Truyện ma của Nguyễn Thị Mộng Thu
Thay đổi trang: << < 456 > >> | Trang 5 của 7 trang, bài viết từ 61 đến 75 trên tổng số 99 bài trong đề mục
nguyenthu 10.08.2009 21:48:59 (permalink)
                                                             MA ÁM

 
Sau khi mẹ tôi mất, do sự xúi giục của chị dâu nên anh Hai tôi quyết định kêu bán ngôi nhà, mảnh vườn và mấy công ruộng của cha mẹ để lại mặc cho tôi khóc hết nước mắt.
Những người bà con  xa cố tình khuyên can, anh Hai nói:
- Dạ, con cảm ơn mấy chú mấy bác đã có lòng quan tâm tới anh em con. Nhưng các chú bác cũng biết hoàn cảnh nhà con rồi đó, chỉ có hai anh em. Vợ chồng con thì có công ăn việc làm ổn định trên Sài Gòn rồi, đâu thể về quê sinh sống được. Còn con Mai, nó là con gái lại mới chừng ấy tuổi đầu, vợ chồng con không sao yên tâm khi để nó sống một mình dưới này. Bởi vậy con tính kỹ rồi, con sẽ bán hết nhà cửa, đất đai ở đây để lên đó mua một căn nhà rộng hơn một chút và đem con Mai về trển luôn…
- Em chỉ biết làm ruộng, trồng vườn… lên Sài Gòn em làm gì được?
Tôi vừa khóc vừa nói.
Chị Hai đến bên ngọt ngào:
- Em không phải lo, anh chị đã tính hết rồi! Em ở dưới quê quanh năm dầm mưa dãi nắng đâu có ích gì, lên Sài Gòn với anh chị, chị sẽ xin cho em vào làm ở các công ty, xí nghịêp nào đó, thí dụ như xin làm công nhân may, công nhân hãng giày… ối, thiếu gì công việc em ơi, chỉ sợ lười biếng không chịu làm mà thôi, chứ siêng năng thì khối việc chờ mình. Em lên đó sống cho có anh có em, như vậy anh Hai em và chị mới yên tâm được. Rồi sau này anh chị kiếm chỗ đàng hoàng gả em trên đó cho nhàn nhã tấm thân.
Những người bà con nghe anh chị Hai tôi nói những lời đầy tính thuyết phục nên cũng gật gù:
- Ờ, vợ chồng thằng Hai tính cho em gái nó vậy cũng phải. Con gái con đứa mới lớn, ở một mình làm sao yên tâm được…
Thế là số phận của tôi đã được quyết định. Một tháng sau, nhà đất bán hết cho người khác, tôi khăn gói theo anh chị về Sài Gòn, giã biệt những năm tháng tuổi thơ trong ngôi nhà ấm áp, giã biệt những kỷ niệm hồn nhiên với đám bạn bè hàng ngày vẫn thường hát hò, chọc ghẹo nhau trên ruộng lúa…
Tôi đi lên Sài Gòn mà trong lòng không một niềm vui, không có cái háo hức giống như trước đây thỉnh thoảng mỗi lần mẹ dẫn tôi lên thăm anh Hai là cả đêm tôi không ngủ được vì nôn nóng.
Lúc mới lên, cả anh chị Hai và tôi ở chung trong một căn phòng bé tẹo, đi ra đi vào người này cứ  như chạm sát vào người kia, giường ngủ của anh chị chỉ cách giường tôi một tấm ri-đô mỏng mảnh, cho nên những ngày đó là những ngày cực kỳ khó chịu cho cả tôi lẫn anh chị Hai.
Có lẽ chíh vì vậy nên chị Hai ngày nào cũng thúc hối anh tôi đi tìm nhà. Cuối cùng thì anh chị cũng tìm được một ngôi nhà khá rộng rãi lại vừa với túi tiền của anh chị, chỉ tội một điều ngôi nhà đó nằm ở nơi còn khá là hẻo lánh, dù vẫn trong địa bàn thành phố.
Tôi rất vui khi được dọn về nhà mới. Thứ nhất, ở đây có vẻ gần gũi với thôn quê, nó gợi cho nhớ về những điều thân thương trong quá khứ nên thoạt nhìn là tôi đã có cảm tình với nó ngay. Thứ hai, dọn qua ngôi nhà này, tôi được anh chị dành hẳn cho một phòng riêng, hoàn toàn cách biệt với anh chị. Bởi vì phòng của tôi ở tầng trệt, nằm giữa phòng khách và nhà bếp, còn anh chị Hai tôi thì ở trên gác.
Thế là tôi đã có riêng mình một thế giới!
Hàng ngày, trong lúc anh chị đi làm thì tôi ở nhà dọn dẹp, nấu cơm. Sau hơn một tháng ổn định ở nhà mới, chị Hai nói với tôi:
- Bây giờ mọi việc trong nhà đã được sắp xếp ổn thỏa hết rồi, em chuẩn bị đi làm nhé? Sống ở đất Sài Gòn này  hễ mở mắt ra là phải tiêu tiền, nên em không thể ngồi không ở nhà được.
Anh Hai có vẻ hơi xót vì anh biết mỗi đêm tôi vẫn còn khóc vì nhớ mẹ, anh can:
- Để thủng thẳng rồi hãy tính đi em, cho nó có thời gian làm quen với cuộc sống ở đây đã. Với lại có nó ở nhà thì em đỡ phải lo nấu nướng, chợ búa…
Chị Hai liếc chồng một cái bén ngót:
- Anh nói buồn cười thật đó! Con Mai đã lên Sài Gòn hơn ba tháng rồi, còn lạ lẫm gì nữa. Hồi đó anh không nhớ sao, ngày đầu tiên vợ chồng mình đặt chân tới đây là bước thẳng vô công ty liền, có chờ đợi cái gì đâu? Công việc nhà này thì có gì, chỉ có bữa cơm, loáng một cái là xong. Em thấy nó cần phải đi làm, thứ nhất để cho nó có tiền mà tiêu xài, chứ chẳng lẽ chuỵên lớn nhỏ gì cũng ngửa tay xin chị dâu, vậy cũng tội cho nó chớ! Thứ hai, vợ chồng mình cũng đâu dư dã mà có thể lo lắng cho nó hoài, mỗi người phải phụ một chân một tay mới duy trì được cuộc sống được chứ!
Anh Hai ngồi im cố nén tiếng thở dài.
Tôi thương anh Hai, tôi hiểu được tâm trạng của nhal úc này và tôi cũng không muốn để anh chị phải xóch mích vì chuyện của tôi.
Tôi giả bộ tươi cười:
- Chị Hai xin cho em làm gì vậy? Nghe nói đi làm em mừng quá, ở nhà buồn lắm, em không chịu nổi.
Chị nhìn anh Hai với vẻ đắc thắng:
- Anh thấy chưa? Anh là đàn ông làm sao hiểu tâm lý phái nữ như em được?
Anh Hai nhìn tôi, không nói gì chỉ lặng lẽ bưng chén cơm lên cố gắng ăn cho hết.
Tôi biết, anh Hai thật sự hiểu được tôi!
Thật ra tôi không phải là đứa lười biếng, nhưng chỉ có điều tôi rất nhát gan, tôi sợ những điều xa lạ. Tôi luôn lo lắng, không biết khi đi làm mình sẽ phải thế nào đây giữa hàng trăm hàng ngàn người hoàn toàn xa lạ? Tôi không ngừng run rẩy khi nghĩ về điều đó.
Tôi thèm biết bao được dầm chân xuống lớp bùn nhão nhoẹt, được cắm từng rẻ mạ non xuống lòng đất để ngày ngày thấp thỏm chờ nó ra bông kết hạt… Ôi, phải chi Sài Gòn gần với quê tôi, tôi sẽ không thèm đi làm hãng xưởng gì hết mà chạy về cấy lúa, nhổ mạ kiếm tiền phụ giúp chị Hai. Nhưng giờ đây với tôi quê hương đã xa vời vợi, mỗi khi nhớ tới tôi lại thấy nước mắt mình cay xè nơi đầu lưỡi…
Sau bữa cơm hôm đó tôi đã tự nhủ với lòng mình rằng, trước hay sau gì thì tôi cũng sẽ phải hòa nhập vào cuộc sống hối hả nơi đây, thì những gì chị Hai nói cũng đúng, tôi phải đi làm, phải lao động, phải có một chỗ đứng trong xã hội, dù rằng chỗ đứng đó thật nhỏ nhoi, khiêm tốn.
Đêm xuống, chờ cho anh chị Hai ngủ yên, tôi len lén đi lên nhà trên thắp nhang cho mẹ. Quỳ trước bàn thờ người mẹ thân yêu tôi âm thầm khấn vái:
- Mẹ ơi… mẹ phù hộ cho con…
Ba hôm sau chị Hai đưa tôi đi làm ngày đầu tiên. Chị xin cho tôi vào làm ở một xưởng may, vì trước đây tôi cũng có học sơ qua nghề này và cũng đã từng may mấy thứ đơn giản như quần áo trẻ con và những thứ không đòi hỏi phải có tay nghề thật vững.
Làm thợ may ở đây thì sướng hơn nhiều, vì người ta chia ra rất nhiều công đoạn, mỗi cái áo, cái quần được phân ra thành từng chi tiết nhỏ, mỗi một khâu chỉ lo phần chi tiết của mình thôi.
Do đó, ngày đầu tiên làm việc của tôi trôi qua thật nhẹ nhõm.
Buổi chiều tan ca, tôi lớ ngớ đi giữa dòng người ồn ào cười nói. Tính tôi ít nói, mặt mày lại nghiêm nghị nên cũng ít người muốn kết thân. Tôi lặng lẽ ra về, và theo lời chỉ dẫn của chị Hai, tôi đến trạm xe buýt và đón đúng chuyến xe về gần tới nhà mình.
Nói là gần chứ thật sự từ trạm dừng xe buýt, tôi còn phải đi bộ gần nửa tiếng đồng hồ mới về tới nhà. Mà con đường đó rất vắng vẻ, hai bên đường còn nhiều cây cỏ hoang vu. Cũng may, tuần lễ đầu tiên tôi đi làm toàn làm ca ngày nên tôi không cảm thấy sợ hãi mỗi lúc đi một mình trên đường vắng.
Mỗi sáng, tôi thức dậy thật sớm để nấu cơm và dọn sẵn ra bàn chờ anh chị dậy cùng ăn. Trưa thì tôi ăn cơm trong xưởng, anh chị Hai cũng ăn đâu đó cho qua bữa, đến buổi chiều hễ ai về sớm thì người đó lo phần cơm nước.
Nói chung thì công việc này cũng không có gì vất vả, vì mỗi tuần chị Hai đi chợ vào ngày nghỉ, chị mua đủ thức ăn dùng cả tuần, làm sạch sẽ rồi để vào từng hộp nhỏ cho từng ngày, tới bữa, chỉ cần đem ra nấu là xong.
Từ hôm tôi đi làm, chị Hai có phần vui vẻ với tôi hơn. Cũng đúng thôi, ai lại vui được khi phải nuôi báo cô đứa em chồng lớn xác!
Mấy ngày sau, tôi đã có được vài người bạn trong xưởng. Cũng mới chỉ là bạn để nói chuyện xã giao cho đỡ buồn thôi chứ bạn thân thì chưa có.
Tuần sau bắt đầu tôi phải làm tăng ca nên về trễ. Có hôm chín giờ tối mới tan ca, không còn xe buýt để về, chị Hai chỉ cho tôi mấy con đường tắt để đi bộ cho gần, và hẹn khi tôi lãnh lương chị sẽ mua cho tôi chiếc xe đạp để thuận tiện cho việc đi lại.
- Hay hôm nào em tăng ca báo cho anh biết, anh sẽ tới đón!
Anh Hai đề nghị, nhưng chị Hai gạt phăng đi:
- Ôi, đưa đón làm gì cho phiền phức, nó đi bộ từ đó về nhà cũng như tập thể dục chứ có gì mà lo! Anh không thấy mỗi sáng mỗi tối đàn bà con gái rủ nhau chạy bộ mấy tiếng đồng hồ đó sao? Nó còn con gái, vận động nhiều vào thì mới giữ được dáng vẻ chứ anh!
Tôi cũng nói xuôi theo:
- Dạ, chị Hai nói đúng đó anh, từ nhà tới xưởng em đi bộ cũng được, anh khỏi đón chi cho mắc công.
Thấy tôi là đứa biết điều, chị Hai tươi cười gắp cho tôi một miếng cá thật ngon.
Mới đó mà một tháng đã trôi qua, cầm tháng lương đầu tiên tôi mừng muốn rơi nước mắt. Tối đó về nhà, khi tất cả ngồi vào mâm cơm, tôi rụt rè đứng lên nói:
- Thưa anh Hai, chị Hai… chiều này em vừa mới lãnh lương, em xin gởi anh chị!
Vừa nói, tôi vừa trao hết tháng lương vừa nhận cho chị Hai. Chị Hai tươi cười đón nhận. Anh Hai lên tiếng:
- Tháng lương đầu tiên em nên để nó giữ cho nó mừng…
Chị Hai quay lại trợn mắt:
- Anh nói kỳ! Em đâu có cần chi tiêu gì phải không Mai? Mọi thứ chị đã lo hết rồi mà? Với lại đi làm về đêm hôm, để tiền trong người nguy hiểm lắm… Nhưng nè, em cầm lấy muốn ăn gì thì mua…
Vừa nói, chị Hai vừa đưa lại cho tôi tờ giấy năm chục ngàn.
Anh Hai nhắc:
- À, phải rồi! Lát nữa mình đi mua cho nó chiếc xe đạp đi, nghe em?
Chị Hai cười mơn trớn:
- Ờ… chị cũng tính mua xe đạp cho em, nhưng cái đó chưa cần thiết lắm mà, phải không Mai? Chị thấy em đi bộ có tác dụng ghê chứ, dáng người thon thả, đẹp lên nhiều đó Mai à! Thôi, xe đạp để từ từ mua sau…
Tôi chưa ăn miếng cơm nào mà đã có cảm giác nghẹn cứng nơi cổ họng. Anh Hai cũng giống như tôi, không làm gì hơn được.
Tôi cúi mặt nói nhỏ:
- Dạ… chị tính sao cũng được!
Bữa cơm trôi qua trong tiếng cười nói vui vẻ của chị Hai, còn anh em tôi chỉ lặng lẽ cố ăn cho tròn bữa.
Thế là tôi vẫn tiếp tục cuốc bộ vào những ngày tăng ca, mà dạo này hàng nhiều nên tăng ca liên tục. Có khi mệt quá, tôi cứ muốn gọi một chiếc xe ôm nào đó để ngồi lên, nhưng khi sờ lại số tiền ít ỏi trong túi tôi lại nản lòng…
Tối hôm đó tổ chúng tôi tăng ca đến gần mười giờ đêm. Khi ra tới cổng, mấy đứa bạn ái ngại nhìn tôi hỏi:
- Mai về nhà bằng gì? Không ai tới đón Mai sao?
Tự nhiên tôi cảm thấy tủi thân, nước mắt chực trào ra nhưng tôi đã cố kìm nén lại:
- Mình đi bộ, nhà cũng gần thôi…
Một đứa lên tiếng:
- Thôi, Mai lên xe mình đưa về cho, đêm hôm vầy mà đi bộ gì…
Nhưng tôi không thể nhận lời được, vì tôi biết, sau hơn một ngày trời làm việc, giờ này ai cũng thèm khát được ngã lưng xuống chiếc giường êm ấm của mình, tôi không thể để vì tôi mà bạn phải thêm một chặng đường xa nữa.
- Không cần đâu, mình đi một chút có thể anh mình sẽ đón, các bạn yên tâm về đi…
Mấy đứa bạn nghe tôi nói vậy nên lần lượt lên xe về hết, tôi một mình đi qua các ngõ hẻm để về nhà.
Con đường tắt về nhà phải băng ngang qua một cái nghĩa địa. Gọi là nghĩa địa nhưng thật ra nó đã được giải tỏa mấy tháng trước, giờ đây bên trong còn đầy rẫy những hố sâu, nơi trước đây là những phần mộ, giờ thân nhân đã bốc lên dời đi nới khác.
Lần đầu tiên đi qua đây tôi không khỏi rùng mình hoảng sợ, nhưng riết rồi cũng quen, cái cảm giác đó không còn nữa.
Tối nay cũng vậy, tôi cũng không thấy hồi hộp khi bước chân vào khu nghĩa địa, nhưng vừa lúc đó trời chuyển mưa đột ngột, mây đen kịt như sắp sà xuống mặt đất, gió thổi thốc từng cơn lạnh buốt. Cả một khu đất trống trải vắng vẻ không có lấy một mái hiên để trú mưa, chỉ trừ tán cây to lớn ở góc bên này.
Tôi ngần ngừ đứng lại ngước lên nhìn bầu trời. Hôm nay thật là xui xẻo vì ban sáng tôi quên không mang theo áo mưa. Nếu chạy thật nhanh thì tôi cũng không thể nào tránh được cơn mưa rào đã bắt đầu rơi xuống. Mà tôi biết mình chịu lạnh rất dở, nếu mắc mưa đêm thế này thế nào tôi cũng bệnh cho mà xem.
Không dám liều lĩnh, tôi nán lại đứng dưới tán cây, vì dẫu sao đứng đây cũng đỡ ướt hơn.
Tôi vừa lùi vào sát gốc cây thì bỗng thấy một người nữa lao vụt vào bên cạnh, hoảng hốt, tôi ú ớ:
- Ơ…
Người mới tới là một chàng trai, thấy tôi ngạc nhiên anh chủ động cười, vừa vuốt nước trên mặt vừa nói:
- Xin lỗi bạn… vui lòng cho mình cùng đứng đây trú mưa một lát nhé?
Tôi vừa lúng túng lại vừa lo sợ, trong cảnh gió mưa thế này lại đang ở nơi hoang vu vắng vẻ, nếu lỡ có chuyện gì không hay tôi biết phải làm sao? Nhưng lúc này tôi cũng thể bỏ chạy được rồi, thôi thì đành phó mặc số phận cho ông trời định đoạt mà thôi.
Tôi co ro nép sát vào gốc cây. Người thanh niên đứng im một lúc rồi gợi chuyện:
- Xin lỗi… bạn đi đâu mà về khuya vậy?
Tôi ấp úng:
- Tôi… tôi đi làm về!
Người thanh niên cười:
- A… tôi đoán bạn là công nhân hãng may gần đây, đúng không?
Tôi đề phòng:
- Sao… anh biết?
Người thanh niên bật cười:
- Tôi đoán vậy thôi mà, vì khu vực này chỉ có xưởng may thường tăng ca nên công nhân về trễ. Bạn… bạn chắc nhỏ tuổi hơn tôi quá?
Tôi cúi đầu, gần như gật mà cũng gần như không.
Người thanh niên tự nhiên nói:
- Tôi tên Huy, nhà cũng ở gần đây. May mà tối nay gặp bạn, nếu không đứng đây một mình tôi… sợ ma!
Tôi bật cười trước câu nói đùa của Huy.
- Bạn là con gái mà gan thiệt đó nghen, dám đi một mình trong đêm tối, lại ở những chỗ như vầy, tôi phục bạn thiệt đó!
Huy nói, vẻ chân thành.
Tôi cười buồn:
- Có gì đâu mà phục, cũng là do hoàn cảnh nên bắt buộc phải vậy thôi anh Huy à!
Huy nhìn tôi một lúc rồi nói:
- Nếu không có gì phiền, bạn có thể cho tôi biết tên được không?
Tự nhiên không hiểu sao lúc đó tôi cảm thấy không cần thiết phải giấu giếm điều gì với người con trai hoàn toàn xa lạ ấy.
- Em… em tên Mai. Anh Huy cứ gọi em là Mai đi, chắc chắn em nhỏ tuổi hơn rồi!
Một ánh chớp lóe lên giúp tôi thấy được nụ cười thân thiện của Huy:
- Vậy thì cho phép anh được xưng anh và gọi Mai bằng tên nhé?
Tôi mỉm cười đứng nhìn ra màn đêm mưa gió.
Huy nói:
- Mấy hôm trước thỉnh thoảng anh cũng thấy Mai đi qua đây.
Tôi ngạc nhiên:
- Ủa, anh ở đâu sao thấy em?
Huy cười cười:
- Anh là công nhân cơ khí, cũng hay đi làm về muộn như Mai vậy, có khi Mai đi trước anh đi sau, tại Mai không để ý nên không biết đó chứ!
- Vậy à!
Tôi nói cho có.
Lúc đó ngoài trời mưa đã bắt đầu tạnh. Tôi đưa một tay lên che đầu và nói với Huy:
- Thôi, tạnh mưa rồi, em về nhé?
Huy vội nói:
- Ừ, anh cũng về! Nhà Mai ở đâu, để anh đưa về cho!
Tôi cười:
- Cảm ơn anh Huy, em đi một mình được rồi, không dám làm phiền anh đâu ạ!
Huy tỏ vẻ phật lòng:
- Sao Mai lại nói vậy? Không biết nhau thì thôi, đã biết nhau rồi thì coi nhau như bạn, anh không thể nào để bạn đi một mình trong đêm vậy được đâu!
Trời vẫn còn mưa lất phất, nên tôi cứ vừa từ chối Huy vừa rảo chân đi nhanh ra khỏi khu vực nghĩa địa, Huy cũng đi theo không rời.
Ra tới lộ lớn, Huy nói:
- Nhà anh rẽ hướng này, nhưng anh sẽ tiễn Mai về trước!
Biết không thể đứng lại đôi co hoài, tôi bỏ mặc Huy muốn đi theo thì đi, cứ cắm đầu đi như chạy.
Tới trước cửa nhà, tôi dừng lại mỉm cười:
- Tới nhà em rồi, cảm ơn anh Huy nhiều lắm. Chào anh!
Huy nhìn tôi nói nhỏ:
- Tội nghịêp Mai quá, một mình phải đi cả một quãng đường dài trong đêm tối. Từ nay, anh sẽ đưa Mai về mỗi tối nghen?
Tôi bật cười:
- Em quen rồi, không sao đâu anh Huy ơi! Với lại làm sao anh Huy có thể đưa em hoài được?
- Được chứ! Nhất định thế nhé? Thôi, anh về đây, Mai vào nhà đi!
Huy nói xong quay lưng đi nhanh trở lại.
Tôi đứng nhìn theo và mỉm cười đi vào nhà. Có lẽ lâu lắm rồi tôi mới có được niềm vui như vậy.
Đêm đó tôi không sao ngủ liền như thường ngày được, mà đầu óc cứ vẩn vơ suy nghĩ mãi tới Huy. Tôi cảm ơn trời phật đã cho tôi gặp được một thanh niên tốt như vậy, chứ nếu Huy là kẻ xấu, thì không biết giờ phút này tôi ra làm sao nữa.
Tối hôm sau tôi tan ca lúc tám giờ. Vừa ra khỏi cổng công ty, bất ngờ tôi nghe tiếng gọi:
- Mai! Mai!
Ngạc nhiên nhìn sang bên kia đường, tôi thấy Huy đang vẫy tay với mình.
Tôi còn đang đứng sững vì ngạc nhiên thì Huy đã băng qua, tới gần bên tôi cười nói:
- Anh đi làm về, đứng đây chờ Mai nè!
Tôi lúng túng:
- Anh Huy… thật làm phiền anh quá!
Huy cười:
- Có gì đâu, Mai đừng ngại, trên đường về có bạn phải vui hơn không? Dù sao thì anh với Mai cũng đi chung một quãng xa mà?
Mấy đứa bạn nhìn tôi dò xét. Có đứa đến bên hỏi nhỏ:
- Anh của Mai đó hả? Còn trẻ quá hén?
Tôi chỉ cười, không giải thích gì thêm nên đám bạn cứ tưởng Huy là anh Hai của tôi.
Từ đó mỗi đêm tôi tăng ca là có Huy về cùng. Một lần tôi thắc mắc:
- Sao ngày nào anh Huy cũng làm ra cùng giờ với em vậy? Em nghi quá nghen…
Huy bật cười:
- Anh không giấu nữa, anh nói thiệt nè, tại anh cố tính đón Mai thôi, giờ giấc của anh không quan trọng.
Tôi tròn mắt:
- Anh Huy cố tình đứng đó chờ Mai?
Huy mỉm cười gật đầu.
Tôi vừa cảm thấy sung sướng lại vừa cảm thấy ái ngại.
Tình bạn giữa tôi và Huy ngày càng trở nên thân thiết, mỗi ngày đi làm về đối với tôi là một niềm vui vô bờ bến. Tôi thật không ngờ ở giữa Sài Gòn xa lạ này, tôi lại có một người bạn, một người anh hết sức quan tâm tôi, lo lắng cho tôi từng li từng tí.
Với Huy, giờ đây tôi hoàn toàn không có gì để e ngại nữa, tôi đã kể cho anh nghe về hoàn cảnh của mình, về những nỗi buồn những niềm vui mà tôi đã từng trải qua. Lúc nào Huy cũng chia sẻ với tôi một cách chân thành.
Ngày tháng trôi qua êm đềm như thế. Những hôm không tăng ca, tôi lại cảm thấy buồn, thấy hình như mình đang nhớ Huy nhiều lắm… Lần đầu tiên trong đời con gái, tôi cảm nhận được một thứ tình cảm thật khác lạ đang chi phối mình, nhưng tôi vẫn chưa dám gọi nó bằng hai tiếng tình yêu, vì tôi sợ…
Nếu mọi chuyện cứ diễn ra suông sẻ như vậy thì chắc không có gì để nói. Nhưng cuộc sống của tôi đã bị xáo trộn sau hai tháng tôi và Huy quen biết.
Tối hôm đó tôi đi vào nhà vệ sinh của công ty. Vừa đẩy cánh cửa, tôi đã hoảng hốt kêu lên vì thấy rõ ràng bên trong là một thân thể đang treo lủng lẳng trên trần nhà.
Nghe tiếng la kinh hãi của tôi, mấy công nhân đi vệ sinh gần đó chạy tới hỏi:
- Có chuyện gì vậy?
Tôi run rẩy chỉ tay vào phòng vệ sinh, miệng cứng lại không nói được thành lời.
Mọi người đổ xô tới mở toang cánh cửa ra thì bên trong hoàn toàn không có gì lạ. Họ nhìn tôi bằng ánh mắt nghi ngờ:
- Đâu có gì trong này? Sao vậy?
Tôi cố gắng phát ra tiếng nói:
- Có… có mà… em thấy rõ ràng có một người treo cổ trong đó!
Mấy chị lớn tuổi bá vai nhau cười rần rần:
- Em thức quá nên mơ ngủ rồi đó em ơi! Nè, tiến tới gần nhìn đi, có gì đâu? Ai treo cổ đâu?
Vừa nói, một chị vừa đẩy tôi tới gần cánh cửa. Tôi run rẩy tiến lên. Quả thật trong phòng lúc này hoàn toàn không có gì! Tôi dụi mắt mấy cái, nhìn lại lần nữa, vẫn vậy!
Xấu hổi trước mọi người, tôi ấp úng:
- Em… em xin lỗi… có lẽ lúc nãy em bị hoa mắt!
Đám đông tản ra, có người thông cảm, có người dè bỉu nhưng tôi mặc kệ, tôi đang tự thắc mắc với bản thân mình.
Rõ ràng lúc nãy không phải tôi hoa mắt hay ngủ mơ gì cả. Khi đi xuống đây tôi hoàn toàn tỉnh táo, không hề buồn ngủ chút nào. Bây giờ hình ảnh của cái thi thể đó vẫn còn in đậm trong đầu tôi…
- Cái gì đang xảy ra với mình thế này?
Tôi lo lắng quá nhưng không biết chia sẻ cùng ai, sẽ chẳng có một ai tin tôi đâu. Vì tôi chỉ có hai con mắt, còn lúc nãy đám đông đó có tới hàng chục con mắt, người ta phải chính xác hơn tôi nhiều chứ.
Chiều hôm đó tan ca tôi lại gặp Huy trước cổng công ty. Khi chỉ còn lại tôi và Huy trên đường, Huy hỏi:
- Trông Mai hôm nay không giống như mọi khi, có chuyện gì xảy ra với em sao, Mai?
Tôi ngước lên nhìn Huy, định kể cho Huy điều đó. Nhưng tôi không dám, bởi vì tôi biết Huy sẽ không bao giờ tin đó là sự thật, Huy cũng sẽ bảo rằng do cơ thể tôi mệt mỏi nên mới sinh ra ảo giác bậy bạ. Nghĩ vậy nên tôi không kể mà nói trớ:
- Dạ… tự nhiên em thấy không khỏe trong người!
Huy lo lắng:
- Em muốn bệnh rồi sao? Có cần đi khám bác sĩ không Mai?
Tôi mỉm cười khi thấy Huy cuống quýt như thế:
- Không sao đâu anh Huy à, em về nhà ngủ một giấc sẽ khỏe lại thôi mà, anh đừng lo!
Tôi cố gượng cười và làm ra vẻ tự nhiên thoải mái như thường ngày nhưng không được, Huy vẫn nhìn tôi bằng ánh mắt xa xót, thương cảm.
Lúc tôi và Huy đi vào khuôn viên nghĩa địa, bất chợt tôi lại trông thấy cái thi thể ban chiều treo ngược trên cành cây.
Tôi níu chặt tay Huy:
- Anh Huy… kìa… kìa…
Tôi không nói được gì nhiều vì sợ đến líu cả lưỡi, chỉ còn đủ sức giơ tay chỉ về hướng đó.
Trong một giây, tôi thấy mặt Huy biến sắc.
Huy cầm chặt tay tôi nói lớn tiếng:
- Gì vậy Mai? Em sao vậy?
Lúc này cái xác tòng teng trên cây cũng đã biến mất nhưng tôi vẫn còn sợ toát mồ hôi hột.
- Anh không thấy gì sao, anh Huy?
Tôi ngạc nhiên hỏi.
Huy đưa mắt nhìn ra xa nói:
- Có gì đâu? Em thấy gì mà sợ dữ vậy?
Tôi nuốt khan nơi cổ họng rồi lắp bắp nói:
- Một … một người! Một người treo cổ trên cành cây… Mà… hồi chiều… lúc đi vệ sinh em cũng đã… đã thấy người đó treo trong phòng vệ sinh…
Huy siết chặt hai bàn tay tôi:
- Em đừng sợ, có anh bên cạnh đây rồi, không ai làm hại được em đâu… Có lẽ em không khỏe nên…
Tôi nhìn thẳng vào mắt Huy, cắt lời anh:
- Anh muốn nói vì không khỏe nên em có ảo giác, phải không? Không thể… không thể… lúc chiều em đã thấy người đó một lần rồi, bây giờ là lần thứ hai…
Huy nắm tay tôi dắt đi nhanh ra khỏi nghĩa địa, vừa đi Huy vừa cố gắng giải thích:
- Anh nghĩ có lẽ em hoa mắt nên trông thấy bậy bạ, rồi cái hình ảnh bậy bạ đó khắc sâu trong đầu em, ám ảnh em nên em mới thấy nó lần nữa đo thôi… Không có gì đâu, tin anh đi, không có gì đâu Mai à!
Tôi ngoảnh lại nhìn vào tán cây ở góc nghĩa địa, đúng là không có gì, mấy cành lá đang đong đưa hiền hòa dưới bóng chiều tàn hiu hiu gió thổi.
Không biết nói sao, tôi cũng phải ráng tin vào lý lẽ của Huy. Đưa tôi về tới cổng nhà, Huy dừng lại âu yếm nói:
- Em vô nhà tắm mát rồi nghỉ ngơi! Đừng cố phân tích điều gì hết, đừng nghĩ ngợi gì bậy bạ nữa hết, nghe Mai?
- Dạ!
Tôi trả lời cho Huy an lòng rồi đi vào nhà.
Vừa vào nhà, tôi đẩy cửa phòng mình ra và nhào lên giường nằm liền, không còn sức lực để làm gì nữa hết. Mí mắt tôi nặng dần, tôi như chìm vào giấc ngủ, nhưng thật sự tôi chưa ngủ hẳn, tai tôi còn nghe được tiếng mở khóa lách cách ở nhà ngoài, không biết anh Hai hay chị Hai về tới, nhưng tôi không thể nào mở mắt ra, cũng không thể nào ngồi lên hoặc cất tiếng hỏi được.
Có tiếng chân bước nhẹ, rồi tiếng cửa phòng tôi hé mở. Chắc là anh Hai, vì tôi có cảm giác một bàn tay ấm áp đang sờ lên trán tôi.
- Tội nghịêp, chắc con bé mệt quá!
Tiếng anh Hai than thở làm tôi cảm động suýt trào nước mắt. Tôi rất muốn giơ tay ra để níu lấy anh mà nói là em không sao đâu, anh Hai đừng lo lắng, nhưng tôi chỉ nằm bất động như vẫn đang say ngủ.
Tôi nghe tiếng anh Hai lục đục dưới bếp, chắc là đang nấu cơm chiều, chứ lát nữa, chị Hai về mà trông thấy cả hai anh em có mặt ở nhà, cơm nước lại chưa nấu thì chắc chị sẽ nói mát mẻ không ai chịu nổi.
Tôi nằm đó không ngủ nhưng mắt nhắm nghiền, tai vẫn nghe rõ mồn một từng tiếng động nhỏ vang lên từ căn bếp.
Bất chợt, tôi nghe có tiếng gọi thì thào ở phía cửa sổ:
- Mai… Mai cô… không được, tôi cấm cô không được…
Tôi cố hết sức để xoay người về hướng ấy, và tôi không biết thật sự mình có mở mắt ra không, nhưng rõ ràng tôi lại nhìn thấy cái người treo cổ lúc chiều. Nhưng lần này người đó không diễn trò treo cổ lủng lẳng nữa mà đang bám vào cửa sổ, thò đầu vào phòng tôi.
Đây là lần thứ ba trong ngày tôi trông thấy người này, nhưng chỉ lần này tôi mới nhìn được rõ ràng. Đó là một người con gái có mái tóc dài và gương mặt xinh xắn nhưng lại buồn rười rượi đang ngó tôi như van nài. Tôi rất muốn hỏi cô ấy cấm không cho tôi làm gì nhưng tôi không sao mở lời được.
- Ủa, con Mai chưa về hả anh?
Tiếng chị Hai tôi vang lên bên ngoài, cô gái bên cửa sổ vụt biến mất. Tôi vẫn nằm nghiêng một bên, thấy trong người mình bải hoải một cách lạ kỳ!
- Con bé về rồi, nhưng không biết nó bệnh hay mệt mà nằm ngủ như mê trong đó!
Anh Hai tôi nói với giọng lo lắng.
Chị Hai cười lớn:
- Trời ơi, đi may thôi chứ làm gì nặng nhọc đâu mà mệt, anh khéo lo quá! Cô nàng này không khéo nhiễm thói của mấy cô gái Sài Gòn rồi cũng nên!
- Em không nên nói vậy, con nhỏ chỉ mới không nấu cơm một buổi mà em đã nghĩ xấu cho nó rồi!
Anh Hai cự nự.
Tiếng chị Hai mát mẻ:
- Em xin lỗi… em quên câu “máu ai thâm thịt nấy”, dù sao trong nhà này em cũng là người dưng, em không có quyền nhận xét, đánh giá ai hết mới phải!
- Mỗi lần góp ý em là có chuyện, thiệt bực mình!
Anh Hai càu nhàu.
Tiếng chân chị Hai dậm thình thình trên thang gác. Tôi cảm thấy chán nản kinh khủng, tôi chỉ muốn đi khỏi ngôi nhà này, đi tới một nơi nào đó thật xa để cuộc sống của anh Hai tôi khỏi phải dằn vặt nữa. Nhưng thật khốn khổ, lúc này đây tôi không thể mở mắt, không thể nhúc nhích gì được, chỉ biết nằm im mà nghe cay đắng trong lòng.
Tôi ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Cả trong giấc mơ, hình bóng của cô gái kia vẫn đeo bám lấy tôi không lúc nào rời. Tôi thấy cô ấy lại treo cổ ở bất kỳ chỗ nào tôi đến. Quá hoảng sợ tôi đã bỏ chạy thục mạng, đã kêu cứu vang trời…
- Mai! Mai! Em mơ thấy gì mà la hét dữ vậy?
Mở choàng mắt ra, tôi trông thấy anh Hai đang đứng bên cạnh vẻ mặt đầy lo lắng. Tôi muốn khóc òa lên và kể cho anh nghe điều đáng sợ từ chiều, nhưng vừa lúc đó tiếng chị Hai từ trên gác vọng xuống khiến tôi không thể mở lời được nữa:
- Đi làm mệt nhọc cả ngày, tối về có giấc ngủ cũng không được yên. Không biết kiếp trước tui đã nợ nần gì mấy người mà kiếp này phải khổ sở như vầy!
Tôi kìm nước mắt, nói nhỏ với anh Hai:
- Em xin lỗi… Em mơ thấy ác mộng… Anh Hai lên trển đi, em không sao đâu!
Anh Hai buồn bã nhìn tôi và nói:
- Em dậy ăn miếng cơm đi, lúc tối thấy em ngủ say quá nên anh không gọi dậy. Nếu bệnh thì sáng mai đừng đi làm nghen, nói anh Hai mua thuốc cho.
Tôi cố gượng cười cho anh Hai yên tâm.
- Em không sao đâu, anh Hai đừng lo!
Và để chứng tỏ cái “không sao” đó, tôi gắng gượng ngồi lên, mỉm cười:
- Em đi ăn cơm đây, anh Hai lên ngủ đi!
Anh Hai ngập ngừng một chút rồi đi lên gác sau khi căn dặn:
- Có gì thì kêu anh Hai, nghe chưa?
- Dạ!
Tôi gật đầu nhìn theo cái dáng khòm khòm của anh mà nước mắt cứ chực trào ra.
Nhìn lên đồng hồ thấy đã gần mười giờ đêm, tôi chợt nhớ từ trưa hôm qua tới giờ tôi chưa có gì vô bụng cả. Nhất quyết không để sức khỏe mình bị suy sụp, tôi cố gắng đứng lên đi lần xuống bếp.
Không dám mở đèn dưới nhà vì sợ chị Hai không ngủ được lại cằn nhằn nên tôi chỉ mở cái bóng đèn lù mù sau nhà bếp. Tôi đi thẳng vào nhà tắm lấy nước rửa mặt.
Nhìn mình trong gương tôi bất giác giật mình, gương mặt tôi hốc hác và đờ đẫn đáng sợ. Mới chưa đầy một ngày mà tôi thay đổi đến vậy sao? Có lẽ tại cái bóng ma của cô gái kia khiến tinh thần tôi suy sụp nặng nề. Tôi không biết cô gái ấy là ai, tại sao lại đeo theo tôi như vậy? Mặc dù cố nặn đầu để nhớ lại nhưng tôi vẫn không sao tìm được chút gì quen thuộc từ cô ấy.
Bất chợt, tôi nhìn thất trong gương, bên cạnh khuôn mặt bơ phờ của tôi là một gương mặt khác với mái tóc dài tấp tả trước mắt.
- Á….
Tiếng thét của tôi làm cả nhà thức giấc. Anh Hai chạy vội xuống bật sáng mấy ngọn đèn, trông thấy tôi đang nằm sóng xoài trong phòng tắm, anh hoảng hốt hỏi:
- Chuỵên gì vậy Mai? Có chuỵên gì xảy ra với em vậy?
- Ma… có ma…!
Tôi lắp bắp chỉ tay vào tấm gương.
Chị Hai từ trên gác đi xuống mỉm cười mai mỉa:
- Thiệt chị hết biết em rồi Mai à, sao tự nhiên em lại trở chứng như vậy? Em không muốn để anh chị được yên giấc sao?
Anh Hai tôi nạt:
- Thôi đi, đừng có kiểu đó nữa! Để coi con nhỏ bị cái gì nè!
Chị Hai nhếch mép cười và đứng nhìn tôi như đang nhìn một trò hễ diễn dở.
Lúc này do quá hoảng sợ, tôi không giấu gì được nữa nên kể cho anh Hai nghe tất cả mọi việc, từ lúc trông thấy cô gái treo cổ ở nhà sinh của công ty đến gương mặt cô ấy vừa xuất hiện trong gương khi nãy.
Anh Hai nghe tôi kể xong chỉ cau mày suy nghĩ mà không nói gì. Chị Hai thì khác, chị đi tới đi lui gật gù:
- Chị khám phá ra ở em có một khả năng đặc biệt đó Mai à! Em chuyển sáng nghề viết văn chắc sẽ nổi tiếng lắm đây, công nhận đầu óc em tưởng tượng phong phú thiệt đó!
Anh Hai bực dọc nhìn chị nhưng không nói gì thêm, bởi anh thừa sức biết, hễ nói động tới chị thì giống như một thứ thuốc kích thích sẽ khiến chị càng thêm cay độc.
Anh Hai đỡ tôi về giường, an ủi:
- Không sao đâu, không có gì đâu em à!
Tôi níu chặt lấy cánh tay anh Hai không muốn rời, nhưng khi trông thấy ánh nhìn gườm gườm của chị dâu tôi lại vội vàng buông ra.
Nhắm mắt lại, kéo mền trùm kín đầu, cảm nhận được hai dòng nước ấm nóng đang chảy dài xuống má, tôi nói nhỏ:
- Thôi, em ngủ! Anh Hai lên phòng đi!
Anh Hai vẫn ngồi im bên giường tôi, chị dâu chì chiết:
- Giờ sao đây? Giờ anh không lên ngủ phải hôn? Vậy thì tui lên, để cho anh em mấy người giở hết trò ra đi!
Nói xong chi dùng dằng bỏ lên gác, anh Hai thở dài thườn thượt, hỏi tôi:
- Em dám ngủ một mình không?
Tôi cố lấy bình tĩnh đáp:
- Dạ… anh Hai lên đi, nhưng… đừng tắt đèn!
- Ừ, anh sẽ để đèn sáng! Em đừng sợ nghe, không có gì đâu!
Anh Hai đi lên gác rồi, tôi giở mền ra khỏi đầu cho bớt ngột ngạc. Căn phòng sáng đèn nên tôi có cảm giác yên tâm hơn. Người tôi lúc này như đang hâm hấp sốt. Thôi chết rồi, tôi bệnh rồi chứ không chơi!
Tôi lẩm bẩm trong miệng:
- Mẹ ơi, xin mẹ phù hộ cho con… con không muốn đau ốm gì lúc này, sẽ chẳng có ai lo lắng cho con đâu, con mà bệnh là anh Hai khổ lắm đó, mẹ ơi!... Mẹ phù hộ cho con nghe mẹ?
Dù tôi cố bám víu vào người mẹ đã khuất nhưng hình bóng của gái ma quái kia vẫn không sao thoát ra khỏi đầu tôi.
- Tôi với chị có nợ nần gì với nhau đâu? Xin buông tha cho tôi, đừng nhát tôi nữa, tôi sợ lắm…
Lòng tôi thổn thức những câu như vậy.
Tối hôm đó tôi đã ngủ với cái bao tử rỗng và cái đầu nặng trịch lo âu. Sáng ra không tài nào tôi dậy nổi.
Chị Hai dẫn xe ra sân còn ngoái lại dặn:
- Ở nhà ban ngày rồi, đèn đóm làm ơn tắt dùm đó, tới tháng không có tiền đâu mà trả tiền điện!
Anh Hai làm như khong nghe thấy, anh vào ngồi xuống giường sờ tay lên trán tôi, nhẹ nhàng hỏi:
- Em sao rồi? Anh đi mua thuốc cho em uống nghen?
Tôi cố gượng ngồi dậy nói:
- Không sao đâu anh Hai à, em nghỉ chút nữa là khỏe thôi. Hôm nay tới chín giờ em mới vô ca, khi đi em ghé tiệm mua thuốc luôn cũng được mà!
- Không được! Hôm nay em phải nghỉ làm một bữa đi, đừng quá ráng sức, sẽ không tốt đâu!
Anh Hai nghiêm giọng.
Tôi nói cho anh Hai vừa lòng:
- Dạ, nếu chút nữa vẫn còn mệt thì em ở nhà! Thôi, anh đi làm đi, trễ lắm rồi đó!
Anh Hai dắt xe đi ra mà vẫn lo lắng dặn dò:
- Nhớ nghe chưa, đừng có cãi lời anh Hai đó!
- Dạ, em nhớ rồi! Anh Hai yên tâm đi!
Tôi vừa nói vừa nằm vật trở xuống giường.
Tiếng xe anh Hai xa dần, tôi cũng bắt đầu lơ mơ chìm vào giấc ngủ.
- Mai ơi, Mai! Em có nhà không Mai?
Tôi choàng thức giất bởi tiếng gọi cửa. Định thần lại tôi nhận ra đó là giọng của Huy. Vừa ngạc nhiên, vừa vui mừng, tôi gượng đứng lên lảo đảo đi ra ngoài mở cửa.
Huy đứng trước thềm nhà nhìn tôi bằng cặp mắt chứa đầy lo lắng:
- Trời ơi! Em sao vậy Mai? Trông em phờ phạc đáng sợ quá!
Tôi cười mệt mỏi:
- Anh Huy vô nhà chơi! Sao anh biết em ở nhà mà đến vậy?
- Hôm qua biết em không khỏe, sáng nay anh cố tình chờ hoài mà không thấy em vô công ty, anh lo em có chuyện gì nên tới đây…
Vừa theo tôi vào nhà Huy vừa nói.
- Em sao rồi Mai?
Tôi ngồi xuống chiếc ghế đối diện với Huy, buồn bã nói:
- Em không biết tại sao em cứ thấy đó hoài. Hình như em đang làm một điều gì đó phật ý cổ, cổ cấm em không được làm… Nhưng… em không biết điều đó là gì thì làm sao em giúp cổ vừa ý được chứ? Anh Huy ơi, nếu cứ như vầy hoài chắc em không sống nổi quá…
Tôi thấy gương mặt Huy đanh lại một cách đau đớn, hai bàn tay anh nắm chặt vào như đang cố kìm nén một sự tức giận cực độ.
- Em yên tâm đi, anh sẽ có cách giải quyết chuỵên này!
Huy nói.
Tôi ngạc nhiên:
- Anh có cách? Cách gì?
Huy ấp úng:
- Anh… anh chưa nghĩ ra, nhưng chắc chắn rồi anh sẽ có cách, em cứ tin vào anh đi Mai!
Tôi cười chán nản:
- Anh đừng cố sức vì em nữa anh Huy à! Em nghĩ cô gái ấy không phải là người mà là một hồn ma. Em không biết mình đã làm gì đắc tội với cổ, anh không có cách gì giúp em đâu, anh không chống chọi lại thế lực của ma quỷ đâu anh…
Huy không tranh cãi với tôi nữa, anh chuyển sang đề tài khác:
- Chắc Mai chưa ăn uống gì phải hôn? Để anh mua cháo cho Mai nghen?
Tôi cười:
- Dạ khỏi, lúc sáng anh Hai có nấu cháo cho em, lát nữa em ăn…
Huy ngồi nói chuyện với tôi thêm chút nữa rồi đứng lên ra về, tôi cũng khép cửa nhà vào trong phòng nằm nghỉ. Tôi rất mệt mỏi, không thể đi làm hôm nay được!
Tôi nằm trên giường, mắt nhìn lơ đãng bầu trời bên ngoài cửa sổ. Tự nhiên một cảm giác chán chường vây bủa lấy tôi. Tôi muốn ngồi bật dậy gom hết áo quần bỏ nơi này trở về quê hương, về đó tôi sẽ đi làm mướn làm thuê kiếm sống nhưng tinh thần sẽ nhẹ nhàng thanh thản hơn nhiều.
Đầu óc tôi muốn nổi loạn vậy thôi chứ đời nào tôi dám thực hiện, tôi không muốn anh Hai tôi phải mang tai tiếng với chòm xóm láng giềng là có một đứa em gái mà cũng không bảo bọc được.
Nhưng tôi buồn lắm, tôi không hiểu sao tôi đã chấp nhận tất cả chỉ để được sóng những ngày tháng yên bình mà cũng không được? Tôi đã làm chuyện gì khiến cô gái kia theo ám tôi mãi thế?
Vừa nghĩ tới đó, bất chợt tôi trông thấy cô gái xuất hiện bên cửa sổ. Lúc này đang giữa ban ngày nên tôi nhìn thấy rất rõ, không thể nào lầm lẫn được! Tôi thấy cả cái nốt ruồi nhỏ xíu đậu trên vành môi của cô nữa!
- Mai ơi… cô không thể… cô không thể…
Lần này tự nhiên tôi không thấy sợ nữa, chắc có lẽ vì tôi đã quá chán chường, tôi muốn mọi thứ phải rõ ràng. Ngồi bật dậy, tôi hỏi lớn:
- Cô là ai? Tại sao cô luôn đeo bám lấy tôi? Tôi đã làm gì có lỗi với cô sao?
Bóng ma ngoài cửa sổ có lẽ cũng bất ngờ trước sự phản kháng mạnh mẽ của tôi, cô ta trố mắt nhìn tôi rồi bật chợt òa khóc nức nở:
- Thật ra… thật ra cô không làm gì có lỗi với tôi… Nhưng… cô đã làm cho trái tim tôi vỡ tan, đau đớn… tôi van cô, xin cô hãy thương lấy tôi… Tôi… tôi yêu anh ấy, tôi không thể mất anh ấy… Tôi van cô…
- Nhưng tôi đã làm gì? Anh ấy là ai?
Tôi lớn tiếng.
Bóng ma chưa kịp trả lời câu hỏi của tôi đã vộ ivàng biến mất vì trước cửa nhà tôi vang lên tiếng gọi của anh Hai:
- Mai ơi, em sao rồi?
Anh Hai đi nhanh vào đẩy cửa phòng tôi, thấy tôi ngồi trên giường anh lo lắng:
- Em bớt chút nào không? Anh lo quá nên tranh thủ giờ nghỉ trưa mua thuốc đem về cho em uống nè!
Vừa nói, anh Hai vừa thò tay vào túi lấy bịt thuốc rồi đi rót ly nước bưng lên đưa cho tôi:
- Em uống thuốc đi, uống đi rồi sẽ khỏe…
Tôi mỉm cười, ngoan ngoãn cho mấy viên thuốc vào miệng rồi uống một nước để anh Hai được yên lòng.
- Em đỡ hơn nhiều rồi!
Tôi nói.
- Ừ, được vậy anh cũng mừng, chỉ sợ em ở nhà một mình không ai chăm sóc…
Rồi liếc nhìn đồng hồ anh Hai cuống quýt nói:
- Thôi, anh đi nhé! Sắp tới giờ làm rồi!
Tôi gật đầu:
- Dạ, anh Hai đi đi!
Anh Hai tất tả đi ra, tôi uể oải ngồi dậy đi xuống bếp lục cháo ăn cho đỡ đói. Ăn xong mấy muỗng cháo như được hồi tỉnh. Lên giường nằm sắp xếp lại mọi chuyện kỳ lạ xảy đến với tôi từ hôm qua tới nay, tự nhiên có một thứ linh tính nào đó mách bảo tôi rằng, tất cả những chuyện đó đều lien quan đến Huy!
Tôi nhớ lại từng cử chỉ của Huy lúc tôi chỉ cho anh thấy bóng người treo cổ trên cành cây ngoài nghĩa địa, rồi lúc tôi kể với Huy người con gái đó đã ám ảnh tôi thế nào, tôi biết chắc Huy hiểu chuyện gì đang xảy đến với tôi.
Nhưng đó là chuỵên gì? Huy là ai? Tôi chơi thân với Huy một thời gian nhưng thật sự tôi không biết gì về Huy trừ những điều anh tự kể.
Bóng ma kia đã nhắc tới một người con trai, người đó là ai nếu không phải là Huy? Ở Sài Gòn này tôi có chơi thân với ai ngoài Huy đâu?
Không được! Nhất định tôi phải gặp Huy và hỏi cho ra lẽ. Nhưng bây giờ tôi còn chóng mặt quá, chưa thể đi ngay lúc này. Tôi thấy mình cần phải ngủ một giấc cho đầu óc tỉnh táo lại mới có thể giải quyết mọi việc một cách sáng suốt được.
Tôi lên giường và ngủ một giấc rất ngon.
Lúc tôi thức giấc trời đã về chiều. Thấy trong người dường như đã khỏe hẳn, tôi xuống bếp nấu cơm, làm thức ăn. Và khi mọi việc xong xuôi thì mặt trời cũng đã lặn.
Tôi đóng cửa nhà và đi tìm gặp Huy để hỏi cho rõ.
Nhưng khi đã ra tới đường lộ, tôi chợt cười thầm trong bụng vì thấy mình ngớ ngẩn quá. Tôi muốn đi tìm gặp Huy, nhưng biết Huy ở đâu mà tìm? Nơi Huy làm việc, nhà Huy ở tôi đều không biết thì phải làm sao? Tôi dừng lại, do dự muốn quay về, nhưng dù sao cũng đã ra ngoài đường, tôi muốn đi dạo một chút cho mát mẻ.
Nhưng không hiểu cái gì đưa đẩy mà tôi lại đi vào khuôn viên của nghĩa địa. Vừa bước vào, tôi chợt nhận ra hai bóng người đứng bên cạnh một lùm cây rậm rạp. Hai cái bóng đó không xa lạ gì với tôi, tôi biết chắc, một người là Huy, còn người kia không ai khác chính là cái bóng ma đã làm tôi khốn khổ!
Cô gái kia giả ma giả quỷ để nhát tôi nhằm mục đích gì đây? Giữa Huy và cô ấy có mối liên hệ ra sao? Lúc này trong đầu tôi đầy ứ những câu hỏi tương tự như thế.
Vì nghĩ họ không phải là ma nên tôi không thấy sợ hãi gì nữa, tôi quyết tìm cho ra sự thật nên cố tình nhón chân đi thật nhẹ, vòng tới gần chỗ hai người đang đứng. Khi tới vừa đủ tầm để nghe họ trao đổi gì với nhau tôi mạnh dạn chui tọt xuống cái hố gần đó để ẩn mình.
Tôi nghe Huy gằn từng tiếng:
- Tôi cấm cô! Tôi không cho phép cô làm bất kỳ điều gì tổn hại đến Mai! Mai hoàn toàn vô tội, cô không được phép tới gần cô ấy!
Tiếng người con gái nức nở:
- Huy… anh nỡ lòng nào đối xử với em như thế sao anh? Em yêu anh… anh biết điều đó mà, phải không Huy?
Huy bật cười chua chát:
- Biết! Tôi biết rất rõ cái mà cô gọi là tình yêu! Nhưng cô nhầm rồi, đó không phải là tình yêu mà là sự chiếm hữu, do bản tính ích kỷ của mình cô muốn tôi phải thuộc về cô, đúng không? Khi biết tôi không yêu cô, cô đã làm mọi cách để hãm hại tôi, tôi đã ra nỗng nỗi này rồi mà cô cũng chưa vừa lòng sao?
Người con gái khóc lớn hơn nữa:
- Sao anh phũ phàng đến vậy? Vì em yêu anh, em muốn chúng mình luôn bên nhau nên mới làm như vậy… em cũng vì anh, vì anh mới một lòng một dạ theo anh. Lúc anh chết đi rồi em đau đớn tột cùng nhưng em lại vui sướng hơn ai hết, vì em nghĩ anh sẽ ở bên em mãi mãi… Em đã lập tức tìm tới cái chết để theo anh, anh biết đó, cái chết của em đâu có dễ dàng gì…
Tôi không thể tin những gì mà chính tai mình vừa nghe thấy! Cái gì mà “lúc anh chết đi” rồi “lập tức tìm tới cái chết để theo anh”? Tôi tự nhéo vào người một cái thật đau để xem thử tôi đang mơ hay đang tỉnh? Tôi biết, tôi đang rất tỉnh! Vậy thì chuỵên này là thế nào đây?
Tôi chồm lên khỏi hố để nhìn rõ hai người, trời ơi… không thể nào tin được, cả Huy và người con gái kia đang đứng lơ lửng trước mắt tôi, chân họ không hề chạm đất!
- Á…
Âm thanh cuối cùng mà tôi nghe được chính là tiếng thét kinh hoàng của mình. Tôi đã ngất đi ngay lúc đó!
Tôi không biết mình đã mê man bao nhiêu ngày đêm, cho đến khi tôi mở mắt ra được thì thấy anh Hai tôi giống như một ông già với gương mặt hốc hác, râu ria tua tủa đang ngồi ủ rũ bên cạnh tôi.
- Mai! Em tỉnh rồi hả Mai? Cám ơn trời phật, anh lo sợ quá Mai ơi…
Anh Hai reo lên khi thấy tôi mở mắt.
Tôi hỏi nhỏ:
- Anh Hai… đây là…?
Anh Hai chùi nước mắt và nói:
- Đây là bệnh viện! Em đã nằm ở đây đúng mười ngày rồi đó! Anh luôn lo sợ, anh sợ em sẽ không bao giờ tỉnh lại…
Tôi hốt hoảng:
- Trời! Anh Hai nói em đã nằm ở đây mười ngày rồi sao? Vậy… anh Hai luôn ở đây với em à?
Anh Hai gật đầu:
- Ừ, anh xin nghỉ phép để chăm sóc cho em!
Anh Hai vừa nói tới đó thì chị dâu tôi đẩy cửa bước vào, trên tay chị là cái gàu-mên thức ăn đem cho anh Hai tôi ăn bữa trưa.
Thấy tôi đã tỉnh, chị cất giọng ngọt ngào:
- Em gái rồi cũng tỉnh lại, thật may mắn quá! Chị đang chuẩn bị kêu bán nhà để lo cho em đây…
Anh Hai trừng mắt nhưng chị dâu vờ như không thấy:
- Sao, em tính nằm đây nghỉ dưỡng sức mấy ngày nữa vậy Mai?
Tôi ấp úng:
- Em… chị ơi… chị xin cho em xuất viện về nhà đi, em… em muốn về…
Chị Hai không nói gì chỉ khẽ liếc nhìn anh tôi.
Chiều tối hôm đó tôi được xuất viện.
Về nhà, tôi thuật lại toàn bộ câu chuyện từ lúc quen Huy cho đến khi tôi ngất lịm ngoài nghĩa địa. Nghe xong, anh Hai tôi tỏ ra lo lắng:
- Không được rồi, vậy đúng là em đã bị ma ám rồi! Sáng mai anh phải đi tìm thầy về trừ tà cho em mới được!
Chị Hai đứng phắt dậy, lớn tiếng:
- Chị không ngờ em lại là đứa xảo trá đến vậy nghe Mai! Em có lười biếng không muốn đi làm thì cứ nói thẳng ra, mắc chứng gì phải viện cái lý do mà đến con nít ba tuổi cũng không tin được…
Anh Hai quát:
- Cô có im đi không? Cô không thấy nó bất tỉnh mười ngày nay sao?
Chị Hai cười nhạt:
- Có chứ, tôi thấy chứ! Vì mười ngày nay tôi phải đầu tắt mặt tối vừa đi làm vừa lo phục vụ cho anh em các người, sao tôi lại không thấy được! Nhưng chuyện nó ngất cũng là bình thường thôi, đang bệnh, nhà không ở lại lang thang ra ngoài, không nhiễm gió mới là lạ! Đừng có đem mấy cái hồn ma vớ vẩn ra mà hù dọa tôi!
Anh Hai tức tối:
- Mặc xác cô có tin hay không, nó là em tôi, tôi có bổn phận phải lo cho nó đàng hoàng!
Chị Hai tru tréo:
- A… anh giỏi thật! Vậy thì được, được rồi! Ngay bây giờ tôi sẽ giao cái nhà này lại cho anh em anh, tôi đi, đi khỏi đây!
Vừa nói, chị Hai vừa ôm mặt chạy nhanh lên gác.
Tôi nói với anh Hai:
- Anh lên dỗ chị đi, giữ chị lại đi anh!
Anh Hai lắc đầu mệt mỏi:
- Tuỳ cô ấy muốn làm gì thì làm, anh không còn đủ sức để chìu chuộng nữa…
Anh Hai vừa nói tới đó thì cả anh và tôi đều giật bắn người khi nghe tiếng thét kinh hoàng của chị Hai từ trên gác vọng xuống.
Anh Hai lao như tên bắn ra khỏi phòng. Khi anh Hai bước vào phòng ngủ của mình, ở giữa phòng, chị Hai đang té ngồi dưới sàn, ánh mắt thất thần nhìn sững vào một thi thể đang treo lủng lẳng trên trần nhà…
Sáng hôm sau, cả anh chị Hai đều nghỉ làm, anh Hai đi hơn một buổi sáng mới mời được một pháp sư cao tay ấn.
Sau khi làm phép xua đuổi tà ma, pháp sư dặn tôi:
- Cô đừng nên đi một mình ở những nơi vắng vẻ, nhất là đừng đi vào các nghĩa địa, nghe chưa? Cô yếu bóng vía, rất dễ bị ma quỷ quấy rối…
Ngay hôm sau, chị Hai bắt tôi phải nghỉ may và sau đó xin cho tôi làm cùng công ty với chị, hàng ngày chị em đi về cùng nhau, tình cảm gia đình chúng tôi ngày càng trở nên khắn khít.
Hết
Nguyễn Thị Mộng Thu 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.08.2009 08:22:08 bởi Mars >
#61
    nguyenthu 10.08.2009 21:50:06 (permalink)
    NGÔI NHÀ MA
     
    Mấy hôm nay cả Quân và Liên đều lo sốt vó. Căn nhà nhỏ của hai vợ chồng vắng hẳn tiếng cười đùa, khiến thằng bé Khang cũng ngạc nhiên không ít.
    Nhưng nó còn quá nhỏ để hiểu được gánh nặng cơm áo gạo tiền đang đè nặng xuống đôi vai của ba mẹ nó, và nguy cơ không có việc làm, không có chỗ ở đang chực chờ ngay trước hiên nhà, chính điều đó khiến ba mẹ nó tột cùng lo lắng.
    Quân và Liên cưới nhau sau hơn bốn năm dài yêu thương và vượt qua rất nhiều thử thách, có lúc hai người tưởng không thể đến được với nhau được, bởi những điều khắt khe của hai bên gia đình.
    Nhưng cuối cùng thì tình yêu mãnh liệt của họ cũng đã chiến thắng tất cả. Nhưng sau đám cưới, hai vợ chồng lại phải đối mặt với cuộc mưu sinh vất vả.
    Hai năm nay Quân làm công nhân cho một hãng cơ khí ở Sài Gòn, còn Liên ở nhà phụ mẹ buôn bán sạp hàng tạp hóa ngoài chợ huyện.
    Gia đình Liên và gia đình Quân có những mâu thuẫn nặng nề từ rất lâu, nhưng do Quân và Liên quá quyết tâm họ đành phải nhân nhượng đứng ra tổ chức lễ cưới, chứ thật sự không bên nào hài lòng về gia đình của dâu hoặc rễ mình.
    Trước tình hình căng thẳng đó, Quân quyết định đưa vợ lên Sài Gòn tìm việc làm và chung sống bên nhau.
    Ở đất Sài Gòn muốn làm giàu thì khó chứ chỉ muốn có công ăn việc làm kiếm sống qua ngày thì tương đối dễ dàng.
    Quân xin cho Liên vào làm ở một công ty may mặc, hai vợ chồng mướn một căn phòng nhỏ gần đó và sống rất hạnh phúc bên nhau.
    Hơn một năm sau, Liên sinh bé Khang và phải nghỉ làm để ở nhà chăm sóc con. Gánh nặng gia đình từ đó một mình Quân phải hứng lấy. Nhưng nhờ Liên biết kim chỉ tiện tặn nên cuộc sống của họ cũng không đến nỗi nào.
    Mấy tháng gần đây các công ty rục rịch giảm bớt nhân công do tình hình khủng hoảng kinh tế đang diễn ra trên thế giới nhưng Quân chẳng mấy quan tâm vì nghĩ đó là những công ty có vốn đầu tư nước ngoài, còn chỗ Quân làm là của Việt Nam, có gì mà lo!
    Ấy vậy mà tuần rồi Quân được lệnh tạm nghỉ việc trong hai tháng, hưởng năm mươi phần trăm lương! Cả Quân và Liên đều chao đảo trước tin này.
    Hơn tuần nay quân chạy đôn chạy đáo tìm việc mới. Công việc thì cũng có, nhưng không tìm được công việc nào mà đồng lương khả dĩ có thể trang trải cho cuộc sống của ba người!
    Những ngày gần đây bữa cơm của gia đình nhỏ chỉ toàn là rau dưa, có một tí cá thịt là phần dành cho thằng bé. Nhìn vợ gầy sút đi Quân thương lắm, anh tự hứa với lòng bằng mọi cách sẽ lo cho vợ con được đầy đủ dù bản thân mình có phải cực khổ vất vả nhiều hơn nữa cũng cam.
    Nghe nói trên các trang quảng cáo của mấy tờ nhật báo thường đăng tải rất nhiều thông tin tuyển lao động, Quân vì tiết kiệm nên không mua báo mà chờ cho ông chủ nhà xem xong rồi mượn về nghiên cứu.
    Sáng nay cũng vậy, trong lúc Liên đang cho con ăn thì Quân ngồi khom người dưới sàn nhà dò từng hàng chữ li ti trên trang quảng cáo. Bất chợt anh reo lên:
    - Liên ơi! Chỗ này người ta tuyển người… anh thấy gia đình mình phù hợp quá nè em!
    - Ủa, tuyển làm gì mà lại phù hợp cả gia đình vậy anh?
    Liên ngạc nhiên hỏi chồng.
    Quân cầm tờ báo lên đọc cho Liên nghe:
    - Cần tuyển người trông coi nhà. Yêu cầu: Có đủ vợ chồng, con cái. Lương cao, ăn ở tại chỗ. Chi tiết xin vui lòng liên hệ…
    Liên đi tới gần chồng tò mò:
    - Ngộ quá há anh, trông coi nhà gì mà phải đủ vợ chồng con cái? Có khi nào họ đăng chơi vậy thôi không?
    Quân cười:
    - Bộ em tưởng đăng một mẩu tin như vầy rẻ lắm sao mà đăng chơi? Mắc lắm đó em! Thôi, để anh thay đồ đi ngay tới đó liên hệ với họ xem cụ thể ra làm sao rồi mình tính, để chậm chân có người khác xí phần thì uổng lắm.
    Liên nhìn chồng cười:
    - Dạ, anh đi đi… Nhưng sao em cứ thấy kỳ kỳ…
    Quân đứng lên, bẹo má thằng con một cái rồi nói:
    - Kệ, tới đó rồi sẽ biết.
    Quân vội vã thay áo quần rồi dắt chiếc xe đạp cà tàng đi nhanh ra cửa. Liên đứng nhìn theo chồng, trong mắt cô không hề có tia hy vọng nào dù chỉ là le lói.
    Gần một tuần nay, quân đã liên hệ với nhiều chỗ rồi mà vẫn chưa xin việc làm phù hợp, lần này, với mẩu quảng cáo lạ lùng như vậy càng khó có kết quả hơn.
    Liên lặng lẽ quay trở vào đút cơm cho con. Thằng bé mới biết đi lẫm chẫm là nguồn hạnh phúc lớn nhất của vợ chồng cô, chỉ mong nuôi nó ăn học đàng hoàng là đã thỏa ước mơ rồi!
     
    ***
    Quân hoàn toàn không ngờ, mình vừa đọc xong tờ báo là đi ngay, vậy mà trước cửa phòng phỏng vấn tuyển người lại có rất nhiều người đang ngồi chờ tới lượt. Ai nấy đều có vẻ căng thẳng ghê lắm.
    Nhìn qua một lượt, Quân hiểu những người này chắc cũng cùng hoàn cảnh với mình, miếng cơm manh áo, chỗ ở của vợ con tùy thuộc vào họ, họ đến đây với trọng trách nặng nề mang trên vai.
    Nhìn thấy nhiều người như vậy, thật sự Quân không còn mấy hy vọng, nhưng đã đến đây rồi không lẽ lại quay về? Thôi thì cũng ngồi lại xem sao! Quân tự nhủ lòng và ngồi vào hàng chờ đợi.
    Mỗi lần cánh cửa phòng mở ra, là một lần tim Quân thót lại vì hồi hộp. Anh phải cố dán mắt vào những tờ giấy quảng cáo đủ loại dán trên tường để đầu óc bớt căng thẳng.
    - Tới lượt anh rồi kìa, mau lên!
    Người thanh niên ngồi phía sau hích nhẹ vào vai làm Quân giật bắn người. Anh vội vã đứng lên đi vào trong.
    Ngồi sau chiếc bàn đặt giữa phòng là một người đàn ông khoảng chừng sáu mươi tuổi, vẻ mặt tương đối dễ chịu.
    Ông ta chỉ tay vào chiếc ghế đối diện:
    - Mời anh ngồi!
    Quân gật đầu chào rồi khẽ khàng ngồi xuống.
    Người đàn ông nói tiếp:
    - Anh vui lòng cho biết về hoàn cảnh gia đinh hiện tại của anh?
    - Dạ, tôi một vợ và một con nhỏ, hiện đang ở nhà thuê. Vợ tôi ở nhà chăm con, công ty tôi làm vừa mới tạm đóng cửa.
    Quân nói một hơi không cần suy nghĩ.
    Người đàn ông hơi mỉm cười, gật gù kéo trễ cặp kín xuống nhìn Quân rồi hỏi thêm:
    - Anh có theo đạo nào không?
    - Dạ không!
    Quân thành thật đáp.
    - Anh hoặc vợ anh, có ai tin ma quỷ, có ai sợ ma không?
    Quân rất ngạc nhiên vì câu hỏi kỳ lạ của người phỏng vấn nhưng vẫn trả lời thật thà:
    - Vợ chồng tôi đều là người nhà quê, từ nhỏ đã quen với cảnh đìu hiu quạnh vắng, quen với những đêm đi soi cá, bắt ếch ven nghĩa địa, chúng tôi chưa biết sợ ma bao giờ. Nhưng… nhưng sao ông lại hỏi những điều này?
    Người đàn ông bật cười:
    - À… thì tại vì… ngôi nhà mà chúng tôi cần thuê người coi sóc nằm ở một nơi rất vắng vẻ, nếu là người nhát gan sẽ không dám ở đó đâu!
    - À, ra vậy!
    Quân gật đầu cười.
    - Có lẽ anh đã đáp ứng được những yêu cầu của chúng tôi rồi đó!
    Người đàn ông nhìn Quân cười cười.
    Quân đứng bật dậy lắp bắp hỏi:
    - Ông… ông nói sao? Tôi… tôi đã… đã…
    Thấy Quân quá xúc động, người đàn ông cười vẻ thông cảm:
    - Đúng rồi! Anh đã được tuyển dụng!
    Quân bấu chặt tay vào cạnh bàn, thân người chồm hẳn về phía trước, hỏi gặng lại lần nữa:
    - Ông đã nhận tôi vào làm?
    - Đúng vậy! Anh đã sẵn sàng nhận việc chưa?
    Người đàn ông đáp.
    Quân như người vừa mới được chắp thêm đôi cánh để bay lên, anh hồ hởi nói:
    - Dạ, sẵn sàng, rất sẵn sàng rồi ạ!
    Người đàn ông chỉ tay vào ghế:
    - Anh bình tĩnh ngồi xuống đi, tôi cần trao đổi với nah thêm một vài vấn đề về công việc.
    Quân sực nhớ ra, anh ngồi trờ lại và hỏi:
    - Dạ, xin ông cho tôi biết tôi sẽ phải làm gì ạ?
    Người đàn ông gỡ cặp kính xuống cầm tay và nói:
    - Anh cũng không phải làm gì đâu! Trước tiên anh phải đưa vợ con lên sống tại ngôi nhà đó! Ở đó, chúng tôi đã trang bị đầy đủ những tiện nghi cần có của một gia đình, anh không phải lo sắm sửa gì hết, không phải mất tiền cho việc ăn uống, đi lại hay điện nước gì hết. Ngoài ra, ở đó cũng có một người giúp việc mà vợ chồng anh được toàn quyền sai bảo. Chúng tôi sẽ ký hợp đồng với anh trong mười hai tháng, mức lương mỗi tháng là hai trịêu đồng. Sau mười hai tháng, khi hợp đồng kết thúc, vợ chồng anh sẽ được nhận thêm một khoản tiền thưởng tương đương với năm chỉ vàng và chiếc xe gắn máy mà anh sử dụng trong mười tháng sẽ là của anh!
    Quân ngồi há hốc, anh không thể nào tin được những câu mình mới vừa nghe là sự thật. Bất chợt anh cười xòa:
    - Ông thật vui tính! Nhưng thật sự lúc này tôi không có tâm trạng để nghe chuyện tiếu lâm. Vợ con tôi đang đứng bên bờ của sự đói khổ, tôi rất cần việc làm, xin ông đừng trêu đùa tôi như vậy!
    Người đàn ông nghiêm giọng:
    - Những gì tôi vừa nói với anh hoàn toàn là sự thật chứ không phải chuyện giỡn chơi. Đây, anh xem văn bản hợp đồnng đã ghi rõ!
    Vừa nói, người đàn ông vừa lấy đưa cho Quân mấy tờ giấy A4 đã được đanh máy chi chít trên đó.
    Quân khẽ liếc nhìn người đàn ông một cách đầy nghi ngờ rồi đưa mắt liếc qua tờ giấy. Quả thật, những gì ông ta nói khi nãy đã ghi rõ trong đây.
    Quân ấp úng:
    - Nhưng… thưa ông… tôi không thấy nhiệm vụ tôi phải làm gì ở đó?
    Người đàn ông cười sảng khoái:
    - Tôi đã nói rồi, anh không cần phải làm gì hết, chỉ cần vợ chồng anh sống thật vui vẻ, hạnh phúc với nhau là đạt yêu cầu rồi.
    - Ông… nhưng… như vậy… các ông mướn tôi để làm gì?
    Quân vẫn không sao yên lòng được.
    Người đàn ông thôi không cười nữa, ông ngồi thẳng người lên, đeo kiếng vào mắt rồi nói nghiêm túc:
    - Để anh khỏi phải lo âu thắc mắc, tôi xin nói rõ cho anh hiểu. Số là ngôi nhà đó từng xảy ra một vụ án mạng kinh hoàng, tất cả mọi người đều đồn ầm lên là ngôi nhà đó đã bị ma ám, không một ai dám thuê hay mua lại. Vì vậy ngôi nhà được kêu bán rất rẻ. Nhưng bản thân ông chủ tôi lại không tin mấy chuyện ma quỷ, ổng đã tranh thủ cơ hội mua ngôi nhà này, và bỏ ra một số tiền để thuê người tới sống ở đó, nhằm chứng minh cho mọi người thấy ngôi nhà đó hoàn toàn bình thường, vợ chồng con cái vẫn sống hạnh phúc như bao nhiêu ngôi nhà khác. Sau một năm, anh sẽ chứng minh được điều đó, và tất nhiên, giá trị ngôi nhà sẽ tăng lên một cách không thể tưởng tượng được. Tôi nói vậy chắc anh đã hiểu?
    Người đàn ông dứt lời, nhìn Quân chằm chằm như dò hỏi.
    Quân ngồi thừ một lúc rồi gật đầu:
    - Hiểu! Thưa ông, bây giờ thì tôi hiểu rồi! Nhưng xin ông cho phép tôi được tò mò thêm chút nữa, ông có thể kể về vụ án mạng trong ngôi nhà đó cho tôi biết được không?
    - A, được! Tất nhiên là được chứ!
    Người đàn ông reo lên. Ông ta kể rành mạch:
    - Cách đây hơn hai năm, ngôi nhà đó là tổ uyên ương của đôi vợ chồng trẻ, cả hai bên gia đình đều là những người giàu có tiếng tăm trong nước. Hai vợ chồng mới có một đứa con trai ba tuổi. Một hôm đứa bé sẩy chân rơi xuống hồ bơi và chết dưới đó. Khi người mẹ phát hiện được, chị ta quá đau lòng nên đã thắt cổ tự tử chết theo con. Đến lúc người chồng về, trông thấy xác đứa con thân yêu nằm dưới sàn nhà, còn vợ mình thì lủng lẳng bên trên. Quá kích động anh ta đã phát điên, lấy xe chạy hết tốc lực ra khỏi nhà. Vừa đến cua quẹo, anh ta đã rơi xuống vực sâu nát bấy cả thân thể. Từ sau những cái chết kinh hoàng đó, ngôi nhà đó bị bỏ hoang tới giờ!
    Tuy không sợ ma, nhưng quân vẫn cảm thấy ớn lạnh dọc sống lưng. Quả thật đó là một thảm họa lớn lao, khó ai có thể chịu đựng nỗi.
    Thấy Quân ngồi im không nói gì, người đàn ông cất tiếng:
    - Sao? Anh có đổi ý khi biết rõ lai lịch ngôi nhà đó không?
    Quân ngước lên nhìn thẳng vào người đàn ông, mỉm cười:
    - Dạ không, tôi không có gì thay đổic đâu ạ!
    Người đàn ông cười tươi, chồm qua bàn bắt tay Quân với vẻ thân tình:
    - Có thế chứ! Quả thật tôi đã nhìn không lầm người, tôi biết anh có khả năng mà! Cứ gọi tôi là chú Thịnh, đây là số điện thoại cầm tay của tôi, có gì cần anh cứ liên hệ trực tiếp.
    Quân xúc động hỏi:
    - Vậy khi nào tôi mới nhận việc?
    Người đàn ông vỗ vai Quân:
    - Bất cứ khi nào! Anh có thể nhận việc vào lúc nào?
    Quân không cần đắn đo suy nghĩ, trả lời thật nhanh:
    - Sáng mai, sáng mai chúng tôi đến nhé?
    Người đàn ông vui vẻ nói:
    - Tốt lắm! Vậy sáng mai anh đưa chị và cháu tới đây chúng tôi sẽ cho xe đưa cả nhà lên đó! Anh khỏi cần đem theo bất kỳ vật dụng trong nhà, trên đó đủ hết rồi!
    - Dạ, cảm ơn ông!
    Quân đứng lên cúi chào.
    Người đàn ông đứng dậy tiễn Quân ra cửa, cả hai người đều có vẻ hài lòng, phấn khởi.
    Quân ra khỏi cửa, vớ lấy chiếc xe đạp một mạch về nhà không hề biết mệt. Vừa về tới nơi, Quân quẳng chiếc xe ngã ngửa ngoài hiên, chạy ào vào căn phòng nhỏ xíu của mình.
    Thằng bé Khang đang nằm ngủ trên giường, Quân bế xốc nó lên quay mấy vòng, thằng bé giật mình khóc thét lên nhưng Quân không quan tâm tới, anh vẫn quay thằng bé vù vù, miệng la lớn:
    - Con ơi! Vận may đã mỉm cười với gia đình mình rồi con ơi! Chúng ta sống rồi con ơi!
    Liên đang giặt quần áo, nghe tiếng con khóc thét và tiếng chồng reo hò ầm ĩ, chị vội vã chạy lên, hai tay quệt quệt vào hai bên vạt áo, chị Liên hớt hãi hỏi:
    - Có chuỵên gì vậy anh?
    Quân đặt con nằm xuống, bế thốc chị Liên lên, hôn đánh chụt vào trán chị:
    - Em ơi, chúng ta gặp may rồi!
    Chị liên mắc cỡ giãy nãy:
    - Bỏ em xuống! Bỏ em xuống rồi kể đầu đuôi cho em nghe đi! Nhìn anh kìa… y như người tâm thần!
    Quân cười thật tươi khi nghe giọng trách yêu của vợ. Anh đặt chị Liên xuống đất rồi nói:
    - Anh đã xin được việc làm rồi! Một công việc ngoài sức tưởng tượng nhé?
    - Việc gì thế anh?
    Liên hồi hộp.
    - Là… làm chủ đó!
    Quân hí hửng nói.
     Liên khựng lại một chút rồi cười thật buồn:
    - Em hiểu, thời buổi này không dễ gì có được công việc thích hợp, anh khỏi phải ái náy với mẹ con em. Từ từ thế nào cũng tìm được mà anh!
    Quân không cười nữa, nghiêm trang nhìn vợ:
    - Em tưởng anh buồn quá nên nói khùng hả? Không có đâu, anh xin được việc thiệt mà, đây, em xem nè, hợp đồng anh vừa ký xong!
    Quân vừa nói vừa thò tay vào túi áo lấy ra mấy tờ giấy A4 gấp tư đưa cho Liên.
    Liên run run cầm tờ giấy, không đọc mà hỏi chồng:
    - Anh nói lại cho em nghe đi, công việc đó là công việc gì?
    Quân kéo vợ ngồi xuống sàn. Chị Liên ôm thằng Khang vào lòng, nó không khóc nữa mà mở mắt ngó cha mẹ lom lom, chắc nó cũng nhận ra sự không bình thường của cha nó nãy giờ.
    - Người ta mình về đó sống, làm chủ ngôi nhà đó trong vòng một năm. Mà nè, có cả người giúp việc để vợ chồng mình sai khiến nữa đó, đã chưa?
    Quân cười tít mắt.
    Liên chau mày:
    - Em hổng hiểu gì hết trơn! Nghe giống chuyện tầm xàm quá!
    Quân nắm tay vợ, nghiêm nghị:
    - Không phải chuyện tầm xàm đâu em. Số là ngôi nhà đó trước kia có xảy ra vụ án mạng, người ta đồn đãi nhà có ma nên hổng ai dám mua hay thur gì hết. Một ông chủ lợi dụng cơ hội này để mua với giá rẻ mạt, sau đó thuê vợ chồng mình đến sống trong  một năm để chứng tỏ cho mọi người thấy ngôi nhà đó hoàn toàn bình thường, như vậy ổng sẽ bán được với giá rất cao. Đó, toàn bộ sự việc là vậy đó em à, lúc đầu anh cũng hoang mang ghê lắm!
    Liên không mừng rõ như Quân tưởng, chị e dè hỏi:
    - Nhưng… án mạng như thế nào hả anh?
    Quân do dự, lúc đầu anh không kể lại chuyện ghê rợn đó cho vợ biết, nhưng rồi anh sợ lỡ mai này về đó sống, Liên lại nghe những lời đồn thổi bên ngoài sẽ có tác hại hơn là chính anh kể cho vợ biết sự thật. Thế là Quân kể lại không sót chi tiết nào câu chuyện lúc nãy mới được nghe.
    - Anh nghĩ em cũng không sợ, đúng không?
    Kể xong, Quân hỏi vợ.
    Liên băn khoăn một chút rồi nói:
    - Thật sự em không sợ, nhưng có hơi e ngại khi nghe cái chết của đứa bé kia. Thằng Khang con mình còn nhỏ…
    Quân cắt lời:
    - Em yên tâm đi, anh đã tính trước hết rồi, cả hai vợ chồng mình đâu có làm gì ngoài chuyện giữ con? Chẳng lẽ cả hai mà giữ một đứa nhỏ không nên thân? Nhưng để đảm bảo hơn, ngay khi về đó, anh sẽ cho bơm cạn cái hồ bơi ấy. Em chịu chưa?
    Liên khe khẽ gật đầu:
    - Giữa lúc này, đó là một cơ hội vàng cho gia đình mình, sao em lại khong đồng ý được. Nhưng… thật sự em cứ lo lo thế nào ấy anh à!
    Quân cười xòa:
    - Thôi, không có gì đâu! Tại em vừa nghe chuyện chết chóc nên ám ảnh vậy thôi, mọi việc sẽ bình thường thôi mà!
    Tối hôm ấy, cả hai vợ chồng bắt tay vào chuẩn bị hành lý để sáng sớm lên đường đến với nơi ở mới. Thật ra đồ đạc của Quân và Liên cũng không có bao nhiêu. Cả hai quyết định đem chiếc xe đạp rệu rã, cái lò xô cũ kỹ, mấy cái móc phơi áo quần, mấy cái rổ, thau, chén bát cùng một vài thứ vặt vãnh khác cho lại mấy đứa phòng bên, tội nghịêp, tụi nó cũng là công nhân may, sống tiện tặn, dè xẻn từng chút một mà cũng chẳng thấy dư giả được gì!
    Đúng như lời hẹn, sáng sớm hôm sau vợ chồng Quân vừa tới đã thấy chú Thịnh chờ sẵn. Chú nựng thằng nhóc Khang và nói:
    - Thằng bé giống cha như đúc. Chú chúc các cháu có được cuộc sống mới thật thoải mái.
    Quân và Liên đều xúc động trước cửa chỉ và cách xưng hô thân tình của chú Thịnh.
    Trao cho Quân xâu chìa khóa, chú Thịnh bảo:
    - Đây là chìa khóa nhà trên đó! Bây giờ tài xế sẽ đưa các cháu lên trên ấy, hôm nào rảnh chú sẽ lên thăm. Nhớ nhé, có gì cần thì liên lạc với chú theo số điện thoại hôm qua.
    Quân và Liên mỉm cười cúi chào chú Thịnh rồi chui vào xe. Thằng bé Khang thích thú nhảy chồm chồm lên nhìn ngắm cảnh vật bên ngoài cửa kính. Nói gì đến thằng bé, cả Quân và Liên từ nhỏ tới giờ, đây cũng là lần đầu tiên được ngồi vào xe du lịch bốn chỗ.
    Hai vợ chồng cứ ngồi nhìn nhau tủm tỉm cười hoài.
    Sau khi dừng lại ăn cơm dọc đường, anh tài xế mỉm cười nói:
    - Anh chị lên xe ngủ một giấc là đến nơi!
    Nói vậy thôi chứ làm sao Quân và Liên ngủ được? Tâm trạng lúc này của cả hai vợ chồng đều giống nhau, vừa vui mừng vừa lo âu, không biết mình sẽ đi tới đâu và điều gì đang chờ đợi gia đình nhỏ bé của mình ở đấy?
    Xe chạy hơn hai tiếng đồng hồ nữa thì tới chỗ.
    Đó là một ngôi nhà đồ sộ nằm sâu trong một khoảng vườn rộng lớn. Từ ngoài cổng có một con đường lát gạch chạy ngoằn ngoèo, uốn khúc theo mấy khóm hoa vào tới tận thềm nhà.
    Liên nhanh chónh nhận ra ở góc sân có một cái hồ bơi rất lớn. Vừa nhìn thấy nó, bất chợt Liên cảm thấy một điều lo sợ mơ hồ vây bủa lấy mình.
    Quân thì khác, anh hoàn toàn hài lòng và sung sướng khi bỗng chốc được làm chủ ngôi nhà to lớn cỡ này, điều mà dù nằm mơ cũng không bao giờ anh thấy được!
    Thằng Khang vừa đặt chân xuống đất là đã lẫm chẫm chạy đi, vấp té chúi nhủi mà vẫn cười nắc nẻ.
    Một người phụ nữ đứng tuổi từ sau nhà chạy lên khi nghe tiếng còi xe ô tô. Trông thấy vợ chồng Quân, chị cúi đầu chào:
    - Cô chú mới lên tới?
    Liên và Quân mỉm cười chào lại.
    Anh tài xế vui vẻ giới thịêu:
    - Đây là vợ chồng anh Quân, chị Liên. Anh chị sẽ sống ở đây bắt đầu từ hôm nay. Còn đây là chị Ba, anh chị có cần gì thì nói với chị ba nhé?
    Quân và Liên thật sự lúng túng vì không sao quen được với vai trò làm chủ. Khi tất cả đã vào hết trong nhà, anh tài xế nói:
    - Chị ba giúp đỡ cho vợ chồng anh Quân nhé? Bây giờ tôi phải trở về Sài Gòn.
    Nói xong, anh tài xế gật đầu chào mọi người rồi đi ra xe.
    Chị Ba bắt đầu hướng dẫn cho Quân và Liên làm quen với từng căn phòng trong ngôi nhà thênh thang rộng lớn này.
    Quân không thể tin những gì đang diễn ra trước mắt mình. Thật khó mà tưởng tượng mức sang trọng và tính thẩm mỹ cực kỳ ở từng chi tiết trang trí trong các phòng nghỉ, phòng khách... Đúng y như truyện thần thoại nghìn lẻ một đêm hay những cảnh sang trọng tột cùng trong các bộ phim mà anh đã từng nghe kể hoặc xem qua.
    - Liên nè, em có thấy là vợ chồng mình quá may mắn không?
    Quân đi sát vào vợ, hỏi nhỏ.
    Vì không muốn làm tắt niềm vui của chồng, chỉ Liên gượng gạo mỉm cười:
    - Dạ, mình may thật!
    Bé Khang thì không ngừng chạy tới chạy lui vì mê ly, vui sướng... Chỉ một mình Liên là không đồng cảm với chồng con.
    Một lúc sau, không dằn nổi, Liên thầm thì với chồng:
    - Anh à, sao em thấy lo quá!
    Quân ngạc nhiên:
    - Em sợ gì? Em mắc cười thiệt đó nghen! Trong đời anh chưa từng thấy ngôi nhà nào sinh động và ấm cúng như thế!... À, chị Ba ơi, chị làm ở đây được lâu chưa?
    Hình như Quân không chú tâm đến nỗi lo của vợ nên anh quay sang hỏi chuyện chị Ba.
    Nghe Quân hỏi, chị Ba lễ phép trả lời:
    - Ông Thịnh đã thuê tôi về đây làm được hai tháng rồi ạ.
    Quân hỏi chị Ba nhưng mắt lại nhìn Liên cười cười:
    - Vậy hai tháng qua sống một mình ở đây, chị có thấy bóng ma nào chưa? Chị có nghe tiếng động khác thường nào vào ban đêm không, chị Ba?
    Chị Ba mỉm cười:
    - Dạ không hề, mọi việc đều bình thường. Tôi sống có một mình, mới đầu cũng hơi ái ngại nhưng rồi qua mấy đêm thấy không có gì lạ tôi rất yên tâm, giờ thì không còn gì lo lắng nữa. Cô chú mới tới nên chưa quen đó thôi, ở vài bữa sẽ thấy thích thú ngay thôi.
    Quân nháy mắt, cười với Liên:
    - Em có nghe chị Ba nói không, cô vợ tội nghiệp của anh! Đừng quá lo lắng như vậy nữa, em phải vui vẻ lên chứ! Vợ chồng mình được chú Thịnh trả lương để hưởng cuộc sống đế vương này trong một năm đấy. Sau một năm, vợ chồng mình lại phải quay về với căn phòng ẩm thấp, chật chội, chừng đó em tiếc thì muộn rồi em à!
    Liên biết bây giờ dù có lo sợ thì cũng không thể làm khác hơn. Thôi thì ráng vui cho chồng con khỏi phải phiền lòng. Nghĩ vậy nên Liên cố tập trung vào những việc khác để xua tan những nỗi ám ảnh không may trong tâm trí.
    Một tuần lễ trôi qua, Quân, Liên và bé Khang đã hoàn toàn thích nghi với cuộc sống mới. Đang là những người sống cảnh nghèo hèn, bỗng chốc trở thành chủ nhân của cả một tòa nhà sang trọng, Quân và Liên thật sự không quen được với cuộc sống ăn không ngồi rồi.
    Bởi vậy, suốt ngày hai vợ chồng tìm hết việc này đến việc khác để làm. Buổi sáng, Quân tưới cây làm cỏ ngoài vườn thì Liên giúp chị Ba nấu cơm, dọn dẹp nhà cửa. Mới đầu chị Ba nhất quyết không cho vợ chồng Liên đụng tay vào công việc, chị nói:
    - Ông Thịnh mà biết tôi để cô chú làm việc nhà, ổng sẽ đuổi việc tôi đó!
    Quân và Liên cùng cười:
    - Không sao đâu mà chị sợ, tự chúng tôi thích làm mà, ngồi không là tụi tôi chết đó chị!
    Dần dần họ sống với nhau thân mật, vui vẻ như một gia đình.
    Mảnh vườn rộng xung quanh nhà đã được đôi bàn tay siêng năng cần cù của vợ chồng Quân biến thành một vườn rau với đủ chủng loại. Mỗi ngày đi chợ, chị Ba khỏi phải lựa chọn từng mớ rau mà vẫn có rau xanh tươi tắn cho mỗi bữa cơm.
    Riêng với cái hồ bơi thật rộng ngoài sân, giữ đúng lời hứa với vợ, Quân đã bơm cạn nước.
    Chiều chiều vợ chồng con cái ra dân dạo chơi, có khi bé Khang nổi hứng leo xuống lòng hồ bơi chơi đùa dwosi đó, còn Quân và Liên thì ngồi trên thành hồ chuyện vãn.
    Liên cũng đã quen với nơi ở mới, chị không còn cảm giác sợ hãi lo lắng thường xuyên nữa, nhưng thỉnh thoảng vẫn có lúc Liên cảm thấy bất an, mỗil úc như thế, Liên lại nhanh chóng xua đuổi nó bằng ý nghĩ, mình ở đây bao nhiêu ngày qua rồi, có gì đâu mà sợ?

    Mười một tháng lặng lẽ trôi qua, cho đến giờ thì dường như sự lạc quan yêu đời của Quân là có lý. Mọi việc diễn ra bình thường, không một âm thanh cót két nào phát ra từ cánh cửa, không một tiếng gió hú bất thường nào được nghe thấy. Ngược lại, mọi thứ đều như trong mơ.
    Đôi lúc Quân vẫn đem cái sự nhát gan của Liên ra mà trêu chọc, những lúc như vậy chị Ba luôn là người bênh vực cho Liên:
    - Đàn bà con gái cũng vậy hết chú à, họ không lo gì cho bản thân mình đâu, mà sự an nguy của chồng con mới là trên hết đó!
    Quân cười:
    - Dạ, chọc Liên cho vui vậy thôi, chứ tôi cũng hiểu lòng cô ấy lắm chị ạ!
    Vợ chồng Liên đã dành dụm được trọn mười một tháng lương mà ông Thịnh phát cho đều đặn mỗi tháng. Bởi vì ở đây hầu như họ không phải tốn tiền vào bất kỳ khoản nào. Vả lại với vườn rau sau nhà, thỉnh thoảng Liên và chị Ba còn đem ra chợ bán bớt, lấy tiền chia nhau để dành tiêu vặt.
    Liên bàn với Quân:
    - Theo lời chú Thịnh hứa, thì sau khi hợp đồng kết thúc vợ chồng mình sẽ có được khoản tiền thưởng là năm chỉ vàng, chiếc xe gắn máy mình đang sử dụng, cộng với mười hai tháng lương nguyên vẹn. Như vậy là mình đã có được một số vốn khá lớn rồi phải không anh? Em tính vầy anh nghe coi được không nhe?
    Quân ôm vợ vào lòng:
    - Em tính là được rồi, anh luôn tin tưởng vào em mà!
    - Không, em muốn bàn bạc với anh!
    Liên không đồng ý với cách chìu vợ của Quân.
    Quân cười khì:
    - Thôi được rồi, em tính sao, nói anh nghe coi!
    Liên chậm rãi nói:
    - Em tính khi hợp đồng kết thúc, mình về lại Sài Gòn, thuê một căn phòng nhỏ y như lúc trước. Nếu anh xin được việc ở các hãng xưởng thì tốt, còn không thì cũng không phải lo. Mình có xe gắn máy, anh có thể chạy xe ôm. Còn em thì kiếm gì đó buôn bán, vậy chắc cũng sống được phải không anh?
    Quân gật đầu:
    - Em tính vậy là chu đáo quá rồi. Thiệt là trời phật thương vợ chồng mình, nếu không có cái hợp này, anh không biết bây giờ vợ chồng con cái nhà mình lang thang ở đâu nữa?
    Quân kéo vợ vào sát bên mình, anh muốn tận hưởng thật trọng vẹn sự sung sướng trong những ngày ngắn ngủi còn lại ở nơi đây.
    Mấy ngày nay, dòng người đến dọ mua ngôi biệt thự tăng lên đáng kể. Theo lời dặn của chú Thịnh, vợ chồng Quân Liên phải tỏ ra hết sức phấn chấn, trên môi luôn nở nụ cười. Họ phải thể hiện trước mặt khách hình ảnh của một gia đình hạnh phúc tuyệt đối.
    Nhưng nếu không có sự dặn dò cẩn thận ấy thì Quân và Liên cũng sẽ rất phấn khởi, vui vẻ vì hạnh phúc mà họ đang có  và viễn cảnh tương lai êm đẹp đã được vẽ ra trước mắt.
    Hôm ấy, Liên và Quân hướng dẫn đôi vợ chồng doanh nhân giàu có ở Sài Gòn đi thăm ngôi biệt thự. Sau khi xem xét hết mọi ngóc ngách trong nhà, người vợ tách Liên ra nói chuyện riêng.
    - Tôi nghe nói mấy năm trước đã xảy ra một thảm kịch trong ngôi nhà này thì phải? Cô có nghe nhắc tới chuyện đó không?
    Bà vợ doanh nhân tò mò hỏi.
    Liên gật đầu:
    - Đúng là có chuyện đó xảy ra, nhưng bà hỏi chuyện này để làm gì?
    Bà vợ doanh nhân lúng túng:
    - Vì… vì tôi cũng có nghe rất nhiều lời đồn đại rằng ngôi nhà này từ lúc xảy ra thảm kịch đã bị các vong hồn đeo bám, không chịu rời xa, nói chính xác là nhà này bị ma quỷ ám rồi, người ta không sống được!
    Liên bật cười:
    - Thật là vô lý! Nếu có chuyện đó thì làm sao gia đình tôi sống hạnh phúc trong gần suốt năm nay? Đó chỉ là những chuyện thêu dệt thôi bà ạ, bà đừng quá tin!
    Bà vợ doanh nhân mỉm cười:
    - Ừ, tôi thật ngốc mới tin vào những điều đơm đặt như vậy. Ông nhà tôi muốn mua ngôi nhà này mà tôi cứ lần khân cản trở, cũng vì sợ mấy lời đồn đại đó. Nay tận mắt chứng kiến cuộc sống đầm ấm của vợ chồng con cái nhà cô, lại nghe cô khẳng định vậy tôi rất yên tâm. Tôi sẽ đồng ý cho ông nhà tôi mua ngôi nhà này!
    Giữa lúc hai người còn đang nói chuyện vui vẻ với nhau thì có điều bất thường xảy ra. Thằng bé Khang lâu nay vẫn là một đứa bé ngoan ngoãn và có phần hơi nhút nhát trước người lạ, vậy mà không hiểu sao nó lại chạy tới, dùng đôi tay nhỏ xíu của mình đấm liên tục vào bà vợ doanh nhân, vừa đánh vừa la:
    - Bà đi đi, bà về đi, bà đừng ở đây nữa, bà xấu lắm!
    Sửng sốt trước thái độ lạ thường của bé Khang, Liên cố giữ chặt hai tay thằng bé lại và mắng:
    - Con bị điên rồi hay sao vậy? Mẹ cấm con không được hỗn hào như vậy nghe chưa?
    Bị mẹ mắng, thằng bé khóc sướt mướt nhưng hai tay vẫn cố níu lấy vạt áo của người khách mà giật mạnh không thôi.
    Phải cố gắng lắm, Liên mới khống chế được cậu con trai yêu dấu. Bà khách vì bất mãn trước thái độ hỗn láo của thằng bé nên cũng bỏ đi lại chỗ chồng bà và Quân đang đứng.
    Tối hôm ấy, Liên lo lắng nói với chồng:
    - Anh nè, tự nhiên hồi chiều này bé Khang có thái độ như vậy làm em lo quá!
    Quân ngạc nhiên:
    - Em lo gì? Con nít thì cũng khi vầy khi khác. Có lẽ tại nó thấy em cứ nói chuyện với khách hoài mà không quan tâm gì tới nó, nó ganh tị nên mới xử sự vô lễ như vậy thôi. Mình rầy dạy, cắt nghĩa cho nó hiểu là xong chứ gì, nó vốn là đứa bé ngoan và hiểu biết mà em!
    Liên thở dài:
    - Đó chỉ là một phần thôi anh à! Em sợ… mai này vợ chồng mình trở lại cuộc sống lam lũ trước đây, thằng bé sẽ không chấp nhận, vì nó đã quen sống trong đầy đủ như vầy rồi. Nếu vậy mình phải làm sao hả anh?
    Nghe vợ nói cũng có lý, Quân cau mày suy nghĩ một lúc rồi an ủi vợ:
    - Chắc không đến nỗi nào đâu em ạ, có lẽ thời gian đầu nó sẽ khó chịu nhưng từ từ lại quen thôi. Bắt đầu từ ngày mai vợ chồng mình làm công tác tư tưởng cho nó trước, nói với nó là một năm qua cả nhà đi du lịch, giờ phải trở về làm lụng để kiếm tiền, sau này sẽ đi du lịch nữa… Mình sẽ giải thích cho con và nó sẽ thích ứng dần thôi em ạ.
    Liên vẫn buồn rầu:
    - Vợ chồng mình thì dễ dàng thôi, nhưng Khang thì khó lắm anh à. Thời gian gần đây tính khí nó thay đổi bất thường lắm.
    Bất chợt có tiếng thét lớn phát ra từ phòng của bé Khang. Liên hốt hoảng chạy đi, theo sau là Quân.
    Bé Khang đứng cạnh giường, vẻ mặt căng thẳng lắm.
    Liên nhào tới ôm thằng bé vào lòng. Nó mếu máo nhìn Liên:
    - Mẹ, con thấy thằng bé!
    Liên ngạc nhiên hỏi lại:
    - Thằng bé nào hả con? Trong nhà mình, ngoài ba mẹ và dì Ba đâu có thằng bé nào nữa? Con ngủ mơ phải không?
    Bé Khang dậm chân cãi lại:
    - Con không ngủ mơ, nãy giờ con chưa ngủ mà! ?Thằng bé rủ con xuống hồ bơi, mà cái hồ nhà mình cạn hết nước rồi, làm sao bơi được, thằng đó khùng thiệt, mẹ há?
    Liên quay sang nhìn Quân, giọng thảng thốt:
    - Anh ơi, mình phải rời khỏi đây ngay thôi.
    Quân nghiêm mặt:
    - Không được! Chỉ còn hai tuần nữa là mãn hợp đồng, nếu bỏ đi lúc này mình sẽ mất một tháng tiền lương, năm chỉ vàng và chiếc xe mà chú Thịnh hứa thưởng. Em buồn cười thiệt đó, chỉ vì một chuyện không đâu của con nít lại quan trọng vấn đề rồi lo sợ này nọ… Thôi, ráng đi, sau hai tuần nữa dù có muốn ở lại người ta cũng không cho đâu!
    Liên vẫn run rẩy:
    - Em không thể ở đây thêm ngày nào nữa đâu anh ơi!
    Quân hơi lớn tiếng, cằn nhằn:
    - Đã sống ở đây gần một năm trời, hoàn toàn yên bình, không có gì đáng ngại, bây giờ sắp đến giờ phút chót mà em lại làm vậy… Em có biết năm chỉ vàng với chiếc xe đó có khi cả đời mình cũng không sắm được không?
    Liên không nói gì. Chị biết, biết rất rõ cái giá trị vật chất mà vợ chồng chị sắp được nhận, chị cũng không dễ dàng gì mà từ bỏ nó, nhưng sao trong lòng chị lại thấp thỏm lo sợ đến thế này? Khi vừa nghe bé Khang nói tới chuyện thằng bé nào đó rủ nó đi bơi, là tự nhiên Liên nghĩ ngay tới hôn ma đứa bé đã chết dưới hồ bơi năm xưa.
    Trời ơi, có khi nào… xin trời phật phù hộ cho gia đình con, cho chúng con được bình yên thêm hai tuần nữa… Liên ôm con vào lòng, âm thầm van vái.
    Quân đặt tay lên vai vợ, dịu giọng:
    - Con mình mơ màng hoặc tưởng tượng thôi em à, không sao đâu, không có gì đâu!
    Rồi Quân cúi xuống bế bé Khang lên cười nói:
    - Con trai ba ngoan lắm đúng không? Giờ con lên giường ngủ nhe, khuya lắm rồi đó! Ngủ ngoan đi, mai ba làm diều cho con chơi, chịu không nè?
    Thằng bé nghe nhắc tới diều liền nhoẻn miệng cười:
    - Dạ chịu! Ba nhớ làm diều cho con nghe!
    Quân hôn đánh chụt vào má thằng bé, gật đầu:
    - Ba nhớ chứ, nhưng con phải ngoan, không được la hét om sòm nữa nghe chưa?
    - Dạ, con biết rồi!
    Khang vừa nói vừa trèo lên giường. Nó nằm duỗi thẳng chân tay và khép mắt lại, cất tiếng khò khò giả như đang ngủ.
    Liên bật cười, dí tay vào trán con trai:
    - Cái thằng! Thiệt là hay làm bộ làm tịch quá!
    Hai mắt bé Khang nhúc nhích, miệng nó cố nén một cái mỉm cười.
    Quân và Liên đứng nhìn con một lúc rồi tắt đèn đi ra ngoài khép cửa lại.
    Suốt những ngày sau đó, dù đã được Quân giải thích cặn kẽ nhưng không hiểu sao Liên như sống trong cơn ác mộng.
    Khuya nào Liên cũng thức giấc vì nghe tiếng hét hãi hùng của con trai. Nhưng thực tế bé Khang vẫn ngủ rất ngoan, không hề la hét gì cả.
    Quân nói:
    - Chỉ tại trong đầu em luôn bị ám ảnh vì điều đó nên em mới tưởng tượng ra vậy thôi. Cả anh và dì Ba, có ai nghe thằng Khang la lối gì đâu? Mà mỗi khi giật mình thức giấc, em đều chạy sang phòng nó và vẫn thấy nó ngủ ngon lành mà?
    Liên biết những gì chồng nói hoàn toàn đúng, chị không thể cãi lại được, nhưng thật sự linh tính đang báo cho Liên một sự việc gì đó rất đáng sợ đang sắp sửa xảy ra.
    Để yên tâm hơn, Liên không cho bé Khang ngủ riêng phòng nữa, mà kê thêm một chiếc giường nhỏ cho con trai ngủ cùng phòng với vợ chồng mình.
    Quân không phản đối, để Liên được an lòng thì có làm gì Quân cũng đồng ý.
    Chỉ còn ba ngày nữa thì hợp đồng sẽ kết thúc. Buổi sáng hôm ấy, Liên thức dậy bình thản hơn mấy hôm trước vì hai đêm qua Liên không còn nghe tiếng bé Khang la hét như những đêm trước nữa.
    Liên cùng chị Ba đi chợ mua thức ăn về chuẩn bị đổ bánh xèo để chia tay.
    Khi hai người vừa từ ở chợ về thì trời đổ mưa như trút nước, sấm chớp đì đùng, bầu trời đen kịt.
    Bé Khang không ra sân chơi được nữa nên quanh quẩn chơi trong nhà. Quân nằm xem ti vi, Liên và chị Ba lo nấu nướng.
    Khi bữa ăn kết thúc, lúc này trời cũng đã xế chiều mà mưa vẫn chưa chịu tạnh.
    Quân đứng bên cửa sổ nhìn ra sân nói:
    - Ông trời có bao nhiêu nước thì hôm nay đem đổ xuống hết luôn chắc? Không làm việc ngoài vườn được thì mình làm việc trong nhà vậy!
    Nói xong, Quân dắt chiếc xe gắn máy ra gần cửa ngồi lau chùi cẩn thận. Trong đầu Quân dang diễn ra hình ảnh khi về Sài Gòn, mình sẽ dùng chiếc xe này chở vợ con đi chơi vào những buổi tối rảnh rỗi. Chiếc xe này sắp thuộc quyền sở hữu của mình rồi. Đầu tiên, mình sẽ đưa vợ con về thăm quê, chắc mọi người sẽ phải ngạc nhiên đến tròn mắt, khong hiểu tại sao chỉ mới có một năm mà vợ chồng mình lại khá lên như vậy? Liên và mình lúc này đều mập mạp, trắng trẻo, y như những người giàu có thứ thiệt… Còn nhìn vô thằng Khang, đố ai biết nó là một đứa bé con nhà nghèo, đến túp lều để chui ra chui vào cũng không có được?
    Quân mỉm cười vì những ý nghĩ đó. Anh vừa làm vừa huýt sáo rất vui vẻ.
    Sau khi cùng chị Ba dọn dẹp bếp núc xong xuôi, Liên vào phòng sửa soạn hành lý của gia đình mình.
    Cũng như ngày mới lên đây, đồ đạc của vợ chồng con cái cô không có bao nhiêu, chỉ dồn hết vô một cái ba lô lớn.
    Trời vẫn mưa, mưa từ sáng đến tối vẫn không tạnh, nước vẫn tuôn xối xả và sấm chớp vẫn đì đùng…
    Liên ôm thằng Khang lên giường hai mẹ con đùa giỡn một lúc, mệt quá nó khong chơi nữa mà vòi vĩnh:
    - Mẹ kể chuyện Thánh Gióng cho con nghe đi!
    Chìu theo con trai, Liên kéo mền đắp cho con rồi bắt đầu kể:
    - Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão chăm làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân to quá, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai và mười hai tháng sau sinh một thằng bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
    Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ. Bèn truyền cho sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tin, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này".
    Kể mới tới đó Liên bất chợt mỉm cười vì thấy bé Khang đã ngủ say. Liên kéo mền đắp cho con thật kín rồi nhè nhẹ ngồi dậy đi trở qua giường mình.
    Quân đi vào hỏi:
    - Con ngủ sớm vậy em?
    Liên cười:
    - Chắc tại trời mưa lạnh dễ ngủ, nó đòi em kể chuyện, mới kể mấy câu cu cậu đã ngủ khò, thật đúng là con nít, mới đó là ngủ liền!
    Quân một tay ôm chầm lấy vợ, một tay với lên tắt đèn:
    - Giờ tới lượt em phải kể chuyện cho anh nghe nè, bảo đảm là anh không ngủ như con đâu!
    Liên cười khúc khích:
    - Anh cứ vậy hoài…
    Hai vợ chồng cười đùa vui vẻ với nhau thật lâu rồi cũng chìm giấc ngủ ngon lành. Ngoài trời vẫn mưa tầm tã…
    Liên giật mình thức dậy vì ánh nắng chiếu thẳng vào mắt. Chớp mắt mấy cái liên tiếp, Liên ngồi dậy nhìn sang giường con, trên giường mền gối ngổn ngang mà bé Khang lại không có đó.
    Thương ngày vẫn có những những lúc Khang dậy trước mọi người, nhưng tự nhiên lúc này Liên lại thấy trong lòng mình rất hoảng sợ. Liên vội lay chồng:
    - Anh ơi! Dậy đi, thằng Khang dậy rồi kìa…
    - Kệ nó, để anh ngủ thêm chút nữa mà!
    Quân không mở mắt, chỉ khẽ cựa mình và nói giọng ngái ngủ.
    Thật sự Liên không biết nói sao với Quân nữa, chẳng lẽ chỉ vì lý do thằng con dậy trước mà Liên lại kêu réo chồng sao?
    Liên đứng lên không đi vào nhà vệ sinh như thwofng ngày mà chạy tìm con khắp nhà.
    Thấy chị Ba đang lui cui dưới bếp, Liên hỏi:
    - Nãy giờ chị thấy thằng Khang có xuống dưới đây không, chị Ba?
    Chị Ba ngước lên mỉm cười:
    - Không, sáng giờ tôi không thấy nó, tưởng nó còn ngủ trong phòng chớ. Chắc nó chạy chơi đâu đó thôi, lo gì!
    Nhưng Liên đang rất lo lắng, trong lòng Liên như có lửa đốt, cô quáng quàng chạy khắp ngôi nhà vẫn không thấy thằng bé đâu.
    Như có linh tính, Liên mở cửa, đi chân đất ra sân.
    Vừa ra tới sân, Liên chạy ngay tới chỗ hồ bơi… thì trời ơi… cái hồ bơi lúc này đã đầy ngập nước, và chiếc áo thun màu xanh mà thằng Khang mặc đang lập lờ phía dưới.
    - Khang ơi! Trời ơi… con tôi!
    Tiếng thét kinh hoàng của Liên làm Quân tỉnh hẳn ngủ, anh phóng vội ra sân, chị Ba cũng từ dưới bếp vội vã chạy lên.
    Thấy Liên đứng chết sững bên cạnh hồ bơi, Quân đã đoán được điều gì đang xảy ra, anh lao như điên đến bên vợ. Rồi cũng như Liên, Quân đứng bất động trong một giây khi trông thấy chiếc áo của Khang dưới hồ, rồi bất chợt Quân nhảy ùm xuống nước… nhưng đã quá trễ, thân thể của bé Khang đã lạnh cóng tự bao giờ…
    Một tiếng hét khủng khiếp phát ra từ miệng Liên khi nhìn thấy cảnh Quân bồng xác bé Khang từ dưới hồ bước lên. Liên nhào tới ôm con nhưng bàn tay Liên chưa kịp chạm vào thân thể đứa bé thì Liên đã ngã ra bất tỉnh.
    Quân vừa ôm thi hài đứa con vừa giúp chị Ba dìu Liên vào phòng và đặt cô nằm xuống giường.
    Trong lúc chị Ba hốt hoảng lo xức dầu giật tóc cho Liên tỉnh lại thì Quân ngồi nhìn đăm đăm vào xác chết của đứa con trai yêu dấu.
    Liên thở đều rồi nhướng mắt, cô chợt nhớ lại tất cả nên bất thần nhào tới ôm chặt thi thể bé Khang vào lòng. Quân cố nén nước mắt, giằng ra:
    - Liên… con đã chết rồi…
    Liên gào lên điên dại:
    - Không! Không… bé Khang của mẹ không thể chết được, phải không con? Con chỉ đùa giỡn với mẹ thôi mà… đúng không? Mẹ chịu thua con rồi đó, con mau mau mở mắt ra cười với mẹ đi Khang ơi, mẹ van con, mẹ xin con, con đừng làm mẹ sợ mà, Khang ơi….
    Liên khóc nấc lên rồi ngã quỵ xuống bên cạnh xác con trai.
    - Liên… cô đừng quá đau thương như vậy Liên à!
    Chị Ba an ủi.
    Quay sang Quân, chị Ba nói:
    - Chú chạy vô trại cây trong chợ đặt họ đóng một cái quách đi, ở nhà tôi sẽ nấu nước tắm rửa cho bé sạch sẽ…
    Quân như kẻ mất hồn đứng lên đi ra theo lời chị Ba dặn.
    Liên khóc chán chê thì nằm bên xác con chừng như thiêm thiếp ngủ. Chị Ba biết giữa lúc này dù có khuyên lơn, an ủi cách gì cũng không thể giúp Liên nguôi được nỗi thương đau, thôi thì để cho Liên một mình với con lần cuối…
    Nghĩ vậy nên chị Ba xuống bếp lo nấu nước và chuẩn bị đồ đạc để tẩn liệm cho bé Khang.
    Khi mọi việc đã xong xuôi, chị Ba lên phòng Liên định tắm cho thằng bé, nhưng khi vừa đẩy cánh cửa phòng, chị Ba đã rụng rời buông rơi thau nước ấm vừa mới pha làm nước bắn tung tóe khắp sàn nhà: Ở giữa phòng thân thể Liên đang treo lủng lẳng!
    Tiếng kêu hoảng loạn của chị Ba cất lên cũng là lúc Quân vừa về tới. Anh đứng sững nhìn thi thể vợ con mà mặt không hề biểu lộ một cảm xúc nào.
    Bất thần Quân chạy vụt ra ngoài.
    - Chú Quân! Chú Quân! Chú đi đâu đó?
    Chị Ba chạy theo vừa khóc vừa gọi lớn, nhưng quân không hề đáp lại. Chiếc xe gắn máy còn để dưới sân nhà, Quân nhanh nhẹn leo lên và cắm đầu nổ máy chạy đi…
    ***
    Chiếc Toyota lướt êm ru trên con đường vắng người qua lại. Trong xe, ông Thịnh ngồi tựa người vẻ khoan khoái.
    - Chút nữa ông có lên trên đó không, ông chủ?
    Anh tài xế hỏi.
    Ông Thịnh cười ha hả:
    - Đi, đi chứ! Hôm nay tôi sẽ lên để ký giấy tờ bán ngôi nhà đó! Thật không thể tưởng mối làm ăn này lại mang đến lợi nhụân cao như vậy! Từ nay tôi phải chú tâm hơn vào những thứ mà người khác không dám đụng tới…
    - Giờ đi luôn hay sao, thưa ông?
    Anh tài xế lại hỏi.
    - Không, cho tôi ghé vào công ty một chút!
    Anh tài xế dừng xe, ông Thịnh bước xuống và ung dung xách cặp táp đi vào công ty.
    Đi gần tới cổng, bất ngờ ông trông thấy Quân đang ngồi trên xe gắn máy nhìn ông lom lom.
    Hơi chột dạ, ông Thịnh hỏi:
    - Ơ kìa… Quân phải không? Sao giờ này lại có mặt ở đây?
    Vừa cất tiếng hỏi xong, ông Thịnh bất giác rùng mình khi trông thấy Quân đang nhìn ông bằng cặp mắt vằn đỏ như vừa tóe máu. Ông Thịnh muốn chạy nhanh tới cổng bảo vệ, nhưng khong kịp, Quân bất ngờ rú ga cho chiếc xe vọt lên đâm sầm vào ông Thịnh rồi tiếp đó đâm thẳng vào tường. Cả Quân và ông Thịnh đều văng đi một quãng khá xa.
    Ngay chiều hôm đó các báo đồng loạt đưa tin về cái chết thảm hại của ông Thịnh, họ cũng không quên nhắc tới cái chết của gia đình bé nhỏ Quân – Liên.
    Cầm tờ báo trên tay, bà vợ doanh nhân run rẩy nhấc máy gọi cho chồng:
    - Anh đã đọc báo chưa? Trời ơi… mình thật là may mắn, chỉ vài tiếng đồng hồ nữa thôi là mình đã mua ngôi nhà đó rồi…
    Đặt địên thoại xuống, bà vợ doanh nhân chợt nhớ tới hình ảnh của cặp vợ chồng trẻ đã tiếp đón vợ chồng bà niềm nở hôm rồi. Bà quỳ xuống trước bàn thờ lâm râm khấn vái:
    - Cầu cho vong hồn họ được siêu thoát!
    Hết
    Nguyễn Thị Mộng Thu
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:23:38 bởi nguyenthu >
    #62
      nguyenthu 10.08.2009 21:51:32 (permalink)
      MA THẦN VÒNG
       
      Cái tin Phượng tự tử chết làm tôi sửng sốt.
      Không, không thể nào đâu, chắc là có sự nhầm lẫn nào đó ở đây rồi! Mới chiều hôm qua tôi còn gặp Phượng lúc dừng chân mua cho con gái bịt nước mía ở ven đường mà, lúc đó Phượng còn hỏi tôi:
      - Ê, mầy tin trên đời có ma không?
      Tôi thần người ra một lúc rồi trả lời:
      - Tao cũng hổng biết nữa! Mà sao mầy hỏi vậy?
      Phượng nháy mắt với tôi:
      - Hôm nào rảnh tao kể mầy nghe…
      Tôi thấy hình như Phượng còn muốn nói chuyện với tôi nhiều nữa, nhưng lúc đó tôi vội vã đem bánh về cho con ăn rồi còn đưa nó tới lớp học thêm nữa nên không có thời gian đứng lâu với Phượng.
      Tôi và Phượng ở cùng một thành phố, trước đây hai đứa liên lạc với nhau thường xuyên lắm, nhưng từ lúc tôi có con rồi công ty giao cho nhiều việc, tôi không còn thời gian nào để dành cho Phượng được nữa.
      Có hôm Phượng tới nhà chơi tôi cũng không tiếp đón chu đáo mà cứ phải vừa làm việc vừa chuyện trò.
      Chắc Phượng cũng nhận ra những tất bật của tôi nên mấy lúc sau này Phượng cũng ít đến.
      Phượng thì đỡ hơn tôi nhiều, nó là nhân viên văn phòng, chỉ làm việc ngày tám tiếng giờ hành chánh. Hai vợ chồng nó lại chưa có con nên sau giờ làm việc, hoặc vào các ngày nghỉ thì tha hồ mà rong chơi thỏa thích.
      Còn như tôi, mỗi tuần chỉ có một ngày chủ nhật mà cũng đâu khi nào được nghỉ trọn vẹn đâu. Tôi vẫn phải mang hàng đống hồ sơ, sổ sách về nhà để giải quyết.
      Nhưng thỉnh thoảng tôi và Phượng cũng gặp nhau đâu đó trên đường, và trao đổi một vài câu, còn lại chỉ là điện thoại nhắn tin thăm hỏi.
      Có lẽ nào chưa được hai mươi bốn tiếng đồng hồ mà Phượng đã trở thành người thiên cổ?
      Phượng với tôi là bạn thân từ hồi học cấp một, có chuyện gì buồn vui hai đứa đều tâm sự hết với nhau.
      Thế nhưng mấy lúc gần đây ngoài việc thỉnh thoảng Phượng có than phiền ông xã dạo này bê tha nhậu nhẹt nhiều quá thì đâu nghe Phượng nói gì tới chuỵên chán đời mà tìm tới cái chết.
      Tôi bỏ cả bữa cơm đang nấu dở, vội vàng lấy xe chạy ngay tới nhà Phượng để coi hư thực ra sao.
      Khi vừa cho xe rẽ vào con hẻm nhà Phượng là tôi đã bủn rủn tay chân và lờ mờ nhận ra đó không phải là sự nhầm lẫn hay lời đồn nhảm nào mà đúng là sự thật.
      Tôi nghe tiếng khóc, tôi thấy người ta ra vào nhà Phượng thật đông làm hai chân tôi như không còn đứng vững được nữa.
      Cố gắng lắm tôi mới dựng được chiếc xe tựa bên hàng rào và lập cập bước vô nhà.
      Ngôi nhà này vợ chồng Phượng vừa dọn về ở cách đây mới hai tháng. Vợ chồng nó không đủ tiền mua, phải vay mượn của cả hai bên nội ngoại mới đủ tạo cho mình một tổ ấm riêng tư.
      Trước kia, điều làm Phượng buồn phiền nhiều nhất chính là sự chug đụng, va chạm với những người bên gia đình chồng.
      Vợ chồng Phượng ở chung với ba mẹ chồng và bốn đứa em chồng mà đứa nào đứa nấy đã lớn phổng phao nhưng vẫn cứ xòe tay xin anh chị từng đồng ăn quà bánh. Chúng lại không ngừng xoi mói, xét nét từng điệu bộ, cử chỉ đến lời ăn tiếng nói của Phượng làm nó cảm thấy bức bối khó chịu vô cùng.
      Nó vẫn thường bảo với tôi:
      - Tao mà sống trong nhà đó chừng nửa năm nữa thì một là tao phát điên, hai là tao sẽ ở tù vì tộ igiết người!
      Tôi khuyên:
      - Mầy đừng có nghĩ bậy bạ quá không nên! Nếu ở đó không thoải mái, mầy có thể đề nghị chồng dọn ra riêng. Chồng mầy đâu phải con một mà sợ việc ra riêng khó khăn? Trên và dưới chồng mầy trai gái đều có đủ, nếu vợ chồng mầy xin phép ra riêng chắc không có trở ngại gì đâu, hổng chừng người ta còn mừng là đằng khác.
      Phượng thở dài đánh thượt:
      - Tao cũng biết vậy, nhưng cả hai vợ chồng đều là công chức văn phòng, đồng lương hạn hẹp biết chừng nào tao mới có đủ khả năng để mua cho mình một căn nhà riêng mà dọn đi chứ mậy?
      Tôi cười:
      - Nếu mầy đừng đòi hỏi nhà cao cửa rộng, mặt tiền mặt phố gì hết thì cũng không quá khó khăn đâu. Này nhé, cả hai gia đình đều khá giả, vợ chồng mầy có thể mượn cả hai bên mà, đúng không? Mầy mua một căn nho nhỏ trong hẻm, giá cả cũng không đến nỗi nào đâu!
      Sau lần nói chuỵên đó, không biết Phượng nó về tỉ tê với chồng thế nào không biết mà một thời gian sau nó hí hửng gọi điện khoe với tôi:
      - Có một ngôi nhà khá ngon lành nhưng họ lại kếu bán rất rẻ, ông xã tao đã chấm rồi, hai bên cũng hứa cho mượn tiền. Tao mừng quá mầy ơi… Vậy là vợ chồng tao sắp sửa có được cái tổ chim cúc cu của riêng mình rồi đó, mầy mừng cho tao nhé?
      Theo như lời Phượng nói, ngôi nhà đó bỏ hoang đã lâu vì chủ nhà đã định cư ở nước ngoài, cho ngôi nhà đó cho một người bà con xa. Người bà con đó cũng không sinh sống ở đây nên căn nhà cứ đóng cửa im ỉm từ hơn mười năm nay, chỉ thỉnh thoảng một năm vài ba bận người bà con về đảo qua một tí xem xét rồi lại ra đi.
      Giờ đây người bà con đó cũng đã lớn tuổi rồi nên muốn bán đi để không phải tới lui thăm nom gì nữa.
      Tôi thật sự mừng cho bạn! Ngày vợ chồng Phượng dọn nhà tôi cũng đã bỏ ra trọn một ngày chủ nhật để lăn xả vào giúp bạn. Và tôi cũng là người khách duy nhất có mặt trong bữa cơm đầm ấm đầu tiên trong ngôi nhà đó.
      Trong bữa cơm “tân gia” ấy, tôi cảm nhận được niềm vui, niềm hạnh phúc rạng ngời trong mắt Phượng.
      Nó vẽ ra cho tôi thấy một cảnh sống yên bình hạnh phúc của vợ chồng nó trong ngôi nhà này khiến tôi phát ghen lên được.
      Vậy mà chưa được mấy tháng, hôm nay ngôi nhà đó lại nhộn phịp người lui tới, nhưng không phải để chia vui với vợ chồng Phượng mà là tới để đưa tiễn Phượng lần sau cuối…
      - Bác sĩ pháp y đang khám nghiệm xác cô ấy ở căn phòng phía bên kia!
      Tôi được một người cho biết khi hỏi việc tẩm liệm Phượng đã tiến hành chưa.
      Nghe nói thế ngực tôi đau như thắt lại, nhưng tôi phải cố nén lại, nhấc từng bước chân nặng nề đi thẳng xuống nhà sau.
      Vừa trông thấy tôi mẹ Phượng khóc òa lên, bà ôm chầm lấy tôi rồi gần như lả đi trong tay tôi. Tôi phải cố gắng hết sức mới có thể dìu bà ngồi vào chiếc ghế bên cạnh.
      Nước mắt tôi cũng đã chảy ròng ròng hai bên má.
      - Bác ơi… Tại sao Phượng lại…
      Biết là làm cho người thân của Phượng sẽ đau thêm khi hỏi câu đó, nhưng tôi không sao đè nén được lòng mình, đè nén được nỗi thắc mắc đang chiếm lĩnh trọn tâm tư tôi.
      Mẹ Phượng khóc ngất từng cơn, không thể nào nói lên lời gì với tôi được.
      Mây, em chồng Phựơng đứng bên cạnh đỡ lời:
      - Chị Phượng chết quả thật bất ngờ đối với tất cả mọi người chị ạ! Trưa hôm nay anh Nam em đi làm rồi bận tiếp khách nên không về trưa như thường lệ. Chị Phượng mấy lần gọi di động cho anh đều nghe báo không liên lạc được nên chị đam ra nghĩ ngợi lung tung. Sự thật theo anh Nam nói là tại máy anh hết pin, nhưng chị Phượng lại không nghĩ vậy. Chị nghĩ anh Nam đi đâu đó không đàng hoàng nên mới phải tắt máy.
      Chị buồn, có ghé qua nhà hỏi em biết anh Nam đi đâu không. Em nói đùa:
      - Chắc ảnh đi thăm bà nhỏ rồi chứ gì!
      Nói xong thấy mặt chị Phượng tỏ ý không vui nên em lảng qua chuyện khác. Hai chị em nói vài ba câu bâng quơ nữa thì chị Phượng ra về. Vậy mà chỉ mấy tiếng đồng hồ sau em nghe tin báo chị Phượng thắt cổ chết. Em điếng cả người và thấy ân hận quá, có thể câu nói đùa của em cũng là một trong những tác nhân gây ra cái chết cho chị.
      Mây vừa kể vừa sụt sịt khóc.
      Tôi thấy cái lý do đó không thể chấp nhận được! Dẫu biết rằng tính tình Phượng hay giận hờn, nhưng sự việc đâu có gì, đâu đến mức Phượng phải tự kết liễu đời mình như thế!
      Mẹ Phượng cố nén tiếng tức tưởi trong lồng ngực:
      - Không hẳn vậy đâu con… Tại con chưa biết, cách đây mấy hôm Phượng có về chơi nó kể cho bác nghe nhiều chuyện lạ xảy ra trong nhà nó. Bác thì cứ tưởng nó nghĩ ngợi suy diễn lung tung nên đã cố mắng át nó đi…
      - Chuyện gì thế hở bác? Chẳng lẽ anh Nam con…
      Mây lo lắng hỏi.
      Mẹ Phượng lắc đầu:
      - Không! Chuyện không dính tới thằng Nam. Phượng bảo, những lúc ở nhà một mình, mà nhất là vào ban đêm, những hôm Nam bận trực cơ quan hoặc đi đâu đó về khuya, Phượng thường thấy lảng vảng bóng một người nào đó trong nhà mình, cầm cái vòng dây đưa ra, đồng thời có tiếng nói thầm thì rủ rê Phượng cùng chơi một trò chơi gì đó rất thú vị. Và Phượng nói, tự nhiên lúc đó Phượng không cảm thấy sợ hãi gì mà trái lại còn rất muốn tham gia chơi đùa cùng người ấy. Nhưng lần nào cũng vậy, khi Phượng chuẩn bị chui đầu vào cái vòng để bắt đầu trò chơi thì Nam về tới hoặc có một chuyện gì đó làm cho Phượng bừng tỉnh, đồng thời cái bóng người kia cũng biến mất. Lúc đó Phượng mới thấy sợ. Sự việc ấy cứ lặp đi lặp lại nhiều lần rồi mà Phượng không dám kể cho Nam biết. Nó kể với bác, hy vọng bác cho nó một lời khuyên vậy mà bác lại la mắng nó, thật tội nghiệp cho con tôi… Con ơi là con ơi…
      Bà lại khóc nghẹn ngào.
      Tôi và Mây cùng sững sờ khi nghe mẹ Phượng kể lại câu chuyện đó. Và tôi cũng nhớ lại chiều hôm qua chính Phượng cũng đã nói loáng thoáng với tôi về chuyện ma quái gì đó rồi!
      Trời ơi… chẳng lẽ cái chết của Phượng lại là do ma quái gây ra? Tôi hồi hộp trong lòng, cố quay sang Mây hỏi thêm câu nữa:
      - Phượng chết thế nào? Ai là người phát hiện đầu tiên vậy Mây?
      Mây kéo tay áo quệt nước mắt nước mũi đang chảy tràn trên mặt, nói trong tiếng tức tưởi:
      - Chị ấy treo cổ tự vận. Chính đứa bé nhà kết bên hàng ngày vẫn thường sang chơi với chị phát hiện đầu tiên. Anh Nam nhà em rất yêu thương chị ấy. Tụi em có nhiều khi không phải với chị, nhưng nói đúng ra không có ai ác ý gì, tụi em cũng không ai thù ghét chị… không thể nào vì anh Nam hay vì tụi em mà chị chết một cách đau đớn như vậy. Có thể bác nói đúng… có thể chị chết vì… vì một thế lực nào khác cũng nên…
      Mây vừa nói tới đó thì Nam đi từ nhà trên xuống, gương mặt Nam thất thần, trông như già hơn mấy tuổi.
      Vừa trông thấy tôi, Nam vồ tới chụp lấy hai tay tôi lắc lấy lắc để:
      - Hạnh ơi… Phượng có nói gì với Hạnh không? Tại sao Phượng lại chết tức tưởi như vậy chứ Hạnh? Hạnh nói cho tôi biết đi, tại sao Phượng lại chết? Tại sao?...
      Mặt Nam co rúm lại đau đớn nhưng không có bất kỳ một giọt nước mắt nào chảy ra, có lẽ khi nỗi đau đã ở mức tột cùng rồi thì không làm người ta chảy nước mặt được nữa!
      Tôi nhăn mặt nhưng để yên cho Nam bóp hai cổ tay đau điếng:
      - Không… mấy hôm nay bận việc nên Hạnh và Phượng chưa có thời gian nói chuyện nhiều với nhau. Chỉ mới chiều hôm qua gặp Phượng một thoáng ở bên đường, Phượng có hẹn sẽ kể cho Hạnh nghe chuyện ma cỏ gì đó, nhưng… chưa kịp thực hiện thì Phượng đã bỏ đi rồi…

      Nam nhìn tôi đau đáu:
      - Hạnh nói sao? Chuyện ma quái à? Trời ơi… chẳng lẽ nào… Phượng ơi… anh có lỗi với em rồi, anh đã không tin những gì em kể nên mới xảy ra nông nỗi ngày hôm nay…
      Mẹ Phượng, Mây và tôi cùng ngạc nhiên, há hốc miệng khi nghe Nam kêu lên như thế.
      Tôi là người bình tĩnh nhất trong số đó nên cố gắng vừa an ủi vừa khai thác Nam:
      - Nam đừng như vậy, có gì thì từ từ nói ra cho mọi người cũng hiểu và chia sẻ với Nam…
      Giờ thì Nam khóc òa lên, không, không phải khóc, mà phải dùng từ “rống lên” mới chính xác.
      Nam rống lên một tiếng thê thiết rồi từ từ đổ sụp xuống cạnh chân mẹ Phượng.
      Nam ôm chặt hai gối bà, nức nở:
      - Mẹ ơi, mẹ ơi hãy mắng chửi con đi, mẹ hãy giết con đi, chính tại con, tại con mà Phượng mới chết, tại con mà con gái yêu quý của mẹ mới phải lìa đời! Trời ơi là trời… tại sao tôi không chết luôn đi, tôi còn sống mà làm gì nữa? Làm sao tôi có thể sống hết quãng đời còn lại mà không có Phượng, mà phải đeo đẳng trong lòng sự ân hận vô biên này hở trời? Trời ơi…
      Dù đau đớn thắt lòing thắt dạ, mẹ Phượng cũng cố nén để dỗ dành cậu con rễ mà bà yêu thương còn hơn con ruột:
      - Không sao, không sao đâu con! Con đừng nghĩ như vậy, con đừng tự dằn vặt làm khổ mình như vậy. Con Phượng chết là tại số phần nó đến đây là hết, con cứ nghĩ vậy sẽ thấy an ủi được phần nào… Mẹ cũng đang cố gắng, mẹ con ta cùng cố gắng…
      Lòng tôi đau như cắt trước cái chết của đứa bạn thân, và càng đau hơn khi phải chứng kiến những người thân yêu của Phượng đang vật vã và tự nhận lỗi về mình.
      Trong tôi, sự thắc mắc kia chưa được giải tỏa thì lại tiếp tục bị những thắc mắc lớn hơn bủa vây.
      Tôi nhất định phải làm cho sáng tỏ mọi việc. Tại vì sao trong câu chuyện của mẹ Phượng và Nam đều có liên quan tới những lời kể gì đó của Phượng, Phượng đã kể mà mọi người không tin, vì vậy họ cho rằng chính điều đó đã gây ra cái chết của Phượng.
      Phượng đã kể gì? Những chuyện hư ảo, ma quái như lời mẹ Phượng nói hay còn điều gì khác hơn nữa không?
      Tôi khom người xuống kéo Nam đứng lên rồi một tay kéo tay Nam, một tay kéo tay Mây, lôi cả hai người đi băng băng ra sau nhà, mặc cho bao nhiêu ánh mắt tò mò nhìn theo sau lưng.
      Ra tới khu vườn phía sau, nơi không có ai ngoài ba chúng tôi, tôi buông cả tay ra rồi ngồi phịch xuống đất, Nam và Mây cũng ngồi xuống bên tôi, nhìn tôi như chờ đợi.
      Tôi nuốt ực một cái rồi lên tiếng:
      - Hai người nói cho tôi biết rõ ràng đi, tại sao Phượng phải thắt cổ chết?
      Mây ôm đầu khổ sở:
      - Em đã nói rồi… em không biết! Nhưng em nghĩ chị chết là do chị ghen hờn anh Nam… Mà lúc nãy thì bác lại nói khác… em không biết, em thật sự không biết mà…
      Tôi quay sang nhìn chằm chằm vào Nam.
      Nam nhìn thẳng vào tôi, run giọng nói:
      - Phượng không ghen, tôi biết chắc điều đó, vì tôi chưa hề làm chuyện gì có lỗi với Phượng dù là chuyện nhỏ. Phượng biết điều đó. Có đôi khi Phượng cằn nhằn tôi ăn nhậu, thế thôi, chứ chuyện ghen tương thì tuyệt đối không có. Và cũng không bao giờ chỉ vì chuyện không liên lạc được với tôi có mấy tiếng đồng hồ mà Phượng lại giận dỗi đến mức treo cổ tự tử. Tôi thật tình không hiểu nỗi  điều quái quỷ gì đã xui khiến Phượng làm chuyện đó. Pháp y người ta đang khám nghiệm vì có thể Phượng bị giết chết trước rồi, việc treo cổ chỉ là hiện tượng giả để đánh lạc hướng mà thôi. Đó là ý của người ta, còn tôi, tôi cũng không nghĩ có ai đó giết Phượng. Giết gì cái gì chứ? Tất cả của cải trong nhà vẫn còn đủ, không mất một thứ gì, vậy là nhất định không phải giết người cướp của rồi. Còn giết vì thù oán, vì tình ư? Hạnh cũng biết rồi, cuộc sống của vợ chồng tôi rất bình thường, chưa hề có oán thù với ai, quan hệ của vợ chồng tôi lại rất đơn giản không có gì là phức tạp lăng nhăng, nên khả năng đó cũng không thể xảy ra. Tôi đang điên người thì nghe Hạnh nói hôm qua Phượng có đề cập tới chuỵên ma với Hạnh. Đúng là hơn một tuần trước, Phượng có nói với tôi:
      - Anh ơi… em nói điều này anh đừng có la em nhe, từ nay hết giờ làm thì anh về nhà ngay với em đi, em ở nhà một mình sợ lắm. Hình như… hình như trong nhà mình có… có ma hay sao ấy!
      Tôi phì cười vì thấy Phượng thật trẻ con. Lúc đó tôi cứ nghĩ cô ấy đưa ra lý do đó để tôi không la cà nhậu nhẹt với bạn bè thôi. Một lý do hết sức trẻ con, phải không Hạnh?
      Thế nhưng tôi vẫn hỏi để trêu Phượng:
      - Ma à? Sao em nói vậy? Em có thấy ma chưa?
      Phượng ngồi sát vào tôi, thu hai chân lên ghế ra vẻ rất sợ sệt. Tôi còn thầm nghĩ cô ấy đang đóng kịch trước mặt tôi:
      - Em… em… có lẽ em đã thấy rồi! Không rõ ràng lắm và lần nào sau đó em cũng có cảm giác giống như mình mới ngủ dậy nên cũng không chắc lắm. Nhưng anh à, là thật đó, không phải em mớ ngủ đâu…
      - Ha ha ha… thật à? Sao? Ma hiện ra nói gì với em?
      Tôi bật cười.
      Phượng giận dỗi:
      - Anh không được cười nhạo em, anh phải tin em chứ! Em nói thật đấy, không phải em bịa ra đâu…
      Vì không muốn Phượng hờn nên tôi làm ra bộ nghiêm chỉnh:
      - Thì anh lúc nào chẳng tin em? Nào, kể anh nghe đi, em thấy gì?
      Phượng run run:
      - Lần nào em cũng chỉ thấy loáng thoáng bóng một người, không rõ là đàn ông hay đàn bà nữa… Bóng người đó cầm trên tay một sợi dây dài lắm, một đầu có thắt vòng tròn. Người đó cứ vung vẩy sợi dây trước mắt em, đồng thời bên tai em lại văng vẳng nghe như có ai đó rủ rê cùng tham gia chơi một trò chơi rất lý thú. “Nào, chui đầu vô vòng dây, chui đầu vô… sẽ khám phá…”. Tiếng nói ấy cứ không ngừng thúc giục em…
      Đến nước này thì tôi không thể nín cười được nữa. Tôi cười bò ra, cười chảy cả nước mắt. Vừa cười tôi vừa nói:
      - Em ơi em, bắt đầu từ ngày mai, em nên viết văn đi, đầu óc em tưởng tượng hay lắm! Em mà viết, anh bảo đảm bà J. K. Rowling tác giả của bộ sách Harry Potter nổi tiếng thế giới sẽ phải nghiêng mình chào thua em đó. Và tên em sẽ được nằm trong danh sách những người có thu nhập cao nhất thế giới vào một ngày không xa!
      Phượng đấm thùm thụp vào lưng tôi, lấy gối ném vào tôi loạn xạ, tôi vừa chạy tránh vừa cười không ngớt.
      Vì tôi cười quá nên Phượng cũng thôi không giận nữa và tôi cũng xem đó là một sự vòi vĩnh trẻ con của Phượng mà thôi.
      Thật không ngờ… tôi thật không sao ngờ được Phượng lại chết bởi cái vòng dây mà đã có lần Phượng đề cập tới…
      Hạnh ơi… trước nay tôi không tin vào chuỵên ma quỷ, nhưng… trước sự việc này, tôi hoang mang quá! Hạnh nói gì đi, nhận xét của Hạnh về chuyện này ra sao?
      Tôi thật sự bối rối trước vẻ hoảng loạn và tuyệt vọng của Nam.
      Là người theo đạo Công giáo, tôi không bao giờ tin vào chuyện ma quỷ, nhưng những gì Nam vừa nói cũng khớp với mẹ Phượng nói lúc nãy. Vậy chuyện đó có dính dáng gì tới cái chết của Phượng hay không?
      Mây mặt xanh như tàu lá, tay nó bấu chặt vào tay tôi mà vẫn run lên bần bật.
      - Chị ơi… có khi nào… ma thần vòng đã giết chết chị Phượng của em không?
      Tôi hít vào một hơi thật sâu và cố nói giọng thật bình tĩnh:
      - Em để cho chị có thời gian suy nghĩ đã! Mọi việc quá bất ngờ và nằm ngoài hiểu biết nên chị không thể có kết luận gì được trong chuyện này. Đúng là chiều hôm qua, lúc gặp chị trên đười, Phượng có nhắc tới chuyện ma quỷ gì đó nhưng chị không quan tâm lắm. Ai dè hôm nay lại ra sự thể thế này… Thôi, Nam với Mây vô nhà lo sắp xếp công việc đi…
      Nam gục mặt xuống gối nấc lên mấy cái liên tiếp rồi đứng lên lảo đảo đi vô nhà như người say rượu.
      Tôi nhìn theo Nam mà thấy lòng dâng lên một nỗi niềm chua xót…
      Nam và Phượng yêu nhau từ lâu, nhưng hai đứa cứ chờ đợi khi nào công việc thật ổn định mới tiến tới hôn nhân.
      Cưới nhau hơn hai năm rồi mà vẫn chưa có con, nhưng chúng nó vẫn rất hạnh phúc, hai vợ chồng yêu thương gắn bó với nhau không ai không nhìn thấy. Vậy mà…
      Mây đứng im bên cạnh nhìn tôi một lúc rồi lại khóc thút thít:
      - Hồi chị Phượng còn sống, đôi khi em có gây ra lỗi lầm với chị ấy, nhưng… bây giờ em biết em thương chị ấy biết bao nhiêu… Giá mà chị ấy chỉ bị xỉu thôi chứ không phải chết, để chút nữa chị tỉnh lại, em sẽ nói với chị lời xin lỗi…
      Tôi vuốt tóc con bé, an ủi nó:
      - Không sao đâu, Phượng sẽ hiểu lòng thôi mà, em đừng dằn vặt mình nữa…
      Mây vừa tốt nghiệp cấp ba, đang chờ kết quả kỳ thi Đại học tháng rồi. Hồi đó, thỉnh thoảng Phượng có kể với tôi, Mây thường nói ra nói vào để mẹ chồng Phượng có cái nhìn không tốt về cô. Nhưng giờ đây, chắc có lẽ Phượng cũng đã hiểu rồi, vì tính ích kỷ trẻ con nên Mây mới có những hành động đó, chứ thật ra cô bé cũng đâu có oán ghét gì Phượng!
      Mây kéo tay tôi:
      - Chị, chị đi với em vô phòng chị Phượng…
      Tôi toan hỏi “để làm gì?” nhưng không hiểu sao tôi lại chẳng nói gì mà chân cứ bước theo Mây một cách lặng lẽ.
      Mây đẩy cánh cửa chỉ khép hờ và lách mình vào trong, đồng thời nó cũng lôi tôi vào theo rồi khóa trái cửa lại.
      Phòng của Phượng là một căn phòng rộng rãi và có phần hơi sang trọng. Hôm trang trí, Phượng có nói với tôi:
      - Từ nhỏ tao đã phải sống trong cảnh nghèo nàn, mấy chị em phải chen chúc trong một ngôi nhà bé như hộp diêm. Đến lúc lấy chồng cũng không khá mấy, hai vợ chồng đêm đêm không dám cười đùa giỡn hớt vì sợ mấy đứa em chồng ở bên kia tấm vách mỏng tang nghe được. Nay nhờ trời mới mua được một ngôi nhà thế này, tao phải ráng tự thưởng cho mình để bù đắp lại!
      Là người phụ nữ chu đáo nên căn phòng của Phượng mọi thứ đều gọn gàng ngăn nắp.
      Mây chỉ tay vào xấp áo quần để trên giường nghẹn ngào nói:
      - Lâu nay em thấy chị Phượng mỗi khi ra đường đều đẹp đẽ, em cứ tưởng chị ấy lo cho bản thân nhiều lắm, ai ngờ lúc nãy khi soạn đồ chuẩn bị lát nữa pháp y khám nghiệm xong tẩm liệm chị em mới hay quần áo chị không có bao nhiêu, mà có những bộ chị mặc từ hồi mới cưới, nhưng chắc do chị kỹ lưỡng nên cái nào cũng như còn mới. Chị biết không, đồ chị ấy còn ít hơn đồ của anh Nam nữa đó…
      Nói xong Mây lại khóc tức tưởi, chắc cô bé thương cho sự hy sinh của chị dâu mình.
      Tôi không biết nói gì, thật sự không biết phải nói gì trong hoàn cảnh như thế này. Nỗi đau trong lòng tôi còn như thế, huống hồ chi những người thân yêu trong gia đình của Phượng!
      Dẫu ai cũng biết rằng sự sống và cái chết vốn dĩ chỉ cách nhau một lằn ranh nhỏ hơn sợi tóc, thế nhưng tôi không thể nào ngờ được Phượng lại chết một cách nhanh chóng và đầy bí ẩn như thế.
      Càng nghĩ tới cái chết của Phượng tôi càng cảm thấy bất an. Tôi hiểu, Phượng không phải là loại người dễ đầu hàng số phận dù cho có gặp nhiều gian khổ thử thách, thì không thể nào Phượng lại tự mình tìm tới cái chết thảm thiết như vậy!
      Tôi đưa mắt nhìn khắp nơi trong phòng ngủ của Phượng và vô tình mắt tôi chạm phải cuốn sổ bìa đen khá dày đặt dưới gối. Bất chợt tim tôi run lên, một ý nghĩ chợt lóe sáng trong đầu tôi.
      Tôi biết Phượng vẫn luôn có thói quen viết nhật ký mỗi ngày. Thói quen đó Phượng đã có từ thời chúng tôi còn học phổ thông.
      Hình như chưa có một ngày mà Phượng không đặt bút vào nhật ký, mặc dù có hôm chỉ viết một vài câu ngắn ngủi, thậm chí chỉ một chữ như “buồn” hay “vui” chẳng hạn.
      Hồi ở ký túc xá, có một lần Phượng bệnh rất nặng nhưng lại không nhắn về cho gia đình biết. Bạn bè cùng phòng thay nhau chăm sóc Phượng. Nó sốt mê man, nhưng dù tỉnh lại lúc giữa khuya hay bất cứ lúc nào nó cũng đòi chúng tôi đưa cho nó cây viết và quyển nhật ký.
      Nó vẫn thường khoe với tôi, bây giờ gia tài lớn nhất của nó nhật ký, nó đã có hàng mấy chục cuốn, mà cuốn nào cũng được nó giữ gìn, bảo quản rất cẩn thận.
      - Sau này khi về già, tao sẽ đọc lại tất cả để hồi tưởng lại quá khứ của mình…
      Nó tự hào nói với bạn bè như vậy.
      Và một điều dặc biệt nữa là, Phượng chỉ viết nhật ký trên một loại sổ bìa đen có cùng một kích cỡ với nhau.
      Cuốn sổ mà tôi tình cờ trông thấy kia đúng là giống với loại sổ Phượng dùng để viết.
      Đúng rồi! Chắc chắn những sự việc gì xảy đến với Phượng mấy lúc gần đây chắc chắn là Phượng sẽ ghi vào nhật ký của mình. Đọc được nhật ký của Phượng thì mọi việc sẽ sáng tỏ thôi mà!
      Tôi quýnh quánh mở cửa chạy ra ngoài bỏ mặc Mây đang ngơ ngác nhìn theo không biết tôi vừa gặp phải điều gì ?
       Tôi quáng quàng chạy đi tìm Nam, nhưng chợt thấy Nam đang trao đổi gì đó với nhà chức trách nên tôi đành phải khựng lại đứng chờ.
      Mãi một lúc lâu sau, những người có thẩm quyền trong việc điều tra cái chết bất ngờ của Phượng đã lục tục ra về, Nam thẩn thờ ngồi phịch xuống ghế, mặt nghệch ra như người ngây dại.
      Mẹ Phượng hấp tấp tiến lại gần Nam hỏi:
      - Kết quả ra sao con?
      Nam ngước đôi mắt đỏ hoe lên nhìn bà mẹ vợ, đau đớn nói:
      - Bước đầu, người ta nhận định đúng là Phượng chết do thắt cổ…
      Bà mẹ bám tay vào thành ghế mà vẫn lảo đảo. Nam đứng phắt dậy đỡ lấy bà rồi dìu bà tới chiếc ghế tựa đặt bà ngồi vào ngay ngắn. Nam cũng không còn đủ tâm trí và sức lực để an ủi mẹ vợ câu nào, mà chỉ đứng thừ người ra một chỗ.
      Tôi đi tới bên Nam, nói khẽ:
      - Nam, Nam có biết Phượng có thói quen ghi nhật ký mỗi ngày không?
      Nam gật đầu một cách hờ hững:
      - Biết!
      - Vậy Nam cho phép Hạnh được xem nhật ký của Phượng nghen, biết đâu sẽ tìm được nguyên nhân chính xác nhất dẫn đến sự việc đau buồn này, có như thế mọi người mới đỡ vằn dặt bản thân mình…
      Tôi nói tiếp.
      Mắt Nam chợt sáng bừng lên:
      - Trời ơi, vậy mà tôi cũng nhớ ra! Cảm ơn… cảm ơn Hạnh thật nhiều…
      Nam vừa nói vừa sãi chân bước vội vào phòng, bà mẹ Phượng cũng lập cập đi theo, tôi phải dìu một bên mới giúp bà đi được.
      Khi tôi đưa mẹ Phượng vào phòng thì thấy Nam đang lục tung cái hộc tủ, lôi ra một đống sổ bìa đen và cầm lên từng cuốn để xem ngày tháng.
      Tôi thấy mình cũng không cần giữ thái độ quá lịch sự trong giờ phút này nên đã tự tiện đi đến chỗ cuốn sổ bìa đen tôi vừa thấy lúc nãy và cầm nó lên nói với Nam:
      - Đây rồi! Đây đúng là cuốn nhật ký gần đây nhất của Phượng!
      Nam chồm tới cầm lấy cuốn sổ, nhưng rồi lại đưa cho tôi, run run nói:
      - Hạnh… Hạnh làm ơn đọc lớn cho mọi người cùng nghe đi, chứ tôi…. Thật sự tôi không biết mình có đọc được không nữa…
      Tôi liếc nhìn vẻ hồi hộp của mẹ Phượng, của Nam, của Mây và lắng nghe tiếng tim mình đang đập thình thình trong lồng ngực.
      Tôi mở suốn nhật ký ra, định đọc nhưng chợt nhớ:
      - Mình phải đọc ngược mới đúng, phải không Nam? Như vậy sẽ nhanh tìm ra điều cần tìm hơn…
      Nam gật đầu.
      Tôi lại xoay ngược cuốn nhật ký và bắt đầu đọc ngược lên:
      “Ngày… tháng… năm…
      Tại sao không ai chịu tin những điều mình kể nhỉ? Cả anh Nam, cả mẹ nữa đều coi đó là trò nũng nịu trẻ con hoặc là những ý nghĩ hoang tưởng của mình. Không ai giúp mình xua tan nỗi lo âu sợ hãi ấy…
      Chiều nay tình cờ gặp Hạnh, mình mừng quá nhưng không thể kể với nó tất cả ở giữa đường giữa chợ như vậy! Chán thật, có một đứa bạn thân mà nó cứ đầu tắt mặt tối, đã mấy lần mình đến tìm nhưng nó vẫn không có nhà. Mình hy vọng nó sẽ không cho là mình hoang tưởng… Nhưng mà… hình như ngay cả nó cũng đâu có tin?
      Mình chỉ hỏi sơ qua thôi cũng có thể nhận thấy điều đó rồi!
      Buồn quá…
      Hay là mình hoang tưởng thật? Trời, nếu vậy là thần kinh mình có vấn đề trầm trọng rồi! Tại vì tất cả những điều mình nghe và thấy rất thật, không giống những hình ảnh trong mơ… Cả cái trò chơi quái quỷ đó nữa… Đó là trò chơi gì mà sao lần nào nghe tiếng rủ rê là mình lại cảm thấy háo hức, một cảm giác rất lạ, muốn được chui ngay đầu vào đó…
      Sao thế nhỉ? Mình không hiểu nổi…
      Ngày… tháng… năm…
      Anh Nam ơi… tối nay anh lại về muộn rồi! Anh có biết không, mấy lúc gần đây mỗi khi em ở nhà một mình em lo sợ vô cùng, em muốn có anh bên cạnh biết bao! Bởi vì những lúc có anh thì không bao giờ em trông thấy những điều như thế… Mà anh lại chẳng chịu tin em. Anh nghĩ em kiếm cớ sợ ma để ép anh về nhà, không cho anh bù khú với bạn bè chứ gì?
      Em khổ quá… kể với anh, anh không tin, kể với mẹ mẹ lại bảo em rảnh rỗi quá nên đâm ra vớ vẩn…
      Đôi lúc em muốn đi chơi đâu đó, rồi đợi khi nào anh về anh gọi điện em mới về nhà. Nhưng anh à, em không làm vậy được! Đây là nhà mình, là tổ ấm mà lâu nay vợ chồng mình mơ ước, em phải chăm lo săn sóc nó, em không thể bỏ nhà bỏ cửa mà đi chơi lang thang một mình được…
      Ngày… tháng… năm…
      Anh ơi, em sợ quá… Cái hình bóng ma quái ấy vẫn không chịu buông tha em mà hình như càng ngày nó càng bám chặt lấy em hơn. Trước đây chỉ những đêm anh vắng nhà em mới trông thấy nó, nhưng hai hôm nay nó xuất hiện cả vào ban ngày. Và… anh biết không, cái tiếng gọi mời thúc giục em tham gia vào cuộc chơi ấy mỗi lúc một thêm mãnh liệt. Nó như có một sức mạnh thần bí lôi kéo em, khiến em rất muốn chơi… nhưng mà lúc tỉnh táo lại em bỗng thấy sợ, sợ vô cùng, anh có hiểu không?
      Em linh cảm có một điều gì đó không hay đang lảng vảng bên mình. Em thèm được sự bảo vệ chở che của anh, của gia đình, nhưng giờ không ai giành cho em điều đó cả! Trước mắt mọi người em chỉ là một đứa ngớ ngẩn mà thôi….
      Anh, hồi bé em có nghe kể về một loài ma tên gọi Ma Thần Vòng, chuyên đi thắt cổ người khác. Bây giờ bỗng dưng em liên tưởng tới điều đó… Có khi nào Ma Thần Vòng đang muốn bắt em đi nên nó mới thúc giục em chui đầu vào vòng dây đó?
      Anh ơi… nếu một ngày em không còn đủ sức chống chọi lại với sức cám dỗ của lời gọi mời thúc giục kia, em chui đầu mình vào vòng dây oan nghiệt đó thì chắc… thì chắc vợ chồng mình sẽ không bao giờ còn gặp nhau được nữa… Lúc đó anh có ân hận vì đã không tin lời em thì cũng đã muộ rồi…
      Nhưng anh ơi, em không buồn, không trách gì anh đâu, bởi nếu phải thế thì có lẽ là tại số phần em đã đặt để vậy rồi anh ạ…
      Nhưng thôi, em cứ cầu mong em đúng là hoang tưởng như mọi người nhận định đi, để mình mãi được bên nhau, vì… vì mình vẫn còn chưa kịp có con với nhau mà, phải không anh?
      Ngày… tháng… năm…
      Đó là trò chơi gì nhỉ? Tại sao những lúc không nghe có tiếng nói bên tai nhưl úc này thì mình lại sợ hãi chứ không hề có một chút xíu nào sự háo hức, tò mò muốn thử chơi một lần cho biết. Nhưng lúc đó, lúc bóng người đó lượn lờ trước mặt và giọng nói văng vẳng bên tai thig mình lại ham thích đến vậy?
      Cái gì đã xui khiến mình? Có trời mới biết được!
      Chán nản quá! Mình thật sự chán nản rồi!
      Anh Nam ơi, anh cứ đi mãi, cứ vui chơi với bạn bè mà không biết vợ anh đang phải sống trong hoảng loạn thế này đây….
      Em phải làm sao đây? Tôi phải làm sao đây?
      Có ai không? Có ai giúp tôi không?....”
      Đọc tới đâu nước mắt tôi tràn ra tới đó, những giọt nước mắt nóng hổi, nặng trĩu rớt lộp độp xuống những trang nhật ký còn tươi rói màu mực mới…
      Mẹ Phượng oằn người xuống, bà không khóc nên lời…
      Nam đứng chết trân giữa nhà, cơ mặt hai bên không ngừng giật giật liên tục…
      Tôi hiểu, lúc này hai người đau đớn nhất chính là mẹ và chồng của Phượng.
      Cả hai đau nỗi đau mất đi người yêu thương, đồng thời còn cộng thêm nỗi ân hận dày vò, cắn rứt…
      Nam khoát tay ra hiệu cho tôi đừng đọc nữa. Mà nếu Nam không bảo thì tôi cũng không còn sức. Tất cả những điều đó ngoài sức chịu đựng của tôi rồi. Tôi gần như té ngồi xuống sàn nhà, và tôi bật khóc nức nở…
      Theo yêu cầu của Nam, chuyện cuốn nhật ký không được để lọt ra ngoài để tránh những lời xầm xì bàn tán gì thêm nữa.
      Đám tang Phượng diễn ra trong nước mắt của bao người thân yêu còn đang hiện diện nơi trần thế…
      Sau đám tang, Nam như biến thành một người hoàn toàn khác. Trước đây Nam là một người vui vẻ hoạt bát, ở đâu có sự hiện của Nam là có những câu chuyện bông đùa, những lời tiếu lâm chọc cười khiến ai cũng cảm thấy không khí tươi vui phấn khởi.
      Còn bây giờ Nam như kẻ không hồn, suốt ngày vào ngơ ra ngẩn. Công việc Nam vẫn hoàn thành tốt, nhưng anh lặng lẽ, trầm tư u uất đến nỗi đứng gần anh người khác không dám ho, làm như sợ phá vỡ đi không khí của riêng anh vậy!
      Mấy lần vợ chồng tôi tới thăm, Nam vẫn tiếp đón bình thường, vãn nhắc tới những kỷ niệm trước đây của bốn đứa. Nhưng tuyệt nhiên Nam không lần nào nhắc tới mấy cuốn nhật ký của Phượng nữa.
      Tôi nghĩ có lẽ Nam đau lòng lắm khi nghĩ mình đã gián tiếp đẩy vợ vào cái chết.
      - Em thật không hiểu nổi… Thật sự trên đời này có sự hiện diện của ma sao anh?
      Một lần tôi đã hỏi chồng tôi như vậy.
      Chồng tôi là một nhà khoa học có tài, tôi nghĩ anh sẽ mắng tôi đi tin vào những điều viễn vông, phản khoa học. Nhưng thật bất ngờ khi chồng tôi lại nói:
      - Cho đến ngày nay, mặc dù con người đã khám phá ra rất nhiều điều, đã đi lên được mặt trăng, đã xuống tận đáy đại dương để thám hiểm, nhưng vẫn còn những điều mà nền khoa học tiến bộ vẫn chưa tìm hiểu nghiên cứu được, một trong số đó là các hiện tượng siêu nhiên như ma quái chẳng hạn… Bởi thế anh cũng không dám nói chắc điều gì về lĩnh vực này em ạ!
      Tôi càng hoang mang dữ hơn nữa khi nghe chồng tôi nói thế.
      Đến thăm mẹ Phượng, thấy bà gầy rộc đi, mái tóc trên đầu đã không còn nhìn thấy sợi màu đen nữa, tôi nghe lòng mình đau đớn quá!
      Một hôm, bà cụ nắm chặt tay, nhờ cậy:
      - Hạnh ơi, con ráng giúp bác… con tìm hiểu xem ngôi nhà đó có gì bí ẩn không? Bác… thật sự bác không thể yên tâm trước sự ra đi đột ngột của Phượng…
      Tôi vuốt ve bàn tay gầy guộc, nhăn nheo của bà:
      - Bác yên tâm đi, con sẽ thay bác đi tìm hiểu tất cả mọi việc xung quanh ngôi nhà đó!
      Nói là làm, ngay ngày hôm sau, tôi bắt đầu tranh thủ mấy ngày nghỉ phép để loanh quanh đi vào khu vực gần đó tìm hiểu.
      Chỉ sau hai lần ngồi quán cà phê và mấy bữa ăn sáng ở đầu hẻm, thì tôi đã nắm được nhiều điều quan trọng mà trước đây khi mua nhà Phượng và Nam đã sơ suất bỏ qua không tìm hiểu, hoặc do không tin tưởng vào ma cỏ nên hai đứa nó không quan tâm dù có nghe kể loáng thoáng.
      Theo như người ta kể lại, chủ nhân của ngôi nhà đó là một cặp vợ chồng rất giàu có nhưng lại không con.
      Người chồng sinh thói trăng hoa, ve vãn cô gái giúp việc. Một thời gian sau tình cờ bà vợ phát hiện ra và làm dữ, buột hai người phải cắt đứt. Cô gái giúp việc khóc lóc van xin khiến bà chủ nhà cũng động lòng nên không đuổi đi mà chỉ bắt thề thốt là sẽ không dính dáng tới ông chủ nữa, nếu không giữ đúng lời hứa sẽ phải treo cổ chết tại đây.
      Bẵng đi một thời gian dài im ắng, bà chủ nhà cũng đã mừng thầm vì chồng mình đã sửa đổi và con bé giúp việc cũng biết giữ lời.
      Có ai đâu ngờ, cả hai người qua mặt bà một cách trắng trợn mà bà không biết được. Đến lần thứ hai phát giác ra chồng và người ở cấu kết nhau lừa gạt mình, bà tức lồng lộn. Trong cơn ghen điên cuồng, bà đã bắt buộc cô gái kia thực hiện lời thề.
      Cô gái không mảy may run sợ vì tin chắc đã có sự bảo vệ của người tình.
      Cô ung dung cầm sợi dây, bắt ghế đứng lên để quấn đầu dây vào cổ mình với sự tưởng tượng tình nhân yêu quý của mình sẽ nhào tới đấm mạnh vào mặt bà vợ và chạy tới bế thốc lấy mình mà đưa xuống!
      Cô không ngờ người tình của cô tuy là kẻ trăng hoa nhưng khi đứng trước mặt vợ, ông lại yếm thế và nhát gan còn hơn thỏ đế. Ông không dám phản kháng lại bất kỳ điều gì vợ ông ra lệnh.
      Khi cô gái bắt đàu chui đầu vào vòng dây, bà vợ trừng mắt nhìn chồng và quát lớn:
      - Ông cút mau xuống nhà dưới cho tôi!
      Thế là ông riu ríu làm theo, không còn dám đoái hoài gì đến người tình bé nhỏ của mình đang nằm trong tay con sư tử Hà Đông đang cơn thịnh nộ.
      Ông vừa quay lưng đi khuất bên hiên nhà, bà vợ nhanh chân đá bay cái ghế mà cô gái đang đứng. Đá ghế xong bà cũng bỏ xuống nhà sau cùng chồng, không thèm chứng kiến sự giãy giụa đau đớn của người tớ gái.
      Sau cái chết của cô người ở, nghe đâu vợ chồng bà cũng phải chạy chọt dữ dằn lắm mới ém nhẹm được vụ việc đó. Rồi theo năm tháng mọi việc cũng lắng xuống. Và ai cũng biết một điều rằng người giàu có thể bỏ tiền ra để che kín bầu trời!
      Nhưng cũng từ sau cái chết của người tớ gái, bà chủ nhà không còn được sống thanh thản được. Đi tới bất kỳ chỗ nào trong nhà mình bà cũng thấy thấp thoáng dáng hình cô người ở.
      Rồi đêm đêm, có người xách vòng tới tìm bà làm bà ăn ngủ không yên suốt mấy tháng trời.
      Cuối cùng, không thể chịu đựng nỗi, vợ chồng bà quyết định bỏ quê hương xứ xở để ra đi, hy vọng sẽ quên hết, sẽ xóa nhòa hết những tội lỗi trong quá khứ.
      Ngôi nhà đó hai vợ chồng tặng lại cho người cháu.
      Ban đầu người cháu cho thuê.
      Nhà rộng, đẹp và thoáng mát nên có rất nhiều người tranh nhau thuê mướn. Nhưng không có một ai ở đó được quá ba tháng. Cuối cùng, tiếng tăm đồn thổi quá nên không còn ai hỏi mướn nữa, người cháu đành phải đóng cửa để hoang mãi cho tới khi bán được nó cho vợ chồng Phượng.
      Những người dân sống gần đó đã từng đồn đại trong nhà ấy có con ma thần vòng rất đáng sợ, nó đang tìm kiếm người thay thế canh giữ cái vòng cho nó được đi đầu thai.
      Vì theo truyền thuyết kể lại, Ma Thần Vòng phải giữ lấy cái vòng đó, không được xa rời nó, chỉ khi nào trao nó lại cho người “kế nhiệm” thì mới được tự do đi đầu thai kiếp khác, còn nếu như không bắt được người để thế chỗ thì vĩnh viễn nó phải sống kiếp Ma Thần Vòng như thế!
      Đêm đêm, thỉnh thoảng người ta nghe có tiếng khóc than vang lên trong ngôi nhà ấy. Nhưng ngoài những chuyện đó, Ma Thần Vòng chưa hề xuất hiện bên ngoài ngôi nhà, nó cũng không nhát ai trong xóm, nên dần dần người ta cũng quên lãng nó đi.
      Khi nghe tôi kể lại tất cả những điều đó, mẹ Phượng và Nam vô cùng lo sợ. Họ sợ vong hồn của Phượng bị bắt buộc thay thế làm người giữ vòng dây và phải sống vật vờ như thế mãi cho tới khi tìm được người thay thế nữa.
      Mẹ Phượng khóc lóc, kể lể:
      - Con ơi là con, con còn quá trẻ, tại sao lại phải lâm vào hoàn cảnh khốn khổ như vậy? Chi bằng mẹ sẽ hy sinh cái thân gì để cho con gái của mẹ được siêu thoát…
      Rồi như nhớ ra điều gì, bà chồm lên nói với Nam:
      - Đúng rồi, ngay hôm nay mẹ sẽ dọn về đó ở. Mẹ sẽ tình nguyện chui đầu vào vòng dây để con gái của mẹ được tự do… Mẹ sẽ về đó ở…
      Tôi và Nam hết lời can ngăn nhưng vẫn không cản được sự quyết tâm của một bà mẹ thương con, muốn hy sinh thân mình vì con…
      Tôi thất thểu ra về, lòng nặng trĩu như đeo đá.
      May mắn làm sao hôm đó mẹ tôi từ dưới quê lên chơi. Trông thấy vẻ mặt khó coi của tôi, mẹ lo lắng hỏi:
      - Bộ vợ chồng chúng bây có chuyện không vui à?  
      Tôi lắc đầu:
      - Không đâu mẹ! Mẹ còn nhớ Phượng không? Phương chơi thân với còn từ hồi còn ở dưới quê mình ấy!
      Mẹ tôi gật đầu:
      - Nhớ chứ sao không con, giờ nó chồng con gì chưa?
      - Nó chết rồi mẹ ạ, thắt cổ chết!...
      Tôi nói nhỏ.
      Mẹ tôi giật bắn cả người:
      - Sao? Chết rồi à? Thắt cổ à? Trời… sao lại đến nông nỗi đó? Chồng nó phụ bạc hay sao thế?
      Tôi lắc đầu nhè nhẹ và kể lại toàn bộ câu chuyện cho mẹ tôi nghe, không giấu cả việc mẹ Phượng khăng khăng đòi hy sinh cho Phượng.
      Mẹ tôi cau mày suy nghĩ một lát rồi bảo:
      - Con ăn cơm đi rồi chở mẹ đi đằng này một chút!
      Tôi hơi phật ý vì thấy mẹ không quan tâm tới bạn của con mình mà giữa lúc này lại nói tới việc kêu tôi chở đi thăm viếng ai đó.
      Nhưng dẫu bất bình mẹ tôi cũng đâu dám cãi.
      Tôi lẳng lặng xuống bếp ăn cơm rồi trở lên nói với mẹ:
      - Con xong rồi, mẹ đi đâu ra con chở!
      Trong lúc tôi ăn cơm thì mẹ đã chuẩn bị quần áo xong xuôi rồi, nên tôi vừa cho xe nổ máy thì mẹ đã ra đến.
      - Đi đâu mẹ?
      - Đi tới chùa nào gần đây nhất!
      Mẹ bảo:
      - Đi chùa? Không phải mẹ đi thăm người quen sao?
      Mẹ tôi điềm tĩnh trả lời:
      - Thăm người quen thì mẹ sẽ đi vào lúc khác, giờ phải lo cho bạn con trước đã chứ!
      Tôi giật mình hối hận vì lúc nãy mình đã trách oan cho mẹ. Mặc dù tôi chỉ lo mơ đoán rằng mẹ đi chùa để cầu an cho Phượng nhưng tôi thật sự cảm động trước hành động này của mẹ.
      Tôi chở mẹ đi lòng vòng một lát, thấy một ngôi chùa nhỏ trong hẻm vắng tôi liền rẽ vào.
      Mẹ xuống xe, tất tả đi vào chánh điện để thắp nhang vái lạy.
      Tôi theo công giáo nên chưa khi nào thắp nhang hay cúng bái, tôi chỉ đứng bên ngoài quan sát mẹ mà thôi.
      Khi đã thắp nhang khắp lượt các bàn thờ trong chánh điện, mẹ tôi tìm gặp sư trụ trì và hai người nói chuyện gì đó với nhau rất lâu.
      Tôi ngồi đợi mẹ ngoài sân chùa với một niềm hy vọng mơ hồ, tôi cũng chẳng biết mình hy vọng điều gì nữa?
      Phượng thì đã chết rồi, không thể hy vọng ngày mai ngày kia nó sẽ sống lại như trong truyện cổ tích hay như trong các bộ phim kiếm hịêp được!
      Ở đời sống thực tế này một khi đã chết, đã được chôn sâu dưới ba tấc đất nhiều ngày qua thì không thể có khả năng nào sống trở lại được.
      Vậy thì tôi đang hy vọng điều gì?
      Có lẽ tôi hy vọng một sự yên bình cho những người thân của Phượng. Mẹ Phượng, chồng Phượng, những người trong gia đình Phượng đang từng giờ từng phút hối hận ăn năn vì những điều đã gây ra cho Phượng, vì đã vô hình trung không đưa tay ra cứu vớt Phượng giữa lúc cô cần sự giúp đỡ đến cháy lòng….
      Tôi chỉ biết hy vọng thế mà thôi chứ còn biết hy vọng điều gì nữa?
      Lâu lắm mẹ tôi mới chào sư cụ để ra về. Vẻ mặt mẹ lúc này đã có vẻ giãn ra không còn căng thẳng nữa.
      Ngồi lên xe, mẹ bảo:
      - Con chở mẹ tới nhà Phượng!
      Tôi ngoan ngoãn làm theo lời mẹ. Cxung may hôm nay có Nam ở nhà vào giờ này.
      Sau một hồi lâu thăm hỏi ân cần, mẹ tôi vào đề một cách thẳng thắn:
      - Bác đã nghe Hạnh kể về chuyện không may của gia đình cháu. Từ lâu nay bác vẫn luôn thương yêu quý mến Phượng gần giống như Hạnh, bác coi Phượng cũng như con gái của mình vậy. Nghe tin này bác cũng đau lòng lắm. Có thể con là đàn ông con trai, con không tin vào những chuyện mê tín dị đoan, nhưng bác xin phép con cho phép bác được cúng kiếng một chút tại đây để cầu siêu cho vong linh của Phượng. Rất mong con đừng từ chối.
      Nam rơm rớm nước mắt:
      - Thưa bác, con vô cùng cảm động trươc tình cảm bác dành cho vợ con. Nay nó đã không còn mà bác vẫn nhớ và tới thăm đã là một điều quý báu, bác còn muốn cúng cầu siêu cho vợ con nữa thì con càng đội ơn bác nhiều hơn, làm sao ocn dám không đồng ý ạ?
      Được sự đồng ý của Nam, mẹ giục tôi xách xe chạy đi đón mẹ Phượng và ra chợ mua đủ thứ hoa quả, giấy tiền vàng bạc, và đặc biệt là hình nhân một người nữ.
      Tôi làm theo mọi điều mẹ sai bảo mà không dám thắc mắc bất cứ điều gì.
      Chẳng mấy chốc, mẹ tôi đã bày lên trên bàn thờ Phượng một mâm cúng tươm tất.
      Mẹ thắp nhang, lầm rầm khấn vái gì đó rồi bưng ly nước để ngang trán lẩm nhẩm đọc kinh.
      Đọc kinh xong, mẹ cầm ly nước vừa nãy tưới đều xuống nền nhà rồi rót thêm một ly nước khác, lặp lại quá trình giống y như thế, nhưng chỉ khác một điều là ở khâu cuối cùng, mẹ không tưới xuống nền nhà nữa mà lấy cành hoa nhúng vào ly nước đó rồi vẩy vẩy cho nước văng ra khắp bàn thờ Phượng.
      Sau hàng loạt câu kinh kệ, cuối cùng mẹ tôi cầm hình nhân lên và đốt cháy.
      Hình nhân rất to, khi mẹ đốt tôi có cảm tưởng như từ trong đám lửa rừng rừng đó đang bước ra ngoài một người con gái hoàn toàn xa lạ, rồi từ bên trong, loáng thoáng bóng một người quen quen tiến ra chầm chậm. Cái bóng người đó được bao quanh bằng một vầng mây xám xịt, dơ bẩn, nhưng tôi vẫn nhận ra.
      - Phượng! Trời ơi… đúng là Phượng rồi! Phượng kìa bác ơi, Nam ơi…
      Tôi gọi giật giọng dù tôi thấy rõ ràng lúc này mẹ Phượng và Nam cũng đang ngây người ra nhìn chăm chú giống như tôi.
      Phượng nhìn mẹ, nhìn Nam thật buồn rồi nó khẽ liếc qua tôi, nhẹ gật đầu như lời chào hỏi…
      Nó không nói gì, không tỏ một thái độ gì rõ rệt, chỉ  thoáng hiện ra trước mắt chúng tôi, rồi lờ đờ đi tới cô gái hình nhân đang đứng đợi.
      Trên tay Phượng là một sợi dây thật dài mà ở một đầu có thắt một vòng tròn rất khéo!
      Phượng chầm chậm giơ cái vòng lên, chầm chậm tròng vào đầu cô gái hình nhân rồi ra sức thít chặt. Cô gái hình nhân kêu lên ằng ặc, lưỡi thè ra dài và đỏ lòm rất đáng sợ. Hai mắt cũng bắt lồi ra một cách khủng khiếp. Và chỉ một loáng, cô gái hình nhân biến mất, chỉ còn lại mấy vụn tro tàn bay lả tả dưới nền nhà.
      Phượng quay lại nhìn chúng tôi thật âu yếm.
      Nó đưa tay lên vẫy chào chúng tôi rồi từ từ, từ từ bay lên khỏi mặt đất. Xung quanh nó bây giờ không còn đám mây màu xám xịt lúc nãy nữa mà là một vầng hào quang lấp lánh, nó như đang đứng trên một chiếc cầu vồng đủ màu sắc.
      - Phượng ơi… con đã thật sự được siêu độ rồi phải không con?
      Mẹ Phượng nức nở.
      Lúc này mẹ tôi đã hoàn thành xong công việc, bà tới bên đỡ mẹ Phượgn dậy. Hai người bạn già tựa vào nhau cùng hướng nhìn lên bầu trời, ở đấy đang có một chiếc cầu vồng rất lớn nằm vắt ngang qua.
      Văng vẳng trong gió, nghe như có tiếng chim hót, tiếng gió xạc xào và cuối cùng tất cả lắng đọng lại, nghe từ xa xăm vọng về tiếng của Phượng:
      - Chào tất cả những người thân yêu… Con đã mãn số rồi, xin mọi người đừng quá đau lòng mà hãy an hưởng bình yên trong những ngày còn lại… Xin chào tất cả, con đi…
      Nước mắt đang chảy tràn trên mặt hai người đàn bà lớn tuổi và cả trên mặt tôi và Nam, nhưng có lẽ trong lòng của mỗi người giờ đây đã vơi bớt phần nào niềm đau đớn…
      Tối hôm đó trong giấc mơ tôi gặp Phượng.
      Biết Phượng không còn, nhưng trong mơ tôi vẫn rất vui mừng ôm chầm lấy cô bạn thân thiết và cả hai cùng khóc một hồi lâu.
      - Mầy đừng buồn, mỗi người đèu có một phần số riêng, mình không sao biết trước được. Tao đã trả xong nợ trần gian, giờ đây tao không đầu thai làm người nữa. Tao xin mầy hãy vì tình bạn của chúng mình mà giúp tao dòm ngó mẹ già và tìm người thay tao chăm sóc, lo lắng cho anh Nam.
      Phượng cầm tay tôi nói như cầu xin.
      Tôi ngắc ngứ:
      - Tao… làm sao tao tìm được ai để thay mầy làm chuyện đó? Việc trông mẹ mầy thì có thể tao làm được, còn chuỵên này thì…
      Thấy tôi thoái thác, Phượng mỉm cười:
      - Mầy đừng lo, tất cả sẽ đi đúng theo con đường của nó mà thôi, tao nhờ mầy như thế mầy cứ nhận lời đi, rồi sau này mầy sẽ thấy…
      Tôi chưa kịp nói lời gì thì thoắt một cái Phowjng đã biến mất, chỉ để lại một mùi hương thoang thoảng quanh tôi.
      Giật mình thức dậy, tôi vẫn còn nghe mùi hương đặc biệt đó phảng phất bên mình.
       
      ***
      Tám năm sau.
      Mẹ Phượng đã mất sau một trận bệnh kéo dài hơn tuần lễ.
      Các em của Phượng đều đã có gia đình và cuộc sống riêng của mỗi đứa.
      Nam lúc này cũng đã có hai đứa con một trai một gái sinh năm một, đứa nào cũng kháu khỉnh đáng yêu.
      Vợ Nam sau này chính là cô văn thư ở cơ quan tôi. Trong một lần đến nhà tôi dự tiệc, tình cờ hai người gặp gỡ và cảm mến nhau.
      Nhận thấy tình cảm giữa họ có chiều hướng phát triển, chợt nhớ lại lời của Phượng trong giấc mộng trước đây nên tôi đã ra sức vun vào.
      Ừ, cuối cùng rồi thì mọi việc cũng đã đi theo đúng của mình rồi, phải không Phượng?
      Tôi thầm nghĩ như thế và thấy lòng mình nhẹ nhõm…
      Hết
      Nguyễn Thị Mộng Thu
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:25:21 bởi nguyenthu >
      #63
        nguyenthu 10.08.2009 21:53:01 (permalink)
        NHỮNG NGÀY KINH HOÀNG
         
        1.       Phiêu lưu
         
        Thế là cuối cùng bốn đứa chúng tôi cũng đã đáp ứng được lời mời về thăm quê của Khải sau nhiều lần khất tới khất lui.
        Quê Khải ở tận trong vùng rừng núi hoang vu cách đường cái hơn bốn mươi cây số mà không có bất kỳ một phương tiện giao thông nào ngoài loại xe “Căng – hải” như chúng tôi vẫn thường đùa vui với Khải.
        Dân cư ở đó thưa thớt, sống chủ yếu bằng nghề săn bắn và trồng trọt. Tất cả những sản phẩm mà họ có được thường dùng để trao đổi lẫn nhau, hoặc thỉnh thoảng mới có người đem ra “thế giới bên ngoài” để trao đổi.
        Họ thật sự không phải là người dân tộc thiểu số nhưng cuộc sống của họ có vẻ rất đơn sơ đạm bạc và ẩn dật như một vài dân tộc ít người chưa hòa nhập được với cộng đồng.
        Gia đình Khải gốc là người Hà Nội. Nhưng mẹ Khải do đã phải trải qua rất nhiều khổ ải của đời sống tình cảm lẫn kinh tế nên mới phải trôi dạt về đó.
        Và sau cùng bà nhận ra cuộc sống ở đó phù hợp với bà hơn, nên mặc dù ý định ban đầu của bà chỉ là tạm lánh vào đây để chờ ngày sinh nở và trốn tránh nợ nần, nhưng cuối cùng bà đã chọn nơi này làm quê hương thứ hai và bắt đầu tạo dựng cuộc sống.
        Mẹ Khải là một cô gái đẹp được nhiều chàng trai săn đón, nhưng bà chỉ thật sự cảm thấy rung động khi đối diện với Hoàng, một anh chàng lãng tử giang hồ phiêu bạt bốn phương.
        Cuộc tình đó của bà bị tất cả mọi người từ gia đình cho tới bạn bè phản đối. Nhưng trái tim vốn có những lý lẽ riêng của nó mà lý trí không sao điều khiển nổi, thế cho nên bà vẫn yêu say đắm mặc bao nhiêu lời dè bỉu ngăn cấm của người thân.
        Những lời nói ngọt ngào của Hoàng đã dìu bà đi vào một thế giới thần tiên đầy hoa thơm cỏ lạ, những lời hứa hẹn sắt son đã hướng bà tới một viễn cảnh vô cùng hạnh phúc của một gia đình nhỏ bé nhưng đầy ắp tiếng cười đùa của đôi vợ chồng và những đứa con bé bỏng xinh tươi…
        Vì tất cả những điều đó, bà đã trao cho Hoàng cái quý giá nhất của đời người con gái, đồng thời cũng đã vay mượn một số tiền lớn để Hoàng “làm ăn” kiếm tiền lo tương lai hai đứa.
        Khi nghe bà báo tin đã có mang, Hoàng tỏ ra vô cùng hạnh phúc. Nhưng ngay hôm sau đã bỏ ra đi biền biệt không về mặc cho bà ngày đêm trông ngóng.
        Cái thai trong bụng ngày một lớn dần lên, những chủ nợ cũng đã bắt đầu hỏi tới. Bà không còn biết cách nào ngoài việc chạy trốn khỏi nơi cư trú lâu nay.
        Nhưng chạy đi đâu? Một cô gái chưa từng lăn lộn với cuộc sống biết phải đi đâu với hai bàn tay trắng và đứa con đang mang trong bụng? Bà chẳng biết mình sẽ phải đi đâu về đâu, cứ bước đi mải miết mà nước mắt không ngừng tuôn chảy…
        Bà cảm thấy sợ hãi sự ồn ào náo nhiệt của phố thị, sợ những cái nhìn mà bà tưởng như mang đầy vẻ mai mỉa miệt khinh.
        Thế cho nên bà đã chọn hướng đi vào rừng làm đích đến cho cuộc hành trình vô định của mình.
        Suốt mấy ngày mấy đêm, bà cứ mệt thì nghỉ, múc nước suối uống tạm, hái trái cây rừng ăn đỡ đói rồi lại lê bước đi sâu vào rừng rậm để trốn tránh loài người.
        Đến một hôm bà không còn sức lực để đi tiếp và đã ngã quy bên bờ suối bất tỉnh.
        Khi bà tỉnh lại thì đã thấy mình đang ở trong một mái nhà xa lạ…
        Một người dân trong làng đi rẫy đã phát hiện ra bà nên đã mang về làng để cứu chữa.
        Những người dân trong làng này, đa số cũng là những người gặp phải hoàn cảnh trái ngang, nghèo đói mới tìm về nơi đó để kiếm kế sinh nhai.
        Biết được hoàn cảnh của bà, tất cả dân làng đã rất nhiệt tình cưu mang giúp đỡ.
        Ban đầu bà ở tạm trong nhà một người, nhưng sau khi biết ý định bà sẽ sinh sống lâu dài tại đây nếu dân làng cho phép thì họ chung tay nhau đi đốn cây, cắt lá để dựng cho bà một túp lều nho nhỏ gần đó.
        Và Khải đã ra đời trong môi trường đó!
        Mẹ Khải chưa từng phàn nàn một điều gì về những thiếu thốn mà bà phải chịu đựng khi sống ở đó, duy chỉ có một điều mà bà luôn lo lắng là làm sao cho Khải được ăn học đàng hoàng ở một nơi heo hút như thế này?
        Lúc Khải lên năm tuổi, ngoài những lúc làm việc, bà đã hết sức tận tụy dạy cho con tập đọc, tập viết và làm những phép tính đơn giản. Không có giấy viết cũng như phấn bảng. Dụng cụ dạy và học của hai mẹ con chỉ là những cành cây khô vẽ lên nền đất.
        Thế nhưng cậu bé Khải rất sáng dạ. Học hành một thời gian ngắn cậu đã có thể đánh vần rồi sau đó là đọc trôi chảy tất cả những chữ mà mẹ cậu viết ra.
        Bà hài lòng lắm. Bà đã nhờ người mua giúp mấy quyển sách và giấy bút cho Khải.
        Việc học hành của Khải bắt đầu dừng lại khi bà mẹ không còn biết phải dạy gì cho con trai nữa.
        Từ đó Khải dùng giấy bút để chơi đùa. Cậu vẽ nghuệch ngoạc lên giấy những gì trong đầu cậu nghĩ ra. Rồi dần dần khắc họa lại những điều mắt mình trông thấy.
        Bà mẹ vừa vui mừng vừa lo lắng khi thấy con trai mình rất có khiếu về hội họa.
        Năm Khải lên mười tám tuổi, bà đã dẫn Khải ra thị trấn để ghi danh Khải vào một lớp hội họa.
        Chúng tôi quen biết Khải từ dạo đó.
        Cái dáng vẻ lớ ngớ vụng về buồn cười không chịu nổi của Khải đã làm mọi người chú ý.
        Có đứa không tiếc lời chọc ghẹo, nhưng với đám bạn thân chúng tôi thì tuyệt đối không làm những trò đó.
         Chúng tôi nhận ra Khải là một chàng thanh niên tốt, rất thật thà, chỉ tội một điều là hình như anh ta không hề biết chút gì về xã hội mà chúng tôi đang sống, giống như anh ta lạc từ một thế giới khác đến vậy!
        Sau một thời gian quen biết, chúng tôi thật sự cảm mến và nể phục tài hoa của Khải. Và cũng được Khải kể cho nghe về quê mình làm cả bọn chúng tôi cứ há hốc mồm ra tưởng như đang nghe kể chuyện cổ tích hoặc chuyện kể về một bộ lạc nào đó đang tồn tại trong rừng sâu mà xã hội loài người đông đảo này chưa phát hiện ra được.
        Học vẽ một thời gian Khải đã phát huy được tài năng bẩm sinh của mình, đường tương lai của Khải dường như đang rộng mở thì đùng một cái Khải thôi học trở về quê.
        Khi được hỏi, Khải cười thật hiền:
        - Mẹ mình chỉ muốn mình học để biết thôi, không có hướng đi theo con đường này. Mình sẽ về quê sống với mẹ. Nếu các bạn thích, các bạn hãy đến thăm quê mình, ở đó có rất nhiều cảnh đẹp, tha hồ cho các bạn múa bút…
        Đó là lần đầu tiên Khải mời chúng tôi về quê.
        Háo hức vì những câu chuyện Khải kể, chúng tôi cũng rất muốn đi nhưng rồi vì việc này việc khác nên mãi vẫn chưa thực hiện được.
        Khải về quê, nhưng thỉnh thoảng những lần đem sản vật rừng núi ra thị trấn đổi chác, mua bán Khải vẫn tìm tới thăm chúng tôi.
        Và hôm vừa rồi, bốn đứa chúng tôi đã quyết định dẹp qua một bên tất cả công việc thường ngày để đi một chuyến về cái làng quê nghe như huyền thoại của người bạn lạ lùng tên Khải ấy.
        Nói là dẹp công việc qua một bên, chứ kỳ thực chuyến đi này chúng tôi lại thực hiện một nhiệm vụ quan trọng.
        Đã được Khải chỉ vẽ tận tường nên việc tìm đường đi đối với chúng tôi không quá khó khăn.
        Sau một chặng đường đi xe ô tô, chúng tôi lại đi một chặng xe thồ mới tới được bìa rừng và từ đó bắt đầu vận dụng sức mạnh và sự dẻo dai của đôi chân để tiến bước.
        Vì đã được nghe kể trước, nên cả bốn đứa chúng tôi đều cố gắng sắp xếp để chỉ mang theo những vật dụng tối cần thiết, cố thu gọn nhẹ hành lý đến mức tối đa.
        Vậy mà sau hơn hai tiếng đồng hồi lội bộ, đứa nào đứa nấy cũng đã mệt lè lưỡi.
        Cây cối hai bên đường mòn thì cứ mỗi lúc một thêm dày đặc. Tiếng chim chóc hót vang, tiếng những con vật gì đó mà chúng tôi chưa từng nghe qua, chưa từng biết đến cứ chốc chốc lại làm cho cả bốn đứa phải giật thót cả người!
        - Thôi, nghỉ mệt thôi! Tớ không thể nào cất bước nổi nữa rồi đây!
        Đạo vừa thở phì phò vừa nói.
        Tôi, Tân và Phục đều nhất trí với lời đề xuất đó, vì thật ra đứa nào đứa nấy có khác chi nhau.
        Đi trong khu rừng rậm rạp, mặt trời không chiếu rọi nổi những tia nắng gay gắt của mình xuyên qua lớp cây lá dày đặt phía trên, nên chúng tôi không cảm thấy nắng nóng, vậy mà đứa nào cũng mê mết mồ hôi.
        Ngồi tựa lưng vào một cây, Đạo vừa phe phẩy quạt bằng cái nón kết vừa nói:
        - Đường đi tới nhà thằng Khải sao giống như đi vào một thế giới khác quá! Có khi nào nó là ma, nó ra thị trấn để quyến dụ bọn mình dẫn xác tới đây để nộp mạng không vậy?
        Thằng Phục đang ngửa cổ uống nước từ trong chai nước suối mang theo, nghe Đạo nói vậy nó suýt sặc vì cười:
        - Ôi trời ơi, thằng Đạo đã chọn sai nghề rồi! Đáng lẽ ra cậu phải theo học ngành sáng tác văn học hay biên kịch gì gì đó mới phù hợp! Không ngờ đầu óc cậu lại phong phú đến mức đó, nghĩ được những chuyện kinh dị như thế! Hay!
        Nó kết thúc cho câu nói của mình bằng mấy cái vỗ tay lẹt đẹt vì không ai hưởng ứng.
        Tôi cười:
        - Tính ra chuyến này mình đi như vầy cũng hấp dẫn quá chứ, mai mốt về vừa có những tác phẩm hội hoạ, đồng thời lại có thêm một tác phẩm văn học hoặc kịch bản điện ảnh cũng không biết chừng!
        Đạo cười:
        - Hơ hơ… Các cậu cứ việc cười nhạo tớ đi, rồi mai mốt đừng có quấn lấy tớ khi sợ hãi nhé!
        Bốn đứa chúng tôi cứ lời qua tiếng lại đùa vui tếu táo một lúc thì cơn mệt mỏi cũng đã tạm rút lui nên đứng lên đi tiếp.
        Cứ đi và nghỉ như vậy mãi đến tận chiều tối chúng tôi mới thấy được cái cổng làng cao nghệu giống y như lời mô tả của Khải.
        Phục là người phát hiện ra đầu tiên, nó nhảy cẫng lên reo to:
        - Tới rồi! Tới rồi! Tối nay không sợ phải làm mồi cho cọp beo trong rừng rồi!
        Nhìn theo tay chỉ của Phục, cả đám chúng tôi đều nhận ra cái cổng làng vươn cao như muốn đâm toạc bầu trời.
        - Cả cái cổng làng cũng quái dị, chẳng giống ai!
        Tân buông một lời nhận xét.
        Tôi dặn:
        - Ê, bọn mình vào làng người ta làm khách, không được có những lời bình phẩm không hay về họ, mình làm họ tức lên, biết đâu… cả đám không còn đường để quay về?
        Tân gậït gù:
        - Biết rồi, biết rồi! Tớ chỉ nói đùa cho bọn mình nghe thôi mà! Ai mà dám nhận xét thế với chủ nhà…
        Chúng tôi đi chưa tới cổng làng thì đã tháy Khải vừa đi vừa chạy ra tiếp đón.
        Phục hí hửng:
        - Ê, ê… bộ ở trong làng này có đặt trạm quan sát hay sao mà cậu biết chúng tớ đến thế?
        Khải cười:
        - Không, không! Làng mình không đặt trạm quan sát gì cả nhưng những người dân sống ở đây đều có những khả năng đặc biệt mà các cậu không thể ngờ được đâu. Vì phải thích nghi với cuộc sống ở nơi hoang dã này cho nên mỗi một người đều có khả năng cảnh giác rất cao, họ có thể nhận biết những dấu hiệu lạ khi chúng xuất hiện còn cách rất xa mình…
        Tôi có vẻ tò mò hỏi:
        - Thế… cậu có khả năng đó không, Khải?
        Khải thẹn giống như một cô gái khi nghe lời trêu chọc của đàn ông:
        - Hi hi… ừ thì mình… cũng có đôi chút…
        Chúng tôi tay bắt mặt mừng rồi cả bốn đứa bước nhanh theo những bước chân sãi dài của Khải.
        2. Ngôi làng kỳ dị
         
        Mẹ Khải tỏ ra rất vui và hiếu khách khi tiếp đón bốn đứa chúng tôi.
        Vì chúng tôi đến bất ngờ không báo trước, nên mặc dù bụng đã đói meo nhưng vẫn phải ôm bụng chờ mẹ Khải lui cui xuống bếp làm cơm.
        Chỉ một loáng sau, một mâm cơm đã được dọn ra tươm tất. Tuy chỉ là những món ăn đơn giản như lời mẹ Khải nói mà đối với bốn thằng con trai đang đói cào cấu này thì nó còn ngon tuyệt hơn cả những món đặc sản trong các nhà hàng lớn ở thành phố.
        Tôi nói vậy cũng không ngoa chút nào đâu. Vì thật sự đó là những đặc sản thật mà! Nào là măng rừng, thịt thỏ, thịt nai, thịt nhím… Ôi thôi, lần đầu tiên chúng tôi được ăn một bữa cơm trong khung cảnh núi rừng u tịch như thế này, làm cho không khí càng trở nên ấm cúng lúc mấy đứa tôi ngồi quây quần bên mâm cơm nghi ngút khói…
        Cái sự ăn coi vậy mà đơn giản hơn cái sự ngủ đây!
        Nhà Khải thật ra chỉ là một túp lều bé xíu, chỉ đủ kê hai chiếc giường tre nứa ọp ẹp dành cho mẹ con Khải và một góc bếp nhỏ phía sau.
        Khải có vẻ áy náy:
        - Các cậu tới bất ngờ quá, tớ chưa chuẩn bị kịp…
        Mẹ Khải cắt ngang lời con trai:
        - Con đừng lo, hôm trước nghe con bảo vài hôm nữa sẽ có bạn về chơi, mẹ đã hỏi xin ông trưởng làng cho các bạn con được ở nhờ trong ngôi nhà thờ tự của làng và đã được chủ làng đồng ý. Bây giờ các con cứ ngồi đây chuyện vãn, để mẹ chạy tới nhà chủ làng thông báo các bạn con đã đến rồi con đưa các bạn tới đó nghỉ ngơi.
        Khải cười tươi, ôm lấy vai mẹ:
        - Mẹ của con lúc nào cũng chu đáo vô cùng!
        Bà mẹ mỉm cười âu yếm nhìn cậu con trai rồi nhanh nhẹn đẩy cửa bước ra ngoài.
        Tôi thật sự cảm kích hai mẹ con Khải, và thầm ước ao mình cũng có được một gia đình như thế, tuy nghèo nàn thiếu thốn vật chất nhưng về mặt tinh thần thì có vẻ như họ đang rất giàu có.
        Không như tôi, sinh ra và lớn lên trong một gia đình khá giả, nhưng ba mẹ lại bất hòa, hai người lại không thể ly hôn vì nhiều vấn đề như sợ ảnh hưởng đến uy tín và địa vị xã hội, và vì nhiều vướng mắc khác.
        Thế cho nên cả ba và mẹ tôi mỗi người đều có cuộc sống riêng và tìm lấy hạnh phúc riêng cho mình, không ai thắc mắc ai, chỉ có tôi là bỗng nhiên trở nên thừa thãi.
        Về vật chất tiền bạc tôi không thiếu, tôi muốn gì là có ngay thứ đó. Vì cả ba lẫn mẹ đều muốn bù đắp cho tôi những mất mát bằng vật chất, nhưng họ có biết đâu, tôi chỉ cần sự quan tâm yêu mến… mà điều đó thì có lẽ lâu lắm rồi tôi chưa nhận được!
        Giờ đây, nhìn thấy cảnh sống nghèo nàn nhưng đầm ấm của mẹ con Khải, nhất là nhìn ánh mắt của mẹ con họ dành cho nhau mà tôi nghe lòng chua xót quá…
        Không lâu sau mẹ Khải về tới. Bà giục Khải đốt đuốc đưa chúng tới ngôi nhà ở tận cuối làng để chúng tôi còn nghỉ ngơi sau một ngày vất vả.
        Khải đốt một bó đuốc thật to rồi cầm đi trước dẫn đường. Ban đầu mẹ Khải tính đi theo để sắp xếp cho bốn đứa tôi, nhưng chúng tôi không đồng ý.
        Tân nói:
        - Dạ, tụi con lớn cả rồi, tụi con làm được, bác đừng lo lắng ạ! Trời tối lắm, bác nên ở nhà nghỉ ngơi, để Khải đưa tụi con đi là được rồi!
        Nghe Tân nói vậy, mẹ Khải đành dừng chân ở bậc cửa và nhìn theo chúng tôi đi mỗi lúc một xa.
        Con đường trong làng tuy không lớn lắm nhưng rất bằng phẳng và hai bên được trồng một loại cây gì đó để làm hàng rào trông rất đẹp mắt. Ban đêm tuy không nhìn rõ lắm nhưng chúng tôi vẫn cảm nhận được sự sạch sẽ, ngăn nắp của ngôi làng lạ lùng này.
        Khải dẫn chúng tôi đi quanh co qua nhiều lối rẽ. Tưởng đâu làng nhỏ, đường đi gần, ai dè cứ đi mãi miết mà vẫn chưa thấy đến.
        Tôi nôn nóng:
        - Con xa nữa không Khải? Hai cẳng chân tới sắp rụng ra rồi đây này!
        Đạo, Phục, Tân đều phụ họa:
        - Đúng rồi đó, tụi này sắp rớt hết bù loong, con tán trong chân ra hết rồi Khải ơi! Cậu bảo làng cậu nhỏ, chỉ vài mươi hộ gia đình vậy mà đi mấy cây số vẫn chưa tới cuối làng sao?
        Khải cười hềnh hệch:
        - Làng ít người, nhưng nhà ở không quây quần nhau mà cách xa nhau lắm! Thành thử làng rất rộng. Nhưng các cậu yên tâm đi, cũng sắp tới nơi rồi, chỉ hết con đường này, quanh một khúc quanh nữa là tới thôi mà!
        Cả bốn đứa chúng tôi lếch thếch cố gắng bước theo những bước chân mạnh mẽ sãi dài của Khải.
        Đi qua khúc quanh một đỗi, Khải đưa tay chỉ cho chúng tôi thấy một khối to đồ sộ ở phía trước mặt và nói:
        - Đó, tới rồi đó! Các cậu sẽ ở trong đấy!
        Đạo ngạc nhiên hỏi:
        - Ủa, ở nơi này mà cũng có nhà lầu như ngoài phố chợ sao?
        Khải cười:
        - Không phải đâu, ngôi nhà này được dựng lên toàn bằng gỗ, loại gỗ quý nhất trong khu rừng này. Người ta làm gác cao nên nhìn từ xa trong đêm tối các cậu tưởng vậy thôi, chứ nơi này làm gì có nhà xây chứ đừng nói gì đến lầu đài…
        - Ở nhà gác gỗ à? Thích nhỉ?
        Tân reo lên.
        - Hiện nay có ai ở trong đó không Khải?
        Phục tò mò hỏi.
        - Có ông Từ. Ông ở đó để coi sóc nhà cửa, quét tước dọn dẹp mỗi ngày. Trước kia, lúc chưa có ông thì dân làng thay nhau mỗi ngày đến đây làm những công việc đó. Nhưng mấy năm sau này ông Từ từ phương xa trôi dạt tới đây. Người ta thấy ổng đơn thân độc mã không gia đình vợ con gì ráo nên đề nghị ông dọn tới đây ở để chăm sóc nơi thờ cúng của cả làng.
        Khải vừa đi vừa giải thích. Và khi câu nói của Khải vừa chấm dứt thì chúng tôi cũng vừa đúng lúc tới trước cổng nhà.
        Có lẽ biết chúng tôi sẽ đến nên cánh cổng mở toang chào đón và trong nhà sáng rực ánh đèn.
        Khải dẫn chúng tôi đi qua một khoảng sân rộng lớn mới tới được cửa chính ngôi nhà.
        - Bác Từ ơi, chúng con tới làm phiền bác đây!
        Khải nói lớn.
        Có tiếng húng hắng ho từ dưới nhà sau vọng lên, rồi một người đàn ông cỡ tuổi ngoài năm mươi, dáng gầy gò xuất hiện, trên tay cầm một cây đèn to tướng.
        Nhìn ông có vẻ khắc khổ, gương mặt không biểu cảm nên khiến mấy đứa chúng tôi hơi lo, trừ Khải.
        Ông Từ đưa mắt nhìn quét một lượt qua cả đám rồi nói:
        - Bốn đứa lên trên gác. Mỗi tầng ở hai đứa. Có gì cần thì xuống đây gặp bác.
        Dường như ông không muốn bắt chuyện với người lạ, vì thế chúng tôi chỉ chào hỏi ông qua loa rồi cả đám dẫn nhau lên gác.
        Ngôi nhà gỗ ở nơi hoang vu này có kiểu dáng rất đẹp không thua những ngôi nhà mới vừa xây dựng theo thiết kế của những tay kiến trúc sư có tên tuổi ở thành phố.
        Nhà có ba tầng, một tầng trệt và hai tầng phía trên. Tuy không to lớn đồ sộ như lúc nãy chúng tôi hình dung ra khi thoáng nhìn trong đêm tối, nhưng tất cả mọi thứ trong nhà đều được bày biện ngăn nắp và sạch sẽ. Tôi thoáng ngạc nhiên, một người đàn ông như vậy lại có thể gìn giữ ngôi nhà sạch đẹp thế này sao?
        Nhưng ý nghĩ đó chỉ thoáng qua trong đầu tôi thôi, chứ tôi không nói ra cho các bạn biết.
        Đạo với Tân giành ở tầng hai với cái lý do thật buồn cười:
        - Giờ đây tụi tao không còn sức để leo lên tầng trên nữa!
        Tôi với Phục chỉ biết cười rồi dắt nhau lên trên.
        Khải giúp Tân, Đạo kê dọn đồ đạc xong là lên tầng trên với hai đứa tôi ngay.
        - Ở đây gió lạnh, ban đêm các cậu nhớ đóng kín tất cả cửa sổ lại nhé, không nên mở ra, nhỡ gặp phải gió độc thì khốn! Mình thì không sao rồi, vì mình đã quá quen thuộc với khí hậu vùng này, chỉ lo các cậu mới tới chưa thích nghi được với thời tiết, khí hậu ở đây.
        Vừa nói, Khải vừa giúp chúng tôi đóng chặt mấy cánh cửa sổ.
        Tôi với Phục vừa đặt hành lý gọn ghẽ là nằm vật ra sàn nhà thở dốc.
        Ôi, sung sướng biết bao!
        Cả một ngày vất vả, những đôi chân vốn chỉ quen với việc bước ra khỏi cổng nhà là nhảy phốc lên xe, vậy mà hôm nay đã vượt qua hàng chục cây số đường rừng núi gian nan…
        Giờ đây, được ngã lưng xuống sàn nhà mới hạnh phúc làm sao! Cả hai đứa tôi đều dang thẳng tay chân ra để tận hưởng sự sảng khoái vô cùng này!
        Đứng nhìn chúng tôi một lúc Khải cười nói:
        - Hôm nay các cậu mệt lắm rồi, nên ngủ sớm đi, mình về đây. Ngày mai khỏe lại, bọn mình thức đêm tán gẫu nhé?
        Vì mắt cũng đã lim dim nên cả hai đứa chúng tôi đều gật đầu đồng ý chứ không ai lên tiếng giữ Khải lại để chuyện trò.
        Dường như Khải cũng biết điều đó nên vội vã ra về để chúng tôi được ngon giấc.
        Ở tầng dưới chắc hai thằng bạn của tôi cũng đã ngủ rồi hay sao mà không nghe động tịnh gì nữa.
        Tôi nằm một hồi rồi ngủ quên lúc nào không biết.
        Tôi ngủ một giấc thật ngon, nhưng bất ngờ giấc ngủ ấy bị đánh thức bởi một âm thanh vang lớn trong đêm thanh vắng.
        Mở choàng mắt ra, tôi nhận thấy trời đã lờ mờ sáng, mà ánh sáng được chiếu rọi vào vào từ khung cửa sổ phía bên kia.
        - Cậu thức dậy khi nào thế, Phục?
        Tôi cất tiếng hỏi khi trông thấy Phục đang đưng nhìn ra cửa sở, lưng quay về phía tôi.
        Nghe tôi hỏi, Phục quay lại, vẻ không bình thường:
        - Cậu thức rồi à? Nãy giờ tớ muốn đánh thức cậu đấy nhưng sợ cậu mệt nên thôi…
        - Có chuyện gì thế?
        Tôi ngạc nhiên hỏi.
        Phục vẫy tay rối rít gọi tôi lại:
        - Đến đây! Đến đây! Cậu hãy đến đây mà xem!
        Tôi ngồi bật dậy, đến bên cạnh Phục với đôi mắt còn chưa tỉnh ngủ.
        - Cậu xem sau núi có mồ mả kìa!
        - Đâu nào?
        Tôi vừa cố nhoài người ra cửa sổ vừa hỏi với thái độ rất hiếu kì.
        Nhìn ra ngoài tôi thấy có nghĩa trang màu xám xịt, cái màu giống hẹt như màu của một buổi chiều mùa đông ảm đạm, điểm thêm cho cái vẻ hoang vu chết chóc của rừng núi.
        - Có gì lạ đâu?
        Tôi ngơ ngác hỏi.
        Phục có vẻ căng thẳng.
        - Không phải, hình như có mấy ngôi mộ nhằm ngay vào cửa sổ… tự nhiên… tự nhiên tớ có cảm giác rờn rợn sao sao ấy!
        Phục vừa nói vừa kéo hai cánh cửa sổ khép lại và bảo tôi:
        - Thôi, mình xuống dưới xem hai đứa kia đêm qua ngủ nghê thế nào đi! Mà không chừng tụi nó cũng đang chờ mình đấy!
        Hai đứa chúng tôi lục đục soạn đồ đạc để lấy bàn chải đánh răng và các thứ khác cho yêu cầu cá nhân rồi đi xuống tầng dưới.
        Thấy cửa phòng còn đóng im ỉm và bên trong vắng lặng, hai đứa tôi nháy mắt với nhau rồi lẳng lặng xuống đất làm vệ sinh trước.
        Khi tất cả đã tươm tất, tôi và Phục mới quay trở lên tầng một gõ cửa:
        - Dậy! Dậy đi hai ông tướng! Mặt trời đã lên cao rồi kìa! Mẹ con Khải chắc đang đợi chúng ta ở trong làng đấy!
        Chúng tôi nghe có tiếng vươn vai uể oải rồi tiếng lục đục bên trong. Mãi một lúc sau hai thằng Tân, Đạo mới xuất hiện với cái đầu tóc bờm xờm trông rất buồn cười.
        Tôi và Phục vào phòng ngồi chơi chờ hai đứa đi làm vệ sinh xong rồi cùng nhau đi vô làng.
        Khi chúng tôi xuống dưới đất, nhìn quanh quất không thấy ông Từ đâu, Đạo lên tiếng gọi:
        - Bác Từ ơi… Bác ơi!
        Tiếng gọi vừa dứt, chúng tôi nghe có tiếng húng hắng ho rồi tiếng ông Từ vang lên:
        - Cứ đi đi…
        Bốn đứa tôi nhìn nhau, đứa nào cũng muốn hỏi xem ông có đi đâu không, nếu trưa hoặc chiều chúng tôi về có ai ở nhà mở cửa cho chúng tôi vào không, nhưng nghe giọng nói hơi khó chịu của ông chúng tôi đành im lặng đi ra mà không dám hỏi thêm gì nữa.
        Tuy đường đi quanh co và xa đến mấy cây số nhưng vì không có nhiều ngã rẻ nên chúng tôi không hề bị lạc đường mà dễ dàng trở lại được nhà của mẹ con Khải.
        Vừa thấy bóng dáng chúng tôi, mẹ Khải đon đả:
        - Các cháu ngủ một giấc, giờ đã khỏe chưa? Lúc nãy thằng Khải nhà bác định tới đó đón các cháu nhưng bác không cho, bảo nó cứ để các cháu ngủ cho thỏa thích. Vì bác biết hôm qua đi đường đứa nào cũng mệt đừ người rồi, phải không?
        Đạo cười:
        - Dạ, một giấc ngủ tuyệt vời bác ạ!
        - Khải đâu rồi bác?
        Tân nhìn quanh nhà rồi hỏi.
        Mẹ Khải cười hiền từ:
        - Nó mới chạy ra suối, sẽ về ngay thôi mà!
        Quả thật, khi mẹ Khải vừa dứt lời chúng tôi đã thấy Khải về tới, trên tay cầm một xâu cá tươi rói, con nào con nấy to hơn cổ tay còn đang quẫy mình như muốn trốn thoát.
        Phục reo lên:
        - Cậu đi bắt cá à? Thích quá! Sao không chờ bọn mình tới rồi cùng đi?
        Khải nheo mắt:
        - Các cậu đừng có lo, rồi mình sẽ dẫn các cậu đi bắt cá, đi đặt bẫy thú, bắn chim rừng… đủ thứ hết, chỉ sợ các cậu không đủ thời gian thôi!
        Tôi cười lớn:
        - Cậu yên tâm đi! Bọn tớ đã nhát định đi chuyến này đúng một tháng mới quay về cho bõ công trèo đèo vượt suối, vả lại cũng để hoàn thành nhiệm vụ.
        - Hoàn thành nhiệm vụ?
        Khải ngạc nhiên hỏi lại.
        - Ừ, bốn đứa mình được công ty giao cho một bộ truyện tranh, thời hạn là một tháng. Mà đây là bộ truyện phiêu lưu mạo hiểm nên cả bống đứa nhất trí chọn quê cậu làm nơi thực hiện. Khung cảnh hoang vu thế này rất thích hợp cho bọn tớ thực hiện… Chỉ sợ…
        Tôi cười, ngập ngừng.
        Khải lo lắng:
        - Các bạn sợ gì?
        - Chỉ sợ nhà cậu không đủ cơm gạo để nuôi bọn tớ thôi!
        Tôi  vừa cười vừa nói.
        Khải chưa kịp phản ứng thì mẹ Khải đã nói:
        - Ôi, các cháu đừng có lo, ở nơi này đâu sợ gì thiếu ăn, này nhé, gạo bắp có sẵn trên nương rẫy, rau quả có trong rừng, cá ở dưới suối, thịt thì có chim có thú… các cháu không phải lo đâu! Các cháu có ở lại đây cả đời, rừng núi này vẫn cưu mang được các cháu mà!
        Khải tiếp lời mẹ:
        - Mẹ tớ nói đúng đó, nếu mình siêng năng thì không lo gì đói!
        Tân cười cười:
        - Gì chứ cái khoản săn thú bắn chim và bắt cá dưới suối là số một, bọn tớ tình nguyện làm việc cả tháng không mệt mỏi…
        Cả nhà cùng cười.
        Mẹ Khải bảo:
        - Thôi, giờ mấy đứa vào ăn sáng rồi theo Khải lên rẫy hoặc vào rừng chơi cho biết!
        Chúng tôi thật ngạc nhiên khi nhìn mâm cơm mẹ Khải vừa dọn lên. Với xâu cá lúc nãy Khải mang về, chỉ trong một thời gian ngắn mà bà đã chế biến thành nhiều món ăn khác nhau, mà món nào trông cũng hấp dẫn, mùi thơm ngào ngạt khiến mấy cái bao tử háu đói của chúng tôi đều sôi lên sùng sục.
        Không khách sáo, cả bốn đứa chúng tôi vui vẻ ngồi vào mâm cơm, cả nhà vừa ăn vừa rôm rả chuyện trò như một gia đình đầm ấm.
        Khải bảo:
        - Ở làng này, từ lúc tớ chào đời đến nay, tớ mới thấy cảnh vui vẻ thế này lần đầu tiên đấy nhé! Tớ cảm ơn các cậu đã mang đến cho mẹ con tớ niềm hạnh phúc này…
        Mẹ Khải cũng cảm động lắm, bà đặt chén cơm đang ăn dở xuống bàn, mắt rưng rưng mà không nói nên lời.
        Đạo ngại ngùng:
        - Sao cậu lại nói thế? Bọn mình phải cảm ơn bác và cậu mới đúng chứ!...
        Tôi xen vào để phá tan cái không khí  “ơn huệ” này, đồng thời cũng để giải tỏa chút thắc mắc cá nhân:
        - Ủa, vậy chứ ở đây không hề có tiệc tùng đình đám hay khách khứa viếng thăm sao, Khải?
        Khải lắc đầu, đưa mắt nhìn mẹ.
        Mẹ Khải thở dài:
        - Làng này có một điểm đặc biệt chung, đó là tất cả dân cư ở đây đều từ những nơi khác trôi dạt đến, mà người nào cũng có một quá khứ rất nặng nề, nặng nề đến nỗi đáng lẽ họ đã tìm tới cái chết để giải thoát, nhưng có lẽ vì chưa hết số nên họ không thể chết được. Và họ đã đến đây để trốn lánh cuộc sống bình thường bên ngoài. Họ cắt đứt toàn bộ các mối dây liên lạc năm xưa. Đặt chân tới đây là coi như họ đơn thân độc mã, không bạn bè, không người thân, không có bất cứ sự giao tiếp thân tình nào với bên ngoài. Chỉ có Khải là người duy nhất không như thế, vì bác muốn con trai bác được nhìn thấy thế giới bên ngoài, dù bác không muốn nó sống trong cái thế giới đó, nhưng bác vẫn muốn nó biết để tìm hiểu và chọn lựa cuộc sống của riêng nó khi bác không còn sống trên đời này nữa.
        Mẹ Khải trầm ngâm một chút, cả mấy đứa chúng tôi không ai dám lên tiếng.
        - Tuy họ đã rời xa chốn cũ, cắt đứt mọi liên lạc thân thiết với bên ngoài nhưng họ vẫn không sao xóa nhòa được nỗi đau mà bản thân họ đã phải hứng chịu. Cho nên ngày qua ngày, tháng qua tháng rồi năm lại qua năm, họ vẫn làm lụng để kiếm sống nhưng họ luôn ôm ấp nỗi đau của mình, không mở lòng ra được.
        Không ai quan tâm tới ai, nhưng khi có ai đó cần giúp đỡ thì họ rất sẵn lòng, chứ họ không phải là những người bàng quang, ích kỷ hay độc ác. Mà chỉ vì nỗi đau của họ quá lớn, che khuất tầm nhìn của họ, chỉ khi nào có ai đó lên tiếng thì họ mới để mắt tới.
        Cũng như hiện tại, mặc dù sự xuất hiện của các cháu trong làng này là một điều đặc biệt, chưa từng xảy ra, nhưng sẽ không ai tò mò thắc mắc. Đó là điều đặc biệt ở làng này!
        Chúng tôi đã từng nghe Khải kể về những chuyện “không giống ai” của làng mình, nhưng hôm nay nghe mẹ Khải nói thêm về những điểm đó, cả mấy đứa đều không khỏi ngạc nhiên.
        - Kể ra sống như vậy cũng có nhiều điều hay, nhưng…
        Tân đang nói dở dang thì nhận được một cái bấm nhẹ vào chân để nhắc nhở của tôi, cậu ta lập tức lấp liếm:
        - Nhưng… lạ quá!
        Khải gật gù:
        - Tớ sinh ra và lớn lên ở tại đây, mà khi đem so sánh làng mình với xã hội bên ngoài còn thấy lạ huống hồ gì các cậu!
        Thế là suốt bữa cơm hôm đó, chúng tôi cứ nói chuyện xoay quanh những chuyện lạ trong làng.
        Kể ra như vậy cũng tốt, không ai xoi mói, dòm ngó lẫn nhau thì cuộc sống cũng sẽ nhẹ nhàng nhiều lắm.
        Người ta có thể thoải mái sống theo ý thích của mình mà không sợ điều tiếng gì, không phải sống gò bó vào một khuôn khổ nào đó!
        Xong bữa cơm, dù mẹ Khải cố ngăn cản những chúng tôi nhất quyết không để bà phải đụng tay vào chuyện dọn dẹp. Tuy là con trai, nhưng bốn đứa chúng tôi cũng đã sống tự lập từ lâu nên chuyện dọn dẹp chén bát không hề có sự lóng ngóng ngỡ ngàng nào.
        Chỉ loáng một cái tất cả đều gọn sạch. Mẹ Khải cười tươi:
        - Các cháu giỏi quá!
        Và sau một loáng ồn ào vui nhộn, cả đám chúng tôi chào mẹ Khải rồi hí hửng theo Khải lên rừng.
        Chương trình hôm nay của chúng tôi hôm nay là theo Khải đi rẫy cho biết rồi sau đó sẽ đi sâu vào rừng bẫy thú, đến chiều mát sẽ quay về.
        Thức ăn đem theo được mẹ Khải gói ghém cẩn thận bằng mấy chiếc lá rừng trông như một cái bánh, trông rất thích mắt.
        Khỏi phải nói cũng biết chúng tôi mê mẩn thế nào với việc săn bắn và bẫy thú đó. Nhưng do tính nóng nảy và bộp chộp của mấy đứa con trai thành phố chúng tôi mà làm cho cuộc đi săn hôm ấy bị thất bại. Tuy nhiên cũng không đến nỗi phải về tay không, Tân hãnh diện xách lủng lẳng hai con thỏ rừng với mấy chú chim y như chiến tích của mình vậy, nhưng thật ra, chính do sự ngăn cản kịp thời của Khải, không cho Tân nhào ra sớm mới đạt được kết quả đó.
        Tối hôm đó, chúng tôi ăn uống nói cười với nhau đến tận mười giờ mới lúc tục kéo về chỗ ngủ. Dù chúng tôi cố ngăn cản nhưng Khải vẫn một mực theo tiễn chúng tôi đến trước cổng nhà. Khi cả bốn đứa đều đã vào trong sân, Khải mới chịu quay về.
        Chúng tôi hơi lo lo, không biết đi về khuya khoắt thế này có làm phiền ông lão Tứ hay không, nhưng lúc nãy mẹ Khải có nói rồi, ông sẽ không phiền trách gì đâu, nên nỗi lo của chúng tôi cũng nhẹ đi đôi chút.
        Trong nhà tối thui không một tia sáng nhỏ nào. May nhờ tôi có mang theo cây đèn pin, các bạn vẫn cười tôi có tính lo xa, chu đáo như phụ nữ, nhưng trong nhiều trường hợp, chính nhờ cái tính đấy của tôi đã giúp ích được rất nhiều việc.
        Bật đèn pin, quét một lượt quanh nhà vẫn không thấy ai mà cửa lại không khóa chỉ khép hờ.
        Tôi vừa định lên tiếng gọi ông Tứ thì đã nghe tiếng ông:
        - Cứ về phòng ngủ đi!
        Thế là chúng tôi chẳng ai nói lời nào, nhanh nhẹn nhảy phốc lên cầu thang về phòng mình.
        - Cái ông lão này hà tiện từng lời nói, khiến mình cũng dám bắt chuyện để làm thân!
        Phục cằn nhằn.
        Tôi cười:
        - Cậu quên những lời mẹ Khải kể lúc sáng rồi sao? Những người ở làng này đều như thế cả mà! Họ không muốn kết thân với ai và cũng không muốn ai bắt chuyện làm thân với họ. Bởi thế cậu hãy quên ngay cái ý nghĩ ấy đi!
        Nghe tôi nói vậy, Phục làu bàu gì đó trong miệng rồi ngã người xuống sàn với vẻ thoải mái.
        Những ngày tiếp sau đó, chúng tôi vẫn giữ nếp sinh hoạt đều đặn. Sáng sáng xuống nhà Khải dùng cơm sáng rồi đi rẫy, đi rừng với Khải trọn buổi sáng. Chỉ sau một tuần lễ, chúng tôi đã khá thành thạo với việc đồng áng và cũng có một vài kinh nghiệm trong việc săn bắn.
        Buổi chiều chúng tôi không tham gia vào công việc với Khải mà bắt tay vào công việc của riêng mình. Có hôm chúng tôi về nơi ở để vẽ, có hôm chúng tôi mang theo mang theo dụng cụ để làm việc trong rừng hoặc ngay trên nương rẫy mà mẹ con Khải đang làm lụng.

        Có lúc, ban ngày chúng tôi lại đi dạo quanh làng hoặc lên rừng ngắm cảnh mà không săn bắn…
        Và rồi vì công việc, có hôm chúng tôi không đi chung nhau, mà mỗi đứa đi lang thang riêng một hướng để tìm ý tưởng cho mình.
        Chúng tôi đã quen với sự thờ ơ của ông Từ nên việc đi sớm về muộn, đứa về trước đứa về sau cũng không lo lắng gì nữa, và coi đó là nơi có thể đi về bất cứ lúc nào không làm phiền phức tới ai.
        Bởi vậy, có khi mấy ngày liền chúng tôi không thấy ông Từ và cũng không ai thắc mắc ông đang làm gì, đang ở đâu.
        Ngày ngày cứ trôi qua như thế.
        3. Những ngày kinh hoàng
         
        Một hôm, sau khi ăn cơm tối xong, tôi hơi mệt nên về trước. Về tới nơi, tôi lăn ra ngủ thiếp di lúc nào không hay. Đến lúc thức dậy không thấy ai cả nên tôi đi xuống tầng dưới để tìm xem các bạn đã về hay chưa.
        Gõ mãi cửa mới mở, tôi đang định hỏi Đạo làm gì thì thấy nó với Tân đang xịu mặt ra nhìn tôi. Tôi cứ tưởng hai chúng nó cãi nhau.
        Vừa tính mượn cớ để rút lui thì Đạo nói:
        - Này, Đăng… tớ hỏi cậu chuyện này nhé… tối hôm qua cậu có nghe tiếng khóc không?
        - Khóc? Tiếng khóc gì?
        Tôi giật mình hỏi lại.
        Đạo nói nhỏ:
        - Hai giờ đêm hôm qua, hai đứa chúng tớ đang ngủ thì bỗng nhiên tỉnh dậy, nghe bên ngoài có tiếng khóc hu hu. Mẹ kiếp! Nó làm tớ sợ chết khiếp! Suốt ngày hôm nay đã mấy lần tớ muốn kể nhưng Tân cản lại, không muốn các cậu hoang mang, nhưng thật sự khi màn đêm buông xuống thế này thì tớ và Tân đều cảm thấy rất không an toàn, rất sợ hãi…
        - Cậu nói có tiếng khóc? Ở đâu?...
        Tôi hỏi.
        Tân run run đưa tay chỉ.
        Tôi chau mày lại nhìn ra bên ngoài cửa sổ, nơi mà tối hôm chúng nó bảo có người khóc và nói:
        - Tớ nhát gan, hay sợ, các cậu đừng dọa tớ đấy! Chuyện này là thật hay giả?
        - Ai nói gạt cậu làm gì?
        Đạo nhìn thẳng vào tôi. Tân đang đứng bên cạnh cũng hướng ánh mắt vào tôi.
        - Vậy… vậy… ngoài kia có ai ở không?
        Tôi nhìn đi nhìn lại cánh cửa phòng và tấm vách gỗ.
        Đạo nói:
        - Lúc trưa, tớ có xuống hỏi ông Tứ, nhưng không nhắc đến chuyện hôm qua, sợ ông ta cho rằng chúng ta bịa đặt nhiều chuyện. Ông Tứ bảo bên kia vách của phòng này là cái kho chứa đủ thứ đồ vật linh tinh… Bình thường cánh cửa đó khóa suốt, không có ai ra vào được, cũng không có ai sống trong đó.
        Lập tức tôi sởn hết gai ốc nói:
        - Trong đó không có ai, vậy tiếng khóc đó từ đâu ra? Cậu… hai cậu có nghe đúng là tiếng khóc không? Hay là tiếng gió?
        Đạo quả quyết:
        - Rõ ràng cả hai đứa chúng tớ cùng nghe chứ nào phải đâu riêng tớ mà bảo là mơ ngủ hay hoang tưởng gì gì ấy! Nửa đêm lặng ngắt như tờ, nên vừa có tiếng khóc là nghe rất rõ, nghe tiếng thì biết chắc là con gái, mà không, là tiếng khóc của phụ nữ đứng tuổi thì đúng hơn. Tiếng khóc nghe thảm lắm, nghe tức tưởi thế nào ấy…
        Tôi ấp úng:
        - Bây giờ mình phải làm sao đây? Có cần gọi ông Tứ lên để hỏi lại không?
        Đạol nghe tôi nói lắc đầu bảo:
        - Thôi được rồi! Thôi được rồi! Muộn thế này mà còn hỏi gì… nếu trong đó có người thật thì đáng sợ quá!
        Đạo vừa dứt lời, cái cảm giác sợ hãi đã tràn ngập bủa vây lấy tôi.
        Tôi cắn răng mím môi hỏi:
        - Vậy tối nay các cậu định thế nào?
        - Còn định thế nào được nữa? Đành phải ráng mà ngủ thôi chứ biết làm sao bây giờ?
        Tân ngao ngán nói.
        Tôi gợi ý:
        - Hay các cậu lên trên ngủ với tớ và Phục đi!
        Đạo lắc đầu:
        - Không được, mình phải giữ đúng nguyên tắc chứ! Phải để cho mỗi người có không gian sáng tác riêng, nếu dồn lên đó ở một đêm thì không sao chứ ở hoài làm sao chúng ta làm việc được trong cái khung cảnh nhỏ hẹp chật chội như thế? Mà ở tạm một đêm thì ở làm gì, chi bằng cứ cố ở lại đây…
        Ngập ngừng một chút, tôi nói:
        - Vậy tớ sẽ mở điện thoại nhé! Có chuyện gì cứ gọi cho tớ. Mấy hôm rồi bọn mình sợ máy hết pin nên không dám mở, tối nay thì phải sử dụng thôi!
        Đạo và Tân gật đầu đồng ý.
        Khi ra về tôi liếc nhìn căn phòng chứa đồ linh tinh kia, chỉ thấy chiếc khóa to tướng nằm ngang trên then cửa đã han gỉ chứng tỏ lâu lắm rồi không ai ra vô căn phòng đó.
        Tôi về phòng không bao lâu thì Phục về tới. Tôi ngại Phục lo sợ nên không kể lại với cậu ấy, chỉ nằm đọc sách với vẻ trầm tĩnh.
        Phục cởi giày rồi lăn ra sàn nhà vớ lấy một quyển sách cùng xem chung một ngọn đèn với tôi.
        Đột nhiên Phục ngẩng đầu lên hỏi:
        - À đúng rồi, khi nãy vừa lên phòng tớ ngửi có mùi lạ, cậu có ngửi thấy gì không?
        - Không! Cậu ngửi thấy mùi gì thế?
        Tôi hỏi lại.
        - Trong phòng này hình như có mùi gì đó, giống như là mùi chuột chết!
        Phục vừa nói vừa nhìn quanh.
        - Không có đâu, trong phòng này có chỗ nào chất đồ đạc hay rác rưởi gì đâu? Làm sao có chuột chết được? Hơn nữa ở đây lạnh thế này làm sao có chuột được?
        Tôi nói.
        Phục ngắt lời:
        - Không, không! Tớ chưa nói hết, có mùi là lạ nhưng sau đi vài bước lại không thấy mùi đó nữa!
        - Đột nhiên không ngửi thấy mùi đó nữa à? Cậu nói thế là sao?
        Tôi thắc mắc.
        - Khi tớ phát hiện ra mùi lạ, tớ nhìn quanh quất để tìm xem mùi thối ở đâu ra, đúng lúc đó tự nhiên có người đến…
        - Có người đến à? Ai thế?
        Phục đang kể, tôi ngắt lời vì quá nôn nóng.
        Phục lắc đầu:
        - Tớ không biết, xem cách ăn mặc thì cô ta có vẻ cũng nghèo nàn lắm, cô ta không nhìn thẳng vào tớ mà chỉ đi lướt qua bên tớ một cái rồi xuống thang gác.
        - Cô ấy là người trong vùng này à? Có phải mùi tỏa ra từ người cô ta không?
        Tôi càng thắc mắc.
        - Hình như không phải, vì khi cô ta đến gần tớ thì mùi thối đó tớ không còn ngửi thấy nữa…
        Phục nói.
        - Cậu có thấy lạ không?
        Tôi nhổm lên nhìn Phục.
        - Lúc đó tớ không thấy gì lạ cả, nhưng nghĩ lại càng lúc càng thấy vô lý! Thôi… thôi… không nói chuyện này nữa! Tớ đã hơi hoang mang mà thái độ của cậu làm tớ sợ rồi đây này!
        Trong đầu tôi bỗng hiện ra một bóng đen, đồng thời tôi còn tưởng tượng ra cả hình dáng của người đó nhưng không nói gì thêm nữa.
        Cầm điện thoại lên xem, tôi thấy đã hơn mười giờ nhưng còn lâu mới đến cái giờ nghe có tiếng người khóc mà Đạo nói.
        Hôm nay tôi mở điện thoại suốt, tôi dự cảm có điều gì đó sắp xảy ra.
        Tôi vất cuốn sách sang bên, nằm nghĩ lan man về cái mùi thối mà Phục vừa nói.
        Phục cũng đã vất sách đi nãy giờ, co rúm người lại trong chăn, không biết vì lạnh hay là vì sợ.
        Lúc đó, tôi như sực nhớ ra chuyện gì, quay đầu lại hỏi Phục:
        - Đúng rồi, cậu bảo cô ta đi từ đâu xuống?
        - Ai cơ?
        Phục hỏi.
        - Chính là người mà cậu đã gặp trên cầu thang đó!
        Tôi lại nhổm dậy.
        - Tầng hai!
        Phục khẳng định.
        - Chỗ nào của tầng hai? Là mặt nào của phòng Đạo ở?
        - Là ở chỗ… là ở chỗ… tớ cũng không nhớ rõ!
        Phục ấp úng.
        - Có phải vách tường phía đông không? Có phải cái góc dể hành lý trong phòng Đạo không?
        Tôi hấp tấp hỏi.
        - Tớ cũng không nhớ hành lý đặt ở góc nào nữa. Cậu hỏi làm gì mà khẩn trương thế?
        Phục nhìn tôi tò mò.
        Tôi cười chống chế:
        - Ồ, không có chuyện gì… chỉ tại… tớ hỏi cho biết thôi…
        Tôi lại nằm vật xuống, vớ lấy quyển sách rồi lại vất đi. Cầm điện thọai lên xem, hơn mười một giờ đêm. Tôi đặt điện thoại ở đầu nằm, tắt đèn, căn phòng trở nên tối om, hai mắt tôi cố nhắm lại nhưng không tài nào ngủ được.
        Tôi biết mình đang đợi điện thoại, nhưng thật lòng mà nói, tôi rất sợ phải nghe cuộc điện thoại này.
        Không biết đã qua bao nhiêu thời gian, Phục đã ngủ say, tiếng thở yên tĩnh chầm chậm, nhưng nhịp tim tôi cứ đập liên hồi.
        Tôi lại bật điện thoại lên xem, đúng mười hai giờ!
        Trong đêm tối, cứ đợi mãi nhưng điện thoại vẫn không động tĩnh gì, tôi không chịu được nữa. Tôi quay đầu lại nhìn Phục, cậu ta vẫn đang ngủ say.
        Tôi mò mẫm đi, lấy điện thoại soi đường, lón nhón đi dần ra ngoài. Gần đến cửa bỗng có điện thoại của Đạo gọi tới:
        - A lô, thế nào rồi?
        Tôi hỏi
        - Chưa, chưa có gì cả!
        Đạo trả lời.
        - Nói đi, thần kinh tớ sắp đứt tung ra đây này, cậu gọi điện cho tớ làm gì thế?
        Tôi cáu.
        - Ha ha… thì gọi để cậu biết không có gì xảy ra, để cậu yên tâm mà ngủ! Vậy cũng mắng tớ được sao?
        Đạo làm ra vẻ vô tội.
        Tôi bực nhưng cố nén lại:
        - Thế thì tốt rồi! Vậy chúng ta đi ngủ nhé?
        - Ừ!
        Tôi ngắt điện thoại, trở vào nằm xuống định ngủ. Nào ngờ vừa mới nhắm mắt chưa được mấy phút, chiếc điện thoại bên tai bỗng rung lên bần bật.
        Tôi ngồi bật dậy, lật nắp điện thoại ra xem thì ra là Đạo đang gọi.
        Trấn tĩnh một lúc tôi mới có thể bật nút nghe. Chỉ nghe trong điện thoại có tiếng gió, hình như Đạo sợ quá nên không nói được lời nào.
        - Sao? Sao rồi?
        Tôi hoảng quá.
        Tiếng Đạo thì thào:
        - Cậu đừng nói nữa, hãy lắng nghe đi, lắng nghe trong điện thoại đi!
        Tôi liền im bặt, đặt loa điện thoại sát tai, chỉ nghe thấy tiếng xào xào nho nhỏ, hình như đó là tín hiệu nghe không rõ, ngoài ra không nghe thấy gì nữa.
        Vừa toan hỏi thì bỗng “a”, tiếng khóc của một người phụ nữ vang đến, tiếng khóc như đâm vào màng nhĩ tôi. Không chịu được, tôi lắp bắp mấy tiếng và nhìn sang bên một cách vô thức, thấy Phục cũng đã tỉnh giấc từ lúc nào, đang sững sờ nhìn tôi.
        Tôi trấn tĩnh lại, vừa nhìn Phục đang thần người ra vừa nói:
        - Sao rồi? Sao rồi?
        Chỉ nghe thấy tiếng lắp bắp bên kia đầu dây của Đạo, hình như cậu ta đang cố an ủi Tân đừng sợ… nhưng trong điện thoại vẫn còn nghe thấy tiếng gì đó từ xa nữa… có tiếng ồn nhưng không nghe rõ tiếng gì.
        Tôi gần như hét lên:
        - A lô, alô, nói đi chứ! Nói gì đi chứ!
        Lúc đó Phục đã trườn lại gần bên tôi, ngước mắt hỏi:
        - Có chuyện gì thế?
        Tôi khoát tay ra hiệu cho Phục im lặng rồi nói:
        - Alô, alô!...
        Bên kia diện thoại có tiếng trả lời, nghe giọng Đạo run run nói:
        - Lại… đến… nữa rồi! Cậu… các cậu nhanh xuống đay đi… cô ta hịen đang ở trước phòng tớ!
        Tôi có cảm giác như trái tim sắp vọt ra khỏi miệng, nghẹn ở cổ họng không nói được.
        Xuống đó ư? Như vậy không phải tự tìm đến cái chết sao?
        Lúc đó cả hai đầu điện thoại không ai nói gì thêm nữa, vừa đờ ra được một lát, bên kia Đạo hét lớn:
        - Cậu nghe đi! Cậu nghe đi, có nghe rõ không?
        Thực ra, ngoài tiếng thở hổn hển của cậu ta ra, tôi không nghe thấy gì nữa cả. Nhưng tôi thấp thoáng nghe thấy tiếng xì xào, như có cái gì đó đang đi từ dưới tầng hai lên tầng tôi đang ở.
        - Tớ không nghe thấy gì cả!
        Tôi hét vào máy.
        Và tôi bỗng nghe “ực” một tiếng, giống như Đạo vừa nuốt vật gì rất to vào cổ họng.
        - Bây giờ thì hết rồi! Tiếng khóc đó đã ngưng rồi! Giờ các cậu có thể xuống đây không?
        Đạo hỏi tôi.
        - Bây… bây giờ ấy à?
        Tôi nghiến chặt răng lại không biết nói gì, quả thật chúng tôi là bạn bè tốt của nhau, nhưng bây giờ mà cậu ta yêu cầu thế thì cũng khó cho tôi quá!
        - Các cậu xuống đây đi!
        Giọng nói của Đạo đáng thương quá, không giống như giọng nói thường ngày của cậu ta nữa.
        Tôi nghiến chặt răng, liếc nhìn cánh cửa phòng nhưng cả người tôi như có ai đang ấn xuống đất, không thể đứng dậy, sau lưng tôi thì từng trận từng trận tê cứng.
        - Tớ không dám xuống đó! Tớ quả thạt không dám xuống đó, các cậu lên đây đi!
        Tôi nói gần như rên rĩ.
        - Hai đứa bọn tớ không dám… ra cửa!
        Đạo nói như khóc.
        - Tớ cũng không dám, thật lòng tớ rất sợ!
        Tôi cảm thấy không khí lúc này như đông lại.
        Phục đứng bên cạnh tôi nói:
        - Rốt cuộc có chuyện gì vậy? Cậu nói cho tớ biết, nhanh đi!...
        Tôi biết không thể tiếp tục giấu Phục được nữa, và lúc này tôi cũng rất cần có người để chia sẻ và hỗ trợ nhau.
        - Dưới đó có người khóc!
        Tôi vừa nói xong, Phục giật thót người lại rồi kéo chăn cao hơn một tí và cứ nhìn vào mặt tôi trân trối.
        - Không được! Không thể được! Chúng tớ không đứa nào dám xuống đó… Đúng rồi! Cậu gọi với xuống, kêu ông lão Từ dưới nhà đi!
        Đạo vội vàng đáp:
        - Được… được! Tớ quên mất. Cậu đợi điện thoại tớ nhé. Khi nào ông ta lên đây tớ lại gọi cho các cậu…
        Tôi ném điện thoại xuống như ném quả lựu đạn, hai tay xoa mạnh với nhau cho đỡ tê lạnh. Phục chui đầu ra khỏi chăn, giương mắt nhìn tôi, chúng tôi bốn mắt nhìn nhau không nói được gì!
        Lúc đó, tôi nghe tàng dưới có tiếng gọi to của Đạo:
        - Bác Từ ơi… Bác Từ ơi… làm ơn lên đây chút…
        Không nghe tiếng ông Từ trả lời, nhưng ngay sau đó có tiếng “Bùng! Bùng! Bùng!” như tiếng ai đang chạy trên cầu thang, rồi nghe cả tiếng mở cửa, trong đêm tối đầy căng thẳng, tôi nghe như bốn bức tường nhè nhẹ rung…
        Tôi nghĩ là tiếng bước chân người dưới đất chạy lên mạnh quá nên như thế, cũng tại Đạo và Tân không chịu xuống dưới nhà mà gọi người ta…
        Một lúc sau tiếng ồn đã hết, điện thoại tôi lại đổ chuông, là Đạo gọi cho tôi.
        - Xuống đây đi! Có ông Từ đến rồi!
        Cậu ta nói lớn.
        Tôi vội vàng đứng lên kéo Phục chuẩn bị xuống tầng dưới.
        Cầu thang tối om không thấy gì cả mà tôi lại quên cầm theo đèn pin, cũng không bíet sao lúc đó tôi không dùng điện thoại để soi đường. Hai chúng tôi lần mò trong bóng tối xuống tầng hai.
        Ai ngờ đâu, vừa mới đi được mấy bước, chúng tôi bỗng ngửi thấy mùi xác thối.
        - Chính là mùi thối này đấy!
        Phục run giọng nói.
        Tôi sợ đến nỗi không dám bước tiếp, dừng lại thì không ngửi thấy mùi thối đó nữa.
        Tôi mơ hồ cảm thấy có gì đó đang vật vờ trước mặt, nhưng không nhìn rõ. Tôi ý thức được rằng không thể đứng đây lâu được, liền kéo tay Phục tiếp tục đi. Trong lúc đi, tôi cố gắng nện chân thật mạnh để lấy can đảm.
        Cả hai chúng tôi ngoặt qua một ngã rẽ tiến tới phòng của Tân và Đạo, đèn trong phòng cậu ta vẫn còn sáng. Lúc đó tôi mới thấy một người đang khom lưng ngồi trước cửa phòng.
        Tôi đang sợ đến thừ cả người không cất tiếng kêu được thì bỗng người đó quay lại nhìn tôi, khuôn mặt đen ngòm.
        Tôi định thần nhìn kỹ thì ra là ông Từ. Lúc đó tôi mới nhẹ cả người, đi mạnh mấy bước để tiến đến gần, hóa ra ông ta đang lom khom lục lọi cái gì đó trước phòng kho.
        Tôi và Phục đến trước cửa phòng Đạo mới phát hiện thấy cửa bên ngoài nơi vào phòng kho vẫn đóng im ỉm, nhưng cánh cửa gỗ bên trong đã mở tự bao giờ.
        Đạo và Tân đang theo dõi ông Từ phía bên kia cánh cửa, không nói không rằng, khi thấy chúng tôi xuống tới mới vội vàng mở cửa cho chúng tôi vào phòng rồi nói với ông Từ:
        - Bác Từ ơi… có khả năng… có ai ở trong đó không?
        Ông Từ nói:
        - Nhà này ngoài các cậu ra thường chỉ có mỗi mình tôi ở.
        Rồi ông không nói gì thêm, chỉ lấy chùm chìa khóa đủ các cỡ chìa trong người ra, rồi cắm cúi mở cửa.
        Lúc đó Phục bỗng nói:
        - Này cậu, không còn nghe thấy mùi xác thối đó nữa!
        - Ừ!
        Tôi nói sau khi hít một hơi không thấy mùi gì cả.
        Tân quay sang hỏi chúng tôi:
        - Mùi gì? Hai cậu nói mùi gì thế?
        - Hôm nay, Phục khi đi lên tầng trên thì ngửi thấy mùi gì là lạ, vừa nãy lúc đi xuống đây cả hai chúng tôi lại ngửi tháy mùi thối đó!
        Tôi kể.
        - Mùi thối? Các cậu muốn nói mùi thối gì?
        Tân tò mò giương mắt nhìn tôi.
        - Cũng không rõ mùi thối gì… nói không chừng… nhưng thoắt một cái đã không ngửi thấy mùi gì nữa cả!
        Tôi ngao ngán trả lời. Tân và Đạo không hỏi gì thêm nữa, hình như cả hai đứa đang bận suy nghĩ gì ghê lắm.
        Tôi thấy lòng mình xáo trộn lên khi nghe Tân hỏi về chuyện này. Hình như những chuyện kỳ quái này có liên quan với nhau, nhưng tạm thời tôi không biết chúng liên quan như thế nào.
        Lúc đó ông Từ lấy chiếc chìa khóa để tách hẳn với các chìa khóa khác ra rồi đi về phía cánh cửa phòng kho.
        Đúng là chìa khóa của phòng đó rồi, ông vặn nửa vòng, “tách” một tiếng, ổ khóa mở ra, tim tôi như đông cứng lại trong khi ông Từ mở cửa căn phòng.
        Tôi liếc mắt nhìn qua ông và có cảm giác như mặt ông trắng bệch.
        Tôi hồi hộp chờ đợi hành động tiếp theo của ông Từ, tưởng tượng ông sẽ thét lên một tiếng, lùi lại mấy bước rồi tháo chạy như ma đuổi.
        Nhưng chỉ thấy ông ta đưa tay đẩy nhẹ cánh cửa, tách một tiếng, cánh cửa mở toác ra.
        Ông Từ có vẻ rất điềm tĩnh, ngồi xổm trước cửa rọi đèn nhìn vào trong, rồi quay đầu lại nói với chúng tôi:
        - Không có gì trong đây cả!
        - Không có gì cả sao?
        Đạo vừa thốt lên vừa nhìn tôi. Hơi do dự, Đạo nhè nhẹ đẩy cửa, hai chúng tôi cùng nhau đi vào. Cánh cửa giờ đây đã mở toang ra, ánh đèn trên tay Đạo soi rọi khắp căn phòng. Căn phòng nhỏ cỏn con, chỉ rộng khoảng hai đến ba mét vuông gì thôi, ngoài một chiếc tủ gỗ đã xiêu vẹo không còn cánh cửa còn lại toàn là những thứ linh tinh nhỏ nhặt nằm rải rác khắp dưới nền nhà.
        Trên tất cả mọi thứ đồ đọc trong đó đều có một lớp bụi phủ dày như một minh chứng rằng đã qua một khoảng thời gian rất lâu không hề có ai đặt chân vào căn này cả.
        Ngoài những điều đó ra hoàn toàn không phát hiện được gì thêm nữa!
        Tôi như trút được gánh nặng, nói với Tân và Phục đang đứng trước cửa rằng:
        - Thôi, không có việc gì cả, mình về phòng ngủ thôi!
        Ông Từ khoát tay rồi đóng chặt cửa lại, lầm bầm:
        - Không có việc gì cả, ngủ đi!
        Nói xong ông đi xuống, rồi chẳng thấy gì nữa, phía dưới chỉ toàn là bóng đêm.
        Cả bốn đứa chúng tôi thở phào nhẹ nhõm, tôi nhìn Đạo, cậu ta nhớ lại chuyện lúc nãy, đưa tay bối rối gãi đầu nói:
        - Không sao rồi, các cậu lên ngủ tiếp đi!
        Tôi chợt phá ra cười ngặt nghẽo làm cả mấy đứa bạn trố mắt ra nhìn không hiểu lý do gì.
        - Sao cậu lại cười?
        Tân hỏi.
        Tôi cố nén cơn buồn cười cứ dồn lên đến nghẹn thở:
        - Hi hi hi… ha ha ha… có trải qua những lúc như thế này mình mới test được lòng dũng cảm của mình! Hóa ra… cả bốn thằng đều nhát như thỏ đế!
        Đạo, Tân và Phục đều cười lỏn lẻn, như xác nhận cho cái tật sợ ma của chính bản thân mình.
        Suốt đêm hôm đó, chiếc điện thoại của tôi quả nhiên không đổ chuông nữa, cũng chẳng ngửi thấy mùi gì nữa, đến lúc này chúng tôi mới cảm thấy hoàn toàn yên tâm.
        Sáng sớm hôm sau, vừa thức dậy là tôi nhảy phốc xuống tầng hai, gõ cửa phòng của Tân và Đạo hỏi xem có gì lạ không.
        Đạo và Tân đều bảo không có gì  xảy ra nữa nhưng suốt đêm cả hai vẫn không sao ngủ yên được, cứ thao thức bồn chồn mãi.
        Chuyện trò một lúc rồi cả bốn đứa rủ nhau về nhà Khải.
        Mắt Tân đỏ ngầu vì đêm qua không ngủ được. Cậu ta vừa đi vừa ngáp:
        - Các cậu này, mình có nên nói với Khải không?
        - Nói chuyện gì?
        Tôi hỏi
        - Chuyện ma lúc nửa đêm ấy!
        Tân đáp.
        - Bộ cậu tính để cho Khải cười bọn mình đến chết luôn sao? Ma quái cái gì kia chứ? Hôm qua cậu thấy cả rồi đấy, chẳng có cái khỉ gió gì cả, toàn là do bọn mình quá sợ hãi mà tưởng tượng ra thôi…
        Tôi gạt đi.
        Nhưng Đạo vẫn không đồng ý:
        - Vậy cậu nói tiếng khóc lúc nửa đêm hôm qua là tiếng gì?
        Tôi ngắc ngứ:
        - Tôi nghĩ… tôi nghĩ đó là do mình tưởng tượng ra. Nơi mà chúng ta đang trọ phía sau là rừng rậm, tiếng gió thổi vào lá cây xào xạc, mình cả nghĩ lại khéo tưởng tượng nên nghe thành tiếng khóc thế thôi. Thôi, đừng nghĩ nhiều nữa, cũng đừng đem chuyện này ra kể với ai, người ta cười cho đấy!...
        Đạo không nói gì thêm, chắc là ít nhiều cũng đã bị tôi thuyết phục nên cảm thấy yên tâm hơn.
        Sau bữa cơm sáng, chúng tôi lại chia nhau đi lang thang như thường lệ. Đến quá trưa, tôi tìm không thấy Đạo và Tân đâu, nghĩ chắc chúng đã về nhà trọ để ngủ bù cho đêm qua. Tôi cũng cảm thấy người mỏi mệt nên rủ Phục cùng quay về.
        Khi vào nhà, hai đứa tôi gặp ông Từ đang ngồi hút thuốc bằng một chiếc tẩu thật dài, tiếng rít thuốc òng ọc và khỏi tỏa ra dày đặc khiến tôi phải đưa tay che mũi mới có thể bước vào nhà.
        Hai đứa tôi khẽ gật đầu chào ông như tỏ ý muốn cảm ơn ông về chuyện hôm qua, nhưng ông Từ làm như không hề nhìn thấy chúng tôi, ánh mắt ông vẫn nhìn ra xa một cách vô cảm.
        Phục bấm nhẹ vào vai tôi và hai đứa nhanh chân bwosc lên cầu thang, không dám nấn ná làm phiền ông thêm nữa.
        Vừa lên tới tầng hai tôi bỗng thấy hình như có một người phụ nữ nào đó đang đứng lấp ló ở góc cầu thang, mặc áo màu xanh, mái tóc rối bời đã điểm bạc.
        Bà ta quay lưng lại phía chúng tôi, đang cầm giẻ lau lau nền cầu thang, bên cạnh bà ta có chiếc thùng đựng rác bằng nhựa màu đỏ hồng.
        Tôi nhìn lướt qua bà ta, chân vẫn bước đều tiếp tục đi lên tầng ba, nhưng bất ngờ Phục bấu chặt vào tay tôi. Tôi bị Phục bấu liền dừng lại ngay, quay đầu nhìn Phục, chỉ thấy cậu ta đang nhìn chằm chằm vào người đàn bà kia vẻ mặt đầy căng thẳng.
        - Gì thế?
        Tôi hỏi.
        Phục lắc đầu hoảng hốt nhưng không nói gì.
        Phía rẽ ngoặt lên tầng ba chỉ có hai chúng tôi, không biết người đàn bà kia có biết được hai chúng tôi xuất hiện không nhưng chắc là không vì vì vẫn một mực lau chùi sàn nhà…
        Tôi linh cảm có điều gì đó bất ổn nhưng không dám nói bừa, trong lúc tinh thần hoảng loạn, tôi đưa tay chỉ về phía cửa phòng Đạo ra ý nói với Phục rằng, chúng ta nên đi tìm Đạo và Tân.
        Phục khoát tay lia lịa rồi dùng sức đẩy tôi tiếp tục đi lên tầng ba, vừa đi vừa chỉ xuống chân tôi ý nói nên đi nhẹ tiếng một chút.
        Hai đứa chúng tôi nắm chặt tay nhau nhón từng bước nhè nhẹ lên trên, không dám để phát ra tiếng động nào, đồng thời thỉnh thoảng lại liếc nhìn xem bóng người đó có lên theo chúng tôi không. Nhưng hình như bà ta không có động thái gì, cứ xoay lưng lại với chúng tôi nên hai đứa tôi không nhìn rõ mặt bà ta.
        Khó khăn lắm chúng tôi mới lên được tầng ba, tôi hết sức nhẹ nhàng mở cửa, rồi cả hai lẻn vào trong như hai tên trộm.
        Vào phòng, tôi thấy trán mình vả mồ hôi và Phục cũng không khá hơn là mấy. Trong lòng tôi lại cứ thấp tha thấp thỏm.
        - Người phụ nữ đó là ai? Có chuyện gì mà cậu có vẻ hoảng hốt khi trông thấy bà ấy đến thế?
        Tôi thắc mắc hỏi Phục.
        - Người mà tớ thấy hôm trước chính là bà ta!
        Phục bảo.
        - Cậu nói là người có mùi thối phát ra? Tại sao vừa rồi chúng ta chẳng ngửi thấy thấy mùi gì cả?
        Tôi ngạc nhiên.
        - Không biết… tớ thật sự không biết…
        Phục ôm đầu khổ sở.
        - Mấy hôm trước sao không thấy người đàn bà đó? Mùi hôi thối kia liệu có liên quan gì đến bà ta hay không?
        Trong đầu tôi cứ tua đi tua lại cảnh tượng vừa trông thấy ở chân cầu thang lúc nãy, nhớ lại vóc dáng bà ta. Bà ta không cao, nhìn từ sau cũng đoán được bà ta có nước da đen đen, đầu tóc đã bạc quá nửa, chắc có lẽ tuổi cũng đã khá cao…
        Lúc đó bất chợt tôi nhớ đến câu nói của Đạo, cậu ta nói tiếng khóc lúc nửa đêm là tiếng khóc của một người phụ nữ khá lớn tuổi.
        - Tuổi bà ấy khá lớn…
        Tôi nhẩm đi nhẩm lại câu nói ấy của Đạo, rồi tưởng tượng vóc dáng của người đàn bà, không nhịn được nên miệng tôi cứ lắp bắp.
        Trong lúc suy nghĩ, bỗng một cảm giác cứ rõ ràng hiện lên trong đầu tôi, có thể là gặp phải ma quỷ rồi đây.
        Tôi vẫn thường nghe người ta nói nơi núi rừng thâm u chính là nơi các hồn ma thường tìm về nương náu, phải chăng căn nhà này, những căn phòng này là nơi trú ngụ của các vong hồn không nơi nương tựa, mà chúng tôi đã vô tình chiếm giữ nên mới đánh động cuộc sống bình yên của họ, khiến họ đêm đêm phải khóc than kể lể và ban ngày thì hiện hình để dọa nạt hòng đuổi chúng tôi ra khỏi nơi đây?
        Tôi còn đang run rẩy với cái ý nghĩ ấy thì nghe ở tầng dưới có tiếng chân nện mạnh và tiếng cười đùa của Đạo và Tân.
        Mừng quá, tôi đứng phắt dậy chạy tới mở toang cánh cửa và gọi to:
        - Tân, Đạo! Các cậu đã về rồi phải không?
        - Ừ, chúng tới vừa về đến! Hôm nay chúng tớ làm việc hăng say lắm nhé! Đạt được bao nhiêu là thành quả!...
        Tiếng Tân vui vẻ phấn chấn như chưa từng trải qua cơn hoảng loạn đêm qua. Nhưng nhờ sự phấn chấn đó của Tân đã phá tan cái không khí âm u mà tôi có cảm giác như nó đang bao bọc lấy ngôi nhà.
        Liếc mắt nhìn về phía goc cầu thang, nơi có người đàn bà hiện diện khi nãy, tôi thấy không còn ai ở đó. Nền nhà sạch bóng, chắc chắn là nhờ sự lau chùi cẩn thận của bà ta.
        Tôi quay vào phòng, vẫy tay ra hiệu cho Phục rồi chạy tót xuống tầng hai.
        Tôi định kể cho Đạo và Tân nghe chuyện vừa xảy ra lúc nãy và những ý nghĩ phán đoán của mình, nhưng tôi kịp thời dừng lại. Hai đứa nó vừa trải qua một đêm thức trắng vì lo sợ, tôi không nên làm chúng hoang mang thêm nữa. Thôi thì cứ giữ kín chuyện này, nếu những ngày tiếp theo sau mọi việc bình thường thì không có gì để nói nữa, còn nếu lại tiếp tục xảy ra những việc không hay, thì khi đó tôi sẽ nói ra rồi cả bọn sẽ từ giã nơi đây để quay về với thành phố ồn ào náo nhiệt.
        Thành thực mà nói, chúng tôi đứa nào cũng yêu thích cuộc sống ở đây. Công việc của chúng tôi cũng rất hiệu quả khi sáng tác trong một môi trường thích hợp như thế này. Nếu bắt buộc phải quay về khi mọi việc còn dang dở thì quả thật đó là một sự tiếc nuối vô cùng!
        Tôi ngồi chơi, nói chuyện lếu láo với hai đứa bạn một lúc rồi trở về phòng mình lăn ra ngủ một giấc ngon lành. Mãi đến chiều tối, Phục gọi dậy đi xuống nhà Khải ăn cơm mà tôi vẫn chưa tỉnh ngủ.
        Tối hôm đó khi từ nhà Khải về, vừa tới cổng nhà, cả mấy đứa chúng tôi giật bắn người khi nghe tiếng kêu quái dị ngay trên mái nhà.
        Bốn đứa chúng tôi đều sởn cả gai ốc, đứng túm tụm lại bên nhau. Cũng may là lúc đó Khải vẫn chưa quay về. Thấy chúng tôi có vẻ lo lắng thái quá, Khải bật cười:
        - Các cậu đừng lo, đó chỉ là tiếng kêu của con chim cú mèo thôi mà! Mặc dù có người bảo, đó là loài chim mang đến điềm xấu, nhưng tớ thì không tin lắm… Thôi, các cậu mau vào nhà đi, ở ngoài này sương xuống nhiều lắm rồi không khéo sẽ ngã bệnh đấy!
        Khải mở rộng cánh cổng cho chúng tôi vào rồi cậu ta cẩn thận đóng kín lại trước khi quay trở lại nhà mình. Đêm nào Khải cũng đi mấy cây số để đưa chúng tôi về nơi ngủ như thế!
        Bốn đứa tôi cố gắng ổn định tinh thaafn, rằng đó chẳng qua chỉ là tiếng của một loài chim không có gì đáng quan tâm lo sợ.
        Tất cả về phong mình cố dỗ giấc ngủ nhưng rồi khong đứa nào ngủ yên được vì con chim ấy cứ kêu lên những tiếng ghê rợn suốt đêm…
        Trời hừng sáng, tiếng chim không còn kêu nữa. Tôi gọi Phục:
        - Dậy! Tớ với cậu chạy ra ngoài xem con chim đó thế nào mà có tiếng kêu rùng rợn đến vậy?
        Không phải chúng tôi không biết chim cú mèo, nhưng thật sự chưa lần nào được chứng kiến tận mắt.
        Tôi và Phục vừa lò dò xuống tới tầng hai thì gặp Tân và Đạo cũng từ trong phòng bước ra. Hóa ra cả bốn đứa chúng tôi đều có chung ý đi xem cho tận mắt loài chim đó!
        Xuống tới tầng trệt, chúng tôi thấy ông Từ đang ngồi trầm ngâm bên chiếc bàn kê giữa nhà.
        Tôi nhanh miệng:
        - Chào bác, bác dậy sớm thế à?
        - Ừ!
        Ông Từ trả lời, vẻ mặt không có vẻ hờ hững như những lần trước. Vì vậy tôi đánh bạo hỏi tiếp:
        - Bác ở đây bao lâu rồi ạ?
        - Nửa năm!
        Ông Từ vẫn trả lời ngắn gọn
        - Thế ạ! À, hôm qua chúng cháu thấy có một người đàn bà lên gác, bà ta là…
        Ông Từ không đợi tôi hỏi hết câu đã cắt ngang trả lời:
        - Bà ấy giúp dọn vệ sinh ở đây!
        - Thế à!
        Tôi gật gật đầu thấy hơi yên tâm.
        Ông Từ đứng lên đi vào căn buồng cạnh đó như muốn chấm dứt câu chuyện vớ vẩn với mấy đứa bọn tôi.
        Bốn đứa nhìn nhau thở phào và cùng đi ra sân. Dù sao biết bà ấy là ai cũng đã giải tỏa những nỗi lo sợ vu vơ trong lòng mỗi đứa.
        Vừa ra đến khoảnh sân, cả bốn đứa tôi cùng hốt hoảng đứng khựng ngay lại.
        Trên giữa lối đi là một đống gì đó đang nằm im bất động nhưng trông rất ghê! Đó là một vật lông lá dày đặc, màu đỏ thẫm, dài khoảng hơn nửa thước, trông giống như hai cánh tay…
        Chúng tôi chưa kịp kêu lên thì ông Từ ra tới, thoáng trông thấy vật đó, ông nhanh nhẹn đi về phía hiên nhà cầm một cây sào tre tới bên khèo cái đống lông lá gớm ghiếc đó!
        Một lát sau, sự tưởng tượng của tôi đã được chứng thực, quả nhiên đó là một cánh tay, một cánh tay hoàn chỉnh lộ ra. Cánh tay dài khoảng một thước, rộng khoảng nửa thước, lông lá đầy như một chiếc quạt lông. Ông Từ không ngừng tay chọc lấy phía dưới cẳng tay, rồi dùng sức lật ngửa đống lông lá đó lên.
        Đó là một con chim lớn, hai cánh giang rộng, đầu cúi xuống không nhúch nhích, nó đã chết rồi!
        Lúc này tôi nhìn rõ hình dáng con chim, con chim quả rất quái dị, mặt tròn mỏ ngắn, trên đầu có chóp, hai mắt như hai viên bi cứ mở trừng trừng nhìn lên, không biết đang nhìn gì.
        Dù đã lờ mờ đoán ra nhưng tôi vẫn hỏi:
        - Thưa bác, đây là chim gì ạ?
        - Là cú đầu mèo!
        Ông Từ đưa mắt nhìn về phía sườn núi bên kia và nói nhỏ với tôi.
        Nói xong ông quay mặt đi vô nhà.
        Đây là lần đầu tiên chúng tôi nhìn thấy tận mắt chim cú mặt mèo. Tôi ngước mắt nhìn lại sườn núi, nhìn đến chỗ có màu xám xịt đó. Không biết đó là mộ của ai. Xung quanh ngôi mộ đó thấp thoáng có vật gì đang chuyển động, tôi định thần nhìn kỹ, thì ra ở đó có người đang đi lại.
        Tân chợt nói:
        - Tớ nhớ rồi, có lần tớ nghe mấy người già trong ngõ nhà tớ nói chuyện về loài chim cú mèo này. Họ nói mỗi khi con chim này xuất hiện và cất tiếng kêu trước ngõ nhà ai thì chắc chắn trong nhà đó sẽ có người chết. Người ta bảo tiếng kêu của chim cú mèo là tiếng báo tang.
        Cả ba đứa tôi, Phục và Đạo bất chợt rùng mình khi nghe Tân nói thế.
        Trước nay chúng tôi không nghĩ mình lại nhút nhát và lại tin dị đoan đến thế, nhưng chỉ mới một thời gian ngắn vào sống ở địa phương này chúng tôi mới khám phá ra mình không phải là những kẻ gan dạ, vững vàng như lâu nay vẫn tưởng!
        Lúc này thì thật sự cả ba đứa đều rất hoang mang lo lắng. Nếu thật sự con chim kia đến để báo tang thì ai trong ngôi nhà này sẽ chết? Một trong bốn chúng tôi hay là lão Từ khắc khổ? Và ai là kẻ ra tay hạ thủ?
        Nghĩ tới chuyện đó thì hình ảnh người đàn bà lạ lùng kia lại lảng vảng trong đầu tôi. Bà ta có mùi xác thối, con chim cú mèo báo tang, hai sự việc đó chắc chắn là phải có sự liên hệ với nhau. Có thể, chim đến báo tang và người đàn bà kia chính là người sẽ đem chết chóc tới cho một ai đó trong số năm người cư ngụ tại đây.
        Tôi run bắn người lên khi nghĩ tới điều đó. Vì vậy tôi đề nghị:
        - Bọn mình xuống nhà Khải kể hết mọi chuyện cho mẹ Khải biết đi. Bác ấy sống lâu ở đay rồi, có thể bác ấy biết nhiều điều bí ẩn trong đấy!
        Việc khuyên nên giấu nhẹm chuyện sợ ma cũng do tôi đề xuất do cái tính sĩ diện hão, giờ đây cũng lại chính tôi khuyên nên nói thật với gia đình Khải. Tuy nhiên bạn bè không đứa nào lên tiếng cười nhạo tôi cả vì hiện tại lúc  này cả bốn đứa đều trĩu nặng lo âu, không còn lòng dạ nào mà đùa giỡn được hết!
        Vừa dợm bước đi, tôi chợt nhơ mình để quên mấy vật cần thiết ở trên phòng nên nói với các bạn:
        - Các cậu đi trước đi, tớ lên phòng mấy mấy thứ rồi đi theo sau.
        - Chúng tớ cùng lên với cậu chứ?
        Phục hỏi
        Tôi lắc đầu:
        - Được rồi, không sao đâu, cậu yên tâm đi, ban ngày ban mặt không sao đâu. Các cậu cứ đi trước đi!
        - Ừ, vậy thì bọn tớ đi trước ra tới bờ suối ngoài kia ngồi chờ cậu nhé?
        Đạo nói.
        Tôi gật đầu đồng ý.
        Ba người bạn đi với nhau hướng về phía làng, một mình tôi quay trở lên gác.
        Tôi cẩn thận đi vòng quanh co chim cú mèo rồi đi vào nhà. Nhưng lúc đó ở dưới nhà không thấy ông Từ đâu cả, không biết mới đây mà ông đã lỉnh đi đâu mất tiêu.
        Tôi vội lên tầng trên. Trong cầu thang và cả ngôi nhà hình như không có ai hết, tôi nhìn chung quanh, chỉ nhìn thoáng chứ không đủ gan nhìn lâu. Tôi lao nhanh như bay, nhoáng cái đã đến cửa phòng của Đạo.
        Tôi đảo mắt nhìn lại phòng kho và chiếc khóa cửa phòng đó, không chút động tịnh, vẫn khóa chặt thin thít. Aùnh sáng không chiếu vào hành lang và cầu thang qua chiếc cửa sổ, khiến nền nhà lỗ chỗ lốm đốm trắng đen, một sự yên tĩnh rợn người!
        Bỗng dưng tôi có cảm giác lạnh toát phía sau lưng, vội quay đầu lại thì… trông thấy một con cú mèo nằm bệt trên sàn nhà gò thành một đống, một con mắt mở to nhìn chằm chằm vào tôi.
        Hai chân tôi như nhũn lại, suýt nữa đã gục xuống nền nhà. Trong hành lang yên tĩnh quá, tôi nghe rõ từng nhịp tim mình đập, nghe rõ từng hơi thở của mình.
        Không biết tôi lấy đâu ra dũng khí, nghiến chặt răng lại, dẫm mạnhl ên sàn nhà mấy bước tiến đến xác con cú mèo, quả nhiên không sai, con cú mèo đã chết, đã chết thật rồi.
        Nếu nó đã chết thật rồi thì làm sao lại bò lên đây được?
        Giữa lúc đó tôi nghe thấy tiếng bước chân người vang vang lúc rõ lúc không, hình như có tiếng gì chạm vào nền nhà, âm thanh đó càng lúc càng gần.
        Máu trong người như dồn hết lên đầu, tôi thấy đầu mình như sắp nổ tung ra… tôi thụt lùi mấy bước, vừa để mắt đến xác con cú mèo vừa để ý đến nền nhà mà rút lui cho khỏi ngã. Nhưng vừa lùi mấy bước thì tôi vấp phải bệ cửa sổ – sau lưng là tận cùng hành lang, không òcn đường nào để tôi lui nữa!
        Tiếng xà xà của vật gì chà vào nền nhà càng lúc càng gần, tôi dán mắt vào chỗ rẽ ở cầu thang, ban đầu thấy chiếc thùng nhựa màu đỏ lăn ra rồi tiếp theo là một người mặc áo xanh từ từ xuất hiện…
        Đúng là người dọn vệ sinh đó rồi! Bà ta mặc cái áo giống hệt cái áo đã mặc lần trước khi tôi gặp bà…
        Tôi nhìn thấy bà ta, bà ta cũng nhìn thấy tôi, trong chớp mắt, máu trong người tôi như đông lại.
        Tôi dán chặt mắt vào bà ta, giả vờ ra vẻ bình tĩnh nhưng tay chân đã run lên bần bật, tôi đưa tay quờ quạng mò mò phía sau định nhặt vật gì đó ném cho bà ta một cái. Nhưng thật đáng tiếc, sau lưng tôi không có bất cứ thứ gì để nhặt cả!
        Khuôn mặt bà ta đen xám lại khô không khốc, đôi mắt không to không nhỏ nhìn thẳng vào mắt tôi, thần sắc trầm tĩnh.
        Rồi bà ta cúi người xuống, tay trái nghiêng chiếc thùng xuống mặt đất, tay phải cầm chổi đẩy xác con chim vào thùng rồi đi về phía ngã rẽ nơi cầu thang.
        Động tác của bà ta quá nhanh khiến tôi vừa kịp nhìn xuống nền nhà thì không thấy xác con chim cú mèo đâu nữa.
        Lúc đó, phía góc cầu thang có tiếng bước chân vọng lại.
        Khắp người tôi mồ hôi vã ra như tắm, lấy hết sức vuốt lại mặt mình, tôi lê bước đi nhưng lúc này hai tay hai chân đã không còn nghe theo lệnh của tôi nữa mà chúng cứ nhũn ra như bún.
        Tôi tựa vào tường để người từ từ ngồi xuống, hơi thở tôi lúc này hổn hển như người sắp chết. Một lúc lâu sau mới bình tĩnh được đôi chút.
        Vừa rồi tôi như trải qua một cơn ác mộng.
        Xung quanh tôi giờ đây không còn bất cứ một âm thanh gì nữa. Tôi lấy sức chống tay xuống nền nhà để đỡ lấy thân dậy.
        Chim cú mèo là chim báo tang, vậy người đàn bà dọn vệ sinh kia rốt cuộc làm gì? Bà ta muốn dùng con cú mèo để báo tang cho ai đây?
        Càng nghĩ tôi càng hoang mang, vật vờ chạy xuống đất, rất kỳ quái là không thấy người phụ nữ dọn vệ sinh ấy đâu nữa. Nhìn khắp căn nhà cũng không thấy ông Từ đâu cả, tôi tháo chạy một mạch ra khỏi ngôi nhà.
        Trên lối đi trước nhà không còn xác con chim cú mèo kia nữa!
        Tôi không được phép nghĩ nhiều, cứ thế lấy một hơi chạy tháo mạng về hướng bờ suối, nơi ba đứa bạn đang ngồi chờ tôi.
        Lúc đó, mặt trời đã lên cao, xa xa có một vài người đi lại nhưng tôi cũng không quan tâm gì đến họ nữa, tôi chỉ biết cắm đầu cắm cổ chạy một hơi ra bờ suối.
        Vừa trông thấy các bạn, tôi đã ngã vật ra đất và thở như sắp chết đến nơi làm cả bọn chúng nó một phen hoảng vía.
        - Chuyện gì? Có chuyện gì xảy ra với cậu thê?
        Cả ba đứa nhao nhao lên hỏi.
        Tôi không làm sao trả lời được mà cứ nằm ngửa mặt lên trời há miệng ra để thở.
        Mãi một lúc thật lâu tôi mới tạm ổn và lồm cồm ngồi dậy, vừa phủi bụi bám đầy trên người vừa thuật lại câu chuyện cho đám bạn nghe.
        Đứa nào đứa nấy mặt mày căng ra đầy vẻ lo lắng.
        - Đi thôi, đi nhanh vào làng kể hết với mẹ Khải!
        Đạo thúc giục.
        Cả bốn đứa chúng tôi rảo cẳng đi nhanh vào làng. Tới nhà Khải đúng lúc mẹ Khải vừa nấu xong bữa cơm sáng.
        Bà lấy làm lạ khi thấy thần sắc của chúng tôi không được bình thường nên ngạc nhiên hỏi:
        - Đêm qua ở ngoài đó có chuyện gì xảy ra cho các cháu sao?
        Bốn đứa chúng tôi đưa mắt nhìn nhau, mãi một lúc sau thấy các bạn đều nín lặng nên tôi ấp úng nói:
        - Dạ thưa bác… ở ngoài đó mấy hôm gần đây có rất nhiều chuyện lạ mà chúng cháu không sao hiểu nổi, do đó chúng cháu quyết định kể hết cho bác nghe để bác chỉ bảo chúng cháu phải làm cách nào…
        - Chuyện gì thế?
        Khải và mẹ đồng thanh hỏi.
        Thế là tôi kể lại toàn bộ câu chuyện một cách tỉ mỉ không bỏ sót một tình tiết nào.
        Nghe xong, mẹ Khải có vẻ trầm ngâm tư lự lắm, nhưng chỉ một thoáng qua là bà lại mỉm cười:
        - Không sao đâu, các cháu yên tâm đi, để rồi bác sẽ tìm hiểu cặn kẽ. Bây giờ chúng ta dùng cơm trước đi, tối nay các cháu cứ ở lại đây một đêm, kệ, trải chiếu dưới nền nhà ngủ tạm cũng được, vì bác và Khải còn bận một số việc gấp trên rẫy. Sau đó bác sẽ đi cùng các cháu tới đó. Được chứ?
        Bốn đứa chúng tôi mừng rơn và vừa ăn cơm vừa bắt đầu nhạo báng cái sự sợ ma của nhau làm cho mẹ con Khải không nín được cười.
        Aên uống và dọn dẹp tươm tất xong, mẹ Khải bảo chúng tôi ở nhà chơi chờ bà lên rẫy làm cho xong phần việc rồi sẽ trở về cùng đi với chúng tôi về nơi ở.
        Bốn đứa tôi theo Khải ra bờ suối bắt cá, việc đó hấp dẫn đến nỗi cả bốn đứa hoàn toàn quên hết bao nhiêu nỗi lo sợ đang mang nặng trong lòng.
        4. Cái chết.
         
        Đến xế trưa hôm sau mẹ Khải mới về tới. Lúc đó chúng tôi cũng đã làm xong bữa cơm ngon lành với món cá tươi vừa bắt được.
        Bà nhìn mâm cơm rồi nhìn chúng tôi, mỉm cười có vẻ hài lòng lắm.
        Xong bữa cơm trưa, mẹ Khải nhất định không chịu nghỉ ngơi theo như lời đề nghị của bọn tôi mà quyết định cùng bọn tôi trở về nơi ở.
        Thế là bốn đứa chúng tôi cùng với mẹ con Khải lên đường.
        Con đường làng lúc nào cũng vắng vẻ, hoạ hoằn lắm chúng tôi mới gặp một người trên đường đi, nhưng nếu gặp, học cũng chỉ gật đầu chào ơ hờ chứ không hề tỏ vẻ quan tâm xem chúng tôi là ai, từ đâu đến.
        Về ở làng này một thời gian ngắn, bốn đứa chúng tôi cũng đã khá quen với những sự thờ ơ lạnh lùng như thế.
        Vừa đi, mẹ Khải vừa giới thiệu cho chúng biết tên những loài cây cỏ lạ mắt mọc ven hai bên đường, bà còn kể cho chúng tôi nghe về sự tích của một vài loài cây cỏ đó.
        Khải bấm tay tôi cười cười:
        - Các cậu biết không, đáng lẽ ra mẹ tớ phải là một nhà văn mới đúng. Tất cả những câu chuyện mà mẹ kể cho tớ nghe từ thuở bé cho đến nay toàn là do mẹ tưởng tượng ra thôi đó, kể cả những câu chuyện mẹ vừa kể với các cậu.
        Bốn đứa tôi dừng lại tròn xoe mắt:
        - Thật ư?
        Tân ngạc nhiên kêu lên.
        Mẹ Khải mỉm cười, khẽ cốc lên đầu cậu con trai yêu quý.
        Khải lí lắc như một đứa trẻ nghịch ngợm:
        - Thì các cậu cứ nghĩ mà xem, mẹ tớ tới đây từ lâu, từ lúc làng này chỉ mới có vài ba người đến sinh sống lập nghiệp. Họ lại sống biệt lập, ít giao tiếp với nhau thì tất cả những huyền thoại, những sự tích đó ai là người kể cho mẹ tớ? Tất cả là do mẹ tớ tự nghĩ ra để có cái làm quà cho tuổi thơ của tớ! Nhưng mà nè, các cậu có nhất trí với tớ rằng chuyện mẹ tớ kể cũng hay và hấp dẫn có thua kém gì các câu chuyện trong kho tàng cổ tích Việt Nam đâu, đúng không?
        Bốn đứa tôi đồng loạt gật đầu. Không phải chúng tôi muốn lấy lòng mà thật sự là như thế.
        Tôi thật sự nể phục và cảm động trước tấm lòng mẹ Khải. Tôi nhìn bà âu yếm hơn, trìu mến hơn:
        - Bác… thật sự con rất kính phục bác…
        Mẹ Khải có vẻ thẹn, cười cười:
        - Có gì đâu, các cháu đừng nghe lời thằng Khải…
        Vui chuyện nên chẳng mấy chốc chúng tôi đã đến trước cổng nhà. Cánh cổng vẫn khép hờ, cửa nhà cũng để mở, chúng tôi đi vào nhưng không có ai, chiếc ấm trà mới uống một nửa vẫn nằm nguyên trên bàn, tẩu thuốc gác một bên đó.
        - Bác Từ ơi… Bác Từ ơi!
        Khải cất tiếng gọi to nhưng không ai đáp lại.
        Bỗng nhiên tôi nghĩ, sáng hôm qua ông lấy cây chọc vào con chim cú mèo, không biết có chuyện gì xảy ra với ông ấy không?
        - Bác Từ ơi, bác đang ở đâu?
        Tự nhiên Đạo nhìn về phía chân cầu thang và gọi to lên như thế khiến tôi phát hoảng.
        Không ai trả lời, chỉ nghe tiếng vọng lại rất lớn trong nhà vang ra. Sau tiếng vọng lại, ngôi nhà như càng im lặng hơn, cái im lặng của sự chết chóc.
        Chúng tôi không dám đi lại lung tung, chỉ nhìn theo mẹ Khải.
        Mẹ Khải hỏi Tân:
        - Cháu ở phòng nào?
        - Dạ, thưa bác, cháu với Đạo ở tầng hai.
        Tân trả lời.
        Mẹ Khải ra lệnh:
        - Lên đấy xem sao!
        Thế là mẹ con Khải đi tiên phong, chúng tôi bám theo từng bước. Chúng tôi đi thẳng lên tầng hai, không thấy một bóng người nào.
        Tới chỗ ngoặt ở phía cầu thang, chúng tôi hướng về phía phòng của Đạo và Tân.
        Căn phòng vẫn đóng cửa im ỉm. Đạo vừa toan mở cửa thì tôi bỗng phát hiện cánh cửa nhò của phòng kho không biết từ bao giờ để hé ra, cái ổ khóa đã không còn nằm trên đấy mà nó đang nằm yên dưới sàn nhà cạnh đó.
        Tôi giống như bị điện giật, thần ra một lúc rồi vỗ mạnh vào vai Đạo chỉ về phía cánh cửa phòng đó.
        Lúc đó ai cũng nhìn theo phía tay tôi chỉ, mọi người sợ quá thụt lùi mấy bước, duy chỉ có mẹ con Khải là vẫn giữ được vẻ bình tĩnh.
        Khải tiến lên gõ cửa hỏi:
        - Có ai trong đó không?
        Không có tiếng trả lời.
        Khải đẩy mạnh cửa ra, trong phòng vẫ chỉ có chiếc tủ hư đứng chơ vơ một mình, dưới nền nhà đủ thứ đồ đạc linh tinh vụn vặt. Aùnh sáng yếu ớt chiếu từ kẽ hở của khe cửa vào, quét ngang qua chiếc tủ còn nửa kia quệt thẳng xuống nền…
        Bỗng Phục chỉ vào một góc của chiếc tủ nói lớn:
        - Xem kìa, ở đó có dấu tay người!
        Chúng tôi quay đầu nhìn lại, quả nhiên trên chiếc tủ, nơi ánh sáng chiếu đến có năm dấu ngón tay in rất rất rõ, nhưng năm ngón tay đó không in đủ hình dáng của bàn tay, mà dấu tay cứ kéo dài xuống, giống như có ai đó đưa tay ra vuốt lên tủ rồi bị tuột xuống vậy!
        Lúc đó Khải cũng nói nhỏ:
        - Xem trên nền nhà kìa, có dấu chân…
        Mọi người cùng nhìn xuống nền nhà, thấy đầy vết chân bấn loạn không phải đi lại mà… trên đó còn có hình thù kỳ quái rất lớn, hình như có ai bò qua trên vùng nền nhà này, cắt ngang vết bụi bám trên nền nhà.
        Bỗng nhiên trong đầu tôi hiện ra một cảnh tượng hết sức hãi hùng.
        Tôi hình dung ông lão Từ tối hôm qua không ngủ được thức dậy uống trà, bỗng nhiên ông nghe tiếng khóc của một người phụ nữ vang lên từ căn phòng này, thế là ông lão từ từ lên lầu, nhưng khi lên đến nơi ông không thấy ai cả, cửa phòng vẫn đóng chặt. Ông lão mở cửa ra, bên trong đen ngòm không thấy gì, bỗng nhiên tay ông bị vật gì giữ lại, ông ta kinh hãi vùng vẫy hai tay, đập đập lên cái tủ, trong lúc đó có một bàn tay đen ngòm vuốt lên khuôn mặt ông, ông ta sợ quá ngất lăn ra đất, lát sau tỉnh dậy ông lại đưa tay mò mẫm lên tủ…
        Tưởng tượng đến đó tôi bất chợt ngẩng đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy mấy ngôi mộ như đang nhìn vào, tôi thấy từng luồng âm khí tràn ngập vào nhà, sợ quá tôi không dám tiếp tục nhìn về phía đó nữa.
        Đsung lúc đó dưới nhà vọng lên tiếng húng hắng ho quen thuộc của lão Từ.
        - Ai?
        Mẹ Khải hỏi lớn.
        Phía cầu thang có tiếng bước chân ngày càng lại gần, cả sáu người chúng tô iđều dồn mắt về phía đó.
        Một cái đầu hói đen trũi từ từ lộ ra…
        Ông Từ, đó chính là ông Từ!
        - Bác à, bác không sao chứ?
        Đạo hỏi.
        Ông lão nghe hỏi liền đi nhanh mấy bước, đến trước mặt chúng tôi. Người ông ướt đẫm mồ hôi, hơi thở như bị đứt, hơi trước không tiếp nổi hơi sau, nói với chúng tôi:
        - Có người chết! Có người đã chết…
        - Có người chết? Ai chết vậy?
        Bốn đứa tôi hoảng hồn hỏi. Riêng mẹ con Khải vốn đã quen tính thờ ơ nên vẫn lặng lẽ đứng quan sát một bên.
        - Bà Hoa!
        Lão Từ vẫn với cách trả lời ngắn ngủn.
        - Ai cơ?
        Đạo ngạc nhiên
        - Chính là người đàn bà dọn vệ sinh ấy!
        Lão từ vừa nói vừa thở hổn hển.
        - Trời ơi, sao bà ta chết? Chết lúc nào?
        Phục hoang mang.
        - Vừa mới chết sáng nay. Sáng nay bà ta đến dọn dẹp lau chùi nhà cửa, thông thường cứ hơn mười phút bà ấy lại xuống lấy nước một lần, nhưng hôm nay tôi đợi đến cả nửa giờ vẫn không thấy bà ta xuống, thế là tôi lò dò lên đó thử xem sao. Khi đến cửa này, thấy cửa mở, tôi cứ tưởng bà ta vào trong đó dọn dẹp nên đẩy cửa đi vào, vừa vào đã thấy nằm đơ ra giật giật, mồm sủi đầy bọt mép… Tôi hoảng quá, vực bà ta dậy để xem xét thì thấy dưới gót chân có vết rắn cắn… Do có nghề bắt rắn gia truyền, tôi không khó khăn gì bắt được con rắn độc ấy! Thì ra nó làm ổ trong cái tủ này từ lâu rồi mà không ai biết. CoÙ lẽ bà ta vào dọn dẹp, làm đánh động đến nó nên nó mới cắn bà ta ra nông nỗi thế… Mọi người hãy xuống đây mà xem!
        Nói xong ông Từ chạy một mạch xuống dưới, chúng tôi cũng chạy theo. Xuống tới đất chúng tôi vây lấy ông. Trên mặt ông mồ hôi chảy đầm đìa, hai bàn tay run run cầm một cái chai thủy tinh bên trong có chứa một rắn nhỏ, dài chừng hai gang tay, màu xám nhưng ở đỉnh đầu và chóp đuôi lại có màu đỏ rực.
        Mặc dù không rành lắm nhưng thoáng nhìn qua con rắn ấy, chúng tôi cũng đoán được đó là một loại rắn kịch độc, ai đã bị nó cắn rồi thì khó lòng qua thoát qua cửa tử!
        - Chả trách hôm qua có con chim cú mèo xuất hiện, óha ra nó báo tin cho bà Hoa kia…
        Ông Từ hổn hển nói.
        Bốn chúng tôi nghe lão từ nói xong ai nấy nhìn nhau, trong lòng xuất hiện hàng mớ ngổn ngang hỗn độn.
        Chúng tôi nghĩ bụng, thì ra con chim ấy không phải nhằm chúng tôi hay ông Từ mà là vào người phụ nữ đó, người mà tôi còn nghi ngờ là sẽ đem đến cái chết cho người khác!
        - Người nhà bà ta biết chưa?
        Tôi hỏi.
        - Người nhà á?
        Mẹ Khải khẽ thở dài hồi lâu mới nói tiếp:
        - Nhà bà ta không có ai cả! Hai vợ chồng đến đây lập nghiệp, chẳng may ông ấy đoản mệnh qua đời đã mấy năm nay. Họ lại chưa có con cái với nhau, nên từ ngày chồng mất, bà Hoa chỉ sống cô đơn thui thủi một mình thôi!
        Chúng tôi im như thóc, lắng nghe mẹ Khải thuật lại cuộc đời bất hạnh của người phụ nữ kia, không biết nói lời nào.
        - Bác Từ à, như bác nói thì chim cú mèo báo tang như thế nào? Làm sao nó biết người nào sắp chết?
        Đạo thắc mắc.
        - Người ta bảo chim cú mèo có thể ngửi thấy mùi xác chết của người còn sống, người nào có cái mùi đó thì chắc không thọ được bao lâu nữa.
        Lão Từ đáp.
        - Mùi người chết? Mùi người chết như thế nào?
        Bất chợt tôi nhớ lại cái mùi thối mà tôi và Phục ngửi thấy.
        - Cái mùi này thì các cháu chưa ngửi thấy bao giờ, các cháu cũng sẽ không bao giờ phải ngửi cái mùi cái mùi ấy…
        Mẹ con Khải chỉ đứng lặng im, không hỏi han gì nữa. Còn bốn đứa chúng tôi thì lại có rất nhiều điều muốn hỏi nhưng thái độ của lão Từ có vẻ mệt mỏi nên chúng tôi không đứa nào dám mở miệng.
        Chúng tôi quyết định đêm nay lại về nhà Khải, dù có phải nằm ngủ dưới sàn nhà lạnh lẽo ẩm thấp cũng còn đỡ hơn phải ngủ cạnh nơi vừa diễn ra cái chết đáng sợ… Biết đâu đêm hôm, sẽ còn có những con rắn khác bò ra tìm tới chúng tôi?
        Phong tục mai táng ở làng này rất đơn giản và nhanh chóng. Sau khi trworng làng đến xem xét cái chết của người xấu số là bắt đầu tẩm liệm rồi ngay chiều tối hôm ấy sẽ đem chôn ngay lập tức.
        Bà Hoa cũng được chôn ở nghĩa địa làng, tức là khu nghĩa địa mà đứng ở cửa sổ phòng chúng tôi sẽ nhìn thấy rất rõ!
        Sau cái chết của bà Hoa, chúng tôi đã chính thức dọn hết đồ đạc và nói lời chào từ giã với ông Từ để về ở hẳn trong nhà Khải. Nhưng thật ra, cứ chiều tối là bốn chúng tôi cùng Khải lên rẫy ngủ trên đấy.
        Ở trong chòi canh rẫy có một chiếc chõng tre, chúng tôi cùng nhau đốn cây đóng thêm một cái giường dã chiến nữa, thế là năm thằng đực rựa đã có chỗ để ngủ. Nhưng chỉ ngủ thôi chứ không vẽ vời sáng tác gì được!
        Một buổi trưa, năm đứa đang ngồi bên bờ suối cạnh chòi canh rẫy tán chuyện gẫu thì mẹ Khải tìm lên, trên mặt lộ vẻ không bình thường.
        Vừa trông thấy chúng tôi, mẹ Khải thông báo:
        - Lão Từ đã bị trưởng làng đuổi đi rồi!
        - Sao thế? Sao thế bác?
        Tôi và Tân đồng thanh hỏi.
        - Bà Hoa là do chính ông ta giết!
        Mẹ Khải hơi run giọng.
        - Trời, mẹ nghe ai nói vậy?
        Khải hỏi.
        - Lúc nãy trưởng làng đã mời dân làng đến họp mặt để tuyên bố trục xuất ông lão Từ ra khỏi làng… Chính trưởng làng đã kể tội và lão Từ đã cúi đầu nhận lỗi…
        Mẹ Khải vẫn chưa hết xúc động giải thích thêm:
        - Đáng lẽ những người gây tội ác phải bị bắt giải đến cho người có chức trách, nhưng vì làng này chủ trương không dính líu tới chuyện bên ngoài nên từ lâu ở đây đã có quy định, bất cứ dân cư nào trong làng gây ra tội ác, sẽ bị trục xuất ra khỏi làng, vĩnh viễn không được quay trở lại!
        - Nhưng… nhưng tại sao ông lão Từ lại giết bà Hoa thế bác?
        Tôi nôn nóng hỏi, vì đầu tôi đang căng ra như sắp đứt hết các sợi dây thần kinh vì bao nhiêu tò mò thắc mắc…
        Mẹ Khải trầm ngâm nói:
        - Bà Hoa không được khỏe nên không thể làm lụng nặng nhọc trên rừng trên rẫy được. Chính vì thế ông lão Từ kêu bà tới lau chùi dọn dẹp ngôi nhà thờ tự mà ông đang canh giữ, đổi lại ông sẽ chu cấp đầy đủ lương thực thực phẩm để nuôi sống bà. Nói một cách khác, bà Hoa gần như sống lệ thuộc vào ông Từ.
        Vin vào điều đó, lão Từ  tự cho mình cái quyền được làm nhục bà Hoa. Bà Hoa nhiều lần không chịu nổi nhưng lại không dám lên tiếng vì sợ lão trả thù và cắt nguồn bảo trợ.
        Mỗi lần bị nhục bà ta thường ngồi khóc một mình. Tiếng khóc lúc nửa đêm mà các cháu nghe thấy chính là tiếng khóc của bà Hoa ấy…
        Hôm các cháu về đây, bà Hoa đến dọn dẹp như thường lệ. Vừa mới vào nhà, bà Hoa đã bị lãi ghì chặt lại toan giở trò sàm sở. Hôm đó bà Hoa không được khỏe nên xin lão buông tha mà lão vẫn không đồng ý. Quá uất ức, bà Hoa vùng vẫy rồi tát vào mặt lão, vừa tát, bà ta vừa la lên rằng sẽ nói cho cả làng biết chuyện này, bà thề rằng sẽ nói hết rồi tự kết liễu đời mình…
        Lúc đó lão Từ hoảng quá, lấy gối nhét vào miệng bà ta cho đến chết, nhưng lão vẫn không yên tâm nên bóp cổ suốt mấy chục phát. Rồi lão lại nghĩ cái trò cho rắn cắn bà Hoa rồi dựng hiện trường giả để đánh lạc hướng mọi người.
        Ông nghĩ mọi việc sẽ trót lọt êm xuôi thôi, vì dân làng này vốn không thích xen vào chuyện người khác. Nhưng trời bất dung gian, chính trưởng làng đã phát hiện ra vết dấu tay ở cổ nạn nhân. Mà ở làng này không ai được biết trưởng làng trước đây là một cảnh sát chuyên điều vụ án, sau vì một chuyện phản trắc của đàn em mà phải lâm vào vòng tù tội, gia cảnh tiêu tan nên mới trôi nổi vào đây.
        Trước những câu hỏi sắc bén của trưởng làng, ông lão Từ ban đầu còn chối quanh nhưng sau cùng đã ngoan ngoãn cúi đầu nhận tội và âm thầm cuốn gói ra đi…
        Tất cả mọi việc đã được làm sáng tỏ nhưng chúng tôi vẫn còn có những thắc mà chưa ai giải thích thỏa đáng được. Đó chính là sự xuất hiện của con chim cú mèo và mùi xác thối từ người của bà Hoa.
        Tôi đem điều thắc mắc đó hỏi mẹ Khải. Bà suy nghĩ một lát rồi bảo:
        - Chuyện đó thì bác không biết. Phía trưởng làng không nói chuyện này, bản thân lão Từ cũng không thấy nhắc đến. Có thể con cú mèo do lão bắt lấy để làm cái cớ thần bí cho cái chết của bà Hoa, nhưng cũng có thể nó là loài chim báo tang thật sự. Nhưng, chuyện báo tử của cú mèo có thật cũng được, không thật cũng được, các cháu đừng hoang mang nữa… đừng nghĩ nhiều về chuyện này nữa…
        Bốn đứa chúng tôi gật đầu trước lời khuyên của mẹ Khải.
        Một tháng trôi qua như chớp mắt, mới đó mà đã tới ngày chúng tôi phải quay về thành phố. Hành trang của chuyến về là một bộ tranh hoàn chỉnh rất được chúng tôi ưng ý cùng với những kỷ niệm khó quên ở nơi rừng sâu núi thẳm này, và còn có thêm vụ án li kì này nữa.
        Khi đã đặt chân xuống thành phố, Đạo thì thầm:
        - ĐưØng đứa nào hé môi về những ngày kinh hoàng vừa qua nhé? Hãy giữ lấy hình ảnh trai tráng của mình trong mắt các cô gái, đừng để họ khám phá ra hai cái tai thỏ mọc dài ngoằng trên đầu của mỗi đứa chúng ta…
        Cả bốn đứa chúng tôi cùng bật cười:
        - Nhất trí!
        Sau đó bộ tranh của chúng tôi được chủ nhiệm đánh giá rất cao. Chúng tôi thường kể với bạn bè về một tháng phiêu lưu nơi miền sơn cước ấy, nhưng chẳng đứa nào dám hé răng tiết lộ về những chuyện “đáng xấu hổ” của một đấng nam nhi.
        Bởi thế, mấy cô gái cứ phục lăn bọn tôi và một hai đòi một dịp nào đó bọn tôi phải cho các cô đi cùng lên thăm lại nơi đó.
        Bốn chúng tôi liếc mắt nhìn nhau đầy ẩn ý.
        Khi chỉ còn lại bốn đứa, Đạo bật cười:
        - Ha ha ha… tự nhiên bốn thằng thỏ đế tụi mình lại trở thành người hùng trước mắt bọn con gái ở đây… Hi hi hi… thích quá!
        Tân đưa tay bụm miệng Đạo lại nhắc nhở:
        - Rừng có mạch, vách có lỗ tai đó nghen cậu, chớ có nhiều lời, kẻo sáng mai ra chúng mình không còn dám ngước mặt nhìn ai hết thì khổ!
        Ừ nhỉ, nếu sáng mai ra, cả đám con gái thành phố này biết hết sự thật trong ngôi làng đó, liệu trong mắt chúng bốn thằng tôi sẽ như thế nào đây?
        Thế nhưng, cả bốn đứa chúng tôi lại cam đoan với nhau rằng chắc chắn một ngày không xa sẽ quay về nơi đó để xem ngôi làng kỳ dị kia còn có điều khủng khiếp nào nữa xảy ra hay không?
        Biết đâu, sau mỗi chuyến đi như vậy, con thỏ đế trong lòng mỗi đứa sẽ dạn dĩ dần lên!
        Dĩ nhiên, điều này thì chỉ có bọn tôi biết với nhau thôi đấy, bạn đừng có mà bép xép kể ra…
        Hết
        Nguyễn Thị Mộng Thu 
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:27:46 bởi nguyenthu >
        #64
          nguyenthu 10.08.2009 21:54:05 (permalink)
          HỒN MA NƠI CỬA PHẬT
           
          Sư Thuận Thành về đây đã được hai năm. Sư mong mỏi có thêm ít tiền của bá tánh đóng góp để làm lại hàng rào khuôn viên chùa, nhưng không có.
          Chùa tọa lạc trên một vùng đất thật hoang vu. Xa dân cư, xa chợ búa. Từ khu dân cư gần nhất vào đến chùa phải ba mươi cây số, băng qua nhiều bãi tha ma. Ban đầu, chùa chỉ là một ngôi nhà ọp ẹp dựng trên khu đất chừng hơn mẫu. Khu đất này do một Phật tử cúng dường.
          Hồi mới tới đây, khung cảnh thật hoang liêu. Đi theo sư Thuận Thành còn có hai sư trẻ hơn, một người chừng ba mươi tuổi và người kia chừng hai mươi tuổi.
          Tuy nhiên, chỉ ở được một thời gian, hai vị sư trẻ không chịu được cảnh cô liêu u tịch nên đã khăn gói lên đường, bỏ lại sư phụ một mình.
          Sư Thuận Thành cũng cảm thấy lòng mình có đôi phần cô đơn từ ngày hai đệ tử bỏ đi. Tuy vậy sư vẫn quyết tâm ở lại đây, vì sư đã thề nguyện điều này khi mới bước chân đến mảnh đất này.
          Ở đây, ban đêm không có điện, phải thắp bằng đèn dầu. Vì vậy cảnh chùa càng thêm u tịch, buồn thảm.
          Một đêm cách nay đã lâu. Khi đó sư Thuận Thành vừa mới đến đây được vài tháng. Sư đang lom khom thắp lại ngọn đèn dầu vừa bị gió thổi tắt, bỗng nhiên nghe có tiếng bước chân ai đi vào. Nhưng khi ngọn đèn được thắp lên, thì chẳng thấy có ai cả.
          Nhưng ngọn đèn lại phụt tắt, dù rằng chẳng có cơn gió nào. Và lại có tiếng bước chân đi vào.
          Sư Thuận Thành là một người xuất gia từ lúc nhỏ. Sư chưa hề sợ hãi trước uy lực ma quỷ nào. Vì vậy, sư không thắp ngọn đèn dầu lên nữa, mà cứ để bóng tối tràn lấp một màu đen kịt như thế, rồi ngồi kiết già niệm Phật.
          Tiếng tụng kinh lại vang lên đều đều trong đêm khua, hòa với tiếng gõ mõ, tạo ra một khung cảnh tràn ngập sự từ bi.
          Sư nghe rõ tiếng bước chân trong đêm khuya. Sư dừng tụng kinh, đằng hắng một tiếng rồi nói:
          - Cửa Phật rộng mở, xin mời vào.
          Xong sư lại tiếp tục tụng kinh niệm Phật trong bóng tối.
          Sư cảm nhận có một vài bóng người đi vào trong chùa, ngồi xuống phía sau lưng mình. Sư vẫn cứ mặc kệ, bình thản làm nhiệm vụ của mình.
          Thật ra, sư dù không ngoảnh lại, vẫn biết có bao nhiêu hồn ma đang quỳ gối trước uy vũ của Phật.
          Xong buổi tụng kinh đêm ấy, sư Thuận Thành lại nói:
          - Bữa sau xin cứ vào tự nhiên. Cửa Phật luôn rộng mở với mọi loài mọi giới.
          Từ đó trở đi, đêm nào cũng có vài hồn ma đến quỳ sau lưng sư.
          Một đêm, sư đang nằm ngủ, bỗng có tiếng động. Sư giật mình thức giấc. Ngoài trời gió thổi mạnh, làm cửa sổ bật tung ra. Thấp thoáng có bóng người đi ngang qua cửa sổ. Sư thổi tắt ngọn đèn rồi nằm ngủ tiếp, trước khi nói:
          - Nam mô a di đà Phật. Đêm đã khuya, xin mời vong hồn lánh đi nơi khác. Đêm mai, xin mời tới đọc kinh cho tâm hồn thanh thản.
          Sư thiếp dần vào giấc ngủ.
          Trong giấc ngủ, sư Thuận Thành bắt đầu cơn mơ. Sư gặp một người đàn ông.
          Người ấy nói với sư:
          - Thưa thầy, con chết cách nay đã 20 năm, không người thân thích nào biết con nằm ở đây. Con không biết nhờ ai giúp cho con. Nay con được gặp thầy, xin thầy thương tình báo cho gia đình con biết chỗ con nằm.
          - Gia đình vong hồn ở đâu?
          Sư Thuận Thành hỏi.
          - Thưa thầy, ngày mai con sẽ đưa cho thầy địa chỉ của gia đình con ở.
          Người ấy trả lời
          - Được rồi, nhưng vong cho biết, hiện thân xác vong đang ở đâu, có gần chùa hay không?
          Sư Thuận Thành hỏi tiếp.
          - Thân xác con đang nằm ở tảng đá phía góc vườn sau chùa.
          Người đàn ông chỉ tay ra sau chùa.
          Buổi sáng, sư Thuận Thành dậy sớm. Hôm nay sư phải đi ra chợ để mua một ít vật dụng. Băng qua bãi cát rộng, băng qua hai bãi tha ma, sư ra tới đường cái. Từ đây phải đi bộ thêm mười tám cây số nữa mới tới được một thị tứ nhỏ, có thể mua ít vật dụng cần thiết.
          Sư vừa đi vừa nhớ đến mấy học trò thân thiết của mình. Họ còn trẻ quá, chưa thể chịu đựng được sự cô đơn. Vì thế họ trở về ngôi chùa cũ trước đây để tu hành. Họ mới vào thăm sư ngày hôm qua.
          Bỗng nhiên có một người đuổi theo sư kêu ơi ới:
          - Thầy ơi, thầy, chờ con với.
          Sư ngoảnh lại phía sau. Có một người mang cái ba lô rất nặng chạy theo.
          Bắt kịp sư, người ấy thở hổn hển: 
          - Ôi chao, mệt quá. May có thầy cùng đi cho vui chứ không thì buồn lắm.
          Thế là sư Thuận Thành và người khách lạ cùng đi với nhau trên con đường vắng vẻ.
          Hai người vừa đi vừa nói chuyện.
          Sư Thuận Thành hỏi:
          - Anh ở đâu mà về vùng này?
          - Thầy ơi, con ở Sài Gòn. Con về vùng này để đi tìm đất làm trang trại nuôi dê đó thầy.
          Người khách vui vẻ.
          - À, thế à. Vùng này nuôi dê tốt lắm đó.
          Nhà sư gật đầu.
          Hai người nói chuyện với nhau về việc nuôi dê. Sư Thuận Thành tỏ vẻ am hiểu chuyện nuôi dê, dù sư chỉ đọc qua sách vở và nghe cư dân trong vùng kể chuyện, khiến người khách lạ thích thú.
          Lúc ra gần tới thị tứ, người khách lạ nói:
          - Thầy ơi, con cho thầy địa chỉ của người bác ruột con. Người này sùng đạo Phật lắm, đặc biệt rất quý mến những vị chân tu như thầy. Khi nào thầy vào Sài Gòn thì ghé thăm bác con.
          Sư Thuận Thành cầm tờ giấy ghi địa chỉ của người khách lạ cất kỹ.
          Tối hôm ấy, sư Thuận Thành lại nằm mơ. Người đàn ông trong mơ của đêm trước nói:
          - Thưa thầy, thầy đang cầm trong tay địa chỉ của gia đình con đó. Xin thầy viết thư báo cho họ biết ngay đi.
          Thế là sư lật đật ngồi dậy, viết ngay một phong thư. Trong thư, sư cẩn thận vẽ sơ đồ đường đi từ thị trấn vào chùa. Sư nói rõ tên người đàn ông báo mộng cho sư.
          Một tuần sau, gia đình người đàn ông ở Sài Gòn đến gõ cửa chùa vào lúc giữa trưa. Họ vui mừng xiết đổi khi gặp sư.
          Dưới tảng đá sau chùa, đào sâu xuống cỡ chừng hơn một mét, họ gặp ngay thi hài của người con trai họ. Những dấu hiệu nhận biết trùng khớp. Đó là chiếc răng cửa bịt vàng cùng với vài vật dụng khác.
          Trước lúc chia tay, sư Thuận Thành nói:
          - Cho tôi gửi lời thăm người cháu của gia đình nhé. Nói anh ấy khi nào mua được trang trại ở đây để nuôi dê thì ghé thăm tôi với.
          - Ủa, gia đình đâu có người cháu nào ra đây mua trang trại đâu thầy!
          Người đó ngạc nhiên
          - Thì cái người cho tôi địa chỉ này đấy.
          Sư Thuận Thành vào trong tủ lấy tờ giấy ra, thì nét mực trên tờ giấy hầu như đã phai nhạt hết, chỉ còn thấy lờ mờ.
          - Trời ơi, nét chữ dù phai nhạt hết, nhưng đây là nét chữ của nó thầy ơi.
          Người đó kêu lên.
          - Thế à! Thôi gia đình thế là phước đức lắm rồi. Về nhà cố gắng tụng kinh niệm Phật cho cậu ấy mau siêu thoát nhé.
                                                          * 
          Sư Thuận Thành sắp đặt các thứ lên bàn thờ Phật. Hôm qua có Phật tử ghé thăm chùa, cúng dường một ít hoa quả trái cây, lại cúng thêm một ít tiền để sư mua sắm vài thứ.
          Buổi tối, người khách ở lại chùa luôn. Sư và khách trò chuyện cho tới khuya.
          - Thưa thầy, tiếng tăm của thầy lan xa ra ngoài thị trấn, rằng thầy là một nhà tu hành đức độ. Việc xây dựng ngôi chùa thì chúng con rất muốn, nhưng ngặt vì dân đây cũng còn nghèo. Nhưng chúng con muốn mua một cái máy phát điện để nhà chùa có thể dùng vào những dịp lễ Phật đản hay là ngày rằm mùng một, để thắp sáng chùa.
          - Đó là một ý kiến rất hay. Nhà chùa sẵn sàng nhận lễ vật ấy. Vì vừa rồi lễ Phật đản, mà khung cảnh chùa u tối quá.
          Sư Thuận Thành đồng ý.
          Vị Phật tử đưa vào tặng cho chùa một cái máy phát điện nhỏ, chạy bằng xăng rất tiện lợi, có thể thắp sáng những ngọn đèn trên bàn thờ Phật.
          Hôm đầu tiên, vị Phật tử vận hành chiếc máy để chạy thử. Tiếng máy chạy rất trơn tru. Sư Thuận Thành vui lắm. Sư cứ đi đi lại lại, ngắm nhìn những ngọn đèn nhấp nháy trên bàn thờ Phật.
          Hôm sau, vào chập tối, sư lại khởi động chiếc máy phát điện nhỏ. Đèn trên bàn thờ Phật nhấp nháy sáng. Tiếng máy chạy êm ru. Sư bắt đầu tụng kinh. Bỗng nhiên đèn phụt tắt. Sư vội vàng chạy ra ngoài xem. Chiếc máy phát điện đã bùng cháy, không chữa kịp. Mấy phút sau, chiếc máy chỉ còn lại một đống sắt vụn.
          Sư Thuận Thành lẩm bẩm:
          - Vong nào mà nghịch phá quá vậy. Thầy chỉ cho chạy máy vào những dịp quan trọng thôi chứ có chạy suốt đâu mà đốt máy của thầy.
          Nói rồi, sư vào trước điện, bắt đầu làm lễ trong đêm tối. Sư hắng giọng:     
          - Thôi, bỏ qua chuyện đó đi. Ai muốn vào lạy Phật thì cứ tự nhiên. Cửa Phật không từ một ai cả đâu.
          Mấy cái bóng đen lom khom lần lượt bước vào phía sau lưng sư.
                                                                             *
          Một buổi chiều mưa. Trời tối rất nhanh. Sư Thuận Thành bị sốt, nằm mê man, không tụng kinh niệm Phật được. Mưa rả rích từ chiều tới tối. Đang mơ màng, nghe có tiếng gõ cửa cộc cộc.
          Sư cố gắng bước ra và lẩm bẩm:
          - Giờ này chẳng lẽ có thí chủ nào tới cửa chùa! Hay là mấy vong nghịch ngợm đó thôi?
          Sư Thuận Thành mở cửa. Hai ba bóng đen lom khom phía ngoài. Sư nói:
          - Thôi, hôm nay nghỉ tụng kinh một bữa đi. Thầy mệt lắm rồi.
          Sư vào nhà, đóng cửa lại và cười:
          - Không biết làm chi mà mê tụng kinh quá vậy không biết!
          Sư đặt lưng nằm xuống được mấy phút, lại có tiếng gõ cửa cộc cộc.
          - Ôi dào, thật là mệt.
          Sư ngồi dậy, đi ra cửa, vừa đi vừa nói:
          - Thôi thế này, tôi mở cửa cho mà vào tụng kinh niệm Phật tự do. Còn tôi đi ngủ.
          Sau đó sư mới yên giấc cho đến sáng.
          Hôm sau, sư đã khỏe chút ít, có thể tụng kinh niệm Phật được.  Trời cũng đã bớt mưa. Sư bèn đi thăm một vòng quanh chùa. Khung cảnh chùa sau mấy ngày mưa trông đìu hiu quạnh quẽ. Sư Thuận Thành ước mơ có được một ít đá để rải chung quanh tượng Phật ngoài vườn cho sạch sẽ. Tối hôm đó, trước giờ lễ Phật, sư bỗng nhớ tới chuyện hồi trưa, sư nói:
          - Ngày kia thầy phải đi ra thị trấn ít hôm để kiếm tiền mua vật liệu xây dựng về làm cho tượng Phật ngoài vườn sạch sẽ. Đi mấy hôm thì tạm nghỉ tụng kinh niệm Phật nghe.
          Nhưng hôm sau, rồi hôm sau nữa, sư còn mệt người nên chưa ra thị trấn được. Đến bữa sau nữa, chùa có khách. Đó là một người đàn ông trung niên. Ông đến vào lúc hai giờ chiều.
          - Bạch thầy, con làm chủ một cơ sở sản xuất đá làm đường ở cách đây mấy chục cây số. Con biết chùa dựng đây khá lâu nhưng chưa ghé vào thăm chùa được.
          Sư Thuận Thành nói:
          - Mô Phật, cửa chùa rộng mở mà. Lúc nào đến cũng được. Đến sớm đến muộn gì cũng tốt cả.
          - Bạch thầy, hai hôm nay vợ con cứ thúc giục vào thăm chùa. Con không rõ lý do gì. Mà vợ con hồi xưa tới giờ đâu phải là người siêng đi lễ Phật đâu.
          - Ờ, thì cũng có lúc người ta bỗng nhiên siêng đi lễ Phật, cái đó là do nó phát từ tâm thôi.
          Nói đến đây, sư bỗng chau mày, ra chiều suy nghĩ. Sư “à” lên một tiếng.
          Người khách hỏi:
          - Thưa thầy, có chuyện gì hả thầy?
          - Không, không có chuyện gì cả. Thầy nhớ một việc chưa kịp làm.
          Trong thâm tâm, sư chợt hiểu:
          - Hiểu rồi, thì ra mấy con ma này khiến bà vợ ông chủ cơ sở sản xuất đá nằng nặc kêu ổng vào đây, để mình khỏi đóng cửa chùa đi xin tiền mua đá về rải trong vườn.
          Người khách lạ bỗng đứng dậy:
          - Thưa thầy, con muốn dạo qua trong vườn chùa một chút được không thầy?
          - Xin mời xin mời – Sư Thuận Thành vội vàng nói.
          Đứng trước vũng bùn lầy lội ngay chân tượng Phật ngoài vườn, người khách nói:
          - Bạch thầy, chỗ này lầy lội quá. Thật đau lòng khi phải nhìn tượng Phật nằm nơi nhếch nhác này. Xin thầy cho phép con ngày mai đưa đá vào đây rải lên làm sạch sẽ chỗ này.
          Sư Thuận Thành mỉm cười, lòng thầm nghĩ: “Mấy con ma này thật là tinh ranh. Nhưng mà cũng được việc đó chứ. Tuy vậy phải răn đe nó mới được. Làm một lần thế này thì còn tha thứ chứ làm hoài thì đâu có được”.
          Vị khách chở tới chùa mấy xe ben đá, cùng với cát và xi măng. Một tốp thợ làm trong một ngày, từ sáng tới tối mịt, láng xi măng sạch sẽ cả một khoảng rộng dưới chân Phật đài. Coi như là vượt quá mơ ước của sư Thuận Thành. Làm xong, hôm sau vị khách lại đưa cả gia đình vào lễ Phật. Thật là một ngày vui.
          Tối hôm sau, trước giờ lễ Phật, sư vừa cười vừa nói:
          - Quý vị làm vậy thì cũng tốt cho chùa. Nhưng chỉ làm một lần thôi, chớ làm lần thứ hai nghe. Vì cúng dường cho Phật là tại tâm, chớ không được ép buộc người ta. Tuy vậy riêng việc này, vì lỡ làm rồi nên thầy cũng cám ơn quý vị.
                                                          *
          Một hôm, sư Thuận Thành có việc phải ra ngoài thị trấn. Tối mịt mới về.
          Về tới đoạn đường ngang nghĩa địa, thầy bỗng gặp hai người chạy từ hướng chùa ra. Giáp mặt, thì ra hai vị đệ tử của thầy. Ai nấy thở hổn hển:
          - Thầy ơi, chúng con vào thăm thầy, không có thầy ở chùa, cũng không dám ở lại chờ thầy về. Chúng con tính ra ngoài thị trấn, tìm ngôi chùa nào đó ở lại, sáng mai vào thăm thầy.
          - Giờ có thầy về đây rồi thì vào ở lại với thầy chứ?
          - Thôi thầy ơi. Thầy cho đệ tử ra ngoài thị trấn ở đi. Trong này nhiều vong quá.
          - Có vong nào đâu mà nhiều? – Sư Thuận Thành vừa cười vừa hỏi.
          - Lúc chúng con vào tới chùa, trời đã tối. Nhưng cửa chùa mở nên chúng con nghĩ thầy có ở nhà. Khi vào trong thì quả đúng là thấy thầy đang làm lễ. Chúng con vội tiến vào thì không thấy thầy đâu nữa, mà toàn là những bóng người. Nhìn trước nhìn sau nhìn chung quanh, đâu cũng thấp thoáng bóng người. Chúng con biết là ma, sợ quá thầy ơi. Chùa sao nay nhiều ma vậy hả thầy?
          - À, thì họ tới nương tựa cửa Phật, chẳng lẽ mình không cho!
          - Ôi thầy ơi, thầy lớn tuổi rồi thầy không sợ chứ chúng con sợ lắm. Chắc mai tụi con mới vào thăm thầy được. Thầy thông cảm nghe thầy.
          - Ừ, thôi hai đệ tử đi đi, rồi sáng mai vào thăm thầy và làm lễ Phật cũng được.
          Hai vị sư trẻ tạm biệt sư Thuận  Thành rồi đi ngược ra thị trấn. Đi mới được mấy chục bước, một trong hai người đã khuỵu chân xuống không đi tiếp được. Vì phía trước họ, nhiều bóng người chạy qua chạy lại. Một người la lên:
          - Thầy ơi thầy.
          Sư Thuận Thành vội chạy trở lại chỗ hai đệ tử:
          - Thôi vào chùa ở lại đi. Họ không muốn cho hai đệ tử ra thị trấn thì cứ ở lại đây.
          Một vị sư trẻ nói:
          - Thầy ơi, thầy tu ở chỗ lam sơn chướng khí này, tụi con chỉ dám tới thăm thầy một lần thôi, chớ không có lần thứ hai đâu.
          Sư phì cười:
          - Có gì đâu. Các con ở lại đây với thầy ít bữa rồi sẽ quen đi thôi mà. Họ cũng như mình vậy. Vì khi xưa họ là người. Mình nói phải thì họ nghe thôi chứ có gì đâu các con!
          - Vẫn biết là cũng vốn là người, nhưng xưa nay người luôn luôn sợ ma đó thầy ạ.
          - Nếu mình thành thật coi họ như mình thì không có chi phải sợ cả đâu.
          - Thầy ơi, vậy vì sao họ nhát chúng con.
          - Đó là tại vì chúng con yếu bóng vía, nên sinh ra như vậy.
          Ba thầy trò vừa đi vừa nói chuyện, chẳng mấy chốc mà đã đến chùa. Sư Thuận Thành bước vào, nói:
          - Thôi, hôm nay đã trễ rồi, không lễ Phật nữa. Quý vị ở nhà chắc đã lễ Phật xong rồi, còn thầy thì hôm nay mệt quá. Vậy mời quý vị ra vườn nghỉ ngơi. Bây giờ quý vị để cho thầy thắp đèn lên cho sáng sủa nghe. Hôm nay thầy có khách, xin quý vị vui lòng để cho khách của thầy nghỉ ngơi cho trọn vẹn.
          Những bóng đen vụt biến mất khi ngọn đèn cầy được thắp lên. Không gian hoàn toàn yên tĩnh. Ánh sáng đèn hắt ra tận ngoài vườn chùa, nhưng tuyệt nhiên không thấy có một bóng ma nào thấp thoáng.
          - Đó, các con thấy chưa? Có gì đâu! Thầy nói là họ nghe liền ấy mà.
          - Thầy hay thật đó.
          - Chỉ cần lòng thành với nhau là đủ. Người hay ma gì cũng vậy thôi. Không có lòng thành thì không làm bạn với nhau được các con à.
          - Vậy là thầy có thể làm bạn với họ được sao!
          - Không chỉ làm bạn. Thầy còn giúp họ và ngược lại họ cũng giúp thầy vài việc.
          - Thật vậy hả thầy?
          - Thật đó. Họ vốn là người mà. Các con quên rồi sao!
                                                                    *
          Một hôm, sư Thuận Thành đang ngủ, thì nghe có tiếng khóc nho nhỏ sau vườn. Sư ngồi bật dậy và nói:
          - Nam Mô A Di Đà Phật! Nếu có nỗi oan ức gì thì cho thầy biết. Thầy giúp được gì thì sẽ gắng sức giúp.
          Nói rồi sư lên giường nằm ngủ.
          Trong mơ, sư gặp một người con gái. Người ấy nói:
          - Tôi ở cách chùa này mười lăm cây số về phía Nam. Ở đó có hai ngôi mộ. Một ngôi mộ là của tôi, một ngôi mộ là của chồng tôi. Chúng tôi cùng chết oan lúc còn trẻ, chưa có con cái gì. Chúng tôi hồn chưa siêu thoát, nên quấn quýt nhau chốn trần gian. Vừa rồi có một việc xảy ra. Đó là người ta có kế hoạch làm một con đường ngang qua chỗ chúng tôi nằm. Nhưng con đường này chỉ đụng chạm vào phần mộ của chồng tôi, nên mộ chồng tôi phải dời đi chỗ khác. Còn mộ tôi vẫn nằm lại. Như vậy là hai chúng tôi bị chia cắt. Chuyện này làm cho chúng tôi đau buồn. Xin thầy giúp đỡ cho chúng tôi.
          Sáng hôm sau tỉnh giấc, sư Thuận Thành bần thần nhớ lại giấc mơ. Sư không biết giải quyết việc này bằng cách nào. Vì đây là việc của nhà nước, làm sao có thể can thiệp vào được. Bây giờ mà kể chuyện này ra thì có ai tin mình. Không chừng lại bảo mình thần kinh có vấn đề nữa.
          Sư Thuận Thành ngẫm nghĩ: “Chẳng lẽ lại nhờ mấy con ma kia làm giúp!”.
          Nhưng rồi tối hôm đó, trước lúc làm lễ Phật, sư buột miệng nói ra ý nghĩ của mình:
          - Có một cô gái tới đây van xin thầy giúp cho cô ta, làm sao nhà nước đừng dời ngôi mộ của chồng cô ấy đi nơi khác. Nhưng việc này là việc nhà nước, thầy đành chịu. Có ai giúp được cho cô ấy thì thầy xin nhờ, chứ thầy thì chịu”.
          Và một việc xảy ra khiến sư Thuận Thành nhớ mãi, lấy đó làm bài học. Một vong nhập vào giấc mơ của sư và nói:
          - Thầy ơi, cô gái ấy thật là ích kỷ. Mấy hôm nay cô ấy nhờ chúng tôi nhưng chúng tôi không làm. Biết là dời ngôi mộ chồng cô ấy đi nơi khác thì họ không được gần nhau. Nhưng chỉ là không nằm gần nhau thôi chứ họ vẫn đi chơi với nhau bình thường được mà. Còn con đường là lợi ích chung của cộng đồng, trong đó có cả người thân của chúng tôi, của cô ấy. Vậy thì hy sinh một chút đâu có sao. Chứ cứ luôn luôn nghĩ đến cái lợi cho riêng mình như vậy đâu có tốt. Tối mai, lúc lễ Phật, chúng tôi sẽ mời vợ chồng cô ấy vào đây cho thầy nói chuyện. Thầy cứ nói như chúng tôi đi.
          Sư Thuận Thành lấy làm xúc động trước lời lẽ chân thành của mấy con ma. Cứ tưởng là họ chỉ luôn suy nghĩ cho bản thân, ai ngờ họ cũng sâu sắc như vậy chứ.
          Trước giờ lễ Phật tối hôm ấy, sư thấy có cái bóng trắng lom khom đi vào phía sau lưng mình. Sư biết là cô gái được mời tới. Một lát sau, một cái bóng nữa ngồi kề cô ta. Sư hiểu đấy là người chồng của cô ta. Chung quanh là nhiều cái bóng quen thuộc khác. Khi đã cảm thấy đông đủ, sư Thuận Thành nói:
          - Hôm nay, quý vị tới lễ Phật thật là đông đủ. Lại có thêm hai vị mới. Vì vậy tôi xin nói chuyện trước lúc lễ Phật.
          Hôm trước, có cô gái ngồi sau lưng tôi đây, nhờ tôi về việc làm sao cho nhà nước khi làm đường không di dời ngôi mộ của chồng cô đi xa. Đó là một yêu cầu xuất phát từ tình cảm thiêng liêng của hai người. Tôi rất tôn trọng tình cảm đó.
          Tuy nhiên qua tìm hiểu thì tôi biết, con đường đã được thiết kế rồi, cây cầu cách đó không xa đã được xây xong. Như vậy con đường không thể dời qua chỗ khác. Nếu dời đi sẽ rất tốn kém cho người sống. Tôi có hỏi ý kiến nhiều anh em ở đây, họ nói tôi nên khuyên cô chấp nhận hy sinh một chút tiêng tư để vì việc chung.
          Tôi cho rằng, lợi ích của thế giới người sống cũng chính là lợi ích của thế giới người chết. Vì mai đây, quý vị sẽ đầu thai lại thế giới người sống, sẽ hưởng thụ những lợi ích vật chất sẵn có. Vì vậy tôi xin cô và chồng cô hãy chấp nhận việc dời một trong hai ngôi mộ đi nơi khác.
          Sư Thuận Thành ngừng lại một chút, rồi nói tiếp:
          - Tôi xin cô hãy vui lòng chấp nhận chuyện này. Nó cũng giúp cho hai người mau siêu thoát khỏi kiếp này.
          Nếu cô đồng ý với tôi như vậy, cô hãy báo mộng cho tôi biết. Còn nếu không, tôi sẽ đi tìm gia đình cô, để yêu cầu họ dời ngôi mộ của cô cùng đi với chồng cô đến chỗ mới.
          Sau đó, sư Thuận Thành được cô gái báo mộng là sư không cần phải làm gì cả. Cô ấy rất ân hận về yêu cầu không hợp lý của mình. Cô ấy chấp nhận hai người tạm nằm cách xa nhau. Việc dời ngôi mộ của cô ấy đi, cô ấy cũng không đặt ra. Vì như vậy lại phiền phức tốn kém cho gia đình cô ấy.
          Thế là giải quyết xong một việc khá rắc rối.
                                                                    *
          Mùa xuân đến, có nhiều khách thập phương viếng thăm chùa. Một số người cúng dường cho chùa, nên sư Thuận Thành có thể xây dựng thêm vài công trình trong khuôn viên chùa. Ngoài ra, sư cũng xây dựng được cổng chùa cùng hàng rào vây quanh. Bây giờ, nét hoang vu u tịch đã giảm bớt đi một phần.
          Khu nghĩa địa phía ngoài chùa nghe đâu có kế hoạch di dời đi nơi khác, để nhà nước làm công trình gì đó. Bởi vì bấy giờ, con đường chạy ngang qua vùng này đã làm xong, tráng nhựa phẳng lỳ.
          Buổi sáng báo đăng tin về kế hoạch giải tỏa nghĩa địa thì buổi tối, các hồn ma chen chúc về trò chuyện với sư trong giấc mơ.
          Một vong nữ nói với sư:
          - Thưa thầy, nghĩa địa dời đi nơi khác, chùa trở nên nhộn nhịp, đông đúc người dương thế, không còn thích hợp với chúng tôi nữa. Chúng tôi buồn lắm. Chúng tôi cũng không có chỗ nào đến lễ Phật nữa. Như vậy thì chúng tôi buồn lắm. Mong thầy làm sao giúp cho chúng tôi về chuyện này.
          Sư hỏi:
          - Vậy quý vị muốn thầy giúp như thế nào đây?
          - Thầy có thể làm thêm một cái chùa ở nơi vắng vẻ hơn, cho chúng tôi lui tới.
          Sư Thuận Thành ngẫm nghĩ rồi nói:
          - Làm một ngôi chùa không phải là dễ. Phải có đất, có tiền. Thầy cũng biết quý vị sẽ buồn khi ngôi chùa này trở nên đông đúc nhộn nhịp, người dương thế lui tới nhiều, quý vị không còn chỗ nương náu.
          Một vong khác nói chen vào:
          - Thầy ơi, tôi nghĩ thầy phải có bổn phận nói với người dương thế biết rằng, chúng tôi cũng cần có nhu cầu được an ủi tinh thần trong bóng từ bi của Phật. Chúng tôi không nói được điều đó, nhưng thầy thì nói được. Thầy nói thì người dương thế sẽ tin thầy.
          Sư Thuận Thành nói:
          - Thôi được, quý vị hãy để cho thầy suy nghĩ đã. Nhưng còn chuyện này cũng rất quan trọng. Như quý vị thấy, lâu nay chùa này chỉ một mình thầy tu hành, không có ai chịu tới ở với thầy. Nên nếu mai này ra đi, thầy không biết giao chùa này lại cho ai trông nom.
          - Thầy cứ để chúng tôi làm việc đó. Chúng tôi sẽ mời đệ tử tới ngay cho thầy.
          - Ấy, không nên chút nào. Lần trước quý vị đã bắt buộc ông chủ mỏ đá đem vật liệu tới làm láng nền trong vườn chùa. Thầy đã dặn quý vị chỉ được làm một lần thôi. Vì lòng thành với Phật thì phải để người ta tự nguyện.
          Vong nam nói:
          - Thầy ơi, có những việc phải làm áp lực, chứ để tự nguyện không thôi thì khó thành công lắm. Người dương thế cũng vậy mà người cõi âm cũng vậy. Chúng tôi sẽ mời một đệ tử đến ngay cho thầy.
          Ba hôm sau, một vị khách đặc biệt đến thăm chùa. Một phụ nữ rất quý phái, đi xe hơi đời mới, dừng xe ngoài đường lớn rồi lội bộ vào chùa. Bà ấy gặp sư Thuận Thành thì mừng rỡ, nói:
          - Bạch thầy, nhà con thật là có phúc lớn. Con sinh được đứa con muộn màng, nhưng mới lên ba tuổi, nó đã biết niệm Phật. Ai cũng cho đó là sự lạ, nhưng con nghĩ đó là phúc. Con đang tính tìm chùa nào để gửi cháu vào, thì hôm kia có người báo mộng, là hãy gửi cháu vào chùa này. Vì thế nên con vội tới đây.
          Sư Thuận Thành thở dài, ngẫm nghĩ:
          - Phật ơi, đứa bé ba tuổi này thì làm sao mà thay con để trụ trì ngôi chùa này được!
          Sư nói với bà mẹ:
          - Thế là phúc lớn cho bà, nhưng cháu bé còn nhỏ quá. Bà hãy mang cháu về, khi nào được mười tuổi, mời bà mang cháu tới đây. Cửa Phật luôn rộng mở, bà không phải lo.
          Người phụ nữ năn nỉ:
          - Bạch thầy, xin thầy hãy nhận cháu.
          Nhưng sư Thuận Thành kiên quyết từ chối. Sư nghĩ: “Mấy con ma này thật quá đáng. Ai đời lại đi ép một bà mẹ đem đứa con nít nhỏ xíu đến chùa”.
          Năn nỉ mãi không xong, bà mẹ đành ra về. Bà ta nói:
          - Thưa thầy, đây là số điện thoại của con. Khi nào thầy suy nghĩ lại, thầy hãy điện thoại cho con. Con sẽ mang cháu tới liền.
          Buổi tối hôm đó, các hồn ma chen chúc về gặp sư Thuận Thành trong mơ. Sư nói:
          - Quý vị thật buồn cười! Ai đời đem đứa bé ba tuổi tới cho thầy!
          Vong nữ liền nói:
          - Thầy ơi, đứa bé ấy thầy không nhớ ra thôi. Ba năm về trước, chính là người bạn của chúng tôi ở đây. Anh ấy rất siêng lễ Phật, mong muốn mai này đầu thai thành người sẽ nương tựa nơi cửa Phật. Rồi anh ấy được đầu thai sớm, và nhân quả báo đáp, nên mới lên ba tuổi đã muốn vào chùa. Chúng tôi chỉ là người báo mộng cho bà mẹ thôi.
          Sư cười:
          - Thế à! Thầy đâu có biết. Nếu vậy là hồng phúc cho cậu ấy rồi. Nhưng bây giờ cậu ấy bé tí như thế, làm sao thay thầy làm được nhiệm vụ nặng nề nơi cửa Phật.
          - Thầy cứ nhận cậu bé ấy đi. Cậu bé ấy còn có một người chú, hiện là một vị sư có đức hạnh tốt, đang tu ở một ngôi chùa cách đây mấy trăm cây số. Chúng tôi sẽ báo mộng cho người đó.
          Sư Thuận Thành cười:
          - Thật là một gia đình có hồng phúc.
          Thế là hôm sau, sư Thuận Thành điện thoại cho bà mẹ. Rồi mấy ngày sau, người chú cũng tìm đến theo lời báo mộng. Hai chú cháu, cũng là hai thầy trò, từ đó tu tập trong chùa.
                    *
          Khi chùa đã trở nên đông đúc như thế, các hồn ma không còn chỗ lui tới nữa. Đêm đêm họ lang thang ngoài nghĩa địa, chứ không vào chùa. Vì thế họ quyết tâm tìm một chỗ làm ngôi chùa mới cho sư Thuận Thành. 
          Một buổi sáng, có một người khách đến chùa. Người này nói với sư:
          - Bạch thầy, con muốn thưa chuyện riêng với thầy.
          Sư dẫn vị khách vào thư phòng. Người này nói:
          - Thưa thầy, con nay đã bảy mươi, một đời xuôi ngược buôn bán làm ăn. Lúc trẻ làm được nhiều tiền nhiều của. Tuy nhiên, để có được những đồng tiền ấy, con cũng phải gian dối với người đời nhiều lắm. Bây giờ về già, con muốn làm phúc để tránh họa nhân quả cho con cháu.
          Con có một khu vườn cách đây chừng mấy chục cây số. Trong đó hoang vu u tịch nhưng đất đai tươi tốt, có thể làm vườn sinh sống và xây chùa để thờ Phật. Xin thầy vui lòng nhận lấy mảnh đất ấy của con, rồi thầy tùy nghi sử dụng.
          Thế là sư Thuận Thành nhận mảnh đất ấy. Một thời gian sau, ngôi chùa nhỏ đã mọc lên. Những hồn ma lang thang lại quy tụ trở về, nương tựa nơi cửa Phật. 
          Hết
          Nguyễn Thị Mộng Thu
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:29:13 bởi nguyenthu >
          #65
            nguyenthu 10.08.2009 21:55:24 (permalink)
            QUỶ NHẬP TRÀNG
             
            Cả xóm Giồng Cát chiều nay bỗng xôn xao hẳn lên trước một chuyện lạ vừa xảy ra ở gia đình ông Bảy Tấn.
            Bà Bảy, vợ ông, năm nay đã ngoài bảy mươi, ốm đau rề rề từ lâu, sáng này vừa trút hơi thở sau cùng. Con cái đã tề tựu đủ mặt, chỉ còn chờ tới giờ là tẩm liệm bà vô quan tài.
            Tư Quýnh là người chuyên đi tẩm liệm giúp cho các nhà trong xóm. Việc này anh làm không công, không nhận bất cứ một thứ quà biếu xén nào ngoại trừ mấy xị rượu anh uống trước khi bắt tay vào việc.
            Ai cũng khen Tư Quýnh khéo tay. Trước khi đặt người chết vào áo quan, Tư Quýnh bao giờ cũng tắm rửa sạch sẽ và trang điểm cho họ.
            Anh nói:
            - Con người ta bất kỳ lúc nào cũng muốn mình đẹp, cho nên khi tiễn họ về thế giới bên kia mình cũng phải lo cho họ được tươm tất!
            Người ta quý anh là ở chỗ đó.
            Khi Tư Quýnh đang phủ một lớp phấn hồng trên mặt bà Bảy, đột nhiên bà mở trừng mắt rồi ngồi bật dậy làm cho Tư Quýnh một phen hoảng vía vừa bò vừa lết, miệng thì ú ớ không thành câu:
            - Bà… Bảy… hơ… hơ…
            Lúc mọi người đổ xô vào thì bà Bảy đang đứng trơ ra giữa phòng, mắt ngó lơ láo, trên người vẫn còn mặc nguyên bộ quần áo trắng rộng thùng thình dành cho người chết.
            Ông Bảy run giọng:
            - Bà!... Bà sống trở lại rồi sao?
            Hai Lê, con gái lớn của ông bà Bảy rụt rè đứng cạnh bên cha:
            - Ba coi kỹ lại, có phải má sống thiệt hay là do con linh miêu gì đó nhảy ngang mình, con nghe người ta thường nói vậy…
            Ông Bảy gạt ngang:
            - Nhà mình đâu có nuôi mèo chó gì đâu mà miêu với miếc!
            Lúc này Tư Quýnh cũng đã lấy lại bình tĩnh, anh xen vào:
            - Tui cam đoan là hổng có con gì nhảy ngang qua người bà Bảy hết trơn, tự nhiên tui đang trang điểm cho bả thì bất thần bả mở to mắt rồi ngồi bật dậy… Cái này… một là bả hoàn dương thật sự, hai là… hai là…
            Nói tới đó Tư Quýnh im bặt làm mọi người lo lắng:
            - Hai là sao? Nói tiếp đi chứ mậy!
            Có tiếng người giục, Tư Quýnh ấp úng:
            - Thì tui cũng nghe người ta đồn đại thôi chứ thực hư ra sao không rõ…
            - Đồn đại thế nào anh Tư, nói đi mà?
            Cô Hai Lê nóng ruột hỏi.
            Tư Quýnh lấm lét ngó bà Bảy rồi kéo tay cô Lê ra ngoài nói nhỏ:
            - Tui nghe nói hiện tượng quỷ nhập tràng cũng giống vậy đó…
            Hai Lê hốt hoảng:
            - Quỷ nhập tràng là sao hả anh Tư? Anh làm ơn nói rõ một chút đi, cứ úp mở vậy hoài làm tui sợ muốn chết nè!
            Tư Quýnh hạ thấp giọng:
            - Quỷ nhập tràng tức là hồn người chết thật sự đã lìa khỏi xác rồi, nhưng xác đó lại bị một hồn khác chiếm giữ… Tui cũng chỉ biết đại khái thế thôi. Nhưng… trường hợp người ta chết đi sống lại cũng đã từng xảy ra. Có người sau khi hoàn dương còn sống tiếp hàng chục năm nữa mới chết thật sự. Bởi vậy có thể bà Bảy hoàn dương cũng hổng chừng…
            Nghe Tư Quýnh nói năng lấp lửng, nước đôi, Hai Lê bực mình:
            - Tưởng gì, anh nói tới nói lui cũng không xác định được gì ráo trọi! Thôi, để tui vô xem bà già thế nào!
            Nói xong Hai Lê quày quả bước trở vô buồng. Lúc này bà Bảy đã được ông Bảy dìu tới ngồi vào chiếc ghế tựa để cạnh giường.
            - Má sao rồi ba? Má có biết gì không?
            Hai Lê hỏi ông Bảy.
            Ông lắc đầu:
            - Bây giờ bả còn ngơ ngác lắm, có biết gì đâu! Chết đi sống lại mà, cứ để từ từ rồi bả sẽ dần dần tỉnh táo thôi mà!
            Bà Bảy sống lại là niềm vui to lớn đối với ông Bảy. Gần chục năm nay, từ lúc con cái có gia đình và ra riêng hết, vợ chồng ông Bảy sống quấn quýt với nhau, chăm sóc lẫn nhau nghĩa tình còn mặn mà, đằm thắm hơn thời còn son trẻ.
            Sáng này, khi bà Bảy thở hơi cuối cùng, ông Bảy đau thắt lòng thắt dạ, ông vẫn thầm mong bà đừng vội bỏ ông mà đi như vậy, thà rằng bà cứ sống với ông, dù bà ốm đau không làm gì được thì ông cũng vẫn vui vẻ được phục vụ bà mọi việc như lâu nay. Ông rất sợ cảnh cửa nhà quạnh vắng, không có bà, ông biết ăn cùng ai, nói chuỵên cùng ai?
            Bởi vậy, khi thấy bà Bảy mở mắt ngồi dậy, ai sợ hãi chứ ông thì tuyệt đối không, ông mừng vui nữa là khác. Có lẽ bà đã hiểu thấu lòng ông, bà không nỡ để ông bơ vơ một mình nên đã trốn từ quỷ môn quan mà trở lại với ông đây.
            Ngồi một bên bà Bảy, nhìn vẻ mặt ngơ ngác của bà ông thấy thương đứt ruột.
            Sự việc bà Bảy hoàn dương chỉ mới đó mà đã lan nhanh ra khắp làng khắp xóm, người ta ùn ùn tới nhà ông Bảy, đứng kín vòng trong vòng ngoài để theo dõi chuyện hy hữu đó.
            Đám con ông Bảy một phen vất vả mới có thể mời họ ra khỏi nhà và đóng chặt hai cánh cổng rào mà lâu nay vốn chỉ nằm lấy lệ ở đấy, lúc nào cũng mở toang.
            Trong nhà chỉ còn lại những người thân thuộc.
            Ông Bảy rót một ly nước trà đưa tận tay bà, nhỏ nhẹ nói:
            - Bà uống nước đi…
            Bà Bảy không nói không rằng, nhưng ngoan ngoãn đón lấy ly nước từ tay ông đưa lên miệng uống một hơi cạn sạch.
            - Bà có mệt không?
            Ông Bảy hỏi.
            Bà Bảy gật đầu, lộ rõ vẻ mỏi mệt.
            - Con coi dẹp đồ đạc trên giường cho má con nằm nghỉ!
            Quay qua Hai Lê, ông Bảy nói.
            Hai Lê vội vã bước tới gom toàn bộ áo quần, vải vóc mà lúc nãy cũng chính tay cô đã soạn ra để đem theo vào quan tài cho mẹ.
            Khi chiếc giường đã sạch sẽ, cô Hai Lê khè liếc nhìn bộ quần áo liệm mà mẹ cô đang mặc trên người, ái ngại nói:
            - Ba… có cần… thay đồ cho má không?
            Lúc này ông Bảy mới sự nhớ, ông nhìn vợ rồi hấp tấp nói:
            - Thay! Phải thay liền đi chớ con! Để vầy đâu có nên! Má con đã sống lại thật sự rồi không thấy sao? Ba hỏi gì bả cũng hiểu rồi…
            Vừa nói ông vừa xăng xái đứng lên đỡ vợ tiến lại gần giường, mấy người bà con giữ ý lui ra ngoài để cô Hai Lê thay áo quần cho mẹ.
            Khi mọi việc xong xuôi, bà Bảy được chồng và con gái đặt nằm lên giường, bà khép mắt lại, vẻ khoan khoái.
            Ông Bảy nói nhỏ:
            - Để má con ngủ một chút. Bây giờ tụi con lo dọn dẹp hết các thứ này đi!
            Ông chỉ tay vào mấy dĩa đèn cầy để dưới chân giường, chiếc quan tài cạnh đó và nhiều vật dụng khác mà gia đình chuẩn bị đưa bà Bảy sang thế giới bên kia.
            Hai Lê nhanh nhẹn ra nhà ngoài chỉ bảo cho chồng và các em trai khiêng quan tài đem giấu tuốt sau hè, gom góp mọi thứ, cái thì đem cất đi, cái thì đốt bỏ.
            Trong lòng cô Hai Lê lúc này ngổn ngang thật nhiều cảm xúc, cô vừa mừng vừa lo lắng. Nhưng không hiểu sao sự lo lắng trong cô lại lớn hơn, nó lấn át đi phần vui vì mẹ mình sống lại.
            Khi nhà cửa đã dọn dẹp tươm tất, những người thân thuộc cũng đã hết lời động viên cha con ông Bảy. Họ đưa ra thật nhiều trường hợp người chết sống lại để cha con ông yên tâm. Hai Lê ngoài mặt vẫn vui vẻ nói cười, nhưng trong thâm tâm cô vẫn cứ lo ngái ngái.
            Thật sự lúc này nếu ba cô bảo cô vào ngồi một mình cạnh mẹ chắc cô cũng không dám. May nhờ ông Bảy vì quá thương vợ nên cứ ngồi lỳ ở đó, Hai Lê thì tất bật hết việc này sang việc khác nên cô không phải khó xử.
            - Chị, theo nhận xét của chị thì má thế nào?
            Ba Thành, cậu em trai kế  đang dỡ bỏ chiếc rạp vừa che trước nhà, đột ngột hỏi khi trông thấy Hai Lê đi ra:
            Hai Lê bối rối:
            - À,… ừ… thì má hình như đã đỡ hơn nhiều rồi!
            - Không, ý em hỏi chuyện má đột nhiên sống lại kìa, có gì bất thường không?
            Ba Thành cãi.
            - Thì tất nhiên đã chết rồi mà sống lại thì cũng không thể gọi là bình thường được rồi, nhưng như mọi người đã nói, hiện tượng này cũng thường xảy ra, không phải là chưa từng có…
            Hai Lê nói cứng. Cô vừa muốn ổn định tinh thần cho em trai và cũng muốn tự trấn an mình.
            Ba Thành gật gù:
            - Cũng phải, chuyện này em cũng nghe kể nhiều rồi! Chị còn nhớ không, hồi nhỏ má còn kể cho mình nghe chuyện “Cô Ba bán cháo gà”? Cô đó chết rồi, đã xuống tới chín tầng địa ngục rồi mà còn trở về sống lại và kể cho mọi người nghe những việc mà cô chứng kiến được. Má mình hoàn dương sau mấy giờ đồng hồ nghỉ thở thì cũng không lạ lắm…
            Hai Lê nghe em trai nhắc lại chuyện Cô Ba cháo gà mà hồi nhỏ cô rất thích nghe mẹ kể, suy nghĩ lại thì cũng đúng, má mình chết chưa lâu mà, khả năng hồn quay trở về cũng rất lớn. Nghĩ vậy nên Hai Lê thấy vững bụng. Lúc này cô mới mon men vào cạnh giường mẹ.
            Ông Bảy vẫn không chịu rời vợ một bước. Nhà có điện, có quạt máy vậy mà ông cứ ngồi một bên, tay phe phẩy chiếc quạt lá dừa quạt mát cho bà Bảy.
            Nhìn hình ảnh cha mẹ, Hai Lê bất giác ứa nước mắt. Cô khẽ bảo cha:
            - Ba nằm nghỉ chút đi, để con ngồi với má được rồi! Từ tối hôm qua tới giờ ba có nghỉ ngơi được chút nào đâu!
            Ông Bảy thở dài:
            - Lo gì con ơi, má bây khỏe mạnh lại là ba mừng lắm, bao nhiêu vất vả, mệt nhọc bay biến mất hết rồi! Ba muốn ngồi đây để chút nữa bả tỉnh dậy không thấy tủi thân.
            Hai Lê biết mình không thể nào thuyết phục được ba rời khỏi má lúc này, cô bắc ghế ngồi cạnh một bên, nhẹ nhành bóp bóp cánh tay xương xẩu của mẹ. Cánh tay sáng này đã lạnh ngắt nhưng bây giờ lại ấm nóng bình thường.
            Bất chợt Hai Lê cảm thấy cuộc đời có rất nhiều điều lạ lùng không sao đoán biết trước được. Cô không quên, thuở cô còn bé cha mẹ cô luôn khắc khẩu, cự nự nhau luôn. Có nhiều khi chỉ vì một chuyện vớ vẩn không đâu mà cha mẹ cãi nhau kịch liệt, mới đầu còn lời qua tiếng lại, sau thì chén bát vỡ loảng xoảng. Chị em cô thường ao ước, giá mà cha mẹ mình được hòa thuận, yêu thương nhau như vợ chồng nhà hàng xóm thì tốt biết bao.
            Vậy mà lúc về già hai người lại nhường nhịn, thương yêu nhau rất mực. Có lần cô Hai Lê đón mẹ lên nhà mình chơi, khi đi bà Bảy sắp soạn đồ đạc dự định ở chơi với cháu ngoại một tháng mới về, nhưng lên mới hai ngày đã không chịu nổi.
            - Tao đi đây bỏ ba mầy ở nhà không ai lo cơm nước cho ổng, tội nghiệp!
            Đó là lý do để bà Bảy nằng nặc đòi con gái phải chở trả bà về với ông.
            Phần ông Bảy cũng không khác gì, ông cứ đi ra đi vào, đến ngày thứ hai vắng bà ông hết chịu nổi, sáng sớm đứng ngoài đường đón mấy đứa nhỏ đi học trên thị xã, nhắn:
            - Con nói giùm cô Hai đưa bà Bảy về coi bán gà giùm ông, nó cứ qua nhà hàng xóm phá hoài, ông sợ mích lòng!
            Hai Lê giận mẹ không chịu ở chơi với mình, nhưng trong thâm tâm cô lại rất vui khi thấy cha mẹ mình đối với nhau như thế. Cô còn thầm ao ước, sau này vợ chồng cô cũng được khắn khít keo sơn như thế.
            Nhà có ba chị em mà mỗi mình cô là gái, nên mọi việc lo toan trong ngoài đều do một mình Hai Lê gánh vác. Mấy đứa em trai vô tâm, sai biểu gì chúng làm nấy chứ chẳng biết suy nghĩ gì cho cha mẹ cả.
            Mấy hôm nay thấy sức khỏe bà Bảy mỗi lúc một yếu đi, Hai Lê đã lo mẹ mình không qua khỏi. Bên cạnh nỗi lo và tình thương dành cho mẹ, Hai Lê còn canh cánh bên lòng một mối lo khác, đó là sau khi bà Bảy mất, ông Bảy sẽ sống sau đây? Đón ông về ở với gia đình cô hoặc mấy đứa em trai thì chắc chắn ông sẽ không bằng lòng, vì ông sống ở quê, nhà cửa rộng rãi, vườn tược xung quanh quen rồi, lên thành thị nhà hẹp người đông, đi ra đi vào tù túng, ông chịu không được. Điều này thì ông đã nói từ lâu lắm rồi.
            Ông không lên sống với các con, chẳng lẽ bỏ ông sống một mình thui thủi ở quê? Cả mấy chị em cô Hai Lê đều có nhà cửa riêng, có công ăn việc làm ổn định trên thị xã, cũng không thể nào về quê sống để phụng dưỡng cha già. Đó là một bài toán nan giải đối với Hai Lê.
            - Con coi má con ngủ hay mê vậy Lê?
            Giọng nói lo lắng của ông Bảy cắt đứt dòng suy tưởng của Hai Lê, cô giật mình đưa tay sờ nhẹ lên ngực mẹ. Nhịp tim bà Bảy đập nhịp nhàng, hơi thở đều đặn không có vẻ gì là nặng nhọc.
            - Chắc má ngủ thôi ba à! Hay là con đánh thức má dậy xem sao nhé?
            Hai Lê đề nghị.
            Ông Bảy gật đầu:
            - Ừ, con đánh thức thử xem, ba cứ sợ bà ấy hôn mê thì khổ!
            Hai Lê lay nhẹ vay bà Bảy:
            - Má, má ơi! Má dậy uống thuốc đi má!
            Bà Bảy khẽ nghiêng người rồi nhướng mắt nhìn lên, điệu bộ như còn đang say ngủ.
            - Má, dậy chút đi má!
            Hai Lê vẫn thúc giục.
            Bà Bảy mở mắt nhìn chồng, nhìn con, không nói gì nhưng xem chừng đã tỉnh ngủ hẳn.
            Hai Lê mừng rỡ rót một ly nhỏ nước sâm đem tới đỡ mẹ ngồi lên:
            - Má uống chút này vô cho khỏe nha má!
            Cô vừa dỗ dành vừa kề ly nước vào miệng bà Bảy. Ông Bảy cầm chiếc khăn nhỏ hứng bên dưới.
            Bà Bảy giơ tay ra cầm lấy ly nước, tự mình đưa lên miệng uống. Ông Bảy nhìn Hai Lê vẻ phấn khởi.
            Hai Lê cũng vui mừng không kém, cô tin chắc mẹ mình đã khỏe lại rồi, nhờ ơn trời phật, mẹ cô được sống thêm vài năm nữa là điều hạnh phúc mà chị em cô luôn khao khát.
            - Bà thấy đói bụng không?
            Ông Bảy hỏi với giọng dịu dàng.
            Bà Bảy nhìn ông rồi gật đầu.
            Hai Lê chợt nhớ nãy giờ mình lo đủ thứ chuyện mà quên không nấu cho mẹ nồi cháo. Cô vội bảo ông Bảy:
            - Ba đỡ má giùm con, để con đi bắc miếng cháo…
            Hai Lê chưa nói hết câu, bà Bảy chỉ tay vào bụng, lắp bắp:
            - Đói… ăn… cơm…
            Ông Bảy nóng ruột:
            - Chờ nấu cháo thì lâu lắm! Con coi xới đỡ ít cơm nhão cho má ăn tạm trước đi, mấy hôm nay bả đâu có gì trong bụng.
            - Dạ!
            Hai Lê nhanh nhẹn chạy xuống bếp lục lạo. Cô bới cho mẹ mấy muỗng cơm, chan canh súp vào rồi tán nhuyễn.
            - Má, con đút cho má nghen?
            Hai Lê bưng chén cơm tới mặt bà Bảy đề nghị.
            Bà Bảy lắc đầu, chìa hai tay ra.
            Hai Lê do dự một chút nhưng rồi cũng đưa chén cơm cho mẹ. Bà Bảy vừa cầm lấy chén cơm đã vội vàng ăn lấy ăn để, không giống như người mới khỏi bệnh chút nào.
            - Từ từ… Bà ăn từ từ thôi kẻo mắc nghẹn bây giờ!
            Ông Bảy lo lắng cản.
            Bà Bảy ngước nhìn ông, miệng như hơi mỉm cười rồi lại cúi xuống ăn tiếp, nhưng lần này ăn một cách nhỏ nhẻ, từ tốn hơn.
            Hai Lê đứng nhìn mẹ mà không cầm được nước mắt. Đã bốn ngày nay rồi mẹ cô đâu ăn gì ngoài mấy muỗng sữa mà cô đã cố công đổ vào. Bây giờ nhìn mẹ ăn như vậy chứng tỏ mẹ đã khỏe thật rồi. Cô thầm nhủ với lòng, rằm tháng này sẽ vô chùa cúng trả lễ, trời phật đã thương cha con cô mà trả mẹ trở về dwong thế.
            - Bà ăn nữa không?
            Thấy bà Bảy vét hết muỗng cơm cuối cùng, ông Bảy lật đật hỏi. Bà chưa kịp trả lời thì Hai Lê cản:
            - Từ từ thôi ba à, mấy hôm nay má không ăn gì giờ một lúc ăn nhiều quá không tốt. Giờ cho má uống nước rồi nằm nghỉ, con đi nấu cháo chút nữa cho má ăn tiếp!
            - Ừ, con nó nói cũng phải đó bà! Bà nằm xuống đi, tui lấy nước.
            Ông Bảy gật gù.
            Hai Lê cầm cái chén không đi xuống bếp lo nấu cháo cho mẹ. Ở trong buồng ông Bảy thì thầm với vợ điều gì không biết mà mỗi lúc đi ngang qua Hai Lê đều nghe thấy tiếng rì rầm nho nhỏ. Cô mỉm cười, không muốn phá vỡ giây phúc hạnh phúc của cha mẹ mình.
            - Má sao rồi, chị Hai?
            Mấy đứa em trai đã dỡ xong xuôi cái rạp che trước sân nhà, thấy Hai Lê bước ra chúng lo lắng hỏi.
            Hai Lê mỉm cười:
            - Má khỏe thật rồi, mới vừa ăn hết chén cơm. Giờ chị đang nấu cháo…
            Tư Bo cười cười:
            - Bà già tạo xì – căng – đan chơi há!
            Hai Lê liếc em:
            - Không được ăn nói bậy bạ! Chắc tại trời phật thương tình nên cho má về sống với chúng mình thêm một thời gian nữa đó, lo mà cảm tạ phật trời đi, ở đó mà phát biểu linh tinh.
            Tư Bo le lưỡi, cổ rụt lại ra vẻ sợ bà chị khó tính.
            Ba Thành đứng lên:
            - Tao với mầy vô thăm má chút, Bo!
            Tư Bo phủi phủi bàn tay dính đầy đất cát đứng lên đi theo sau anh. Hai Lê nhìn theo lặng lẽ mỉm cười.
            Tối đó, rải rác một vài người tới thăm và chia vui, chị em Hai Lê tiếp khách, còn ông Bảy vẫn nhất quyết cứ ngồi bên cạnh vợ không chịu đi đâu.
            Sáng hôm sau, bà Bảy đã tự đi đứng được, nhưng vì sức còn yếu nên chao vao, đi tới đâu đều được ông bảy và mấy đứa con kè sát một bên.
            Khách khứa tới thăm nườm nượp. Có người thật sự quan tâm, muốn tới thăm và chia sớt nỗi vui mừng, nhưng cũng không ít kẻ chỉ vì hiếu kỳ, tới chỉ cốt xem bà Bảy có gì lại so với hồi chưa chết hay không.
            Nhưng những người tới thăm đều không được chủ nhà cho vào phòng bà Bảy, viện cớ bà còn mệt.
            Chuyện chết đi sống lại của bà Bảy được người ta thêu dệt thêm nhiều tình tiết ly kỳ hấp dẫn, lan truyền đi thật xa, đi tới đâu cũng nghe người ta sôi nổi bàn tán. Nhưng rồi chỉ một thời gian ngắn chuyện đó cũng nhanh chóng lắng xuống, khi bà Bảy đã trở về với những sinh hoạt bình thường hàng ngày của mình.
            Chị em cô Hai Lê sau nhiều ngày quây quần bên mẹ, giờ cũng thật yên tâm trở về nhà mình, trong ngôi nhà ngói ba gian rộng lớn giờ chỉ còn hai người già nương tựa vào nhau.
            Sau sự cố đó, bà Bảy đã khỏe hơn trước rất nhiều. Mọi việc trong nhà một tay bà quán xuyến. Mỗi sáng ông đạp xe đi chợ, cái chợ quê cách đó chỉ vài trăm mét, nhưng ông vẫn thích đạp xe cọc cạch, tới chợ dựng xe, vào quán nhâm nhi mộpt ly cà phê, chuyện vãn dăm ba câu với mấy ông bạn già rồi mới đủng đỉnh ra mua một vài thức ăn theo lời bà Bảy dặn.
            Khi ông về thì nhà cửa đã được quét dọn tươm tất, vịt gà cũng được bàg cho ăn no và mở cửa chuồng thả chúng xong xuôi hết. Bà bảy đón lấy giở thức ăn trên tay chồng, lui cui nấu nướng, còn ông thì đi tăùm heo và cho heo ăn.
            Đến trưa, sau khi cơm xong, bà Bảy thường nằm đong đưa trên võng để nghe chương trình ca nhạc cải lương từ chiếc radio cũ rích, ông Bảy sabng nhà hàng xóm bên cạnh uống trà, hoặc mấy ông hàng xóm qua nhà ông ngồi đàm đạo.
            Nhịp điệu sinh hoạt hàng ngày của đôi vợ chồng già là như thế.
            Ông Bảy tuy là đàn ông, nhưng tính tình lại rất ngăn nắp, sạch sẽ. Nhất là từ khi bà Bảy đau yếu, việc quét dọn nhà cửa một tay ông lo. Bây giờ bà Bảy khỏe lại đã đỡ đần cho ông được nhiều việc, nhưng thỉnh thoảng ông vẫn làm hết những việc phần bà.
            - Nhà có chuột chết hay sao mà tui nghe có mùi thum thủm vậy kìa?
            Ông Bảy ngạc nhiên. Bởi vì nhà ông không nuôi mèo chó, chẳng lẽ chuột tự chạy vào đây rồi ngã lăn ra chết hay sao?
            Ông Bảy đã bỏ cả buổi để sục sạo khắp các gầm giường, gầm tủ, khắp các ngóc ngách trong nhà nhưng không thấy gì. Vậy mà mùi hôi thối cứ thỉnh thoảng lại xộc vào nhà khiến ông rất khó chịu.
            Rất nhiều ngày như vậy, ông Bảy vẫn không thể nào tìm ra nguyên nhân, cuối cùng đành phải buông xuôi, chịu trận.
            Mà nói nào ngay, không phải trong nhà ông lúc nào cũng hôi thối, chỉ thỉnh thoảng thôi. Những lúc đó ông rất lo cho bà Bảy, sợ sức khỏe bà yếu, dễ bị nhiễm hơi độc. Nhưng bà Bảy thì cứ tỉnh bơ, bảo rằng không nghe thấy mùi gì lạ hết.
             
            ***
            - Hổm nay sao ngày nào cũng mất một con vịt, để tui đi một vòng trong xóm, coi nó có nhập bọn với vịt nhà ai không?
            Sau khi lùa đàn vịt vô chuồng, ông Bảy nói. Ông thật bực mình, lâu nay xóm này không hề xảy ra chuyện mất mát, tự nhiên liên tiếp mấy hôm nay ngày nào nhà ông cũng mất một con vịt, mà chẳng nghe đứa nào hó hé vịt nhà nó dư ra. Chiều nay ông nhứt định phải đi dò la mới được.
            Nghe ông Bảy nói vậy bà Bảy chỉ ậm ờ cho qua.
            Ông Bảy cũng không thắc mắc, vì từ lúc chết đi sống lại tới nay bà Bảy có nhiều khác lạ mà giờ ông đã quen rồi.
            Trước kia, mỗi bữa cơm bà Bảy chỉ ăn lưng chén, còn bây giờ bà ăn như người còn trẻ khỏe, bữa cơm nào cũng ba chén đầy. Mấy ngày đầu ông Bảy cũng lo lắm, nhưng rồi sau quen dần ông lại mừng vì thấy bà khỏe khoắn. Mà bà khỏe thật. Trước kia, bà quét cái sân trước nhà cũng đã vất vả vì đau lưng, cứ vài nhát chổi lại nghỉ mệt, nhưng bây giờ bà làm một loáng là sạch trơn, không than vãn đau lưng gì nữa hết.
            Bà lại cực kỳ ít nói. Trước kia, bà Bảy là một người đàn bà quê mùa xởi lởi, những lúc rảnh rang hay ngồi nói chuyện này nọ với các bà bạn già trong xóm, nhưng từ ngày ấy bà tránh các cuộc tụ tập, có ai tới nhà chơi bà cũng tiếp qua loa rồi viện cớ bận việc này việc khác, thành thử dần dần người ta ngại, không ai dám tới chơi với bà nữa.
            Bây giờ bên cạnh bà Bảy chỉ có mỗi mình ông, mà việc chuyện vãn với ông cũng hiếm hoi lắm. Thường thì suốt ngày ông là người nói, bà chỉ ừ  hử, thỉnh thoảng mới góp vào một vài câu. Ông Bảy cũng đã quen dần với điều đó!
            Thì cũng phải thôi, bà đã đi qua một khúc quanh “lịch sử” trong đời, thì vịec thay đổi tính tình cũng là lẽ được nhiên. Có người, sau khi giải phẫu cũng đã đổi tính nết nói chi tới chuyện chết đi sống lại như bà Bảy!
            Tới tối mịt ông Bảy mới quay về. Vừa bước vô nhà ông đã thở dài:
            - Thiệt không hiểu nổi, cả xóm này chỉ có nhà mình với nhà thằng Đẩu là nuôi vịt, mà vịt nhà nó với nhà mình một trời một vực, không thể nào lẫn lộn được! Chẳng lẽ trong xóm lúc này bày đặt sanh ra nạn trộm cắp vặt hay sao chứ?
            - Coi chừng nó bị chồn, chó gì bắt mất đó ông ơi, đừng nghi ngờ oan cho người ta mà mang tội!
            Bà Bảy đột ngột nói.
            Ông Bảy gật gù:
            - Ừ, bà nói cũng phải! Nhưng nếu có chồn chó gì thì cũng có người phát hiện, hoặc là nó để lại dấu vết, còn đằng này sao mà sạch trơn, hổng biết nữa?
            Bà Bảy im lặng, dọn cơm lên cùng ăn với chồng.
            Liên tiếp những ngày sau nữa nhà ông Bảy vẫn mấy mỗi ngày một vịt. Đến nước này thì ông không chịu nổi rồi. Ông vác cây đi lùng sục khắp bờ bụi gần đó suốt mấy ngày vẫn không phát hiện dấu vết nào.
            - Ông Bảy! Ông mau tới đây xem nè!
            Đẩu cất tiếng gọi.
            Mấy hôm nay Đẩu là người đi tìm dấu tích chồn cùng với ông Bảy. Vì tuy nhà mình chưa bị mất mát gì, nhưng thấy tình trạng vịt nhà ông Bảy mất liên tiếp như vậy Đẩu cũng sợ, anh quyết tâm cùng ông Bảy bắt cho bằng được con chồn ranh ma đó mới thôi.
            Nghe tiếng Đẩu gọi, ông Bảy vội chạy đến. Đẩu một tay cố ghìm chặt con chó, một tay chỉ vào lùm cây rậm rạp:
            - Lúc nãy tui tấy con chó vừa cào đất lia lịa, vừa sủa ăng ẳng có vẻ không bình thường nên chạy lại xem thì phát hiện… vịt của bác bị chôn trong đó!
            Ông Bảy sửng sốt:
            - Sao? Mầy nói sao? Nó chôn vịt của tao trong đó? Chôn sống?
            Đẩu lúng túng:
            - Dạ, con cũng chưa coi kỹ, vì mắc giữ con chó lại, sợ nó tha đi tùm lum. Đâu, bác vô coi sao!
            Đẩu vừa dứt lời, ông Bảy hấp tấp vén bụi rậm, ngồi khom người gần như bò vô trong chỗ đất cát bị chó đào xới, ló lên một nửa thân con vịt.
            Ông run run moi cho miệng hố rộng thêm chút nữa rồi lấy cây khều lên, đúng là mấy con vịt nhà ông, có con mới chết, có con chết đã lâu, thân thể đã mục rữa dòi bọ lúc nhúc. Ông cầm cái cây, lật qua lật lại, xem xét thật kỹ mấy con vịt còn chưa thối rữa.
            Lát sau ông Bảy thẫn thờ ngồi bệt xuống đất, mặc cho mùi hôi thối nồng nặc đang xông lên mũi. Đứng bên ngoài mà Đẩu không chịu nổi, anh giục ông Bảy:
            - Bác coi phải vịt của bác không? Lẹ lên rồi đi chỗ khác, hít mùi này chút nữa chút nữa về bịnh luôn chứ hổng chơi đâu nghen bác!
            Nghe Đẩu nói ông Bảy mới sực tỉnh lồm cồm chui ra khỏi lùm cây, sải bước đi tuốt ra cái ao gần đó. Vừa khoát nước rửa tay, ông Bảy vừa lẩm bẩm:
            - Tại sao lại như thế được chứ? Tại sao…?
            Đẩu tò mò:
            - Phải vịt bác không? Người ta bắt trộm rồi đem đi chôn là sao nhỉ? Chôn sống nguyên con luôn, phải không bác Bảy?
            Ông Bảy lắc đầu:
            - Không! Nó moi hết bộ đồ lòng, chỉ chôn cái thân con vịt!
            Đẩu thảng thốt:
            - Trời đất! Chuyện này lạ dữ à nghen! Nào giờ ăn trộm vịt thì làm thịt cả con, ai đời chỉ lấy bộ đồ lòng…
            Ông Bảy ôm đầu suy nghĩ một lát rồi ngước lên nhìn Đẩu khẩn khoản:
            - Mầy giúp bác giữ kín chuyện này nghe Đẩu, để bác điều tra. Mình mà tiết lộ ra kẻ gian sẽ đề phòng, không bắt được quả tang. Bác với mầy cứ làm bộ như chưa hề tìm thấy dấu vết nào, để từ từ coi sao, Đẩu nghe?
            Đẩu sốt sắng gật đầu:
            - Dạ, bác cứ yên tâm đi! Con kín miệng lắm! Vả lại vụ này cũng ly kỳ, con muốn bác cháu mình phải bắt được tận tay kẻ biến thái đó!
            - Ừ, nhất định thế!
            Ông Bảy lầm bầm.
            - Mà lạ ghê, đây là đất vườn nhà bác, thằng nào điên khùng, cả gan đi bắt trộm vịt của người ta, moi lấy bộ đồ lòng rồi đem chôn xác con vịt tại trong khuôn viên nhà người ta luôn! Đúng là… hết biết đường nào mà suy đoán…
            Đẩu vừa dắt chó đi vừa nói. Trong lòng ông Bảy cũng đầy thắc mắc trước sự việc lạ lùng này. Lúc chưa phát giác ra, ông rất tức giận, dù thủ phạm là chồn hay là bọn trộm cắp ông cũng tức như nhau. Nhưng giờ đây, ông thà rằng vịt của ông vô tay chồn cáo hoặc bị trộm đạo bắt đi còn hơn là nằm sờ sờ ra đó khiến ông hoang mang lo sợ…
            Ông Bảy dựng cây gậy bên mé hiên nhà, uể oải bước vô.
            - Có thấy dấu vết gì không ông?
            Bà Bảy tò mò:
            Ông Bảy lắc đầu:
            - Không, không thấy gì! Chắc mai mình đừng thả vịt ra nữa bà ạ, cứ để trong chuồng ráng nuôi thêm ít ngày rồi bán luôn. Tui mệt mỏi quá rồi!
            - Để trong chuồng chật chội, tụi nó cũng không lớn được đâu…
            Bà Bảy trả lời lấp lửng.
            Ông Bảy thở dài không nói gì thêm.
            Ngày hôm sau, đàn vịt vẫn được ông thả ra như thường lệ, nhưng đặc biệt hôm nay ông luôn để mắt ngó chừng theo chúng.
            Mãi tới xế trưa, bà Bảy gọi:
            - Ông không đi chở thức ăn cho heo sao? Chỉ còn chiều nay nữa là hết rồi đó!
            Ông Bảy sực nhớ,vội dắt xe ra cửa, vừa đi vừa căn dặn:
            - Bà ở nhà dòm chừng bầy vịt nghen, cho nó ăn gần gần nhà thôi, có động tĩnh gì mình còn biết!
            Hôm nay ông Bảy đi mua thức ăn cho heo một cách vội vã chứ không thong thả dừng lại chỗ này chỗ nọ nói đôi ba câu chuyện với mấy ông bạn già như mọi hôm. Chưa đầy nửa tiếng sau ông đã về tới.
            - Bà ơi! Bà đâu rồi!
            Ông Bảy cất tiếng gọi khi thấy nhà cửa vắng tanh.
            Không nghe tiếng bà Bảy trả lời, ông lo lắng đi như chạy ra vườn vì sợ bà sảy chân rơi xuống ao không ai biết.
            Vừa ra sau nhà một đoạn ông đã thấy bà Bảy thấp thoáng sau lùm cây. ÔNg Bảy mừng húm, cất tiếng hỏi:
            - Bà làm gì ngoài này, làm tui hết cả hồn vía?
            Giật mình vì nghe tiếng ông, bà Bảy vội vã đi vào, vừa đi vừa đưa tay lên lau mặt:
            - Tui đi hái mớ rau đắng đất, chiều luộc ăn cơm.
            Nghe vợ nói vậy ông Bảy không hỏi gì nữa nhưng khi bà tới gần, ông Bảy giật mình vì ở khóe mép bà có dính chút gì đó màu đỏ như máu.
            - Bà… bà vừa… ăn gì thế?
            Ông Bảy lắp bắp.
            Bà Bảy dừng chân, nhổ toẹt xuống đất miếng bả trầu, cười cười:
            - Tui mới tập ăn trầu, bà Hai kế bên cho mấy miếng ăn thử…
            Ông Bảy thở phào:
            - Trời! Tự nhiên từng tuổi này rồi lại đi tập ăn trầu? Bà làm tui hết hồn!
            - Sao lại hết hồn?
            Bà Bảy ngơ ngác.
            Ông Bảy cười xòa, chống chế:
            - Tui tưởng bà té ở đâu chảy máu chứ!
            Hai vợ chồng vừa đi vừa nói chuyện vui vẻ.
            Chiều tối lùa vịt về ông đếm lại vẫn mất một con như thường lệ.
            - Tui chịu hết nổi rồi! Lát nữa tui tới nhà thằng Đẩu hỏi nó có mua thì bán hết cả đàn cho nó nuôi luôn, cứ cái kiểu này chịu sao thấu!
            Ông Bảy rên rỉ.
            Bà Bảy ngó ông, định nói gì đó rồi lại thôi.
            Ăn cơm tối xong, ông Bảy nói với vợ:
            - Bà ở nhà ngủ trước đi, cửa khép hờ đó cho tui. Tui tới nhà thằng Đẩu chơi một chút, sẵn bàn với nó chuyện bầy vịt.
            - Ông định bán bầy vịt cho thằng Đẩu thiệt sao?
            Bà Bảy hỏi.
            Ông Bảy buồn rầu:
            - Tui cũng đâu muốn bán làm gì, nhưng ngày nào cũng mất một con thế này thì nuôi làm gì cho cực khổ? Nếu nó chịu mua thì bán hết, chứ vịt mới bi lớn đem ra chợ đâu có ai mua.
            Bà Bảy lại im lặng lò dò tới võng nằm.
            Đêm tuy không trăng nhưng bầu trời quang đãng, vả lại con đường này vô cùng quen thuộc, có nhắm mắt lại ông Bảy cũng hình dung ra được chỗ nào có rễ cây, chỗ nào bằng phẳng. Tuy đã ngoài bảy mươi tuổi nhưng ông Bảy còn khỏe mạnh lắm, việc đi đêm đi hôm thế này với ông có nhằm nhò gì.
            Nhà Đẩu ở đầu xóm, cách nhà ông Bảy chừng ba trăm thước. Khi ông Bảy vừa tới cửa thì đám chó trong nhà Đẩu nhảy sổ ra sủa lên inh ỏi.
            Nhà Đẩu nuôi chó nhiều nhất xóm, mà anh huấn luyện cũng tài lắm, con chó nào cũng khôn ngoan đáo để.
            - Mi – lu! Mi – na! đi vô! Lúc – ky, vô con!
            Đẩu vừa đi ra vừa xua mấy con chó vào nhà. Trông thấy ông Bảy đứng trước cửa, Đẩu ngạc nhiên:
            - Ủa, bác Bảy tới chơi tối quá vậy? Con cứ tưởng ai…
            - Ừ!
            Ông Bảy buông một tiếng gọn lỏn rồi theo Đẩu vào nhà.
            - Dạ, bác Bảy tới chơi!
            Vợ Đẩu đon đả chào ông Bảy rồi vội xuống bếp nấu nước pha trà cho chồng tiếp khách.
            Vợ chồng Đẩu cưới nhau đã mấy năm mà vẫn chưa có con. Cả hai đều chăm chỉ làm ăn nên cơ ngơi giờ cũng khang trang, khá giả. Ông Bảy mến vợ chồng Đẩu vì cái tính hiền lành, biết làm ăn đó. Mỗi khi có chuyện gì Đẩu đều tới hỏi ý kiến ông Bảy. Cả hai tuy không bà con thân thích gì nhưng từ lâu nay đã ngầm coi nhau như ruột thịt.
            Mấy hôm nay bên nhà ông Bảy có chuyện, Đẩu cũng lo lắng lắm. Đã mấy lần anh muốn đem điều thắc mắc trong lòng ra tâm sự với vợ, nhưng anh ngại, lỡ vợ mình vui miệng kể cho người khác biết nữa thì sự việc bung ra không còn giữ kín được, như vậy thì ông Bảy sẽ giận mình lắm. Nghĩ vậy nên anh Đẩu phải ráng ôm nỗi thắc mắc cam chịu một mình.
            Tối nay thấy ông Bảy đột ngột tới chơi anh đã nghi ngờ có chuyện dính líu tới bí mật kia, vì lâu này nếu có tới ông Bảy cũng chỉ tới ban ngày chứ đâu có đi đêm hôm thế này. Ở quê, bảy giờ tối đã là khuya khoắt lắm rồi.
            - Lúa nhà mầy chừng nào gặt, Đẩu?
            Ông Bảy hỏi vu vơ.
            - Dạ, chắc chừng mươi bữa nữa bác à!
            Đẩu trả lời. Anh biết chắc ông Bảy hỏi chuỵên lúa thóc chỉ là cho có chuyện để nói, còn vấn đề chính ông khó nói ra được vì sự có mặt của vợ anh.
            Hiểu ý vậy nên Đẩu xuống bếp hỏi vợ:
            - Nước sôi chưa em? Để anh pha trà cho, em đi ngủ sớm đi, anh với bác Bảy nói chuỵên chút.
            Vợ anh Đẩu biết ý chồng, chị mỉm cười đưa ấm nước cho chồng rồi lẳng lặng vào phòng riêng đóng kín cửa lại.
            - Bác Bảy uống nước!
            Đẩu châm trà vào ly mời.
            Ông Bảy nhìn Đẩu, than:
            - Hôm nay tao đã canh rất kỹ mà cũng vẫn mất con mầy à!
            - Bác giữ suốt ngày sao?
            Đẩu ngạc nhiên.
            - Ừ, từ lúc thả chúng ra khỏi chuồng là tao theo sát, chỉ có lúc đi mua thức ăn cho heo, nhưng tao có dặn bác gái mầy ngó chừng giúp, vậy mà cũng không tránh khỏi! Thiệt tình tao vừa tiếc của vừa rầu vì cái hành tung bí ẩn của kẻ gian… bởi vậy tao tính tới đây bàn với mầy một việc.
            - Dạ, việc gì xin bác cứ nói!
            Đẩu nhanh nhẹn.
            - Bác tính, nếu vợ chồng mầy chịu thì bác sẽ sang lại hết bầy vịt cho vợ chồng mầy nuôi luôn. Tuy nhà bác với nhà mầy cách nhau không xa, nhưng lâu nay nhà mầy không mất con nào, trái lại nhà bác thì thì cứ đều đặn mỗi ngày một con, thiệt là tức chết đi được!
            Ông Bảy nói thẳng.
            Đẩu hơi bất ngờ trước đề nghị của ông Bảy. Anh suy nghĩ một chút rồi nói:
            - Dạ, tụi con sang lại bầy vịt của bác cũng không có vấn đề gì, nhưng con thấy bác không nên nóng vội. Bác cứ theo dõi thêm một vài ngày nữa xem sao, chắc chắn mình phải bắt được quả tang chứ, chỉ trừ trường hợp kẻ đó biết phép tành hình.
            Ông Bảy ngao ngán:
            - Hôm trước bác cũng quyết tâm lắm, nhưng nay bác thật sự mệt mỏi rồi, nội cái chuyện suy nghĩ thôi cũng đã phát điên mà vẫn không lần ra manh mối gì…
            Anh Đẩu chồm người qua bàn, nói với ông Bảy:
            - Con đề nghị với bác chuỵên này nghen! Sáng mai, bác cứ thả vịt ra như bình thường đi, con sẽ núp đâu đó theo dõi. Con sẽ bỏ ra ba ngày, nhứt định bắt cho được kẻ gian!
            Ông Bảy mừng rỡ:
            - Mầy nói thiệt không Đẩu? Mầy mà chịu giúp bác thì còn gì bằng! Bác tiếc bầy vịt thì ít mà thắc mắc nhiều hơn.
            - Dạ, con cũng vậy đó bác! Không hiểu chuyện này là sao nữa, nên con rất muốn bắt cho được kẻ đó, khi ấy mình mới có được lời giải đáp.
            Đẩu cười nói.
            Ngồi nói thêm với Đẩu mấy câu nữa rồi ông Bảy đứng lên từ giã ra về, lòng ông nhẹ nhỏm hẳn đi trước lời hứa của Đẩu.
            Bà Bảy vẫn chưa ngủ, nghe tiếng ông đẩy cửa, bà khẽ cựa mình hỏi vọng ra:
            - Ông về đó phải không?
            - Ừ, tui nè! Đã dặn bà ngủ đi, thức chờ làm gì!
            Ông Bảy càm ràm.
            - Tui đâu có thức chờ ông đâu! Chỉ tại tui chưa ngủ đó thôi. À, vợ chồng thằng Đẩu có chịu sang lại bầy vịt của mình không ông?
            Vừa lồm cồm chui ra khỏi mùng, bà Bảy vừa hỏi.
            - Không, thằng Đẩu nói…
            Ông Bảy kịp thời dừng lại, vì ông không muốn để bà phải lo âu nên những việc khó hiểu vừa rồi ông đã giấu nhẹm không kể cho bà biết.
            - Thằng Đẩu nói vịt mình với vịt nó không cùng cỡ, bất tiện nên không chịu mua.
            Ông Bảy nói trớ qua.
            - Ừ, cũng phải!
            Bà Bảy thở phào.
            - Thôi, bà ngủ đi!
            Ông Bảy vừa nói vừa chiu vô mùng đã giăng sẵn từ chiều trên bộ ván bên cạnh giường của vợ ông.
            Vô mùng nằm nhưng ông Bảy vẫn cứ trằn trọc không yên, ông hy vọng Đẩu sẽ nhanh chóng bắt được thủ phạm để giải tỏa hết những thắc mắc đang quay cuồng trong đầu ông.
            Sáng hôm sau ông Bảy thả vịt rồi đi uống cà phê như bình thường. Cả ngày hôm đó ông cũng không quan tâm gì tới bầy vịt nữa. Chiều tối lùa vịt về chuồn, ông phấn khởi khi thấy còn nguyên vẹn, không mất thêm con nào nữa.
            - Hôm nay không mất con nào bà ơi!
            Ông reo lên mừng rỡ, nhưng bà Bảy không tỏ vẻ mừng vui với niềm vui của chồng, bà lặng lẽ lên võng nằm không nói một câu, vẻ mặt dàu dàu, ủ dột.
            Lát sau bà dọn cơm lên bàn nhưng không ăn cùng ông.
            - Ủa, sao bà không ăn cơm luôn?
            Ông Bảy ngạc nhiên hỏi. Từ lâu nay hai vợ chồng luôn ăn cơm chung với nhau đã thành thông lệ rồi mà.
            - Ông ăn đi, tui thấy trong người không được khỏe!
            Bà Bảy nói.
            Ông Bảy đặt chén cơm xuống bàn, lo lắng:
            - Bà bị làm sao? Có cần tui đi mua thuốc hay nhắn tụi con về không?
            - Không sao đâu, chỉ hơi mệt chút xíu thôi, ông đừng bận tâm làm gì!
            Bà Bảy trả lời dấm dẳng.
            Ông thật không hiểu hôm nay bà có gì bực bội mà cau có như vậy, nhưng rồi ông lại nghĩ có lẽ mệt trong người nên bà mới như thế.
            - Bà ăn cháo không, tui nấu?
            Ông Bảy ân cần hỏi.
            - Không, tui không đói! Hồi chiều tui có ăn cơm nguội rồi, không sao đâu, ông đừng lo!
            Giọng nói của bà Bảy lúc này đã có phần dịu lại.
            Ăn cơm xong, ông Bảy còn đang ngồi xỉa răng thì nghe tiếng Đẩu gọi từ bên nhà ông Hai bên cạnh:
            - Bác Bảy ơi, ăn cơm chưa, qua đây uống nước chơi chút!
            Ông vội đứng lên:
            - Tui qua nhà anh Hai chơi, bà cứ ngủ trước đi nghen!
            - Ừ, ông đi đi!
            Bà Bảy vui vẻ nói.
            Ông Bảy vừa ra tới cửa đã thấdy Đẩu đón ông ở đó.
            - Sao bác, vịt có mất con nào không?
            Đẩu hấp tấp hỏi.
            - Không mất! Còn đủ hết! Bộ mầy theo dõi suốt hả con?
            - Dạ, con theo suốt, có lúc suýt ngủ gục rồi đó chớ, may nhờ bác gái ra con mới giật mình.
            Đẩu cười ngất.
            - Ủa, bả thấy mầy hả? Rồi có hỏi mầy làm gì không?
            - Dạ có chớ, con nói con tức mấy thằng ăn trộm nên quyết rình bắt cho kỳ được mới thôi!
            - Trời ơi, tao quên dặn mầy đừng nói gì cho bác gái biết, tao sợ bả lo!
            Ông Bảy kêu lên.
            Đẩu cười:
            - Bác tưởng con khờ lắm sao, con chỉ nói việc mất vịt thôi, chứ mấy vụ kia con đâu có nói ra, mắc công bác gái rầu thêm chứ ích gì, để khi nào bác cháu mình tìm hiểu rõ ràng rồi hãy kể.
            - Giỏi! Mầy giỏi đó con!
            Ông Bảy vỗ vai Đẩu cười ha hả.
            Hai bác cháu khoác vai nhau đi vào nhà ông Hai vừa uống nước trà vừa rôm rả bàn chuyện lúa thóc, heo gà đến hơn một tiếng đồng hồ sau mới giải tán ai về nhà nấy.
            Ông Bảy cứ tưởng bà Bảy không được khỏe, chắc đã ngủ rồi, nào ngờ khi về ông vẫn thấy bà còn thức, vẻ mặt phẩn khởi, vui vẻ hơn ban chiều nhiều lần.
            - Ủa, bà khỏe không mà còn ngồi đây giờ này?
            Ông Bảy ngạc nhiên.
            Bà cười:
            - Tui khỏe rồi, đã nói chỉ hơi mệt một chút thôi mà, ông cứ khéo lo!
            Ông Bảy ngồi xuống cạnh vợ, nói dăm ba câu rồi hai vợ chồng tắt đèn đi ngủ.
            Sáng ra, lòng vẫn còn phấn chấn, nhưng đột nhiên ông Bảy phát hiện con vịt có đốm lông trắng trên đầu đã biến mất. Thường buổi sáng ông không quan tâm đến bầy vịt, chỉ đếm lại chúng sau một ngày thả rong bên ngoài, nhưng sáng nay tình cờ ông liếc qua mà không thấy con vịt đó. Nó giống như con vịt đầu đàn vậy, mới chiều qua rõ ràng ông còn nhìn thấy vậy mà sáng nay nó lại biến mất tiêu. Nghi ngờ, ông Bảy đóng vội cửa chuồng lại, đếm trước khi thả thì đúng là thiếu mất một con!
            Kỳ lạ! Hết sức kỳ lạ! Hổm nay toàn mất vào ban ngày, hôm qua có Đẩu rình theo suốt ngày, chiều về đếm đủ thì lại mất vào ban đêm!
            Kẻ gian nếu lẻn vào bắt vịt tại chuồng thì chắc chắn bầy khi bị đánh động sẽ kêu lên ồn ào chứ, ông Bảy lại rất sẻ thức, làm sao có chuyện ông không hay biết được?
            Ông ôm nỗi ấm ức trong lòng, định bụng tối nay gặp Đẩu sẽ kể cho nó biết.
            Chiều tối hôm đó lùa vịt về chuồng vẫn đủ với số lượng lúc sáng thả ra. Cơm nước xong, ông Bảy tới nhà Đẩu nhưng anh đi công việc vắng, ông đành tiu nghỉu quay về, lòng rất buồn bực.
            Đêm dó ông Bảy không tài nào ngủ được, cứ trăn qua trở lại mãi, cuối cùng ông rón rén đi xuống sau nhà, ngồi thu lu một góc, mắt chăm chăm ngó vào chuồng vịt.
            Ngồi thật lâu, bầy muỗi vo ve mà ông không dám đuổi. Lát sau ông nghe tiếng bà Bảy trở mình, rồi húng hắng ho. Không gian lại im vắng hoàn toàn. Ông Bảy đã bắt đầu cảm thấy mệt mỏi và chán nản. Ông vừa định đứng lên đi trở vào giường thì nghe tiếng chân bước rón rén từ nhà trên đi xuống.
            Lấy làm lạ, ông Bảy ngồi thụp xuống lắng tai nghe ngóng. Thường thường, bà Bảy đi hay lê dép lệt sệt, nặng nề, sao hôm nay bước đi của bà lại nhẹ nhàng và có vẻ lén lút như vậy?
            Từ chỗ ông Bảy ngồi có thể nhìn rõ bao quát từ cửa sau ra đến khoảng sân. Ông thấy rõ ràng bà Bảy đi lại nhanh nhẹn một cách không ngờ được. Bà đi tới cạnh bên chuồng vịt không gây ra một tiếng động, bầy vịt vẫn im ắng ngủ.
            - Tội nghiệp, bả cũng lo như mình!
            Ông Bảy cứ nghĩ bà ra sân kiểm tra bầy vịt. Nhưng khi ý nghĩ ấy vừa hiện ra trong đầu thì ông chợt hốt hoảng khi thấy bà Bảy cúi xuống và nhanh như cắt, tay bà nắm ngang cổ một con vịt xách lên, con vịt quẫy đạp một cách vô vọng nhưng hoàn toàn không phát ra một tiếng kêu nào, cả chuồng vịt cũng vẫn im phăng phắc.
            Bà Bảy xách cổ con vịt tới ngồi vắt vẻo trên thân một cây dừa ngã nằm dài gần sát mặt đất cạnh đó.
            Tuy ánh trăng non mờ mờ nhưng cũng đủ soi rõ cho ông Bảy thấy được vẻ mặt thích thú của bà Bảy lúc cầm con vịt đưa lên trước mắt. Bà liếm mép mấy cái rồi nhẹ nhàng và nhanh chóng, bà xỉa mấy ngón tay vào bụng con vịt, lôi ra nguyên cả đùm gan ruột lòng thòng.
            Bà Bảy đặt con vịt đã bị moi hết bộ đồ lòng xuống đất, hai tay bà cầm mớ gan ruột đưa lên miệng cắn nhai một cách ngon lành.
            Ông Bảy có cảm giác trạo trực trong bụng khiến ông muốn nôn ọe, nhưng ông vội vã đưa tay lên bịt chặt miệng mình lại tránh phát ra tiếng động. Ông bàng hoàng đến điếng cả hồn vía.
            Thật sự thì hôm phát hiện ra mấy cái xác vịt chôn sau vườn, ông có thoáng nghĩ đến bà Bảy nhưng rồi lập tức sau đó ông đã cố xua đi ý nghĩ điên khùng ấy, và sau lần thấy bà Bảy ăn trầu, ông lại càng hối hận vì đã có ý nghi ngờ bà. Nhưng ông thật sự không ngờ bà Bảy chính là thủ phạm!
            Hồi bà Bảy mới sống lại, ông có nghe loáng thoáng người ta đồn ầm lên chuyện quỷ nhập tràng, nhưng vì quá thương vợ ông không hề tin vào những việc vớ vẩn như thế.
            Sau này thấy bà Bảy thay đổi tính tình, ông cũng đã viện đủ lý do để bào chữa cho bà.
            Ngay như đêm nay, chính mắt ông Bảy đã chứng kiến cảnh tượng khủng khiếp này rồi nhưng ông vẫn không dám tin vào chuyện bên trong thân xác quen thuộc của vợ ông là một linh hồn ma quái xa lạ.
            - Có thể bà ấy bị lẫn!
            Ông Bảy lẩm bẩm. Ông lại cố tìm ra thêm một lý do nào đó để tin rằng bà ấy vẫn là người vợ hiền lành của ông.
            Ông Bảy còn nhớ, đã có lần ông nghe người ta kể về bệnh lẫn của người già. Nhiều khi con cái chăm sóc đàng hoàng, cho ăn uống tử tế nhưng hễ ai tới thăm là người già đó lại than thở, rằng con cái bỏ đói họ. Họ có thể ăn bất cứ thứ gì, mèo chuột, cá sống… Có thể bà Bảy cũng đang lâm vào trường hợp đó!
            Ông Bảy đau đớn quá! Ông nửa muốn chạy ra ngăn cản bà lại, nửa không muốn đánh động.
            - Thôi thì dù sao hôm nay bà ấy đã lỡ thế rồi, mình không nên làm bà hốt hoảng, ngày mai mình sẽ tìm cách ngăn cản bà ấy…
            Ông Bảy nhủ thầm trong bụng.
            Sau khi ăn hết đùm gan ruột, bà Bảy khoan khoái kéo tay áo lên chùi mép rồi khom người nhặt lấy con vịt xách tuốt ra sau vườn. Lợi dụng lúc đó, ông Bảy lẻn trở vào giường mình nằm im không dám động đậy.
            Không lâu sau bà Bảy trở vào nhà, vẫn với những bước đi hết sức nhẹ nhàng, lanh lẹ.
            Sáng hôm sau, ông Bảy vờ như không biết gì, lại hét toáng lên về việc mất thêm một con vịt nữa. Bà Bảy không nói không rằng, chỉ lặng lẽ làm những phần việc của mình như mọi ngày.
            Ông Bảy viện cơ phải đi thị xã để mua một vài thứ cần thiết, nhưng thật sự là ông lên tìm cô Hai Lê để bàn bạc việc gia đình.
            Thấy ba mình lên thăm đột ngột, Hai Lê hỏi:
            - Ba lên chơi hay có việc gì không ba?
            Ông Bảy nhìn con gái rồi nhìn sang con rễ thở dài:
            - Hôm nay ba lên đây bàn với các con một chuyện hệ trọng…
            - Có gì ba cứ nói, tụi con sẽ lắng nghe và góp ý với ba nếu có thể!
            Anh con rể thành thật nói.
            - Chuyện này làm ba rất khó xử các con ạ! Từ hồi má con sống lại đến nay bả thay đổi tính tình, thay đổi sở thích… lạ lắm con à!
            Ông Bảy rầu rĩ.
            Hai Lê ngạc nhiên:
            - Má với ba cãi nhau à?
            Ông Bảy lắc đầu:
            - Không! Nếu là cãi nhau thì ba đâu lên đây làm phiền các con. Má con bây giờ…
            Ông Bảy chậm rãi kể cho vợ chông Hai Lê nghe toàn bộ sự việc diễn ra ở nhà mình. Cả hai vợ chồng đều không ngăn được vẻ sửng sốt.
            Lát sau, chồng Hai Lê nói:
            - Có lẽ má bị lú lẫn đó ba!
            - Ba cũng ráng nghĩ vậy! Nhưng con à… ngoài chuyện đó ra thì bả vẫn bình thường lắm, không lẫn lộn việc gì hết, bởi vậy ba mới sợ…
            Ông Bảy nhìn vợ chồng Hai Lê như chờ đợi một sự giúp sức.
            Hai Lê run giọng:
            - Ba, lúc má mới sống dậy, con có nghe anh Tư Quýnh nói tới hiện tượng quỷ nhập tràng, hay là…
            - Em nói gì lung tung vậy! Không sợ ba la sao?
            Chồng Hai Lê rầy vợ.
            Ông Bảy khoát tay:
            - Không sao đâu con, cứ để vợ con nó nói hết suy nghĩ. Hôm nay ba lên đây là muốn cùng các con bàn bạc xem phải làm gì với má con bây giờ? Nói thiệt, ba rối lắm rồi, không còn tính toán gì được nữa hết…
            Chồng Hai Lê an ủi:
            - Thôi, ba đừng lo lắng nữa. Để con cho vợ con về dưới đó một thời gian chăm sóc cho ba má.
            Quay sang Hai Lê, anh dặn:
            - Em soạn đồ về với ba đi! Việc nhà anh lo được, em đừng bận tâm.
            Hai Lê nhìn chồng biết ơn. Cô vội vã vào phòng soạn đồ đạc rồi hai cha con lập tức quay về.
            Thấy Hai Lê về chơi, bà Bảy không tỏ vẻ vui mừng như dạo trước, bà chỉ hỏi lấy lệ:
            - Con về chơi?
            - Dạ, lúc này con hay bị đau đầu nên chồng con kêu con về quê một thời gian để tịnh dưỡng. Con về sống ba má là nhất rồi, má há?
            Hai Lê vui vẻ.
            Bà Bảy lắc đầu:
            - Vợ chồng còn trẻ thì chồng đâu vợ đó con à, mỗi đứa một nơi dễ sanh ra chuyện này chuyện khác.
            Hai Lê phụng phịu:
            - Má! Bộ má hổng muốn con về đây hay sao mà nói vậy? Con chỉ tạm xa nhà một thời gian ngắn thôi, có gì đâu mà má phải lo lắng như vậy?
            Bà Bảy không nói gì nữa nhưng vẻ mặt không được vui.
            Hai Lê và ông Bảy đã thỏa thuận với nhau, bất kỳ lúc nào bên cạnh bà Bảy cũng có người, khi thì Hai Lê, khi thì ông Bảy.
            Bà tỏ vẻ khó chịu ra mặt nhưng không biết nói sao. Tối đến, Hai Lê viện cơ thương nhớ mẹ nên ngủ chung giường với bà Bảy. Vì trong lòng luôn thấp thỏm lo sợ nên chẳng đêm nào Hai Lê ngủ được ngon giấc. Ở giường bên cạnh, ông Bảy cũng đề cao cảnh giác, hễ nghe bà Bảy rục rịch là ông giả bộ ho lên để cảnh báo cho bà biết ông vẫn còn thức.
            Hai cha con ông Bảy nhất định không để bà làm chuyện bậy bạ nữa.
            Ba ngày trôi qua, gà vịt không mất một con nhưng sức khỏe của bà Bảy lại suy yếu đi thấy rõ. Bà không ăn uống gì nhiều, suốt ngày chỉ nằm trên giường và ăn một ít cháo do Hai Lê nài ép từng muỗng.
            - Ba ơi, con coi bộ không phải má bị lẫn đâu…
            Hai Lê lo lắng.
            Ông Bảy gật đầu:
            - Ừ, ba cũng nhận thấy vậy! Để ba đi hỏi dò xem…
            - Ba tìm anh Tư Quýnh đi, có khi ảnh biết nhiều về chuyện này đó ba!
            Hai Lê góp ý.
            Ông Bảy tới nhà lúc Tư Quýnh rượu đã ngà ngà. Thấy ông Bảy, Tư Quýnh ngạc nhiên:
            - Ủa, bác Bảy! Bác tìm cháu chơi hay có chuyện gì?
            Ông Bảy cười gượng gạo:
            - Thì lâu lâu tới tìm mầy không được sao?
            - Dạ được! Dạ được chứ bác! Mời bác ngồi ghế!
            Tư Quýnh cười mắt , vội vã kéo ghế mời ông Bảy.
            Ông Bảy vừa uống trà, vừa hỏi thăm Tư Quýnh công việc làm ăn, chập sau ông mới đi vào vấn đề:
            - Thằng Tư mầy làm nghề này lâu rồi, chắc mầy biết nhiều chuyện ma quỷ lắm há?
            Tư Quýnh ngạc nhiên:
            - Sao bác lại hỏi vậy? Cháu cũng chỉ nghe người ta kể lại thôi chứ chưa tận mắt nhìn thấy bao giờ bác à!
            - Mầy có thể nói cho bác biết rõ về chuyện quỷ nhập tràng không?
            Ông Bảy nhỏ giọng.
            - Bác… bác gặp chuyện gì sao? Hay là bác gái…
            Tư Quýnh lắp bắp hỏi.
            Ông Bảy ôm đầu khổ sở:
            - Tao cũng không nói giấu thằng Tư mầy làm gì! Đúng là bác gái mầy từ hôm sống lại đến nay có nhiều biểu hiện lạ lắm, nên tao sợ…
            Tư Quýnh kéo ghế ngồi sát lại ông Bảy thì thầm:
            - Bác gái có biểu hiện sao bác?
            - Ôi, nhiều lắm! Mà thôi, mầy kể cho bác nghe trước đi đã!
            Ông Bảy thoái thác.
            Tư Quýnh nhăn nhó:
            - Cháu cũng không biết chắc đâu nghen! Là cháu nghe người ta kể lại. Nếu như người chết không may chết nhằm vào giờ gì đó, thì khi linh hồn thoát xác, sẽ có một linh hồn khác nhập vào, nên người đó sẽ sống lại. Người đó cũng sẽ có những hoạt tương đối bình thường, nhưng ăn uống mạnh bạo hơn, và nhất là… nhất là lúc nào họ cũng phải ăn thịt sống, nhất là ăn đồ lòng của động vật!
            Mồ hôi rịn ra ướt đẫm trán ông Bảy, ông hấp tấp hỏi:
            - Nếu bị như vậy, thì phải làm cách nào?
            Tư Quýnh ngó ông Bảy:
            - Theo con biết, chỉ có một cách là rước thầy chùa về tụng niệm thôi bác à! Mà… bác gái có những hiện tượng đó không bác?
            Ông Bảy khẽ gật đầu, nước mắt lưng tròng:
            - Mầy đừng tiết lộ chuyện này ra ngoài nghen Tư? Mầy giúp bác đi Tư ơi, bác rối quá không biết làm sao nữa…
            Nhìn thấy cảnh tượng ông già đầu bạc đang ngồi khóc lặng lẽ trước mặt mình, Tư Quý thấy lòng xót xa vô hạn. Anh ngước nhìn ông an ủi:
            - Bác Bảy yên tâm đi, con không lộ chuyện ra đâu. Nếu bác cần thì ngay bây giờ con sẽ đi tìm thầy giúp cho bác, công việc của con cũng thường tiếp xúc với các sư thầy nên con quen biết nhiều…
            - Ừ, mầy giúp bác đi, bác giao hết cho mầy đó, Tư nghe!
            Ông Bảy nắm chặt hai bàn tay Tư Quýnh, run rẩy nói.
            Tiễn ông Bảy ra về, Tư quýnh cũng vội vã thay quần áo để lên chùa tìm sư cụ.
            Xế trưa hôm đó Tư Quýnh đã mời được vị sư trụ trì ở một ngôi chùa cách đó rất ra.
            Nhà ông Bảy lúc này các con ông đã tụ họp về đủ mặt, vì sức khỏe của bà Bảy cũng đã sắp cạn kiệt rồi. Từ sáng đến giờ bà chỉ còn thở thoi thóp, mắt nhắm lờ đờ, không còn sức sống.
            Vị sư cụ tay lần tràng hạt đứng trước giường người bệnh không nói một câu. Ông quan sát người bệnh một cách chăm chú rồi sau đó lấy ra mấy chiếc Phật ấn đưa cho Ba Thành, Tư Bo dặn hai người đem dán ở hai đầu chái nhà và trên nóc nhà.
            Một chiếc bàn nhỏ được dọn ra ngay giữa nhà làm nơi cho vị sư cụ trì tụng.
            Tụng đến ngày thứ ba, sư cụ gọi ông Bảy đến gần và dặn:
            - Lấy một tấm vải nhựa thật lớn và đặt người bệnh nằm lên đó, vì khi bài tụng cuối cùng này chấm dứt, người bệnh sẽ trút hơi thở sau cùng và thân xác nhanh chóng phân hủy. Bởi thật ra cái thân xác này đã chết từ mấy tháng trước rồi…
            Cha con ông Bảy vừa khóc vừa làm theo lời căn dặn của nhà sư.
            Bà Bảy được mọi người nhấc lên đạt nằm vào giữa tấm ni – lông trải trên giường, ông Bảy, Ba Thành, Tư Bo và Tư Quýnh đứng chực sẵn một bên, còn Hai Lê thì ngất lên ngất xuống.
            Đúng như lời nhà sư đã nói, bài kinh vừa chấm dứt, bà Bảy khẽ nảy mình một cái rồi thở hắt ra, ông Bảy và các chưa kịp kêu lên thì trong chớp mắt, thân xác bà tan rửa ra, dòi bọ lúc nhúc, một mùi hôi thối bốc lên nồng nặc.
            Ba Thành, Tư Bo và Tư Quýnh vội vã túm tấm ni – lông lại nhưng vẫn không ngăn được cái mùi khủng khiếp ấy.
            Cả làng lại một phen nhốn nháo.
            Hết
            Nguyễn Thị Mộng Thu 
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:30:36 bởi nguyenthu >
            #66
              nguyenthu 10.08.2009 21:56:29 (permalink)
              NGÔI NHÀ MA ÁM
               
              Vợ chồng Quý và Loan vừa cưới nhau hơn ba tháng. Toàn bộ số tiền mừng của hai họ hai vợ chồng được toàn quyền sử dụng để làm vốn làm ăn.
              Trước đây, Quý làm bảo vệ cho một công ty nước ngoài, lương cũng tạm đủ sống, Loan là thợ trong một tiệm uốn tóc gần đó, những lúc rỗi rãi Quý thường lân la sang chơi và tình cảm giữa họ phát sinh từ đó.
              Hai vợ chồng gom góp hết tiền dành dụm lâu nay, cộng với số tiền mừng cưới cũng được một số vốn không nhỏ.
              - Nếu em cứ làm thợ như vậy hoài thì biết chừng nào mình khá nổi, vả lại rồi mai kia sanh con, không đi làm được, một mình lương anh lo cho cả nhà thì khổ lắm. Mình phải nghĩ cách nào đi anh?
              Loan đề nghị.
              Quý gật đầu:
              - Ừ, anh cũng tính rồi. Ba má nói mình có thể buôn bán, nhưng anh thấy nghề này không thích hợp với cả anh và em, đúng không em?
              Loan ôm cổ chồng nũng nịu:
              - Đúng rồi đó anh, em sợ buôn bán lắm, em đâu có lanh lẹ bằng người ta, làm sao dám bon chen vào lãnh vực đó?
              Cô vuốt mái tóc đang phủ lòa xòa trên trán chồng, nói khẽ:
              - Hay… anh sang cho em một tiệm uốn tóc, mình tự đứng ra làm chủ nghen anh? Đời sống bây giờ khá giả, mấy bà mấy cô chăm chút nhan sắc mình ghê lắm. Em nghĩ làm nghề này vừa phù hợp với khả năng của em, lại vừa không sợ ế… Anh nghĩ sao?
              Quý choàng tay qua lưng vợ, cười tươi:
              - Hai đứa mình thiệt là tâm đồng ý hợp đó nghe em! Anh cũng tính nói với em ý đó…
              Loan mừng rỡ:
              - Thiệt vậy hả anh? Trời ơi, em mừng quá…
              Quý thật hạnh phúc khi nghĩ tới viễn cảnh đầm ấm của gia đình mình. Anh ôm chặt Loan vào lòng:
              - Tối nay anh với em sẽ về thăm hai bên nhà, trình bày ý kiến với cha mẹ, rồi ngày mai tốt ngày mình đi kiếm nhà luôn nghen em?
              Loan sung sướng dụi đầu vào ngực chồng. Mơ ước lâu nay của cô sắp thành hiện thực rồi, không mừng vui sao được!
               
              ***
              Xe đang chạy bon bon trên đường, Loan hấp tấp nói:
              - Kia! Đến rồi kìa anh!
              Quý cho xe chạy chậm lại rồi ngừng hẳn trước một tiệm uốn tóc nằm sát bên đường.
              Đứng ngoài nhìn vào, thấy căn tiệm này cũng rộng rãi nhưng có lẽ không được chủ nhân chăm sóc mấy nên nó có vẻ cũ kỹ, không mời gọi được khách hàng.
              Quý đã thầm nghĩ, nếu mình mà sang được, mình sẽ sửa chửa, tân trang lại thì nó sẽ trở thành một căn tiệm đẹp phải biết. Ai đi làm đẹp lại không muốn vào những nơi sang trọng, đẹp đẽ?
              Quý và Loan đẩy cửa bước vào tiệm.
              - Dạ, chào anh chị!
              Cô chủ tiệm đon đả.
              Quý tự giới thiệu:
              - Tôi là Quý, lúc nãy tôi đã có điện thoại cho chị!
              - À, vậy ra anh chị tới để xem tiệm? Dạ, mời anh chị, anh chị cứ nhiên nhe!
              Cô chủ tiệm cười tươi, đưa tay chỉ bao quát căn nhà có ý mời vợ chồng Quý xem qua.
              Vừa lúc đó có khách vào nên cô chủ tiệm quay sang phục vụ khách, để vợ chồng Quý tự nhiên.
              Quý bước vào trong xem thiết bị và phòng ốc trong tiệm. Tiệm tương đối cũ, thiết kế lại đơn giản. Từ ngòai vô trong thuôn đuột như nhà kho, chỉ có ngăn ra một phòng vệ sinh và phòng ăn nằm tuốt đằng sau. Trong phòng ăn có kê một bàn nhỏ trên đó có để một mâm trái cây, bát nhang, và mấy dĩa xôi chè.
              Loan tuy không lòng lắm về căn nhà nhưng Quý đã hứa với cô, nếu thỏa thuận được thì sau đó anh sẽ sửa chữa lại theo ý của cô. Mà Quý đã nói là làm nên Loan rất vững bụng.
              Căn tiệm này tuy có vẻ xấu xí nhưng được cái có vị trí tốt, mà giá sang tiệm lại rẻ một cách không ngờ, nếu bỏ qua cơ hội này là thật đáng tiếc.
              Quý đưa mắt hỏi dò Loan, cô khe khẽ gật đầu đáp lại để chồng hiểu ý mình cũng đã bằng lòng.
              Hai vợ chồng đi xem quanh quẩn khắp nhà, nhỏ to bàn bạc nhiều vấn đề một lúc lâu mới quay trở lại.
              Lúc này cô chủ tiệm đang gộ iđầu cho khách nên vợ chồng Quý ngồi cạnh đó xem ti vi.
              - Sao? Anh chị có bằng lòng với căn tiệm này không?
              Khi người khách vừa ra khỏi cửa, cô chủ tiệm hỏi.
              - Nói chung thì nếu nó thuộc về chúng tôi, chúng tôi sẽ phải sửa chữa lại rất nhiều đó cô ạ!
              Cô chủ tiệm có vẻ buồn buồn:
              - Dạ, anh nói cũng phải! Tại vì lâu nay tôi không hề sửa sang gì hết. Do hoàn cảnh gia đình, tôi biết mình không trụ lại đây lâu nên không dám bỏ tiền đầu tư vào đây. Tôi chỉ làm cầm chừng để kiếm cơm qua ngày thôi. Chứ thật ra ở khu vực này, nếu anh chị chịu đầu tư đàng hoàng, khuếch trtương thêm tí nữa thì khách sẽ ra vào nườm nượp đấy!
              - Biết vậy sao chị không làm? Ai thấy tiền mà lại chê cơ chứ?
              Quý cười cười.
              Cô chủ tiệm thở dài:
              - Không giấu gì anh chị, vợ chồng tôi mỗi người một nơi nên tôi cũng không dồn hết tâm trí vào đây được. Tôi cứ mong ngóng anh ấy mau mau ổn định để chúng tôi về chung sống bên nhau, vì thế nên tôi xem chỗ này như chỗ làm tạm bợ thôi. Hiện nay công việc làm ăn của chồng tôi đã ổn định rồi, đã đến lúc tôi về với anh ấy.
              - Lâu nay chị làm một mình, không có thợ phụ việc sao?
              Loan tò mò.
              Cô chủ tiệm cười duyên dáng:
              - Dạ không, có bốn đứa phụ việc chớ, nhưng tụi nó biết tôi sắp sang tiệm nên nhảy qua tiệm khác làm rồi. Mùa này sắp tết nên tiệm nào cũng cần thợ lắm, mình cũng phải tạo điều kiện cho tụi nó sống chứ. Tuy nhiên tôi cũng còn hai đứa “ruột”, hôm nay hai đứa nó đi ăn cưới. Hai đứa nó hứa sẽ ở với tôi đến ngày sau cùng!
              - Chị có thể giới thịêu hai cô ấy làm với tôi không? Nếu tôi tiếp quản tiệm này?
              Loan đề nghị.
              Cô chủ tiệm mừng rỡ:
              - Được vậy thì còn gì bằng! Hai đứa nó khéo léo lại biết lấy lòng khách, chị mà có được hai đứa là yên tâm rồi đó! Để tôi sẽ nói vào, thế nào tụi nó ưng, vì tụi nó gắn bó với tiệm này cũng lâu lắm rồi!
              - Mọi chuyện đều suông sẻ hết rồi, giờ mình gút lại chuyện tiền bạc đi! Tánh tôi mau lẹ nên làm gì cũng muốn giải quýet dứt khoát, khỏi phải tốn công đi tới đi lui năm bảy bận!
              Quý nhìn cô chủ tiệm chờ đợi.
              - Thì giá cả em đã đăng rõ ràng trên báo rồi!
              Cô chủ tiệm đứng lên vén tấm rèm cửa vừa bị gió thổi bay phất phơ.
              - Chị không bớt chút đỉnh sao? Tụi tôi còn phải sửa sang lại nhiều lắm…
              Quý kèo nài.
              Cô chủ tiệm nhăn mặt:
              - Dạ không được đâu anh ơi! Giá cả như vậy là quá rẻ rồi. Tại vì tôi cần sang gấp và lấy tiền một lần nên mới kêu giá đó cho được việc sớm, chứ nếu muốn thì tôi còn có thể nói giá cao hơn nhiều. Chắc anh chị cũng biết thời buổi này tấc đấc tấc vàng, ở vị trí này mà giá hời như vậy không tìm được chỗ thứ hai đâu…
              Quý và Loan vẫn biết sang được căn tiệm này với giá cả như vậy là điều may mắn hiếm có, nhưng hai vợ chồng vẫn cố nì nèo một lúc nữa, cuối cùng cô chủ tiệm nói dứt khoát:
              - Bây giờ tôi bớt cho anh chị đúng hai triệu. Nếu được thì chúng ta tiến hành thủ tục ngay, còn không thì tôi bán cho người khác.
              Cuộc mua bán diễn ra chóng vánh và hai tuần sau đó mọi giấy tờ hồ sơ đều đã hoàn tất, căn tiệm bây giờ đã thật sự là của vợ chồng Quý – Loan. Khỏi phải nói niềm vui của đôi vợ chồng trẻ đến thế nào! Đây sẽ vừa là tiệm, vừa là tổ ấm của hai vợ chồng mới cưới.
               
              ***
              Hôm vợ chồng Quý chính thức nhận căn tiệm, khi hai người chuẩn bị ra về thì gió mây vần vũ, bầu trời đen kịt, sấm chớp sáng lòa, rồi mưa như trút. Trần nhà bị dột ở chỗ phòng ăn, nơi có kê cái bàn thờ bữa nọ, nước chảy thấm vào tường rịn rịn thành dòng, rồi loang ra thành hình giống khuôn mặt với mái tóc dài thượt.
              Đang đứng đằng trước tiệm, tự nhiên Loan thấy lạnh, rùng mình, rồi buồn tiểu. Nàng vội vàng xuống phòng vệ sinh. Khi nàng vừa ra cửa thì trợt vũng nước té nằm sóng sòai.
              Nghe tiếng la phía sau, Quý vội chạy xuống vừa đỡ vợ dậy vừa lo lắng hỏi:
              - Trời ơi, em có bị làm sao không?
              - Không… em… tự nhiên em thấy choáng váng, chẳng biết tại sao nữa.
              Loan nói.
              - Giờ em thấy trong người sao rồi? Chút nữa anh đưa em đi khám bác sĩ nhé?
              Quý lo lắng.
              - Dạ không sao đâu anh, em khỏe rồi!
              Loan gượng cười nói để chồng an tâm, chứ thật ra trong lòng cô đang hồi hộp ghê lắm. Bởi vì lúc nãy Loan có cảm giác như có một ai đó xô cô té ngã chứ không phải là trượt té thông thường. Nhưng ở trong căn bếp này ngoài cô ra đâu còn ai?
              Quý đỡ Loan đứng lên, cô vừa phủi phủi quần áo vừa đưa mắt ngó khắp xung quanh, mọi vật vẫn bình thường, không có điều gì đáng chú ý, nhưng Loan hình như thấy có một cặp mắt nào đó luôn nhìn chăm chú vào người cô.
              Níu chặt tay vào người chồng, Loan giục:
              - Mình về đi anh! Mưa tạnh rồi!
              Ngoài trời mưa đã tạnh. Quý dẫn xe ra rồi trở lại khóa cửa cẩn thận. Vừa ngồi lên xe sau lưng chồng, Loan quay lại nhìn căn tiệm mà từ hôm nay mình sẽ là chủ với một niềm vui khôn tả, nhưng thật bất ngờ, cô thấy thấp thoáng một bóng người sau khung cửa kính.
              - Anh! Dừng lại đi anh!
              Loan hốt hoảng gọi.
              Quý thắng gấp, bánh xe rít lên và chiếc xe như muốn chồm lên phía trước.
              Anh quay lại hỏi vợ:
              - Có chuyện gì vậy em?
              - Em thấy… hình như có ai đó ở bên trong tiệm!
              Loan ấp úng.
              Quý nhìn cô ngạc nhiên:
              - Trời đất, em bị sao vậy? Lúc nãy em té có bị đập đầu xuống đất không vậy? Làm gì có ai ở trong đó?
              - Không mà… em thấy thật đó! Hình như là một người con gái!
              Loan ngước nhìn chồng đầy vẻ lo lắng.
              Quý xuống xe, dựng chống rồi nói:
              - Thôi được rồi, mình trở vô kiểm tra kỹ lại cho chắc ăn!
              Loan sợ hãi nép sát vào Quý. Hai vợ chồng đi từ nhà trước ra nhà sau, căn tiệm trống trơn không có chỗ cho bất kỳ ai lẩn trốn. Khi đã xem xét cẩn thận từ phòng ăn cho đến toa – lét, Quý nhìn vợ mỉm cười:
              - Giờ thì em yên tâm rồi nhé? Mới được làm bà chủ đã lo trộm viếng nhà mình rồi, em thiệt là…!
              Loan xấu hổ không biết nói gì với chồng, nhưng trong thâm tâm, cô vẫn nghĩ hình bóng lúc nãy mình thấy là thật, thật trăm phần trăm chứ không phải là ảo giác. Nhưng thật kỳ lạ, trong nhà lại không có ai! Hay là… hay đó là ma? Loan thoáng rùng mình với ý nghĩ đó, nhưng rất nhanh chóng cô đã xua đi bằng việc nghĩ tới người chủ cũ, người ta đã sống ở đây bao nhiêu lâu rồi, mình còn sợ gì!
              Lần thứ hai ngồi sau lưng chồng Loan ngoảnh nhìn lại căn tiệm của mình, nhưng lần này thì không có gì phía sau cánh cửa đóng im ỉm nữa. Lúc này Loan mới chịu nhận những lời của Quý là có lý. Có thể lúc nãy khi té ngã, Loan bị va chạm nhẹ, đầu óc còn choáng váng nên sinh ra ảo giác vậy thôi.
              Nghĩ vậy nên Loan yên lòng, áp mặt vào lưng chồng thủ thỉ:
              - Em vui quá anh ơi! Mình sắp có nhà, có tiệm rồi! Em sẽ cố gắng thật nhiều, vì tương lai của vợ chồng mình, của các con sau này…
              Quý cười:
              - Anh tin em sẽ làm tốt!
              Trời lại bắt đầu mưa lất phất. Quý cho xe tăng tốc để mau chóng về tới nhà, tránh cho vợ bị ướt, vì lúc chiều cả hai vợ chồng đều không mang theo áo mưa.
               
              ***
              Ban đầu Quý chỉ định thuê thợ lợp lại mái nhà chỗ bị dột và sửa chữa một vài chỗ không được ưng ý mà thôi, nhưng trong quá trình làm, anh phát hiện ra bức tường ngăn cách phòng ăn cũng đã hư hao khá nặng. Thế là Quý quyết định cho làm lại luôn.
              Loan bỗng đề nghị Quý nên xây thêm hai phòng, một phòng để se lông mặt, xăm mi xăm mắt…, còn một phòng để massa đấm bóp vì cả khu vực này chưa tiệm nào có dịch vụ này. Loan hy vọng khi mở thêm dịch vụ massa, tiệm của cô sẽ thu hút được một lượng khách sang đáng kể.
              Quý còn cho làm thêm một căn gác lửng để vợ chồng mình sẽ dọn tới ở hẳn tại tiệm, khỏi phải tốn tiền thuê nhà, mà việc trông coi tiệm được thuận lợi hơn.
              Đêm trước ngày phá bỏ bức tường, Quý nằm mơ thấy một người con gái có gương mặt buồn bã đứng ở đầu giường nói:
              - Anh không nên phá bức tường đó! Không nên…
              - Sao lại không chớ?
              Trong mơ Quý cãi lại nhưng không thắc mắc cô gái ấy là ai, tại sao lại ngăn cản mình việc đó.
              - Anh không cần biết! Nếu anh vẫn tiến hành thì anh đừng trách tôi nhé, anh sẽ phải đền bằng mạng sống của mình đó!
              Cô gái nghiêm giọng nói.
              Quý chưa kịp hỏi thêm câu nào thì cô gái đã thoắt đi ra cửa.
              Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, Quý nửa nghi nửa ngờ phân vân chưa biết làm sao, vội vã chạy xe đến tiệm thì thấy tốp thợ đã phá và ngăn phòng như anh đã giao hẹn với họ.
              Chỉ trong vài ngày sau đó, bốn phòng ngay ngắn vuông vức, đèn điện, trần nhà, ống nước, đã được lắp đặt hẳn hoi. Quý và Loan thật ngạc nhiên và hài lòng với tốc độ xây dựng nhanh chóng của nhóm thợ này.
              Lu bu với việc giúp vợ lắp đặt các thiết bị máy móc mới và cách sắp xếp sơn sửa tiệm nên Quý cũng quên đi cô gái trẻ đẹp đêm nọ.
              Ba tuần sau đó, vợ chồng Tiêm hòan tất công trình trùng tu và khai trương tiệm lại. Khách vào hòan tòan không nhận ra tiệm cũ. Họ tấm tắc trầm trồ khen ngợi thiết kế, kiểu mã của các cụm đèn trang trí trên tường, bức tranh, đồng hồ, và các bàn ghế thiết bị trông rất thanh lịch, ấm cúng, và hài hòa với màu sơn từơng của tiệm.
              Tiệm mới cộng với tài quản lý và đôi tay khéo léo của Loan và năm cô thợ mới vào, cộng với hai cô thợ đã làm lâu năm phát đạt rất nhanh.
              Song song với dịch vụ uốn tóc, làm móng tay và chân, dịch vụ xăm mắt xăm môi, dịch vụ massa cũng khá phát đạt.
              Khách tới massa ngày một đông, hầu hết là các bà sồn sồn, tiền của rủng rỉnh nhưng thân hình đã không còn săn chắc, thon thả. Các bà sẵn sàng bỏ ra thật nhiều tiền để níu kéo bằng được một chút gì đó của tuổi trẻ.
              Công việc làm ăn ngày càng phát đạt, Loan có lần đề nghị Quý nên nghỉ việc ở công ty mà về giúp cô trông coi tiệm, nhưng quý không đồng ý, anh nói anh không quen với công việc này, mỗi ngày ngồi nhìn các bà các cô ra vào để tân trang nhan sắc anh không thích chút nào.
              Cuộc sống của hai vợ chồng diễn ra êm đềm, hạnh phúc. Loan cũng không còn nhớ gì đến những sự việc lạ lùng diễn ra vào những ngày đầu nữa, và Quý cũng đã quên bẵng giấc mơ kỳ lạ trước đây.
              Một đêm Quý vắng nhà, do anh phải về quê dự lễ thượng thọ của một người trong dòng tộc. Còn lại một mình ở nhà, Loan lười biếng không thèm nấu cơm chiều, cô mua mấy ổ bánh mì về ăn tạm.
              Khi khách khứa đã về hết, mấy người thợ dọn dẹp nhà cửa xong xuối cũng đã lần lượt ra về. Loan nằm một mình trên gác vừa nhai bánh mì vừa xem chương trình ca nhạc trên ti vi.
              Bỗng cô nghe có tiếng nước chảy trong phòng tắm. Hơi ngạc nhiên vì Loan nhớ rõ ràng trwosc khi lên gác, cô đã loay hoay ở dưới bếp khá lâu, nếu mấy cô thợ có ai đó quên khóa vòi nước trong phòng tắm thì Loan cũng đã phát hiện ra rồi, chứ đâu đợi đến lúc này cô mới nghe tiếng nước chảy?
              Vặn nhỏ volum ti vi để lắng nghe xem lần nữa, Loan xác định đúng là tiếng nước chảy phát ra từ phòng tắm. Cô vội vã chạy xuống nhà, quả nhiên trong phòng tắm nước tràn lênh láng.
              - Chắc khi nãy cúp nước hay sao ấy?
              Vừa khóa vòi nước Loan vừa lẩm bẩm.
              Khóa nước và lấy chổi quét sơ phòng tắm xong, Loan lại trở lên gác xem ti vi tiếp. Kohảng chừng ba mươi phút sau, Loan lại nghe có tiếng nước chảy.
              - Trời, tại sao kỳ vậy?
              Loan hồi hộp khi thấy vòi nước trong nhà tắm đang tuôn xối xả.
              - Chắc cái vòi này bị hư rồi! Mai anh Quý về mình phải nói ảnh thay cái khác mới được! Thiệt là bực mình, cái vòi này mới lắp có mấy tháng đã hư rồi!
              Loan lầm bầm một mình rồi đi tới khóa chặt van ở đồng hồ nước.
              Xem hết chương trình ca nhạc, Loan bấm remod lung tung mà không thấy đài nào có chương trình hay nữa nên cô tắt ti vi rồi vô mùng nằm ngủ.
              Vừa mới mơ màng, Loan nghe có tiếng gõ cửa. Giật mình choàng dậy, Loan thắc mắc ai lại gọi cửa giờ này? Chẳng lẽ anh Quý về sao? Mà không đâu, lễ thượng thọ sáng mai mới tiến hành, làm sao tối nay anh Quý về được!
              Loan lo lắng nên không dám xuống dưới nhà, cô đứng trên gác hỏi vọng xuống:
              - Ai đó? Ai gọi cửa giờ này?
              Không có tiếng trả lời, chỉ có tiếng gõ cửa ngày một gấp rút.
              Loan sợ quá, cô lùi dần vào giường rồi trèo lên nằm trùm mền kín mít. Cô biết nếu tới đứng cạnh cửa sổ nhìn xuống có thể thấy được người đang gõ cửa nhà mình, nhưng Loan lại không dám đi tới đó. Bây giờ đã gần mười một đêm rồi, chẳng lẽ còn có đứa con nít nào phá phách chọc ghẹo gì mình sao?
              Cô nhớ lại những câu chuyện đã từng xem qua hoặc nghe kể lại, có những trường hợp kẻ gian cố tình gọi cửa để nói gì đấy, để khi chủ nhà vừa mở cửa ra là chúng xông vào, giết hại chủ nhà và cướp đi toàn bộ tài sản.
              Càng nghĩ Loan càng run rẩy. Cô không sợ bị cướp, vì thật ra trong nhà cô lúc này đâu có tiền bạc của cải gì đâu, khi sang tiệm và sửa chữa lại gần như toàn bộ căn nhà, vốn liếng của hai vợ chồng không đủ nên phải vay mượn của hai bên gia đình, mấy tháng nay tuy làm ăn khấm khá nhưng tiền kiếm được đều phải đem trả nợ hết, hai vợ chồng chưa kịp tích lũy gì được.
              Nhưng điều đó thì kẻ gian đâu biết được, thấy mình làm ăn rần rần, khách ra vào nườm nượp chắc chúng tưởng mình giàu có lắm, chúng biết tối nay không có anh quý ở nhà, mình mà lạng quạng tụi nó giết chết oan mạng!
              Loan nằm im không dám thở mạnh. Tiếng gõ cửa dwosi nhà lúc chậm lúc nhanh, lúc thong thả như đùa chơi lúc lại dồn dập cấp bách.
              Loan thầm mong những nhà kế bên nghe thấy, nhưng tuyệt nhiên cả khu phố như chìm sâu vào giấc ngủ, cả tiếng xe cộ ngoài đường cũng vắng hẳn. Có lúc Loan muốn hét lên kêu cứu, nhưng cả đến điều đó cô cũng không dám.
              Khoảng một tiếng đồng hồ sau tiếng gõ cửa im bặt. Thay vào đó là tiếng gió thổi hù hù giống như trời đang chuyển mưa to. Sắp tết rồi, sao trời lại nổi giông kỳ cục vậy?
              Từng làn gió lạnh buốt luồn qua các khe hở tràn vào nhà, thổi thốc các tấm rèm cửa. Cánh cửa sổ phía sau dù đã đóng kín nhưng vẫn dập rầm rầm, Loan cũng không dám ngồi lên để đi chêm lại.
              Cô càng co rúc người trong chiếc mền dày mịn màng, nhưng hai tai và đầu óc lại căng ra để nghe ngóng từng tiếng động bên ngoài.
              Gió thổi trên ngọn cây bên hè nghe như tiếng rú rít của bầy ma quái. Và rồi bỗng chốc những tiếng rú ấy chuyển sang một âm điệu nhẹ nhàng hơn, nghe như tiếng than thở hay tiếng khóc ti tỉ của một người nào đó.
              Loan sợ quá, cô bịt chặt hai tai lại nhưng những âm thanh quái ác đó cứ xoáy vào tai cô rõ mồn một. Nước mắt Loan trào ra, chưa bao giờ cô thấy cần có Quý bên cạnh như lúc này. Nếu có Quý, chắc chắn cô sẽ vững tâm hơn rất nhiều, dù đó có là gì đi nữa!
              Một lúc sau, tiếng gió ngừng thổi, tiếng khóc than cũng ngừng theo. Đêm lại trở về với sự tịch mịch, im vắng thwofng ngày của nó.
              Loan khóc một lúc nữa rồi cô ngủ thiếp đi. Đêm ấy, cô đã mơ những giấc mơ kỳ quái. Trong mơ, có một người con gái xinh đẹp nhưng gương mặt lại buồn rũ rượi, người con gái ấy đến bên Loan, chạm tay vào cô, một luồng hơi lạnh như nước đá ngấm vào da thịt Loan khiến cô choàng tỉnh. Đèn trong phòng ngủ vẫn còn sáng trưng, Loan nhìn quanh quất không thấy gì. Cô cố trấn tĩnh mình rằng chắc do lúc nãy quá sợ hãi nên nằm mơ thấy bậy bạ.
              Nhưng trong giấc mơ kế tiếp, Loan vẫn thấy đúng người con gái lúc nãy. Lần này cô ta không chạm vào người Loan nữa mà chỉ đứng lặng một bên nhìn Loan, nhìn thật chăm chú rồi bỗng thở dài thườn thượt.
              Đêm đó Loan mơ liên tiếp ba lần. Cả ba lần đều gặp người con gái kỳ lạ ấy!
              Tỉnh dậy lần thứ ba, Loan nhìn đồng hồ thấy mới hơn ba giờ sáng, nhưng cô không dám ngủ tiếp mà nằm mở mắt đếm thời gian, mong mỏi cho trời mau sáng.
              Ngoài đường đã nghe có tiếng xe, tiếng người qua lại. Loan có phần hơi an tâm. Giữa lúc này, cảm giác buồn tiểu lại đến. Loan cố nín nhịn nhưng không được, cô cắn răng ngồi dậy đi xuống thang gác.
              Loan mở sáng tất cả đèn trong nhà, nghe tiếng động nhà kế bên, biết bên đó người ta cũng đã thức giấc nên trong lòng Loan mừng lắm. Cô cố tình nện gót thật mạnh xuống sàn nhà, cố tình khua động bất kỳ thứ gì tay cô chạm vào để tiếng động lấn át đi nỗi sợ hãi trong cô.
              Khi vào toa – lét, theo thói quen sau khi đi vệ sinh Loan lại xả nước. Nước tuôn ào ào. Cô đến bên la-va-bô vặn vòi nước để rửa tay, nước cũng tuôn xối xả.
              Đang rửa tay, bất chợt Loan nhớ mình đã khóa đồng hồ nước lại rồi, tại sao bây giờ nước vẫn chảy?
              Hốt hoảng, Loan chạy tới bên đồng hồ nước xem xét thì thấy van đã được mở ra rồi!
              - Trời ơi, mình điên lên mất!
              Loan ôm đầu khổ sở. Cô còn trẻ, trí óc còn minh mẫn, cô không nghĩ mình có thể lẩn thẩn đến độ đó. Những việc cô làm cô nhớ rất rõ, thế thì tại sao lại xảy ra việc này?
              Loan chạy trở lên gác, đèn vẫn để sáng khắp nhà.
              Khi ánh nắng mặt trời chiếu thẳng vào giường mình, Laon vẫn chưa dám ngồi dậy. Cô vừa sợ, vừa mệt mỏi rã rời sau những việc xảy ra đêm qua nên cứ nằm im trên giường, đầu óc mải miết nghĩ suy để tìm ra lời giải thích cho hiện tượng lạ lùng đó.
              - Chị Loan ơi, chị Loan! Ngủ gì nướng ghê vậy? Khét nghẹt rồi kìa chị ơi!
              Xuân – cô thợ vui tính đứng trước cửa hét vang lên.
              Loan mừng hơn bắt được vàng, cô vội vã tung mền chạy xuống mở cửa cho Xuân.
              - Ý trời, chị làm sao thế này? Bộ chị bệnh hả?
              Xuân kêu lên khi nhìn thấy bộ dạng bèo nhèo của Loan.
              Loan muốn đem toàn bộ chuyện đêm qua ra kể hết với Xuân để có người chia sẻ. Nhưng rồi cô nghĩ lại, chuyện này không nên để lộ ra ngoài, người ta đồn đại không tốt cho việc làm ăn của tiệm. Nghĩ vậy nên Loan gượng gạo trả lời Xuân:
              - Ừ… Tối qua chị mệt nên không ngủ được!
              Xuân bật cười:
              - Chồng mới đi vắng có một đêm đã không chịu được rồi sao bà chị?
              Loan phát nhẹ vào vai Xuân:
              - Đồ quỷ! Nghĩ đi đâu thế? Người ta bệnh chứ bộ…
              Xuân vừa né người tránh vừa cười hăng hắc.
              - Giỡn với chị chút cho vui thôi! Chị lên nghỉ đi, để em dọn tiệm cho!
              Xuân cầm chổi bắt đầu quét dọn. Ở tiệm này, theo quy định của Loan, mỗi ngày các cô thay phiên nhau một người tới sớm để quét dọn và giúp Loan mở cửa đón khách. Loan đưa ra nhiều quy định và yêu cầu các cô thợ phải thực hiện nghiêm túc, đồng thời các khoản lương và đãi ngộ của Loan dành cho thợ khá tốt nên cả toán thợ đều vui vẻ chấp nhận. Vả lại tính tình của vợ chồng Loan dễ gần, Loan cũng đã từng làm thợ cho người ta nên cô hiểu được tâm lý của thợ mà đối đãi với họ nên có đowjc cảm tình với họ.
              Tiệm có bảy người thợ, cả bảy đều mến Loan và coi Loan như người chị trong gia đình. Khi có chuyện vui buồn gì họ cũng tâm sự, có khi chủ và thợ đùa giỡn với nhau giống y như bạn bè cùng giai cấp.
              Mà nói vậy cũng không sai, Loan chưa bào giờ có ý nghĩ mình là chủ và các cô kia là người làm thuê của mình. Trong đầu cô luôn coi họ như chị em, cùng làm cùng hưởng.
              Loan mỉm cười với Xuân rồi trở lên gác. Bây giờ cô đã có thể an tâm mà ngủ một giấc đàng hoàng, bù cho đêm qua.
              - Em làm sao vậy?
              Một bàn tay đặt nhẹ lên trán Loan làm cô giật mình thức dậy. Trước mắt cô là Quý, gương mặt anh căng ra vì lo lắng.
              Vừa trông thấy Quý, Loan mừng rỡ ngồi lên ôm chầm lấy anh và khóc thút thít.
              - Em, em sao vậy?
              Quý hoảng hốt.
              Loan lau nước mắt, thổn thức kể lại những chuyện xảy ra đêm qua, cô cố hạ thấp giọng để những người thợ dưới nhà không nghe được.
              Quý ôm vợ vào lòng an ủi:
              - Trán em hâm hấp sốt nè, chắc tại em nhuốm bệnh lại ở nhà một mình, hoang mang lo lắng nên mới tưởng tượng ra bậy bạ như vậy thôi em à! Thôi, từ nay anh không để em ở nhà một mình nữa đâu. Anh đâu có biết vợ anh nhát hơn thỏ đế vầy nè!
              Loan lắc đầu:
              - Không phải! Em chắc chắc không phải tất cả những sự việc đó là do em tưởng tượng ra! Xưa nay em cũng không phải là đứa nhát gan lắm đâu anh à!
              Quý xoa dịu:
              - Ừ, ừ… thôi được rồi, để tối nay anh rình bắt hết mấy con ma đó, nó dám làm vợ yêu quý của anh sợ đến nông nỗi này…
              Loan vừa mắc cười vừa giận vì thái độ của chồng:
              - Em nói thiệt mà anh cứ coi em như một đứa con nít…
              Quý cười xòa, đứng lên lấy nwosc và thuốc đem tới tận giường dỗ cho vợ uống. Giờ đây có Quý bên cạnh rồi, tự nhiên bao nhiêu nỗi sợ hãi lo âu của Loan biến đâu mất hết. Cô ngoan ngoãn uống thuốc, ngoan ngoãn nằm xuống giường ngủ tiếp. Và lúc này mới thật sự là giấc ngủ bình yên không mộng mị đến với Loan.
               
              ***
              - Chị Loan, chị có cất cây kéo của em đâu không?
              Hà, thợ làm đầu giỏi của tiệm hỏi Loan.
              Loan ngạc nhiên:
              - Ủa, sao em lại hỏi chị? Có khi nào chị cất đồ đạc của mấy đứa đâu? Các em tự cất đồ của mình trước khi đóng cửa tiệm mà!
              Hà thất vọng:
              - Dạ, rõ ràng tối qua em để cây kéo vô hộc bàn trwosc khi về, vậy mà giờ không thấy đâu, em hỏi chị cầu may vậy mà, hy vọng tối qua chị lấy nó làm gì đó mà chưa cất vào…
              - Đâu có! Chị đâu có lấy kéo làm gì? Tối qua lúc các em về là chị cũng tắt đèn lên gác luôn, có biết gì đâu? Em tìm lại xem có để lẫn lộn đâu đó mà quên không?
              Loan nhắc nhở.
              Hà vừa lục tung các hộc bàn hộc tủ vừa lầm bầm  mãi một câu:
              - Lạ thiệt! Lạ thiệt đó! Y như là có ma giấu!
              Tìm khắp nơi không thấy, Hà bực mình không thèm tìm nữa mà lấy cây kéo khác để sử dụng, nhưng cô vẫn thích cây kéo đã mất nhiều hơn.
              Trưa hôm đó, lúc tiệm vắng khách, Xuân chạy ra đường mua mấy trái ổi vào bày ra ăn uống. Lúc xuống bếp lấy dao, Phương bỗng reo lên:
              - Ê, Hà ơi, cây kéo của mầy nằm đây nè!
              Hà vội buông bịt muối ớt xuống, chạy ra nhà sau, cây kéo của Hà đang nằm ở chỗ dùng để giắt dao. Mừng rỡ, Hà chụp lấy nó cười thật tươi:
              - Tao dám chắc bà Loan nhà mình chứ hổng ai! Bả lấy rồi quên đó thôi!
              Phương cùng cười, gật đầu đồng tình:
              - Ừ, chắc vậy!
              Chuyện đó rồi cũng trôi qua, Hà và Phương cũng không nói gì với Loan vì nghĩ cô quên. Nhưng rồi liên tiếp những ngày sau đó, đám thợ trong nhà cứ hết mất thứ này lại đến thứ khác. Ngày nào cũng có người la oai oái và lùng sục tìm tòi đồ của mình.
              Lạ một điều, tất cả những thứ đó không mất đi đâu, mà chúng chỉ nằm ở những vị trí hết sức kỳ cục! Khi thì nằm ở chỗ để lược, kem đánh răng trong phòng tắm, khi thì nằm trong ống đũa muỗng, khi trong sống chén, tủ lạnh… vân vân, nói chung là chỗ nào cũng có thể có, những chỗ mà dù cho đám thợ có vô ý đến đâu cũng không thể nào để nhầm được.
              Một hai ngày đầu thì không ai quan tâm lắm, tìm được đồ của mình rồi thôi, nhưng khi sự việc đó cứ liên tiếp xảy ra, lặp đi lặp lại mỗi ngày thì tất cả đều hoang mang đem chuyện đó nói với Loan.
              Trước mặt đám thợ, Loan cố ra vẻ bình tĩnh để trấn an họ, nhưng thật ra trong lòng Loan đang run sợ lắm. Cô có cảm giác trong nhà mình có điều gì đó không bình thường đang xảy ra, cảm giác này luôn túc trực bên Loan từ cái đêm khủng khiếp trước đó.
              - Anh à, hổm nay nhà mình xảy ra nhiều chuyện lạ quá đi!
              Tối hôm đó Loan mở lời với Quý.
              - Chuỵên gì mà lạ vậy em?
              Quý ngạc nhiên hỏi vợ. Nhưng khi Loan kể lại tỉ mỉ sự việc Quý lại cười xòa:
              - Trời đất, cứ tưởng chuyện gì động trời lắm! Em nên nhớ mấy cô thợ của em đang ở vào lứa tuổi mơ mộng, bởi vậy chuyện quên nhớ của họ cũng bình thường thôi em à, không có gì lớn đâu…
              Loan muốn cãi lại chồng, nhưng cô thật sự không biết lấy bằng chứng gì để nói. Quý là người không tin dị đoan, anh không tin vào ma quỷ thần thánh gì hết. Bởi vậy hôm mới sang lại tiệm, cô chủ cũ có dặn nhỏ với Loan:
              - Muốn làm ăn tốt, tôi nghĩ chị nên cúng kiếng thường xuyên!
              Loan cũng định làm theo lời khuyên của người chủ cũ, nhưng Quý lại gạt phắt đi:
              - Em ơi, bây giờ đã là thế kỷ nào rồi mà còn đi tin vào ba cái chuyện vớ vẩn như vậy? Người ta đã lên tận cung trăng rồi nhé em!
              Loan không muốn làm phật lòng chồng nên cô cũng bỏ qua luôn việc cúng kiếng. Bây giờ tiệm xảy ra những việc này, cộng với việc đêm hôm trước làm Loan hoang mang ghê lắm.
              - Hà ơi, em làm ở đây lâu năm rồi phải không?
              Một buổi, Loan kêu Hà lại nói chuyện.
              - Dạ, em làm lâu rồi, có gì không chị?
              Hà ngạc nhiên hỏi.
              Loan cười:
              - Không, đâu có gì! Chị chỉ muốn hỏi em một việc mà lâu nay chị thắc mắc hoài. Thường thì chị thấy các tiệm khác ngwofi ta chỉ có bàn thờ ông Địa và Thần Tài thôi, nhưng khi mới vô tiệm này chị lại thấy người ta cúng nguyên một mâm trái cây, chè xôi là sao vậy em? Mà lại cúng ở nhà sau nữa mới kỳ!
              Hà ngập ngừng một chút rồi nói:
              - Chuyện này là em nghe kể lại, không biết hư thực ra sao nghen! Em nghe nói nhà này có ma, người chủ cũ thường xuyên bị ma nhát nen phải cúng đều đặn mỗi ngày như vậy đó!
              Loan cố gắng giữ cho giọng mình bớt run:
              - Rồi cúng như vậy, ma còn nhát không em?
              Hà e dè đáp:
              - Em nghe đâu chị chủ trước vẫn cứ bị nhát hoài nên mới vội vã bán đổ bán tháo căn tiệm này đó chị. Tiệm làm ăn được lắm, chỉ tội chuyện đó, nên những người ở quanh đây thèm lắm mà họ đâu dám mua. Hồi anh chị mới về em cũng định hỏi nhưng thấy mọi người vẫn sống yên ổn, em nghĩ “ma bắt cũng coi mặt người ta”.
              Rồi Hà đột ngột hạ giọng:
              - Mà em hỏi thiệt, từ hồi về đây tới giờ, chị có thấy gì lạ chưa?
              Loan chối:
              - Không, chị đâu có thấy gì lạ đâu…
              Hà thở phào nhẹ nhõm:
              - Vậy là mừng rồi!
              Sau cuộc nói chuyện với Hà, Loan định bụng sáng mai sẽ đi chợ mua một mâm trái cây và nấu bữa cơm thịnh soạn để cúng, nhưng cô biết nếu nói ra Quý sẽ lại cười cô giống “mấy bà già âm lịch”, vì vậy Laon quyết định sẽ không nói gì với Quý.
              Tối đó Loan ngủ sớm, quý vẫn còn thức xem đá bóng trên ti vi. Đang hào hứng với những pha bóng đẹp mắt, Quý nghe tiếng gõ cửa gấp rút dưới nhà. Anh giật mình chạy xuống, vừa nhìn qua khe cửa vừa hỏi:
              - Ai? Ai kêu cửa giờ này?
              Bên ngoài không có một ai, ánh trăng mười sáu sáng rỡ, soi rõ cả một khoảng sân.
              - Thiệt tình, đứa nào giờ này còn đi phá phách!
              Quý lầm bầm quay vô. Nhưng khi anh vừa xoay người thì tiếng gõ cửa lại vang lên như thúc giục. Một lần nữa Quý nhìn ra ngoài, bên ngoài cũng chẳng có ai, nhưng tiếng gõ cửa vẫn vang lên rõ mồn một.
              Lần đầu tiên trong đời, quý cảm thấy rùng mình.
              Anh cố gắng xua đuổi những ý nghĩ không hay, cố gắng quên đi tiếng gõ cửa bí ẩn ấy. Đi vội ra nhà sau, Quý vốc nước rửa mặt. Vừa ngẩng lên, anh thoáng thấy bóng một người đang phản chiếu trong tấm gương trước mặt. Nhìn kỹ, Quý nhận ra đó rõ ràng là một cô gái có nét mặt quen quen, dường như anh đã gặp ở đâu đó rồi. Aùnh mắt cô gái nhìn anh thật lạ.
              Quay phắt người lại, Quý thấy sau lưng mình không có ai, nhìn trở lại chiếc gương, bóng cô gái khi nãy cũng đã biến mất.
              Vừa sợ, vừa bực mình, Quý di nhanh lên gác. Loan vẫn đang ngủ say trên giường, nhưng lúc nãy trước khi đi xuống nhà, rõ ràng Quý đang xem chương trình đá bóng của đài Thành phố, nhưng bây giờ ti vi lại đang ở đài Tây Ninh!
              Quý chụp vội remod tắt phụt tivi rồi lên giường nằm cạnh vợ. Anh bắt đầu nhớ lại tuần tự những sự việc đã xảy ra, nhớ lại giấc mơ và những gì vợ kể lại.
              Cuối cùng, Quý cũng phải công nhận một điều ở nhà mình đang diễn ra hiện tượng không bình thường!
              Quý trở mình nằm xoay mặt vào trong. Loan đã ngủ say, nét mặt cô đẹp một vẻ ngây thơ dịu dàng khiến Quý càng ngày càng thấy thương yêu vợ nhiều hơn nữa. Anh biết, cửa tiệm này là mơ ước lớn nhất trong đời Loan, nó lại đang làm ăn phát đạt, hai vợ chồng anh không thể vì chuyện ma cỏ quấy rối mà sang lại tiệm được. Nhưng nếu cứ để tình trạng này kéo dài thì vợ chồng Quý cũng không còn sức lực đâu mà làm việc, mà thợ thầy dần dần cũng sẽ bỏ đi hết mà thôi!
              Hay cho vợ mình cúng kiếng đi? Quý thầm nghĩ, nhưng rồi anh chợt nhớ lại ngày đầu tiên đến coi tiệm, cô chủ trước cũng cúng một đầy, vậy mà vẫn sang tiệm một cách gấp rút, cô ấy nói lý do là về sống với chồng, nhưng nguyên nhân sâu xa có lẽ chính là vì chuỵên này đây. Hèn gì lúc đó Quý cũng đã lấy làm thắc mắc, không hiểu vì sao một căn tiệm ở vị trí tốt vậy, lại sang với giá rẻ mạt mà không thấy ai đến coi. Chắc là họ đã dò la biết được chuyện gì rồi, chỉ có vợ chồng anh là ngây thơ, đọc báo xòn là gọi điện tới liền, không chị đi dò hỏi gì xung quanh hết!
              - Không… không… tui sợ.. Á…. Aù……
              Tiếng hét của Loan làm Quý giạt bắn người. Anh ôm vợ vào lòng lay gọi:
              - Loan, Loan ơi! Tỉnh dậy đi em! Em mơ gì mà la dữ thế?
              Loan nấc lên mấy cái rồi mới choàng tỉnh, ngơ ngác nhìn xung quanh.
              - Anh đây! Em gặp ác mộng à?
              Quý áp má vào cô, ân cần hỏi.
              - Anh ơi… em sợ quá! Em lại thấy cô gái hôm trước…
              - Em ngủ đi, không sao đâu chỉ là mơ thôi mà! Có anh đây rồi, em yên tâm ngủ đi!
              Quý dỗ dành. Lần này anh không còn dũng khí để mắng Loan là người dị đoan mê tín nữa.
              Loan ôm chặt chồng, thổn thức:
              - Anh ơi… em không chịu đựng nổi những chuyện thế này đâu! Chắc có ngày em điên mất! Anh phải tin em, có những chuyện em thấy rõ ràng chứ không phải trong giấc mơ đâu anh ạ… Mình phải làm gì đây anh?
              Quý vuốt tóc vợ, buồn buồn:
              - Ừ, anh tin em rồi! Nhưng anh cũng không biết phải làm sao đây? Cả hai vợ chòng mình đều non nớt, chưa biết xửa lý những việc như thế này ra sao cả!
              Loan chợt nhớ ra, cô mừng rõ reo lên:
              - Em nhớ ra rồi! Ngày mai em sẽ về kể hết với mẹ, chắc chắc mẹ sẽ có cách giúp vợ chồng mình!
              Quý ái ngại:
              - Có được không em? Hay lại bị ba má mắng cho một trận rằng con bé này hư quá, đã lấy chồng ở riêng rồi mà chỉ mỗi việc trông chừng nhà nó cũng phải cầu cứu đến mẹ?
              Loan phì cười:
              - Nếu mẹ nói vậy em sẽ thưa rằng: Mẹ ơi, ai biểu mẹ tuyệt vời quá chi, nên bất cứ chuỵên gì con cũng muốn mẹ giúp đỡ…
              Hai vợ chồng lại tạm gác qua một bên những nổi sợ hãi mà đùa giỡn vui cười với nhau. Tuổi trẻ vốn thế, khóc đó rồi lại bật cười như nắc nẻ đó!
               
              ***
               
              Thấy Loan về chơi bất thường, bà mẹ mừng rỡ:
              - Công việc làm ăn thế nào rồi mà bỏ đi đó con?
              Loan cười:
              - Dạ, công việc cũng tốt lắm mẹ ạ!
              Hai mẹ con rối rít thăm hỏi chuyện vãn một lúc lâu sau Loan mới ôm mẹ khẽ nói:
              - Mẹ, hôm nay con về thăm ba mẹ, đồng thời cũng muốn nhờ mẹ giúp con một việc…
              - Gì đây cô nương? Vợ chồng con cần vốn để khuếch trương cái tiệm đó thêm ra nữa sao?
              Bà mẹ đoán.
              Loan vội lắc đầu:
              - Dạ không! Đời sống vợ chồng con đã tạm ổn, chúng con đâu dám làm phiền cha mẹ thêm về tiền bạc. Con chỉ muốn mẹ giúp con… trừ ma!
              - Trừ ma?
              Bà mẹ ngạc nhiên hỏi lại.
              Loan gật đầu, gương mặt buồn thiu:
              - Dạ. Tiệm con đang làm ăn ngày một tốt hơn, nhưng mấy lúc gần đây hình như ma quái lộng hành quá mẹ ạ! Con sợ…
              - Chuyện thế nào con kể tỉ mỉ cho nghe xem!
              Bà mẹ không giấu được vẻ lo lắng.
              Loan thuật lại tất cả những điều lạ lùng mà cô gặp phải từ lúc té ngã trong nhà tắm cho đến tận hôm nay. Bà mẹ chăm chú lắng nghe, đôi chân mày nhíu lại vẻ suy nghĩ.
              - Để mẹ tới ở với con ít ngày!
              Cuối cùng bà mẹ quyết định.
              Loan rất đỗi vui mừng, vì cô luôn tin tưởng mẹ sẽ có cách nào đó giúp vợ chồng cô trừ được hết yêu ma quỷ quái để công việc làm ăn của cô diễn ra suông sẻ, vui tươi.
              Thế là bà Tư mẹ Loan chờ ông Tư về, trình bày lại sự việc một lần nữa cho ông Tư nghe rồi xin phép ông đến ở với con và rể vài ngày xem tình hình thực tế ra sao rồi mới định lịeu được.
              Ông Tư cũng lo không kém. Tuy là đàn ông nhưng vì thuở còn trai trẻ ông đã từng sống ở vùng rừng thiêng nước độc một thời gian dài, cho nên những chuyện mà nhiều người khi nghe qua có thể cho là hoang đường, nhưng với ông Tư thì ông biết điều đó rất có thể xảy ra. Ông tin và sợ các đấng vô hình, kể cả trời phật, thánh thần hay yêu ma quỷ quái.
              Ngay hôm đầu tiên tới ở nhà Loan bà Tư đã gặp sự cốởtosi đó, sau khi thợ thầy về hết, Quý dọn chiếc giường xếp để giữa nhà, anh dự định sẽ ngủ dưới nhà để mẹ và vợ ngủ trên gác, nhưng bà Tư nhất định không nghe.
              - Mẹ tới đây là để coi tình hình ra sao, chứ đâu phải tới nói chuyện tâm tình với con Loan! Với nó thì còn bao nhiêu là thời gian… Cứ để mẹ ngủ ở đây, con à!
              Thuyết phục mẹ vợ không được, Quý cẩn thận mắc màn cho mẹ xong xuôi rồi mới lên gác.
              Đêm khuya, đèn trong nhà đã tắt hết chỉ chừa lại một bóng cà na màu đỏ quạch ở bàn thờ ông Địa đặt sát tường. Ở trên gác cũng chỉ có ánh đèn ngủ mờ mờ chiếu xuống.
              Lạ nhà, bà Tư cứ trằn trọc hoài không ngủ được. Bà lắng tai nghe, hình như có tiếng nước chảy ri rỉ dưới nhà tắm. Bà lồm cồm ngồi dậy chui ra khỏi mùng, không mở đèn mà cứ để ánh sáng mờ ảo ấy, đi chân trần xuống bếp.
              Bà bật đèn trong phòng tắm để kiểm tra thì thấy nước không phải chảy ra từ vòi mà chảy từ trên trần nhà xuống.
              - Lạ kìa, trời đâu có mưa?
              Bà Tư lẩm bẩm.
              Bà đứng im, ngước mặt lên quan sát dòng nước ngoằn ngoèo đang nhỏ tong tong xuống đất. Bất giác khi vô tình lướt mắt ngang qua tấm gương treo trên tường, bà hốt hoảng khi thấy một đôi mắt đang mở to nhìn bà. Định thần nhìn kỹ lại, bà thấy đó là một người con gái trạc tuổi hai mươi sáu, hai mươi bảy gì đó. Hình cô gái hiện rất rõ trong gương, nhưng mỗi khi bà Tư quay lại để tìm người thật thì thấy sau lưng chỉ là một khoảnh tường tróc sơn, không có một người nào.
              Biết mình đã bị ma quỷ đùa cợt, bà Tư lẩm nhẩm trong mịêng bài kinh Cứu khổ cứu nạn của Bạch y Quán Thế Aâm Bồ Tát. Mỗi lần bà đọc đến chữ “Mô phật” là hình ảnh trong gương mờ dần, mờ dần.
              Đọc bài kinh qua mấy lượt, rồi bà Tư lại chuyển sang khấn với vong hồn:
              - Hồn sống khôn thác thiêng, nếu có gì uất ức níu kéo không cho hồn đi đầu thai kiếp khác được, xin hồn cứ đến đây gặp tôi để báo mộng. Nếu có thể giúp gì được cho hồn, nhất định gia đình chúng tôi không quản ngại. Chỉ xin hồn đừng làm các con tôi lo lắng, sợ hãi, xin cho nó được làm ăn lương thiện để kiếm cơm… Cúi xin hồn hiểu cho tấm lòng của một bà mẹ…
              Cái bóng trong gương đã hoàn toàn biến mất. Bà Tư xem xét chung quanh một tí nữa rồi tắt đèn, lặng lẽ trở lên nhà trên.
              Lúc bà còn mơ màng, chưa kịp ngủ thì thấy có một người con gái đến ngồi cạnh giường, hình như có điều gì buồn phiền đau khổ lắm.
              Bà Tư muốn cất tiếng hỏi, nhưng không hiểu sao bà lại không thể phát ra lời. Lòng bà cũng hồi hộp lắm, nhưng từ lúc về làm vợ ông Tư, bà luôn được ông chỉ dạy rằng, ma quỷ không đáng sợ bằng những con người làm điều ác.
              Cô gái ngồi một lúc rồi bỏ đi, không nói tiếng nào.
              Sáng hôm sau, bà Tư đích thân đi chợ mua thức ăn về làm một mâm cơm thịnh soạn để cúng cho những người  "khuất mặt khuất mày”.
              Nhưng có lẽ hồn ma trong ngôi nhà này không cần những bữa cơm!
              Tối đêm đó, khi vào phòng vệ sinh, Loan chỉ khép hờ cửa nhưng lúc ra cô lại không mở được, như đã bị khóa từ bên ngoài. Loan còn đang lúng túng, chưa kịp lên tiếng gọi mẹ và chồng gíup đỡ, thì một luồng hơi lạnh ngắt phả ra ngay sau lưng cô. Giật mình quay lại, Loan suýt đứng tim khi thấy phía sau cô là một người con gái  trên người đầm đìa máu.
              Không kịp kêu lên một tiếng, Loan ngã xuống bất tỉnh.
              Ở bên ngoài, Quý giúp mẹ vợ dọn cơm xong, chờ mãi vẫn không thấy Loan ra, anh gọi đùa:
              - Loan ơi, em ngủ quên trong đó hay sao thế?
              Không nghe tiếng Loan trả lời, Quý lặng im nghe ngóng, bên trong cũng hoàn toàn không có tiếng động nào.
              Vội vã bước tới kéo cửa phòng tắm ra, Quý la lớn:
              - Trời ơi, mẹ ơi, Loan bị làm sao rồi…
              Bà mẹ hoảng hốt chạy tới giúp Quý đỡ Loan ra để nằm trên chiếc giường xếp cạnh đó, hai người hối hả xức dầu, xoa bóp giúp cho Loan hồi tỉnh.
              - Ma… có ma…
              Vừa mở mắt ra được, Loan đã lắp bắp nói với mẹ, bàn tay run rẩy chỉ vào phòng tắm.
              - Không sao rồi! Đã có mẹ và anh, em đừng lo! Em nghỉ cho khỏe chút đi rồi kể lại sự việc cho anh biết.
              Quý vừa đỡ Loan ngồi dậy vừa an ủi.
              Loan ôm chặt lấy Quý, cố vẫn chưa hết sợ hãi:
              - Em thấy rõ lắm… một người con gái… mình mẩy toàn máu… đứng trong đó… làm sao bây giờ anh ơi? Mẹ ơi… con sợ quá…
              Bà Tư đau đớn ôm con gái, không biết nói sao. Mấy hôm nay thấy Loan có vẻ tiều tụy bà rất lo lắng, nếu để tình trạng này cứ tiếp tục xảy ra, một là Loan lo sợ quá sẽ hóa điên, hoặc hai con bà phải bán lại ngôi tiệm này mất!
              - Tội nghiệp hai đứa nhỏ, vừa mới gầy dựng được nơi này, nếu phải bán đi chắc chúng nó sẽ phải đau khổ lắm. Không! Không thể được! Bằng mọi giá, mẹ sẽ giúp các con giữ lại căn tiệm này!
              Bà Tư thầm nghĩ trong bụng.
              Chờ cho Loan qua cơn hoảng loạn, cả nhà ngồi vào bàn ăn cơm, nhưng không khí thật nặng nề. Ai cũng cố gắng nhai trệu trạo cho xong.
              - Ban đầu con không tin việc này mẹ à, nhưng rồi… đến giờ con cũng phải tin là có thật!
              Quý mệt mỏi nói.
              - Chắc tụi con phải sang lại tiệm thôi mẹ! Con sợ vợ con bị ảnh hưởng việc này…
              Quý vừa dứt lời, Loan giật mình rơm rớm nước mắt:
              - Anh… không… đừng sang lại tiệm anh ơi!
              Quý ôm đầu:
              - Anh cũng không muốn! Nhưng chúng ta có thể sống mãi với những nỗi lo lắng, bất an thế này không?
              - Các con khoan nói tới chuyện sang tiệm, cứ để đó cho mẹ. Mẹ sẽ tìm cách giải quyết việc này.
              Bà Tư cắt lời con rể.
              - Mẹ có cách gì hả mẹ?
              Loan nhìn bà Tư chờ đợi.
              Bà Tư trầm ngâm giây lát rồi khẽ nói:
              - Theo mẹ nghĩ, ma thì cũng như con người thôi. Mẹ cũng đã gặp qua hồn của cô gái ấy. Có lẽ cô gặp phải một điều gì đó nên hồn vía không siêu thoát được nên mới lảng vảng mãi nơi này. Cô liên tiếp hiện ra chắc có điều gì muốn chúng ta giúp đỡ. Mẹ hy vọng, cô ấy sẽ trình bày rõ để chúng ta còn biết đường mà giúp.
              - Nếu có gì cần, tại sao cô ấy không nói ngay mà cứ thoắt ẩn thoắt hiện làm khổ người khác chứ?
              Quý nói với vẻ bực bội.
              Bà Tư nghiêm mặt:
              - Quý! Con không nên nói như vậy! Giữa người và ma là hai thế giới cách biệt nhau, thế giới nào cũng có những quy luật riêng của nó, đâu phải muốn nói là nói, muốn làm gì thì làm đâu con! Nhiều khi phải chờ đợi khi cơ duyên đến…
              Quý không dám cãi lại lời mẹ vợ, nhưng anh thật sự tức tối sự sự quấy rối của bóng ma người con gái ấy.
              Loan ủ rũ ngồi bên cạnh, không nói lời nào. Cô đang tưởng tượng tới cảnh phải sang lại cửa tiệm này, khi ấy vợ chồng cô lại tiếp tục đi làm thuê làm mướn, biết khi nào có được cơ hội để có riêng cho mình một căn tiệm như ý thế này?
              Thấy con gái đăm chiêu lo lắng, bà Tư an ủi:
              - Con đừng quá buồn phiền như vậy. Sáng mai mẹ sẽ lên chùa, trình bày hết mọi việc với nhà sư trụ trì, có thể mẹ sẽ xin lá bùa về để giữ yên lành trong nhà trong cửa… Nhưng việc này mẹ làm vì bất đắc dĩ thôi. Bởi mẹ biết, nếu như hồn ma kia bị bùa trấn áp thì lại càng không siêu thoát được… Chút nữa mẹ sẽ cầu nguyện, nếu như cô gái ấy thật sự có điều gì oan khuất, cần chúng ta giúp đỡ thì nên báo mộng cho mẹ biết…
              Loan tuy không tin tưởng lắm vào sức mạnh của bùa phép như mẹ nói, nhưng giữa lúc này cô giống như kẻ đang bơi giữa biển, bất cứ một cành cây trôi dạt nào cũng có thể trở thành chiếc phao quý giá để cô bấu víu vào đó.
              Khi hai con đã lên gác, bà Tư lặng lẽ kéo chiếc bàn nhỏ ra để giữa nhà, lặng lẽ thắp nhang khấn vái. Bà khấn giống như đang thầm thì kể chuyện với một người thân.
              Đến tận nửa đêm, bà Tư mới vào giường nằm ngủ. Nhưng bà chưa kịp nhắm mắt thì cô gái đã hiện ra đứng sát bên giường.
              Đè nén sự sợ hãi, bà Tư muốn cất tiếng hỏi, nhưng lúc này bà mới phát hiện ra mình không thể thốt nên lời, cả chân tay bà cũng không sao cử động được.
              Nằm im như khúc gỗ, bà Tư chỉ biết giương mắt nhìn chăm chú vào cô gái. Đó là một cô gái trạc tuổi với Loan, gương mặt buồn rượi, trên người đẫm máu, máu bết cả một nửa mái tóc dài.
              Cô gái đứng im một lúc lâu rồi từ từ quỳ sụp xuống lạy bà Tư, vừa lạy vừa khóc:
              - Con xin lỗi vì đã gây ra cho gia đình những chuyện không vui… nhưng thật sự con rất cần sự giúp đỡ mà không biết phải làm sao… May nhờ hôm nay lời cầu nguyện của bà được chứng giám, nên con mới có thể cất tiếng kể rõ hoàn cảnh với bà… Cách đây hơn mười năm, khi chỗ này còn là bãi đất trống, con đã bị người ta hãm hại, giết chết rồi chôn xác tại đây… Gia đình con đã tìm kiếm mỏi mòn mà vẫn không có được chút tin tức nào của con cả. Sau này, khi người ta mua đất cất nhà, người ta lại vô tình làm phòng tắm ngay trên chỗ con nằm. Từ đó, con đã phải chịu biết bao điều khổ sở… con xin bà thương con, hãy báo cho gia đình con biết…
              Bà Tư tuy không nhúc nhích cửa động và nói nên lời được, nhưng đầu óc bà vẫn rất tỉnh táo. Nghe cô gái nói đến đó, bà rất muốn hỏi biết gia đình cô ở đâu mà báo, nhưng bà không sao hỏi được.
              Chừng như đoán được ý nghĩ của bà Tư, cô gái nói tiếp:
              - Bà không phải lo, sáng ngày mai, người khách đầu tiên của tiệm là em gái của con… Bà cứ nói với nó, chị gái nó tên Như, có đeo một chiếc vòng tay bằng bạc có khắc dấu của gia đình, hiện nay chiếc vòng đó vẫn còn nằm chung với xwong cốt của con… Bà giúp con, bà nhé?
              Cô gái lại sụp xuống lạy thêm ba lạy nữa rồi vụt biến mất như chưa từng tồn tại trước đó. Bà Tư lồm cồm ngồi dậy, mồ hôi rịn ra ướt trán.
              Bà thắp mấy nén nhang và nói:
              - Cô yên tâm, tôi sẽ làm hết khả năng của mình để giúp cô…
              Sáng hôm sau, khi vợ chồng Quý vừa thức dậy, bà Tư vội gọi hai con ngồi lại để bàn bạc.
              - Tối qua cô gái ấy đã hiện về…
              Quý và Loan sững sờ trước câu thông báo ngắn gọn của bà Tư.
              - Cô ấy hiện về?
              Quý ngạc nhiên hỏi lại mẹ.
              Bà Tư gật đầu:
              - Đúng! Cô ấy hiện về và nói với rằng, hơn mười năm trước cô ấy bị người ta giết chết rồi chôn xác ở tại đây. Sau này người ta xây nhà, vì không biết nên làm phòng tắm ngay trên chỗ cô ấy nằm…
              - Thôi đúng rồi! Con nhớ ra rồi…
              Quý chợt la lên làm mọi người giật mình.
              - Chuyện gì con?
              Bà Tư hỏi.
              Loan không nói gì nhưng nhìn chồng chăm chú.
              Quý ôm đầu, kể:
              - Lúc mới mua căn tiệm này, con đã từng ngủ chiêm bao gặp cô ấy, và nhớ hình như cô ấy cũng có đề nghị với con là nên dời nhà tắm đi chỗ khác, nhưng rồi sáng ra con cứ nghĩ đó là chuyện chiêm bao bậy bạ thông thường, vả lại nhà tắm nằm chỗ đó cũng tiện rồi, không cần sửa đổ igì nữa hết, nên bỏ qua luôn, ai dè…
              - Rồi bây giờ mình phải làm sao hở mẹ? Dời nhà tắm đi à?
              Loan lo lắng hỏi.
              Bà Tư gật gù:
              - Dời là một lẽ, nhưng điều cần thiết nhất là phải báo cho gia đình cô ấy biết để đến nhận lại hài cốt của cô…
              - Báo cho gia đình cô ta? Trời… mình biết gia đình cổ ở đâu mà báo bây giờ?
              Quý la lên.
              Bà Tư cười:
              - Con không lo, cô ấy có nói, người khách đầu tiên của tiệm trong ngày hôm nay sẽ là em gái của cô ấy…
              Bà Tư kể lại tỉ mỉ chuyện xảy ra hồi đêm cho hai con nghe. Loan và Quý vừa mừng lại vừa lo lắng.
              Hôm đó nhằm ngày chủ nhật nên Quý không đi làm. Thương những ngày nghỉ như thế này anh thường chở vợ đi chơi hoặc về thăm cha mẹ hai bên, nhưng hôm nay cả nhà đều tập trung dưới nhà để chờ đợi người khách đầu tiên xuất hiện.
              Các cô thợ đã tới đông đủ, cửa tiệm đã được bày biện sạch sẽ khang trang rồi mà mãi tới hơn chín giờ sáng vẫn không có một người nào ghé qua.
              Xuân vừa chẳy tóc cho Diễm vừa than:
              - Hôm nay không biết sao tiệm ế dữ vậy ta?
              Nhưng cô không biết trong lòng những người chủ của cô còn nôn nóng gấp mấy lần!
              - Dạ, mời chị vào ạ! Chị muốn làm gì ạ?
              Tiếng chào mời khách đon đả của Hà làm bà Tư và vợ chồng Loan giật mình cùng ngó ra cửa.
              Một cô gái chừng mười chín, hai mươi tuổi, vai khoác ba lô tươi cười bước vào. Cô đặt chiếc ba lô lên ghế rồi nói:
              - Dạ… mấy chị làm móng giùm em đi! Em đi ngang đây tự nhiên xe hư, phải bỏ sửa ở tiệm kế bên. Ngồi bên đó nóng nực, với lại đầy mùi dầu mỡ nên em ghé vô tiệm làm móng luôn…
              Xuân nhanh nhẹn đem mấy thau nhỏ đựng nước ra để cô gái ngâm chân tay.
              - Nhà em không ở gần đây sao?
              Loan gợi chuyện.
              - Dạ không, em ở tuốt trên Thủ Đức, đi học dưới này.
              Cô gái vừa để hai tay vào thau nước vừa cười nói:
              - Mấy chị có tin không, từ hồi nhỏ tới giờ em chưa đi làm móng lần nào, tự nhiên hôm nay nổi hứng…
              Thấy cô gái vui vẻ xởi lởi, Loan tiếp tục:
              - Em học Đại học à?
              - Dạ, em học năm ba rồi chị. Mẹ em cứ giục học hành nhưng lên để đi lấy chồng…
              Cô gái nhanh nhảu kể chuyện.
              Loan cười xòa:
              - Chắc nhà có một mình em là gái nên mẹ em lo chứ gì?
              Cô gái gật đầu:
              - Dạ. Nhà chỉ có hai mẹ con. Ba em mất lâu rồi, hồi em còn nhỏ lận. Mà đúng ra em còn có người chị nữa, nhưng… chị ấy mất tích hơn mười năm rồi, gia đình em đã tìm kiếm khắp nơi, đăng báo suốt mấy năm trời mà vẫn không có tin gì của chị ấy…
              Nghe cô gái nói thế, Loan càng thêm hồi hộp. Cô rất muốn nói rõ mọi chuyện nhưng vì dưới nhà hiện có mặt nhiều thợ thầy, Loan không thể nói hết được, cô đành giả vờ:
              - Không biết có phải chị của em tên Như không? Đó là bạn của chị… chị thấy em giống Như quá…
              Cô gái nhổm ngay dậy:
              - Dạ… đúng rồi chị! Chị của em tên Như. Chị… chị có biết tin tức gì của chị ấy không?
              Loan còn đang ấp úng chưa biết trả lời sao thì quý đã xen vào:
              - Hay em đưa cô bé lên gác lấy hình Như cho cô xem đúng không đi?
              Loan mừng rỡ:
              - Ừ, em bỏ mấy thau nước đó đi, theo chị lên gác chút xíu…
              Cô gái nghe tin tức về người chị đã thất lạc từ lâu của mình, hấp tấp đứng lên bwosc theo Loan lên gác. Bà Tư và Quý cũng theo sau.
              Mấy cô thợ dưới nhà ngơ ngác nhìn theo chủ.
              - Chị Loan hôm nay bị gì vậy trời? Mới người khách mở hàng đầu tiên mà cũng không để người ta làm cho trọn vẹn?
              Xuân lẩm bẩm.
              Loan kéo ghế mời cô gái ngồi và nói:
              - Chị xin lỗi vì đã phải gạt em lên đây…
              Vừa nghe Loan nói vậy, cô gái hoảng hốt nhổm người lên, nhưng Laon đã vộ ivàng trấn an:
              - Em yên tâm, chị không có ý đồ gì xấu đâu… Chỉ là thật sự chị không có hình ảnh gì của chị Như cả, mà chị chỉ muốn cho em biết tin tức của chị ấy, ở dưới chị không tiện nói…
              Nhìn vẻ mặt chân thật hiền lành của những người chủ nhà, cô gái đã yên tâm phần nào nhưng vẫn không tránh khỏi hồi hộp vì sự bí mật này.
              - Chị biết tin tức của chị em?
              Cô gái hỏi lại.
              Loan gật đầu.
              - Đêm hôm qua bác đã gặp chị của con!
              Bà Tư nói.
              Cô gái kinh ngạc nhìn sững vào mặt bà Tư. Cô không nhận thấy ở đó có một dấu vết nào của sự đùa cợt hay gian trá.
              - Chị con hiện về báo cho bác biết…
              Bà Tư đem toàn bộ sự việc ra kể lại cho cô gái nghe. Gương mặt cô gái từ đỏ hồng giờ đã chuyển qua xanh tái.
              - Thật sự… chị con… đã… đã chết?
              Cô gái lắp bắp hỏi.
              Bà Tư khe khẽ lắc đầu:
              - Bác cũng không biết chắc, chỉ là chị con hiện về nói với bác như vậy. Chị con còn cho biết, trên tay chị con có đeo một chiếc vòng bằng bạc, trên đó có khắc dấu của gia đình… Bác chỉ biết có vậy thôi con à…
              Cô bé kêu lên:
              - Vậy thì đúng rồi! Hai chị em con mỗi đứa đều có một chiếc vòng, nhưng giờ con không đeo nữa vì nó chật rồi…
              - Nếu bây giờ nhìn thấy chiếc vòng đó, cô và mẹ cô có thể nhìn ra đúng là của nhà mình không?
              Quý tò mò hỏi.
              Cô gái gật đầu quả quyết:
              - Dạ, nhất định là mẹ em và em sẽ nhìn ra ngay thôi!
              Quý thở phào nhẹ nhõm:
              - Vậy thì được rồi! Vậy hôm nay cô về báo cho mẹ biết tin, ngay ngày mai tôi sẽ cho thợ nghỉ, tiệm tạm đóng cửa ít hôm để phá bỏ cái nhà tắm, xem xét mọi việc có đúng như vậy không nhé?
              Cô gái mừng rỡ:
              - Dạ, nếu được vậy thì may mắn cho mẹ con em quá, em xin cảm ơn gia đình ta…
              Như đã thỏa thuận trước, hôm sau tiệm đóng cửa, Loan cho các cô thợ nghỉ việc ba hôm với lý do để xây lạ inhà tắm cho đúng với phong thủy.
              Mới sáng sớm, mẹ con Thảo – em gái Như – đã có mặt ở nhà Loan, tất cả đều hồi hộp chờ đợi chờ tới khi toán thợ bổ những nhát cuốc đầu tiên xuống nền nhà tắm…
              Quả đúng với những gì hồn ma cô gái đã nói với bà Tư. Ngay dưới nhà tắm, không sâu lắm là một bộ xương người mà không khó khăn gì mẹ Thảo đã xác nhận đó chính là Như, vì ngoài chiếc vòng bạc vẫn còn mắc trên xương cánh tay, còn nhiều vật khác làm bằng chứng.
              Bà mẹ vừa đau đớn, vừa mừng vì đã tìm được con mình sau hơn mười năm trời khắc khoải kiếm tìm, lo lắng, dù giờ đây đứa con gái thương yêu chỉ còn lại nắm xương tàn, nhưng đó cũng là nguồn an ủi lớn với một bà mẹ như bà…
              Bà Tư nấu mâm cơm cúng cho Như và hai gia đình thống nhất sẽ lấy ngày này để làm giỗ cho Như hàng năm. Vợ chồng Loan cũng hứa sẽ coi Như và Thảo như em của mình, hai gia đình kết tình thân thiết từ một sự bất ngờ ngoài ý muốn.
              Từ khi hài cốt Như được gia đình đưa về an táng đàng hoàng, cửa tiệm của Loan đã không còn xảy ra những việc kỳ lạ nữa và công việc làm ăn ngày một trôi chảy. Loan thầm nghĩ chắc chắn cô cũng được sự phù hộ của vong linh Như.
              Nhiều năm trôi qua, dù hai vợ chồng Loan luôn bận bịu vì công việc ngày càng phát đạt và bận vì con cái, nhưng hàng năm đến ngày giỗ của Như chưa bao giờ vợ chồng Loan quên.
              Ngày đó, họ tổ chức một bữa tiệc nhỏ, để nhớ ngày Như được về đoàn tụ với gia đình!
              Hết
              Nguyễn Thị Mộng Thu
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:32:19 bởi nguyenthu >
              #67
                nguyenthu 10.08.2009 21:57:44 (permalink)
                MÁU NHUỘM ĐẢO HOANG
                 
                Câu chuyện bắt đầu ở một làng chài nhỏ ven biển miền Trung.
                Nghe nói những người đầu tiên đến sống ở đây là những người dân ở miền Bắc không chịu được nạn đói vào những năm thiếu kém nên mới tập nhau đi dần về phương Nam tha phương cầu thực.
                Chuyến hành trình đầy gian khổ của họ đã cướp đi sinh mạng của hơn một nửa số người. Phần lớn những người chết là vì đói rét và bệnh tật.
                Cho đến ngày họ đến được vùng biển này thì cả đoàn người chỉ còn lại khoảng vài chục. Một phần là vì họ đã quá mệt mỏi vì đã đi qua một đoạn đường quá dài, một phần là do cuộc sống ở vùng biển này cũng khá ổn. Vừa có rừng, núi và biển lại không xa thị trấn là mấy nên họ đã quyết định sống định cư ở đây.
                Họ lấy gỗ trong rừng về làm nhà, đóng thuyền. Cuộc sống những năm đầu ở đây cũng hết sức khó khăn nhưng nhờ lòng quyết tâm nên họ cũng vượt qua được.
                Ở ngọn đèo gần nơi họ định cư lúc ấy có một ngôi nhà nguy nga tráng lệ của một thương nhân ở Sài Gòn xây lên để cùng vợ con đến đây nghỉ ngơi sau những chuyến buôn bán lớn từ nước ngoài trở về.
                Do đồng cảm với những người ở đây, vì ông cũng là người từ Bắc vào và cũng xuất thân từ tầng lớp nghèo hèn giống như họ, nên ông thường xuyên giúp đỡ những người dân sinh sống trong làng.
                Ông sẵn sàng bày vẽ cách làm ăn cũng như cho mỗi một gia đình mượn một số tiền nhỏ để làm vốn.
                Nhờ vào sự giúp đỡ tận tình của người thương gia giàu có ấy mà chỉ hơn năm năm sau ngày định cư ở đây, người dân làng chài này đã có được một cuộc sống ổn định.
                Tối tối họ ra biển đánh cá, sáng thì vợ con họ mang những gì chồng, cha mình bắt được trong đêm đem ra chợ buôn bán. Cuộc sống tuy vất vả nhưng thật hạnh phúc.
                Sau đó không lâu, có một toán cướp xuất hiện ở vùng này.
                Ban đầu người ta đồn ầm lên có cướp về làng, nhưng tuyệt nhiên cuộc sống của người dân trong làng vẫn được diễn ra một cách yên bình. Thành thử, theo thời gian, dân làng cũng không còn đề phòng gì nữa, những kẻ được gọi là “bọn cướp”, đối với người dân ở đây cũng trở thành những người láng giềng dễ mến.
                Họ có cướp của giết người hay không, không ai xác định được. Nhưng nếu có đi chăng nữa thì sự việc ấy cũng diễn ra ở một nơi nào đó, ngoài phạm vi ngôi làng này.
                Nhưng tai họa bỗng chốc đổ ập xuống, tang thương xảy đến tại nơi đây, lại nhằm vào đúng gia đình của một người nhân đức, là người ơn của toàn thể dân làng.
                Nghe nói vì thấy tài sản kếch sù của người thương nhân giàu có và tốt bụng ấy nên họ đã nổi lòng tham vào nhà cướp hết tài sản của người thương nhân.
                Và độc ác hơn, chúng đã giết chết tất cả những người có mặt trong nhà rồi châm lửa đốt sạch. Kể cả đứa con trai chưa đầy một tuổi của ông cũng phải cùng chung số phận.
                Lúc đó, cả làng đã khóc thương cho người ân nhân xấu số, và ai cũng căm thù lũ cướp bất nhân.
                Họ đã sát cánh cùng chính quyền địa phương vây bắt lũ cướp, quyết không để một tên nào chạy thoát.
                Bọn cướp không ngờ những người láng giềng vốn thường ngày hiền lành như cỏ của họ hôm nay đã quay mặt trở thành đối thủ, chúng có thể lẩn tránh nhà chức trách một cách dễ như trở bàn tay, nhưng tránh được người dân trong vùng là điều không thể.
                Không phải mất nhiều thời gian và công sức, dân làng nhà nhà chức trách địa phương đã tóm gọn băng cướp.
                Phiên tòa xử tội bọn cướp có đông đủ dân làng đến tham dự, người nào cũng mang theo nỗi bất bình và lòng căm hận.
                Trong phiên tòa, bọn chúng đã nhận hết  tội lỗi ở các vụ án xảy ra trước đó ở các khu vực xung quanh, nhưng tất cả đều khăng khăng không chịu nhận tội cướp của, giết người và đốt sạch gia đình người thương nhân đó.
                Người ta suy đoán, có lẽ ở các vụ án trước, tài sản chúng cướp đi không lớn lắm, vả lại nạn nhân chỉ là một hoặc hai người chết, hoặc chỉ bị thương.
                Còn lần này, tội ác chất chồng vì cả nhà người nhân trên dưới chục người đều bị tàn sát, của cải mất sạch, nhà cửa ra tro.
                Sự việc trọng đại như vậy chúng không dám nhận cũng là lẽ đương nhiên.
                Nhưng dù chúng có nhận tội hay không thì cuối cùng, dưới áp lực của quần chúng và những chứng cứ mà dân làng thu nhặt được, toà án cũng tuyên bố xử tử hình cả băng cướp năm người.
                Không bao lâu sau bản án được thi hành. Vì người thương nhân đó là một người lương thiện và là một Mạnh Thường Quân chuyên đóng góp tiền của cho địa phương nên mọi người quyết định án tử hình năm tên cướp ấy ở ngay sân vườn của ngôi nhà mà gần mười mạng người đã chết thảm trong đó.
                Nghe dân làng kể lại, hôm ấy trời mưa như trút nước, có lẽ nhà Trời đang khóc thương cho số phận bi thảm của cả gia đình người thương nhân.
                Trước khi chết, bọn cướp đứa nào cũng khóc và luôn miệng thề thốt rằng chúng không hề dính dáng vào chuyện này.
                Tiếng khóc than của chúng cũng khiến những người đến xem phải chạnh lòng.
                Dù hết sức căm thù chúng nhưng tất cả dân làng lại bị tiếng kêu la thảm thiết ấy làm cho họ không dám nhìn vào bọn cướp khi chúng bị tử hình.
                Mỗi một tiếng súng như xé toạt bầu trời, và sau mỗi lần như vậy, tiếng kêu la của những tên còn lại lại càng dữ dội hơn, thảm thiết hơn.
                Chỉ còn lại một tên cuối cùng, cũng là tên đầu đảng.
                Hắn không khóc than như những tên trước mà trước khi chết hắn đã la lên rất to, tiếng la của hắn ăn sâu ăn sâu vào tâm trí của tất cả những người đến xem, họ nhớ mãi dù thời gian đã trải qua mấy mươi năm.
                Tiếng thét của hắn lớn hơn tiếng mưa, át cả tiếng gió:
                - Ta thề trước vong linh của những người đã chết trong ngôi nhà này, nếu bọn ta đúng là hung thủ thì cho bọn ta vạn kiếp không thể siêu thoát, vạn kiếp phải làm thân ngạ quỷ bị đoạ đày dưới âm phủ, còn nếu như có ai đó ném đá giấu tay, cố tình hãm hại bọn ta thì xin tất cả những oan hồn chết trong căn nhà này hãy cùng ta sống lại để ….
                Hắn chưa kịp nói hết câu thì tiếng súng đanh nhọn vang lên kết liễu cuộc đời một tên tướng cướp.
                Khi hắn ngã xuống, ánh mắt ngập tràn sự thù hận của hắn hướng thẳng về phía đám đông làm mọi người bất chợt rùng mình.
                Bỗng dưng họ cảm thấy bứt rứt như vừa gây ra một lỗi lầm gì đó rất lớn.
                Sau đó cả làng được phép chôn xác bọn cướp ở cạnh bên những ngôi mộ của gia đình người thương nhân ở phía sau vườn nhà. Vì hiện tại gia đình người thương nhân không còn ai là người thừa kế, khu vực này trở nên đất hoang, vô chủ.
                Sau khi mọi việc đã đâu vào đó thì bỗng dưng râm ran có nhiều tin đồn rằng bọn cướp bị chết oan và hàng đêm chúng vẫn hiện về than khóc, thề rằng sẽ tìm ra thủ phạm.
                Nhưng tất cả những lời đồn đại ấy rồi cũng chìm vào quên lãng. Người dân ở làng chài cũng thôi không nhắc tới những chuyện đau lòng đã qua. Cuộc sống của họ lại trở về với nhịp điệu quen thuộc hàng ngày.
                Thời gian thắm thoát trôi qua, mới đó mà đã hơn bốn mươi năm trôi qua, cuộc sống của người dân ngày càng sung túc.
                Làng chài nhỏ bé ngày nào chỉ lưa thưa hơn hai mươi hộ gia đình, bây giờ đã trở nên tấp nập đông vui.
                Ngày ngày, cánh lái buôn đổ xô về đây mua bán. Vùng biển này vốn còn rất hoang sơ nhưng phong cảnh lại hữu tình hiếm có.
                Một vài người có đầu óc kinh doanh từ nơi khác đã khám phá ra được vị thế đắt địa của vùng này nên đã không ngừng đầu tư vào khai thác xây dựng, biến nơi đây trở thành một địa điểm du lịch, nghỉ ngơi dưỡng sức được nhiều người biết đến.
                Tuy tất cả đã đổi thay nhiều, nhưng ngôi nhà cháy ở trên ngọn đồi đằng xa kia vẫn còn là một nơi âm u lạnh lẽo, ít ai dám bén mảng đến, nhất là vào ban đêm.
                Trước kia, con đường từ dưới chân đồi dẫn lên ngôi nhà được trải sỏi, hai bên là hai hàng phi lao cao vút, giờ đây con đường ấy đã bị xuống cấp, hư hỏng theo thời gian, không ai tu bổ nên bây giờ chỉ là một con đwofng sình đất, cỏ hoang rậm rạp, chỉ còn lại một lối mòn nhỏ ngoằn ngoèo chủ yếu do những đứa trẻ chăn trâu và những người đi hái củi tạo nên.
                Cách chỗ ngôi nhà khoảng hơn một trăm mét, giờ đây đã có một con đường trải nhựa phẳng lì chạy thẳng qua tới thị trấn phía bên kia. Chiều chiều du khách thường thả bộ hóng gió nên con đường cũng bớt đi phần nào sự vắng vẻ.
                Bọn trẻ con trong làng, đứa nào cũng nghe qua câu chuyện xảy ra hơn bốn mươi năm trước cùng với những lời đồn thổi, những oan hồn bạt gió đêm đêm… nên chẳng đứa nào dám bén mảng một mình đến đó.
                Hàng năm, người dân trong làng đều tụ tập về đó để cúng bái cầu nguyện các vong linh, nhất là các vong linh trong gia đình người thương nhân tốt bụng giúp cho họ được no ấm, thanh bình. Đồng thời họ cũng thỉnh các vị cao tăng đến đó đọc kinh cầu an siêu độ cho những người chết.
                Họ coi nơi đó là nơi linh thiêng, là nơi quỷ thần hội tụ, nên có chuyện cần thề thốt là họ lại dắt nhau lên đó để tạo thêm phần đảm bảo cho lời thề nguyện của mình.
                Mọi việc cứ diễn ra đều đặn hết năm này sang năm khác như thế, thế hệ trẻ lớn lên cũng bắt chước cha anh mình, vừa sợ hãi vừa tôn kính khu đất hoang vu ấy.
                Cho đến một ngày, có một bọn cướp khác do bị truy đuổi gắt gao nên đã kéo về lánh mặt ở đây.
                Bọn chúng quây quần cùng nhau trong ngôi nhà gần như đổ nát ấy để chia chác món tiền mà chúng vừa mới cướp được.
                Không hiểu chúng phân chia thế nào mà đã xảy ra tranh chấp. Cả ba thằng đàn em hợp nhau làm phản, giết chết tên đầu đảng để cướp hết tiền của hắn.
                Nhưng khi cả ba tên cướp vừa xuống tới thị trấn thì đã bị cảnh sát tóm gọn.
                Hình ảnh tên cướp đầu đảng bị dàn em bắn một phát ngay giữa đỉnh đàu, mắt mở trừng trừng mang đầy oán hận khiến cho dân làng nhớ lại hình ảnh khủng khiếp và tiếng thét cuối cùng của tên cướp cách đay mấy mươi năm.
                Sự việc vừa xảy ra thì cả làng lại đồn ầm lên về sự báo thù của những người đã chết trong căn nhà này năm xưa.
                Mọi việc lại càng trở nên căng thẳng hơn khi nghe những tin tức vô cùng kỳ lạ, bí hiểm xảy ra từ chỗ giam giữ ba tên cướp vừa mới bị bắt vài ngày trước.
                Trong lúc hắn đang bị cảnh sát hỏi cung thì bỗng ngã lăn ra, máu chảy từ hai bên mắt, mũi, miệng, hai lỗ tai đỏ lòm cả người hắn.
                Cũng trong lúc ấy, một tên khác đang ở trong phòng giam bỗng nhiên bị ngộp thở, mắt mở trừng trừng, lưỡi thè dài ra, hai tay cào cấu, vùng vẫy như muốn thoát ra khỏi một sức mạnh vô hình nào đó đang siết chặt cổ mình.
                Dù đã được những người bị giam cùng phòng phát hiện nhưng hắn vẫn không sao thoát khỏi cái chết lạ lùng.
                Sau hai cái chết bí ẩn và rùng rợn của hai tên đồng bọn, tên cuối cùng còn lại phải sống trong tình trạng vô cùng hoảng loạn, hắn trở thành người nửa điên nửa tỉnh, luôn miệng van xin:
                - Đại ca… xin đại ca tha cho tụi em… Tụi em đã lỡ động lòng tham nên mới giết chết đại ca… Xin đại ca tha cho em, em biết tội của mình rồi! Đại ca tha cho em, em thề sẽ lo cúng kiếng cho đại ca đàng hoàng tử tế để vong linh đại ca được siêu thoát…”
                Hắn cứ lẩm bẩm câu nói ấy mãi suốt từ khi hai tên đồng bọn chết. Cả đồn cảnh sát cũng hoang mang về chuyện ấy.
                Người ta chờ đợi những khi tến cướp còn lại có vẻ tỉnh táo để hỏi hắn một vài điều, nhưng hắn chỉ lắp bắp:
                - Tôi… Tôi không biết gì hết… đại ca ơi! Tôi không biết gì hết, thật mà… Xin hãy tha cho tôi…
                Rồi trong lần lên cơn, do sự sơ hở của người quản thúc, hắn đã nhảy từ trên lầu ba xuống đất, va đầu vào một gờ xi măng và chết ngay tại chỗ.
                Chuyện cướp bóc, ma quái được đồn thổi một cách nhanh chóng, làm giảm sút hẳn lượng khách du lịch đến địa phương.
                Những người sống bằng nghề kinh doanh du lịch không ngớt than trời trách đất.
                Giữa lúc cả làng đang xôn xao bàn tán về cái chết của những tên cướp vừa rồi và nhắc lại vụ án năm xưa, Nam – cháu trai nhà ông An, một gia đình giàu có vào bậc nhất nhì trong làng, đang theo học cấp hai ở Sài Gòn về quê nghỉ hè.
                Gia đình ông An sống chủ yếu bằng nghề kinh doanh khách sạn, phòng trọ, nên trong tình trạng chung này ông không khỏi bị thất thu.
                Do rất gan dạ và tính tò mò của tuổi trẻ thôi thúc nên Nam đã rủ rê một số bạn bè đồng trang lứa đi đến ngôi nhà hoang để thám hiểm. Và trong thâm tâm, Nam cũng muốn nhân cơ hội này để giải tỏa hết mọi nghi vấn ma quái trong lòng mọi người, vì thật sự chưa bao giờ Nam tin tưởng trên đời này lại có chuyện ma quái được.
                Nam được ăn học đàng hoàng, mọi việc xảy ra trên đời đều được khoa học chứng minh rành rẽ, Nam không tin có các hồn ma, và càng không tin vào việc các hồn ma đã chết mấy chục năm về trước mà vẫn còn quanh quẩn nơi đây để làm điều gì đó không tốt.
                Tối hôm đó, Nam cùng với bốn người bạn là Tuấn, Hải, Long, Hoa mang theo đèn pin, gậy gộc đi men theo con đường mòn, cỏ mọc cao lút gối để lên đến đỉnh ngọn đồi.
                Tuấn là đứa ít tuổi nhất trong bọn, và cũng là đứa có phần nhút nhát nhất. Vừa đi, Tuấn vừa níu chặt tay vào áo của Nam và luôn miệng hỏi:
                - Anh Nam ơi, liệu mình đi như vầy có sao không? Sao anh không mời thêm thầy pháp đi theo cho đỡ sợ… Chứ chỉ có tụi mình như vầy, lỡ đâu ở trên đó…
                Long nạt ngang:
                - Đồ nhát gan! Nếu mầy sợ sao khong ở nhà bú mẹ đi, đi theo tụi tao làm gì mà cứ nói toàn chuyện tầm bậy tầm bạ, làm cho người khác nao núng trong lòng…
                Hải cười nói:
                - Tao thì nghĩ giống thằng Nam. Chẳng có cái quái gì ở đó đâu. Chẳng qua là mấy ông cụ ở làng mình rảnh quá hổng có chuyện gì làm nên nghĩ ra câu chuyện hoang đường mấy chục năm trước chứ trên đời này làm gì có ma?
                Hoa vội chen ngang:
                - Vậy anh giải thích sao về vụ ba thằng cướp mới chết vừa rồi? Báo chí có đăng tin rõ ràng là không kết luận được nguyên nhân tử vong mà?
                Hải lắp bắp:
                - Thì… thì… có lẽ là do một tên bị trúng gió chết, một tên nhảy lầu tự tử thì rõ rồi, còn tên kia… tên kia…
                - Tên kia thì thế nào?
                Tuấn cười hỏi.
                Hải nói tiếp:
                - Thì tên kia chết là do bị tra tấn đến chết đó mà! Bọn cảnh sát quần áo rằn ri đó không dám nhận trách nhiệm, rồi thêm mấy ông già làng mình tin dị đoan nên bồi thêm cho câu chuyện có màu sắc ma quái vậy mà. Năm nay đã là năm 1972 rồi, đâu phải thời hoang sơ mới khai thiên lập địa mà ma quỷ lẫn lộn với con người?
                Lúc này Nam mới lên tiếng:
                - Cái thằng này, nhà tù còn rộng chỗ lắm, chắc thế nào cũng còn chỗ cho mầy! Cứ việc phát ngôn bừa bãi đi, rồi vô đó ngồi xé lịch nghỉ mát!
                Hải cười:
                - Ở đây chỉ có đám tụi mình thôi, tao mới dám ăn nói thẳng thừng như vậy, ai mà biết chứ? Chẳng lẽ một trong các cậu đi tố cáo tớ? Hi hi,… mà các cậu có tố cáo thì cũng không ai rảnh để đi điều tra một việc nhỏ xíu như đầu cây tăm thế này đâu!
                - Thôi, đừng tán dóc nữa! Chúng ta sắp đến nơi rồi kìa! Đi sát vào nhau nhé, tự nhiên mình có cảm giác bất an quá…
                Nam từ tốn nói, giọng trầm hẳn xuống.
                Hoa mỉm cười:
                - Trực giác của cậu lúc nào mà chả đúng!
                Mọi người cùng đồng thanh:
                - Ừ, đúng rồi đó!
                Nam cau mày:
                - Ê, tính ghẹo tui đấy phải không?
                Cả bọn cười ồ lên.
                Tiếng cười chưa kịp dứt thì Tuấn đột ngột nói:
                - Mấy anh có để ý gì không? Hôm nay hình như gió thổi lạnh hơn bình thường và sóng biển kia kìa, cũng khác thường nữa…
                Hoa chen ngang:
                - Sóng nhè nhè, gió rì rào… chứ gì? Nhìn mặt trăng kìa, hôm nay trăng cũng sáng hơn bình thường, làm mình có cảm giác rợn cả người lên ấy chứ!
                Long gắt:
                - Đừng có chơi trò hù doạ nhe! Tụi mình kể chuyện gì vui vui đi, nói toàn chuyện này dễ làm nhụt chí anh hùng lắm đó!
                Nam cười bảo:
                - Ừ, nãy giờ tao cũng có cảm giác lành lạnh rồi đấy! Tại tụi bây nói chuyện gì đâu không…
                Cả bọn vừa đi vừa kể những câu chuyện tiếu lâm. Tuy bề ngoài ai cũng cười cười nói nói, nhưng thật ra cả đám đứa nào cũng đang rất sợ hãi, chúng đi sát vào nhau hơn.
                Cảnh vật mỗi lúc mỗi âm u hơn, những bụi cây, khóm cỏ và những bóng cây đại thụ ven đường giống như những bóng ma với hình thù kỳ quái, mà những cái đầu giàu trí tưởng tượng của mấy đứa nhỏ có thể liên tưởng tới hàng ngàn hình dáng khác nhau.
                Gió biển lướt thướt thổi dọc theo hàng phi lao tạo ra một thứ tiếng u u u như tiếng quỷ ma rên khóc hoặc tiếng gọi hồn từ một thế giới xa xăm nào vọng tới.
                Cả năm đứa tự nhiên im bặt. Mồ hôi rịn ra trên lưng áo mặc dù gió thổi lồng lộng và cảm giác lành lạnh vẫn chạy dọc sống lưng.
                Ánh trăng sáng vằng vặc chiếu xuyên qua những tán cây làm hiện rõ lên vết tích của con đường lát sỏi ngày nào.
                Cả bọn dừng lại trước cánh cửa lớn của ngôi nhà.
                Hoa chỉ tay về phía góc vườn:
                - Nhìn kìa!
                Cả bọn hoảng hốt, thì thào:
                - Gì thế?
                Tuấn khẽ nói:
                - Có thấy năm cây cột đó không?
                Long nhanh miệng:
                - Thấy rồi! Chẳng qua là năm cây cột bình thường thôi mà, có gì đặc biệt đâu?
                Tuấn lắp bắp:
                - Em nghe bố em bảo… năm cây cột đó… chính là…
                Tuấn dừng lời, hít thở một hơi thật sâu rồi nói một cách rõ ràng:
                - Đó là nới năm tên cướp bị cột vào để xử bắn cách đây hơn bốn chục năm về trước. Nhưng… nhưng tại sao năm cây cột đó lại đứng thẳng như vậy? Em nhớ mới ba tháng trước đây em theo ông nội đến đây dự lễ cầu siêu thì thấy chúng đã bị xiêu vẹo lắm rồi mà? Em còn nhớ có cả cây cột đã gãy đổ rơi ra toàn bụi xi măng…
                Cả bọn đứng nín thinh, không đứa nào biết nói gì trước sự thật lạ lùng đó. Bất ngờ Tuấn lại ngồi thụp xuống, hốt một nắm cát giơ lên trước mặt ra vẻ săm soi.
                Nam nuốt nước bọt, hỏi bằng giọng run run:
                - Mầy… mầy làm gì vậy Tuấn? Mầy.. điên à?
                Tuấn không trả lời, cứ cúi gầm mặt dùng tay bóp vụn đống đất cát dưới chân. Không lâu sau, trong tay Tuấn xuất hiện một chiếc vỏ đạn đã rỉ sét.
                Tuấn cầm chiếc vỏ đạn giờ lên cao để ánh sáng trăng soi rõ cho mọi người cùng nhìn thấy.
                Rồi bỗng dưng Tuấn cất tiếng cười to, tiếng cười vừa cất lên lại tắt đi đột ngột. Tuấn bắt đầu nói, nói một cách rất rõ ràng mạch lạc, tự tin, nhưng âm điệu nghe thật ghê rợn, rõ ràng không phải là giọng nói thường ngày của Tuấn:
                - Đây là vỏ của viên đạn đã lấy đi mạng sống của tao mấy mươi năm trước. Bọn ranh con chúng mầy mau về báo lại cho chúng biết câu nói còn bỏ dở của tao ngày ấy là: Sống lại để trả thù những kẻ hại ta. Và những người ở đây… bảo chúng cứ ở đó mà đợi bọn ta đến trả thù… Giờ phút cáo chung của bọn chúng đã đến rất gần rồi đó! Ha ha ha… cái lũ ném đá giấu tay chúng bay sẽ bị chết hết, chết từng đứa một! Ha ha ha…
                Nghe đến đây cả bọn rụng rời chân tay, mồ hôi đổ đầm đìa, tay chân quíu cả lại nên mặc dù rất hoảng sợ mà không đứa nào bỏ chạy được.
                Cả đám còn nghe có tiếng trẻ con khóc và tiếng nói chuyện lao xao của nhiều người khác từ trong nhà vẳng ra.
                Tất cả bốn đứa đứng chết lặng, không đứa nào còn cửa động được, không phải do một thế lực siêu nhiên nào kiềm giữ chúng lại mà là do chúng quá sức sợ hãi.
                Nam là đứa gan dạ nhất trong đám mà giờ phút này cũng chỉ biết đứng bất động, thậm chí tay chân cứng đờ, không còn run rẩy được nữa.
                Tuấn từ từ ngước mặt lên, dưới ánh trăng hiện ra một gương mặt trắng bệt và trên gương mặt như được đúc bằng sáp ấy một dòng máu đỏ tươi đang chảy xuống từ trên đỉnh đầu.
                Tuấn chỉ tay về phía làng, rên rỉ:
                - Bọn chúng vu oan cho ta…!
                Lúc bấy giờ ánh trăng chiếu vào mặt Tuấn làm rõ lên ánh mắt mang đầy uất hận và khát khao trả thù, khuôn mặt bây giờ không còn là của Tuấn nữa. Nó là một khuôn mặt dễ sợ, đầm đìa máu, đôi mắt nhìn các bạn mình như muốn ăn tươi nuốt sống.
                Tuấn không hề mở miệng nhưng âm thanh lại phát ra từ chính con người Tuấn.
                Tuấn đột ngột hét lên:
                - Biến! Trước khi tao đổi ý!
                Giống như có một luồng điện chạy vào cơ thể, cả bọn ù té chạy, chạy nhanh đến mức chính chúng cũng không thể tưởng tượng được.
                Băng qua rừng dương, đạp bừa lên những bụi gai, đám cỏ, da thịt chúng bị cào xướt bởi những cành táo dại ven đường, những bụi gai mắc  cỡ dưới đất làm cho tóe máu nhưng bọn chúng không đứa nào dám dừng chân, cứ nhắm mắt nhắm mũi mà đâm đầu chạy miết.
                Chúng cũng không còn tâm trí đâu mà định hướng, cứ chạy cho thật xa nơi khủng khiếp đó chứ hoàn toàn không biết mình đang chạy về đâu, chạy về hướng nào và phía sau lưng có ai rượt đuổi theo không?
                Trong đầu mỗi đứa chỉ có mỗi một câu thúc giục:
                - Chạy đi! Chạy nhanh lên! Chạy thật xa cái nơi chết chóc rùng rợn đó, chạy tới đâu cũng được…
                Bọn chúng cứ chạy và chạy mãi, không nhớ gì đến đứa bạn tên Tuấn của chúng còn lại một mình ở ngôi nhà rùng rợn đó…
                Khi Nam tỉnh dậy thì thấy mình và các bạn đang nằm ở nhà mình. Trưởng làng và rất đông dân chúng đang tụ tập lại đó, trên gương mặt ai cũng hằn lên nét lo âu.
                Gia đình của bốn đứa Tuấn, Nam, Hoa, Long, Hải đang vây kín xung quanh.
                Vừa thấy Nam mở mắt ra, mẹ Tuấn vội lay lấy lay để vai Nam, mếu máo:
                - Thằng Tuấn đâu? Thằng Tuấn đâu rồi?
                Nam còn chưa kịp nhớ lại những gì đã  xảy ra trước đó, nó ngơ ngác nhìn xung quanh.
                Giường bên cạnh là Long, Hải, Hoa đứa nào cũng nằm thiêm thiếp, mặt mũi thật khó coi.
                - Thằng Tuấn đâu con? Lúc chiều tụi con đi với nhau mà?
                Bà Nội nhẹ nhàng hỏi Nam.
                Giờ thì Nam đã nhớ ra rồi, mặt nó tái ngắt, co rúm lại, nó không nói được rõ lời, tay chỉ về phía ngôi nhà cháy, mịêng ú ớ:
                - Thằng Tuấn… ma… nhà cháy…
                Vừa nghe Nam nói vậy, ba mẹ và gia đình Tuấn cùng một số dân làng vội vã thắp sáng đèn chạy rần rật lên ngọn đồi hoang vắng.
                Số người còn lại cố gặng hỏi Nam đủ điều, nhưng Nam không nói được gì, nó chỉ trào nước mắt và cơ thể thì rúm ró lại, dường như nỗi kinh hoàng vẫn chưa rời bỏ nó, dù giờ đây xung quanh nó là cha mẹ, là người thân và đông đảo láng giềng chòm xóm.
                Thấy tình trạng của Nam như vậy, trưởng làng đưa tay ra hiệu cho mọi người rồi cất giọng ôn tồn bảo:
                - Thôi, chúng ta hãy để yên cho cháu nó nghỉ ngơi!
                Rồi quay sang Nam, ông bảo:
                - Con cứ nằm nghỉ cho khỏe, đừng sợ hãi gì nữa! Bây giờ các con đã được an toàn rồi. Khi nào con thật bình tĩnh, ta sẽ đến nói chuyện với con sau.
                Nói xong, trưởng làng đứng lên ra về, dân trong làng cũng lục tục kéo về hết, chỉ còn lại gia đình Long, Hải, Hoa đang ngồi ủ rũ bên cạnh con mình.
                Mãi đến trưa hôm ấy, khi đã thật sự tỉnh táo, Nam, Hải, Long và Hoa mới có thể kể lại cho mọi người nghe những gì mình đã chứng kiến vào tối đó.
                Mọi người nghe xong, ai nấy đều hoảng hốt. Mọi người lại đổ dồn đi xin bùa thỉnh phép ở các ngôi chùa lân cận.
                Về phần Tuấn, đêm đó, sau khi các bạn đã chạy rất xa nó vẫn còn nằm bất tỉnh một mình trong khoảnh sân đầy cỏ dại.
                Mãi tới lúc cả nhà nó đổ xô lên tìm kiếm, đèn đuốc soi rọi khắp nơi, tiếng kêu khóc vang trời mà nó vẫn không tỉnh dậy. Cuối cùng, ba nó là người tìm thấy nó đầu tiên.
                Ông bế xốc đứa con lên vai, chạy thục mạng xuống đồi. Cả một đoàn người đèn đuốc sáng rực chạy sấp ngửa theo sau.
                Người dân trong làng biết tin đã tìm được Tuấn về, họ lại kéo đến vây kín quanh nhà Tuấn, nhưng không mấy người dám bước chân vào trong. Họ chỉ thập thò bên ngoài nghe ngóng cho thỏa mãn sự tò mò mà thôi, ít ai có can đảm vào tận trong nhà để nhìn mặt Tuấn.
                Những người giàu trí tưởng tượng còn hình dung ra giờ đây Tuấn không còn là thằng Tuấn hiền như cục đất trước đây nữa, mà nó có thể phùng mang trợn má, xông ra cắn xé mọi người.
                Những người thực tế hơn thì bảo:
                - Nó chỉ bị ma nhập một lúc thôi mà, có gì đâu? Khi hồn ma xuất ra rồi thì nó vẫn là nó, mà hổng chừng còn hiền lành hơn, khù khờ hơn nữa kia! Những người bị ma nhập thường hay trở nên khù khờ sau đó…
                Mặc dù đã nghe được những lời trấn an như thế nhưng ai ai cũng rất dè dặt, đề phòng.
                Đêm ấy, có lẽ dân trong làng, trừ những đứa bé, khó ai có thể ngon giấc được. Người ta mơ hồ cảm thấy một tai họa khủng khiếp nào đó đang lơ lửng trên đầu mình.
                Sáng hôm sau, trưởng làng triệu tập một cuộc họp khẩn cấp để bàn bạc kế hoạch sau những vụ việc nghiêm trọng vừa mới xảy ra ở địa phương mình.
                Sau một hồi xôn xao bàn tán, toàn thể dân làng nhất trí với biện pháp đầu tiên là đi thỉnh mời các vị đại sư ở gần đó lên ngôi nhà hoang trên đồi để làm lễ cúng vong.
                Khi hai nhà sư đức cao vọng trọng được mời đến thì dân làng đã chuẩn bị sẵn nơi làm lễ tế đất trời, nơi cầu an, cầu siêu cho các vong hồn oan khuất.
                Nhưng thật lạ kỳ, dù hôm ấy gió không thổi mạnh nhưng không làm sao đốt được nhang đèn, mặc dù người ta đã dùng hết cách, nào là nhúng xăng dầu, nào là che chắn gió… nhưng ngọn lửa chỉ bùng lên trong chốc lát rồi lại tắt ngúm một cách nhanh chóng.
                Cuối cùng, hai nhà sư phải niệm chú vào mấy lá bùa rồi đem quấn quanh nhang đèn mới có thể thắp được một cách bình thường.
                Hai nhà sư bắt đầu ngồi thiền cầu kinh.
                Thời gian chầm chậm trôi qua, mặt trời đã lên cao, những người dân quỳ xung quanh đã bắt đầu mệt mỏi, mồ hôi rịn ra hai bên thái dương mà hai vị đại sư vẫn như  đang chìm trong cõi mộng.
                Đến lúc hai nhà sư đứng lên kết thúc buổi lễ, một người chỉ vào mấy cây nhang.
                Bấy giờ dân làng mới để ý rằng dù đã mấy tiếng đồng hồ trôi qua, nhang vẫn không tàn, không cháy bớt chút nào, mà vẫn cứ như vừa mới được thắp lên.
                Một vị sư bảo:
                - Ở đây có nhiều người bị chết oan, oán khí rất nặng lại thêm ý chí trả thù rất mạnh nên khó có thể siêu độ cho họ được.
                Trưởng làng liền hỏi vị đại sư:
                - Nếu vậy tại sao mấy chục năm nay không sao, thời gian qua rất lâu rồi bây giờ họ mới bắt đầu gây ra chuyện?
                Vị đại sư lúng túng:
                - Điều này bần tăng cũng không biết rõ. Có thể bao nhiêu năm nay họ không có đủ điều kiện để quay về, bây giờ do một sự việc nào đấy giúp họ mở ra con đường này. Đó chỉ là suy đoán của bần tăng, còn sự việc chính xác ra sao thì thật sự bần tăng không nắm được…
                Đúng lúc ấy từ đằng xa có một vị tiểu sư phụ tay lần tràng hạt, vừa đi vừa niệm phật đang tiến tới gần.
                Vừa trông thấy vị tiểu sư phụ, hai vị đại sư liền tỏ thái độ cung kính cúi chào thật lễ phép.
                Những người dân làng đang có mặt ở đó rất lấy làm ngạc nhiên, không hiểu tại sao các vị đại sư tên tuổi như vậy lại tỏ ra vô cùng kính nể vị tiểu hòa thượng xa lạ này.
                Tuy nhiên, họ cũng bắt chước cúi chào rất thành kính.
                Trưởng làng chấp tay nói:
                - Xin đại sư cho hỏi, tại sao hai vị đây tuổi đời và chức sắc cũng cao hơn vị tiểu hòa thương này, mà lại có thái độ tôn kính với vị tiểu hòa thượng như vậy?
                Vị đại sư cười bảo:
                - Chắc các vị thí chủ không thường đến với cửa phật nên không biết rõ, đây chính là vị sư trụ trì và cũng là sư phụ của chúng tôi. Trụ trì đã tu hành đắc đạo mấy kiếp rồi nên đạo hạnh rất cao. Chính chúng tôi trước khi đi, không dám chắc mình có đủa đạo hạnh nên đã nhờ trụ trì tới giúp đỡ.
                Tuy không mấy tin tưởng vào lời giới thiệu của vị đại sư, vì vị tiểu hòa thượng kia gương mặt còn quá non nớt, và dân làng cũng chưa từng nghe nhắc nhở tới bao giờ, nhưng họ cũng lặng im chấp nhận để vị tiểu hòa thượng đứng vào sân lễ.
                Dân làng hiện nay như người sắp chết đuối, cứ hễ bám được gì là cứ bám, không dám chọn lựa, chê khen gì cả.
                Vị sư trụ trì nhỏ tuổi hình như không hề quan tâm đến những gì đang diễn ra xung quanh mình. Trụ trì lấy mười bảy cây nhang đốt lên rồi cặm tất cả vào cùng một lư hương ở giữa bàn lễ.
                Một người trong làng buộc miệng hỏi nhỏ vị đại sư đứng bên cạnh:
                - Xin đại sư giải thích giùm, tại sao lại dùng mười bảy cây nhang?
                Đại sư chưa kịp trả lời thì lại có tiếng xì xầm:
                - Rồi cũng chẳng đốt cháy được đâu…
                Trưởng làng ra lệnh:
                - Tất cả im lặng! Đại sư làm gì tất nhiên phải có lý do của người, chúng ta không biết gì thì cứ thành tâm mà cầu nguyện, đừng xen vào chuyện của đại sư.
                Vị sư trụ trì trẻ tuổi bất giác mỉm cười, và mãi cho đến lúc này mới mở lời:
                - Không sao đâu, xin trưởng làng cứ để cho các thí chủ được quyền thắc mắc, nhưng bần tăng xin được thứ lỗi được, bởi vì có những điều huyền diệu mà bần tăng không thể nào giải thích ngắn gọn ở đây cho các thí chủ hiểu rõ được. Nếu có thí chủ nào muốn hiểu rõ, xin dời bước tới thăm nhà chùa, bần tăng hứa sẽ hóa giải hết những gút mắc trong lòng của thí chủ.
                Nói xong, vị trụi trì trẻ tuổi quay lại thắp cháy mười bảy cây nhang cầm trên tay, tất cả các cây nhang đều bắt lửa và cháy một cách dễ dàng.
                Sư trụ trì đứng im một lúc, cả làng cũng nín thở dõi theo. Không một tiếng động nào ngoại trừ tiếng gió thổi ngang qua làm lay động ngọn cây bụi cỏ.
                Vị sư trụ trì cứ đứng im như thế thật lâu, đến khi các cây nhang đã cháy gần quá nửa, ông mới quay sang nói với dân làng:
                - Nguyên nhân mà mấy mươi năm nay họ không trả thù các vị là do hàng năm, dân làng đều không quên việc cúng bái, cầu siêu khiến vong linh của họ cũng được vơi đi phần nào thù hận…
                - Nhưng tại sao họ phải trả thù? Chẳng phải ngày xưa chính năm tên cướp đó đã giết cả nhà người thương gia rồi còn châm lửa thiêu rụi nhà người ta. Giết người thì đền mạng, đó là luật nhân quả từ xưa đến nay mà! Còn tên cướp vừa mới chết tuần trước là do đồng bọn chúng hại lẫn nhau, tất cả đâu có liên quan gì đến người dân lương thiện trong làng này mà họ đòi trả thù? Vả lại năm nay làng chúng tôi cũng có cúng bái đàng hoàng, đâu có làm gì vô lễ…
                Mẹ Tuấn la lên.
                Lúc này có lẽ dân làng đã phần nào tin tưởng vào vị sư trẻ tuổi nên một vài người phản đối những lời của mẹ Tuấn:
                - Bà thiệt là… Con trai bà vừa rồi bị ma nhập nên bà bức xúc cũng phải thôi… Nhưng họ có làm gì con bà đâu, nếu họ muốn hại con bà thì họ đã không cho con bà trở lại bình thường như vậy rồi. Thôi, bà im lặng đi, để nghe đại sư nói tiếp kìa!
                Vị sư trụ trì ôn tồn nói:
                - Không có gì! Là phụ mẫu ai chẳng xót thương con mình và oán giận những người làm hại nó. Họ không có ác ý với con của nữ thí chủ đâu, chẳng qua là họ chỉ muốn mượn lời của nó thôi, đừng sợ! Họ sẽ không làm gì tổn hại đến những người vô can đâu.
                Trưởng làng kinh ngạc hỏi vị trụ trì:
                - Đại sư nói họ nói, chẳng lẽ đại sư có thể nói chuyện được với họ?
                Vị trụ trì trẻ tuổi gật đầu:
                - Đúng vậy! Họ nói rằng mấy chục năm trước, họ đã bị một vài người dân ở làng này hãm hại . Họ không phải là những kẻ đã nhúng tay vào cuộc thảm sát đó, họ bị oan!
                - Họ bị oan thật à? Hèn gì hôm xử tử họ trời mưa gió ghê quá…
                Mấy người già nhớ lại câu chuyện đã xảy ra từ mấy chục năm trước.
                Trưởng làng hỏi tiếp:
                - Kính xin đại sư giải đáp giùm những thắc mắc của toàn thể dân làng: đó là tại sao bao nhiêu năm nay họ im lìm, những tưởng đã đi đầu thai kiếp khác từ lâu lắm. Đột nhiên đến bây giờ họ lại muốn đòi nợ máu năm xưa?
                Vị đại sư đưa cái nhìn hiền lành khắp xung quanh rồi ôn tồn nói:
                - Mặc dù họ là những linh hồn sống trong một thế giới khác. Nhưng xin các thí chủ nhớ rằng, dù là thế giới nào đi nữa đều có những quy tắc  riêng của nó. Các linh hồn chết oan này đã không đủ sức để trả thù, vì các thí chủ ở đây đã thành tâm cầu nguyện, tụng kinh siêu độ mỗi năm. Đáng lẽ các oan hồn này sẽ nằm im chờ đợi cho đến khi thật sự mãn số họ đđi đầu thai kiếp khác. Nhưng có một điều… đó là lời nguyền cuối cùng của tên cướp chưa được hóa giải, họ không thể nào siêu thoát được. Họ lại không có đủ năng lực để trả thù. Bởi vậy họ cứ phải tồn tại một cách khổ sở. Vừa rồi, chính máu của tên cướp vừa bị bọn đàn em giết chết đã tưới xuống lòng hận thù của họ, giúp nó hồi sinh. Họ hiện nay đã có đủ sức để thực thi lời nguyền năm xưa…
                Trưởng làng hỏi:
                - Thưa đại sư, có cách nào ngăn họ lại và hóa giải lời nguyền không? Chẳng lẽ cứ để…
                Vị trụ trì đáp:
                - Bần tăng sẽ cố gắng thuyết phục họ, và cố gắng tìm cách để hóa giải lời nguyền. Hy vọng mọi việc sẽ không đến nỗi… Nhưng có lẽ trở ngại lớn nhất chính là ở vị thương gia và tên cầm đầu bọn cướp. Lòng thù hận ở hai vong hồn ấy là rất lớn…
                Các cụ già trong làng nhìn nhau như muốn nói gì. Một lúc saumột người trong số họ bước ra chấp tay kính cẩn trước mặt vị tiểu hòa thượng:
                - Bạch đại sư, chúng tôi rất lấy làm lạ, không biết tại sao đại sư lại bảo lòng thù hận của vị thương nhân kia là rất lớn? Ngày xưa ông ấy là một người nhân hậu nhất làng mà?
                Vị đại sư giải thích:
                - Dù là người tốt, là người nhân đức nhưng người thương nhân ấy cũng vẫn là một con người, có đầy đủ những hỉ, nộ, ái, ố. Khi ông bị chính những người mà ông đã cưu mang, giúp đỡ sát hại, thì bao nhiêu phẫn uất trong người ông đã bùng phát. Nhưng nếu bây giờ ông ấy có thể bỏ hết lòng thù hận thì chắc chắn ông sẽ được siêu thoát ngay tức khắc. Mà thôi, xin các vị thí chủ hãy trở về nhà ngơi nghỉ, vì trời cũng đã trưa xế rồi, mọi việc ở đây tôi và hai vị sư đây sẽ lo liệu chu toàn, xin thí chủ cứ yên tâm.
                Dân làng nấn ná thêm một chút nữa rồi kéo nhau về. Trên đường đi, họ không ngừng bán tán, suy đoán xem ai là kẻ đã ra tay tàn ác năm xưa? Họ bàn tán xôn xao, thầm thì nghi hoặc lẫn nhau. Làng chài không còn bình yên nữa rồi, dân làng đã không còn tin vào chính láng giềng mình!
                Khi dân làng đã về hết, hai vị đại sư hỏi trụ trì:
                - Kính thưa sư phụ! Theo đệ tử nhận thấythì sư phụ đã biết người nào đã ra tay trong cuộc thảm sát năm xưa, vậy tại sao người không nói rõ ra?
                Sư trụ trì mỉm cười:
                - Nhân nào quả nấy, giết một mạng người là một tội lỗi rất lớn, huống hồ trong vụ này đã có rất nhiều người chết rồi. Họ cần phải tự giác nhận ra tội lỗi của mình và phải thành tâm chuộc lỗi thì mới có thể hóa giải được hết hận thù. Chứ nếu chờ người khác vạch mặt chỉ tên và trưng ra bằng chứng cụ thể thì dù họ có bị đền tội, có chết đi cũng khó mà siêu thoát được. Ta muốn tạo cho họ một cơ hội để tự họ thú nhận tất cả.
                Đêm hôm đó.
                Ông nội của Nam là ông An và chủ trại đóng tàu là ông Dương dẫn nhau đến nhà của trưởng làng. Cả hai đều là những người giàu có nhất nhì ở cái làng chài này.
                Vừa trông thấy trưởng làng, ông An và ông Dương lo lắng hỏi:
                - Bây giờ phải làm sao? Chúng ta cũng đâu có muốn làm như vậy, chỉ tại hoàn cảnh lúc đó… Vả lại chúng đã hối hận thật nhiều rồi, hàng năm đều đứng ra đôn đốc, tổ chức việc cúng bái cho họ, đồng thời cũng đã tham gia vào các hoạt động từ thiện khác nữa. Tại sao họ vẫn không để cho mình được yên?
                Trưởng làng cất giọng lạnh lùng:
                - Sựo cái quái gì chứ? Lúc còn sống chúng đã không làm gì được chúng ta, giờ chết rồi thì làm gì được nào? Dọa ta chết à? Đừng có mơ! Hai ông cứ về nhà và xem như không có gì xảy ra. Chuyện này bây giờ chỉ còn lại ba chúng ta biết, tôi không nói, hai ông không nói thì được rồi!
                - Nhưng…
                Ông An ấp úng.
                Trưởng làng quát:
                - Nhưng, nhưng cái gì? Nói ra xem nào?
                Ông An nói nhỏ:
                - Chẳng phải vị đại sư trẻ tuổi kia có thể giao tiếp được với các oan hồn đó sao? Chắc chắn rồi đây ông ta sẽ biết chúng ta…
                Trưởng làng nhếch mép:
                - Nếu biết thì hẳn đã nói ra rồi! Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, dù biết cũng không dám nói ra đâu, vì lấy gì làm bằng chứng? Tất cả dấu vết đề không còn, nói ra làm sao được!
                Ông Dương gãi đầu gãi tai:
                - Thật sự… thật sự chúng tôi không sợ chịu tội trước pháp luật, vì biết chẳng ai có căn cứ gì để bắt bớ chúng ta. Chỉ là… chỉ là chúng tôi sự báo thù của các oan hồn, chúng tôi sợ con cháu mình bị vạ. Như thằng Nam cháu ông An đây vừa rồi đấy…
                Ông An gật đầu phụ hoạ:
                - Đúng đó! Giờ đây tôi chỉ sợ các hồn ma…
                Trưởng làng nghe hai người nói rất đúng, nhưng ông ta không muốn chấp nhận sự thật đó, ông cố làm ra vẻ phớt lờ:
                - Thôi, thôi… hai ông đừng lo nữa! Sư trụ trì hứa sẽ tận tình tìm cách hóa giải lời nguyền năm cũ. Hai ông cứ về nhà mà ăn no ngủ kỹ, mà hưởng phước vào đi! Đừng có lo lắng gì nữa hết. Mấy chục năm nay, chúng ta đã cùng nhau làm biết bao nhiêu chuyện công đức, chẳng lẽ không cứu vãn được chút nào hay sao? Nếu các oan hồn muốn đòi mạng thì tôi chính là người mà họ sẽ tìm đến đầu tiên nè! Các ông yên tâm chưa?
                Nghe trưởng làng nói cứng như vậy, ông An và ông Dương cũng tạm yên lòng.
                Hai ông đứng lên từ giã ra về.
                Sau khi khách về hết, trưởng làng mới thật sự đối mặt với sự lo sợ của mình. Gieo nhân nào sẽ gặt quả đó quả thật không sai! Mấy chục năm yên lành, tưởng đâu mọi việc yên ngủ dưới nấm mồ dĩ vãng, không ai có thể ngờ được khi sắp cuối đời rồi phải nơm nớp lo âu, sợ hãi vì cái tội tày trời mình gây ra từ rất lâu.
                Trong thâm tâm nghĩ vậy, nhưng miệng trưởng làng vẫn lẩm bẩm:
                - Rõ chán! Ngày đó có gan giết người, vậy mà bây giờ lại hốt hoảng trước một việc vớ vẩn như vậy! Ma cỏ chưa làm gì cho mình rúng động mà chỉ có hai thằng thỏ đế ấy làm mình mất hết tự tin! Hai thằng kia làm mình cuống cả lên, chúng nó sợ đến phát khiếp! Biết vậy ngày xưa mình chẳng thèm rủ chúng nó tham gia, để bây giờ khỏi phiền phức. Mà dù bây giờ chúng có trả thù thì có sao đâu? Chết bây giờ hay vài năm nữa chết già thì có gì khác nhau cơ chứ? Tất cả đều đã gần đất xa trời hết rồi…
                Nhưng mà… nhưng mà… xin các người đừng động tới con cháu tôi nhé! Tội lỗi tôi gây ra, có muốn đền mạng thì cứ lấy cái mạng già này của tôi, xin đừng…
                Trưởng làng miên man suy nghĩ, ông châm hết điếu thuốc này tới điếu thuốc khác, mắt vẫn cứ liếc nhìn về hướng ngọn đồi hiu quạnh.
                Còn về phần ông Dương, khi từ nhà trưởng làng về tới nhà mình, tự nhiên trong lòng ông cảm thấy bất an đến lạ thường.
                Ông mở hết tất cả các ngọn đèn có trong nhà, mong muốn ánh sáng chan hòa ấy sẽ xua tan được những điều u ám đang vây lấy tâm trí ông.
                Ông ngồi thừ trên sa lông ở phòng khách, mắt nhìn lên bàn thờ, tay cầm ly trà đã nguội ngắt mà ông chưa buồn hớp một ngụm nào.
                Chưa bao giờ thấy trong người có cái cảm giác lo lắng, sợ sệt như đêm nay. Hai tay ông run rẩy, mắt luôn đảo nhìn xung quanh như để xác định chắc chắn rằng khnôg có ai, hay bất cứ cái gì đang dõi theo mình.
                Ông ngồi như vậy hơn một gờ đồng hồ. Đột ngột tim ông đập mạnh hẳn lên, hơi thở thì như nghẹn lại. Các tế bào trong cơ thể ông như đang co cứng lại. Tất cả như muốn cảnh báo cho ông biết rằng diều khủng khiếp đang sắp xảy ra.
                Ông Dương có cảm giác ở phía sau lưng mình đang có một cái gì đó rất đáng sợ, nếu quay lại chắc chắn mình sẽ biết được nó là cái gì. Nhưng ông không đủ can đảm để quay lại. Trong đầu ông vang lên một tiếng than thê thiết:
                - Đã đến rồi sao? Giờ phán xét đã đến rồi sao?
                Giữa lúc đó, ngoài trời bắt đầu nổi gió. Cơn gió biển mang theo nó những âm điệu u uất ghê rợn, thổi thốc vào nhà ông vang lên những tiếng rú rít ma quái đến gai người.
                Ông Dương cảm nhận được hơi lạnh làn gió vừa mang vào, ông đứng lên, định kiểm tra lại xem các cửa sổ đã được đóng kín hết chưa, nhưng vừa lúc đó ông phát hiện ra hình như ông lạnh không phải vì gió, mà là vì một bàn tay vô hình lạnh ngắt nào đó đang chạm vào cơ thể ông.
                Tim ông như ngừng đập, các mạch máu căng lên đến mức có thể vỡ ra bất cứ lúc nào. Mồ hôi chảy ròng ròng, mặt mũi tái xanh.
                Ông Dương vận dụng toàn bộ sự can đảm còn lại của mình, đứng phắt dậy và lớn tiếng nói một mình:
                - Mệt mỏi rồi, đi ngủ sớm thôi! Chỉ là gió thôi mà, có gì đâu phải sợ…
                Rồi ông dợm chân bước nhanh vào phòng. Nhưng chính lúc này ông không thể dối mình được nữa, rõ ràng có một ai đó đang đi phía sau ông. Ông nghe rõ từng làn hơi thở phả vào gáy ông lạnh ngắt.
                Vội vã đẩy cửa phòng ngủ, dưới ánh đèn mờ mờ, ông thấy bà vợ ông đang nằm xoay mặt vào tường, thở đều đều vì đang say ngủ.
                Ông Dương chồm tới, xô mạnh vợ vào phía trong, hy vọng sự va chạm đó làm vợ ông thức tỉnh. Có thêm một người bên cạnh ông sẽ đỡ sợ hơn.
                Vợ ông thường ngày rất sẽ thức, vậy mà hôm nay ông có làm gì bà áy cũng cứ ngây ngất ngủ. Ông Dương vừa định bước chân lên giường thì như có một thế lực nào đó kéo giật lại khiến ông không thể tiến thêm lên nữa, mà cứ đứng cạnh bên giường ngủ của mình.
                Ông thét lên:
                - Dậy! Bà ơi… thức dậy đi!
                Tiếng kêu của ông đã có tác dụng. Bà vợ ông khẽ cựa mình rồi trở mình xoay mặt ra ngoài. Ông Dương mừng rỡ, nhưng nụ cười chưa kịp đậu lên môi ông đã nhanh chóng tan biến để nhường chỗ cho cái mồm há hốc của ông.
                Trời ơi, thật khủng khiếp! Người đàn bà đang nằm trên giường kia khong phải là vợ ông, mà chính là bà vợ của người thương gia năm xưa!
                Khi khuôn mặt của bà ta vừa hiện ra dưới ánh đèn, ông Dương thấy rõ ràng nó trắng bệt như mặt của một tượng sáp, nhưng chỉ một cái chớp mắt, nhìn lại ông đã thấy nó đỏ lòm những máu là máu…
                Người đàn bà ngồi dậy, từ từ đưa tay vén tóc, để cho ông nhìn thấy rõ một bên má, chỗ sát tai là một lỗ đen sâu hoắm, máu từ chỗ đó khnôg ngừng chảy ra lai láng…
                Khuôn mặt đó dần dần tiến sát vào, dí sát vào mặt ông Dương. Khi ông định la lên thì bà ta vớ lấy chiếc khăn cạnh đó nhét vội vào miệng ông làm ông không thể nào thở được nữa.
                Ông Dương cố vùng vẫy, nhưng tay chân ông lúc này dường như đã hoá thành đá. Sự sợ hãi đã lên đến tột đỉnh, ông Dương khong còn biết gì nữa hết.
                Khi ông giật mình tỉnh dậy thì thấy mình đang nằm trên chiếc trường kỷ kê trong góc phòng khách nhà mình. Đưa mắt nhìn quanh, ông thấy vợ con, trưởng làng và một ngày người thân cận đang đứng kế bên, mặt ai cũng đầy vẻ lo âu.
                Vừa thấy ông Dương mở mắt ra, trưởng làng vội nói:
                - Này ông bạn già! Chắc dạo này công việc làm ăn gặp nhiều khó khăn quá nên bị kiệt sức phải không? Tôi đã nhiều lần nói với ông rồi, mình đã lớn tuổi, giao hết lại cho con cái quản lý, ôm đồm làm chi cho khổ cái thân già!
                Rồi quay qua những người bên cạnh, trưởng làng nói:
                - Ông ấy đã tỉnh rồi, mọi người yên tâm về lo làm việc đi, để yên cho ông ấy nghỉ ngơi.
                Mọi người nhìn ông Dương một cách đầy ái ngại, ai nấy đều nói một vài lời chúc mừng tai qua nạn khỏi rồi cáo từ ra về.
                Lúc này ông Dương cũng chỉ biết ậm ờ cho qua chuyện.
                Trước khi ra về, trưởng làng nói nhỏ vào tai ông Dương:
                - Bình tĩnh, mọi việc sẽ có cách giải quyết. Khi nào ông thật khoẻ chúng ta bàn bạc với nhau sau.
                Chiều hôm đó, khi đã khỏe lại, ông Dương và ông An quyết định đến nhà trưởng làng. Lần này nhất định phải bàn cho rốt ráo, vì ông đã khẳng định tất cả không phải là chỉ là lời đồn đại mà là sự thật không thể chối cãi được.
                Sau khi nghe ông An kể lại tất cả những gì đã xảy đến với mình vào tối hôm qua, trưởng làng quyết định:
                - Tối mai cả ba chúng ta lên đó!
                Ông An và ông Dương kinh ngạc:
                - Anh nói sao? Lên đó à? Anh có điên không? Hay là anh đã chán sống?
                Trưởng làng chậm rãi:
                - Sựo cái gì nữa? Họ đã mò đến tận nhà rồi thì dẫu có trốn cũng không thoát được đâu. Thay vì ngồi đó chờ chết, ta nên chủ động đến đó rồi tùy cơ mà ứng biến. Nếu van xin không được thì ta tìm cách nào đó không thể chạm được vào chúng ta…
                - Cách gì là cách gì? Mình là người trần mắt thịt, làm sao có thể đối phó được với các thế lực siêu nhiên?
                Ông An lẩm bẩm.
                - Trước tiên, chúng ta sẽ nhận tội và xin họ tha thứ. Chúng ta sẽ kể ra những việc tốt đã làm trong suốt mấy chục năm qua. Nếu họ vẫn không đồng ý thì…
                Trưởng làng ngập ngừng.
                - Thì như thế nào?
                Ông Dương sốt ruột hỏi.
                - Thì ta đem theo máu chó mực vẩy vào đó cho họ mãi mãi không bao giờ siêu thoát được, không bao giờ còn có thể hại ta được nữa. Sau đó ta sẽ lấy cốt họ đem gởi lên chùa. Vậy là xong! Điều này tôi đã suy nghĩ rất cặn kẽ rồi đấy!
                Trưởng làng nghiêm nghị trử lời.
                Ông An phản đối:
                - Anh nói nghe thật dễ dàng, làm như họ ngồi im đó để mình muốn làm gì thì làm vậy sao? Có khi mình chưa kịp làm gì thì cả gia đình dòng họ đã phải vướng vào kiếp nạn rồi cũng nên!
                Trưởng làng vẫn giữ giọng bình thản:
                - Lúc vừa nghe tin anh gặp chuyện, tôi đã đi gặp các vị đại sư và may mắn gặp được vị sư trụ trì trẻ tuổi tài cao ấy, ông ta vẫn đang rất tích cực trong vịec cúng kiếng cầu siêu. Tối mai chúng ta cùng nhau đến đó nhận lỗi với họ, hy vọng mọi việc sẽ êm xuôi.
                Ông An hỏi nhỏ:
                - Vậy có cần đem theo máu chó mực hay không?
                Ông Dương trừng mắt:
                - Đem theo để làm gì? Chúng ta đi cúng bái xin tha tội mà đem theo thứ đó chỉ làm cho họ càng thù ghét chúng ta thêm, lúc đó thì khỏi có hy vọng gì nữa hết, chết là cái chắc.
                Trưởng làng cười khà khà, vỗ vai ông Dương, nói:
                - Chỉ mới chết hụt một lần mà có nhiều kinh nghịêm quá nhỉ? ÔNg nói cũng đúng, chúng ta chỉ cần đem nhang đèn, hoa quả là được rồi, không cần máu me làm gì hết!
                Ông An mừng rỡ:
                - Ờ vậy nghe được hơn đó! Mình cứ thật lòng đi, họ tha hay không cũng phải chịu, có chết cũng được, chỉ mong rằng đừng ai trong gia đình bị lây vạ…
                Khi từ nhà trưởng làng về, ông Dương cảm thấy trong lòng mình buồn bã và khó chịu vô cùng. ÔNg đã không còn cái cảm giác sợ hãi như trwosc nữa. Hình như một khi đã đối diện với sự việc đó rồi, ông không còn sợ nữa.
                Mấy chục năm nay, tội lỗi tày trời ấy luôn dày vò ông, nên mặc dù sống một cuộc sống đủ đầy, thoải mái về vật chất, ông Dương vẫn không có lấy một ngày thật sự thảnh thơi.
                Ông vùi đầu vào công việc để buộc mình không nghĩ gì về quá khứ, coi như tất cả chỉ là một giấc mơ kinh hoàng, một cơn ác mộng. Nhưng hỡi ơi, không thể được, khi mỗi một ngày ông đều nhớ lại cơ nghiệp của ông dựng lên từ đâu? Từ những đồng tiền nhuộm đỏ máu của chính ân nhân mình.
                Ông Dương là người đầu tiên đốc thúc việc cúng tế hàng năm. Ngoài ra, ông luôn tìm cách giúp đỡ những có hoàn cảnh khốn khó neo đơn trong vùng với một hy vọng nhỏ nhoi là có thể chuộc được phần nào tội lỗi.
                Giờ đây, ông biết, dẫu ông có chết đi thì tội lỗi tày trời kia cũng không dễ gì xóa được.
                Ông Dương nhận thấy trưởng làng tuy bề ngoài coi bộ như đã đồng tình nhưng bên trong hình như ông ta vẫn đang toan tính một điều gì đó.
                Mà thôi, bây giờ thì ai lo phận nấy, ông cũng không cần có sự ủng hộ của trưởng làng và ông An làm gì nữa. ÔNg đã chán ngán lắm rồi…
                Không chờ được đến tối hôm sau, ngay tối đó ông Dương một mình lặng lẽ đi lên ngọn đồi.
                Đứng trước ngôi nhà gần như đổ nát, tự nhiên ông Dương nghe trong lòng mình dâng lên một niềm cay đắng tái tê.
                Con người ta cứ đâm đầu vào những thứ vật chất phù phiếm, cố đạt được bằng mọi giá, đạt được rồi thì sao? Có bình an thanh thản mà hưởng thụ hay không? Hay cứ phải suốt đời sống trong sự cắn rứt khổ đau đày đoạ của linh hồn?
                Ông Dương chầm chậm bước lần vào. Khung cảnh hoang tàn đổ nát của ngôi nhà hiện ra trước mắt ông như một bằng chứng chưa phai của quá khứ. Ông Dương bất chợt giật mình khi trông thấy vị sư trụ trì đang ngồi xếp bằng trong góc nhà, hai tay chắp trước ngực, hai mắt nhắm nghiền không hề mở lên nhìn ông, nhưng miệng lại nói:
                - Cảm ơn thí chủ đã đến!
                ÔNg Dương hoàn hồn, ngạc nhiên hỏi lại:
                - Bẩm đại sư, ngài biết rằng tôi sẽ đến đây sao?
                Trên mặt vị sư trẻ tuổi thoáng hiện một nụ cười bác ái:
                - Bần tăng không biết, nhưng bần tăng tin là như thế!
                Ông Dương quỳ mọp xuống, hai tay nắm chặt:
                - Xin đại sư từ bi dẫn lối chỉ đường giúp tôi. Ngày xưa do trẻ người non dạ, tôi đã gây ra tội lỗi lớn. Nay tôi kính nhờ đại sư chuyển giúp lời tôi đến với những người đã khuất, rằng bao nhiêu năm qua tôi đã thật sự hối hận ăn năn nhiều lắm… Tôi sẵn sàng đem tính mạng của mình ra để trả, chỉ xin… chỉ xin…
                Ông Dương không nói được hết câu. Ông thật xấu hổ khi ngày xưa, bon ông cũng đâu có tha cho ai trong nhà này, dù đó chỉ là một đứa bé còn rất nhỏ tuổi.
                Nhà sư vẫn không mở mắt, nhẹ nhàng nói:
                - Nếu thí chủ đã thật sự hối lỗi thì hãy xin với những người kia!
                ÔNg Dương ngơ ngác nhìn quanh quất, vừa quay đầu lại phía sau, ông muốn đứng tim khi nhận thấy rất nhiều bóng trắng đang chập chờn phía sau mình. Nhưng rồi ông định thần lại ngay, ông khẽ quay hẳn người lại, để đối diện với tội ác ngày nào.
                Kìa là một bóng phụ nữ đang bế trên tay đứa bé, kìa là những bóng người ủ rũ đang lượn lờ mờ ảo vây quanh…
                - Xin tha thứ cho tôi! Xin tha thứ tội lỗi cho tôi… Thật sự ngày ấy tôi không cố ý gây ra…
                Một giọng nói lạnh lùng vang lên:
                - Không cố ý mà cả gia đình người ta chết thảm? Không cố ý mà đem tội lỗi của mình đổ vấy lên đầu kẻ khác, bắt họ phải chết trong oan ức…
                Ông Dương quỳ mọp dưới đất, nước mắt nước mũi nhòe nhoẹt cả gương mặt già nua cằn cỗi của ông.
                Nhà sư trẻ tuổi đứng lên, bước tới bên cạnh đỡ ông Dương đứng dậy:
                - Nếu thí chủ đã thành tâm, vậy tại đây, trước vong linh những ngwofi đẫ khuất, thí chủ hãy kể lại tất cả câu chuyện một cách thành thật, không che dấu.
                Ông Dương đưa tay áo lau mặt rồi cúi đầu xấu hổ, bắt đầu kể lại:
                Năm đó, do liên tiếp bị bão lụt đan trong làng chài nhà nào cũng gặp đôi chút khó khăn. Người thwong nhân tốt bụng đã không ngần ngại sẵn sàng cho họ mượn tiền để mua sắm các dụng cụ chài lưới để mưu sinh.
                Vốn là người nhiều tham vọng, ông Kha – trưởng làng hiện tại – đã rủ rê ông An và ông Dương dùng hết số tiền còn lại của gia đình để đầu tư vào một canh bạc lớn với hy vọng sẽ được đổi đời, sẽ giàu có.
                Nhưng cuối cùng cả ba đều thua trắng. Họ không dám về nhà, không biết phải đối diện với vợ con ra sao khi tất cả của cải và chút ít vốn liếng vừa được người thương gia giúp đỡ chỉ trong phút chốc đã tiêu tan.
                Trong lúc túng cùng, chính ông Kha đã nảy ra ý định tới nhà người thương nhân giàu có ấy để ăn trộm. Ban đầu cả hai ông An và Dương đều không đồng ý, nhưng nghe ông Kha nói một hồi cũng xiêu lòng, vả lại hai ông cũng không thể vác mặt về gặp lại vợ con trong tình trạng đó.
                Kế hoạch được ông Kha bàn tính kỹ lưỡng lắm.
                Đầu tiên, ông An sẽ là người vô nhà đàng hoàng bằng cửa chính. Ông là người ăn nói hoạt bát, vui vẻ lại có thể tùy cơ ứng biến một cách nhạy bén.
                Theo kế hoạch, ông An sẽ đến chơi, nói lời cảm ơn gia đình đã gíup đỡ ông cùng với bà con trong làng vượt qua cơn khốn khó. Sau đó, ông sẽ kể chuyện vui để tập trung mọi người trong nhà về phòng khách, vì ai nấy đều biết rõ gia đình người thương nhân rất hiếu khách và thân thiện với mọi người.
                Trong khi đó, ông Kha và ông Dương sẽ vào nhà bằng lối cửa sau, tranh thủ lúc mọi người vui cười ngoài phòng khách, hai ông sẽ lẻn lên lầu, vào phòng ngủ của vợ chồng chủ nhà để trộm.
                Ban đầu mọi việc diễn ra đúng như kế hoạch, hai người đột nhập lên lầu một cách dễ dàng, nhanh chóng. Nhưng khi ông Dương đang lúi húi mở ngăn tủ thì bất ngờ đứa con gái lớn trong nhà đẩy cửa chạy ào vào. Nó khựng lại khi nhìn thấy hai người đàn ông trong phòng mẹ nó. Còn đang đứng há hốc chưa kịp kêu lên, nó đã bị ông Kha từ phía sau chồm tới, dùng hai bàn tay to khỏe của mình bóp chặt lấy miệng mũi. Con bé ra sức vùng vẫy, ông Kha bị nó cắn một phát vào tay đau đớn. Ông cáu tiết, dộng mạnh đầu nó xuống cạnh bàn làm đứa bé tóe máu và xuội lơ, không còn cựa quậy gì được nữa.
                Ông Dương đưa tay lên mũi con bé thấy không có chút hơi thở nào, hoảng quá, ông đứng bật dậy, tay chân run lẩy bẩy.
                Trong lúc đó vợ người thương nhân chờ hoài không thấy con gái đem quần xuống thay cho em, bà nghĩ con gái mê chơi gì đó trên lầu nên bà bế đứa con trai nhỏ lên phòng mình thay đồ cho nó.
                Vừa đẩy cửa phòng, bà thấy ngay con gái nằm bất động, máu me lênh láng xung quanh. Bà chưa kịp la lên thì nhanh như cắt, ông Kha đã chụp lấy cây dầu vuông trong góc phòng nện tới tấp vào gáy bà, nện cả vào đứa bé mà bà đang ẵm trên tay.
                Vợ người thương nhân ngã xuống, bà quá đỗi ngạc nhiên khi nhìn thấy kẻ hại mình chính là người mới sáng nay thôi đã xòe tay nhận sự giúp đỡ của vợ chồng mình.
                Trông thấy ánh mắt vợ người thương nhân nhìn mình thảng thốt, ông Dương quá sợ hãi, ông sợ mọi việc lỡ vỡ ra, bà ta biết mặt mình thì không tránh khỏi cái chết. Trong cơn hoảng loạn, ông Dương thấy trên bàn có để cái dao nhỏ dùng gọt trái cây, ông chộp lấy và không nghĩ suy gì, cứ đâm liên tiếp nhiều nhát vào ngực người đàn bà xấu số.
                Ông Dương như kẻ điên loạn, chỉ đến khi ông Kha giữ chặt tay lại ông Dương mới hoàn hồn. Ông bủn rủn khuỵu xuống khi thấy khắp xung quanh mình là máu và xác chết.
                Ông rên rỉ:
                - Trời ơi, tôi đã giết người rồi! Tôi đã giết người rồi! Không… tụi mình chỉ đến đây ăn trộm thôi mà… mình không giết người… không giết…
                Ông Kha gắt nhỏ:
                - Giờ phút này không phải là giờ phút để nói những chuyện đó ! Đây là giờ phút sống còn của cả ba đứa mình, ông phải bình tĩnh lại, chúng ta nhanh nhanh lên còn chạy thoát…
                Vừa nói tới đó thì đứa con trai của người thương nhân lại chạy vào. ÔNg Kha quơ cây dầu vuông nãy giờ vẫn còn trên tay lên đầu thằng bé, nó hét lên:
                - Ba ơi…
                Khi thằng bé vừa ngã gục xuống cũng là lúc người thương nhân và những người còn lại trong nhà chạy vội lên lầu vì nghe tiếng kêu hoảng hốt của con trai.
                Biết mọi chuyện sắp đổ bể, sợ mình không khỏi dính vào, ông An nhanh trí giả như chen lấn đã nhanh tay xô người thương nhân té xuống thang lầu.
                Trong nhà lúc đó ngoài hai đứa con trai nhỏ, chỉ có người thương nhân là đàn ông mạnh khỏe, nếu ngăn được ông ấy là có thể thoát được rồi!
                Ông An lại giả vờ đỡ người thương nhân dậy rồi dìu ông ta lên lầu.
                Lúc đó, ông Kha và ông Dương biết mình bị phát giác, hoảng loạn đã khiến họ như điên loạn, cuồng sát.
                Một người cầm cây dầu vuông, một người cầm dao cứ quất, đâm tới tấp vào bất cứ người nào xuất hiện trước cửa phòng.
                Khi ông An và người thương nhân lên tới phòng thì gần như tất cả người trong nhà đều đã ngã gục. Ông Khavừa nhìn thấy người thương nhân lập tức giáng liên tiếp hàng chục cây lên người ông, người thương nhân không kịp nói một tiếng nào, chỉ cố né người tránh đòn.
                Trong cơn nguy cấp, ông An luýnh quýnh không biết phải làm gì, nghe tiếng ông Kha hét lên:
                - Xô nó!
                Giống như kẻ mất hồn, ông An lập tức đẩy mạnh người thương nhân xuống thang lầu. Một lần nữa, người thương nhân tội nghịêp ấy lại lăn lông lốc xuống mấy chục bậc thang.
                Ông Kha như say máu, vác cây chạy bổ theo nện tới tấp vào thân thể bất động của người đàn ông nhân hậu.
                Khi cả ba người như bừng tỉnh thì trong nhà đã trở thành một bãi chiến trường đẫm máu.
                Ông Dương cứ ngó sững vào con dao đang cầm trên tay, mắt như kẻ vô hồn. Còn ông An cũng điếng người khi trông thấy xác người nằm la liệt.
                Chỉ có mỗi một mình ông Kha là coi bộ bình tĩnh hơn cả.
                Ông Kha gục xuống, nhưng chỉ trong chốc lát ông đứng bật dậy, chỉ huy cho hai người còn lại gom góp tất cả tiền vàng trong nhà. Khi mọi việc xong xuôi, chính ông là người châm lửa và đổ nguyên mấy thùng xăng để xóa bớt đi chứng cứ.
                Ông Kha trấn an hai bạn:
                - Hai ông đừng lo, sẽ không ai nghi ngờ gì mình đâu! Thời gian vừa rồi, bọn cướp về đây, điều này ai cũng biết, ngay cả nhà chức trách địa phương. Vậy nhân đó, ta đổ hết tội lỗi lên đầu chúng, hai ông đừng lo gì cả…
                Ông Dương run sợ:
                - Hay là mình tạm lánh đi đâu đó một thời gian…
                Ông An nạt:
                - Đừng có ngu! Giữa lúc này mà bỏ đi, chẳng khác nào lạy ông tôi ở bụi này, làm cho mọi nghi vấn tập trung cả vào bọn mình. Chỉ có mỗi một cách là làm theo lời ông Kha nói. Mình cứ bình tĩnh, giả vờ như vô can, và nhất là không nên vội vàng dùng tới số tiền này. Đến khi nào mọi việc im ắng mình mới có thể sử dụng nó.
                Và sau đó mọi việc đã diễn ra đúng như ông Kha và ông An liệu trước.
                Chính ba ông là người hăng say nhất trong việc giúp đỡ nhà chức trách tóm gọn băng cướp năm xưa.
                Kể đến đây ông Dương bật khóc. Những cái bóng trắng thấp thoáng mờ ảo cũng đang rên xiết những tiếng ai oán não nề…
                Lúc này, hồn ma của tên đầu đảng băng cướp năm xưa đưa bộ mặt đầy máu của mình đến sát mặt ông Dương, gằn giọng:
                - Các người là một lũ hèn mạt! Chúng ta tuy làm nghề cướp bóc, nhưng chúng ta còn có lòng nhân đạo, chưa bao giờ chúng ta cướp của những kẻ hiền lương, sống với láng giềng chúng ta cũng là những người đàng hoàng, dế mến. Còn các người, các người mang bộ mặt lương dân mà lòng dạ ác độc còn hơn loài ma quỷ, các người dám giết chính ân nhân của mình lại còn đổ vấy tội lỗi lên đầu kẻ khác. Vậy mà… chẳng hiểu sao ông trời lại để các người sống yên ổn mấy chục năm nay?
                Vừa nói hết câu, hồn ma tên tướng cướp đè ngã ông Dương xuống đất, hia bàn tay lạnh ngắt của hắn từ từ đưa gần cổ ông Dương.
                Ông Dương không van xin cũng không chống đỡ, lúc này ông rất múôn được đền tội. Nước mắt ông lã chã rơi ra:
                - Xin ông hãy giết tôi đi! Tôi xin nguyện lấy cái chết của mình để trả bớt một phần nào tội ác. Xin các người hãy giết tôi đi…
                Giữa lúc ấy, giọng nói nhỏ trầm ấm của vị sư trẻ tuổi cất lên:
                - Mô Phật! Oan oan tương báo… Nếu cứ mãi giết chóc trả thù thì thù hận đến kiếp nào mới dứt? Bần tăng xin các người hãy hướng về cõi Phật mà rũ bỏ hết oan khiên…
                Hồn ma tên cướp chựng lại rồi từ từ rút tay về, hắn thở dài áo não:
                - Aâu cũng là nghiệp chướng!
                Một chuỗi cười lạnh sắc cất lên:
                - Đừng giết hắn! Hãy để cho hắn sống, sống trong đau khổ tột cùng, để hắn sống không bằng chết, có như thế hắn mới đền được tội lỗi đã gây ra…
                Tiếng người thương nhân cất lên nghe có vẻ ôn hòa hơn:
                - Dù sao hắn cũng là người biết hối hận… Ta đã từng muốn trả thù, từng muốn giết chết từng đứa, từng đứa một… nhưng bây giờ trông thấy bộ dạng thảm hại của hắn, ta cũng chẳng còn chút hứng thú nào…
                Có nhiều tiếng xôn xao bên dưới:
                - Không được! Không tha cho chúng được! Không thể để cho chúng sống nhởn nhơ…
                - Mô Phật!
                Nhà sư cất tiếng:
                - Mọi người sống trên đời đều có một tiền kiếp. Và tất cả những gì xảy ra ở kiếp này cũng có nguyên nhân xâu xa từ kiếp trước. Tất cả những việc làm dù nhỏ nhất đều không thể qua mắt được, không thể che đậy mãi được. Lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà không lọt. Gieo nhân nào thì chắc chắn sẽ phải gặt về quả ấy. Cái hậu quả đến sớm hay muộ là do tiền căn đưa đẩy, sẽ không một ai thoát khỏi. Ngay như các vong hồn ở đây, các người oán thán vì bị chết oan, nhưng nếu các người nhớ lại được những gì ở kiếp trước của mình, thì bần tăng tin rằng các người cũng sẽ thở dài chấp nhận. Bần tăng mong mỏi các linh hồn hãy rũ bỏ hết ân oán mà nhanh nhanh siêu thoát, đừng sống vất vưởng như thế này nữa, cũng đừng quan tâm đến kẻ đã giết mình, họ sẽ bị trừng phạt thôi, việc đó không cần các người phải ra tay.
                Nhà sư trẻ tuổi cứ nói mãi, nói mãi đến lúc những tiếng rên rỉ khóc than của các hồn ma dứt hẳn mới thôi.
                - Kính bẩm đại sư, giờ đây chúng tôi phải làm sao?
                Nhà sư mỉm cười:
                - Hãy tuân theo quy luật tự nhiên…
                Những bóng ma dường như đã được tỉnh ngộ.
                Tất cả lặng lẽ tan biến đi, không còn ai đoái hoài gì đến ông Dương đang gần như mê đi trong góc nhà.
                Nhà sư trẻ tiến đến bên cạnh ông Dương, đỡ ông ngồi lên rồi từ từ dìu ông xuống chân đồi.
                 
                ***
                Sáng hôm sau ông Dương đã trở thành một người hoàn toàn khác. ÔNg ngơ ngơ ngẩn ngẩn, nói nói cười cười như kẻ tâm thần. Con cháu ông dù tận tình chạy chữa đến đâu vẫn không cải thiện được tình trạng ấy.
                Người làng đồn ầm lên, do ông Dương bị ma nhập, hồn vía ông đã không tìm được đường về với thân xác.
                Từ đó ông trở thành người điên loạn, nhưng lại rất hiền, ông không phá phách đánh chửi ai mà suốt ngày cứ đi rong ngoài đường nhặt từng viên sỏi, miếng mảnh chai, sợi rác để con đường trong làng luôn sạch sẽ. Trong nhà có thứ gì ăn được ông lại len lén lấy đem ra cho lũ trẻ con nhà nghèo khó.
                Nhà ông Dương từ xưa tới nay sống bằng nghề đóng tàu, gia đình khá giả làm ăn phát đạt. Bỗng đâu một hôm cả xưởng đóng tàu bị cháy rụi, làm chết cả đứa con trai duy nhất của ông đang ngủ say trong đó.
                Gia đình tang tóc mà ông Dương vẫn cứ cười cười:
                - Thế là xong! Thế là xong!
                Chẳng ai hiểu ông nói gì, mà cũng không ai muốn tìm hiểu lời nói nhảm của một người điên.
                Từ khi thấy ông Dương không còn tỉnh táo, ông An càng trở nên sợ hãi. Ông đem đất hiến cho chùa, hiến cho chính quyền địa phương để xây trường học. Ông bỏ hết công việc làm ăn, suốt ngày đi làm từ thiện ở nơi này nơi khác mặc cho vợ con ông phản đối.
                Cũng may là ông An chỉ có hai người con. Người con trai đầu sinh sống tại Sài Gòn, người con gái út có chồng ở gần đó.
                Anh con trai không quan tâm lắm đến chuyện cha mình lấy tài sản đi làm công quả vì từ lâu nay anh hoàn toàn tự lập. Gia đình bên vợ của anh lại là người biết tu hành nên cũng không ai dè bỉu gì hành động của cha anh.
                Ông An chia cho hai đứa con mỗi đứa một khách sạn trong khu du lịch. Còn ngôi nhà rộng lớn mà hai vợ chồng đang ở ông cũng đem bán nốt, gom góp hết tiền bạc ông đem lên ngọn đồi hoang vắng đó để xây một ngôi chùa nhỏ và ngày ngày đọc kinh niệm phật.
                Ban đầu vợ ông khóc lóc phản đối, bà giận dỗi về sống với con gái, nhưng rồi cuối cùng bà cũng theo ông lên ở trên chùa để chăm sóc cơm nước cho ông.
                Riêng về phần ông Kha. Trông thấy sự thay đổi của hai ông bạn già, ông Kha không khỏi tức giận, thầm chửi họ là hai thằng ngu! Có gì đâu phải đày đọa bản thân mình như vậy? Ở đời mà, quy luật sinh tồn hễ kẻ nào mạnh là kẻ đó thắng, trong bất cứ trường hợp nào mình cũng phải ráng mà chiếm giữ thế thượng phong.
                Ông tự hào mình là người khôn ngoan, biết khéo léo trong mọi tình huống nên bao nhiêu năm nay được dân trong làng tôn kính, mỗi lời ông nói ra là một mệnh lệnh đối với dân làng.
                Ông không thể vì một nỗi sợ hãi vu vơ mà hủy đi tất cả.
                Nhưng số trời đã định, ông Kha không thể cãi lại được.
                Gia đình ông từ xưa đến nay vốn rất nề nếp, trên nói dưới nghe không hề có sự xào xáo xảy ra bao giờ.
                Bỗng dưng thằng con trai lớn của ông đâm ra đổ đốn, không lo làm ăn mà suốt ngày la cà ở các sòng bài hoặc các tụ điểm ăn chơi khác. Nó cặp bồ với hết cô ca ve này lại đến cô ca ve khác, bao nhiêu tiền của trong nhà đều bị nó đem đi hết.
                Vợ nó khóc lóc than van, nó chẳng những khnôg tỉnh ngộ mà còn thẳng thừng tuyên bố sẽ bỏ vợ để cưới một cô ca ve mà nó hiện say như điếu đổ.
                Ông Kha la mắng cũng không xong, bây giờ dường như lời nói của ông không còn giá trị gì đối với nó nữa.
                Chuyện thằng con trai lớn chưa giải quyết xong lại đến hai thằng kế giành nhau mảnh đất dẫn đến đâm chém lẫn nhau.
                Vụ việc lớn thêm khi một đứa bị đâm vỡ động mạch suýt chết.
                Dân làng phế truất chức trưởng làng của ông An không lâu sau những sự việc không hay liên tiếp xảy ra trong gia đình ông.
                Buồn chuyện gia đình, mắc cỡ vì mất chức trước dân làng, ông An lao vào rượu chè cờ bạc.
                Từ ngày vợ ông mất đi, mặc dù các con ông toàn là trai, trong nhà thiếu vắng bàn tay người phụ nữ chăm sóc, nhưng vì cái chức trưởng làng, ông đã cố gắng giữ nề nếp nhà mình thật đâu vào đấy.
                Bây giờ đùng một cái bao nhiêu chuyện xảy ra, ông không còn lòng nào để giữ gìn gì nữa.
                Giờ thì gia đình ông, cha ăn chơi mặc cha, con lêu lổng mặc con, không ai còn quản ai được nữa.
                Các con dâu ông lại tranh giành nhau từng chút, từng món vật dụng trong nhà.
                Đứa con trai suýt chết vừa từ bệnh viện trở về đã vội tìm anh nó để trả thù, chỉ một nhát dao rất ngọt, nó đã kết liễu cuộc đời người anh ruột thịt của mình.
                Một thằng con chết, một thằng con vào tù chờ ngày toà tuyên án.
                Ông An đau đớn tột cùng, nhưng ông vẫn cố gắng gượng, vẫn cố tin vào tương lai của những giọt máu còn lại trong nhà.
                Hai thằng cháu nội mà ông An đặt nhiều hy vọng nhất đang theo học Đại học ở Sài Gòn, ai có ngờ đâu chúng đã dính vào ma túy từ lâu mà gia đình không hay biết.
                Giữa lúc nhà cửa đang lộn xộn nhiều chuyện, tin hai đứa cháu bị bắt vì tội tham gia mua bán heroin bay về khiến ông An suy sụp hẳn.
                Đêm đó ông không ngủ, ông ngồi ủ rủ trước sân nhà suy nghĩ về những việc xảy ra trong quá khứ của mình, lòng ông đau đớn lắm.
                Ông đã nhúng tay vào máu để mong gầy dựng cho con cái có được cuộc sống giàu sang sung túc, ai ngờ đâu kết cuộc lại bi thảm như thế này.
                Thế này thì thà sống đời chài lưới kiếm sống từng ngày còn vui vẻ hơn.
                Hay là ta đang phải đền tội?
                Những gì ta cướp lấy của người, giờ đây ta phải trả? Trả dần từng thứ một…
                Bây giờ ông Kha chỉ còn lại hai đứa con, một thằng lêu lổng ngoài đời, một thằng giam hãm trong tù cùng với hai đứa cháu nội.
                Hết rồi! Hết thật rồi! Không còn hy vọng gì nữa đâu…
                Ông Kha đứng lên, cất bước chầm chậm không định hướng.
                Ông lầm lũi đi, đi mãi đến khi bất chợt nhận ra mình đang đứng trước cánh cổng chùa mới xây dựng trên đỉnh đồi hoang vắng. Ông Kha chần chừ không dám bước chân vô.
                Tiếng mõ công phu vang lên đều đều khiến ông cảm thấy sợ hãi.
                Ông quỵ xuống trước cổng chùa khóc nức nở.
                Đến lúc trời hửng sáng, ông An bắt gặp ông bạn già của mình đang nằm bất tỉnh, ông hoảng hốt vực đem vào chùa đốt lửa sưởi ấm.
                Mãi tới chiều hôm đó ông Kha mới dần hồi tỉnh.
                Tin ông Kha trúng gió đang nằm tại chùa đã được nhắn gửi về gia đình nhưng dâu con không ai buồn lên thăm viếng ông, bỏ mặc ông cho vợ chồng ông An chăm sóc.
                Đến hki thật khỏe, ông Kha xin ông Dương cho ông được ở lại chùa để ngày ngày tụng kinh sám hối, nhưng ngay chiều hôm ấy ông đã nhận được hung tin, thằng con trai lớn của ông đi nhậu về, té úp mặt xuống khe suối và đã chết.
                Ông Kha không nói không rằng, cũng không chảy một giọt nước mắt. Ông chào tạm biệt người bạn già, lủi thủi quay về.
                Ngày đám tang con trai, trong nhà ông lại xảy ra một trận chiến kịch liệt giữa các nàng dâu.
                Ai cũng kể công khó nhọc của mình và đòi được hưởng quyền lợi nhiều hơn. Họ ngang nhiên bàn tới chuyện chia chác tài sản mà không thèm nói với ông câu nào.
                Sau khi chôn cất con trai, ông Kha tập hợp các nàng dâu lại và đem hết tiền bạc có trong nhà chia hết cho chúng.
                Việc chia chác đó dĩ nhiên không đơn giản chút nào, ai cũng tranh phần hơn. Cuối cùng ông nổi điên lên đổ nguyên cả thùng xăng giữa nhà rồi châm lửa đốt.
                Các nàng dâu vơ vội lấy phần của mình chạy ra ngoài kêu cứu.
                Ông Kha tay lăm lăm cây mác đứng trước cổng, ngăn không cho ai vào cứu hỏa.
                Đến chiều tối thì căn nhà của ông đã hoàn toàn thành tro.
                Ông lặng lẽ gánh từng gánh nước đổ vào mớ tro than còn hừng hực hơi nóng.
                Hì hục đến tận nửa đêm, ông vứt thùng rồi nằm dài ra giữa sân cất lên một tràng cười man dại.
                Những người ở gần đó bảo với nhau rằng ông đã lên cơn điên loạn.
                Nhưng thật ra ông không điên, ông tỉnh táo hơn bao giờ hết. Ông biết mình đang bị trừng phạt.
                Vài ngày sau, trên nền đất còn vương đầy tro than ấy, ông Kha dựng lên một căn chòi nhỏ.
                Ngày ngày ông ra biển nhặt nhạnh và làm một vài việc lặt vặt như vá lưới thuê, phơi cá khô mướn cho người ta. Ông góm góp từng đồng để tới tháng lặn lội đi thăm con, thăm cháu…
                Thỉnh thoảng ông An sai vợ mang xuống cho ông bạn già một ít gạo và thức ăn.
                Ông Kha chỉ nhận của ông An, ngoài ra dân làng thương tình cho gì ông cũng từ chối.
                Ông sống như một cái bóng lầm lũi giữa cuộc đời…
                Hết
                Nguyễn Thị Mộng Thu
                 
                <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:34:00 bởi nguyenthu >
                #68
                  nguyenthu 10.08.2009 21:58:56 (permalink)
                  SỨ GIẢ CÕI ÂM – DƯƠNG
                   
                  Ở khu phố này không ai là không biết đến cô Ngọc. Cô khoảng độ bốn mươi tuổi, dáng người cân đối, gương mặt phúc hậu. Cô đã có chồng và có hai con. Chồng cô, một anh người hiền lành như đất. Vì vậy, tuy cô Ngọc không phải loại đàn bà lấn lướt chồng, nhưng mọi việc trong gia đình đều do một tay cô quản lý, chỉ huy.
                  Nói chung, ở cô cũng chẳng có điểm gì nổi bật lắm, ngoài một biệt tài mà khó ai có được. Đó là tài… giao tiếp với cõi âm.
                  Trước kia, cô cũng là một người bình thường như bao nhiêu người khác. Năm mười lăm tuổi, một lần vô ý cô bị trượt chân té xuống ao nước sau nhà, nếu không có mấy đứa trẻ vào vườn ăm trộm ổi thì cô đã chết lúc đó.
                  Nghe tiếng kêu cứu của bọn trẻ, người ta đã vớt được cô lên, nhưng cô cũng đã đứng bên lằn ranh giữa sự sống và cái chết rồi.
                  Hơn một tháng sau cô Ngọc mới dần khoẻ lại, nhưng từ đó ở cô phát sinh một năng lực thần bí.
                  Người phát hiện đầu tiên là mẹ cô.
                  Một buổi chiều tối, hai mẹ con đang ngồi với nhau trên bậc thềm, cô Ngọc bỗng chỉ tay ra cổng, nói với mẹ:
                  - Đoàn hát ở đâu kéo về đông quá, sao từ sáng giờ không nghe ai nói hết vậy mẹ?
                  Bà mẹ ngơ ngác hỏi:
                  - Con nói gì? Đoàn hát nào đâu?
                  Cô Ngọc ngạc nhiên:
                  - Họ đi rần rần vậy mà mẹ không nhìn thấy sao?
                  Bà mẹ lo lắng:
                  - Không… mẹ có thấy gì đâu? Hay… hay là con bị gì rồi?
                  Ngọc không nói không rằng, cô đứng lên chạy vụt ra cửa, níu áo một cô lại hỏi:
                  - Cô ơi, tối nay đoàn hát về hát tại đây phải không cô?
                  Cô đào buồn bã nhìn Ngọc:
                  - Không em à, các anh chị chỉ nhớ ngày kỷ niệm nên quay về thăm lại chốn xưa thôi…
                  Nói xong, cô đào rảo bước đi nhanh lên phía trước.
                  Ngọc ngơ ngẩn nhìn theo, thấy lá cờ ghi mấy chữ: “Đoàn cải lương Trăng Quê” đang phần phật bay giữa đoàn người rồng rắn.
                  Quay vào nhà, Ngọc bảo:
                  - Họ không phải về hát ở đây mẹ ơi, cô kia bảo chỉ là họ nhớ ngày kỷ niệm gì đó nên trở về thăm thôi.
                  Bà mẹ lo lắng:
                  - Con đã nói chuyện với họ à?
                  - Dạ, lúc nãy mẹ không nhìn thấy sao? Con đã hỏi một cô đẹp ơi là đẹp, chắc là cô đào chính của đoàn, con đứng nói chuyện ngay trước cổng nhà mình mà, mẹ phải thấy chứ!
                  Ngọc ngây thơ nói.
                  Bà mẹ rất hoang mang, hỏi tiếp:
                  - Thế, con có biết đó là đoàn cải lương nào không?
                  - Dạ, hình như là đoàn Trăng Quê mẹ ạ! Con không hỏi, nhưng con thấy lá cờ của họ có thêu dòng chữ “Đoàn cải lương Trăng Quê”
                  Ngọc hớn hở.
                  Bà mẹ cảm thấy cả người nổi gai ốc. Bà nhớ lại, cách đây hơn ba mươi năm, lúc bà còn rất nhỏ nơi này đã xảy ra một cơn bão kinh hoàng, giết chết rất nhiều người, trong đó có cả đoàn cải lương Trăng Quê đang về đây biểu diễn phục vụ.
                  Thật ra hồi ấy bà còn nhỏ lắm, bà cũng không nhớ được gì, chỉ nhớ lại lời kể của người lớn trong làng mà thôi.
                  Bây giờ đây, tự nhiên nghe con gái nhắc tới tên đoàn cải lương, nó lại còn chạy ra đường nói chuyện với người ta trong khi bà hoàn toàn không nhìn thấy bóng dáng một người nào.
                  Quá hoảng sợ, bà mẹ vộ ivàng kéo cô Ngọc vào nhà, đóng kín cửa lại rồi giả bộ lảng sang chuỵên khác để con gái không nhắc tới đoàn người trước nhà nữa.
                  Sáng hôm sau, bà mẹ vội vã tìm tới ông lão cao tuổi nhất vùng, hỏi thăm về cơn bão năm xưa, về đoàn cải lương đã bị bão dìm trong trong bể nước.
                  Theo lời kể của ông lão thì hôm qua chính là ngày mà cách đó mấy chục năm về trước cơn bão lụt đã tràn qua địa phương này.
                  Vậy những gì con gái bà nói là thật sao? Đoàn hát đã tìm về đúng vào ngày giỗ của họ? Con gái của bà giao tiếp được với những hồn ma?
                  Lo sợ, hồi hộp nhưng bà mẹ không dám thổ lộ cùng ai.
                  Trước đây mẹ con bà đã bị người ta dè bỉu nhiều rồi, bà không muốn ai biết đến điều này, không muốn trở thành đầu đề bàn tán của mọi người nữa.
                  Ngọc là đứa con gái duy nhất của bà. Một đứa con gái ra đời mà láng giềng không biết ba nó là ai, thế nên biết bao lời dèm pha đổ xuống mà bà phải cắn răng hứng chịu.
                  Nỗi lo lắng cho đứa con trong lòng người mẹ cũng tạm lắng xuống khi thời gian mấy tháng trôi qua, Ngọc vẫn sinh hoạt bình thường, không có chuyện gì lạ lùng xảy ra nữa.
                  Đến một ngày, trong xóm có người thanh niên chết đuối dưới sông. Ai trong làng cũng nghĩ anh ta nhậu say về đi qua cầu khỉ vô tình rơi xuống nước rồi không đủ sức bơi vào bờ. Đấy là một kẻ nát rượu, ngày nào cũng uống đến say khướt rồi về đánh mắng vợ con. Thế nên cái chết của anh ta cũng chẳng gây ra nhiều thắc mắc.
                  Giữa lúc đang cử hành tang lễ, Ngọc cùng với đám trẻ con trong xóm cũng túm tụm lại đó đứng xem. Bất ngờ Ngọc níu áo chị Bê, vợ của người chết và nói:
                  - Chú Bê nói chú bị người ta xô xuống nước, sao cô không trả thù cho chú?
                  Không riêng gì chị Bê, những người đứng gần đó đều hoảng hốt nhìn Ngọc chăm chú. Chị Bê nạt:
                  - Đừng ăn nói tầm bậy, đi ra chỗ khác chơi đi con, không thôi người ta đánh chết!
                  Ngọc vẫn không chịu thôi:
                  - Chú Bê nhờ con nói với cô như vậy mà, con đâu có nói bậy! Chú nói hôm đó chú không có uống rượu, chú đi chơi đánh bài, một người tên Út đánh bài thua nên kiếm chuyện với chú. Hai người đánh nhau, cuối cùng chú bị người đó bóp cổ đến chết rồi mới quăng xuống sông. Chú nói chú chết trôi mà trong bụng không có nước, sao cô không chú ý? Với lại trên thân thể chú có rất nhiều vết bầm lẫn trầy xước do đánh nhau.
                  Nghe Ngọc nói một hơi, tất cả những người có mặt đều tỏ ra vô cùng hoảng sợ, nhất là những người có tham gia tẩn liệm, những người có trông thấy xác chết của anh Bê. Tất cả những gì Ngọc nói đều không sai!
                  Sau đó nhà chức trách vào cuộc điều tra theo yêu cầu của chị Bê, và cuối cùng sự thật được làm sáng tỏ, thủ phạm cũng đã cúi đầu nhận tội. Tội ác hắn gây ra trong bóng tối chính là điều mà Ngọc đã kể vanh vách trước đám đông hôm rồi!
                  Tin tức đó lập tức được lan truyền rất nhanh. Tiếng tăm của Ngọc cũng bắt đầu nổi lên từ đó.
                  Lớn lên một chút, Ngọc cảm nhận được sự khấc thường của mình nhưng cô vẫn không có cách nào để giải thích được.
                  Cô chỉ biết rằng mình có thể nhìn thấy và nói chuyện được với các hồn ma. Cô thấy họ cũng bình thường như những người còn sống vậy thôi chứ hoàn toàn không có gì là đáng sợ.
                  Người dân quanh vùng và cả những người ở rất xa, nghe tiếng Ngọc đều tìm tới nhờ cô giúp đỡ những khi có vướng mắc gì đó liên quan tới người đã chết.
                  Tuy nhiên không phải bất kỳ trường hợp nào Ngọc cũng có thể giúp được. Bở vì cô không thể tìm được hồn ma nếu linh hồn đó không tự tìm đến với cô.
                  Bà mẹ rất lo lắng khi số lượng người tìm tới ngày một đông hơn. Nếu cứ tiếp tục như thế này thì làm sao con gái bà có thể học hành đàng hoàng được? Chẳng lẽ nó phải sinh sống bằng nghề đồng cốt hay sao?
                  Suy nghĩ mãi vẫn không có cách nào để giải quyết, cuối cùng bà mẹ phải cắn răng bán đi ngôi nhà đang ở và hai mẹ con dắt díu nhau tới một nơi thật xa để lập nghiệp. Hai mẹ con ra đi không hề để lại một chút tin tức nào.
                  Lúc ấy Ngọc cũng đã lớn nên cô ý thức được những phiền toái mà cô và mẹ sẽ gặp phải nếu khả năng đặc biệt của cô bị mọi người phát hiện. Vì thế, Ngọc rất cẩn trọng trong giao tiếp và lời ăn tiếng nói.
                  Tuy nhiên thỉnh thoảng vẫn có một vài linh hồn tìm tới nhờ cô làm việc này việc khác.
                  Ngọc không thể chối từ, nhưng cô cũng không trực tiếp giải quyết mà lại làm như vô tình gợi ra cho người thân của hồn ma một vài vấn đề mấu chốt nào đó rồi để tự họ lần theo sự thật.
                  Có những oan hồn chết đi không cam tâm khi thấy kẻ thủ ác vẫn sống nhởn nhơ trên trần thế; có những người đã chết nhưng chưa kịp làm một chuyện quan trọng nào đó cho gia đình, chưa kịp để lại lời trối trăn cần thiết… Họ tìm đến với Ngọc, nhờ cô làm nhịp cầu nối giúp họ thực hiện được tâm nguyện sau cùng.
                  Nhưng do kín đáo vì lường trước được những rắc rối có thể xảy ra, suốt nhiều năm liền tuy vẫn gíup được cho các linh hồn nhưng cuộc sống của mẹ con Ngọc vẫn giữ được sự bình yên.
                  Ngọc tốt nghiệp Đại học, về công tác ở một công ty lớn trong thành phố. Với nămg lực của mình, không bao lâu Ngọc đã được đề bạt lên một chức vụ quan trọng trong công ty.
                  Cô đón mẹ về Sài Gòn sinh sống. Rồi sau đó Ngọc lấy chồng, một anh chồng tài giỏi trong kinh doanh nhưng lúc ở nhà với vợ lại ngoan chưa từng thấy!
                  Có lần cô Ngọc kể với chồng về khả năng đặc biệt của mình, ban đầu anh chồng không tin, cứ tưởng cô đùa giỡn.
                  Ngọc nghiêm mặt hỏi:
                  - Có phải anh có một ông chú lưu lạc phương xa, đến tận bây giờ vẫn không rõ tin tức?
                  Tân, chồng cô Ngọc ngạc nhiên:
                  - Em nghe ai nói thế? Anh nhớ anh chưa kể với em mà?
                  Ngọc cười cười:
                  - Không những em biết, mà em còn biết chú anh hiện giờ ở đâu nữa kìa!
                  Tân nhổm dậy:
                  - Em biết? Ở đâu vậy em? Chú anh hiện đang ở đâu?
                  Ngọc ngồi xuống bên cạnh chồng, nắm lấy tay anh:
                  - Chú đã có vợ con ở Cà Mau, nhưng cách đây tám năm chú qua đời do một cơn bạo bệnh. Hiện mồ mả chú vẫn còn ở Cà Mau.
                  - Em… tại sao em biết?
                  Tân ngạc nhiên hỏi.
                  Ngọc khẽ liếc chồng:
                  - Thì em đã nói với anh rồi, em có năng lực đặc biệt là giao tiếp được với người chết mà, anh lại không tin…
                  Tân nghi ngờ:
                  - Em nói thật?
                  Ngọc gật đầu:
                  - Thật, em dối anh làm gì?
                  Tân vẫn chưa tin, anh hỏi lại:
                  - Nếu thật sự em giao tiếp được với người chết, vậy em hỏi chú giúp anh đi, tại sao bao nhiêu năm mà chú không quay về, cũng chẳng liên lạc gì với gia đình, làm cả nhà cứ nghĩ là chú đã chết. Nếu em giải đáp được thì anh mới tin…
                  Cô Ngọc nhìn chồng, ngập ngừng một chút rồi nói:
                  - Chỉ vì…. Chú bỏ ra đi đúng vào ngày chút Út cưới vợ. Vì… vợ của chú Út chính là người yêu của chú. Chú sợ nếu còn ở lại nhà, không dằn được lòng mình sẽ gây ra điều bại hoại, chú muốn bỏ đi đến bao giờ lòng mình dửng dưng sẽ trở về, nhưng mãi mà hình bóng thím út vẫn cứ hiện rõ trong lòng chú, chú không dám về, không dám liên lạc với gia đình cũng vì lẽ đó. Chắc anh cũng biết chuyện trwosc khi lấy chút Út, thím Út đã có tình cảm với chú phải không?
                  Tân tròn mắt:
                  - Em nói quả không sai! Nhưng hồi ấy mọi người không ai nghĩ chú ra đi vì tình, vì trước đó chú hoàn toàn không có dấu hiệu thất tình nào cả.
                  Ngọc cười:
                  - Chú bảo, chú sợ chú Út buồn nên phải ráng coi như không có việc gì… Đó, bây giờ anh tin em chưa?
                  Tân nghi ngại:
                  - Tin thì cũng có phần tin, nhưng sao anh vẫn thấy có cái gì…
                  Ngọc cười xòa:
                  - Thôi đi, em cũng không bắt buộc anh tin làm gì! Nếu anh để ý, thì từ từ anh sẽ biết thôi.
                  Cuộc sống của vợ chồng cô Ngọc vẫn diễn ra trong bình thản dù sau đó nhiều việc xảy ra khiến anh Tân không còn nghi ngờ gì về khả năng lạ lùng của vợ mình. Anh không ngăn cấm cô Ngọc giúp đỡ các hồn ma, nhưng anh cũng khuyến khích. Anh chỉ dặn cô phải cẩn thận đừng để gây ra rắc rối.
                  Hôm ấy, cô Ngọc đang trên đường từ chợ về nhà, tình cờ cô va chạm vào một phụ nữ trung niên có dáng người sang trọng.
                  - Xin lỗi… xin lỗi chị!
                  Cô Ngọc hấp tấp cúi xuống nhặt mấy quyển sách của người phụ nữ văng tung tóe bên đường, vừa rối rít xin lỗi.
                  Khi cô ngẩng lên thì bất thần nhìn thấy phía sau lưng người phụ nữ thấp thoáng một linh hồn mờ ảo. Vừa bắt gặp ánh mắt sáng rực của Ngọc, linh hồn vội vã tan loãng ra trong không khí.
                  Ngọc vô cùng ngạc nhiên. Trước nay, những linh hồn vất vưởng, mỗi lần gặp cô đều rất vui mừng vì có thể trao đổi với cô một vài chuyện nơi trần thế. Vậy tại sao linh hồn kia lại có vẻ như muốn lánh mặt cô?
                  Người phụ nữ nhận lấy tập tài liệu trên tay Ngọc rồi tiếp tục rồi cất bwosc trên đường. Ngọc không vội vã về nhà, cô đứng lại một lúc rồi chầm chậm đi theo người phụ nữ đó.
                  Đi một quãng xa, Ngọc lại nhận thấy bên cạnh người phụ nữ kia lại là hồn ma khi nãy, mà theo nhận xét của Ngọc hồn ma đó không có ý định đem lại điều tốt lành cho người phụ nữ, mà ngược lại thì đúng hơn.
                  Không nén được tò mò, cũng không thể bỏ qua thái độ mờ ám của hồn ma nọ, Ngọc quyết tâm tìm ra sự thật.
                  Cô đã bỏ không ít công sức theo dõi, cuối cùng đã biết được đôi nét về người phụ nữ đó.
                  Người phụ nữ đó tên Khuê, một họa sĩ có tên tuổi trong làng hội hoạ, cô ấy cũng là một giảng viên có uy tín ở Trường Đại học Mỹ thuật.
                  Cô Khuê là một phụ nữ độc thân, có cuộc sống tương đối khép kín. Ngoài giờ lên lớp, cô chỉ thui thủi một mình trong nhà, ít giao du với bè bạn cũng như ít tìm tới các trò vui giải trí xung quanh.
                  Có lẽ niềm vui duy nhất của cô Khuê lúc này là nhìn ngắm những bức tranh treo trong nhà mình, nghiên cứu tài liệu và thả tâm hồn bay bỗng theo từng nét vẽ.
                  Một buổi chiều, đang loay hoay với các tập tranh vẽ của học trò, cô Khuê nghe có tiếng chuông gọi cửa.
                  Cô thoáng giật mình, thắc mắc, vì đã lâu lắm rồi, từ độ… thì hầu như ít khi có người nhấn chuông gọi cửa nhà cô.
                  Cánh cổng vừa mở ra, cô Khuê bất ngờ khi nhìn thấy bên ngoài chính là cô gái xinh xắn vừa mới hôm rồi va phải mình trên đường phố.
                  - Dạ, chào chị!
                  Ngọc xởi lởi.
                  Cô Khuê dè dặt hỏi:
                  - Cô… cô tìm tôi?
                  - Dạ, em tới thăm chị, đồng thời cũng có tí chuyện.
                  Ngọc mỉm cười nhỏ nhẹ nói.
                  Cô Khuê bất đắc dĩ phải mời Ngọc vào nhà:
                  - Em vào nhà chơi.
                  Đứng nép một bên nhường đường cho Ngọc đi trước, cô Khuê vô cùng thắc mắc.  Tại sao người này biết mình ở đây? Tìm mình có chuyện gì? Bao nhiêu câu hỏi cứ xoáy tròn trong đầu cô Khuê khiến cô có thái độ vô cùng cảnh giác đối với Ngọc.
                  Khi cả hai đã yên vị trong phòng khách, cô Khuê rót mời Ngọc ly nước rồi vào thẳng vấn đề:
                  - Xin lỗi… tôi chưa biết cô là ai? Vì sao cô lại tới đây tìm tôi?
                  Ngọc từ tốn nhấp một ngụm nước rồi nói:
                  - Thưa chị, chị cho phép em xưng hô như vậy để dễ nói chuyện. Chắc chị còn nhớ, em chính là người đã va vào chị trên đường phố hôm vừa rồi?
                  Cô Khuê gật đầu:
                  - Có, điều đó thì tôi nhớ. Nhưng…
                  Ngọc tiếp lời:
                  - Xin chị nghe em trình bày. Không giấu gì chị, từ lâu nay trong em có một khả năng hơi lạ, đó là em thể nhìn thấy và nói chuyện được với các linh hồn. Chị có tin điều đó không?
                  Cô Khuê nhếch môi cười có vẻ nhạo báng:
                  - Xin lỗi, tôi không có hứng thú với những chuyện đó!
                  Nói xong, cô Khuê nhổm người dợm đứng lên ra điều muốn đuổi khách.
                  Ngọc giơ tay cản lại:
                  - Xin chị đừng vội! Em tới đây không nhằm bất cứ một mục đích cá nhân nào hết. Chẳng qua là hôm gặp chị trên đường, em vô tình nhìn thấy bên cạnh chị có một hồn ma đang đeo bám. Em thấy hồn ma đó không có thiện ý với chị, muốn hỏi nguyên nhân nhưng hồn ma cố tình lánh mặt. Em thấy chị đang có nguy cơ gặp nạn nên muốn giúp chị…
                  Cô Khuê xua tay cắt ngang lời Ngọc:
                  - Xin cảm ơn cô! Nhưng thật sự tôi không tin vào những chuyện ma quái như thế. Vả lại cuộc sống của tôi cũng không có oán thù với ai, tôi chẳng có gì phải lo lắng.
                  Ngọc khẩn khoản:
                  - Chị ráng nhớ lại đi, những người chị quen biết, có ai đã qua đời không?
                  Cô Khuê cười nhạt:
                  - Tôi không nhớ, tôi cũng chẳng quan tâm! Xin lỗi cô, thật sự tôi không có thời gian để ngồi đây nghe cô nói những điều vớ vẩn thế này đâu!
                  Cô Khuê đứang phắt lên tỏ rõ quyết tâm đuổi khách.
                  Ngọc miễn cưỡng ra về, nhưng cô vẫn không nản chí:
                  - Nếu có gì xin chị liên lạc với em ngay nhé, đây là địa chỉ của em!
                  Ngọc mở bóp lấy đưa cho cô Khuê tấm visiting card của mình, cô Khuê đón nhận một cách hờ hững rồi vội vàng khép cửa khi Ngọc vừa bước chân ra.
                  Một mình trở vào nhà, cô Khuê vẫn chưa thôi thắc mắc. Cô liếc nhìn vào tấm card đang cầm trên tay. À, thì ra người phụ nữ lạ lùng đó là Phó giám đốc một công ty tên tuổi đàng hoàng, không phải loại người chuyên đi lừa bịp.
                  Ô, nhưng biết đâu đấy, thời buổi này có cái gì mà không làm giả được, huống gì chỉ một cái card giản đơn này.
                  Nhưng cô ta tiếp cận mình nhằm mục đích gì nhỉ? Ai chẳng biết mình không có gia tài hay của cải gì to tát cả.
                  Cô ta nói gì tới một linh hồn? Nghĩ tới đó, bất chợt cô Khuê khẽ rùng mình.
                  Thuận, một trong những học trò xuất xắc nhất của cô vừa qua đời cách đây ba tháng, mà cái chết ấy cũng ít nhiều có liên quan tới cô.
                  Chẳng lẽ… chẳng lẽ hồn ma của Thuận vẫn đeo bám theo mình? Cô Khuê bần thần ngồi phịch xuống ghế cố nhớ lại những việc xảy ra gần đây.
                  Quả thật, từ sau ngày Thuận chết, thỉnh thoảng cô lại cảm nhận một điều gì đó không bình thường bên cạnh mình, là điều gì thì cô không xác định được, chỉ biết rất lạ lùng. Nhưng cô cứ nghĩ đó là do mình quá tiếc nhớ Thuận, một người tài hoa bạc mệnh.
                  Từ ngày Thuận chết, sức khỏe cô Khuê cũng ngày một sa sút, công việc làm của cô gặp hết rắc rối này đến trở ngại khác, đôi lúc cô cũng đâm ra chán nản, cô cũng muốn tìm tới cái bờ biển vắng lặng đó mà chôn vùi thân xác mình… Nhưng trách nhiệm cô đang mang nặng trên vai, cô không thể rũ bỏ tất cả để tìm lấy sự thanh thản cho riêng mình.
                  Suốt đêm hôm ấy, cô Khuê không tài nào ngủ yên được vì những lời của Ngọc cứ ám ảnh cô không thôi.
                  Sáng sớm, đáng lẽ hôm nay cô Khuê cho phép mình được ngủ nướng thêm chút nữa vì không có giờ lên lớp, nhưng cô lục đục dậy từ sớm, ăn sáng xong, cô sửa soạn đi ra ngoài.
                  Cô cho xe chạy chậm lại khi sắp đến công ty của Ngọc, thấy một quán cà phê gần sát đó, cô Khuê mừng rỡ tấp xe vào lề rồi bước vào quán, chọn một chỗ ngồi ngó ra ngay cổng công ty đễ dễ quan sát.
                  Khi ly cà phê vừa cạn cũng là lúc cô Khuê trông thấy Ngọc xuất hiện trước công ty. Ngọc bước xuống từ một chiếc xe con bóng lộn, khoan thai đi vào trong.
                  Vậy cô ta không gạt mình. Khuê thầm nghĩ. Nhưng để cho chắc ăn, cô quay sang hỏi cô bé phục vụ:
                  - Em ơi, em biết ai là phó Giám đốc công ty bên cạnh không?
                  Cô bé cười toe:
                  - Dạ, bên đó thì tụi em rành lắm, vì thường xuyên đem nước qua đó mà. Ở đó có nhiều Phó Giám đốc, nhưng chỉ có một nữ. Đó, cô thấy không, cái cô xinh đẹp đang đi kia chính là một trong những phó Giám đốc đấy. Cô ấy dễ thương lắm, làm sếp mà rất hòa đồng, cả với tụi em cô ấy cũng tỏ ra thân mật.
                  Khuê gật đầu hài lòng, cảm ơn cô bé rồi tính tiền ra về.
                  Từ lúc ở nhà cô Khuê về, Ngọc cũng không yên tâm lắm. Có một cái gì đó cứ thôi thúc cô phải nhúng tay vào việc này. Đây là lần đầu tiên cô làm như vậy, làn đầu tiên cô phải đi xin người ta cho cô dược giúp đỡ.
                  Hôm qua, thái độ cô Khuê có vẻ không thiện cảm với mình. Mà cũng phải thôi, ai đời tự dưng xồng xộc chạy vào nhà người ta, nói với người ta là có ma theo ám, hỏi ai không bực mình. Cô Khuê đối với mình vậy cũng là lịch sự lắm rồi, gặp người thô lỗ nóng tính, hổng chừng họ nắm đầu mình mà quẳng ra sân chứ chẳng chơi.
                  Ngọc phì cười khi nghĩ tới cảnh đó.
                  Tân ngạc nhiên hỏi:
                  - Có chuyện gì mà thấy em vừa mới lo âu căng thẳng đó giờ lại phì cười như con nít vậy?
                  Ngọc bá vai chồng:
                  - Em đang vác tù và hàng tổng đây anh ơi!
                  - Là sao? Anh không hiểu!
                  Tân ngạc nhiên.
                  Thảo cười, kể:
                  - Hôm rồi em đi ngoài đường, vô ý va vào một chị. Rồi em phát hiện ra có một vong hồn đang đeo bám chị ấy với ý đồ không tốt. Em muốn gíup chị ấy giải quyết, nên đã bỏ công tìm hiểu về chị. Em tìm tới nhà trình bày việc đó, chị có vẻ không tin anh à!
                  Tân nghe xong, cốc nhẹ lên trán vợ:
                  - Em đúng là… Chuyện giữa đàng lại đem quàng vô cổ chi cho mệt. Em làm thế, có khi người ta nghĩ em đang giở trò gì đó để lừa gạt người ta cũng hổng chừng.
                  Ngọc nũng nịu:
                  - Thì đó, cứ nghĩ tới cảnh người ta túm lấy cổ em mà quẳng ra sân nên em mới buồn cười. Nhưng anh à, tự nhiên với vụ này em lại có một mối quan tâm đặc biệt, em cũng không giải thích được nữa. Nhưng em nghĩ, ông trời đã ban cho em cái thiên tính đó là muốn em giúp đỡ người khác. Thà em không biết thì thôi, chứ đã biết mà làm ngơ, nếu lỡ một ngày nào đó cô kia bị hãm hại, em cũng sẽ không sống bình yên được với lương tâm mình anh ạ!
                  Tân vuốt tóc vợ:
                  - Anh cũng biết thế! Anh không ngăn cản em, nhưng anh rất sợ em gặp phải những điều không hay khi xen vào chuyện của người khác mà không được họ đồng ý.
                  - Dạ, em hiểu. Nhưng em nhất định thuyết phục cô ấy cho bằng được. Anh yên tâm đi, em biết cân nhắc mà!
                  Ngọc ngó Tân chờ đợi.
                  Tân khẽ gật đầu:
                  - Ừ thì em nên cẩn thận! Anh có bao giờ phản đối em đâu?
                  Ngọc âu yếm hôn lên trán chồng, đùa giỡn:
                  - Thế mới là chồng ngoan!
                  Ngọc cười rộn rã. Tân cũng cười theo. Anh yêu biết bao cái tính tình rất trẻ con của Ngọc…
                   
                  ****
                  Ngọc đưa tay nhấn chuông rồi đứng chờ, chừng năm phút sau mới thấy cô Khuê từ trong nhà đi ra.
                  Trông thấy Ngọc, cô Khuê khẽ mỉm cười gật đầu. Lần này thái độ của cô Khuê có chiều hướng tốt hơn rồi. Ngọc vui mừng vì nhận ra điều đó.
                  Ngọc đi thẳng vào vấn đề sau khi chủ khách xong màn chào hỏi:
                  - Chị, những gì em nói hôm trước chị có suy nghĩ kỹ chưa?
                  Cô Khuê không trả lời câu hỏi của Ngọc mà nhìn thẳng vào Ngọc và đưa ra một câu hỏi khác:
                  - Thật sự em giao tiếp được với hồn ma à?
                  - Dạ!
                  Ngọc xác nhận và kể tóm tắt cho cô Khuê nghe về mình.
                  - Thật sự, em nhìn thấy bên cạnh chị có một hồn ma, chị có biết người đó là ai không?
                  Sau khi kể xong câu chuyện, Ngọc lại hỏi.
                  Cô Khuê chậm rãi trả lời:
                  - Nếu thật sự có hồn ma theo chị thì… Chị nghĩ… đó là một người học trò của chị. Cậu ấy mới mất cách đây ba tháng.
                  - Chị có quan hệ đặc biệt gì với cậu ấy không? Hoặc là có gì xích mích giữa hai người không? Cậu ấy chết trong trường hợp nào?
                  Ngọc hỏi dồn dập.
                  Cô Khuê cúi mặt nhìn xuống đất, giọng buồn buồn:
                  - Chúng tôi chỉ là quan hệ thầy trò bình thường. Chị rất quý cậu ấy, vì cậu ấy thật sự có tài. Nhưng… thật đáng tiếc, cậu ấy lại qua đời sớm vì… bệnh.
                  Ngọc nhận thấy hình như cô Khuê chưa thật sự nói hết những gì chất chứa trong lòng cô, nhưng Ngọc biết dù mình có nài ép cách nào cũng khó mà bắt cô nói ra khi cô thật sự chưa muốn thổ lộ.
                  Không ngăn được tiếng thở dài, Ngọc cầm ly nước đưa lên miệng nhấp một hớp nhỏ.
                  Vừa lúc đó tiếng chuông điện thoại đổ dồn, cô Khuê đứng lên bước tới chiếc bàn làm việc kê bên cạnh nghe điện thoại. Ngọc đưa mắt liếc nhìn quanh căn phòng, bất ngờ mắt Ngọc bắt gặp những hình ảnh lạ lùng đang hiện ra trên màn hình ti vi nằm phía đối diện chỗ Ngọc ngồi.
                  Ngọc nhớ rất rõ, từ lúc mới đđặt chân vô phòng tới giờ, ti vi không hề được bật lên, và vừa mới rồi, cô Khuê đứng lên nghe điện thoại cũng không hề mở, vậy tại sao ti vi lại tự bật thế kia? À, hay là cô Khuê đã cài chế độ tự mở sau một thời gian nào đó?
                  Nhưng kìa, trên màn ảnh là một cảnh tượng rất đáng sợ cứ chiếu lặp đi lặp lại mấy lần: Một thanh niên dong dỏng cao đang bước dần ra bãi biển, anh cứ tiến ra, tiến ra mãi. Nước ngập đến ngực rồi đến cằm. Ngọckhẽ kêu lên khi thấy anh ta bỗng dưng mất hút rồi vùng vẫy trồi lên, tay chân quơ loạn xạ một lúc rồi lại mất hút trong làn nước bao la…
                  Cảnh khủng khiếp ấy cứ diễn đi diễn lại như một đoạn điệp khúc của bài hát. Ngọc ngồi nhìn trân trối, linh tính báo cho cô biết đây không phải là một đoạn phim của một bộ phim hay một chương trình nào đó của ti vi, mà là một cảnh có thật, đã được ai đó ghi lại và muốn tố cáo một điều gì đó.
                  Tất cả mọi việc càng trở nên rối rắm. Ngọc chưa mở được nút thắt này thì lại tiếp tục gặp nút thắt khác.
                  Nghe điện thoại xong, cô Khuê quay lại bàn và vô cùng ngạc nhiên khi thấy Ngọc đang há hốc nhìn sửng vào màn hình trước mặt.
                  - Em! Có chuyện gì vậy em?
                  Cô Khuê lay nhẹ vào vai Ngọc.
                  Ngọc như choàng tỉnh, cô đưa tay chỉ vào màn hình:
                  - Đó là cái gì vậy chị?
                  Cô Khuê ngơ ngác:
                  - Em muốn hỏi gì? Chị không hiểu?
                  Giờ đến lượt Ngọc ngạc nhiên, cô quay lại hỏi cô Khuê:
                  - Chị không thấy gì đang chiếu trên ti vi sao?
                  - Sao? Ti vi đang chiếu à? Chị có thấy gì đâu? Chị chưa mở ti vi mà?
                  Cô Khuê kinh ngạc.
                  Ngọc sững sờ một lúc rồi thở hắt ra:
                  - Thôi, em hiểu rồi!
                  Cô Khuê lo lắng:
                  - Em hiểu gì? Chị… thật tình chị chẳng hiểu gì cả!
                  Ngọc nhìn thẳng vào mắt cô Khuê:
                  - Em nói điều này mong chị thứ lỗi! Có lẽ những gì chị kể với em chưa đúng là sự thật, hoặc chưa đủ hết các tình tiết. Mấy hôm nay em đã cảnh báo với chị rằng có một hồn ma đang bám theo chị với ý đồ xấu, có lẽ chính hồn ma đó đã cố tình để cho em thấy cảnh này…
                  - Em thấy gì?
                  Nhìn thấy thái độ cô Khuê có lẽ tò mò nhiều hơn lo lắng, Ngọc ngập ngừng:
                  - Em nhìn thấy một chàng trai trẻ đang trầm mình dưới nước… Cái chết của chàng trai cí dính líu gì tới chị không?
                  Cô Khuê tái xanh mặt mũi. Cô bối rối một lúc rồi mới lấy bình tĩnh. Bây giờ thì trên gương mặt cô đượm nét u buồn sâu sắc.
                  Cô im lặng hồi lâu mới cất tiếng:
                  - Bây giờ chị sẽ không giấu em nữa. Chị sẽ kể cho em nghe toàn bộ sự thật. Mấy tháng nay chị cũng đã nặng lòng vì điều này lắm rồi, hôm nay chọ sẽ nói ra hết cho nhẹ đi để còn tiếp tục sống…
                  Ngọc nhẹ nắm lấy bàn tay cô Khuê như để động viên.
                  Cô Khuê nhấm một ngụm nước, bắt đầu kể:
                  - Thuận là một học trò của chị. Cậu ấy là một thanh niên sôi nổi và có tài. Ngay ở tiết học đầu tiên chị đã chú ý tới anh chàng sinh viên đó. Một thời gian sau, quan hệ thầy trò giữa chị và cậu ta trở nên khắng khít. Sau giờ học, cậu ta thường lui tới để giúp đỡ chị việc này việc khác hoặc là học hỏi thêm những kinh nghiệm ngoài phạm vi bài giảng. Phòng vẽ của chị cũng là nơi cậu ta có mặt thường xuyên. Có hôm cả hai thầy trò nhốt mình trong đó suốt ngày với ngổn ngang bột màu, vải toan và hàng trăm thứ linh tinh của người làm hội họa. Những bức tranh cậu ấy vẽ ra thật sinh động, thật có hồn.
                  Chắc có lẽ do sự gần gũi lâu ngày nên tình cảm phát triển. Một hôm, chị nhận ra cậi ta không còn đối với chị như một học trò đối với cô của mình. Ánh mắt cậu ta nhìn chị thật da diết, thật lạ lẫm khiến chị không khỏi bồi hồi. Chị cũng nên cho em biết một chi tiết, lúccòn trẻ chị đã từng yêu mãnh liệt một lần và đã bị phản bội. Từ đấy chị không dám tin ai cả, chị khép cửa lòng mình lại, sống một đời cô độc, chỉ biết làm việc kiếm tiền để nuôi mẹ, nuôi em và cả một bầy cháu nhỏ. Nhưng trước tình cảm và sự quan tâm của cậu học trò này, chị không còn vững lòng được nữa.
                  Chị lớn tuổi hơn cậu ta rất nhiều. Chính điều đó đã ngăn cản chị xác nhận tình cảm của mình. Chị đã trốn chạy, đã dối mình và dối cậu ta. Trước mặt cậu ta, chị cố tỏ ra lạnh lùng, nguyên tắc. Tình cảnh đó cứ kéo dài mãi. Cậu ta thật kiên trì, dẫu chị thờ ơ cách nào cậu ta vẫn một mực đối xử với chị không thay đổi.
                  Đến lúc nhà trường ra thông báo mở cuộc thi để tuyển lựa tranh của sinh viên đem đi dự thi ở một cuộc thi quốc tế.
                  Trong cuộc thi quốc tế này, nếu tranh của sinh viên nào có mặt thì con đường tương lai của người đó coi như đã được mở rộng ra trước mắt.
                  Thuận hy vọng nhiều lắm. Cậu ta ngoài ăn ngủ và những nhu cầu thiết yếu của cơ thể, còn lại là nhốt mình trong phòng vẽ, đặt hết tâm tư nguyện vọng và tình cảm của mình theo từng nét vẽ.
                  Đem tranh đi dự thi, cậu ta tràn trề hy vọng.
                  Quả thật, trong hàng trăm bức vẽ, bức vẽ của cậu ta là nổi trội hơn hết. Nhưng… chính tôi đã không chấm cho cậu ta.
                  Cô Khuê đột ngột ngưng lời.
                  Ngọc định lên tiếng phản đối, rằng tại sao chị lại làm vậy, chuyện công ra công, chuyện tư ra tư, sao chị đối chị với cậu ta thế kia. Nhưng Ngọc chưa kịp cất lời thì cô Khuê tiếp, giọng thật buồn:
                  - Sở dĩ tôi không chấm, vì tôi nhận ra trong mỗi một đường nét của cậu ta đề thể hiện sự tự mãn, háo thắng. Nếu như lần này cậu ta được đưa đi dự giải quốc tế, tính tự phụ ấy càng có dịp để phát triển mạnh mẽ hơn. Tôi không muốn một người tài hoa trẻ tuổi như vậy sớm kết thúc sự nghiệp của mình vì tính háo thắng, kiêu căng. Chính vì vậy, tôi đã vạch ra những hạn chế để thuyết phục cho cả hội đồng giám khảo đồng ý với mình.
                  Khi biết tranh của mình không được chọn, cậu ta rất đỗi khổ sở, nhưng khi nghe ai đó mách lại, rằng tôi chính là người cản con đường của cậu ta thì cậu suy sụp hẳn.
                  Suốt mấy ngày liên tiếp, cậu ta đắm mình trong bia rượu. Rồi một hôm, sau khi viết cho tôi một bức thư tuyệt mệnh rất dài, cậu ta đã tìm tới bờ biển để kết liễu đời mình…
                  Cô Khuê ôm mặt gục xuống bàn.
                  Ngọc không biết nói gì để an ủi cô, chỉ biết nhè nhẹ vỗ lên vai ngwofi phụ nữ cô đơn tội nghịêp ấy.
                  Thật lâu sau, cô Khuê ngẩng lên nói với Ngọc:
                  - Chị đã kể toàn bộ sự thật cho em nghe rồi đó! Trong cái chết của Thuận, ít nhiều gì chị cũng là người có lỗi. Có lẽ mãi tới khi chết đi rồi Thuận vẫn còn oán chị nên mới muốn trả thù như em nói…
                  Ngọc khẽ liếc nhìn lên màn hình ti vi, giờ đây những hình ảnh đó đã không còn. Cô hỏi cô Khuê:
                  - Chị có bao giờ nhìn thấy đoạn phim lúc nãy không?
                  - Đoạn phim lúc nãy là gì? Chị đâu có nhìn thấy…
                  Cô Khuê ngơ ngác.
                  - À, em quên! Lúc nãy chỉ mình em nhìn thấy!
                  Ngọc nhớ ra.
                  - Em đã thấy gì?
                  Cô Khuê tòm mò.
                  - Em thấy một thanh niên đi ra biển trầm mình!
                  Nghe Ngọc nói vậy, mặt cô Khuê càng xanh hơn:
                  - Trời! Vậy là thật sự có ma sao?
                  - Tới lúc này chị vẫn chưa tin những gì em nói mấy hôm nay là sự thật sao? Hay chị vẫn nghĩ em là người lường gạt, tiếp cận chị, nói với chị những chuyện đó để nhằm một ý đồ đen tối nào đó?
                  Ngọc nhìn thẳng vào cô Khuê. Cô Khuê bối rối ngó đi chỗ khác, nhưng chỉ một lát sau, cô lại nhìn Ngọc rồi nói:
                  - Em đừng buồn! Thật sự lúc vừa rồi chị cũng chưa tin lắm vào những điều em nói. Khi em đến đây lần đầu tiên chị đã không có cảm tình và nghĩ chắc chắn em đang thực hiện một âm mưu gì đấy mà chị không biết được. Chị đã âm thầm điều tra, khi biết được thân thế và gia đình em, chị có phần yên tâm nhưng vẫn chưa hết nghi ngại. Giữa thời buổi công nghịêp này, nói chuyện ma quỷ ra e ít có ai chấp nhận được!
                  Ngọc bật cười trước những lời nói thẳng thắng của cô Khuê.
                  - Chị nói đúng! Ngay cả chồng em, trước đây ảnh cũng đâu có chịu tin! Sống với nhau một thời gian dài ảnh mới tin được những gì em nói.
                  - Nhưng thật ra chị đã một lần trông thấy đoạn phim đó!
                  Cô Khuê đột ngột lên tiếng.
                  - Chị trông thấy ở đâu?
                  Ngọc hỏi.
                  Cô Khuê buồn bã:
                  - Câu chuyện có nhiều tình tiết. Lúc nãy chị kể với em về khía cạnh riêng chị và Thuận mà thôi. Bên cạnh đó, Thuận lại được một cô gái đem lòng yêu thương. Nếu không có chị, có thể hai người ấy đã hạnh phúc bên nhau rồi cũng nên. Cô gái ấy rất yêu Thuận. Và ban đầu Thuận cũng thường xuyên lui tới chuyện trò với cô ấy. Từ lúc có tình cảm với chị, Thụân chỉ còn biết mỗi chị thôi, mặc dù chị luôn tỏ ra thờ ơ lãnh đạm với cậu ta. Sau khi Thuận mất, cô gái ấy đã tìm tới đây mắng chị một trận và cho chị xem đoạn phim trên. Đoạn phim đó được quay lại bằng chính chiếc điện thọai di động của Thuận, nhưng ai là người quay thì cho đến nay vẫn không ai biết. Cô gái đó nhặt được trên bãi biển chỗ Thụân tự sát.
                  - Cô gái ấy hiện giờ ở đâu, chị có biết không?
                  Ngọc hỏi.
                  Cô Khuê lắc đầu:
                  - Chị không biết chính xác, nhưng chị nhớ có lần chị nghe Thuận kể, cô ấy ở chung cư X, trên đường Y.
                  Ngọc gật đầu:
                  - Thôi được rồi, em sẽ tìm gặp cô ấy sau. Em không biết tại sao trong trường hợp này em lại quan tâm một cách đặc biệt, và em sẽ cố gắng làm rõ mọi chuyện. Trước nay thường là các hồn ma chủ động tới tìm em, nhưng lần này, em đã cố gắng rất nhiều mà vẫn không tiếp cận được với hồn ma của Thuận. Cậu ấy cố tình né tránh em.
                  - Chị không nghĩ Thuận có ý muốn hãm hại chị đâu, nên nếu em bỏ cuộc cũng không sao em ạ!
                  Cô Khuê băn khoăn.
                  Ngọc cương quyết, cô vừa đứng lên chào từ giã vừa nói:
                  - Không, em nhất định phải làm rõ vụ này, để xem hồn ma của Thuận muốn gì nơi chị? Thôi, chào chị em về, hôm khác em sẽ đến.
                  - Ừ, em về!
                  Cô Khuê tiễn Ngọc ra cửa rồi quay vào nhà với nỗi niềm u uất khong phai.
                  Trên các bức tường nhà cô treo đầy tranh, mà toàn là tranh của Thuận vẽ. Ngày ngày cô đều nhìn ngắm chúng và thấy nhớ Thuận đến quặn lòng.
                  Thuận ơi, nếu thật sự em là hồn ma luôn đeo bám bên cô, thì em phải hiểu được lòng của cô chứ?
                  Cô Khuê lầm rầm nói chuyện một mình mà tưởng như mình đang tâm tình cùng Thuận.
                  Sau lần thất bại trong tình yêu, cô Khuê đã đóng chặt lòng mình lại, mãi cho tới khi Thuận xuất hiện. Thuận đã khơi dậy trong cô những yêu thương, những khao khát… Rất nhiều lần, cô Khuê muốn được ngã vào vòng tay Thuận nhưng cô gượng lại, cô không muốn mình một một lần nữa bị tổn thương.
                  Cô nghi ngại tình yêu đó, bởi vì cô lớn hơn Thuận gần mười tuổi, cô lại không phải người có nhan sắc nổi bật. Cô chỉ là một phụ nữ bình thường. Thế thì tại sao Thuận lại yêu cô? Gia tài ư? Không, hơn ai hết Thuận biết rõ cô không có tài sản, Thuận biết bao nhiêu tiền cô làm ra đều chảy vào hết cái túi không đáy ở dưới quê. Tài cán ư? Cô thấy mình cũng chẳng có tài cán gì, bây giờ biết bao nhiêu cô gái trẻ đẹp, tài ba, giàu có, so với họ, cô chẳng là gì!
                  Suy đi nghĩ lại, cô Khuê chỉ thấy có một lý do duy nhất để Thuận yêu cô: Đó là Thuận muốn dùng cô làm bậc thang để cậu ta bước lên con đường vinh quang của mình!
                  Thuận yêu cô vì muốn lợi dụng cô!
                  Cái ý nghĩ đó đã làm cho cô Khuê không dám chấp nhận tình cảm của Thuận, không dám mở rộng lòng mình, mặc dù theo thời gian, cô Khuê cũng nhận ra được Thuận yêu cô chân thành, không vụ lợi.
                  Khi đánh rớt Thuận trong cuộc thi vừa rồi cô Khuê vừa muốn ngăn chặn tính tự phụ của Thuận, đồng thời cô cũng âm thầm muốn nâng Thuận lêân một bậc cao hơn.
                  Những bức vẽ của Thuận, cô đa làm thủ tục để đưa đi dự triễn lãm ở một nước lớn trong thời gian sắp tới.
                  Vậy mà… Thuận đã quá nông nổi, vội kết liễu đời mình khi việc đó xảy ra.
                  Cô Khuê nghĩ, cái chết của Thuận là do mình. Việc không được chọn đi dự thi, Thuận buồn lắm nhưng có lẽ không đến nỗi đi tìm cái chết, chỉ khi biết cô là người đã thuyết phục các thành viên Ban giám khảo đánh rớt mình, Thuận mới đau như vậy!
                  Cô Khuê đã đau đớn, đã dằn vặt lòng mình biết bao nhiêu từ sau khi Thuận chết.
                  Nhưng tất cả đã muộn màng.
                  Giờ đây, cô Khuê chỉ biết mong mỏi vong hồn linh thiêng Thuận hiểu được lòng cô, tha thứ hay không tha thứ không quan trọng, nhưng cô muốn Thuận biết, cô cũng dành cho Thuận một tình cảm sâu sắc không kém, chỉ có điều đó là một tình cảm âm thầm lặng lẽ và điềm tĩnh hơn mà thôi.
                  Ôm lấy bức vẽ của Thuận, nước mắt cô Khuê chảy dài trên má…
                   
                  ***
                   
                  Không mất nhiều thời gian dò la, Ngọc đã tìm được nơi ở của cô gái, người tha thiết yêu Thuận theo lời kể của cô Khuê.
                  Chẳng những biết nơi ở, Ngọc còn biết thêm một vài chi tiết quan trọng. Cô gái ấy tên Bích, là nhân viên của một công ty liên doanh với nước ngoài. Nhưng mấy tháng gần đây cô đã xin nghỉ việc không rõ nguyên nhân. Hiện nay những người quen biết với cô cũng không ai biết cô hiện làm gì và có còn ở đó hay không. Có lẽ Bích có cuộc sống khép kín, nên những người cùng làm với cô đã mấy năm vẫn không ai biết nhiều về cô cả.
                  Khi Ngọc tới, nhằm lúc thang máy của chung cư gặp sự cố gì đó, người ta đang sửa chữa. Cô đành phải lội bộ lên tuốt tầng sáu của chung cư.
                  Đứng trước cửa căn phòng mà một người đã cho Ngọc biết, đó là nơi ở của Bích, Ngọc do dự một lúc rồi mạnh dạn gõ mấy tiếng lên cánh cửa.
                  Có tiếng dép lệt sệt, khong lâu sau cánh cửa hé mở, một khuôn mặt trẻ trung ló ra, ngạc nhiên khi trông thấy Ngọc:
                  - Chị tìm ai ạ?
                  Cô gái hỏi.
                  Ngọc mỉm cười xã giao:
                  - Xin lỗi, em có phải là Bích không? Chị cần gặp Bích!
                  Một nét ngạc nhiên thoáng qua trên mặt cô gái. Rồi cô vụt trở nên khác lạ, ngó Ngọc chăm chăm:
                  - Chị là ai mà tìm Bích?
                  Ngọc cười:
                  - Chị là… là bạn với cô Khuê!
                  Vẻ mặt cô gái đanh lại một cách đáng sợ.
                  Cô mím môi, mở rộng cửa:
                  - Chị vào nhà chơi, đứng đây nói chuyện không tiện!
                  Ngọc bước vào nhà, đưa mắt nhìn một lượt khắp căn phòng.
                  Căn phòng nhỏ, đồ đạc có vẻ hơi bề bộn, bốn bức tường ngoài một bức tranh vẽ hình cô gái chủ nhà ra hoàn toàn không được trang trí thêm một vật gì khác. Trên bàn, bên cạnh vỏ chai bia nằm lăn lóc còn có một chiếc gạt tàn, trong đó chỏng chơ mấy cái đầu lọc.
                  Cô gái xinh đẹp dịu dàng thế này lại có cuộc sống có vẻ phóng túng thế sao? Ngọc thầm nghĩ.
                  Cô gái mở tủ lạnh, lôi ra một chai nước lọc, đặt trước mặt Ngọc:
                  - Chị uống nước!
                  Ngọc mỉm cười gật đầu.
                  Cô gái nhìn Ngọc, hỏi:
                  - Chị tìm Bích có việc gì không chị?
                  Ngọc không vội trả lời mà hỏi lại cô gái:
                  - Em có phải là Bích không?
                  Cô gái lắc đầu:
                  - Dạ không, em là Hà, chị song sinh với Bích!
                  - Ô, thế à?
                  Ngọc kêu lên, vì tình tiết này cô mới được nghe qua.
                  - Bích đi vắng hả em?
                  Ngọc hỏi.
                  Hà thoáng buồn:
                  - Dạ không! Bích… Bích qua đời rồi!
                  - Bích qua đời? Bao lâu? Vì sao?
                  Ngọc quá đỗi ngạc nhiên, hỏi dồn dập.
                  Hà thở dài:
                  - Chuyện dài lắm chị ạ! Mà chị lại là bạn với cô Khuê, em không biết có nên kể cho chị nghe không?
                  Ngọc thẳng thắn:
                  - Chị tới đây không phải với danh nghĩa là bạn của cô Khuê, mà tìm tới đây để giải đáp thắc mắc cho chính bản thân mình em ạ!
                  - Thắc mắc của chính bản thân? Chẳng lẽ chị cũng có… quan hệ gì với Thuận sao?
                  Hà ngạc nhiên.
                  Ngọc cười:
                  - Không! Chỉ là chị biết cái chết của Thuận có chút gì đó hơi vô lý, chị tò mò muốn tìm hiểu sự thật chứ chị chưa từng gặp Thuận lúc cậu ấy còn sống.
                  - Chị là nhà báo? Hay công an?
                  Hà nghi ngờ.
                  Ngọc bật cười:
                  - Em trông chị giống lắm sao? Thật tình chị không là nhà báo hay công an gì đâu, chỉ là… mà chị nói ra, có lẽ em cũng không tin!
                  - Thì chị cứ nói đi!
                  Hà giục.
                  Ngọc gật đầu và nói:
                  - Chị… chị có thể nhìn thấy và giao tiếp được với người đã chết. Một lần tình cờ, chị thấy có một hồn ma đi theo cô Khuê với ý đồ không tốt, chị đã tìm gặp cô Khuê, thuyết phục mãi cô mới kể cho chị nghe về cái chết của Thuận. Nhưng chị vẫn không thể nói chuyện trực tiếp với Thuận được, có lẽ Thuận muốn tránh chị. Hôm nay chị tìm tới Bích, để câu chuyện được khách quan hơn là chỉ nghe từ một phía. Nhưng em nói Bích đã qua đời, tự nhiên chị lại nghĩ cái chết của Bích cũng có liên quan dây chuyền với cái chết của Thuận?
                  Cô gái tên Hà cúi mặt xuống, đưa tay lau dòng lệ đang lăn dài trên má, giọng nghèn nghẹn:
                  - Chị nói đúng! Cái chết của Thuận, của Bích đều do một tay cô Khuê gây ra cả!
                  - Cô Khuê gây ra?
                  Ngọc ngạc nhiên hỏi lại.
                  Hà gật đầu xác nhận:
                  - Tuy cô Khuê không trực tiếp giết người, nhưng chính hành động của cô đã giết chết họ. Chị biết không, trước kia Bích và Thuận rất thương nhau, tình cảm của họ đang đẹp đẽ thì bỗng chốc tan vỡ vì cô Khuê xen vào. Cô là một phụ nữ lớn tuổi, có nhiều kinh nghiệm và lại là người mà Thuận kính mến hơn cả. Cô Khuê đã dùng mọi mưu mô, địa vị của mình để lôi kéo Thuận, khiến cho Thuận bị mê muội, chia tay với người yêu trẻ trung xinh đẹp, để đến với một phụ nữ lỡ thì, dung mạo không có chi là đặc sắc, lại lớn hơn Thuận rất nhiều tuổi.
                  Chỉ tội cho Bích, bị người yêu phụ rẫy, nó vẫn một dạ thủy chung và hy vọng một lúc nào đó Thuận sẽ tỉnh ngộ và quay về.
                  Không ngờ, cô Khuê giống như một con hồ ly tinh trong truyện liêu trai, cô đã dùng mọi áp lực đêû buộc Thuận cưới cô làm vợ. Thuận không bằng lòng, để cảnh cáo, cô nhẫn tâm đánh rớt Thuận trong một cuộc thi mà đáng ra là Thuận có đủ điều kiện để đạt kết quả tốt. Thuận đã thức tỉnh và cảm thấy có lỗi với Bích. Trước khi tìm tới cái chết, Thuận đã gọi điện cho Bích xin nó tha lỗi và nói lời giã biệt. Chính Bích là người đầu tiên biết Thuận trầm mình.
                  Thuận chết rồi, Bích tìm tới nhà cô Khuê, muốn xin lại tất cả tranh vẽ của Thuận để lưu giữ nhưng cô Khuê nhất định không cho, cô bảo cô đã đốt bỏ hết rồi.
                  Quá uất ức và thương cho Thuận nên Bích nông nổi, lại đi vào con đường của Thuận…
                  Ngọc không ngờ sự việc lại diễn biến theo một hướng hoàn toàn khác. Cô không đủ bình tĩnh để suy nghĩ cho thấu đáo vào lúc này. Ngọc chỉ biết nói vài câu an ủi Hà rồi xin phép ra về.
                  Cô cảm thấy mệt mỏi, rất mệt mỏi.
                  Từ hôm vướng vào vụ này tới nay, trong lòng Ngọc không có lấy một giờ thảnh thơi, thoải mái. Ngọc bỗng cảm thấy giận dỗi cái linh hồn kia, nếu nó chịu gặp gỡ và chuyện trò với cô thì mọi việc đâu đi vào rối rắm thế này!
                   Chỉ một kẻ biết rõ sự thật, đí là linh hồn của chàng sinh viên tên Thuận, vậy mà anh ta năm lần bảy lượt né tránh Ngọc. Tại sao lại thế nhỉ?
                  Ngọc muốn buông xuôi, thôi mặc kệ họ, họ yêu đương, tàn nhẫn với nhau thế nào thì cũng đâu dính dáng tới mình, tội vạ gì mình lại dây vào để nghe trống đánh xuôi kèn thổi ngược?
                  Nhưng suy đi nghĩ lại, Ngọc nhất định không bỏ dở nửa chừng. Nhưng bây giờ thật sự Ngọc không thể hiểu nổi trong cái chết của Thuận và bây giờ có thêm Bích, ai là người có lỗi? Cô Khuê là một phụ nữ đáng thương hay đúng là người đã gây ra mọi việc theo như lời kể của Hà?
                  Buổi chiều hôm ấy, từ công ty ra, Ngọc lái xe như vô thức, cô chạy loanh quanh một lúc chợt nhận ra mình đã ra tận ngoại ô thành phố từ lúc nào mà chẳng hay! Bỗng một ý chợt lóe lên trong đầu, cô Ngọc vội vã quay xe trở về.
                  Vừa bước vào phòng, Ngọc lên tiếng:
                  - Anh ơi, ngày mai là ngày nghỉ, gia đình mình đi Vũng Tàu một chuyến nghe anh? Lâu rồi vợ chồng mình chẳng đi đâu chơi cả!
                  Tân mỉm cười nhìn vợ:
                  - Anh tưởng em đang bị vụ án của con ma đó lôi cuốn rồi, không còn nhớ gì tới ngày nghỉ chứ!
                  Ngọc đấm nhẹ vào lưng chồng, nhưng cô cũng cảm thấy chột dạ, vì cái ý định rủ cả nhà đi Vũng Tàu cũng là vì vụ án này mà!
                  Tân vốn quen chịu chuộng vợ, nên mặc dù còn ngổn ngang anh vẫn cố gắng thu xếp để đi cùng vợ con ra biển đổi gió.
                  Hai đứa con cô Ngọc, đứa lớn đang học lớp mười hai, đứa nhỏ cũng đã lớp mười rồi, nên hai vợ chồng không phải vướng bận gì với con nữa. Ra tới biển là chúng nó tự tìm niềm vui riêng của tuổi trẻ, còn lại chỉ riêng hai vợ chồng như đang thời kỳ trăng mật.
                  Tân vốn hiền lành ít nói, tính tình lại đơn giản không chút lãng mạn nào, nên sau khi tắm táp, chơi đùa một lúc, anh rủ vợ về phòng để giải quyết một số hồ sơ mang theo. Ngọc từ chối, vì cô còn muốn đi dạo một lúc nữa trên bãi biển.
                  Tân về một mình, còn lại Ngọc lang thang trên bãi vắng.
                  Cô nhớ rất rõ Hà đã chỉ cho mình nơi Thuận tìm đến để trầm mình. Chiều nay, Ngọc nhất định phải đến đó, hy vọng sẽ gặp được Thuận, vì cô nghe nói, hồn người chết trôi luôn quanh quẩn nơi mình chết.
                  Chờ cho chồng đi khuất, Ngọc vội ra đường đón một chiếc xe ôm đi đến địa điểm Hà chỉ dẫn.
                  Đó là một bãi biển vắng lặng, không có du khách, cạnh đó cũng không một ngôi nhà nào.
                  Ngọc đi tới đi lui mấy lượt. Mặt trời đã bắt đầu lặn xuống biển, phía xa ngoài kia là chút ánh sáng còn vương vấn lại cõi trần.
                  Ngồi xuống bên một mõm đá ngay sát bờ biển, Ngọc trầm tư suy nghĩ. Cô thì thầm:
                  - Thuận ơi, cái chết của cậu có gì oan khuất, hịên nay cậu còn điều gì cần giải quyết thì tôi xin cậu hãy chia sẻ với tôi, tôi hứa sẽ giúp cậu giải quyết mọi việc đâu ra đấy để cậu yên lòng siêu thoát đầu thai kiếp khác, cậu đừng lẩn quẩn trên chốn trần gian này nữa…
                  Hình ảnh người thanh niên tiến chầm chậm ra biển hôm nào trên màn ảnh ti vi nhà cô Khuê giờ đây lại hiện ra rõ rệt trong mắt Ngọc.
                  Cô đứng lên quan sát chung quanh.
                  Đúng rồi! Mõm đá này, bờ cây này đúng là những hình ảnh mà cô đã trông thấy.
                  Ngọc đứng lên, nhớ lại từng chi tiết rồi cô lần lần bwosc ra biển, giống như những gì trong đoạn phim kia.
                  - Cô kia, cô định làm gì vậy?
                  Bất ngờ Nọgc giật bắn người khi nghe tiếng gọi lớn phía sau lưng.
                  Ngoảnh nhìn lại, Ngọc trông thấy một người đàn ông đang tất tả chạy ra, vừa tới trước mặt cô, ông ta vội chộp lấy cánh tay và hất cô ngã dùi xuống bãi cát.
                  Chưa kịp hoàn hồn, Ngọc nghe ông ta mắng xối xả:
                  - Cô có điên hay không? Cha mẹ đã sinh ra cô, dù cho thế nào cô cũng phải biết quý sinh mạng của mình chứ, sao lại có thể hủy hoại một cách nhẫn tâm như vậy được chứ?
                  Ngọc ngơ ngác:
                  - Thưa bác, bác nói gì cháu không hiểu? Ai hủy hoại ai ạ?
                  Người đàn ông chưa hết hậm hực:
                  - Quỷ tha ma bắt cô đi! Tôi mà đến chậm một chút là giờ đây cô đã làm mồi cho cá mập rồi, đúng không?
                  Giờ thì Ngọc đã hiểu ra. À, thì ra người đàn ông này tưởng mình sắp tự tử!
                  Ngọc cười phá lên, người đàn ông ngơ ngác:
                  - Cô… cô vẫn bình tĩnh đó chứ? Hay thần kinh của cô có vấn đề?
                  Ngọc cố nín cười:
                  - Bác ơi, cháu vẫn rất tỉnh táo đây! Cháu đi chơi thôi, nào có gì mà tự vẫn đâu? Bác bị ám ảnh chuỵên tự vẫn hay sao thế?
                  Người đàn ông nhìn chăm chú vào Ngọc. Quả thật ông ta không bắt gặp một nét buồn khổ bơ phờ nào trên gương mặt khả ái của người phụ nữ có vẻ sang trọng này.
                  Có vẻ bối rối, ông ta mỉm cười:
                  - Xin lỗi cô vì tôi đã lầm! Tôi cứ tưởng…
                  - Bác tưởng tôi đi tự vẫn à?
                  Ngọc vừa hỏi vừa cười.
                  Người đàn ông gãi gãi đầu:
                  - Mong cô thông cảm, mới có mấy tháng nay mà tôi đã phải chứng kiến mấy sự việc không hay xảy ra tại chính khu vực này, nên… tôi… có lẽ tôi đã bị ám ảnh thật rồi!
                  Linh cảm đã tìm được chút manh mối, Ngọc hỏi:
                  - Bác ơi, bộ mới đây cũng có người tới đây tự vận hả bác?
                  Người đàn ông ngồi bệt xuống bãi cát, giở cái nón lá trên đầu ra quạt lất quạt để dù gió biển đang lồng lộng thổi.
                  Ngọc lót dép ngồi xuống đối diện người đàn ông, lắng nghe câu chuyện ông ta kể:
                  - Cách đây độ chừng ba tháng, có một chàng trai người Sài Gòn đã tìm tới đây tự tử. Lạ một điều là sau khi chết, xác anh ta không bị sóng gió cuốn đi mà lại dạt vào đúng nơi này. Rồi sau đó không lâu, lại một cô gái tìm tới đây đi chết. Tôi chẳng hiểu nơi này có gì đặc biệt mà ai muốn chết lại cứ tìm tới cho dân tình ở đây thêm hoang mang sợ hãi. Nếu hôm đó tôi tới trễ một chút thôi thì cô gái đó đã không còn!
                  Vừa nghe tới chi tiết này, Ngọc vội hỏi:
                  - Bác nói vậy tức là… cô gái ấy chưa chết?
                  - Ừ, chưa chết! Mà lạ lắm nghe, hầu như những kẻ tự tử, sau khi được cứu sống thì chẳng bao giờ dám tự tử lần thứ hai, hình như một khi đã chạm tới cái chết thì người ta mới thấy cuộc sống là quý giá biết chừng nào, dù đó là một cuộc sống cơ cực, khổ đau…
                  Ngọc vô cùng ngạc nhiên khi nghe ngườii đàn ông có vẻ ngoài lam lũ chất phát như vậy lại nói lên những câu đầy vẻ triết lý thế kia. Thế mới biết, đâu phải những kẻ được ăn học đàng hoàng mới có được những suy nghĩ sâu sắc.
                  - Bác ơi, lúc bác hiện, cô gái đó như thế nào hở bác?
                  Ngọc tò mò hỏi.
                  Người đàn ông thở dài:
                  - Hôm đó, từ đằng xa tôi chợt phát hiện một người đang đi dần xuống nước, tôi đã la lên ngăn cản nhưng hình như người đó không hề nghe thấy, cứ tiền dần, tiến dần vào vòng tay tử thần. Tôi vội vã chạy tới, phóng mình xuống nước kéo cô ấy lại. Cũng may, tuy đã uống no nước, cô ấy vẫn sống và đã bình an trở về Sài Gòn sau một ngày một đêm nằm viện.
                  - Cô ta có cho bác biết vì sao cô ta tìm tới cái chết không? Cô ấy tên gì, bác biết không?
                  Nhọc hồi hộp hỏi dồn.
                  Người đàn ông nhăn trán suy nghĩ:
                  - Tôi nhớ hôm đó khi cứu được cô gái lên, cô đã bất tĩnh nhân sự. Tôi đã bế thốc cô ấy vào trạm xá gần đây, cũng may là chạy ngang qua mõm đá kia tôi kịp thấy chiếc túi xách của cô gái nên cầm lấy mang theo luôn. Nhờ những giấy tờ trong đó mà tôi biết được tên họ, địa chỉ cư trú của cô gái, nếu tôi nhớ không lầm thì cô gái có tên là Bích hay Bình gì đó, sống ở Sài Gòn. Chính tôi đã gọi điện theo số điện thoại tình cờ trông thấy, thì hình như đó là công ty… à, hình như là công ty X. nơi cô ấy làm việc.
                  - Cô ta có cho bác biết nguyên nhân nào cô ta tự tử không?
                  Ngọc hỏi.
                  - Không đâu, cô ta không nói mà tôi cũng chẳng hỏi. Lúc cô ta tỉnh dậy, tôi mắng cho cô ta một trận nên thân, cũng tội nghiệp, con bé chỉ biết khóc rồi lại rối rít cảm ơn…
                  Người đàn ông mỉm cười đôn hậu.
                  - Từ sau vụ đó, còn có ai tới đây tự tử không vậy bác?
                  Ngọc tò mò hỏi tiếp.
                  Người đàn ông liếc mắt nhìn Ngọc:
                  - Người kế tiếp chính là… cô đó!
                  Ngọc bật cười:
                  - Bác lầm rồi bác ơi! Cháu còn đang rất yêu đời và yêu người, Diêm Vương có bắt cháu cũng cương quyết cãi lại nữa là… nói gì tới việc đi tìm cái chết. Nhưng bác ơi, bác nhớ chính xác không? Từ sau cái chết của chàng trai kia, ở đây không còn xảy ra cái chết nào nữa chứ?
                  Người đàn ông nhìn Ngọc, ngạc nhiên hỏi:
                  - Ô hay, sao cô lại quan tâm nhiều tới cái chết thế? Chẳn lẽ cô mong muốn mỗi ngày đều có kẻ chán đời hay thất tình tìm đến đây vùi mình hay sao? Hay gia đình cô có người thất lạc, nghi ngờ đã chết nên tìm tới đây dò la tung tích?
                  Ngọc nghiêm mặt:
                  - Dạ không! Cháu chỉ quan tâm vì… cháu có một người bạn, nghe nói đã tìm tới đây tự vận sau cái chết của người mình yêu, là chàng trai mà bác kể khi nãy đó!
                  Mắt người đàn ông sáng lên:
                  - Đúng rồi!! Cái cô gái chết hụt ấy chính là người yêu của chàng trai kia!
                  Ngọc ngạc nhiên:
                  - Ủa, sao bác biết?
                  Người đàn ông mỉm cười:
                  - Tôi đoán thế! Vì sau khi sống lại, cô gái đã tìm lại chỗ này, bày ra cúng tế và khóc lóc một trận ra trò nên tôi đoán thế mà!
                  Ngọc lẩm bẩm:
                  - Vậy ra Bích không chết? Vậy hóa ra Hà đã nói dối mình? Nhưng Hà nói dối nhằm mục đích gì?
                  Người đàn ông ngơ ngác:
                  - Cô nói gì thế?
                  Ngọc giật mình cười xòa:
                  - Dạ không! Dạ không, chỉ là cháu tự nói với mình thôi!
                  Nhìn thấy bóng tối đã bắt đầu lan tỏa khắp nơi trên bờ biển hoang vu vắng lặng, Ngọc đứng lên:
                  - Xin phép bác, con về khách sạn đây, không thôi chồng con của con lại lo lắng.
                  Người đàn ông gật đầu:
                  - Ừ, cô về đi! Đừng một mình lảng vảng khu vực này không nên đâu, người ta bảo mấy chỗ như vầy thường có… huông!
                  Ngọc mỉm cười, giã từ ông già chân chất.
                  Khi về tới khách sạn, quả thật chồng con đang trông chờ Ngọc.
                  Chiều hôm sau cả nhà quay lại thành phố. Trong lúc Tân vùi đầu vào đống hồ sơ thì Ngọc lại quẩn quanh suy nghĩ về Bích, về Hà.
                  Không đợi được đến mai, Ngọc dắt xe ra cổng nói với chồng mình cần đi có chút việc riêng.
                  Đứng trước căn phòng ở tầng sau chung cư hôm nọ, chưa kịp gõ cửa thì Ngọc đã trông thấy Hà từ trong thang máy bước ra.
                  Trông thấy Ngọc, Hà thoáng giật mình, nhưng cô nhanh chóng lấy lại bình tĩnh:
                  - Chị tìm em?
                  Hà hỏi.
                  Ngọc mỉm cười gật đầu.
                  Hà lục túi xách tìm chùm chìa khóa rồi mở cửa mời Ngọc vào nhà.
                  Căn nhà vẫn bừa bộn không khác gì hôm trước.
                  Hà có vẻ mắc cỡ khi bắt gặp cái nhìn của Ngọc, cô nói nhỏ:
                  - Chị thông cảm, em bận việc suốt, không còn thời gian để dọn dẹp nhà cửa…
                  Ngọc cười:
                  - Em nghỉ làm ở công ty X rồi, hiện nay em làm ở đâu, Bích?
                  Cô gái giật bắn người:
                  - Sao chị hỏi vậy? Em… là Hà mà! Chị nhầm rồi, Bích đã chết!
                  Ngọc nhìn thẳng vào mắt cô gái:
                  - Chị không nhầm, chị biết Bích chỉ chết hụt thôi, một người đàn ông đã cứu Bích ở bãi biển. Em nói cho chị biết đi, tại sao em lại muốn đổ lỗi cho cô Khuê?
                  Biết không thể dối quanh được nữa, cô gái ôm mặt bật khóc:
                  - Em thù ghét cô Khuê! Chính cô Khuê đã giết chết người em yêu, thì có khác gì cô Khuê giết chính em đâu? Em muốn sự việc này sẽ lan rộng ra để cô Khuê mất hết danh dự, mất hết uy tín, để cô phải sống khổ sở như em đã và đang khổ sở…
                  Ngọc bỗng thấy tội nghiệp cho cô gái nông nổi ngồi trước mặt mình. Cô nhẹ nhàng khuyên bảo:
                  - Theo chị, trong việc này hình như không ai có lỗi. Cô Khuê thật ra không xấu như em tưởng. Cô chưa bao giờ dùng mưu mô để cướp Thuận của em. Thậm chí khi đã thật lòng thương Thuận, cô còn không dám thể hiện ra vì biết giữa hai người quá chênh lệch về tuổi tác. Chính vì sự hờ hững của cô Khuê cộng với những thất vọng khác mà Thuận đi tìm cái chết, điều đó chắc em đã rõ?
                  Cô gái bịt chặt hai tai, hét lên:
                  - Em không biết, em không cần biết! Em chỉ biết một điều, nếu không có Khuê thì Thuận đã là của em rồi, em không mất Thuận, em không phải sống khổ như thế này! Em thù ghét cô Khuê…
                  Mặc cho Ngọc khuyên giải cách nào, cô gái vẫn khóc ròng và luôn miệng đôû hết tội lỗi lên đầu cô Khuê.
                  Hơn chín giờ tối, Ngọc đứng lên ra về mà lòng trĩu nặng.
                  Cô không biết làm cách nào để có thể hóa giải mọi hận thù giữa người sống và kẻ chết, làm thế nào để người chết nhẹ nhàng siêu thoát, người sống không phải khổ đau dằn vặt nữa…
                  Tối đó Ngọc không dằn lòng được nữa, cô đem tất cả sự việc kể hết với chồng.
                  Tân mỉm cười:
                  - Vậy hóa ra cha con anh chỉ là phương tiện để em thực hiện công cuộc điều tra của mình à? Trời ơi, vậy mà anh cứ tưởng vợ anh thương chồng thương con, muốn cả nhà đi nghỉ mát với nhau, ai ngờ đâu… em chỉ muốn làm thám tử…
                  Ngọc giả lả:
                  - Đâu có… em cũng muốn gia đình mình đi đổi gió thật mà…
                  Tân chọc ghẹo vợ một chút nữa rồi bắt đầu nghiêm chỉnh. Anh gợi ý:
                  - Em giao tiếp được với hồn ma, thì em phải tìm mọi cách để nói chuyện một lần với linh hồn của Thuận chứ?
                  Ngọc thở dài:
                  - Em đã cố, nhưng lần nào vừa nhác thấy em là Thuận lại trốn mất, làm sao em tìm được?
                  - Em không tìm được Thuận, nhưng em có thể tìm được những hồn ma khác, em nói với họ những điều căn bản nhất rồi nhờ họ nói lại với Thuận, kèm theo lời nhắn là em rất cần gặp Thuận. Anh tin cuối cùng em sẽ thành công.
                  Tân đặt tay lên vai vợ động viên. Trong lòng anh thầm tội nghịêp cô, việc đâu đâu mà thời gian này cô ấy cứ căng thẳng mãi. Thế mới biết những người có khả năng đặc biệt cũng đâu có gì là sung sướng!
                  Thật trùng hợp may mắn, qua ngày hôm sau một hồn ma vừa mới chết gần đó tìm tới nhờ Ngọc nhắn giùm với gia đình các loại giấy tờ liên quan tới Ngân hàng mà hồi còn sống người đó đã thực hiện, chết bất đắc kỳ tử do bị nhồi máu cơ tim, không kịp trăn trối gì lại cho vợ con.
                  Ngọc vui vẻ nhận lời và nhờ anh ta tìm gặp Thuận.
                  Kể ra hồn ma của người vừa mới chết cũng có tài thuyết phục, lúc còn sống anh ta làm nghề tiếp thị quả thật không sai.
                  Ngay tối hôm ấy, khi ngồi một mình trong phòng làm việc, Ngọc bất ngờ khi thấy Thuận đột ngột xuất hiện trước mắt mình.
                  Dù chưa một lần thấy rõ Thuận, nhưng vừa thấy anh ta Ngọc đã nhận ra ngay.
                  Mừng rỡ, Ngọc đứng lên theo thói quen cô định đưa tay ra bắt, nhưng Thuận lại lùi về phía sau một chút, có vẻ như còn do dự nhiều lắm.
                  Ngọc ôn tồn nói:
                  - Chào cậu! Tôi đã được nghe kể về cậu qua cô Khuê và Bích. Tôi nhận thấy trong câu chuyện này, hiện nay cả người sống và người chết chưa ai được giải thoát. Cũng vì lý do đó nên tôi rất cần gặp cậu để giúp mọi người được giải tỏa hết với nhau. Khi ấy, cậu có thể nhẹ lòng đi đầu thai kiếp khác, mà cô Khuê và Bích, hai người thân của cậu cũng được sống yên lành hơn. Tôi nghĩ một thanh niên tốt như cậu cũng không nỡ nhìn thấy những người thân yêu của mình và ngay cả bản thân mình phải sống lắt lay, khổ sở.
                  Thuận dần dần tiến tới trước mặt Ngọc.
                  - Chị có biết hết câu chuyện giữa chúng tôi không? Chị có biết vì lý do nào mà tôi phải tìm tới cái chết giữa lúc tuổi đời còn rất trẻ thế này không?
                  Ngọc ngồi xuống ghế, khẽ nói:
                  - Tôi đã được nghe cô Khuê và Bích kể. Tôi không biết những gì tôi nghe được có chính xác trăm phần trăm hay không, nhưng tôi dám chắc một điều, cả cô Khuê và Bích, hai người ấy đều dành cho cậu một tình yêu rất lớn. Nếu tôi là cậu, tôi sẽ không tìm cái chết một cách vô nghĩa như vậy đâu!
                  Thuận buông một tràng cười sắc lạnh:
                  - Chị nói sao? Cả hai người đều dành cho tôi một tình yêu lớn à? Chị có lầm không đấy? Bích yêu tôi, điều đó đúng, nhưng từ trwosc tới giờ tôi chỉ xem Bích là một cô bạn rất thân thế thôi, chưa và sẽ không bao giờ tôi có tình yêu với Bích. Tình yêu của tôi đã dành trọn cho cô Khuê, mặc dù tuổi tác giữa tôi và cô chênh lệch nhau rất lớn, nhưng điều đó có ý nghĩa gì đâu khi tôi đã thật dạ thương yêu. Cô Khuê không đáp lại tình cảm của tôi cũng được đi, nhưng tại sao cô lại dằn mặt tôi bằng cách đó? Cô thừa biết tôi đã đầu tư, đã dồn hết tâm huyết của mình vào bức vẽ với thật nhiều hy vọng, nếu nó không đạt giải một cách bình thường thì không có gì phải nói, đằng này chính cô Khuê… người mà tôi thương yêu hơn ai hết, kính trọng hơn ai hết lại đá cho tôi một cú đau điếng như vậy, tôi thật sự không giữ được bình tĩnh nữa!
                  - Vì sự thù hận đó, cậu muốn hãm hại cô Khuê?
                  Ngọc hỏi.
                  Thuận nhìn Ngọc chăm chăm:
                  - Ai bảo với chị là tôi thù hận cô Khuê? Không, tôi chưa hề thù hận, tình yêu tôi dành cho cô vẫn luôn đong đầy dù nó làm cho tôi đau đớn, nó làm cho tôi mãi vương vấn trần gian này…
                  - Cậu bảo cậu không thù hận cô Khuê? Không thù hận thì sẽ không hãm hại, đằng này cậu đã làm ra một số việc giống như tố cáo cô ấy, sao lại nói là không thù hận được?
                  Ngọc thắc mắc.
                  Thuận bật cười:
                  - Chị hoàn toàn không hiểu gì rồi! Tôi không muốn hãm hại Khuê. Tôi chỉ muốn cô ấy mãi nhớ đến tôi, đến cái chết thương tâm của tôi, tôi muốn cô ấy dằn vặt và sẽ tìm tới cái chết giống như tôi, để ở chốn này tôi vẫn được bên cạnh cô như hồi còn sống.
                  Lần này lại đến lượt Ngọc cười lớn:
                  - Cậu thật là trẻ con Thuận ạ! Thế mà gọi là tình yêu sao? Đó chỉ là sự chiếm hữu mà thôi. Nếu thật sự cậu yêu cô ấy, thì cậu phải làm mọi cách để cô ấy được sống nhẹ nhàng, thoải mái chứ! Mà nè, cậu có biết cậu chết như vậy là đúng số hay chết oan không?

                  Thuận cúi đầu nói nhỏ:
                  - Tôi chết đúng số!
                  Ngọc nhổm dậy:
                  - Đấy! Đã gọi là đúng số rồi thì cái chết của cậu không ai là người có lỗi, ngay cả bản thân cậu, người đã gây ra cái chết cho bản thân mình. Cậu đã hết phần số thì chỉ nay mai thôi cậu phải đi đầu thai kiếp khác đúng với luật tuần hoàn. Vậy cậu muốn cô Khuê chết xuống để làm một hồn ma vất vưởng sao?
                  Thuận ngớ người ra một lúc, có lẽ như đã thức tỉnh trước những lời nói thẳng thắn của Ngọc, Thuận buồn rầu:
                  - Chị bảo tôi phải làm sao đây? Chẳng lẽ cả đời tôi chỉ có một tình yêu duy nhất mà tới khi chết đi tôi cũng không được đáp lại, tôi không cam tâm…
                  Ngọc hỏi:
                  - Cậu không nhận ra tình cảm cô Khuê dành cho cậu sao?
                  Thuận ngơ ngác:
                  - Chị nói vậy… chẳng lẽ… chẳng lẽ cô Khuê cũng có tình cảm với tôi? Vậy tại sao cô ấy lại có thái độ…
                  Ngọc cười nhẹ:
                  - Cậu thật trẻ con! Cậu chỉ biết yêu mà không hiểu được người mình yêu. Cậu phải nhớ, cô Khuê và cậu không cùng một thế hệ, những suy nghĩ và hành động của hai người không thể tương đồng với nhau được. Cậu là một chàng trai mới lớn, yêu tình yêu đầu đời, sôi nổi mãnh liệt. Còn cô Khuê đã là một phụ nữ đứng tuổi, va vấp tình cảm một lần rồi như con chim bị tên, đâu dễ gì tin vào tình yêu nữa, nhất là với một chàng trai trẻ như cậu? Cô Khuê rất yêu cậu, chỉ có điều cô ấy không dám thể hiện ra vì sợ một lần nữa bị phản bội, bị thất vọng mà thôi. Cậu có biết tại sao cô Khuê lại đánh rớt cậu trong cuộc thi đó không?
                  Thuận há hốc, ngó sững Ngọc:
                  - Vì sao? Tôi… tôi không hiểu được…
                  Ngọc nhún vai:
                  - Cũng chính vì cô Khuê quá yêu cậu, quá hiểu cậu. Cô ấy biết nếu cậu đạt giải trong kỳ thi đó, sự kiêu căng tự phụ trong cậu sẽ có cơ hội phát triển nhanh chóng, điều đó sẽ lập tức giết chết tài năng của cậu. Cô Khuê muốn cậu phải biết nếm lấy thất bại để rèn luyện mình, để nhìn rõ mình hơn. Đánh cho cậu rớt, không có nghĩa là cô Khuê ngăn chặn con đường tiến thân của cậu, mà trái lại cô đã dọn sẵn cho cậu một con đường khác, đầy hoa thơm trái ngọt, chỉ tiếc là cậu đã quá vội vàng… Mà không, đúng hơn chỉ tiếc vì phần số của cậu lại quá ngắn ngủi, cậu chưa kịp dặt chân lên đó…
                  Thuận ngồi phịch xuống ghế:
                  - Tôi vẫn chưa hiểu hết những điều chị nói!
                  Ngọc hơi chồm người về phía trước, nhìn thẳng vào Thuận:
                  - Cậu có biết không, cô Khuê đã làm hồ sơ thủ tục để đưa các bức vẽ của cậu đi dự một triển lãm có tiếng ở nước ngoài. Dù bây giờ cậu không còn nữa, cô vẫn nhất quyết thực hiện cho bằng được. Chính vì lý do đó mà khi Bích tới xin lại các bức vẽ của cậu, cô Khuê khăng khăng từ chối. Không lâu nữa các bức vẽ của cậu sẽ lên đường đi dự triển lãm.
                  Thuận ngồi ngây người ra một lúc rồi bất chợt từ hai khóe mắt trào ra hai dòng lệ. Thuận thổn thức:
                  - Khuê ơi, tại sao cô lại như vậy, tại sao cô lại khép chặt nỗi lòng để không ai hiểu được cô? Nếu cô nói ra, thì ít gì trước lúc chết tôi cũng có được những ngày hạnh phúc… Còn đằng này…
                  Ngọc buồn buồn:
                  - Aâu tất cả cũng là số phận của mỗi người!
                  Thuận ngước lên nhìn Ngọc:
                  - Bây giờ chị bảo tôi phải làm sao đây?
                  - Việc trước tiên cậu cần làm là đừng nên quẩn quanh bên cạnh cô Khuê nữa. Cậu cũng biết rồi đó, khi một người bị ma ám thì không thể nào có đủ sức khỏe để sống tốt và công việc của họ cũng liên tiếp gặp trở ngại. Cô Khuê là người ít nói, lại giỏi chịu đựng, chưa bao giờ cô than thở gì nhưng qua tìm hiểu, tôi biết cô đang gặp rất nhiều khó khăn, mà chung quy cũng do bị cậu ám đấy! Việc thứ hai, cậu phải báo mộg hay làm cách nào tùy cậu, để cho Bích biết rõ, dù có cô Khuê hay không cậu cũng sẽ không yêu Bích, để Bích nhận rõ cô Khuê không phải tình địch của mình, có như vậy cả Bích, cả cô Khuê và cậu nữa, mới có thể bình yên.
                  Thuận vừa muốn nói gì đó, bất ngờ đứa con của Ngọc từ ngoài chạy ùa vào làm Thuận giật bắn người và tan ra như làn khói.
                  Ngọc muốn gọi với theo, nhưng sợ gây thắc mắc cho con nên thôi. Cô quay sang trách con:
                  - Vô phòng mà không gõ cửa gì cả, con gái nhé?
                  Đứa nhỏ lè lưỡi:
                  - Ui, con quên! Con xin lỗi mẹ! Chỉ tại con vui quá nên quên mất!
                  Ngọc kéo con lại gần âu yếm hỏi:
                  - Chuỵên gì làm cho con gái cưng của mẹ vui như vậy?
                  Trong phòng vang lên tiếng cười của hai mẹ con khi đứa bé thuật lại cho Ngọc nghe chuyện vui của nó.
                   
                  ***
                   
                  Cô Khuê đang ngồi bên khung vải trắng. Tự nhiên cô cảm thấy bần thần không thể đưa tay cọ lên được.
                  Đứng lên, bước tới bên cửa sổ, tì tay vào thành cửa đứng nhìn ra mấy chậu hoa nhỏ ngoài sân, bất chợt lòng cô Khuê rưng rưng muốn khóc.
                  Kìa là những bụi hồng mới hôm nào Thuận hí hửng mang về trồng, kìa là mấy cây hướng dương mà Thuận đã phải đi xin giống tận trên Thủ Đức, đem về gieo hạt rồi tỉ mỉ bón chăm trông chờ ngày nó trổ ra bông hoa đầu tiên. Nhưng bây giờ, khi bông hoa đầu tiên sắp sửa bung ra để đón ánh nắng mặt trời thì Thuận đã không còn nữa.
                  Nước mắt cô Khuê lăn nhẹ trên má. Khung vải trong phòng bỗng nhiên lay động nhẹ, mặc dù ngoài trời đang im ắng, không có một ngọn gió nào.
                  Cô Khuê ngạc nhiên cứ đứng nhìn sững vào khung vải.
                  Lạ lùng! Từng nét, từng nét vẽ đang từ từ hiện rõ trên nền vải. Không lâu sau, trên khung đã xuất hiện một người phụ nữ, cô ,đúng rồi, người phụ nữ trong tranh chính là cô, chính là cô trong chính giờ phút này!
                  Người phụ nữ tựa cửa nhìn ra vườn, bên ngoài là một bông hướng dương đang vươn mình hứng từng giọt nắng long lanh, vàng rực!
                  Bức tranh đẹp đến không ngờ, sống động đến không ngờ! Nhìn vào đó, người ta có cảm giác nghe được từng hơi thở nhẹ của người con gái, thấy được cái lung lay rất nhẹ của mỗi cánh hoa.
                  Một bức vẽ hoàn mỹ!
                  Sau phút sững sờ, cô Khuê nhào tới bên khung vải, rối rít gọi to:
                  - Thuận ơi! Thuận! Có phải Thuận không?...
                  Nước mắt cô lã chã rơi, cô như người hoảng loạn đang cố níu giữ điều quý giá sắp vuột khỏi tay mình.
                  Trong một giây, cô Khuê chợt trông thấy rõ ràng Thuận đứng ngay trước mặt mình, bằng xương bằng thịt.
                  Thuận cười thật tươi và vẫy tay chào cô giôùng y lần cô đưa Thuận lên xe đi thực tập.
                  - Thuận ơi!...
                  Hình dáng Thuận mờ dần qua màn nước mắt, rồi nó vụt biến mất như chưa từng xảy đến với cô.
                  Cô Khuê gục xuống, nghẹn ngào rên xiết:
                  - Thuận ơi…!
                   
                  ***
                  Tiếng chuông cửa hôm nay nghe có vẻ rụt rè làm cô Khuê thắc mắc. Cô bỏ tập tài liệu đang xem dở xuống bàn, xỏ chân vào dép lật đật đi ra cửa.
                  Cánh cổng vừa mở ra, người đứng trước mặt cô là Bích. Cô gái dạo trước đã một lần đến đây lớn tiếng nặng lời với cô.
                  - Em tới có việc gì không?
                  Cô Khuê có vẻ cảnh giác.
                  - Dạ… em… em muốn tới đây để xin lỗi cô!
                  Bích cúi mặt xuống đất nói nhỏ.
                  Bất ngờ trước thái độ nhu mì và lời nói của Bích, cô Khuê đứng im một lúc mới cất tiếng:
                  - Mời em vào nhà!
                  Bích riu ríu dắt xe đạp đi theo sau lưng cô Khuê.
                  Vừa ngồi xuống ghế, một lần nữa Bích tỏ vẻ hối hận:
                  - Hôm nay em tới đây mong được cô tha lỗi! Trước đây em đã quá hồ đồ nên có những lời lẽ và hành vi xúc phạm tới cô, em… em thật xấu hổ! Mong cô bỏ qua cho em…
                  Cô Khuê đặt tay mình lên bàn tay nhỏ bé của Bích:
                  - Không, cô không hề để bụng chuyện đã qua. Nhưng… cô thật bất ngờ, không biết tại sao hôm nay thái độ của em lại hoàn toàn khác như vậy? Em có thể cho cô biết được không?
                  Bích buồn buồn:
                  - Thưa cô… Em không biết giải thích sao với cô đây! Chỉ biết rằng chính anh Thuận đã phân tích cặn kẽ mọi sự việc, giúp em nhận thấy rõ sai lầm của mình. Cả em, cả anh Thuận đều có lỗi với cô. Tụi em quả thật quá nông nổi và trẻ con…
                  - Em nói sao? Thuận phân tích cho em thấy à?
                  Cô Khuê ngạc nhiên.
                  Bích gật đầu:
                  - Dạ, đúng là chính anh Thuận. Anh ấy bảo anh ấy sắp phải đi xa lắm, không bao giờ còn có thể quay về được nữa, nên trước khi đi ảnh muốn làm hai việc, một là để lại cho cô cái gì đấy gọi là tình yêu mãnh liệt của ảnh, em nghe mà không hiểu rõ. Hai là ảnh muốn em sống thanh thản, dứt ra khỏi những thù hận không đâu. Ảnh đã phân tích cho em thấy những sai lầm trong suy nghĩ của mình. Và em đã nhận ra một điều thật hiển nhiên nhưng lâu nay em lại không chịu chấp nhận: Đó là, dù không có sự xuất hiện của cô, anh Thuận vẫn không yêu em.
                  Cô Khuê với tay lấy chiếc khăn giấy, nhẹ nhàng chậm lên những giọt nước mắt đang lăn dài trên má cô bé nhỏ nhoi đang ngồi trước mặt mình, nhưng trong tâm tưởng cô lại nhớ tới món quà sau cùng Thuận để lại cho cô, đó chính là bức vẽ sau cùng của một người tài hoa bạc mệnh.
                   
                  ***
                  - Em ơi em! Em nhìn này!
                  Tân vội vã từ trong phòng ngủ đi ra, trên tay vung vẩy tờ báo.
                  Ngọc ngạc nhiên:
                  - Gì thế anh? Anh đừng nói với em là anh trúng xổ số đấy nhé?
                  Tân cười, sà xuống bên cạnh vợ, chìa ra trước mặt một cái tít lớn trên tờ báo: “Một tác phẩm được đông đảo người xem chú ý ở triển lãm mỹ thuật…”, dưới đó là bức ảnh chụp bức tranh vẽ một phụ nữ đứng tự cửa nhìn ra vườn, nơi có một đoá hướng dương đang vươn mình lên đón ánh mặt trời!
                  Ngọc reo lên:
                  - Ôi, chị Khuê đã thành công rồi! Chị Khuê đã đưa được tác phẩm cuối cùng của Thuận ra thế giới rồi…
                  Tân mỉm cười nhìn vợ. Ngọc vẫn trẻ con như thế, nhưng anh yêu biết bao cái tính hồn nhiên con trẻ và nhân hậu vô cùng nơi Ngọc!
                  Hết
                  Nguyễn Thị Mộng Thu
                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:35:37 bởi nguyenthu >
                  #69
                    nguyenthu 10.08.2009 22:00:10 (permalink)
                    ĐỨA BÉ MA
                     
                    Xe vừa vào đến bến, Thùy dắt tay con bé An bước xuống ngơ ngác nhìn quanh. Tiếng anh lơ xe làm Thùy giật mình:
                    - Chị kia, không lấy hành lý xuống hả?
                    Thùy luống cuống đỡ lấy cái va li cùng mấy cái túi lỉnh kỉnh từ tay anh lơ xe. Anh ta nhìn Thùy có vẻ thương hại:
                    - Vô đất Sài Gòn này mà cô cứ lớ ngớ như vậy, coi chừng không còn gì đó nghen! Nè, bé con, xách cái túi nhỏ này cho mẹ đi!
                    Anh ta dúi vào tay bé An cái ba lô nhỏ.
                    - Dạ, cảm ơn anh!
                    Thùy gật đầu chào người lơ xe rồi lôi đống hành lý cùng đứa bé đi về phía cổng.
                    Vừa đi được một đoạn, Thùy trông thấy Mai bèn gọi lớn:
                    - Mai ơi, Thùy đây!
                    Nghe gọi, cô gái giật mình quay lại, trông thấy mẹ con Thùy cô cười tươi:
                    - Trời, đứng đây nãy giờ mà không nhìn thấy! Hai mẹ con đi đường vất vả lắm không?
                    Bé An ngoan ngoãn khoanh tay trước ngực:
                    - Dạ, con chào dì Mai!
                    Mai cười tít mắt, đỡ con bé đặt lên trước xe:
                    - Ôi, con gái xinh và ngoan ghê chưa! Nào, bây giờ con ngồi đây, mẹ Thùy ngồi sau, chịu khó xách cái túi này nhe, còn cái va li đưa đây, mình để phía trước.
                    Mai đặt cái va li to đùng lên phía trước xe, chờ Thùy ngồi lên cẩn thận rồi rồ ga cho xe vọt lên phía trước.
                    Đường phố Sài Gòn ồn ào đông đúc, bé An thích thú ngắm nhìn từng dòng người, những tấm panô quảng cáo giăng mắc khắp nơi và các ngôi nhà to đẹp hai bên đường. Trông bộ dạng nó thật hí hửng.
                    Ngược lại với con gái, Thùy có vẻ mệt mỏi và u buồn. Suốt quãng đường đi, Thùy chỉ trả lời ậm ờ các câu hỏi của Mai.
                    Chưa đầy ba mươi phút sau, Mai dừng xe trước một căn nhà nhỏ trong hẻm, nhấc bé An để xuống đất và bảo:
                    - Tới nhà dì Mai rồi đây! Hai mẹ con vô nhà nào!
                    Đây là một căn nhà nhỏ, hơi ẩm thấp, từ ngoài cổng vào nhà chỉ có một khoảnh sân nhỏ xíu đủ dựng chừng ba chiếc xe máy.
                    - Để đồ đạc đây, hai mẹ con đi tắm cho mát rồi ăn cơm! Con gái chắc đói bụng lắm rồi đây!
                    Mai vừa gỡ chiếc ba lô trên vai bé An ra vừa hỏi.
                    Bé An cười:
                    - Dạ không, lúc nãy mẹ có cho con ăn bánh mì rồi, con không đói đâu dì Mai!
                    Thùy đặt mấy chiếc túi vào góc nhà, ngước nhìn Mai hỏi:
                    - Hai đứa em Mai đâu rồi?
                    Mai cười ngất:
                    - Ê, bộ quên hôm nay thứ hai sao? Tụi nó phải đi làm chứ! Nhà này chỉ đông đủ vào buổi tối thôi, sáng ra là mạnh ai nấy đi. Mỗi đứa một chìa khóa, muốn về lúc nào thì về, riết rồi mình cũng chẳng quan tâm nữa!
                    - Tối nay mẹ con Thùy ở lại đây một đêm có phiền phức gì không?
                    Thùy lo lắng hỏi Mai vì thấy diện tích ngôi nhà quá nhỏ hẹp.
                    Mai lắc đầu:
                    - Thùy đừng có lo, thì ngủ chật một hai hôm có sao đâu!
                    - Cái nhà mà Mai đã đi xem qua giúp Thùy có ở gần đây không?
                    Thùy hỏi.
                    - Cũng không gần lắm! Hai mẹ con tắm rửa, ăn uống rồi nghỉ ngơi cho khỏe, chừng xế chiều mình chở tới đó để Thùy xem có vừa ý không nhé?
                    - Hễ Mai thấy được là được rồi, mình cũng chẳng đòi hỏi gì cao đâu.
                    Thùy trả lời bạn.
                    Cô mở túi xách lấy áo quần và khăn tắm đưa cho con gái. Mai dẫn bé An vào phòng tắm, đùa:
                    - Con tắm một mình được không? Hay dì Mai tắm cho con nhe?
                    - Dạ, con tắm được!
                    Bé An nhanh nhẹn bước vào phòng đóng cửa lại.
                    Khi con bé đi rồi, Mai quay sang Thùy nhìn bạn đăm đăm:
                    - Thùy quyết định thế thật sao? Anh Tùng không ngăn cản mẹ con Thùy à?
                    Thùy cười thật buồn:
                    - Mình đã đắn đo cân nhắc rất lâu mới đi được đến quyết định này. Anh Tùng cũng ngăn, nhưng chủ yếu là ảnh ngăn không cho mình dắt theo con bé, chứ mình đi thì ảnh càng thích thôi Mai ạ!
                    Mai siết tay bạn:
                    - Mình thật không ngờ, chỉ mới mấy năm mà một mối tình đẹp đã làm cho bao nhiêu bạn bè ngưỡng mộ như mối tình giữa Thùy và anh Tùng lại có thể đi đến nông nỗi này…
                    Thùy khẽ chớp mắt để đè nén cảm xúc:
                    - Chắc tại phần số mình không may nên mới khiến xui như vậy! Thật sự mình cũng không trách gì anh Tùng. Bởi mình biết, tình yêu là thứ không thể muốn là được. Một khi ảnh không còn yêu mình, thì càng gượng ép càng làm khổ cả hai. Thôi thì mình cứ toại nguyện cho ảnh, như vậy có lẽ sẽ tốt hơn.
                    Mai nhìn bạn không dằn được tiếng thở dài:
                    - Thôi, đừng thèm nghĩ đến nữa! Bây giờ Thùy có An cũng là nguồn an ủi lớn rồi!
                    Thùy mỉm cười:
                    - Ừ, cũng may là mình còn có nó!
                    Sự nhớ ra, Mai hỏi bạn:
                    - Hôm nào Thùy bắt đầu nhận công tác?
                    - Hai hôm nữa, vì chi nhánh trong này đang cần người gấp nên mình mới dễ dàng chuyển tới, bởi vậy phải bắt tay vào công việc ngay Mai à!
                    Thùy nói.
                    Mai gật đầu:
                    - Vậy cũng tốt! Ngày mai ổn định nơi ở, ngày mốt đi làm, bạn sẽ không còn thời gian để mà buồn bã nữa!
                    - Ừ, mình cũng hy vọng là như thế!
                    Thùy đứng lên tỏ vẻ muốn chấm dứt câu chuyện. Bé An cũng đã tắm xong. Mai giục bạn:
                    - Thùy tắm đi! Mình dọn cơm nhe?
                    Thùy gượng cười bước vô phòng tắm.
                    Bé An vừa đứng lau khô tóc vừa đưa mắt ngó khắp nhà. Mai âu yếm hỏi An:
                    - Con có mệt không con? Từ nay vô đây sống với dì nghen?
                    An ngây thơ hỏi:
                    - Con ở đây hả dì? Rồi con với mẹ ngủ chỗ nào?
                    Mai bật cười:
                    - Không, tối nay mẹ con con nghỉ tạm ở đây một đêm thôi, chiều nay dì Mai dẫn hai mẹ con đi coi nhà mới rồi ngày mai dọn tới đó ở. Nhà tui nghèo vầy, làm sao hai má con ở được?
                    Bé An tuy còn bé nhưng cũng đủ khôn ngoan:
                    - Dạ không, con thích ở đây lắm!
                    Mai tươi cười hôn lên má bé An, mắng yêu nó:
                    - Con khéo nói chuyện lắm, giống y như mẹ con vậy!
                    Lúc Thùy tắm xong thì Mai cũng đã dọn sẵn mâm cơm trên bàn ăn. Bữa cơm thật đơn giản nhưng đầm ấm. Mẹ con Thùy đi đường xa tuy mệt mỏi nhưng trước sự hiếu khách của Mai, hai người vẫn ăn uống rất vui vẻ.
                    Aên cơm xong, bé An lên võng nằm chơi một chút đã ngủ ngay, riêng Thùy vẫn trằn trọc mãi không ngủ được.
                    Lần này Thùy quyết định chuyển công tác vào Sài Gòn tức là đã quyết định chia tay với Tùng. Đó không phải là điều dễ dàng đối với Thùy.
                    Hồi còn đi học, Thùy được rất nhiều bạn đeo đuổi vì vẻ đẹp dịu dàng và tính tình đôn hậu của cô. Thế nhưng trong số đó Thùy lại chọn Tùng.
                    Tùng con nhà nghèo, so bề ngoài thì kém xa nhiều người khác, nhưng Thùy quý Tùng ở chỗ rất chân thành và luôn có chí cầu tiến. Tình yêu của hai người kéo dài suốt ba năm ở trường Đại học, một tình yêu đẹp khiến nhiều người ngưỡng mộ.
                    Ra trường, được sự giúp đỡ của một người quen, cả Tùng và Thùy đều được về nhận công tác ở Nha Trang, đúng với chuyên ngành mình đã học.
                    Khi mọi việc đã được ổn định, hai người tổ chức đám cưới và bắt đầu tận hưởng những ngày tràn đầy hạnh phúc bên nhau.
                    Thế nhưng… cuộc đời luôn có những chữ “nhưng” đáng ghét như thế! Khi bé An được hơn ba tuổi thì cũng là lúc Thùy phát hiện Tùng có quan hệ với một người phụ nữ khác.
                    Đau đớn, hụt hẫng Thùy đã một lần muốn lìa bỏ Tùng khi ấy. Nhưng cô lại mềm lòng trước những lời giải thích, van xin và hứa hẹn của chồng.
                    Tùng luôn là người chồng tốt, là người có trách nhiệm với vợ con. Sau lần đó, Tùng càng quan tâm chăm sóc hai mẹ con Thùy hơn, nên dần dần nỗi đau trong lòng Thùy cũng nguôi ngoai đôi chút.
                    Vết thương chưa kịp lành, lòng tin chưa kịp lấy lại cho trọn vẹn, một hôm Tùng thú thật với Thùy rằng người phụ nữ kia sắp sinh con cho anh!
                    Vậy là suốt thời gian hai năm qua, Tùng vẫn không hề rời xa người đó như đã hứa với Thùy. Suốt hai năm qua, Thùy cứ ngỡ anh ăn năn hối lỗi. Suốt hai năm qua, mẹ con Thùy sống trong sự dối gạt, lọc lừa!
                    Đến nước này Thùy không thể chịu đựng nổi nữa. Cô đề nghị ly hôn, Tùng không đồng ý nhưng cũng không phản đối, anh chỉ bảo cô đừng nóng vội, cả hai cần phải có một khoảng thời gian để suy nghĩ lại.
                    Mai chuyển công tác vào đây cũng vì lý do đó.
                    Ở Sài Gòn này cô có rất đông bạn bè cùng học ngày xưa, nhưng thân thiết nhất vẫn là Mai. Vì thế, trước khi vào đây, Thùy đã nhờ Mai tìm thuê nhà giúp để khi vào tới, mẹ con cô không bị bỡ ngỡ, lúng túng.
                    Mai vẫn chưa yêu ai sau lần tan vỡ mối tình đầu. Cô bảo cô rất không tin tưởng đàn ông. Sau chuyện của Thùy, Mai càng chán ngán hơn nữa.
                    Ban đầu Mai có dịnh để mẹ con Thùy ở lại nhà cô, nhưng rồi nghĩ lại thấy nhà mình quá chật hẹp, lại thêm hai đứa em ồn ào, mẹ con Thùy đã quen sống đời khá giả, ở đây sợ không tiện, vì vậy nên cô không mở lời.
                    Mai thương bạn, nhưng cô không biết làm gì hơn để san sẻ cùng Thùy nỗi đau to lớn đó.
                    Cả Mai và Thùy trưa hôm ấy đều không ngủ được, nhưng ai cũng giả vờ nhắm mắt để bạn yên lòng.
                    Mãi đến lúc bé An thức dậy, Thùy giục:
                    - Mai, đưa mình đi xem nhà đi!
                    - Ừ! Hai mẹ con chuẩn bị nhanh lên, ở đó mà thúc giục mình!
                    Mai cười nhìn bé An đang lúng túng với cáo áo đầm dây nhợ chằng chịt phía sau lưng. Cô giúp con bé cột dây nơ rồi bắt nó xoay một vòng làm tà áo tung lên như người ta đang múa Ba – lê:
                    - Úi trời ơi, cháu của dì xinh quá đi thôi!
                    Mai nhấc bổng con bé lên, hôn chùn chụt vào hai bên má và dụi mặt vào cổ nó làm An cười hăng hắc.
                    Thùy lặng lẽ mỉm cười.
                    Mai chở mẹ con Thùy đi lòng vòng khá xa mới tới khu chung cư mà Mai đã hỏi thuê một phòng cho mẹ con cô.
                    Sau khi gửi xe, ba người dắt nhau vào thang máy đi lên tầng sáu.
                    Mai giải thích:
                    - Ở chỗ này tuy cao, nhưng thang máy hoạt động hai mươi bốn trên hai mươi bốn, không sợ phải leo cầu thang, an ninh khu vực này tốt, người dân sinh sống ở đây đại đa số đều là công chức nên dễ chịu hơn những chỗ khác nhiều, phòng ốc lại đẹp nữa. Chút nữa lên tới phòng Thùy sẽ biết.
                    Thùy nhìn bạn cười tủm tỉm:
                    - Mai làm tiếp thị cho trung tâm môi giới từ lúc nào thế?
                    Mai phá ra cười, đấm vào lưng bạn thùm thụp.
                    Thang máy vừa dừng lại, Mai dắt tay bé An bước ra rồi rảo bước tới một căn phòng gần đó. Cô tra chìa vào ổ khóa, vặn kêu một cái “tạch”, cánh cửa bật mở.
                    Trước mắt Thùy là một căn phòng khang trang, đẹp mắt.
                    Căn phòng đã được Mai cho người dọn dẹp và bày trí đúng với sở thích của Thùy. Cô rất cảm động trước sự chu đáo của người bạn gái thân thương đã dành cho mình.
                    Bé An ngơ ngác đứng ngó khắp nơi trong nhà, mặc cho mẹ và dì dẫn nhau đi xem xét từng xó xỉnh. Cả hai chỉ trỏ, bàn tán đủ thứ chuyện trên đời. Nhưng nói chung lại, Thùy rất hài lòng với căn phòng mà Mai đã chọn.
                    Cô nắm chặt tay bạn, nghẹn ngào:
                    - Mình cảm ơn Mai rất nhiều…
                    Mai vỗ nhẹ lên tay Thùy, mắt cô cũng rân rấn nước:
                    - Có gì đâu! Mình không muốn giúp bạn việc này tí nào đâu! Mình vẫn muốn được thấy bạn sống cuộc sống trước đây trong ngôi nhà hạnh phúc ở Nha Trang kia!
                    Thùy khẽ lắc đầu rồi quay vội đi chỗ khác để che giấu dòng nước mắt đang vỡ khỏi bờ mi.
                    - Mẹ ơi, mình sống ở đây hở mẹ?
                    Bé An níu vạt áo Thùy, ngước đôi mắt thơ ngây lên hỏi.
                    - Ừ, hai mẹ con mình từ ngày mai sẽ dọn tới đây ở.
                    - Còn ba? Chừng nào ba vào đây với con hở mẹ?
                    Thùy ôm con vào lòng, thủ thỉ:
                    - Ba bận nhiều việc lắm con à, khi nào ba rảnh ba sẽ vào ngay, con đừng buồn nhe!
                    Bé An gật đầu:
                    - Dạ, con nghe lời mẹ!
                    Thấy Thùy lại sắp khóc trước những câu hỏi vô tình của con bé, Mai xen vào để phá vỡ cái không khí nặng nề đó:
                    - Bé An ơi, con thấy nhà này đẹp không?
                    Bé An ngước lên nhìn trần nhà rồi ngó Mai, trả lời:
                    - Dạ, con thích lắm! Nhưng mà… sao nóc nhà mình nhiều nước thế hở dì Mai? Con ngủ, nước có rơi xuống ướt mình con không?
                    Cả Mai và Thùy đều ngạc nhiên ngẩn lên nhìn trên nóc. Nóc nhà sạch sẽ, màu sơn còn mới tinh, không hề có vệt nước nào trên đó.
                    Thuỳ lấy làm lạ hỏi con gái:
                    - Ủa, sao con nói nước trên nóc nhà? Mẹ có thấy gì đâu?
                    Bé An chỉ tay lên:
                    - Đó, mẹ thấy chưa? Nước loang ra nhiều như vậy mà mẹ và cả dì Mai đều không nhìn thấy sao?
                    Một lần nữa Mai và Thùy cùng ngước nhìn lên rồi cả hai lại nhìn nhau ngơ ngác:
                    - Ôi, con bé này hôm nay làm sao vậy nhỉ?
                    Thùy kêu lên.
                    Mai bấm nhẹ vào vai bạn, nói thầm:
                    - Chắc nó đi đường mệt quá nên mắt mờ đi đấy! Thôi, bỏ qua đi, đừng hỏi gì nó nữa hết!
                    Nói xong, Mai quay sang kéo bé An vào lòng:
                    - Vài hôm nữa khai trường, con vào học lớp hai rồi phải không? Nè, nhớ phải nịnh dì Mai nhiều nhiều, để dì Mai giúp mẹ đưa đón con đó nghen!
                    Bé An tươi cười, choàng tay qua vai Mai, đặt lên má cô một nụ hôn âu yếm.
                    Mai vả vờ ngả người ra sau:
                    - Ôi, tôi hạnh phúc quá đi mất! Tôi chết mất! Con bé này thương tôi đến thế kia sao?
                    Thấy Mai giả vờ như vậy, bé An lại nhào tới hôn cô tới tấp. Hai dì cháu cười đùa vang vọng khiến Thùy tâm trạng đang không vui mà cũng phải bật cười.
                    Thế là nhờ vào sự xếp đặt của Mai, mẹ con Thùy đã không phải lo lắng gì đến chuyện nơi ăn chốn ở của mình.
                    Tối đó, Mai chở hai mẹ con Thùy đi dạo mấy vòng rồi về nhà cho con bé ngủ. Riêng Mai và Thùy nằm sát bên nhau, bao nhiều tâm sự vui buồn đều đem ra san sẻ cùng nhau. Hai người mãi thầm thì chuyện vãn đến tận gần hai giờ đêm mới ngủ.
                    Sáng hôm sau, Mai giúp mẹ con Thùy dọn đồ đạc tới nhà mới. Ngoài mấy cái va li, túi xách mà hôm qua Thùy mang vào, Mai còn mua thêm cho cô một ít vật dụng khác cần thiết trong nhà, trong đó không thiếu mấy món đồ chơi nho nhỏ dành cho bé An.
                    Cuộc sống của hai mẹ con Thùy sớm đi vào ổn định. Hai ngày sau, Thùy bắt đầu đi làm, bé An ở nhà một mình vì các trường học còn đang trong thời gian nghỉ hè.
                    Trước khi đi, Thùy không quên dặn con đủ mọi việc cần thiết, mặc dù cô đã tự nhủ mình là đừng lo lắng quá. Bởi vì trước đây, khi còn sống ở Nha Trang, bé An vẫn thường xuyên chơi một mình ở nhà như thế.
                    Tuy nhiên vì đây là nơi mới chuyển tới nên Thùy cũng không hoàn toàn yên tâm. Trước đó cô đã đi sang căn bên cạnh để làm quen.
                    Thùy biết căn bên cạnh nhà cô là của một đôi vợ chồng ở tuổi năm mươi. Người chồng làm kế toán ở một công ty trong thành phố, người vợ ở nhà lãnh đồ về may gia công. Nhà không có trẻ con, vì hai con của ông bà đã lớn và đã có gia đình riêng.
                    Biết Thùy mới đến và sẽ đi làm vào ngày mai, bỏ đứa bé ở nhà một mình, người đàn bà bên cạnh đã mở lời bảo cô để bé An qua đó bà sẽ trông coi giúp, nhưng Thùy sợ người ta vợ chồng lớn tuổi, nhà không có trẻ nít đã quen, sợ con mình sẽ gây phiền toái cho người ta nên cô từ chối, mà chỉ nhờ họ nếu có thấy gì lạ bên nhà thì chạy qua xem giúp.
                    Căn phòng kế đó nữa thì không ai ở. Thùy nghe nói trước đây không lâu có một cặp vợ chồng và đứa con gái nhỏ ở trong căn phòng đó, nhưng rồi họ dời đi một cách lặng lẽ, mọi người không ai biết họ đi đâu, đi lúc nào nữa. Căn phòng đó cũng đẹp lắm nhưng không hiểu sao ai tới thuê nhà cũng không chịu ở đó.
                    Không chỉ gởi gắm con cho người láng giềng bên cạnh, Thùy không quên nhờ bác bảo vệ chung cư dòm ngó giúp.
                    Nhưng suốt cả ngày hôm đó, cứ chốc chốc Thùy lại điện thoại về thăm con, đến nỗi bé An phải kêu lên:
                    - Mẹ ơi, con ở nhà được mà! Mẹ làm việc đi, đừng lo như vậy nữa!
                    Thùy phì cười. Cái con bé này đôi lúc nói năng y như người lớn!
                    Buổi chiều, vừa tới giờ tan sở là Thùy vội vàng chạy về với con.
                    - Ở nhà một mình, có sợ không con? Có buồn không con?
                    Vừa ôm hôn con, Thùy vừa hỏi dồn dập.
                    Bé An cười tươi:
                    - Con đâu có buồn, cũng không có sợ gì hết mẹ ơi! Con chơi với mấy thứ dì Mai mua cho con nè! Với lại con cũng có học bài nữa đó mẹ!
                    - Con gái mẹ ngoan quá!
                    Thùy âu yếm hôn con một lúc lâu nữa rồi mới đi vào thay áo quần xuống bếp nấu cơm.
                    Bữa cơm chiều hôm đó tuy rất đạm bạc vì Thùy chỉ mua vội một vài thứ bán ven đường, nhưng cả hai mẹ con đều ăn rất ngon miệng. Bữa trưa, Thùy và bé An ai cũng ăn một mình nên khi ngồi bên nhau thế này cả hai đều rất thích thú.
                    Khi hai mẹ con vừa ăn cơm xong thì Mai đến. Vừa vào tới cửa, Mai đã lên tiếng:
                    - Ôi giời ơi, hôm nay lão sếp đì mình đến ngất ngư luôn, trưa tính ghé qua xem con vịt con này thế nào mà cũng đâu có được! Chẳng biết lão thù mình từ hồi thâm căn cố đế nào mà cứ hễ có việc gì ở xa là lại đẩy mình đi, chán thế không biết!
                    Vừa nói, Mai vừa ngã ra nằm dài trên chiếc giường kê ở góc phòng.
                    Thùy cười:
                    - Ông sếp còn trẻ không?
                    - Lớn hơn mình vài tuổi, này, đẹp trai lắm nhé, chỉ phải cái tội khó tính, khó chịu, khó khăn… nên ế vợ! Hi hi…
                    Mai cười ngất.
                    Thùy nheo mắt nhìn bạn, cười cười:
                    - Hay là lão ta đang “thử thách” bạn đấy? Sau thời gian thử thách, nếu ô kê là rước nàng về dinh?
                    Mai giẫy lên:
                    - Thôi thôi, cho mình xin đi! Mình thà làm… ni cô còn hơn làm tình nhân của cái lão khó ưa đó!
                    - “Ghét của nào trời trao của nấy” đấy bạn nhe!
                    Thùy dí ngón tay vào trán bạn, cười nói.
                    Mai lắc đầu, lè lưỡi ra vẻ khiếp đảm lắm.
                    Bé An trông thấy thái độ lạ lẫm của dì Mai, nó cứ đứng nhìn rồi cười một mình.
                    Chờ Thùy dọn dẹp, thay áo quần xong, Mai chở hai mẹ con Thùy đi mua xe.
                    Ở cái thành phố năng động này mà không có chiếc xe để làm chân đi thì có mà… tụt hậu!
                    Thùy mới đi làm ngày đầu tiên bằng xe buýt mà đã nếm mùi đó rồi!
                    Mai này có thêm chiếc xe, việc đưa đón bé An đến lớp cũng sẽ thuận tiện hơn.
                    Một tuần trôi qua, cuộc sống của mẹ con Thùy trôi qua trong êm ả, bình lặng.
                    Chỉ có một điều Thùy hơi lấy làm lạ. Đó là, mấy ngày nay Thùy thường bắt gặp bé An ngồi nói chuyện một mình, đôi lúc nó lại cười khúc khích, giống như đang nói chuyện rất vui vẻ với một người nào khác nữa vậy.
                    Thùy đem thắc mắc đó nói với Mai thì Mai gạt đi:
                    - Con nít đứa nào chả thế! Mấy đứa cháu của mình cũng vậy, cứ ngồi buồn là nói chuỵên một mình hoài hà! Bạn đừng có lo.
                    Tuy nghe Mai nói vậy nhưng Thùy vẫn chưa an tâm, cô lại đem điều đó hỏi mấy chị lớn tuổi làm cùng công ty. Giống như Mai, ai cũng khẳng định trẻ con đứa nào cũng có giai đoạn thích nói chuỵên một mình, thích tưởng tượng ra đủ thứ, đó không là điều gì bất thường cả!
                    Nghe nhiều người nói nên Thùy cũng tạm yên tâm.
                    Một hôm, giữa lúc Thùy đang lúi húi làm cơm dưới bếp, cô bỗng nghe tiếng bé An cười ngất trên nhà. Cô vội vã chạy lên, trông thấy bé An như đang đùa giỡn với một người vô hình bên cạnh. Cô ngạc nhiên hỏi con gái:
                    - Con chơi giỡn với ai mà cười dữ vậy?
                    Bé An vẫn chưa dứt chuỗi cười:
                    - Hi hi, bạn Yên cứ thọc lét con hoài…
                    - Bạn Yên? Bạn Yên nào?
                    Thùy kinh ngạc.
                    Giữa lúc đó bé An thôi không cười nữa và nhìn ra cửa một lúc rồi mới trả lời câu hỏi của mẹ:
                    - Mẹ làm bạn Yên sợ, bạn Yên bỏ về rồi kìa!
                    - Con nói bạn Yên nào?
                    Thùy ngơ ngác ngó xung quanh.
                    Bé An liếng thoắng kể:
                    - Bạn Yên ở cùng chung cư với mình nè! Ngày nào bạn cũng tới chơi với con. Con đọc sách cho bạn nghe, bạn dạy con hát, bạn chơi với con rất vui…
                    Thùy lo lắng sờ tay lên trán con thì thấy nhiệt độ cơ thể bé An vẫn bình thường, hoàn toàn không bị nóng sốt mê sảng gì cả.
                    Suốt đêm Thùy lo âu không chợp mắt. Cô không hiểu sao con gái mình lại như vậy, nó có vấn đề gì ở thần kinh không?
                    Nỗi lo chưa được giải tỏa thì hôm sau bé An lại làm cho Thùy càng lo hơn nữa.
                    Đi làm về, Thùy bắt gặp trong nhà mình có một chiếc cặp dành cho trẻ em gái có hình chú mèo thật dễ thương và dòng chữ Hello Kitty màu đỏ rất đẹp.
                    Thùy ngạc nhiên:
                    - Cái này ở đâu ra vậy con?
                    Bé An hí hửng khoe với mẹ:
                    - Bạn Yên tặng cho con đó mẹ! Mẹ thấy có đẹp không? Bạn Yên nói bạn tặng để mai mốt con đi học.
                    Đến nước này thì Thùy không chịu nỗi nữa. Cô muốn chia sẻ sự hoang mang này với Mai, nhưng hai hôm nay Mai đi công tác ở tỉnh rồi.
                    Ngay hôm sau, tranh thủ giờ nghỉ trưa Thùy tìm tới một bác sĩ tâm thần để được tư vấn tình trạng của con.
                    Sau khi nghe Thùy trình bày chi tiết, ông bác sĩ đứng tuổi mỉm cười, ôn tồn nói:
                    - Cô không phải lo, trẻ con ở vào lứa tuổi đó thường đứa nào cũng thế! Nhất là đối với những trẻ phải thường xuyên sống ở nhà một mình, vì buồn, vì thiếu người bầu bạn, sẻ chia nên bé tự tưởng tượng ra một người bạn thân của mình. Vậy thôi! Khi bé được tiếp xúc với nhiều người, hoặc khi lớn hơn một chút thì tự nhiên sẽ khỏi thôi cô ạ!
                    Thùy vẫn chưa hết lo lắng:
                    - Nhưng còn cái cặp xách, con bé cứ nhất quyết là của bạn Yên tặng cho nó!
                    Ông bác sĩ cười hiền từ:
                    - Có thể vì đứa bé quá ham thích vật đó, một vật mà nó vô tình nhặt được ở đâu đó, cũng có thể do nó ăn cắp, rồi nó tưởng như thế để thấy an tâm mà sử dụng.
                    Ông bác sĩ còn nói rất nhiều điều khác nữa, đến lúc Thùy đứng lên chào từ giã ra về thì cô đã hoàn toàn tin tưởng con gái cô không có vấn đề đáng lo ngại, mà chỉ là tâm lý bình thường ở lứa tuổi đó thôi như lời ông bác sĩ nói.
                    Chiều hôm đó về nhà, Thùy nhẹ nhàng hỏi con về chiếc cặp một lần nữa, nhưng bé An vẫn nhất quyết khẳng định là bạn Yên tặng cho mình. Thùy phải dỗ dành con:
                    - Bạn Yên còn bé, thì làm gì có tiền mua quà tặng con được? Có thể bạn nhặt chiếc cặp này của người khác rồi đem tặng con cũng không chừng. Bây giờ con nghe lời mẹ, để mẹ đem chiếc cặp này xuống gởi bác bảo vệ, nếu có bạn nào bị mất thì mình trả lại cho bạn ấy, nhé con? Rồi mẹ sẽ mua cho con một chiếc cặp khác cũng đẹp giống y như thế này!
                    Bé An phụng phịu nhưng cũng nghe theo lời mẹ. Hai mẹ con mang chiếc cặp xuống phòng bảo vệ.
                    Nhìn thấy hai mẹ con bước vào, bác bảo vệ ngạc nhiên:
                    - Cô tìm tôi?
                    Thùy gật đầu chào rồi khẽ nói:
                    - Dạ, con bé nhà cháu nhặt được cái cặp này không biết của ai. Cháu xin gửi ở đây, nếu có ai nhìn thì bác vui lòng giúp cháu gửi lại cho họ, cháu cảm ơn bác thật nhiều!
                    Bác bảo vệ tươi cười:
                    - Có gì đâu cô, cô cứ để đây, nếu ai mất tôi sẽ gửi lại ngay!
                    - Dạ, cháu cảm ơn bác!
                    Thùy chào bác bảo vệ xong, vừa định quay ra thì bé An níu tay cô lại. Con bé lễ phép nói:
                    - Thưa ông, nếu không ai mất cái cặp này thì con có thể nhận trở về không ạ?
                    Bác bảo vệ xoa đầu con bé, cười thật tươi:
                    - Tất nhiên! Tất nhiên! Con cứ để đây ít hôm, ông thông báo ai mất đến nhận, nếu không ai nhận thì nó sẽ lại trở về với con thôi, con gái ạ!
                    Bé An sung sướng quay sang Thùy:
                    - Thế nào con cũng sẽ lấy lại cái cặp đó! Vì không ai làm mất đâu, đúng là của bạn Yên mà!
                    Thùy không nói gì, chỉ kéo tay con ra đường và rồi hai mẹ con tung tăng đi dạo phố.
                    Từ hôm đó, chiều nào bé An cũng chạy xuống phòng bảo vệ để hỏi tình hình cái cặp.
                    Một tuần trôi qua, một buổi chiều, sau khi xuống phòng bảo vệ trở lên, mặt mày con bé bí xị trông rất tội nghiệp.
                    Thùy tò mò:
                    - Có người nhận cái cặp rồi phải không con?
                    Bé An gật đầu:
                    - Dạ, bác bảo vệ nói rằng đã có người nhận, nhưng con biết bác ấy nói dối!
                    Thùy trừng mắt nhìn con, rầy:
                    - Sao con dám nói vậy? Bác lớn tuổi rồi, sao con dám bảo bác nói dối con? Không được như vậy nhe chưa?
                    Bé An xịu mặt:
                    - Tại vì con biết chắc không có ai mất cái cặp đó hết! Bạn Yên nói với con rồi, cái cặp đó là của mẹ bạn mua cho bạn để bạn đi học. Nhưng bây giờ bạn Yên không đi học nữa nên cho lại cho con.
                    Thùy thấy con bé lại nhắc nhở bạn Yên nào đó một cách thân tình, gần gũi quá, cô lại bắt đầu lo và tìm cách lãng qua chuyện khác.
                    Nhưng tối đó, lúc đem rác đi đổ, Thùy vô cùng sửng sốt khi thấy chiếc cặp đó nằm trong thùng rác chung của chung cư chứ không phải đã được trao trả cho người mất như lời ông bảo vệ đã nói.
                    Thùy bắt đầu cảm thấy có điều gì đó không ổn ở đây, nhưng thật sự cô không thể lý giải được.
                    Hơn lúc nào hết Thùy mong mỏi Mai về nhanh lên để cô được Mai tư vấn phải giải quyết chuyện này như thế nào.
                    Mặc dù cả hai bằng tuổi nhau, nhưng Mai có vẻ mạnh mẽ và quyết đoán hơn Thùy nhiều.
                    Đổ rác xong, trở lên nhà, Thùy giấu biệt chuyện trông thấy cái cặp vì không muốn cho bé An nhắc đến người bạn vô hình của nó nữa. Thế nhưng nó vẫn nhắc. Nó kể cho Thùy nghe, những lúc cô vắng nhà, nó với bạn Yên chơi đùa ra sao, học hành thế nào… y như thật!
                    Thùy nghiêm mặt lại:
                    - Mẹ dặn con điều này, từ nay, mẹ không muốn con nói chuyện với bạn Yên đó nữa, con nghe lời mẹ không?
                    Bé An ngạc nhiên:
                    - Sao mẹ không cho con chơi với bạn? Bạn tốt với con lắm mà?
                    - Mẹ không nói bạn xấu, nhưng mẹ không muốn con nói chuyện với bạn nữa! Lý do thì sau này khi con lớn thêm chút nữa mẹ sẽ giải thích với con. Bây giờ mẹ yêu cầu con thực hiện điều đó, con có làm được không? Ngày mai con bắt đầu đi học rồi, mẹ không muốn con chơi đùa suốt ngày nữa đâu!
                    Thùy nói như muốn hụt hơi. Cô không biết viện ra lý do gì để cấm con gái không được chơi với người bạn vô hình đó nữa, nên đành phải lập luận như thế.
                    Bé An rưng rưng nước mắt:
                    - Dạ, con nghe lời mẹ!
                    Thùy xoa đầu con:
                    - Ừ, vậy mới là con gái ngoan của mẹ chứ! Thôi, con dọn dẹp đồ chơi đi, mẹ tắm xong rồi dọn cơm mẹ con mình cùng ăn nhe con?
                    Thùy vừa mới đứng lên định lấy áo quần vào nhà tắm thì bỗng nhiên nước từ trong phòng tắm tràn ra ào ạt, mới chớp mắt mà đã lan ra hết cả căn phòng, ngập hơn mắt cá chân.
                    Hoảng hốt, Thùy chạy vội vào nhà tắm thì trông thấy tất cả các vòi nước trong đó đều mở hết cỡ, nước đang tuôn chảy ào ào. Cô vội vã nhào tới, khóa vòi nước lại, sức nước đang chảy mạnh gặp bàn tay Thùy cản lại nên bắn tung tóe, ướt hết cả người cô.
                    Chừng khóa xong hết các vòi nước thì cả người Thùy từ đầu tóc trở xuống đều loi ngoi những nước. Cô vừa vuốt dòng nước chảy tràn trên mặt, vừa nhìn ngó khắp phòng tắm, không hiểu lý do gì tất cả các vòi nước, kể cả vòi sen đều tự động mở? Thường ngày, nước lại không chảy mạnh được như thế bao giờ?
                    Nhưng rồi Thùy cũng chẳng có thời gian để đứng đó ngẫm nghĩ, cô xắn cao ống quần bắt tay vào việc quét dọn toàn bộ căn phòng.
                    Bé An đã tót lên giường từ lâu, nó ngồi im, mặt mày phụng phịu, len lén nhìn mẹ rồi nhìn sang bên cạnh.
                    - Con làm gì đó An?
                    Thùy hỏi khi thấy con cứ nhìn sang bên mãi.
                    - Mẹ dặn con không được nói chuyện với bạn Yên, nhưng bạn ấy cứ tới nói chuyện với con hoài!
                    Đang bực mình, nghe con nói vậy, Thùy gắt lên:
                    - Từ nay, chẳng những con không được nói chuyện với bạn Yên, mà con còn không được nhắc tới tên bạn ấy nữa, nghe không?
                    Con bé ngơ ngác nhìn mẹ. Nó chẳng hiểu sao bỗng nhiên người mẹ vốn dịu dàng của nó lại bất ngờ giận dữ như vậy? Trong thâm tâm bé An, nó không chấp nhận những câu mẹ nói, vì nó thấy bạn Yên đâu có làm gì khiến mẹ phải ghét bạn ấy đến vậy?
                    Những lúc mẹ vắng nhà, chính bạn Yên là người bầu bạn, là người đem lại cho nó nguồn vui, thế mà chẳng hiểu sao mẹ lại ngăn cấm? Dù rất muốn phản kháng, tuy nhiên bé An vốn là một đứa bé ngoan nên nó vẫn cúi đầu tuân theo lời dạy bảo của mẹ.
                    Thùy nhìn căn nhà lênh láng nước, nhìn đứa con gái bé nhỏ đang giận dỗi ngồi co ro trên giường, nỗi tủi cực trong lòng cô bỗng nhiên trào lên khiến cô không cầm được nước mắt và những lời thổn thức.
                    Thấy mẹ bậc khóc, bé An lýnh quýnh, nó cứ nghĩ mẹ khóc là do nó không ngoan, không chịu nghe lời mẹ. Con bé bất chấp nước ngập dưới chân, bất chấp cả người mẹ nó đang sũng nước, nó chạy ào tới bên mẹ, ôm lấy cánh tay mẹ:
                    - Mẹ ơi, mẹ đừng khóc nữa, mẹ đừng buồn nữa, từ nay con sẽ nghe lời mẹ, con sẽ không nói chuyện, không nhắc đến… bạn ấy nữa! Mẹ đừng giận con, nghe mẹ!
                    Thùy vứt cây chổi đang cầm trên tay xuống sàn nhà, cô ôm chầm lấy đứa con bé bỏng, dụi mặt vào mái tóc thơm mùi thơ ấu của nó mà đè nén những cảm xúc đang dậy sóng trong lòng.
                    ****
                    Bé An đã bắt đầu đến lớp nên Thùy cũng đỡ lo hơn.
                    Sáng sớm cô thức dậy nấu nướng, hai mẹ con ăn sáng xong là Thùy chở con đến trường rồi tới cơ quan làm việc. Trưa, bé An ăn ngủ tại trường, Thùy lang thang đâu đó ăn cơm bụi một mình hoặc ăn cùng một vài đồng nghiệp. Chiều về, cô ghé chợ mua thức ăn rồi đón con bé về nhà.
                    Cuộc sống của hai mẹ con cứ trôi đi bình thản như thế. Thỉnh thoảng Mai đến chơi, và đó là những lúc trong căn phòng của Thuỳ vang lên những tiếng cười giòn giã.
                    Thế nhưng công việc của Mai quá nhiều, cô lại nặng nợ gia đình, phải lo cho em cho cháu, nên thời gian Mai đến với mẹ con Thùy cũng không được bao nhiêu.
                    Từ sau khi hứa với mẹ không nói chuyện, không nhắc nhở gì tới bạn Yên, những lúc ở nhà Thùy thấy con bé có vẻ lạ lắm.
                    Có những trưa, Thùy nằm đọc sách, nhìn sang thấy con giống như đang giằng co, xô đẩy với một người nào đó khiến cô đôi lúc phải rùng mình. Nhưng ngoài những biểu hiện đó, tất cả đều rất bình thường nên Thùy cũng tự an ủi rằng nó vẫn chưa thôi tưởng tượng.

                    Một thời gian sau, Thùy phải đi công tác ở tỉnh xa một tuần lễ, lúc đó Mai cũng đang vắng mặt ở thành phố vì đang tháp tùng sếp đi nước ngoài. Thùy lo lắng thật sự, không biết gởi con bé cho ai chăm sóc. Nhưng thật may mắn, khi biết được hoàn cảnh đơn chiếc của mẹ con Thùy, cô giáo phụ trách lớp bé An nói:
                    - Chị yên tâm, giao bé An cho em đi! Trong lúc chị vắng mặt, em sẽ đưa bé về nhà em sống tạm.
                    Được lời như bắt được vàng, Thùy mừng rỡ dặn dò con, soạn đồ đạc cho con rồi đưa nó tới ở nhờ nhà cô giáo.
                    Cô giáo có một đứa con gái, nhỏ hơn bé An hai tuổi, hai đứa nhanh chóng kết thân với nhau nên cả cô giáo và Thùy đều thấy an lòng.
                    Đi công tác về vùng sâu vùng xa, các phương tiện liên lạc đều rất khó khăn. Muốn gọi điện về thành phố để thăm hỏi con, mỗi ngày Thùy phải vượt qua mấy cây số đường sông mới tới được trạm liên lạc, bởi vậy, ở đây chỉ cô gọi về chứ hoàn toàn không thể nhận được thông tin từ phía con gái.
                    Trong khi đó ở Sài Gòn, tại lớp học của mình, bé An gây ra một điều hệ trọng.
                    Trong giờ tập vẽ, cô giáo cho cả lớp vẽ lại cái bình hoa to tướng cô đang để làm mẫu trên bàn.
                    Bé An là đứa có hoa tay, có năng khiếu hội hoạ, bài tập vẽ nào của bé cũng đạt điểm rất cao.
                    Thế nhưng hôm ấy, sau khi cô giáo ra đề, cả lớp cắm cúi vào tờ giấy trắng tinh đang bày ra trước mặt mình, phát họa lên đó dần dần những nét chì, những màu sắc.
                    Bé An lúc đầu cũng thế, nhưng chỉ một lát sau, cô giáo để ý thấy tay cầm viết của em cứ liên tục nghoạch lung tung trên tờ giấy.
                    - Con làm gì thế này?
                    Cô giằng tờ giấy trên tay An ra, đưa lên cao. Trên tờ giất là những đường gạch lung tung ngang dọc như người ta thường làm khi thử bút trước khi mua.
                    Cả lớp cười ồ lên trong khi An mếu máo.
                    Cô nghiêm mặt trách:
                    - Hôm nay con bị làm sao vậy? Lấy tờ giấy khác và bắt đầu vẽ lại đi!
                    Bé An riu ríu làm theo lời cô bảo. Bé mở tập lấy ra một tờ giấy khác, và trải lên bàn đúng theo hướng dẫn của cô. Cây viết trong tay bé An cẩn thận tô vẽ những đường cong của chiếc bình hoa đang để làm mẫu trên bàn.
                    Hài lòng, cô giáo vừa quay đi thì nghe tiếng cười khúc khích của đứa bạn ngồi cạnh bên An. Cô quay lại, thật bất ngờ, trên trang giấy trước mặt An lại là những đường gạch xóa lung tung, bàn tay An vẫn còn liên tục nghuệch ngoạc những đường gạch xóa trên trang giấy.
                    Tức giận, cô giáo lớn tiếng:
                    - Tại sao con không vẽ mà lại quệt quạc như thế? Con thật cứng đầu!
                    Cô giáo vừa dứt tiếng, bé An khóc òa lên:
                    - Không phải tại con! Cô ơi, bạn Yên đẩy tay con chứ không phải tại con!
                    - Bạn Yên? Bạn Yên nào?
                    Cô giắo thắc mắc.
                    Bé An tức tửi nói:
                    - Bạn An ở gần nhà con. Mẹ cấm con không được chơi, không được nói chuyện với bạn ấy, nhưng bạn ấy cứ đeo theo bắt con nói chuyện hòai, con không nói thì bạn ấy không cho con học, còn nếu con nói thì mẹ con sẽ buồn, sẽ khóc!
                    Cô giáo và cả lớp cùng ngẩn ra trước những lời kể của bé An. Một lúc sau, cả lớp cười ồ lên chế nhạo, riêng cô giáo lại thấy lo lắng vô cùng.
                    Mấy hôm nay ở nhà cô, thỉnh thoảng cô cũng nhận thấy bé An có những dấu hiệu lạ như thường xô đẩy, giằng co và nói chuyện một mình, nhưng cô chỉ nghĩ đơn giản nó là con nít, thì chuyện lẩm bẩm, đùa giỡn một mình cũng không có gì đáng quan tâm, thế nhưng trước sự việc này, thì rõ ràng con bé có vấn đề gì đó ở thần kinh, cần phải điều trị kịp thời mới được.
                    Trưa hôm đó, cô giáo cố gắng liên lạc với Thùy nhưng hoàn toàn không được. Cô đành phải gọi điện cho ba bé An và nói sơ qua về hoàn cảnh cũng như triệu chứng bệnh của bé An.
                    Vừa nghe xong cuộc điện thoại của cô giáo, Tùng hấp tấp dẹp bỏ hết công việc đang còn ngổn ngang ở công ty để bay gấp rút vào Sài Gòn.
                    Gặp mặt con, Tùng có vẻ yên tâm hơn lúc còn ngồi trên máy bay. Lúc đó anh cứ tưởng tượng ra cảnh con gái gầy ốm xanh xao, nhưng đứng trước mặt anh lúc này vẫn là đứa con gái mũm mĩm xinh xắn của anh ngày nào.
                    Gặp ba, bé An mừng lắm, nó vẫn chưa biết gì về sự rạn nứt của gia đình mình:
                    - Ba ơi, ba vào đây với mẹ và con phải không ba? Con nhớ ba quá, mẹ cũng nhớ ba nữa… Con thấy tối nào mẹ cũng khóc…
                    Tùng chạnh lòng khi nghe câu nói vô tình của con trẻ. Anh ôm bé An vào lòng mà cảm thấy thật xót xa.
                    Thật sự anh vẫn còn yêu thương Thùy nhiều lắm. Chỉ vì một lần nông nổi, anh đã đến với cô gái khác để tìm vui và không cách nào rứt ra được nữa khi cô ấy báo tin đã có thai với anh rồi!
                    Lúc Thùy quyết định dẫn bé An ra đi, Tùng không kiên quyết ngăn cản, không phải vì anh muốn cô ra đi mà là Tùng biết, nếu còn ở lại đó Thùy sẽ rất đau khổ. Anh muốn cô được nguôi đi trong khoảng thời gian hai người xa cách. Anh muốn những lúc anh phải lo cho người phụ nữ kia trong khi sinh nở Thùy sẽ đỡ tổn thương khi mỗi ngày phải chứng kiến chồng mình chăm lo cho người khác.
                    Tuyệt nhiên trong lòng Tùng không bao giờ nghĩ tới chuyện ly hôn. Với anh, Thùy là mối tình đầu tuyệt đẹp, Thùy là người vợ hiền mà anh luôn trân trọng, thương yêu.
                    Tùng xin phép cô giáo đón bé An về khách sạn với anh. Bé An vui lắm, nhưng nó cứ tiếc nuối vì lúc đi mẹ không để lại chìa khóa, chứ nếu không bây giờ có ba, ba sẽ về nhà sửa lại các vòi nước cho mẹ, để mẹ không phải vất vả như hôm vừa rồi.
                    Nghe con gái kể lại cuộc sống của hai mẹ con những ngày vừa qua, Tùng rất khổ tâm, anh nghĩ sau chuyến đi này, nhát định sẽ phải tìm ra được một cách nào đó để giải quyết tất cả mọi chuyện, để đón mẹ con Thùy trở lại bên anh. Cả gia đình anh sẽ lại sống những ngày ấm êm hạnh phúc.
                    Sau khi đã dắt con đi ăn và dọn dẹp xong hành lý, Tùng bắt đầu dò hỏi tới chuyện người bạn trong tưởng tưởng của con.
                    Bé An hồn nhiên kể cho cha nghe tất cả, những lúc mẹ vắng nhà bạn Yên đã tới chơi đùa với con ra sao, bạn tặng con những gì, mẹ cấm đoán thế nào… An đem ra kể hết.
                    Tùng hoàn toàn không hiểu gì hết! Tại sao Thùy lại cấm con chơi với bạn? Đứa bé đó không tốt? Không, theo lời kể của bé An thì đứa bạn tên Yên của nó cũng là một đứa bé ngoan đấy chứ! Vậy thì tại sao Thùy lại ngăn cấm? Chắc phải có một nguyên nhân nào đây, chứ Thùy không phải là người bốc đồng nông nổi.
                    Tùng nghĩ, từ việc bị mẹ cấm đoán, bé An đã nảy sinh sự chống đối ngầm nên mới nghĩ ra việc bạn Yên đẩy tay không cho nó viết. Anh không còn lo lắng như lúc mới nghe cô giáo gọi điện, bây giờ điều anh quan tâm nhất là cuộc sống của mẹ con Thùy.
                    Ba ngày liên tục, sáng Tùng đưa con đến trường, chiều đón nó về khách sạn. Việc Tùng vào Sài Gòn Thùy đã biết vì hôm trước Thùy gọi điện về nhà cô giáo thăm con thì được cô giáo kể cho nghe mọi chuyện.
                    Vô cùng lo lắng cho tình trạng bất ổn của con gái, Thùy gấp rút hoàn thành nhiệm vụ và kết thúc chuyến công tác sớm hơn dự định.
                    Vừa về tới Sài Gòn, Thùy vội vã tìm tới khách sạn, nơi bé An đang ở cùng cha.
                    Thùy và Tùng gặp lại nhau sau hơn một tháng trời xa cách, lòng ai cũng rưng rưng nhưng ngoài mặt vẫn giữ vẻ bình thường.
                    Tùng hỏi thăm Thùy một số việc về công việc của cô ở cơ quan và sinh hoạt hàng ngày của hai mẹ con.
                    - Anh yên tâm đi, mẹ con em sống rất thoải mái! Bé An cũng đã nhanh chóng thích nghi với môi trường mới rồi.
                    Thùy nói.
                    Tùng đắn đo một chút rồi đề nghị:
                    - Em cho phép anh đưa hai mẹ con về nhà để biết nơi em sinh sống?
                    Thùy khe khẽ gật đầu mà phải ráng nuốt nước mắt vào tim.
                    Tại sao Tùng phải xin phép đưa mẹ con cô về để biết nơi sinh sống? Tại sao nơi cô sinh sống không phải là mái nhà đầm ấm mấy năm qua? Tại sao mẹ con cô phải trôi dạt vào đây sống cảnh bơ vơ lạc lõng?...
                    Lúc Thùy vừa mở cửa phòng, cả ba người đều sửng sốt trước cảnh tượng nước ngập lênh láng cả nhà, mực nước hôm nay còn cao hơn hôm trước rất nhiều.
                    Thùy quăng vội túi xách lên bàn, chạy vội vào nhà tắm thì thấy các vòi nước vẫn còn được khóa kín.
                    Cô lại chạy ra ngoài xem xét. Thì ra nước tràn từ căn phòng bỏ trống bên cạnh.
                    Thùy vừa xô nhẹ thì cánh cửa căn phòng đó bật mở ra, cô và Tùng cùng nhào vào một lúc. Cả hai ra sức tìm các vòi nước để vặn khóa lại.
                    Nước ngập lênh láng, áo quần hai người đều ướt sũng.
                    Khi thấy cha mẹ về nhà trong tình trạng ướt như chuột lột như thế, bé An bật cười giòn giã. Lâu lắm rồi, từ ngày vào đây Thùy mới lại nghe được tiếng cười đó của con.
                    Cô khẽ liếc nhìn Tùng, anh cũng có vẻ bối rối không ít.
                    Quần áo ướt hết, trong nhà Thùy lại không có đồ đạc của đàn ông nên cuối cùng Tùng phải bằng lòng cho Thùy về khách sạn lấy đồ cho anh thay.
                    Khi mở chiếc va li của chồng, Thùy không ngăn được dòng nước mắt. Trước đây, mỗi lần anh đi công tác, cô chính là người sắp xếp mọi thứ cần dùng vào đây cho anh. Bây giờ… tất cả đã xa, tất cả đã trở thành dĩ vãng…
                    Tùng lưu lại Sài Gòn thêm hai ngày nữa rồi mới chịu quay về Nha Trang. Trong hai ngày đó, anh luôn quan tâm lo lắng cho mẹ con Thùy. Đôi lúc Thùy muốn kể với Tùng về mối lo sợ của cô đối với đứa bạn tên Yên vô hình nào đó của con gái, nhưng rồi cô lại không dám kể. Cô sợ Tùng nghĩ mình bịa ra chuyện như vậy để níu kéo anh. Chính vì thế, khi Tùng đề cập tới chuyện đó, Thùy chỉ trả lời qua quýt cho xuôi.
                    Nhưng khi Tùng về rồi, Thùy bắt đầu suy nghĩ cặn kẽ từng sự việc và càng thêm lo lắng.
                    Chiều hôm đó hai vợ chồng nhà bên cạnh vừa về sau chuyến đi thăm con gái ở Bình Dương hai hôm. Thùy lân la sang chơi, rồi giả vờ hỏi thăm:
                    - Ở chung cư mình có đứa bé nào cỡ tuổi với con bé nhà cháu không hở hai bác? Cháu thấy con bé một mình tội quá, muốn cho nó có bạn chơi cùng.
                    Người đàn bà ngước nhìn Thùy:
                    - Trước đây mấy tháng, căn nhà bỏ trống cạnh bên phòng cô, cặp vợ chồng đó cũng có một đứa con gái trạc tuổi bé An, cũng dễ thương lắm! Nhưng con nhỏ thật tội, hai vợ chồng đó không thương yêu nhau, ngày nào cũng chửi bới, mắng nhiếc nhau ỏm tỏi. Bởi thế những người sống ở đây đều xa lánh gia đình họ. Con bé thui thủi một mình, nghe đâu cha mẹ nó định chia tay mà chẳng ai chịu nuôi con bé. Rồi chẳng biết sao họ lại dọn đi âm thầm thế nữa. Ban đầu là anh chồng bỏ đi biệt hơn tuần, sau đó đến cô vợ, cả hai đi mất, bỏ lại con bé một mình, chúng tôi phải đem cơm qua cho nó ăn tạm. Nhưng có lẽ đêm đó mẹ cha nó về đón nó hay sao ấy, sáng lại không ai thấy con bé đâu nữa. Từ lúc con bé dọn đi, ở đây chẳng có thêm đứa trẻ nào, bé An là duy nhất đấy!
                    Người đàn ông chủ nhà chép miệng góp lời:
                    - Tội nghiệp con bé kia, tên Bình Yên mà chẳng thấy yên bình gì cả!
                    Thùy giật thót người, hỏi lại:
                    - Sao? Bác… bác nói con bé đó tên là Bình Yên à?
                    Người đàn ông ngạc nhiên:
                    - Ừ, có gì không cháu? Cháu biết nó à?
                    Thùy vộ lắc đầu:
                    - Dạ không, không… chỉ là cháu thấy thương cho đứa bé!
                    -  Con bé rất tội nghiệp!
                    Người đàn ông nói tiếp câu nữa rồi châm thuốc hút. Thùy nói vài câu bâng quơ rồi cũng đứng lên ra về.
                    Tới phòng mình, cô nằm vật ra giường nghĩ ngợi lung tung.
                    Trong căn phòng nhỏ bên cạnh, bé An đang chăm chỉ ôn bài.
                    Lát sau Thùy gọi:
                    - Đi tắm đi con gái, mẹ nấu cơm! Tắm xong mẹ con ta ăn cơm sớm rồi mẹ chở con tới nhà Mai. Hôm nay dì Mai về tới rồi đó!
                    Nghe nói được tới chơi với dì Mai bé An thích lắm. Nó đã mến Mai lắm rồi.
                    Bé An xếp dọn tập vở ngay ngắn trên bàn rồi ôm áo quần chạy vào phòng tắm.
                    Thùy ngồi dậy bắt tay vào nấu bữa cơm chiều.
                    Thùy đang nấu cơm thì có điện thoại từ công ty gọi tới, cô vừa nấu nướng, vừa nghe và trả lời điện thoại. Lúc ấy, bé An từ trong phòng tắm bước ra, trùm chiếc khăn tắm màu trắng trên đầu và ngồi im trên giường.
                    Thùy đi đến bên con, một tay cầm điện thoại, một tay cô cầm lấy chiếc khăn xoa xoa lên đầu con gái để lau khô mái tóc cho nó. Đến lúc cô nâng mặt đứa bé lên để lau thì… cô rụng rời cả chân tay, chiếc điện thoại rơi nhanh xuống đất! Bởi vì… đứa bé đó hoàn toàn xa lạ, hoàn toàn không phải bé An!
                    Vừa thoáng một cái, Thùy đã không còn thấy đứa bé nữa, cô hoang mang chạy vội vào phòng tắm thì thấy bé An vẫn còn đang ngâm mình trong bồn tắm, hai bàn tay huơ huơ đù nghịch với đám bọt xà phòng.
                    Thùy lùi ra, ngồi phịch xuống giường thở dốc. Cô dụi mắt mấy lần rồi ngơ ngác ngó quanh. Căn phòng vẫn không có gì lạ, vẫn không có thêm một bóng người nào.
                    Chẳng lẽ mấy hôm nay mình quá căng thẳng đầu óc nên sinh ra ảo tưởng? Thùy thầm hỏi nhưng cô vẫn rất lo sợ vì cái cảm giác lúc nãy là rất thật, không giống như một giấc mơ.
                    Bất chợt nhớ tới nồi canh đang sôi trào trên bếp, Thùy vội vã đứng lên chạy vào.
                    Vừa quay ra, đứa bé lạ hoắc kia lại hiện ra rõ ràng trước mặt. Trên người nó vẫn còn choàng chiếc khăn tắm giống y như của bé An.
                    Thùy đánh bạo run giọng hỏi:
                    - Con… con là ai?
                    Đứa bé cười rất tươi, nó với tới nắm lấy tay Thùy:
                    - Con là Bình Yên! Con muốn mẹ là mẹ của con!
                    Một cảm giác giá lạnh thấm nhanh vào cơ thể Thùy khiến cô rùng mình liên tiếp mấy cái.
                    - Mẹ là mẹ của con, nhe mẹ?
                    Đứa bé lắc lắc cánh tay Thùy, nài nỉ.
                    Thùy cố rút tay mình ra khỏi tay đứa bé nhưng không được, mặc dù thoáng nhìn thì nó chỉ nắm hờ trên cổ tay cô thôi.
                    - Không được… con có ba mẹ của con! Cô… không thể…
                    Thùy khó khăn lắm mới thốt lên được câu nói đó.
                    Đứa bé thất vọng buông tay Thùy ra. Nó ngước nhìn Thùy bằng ánh mắt buồn thảm khó có được ở lứa tuổi này:
                    - Ba mẹ con không cần con! Con muốn mẹ là mẹ của con…
                    Thùy lùi dần tới cửa phòng tắm với ý nghĩ sẽ bảo vệ bé An đang ở trong đó. Nhưng Bình An không có vẻ muốn làm hại ai, con bé đứng im giữa nhà nhìn theo Thùy một cách tuyệt vọng.
                    Trong thâm tâm, Thùy thấy con bé thật tội nghịêp, nhưng cô không dám có những cử chỉ thân thiết, trìu mến với nó, vì cô có cảm giác nó không phải là một con người.
                    - Con… làm sao con vào đây được?
                    Thùy lắp bắp hỏi.
                    Bình An cúi đầu, buồn bã nói:
                    - Con luôn ở đây…
                    Thùy sửng sốt khi nghe con bé nói thế, cô vừa định cất tiếng hỏi thêm thì con bé đã biến đâu mất, không còn để lại một dấu vết gì!
                    Mồ hôi ướt đẫm cả lưng áo, Thùy vội vã xô cửa phòng tắm gọi bé An ra. Bé An đang lụng thụng trong chiếc áo ngủ mới tinh mà ba nó vừa mua cho hôm qua.
                    Thùy mừng rỡ, sung sướng ôm chặt con vào lòng, nước mắt tràn ra nhưng cô cố giấu không để con trông thấy.
                    Dẫn con ra ngoài, Thùy giúp nó lau thật khô mái tóc mà lòng cô lại nghĩ tới chuyện vừa rồi.
                    Bất chợt bé An chỉ tay lên nóc nhà và nói:
                    - Mẹ ơi, nước lại tràn trên nóc nhà mình kìa!
                    Nhìn theo tay con, Thùy thấy rõ ràng vết nước cứ loang dần trên mái, ngày một rộng ra. Mấy hôm nay trời không mưa, nước ở đâu lại thấm vào được chứ?
                    Thùy tò mò. Cô bắc ghế trèo lên trên quan sát.
                    Phía trên nhà cô còn một tầng nữa. Nhưng trên đấy không có người ở hay phòng ốc gì, mà trên đó chỉ là một sân thượng nhỏ.
                    Thùy lần theo cái cầu thang tối thui bước dần lên đó.
                    Hình như lâu lắm rồi không có ai lên đây, thế nên thang lầu thì bẩn thỉu, tối om om, trên sân thượng đầy những phân chim và rơm rác.
                    Thùy giật thót cả người khi trông thấy chiếc cặp đỏ có dòng chữ Hello Kitty dạo trước đang nằm chơ vơ một góc, dưới chân một bồn nước cao.
                    Trên mặt sân thượng hoàn toàn khô ráo.
                    Hồi hộp, thắc mắc và lo sợ, Thùy trở xuống phòng mình. Trên mái lúc này nước đã loang rộng và có vẻ như từng giọt nước đang sắp rơi xuống giữa nhà.
                    Thùy vội vã chạy xuống phòng bảo vệ để nhờ bác ấy báo cho Ban quản lý chung cư.
                    Rất may, khi tới phòng bảo vệ Thùy gặp người quản lý đang đứng đó, thế là cô nhanh chóng dẫn người đó lên phòng mình.
                    Bước vào phòng, Thùy chỉ tay lên mái nhà để chứng minh cho những lời nói của mình khi nãy, thì lạ lùng thay, mái nhà vẫn sạch sẽ, khô ráo bình thường.
                    Thùy ngớ người ra không biết giải thích làm sao với người quản lý. Cô ngắc ngứ mấy câu trong miệng. Người quản lý nhìn cô dò hỏi rồi lẳng lặng quay trở xuống.
                    Thùy hỏi bé An:
                    - Con thấy mái nhà mình còn nước không con?
                    Bé An ngây thơ:
                    - Dạ hết rồi! Mẹ biểu mấy chú sửa lại rồi phải không mẹ?
                    Thùy ôm đầu khổ sở. Cô không biết cái gì đang diễn ra trong nhà mình những lúc gần đây?
                    Suốt những ngày sau đó mặc dù công việc dồn dập, nhưng lúc nào Thùy cũng cảm thấy bất an. Cô có cảm giác đứa bé đó lúc nào cũng hiện diện bên cạnh mẹ con cô.
                    Chắc mình phải dời nhà đi chỗ khác thôi! Ý nghĩ đó đã bắt đầu xuất hiện trong Thùy.
                    Cô gọi điện cho Mai, nhưng Mai đang chuẩn bị một buổi họp quan trọng sắp tới, nên hai người chỉ nói vội vã mấy câu, Thùy cũng không tiện kể cho bạn nghe tất cả.
                    Cô dự định nay mai sẽ kể hết với Mai và nhờ Mai tìm giúp cho mẹ con cô nơi ở mới.
                    Chiều hôm đó, giữa lúc bé An đang tắm và Thùy đứng nấu nướng trong bếp như thường ngày, thì bé Yên lại xuất hiện.
                    Lần này nó mặc một chiếc áo đầm thật đẹp, nhưng mái tóc lại được cột một cách vụng về.
                    - Con muốn mẹ là mẹ của con!
                    Con bé vẫn lặp lại câu nói cũ.
                    Thùy run rẩy hỏi:
                    - Thế ba mẹ con đâu? Con nói thật cho cô biết đi…
                    Con bé cất giọng buồn bã:
                    - Ngày trước gia đình con sống ở căn phòng sát bên cạnh phòng này. Nhưng cả ba và mẹ con đều không cần con. Ba con bỏ đi, muốn giao con cho mẹ, nhưng rồi mẹ con cũng đi sau khi nhắn người quen bảo ba về dắt con theo. Cả ba và mẹ không ai muốn nuôi con, người này đùn đẩy cho người kia, người này cứ tưởng người kia dắt con theo, rốt cuộc họ bỏ con lại một mình ở đây. Ngày đầu tiên, con được mấy người láng giềng cho ăn cơm. Ở nhà một mình buồn quá, con mang chiếc cặp lên sân thượng chơi. Sau đó… con để chiếc cặp dưới chân bồn nước rồi trèo lên đó xem thẻ có gì bên trong cái bồn to đùng ấy. Cuối cùng… cuối cùng con bị rơi xuống đó… Đến tận hôm nay vẫn chưa có ai phát hiện ra…
                    Nghe đứa bé kể tới đâu mồ hôi Thùy toát ra tới đó.
                    - Con muốn mẹ là mẹ của con! Con muốn được mẹ yêu thương như bạn An, con muốn mẹ…
                    Đứa bé vẫn luôn miệng nói leo lẻo.
                    Thùy thở gấp gáp:
                    - Con… con để cô tính lại…
                    - Con muốn cô là mẹ của con!
                    Đứa bé lặp lại lần nữa bằng giọng quả quyết.
                    Thùy chưa kịp phản đối thì nóp đã biến đi đâu mất.
                    Thùy vùng lên chộp lấy cái điện thoại để trên bàn:
                    - A lô, Mai ơi! Mai ơi… mình sợ quá!
                    Tiếng Mai bên kia đầu giây đầy lo lắng:
                    - Có chuyện gì thế? Mình sẽ tới ngay!
                    Mai nói vậy nhưng Thùy vẫn không chịu buông điện thoại, cô cuống quýt kể lại với Mai:
                    - Mai ơi, bạn không thể ngờ được đâu! Trong nhà mình có ma! Đứa bé đó trước kia sống trong căn phòng bỏ trống bên cạnh phòng mình. Ba mẹ nó bỏ đi không ai dắt theo nó vì người này cứ tưởng người kia sẽ dẫn nó theo. Con bé trèo lên sân thượng, trèo lên bồn nước rồi rơi xuống chết chìm trong đó, bây giờ… bây giờ nó muốn mình làm mẹ nó, Mai ơi! Mình lo sợ quá!
                    Thùy vừa kể đến đó thì nghe tiếng quẫy đạp trong phòng tắm, cô hoảng hốt vứt điện thoại lên bàn rồi chạy vào.
                    Trong phòng tắm, Bình Yên đang cố dìm bé An xuống bồn tắm đầy nước, bé An ra sức vùng vẫy nhưng vẫn bị uống nước sặc sụa.
                    Thùy nhào tới kéo tay Bình Yên:
                    - Con tha cho bạn! Con ơi, con tha cho bạn đi…
                    Bình Yên quay lại nhìn Thùy, lạnh lùng nói:
                    - Con không cần nó! Con cần mẹ là mẹ của con! Con không cần nó!
                    Thùy nói như đang mê sảng:
                    - Được rồi! Mẹ sẽ là mẹ của con, con buông tay, bỏ bạn An ra đi! Mẹ sẽ là mẹ của con…
                    Bình Yên cười vang lên rồi bỏ tay ra.
                    Bé An mệt lả người, lồm cồm bò dậy bước ra khỏi bồn tắm.
                    Thùy đẩy bé An ra nhà ngoài, dặn với theo con gái:
                    - Lau khô người, mặc áo quần vào nhanh kẻo lạnh nghen con!
                    Thùy nói vừa dứt câu, Bình Yên đã nhào tới ôm chặt lấy cô:
                    - Mẹ! Từ nay con có mẹ rồi! Con thương mẹ lắm mẹ ơi!
                    Thùy mơ màng:
                    - Ừ, mẹ cũng rất thương con, con gái ạ!
                    - Mình về nhà mình nhe mẹ?
                    Bình Yên nắm tay Thùy lắc nhẹ.
                    Thùy gật đầu:
                    - Ừ, mình về… Về nhà mình… Về nhà mình…!
                    Bình Yên nắm tay Thùy kéo cô lại gần bồn tắm.
                    Bình Yên bước vào bồn tắm, đưa tay vẫy Thùy:
                    - Mẹ! Đi mẹ!
                    - Ừ, mẹ đi đây…
                    Thùy lơ đãng trả lời, chân cô đã bước vào bồn nước…
                    ***
                    - A lô! A lô! Thùy ơi, chuỵên gì vậy Thùy? Chuyện gì? Bạn đâu rồi? A lô!
                    Mai cuống cuồng lo sợ khi nghe tiếng hét của Thùy vang lên trong điện thoại rồi không nghe Thùy nói thêm gì nữa. Đầu dây bên kia chỉ còn lại tiếng nước tuôn chảy ào ào, nghe như tiếng thác đổ.
                    Mai vơ vội cái túi xách rồi cắm đầu chạy ra ngoài, mặc cho hai đứa em nhìn theo kinh ngạc.
                    Mai hấp tấp gõ cửa phòng, bé An mở cửa cho cô, trên mặt nó vẫn còn hằn sâu nét kinh hoàng.
                    Thế nhưng thấy bé An, Mai thở phào nhẹ nhõm, cô hỏi:
                    - Mẹ đâu con?
                    Bé An chỉ tay vào nhà tắm.
                    Bất giác Mai thoáng rùng mình, cô nhào vô thì trông thấy Thùy nằm sấp trong bồn tắm, không có vẻ gì là còn sống!
                    Nghe tiếng kêu cứu của Mai, những nhà lân cận và bảo vệ chung cư chạy tới.
                    Người ta đỡ Thùy lên thì cô đã chết từ lúc nào rồi!
                    Tùng nhận được tin dữ cùng lúc với việc anh biết ra đứa bé mà cô nhân tình mang trong bụng không phải con anh.
                    Đau đớn tưởng chừng như không gượng nổi, nhưng Tùng phải gắng gượng bay vào Sài Gòn, vì ở đó còn có bé An, đứa con gái máu mủ ruột thịt của anh đang bơ vơ trong đó, ở đó còn có thân xác của người vợ hiền đáng thương…
                    Khi nghe Mai kể lại nội dung cuộc nói chuyện giữa cô và Thùy trước khi Thùy chết, mọi người có vẻ không tin, nhưng đến lúc người ta trèo lên bồn nước trên sân thường thì mọi việc được phơi bày: Xác con bé Bình An đang phân hủy trong đó!
                    Hết
                    Nguyễn Thị Mộng Thu
                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:36:48 bởi nguyenthu >
                    #70
                      nguyenthu 10.08.2009 22:01:17 (permalink)
                      THAY HỒN ĐỔI XÁC
                       
                      Chiều nào đi làm về, ra khỏi cổng công ty, Lan cũng dừng lại trước một người đàn ông gầy gò ngồi thu lu bên vệ đường, trước mặt ông là một chiếc thau nhôm nhỏ cũ kỷ, trong đó thường nằm chơ vơ một vài tờ tiền lẻ.
                      Lan mỉm cười với ông rồi cất tiếng hỏi:
                      - Hôm nay kiếm đỡ không anh?
                      Người đàn ông mỉm cười đáp lại và có khi gật đầu, có khi lắc đầu để trả lời câu hỏi của Lan, tùy theo tình hình “làm ăn” trong ngày của ông.
                      Lan không biết người đàn ông tội nghiệp ấy đã chọn nơi đó làm chỗ hành nghề của mình từ bao lâu rồi, chỉ biết hơn một năm trước, khi cô chuyển về đây công tác, ngay ngày đầu tiên cô đã gặp ông ta.
                      Hôm đó, Lan rời công ty với một đống hồ sơ trên tay, vừa ra khỏi cổng cô đã bị một đám choai choai chạy xe lạng lách đâm sầm vào. Cũng may cô không bị tai nạn gì, chỉ là toàn bộ giấy tờ rơi vãi tứ tung.
                      Lan hoảng hốt chạy theo nhặt từng tờ giấy một.
                      Đường phố đông người, nhưng ai cũng thờ ơ đi qua, chỉ riêng người đàn ông ấy là không thế.
                      Ông ta vội vàng lao ra đường, mặc dòng người xe đang dập dìu xuôi ngược để đuổi theo nhặt giúp Lan những tờ giấy đang bay tản mác khắp nơi.
                      Đó là số hồ sơ quan trọng mà Lan cần phải nghiên cứu nên cô mới phải mang theo về nhà, dự định sẽ phải thức cả đêm để làm việc.
                      Nếu mất đi một tờ thì cũng đủ khiến cô xấc bấc xang bang.
                      Nhờ sự giúp đỡ của người đàn ông ấy, Lan đã thu lại toàn bộ, không thiếu tờ nào.
                      Lan thở phào nhẹ nhõm, và lúc này cô mới có thời gian nhìn kỹ ông ta.
                      Đó là một người đàn ông dị tật. Chiếc lưng ông gù lên một cách khổ sở, tay chân thì quều quào, thế mà ông ta lại dám băng ra đường để giúp đỡ cô.
                      Lan thật xúc động. Cô nói:
                      - Tôi thành thật cảm ơn anh! Bây giờ anh về đâu, tôi sẽ chở anh về?
                      Người đàn ông lắc đầu, miệng ú ớ và tay ông chỉ trỏ vào lề đường, nơi có trải một mảnh ni lông nhỏ, và trên đó là một chiếc thau nhôm.
                      Lòng Lan quặn lại. Thì ra đây là một người ăn mày. Một người ăn mày tàn tật đã không quản ngại đến tính mạng mình, sẵn sàng giúp đỡ người trong lúc khốn khó!
                      Giữa lúc Lan còn đang đứng bần thần, người đàn ông đã nhúc nhắc bước lên và ngồi lại vào chỗ của mình, trên gương mặt bé choắt của ông vẫn nở một nụ cười như muốn để Lan an lòng mà lên xe về nhà vậy.
                      Lan ngần ngại, cô nửa muốn mở ví lấy tiền trao cho ông, nửa lại sợ, mình làm vậy là xúc phạm tới người ta. Hành động vừa rồi của người ta đâu phải vì tiền?
                      Nghĩ tới nghĩ lui, Lan chắc lưỡi rồi chào người đàn ông, cho xe vọt đi.
                      Được một đoạn, cô dừng lại, gọi một đứa bé bán vé số đến, mua giúp nó mấy tờ rồi nhờ nó đến đưa cho người ăn mày một số tiền, Lan không quên dặn đứa bé đừng nói cho người đó biết ai là người nhờ nó.
                      Đứa bé chạy tới, đặt số tiền vào chiếc thau nhôm trước mặt người đàn ông rồi vội vàng chạy vụt đi, Lan đứng nhìn theo hài lòng, còn người đàn ông thì đang ngơ ngác vì số tiền đó là quá lớn so với một đứa bé nghèo khổ ấy.
                      Ông không hiểu sao nó lại đem cho ông số tiền ấy mà không nói một tiếng nào. Ông muốn gọi nó lại hỏi, nhưng những âm thanh phát ra từ miệng ông chỉ là những tiếng ú ớ mà thôi.
                      Từ đó, thỉnh thoảng Lan lại mang tới cho ông khi thì một ít trái cây, một ít bánh kẹo. Vào những ngày lĩnh lương, không bao giờ Lan quên trích ra một khoản nho nhỏ để biếu ông sau giờ tan sở.
                      Điều đó đã trở thành một thói quen của Lan và cả người đàn ông đó nữa.
                      Có lẽ ông ta không lớn hơn Lan bao nhiêu, lớn hơn chừng năm, bảy tuổi là cùng, nhưng vì dãi gió dầm sương và thân hình như thế nên trông như một ông già.
                      Nhiều hôm rảnh rỗi, Lan thường dừng lại nói chuyện với ông ta lâu hơn. Lan hỏi thăm hoàn cảnh và nơi sinh sống của ông.
                      Mặc dù không nói được thành lời, nhưng ông cũng đủ khôn khéo diễn tả bằng cử chỉ, và do tiếp hàng ngày nên Lan cũng có thể đoán ra được những điều ông muốn nói.
                      Biết ông sinh sống dưới một gầm cầu gần đó, Lan về nhà lấy cho ông một chiếc mền và một cái gối, cùng với mấy chiếc áo gió cũ của Tài, chồng Lan đem đến cho ông.
                      Ông cảm động lắm, đón nhận bằng cả hai tay và rối rít gật đầu cảm tạ lòng tốt của Lan.
                      Vậy mà chiều nay giữa Lan và người đàn ông đó lại xảy ra một việc quan trọng không thể nào ngờ tới được!
                      ***
                      Trong chiếc phòng vuông vắn, tiếng máy sưởi chạy rầm rì. Người bảo vệ công ty bận bộ quần áo màu xám, trên vai có huy hiệu của một công ty bảo vệ có uy tín ở thành phố. Chiếc mũ đã được lột ra, bỏ bên cạnh. Ngồi trước mặt ông là một người đàn bà mặt mày bơ phờ, mệt nhọc, đôi mắt dáo dác nhìn ra ngoài như đang tìm kiếm một người nào, trong khi người bảo vệ cầm cây bút ghi ghi, chép chép. Một hồi, ông ta ngẩng đầu lên nhìn người đàn bà:
                      - Chị nói trước đó chị có nói chuyện nhiều lần với người đàn ông đó phải không?
                      Người đàn bà tên Lan nói giọng mệt mỏi:
                      - Phải, tôi có nói chuyện với ông ta rất nhiều lần. Hầu như chiều nào khi tan sở, khi đi qua chỗ ông ta ngồi xin tiền, tôi đều có dừng lại nói một hai câu gì đấy.
                      - Câu chuyện thường thường kéo dài bao lâu?
                      Người bảo vệ ngước nhìn Lan.
                      - Vài phút.
                      Cô cáu kỉnh trả lời
                      - Vài phút là bao nhiêu? Năm phút? Mười phút hay mười lăm phút?
                      Người bảo vệ vẫn cất giọng đều đều.
                      Lan cau mặt:
                      - Nói lâu hay mau có gì quan trọng không?
                      Người bảo vệ nhếch mép:
                      - Có chứ. Tôi hỏi gì, chị cứ trả lời. Nếu chị nói chuyện thường và nhiều sẽ khiến ông ta cảm thấy thân với chị hơn. Chị có thể kể cho tôi nghe chị quen ông này như thế nào?
                      - Ai làm việc ở chung quanh đây, cũng đã một đôi lần nói chuyện với ông ta. Tôi chắc anh cũng biết ông ta thường xuyên ngồi ở trước công ty mình. Ngày đầu tiên tôi về đây nhận công tác, tôi đã gặp phải sự cố và chính ông ta là người đã giúp đỡ tôi một cách tận tình. Vì cảm cái ơn đó, đồng thời vì kính nể nhân cách của ông ấy nên tôi luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho ông ta. Ông sống lây lất nhờ lòng thương xót của mọi người. Tôi thấy nghiệp cho hoàn cảnh của ông nên giúp đỡ ông có thể nhiều hơn người khác một chút, thế thôi.
                      Lan chợt nhớ đôi mắt lèm nhèm của ông nhìn cô một cách hiền lành, trìu mến.
                      Lan thấy thật tội nghiệp cho ông, ông cô đơn quá. Ông ta không có con cái, không một người thân.
                      Lan chợt thở dài nhớ tới hoàn cảnh của mình và Tài. Không biết giờ đây anh đang làm gì? Chắc khi thua hết tiền, đời sống của Tài cũng không khác gì mấy với cuộc đời của những kẻ lang thang đầu đường xó chợ.
                      Tuy giận chồng, nhưng Lan làm sao không nhớ kỷ niệm êm đềm của hai vợ chồng lúc mới lấy nhau. Lan nghe người ta nói, nếu mình giúp cho ai điều gì, người khác sẽ giúp cho người thân của mình như thế đó. Cũng vì điều đó, Lan cành nhiệt tình giúp đỡ người đàn ông ấy, với hy vọng rằng ở đâu đó sẽ có người khác gíup đỡ cho Tài.
                      Đã hơn hai tháng không nghe tin tức gì của Tài...
                      Người bảo vệ cắt ngang ý tưởng của Lan:
                      - Vậy đúng là chị hay nói chuyện với ông ta, chính vì vậy ông ta cảm thấy thân với chị, rồi từ thân, ông ta đi tới có cảm tình.
                      Lan nhăn mặt:
                      - Tôi xin anh ăn nói giữ gìn một tí, không lẽ tôi...
                      Người bảo vệ lại nhếch mép:
                      - Tôi không có ý hạ giá trị của chị, nhưng chuyện tình cảm khó nói lắm. Nhất là ông ta cô đơn, nghèo khổ, có người từ tâm như chị...
                      Lan ngắt lời:
                      - Vậy thì anh làm ơn giải thích giùm tôi tại sao ông ta đang câm mà bỗng dưng lại bật lên tiếng nói được?
                      - Chuyện này thì chúng tôi phải chuyển lên nhờ nhà chức trách điều tra xem thật sự ông ta hoàn toàn là người câm hay trước đây ông ta chỉ giả vờ không nói được. Chị cũng biết đó, có rất nhiều người, để gây được thương tâm ở người khác, họ đã giở đủ mánh lới, đủ trò xảo quyệt để đạt được mục đích của mình. Lúc này tôi chỉ là người lập biên bản ghi nhận sơ bộ vụ việc mà thôi, còn lại sẽ do chính quyền giải quyết, chừng đó trắng đen thế nào sẽ biết ngay thôi.
                      Lan chợt liên tưởng đến việc người đàn ông khốn khổ đó bị bắt đưa đi tạm giam, cô bỗng thấy lo sợ và không cam lòng. Lan nhận thấy trường hợp của người đàn ông này rất lạ lùng. Ông này trước đây không hề nói được một tiếng nào với cô cả, không lẽ tự nhiên bây giờ ông mới mở miệng thử cô? Ông giả câm để làm gì trong khi cái hình hài của ông cũng đã đủ khơi mối thương tâm cho người qua kẻ lại trên đường rồi?
                      Bất giác Lan rùng mình nhìn ra ngoài đường, gương mặt lo âu. Người bảo vệ biết ý nói:
                      - Bây giờ chị có thể ra về được rồi. Ngày mai, nếu cần, cảnh sát sẽ tiếp xúc với chị. Chút nữa tôi sẽ đích thân đưa người đàn ông đó và biên bản này tới cơ quan cảnh sát.
                      Lan ngập ngừng:
                      - Hay là… anh… Thôi, xin anh tha cho ông ta đi, trông ông ta khốn khổ vậy mà còn bị lên đồn cảnh sát nữa, thật tình tôi không muốn.
                      Người bảo vệ nhìn Lan ngạc nhiên:
                      - Vậy chứ chị không muốn kiện anh ta về tội quấy rối nữa à?
                      Lan gật đầu:
                      - Tôi xin lỗi, anh cho tôi hủy bỏ vụ này đi! Anh coi như chưa có gì xảy ra đi! Tôi thấy ông ta rất tội nghiệp. Chắc là có điều gì đó mà tôi chưa roc được, chứ lâu nay tôi nhận xét thấy ông ta không phải loại người đó anh ạ!
                      Người bảo vệ lắc đầu:
                      - Đúng là phụ nữ! Chị dễ mềm lòng quá! Con người chị thật tốt. Hèn gì chị mới về đây công tác chưa bao lâu mà nhiều người yêu mến chị như vậy!
                      Lan mắc cỡ:
                      - Anh quá khen tôi rồi! Tôi đâu có được như lời anh nói.
                      Người bảo vệ trầm ngâm:
                      - Lâu nay tôi cũng nhận thấy người đàn ông ăn mày đó là người rất có nghĩa khí. Ông ta đã nhiều lần gíup đỡ người qua đường, tôi cũng nghĩ như chị, chắc có điều gì đó mà chị chưa biết rõ. Nếu bây giờ chị không muốn thưa kiện gì nữa thì chị có thể về, tôi cũng sẽ cho ông về, khỏi mất công dẫn lên đồn cảnh sát.
                      Người bảo vệ nói xong cười hề hề.
                      Lan đứng lên nói mấy câu cảm ơn rồi bước vội ra khỏi phòng.
                      ***
                      - Dù mai này có chết đi, linh hồn anh cũng sẽ theo em mãi mãi.
                      Trái tim Lan tự nhiên đập loạn xạ. Cô nhớ lại lời Tài sau khi hai người cãi nhau.
                      Một linh cảm không hay chợt hiện ra trong đầu.
                      Lan nhớ lại những câu chuyện về hồn người chết nhập vào một người khác đã được nghe và đọc trong sách vở.
                      Không lẽ lời của Tài đã ứng nghiệm và hồn chàng đã nhập vào người đàn ông ăn xin đó?
                      Lan vẫn nghe rõ ràng tiếng của người ăn xin lẽo đẽo theo sau:
                      - Lan! Lan! Anh đây nè! Em không nhận ra anh à?
                      Lan quay phắt lại, lấy tay bụm miệng khi thấy ông ta, người đàn ông ăn xin thường ngày vẫn ngồi ở góc phố chờ người đi đường qua lại bỏ vào vài đồng, vài xu mua đồ ăn trưa. Lan đưa mắt nhìn chung quanh để coi mình có nghe lộn hay không.
                      Thật là dễ sợ khi tiếng của ông ta vẫn tiếp tục, âm thanh rõ ràng là giọng nói của Tài, thoát ra từ đôi môi xám, vẩu lên một cách bướng bỉnh của ông ta! Lan thấy lạnh toát cả người, giọng hắn vẫn rõ mồn một, tha thiết:
                      - Lan! Anh đi xa lắm mới gặp được em. Sao em cứ đi như chạy vậy? Đứng lại nói chuyện với anh một chút, nếu có thể thì em chở  anh về nhà luôn. Thằng Thái con mình vẫn còn sốt cao, sao em không nghỉ ở nhà chăm sóc nó?
                      Lan bụm miệng, mặt mày xanh ngắt. Miệng cô há hốc, mắt nhìn quanh để cầu cứu. Trời ơi! dễ sợ quá! Tại sao người đàn ông câm này đột nhiên lại cất tiếng nói và giọng của hắn đúng là giọng của chồng cô?
                      Và quái đản hơn hết là hắn nói đúng tên đứa con trai của cô đang bị bệnh ở nhà.
                      Lan lùi lại, người đàn ông vẫn tiến lên.
                      Lan hét:
                      - Đứng lại! Đứng lại! Nếu không tôi la lên kêu cứu đó!
                      Người đàn ông đưa tay ra ngăn lại:
                      - Đừng! Tại sao em lại làm thế? Anh là chồng em, chúng ta vẫn là vợ chồng, sao em lại đòi kêu cứu khi gặp anh?
                      - Ông... ông là ai? Tại sao ông lại giả tiếng nói của chồng tôi? Ông là người câm không nói được kia mà?
                      Một nét ngạc nhiên hiên ra trong đôi mắt của người đàn ông:
                      - Em nói gì anh không hiểu? Anh là chồng chính thức của em. Dầu gì mình cũng đã có hai mặt con với nhau. Nếu em không thương anh nữa, thì cũng từ từ... không lẽ em tính dứt khoát liền với anh như vậy sao?
                      Lan vẫn lùi lại, trong lòng hy vọng sẽ có người tới bên cạnh để cứu cô. Chắc chắn hôm nay cô đã gặp một kẻ điên.
                      Trời ơi! đúng là hắn điên rồi. Phải thoát ra khỏi nơi này rồi hãy tính. Trong đầu Lan hiện ra thật nhanh nhiều câu hỏi, nhiều nghi vấn.
                      Tên này không biết làm thế nào mà lại biết hoàn cảnh của mình và chồng mình, rồi hắn bày đặt trò này để hù dọa mình đây.
                      Lan dáo dác tím kiếm người đi đường quanh đó, hy vọng họ thấy thái độ kỳ quặc của hai người sẽ gọi cảnh sát giùm.
                      Lan liếc vào hai bàn tay của người đàn ông. Hắn không có vũ khí trong tay, không đáng ngại lắm, vì cơ thể hắn gầy gò ốm yếu thế kia, dẫu hắn có làm càn Lan vẫn có đủ sức chống chọi lại.
                      Tâm đâm ra ân hận, tại mình trước nay hay thân mật với hắn nên bây giờ khi nổi điên hắn mới gây khó khăn thế này cho mình đây.
                      Lan nhìn người đàn ông, đôi mắt cô chứa đầy lo âu:
                      - Ông có phải là người hàng ngày vẫn ngồi ở góc đường trước cổng công ty tôi để xin tiền phải không?
                      Người đàn ông nhìn theo hướng tay của Lan, rồi lắc đầu:
                      - Em nói gì anh không hiểu gì cả. Anh là Tài, là chồng của em, là cha của thằng Thái và con Nhung. Anh biết em vẫn còn giận anh lắm. Nhưng anh đã hứa với lòng sẽ làm lại từ đầu để em đừng buồn anh nữa.
                      Đến nước này thì đúng là một sự gì không ổn rồi.
                      Tâm toát mồ hôi, chân tay run lảy bẩy.
                      Không còn nghi nghờ gì nữa, tên này biết được câu chuyện giữa vợ chồng Lan không sai một ly một tí.
                      Lan bước dần về hướng công ty, người đàn ông cũng khập khiễng bước theo.
                      - Anh Nam ơi, cứu tôi với! Cứu tôi!
                      Lan hét to lên khi thoáng thấy bóng người bảo vệ vừa thoáng qua ở cổng.
                      Nghe tiếng gọi hoảng hốt của Lan, người bảo vệ vội vàng chạy ra.
                      Lan chạy ào lại phía người bảo vệ.
                      Trong khi người đàn ông lúng túng mặt mày thất sắc, Nam ra lệnh cho người đàn ông:
                      - Anh dừng lại! Không được tiến lên!
                      Người đàn ông đứng khựng lại
                      Ông bảo vệ hỏi Lan:
                      - Chuyện gì vậy chị Lan? Tên này làm gì chị vậy?
                      Lan chợt bật khóc:
                      - Hắn giả giọng chồng tôi và nài nỉ tôi đi về theo hắn.
                      Người bảo vệ nhíu mày nhìn người đàn ông.
                      Người đàn ông lắp bắp nói:
                      - Thưa ông! Bà này là vợ tôi. Tôi nói chuyện với vợ tôi thì có gì là sai quấy?
                      Ông bảo vệ hầm hừ nhìn gã:
                      - Ông nói sao? Chị Lan là vợ của ông? Ông có điên không vậy?
                      Lan rên rỉ:
                      - Trời ơi! Làm ơn cứu tôi! Tôi đã có chồng, chồng tôi đâu phải là ông này. Hắn điên rồi. Anh làm ơn bắt hắn đưa lên đồn cảnh sát đi. Hắn chỉ muốn làm hại tôi thôi.
                      Đến lượt người đàn ông rên rỉ một cách đau khổ:
                      - Trơi ơi! tôi không điên! Đây là vợ của tôi. Tôi không hiểu tại sao cô ấy không nhận ra tôi. Ông làm ơn đi theo tụi tôi về nhà để điều tra, xem tôi có nói đúng sự thật hay không. Con trai út chúng tôi đang bị đau, chị nó đi làm chưa về. Tôi nóng ruột đi tìm vợ tôi về.
                      Người bảo vệ nhìn Lan và nhìn người đàn ông ra vẻ không hiểu câu chuyện kỳ cục này.
                      Ông ta mời hai người vào phòng bảo vệ của công ty để làm việc.
                      ***
                      Bước vô nhà Lan thấy nhà cửa vắng hoe. Cô vội chạy vô phòng. Thái đang ngủ.
                      Lan thở phào nhẹ nhõm. Nghe tiếng động, Thái mở mắt quay mình lại nhìn mẹ:
                      - Mẹ mới về hả? Hôm nay mẹ về trễ vậy?
                      Lan đặt tay lên trán con:
                      - Ừ! hôm nay me có nhiều việc quá. Con thấy bớt tí nào không?
                      - Dạ con cũng đỡ rồi. Con khát nước quá.
                      Lan cầm chai nước lạnh đã cạn trên chiếc bàn nhỏ gần giường lên nói:
                      - Để mẹ đi lấy chai khác cho con. Chị Nhung chưa về à?
                      - Dạ chưa. Chị Nhung nói chị đi ngang chợ mua cam cho con.
                      Lan không nói gì, vừa đi vừa ngẫm nghĩ thương đứa con gái lớn. Nó thật quán xuyến. Việc gì trong nhà cũng lo lắng đầy đủ.
                      Nhung sợ mẹ buồn phiền vì ba đã bị thất nghiệp, không làm gì giúp cho mẹ lại còn mang bệnh cờ bạc. Ba hay lấy tiền của mẹ, lại còn lấy đồ đạc trong nhà bán rẻ để đi đánh bài.
                      Vợ chồng Lan cãi nhau hoài làm đứa bé cũng buồn.
                      Nhung tốt nghiệp Đại học và đã đi làm ở một công ty hơn bốn tháng nay, tháng nào con bé đưa hết tiền lương cho mẹ, rồi chỉ xin lại một ít để tiêu vặt.
                      Còn Tài thì lấy cớ buồn vì mất việc, đi sòng bài nói là để nghe nhạc cho vui. Nhưng ai cũng biết Tài đã lậm vào môn này rồi, khó mà dứt ra được. Không chịu nỗi sự bực bội, Lan đòi ly dị. Tài hối hận hứa với vợ con không đi cờ bạc nữa.
                      Nhưng con ma đỏ đen đã ăn vào máu của anh rồi, vì vậy, không đi khoảng hai tuần là chân tay Tài ngứa ngáy chịu không nỗi.
                      Bao nhiêu tiền của vợ giấu trong hộc tủ, góc rương, Tài moi ra đi nướng hết. Con cái có đồng nào Tài cũng tìm cách nói đưa.
                      Mỗi lần về tới nhà là hai vợ chông gây gỗ. Lần cuối cùng Tài nói sẽ không thèm về nhà nữa.
                      Đã hơn hai tháng rồi, mẹ con sống lủi thủi với nhau. Biết hai con vẫn thương ba, nhưng Lan đã nhất quyết. Cô không muốn sống trong cảnh này mãi được.
                      Tài như một chiếc răng sâu cần phải nhổ. Để chỉ làm cho cả thân thể đau nhức mà thôi.
                      Thấy mẹ trở vào phòng với chai nước mới, Thái ngồi dậy, nhưng hơi chóng mặt, nó lại nằm xuống:
                      - Mẹ mệt không? Mẹ làm việc nhiều quá, mệt lắm phải không? Con thấy mẹ hơi xanh!
                      Lan cười cho con yên lòng:
                      - Con đừng lo, mẹ biết sức mẹ mà.
                      Cô lảng sang chuyện khác:
                      - Con đói bụng lắm rồi phải không? Để mẹ xuống bếp hâm lại cháo con ăn.
                      Thái đưa tay cản:
                      - Con không đói, miệng con lạt lắm. Mẹ đói ăn đi. Một lát chị Nhung về thế nào cũng mua thêm vài món.
                      - Không biết chị con đi đâu bây giờ chưa về? Ở nhà có gì lạ không con?
                      Thái không biết mẹ nói lạ là lạ chuyện gì. Nó bệnh nằm thiêp thiếp cả ngày, chuyện lạ chắc chắn không xảy ra ở trong nhà này rồi. Nó cười cho mẹ an lòng:
                      - Con ngủ cả ngày, không thấy gì lạ hết. Mẹ đi làm có gì lạ không?
                      Lan thấy tim tự nhiên thắt lại, nhớ đến sự việc ngày hôm nay, giọng cô run run:
                      - Không! À có... không... con có nghe tin tức gì của ba con không?
                      Thái tư lự:
                      - Dạ... con nghe thằng Nghĩa nói tuần rồi nó gặp bên sòng bài.
                      - Nó cũng đi đánh bài à?
                      - Không biết nó có đánh bài hay không, nhưng nó nói rạp hát gần đó có chương trình ca nhạc hay lắm, cả nhà tụi nó đi coi rồi tình cờ thấy ba trong sòng bạc mà nó thường lui tới.
                      Lan cũng nhớ đã thấy tờ quảng cáo trên báo, có các ca sĩ hay trình diễn trong dịp cuối năm. Mới đó mà năm cũ đã đội nón sắp bước đi, nhường một năm mới đang xách dù trở về.
                      Lan chợt liếc nhìn hình mình trong gương. Mái tóc Lan xơ xác với gió lạnh bên ngoài. Làn da tái, đôi mắt thâm quầng.
                      Không biết Tài đã sống như thế nào cả tháng nay.
                      Lan chợt nghe tiếng của anh qua đôi môi vẩu, thâm tái của người đàn ông gù lưng trước cổng cơ quan. Trời ơi! Tại sao lại có chuyện quái đản như vậy xảy ra chứ?
                      Lòng Lan chợt xao xuyến, bất an. Lan nghĩ, một lát nữa, khi Nhung về, sẽ kể chuyện này cho hai con nghe cùng một lúc.
                      Nhung chững chạc, khôn trước tuổi. Nó có thể phân tích cho Lan nghe chuyện này. Thái thì còn bé quá, chắc không giúp cô giải quyết được gì.
                      Gió bên ngoài chợt như thổi mạnh hơn. Đêm xuống thật nhanh. Những tiếng động sột soạt trên mái nhà cũ kỹ.
                      Lan kéo tấm màn lại và nói:
                      - Hôm nay coi bộ gió lớn lắm. Không biết sao con Nhung vẫn chưa về mà không thấy gọi điện thoại.
                      Thái ngừng chai nước đang uống, nghe ngóng bên ngoài rồi nói:
                      - Hình như chị Nhung về tới đó mẹ!
                      Vừa nói xong, cánh cửa mở tung. Nhung chạy vào như cơn gió lốc.
                      Cô oà khóc:
                      - Mẹ! mẹ!
                      Lan hoảng hốt hỏi:
                      - Nhung! Chuyện gì vậy con?
                      Thái cũng vội vàng nhảy xuống giường:
                      - Sao vậy chị? Có chuyện gì vậy?
                      Nhung mếu máo nói:
                      - Con nghe người ta nói có một cuộc xô xát xảy ra ở chỗ sòng bài mà ba thường tới đánh, có mấy người chết....
                      Lan lay vai Nhung:
                      - Hả? Có biết ai chết không?
                      Nhung nấc lên:
                      - Có! Ba!
                      Lan ôm ngực ngồi lảo đảo xuống ghế.
                      Thái khóc rống lên:
                      - Ba? Có thật không? Trời ơi! Ba! Ba chết rồi hả chị Nhung?
                      ***
                      Bản tin được đăng trên báo địa phương:
                      "Một cuộc xô xát từ sòng bài: Ba người bị thương nặng, một người tưởng chết nhưng tự nhiên sống lại, sau hơn một ngày. Trước đó, bác sĩ khám nghiệm, tuyên bố ông này đã qua đời"..
                      Người chết đã sống lại, đó là Tài, chồng của Lan.
                      Ba mẹ con đón xe đi giữa đêm. Khi đến nhà xác, ba mẹ con đã nhào lại khóc thảm thiết, nhất là đứa con trai út. Nhưng ngày hôm sau, Lan được cảnh sát báo tin là chồng cô đã sống lại.
                      Tài được đưa vào bệnh viện chữa trị trước khi về trở về nhà.
                      Từ khi sống lại, như có một phép lạ, Tài thay đổi thành một người hoàn toàn mới.
                      Tuy vẫn chưa tìm được việc làm, nhưng ở nhà, Tài chăm chỉ dọn dẹp, sơn sửa nhà cửa, vườn tược, chăm sóc con cái hết mực khi Lan đi làm.
                      Lan cũng cảm thấy an ủi và vui trong lòng. Tuy nhiên, có những lúc Lan bắt gặp chồng ngồi nhìn vô tấm gương to treo ở cánh cửa tủ áo trừng trừng. Anh lấy tay xoa xoa lên lưng như thể tìm kiếm một cái gì. Khi thấy vợ nhìn mình nhừ dò hỏi, Tài quay ngoắt đi.
                      Và một điều đặc biệt nữa, trước kia lúc ngủ bao giờ Tài cũng nằm ngửa ra ngay ngắn, nhưng sau lần chết hụt trở về, Tài toàn nằm nghiêng một bên để ngủ, chưa bao giờ Tài nằm ngửa người ra được.
                      Mấy ngày sau, một sáng vừa vào tới công ty, anh bảo vệ tên Nam gọi Lan lại ra vẻ có việc gì quan trọng lắm.
                      - Chuyện gì thế, anh Nam?
                      Lan tò mò hỏi.
                      Người bảo vệ nhìn Lan một cách lạ lùng:
                      - Chị có thấy câu chuyện của chồng chị và người ăn mày trước cổng công ty mình có liên quan với nhau không?
                      Lan ngơ ngác:
                      - Tôi không hiểu anh muốn nói gì?
                      Người bảo vệ nhìn ra ngoài sân, ánh sáng nhảy múa lăn tăn qua kẽ lá. Anh quay lại nhíu mày nhìn sâu vào mắt Lan:
                      - Tôi muốn nói, quả thật hồn của chồng chị đã nhập vào xác người đàn ông ăn mày đó!
                      Lan giật mình suýt ngã ra khỏi ghế:
                      - Anh Nam nói giỡn sao chớ? Chồng tôi và xác người đàn ông đó? Tại sao anh lại nói xác ông ấy? Ông ấy chết hồi nào?
                      - Ông ta chết cách đó một tiếng trước khi gặp chị. Cùng lúc với tai nạn xảy ra ở sòng bài, nơi chồng chị gặp nạn.
                      Lan nhìn đăm đăm vào mặt người bảo vệ:
                      - Anh muốn nói gì?
                      - Tôi chắc chị đã hiểu. Tôi là người công giáo, tôi không tin lắm về những chuyện ma quỷ này, nhưng chuyện này khá ly kỳ, vì chị biết sao không?
                      - Anh nói nhanh đi, tôi đang nóng lòng chờ nghe anh giải thích!
                      Giọng anh ta chợt trầm hẳn bên tai Lan:
                      - Theo bản báo cáo bên công an mà người bạn tôi làm bên đó cho hay thì khi chồng chị chết vì  xô xát thì cùng lúc, người đàn ông ăn mày ấy bị một kẻ lạ mặt đánh chết dưới gầm cầu. Rồi ông ấy đã xuất hiện theo chị trên đường phố nhận mình là chồng chị. Khi chị về rồi, tôi bảo ông đi đi nhưng ông vẫn lảm nhảm: " Tại sao vợ tôi không nhìn ra được tôi?" Ông ta đã la lên: "Tôi muốn có một cái gương để xem tại sao vợ tôi không nhận ra tôi!" Rồi ông ta chạy một mạch tới tiệm uốn tóc bên kia đường. Khi nhìn vào tấm gương....
                      Người bảo vệ ngừng lại vì xúc động:
                      - ... Ông ta rú lên!
                      Giọng Lan thảng thốt:
                      - Ông ta rú lên làm sao?
                      - Ông ta chỉ nói hai tiếng "Trời ơi!" rồi ngã ra và chết trở lại!
                      Lan lẩm bẩm như người mất hồn:
                      - Chết trở lại?
                      - Phải! Xác ông ta bị giết dưới gầm cầu được người qua đường nhìn thấy, báo cáo với cảnh sát. Nhưng khi cảnh sát, tới nới thì xác ấy biến mất. Đó là lúc ông đi theo chị tới đây.
                      Gai ốc đã nổi lên đầy lưng Lan.
                      Cô chợt hiểu lờ mờ trong đầu, chưa kịp hình dung thì tiếng người bảo vệ đã vang lên:
                      - Hồn chồng chị trong xác của người đàn ông ăn mày đã không hiểu tại sao chị không nhận ra ông, vì thế ông đòi soi gương. Khi soi gương ông mới thấy mình không giống mình. Hồn ông hoảng hốt, vội rời thi thể người ăn mày.... Và... như chị đã biết, hồn chồng chị lại nhập vào xác của chính ông trở lại....
                      Lan nhớ đến gương mặt thẫn thờ của Tài khi đứng trước gương với bàn tay xoa lên lưng như để tìm cái cục gù to tướng. Không biết anh có nhớ chuyện gì đã xảy ra hay không...
                      Người bảo vệ tiếp:
                      - Tôi đã nhờ người xem kỹ các hồ sơ, khi người ăn mày la xong hai tiếng "Trời ơi!" và ngã vật ra chết, cũng giờ phút đó, xê xích một vài giây, chồng chị sống lại trong nhà xác!
                      Lan bước lùi ra cửa, mặt xanh ngắt.
                      Người bảo vệ bước theo nói vọng ra:
                      - Mong mọi việc tốt lành sẽ đến với gia đình chị!
                      Hết
                      Nguyễn Thị Mộng Thu
                           
                      <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:37:47 bởi nguyenthu >
                      #71
                        nguyenthu 10.08.2009 22:03:27 (permalink)
                        TRANG BLOG MA
                         
                        Tôi là một đứa con gái sinh ra bị ông trời bắt xấu. Ở tôi, tập trung tất cả những gì thừa thãi của cả gia đình. Nếu như chị tôi có đôi mắt tròn to, sống mũi cao thanh tú thì mắt tôi con lớn con bé, mũi lại khoằm như mũi két. Em gái tôi có nước da trắng hồng và cặp giò thon thả, thì ở tôi lại là một màu da đen đúa, mốc thếch như của những người nông dân thường xuyên dãi nằn dầm mưa, hai cẳng chân tôi khẳng khiu và chi chít những vết sẹo để lại do những nốt ghẻ từ thuở nhỏ. Giọng nói của tôi lại không được êm ái du dương như những người con gái khác.
                        Không những ông trời bắt tôi xấu, mà ông còn bắt tôi hứng chịu nhiều nỗi đắng cay hơn nữa.
                        Gia đình tôi đang ăn nên làm ra thì đùng một cái, lúc tôi chào đời tất cả  tan theo mây gió. Mẹ tôi lại suýt chết vì bị băng huyết sau khi sinh tôi.
                        Một bà thầy bói nào đó đã phán tôi chính là khắc tinh của gia đình!
                        Từ đó, tôi bị cả nhà ruồng rẫy.
                        Mẹ đem tôi về quê gởi cho bà ngoại nuôi lúc tôi vừa đúng hai ngày tuổi.
                        Ngoại già yếu, nghèo nàn lại phải cưu mang một đứa bé ốm đau quặt quẹo quanh năm suốt tháng nên sức lực của ngoại cũng suy kiệt đi rất nhanh chóng. Tôi ba tuổi thì ngoại lìa đời.
                        Tôi được mẹ đón về sống với gia đình từ đó.
                        Và cũng từ những năm tháng ấu thơ đó tôi đã nhận ra sự khác biệt giữa mình và chị em trong nhà.
                        Bọn trẻ con quanh đó xem tôi như một trò đùa của chúng. Chúng trêu chọc, chúng vứt vào tôi bất kỳ thứ gì chúng thích. Trong đám đó có cả chị và em gái của tôi.
                        Tôi sống trong nhà mình mà thật bơ vơ, lạc lõng.
                        Tôi mặc áo quần của chị để lại. Tôi chơi những món đồ chơi em tôi vứt đi. Tôi bị mắng chửi, bị đánh đòn vì bất cứ một lỗi lầm nào, dù không phải do tôi gây ra.
                        Không ai thương xót tôi, ngay cả mẹ!
                        Họ nuôi tôi vì không thể vứt bỏ tôi thôi. Tôi lớn lên trong nhà còn thua cả con chó, con mèo. Vì chó mèo còn được ba mẹ tôi, chị em tôi ôm ấp nâng niu, chăm lo từng miếng ăn, chỗ ngủ.
                        Còn tôi thì không! Không ai đoái hoài gì đến tôi cả.
                        Tôi biết thân biết phận mình từ nhỏ nên tôi đã sống im lìm như một cái bóng trong nhà.
                        Đến bữa ăn ai cho gì tôi ăn nấy, ai cho gì tôi mặc nấy, tôi không dám đòi hỏi, không dám xin xỏ bất cứ một thứ gì.
                        Nhưng dù đã sống như vậy tôi cũng không được yên thân.
                        Mỗi lần ba tôi nhậu say về là lại lôi tôi ra mắng chửi. Ba bảo tôi là “đồ tội báo oan gia, đồ yêu nghiệt đầu thai lên để phá hoại gia đình”.
                        - Mầy nhìn mầy trong gương đi, xem mầy có giống con người không? Kiếp trước tao nợ mầy bao nhiêu? Mầy nói đi tao sẽ bán nhà trả hết cho mầy rồi mầy cút xéo khỏi đây cho tao gầy dựng lại sự nghiệp! Mồ hôi nước mắt của tao với mẹ mầy bao nhiêu năm vất vả, vì mầy mà đổ sông đổ biển! Mầy là con quái vật, mầy là đứa phá gia… Mầy là…
                        Ba tôi đổ lên đầu tôi tất cả mọi tội lỗi, tất cả mọi danh từ xấu xa nhất mà ông có thể nghĩ ra.
                        Những lúc như thế tôi lại rúc mình thật sâu trong một xó xỉnh nào đó để khóc âm thầm, lặng lẽ. Vì nếu tôi khóc to thành tiếng, chắc chắn ba tôi sẽ bảo: “Mầy còn muốn trù ai chết nữa đây?”.
                        Mẹ tôi thì khác.
                        Bà không chỉ mắng chửi tôi những khi tức giận, mà ngay cả những lúc bình thường nhất bà cũng bóng gió xa xôi.
                        Khi có người quen nào đó qua đời, bà thường hay nói:
                        - Đứa cần chết lại không chịu chết cho người khác nhờ…
                        Tôi biết mẹ đang ám chỉ tôi.
                        Tôi đau đớn, tủi buồn và đã nhiều lần muốn tìm tới cái chết, muốn giải thoát cho bản thân mình và cho cả nhà thoát khỏi những ức chế quá sức nặng nề này.
                        Thế nhưng, có lẽ tôi còn nặng nợ với cuộc đời nên dù sống không có lấy một niềm vui nhỏ, không một sự ủi an nào dù rất nhỏ nhoi, vậy mà tôi vẫn cứ sống, sống sởn sơ, giống như một loài cỏ dại vẫn kiên nhẫn bật chồi xanh dẫu người đời nhiều lần nhổ vứt đi chỗ khác.
                        Chị và em gái tôi được ba mẹ quan tâm chăm sóc, thương yêu nhưng lại cứ nay ốm mai đau. Còn tôi, không được một bàn tay nào chăm đến mà vẫn âm thầm, dai dẳng mọc lên.
                        Thỉnh thoảng tôi cũng bị ấm đầu sổ mũi, nhưng rồi nó tự hết cũng như nó đã tự tìm đến với tôi.
                        Cả một quãng đời thơ dại, hình như tôi chưa từng biết tới thuốc men là gì.
                        Chính điều đó lại càng giúp mọi người khẳng định tôi không phải là con người bình thường, mà là một thứ ma nào đó đầu thai lên để làm hại gia đình, làm hại ba má tôi.
                        Lớn lên chút nữa tôi được cắp sách tới trường, nhưng tình hình vẫn không có chút khả quan hơn.
                        Trong lớp, bạn bè vẫn lánh xa tôi, tôi như người cùi hủi, như một sinh vật gớm ghiếc mà không một ai dám tới gần.
                        Tôi học giỏi. Và điều đó càng làm cho đám bạn trong lớp càng ghét tôi hơn nữa.
                        Thầy cô cũng có người quan tâm đến tôi, tỏ ra thương hại tôi, nhưng sự quan tâm, sự thương xót đó cũng chỉ dừng lại ở một giới hạn nhất định. Tôi vẫn là đứa trẻ cô đơn, khốn khổ.
                        Có nhiều lúc tôi thèm được mẹ âu yếm đặt tay lên trán, thèm được ba công kênh trên vai đi khắp làng trên xóm dưới, thèm được chạy nhảy tung tăng cùng đám bạn, thèm được cười đùa, thèm được ca hát… Nhưng tất cả những điều đó chỉ có trong mơ ước của tôi thôi.
                        Suốt những năm học Phổ thông rồi lên Đại học, tôi chưa từng có một người bạn thân chứ đừng nói gì tới chuỵên có một người bạn trai đặc biệt.
                        Ra trường, dù với một kết quả học tập rất cao, nhưng bất cứ nơi nào tôi tới xin việc đều tỏ ra ngại ngần khi trông thấy ngoại hình tôi.
                        Người ta thường bảo “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, nhưng có mấy ai trên đời lại đi bỏ tiền mua một món đồ xấu xí đem về xài thử xem nó có tốt không?
                        Trầy trật mãi, cuối cùng tôi cũng xin được việc làm ở một công ty. Công việc mà người ta bố trí cho tôi là một công việc ở “hậu trường” hoàn toàn không tiếp xúc gì tới khách hàng hay đối tác. Nói chung, người ta cho tôi ngồi ở một góc thật kín đáo để không làm ảnh hưởng tới bộ mặt của công ty.
                        Tôi đã quen như vậy rồi nên cũng không cảm thấy buồn phiền hay thất vọng gì cả!
                        Ngày đầu tiên tôi đi làm, vừa về tới nhà mẹ tôi đã bảo:
                        - Tao nuôi mầy đến đây là đã trả hết nợ hồi kiếp trước rồi! Bây giờ mầy đã có việc làm, tự nuôi sống bản thân được rồi thì dọn ra ở riêng đi, để tao với ba mầy còn có cơ hội làm ăn gầy dựng lại gia đình.
                        Dũ đã quen thuộc với những việc phũ phàng như thế nhưng sao nước mắt tôi vẫn cứ trào ra.
                        Tôi lặng lẽ gom góp mớ áo quần ít ỏi, cúi chào cả nhà rồi bước ra khỏi cửa vào lúc trời vừa tối.
                        Cả ba mẹ, cả chị và em gái không ai hỏi tôi một lời xem tôi sẽ đi đâu, sẽ sống ra sao? Hình như sau lưng tôi, mọi người đang thở phào nhẹ nhõm.
                        Với số tiền dành dụm được từ những việc làm thêm thủ công lặt vặt hồi còn đi học Đại học tôi mướn được một căn phòng nhỏ và mua một bộ máy vi tính tương đối tốt để phục vụ cho công việc của mình.
                        Với năng lực của mình, những công việc ở cơ quan tôi thực hiện không mấy khó khăn nên thời gian sau giờ làm việc của tôi hoàn toàn rảnh rỗi.
                        Tôi không có bạn để đi chơi, tôi không có gia đình để tìm về, tôi không có bất cứ một nguồn vui, nguồn an ủi nào khác.
                        Bước ra khỏi cổng cơ quan là thời gian cứ dài ra, dài chừng như vô tận.
                        Hình hài tôi dị dạng nhưng trong lồng ngực tôi lại chứa đựng một trái tim khỏe mạnh. Tôi cũng có những khao khát đời thường giống như bao nhiêu thiếu nữ cùng tuổi với tôi.
                        Tôi khát khao yêu và được yêu. Tôi khát khao có ai đó cho tôi tâm sự, cho tôi tựa đầu vào vai những lúc tôi yếu lòng, buồn bã… Nhưng bên cạnh tôi chỉ là những đồ vật vô tri và khoảng không gian vắng lặng.
                        Trong một đêm khó ngủ, tôi đã lên mạng và tạo cho mình một trang blog, tôi đặt tên cho blog là BÓNG ĐÊM. Tôi chọn avatar cho blog là hình một bóng người lầm lũi trong đêm tối.
                        Bắt đầu từ hôm đó, sau giờ làm việc là tôi lại miệt mài gõ bàn phím, ghi lại tất cả tâm tư, tình cảm của mình.
                        Những entry của tôi không có tiêu đề, không có minh hoạ, đơn giản nó chỉ là những dòng chữ mà tôi gởi vào đó những nỗi buồn, những khát khao thầm kín nhất của mình.
                        Thỉnh thoảng có một vài blog khác ghé vào thăm và để lại những lời chào, những lời thăm hỏi làm quen hoặc những commment, chân tình cũng có mà cợt đùa cũng có.
                        Nhưng tôi chưa bao giờ đáp lại bất kỳ một ai.
                        Đôi lúc tôi cũng cảm thấy ấm lòng với một vài lời sẻ chia của một bloger nào đó, nhưng chỉ thoáng qua thôi, thoáng qua rất nhẹ. Tôi không muốn giao lưu vì tôi sợ nếu một mai họ biết được hình dáng thật của tôi thì…
                        Ngày tháng cứ trôi qua như thế. Được giãi bày tâm tư, dù là bằng hình thức nào đi nữa cũng có tác dụng làm nhẹ người hơn đôi chút.
                        Một đêm không ngủ được, tôi mở máy tính và online vào lúc hai giờ khuya.
                        Một blog có tên “LINH HỒN TRONG BÓNG ĐÊM” vừa đến thăm. Avatar của blog này giống y như Avatar của blog tôi. Ngoài cái biểu tượng mặt cười để lại, người ấy không nói gì thêm.
                        Lần này tự dưng tôi cảm thấy thật tò mò, muốn biết về người này rõ hơn. Người ấy là nam hay nữ? Tại sao người ấy lại tự cho mình là linh hồn trong bóng đêm? Cuộc đời người ấy có điều gì u ám giống mình không?
                        Thật nhiều câu hỏi cứ xoay quanh trong đầu tôi.
                        Tôi nhấp vào biểu tượng và đi sang đó để tìm hiểu.
                        Blog này có hình nền rất lạ, đó là hình một bãi đất hoang vu xơ xác, chơ vơ một ngôi mộ đất ở phía dưới màn hình.
                        Tự nhiên nước mắt tôi ứa ra. Tôi cảm thấy người này có một số phận không khác gì tôi.
                        Linh hồn trong bóng đêm không giới thiệu gì về mình trên blog. Không tên tuổi, không địa chỉ…
                        Tôi lật từng entry và bắt đầu đọc ngược, đọc từ trang đầu tiên của blog.
                        Trang đầu tiên chỉ là một bản nhạc, bài “Cát bụi”.
                        Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi,
                        Để một mai tôi về làm cát bụi
                        Ôi, cát bụi mệt nhoài
                        Từng ngày qua mòn ngóng tin vui…

                        Bao nhiêu năm làm kiếp con người
                        Chợt một chiều tóc trắng như vôi
                        Lá úa trên cây rụng đầy
                        Cho trăm năm vào chết một ngày…
                        Nước mắt tôi cứ lăn dài theo từng con chữ, từng lời ca thổn thức...
                        Những tâm tư, tình cảm của người đó sao quá giống tôi? Tôi có cảm giác như nỗi lòng của mình đang được trãi ra trong đó.
                        Những cô độc, những khát khao, những nỗi bơ vơ nơi trần thế…
                        Nhưng có lẽ Linh hồn trong bóng đêm là một người con trai.
                        Không có entry nào khẳng định điều đó, chỉ là tự nhiên tôi cảm nhận vậy thôi.
                        Tôi đã thức đến sáng để đọc tất cả entry của Linh hồn trong bóng đêm.
                        Tôi để lại một lời chào trước khi ra về chứ hoàn toàn không nói gì, cũng không comment vào entry của người ấy.
                        Suốt ngày hôm đó, tôi làm việc mà tâm hồn cứ nghĩ về người đó, nghĩ về những nỗi buồn mà người đó đeo mang.
                        Ôi, chưa bao giờ tôi lại nghĩ nhiều tới một người đến vậy! Mà người đó với tôi lại hoàn toàn xa lạ.
                        Trưa, ăn cơm xong tôi không nghỉ ngơi như mọi hôm mà tranh thủ online để tiếp tục xem những thông tin của Linh hồn trong bóng đêm.
                        Nhưng thật buồn, mở trang blog ra, tôi không thấy gì mới. Có lẽ từ sáng tới giờ, người ấy chưa đọc được lời chào của tôi gửi lại.
                        Lần đâu tiên trong đời tôi biết hồi hộp đợi chờ.
                        Tôi chờ hết giờ làm việc, tôi chờ khi đêm xuống, vì thường người ta hay viết blog vào ban đêm, lúc không phải đến cơ quan hay tất bật việc gia đình.
                        Tôi post xong cái entry của mình thì lại bắt đầu lang thang đi khắp các blog khác như mọi đêm.
                        Có những blog thật đông bạn bè, họ trao đổi với nhau thật vui, thật lý thú, nhưng tôi vẫn cảm thấy nơi đó không có chỗ cho mình, mình chỉ có thể đứng bên lề quan sát một cách lặng lẽ mà thôi.
                        Chốc chốc tôi lại trở qua blog Linh hồn trong bóng đêm, nhưng mãi mà cũng không thấy một dấu hiệu nào của người ấy.
                        Người ấy không online đêm nay?
                        Blog của người này rất giống blog tôi, ngoài avatar, còn giống ở chỗ danh sách bạn bè là danh sách rỗng, cũng không để chế độ cho phép người khác add mình.
                        Cô đơn ngoài đời, trên blog cũng cô đơn.
                        Buồn quá, tôi lại quay về “Bóng đêm” của mình.
                        Ô kìa, người đó đã đến và để lại cho tôi một câu: “Chào em, chúc em buổi tối bình yên. Em đừng thức khuya quá như đêm vừa rồi nhé!”
                        Tôi ngạc nhiên quá đỗi. LaØm sao người ấy biết biết đêm qua tôi thức?
                        Thật không sao hiểu nổi.
                        Nhưng với lời nhắn này, tôi càng vững tin đó là một chàng trai.
                        Tôi lại trở qua “Linh hồn trong bóng đêm”, bây giờ thì ở đó đã có thêm một entry mới.
                        Đọc nội dung này tôi có cảm giác người đó đang viết về tôi.
                        Nỗi xúc động bỗng trào dâng. Tôi comment cho người đó bằng những lời lẽ thật chân thành.
                        Từ tối hôm đó chúng tôi bắt đầu qua lại thường xuyên với nhau, nói chuyện, tâm tình cùng nhau qua từng entry hoặc comment của mỗi blog.
                        Tôi sung sướng, tôi hạnh phúc. Vì lần đầu tiên trong cuộc đời đầy bất hạnh của mình tôi có được một người bạn. Một người bạn đồng cảm với tôi, hiểu được và chia sẻ được với tôi những nỗi buồn số kiếp.
                        Sau một thời gian quen biết không lâu, tôi đã kể cho người ấy nghe hết về cuộc đời tôi, và người ấy cũng cho tôi biết về bản thân mình.
                        Linh hồn trong bóng đêm tên thật là Khôi, lớn hơn tôi bốn tuổi. Anh là một đứa bé ngoài ý muốn của mẹ anh. Bà đang sống với chồng nhưng anh lại là bào thai của bà với người đàn ông khác.
                        Khi mẹ anh báo tin đã mang thai thì người đàn ông đó dứt áo ra đi không một lời từ biệt, trước khi đi còn lừa lấy của mẹ một số tiền rất lớn mà mẹ anh phải cầm cố ngôi nhà mới có được.
                        Bi kịch gia đình liên tiếp xảy ra. Mẹ cha anh (anh vẫn luôn xem người đàn ông, chồng của mẹ là cha, mặc dù anh biết là không phải) không ly dị nhau vì nhiều sự ràng buộc khác. Họ tiếp tục sống với nhau trong đau khổ, trong dằn vặt.
                        Nhưng người khổ nhất là anh.
                        Mẹ anh hận người đàn ông bội bạc nên xem anh như kẻ thù, vì anh giống người đó như hai giọt nước.
                        Cha anh coi anh là cái gai trước mắt mà không làm sao nhổ đi được. Anh là bằng chứng phản bội của vợ ông, thì làm sao ông không oán ghét anh cho được?
                        Anh sống trong gia đình giống như một con chó ghẻ.
                        Năm tháng cứ lần lượt trôi qua, anh lớn dần lên. Và khi anh đã trở thành một chàng thanh niên sức dài vai rộng, tương lai anh đang mở ra trước mắt, anh đang khấp khởi mừng thầm vì mình sắp được tung cánh ra khoảng trời tự do bao la ngoài khung cửa thì tai hoạ lại ập tới.
                        Cha mẹ anh tham gia bán ma túy, trong một lần bị khám xét, họ đã đổ tất cả tội lỗi lên đầu anh. Mà anh thì không thể giải thích, chứng minh mình vô tội, anh không muốn làm điều đó.
                        Anh muốn nhân dịp này anh sẽ trả cho họ công ơn đã nuôi dưỡng anh mấy chục năm qua.
                        Thế là anh vào tù.
                        Đến khi được tha, tương lai trước mắt đã khép lại. Anh bây giờ sống như một bóng ma vờ vật trong đêm…
                        - Đời anh buồn lắm em ạ! Nên anh hiểu được nỗi buồn của em. Anh cảm thấy chúng mình thật giống nhau, rất tiếc là mãi đến bây giờ anh mới gặp được em…
                        Anh comment cho tôi như thế.
                        - Sao lại rất tiếc hở anh? Chẳng lẽ hiện nay anh đã có gia đình?
                        Tôi hỏi lại, tất nhiên cũng là comment.
                        - Không, anh không có gia đình. Chỉ là… mà thôi, cũng không có gì đáng nói. Bởi vì dù sớm hay muộn thì lúc này đây anh vẫn trân trọng em, biết ơn em đã chia sẻ với anh.
                        Anh trả lời tôi.
                        - Em mới là người cảm ơn anh mới phải. Trước anh, chưa có một người nào nói với em những lời như thế. Em vẫn tưởng mãi mãi, suốt đời này của mình, sẽ không bao giờ em có được…
                        - Em là một cô gái tốt. Em xứng đáng để người khác nâng niu, tôn trọng. Chỉ tiếc là cuộc đời luôn tàn nhẫn với những người như chúng ta…
                        Dù tôi đã nhiều lần gặng hỏi, anh vẫn không nói cho tôi biết anh đang sống ở đâu và đang làm gì?
                        Anh chỉ nói rằng anh sống rất gần tôi, thế thôi, và anh xin tôi đừng hỏi gì anh nữa. Nếu chuyện gì kể được anh đã kể hết với tôi, chuyện không kể được dù tôi có nằn nì cách nào anh cũng không thể nói.
                        Tình cảm của tôi và anh cứ thế mà gắn bó và tiến triển dần dần. Bay giờ không những chúng tôi trao đổi với nhau qua trang blog, mà chúng tôi đã add nick của nhau để có thể chuyện trò qua chat, có thể nhắn gửi qua email.
                        Nhưng tôi vẫn chưa biết mặt anh, chưa nghe được giọng nói mà tôi nghĩ là rất êm đềm của anh.
                        Chừng như hiểu được nỗi khát khao đó nơi tôi, trong một lần chát, anh bảo tôi lắp headphone để cả hai có thể chuyện trò với nhau.
                        Mừng vui như được chắp cánh, ngay tối hôm sau tôi và anh đã có thể trao đổi với nhau bằng lời nói. Tôi đã cố gắng thật nhiều để giọng mình mềm đi những vẫn không có tác dụng. Anh hầu như không quan tâm tới điều đó.
                        Giọng nói của anh quả thật rất ấm áp, tôi cảm thấy cơ thể mình run lên bởi những xúc cảm vu vơ…
                        Bất ngờ anh còn bật cả webcam để tôi nhìn thấy được anh: Một chàng trai to cao, tuấn tú nhưng sao ánh mắt anh lại buồn vời vợi?
                        - Anh ơi, em không có webcam! Nếu anh cần, ngay sáng mai em sẽ đi mua…
                        Tôi ngập ngừng.
                        Anh cười rất nhẹ:
                        - Không cần đâu em, bởi vì… lúc nào anh cũng “nhìn thấy em” mà!
                        Tôi ngơ ngác một lúc nhưng bỗng hiểu anh nói vậy là vì anh luôn nghĩ đến tôi, thế thôi.
                        - Em rất xấu xí, phải không anh?
                        Tôi khẽ hỏi
                        Anh trên màn hình nhìn thẳng vào mắt tôi:
                        - Với anh, em là cô gái đẹp nhất!
                        Nước mắt tôi trào ra. Trong đời mình, có bao giờ tôi được nghe những lời dịu ngọt âu yếm thế này bao giờ đâu?
                        Cám ơn ông trời đã ban anh cho tôi, dù có thể những lời anh vừa nói ra kia là không thật lòng, dù có thể mai này tôi và anh mãi mãi cách xa, nhưng những gì hôm nay và những ngày vừa qua đã là một món quà vô giá dành cho tôi rồi, một món quà dù trong giấc mơ tôi cũng không dám nghĩ tới.
                        - Đừng khóc nữa em! Cuộc đời hai chúng ta đã trải qua nhiều khổ đau, đã đắm mình trong nước mắt nhiều rồi, anh không muốn nhìn thấy em rơi lệ nữa…
                        Tiếng anh thầm thì bên tai tôi, nghe rất gần gũi chừng như anh đứng sát bên tôi vậy.
                        Tôi nhìn quanh phòng. Không, trong căn phòng nhỏ bé này vẫn không có ai ngoài tôi.
                        - Anh ơi, sao anh biết em đang khóc?
                        Tôi ngạc nhiên.
                        - Anh cảm nhận được bằng trái tim mình!
                        Lần này tôi không thể nén lòng mình được nữa, tiếng khóc thút thít của tôi đã vang đến tai anh.
                        - Em, anh không muốn thấy em khóc nữa mà! Em nín đi…
                        Anh cuống quýt.
                        Tôi mỉm cười qua màn nước mắt:
                        - Không anh ơi, giờ phút này anh hãy cho em được khóc! Đây là những giọt nước mắt sung sướng, hạnh phúc nhất trong đời em…
                        Tôi có cảm giác như mình đang được anh ôm vào lòng và vỗ về:
                        - Ừ, nếu em nói vậy thì em cứ khóc đi, tựa vào anh mà khóc, nghe em!
                        Và như kẻ bị thôi miên, tôi nghiêng đầu sang bên, tôi có cảm giác một bờ vai rộng đang kề sát cạnh tôi đón mái đầu tôi ngã vào nương tựa.
                        Tôi cảm giác hơi thở anh nhẹ nhàng phả vào mặt tôi, bàn tay anh vuốt ve mái tóc xơ xác của tôi.
                        Tất cả những cảm giác đó sao mà thật đến lạ lùng!
                        - Anh ơi!
                        Tôi bật kêu lên.
                        - Gì thế em?
                        Tiếng anh thầm thì bên tai tôi.
                        - Sao em có cảm giác anh đang ở bên em? Giờ này anh đang ở đâu thế? Có phải anh đang ở cạnh em không?
                        Tôi thổn thức.
                        - Em cứ tin là như thế! Lúc nào anh cũng luôn ở bên em. Khi vui, em hãy mỉm cười với anh, lúc buồn, em hãy tựa đầu vào anh mà khóc, như lúc này đây, em nhé?
                        Giọng anh vang lên tha thiết.
                        - Anh biết em đang tựa đầu vào anh à?
                        Tôi ngạc nhiên hỏi.
                        - Ừ, khi yêu nhau thật lòng, người ta có thể cảm nhận tất cả. Chẳng phải em cũng đang cảm nhận như anh đang ôm em trong vòng tay hay sao?
                        - Anh ơi, anh nói đúng rồi, giờ đây em thấy y như mình đang ở bên nhau vậy, rất thật anh à!
                        Tình yêu của anh và tôi đẹp như một bài thơ.
                        Từ hôm ấy, các entry trên blog “Bóng đêm” và “Cô đơn trong bóng đêm” đã bớt đi vẻ u ám vì đã có ánh sáng của tình yêu soi rọi.
                        Tôi đến cơ quan, nhiều đồng nghịêp nhìn tôi rồi xì xầm bàn tán.
                        Có lần tôi nghe loáng thoáng họ bình phẩm về tôi, rằng dạo này trông tôi hớn hở, mắt tôi long lanh như thiếu nữ đang yêu.
                        Họ đoán già đoán non xem tôi đang yêu thầm ai ở cơ quan, và rồi có người độc miệng đẫ nói:
                        - Cái thằng nào xấu số dữ, lọt vô mắt… sâu của nó!
                        Có người cũng tội nghiệp cho tôi, vì họ nghĩ tôi đang thầm thương trộm nhớ ai đó, họ sợ một khi bị từ chối, còn sẽ đau khổ thật nhiều.
                        Tôi không cảm thấy bực mình hay khó chịu trước những lời to nhỏ sau lưng. Có lẽ khi yêu, người ta dễ dàng tha thứ cho mọi lỗi lầm của những người xung quanh.
                        Tôi đang yêu, đúng đấy! Nhưng tôi không yêu thầm đâu!
                        Tôi muốn hét to lên như thế, không phải để thanh minh hay đề cao bản thân mình, mà là tôi muốn cả thế giới biết tôi đang vui sướng, đang hạnh phúc đến tột cùng.
                        Chuyện tình yêu của tôi và anh diễn ra đằm thắm như thế một thời gian dài. Thời gian đó tôi như được sống trên mây, xung quanh tôi ngập tràn hạnh phúc.
                        Tôi không còn mặc cảm mỗi khi bước ra đường nữa. Ai nhìn tôi bằng ánh nào cũng kệ họ, ai bình phẩm gì tôi cũng chẳng thèm quan tâm tới. Trong suy nghĩ của tôi, chỉ có anh và công việc.
                        Anh là tất cả của tôi.
                        Nhưng tình yêu giống như một con vật tham lam, nó đâu chịu bằng lòng với những gì đang có.
                        Tôi lại cảm thấy buồn, thấy thèm khát được gặp gỡ anh, được cùng anh tay trong tay đi dạo như những cặp tình nhân khác mà mỗi ngày tôi đều gặp trên đường.
                        Dường như tất cả những gì tôi nghĩ đến, tôi khát khao anh đều biết hết.
                        Tối hôm đó, anh hỏi tôi:
                        - Có phải em rất nuốn gặp anh?
                        - Dạ, em rất muốn gặp anh!
                        Tôi nói nhỏ.
                        Anh im lặng một lúc lâu rồi bảo:
                        - Tối mai, lúc tám giờ, anh đợi em ở công viên gần nơi em ở nhé?
                        - Ơ… anh, sao anh biết nơi em ở?
                        Tôi vô cùng ngạc nhiên.
                        Anh lại cười:
                        - Em quên anh đã từng nói với em sao, lúc nào anh cũng “nhìn thấy” được em!
                        Anh đã đưa tôi đi từ ngạc nhiên này đến thắc mắc khác.
                        Tại sao anh luôn biết mọi việc về tôi? Kể cả những điều nằm sâu trong suy nghĩ của tôi?
                        Anh yêu tôi, tôi yêu anh, chúng tôi yêu nhau đến mức đọc được ý nghĩ của nhau từ xa hay sao?
                        Mà không đúng, vì chỉ có anh là “nhìn thấy” được tôi thôi, chứ tôi thì đâu biết gì về anh, ngoài những điều anh kể?
                        Hay tại anh yêu tôi nhiều hơn tôi đã yêu anh?
                        Hay anh là người sống ở gần đây?
                        Điều này có vẻ có khả năng hơn cả.
                        Thế là tôi bắt đầu sàng lọc từng người mà tôi biết ở quanh đây. Số người tôi biết cũng quá ít ỏi, xem đi xét lại cũng không ai có thể là anh được!
                        Vậy thì anh là ai?
                        Câu hỏi đó cứ đeo đẳng tôi suốt đêm, suốt ngày hôm sau. Và tôi luôn nôn nóng trời mau mau tối để tôi được gặp anh. Lần hò hẹn đầu tiên trong cuộc đời đen đủi của tôi.
                        Đi làm về, tôi vội vã tắm gội và chọn cho mình một bộ áo quần vừa ý nhất. Tôi muốn đêm nay tôi phải thật đẹp trong mắt anh.
                        Lúc trưa nay, tôi đã len lén ra chợ mua một thỏi son, một hộp phấn và một cây chì kẻ, những dụng cụ làm đẹp đơn giản nhất mà bất kỳ người con gái nào cũng có, chỉ riêng tôi, gần ba mươi năm sống trên đời, đây là lần đầu tiên tôi chạm tay vào những vật đó.

                        Đứng trước gương, tôi cẩn thận tô son, đánh phấn, kẻ mắt vẽ mày… Nhìn mình trong gương không khác gì một thằng hề trên sân khấu!
                        Tôi thất vọng, gục xuống khóc rấm rứt.
                        Tôi cảm thấy như có một vòng tay nào đó đang choàng qua ôm lấy tôi, đặt lên đôi má đang nhòe nhoẹt nước mắt lẫn phấn son của tôi một nụ hôn thật nhẹ.
                        Tôi ngước lên, ngơ ngác nhìn quanh vẫn không có ai khác ngoài tôi trong nhà.
                        Vào phòng tắm, tôi rửa sạch mặt mũi và quyết định cứ để thế này đi đến gặp anh.
                        Tôi đến công viên sớm hơn nửa giờ đồng hồ. Bên trong công viên cũng có lác  đác mấy người, tình nhân có, bạn bè có, họ đang cùng nhau chuyện trò gì đó, có một nhóm bạn cứ chốc chốc lại cười phá lên rất vui vẻ.
                        Tôi không dám vào công viên một mình nên cứ đạp xe qua lại mấy lượt để chờ tới giờ hẹn gặp anh.
                        Đến vòng thứ tư, lúc tôi đang đạp chầm chậm qua cổng công viên, bỗng hoảng hồn vì một bàn tay của ai đó đặt khẽ lên vai mình. Vừa quay lại, tuy không nhìn rõ mặt mũi nhưng tự nhiên tôi biết ngay đó là anh.
                        Tôi vui mừng quá đỗi, nếu không có anh đỡ kịp là cả người và xe tôi đã ngã lăn kềnh ra đất.
                        Tôi bước xuống xe, ngượng nghịu nhìn anh.
                        Anh vẫn giống y như người hàng đêm đối diện với tôi qua màn hình máy tính, không một chút nào khác biệt!
                        Anh nhìn tôi thật trìu mến:
                        - Mình vào đây nghe em?
                        Tôi dạ thật nhỏ và thấy tay chân trở nên luống cuống vô cùng.
                        Anh giành lấy chiếc xe trong tay tôi, dắt đi chầm  chậm vào con đường rải sỏi trong công viên.
                        Ngọn đèn vàng hắt chùm ánh sáng nhạt nhòa xuống từng thảm cỏ.
                        Tôi và anh ngồi xuống nơi một ghế đá ngay cạnh lối đi.
                        Ngồi bên anh, lòng tôi như reo vui, con tim tôi đập muốn vỡ tung cả lồng ngực. Nhưng tay chân tôi lại trở nên lóng ngóng, miệng lưỡi tôi không thốt được thành câu.
                        Mỗi lần nói chuyện với anh qua màn hình, tôi vẫn nghĩ nếu một ngày nào đó gặp được anh, chắc hẳn tôi sẽ ngã vào vòng tay anh, sẽ ríu rít bên anh mà không một chút e dè sợ sệt.
                        Nhưng lúc này đây tôi lại  luống cuống không ngờ.
                        Chừng như hiểu được những tâm sự ngổn ngang của tôi, anh ngồi nhích lại gần và kéo tôi vào sát bên anh.
                        - Anh thật hạnh phúc!
                        Anh thốt lên bên tai tôi câu nói đó.
                        Nước mắt tôi lại chảy dài trong đêm tối, tôi không muốn làm anh mất vui nên đã cố dằn lại nhưng vẫn không sao làm chủ được mình.
                        Nhưng kìa, trên má anh đang lăn dài hai dòng lệ!
                        Vậy là tôi ôm chặt lấy anh, không còn gì ngăn cách nữa.
                        Đêm đó chúng tôi ngồi bên nhau thật khuya, nhưng không nói với nhau nhiều. Mỗi người chúng tôi đều muốn lặng im để tận hưởng trọn vẹn cái cảm giác hạnh phúc tuyệt vời mà chúng tôi đã đem đến cho nhau.
                        Từ hôm đó tôi và anh thỉnh thoảng lại gặp nhau, đều vào những đêm tối, vì tôi và anh ban ngày đều phải đi làm, chỉ buổi tối mới rảnh rang.
                        Một lần anh chợt hỏi:
                        - Bây giờ em mơ ước nhất điều gì?
                        Tôi ngước nhìn anh thật lâu rồi trả lời:
                        - Em không định nói, nhưng anh đã hỏi thì em không giấu. Điều em mơ ước nhất bây giờ là… được làm vợ anh.
                        Anh lặng lẽ siết chặt tôi trong vòng tay.
                        - Nếu như… nếu như anh không phải là anh như hình hài này, em có còn ước mơ như vậy không em?
                        Anh hỏi.
                        Tôi tỏ vẻ ngạc nhiên:
                        - Sao anh lại hỏi  em câu đó? Dù hình hài anh có ra sao em vẫn yêu thương anh. Anh nhìn lại xem, hình hài em có khác gì ma quỷ đâu?
                        Nghe tôi nói anh cười thật buồn rồi bảo:
                        - Anh muốn biết, nếu… anh đúng là linh hồn trong bóng đêm, thì em sẽ thế nào?
                        Tôi ôm chặt lấy anh:
                        - Anh là người cũng được, là linh hồn cũng được, em luôn yêu thương anh, luôn mong muốn được làm vợ anh!
                        Anh nhìn thật sâu vào mắt tôi:
                        - Thật không em?
                        - Anh vẫn thường nói anh luôn hiểu rõ em mà? Chẳng lẽ điều này anh lại không hiểu đựơc?
                        Tôi hờn dỗi.
                        Anh đặt lên tóc tôi một nụ hôn:
                        - Không phải anh không hiểu, mà anh muốn được nghe chính em xác nhận điều đó với anh, anh muốn nghe em nói!
                        Tôi ngồi ngay lên, nhìn anh và bảo:
                        - Em nói thật lòng mình, dù anh có là ai, có như thế nào em vẫn một lòng thương yêu và muốn được làm vợ anh!
                        Anh mỉm cười sung sướng.
                        - Chúng mình cưới nhau, em đồng ý không?
                        Tôi bật khóc trước lời đề nghị bất ngờ của anh.
                        Ngay đêm đó anh đưa tôi đi chọn áo cưới.
                        Hôm sau tôi về nhà, định thưa với ba mẹ cho phép anh tới nói chuyện về ba mẹ để hỏi cưới tôi.
                        Tôi trình bày chưa xong thì ba tôi gạt đi:
                        - Ôi, tao nuôi mầy đến lúc đủ lông đủ cánh là tròn nghĩa vụ rồi, dứt nợ nần rồi! Giờ mầy muốn lấy ai, muốn theo ai thì mặc mầy, nhà này không quan tâm đâu. Tao với mẹ mầy cũng không rảnh mà đứng ra lo liệu cưới hỏi. Thôi, tụi mầy cứ dắt nhau đi đâu thì đi, làm gì thì làm, nhà này không dính dáng tới, đừng làm phiền gia đình này nữa.
                        Mẹ tôi cũng không hỏi một lời xem người tôi muốn lấy làm chồng là người như thế nào, bà chỉ khẽ thở phào:
                        - Vậy cũng may cho mầy rồi đó!
                        Tôi nghe tiếng em gái tôi nói với bà chị ở phòng bên cạnh:
                        - Không biết ông nào mặt mũi ra sao mà dám cưới bả làm vợ?
                        Tiếng chị tôi:
                        - Thì nồi nào vung nấy chứ mậy! Trời sanh Thị Nở cũng phải sanh thêm ra thằng Chí Phèo cho nó đỡ cô đơn chứ!
                        Tôi quay lưng đi nhanh ra cửa vẫn còn nghe tiếng cười của chị và em gái tôi đuổi theo sau lưng.
                        Thế là tôi với anh quyết định, ngày cưới của chúng tôi chỉ có hai đứa, không một ai khác nữa. Anh có vẻ rất vui khi thấy tôi đồng ý điều đó một cách nhanh chóng và vui vẻ.
                        Tôi cũng đồng ý với anh, sẽ tổ chức ở một quán ăn nhỏ vùng ngoại ô thành phố.
                        Tôi nôn nao hồi hộp đợi chờ ngày đó.
                        Vì muốn dành cho tôi sự bất ngờ nên anh không cho tôi biết địa điểm tiệc cưới diễn ra.
                        Tối hôm ấy, anh đến đón tôi trên một chiếc tắc xi có kiểu dáng lạ mắt, được kết hoa thật đẹp, mà người cầm lái lại chính là anh.
                        Anh bảo chiếc xe này anh mượn của một người bạn. Tôi và anh sẽ được sử dụng nó đến hết tuần này.
                        Lòng tôi ngập tràn hạnh phúc. Tôi xách theo va li đồ cưới cùng anh tiến ra ngoại ô thành phố.
                        Tuy anh gọi đó là một quám ăn nhỏ nhưng thật sự cách bày trí và không gian không khác gì một nhà hàng sang trọng. Chỉ có một điều hơi lạ là nơi đây không để đèn điện mà chỉ thắp nến. Người phục vụ cũng rất ít.
                        Cả khu vực đều vắng vẻ.
                        Thấy tôi có vẻ thắc mắc, anh mỉm cười:
                        - Đêm nay anh đã bao trọn gói chỗ này. Anh muốn chỉ có anh và em nơi đây mà thôi, em ạ!
                        Niềm hạnh phúc trong tôi càng được dâng cao hơn nữa.
                        Tôi xúng xính trong chiếc áo cưới trắng tinh, mái tóc xác xơ thường ngày của tôi được buộc túm lên giữa đỉnh đầu, anh bảo như thế trông tôi rất dễ thương!
                        Chắc có lẽ không có cái đám cưới thứ hai nào giống như thế! Cả một nhà hàng lung linh ánh nến, cô dâu không phấn son ngây ngất bên chú rể hiền hòa mắt ngời hạnh phúc.
                        Một đám cưới ngoài cô dâu, chú rể không có lấy một người thứ ba!
                        Nhưng tôi đâu cần gì nữa? Cuộc đời tôi có được như thế này cũng đã vượt xa mơ ước rồi.
                        Tiếng nhạc dặt dìu. Tôi như kẻ mộng du đang bay trong một bầu trời hạnh phúc tuyệt vời.
                        Sau khi thực hiện đủ các thủ tục, và đã uống với nhau cạn mấy ly rượu, anh dìu tôi vào phòng tân hôn.
                        Căn phòng nằm ngay trong nhà hàng, được trang trí thật thanh nhã nhưng rất sang trọng và ấm cúng.
                        Anh có vẻ mệt vì uống rượu hơi nhiều nên trong lúc tôi thay áo quần thì anh đã nằm vật ra giường.
                        Khi tắm xong, tôi bước ra ngoài định gọi anh đi tắm thì thấy anh đã ngủ nên thôi không gọi nữa.
                        Đứng trước gương, tôi nhìn thấy tôi trong đó thật rạng ngời. Tôi thấy hôm nay hình như mình đẹp lên gấp bội.
                        Nhưng ơ kìa, anh đâu rồi? Tôi nhìn vào kiếng chỉ thấy chiếc giường chơ vơ hai chiếc gối.
                        Tôi quay lại, anh vẫn nằm đó!
                        Tôi nhìn trở vào kiếng thì vẫn chỉ chiếc giường không có người nằm.
                        Một cảm giác gai gai len đến trong tôi.
                        Tôi nhẹ nhàng đến bên anh, ngồi cạnh anh rồi nhìn vào tấm gương trước mặt.
                        Trong gương, trên giường chỉ có mỗi một mình tôi!
                        Tôi bàng hoàng và cảm thấy đau thắt nơi ngực trái.
                        Anh ơi! Anh thật sự chỉ là một linh hồn trong bóng đêm sao anh?
                        Những gì anh nói với em hôm trước đều là sự thật phải không anh?
                        Nước mắt tôi rơi ra, lòng tôi đau thắt lại. Nhưng tôi hoàn toàn không sợ hãi.
                        Tôi khóc, tôi đau lòng vì quá thương anh.
                        Tôi nằm xuống bên cạnh, nhẹ nhàng xoay người choàng tay qua người anh.
                        Dù tôi đã cố không làm anh thức giấc, nhưng khi vòng tay vừa chạm vào anh đã mở bừng mắt nhìn tôi.
                        - Sao em lại khóc?
                        Anh ngạc nhiên khi thấy nước mắt lăn dài trên má tôi.
                        Tôi dụi đầu vào ngực anh thổn thức:
                        - Em thương anh quá! Dù anh chỉ là một linh hồn vất vưởng, em vẫn yêu thương anh…
                        Anh ngồi dậy nhìn tôi đăm đăm:
                        - Em biết rồi sao?
                        Tôi gật đầu và chỉ tay vào tấm gương bên cạnh.
                        Anh hiểu ra và ôm đầu khổ sở.
                        - Anh xin lỗi em, đáng lẽ ra anh không nên… không nên đưa em vào hoàn cảnh này…
                        Tôi ôm chặt lấy anh:
                        - Không! Không anh ơi! Em đang hạnh phúc, rất hạnh phúc! Em cảm ơn vì tất cả những gì anh đã làm cho em…
                        - Nhưng… anh chỉ là một bóng ma…
                        Anh đau đớn nói.
                        - Em nói với anh rồi mà, anh có là gì thì em vẫn là vợ của anh!
                        Tôi khẳng định lại lần nữa và tựa vào anh tin tưởng.
                        - Em có trách anh tại sao lại giấu em không?
                        Anh hỏi.
                        Tôi mỉm cười:
                        - Có lẽ anh không nói vì anh sợ em sẽ sợ hãi khi biết anh không phải là người? Nhưng anh ạ, con người trên trần gian này đã đối xử với em ra sao thì anh biết rồi đó, em cần tình thương, dù là tình thương của ma, em vẫn thấy mình hạnh phúc vô biên… Nhưng em muốn biết, tại sao anh chết?
                        - Anh xin lỗi vì đã chưa kể thật hết với em. Sau thời gian anh vô tù nhận tội thay cho cha mẹ, anh được trả tự do sớm vì đã có nhiều biểu hiện tốt trong quá trình cải tạo, đồng thời anh đã cứu được hai bạn từ khác khỏi bị dòng nước lũ cuốn đi. Về nhà, anh tưởng ba mẹ sẽ đối xử với anh tốt hơn một chút, nhưng không ngờ, cả mẹ và ba đều cấm cửa không cho anh vào. Họ bảo họ không thể chứa chấp một thằng mới ra tù, không thể chứa chấp một phần tử xấu của xã hội. Quá đau đớn, anh lang thang ra đường trong tình trạng đói khát và tinh thần suy nhược. Vì đầu óc mải nghĩ lung tung, anh đã bị một chiế xe đâm phải và chết ngay tại đó. Ba mẹ anh vẫn nhẫn tâm không đem xác anh về. Cuối cùng, người ta phải đem chôn anh ở một nơi hoang vắng…
                        Anh buồn bã kể.
                        - Có phải hình nền trên blog anh đúng là nơi an nghỉ của anh?
                        Anh gật đầu xác nhận.
                        - Cuộc đời này đã bạc đãi chúng ta, rất may là chúng ta đã gặp được nhau. Em hứa sẽ yêu thương anh hết lòng để bù đắp những gì mà anh đã từng mất mát…
                        Tôi vuốt ve cánh tay anh.
                        Đêm tân hôn của chúng tôi không vì chuyện tôi phát giác ra anh không phải là người mà bị phá vỡ, trái lại nó càng giúp chúng tôi hiểu nhau một cách sâu sắc hơn nữa.
                        Bây giờ, tôi càng nhận rõ ra một điều, một khi con người đã tàn ác thì còn đáng sợ hơn ma quỷ gấp vạn lần.
                        Cho dù anh là ma, trong cái thân xác mà tôi đang ôm ấp thương yêu không còn luân chuyển dòng máu đỏ, nhưng anh đã thật sự sưởi ấm cuộc đời tôi, anh đã đem đến cho tôi một cuộc sống tràn đầy ý nghĩa.
                        Thì có sá gì dẫu anh không phải là người?
                        Sáng hôm sau, khi tôi thức giấc thì anh đã đi vắng, để lại trên bàn mảnh giấy nhỏ: “Anh xin lỗi vì không nỡ đánh thức em dậy! Khi mặt trời lên, tất cả phải trở về đúng vị trí của nó em ạ. Đừng giận anh, tối nay anh sẽ đến. Hôn em”
                        Nước mắt rưng rưng vì thương anh. Tôi bỗng giật mình khi nhìn lại xung quanh. Nơi đây không phải là căn phòng sang trọng mà tối hôm qua tôi đã thấy, đây chỉ là một căn nhà nhỏ có lẽ đã bỏ hoang từ lâu vì mạng nhện giăng đầy cả lối đi, trên nền nhà, bàn ghế đều phủ một lớp bụi dày.
                        Tôi vội vã đứng lên thay quần áo rồi xách chiếc va li ra cửa.
                        Vừa bước ra sân, tôi bắt gặp một chiếc tắc xi chạy trờ tới, hoàn toàn không phải chiếc xe kết hoa tối vừa rồi anh chở tôi đi.
                        - Thưa cô, có phải cô đang cần về đường X, quận Y trong thành phố?
                        Tôi ngạc nhiên, hoang mang không biết có phải là anh đang đùa giỡn với tôi không:
                        - Sao anh biết tôi cần về đó?
                        Người tài xế mỉm cười:
                        - Dạ, lúc nãy ông xã cô dặn tôi như vậy. Anh ấy bận việc gấp nên không đi đón cô được nên gọi xe tôi.
                        Người tài xế đỡ lấy chiếc va li rồi mở cửa xe cho tôi bước vào.
                        Dù tôi rất buồn vì không được đi cùng anh, nhưng tôi cũng thật ấm lòng về sự quan tâm mà anh dành cho tôi.
                        Anh sợ ở nơi hoang vu vắng vẻ này, tôi không thể trở về thành phố bằng cách nào nên mới đón xe giúp tôi như vậy.
                        Hôm trước tôi đã xin nghỉ phép mấy ngày, nhưng không nói cho ai biết là tôi nghỉ để lấy chồng.
                        Bây giờ về nhà, không có anh, tôi thấy ngày thật dài đằng đẵng. Tôi không biết làm gì để thời gian nhanh chóng trôi qua, để tôi lại được gặp anh vào buổi tối.
                        Tôi mở máy tính và lên mạng để vào blog của mình. Tôi dự định sẽ viết một entry mới kể về niềm hạnh phúc vô biên mà tôi đang có trong tay.
                        Nhưng thật lạ lùng, blog của tôi hôm nay đã hoàn toàn đổi khác, hình như đó là sự giao hòa giữa blog tôi và blog anh.
                        Hình avatar không còn là một bóng người lầm lũi trong đêm nữa mà bây giờ đã có hai bóng người nắm chặt tay nhau.
                        Hình nền của blog tôi cũng có vẻ sáng lên khác hẳn ngày thường.
                        Tôi vội vàng chạy sang blog anh, thì kia rồi, blog anh giống y hệt blog tôi. Hai chúng tôi đã thật sự giao hòa, bóng đêm và linh hồn đã thật sự hòa quyện vào nhau.
                        Tôi sung sướng nhìn kỹ lại làn nữa. Có một entry mới vừa xuất hiện, chỉ một câu duy nhất:
                        “Cảm ơn cuộc đời đã cho chúng mình tìm được nhau!”
                        ****
                        Chúng tôi sống với nhau gần một tháng trong tình trạng đó. Tức là ban ngày anh luôn luôn vắng mặt, anh chỉ có mặt bên tôi khi bóng tối đã bao trùm lên vạn vật mà thôi.
                        Tôi ngày một xanh xao vàng vọt. Những người ở công ty nhìn tôi ái náy. Nhưng tôi không quan tâm, thân xác đối với tôi không nghĩa lý gì nữa, tôi chỉ cần tâm hồn tôi được thảnh thơi, vui sướng mà thôi.
                        Nhưng một hôm anh đến, anh không cười đùa với tôi nữa mà cứ lặng lẽ nhìn tôi rồi lặng lẽ thở dài.
                        - Anh, có việc gì sao anh?
                        Tôi lo lắng.
                        Anh phân vân một lúc lâu rồi nói:
                        - Anh rất thương em. Và anh cũng biết em thương anh nhiều lắm, nhưng… có lẽ chúng mình không thể sống như vầy được nữa đâu em!
                        - Sao thế anh?
                        Tôi run run hỏi.
                        Anh kéo tôi lại gần, nắm lấy cánh tôi trìu mến:
                        - Anh là hồn ma, hồn ma thì không thể chung đụng với con người. Nhưng vì chúng mình quá thương nhau, chúng mình đã vượt qua lề luật. Em nhìn xem em nè, cơ thể em đã tiều tụy rất nhiều do em tiếp xúc với phần âm nhiều quá. Nếu mình không tách rời nhau ra… anh e có một ngày…
                        Anh nói tới đó rồi im bặt.
                        Tôi đã biết anh muốn nói gì nên vội tiếp lời anh:
                        - Có phải anh lo sợ một ngày không xa, em cũng sẽ lìa đời?
                        Anh khẽ gật đầu.
                        Tôi sung sướng reo lên:
                        - Đó chính là điều mà em chờ đợi đó anh! Em vẫn muốn mình thật sự sống bên nhau, cả ngày lẫn đêm. Nơi nào có anh là có em. Em không muốn hàng ngày anh phải lang thang vất vưởng đâu đó để đợi đêm về mới tìm về được nhà mình. Anh đừng lo cho em điều đó! Em nhất định không lìa xa anh, không bao giờ mình lìa xa nhau, nghe anh?
                        - Anh không muốn em làm hại chính bản thân mình!
                        Anh nhìn tôi đăm đắm.
                        Tôi cũng quay lại nhìn thật lâu rồi nói:
                        - Em đã nhất đinh vậy rồi, anh đừng ngại ngần gì nữa hết.
                        Nhưng anh có vẻ tự lắm. Tôi biết anh không nỡ nhìn thấy tôi suy kiệt từng ngày.
                        Trong đầu tối lúc ấy đã lóe lên một ý nghĩ. Tôi cố gắng quay đi và không nghĩ nhiều tới nó nữa vì sợ anh sẽ đoán ra.
                        Đêm hôm ấy chờ khi anh ngủ, tôi len lén ngồi lên lấy ra hộp thuốc ngủ lâu nay tôi vẫn thường mang theo bên mình và đổ ra uống hết.
                        Xong xuôi, tôi trở lại nằm bên anh, thư thái và hạnh phúc!
                        Giờ đây chúng tôi đang sống bên nhau những ngày tháng thật tươi đẹp. Trang blog của chúng tôi không khép lại mà luôn để mở để tất cả các bạn có thể đọc được, đọc và hiểu chúng tôi, hiểu những người bất hạnh khác đã và đang sống trên đời.
                        Entry cuối cùng này tôi đã kể lại toàn bộ cuộc đời và tình yêu của chúng tôi.
                        Bây giờ, chúng tôi là một cặp vợ chồng ma vô cùng hạnh phúc.
                        ***
                        Vy thừ người khi đọc đến dòng chữ cuối cùng của trang blog. Một trang blog kỳ lạ luôn chấp chới mỗi lúc Vy sign in blog.
                        Cái avatar hình hai người dắt tay nhau đi trong đêm tối, cái hình nền thấp thoáng lờ mờ một ngôi mộ đất cứ luôn ám ảnh Vy.
                        Và đêm nay cô đã đọc hết trang blog đó.
                        Vy chợt nhận ra tình yêu của họ đẹp biết bao nhiêu.
                        Vy porward đường link trang blog ma đó cho bạn bè với lời giới thiệu: Một mối tình đẹp, một câu chuyện buồn để ta soi lại bản thân mình.
                        Có người tin đó là sự thật, có người không tin, bảo rằng đó chỉ là trò chơi của một ai đó, nhưng với riêng Vy, Vy biết ơn trang blog đó, nó giúp cho Vy nhận ra sai lầm của mình.
                        Lần đầu tiên Vy ôm đứa cháu của mình vào lòng, đặt lên má nó một nụ hôn âu yếm. Đứa bé dị dạng do anh trai Vy nhiễm chất độc màu da cam từ nhiều năm trước…
                        Hết
                        Nguyễn Thị Mộng Thu 
                        <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:38:59 bởi nguyenthu >
                        #72
                          nguyenthu 10.08.2009 22:05:03 (permalink)
                          MA DƯỚI CHÂN CẦU
                           
                          Nghỉ hè năm nay tôi không được ba mẹ đưa về quê nội ở Quảng Bình như dự tính, vì công việc ở công ty ba mẹ đang gặp nhiều rắc rối cần phải giải quyết.
                          Ở nhà một mình suốt ngày vừa buồn vừa chán, mà mẹ cũng không yên tâm để tập trung vào công việc. Vì vậy khi nghe dì Út rủ về quê chơi với con dì cho có bạn, tôi mừng còn hơn bắt được vàng, ba mẹ cũng đồng ý ngay lập tức.
                          Nhà dì Út nằm ở một huyện vùng sâu của miền Tây Nam bộ. Xuống xe đò, tôi phải lội bộ gần ba cây số rồi đi thêm một chặng đò nữa mới tới nhà dì. Aáy thế mà tôi chẳng thấy mệt mỏi gì cả!
                          Vốn được sinh ra và lớn lên tại thành phố ồn ào đông đúc, bước ra cửa là lên xe, hiếm có dịp nào tôi được chạy nhảy tung tăng trên con đường quê rợp bóng mát của những vườn dừa, vườn nhãn và các loại cây ăn trái khác, hiếm có khi nào tôi được bềnh bồng trên sông nước dịu êm như thế này.
                          Đò vừa cập bến là thằng Tài, con Huệ mấy đứa em con dì đã chạy ùa ra đón rước.
                          Mà cũng mắc cười thiệt, tôi giữ vai anh của chúng nó, vậy mà ngay khi đặt chân lên vùng đất quê hương xanh mát này tôi lại phải răm rắp làm theo lời chỉ dẫn của bọn nó, kể cả bé Huệ, con gái út của dì tôi mới vừa tám tuổi.
                          Mấy ngày đầu mới về, tôi rất thích được tắm sông, mò bắt ốc dừa đeo trên các thân cây dừa nước dọc hai bên bờ. Buổi tối thì theo bọn thằng Tài với mấy đứa trong xóm đi cắm câu, soi ếch vui thiệt là vui.
                          Sau đó, vào những buổi trưa, chờ cho dì dượng ngủ yên, ba anh em chúng tôi lại len lén tụt khỏi giường, đi rảo trên khắp các nẻo đường tìm bắn những con chim se sẻ.
                          Nói là bắn cho oai vậy thôi, chứ bé Huệ đời nào cho phép chúng tôi làm vậy! Nó bảo:
                          - Chim hót rất hay, các anh bắn chết nó, vừa tội nghiệp, vừa không có con gì hót mỗi trưa, quê mình sẽ buồn lắm.
                          Vì vậy, mặc dù cũng trang bị đầy đủ giàn thun và những viên đạn được vo bằng đất sét, nhưng đi cả buổi cũng chỉ là đi dạo loanh quanh, ngắm chim giương ná cho thỏa thích vậy thôi, chứ có bao giờ chúng tôi hạ sát được chú chim nào đâu!
                          Nhưng tôi thì lại khoái cái cảm giác được xách toòng teng trên tay một chú chim nào đó, để minh chứng cho tài “thiện xạ” của mình. Vì thế cho nên một buổi chiều nọ, tôi rủ thằng Tài, hai đứa lén con Huệ đi dài theo con đường làng để tìm những chú chim ngơ ngác.
                          Có lẽ đoán trước được những hiểm hoạ đang rình rập mình hay sao mà không có chú chim nào chịu đậu trên cành cho tôi thử nghiệm! Hai đứa đi tới đầu cầu, ranh giới giữa làng này và làng bên kia, thì thằng Tài níu tay tôi lại, bảo:
                          - Thôi, anh ơi! Mình đừng qua đó!
                          - Sao thế?
                          Tôi nhìn nó ngạc nhiên hỏi.
                          - Tại vì… tại vì cây cầu đó có ma… Em sợ lắm!
                          Thằng Tài vừa trả lời tôi, vừa lấm lét nhìn về phía cây cầu.
                          Tôi bật cười:
                          - Trời đất ơi, tưởng gì! Em đừng sợ, làm gì có ma mà sợ?
                          Thằng Tài nghiêm mặt:
                          - Anh đừng có đùa, ở đây ai ai cũng biết chuyện này. Nếu không tin, chút nữa về nhà anh hỏi mẹ em đi!
                          Nhìn bộ dạng của nó, tôi không nỡ chế nhạo nên gật gù:
                          - Ừ, vậy em kể cho anh nghe đi!
                          Nó tằng hắng mấy cái liên tục rồi mới bắt đầu:
                          - Em nghe người ta kể lại, cách đây lâu lắm rồi, có một người đàn bà người làng bên kia, trong lúc giận chồng dẫn đứa con gái nhỏ ba tuổi ra ngồi ở chân cầu. Giữa lúc người mẹ đang đau khổ khóc lóc một mình, thì đứa bé vẫn vô tư chạy nhảy. Khóc thỏa thuê, chừng sự nhớ tới đứa con, người đàn bà hoảng hốt tìm gọi khắp xung quanh mà vẫn không thấy nó. Bà lên tiếng kêu cứu, dân cả làng đổ xô ra, người ta lặn xuống sông thì mò được đứa bé, nhưng nó đã chết rồi! Quá đau đớn, người đàn bà gần như điên loạn, ngày nào bà cũng lang thang ra sông để tìm con. Rồi một hôm không thấy vợ quay về, người chồng cùng dân làng lại ra bến sông này tìm kiếm thì thấy xác người vợ trôi lềnh bềnh trên mặt nước. Từ đó, hồn người vợ cứ quẩn quanh ở bến sông này để tìm con, đã rất nhiều người gặp rồi, em sợ lắm!
                          Tôi bắt đầu tò mò:
                          - Có thật thế không? Hay là người lớn kể vậy để nhát bọn con nít?
                          Thằng Tài nghiêm nghị:
                          - Có thiệt đó anh, nhiều lần em lén nghe người ta nói với nhau, họ không có dọa mình đâu! Ở đây người lớn cũng vẫn sợ.
                          - Nhưng ma thì ban đêm mới hiện ra, giờ còn là ban ngày mà em sợ gì chứ?
                          Tôi hỏi thằng Tài.
                          Nó rụt đầu, lè lưỡi:
                          - Tại anh không biết đó thôi, con ma đó hiện ra bất kể giờ giấc, em không bao giờ dám đi qua lối này một mình.
                          - Thì anh có bảo em đi một mình đâu? Đi với anh mà!
                          Tôi thúc giục.
                          Thằng Tài vẫn một mực từ chối. Nó xoay lưng lại, dợm bước trở về. Tôi đành phải xuống nước:
                          - Ừ thì thôi vậy! Anh em mình đi theo hướng này!
                          Thế là tôi với thằng Tài bọc theo lối khác về nhà. Trên đường đi, cũng mấy lần gặp chim đậu trên cành, nhưng chẳng lần nào tôi bắn trúng. Rốt cuộc, dù không có bé Huệ đi theo, hai đứa tôi vẫn tay không trở về. Thằng Tài vừa đi vừa nhìn tôi cười tủm tỉm. Chắc trong bụng nó đang thầm cười ông anh thuộc dòng họ “nổ” này, vì mấy hôm nay tôi luôn khoe với nó tôi có tài thiện xạ, bách phát bách trúng.
                          Mắc cỡ với thằng Tài, tôi làm bộ nói lãng qua chuyện khác:
                          - Anh không tin chuỵên ma em kể lúc nãy đâu! Để mai anh đi qua đó thử xem sao?
                          Thằng Tài xanh mặt:
                          - Anh nói thiệt hả?
                          - Ừ, thiệt chứ!
                          Tôi vênh mặt lên. Mình cũng phải gỡ gạt chút đỉnh cái vụ bắn tỉa này chớ, đâu thể để hình ảnh ông anh thành phố bị… hạ thấp trước mắt thằng em quê mùa? Ít nhất, mình cũng phải làm một điều gì đó cho nó phải nể phục mình sát đất.
                          Mà ở đây, có cái trò nào mình hơn được nó đâu? Thôi thì đành phải lấy cái sự gan dạ trời sinh của mình ra “chơi” với nó vậy!
                          Tối đó, tôi rủ thằng Tài, con Huệ và mấy đứa khác trong làng đi qua làng kế bên chơi điện tử. Anh em thằng Tài không đứa nào dám đi theo, chỉ có tôi cùng một vài đứa “cứng cựa” khác. Tôi còn tuyên bố, tôi sẽ dẫn đầu cả đám khi đi qua chiếc cầu đó.
                          Chúng tôi cả đám rồng rắn đi ra khỏi làng, tiến về phía chiếc cầu. Tôi hùng dũng tiến lên phía trước, cả đám nhìn tôi nể phục và vội vã chạy theo.
                          Tất cả đều bình thường, không có gì khác lạ. Tôi len lén thở phào nhẹ nhõm.
                          Qua làng bên, chúng tôi chơi điện tử một lúc rồi chui vô quán chè ăn mỗi đứa một ly. Tôi không quên mua hai bịt đem về cho thằng Tài, con Huệ.
                          Bận quay về, chúng tôi chẳng đứa nào quan tâm đến chiếc cầu và những chuyện ma quái xung quanh nó, cả đám vừa đi vừa ríu rít nói cười đủ thứ chuyện trên trời dưới đất.
                          Đi gần tới bờ sông, tôi trông thấy phía trước có người nên dấn bước tiến lên.
                          Người đi trước đi tới giữa cầu bỗng đứng khựng lại nhường đường cho cả đám chúng tôi. Khi chúng tôi đã qua hết cây càu, bỗng người đó gọi với theo:
                          - Các cháu ơi, các cháu có thấy con cô đâu không?
                          Tôi quay lại nhìn thì… trời ơi! Dưới ánh trăng sáng rỡ, tôi thấy rõ ràng đó là một người đàn bà có gương mặt vô cùng kinh khiếp, một gương mặt nhầy nhụa máu thịt với hai con mắt thòng xuống hai bên cánh mũi.
                          - áaaaaaaaaaaaaaaa!!
                          Tôi hét lên rồi co giò chạy thục mạng, cả đám con nít chạy theo tôi mà không hiểu lý do gì.
                          Về tới nhà, tôi vẫn còn run bần bật. Dì dượng tôi phải hỏi mãi tôi mới lập cập kể lại sự việc.
                          Dì tôi trách:
                          - Đêm hôm con đi chơi làm gì không biết! Đi mà không xin phép dì dượng, lỡ có chuyện gì, dì biết ăn nói sao với ba mẹ con đây?
                          Thằng Tài, con Huệ đang ngủ, nghe ồn ào nên lồm cồm ngồi dậy. Nhìn thấy dáng vẻ tôi lúc ấy cả hai đã đoán được điều gì rồi.
                          Nhưng thằng Tài, con Huệ không đứa nào cười nhạo tôi như tôi nghĩ mà trái lại chúng tỏ ra lo lắng cho tôi nhiều lắm.
                          Tôi thấy ân hận vô cùng. Chỉ vì một chút anh hùng rơm mà tôi đã làm cho cả nhà lo lắng và bản thân mình ra nông nỗi thế này….
                          Dì ôm tôi vào lòng:
                          - Thôi, cũng may là con không việc gì! Mấy hôm nay dì sợ con sợ nên không dám nói với con về chuyện con ma dưới chân cầu ấy. Thường những người lạ đi qua đó đều bị nó chận lại hỏi thăm về đứa con. Có người còn bị nó dụ lội xuống sông tìm con giúp nó nữa đó! Con vậy là may rồi! Từ nay nhớ đừng đi đâu ban đêm tới khu vực đó nữa nghe không?
                          Suốt đêm hôm đó hễ nhắm mắt lại là tôi lại gặp ác mộng. Gương mặt gớm ghiếc của người đàn bà kia cứ chập chờn trước mắt tôi khiến tôi vô cùng sợ hãi.
                          Sáng hôm sao, tôi mếu máo xin dì đưa tôi trở về thành phố.
                          Thằng Tài, con Huệ rất buồn vì phải chia tay tôi sớm hơn dự định. Tôi cũng bùi ngùi không kém chúng nó, nhưng tôi không thể nào ở lại đây được nữa vì tôi quá sợ hãi rồi.
                          Trước khi đưa tôi về, dì Út đã vắt mấy vắt cơm đem ra bờ sông cúng vái vong hồn người đàn bà đó, mong bà ta đừng bám theo tôi.
                          Từ đó, tôi không bao giờ tỏ ra anh hùng nữa!
                          Hết
                          Nguyễn Thị Mộng Thu 
                          <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:39:57 bởi nguyenthu >
                          #73
                            nguyenthu 10.08.2009 22:06:36 (permalink)
                            MẸ GHẺ - CON CHỒNG
                             
                            Nhung gấp xong mớ quần áo đứng lên vươn vai than thở:
                            - Không hiểu sao tự nhiên mình lại đâm đầu về đây để làm Osin cho mấy cha con nhà này? Đúng là nợ báo oan gia từ kiếp trước…
                            Đồng đang ngồi đọc báo, nghe vợ cằn nhằn, anh bực bội ném tờ báo lên bàn đứng dậy bỏ ra ngoài sân.
                            Nhung cố tình nói lớn hơn cho Đồng nghe rõ:
                            - Cũng vì mình ngu dại, nghe lời đường mật của người ta nên giờ mới khổ thân thế này đây!
                            Không thể nín nhịn được nữa, Đồng quay vào rít qua kẽ răng:
                            - Cô nói gì nói lại tôi nghe xem sao? Cô khổ là khổ thế nào? Ăn sung mặc sướng, nhà cao cửa rộng… cô còn đòi hỏi gì nữa đây?
                            Chỉ chờ có vậy, Nhung lập tức lu loa kể lể:
                            - Vậy là anh nói tôi sung sướng lắm sao? Trời ơi ngó xuống mà coi nè trời! Suốt ngày tôi phải lo lắng phục vụ cho cha con anh, phải nhân nhượng, chìu lòn hai đứa con anh… Sao cái số tôi lại ra nông nỗi như vầy. Ngày trước biết bao người đeo đuổi, không hiểu tôi ăn bùa mê thuốc lú gì mà lại đâm đầu vào đây…
                            Đồng đập tay xuống bàn:
                            - Cô nói cho tôi nghe đi, cô muốn tôi phải làm sao đây?
                            Nhung không trả lời câu hỏi của Đồng mà lại nói loanh quanh:
                            - Anh có biết là tôi đã phải cố gắng đến mức nào chưa? Vậy mà con anh có tôi là mẹ nó đâu? Người ngoài có ai thông cảm với tôi đâu? Họ cứ đem câu “Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời mẹ ghẻ lại thương con chồng” ra mà khích bác hai đứa nhỏ…
                            - Nhưng cả hai đứa, có đứa nào dám hỗn hào gì với cô hay không? Sao cô lại ăn nói vô căn cứ như vậy?
                            Đồng tức giận.
                            - Tại anh không biết đó thôi, trước mặt anh bọn nó giả vờ ngoan ngoãn hiền lành, nhưng khi anh vắng nhà, lại đối xử với tôi không ra gì, lại còn đi rêu rao khắp làng trên xóm dưới tôi thế này thế khác…
                            Nhung vừa khóc vừa nói.
                            Đồng cười gằn:
                            - Tôi chưa từng chứng kiến sự hỗn hào của hai đứa nhỏ, tôi cũng chưa từng nghe làng xóm nói gì… Cô có tự nghĩ ra không vậy?
                            Nhung tức lồng lên:
                            - A… anh hay thật! anh nói tôi đặt điều vu khống cho con anh à? Trời ơi là trời…
                            - Nói tóm lại, bây giờ cô muốn tôi làm sao cho cô vừa lòng đây? Cô nên nói rõ ra đi để khỏi ấm ức trong lòng nữa?
                            Đồng chán nản hỏi.
                            Nhung không nói gì chỉ ôm mặt khóc tức tưởi.
                            - Dù cô không nói ra tôi cũng biết, ý cô muốn là tôi phải nhường quyền nuôi dưỡng hai đứa bé lại cho ngoại nó, đúng không? Tôi xin cô, cô muốn gì tôi cũng có thể chìu cô được hết, riêng việc này thì dứt khoát là không! Tôi là cha, tôi phải có trách nhiệm nuôi dưỡng con tôi một cách đàng hoàng tử tế, tôi không thể để các con tôi sống cảnh mồ côi được.
                            Đồng gằn mạnh từng tiếng.
                            Nhung ngước đôi mắt sũng nước nhìn Đồng, hạ giọng:
                            - Vậy là… nếu phải chọn lựa giữa hai đứa nhỏ và em, anh sẽ chọn hai đứa nhỏ, đúng không?
                            Đồng ngồi xuống cạnh vợ, buồn rầu nói:
                            - Tại sao em không thông cảm cho anh hả Nhung? Em đừng đẩy anh vào chỗ khó xử…
                            Nhung lau nước mắt, nói với giọng lạnh tanh:
                            - Sao trước đây, khi ngỏ lời với em anh lại bảo rằng chỉ chăm sóc con bé vài tháng, khi nào nó cứng cáp khỏe mạnh anh sẽ để ngoại nó đón về? Anh biết em không quen cực khổ, không quen nuôi dạy trẻ con mà?
                            Đồng nhìn Nhung như van lơn:
                            - Thì anh đã bảo em thuê người về chăm lo cho chúng, tại em không đồng ý đó thôi!
                            Nhung cười nhạt:
                            - Em không quản ngại khó khăn vất vả, ngày đêm lo lắng quan tâm, vậy mà còn không thoát khỏi mấy tiếng mẹ ghe con chồng. Nếu thuê người khác về chăm sóc chúng, em còn bị xã hội bêu rếu đến mức nào đây? Em thấy mọi việc không có gì khó giải quyết. Anh vẫn có thể làm tròn bổn phận người cha khi hai đứa nhỏ về bên ngoại. Ở đó nó có ông bà ngoại, có người dì lớn tuổi góa chồng, mà người ta thường nói dì cũng như mẹ, anh không biết sao? Sống trong môi trường đó nó còn được phát triển tốt hơn nữa kìa…
                            Đồng thở dài:
                            - Em thử đặt mình trong hoàn cảnh của anh xem sao. Lúc đầu anh cũng có ý định đưa các con về bên ngoại, nhưng cái lần con bé Hạ bị bệnh, trong cơn mê sảng nó không ngừng kêu van: “Ba ơi, ba đừng bỏ chúng con… ba đừng đuổi chị em con đi…”. Từ ngày đó anh biết mình không thể xa chúng nó được. Em thương anh, xin hãy chia sẻ cùng anh nỗi khó khăn này…
                            Nhìn thấy thái độ dứt khoát của Đồng, Nhung biết dù có làm mình làm mẩy đến đâu cũng không đạt được kết quả như ý muốn, vì vậy cô cố gắng kìm nén lòng mình lại.
                            Đặt tay lên tay Nhung, Đồng khẽ nói:
                            - Xin em tha lỗi cho anh! Đôi lúc em làm nóng giận nên nói năng không giữ lời được, chứ anh hiểu em không phải là một kẻ ác tâm. Anh biết em cũng bị nhiều áp lực… Thôi thì vì anh, vì tình yêu của vợ chồng mình em và anh cùng nhau cố gắng vượt qua tất cả, nghe Nhung? Anh sẽ luôn nhắc nhở hai con phải thương yêu kính trọng em như mẹ ruột. Em yên tâm đi, rồi mọi việc đâu sẽ vào đấy hết thôi.
                            Nhung gục đầu lên vai Đồng thút thít khóc:
                            - Em chấp nhận khổ cực, chỉ xin anh hiểu cho em, hiểu được những nỗi khổ mà em phải mang vác trên người… Em sợ dư luận bên ngoài tác động đến anh, rồi một ngày nào đó anh sẽ coi em như một người mẹ ghẻ tầm thường độc ác…
                            Đồng nghiêm mặt nói:
                            - Em không được nghĩ bậy! Người ta có nói gì mặc kệ người ta, em đừng thèm quan tâm tới. Thói đời vẫn vậy mà em, họ thích thóc mách chuyện nhà người khác, kích động người này người khác khiến gia đình xào xáo lên thì họ mới có chuyện mà đàm tiếu tiếp tục chứ! Vợ anh thế nào anh hiểu, em đừng lo!
                            Đồng dỗ dành thêm chút nữa, thấy vợ đã nguôi ngoai, anh đứng lên xoa tay vào bụng cười cười:
                            - Bụng anh đang biểu tình đây này em ơi…
                            Nhung nhoẻn cười đi xuống bếp dọn cơm.
                            Đồng đứng nhìn theo vợ khẽ lắc đầu mỉm cười. Anh biết Nhung tính tình trẻ con nông nỗi, hay cằn nhằn nhưng thật lòng thật dạ yêu thương anh.
                            Ngày ấy, khi Mai, vợ Đồng đột ngột qua đời vì tai biến, anh những tưởng mình sẽ ở vậy suốt đời, sẽ không còn yêu ai được nữa. Thế nhưng không lâu sau Đồng tình cờ gặp Nhung và đã yêu say mê cô từ giây phút ban đầu.
                            Nhỏ hơn Đồng mười hai tuổi, Nhung không đẹp lắm nhưng rất có duyên nên có không ít những chàng trai đeo đuổi. Ấy thế mà Nhung lại bằng lòng về làm vợ Đồng, một gã đàn ông góa vợ, có hai đứa con riêng và lớn hơn mình đúng một con giáp. Đồng biết đó là một sự hy sinh rất lớn của Nhung.
                            Mỗi lần đến chơi nhà Đồng, hai đứa bé luôn quấn lấy Nhung và cô cũng tỏ ra rất mực thương yêu chìu chuộng chúng. Đồng những tưởng khi đã sống cùng một nhà, niềm vui sẽ được nhân lên.
                            Ấy vậy nhưng khi đã chính thức thành chồng vợ thì mọi việc lại không êm đẹp. Hình như những ngày hạnh phúc của họ rất ngắn ngủi, còn lại chỉ là sự gượng gạo, nín nhịn mà thôi.
                            Đồng tự nhủ mình sẽ cố gắng quan tâm vợ nhiều hơn nữa để Nhung không cảm thấy tủi thân, nhưng tính Nhung hay cằn nhằn, mai mỉa, và điều đó khiến Đồng nhiều phen điên tiết.
                            Trong thâm tâm, Đồng nghĩ Nhung không vui vì phải vất vả lo toan cho hai đứa con chồng, phải chịu đựng dư luận bàn ra tán vào và nhất là không được hưởng trọn vẹn tình cảm vợ chồng son như cô hằng mong muốn. Cũng đúng thôi, một cô gái trẻ vừa mới lấy chồng lại phải mang trên vai gánh nặng thì làm sao Nhung không khó chịu cho được? Nhưng Đồng tin, Nhung chắc chắn sẽ vượt qua được hết vì tình yêu hai người dành cho nhau.
                             
                            ***
                            - Hai đứa học hành chưa mà ngồi đây xem ti vi hoài vậy? Thôi, tắt dẹp, lên học đi!
                            Nhung vừa nói vừa bấm remote khiến tivi tắt phụt.
                            Con bé Thu mếu máo:
                            - Dì… dì cho con xem hết hoạt hình đi, xong rồi con lên liền!
                            Nhung trừng mắt:
                            - Không được! Hai đứa không được cãi lời dì! Dì mà chìu tụi con, lỡ việc học hành bị sa sút, chừng đó ba các con lại bảo là dì không quan tâm. Thôi, mau lên học hành đi!
                            Hạ xị mặt không nói tiếng nào, đứng lên kéo tay Thu:
                            - Đi em, lên phòng mình!
                            Lúc đi ngang qua Nhung, Hạ không giấu được ánh mắt giận dỗi. Nhung nhìn theo hai chị em Hạ lẩm bẩm:
                            - Mới bây lớn mà bày đặt liếc xéo liếc xiên tao rồi hả? Tao không phải là người dễ ăn hiếp đâu nhé!
                            Ngồi một mình ở phòng khách Nhung càng nghĩ càng tức. Trước khi cưới, nếu biết phải chung sống cùng hai đứa con chồng thế này chắc Nhung sẽ không đồng ý. Bây giờ thì lở dở hết rồi! Đồng sẽ không bao giờ để hai đứa nhỏ về bên ngoại, nếu Nhung làm căng thẳng thì chỉ có nước dẫn tới chuyện ly hôn mà thôi.
                            Nhưng nếu việc ly hôn xảy ra, chính Nhung mới là người chịu thiệt thòi nhiều nhất. Nhung biết mình không thể ly hôn, mặc dù tình yêu dành cho Đồng đã vơi bớt rất nhiều trong lòng cô từ mấy tháng nay rồi! Nhưng Nhung cũng không thể sống cảnh này mãi được. Chắc chắn cô phải làm điều gì đó để thay đổi, mà đó là điều gì thì cô vẫn nghĩ chưa ra…
                            Nhung buông người xuống sa-lông một cách chán nản. Bạn bè ai cũng khen Nhung có phước, lấy được một người chồng giỏi giang, giàu có lại hết lòng yêu thương chìu chuộng vợ… Họ nói không sai, nhưng họ lại không biết những điều mà Nhung phải gồng mình chịu đựng.
                            Những ngày đầu tiên mới về nhà chồng, Nhung rất muốn được sống trong cảnh vui vẻ yêu đương, ngọt ngào hạnh phúc. Thế nhưng vừa về nhà chồng, Nhung đã phải tất bạt lo cho con bé Hạ đang bệnh nặng. Rồi sau đó, những âu yếm giữa hai chồng cũng bị hạn chế rất nhiều do sự có mặt của đứa bé. Nhưng điều làm Nhung buồn nhất là sự quan tâm của Đồng dành cho hai con hơn hẳn dành cho cô.
                            Hờn ghen ngấm ngầm kéo dài theo ngày tháng khiến Nhung trở thành một người phụ nữ chua cay và hiểm độc. Có khi Nhung ước cả hai đứa đều chết đi, biến mất khỏi cuộc đời này đi thì khi ấy Đồng mới có thể thuộc về cô trọn vẹn được!
                            Những ngày đầu, cả hai chị em Hạ, Thu đều tỏ vẻ quyến luyến thương yêu Nhung, nhưng dần dần về sau chúng đã đổi dần thái độ. Một phần do người ngoài xúc xiểm, nhưng một phần cũng do Nhung đã không còn thương yêu gần gũi chúng như trước kia nữa. Nhưng Nhung lại không nhìn nhận lỗi về mình. Vì vậy mối ác cảm giữa Nhung và hai đứa con chồng cứ ngày một tăng lên.
                            Bé Thu còn nhỏ nên nó chưa thể hiện gì nhiều, đôi lúc nó vẫn còn làm nũng với Nhung. Nhưng Hạ lại khác. Hơn một tháng nay, hình như nó chưa bao giờ mở miệng nói với Nhung một tiếng nào, cần bất cứ điều gì nó cũng chỉ nói với ba nó. Khi phải đối diện với Nhung, lúc nào mặt nó cũng hầm hầm, nhăn nhó.
                            Nhung thở dài ngao ngán. Cô rón rén đi tới phòng hai đứa nhỏ để xem chúng đang làm gì trong đó.
                            Căn phòng được trang trí đẹp mắt, sáng sủa, nơi mà Đồng luôn tự hào về sự khéo léo của Mai, người vợ trước vắn số của anh. Hạ và Thu đang ngồi xoay lưng ra cửa, nhưng hình như không phải chúng đang học bài. Hạ đang nói với Thu điều gì đó rất sôi nổi, Nhung phải cố gắng lắm mà vẫn không sao nghe rõ được, chỉ bấp bõm một vài tiếng rời rạc, nhưng đem xâu chuỗi lại với nhau, Nhung biết Hạ đang nói về mình.
                            Tức giận và cả tò mò nữa, Nhung rón rén đi lại gần hơn chút nữa, lúc này cô có thể nghe được những lời của Hạ:
                            - Em phải nhớ lời chị dặn, không được đến gần bà đó, bà đó là phù thủy, sẽ giết chết chị em mình để cướp lấy ba, cướp lấy gia tài của mẹ để lại…
                            Máu nóng dồn lên mặt, Nhung không sao kìm nén nỗi, cô lao tới thẳng tay giáng liên tiếp vào mặt Hạ mấy cái tát. Hạ và Thu bàng hoàng nhìn sững Nhung, một lúc sau Hạ mới cảm nhận được nỗi đau, nó kêu khóc vang trời:
                            - Hu hu hu… ba ơi! Ba ơi… ba mau về đi, ở nhà bà phù thủy đánh con… Ba ơi, về với con đi ba…
                            Vẫn chưa hả cơn giận, Nhung lôi con bé ra giữa phòng quát lớn:
                            - Mầy dám gọi tao là phù thủy sao? Tao không ngờ mầy hỗn láo đến như vậy? Uổng công tao đã chăm sóc chị em mầy lâu nay, giờ mầy trả ơn tao bằng cách này phải không? Quỳ xuống! quỳ gối xuống, mau lên!
                            Con bé Hạ cũng cứng đầu, nó vừa khóc vừa vùng vẫy ra khỏi cánh tay Nhung, nhất định không chịu quỳ xuống như lời Nhung bảo.
                            Thu tuy không bị đòn nhưng trước cảnh này và nhất là thấy chị nó bị đòn đau đang khóc ngất, nó cũng khóc rống lên, và nhớ lại những lời chị nó vừa mới dặn dò khi nãy, nó kêu lên:
                            - Bà phù thủy đừng đánh chị con nữa! Bà phù thủy độc ác…
                            Như bị châm dầu vào lửa, Nhung lồng lên:
                            - Giỏi! Giỏi lắm! Tao sẽ cho tụi bây biết thế nào là phù thủy!
                            Nhung vớ lấy cây chổi lông gà trên bàn và quất tới tấp vào hai đứa bé. Vừa quất, Nhung vừa mắng chửi cho thỏa lòng. Hai đứa bé thì kêu khóc vang trời, nhưng lúc này Nhung đã như một kẻ lên cơn điên, những tiếng kêu la của bọn trẻ càng kích thích sự hung hãn trong Nhung.
                            - Dừng lại! cô có dừng tay lại ngay không!
                            Tiếng quát thất thanh của Đồng khiến Nhung giật nảy mình. Đồng xông vào giật mạnh cây chổi trong tay Nhung và quẳng ra ngoài cửa sổ. Anh nhào tới ôm lấy hai đứa bé.
                            Lúc về tới cửa nhà Đồng đã nghe văng vẳng tiếng kêu khóc nhưng anh không xác định được đó có phải tiếng phát ra từ truyền hình hay không. Nào ngờ khi đặt chân vào nhà Đồng mới biết đó là tiếng kêu của con mình, nhưng anh không biết đang xảy ra chuyện gì trên đó.
                            Đồng đã nhảy một bước mấy bậc thang để đến với con, tỏng lúc vì tức giận, vì tiếng khóc la của hai đứa nhỏ, Nhung không hề nghe tiếng xe của Đồng về tới.
                            Trông thấy Đồng, Hạ và Thu càng khóc ngất. Đồng xót xa nhìn hai đứa con thơ dại khắp người còn in rõ những lằn roi ngang dọc.
                            - Cô thật khốn nạn! Tôi không ngờ cô độc ác đến mức này!
                            Đồng nghiến răng nói.
                            Lúc này Nhung đã sự tỉnh, cô run rẩy nhìn hai đứa bé, nhìn Đồng rồi lắp bắp:
                            - Em… em xin lỗi! Chỉ tại… em nghe hai đứa gọi em là bà phù thủy, Hạ đã nói xấu về em rất nhiều, em không dằn được nóng giận…
                            Đồng giở áo con lên, chảy nước mắt nói:
                            - Cô nhìn đi, chúng nó chỉ là hai đứa bé thôi mà, nếu lỡ chúng có nói gì sai, đáng lẽ với vai trò người mẹ, cô phải ôn tồn dạy bảo nó mới đúng chứ, đằng này cô lại hành hạ con tôi một cách man rợ như vầy, thiệt tình… cô còn hơn cả Tào Thị! May mà tôi về kịp lúc, không thì chắc con tôi chết dưới tay cô rồi!
                            Nhung biết mình đã gây ra chuyện lớn, cô quỳ sụp xuống trước mặt Đồng:
                            - Xin anh tha lỗi cho em! Lúc đó… lúc đó em không làm chủ được mình, em không biết mình đang làm gì… Thật sự em không muốn thế đâu anh!
                            Hạ đang nằm trong vòng tay ba nó, nghe Nhung van xin, nó khóc rống lên, ấm ức nói:
                            - Bà phù thủy độc ác! Mỗi lần ba đi vắng là bả lại mắng chửi hai đứa con, bả không cho em xem hoạt hình, bả không cho con ăn cơm no…
                            Đồng rụng rời khi nghe con gái nói, anh quay sang Thu để xác minh lời của Hạ:
                            - Thu, con nói cho ba biết đi! Có phải mỗi lúc ba đi vắng, dì lại hà khắc với hai chị em con?
                            Thu mếu xệch cái miệng vì khóc:
                            - Dạ… bà phù thủy không cho con coi hoạt hình…
                            Nhung run rẩy trước những lời buộc tội của hai đứa con chồng. Cô níu lấy tay Đồng cố thanh minh:
                            - Em không cho con xem ti vi là muốn nó học hành; không cho con bé Hạ ăn nhiều là vì… là vì…
                            Nhung ngắc ngứ, không biết giải thích sao cho Đồng hiểu. Trong thâm tâm, thật sự Nhung chưa bao giờ nghĩ tới chuyện sẽ bỏ hai đứa con chồng nhịn đói, chẳng qua cô thấy con bé Hạ ăn nhiều, quá nhiều đồ ngọt trong khi dáng dấp của nó mỗi ngày một phì ra, cô muốn nó giữ được vẻ thon gọn. Nhưng liệu nói những điều đó ra giữa lúc này Đồng có tin hay không? Chắc chắn là không rồi. Có lẽ Đồng sẽ nghĩ cô nói vậy là để chống chế, là bào chữa cho hành vi độc ác của mình…
                            Nghĩ vậy nên Nhung im bặt, không nói tiếp nữa.
                            Đồng cười cay đắng:
                            - Tôi thật không ngờ mình đã lầm cô! Cứ tưởng cưới cô về là con tôi sẽ có được tình yêu thương của một người mẹ, có được sự quan tâm, chăm sóc dịu dàng. Nhưng không ngờ…
                            Nước mắt chảy tràn trên mặt Nhung, cô lùi dần về phía cửa phòng rồi vụt ôm mặt chạy ra ngoài, vừa chạy vừa khóc nức nở.
                            Tối đó Đồng không về phòng mình mà ngủ lại với hai con. Nằm một mình trong phòng, Nhung hết khóc tức tưởi lại khóc âm thầm, cô thấy mình thật tội nghiệp, nỗi oan ức này sẽ không ai có thể rửa sạch giúp cô được.
                            Nhung không ngờ con bé Hạ lại có thể đặt điều vu khống cô như vậy! Nó quá điêu ngoa xảo quyệt so với đứa bé mới tám tuổi như nó. Sự việc cô đánh đập hai đứa, có thể nay mai Đồng nguôi giận cô giải thích và xin lỗi được, nhưng cộng thêm tội bỏ đói con Đồng, tội hà khắc với chúng mỗi lúc anh vắng mặt thì có lẽ Đồng không bao giờ tha thứ cho Nhung đâu.
                            Nhung nhớ lại những đêm cô thức trắng bên cạnh Hạ, những đêm mà đáng ra cô phải được tận hưởng cái hạnh phúc thiêng liêng của người con gái lần đầu tiên xuất giá vu quy, vậy mà vì Hạ cô đã không còn trọn vẹn… Và nhiều, rất nhiều điều khác nữa. Thành thật mà nói, Nhung không thể yêu thương con của Đồng như những đứa con do mình đứt ruột đẻ ra được, nhưng với chúng Nhung vẫn chu toàn trách nhiệm. Ấy vậy mà nó nỡ lòng đối xử nhẫn tâm với Nhung như vậy…
                            - Hừ… cướp ba mầy à? Cướp của cải của mẹ mầy à? Tao chưa hề có ý nghĩ đó khi đặt chân về đây, nhưng cảm ơn mầy đã chỉ lối cho tao đi! Tao không thể phí hoài những ngày tháng đã qua, tao không thể hy sinh một cách ngu ngốc như vậy được! Rồi chúng bây sẽ coi mụ phù thủy này hành động. Đừng trách tao, tất cả là do tụi mầy muốn thế!
                            Nhung nghiến răng trèo trẹo. Cô nhất định phải trả cho được mối hận này. Nuốt nước mắt, Nhung cố dỗ giấc ngủ, cô biết những ngày tới đây mình sẽ phải đối mặt với thật nhiều thử thách khó khăn. Nhưng không sao, một khi người ta đã có mục tiêu của mình rồi thì sợ gì gian khó nữa!
                            Sáng ra Nhung thức dậy thật sớm, nấu bữa sáng hợp với khẩi vị của ba cha con Đồng.
                            Khi Nhung vào phòng hai đứa bé thì Đồng đã thức nhưng anh vẫn nằm im giả vờ như không nhận biết sự có mặt của Nhung.
                            Nhung rón rén dọn dẹp, rón rén lau chùi, xong rồi thì lẳng lặng lui ra. Những tức giận trong lòng Đồng tối qua như vơi đi đôi chút.
                            Bữa ăn sáng đã được Nhung dọn sẵn trên bàn, Đồng đi ngang qua nửa muốn dừng lại nửa muốn dắt xe đi luôn để trừng trị Nhung cho biết mặt.
                            - Anh à, dù có giận có ghét em đến đâu, anh cũng phải giữ gìn sức khỏe của mình nhé? Có thể mai này em không còn ở đây nữa, khi đó anh phải tự lo cho mình và lo cho các con…
                            Nhung nhỏ nhẹ nói với Đồng mà mắt lại cúi nhìn xuống đất.
                            Đồng ngạc nhiên hỏi lại:
                            - Em nói sao? Em muốn rời khỏi nhà này sao?
                            Nhung rơm rớm nước mắt, ngẩng lên nhìn chồng buồn bã nói:
                            - Em biết em đã gây ra tội lỗi lớn, em không dám xin anh và các con tha thứ, nên em sẽ ra đi để anh và các con có được cuộc sống nhẹ nhàng hơn. Nhưng trước khi ra đi, em xin anh hãy tin một điều là em không ác tâm, em không có chủ định làm như vậy. Chẳng qua đó chỉ là phút cuồng điên mà em không kìm chế được. mong anh hiểu cho em…
                            Thái độ hạ mình và những lời thiết tha của Nhung đã làm bao nghi ngờ, tức bực trong Đồng trôi tuột đi mất hết. Anh lại cảm thấy tội nghiệp cho Nhung, cô ấy bị nhiều áp lực quá, có lẽ stress nặng rồi cũng nên.
                            Bước tới đặt tay lên vai vợ, Đồng nói nhỏ:
                            - Anh không ghét bỏ em, nhưng thật tình mà nói anh thất vọng về em nhiều lắm. Nếu đã thương yêu anh, thì em cũng phải thương lấy các con chứ, nó là máu thịt của anh mà…
                            - Em biết! Cả đêm hôm qua em không ngủ được chỉ vì ray rứt hối hận… Em không biết tại sao mình lại điên cuồng như vậy nữa… Có lẽ em… thần kinh em có vấn đề rồi…
                            Nhung vừa nói vừa khóc thút thít.
                            Đồng dỗ dành:
                            - Thôi, mọi chuyện đã qua thì cho nó qua đi, đừng nhắc lại nữa, nhưng anh muốn em hứa với anh một điều là từ hôm nay, không bao giờ còn lặp lại sự việc đó nhé? Nếu trong việc dạy dỗ các con gặp phải điều gì khó khăn, em cần nên bàn bạc với anh, chúng ta sẽ tìm ra cách giải quyết. Em đồng ý không?
                            Nhung se sẽ gật đầu, nước mắt vẫn không ngừng tuôn chảy.
                            Đồng kéo tay Nhung ngồi vào bàn:
                            - Mình cùng ăn sáng đi em!
                            Nhung ngồi xuống cạnh chồng nhưng không ăn mà nói:
                            - Anh ăn trước để đi làm, em sẽ chờ các con dậy rồi cùng ăn với chúng.
                            Đồng hài lòng:
                            - Ừ thôi cũng được!
                            - Nhưng anh à… em sợ…
                            Nhung ngập ngừng.
                            Đồng ngạc nhiên:
                            - Em sợ gì?
                            - Em sự Hạ và Thu sẽ không tha thứ cho em…
                            Nhung cúi mặt nói nhỏ.
                            Đồng tỏ vẻ cảm thông:
                            - Anh hiểu! Nhưng em à, trẻ con mau quên lắm, nếu em đối xử tốt với nó, nó sẽ quên ngay. Tối nay về anh cũng sẽ cắt nghĩa cho chúng hiểu. Nếu ôhm nay ở nhà các con có lỡ làm gì cho em phật ý, em cũng hãy vì anh mà cố gắng bỏ qua cho chúng nó nhé?
                            - Em sẽ không tái phạm nữa đâu mà! Chỉ cầu mong cho hai đứa nhỏ đừng căm thù, oán ghét em…
                            Đồng mỉm cười:
                            - Em đừng lo, rồi mọi chuyện cũng sẽ ổn thỏa, trở lại như trước thôi mà!
                            Ăn sáng xong Đồng đi làm như thường lệ, Nhung lặng lẽ lên phòng hai đứa nhỏ. Đứng trước cửa phòng, Nhung hít một hơi thật sâu cho không khí căng đầy buồng phổi rồi từ từ nhè nhẹ thở ra, cô đang bắt đầu dấn thân vào một cuộc chiến, mà bằng bất cứ giá nào, cô phải là người giành được chiến thắng mới thôi!
                            - Dậy đi các con, dì nấu bữa sáng cho hai đứa xong rồi kìa… Dậy ăn rồi dì dẫn đi chơi!
                            Nhung ngồi xuống bên mép giường âu yếm gọi.
                            Hạ mở choàng mắt khi nghe tiếng Nhung, nó xoay người ôm cứng lấy bé Thu như muốn tự vệ.
                            Thu ư e trở mình rồi cũng thức giấc, nó ngạc nhiên nhìn quanh.
                            Hạ nói nhỏ:
                            - Em đừng sợ, có chị đây rồi, em đừng sợ!
                            Nhớ lại trận đòn khủng khiếp tối qua, Thu co rúm người lại trong cánh tay chị nó.
                            Nhung nói với vẻ khổ sở:
                            - Dì xin lỗi hai con! Hôm qua dì như người điên vậy, hai con đừng ghét bỏ dì… Từ nay không bao giờ dì đối xử với hai con như vậy nữa đâu!
                            Ngạc nhiên trước những lời ngon ngọt của Nhung, Hạ và Thu không nói gì, hai đứa cứ ngó Nhung chằm chằm.
                            Nhung đứng lên mở mùng, gấp chăn màn gọn ghẽ, hai đứa nhỏ vẫn chưa chịu ngồi dậy. Cô nhoẻn cười thân thiện đưa hai tay ra:
                            - Nào, công chúa bé bỏng, ngồi lên di bế đi rửa mặt nào…
                            Bé Thu len lén nhìn chị nó, không thấy phản ứng gì, nó lồm cồm ngồi dậy và tiến đến gần Nhung. Thu là một đứa ngoan và nhút nhát nhưng sống rất tình cảm. Nó lại còn quá nhỏ để ghi nhớ những điều không hay, cho nên trước thái độ của Nhung lúc này, Thu dễ dàng thấy gần gũi với cô hơn.
                            Đưa tay nhấc bổng Thu, Nhung đặt lên má con bé một nụ hôn rồi nghiêng đầu cười với Hạ:
                            - Con dậy nhé con! Dì bế em đi rửa mặt, rồi chờ hai đứa ăn sáng xong, dì dẫn đi chơi…
                            - Đi chơi ở đâu, dì?
                            Thu thắc mắc.
                            Nhung cười:
                            - Dì đã có lỗi với các con, dì muốn chuộc lỗi, muốn các ocn tha thứ cho dì, nên hôm nay các con muốn đi đâu dì cũng xin chìu hết!
                            - A! Thích quá! Thích quá! Con muốn đi siêu thị… Chị Hai ơi, đi siêu thị nghe chị Hai?
                            Thu hỉ hửng vỗ tay và nói.
                            Hạ từ từ ngồi dậy, chưa tin hẳn vào lời hứa của Nhung:
                            - Dì có cho bé Thu đi siêu thị không?
                            Nhung dứt khoát gật đầu:
                            - Tất nhiên là có rồi, nếu con chịu đi cùng! Hai cô công chúa xinh đẹp của dì mau mau lên đi kìa, nắng lên cao rồi…
                            Hạ nhảy phốc xuống giường, nó cũng vui mừng không kém. Lâu lắm rồi chị em nó chưa được ai dắt đi chơi, nhất là chơi ở siêu thị. Siêu thị ở xa nhà nó lắm, nghe ba nói cách đến gần bốn chục cây số. Nó chưa ý thức được một cây số là bao xa, nhưng nó vẫn biết là siêu thị ở rất xa. Cái hồi ba nó và dì Nhung chưa cưới nhau, có một lần ba nó, dì Nhung dắt chị em nó đi siêu thị. Cả bốn người đi trên một tuyến xe buýt thật dài mới tới nơi.
                            Nhưng lâu rồi, không ai quan tâm đến nhu cầu vui chơi giải trí của chị em nó nữa. Trong khi ở lớp, mỗi sáng thứ hai đầu tuần là đám bạn của nó lại nhốn nháo khoe khoang, rằng chúng nó vừa được ba mẹ dắt đi siêu thị hôm chủ nhật… khiến Hạ thấy buồn và ganh tị ghê lắm.
                            Bây giờ nghe Nhung hứa dắt đi siêu thị, Hạ vui mừng khôn xiết, nó quên hết trận đòn tối qua cùng những mối ác cảm giữa mẹ ghẻ con chồng mà hàng xóm láng giềng đã nhồi nhét vào trong đầu nó. Cứ nghĩ tới chuyện sáng thứ hai được khoe với bạn bè rằng mình vừa đi siêu thị về là nó cảm thấy thích mê đi rồi!
                            Hai đứa nhỏ ăn sáng rất nhanh. Ăn xong, Nhung chọn hai bộ áo quần đẹp nhất để thay cho chúng rồi còn bày đặt trang điểm thêm một tí môi hồng, một viền kẻ mắt khiến hai đứa nhỏ vui mừng như tết.
                            Hạ nắm tay Thu đứng trước tấm gương lớn trong góc nhà, cả hai đứa xúng xính trong bộ đầm trắng giống như hai cô công chúa nhỏ.
                            Nhung liếc nhìn hai đứa bé rồi nhấc điện thoại gọi cho Đồng.
                            - Có chuyện gì vậy em?
                            Đồng lo lắng hỏi.
                            Nhung cười nhẹ:
                            - Dạ không, hai con rất ngoan, em gọi để nói với anh em sẽ đưa hai đứa đi siê thị chơi vậy mà!
                            Đồng ngạc nhiên:
                            - Sao không chờ anh cùng đi?
                            - Thì hôm khác mình lại đi nữa! Hôm nay là ngày đặc biệt mà anh, anh không biết sao?
                            Nhung vui vẻ nói.
                            Đồng hiểu ra, anh bật cười:
                            - À… ra vậy! Thái độ của Hạ thế nào em?
                            Vẫn chưa hết lo âu, Đồng hỏi.
                            Nhung không trả lời mà hướng về phía Hạ, chìa điện thoại cho nó:
                            - Hạ, Thu! Hai con lại nói chuyện với ba nè, xin phép ba mẹ con mình đi chơi nha!
                            Hai đứa bé chạy ào tới cạnh Nhung, Hạ đón lấy điện thoại từ tay Nhung, nói với ba nó bằng giọng phấn chấn:
                            - Ba ơi, dì dắt tụi con đi siêu thị…
                            - Con với chị Hai mặc áo đầm đẹp lắm nè ba ơi!
                            Thu đứng cạnh bên nói xen vào.
                            Nghe thấy không khí vui vẻ đầm ấm từ nhà mình Đồng vui lắm:
                            - Ừ, hai đứa đi chơi thiệt ngoan và thiệt vui nghen! Nếu ngoan, muốn mua gì cứ nói, dì sẽ mua cho các con…
                            - Dạ thưa ba tụi con đi!
                            Hạ hí hửng trao địên thoại lại cho Nhung.
                            Nhung vui vẻ nghe Đồng dặn dò, cô cứ gật đầu liên tục.
                            Nhung dẫn hai đứa nhỏ ra trạm xe buýt, không bao lâu sau thì xe tới, ba mẹ con ríu rít lên xe, chuyện trò cười giỡn ríu rít khiến những người ngồi gần đó cứ ngoái lại nhìn bằng ánh mắt ngưỡng mộ. Ai cũng nghĩ đó là ba mẹ con đang vui tươi hạnh phúc, không ai có thể biết được những ấm mưu đen tối đang lớn dần lên trong con người Nhung.
                            Ngày hôm đó hai đứa nhỏ có được một chuyến đi chơi hết sức thú vị. Nhung mua cho chúng thật nhiều kẹo bánh, thật nhiều đồ chơi, mặc tình cho chúng khoe với bạn bè.
                            Niềm vui thơ trẻ đó đã xóa tan khoảng cách với người mẹ kế mà mới tối qua hai đứa còn dùng từ phù thủy để ám chỉ, và cả trận đòn nhừ tử tối qua…
                            Từ ngày hôm đó trở đi, Nhung rất kiên nhẫn dịu dàng, kiên nhẫn chìu theo những sở thích đôi khi hơi quá quắt của hai chị em Hạ, Thu. Mà nhất là Hạ, mặc dù không còn ghét cay ghét đắng Nhung như trước nữa, nhưng thỉnh thoảng nó cũng chứng lên và ra sức chống đối cô. Nhưng tuyệt nhiên Nhung không tức giận, rầy la hay mắng chửi gì nữa.
                            Rất nhiều lần đồng len lén quay về nhà giữa buổi hoặc lén trốn trong nhà để thử xem thái độ của Nhung có thật sự thành khẩn hay không, và anh đã rút ra kết luận là Nhung thay đổi hoàn sau sự cố không hay lần trước. Có lẽ Nhung thật sự nhận ra lầm lỗi của mình.
                            Đồng hài lòng lắm, từ đó anh luôn tin tưởng vào Nhung. Cuộc sống gia đình Đồng cũng trôi qua một cách rất nhẹ nhàng, rất nhẹ nhàng hơn trước…
                            Hạ nhiều phen giở chứng trẻ con do sự tác động phía ngoài, nhưng chưa lần nào Nhung có phản ứng mạnh với nó, cô bỗng trở nên hiền lành, dịu ngọt một cách phi thường.
                            Thời gian cứ thế trôi qua, trong ngôi nhà ấy luôn vẳng lên tiếng cười vui rộn ra. Bây giờ thì cả Hạ và Thu đều hết lòng yêu mến Nhung, còn hơn cả những ngày Nhung chưa chính thức về làm mẹ kế.
                            Đồng không còn gì phải lo lắng nữa, anh yên tâm dồn hết tâm trí và sức lực vào những hợp đồng làm ăn, những chiến dịch mới của công ty. Cuộc sống kinh tế của gia đình Đồng phất lên nhanh chóng.
                            Hè năm đó Đồng đưa vợ con ra Phan Thiết nghỉ mát. Họ đã trải qua những ngày thật đáng nhớ trên biển. Và có lẽ vượt lên trên hết là tin mừng Nhung vừa mới cấn thai. đồng hết sức phấn khởi trước niềm vui to lớn ấy, anh hy vọng Nhung sẽ sinh cho anh một đứa con trai.
                            Ngày cuối cùng ở lại Phan Thiết, Nhung nói với chồng:
                            - Em thấy hơi khó chịu, để em đi bệnh viện khám xem sao. Anh ở lại trông chừng hai đứa nhỏ nhé?
                            Vừa đón ly cam vắt từ tay Nhung, Đồng lo lắng:
                            - Hay anh đi cùng em?
                            Nhung cười hiền lành:
                            - Anh đừng quá lo lắng như vậy, em đi một mình được rồi, anh phải ở nhà trông con chứ! Bệnh viện cũng đâu có xa, em gọi tắc xi đi một chút về ngay, anh đừng lo!
                            Nghe Nhung nói cũng đúng nên Đồng mỉm cười:
                            - Ừ, vậy em đi cẩn thận nhé!
                            - Anh uống hết nước đi, em dẹp luôn!
                            Nhung thúc giục chồng.
                            Đồng ngửa cổ uống một hơi cạn sạch ly nước, trao chiếc ly không cho Nhung, anh mỉm cười:
                            - Cám ơn em! Em thật là một người vợ tuyệt vời!
                            Nhung không nói gì, cười nhẹ rồi đi vào trong thay quần áo.
                            Tiễn Nhung lên tắc xi xong, ba cha con đồng dắt nhau vào phòng đùa giỡn.
                            Hạ đề nghị:
                            - Mình đi tắm biển đi ba!
                            Đồng cười:
                            - Thôi, chờ dì về rồi mình cùng đi, bây giờ hai ocn lên giường ngủ một chút đi cho khỏe, ba cũng buồn ngủ lắm rồi đây!
                            Thu bật cười khanh khách:
                            - Mới giờ này mà ba buồn ngủ, chắc tối qua ba lại thức khuya xem đá banh rồi! Vậy mà ba dặn tụi con không được thức khuya…
                            Đồng cốc nhẹ vào trán Thu:
                            - Con bé này! tụi con còn nhỏ, phải ăn ngủ điều độ mới lớn được chứ, ba thì khác vì ba lớn rồi mà!
                            - Vậy sau này con lớn con cũng được thức khuya hả ba?
                            Thu ngây thơ hỏi.
                            Đồng phì cười:
                            - Đún rồi cô nương, mai này lớn, con phải thức khuya dậy sớm để chăm lo cho chồng con của con, để chăm sóc cho ba nữa chứ, vì lúc đó ba già rồi, ba không ngủ được nhiều, chưa sáng ba đã đòi ăn nên ocn phải dậy sớm lo cho ba…
                            Cả ba cha con bật cười vui vẻ.
                            Hạ và Thu về phòng mình lôi mấy cuốn truyện tranh ra đọc, còn Đồng, anh ngã lưng xuống giường và không lâu sau cơn buồn ngủ ập đến không tài nào cưỡng lại nổi. Đồng chìm vào một giấc ngủ thật say.
                            - Anh ơi! Hai con đâu rồi?
                            Đồng choàng tỉnh bởi những cái lay người của Nhung. Mở mắt ra, đồng ngơ ngác nhìn Nhung.
                            - Em khám xong rồi, bác sĩ bảo đó là chuỵên bình thườg khi mới bắt đầu mang thai anh à! Ủa, con đâu rồi anh?
                            Nhung tươi cười hớn hở nói với chồng.
                            Nghe nhắc tới hai đứa nhỏ, Đồng chỉ tay sang phòng bên cạnh:
                            - Tụi nó ngủ rồi! Lúc nãy đòi đi tắm biển mà anh không cho, hứa chờ em về rồi sẽ đi đó!
                            Nhung cười:
                            - Dạ, nhưng bây giờ nắng quá, mình chờ mát mát một chút rồi hãy tắm nghe anh?
                            Đồng gật đầu:
                            - Ừ, em nằm xuống nghỉ chút đi!
                            Nhung thay áo xong ngã lưng nằm cạnh bên chồng, đưa cho anh xem tờ giấy có ghi kết quả khám bệnh vừa rồi, đồng thời cầm lấy tay anh đặt lên bụng mình, nhỏ nhẹ nói:
                            - Em vui quá, em sắp được có con với anh rồi! Nhưng anh đừng lo, dù em có con, nhưng em cũng sẽ thương yêu Hạ, Thu như con ruột của mình vậy! tình cảm giữa em và hai đứa nó bây giờ đã khắng khít lắm rồi anh ạ!
                            Đồng kéo Nhung sát vào mình hơn nữa, âu yếm nói:
                            - Anh biết! Tất cả những chuyển biến tốt đẹp trong gia đình mình thời gian qua anh đều biết rất rõ. Vì vậy anh càng cảm thấy thương yêu và quý trọng em hơn…
                            Như chợt nhớ ra điều gì, Nhung ngồi bật dậy nói:
                            - Em thấy có mấy thứ đồ chơi mà Thu rất thích nên mua cho nó! Để em qua xem con ngủ dậy chưa nghe anh?
                            Đồng mỉm cười gật đầu.
                            Nhung nhanh nhẹn đi sang phòng bên cạnh.
                            Bất chợt Đồng nghe tiếng Nhung gọi to:
                            - Anh ơi! Các con đâu cả rồi?
                            Đồng giật mình nhổm dậy chạy sang, căn phòng vắng ngắt, trên giường còn vương vãi hai bộ áo quần Hạ và Thu vừa mặc khi nãy.
                            - Hay… tụi nó đi tắm biển rồi?
                            Đồng hoảng sợ kêu lên.
                            Nhung vội vã mở tủ tìm hai bộ đồ tắm của Hạ và Thu thì không thấy nữa, cô ngó sững Đồng rồi không ai bảo ai, cả hai đều đứng ngay dậy lao nhanh về phía biển.
                            Bãi biển vắng ngắt không một bóng người. Vì thật ra nơi này không phải là điểm vui cơhi, tắm biển. Đây là ngôi nhà của người bạn làm cùng công ty với Đồng. Ngày trước dòng họ anh ấy xây dựng ngôi nhà này để cho một người chú bị tâm thần an dưỡng. Chính vì vậy nên họ chọn nơi vắng vẻ, tránh sự ồn ào dễ gây kích động cho người bệnh.
                            Khi biết Đồng có ý định đi nghỉ ở biển, người bạn đã rất nhiệt tình mời họ về đây ở vì ngôi nhà này không ai sống từ hai năm nay.
                            Đồng và Nhung chạy dài trên bãi biển, vừa chạy vừa cất tiếng gọi vang tên hai đứa nhỏ.
                            Đến chiều hôm ấy, mặc dù lực lượng cứu hộ và một số dân chài gần đó đã hết lòng truy tìm, rà soát khắp nơi vẫn không tìm ra được dấu vết nào của hai đứa nhỏ, ngoại trừ chiếc cặp tóc của Thu rơi trên bãi, chứng minh rằng hai chị em nó đã có ra đây.
                            Nán lại Phan Thiết thêm mấy ngày nữa nhưng mọi chuyện vẫn là vô vọng, vợ chồng Đồng dắt nhau trở về quê như hai kẻ mất hồn.
                            Nhung vật vã ngất lên ngất xuống do bị thai hành đồng thời do cô cứ luôn tự trách mình, tại sao lại đi khám thai làm gì để xảy ra sự cố ngày hôm đó. đồng thời bên phía ngoại của hai đứa nhỏ không ngớt lời nguyền rủa chỉ trích và bóng gió xa xôi, rằng chính vợ chồng Nhung đã rắp tâm giết chết cháu họ.
                            Đồng gần như mất hết cả sức lực, nhưng trong tình cảnh khó khăn ấy, anh vẫn phải gắng gượng để động viên và che chở cho Nhung trước búa rìu dư luận.
                            Trong những ngày này đồng cảm thấy thương Nhung hơn bao giờ hết, vì anh nghĩ mọi chuyện là do sự bất cẩn của mình, vậy mà người hứng chịu lại là Nhung. Vậy mà cô ấy một mực cắn răng nín nhịn, không thanh minh lấy một lời nào.
                            Mấy ngày sau đó người ta đã tìm được xác của hai đứa bé, nhưng lúc này thì thân xác gần như rất khó nhận ra nếu không nhờ vào áo quần và những chiếc vòng tay mà hai đứa mang trên người.
                            Đám tang Hạ và Thu xong, mọi việc cũng dần dần lắng xuống nhưng trong ngôi nhà của đồng thì khống khí tang tóc vẫn luôn bao trùm.
                            Đồng bỏ bê công việc gần một tháng trời, khiến những người có trách nhiệm ở công ty phải thường xuyên lui tới để an ủi, động viên và lôi kéo đồng trở lại với công việc.
                            - Anh phải cứng rắn lên! Anh là chỗ dựa duy nhất của mẹ con em, anh mà có bề gì làm sao mẹ con em sống được? Hạ và Thu cũng không muốn nhìn thấy anh ra nông nỗi này đâu!
                            Nhung thầm thì khuyên nhủ đồng như thế.
                            Sau những ngày dài dã dượi, Đồng cũng biết mình không thể như thế này mãi được, nhưng nếu bắt tay vào công việc thì quả thật anh không còn chút sức lực và hứng thú nào.
                            Cho nên, trước những lời khuyên bảo động viên của vợ và mọi người, Đồng vẫn cứ hứa hẹn, xin thêm một thời gian ngắn nữa. Và trong những ngày đó, Đồng lại sa vào nhậu nhẹt bê tha.
                            Nhung có khóc lóc, giận hờn cách nào cũng không làm Đồng thay đổi được. Trong khi đó ở công ty, người ta không thể nuông chìu Đồng mãi được, cái ghế Phó giám đốc của Đồng phải bàn giao cho người khác, nếu mai này Đồng có quay trở về làm việc thì vị trí cũng không còn được như xưa.
                            Điều này làm Nhung đau đớn lắm. Việc làm ăn của Đồng đang phất lên như diều gặp gió, thu nhập mỗi tháng tăng vọt đến mức không ngờ, vậy mà giờ đây Đồng vứt bỏ tất cả.
                            Nhung tức giận trong lòng, nhưng ngoài mặt cô vẫn làm ra vẻ cảm thông với Đồng nhiều lắm. Cô vẫn còn hy vọng vào tài năng của Đồng, nếu trở lại làm việc thì Đồng cũng sẽ lấy lại vị trí cũ mà thôi, chỉ có điều lại phải tốn công tốn sức…
                            Sáng sớm là Đồng ra khỏi nhà, ngồi quán cà phê tán dóc với bạn bè đến tận trưa, ai rủ đi đâu sẽ đi tiếp đến đấy, có khi mãi tới nửa đêm mới mò về nhà trong tình trạng say khướt.
                            Nhung vò võ một mình, nhưng cũng còn may là Nhung đã có đứa con trong bụng để tự nói chuyện với mình.
                            Hai ngày rồi Đồng chưa về, Nhung bỗng cảm thấy chán nản vô cùng. Cô đã làm tất cả, để mong có được hạnh phúc trọn vẹn cho mình, vậy mà giờ đây trong căn nhà rộng thênh chỉ mình Nhung ra vào một bóng, không khí u buồn ảm đạm luôn bao phủ khắp nơi. Đứa con vừa mới tượng hình trong bụng Nhung chỉ được chào đón vui vẻ có mấy ngày rồi cả ba nó cũng dường như đã quên lãng nó.
                            Trưa nay nằm một mình tỏng phòng, tự nhiên nước mắt Nhung ứa ra, cô thấy tiếc cho cuộc đời mình, nếu ngày trước đừng về làm vợ Đồng có lẽ giờ đây cô đã khác!
                            Bất chợt Nhung nghe có tiếng trẻ con cười đùa ở phòng bên cạnh, căn phòng mà trước đây dành cho hai chị em Hạ và Thu.
                            Nghĩ là mình nghe lầm, Nhung nhổm người dậy lắng tai cho thật kỹ. Quả thật không sai, đó chính là tiếng cười đặc biệt của Thu, tiếng cười lúc nào cũng như sắp hụt hơi ở đoạn cuối.
                            Cả người Nhung lạnh toát. Cô run rẩy đứng lên men theo tường nhà đi rón rén qua đó. Khi đã đứng trước của phòng, Nhung nghe rất rõ cái giọng nói thánh thót của Hạ:
                            - Em mặc thêm áo vào đi, lạnh tím người rồi kia kìa…
                            Rồi có tiếng Thu:
                            - Em muốn gặp ba…
                            Hạ dỗ dành:
                            - Ừ, em ngoan, em mặc áo vào đi, rồi chị dẫn đi tìm ba…
                            Nhung lẩy bẩy chạy về phòng đóng chặt cửa và lên giường nằm trùm mền kín mít nhưng vẫn cố dỏng tai lên nghe ngóng.
                            Tiếng cười tiếng nói vụt im bặt, hình như hai chị em Hạ, Thu đang bận làm gì đó. Lát sau Nhung nghe có tiếng bước chân nhè nhẹ ngoài hành lang. Nhung co rúm người lại, mồ hôi tuôn dầm dề mà người Nhung lại run lên bần bật.
                            - Dì ơi, mở cửa thay áo cho em! Em bị ướt hết rồi, đang lạnh lắm…
                            Tiếng Hạ vang lên ngay trước cửa phòng.
                            Nhung đưa hai tay lên bịt chặt tay mình lại, tiếng Hạ vẫn xoáy vào nhức buốt tai Nhung. Cô vớ chiếc gối ụp lên mặt, kéo che kín hai tay, mắt nhắm nghiền lại.
                            Bất chợt Nhung có cảm giác mấy đầu ngón chân mình lạnh buốt, có cái gì ướt nhẹp đang ngọ ngoậy dưới chân cô. Nhung rảy chân để hất vật đó ra, nhưng thật kỳ lạ, nó càng đeo bám chặt hơn nữa.
                            Nhung hé mền, vừa tính nhổm người dậy để xem đó là cái gì thì cô không thể tin vào mắt mình được nữa, phía dưới chân giường Hạ và Thu đang đứng đó! Thân thể hai đứa đều ướt sũng, nước nhỏ giọt xuống nền nhà. Gương mặt xanh xao, mái tóc bết có mấy sợi rong bám lòng thòng xuống vai Hạ. Bàn tay nhỏ xíu của Thu nắm lấy mấy ngón chân Nhung.
                            - Dì ơi…thay áo cho em…
                            Hạ lại rên rỉ.
                            Nhung hoảng hốt bật dậy tông cửa chạy ào xuống đất, nhưng khi xuống gần hết thang lầu, Nhung trượt chân té nhào, đầu va vào cạnh bàn và ngã lăn ra bất tỉnh.
                            Nhung không biết mình đã nằm đó bao lâu, chỉ biết rằng lúc cô tỉnh dậy thì trời đã tối, nhà cửa tối đen, cửa nẻo vẫn mở toang chứng tỏ Đồng vẫn chưa về đến.
                            Nỗi sợ hãi lẫn tủi cực trào lên, Nhung bật khóc nức nở. Vừa khóc, Nhung vừa nhớ lại toàn bộ những chuyện kỳ lạ vừa xảy ra lúc nãy, tiếng khóc của Nhung giờ lại chuyển sang ai oán… Khóc chán chê, Nhung gắng gượng đứng lên đi đóng các cửa nẻo. Đèn đã được bật sáng nhưng Nhung vẫn không dám trở lên phòng mình, cô cứ ngồi thu lu trên sa-lông đưa ánh mắt sợ hãi nhìn khắp nơi trong nhà.
                            Bất chợt bụng Nhung sôi lên sùng sục, cô chợt nhớ ra từ sáng giờ cô vẫn chưa kịp ăn gì. Nghĩ đến bào thai đang mang trong bụng, Nhung cố gắng đi xuosng bếp tìm gì đó ăn cho qua bữa. Nhưng khi xuống tới nhà dưới, Nhung lại muốn đi vệ sinh. Vừa đẩy cửa phòng vệ sinh, Nhung hoảng hốt rú lên vì bên trong là một đứa bé mặt mày lở loét đang há hoác miệng cười với Nhung.
                            Nhung lùi dần, lùi dần rồi cô quay người cắm đầu chạy, mở toang cửa chạy bổ ra sân và đâm sầm vào Đồng ở ngay trước cổng nhà mình.
                            - Em làm gì vậy?
                            Đồng ngạc nhiên kêu lên.
                            Nhận ra chồng, Nhung mừng rú, ôm chầm lấy anh khóc ngất:
                            - Ma… anh ơi… trong nhà mình có ma…
                            Cũng may là hôm nay Đồng không say như mọi bữa. Anh giữ chặt tay Nhung hỏi lại:
                            - Em nói gì bậy bạ vậy? Ma là sao?
                            - Hai… hai đứa nhỏ… Hạ và Thu… chúng nó tìm về…
                            Nhung lắp bắp nói không ra hơi.
                            Nghe nhắc đến hai đứa con, Đồng sững người:
                            - Sao? Em nói sao? Hai con về à?
                            Đồng hỏi dồn dập nhưng Nhung chưa kịp trờ lời thì anh đã bỏ Nhung đứng đó một mình, chạy vội vào trong, gọi lớn:
                            - Hạ ơi, Thu ơi! Các con đâu rồi? Các con đâu?...
                            Đồng chạy lên lầu, tìm khắp các phòng vẫn không thấy, anh đi xuống nhà nhưng xuống hết thang lầu thì ngồi phịch xuống ôm đầu đau đớn.
                            Nhung phần nào lấy lại được bình tĩnh, cô rón rén đi vào, nhìn thấy chồng ngồi ủ rũ, Nhung đến bên không nói một lời.
                            Hai vợ chồng im lặng một hồi lâu, Đồng thở hắt ra một tiếng lớn rồi vỗ vào vai Nhung:
                            - Thôi, lên nghỉ đi em! Không có gì đâu!
                            Nhung níu tay Đồng lại:
                            - Anh à, em nghe rõ ràng và cũng chính mắt em nhìn thấy… Anh không tin em sao?
                            Đồng lắc đầu:
                            - Không phải anh không tin em, nhưng có lẽ vì quá lo lắng nhớ thương nên em tưởng tượng bậy bạ thôi, chứ nếu thật sự có hồn ma của hai đứa nó thì tại sao anh lại không nhìn thấy? Thì tại sao hai đứa nó không tìm gặp anh? Anh là cha của chúng kia mà?
                            Nhung nín thinh không biết phải nói gì, cô không thể kể cho Đồng biết nguyên nhân nào mà Hạ và Thu lại về tìm cô được.
                            - Thôi, về phòng ngủ đi em!
                            Đồng nhắc lại lần nữa, Nhung uể oải đứng lên đi theo chồng. Vừa đặt lưng xuống giường chưa bao lâu, Đồng đã ngáy khò khò, còn Nhung vẫn cứ hoài thao thức.
                            Nhung đói bụng , rất đói nhưng lại không dám xuống dưới nhà tìm gì đó ăn tạm.
                            Một nỗi tủi thân ào ạt dâng lên, cô trách Đồng đã quá vô tâm không cần biết tâm trạng vợ mình ra sao giữa lúc bụng mang dạ chửa. Và ý nghĩ rời bỏ nơi này bất chợt hiện đến với Nhung.
                            Nhung khóc, ban đầu chỉ là chảy nước mắt nhưng rồi sau đó Nhung lại khóc nghẹn ngào, tức tưởi. Tiếng khóc nức nở của cô đã làm cho Đồng tỉnh giấc.
                            - Có chuyện gì vậy em?
                            Đồng hoảng hốt hỏi.
                            Nhung không nói tiếng nào mà càng khóc dữ hơn. Đồng ngồi dậy mở đèn, nhìn Nhung chăm chú:
                            - Có chuyện gì? Nín khóc, nói anh nghe?
                            - Sáng mai… sáng mai em về với mẹ em…
                            Nhung vẫn chưa hết tức tưởi.
                            Đồng ngạc nhiên:
                            - Sao em lại muốn về nhà mẹ?
                            Nhung cố nuốt nghẹn ngào:
                            - Chứ em ở đây làm gì nữa? Nhà này đâu còn ai… Anh bỏ đi biền biệt, một mình em ra vào trong nỗi cô đơn, sợ hãi… Trong lúc em đang có thai, cần được người thân quan tâm chăm sóc thì ở đây em có được gì?
                            Đồng cúi mặt ngồi nghe Nhung trách móc. Lát sau anh từ từ ngẩng lên buồn bã nói:
                            - Anh xin lỗi em, Nhung ạ! Xin em hãy tha thứ cho anh, mất mát vừa rồi quả là một cú sốc quá nặng trong cuộc đời anh, anh khó mà gượng dậy trong một sớm một chiều được… Nhưng thôi, vì tương lai của đứa con sắp chào đời này anh sẽ cố gắng làm lại từ đầu. anh hứa với em, anh sẽ không như trước nữa. Bắt đầu ngay ngày mai anh sẽ làm lại tất cả… em hãy ở lại đây với nah nhé? Em đừng rời bỏ anh Nhung ơi…
                            Nhung ôm chặt lấy Đồng, nước mắt rơi lã chã…
                            Giữ đúng lời hứa với Nhung, ngay sáng hôm sau Đồng trở vào công ty. Còn lại một mình, Nhung không biết làm gì, cô xuống phòng khách mở ti vi lên xem.
                            Thật ra, Nhung cũng không dám ở một mình trên lầu. Bởi vì trên đó phòng vợ chồng Nhung và phòng hai đứa liền kề nhau, mà những hình ảnh mới hôm qua vẫn còn khắc đậm trong trí nhớ của Nhung khiến cô lúc nào cũng hoang mang lo sợ.
                            Ti vi đang phát chương trình thế giới động vật, nói về những loài cá sống dưới đại dương. Nhung mê mải nhìn những rặng san hô, những đàn cá lấp lánh sắc màu bơi lội. cô thầm khâm phục những người đã bỏ ra biết bao tâm huyết để quay cho được những thước phim đẹp và quý giá như thế này.
                            Bất chợt, Nhung chú ý đến bầy cá đang bơi lội tung tăng ở một góc màn hình. Hình như trong bầy đó có hai con khác lạ. Khi chiếu gần lại, Nhung bật ngửa người ra vì thấy rõ ràng, đó không phải là hai con cá lạ  mà chính là hai chị em Thu và Hạ!
                            Hai đứa cũng bơi tung tăng giữa đàn cá, trên người chúng mặc bộ đồ tắm do chính tay Nhung mua hôm chuẩn bị đi Phan Thiết. Khi bơi đến giữa màn hình, Thu còn cố tình áp mặt nó ra ngoài như muốn cho Nhung nhìn thấy được rõ hơn.
                            Nhung dụi mắt mấy cái nhìn lại màn hình thì không có gì lạ, vẫn là quang cảnh dưới đáy đại dương, vẫn là những sinh vật sống dưới đó, nhưng hoàn toàn không có sự hiện diện của Thu và Hạ!
                            - Mình điên rồi hay sao thế này?
                            Nhung ôm đầu rên rỉ.
                            Cô đứng lên đi vào phòng tắm để rửa mặt cho tỉnh táo. Vục nước vào mặt, Nhung vừa vuốt nước, vừa nhắm mắt lại cho thư thả một chút, và rồi cô cúi người xuống để vục thêm tí nước mát, đồng thời mắt Nhung mở hé ra. Ngay lập tức, Nhung lại kêu rú lên:
                            - Trời ơi…
                            Nhung bật người lùi lại, nhưng mắt vẫn nhìn sững vào vật kỳ lạ ở ngay trước mặt mình! Cái lavabor đầy nước rửa mặt mà lúc nãy chính Nhung xả cho nước tràn vào, bây giờ trong đó nổi lềnh bềnh một chỏm tóc, trông như có một xác người chết đuối đang trồi lên mặt nước vậy.
                            Nhung muốn chạy ra khỏi căn phòng quái đản này, nhưng cô không đủ sức. Nhung cứ lùi mãi, lùi mãi vào tường. Nếu muốn chạy ra khỏi phòng, bắt buộc Nhung phải chạy ngang qua chỗ cái lavabor đó, mà cô thì không dám, bởi cái chòm tóc ấy vẫn cứ đeo dính lấy mắt cô.
                            Nước trong lavabor bị khuấy động, chỏm tóc trôi bềnh bồng một lúc rồi lật nghiêng qua, để lộ rõ gương mặt trắng bệch của Thu. Hai con mắt nó nhìn Nhung chòng chọc.
                            - Dì ơi… con lạnh…
                            Nhung không còn biết gì nữa cả, cô tông chạy ra ngoài. Ra đến sân nhà, Nhung ngồi thụp xuống thở hổn hển. Mặt trời đã lên cao, nắng chiếu xuống gay gắt. Nhung rất muốn đi đâu cho khuây khỏa nỗi kinh hoàng này, nhưng lúc này trên người cô chỉ là bộ quần áo mỏng manh mặc ở nhà thì làm sao ra đường được? Còn trở lên phòng thay áo quần ư? Quả thật Nhung không thể, cô sợ lắm… Trong ngôi nhà này hình như ở mọi ngõ ngách đều có bóng dáng của hai đứa bé. Chúng quyết không chịu buông tha cho Nhung, chúng quyết dồn cô vào chỗ chết hay sao?
                            Vốn là một cô gái mạnh mẽ, Nhung đâu dễ cam tâm chịu cảnh thế này. Tỏng lúc ngồi giữa cái nắng như thiêu như đốt này, bất chợt trong đầu Nhung hiện ra một lối thoát. Cô mừng rỡ đứng lên.
                            Rón rén đi vào nhà, Nhung cầm lấy điện thoại trên bàn vội vã bấm số gọi đi.
                            - A lô! Xin lỗi có phải nhà của Liên không ạ?
                            Nhung hồi hộp.
                            - Liên đây, ai thế?
                            Đầu dây bên kia có tiếng trả lời.
                            Nhung reo lên:
                            - Liên hả? Nhung nè! Nhớ mình không? Mình có việc gấp lắm nhờ Liên giúp. Đến đây với mình ngay nhé?
                            Nhung đặt điện thoại xuống bàn rồi ra hành lang đứng ngóng ra đường chờ Liên tới.
                            Liên là bạn với Nhung, bạn rất thân, nhưng từ ngày Nhung đi lấy chồng, mối liên hệ giữa hai người hầu như bị cắt đứt. Liên là con gái của một người đàn bà làm nghề trừ ma bắt quỷ, cái nghề mà những người đàng hoàng trong xã hội thường không coi trọng. Chính vì vậy nên Liên mặc cảm với gia đình Đồng, chủ động không liên lạc với Nhung nữa. Còn Nhung thì cũng vì nhiều chuyện phải lo toan, cô cũng không nhớ tới người bạn ngày xưa.
                            Giờ đây, khi thấy mình bị dồn vào bước đường cùng, Nhung bỗng nhớ ra Liên có người mẹ làm nghề trừ tà, cô muốn nhờ Liên về nói mẹ tới giúp.
                            Nhung đứng đợi hơn ba mươi phút thì Liên tới. Vừa dẫn xe vào sân nhà, Liên giật mình hỏi bạn:
                            - Trời ơi! Nhung bị làm sao mà mặt mày xanh lét thế kia?
                            Nhung không trả lời, kéo Liên vào phòng khách. Vừa đảo mắt ngó quanh, Nhung vừa đi thẳng vào vấn đề, không hỏi thăm gì đến cuộc sống của Liên hiện tại.
                            - Liên ơi, giúp mình với! Mình chết mất thôi…
                            Thấy vẻ khẩn trương, hốt hoảng của Nhung, Liên trấn an:
                            - Bình tĩnh lại đi, có gì thì bình tĩnh kể rõ đầu đuôi, nếu giúp được Nhung chắc chắn mình không chối từ đâu!
                            Nhung nuốt ực một cái rồi cố gắng kể rành mạch:
                            - Hai đứa con của anh Đồng, chúng nó chết trôi ngoài biển… Liên biết chuyện này chứ?
                            Liên gật:
                            - Ừ, mình biết! Hôm đám tang hai đứa nhỏ mình cũng có tới thăm mà!
                            - Lúc còn sống, quan hệ giữa hai đứa và mình không được tốt, cho nên… khi chết đi chúng nó thường xuyên về quấy phá, ám ảnh mình. Mình sợ lắm Liên ơi…
                            Nhung run rẩy kể.
                            Liên tò mò:
                            - Nhung nói chúng nó về? Về là về làm sao?
                            Nhung liếc quanh nhà một cái nữa rồi nói:
                            - Chúng nó thường hiện ra trước mắt mình, chỉ một mình mình thấy chúng, nghe được chúng chứ anh Đồng thì không, nên ảnh cứ cho là mình sợ quá rồi tưởng tượng ra…
                            Liên quan sát Nhung một lúc rồi chợt hỏi:
                            - Nhưng… Nhung nên nói thiệt cho mình biết, Nhung có làm điều gì không phải với hai đứa nhỏ đó không?
                            Nhung tỏ ra bối rối trước câu hỏi của Liên, cô lúng túng cúi mặt xuống đất ấp úng trả lời:
                            - Không… mình đâu có làm gì… Nhưng là mẹ ghẻ con chồng, rất khó hòa hợp được Liên ạ!
                            Rồi Nhung ngước lên nhìn Liên van vỉ:
                            - Liên, mình mong Liên về nhờ mẹ tới giúp mình đi! Nếu không chắc mình không thể sống nổi trong ngôi nhà này. Vì bất cứ ở chỗ nào mình đều nhìn thấy chúng.
                            Liên cười nhẹ:
                            - Mẹ mình mất hai tháng trước rồi Nhung ạ!
                            Nhung sững sờ:
                            - Trời! Vậy mà mình thiệt tệ, mình không hay biết gì…
                            Liên lắc đầu:
                            - Không sao, mình hiểu Nhung gặp nhiều rối rắm trong cuộc sống mà, không quan tâm đến ai cũng phải thôi.
                            Nhung ôm đầu than vãn:
                            - Vậy là tiêu mình rồi! Mình cứ hy vọng sẽ được mẹ Liên giúp!
                            Liên cười nhẹ:
                            - Không có gì phải lo đâu Liên ạ! Tuy mẹ mất rồi, nhưng trước đó mẹ cũng dạy cho mình một số điều căn bản. Theo như mẹ mình thì ma quỷ chỉ theo qwuaasy phá, làm hại những ai có oán thù với nó, còn thì tất cả đều vô hại. Có thể có một vài con ma hay hiên ra để nhát người, nhưng đó là do nó không cố ý, hoặc chỉ muốn đùa vui thôi. Bởi vậy, hai đứa bé nhà Nhung cũng có thể nằm trong trường hợp đó. Chúng còn nhỏ, không muốn xa nhà nên hay lui về thăm viếng, rồi vì không thích Nhung nên chúng hiện ra cho Nhung sợ vậy thôi. Một vài ngày nữa ma lực của chúng sẽ tiêu tan, chừng ấy dù có muốn cũng không biết được nữa. Nhung yên tâm đi!
                            - Không! Không phải vậy đâu mà! Mình biết, hai đứa nhỏ ấy muốn mình phải chết… Chúng nó, chúng nó…
                            Nhung la lên, nhưng cô lại ngắc ngứ không biết phải giải thích sao cho Liên hiểu. Nhung nhìn vào mặt Liên đánh thêm đòn tâm lý:
                            - Mình đang có thai, dù hai đứa nhỏ chỉ là đùa giỡn cũng sẽ ảnh hưởng ghê gớm đến mẹ con mình… Mình chết mất Liên ơi!
                            Trông thấy vẻ thảm hại của bạn, Liên thở dài:
                            - Thôi được rồi, để mình đưa cho Nhung cái này, có thể trừ được tàm a quấy nhiễu.
                            - Cái gì? Trừ được tà ma à?
                            Mắt Nhung sáng rỡ, cô hau háu nhìn vào bàn tay thọc sâu vô túi xách của Liên.
                            Lát sau Liên lôi ra một gói nhỏ được gói thật cẩn thận. Nhẹ nhàng mở lớp giấy gói bên ngoài, Liên cầm lên một lá bùa được xếp thành hình tam giác đưa cho Nhung:
                            - Nhung hãy luôn giữ lá bùa này trong người, sẽ không có bất cứ thế lực bóng tối nào xâm hại được Liên đâu. Thế nhưng, đối với kẻ ác lại khác…
                            Liên đột ngột bỏ lửng câu nói, Nhung sốt ruột hỏi dồn:
                            - Khác là khác làm sao vậy Liên?
                            Liên lắc đầu:
                            - Thôi đi, Nhung đừng quan tâm đến chuyện đó, chỉ cần Nhung luôn giữ tâm trong sáng, có lá bùa này thì đảm bảo không gì làm hại Nhung được đâu. Hãy nhớ luôn giữ tâm trong sáng nghe chưa?
                            Nhung không biết làm gì hơn là lặng lẽ gật đầu.
                            Liien đặt lá bùa vào tay Liên rồi đứng dậy:
                            - Thôi, mình về đây! Hôm nay có nhiều việc cần giải quyết, khi nãy nghe giọng Nhung hối hả quá nên mình nóng ruột đến đây xem thử chuyện gì. Bây giờ mình đi, sẽ trở lại thăm bạn đó, hãy nhớ lấy lời dặn của mình!
                            Tiễn Liên ra cổng, Nhung buồn bã quay vào. Cô hồi hộp bước vào phòng khách, tay cầm chặt lá bùa. Ngồi tỏng phòng khách một lúc lâu vẫn không thấy gì xảy ra, Liên đánh bạo đi vào nhà vệ sinh. Đứng trong nhà vệ sinh, cửa không đóng, Nhung lo lắng ngó vào lavabor, ngó vào bồn tắm chuẩn bị tinh thần đón đợi một điều gì đó ghê gớm sẽ xảy ra, nhưng hoàn toàn không có!
                            Khấp khởi mừng thầm trong bụng, Nhung khoát nước rửa mặt rồi đi trở ra bếp lục tìm thức ăn. Tủ lạnh không còn gì ngoài mấy gói mì và một ít đồ nguội. Nhưng giữa lúc đói ngấu nghiến thế này cái gì mà ăn chẳng ngon!
                            Nhung nấu nước chế vào tôi mì, khoan khoái ngồi xuống ghế chờ cho mì nở. Mấy phút sau cô mở nắp, mùi thơm bay lên bát ngát, Nhung hít lấy hít để như kẻ nghèo khó lâu lắm mới được thưởng thức món ăn rất đỗi bình dân này.
                            Gắp một đũa mì cho vào miệng, Nhung vừa ăn vừa xuýt xoa vì cay, vì nóng và vì thỏa mãn cơn đói đang cồn cào trong bao tử. Đang nhai ngon lành, bất chợt Nhung có cảm giác miệng mình bị lướng vướng cái gì trong ấy, cô cúi xuống, nhè mì trong miệng ra thì hỡi ơi đó không phải là những sợi mì vàng rực mà là mớ tóc đen thui.
                            Nhung nôn ọe tới mật vàng mật xanh mà vẫn còn tóc vướng trong cổ họng. Nhìn lại tô mì, Nhung càng choáng váng hơn nữa, vì trong tô là những sợi tóc nổi lềnh bềnh trên mặt nwosc váng dầu mỡ.
                            Tại sao lại như vậy? rõ ràng Nhung đã nấu mì, đã gắp những sợi mì, sao bỗng dưng tất cả biến thành tóc thế này? Không thể hiểu nổi!
                            Nhung đổ vội tô mì rồi ngán ngẫm đứng lên, tưởng đâu được một bữa ăn ngon, nào ngờ đâu lại phải ói hết những gì còn sót lại trong bao tử.
                            Mệt mỏi rã rời, Nhung tới nằm dài trên ghế sa-lông.
                            Giữa lúc Nhung thiu thiu ngủ thì cô lại nghe có tiếng trẻ con cười đùa. Mở choàng mắt, Nhung thấy con bé Thu đang ngồi cạnh bên cô. Người nó sũng nước, mặt mũi bị cá rỉa lở lói gớm ghê, nó đặt tay lên bụng Nhung và nói:
                            - Dì ơi, con muốn dẫn em bé đi tắm biển… Vui lắm đó dì…
                            - Không! Không được!
                            Nhung hốt hoảng la lớn. Cô hất cánh tay bé Thu ra khỏi người mình, nhưng nó vẫn ngoan cố không chịu đứng lên mà cứ lải nhải:
                            - Con muốn dẫn em bé đi tắm biển… Con muốn dẫn em đi…
                            - Không! Không được!
                            Nhung vừa la vừa ngồi bật dậy.
                            Cô ngơ ngác nhìn quanh không thấy có điều gì lạ.
                            - Là mình mơ hay thật thế này?
                            Nhung đặt tay lên trán mình nhíu mày suy nghĩ. Cô nhìn xuống chỗ lúc nãy Thu ngồi thấy ghế vẫn khô ráo, chứng tỏ đó không phải là sự thật vì lúc nãy người Thu toàn nước.
                            Cầm chặt tấm bùa trong tay, Nhung nằm xuống lẩm bẩm:
                            - Không sao! Không có gì đâu mà!
                            Nhung nhìn lên chiếc đồng hồ treo tường và vui mừng vì thấy sắp đến giờ Đồng về tới. Cầu trời anh đừng la cà vui chơi với bè bạn. Nhưng Đồng đã hứa sẽ không chơi bời lêu lỏng nữa mà sẽ chí thú làm ăn, lo cho vợ cho con mà!
                            Tin tưởng vào lá bùa đang cầm trong tay sẽ ngăn chặn không cho ma quỷ ám hại được mình, Nhung mạnh dạn đi lên lầu, về phòng chuẩn bị áo quần đi tắm, vì cô không muốn Đồng nhìn thấy vẻ tiều tụy, nhàu nhè của mình như thế này.
                            Đang lom khom lấy đồ trong tủ, Nhung nghe có một luồng hơi lạnh phả tới sau lưng mình, cô quay phắt người lại và muốn đứng tim khi thấy Hạ và Thu nắm tay nhau đứng ngay sau lưng cô.
                            - Dì lấy đồ cho con thay với! con tìm khắp phòng mình không thấy quần áo đâu cả… Chị em con lạnh lắm… Dì bỏ tụi con lạnh lắm…
                            Hạ ngước mặt nhìn Nhung, gương mặt Hạ lủng lổ chỗ, có những nơi còn lủng lẳng một vài miếng da thịt bầy nhầy trông muốn nôn ọe.
                            Nhung lùi lại và té ngồi xuống đất. Hạ kéo tay Thu tới gần rồi ngồi xuống cạnh bên Nhung.
                            Thu lại đặt tay lên bụng Nhung nói đều đều, giọng không vui cũng chẳng buồn, không thể hiện một chút tình cảm nào trong đó:
                            - Dì ơi, con muốn dẫn em đi tắm biển…
                            Nhung lết dần về phía cửa phòng. Hai đứa nhỏ thì vẫn ngồi nguyên chỗ cũ. Chúng giương mắt ngó Nhung không rời.
                            Ra tới cửa, Nhung vội đứng lên rồi cắm đầu bỏ chạy. Thang lầu trơn nhớt những rong rêu, Nhung đã rất cẩn thận nhưng vẫn bị trượt chân té lăn lông lốc.
                             
                            ***
                            Nhung cố gắng nhướng mắt lên nhưng hai mí mắt cô lúc này lại nặng trịch như đã bị ai dán chặt. Khó khăn lắm cô mới he hé được một tí xíu.
                            Xung quanh vắng lặng rợn người, ánh đèn sáng trưng, vách tường trắng toát. Nhung thật sự không biết mình đang ở đâu nữa. Cô cố gắng nhớ lại sự việc, nhưng rồi chỉ nhớ tới chỗ mình ngã lăn từ trên lầu xuống đất, còn lại là một khoảng trống, không ghi lại được điều gì.
                            Lát sau, Nhung mới mở được mắt. Cô thấy mình đang nằm trong một căn phòng rộng thênh thênh, tràn đầy hơi lạnh. Có lẽ nơi này là bệnh viện. Ai đã đem mình vào đây? Nhung căng đầu ra để suy nghĩ.
                            - Chắc chắn là Đồng rồi! Nhà mình ít người lui tới, sẽ không ai phát hiện ra mình đâu, chỉ có anh thôi! Đồng ơi, anh đâu rồi?
                            Nhung lẩm bẩm. Cô dáo dác nhìn quanh. Trên những chiếc giường bên cạnh cũng có vài người nằm đó, nhưng không hiểu sao họ lại đắp chăn trùm kín hết cả đầu? Lại không thấy một thân nhân nào ra vô?
                            - Anh Đồng ơi!
                            Nhung cất tiếng gọi nhưng không nghe ai đáp lại.
                            Một cảm giác sợ hãi xâm chiếm lấy Nhung. Cô ngồi bật dậy và ra khỏi giường.
                            - Phòng bệnh sao lại để lạnh thế này? Hèn gì họ đều trùm kín hết cả!
                            Nhung vừa quan sát vừa nhận xét.
                            Bất chợt cô nhìn xuống và thấy hai bên đùi mình có hai dòng máu đang chảy xuống.
                            - Trời ơi, con tôi! Con tôi…
                            Nhung hoảng hốt kêu lên. Cô linh cảm được bào thai trong bụng đã có vấn đề. Nhưng mặc cho Nhung gào rát cả cổ vẫn không có một người nào xuất hiện. Tất cả đều lặng im, tất cả đều lạnh lẽo vô hồn.
                            Nhung chạy tới mở cửa nhưng cánh cửa đã bị khóa kín, cô không sao mở được.
                            Vừa đập ầm ầm vào cánh cửa, Nhung vừa kêu gào nhưng vô hiệu! Không ai, không có bất cứ điều gì đáp trả lại lời Nhung. Tuyệt vọng, Nhung ngồi bệt xuống đất ôm mặt khóc thảm thiết.
                            Bất chợt Nhung thấy nắm đấm cửa xoay nhẹ, cô mừng rỡ đứng bật dậy vì biết có người đang mở cửa đi vào. Chưa kịp reo lên Nhung đã rụng rời chân tay, vì kẻ vào phòng chính là chị em Hạ, Thu, hai kẻ mà Nhung không bao giờ muốn trông thấy mặt!
                            - Dì ơi, em tắm biển rồi, vui lắm! Lát nữa con dắt dì đi!
                            Hạ ríu rít nói.
                            Thu nhìn Nhung cười cười:
                            - Con cũng bắt chước dì, con bỏ em một mình ngoài biển…
                            Nhung sợ hãi đưa tay sờ bụng mình, và cô biết chắc đứa con của cô đã không còn trong đó nữa!
                            - Không! Trời ơi… xin hai ocn hãy tha cho dì, tha cho em con… Dì xin hai con mà, hai con hãy tha cho dì đi!...
                            Nhung quỳ sụp xuống khóc nức nở.
                            Hạ nói như một người lớn:
                            - Muộn lắm rồi dì ạ! Chúng con những tưởng gia đình mình sẽ có được những ngày vui vẻ dài lâu, nào ngờ lòng dạ dì quá ác độc! Dì đang tâm giết hại một lúc hai chị em con. Tội lỗi đó dì nghĩ có thể được tha thứ sao?
                            Nói dứt câu, Hạ quay người nắm lấy tay Thu toan đi ra cửa, Nhung nhoài người muốn níu giữ Hạ lại để tiếp tục van xin, nhưng khi bàn tay cô vừa chạm vào người Hạ, cô có cảm giác mình chạm vào một thứ nước gì nhớt nhợt, bàn tay không thể bám được mà nó trơn tuột và rơi xuống làm Nhung mất đà ngã úp mặt xuống sàn.
                            Hạ và Thu đi ra, cánh cửa lại đóng kín. Nhung như thấy mình bị giam cầm trong căn phòng khủng khiếp.
                            Nhung đứng lên nhìn quanh. Tại sao mọi người đều nằm im một cách ghê rợn thế này? Họ ngủ cùng một tư thế thẳng đơ người thế này hay sao? Nhung rất muốn thử giở một tấm chăn để xem mặt người nằm gần đó ra sao nhưng cô chưa dám. Bất ngờ, Nhung liếc nhìn lại chiếc giường mình nằm khi nãy và cô bỗng giật bắn người khi thấy ở đó cũng có một người nằm dài, trùm chăn kín mít!
                            Nhung hồi hộp tiến lại gần, run rấy đưa tay giở tấm mền che mặt người đang nằm đó. Khi tấm vải vừa được kéo ra một chút, Nhung không ngăn được tiếng thét kinh hoàng:
                            - Trời ơi!
                            Người nằm trên giường đó chính là thân xác của Nhung!
                            Nhung hốt hoảng giật tung chiếc mền trắng toát, rồi ra sức lay gọi cái xác vô tri đang nằm bất động. Nước mắt cô lăn dài, rơi lã chã xuống mặt xác chết.
                            Một hồi lâu sau chừng như đã thấm mệt và đã quá tuyệt vọng, Nhung không còn cố sức làm gì nữa, cô ngồi thụp xuống sàn nhà khóc không ra tiếng.
                            Không biết qua bao nhiêu thời gian, khi nghe tiếng cửa xịch mở, Nhung từ từ ngước lên và vô cùng mừng rỡ khi thấy Đồng đang tiến vào.
                            Nhung chạy vội tới níu lấy tay Đồng:
                            - Anh ơi! Em sợ quá, mau dắt em về đi, anh Đồng ơi!
                            Đồng không hề óc một phản ứng nhỏ nào, anh cứ tiến thẳng tới chỗ xác chết của Nhung với vẻ mặt đau đớn và căng thẳng.
                            Nhung chạy tới chặn ngang trước mặt Đồng:
                            - Em đây! Em đây mà, anh không nhìn thấy em sao? Trời ơi…
                            Đồng vẫn tiến tới như không hề có Nhung đang làm vật cản.
                            Nhung cố làm mọi cách vẫn không sao khiến Đồng nhận biết được sự tồn tại của cô bên cạnh. Tuyệt vọng, Nhung lại khóc ròng…
                            Đồng tiến hành các thủ tục một cách mau chóng, và xác chết của Nhung được đưa đi an táng ngay ngày hôm sau. Còn linh hồn Nhung cứ phải vất vơ vất vưởng trên đường.
                            Đau đớn làm sao khi Nhung tận mắt chứng kiến cảnh người thân đang khóc mình mà không thể nói gì cùng họ được.
                            Chị em Hạ, Thu thỉnh thoảng lại kéo đến cười cợt, đùa vui trước mắt Nhung, nhưng cô làm như không quan tâm tới nữa.
                            Gần một tuần sau, Nhung đã quá khổ sở vì phải sống trong cảnh ấy. Cô níu lấy Hạ và hỏi:
                            - Dì phải làm sao bây giờ?
                            Hạ nhìn vào Nhung và gằn từng tiếng:
                            - Dì phải sám hối!
                            - Sám hối? sám hối là sao?
                            Nhung như kẻ ngu ngơ.
                            Hạ cười lớn:
                            - Cho tới giờ phút này dì vẫn chưa thừa nhận tội lỗi của dì sao?
                            Không chờ Nhung trả lời, vừa nói dứt câu nó đã vội dắt tay em biến mất.
                            Nhung đứng một mình giữa bãi tha ma, cô nghĩ lại những tính toán nhỏ nhen, những điều được mất trong đời và bỗng thấy cuộc ssoong vừa qua của mình sao mà mệt mỏi quá! Hạnh phúc đã có trong tay mà Nhung lại không biết nâng niu gìn giữ, lòng tham, tính đố kỵ đã đưa đẩy cô vào con đường tội lỗi không có lối ra.
                            Giờ đây, Nhung có giữ gì được cho mình? Nhà cửa, tài sản? Một người chồng hiền lành giỏi giang? Một đứa con mơ ước chưa kịp chào đời? Tất cả đều như cát bụi phù du chỉ thoáng qua trong đời Nhung phút chốc…
                            Nhung lang thang về lại ngôi nhà cũ. Ngôi nhà âm u đầy mùi nhang khói. Chiếc bàn thờ để giữa nhà, trên đó có ba tấm ảnh: Nhung, Hạ và Thu.
                            Đồng ngồi lặng lẽ trong góc nhà, điếu thuốc trên tay cháy hơn phân nửa mà Đồng vẫn chưa nhớ đưa lên miệng hút.
                            Nhung đi tới bên Đồng thầm thì:
                            - Hãy tha lỗi cho em!
                            Đồng ngơ ngác ngó quanh rồi nhổm dậy kêu lên:
                            - Nhung! Có phải em vừa về đó không Nhung?
                            - Tha lỗi cho em!
                            Tiếng Nhung thảm thiết.
                            - Em nói đi Nhung! Có gì cần nói, em nói hết với anh đi! Anh đã nghe được tiếng nói của em rồi nè…
                            Đồng đau đớn quay người khắp nơi mong được nhìn thấy vợ, dù là một lần sau cuối.
                            - Chính em đã hãm hại hai con!
                            Nhung rên lên tự thú.
                            - Em nói sao? Chính em hãm hại? Có lẽ em muốn anh không bị dày vò nên nói thế thôi. Anh biết đó là lỗi do anh gây ra…Nếu hôm đó có em ở nhà thì mọi việc đã không như vậy!
                            Đồng kêu lên.
                            Nhung cười đau đớn:
                            - Không! Anh lầm rồi! Anh đã bị em lừa gạt rồi! hôm đó em đã bỏ thuốc ngủ vào ly cam vắt của anh. Em đi loanh quanh một lúc rồi về, khi anh đang say ngủ. Em rủ hai con đi tắm, em dẫn chúng ra thật xa bờ… thế rồi… thế rồi em bỏ mặc chúng ở đó, em lên bờ, bí mật thay quần áo rồi đi khám bệnh như không có gì xảy ra…
                            Đồng thảng thốt:
                            - Trời ơi… anh thật không ngờ… Nhưng tại sao em lại làm vậy? Không phải thời gian đó giữa em và hai con đã có mối quan hệ rất tốt hay sao?
                            Nhung nghẹn ngào:
                            - Không đúng! Tất cả là do em diễn kịch mà thôi. Từ cái đêm em đánh Hạ và bị anh mắng, em biết nếu còn sự hiện diện của hai đứa nó thì hạnh phúc của em mãi mãi không bao giờ tròn vẹn được. Và thế là em phải cố gắng hết sức để nhẫn nhịn, để gầy dựng lòng tin nơi anh, gầy dựng tình cảm nơi hai đứa bé…em nhất định sẽ có một ngày hất chúng ra khỏi cuộc đời anh. Nhưng thật tình em cũng chưa biết sẽ làm cách nào. Rồi khi biết mình mang thai, em càng nung nấu ý muốn chiếm trọn gia tài cho con mình, em không muốn anh san sẻ tình yêu thowng và vật chất cho hai đứa nó. Ý định đó nung nấu sôi sục trong em. Và cơ hội ngàn vàn đưa đến khi anh quyết định đưa em và các con về chơi vùng biển. em biết, nếu không hành động trong những ngày ở đó thì sẽ không còn cơ hội nào nữa. Thế là…
                            - Trời ơi! Độc ác! Cô quả thật là độc ác…
                            Đồng nghiến chặt hàm răng, rít lên đau đớn.
                            - Và em đã bị trả giá! Hai đứa con anh ngày nào cũng về ám ảnh em, hành hạ em, không để cho em có được một giây phút thanh thản tâm hồn… em sống mà còn hơn chết… Và rồi em lại phải trả giá bằng mạng sống của em lẫn đứa con tội nghiệp chưa kịp mở mắt chào đời… Bây giờ em ân hận thì đã quá muộn màng rồi… em chỉ muốn thú nhận hết tội lỗi để lòng được nhẹ hơn đôi chút và để anh hiểu đó không phải là lỗi của anh. Em xin anh hãy tiếp tục sống mạnh mẽ… Cuộc đời anh vẫn còn dài phía trước… Bây giờ em đi đây, em đi đền tội lỗi của mình…
                            Giọng nói nghẹn ngào đứt quãng của Nhung nhỏ dần rồi mất hẳn. Đồng nhổm dậy gọi to:
                            - Nhung! Nhung ơi…
                            Một con mèo hoang không biết từ đâu nhảy phốc lên bàn thờ, cào mạnh vào tấm ảnh tươi cười của Nhung khiến nó rơi xuống đất vỡ loảng xoảng.
                            Đồng quỳ xuống nhặt từng mảnh kiếng bể, cầm tấm ảnh Nhung trên tay và ngước nhìn hai đứa bé trên bàn thờ, anh lẩm bẩm:
                            - Tha lỗi cho ba! Xin hai con hãy tha lỗi cho ba…
                            Hết
                            Nguyễn Thị Mộng Thu
                            <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:41:20 bởi nguyenthu >
                            #74
                              nguyenthu 10.08.2009 22:09:10 (permalink)
                              TUẦN TRĂNG MẬT
                               
                              Diễm Thy hí hửng ngã đầu lên vai chồng, lim dim mắt. Tiếng cô thật nhẹ nhàng:
                              - Bắt đầu từ hôm nay, hai đứa mình thật sự bước vào một cuộc sống khác, một cuộc sống với những trách nhiệm và bổn phận lớn lao, phải không anh?
                              Duy bật cười:
                              - Ồ, sao em lại nói vậy? Phải nói là một cuộc sống ngập tràn hạnh phúc mới đúng chứ!
                              Diễm Thy mở mắt, cắn nhẹ vào vai chồng:
                              - Người ta vẫn thường nói “Hôn nhân là mồ chôn tình yêu”, anh không nghe sao?
                              Duy nghiêm mặt, đặt tay lên miệng vợ, trách:
                              - Em không được nói gở như vậy, nghe chưa? Mình vừa cưới nhau xong, hạnh phúc như vầy sao lại nói chi câu đó? Em thiệt kỳ…
                              Diễm Thy có vẻ biết lỗi, dụi mặt vào vai Duy nũng nịu:
                              - Em đâu có nói mình đâu, em nói người khác kia mà…
                              Duy cốc vào trán Diễm Thy:
                              - Không được nói bậy, cũng không được suy nghĩ bậy bạ, nghe chưa?
                              Diễm Thy không trả lời mà chỉ cười khúc khích.
                              Chiếc xe chạy bon bon trên đường, Diễm Thy ngồi thẳng dậy với tay mở cửa xe đón làn gió sớm ùa vào mát rượi. Gió thổi tung mái tóc Diễm Thy, đánh lòa xòa vào gương mặt tươi tắn của Duy đang ngồi bên cạnh. Duy dịu dàng túm gọn mái tóc dài của vợ, mái tóc mà anh đã vuốt ve hàng trăm lần vẫn không biết chán, mái tóc thoảng một mùi hương thơm nhẹ nhàng, quyến rũ…
                              Duy và Diễm Thy yêu nhau từ nhiều năm nay, nhưng vì hai bên gia đình có những mâu thuẫn sâu xa, lâu đời cho nên tình yêu của họ phải vượt qua thật nhiều thử thách. Cuối cùng, họ cũng chính thức thành chồng thành vợ.
                              Duy luôn nhớ mãi ngày mới yêu nhau, Diễm Thy có một mơ ước rất dễ thương, lãng mạn:
                              - Em mơ ước ngày mình cưới nhau, em sẽ không đòi anh đưa đi hưởng tuần trăng mật ở các khu nghỉ mát du lịch nào đâu, mấy chỗ đó ồn ào lắm. Em chỉ ước mình được đến một nơi thật hoang vắng, nơi đó chỉ có anh và em, hai chúng mình sẽ sống bên nhau những ngày thật tuyệt vời, anh nhé?
                              Vì vậy, trước ngày cưới, mặc dù bận trăm công ngàn việc, Duy vẫn cố gắng dò hỏi bạn bè để tìm ra được một nơi gần giống với mong muốn của Diễm Thy. Anh muốn dành cho cô một bất ngờ thú vị.
                              - Anh ơi, mình đi đâu đây?
                              Diễm Thy ngạc nhiên kêu lên khi thấy xe chạy qua khỏi ngã ba Vũng Tàu mà không rẽ về hướng Vũng Tàu, nơi mà từ sáng giờ Diễm Thy cứ ngỡ Duy sẽ đưa mình tới.
                              Duy nhìn vợ nheo mắt:
                              - Bí mật! Rồi em sẽ biết khi tới nơi.
                              Diễm Thy bĩu môi:
                              - Xời ơi, bày đặt bí mật với em! Không đi Vũng Tàu thì đi Phan Thiết chứ gì?
                              Duy choàng tay qua người vợ:
                              - Đã bảo là bí mật rồi mà còn hỏi!
                              Diễm Thy tựa vào người chồng cười nói:
                              - Ờ há, em cũng đâu cần hỏi làm gì! Bất cứ nơi nào anh đưa em tới em cũng sẽ rất thích, rất vui!
                              Hai vợ chồng nhìn nhau mỉm cười sung sướng.
                              Đến quá trưa thì chiếc xe đỗ xịch trước cổng một trang trại có vẻ hoang vu vắng lặng. Người tài xế lôi mấy chiếc vali xuống đất rồi nhìn hai vợ chồng vẻ ái ngại:
                              - Anh chị còn đi bao xa nữa mới tới nơi? Sao không để tôi chở đến đó luôn? Đồ đạc lỉnh kỉnh như vầy liệu có kham nổi không?
                              Duy cười:
                              - Dạ, cảm ơn anh! Đường từ đây vô đó xe không chạy được, nhưng không sao, chúng tôi lo được mà! Chào anh nhé, hẹn gặp lại!
                              Anh tài xế đưa tay bắt lấy cánh tay chìa ra của Duy và nói:
                              - Tuần sau, đúng mười giờ, tôi sẽ đón anh chị ở chỗ này nhé?
                              Duy gật đầu, siết mạnh tay anh tài xế. Người tài xế nhìn về hướng Diễm Thy:
                              - Chào tạm biệt chị. Chúc anh chị thật hạnh phúc.
                              - Cảm ơn anh!
                              Diễm Thy gật đầu duyên dáng đáp lại lời chào của người tài xế.
                              Hai vợ chồng đứng sát vào nhau nhìn theo chiếc xe đang khuất dần trên con đường nhỏ.
                              - Đây là đâu vậy anh?
                              Diễm Thy ngó xung quanh, tò mò hỏi.
                              Đạt cười:
                              - Thì đây chính là nơi mà em từng mơ ước đó! Nơi chỉ có hai chúng mình, em quên rồi sao?
                              Diễm Thy tròn mắt nhìn Duy rồi bất chợt cô nhảy tới bá vai chồng reo lên:
                              - Trời ơi! Em không ngờ anh vẫn còn nhớ tới điều đó!
                              Duy âu yếm nhìn vợ:
                              - Vì đó là mơ ước của em mà!
                              Diễm Thy đặt lên má chồng một nụ hôn thật dài, rồi buông Duy ra cô hỏi:
                              - Mình còn đi bao xa nữa anh?
                              - Không xa lắm đâu em! Các vali đều có bánh xe để kéo, em đừng lo chuyện mang vác mấy thứ này!
                              Duy vừa nói vừa chọn đưa cho Diễm Thy hai chiếc vali nhỏ nhất, còn lại anh dành hết về mình.
                              Diễm Thy sung sướng:
                              - Anh thật là chu đáo!
                              Vợ chồng Diễm Thy thong thả vừa kéo vali đi vừa ngắm cảnh. Con đường đất nhỏ ngoằn ngòeo đi qua những vườn cây rậm rạp như một cánh rừng. Cảnh vật nơi này thật hoang sơ, nhìn bốn phía không thấy một bóng người.
                              Từ nãy giờ, Diễm Thy mãi lo vui với hạnh phúc của mình mà quên đi thực tại, bây giờ cô bất chợt nhớ ra nên buông vali níu lấy tay Duy lo lắng hỏi:
                              - Anh Duy! Mình tới đây rồi sẽ ở đâu và sẽ sống bằng gì?
                              Duy quay lại nheo nheo mắt:
                              - Không cần ăn mình vẫn no mà, vì mình đang hạnh phúc! Không cần nhà mình vẫn ấm mà, vì mình đang có nhau!
                              Diễm Thy dậm chân nũng nịu:
                              - Em không giỡn nữa, anh nói mau lên đi!
                              Duy cười xòa:
                              - Đùa với em thôi! Đây là trang trại của người quen với thằng bạn thân của anh. Nơi đây đã bị bỏ hoang nhiều năm rồi, giờ người ta mới bắt đầu xây dựng lại. Trong này hiện tại cũng có một số người ở, nhưng vì đất rộng, nên em yên tâm đi, chắc chắn là vợ chồng mình sẽ có được khoảng trời riêng như ý muốn! Ông lão quản gia sẽ lo cơm nước cho mình em ạ! Anh đã bàn bạc, thỏa thuận xong hết rồi, bây giờ em chỉ việc hưởng hạnh phúc thôi.
                              Nghe Duy nói, Diễm Thy tỏ ra vô cùng thích thú. Lâu nay cô sống ở thành phố ồn ào xe cộ và khói bụi, giờ đây được sống những ngày trăng mật ở một nơi lý tưởng như vầy hỏi sao không vui mừng cho được!
                              Hai vợ chồng đi một đoạn nữa thì thấy trước mặt có một ngôi nhà nhỏ. Từ trong nhà, một người đàn ông đi ra dõi mắt nhìn về phía họ như đang chờ đợi.
                              Khi cả hai đến gần, Duy nhanh nhảu lên tiếng:
                              - Chào bác! Đây là Diễm Thy, vợ con, người mà hôm trước con đã nói với bác đó!
                              Rồi quay sang Diễm Thy, anh giới thiệu:
                              - Đây là bác Lý, người coi sóc trang trại. Vợ chồng mình phải nhờ vào bác ấy rất nhiều trong những ngày sống ở đây đó em ạ!
                              Diễm Thy cúi chào bác Lý. Bác Lý cũng tươi cười gật đầu chào lại.
                              Bác Lý là một người đàn ông gầy gò, khắc khổ, nhưng khi ông nở nụ cười thì gương mặt lại sáng bừng lên. Tuy nhiên, Diễm Thy vẫn thấy ở ông có một điều gì đó khiến cô lo sợ không yên tâm.
                              Bác Lý chỉ tay vào nhà và nói:
                              - Hai cháu vào nhà chơi, uống ly nước rồi bác đưa vô trong đó!
                              Duy đặt mấy chiếc vali sát cạnh hàng rào rồi nắm tay Diễm Thy đi theo bác Lý vào nhà.
                              Bác Lý rót trà mời hai vợ chồng Diễm Thy và hỏi:
                              - Hai cháu đi đường chắc mệt lắm rồi phải không? Đói chưa? Nếu đói thì ngồi đây nghỉ mệt, để bác đi nấu cơm cho…
                              Duy xua tay:
                              - Dạ khỏi bác ơi! Tụi cháu vừa dừng lại ăn ở dọc đường, chắc chiều nay mới làm phiền tới bác.
                              Bác Lý mỉm cười:
                              - Ờ, không có gì đâu! Chiều tối bác sẽ đem cơm vào trong đó cho hai cháu. Hai cháu cứ việc vui chơi thỏa thích, mọi việc có bác lo.
                              Chờ vợ chồng Diễm Thy uống xong ly nước, bác Lý đứng lên lấy xâu chìa khóa rồi nói:
                              - Giờ bác đưa hai cháu vào trong đó nghen?
                              - Dạ!
                              Duy gật đầu.
                              Diễm Thy đứng lên, đi theo sau lưng Duy.
                              Lúc này bác Lý đã giành phần kéo hai chiếc của Diễm Thy, cô chỉ thong thả vừa đi vừa ngắm cảnh. Cả ba người tiến theo con đường uốn éo và sâu hun hút, đường này chỉ có thể đi bằng xe gắn máy, các loại xe khác đều không thể vào được.
                              - Như vậy khi xây cất trong này, người ta vận chuyển vật liệu bằng phương tiện gì vậy bác?
                              Diễm Thy tò mò hỏi bác Lý.
                              - À, có một con đường khác lớn hơn, xe tải có thể ra vào thoải mái nhưng xa hơn cháu à!
                              Diễm Thy nhìn chồng như ngầm hỏi tại sao lúc nãy anh không kêu tài xế chở vào tận nơi.
                              Duy cười tủm tỉm:
                              - Em phải đi bộ qua con đường này mới cảm nhận được vẻ đẹp ở nơi đây! Với lại nó sẽ để lại trong em một ấn tượng rất lớn…
                              Diễm Thy nguýt chồng, nói nhỏ không để bác Lý nghe được:
                              - Anh hay chê em lãng mạn, không ngờ anh còn lãng mạn hơn em!
                              Duy bật cười:
                              - Thì tại… anh bị lây nhiễm từ em đó thôi!
                              Đi hơn một cây số thì Diễm Thy thấy hiện ra trước mặt một ngôi nhà gỗ được xây dựng theo kiểu rất lạ mắt và rất đẹp.
                              Diễm Thy giống như một cô bé con, reo lên mừng rỡ:
                              - Anh Duy, mình sống ở đây phải không?
                              Duy rất hài lòng khi thấy Diễm Thy vui đến vậy. Anh gật đầu:
                              - Ừ, mình sẽ sống một tuần lễ trong ngôi nhà này. Tí nữa em vô đó mà coi, còn nhiều điều thú vị lắm!
                              Diễm Thy nghe Duy nói xong, cô chạy ào về phía trước, bỏ Duy và bác Lý lại sau lưng.
                              Đó là một ngôi nhà sàn bằng gỗ rất rộng lớn, lại có đến hai tầng. Diễm Thy đứng dưới đất nghển cổ nhìn lên trên, nhìn lối kiến trúc lạ mắt mà từ hồi nào tới giờ đây là lần đầu tiên Diễm Thy được tận mắt chứng kiến.
                              Bác Lý và Duy đã về tới, cả hai nhấc mấy chiếc vali lên nhà, Diễm Thy lúc này lại rụt rè bước theo sau.
                              Sàn nhà được lát bằng loại gỗ quý, đã nhiều năm nên màu gỗ sậm lại và bóng lên vô cùng đẹp mắt.
                              Vừa bước lên mấy bậc thang là đến phòng khách. Nơi này được bày trí tuy đơn giản nhưng rất hấp dẫn, chứng tỏ chủ nhà có con mắt thẫm mỹ rất cao. Gây ấn tượng nhất ở phòng khách là một chiếc búa lớn giắt trên vách. Nó như một vật trang trí làm tăng thêm vẻ hấp dẫn của lối bày trí lạ mắt này.
                              Nhà gồm nhiều phòng, phòng nào cũng rộng rãi nhưng đồ đạc bày trí bên trong còn rất hạn chế.
                              Bác Lý mở cửa căn phòng ở gần chân cầu thang và nói:
                              - Đây là căn phòng đẹp nhất trong nhà này, dành riêng cho hai cháu. Ở đây cũng đã được chủ nhà sắm sửa đủ vật dụng rồi, hai cháu không phải lo!
                              Diễm Thy tò mò nghiêng đầu ngó vào. Quả thật căn phòng rộng rãi và thoáng mát. Bên trong kê một chiếc giường nệm mới tinh tươm, một bàn trang điểm và một chiếc tủ áo lớn kéo dài suốt chiều ngang của căn phòng. Một ngôi nhà và một căn phòng thế này ở nơi hoang vu hẻo lánh quả là tuyệt vời không còn chỗ để chê!
                              Trao chùm chìa khóa cho Duy, bác Lý dặn:
                              - Hai cháu muốn tham quan ngôi nhà thì cứ tự tiện, nhưng bác nói trước, chỉ có căn phòng của hai cháu là đủ tiện nghi thôi, các phòng khác còn sơ sài lắm vì chưa có người ở. Trên lầu càng bề bộn hơn, vì không có người quét dọn hàng ngày. Từ khi biết hai cháu sẽ đến đây, ông bà chủ nhà mới dặn bác quét dọn khu vực này để chào đón hai cháu đó!
                              Duy cầm lấy xâu chìa khóa, mỉm cười:
                              - Dạ, không sao đâu bác! Tụi cháu chỉ cần có căn phòng này là đủ rồi bác ạ!
                              Bác Lý tủm tỉm cười:
                              - Ừ, vậy thôi bác về, trả tự do lại cho hai cháu đó! Mỗi ngày bác sẽ ba lần mang thức ăn tới cho hai cháu vào các buổi sáng, trưa và tối. Nếu có cần gì thêm các cháu cứ việc tìm gặp bác nhé!
                              - Dạ! Chúng cháu rất cảm ơn bác!
                              Duy cúi chào bác Lý, Diễm Thy cũng gật nhẹ và nhìn bác bằng ánh mắt thân thiện hơn lúc nãy.
                              Vừa dợm bước chân xuống bậc thang, bác Lý sực nhớ quay lại dặn thêm:
                              - À, ở đây có hai điều hơi bất tiện, thứ nhất là ở đây không có điện, thứ hai là nhà vệ sinh lại nằm xê ra phía ngoài kia! Bác có mua sẵn đèn pin, đèn dầu và cả nến nữa, các cháu muốn dùng cái nào tùy thích nhé!
                              Diễm Thy vừa nghe nói đến chuyện không có điện, cô thoáng giật mình, nhưng rồi cô chợt nhớ bên cạnh mình là Duy, người chồng mới cưới, tuần lễ này này là tuần lễ trăng mật của hai vợ chồng, và nhất là khoảng thời gian này trăng cũng rất sáng, cô vui vẻ nói:
                              - Dạ, không sao đâu bác! Không có điện càng hay, tụi cháu sẽ được ngắm trăng thỏa thích!
                              Duy nhìn Diễm Thy tủm tỉm cười.
                              Bác Lý cũng gật đầu:
                              - Ờ! Vậy bác về nghen!
                              Dứt lời, bác Lý thoăn thoắt bước xuống cầu thang rồi đi nhanh về hương lúc nãy.
                              Duy kéo tay Diễm Thy vào phòng:
                              - Em vô nằm nghỉ chút đi, gần cả ngày đi đường mệt nhoài rồi còn gì nữa!
                              Diễm Thy ngoan ngoãn đi theo chồng.
                              Khi vừa ngã lưng xuống giường, Diễm Thy xoay người hôn lên má Duy và nói:
                              - Em cảm ơn anh rất nhiều! Không ngờ anh lại mang đến cho em niềm hạnh phúc lớn lao như thế này!
                              Duy ôm vợ vào lòng:
                              - Tại vì hạnh phúc của em cũng chính là hạnh phúc của anh kia mà!
                              Diễm Thy nhìn lên trần nhà mơ màng nói:
                              - Ước gì vợ chồng mình mãi mãi sống những ngày như thế này, anh nhỉ?
                              Duy nhổm lên nhìn vào mắt Diễm Thy:
                              - Sẽ như vậy mà, em yên tâm đi!
                              Bất thần Diễm Thy chồm lên bá lấy cổ Duy, Duy mất thăng bằng té sấp xuống giường trong tiếng cười giòn tan của cô vợ trẻ.
                               
                              ***
                              Lúc Diễm Thy thức dậy trời đã nhá nhem tối. Bên cạnh, Duy vẫn còn đang ngủ rất say. Mấy ngày qua Duy phải lo lắng đủ thứ chuyện nên chắc anh mệt lắm. Nghĩ vậy, Diễm Thy không gọi chồng mà nhẹ nhàng chuồi ra khỏi tay Duy rồi đi ra khỏi phòng.
                              Đứng tựa lan can nhìn ra rừng cây bên ngoài bất chợt Diễm Thy thấy trong lòng run rẩy, bất an. Cánh rừng đen thẫm dưới bóng hoàng hôn, vang vẳng tiếng kêu bầy xao xác của một vài con chim nào đó, và gió thì không ngừng rú rít trên mái nhà…
                              Kéo cao cổ áo để ngăn bớt gió, Diễm Thy đi quay vào, cô không dám đứng một mình ngoài đo nữa. Vừa xoay lưng, bất chợt cô thấy có một bóng người lướt nhanh qua dưới đất, dừng chân nhìn kỹ lại thì không thấy ai. Diễm Thy cúi người nhìn qua lan can vẫn không thấy có gì lạ.
                              - Chắc bóng cây mà mình nhìn lầm!
                              Thầm nghĩ thế nên Diễm Thy cũng không quan tâm tới nữa.
                              Vào tới phòng, Diễm Thy nhẹ nhàng thắp đèn rồi xếp dọn đồ đạc trong vali vào chiếc tủ tô kềnh đối diện với giường ngủ. Khi mọi thứ đâu vào đó ngăn nắp rồi cũng là lúc Duy trở mình thức giấc.
                              Duy ngồi dậy, vươn vai nhìn quanh phòng, khen ngợi:
                              - Trời, không ngờ vợ tui giỏi vậy! Mới đây đã thu xếp gọn gàng hết rồi! Đúng là tui cưới vợ không lầm mà!
                              Diễm Thy nguýt dài, cười nói:
                              - Thôi đi ông tướng, mau dậy đi tắm! Chắc bác Lý cũng sắp tới rồi đó!
                              Vừa nói Diễm Thy vừa soạn áo quần cho mình và cho Duy.
                              Hai vợ chồng cầm theo cây đèn Hoa Kỳ đi ra nhà vệ sinh mà lúc chiều bác Lý đã chỉ.
                              Nhà vệ sinh là một phòng nhỏ xíu cũng được dựng bằng gỗ. Nhưng chắc có lẽ chỗ này họ làm tạm bợ nên mọi thứ đều rất sơ sài, ngay cả gỗ làm vách cũng chỉ là loại gỗ tạp không được tốt.
                              Dĩ nhiên chỗ này thì không thể nào có nước máy. Người ta sinh hoạt bằng nước múc từ giếng lên. Trong nhà tắm có để sẵn một chiếc lu lớn, Duy vục nước bằng chiếc gàu và đổ đầy lu nước.
                              - Em tắm trước đi!
                              Duy giục.
                              Nhưng lúc đó Diễm Thy đang mãi nhìn mặt trăng vừa nhô lên ở một góc rừng, vẻ đẹp huyền ảo đó đã cuốn hút cô một cách mãnh liệt.
                              - Anh tắm trước đi! Em muốn ngắm trăng thêm tí nữa!
                              Duy lắc đầu trước cái tính khí vừa trẻ con vừa lãng mạn của vợ.
                              Diễm Thy ngồi trên thành giếng mê mãi nhìn trăng, tiếng nước xối ào ào bên trong đã ngưng lại hồi nào cô cũng không quan tâm. Mãi đến lúc Duy đặt tay lên vai cô mới sực tỉnh:
                              - Trăng đẹp quá anh ơi! Lần đầu tiên em mới được ngắm trăng trọn vẹn thế này!
                              Duy nheo mắt:
                              - Thôi, vô tắm đi rồi ra ngắm tiếp, kẻo chị Hằng chê em ở dơ bây giờ!
                              Diễm Thy nhéo chồng một cái rồiv đứng lên ngúng nguẩy đi vào phòng tắm. Diễm Thy vừa tắm vừa hát khe khẽ.
                              Vừa lúc đó cô nghe bên ngoài có tiếng Duy nói:
                              - Bác Lý đem cơm vào cho mình kìa em!
                              Diễm Thy vuốt nước trên mặt trả lời chồng:
                              - Anh vô nói chuyện với bác đi!
                              - Em ở đây một mình được không đó?
                              Duy hỏi lại.
                              Diễm Thy bật cười:
                              - Anh làm như em là trẻ con không bằng? Hay anh sợ có kẻ nào đó rình bắt cóc vợ yêu quý của anh?
                              - Cả hai!
                              Duy cười lớn.
                              - Thôi, anh vào trước nghe, bác Lý đang tìm mình ở trong đó!
                              - Dạ, anh đi đi!
                              Tiếng chân Duy xa dần, Diễm Thy khoan khoái vốc nước lên mặt, lên khắp cả thân người rồi nhẹ nhàng xoa sữa tắm, mùi hương thoang thoảng lan tỏa khắp cả một góc vườn.
                              Trong lúc mơn man da thịt mình, Diễm Thy hoàn toàn không biết thân hình diễm tuyệt của cô đang bị người ta rình xem trộm. Đó là bốn gã đàn ông vạm vỡ được chủ nhà thuê về để cải tạo trang trại. Họ sống trong một căn lều cách ngôi nhà gỗ không xa. Sự hiện diện của vợ chồng Diễm Thy làm họ chú ý.
                              Từ chiều, khi thấy thấp thoáng bóng hai vợ chồng trong căn nhà gỗ, đám đàn ông đó đã bàn tán xôn xao, đã lén lút nhìn Diễm Thy bằng con mắt khát thèm đầy dục vọng. Và cả bốn đều căng mắt theo dõi hai vợ chồng.
                              Đến lúc trông thấy vợ chồng Diễm Thy cầm đèn đi về hướng này, cả bốn gã đều mừng rỡ, vì họ biết chắc cô chuẩn bị đi tắm. Bốn gã đàn ông lặng lẽ mò mẫm tới nới, nấp vào một chỗ kín. Họ không dám làm gì bởi sự có mặt của Duy. Đến lúc thấy Duy bỏ đi vào nhà, cả bốn tranh nhau được dán mắt vào một cái lỗ tròn nhỏ xíu trên miếng gỗ vách nhà tắm.
                              Muốn kê được mắt vào đó, bọn chúng cũng phải vất vả lắm, phải trèo đứng lên một tảng đá chông chênh và phải được đồng bọn nâng đỡ.
                              Hai tên đã xem xong, đến tên thứ ba thì lì lợm hơn, mặc cho gã thứ tư mấy lần ra hiệu hắn vẫn không chịu rời mắt khỏi thân hình mờ ảo của Diễm Thy. Hắn nuốt nước bọt ừng ực, khiến gã thứ tư càng thêm điên tiết. Gã thứ tư cấu vào chân hắn, hắn suýt kêu lên, loạng choạng suýt ngã hắn mới chịu nhường vị trí cho gã cuối cùng.
                              Khi gã thứ tư chưa kịp dán mắt mình vào lỗ ván thì có ám hiệu báo có người, cần phải rút lui.
                              Hậm hực vì mình bị thua thiệt, gã thứ tư không thể cam tâm, hắn gần như muốn nổi điên lên khi có bàn tay ai đó cào cấu vào chân hắn. Hắn co chân và đá vào kẻ đang cố kéo hắn xuống, nhưng hắn chợt giật mình vì hình như hắn đang đá phải một vật gì kỳ lạ lắm.
                              Cúi nhìn xuống, lập tức gã thứ tư buông tay té nhào. Dưới chân gã là một xác người quấn vải liệm trắng toát, chỉ chừa lại khuôn mặt, nhưng khuôn mặt lại vô cùng gớm ghiếc bởi chiếc miệng bị may kín, những lằn chỉ chồng chéo lên nhau kéo dài từ mép tai bên này sang tận mép tai phía bên kia, hai tay, hai chân của cái thây ma đó cũng bị trói chặt. Vậy mà cái thây ma cứ không ngừng uốn éo và dùng hai bàn tay đã bị trói đó ra sức cào vào người gã.
                              Gã sợ đến nỗi không thể kêu lên được! Vừa khi đó ba gã kia cũng trông thấy, vậy là cả bốn đều run rẩy, vừa bò vừa lết lùi ra xa khu vực đó.
                              Trong khi bên ngoài xảy ra những sự việc kinh hoàng như thế nhưng Diễm Thy vẫn vô tư. Cô có nghe thấy tiếng động bên ngoài, nhưng cô cũng không quan tâm mấy và không sợ vì cô nghĩ đó là tiếng động của chồn chuột gì đó mà thôi.
                              Diễm Thy vẫn kỳ cọ thân mình một cách chậm chạp, khoan thai và vẫn hát nho nhỏ một bài tình ca êm dịu.
                              Trông thấy Diễm Thy bưng đèn đi vào với đầu tóc còn ướt sũng, bác Lý hất hàm hỏi:
                              - Sao? Đã biết ngán sống cảnh thôn dã thế này chưa vậy cháu?
                              Diễm Thy mím môi cười:
                              - Dạ, cháu không những không biết ngán mà trái lại còn thích nữa đó bác. Ở đây đẹp quá, đẹp hơn thành phố nhiều! Cháu thích sống giữa thiên nhiên thế này vô cùng bác ạ!
                              Bác Lý gật gù:
                              - Nếu vậy, bác sẽ bày thêm cho cháu một cách hòa mình vào thiên nhiên nè!
                              Diễm Thy tò mò:
                              - Là sao vậy bác?
                              Bác Lý mỉm cười nói với Duy:
                              - Cháu giúp bác dọn cái này ở ngoài kia, như vậy chắc vợ cháu sẽ thích hơn đó!
                              Vừa nói bác Lý vừa chỉ tay ra khoảng vườn trước mặt.
                              Duy, diễm Thy và bác Lý, người cầm đèn, người bưng mâm chén bát, thức ăn di chuyển ra vườn. Ở đó có một bộ bàn ghế được làm bằng đá, có lẽ được đặt chỗ này lâu lắm rồi, xung quanh rêu bám xanh rì.
                              Thế là bữa cơm tối hôm đó của vợ chồng Duy tràn ngập ánh trăng. Điều này khiến Diễm Thy đặc biệt thích thú. Cô kéo tay bác Lý:
                              - Bác ngồi xuống dùng cơm với tụi cháu cho vui!
                              Bác Lý lắc đầu:
                              - Thôi, hai cháu cứ tự nhiên, bác ngồi đây chơi được rồi! Tối về bác ăn sau, bác không quen ăn giờ này!
                              Bác Lý là một người đàn ông khắc khổ nhưng không ngờ lại có tài nấu nướng tuyệt vời!
                              Bữa cơm tối nay dành cho vợ chồng Diễm Thy mặc dù chỉ được nấu bằng những nguyên liệu đơn giản hàng ngày nhưng qua bàn tay chế biến của bác, món nào cũng ngon tuyệt. Cả Duy và Diễm Thy, cả hai vừa ăn vừa tấm tắc khen không ngớt. Bác Lý ngồi bên cạnh chỉ mỉm cười không nói gì.
                              Bất chợt khi ngước lên, Diễm Thy trông thấy có bóng người lấp ló ở chỗ đầu đường, cô hốt hoảng gọi Duy:
                              - Anh… kìa anh… hình như có người!
                              Duy giật mình khi nghe Diễm Thy kêu, anh chưa kịp nhìn thấy gì thì bác Lý đã lên tiếng:
                              - À… bác xin lỗi vì quên nói cho hai cháu biết. Trong trang trại này còn có mấy người công nhân mà ông bà chủ thuê về làm việc. Họ ở trong căn lều tuốt trong kia, và hiện nay họ cũng đang làm việc ở khu vực bên đó, không ảnh hưởng gì đến các cháu đâu, chỉ là thỉnh thoảng họ phải đi qua lại trên con đường ngoài kia thôi!
                              Diễm Thy thở phào nhẹ nhõm:
                              - Trời! Vậy mà làm cháu hết cả hồn vía!
                              Bác Lý có vẻ ái nái:
                              - Cho bác xin lỗi, bác quên mất, không nói cho hai cháu biết việc này!
                              Duy cười:
                              - Đâu có gì đâu bác, thì cũng phải tập cho vợ cháu quen với mọi tình huống đi chớ! Có chồng rồi, phải can đảm lên, không được nhút nhát như hồi còn con gái nữa!
                              Rồi Duy chuyển sang đề tài khác:
                              - À, cháu nghe nói vợ chồng ông chủ cũng ở gần đây phải không bác?
                              Bác Lý gật đầu:
                              - Ừ, ông bà chủ ở cách đây khoảng chừng tám cây số. Cũng là trong khuôn viên trang trại thôi.
                              Duy chắc lưỡi thán phục:
                              - Họ sướng thiệt bác hén? Có cả một khu đất bao la như thế này!
                              Bác Lý tư lự:
                              - Mình nhìn vào thì thấy sướng vậy đó, nhưng theo bác chắc họ cũng có những nỗi khổ riêng cháu à! Hình như trong cuộc sống của họ cũng còn vướng mắc điều gì đó!
                              - Đất này là do ông bà chủ mua hay dòng họ để lại vậy bác?
                              Duy tò mò hỏi.
                              Bác Lý chậm rãi đáp:
                              - Bác nghe kể đất này là ông chủ thừa kế của bên vợ. Mà hồi đó ở đây không hoang vu đến như vầy đâu. Không hiểu sao có một dạo ông bà chủ bỏ trang trại đi nơi khác sinh sống, họ mới trở về mấy năm nay và có ý gầy dựng lại đó cháu.
                              Câu chuyện cứ kéo dài từ trang trại qua đến thú rừng, đến cuộc sống của những người dân ở địa phương… mãi đến lúc bữa cơm của vợ chồng Duy kết thúc, cũng là lúc mặt trăng đã lên cao.
                              Bác Lý đứng lên từ giã:
                              - Thôi, khuya rồi, bác về nhé! Chúc hai vợ chồng thật hạnh phúc!
                              Duy mỉm cười:
                              - Dạ, cháu cảm ơn bác.
                              Diễm Thy nhìn ra đường rồi than:
                              - Trời ơi, giờ này mà bác Lý một mình cuốc bộ về tuốt ngoài đó sao?
                              Bác Lý đưa tay chỉ ra chỗ hàng rào, một chiếc xe đạp đang dựng tựa vào đó.
                              - Đâu có, bác cưỡi ngựa mà, đâu có đi bộ!
                              Cả ba cười nói vui vẻ. Vợ chồng Diễm Thy đi theo tiến bác Lý ra tới đầu đường rồi mới thong thả trở vào.
                              - Ngồi chơi chút nữa đi anh!
                              Diễm Thy kéo chồng ngồi xuống chiếc bàn đá, lúc này đã được dọn dẹp sẽ.
                              Duy trèo lên bàn, ngồi co chân ngửa mặt ngắm trăng. Diễm Thy ngồi tựa vào lưng chồng, hai chân đong đưa bên dưới.
                              - Oái!
                              Bất thần Diễm Thy kêu lên.
                              - Gì vậy em?
                              Duy giật mình quay lại hỏi.
                              Diễm Thy co hết hai chân lên bàn sợ sệt nói:
                              - Em… hình như có ai nắm lấy chân em giật mạnh…
                              Duy phì cười:
                              - Trời đất! Em đừng có tưởng tượng quá đó nhe?
                              Vừa nói Duy vừa cầm cây đèn Hoa Kỳ đang cháy sáng khom người rọi xuống dưới bàn. Dưới đó một con mèo đen đang ngồi chễm chệ.
                              Con mèo rất gan dạ, nó không hốt hoảng lao đi khi thấy người ta đã phát hiện ra sự có mặt của nó, mà còn giương mắt nhìn chằm chằm vào vợ chồng Diễm Thy. Ánh mắt con mèo sáng quắt, sáng một cách đáng sợ khiến Diễm Thy không khỏi rùng mình.
                              - Anh ơi, đuổi nó đi đi!
                              Diễm Thy kéo tay Duy thúc giục.
                              Duy dứ dứ cây đèn về phía con mèo rồi “hừ hừ” mấy tiếng, con mèo cất tiếng “ngao…” thảm thiết rồi vụt phóng đi, nhanh như một mũi tên vừa được bắn ra khỏi cung.
                              - Chắc là mèo hoang! Lũ mèo hoang này dạn ghê!
                              Duy nhận xét.
                              Diễm Thy ngồi nép sát vào Duy:
                              - Trông nó đáng sợ quá!
                              - Ôi, sao tự nhiên em lại trở thành người nhút nhát thế này? Anh nhớ em cũng gan dạ lắm mà?
                              Duy làm bộ ngạc nhiên.
                              Diễm Thy phụng phịu:
                              - Gan thì gan ở chỗ quen thuộc của mình, còn giữa chốn rừng núi hoang vu thế này em không sợ mới lạ…
                              - Nhưng đã có anh bên em rồi, vẫn còn sợ sao?
                              Duy đặt cây đèn trở lên bàn nhín vợ hỏi.
                              Diễm Thy cười bẽn lẽn:
                              - Thì có anh em mới dám ở đây, không có anh làm sao em có thể…
                              Duy tỏ vẻ hài lòng:
                              - Vậy mới được chứ!
                              Trông thấy Diễm Thy rùng mình vì một cơn gió thổi qua, Duy vội nói:
                              - Thôi, mình vào nhà đi em, gió quá không khéo em bị bệnh thì nguy!
                              Diễm Thy ngoan ngoãn đứng lên và như một đứa bé, cô tựa hẳn người mình vào Duy để được anh dìu lên từng bậc thang.
                              Đêm đó, dưới ánh nến lung linh và ánh trăng huyền hoặc, vợ chồng Diễm Thy đã có một tối tân hôn thật đúng nghĩa.
                              Sáng hôm sau vẫn Diễm Thy là người dậy sớm. Thói quen này cô đã tập được từ lâu lắm. Buổi sáng, trước khi đi làm, bao giờ Diễm Thy cũng khởi động bằng những bài tập thể dục nhẹ nhàng nhưng đều đặn, có lẽ nhờ vậy mà vóc dáng Diễm Thy luôn là nỗi khát khao mơ ước của rất nhiều phụ nữ.
                              Sáng nay cũng vậy, Diễm Thy xuống sân chạy một vòng. Không khí buổi sáng ở đây thật trong lành sảng khoái, cô căng lồng ngực để hít thở khí trời, niềm sung sướng hân hoan khiến Diễm Thy nhìn thấy nơi nào cũng dễ thương và tuyệt đẹp.
                              Trong lúc cúi người làm một động tác thể dục, bất chợt Diễm Thy như trông thấy một con người với hình dạng vô cùng kỳ quái. Đó là một con người, một phụ nữ, rõ ràng là vậy, cô ta từ phía vườn cây tiến tới Diễm Thy bằng những cái quẫy mình như cá, vì hình như cả tay và chân của cô ta đều bị trói chặt. Cô ta nghển cao đầu như muốn nói với Diễm Thy điều gì đó mà cô không tài nào nghe được, bởi vì miệng của cô ta đã bị may dính lại bằng những sợi chỉ thô ngang dọc kéo dài hai bên mang tai.
                              Diễm Thy sững người. Sau phút bàng hoàng cô đứng thẳng dậy thì hình ảnh đó biến mất như chưa từng xuất hiện. Dụi mắt mấy lần, Diễm Thy không thể tin được đó là sự thật, nhưng không thể có khả năng cô trông gà hóa cuốc được. Bởi vì xung quanh Diễm Thy đâu có điều gì tương tự khiến cô liên tưởng tới cái hình ảnh ma quái đó đâu?
                              Ngó quanh quất bốn bên, vẫn không thấy có gì lạ. cỏ cây còn đọng hơi sương, toát lên một mùi hương ban mai dịu dàng, tinh khiết. Tất cả bình yên, gần gũi thế này kia mà, tại sao lại có thể xen vào một điều kỳ lạ đến thế?
                              Diễm Thy thật sự không sao giải thích được, nhưng trong lòng cô lại bắt đầu cảm thấy bất an.
                              Bỏ bài tập thể dục còn dang dở, Diễm Thy chạy trở lên nhà định kể cho Duy nghe, nhưng thấy anh vẫn còn đang ngủ thật ngon, đầu hơi ngoẹo sang một bên giống như đứa trẻ đang làm nũng mẹ.
                              Diễm Thy âu yếm đứng nhìn chồng một lúc rồi khe khẽ đi ra ngoài. Sau khi làm vệ sinh cá nhân, cô chợt muốn khám phá căn nhà mà mình đang tạm thời làm chủ.
                              Nghĩ là làm, Diễm Thy đi lên tầng trên bằng những bước chân rất nhẹ. Cầu thang đầy bụi, cả dãy hành lang trên đó cũng vậy, quả đúng như những gì bác Lý đã nói chiều hôm qua.
                              Mà cũng phải, nhà không người ở, hơi sức đâu mà dọn dẹp mỗi ngày.
                              Trên tầng một có ba phòng, các phòng đều khép hờ cửa. Diễm Thy tò mò quan sát từng phòng một. Nơi nào cũng đầy bụi và mạng nhện, đồ đạc bên trong thì gần như không có gì.
                              - Không có gì đặc biệt!
                              Diễm Thy lẩm bẩm. Cô đã thấy chán nên không muốn đi tiếp lên tầng hai mà muốn quay trở xuống dưới.
                              Đứng tựa người vào lan can, Diễm Thy phóng tầm mắt ra tận cánh rừng ở tuốt đằng xa và thầm nghĩ lát nữa Duy thức giấc, cô sẽ rủ anh đi vào đó chơi cho biết.
                              Bất chợt Diễm Thy có cảm giác mu bàn chân mình đau nhói như vừa bị một con kiến hay con ong nào đó đốt phải. Cô ngồi xuống, vừa gãi nhẹ vào chỗ đau vừa nhìn xuống sàn để tìm thủ phạm.
                              Diễm Thy không hề thấy kiến, ong hoặc bất kỳ con vật nào có thể cắn đốt được mình, chỗ đau trên chân cũng không có dấu mẩn đỏ như thông thường.
                              Vừa toan đứng lên, Diễm Thy bỗng phát hiện sàn gỗ dưới chân mình có gì đó không giống những chỗ khác. Tò mò, cô đưa tay khợi thử thì đúng là bên trên ván gỗ thông thường, chỗ này còn được dán lên một lớp gỗ thật mỏng.
                              - Chi vậy ta?
                              Trí tò mò của phụ nữa trỗi dậy. Diễm Thy nhẹ nhàng khợi lớp ván mỏng bên trên ra để xem phía dưới có khuyết điểm gì mà người ta phải tìm cách che giấu đi như vậy.
                              Khi lớp gỗ mỏng được giở lên phân nửa, Diễm Thy nhận thấy miếng ván phía dưới có màu sắc thật lạ lùng, nó đỏ sậm lại như bị nhuốm máu.
                              Cô còn đang thắc mắc thì Duy đã thức dậy, anh vừa bước ra khỏi phòng và rất ngạc nhiên khi trông thấy Diễm Thy ngồi xổm dưới sàn nhà, đang chăm chú nhìn vào mặt ván lát sàn.
                              - Gì vậy em?
                              Duy vừa đi tới gần vừa hỏi.
                              Diễm Thy nhìn chồng nhoẻn cười:
                              - Anh dậy rồi sao? Em thấy chỗ này lạ quá nên tò mò thôi mà…
                              - Có gì lạ vậy em?
                              Duy cũng ngồi xuống cạnh vợ, dụi dụi mắt.
                              Diễm Thy chỉ tay vào mặt ván sàn:
                              - Anh thấy cái này có phải là máu không? Hình như chỗ này bị thấm máu nên người ta mới phải lót thêm một lớp ván mỏng bên trên để che lại đó anh. Nhưng sao lại nhuộm màu máu ở đây thế nhỉ?
                              Duy phá ra cười:
                              - Trời đất! Anh không ngờ em lại còn có cả cái máu thám tử trong người nữa đó nha!
                              Diễm Thy nghe chồng chọc quê, cô thẹn quay sang thụi vào lưng anh một cái nhẹ:
                              - Thì người ta thấy lạ nên mới tò mò, còn chọc nữa em giận cho coi…
                              Duy nhún người đứng lên, vẫn chưa dứt cười:
                              - Không chừng sau tuần trăng mật của vợ chồng mình, em chuyển nghề cũng nên… anh ủng hộ em đó!
                              Diễm Thy đứng lên nhào tới chụp Duy nhưng Duy né khỏi và chạy tuốt xuống sân. Diễm Thy đuổi theo, hai vợ chồng rượt đuổi nhau chạy khắp khu vườn, tiếng cười vui vang lên lanh lảnh…
                              Sau khi ăn bữa sáng do bác Lý mang vào, vợ chồng Diễm Thy dắt nhau vào khu rừng gần đó để dạo chơi, mãi đến xế trưa mới quay trở lại.
                              Khi hai người về đến nhà đã thấy bác Lý ngồi chờ với bữa ăn trưa. Diễm Thy hí hửng khoe với bác Lý:
                              - Bác coi cháu hái được gì nè!
                              Vừa nói, Diễm Thy vừa chìa ra trước mặt bác Lý một bó hoa rực rỡ sắc màu. Đó là những bông hoa dại ven đường mà Diễm Thy chọn lọc để hái mang về. tiếp theo đó, cô lại chì một nón đủ thứ quả rừng.
                              Bác Lý nhăn mặt:
                              - Cháu đừng ăn lung tung nhé, nguy hiểm lắm đó! Có những thứ quả rừng vô hại nhưng cũng có những thứ rất độc, có thể gây chết người.
                              Diễm Thy le lưỡi:
                              - Ghê vậy sao bác? Bác xem giùm cháu mấy trái này ăn được không?
                              Bác Lý đón lấy chiếc nón đựng đầy quả rừng trên tay Diễm Thy, cầm lên mấy trái để quan sát.
                              - Những trái này thì không sao, nhưng có thể khi ăn vào cháu sẽ bị ngứa nhẹ ở miệng đó!
                              Trả chiếc nón lại cho Diễm Thy, bác Lý kết luận.
                              Duy cười:
                              - Vợ cháu tính tình trẻ con, thích mấy thứ lạ mắt vậy thôi chứ không có ăn uống gì đâu bác ơi…
                              Bác Lý cũng cười đáp lại:
                              - Ờ, thì bác cũng chỉ dặn hờ vậy thôi mà! Thôi, hai cháu mau dọn cơm ra ăn đi, nguội hết cả rồi, mà ở đây đâu có lò bếp gì để hâm lại…
                              Duy xua tay:
                              - Không sao đâu bác, tụi cháu ăn nguội vầy cũng được mà bác!
                              Hai vợ chồng Diễm Thy cũng dọn bữa trưa ra chiếc bàn đá tối hôm qua. Đã xế trưa nhưng chỗ đó vẫn mát rượi bởi một cây cổ thụ đang xòe tàn che chở.
                              Bữa cơm trưa thật ngon lành, bởi cả Duy lẫn Diễm Thy đều đói meo sau hơn một buổi chạy rong trong rừng.
                              Dọn dẹp bàn ăn xong, bác Lý hỏi:
                              - Chiều nay hai cháu có dự tính đi đâu chơi không?
                              Diễm Thy liếc nhìn chồng rồi tủm tỉm cười nói:
                              - Anh Duy rủ cháu chiều nay hai đứa thi leo núi, nhưng cháu mệt quá hẹn lại sáng mai. Có lẽ chiều nay cháu phải nằm nhà dưỡng sức đó bác!
                              - Ờ, cháu phải ráng thắng cho được cậu Duy nghen!
                              Bác Lý động viên.
                              Mọi người đang cười nói rôm rả thì có tiếng xe gắn máy chạy vào, ai nấy đều ngước mắt nhìn về con đường phía ngoài.
                              Chiếc xe dừng lại cách chỗ mọi người ngồi không xa, trên xe là một người đàn ông và một người đàn bà, có vẻ là vợ chồng vừa bước xuống.
                              Bác Lý quay lại nói với vợ chồng Diễm Thy:
                              - Ông bà chủ tới thăm hai cháu đó!
                              Duy và Diễm Thy chưa kịp có phản ứng gì thì ông bà chủ đã tới trước mặt. Cả ba người lễ phép đứng lên chào hỏi.
                              - Hai cháu có hài lòng với nơi này không?
                              Bà chủ nhà không chờ giới thiệu, vui vẻ hỏi.
                              Duy lễ phép:
                              - Dạ thưa, chúng cháu rất hài lòng, ở đây quả là tuyệt! Nhất là vợ cháu, cô ấy rất thích phong cảnh và khí hậu nơi này!
                              Bà chủ nhà mỉm cười nhìn sang Diễm Thy:
                              - Hai bác mong các cháu có được những ngày thật ý nghĩa cho tuần trăng mật của mình.
                              Diễm Thy bẽn lẽn cười.
                              Đặt lên bàn một giỏ trái cây, vợ chồng người chủ nhà ngồi xuống bên cạnh.
                              - Bác đem trái cây tới cho hai cháu đây! Trái cây vườn nhà vừa mới hái xuống, hai cháu ăn đi, ngon lắm đó!
                              Ông chủ nhà ngó Duy:
                              - Khi trở về cải tạo chỗ này, bác cũng có ý định sẽ xây dựng một khu nghỉ mát, hai cháu là người mở hàng cho bác đó nghe!
                              Duy cười:
                              - Dạ! Nhất định là khi nào xây dựng xong, chúng cháu sẽ trở lên lần nữa.
                              - Mà không chỉ hai người đâu nhé? Phải thêm vài cô cậu nhóc tì mới được! Hai bác sẽ dành cho gia đình cháu căn phòng tốt nhất!
                              Bà chủ nhà thêm vào.
                              Mọi người cùng cười nói hết sức thoải mái, vui vẻ.
                              Lúc đầu Diễm Thy còn hơi ngại với vợ chồng chủ nhà, nhưng sau đó cô cũng hòa vào không khí ấm áp, vui tươi.
                              Đặt giỏ trái cây sang bên, Diễm Thy bắt đầu lấy con dao nhỏ gọt vỏ và chia đều cho mọi người.
                              - Hai cháu ăn chôm chôm đi, ngọt lắm!
                              Bà chủ nhà vừa nói vừa xoay người định lấy chôm chôm trong giỏ ra mời, nhưng thật kỳ lạ, giỏ trái cây mới vừa để đó ai cũng trông thấy giờ không cánh mà bay mất biệt. Bà chủ nhà ngơ ngác, Diễm Thy cũng không giấu được vẻ ngạc nhiên. Cô cúi người nhìn xuống đất thì thấy giỏ trái cây nằm dưới bàn, cạnh chân bà chủ nhà!
                              Điều này hết sức vô lý! Bởi vì lúc nãy chính tay Diễm Thy đặt giỏ trái cây sau lưng mình, tức là chỗ đối diện với bà chủ. Như vậy, nếu muốn lấy giỏ trái cây đem đặt chỗ khác, bà chủ nhà phải đi vòng qua chỗ Diễm Thy, hoặc phải nhờ Diễm Thy chuyền sang. Nhưng từ nãy tới giờ, những người có mặt ở đây đều ngồi yên chỗ của mình, và cũng không ai chuyền cái giỏ trái cây ấy đi đâu cả.
                              Bà chủ nhà nhìn theo ánh mắt của Diễm Thy, bất chợt mặt bà tái xanh khi thấy giỏ trái cây nằm đó. Bà giật bắn người, lúng túng nói:
                              - Sao… sao tự nhiên nó lại nằm đây?
                              Ông chủ nhà nhanh chóng xóa đi sự ngạc nhiên đến sững sờ của mọi người:
                              - Chắc tại mấy người vui quá nên quên đó mà, không lẽ nó có chân sao?
                              Ông bật cười.
                              Bà chủ nhà cũng cố gắng lấy lại bình tĩnh bằng cách thúc giục:
                              - Hai cháu ăn đi! Ăn đi! Ngon lắm đó…
                              Lúc này thì lại không tìm được con dao! Rõ ràng con dao nằm trên bàn, gần chỗ Duy và Diễm Thy nhưng bây giờ không ai còn thấy nó đâu cả.
                              Tìm khắp xung quanh vẫn không thấy, bác Lý kêu lên:
                              - Hôm nay sao nhiều chuyện kỳ khôi thế này?
                              Vợ chồng người chủ nhà bỗng tỏ ra lo lắng. Hai người lén nhìn nhau rồi đồng loạt đứng lên cáo từ:
                              - Thôi các cháu ở lại chơi vui vẻ, hai bác phải về có việc.
                              Bà chủ nhà nói, rồi quay sang căn dặn bác Lý:
                              - Anh nhớ giúp đỡ hai cháu khi nó cần điều gì nhé?
                              - Tôi biết rồi, bà chủ yên tâm.
                              Bác Lý gật đầu.
                              Vợ chồng người chủ nhà ra về một cách vội vã, không bình thường. Diễm Thy và Duy cứ đứng nhìn theo mãi tới khi chiếc xe gắn máy khuất sau chỗ ngoặt của conc đường mới chịu ngồi trở xuống.
                              Thì lạ chưa, con dao gọt trái cây lại nằm ngay trên bàn, dúng chỗ mà lúc nãy Diễm Thy đặt nó!
                              - Trời ơi, hổng lẽ ở đây có ma!
                              Diễm Thy kêu lên thảng thốt.
                              Duy nghiêm mặt:
                              - Em đừng có nói gở như vậy!
                              - Anh giải thích việc này thế nào?
                              Diễm Thy hồi hộp nhìn chồng.
                              Duy lắc đầu:
                              - Anh cũng không biết, có khi… có khi vợ chồng ông chủ nhà muốn chọc mình chơi. Hai người cố tính giấu nó đi, rồi lúc mọi người lo chào từ giã họ lại lén đặt nó trở lại…
                              - Thiệt không sao hiểu nổi!
                              Diễm Thy than.
                              Bỗng cô quay sang bác Lý hỏi:
                              - Bác sống ở đây nhiều năm nay, có khi nào bác nghe nói ở đây có ma không vậy bác?
                              Bác Lý bật cười:
                              - Tui cũng rất muốn xem mặt ma quỷ thế nào đây mà không sao thấy được! Cháu yên tâm đi, bác sống ở đây có một mình mà có thấy gì đâu… Ma quỷ chỉ là do sự tưởng tượng của con người thôi cháu ạ!
                              Duy đứng lên cốc vào trán vợ:
                              - Em nghe bác Lý nói chưa? Tối ngày sợ bậy bạ không hà! Thôi, vô ngủ, anh mệt quá rồi nè!
                              Mặc dù vẫn còn nhiều thắc mắc trong lòng, nhưng Diễm Thy vẫn ngoan ngoãn đứng lên, cúi chào bác Lý rồi đi theo Duy về phòng.
                              Nằm bên cạnh Duy, Diễm Thy không sao ngủ được vì những hình ảnh, những sự việc kỳ lạ hai hôm nay cứ hiện ra trước mắt. Cô muốn kể cho Duy nghe về hình ảnh người phụ nữ bị trói chân tay, bị may miệng mà cô vừa chợt thoáng trông thấy sáng nay, nhưng lại sợ Duy cười, cho là mình giàu trí tưởng tượng!
                              Từ trước tới nay Diễm Thy chưa hề quan tâm đến chuyện ma quỷ, cô cũng chưa lần nào tự hỏi mình rằng ma quỷ có thật hay không nữa. Đôi lúc xem phim, đọc truyện hoặc nghe ai đó kể chuyện ma, Diễm Thy cũng có cảm giác rợn người, nhưng chỉ ngay trong lúc đó mà thôi, chưa khi nào có sự liên tưởng.
                              Vậy mà hai hôm nay liên tiếp Diễm Thy cứ thấy lòng mình thon thót vì những chuyện không bình thường.
                              - Nhưng thôi, dẫu sao có Duy ở bên cạnh mình rồi, mình còn gì phải lo sợ nữa đâu?
                              Diễm Thy thầm nhủ rồi xoay người áp mặt vào ngực chồng cố dỗ giấc ngủ.
                               
                              ***
                              - Diễm Thy ơi! Dậy đi em, em mơ thấy gì mà la ghê vậy?
                              Duy lay mạnh người Diễm Thy, cô mở mắt và ngồi bật dậy ôm chầm lấy Duy khóc ròng.
                              Duy hoảng hốt:
                              - Gì vậy em? Em mơ thấy điều gì?
                              Diễm Thy cố dằn tiếng khóc:
                              - Rất khủng khiếp anh ơi… em sợ quá…
                              Duy ôm Diễm Thy vào lòng an ủi:
                              - Chỉ là giấc mơ thôi mà! Kể anh nghe xem, mơ gì mà khiến em hoảng sợ đến mức này?
                              Diễm Thy kể trong tiếng khóc cố kìm nén lại:
                              - Em thấy… thấy vợ chồng mình bị bốn kẻ lạ mặt tấn công, ngay tại căn phòng này nè! Chúng… chúng trói chặt anh lại rồi giở trò đồi bại với em… Chúng… chúng còn muốn giết chết anh, giết bằng cây búa treo ngoài phòng khách kia… Em sợ quá! Giấc mơ y như thật anh à!
                              Duy siết chặt vợ vào lòng:
                              - Không sao rồi! Không phải là thật rồi! anh đang ôm em đây mà, em đừng sợ nữa… Có lẽ do em bị căng thẳng bởi những sự việc vừa rồi nên mới có cơn ác mộng đó thôi. Em bình tâm lại đi, không có gì phải sợ đâu em!
                              Diễm Thy ngước nhìn chồng:
                              - Anh cũng biết trước đây em không phải là người quá duy tâm, cũng không nhút nhát… vậy mà không hiểu sao hai hôm nay em toàn thấy những điều kỳ lạ…
                              Diễm Thy muốn kể cho chồng nghe về người phụ nữ bị may miệng, nhưng Duy đã cản lại:
                              - Thôi, em đừng nghĩ nhiều đến chuyện đó nữa! em mà nghĩ tới nó hoài thì nó sẽ làm cho em bị ám ảnh, rồi lại mơ thấy chuyện không hay! Em quên hết đi, chỉ nhớ tới một mình anh là đủ rồi, nhé?
                              Diễm Thy rất muốn cười trước câu nói đùa của Duy nhưng thật sự cô không thể gượng nỗi. Trong lòng Diễm Thy đầy ắp sự sợ hãi, lo âu và thắc mắc. Nhưng Diễm Thy lại không muốn Duy không được vui, không muốn làm tuần trăng mật của vợ chồng mình mất ý nghĩa, vì vậy cô phải cố gắng xua đuổi khỏi đầu những hình ảnh rối rắm đó.
                              Tối đó bác Lý mang thức ăn đến cho vợ chồng Diễm Thy nhưng không ở lại chơi mà vội vã cáo từ vì có hẹn với mấy người bạn đi nhậu. Hai vợ chồng Diễm Thy lại dọn cơm ngoài vườn ngồi ăn dưới ánh trăng sáng mát dịu.
                              Vừa cầm chén cơm, Diễm Thy chợt nhớ lại một chuyện, cô reo lên:
                              - A, anh chờ em một chút! Em quên mất!
                              Duy ngạc nhiên:
                              - Gì vậy em?
                              Diễm Thy đặt chén cơm xuống bàn, mỉm cười:
                              - Bí mật! Anh ngồi yên ở đây đợi em, cấm đi theo rình đó nghen! Bảo đảm anh sẽ có một bất ngờ thú vị!
                              Nói xong, Diễm Thy đi nhanh vào nhà, Duy ngó theo vợ, mỉm cười một mình.
                              Diễm Thy chạy vào phòng, cô mở tủ, cúi người định lấy chai rượu hôm trước cô đã cố tình mang theo mà không cho Duy biết, lúc lên tới đây, Diễm Thy đã giấu nó thật kín trong góc tủ, vì muốn dành cho Duy một bất ngờ.
                              Vừa cúi người xuống, bất giác từ phía sau một vòng tay choàng lấy người Diễm Thy, cô vừa định kêu lên “đã dặn anh không được đi theo…” vì tưởng là chồng mình, nhưng chưa kịp cất tiếng thì một bàn tay thô ráp, to bè đã bịt ngang miệng cô lại.
                              Diễm Thy hoảng hốt chống cự, nhưng cô không làm sao chống trả nỗi một gã thanh niên lực lưỡng. Hắn vừa bịt miệng Diễm Thy vừa bế thốc cô lên giường. Trong đầu Diễm Thy, hình ảnh giấc mơ lúc chiều hiện về, đúng y như vậy!
                              Diễm Thy vô cùng lo sợ, cô gắng hết sức để giãy dụa nhưng tất cả cố gắng của Diễm Thy đều là vô ích.
                              Duy ngồi một mình bên bàn ăn, anh cố suy đoán vợ mình đang bày ra trò gì cho mình vui đây? Sao cô ấy đi lâu rồi mà không thấy trở lại? Tự nhiên Duy cảm thấy nóng ruột một cách kỳ lạ, anh đứng lên, đi vào nhà mặc cho lời dặn dò không được đi theo của Diễm Thy.
                              Vừa đặt chân lên bậc thang đầu tiên, Duy đã té nhào do bị ngáng chân. Hai bóng người hai bên nhào tới ôm chặt lấy Duy và trói quặt tay anh lại. Duy hết sức hoảng hốt, giờ phút này anh khong lo cho mạng sống của mình mà tâm trí dồn hết cả cho Diễm Thy. Chắc chắn là cô ấy đang gặp nạn rồi!
                              - Diễm Thy…Em đâu rồi? Mấy người làm gì vậy?
                              Sơn hét to nhưng không có tiếng trả lời.
                              - Câm miệng!
                              Một người nữa từ trên nhà bước xuống, vừa rít lên nho nhỏ vừa nhét vào miệng Sơn một chiếc khăn cuộn tròn không để cho anh lên tiếng.
                              - Lôi nó lên đây!
                              Một người ra lệnh.
                              - Sao không để nó nằm đây? Lôi lên đó làm gì?
                              Có tiếng hỏi lại.
                              - Mầy đừng cãi lời tao! Cho nó chứng kiến tận mắt mới tăng thêm phần hấp dẫn chứ! Ha ha ha…
                              Hắn cất tiếng cười đểu cáng rồi quay người bước lên cầu thang, hai tên còn lại hì hục lôi kéo Duy lên theo.
                              Vừa tới cửa phòng, Duy như muốn phát điên khi trông thấy Diễm Thy đang bị một gã đàn ông đè nghiến trên giường, hắn giật phăng chiếc áo cô đang mặc trên người ném mạnh xuống đất.
                              Diễm Thy chống trả quyết liệt, và lúc này Duy cũng giống như một con thú bị dồn vào đường cùng, anh lao lên, lấy đầu húc vào bụng hai gà đàn ông đứng gần nhất khiến bọn chúng lảo đảo suýt té.
                              Một tên chạy ra phòng khác giật phăng chiếc búa xuống, lăm lăm cầm chặt trong tay.
                              - Mầy giỏi! giỏi!
                              Gã đàn ông có vẻ là cầm đầu giáng vào gáy Duy một cú đấm khiến anh ngã ra bất tỉnh. Cùng lúc, Diễm Thy trông thấy tên cầm búa đi vào, cô gần như lả đi vì sợ hãi.
                              - Á…
                              Đó không phải là tiếng thét kinh hoàng của Diễm Thy, vì miệng cô đã bị bịt kín bởi lớp băng keo, đó chính là tiếng kêu của tên cầm đầu!
                              Hắn vừa trông thấy một quái nhân bò từ dưới gầm giường ra. Quái nhân ấy đã một lần làm cho bọn chúng bò lê bò càng lúc rình xem trộm Diễm Thy tắm!
                              Vâng, bọn chúng chính là bốn tên làm vườn ngày hôm kia đã có dịp nhìn thấy thân thể tuyệt mỹ của Diễm Thy, và chính hình ảnh đó của cô đã không ngừng ám ảnh chúng, thôi chúc chúng nhúng tay vào tội ác.
                              - Tao thèm con nhỏ đó quá! Tao phải bắt cóc nó thôi!
                              Gã cầm đầu mở lời.
                              - Đại ca! Cho em… cho em với, em cũng không chịu nổi!
                              Một tên nuốt nước miếng tiếp lời ngay sau đó. Rồi lần lượt hai tên còn lại cũng không sao ngăn được dục vọng của mình.
                              - Vậy cả bốn đứa cùng hợp tác nhé? Mọi việc sẽ rất dễ dàng vì ngoài hai vợ chồng nó ra, ở khu vực này không còn ai, không ai có thể phát hiện ra hoặc giải cứu cho nó được. Chúng ta chỉ việc không chế thằng chồng là xong!
                              Gã cầm đầu vạch kế hoạch.
                              - Nhưng sau đó… sau đó thì sao, đại ca?
                              Một tến ấp úng hỏi.
                              Gã cầm đầu ngửa mặt lên trời cười ha hả:
                              - Mình là dân giang hồ tứ chiếng. Ngay tên họ, quê quán thật của mình ở đâu còn không ai biết thì có gì phải sợ? Xong việc thì a lê hấp, cả bọn chuồn đi nơi khác làm ăn, có gì phải bận tâm đâu nào?
                              Ba đứa còn lại cũng nhận thấy những lời gã cầm đầu nói quả thật không sai. Mọi việc sẽ diễn ra một cách êm thắm, không có gì phải lo sợ. Nhưng không ai ngờ, chính trong lúc quyết định này lại xuất hiện một quái nhân kinh tởm như thế!
                              Tên cầm đầu đứng như trời trồng, mắt mở to nhìn vào cái thân xác quái dị đang uốn éo trườn lên từng chút, cái đầu nghển cao để lộ hai hố mắt sâu hoắm và chiếc miệng bị khóa kín bởi những đường may khủng khiếp.
                              Lúc đó cả ba tên kia cũng nhìn thấy, tất cả đều rụng rời không nói được một câu.
                              Gã cầm đầu lấy lại bình tĩnh trước hết, hắn hét to lên:
                              - Chạy, tụi bây, chạy nhanh lên!
                              Sau tiếng hét của hắn, ba gã kia như sực tỉnh, chúng phóng nhanh xuống sân nhà rồi chạy ào vào bóng tối của rừng cây rậm rạp.
                              Sau phút bàng hoàng, Diễm Thy bật dậy nhào tới cạnh Duy, cô không kịp mặc cả áo. VỪa giật chiếc khăn trong miệng Duy ra, Diễm Thy vừa lay gọi:
                              - Anh Duy! Trời ơi… anh ơi, mau tỉnh lại đi anh! Anh đừng làm em sợ…Tỉnh lại đi anh…
                              Diễm Thy ôm lấy lấy chồng bật khóc nức nở, những giọt nước mắt của Diễm Thy rơi lã chã xuống mặt Duy.
                              Duy khẽ cựa mình rồi mở mắt nhìn Diễm Thy một cách ngỡ ngàng. Nhưng ngay lập tức anh đã nhớ ra mọi chuyện.
                              - Thy ơi, em có sao không?
                              Duy hốt hoảng hỏi.
                              Diễm Thy mừng rỡ, nước mắt vẫn lăn dài:
                              - Không! Không… em không sao… Em lo cho anh quá…
                              - Em mở trói giùm anh!
                              Duy nhắc.
                              Diễm Thy sực nhớ, cô vội vã tháo mấy sợi dây trói quanh cổ tay Duy. Vừa được tự do, Duy ngồi bật dậy ôm chầm lấy vợ, xót xa đau đớn:
                              - Thy ơi, anh có lỗi với em, anh đã không bảo vệ được em…
                              - Không sao rồi, mọi việc đã qua rồi…
                              Diễm Thy nức nở.
                              Duy nhoài người nhặt lấy chiếc áo dưới sàn nhà mặc vào cho Diễm Thy. Mãi đến lúc này Diễm Thy mới nhớ ra mình chưa mặc áo, cô bối rối vừa cài nút vừa lắp bắp:
                              - Không sao… không sao rồi…
                              Duy nắm chặt hai vai Diễm Thy, nhìn thẳng vào mắt cô hỏi:
                              - Tại sao chúng lại có thể buông tha bọn mình? Em nói cho anh nghe đi?
                              Diễm Thy đưa mắt nhìn quanh, Duy sốt ruột:
                              - Em tìm gì vậy? Mau nói cho anh biết đi…dù cho có chuyện gì xảy ra cũng không phải là lỗi do em mà!
                              Diễm Thy đặt tay lên tay chồng nhỏ nhẹ:
                              - Không có chuyện gì đâu anh, bọn chúng chưa kịp làm gì được em… Mình đã được cứu giúp và bây giờ em đang muốn tìm vị ân nhân ấy!
                              - Ân nhân? Em muốn nói tới ai vậy? Không phải là bác Lý chứ?
                              Duy ngơ ngác.
                              - Không! Một ân nhân đặc biệt!
                              Diễm Thy khó nhọc kể lại hết mọi diễn biến cho Duy nghe, cô còn nói thêm:
                              - Sáng sớm hôm nay, lúc xuống sân nhà tập thể dục, đã có lúc em có “cảm giác” như mình “nhìn thấy” vị ân nhân ấy rồi anh ạ! Em muốn kể với anh nhưng lại sợ anh cho là em tưởng tượng những chuyện tầm phào…
                              Duy nhíu mày suy nghĩ, anh biết trong giờ phút này những gì Diễm Thy vừa kể không thể là sản phẩm của trí tưởng tượng được, mà chắc chắn đó là sự thật. một sự thật kỳ lạ, bí ẩn mà anh không thể nào giải thích được!
                              Duy đỡ Diễm Thy đứng lên:
                              - Anh sẽ hỏi bác Lý chuyện này!
                              - Em mệt quá, em muốn ngủ…
                              Diễm Thy uể oải ngồi xuống giường.
                              Duy khẽ gật:
                              - Ừ thôi, em ngủ đi!
                              Nói xong, Duy đứng lên đóng chặt cửa phòng rồi vào nằm xuống bên cạnh vợ. Bữa cơm tối chưa kịp ăn nhưng giờ thì không ai còn có thể nuốt nổi. Biết bao điều ngổn ngang, thắc mắc trong lòng nhưng cả Duy lẫn Diễm Thy đều quá mệt mỏi, không ai muốn nói.
                              Diễm Thy chìm vào giấc ngủ nặng nề đầy mộng mị. Cô thấy người phụ nữa bị may miệng ấy đang lết dưới sàn nhà, nhìn cô bằng ánh mắt van xin, cầu cứu, mặc dù ở nơi là hai con mắt trước kia giờ đây chỉ còn là hai hố sâu đen ngòm nhưng Diễm Thy vẫn nhận ra được vẻ cầu khẩn đó.
                              - Tôi giúp được gì cho chị?
                              Con người khốn khổ dưới sàn lại quẫy mình tiến ra phía cửa, Diễm Thy từ từ ngồi dậy đi theo…
                              Duy chợt thức giấc, anh hốt hoảng khi phát hiện Diễm Thy không nằm cạnh bên mình. Cánh cửa phòng mở toang, xung quanh im lặng một cách ghê người. Vội vã ngồi lên, Duy lao ra ngoài gọi to:
                              - Diễm Thy, Diễm Thy ơi! Em đâu rồi?
                              Không có tiếng trả lời. Duy nháo nhào chạy ra phía nhà tắm, vẫn không thấy Diễm Thy ở đó. Anh vừa chạy vừa gọi váng tên cô:
                              - Thy ơi! Diễm Thy ơi…
                              Một bóng người thấp thoáng ở chỗ bàn đá, Duy thót tim lại vì mừng vui lẫn lo sợ. Anh chạy vội tới và nhận ra bóng người đó chính là Diễm Thy. Nhưng cô đang làm gì thế kia? Duy không thể tin vào mắt mình được nữa! Diễm Thy ngồi xổm dưới đất, ra sức dùng hai tay cào đất, những ngón tay của cô bật cả máu mà Diễm Thy dường như không hề hay biết.
                              - Thy! Em làm sao thế?
                              Duy chụp hai tay vợ lại, thảng thốt kêu lên.
                              Diễm Thy lúc này giống như một kẻ ngây dại không hề ý thức được việc mình làm, cũng như không hề nhận biết được ai đang hiện diện xung quanh. Cô ngước đôi mắt to tròn nhìn Duy một cách đờ đẫn, vô hồn.
                              Duy đau đớn ôm chặt vợ vào lòng, dìu cô đứng lên và nói:
                              - Anh sẽ đưa em về phòng! Không sao, không sao đâu em…
                              Từng tiếng: “không sao, không sao đâu” Duy nói ra như để động viên vợ và động viên cả chính bản thân mình.
                              Đưa Diễm Thy về phòng, Duy tìm bông băng, thuốc sát trùng để rửa và băng bó hai bàn tay Diễm Thy lại. Cô vẫn cứ lờ đờ như kẻ không hồn vía.
                              - Ngủ đi em! Anh sẽ thức canh cho em ngủ. Sáng mai anh sẽ đưa em trở về thành phố…
                              Đỡ Diễm Thy nằm xuống giường, Duy ngồi bó gối bên cạnh nhìn vợ mà lòng đầy đau đớn, xót xa. Anh không ngờ tuần trăng mật tưởng rất tuyệt vời này lại có thể xảy ra những điều tồi tệ…
                              Chốc chốc, Duy lại liếc nhìn vào đồng hồ đeo tay, anh mong cho trời mau sáng để anh có thể đưa người vợ yêu dấu của mình rời khỏi nơi khủng khiếp này.
                              Nhưng thật không ngờ, sáng hôm ấy trong trang trại lại xảy ra một chuyện động trời: cả bốn người đàn ông làm vườn đều chết đột ngột! Bác Lý là người phát hiện ra chuyện đó đầu tiên.
                              Khi cảnh sát đến lập biên bản, vợ chồng người chủ nhà cũng được mời về chứng kiến. Bà chủ nhà run như cầy sấy, đi không muốn vững. Ông chủ tuy cố làm ra vẻ bình tĩnh, nhưng ai ai cũng nhận thấy ông đang run rẩy một cách khác thường.
                              Qua kết luận sơ bộ của nhà chức trách, cả bốn tên làm vườn chết do quá sợ hãi. Có thể cả bốn người đều nhìn thấy một cái gì đó quá sức ghê rợn. Người ta đặt ra rất nhiều giả thiết nhưng vẫn không thể kết luận được ddiefu khủng khiếp đó là gì, chỉ riêng vợ chồng Diễm Thy là lờ mờ đoán ra nhưng họ không thể nói được, vì chắc chắn sẽ không có ai tin.
                              Chính do sự cố bất ngờ ấy mà Duy và Diễm Thy không thể về thành phố được như ý định lúc tối, bởi vì họ phải ở lại để phục vụ cho công tác điều tra của cảnh sát.
                              Sau khi làm xong một số thủ tục, bốn xác chết được đem đi, cảnh sát và những người hiếu kỳ cũng đã tản đi hết, trang trại chỉ còn lại vợ chồng Diễm Thy, ông bà chủ và bác Lý. Năm người ngồi quanh chiếc bàn đá, bàn tán về sự việc vừa mới xảy ra.
                              - Kinh khủng thật! tui không thể tưởng tượng nổi! Không biết cái gì khiến họ sợ đến mức đó? Cả bốn người một lúc…
                              Bác Lý lên tiếng đầu tiên.
                              Ông chủ nhà thở dài:
                              - Trang trại bỏ hoang đã lâu, giờ mới bắt đầu gầy dựng lại xảy ra chuyện không hay…
                              Bà chủ nhà nhăn nhó:
                              - Tui đã nói với ông đừng tiếc làm gì, bán đổ bán tháo cho người ta đi, về lại nơi này làm gì nữa…
                              Ông chủ trừng mắt ngó vợ, bà chủ chợt im bặt, không dám nói tiếp.
                              Duy thở dài, ngước nhìn ông chủ:
                              - Hai bác sống ở đây xưa nay, có nghe kể về một người phụ nữ nào đó bị may miệng không?
                              Ông bà chủ nhà giật bắn người khi nghe câu hỏi đó. Thái độ hoảng sợ của họ khiến Duy càng thêm lo ngại. Chẳng lẽ người phụ nữ ám ảnh vợ anh mấy hôm nay là có thật?
                              Ông chủ run rẩy hỏi:
                              - Sao… sao cháu lại nhắc tới người đàn bà đó?
                              Duy nhìn thẳng vào ông chủ:
                              - Bởi vì mấy hôm nay chính người đó luôn ám ảnh vợ cháu. Chẳng lẽ có người đàn bà như vậy thật sao?
                              Ông chủ nhà lắc đầu:
                              - Không… không đâu… bác chưa nghe nói tới bao giờ!
                              Duy ngạc nhiên:
                              - Vậy mà cháu cứ ngỡ là bác biết, sao thấy hai bác có vẻ hoảng sợ như vậy? Xin hai bác đừng giấu cháu.
                              Ông chủ nhà lắp bắp:
                              - Bác không… không giấu gì đâu! Thật tình là… lần đầu tiên nghe cháu nói tới người đàn bà may miệng, ghê quá!
                              Duy thở dài thất vọng.
                              Bà chủ nhà đứng lên kéo tay chồng:
                              - Về… về thôi ông ơi…
                              - Không được về! Cả hai phải đứng lại đó!
                              Ông chủ nhà chưa kịp đứng lên, đột ngột Diễm Thy buông một câu khiến mọi người có mặt đều phải sững sờ, kinh ngạc.
                              - Diễm Thy, em lại làm sao thế này?
                              Duy lo sợ chạm vào tay vợ.
                              Diễm Thy dường như không quan tâm đến Duy, cô bỗng ngồi xuống và dùng hai bàn tay còn bị băng bó của mình mà cáo cấu lớp đất dưới chân.
                              - Em cần tìm cái gì dưới đó, để anh làm cho?
                              Duy giữ tay Diễm Thy lại, hỏi.
                              Ông chủ nhà hoảng sợ can ngăn:
                              - Không! Có gì dưới đó đâu mà tìm? Thôi, cháu đưa vợ cháu vào nhà đi, chắc cô ấy bị kích động do chứng kiến cả bốn cái chết cùng lúc!
                              Duy cũng muốn làm theo lời ông chủ là đưa vợ về phòng, nhưng Diễm Thy kiên quyết không nghe. Cô nhất định phải đào cho được mảnh đất dưới chân.
                              - Hai cháu đứng qua một bên, để đó cho bác!
                              Bác Lý tay cầm cuốc, ra hiệu cho Duy đỡ Diễm Thy tránh sang chỗ khác. Bà chủ nhà kêu lên:
                              - Đừng! Đừng đào! Có gì dưới đó đâu?
                              Duy lấy làm lạ trước thái độ kích động quá mức của vợ chồng người chủ nhà. Anh kiên quyết:
                              - Hai bác cho phép chúng cháu đào lên thử xem có gì dưới đó mà vợ cháu phải ra nông nỗi như vầy…
                              Vừa nói, Duy vừa cầm hai bàn tay bật máu của Diễm Thy chìa ra cho mọi người cùng nhìn thấy.
                              Anh nói tiếp:
                              - Đang nửa đêm, cô ấy đã đi ra đây để đào bới, cháu không sao hiểu nổi…
                              Biết không thể ngăn cản được Duy, bà chủ nhà tuyệt vọng ngồi phịch xuống ghế, gục đầu lên vai chồng khóc không thành tiếng.
                              Bác Lý nhìn bà chủ bằng ánh mắt lạ lẫm, hơi do dự một chút, nhưng rồi ngay sau đó bác quyết tâm bổ mạnh nhát cuốc xuống mặt đất rắn đanh.
                              Những người có mặt đều căng thẳng nhìn theo đôi cánh tay bác Lý. Mồ hôi chảy thành dòng hai bên thái dương ông chủ nhà. Bàn tay ông đặt trên vai vợ đang run lên theo nhịp cuốc.
                              - Có cái gì đây rồi!
                              Bác Lý kêu lên.
                              Duy buông Diễm Thy ra, tới giúp bác Lý kéo vật gì đó bị vùi chôn bên dưới. Trong lúc hai người đang hì hục khoét thêm cho rộng miệng hố thì vợ chồng người chủ nhà gần như ôm chặt lấy nhau run rẩy.
                              Cuối cùng thì vật đó cũng được đem lên mặt đất.
                              - Đừng!... đừng mà…
                              Bà chủ nhà kêu lên và bật khóc nức nở.
                              Bác Lý chậm rãi giở mấy lớp ni lông và mền bọc bên ngoài, để lộ ra phía trong một thi thể người ta vẫn còn nguyên vẹn!
                              Duy, Diễm Thy và vợ chồng chủ nhà đều rụng rời khi nhìn thấy thi thể ấy. Một người phụ nữ bị trói chặt chân tay, miệng bị may kín bằng những đường may thô vụng kéo dài đến hai bên mép tai. Đúng là người phụ nữ mà Diễm Thy đã từng trông thấy!
                              - Bác Lý ơi, bác phải đi báo cho nhà chức trách biết việc này ngay mới được!
                              Duy lên tiếng.
                              Ông chủ nhà hoảng hốt ngăn lại:
                              - Không… không cần thiết đâu!
                              Duy ngạc nhiên:
                              - Sao lại không hả bác? Đây là một vụ án mạng xảy ra có lẽ chưa lâu, mình không báo sẽ có tội đó!
                              Bà chủ nhà đột ngột quỳ sụp xuống:
                              - Không… không… bác xin cháu… cháu đừng báo… Chuyện xảy ra lâu lắm rồi, hơn mười năm rồi…
                              Duy và bác Lý đều tỏ vẻ không tin, riêng Diễm Thy vẫn chưa thật sự hoàn hồn, cô chỉ giương mắt nhìn mọi người vẻ sợ sệt.
                              - Là thật đó… hơn mười năm rồi…
                              Ông chủ nhà ôm đầu rên rỉ.
                              - Chuyện này là sao vậy bác?
                              Duy hỏi.
                              Ông chủ nhà mắt mờ lệ nói nhỏ:
                              - Tạm thời cháu đậy xác chết đó lại đi, bác kể hết mọi chuyện cho nghe, rồi sau đó các cháu muốn sao cũng được…
                              Duy chạy lên phòng mang ra một chiếc mền đắp kín xác chết, rồi dìu vợ ngồi xuống lắng nghe ông chủ nhà kể lại câu chuyện năm xưa. Bác Lý khong nói năng gì, lẳng lặng đặt cây cuốc sang một bên rồi ngồi bệt xuống ngay bên cạnh xác chết của người phụ nữ.
                              Bà chủ nhà vẫn quỳ bên cạnh xác chết, bà không còn khóc nữa nhưng trên gương mặt lộ rõ sự đau đớn tột cùng.
                              Ông chủ nhà lùi lại ngồi vào vị trí lúc nãy, mắt ông nhìn xa xăm như muốn nhớ lại cả một quãng đời quá khứ mà từ lâu nay ông cố tình lãng quên, vùi chôn nó trong tận cùng tâm thức của mình. Giọng ông đều đều, có lúc ngắt quãng. Từng câu nói của ông như tái hiện lại cảnh tượng tang thương, khủng khiếp ngày nào…
                               
                              ***
                              Khang ngồi chống cằm nhìn ra đường bằng ánh mắt buồn bã. Bên cạnh, Mỹ Phương vẫn không ngừng khóc lóc, than vãn:
                              - Tui biết anh không hề thật lòng yêu tui… anh chỉ giả vờ thôi, đúng không? Tại tui ngu dại, tin vào những lời đường mật của anh nên giờ tui phải ráng chịu…
                              - Em có thôi đi không!
                              Khang quát lớn.
                              Mỹ Phương càng khóc tợn:
                              - Anh lừa dối tui… anh nói anh sẽ thương yêu tui đến trọn đời, vậy mà bây giờ…
                              - Em có biết là anh khổ tâm đến mức nào hay không? Người mình yêu thương không được sống chung mà hàng ngày phải ra vào chạm mặt với kẻ không có tình cảm, phải giữ tròn vai trò một người làm chồng, điều đó rất khổ sở, em có biết không?
                              Khang ôm đầu nói.
                              Mỹ Phương nín khóc, gằn từng tiếng:
                              - Vậy tại sao anh không chịu ly dị đi? Hay anh tiếc?
                              - Sao em không chịu hiểu cho anh? Anh làm tất cả, phải chịu đựng mọi thứ cũng chỉ vì tương lai của chúng ta thôi.
                              Khang nhìn Mỹ Phương âu yếm nói.
                              Mỹ Phương thút thít khóc:
                              - Em mệt mỏi rồi, em không chịu đựng được nổi đâu! Em không cần cái tương lai huy hoàng mà anh vẽ ra đó, em chỉ cần mình sống bên nhau thôi, dù nghèo cũng được!
                              Khang nghiêm mặt:
                              - Không được! Anh đã mất rất nhiều công sức rồi, không thể bỏ ngang thế này được đâu! Em phải tin tưởng anh, ráng chờ thêm một thời gian ngắn nữa, nhất định khi có điều kiện thuận lợi là anh sẽ chấm dứt ngay mọi việc. Chừng đó trong tay mình sẽ có toàn bộ gia tài. Em có thể không cần, nhưng còn con cái chúng ta thì sao? Em phải nghĩ tới điều đó mà chấp nhận hy sinh một chút chứ?
                              Khang nói một thôi một hồi, Mỹ Phương chỉ biết ôm mặt khóc. Thật ra trong kế hoạch này người ủng hộ Khang đầu tiên là Mỹ Phương, nhưng bây giờ thì cô hối hận, cô không chịu đựng nỗi sự ghen tương đang giết lần giết mòn cô theo ngày tháng.
                              Khang và Mỹ Phương yêu nhau đã nhiều năm nhưng chưa thể thành chồng thành vợ được vì cả hai đều quá nghèo. Khang làm công cho gia đình Nguyệt, một gia đình điền chủ giàu có nhất trong vùng.
                              Nguyệt là cô con gái duy nhất, nên lúc vợ chồng ông điền chủ qua đời trong một tai nạn đắm thuyền, chỉ có cô là người thừa kế toàn bộ tài sản đất đai của cha mẹ.
                              Tuy là con nhà giàu có nhưng Nguyệt lại là một cô gái xấu xí, tính tình cũng không được nhu mì hiền thục nên đám trai làng không ai quan tâm đến. Thứ nhất, họ biết vị trí của họ không thể với tới địa vị của Nguyệt nên không dám tơ tưởng được làm rể nhà điền chủ. Thứ hai, dung nhan Nguyệt dưới mức trung bình nên không ai muốn chọc ghẹo dù chỉ để mua vui.
                              Nguyệt chú ý tới Khang từ ngày đầu tiên anh vào làm cho nhà điền chủ. Bởi vì Khang là một thanh niên khỏe mạnh, đẹp trai và nói năng cuốn hút mọi người.
                              Lúc còn sống, ông bà điền chủ biết con gái yêu quý của mình ngày đêm tơ tưởng đến Khang, trong thâm tâm, ông bà vẫn biết Nguyệt rất khó lấy được một tấm chồng môn đăng hộ đối, nhưng cả hai ông bà đều vì sĩ diện quá lớn, không muốn mang tiếng gả con cho người làm thuê, một kẻ không cha không mẹ, trôi nổi giang hồ… Ông bà tin rằng với số của hồi môn kếch sù thì sớm muộn gì cũng sẽ có người khá hơn tìm đến.
                              Khi ông bà điền chủ qua đời, Nguyệt càng tỏ rõ thái độ với Khang hơn. Điều đó khiến ai ai cũng biết.
                              Một lần Mỹ Phương nói đùa với người yêu:
                              - Cô Nguyệt thương anh quá trời, anh lấy cổ làm vợ đi để hưởng lấy gia tài, yêu em làm gì cho khổ tấm thân?
                              Khang quay sang nhìn Mỹ Phương, đắn đo một chút rồi nói:
                              - Mấy ngày gần đây anh cũng có ý định gần như vậy!
                              Mỹ Phương tái mặt:
                              - Anh… anh nói sao? Anh có ý định…?
                              Khang vịn tay lên vai Mỹ Phương nhìn vào mắt cô nói thật nhỏ:
                              - Anh yêu em, rất yêu em! Điều đó em cũng biết mà, đúng không? Nhưng cả hai chúng ta đều quá nghèo, chỉ có hai bàn tay trắng, đến một túp lều để chui ra chui vào cũng không có thì làm sao mình sống với nhau, rồi còn sinh con đẻ cái nữa chứ! Do đó, anh muốn… giả vờ ưng thuận làm chồng cô Nguyệt, sau đó anh sẽ tìm ra khuyết điểm gì đó của cổ, hoặc tự tạo ra lỗi lầm gì đó gán cho cổ và ly dị. Như thế, ít ra cũng có được một số vốn để làm ăn… Khi đó mình sẽ chính thức đến với nhau. Em thấy anh tính vậy có được không?
                              Nét mặt Mỹ Phương dần dần giãn ra. Cô thừa biết giữa cô và Nguyệt thì chắc chắn Khang phải dành trọn tình yêu cho cô rồi, nhưng nghĩ tới cảnh người mình yêu trở thành chồng kẻ khác thì cũng đau lòng lắm. Thế nhưng cái viễn cảnh tươi đẹp mà Khang vẽ ra trước mắt Mỹ Phương lại quá hấp dẫn, cô không đủ can đảm để chối từ.
                              - Nhưng… nhưng có khi nào… không thể li dị được, anh sẽ phải sống với cô ta trọn đời?
                              Mỹ Phương băn khoăn hỏi.
                              Khang nhếch môi cười:
                              - Em nghĩ anh có thể sống suốt đời với một người như Nguyệt sao?
                              Rồi không đợi Mỹ Phương trả lời, Khang tiếp tục:
                              - Mà cho dù có vì lý do nào mà không thể li dị được với cô ta, anh cũng sẽ tìm cách tẩu tán tài sản rồi mình cùng nhau cao chạy xa bay, tới một nơi xa lạ nào đó xây tổ ấm.
                              Mỹ Phương thở dài:
                              - Em thấy anh tính vậy cũng được, nhưng thật tình là em buồn lắm!
                              Khang choàng tay qua vai người yêu, âu yếm:
                              - Anh biết chứ! Anh cũng giống như em thôi, nhưng mình phải ráng hy sinh em à…
                              Sau ngày hôm đó, Khang có vẻ thân mật, quan tâm đến Nguyệt nhiều hơn. Nguyệt rất sung sướng vì điều đó.
                              Không lâu sau đám cưới của Nguyệt và Khang được tổ chức thật linh đình, bởi vì Nguyệt muốn phô trường cho mọi người thấy mình cũng có thể lấy được một người chồng đẹp trai, phong độ như Khang.
                              Tất cả mọi người đều biết rất rõ Khang vì cái gì mà đồng ý lấy Nguyệt làm vợ, có lẽ Nguyệt cũng biết, nhưng cô lại không muốn tin. Cô muốn nghĩ Khang đến với cô là thật lòng, là từ sự thương yêu cảm mến sau những ngày tháng ra vô gặp mặt nơi đây.
                              Khang bỗng chốc bước lên một giai cấp khác. Ngoài mặt anh luôn tỏ vẻ thương yêu, chìu chuộng Nguyệt. anh muốn Nguyệt tin tưởng anh hoàn toàn để có thể giao cho anh hết số tài sản mà hịên cô đang đứng tên. Chính vì lẽ đó mà Khang ít dám gặp Mỹ Phương. Anh tin vào câu “rừng có mạch, vách có tai”, “đi đêm có ngày gặp ma” nên mọi liên lạc với Mỹ Phương gần như bị Khang cắt đứt hết.
                              Mỹ Phương cảm thấy chới với, vì trước đó cô cứ ngỡ dù có là chồng cô Nguyệt thì Khang và cô vẫn như trước đây, vẫn gặp nhau hàng ngày không gì thay đổi.
                              Vậy mà gần nửa năm trôi qua, Khang chỉ gặp Mỹ Phương một vài lần vội vã. Mỹ Phương bắt đầu lo sợ, sợ Khang ham phú quý bạc tiền sẽ không rời xa Nguyệt nữa.
                              Hôm nay Mỹ Phương nhất định buộc Khang phải chọn lựa một trong hai, hoặc là cô hoặc là Nguyệt. cô không cần tiền tài nữa, cô chỉ cần có Khang thôi.
                              - Bây giờ em biết phải làm sao đây?
                              Mỹ Phương khóc nức nở.
                              Khang đứng lên đi đi lại lại một lúc rồi nói dứt khoát:
                              - Em cho anh thêm hai tuần nữa. Nếu sau hai tuần anh vẫn chưa tìm được cách nào thì mình trốn đi với nhau. được không em?
                              Mỹ Phương ngước đôi mắt đẫm lệ lên nhìn Khang, cô cũng nói một cách vừa đau thương lại vừa cứng rắn:
                              - Được, em sẽ cố gắng chờ đợi anh thêm hai tuần nữa. Nếu khi ấy anh vẫn chưa li hôn được mà cũng không thể trốn đi với em, thì chính em sẽ là người đến nói tất cả cho cô ấy biết để đòi anh trở về!
                              Khang mỉm cười gật đầu:
                              - Quyết định vậy nhe? Vậy thì em phải cười lên thật tươi xem nào. Khóc lóc làm em trở nên xấu xí rồi đây này!
                              Mỹ Phương ngã đầu lên vai Khang, cố gượng cười mặc dù lòng cô vẫn còn ngổn ngang trăm mối.
                               
                              ***
                              - Anh ơi, trăng đêm nay đẹp quá, anh mau ra ngồi ngắm với em nè!
                              Nguyệt gọi chồng bằng giọng nũng nịu.
                              Khang từ trong phòng nói vọng ra, cố giấu vẻ bực mình:
                              - Em ngắm một mình đi, anh bận tí việc mà!
                              - Không được! Việc gì cũng bỏ hết đó đi, chút nữa em sai người làm cho! Ra mau đi anh!
                              Nguyệt vẫn không buông tha.
                              Khang đóng vội cửa tủ, lẩm bẩm:
                              - Con quái này bày ra lắm trò thật! Nữ trang tiền bạc thì lại không biết nó giấu kín ở đâu…
                              - Mau lên đi anh!
                              Nguyệt thúc giục.
                              - Anh ra tới ngay đây!
                              Khang vừa đi vừa nói.
                              Trông thấy Khang, Nguyệt ngồi nép sang một bên chừa chỗ trên chiếc ghế mây cho Khang ngồi xuống bên cạnh. Nguyệt đứng lên bước tới đứng tựa người vào lan can, nhưng Khang lập tức kéo cô trở lại:
                              - Em quên cái lan can đó gãy rồi sao? Ngày mai anh sẽ cho người làm lại, không khéo em tựa vào rồi té lăn xuống dưới thì nguy!
                              Nguyệt mỉm cười sung sướng vì được chồng quan tâm. Cô đưa tay chỉ lên bầu trời, nơi đó vầng trăng lơ lửng, tỏa ánh sáng rờ rỡ, dịu dàng:
                              - Anh thấy chưa? Đẹp ghê chưa?
                              Nguyệt tựa người vào Khang, nũng nịu hỏi.
                              - Ờ, đẹp quá!
                              Khang đáp hờ hững.
                              - Mình mà cải tạo trang trại này để làm khu du lịch nghỉ mát chắc đông khách lắm anh ạ! Những cặp uyên ương sẽ hội tụ về đây, vì đây là nơi lý tưởng để hưởng tuần trăng mật của đại đa số những người bình dân mà!
                              Nguyệt mơ màng nói.
                              Khang cười cười:
                              - Anh công nhận em giỏi thiệt, nhìn vào đâu em cũng thấy được nguồn lợi của nó, nhìn vào đâu em cũng thấy được cơ hội làm ăn…
                              Nguyệt bật cười khanh khách:
                              - Di truyền mà anh! Chắc em thừa hworng từ ba đó, ba em là người làm kinh doanh mà!
                              - Ờ…
                              Khang nói ngắn gọn.
                              Thấy thái độ của Khang không giống thương ngày, Nguyệt thắc mắc:
                              - Hôm nay anh bị làm sao vậy? Nếu không được khỏe thì để em lấy thuốc cho anh nhe?
                              Khang xua tay:
                              - Thôi khỏi, anh chỉ bị đau đầu, nghỉ tí sẽ khỏi thôi mà!
                              Nguyệt ngó Khang ngờ vực:
                              - Hai hôm nay em thấy tâm trạng anh không bình thường, có chuyện gì anh đừng giấu em nhe?
                              Khang gượng cười:
                              - Đâu có gì đâu em, chẳng qua anh cứ mơ thấy những điều không hay nên lo lắng chút thôi.
                              - Anh mơ thấy điều gì?
                              Nguyệt tò mò hỏi.
                              Khang thở dài:
                              - Anh mơ thấy… nhà mình bị bọn cướp tấn công, chúng bắt em làm con tin rồi buộc anh phải chỉ chỗ để nữ trang vàng bạc, nhưng anh… anh thật sự không biết… Anh đau đớn vô cùng vì lo sợ chúng sẽ hãm hại em…
                              Nguyệt bá cổ Khang cười tươi:
                              - Thật thương cho anh quá, cả trong giấc mơ vẫn còn lo lắng đến sự an nguy của em… Em thật may mắn mới lấy được người chồng như anh đó! Anh yên tâm đi, em sẽ làm cho anh không còn gì phải sợ hãi nữa. Lát nữa đây em sẽ chỉ cho anh biết nơi em cất giữ toàn bộ tài sản của cha mẹ để lại cho chúng ta. Mình là vợ chồng mà, em đâu muốn giấu anh điều gì, chẳng qua lâu nay em quên nghĩ tới vấn đề đó!
                              Khang kéo Nguyệt sát vào bên mình, đặt lên môi cô nụ hôn say đắm.
                              - Vợ yêu quý của anh! Anh yêu em nhất trên cõi đời này…
                              Khang thầm thì.
                              Nguyệt sung sướng đón nhận những biểu lộ tình cảm nồng cháy của Khang. Hai người đang quấn lấy nhau trong mê mải, không ai quan tâm đến sự có mặt đột ngột của Mỹ Phương.
                              - Các người có thôi đi không!
                              Mỹ Phương hét lên.
                              Khang và Nguyệt đều giật mình buông nhau ra. Nguyệt ngỡ ngàng nhìn người con gái xa lạ đang đứng trước mặt mình giữa đêm hôm khuya khoắt. Còn Khang, anh rất muốn kéo Mỹ Phương ra một góc để nói rằng kế hoạch của mình sắp thành công rồi, nhưng vì Nguyệt ngồi ngay bên cạnh, Khang không thể nào hành động được.
                              Mấy lần Khang cố đưa mắt ra hiệu cho Mỹ Phương nhưng cô không nhận thấy hoặc cố tình không nhận thấy.
                              - Cô là ai? Tại sao lại đến đây giờ này?
                              Nguyệt hất hàm hỏi một cách kênh kiệu.
                              Mỹ Phương nhếch mép cười:
                              - Muốn biết tôi là ai ư? Cô nên hỏi người đàn ông đang ngồi cạnh bên cô kìa!
                              Nguyệt quay nhìn Khang, giọng lạnh tanh:
                              - Cô ta là ai?
                              Khang lúng túng:
                              - Cô ta… cô ta là người quen…
                              - Ha ha ha… Người quen? Anh nói nghe hay quá đấy anh Khang ạ! Sao anh không dám thừa nhận mối quan hệ giữa chúng ta?
                              Mỹ Phương bật cười đau đớn.
                              Nguyệt đứng phắt dậy nghiến răng:
                              - Chuyện này là thế nào?
                              Mỹ Phương càng cười to hơn:
                              - Ở cả khu vực này ai cũng biết anh Khang vì cái gì mà chịu lấy cô làm vợ, chỉ có kẻ ngốc như cô mới không nhận biết điều đó mà thôi!
                              Nguyệt tức lồng lên:
                              - Cô… cô…
                              Đột ngột, Nguyệt quay lại túm lấy ngực áo Khang:
                              - Anh nói mau, chuyện này là gì? Cô gái này là gì của anh?
                              Khang ôm đầu rên rỉ:
                              - Trời ơi… tại sao lại thế này… Tôi không biết, tôi không biết! Hai người muốn làm gì đó thì làm đi…
                              Nói dứt câu, Khang vùng ra khỏi tay Nguyệt bỏ chạy xuống sân.
                              Nguyệt chỉ tay vào mặt Mỹ Phương:
                              - Cô cút ra khỏi nhà tôi ngay lập tức!
                              Mỹ Phương nhún vai:
                              - Tôi chả ham thích gì khi đứng đây đâu! Nhưng tôi phải chờ người yêu tôi đi cùng, anh ấy đã hứa sẽ cùng đi với tôi. Chúng tôi sẽ sống bên nhau…
                              - Nhưng anh ấy là chồng tôi!
                              Nguyệt hét lên.
                              Mỹ Phương cười mai mỉa:
                              - Nhà cô không có gương soi mặt sao? Cô nên nhìn lại mình đi! Thật tội nghiệp cho cô…
                              Không thể nào kiềm chế được trước những lời xúc phạm nặng nề của Mỹ Phương, Nguyệt nhào tới túm tóc Mỹ Phương giật mạnh. Mỹ Phương cũng không vừa, nhanh như chớp tát vào mặt Nguyệt một tát như trời giáng.
                              Hai người cứ giằng co, kéo níu nhau xà quần, ai cũng muốn ném vào tình địch những cú đánh đấm hết sức lực, những lời miệt thị chua cay nhất.
                              Tuy Nguyệt và Mỹ Phương có dáng vóc gần như nhau, nhưng làm sao một cô tiểu thư con nhà giàu ăn không ngồi rồi từ nhỏ đến lớn như Nguyệt có được sức lực dẻo dai của một cô gái lao động như Mỹ Phương? Thế cho nên không bao lâu Nguyệt đã có vẻ đuối, cô cứ lùi dần trước sự tấn công của Mỹ Phương.
                              Dồn Nguyệt vào sát lan can, Mỹ Phương co chân đá một đá vào người đối thủ, không ngờ lan can gãy “rắc” một tiếng, thân thể Nguyệt bay vèo xuống đất khiến Mỹ Phương không khỏi sững sờ…
                              Vừa định thần lại, Mỹ Phương gọi lớn:
                              - Anh Khang ơi, có chuyện rồi, anh Khang ơi!
                              Vừa gọi, Mỹ Phương vừa phóng nhanh xuống cầu thang. Dưới sân nhà, Nguyệt nằm sóng soài, một bên thái dương đang rỉ máu. Ánh trăng sáng rỡ soi rõ dòng máu đỏ tươi bên má của Nguyệt.
                              - Anh Khang! Anh Khang ơi…
                              Mỹ Phương hốt hoảng.
                              Khang từ ngoài vườn đi vào, nhìn thấy Mỹ Phương quỳ dưới sân anh đã đoán ra phần nào, vội vã chạy đến.
                              - Xảy ra chuyện gì thế này?
                              Khang kinh hãi hỏi.
                              - Em… em không biết! Em và cô ta đánh nhau, không ngờ… không ngờ cô ta rơi xuống đây!
                              Mỹ Phương lắp bắp nói.
                              - Trời ơi! Bây giờ biết tính sao đây? Anh đã dặn em rồi, mọi việc sắp thành công thì em lại gây ra chuyện như vầy…
                              Mỹ Phương ấm ức khóc:
                              - Anh không giữ đúng lời hứa… đã quá ngày hẹn với em rồi… Em cũng đã nói với anh, nếu quá ngày hẹn thì chính em sẽ đến tận đây để nói rõ với cô ta, và hôm đó anh cũng đồng ý kia mà?
                              Khang nhăn mặt:
                              - Thôi đi! Bây giờ không phải là lúc để tranh cãi xem ai đúng ai sai. Chúng ta phải xử lý thế nào với Nguyệt đây?
                              - Anh… anh xem thử cô ấy… còn sống không?
                              Mỹ Phương hồi hộp nói.
                              Khang đặt tay lên mũi Nguyệt, áp tai vào ngực cô vẫn không có được tín hiệu nào cho biết cô còn sống.
                              Ngước lên nhìn Mỹ Phương, Khang sợ hãi nói:
                              - Chắc cô ấy đã chết rồi! Mình phải làm sao đây?
                              Mỹ Phương giật mình té ngồi xuống đất.
                              - Chết… chết rồi sao anh?
                              Mỹ Phương nói không ra tiếng.
                              Khang khe khẽ gật đầu.
                              Hai người ngồi lặng đi bên xác chết của Nguyệt. Nhưng không lâu sau, Khang định thần lại và đứng lên nói nhỏ:
                              - Mình phải chôn giấu xác chết này ngay thôi. Em giúp anh một tay!
                              Mỹ Phương lập cập đứng lên theo.
                              - Em lên phòng lấy cái mền xuống đây cho anh, anh ra vườn tìm cuốc…
                              Khang ra lệnh.
                              Mỹ Phương co rúm người lại:
                              - Em… em sợ…
                              - Lúc này không được quyền nói tới từ đó, em phải can đảm lên giúp anh một tay, còn không thì có thể cả hai đứa mình đều phải ngồi tù đó!
                              Khang kiên quyết.
                              Nghe nhắc đến chuyện ở tù, Mỹ Phương còn sợ hơn chuyện một mình lên phòng tìm mền đem xuống cho Khang. Cô vội vã chạy đi, vừa chạy, vừa láo liên đưa mắt nhìn khắp bốn bên.
                              Khi Mỹ Phương đem mền xuosng thì Khang cũng đã tìm được cuốc. anh nhìn Mỹ Phương, giục giã:
                              - Em mau trải rộng cái mền ra rồi giúp anh khiêng xác cô ta đặt vào đó, mình phải kéo ra xa ngoài kia một chút…
                              Mỹ Phương vừa run lẩy bẩy vừa làm theo lời Khang, nhưng lúc Khang vừa túm bốn góc chiếc mền lại chuẩn bị kéo đi, Mỹ Phương chợt nhớ ra, cô kêu lên khe khẽ:
                              - Khoan… chưa đem đi được đâu anh!
                              - Sao vậy?
                              Khang giật mình.
                              - Có lần em nghe bà nội em kể, hồn người chết oan rất linh, nó sẽ luôn đeo bám không bao giờ buông tha kẻ đã làm hại nó, hoặc nó sẽ về báo mộng cho ai đó biết để giải oan giúp nó…
                              Mỹ Phương run giọng kể.
                              Khang nóng ruột:
                              - Vậy bây giờ mình phải làm sao?
                              Mắt Mỹ Phương sáng lóe lên:
                              - Có một cách có thể khống chế hồn ma đó, may mà em vẫn còn nhớ rất rõ…
                              - Cách gì? Em nói mau lên đi!
                              Khang sốt ruột giục.
                              - Phái trói tay chân và may kín miệng nó lại để nó không thể đi đâu, mà cũng không thể nói gì với ai được nữa…Anh… anh tìm kim chỉ cho em, nhanh lên!
                              Khang buông bốn góc mền xuống lúng túng:
                              - Anh có biết kim chỉ để chỗ nào đâu?
                              Chợt nhớ ra, Khang reo lên:
                              - Có rồi! Lúc chiều thằng nhỏ làm vườn vá lưới, nó còn để kim chỉ ở đây!
                              Vừa nói Khang vừa chạy tới bên chiếc bàn đá lấy cuộn nhợ gân và một cây lẹm đem đến cho Mỹ Phương.
                              Lúc này Mỹ Phương không còn run rẩy nữa, cô đã tự trấn an mình, nếu như không làm tốt được việc này thì mãi mãi cô và Khang sẽ không có được điều gì tốt đẹp hết.
                              Đón lấy kim chỉ từ tay Khang, Mỹ Phương nói tiếp:
                              - Để đây em may, còn anh đi lấy dây trói tay chân cô tay lại!
                              Trong lúc Khang lục lọi tìm dây thì Mỹ Phương tiến gần tới bên xác chết. Cô run run giở mền ra, nhắm mắt mở mắt mấy lần cho đỡ sợ rồi bặm môi nói lớn:
                              - Mỗi người đều có số phận, xin đừng trách tôi, thật sự tôi cũng không muốn xảy ra việc này… Cô có muốn trách thì hãy trách ông trời đi!
                              Dứt lời, Mỹ Phương đâm phập nhát kim đầu tiên xuống miệng Nguyệt, và như một kẻ đang lên cơn điên, Mỹ Phương cứ đâm liên tiếp hết mũi này đến mũi khác, chằng chịt, chồng chéo lên nhau một cách khủng khiếp. Gần nửa khuôn mặt của Nguyệt giờ đây là những đường may rối rắm…
                              - Thôi đi! Em có điên không vậy?
                              Khang rít lên khi thấy Mỹ Phương cứ điên cuồng đâm tới tấp vào miệng Nguyệt.
                              Mỹ Phương như sực tỉnh, cô vứt kim xuống đất và ôm mặt khóc nức nở, sợi chỉ vẫn còn nối giữa trôn kim và mép tai của Nguyệt.
                              Không còn thời gian cũng như lòng dạ nào để an ủi hay dỗ dành Mỹ Phương, Khang bỏ mặc cô ngồi khóc một mình, anh quỳ gối xuống đất, lật thi thể Nguyệt nằm sắp lại và bắt đầu trói quặt chân tay cô bằng sợi dây dù được gỡ ra từ chiếc võng dưới tàn cây mà hàng ngày Nguyệt vẫn thường ngồi ở đó.
                              Khi mọi việc xong xuôi, Khang và Mỹ Phương ra sức kéo thi thể Nguyệt đi. Ban đầu họ định kéo ra tận bìa rừng, nhưng không hiểu sao xác chết lại quá nặng, mới nhích đi vài mét mà cả Khang và Mỹ Phương đều đã đuối sức.
                              Mỹ Phương ngồi phịch xuống ghế đá kéo tay áo lau mồ hôi đang chảy ròng ròng trên mặt, than thở:
                              - Em không còn sức nữa rồi…
                              Khang cũng ngã ngồi bên cạnh, thở hồng hộc.
                              - Thôi, mình giấu ở đây đi! Đôi lúc những chỗ không kín đáo thế này lại không gây chú ý…
                              Khang bật nói và vùng ngay dậy.
                              Khang ra sức đào bới bằng cây cuốc bén ngót của những người làm vườn, chẳng mấy chốc trước mắt Khang đã là một huyệt mộ có độ sâu tương đối.
                              - Thôi, chắc được rồi! Em giúp anh với nè…
                              Khang lên tiếng gọi, Mỹ Phương tới bên cột chặt bốn góc của chiếc mền lại rồi cả hai xô mạnh xác chết xuống chiếc hố vừa mới đào.
                              Khang và Mỹ Phương hấp tấp khỏa lấp miệng hố, xóa đi những dấu vết còn lưu lại trên quãng đường từ dưới sân nhà ra tới đây.
                              - Giúp anh kê bàn xê qua đây một chút!
                              Khang gọi.
                              Khang và Mỹ Phương phải tốn rất nhiều công sức mới có thể xê dịch được chiếc bàn đá nặng nề, giờ đây, chiếc bàn đã được đặt lên trên nấm mồ bí mật của Nguyệt, và chắc hẳn sẽ không ai phát hiện ra đâu, bởi vì khu vực này ít ai lui tới ngoài vợ chồng Khang.
                              - Về đi anh! Bây giờ mình trốn đi ngay phải không anh?
                              Mỹ Phương lo lắng hỏi.
                              Khang bặm môi dứt khoát:
                              - Không được! Giờ cô ấy đã chết rồi, toàn bộ gia sản này sẽ thuộc về anh, mình không thể bỏ trốn được đấu em!
                              - Vậy… vậy mình phải làm sao?
                              Mỹ Phương ngước mắt hỏi.
                              Khang không nói gì chỉ lầm lũi đi nhanh về hướng ngôi nhà, Mỹ Phương líu ríu chạy theo.
                              Tới chân cầu thang Mỹ Phương khựng lại:
                              - Anh Khang… em… em về nghe?
                              Khang quay lại nhìn Mỹ Phương rồi nói:
                              - Không được! Từ bây giờ em phải ở lại đây!
                              - Ở lại đây? Rồi anh giải thích sao với mọi người?
                              Mỹ Phương ngạc nhiên kêu lên.
                              Khang nắm tay Mỹ Phương kéo cô lên thang lầu.
                              Nhưng lúc vừa đặt chân lên sàn nhà, cả hai đều giật bắn người lùi lại. Dưới chân họ là một vũng máu đỏ tươi trông như còn đang sủi bọt.
                              - Cái gì… cái gì thế này? Sao lại có nó?...
                              Mỹ Phương thảng thốt kêu lên.
                              - Lúc nãy hai người đánh nhau có ai bị chảy máu không?
                              Khang hỏi.
                              Mỹ Phương níu chặt tay Khang lắc đầu:
                              - Không! Nhất định là không hề có ai bị chảy máu… với lại vũng máu này đâu thể là máu từ những vết thương nhỏ đâu anh? Mới khi nãy lên đây lấy mền em có thấy gì đâu?
                              Khang bóp trán một cái rồi thở hắt ra, nói:
                              - Mặc kệ nó là máu gì, mình lau sạch đi! Để anh xách nước…
                              Khang vội vã chạy đi lấy nước trong khi Mỹ Phương ra sức lau chùi, nhưng dù cả hai cố gắng đến mấy vẫn không sao chùi sạch được dấu vết của nó.
                              - Thôi, bỏ đi em! Sáng mai anh sẽ lót thêm một lớp ván mỏng lên trên để che khuất nó lại, không sao đâu…
                              Khang nói xong đứng lên nắm tay Mỹ Phương đi thẳng vào phòng, căn phòng mà chỉ mấy tiếng đồng hồ trước đây còn là của Nguyệt.
                              Khép cửa lại, Khang ngã người nằm dài ra giường vẻ mệt mỏi. Mỹ Phương sợ sệt ngồi khép nép một bên.
                              Lặng im một lúc Khang đột ngột ngồi bật dậy nắm lấy tay Mỹ Phương:
                              - Anh đã nghĩ ra cách rồi! Từ trước tới nay vốn tính kênh kiệu nên Nguyệt rất ít tiếp xúc với bọn người làm, ít có ai đến gần cô ta, mọi hoạt động đều do anh điều hành theo ý của cổ. Vì vậy, em cứ ở đây, thỉnh thoảng thoáng qua thoáng lại cho người ta thấy có bóng dáng phụ nữ vậy thôi. Anh sẽ giả vờ như vợ chồng chuẩn bị đi du lịch xa, tỏng thời gian vài ngày, anh sẽ thu xếp cho thợ nghỉ bớt, chỉ để lại người quản gia và một vài người cần thiết mà thôi. Rồi chúng ta sẽ đi vào sáng sớm. Cô ấy biết dung nhan mình xấu xí nên lần nào ra đường cũng che khăn rất cẩn thận, và em cũng làm vậy, mọi người sẽ tưởng em là cô ấy, may mà dáng dấp hai người lại gần với nhau…
                              - Rồi sau đó?...
                              Mỹ Phương lo lắng.
                              Khang nhún vai:
                              - Sau đó thì còn gì mà lo lắng nữa? Chúng mình sẽ đi du lịch một vài tháng, thậm chí một vài năm. Rồi anh sẽ loan tin cô ấy mất đột ngột vì lý do nào đó, sau đó nữa thì mình chính thức về lại đây cùng nhau… Em nghĩ xem kế hoạch này của anh có tuyệt vời không?
                              Mỹ Phương khe khẽ gật đầu. Cô công nhận Khang tính toán rất giỏi, ngay cả trong tình huống rối rắm như vầy mà anh có thể nghĩ ra được điều như vậy! Nhưng tận trong thâm tâm Mỹ Phương vẫn chưa thấy yên lòng.
                              Đêm đó, Khang và Mỹ Phương ngủ trên chính chiếc giường của vợ chồng Khang trước đây. Và mặc dù vừa trải qua một sự cố nghiêm trọng khủng khiếp, Khang vẫn ngủ một cách say sưa, bình thản sau khi đã thỏa mãn niềm thương nỗi nhớ với Mỹ Phương.
                              Còn Mỹ  Phương, vốn là một cô gái gan lì nhưng cô vẫn thót tim mỗi khi nghe tiếng thạch sùng chắc lưỡi…
                              Những ngày tiếp sau đó mọi việc diễn ra đúng y như bài bản mà Khang đã vạch sẵn. Sàn nhà đã được lót thêm một lớp mỏng mà nếu không để ý sẽ không ai nhận ra được, chỗ chiếc bàn đá vẫn không có gì lạ xảy ra…
                              Khang luôn tươi cười với mọi người, nói với họ rằng vợ chồng anh muốn đi chơi xa một chuyến. Và Khang đã thu xếp mọi việc ở nông trại một cách gọn gàng nhanh chóng.
                              Ngày ngày, Mỹ Phương có nhiệm vụ đi qua đi lại trên hành lang để những người làm công đang làm ở bìa rừng có thể nhìn thấy nhưng không thể nhận ra người đó không phải là bà chủ của mình.
                              Khi mọi việc đã được sắp xếp đâu vào đấy, Khang và Mỹ Phương đã lên đường vào buổi sáng sớm, khi chiếc xe con vừa đỗ xịch trước thềm nhà.
                              Ngồi trên xe, Khang và Mỹ Phương còn giơ tay vẫy chào người quản lý đang đứng bên đường nhìn theo…
                               
                              ***
                              Đầu ông chủ nhà gục xuống một cách thảm hại khi chấm dứt câu chuyện.
                              Duy thở dài:
                              - Vậy là ông bà đã ngang nhiên ra đi bằng cách đó? Và ông bà đã đánh lừa được tất cả mọi người trong suốt quãng thời gian vừa qua?
                              Ông chủ ngước lên, đôi mắt nhìn đau đáu phía xa:
                              - Phải! Chúng tôi đã giấu kín hơn mười năm nay, và cuộc sống của vợ chồng tôi vẫn không có gì đáng phàn nàn lắm chỉ trừ việc không có con nối dõi và thỉnh thoảng chuyện cũ hiện về ám ảnh chúng tôi… Cứ tưởng hồn ma của cô ấy đã không còn nên chúng tôi mới dắt nhau quay về gầy dựng lại cơ nghiệp, nào ngờ đâu…
                              Bác Lý từ nãy vẫn ngồi im, giờ đột ngột lên tiếng:
                              - Ông bà không biết sao? Chính ông bà đã giam cầm linh hồn đó lại không để cho nó có điều kiện siêu thoát đầu thai kiếp khác. Ngày xưa, ông nội tôi làm nghề pháp sư cho nên tôi cũng có nghe nói nhiều về những chuyện tương tự thế này…
                              Bà chủ nhà mừng rỡ níu tay bác Lý:
                              - Anh Lý! Anh làm ơn nói cho tôi biết, giờ đây tôi phải làm sao?
                              Bác Lý trầm ngâm một chút rồi nói:
                              - Theo như tôi biết, đầu tiên bà chủ phải làm một buổi lễ cầu siêu, cắt bỏ hết những gì trói buộc. Sau đó… bà chủ phải đền tội!
                              Bà chủ nhà giật bắn người:
                              - Sao? Đền tội?
                              Bác Lý gật đầu:
                              - Đúng! Bà phải ra tự thú mới được. Có thể bà sẽ được hưởng sự khoan hồng bởi bà tự ý khai nhận, và vụ án này cũng đã xảy ra từ lâu. Nếu bà vẫn cố tình trốn tránh thì dù bà có trốn được pháp luật dương gian nhưng không thoát khỏi luật nhân quả báo ứng đâu bà ạ! Điều báo ứng đó đã tới, bà không tránh được đâu!
                              Bà chủ nhà rã rời gục xuống…
                               
                              ***
                              Duy đặt mấy chiếc vali xuống vệ dường, chìa tay ra bắt lấy bàn tay thô ráp của bác Lý, mỉm cười:
                              - Cháu cảm ơn bác rất nhiều. Cầu mong bác nhiều sức khỏe, khi nào có điều kiện chắc chắn tụi cháu sẽ trở lại đây thăm bác.
                              Bác Lý gật gật đầu nhưng lại nhìn Diễm Thy cười hỏi:
                              - Liệu vợ cháu có dám trở về đây không?
                              Diễm Thy dõi mắt về hướng nông trại buồn buồn nói:
                              - Dạ, dám chứ bác! Mặc dù cháu đã phải trải qua những giây phút hoảng sợ kinh hoàng, nhưng dẫu sao nó cũng để lại trong ký ức vợ chồng cháu một kỷ niệm đặc biệt trong tuần trăng mật của mình.
                              Bác Lý thở dài:
                              - Cũng tội cho vợ chồng ông chủ! Ngày xưa họ độc ác thế nào mình không tận mắt chứng kiến, nhưng từ hồi biết vợ chồng ổng thì bác chỉ biết đó là hai con người tốt bụng, dễ thương… Thế nhưng họ đã gây ra tội lỗi thì bây giờ phải đền tội thôi, đó là lẽ đương nhiên…
                              Duy tiếp lời bác Lý với vẻ suy tư:
                              - Bởi thế nên rất khó nhìn người. Cũng đồng thời là con người ấy, nhưng ở một giai đoạn nào đó phần con trong họ lại trội hơn, khiến cho phần người bị đè bẹp…
                              Tiếng còi xe tin tin từ xa làm cắt đứt câu chuyện của ba người. Chiếc xe hôm trước đến thật đúng hẹn.
                              Anh tài xế bước xuống mỉm cười rạng rỡ:
                              - Nhìn anh chị là biết ngay hạnh phúc đến mức nào!
                              Diễm Thy e lệ ngó xuống đất.
                              Duy vừa hỏi thăm anh tài xế đôi ba câu xã giao vừa giúp chất mấy chiếc vali lên xe.
                              Khi xe bắt đầu lăn bánh, cả hai vợ chồng Diễm Thy đều nhoài người ra cửa vẫy tay chào bác Lý đang đứng chơ vơ một mình bên đường vắng. Bác cũng đưa cánh tay khẳng khiu, đen đúa lên vẫy chào đáp lại vợ chồng Diễm Thy.
                              Họ về lại với thành phố ồn ào náo nhiệt, về lại với cuộc sống tất bật hàng ngày, khép lại những ngày trăng mật vừa qua. Nhưng trong lòng hai vợ chồng không ai quên được những chuyện kinh hoàng khủng khiếp đã xảy ra, và Diễm Thy vẫn luôn tự hỏi, tại sao hồn ma cô Nguyệt lại tìm cô để nhờ giải oan?
                              Không thể có được câu trả lời, nhưng thôi, dẫu sao thì vợ chồng Diễm Thy cũng đã làm được một việc rất có ý nghĩa trong những ngày trăng mật của mình!
                              Hết
                              Nguyễn Thị Mộng Thu 
                              <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 17:43:56 bởi nguyenthu >
                              #75
                                Thay đổi trang: << < 456 > >> | Trang 5 của 7 trang, bài viết từ 61 đến 75 trên tổng số 99 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 3 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2025 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9