mẹ con không được bao nhiêu lại bấp bênh như thế nên đã nhiều lần Khoa suýt bỏ học nửa chừng.
Yêu thương và nể phục sự phấn đấu vươn lên của Khoa, Mai không ngần ngại những lời đàm tiếu. Cô buôn bảo bán tần, tiện tặn từng đồng để dành dụm lo cho Khoa.
Mai mồ côi từ nhỏ, sống với bà ngoại già nua ốm yếu. Với mấy sào ruộng và sạp hàng nhỏ ngoài chợ xã cuộc sống của hai bà cháu Mai cũng tương đối dễ chịu. Nhưng từ khi yêu Khoa, gánh nặng trên vai Mai ngày một trĩu xuống. Mai lo cho Khoa ăn học, lo cho mẹ Khoa những lúc bà ốm đau…
Dân làng không ít người chê bai, họ cho là Mai ngu dại. Vì tuy là con nhà nghèo, không được ăn học tới nơi tới chốn nhưng nhan sắc Mai lại nổi bật, tính nết lại không chê vào đâu được. Đã có không ít đám khá giả ngắm nghé, Mai chỉ cười và lắc đầu. Mới hồi năm ngoái, bà Năm xóm trên cậy người đánh tiếng hỏi Mai cho cháu bà, là một Việt kiều Mỹ, ở bên đó có cả một nhà hàng sang trọng hẳn hoi nhưng Mai vẫn một lòng yêu Khoa không hề chao đảo.
Bỏ ngoài tai những lời gièm pha, chê trách, Mai dành trọn cho Khoa một tấm chân tình.
Khoa thường tâm sự với Mai rằng anh sẽ cố gắng vươn lên để thoát khỏi kiếp đời nghèo khó. Anh sẽ đem lại cho Mai một cuộc sống đầy đủ, hạnh phúc. Khoa sẽ khẳng định được vị trí của mình trong xã hội bằng chính con đường học vấn của anh.
Vậy thì làm sao Mai có thể khuyên Khoa bỏ tất cả để ở lại đây với cô? Mai tự thẹn vì sự ích kỷ quá đáng của mình. Một khi đã yêu Khoa, đã nâng đỡ Khoa đi trên con đường học vấn đó mấy năm nay, thì sao bây giờ khi đã sắp đến đích Mai lại nhẫn tâm bắt anh dừng lại? Yêu là phải biết hy sinh! Mai dặn lòng mình trăm ngàn lần như vậy.
- Em nghĩ gì mà thẫn thờ ra vậy?
Khoa hỏi.
Mai áp bàn tay Khoa lên má mình:
- Em nghĩ tới lúc phải xa anh, chắc em sẽ nhớ anh không chịu nổi! Anh có biết là… em yêu anh nhiều lắm không?
Bàn tay Khoa vuốt từ mặt xuống tới cổ rồi từ từ đi dần xuống, anh hổn hển nói:
- Mai, anh biết… anh biết chứ! Anh cũng rất yêu em…
Những chiếc nút áo của Mai lần lần được Khoa mở hết, phô bày dưới ánh trăng đôi gò bồng đảo căng tràn sức sống tuổi thanh xuân.
Ngọn lửa khát khao bùng dậy, Khoa không dừng lại ở đó như những lần trước, bàn tay tham lam vội vã của Khoa hấp tấp tiến xa hơn nữa. Mai run rẩy níu tay người yêu lại:
- Anh… đừng anh…!
Khoa như kẻ mê man:
- Mai, anh van em… Anh yêu em lắm! Em đừng từ chối nữa… Ngày mai anh đi rồi, em không muốn cho anh vui trọn đêm nay sao?
Mai chống trả yếu ớt:
- Em… em sợ…
- Em sợ gì? Chúng mình rồi sẽ thành chồng thành vợ… Em không tin anh sao?
Hơi thở hổn hển và cơ thể nóng rực của Khoa đè bẹp sức kháng cự mong manh nơi người con gái. Những nụ hôn vội vã, tham lam đi vào vùng trái cấm đã làm Mai như tê liệt, cô không còn sức để chống đối, mà thật sự lúc này đây cô cũng không muốn chống đối nữa.

Vòng tay Mai cũng ôm siết lấy Khoa, họ cùng đưa nhau đến cõi thiên đường…
Trên bầu trời, vầng trăng mười sáu lên cao rắc vàng lóng lánh. Ánh trăng bàng bạc xuyên qua kẽ lá, nhảy múa rung rinh trên khắp các cành cây. Gió nhẹ thổi. Đêm yên tĩnh quá. Ở phía xa xa, xóm làng đã đi vào giấc ngủ, nhưng nơi đây vẫn còn lại tiếng thầm thì của hai người trẻ tuổi yêu nhau…
 
***
- Anh Khoa ơi, em mệt quá rồi! Cho em nghỉ một tí đi!
Thắm gục mặt xuống bàn, nhõng nhẽo.
Khoa nghiêm giọng:
- Không được! Em phải học cho hết bài này thì mới được nghỉ. Mấy hôm nay anh thấy em lười quá đó nghen, chút nữa hai bác về anh méc đó!
- Thầy gì mà khó tính thấy sợ à! Hổng biết thương, biết cưng học trò gì hết! Anh hành hạ em, bắt em học hoài, em… chết cho anh coi!
Khoa phì cười trước thái độ trẻ con của Thắm:
- Thôi được rồi, anh thua em đó! Cho em nghỉ đúng năm phút thôi nhe! Đúng năm phút sau phải học hành nghiêm túc nhé!
Thắm ngồi bật dậy cười tươi:
- Ok! Như vậy có phải dễ thương hông!
Khoa kéo ghế ngồi xuống cạnh bên Thắm, mắt chăm chú nhìn vào quyển sách dày cộm để trên bàn.
- Mệt anh quá đi, cứ tối ngày chúi đầu vô sách vở! Dẹp đi, dẹp hết đi, nói chuyện với em nè!
Thắm vừa nói vừa gấp quyển sách lại rồi đẩy ra xa.
Khoa nhìn Thắm lắc đầu:
- Em thiệt là… Em lười biếng rồi cũng muốn người khác lười biếng theo nữa hay sao?
Thắm chu môi nũng nịu:
- Tại vì bây giờ em muốn nói chuyện với anh!
- Chuyện gì vậy cô nương?
Khoa hỏi.
Thắm nhìn Khoa vẻ lí lắc:
- Anh Khoa có vợ dưới quê chưa?
- Em hỏi chi vậy? Bộ tính làm mai cho anh hả?
Khoa cười cười hỏi lại.
Thắm nghiêng người ra xa để ngắm Khoa một lúc rồi nói:
- Anh Khoa đẹp trai nè, học giỏi nè, chắc có nhiều cô thương lắm há? Anh kể chuyện tình yêu của anh cho Thắm nghe đi…
Khoa cười lớn:
- Anh đã yêu bao giờ mà kể?
- Xạo, em hông tin đâu!
- Anh nói thiệt đó, không phải xạo với em đâu. Nhà anh nghèo quá, đâu cô nào dám thương.
Thắm nheo mắt:
- Nếu như người ta thương anh, anh có từ chối không?
- Trời, được người ta thương anh mừng không hết, sao lại từ chối hả em? Nhưng mà em ơi, hổng ai thèm thương anh đâu…
Khoa làm ra vẻ khổ sở.
Thắm chợt trở nên bối rối:
- Mà em hỏi thiệt, ở dưới quê anh đã có người yêu chưa?
Khoa làm mặt giận:
- Anh nói rồi, em không tin thì thôi! Em hỏi bao nhiêu lần anh cũng chỉ trả lời một câu đó!
Thắm nhoẻn cười:
- Em tin rồi! Em không hỏi nữa đâu…
- Ủa, mà em hỏi chi vậy? Bộ tính làm mai cho anh thiệt hả? Ai vậy? Nói cho anh biết được hôn?
Khoa kề sát vào mặt Thắm hỏi nhỏ.
Hai gò má Thắm đỏ hồng lên, cô quay ngoắt về phía khác đánh trống lảng:
- Hết năm phút rồi thầy ơi!
- Trời, không ngờ học trò siêng bất tử như vậy!
Khoa cười lớn rồi đứng lên giảng tiếp bài học dở dang, nhưng có lẽ Thắm không tập trung được mấy. Cô vẫn ngồi im ngó thẳng về phía Khoa, nhưng ánh mắt cô lại mơ màng một điều gì khác hẳn.
Thắm là sinh viên năm thứ nhất cùng trường Đại học với Khoa. Hơn hai tuần nay Khoa được ba mẹ Thắm mời về dạy kèm tiếng Anh cho Thắm tại nhà.
Hơn bốn năm sống đời sinh viên, đều đặn mỗi tháng Khoa vẫn nhận được tiền từ dưới quê do Mai gởi lên. Đáng lẽ Khoa không cần phải vất vả kiếm chỗ dạy kèm, mà dành toàn bộ thời gian chuyên tâm vào việc học. Nhưng Khoa luôn là người tính toán kỹ càng trong mọi công việc. Khoa muốn đến dạy kèm cho con cái những gia đình giàu có và thế lực, gây cảm tình để còn nhờ vả về sau.
Ở cái thành phố đầy bon chen này, một đứa quê mùa, không ai quen biết như Khoa thì sau này dễ gì tìm được một chỗ làm như mong muốn. Mà cái sự mong muốn của Khoa lại không hề đơn giản chút nào!
Tốt nghiệp ra trường, làm một anh kỹ sư quèn thì có gì phải nói! Ước mơ của Khoa cao hơn, lớn hơn rất nhiều. Khoa không muốn mình phải miệt mài phấn đấu để vài ba năm sau mới có thể được cất nhắc lên một chức vụ gì đó be bé, rồi lại phải phấn đấu, phải khom lưng để nhích lên từng bước. Không! Nhất định không như thế! Khoa muốn khi vừa tốt nghiệp anh phải được đặt vào một chiếc ghế thật cao, thật vững vàng để có thể thoải mái ngồi đó quan sát đám “quần thần” kẻ cúi người khom bên dưới. Phải như thế! Cái tham vọng đó đã được Khoa dưỡng nuôi từ thời còn học phổ thông. Đến hôm nay, khi đã hòa mình vào nhịp sống sôi động của cái thành phố đông đúc này, được tận mắt chứng kiến sự chênh lệch rõ ràng giữa hai tầng lớp nghèo và giàu thì tham vọng đó càng thêm lớn mạnh.
“Cuộc đời là bể cả, ai không bơi sẽ chìm”, đó là câu danh ngôn mà Khoa luôn tâm niệm. Khoa đã và đang bơi, Khoa nhứt định phải tới bờ bên kia bằng những đường bơi ngắn nhất. Muốn như vậy, phải biết lựa dòng nước mà bơi, phải biết xuôi theo chiều gió, phải biết cưỡi lên đầu những con sóng để được nó trợ lực bơi xa…
Chính vì những suy nghĩ đó, khi nghe ba mẹ Thắm cần một gia sư dạy tiếng Anh cho con gái, Khoa đã nhanh chóng đến ứng tuyển. Ngay lần gặp mặt đầu tiên, nhìn dáng vẻ hiền lành thanh lịch của Khoa, cộng với bảng thành tích học tập đáng để nhiều người nể phục, ba mẹ Thắm đã rất hài lòng.
Ba của Thắm là một quan chức khá lớn trong ngành Viễn thông, ngành mà Khoa đang theo học. Mẹ Thắm cũng giữ một chức vụ không nhỏ ở một Ngân hàng.
Lúc mới tới đây, mục đích của Khoa là tạo lập mối quan hệ để khi ra trường có ngay người đỡ đầu, cất nhắc. Nhưng chỉ mấy ngày sau, Khoa khám phá Thắm là đứa con gái duy nhất của hai ông bà, lại chưa từng có người yêu, thế là ngay lập tức Khoa đổi mục tiêu, không còn nhắm vào hai ông bà nữa mà là nhắm vào cô con gái rượu của hai người.
Từ hôm đó, Khoa cảm thấy như mình đang tiến đến gần, rất gần một địa vị mà nếu vuột qua cơ hội này, có lẽ phấn đấu cả đời cũng không làm sao đạt tới.
Mỗi ngày, Khoa luôn cố gắng hết sức mình để giảng dạy cho Thắm tiến bộ một cách nhanh nhất. Mà quả thật Thắm tiến bộ rất nhanh, khiến ông Hòa ba Thắm cũng không khỏi ngạc nhiên và khâm phục chàng sinh viên tỉnh lẻ.
Mới dạy hơn hai tuần mà tình cảm giữa Khoa và Thắm đã trở nên khắn khít. Nói đúng hơn là Thắm đã dành cho Khoa một thứ tình cảm lớn hơn tình nghĩa thầy trò, anh em. Trước mắt mọi người trong nhà Thắm, Khoa luôn là một người thầy tận tụy, đứng đắn. Chưa bao giờ Khoa buông lời trêu ghẹo hay bóng gió xa xôi gì với Thắm. Khoa đến dạy rất đúng giờ và thường về trễ hơn vì phải ở lại hướng dẫn giúp Thắm những bài học trên giảng đường mà cô không theo kịp.
Ông bà Hòa thường nói với nhau là may mắn lắm mới tìm được một thanh niên như Khoa về dạy cho con gái.
Riêng Thắm, sự ngưỡng mộ mà cô dành cho Khoa còn vượt trội hơn cha mẹ nhiều lần. Trong mắt cô, Khoa vừa đẹp trai, vừa tài giỏi, vừa lịch sự đàng hoàng. Nói chung, Khoa là mẫu người mà cô luôn mơ ước.
Thắm không thuộc loại phụ nữ đẹp nhưng rất dễ thương và có duyên ăn nói. Nhưng cái ưu điểm nổi bật ở Thắm khiến cho lắm anh chàng đeo đuổi chính là “nhà mặt phố, bố làm to”. Thắm cũng thừa biết điều đó, nên trong chuyện tình cảm cô rất dè dặt. Suốt những năm học phổ thông rồi cả khi vào Đại học, trái tim Thắm vẫn chưa một lần mở ngõ để đón chàng trai nào. Nhưng từ ngày gặp Khoa, tim cô đã bắt đầu hé mở.
Điều làm Thắm nể phục nhất ở Khoa chính là nhân cách của anh. Thắm xác định Khoa là một người vô cùng đứng đắn, vì đã mấy lần, Thắm cố tình tỏ ý lả lơi để xem thái độ Khoa phản ứng thế nào, nhưng tuyệt nhiên anh không hề lợi dụng điều đó như đa số những thanh niên khác mà Thắm từng nghe kể đến.
Sáng nào Thắm cũng nấn ná ở cổng trường để chờ thấy Khoa một chút. Có khi Khoa không có giờ học, Thắm lại thấy sân trường hôm đó thật vắng vẻ đìu hiu.
Về nhà là Thắm trông mong tới giờ học, học xong lần nào Thắm cũng viện cớ không hiểu bài này bài khác để nhờ Khoa chỉ giúp.
Nhiều khi Thắm muốn mở lời xin ba mẹ cho Khoa tới ở ngay tại nhà mình để tiện giúp Thắm trong việc học, nhưng Thắm chỉ nghĩ vậy thôi chứ không dám nói.
Thắm biết mình đã yêu Khoa rồi, cô chỉ lo Khoa đã có người khác trong tim. Vì thế cô đã cố tình dò xét, tìm hiểu những bạn bè ở trường và được biết, ngoài giờ học, Khoa lại chúi đầu vào nghiên cứu, đọc sách vở, nên ngoài những giao tiếp thông thường, Khoa không hề có một mối liên hệ thân thiết nào với bạn gái.
Thông tin đó làm Thắm vui lắm, hôm nay cô hỏi thẳng Khoa về chuyện người yêu ở quê là muốn cho mình càng thêm vững bụng mà nuôi dưỡng tình yêu đó.
- Ủa, hết giờ rồi mà hai đứa còn học sao?
Ông Hòa cười tươi khi cùng vợ bước vô nhà.
Khoa đứng lên lễ phép cúi chào:
- Dạ, tại bài hôm nay hơi khó, cháu phải nói kỹ hơn chút ạ!
Bà Hoa hài lòng, mỉm cười nhìn con gái:
- Hiểu bài chưa con? Ráng tập trung học đừng để anh Khoa vất vả quá đó nghe không?
Thắm dỗi:
- Mẹ làm như con tối dạ lắm không bằng! Anh Khoa chỉ cần dạy sơ qua một lần là con hiểu liền! Nhưng mà phải công nhận, anh Khoa hợp với nghề sư phạm ghê đó, ảnh giảng bài rất hay, nghe không chán như mấy ông thầy ở trường.
Ông Hòa gật gù:
- Con nói cũng đúng lắm!
Rồi quay sang Khoa ông nói tiếp:
- Vợ chồng tôi mang ơn cậu lắm đó! Con Thắm nhà tôi bao năm nay học môn gì cũng khá giỏi, chỉ riêng môn ngoại ngữ là cứ lết bết đi sau thiên hạ. Hồi còn học phổ thông, tôi đã mời mấy giáo sư có tên tuổi về kèm cho nó, mà học với ai nó cũng kêu chán, kêu học không vô. Bây giờ, cậu mới dạy chưa bao lâu mà nó đã tiến bộ thấy rõ rồi! Chúng tôi sẽ tăng tiền lương cho cậu.
Khoa mỉm cười hiền hậu:
- Dạ thưa bác, hai bác đừng nghĩ tới chuyện đó, cháu chỉ là làm tốt nhiệm vụ của mình, việc tiến bộ là hoàn toàn do ở nơi Thắm. Có thể trước đây vì còn nhỏ, Thắm chưa ý thức hết nên mới không thích học. Cháu không dám nhận thêm đâu ạ!
Bà Hòa nghe những lời khiêm tốn của Khoa càng thêm hài lòng, bà cười rạng rỡ:
- Cháu nói vậy sao được, dù thế nào hai bác đây cũng phải thưởng công cho cháu chứ! Hợp đồng về dạy tiếng Anh thôi, mà cháu lại phải chỉ dẫn cho Thắm đủ các môn khác nữa…
Khoa cười:
- Dạ, có gì đâu bác.
Thắm chạy lại ôm vai mẹ:
- Con có ý kiến như vầy, ba mẹ mời anh Khoa đi ăn một bữa cho vui đi, ba mẹ đồng ý không?
Cả hai vợ chồng ông Hòa đều gật đầu. Bà Hòa nhanh nhẩu:
- Hôm nay cháu có bận gì không? Nếu không hai bác mời cháu đi với gia đình bác ngay bây giờ?
Khoa từ chối:
- Dạ, con cảm ơn hai bác, nhưng xin phép hai bác cho con hẹn lại dịp khác, vì hôm nay con còn nhiều bài vở lắm.
Bà Hòa chép miệng:
- Tiếc quá! Nhưng nếu cháu bận việc thì hai bác không dám nài ép. Nhưng hôm khác hai bác mời trước, cháu phải sắp xếp nhé, không được từ chối lần nữa đâu đấy!
- Dạ, cháu hứa ạ!
Khoa nói xong, xếp lại sách vở trên bàn để chuẩn bị ra về.
Thắm phụng phịu:
- Anh Khoa này khó tính lắm mẹ ơi! Ảnh dạy con học mà mời ăn uống gì ảnh cũng từ chối hết á!
Bà Hòa phật ý, rầy Khoa:
- Coi cháu kìa, ai lại khách sáo thế? Cháu với con Thắm nhà bác học cùng trường thì đã là bạn bè anh em với nhau rồi, lại thêm có tình thầy trò, đáng lý ra phải thân tình hơn chứ! Hai bác muốn cháu đến đây thật thoải mái, xem như anh em với con Thắm nhà này, đừng giữ thái độ làm khách như vậy, hai bác buồn lòng lắm đó!
Ông Hòa tiếp lời vợ:
- Bác gái cháu nói đúng đó! Từ nay tới đây cháu cứ tự nhiên như ở nhà mình, không nên giữ kẻ như vậy nghe không?
Khoa lúng túng gật đầu:
- Dạ… cháu cảm ơn hai bác, cháu sẽ nghe theo ạ!
- Ừ, như vậy mới vui chứ!
Bà Hòa mỉm cười.
Thắm nhìn vào mắt Khoa, cười chúm chím:
- Anh Khoa nhớ đó nghe, từ nay hổng được khách sáo với em nữa à nghen!
Khoa cười, đứng lên xin phép:
- Thưa hai bác cháu về! Anh về nhe Thắm!
- Em đưa anh ra cổng.
Thắm nhanh nhẩu trả lời rồi đứng lên theo Khoa ra cửa.
Vợ chồng ông Hòa nhìn theo một lúc rồi nhìn nhau mỉm cười.
Bà Hòa nói khẽ:
- Tui chấm thằng đó rồi nghen ông! Được thằng rể như nó là tui yên tâm lắm!
Ông Hòa trêu vợ:
- Bà không cần biết thành phần xuất thân của nó sao?
Bà Hòa cười lớn:
- Tui đâu phải mấy ông bà già cổ hủ mà đòi hỏi phải môn đăng hộ đối rồi làm khổ con mình. Với lại vợ chồng mình chỉ có mỗi một con Thắm, chẳng lẽ không nuôi nổi nó hay sao mà cần phải kiếm chồng giàu cho nó để nhờ vả?
Ông Hòa gật gù:
- Tui cũng đồng ý với bà, nhưng mình cũng cần phải dò xét nó thêm một thời gian nữa bà ạ!
Bà Hòa liếc xéo chồng:
- Cái ông này thiệt là… chẳng lẽ tui biểu tụi nó cưới nhau ngay ngày mai hay sao mà ông lo?
Hai vợ chồng cùng cười vui vẻ rồi dắt tay nhau lên lầu, tình cảm thắm thiết như hồi còn trẻ.
- Chiều mai anh Khoa có bận gì không?
Thắm vừa mở cổng, vừa hỏi.
Khoa đá cái chống xe đạp lên, trả lời:
- Thì… bốn giờ anh tới đây dạy Thắm.
- Em muốn hỏi là sau khi dạy em kìa, anh có bận gì không?
- Chiều mai thì không có việc gấp. Có gì vậy Thắm?
Khoa thắc mắc.
Thắm nũng nịu:
- Em có hai vé xem phim. Anh Khoa đi với em nha, nha! Anh không được từ chối đó, lúc nãy anh vừa mới hứa…
Thấy Khoa đứng im ra chiều suy nghĩ, Thắm cầm lấy hai tay Khoa lắc mạnh:
- Đi với em nha anh! Đi đi mà, hứa với em đi…
- Thôi được rồi, anh đi với em, chịu chưa?
Khoa cốc nhẹ vào trán Thắm.
Thắm vui mừng ôm chầm lấy Khoa:
- Hoan hô anh! Như vậy mới là tốt với em chứ!
Rồi như nhận ra hành động của mình hơi quá đà, Thắm vội vàng lùi lại, lúng túng.
Khoa khẽ cười:
- Thôi anh về nhé! Em vô nhà đi!
- Dạ, anh về!
Thắm đáp nhỏ rồi đứng nhìn theo dáng Khoa đạp xe đi một quãng thật xa mới chịu quay vào.
Khoa nhấn mạnh chân để những vòng quay của bánh xe nhanh hơn nữa, anh vừa đạp xe, vừa huýt sáo vang vang. Lòng Khoa đang ngập tràn niềm hạnh phúc. Bàn chân của Khoa đã sắp đặt vào chỗ danh vọng rồi!
Vừa ló mặt vô phòng ký túc xá, thằng bạn giường bên nói:
- Ê, hồi chiều mầy có giấy mời lĩnh tiền đó! Thằng này sướng thiệt, tháng nào gia đình cũng gửi tiền đều đặn, chứ ai như tao, mấy bữa nay ăn mì tôm dài dài rồi mà tiền đâu vẫn không thấy tới.
- Ừ, để sáng mai tao đi lãnh tiền rồi về cho mầy mượn xài đỡ.
Khoa đáp lời bạn, nụ cười trên môi tắt ngấm.
Mối lo lớn nhất trong lòng Khoa lúc này là Mai.
Thật tình trước đây Khoa rất yêu Mai, anh luôn nghĩ tới ngày được cưới cô về làm vợ. Khoa tự hào mình có được người yêu như thế.
Nhưng từ khi lên Sài Gòn, được tiếp xúc với nhiều người, nhiều giới, Khoa mới nhận ra tình yêu của mình rất dại khờ.
Mai tuy đẹp nhưng học hành không bao nhiêu, lại quê mùa chất phác, so với các cô gái quanh đây thì cái đẹp của Mai không còn chút giá trị nào. Nếu cưới Mai, chắc chắn cô sẽ là người vun vén gia đình một cách hoàn hảo, nhưng ngoài việc đó ra Mai còn làm được gì? Mai sẽ không giúp gì được cho Khoa trong sự nghịêp, cũng không thể cùng anh đến các buổi tiệc tùng long trọng. Nếu lỡ ai đó hỏi “Bà xã anh tốt nghịêp Đại học nào?” Khoa biết phải trả lời sao?
Không! Không thể cưới Mai.
Nhưng Khoa cũng không thể dứt khoát với Mai được. Mai đã nuôi anh ăn học ròng rã bao nhiêu năm qua. Rồi từ ngày anh lên Sài Gòn, Mai lại phải thay anh chăm sóc người mẹ quanh năm đau ốm của anh. Những ngày mẹ đau nặng, Mai phải thức suốt mấy đêm liền bên giường bệnh, đến khi bà đời cũng một tay Mai lo liệu việc tang ma.
Từ ngày bà ngoại Mai mất, mỗi lần về thăm nhà Khoa lại sống với Mai như vợ chồng ở chính ngôi nhà nhỏ của Mai, điều đó cả làng hầu như ai cũng biết. Trước mắt dân làng, Khoa và Mai đã là vợ chồng dù thật sự chưa cưới hỏi.
Khoa không thể dứt khoát với Mai. Nhưng nếu không dứt khoát, thì làm sao Khoa có thể tiến tới với Thắm được? ĐoÙ là điều trăn trở rất lớn trong đầu Khoa suốt hai tuần nay.
Cái ý nghĩ không cưới Mai đã manh nha trong đầu Khoa từ hồi mới chân ướt chân ráo lên Sài Gòn, nhưng Khoa chưa nghĩ tới chuyện dứt khoát. Dẫu vậy tình cảm cũng vơi đi rất nhiều, Khoa không còn nhớ nhung cháy bỏng như hồi mới xa nhau, những lá thư Khoa viết cho Mai cũng thưa thớt dần, và mỗi khi viết cũng viết qua loa đại khái, với lý do bài vở quá nhiều, không còn thời gian trống. Rồi từ khi mẹ mất, Khoa lại ít về quê. Những lúc gặp nhau, Mai có trách hờn khóc lóc thì Khoa cũng đem hết lý lẽ ra để biện hộ, và bao giờ Mai cũng ngoan ngoãn tin theo.
Nhưng đến lúc này, Khoa cần phải chấm dứt ngay mối quan hệ với Mai. Nếu lỡ gia đình Thắm biết được thì tất cả mọi cố gắng của Khoa sẽ đem đổ sống đổ biển, tương lai rực sáng của Khoa sẽ tan tành ngay tức khắc.
Nhưng chấm dứt bằng cách nào thì Khoa chịu, không nghĩ ra được!
“Trước mắt, mình phải hạn chế tối đa sự liên lạc giữa mình và Mai, rồi sau đó tính tiếp! Không thể để món tiền còm cõi hàng tháng này hủy hoại tương lai mình được!” Cuối cùng Khoa nghĩ vậy.
Khoa vội vã lấy giấy bút viết cho Mai một bức thư. Sau những câu thăm hỏi xã giao, Khoa chốt lại: “Hiện nay anh đã đi dạy kèm cho người ta nên đủ tiền sinh hoạt rồi, em đừng gởi gì lên cho anh nữa nhé!”
Viết xong mấy dòng ngắn ngủi, Khoa cẩn thận bỏ vào phong bì dán lại rồi khoan khoái chui vô mùng nằm vạch kết hoạch cho buổi đi xem phim với Thắm chiều mai.
 
***
- Anh Khoa thấy em có đẹp hông?
Thắm xoay một vòng trước mắt Khoa làm chiếc đầm xòe ra như một cánh dù hoa sặc sỡ. Trông Thắm lúc này thật dễ thương và nhí nhảnh như một cô bé con.
Khoa nheo nheo mắt:
- Ui chà, em mà không lên tiếng là anh không nhận ra rồi, anh tưởng trong nhà em vừa xuất hiện một cô tiên!
Thắm đấm thùm thụp vào lưng Khoa:
- Anh này thấy ghét quá đi! Anh nói vậy là anh chê trước nay em xấu lắm phải hôn?
Khoa giơ hai tay lên:
- Anh đầu hàng ! Đừng đánh anh nữa! Hổng phải anh chê em đâu, bình thường em đẹp một cách khác, lúc này em đẹp một cách khác, không giống nhau. Mà phụ nữ biết làm thay đổi mình là cả một nghệ thuật đó nghe em!
Thắm cười thẹn thùng:
- Anh dẻo miệng quá đi!
- Anh nói thiệt, anh không biết nịnh đầm đâu! Nông dân mà em, nghĩ sao nói vậy thôi!
Thắm sung sướng khoác tay Khoa một cách tự nhiên:
- Mình đi đi anh, để trễ giờ đó! Anh lấy xe em đi nhe?
Khoa lúng túng một chút rồi nói một cách miễn cưỡng:
- Thôi được rồi, em ăn mặc vầy, hổng lẽ anh bắt em ngồi lên chiếc xe đạp cà tàng của anh sao?
Thắm cười tươi:
- Cũng đâu có sao! Tại hôm nay sợ trễ phim, chứ không thôi em sẽ đòi anh chở em bằng xe đạp đó! Như vậy càng thêm lãng mạn. Anh không nhớ bài hát “Xe đạp ơi!” của Ngọc lễ sao?
Hỏi xong, chưa đợi Khoa trả lời, Thắm đã cất tiếng hát khe khẽ, hai chân nhún nhẩy theo nhịp điệu:
“Nhớ khi xưa anh chở em trên chiếc xe đạp cũ…”
- Hôm nay anh mới biết em có giọng ca hay đến vậy!
Khoa vỗ tay.
Thắm không hát nữa, thầm thì:
- Em “bật mí” cho anh biết nha, hồi học lớp mười hai, em đi thi hát Karaokê cấp thành phố và đạt được giải nhì đó nha!
- Anh phục em sát đất! Thôi, mời ca sĩ ra xe, không thôi chút nữa trễ phim lại bắt đền anh, anh không có sẵn kẹo để dỗ đâu.
Hai người cười vang, khoác tay nhau đi ra cổng.
Lúc Khoa đưa Thắm vào đến rạp thì trên màn ảnh đã bắt đầu trình chiếu.
Đây là một bộ phim tâm lý xã hội đang được giới trẻ hâm mộ, nhưng nội dung của nó hơi nghiêng nặng về khía cạnh tình yêu trai gái. Trong phim có rất nhiều cảnh nóng và cả những cảnh éo le khiến người xem vừa thẹn thùng vừa phải bồi hồi xúc động.
Vốn tính nhạy cảm, Thắm không cầm nước mắt khi xem đến đoạn nhân vật chính lặn lội đường xa vạn dặm để tìm gặp mặt người yêu. Nghe tiếng Thắm sụt sịt khóc, Khoa không hề trêu chọc mà trái lại, anh nhẹ nhàng chạm vào tay Thắm như sẻ chia niềm cảm xúc. Thắm tựa hẳn đầu mình lên vai Khoa và cảm thấy như mình đang được chở che, nương tựa. Niềm hạnh phúc ngọt ngào dâng lên tràn ngập tâm hồn làm nước mắt Thắm trào ra không ngừng, những giọt nước mắt hạnh phúc chứ không còn là xót thương cho nhân vật trên phim nữa.
Khoa vòng tay qua vai Thắm, khe khẽ vuốt mái tóc bỏ lửng bờ vai của cô và chỉ dừng ở đó.
Khi đèn trong rạp phim bật sáng, Thắm e thẹn nhấc đầu ra khỏi vai Khoa, không ai nói với ai lời nào nhưng đã hiểu được tình ý của nhau, điều đó làm Thắm vô cùng sung sướng.
Ra khỏi rạp phim, Thắm không chịu về nhà ngay mà đòi Khoa chở đi ăn kem.
Ngồi sau xe, Thắm vòng tay ôm chặt lấy Khoa, áp hẳn mặt mình vào tấm lưng vững chắc của Khoa mà nghe lòng rộn rã.
Lần đầu tiên biết yêu, lần đầu tiên có những cử chỉ tiếp xúc thân mật với người khác giới, Thắm càng trở nên ngây ngất, đê mê.
Dừng xe trước một quán kem có khung cảnh nên thơ, Khoa đưa Thắm vào ngồi ở một góc khuất.
Thắm nhìn anh thật lâu rồi hỏi:
- Anh Khoa… anh có thương Thắm không?
Khoa cúi mặt buồn buồn, tay cầm muỗng khuấy nhẹ vào ly cà phê:
- Anh… anh cũng không biết phải trả lời với em sao nữa?
Thắm ngạc nhiên:
- Anh nói vậy là sao? Hay là… anh không có chút tình cảm nào với em?
Khoa chồm qua bàn, nắm chặt tay Thắm, nhìn thẳng vào mắt cô bằng ánh mắt thật buồn:
- Không! Anh thương em. Thương em ngay hôm đầu tiên anh gặp em ở sân trường. Nhưng anh nghĩ… anh không xứng đáng với em, anh không có quyền yêu em…
- Em không hiểu?
Thắm ngây thơ hỏi lại.
- Tại vì… anh chỉ là một sinh viên tay trắng, một đứa mồ côi, thì làm sao anh dám nói tiếng yêu em. Người đời sẽ cho là anh đang lợi dụng em, anh không muốn điều đó. Thà rằng mãi mãi anh giấu kín tình yêu này trong tim… Vậy mà hôm nay anh đã không kìm nén được. Anh… anh thành thật xin lỗi em! Em hãy coi như giữa chúng ta chưa hề xảy ra chuyện gì, được không em?
Thắm rớt nước mắt:
- Anh nói vậy mà anh nghe được sao? Anh thương em thì anh phải biết tới cảm nhận của em chứ! Người ngoài ai nói gì thì mặc người ta. Chỉ cần em hiểu anh và anh hiểu em là đủ rồi. Với lại anh đâu có gì kém cỏi mà phải tự ti như thế? Ba em nói rồi, ba nói người có chí như anh sẽ tiến rất xa trong sự nghiệp. Anh không được để em buồn…
Khoa bối rối:
- Nhưng anh…
- Không nhưng gì hết! Anh biết em thương anh đến mức nào không? Anh là người con trai đầu tiên em thương yêu đó! Nếu anh cũng thương em thì không lý do gì anh phải che giấu tình cảm của mình. Em không cho phép anh làm vậy đâu! Chỉ trừ trường hợp anh đã có người yêu rồi thì em sẽ tự động rút lui, dù yêu anh đến mấy em cũng không bao giờ chịu làm kẻ thứ ba. Em nói vậy, anh có hiểu lòng em không?
Khoa vuốt ve bàn tay mềm mại của Thắm:
- Em là người con gái đầu tiên bước vào tim anh, nhưng anh thật sự không…
Khoa chưa nói hết câu Thắm đã đứng lên đi vòng qua bàn đưa tay bịt miệng Khoa lại, cô nũng nịu ngồi sát vào Khoa:
- Anh không được nói câu đó! Từ giờ phút này em là của anh và anh là của em, không gì có thể thay đổi được.
Thắm ngã vào vòng tay ấm áp của Khoa, đón nhận những nụ hôn dịu dàng từ người con trai mà cô hằng mơ ước…
 
***
Vợ chồng ông Hòa không mấy ngạc nhiên khi nghe đứa con gái cưng thú thiệt là đã yêu Khoa. Cả hai đều không phản đối nhưng ông Hòa vốn tính cẩn thận không quên dặn dò con gái:
- Ba mẹ thấy thằng Khoa cũng là đứa đáng quý, con với nó thương nhau cũng là điều tốt. Nhưng gì thì gì, mình cũng mới quen biết nó đây thôi, con phải giữ khoảng cách có chừng mực nghe con!
Thắm bá vai ông Hòa nhõng nhẽo:
- Ba… ba phải tin vào bản lĩnh của con gái mình chứ! Con cũng biết nhìn người lắm chứ bộ!
Vợ chồng ông Hòa cười xòa.
Hai người quá rõ tính nết con gái. Nó tuy hay nhõng nhẽo và còn lắm tính trẻ con, nhưng lại là đứa có bản lĩnh không dễ xiêu lòng trước những lời ngon ngọt. Khi đã quyết định làm gì nó sẽ làm cho kỳ được mới thôi, nó là đứa dám làm dám chịu và dám dứt bỏ đam mê khi nhận ra mặt xấu của nó. Nó không thuộc dạng tiểu thơ đài các như mấy cô con nhà giàu khác. Lâu nay, cả hai vợ chồng đều rất yên tâm về con gái.
Được sự cho phép và vun vào của vợ chồng ông Hòa, tình cảm giữa Khoa và Thắm ngày càng trở nên gắn bó sâu đậm.
Vợ chồng ông Hòa càng yên tâm hơn khi thấy Khoa là đứa biết tự trọng. Ông bà dự định sẽ mua xe cho Khoa để tiện việc đi lại, nhưng Khoa nhất định chối từ. Khi ông Hòa đề nghị Khoa dọn tới ở cùng Khoa cũng không đồng ý.
Việc dạy dỗ Thắm vẫn được Khoa duy trì một cách hết sức nghiêm túc, không vì chuyện tình cảm riêng tư mà lơ là trách nhiệm.
Vợ chồng ông Hòa cùng mừng thầm cho hạnh phúc của con gái. Ông cũng đã dự tính trong đầu, là ngay sau khi Khoa tốt nghiệp sẽ dành cho nó một chỗ ngồi thật xứng đáng trong cơ quan ông, việc đó đối với ông hoàn toàn không có gì là khó.
Những ngày tháng này Thắm như đang bơi trong hạnh phúc. Niềm hạnh phúc vỡ òa ra trên nét mặt ngời sáng của cô.
Ngoài những lúc bắt buộc phải mỗi người một việc, còn thì lúc nào Thắm cũng có mặt bên cạnh Khoa. Mối tình của hai người đã công khai không ai không biết.
Bạn bè trong trường có lắm kẻ tiếc nuối vì đã không lọt được vào mắt xanh của cô tiểu thư con nhà quan ấy, họ ganh tị với Khoa, bảo anh là chuột sa hũ nếp. Nhưng cũng có những người khách quan nhìn nhận, họ thấy cặp Khoa – Thắm rất xứng đôi, không chê vào đâu được, tuy hai gia đình không được môn đăng hộ đối, nhưng thời nay điều đó không còn quan trọng nữa.
Tất cả đang chờ một đám cưới linh đình sẽ được tổ chức ngay sau khi Khoa tốt nghịêp ra trường.
Ngày tốt nghiệp cũng không còn xa nữa.
Tuy Khoa và Thắm chưa cưới hỏi, nhưng vợ chồng ông Hòa dã coi Khoa như con rể trong nhà.
Sau một thời gian thăm dò, thử thách, một người cẩn trọng như ông Hòa cũng đã đặt trọn niềm tin vào Khoa.
Mỗi lần hai vợ chồng đi công tác hay du lịch nước ngoài, ông Hòa đều gọi Khoa đến ở nhà cùng con gái. Nhà ông Hòa có điều đặc biệt, tuy giàu có đến vậy mà không hề mướn người giúp việc, không phải vì sợ tốn tiền mà chỉ vì cả ông và bà đều không thích có người lạ trong nhà.
Lần đầu Khoa đến ở đêm tại đấy, bà Hòa có hơi e ngại, bà dặn dò Thắm đủ thứ, và không quên nhắc chừng Khoa đừng vượt qua ranh giới với con bà. Nhưng lâu dần bà rất yên tâm không còn lo lắng nữa. Vì Khoa luôn giữ đúng chừng mực với Thắm.
Lần này vợ chồng ông Hòa đi Singarpo một tuần, Khoa lại được gọi đến ở trông nhà với Thắm.
Suốt ngày hôm sau Khoa chở Thắm đi chơi khắp các nẻo đường Sài Gòn, chiều Thắm đề nghị không đi ăn tiệm mà mua đồ về nhà, Thắm sẽ tự nay nấu một bữa thật ngon cho Khoa thưởng thức.
 Nghe Thắm nói vậy, Khoa trêu:
- Em nói lại lần nữa để anh nghe kỹ xem, mua đồ về em nấu hay anh?
Thắm vênh mặt lên:
- Trời, anh đừng tưởng em là đứa con gái vụng về đểnh đoảng nhé! Em nấu ăn ngon phải biết. Những lúc ba mẹ có khách thân tình, cùng thường đưa về tiếp đãi ở nhà, đều do mẹ và em nấu đó!
Khoa cười:
- Tiếp thị dữ quá, nội dung ra sao thì còn phải xem lại…
Thắm thụi vào bụng Khoa một cái rồi ngúng nguẩy xách túi thức ăn ra xe. Khoa mỉm cười đi theo.
Về nhà, cả cùng xuống bếp vừa làm vừa trêu chọc nhau. Cười đùa vui vẻ.
Đến tối thì bữa ăn hoàn thành.
Quả đúng như lời giới thiệu của Thắm, tay nghề nấu nướng của cô không chê vào đâu được. Món ăn nào cũng thật ngon và đẹp mắt làm Khoa cứ xuýt xoa mãi không thôi.
- Anh! Mình uống một tí rượu nha?
Thắm đề nghị.
Khoa ngập ngừng:
- Anh nghĩ thôi đi…
Thắm bướng bỉnh:
- Không, phải uống một tí thì bữa ăn này mới trọn vẹn.
Vừa nói Thắm vừa đứng lên mở tử lấy ra một chai rượu Tây.
- Anh không uống được nhiều đâu nhe em!
Khoa dặn trước.
Thắm rót rượu vào ly đưa cho Khoa:
- Anh phải tập uống đi cho quen, mai này ra đi làm khi cần ngoại giao chẳng lẽ cứ kêu cà phê hay nước ngọt?
Bữa ăn ngon cộng thêm men rượu làm cả hai người đều ngây ngất, lâng lâng. Thắm vui lắm, hạnh phúc lắm. Cô nghĩ tới một ngày không xa nữa, những bữa ăn như thế này sẽ diễn ra hàng ngày trong gia đình, mỗi tối Khoa đi làm về, cô sẽ đón Khoa bằng những bữa ăn nóng sốt.
Tương lai tươi đẹp đang vẫy gọi cô, đang chờ đợi cô phía trước.
Vì quá vui nên Thắm cứ uống mãi không ngừng mặc dù Khoa đã nhiều lần ngăn cản.
- Anh đừng cản em. Hôm nay em vui lắm, anh cho phép em say một bữa đi…
Thắm giằng ly rượu khỏi tay Khoa, rót thêm nữa.
Mãi tới lúc không còn gượng được Thắm mới gục xuống bàn.
Khoa vội vã đến bên bế xốc Thắm vào phòng.
Thắm vòng tay qua cổ Khoa kéo anh xuống, đặt lên môi Khoa những nụ hôn nồng nàn…
Lúc này Khoa cũng không cần phải gìn giữ nữa. Khoa ôm Thắm vào lòng, nhẹ nhàng cởi bỏ tất cả áo quần vướng víu trên người cô và bắt đầu thỏa mãn cái dục vọng mà suốt thời gian qua anh phải đè nén, nhẫn nhịn.
Trong cơn say chếch choáng, Thắm vẫn biết chuyện gì đang xảy ra nhưng cô không phản kháng vì đã từ lâu rồi, cô luôn nghĩ Khoa là chồng mình. Trong một đêm thật vui, thật hạnh phúc như đêm nay, dâng hiến cho chồng sự trinh trắng của mình cũng không có gì là đáng tiếc.
 
***
Mai buồn bã gạch tiếp một gạch chéo vào cuốn lịch túi đang cầm trên tay. Vậy là đã thêm một ngày nữa trôi qua, thêm một ngày đợi chờ trong tuyệt vọng.
Ngày mới lên Sài Gòn, đều đặn mỗi tuần Khoa viết cho Mai một lá thư dài đến mấy trang giấy học trò. Khoa kể cho Mai nghe chuyện học hành, chuyện phố xá và cả những chuyện sinh hoạt hàng ngày của anh. Nhưng nhiều hơn hết, cảm động hơn hết vẫn là những dòng chữ nói lên nỗi nhớ nhung cồn cào gan ruột mà anh phải chịu đựng trong những ngày tháng vắng xa nhau.
Lá thư nào Khoa cũng an ủi và khuyên Mai đừng quá nhớ thương mà sanh bệnh, một ngày không xa nữa anh sẽ tốt nghiệp ra trường, hai người sẽ được sống bên nhau trọn vẹn.
Tất cả những lời lẽ đó Mai thuộc nằm lòng, vì đã biết bao nhiêu đêm khó ngủ, khắc khoải trong niềm thương nỗi nhớ, Mai đem từng tờ thư ra đọc đi đọc lại, ghi khắc từng câu từng chữ trong tâm trí của mình.
Một tháng hoặc lâu hơn chút ít là Khoa lại nhảy xe đò về quê. Lần nào gặp nhau, Khoa cũng dành cho Mai thật nhiều hạnh phúc.
Nhưng rồi những cánh thư của Khoa cứ thưa dần theo ngày tháng, mặc cho Mai thắc thỏm mong chờ. Thư đến, cũng chỉ là đôi ba dòng thăm hỏi bâng quơ chứ không còn nhớ mong gì nữa…
Mai có trách hờn thì Khoa lại viện cớ mấy năm đầu Đại học chương trình còn nhẹ, còn có thời gian rảnh, nay sắp tốt nghiệp rồi, bài vở ngập đầu đến thời gian ngủ cũng không đủ thì còn thời gian nào mà ngồi đó viết thư rồi tỉ tê tâm sự.
Mai vẫn đều đặn viết thư cho Khoa mỗi tuần, nhưng thư đi mà không hề có tin quay trở lại.
Sau đó không lâu, Khoa không cho Mai viết thư nữa.
- Em đừng viết thư cho anh nữa, anh bận lắm nên không có thời gian viết thư trả lời cho em. Mà dạo này anh đi thực tập lung tung, ít khi có ở trường, thư rất dễ bị lạc mất.
Khoa bảo với Mai như thế.
Tất cả những gì Khoa nói Mai đều nghe rất có lý, rất hợp tình nên cô không thể bắt bẻ vào đâu được.
Ngày nào ở chợ về Mai cũng ghé vô trạm Bưu chính để lục thư với hy vọng thư Khoa gởi sẽ về tới hôm nay, nhưng niềm hạnh phúc đơn sơ ấy của Mai vẫn còn ở biệt mù xa tít.
Ngày nào cũng vậy, nhìn Mai lủi thủi ra về sau khi đã tự tay tìm hết các xấp thư trong ngày của trạm, người Bưu tá già lắc đầu thương cảm cho cô.
Chuyện tình cảm mặn nồng giữa Mai và Khoa thì cả làng không ai không biết, chuyện thời gian mấy năm gần đây Khoa tỏ ra lạnh nhạt với Mai người ta cũng đều biết hết!
Những người xấu tính, độc mồm độc miệng thì cho là đáng đời Mai, ai biểu chỗ đàng hoàng tử tế không chịu, mà lại đâm đầu vô chỗ đó. Nhưng những người nhân hậu, có hiểu biết thì lại cảm thấy xót xa, thương hại cho Mai.
Nhiều người khuyên Mai bắt Khoa phải cưới, vì cưới rồi Khoa cũng vẫn có thể đi học tiếp; người lại xui Mai tìm lên Sài Gòn để tìm hiểu cho tường tận trắng đen.
Ai nói gì thì nói, Mai vẫn âm thầm chịu đựng buồn khổ để giữ tròn lời hứa sẽ luôn tin tưởng Khoa, sẽ không vì những lời thị phi đàm tiếu mà làm sứt mẻ tình cảm của hai người.
Nhưng ba tháng trước đây, Mai thật sự đau lòng khi nhận được thư Khoa. Cầm trong tay lá thư với nét chữ quen thuộc của Khoa, lá thư mà đã bao nhiêu ngày đêm Mai thắt lòng chờ đợi, cô hồi hộp đi thẳng một mạch từ trạm Bưu chính về nhà, vội vã mở thư ra đọc.
Trên đường đi, Mai tưởng tượng ra những lời lẽ nồng nàng âu yếm, những lời mà đã lâu lắm rồi Khoa dường như đã quên đi, chưa một lần lặp lại.
Thế nhưng lần này Mai vô cùng hụt hẫng. Lá thư chỉ vỏn vẹn có mấy dòng ngắn ngủi, viết chưa kín nửa trang giấy học trò với những lẽ hoàn toàn xa lạ, lạnh lùng.
Mai đâu đớn nhất khi đọc tới câu: “Từ nay em đừng gởi gì lên cho anh nữa!”
Thế là thế nào? Khoa có ý gì đây? Bao nhiêu năm đã qua, đều đặn hàng tháng Mai gửi tiền lên cho Khoa ăn học, vậy mà bay giờ Khoa lại từ chối.
Hồi mới nhập học được mấy tháng, Khoa có nói anh sẽ đi làm thêm hoặc đi dạy kèm để kiếm thêm thu nhập hàng tháng cho Mai đỡ vất vả.
Nhưng nếu như vậy Khoa sẽ không chuyên tâm vào việc học được, chắc chắn kết quả sẽ không cao, mà anh lại muốn khi tốt nghiệp ra trường thành tích của anh phải thật nổi bật.
Mai đã an ủi động viên anh đừng lo lắng gì tới vấn đề tiền bạc, Mai sẽ lo liệu tất cả. Mai khuyên anh đừng làm gì hết mà hãy tập trung vào việc học hành.
Vậy mà hôm nay Khoa lại bảo Khoa đi dạy kèm! Trong khi bài vở nhiều tới mức Khoa không có thời gian về thăm Mai, thậm chí còn không có thời gian viết thư cho cô thì sao lại đi dạy thêm vào lúc này?
Thật tình Mai không thể giải thích.
Mai đã khóc rất nhiều khi đọc xong lá thư ngắn ngủi đó. Đêm ấy Mai viết cho Khoa thật nhiều, kể lể hết những mối lo âu sợ hãi trong lòng cô cho
Khoa biết, nhưng lá thư giống như một cánh chim vô định, bay đi rồi là mất dạng bặt tăm.
Tháng sau, Mai vẫn tiếp tục gửi tiền nhưng số tiền đó lại bị gởi trả về với lý do không có người nhận.
Đau đớn, hoang mang, buồn tủi… Mai linh cảm một điều gì đó đã và đang xảy ra, dường như Khoa đang lẩn tránh mình.
Dù Mai cố nhắc đi nhắc lại hàng trăm lần rằng Khoa đang rất bận vì ngày tốt nghiệp đang đến rất gần, nhưng từ trong thâm tâm Mai không còn thấy lập luận đó còn có sức thuyết phục nữa.
Hay Khoa đã thay lòng đổi dạ? Khoa muốn cắt đứt mọi liên lạc với mình?
Mối hoài nghi này càng lớn hơn khi Mai suy nghĩ lại tất cả những gì xảy ra trong khoảng thời gian mấy năm sau này, cô xâu chuỗi lại từng sự việc thì câu trả lời như đã rõ ràng rồi!
Mai đã trao trọn đời con gái của mình cho Khoa mà không hề nuối tiếc. Khoa đã thề hẹn với cô rồi, lẽ nào bây giờ Khoa không còn nhớ? Nhưng mà người xưa thường bảo “dò sông dò biển dễ dò, mấy ai lấy thước mà đo lòng người”, lòng dạ Khoa hiện nay ra sao Mai hoàn toàn không hiểu được!
Mai có cảm giác niềm hạnh phúc mong manh trong tay mình đang trôi tuột đi mà không cách gì níu giữ lại được…
Khoa ơi… dù thế nào anh cũng phải nói với em một tiếng cho mọi việc rõ ràng, để em không phải đêm ngày thắc thỏm âu lo chờ đợi nữa! Khoa ơi… sao anh lại hờ hững lạnh lùng với em như vậy, Khoa ơi…
Mai cắn chặt răng vẫn không kìm nén được những tiếng khóc uất ức nghẹn ngào…
Mấy ngày liên tiếp không ăn ngủ được, Mai cũng không còn sức lực để dọn hàng ra chợ buôn bán mỗi ngày. Cô nằm suốt ngày trong nhà đọc ngấu nghiến những lá thư thấm đẫm nỗi nhớ nhung của Khoa lúc trước mà nước mắt không ngừng tuôn chảy.
Ba ngày trôi qua, Mai cũng đã đi tới một quyết định quan trọng trong đời mình.
Mai sẽ lên Sài Gòn để tìm gặp Khoa hỏi cho ra lẽ!
Bao nhiêu năm nay đã nhiều lần Mai có ý muốn đi thăm Khoa nhưng đều bị Khoa từ chối.
Khoa bảo anh còn đang đi học, nếu bạn bè thầy cô biết anh đã có người yêu, họ sẽ nhìn anh bằng một ánh mắt khác, không mấy thiện cảm. Vậy nên nếu thương Khoa, Mai hãy cứ ở yên chốn quê nhà, khi nào tranh thủ được thời gian, tức khắc Khoa sẽ về thăm.
Một cô gái quê mùa trong trắng như Mai, là sao đủ hiwru biết để nhận ra bản chất thật của những lời biện hộ ấy. Mà ngược lại, đối với Mai, Khoa luôn luôn là người có suy nghĩ và hành động đúng, anh nói gì Mai cũng tuyệt đối nghe theo.
Vì vậy, để đi đến quyết định này, với Mai đó không phải là điều đơn giản.
Khuya hôm đó khi gà mới gáy lần thứ hai, một mình lầm lũi trên con đường quê, Mai rảo bước ra đường cái đón chuyến xe đò đi Sài Gòn sớm nhất.
Khi chiếc xe ôm dừng lại bỏ Mai xuống trước cổng khu ký túc xá của trường Đại học, nơi Khoa đang sống, cô trở nên lúng túng và hồi hộp vô cùng.
Không dám đi thẳng vào để hỏi thăm, Mai cứ thập thò ngoài cổng, may sao thấy một tốp nữ sinh viên vừa đi đâu về nói cười ríu rít, Mai đánh bạo tiến đến tiếng hỏi:
- Chị ơi… mấy chị làm ơn cho em thăm anh Khoa học lớp K36 ở phòng nào vậy chị?
Mấy cô nữ sinh dừng chân ngó Mai rồi đáp:
- Lớp K36….? À, đúng rồi, Thi ơi, anh Thi ơi, anh có biết Khoa K36 ở phòng nào không?
Cô nữ sinh quay sang gọi với hỏi anh thanh niên đang ngồi ở quán cà phê ngay bên vỉa hè.
Người thanh niên nghe hỏi nhanh nhẹn chạy ra:
- Khoa K36 hả? Nó ở chung phòng với anh nè? Mấy đứa hỏi nó có gì không?
Mấy cô nữ sinh chỉ vào Mai đang đứng khép nép một bên:
- Chị này tìm anh Khoa đó, vậy anh đưa giúp chỉ đi gặp anh Khoa nhe? Tụi em đi à!
Rồi nhìn Mai, cô nữ sinh mỉm cười gật đầu chào:
- Tụi em đi nha chị! Chị theo anh Thi này, ảnh đưa chị đi gặp anh Khoa, ảnh với anh Khoa ở cùng một phòng đó chị!
Mai lí nhí cảm ơn rồi ngượng ngùng nhìn Thi.
Thi cười:
- Chị là…
Nhìn chiếc áo bà ba mặc trên người và chiếc nón lá Mia đang cầm nơi tay, Thi như như khám phá được điều gì đó, bật reo to:
- A, tôi biết rồi! Chị là chị Mai, em họ của anh Khoa phải không? Anh Khoa vẫn nhắc tới chị luôn đó!
Mai choáng váng khi nghe Thi gọi mình là “em họ” của Khoa, nhưng cô nghĩ có lẽ sợ bạn bè cười chê vì đang đi học mà bày đặt có bồ bịch người yêu nên Khoa mới nói trớ như vậy, Khoa nhắc tới mình nghĩa là Khoa vẫn nhớ mình nhiều lắm…
Nghĩ vậy nên Mai thấy yên tâm hơn. Cô mỉm cười không nói gì, đi theo Thi vòng qua phía bên kia sân, rồi leo lên mấy tầng lầu mới tới được phòng Khoa ở.
Tim Mai đập rộn rã. Cô vừa vui mừng, hồi hộp vì sắp được gặp lại Khoa sau mấy trời xa cách, nhưng bên cạnh đó cô lại rất lo âu, sợ Khoa sẽ giận vì cô đã không nghe lời Khoa căn dặn. Nhưng mặc kệ, cô sẽ nói với Khoa rằng “Tại em nhớ anh quá, nhớ không chịu nổi, và cũng tại vì em lo lắng nữa, không biết ở đây anh có xảy ra chuyện gì hay không nên em phải đánh liều lên đây tìm anh…”. Mai sẽ nói với Khoa như vậy và Mai cũng tin rằng Khoa không nỡ lòng nào lại trách giận khi thấy Mai lặn lội tới tận nơi đây.
- Mời chị vô phòng!
Thi đẩy cánh cửa phòng, lịch sự nói với Mai.
- Khoa ơi, em gái tìm này!
Thi gọi lớn.
- Thằng Khoa không có đây!
- Em gái nào thế?
- Có xinh không?
Ba bốn người thanh niên trong phòng nhao nhao lên hỏi, làm Mai trở nên luống cuống không dám bước chân vô.
Thi lườm các bạn, rồi quay sang Mai, cười ái náy:
- Chị thông cảm, ở đây tụi này hay giỡn lắm! Mời chị vào phòng!
- Dạ, không có chi…
Mai bối rối trả lời rồi ngại ngùng đi theo sau lưng Thi.
- Đây là chị Mai, em họ của anh Khoa! Còn đây là các bạn ở cùng phòng với anh Khoa đó chị!
Thi giới thiệu
Mai e thẹn gật đầu chào từng người rồi khép nép ngồi xuống ghế, lòng thắc thỏm tự hỏi Khoa đi đâu vắng mặt nhưng miệng lại không dám nói ra lời.
May sau lúc đó Thi lên tiếng hỏi các bạn:
- Có ai biết Khoa đi đâu không?
- Chắc có lẽ ở đằng nhà má vợ tương lai.
Một anh thanh niên trả lời.
Thi hỏi:
- Chị Mai có biết nhà Thắm không?
Mai bàng hoàng không nói nên lời, chỉ biết ngó Thi với cái nhìn ngơ ngác.
- Tôi… tôi không…
- Thôi, chị cứ ở đây chơi, chờ chút nữa chắc anh Khoa cũng về tới sớm thôi. Giờ tụi em phải lên rồi, chị cứ ở đây tự nhiên nhé!
Chỉ vào một chiếc giường, Thi bảo:
- Đây là giường của anh Khoa, nếu mệt, tụi tôi đi rồi chị có thể nằm nghỉ, chị đừng có ngại gì hết nghe!
Mai dạ thật nhỏ, đầu cúi thấp cố dằn tiếng khóc đang sắp bật ra.
Thi cùng với mấy người thanh niên lục đục soạn tập vở rồi chào Mai, ra vừa khỏi cửa là họ ồn ào hẳn lên, ai cũng khen Mai xinh đẹp, dịu dàng và rất dễ thương.
- Tao xí phần làm em rể thằng Khoa!
- Không! Tao…
- Tao…
Họ cười vui rộn rã giữa lúc lòng Mai đang quặn thắt từng cơn.
Mai đứng lên khép cửa phòng, cài chốt cẩn thận rồi rụt rè đến bên chiếc giường của Khoa.
Mấy chiếc áo sơ mi giắt trên đầu giường, cái mền cái gối, cả chiếc rương to kềnh kia cũng rất đỗi thân quen. Bởi vì tất cả đều tự tay Mai mua sắm cho Khoa.
Mai cầm lấy một chiếc áo, áp vào má mình mà nghe lòng ngập tràn cay đắng…
“Ở nhà má vợ tương lai”? Thắm ? Những câu nói vô tình của họ như bóp nghẹt trái tim Mai.
Trời ơi, chẳng lẽ tất cả những nghi ngờ của mình đều là sự thật! Không, không đâu, có thể họ đùa giỡn vậy mà…
Trong lòng Mai lúc này ngổn ngang trăm mối.
Nhìn thấy chiếc va ly, trong đầu Mai lóe lên một ý nghĩ.
Đúng rồi! Lúc mua, người ta đưa cho hai chiếc chìa khóa, nhưng Khoa bảo chỉ lấy một chiếc thôi, nên còn một chiếc Mai vẫn giữ tới bây giờ.
Vừa tò mò, vừa hồi hộp, Mai run run tra chìa vào ổ khoá.
Một tiếng “tạch” khẽ vang lên. Mai mở va ly ra, bên trong là quần áo, sách vở để lung tung không ngăn nắp. Cô nhẹ nhàng lấy hết ra để xếp lại ngay ngắn cho Khoa.
Bất ngờ Mai bắt gặp một quyển album dày cộm.
Run rẩy, Mai lật vội ra, đập vào mắt Mai là tấm ảnh Khoa cười tươi rói bên cạnh một người con gái khác…
Tim Mai như vỡ ra, nước mắt Mai đã chảy tràn trên mặt. Mai lật tiếp nữa, những tấm ảnh vô cùng thân mật của hai người đã trả lời cho Mai biết tất cả những thắc mắc lâu nay.
Vậy là đã rõ… Mai gục xuống khóc nức nở… Xung quanh Mai như ngả nghiêng chao đảo…
Lát sau, lấy lại bình tỉnh, Mai ngồi lên lau khô nước mắt. Dù thế nào hôm nay mình cũng phải gặp cho được Khoa để nghe chính miệng Khoa xác minh sự việc. Mai quyết tâm như vậy.
Mai yêu thương Khoa bằng tình yêu của một cô gái quê chất phác, nên cả trong giờ phút đau đớn khi bị phản bội Mai vẫn luôn nghĩ đến Khoa, không muốn làm tổn hại anh. Chính vì vậy, Mai sẽ cố gắng dằn lòng để đóng cho tròn vai cô em họ.
Mãi tới trưa Thi mới trở lại phòng, nhìn Mai có vẻ ái náy:
- Chị Mai à, anh Khoa… hôm nay anh Khoa đi Vũng Tàu với gia đình vợ, hai hôm nữa mới về. Em mới nghe đứa bạn bên lớp Thắm nói lại. Chị… chị có chờ anh Khoa được không?
Mai muốn khóc òa lên, nhưng trước mặt Thi cô cố nén lòng mình lại.
- Dạ… thôi, nếu vậy em xin phép về…
Vừa nói, Mai vừa đứng lên, cầm lấy túi xách và chiếc nón lá, khẽ gật đầu với Thi:
- Em… em cám ơn anh. Em xin phép…
Thi nhìn Mai, ngạc nhiên thấy Mai có vẻ gì đó không được bình thường nhưng anh lại không tiện hỏi.
- Chị có nhắn gì lại cho anh Khoa không?
Thi ái ngại.
Như sực nhớ lại, Mai vội nói:
- Anh… anh làm ơn… lúc nào anh Khoa về, anh nhắn giúp em, bảo anh Khoa về quê gấp, có… có việc rất quan trọng…
Thi gật đầu:
- Chị yên tâm, khi anh Khoa về tôi sẽ chuyển lời ngay.
Mai chào Thi lần nữa rồi lầm lũi ra về.
Đoạn đường trước mắt Mai chừng như dài ra vô tận.
Thi đứng nhìn theo dáng đi liêu xiêu của Mai, anh cảm thấy lòng dâng lên một niềm trắc ẩn.
 
***
Vừa về tới phòng, nghe các bạn bảo có Mai lên tìm, Khoa hết cả hồn vía, anh cứ ngỡ tất cả đã được Mai phơi bày ra ánh sáng. Khoa hoảng hốt khi nghĩ đến chuyện Thắm biết được tin này, mọi việc sẽ ra sao?
- Ê, làm mai em họ mầy cho tao nhe? Con nhỏ đẹp ác! Từ nay tao gọi mầy bằng anh, chịu không?
Câu nói của thằng bạn như một liều thuốc hồi sinh giữa lúc Khoa tưởng mình đang rơi xuống vực thẳm.
- Ừ, đứa nào ưng lấy nó, tao gả đó!
Khoa đùa lại.
Thi lặng lẽ nhìn Khoa một lúc rồi nói nhỏ:
- Tao thấy hình như Mai có chuyện gì đó rất đau khổ, mầy nên thu xếp về quê ngay đi, cô ấy nói có viêc quan trọng lắm.
Khoa lãng tránh cái nhìn của Thi:
- Ừ, để chút nữa tao ra Bưu điện gọi về dưới xem sao!
Khoa nói thêm vài ba câu chuyện với đám bạn rồi ra khỏi phòng.
Hôm nay Khoa đã hứa sẽ đi siêu thị mua giúp Thắm một số vật dụng, vì khi ở Vũng Tàu về, Thắm không được khỏe trong người.
Đẩy chiếc xe đi qua mấy quầy hàng mà Khoa vẫn chưa tìm thấy nhãn hiệu Thắm dặn. Anh vừa đi vừa nhìn khắp hai bên, bất thần chiếc xe đẩy đâm sầm vào một cô gái từ gian hàng khác bước qua làm đổ tung tóe gói đồ đạc trên tay cô.
Khoa giật mình, luống cuống:
- Xin lỗi, xin lỗi cô! Tôi thật vô ý quá!
Vừa nói, Khoa vừa ngồi xuống nhặt nhạnh những thứ rơi vãi dưới đất bỏ trở vào túi xách cho cô gái.
- Dạ, xong rồi đây, xin cô bỏ lỗi cho…
Khoa đứng lên vừa trao chiếc túi cho cô gái vừa nói, nhưng nói chưa hết câu Khoa đã đứng im há hốc.
Trước mặt Khoa là một cô gái đẹp, đẹp đến sửng sờ! Một vẻ đẹp liêu trai huyền bí mà Khoa chưa từng gặp qua khiến anh ngây ngất.
Cô gái bối rối cầm lấy cái túi, ấp úng nói câu gì đó mà trong lúc tâm thần bất ổn Khoa không nghe rõ được.
- Cô… cô…
Khoa lắp bắp.
- Trời ơi! Cô! Cô làm em tìm muốn chết, sao cô đi qua đây mà không chờ em vậy?
Một cô gái nhỏ khác từ đâu chạy tới ôm lấy cô gái reo lên mừng rỡ. Cô gái cười khẽ:
- Chị… chị đi mua…
- Thôi được, thôi được rồi! Em đã mua đủ hết rồi, bây giờ mình về đi cô, mình đi lâu lắm rồi đó, bà ở nhà trông…
Cô gái vừa đi vừa ngoảnh lại nhìn Khoa. Còn Khoa, anh không biết nói gì, cũng không biết hành động ra sao, chỉ đứng chôn chân một chỗ sững sờ nhìn theo dáng đi tha thướt của nàng tiên vừa mới giáng trần.
Mãi một hồi lâu Khoa mới sực tỉnh. Anh lắc đầu, cố xua đi cái ánh mắt kỳ lạ của cô gái. Một ánh mắt vừa có vẻ ngây thơ khờ khạo, vừa có vẻ hoang dại như muốn hút hồn người.
Tiếp tục đây xe đi chọn hàng, nhưng trong tâm trí Khoa luôn nghĩ tới người con gái mới vừa chạm mặt.
Đến khi ra quầy tính tiền của siêu thị, Khoa phát hiện trong xe hàng hóa của mình có một chiếc ví của phụ nữ.
Vội vã mở ra xem, Khoa thấy trong đó là một số giấy tờ tùy thân mang tên Nguyễn Thị Thiên Lan và ảnh trên chứng minh thư đúng là cô gái mà Khoa vừa gặp lúc nãy.
Tự nhiên Khoa cảm thấy vui vẻ trong lòng, vì ít nhiều Khoa đã biết đôi chút về người đẹp liêu trai ấy.
Và bỗng dưng trong đầu Khoa nảy ra một ý định muốn tìm hiểu thêm cuộc sống của người con gái ấy.
Khoa nhanh tay giấu kín chiêc ví vào túi rồi xách đồ về.
Ngay chiều hôm đó, Khoa dò tìm theo địa chỉ trên giấy tờ trong ví. Thật bất ngờ, đó là một ngôi biệt thự rộng lớn ở ngoại ô thành phố.
Khoa cố tình đi qua đi lại mấy lượt trước cổng nhà nhưng cánh cổng vẫn im ỉm khóa, nhìn vào trong khoảng sân vườn rộng lớn cũng chẳng thấy bóng dáng một ai.
Định đưa tay bấm chuông để gởi trả lại chiếc ví cho cô gái, nhưng đột ngột Khoa dừng lại. Nếu trả lại chiếc ví lúc này thì mình sẽ không còn cơ hội nào để tìm tới đây được nữa. Hãy khoan, hãy để xem cô ta là ai, làm gì rồi sẽ trả cũng chưa muộn. Nghĩ vậy nên Khoa rồ ga cho xe chạy chầm chậm, vừa đi vừa ngắm nhìn quang cảnh hai bên đường.
Xe vừa chạy một đỗi, Khoa bỗng nghe tiếng gọi:
- Ê! Khoa, Khoa đi đâu đó? Vô chơi với tao chút đi!
Ngạc nhiên, Khoa dừng xe và ngoảnh nhìn lại. Thì ra Tấn, bạn cùng trường với Khoa.
Mừng rỡ, Khoa hỏi ngay:
- Nhà mầy ở đây à?
Tấn cười tươi:
- Ừ, nhà tao đây, mời mầy vô chơi!
Khoa dẫn xe đi theo Tấn đi vào một ngôi nhà khang trang nằm sát bên đường.
Nói chuyện với Tấn một lúc, làm như vô tình Khoa chỉ tay về hướng biệt thự Thiên Lan hỏi:
- Bên đó là nhà ai mà to lớn, đẹp lộng lẫy vậy?
Tấn cười:
- Nhà của tỉ phú đó mầy! Bà chủ nhà hiện là tổng giám đốc của một công ty chuyên về đồ gỗ, có nhiều chi nhánh ở nước ngoài. Giàu thuộc hàng  top ten của Việt Nam mình đó nghe mậy!
Khoa rụt cổ:
- Ghê vậy sao? Đàn bà mà giỏi dữ vậy à?
- Mầy nghe được chuyện này sẽ thấy bả còn ghê hơn nữa ấy chứ!
Tấn ra vẻ bí mật.
Khoa tò mò:
- Chuyện gì?
- Mầy biết trước kia bả làm nghề gì không? Cave đó!
- Cave?
Khoa ngạc nhiên hỏi lại.
Tấn gật gù:
- Ừ, cave, nhưng mà là loại cave có nhan sắc, có học thức, cave hạng sang. Bởi vậy, bả nhanh chóng lọt vô mắt một lão tỉ phú người nước ngoài trong một lần lão ta tới Việt Nam để thăm dò thị trường. Suốt quãng thời gian ở đây, lão sống với bả như vợ chồng, nhưng rồi cuối cùng lão cũng phải trở lại quê hương của lão. Lão ra đi, để lại cho bả một đứa con gái và một gia tài kếch sù. Từ đó, bả mới bắt đầu gầy dựng sự nghiệp. Mà chưa hết đâu nhé, cách đây mấy năm, lão tỉ phú qua đời, để lại cho cô con rơi ở Việt Nam một nửa gia tài của lão. Mầy thấy con người ta có số đúng không?
Tấn kể xong bật cười ha hả.
Khoa hỏi tiếp:
- Rồi sau đó bả có lấy chồng nữa không?
- Không, bả sống với con gái từ đó tới giờ. Hai mẹ con người nào cũng đẹp dã man!
Khoa bật cười theo Tấn, nhưng trong lòng Khoa ngọn lửa tham vọng lại một lần nữa bốc lên ngùn ngụt.
Suốt trên đoạn đường về, tâm trí Khoa luôn nghĩ tới ngôi nhà đó, tới cô gái có vẻ quyến rũ là kỳ, tới khối tài sản kếch sù đang nằm trong tay cô gái.
Nếu sau khi ra trường, mình được ngồi vào một vị trí quan trọng nào đó, thì sau bao nhiêu năm mình mới có thể tạo ra một khối lượng tài sản bằng một phần ba số tài sản đó?
Tự nhiên Khoa lại đem địa vị và tiền bạc của nhà Thắm ra so sánh với địa vị, tiền bạc của mẹ con bà góa kia.
Mình sẽ thử thời vận một lần nữa xem sao!
Ý nghĩ đó nhanh chóng hiện ra trong đầu Khoa, và anh sẽ quyết tâm thực hiện.
Nhưng ngay trước mắt Khoa, chuyện của Mai vẫn chưa biết phải giải quyết cách nào?
Khoa nghĩ, nếu bây giờ mình về quê, chắc chắn sẽ nghe những lời trách móc, phải thấy những giọt nước mắt ngắn dài của Mai. Mình có giải gì thì cũng không giúp Mai vơi đi buồn đau được. Dù sao thì bây giờ Mai cũng đã rõ trắng đen, thà rằng mình trốn luôn ở trên này, đợi tới khi mọi việc nguôi ngoai sẽ về xin lỗi Mai thì có lẽ sẽ tốt hơn.
Khoa biết tính Mai hiền lành nhẫn nhục, anh nghĩ Mai sẽ không làm gì quá đáng để hủy hoại tương lai của anh đâu, và nhất là vừa rồi, chẳng phải Mai vẫn im lặng sau khi biết anh sắp cưới vợ sao?
Nghĩ vậy, Khoa tấp vào Bưu điện gởi cho Mai một lá thư chuyển phát nhanh. Nội dung bức thư chỉ là mấy lời xin lỗi Mai, Khoa mong Mai hãy vì tương lai của Khoa mà đừng giận anh. Tất cả những gì Khoa nợ Mai, một ngày không xa, khi đã có sự nghịêp trong tay, Khoa nhất định sẽ trả lại cho Mai gấp năm gấp mười lần như thế.
Gửi xong bức thư, Khoa thấy lòng thật nhẹ nhỏm, y như vừa mới trút được một gánh nặng ngàn cân.
Ngay ngày mai, Khoa sẽ dấn thân vào một cuộc chơi mới.
Còn bây giờ, Khoa phải trở về bên Thắm để hưởng trọn vị ngọt tình yêu mà Thắm đang dâng tặng.
 
***
Mai nằm liệt giường đã ba hôm, không ăn không ngủ. Nước mắt Mai cũng không còn để khóc. Giờ đây tất cả đối với Mai đều không còn chút ý nghĩa nào! Tất cả đều sụp đổ!
Những người xóm giềng quanh đó chưa ai hay biết tình trạng của Mai. Mãi đến lúc người Bưu tá già gọi cửa để phát thư thì mọi người mới phát hiện Mai nằm bất tỉnh trong nhà.
Người ta dùng mọi cách để cứu Mai tỉnh lại.
Vừa thấy Mai mở được mắt, người Bưu tá già vội vã đưa cho Mai lá thư với hy vọng là thư đó sẽ tiếp thêm sinh lực cho Mai. Nhưng ông đâu có ngờ, tất cả mọi người đều không ngờ rằng vừa đọc xong lá thư, hai mắt Mai trợn ngược lên, bọt mép sùi ra và một lần nữa cô hôn mê bất tỉnh.
Người ta đọc nội dung lá thư và đã hiểu rõ sự tình.
Tính mạng Mai ngàn cân treo sợi tóc, như ngọn đèn dầu le lói trong bão táp phong ba. Có mấy người bạn xót thương cho hoàn cảnh của Mai, họ cử một người đại diện lên Sài Gòn để thông báo cho Khoa biết tình hình nguy kịch của Mai.
Đến tối, người bạn đó quay về và tuyên bố một câu:
- Thằng Khoa bây giờ là đứa bỏ đi rồi! Nó không còn nhân tính nữa! Tôi chỉ mong nó quay về cho Mai nhìn mặt lần cuối, để có phải ra đi thì cô ấy cũng thỏa lòng. Vậy mà nó không một chút xót thương, không một mảy may xúc động. Nó bảo một khi Mai đã muốn chết rồi thì nếu nó về cũng bó tay thôi, vì nó không phải là bác sĩ, thà rằng nó ở trên đó luôn để… tránh phải chứng kiến cảnh đau lòng…
Mọi người lắc đầu quay đi, không ai còn lời lẽ gì để bình phẩm về Khoa nữa.
Mấy giờ sau thì Mai mất. Trước khi trút hơi thở sau cùng, khóe miệng Mai trào ra hai dòng máu đỏ. Mãi cho tới khi liệm vào áo quan, máu trong miệng Mai vẫn trào ra mãi không ngừng. Hai mắt Mai mở lớn, dù mọi người đã làm hết cách vẫn không sao cho nó khép lại được.
Người ta bảo, có lẽ do Mai quá uất ức nên mới bị như thế.
Lúc ở quê nhà Mai trút hơi thở cuối cùng thì khi đó nơi thành phố xa hoa rực ánh đèn màu Khoa đang trên đường đến nhà chở Thắm đi dạo phố.
Vừa trông thấy Khoa, Thắm kêu lên hoảng hốt:
- Trời ơi! Anh bị làm sao vậy?
Khoa ngơ ngác:
- Anh có bị gì đâu?
Chỉ vào vết máu loang lổ trên áo Khoa, Thắm run giọng:
- Không bị gì mà ghê thế à? Anh bị… bị tông xe phải không?
Lúc này thì Khoa trở nên lo sợ:
- Ủa, sao lạ vậy? Anh đâu có bị gì! Nè, em xem đi, thân người anh đâu có bị trầy xước gì đâu? Nãy giờ anh cũng không đụng chạm vô chỗ nào hết. Ở nhà, tắm xong là anh đến đây ngay…
Khoa vừa nói vừa vén áo lên cho Thắm kiểm tra. Quả thật thân thể Khoa vẫn vẹn nguyên lành lặn. Vậy thì vết máu đó ở đâu ra?
Suy nghĩ muốn bể óc Khoa vẫn không tài nào hiểu được. Cuối cùng Thắm đành kết luận:
- Có lẽ trên đường đi, anh bị ai đó tạt nước gì mà anh không hay…
Khoa cũng phải tạm chấp nhận cái giả thiết đó.
Tâm trí cả hai đều hoang mang bất ổn trước sự cố đó nên đồng ý hủy cuộc đi chơi. Khoa xin phép ra về để thay áo.
Về tới ký túc xá, Khoa vội vàng chạy thẳng lên phòng.
Cũng may tối nay mấy đứa cùng phòng đi vắng hết, lúc còn ở bên ngoài cũng không ai để ý tới vết máu trên áo Khoa, chứ nếu không người ta lại suy diễn lung tung thì phiền phức lắm.
Gấp rút mở va ly lôi ra một chiếcáo khác, nhưng thật kỳ lạ, chiếc áo ồn cũng vương đầy máu!
Run rẩy, Khoa đổ hết quần áo trong va ly ra: Tất cả đều vấy máu!
Kinh hãi, Khoa bước lùi ra sau mấy bước đứng chôn chân một chỗ nhìn chăm chăm vào mớ áo quần bỏ ngổn ngang trên giường.
Bất chợt Khoa có cảm giác ai đó đang đứng rất gần bên cạnh, Khoa hoảng hốt quay sang thì chỉ kịp thấy một bóng trắng thoáng qua.
Hai chân Khoa run rẩy đứng muốn không còn vững nữa, nhưng lý trí của Khoa vẫn còn tỉnh táo.
“Chẳng lẽ Mai chết thật rồi sao? Tất cả quần áo này đều là của cô ấy may sắm cho mình… Phải rồi, đúng rồi! Chắc là cô đã chết! Mai ơi, đừng làm anh sợ, em sống khôn thác thiêng, em đừng nhát anh như thế! Em vẫn luôn thương yêu anh mà, phải không Mai?”
Khoa lắp bắp nói thầm trong miệng. Và bỗng nhiên như phát cuồng, Khoa giật phăng chiếc áo đang mặc trên người, gom luôn đống quần áo trên giường chạy vội vào nhà tắm. Khoa hối hả đổ nước ra thau, lập cập đổ gần nửa hũ xà bông vô thau rồi hì hục giặt, hì hục chà xát.
Nhưng dù Khoa có cố gắng đến mấy thì những vết máu trên áo vẫn không hề phai nhạt đi chút nào. Nó cứ đỏ thắm lên như trêu tức Khoa vậy!
Mồ hôi túa ra đẫm ướt cả thân người, chảy từng dòng trên mặt. Khoa hấp tấp vắt khô đống quần áo rồi dồn tất cả vào một chiếc túi ni lông đen. Xong đâu đấy, Khoa vơ đại chiếc áo của thằng bạn giường bên khoác vào người rồi xách túi đồ đi xuống.
Khoa cho xe chạy thật nhanh qua nhiều đường phố quanh co, đến bên một bờ sông vắng Khoa dừng lại rồi thẳng tay vứt túi đồ xuống sông.
Khoa thở hổn hển, kéo áo lau mồ hôi trán rồi lên xe chạy thẳng tới shop thời trang mua một lúc mấy bộ đồ.
Về tới ký túc xá, Khoa mệt mỏi, lừ đừ như người vừa ốm dậy. Từ chiều tới giờ vẫn chưa ăn uống gì nhưng Khoa không hề cảm thấy đói.
Khoa nhắm mắt lại những vẫn không xua được cái màu đỏ quái quỷ kia, những đốm đỏ cứ không ngừng nhảy múa, rồi chúng lại tan ra thành dòng, không, không phải dòng mà là một con rắn, một con rắn đỏ tươi màu máu đang uốn éo tiến về phía Khoa. Khoa kinh hãi hét lên rồi mở bừng mắt, trước mắt Khoa rõ ràng là Mai đang đứng đó. Mai đang nhìn Khoa, rưng rưng nước mắt.
Khoa giật tung chiếc mền phủ kín mặt, người co rúm lại, câùt giọng van xin:
- Mai ơi… em đừng làm anh sợ…
Run lẩy bẩy một hồi vẫn không thấy xảy ra chuyện gì, Khoa có phần bình tĩnh lại. Hé mắt nhìn ra ngoài không thấy bóng một ai, Khoa mới yên tâm ngồi dậy. Người Khoa ướt đẫm như vừa mới xối nước nhưng Khoa cũng không màng lau.
Chưa hết hoảng loạn, bỗng nghe tiếng đùa giỡn ngoài hành lang Khoa biết đám bạn đã về tới. Mừng rỡ, nhưng Khoa lại sợ chúng nó thấy được vẻ mặt khó coi của mình lúc này nên Khoa nằm xuống, xoay mặt vào tường giả vờ ngủ.
- Trời! Hôm nay có chuyện lạ nghe! Mới giờ này mà thằng Khoa đã lên giường ngủ rồi. Ê, dậy mầy! Bộ gà hay sao mà ngủ giờ này?
Khoa hất tay thằng bạn ra, giả bộ cằn nhằn:
- Tao bị bệnh rồi, tụi mầy làm ơn để tao yên một chút đi!
- Bệnh thiệt hay đang giận dỗi với người yêu đây?
Thấy Khoa không có phản ứng gì, đám bạn tưởng Khoa đang có chuyện gì buồn nên cũng không ai chọc ghẹo gì nữa. Khoa cố dỗ giấc ngủ.
- Trời, ai làm gì mà máu chảy tùm tum trong phòng vậy?
Nghe tiếng hỏi của thằng bạn, cả mấy đứa trong phòng đều xúm lại coi, Khoa cũng ngồi bật dậy. Dưới nền nhà là một vũng máu nhỏ.
- Khoa, nãy giờ mầy ở nhà, xảy ra chuyện gì vậy?
Khoa ấp úng:
- Có chuyện gì đâu? Tao thấy mệt nên vừa về tới phòng là lên giường nằm ngay, đâu thấy chuyện gì?
Đám bạn nhìn Khoa đầy thắc mắc, không hiểu nó gặp phải chuyện gì mà không kể được với bạn bè?
Mấy ngày liên tiếp Khoa luôn bị ám ảnh bởi màu máu đỏ tươi và bóng hình thấp thoáng mờ ảo của người con gái.
Khoa muốn về quê xem có phải thật sự Mai đã chết hay không, nhưng anh sợ… sợ thái độ của mọi người dành cho mình nếu thật sự Mai không còn. Thôi, dù Mai còn sống hay đã chết thì mình cũng không làm gì hơn được nữa… Khoa không thể từ bỏ tất cả để quay về sống đời đạm bạc với Mai, không thể… nhất là hiện tại, Khoa đang ngấp nghé đi vào một con đường tương lai thênh thang khác, một con đường ngẫu nhiên mở ra trước mắt anh và anh nhất định bằng mọi cách phải đặt chân vào đó.
Với cái vẻ ngoài đẹp trai, hiền lành và cách ăn nói khôn ngoan, lễ độ, Khoa đã gây được cảm tình ngay lần đầu tiên tiếp xúc với mẹ con Thiên Lan khi anh tìm đến trả cho Thiên Lan chiếc ví.
Bà Ngọc Lan tuổi ngoài năm mươi nhưng trông bà trẻ trung hơn tuổi rất nhiều. Ở lứa tuổi đó mà bà vẫn còn giữ được những đường nét mà khối cô khao khát. Gương mặt và dáng dấp của bà vẫn chưa phai mờ dấu vết thanh xuân.
Thiên Lan tuy không có điểm nào giống mẹ nhưng ở cô lại có một sức hút vô cùng ma quái. Thiên Lan mang trên người mình một vẻ đẹp siêu thực, một vẻ đẹp liêu trai tưởng chừng chỉ có trong huyền thoại.
Thiên Lan rất ít nói, hỏi gì cô cũng chỉ mỉm cười, lâu lắm mới thốt ra một vài câu ngắn ngủi. Nhưng có vẻ Thiên Lan rất mến Khoa. Ánh mắt cô nhìn Khoa đã nói lên điều đó.
Được lời mời của bà Ngọc Lan, Khoa thường xuyên đến ngôi biệt thự sang trọng đó để trò chuyện với Thiên Lan.
- Con bé không được khỏe nên sự giao tiếp của nó với thế giới bên ngoài cũng rất hạn chế. Nó không có bạn bè, suốt ngày chỉ luẩn quẩn trong khuôn viên này, thỉnh thoảng mới được con bé giúp việc đưa đi chơi nên nó cũng buồn lắm. Từ hôm gặp cháu, bác thấy nó có vẻ quyến luyến cháu lắm…
- Thiên Lan bị bệnh gì vậy bác?
Lòng khấp khởi mừng vui, Khoa ngập ngừng hỏi tiếp.
Bà Ngọc Lan buồn buồn:
- Nó bị tim cháu ạ! Bác đã chữa chạy nhiều nơi, đã đưa nó ra nước ngoài một thời gian với hy vọng nền y học phát triển sẽ chữa lành cho nó, nhưng mà… nơi nào người ta cũng chịu thua… Với lại, do sống khép kín từ nhỏ nên… nên trí óc của nó cũng không phát triển được một cách bình thường…
- Bác nói sao ạ?
Khoa ngạc nhiên hỏi lại.
Bà Ngọc Lan lắc đầu:
- Không, không sao, bác chỉ nói là… nó hơi… ngây thơ một chút, có nhiều điều nó không hiểu hết được…
Khoa cười:
- Cháu nghĩ bác đừng quá bận tâm. Nếu được tiếp xúc với bên ngoài, được đi đây đi đó, cháu tin là không bao lâu sau, Thiên Lan sẽ hiểu biết nhiều hơn thôi bác ạ!
Bà Ngọc Lan gật đầu:
- Ừ, bác cũng hy vọng như thế! Mọi việc bác nhờ cậy ở cháu, cháu ráng giúp bác nhé, bác thì bị cuốn vào công việc, không còn được mấy thời gian mà lo cho con gái…
Khoa mỉm cười:
- Dạ, xin bác yên tâm, cháu sẽ cố gắng.
Chỉ sau vài lần tiếp xúc thân mật với Thiên Lan, Khoa nhận thấy cô gái này không chỉ ít hiểu biết như lời bà mẹ nói, mà cô ta là một người quá ngớ ngẩn, một người khờ khạo, một người có bộ óc phát triển không bình thường!
Khoa thật sự choáng váng và tiếc nuối giùm cho Thiên Lan khi phát hiện ra điều đó. Một người con gái đẹp đến thế, giàu đến thế lại bị… khùng thì quả là đáng tiếc!
Nhưng không sao, chính sự khờ khạo quá mức của cô gái sẽ giúp Khoa xúc tiến âm mưu của mình một cách nhanh chóng hơn, đỡ mất nhiều công sức hơn!
Tuy nhiên Khoa vẫn không dám buông hẳn Thắm. Khoa không muốn mình mất cả chì lẫn chài một khi “kế hoạch hai” lỡ không may bị phá sản. Làm bất cứ điều gì Khoa cũng cân nhắc thật kỹ càng, chi li từng bước một.
Viện cớ phải dành nhiều thời gian cho luận văn tốt nghiệp, những cuộc thăm viếng và dạo chơi của Khoa dành cho Thắm đã thưa dần. Mặc dù rất buồn nhưng Thắm không mảy may nghi ngờ gì, cô muốn tạo mọi điều kiện tốt nhất để Khoa yên tâm đầu tư cho học tập.
Khoa vốn rất thông minh, rất nhạy bén, nên luận văn tốt nghiệp đối với anh không mấy vất vả. Thời gian này Khoa luôn tung tăng bên cạnh cô gái vàng của bà tỉ phú!
Từ thuở bé, Thiên Lan không được tiếp xúc nhiều với bên ngoài, nên lần đầu tiên được một chàng trai quan tâm săn sóc, đưa đi chơi khắp nơi và hết lòng chìu chuộng, bản năng phụ nữ trong Thiên Lan đã bùng lên, Khoa như thỏi nam châm cuốn hút lấy cô, không thể rời ra được.
Những lúc không có Khoa bên cạnh, Thiên Lan buồn rầu ngơ ngác, không buồn ăn uống bất cứ thứ gì khiến bà Ngọc Lan phát hoảng lên. Bà không ngờ tình cảm của con gái lại phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ như vậy.
Suy đi nghĩ lại, bà Ngọc Lan thấy chỉ có một cách duy nhất có thể đem niềm vui, hạnh phúc đến cho con gái mình, đó là để cho nó kết hôn với Khoa.
Bà nhận thấy Khoa là một thanh niên tốt, có ý chí và nhất là bản tính chất phác thật thà, rặc mùi nông dân ở Khoa đã gây cho bà rất nhiều cảm tình. Giao con gái vào tay một đứa như nó bà cũng yên tâm.
Nghĩ vậy nên bà gọi Khoa đến và nói thẳng ý định của mình.
Quá bất ngờ và sung sướng vì đạt được mục đích một cách chóng vánh đến như vậy, nhưng Khoa vẫn làm bộ chối từ:
- Dạ thưa bác, thật tình cháu rất thương Thiên Lan, cảm thông với những thiệt thòi mà cô ấy phải gánh chịu. Nhưng… được làm bạn với cô ấy là cháu đã hạnh phúc lắm rồi, việc tiến xa hơn nữa… cháu… thật sự cháu không dám nghĩ tới, vì cháu không đủ điều kiện để làm rể nhà bác…
Bà Ngọc Lan mỉm cười dịu dàng:
- Cháu đừng nghĩ vậy, nếu cháu thật tình thương Thiên Lan thì đừng ngần ngại gì nữa…
Sau buổi nói chuyện hôm ấy không lâu thì ngày cưới được ấn định. Khoa lâng lâng như người say rượu, anh không ngờ ông trời lại tốt với mình như vậy, chưa kịp mất công sức thì đã hái được quả chín thơm rồi.
Nghĩ đến sự khờ khạo của Thiên Lan, Khoa không khỏi chạnh lòng, nhưng anh lại chặc lưỡi bỏ qua tất cả. Nhan sắc đó, tài sản đó không phải đã bù đắp cho sự khiếm khuyết của cô ta hay sao? Một sự bù đắp mà phần hời nghiêng hẳn về phía Khoa.
Một khi mình đã có tiền bạc và quyền lực trong tay thì muốn bao nhiêu cô gái vừa trẻ đẹp, vừa thông minh lại không được? Hiện nay bàn tay mình đã chạm vào chiếc chìa khóa tủ sắt của gia đình này rồi còn gì! Tiền bạc và quyền lực là hai thứ luôn song hành cùng nhau, mình lo gì chuyện cỏn con như thế!
Hãy coi Thiên Lan là một vật trang trí trong nhà, mà chắc chắn ai cũng phải trầm trồ khen ngợi.
Dạo này không hiểu sao Khoa thường mơ thấy Mai, lần nào cũng thấy cô khóc thật nhiều, rồi bỗng dưng Mai nhe răng ra cười với Khoa. Cái miệng đỏ lòm máu của Mai tua tủa những chiếc răng nanh dài và nhọn hoắc.
Không biết bao nhiêu đêm Khoa hét lên hoảng loạn khiến bạn bè ai nấy đều tỏ ra lo lắng cho Khoa. Người ta nghĩ chắc do Khoa học hành nhiều quá nên đầu óc căng thẳng gây ra những mộng mị không hay. Nhiều người khuyên Khoa nên tìm tới các bác sĩ chuyên khoa thần kinh để được điều trị. Người khuyên Khoa nên đi bác sĩ này, kẻ lại bảo cần tới với bác sĩ kia… Ai nói gì Khoa cũng ừ hữ nhưng anh không đi bất cứ nơi đâu, vì anh tin chắc thần kinh của mình vẫn luôn hoạt động tốt.
 
***
Mặc dù chưa tới ngày cưới, nhưng cầm được tờ giấy đăng ký kết hôn trong tay, Khoa đã yên tâm vì biết rằng trong ván bài này mình đã là người thắng cuộc!
Khoa ăn ngon, ngủ yên hơn, những vết máu và hình bóng mờ ảo thấp thoáng của Mai cũng không còn làm Khoa quá run sợ như lúc ban đầu. Khoa có lòng tin ông trời luôn ủng hộ anh. Mà một khi đã được ông trời ưu ái rồi thì còn sợ gì ma quỷ nữa.
Khoa cũng không còn sợ làm mất lòng Thắm và gia đình Thắm nữa. Một ngày không xa, có lẽ ngay cả ba mẹ Thắm cũng phải cúi đầu thán phục Khoa!
Khoa thẳng thừng từ chối những lời nhắn gởi của Thắm và khi Thắm tìm gặp mặt, Khoa lại tỏ ra lạnh lùng xa lạ.
Hoang mang, hẫng hụt, Thắm hoàn toàn không biết chuyện gì đã làm cho tình cảm mặn nồng giữa cô với Khoa lại trở nên như thế?
Đùng một cái, Khoa phát thiệp cưới mời bạn bè, trong đó có cả Thắm!
Cả trường xôn xao bàn tán. Những đứa bạn thân hết lời khuyên can nhưng Khoa chỉ cười:
- Cuộc đời tao là do tao quyết định, tụi mầy đừng nên can thiệp. Nể tình bạn bè tao mời tụi bây, đứa nào muốn dự thì đi, đứa nào không đi thì thôi tao không ép.
Bạn bè đều ngỡ ngàng, Khoa bây giờ như đã biến thành một con người khác hẳn!
Riêng Thắm, sau phát bàng hoàng Thắm lại nghĩ có khi nào Khoa đang thử lòng mình? Khoa đang giả vờ như thế để xem mình yêu Khoa đến mức độ nào? Nhưng mà… thiệp cưới này rất đông bạn bè được nhận chứ đâu riêng gì Thắm?
Phải tìm gặp Khoa thôi! Thắm nhất định như thế.
Cuối cùng thì Khoa cũng phải đối mặt với Thắm để giải quyết một lần cho xong vì ngày cưới đã đến rất gần.
Sở dĩ Khoa dám ngang nhiên công bố việc cưới xin này, ngang nhiên gởi thịêp mời cho người mình vừa phụ bạc, là vì Khoa biết chắc với tính cách của Thắm, không bao giờ Thắm lại ghen tương quậy phá, và nhất là với danh giá gia đình của mình, dù có đau đớn như thế nào đi nữa Thắm cũng phải âm thầm chịu đựng, không thể nào làm lớn chuyện.
Thật vậy, trong thâm tâm Thắm, dù rất phẫn uất, rất đau lòng nhưng chưa hề có một ý nghĩ nào theo kiểu “ăn không được thì thà đạp đổ”!
Gặp lại Khoa, nhìn cái cười đểu giả trên gương mặt hiền lành chất phác, tận mắt chứng kiến sự lạnh nhạt thờ ơ của người mới đây thôi còn ôm ấp mình trong vòng tay, thủ thỉ bên tai mình những lời ngon ngọt Thắm biết đã không còn gì để níu giữ nữa! Không một lời mắng chửi, không một giọt nước mắt rơi ra, Thắm lặng lẽ quay về với trái tim tan nát.
Nhưng khi vừa quay lưng nước mắt Thắm lại tuôn trào không sao kìm nén được. Dù bản tính có cứng rắn đến đâu thì Thắm vẫn là con gái. Khoa là người yêu đầu đời của cô, là người mà cô đã tin tưởng trao trọn trái tim và cả đời con gái thì dù có là sắt đá Thắm cũng không tránh được tổn thương…
 
***
Đám cưới diễn ra ngoài sự tưởng tượng của Khoa. Cả một nhà hàng rộng lớn đầy ắp những vị khách sang trọng. Những chiếc xe hơi đời mới đắt tiền đậu kín cả một khoảng sân.
Cô dâu chú rể đẹp đôi không chê vào đâu được!
Những lời chúc tụng vang lên hòa với tiếng khui nắp những chai rựơu ngoại… Tất cả âm thanh ồn ào vui vẻ đó tạo thành một thứ men khiến Khoa ngây ngất.
Ôm trong tay cô dâu đẹp như tiên giáng trần đến từng bàn nhận những lời chúc mừng, khen ngợi, Khoa cảm thấy chếch choáng như mình đang đứng trên một đỉnh cao, rất cao của cuộc đời để nhìn xuống…
Kể từ hôm nay Khoa đã chính thức đặt chân vào giới thượng lưu. Cuộc đời Khoa từ nay vĩnh viễn không bao giờ còn phải lặp lại những cảnh túng thiếu, trở trăn, phải cân nhắc từng đồng cho mỗi bữa ăn đạm bạc. Cuộc đời Khoa từ hôm nay bắt đầu rẽ sang một hướng hoàn toàn khác, nơi đó là con đường bằng phẳng đầy hoa thơm trái ngọt, rộn vang tiếng hót chim muông…
Cái viễn cảnh xán lạng ấy khiến Khoa ngây ngất không thôi.
Đang mơ màng trong hạnh phúc, Khoa bỗng sững người khi nhìn thấy ở ngay cửa chính một người con gái khác trong bộ áo cô dâu lộng lẫy đang từ từ chậm rãi đi vào.
Định thần nhìn kỹ, Khoa thấy người đó rõ ràng là Mai!
Khoa kéo Thiên Lan sát vào lòng, hỏi nhỏ:
- Ai đang đi vào vậy em?
Nhìn theo hướng tay Khoa chỉ, Thiên Lan lắc đầu ngơ ngác:
- Em có thấy ai đâu?
Nhưng cô gái kia vẫn thong thả tiến đến bên Khoa, trên mặt cô là nụ cười rất tươi, một tay ôm bó hoa thật lớn, một tay vén chiếc váy áo kéo lòa xòa dưới đất.
Tất cả quan khách trong nhà không ai có phản ứng gì khác lạ, có nghĩa là không ai nhận thấy, chỉ trừ Khoa!
Sợ toát mồ hôi, Khoa định kéo tay Thiên Lan chạy ra chỗ khác, nhưng lúc ấy người ta đang nâng ly chúc tụng, máy ảnh, máy quay phim đang chỉa thẳng vào anh thì làm sao có thể bỏ chạy được, vì thế Khoa phải trân mình chịu trận.
Cô gái tiến sát bên Khoa, vòng một tay muốn khoác vào tay Khoa nhưng anh vội vàng rụt ngay lại. Bất thần, cô gái kề sát mặt mình vào Khoa, phả ra một làn hơi lạnh buốt, gương mặt xinh đẹp tươi cười lúc nãy giờ đây đã biến thành một khuôn mặt dị dạng, gớm ghiếc khiến Khoa chỉ muốn ngất đi…
Khoa loạng choạng suýt ngã, may nhờ một người khách nhanh tay giữ kịp. Ai cũng cho là tại Khoa uống rượu, lại vất vả từ sáng sớm nên bị choáng.
Bà Ngọc Lan cho phép con rể vào phòng khách sạn nằm nghỉ một chút, khi nào thật khỏe hãy ra tiếp khách.
Khoa không nói gì, chỉ mệt mỏi nghe theo. Liếc mắt nhìn lại đã không thấy bóng dáng người con gái đó đâu nữa.
Vợ chồng Khoa vào phòng nghỉ ngơi, mãi đến xế chiều, khi khách khứa đã về gần hết Khoa mới gượng dậy nổi cùng vợ ra ngoài thu dọn đồ đạc để về nhà.
Vợ chồng Khoa cùng với bà Ngọc Lan bước từ trên chiếc xe hơi bóng lộn vào nhà, chưa kịp ngồi yên chỗ đã nghe tiếng cô bé giúp việc reo vang ngoài cổng:
- Bà ơi, cô Hai ơi! Cô cả về, cô cả về rồi!
Bà Ngọc Lan và Thiên Lan mừng rỡ chạy vội ra cổng, Khoa cũng chạy theo nhưng lòng chợt hoang mang lo sợ.
“Cô Hai, cô Cả? Chẳng phải bà Ngọc Lan chỉ có duy nhất một cô con gái hay sao?”
Từ ngoài cổng đi vào là một cô gái dong dỏng cao, có nét mặt phảng phất giống bà Ngọc Lan như hai chị em.
Ở cô gái toát lên một phong cách tự tin, nhanh nhẹn, khác hẳn sự yếu đuối rụt rè của Thiên Lan.
Cô gái chạy tới, giang rộng tay ôm chầm lấy bà Ngọc Lan:
- Mẹ ơi… con nhớ mẹ quá!
Quay sang ôm cả Thiên Lan vào lòng, cô gái cười thật tươi:
- Chị xin lỗi vì đã không về kịp hôn lễ của em. Em đừng giận chị nhé! Chị không về kịp nhưng vẫn có quà cho em đấy, chút nữa chị lấy cho em xem, đảm bảo em sẽ thích lắm!
Thiên Lan cười lắc đầu quầy quậy rồi hướng ánh mắt về phía Khoa đang đứng chôn chân nơi bậc cửa.
Bà Ngọc Lan quay lại nhìn Khoa, giới thiệu:
- Đây là Yến Lan, chị của Thiên Lan! Còn đây là Khoa, em rể của con đấy Yến Lan ạ!
Yến Lan buông mẹ và em ra, tiến tới chìa tay ra trước mắt Khoa. Khoa lúng  túng bắt lấy bàn tay nhỏ bé của cô, miệng ấp úng:
- Chị… chị mới về!
Yến Lan cười:
- Ôi, đừng gọi Yến Lan là chị, nghe già lắm! Hãy gọi là Yến Lan thôi, chắc Khoa với Yến Lan cũng chỉ trạc tuổi với nhau thôi mà!
Khoa lúng túng trước lời đề nghị của Yến Lan, anh nhìn bà Ngọc Lan cầu cứu.
Bà Ngọc Lan mỉm cười:
- Tính tình Yến Lan là vậy đó con à! Nó không hề câu nệ bất cứ chuyện gì!
Yến Lan thở phào, vui vẻ nói:
- Vừa giải quyết xong công việc là con ra phi trường ngay, ngồi suốt mấy giờ trên máy bay mệt phờ cả người, chỉ mong về tới nhà. Về tới đây rồi tự nhiên bao nhiêu mệt mỏi đều tan biến hết.
Bà Ngọc Lan âu yếm dắt tay con gái:
- Vô nhà nghỉ ngơi đi con, chuyện gì thì để chút nữa nói tiếp. Vợ chồng em con cũng mệt lắm rồi, cả ngày nay phải tiếp bao nhiêu là khách khứa…
Yến Lan vui vẻ khoác tay mẹ đi vào, Khoa cũng choàng tay qua vợ, đưa Thiên Lan về phòng riêng.
- Chị Yến Lan là sao với em vậy?
Cửa phòng vừa đóng lại, Khoa hấp tấp hỏi ngay.
Thiên Lan mở to mắt nhìn Khoa:
- Là sao em không hiểu? Chị là chị của em!
- Chị ruột?
Khoa run giọng.
Thiên Lan nhoẻn cười:
- Dạ không. Chị là con của mẹ, em không phải do mẹ sinh ra.
Khoa bấu chặt tay vào thành giường, đất trời xung quanh dường như đang đảo lộn.
- Em… em nói sao? Em không… không phải do mẹ sinh ra?
Thiên Lan ngước cặp mắt trong veo lên nhìn khoa:
- Dạ. Mẹ em chết rồi, mẹ Lan mới đem em về nuôi…
Khoa lảo đảo ngã ngồi xuống giường, mồ hôi túa ra giàn giụa trên mặt.
Thiên Lan hoảng hốt:
- Anh! Anh sao vậy? Anh…
Gạt tay Thiên Lan ra, Khoa nằm dài xuống giường, mệt mỏi nói:
- Anh không sao đâu! Chắc tại lúc nãy uống nhiều rượu. Em đi tắm trước đi, để anh nghỉ một chút.
Do dự một chút nhưng không dám cãi lại lời Khoa, Thiên Lan soạn đồ đi vào phòng tắm.
Nằm một mình trong căn phòng rộng lớn, Khoa nghe cay đắng trào dâng. Khoa đã vứt bỏ tất cả để được như vầy sao? Chỉ được một cô vợ có hình thức bề ngoài còn bộ óc thì rỗng tuếch? Đâu rồi cô con gái một của nhà tỉ phú? Đâu rồi giấc mơ nắm cả gia tài?
Nước mắt trào ra, Khoa nghiến chặt răng, tay đấm thật mạnh xuống cạnh giường, anh rít lên trong miệng:
- Không! Nhất định mình không thể chịu thua thảm hại như vầy đâu! Mình phải có cách nào đó…
Và ngay trong giờ phút đó trong đầu Khoa lại manh nha một kế hoạch khác!
Ngồi dậy đi loanh quanh khắp phòng và rít liên tiếp mấy hơi thuốc, Khoa đã phần nào lấy lại bình tĩnh.
Nhìn thấy Thiên Lan thật quyến rũ đi từ phòng tắm ra, Khoa không dằn được dục vọng. Anh nhào tới, bế xốc Thiên Lan lên giường và trút vào cô tất cả bản năng của đàn ông, cùng với nỗi phẩn uất mà Khoa đang chịu đựng.
Tiếng rên rỉ đau đớn lẫn tiếng van xin của cô gái không làm Khoa dừng được nỗi đam mê đang bốc cháy rừng rực trong người. Nỗi đam mê thể xác hòa với nỗi đam mê vật chất đã biến Khoa thành một con dã thú không có tính người. Con dã thú đội lốt người ấy đang hành hạ một đứa con gái yếu đuối, ngây thơ và hoàn toàn vô tội…
Khi đã thỏa mãn thể xác, Khoa nằm vật ra giường bỏ mặc người vợ đáng thương đang co rúm người vì đau đớn và sợ hãi.
Tiếng khóc thút thít của Thiên Lan làm Khoa chợt tỉnh. Anh giật mình vì hành động nông nổi của mình. Không được làm cho Thiên Lan buồn, không được để lộ ra bất kỳ một sơ hở nào, trước mắt những người trong nhà này, mình đóng cho thật đạt vai trò của một anh chồng tận tụy. Có như vậy mới có khả năng bước tiếp những bước sau này.
Quay lại ôm Thiên Lan vào lòng, Khoa dịu dàng xin lỗi:
- Anh xin lỗi vì đã chưa chuẩn bị tinh thần trước cho em! Vợ chồng nào cũng vậy em à, lần đầu tiên bao giờ cũng thế, chỉ tại em không quen…
Trước những lời ngọt ngào âu yếm của Khoa, Thiên Lan đã cảm thấy yên lòng, không còn lo sợ nữa, cô nép sát vào Khoa:
- Anh đừng làm em sợ như vậy nữa nha! Lúc nãy… lúc nãy anh thật đáng sợ!
Khoa hôn lên má vợ:
- Ừ, anh sẽ không như vậy nữa đâu…
Tối hôm đó, sau khi cơm nước xong, cả nhà quây quần trong phòng khách, Khoa được bà Ngọc Lan kể cho nghe toàn bộ câu chuyện mà từ lúc chiều luôn ám ảnh trong anh.
Hơn hai mươi năm trước, bà Lan và mẹ của Thiên Lan là đôi bạn rất thân. Năm ấy Yến Lan lên năm và Thiên Lan vừa tròn bốn tuổi.
Hai bà mẹ đưa con ra công viên chơi rồi ngồi bên nhau tâm sự. Bất ngờ trông thấy Yến Lan chạy ào ra đường đuổi theo quả bóng trong khi một chiếc xe phóng với tốc độ cao đang tiến tới, mẹ của Thiên Lan đã vùng chạy ra, cứu được Yến Lan nhưng phải đánh đổi bằng chính sinh mệnh của mình.
Từ đó bà Ngọc Lan đem Thiên Lan về nuôi và coi như con ruột của mình.
Lớn lên, Yến Lan ra nước ngoài du học, hiện nay vẫn chưa tốt nghiệp nhưng đồng thời cô đang phải tiếp nhận và điều hành một công ty lớn do người cha quá cố để lại.
Còn Thiên Lan, do thể chất yếu đuối và trí óc hạn chế nên chỉ học hết cấp hai là phải ở nhà suốt đến hôm nay.
Mang ơn lớn của mẹ Thiên Lan, mẹ con Yến Lan luôn muốn bù đắp cho Thiên Lan bằng bất cứ điều gì mà họ có thể làm được.
Nghe xong câu chuyện, Khoa làm như vô cùng xúc động và cảm thương cho số phận của Thiên Lan, anh kéo vợ ngồi sát vào mình, siết chặt đôi bàn tay mỏng manh của cô gái:
- Cảm ơn trời phật đã cho anh có cơ hội được chăm sóc em, bù đắp cho em những thiệt thòi mà em phải gánh chịu.
Thiên Lan sung sướng ngã đầu lên vai chồng.
Bà Ngọc Lan và Yến Lan nhìn nhau vui mừng trước hạnh phúc của đứa con, đứa em nhiều bất hạnh.
Lần này Yến Lan được về quê hương nghỉ phép đúng một tháng.
Theo dự tính ban đầu, sau đám cưới, vợ chồng Khoa sẽ đi hưởng tuần trăng mật ở Đà Lạt, nhưng rồi Khoa xin phép khất lại một thời gian nữa, do anh đang còn vướng một vài vấn đề trong luận văn tốt nghịêp phải bảo vệ nay mai.
Yến Lan thật sự mừng cho em gái tìm được một người chồng tốt như vậy. Là người giao thiệp rộng, tiếp xúc với nhiều chàng trai hơn hẳn Khoa về hình thức, học vấn cũng như địa vị trong xã hội, nhưng Yến Lan chưa gặp được người con trai trí thức nào có được cái vẻ chất phác thật thà đến như Khoa.
Có đôi lúc Yến Lan thầm mơ ước sau này mình cũng có duyên gặp một người tốt như vậy.
Trong khi đó, từng giờ từng phút trôi qua, Khoa luôn suy tính cách nào để hòng gỡ gạt lại sự sai lầm của mình.
Nhưng Khoa không dám hắt hủi Thiên Lan, mặc dù có những lúc Khoa muốn đem tất cả bực tức mà đổ hết lên đầu Thiên Lan cho lòng mình phần nào vơi bớt…
Thần kinh Khoa thời gian này luôn ở trong tình trạng căng thẳng. Vừa phải đối phó với hoàn cảnh, vừa phải suy nghĩ tìm mưu tính kế, lại vừa không yên giấc lúc đêm về.
Hồn ma của Mai không để cho Khoa yên.
Nhưng Khoa giờ đây đã là kẻ phát cuồng!
Lúc nào Khoa cũng tự trấn an rằng mình được ông trời ưu ái, những oan hồn uổng tử đó không làm gì được mình đâu…
Mà quả thật, Mai không làm gì được Khoa cả. Anh ta vẫn sống trên nhung lụa xa hoa, vẫn nhởn nhơ hưởng lạc, trong khi đó linh hồn Mai phải vất vưởng lang thang, phải nương theo gió theo mây cho qua ngày tháng… Thế giới cõi âm cũng có những quy luật riêng của nó, không phải khi đã chết thành ma rồi thì có thể tự tung tự tác, muốn làm gì thì làm.
Xã hội loài người và xã hội của những bóng ma cũng gần giống như nhau. Ở đâu cũng có những người hiền, có những kẻ ác. Có những người chấp hành luật lệ và có cả những kẻ bất chấp tất cả những nội quy khuôn khổ…
Mai không làm gì được Khoa, Mai chỉ biết giương mắt đứng nhìn Khoa ngày một lún sâu vào tội ác mà không cách gì níu giữ níu giữ anh lại được. Mai chỉ biết hiện hình ra để cảnh cáo Khoa, nhưng thật đau lòng, cả hình bóng mờ ảo của Mai cũng không khiến cho Khoa mảy may suy nghĩ lại.
Mai biết hết những điều Khoa đang dự tính trong đầu, nhưng cô bất lực, hoàn toàn bất lực!
Giờ đây Mai chỉ biết quanh quẩn trong ngôi nhà này để chờ đợi cái điều khủng khiếp sẽ xảy đến nay mai…
Một tuần trôi qua, sự nôn nóng trong lòng Khoa càng thêm dữ dội. Thời gian Yến Lan ở lại nhà đang bị thu ngắn dần, phải gấp rút thực hiện mới có thể có được cơ may lật lại ván cờ.
Và cơ may đó đã đến.
Bà Ngọc Lan phải đột xuất đi nước ngoài để giải quyết một số vấn đề vừa mới phát sinh bên đó.
Nhà chỉ còn lại ba người. Khoa biết rõ chính lúc này là lúc cần phải hành động.
Nhưng hành động cách nào đây, Khoa không sao biết được!
Bất chợt Khoa nhớ lại lời dặn của mẹ vợ:
- Con nhớ nhắc vợ con phải uống thuốc đều đặn mỗi ngày, nếu bỏ cử bệnh của nó sẽ tái phát lập tức. Nó thường không nhớ mình đã uống hay chưa, nên con phải nhắc nhở nó.
Khoa bật lên một tiếng reo sung sướng. Đây rồi! Chính bà Ngọc Lan đã vẽ ra trước mắt Khoa một cách thức rõ ràng mà lâu nay Khoa không nhận thấy.
Quả là ông trời không nỡ đẩy Khoa vào đường cùng!
Khoa vội vã chạy vù ra tiệm thuốc Tây mua một lọ thuốc cảm thông thường có hình dạng giống như những viên thuốc mà Thiên Lan đang phải uống.
Mỗi bữa cơm, khia cả ba đã ngồi vào bàn, Khoa ân cần rót một ly nước đem tới tận tay vợ và nhắc cô uống thuốc. Thiên Lan ngoan ngoãn nghe theo, còn Yến Lan thì cảm phục trong lòng.
Quả thật, chỉ một ngày vắng thuốc bệnh của Thiên Lan đã bộc phát trở lại.
Cô luôn cảm thấy mệt và khó thở. Suốt ngày Khoa không dám đi đâu, chỉ quanh quẩn ở bên cạnh để chăm sóc vợ.
Bên tai Khoa luôn nghe văng vẳng tiếng ai đó kêu mình dừng lại.
Không, làm sao mà dừng được, Khoa bây giờ giống như một chiếc xe không phanh đang lên một dốc cao, nếu dừng lại ở đây cũng đồng nghĩa với việc Khoa sẽ bị rơi xuống vực sâu thăm thẳm.
Không, Khoa đã đánh cược đời mình vào trò chơi sinh tử này rồi, dù thắng hay thua, Khoa cũng phải đi cho tới đích.
Mới mấy ngày trôi qua mà sức khỏe của Thiên Lan đã sa sút trầm trọng. Yến Lan muốn gọi điện thông báo cho mẹ, nhưng Khoa tỏ ý do dự, sợ mẹ bận tâm việc nhà mà không thể giải quyết chuyện rắc rối của công ty.
Khoa luôn trấn an Yến Lan. Thiên Lan cũng bảo thỉnh thoảng cô thường bị như vậy, chỉ một vài hôm rồi sẽ khỏe lại nên Yến Lan cũng tạm yên lòng.
Suốt mấy ngày đêm ròng rã Yến Lan và Khoa luôn túc trực bên giường bệnh để chăm sóc Thiên Lan.
Sáng nay thấy Thiên Lan có vẻ tươi tắn hơn đôi chút, Yến Lan dặn dò cô bé giúp việc đi chợ mua một vài thứ về bồi bổ cho em. Dặn Khoa ở nhà lo cho vợ, cô ra ngoài thay đổi không khí một chst sẽ về.
 Xong đâu đấy, Yến  Lan  khoác chiếc máy quay phim lên vai đi dạo một vòng quanh thành phố.
Tuy theo học ở ngành kinh tế và hiện đang là một doanh nhân, nhưng Yến Lan lại mang trong người một tâm hồn nghệ sĩ.
Thỉnh thoảng Yến Lan cũng làm mấy câu thơ và biết vẽ vời đôi chút. Nhưng niềm đam mê lớn nhất của Yến Lan lại là nghệ thuật nhiếp ảnh.
Lần nào về Việt Nam, Yến Lan cũng bỏ ra không ít thời gian để đi chụp ảnh, quay phim để ghi lại những đổi thay đang diễn ra hàng ngày trên thành phố quê hương yêu dấu.
Lần này cũng không ngoại lệ, mê mải với bao cảnh vật, cô đi hơn một buổi, đến lúc bụng đói cồn cào mới chịu quay về.
Về tới nhà, Yến Lan vui vẻ đi thẳng lên phòng em gái để khoe với nó những tấm ảnh, những thước phim mà cô vừa ghi lại được.
Thiên Lan mặc dù còn rất mệt những cũng cố gắng cười nói với chị cho chị được an lòng.
Hai chị em đang vui vẻ thì Khoa bước vào thông báo:
- Mẹ vừa gọi điện về lúc sáng, bảo Yến Lan tới công ty kiểm tra giúp mẹ một số vấn đề để mẹ giải quyết cho xong trong buổi chiều nay, ngày mai mẹ sẽ quay về. Tôi chờ mãi không thấy Yến Lan về, điện thoại Yến Lan lại quên không mang theo, sợ mẹ trông nên tôi lái xe đi vòng vòng kiếm Yến Lan nãy giờ.
Nghe em rể nói xong, Yến Lan vội vã đặt chiếc máy quay phim lên bàn rồi hấp tấp tới công ty.
Khoa ngồi im lặng bên cạnh Thiên Lan hai bàn tay nắm chặt lại.
Phải hành động, hành động ngay tức khắc, không được dùng dằng nữa… Nếu mình còn dùng dằng, nếu mình bỏ qua cơ hội, ngày mai bà Ngọc Lan về tới lại càng khó ra tay…
- Dừng lại… Dừng lại Khoa ơi… Dừng tay lại đi anh…
Tiếng nói quen thuộc lại vọng đến bên tai Khoa.
Khoa cười gằn, mắt long lên sòng sọc.
- Không thể dừng được! Không thể nào dừng được!
Khoa rít lên trong cổ họng.
Vì ráng sức trò chuyện với Yến Lan nên giờ đây Thiên Lan gần như mệt lã. Cô thở gấp gáp, khẽ gọi chồng:
- Anh… nước… lấy giùm em… ly nước…
Khoa quay phắt lại nhìn Thiên Lan bằng đôi mắt đầy sát khí làm cho Thiên Lan trong cơn mệt mỏi càng thêm hoảng sợ.
Khoa đứng thẳng lên, cẩn thận gài chặt chốt cửa rồi cầm một chiếc gối nhào tới đè chặt lên mặt Thiên Lan.
Hoảng hốt, Thiên Lan ú ớ kêu lên, nhưng lập tức tiếng kêu yếu ớt của cô bị chiếc gối dưới sức mạnh của Khoa làm nghẹn lại.
Thiên Lan vùng vẫy một cách yếu ớt rồi nhanh chóng xuôi tay.
Khi thấy Thiên Lan đã nằm yên, Khoa nhấc tay ra nhưng vẫn cẩn thận kiểm tra lại cho thật chắc ăn rồi mới dọn dẹp mọi thứ ngăn nắp như bình thường, sửa sang lại tóc tai và gương mặt cho Thiên Lan, làm như cô đang ngủ thiếp đi trong cơn mệt mỏi.
Xong đâu đấy, Khoa gọi cô bé giúp việc, dặn nó thỉnh thoảng vào phòng trông chừng cô Hai ngủ, Khoa đang có việc phải đến trường gấp.
Vừa mở cửa nhà xe, Khoa chợt thót tim vì một bóng trắng thoáng qua trước mặt, nhìn dáng dấp không phải là Yến Lan hay Thiên Lan mà có vẻ giống… Mai!
Khoa dụi mắt, nhìn kỹ lần nữa thì không thấy gì. Anh tự mắng mình trông gà hóa cuốc.
Khoa cho xe chạy tới nhà ông thầy hướng dẫn đề tài để trao đổi một vài vấn đề, tư vấn ông thêm nhiều khía cạnh khác nữa.
Rất có cảm tình với chàng sinh viên này nên ông thầy tận tình chỉ dẫn. Hai người ngồi nói chuyện với nhau rất lâu. Bất chợt điện thoại trong túi Khoa reo vang, Khoa xin phép thầy rồi vui vẻ nghe điện thoại.
Sau câu chào hỏi ban đầu, ông thầy trông thấy mặt Khoa tái đi, tay anh run lẩy bẩy:
- Yến Lan... Yến Lan nói sao? Không! Không thể nào đâu! Lúc nãy tôi chờ cô ấy ngủ ngon rồi mới đi mà! Yến Lan xem kỹ lại đi, cô ấy đang ngủ…
Không biết người ở đầu dây bên kia nói gì, chỉ thấy Khoa lảo đảo rồi ngã ngồi xuống ghế, chiếc điện thoại trên tay rơi xuống Khoa cũng chẳng buồn nhặt lên.
Miệng Khoa lắp bắp:
- Không thể… không thể…
Người thầy giáo lo lắng, chồm tới lắc mạnh vai Khoa:
- Có chuyện gì xảy ra với em vậy?
Nhìn thầy bằng đôi mắt vô hồn, Khoa bật khóc:
- Thầy ơi… vợ em… chị em vừa bảo vợ em đã chết rồi!
Người thầy sững sờ. Mới hôm tuần trước nghe tin Khoa cưới vợ, sao hôm nay lại có thể xảy ra chuyện thế này?
Khoa gượng dậy xin phép ra về. Người thầy cảm thấy không yên tâm khi để học trò mình chạy xe trên đường trong tâm trạng thất thần như vậy. Ông đứng lên theo:
- Thầy sẽ đưa em về!
Khoa cúi đầu cảm ơn rồi nhảy vội lên xe, úp mặt vào lưng thầy cố dằn tiếng khóc.
Ông thầy không biết phải nói lời gì để chia sớt nỗi đau của đứa học trò học xuất sắc, ông chỉ không ngớt lời nhắc nhở Khoa phải thật bình tĩnh, chuyện đâu còn có đó…
 
***
Bà Ngọc Lan lập tức bay về Việt Nam sau khi nghe báo hung tin của con gái.
Dù rất đau đớn nhưng vốn là người phụ nữ giàu nghị lực, bà không đến nỗi hoang mang suy sụp.
Bà biết, bà cần phải cứng cỏi để làm chỗ dựa cho Khoa và cả Yến Lan nữa.
Trông hai đứa nó mới thật đáng thương làm sao. Yến Lan hoảng loạn trước cái chết bất ngờ của em gái. Còn Khoa, anh chỉ ngồi lặng bên xác Thiên Lan không ăn không uống, ai hỏi gì anh cũng không trả lời, cứ ngồi im như một xác chết.
Bất kỳ ai nhìn thấy Khoa lúc này cũng không khỏi động lòng.
Bà Ngọc Lan hiểu được nỗi lòng của con rể. Hai vợ chồng nó thương yêu như vậy, lại mới cưới nhau hơn một tuần, làm sao nó không chết điếng cả người trước sự mất mát lớn lao này.
- Con đừng quá đau buồn như vậy! Dù sao Thiên Lan cũng đã qua đời, con có làm gì đi nữa nó cũng không sống lại được. Âu đó cũng là số kiếp của nó. Con đừng để linh hồn Thiên Lan phải bị dằn văït khi trông thấy con như vậy…
Bà Ngọc Lan an ủi con rể.
Mấy ngày tang lễ trôi qua, Khoa thất thểu như kẻ mất hồn làm không khí trong nhà càng thêm ảm đạm, thê lương.
Sau khi Thiên Lan được đưa đi chôn cất. Khoa suốt ngày ở trong phòng, ngồi ngắm nhìn di ảnh của vợ.
Sợ Khoa quá quẫn trí rồi làm những điều dại dột nên bà Ngọc Lan bảo con gái phải luôn luôn kề cận bên Khoa, giúp Khoa nguôi ngoai niềm đau tang tóc đó.
Ngày ngày, Yến Lan chăm lo cho Khoa từng bữa ăn giấc ngủ. Tình cảm đã bắt đầu nảy nở trong lòng cô.
Biết là không nên nhưng Yến Lan không thể ngăn được trái tim mình đang dành cho Khoa những nhịp đập dịu dàng, thầm kín.
Chứng kiến Khoa đau khổ thế nào trước cái chết của em gái, Yến Lan càng thêm cảm mến.
Đêm đêm, Yến Lan thường trằn trọc khó ngủ, cô hay lang thang ra vườn, ngồi lên chiếc xích đu mà ngày còn sống, mỗi khi về nhà hai chị em cô thường ngồi với nhau nơi đó.
Mấy hôm nay liên tiếp trong những giấc mơ Yến Lan đều thấy Thiên Lan quay về nhà. Lần nào nét mặt Thiên Lan cũng u buồn ủ rũ, cô không nói với chị tiếng nào, chỉ nhìn Yến Lan rồi bật khóc. Yến Lan cũng chưa lần nào kịp nói với em gái câu gì…
Lầ này về lại quê hương, Yến Lan cứ ngỡ mình sẽ vui nhiều lắm, vì em gái lấy chồng, gia đình có một người đàn ông cho đỡ phần chông chênh hụt hẫng.
Aáy vậy mà… đám cưới em gái cô không kịp dự , giờ đây phải dự đám tang.
Nỗi đau to lớn ấy không biết làm sao cho vơi bớt…
Dù không có cùng huyết thống, nhưng đối với Yến Lan, Thiên Lan mãi mãi vẫn là đứa em ruột thịt của cô.
Hai đứa đã cùng nhau lớn lên chung một mái nhà, được sự yêu thương, chăm sóc và dạy dỗ của cùng một người mẹ, trong suy nghĩ của Yến Lan không có bất cứ một sự phân biệt nào giữa con nuôi và con ruột.
Tối nay, Yến Lan cũng một mình ra ngồi lên chiếc ghế xích đu, thả tâm hồn mình quay ngược lại những ngày còn thơ bé.
Ngày đó, hai chị em luôn yêu thương và nhường nhịn lẫn nhau. Yến Lan luôn là người bảo vệ cho đứa em gái hiền lành, khờ khạo. Đừng hòng một ai có thể bắt nạt được Thiên Lan một khi có mặt Yến Lan ở đó.
Cô giống như con gà mái mẹ sẵn sàng lao vào bất cứ ai để bảo vệ đàn con bé bỏng của mình.
Đang miên man suy nghĩ, Yến Lan bỗng giật mình nghe tiếng khóc ti tỉ vang lên đâu đó rất gần.
Cô đứng lên ngó quanh quất. Trời đêm nay không trăng, nhưng ánh đèn hai bên lối đi cũng đủ để soi sáng cả khu vườn.
Không thấy có gì lạ, nhưng sao tiếng khóc cứ vang lên mỗi lúc một thêm ai oán.
Yến Lan bắt đầu thấy lạnh dọc theo sống lưng.
Sống ở nước ngoài từ năm mười sáu tuổi, Yến Lan không bao giờ tin vào những chuyện ma quái, nhưng sao lần này cô cảm giác có một cái gì đó rất lạ đang hiện diện quanh mình.
Mạnh dạn bước lên mấy bước nữa theo hướng tiếng khóc vọng tới, Yến Lan chỉ thấy những chậu hồng, những luống hoa, những loại cây kiểng đang rì rào lay động trong làn gió đêm man mác.
- Ai vậy? Có ai ở đây không?
Yến Lan cất tiếng hỏi khẽ, nhưng không ai đáp lại. Tất cả lặng im một cách đáng sợ.
Nhưng chỉ một phút sau, tiếng khóc nỉ non ấy lại vang lên ở phía ngược lại làm Yến Lan không còn giữa được bình tĩnh.
Cô lùi lại dần và vụt chạy vào nhà.
Lên tới phòng riêng mà tim Yến Lan vẫn còn đập thình thịch.
Ai đó cố tình trêu ghẹo cô? Không, trong nhà này có ai còn tâm trạng để chơi trò đó nữa? Mẹ cô buồn lặng lẽ, mà hôm nay mẹ lại không có mặt ở nhà. Khoa suốt ngày ủ rũ, con bé giúp việc thì lại càng không dám đùa giỡn kiểu đó với cô.
Vậy thì ai? Vậy thì cái gì vừa mới xảy ra?
Yến Lan tiến tới bên cửa sổ đứng nhìn xuống vườn qua khung cửa kính.
Thật lạ lùng, có bóng người đang thấp thoáng dưới sân, không phải một mà là hai bóng trắng đang lượn lờ qua lại.
Tiếng rên rỉ vang lên xa vắng, nỉ non.
Yến Lan chạy vội lên phòng Khoa, đập cửa ầm ầm.
- Khoa ơi, Khoa ơi! Mở cửa mau lên…
Nghe tiếng gọi khẩn trương của Yến Lan, Khoa vội vã mở toang cánh cửa, ngạc nhiên hỏi:
- Yến Lan, có chuyện gì vậy? Yến Lan mau nói đi
Yến Lan thở hổn hển lôi Khoa đến bên cửa sổ, chỉ tay xuống dưới:
- Đó Khoa nhìn đi… Khoa có thấy gì không?
Khoa run bắn người khi nhận ra hai bóng trắng dưới sân, đó không ai khác hơn Mai và Thiên Lan!
Thế nhưng, trước mặt Yến Lan, Khoa không thể để lộ ra nỗi sợ hãi ấy.
- Yến Lan… Yến Lan muốn nói thấy gì? Tôi … tôi có thấy gì lạ đâu?
Yến Lan cuống quýt:
- Trời ơi, vậy chẳng lẽ chỉ một mình Yến Lan thấy? Chẳng lẽ đó là… đó là ma thật sao?
Khoa bước tới ôm chầm lấy thân người đang run bắn lên của cô gái, vỗ nhè nhẹ lên lưng cô an ủi:
- Không sao, không sao đâu! Yến Lan đừng quá hoảng hốt như vậy! Có tôi đây, đừng sợ…
Yến Lan òa khóc, hai tay bấu chặt vào cổ Khoa.
Mặc dù trong lòng đang rất đỗi hoang mang, Khoa vẫn không giấu được một nụ cười đắc thắng đang nở trên môi.
Dỗ dành một lúc, thấy Yến Lan có vẻ đã bình tĩnh lại, Khoa dìu cô về phòng để cô ngồi xuống giường rồi cẩn thận đi kéo tất cả màn cửa lại.
Xong đâu đấy, Khoa nhìn Yến Lan với vẻ buồn bã:
- Yến Lan nghỉ ngơi đi! Tôi… tôi về phòng.
Yến Lan lo lắng:
- Yến Lan vẫn còn sợ lắm, Khoa ngồi lại với Yến Lan một chút nữa nhé! Một chút thôi để Yến Lan có thời gian bình tỉnh lại…
Khoa khẽ gật đầu rồi ngồi xuống bên cạnh, nắm lấy bàn tay Yến Lan, nhẹ nhàng đặt lên má cô một nụ hôn.
Rồi làm như giật mình, Khoa vội buông Yến Lan ra, tỏ vẻ luống cuống:
- Tôi… tôi xin lỗi Yến Lan… ĐaÙng ra tôi không nên… nhưng tôi, tôi thật đang rất cần có Yến Lan bên cạnh. Nhìn thấy Yến Lan, nỗi khổ đau trong lòng tôi như được vơi bớt. Tôi… tôi cũng không hiểu tại sao lại như vậy nữa…
Yến Lan bật khóc. Tình cảm tội lỗi mà cô đang cố đè nén lại mấy ngày qua bị Khoa khơi dậy, khơi dậy trong lúc cô đang cần có người chở che, bảo bọc.
Yến Lan ngã vào vòng tay Khoa thổn thức.
Bỗng dưng một tràng cười ma quái vang lên làm cả hai đều dựng tóc gáy. Yến Lan càng bấu chặt vào Khoa hơn nữa.
Còn Khoa, mặc dù cũng sợ không kém, nhưng trong giờ phút sinh tử này, Khoa biết mình cần phải giữ bình tĩnh, không được chùng bước lúc này. Tất cả kế hoạch của Khoa có thành công hay không chính là quyết định vào những lúc như thế này đây.
Suốt đêm hôm đó Khoa ngồi bên cạnh canh chừng giấc ngủ cho Yến Lan. Cô giật mình thức giấc mấy lần vẫn thấy anh ngồi trầm tư ở đó, dù có nói cách nào Khoa cũng không chịu về phòng ngủ.
- Yến Lan yên tâm ngủ đi! Thấy Yến Lan hoảng sợ như vậy, có về phòng tôi cũng không ngủ được…
Mãi tới gần sáng, Yến Lan choàng dậy và thấy Khoa đang ngủ gục trên bàn.
Cô khe khẽ bước tới lấy chiếc mền choàng qua lưng anh, và thấy trong lòng mình dâng trào một niềm xúc động.
Từ hôm đó, tình cảm quyến luyến giữa Yến Lan và Khoa càng thêm phát triển, không che giấu được.
Cuối cùng, Yến Lan cũng phải thú nhận với mẹ rằng cô thật tình yêu thương Khoa, cô muốn thay thế em gái để cùng Khoa xây dựng gia đình.
Bà Ngọc Lan thở dài khi nghe con gái nói, nhưng bà cũng không phản đối.
Suy nghĩ của bà trước nay luôn rất thoáng. Bà và Yến Lan đều là người sống, làm việc và giao tiếp với nhiều người ở nước ngoài nên đầu óc cũng không quá câu nệ.
Tuy nhiên, bà cũng bàn với con gái, gì thì gì, cũng phải chờ đợi thêm một thời gian nữa. Thiên Lan vừa mới mất không bao lâu, mồ chưa xanh cỏ, đừng nên làm tủi vong linh của nó.
Yến Lan cũng nhất trí đồng ý với mẹ là không tính đến chuyện hôn nhân trong thời gian này, nhưng cô muốn lập tức lo thủ tục để đưa Khoa ra nước ngoài một cách sớm nhất, nhằm giúp Khoa nguôi ngoai nỗi buồn và có thể tiếp tục con đường học vấn.
Bà Ngọc Lan không phản đối, và ngay lập tức, Yến Lan đi lo thủ tục xuất ngoại cho Khoa.
Trong nhà lúc này, Khoa vẫn là người đáng thương nhất, được mọi người dành cho sự quan tâm đặc biệt nhất.
Trước mắt mọi người, Khoa luôn giữ bộ mặt ủ dột khổ đau của người vừa bị mất đi người mình yêu thương nhất, nhưng sau lưng Khoa luôn cười thỏa mãn với bản thân mình.
Cái gì một khi Khoa đã muốn là phải được! Khoa tự hào về mình biết bao, tự cảm thấy mình hết sức tài giỏi, thấy mình xứng đáng được đứng trên cao hết thảy mọi người trong xã hội.
Từ hôm thấy bóng ma dưới sân nhà tới nay, hầu như đêm nào Yến Lan cũng nghe có tiếng khóc, rồi hình như có tiếng ai đó gọi tên cô nghe thê thiết lắm, nhưng tất cả những cái đó đều rất mơ hồ, như có như không. Đôi lúc Yến Lan cũng không biết đó là mơ hay thực nữa.
Nhiều lần Yến Lan muốn kể hết với mẹ, nhưng cô nghĩ mình sắp phải đi xa rồi, nhà chỉ còn mình mẹ, nếu biết thêm việc này e rằng mẹ sẽ thêm lo lắng.
Nghĩ vậy nên cô không dám nói gì với bà Ngọc Lan.
Cô đem nỗi lòng đó tâm sự cùng Khoa thì bao giờ cũng được Khoa trấn an và động viên rằng, do tinh thần suy sụp sau cái chết của em gái, thần kinh không vững nên mới nảy sinh rẵnhng chuyện lạ lùng. ĐoÙ cũng là chuyện thường tình, hay xảy ra đối với những người vừa trải qua một cơn sốc mạnh.
Riêng Khoa, bất kể là đêm hay ngày Khoa đều bị ám ảnh bởi hai bóng trắng ma quái đó. Không đêm nào Khoa ngủ được yên giấc, ban ngày thì luôn luôn giật mình bởi những chuyện không đâu.
Có đêm đang ngủ, Khoa nghe như có ai đang lay gọi mình, mở mắt ra Khoa nhìn thấy Mai há chiếc miệng đầy máu cười với mình, hoảng sợ, Khoa quay ngoắt vào trong, thì trời ơi, nằm cạnh bên Khoa là Thiên Lan với đôi mắt hoang dại mở to trừng trừng.
Khoa hét to lên rồi bất tỉnh, nhưng vì phòng Khoa ở tách biệt một mình trên tầng ba nên tiếng thét của Khoa không làm ai hay biết.
Ngất đi tỉnh lại mấy lần nhưng Khoa vẫn không hề có định bỏ cuộc. Khoa cảm thấy oán hận hai người con gái đó.
Khoa không tiếc lời nguyền rủa. Khoa tin ông trời luôn ủng hộ Khoa, Khoa đòi hỏi hai hồn ma kia phải biết yêu thương Khoa như lúc họ còn sống, phải biết thông cảm cho Khoa bởi vì Khoa cũng đâu muốn vậy.
Khoa luôn cho những suy nghĩ của mình là đúng, Khoa không hề nhận thấy được tội lỗi của mình. Khoa đã dấn quá sâu vào tội ác rồi, nên không còn nhận ra đâu là điều phải trái nữa.
Thân người Khoa gầy rộc hẳn đi, càng khiến cho mẹ con bà Ngọc Lan thêm phần thương cảm và cảm thấy việc đưa Khoa đi nước ngoài là một điều tốt, giúp Khoa rời xa nơi chứa đầy kỷ niệm của hai người.
Chỉ còn hai ngày nữa Yến Lan lên đường, thủ tục của Khoa khi nào hoàn tất anh sẽ đi sau.
 
***
Tự nhiên hôm ấy Yến Lan cảm thấy trong người bồn chồn không chịu được.
Cố nằm dỗ giấc ngủ trưa hoài mà không thành, Yến Lan xuống vườn đi dạo để chờ Khoa về. Khoa đi từ sáng giờ này có lẽ cũng sắp về đến nơi rồi!
Mấy ngày qua, mỗi khi đêm xuống Yến Lan không còn dám bén mảng ra vườn nữa, nhưng hiện giờ là ban ngày nên Yến Lan không thấy lo lắng hay sợ sệt gì.
Cô cầm theo một tờ báo, vừa ngồi đong đưa trên ghế xích đu vừa đọc một cách hờ hững.
- Chị ơi… chị Yến Lan ơi…
Bỗng đâu Yến Lan nghe rõ ràng một tiếng rên rỉ đau đớn và tiếng người gọi đích danh cô.
Buông tờ báo, Yến Lan đứng bật dậy:
- Ai? Ai vừa mới gọi?
Yến Lan quát lớn.
Một giọng nói xa xăm đưa lại bên tai cô:
- Em đây chị ơi… em là Thiên Lan của chị đây…
Cả người Yến Lan run lên, nước mắt cô trào ra, cô không còn sợ ma quỷ gì nữa, chỉ muốn được nhìn thấy lại hình bóng đứa em gái yêu dấu của mình, dù là hồn ma cũng được:
- Thiên Lan? Có phải đúng là em không? Em tới trước mặt chị đi Thiên Lan ơi…
Có tiếng khóc uất nghẹn rồi tiếng nói yếu ớt của Thiên Lan:
- Chị ơi… em không thể… Em chỉ là hồn ma bóng quê… Em chết oan ức lắm chị ơi…
Yến Lan hấp tấp:
- Em nói sao? Em nói rõ cho chị biết đi!
- Khoa… Hắn là tên Sở Khanh, chính hắn đã giết chết em… Hắn cưới em chỉ vì muốn hưởng gia tài… Khi biết em không phải là con ruột của mẹ, hắn đã ra tay tàn nhẫn với em để quay sang tấn công chị…
Yến Lan thật sự hoang mang khi nghe em gái kể lại trong tiếng khóc.
- Em đứng ra trước mặt chị đi, chị van em, em phải đứng ra trước mặt chị để chị xác định có đúng là em không…
Yến Lan vừa dứt lời thì một luồng gió lạnh buốt thổi hắt tới, trước mặt Yến Lan là hai bóng trắng, một trong hai bóng trắng đó chính là đứa em gái tội nghịêp của cô.
Vừa nhận ra em, Yến Lan vội nhào tới nhưng cô loạng choạng suýt ngã vào khoảng không trước mặt.
Hai bóng trắng nhập nhòe rồi tan ra cũng nhanh chóng như lúc xuất hiện.
- Thiên Lan! Thiên Lan! Em đâu rồi?
Yến Lan hoảng hốt gọi to.
- Chị ơi… em vẫn đứng bên cạnh chị đây…
Nuốt ực nước mắt vào lòng, lấy lại bình tỉnh, Yến Lan hỏi em:
- Em nói Khoa là kẻ sở khanh? Chính Khoa đã giết em?
Tiếng khóc ti tỉ lại vang lên, mãi một lúc lâu Yến Lan mới nghe một giọng nói khác, không phải của em mình:
- Chị ơi, em là người yêu đầu tiên của hắn… Em đã nuôi hắn ăn học ròng rã bao nhiêu năm trời, trao cả đời con gái của mình cho hắn… Nhưng rồi hắn phụ bỏ em khi gặp người con gái khác giàu có và thế lực hơn em. Quá buồn đau tủi hổ em đã không gượng dậy được. Trong giờ phút hấp hối, em chỉ cần hắn về thăm em một lần nhưng hắn vẫn nhẫn tâm bỏ mặc… Em buồn, em giận hắn nhưng khi nghĩ lại em không trách hắn nữa, vì có lẽ những ngày tháng cách xa đã làm tình cảm trong hắn nhạt phai. Nhưng rồi bất ngờ gặp Thiên Lan, biết được gia cảnh của cô ấy, hắn lại một lần nữa bỏ rơi cô gái kia và dùng mọi thủ đoạn để gây lòng tin với gia đình Thiên Lan. Rồi khi biết Thiên Lan không phải là con ruột, tức là khối tài sản khổng lồ kia không do Thiên Lan thừa kế, hắn lại tức điên lên nên đã âm mưu giết chết cô ấy. Em đã nhiều lần hiện về để cảnh cáo hắn, nhưng hắn đã là một con quỷ đội lốt người rồi, hắn không còn sợ gì một bóng ma yếu ớt như em.
Kể tới đó, hồn ma không thể tiếp tục được nữa bởi những tiếng nấc nghẹn ngào đang dội lên.
Có tiếng của Thiên Lan tiếp lời:
- Em và chị Mai giờ đây chỉ là hai hồn ma vật vờ không nơi nương tựa. Bởi vì cả hai đứa em đều chưa ai tới số. Chúng em sẽ phải lang thang như vậy cho đến khi nào phần số mãn thì mới được gọi về trình diện dưới Diêm Vương. Chúng em chỉ có thể hiện thân mờ ảo trong đêm và không can thiệp gì vào chuyện của trần thế, nếu vi phạm sẽ bị phạt… Nhưng khi thấy hắn giở thủ đoạn ra với chị… chúng em không thể chịu nổi, không thể lặng im. Hai đứa em bàn với nhau dù có bị phạt thế nào cũng cam chịu, quyết không để hắn nhởn nhơ như thế nữa, hắn phải bị đền tội…
- Nhưng hắn sẽ đền tội cách nào đây? Làm sao chị có thể vạch mặt tên mặt người dạ thú đó khi trong tay chị chẳng có một chút gì để gọi là bằng chứng? Chị không thể báo với cảnh sát rằng hồn em gái tôi hiện về nói cho tôi biết như vậy! Bây giờ chị phải làm sao đây?
Yến Lan tức giận.
Thiên Lan nuốt nước mắt nói với chị:
- Chị còn nhớ hôm đó trước lúc em chết, chị có cho em xem mấy tấm hình và phim chị quay trên phố không?
Yến Lan gật đầu, thắc mắc:
- Có gì liên quan hả em?
Thiên Lan cười cay đắng:
- Chị về tìm lại chiếc máy quay phim đó đi, tội lỗi của hắn nằm trong đó, đó chính là bằng chứng để chị vạch mặt hắn, buộc hắn phải trả lại công bằng, phải đền mạng cho chúng em…
Yến Lan lẩm bẩm:
- Máy quay phim… Máy quay phim… Chị cũng không nhớ đã vứt nó ở đâu rồi nữa? Thiên Lan… Thiên Lan… em còn ở đó không?
Một làn gió lạnh lại hắt qua, cuốn theo những tiếng khóc nghẹn ngào của hai hồn ma tội nghịêp…
Yến Lan hoảng hốt gọi mãi tên em, nhưng cô biết âm dương đã cách trở rồi, làm sao Thiên Lan có thể quay về với gia đình mãi được…
Lau nước mắt, Yến Lan chạy vội vào nhà rồi đến ngay phòng mẹ.
Bà Ngọc Lan đang ngủ trưa, nghe tiếng gõ cửa gấp gáp nên lâït đật ngồi dậy.
Cánh cửa vừa mở ra, Yến Lan ào vào như một cơn lốc, trông cô có vẻ hoảng hốt ghê lắm.
Cài chặt chốt cửa, Yến Lan hổn hển nói trong tiếng thở:
- Mẹ ơi, mẹ có biết Thiên Lan bị người ta giết chết không?
Bà Ngọc Lan kinh hãi:
- Con nói gì bậy bạ vậy? Con vừa mơ gặp ác mộng hay sao? Hay con có đau ốm gì không?
Yến Lan ngồi xuống giường ôm lấy mặt:
- Con vừa mới gặp Thiên Lan!
- Sao? Con nói con vừa mơ gặp em con sao?
Bà Ngọc Lan hỏi lại.
Yến Lan ngước đôi mắt đẫm lệ lên nhìn mẹ:
- Mẹ ơi, con nói ra có thể mẹ không tin, nhưng con không phải ngủ mơ, con gặp em ngoài vườn, em đã kể cho con nghe tất cả!
- Em con kể những gì?
Bà Ngọc Lan bán tín bán nghi.
- Em con bảo… chính Khoa đã giết nó!
- Khoa giết nó? Trời ơi, con ơi, con mê sảng mất rồi, con đừng nói những điều điên khùng như vậy… gia đình mình đã quá nhiều bất hạnh rồi, con đừng tưởng tượng ra thêm cái điều ghê rợn ấy…
Yến Lan lau nước mắt:
- Mẹ! Mẹ phải tin con! Mẹ biết rồi đó, trước nay con chưa bao giờ tin có chuyện ma quái, và con… con cũng đã có tình cảm với tên lòng lang dạ sói ấy, thì tại sao con lại đặt điều cho hắn được chứ! Mẹ nghĩ lại xem…
Bà Ngọc Lan không biết phải nghĩ sao cho đúng. Tất cả những điều Yến Lan kể nghe vừa có lý lại vừa phi lý vô cùng.
Thấy mẹ vẫn chưa tin. Yến Lan đứng lên kéo tay mẹ:
- Mẹ đi theo con, con sẽ tìm bằng chứng… Thiên Lan đã mách bảo cho con bằng chứng nằm ở chỗ nào. Con quyết tâm phải lấy lại công bằng cho em con và những người con gái khác đã từng bị Khoa lường gạt và vứt bỏ… Mẹ, mẹ đi với con đi mẹ! Con sẽ cho mẹ xem bằng chứng để mẹ biết những gì con vừa kể không phải là một giấc mơ cũng không phải là điều hoang tưởng.
Bà Ngọc Lan theo con gái về phòng nó.
Yến Lan lục tung các ngăn tủ trong phòng, áo quần, sách vở bị cô ném ra ngoài tung tóe.
Bà Ngọc Lan run sợ nghĩ thầm, có lẽ nào con gái bà bị cuồng tâm loạn trí?
- Con đang tìm gì vậy? Nói cho mẹ biết đi con…
Giữ hai tay Yến Lan lại, bà Ngọc Lan dịu dàng hỏi.
Thấy mẹ lắc đầu, Yến Lan sực nhớ ra reo lên:
- Đúng rồi! Chắc là ở trong phòng của Thiên Lan! Hôm đó con để trên bàn trong phòng Thiên Lan… Cầu trời, cầu trời mấy hôm nay tên súc sinh đó chưa biết được gì. Nhưng… giờ này tên ác quỷ đó sắp về tới rồi. Không thể để hắn về nhà trong lúc này, hắn mà khám phá ra được bí mật đó thì mình sẽ không còn gì làm bằng chứng nữa…
Rồi Yến Lan hoảng hốt gọi mẹ:
- Mẹ ơi, mẹ gọi điện cho hắn đi, mẹ sai hắn đi đâu đó, mẹ đừng cho hắn về nhà lúc này… Mẹ… nhanh lên mẹ ơi!
Mặc dù không mấy tin vào những lời hoảng loạn của con gái, nhưng bà Ngọc Lan vẫn làm theo.
Bà bấm điện thoại, nhờ Khoa làm giúp một số việc. Anh ta nhanh nhẹn nhận lời.
Yến Lan cùng mẹ tới phòng Thiên Lan. Lâu nay cửa phòng này không khóa vì Yến Lan vẫn thường ra vô chăm sóc cho Khoa.
Bà Ngọc Lan lo lắng:
- Con nói nãy giờ mẹ vẫn chưa hiểu được gì? Sao lại chính Khoa giết chết Thiên Lan? Sao lại phải cuống cuồng đi tìm cái máy quay phim của con? Bằng chứng gì nằm trong đó? Thiệt tình… con làm đầu óc mẹ sắp nổ tung ra rồi đó Yến Lan ạ!
- Mẹ ơi, mẹ đừng hỏi gì nữa! Bởi vì chuyện này con có nói ra mẹ cũng không tin được, không ai có thể tin được. Bởi vậy, mẹ nhanh chóng tìm chiếc máy quay phim đi, tìm được nó thì mẹ sẽ biết tất cả! Tìm được nó là mọi việc sẽ được phơi bày ra ánh sáng… Trời ơi… Vậy mà suýt chút nữa con lại đón nó về Mỹ… Suýt chút nữa con lại trở thành kẻ tiếp theo sụp vào bẫy rập mà hắn giương ra…
Vừa nói trong tiếng khóc, Yến Lan vừa lục tung hết mọi ngóc ngách trong phòng.
Hai mẹ con tìm kiếm một lúc lâu thì Yến Lan phát hiện chiếc máy quay phim của cô bị vứt lăn lóc trên đầu tủ.
Mừng rỡ xen lẫn với sự hồi hộp, Yến Lan run run mở máy cho hai mẹ con cùng xem.
Trên màn ảnh từng cảnh vật lần lượt hiện ra: Đường phố Sài Gòn nhộn nhịp, Nhà thờ Đức Bà, cảng Sài Gòn… những hình ảnh lần lượt lướt qua trước mắt hai người… Bỗng cả hai mẹ đều như bị ai đó bóp chặt quả tim khi nhìn thấy thật rõ ràng hành động dã man của Khoa đối với người vợ ốm đau bệnh tật của mình. Khoa đang dùng hết sức lực đè chặt chiếc gối xuống mặt Thiên Lan, Thiên Lan quẫy đạp, chống chọi một cách yếu ớt trên giường… hình ảnh đó đập mạnh vào mắt hai mẹ con Yến Lan làm cả hai đều bủn chân tay, bởi vì không ai có thể ngờ sự việc lại ra nông nỗi thế!
Mồ hôi túa ra đẫm lưng áo bà Ngọc Lan. Cuộc đời bà đã từng chứng kiến nhiều mặt trái của xã hội, chứng kiến nhiều tội ác do con người gây ra, nhưng bà không thể ngờ được ngay trong nhà bà, trên chiếc giường cưới của con gái bà lại diễn ra một hành động giết người dã man đến vậy, mà kẻ thủ ác lại chính là thằng con rể mà bà đã vô cùng quý mến!
Bà quỵ xuống sàn nhà, ôm mặt khóc nức nở.
Lần này Yến Lan lại tỏ ra bình tỉnh hơn mẹ. Cô dìu mẹ về phòng rồi căn dặn bà nếu Khoa có về phải ráng làm như không có gì xảy ra, mọi việc Yến Lan sẽ lo liệu.
Vội vã bỏ chiếc máy quay phim vô túi xách, Yến Lan hộc tốc chạy đến trụ sở công an gần nhất, cô quyết tâm không để Khoa có cơ hội thoát khỏi tội lỗi tày trời này.
Còn lại một mình trong phòng, bà Ngọc Lan không sao cầm được nứơc mắt. Từng cơn nức nở cứ dội lên không ngừng từ lồng ngực bà, khiến bà không còn chút sức lực nào nữa hết!
Bà úp mặt xuống gối rên rỉ:
- Thiên Lan ơi, đứa con gái bạc phận tội nghịêp của mẹ ơi… Hãy tha lỗi cho mẹ… Mẹ cứ ngỡ con sẽ được hạnh phúc nhưng mẹ nào ngờ con của mẹ phải chết oan chết ức như vậy… Thiên Lan ơi… Làm sao mẹ còn mặt mũi nào để gặp lại mẹ con đây hở Thiên Lan…?
Đang khóc mùi mẫn, bà Ngọc Lan có cảm giác ai đó vừa bước vào phòng. Bà giật mình ngồi dậy thủ thế.
Từ lúc biết ra bộ mặt thật của Khoa, bà luôn thấp thỏm lo sợ. Bà sợ nếu Khoa phát hiện bí mật của mình đã bại lộ, chắc chắn hắn không ngại gì mà giết cả hai mẹ con bà để bịt đầu mối. Vì vậy, và cứ tưởng Khoa lẻn vào phòng.
Nhưng trong phòng ngoài bà ra vẫn không có ai, chỉ thấy tấm rèm đang lay động mạnh mặc dù các cánh cửa đều đã được đóng kín và trong phòng không hề mở quạt máy.
- Thiên Lan ơi, có phải con về với mẹ đó không con?
Bà Ngọc Lan gọi tên con trong tiếng khóc.
- Mẹ ơi… con về với mẹ đây…
Một giọng nói yếu ớt từ xa vọng tới. Bà Ngọc Lan hớt hãi nhìn quanh:
- Thiên Lan! Thiên Lan! Con đâu? Con cho mẹ nhìn mặt con lần sau cuối đi con… Mẹ nhớ con, mẹ rất nhớ con…
- Con cũng rất nhớ mẹ… nhưng mẹ ơi, con không thể… con không thể hiện ra với nguyên vẹn hình hài được nữa… con không còn sức mẹ ơi…
Bà Ngọc Lan nghẹn lời không còn nói gì thêm được nữa. Bà quỳ mọp trên giường huơ tay tứ phía mong muốn được chạm vào con gái, nhưng đứa con gái yêu dấu của bà giờ đây chỉ còn là sương khói mỏng manh thì làm sao bà có thể chạm vào được nữa.
- Mẹ ơi, mẹ đừng quá đau buồn… Mẹ hãy giúp cho con được nhẹ lòng nghe mẹ?
Tiếng nói của Thiên Lan thoảng qua như hơi thở.
- Mẹ phải giúp con bằng cách nào hở con?
Bà Ngọc Lan thở hổn hển.
- Mẹ ơi… mẹ cúng cho con đi, mẹ cúng cho chị Mai nữa… Chị ấy cũng tội nghịêp lắm mẹ ơi… Mẹ hãy cầu nguyện cho linh hồn chúng con sớm được siêu thoát, chúng con không chịu đựng nỗi sự vất vưởng thế này đâu… Mẹ ơi… mẹ đừng quá đau buồn nghe mẹ… mẹ ơi…
Tiếng nói mỗi lúc một xa vời vời, cuối cùng chỉ còn rơi lại tiếng nức nở thương tâm.
- Con ơi! Thiên Lan con ơi… con đừng bỏ mẹ con ơi…
Bà Ngọc Lan kêu lên tuyệt vọng khi thấy tấm màn lại một lần nữa lay động. Một bóng trắng thoáng qua rồi mất hút. Bà Ngọc Lan òa lên khóc ngất từng cơn…
 
***
- Thắm ơi! Thắm! Ra đây ba cho con xem cái này, nhanh lên con!
Nghe tiếng gọi gấp gáp của cha, Thắm vứt quyển tập xuống bàn rồi chạy vội ra phòng khách.
Vừa trông thấy Thắm, ông Hòa hỏi ngay:
- Con đã đọc báo sáng nay chưa?
- Dạ chưa! Có gì không ba?
Thắm ngạc nhiên trước vẻ khẩn trương hiếm thấy của ông Hòa.
- Đây, con xem đi! Ba thật không tin vào mắt mình được…
Trao tờ báo đang đọc dở dang cho con gái, ông Hòa lắc đầu ngao ngán.
Thắm tò mò lướt mắt qua trang báo, không hiểu chuyện gì mà làm cho người cha vững chãi của mình có vẻ lạ lùng như thế?
Ánh mắt Thắm dừng lại ở một dòng tít lớn: “Lưới trời lồng lộng – Phơi bày vụ giết người ở biệt thự Vườn Lan”, bên cạnh đó, rõ ràng là tấm hình của Khoa!
Run rẩy cầm chặt tờ báo, Thắm cố gắng đọc thật nhanh một mạch cho hết bài. Mồ hôi cô rịn ra hai bên thái dương và nước mắt cô đã chảy dài trên mặt.
Ông Hòa đỡ con ngồi xuống ghế:
- Lâu nay ba mẹ luôn đau lòng khi thấy con bị thằng Khoa phụ rẫy. Và nói thật lòng, ba mẹ cũng tiếc vì đã mất đi một thằng rể tốt. Nhưng hôm nay ba mẹ phải thắp nhang tạ ơn trời đất vì nó sớm bỏ con…
Thắm gạt nước mắt:
- Con không ngờ anh ta lại là kẻ vô lương tâm đến mức độ ấy! Vậy mà con đã hết lòng thương yêu anh ta…
Ông Hòa vuốt tóc con gái:
- Cũng may, cũng may con gái của ba là đứa có bản lĩnh! Ba còn nhớ, sau khi thằng Khoa báo tin đi cưới vợ, con tìm gặp nó rồi về nhà cứ nằm suốt trong phòng, làm ba mẹ lo cháy ruột, chỉ sợ con nông nỗi, nghĩ quẩn rồi làm điều gì đó dại dột. Nhưng thật không ngờ, chỉ ba ngày sau con lại xuất hiện với vẻ mặt bình thản như không có gì xảy ra. Ba mẹ tuy mừng những vẫn chưa hết âu lo. Bởi vì ba mẹ biết, tận trong sâu thẳm lòng con, không dễ gì con quên nó nhanh chóng đến vậy. Cũng may cho con, chứ nếu không người chết đó có thể là con cũng nên. Nhưng thật tội nghiệp cho người con gái xấu số ấy…
Thắm đưa tay quệt ngang mũi rồi nói:
- Ba biết tại sao con có thể bình tỉnh lại không?
Thắm hỏi nhưng không đợi ông Hòa trả lời, cô nói tiếp:
- Chính vì cái hôm con tìm gặp anh ta để hỏi cho ra lẽ, nếu như hôm ấy anh ta tỏ vẻ buồn khổ một chút, khó xử một chút chắc là con cũng khó mà dứt khoát lòng mình được. Đằng này anh ta lại tỏ ra lạnh lùng và vô cùng xa lạ với con, trong khi chỉ trước đó không lâu lại luôn nói với con những lời sắc son gắn bó. Thấy được bộ mặt đểu giả của anh ta nên con mới có thể sớm nguôi ngoai. Nhưng… thật tình lòng con vẫn còn đau đớn lắm… Con đã… dại dột…
Suýt chút nữa Thắm đã buột miệng nói ra cái điều mà lâu nay cô luôn giấu kín, cô không muốn ba mẹ buồn hơn nữa nên đành nói trớ đi:
- Con đã dại dột đi thương yêu một người như vậy!
Ông Hòa thở dài:
- Con đừng tự trách mình như thế! Ngay như ba mẹ đây, đầu đã hai thứ tóc rồi mà vẫn còn bị nó qua mặt ngon ơ thì nói gì một đứa con gái mới lớn như con.
Vỗ vào vai con gái, ông Hòa động viên:
- Thôi, con đừng buồn, con còn trẻ, còn nhiều cơ hội đang chờ đợi con phía trước, đừng vì một đứa không ra gì như nó mà đau khổ làm gì con ạ! Nhưng nói đi rồi cũng phải nói lại, nó là một đứa có tài, nếu nó đừng có tham vọng quá lớn, thì tương lai của nó cũng sẽ thênh thang lắm, ba nghĩ mà thấy tiếc cho nó…
Thắm tư lự:
- Giờ này chắc anh ta đã nhận ra sai lầm của mình…
- Cũng chẳng biết thế nào mà nói trước được con ơi! Có những kẻ, tới chết họ vẫn luôn có đủ lý lẽ để biện hộ cho những hành vi vô nhân tính mà họ đã gây ra, họ không bao giờ nhìn thấy tội lỗi của mình con ạ!
Suốt buổi sáng, Thắm đọc lại bài báo đến mấy lượt. Cô không sao hiểu nổi, tại sao một tên ác quỷ lại có thể mang được gương mặt của thiên thần như thế? Chính cái vẻ ngoài hiền lành, chất phác của hắn đã làm bao nhiêu người sa chân vào bẫy.
ĐơØi con gái của Thắm đã mất đi, tình yêu đầu tiên của cô cũng bị người ta phản bội. Nỗi đau đó đâu dễ gì phai nhạt trong một sớm một chiều. Nhưng Thắm không yếu đuối như những cô gái khác, trong tình trạng đó chỉ biết van xin khóc lóc. Cô không van xin, vì cô biết tình yêu là thứ mà không thể đem ra bố thí được. Cô đã nuốt nước mắt vào lòng để gượng dậy đi cho hết cuộc đời.
Thắm đã cố quên, nhưng hôm nay bài báo đó làm sống dậy trong cô những niềm đau mà bấy lâu cô chôn giấu.
Buổi chiều, Thắm ghé chợ mua một giỏ thức ăn rồi tìm tới trại giam thăm Khoa.
Vừa trông thấy Thắm, Khoa vô cùng mừng rỡ. Ít ra bây giờ bên cạnh mình cũng còn lại một người, Khoa thầm nghĩ vậy.
- Thắm… anh xin em tha lỗi cho anh!
Thắm cười buồn:
- Còn gì nữa mà lỗi phải hả anh?
Khoa nhìn Thắm khẩn thiết:
- Thắm ơi, anh van em, em cứu anh với Thắm ơi! Em nhờ ba mẹ em giúp anh với… Anh luôn yêu thương em, chỉ tại… chỉ tại…
Thắm nhếch miệng mỉm cười:
- Giờ phút này là giờ phút nào rồi mà anh vẫn chưa nhận thấy tội lỗi của mình hả anh? Trước khi tới đây, em muốn nói với anh nhiều điều lắm, nhưng bây giờ, khi nghe câu này thật sự em không còn muốn nói gì nữa hết! Bởi vì tất cả những gì em nói sẽ không đi vào tai anh được đâu. Đáng lẽ ra anh đã có được một cuộc sống đàng hoàng ổn định, vậy mà anh tự tay hủy hoại tất cả. Anh không những hủy hoại chính cuộc đời anh mà anh còn nhẫn tâm hủy hoại luôn những ngừơi vô tội khác, những người đó là người ơn của anh, những người hết lòng thương yêu anh. Vậy mà… anh đã quá nhẫn tâm…
Thắm nói xong đứng lên đẩy túi thức ăn về phía Khoa rồi nói:
- Giờ thì em về! Mong rằng trước khi đền tội, anh có thời gian mà nhìn lại chính bản thân mình.
- Thắm ơi… em đừng bỏ anh, Thắm ơi…
Khoa tuyệt vọng gọi theo nhưng Thắm không hề quay lại.
Khoa gục xuống nghẹn ngào…
Bất giác, Khoa nghe như có người chạm khẽ vào vai mình, cứ ngỡ Thắm quay lại, Khoa mừng rỡ ngẩng đầu lên, trước mặt Khoa là hai người con gái: một mắt mở trừng trừng, một miệng mồm đầy những máu…
Hoảng hốt, Khoa đứng bật dậy và lùi lại, lùi lại đến sát chân tường. Hai bóng trắng chợt buông một tràng cười lạnh lẽo rồi tan biến đi…
Cánh cổng buồng giam trước mắt Khoa đã khép lại, trò chơi sinh tử mà Khoa dám đem cả cuộc đời mình cũng đã khép lại rồi và Khoa chính là người thua cuộc!
Bỗng nhiên Khoa nhớ lại lời thề của mình vào một đêm trăng thật sáng bên cánh đồng quê…
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 15:49:10 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 22:26:26
NHÀ MỒ OAN KHỐC
 
Chương 1
 
Chiếc ghe máy hướng về phía cù lao Hàm Rồng, giảm dần tốc độ rồi từ từ quay mũi vào bờ.
Tiếng máy nổ xình xịch làm khuấy động sự yên tĩnh của bến sông quê. Chủ ghe nhanh nhẹn với lấy tấm ván bắt ngang qua cho hành khách bước lên.
Người đàn bà dắt tay đứa con gái trạc chín, mười tuổi thận trọng đặt từng bước chân trên chiếc cầu dừa trơn tuột bắt chênh chếch ở mé sông. Đứa bé níu chặt tay mẹ nhưng gương mặt lại hớn hở nhìn ngó xung quanh, chừng như nơi này đối với nó còn lạ lẫm lắm.
Trái lại, người phụ nữ lộ rõ sự lo âu, căng thẳng, tay dắt con, tay mang hành lý, dáng vẻ vội vàng, hấp tấp.
Mới hơn sáu giờ chiều mà nơi đây trời đã nhá nhem tối. Những tia nắng yếu ớt cuối ngày không đủ sức xuyên qua những tàn lá rậm rạp của những vườn dừa, vườn cây ăn trái trãi dài.
 Không gian tĩnh lặng, thỉnh thoảng có tiếng chó sủa râm ran đâu đó, hoặc tiếng ca vọng cổ thật mùi vẳng lên từ mấy chiếc xuồng câu.
Những ngôi nhà lá lụp xụp nằm rải rác hai bên đường đã leo lét ánh đèn. Dân cư ở đây thưa thớt, quanh năm sống bằng nghề chài lưới, vườn tược, cuộc sống của họ thật đạm bạc, bình yên.
Nằm tách biệt khỏi xóm nhà lá nghèo nàn là ngôi nhà ngói ba gian đồ sộ của bà Chín Hoa được bao bọc bởi một tường rào cao quá đầu người. Trong sân nhà, ngoài các loại cây ăn trái như xoài, mận, vú sữa... còn trồng nhiều loại cây kiểng khác.
Tất cả vẻ bề ngoài ấy đã phản ánh được phần nào sự giàu có, sang cả của gia đình này.
Trước đây bà Chín Hoa cùng chồng sống ở Sài Gòn. Ngoài hai nhà máy dệt do ông chín làm chủ, bà còn được thừa hưởng của gia đình một số lớn của cải, đất đai.
Dòng họ bà hiếm hoi, hai bên nội ngoại chỉ có anh em bà là cháu. Hai anh chết do bom đạn, chỉ còn lại mình bà nên dù là gái bà vẫn được thừa hưởng toàn bộ gia sản.
Vợ chồng bà sinh được ba người con, hai con trai đầu là ông Thúc, ông Thịnh, và cô Lan, con gái út.
Ông chín đột ngột qua đời do tai biến mạch máu, bà hết sức đau buồn, suy sụp. Công việc kinh doanh từ đó không phát triển được.
Bà quyết định bán ngôi biệt thự cùng hai nhà máy dệt chia làm bốn phần, ba phần  cho ba đứa con, phần còn lại bà mang về quê sống cùng với người quản gia câm nhưng hết mực trung thành.
Chiều nay, bà chín Hoa qua đời.
Ngôi nhà ngói ba gian sáng rực ánh đèn néon, tiếng người nói chuyện lao xao, tiếng bình bịch đều đều của máy phát điện làm mất hẳn vẻ thâm u cổ kính thường ngày.
Con cháu bà chín Hoa đã về gần như đông đủ, chỉ còn thiếu cô con gái út.
Ông Thúc vừa kê lại bộ ván trước sân vừa hỏi Mạnh – con trai ông:
- Trưa nay đánh điện thế nào mà bây giờ cô út mày chưa về tới?
- Dạ, con có nói rõ bà nội yếu lắm, chắc không qua khỏi…
Vừa nói đến đó Mạnh chợt nhận ra người đàn bà dẫn con đang tất tả đi vào, anh reo lên:
- Cô út về, cô út về rồi kìa ba!
Lan không kịp chào hỏi ai. Cô vất túi hành lý lên bàn rồi chạy ào vào phòng mẹ. Con bé Liễu mếu máo chạy theo thì bị Mạnh ngăn lại:
- Em đừng vào trong đó, ở đây anh cho xem cái này hay lắm!
Con bé chưa kịp phản ứng thì Mạnh đã bế xốc nó lên lưng cõng ra sân.
Trong phòng riêng, xác bà chín Hoa được phủ vải trắng toát, trên bụng đặt nải chuối xanh, bốn góc giường là bốn ngọn bạch lạp đang cháy sáng. Dưới sàn, ngọn đèn dầu leo lét cháy, ngọn lửa chốc chốc lại chao qua, chao lại.
Lan phục xuống cạnh xác mẹ nức nở:
-Mẹ ơi, sao mẹ không chờ con về? Con bất hiếu quá, giờ phút cuối đời của mẹ mà con cũng chẳng ở bên…
Cô run run giở tấm vải trắng ra để nhìn mặt mẹ lần cuối cùng. Gương mặt bà chín tuy không còn sắc hồng hào nhưng trông vẫn phúc hậu, hiền lành. Những người thân đứng bên cạnh lại sụt sùi khóc.
Ông Thúc đẩy cửa bước vào, thấy em gái đang vật vã bên xác mẹ, ông rất thương tâm. Tội nghiệp, nó vừa mới chịu nỗi khổ sinh ly với chồng giờ đây lại thêm nỗi đau tử biệt với mẹ. Ông vỗ vai em gái an ủi:
- Mẹ tuổi đã cao, đời người rồi ai cũng phải vậy thôi em. Mẹ ra đi nhẹ nhàng, thanh thản cũng là phúc đức của gia đình ta. Em đang thai nghén đừng bi lụy quá không tốt, vả lại anh em mình phải bàn bạc chuyện hậu sự cho mẹ nữa, sắp đến giờ tẩm liệm rồi!
Mọi người đỡ Lan dậy, đặt cô ngồi vào ghế rồi họ lặng lẽ rút lui. Bà câm thay mấy cây bạch lạp đã cháy lụi xong cũng đi ra nhà ngoài.
Giờ đây trong phòng chỉ còn ông Thúc, cô Lan và vợ chồng ông Thịnh.
Ông Thúc tuy đã ngoài tuổi năm mươi nhưng vẫn còn tráng kiện. Ba anh em họ mặc dù đã sống riêng tư từ nhiều năm nay nhưng ông Thịnh, cô Lan vẫn luôn kính nể anh mình, những việc lớn của họ tộc đều do ông Thúc chủ trì.
Ông Thúc nhìn hai em rồi chậm rãi cất tiếng:
- Vợ chồng chú ba, cô út! Lúc sắp ra đi mẹ có trao cho tôi và chú thiếm đây một số vàng, dặn lo hậu sự cho mẹ xong còn bao nhiêu thì chia cho ba anh em ta. Nhưng theo ý tôi, mẹ đã một lần chia gia tài cho anh em mình rồi, số của cải mẹ cho, ba anh em mình đã gầy dựng được cơ ngơi, giờ ai cũng có cuộc sống tương đối sung túc. Đây là phần của mẹ, thôi thì chúng ta nên làm hành trang cho mẹ. Ý tôi là vậy, chú thiếm và cô út nghĩ sao?
Lan nghẹn ngào, cô chỉ khẽ gật đầu chứ không nói nên lời. Bà Nghiêm - vợ ông Thịnh thì nghĩ mình là phận dâu con cũng không có ý kiến.
Ông Thịnh trầm ngâm giây lát mới chịu nói:
- Em cũng nhất trí với anh, nhưng ta phải làm thế nào cho thật kín đáo chứ nếu người ngoài biết được, em sợ mồ mả mẹ không yên.
Ông Thúc gật gù:
- Chú nói phải lắm! Vậy việc tẩm liệm phải do người trong nhà mình làm, đừng nhờ thêm ai khác.
Sau khi mấy anh em bàn bạc xong, ông Thúc bước ra nhà ngoài cung kính chắp tay nói với mọi người:
- Gia đình chúng tôi rất biết ơn bà con cô bác đã đến đây giúp đỡ chúng tôi trong lúc hữu sự. Việc tẩm liệm đáng lý ra cũng phải nhờ các bác, các chú đây giúp cho một tay, nhưng vì mẹ tôi mất nhằm giờ kỵ với người ngoài, sợ ảnh hưởng không tốt đến bà con nên gia đình tôi xin được tự mình lo phần tẩm liệm. Xin bà con đừng thắc mắc.
Ông Thúc nói xong xá dài một lượt. Một số người xôn xao bàn tán, nhưng rồi ai cũng sợ vận xấu đến với mình nên họ lãng ra rất nhanh.
Sau khi đã cẩn thận cài chặt cửa, anh em ông Thúc đến xem xét lại chiếc quan tài đã được xóm giềng chuẩn bị từ chiều.
Bà Nghiêm cùng cô Lan đeo vào cho mẹ thêm vòng xuyến, dây chuyền, bỏ vàng bạc vào hai túi áo, còn lại bao nhiêu trút cả vào chiếc túi gấm để đem theo cho mẹ.
Công việc tẩm liệm xong xuôi, khi nắp quan tài vừa đóng lại, Lan không còn gượng được nữa cô ngã xuống bất tỉnh.
Bà chín Hoa mất khi tuổi đã cao, đã “nên nấm mồ” như người dân quê thường nói, vì vậy đám tang bà không có vẻ thê lương quá như những người chết trẻ .
Người khóc nhiều nhất có lẽ là cô Lan và bà quản gia câm. Nhưng rồi họ cũng phải dằn lòng để cùng với bà Nghiêm quán xuyến mọi việc trong nhà.
Mộ bà chín được an táng trên gò đất cao ven bờ sông Tiền, trong khuôn viên đất của gia đình.
Mấy ngày sau khi mở cửa mả và nhà mồ được xây cất xong, ông Thúc nhờ người xuống tận Long Xuyên rước thầy bùa người Khơme về làm phép, đón âm binh đến bảo vệ mộ phần.
Không biết bằng cách nào, lão thầy bùa đã dẫn dụ được một đàn dơi đông đúc đến an cư phía trong nhà mồ.
Người dân ở xứ cù lao heo hút này nói với nhau rằng hồi còn sống bà chín Hoa sống trong ngôi nhà lớn nhất, sang nhất ở đây, giờ chết đi bà lại được nằm dưới ngôi mộ cũng lớn nhất, đẹp nhất vùng này. Quả là người giàu đến chết vẫn giàu!
Đúng vậy, ngôi nhà mồ được chạm khắc tỉ mỉ, mái vòm cong cong cao vút, trông thật nguy nga. Ai có dịp đi qua cũng trầm trồ khen ngợi.
Nhưng cũng từ đó, ban đêm dân ở đây hết sức né tránh con đường này. Họ không sợ vong hồn bà chín, bà vốn dĩ hiền lành sống không mích lòng ai, tuy giàu có nhưng luôn nhã nhặn với xóm giềng.
Họ sợ là sợ đàn dơi ngày một đông đúc, tiếng vỗ cánh phành phạch, tiếng kêu của chúng trong đêm nghe giống như một bầy quỷ đói đang rên rỉ đòi hút máu người.
Sau đám tang, anh em ông Thúc ai về nhà nấy, chỉ còn lại bà quản gia câm thui thủi một mình trong ngôi nhà rộng thênh hiu hắt.
**
*
- Ông làm gì đi chậm như sên vậy?
Tiếng người đàn bà cằn nhằn. Người đàn ông trả lời vẻ gắt gỏng:
- Trời tối đen như mực, tui không thấy đường, biểu bà đốt đuốc lên mà bà không nghe!
- Trời đất! Bộ ông muốn mọi người chú ý hay sao mà đòi đốt đuốc?
Rồi bà nhỏ giọng dỗ dành:
- Ông ráng lên, chỉ một chút nữa thôi là vợ chồng mình được đổi đời rồi! Mặc sức cho ông tiêu xài vung vít! Tui cam đoan với ông số đó không nhỏ đâu. Cứ nhìn vẻ mặt của mấy đứa con bà Chín Hoa hôm đó là đủ biết!
- Bà chỉ giỏi đoán mò! Ông Thúc nói rõ ràng, tại mẹ ổng chết nhằm giờ kỵ mới không để người ngoài có mặt khi tẩm liệm!
- Xì, ông dễ tin người quá! Tui thì biết tỏng! Chẳng qua họ sợ người ta dòm ngó, chứ thưở đời nay ông đã nghe nói ai chết kỵ kiểu đó chưa?
Người đàn ông đuối lý, vừa lẩm bẩm vừa theo sát vợ. Chị vợ hăm hở đi dấn lên phía trước.
Dân quê có thói quen tiết kiệm, khi vô mùng ngủ họ tắt hết đèn đuốc để đỡ tốn dầu, nên xóm làng chìm trong bóng đêm mù mịt.
Đêm ba mươi tối như mực, trên bầu trời không một ánh sao. Thỉnh thoảng một vài con chim ăn đêm bay ngang buông  những tiếng kêu rờn rợn.
Người chồng nghe vợ xúi giục, tham của nên đi theo chứ thật bụng ông không tin tưởng dưới mồ bà Chín có chôn theo của cải. Ông lại nhát gan, chuyện đào mồ cuốc mả đêm hôm thế này ông sợ lắm!
Hai vợ chồng lần dò, xách cây đèn bóng lù mù soi không đủ sáng.
Đến cổng nhà mồ, người chồng tụt lại phía sau, chị vợ hối thúc:
- Ông trèo vô đi, tui đứng ngoài này canh cửa cho!
-Thôi, tui ớn ớn sao đó bà ơi!
- Ông nhát gan quá, vô lẹ lẹ đi!
Người vợ cố đẩy chồng tới sát cổng. Anh chồng ngập ngừng một lát rồi đánh bạo trèo lên tường rào. Vừa đặt chân xuống đất nghe chị vợ thì thào:
- Nè, cuốc xẻng nè, cầm lấy! Ông làm trước đi, tui đứng đây xem động tịnh thế nào rồi vô phụ ông liền!
Anh chồng lúi húi nhặt cuốc, xẻng vợ quăng vào, tay giơ cao cây đèn lập cập bước sâu vào trong nhà mồ.
Ngôi mộ bà Chín  được ốp đá hoa, sàn nhà mồ lát gạch men, lâu ngày không ai lui tới, và nhất là vào ban đêm thế này, cả căn nhà toát lên một làn hơi lạnh lẽo làm người đàn ông thấy nổi gai ốc.
Ông mím môi, đặt cây đèn bóng lên mộ bia rồi vừa mò mẫm xung quanh chân mộ tìm chỗ thuận tiện nạy gạch lên, vừa lầm rầm khấn vái:
Bà Chín ơi, con biết làm như vầy là có tội với bà lắm! Nhưng bà sống khôn thác thiêng, xin bà thương xót cho vợ chồng con. Gia đình con quanh năm nghèo khó, tiền của bà để dưới mồ cũng chẳng làm gì, bà cho vợ chồng con xin một ít, con sẽ…
Người đàn ông chưa kịp khấn hết câu đã nghe tiếng dơi rào rạt từ góc nhà túa ra. Ông nghĩ đúng là vong hồn bà Chín Hoa linh hiển, xua bầy dơi về phía ông như một lời cảnh cáo.
Người đàn ông hoảng quá, đưa tay chụp lấy cây đèn nhưng tay ông chưa với tới, cây đèn đã bị đàn dơi đụng phải, ngã nhào xuống đất ngọn lửa nhỏ nhoi lập tức tắt ngóm đi.
Tinh thần bấn loạn, người đàn ông không còn nhận biết lối ra, ông cứ chạy lòng vòng xung quanh ngôi mộ, miệng không ngừng lắp bắp:
- Bà Chín…! Bà Chín…Tha… tha… cho con!
Người vợ đứng bên ngoài nghe tiếng loảng xoảng, hốt hoảng hỏi khẽ:
- Ông ơi, chuyện gì ở trỏng vậy?
Không có tiếng trả lời, chỉ nghe tiếng chân chạy huỳnh nhuỵch, gấp rút vọng từ trong ra.
Người vợ quýnh quáng vừa chồm người vào trong thì lập tức bị những con dơi rất to xông thẳng tới. Chị cuống cuồng bỏ chạy, miệng kêu cứu vang trời:
- Cứu với! Có ma… cứu với làng xóm ơi!
Lúc mọi người đổ xô tới bắt gặp chị đang run lẩy bẩy ngồi nép dưới gốc dừa, mắt ánh lên vẻ hoảng loạn.
Người ta dìu chị đứng lên, chị chỉ tay vào trong nhà mồ, nói từng tiếng rời rạc:
- Chồng… chồng… tôi… trong… đó!
Mọi người đùn đẩy nhau, không ai dám liều lĩnh tiến vào trong. Cuối cùng, năm thanh niên lực lưỡng nhất xóm cầm theo năm bó đuốc sáng rực leo tường vào, những người còn lại đứng dồn sát cổng, sẵn sàng tiếp ứng.
Lát sau, năm thanh niên khiêng người đàn ông đã bất tỉnh ra ngoài. Họ phát hiện ông nằm vắt ngang qua mộ bà Chín, hai mắt mở trừng trừng nhưng đã lạc hồn tán phách!
- Hu… hu… hu… Tui hại ông rồi! Ông ơi, tỉnh lại đi ông ơi!
Người đàn bà ôm lấy chồng khóc ngất lên. Dân làng phải dìu cả vợ lẫn chồng về nhà, thắp đèn đóm sáng lên, đánh dầu, xoa bóp.
Hơi thở của người đàn ông dần dần đều đặn lại nhưng ông vẫn chưa tỉnh dậy. Mấy người lớn tuổi trong xóm sau khi biết rõ nguyên nhân đều lắc đầu:
Hết nói nổi vợ chồng bây! Tụi bây dám làm chuyện động trời đó hèn gì bà Chín không bắt hồn chồng bây sao được. Thôi, giờ lo nấu mâm cơm mang ra đó thành tâm tạ lỗi với người ta, xin người ta trả hồn chồng bây về!
Người vợ riu ríu nghe theo, xuống bếp vo gạo nấu cơm, bắt con gà mái tơ duy nhất trong nhà ra làm thịt.
Trời vừa hửng sáng, người vợ lễ mễ bưng mâm cơm để trước cửa nhà mồ, quỳ sụp xuống vái lia vái lịa.
Trong khi đó ở nhà , người chồng bỗng dưng tỉnh lại, ngồi bật dậy ngơ ngác ngó xung quanh:
- Bà Chín… Bà Chín đâu rồi?
- Bà Chín nào?
Mọi người hốt hoảng hỏi:
- Bà Chín Hoa đó! Tui thấy bả mà…
Mấy cô gái yếu bóng vía nghe vậy hét toáng lên, ôm nhau chặt cứng.
Chị vợ nghe người tới báo tin chồng đã tỉnh liền tất tả chạy về. Vừa tới cổng đã nghe chồng cười khóc huyên thuyên:
Bà Chín ơi, con xin lỗi! Con không dám nữa đâu… Bà buông con ra, đừng níu chặt lấy con như vậy, con nghẹt thở lắm. Hu... hu… ha… ha…
Nó loạn trí mất rồi!
Mọi người nhìn nhau ái ngại, rồi họ lãng ra ai về nhà nấy.
Còn lại một mình với người chồng ngây dại, chị vợ vô cùng hối hận nhưng mọi việc đã xong, không thể nào sửa đổi lại được. Chị khóc rấm rúc, xấu hổ với bà con xóm giềng về hành vi tham lam vô lối của mình, chị không dám than thở cùng ai.
Hơn tuần sau, bệnh tình của người chồng vẫn không có chút nào thuyên giảm. Người ta xì xào bàn tán, người thương xót, kẻ bảo đáng đời.
Một sáng không ai nhìn thấy vợ chồng họ đâu nữa, vì nửa khuya hôm đó chị vợ đã đặt chồng lên chiếc xuồng câu nhỏ, tài sản duy nhất của hai vợ chồng, gom hết mớ áo quần ít ỏi lặng lẽ ra đi…
Làng xóm, chợ búa ở cù lao Hàm Rồng xôn xao hẳn lên vì chuyện đó. Người ta kể lại, thêm thắt nhiều chi tiết ly kỳ, rùng rợn đã diễn ra trong ngôi nhà mồ.
Từ đấy, dân làng vốn đã sợ nhà mồ bà Chín nay càng thêm sợ hãi. Họ xem đó là nơi cấm địa, không ai dám bén mảng tới, chỉ trừ dân bợm nhậu hoặc những tay “cứng cựa” nhất trong làng.
Những sự việc xảy ra ở  nhà mồ bà câm đều biết hết. Bà không nhắn tin cho anh em ông Thúc, cũng không tỏ ý tức giận gì, bà chỉ lặng lẽ thở dài…
(Còn tiếp)
Nguyễn Thị Mộng Thu
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 15:51:36 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 22:32:05
NHÀ MỒ OAN KHỐC
(Tiếp theo)

Chương 2
 
Ông Thúc ôm ngực ho sù sụ, người ông nóng ran , mồ hôi vã ra ướt cả lưng áo. Vành môi ông khô rát, nứt nẻ .
 Ông lồm cồm ngồi dậy rót nước từ bình thủy ra ly. Chiếc bình thủy đã cũ quá rồi, đáy vỏ sắp rơi ra. Ông phải một tay rót, một tay đỡ phía dưới, run run thế nào mà nước tràn ra ly suýt phỏng.
Bất chợt ông cảm thấy cuộc đời buồn quá, buồn đến rơi nước mắt.
Mạnh thường bảo ông già rồi nên lẩm cẩm. Chẳng biết có đúng không mà sao dạo này ông hay buồn vô cớ.
Ông nhớ má thằng Mạnh hồi mới cưới, nhớ lúc bà có nghén nó thích ăn toàn đồ chua, ai cũng bảo sẽ sinh con gái, bà buồn buồn vì biết ông khoái con trai.
Vậy mà lúc sinh ra thằng Mạnh, thằng con trai bụ bẫm nặng ba ký tư, bà chưa kịp thấy mặt, chưa kịp mừng vui đã vội lìa đời.
Ông gà trống nuôi con, tuy hồi đó ông còn giàu có, bỏ tiền ra thuê người lo cho thằng Mạnh không thiếu thốn gì về vật chất, nhưng sự mất mát tinh thần của cha con ông thì không có tiền bạc nào bù đắp được.
Ông đã đi qua nhiều mối tình, cố gắng tìm cho thằng Mạnh một người mẹ để yêu thương, chăm sóc nó. Nhưng rốt cuộc mấy chục năm đằng đẵng trôi qua, vẫn chỉ hai cha con ông sớm tối nương nhau mà sống.
Sau chuyến vượt biên không thành, không chỉ riêng gia đình ông, mà cả nhà ông Thịnh, bà Lan đều trở thành những kẻ trắng tay, nghèo khó.
Mấy năm gần đây, ông tuổi già sức yếu, phần buồn phiền trước cảnh suy sụp của gia đình nên cứ nay ốm mai đau.
Mạnh đã gần ba mươi tuổi vẫn chưa cưới vợ. Ông Thúc thương con đứt ruột. Nó mồ côi mẹ từ lúc lọt lòng nên được ông và cả dòng họ thương yêu, chìu chuộng, vậy mà nó không hề ỷ lại, từ bé đã ngoan ngoãn, hiền lành, càng lớn càng sống có tình có nghĩa.
Từ lúc gia đình sa cơ thất thế, nó lầm lì ít nói hẳn đi. Nó vừa lo cho cha, vừa phải dòm ngó chị em con Liễu, thằng Sang nhà cô út.
Đôi khi ông Thúc muốn bàn với hai em bán miếng đất dưới quê. Nhưng rồi ông nghĩ đất đai ông bà để lại đã mấy đời, ông cha mình giữ được cho mình sao mình không giữ được cho con cháu đời sau. Đó là một tội lỗi lớn.
Càng nghĩ ông Thúc càng buồn, nước mắt nước mũi nhòe nhoẹt trên mặt ông, rồi ông khóc hu hu như trẻ nít.
Mạnh vừa về đến cửa nghe tiếng khóc của cha, anh vội vã chạy vào:
- Ba, ba sao vậy?
Ông Thúc giật mình. Rồi khi nhận ra Mạnh ông bẽn lẽn kéo khăn lau mặt, nằm xoay người vào tường.
Mạnh thở dài, đặt tay lên trán ông:
- Ba còn nóng quá, con mua thuốc về rồi, ba mau uống đi.
Thấy ông Thúc vẫn nằm im, Mạnh bước tới đỡ ông dậy, cằn nhằn:
- Ba dạo này kỳ cục quá, cứ y như con nít, lúc nào cũng bắt con phải dỗ dành!
Đưa thuốc cho cha uống xong, Mạnh lấy áo quần định đi tắm, chợt nhớ ra điều gì, anh quay lại nói:
-À, ba ơi! Lúc nãy đi làm về con gặp Liễu, nó nói lát nữa chú ba với cô út sẽ tới thăm ba đó!
Ông Thúc lầm bầm trong miệng:
- Tụi nó bày vẽ quá…
Nói chưa dứt câu ông lại ho sù sụ. Mạnh lắc đầu đi ra nhà sau.
Ăn cơm xong, Mạnh đang nằm võng ca mấy câu vọng cổ thì  ông Thịnh và bà Lan đến.
Nam – con trai ông Thịnh và Liễu – con gái bà Lan dựng xe đạp trước nhà, chào hỏi xong liền bắt ghế lại ngồi bên Mạnh.
Ba anh em thì thầm to nhỏ, thỉnh thoảng Liễu lại cười rúc rích.
Sau khi thăm hỏi bệnh tình ông Thúc, bà Lan khẽ liếc mắt nhìn ông Thịnh, đằng hắng mấy tiếng rồi trịnh trọng nói:
- Em với anh ba tới đây trước là thăm anh, sau nữa là muốn bàn với anh một việc...
Thấy bà Lan còn do dự, ông Thúc nói:
- Việc gì thì cô chú cứ nói, anh em trong nhà có gì phải ngại!
Bà Lan mạnh dạn:
- Dạ, em với anh ba tính vầy, không biết anh hai có chịu không. Ba anh em mình giờ ai cũng lớn tuổi, sống ở đây tù túng quá. Các cháu thì làm thuê làm mướn, không đứa nào có nghề nghiệp ổn định. Chi bằng dắt nhau về quê, cùng sống chung trong ngôi nhà thờ dưới đó. Dẫu sao ở đó cũng còn đất đai vườn tược.
Bà Lan nói luôn một hơi, chừng như sợ không trình bày rõ sẽ không được sự đồng ý của ông anh cả.
Ông Thịnh rót ly nước trà, nhấp một hớp rồi nói:
- Em nghĩ về quê khí hậu trong lành, tốt cho sức khỏe chúng ta. Con cái cũng đỡ tủi cực. Mình làm cho mình dầu gì thì cũng hơn đi làm mướn cho người ta. Tuy ngày nay chúng ta không còn được như xưa, nhưng gia thế, tiếng tăm của gia đình mình dưới quê chắc vẫn còn tồn tại.
Bỗng Nam đứng lên xen vào:
- Hôm qua tình cờ con nghe ba má nói chuyện về của cải chôn theo lúc bà nội qua đời. Nhưng khi con hỏi thì ba má lại gạt đi, không đề cập tới. Nay có mặt bác Hai, ba con  và cô út, con muốn biết chuyện đó có thật hay không?
Bà Lan nhìn ông Thịnh, ông Thịnh lại nhìn qua ông Thúc, không ai trả lời câu hỏi của Nam. Mạnh và Liễu cũng đang chăm chú lắng nghe.
Mãi một lúc sau ông Thúc mới khe khẽ gật đầu:
- Thôi, giờ đây con cháu chúng ta đã trưởng thành rồi, tôi thiết nghĩ  cũng đã đến lúc cho chúng biết.
Cơn ho lại kéo đến khiến ông Thúc không sao nói tiếp được, ông phải ra hiệu cho ông Thịnh kể tiếp câu chuyện năm xưa.
Khi ông Thịnh vừa dứt lời, Liễu vỗ tay reo lên:
- Ôi! Vậy là chúng ta giàu to rồi!
Nam kéo ghế ngồi cạnh ông Thúc:
- Bác Hai! Mình về quê quật mồ lấy số vàng đó chia cho mỗi người một ít. Bác Hai, ba má con và cô út có tiền dưỡng già, tụi con có vốn làm ăn. Như vậy phải tốt hơn không?
Bà Lan xua tay rối rít:
- Không! Không… con đừng nói bậy hổng nên! Đó là của cải của bà nội, các con không đứa nào được xâm phạm. Vả lại ngày xưa số vàng đó đã được thầy pháp ếm bùa rồi, không lấy được đâu!
Nam cải lại:
- Bà nội chết rồi, có đem theo của cải cũng chẳng ích gì. Nhưng nếu nội còn sống mà trong tay có số vàng đó, con tin chắc nội cũng không để tụi con cực khổ như hiện nay đâu. Còn chuyện bùa ngãi gì đó chỉ để dọa mấy người dân quê yếu bóng vía thôi cô út ơi!
Ông Thịnh tức giận dằn ly nước xuống bàn:
Tao đến tức chết với mẹ con mày! Hết con mẹ mày giờ tới lượt mày! Làm ăn không lo làm ăn, tối ngày chăm bẵm vào mồ mả ông bà!
Ông Thúc ôn hòa hơn:
- Tôi tuy là con trưởng, nhưng việc này tôi không tự quyết định được! Tùy cô chú và các cháu định liệu. Nếu mọi người nhất trí thì tôi không phản đối. Nhưng riêng ý tôi, tôi cũng không muốn làm việc đó.
Nghe ông Thúc nói vậy, Nam có ý mừng, nghĩ mình cố gắng thuyết phục ba và cô út là xong. Còn mấy anh em con cô con bác, ai nghe đến vàng mà không sáng mắt.
Đột nhiên Mạnh đứng lên nói:
- Thưa ba, chú ba và cô út, những lời Nam nói đều có lý mà ý của ba và cô chú cũng không sai! Theo con, ba gia đình chúng ta cùng về quê sống là biện pháp tốt nhất hiện nay, nhưng việc xin của cải của bà nội thì chưa phải lúc. Chúng con đứa nào cũng sức dài vai rộng, nếu cần cù chịu khó sợ gì không nuôi nổi mẹ cha, cần chi phải quật mồ mả ông bà mình lên để tìm sự sống. Chỉ khi nào trong đại gia đình có ai đó lâm vào cảnh ngặt nghèo, hết phương giải quyết, khi ấy ta xin lấy số vàng đó chắc bà nội cũng vui lòng. Còn nếu như về quê làm ăn khấm khá thì còn nói đến chuyện đó làm chi!
Nam hết sức hậm hực khi nghe Mạnh nói, vì cứ tưởng Mạnh sẽ đứng về phía mình xúi người lớn đồng ý. Ai dè Mạnh lại dở hơi đến thế! Mà lời nói của Mạnh trước giờ luôn được mọi người tin tưởng thì Nam còn có hy vọng gì?
Trái lại, anh em ông Thúc ai cũng vui mừng khi nghe Mạnh nói thấu tình đạt lý.
Vậy là coi như mọi việc được bàn xong. Một ngày gần đây họ sẽ rời bỏ nơi phố thị bon chen để về lại quê cha đất tổ, mảnh đất hiền hòa trên cù lao Hàm Rồng ven bờ sông Tiền êm ả.
Nam, Quốc vẫn còn lưu luyến cuộc sống nơi phố thị, hai anh em không ai muốn về quê nhưng nghĩ tới số của cải đang nằm dưới mộ bà nội nên cả hai trở nên náo nức.
Cả hai cùng nghĩ, một ngày không xa  những người lớn tuổi trong nhà không chịu đựng nỗi những vất vả, thiếu thốn sẽ phải lấy kho của chìm lên mà sinh sống. Họ về gần bên để sớm tối nhắc nhở các ông bà già lẩm cẩm ấy rằng thật ra chúng ta không nghèo, đừng nên ép mình vào đời khổ cực!
Chị em Liễu nghe nói về quê thì vui như đi hội. Liễu nhớ những lần về trước cô được bà quản gia đãi đủ các món ngon, được tung tăng dưới vườn cây mặc tình hái quả. Lại nghe nói con gái xứ vườn dịu dàng đằm thắm, trai xứ vườn chung thủy, dễ ưa…
Còn ở đây, cô phải thua chị kém em đủ mọi phương diện, nhiều lúc rất tủi thân.
Thằng Sang chẳng biết gì nhiều, cứ thấy cả nhà tất bật thu xếp là nó cũng chộn rộn theo.
Riêng Mạnh, anh vẫn trầm trầm, không ai hiểu được chuyến hồi hương này gây cho anh cảm xúc vui hay buồn nữa!
* **
Liễu mở choàng mắt nhưng vẫn nằm im trên giường, tai lắng nghe tiếng chim hót ríu ran ngoài sân. Buổi sáng thôn quê thật hiền lành thơ mộng.
Một mùi hương gì đó không phải hương hoa cứ phảng phất quanh nhà, ngày đầu tiên mới về Liễu đã phát hiện ra nhưng cho đến nay vẫn chưa tìm được đâu là cội nguồn xuất phát. Quốc nói đùa, đấy chính là mùi “hương đồng quê”, Liễu nghe cũng có lý.
Liễu về sống ở thôn quê đến nay đã gần ba tháng nhưng cô vẫn còn quen với lối sống thị thành. Không sáng nào cô dậy được sớm, hoặc có dậy thì cũng nằm lăn qua lộn lại cho đến khi ánh nắng chiếu rọi vào phòng hay lúc mẹ cất tiếng mắng yêu, rầy rạt cô mới chịu rời giường.
Giờ này đàn gà đã ra khỏi chuồng từ lâu, mặc dù Liễu được phân công việc nhốt và thả gà, nhưng vốn quen thói ngủ trưa nên cô lại đùn cho mẹ hoặc thằng Sang.
Thằng Sang thì khỏi nói, mờ sáng đã nhảy khỏi giường chứ không như Liễu.
Liễu kéo mền kín mặt, định nướng thêm chút nữa thì nghe tiếng mẹ gọi:
- Sáng bét mắt rồi mà con Liễu còn chưa chịu dậy phụ dọn cơm nước gì sao?
Cô uể oải duỗi chân duỗi tay rồi ngồi dậy thủng thẳng xếp dọn mùng mền.
Đến lúc Liễu xuống bếp thì bà quản gia đã dọn bàn ăn tươm tất. Ông Thúc, vợ chồng ông Thịnh cùng bà Lan đã ngồi vào ghế.
Ngôi nhà trước giờ vắng vẻ nhưng từ ngày anh em ông Thúc dọn về đã trở nên ồn ào, đông đúc hẳn lên.
Nhà ba gian, mỗi gia đình ở một gian. Cha con ông Thúc ở gian chính, vợ chồng ông Thịnh và bà Lan ở hai gian bên cạnh.
Riêng bà quản gia câm vẫn ở căn phòng nhỏ phía sau, nơi bà đã sống gần hai chục năm qua.
Lan múc cháo ra chén, đẩy dĩa tép rang ra giữa bàn rồi gọi với ra sân:
- Mấy ông anh có ăn sáng không?
Mạnh, Nam, Quốc và Sang đang đùa với nhau ngoài ngõ, nghe tiếng Liễu gọi lục tục đi vào. Vừa nhìn thấy chén cháo trắng nghi ngút khói Sang giãy lên:
- Con không ăn, con không thèm ăn cháo đâu!
Bà Lan nhìn con trai út, lòng xót xa.
 Liễu cốc vào đầu nó, nạt:
- Không thèm cũng phải ráng mà ăn! Người mày đã gầy như que củi, không lo ăn mai mốt đi qua cầu khỉ gió thổi mạnh là bay mất tiêu luôn.
Nam, Quốc mỗi người bê một tô cháo ngồi chồm hổm ở bậc cửa. Nam than thở:
- Hết cơm tới cháo, hết cá kho lại tới tép rang, đến tôi còn ngán tận cổ huống gì thằng nhỏ.
Mạnh lên tiếng:
- Thôi, ăn cho xong rồi đi vun gốc nhãn với tao. Bữa nay làm riết cho rồi khu vườn đó, mai còn cuốc  miếng đất bên kia, mưa xuống kịp gieo giống.
Ông Thịnh góp lời:
- Ừ, thằng Nam, thằng Quốc từ hôm nay đừng đi chơi la cà đây đó nữa, ráng cùng với anh Mạnh tụi bây lo làm lụng. Mấy vườn cây có sẵn thì chăm sóc kỹ vào, không bao lâu nữa là có thu hoạch. Còn những chỗ đất hoang, đất xấu ráng cải tạo lại. Rồi anh em tụi bây tìm hiểu xem hiện giờ loại cây trái nào đang được bà con ở đây tập trung vào trồng, mình bắt chước họ mua giống về làm. Cái gì mình chưa biết, chưa thông thì để ý học hỏi, bà con hổng ai dấu diếm gì đâu!
Quốc dằn dỗi:
- Đất đai còn bao la, chỗ nào cũng cỏ mọc lút đầu, vườn cây thì xơ xác, có sức trâu cũng không làm xuể. Chi bằng bán bớt  vài công lấy tiền mướn người làm phụ.
Bà Nghiêm phụ họa:
- Thằng Quốc nói đúng đó! Làm chuyện gì trước tiên cũng cần có vốn đầu tư. Nay mai phải mua phân, thuốc, cây giống, con giống đủ thứ hết mà tiền thì không còn. Thà rằng thu hẹp diện tích lại một chút, hơn để vậy mà không chỗ nào ra hồn.
Bà Nghiêm dứt lời, đưa mắt nhìn ông Thúc. Mọi ánh mắt quanh bàn ăn cũng đổ dồn về phía ông, chờ xem thái độ.
Ông Thúc húp hết chén cháo mới ngẩng lên:
- Nếu mọi người tính vậy thì ta kêu bán miếng đất bên kia sông. Hồi còn sống có lần mẹ cũng tính bán vì nó ở xa quá, không tiện quản lý.
Thấy ông Thúc đồng ý và không ai phản bác, Nam hớn hở:
- Hôm rồi con qua đó làm cỏ, gặp ông Bảy, ổng dặn nếu có bán miếng đất đó thì kêu ổng, vì đất ổng ở liền bên. Vậy để con qua bển kêu ông Bảy sang đây bàn giá cả với mình, nghen bác Hai?
Ông Thúc thở dài:
- Vậy là mọi người ở đây biết rõ hoàn cảnh nhà ta rồi sao?
Bà Lan an ủi:
- Anh đừng buồn, đời người lên voi xuống chó mấy hồi, biết đâu mai sau con cháu mình lại phát đạt, thịnh vượng hơn xưa!
- Chừng nào thịnh vượng không biết, còn hiện tại sao mà oải quá! Trong nhà cả thảy mười miệng ăn, chưa tính đến chó mèo, dù có nhín nhút, dè sẻn mấy cũng làm không đủ ngày ba bữa cơm đạm bạc, có nước đào được kho vàng mới mong phát đạt.
Quốc mỉa mai.
- Sao mình không lấy số vàng chôn theo bà ngoại khi xưa lên để gầy dựng sự nghiệp, bao giờ làm ăn khá giả mình trả lại y nguyên?
Liễu nói một cách ngây thơ. Bà Lan trừng mắt nhìn con, ra hiệu cho Liễu không được nói nữa. Liễu lè lưỡi, rụt vai ngồi im thin thít.
- Giờ có đi kêu ông Bảy không, bác hai?
Nam nôn nóng.
Ông Thúc cười buồn, quay sang Nam:
- Con đi kêu thì đi, nhưng phải nói cho khéo đừng để người ta biết mình quá túng quẫn mà bắt chẹt giá cả nghe con!
- Dạ!
Nam nhanh nhẹn húp hết tô cháo, hấp tấp đứng lên.
Thằng Sang đang đứng mếu máo trong góc nhà bỗng trở nên tươi tỉnh. Nó bỏ chén cháo còn đầy nguyên, chỉ nhón tay bốc một con tép rang bự chảng rồi co giò chạy theo Nam, mặc Liễu gọi thế nào cũng không dừng lại.
Mạnh ăn xong, ra hè vác hai cây cuốc, nói với Quốc:
- Tao ra vườn nhãn phía bờ sông đây! Mày ăn xong ra phụ tao nghen!
Quốc làu bàu nhưng cũng đứng lên đi theo Mạnh.
- Về đây chán quá, thà ở Sài Gòn đi làm mướn còn hơn.
Quốc vừa đi vừa than thở.
Mạnh vờ như không nghe thấy. Anh chỉ con mương nhỏ chạy dài phía trước, nói:
- Mai tao đi xin một mớ rau nhúc về gầy ở đây. Còn chỗ mương cạn dưới kia mày nhắm trồng rau muống được không?
- Chắc được chứ sao không! Quốc trả lời.
Tới khu vực vườn nhãn, Mạnh chỉ cho Quốc cách vun gốc. Những điều này anh mới học ở dân làng chưa lâu, nhưng làm có vẻ thuần thục lắm rồi.
Quốc miễn cưỡng bổ từng nhát cuốc. Lát sau lại cằn nhằn:
- Ông Nam lấy cớ đi luôn nãy giờ, còn con Liễu tối ngày õng ẹo đi ra đi vô, chỉ có tui với anh làm thì biết đời nào xong?
Mạnh chỉ cười. Từ lúc dọn về quê đến nay, Mạnh không hề tỏ ra khó chịu, trái lại anh là người củng cố gia đình, hoạch định công việc rất rạch ròi, rành mạch.
Mạnh chấp nhận cuộc sống này một cách vui vẻ. Nam, Quốc bắt buộc phải làm theo anh nhưng chúng chẳng thiết tha gì, cũng chẳng nghĩ sẽ sống lâu ở nơi khỉ ho cò gáy.
Chúng chỉ chờ có điều kiện là sẽ chắp cánh bay đi.
Liễu đòi đi học may, nhất định không chịu ở nhà làm vườn. Cô sợ đôi bàn tay mềm mại sẽ chai sần lên vì cầm cuốc, cầm dao, sợ đôi má mịn màng phải nám đen vì mưa nắng. Bà Lan thương con gái nên cũng chìu theo ý Liễu.
Trong đại gia đình ấy chỉ có thằng bé Sang mới hơn mười tuổi là vô tư nhất. Nó không biết gì đến sự túng thiếu, chán nản của người lớn.
Ngày ngày, mới sáng tinh mơ nó đã ra sân chơi với đàn gà, đàn vịt, hoặc theo lũ trẻ con hàng xóm đi mò cua, bắt ốc. Tối đến, nó tung tăng xách giỏ theo các anh đi giăng lưới, cắm câu.
Với nó, cuộc sống ở đây quả rất tuyệt vời!
* *
*
Thằng Sang nằm chờ các anh dẫn đi gỡ lưới đã ngủ quên trên võng. Quốc bế nó vào nhà rồi trở ra nằm nói chuyện với Mạnh. Quốc than:
- Tui nhớ Sài Gòn quá anh Mạnh ơi! Con bồ tui ở trển chắc đã sang ngang rồi quá!
Mạnh cười:
- Vậy mà hồi nào tới giờ dấu kỹ dữ ha, sao trước đây không dẫn về ra mắt?
- Cũng định đưa về giới thiệu nhưng thấy anh và ông Nam chưa ai rục rịch gì hết, tui cũng ngại!
- Ôi trời! Hơi sức đâu mày chờ tụi tao. Đứa nào có đối tượng rồi thì tiến tới, chờ đợi làm gì.
Nam lững thững đi từ ngoài ngõ vào, nghe hai người nói chuyện liền xen vô:
- Ai có tin vui, có đối tượng vậy? Phải ông Mạnh không?
Mạnh cười khì:
- Lộn tiệm rồi Nam ơi!
Chợt nhớ ra, Mạnh hỏi:
- Mày đi mua cá giống từ hồi chiều tới giờ sao về tay không vậy?
Nam ngồi xuống bậc cửa, trả lời:
- Mới xuống tới bến sông gặp mấy thằng bạn kéo đi nhậu, còn cá tôm gì nữa!
- Hết nói ông luôn! – Quốc lắc đầu.
Nam châm thuốc hút, đốm đỏ lập lòe chốc chốc lại lóe lên, văng ra những tia lửa li ti đẹp mắt.
Lim dim mắt, Nam hỏi:
- Ông tính ăn đời ở kiếp ở đây sao, ông Mạnh?
Mạnh ngạc nhiên, ngóc đầu dậy hỏi lại:
- Không ở đây thì ở đâu? Bộ mày tính đi đâu hả?
Nam thở dài:
- Nói thiệt nghen, tui chán ở đây lắm rồi! Tui chán luôn mấy ông bà già lẩm cẩm nhà mình nữa. Tui không hiểu nổi tại sao ngay cả ông cũng cổ hủ giống họ vậy? Người chết rồi cần quái gì của cải mà ôm một đống dưới mồ. Thật phi lý hết sức!
Quốc nhổm dậy:
- Ê, hay tụi mình lén mấy ông bà già, bí mật đào lấy một ít rồi vọt lên Sài Gòn. Vài ba năm làm ăn khấm khá quay về tạ tội, chắc ổng bả cũng bỏ qua thôi!
Nam vỗ đùi đánh đét:
- Mày quả có cùng chí hướng với tao! Ông Mạnh, ông tham gia với anh em tui đi, ông phải có gan làm một vố mới có tiền cưới vợ chứ!
- Thôi... Tao sợ…
- Trời ơi, hổng lẽ ông tin ba cái chuyện bùa phép, ma quỷ mấy ông bà nhà mình kể?
- Có nhiều chuyện dù không muốn tin nhưng cũng cần suy nghĩ kỹ, tại sao dân ở đây lại sợ nhà mồ như vậy? Không có lửa làm sao có khói, chắc cũng có điều gì đó xảy ra. Mà cho rằng không có gì đi nữa thì tao không muốn xúc phạm đến vong linh bà nội, tao cũng không có ý định rời bỏ nơi đây. Vả lại như tao đã nói, hiện giờ mình còn xoay xở được mà!
- Tui biết rồi! Tui biết ông đang chết mê chết mệt con Huệ xóm trên, ông sẽ mọc rễ ở đây luôn chứ gì? Được thôi, nhưng ông nhìn lại gia đình mình chưa? Cả cái xứ cù lao này có ai không biết con cháu bà Chín Hoa giàu có khi xưa giờ chỉ còn lại vài ba công đất. Ông liệu nó có ưng làm vợ ông không?
Mạnh buồn buồn nhưng vẫn kiên quyết:
- Dầu gì đi nữa tao cũng không tham gia đâu. Tụi mày đừng tốn công vô ích!
Nam mỉa mai:
- Ông quả là đứa cháu đích tôn chí hiếu! Bà nội mà đội mồ sống dậy được chắc sẽ trao hết gia tài cho ông đó!
- Mày đừng nói vậy, tao với tụi mày là anh em, nhưng mỗi người đều có chí hướng riêng, đừng ai ép buộc ai là được rồi!
- Ông nói thế có nghĩa là tụi tui có thể thực hiện chí hướng của mình mà không bị ông ngăn cản à?
- Đúng vậy, tao sẽ không ngăn cản!
Nam khịt mũi:
- Nhắm tin được mấy chục phần trăm đây?
- Mày yên tâm đi, thằng Mạnh này trước nay nói một là một, hai là hai. Chưa biết nuốt lời hứa bao giờ!
Quốc vỗ tay:
- Vậy mới đúng là anh em chứ!
Mạnh đứng lên vươn vai:
- Thôi, tao đi ngủ đây. Lát nữa hai đứa mày nhớ gỡ lưới nghen, sáng mai không còn gì ăn cơm đâu!
Chờ Mạnh đi khuất Quốc mới hỏi Nam:
- Chừng nào mình thực hiện, ông Nam? Tui nhớ Sài Gòn lắm rồi, làm lẹ lẹ lên cho tui vọt!
- Giờ tao với mày đi ra đó điều nghiên tình hình trước rồi về vạch kế hoạch tỉ mỉ, được không?
Quốc hớn hở:
- Được lắm! Được lắm! Mình đi, anh Hai!
Quốc bước vô nhà lấy đèn pin.
Nam châm thêm điếu thuốc nữa rồi cùng với em trai khép cổng đi ra ngoài.
Đêm cù lao tối mịt. Bầu trời nặng nề không một ánh sao. Gió thổi lồng lộng, mấy bụi chuối ven đường vỗ lá phành phạch, những tàu lá dừa cọ nhau xào xạc. Tiếng côn trùng rỉ rả, tiếng cú rúc xa xa tạo nên một không gian ma quái.
Thỉnh thoảng Quốc đi chơi về khuya cũng thường nghe những âm thanh ấy, nhưng khi đó Quốc không có cảm giác sờ sợ như lúc này.
Hai anh em đi luồn trong vườn nhãn, hướng về phía gò nổi ven sông. Ánh đèn pin loang loáng quét qua quét lại.
Điếu thuốc trên môi Nam lập lòe làm Quốc liên tưởng đến ngọn lửa ma trơi thuở nhỏ thường nghe người ta kể.
Quốc dấn bước đi sát vào Nam.
- Sao tui thấy… ớn ớn quá, ông Nam ơi!
- Mày nhát vừa vừa thôi, có gì đâu mà sợ? Ban đêm tao đi ngang khu vực này hoài, có gì xảy ra đâu?
Nghe anh nạt, Quốc cố lấy tinh thần bám sát theo Nam không hề tụt lại.
Hai người đi gần tới gò nổi đã nghe tiếng dơi bay vù vù, ràn rạt. Nam nói thầm vào tai Quốc:
- Tao không mở đèn, mày bám theo tao nghen, đừng để lũ dơi này phát hiện ra chúng ta.
Từ ngày về đây, Quốc nghe rất nhiều huyền thoại về bầy dơi quỷ trong nhà mồ.
 Họ bảo, chúng thật ra là những oan hồn vất vưởng được pháp sư tập hợp về đây giao nhiệm vụ canh giữ nhà mồ. Khi nào chúng bắt được hồn người khác thay thế thì mới được đi đầu thai.
Có người lại nói pháp sư cho bầy dơi uống một thứ bùa ngãi gì đó khiến chúng trở nên khôn ngoan và hung hăng hơn.
Quốc không tin vào những lời đồn đại ấy, nhưng giờ đây khi ngôi nhà mồ đã sừng sững trước mặt, Quốc bỗng thấy lòng nao núng.
Hai người đứng nép dưới gốc cây nhìn thấy bầy dơi lượn qua lượn lại, không biết có đến mấy trăm con.
Cổng nhà mồ khóa kín. Nam ra hiệu cho Quốc leo rào vào trong. Quốc run run bám tay vào tường, vừa đu mình lên được thì hằng hà sa số dơi lao vào người Quốc, chúng mổ tới tấp vào mặt, vào tay khiến Quốc không còn hồn vía, vừa la oái một tiếng đã rơi ngay xuống đất.
Bầy dơi quay sang tấn công Nam. Nam gồng mình chịu những vết mổ rát rạt, bật đèn pin lên, liên tiếp quơ qua quơ lại. Bầy dơi bất chợt thấy ánh đèn, chúng giật mình bay loạn xạ, rít lên những tiếng kêu dữ tợn.
Hòa lẫn trong tiếng dơi kêu dường như có thanh gì đó nghe như tiếng rên rỉ khóc than nho nhỏ.
Quốc lồm cồm ngồi dậy, chưa kịp định thần đã bị chúng tấn công. Quốc vừa bò vừa la, Nam chạy tới bịt miệng Quốc, nạt:
- Mày tính la làng cho mọi người tới đây hay sao?
Quốc sợ líu lưỡi, kéo Nam chạy tuốt vô vườn nhãn. Chạy một quãng khá xa Quốc mới dừng lại thở. Nam gắt gỏng:
- Thứ thỏ đế như mày thì làm ăn gì được!
Quốc chắp tay xá xá trước mặt Nam:
- Thôi, tui lạy ông, tui sợ quá rồi! Có được bao nhiêu vàng tui cũng chào thua! Mấy con dơi đó không phải là dơi đâu, chúng đúng là một lũ quỷ  như lời người ta đồn đại.
- Đồ điên khùng! Bây giờ là thời đại nào mà mày còn tin mấy chuyện bá láp đó.
- Không tin cũng phải tin, lúc nãy khi quơ tay đụng nó tui nghe thấy rõ ràng một luồng âm khí chạy dọc cánh tay. Vả lại, lúc té xuống tui thấy phía trong nhà mồ thấp thoáng có bóng người, không nhìn rõ nam hay nữ, già hay trẻ. Tai tui lại nghe tiếng người rên. Đúng là mình đã quấy rối nơi ở của người ta… Tui ham vàng bạc thiệt, nhưng tui ham sống nhiều hơn. Tui bỏ cuộc, không tham gia nữa đâu!
- Chỉ tại mày sợ quá đâm ra hoa mắt, váng tai chứ làm gì có bóng người, tao cũng đứng cạnh bên sao tao không nhìn thấy cũng không nghe gì cả?
- Ông không tin thì thôi, chứ còn tui… tui bắt đầu tin những chuyện mới nghe tưởng như huyền thoại, và tôi mới hiểu tại sao dân vùng này họ sợ nhà mồ đến thế!
- Tao không ngờ mày hèn nhát như vậy!
Nam tức tối đá trái dừa non bên đường rơi tõm xuống mương, không thèm nói chuyện với Quốc, lầm lũi bước đi.
* *
*
Thằng Sang chạy tìm mấy vòng mới thấy Nam ngồi tư lự ở bờ sông. Nó mừng quá, gọi lớn:
- Anh Nam ơi, nước sông ròng sát rồi mình đi bắt cá nghen anh Nam!
Thường ngày Nam vẫn chìu nó nhưng hôm nay lại gắt gỏng:
- Mày đi kiếm thằng Quốc mà rủ rê, tao không rảnh!
Thằng bé tiu nghỉu quay đi mà lòng còn thắc mắc, không hiểu sao anh Nam lại khó chịu như vậy.
Nó có biết đâu suốt mấy ngày nay đầu óc Nam không ngừng suy nghĩ, vạch ra kế hoạch đối phó với đàn dơi, và làm cách nào đào bới một cách nhanh gọn nhất.
Nam muốn mọi việc phải xong xuôi trước khi trời sáng, để sáng ra vả vờ vác một cây cuốc hoặc mang một tay lưới cho mọi người không chú ý, chỉ cần chờ đò hoặc ghe máy chạy ngang là trốn đi liền, họ có phát giác vắng mình cũng đã chiều tối, lúc đó mình đã cao chạy xa bay rồi. Đất Sài Gòn mênh mông biết đâu mà tìm kiếm!
Buổi chiều trời bất ngờ đổ mưa. Mới đầu còn lất phất nhưng càng về sau mưa càng nặng hạt. Nước tuôn xối xả, mưa giăng trắng trời trắng đất.
Nam biết thời cơ đã đến không thể bỏ qua nên đi soạn mấy thứ cần dùng rồi nằm hút thuốc chờ trời tối.
Mạnh từ chối tham gia, Quốc rút lui do sợ hãi, giờ chỉ còn Nam đơn độc một mình. Nghĩ đến lúc mở nắp quan tài Nam cảm thấy ớn lạnh, nhưng tự trấn an mình rằng chết là hết, không có gì đáng sợ.
Theo lời ông Thịnh kể thì số của cải dưới mồ rất lớn. Nam đắn đo không biết lấy đi hết hay chia đều cho mỗi người, mình chỉ lấy đi phần của mình thôi.
Nhưng rồi Nam ấm ức, tội gì mình phải làm vậy! Nếu họ đồng ý nhận lấy số vàng đó thì mình đâu cần mạo hiểm.
Cuối cùng Nam quyết định sẽ chỉ để lại cho bà Nghiêm, Quốc và Liễu mỗi người một ít, còn lại bao nhiêu sẽ cùng Nam khăn gói lên đường.
Vì trời mưa nên mọi người trong nhà ngủ sớm. Tiếng ông Thịnh nghiến răng kèn kẹt, tiếng trở mình rên rẩm của bà Nghiêm làm Nam chợt xót xa. Cũng vì chuyện của cải này mà ba mẹ Nam lục đục với nhau hoài.
Ý bà Nghiêm cũng giống như Nam và Quốc, muốn lấy số vàng dưới mộ để cuộc sống đỡ vất vả hơn, nhưng ông Thịnh lại khăng khăng từ chối.
Nam thở dài thương mẹ, chắc sau khi Nam đi rồi bà Nghiêm sẽ còn khổ sở nhiều hơn.
Mình đi vài năm lại quay về đón mẹ, Nam nhủ lòng như thế.
Mưa nhỏ dần rồi dứt hẳn. Tiếng ềnh oàng của ếch nhái mở đầu cho khúc nhạc đồng quê vang vọng.
Nam rón rén đi xuống tầng hầm lôi những thứ đã chuẩn bị mấy ngày qua.
Nghe kể, thời ông cố Nam, nơi này thường xảy ra chiến tranh, bắn giết. Khi xây nhà ông cho làm thêm tầng hầm để con cháu có chỗ trú thân, tránh bom tránh đạn.
Những năm gần đây tầng hầm trở thành nơi chứa vô số vật linh tinh hư hỏng, bỏ đi thì tiếc nhưng để lại cũng không sử dụng được, người ta dồn xuống đó.
Năm này qua năm khác trở thành một thứ kho chứa hổ lốn, hoạ hoằn lắm mới có người xuống đó để vứt thêm một vật vào kho.
Từ tầng hầm bước lên, Nam giật mình khi chạm phải ánh mắt bà quản gia câm đang nhìn anh dò xét. Thấy chài lưới trên tay Nam, bà cười ra dấu bảo Nam nhà hãy còn nhiều cá, không cần phải lặn lội một mình trong đêm mưa gió thế này.
Nam cũng ra hiệu với bà rằng anh không ngủ được, đi một chút sẽ về. Bà quản gia soi cây đèn bóng lù mù mở cửa cho Nam.
Ngoài trời gió thổi lạnh buốt. Nam co ro trong chiếc áo mưa rộng thùng thình, vòng ra sau hè lấy cuốc, xà beng.
Vừa đi, Nam vừa thò tay vào giỏ lấy xị rượu thuốc ra hớp suông vài ngụm. Có như vậy mới nóng máu, mới đủ tinh thần.
Thấp thoáng xa xa có ánh đèn của những người đi soi. Bao giờ cũng vậy, sau  trận mưa lớn là ếch nhái ra đầy đồng, mọi người đổ xô đi bắt. Ếch bây giờ là món hàng đắt giá, nào là đùi ếch xuất khẩu và nhiều món ăn cao cấp chế biến từ thịt ếch được ghi trong thực đơn ở các nhà hàng, quán nhậu.
Nam dò dẫm từng bước chân trơn trợt, thỉnh thoảng mới rọi đèn pin.
Khu vực gò nổi không thấy một ánh đèn nào. Người ta vẫn tránh xa nơi đó. Nam mừng thầm trong bụng, không có người lai vãng công việc sẽ thuận lợi hơn.
Còn mấy bước nữa là tới nhà mồ. Nam dừng lại giũ tay chài xòe ra như một cái lộng khổng lồ. Nam đã tốn rất nhiều công sức mới chế tạo được loại dù này.
Xung quanh Nam giờ đây được bao bọc bởi một lớp lưới để chống lại bầy dơi. Nam cảm thấy tự tin hơn, khe khẽ đu người trèo qua tường rào.
Thật lạ lùng, khi đã đứng trong khuôn viên nhà mồ rồi Nam vẫn không thấy bóng dáng một con dơi nào. Chắc tại trời lạnh bầy dơi đang say ngủ, Nam nghĩ vậy và trở nên hăng hái lạ thường.
Nhưng kìa, một vài con bay từ trong góc nhà ra, lượn tới lui mấy vòng giống như người lính đi tuần tra.
Nam cẩn thận phủ lưới che xung quanh ngôi mộ, chui vào trong lưới hớp thêm ngụm rượu nữa mới bắt đầu hành động.
Nam dùng xà beng nạy dần những tảng đá xung quanh chân mộ. Công việc được tiến hành khẩn trương nhưng rất nhẹ nhàng.
Nam giật mình vì tiếng cuốc đầu tiên bổ xuống nền nhà. Giữa không gian tĩnh lặng âm u ấy, tiếng cuốc vang lên như đánh động cả nhà mồ.
Hàng trăm con dơi túa ra bâu quanh Nam. Chúng hung hăng, dữ tợn xé toang lớp lưới nhằm vào mặt mũi Nam tấn công liên tục. Một bóng người lướt nhanh qua rồi biến mất. Nam hoảng sợ, vứt cuốc, vứt cả đèn pin định bỏ chạy, nhưng tay chân vướng lùng nhùng những lưới, trong lúc hốt hoảng Nam không gỡ ra được.
Những tiếng rên rỉ nho nhỏ được phát ra từ góc nhà, tuyệt nhiên không phải tiếng dơi kêu mà nghe như ai đó đang than khóc.
Bầy dơi càng lúc càng hăng máu hơn khi nghe tiếng khóc. Nam vừa cố chạy ra, vừa né bên này, tránh bên kia, quơ tay xua đuổi cuống cuồng. Nam dùng hết sức trèo được lên tường rào, bỗng thấy tối tăm mặt mũi té  nhào xuống đất bất tỉnh.
* *
*
- Ông Hai, ông Ba ơi! Dậy đi, dậy nhanh lên! Có chuyện xảy ra với thằng Nam rồi!
Tiếng người gọi giật giọng ngoài ngõ đánh thức cả đại gia đình ông Thúc. Mấy ông bà già còn lọ mọ chưa kịp xỏ chân vào dép thằng Sang đã nhanh nhẹn chạy ra mở cổng.
Nó kêu rú lên khi nhìn thấy xác người nằm trên cáng được lối xóm cáng về. Nó vừa bước giật lùi, vừa khóc:
- Mẹ ơi, cậu Ba ơi! Anh Nam...
Nam nằm dài trên cáng, mặt và tay chân đầy những vết trầy xước, những vết rỉa rói chi chít trông thật đáng sợ.
Lúc đó mọi người đổ xô ra tới. Nhìn thấy Nam, bà Nghiêm gào khóc:
- Trời ơi, con tôi sao lại thế này?
Đến khi biết Nam chỉ còn là một xác chết xanh xao như những người bị ma cà rồng hút hết máu trong truyền thuyết, bà đau đớn quỵ xuống ngất đi.
Ông Thịnh, ông Thúc run bắn người, quýnh quáng cả lên. Liễu ôm chặt thằng Sang, chỉ có Mạnh là bình tĩnh nhất.
Mạnh hướng dẫn mọi người khiêng Nam vào nhà đặt nằm trên bộ ván gõ, anh dìu bà Nghiêm vào cạnh bên Nam.
Bà Nghiêm đã tỉnh dậy cứ ôm lấy xác con khóc không thành tiếng.
Ở ngoài sân, ông Thúc đang nghe bà con tường thuật lại cái chết của Nam.
Thật ra, họ không biết gì về nguyên nhân Nam chết. Những người dân ra đồng sớm, đi ngang qua gò nổi phát hiện Nam nằm giữa lối đi, đã tắt thở tự lúc nào.
Người ta đoán già đoán non rằng Nam bị đàn dơi quỷ trong nhà mồ rượt đuổi hút máu khi Nam đi ngang qua đó. Có người không tin ma quái thì đoán Nam uống rượu về trúng gió, khi chết rồi mới bị dơi, quạ rỉa.
Tiếng khóc ai oán,vật vã của bà Nghiêm làm những người thân cận phải mủi lòng. Liễu, Sang đứng kề bên nức nở.
Quốc không khóc nhưng vẻ mặt thất thần, Mạnh sai đâu làm đó như người đần độn.
Trẻ con bu kín trước cửa, dân ở bên kia sông, thậm chí ở mấy cù lao lân cận cũng bơi xuồng tới xem. Tin đồn về cái chết kỳ dị của Nam nhanh chóng lan ra xa và được thêm thắt những chi tiết kinh hoàng, rùng rợn  hơn.
Có người nói đêm đó họ nghe tiếng hú kéo dài trong mưa, chắc là hồn ma đã giết được Nam nên cất tiếng reo hò mừng cho mình có người thay thế.
Khu vực quanh gò nổi vốn đã vắng người, sau cái chết của Nam  hầu như không còn ai lai vãng.
Ông Thúc nói với những người trong nhà rằng Nam dám quật mồ bà nội, bùa phép hiển linh nên phải chịu hậu quả như  thế.
- Trời ơi, ông bà ơi, sao nỡ mạnh tay với cháu mình đến thế?
Bà Nghiêm than vãn.
Sau đám tang, vợ chồng ông Thịnh làm một mâm lễ nhỏ mang ra nhà mồ khấn khứa và lấp lại nền nhà bị Nam đào lổ chổ trước kia.
* *
*
- Ê! Khoan, khoan! Mày uống ly này là ly thứ mấy rồi? Uống rượu với mày chán bỏ mẹ, cứ lầm lầm lì lì, ngồi cả buổi hổng nói câu nào cứ hả miệng ra nốc hết ly này đến ly khác!
Quốc cầm ly rượu đưa lên miệng chưa kịp uống thì  đám bạn nhậu nhao nhao phản đối. Anh dằn mạnh ly rượu xuống bàn:
- Tụi bây biểu tao nói gì bây giờ? Tao đang chán đời, chỉ muốn uống say mèm cho quên trời quên đất! Tụi bây không cho uống thì tao đi, tao đâu thèm uống chùa rượu của tụi bây…
Quốc dợm đứng lên, một người vội vàng níu lại:
- Thôi, anh em thấy mày buồn nên giỡn chút vậy mà, mày chấp nhứt làm gì! Ngồi xuống, ngồi xuống kể hết với anh em những đau khổ trong đời! Tụi mình là tri kỷ với nhau, có gì cũng cần chia sẻ.
- Đúng rồi đó! Anh Quốc ngồi xuống đi, cụng ly với thằng em này một cái rồi mình tâm sự…
Quốc ôm đầu khổ sở. Một người bạn nhậu ra vẻ hiểu biết, xé một miếng khô mực đưa cho Quốc rồi chép miệng nói:
- Tội nghiệp! Anh em biết mày đang trong lúc buồn phiền… Không buồn sao được, anh  mày chết thảm quá mà!
- Từ hôm thằng Nam qua đời tới nay nó có về tìm mày không, Quốc?
Một người tò mò hỏi. Quốc thở dài đáp:
- Ông Nam thì tui không thấy, mà đêm nào tui cũng mơ thấy toàn chuyện quỷ ma! Riết chắc tui phát điên lên quá!
- Mày cũng tin chuyện ma quỷ à?
- Sao không tin được! Tui… gần như tui đã gặp ma một lần rồi, từ hồi ông Nam còn sống lận!
Quốc nhớ lại cái đêm cùng với Nam ra nhà mồ với ý định đào lấy của cải. Giờ nhớ lại anh vẫn còn run.
- Mày thấy ma ở đâu?
- Ở… nhà mồ!
Một bợm nhậu khác lên tiếng:
- Thôi đi cha, đừng có nhát tụi này nghe! Chuyện ma trong nhà mồ tao nghe kể đầy hai tai rồi, tao sống ở đây từ nhỏ tới lớn mà có thấy gì đâu! Hay là đúng như lời đồn đại, tại trong mồ có chôn theo của cải nên gia đình mày tung tin để người khác hổng dám vô?
Quốc tợp một ngụm rượu, nhăn mặt khà một tiếng rõ to rồi nói chậm rãi:
- Tin hay không là tùy tụi mày, tao không muốn nhát ai hết!
- Phải đó! Chuyện ma hiện hình, ma rượt đuổi người ở khu gò nổi cũng có nhiều người chứng kiến. Tao nhớ hồi còn nhỏ từng đi xem một ông, tối ổng lén vô nhà mồ bị ma bắt mất hồn vía, cứ ngơ ngơ ngác ngác. Chuyện đó cả xứ này ai cũng biết!
- Đừng nói đâu xa, mới tuần trước tao đi nhậu ở xóm trên lỡ về khuya, ngang qua chỗ mả thằng Nam, tao thấy rõ ràng một bóng người ngồi trên mộ, tóc tai rũ rượi, khóc than rên rỉ nghe thương tâm lắm! Tao sợ gần chết, chạy vắt giò lên cổ.
- Còn tao, có một đêm tao đi ngang gò nổi, thoáng thấy một người đi phía trước, tao tính đuổi theo để cùng đi cho có bạn, nhưng thoắt cái bóng người biến mất ở cửa nhà mồ. Tao lúc đó chưa biết sợ là gì nên tiến sát vào cổng nhìn vô trong thử xem ai lẻn vào đó làm gì. Tụi mày biết tao nhìn thấy gì không? Thật khủng khiếp, tao thấy hai cánh tay thật lớn, lớn hơn tay người nhiều lắm đang chìa ra, còn lũ dơi thì chen chúc nhau ào vào cánh tay đó không biết để làm gì? Tao hoảng quá bỏ chạy thụt mạng, chạy một quãng còn nghe văng vẳng tiếng khóc than rên rỉ. Từ đó tao tởn luôn, chừa không dám đi qua đó ban đêm!
Đám bạn nhậu với Quốc nhao nhao bàn tán, mỗi người góp một câu làm cho câu chuyện vốn đã ly kỳ, mờ ám giờ lại càng đượm màu sắc yêu ma.
- Hôm thằng Nam chết, tụi mày có thấy mặt nó không? Thật vô cùng khủng khiếp! Mặt nó lủng lổ tan nát hết, giống như mấy người chết trôi dưới nước lâu ngày bị cá rỉa vậy. Phải không Quốc?
Quốc gật đầu xác nhận.
-Bởi vậy tao mới sợ! Tao nghe gia đình kể lại, trước nay ông bà tao làm ăn đàng hoàng lắm, lại luôn làm phước chứ đâu có ám hại ai, cũng không ỷ giàu sang mà phách lối. Vậy mà… không hiểu sao ma quỷ lại nhằm vào gia đình tao quậy phá, chẳng lẽ bà nội tao chết rồi thành tinh sao?
- Bậy, thằng Quốc mày đừng nói bậy! Ai chứ bà Chín thì cả làng này mang ơn! Tao nè, hồi nhỏ hổng có bà giúp đỡ thì tao chết tám đời rồi! Tao bịnh thập tử nhất sinh mà ba má tao đâu có tiền, cứ ôm con ngồi nhà khóc, may sao bà Chín biết được hối bà câm nhà mày lấy ghe máy đưa mẹ con tao vô bệnh viện, nhờ đó tao mới sống tới giờ! Cả làng này hầu như ai cũng mang ơn bà, không nhiều thì ít.
- Vậy thì anh giải thích cho tui nghe đi, tại vì sao nhà tui xảy ra những điều như vậy? Đất cù lao này rộng mêng mông, sao ma quỷ lại nhè mồ mả ông bà tui mà bám lấy?
Quốc tức tối.
-Điều đó… tao không biết! À… mà có lẽ tại vì bà Chín được chôn trong nhà mồ, cả xứ này chỉ có duy nhất một cái nhà mồ đó là to đẹp nhất, lũ yêu ma quỷ quái mới chọn nơi đó làm nơi trú ẩn cho mình. Tụi mày nghĩ xem tao nói phải không?
- Ờ há! Mày nói cũng có lý!  Hèn gì mấy ông già bà cả ở đây đều nói từ ngày có nhà mồ bà Chín ma quỷ mới lộng hành!
- Dẹp tụi bây đi! Thanh niên trai tráng, đầu đội trời chân đạp đất mà ngồi đây nói chuyện quỷ ma! Tao đếch tin ba cái chuyện tào lao ấy! Hôm nào trời nóng nực, tao ra nhà mồ ngủ một đêm cho tụi bây coi.
Một thanh niên lớn tiếng phản bác. Mọi người cụt hứng quay sang tấn công anh ta tới tấp:
- Mày ngon quá hén? Tụi tao không cần mày ngủ suốt đêm ngoài đó, chỉ cần tối nay mày vô đó mượn cái lư nhang ra đây cho tụi tao coi, tụi tao sẽ tôn mày làm “đại ca”.
- Làm đại ca tụi bây thì có lợi lộc gì? Tao hổng cần làm đại ca, tiểu ca gì hết, chỉ muốn thằng Quốc làm thịt con chó vàng nhà nó đãi tao nhậu một bữa thôi, chịu không?
Cả bọn nhao nhao:
- Chịu liền đi Quốc! Nó nói cứng vậy chứ đời nào dám bén mảng tới chỗ đó!
Quốc hăng máu:
- Tao đồng ý với điều kiện, nếu mày không dám đi hoặc đi mà gặp ma thì mày phải đãi tụi tao nhậu hết tháng này! dám không?
- Có gì phải ngán mậy? Tụi mày làm chứng nghe! Tối nay hẹn gặp tại đây, thằng Quốc khi đi nhớ dắt theo con chó!
Quốc cười mũi:
- Để rồi xem!
- Thôi, giờ anh em mình giải tán, tối nay tiếp.
Chủ nhà dọn dẹp chén bát, đám bạn nhậu tản ra ai về nhà nấy.
Quốc ngả nghiêng đi về. Tới cổng nhà chú chó vàng chạy ra quẫy đuôi mừng tíu tít. Quốc ôm con chó vào lòng, ngồi xuống thềm nhà lè nhè nói:
- Thằng Lam thèm thịt mày lắm đó chó vàng à! Nó biểu tao tối nay dẫn mày theo để làm thịt! Sức mấy… sức mấy mà nó động được sợi lông của mày, nó làm sao thắng tao được!
- Lại nhậu nhẹt nữa! Mày định làm thịt con chó này luôn à, Quốc?
Mạnh từ trong nhà đi ra, nghe lõm bõm câu chuyện Quốc nói với con chó, bèn cất tiếng hỏi.
Quốc cười khoái trá:
- Thằng Lam nó làm tàng lắm anh Mạnh ơi, nó nói trên đời này không hề có ma quỷ, người ta chết là hết… Nó cam đoan tối nay nó sẽ một mình đi vô nhà mồ lấy cái lư nhang trong đó ra cho mọi người coi. Cho nó chết, bỏ tật phách lối! Nó cá với tui là nếu nó làm được điều ấy tui phải giết con chó vàng này cho nó nhậu, còn không nó sẽ đãi tui nhậu trọn tháng luôn. Ha ha ha… phen này mày hết đời rối Lam ơi…!
Quốc ôm con chó vào lòng, cười ngất. Chú chó không biết gì cứ quấn lấy chủ, hết liếm tay, liếm chân lại dựng đứng hai chân chồm lên đùa giỡn với Quốc.
Mạnh lặng lẽ nhìn Quốc hồi lâu mới nói:
- Thôi, mày vô tắm rửa đi, người ngợm dơ như chồn!
Quốc đẩy con chó ra, liêu xiêu bước vô nhà, vừa tới bộ ván nơi ông Thịnh thường nằm đã ngã ra đó ngủ luôn, chưa kịp rửa tay chân, mặt mũi.
Bà Nghiêm nhìn con ngao ngán. Ông Thịnh thì hầm hừ, chỉ chờ thằng Quốc thức dậy sẽ cho một trận nên thân.
Nhưng khi Quốc tỉnh dậy lại không có ông Thịnh ở nhà, bà Nghiêm cằn nhằn:
- Lát nữa ba mày về là ầm nhà ầm cửa! Đã bảo lo làm việc với anh Mạnh mày mà không chịu nghe, tối ngày nhậu nhẹt say sưa! Tao thiệt hết nói nổi mày rồi Quốc à!
- Má nói hoài con nhức đầu quá! Con không còn tâm trí đâu mà làm với lụng! Má nói ba bán đất chia tiền cho con, con đi xứ khác làm ăn, không phiền tới ba má nữa. Chừng nào ăn nên làm ra con mới quay về!
- Chuyện đó mày nói với ba mày ấy! Tao thì có quyền hành gì trong cái nhà này, ta cũng đâu tha thiết gì ở lại đây!
- Vậy thì hai mẹ con mình cùng đi! Con hứa sẽ lo cho má chu đáo!
Bà Nghiêm rơm rớm nước mắt:
- Bộ nói đi là đi được hay sao? Một đồng trong túi cũng không có, con nói đi đâu được bây giờ?
- Bởi vậy con mới kêu má nói ba bán đất chia tiền! Đất đai ông bà để lại, mỗi người đều có phần.
- Đất là đất chung, một mình ba mày cũng đâu quyết định được.
- Nếu ba quyết tâm, con chắc bác hai với cô út cũng sẽ chìu theo! Thôi, má ở nhà ráng thuyết phục ba, con đi công chuyện một chút!
Quốc vừa nói vừa xỏ tay vào áo. Bà Nghiêm nhăn mặt:
- Tối rồi còn đi đâu nữa? Chút ba mày về không thấy ổng lại chửi tao.
- Con đi công chuyện cho anh Mạnh mà, má cứ nói vậy ba không la đâu!
Quốc đi nhanh ra cửa, bà Nghiêm nhìn theo thở dài. Mạnh đứng bên cạnh từ lâu, giờ mới cất tiếng an ủi:
- Thiếm đừng buồn, thằng Quốc còn nhỏ nên ham chơi, để từ từ rồi con khuyên bảo nó.
-Ừ, con ráng khuyên nó giúp thiếm, độ này nó ăn nhậu be bét, thiếm rầu hết sức.
 Mạnh đứng nói chuyện với bà Nghiêm một lúc rồi về phòng. Bà Nghiêm lặng lẽ đi thắp nhang, mùi khói nhang thơm thơm lan tỏa khắp căn nhà.
Quốc tới chỗ hẹn đã thấy mấy người ngồi đợi. Anh hỏi:
- Thằng Lam tới chưa?
- Chưa thấy! Có khi nào hắn ta tỉnh rượu rồi mới sợ, trốn luôn không?
Vừa lúc đó Lam lững thững từ ngoài sân đi vào, mặt vênh vênh:
- Ai dám nói tui trốn? Thằng này không sợ trời, không sợ đất có gì mà phải trốn tránh?
Quay sang Quốc, Lam hỏi:
- Ê, con chó đâu sao không dắt theo?
- Mày yên tâm đi, tao cột sẵn nó ở nhà rồi! Mày làm xong bổn phận là…a lê hấp, sẽ có món cầy tơ cho mày ngay!
Lam sáng mắt:
- Thiệt nghen!
- Ừ, thiệt chứ! Còn mày, đã tìm được nơi nào cho vay chưa? Đãi tụi tao nhậu một tháng không phải ít tiền đâu nghen!
Một người bạn can:
- Thôi đi, cứ đôi co hoài cũng không phân thắng bại! Giờ cũng hơn 9 giờ đêm rồi, tụi mình sương sương một chút cho thằng Lam có tinh thần đi làm “nghĩa vụ”. Chừng đó ai thắng, ai thua là biết ngay thôi mà!
Cả đám ngồi quây quần giữa sân, cụng ly rốp rẻng. Lam ực một hơi cạn hết ly rượu, đứng lên nói:
- Tụi bây ở đây chờ tao!
- Chúc mày mã đáo thành công!
Lam đi băng qua góc sân, khuất sau hàng dâm bụt vẫn còn nghe tiếng Quốc cười:
- Tháng này nhậu miễn phí anh em ơi, dô!
Lam hậm hực. Để rồi xem, đừng vội!
Ánh trăng mờ mờ làm bóng Lam đổ dài trên mặt đường. Chín, mười giờ đêm ở thôn quê hẻo lánh là đã khuya khoắc lắm rồi. Không gian tĩnh lặng, ngoài tiếng côn trùng hòa tấu, thỉnh thoảng nghe tiếng chuột chạy sột soạt trên mấy tàu lá dừa, tiếng gió thổi lao xao, tiếng kêu quàng quạc của con chim nào đó trên cành.
Lam vừa đi vừa hát. Anh cố tình hát thật to để dằn bớt sự lo sợ trong lòng.
Sáng nay vì có rượu, Lam lỡ nói cứng trước mặt mọi người, phóng lao đành phải theo lao, Lam không thể thoái thác, chứ thật ra khi tỉnh rượu Lam cũng thấy mình quá trớn. Ngôi nhà mồ là nơi nhiều điều đồn đại, lẽ ra mình phải tránh xa, đằng này lại tự chui cổ vào tròng…
Lam bậm môi. Nhằm nhò gì, chỉ một chút thôi, ráng một chút thôi là ngoài việc được xơi thịt con chó mập ú nhà thằng Quốc, mình còn được đám thanh niên trong làng coi như anh hùng, không khoái lắm sao? Tự động viên mình như thế Lam hí hửng đi thật nhanh về phía gò nổi.
Ngôi nhà mồ đã hiện ra trước mặt, lạnh lẽo, âm u. Ánh trăng làm cảnh vật lung linh, mờ ảo đầy chất liêu trai.
Lam trèo lên tường rào, ngồi ngó vào trong. Căn nhà mồ im vắng, không một tiếng động nào, nên tiếng thở của Lam nghe rõ mồn một.
Bầy dơi đi đâu vắng sao không nghe chúng bay? Lam thầm hỏi rồi lại tự trả lời, lúc này đã vào mùa nhãn chín, chắc lũ đó đi phá phách vườn nhãn nhà ai rồi cũng nên!
Lam nhẹ nhàng nhảy xuống sân nhà mồ rồi chậm rãi tiến vào trong, mắt nhìn ngó láo liên, đề phòng từ mọi hướng.
Mộ bà Chín nằm giữa nhà, to đùng như một chú voi con đang nằm ngủ.
Lam căng mắt nhìn sâu vào góc nhà, không có gì khác lạ.
Đã từ lâu người nhà bà Chín không còn thắp nhang cho bà mỗi ngày nữa, mà chỉ đến ngày giỗ hoặc tết hay thanh minh gì đó mới mở cửa vào đây quét tước, cúng bái. Chiếc lư nhang nằm chơ vơ dưới chân bia mộ, không còn một chiếc tăm nhang nào, chứng tỏ lâu lắm rồi không ai tới lui thăm viếng, chắc hẳn từ sau ngày thằng Nam chết, vợ chồng ông Thịnh tới cúng một lần rồi thôi chẳng còn ai lai vãng.
Lam khom người xuống, tay vừa chạm và chiếc lư nhang thì bổng nghe có tiếng thở dài áo não, thoảng nhẹ như tiếng gió thổi qua. Giật thót người, Lam rụt vội tay về, đứng im nghe ngóng. Ngoài tiếng con thạch sùng chắc lưỡi Lam tuyệt nhiên không nghe âm thanh nào khác lạ cả.
Mình ảo tưởng hay sao ấy! Lam cố trấn tỉnh, một lần nữa với tay định cầm lấy chiếc lư nhang. Bất chợt từ trong góc nhà mồ, khuất sau chiếc bàn thờ nhỏ có treo bức hoành phi, những đốm lửa đỏ tung tóe bay ra, tiếp theo sau là một bóng người hiện ra như chui lên từ lòng đất. Bóng người cao lênh khênh, không có một con người nào có thể cao đến thế, ngoại trừ những người đang chơi đi cà kheo, cái bóng đó không ngừng di chuyển, bộ quần áo trắng phất phơ qua lại khiến Lam điếng hồn.
(Còn tiếp)
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 15:53:49 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 22:34:45
NHÀ MỒ OAN KHỐC
(Tiếp theo)


Lam bước giật lùi, vấp chân vào ngạch cửa nhưng anh gượng lại được. Miệng há hốc không kêu thành tiếng.
Bóng ma chờn vờn qua lại rồi vừa hú lên khe khẽ vừa từ từ tiến về phía Lam. Lam xoay người phóng ra sân trèo vội lên tường rào, chạy thục mạng.
Quốc và đám bạn nhậu đang ngồi lai rai thì Lam xồng xộc chạy vào, nằm lăn ra thở dốc, mặt đầy vẻ hốt hoảng. Ai nấy không còn tâm trí để chọc ghẹo Lam mà đều đổ xô vào lo cho Lam.
Lam ôm lấy Quốc:
- Tha lỗi cho tao, tao biết sợ rồi! Khủng khiếp quá… thật khủng khiếp biết bao!
Nhìn thấy tình trạnh hốt hoảng của Lam, Quốc không có cái cảm giác của người thắng cuộc mà chợt thấy buồn chán cho gia đình mình.
Dòng họ mình hết thời rồi nên ma quỷ mới dám lộng hành như thế!
* *
*
- Đừng đuổi theo tôi! Đừng đuổi theo tôi!
Tiếng la thất thanh của Quốc làm bà Nghiêm choàng tỉnh. Bà hốt hoảng chạy đến bên giường lay gọi con:
- Quốc à, Quốc! Con ngủ mê thấy gì mà la dữ vậy?
Ông Thúc ở gian bên hỏi vọng sang:
- Thằng Quốc lại mớ nữa à?
Bà Nghiêm “dạ” một tiếng rồi hối ông Thịnh thắp đèn.
Quốc ngồi dậy ngơ ngác nhìn quanh, vẻ mặt chưa hết hoảng sợ.
Từ sau cái chết của Nam, tinh thần khủng hoảng trầm trọng, Quốc đâm ra rượu chè be bét, đêm đêm lại thường mơ thấy ác mộng.
Trong những cơn ác mộng ấy luôn luôn có sự hiện diện của đàn dơi quỷ trong nhà mồ. Khi thì chúng rượt đuổi Quốc, khi thì chúng treo lơ lửng trước mặt Quốc cái thân hình quái dị, chim không ra chim, chuột không phải chuột…
Có khi Quốc chưa kịp ngủ, vừa mới lơ mơ đã nghe tiếng người rên rỉ nho nhỏ gần bên, rồi tiếng dơi bay, tiếng gió rít ngoài khe cửa…
Quốc luôn sống trong nỗi ám ảnh ghê rợn đó. Bao nhiêu chuyện ma quái được nghe kể từ thời còn bé, giờ đây bỗng nhiên Quốc nhớ rõ mồn một.
Ông Thịnh đặt cây đèn lên bàn, buồn rầu nhìn Quốc.
Có tiếng dép lê sền sệt của ông Thúc đi sang. Ông Thịnh kéo ghế:
- Anh ngồi chơi! Thiệt, con với cái, đêm hôm không để ai yên giấc.
Quốc chui ra khỏi mùng rót nước uống ừng ực, mồ hôi vã ra. Bà Nghiêm với lấy cây quạt ở đầu giường phe phẩy quạt cho con.
Quốc ngồi xuống ghế hai tay ôm đầu, giọng khổ sở:
- Bác Hai ơi, con không chịu nổi cuộc sống ở đây nữa rồi! Mình bán nhà, bán đất trở lên Sài Gòn như trước đi, bác Hai!
Ông Thịnh nạt:
- Mày ăn nhậu riết rồi phát điên hay sao vậy? Không sống ở đây được thì mày đi đi, tao đâu có cấm cản!
Quốc sừng sộ:
- Ba biểu tui đi với hai bàn tay trắng à? Đất đai ông bà để lại có phần tui trong đó, ít nhất cũng phải bán chia cho tui chút đỉnh chứ!
Ông Thịnh đập tay xuống bàn:
- Nửa đêm nửa hôm không phải là lúc nói chuyện đó, mày đi ngủ ngay cho tao nhờ!
Bà Nghiêm sợ chồng nổi giận sẽ làm to chuyện, vội vã kéo Quốc trở lại giường.
- Thôi, đêm hôm khuya khoắt cứ để cho nó ngủ, có gì sáng mai hãy nói!
Ông Thúc can. Quốc hậm hực chui trở vô mùng.
Ông Thịnh thở dài thườn thượt:
- Anh sao có phước, thằng Mạnh mồ côi mẹ từ nhỏ vậy mà lớn lên không làm anh phải buồn lòng. Còn hai đứa con tôi đủ đầy cha mẹ mà lại hư thân như vầy đây!
- Thằng Nam đã chết rồi, tôi xin ông hãy để nó yên!
Bà Nghiêm khóc rấm rúc.
Ông Thúc ngồi uống thêm với em mấy chung trà mới đứng lên về ngủ.
Sáng ra, cơm nước xong ông Thúc bảo:
- Mọi người nán lại một chút, tôi có chuyện cần bàn!
Thằng Sang có vẻ chán những cuộc họp gia đình thế này, nó len lén chuồn ra cửa sau chạy biến.
Ông Thúc nhìn bao quát mọi người một lượt rồi nói:
- Cháu Quốc nhiều lần đề nghị tôi bán nhà cửa đất đai để lấy tiền chia cho các cháu tự do đi làm ăn. Tôi không có quyền quyết định, nên muốn bàn với cả nhà xem sao.
Bà Lan ngăn:
- Nhà là nhà thờ, bán sao được mà bán!
Mạnh chen vào:
- Có đem bán tất cả rồi chia đều ra thì mỗi người cũng không được bao nhiêu.
Quốc cãi:
- Dẫu ít nhưng có cò hơn không. Ở nơi hắc ám này tui hết chịu nổi rồi.
Vợ chồng ông Thịnh cúi gằm mặt ngồi im. Ông Thúc thở dài hỏi:
- Vậy có còn ai muốn đi khỏi chỗ này không?
Bà Nghiêm len lét ngó chồng rồi lại cúi xuống. Trong thâm tâm, bà không thích cuộc sống hiện tại chút nào. Bà đã quen làm chủ, ở đây lại không có cái gì là của bà, từ cái bàn, cái ghế đều là “của chúng ta”, của cả đại gia đình.
Cuộc sống chung đụng làm bà vô cùng khó chịu. Nhiều lần bà đôn đốc chồng đào lấy của cải dưới mồ, nhưng từ ngày Nam chết bà không dám đề cập tới chuyện đó.
Giờ thì bà cũng giống như Quốc, chỉ mong được chia cho một số vốn, dù là nhỏ bé.
Nhưng bà ngán ông Thịnh, không biết ý ông thế nào nên bà không dám nói ra, chỉ sợ đổ thêm dầu vào lửa.
Cuộc bàn bạc cứ kéo dài dây dưa không ngã ngũ. Nắng đã vào tới thềm nhà, Mạnh chán nản đứng lên ra vườn.
Không khí trong nhà mấy lúc gần đây luôn ngột ngạt.
Thấy nguyện vọng của mình không thành Quốc tức giận bỏ đi.
- Ê, Quốc! Đi đâu mà hấp tấp vậy?
Nghe tiếng gọi từ phía bờ sông vọng tới, Quốc quay lại mừng rỡ nói với người ngồi dưới xuồng:
- Tao đi kiếm mày, tính rủ mày ra quán bà Ba Ú làm một chầu đây!
- Có chuyện gì mà gầy độ sớm vậy cha?
- Buồn đời nhậu chơi vậy thôi, đi với tao nghe mày!
- Thôi đi cha nội, có buồn thì nhảy xuống đây theo tao đi công chuyện. Chiều về ghé nhà thằng Tí có món cầy tơ, nó nhắn rủ mày đó!
- Thiệt hả?
Quốc vừa hỏi vừa bước xuống xuồng, vớ lấy cây dầm cùng bơi với bạn.

Tàn cuộc nhậu lúc làng xóm đã ngủ yên. Quốc chân nam đá chân chiêu loạng choạng bước đi.
- Có về một mình được không?
Người bạn nhậu nhìn Quốc e ngại. Quốc lè nhè:
- Sao không được mậy! Tưởng tao say rồi hả? Chưa đâu… tao chưa say đâu. Thằng này còn đủ sức nhậu tới sáng mà…
- Thôi đi cha, mắt mở hết lên mà còn làm tàng, có giỏi ở lại uống tiếp.
- Mày kỳ quá, khuya rồi để cho nó về! Về đi Quốc, tụi tao cũng dẹp luôn đây!
Mấy người bạn của Quốc dằng co, kẻ níu lại, người đẩy đi.
Quốc lừng khừng:
- Chào, chào hết tụi bây, tao về bán đất, thằng nào mua đất chỉ tới gặp tao nghe!
- Được rồi, được rồi! Về đi...
Quốc loạng choạng ra về.
Vầng trăng non treo nghiêng trên bầu trời, cảnh vật xung quanh trở nên huyền ảo. Dòng sông loang loáng ánh trăng, thỉnh thoảng một vài chú cá đớp mồi làm xao động mặt nước.
Cây lá hai bên đường rung rinh, xào xạc. Gió đêm mát rười rượi, đung đưa chùm ổi trước mặt Quốc. Quốc với tay hái chùm ổi, cắn vài cái rồi ném tõm xuống mương.
Cứ bước thấp bước cao như thế Quốc đi vòng vèo hết khu vườn này sang khu vườn khác, mãi chẳng tới nhà.
Hương nhãn thoang thoảng trong gió, Quốc nhận ra đã đến đất vườn mình, mới hôm qua Quốc và Mạnh đi bao nhãn hết cả buổi sáng, sợ bị dơi ăn.
Nhớ đến đó Quốc chợt lạnh người và tỉnh hẳn rượu. Ngôi nhà mồ đang ở trước mặt, lũ dơi  dập dìu lượn lờ qua lại.
Dưới ánh trăng mờ ảo, ngôi nhà mồ sừng sững uy nghiêm càng như chứa đựng biết bao điều mờ ám.
Hình như có bóng người thấp thoáng bên trong. Quốc dụi mắt nhìn kỹ vẫn chỉ thấy mơ hồ, phảng phất bóng một người đứng giữa đàn dơi. Sợ quá, Quốc co giò chạy thục mạng, phía sau lưng bầy dơi ồ ạt đuổi theo.
Tiếng rên rỉ lại vang lên ai oán.
Bầy dơi vây kín xung quanh Quốc, mổ tới tấp vào mặt mũi.
- Cứu! Cứu tôi với!
Tiếng kêu hãi hùng của Quốc xé toạc màn đêm, đánh thức một gia đình ở gần đó. Nhưng người chồng đi vắng, chị vợ không dám ra ngoài khi đêm xuống.
Nghe tiếng kêu cứu, chị chỉ biết run rẩy kêu với sang mấy nhà lân cận:
- Bà con ơi, có ai kêu cứu ngoài gò nổi, bớ bà con ơi…. ơi…!
Những nhà kế đó lại gọi sang nhà khác, tất cả đều bị dựng dậy giữa một đêm trời quang mây tạnh.
Cả xóm huyên náo hẳn lên bởi tiếng kêu réo, tiếng gõ xoong nồi ầm ĩ. Người ta đốt đuốc sáng rực, kéo nhau chạy về phía nhà mồ.
Mạnh cùng ông Thúc, ông Thịnh cũng có mặt trong đám đông ấy.
Quốc nằm ngửa dưới vườn nhãn, mặt bê bết máu nhưng vẫn còn thoi thóp thở.
Mạnh xốc Quốc lên vai cõng chạy về nhà. Mọi người chạy theo rần rần, lửa đuốc đỏ rừng rực một quãng đường dài.
- Liễu ơi! Liễu, mau đem bông băng với thuốc cầm máu ra đây, lẹ lẹ lên!
Từ ngoài ngõ Mạnh đã hét gọi. Liễu run bần bật không biết xảy ra chuyện gì nhưng cũng vội vã ra ngoài.
- Đứa nào bị  sao vậy?
Bà Nghiêm hớt hãi, linh tính báo cho bà biết có chuyện gì đó khủng khiếp đang xảy ra cho gia đình bà. Thằng Quốc đi từ sáng chưa về, bà thấp thỏm trông con, nằm nghe tiếng con chim heo kêu eng éc trên mái nhà bà cứ lo ngai ngái. Giờ nghe chuyện lùm xùm bà quýnh quáng bước đi không vững.
- Trời ơi, thằng Quốc! Quốc ơi, con ơi con sao vậy con?
Bà Nghiêm ôm lấy Quốc khóc rống lên.
Bà Lan kéo bà tránh ra một bên cho Liễu vào lau mặt Quốc.
Liễu run run cầm miếng bông chùi nhẹ bên má, bỗng cô tối tăm mặt mũi khi nhận ra mặt Quốc cũng đầy những vết thương chi chít giống như Nam lúc trước. Cô rú lên:
- Trời ơi, kinh khủng quá!
Ông Thịnh nóng ruột hối người chuẩn bị ghe máy đưa Quốc đi bệnh viện, nhưng không còn kịp nữa, người Quốc khẽ giật rồi thở hắt ra hơi cuối cùng, hai tay thõng xuống.
Ông Thịnh đấm tay vào ngực khóc hu hu. Bà Nghiêm điên cuồng giằng ra khỏi tay ông Thúc, nhào đến bên Quốc gào lên thảm thiết.
Xóm cù lao náo loạn. Chó sủa inh ỏi, trẻ con  giật mình khóc thét lên. Xung quanh khu vực nhà ông Thúc đèn đuốc đỏ rực, người ta chạy ra chạy vào, tiếng người nói ồn ào, tiếng khóc xé ruột của những người đàn bà trong ngôi nhà ngói ba gian khiến nhiều người động lòng rơi nước mắt.
* *
*
Liễu đạp lại mối đường may cuối cùng rồi vui vẻ đưa sản phẩm vừa hoàn thành lên ngắm nghía. Chiếc áo cổ dún bèo, tay loe rất đẹp, rất mô-đen.
Liễu học may chưa lâu nhưng đã thực hiện tốt những đường may khó. Chị Hằng chủ tiệm may không ngừng động viên Liễu:
- Em có hoa tay lắm đó, ráng chăm chỉ học đến tết này chị có thể giao hàng cho em may chia bảy ba rồi!
Thật ra ban đầu Liễu đòi đi học may không phải vì cô yêu thích nghề này, mà vì cô sợ ở nhà làm vườn riết rồi sẽ chai tay nám mặt. Nhưng dần dần Liễu nhận ra công việc này cũng có nhiều cái hay. Mỗi khi hoàn thành bất cứ một sản phẩm nào Liễu cũng cảm thấy sung sướng thật sự.
Từ ngày biết may bập bõm, những lúc ở nhà rảnh rỗi, Liễu thường đem quần áo cũ ra cắt, sửa kiểu nay kiểu khác, nhờ vậy cô tiến bộ rất nhanh.
Liễu thầm ước mong một ngày nào đó mình cũng có riêng một tiệm may nho nhỏ thế này.
-Chị gì đó ơi, cho tôi hỏi…
Liễu đứng lên chào khách:
- Dạ, có chuyện gì không anh?
- Hôm tuần trước tôi có đặt may áo ở đây, chị chủ tiệm hẹn nay tới lấy.
Người thanh niên trả lời. Liễu chợt nhớ, cách đây mấy hôm khi đưa chiếc áo sơ-mi màu xanh biển cho Liễu ráp, chị Hằng có nói đùa:
- May cho thiệt khéo nghen! Cậu Trọng này vừa đẹp trai, vừa giỏi giắn lại chưa vợ con gì, để chị làm mai cho.
Nhớ lại chuyện đó bất chợt Liễu cảm thấy hơi thẹn. Cô hỏi:
- Có phải cái áo sơ-mi màu xanh biển không ạ?
- Đúng rồi đó, áo xong chưa vậy chị?
Liễu đến bên tủ áo lấy đưa cho người thanh niên:
- Xong rồi đây, anh mặc thử đi!
Người thanh niên cười cười:
- Thôi khỏi, nhìn sơ cũng biết đẹp rồi! Chị cho tôi gởi tiền công.
Liễu kéo ghế mời khách:
- Dạ, anh chịu khó ngồi nán lại một chút chờ chị Hằng về, em chỉ là học trò nên...
Liễu ngắc ngứ không nói hết câu. Người thanh niên phì cười:
- Chị sợ giao áo “lộn tiệm” chứ gì? Thôi được rồi, tôi cũng đang rỗi ngồi chờ một chút không sao.
Liễu len lén nhìn người thanh niên. Anh ta có dáng người cao ráo, nước da ngăm đen chắc khỏe, đặc biệt là chiếc miệng cười rất có duyên. Từ con người anh toát ra một vẻ gì đó rất dễ gần gũi, rất phóng khoáng.
Chợt bắt gặp ánh nhìn của người thanh niên, Liễu vội vàng cụp mắt xuống, mân mê chiếc áo mới may tay tháo từng sợi chỉ lược.
- Chị học may lâu chưa?
- Dạ, mới hơn ba tháng.
- Nhà chị chắc ở gần đây?
- Dạ không, nhà em ở tuốt bên kia sông.
Người thanh niên gật gù rồi hỏi tiếp:
- Chị năm nay bao nhiêu tuổi?
- Dạ, em 21.
- Ồ, vậy chị nhỏ hơn tôi tới 7 tuổi lận đó!
- Thế… anh đừng gọi em bằng chị nữa... Già chết!
- Vậy… gọi bằng tên nhé! Tôi tên Trọng, còn chị… à mà không, còn… “ ấy” tên gì?
Liễu ấp úng:
- Em… Em tên Liễu.
Trọng cười:
- Người với tên quả giống nhau. Liễu cũng gầy và mỏng manh như… lá liễu vậy đó!
Liễu thẹn đỏ mặt, vờ chăm chú vào công việc.
Chị Hằng về, nhìn thấy Trọng liền đon đả:
- Chào cậu Trọng, cậu tới lấy áo à?
-Dạ , nhưng cô Liễu đây không dám giao hàng , bảo ngồi chờ chị về để xác minh “ người thật việc thật” đây .
Cả hai cùng cười. Chị Hằng hỏi:
- Bao giờ ghe cậu mới đi?
- Dạ, chiềy nay! Em lên hàng xong hết rồi, nhưng còn chờ trời mát một tí. Thiệt, rong ruổi hoài ngán hết sức, chị ơi!
- Vậy thì kiếm cô vợ rồi lên bờ làm ăn!
Trọng liếc nhanh về phía Liễu:
- Em kiếm hoài mà không cô nào chịu ưng mới khổ! Chị coi ai làm mai cho em một đám đi, em tạ lễ chị nguyên một con heo.
Chị Hằng nháy mắt, cười:
- Chị có mấy cô học trò, vừa hiền lành, vừa đảm đang lại xinh ra phết. Em chấm cô nào chị gả liền cô ấy cho.
Trọng giả bộ thở dài:
- Chỉ sợ mấy cô chê em dân sông nước quê mùa xấu xí thôi chị ơi!
- Ôi, ham chi thứ “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao” cho khổ thân, người biết lo làm ăn như em không tốt hơn sao! Phải vậy không, Liễu?
Liễu mắc cở cúi gằm mặt xuống, hai má đỏ ran.
Trọng đùa thêm mấy câu nữa rồi đứng lên:
- Thôi, em về, sắp tới giờ lui ghe rồi!
Quay sang Liễu, anh chào:
- Tôi về nghen  Liễu.
Liễu lí nhí trả lời trong miệng.
Tiễn trọng ra ngõ, chị Hằng quay vào chọc Liễu:
- Chết rồi nghe, hai anh chị ở nhà tâm tình rỉ rả, chưa cần tui giới thiệu đã biết nhau rồi!
- Chị… kỳ cục quá!
Liễu giảy nảy. Chị Hằng nghiêm túc:
- Sao, thấy được không để chị làm mai cho. Cậu này con nhà đàng hoàng, học hết lớp 12 mới ở nhà đi buôn. Mới đầu chỉ buôn bán nhỏ thôi, nhưng giờ vốn liếng hàng mấy chục triệu. Còn trẻ vậy mà biết làm ăn lắm em à, ai làm vợ cậu ta là phước ba đời đó.
Chị Hằng giới thiệu luôn một tràng. Liễu nguây nguẩy không thèm nghe, nhưng tận trong sâu thẳm lòng cô dường như có thêm một làn gió mới...
* *
*
- Chị Liễu ơi, có khách!
Tiếng thằng Sang gọi lanh lảnh. Liễu ngạc nhiên, khách nào tới tìm mình vậy kìa? Thỉnh thoảng có mấy đứa bạn gái tới chơi thì thằng Sang đều báo đích danh từng người chứ không gọi là “khách” như hôm nay.
Liễu từ phòng riêng bước ra và khựng lại khi bắt gặp nụ cười của Trọng.
- Dạ… chào anh Trọng!
Liễu ấp úng. Trọng tự nhiên bước vào nhà, vui vẻ nói:
- Chắc Liễu ngạc nhiên lắm phải không? Tôi tới tiệm may nghe chị Hằng nói Liễu bệnh nghỉ học hai hôm nay, nên tôi đến thăm. Giờ , Liễu đã đỡ chưa vậy?
- Dạ, làm phiền anh Trọng quá, em chỉ cảm sơ sài thôi, không có gì đáng lo đâu. Mời anh Trọng ngồi ghế.
Trọng ngồi xuống, đưa mắt lướt qua căn nhà. Những cây cột gỗ mun to đùng, cùng với dáng dấp cổ xưa của các vật dụng xung quanh như cái tủ thờ chạm xà cừ, bộ trường kỷ với những nét khắc độc đáo… nói lên sự giàu có, sang cả một thời của gia đình này.
Nhìn Liễu, anh bỗng cảm thấy tội nghiệp cho cô. Sự suy sụp của gia đình Liễu dân ở đây ai cũng biết.
Là con gái đang tuổi ăn diện mà Liễu chỉ có vài ba bộ áo quần thay đổi, nên trong cô cũng có nhiều mặc cảm.
Từ ngày quen Liễu, Trọng thường ghé qua tiệm may sau mỗi chuyến ghe về, mua tặng Liễu nhiều món quà xinh xắn. Chị Hằng ra sức vun vào, Trọng cũng có cảm tình đặc biệt với Liễu, nhưng quan hệ của hai người vẫn chưa vượt quá ranh giới bạn bè.
- Anh Trọng về khi nào vậy? Liễu hỏi.
- Tôi về hồi đêm, nhưng trời mưa quá, mãi đến trưa mới cất hàng lên hết. Vừa xong việc là tôi đến thăm Liễu đây. À, Bác đi đâu vắng vậy Liễu?
- Mẹ em với hai cậu đi ăn giỗ ở xóm trên.
Liễu rót nước mời Trọng. Anh nhìn Liễu chăm chú và bất ngờ nắm nhẹ tay cô:
- Liễu xanh xao lắm đó!
Liễu mắc cở rút vội tay về. Trọng đặt túi quà to lên bàn:
- Anh có chút quà để Liễu bồi dưỡng, mong Liễu nhận cho anh vui.
Mặt Liễu nóng ran khi nghe Trọng dùng tiếng “anh” ngọt ngào, thân mật thay cho tiếng “tôi” xa lạ thường ngày. Cô không biết làm cách nào để từ chối, nhưng thật lòng cô cũng không muốn chối từ.
Liễu lí nhí:
- Em cảm ơn anh Trọng.
Sự thẹn thùng càng làm tăng thêm vẻ đẹp nhu mì của Liễu. Gương mặt xanh xao trở nên đỏ hồng, đôi mắt dẫu cố ghìm vẫn ánh lên những tia ngời sáng.
Một lần nữa Trọng nắm lấy tay Liễu, cô để yên tay mình trong tay anh lâu hơn một chút mới từ từ chuồi ra. Liễu thấy lòng rung động trước ánh mắt, nụ cười và cử chỉ thân mật của Trọng.
- Liễu biết không, từ ngày quen biết Liễu, anh cảm thấy những chuyến đi của mình sao dài quá. Vừa tới nơi là anh vội vã cất hàng rồi xuống hàng để được mau chóng trở về. Có những đêm bềnh bồng trên sông nước, anh thấy nhớ Liễu da diết, thầm hứa với mình rằng lần này về sẽ thổ lộ hết lòng mình với Liễu, nhưng rồi… không lần nào anh dám nói.
Liễu vân vê tà áo không dám ngẩng lên. Trọng tiếp tục:
- Lúc nãy khi bước vô tiệm may không nhìn thấy Liễu rồi nghe tin Liễu bệnh, anh mới biết tình cảm của anh dành cho Liễu là không gì sánh nỗi. Anh quyết định đánh bạo tìm đến đây, nói hết với Liễu.
Giọng Liễu run run:
- Anh Trọng đừng nói giỡn như vậy, tội nghiệp Liễu.
Trọng nắm chặt hai tay cô:
- Là anh nói thật lòng mình. Anh thương Liễu từ lâu rồi chẳng lẽ Liễu không nhận ra sao?
Thấy Liễu vẫn ngồi im, Trọng nói tiếp:
- Ba má anh năm lần bảy lượt hối thúc anh cưới vợ, mà anh thì cứ hẹn lần hẹn lựa. Nếu Liễu không chê anh, anh sẽ về nói ba má sang đây ngỏ lời với gia đình Liễu.
Trọng nhìn Liễu chờ đợi.
- Em… em…
Liễu ngắc ngứ, cô không biết nói sao. Lâu nay cô vẫn thường nghĩ về Trọng, cô cũng cảm thấy nhơ nhớ mỗi khi Trọng đi lâu về, nhưng đó có phải là tình yêu chưa thì Liễu không biết. Giờ đây Trọng lại đề cập tới chuyện hôn nhân, Liễu thật sự bối rối.
Liễu đã từng mơ ước lấy được một người chồng hết dạ yêu thương mình, cùng với mình sinh con đẻ cái. Trọng là mẫu người lý tưởng, là nỗi khát khao của rất nhiều cô gái. Nhưng bất ngờ bảo cô quyết định thì cô lại hoảng hốt.
Liễu chưa biết phải trả lời sao với Trọng thì thằng Sang chạy ào từ ngoài vào thở hổn hển:
- Chị Liễu ơi, chị thấy anh Mạnh đâu không? Ở ngoài kia có con rắn lớn lắm, kêu anh Mạnh bắt về nấu cháo…
Liễu rầy em:
- Có gì từ từ nói, cứ ào ào làm chị hết cả hồn vía! Anh Mạnh ra vườn rồi, đừng đi tìm nữa.
Thằng bé tiu nghỉu tới góc nhà ngồi chơi với mấy chú chó con, làm câu chuyện tình cảm của hai người lớn phải tạm hoãn.
Trọng ngồi chơi một lát rồi đứng lên:
- Thôi anh về, còn chuyện đó Liễu suy nghĩ trả lời anh sớm, nghen!
Liễu “dạ” khẽ rồi tiễn Trọng ra cửa. Vừa lúc đó Mạnh về tới. Trọng và Mạnh gật đầu chào nhau.
Liễu giới thiệu:
- Đây là anh Trọng bạn em, còn đây là anh Mạnh, con cậu Hai.
Trọng lịch sự đưa tay ra, Mạnh vui vẻ bắt tay Trọng. Cả hai nói mấy câu xã giao rồi Trọng cáo từ ra về.
Mạnh ngó Liễu, cười:
- Con nhỏ này coi vậy mà ghê quá ta! Bắt cóc đâu được anh chàng đẹp trai hết biết!
Liễu mắc cở, ngúng nguẩy:
- Anh Mạnh nói chuyện kỳ cục quá, tụi em chỉ là bạn bình thường thôi mà!
- Ánh mắt nó nhìn mày không bình thường chút xíu nào hết. Điệu này tao phải tính với cô út lo nuôi gấp heo gà là vừa!
- Ôi, cái anh này!
Liễu đấm thùm thụp vào lưng Mạnh. Mạnh cười vang:
- Ui, ui… mạnh dữ ta! Vậy mà mới hồi sáng kêu bệnh hoạn không ngồi dậy nổi, giờ đánh tui đau quá trời, đúng là sức mạnh tình yêu có khác!
Liễu dậm chân:
- Không thèm nói với anh Mạnh nữa!
Rồi cô chạy vụt vào nhà.
Lâu lắm rồi hai anh em mới đùa giỡn với nhau. Từ ngày Nam và Quốc gặp chuyện không may, những người sống trong ngôi nhà này trở nên trầm lặng hẳn đi, đến cả thằng Sang cũng ít nói cười hơn trước.
Vợ chồng ông Thịnh thì khỏi nói, người nào cũng già đi rất nhanh.
Mái tóc trên đầu ông Thịnh đã bạc trắng, lưng ông còng hơn. Ông không còn quan tâm đến công việc làm ăn hay vườn tược, mà chỉ thích ngồi uống rượu.
Sau đám tang Quốc, bà Nghiêm nằm hơn một tháng trời mới ngồi dậy nổi. Bà lờ đờ như người không hồn vía, lâu lâu lại tới bên bàn thờ ôm hai bức ảnh của Nam và Quốc mà khóc than, kể lể.
Trong ngôi nhà cổ kính  thâm u, cuộc sống cứ từng ngày diễn ra một cách nặng nề, lặng lẽ.
Ông Thịnh đi đám giỗ về ngà ngà say, thấy Mạnh đang săm soi mấy cây con vừa mới chiết. Ông xua tay:
- Dẹp! Dẹp cha nó mấy thứ đó đi! Không có trồng trọt gì nữa hết! Lát nữa tao đi kêu bán hết đất đai, nhà cửa, bán hết không chừa thứ gì…
- Chú ba say quá rồi, vô nhà nghỉ đi! Mạnh nhỏ nhẹ.
- Hừ, tao mà say… đời tao sai nhiều rồi, hại hai đứa con tao chết cũng một tay tao… Phải chi hồi đó bán hết chia cho chúng nó muốn đi đâu thì đi… Tao muốn giữ lại của cải ông bà, ông bà lại ghét bỏ tao, hại con tao chết trẻ…
Ông khóc hu hu. Mạnh khó chịu nhưng anh cố dằn lại, bỏ ra sau nhà mặc ông Thịnh một mình lải nhải.
Đêm.
- Liễu ơi, có ăn khoai nướng không?
Mạnh rủ rê.
Liễu đang giở gói quà Trọng tặng lúc trưa ra xem lại, cô đặt mấy hộp sữa, bánh trái lên bàn, tay ôm một con búp bê thật lớn. Cô vuốt ve mái tóc vàng hoe, xoăn tít thả lọn hai bên vai của búp bê mà thấy lòng rộn rã.
Thưở nhỏ, cô không thiếu những món đồ chơi sang trọng thế này, nhưng đã từ lâu cô không còn được sống những ngày như vậy.
Ôm món quà trong tay, Liễu như thấy tuổi thơ ùa về, thấy mình như bé lại. Cô thèm được ngã vào lòng ai đó để dỗi hờn, nũng nịu…
Nghe tiếng Mạnh, cô lật đật giấu con búp bê xuống mền rồi chạy ra ngoài.
Thằng Sang vắng nhà, nó một mình đi cắm câu. Bây giờ nó đã rành rẽ mọi công việc và là tay sát cá có tiếng. Nó lười trồng trọt nhưng lại mê bắt tôm bắt cá, không những nhà khỏi tốn tiền chợ mà nhiều hôm bà câm còn đem bán lấy tiền mua thêm gạo, tương, mắm, muối.
Mạnh gom một mớ cành khô rồi bật quẹt nhóm lửa. Tiếng nổ lép bép nghe thật vui tai. Liễu vùi mấy củ khoai vào đống lửa, cuối xuống thổi phù phù, lửa bùng lên soi rõ gương mặt rạng ngời của Liễu.
Mạnh chợt hỏi:
- Em với Trọng tính bao giờ mới cưới?
Liễu định chối, nhưng nghĩ lại từ nhỏ đến lớn mỗi khi có chuyện buồn vui gì cô cũng kể hết với Mạnh, và bao giờ Mạnh cũng là người che chở, chỉ dạy cô những điều tốt đẹp nhất. Vì vậy Liễu mạnh dạn:
- Anh Trọng mới đề cập tới chuyện đó, nhưng em còn chưa biết trả lời sao.
- Căn bản là em có tình cảm với anh ta không? Mạnh hỏi
- Tình cảm thì… cũng có, nhưng có lẽ chưa phải là tình yêu. Em muốn kéo dài thêm một thời gian nữa để xác định rõ lòng mình, nhưng mặt khác em lại muốn nhận lời ngay để thoát khỏi gia đình này.
Liễu tư lự một lát rồi nói thêm:
- Từ ngày anh Nam, anh Quốc chết đi, không khí trong nhà ngột ngạt quá, u buồn quá. Em luôn bị ám ảnh bởi những điều rùng rợn đó. Em nói thật, nếu lấy chồng, làm ăn được em cũng sẽ lôi kéo mẹ em với thằng Sang đi theo. Ở nhà này hình như có tà ma, ám khí gì đó…
- Anh không muốn tin, nhưng cũng thấy nhà mình có cái gì kỳ lạ lắm! Nhưng dù sao anh cũng không thể rời bỏ nơi này. Anh là con trưởng, là cháu đích tôn, nhiệm vụ của anh rất lớn!
Nói xong Mạnh ngồi trầm ngâm, lát sau khều mấy củ khoai lang trở qua trở lại. Mùi khoai nướng thơm lừng.
Anh bóc vỏ khoai, xuýt xoa vì nóng, đưa cho Liễu:
- Em ăn đi!
- Anh cũng ăn đi!
Hai anh em cùng ăn nhỏ nhẻ. Lát sau Mạnh nói:
- Em nghĩ vậy cũng phải. Nhưng theo anh thì em không cần phải xác định tình yêu với không phải tình yêu làm gì. Nếu xét thấy Trọng là người tốt, thương em thiệt tình và có khả năng lo cho cuộc sống của em thì em  nên nhận lời. Con gái có thì, bỏ qua cơ hội có khi suốt đời không tìm lại được. Đối với phụ nữ, tình yêu đến sau hôn nhân thường bền vững hơn. Bởi vì khi em yêu người nào đó, em chỉ thấy toàn những điều tốt đẹp của họ, em xem họ là thần tượng nên khi cưới nhau về, chung sống một thời gian em sẽ phát hiện ra họ cũng có những tính xấu, những điều không phù hợp với em, như thế đâm ra thất vọng, dễ chán nản. Thế nên những cặp vợ chồng lấy nhau do tình yêu mỗi khi cãi cọ thường có câu: “Phải tôi biết anh thế này thì đời nào tôi ưng”. Chi bằng chỉ cần mới có cảm tình như em và Trọng hiện nay, em ưng lấy Trọng là em đã xác định lấy cả những điều tốt lẫn điều không tốt ở anh ta, sau này có chuyện gì em cũng không ân hận.
Liễu nhìn Mạnh thán phục. Anh quả hiểu biết sâu xa, những điều anh phân tích sao mà rành rọt, dễ nghe đến thế. Liễu thầm nghĩ sau này ai được làm vợ Mạnh chắc sẽ hạnh phúc lắm. Chợt Liễu nhớ tới Huệ, cô gái xóm trên có mái tóc dài tha thướt và đôi mắt trong veo như trẻ con, người mà Mạnh vẫn thường nhắc đến trong những lúc chuyện trò.
- Anh Mạnh ơi, anh nói chuyện tâm lý nghe hay quá, nhưng sao chuyện anh với chị Huệ không tiến tới mà cứ dùng dằng hoài vậy?
Liễu chọc ghẹo. Mạnh thở dài:
- Chuyện anh thì lại khác. Anh chưa dám ngỏ lời với cô ấy. Anh là trai, khi cưới vợ phải lo cho người ta đầy đủ, nhưng hiện tại anh còn nhiều việc phải lo, cưới cô ấy về mà để cổ khổ sở anh không cam tâm.
Liễu thấy thương Mạnh quá. Anh nặng gánh gia đình, một mình lo cho cả đại gia đình, không có anh chẳng biết mọi người sẽ ra sao nữa.
Bỗng Liễu nhìn thấy đôi mắt Mạnh sáng rực lên, anh hơi nhếch mép cười. Trông anh thật khác lạ.
- Em yên tâm đi, không còn lâu đâu, một ngày gần đây anh sẽ đón Huệ về nhà một cách linh đình, rạng rỡ. Mọi việc anh đã tính toán hết rồi!
Liễu có cảm giác Mạnh không như bình thường, ở nơi anh có một vẻ gì đó cô không phân tích được nhưng lại làm cho cô thấy sờ sợ.
- Anh nói gì, em không hiểu?
Liễu hỏi . Mạnh thoáng giật mình, anh vỗ vai Liễu:
- Đấy là anh nói chuyện tương lai ấy mà! Anh tính rồi, nếu chịu khó làm ăn mình cũng có thể khấm khá lên được đó! Chừng đó lo gì không cưới được vợ, phải không? 
Hai anh em đang ngồi nói chuyện thì trong nhà vẳng ra tiếng cãi cọ, tiếng chén bát vỡ loảng xoảng. Mạnh, Liễu hấp tấp chạy vào.
Ông Thịnh gục mặt trên bàn, cơm nước đổ tung tóe. Ông Thúc đứng cạnh bên hầm hầm:
- Chú lớn rồi, ăn nói phải cẩn thận, đâu phải đứa con nít lên ba mà nói không suy nghĩ. Ông bà làm gì chú mà chú mắng chửi?
Ông Thịnh khóc rung hai bờ vai. Ông ngước lên, vẻ mặt ai oán:
- Anh nói ông bà không làm gì tui à? Vậy hai đứa con tui vì đâu mà chết? Nếu thằng Nam nó có muốn đào mồ đào mả là cũng vì nó quá khổ, muốn xin của ông bà chút ít, có quở phạt gì thì cũng nhẹ tay, có đâu khiến nó nên nông nổi. Còn thằng Quốc, nó nhút nhát vậy mà ông bà cũng không tha. Giờ đối với tui không còn ông bà tổ tông gì hết, ngày mai tui đi kêu bán đất bán nhà, ai ngăn cản thì trị giá thành tiền chia cho tui đi. Tui dắt vợ tui, dẫn theo vong hồn hai đứa con tui đi khỏi xứ này ngay lập tức.
Ông Thịnh nói xong ôm mặt khóc hu hu. Bà Nghiêm ở gian bên nghe chồng khơi lại nỗi đau cũng không dằn được, khóc nức nở.
Bà Lan lặng lẽ lau nước mắt. Bà không ngờ gia đình mình lại có cảnh xào xáo như hôm nay. Mấy mươi năm anh em hòa thuận, trên nói dưới nghe bỗng chốc trở thành hỗn độn.
Ba mẹ bà dưới suối vàng thấy cảnh này chắc cũng đau lòng lắm.
Bà là phận gái, khi nghe ông Thịnh đòi bán gia tài, dù rất đau lòng nhưng bà không dám có ý kiến. Ông Thúc kiên quyết không đồng ý, hai người đâm ra cãi cọ.
Ông Thúc dù rất tức giận khi nghe em xúc phạm ông bà, cha mẹ, nhưng nghĩ lại em ông  đã mất mát quá nhiều nên ông dịu lại:
- Thôi, mọi việc để từ từ tính lại. Khi nào chú thật bình tĩnh chúng ta sẽ cùng bàn bạc với nhau.
Nhìn thấy Mạnh, ông gọi:
- Mạnh, vô dìu chú ba mày về bển!
Mạnh lẳng lặng đến bên xốc ông Thịnh đứng lên, kè đi.
 Ông Thịnh vẫn vừa đi vừa chửi, chửi ông bà, cha mẹ, chửi luôn cả ông trời.
Rồi bất chợt ông vùng khỏi tay Mạnh, chạy ra cửa. Vừa chạy vừa rên rỉ:
- Tao chán ghét cái nhà này, để tao đi, tao đi uống rượu tới sáng… uống cho quên trời quên đất…
Liễu thấy ngán ngẫm quá. Cô biết ngày mai mình sẽ nói gì với Trọng.
Đã hơn bốn giờ sáng bà Nghiêm vẫn còn thức đợi chồng. Từ sau đêm cãi cọ với ông Thúc, ông Thịnh thường đi nhậu qua đêm, về tới nhà không còn chút sức lực nào.
Bà Nghiêm định chờ khi nào ông tỉnh hẳn sẽ bàn với ông thôi không cần của cải gì nữa, vợ chồng về quê bà sinh sống. Ở đó, bà còn nửa công đất cha mẹ chia cho, mấy năm nay để cho thằng cháu canh tác, giờ về lấy lại hai ông bà sống hui húc qua ngày.
Nhưng suốt mấy hôm liền, cứ nhậu về là ông lăn ra ngủ như chết, thức dậy lại đi tiếp, bà không sao nói được.
Nghe tiếng gà cục tát trong chuồng, bà Nghiêm lồm cồm dậy ra lấy trứng. Con gà gì ngu ngốc, cứ đẻ trứng ra là mổ, nên hễ nghe nó cục ta cục tát là phải canh chừng để lấy.
Suốt đêm không ngủ bà thấy đầu choáng váng. Nhặt quả trứng gà bà lại nhớ thằng Nam, hồi còn sống nó thích húp trứng gà mới đẻ thế này lắm.
 Gia tài bà có hai thằng con trai, vậy mà chúng đành lòng bỏ bà đi hết. Còn lại hai vợ chồng già trơ trọi, mấy lúc gần đây ông Thịnh cứ bỏ nhà đi suốt, bà thật đau lòng.
Trời đã sáng mà ông Thịnh vẫn chưa về. Lòng bà Nghiêm nóng như lửa đốt. Mấy đêm trước ông cũng đi nhưng sao bà không thấy cồn cào đến vậy. Hay có chuyện gì xảy ra với ông rồi? Lần thằng Quốc đi không về bà cũng có cảm giác giống y như thế.
Bà Nghiêm hoảng hốt gọi:
- Sang ơi, Mạnh ơi! Hai đứa đi tìm ông ba giùm thiếm đi, hổng biết ổng làm gì mà tới giờ không thấy về!
Thằng Sang ngồi dậy ngáp dài. Hồi đêm nó đi coi chiếu bóng về khuya, ngủ chưa đã giấc. Mạnh vừa súc miệng vừa nói lúng búng:
- Ổng đi hoài, hơi đâu thiếm lo!
Nói vậy nhưng Mạnh cũng quay vào gọi Sang:
- Dậy mày, tao với mày đi kiếm ổng. Già rồi bày đặt sanh tật, thiệt khổ hết sức!
Hai người chưa kịp đi thì bà câm hơ hãi chạy ào vào nhà. Bà ú ớ, tay chân quơ loạn xạ, mọi người chưa ai hiểu bà định nói gì  bà đã nắm tay bà Nghiêm lôi tuột về phía nhà mồ.
Mọi người trong nhà đổ dồn ra chạy theo.
Luồn dưới mấy vườn nhãn, chạy gần đến nhà mồ, cạnh chỗ Quốc nằm lúc trước,  bà câm chỉ tay xuống mương, ai nấy đều khựng lại chỉ có bà Nghiêm là nhào xuống.
Ông Thịnh nằm úp mặt xuống mương, nửa người trên cạn, nửa người dưới nước, quanh đó đám rau muống nát nhừ, hình như trước khi chết ông giãy giụa ghê lắm.
Người ông đã cứng ngắc từ lâu.
Bà Nghiêm chết đi sống lại, không còn nước mắt để khóc chồng. Bà cứ ngồi trơ trơ trước quan tài, không nói một lời, bà Lan dỗ cách nào bà cũng không ăn không uống.
Liễu thật sự kinh hoàng khi tai biến dồn dập đổ xuống nhà ông Thịnh. Cô tin chắc ông Thịnh chết là do đã xúc phạm đến tổ tiên.
Cô không dám ở một mình trong phòng, tối nào cũng chạy sang ngủ với mẹ.
Trọng đến dự tang lễ , anh khẽ an ủi Liễu:
- Em đừng buồn, con người ai cũng có số cả.
Liễu khóc nất lên, ôm chầm lấy Trọng không kể gì đến mọi người xung quanh:
- Anh Trọng ơi, anh mau mau đem em ra khỏi nhà này đi, em sợ lắm… Em sợ lắm anh Trọng ơi!
Thân hình cô run lên cầm cập trong vòng tay Trọng.
Trọng đã nghe nhiều người kể chuyện gia đình Liễu, anh không tin ma quái mà cho rằng đó chỉ là sự rủi ro trùng hợp. Anh vỗ về:
- Em đừng sợ, có anh với anh Mạnh bên cạnh, không ai làm gì hại em được đâu.
Liễu vẫn níu chặt tay Trọng, trông cô thật tội nghiệp. Trọng nói khẽ vào tai Liễu:
- Em yên tâm đi, anh nhất định đưa em đi một ngày gần nhất. Anh đã thưa chuyện với ba má rồi.
Suốt những ngày lễ tang ông Thịnh, bà Nghiêm cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn, không ra buồn cũng chẳng ra vui. Ai hỏi tới bà cũng chỉ ậm ờ…
Lộc - cháu bà Nghiêm từ Vĩnh Long lên dự đám tang, thấy tình cảnh bà bi thương quá, sau khi ang táng ông Thịnh, anh thưa chuyện cùng ông Thúc và bà Lan:
- Thưa Bác Hai, thưa cô Út, hiện giờ tinh thần dì con suy sụp quá, con xin phép được đưa dì con về Vĩnh Long một thời gian, khi nào dì khỏe con sẽ đưa dì trở lại đây.
Ông Thúc thở dài thườn thượt:
- Tùy ý thiếm với cháu thôi, nơi này có quá nhiều điều đau thương xảy ra cho gia đình thiếm ấy, tôi đâu dám níu kéo.
Khi bà Nghiêm được mọi người cho biết Lộc sẽ đưa bà về Vĩnh Long, bà mừng quýnh, nhưng khi ngó lại bàn thờ chồng con bà lại ôm mặt khóc.
- Chị về dưới đó chơi cho khuây khỏa, khi nào nhớ nhà thì lại trở về đây, chị nhé! Ở đây mọi người đều mong chị đó!
Bà Lan vừa soạn giúp áo quần cho bà Nghiêm vừa nói.
 Bà Nghiêm nhìn bà Lan bằng ánh mắt đờ đẫn, nơi khóe mắt hai giọt lệ vỡ ra. Bà thì thầm:
- Cô Út ở nhà nhớ thắp nhang cho chồng con tui với, đừng để họ lạnh lẽo. Lần này tui đi chắc không có ngày về, tui sợ nơi này quá cô út ơi!
Bà ghé sát vào tai bà Lan nói:
- Mẹ con cô cũng mau mau tìm đường dọn đi đi, ở đây không được đâu. Ma quỷ lởn vởn quanh nhà, cuộc sống không yên được. Phải chi lúc trước tui cho anh em thằng Nam, thằng Quốc trở về Sài Gòn thì nó đâu có chết…
Bà Nghiêm lại khóc nghẹn ngào.
Bà Lan cũng sụt sịt khóc theo:
- Chị yên tâm an dưỡng, dầu gì đó cũng là anh ruột, cháu ruột của em, em không để nhang tàn khói lạnh đâu. Chị về đó ít lâu em sẽ sai con Liễu hoặc thằng Mạnh đi đón chị mà, đây là nhà của chúng ta, chị phải về đây sống chứ!
- Không, tui không về… tui sẽ không về đâu mà…
Bà Nghiêm nức nở. Bà run rẩy đến bên bàn thờ thắp nhang cho chồng con, tiếng khấn khứa lẫn trong tiếng khóc:
- Ông với hai đứa con có linh thiêng thì cùng về quê tui, mỗi ngày tui ăn thứ gì sẽ cúng cho ông và hai con thứ ấy! Tui không quên các người, tui không bỏ các người nhưng tui không thể sống ở đây…
Hôm sau, Lộc dẫn bà Nghiêm đi, những người còn lại trong nhà nhìn theo ứa nước mắt.
Ngày bà Nghiêm về làm dâu nhà này, đám rước dâu tưng bừng rộn rã, bà áo quần lộng lẫy đi trong tiếng pháo rền vang. Ấy thế mà sau mấy mươi năm, bà lại ra đi trong nước mắt, trong lặng lẽ, đau buồn.
Cả gia đình ông Thịnh giờ không còn ai ở lại nhà này, gian nhà rộng hẳn ra, suốt ngày phảng phất mùi nhang khói.
(Còn tiếp)
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 15:55:27 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 22:38:18
NHÀ MỒ OAN KHỐC
(Tiếp theo)


Chương 3
 
Suốt gần hai tuần Liễu nghỉ may ở nhà phụ lo việc tang ma cho ông Thịnh, Trọng cũng bỏ bớt mấy chuyến hàng tới an ủi, động viên cô, giúp Mạnh rất nhiều việc từ lúc còn tang lễ đến lúc làm mộ, cúng kiếng.
 Bà Lan biết Trọng đang theo đuổi con gái mình, bà có ý mừng. Trọng tháo vát, sau này Liễu sẽ đỡ tấm thân. Bà cầu mong con gái không bao giờ phải gặp cảnh như bà năm xưa.
Năm xưa, cha Liễu là một chàng thanh niên trí thức, phong độ hào hoa, rất được các cô gái ưa chuộng, trong đó có bà Lan.
Bà say ông như điếu đổ, mặc dù biết ông tính tình trăng gió. Mẹ bà can ngăn cách nào cũng không lay chuyển được bà.
Ông cưới bà không phải vì yêu mà là vì món tiền kếch sù bà thừa hưởng được của gia đình.
Sống với nhau gần chục năm, bà mấy phen ghen tương tưởng chết. Đến khi bà mang thai thằng Sang, ông ngang nhiên dẫn bồ bịch về nhà, cấm bà không được có phản ứng.
Ông giở thói vũ phu, đánh đập bà không thương tiếc. Quá ê chề, chán nản bà quyết định ly hôn.
- Cảm ơn bà đã giải thoát cho tôi.
Ông ấy nói thế khi ký vào đơn ly dị.
Từ ngày thằng Sang chào đời đến nay đã hơn 10 tuổi, nó chưa một lần biết mặt cha, dẫu cha nó còn sống sờ sờ trên dương thế.
Có một lần bà Lan tình cờ gặp lại ông, những tưởng ít ra ông cũng có vài lời thăm hỏi hai đứa con, nhưng thật đau lòng, ông xem bà như người xa lạ, chưa từng quen biết trong đời.
Buồn cho nhân tình thế thái, bà Lan từ đó khép kín cửa lòng, không còn tưởng nhớ đến ông, cũng không đoái hoài gì tới những lời gió trăng tán tỉnh của mấy lão trung niên góa vợ.
Bà dồn hết tình thương cho hai đứa con, chăm chút chúng từng li từng tí.
Gia đình dọn về quê sinh sống, điều lo lắng nhất của bà là sợ Liễu phải vất vả. Nhưng bây giờ Liễu đã có nghề may, cái nghề tương đối nhẹ nhàng, sạch sẽ. Liễu lại được một thanh niên như Trọng để ý tới, nếu hai đứa thành vợ thành chồng chắc cuộc sống của con gái bà không đến nỗi cơ cực.
Trọng cũng khá đẹp trai, nhưng trông anh ta hiền lành, chân thật hơn nhiều. Nhất là ánh mắt anh ta nhìn Liễu khiến bà Lan vững dạ. Cha Liễu chưa một lần dành cho bà ánh mắt thiết tha , trìu mến như vậy.
Mấy đời dòng họ nhà bà làm ăn ngay thẳng, của cải tạo ra từ mồ hôi nước mắt, tuy giàu có nhưng họ cũng phải làm việc không ngừng nghỉ, chưa từng chèn ép ai bao giờ. Vậy mà không hiểu sao đến đời anh em bà lại vướng phải toàn những chuyện không may.
Từ sau cái chết của ông Thịnh, bà luôn sống trong nỗi phập phồng lo sợ. Không biết phần mộ của mẹ bà có phạm vào điều khắc kỵ nào không, sao từ khi mẹ bà qua đời gia đình lại xảy ra nhiều tai biến lớn lao đến vậy.
Thoạt tiên là ba gia đình vượt biên không thành, quay về với hai bàn tay trắng, rồi đến việc cha con ông Thịnh nối tiếp nhau qua đời, mà toàn những cái chết bất ngờ, kỳ bí.
Dạo này bà Lan thường hay đi chùa. Chùa ở xa, phải qua sông mới tới nhưng ngày rằm, ba mươi nào bà cũng đi.
Tối tối bà thường ngồi tụng kinh. Có đêm bà ngồi lặng lẽ một mình trước bàn thờ phật đến khuya lơ khuya lắc mới chịu vào phòng.
Bà cầu trời khẩn phật cho những người còn lại trong gia đình này được sống bình yên, đừng ai gặp phải rủi ro nào nữa.
 
Trọng giữ đúng lời hứa với Liễu. Sau đám tang ông Thịnh không lâu, Trọng đưa ba má đến nói chuyện cùng gia đình Liễu.
Gia đình Trọng trước kia rất nghèo nhưng nhờ cần mẫn làm ăn, lại gặp thời vận nên hiện tại cũng vào hàng khá giả trong vùng.
Khi biết người con gái Trọng định cưới làm vợ là Liễu, cháu gái bà Chín Hoa danh tiếng một thời nhưng nay gia đình suy sụp, trong dòng họ có nhiều điều bí ẩn, má Trọng lập tức phản đối:
- Bộ hết người để con lựa chọn hay sao mà đâm đầu vô cái nhà ấy?
- Má đừng chê người ta nghèo, người ta cũng một thời giàu có, chẳng qua…
Trọng bênh vực, nhưng nói chưa hết câu đã bị mẹ cắt ngang:
- Má không hề phân biệt hèn sang. Nhà ta trước kia cũng hai bàn tay trắng, giờ tuy có khá hơn nhưng đã giàu có gì đâu. Má sợ là sợ những điều kỳ lạ xảy ra liên tiếp trong nhà ấy.
Trọng thở phào nhẹ nhõm:
- Trời, có vậy mà má làm con hết hồn! Má ơi, người ta đồn đủ thứ chuyện tầm phào hơi đâu má tin cho mệt.  
Ba Trọng nói theo con:
- Má mày là vậy, cứ tối ngày nghe ba cái chuyện tào lao, riết rồi giữa ban ngày ban mặt có cho bả vàng bả cũng hổng dám đi con đường ngang qua gò nổi.
- Cha con ông không tin thì thôi, sau này có chuyện gì đừng trách tui biết mà không cản. Người ta đồn rùm beng lên rằng dòng họ nhà đó sắp bị tận diệt, rồi sẽ không còn ai sống sót được. Đó, trước mắt là cha con ông Thịnh, có nhà ai liên tiếp xảy ra ba cái chết lạ lùng vậy không chứ? Tránh sao bà Nghiêm không dở điên dở dại.
- Cho là má nói đúng đi, nhưng con cưới Liễu về thì Liễu là người của nhà mình rồi. Nữ sanh ngoại tộc mà, má!
Hai cha con Trọng liên tiếp tấn công, cuối cùng bà mới đồng ý.
Gia đình ông Thúc vừa ăn cơm trưa xong là Trọng đưa ba mẹ tới. Họ cố tình đi giác đó để không phiền người ta lo cơm nước.
Ông Thúc , bà Lan vui vẻ mời khách vào nhà. Liễu thẹn thùng đem nước lên châm. Cô cố giữ cho tay mình bớt run, sợ nước sánh ra ngoài.
Mẹ Trọng ngắm Liễu thật kỹ, bà thấy cô gái này thật dễ mến, hèn gì thằng con bà không tiếc lời bênh vực.
Ba Trọng đi thẳng vào vấn đề:
- Thưa anh Hai, thưa chị, chắc anh Hai và chị đây cũng biết hôm nay vợ chồng tôi đến trước là thăm anh, chị, sau nữa là bàn tới chuyện của hai đứa nhỏ. Thằng Trọng nhà chúng tôi thương cháu Liễu, nếu anh Hai và chị đây không chê thì xin cho vợ chồng tôi tính chuyện trăm năm cho hai đứa.
Ông Thúc đáp:
- Tôi tuy là anh cả, nhưng đây là chuyện quan hệ cả đời của cháu Liễu, con cô Út, tôi không có quyền quyết định. Ý của cô và cháu Liễu ra sao thì trình bày cho anh chị đây rõ.
Bà Lan khẽ chớp mắt, bà thấy lòng xúc động:
- Dạ, thưa anh chị, tôi đã được nghe nói rằng cháu Trọng và con Liễu nhà tôi có tình cảm với nhau. Đời bây giờ chúng nó ưng đâu thì tôi gả nấy. Nhưng gia cảnh nhà chúng tôi hiện giờ sợ không xứng đáng làm sui gia với anh chị.
- Chị đừng lo, nhà tôi cũng có hơn gì đâu, miễn hai đứa nhỏ thương nhau, ăn đời ở kiếp với nhau thì bậc làm cha mẹ như chúng ta thỏa nguyện rồi. Chuyện giàu nghèo có gì đáng bận tâm đâu chị.
Mẹ Trọng an ủi. Bà Lan cảm động rơm rớm nước mắt.
Dưới bếp, Trọng thì thầm với Liễu:
- Hồi nãy, lúc em lên châm nước bộ run lắm hả?
- Còn phải hỏi, người ta sợ muốn chết!
- Đừng lo, ba má anh hiền lắm. Mà anh bảo đảm, má anh nhìn thấy em là chịu liền!
Liễu nguýt Trọng:
- Thôi đi, đừng ở đó mà nịnh em, lỡ lát nữa ba má anh không đồng ý chắc em…
Liễu bỏ lửng câu nói, Trọng hỏi dồn:
- Chắc em làm sao, hả?
- Thì em đi tu chứ làm sao nữa! Liễu gắt.
Trọng phá lên cười. Liễu vội vàng bịt miệng anh lại, Trọng vẫn không nín được:
- Trời ơi, cô vợ tương lai của tôi nghe cải lương riết rồi lậm luôn rồi, tính hát bài “Lan và Điệp” hay sao vậy em?
Nói tới đó Trọng ráng nín cười, cất tiếng ca nho nhỏ:
- Lan… ý lộn, Liễu ơi xin đừng cắt đứt dây chuông đừng lạnh lùng khép cổng, Trọng tìm tới đây….
- Đồ quỷ!
Liễu nhéo một cái thật đau vào hông Trọng. Anh xuýt xoa:
- Dữ như cọp mà đòi làm ni cô!
- Người ta lo muốn thót tim luôn mà anh cứ giỡn hoài!
Thấy Liễu có vẻ giận, Trọng trở nên nghiêm túc:
- Tại thấy em căng thẳng quá, anh đùa một chút vậy mà! Em yên tâm đi, một khi ba má anh đã đến đây là coi như không phản đối, chỉ sợ mẹ em chê anh, không dám giao cô con gái cưng của mình cho anh thôi.
Trong lúc Trọng và Liễu nói chuyện với nhau ở nhà dưới thì ở nhà trên người lớn đã bàn bạc xong.
Họ định cuối năm sẽ tổ chức lễ cưới. Từ giờ tới lúc ấy còn bốn tháng nữa, hai gia đình sẽ có nhiều việc để lo toan.
Biết gia cảnh bà Lan túng thiếu, ba má Trọng khéo léo mở lời rằng họ sẽ lo toàn bộ chi phí cho đám cưới.
Bà Lan mừng cho con gái gặp được gia đình chồng tử tế hiếm có như vậy.
Đêm đó bà Lan không ngủ được, bà cứ trăn qua trở lại mà không sao chợp mắt. Già rồi khổ thế đấy, buồn thì không ngủ được mà vui cũng thức trắng đêm.
Bà nằm im lắng tai nghe tiếng con thạch sùng tắc lưỡi, tiếng cựa mình của thằng Sang, tiếng thở đều đều của Liễu ở nhà trong.
Bà khẽ khàng ngồi dậy lần mò đi vào phòng Liễu. Ánh trăng sáng rỡ ngoài kia xuyên qua khe cửa khiến cho căn phòng của Liễu lờ mờ sáng. Bà Lan đứng im nhìn con gái ngủ, môi nó còn phảng phất nụ cười, chắc hẳn đêm nay con gái bà gặp nhiều mộng đẹp.
Chỉ còn vài tháng nữa thôi con gái bà sẽ về làm dâu nhà người ta, rồi bổn phận làm vợ, làm mẹ sẽ trói buột nó đến hết cuộc đời. Nó không còn được ngủ nướng thêm khi trời sáng, cũng không còn nũng nịu với bà được nữa.
Nước mắt bà ứa ra. Bà thở dài, làm thân con gái là phải vậy, điều đó vốn là quy luật của tạo hóa.
Bất chợt bà nghe văng vẳng tiếng khóc than thê thiết, rồi tiếng kêu rin rít, ghê rợn của bầy dơi. Bà đi lại gần cửa sổ nghe ngóng.
Bà Lan tuy lớn tuổi nhưng tai, mắt vẫn còn tinh lắm. Bà thấy rõ ràng ngoài sân nhà bầy dơi đang bay lượn, cạnh đó còn có một bóng người lom khom không biết làm gì.
Bà định cất tiếng gọi nhưng sợ làm Liễu giật mình. Liễu rất sợ ma, lúc ông Thịnh mới mất cứ đeo theo ngủ với bà, nửa đêm dậy đi uống nước bà cũng phải đi theo, khó khăn lắm nó mới dám ngủ một mình trở lại.
 Bà sợ làm Liễu hãi, sau này đi lấy chồng, lỡ đêm nào chồng nó vắng nhà thì tội cho nó lắm.
Bà rón rén đi sang gian nhà bên cạnh, định bụng kêu Mạnh ra xem chuyện gì. Mạnh vốn bình tĩnh, gan góc chắc là không sợ.
Bà bước tới bộ ván nơi Mạnh ngủ, gọi khẽ:
- Mạnh ơi, Mạnh!
Không có tiếng trả lời, bà đưa tay vào mùng sờ soạng. Bà Lan quá đỗi ngạc nhiên, giờ này mà thằng Mạnh còn đi đâu, chỗ nằm của nó không có chút hơi ấm nào chứng tỏ nó đã rời giường lâu lắm. Nhưng hồi hôm, khi sang đây đánh gió cho ông Thúc, bà thấy nó chui vô mùng ngủ rồi mà.
Bà Lan đi trở về phòng ngủ của Liễu. Liễu nằm nghiêng xoay mặt ra ngoài, ánh trăng soi tỏ gương mặt dịu hiền  của cô. Bà Lan ngắm con, lòng tràn đầy hạnh phúc.
Bà lại đến bên cửa sổ nhìn ra ngoài. Bóng người vẫn nhô lên hụp xuống giữa bầy dơi, trông giống như những người dạy thú đang huấn luyện mà có lần đi xem xiếc bà nhìn thấy.
Ngoài sân trăng rất sáng, nhưng bà không nhìn rõ được mặt người ấy vì nó lẫn với bóng cây, chỉ thấy dáng người to khỏe như Mạnh, như Nam.
Bà Lan chợt lạnh người. Có khi nào đó chính là Nam, bầy dơi trước kia hút hết máu Nam, giờ Nam quay về trị tội chúng hay sao? Phải rồi, chắc là vậy rồi, chứ Mạnh thì có điên khùng đâu mà làm chuyện kỳ lạ vậy.
Bà vội vã lần tràng hạt ở cổ tay, miệng thầm thì niệm phật. Bà không dám quay về giường mình, sợ bỏ Liễu một mình trong phòng. Bà lần tìm chiếc võng trong góc phòng nhẹ nhàng ngồi xuống canh chừng giấc ngủ cho con gái.
Tiếng dơi kêu vẳng đến một hồi rồi từ từ xa dần. Bà Lan không tài nào hiểu nổi vì sao đàn dơi ở tuốt ngoài nhà mồ lại kéo vô đây, có đúng là oan hồn Nam về dẫn dắt? Bà cứ suy nghĩ mãi vẫn không tìm được câu trả lời, đến lúc trời hửng sáng bà mới mệt mỏi thiếp đi.
Liễu thức dậy thấy mẹ nằm ngủ trên võng, cô giật mình hỏi:
- Ủa, sao mẹ ngủ ở đây?
Bà Lan choàng dậy nhìn con cười:
- Tại mẹ muốn ngủ gần con mà, không bao lâu nữa là con về nhà người khác rồi, mẹ có muốn ngủ chung cũng không được.
Liễu cảm động ôm choàng lấy mẹ, cô dụi đầu vào lòng mẹ nũng nịu:
- Thì vài hôm con lại về ngủ với mẹ cho vui!
- Thôi đi cô, chứ không phải có chồng rồi thì quên mẹ mất tiêu luôn!
Bà Lan mắng yêu con gái. Liễu cười:
- Mẹ nói oan cho con, làm sao con quên mẹ được! Mẹ ơi, từ nay mỗi tối mẹ vào đây ngủ với con nhen!
Bà Lan mừng thầm. Từ lúc phát hiện thấy bóng người và bầy dơi trong sân nhà, bà luôn lo sợ cho Liễu vì phòng cô sát đó, bà chưa biết viện lý do gì để ở cạnh con mỗi tối thì Liễu đã mở lời. Bà đáp:
- Ừ, từ nay mẹ sẽ ngủ chung với con tới chừng nào con về nhà chồng mới thôi!
Hai mẹ con nói cười vui vẻ, nhưng khi Liễu đi học may rồi bà trở nên tư lự. Những hình ảnh hồi đêm cứ lởn vởn trong đầu bà. Không kìm được, bà đi tìm Mạnh hỏi:
- Lúc nửa đêm cháu có ra ngoài sân không?
- Ủa, sao cô út lại hỏi vậy?
Mạnh nhìn bà Lan bằng ánh mắt lạ lùng. Bà Lan muốn kể hết với Mạnh những điều kỳ lạ chính mắt bà trông thấy, nhưng bà sợ làm tinh thần nó hoang mang. Thôi đi, nhà này đã có quá nhiều chuyện buồn rầu rồi, bà không muốn ai phải lo lắng gì thêm nữa. Nghĩ vậy nên bà nói lãng:
- Tại cô qua tìm không thấy cháu nên hỏi vậy thôi.
- Cô tìm cháu có việc gì? Mạnh hỏi
Bà Lan ngắc ngứ:
- Cô tìm... ừ thì tại ba cháu không khỏe, cô sợ đêm hôm có chuyện gì nên sang dặn cháu canh chừng. À mà cháu đi đâu vậy?
- Đêm qua cháu bị chột bụng cứ đi ngoài suốt.
- Chết chưa, sao cháu không nói, đêm hôm lỡ có chuyện gì phải khổ không? Giờ bớt chưa để cô đi hái thuốc cho.
- Dạ khỏi, cháu đỡ nhiều rồi.
- Vậy để cô xuống nấu cho chén cháo ăn ấm bụng.
Bà Lan tất tả đi xuống bếp hối bà câm vo gạo nấu cháo, Mạnh nhìn theo bà một lúc lâu rồi bỏ ra ngoài.
*  *
*
 
Bà câm bưng dĩa cốm dẹp ra hiên nhà, kéo chiếc ghế đẩu ra đặt dĩa cốm lên trên đó. Bên cạnh, bà Lan ngồi đong đưa trên võng, mắt lim dim, tay lần tràng hạt.
Nghe tiếng ú ớ của bà quản gia, bà Lan mở mắt ra mỉm cười:
- Cám ơn bà, bà ngồi xuống đây ăn với tôi cho vui!
Bà câm lắc đầu ra hiệu mình đã có phần dưới bếp. Mấy lúc gần đây bà thường làm những món ăn quê mùa, dân dã.
Bà Lan thích lắm, bà nhớ lại thời thơ ấu của mình có một quãng thời gian dài bà sống rất vui vẻ ở đây, được bà câm – khi ấy còn là một cô thôn nữ – cho ăn những món rất ngon như cốm dẹp trộn mật ong, thứ mật ong lấy trong vườn nhà đặc quánh, thơm lừng, hoặc khoai mì trộn dừa, bánh lá, bánh bò…
Những món quà quê ấy ở Sài Gòn người ta cũng có bán nhưng không hiểu sao bà ăn không thấy ngon, chỉ khi về quê, ăn những món bánh đó bà mới cảm nhận được hết vị ngọt thanh của mật ong, ngọt bùi của nếp mới, vị béo ngậy của dừa…
Bà nhớ, có một lần nhìn thấy bà câm khóc, bà cứ đeo theo hỏi nguyên do nhưng bà câm không chịu nói. Vốn tính tò mò, bà theo dõi mãi mới khám phá ra bà câm có bạn trai. Hai người thường hẹn nhau ở vườn chuối sau nhà.
Bà lấy làm đắc ý vì đã nắm được bí mật của bà câm, bà đòi gì bà câm cũng chìu, nếu không bà sẽ đi mách mẹ.
Để lấy lòng bà, bà câm thường dành cho bà nhiều ưu ái, có gì ngon cũng dành phần. Có lẽ vì vậy mà bà với bà câm ngày càng trở nên thân thiết.
Bà câm ú ớ, quơ chân múa tay chuyện vãn một hồi rồi quay xuống bếp lúi húi làm gì đó. Bà vẫn thế, cứ luôn chân luôn tay suốt ngày, không chịu ngừng nghỉ. Nhà không còn việc gì thì bà lại ra vườn quét lá, vun thành đống để đốt, hoặc nhặt nhạnh từng que củi khô đem về đun nấu.
Đã mấy chục năm qua, bà câm sống với nhịp điệu đều đều như vậy, lòng bà buồn vui ra sao cũng không ai biết.
Mối tình thời con gái của bà chết đi, cũng từ đó bà chỉ còn là một cái bóng cô đơn trong ngôi nhà quạnh vắng.
Bà Lan nhón tay dúm từng nhúm cốm dẹp cho vào miệng nhai chậm rãi. Buổi trưa mát mẻ ở xứ vườn sao bình yên đến thế! Gió hây hây thổi, những ngọn gió cuối thu khiến lòng người thanh thản.
Con gà mái dẫn đàn con bươi tung tóe đống lá bên hè, chừng như đã no nê mấy mẹ con kéo nhau nép vào bóng râm nằm ngủ. Gà mẹ dang rộng đôi cánh cho bầy con chui vào, nhưng có mấy chú gà ngịch ngợm cứ nhảy thót lên lưng mẹ, âu yếm mổ nhẹ từng sợi lông trên đầu mẹ nó.
Nhìn cảnh ấy, bà Lan nhớ lại những lúc ngồi nhổ tóc sâu cho mẹ. Ôi, giá mà bây giờ được quay trở lại thời gian đó thì hạnh phúc biết bao. Nhưng thời gian đã đi qua rồi sẽ không thể nào quay ngược lại.
Ăn hết dĩa cốm dẹp, bà Lan nằm xuống võng đọc truyện Lục Vân Tiên, gió mát hiu hiu, bà ngủ quên lúc nào không biết. Đến chừng bà giật mình thức giấc trời đã xế chiều, thằng Sang đang ngồi bên cạnh vót tre làm diều.
- Sao không kêu mẹ dậy, con?
Bà hỏi. Thằng Sang cười khì:
- Thấy mẹ ngủ ngon quá trời kêu dậy làm chi! À, mẹ ơi, lúc nãy con bắt được con cá lóc thiệt bự, bà câm kêu đem bán nhưng con muốn để nấu cháo cho mẹ, mẹ chịu hôn?
Bà xoa đầu con, nói nựng:
- Ôi, con tôi có hiếu quá, chắc là muốn ăn cháo cá rồi chứ gì?
Thấy mẹ nói trúng tim đen, thằng Sang nhoẻn miệng cười. Nó đứng lên giũ giũ áo quần mấy cái cho bụi tre rớt xuống rồi nói với mẹ:
- Con đi hái rau đắng nghe mẹ!
 - Để mẹ hái cho! Bà Lan tranh
- Vậy hai mẹ con mình cùng đi!
Chiều tối, cả gia đình bà Lan quây quần bên nồi cháo cá thơm lừng , nói cười rôm rả.
- Cô hai nhà này sắp đi lấy chồng nên được bồi dưỡng ghê chưa. Ráng ăn nhiều nhiều cho mập thêm chút nữa đi cưng!
Mạnh chọc Liễu. Liễu hứ một cái thật dài, giằng lấy miếng cá Mạnh vừa định gắp.
Mạnh cười ha hả:
- Gần có chồng rồi mà còn ham ăn quá, mai tao phải đi kiếm thằng Trọng mắng vốn mới được.
Ông Thúc, bà Lan nhìn thấy con cháu nô đùa lòng cũng vui khấp khởi.
*  *
*
Bà Lan nhẩm tính chỉ còn hơn hai tháng nữa là đến ngày cưới của Liễu. Gà, vịt bà nuôi tới đó cũng vừa rồi.
Mọi việc trong nhà Mạnh đều lo chu đáo như thể Liễu là em ruột của mình vậy.
Lúc này Liễu đã cắt may rành rẽ nên thường xuyên ở nhà với mẹ hơn. Trọng hứa sau ngày cưới sẽ ra chợ thuê một căn nhà cho Liễu mở tiệm may, vừa có nghề nghiệp đàng hoàng, vừa khỏi phải làm dâu.
Trưa nay Trọng đến xin phép đưa Liễu đi may áo cưới. Ông Thúc sang chơi nhà hàng xóm, thằng Sang chạy đi đâu không biết, nhà chỉ còn lại bà, bà Câm và Mạnh.
Mạnh ngồi hút thuốc ra vẻ đăm chiêu tư lự. Lát sau anh đứng lên vươn vai, hỏi:
- Đói bụng quá, nhà còn gì ăn không, cô út?
Bà Lan đáp:
- Còn lít cốm dẹp, để cô trộn cho mà ăn!
Bà dợm người đứng lên thì Mạnh bảo:
- Cô út nằm nghỉ đi, con xuống bếp kêu bà câm làm được rồi!
Hồi lâu, Mạnh bưng hai dĩa cốm dẹp lên, kéo ghế ngồi cạnh bà Lan.
- Mời cô ăn cốm!
Bà Lan đón lấy dĩa cốm từ tay Mạnh, xúc từng muỗng ăn nhỏ nhẻ. Mạnh nói:
- Cháu nghe cốm dẹp ở miệt Vĩnh Long do mấy người Miên làm ngon lắm, khi nào xuống đó thăm thiếm ba mình mua một về ăn thử nghen cô út!
Bà Lan gật gù:
- Ừ, vùng đó người ta chuyên làm món này mà.
Lặng im một chút bà nói tiếp:
- Lâu nay sao hổng có tin tức gì của chị ba, không biết chỉ sống dưới đó có được vui vẻ không nữa? Mạnh à, hay vài bữa nữa con xuống đó thăm thiếm ba con đi, sẵn mời đám cưới con Liễu giùm cô út luôn nghen!
- Dạ, để con sắp xếp công việc!
Hai cô cháu vừa ăn vừa nói chuyện. Loáng một cái Mạnh đã ăn hết dĩa cốm. Bà câm ra dấu hỏi ăn thêm nữa không, Mạnh vỗ bụng cười:
- Bà làm ngon quá, con ăn no bụng rồi, giờ phải ngủ một chút. Cỡ chừng ba giờ bà kêu con dậy tưới cây, nghe!
Bà câm gật đầu cầm chiếc dĩa không quay  xuống bếp.
Mạnh ngã người ra ván nhắm mắt ngủ. Bà Lan ngồi nhai nhóp nhép một mình.
Buổi trưa ở xứ vườn bình yên và thơ mộng biết bao! Bà Lan lại nhớ về chuỗi ngày đẹp đẽ của gia đình, lúc cha mẹ bà còn sống…
Ăn chưa hết dĩa cốm bà bỗng thấy buồn ngủ díp mắt. Bà ráng ăn nốt mấy muỗng còn lại, chưa kịp uống nước bà đã nằm ra võng ngủ ngon.
- Mẹ ơi, con về rồi nè!
Liễu gọi khi bước chân vô cửa. Không nghe tiếng bà Lan trả lời, Trọng trêu:
- Quê chưa, hổng ai thèm mừng!
Liễu chu môi nũng nịu:
- Hổng dám đâu, em là con gái cưng của mẹ mà. Em đi đâu về mẹ cũng mừng.
Rồi cô gọi vang:
- Mẹ ơi, mẹ! Mẹ đâu rồi?
Bà câm chạy lên chỉ tay sang gian nhà bên cạnh, Liễu nhìn theo thấy mẹ nằm ngủ trên võng, cô hơi ngạc nhiên vì bình thường bà Lan rất sẽ thức, sao nãy giờ cô gọi mà mẹ lại không nghe.
Liễu định đi sang gọi mẹ dậy, Trọng ngăn:
- Để mẹ ngủ đi em, người lớn tuổi khó ngủ lắm, lúc nào mẹ ngủ được thì nên để yên, đừng quấy rầy!
Liễu nghe theo, cùng với Trọng vào phòng riêng chuyện vãn.
Vừa khép cửa phòng lại, Trọng ôm chầm lấy Liễu:
- Ôi, vợ anh đẹp quá!
Liễu xô Trọng ra:
- Coi chừng… người ta thấy! Anh kỳ quá đi…
Trọng cười:
- Thấy thì thấy có sao đâu, mình sắp thành vợ chồng rồi em còn ngại gì nữa?
Liễu dí ngón tay vào trán anh:
- “Sắp” cũng có nghĩa là “chưa”, anh đừng tham lam quá…
Trọng ghì chặt lấy Liễu, đặt đôi môi nóng bỏng của mình vào má vào môi cô. Liễu kháng cự, nhưng dần dần cô cũng bị cuốn hút vào nỗi đam mê rừng rực của Trọng.
Mãi hồi lâu hai người mới rời nhau ra được. Liễu bẽn lẽn dụi đầu vào ngực Trọng.
Anh nhẹ nhàng dìu cô ngồi xuống giường, thì thầm vào tai cô:
- Liễu ơi, anh mong ngày cưới của tụi mình tới thật mau. Anh không muốn xa em một phút một giây nào nữa hết!
Liễu ngước đôi mắt nhòe lệ lên nhìn Trọng:
- Em cũng vậy, em không muốn xa anh! Những lúc có anh bên cạnh thế này em thấy mình như được chở che, bao bọc. Nhưng khi anh về rồi thì em lại cảm thấy lo sợ, bất an. Gia đình em đã xảy ra quá nhiều chuyện, em luôn luôn bị ám ảnh bởi những cái chết kỳ lạ của người thân. Em muốn rời khỏi ngôi nhà này, mặc dù em rất thương mẹ, thương thằng Sang, thương cậu Hai, anh Mạnh nữa. Em đếm từng ngày để được sống trọn vẹn bên anh. Anh Trọng ơi, anh hứa yêu thương em đến trọn đời nghe, anh đừng bao giờ bỏ rơi em…
Trọng siết chặt Liễu trong vòng tay, lòng anh dậy lên một tình yêu thương thiết tha, mãnh liệt. Người con gái này mỏng manh, yếu đuối quá, anh làm sao có thể bỏ rơi cô.
Anh muốn nói với Liễu nhiều, rất nhiều những lời đá vàng thề thốt, những lời yêu thương đầy cứng trong tim. Nhưng rồi anh lại muốn cứ ôm chặt cô thế này, để mặt cô áp vào ngực anh, tai cô sẽ nghe hết những gì con tim anh muốn nói.
Hai người ngồi như thế rất lâu, mặc cho ngoài kia trời chiều buông xuống.
- Chị Liễu ơi, mẹ sao thế này, chị Liễu ơi?
Tiếng gọi thất thanh của thằng Sang làm Trọng và Liễu giật mình buông nhau ra.
Bà Lan nằm trên võng như đang ngủ, trán bà hơi nhíu lại nhưng bà đã tắt thở từ lúc nào không ai hay biết.
Thằng Sang cuống cuồng lay gọi mẹ. Liễu quýnh quáng hối bà câm lấy dầu cho cô đánh gió. Liễu không tin, cô không thể nào tin mẹ cô đã vĩnh viễn lìa đời.
Mạnh tưới cây gần đó nghe ồn ào chạy về, bế thốc bà Lan đặt lên giường. Liễu cương quyết đòi giở áo mẹ lên để xức dầu, đánh gió.
Ông Thúc run giọng gạt Liễu ra:
- Mẹ con… đi rồi…!
Liễu òa khóc nhào tới ôm mẹ:
- Không, không, mẹ con còn sống mà, phải không mẹ? Mẹ trả lời con đi, mẹ ơi…!
Liễu và Sang mỗi người một bên lay lắt cái xác thân đã cứng đờ của bà Lan.
Thằng Sang vạch mắt bà Lan, kêu gào xé ruột:
- Mẹ ơi, mẹ mở mắt ra nhìn con đi! Mẹ đừng làm con sợ… Mẹ đừng bỏ con mà, mẹ ơi…
Nghe tiếng kêu khóc thảm thiết của chị em Liễu, làng xóm chung quanh biết rằng trong ngôi nhà kín cổng cao tường ấy lại có thêm một biến cố xảy ra.
Mọi người tụ tập tới phụ lo việc tang ma cùng gia đình ông Thúc.
Thảm hoa mười giờ xanh mướt Mạnh trồng dọc theo lối đi bỗng chốc bị bao nhiêu bàn chân dẫm nát.
Chiều tối rồi, gà vịt không ai đem về chuồng, chúng kêu lên tao tác.
Liễu rũ người trong tay Trọng. Thằng Sang hết cuống cuồng ôm mẹ lại chạy tới ôm chị, gào khóc vang trời.
Lối xóm mỗi người an ủi một câu nhưng chị em Liễu dường như không nghe thấy.
Không biết ai báo tin mà chị Hằng cùng mấy người bạn học may với Liễu tới. Họ vội vã bắt tay vào cắt may cho chị em Liễu những mảnh đồ tang.
Ngoài sân, trong nhà người ta ồn ào huyên náo. Những ngọn đèn măng-sông cháy sáng, mọi người chộn rộn chạy tới chạy lui. Thỉnh thoảng một vài người đàn bà lối xóm khẽ nhìn vào phòng thương cảm cho tình cảnh của chị em Liễu.
Liễu không còn khóc nữa. Cô câm nín quỳ bên xác mẹ.
Liễu chợt nhớ một cảnh tượng giống như bây giờ nhưng đã xảy ra cách nay hơn mười năm, và cũng xảy ra trong chính căn nhà này. Lúc ấy Liễu còn là một đứa bé con theo mẹ về quê chịu tang bà ngoại…
Tại sao tai ách cứ đổ dồn xuống gia đình cô? Ông trời muốn trừng phạt cả nhà cô vì những tội lỗi gì đây, cô không sao biết được.
Liễu chỉ biết rõ một điều là từ giờ phút này trở đi, chị em cô mới thật sự mồ côi.
Liễu vuốt ve bàn tay giá lạnh của mẹ, thầm thì:
- Mẹ ơi, con mới vừa đi may áo cưới, sao mẹ không chờ nhìn thấy con gái mẹ mặc áo cô dâu? Còn thằng Sang nữa, nó mới mười hai tuổi đầu sao mẹ đành lòng bỏ nó ra đi, con làm sao lo cho nó được như mẹ bây giờ? Con không chịu, con không cho mẹ đi đâu, mẹ phải trở về với chị em con….
Nước mắt Liễu lại rơi lã chã.
Thằng Sang kêu gào khản tiếng, lúc này đã đuối sức nằm dài xuống đất rên rỉ:
- Mẹ ơi… hơ… hơ… Mẹ ơi…!
Trọng lo dọn bàn ghế ngoài sân nhưng không yên tâm, chốc chốc anh lại vào nhà thăm chừng Liễu.
Khi người ta đưa xác bà Lan vô quan tài, thằng Sang giãy lên đành đạch. Nước mắt nước mũi tèm nhem trên mặt nó.
Liễu nhoài người theo, nhưng cô không còn đủ sức để vùng ra khỏi đôi tay Trọng đang giữ lấy cô.
Chị Hằng vừa lau nước mắt vừa đội cho Liễu chiếc khăn tang. Thằng Sang cũng đã được ai đó mặc áo quần, đội mũ rơm tề chỉnh.
Hai chị em Liễu quỳ trước linh sàn. Liễu kéo Sang vào lòng lau mặt mũi cho em. Thằng Sang lại tủi thân òa lên khóc ngất.
Đoàn người đưa tiễn bà Lan lặng lẽ đi dưới trời mưa lất phất. Đường đi trơn trợt, những người đàn ông khiêng quan tài phải bấu chặt bàn chân xuống mặt đường.
Thằng Sang dẫn đầu đám người đưa ma. Nó ôm trên tay tấm ảnh bà Lan chụp từ hai mươi năm trước. Bà Lan trong ảnh đang mỉm cười thật hiền, nét mặt bà hao hao giống Liễu bây giờ.
Giấy tiền vàng bạc rơi lả tả hai bên đường. Mọi người dìu Liễu bước đi từng bước….
Chiếc quan tài đã được hạ xuống lòng huyệt mới đào. Liễu cầm nắm đất trong tay nước mắt rơi thánh thót…
“Mẹ ơi, mẹ ngủ yên đi! Con sẽ thay mẹ lo lắng cho em, mẹ nhé!…”
Liễu xòe tay, đất rơi lả tả xuống nắp quan tài, cô ngồi bệt xuống hai tay ôm lấy mặt…
Về đến nhà Liễu lên giường nằm không ăn không uống, Trọng nói gì cô cũng không nghe.
Trọng nán lại với Liễu đến ngày mở cửa mả. Cúng kiếng xong anh phải về vì đã trễ mấy chuyến ghe.
Liễu nắm tay Trọng, run run dặn:
- Anh đi mau về với em nghe anh Trọng! Em sợ lắm…
Trọng gật đầu, nhìn Liễu xót xa…
* *
*
Vừa về đến nhà nhìn vẻ mặt căng thẳng của ba má, Trọng biết có điều không hay.
Trọng chưa kịp hỏi thì má anh đã lên tiếng:
- Con thấy chưa, má nói có sai đâu! Chưa một năm mà lần lượt bốn người trong gia đìng đó ngã lăn ra chết. Không phải tận diệt thì còn gì? Nói thiệt lòng má cũng thương con Liễu lắm, nhất là hoàn cảnh nó hiện giờ. Nhưng dù sao thì má phải thương con của má nhiều hơn chứ! Suy nghĩ lại đi Trọng ơi, giờ con nghĩ lại vẫn còn kịp đó…
Ba Trọng chép miệng:
- Ba vốn không tin vào lời đồn đại, nhưng mà hôm rồi nhìn lên bàn thờ nhà đó ba nổi cả gai ốc. Thiệt tình, trước nay ngoài việc chiến tranh, loạn lạc hay dịch bệnh, ba chưa thấy, cũng chưa từng nghe kể nhà nào liên tiếp xảy những cái chết bất đắc kỳ tử dồn dập như thế.  Ba nghĩ lời má con cũng có lý!
Trọng đang mệt mỏi, nghe ba má nói vậy anh đâm ra bực tức:
- Chỉ còn hơn hai tháng nữa tụi con cưới nhau rồi, ba má đừng nói gì nữa hết!
Ba Trọng nghiêm mặt:
- Cưới sao được mà cưới! Mẹ nó vừa mới qua đời, dù muốn dù không đám cưới cũng phải hoãn lại thôi!
Trọng vỡ lẽ, ngớ người ra. Vậy mà suốt mấy hôm nay, mỗi khi Liễu bị kích động anh đều an ủi, động viên cô rằng “… ráng lên đi em, còn không bao lâu nữa anh sẽ đưa em rời khỏi nơi tang tóc ấy…”
Anh hoàn toàn không nghĩ tới việc mồ bà Lan còn chưa xanh cỏ, lễ cưới sẽ không được tiến hành.
Má Trọng thở dài:
- Gia đình mình đành phải có lỗi với chị ấy, có lỗi với con Liễu vậy!
Ngẫm nghĩ một lát bà nói thêm:
- Nhưng Trọng à, con đừng nói gì với con Liễu nghe, đừng làm nó quá mức khổ đau mà tội nghiệp. Chờ khi nào nó nguôi ngoai , ba má sẽ nói chuyện với cậu hai nó. Giờ thì cứ coi như đám cưới chỉ tạm hoãn vậy thôi!
Trọng biết mình không thể bỏ rơi Liễu, không thể chối bỏ cuộc hôn nhân với Liễu, nhưng lúc này anh đã quá mệt mỏi, anh không muốn bàn cãi gì thêm với cha mẹ nên lặng lẽ vào phòng.
Ngược lại, thấy thái độ của con, ba má Trọng cứ ngỡ lòng anh đã dao động. Hai ông bà bàn tính tìm cách để Trọng và Liễu ít có cơ hội gặp nhau, cho tình cảm nhạt phai dần, để đến lúc chính thức tuyên bố từ hôn cả hai đứa đều không quá đau khổ.
Liễu hoàn toàn không biết gì về những toan tính của gia đình Trọng.
Cô sống những ngày tháng đau buồn, ủ rũ. Thằng Sang thì ngơ ngác như gà con lạc mẹ khiến lòng Liễu càng thêm đau xót.
Liễu nghĩ lúc nào mở được tiệm may ngoài chợ, cô sẽ xin phép Trọng đưaSang ra đó cho có chị có em. Tính tình Trọng phóngkhoáng chắc anh sẽ đồng ý thôi.
Hôm cúng tuần bà Lan, ba má Trọng tới bàn với ông Thúc việc hoãn đám cưới. Đó là điều phải lẽ, nếu ba má Trọng không đề cập tới ông Thúc cũng sẽ mở lời.
Nhưng có điều lạ là ba má Trọng không nói sẽ hoãn lại bao lâu, điều đó làm ông Thúc thắc mắc. Ông hỏi thì ba Trọng trả lời một cách mông lung:
- Để cháu Liễu có thời gian lấy lại tinh thần!
Liễu thật sự choáng váng, hụt hẫng khi nghe tin ấy.
Liễu yêu thương Trọng, cô muốn sớm được chung sống cùng anh, đó là một lẽ. Ngoài ra còn một lý do khác khiến Liễu mong chờ ngày cưới là để thoát khỏi nơi đây.
Ở trong ngôi nhà này, mỗi một ngày đi qua, khi bóng đêm trùm xuống là Liễu lại có cảm giác tai họa đang rình rập xung quanh.
Sau khi mẹ mất, Liễu càng trở nên hoang mang, sợ hãi. Ban đêm cô ngủ không yên giấc, một con chuột chạy qua cũng làm tim cô thắt lại.
Đã vậy thằng Sang thỉnh thoảng giữa đêm khuya khoắc lại thét lên gọi mẹ.
Bà Lan mất mới hơn một tuần, Liễu đã hai má hõm vào, mắt trũng sâu, nhìn cô thật thảm thương, tiều tụy.
Sau đám tang Trọng có ghé qua một lần, vội vội vàng vàng rồi lại ra đi.
Cả Trọng lẫn Liễu đều không biết rằng chính ba má Trọng đã ra tay dàn xếp chuyện này.
Hai ông bà cố tình giao cho Trọng những chuyến hàng phải chuyên chở thật xa, thật dài ngày. Và khi Trọng về tới họ lại tìm ra đủ thứ lý do chính đáng để vắng mặt, để Trọng phải trông coi toàn bộ các khâu từ xuống hàng, lên hàng đến quản lý hàng hóa trên ghe.
Trọng bận bù đầu bù cổ, chưa kịp ghé thăm Liễu đã tới giờ xuất bến, vì chuyến hàng nào cũng cần giao cho người ta đúng theo giờ giấc trong hợp đồng.
Vì công việc, vì uy tín làm ăn, dẫu có nhớ Liễu cháy lòng Trọng cũng phải dằn lòng lại. Anh cố an ủi mình “thời gian còn dài phía trước”.
**
*
- Sao lâu quá anh Trọng không ghé chơi vậy, chị Liễu?
Câu hỏi vô tình của thằng Sang khiến Liễu buồn ngơ ngẩn. Cô chớp nhanh mắt ngăn không cho dòng lệ trào ra, nói để em yên lòng:
- Dạo này hàng hóa nhiều, anh Trọng không có thời giờ rãnh!
Liễu trấn an em nhưng lòng mình thì không hề yên ổn.
Lâu rồi Trọng không đến. Ban đầu Liễu còn đếm từng giờ, từng ngày, luôn đi ra đi vào ngó mông ra cổng, lâu dần cô không dám tính thời gian nữa.
Ngày cưới của Liễu đã trôi qua, cái ngày mà lẽ ra Liễu được mặc áo cô dâu để về với Trọng, vậy mà Liễu phải ngồi một mình trong phòng nhìn chiếc áo cưới treo phía đầu giường mà lòng quặn thắt từng cơn.
Con búp bê Trọng tặng lúc nào cũng nở nụ cười hồn nhiên với Liễu, dẫu khi đó Liễu đang nước mắt như mưa…
Thỉnh thoảng Trọng gởi người quen mang đến cho Liễu một vài món quà kèm theo lời nhắn rằng: “Anh vừa về lại phải đi ngay, ráng chờ chuyến sau ghe về thế nào anh cũng sẽ ghé thăm em”
Liễu không biết cho tới hôm nay Trọng đã đi được bao nhiêu chuyến, mà lời hứa với cô vẫn còn biền biệt phương trời.
Bất chợt mắt Liễu sáng lên, cô nghĩ “Anh Trọng bận việc không ghé thăm mình được, vậy sao mình không tới nhà thăm hỏi ba má anh. Mình với anh ấy đã đính hôn rồi, có gì mà phải ngại?”
Nghĩ sao làm vậy. Liễu đi tìm Mạnh, thấy anh đang chẻ củi ở sau nhà, cô nói:
- Anh Mạnh có đi đâu không, cho em mượn chiếc xuồng?
Mạnh tò mò:
- Em đi đâu vậy?
- Em rủ thằng Sang xuống nhà anh Trọng!
Mạnh ngần ngừ một lát rồi nói:
- Em lấy đi đi, nhớ cẩn thận đó.
Rồi anh chậc lưỡi:
- Thằng Trọng này cũng kỳ thiệt, dạo này hổng biết làm sao mà biệt tăm biệt tích!
Liễu cúi mặt bước nhanh ra ngõ gọi Sang cùng đi.
Hai chị em vừa cặp xuồng vào bờ, má Trọng nhìn thấy liền chạy ra đon đả:
- Chị em con Liễu xuống chơi nè ông ơi! Liễu mới tới hả con? Hai đứa vô nhà đi!
Chờ cho Liễu, Sang chào hỏi xong bà nói:
- Hôm qua thằng Trọng về, nó tính lên trên đó thăm con, nhưng lu bu rồi cũng không đi được. Gần tết rồi hàng hóa ê hề mà chổ nào cũng đòi gấp. Ngày thường nếu lỡ có trễ hẹn một hai ngày cũng không sao, nhưng tết nhất mà trễ một giờ cũng bị họ cự nự, khổ lắm con à! Trong việc làm ăn muốn giữ được mối mang lâu dài, những lúc cập rập thế này mình càng phải giữ chữ tín với họ.
Nghe má Trọng nói một hồi Liễu cảm thấy yên tâm, và đến khi hai chị em ra về thì nỗi buồn trong Liễu đã vơi đi quá nửa.
**
*
Trọng nhổ sào cho ghe rời bến. Chuyến này ngoài anh và bác tài công, trên ghe còn có thêm Út Hạnh – con gái một mối hàng lớn của ba má anh ở chợ Long Xuyên.
Ba mẹ Hạnh gởi cô đi nhờ ghe Trọng để về quê tảo mộ.
Mẹ Hạnh ngày trước sinh trưởng ở cù lao Hàm Rồng, lớn lên đi buôn bán ngược xuôi quen biết ba Hạnh, cưới nhau xong là ở luôn dưới đó.
Dòng họ phân tán tứ phương, trên cù lao Hàm Rồng chỉ còn lại mấy ngôi mộ ông bà và gia đình Trọng là chỗ thân thiết còn sót lại.
Ba má Trọng và ba mẹ Hạnh rất muốn kết làm sui gia để mối thâm tình giữa hai nhà càng thêm thắt chặt.
Ba má Trọng năm lần bảy lượt đốc thúc anh cưới Hạnh về làm vợ. Hạnh cũng dễ thương, hiền dịu, có phần xinh đẹp hơn cả Liễu, không có gì để Trọng chê. Nhưng ngặt nỗi Trọng chỉ xem Hạnh như bạn, hay hơn chút nữa là như em gái chư tuyệt nhiên không có cái tình cảm rạo rực gái trai.
Hạnh lúi húi bên chiếc bếp dầu, chập sau cô múc ra mấy chén chè đậu xanh bày chung một mâm với  trái cây, bánh mứt.
Cô cười cười nói với Trọng:
- Anh vô cúng đưa ông Táo về trời đi, trễ lắm rồi đó! Lát nữa coi chừng hổng còn xe cho ổng đi à!
Trọng cũng đùa:
- Ông Táo ghe tôi biết bay mà sợ gì!
Nói xong Trọng chui vào khoang thắp nhang khấn vái rồi lại ra ngoài ngồi ngó mông lung. Hạnh ra ngồi cạnh một bên.
Là dân buôn bán, Hạnh tuy hiền nhưng không có vẻ rụt rè nhút nhát như Liễu.
Trên bầu trời đêm những ánh sao lấp lánh như hàng vạn viên kim cương khổng lồ, trông rất đẹp.
Trọng nhớ có lần cùng Liễu ngồi ngắm sao, cô nói rằng:
- Khi nào anh thấy trên bầu trời xuất hiện một ngôi sao băng, anh hãy nói nhanh nguyện ước của mình. Nếu lời nguyện đó kết thúc trước hoặc cùng lúc với ngôi sao thì chắc chắn sẽ thành hiện thực.
- Thế… em có ước lần nào chưa? Trọng hỏi
- Chưa, em sợ mình ước không kịp!
- Ai biểu em tham! Ước ngắn gọn thôi! Anh đã từng ước và điều ước đó cũng đã thành hiện thực rồi!
- Thật hả anh?
Liễu tròn xoe mắt. Trọng giả vờ nghiêm túc:
- Thật chứ sao không thật! Em nhớ lần đầu mình gặp nhau ở tiệm may không? Tối đó anh ngồi trên ghe thì thấy sao băng, anh vội vàng nói “Liễu – vợ” thế là trời đất biết ngay anh muốn cưới cô Liễu làm vợ nên đã cho anh toại nguyện nè!
Liễu véo vào tay Trọng:
- Anh gạt người ta nữa rồi! Em ghét anh lắm!
Trọng mỉm cười khi nhớ lại chuyện đó. Phải chi mẹ Liễu không qua đời, chắc giờ đây người ngồi cạnh bên anh không phải Hạnh mà là Liễu, anh sẽ hạnh phúc biết bao.
Gần hai tháng nay Trọng chưa gặp Liễu. Anh nhớ cô quay quắt. Chắc Liễu cũng chờ mong anh từng giây từng phút. Giữa lúc Liễu đau buồn mất mát thế này mà không được anh cận kề chăm sóc, thật là tội nghiệp cho Liễu biết bao.
Ngày cưới của mình với Liễu đã qua rồi, chắc hôm đó Liễu khóc nhiều lắm. “Liễu ơi, anh sẽ bù đắp lại cho em” . Trọng nói thầm với Liễu.
Trọng thấy lòng buồn da diết. Anh quay sang nói với Hạnh:
- Tối nay Hạnh thức phụ với bác tài giúp anh nghen, anh thèm rượu quá. giờ anh uống một chút rồi ngủ, chừng nào Hạnh mệt thì kêu anh dậy đổi ca!
Hạnh cười:
- Nhớ bà chị nên lấy rượu giải sầu à? Được thôi, em xin tận tình phục vụ.
Hạnh vào khoang nướng mấy con khô cá hố rồi làm chén nước mắm me bưng ra cho Trọng.
Trọng vừa nhìn trời nhìn nước vừa nhâm nhi ly rượu một mình.
Ban đầu anh định uống vài ly cho dễ ngủ, nhưng càng uống càng buồn, càng buồn lại càng muốn uống.
Hạnh giằng chai rượu trong tay Trọng, can:
- Anh say rồi, đừng uống nữa!
- Cho anh một ly thôi, một ly… Anh chưa say đâu, anh còn nhớ anh thất hứa với cô ấy mấy lần mà, say đâu mà say…. Ngoan, ngoan nào, cho anh thêm ly nữa, tới chừng đám cưới anh , anh sẽ cho em làm phù dâu….
Hạnh thấy tim mình đau nhói. Cô thầm yêu trọng từ lâu, được hai gia đình vun vào nên Hạnh nuôi rất nhiều hy vọng.
Bất ngờ nghe tin Trọng đi hỏi vợ, cô đã âm thầm khóc biết bao đêm. Chưa kịp nguôi ngoai lại nghe má Trọng nói xa nói gần đến chuyện hôn nhân của Trọng, trong cô lại le lói những tia hy vọng mới.
Nếu chuyện của Trọng và Liễu không thành, dẫu biết Trọng không dễ gì quên được Liễu, Hạnh cũng cam tâm.
Cô chỉ cần được sống bên Trọng, được yêu thương chăm sóc cho anh là đã mãn nguyện rồi.
Hạnh rót thêm cho Trọng ly rượu nữa. Anh vỗ vai cô:
- Em gái ngoan, vậy anh mới thương nhiều chứ!
Hạnh rùng mình bởi cảm giác ấm áp từ tay Trọng truyền sang. Ôi, ước gì cô là Liễu để giờ phút này được Trọng thương yêu nhắc nhở! Trọng ơi, sao anh tàn nhẫn với em đến thế, em đang ngồi cạnh bên anh mà anh không hề nghĩ tới… Anh có biết em thương anh nhiều lắm không? Liễu là cô gái thế nào mà lại được anh dành cho thật nhiều tình cảm, dành cho trọn vẹn con tim?
Nước mắt vòng quanh mi, Hạnh ngước đôi mắt buồn rầu nhìn Trọng, hỏi:
- Anh yêu chị Liễu nhiều lắm phải không? Chị ấy đẹp lắm phải không anh?
Trọng gật gù:
- Anh yêu nhiều, phải… phải… Yêu nhiều lắm! Cô ấy rất đáng yêu. Nhưng mà…cô ấy không đẹp bằng em đâu, Hạnh à!
- Vậy tại sao… anh lại chẳng yêu em?
Hạnh bật khóc.
Trọng vuốt ve cánh tay cô:
- Ngoan… ngoan nào, đừng khóc nữa… đừng khóc nữa… anh thương!
Hạnh không kềm được mình, cô ngã dúi vào lòng anh, thổn thức.
Trọng ôm Hạnh trong tay, chạm phải làn da mát rượi, bộ ngực phập phồng mềm mại đang áp chặt vào người anh, khiến những dục vọng trong anh bùng lên như lửa cháy.
Trọng cúi xuống hôn tới tấp vào khuôn mặt nhòe nước mắt của Hạnh, hổn hển nói:
- Liễu ơi, anh nhớ em lắm!…
Hạnh xót xa trong lòng nhưng cô đã sẵn sàng chấp nhận tất cả để được gần anh.
Đôi tay Trọng lần mở những chiếc nút áo để lộ ra dưới ánh đèn lù mù không đủ sáng một khuôn ngực đầy đặn mịn màng, đang phập phồng theo từng hơi thở.
Trọng như con thú hoang vồ được con mồi. Anh lao vào Hạnh với tất cả nỗi đam mê, khao khát của chàng trai hai mươi tám tuổi.
                 ….
Trọng cảm thấy khát nước. Anh định chống tay ngồi dậy nhưng không được vì có cái gì đó đang đè nặng trên vai.
Trọng đưa tay kia quờ quạng bỗng chạm phải một thân hình mềm mại kề bên. Anh hốt hoảng ngồi bật dậy. Hạnh cũng ngồi lên, hai tay cô bắt chéo qua vai che bớt vùng ngực còn để trống.
Trọng nhìn cô kinh hoàng, và rồi anh nhớ ra tất cả!
Trên bầu trời đêm, một ngôi sao vừa rơi xuống…
 
* *
*
Trọng ngồi ôm đầu khổ sở. Hạnh khóc thút thít, má Trọng dỗ dành:
- Con nín đi, mọi việc sẽ yên ổn thôi, hai bác thu xếp được mà, con đừng quá lo buồn!
Hạnh cố dằn lòng, cô nói:
- Thưa hai bác, lỗi này không hoàn toàn ở anh Trọng mà con cũng có phần, tại vì… tại vì con quá thương ảnh nên mới xảy ra cớ sự. Xin hai bác đừng ép buộc ảnh, số phần của con khổ thì con đành chịu, con coi như mình đã có chồng rồi, dù mãi mãi anh ấy không sống gần con.
- Ý, đâu có được! Bác với ba mẹ con là chỗ thân tình, từ lâu đã có chủ ý kết nghĩa sui gia. Âu cũng là ông trời đã định nên mới xui khiến chuyện này! Hai đứa con gạo nấu thành cơm rồi thì phải bàn tới chuyện cưới xin cho sớm.
Hạnh đưa mắt nhìn Trọng. Anh vẫn lặng im như những gì má anh vừa nói không có gì liên quan tới anh cả.
- Trọng, con nói gì đi chứ, đừng để con Hạnh nó khổ sở như vầy, ba má làm sao còn mặt mũi gặp lại ba mẹ nó?
Má Trọng giục.
- Má muốn con nói gì lúc này? Lòng con đang ngổn ngang trăm mối, con không biết phải làm sao nữa…
Trọng thẩn thờ. Hạnh biết anh là người có trách nhiệm, lại có ba má Trọng đứng về phía mình, nếu mình kiên quyết chắc sớm muộn gì mình với anh cũng thành chồng vợ, nhưng thấy vẻ mặt anh lúc này cô thật sự thương tâm. Hạnh sẵn sàng hy sinh tất cả để anh được vui cười trở lại. Cô nói:
- Anh Trọng đừng lo, em không đổ lỗi cho anh đâu! Anh cứ xem như chưa hề xảy ra chuyện gì, hãy tiến hành hôn lễ với chị Liễu, em không trách anh đâu, thật mà…
Ba Trọng nghiêm mặt lại:
- Cháu nói vậy sao được, thân con gái chữ trinh đáng giá ngàn vàng, cháu đã trao hết cho nó thì nó phải có trách nhiệm với cháu chứ, sao lại xem như không có chuyện gì? Thằng Trọng được hai bác nuôi dạy đàng hoàng, nó phải có bổn phận với cháu kể từ hôm nay.
Hớp một ngụm nước trà, ông nói tiếp:
- Còn về phía con Liễu, mặc dù đã đính hôn nhưng hai đứa nó chưa có gì với nhau. Hai bác sẽ sang bên ấy xin lỗi, chắc họ cũng không làm khó dễ gì mình.
- Con không muốn hai bác phải khó xử! Và nhất là con không muốn anh Trọng khổ vì phải xa chị Liễu, thà rằng con chịu khổ một mình…
- Thôi, bác trai đã nói vậy rồi, con đừng bận lòng làm gì nữa! Thiếu gì cặp vợ chồng lấy nhau do hoàn cảnh nhưng vẫn ăn đời ở kiếp với nhau. Như hai bác đây cũng vậy, hồi đó bác đâu có chịu ưng ổng, cha mẹ ép riết phải nghe theo, giờ cũng sống với nhau mấy chục năm trời, ổng đi vắng một ngày là bác nhớ rồi! Con đừng lo chuyện đó!
Má Trọng an ủi Hạnh.
Trọng không nói không rằng đi ra sau nhà lấy xuồng bơi tuốt lên nhà Liễu.
Liễu đang tưới dở liếp rau, nhìn thấy Trọng từ ngoài ngõ cô mừng quá đặt vội cặp thùng xuống đất chạy nhanh ra:
- Trời ơi, anh Trọng! Anh đi lâu quá, em nhớ anh muốn chết!
Liễu nũng nịu cầm tay anh. Trọng ghì chặt cô vào lòng, Liễu vội xô ra:
- Anh kỳ quá đi, gặp người ta chưa nói câu nào đã tham lam phát sợ!
- Anh nhớ em quá, Liễu ơi!
Liễu hỏi:
- Nhớ, sao gặp em mặt anh lại buồn như vậy? Có chuyện gì xảy với anh sao?
Trọng gượng cười:
- Đâu có, anh vui lắm, có gì buồn đâu!
- Đừng giấu em, có gì nói với em đi?
Trọng lắc đầu. Cả hai cùng đi vào nhà.
Nhìn thấy Trọng, ông Thúc mừng rỡ:
- Con về hồi nào? Lâu quá không tới chơi làm con Liễu nhà cậu ngày nào cũng trông cũng ngóng!
- Dạ, con xin lỗi! Cận tết công việc gấp rút, con không có thời gian!
- Ừ, cậu không trách, nhưng làm gì thì làm ráng tranh thủ gặp gỡ nhau, hai đứa sắp đám cưới rồi lại hoãn, con Liễu hai ba nỗi buồn chồng lại tội cho nó!
- Dạ!
Trọng cúi đầu không biết nói sao ngoài tiếng “dạ” có phần gian dối. Anh biết rằng anh và Liễu sắp phải mất nhau mặc dù lòng anh vẫn luôn thương yêu cô tha thiết.
Nhìn Liễu anh không nén được tiếng thở dài.
Thấy Trọng hôm nay có vẻ khác lạ, Liễu lo lắng:
- Anh bệnh hay sao vậy anh Trọng? Em thấy anh… khang khác thế nào ấy!
- Anh không có gì, em đừng lo!
Trọng giả lả.
- Em gầy quá, ráng chú ý tới sức khỏe của mình nghe Liễu!
Liễu rưng rưng nước mắt:
- Em vừa mất mẹ, lại phập phồng lo sợ mất anh, không đêm nào em ngủ yên giấc…
- Nếu lỡ mất anh thật, em càng phải bảo trọng sức khỏe cho mình, nghe Liễu!
Trọng không dằn được, anh đau đớn nói.
Liễu kinh ngạc nhìn anh. Cô run giọng hỏi:
- Anh nói gì hở anh Trọng? Em… em không hiểu?
- Anh… anh nói chơi thôi mà! Nào, em vui lên đi! Cuộc đời này dù có anh hay không em cũng phải vui vẻ chứ!
Trọng cố gượng cười. Anh không thể mở lời, dẫu rằng trong thâm tâm anh muốn nói hết với Liễu, van xin cô muốn mắng chửi anh, đánh đập anh sao cũng được, miễn cô hả lòng hả dạ và đừng khổ sở vì anh .
Nhưng Trọng hiểu, không đời nào Liễu nặng lời với anh mà cô sẽ vô cùng đau khổ, cô sẽ tự hành hạ bản thân mình…
Trọng nghe lòng chua xót quá. Suốt một buổi ngồi bên Liễu, anh vẫn cố nói cười, thôi thì hãy để Liễu vui cho trọn hôm nay, ngày mai… “Liễu ơi, em đâu biết hiện giờ gió dông đang chờ em phía trước. Anh ngàn lần có tội với em, Liễu ơi…”. Trọng rên rỉ trong lòng. 
* *
*
(Còn tiếp)
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 15:58:08 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện không đọc lúc nửa đêm - 10.08.2009 22:43:34
NHÀ MỒ OAN KHỐC
(Tiếp theo & hết)


Liễu ôm mặt chạy vụt vào phòng, cô không còn đủ sức để ngồi nghe ba má Trọng nói hết câu chuyện. Với cô bấy nhiêu đó là đủ lắm rồi!
Liễu đổ sấp người xuống giường, răng cắn chặt lấy chiếc gối ôm để không bật ra tiếng nức nở. Nước mắt cô tuôn dầm dề, lòng cô như kim châm muối xát.
Vậy là tất cả đã hết rồi, hết thật rồi sao?
Những lời của má trọng còn vang bên tai Liễu: “Nó đã hại đời con gái người ta, vợ chồng tôi đành phải tới đây chịu lỗi với anh Hai, xin lỗi cháu Liễu để rút lại lời cầu hôn…”
Trọng ơi, anh đã nói với em những gì sao anh không nhớ? Sao anh nỡ bỏ rơi em…
Cả người Liễu run lên theo từng cơn uất nghẹn.
Thằng Sang mếu máo đứng ngoài gọi cửa:
- Chị Liễu ơi, cho em vào đi, chị ơi!
Mặc cho nó kêu khóc Liễu vẫn không lên tiếng.
Suốt đêm Liễu nằm mở mắt ngó trân trân lên nóc nhà. Cô không ngủ, cũng không còn khóc nữa, nước mắt cô dường như đã cạn khô rồi.
Liễu cảm thấy lòng mình tê buốt, nỗi đau đớn cứ cồn cào vò xé tim cô. Cô thèm được khóc, thèm được hét to lên nhưng cô không thể. Cô cứ nằm yên không hề suy nghĩ chuyện gì mãi đến khi gà gáy sáng.
Liễu dậy sớm. Cô cầm chổi đi quét dọn sân vườn, nhà cửa, những công việc này hàng ngày vẫn do bà câm làm, nhưng mấy hôm nay Liễu lại dành làm hết.
Bà câm không ngăn Liễu làm việc mà chỉ đứng dõi nhìn theo, nước mắt bà lăn dài trên má.
Liễu bây giờ cũng giống như bà thời thiếu nữ…
- Liễu ơi, mở cửa cho anh. Anh muốn nói chuyện với em, cho anh vào đi Liễu!
Nghe tiếng Trọng gọi, Liễu thấy tim mình thắt lại.
Đây là lần thứ ba Trọng đến. Hai lần trước Liễu ngồi yên trong phòng, dặn mọi người giả như không nghe không thấy. Nhưng hôm nay Liễu nghĩ mình cần phải gặp Trọng một lần sau cuối.
Liễu xếp vội chiếc áo cưới, mở tủ lấy hộp nữ trang ba má Trọng cho trong lễ đính hôn. Cô bỏ tất cả vào chiếc hộp giấy xinh xắn mà dạo trước Trọng mang quà đến tặng.
Liễu cắn chặt vành môi và… bình tĩnh bước ra ngoài.
Trọng không ngờ Liễu lại xanh xao, vàng vọt đến thế. Nước mắt anh ứa ra, anh chỉ muốn xô ngã cánh cổng sắt nặng nề này để nhào tới ôm lấy Liễu.
Liễu không mở cửa cho Trọng vào. Cô từ tốn nói:
- Duyên phận của chúng ta đến đây là chấm dứt. Từ nay xin anh đừng tới tìm em nữa, mình không còn gì để nói với nhau đâu. Em xin gởi lại anh vật này…
Trọng cuống quýt:
- Nhưng… Liễu ơi, hãy nghe anh nói, xin hãy hiểu cho anh…
Liễu cười cay đắng:
- Hiểu anh hay không hiểu được anh, từ giờ phút này liệu có còn ý nghĩa gì nữa? Đối với em tất cả đã chết rồi. Em thành tâm chúc anh hạnh phúc. Anh về đi...
Nói xong Liễu vội vã quay vào. Cô sợ chỉ đứng thêm chút nữa cô sẽ mềm lòng trước gương mặt hốc hác, trước cái nhìn buồn rầu tuyệt vọng của anh.
-Liễu ơi , Liễu !…
Trọng đau đớn gọi theo. Liễu đi như trốn chạy, nước mắt cô ràn rụa.
Ông Thúc lắc đầu buồn bã nhìn theo cô cháu gái. Ông nói với Trọng:
- Thôi, cháu về đi! Cậu không trách gì cháu nhưng từ nay xin cháu để cho con Liễu được yên thân, cháu đừng quấy rầy nó nữa!
Trọng không biết phải nói sao. Tất cả tội lỗi đều do anh gây ra, anh còn biết biện minh thế nào nữa.
Lòng Trọng quặn đau, anh thất thểu quay về.
Từ ngày đó Liễu trở nên một con người hoàn toàn khác. Cô không buồn đau, khóc lóc, cũng không có cái vẻ ngơ ngác tội nghiệp như thằng Sang mà cô trở nên cứng cỏi lạ thường.
Liễu làm tất cả những công việc mà trước đây cô thường né tránh.
Mạnh khuyên:
- Em có buồn khổ gì thì cứ khóc cho thỏa thích, khóc mười bữa nửa tháng cho vơi đi rồi còn làm lại cuộc đời. Chứ dồn nén kiểu này chỉ e...
Liễu cười chua chát:
- Anh yên tâm đi, em không có sao đâu mà anh lo. Vả lại cuộc đời em cũng không có gì phải làm lại. Em quyết định rồi, em sẽ sống ở đây mãi mãi, để lo cho thằng Sang, lo cho cậu Hai, bà câm và cả anh nữa.
Trọng nhìn Liễu khác lạ:
- Em nói thật à?
- Thật chứ!
Liễu gật đầu quả quyết.
- Em chán ngán chuyện tình cảm quá rồi! Em sẽ không bao giờ lấy chồng…
Mạnh không nói gì thêm, anh nhìn Liễu đầy vẻ suy tính.
* *
*
Ông Thúc trở mình qua lại, xương cốt ông kêu lên răng rắc. Đêm nào không ngủ được ông lại thấy đau nhức khắp cả người.
Ông nằm nghĩ ngợi chuyện nhà mà thấy buồn nát ruột. Tai ương liên tiếp đổ xuống gia đình ông, ông không thể nào lý giải được rõ ràng, khúc chiết. Đành rằng ông luôn tin tưởng có thánh thần, ma quỷ, nhưng các em ông, cháu ông đâu có ai làm gì quá quắt mà phải chết thảm thương đến vậy?
Giờ trong căn nhà rộng thênh thang này buồn tẻ quá! Có khi suốt cả ngày ông không biết nói chuyện cùng ai. Thằng Mạnh, thằng Sang suốt ngày chạy hết chỗ này tới chỗ kia, con Liễu từ lúc hôn nhân đổ vỡ, nó cứ âm thầm lặng lẽ, bà câm thì chỉ biết ú a ú ớ.
Ông Thúc ngồi dậy, quờ chân tìm dép rồi lệt sệt tới bên bàn nước. Ông không khêu ngọn đèn lên mà cứ để nó lù mù trên đầu tủ. Ông ngồi trầm tư nhìn những tấm ảnh người thân, những người đã mất. Nước mắt ứa ra, ông nghẹn ngào khóc không thành tiếng.
Chợt ông lắng tai nghe, hình như có tiếng động khẽ ngoài sân. Lâu nay ông thường nghe người trong nhà nói về những tiếng động lạ trong đêm, cũng nhiều đêm Mạnh giục ông đi ngủ ông cứ khăng khăng thức để rình xem, nhưng chưa khi nào ông tận tai nghe được.
Quả thật có tiếng chân người khi thì rón rén, lúc chạy huỳnh huỵch quanh sân. Ông Thúc lấy làm lạ, nhẹ nhàng đi xuống nhà sau đứng nép sát vào góc nhà mắt nhìn qua khung cửa sổ. Tại đây ông có thể nhìn bao quát khắp sân, nhưng vì mắt ông kém, bầu trời tuy rất quang đãng nhưng không có trăng nên ông không thể nhìn rõ được.
Xa xa, thấp thoáng bóng một người đang chạy tới chạy lui, khi ngồi khi đứng. Ông Thúc vô cùng thắc mắc, ông không thể đoán được bóng người ấy là ai và đang làm gì giữa đêm hôm thế này. Ông định lên tiếng hỏi, nhưng rồi ông quyết định im lặng theo dõi tiếp.
Bóng người đang chạy gần về phía ông, theo sau là cả một bầy dơi đông đúc. Người đó xòe tay ra, bầy dơi xúm vào mổ lia mổ lịa. Rồi những tiếng khóc than rên rỉ lại cất lên nho nhỏ, bầy dơi cứ xúm vào người đó rồi lại bay tóe ra. Những điều đó cứ lập đi lập lại nhiều lần, khiến ông Thúc lờ mờ nghĩ tới một việc...
Ông Thúc còn đang hoang mang thì bóng ma kia chợt nhảy lên, buông ra một chuỗi dài tiếng hú rợn người. Như được nghe hiệu lệnh, bầy dơi nối nhau bay đi, bóng ma cũng hấp tấp chạy theo. Không bỏ lỡ, ông Thúc nhanh tay rút chốt cửa, lách mình bám theo sau bóng người và đàn dơi bí ẩn.
Bóng ma cùng đàn dơi rồng rắn dẫn nhau luồn qua những khu vườn cây trái xum xuê, ông Thúc cố gắng đuổi theo nhưng cuối cùng ông bị tụt lại một quãng khá xa.
Ông tiếc rằng lúc nãy không kêu Mạnh đi cùng. Nó thanh niên trai tráng, chắc chắn linh hoạt hơn ông.
Ông theo đến cửa nhà mồ thì không còn nghe động tịnh. Rõ ràng từ xa ông thấy chúng đi tới chỗ này mà!
Ông Thúc rón rén đi tới sát cổng nép người nhìn vào trong. Một người đang ngồi trên thềm nhà hút thuốc, đốm đỏ trên đầu điếu thuốc chốc chốc lại lóe lên nhưng ông Thúc vẫn không sao nhận rõ người đó.
- Ai làm gì bên trong vậy?
Ông cất tiếng hỏi. Bóng ma kia dường như giật mình ném vội điếu thuốc ra xa, đứng bật dậy cất lên một tràng tiếng hú. Ông Thúc rợn người lùi lại mấy bước, ông cúi xuống cạy một cục đất ném vào trong.
“Bộp”, tiếng rơi lạc lõng của cục đất ông ném khiến bóng ma buông ra một chuỗi cười sắc lạnh rồi biến mất.
Ông Thúc loanh quanh một hồi trước cửa nhà mồ, thật lâu sau vẫn không thấy bóng ma xuất hiện ông mới lầm lũi quay về.
Bóng đó thật sự là người hay ma? Ông Thúc dằn vặt trong đầu câu hỏi ấy.
Ông Thúc vừa bước lên nhà trên đã nghe tiếng Mạnh hỏi, giọng tỏ ra khó chịu:
- Nãy giờ ba đi đâu vậy?
- Ừm… tao ngủ không được nên đi loanh quanh cho mát vậy mà!
- Ba già cả rồi, đêm hôm ra ngoài lỡ gió máy phải khổ không? Từ nay ba làm ơn ở yên trong nhà giùm con đi!
Ông Thúc do dự một chút rồi khẽ nói:
- Mạnh nè, hồi nãy ba thấy chuyện lạ lắm!
- Chuyện gì mà lạ? Mạnh hỏi
- Ba thấy bóng người đang dạy bầy dơi làm gì đó trong sân. Ba theo dõi đến nhà mồ thì mất hút.
- Ba ơi, nhà mình xảy ra nhiều chuyện không hay rồi, ba còn đi theo bóng ma đó làm gì? Mặc kệ chúng đi, từ giờ ba đừng dính dáng tới. Thôi khuya rồi, ba ngủ đi.
Mạnh gạt ngang, không cùng ông tìm hiểu sự thể thế nào. Ông Thúc vừa lo lắng, vừa buồn phiền, nằm tới sáng không tài nào ngủ được.
Mới sáng tinh mơ, ông vội vã đi ra nhà mồ lần nữa. Tất cả đều êm ắng, như không có chuyện gì xảy ra đêm qua.
Ông Thúc tra chìa vào ổ khóa. Vì lâu ngày cửa không được mở, ông loay hoay hồi lâu mới mở được ổ khóa để vào bên trong.
Bầy dơi treo ngược trên xà nhà chắc đang say ngủ. Ông đi tới lui trong nhà mồ mấy lượt vẫn khôg thấy gì lạ, đến chừng ra sân ông nhặt được điếu thuốc cháy dở mà đêm qua chính mắt ông trông thấy bóng ma đó quăng đi. Ông vòng ra phía sau nhà mồ, lại tiếp tục nhặt được bao diêm chắc cũng do người ấy đánh rơi.
Cầm hộp diêm trong tay, xoay qua lại một lúc ông Thúc chợt lạnh người khi phát hiện ở góc hộp diêm có vẽ hình con cá. Nét vẽ nguệch ngoạc này là của thằng Sang. Ông nhớ hôm qua khi ngồi với ông, thằng Sang cầm hộp diêm trên bàn lên vẽ còn bị ông rầy, nó nhe răng cười khì:
- Cậu xem con cá con vẽ giống con gì?
- Giống con lươn!
Ông nói đùa với nó như thế. Nhưng sao bây giờ hộp diêm lại nằm trong khuôn viên nhà mồ? Chẳng lẽ... Ông Thúc không dám nghĩ tiếp, vội vã về nhà.
- Mạnh ơi, Mạnh!
Vừa bước vô cổng ông Thúc đã cất tiếng gọi. Mạnh đang cho gà ăn gần đó ngạc nhiên:
- Ba làm gì mới sáng sớm mà hớt hơ hớt hãi vậy?
- Đến đây tao hỏi chuyện này.
Ông Thúc kéo Mạnh ra một góc hỏi nhỏ:
- Có phải đêm qua mày ra nhà mồ không?
Mạnh tròn mắt nhìn ông rồi cười ngất:
- Ba ơi, ba lẩm cẩm quá rồi! Con là con của ba chứ có là ma quỷ gì đâu mà đêm hôm lại ra chỗ đó? Hôm nay ba sao vậy?
- Vậy thì cái này sao lại nằm ngoài đó?
Ông Thúc đưa bao diêm ra. Mạnh hơi khựng lại nhưng rồi anh lại cười lên ha hả:
- Trời ơi, thiệt hết biết ba rồi! Có vậy mà cũng làm như quan trọng lắm. Chiều hôm qua con với thằng Sang ra vườn nhãn làm cỏ, hai anh em trèo vô nhà mồ đi lòng vòng kiếm trứng chim, chắc cái hộp diêm này rơi mất lúc ấy. Hèn gì từ tối tới giờ con tìm hoài hổng thấy!
Nghe Mạnh nói, ông Thúc thở phào nhẹ nhõm:
- Vậy à?… Vậy mà ba cứ sợ…
Ông Thúc bỏ lửng câu nói. Mạnh tiếp lời:
- Ba sợ con bị ma nhập hả?
Nói xong Mạnh cười lớn. Ông Thúc nạt:
- Đừng nói bậy bạ, không nên đâu con!
Ông Thúc đi vào nhà, Mạnh tần ngần nhìn theo cha vẻ mặt căng ra như có điều lo âu, suy tính…
* *
*
Từ  ngày mẹ qua đời rồi tiếp đến chuyện hôn nhân bị đổ vỡ, Liễu đâm ra khó ngủ. Có đêm cô trằn trọc đến hai, ba  giờ sáng mới chợp được mắt.
Mấy lúc gần đây, cứ vào khoảng nửa đêm Liễu lại nghe tiếng dơi kêu ngoài cửa sổ, tiếng chúng vỗ cánh và cả tiếng chân người rón rén bên ngoài.
Sợ quá, cô kể cho ông Thúc và Mạnh nghe. Mạnh gạt ngang:
- Đầu óc căng thẳng quá rồi tưởng tưởng ra thôi, làm gì có chuyện đó!
Liễu bán tín bán nghi, hai ba đêm liền cô cố gắng tỉnh táo theo dõi thì tuyệt nhiên không nghe thấy gì hết. Cô yên tâm nghĩ chắc đúng như lời Mạnh nói, tại mình quá lo sợ nên đâm ra ảo tưởng thế thôi.
“Xoảng!”
Liễu đang lơ mơ ngủ thì giật mình nghe tiếng kính rơi loảng xoảng. Cô nằm im mở to mắt quan sát. Trong bóng tối lờ mờ Liễu nhận thấy một cái gì đó đang ngo ngoe luồn vào chỗ kính bể của cửa sổ, cuối cùng cô nhận ra đó là một bàn tay to khỏe đang cố lách vào để mở chốt.
Cô thét lên kinh hoàng.
Nghe tiếng la thất thanh của Liễu, thằng Sang, ông Thúc, bà Câm lật đật chạy vào. Liễu ngồi trên giường run như cầy sấy:
- Ma… có ma…!
Liễu lắp bắp.
- Nói xàm! Ma đâu mà ma!
Ông Thúc nạt.
Liễu chỉ tay về phía cửa sổ. Ông Thúc cầm đèn tới soi thì thấy cửa kính bị đập vỡ lam nham, mảnh kính tung tóe dưới đất.
Ông quá đỗi ngạc nhiên. Dân ở cả cái cù lao Hàm Rồng này có ai không biết gia đình ông chỉ còn cái vỏ, làm gì có trộm cướp vô đây. Chẳng lẽ có đứa con trai nào muốn giở trò xằng bậy với Liễu? Khả năng đó cũng khó xảy ra….
- Có chuyện gì vậy?
Giữa lúc mọi người còn đang hoang mang thì Mạnh bước vào cất tiếng hỏi.
Một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu ông Thúc, ông nhìn Mạnh chăm chú. Mạnh tránh cái nhìn của ông giả lả nói:
- Con Liễu lại mơ thấy gì nữa à?
- Không… không phải mơ đâu…
Ông Thúc cúi nhặt mấy mảnh kính vỡ, trấn an mọi người:
- Thôi, không có gì đâu, chắc trời gió, cành cây bên ngoài va vào làm bể kính. Tất cả đi ngủ đi!
- Không… không phải…
Liễu yếu ớt phản đối nhưng ông Thúc làm như không nghe thấy, ông quay lại nói với thằng Sang:
- Mày đem cái ghế bố vô đây nằm ngủ cạnh chị mày cho nó bớt sợ!
- Dạ!
Thằng Sang nhanh nhảu.
Nhìn vẻ mặt thất thần của Liễu, ông Thúc vỗ về:
- Con yên tâm ngủ đi, cậu ra ngoài uống trà canh chừng cho, đừng sợ nữa!
Liễu ngoan ngoãn nằm xuống. Cô cố dỗ giấc ngủ nhưng vừa chợp mắt là những hình ảnh ma quái lại lởn vởn quanh cô.
Liễu thức chờ trời sáng. Bên cạnh, thằng Sang đã thở đều đều, lát lát lại vung chân vung tay làm chiếc ghế bố không ngừng kêu kót két.

Bà câm bê chảo cơm chiên đặt lên bàn, xới ra chén tươm tất xong mới lên nhà trên gọi mọi người trong nhà xuống ăn sáng.
Đầu óc Liễu nặng trịch, cô chếch choáng ngồi vào bàn, cố gắng ăn cho hết chén cơm.
- Anh Mạnh đâu sao không ăn sáng, cậu Hai?
Nghe thằng Sang hỏi Liễu mới chợt nhớ từ sớm tới giờ không nghe tiếng Mạnh.
Ông Thúc buông đũa, cúi đầu buồn bã:
- Thằng Mạnh… nó… đi lên Sài Gòn rồi!
- Hả?
Hai chị em Liễu đồng thanh kêu lên, bà câm cũng tỏ ra ngơ ngác. Mọi người đều hết sức ngạc nhiên.
- Anh Mạnh lên Sài Gòn chi vậy, cậu?
Liễu hỏi.
- Nó… nó đi làm ăn!
Ông Thúc ấp úng.
- Sao kỳ vậy! Từ trước tới nay có bao giờ con nghe anh ấy tính chuyện này đâu. Ảnh vốn rất thích cuộc sống ở đây mà!
Liễu thắc mắc.
- Cậu cũng không biết nữa! Hồi khuya này nó đi, nó có gởi lời chào hai cháu…
Ông Thúc nói xong bỏ dở chén cơm đi ra sau hè. Liễu nhìn theo ông lòng đầy nghi vấn.
Tại sao Mạnh lại đột ngột bỏ đi như vậy? Có chuyện gì gấp rút mà anh không kịp nói với chị em Liễu một lời? Những câu hỏi đó cứ xoáy tròn trong đầu Liễu. Nhiều lần cô đề cập đến đều bị ông Thúc nói sang chuyện khác. Hình như ông có điều gì đau khổ lắm, khó nói lắm, ông không muốn nghe ai nhắc tới Mạnh trước mặt ông.
Từ ngày Mạnh đi ông Thúc già hơn thấy rõ. ông trở nên ít nói ít cười. Bữa cơm nào ông cũng ăn qua quýt.
Ngày tháng lặng lẽ trôi qua. Ngôi nhà vốn đã u buồn, ảm đạm, từ ngày Mạnh đi càng trở nên lạnh lẽo thâm u.
Ba người lớn suốt ngày im ỉm, thằng Sang từ khi mất mẹ cũng không còn liếng thoắng như xưa.
Liễu nhớ Mạnh quá! Có anh ở nhà, những buồn vui trong Liễu có người chia sẻ, giờ thì Liễu không biết tâm sự cùng ai. Thằng Sang còn nhỏ quá, nó chưa thể hiểu được những tâm tình của Liễu.
- Chị Liễu ơi, đôi giày này anh Mạnh thích nhất, sao đi Sài Gòn ảnh hổng đem theo?
Thằng Sang hỏi lúc hai chị em dọn dẹp nhà cửa.
Liễu đáp:
- Chị cũng không biết! Hình như anh Mạnh không đem theo vật gì hết.
- Sao kỳ vậy ta?
Liễu nghĩ thầm không biết trong nhà này sẽ còn xảy ra bao nhiêu điều kỳ lạ nữa…
Từ sau đêm kiếng cửa sổ phòng Liễu bị đập vỡ, thằng Sang tối nào cũng vào ngủ bên cạnh chị.
Hai hôm nay nó nóng sốt, đêm nào ngủ cũng mơ gọi mẹ. Liễu nhớ hồi còn sống, mỗi khi nhà có người bệnh mẹ thường nấu cháo giải cảm cho ăn, rồi đi hái lá cây về nấu nồi nước xông xông cho mau khỏi bệnh.
Liễu cũng bắt chước làm vậy, nhưng cả buổi chiều cố ép mấy thằng Sang cũng chỉ ăn được vài ba muỗng cháo.
Nó nói:
- Miệng em đắng lắm, không ăn được đâu!
Liễu rưng rưng nước mắt. Giá như có mẹ thế nào mẹ cũng dỗ được nó ăn.
Liễu không dám ngủ, cứ đi tới đi lui trong phòng, lâu lâu lại đến sờ vào trán em.
Đến khuya, cơn sốt đã hạ, thằng Sang tỉnh dậy cảm thấy đói bụng.
Nó gọi chị:
- Chị Liễu ơi, cho em ăn cháo!
Liễu mừng quýnh vì cô nghe nói khi người bệnh đòi ăn là sắp khỏi bệnh rồi. Cô vội đáp:
- Ừ, em chờ chút xíu, để chị hâm lại cho nóng đã!
Liễu vội vã xuống bếp. Vừa bước qua bậc cửa cô thấy rõ ràng một bóng người thoáng qua rồi mất hút về phía góc nhà.
Hoảng quá, Liễu gọi rối rít:
- Bà câm ơi, bà ra đây, mau lên!
Bà câm hấp tấp cầm đèn chạy ra, ngơ ngác nhìn liễu.
Liễu kể vắn tắt sự việc rồi hai người rọi đèn tìm khắp nhà nhưng không thấy gì khác lạ, cửa nẻo vẫn còn đóng y nguyên, cánh cửa tầng hầm nơi bóng người biến mất cũng im ỉm đóng.
Chẳng lẽ mình hoa mắt? Cô thật sự bối rối không biết đó là sự thật hay chỉ là ảo giác.
- Bà ở đây với con nghe!
Liễu không dám cho bà câm về phòng vì vẫn còn hồi hộp. Cô hối hả múc cháo đem lên cho em, rủ bà câm đi cùng. Bà lặng lẽ đi sau lưng Liễu.
Liễu ngồi đút cho thằng Sang từng muỗng. Nó ăn gần hết chén cháo mồ hôi đã giã ra ướt đẫm cả người. Bà câm âu yếm lấy khăn lau cho nó. Từ ngày mẹ mất nó với bà câm thường quấn quýt nhau hơn.
- Bà lên giường ngủ với con, nghen!
Liễu mời nhưng bà câm lắc đầu tới nằm lên võng. Lát sau bỗng nhiên bà ngồi dậy như sực nhớ điều gì, cầm đèn hấp tấp đi ra. Không bao lâu bà quay trở lại nét mặt buồn rầu , khác lạ lắm.
- Có chuyện gì vậy bà?
Liễu thắc mắc hỏi. Bà câm xua tay ý nói không có gì, rồi bà nhắm mắt như ngủ.
Cho em ăn xong Liễu cũng mệt mỏi thiếp đi.
Chị em Liễu ngủ say rồi bà câm vẫn không sao chợp mắt. Trong ngôi nhà này có điều gì đó mờ ám đang diễn ra.
Mấy lúc gần đây bà để ý thấy ông Thúc trở nên khác lạ. Tới bữa, ông ăn rất ít cơm, vậy mà cứ dặn bà nấu cơm dư dư, ông thường đói bụng.
Có lúc bà phát hiện ông Thúc xới một tô cơm đầy rồi không biết đi đâu, ông đâu còn bé bỏng như thằng Sang mà bê cả tô cơm sang chơi nhà hàng xóm!
Lúc nãy khi Liễu hô hoán lên sao không thấy ông Thúc chạy xuống? Bà đã rọi tìm khắp nhà, rọi cả vào mùng ông vẫn chẳng thấy ông đâu, trong khi các cánh cửa đều đóng kín, chứng tỏ ông không ra ngoài.
Ông Thúc đang làm gì, bà thật không sao hiểu nổi. Bà nhất định từ nay sẽ theo dõi ông để tìm ra điều bí mật.
* *
*
- Anh Mạnh đi lâu quá không về, mà sao cũng hổng có tin tức gì của ảnh hết vậy, cậu hai?
Nghe Liễu hỏi ông Thúc chỉ ậm ừ:
- Cậu cũng không biết nữa!…. À, con đã kêu mối lái tới coi vườn mận nhà mình chưa? Lúc này mận có giá phải tranh thủ bán liền, để một hai hôm lỡ rớt giá thì tiếc lắm!
Ông Thúc cố tình lảng sang chuyện khác.
- Dạ, con kêu rồi, lát nữa họ tới.
Cô ngập ngừng nói tiếp:
- Cậu hai nè, cậu có biết anh Mạnh lên trên đó làm gì và ở đâu không?
- Đã bảo tao không biết gì hết mà! Nó chỉ nói đi Sài Gòn làm ăn, nó nói sao tao nghe vậy chứ biết gì!
Ông Thúc gắt gỏng.
Thằng Sang lè lưỡi ra nhìn Liễu, Liễu thôi không dám hỏi nữa. Hai chị em lãng ra nhà sau phụ với bà câm chẻ củi.
Chạng vạng tối, bà câm lên phòng Liễu ngồi chơi. Hình như mấy ngày nay bà câm có điều gì khang khác.
Liễu nói bâng quơ:
- Nhà vắng anh Mạnh buồn quá!
Bà câm chợt níu tay Liễu lại, làm những điệu bộ diễn tả cho Liễu hiểu rằng bà đã đoán được nơi Mạnh  sống.
Liễu mừng rỡ:
- Bà biết anh Mạnh ở đâu à? Hồi đi ảnh có nói với bà sao? Hay quá! Vậy mà lâu nay bà không chịu nói. Ảnh đang làm gì? ở đâu vậy bà?
Liễu hỏi dồn dập. Bà câm lắc đầu, xua tay không cho liễu nói lớn tiếng. Bà dặn Liễu đừng tiết lộ việc này, nay mai bà sẽ dắt Liễu đi gặp Mạnh.
Liễu bụm miệng cười:
- Bà nói thật không đó? Cả đời bà chưa bước chân ra khỏi xứ cù lao này, làm gì biết đường sá Sài Gòn mà dẫn con đi tìm anh Mạnh?
Bà câm lặng im, thở dài buồn bã.
Thấy bà không muốn nói chuyện đó nữa, liễu lái câu chuyện sang hướng khác. Cô nhắc lại những kỷ niệm thời thơ ấu, rồi những ngày mẹ còn sống… Nhắc lại chuyện xưa hai bà cháu cùng rơi nước mắt.
Đêm đã khuya, Liễu giục:
- Bà về phònh ngủ đi, con hết sợ ma rồi! Nhà xảy ra đủ thứ chuyện, con phải tập tính kiên cường chứ, phải không bà?
Bà câm cười móm mém, bưng đèn trở xuống nhà sau.
Liễu kéo mền đắp cho thằng Sang, tấn mùng cẩn thận rồi mới về giường mình ngủ.
Dạo này suốt ngày lao động vất vả nên đêm nào cô cũng ngủ rất ngon.
             ………………
Liễu giật thót người khi có bàn tay ai đó lay cô dậy. Cô mở choàng mắt ra, chưa kịp kêu lên thì thấy bà câm đang đứng cạnh giường. Bà ra hiệu cho Liễu đi theo, cô rất ngạc nhiên nhưng không dám hỏi vì thấy vẻ mặt bà căng thẳng quá.
Hai bà cháu lần mò trong bóng tối. Bà câm dẫn Liễu tới trước cửa tầng hầm. Tim cô đập thình thịch, đây đúng là chỗ bóng người biến mất đêm hôm trước.
Có chuyện gì xảy ra vậy? Cô chưa kịp hỏi thì bà câm đã nhè nhẹ đẩy cánh cửa mở toang ra. Cảnh tượng bên trong đập vào mắt Liễu, khiến cô lảo đảo suýt ngất đi.
- Trời ơi, sao… thế này?
Cô kêu lên làm ông Thúc giật mình quay lại, chén cơm trên tay ông rơi xuống đất vỡ toang.
Ông ngồi phịch xuống ghế, hai tay ôm lấy đầu. Cả người ông rung lên theo tiếng khóc.
Trong chiếc cũi sắt mà hồi còn sinh thời ông Chín Hoa dùng để nuôi chó bẹc-giê, giờ Mạnh đang ngồi chồm hổm ngó ra, ánh mắt láo liên, dữ tợn.
Liễu lao tới bên ông Thúc:
- Cậu hai, tại sao có chuyện này vậy, cậu nói cho con biết đi, cậu hai!
Đột ngột ông Thúc quỳ sụp xuống chân Liễu khóc rống lên:
- Con tha lỗi cho cậu đi, cậu có lỗi với các con, với cả dòng họ…
Liễu bối rối:
- Cậu hai ơi, có gì từ từ nói, cậu đừng làm con sợ! Cậu đứng lên đi, cậu hai!
Liễu với bà câm mỗi người xốc một bên dìu ông Thúc ngồi vào ghế. Gương mặt già nua héo hắt của ông ràn rụa nước mắt.
- Con còn nhớ cái đêm cửa sổ phòng con bị vỡ không?
Ông Thúc hỏi, Liễu se sẽ gật đầu:
- Dạ, nhớ!
- Lúc ấy mọi người trong nhà đều đổ xô tới, chỉ thiếu thằng Mạnh. Và khi nó bước vô phòng, cậu phát hiện ra trên cánh tay nó có vết máu, có thể do miểng kiếng cứa vào…
Liễu kinh ngạc:
- Chẳng lẽ người luồn tay vào cửa sổ tối đó là anh Mạnh? Ảnh… làm vậy… để làm gì?
Ông Thúc khổ sở:
- Để thực hiện âm mưu… giết cháu!
Liễu lùi sát vào tường, hai chân cô run rẩy. Quả thật cô không sao hiểu nổi những lời ông Thúc nói.
Cô lắp bắp:
- Giết con à? Sao… sao anh Mạnh lại phải giết con?
Ông Thúc lại đưa hai tay lên bưng lấy mặt, không dám nhìn vào Liễu, ông kể một cách khó khăn:
“Từ sau cái chết của mẹ con, cậu phát hiện ở thằng Mạnh có điều gì đó rất khả nghi. Đêm đêm nó thường lén lút ra khỏi nhà không biết đi đâu, không biết làm gì. Đặc biệt mỗi khi trong nhà có người hô hoán lên rằng nghe tiếng dơi bay, tiếng chân người chạy ngoài sân là những lúc thằng Mạnh không có trong nhà. Nhiều lần cậu hỏi nó đều quanh co chối cãi.
“Khi phát hiện cánh tay thằng Mạnh có vết máu, cậu đã lờ mờ hiểu ra sự việc. Cậu trấn an để mọi người đi ngủ rồi kêu thằng Mạnh xuống tầng hầm này nói chuyện.
“Ban đầu nó cũng chối quanh nhưng cuối cùng cũng chịu nhận tội. Nó nói:
“Tôi làm vậy là cũng vì ba, vì muốn cho ba được sung sướng!
“Tao không cần sung sướng bằng cách đó!
“Cậu quát lên. Nó cười khinh khỉnh:
“Ba thì có thể không cần vì ba đâu còn sống bao năm nữa. Vả lại đã có tôi chăm sóc ba rồi! Nhưng tôi thì rất cần, ba biết không? Tôi đã phải chịu nhiều gian khổ, bày mưu tính kế, giờ sắp đạt được mục đích rồi ba đừng hòng lung lạc được tôi. Ba cứ coi như không hề hay biết, sau này tôi sẽ lo lắng cho ba, cung phụng ba tử tế.
“Rồi nó gằn giọng nói tiếp:
“Còn nếu như ba làm khó tôi, tôi đành phải dứt tình phụ tử, cho ba đi sum họp cùng mấy người em, cháu của ba.
“Cậu tái mặt:
“Thì ra thằng Nam, thằng Quốc, chú ba và cả cô út mày đều do một tay mày… giết chết?
“Nó hạ thấp giọng thầm thì vào tay cậu:
“Tôi đã cho bầy dơi quỷ trong nhà mồ hít á phiện để chúng nghe theo sự điều khiển của tôi. Thằng Nam, thằng Quốc chết là do tôi cố tình để lũ dơi đói thuốc. Khi có tín hiệu của tôi nó sẽ nhào vô hút cạn máu con mồi.
“Còn ông Thịnh, ổng đã bị tôi dìm xuống mương đến tắt thở. Đáng kiếp, sống an nhàn không muốn, quậy quạng lung tung đòi bán nhà bán đất. Tài sản này là của tôi, tôi là cháu nội đích tôn, tôi toàn quyền thừa hưởng.
“Cậu run rẩy nói:
“Mày không còn tính người nữa sao Mạnh?
“Nó cười vào mặt cậu:
“Còn chớ, tôi còn tính người nên vẫn hiếu thảo với ba!
“Cô út thương mày như con ruột, sao mày nỡ nhẫn tâm…?
“Tôi định để bả nhìn thấy con Liễu đi lấy chồng rồi mới ra tay. Nhưng bả lại xui xẻo phát giác ra hành tung của tôi, tôi đành phải khử sớm. Tôi trộn thuốc ngủ vào cốm dẹp, bả ăn no rồi ngủ say vậy chẳng phải êm ái lắm sao?
“Riêng phần con Liễu, quả thật tôi không muốn giết nó. Nhưng mà nó ngu quá, cứ khăng khăng bảo sẽ không đi lấy chồng, sẽ ở đây tới già. Mà nhà này làm gì có chỗ cho nó?
“Sau nhiều đêm khổ công tập luyện, tôi đã dẫn dắt bầy dơi đói thuốc đến bên cửa sổ phòng nó. Chỉ chờ tôi mở được cửa là chúng sẽ ùa vào. Vậy mà… tiếc thật! Giờ chỉ còn nó với thằng Sang nữa là dứt điểm, cha con mình có thể đàng hoàng lấy số của cải dưới mồ lên, bán hết đất đai nhà cửa, tôi đưa ba trở lên Sài Gòn sống lại những ngày sung sướng trước kia…
“Nghe giọng nói, nhìn cái thái độ bình thản và những tia nhìn khát máu của nó, cậu vô cùng hoảng sợ, cậu tự biết mình không đủ sức để loại trừ cái dã tâm trong nó. Sự tham lam đã biến nó thành một tên cuồng sát.
“Sau một hồi lâu cố gắng thuyết phục vẫn không đạt kết quả gì, cậu phải giả vờ đồng tình với nó, cùng nó vạch ra kế hoạch tương lai.
“Cậu bảo:
“Cha con mình phải uống mừng cho tương lai huy hoàng sắp tới!
“Nó cười đắc ý.
“Cậu lên nhà trên lấy rượu, pha vào ly cho nó mấy liều thuốc ngủ trước đây mẹ con mua còn sót lại, sợ chưa đủ cậu gom luôn mấy loại thuốc có trong tủ pha thêm vào .
“Uống xong mấy ly rượu đó thằng Mạnh ngã vật ra, miệng mồm sùi bọt. Nó vật vã mấy giờ đồng hồ cậu tưởng sẽ không qua khỏi. Cậu vô cùng hoảng sợ, vì cậu không có ý định giết chết nó mà chỉ muốn làm cho nó mê man để nhốt lại, không để nó ra tay giết chị em cháu. Cậu không nỡ báo cho nhà chức trách, vì… dù sao nó cũng là giọt máu của cậu.
“Nhưng rồi thằng Mạnh không chết. Tuy nhiên không biết do liều lượng và dược tính của các loại thuốc, hay do sự phẫn uất quá độ mà nó trở nên cấm khẩu và khi tỉnh khi mê thế này đây…”
Ông Thúc kể xong câu chuyện vẫn không dám ngẩng đầu lên. Bà câm bấu chặt tay vào cánh cửa. Còn Liễu, cô đứng sững như trời trồng.
Liễu không khóc, không run sợ mà cũng chẳng thấy đau lòng. Trong cô giờ phút này hoàn toàn trống rỗng, mọi thứ cảm giác đều không tồn tại.
Sự việc diễn ra ngoài sức tưởng tượng của Liễu.
Liễu đứng im như thế rất lâu, mãi đến khi Mạnh nhảy chồm chồm trong cũi mới làm cô giật mình, ngơ ngẩn.
Đột nhiên Liễu thấy xây xẩm mặt mày, cô ngã lăn ra bất tỉnh.
Liễu nằm liệt trên giường đúng một tuần lễ. Thằng Sang suốt ngày không dám rời chị ra một bước, nó quanh quẩn bên giường Liễu, trên mặt nó hằn rõ nét lo âu.
Bà câm một mình tất bật với bao nhiêu công việc.
Đến ngày thư tám Liễu gượng dậy. Cô nói với ông Thúc:
- Từ nay cậu cứ cho anh Mạnh ăn uống đàng hoàng, công khai, đừng lén lút chờ đến đêm hôm mới đem cơm cho anh ấy. Cậu nên đưa anh ấy lên trên này, ở dưới tầng hầm tối tăm ẩm thấp lắm. Thằng Sang có hỏi cậu cứ nói anh Mạnh tự nhiên phát bệnh cuồng tâm loạn trí, những chuyện đau lòng kia xin cậu đừng cho thằng Sang biết…
Thấy Liễu có vẻ do dự, ông Thúc hỏi:
- Con còn điều gì muốn nói?
Liễu đắn đo:
- Con… con xin gởi thằng Sang lại cho cậu…
- Còn con, con đi đâu?
Ông Thúc hốt hoảng.
Liễu cười thật buồn:
- Con cũng chưa biết nữa! Nhưng có lẽ con lên Sài Gòn tìm một công việc gì đó để sống qua ngày, chừng nào mọi việc nguôi ngoai con sẽ trở về.
Ông Thúc rưng rưng nước mắt. ông biết Liễu không thể thản nhiên tiếp tục ở lại đây để mỗi ngày ra vào đều gặp Mạnh, kẻ sát nhân đã giết hại mẹ mình. Thôi thì cứ để cô đi một thời gian cho mọi việc lắng xuống. Nhưng thân gái một mình bơ vơ nơi xứ lạ quê người, biết nó sẽ sống ra sao?
- Còn một điều nữa con muốn thưa với cậu… Liễu nói tiếp – Những thảm kịch xảy ra trong gia đình chúng ta đều bắt nguồn từ số của cải chôn dưới nhà mồ. Nếu không có nó, giờ đây chắc ba gia đình vẫn sống vui vẻ, anh em tụi cháu vẫn hòa thuận thương yêu nhau như những ngày nghèo khó lúc trước. Vì vậy cháu muốn, sau khi cháu đi rồi cậu hãy lấy toàn bộ số của cải ấy lên, sử dụng vào việc gì tuỳ cậu, đừng để sau này con cháu thằng Sang lại dẫm chân vào vết xe đổ ngày nay.
Ông Thúc gật đầu, nước mắt chảy dài xuống hai gò má nhăn nheo.
Liễu đi tìm bà câm, gởi gắm thằng Sang lại cho bà, nhờ bà chăm sóc luôn cha con ông Thúc. Bà câm ôm Liễu vào lòng, cả hai cùng nghẹn ngào không nói được câu từ giã.
Liễu đứng trước cửa tầng hầm, do dự hồi lâu rồi đẩy cửa bước vào.
Căn phòng ẩm thấp, âm u, đứng hồi lâu vẫn không nhìn rõ mọi vật xung quanh. Liễu phải trở lên nhà cầm đèn đi xuống.
Mạnh lúc này đang tỉnh táo, nhìn thấy Liễu anh xấu hổ quay mặt vào trong.
Liễu nhìn Mạnh chăm chăm. Cô từ từ tiến lại gần Mạnh:
- Sao anh nhẫn tâm đến vậy? Anh giết người không gớm tay, làm cho cả nhà tan nát hết. Anh tham của cải sao không âm thầm lấy hết đem đi, lại làm ra vẻ con người chính trực. Anh không chỉ hại chết cha con cậu ba, hại chết mẹ tôi, mà chính anh đã làm cho mợ ba trở thành kẻ ngớ ngẩn, làm cho hạnh phúc riêng tư của tôi đổ vỡ, làm cho người cha già hơn bảy mươi tuổi của anh phải ngày đêm sống trong khổ sở. Tôi hận anh, không bao giờ tôi tha thứ cho anh, tôi hận anh suốt đời….
Liễu khóc òa lên.
Mạnh nhìn Liễu đau đớn, đôi mắt anh như cầu khẩn, van xin. Anh quỳ mọp xuống, chắp tay lạy Liễu như tế sao, miệng mấp máy không thành tiếng.
Liễu hét to:
- Dù anh có van lạy tôi, có làm gì đi nữa, tôi cũng không bao giờ tha thứ cho anh đâu! Anh nghe rõ chưa?
Rồi cô cười nhạt vẻ đắng cay:
- Anh có trả được cho tôi và gia đình này những gì đã mất hay không? Trả hết lại đi, chừng đó tôi mới tha thứ cho anh được!
Mạnh khựng lại, những giọt nước mắt trong veo từ từ lăn xuống đôi gò má nhô cao. Liễu bỗng thấy lòng chua xót. Người anh họ mà cô hằng thương yêu, ngưỡng mộ đã vì mãnh lực của đồng tiền, vì lòng tham không đáy mà trở thành loài dã thú, đi giết hại chính những người ruột thịt của mình.
Liễu hoàn toàn không muốn chấp nhận điều đó!
Nước mắt Liễu rơi lã chả. Cô mắng nhiếc anh để những khổ đau trong lòng mình vơi bớt nhưng không ngờ nó lại đầy ắp thêm lên.
Nhìn Mạnh ngồi co ro như con thú sợ đòn, Liễu lại thấy anh sao mà tội nghiệp! Cô bậm môi quay đi, bỏ mặc Mạnh đang quỳ mọp trong chuồng…
Suốt ngày hôm đó Liễu cố gắng vui đùa với thằng Sang, dặn dò nó đủ thứ chuyện đến nỗi nó phải kêu lên:
- Làm như chị sắp đi đâu không bằng!
Liễu giả lả:
- Thì em phải biết tự lo, mai mốt đi lấy chồng chị mới yên tâm.
- Chị lấy chồng, em cũng đi theo!
Thằng Sang bá cổ Liễu nũng nịu, lòng cô xót xa đau đớn…
Tối đó Liễu ngồi nhìn thằng Sang ngủ thật lâu. Cô hình dung ra cảnh ngày mai thằng Sang ngủ dậy không thấy cô nó sẽ hoảng sợ, sẽ khóc lóc thế nào…
“Tha lỗi cho chị nghe Sang, chị đi rồi em sẽ buồn nhiều lắm, chị rất thương em nhưng chị không thể… Khi nào cuộc sống ổn định chị sẽ quay về đón em…”
Liễu cắn chặt vành môi để dằn tiếng khóc. Một lần nữa cô ôm em vào lòng nhè nhẹ vuốt mái tóc cháy vàng trên đầu nó. Cô đã hứa với vong linh mẹ rằng sẽ chăm sóc cho em, vậy mà bây giờ cô sắp bỏ nó để ra đi…
Liễu khóc chán chê rồi âm thầm thu dọn đồ đạc, và khi trời vừa mờ sáng cô lên nhà thắp nhang cho mẹ rồi lặng lẽ mang hành lý ra đi không cho ai theo tiễn biệt.
Ông Thúc, bà câm đứng nhìn theo cô, ai cũng nghe lòng quặn thắt.
 
* *
*
Thằng Sang chạy dọc theo bờ sông dõi mắt nhìn theo những chiếc xuồng, ghe ngược xuôi qua lại.
Nó đã gào khóc khản tiếng nhưng chị nó vẫn không đáp lời nó gọi.
Sáng ra, bà câm nấu mì tôm, món ăn mà thằng Sang rất thích, nhưng nó cũng chẳng thèm động tới.
Nó chạy đi tìm chị khắp mọi ngõ ngách trong nhà, khắp vườn tược xung quanh. Thằng Sang không biết sao chị nó lại đột nhiên biến mất.
Ban đầu ông Thúc nói gạt thằng Sang rằng Liễu đi chợ một lát sẽ về . Nó đi ra đi vào chờ đợi. Đến lúc mặt trời lên cao nó bắt đầu hoảng hốt chạy tìm khắp chỗ.
Ông Thúc phải nói thật, vừa phải dỗ dành:
- Chị Liễu con đi Sài Gòn rồi! Từ nay con ở nhà với cậu, với bà. Con ngoan đừng khóc thì chị Liễu mau về, con không ngoan cậu sẽ nhắn cho chị Liễu biết, chị ấy giận con sẽ không trở về đây nữa!
Nghe nói Liễu đi Sài Gòn, thằng Sang vội vã chạy ra bến đò nhưng bến sông vắng lặng không một bóng người. Dưới sông, từng dề lục bình dập dềnh trôi nổi, ung dug như người nhàn hạ.
Thằng Sang hết ngồi lại đứng, lại chạy dọc bờ sông cầu mong có một phép màu để nó được nhìn thấy bóng dáng chị nó thấp thoáng trên một chiếc xuồng, ghe nào đó!
Bà câm lặng lẽ đi theo sau. Mọi cử chỉ âu yếm của bà lúc này chỉ làm thằng Sang thêm tủi phận.
Hoàng hôn phủ trùm thôn xóm. Chim chóc rủ nhau bay về tổ, tiếng bìm bịp kêu cầm canh con nước lớn nghe buồn nẫu ruột.
Thằng Sang không còn khóc cũng chẳng kêu gào. Nó ngồi bó gối dưới gốc dừa, mắt ngó mông lung về phương trời xa thẳm.
Chỉ mới một ngày thôi mà bà câm thấy nó như lớn thêm vài tuổi.
Bà câm chạm khẽ vào vai thằng Sang, ú ớ chỉ tay về nhà, nó đứng lên ngay không một lời kháng cự.
- Chị Liễu đi Sài Gòn, mai mốt sẽ về phải không, bà?
Thằng Sang lên tiếng hỏi khi hai bà cháu đi một quãng xa.
Bà câm gật đầu, nó lại hỏi tiếp:
- Nếu con không ngoan, chị đi luôn không về, phải vậy không bà?
Bà câm ứa nước mắt thương cho thằng bé bơ vơ côi cút, nó đang cố bám víu vào niềm hy vọng mỏng manh. Bà đi sát vào thằng Sang hơn, bà chỉ muốn dang rộng vòng tay để ôm choàng lấy nó, che chở cho nó.
Suốt cả ngày bơ phờ mệt mỏi, vừa về tới nhà thằng Sang đã sà vào bàn ăn ngốn ngấu những thứ bà câm dọn lên.
Ăn xong, nó bê chén bát xuống bếp thì bất ngờ phát hiện ra chiếc cũi sắt ông Thúc vừa mới dời lên. Mạnh ngồi trong đó đang nhìn nó lom lom, vẻ mặt đờ đẫn, ngây dại.
Thằng Sang quá đỗi giật mình, chén bát trên tay nó rơi xuống đất vỡ loảng xoảng.
Nghe tiếng động, ông Thúc, bà câm vội  vàng chạy xuống.
Thằng Sang chỉ tay vào chiếc cũi, cất giọng run rẩy:
- Anh Mạnh sao lại bị nhốt? Ảnh… ảnh đi Sài Gòn mà…?
Ông Thúc ngập ngừng giải thích:
- Anh Mạnh đi làm ăn, nhưng không may phát bệnh bất ngờ, người ta mới đưa về cho cậu sáng nay. Con đừng sợ, anh Mạnh không làm gì hại con đâu!
Ông Thúc vừa dứt lời thằng Sang bỗng khóc rống lên:
- Chị Liễu đi Sài Gòn… mai mốt chị Liễu cũng như anh Mạnh… hơ hơ… con muốn chị Liễu về ngay… hơ hơ…
Ông Thúc nghẹn ngào kéo nó vào lòng:
- Không đâu, không có đâu! Chị con sẽ mạnh khỏe trở về mà!
Thằng Sang vẫn thút thít khóc. Trong lồng, Mạnh gầm gừ, lồng lộn như con thú hoang đòi tháo cũi sổ lồng.
Thằng Sang hốt hoảng lùi lại, nín thinh không dám khóc nữa.
Ông Thúc tới gần Mạnh, vỗ vỗ vào song sắt:
- Yên nào, yên nào! Ngồi yên rồi ba lấy cơm cho mà ăn!
Bà câm không muốn để Sang chứng kiến cảnh đau lòng ấy nữa, bà dẫn nó ra nhà sau tắm rửa rồi đưa về phòng dỗ cho nó ngủ.
Trong giấc ngủ, thỉnh thoảng thằng Sang vẫn còn nấc lên khe khẽ…
* *
*
Tiếng mưa rơi lộp độp trên mái nhà làm Mạnh thức giấc. Anh mở mắt nhìn quanh. Tối quá! Mãi hồi lâu mắt Mạnh mới quen dần với bóng tối.
Tuốt đằng kia là cây đèn bóng lù mù, để tiết kiệm dầu bà câm đã vặn lu hết cỡ. Ánh sáng của nó tỏa ra yếu ớt, không đủ soi rọi mọi vật xung quanh.
Thỉnh thoảng có những lúc Mạnh hoàn toàn tỉnh táo, như lúc này đây. Anh nằm nhớ lại tất cả những sự việc diễn ra trong gia đình này mà chính anh là đạo diễn.
Ân hận, ray rức vò xé tim anh. Mạnh chỉ muốn mình được chết đi để đền bớt phần nào tội lỗi, để không nhìn thấy người cha khốn khổ của anh ngày ngày phải đem từng chén cơm, ly nước, phải chăm sóc cho anh như ngày nào còn thơ bé.
Nhưng cũng có lúc Mạnh nửa mê nửa tỉnh. Anh thấy bầy dơi quỷ vây kín xung quanh, rồi bà Lan, ông Thịnh, thằng Quốc, thằng Nam lần lượt hiện về, gương mặt người nào cũng đầm đìa những máu.
Mạnh sợ hãi, muốn hét lên cầu cứu, nhưng từ lâu anh đã mất đi tiếng nói của loài người.
Giờ đây, nằm một mình trong chiếc lồng sắt lạnh lùng giữa đêm mưa gió, Mạnh thèm được sống lại những ngày đầm ấm cũ. Trong anh bỗng dậy lên một nỗi khao khát mãnh liệt được thoát khỏi nơi này để đi tìm Liễu, anh sẽ lấy cái chết của mình để van xin Liễu thứ tha.
Mạnh ngồi bật dậy dáo dác nhìn quanh. Mỗi ngày ông Thúc mấy lượt mở cửa lồng cho Mạnh đi vệ sinh, chùm chìa khóa ông vẫn móc vào cây đinh gần đó.
Mạnh nhón gót, cố với tay nhưng không sao với tới. Anh thất vọng ngồi phịch xuống, bất ngờ chạm phải cây roi chiều này ông Thúc đem đến dọa  lúc anh lên cơn quậy phá.
Mừng rỡ, Mạnh dùng cây roi làm cần móc, móc được chùm chìa khóa trên cao.
Mạnh run rẩy tra chìa vào ổ khóa.
“Tạch”! Một tiếng động khẽ khàng và ổ khóa được mở ra, Mạnh thận trọng lần dò từng bước một.
Anh rón rén đi khắp nhà nhìn những người thân say ngủ mà lòng đau như cắt.
Thằng Sang trở mình, miệng chóp chép như đang nhai thứ gì đó trong miệng.
 Mạnh không dám lại gần sợ làm thằng Sang thức giấc. Anh đứng nhìn nó thật lâu và nước mắt lại chảy dài…
Mạnh đi khắp ba gian nhà. Cúi đầu trước những tấm ảnh trên bàn thờ mà Mạnh tưởng như họ đang nhìn anh căm phẫn.
Bên ngoài trời vẫn còn mưa , sấm chớp ầm ì, màn đêm dày đặc.
Mạnh leo rào ra đường, xăm xăm đi xuống bến sông với quyết tâm đi tìm Liễu.
Người Mạnh ướt sũng, tóc tai, râu ria lâu ngày không được cắt tỉa khiến Mạnh giống con dã nhân ở tận rừng sâu núi thẳm.
Mạnh nhận thấy ánh đèn leo lét phát ra từ một chiếc xuồng câu tấp vào bến trú mưa, mừng quá, anh chạy ào tới định xin quá giang, nhưng khi người thanh niên trên xuồng nghe tiếng động, ngó lên bờ thấy Mạnh đã hoảng hốt hét lên:
- Có ma! Cứu với… có ma, bà con ơi!
Những người dân quanh đó ào ra, Mạnh hoảng sợ chạy ngược lên phía gò nổi định trốn trong nhà mồ nhưng chưa kịp trèo vào đã nghe tiếng dơi bay rào rạt. Mạnh cuống cuồng chạy trở xuống bến sông.
Lâu ngày không được tự do đi lại, đôi chân Mạnh đã không còn linh hoạt như trước kia, lại thêm lạnh run vì dầm người dưới mưa lâu quá, Mạnh vấp ngã liên miên.
Dân làng hò reo khi bắt được anh, giống như những người thợ săn reo hò mỗi khi săn được thú.
- Ai… giống thằng Mạnh nhà ông Thúc?
Có tiếng ai đó kêu lên, rồi nười ta dựng Mạnh dậy để nhìn cho kỹ.
Mọi người bàng hoàng khi nhận ra Mạnh. Họ thật không ngờ, vì lâu nay ông Thúc vẫn nói với họ rằng Mạnh đi làm ăn xa, nào dè Mạnh lại ra nông nổi…
Lúc này anh lại lên cơn, dùng hết sức chống lại những người đang kềm chặt tay chân mình.
Họ trói Mạnh lại khiêng tới nhà ông Thúc.
Ông không dấu dân làng được nữa! Nhưng ông cũng không thể kể rõ nguyên nhân.
Sáng hôm sau, cả cù lao Hàm Rồng lại đồn ầm lên về một điều tệ hại nữa đang xảy ra trong gia đình ông Thúc.
Chương 4
Sáu năm sau.
Đò vừa cập bến, Liễu hấp tấp nhảy vội lên bờ, trong lòng cô rạo rực những buồn vui khó tả.
Cù lao Hàm Rồng giờ đây khác xưa nhiều quá! Cây cối vẫn xum xuê nhưng nhà cửa hai bên đường mất hẳn vẻ nghèo nàn, cam chịu trước kia. Cuộc sống đã thay da đổi thịt. Không còn những mái nhà lá lụp xụp mà thấp thoáng dưới rặng cây những mái nhà ngói đỏ hoặc mái tôn sáng rỡ dưới ánh nắng ban trưa.
Tiếng ê a của lũ trẻ con vang lên từ một ngôi trường nhỏ ven sông khiến lòng Liễu dậy lên những tình cảm nôn nao khác lạ.
Liễu đi như chạy. Mấy cây cầu khỉ chênh vênh năm cũ giờ được thay bằng cầu đúc bê-tông vững chắc.
Xứ cù lao thay đổi đến không ngờ!
Liễu dừng bước trước ngôi nhà mồ, nơi bắt nguồn của bao nhiêu oan khốc trong gia đình, cô thấy lòng vẫn còn đau đớn lắm.
Đau thương ngày cũ ùa về khiến Liễu rơi nước mắt.
Cô đã đi xa sáu năm trời. Trong sáu năm ấy vẫn không dứt khỏi tâm trí cô những hình ảnh quá khứ được.
Đêm đêm, từ trong tiềm thức lại vọng về tiếng kêu rợn người của đàn dơi quỷ, tiếng gầm gừ dữ tợn của Mạnh, tiếng khóc xé ruột của thằng Sang và cả những tiếng thì thầm yêu thương của Trọng.
Tất cả những điều đó không ngừng giằng xé Liễu, nửa thôi thúc cô quay về, nửa lại muốn bứt cô ra xa.
Những ngày đầu mới rời khỏi xứ cù lao, Liễu bơ vơ giữa Sài thành, với thân phận một cô gái quê không mẹ không cha, cũng không còn gia đình, nhà cửa, Liễu đã phải lăn thân vào cuộc sống cơ cực, tủi buồn.
Nhờ nắm vững nghề may, trong một dịp tình cờ Liễu được nhận vào làm ở nhà may của một ông chủ trẻ.
Liễu ít nói lại hiền lành nên rất được mọi người thương yêu, quý mến.
Cô cần mẫn, chăm chỉ ngày này sang ngày khác, chưa một lần xin phép nghỉ ngơi, hay về thăm quê như những bạn cùng may khác.
Đôi lúc mọi người thấy Liễu ngồi thờ thẫn, ánh mắt trĩu buồn dường như mang rất nhiều tâm sự. Cũng có người muốn sẻ chia, an ủi nhưng Liễu lại lãng đi:
- Dạ không… em không có việc gì… , các chị đừng bận tâm!
Dần dà rồi họ cũng quen với tính tình của Liễu.
Nhưng có môt người vẫn không nguôi thắc mắc. Đó là Sơn – người chủ tiệm may!
Một hôm trong tiệm vắng người, Sơn bỗng hỏi:
- Lâu nay anh luôn thấy Liễu u buồn, tư lự. Anh đoán hẳn là Liễu đã gặp phải chuyện gì đó đau đớn lắm. Sao em không mở lòng mình ra để vơi bớt phần nào?
Ngừng một chặp Sơn nói tiếp:
- Anh thấy chị em ở đây ai cũng mến Liễu, vì vậy em đừng quá dè dặt với họ. Cuộc sống trầm uất hiện nay của em không tốt đâu, nếu thần kinh không vững có thể một ngày nào đó em sẽ phát điên.
Liễu thở dài thườn thượt:
- Em không muốn nhắc lại những kỷ niệm không vui, em muốn quên đi tất cả khổ đau, em đang cố chôn vùi quá khứ, không bao giờ khơi gợi lại nữa!
- Nhưng em có quên được đâu? Ai đó đã từng nói “cố quên tức là còn tưởng nhớ”. Em sống ở đây gần một năm rồi, khoảng thời gian ấy tuy không dài nhưng cũng không phải là ngắn, nó đủ để làm phôi pha quá khứ. Vậy mà em hôm nay vẫn giống y nguyên cô Liễu ngày đầu tiên bỡ ngỡ tới đây. Xin lỗi em, anh nói hơi nhiều, nhưng anh nghĩ mình cần phải nói. Em có cho phép anh được nói tiếp không?
Liễu cười buồn:
- Dạ, anh Sơn cứ tự nhiên! Em như em gái trong nhà, có gì không phải xin anh cứ chỉ dạy.
Sơn lắc đầu:
- Không, anh không có ý chỉ dạy em. Anh chỉ muốn khuyên em vài lời rằng: Em đừng nên sống như thế này! Cho dù trong quá khứ em đã gặp bất cứ chuyện gì đi nữa thì giờ đây em cũng phải dũng cảm vượt qua. Em còn rất trẻ, cuộc đời em còn dài, chẳng lẽ em cứ như vầy mà đi hế quãng đời còn lại của mình sao?
Liễu bưng mặt khóc:
- Những điều xảy ra với em khủng khiếp lắm, anh Sơn không thể nào tưởng tượng được đâu! Em đã chạy trốn nhưng quá khứ cứ đuổi theo em mãi. Em cố quên nhưng lúc nào trong tâm trí cũng đầy ắp những ám ảnh thương đau. Em… em thật sự không biết phải làm sao nữa?
Sơn nắm chặt tay Liễu:
- Em cần phải đối diện với quá khứ, chấp nhận nó và vượt qua nó! Nếu không có gì bất tiện, Liễu hãy tâm sự với anh, biết đâu lòng em vơi bớt nỗi buồn phiền .
Liễu ngước nhìn Sơn qua màn nước mắt:
- Một ngày nào đó nhất định em sẽ nói hết với anh, còn hiện tại em… em không thể! Mong anh hiểu cho em, đừng trách em…
- Anh không trách em đâu. Nhưng em nên nhớ rằng, bất cứ lúc nào em cần có người chia sẻ thì hãy nhớ tới anh, anh rất thành tâm muốn được gánh giúp em nỗi niềm đau khổ đó!
- Em cảm ơn anh!
Liễu cố nhoẻn miệng cười:
- Chỉ xin anh đừng đuổi em đi, nếu mà rời khỏi nơi này em thật sự không biết phải đi đâu nữa?
Sơn kêu lên:
- Ôi, sao em lại nói vậy? Em thật không biết mình là thợ chính ở đây sao? Anh ngày đêm lo ngai ngái, sợ em chê tiệm của anh nhỏ hẹp mà bỏ đi, anh sao lại dám đuổi em chứ?
Sơn hạ thấp giọng ra vẻ bí mật:
- Chỉ cần em vừa bước qua thềm cửa này thôi là mấy tiệm may lớn bên kia sẽ “oánh” nhau sứt đầu mẻ trán để giành em về cho tiệm của mình ấy chứ!
- Anh cường điệu quá trời!
Liễu bật cười. Sơn nắm lấy vai Liễu:
- Đó, em cười vậy đó trông mới trẻ trung ra chứ! Từ nay nếu còn thấy mặt mày em ủ dột, anh sẽ gọi em là… “ bà cô” cho mà xem!
Liễu cười xòa.
Từ ngày đó Liễu thôi không sống khép kín mình như trước nữa. Cô cũng vui vẻ với bạn bè, cũng tung tăng ra phố dạo chơi những hôm rỗi việc, nhưng tuyệt nhiên vẫn không hé một lời về hoàn cảnh gia đình.
Ngày tháng êm ả trôi qua. Thợ may trong tiệm nhiều lượt đổi thay, chỉ riêng Liễu vẫn “bám đất giữ làng” như lời Sơn nói.
Tiệm may “Minh Sơn” mới ngày nào còn xa lạ với Liễu, giờ đây đã trở nên vô cùng thân thiết. Cô xem nơi đó là nhà, là chốn nương thân đã cưu mang cô trong những ngày khốn khó, nên không hề đòi hỏi thêm ở Sơn bất kỳ một quyền lợi nào khác.
Có thời kỳ tiệm may gặp khó khăn, mấy tháng không trả hết lương, những thợ khác lần lượt ra đi chỉ riêng Liễu vẫn vui vẻ làm việc, không một lời than phiền hay thắc mắc. Thậm chí lúc Sơn đưa tiền cô còn nói:
- Anh lo trả cho người khác trước đi, em chưa cần dùng tới số tiền này, cứ coi như em nhờ anh giữ hộ vậy nhé!
Ngoài công việc ra, hình như không có chuyện gì khiến Liễu quan tâm đến nữa!
Đã từ lâu Sơn không còn xem Liễu là người làm công ăn lương. Cô như người nhà cùng với anh lo toan mọi việc.
Nhiều lúc Sơn tự hỏi: “hay mình yêu Liễu mất rồi?”
Sơn đã yêu nhiều, bị phản bội cũng nhiều. Những người phụ nữ anh yêu đều chạy theo tiền tài, danh vọng mà anh chỉ là ông chủ của một tiệm may khiêm tốn giữa nơi phồn hoa đô hội, thì có nghĩa lý gì đâu?
Cay đắng cho thế thái nhân tình, Sơn không còn chú tâm đến tình yêu nữa. Anh dồn hết tâm huyết vào tiệm may bé nhỏ của mình.
Từ ngày có Liễu về, công việc làm ăn của Sơn ngày một phát đạt. 
Một cô thợ may trong tiệm nói vui:
- Tuổi của chị Liễu với anh Sơn hạp nhau, làm ăn tốt lắm! Chi bằng hai người kết nghĩa trăm năm cho chị em chúng tôi cùng hưởng phước!
Sơn không mê tín dị đoan, không tin việc hạp cung hạp tuổi gì gì đó. Anh nghĩ đơn giản do Liễu khéo chiều khách, lại có tay nghề vững thường sáng tạo ra những mẫu mã mới thu hút được khách hàng, và họ chuyền tai nhau giới thiệu.
Tâm lý chung của các bà, các cô và luôn cả các ông cũng vậy, họ rất thích được mặc những bộ quần áo vừa đẹp, vừa sang trọng lại kh6ng bị “đụng hàng”. Điều này, ở tiệm may “Minh Sơn” có thể đáp ứng được.
Sơn mua thêm căn nhà  bên cạnh để mở rộng tiệm may.
Tấm bảng hiệu “Minh Sơn” giờ không còn khép nép nữa mà đã ngạo nghễ vươn cao trên dãy phố, không thua kém bất cứ một tiệm may lớn nào trên đất Sài Gòn hoa lệ.
Khách hàng của “Minh Sơn” đa phần sang trọng. Nhưng nếu người bình dân đến vẫn được đón tiếp niềm nở, châ tình, không hề có sự phân biệt. Đó là chủ trương của Liễu.
Liễu không chỉ giỏi nghề may, cô còn giỏi uôn công việc quản lý.
Có lần Sơn bận việc phải đi xa nhiều ngày, anh vô cùng lo lắng. Nhưng khi về tới nhà mọi việc vẫn đâu vào đấy, sổ sách rạch ròi y như Sơn chưa từng vắng mặt.
Một hôm Liễu đề nghị:
- Sao anh Sơn không mua vải về để sẵn ở đây, khách hàng tới mình giới thiệu cho họ sẽ thuận tiện hơn. Em thấy có nhiều người muốn may một kiểu nào đó nhưng lại mua loại vải hoặc màu sắc, hoa văn không phù hợp, tiếc lắm anh à! Có sẵn vải, mình hướng dẫn họ cụ thể hơn, những bộ áo quần sau khi hoàn thành họ mặc sẽ đẹp hơn!
Sơn vỗ tay reo lên:
- Sáng kiến tuyệt vời! Vậy mà lâu nay anh chưa từng nghĩ tới! Anh sẽ thực hiện việc này ngay!
Hơn năm năm dài Sơn và Liễu gắn bó bên nhau bằng một thứ tình cảm không phải là chủ tớ, không phải bạn bè hay anh em, mà cũng chẳng phải là tình thương trai gái.
Cả hai đều không định nghĩa được tình cảm của bản thân mình. Chỉ biết một điều họ rất cần có nhau trong cuộc sống.
Từ lúc làm ăn thịnh vượng có không ít cô gái vây lấy Sơn. Sơn đôi lúc cũng vui đùa bay bướm. Nhưng anh chưa tìm ra cô gái nào khả dĩ cưới làm vợ được.
Đến với ai Sơn cũng thấy mau chóng  nhàm chán, mặc dù bản thân anh chưa từng đặt ra một tiêu chuẩn nào cả.
Sơn gần như bỏ hết những cuộc vui vẻ bên ngoài, những khi rỗi rãi thường ở nhà  bầu bạn với Liễu. Nhờ vậy Liễu không còn cảm thấy cô đơn nữa!
Hình bóng Trọng đã nhạt phai dần trong tim Liễu. Đôi lúc cô vẫn nhớ về anh, vẫn cảm thấy có chút gì xao động nhưng không còn cái cảm giác xót xa, tê tái nữa.
Nỗi hờn oán Mạnh cũng vơi theo ngày tháng. Liễu thấy tội nghiệp cho anh. Không biết chừng ấy năm trôi qua, những người thân còn lại dưới quê ai còn, ai mất? Cậu hai, bà câm, anh Mạnh và thằng Sang sinh sống ra sao?
Nhớ tới thằng Sang lòng Liễu se thắt lại. Cô đã hứa trước mồ mẹ là sẽ chăm lo chu đáo cho em. Vậy mà cô lại một mình chạy trốn…
Đã bao nhiêu lần liễu dự định về thăm quê hương, thăm những người thân yêu nơi đó. Nhưng cứ nghĩ đến cảnh phải đối diện với Mạnh, với những di ảnh trên bàn thờ lòng Liễu lại hoang mang, liệu mình có thật sự tha thứ cho Mạnh chưa? Hay về dưới đó lại làm ông Thúc thêm buồn khổ?
Tới ngày giỗ mẹ, cậu ba, Nam, Quốc, Liễu đều âm thầm đi mua vài thứ gì đó bày ra trên bàn rồi lặng lẽ nguyện cầu không cần nhang khói.
Có lần Sơn nói:
- Anh rất biết ơn em, Liễu à! Sự nghịêp anh có được ngày hôm nay phần lớn là nhờ vào công lao của em đấy! Anh hết sức khâm phục em, nhưng anh cũng hết sức nghi ngờ…
Liễu mở to mắt, ngạc nhiên:
- Anh nghi ngờ em điều gì?
Sơn cười:
- Anh nghi ngờ… em có phải là tiên nữ trên trời được ngọc hoàng thượng đế phái xuống giúp đỡ anh không nữa!
- Đồ quỷ!
Liễu vớ lấy cây thước may dập nhẹ vào tay Sơn, Sơn lùi ra xa nói tiếp:
- Chứ không phải sao? Bản thân em là một kho bí ẩn. Em nhỏ nhắn, mảnh mai thế này mà sức là việc lại quá dồi dào. Em sống ở đây bao nhiêu năm rồi anh vẫn không biết chút gì về gia đình, quê quán của em. Em như một người từ trên trời xuống để giúp anh!
- Anh nói vậy không sợ em phổng mũi bay tuốt lên trời sao? Em là người mang ơn anh mới phải. Nếu ngày ấy anh không nhận em vào làm, chắc giờ này em vẫn còn là con nhỏ bưng bê, rửa dọn trong mấy quán ăn! Còn chuyện riêng của em, anh thật sự muốn biết lắm sao?
Liễu hỏi.
- Anh thật tình muốn biết, không phải vì tò mò mà là vì… anh muốn hiểu em hơn. Và… như đã có lần anh nói với em, anh rất muốn được san sẻ cùng em mọi nỗi ưu tư trong cuộc sống!
Sơn thành thật.
Liễu nhắm mắt lại. Quá khứ như cuộn phim chiếu chậm đang lần lượt hiện về trước mắt cô.
Và thế là Liễu kể cho Sơn nghe về những ngày tháng khủng khiếp trên cù lao Hàm Rồng, những cái chết bí ẩn, những bóng ma hiện về trong đêm, những nỗi kinh hoàng mà cô từng nếm trải.
Liễu kể cho Sơn nghe về quãng đời thơ ấu của mình, về người cha đã ruồng rẫy mẹ con cô, về cơn bão bất ngờ đã xô giạt chiếc tàu có gia đình cô trên đó trở về hải phận Việt Nam… Rồi đám cưới của cô với Trọng không thành, cô kể hết!
Câu chuyện Liễu kể không theo một trình tự thời gian nào hết, nhưng cũng khiến Sơn đi từ sự ngạc nhiên này đến nỗi bàng hoàng khác.
Có lúc Liễu kể bằng giọng đều đều, dửng dưng như đang nói đến chuyện của một người xa lạ nào đó, hoàn toàn không dính dấp tới cô; có lúc Liễu lại nghẹn ngào, tức tưởi.
Sơn chắp nối câu chuyện rời rạc, lộn xộn Liễu kể, và rồi anh hình dung được hết!
Anh như nhìn thấy cô gái nhó nhoi, yếu đuối này một mình ngụp lặn giữa đau thương. Hèn gì đã nhiều  năm trôi qua mà cô vẫn chưa lấy lại trọn vẹn tinh thần.
Nếu mình là Liễu, chẳng biết mình có đủ sức để sống đến ngày hôm nay không? Sơn tự hỏi mình như thế.
- Đám cưới không thành, tình yêu đầu đời tan vỡ khi mẹ vừa mới mất, em tưởng mình đã chết đi lúc đó! nhưng vì em trai em, vì những người thân quanh mình mà em gượng sống, em quyết tâm dẹp hết buồn đau để đứng vững trong đời. Vậy mà… trời ơi! khi khám phá được kẻ gây ra bao cảnh tóc tang, ly tán là ai, em đã không chịu đựng nỗi, em bỏ tất cả để trốn chạy lên đây…
Liễu khóc nức nở. Những giọt nước mắt bị dồn nén bao năm qua giờ mặc tình tuôn chảy. Cô khóc đến lịm cả người đi.
Sơn để yên cho Liễu khóc. Nước mắt sẽ cuốn theo tất cả thương đau, sầu muộn trong lòng Liễu. Khóc được, cô ấy sẽ nhẹ nhàng hơn.
Sơn nhẹ nhàng vuốt ve mái tóc buông dài của Liễu. Một tình cảm khác lạ đang dâng trào mãnh liệt trong anh. Sơn thầm trách mình lâu nay cứ lo tìm kiếm đâu đâu, một nửa kề bên lại không nhận thấy!
Sơn khẳng định với mình, đây chính là người con gái từ lâu anh hằng mong đợi.
Sơn kéo Liễu vào lòng vỗ về như đứa bé:
- Mọi chuyện đã qua rồi, em đừng lo sợ nữa! Một ngày gần đây anh sẽ đưa em về quê, sẽ may cho em chiếc áo cưới khác đẹp hơn, do chính tay em vẽ kiểu. Em sẽ là một cô dâu đẹp nhất trần đời!
Liễu run rẩy:
- Anh Sơn, Anh nói gì lạ vậy?
Sơn đỡ Liễu ngồi thẳng lên, anh nhìn thật sâu vào mắt cô:
- Em đồng ý làm vợ anh nghe Liễu?
Liễu bàng hoàng, không tin vào tai mình nữa.
Sơn nói tiếp:
- Anh thật sự không biết mình đã yêu em từ khi nào, nhưng mấy lúc gần đây anh luôn tự hỏi nếu như một ngày nào đó em rời bỏ nơi này, rời bỏ anh thì anh sẽ sống ra sao? Anh biết mình không thể sống thiếu em được, Liễu ơi!
Sơn ôm chặt Liễu vào lòng như sợ nới lỏng vòng tay cô sẽ bay đi mất!
Liễu nằm gọn trong vòng tay to khỏe của Sơn, cô không biết mình đang mơ hay tỉnh.
Mối tình đầu chắp cánh bay xa, Liễu cứ ngỡ trọn đời mình không thể yêu ai được nữa. 
Nhiều năm sống gần bên Sơn và cũng không ít lời ghép đôi, trêu chọc của bạn bè, nhưng Liễu chưa nghĩ đến việc cô và Sơn sẽ có một ngày nào đó thật sự yêu thương nhau.
Giờ đây Liễu nghe lòng mình dạt dào xúc cảm.
Liễu đã sống qua những ngày tháng cô đơn, trơ trọi giữa cuộc đời. Cô luôn khao khát một mái gia đình hạnh phúc, nhưng khi hạnh phúc đến bất ngờ lại khiến Liễu hoang mang…
- Ai như… chị Liễu phải không?
Tiếng gọi làm Liễu sực tỉnh, cắt đứt dòng hồi ức trong cô.
Liễu  quay nhìn lại vừa lúc thằng Sang thắng xe kin kít ngay ở sau lưng.
Nhận ra Liễu, nó mừng quýnh, vứt chiếc xe đạp nằm chỏng kềnh ra đất, lao tới ôm chầm lấy chị:
- Trời ơi, chị Liễu! Đúng là chị của em đây rồi! Em tưởng chị không về nữa…
Nước mắt Liễu nhòe nhoẹt nhưng cô lại cười rất tươi. Xém chút nữa cô đã không nhận ra Sang.
Ngày Liễu ra đi thằng Sang còn là một đứa bé đen nhẻm, gầy như que củi, giờ đã ra dáng dấp một chàng thanh niên khỏe mạnh.
Liễu xoa đầu em rối rít:
- Em tôi lớn nhanh quá!
- Chứ không phải tại chị đi lâu quá mới về sao?
Thằng Sang cãi lại, vẻ dỗi hờn. Liễu chợt nghẹn ngào:
- Sang à, chị… xin lỗi em…
Thằng Sang lại cười toe toét:
- Thôi đi, giờ chị về là em vui rồi, em hết giận chị rồi! Em nói thiệt nghe, hồi chị mới bỏ đi em giận chị ghê lắm, giận sao chị không dẫn em theo, giận chị đi mà không thèm nói với em một lời nào cả. Nhưng rồi dần dần khôn lớn, em hiểu ra chắc chị cũng có nỗi khổ tâm gì đó! Ngày ngày em mong chị về, em không còn giận chị lâu rồi!
Liễu thấy mắt mình cay xé. Cô nhớ rất rõ ngày ấy mình rời nơi này với tâm trạng đau đớn, hụt hẫng đến dường nào.
Nó cúi xuống đỡ xe đạp lên, đón lấy chiếc túi xách từ tay Liễu, nói:
- Chị lên xe, em chở về!
Liễu vui vẻ ngồi lên. Sang đùa:
- Chị ôm cho chắc, em chạy nhanh là chị văng tuốt xuống mương đó!
Liễu thấy lòng vui khấp khởi. Trên đường đi thỉnh thoảng lại gặp mấy người quen cũ, ai cũng trầm trồ nhìn Liễu.
Ngôi nhà ngói ba gian vẫn rêu phong mái ngói nhưng nay không có vẻ u ám nặng nề. Cổng ra vào mở toang, trong sân nhà trồng thật nhiều loại hoa, màu sắc thật rực rỡ. Trên cây xoài trước sân treo lủng lẳng mấy chiếc lồng chim, một vài con đang cất lên tiếng hót. Lại thêm chiếc xích đu được sơn màu vui nhộn.
Tất cả dường như đang trẻ ra, bừng bừng sinh khí!
Liễu bỡ ngỡ bước vào nhà. Sang ra vẻ bí mật, nói với bà câm và ông Thúc:
- Nhà mình hôm nay có khách, con đố bà với cậu biết ai?
Ông Thúc giương đôi tròng mắt đã đục lờ nhìn ra cửa, chỉ thấy dáng người chứ không nhận rõ là ai. Bà câm cũng nheo nheo nhìn mãi.
Liễu xúc động mạnh, cô chạy ào tới:
- Bà, cậu hai! Con về rồi đây!
Ông Thúc run giọng:
- Liễu hở cháu? cháu về rồi à?
Bà câm cầm tay Liễu nắn bóp liên hồi cho thoả lòng mong nhớ.
Liễu sụt sịt khóc:
- Con thật có lỗi, bao nhiêu năm qua con không làm tròn bổn phận…
Ông Thúc rầy:
- Thôi, mọi việc đã qua hết rồi, con đừng khóc nữa!
Liễu nhìn quanh, hỏi:
- Anh Mạnh đâu rồi, cậu hai?
Ông Thúc lặng lẽ chỉ tay lên bàn thờ, khuôn ảnh Mạnh đang cười tươi rói:
-Nó… nó đền tội rồi!
Ông Thúc nói nhỏ:
- Một lần nó lên cơn, tự lao đầu vào song sắt. Người nhà đi làm vườn hết, đến khi phát hiện thì nó đã tắt thở do mất máu quá nhiều.
- Thật khổ cho ảnh! Liễu bùi ngùi.
- Tất cả cũng do cậu mà ra, nếu năm xưa cậu đừng bày ra việc chôn theo của cải thì đâu có chuyện gì! Cậu hối hận hết sức. Sau ngày cháu đi, cậu với thằng Sang lấy hết của cải dưới mồ lên, dùng tiền đó tu sửa mồ mả cả dòng họ, gởi về Vĩnh Long cho thiếm ba con một số để dưỡng già, chia phần cho con với thằng Sang, còn lại bao nhiêu cậu dùng vào việc làm đường, xây cầu, xây trường học hoặc cho bà con quanh đây mượn không lấy lãi.
Ông Thúc quay lại nói với bà câm:
- Bà mở tủ lấy giùm tôi cái hộp phần con Liễu.
Bà câm lọ mọ đi đến tủ, loay hoay một hồi cầm ra chiếc hộp nhỏ đặt vào tay ông Thúc. Ông đẩy về phìa Liễu:
- Đây là phần của con, coi như là của hồi môn, con cầm đi!
Liễu từ chối:
- Dạ thôi, cứ để đó cậu với bà dưỡng già, cuộc sống của con hiện nay không có gì khó khăn, con không lấy đâu!
Thằng Sang nãy giờ dưới bếp, lò dò bước lên hỏi:
- Chị Liễu, năm ấy chị lên Sài Gòn làm gì trên đó?
- Ừ, giờ đến lượt con kể chuyện của con đi. Lâu nay cậu vẫn không yên tâm về con đó! Mà con cũng tệ lắm, không nhắn một lời nào về cho cậu với thằng Sang… Năm đó con đi cậu không ngăn cản, vì biết nếu ở lại con sẽ sống không có niềm vui. Cậu cứ nghĩ con đi vài ba tháng sẽ quay về, nào ngờ năm này qua năm khác con vẫn như bóng chim tăm cá. Cậu rất hối hận vì đã để con ra đi, nỗi niềm đó cứ ngày đêm vò xé tâm can cậu. Còn thằng Sang, nó chờ đợi con hết ngày này sang ngày khác, rồi tháng rồi năm … Nhiều lúc nghĩ dại, cậu lo con đã gặp phải chuyện gì đó không may. Cậu tuổi già sức yếu không thể đi xa, thằng Sang lại không biết đường sá Sài Gòn nên không cách nào đi tìm con được. Thôi thì đành phó thác cho vận mệnh…
Liễu cười buồn, nhớ lại những năm tháng vừa qua. Cô kể:
- Hồi mới lên con cực lắm cậu ơi, phải đi rửa chén thuê cho mấy tiệm phở. May mắn có một lần mấy chị thợ may tới ăn , than thở với nhau rằng hàng may nhiều quá mà ông chủ tìm thợ không ra, thành thử họ phải làm ngày, làm đêm vất vả. Nghe vậy, con đánh bạo hỏi thăm, nhờ họ xin giúp với ông chủ. Vậy là ngay chiều hôm ấy họ tới đón con về tiệm để thử tay nghề. Và thế là từ đó con ở luôn trong tiệm. Cuộc sống của con những năm qua không có gì đáng để phàn nàn, có chăng là nỗi day dứt mỗi khi nghĩ tới những người thân yêu còn lại nơi đây.
Liễu ngừng lời, nhìn những người thân quanh mình một lát rồi nói tiếp:
- Con xin lỗi cậu hai, con đã tự tiện kết hôn mà không hỏi qua ý cậu, mong cậu tha thứ cho con!
Ông Thúc ngạc nhiên mừng rỡ:
- Con lấy chồng bao giờ? Chồng con làm gì, sao không đưa nó về đây cho cả nhà biết nhau?
- Dạ, chúng con đám cưới cách nay mới hơn ba tháng. Chồng con chính là… ông chủ của con! Lẽ ra hôm nay anh ấy cùng về nhưng có việc đột xuất, ảnh phải ghé Long An để giải quyết. Có lẽ sáng ngày mai ảnh sẽ về tới!
Thằng Sang hí hửng:
- Vui quá ta, em không những tìm lại được người chị thân yêu của mình mà giờ đây lại có thêm ông anh rể. Thôi, chị Liễu ở nhà chơi với cậu hai nghen, để em ra sông kiếm mớ cá đãi anh chị! Dạo này cá lóc nhiều lắm, chị vẫn còn thích món canh chua cá lóc chứ? Tối nay em đi cắm câu thế nào cũng có, mai anh rể về sẽ có thức ăn ngon.
Liễu mỉm cười nhìn theo thằng Sang. Ông Thúc nói:
- Mấy năm qua nhờ có thằng Sang lo mọi việc trong ngoài. Mà nó giỏi thiệt, giống như thằng Mạnh hồi trước vậy…
Biết mình lỡ lời ông Thúc vội vàng im bặt. Lát sau không nghe Liễu nói gì, ông Thúc thở dài nói tiếp:
- Ngày con ra đi có dặn cậu giấu kín mọi chuyện không cho thằng Sang biết, nhưng cậu đã không làm theo lời dặn của con. Cậu mong con đừng buồn.
Đôi mắt già nua của ông như nhìn vào cõi hư vô:
- Hồi ấy, cả xứ này đồn ầm lên những câu chuyện ma quái của nhà ta, làm cho thằng Sang không khỏi hoang mang, thắc mắc. Đã vậy mỗi khi hơi tỉnh trí là thằng Mạnh lại van xin nó tha thứ lỗi lầm. Cậu cũng không dám nhìn thẳng vào mắt thằng Sang. Trong nhà không một ai sống thoải mái! Cuối cùng, cậu kể hết với thằng Sang. Lúc đầu nó cũng bàng hoàng, đau đớn lắm, nhưng rồi nó đã tha thứ cho thằng Mạnh, chăm sóc thằng Mạnh chu đáo hơn trước. Cậu thật xấu hổ vì đã không biết dạy dỗ con mình, để cho nó gây ra bao điều tàn ác, nhưng các con đã rộng lòng tha thứ khiến cậu thấy đỡ bứt rứt phần nào… Chứ nếu các con ngoảnh mặt đi hết chắc cậu không sống nỗi…
Liễu nắm tay ông Thúc:
- Cậu đừng buồn, ông bà ta thường nói “sanh con há dễ sanh lòng”, những gì anh Mạnh làm hoàn toàn không do cậu xúi giục, cậu cũng chẳng phải người đồng lõa. Tụi con không ai trách giận gì cậu đâu. Tụi con mồ côi mồ cút, chỉ còn lại một người cậu ruột, sao tụi con có thể bỏ mặc chứ!
- Vợ chồng con bàn với nhau, lần này về đón cậu, bà và em Sang cùng lên trên ấy, con mong mọi người đừng từ chối! Cậu với bà lên trên đó sống con mới có thể cận kề chăm sóc… Chồng con tính tình rất tốt, ảnh cũng chẳng còn người thân, cậu đừng ngại ngần gì hết! Cậu và bà đi với chúng nghen?
Liễu nói thêm.
Ông Thúc suy nghĩ hồi lâu mới lên tiếng:
- Cậu rất cám ơn vợ chồng con đã quan tâm đến cậu. Nhưng cậu già rồi, không sống được mấy năm nữa. Cậu muốn những năm tháng cuối đời mình được gắn bó với quê hương, muốn ở lại nơi này dùng chút sức lực còn lại để chăm sóc mộ phần, hầu tạ lỗi với tổ tiên vì đã trót sanh ra một đứa con ác độc. Con cứ dắt thằng Sang đi theo để lo tương lai cho nó, phần cậu con đừng bận tâm. Nhìn thấy các con sống yên vui là cậu mãn nguyện rồi, có nhắm mắt cũng được yên tâm.
Quay sang bà câm, ông Thúc hỏi:
- Còn bà, bà có đi theo chị em con Liễu không?
Bà câm xua tay, cười móm mém. Bà đã gắn cuộc đời mình với ngôi nhà này từ thời còn thơ bé. Bà là một đứa trẻ bị bỏ rơi được bà Chín Hoa mang về nuôi nấng.
Nhiều năm trôi qua, bà đã chứng kiến bao cảnh thăng trầm, đã lặng lẽ sớt chia với các con bà Chín những buồn vui, no đói. Giờ cuộc sống về già của bà thế này nghĩ cũng vui.
Bà được ông Thúc cho một số vàng làm của, đem gởi vào ngân hàng sống không lo đói. Bà lại thường giúp đỡ những người quanh đây nên chắc họ cũng không bỏ rơi bà khi bà cần đến.
Lên Sài Gòn làm gì, tù túng lắm! Bà vẫn thường nghe bà Lan thở than như thế!
Liễu hết lời thuyết phục nhưng vẫn không lay chuyển được hai người già, cô chỉ còn hy vọng đem được thằng Sang theo.
Vậy mà, vừa nghe Liễu đề nghị, thằng Sang  thừ người ra một chút rồi nói:
- Thôi, em không đi đâu! Em thích cuộc sống bình lặng ở thôn quê hơn, lên phố chợ ồn ào lắm, em không chịu được. Chị cứ yên tâm, thỉnh thoảng em lên thăm chị hoặc chị về thăm em, vậy là vui rồi!
- Em lên đó sẽ có tương lai!
Liễu nói.
Thằng Sang phì cười:
- Nói như chị những người không ở Sài Gòn thì chỉ có hiện tại và quá khứ thôi sao? Theo em, ở đâu cũng vậy, miễn sao mình có ý chí là được. Em mà lên Sài Gòn, chị biểu sẽ đi giăng lưới cắm câu chỗ nào? Thiếu mấy cái đó em buồn chết! Em thì không thể ngồi may vá như chị được đâu.
- Anh chị sẽ xin việc làm phù hợp với em!
- Những việc ở thôn quê này mới thật sự thích hợp với em, em không thể rời xa nơi này được. Mà thôi, để cho chị yên lòng em xin hứa, bao giờ chán cuộc sống nơi đây em sẽ lập tức lên sống cùng anh chị, chị chịu chưa?
Liễu năn nỉ hồi lâu vẫn không ai chấp thuận, cô thở dài không biết nói sao.
Chiều hôm ấy Liễu đi thăm hỏi những nhà lân cận. Ai cũng mừng cho cuộc sống hiện tại của cô.
Liễu cùng với Sang đi viếng mộ mẹ. Ông Thịnh, mẹ cô, Nam, Quốc, Mạnh nằm cùng một dãy với nhau.
Nhìn những ngôi mộ lạnh lùng, trắng toát Liễu không khỏi xúc động. Cô thắp nhang một lượt rồi quỳ trước mộ mẹ, nước mắt chan hòa.
Thằng Sang bứt mấy cọng cỏ vừa mới nhú lên quanh chân mộ, an ủi chị ra vẻ như người lớn:
- Mỗi người đều có phần số, chị đừng đau buồn thêm nữa! Cái gì đã qua rồi hãy để nó qua luôn! Mẹ mà thấy chị buồn phiền chắc mẹ cũng không vui đâu!
Nghe giọng ông cụ non của thằng Sang, Liễu không khỏi tức cười. Cô ngồi sát vào em, lưng tựa vào mộ mẹ, mắt ngó những ngôi mộ kề bên.
- Chị không ngờ sau sáu năm chị em mình xa cách, giờ em lại trưởng thành đến thế! Chị rất vui, Sang ạ!
Liễu vuốt tóc em trai, nói.
Hai chị em ngồi nhắc lại những kỷ niệm đẹp đã qua, mãi đến khi mặt trời khuất sau vườn cây phía trước hai chị em mới thong thả ra về.
Trời vừa sụp tối, thanh niên nam nữ trong vùng lũ lượt kéo tới nhà ông Thúc.
Thấy Liễu ngạc nhiên, Sang giải thích:
- Nhà mình giờ là lớp bổ túc văn hóa đó chị, em cũng đang theo học.
Liễu cười, gật đầu chào bọn trẻ rồi ung dung đi dạo quanh sân.
Trong nhà, đèn néon sáng trưng vang lên tiếng nói cười, giỡn đùa vui vẻ.
Liễu ngồi đong đưa trên chiếc xích đu nghe lòng thư thái lạ.
Cô thầm hỏi, không biết lâu nay Trọng sống ra sao, có khi nào anh ấy nhớ đến Liễu không?
Nếu có dịp nào gặp lại, mình sẽ nói với anh ấy rằng mình không còn trách hờn gì anh hết, cuộc sống vốn có rất  nhiều điều xảy ra ngoài ý muốn con người…
Buồn đau, oán giận tất cả qua rồi, giờ lòng cô thật sự bình yên.
Gió đêm thổi mát rượi, vành trăng non lấp ló trên bầu trời chưa đủ sáng để che khuất các vì sao.
Muôn vàn ngôi sao lấp la lấp lánh, Liễu đã có sẵn một điều ước trong lòng nhưng chờ mãi vẫn không thấy sao băng…
Liễu ngủ quên trên chiếc xích đu lúc nào không biết, đến khi lớp học tan ra, thằng Sang vừa lay chị dậy vừa cười ngắc nghẻo:
- Chị Liễu ơi, chị Liễu! Lớn rồi còn ngủ không đúng nơi đúng chỗ, em không ẵm chị nổi đâu nghen!
- Ơ… tại gió mát quá… chị ngồi chơi rồi ngủ luôn… Ai cần em ẳm chứ! Nè, bây giờ tự chị đi vào nhà, đâu cần em!
Hai chị em vừa đi vừa đùa giỡn.
Bà câm, ông Thúc lắng tai nghe cũng phơi phới trong lòng.
Sáng hôm sau Sơn về đến. Anh vừa bước lên khỏi đò đã nhìn thấy một cậu thanh niên tươi cười hỏi:
- Anh có phải là anh Sơn không? Chị Liễu bảo em đi đón!
- Ồ, vậy ra em là Sang à? Nghe Liễu nhắc em hoài nhưng anh cứ nghĩ em còn bé tẹo, không ngờ em lớn thế này rồi!
- Anh lên xe, em chở về! Từ đây tới nhà còn xa lắm!
- Trời mát, hai anh em mình vừa đi bộ vừa ngắm cảnh cho vui!
Sơn đề nghị nhưng Sang không đồng ý:
- Không được! Anh muốn ngắm cảnh chiều nay chị Liễu sẽ đưa anh đi, em có bổn phận phải đưa anh về nhà ngay, ở nhà mọi người đang chờ anh. Ai cũng nôn nóng gặp anh hết đó!
Sơn giả bộ lè lưỡi:
- Ý trời, em đừng làm anh run nghe!
Sang cười ngất:
- Em khoái anh rồi!
- Anh cũng khoái em luôn!
Hai anh em nhanh chóng trở nên thân thiết, cả hai vừa đi vừa nói cười rôm rả.
Về tới nhà sau khi chào hỏi, chuyện trò, Liễu mời cả nhà ngồi vào mâm cơm với nồi canh chua cá lóc còn bốc khói và món cá rô kho tộ thơm lừng.
Sơn hít hà, nói nhỏ với Liễu và Sang:
- Chắc anh ở đây luôn quá!
- Anh hai thích đi bắt cá không? Chiều nay theo em!
Nghe Sang rủ rê, Sơn cười đáp:
- Anh rất sẵn sàng!
Lâu lắm rồi cả nhà ông Thúc mới có được bữa ăn đông người và vui vẻ như thế. Bà câm cứ rối rít xới cơm cho người này, chan miếng canh hoặc gắp một chút cá cho người kia. Bà vui mừng ra mặt.
Cơm nước xong, vợ chồng Liễu về phòng riêng. Nhìn vẻ mặt rạng ngời hạnh phúc của Liễu, Sơn cười:
- Nếu biết về đây làm em vui thế này anh đã đưa em về từ lâu rồi!
Liễu dụi đầu vào ngực chồng:
- Tất cả đều nhờ anh đó! Nếu không có anh, chẳng biết tới bao giờ em mới có can đảm trở lại quê nhà… Anh nói đúng lắm, khi đối diện với sự thật, chấp nhận nó để rồi quên lãng nó thì lòng mình mới thư thả được. Còn cứ trốn chạy như em, mãi mãi vẫn không dứt được!
- Thấy em vượt qua được, anh rất mừng! Từ nay gia đình chúng ta sẽ bắt đầu một cuộc sống mới vui tươi hơn, Liễu nhé!
Liễu nằm gối đầu trên cánh tay chồng, lắng tai nghe tiếng gà gáy trưa, tiếng ầu ơ ru con từ nhà bên cạnh văng vẳng đưa sang, tiếng gió thổi xạc xào khóm cây ngoài vườn, cô bỗng hiểu tại sao ông Thúc, bà câm và cả thằng Sang không ai chịu theo vợ chồng cô lên Sài Gòn sinh sống.
Quê hương thật thanh bình và gần gũi biết bao.
Liễu ngủ thiếp đi, trên môi vẫn còn nở nụ cười.
* *
*
Hai hôm sau, Sang tiễn vợ chồng Liễu ra bến đò lúc trời chưa hửng sáng. Ba người tay xách lỉnh kỉnh đủ thứ quà cáp, trái cây.
Cỏ bên đường còn ướt sương đêm. Mùi hương ban mai thoang thoảng trong làn gió sớm…
 Đi ngang qua ngôi nhà mồ Liễu hỏi:
- Bầy dơi còn sống trong đó không em?
- Dạ không, cậu hai kêu em đuổi chúng đi hết, giờ không còn con nào cả!
Liễu ngậm ngùi, thời oan khốc đã qua rồi, giờ đây đứa em bé bỏng của cô đã dẹp hết những tàn tích cũ.
Cũng phải thôi, lưu giữ mà làm gì!
Sơn dặn dò:
- Anh chị đi, ở nhà có việc gì em nhớ nhắn cho anh chị biết. Khi nào muốn thay đổi không khí, anh sẽ về đón em lên chơi.
- Dạ!
- Cậu và bà lớn tuổi rồi, chị không có ở nhà, em ráng thay chị chăm sóc cho bà và cậu nghe Sang!
Liễu bịn rịn. Thằng Sang nhìn chị cười:
- Hồi đó chị đi không thèm nói với em một tiếng, sao giờ dặn em đủ thứ vậy?
- Bộ em còn giận chị Liễu sao?
Sơn hỏi.
Thằng Sang cười tít mắt:
- Đâu có, em chọc chị ấy thôi! Ai biểu từ hôm qua tới giờ chị cứ dặn đi dặn lại câu đó hoài.
Liễu cốc vào đầu em.
- Ui da, anh hai xem chị Liễu ăn hiếp em kìa!
Sang vờ nhăn mặt.
Sơn nhìn hai chị em Liễu, lòng anh cũng thấy vui lây…
Đò tách bến, thằng Sang vẫy chào, bắt tay lên miệng làm loa:
- Anh chị nhớ về thăm em nghen!
Tiếng nó vang vang trong buổi sớm mai làm mấy chú chim nhỏ đang chuyền cành phải nghiêng đầu nghe ngóng.
Liễu gật đầu với em mà nước mắt nhạt nhòa.
Chồng Liễu nắm chặt tay cô nói khẽ:
- Quá khứ đã đi qua, em nên chôn vùi hết những đau buồn ngày cũ, hãy sống vô tư, vui vẻ như thằng Sang, Em nhé!
Liễu nép vào Sơn. Cô vẫy chào thằng Sang, nụ cười lại sáng bừng trên khuôn mặt…
Dòng sông ngầu đục phù sa lặng lờ trôi chảy. Đám lục bình dập dờn theo từng con sóng nhỏ, mang trên mình những bông hoa tím ngát.
Đò đã ra xa bờ. Cù lao Hàm Rồng nhìn xa chỉ thấy một màu xanh ngút mắt.
Bất chợt Liễu mỉm cười trước vẻ đẹp của sông nước buổi ban mai.
Xa xa, vầng mặt trời đỏ rực từ từ nhô lên, dòng nước trở nên lấp loáng. Cảnh vật xung quanh sáng bừng lên, cả không gian rực vàng ánh nắng.
Bình minh lên rồi. Một ngày mới bắt đầu.
Liễu tựa vào vai chồng, cô biết mình đang ngập tràn hạnh phúc….
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:01:23 bởi nguyenthu >
Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện ngắn của Nguyễn Thị Mộng Thu - 11.08.2009 15:31:51
ĐÓA HỒNG ĐÊM SINH NHẬT THỨ 20

- Thu ơi, ra bờ sông chơi không?
Nghị tay ôm cây ghi-ta ghé phòng tôi rủ rê. Tôi bật dậy:
- Ra! Chờ Thu chút nghen!
Tôi chảy sơ lại mái tóc, khóa cửa phòng rồi cùng Nghị ra sông. Phòng tôi nằm cuối dãy ký túc xá, gần bờ sông An Phú, chiều thứ bảy nào cũng vắng hoe, đứa đi chơi với “bồ”, đứa về quê, đứa tới nhà bà con để “nạp thêm năng lượng” sau một tuần lễ cặm cụi học hành. Tôi thì chưa có người yêu, nhà ở xa lơ xa lắc, có người cô ở quận 5 nhưng vì tôi không biết đi xe đạp nên cũng ít về chơi trong ấy. “Chiều thứ bảy máu chảy về tim”, bạn bè tôi thường nói vui như thế, nhưng đối với tôi chiều thứ bảy là những chiều buồn nhất, cô đơn nhất. Một mình nằm chèo queo trong căn phòng vắng ngắt, bài vở học không vô, đầu óc cứ lan man nghĩ ngợi chuyện tầm phào.
Thi thoảng cũng có đứa không đi chơi chiều thứ bảy, ở lại ký túc xá cùng người yêu thủ thỉ chuyện trò hoặc bày ra nấu nướng để bồi dưỡng cho nhau. Tôi trở thành kẻ thừa thải, và những lúc như thế tôi thường lang thang ra bờ sông hứng gió.
Ngoài bờ sông có một ngôi nhà trẻ xinh xắn nhưng chỉ giữ con nít buổi sáng, buổi chiều sinh viên ở khu ký túc xá này thường ra đây học bài, có đứa còn ngủ trưa ở đây để tránh cái nóng hầm hập từ mái tôn dội xuống. Đặc biệt vào những đêm trăng, đây là nơi lý tưởng để chuyện trò tâm sự, để mơ mộng viễn vông.
Đối diện với nhà trẻ là ngôi biệt thự một tầng lầu, dưới sân có trồng mấy cây xoài mùa này lúc lỉu những chùm trái xanh, bọn tôi vẫn thường nhìn mà… nuốt nước miếng cho đỡ thèm! Xung quanh nhà, cỏ với những bụi hoa hồng mọc chen chúc nhau, cao quá gối. Nghe những người dân ở đây kể lại rằng, bà chủ nhà này còn một ngôi nhà khác lớn hơn ở trong Sài Gòn, sở dĩ bà mua ngôi biệt thự nơi heo hút này là để cho anh Thông – con trai út của bà tịnh dưỡng.
Hồi mới nhập học, chúng tôi đã một phen hú vía vì anh ấy. Bữa đó, sau khi nghe nhà trường thông báo một số nội quy, chúng tôi được hướng dẫn về ở khu ký túc xá trong Làng Báo. Phòng tôi có tám đứa con gái, đều từ các làng quê heo hút mới lên thành phố. Chúng tôi mỗi đứa một tay đang dọn dẹp, bỗng từ ngoài cửa một người đàn ông ngang nhiên đi vào, nhìn chúng tôi cười cười. Ngỡ là quản lý ký túc xá tới kiểm tra, cả tám đứa đều ngoan ngoãn gật đầu chào, nhưng anh ta không thèm đáp lễ, cứ đi tới đi lui trong phòng rồi đột ngột bỏ đi ra.
- Người đâu mà mất lịch sự quá! Hằng làu bàu.
Chiều, Hương đang tắm, người đàn ông ấy lại xuất hiện cũng vừa cười, vừa xồng xộc đi xuống nhà sau, nơi có cái nhà tắm mà cửa không khóa được.
- Chú ơi, có người trong nhà tắm, chú đừng xuống đó!
Mặc những lời cản ngăn của Nguyệt, anh ta đẩy mạnh cửa làm hồn vía bọn tôi bay hết lên mây, cũng may lúc đó Hương đã quần áo chỉnh tề rồi. Tuy vậy Hương vẫn tức điên lên, nó cất giọng Huế nặng trịch:
- Mời chú lên phòng quản lý để giải quyết chuyện ni!
Anh ta cười hí hí, dập gót đưa tay chào Hương theo đúng kiểu nhà binh:
- Gút – bay, ngày mai dậy sớm!
Cả tám đứa đều sửng sờ, vừa buồn cười, vưa lo sợ.
Mỗi ngày anh Thông ra vào phòng tôi không biết bao nhiêu lần mà kể, có khi vừa ra tới ngõ anh lại quay vào. Ban đầu chúng tôi sợ lắm, nhưng dần dà cũng quen. Vả lại anh rất hiền, chẳng phá phách chọc ghẹo ai, ngoài việc đi lung tung trong phòng và thỉnh thoảng nói một vài câu ngớ ngẩn. Để đảm bảo “ an ninh”, chúng tôi làm lại cái then cửa thật chắc chắn.
Một lần, mẹ anh Thông đến, vẻ áy náy:
- Xin lỗi các cô, con tôi có làm phiền gì các cô? Nếu có, tôi sẽ khóa cổng không cho nó ra khỏi nhà!
- Dạ thưa Bác, anh Thông đâu có làm gì phiền tụi con. Bác cứ để ảnh tự do, đừng bó buột quá e không tôùt cho sức khỏe của ảnh.
Hằng đại diện cả phòng nói với mẹ anh Thông như thế. Bà cảm động lắm, hết cầm tay đứa này lại xoa tóc đưa kia.
- Bác cảm ơn các cháu, các cháu tốt quá! Nó hiền lành lắm, các cháu đừng sợ, nhưng nếu có gì các cháu cho bác hay, bác sẽ…
Anh Thông hiền thật, nhiều lúc tôi thấy anh ngoan và dễ bảo như một đứa con nít. Những khi rãnh rỗi chúng tôi chuyện trò với anh, mà chủ yếu là chúng tôi nói, còn anh chỉ cười, nụ cười hình như luôn gắn trên môi anh. Nhưng những lúc bận rộn bài vở, chẳng ai đoái hoài gì tới anh, một mình anh ra vào lặng lẽ.
Bọn con trai lớp tôi dạy anh nói mấy câu tiếng Nga khi lớp tôi bắt đầu học Nga văn. Anh chăm chỉ lắm, học được tiếng nào là suốt ngày lẩm bẩm nói đi nói lại: “bờ-rát bui-che” (xin chào), “đa” (vâng), “nhét” (không)… Tuần rồi nhỏ Thủy còn dạy cho anh “ hap-py bớt-đê” để chúc mừng sinh nhật nó.
Tối nay, tôi với Nghị ra bờ sống đã thấy anh ngồi lù lù trên ghế đá. Nhận ra chúng tôi, anh dịch người sang một bên nhường chỗ, bất ngờ thấy cây ghi-ta trong tay Nghị, anh hồ hởi bảo:
- Đàn đi! Hát đi! Hát “ Cháu lên 3” đi!
Nghị thân mật vỗ vai anh:
- Được rồi, bây giờ Nghị đàn và hát cho hai người nghe nha, nhưng không hát “ Cháu lên 3” đâu, bài hát đó dành cho con nít, mình lớn rồi phải hát bài người lớn chứ!
- Mình lớn rồi hả? Anh ngô nghê hỏi lại.
- Ừ, lớn lắm rồi !
Nghị búng nhẹ vào mấy sợi dây đàn, quay sang hỏi tôi:
- Thu thích bài gì?
- Bài gì Thu cũng thích! Tôi thờ ơ đáp .
- Vậy thì… “ Triệu đóa hoa hồng”, nhé!
- Ừ, anh Nghị hát đi!
Tiếng ghi-ta bập bùng, tiếng hát của Nghị lúc thiết tha day dứt, lúc sôi nổi nồng nàn khiến tâm trí tôi chơi vơi, buồn rũ. Tội nghiệp cho anh chàng họa sĩ si tình đã bán hết gia tài để mua những đoá hồng đỏ thắm tặng người yêu nhưng lại không được nàng biết đến, và hạnh phúc thay cho cô gái được chàng yêu! Ước gì trên đời này có một người yêu thương tôi, yêu thương bằng một phần nhỏ tình yêu cuồng nhiệt của anh chàng họa sĩ kia thôi, tặng cho tôi một đóa hồng thôi chắc tôi cũng sẽ sung sướng lắm. Ngày trước, cũng có một người yêu tôi nhưng người ấy có thật lòng không nhỉ? Một mối tình đến rồi đi, hư ảo như một giấc mơ, chẳng có gì sâu sắc nhưng sao cứ âm ỉ sống trong tôi, để những chiều thứ bảy quạnh buồn tôi cứ phải lê la ra ngồi bên bờ dòng sông này để tưởng nhớ tới một dòng sông khác.
Giờ đây, tôi bỗng thấy nhớ cồn cào, không hẳn là nhớ quê, nhớ nhà, cũng không hẳn là nhớ một người nào đó, chỉ biết rằng trong lòng tôi, lúc này, có một cái gì đó như đã dồn nén từ lâu, giờ chỉ chợt vỡ ra…
Nghị vẫn say sưa hát, bài hát về tình yêu, về những bông hồng đỏ thắm. Bất chợt anh Thông rời ghế đá, đến bên khóm hồng trước cổng ngắt lấy một bông, chìa ra trước mắt tôi và nói :
- Hap-py bớt-đê!
Nghị cười vang. Tôi run run nhận lấy bông hoa anh tặng và chợt nhớ đêm nay là đêm mười một tháng mười một, tôi vừa tròn hai mươi tuổi .
Nước mắt tuôn ra, tôi gục xuống, nức nở …
Nguyễn Thị Mộng Thu

Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

nguyenthu
  • Số bài : 305
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.02.2008
  • Nơi: Tiền Giang
Truyện ngắn của Nguyễn Thị Mộng Thu - 11.08.2009 20:16:55
NHỮNG MÙA NOEL BUỒN
 
Khi những ngọn gió mùa đông bắc tràn về trên khắp mọi ngã đường, mọi ngõ ngách. Khi đâu đó chan hòa nắng ấm, thấp thoáng ẩn hiện một vài chiếc áo len, và nhất là khi những cây thông Noel, những món quà giáng sinh, những vật trang trí cho đêm thánh lễ thêm phần rực rỡ được bày bán là lòng em lại không sao quên được, là nỗi đau trong em lại trỗi dậy sau bao nhiêu ngày tháng em cố lãng quên, cố vùi chôn dưới những bộn bề lo toan của cuộc sống, những bổn phận, những trách nhiệm mà em phải đeo mang trong vai trò làm vợ…
Anh ơi…
Anh còn nhớ không? Đã có những mùa Noel thật ấm áp cho chúng ta, khi tay trong tay mình dìu nhau bước giữa dòng người đông đúc trong đêm Chúa giáng sinh.  Tiếng chuông thánh đường ngân nga, đôi trái tim chúng mình cùng hòa nhịp… Em đã nhắm mắt nguyện cầu bên máng cỏ, cầu Chúa cho tình của đôi mình mãi mãi keo sơn…
Nhưng anh ơi… có lẽ lời nguyện cầu của em chưa đủ thành tâm, hay vì đêm Noel có quá nhiều lời cầu nguyện nên Chúa hài nhi đã không nghe được lời thì thầm của trái tim em?
Chúng mình xa nhau… xa nhau khi mùa xuân vừa kịp về tới ngõ, xa nhau khi cây thông Noel hôm nào ở nhà ai còn xanh mướt gọi mời… Chúng mình xa nhau không một lời trách hờn giận dỗi, không một câu nói nặng nề… Mà chỉ có nước mắt… nước mắt em rơi… nước mắt anh rơi…
- Mỗi năm, khi đến ngày Noel, anh sẽ vẫn chờ em nơi mình vẫn thường hò hẹn, nếu em nghĩ lại, nếu em muốn quay về với anh thì em hãy đến…
Đó là lời anh nói với em trước khi quay bước…
Em chơi vơi hụt hẫng, em ngơ ngác đau buồn… nhưng rồi, dòng đời đã cuốn phăng em đi, neo buộc em vào một bãi bờ xa lạ, không phải là anh…
Ngày em mặc áo vu quy cất bước theo chồng, trời mới lập đông. Những ngọn gió đầu mùa không đủ lạnh để xua tan cái nóng nực của phương Nam, nhưng cái nắng phương Nam cũng không đủ ấm để xua đi những tảng băng nặng nề đang kết tụ giữa lòng em…
Lấy chồng rồi em vẫn không thôi nhớ nghĩ về anh, vẫn không thôi nôn nao mỗi khi đi qua những con đường quen thuộc từng in dấu chân hai đứa của một thời yêu thương tha thiết…
Người người nô nức chờ đón ngày Chúa giáng sinh. Em cũng nô nức mong chờ…
Em đi mua cây thông, mua thật nhiều đồ vật trang trí… Suốt mấy ngày trời em dành hết thời gian và tâm trí của mình vào việc trang hoàng một góc Noel… góc Noel cho riêng mình…
Đêm Noel đầu tiên sau ngày lấy chồng, em thoái thác lời rủ rê của chồng mà tìm cách ra khỏi nhà một mình, lang thang một mình đến nơi hẹn cũ…
Dòng người qua lại ồn ào, nhưng hình như chẳng có một ai đơn lẻ như em…
Em co ro dù trời không rét mướt, em đứng nép vào lề đường, nhường lối cho bao nhiêu cặp tình nhân ríu rít đi qua…
Bất chợt, em hoảng hốt khi có ai đó khẽ chạm vào em…
Ngỡ ngàng em nhận ra anh!
Anh vẫn như xưa, vẫn đôi mắt u buồn nhìn em trìu mến…
- Em sống thế nào? Hạnh phúc không em? Tay em lạnh lắm rồi nè…
Bàn tay anh siết chặt tay em, giọng nói anh ân cần và thật ấm.
Em chỉ muốn được như ngày xưa… không, được như mùa Noel năm trước, em sẽ lại ngã đầu lên vai anh, sẽ lại vùi mặt mình vào khuôn ngực ấm áp của anh và sẽ kéo tay anh chạy thật nhanh đến hàng bắp nướng. Chúng mình sẽ vừa ăn, vừa xuýt xoa vì ngon và vì không khí ấm áp…
Nhưng bây giờ thì… không thể được! Ngay cả bàn tay em trong tay anh vẫn có chút gì đó gượng gạo không bình thường…
Mình đứng sát bên nhau, hơi thở anh thỉnh thoảng lại phả vào em thân thiết… mình nói những câu chuyện đời thường đâu đâu, mỗi đứa đều tránh nhắc tới hoàn cảnh hiện tại.
Rồi anh đi, không quay nhìn lại… Em nuốt nước mắt vào lòng lặng lẽ trông theo…
Lại một mùa Noel nữa đến kìa anh, em lại một mình đứng chờ anh bên lối hẹn ngày xưa…
Khuya lắm rồi mà sao anh vẫn chưa đến? Em run rẩy thu mình trong chiếc áo khoác mỏng manh mà lúc nãy khi rời khỏi nha,ø chồng em đã nhắc em phải khoác vào cho ấm.
Người xe trên phố thưa dần, lòng em cũng dần rệu rã…
Nhưng kia rồi, anh đang tới…
Anh chạm khẽ vào tay em, mỉm cười hỏi nhỏ:
- Chồng em đâu?
Sự va chạm giữa hai bàn tay rất khẽ và rất nhanh, nó không đủ để anh cảm nhận được đôi bàn tay em đang tê cóng…
Em chưa kịp trả lời anh, cũng chưa kịp hỏi anh điều gì thì anh đã vội gật đầu chào em và bước đi thật nhanh, đi về một hướng khác… Em thầm hỏi, ở cuối con đường kia, có người con gái nào đang chờ đợi anh không?...
Em buồn, buồn vô cùng! Em tự hứa với mình, đây là lần cuối cùng em một mình giữa đêm Noel… Sẽ không bao giờ em tìm đến nơi này mà trông chờ anh nữa…
Thế nhưng… ba trăm sáu mươi lăm ngày, ngày nào em cũng nhớ về anh, ngày nào cũng khắc khỏai đợi chờ đêm Noel, dù chỉ để được nhìn thấy anh, được chạm thật khẽ vào bàn tay mình yêu mến…
Mùa Noel thứ ba sau ngày em lấy chồng…
- Mẹ ở nhà đón Noel với con, với ba nghen mẹ?
Đứa con gái bé bỏng ngước nhìn em, mắt nó tròn vo trao cho mẹ ánh nhìn hy vọng. Chồng em cũng ngước nhìn em nay vẻ chờ đợi…
Em mỉm cười xoa đầu con gái:
- Mẹ chỉ đi một chút mà thôi! Một chút thôi mẹ sẽ quay về…
… Dòng người ào ạt tiến vào nhà thờ, đường phố trở nên trống trải….
Chuông thánh đường ngân nga báo hiệu giờ Chúa giáng sinh…
Nước mắt em thánh thót rơi như linh cảm một điều gì đó đã thật sự rời xa em, rời xa em mãi mãi…
Lễ tan, người ta về hết, đường phố lặng lẽ buồn tênh…
Em lê từng bước chân nặng nề quay về với mái ấm của mình mà có cảm giác máu trong tim em như đã đông cứng lại…
Anh đã không đến, anh đã không đến thật rồi!
Em biết từ đây em thật sự mất anh!
Biết rằng mình ích kỷ, nhưng anh ơi… em vẫn không sao làm chủ được con tim mình!
Từ bây giờ, mỗi một đêm Noel, em sẽ không ra đường nữa, em sẽ ở nhà và tự treo mình lên cây thập giá, anh ơi…
Lời con nguyện cầu Chúa có nghe không?
Sao bây giờ mình hoài xa vắng?
Bao nhiêu đêm Chúa xuống dương gian
Bấy nhiêu lần con nhớ người yêu…
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu

Một kẻ đời nhiều bất trắc. Nhưng sẽ vươn lên và xanh đến kiệt cùng!

Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 3 của 4 trang, bài viết từ 61 đến 90 trên tổng số 99 bài trong đề mục