Bát Trận Đồ - Đỗ Phủ
poisonivy 14.08.2009 12:34:21 (permalink)
0
Bát Trận Đồ - Đỗ Phủ
Dịch giả: Trương Văn Tú



八陣圖– 杜甫

功蓋三分國,
名成八陣圖。
江流石不轉,
遺恨失吞吳。

Tạm Dịch:

Công cái tam phân quốc,
Danh thành Bát trận đồ.
Giang lưu thạch bất chuyển,
Di hận thất thôn Ngô.

Triển Khai:

Công cái thế định nên Tam quốc,
Bát trận đồ, Cát Lượng lừng danh.
Sông nước đá, còn trơ trơ đó,
Lưu chúa hận, thất chiếm Đông Ngô.

Bản dịch - Trương Văn Tú

A. Tóm Lược Tiểu Sử Tác Giả:

Đỗ Phủ (công nguyên 712-770) thuộc đời nhà Đường, tự Tử Mỹ, sinh quán nơi huyện Củng, tỉnh Hà Nam (nay thuộc thị xã Củng Nghĩa, huyện Trịnh Châu, tỉnh Hà Nam.) Thuộc dòng dõi quan tước đời nhà Tấn, và là cháu của nhà thơ nổi tiếng Đỗ Thẩm Ngôn. Tổ tiên sinh quán tại thành Tương Dương, Hồ Bắc sau di cư về Hà Nam.

Đỗ Phủ còn được mệnh danh là Đỗ công bộ (là do chức kiểm úy công bộ) (1), Đỗ thập di (là do chức tả thập di) (2), còn được hiệu là Thiếu Lăng Dã Lão. Thế hệ của ông là thế hệ bắt đầu khúc quanh lịch sử của nhà Đường. Từ sự hưng thịnh, phồn vinh, bước dần đến sự suy thoái, trụy lạc của nhà Đường là do sự ăn chơi hoan lạc, vô cần chính sự của nhà vua, tham ô lộng quyền của Thừa tướng Dương Quốc Trung, anh chú bác của Dương Quí phi (Dương Ngọc Hoàn), tạo nên 8 năm (755-763) chiến tranh với loạn Hồ, An Lộc Sơn và Sử Tư Minh.

Nơi đây, ta cũng không quên được những câu chuyện truyền thuyết của Đường Minh hoàng (Đường Huyền Tông - Lý Long Cơ) cùng với Dương Quí phi, và chị Hằng Nga ….

Đỗ Phủ tư chất thông minh, năm ông 7 tuổi đã biết làm thơ, năm 13 tuổi thì đã biết thư pháp và hội họa. Từ những bối cảnh chiến tranh cho đến sự hoan lạc của nhà vua, lạm quyền của thừa tướng, cộng với sự phóng túng và tình tiết của ông, làm cho thơ ông tràn đầy lòng thương dân, yêu nước chẳng hạn như trong “Xuân Vọng”:

國破山河在,
城春草木深。
感時花溅淚,
恨别鳥惊心。
…..

Quốc phá sơn hà tại,
Thành xuân thảo mộc thâm.
Cảm thời hoa tiện lệ,
Hận biệt điểu kinh tâm.
…….
- Xuân Vọng, Đỗ Phủ

Nước mất nhà tan kìa sông núi,
Kinh thành cây cỏ mọc thâm u.
Nhìn hoa hoang dại sầu rơi lệ,
Chim kêu hoảng sợ hận biệt ly.

Bản dịch – Trương Văn Tú

Bài thơ Xuân Vọng của ông mang cho tôi một hoài cảm đến nữ sĩ Huyện Thanh-Quan trong bài “Thăng Long Thành Hoài Cổ”

…..
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
…..
- Thăng Long Thành Hoài Cổ, Huyện Thanh-Quan

Hay trong bài “Qua Đèo Ngang” diễn tả lòng yêu nước của bà

…..
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.

- Qua Đèo Ngang, Huyện Thanh-Quan

Trong bài “Binh Xa Hành” Đổ Phủ diễn tả sự ra đi chinh chiến của người cha, người chồng, con, với sự tiễn đưa vội vả của mẹ già, vợ trẻ, con thơ

車轔轔,馬蕭蕭,
行人弓箭各在腰。
耶娘妻子走相送,
塵埃不見咸陽橋。
….

Xa linh linh, mã tiêu tiêu,
Hành nhân cung tiễn các tại yêu.
Dã nương thê tử tẩu tương tống,
Trần ai bất kiến Hàm Dương kiều.
…….
- Binh Xa Hành, Đỗ Phủ

tạm dịch:

Ngựa xe rầm rộ bốn phương,
Chinh nhân cung tiễn thắt liền ngang lưng.
Mẹ già, con trẻ, vợ thương,
Trần ai đưa tiễn Hàm Dương chân cầu.
……
Bản dịch – Trương Văn Tú

Hình như thi sĩ Đặng Trần Côn, dưới triều vua Lê Dụ Tôn, trong thi khúc “Chinh Phụ Ngâm” đã dùng nhiều ý của Đỗ Phủ như

“….
Đường giong ruổi lưng đeo cung tiễn,
Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa.
….”

rồi lại

“….
Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống,
Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay!
Hà lương chia rẽ đường này,
Bên đường trông lá cờ bay bùi ngùi.
…..”

- Chinh Phụ Ngâm, nguyên tác Đặng Trần Côn
dịch giả từ Hán sang Nôm: không rõ nguồn (3)

Nói tóm lại, thơ Đỗ Phủ ghi lại những giai đoạn lịch sử, và diễn tả trung thực của xã hội trong thời suy thoái, loạn lạc của Đại Đường, phản ảnh và châm biếm sự trụy lạc của triều đình. Vì thơ ông mang những dòng sự kiện của lịch sử triều đại nên người đời xưng thơ ông là “Thi Sử” và ông là “Thi Thánh”. Chúng ta cũng không nên quên rằng Lý Bạch, người đời cho ông là “Thi Tiên”, là bạn tâm giao của Đỗ Phủ tuy rằng họ cách nhau trên dưới 12 tuổi. Đôi khi chúng ta cũng thường nghe “đại Lý Đỗ”, ý chỉ Lý Bạch và Đỗ Phủ. Còn “ tiểu Lý Đỗ” ý chỉ Lý Thương Ẩn và Đỗ Mục (Hậu Đường.)

B. Bát Trận Đồ - Bối Cảnh Thiên Nhiên và Địa Lý

Bài thơ được viết khi Đỗ Phủ đến sông Mai Khê nơi giáp với dòng sông chính Trường giang, còn được gọi là sông Dương Tử.

Sông Trường giang dài 6403 km, là dòng sông lớn hàng thứ ba trên thế giới cùng với lượng nước. Thường ta gọi sông Dương Tử là để chỉ sông Trường giang ở mạn Nam Trung Quốc như các tỉnh Chiết Giang, Tô Châu. Sông Trường giang phát nguồn từ cao nguyên Thanh Tạng, chạy dọc về phía Nam, tỉnh Tứ Xuyên (nơi động đất 5/12/2008), Tây Tạng, Vân Nam, rồi trở ngược về phía Đông Bắc Trung quốc,

“Vọng Trường Giang cuồn cuộn chảy về đông”
- Niệm Nô Kiều (Xích Bích Hoài Cổ), Tô Đông Pha (Tô Thức)

đổ vào Trùng Khánh, Hồ Bắc, Hồ Nam, giang Tây, An Huy, Giang Tô, Thượng Hải, rồi ra Đông Hải, Thái Bình Dương.

Một điểm đặc thù trên dòng sông Trường giang mà ta không thể không thể nào nhắc đến đấy là Trường giang tam hiệp (Three Gorges Dam.) Trường giang tam hiệp nằm ở vị trí Trung nguyên Trung Quốc, là một đoạn sông Trường giang chạy dài từ Trùng Khánh cho đến Nghi Xương, tỉnh Hồ Bắc.

Trường giang tam hiệp không những là nơi địa linh nhân kiệt, tranh hùng tranh bá, còn là chứng nhân của trận chiến vô tiền khoáng hậu như Bát trận đồ, Xích Bích, rồi đến ngoại xâm cận đại - Đế quốc Nhật Bản (Trùng Khánh và Nam Kinh.)

Trường giang tam hiệp còn là một nơi “bồng lai tiên cảnh” “thiên ngoại hữu thiên”, và là một nơi lý tưởng cho các thi sĩ. Nơi đây đôi khi ta vẫn còn thấy được những bài thơ bất hủ của những nhà đại thi sĩ, văn hào vẫn còn ghi lại trên bia đá với dòng chữ viết cổ Trung Quốc như Lý Bạch, Từ Thức, Đỗ Mục, Bạch Cư Dị ....

Trường giang tam hiệp kết hợp bởi Cù Đường hiệp, Vu hiệp (bởi núi Vu Sơn), và Tây Lăng hiệp. “Hiệp” là gì? “Hiệp” theo chữ Hán có nghĩa là cái hẽm, đèo, hay cái khe nhỏ cách đôi bởi hai, hay nhiều ngọn núi. “Tam hiệp” nầy tạo bởi những vách núi cao ngàn mét, với những ngọn đèo cao hiểm trở, trùng trùng điệp điệp, sừng sững giữa trời, cộng vào nước sông Trường giang cuồn cuộn đổ vào, khiến cho dòng sông càng chảy mạnh hơn.

Cái khe nhỏ nhất thì không dài qúa hơn 100 m thì lại nằm ở Cù Đường hiệp, do đó tốc độ nước đổ nơi đây cực mạnh. Sông Mai Khê nằm ở giữa hai thị trấn Phong Tiết và Bạch Đế thành, và liền với Cù Đường hiệp. Mùa hè nước có thể dâng cao hơn trăm thước và tạo nên những cơn sóng lớn, với những cơn gió lốc thổi vào những con đường hầm quanh co, khúc khỷu của những triền núi cao hiểm trở.

Tôi cố ý đưa đọc giả vào sự thiên nhiên, và bối cảnh địa lý để chúng ta có thể tham hiểu, và dễ dàng phân tích về Bát Trận đồ của Khổng Minh ở phần sau nầy.

C. Bát Trận Đồ - Giảng Dịch và Bối Cảnh Lịch Sử

Đỗ Phủ du ngoạn đến nơi Ngư Phục Bô, sông Mai Khê, nay thuộc huyện Phong Tiết, thành phố Trùng Khánh, hoài cảm cổ nhân nên phát họa bài thơ “Bát Trận Đồ.” Thơ thuộc dạng ngũ ngôn, hay năm chữ. Mở đầu bằng sự cảm phục của ông đối với Gia Cát Lượng, Khổng Minh

“Công cái tam phân quốc”

tạm dịch:

“Công cái thế định nên Tam quốc”

Ý chỉ Gia Cát Lượng phù trợ Lưu Bị, nước Thục để tạo thành ba nước cục diện - Ngụy, Thục và Ngô. “Công cái” có nghĩa là “công lao cái thế” tài cán vô song, trong đương thời không có ai sánh bằng. Ông là một vị khai quốc công thần của nhà Thục.

Tiếp đến Đỗ Phủ lại diễn tả sự tài ba đảm lược của Gia Cát Lượng

“Danh thành Bát Trận Đồ”

tạm dịch:

“Bát Trận Đồ Cát Lượng lừng danh”

cùng với Bát Trận đồ có sức đẩy lui mười vạn tinh binh của Ngô quân Đô đốc Lục Tốn (tự Lục Bá Ngôn.) Nơi đây Đổ Phủ dùng chữ “Tam phân quốc” đối với “Bát Trận Đồ” là một tuyệt xảo đối chữ làm thơ của Đỗ Phủ.

Tôi cũng muốn thêm vài dòng lịch sử của “Bát Trận Đồ” tại sao có được, và ở trong trường hợp nào.

Sau khi Quan Vân Trường trúng kế của Lục Tốn đánh mất Kinh Châu, vội vã lui quân về Mạch thành lại bị hai tướng thái thú phản đồ, Lộc Phương và Phó Sĩ Nhân, đóng cửa thành nên tiếp tục lui quân từ Ninh Hạ về Giang Lăng, giữa đường bị phục kích của đội quân Ngô, Phan Chương, cùng sự truy sát của quân Ngụy hợp sức. Quan Vân Trường cùng con là Quan Bình bị vây khốn. Bởi sự cao ngạo “anh minh thần võ”, mang lại sự bất cẩn và khinh địch của Quan Vũ, ông cùng con Quan Bình phải bỏ mạng nơi tuyết lạnh xa trường, đầu thì ở Bắc, thân lại ở Nam.

Lưu Bị đau lòng mất đi lý trí, phá hỏng sách lược “kết Ngô phạt Ngụy” của Khổng Minh, đem bảy mươi vạn quân chinh phạt Đông Ngô. Cuối cùng lại phải xa vào bẩy của Lục Tốn một lần nữa. Lục Tốn nhẫn nại không ra ứng chiến mà chỉ cần đợi vào mùa hè khi “đồng khô cỏ cháy”. Quân Thục thiếu nước tất phải lui về chân núi. Lưu Bị lại kém tài về chiến lược lại cho doanh trại liên kết lẫn nhau. Đây là điều tối kỵ của binh gia, và là một điều tối thiểu cơ bản mà các binh gia phải biết mà nên tránh. Với rừng núi khô héo chỉ cần một trận hỏa công cả bảy mươi vạn quân Thục chiến bại không còn manh giáp.

Mã Lương vội vã về Trường An gặp Cát Lượng. Cát Lượng lịnh cho Mã Lương nên rút quân về Bạch thành để giữ toàn tánh mạng Lưu chúa công. Chính ở giữa đoạn đường này, ở Ngư Phục Bô, sông Mai Khê, Cát Lượng lợi dụng sự thiên nhiên của trời đất (thuận thiên) và địa hình (ứng thời) và tâm lý của Lục Tốn (y nhân) để tạo nên bát trận đồ.

Lục Tốn truy đuổi Lưu Bị đến nơi và bị chặn lại những tảng đá được sắp xếp như một thế trận, cát bụi mù mịt, tựa như trăm ngàn quân lính vượt qua nơi nầy, sát khí đằng đằng. Lục Tốn hoang mang, lại e dè cho đội thám sát lần thứ hai, nhưng chỉ thấy những tảng đá không người. Lại cho người hỏi thì lại biết là do Cát Lượng bài trận. Lòng lại càng sợ hãi hơn bởi uy danh của Cát Lượng. Nhưng Lục Tốn đâu có biết đấy chỉ là cát bụi ở dòng sông bị những cơn gió to sóng lớn thổi tạc vào. Các tướng thì lại bảo ấy chỉ là những tảng đá vô tri giác. Giá như lúc ấy Lục Tốn có ống viễn vọng kính thì sẽ rõ ràng hơn mà không ngần ngại cho quân tiến vào thì chắc có cơ hội để bắt sống Lưu Bị mà lập nên công lớn.

Cho đến chiều tối Lục Tốn cho quân tiến vào. Thường các binh gia nghĩ rằng tấn công vào đêm ít nhiều cũng khó bị phát hiện hơn. Cát Lượng rõ điều này hơn ai hết. Đây là tâm lý của các binh gia. Cát Lượng càng hiểu rõ khi càng về chiều sông Trường giang lại càng lên cao, nhất là vào mùa hè nóng bỏng da người, sóng càng vỗ mạnh tạo những sương mù, gió lại càng thổi to tạo nên những âm thanh quái dị bởi những đường hầm gió (wind tunnel) của những triền núi lân cận.

Sóng to, gió lớn là một hiện tượng cân bằng sức hấp dẫn (gravity effect) của địa cầu và nguyệt cầu. Âm thanh lại càng quái dị (sound effect) hơn khi sóng, gió, cát bụi lại phải vượt qua những tảng đá bát trận đồ nầy. Tựa như có cả trăm binh vạn mã. Sương mù (do nước tạt lên những tảng đá), cùng với cát bụi do những trận gió to đưa vào, phải làm cho Lục Tốn không còn phương hướng. Nếu như, Lục Tốn vào lúc ban ngày hay trưa thì hiện tượng nầy chắc không có lẽ xảy ra , và sẽ dễ dàng thoát ra nếu có kim chỉ nam.

Còn sự huyền bí của bát quái thì tôi không giải thích được. Cũng như không ai có thể giải thích được Kim Tự Tháp ở Ai Cập, ngoài trừ những giả thiết không chắc chắn. Dầu sao, nếu có cơ hội được đi vào bát quái trận thì tôi cũng phải thử xem một lần cho biết, để xem sự thiên biến vạn hóa của bát quái trận nhưng thể nào, nhưng đừng quên mang theo GPS (global position satellite), kim chỉ nam trong trường hợp GPS mất sóng của vệ tinh nhân tạo, và cây đèn bin….

Theo như tác giả La Quán Trung – Tam Quốc Chí, thì Lục Tốn không may mắn bước vào cửa Tử của Bát quái trận nên không thoát ra được tử vong. Nhưng may mắn thay lại được nhạc phụ của Gia Cát Lượng, Huỳnh Trình Nhan dẫn dắt ra khỏi được trận hình nầy.

Theo tôi có lẽ tác giả cố ý thần kỳ hoá Khổng Minh về Bát Trận đồ để cho câu chuyện thu hút, và hấp dẫn hơn. Tuy nhiên, ta không thể phủ nhận sự tài cán, đa mưu và trí lược của Cát Lượng với sự tỉ mỉ, quan sát, và sự phối hợp của thiên nhiên, và thời điểm.

Cát Lượng không những là một nhà thiên văn địa lý, chiến lược gia, chính trị gia mà ta phải xem ông ta là một nhà đại Tâm Lý, chuyên gia về “tâm lý sợ hãi” (psychoanalysis) của con người. So với nhà phân tâm học Sigmund Freud cận đại, Mr. Freud ắt phải bái Cát Lượng làm sư.

“Giang lưu thạch bất chuyển”

Ý nói khi trời trở Đông, nước sông Trường giang hạ xuống cho dầu vạn vật thay đổi thì ta vẫn còn thấy những 64 tảng đá của bát trận đồ mà ngày xưa Cát Lượng đã dùng để đẩy lui trăm vạn tinh binh của quân Ngô mà không cần một tên chốt. Chữ “thạch” kết liền với Khổng Minh nơi đây với một tằm sâu sắc của Đỗ Phủ để chỉ tấm lòng trung trinh, tiết liệt của Khổng Ming đối với Lưu Bị như bàn thạch không lay chuyển.

“Di hận thất thôn Ngô”

Ý chỉ Lưu Bị vì trả thù riêng mà quên đi sách lược “liên Ngô, phạt Ngụy” của Khổng Minh, đưa đến sự thảm bại chinh phạt Đông Ngô.

D. Bát Trận Đồ Cấu Trúc

Bát Trận đồ gồm tám trận: Thiên, Địa, Phong, Vân, Long, Hổ, Điểu, Xà, cộng với Trung Quân tạo thành chín đại trận tuyến, và 64 (2^6) trận nhỏ.
[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/69959/F9401425C5B4439CBF0156DE18442664.JPG[/image]
1. Thiên Phục trận
2. Địa Tai trận
3. Phong Dương trận
4. Vân Thùy trận
5. Long Phi trận
6. Hổ Dực trận
7. Điểu Tường trận
8. Xà Phương trận

Tứ trụ gồm Càn Khôn Tốn Cán, Thiên (Tây Bắc) Địa (Tây Nam) Phong (Đông Nam) Vân (Đông Bắc) tạo thành chính diện của trận đồ. Chính Đông có Thanh Long nằm ở cung Chấn, chính Tây có Bạch Hổ nằm ở cung Đoài, chính Bắc có Huyền Võ Xà nằm ở cung Khảm, và chính Nam có Châu Tước nằm ở cung Ly của Bát Quái.

Bát Quái là từ trong Kinh Dịch mà ra. Kinh Dịch phát sinh từ thời vua cổ đại Phục Hi, Trung Quốc. Kinh Dịch mang đầy tư tưởng vũ trụ quan và nhân sinh quan trong ngàn năm qua, chẳng hạn như:

Vô cực sinh Thái Cực
Thái Cực sinh Lưỡng Nghi
Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng
Tứ Tượng sinh Bát Quái

Mọi vật đều có âm dương, tương hổ, tương khắc lẫn nhau. Ấy là môi trường hệ sinh thái “ecosystem” mà ngày nay chúng ta thường nghe thấy từ các nhà chuyên gia môi trường đề cập đến. Ví dụ như có sâu bọ thì ắt phải có chim chóc, có rong rêu thì ắt phải có cá nhỏ, có cá nhỏ thì ắt phải có cá to, để tạo nên sự căn bằng trong môi trường sinh thái.

Đơn giản mà nói, thì theo Kinh Dịch vạn vật phải cân bằng, điều hòa, ngay cả trong cơn thể của con người. Mất sự cân bằng của tạo hóa thì vạn vật phải đảo điên, như gió lốc, địa chấn. Mất sự cân bằng trong cơ thể con người là mầm móng của các bệnh tật.

Nếu ta tính theo toán học thì nó là 2^n (2 to the power of n), có nghĩa là “n” trong bát quái sẽ là 3, nghĩa là 2 x 2 x 2 = 8. Muốn vẽ một hình bát quái cũng thật dễ dàng, lấy dương=0 (-) và lấy âm=1 (- -). Thì ta có thể vẽ hình bát quái mà không cần một trí nhớ chi tiết của sơ đồ bát quái một cách dễ dàng, và toàn hảo. Thí dụ:

000 = Càn
001 = Đoài
010 = Ly
011 = Chấn
100 = Tốn
101 = Khảm
110 = Cấn
111 = Khôn

Từ Kinh Dịch ta có thể đưa đến toán học, và cho đến con số 0, 1 kỳ diệu trong điện toán hiện đại. Như vậy, ta có thể kết luận người Trung Quốc đã phát minh toán học nhị phân (base 2 and binary number) từ ngàn năm trước chứ không phải nhà toán học Leibniz, Đức hay Boole, ở Anh mà ta đã biết. Tuy nhiên, ta không thể phủ nhận công trình của Leibniz và Boole trong quán trình hệ thống hoá nhị phân toán học, và logic Boolean.

E. Chú Thích:

(1) Công bộ: một chức quan vào thời phong kiến Trung Quốc. Chuyên về đường xá, cầu cống, vận tải, …. Chức quan cao nhất ở tam phẩm triều đình được gọi là “Công bộ Thượng Thơ”. Đỗ Phủ chỉ ở thất phẩm, chức vụ nhỏ nhoi như ở dưới làng xã.
(2) Thập Di: là mộ chức quan chuyên về thu thập những đồ đạc bị thất thoát. Tương tự như “lost and found.”
(3) Chinh Phụ Ngâm nguyên tác chữ Hán, Đặng Trần Côn. Đặng Trần Côn, đời nhà Lê Hiển Tông. Bản dịch chữ Nôm thì có nhiều nguồn không xác định. Có người cho bản dịch là của Đoàn Thị Điểm. Có người lại cho bản dịch là của Phan Huy Ích. Thôi thì hạ hồi phân giải vậy.
Thơ, và những lời dịch giảng thuộc quyền sở hữu của tác giả, ngoại trừ các nguồn dẫn chứng khác.

Trương Văn Tú
San Jose, CA
6/10/2009
<bài viết được chỉnh sửa lúc 19.06.2011 08:46:33 bởi poisonivy >
Attached Image(s)
#1
    poisonivy 28.08.2009 23:37:41 (permalink)
    0
    Lời dịch giả:
    Nhân mùa Vu Lan, mùa mà những người dân Á Châu chúng ta để có dịp tôn vinh, và tưởng nhớ công sinh thành dưỡng dục của song thân, tôi cùng chia sẽ với các bạn bài thơ "Du Tử Ngâm" của Mạnh Giao với bản dịch tiếng Việt, cùng với kinh nghiệm sống, và nhân sinh quan của bản thân.  Đã gần 50, Mạnh Giao mới có cơ hội cho mẹ được một nơi ấm cúng, an nhàn.  Trong khi mẹ cũng đã quên ngày tháng cứ tiếp tục lo cho con cho hết quãng đời mà không có biết con mình bao nhiêu tuổi.  Bài thơ rất quen thuộc khi tôi còn học ở trung học Hoa ngữ.  Mãi cho đến hôm nay, tôi mới có dịp triễn khai.  Hy vọng nó mang một ý nghĩa cho cuộc đời và thế hệ sau.
    ------------------------------------------------------------------------------------------------
    遊子吟孟郊
     
    慈母手中缐,
    遊子身上衣。
    臨行密密缝,
    意恐遲遲歸。
    誰言寸草心,
    報得三春暉。 


    [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/69959/2D6101F00CDC42529AE5161DCE57B228.jpg[/image]

    Du Tử Ngâm - Mạnh Giao
       dịch giả:  Trương Văn Tú
     
    Từ mẫu thủ trung tuyến,
    Du tử thân thượng y.
    Ninh hành mật mật phụng,
    Ý khủng trì trì qui.
    Thùy ngôn thôn thảo tâm,
    Báo đắc tam xuân huy.
     
    Tạm dịch:
    Mẹ hiền chỉ trong tay,
    Du tử áo trên thân.
    Ngày đi con lại kề,
    Mẹ vội từng mũi kim.
    Lòng e con muộn về,
    Tâm tư mẹ chôn kín.
    Tấc cỏ lòng nhỏ nhoi,
    Mong đáp ánh ba xuân.
     
    Triển khai:
    Mẹ hiền cọng chỉ trên tay,
    Con đi áo mặc mẹ may trên mình.
    Ngày kề mẹ vội mũi kim,
    Lòng trong thấp thỏm ngày con muộn về.
    Rằng, một tấc thảo tâm hề!
    Mong sao báo đáp ánh ba xuân dầy.
     

    A. Tóm Lược Tiểu Sử Tác Giả:
     
    Mạnh Giao (751-814), tự Đông Dã, người huyện Võ Khương, tỉnh Hồ Châu, đời nhà Đường, nay thuộc tỉnh Chiết Giang.  Tổ phụ người thuộc Bình Xương (nay thuộc Đông Bắc Ninh Ấp, tỉnh Sơn Đông). Sau cha Mạnh Đình Phân , ngụ tại Lạc Dương, tỉnh Hà Nam.  Nhậm chức Khôn Sơn huyện húy. Mạnh Giao mất cha từ thuở nhỏ.  Sống cùng với mẹ, gia đình nghèo khó.  Cuộc đời lận đận trên quan trường không phải do sự kém tài mà do sự dìm ém của tham quan ô lại.  Cộng vào sự tính tình bộc trực, với thái độ “bất cần” thế sự cho nên sự tiến thân trên quan trường của ông càng khó khăn hơn.  Nguyễn Công Trứ có một câu như thế nầy:
     
    “…..
    Ngoài vòng cương toả chân cao thấp,
    Trong thú yên hà mặc tỉnh say.
    …...”
                            -Thú Tiêu Dao, Nguyễn Công Trứ
     
    Cho đến năm 46 tuổi mới đổ được Tiến Sĩ (Mạnh Giao trượt 2 lần).  Với một niềm vui khôn tả sự đỗ đạt của ông trong trong bài “Hậu Đăng Khoa”
     ……
    Xuân phong đắc ý mã đề cấp,
    Nhất nhựt khán tận Trường An hoa.
     
    Nhưng rồi ông phải đợi đến 4 năm sau, tức năm 50 tuổi (Đường, Trinh Nguyên năm 16), mới được bổ làm huyện úy Lật Dương, tỉnh Giang-Tô.  Điều nầy cũng đủ cho thấy quan trường cũng lắm chông gai, chua chát.  Cũng không quên ngày xưa với quan niệm “nhứt sĩ, nhì nông” cho nên muốn nên danh phận với trời đất phải thì ta phải là kẻ sĩ .  Nhưng làm kẻ sĩ có ai biết lắm sự đắng cay vinh nhục như trong thơ cuả Nguyễn Công Trứ:
     
    “…..
    Ra trường danh lợi, vinh liền nhục,
    Vào cuộc trần ai, khóc trước cười.”
                            -Con Đường Làm Quan, Nguyễn Công Trứ
     
    Mạnh Giao thì thích làm thơ, việc công trì trệ nên bị giảm đi nữa lương.  Có lẽ ông ta không chịu luồn lót nên mới ra thể nầy.  Đúng là
     
    “…..
    Hễ không điều lợi, khôn thành dại,
    Đã có đồng tiền, dở cũng hay.
    ….”
                            -Thế Thái Nhân Tình, Nguyễn Công Trứ
     
    Năm Trinh Nguyên ông phải từ quan cùng mẹ về quê Hồ Châu.  Vào năm Đường Nguyên Hòa, Doãn Trịnh, tỉnh Hà Nam đề cử ông Thủy Lục vận chuyển tòng sự, Thí Hiệp Luật Lang.  Lúc ấy tuổi ông cũng đà 56.  Từ bối cảnh công danh lợi, cho đến những chuyện bất hạnh trong gia đình, ba đứa con trai ông cùng yểu mệnh
     
    Vô tử thiếu văn tự,
    Lão ngâm đa phiêu linh.
    …..                 
    -Lão Hận, Mạnh Giao
     
    Thơ ông đầy sự phẩn uất, chua chát,  ngạo đời, và châm biếm thế sự bởi sự bất công của những người dân nghèo tay lấm chân bùn như trong Hàn Địa Bá Tánh Ngâm, Chinh Phụ Oán, Vọng Phu Thạch (Hòn Vọng Phu).  Mặc dù là vậy, nhưng những bài thơ không kém sự kiêu ngạo, bất khuất của một kẻ sĩ chẳng hạn như Bạch Đôn Bần Cư, Khổ Hàn Ngâm. Thơ của ông có hơn trên dưới 450 bài nhạc phủ (1) và cổ thi.  “Mạnh Đông Dã thư tập” gồm 10 quyển, xuất tự Tống Mẫn, Bắc Tống nhưng đã bị đánh mất bởi Huỳnh Bội Liệt.  Lục Tâm Nguyên thì còn giữ bộ Tống, Cấp Cổ Các, nay ở Nhật Bản.  Ngoài ra các bộ khác như Châu Mặc Các, …..
     
    B. Du Tử Ngâm - Giảng Dịch:
     
    Du Tử Ngâm thuộc thể Đường, ngũ ngôn cổ thi.
     
    Từ mẫu thủ trung tuyến,
    Du tử thân thượng y.
    Ninh hành mật mật phụng,
    Ý khủng trì trì qui.
     
    Tác giả khéo léo dùng kim chỉ rồi đến cái áo mặc trên mình để diễn tả tình thân của mẹ, “mẫu tử tương y”.  Nếu không kim chỉ thì sao lại được chiếc áo.  Cũng nên nhớ rằng Mạnh Giao sớm mất cha.  Mẹ lại phải gánh vác cả chức năng của một người cha do đó công ơn dưỡng dục đều qui về mẹ.  Cứ mỗi lần lên Trường An ứng thí biết bao là vật vả và tốn kém.  Có thể cả ba, bốn tháng dài.  Sự trông ngóng, nhớ thương con, mong con sớm về là điều hẳn nhiên. 
     
    Đều này cứ mỗi lần tôi nghĩ đến thì lại nhớ đến mẹ tôi hối hả nào thịt, nào cá chà bông cho khô trên cái lò chấu, lửa cháy vàng hoe, để nhờ người mang cho anh tôi khi còn du học ở Nhật. Mẹ tôi sợ rằng con không đủ ăn rồi không đủ sức khoẻ để học tập, thi cử

    Chợ khuya mẹ sớm vội vã đi,
    Thịt cá còn tươi mẹ mang về
    Lui cui thổi lửa trên lò chấu
    Lửa hồng soi sáng cả đêm thâu

    Một sợi chà bông mẹ vất vả,
    Nước mắt nào đâu cứ tuông trào. 
    Keo nào keo nấy đầy vun ắp,
    Lòng mẹ cho con cũng ngập đầy."
     
                          -Keo Chà Bông, Trương Văn Tú
                                  
    Rồi lại một lần cái hình ảnh của mẹ tôi cố bươn bả trước hàng đầu mong rằng nhìn thấy mặt con lần cuối (?) trên chiếc ghe cá vượt biển mà ngoắt tay không ngừng.  Miệng thì cứ kêu tên con ơi ới, Tú ơi! Tú ơi!  Có lẽ mẹ tôi sợ rằng chiếc ghe nầy ra đi mẹ tôi sẽ không còn hy vọng để nhìn thấy con lần cuối.  Xa xa tôi nhìn thấy bóng dáng của mẹ tôi trong muôn người khác.  Lòng xót xa khôn cùng.
     
    "Tay kia mẹ vẫy không ngừng,
    E rằng chỉ thấy mặt con lần nầy.
    Con đau, con xót đêm dài,
    Nhưng vì thế cuộc con đây phải lìa.
    Thuyền thì cứ rẽ sóng đi,
    Máy kêu "phình phịch" mẹ kêu xa dần.
    Bóng đêm nghiệt ngã chìm dần,
    Khuất đi bóng mẹ nỗi buồn không vơi!"

                       -Mẹ và Đêm Vượt Biển, Trương Văn Tú


    Cái hình ảnh nầy nó khắc khoải muôn đời trong tiềm thức của con.
     
    Mạnh Giao thì khi nhìn thấy mẹ cặm cụi trong kim chỉ nhưng lòng lo lắng của bà không tránh được ánh mắt của con.  Sự cảm xúc nầy dẫn cho ông có cảm giác ông chỉ là một cọng cỏ nhỏ nhoi trong muôn ngàn cọng cỏ đang hưởng ánh nắng mùa xuân chan hòa của mẹ.  Mà công ơn nầy không bao giờ trả hết.  Hai câu cuối của bài thơ cho ta thấy tâm trạng của Mạng Giao
     
    “Thùy ngôn thôn thảo tâm,
      Báo đắc tam xuân huy.” (2)
     
    Dịch:
     
    Rằng, một tấc thảo tâm hề!
    Mong sao báo đáp ánh ba xuân dầy.
     
    Nguyễn Du cũng mượn ý hai câu thơ nầy để diễn tả hiếu nữ Thúy Kiều phải bỏ tình riêng với Kim Trọng để mang thân chuộc cha và em như sau:
     
    Đau lòng tử biệt ba sinh,
    Thân còn chẳng tiếc, tiếc gì đến duyên!
    Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,
    Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân.
     
    Một mùa xuân được chia làm Thượng xuân, Trung xuân hay Trọng xuân, và Hạ xuân nên gọi là ba xuân (tam xuân). Du Tử Ngâm sau được quảng bá trong tầng lớp thiếu nhi nay trở thành đồng dao.
     
    C. Chú Thích:
     
    (1)  Nhạc Phủ: Từ thơ phổ ra nhạc.  Những nhạc phủ nầy thường được ca hát trong   triều đình khi có yến tiệc.
    (2)  Ba xuân không có nghĩa là ba năm.  Ba xuân có nghĩa là một mùa xuân gồm có Thượng xuân, Trung xuân, Hạ xuân.
     
    Thơ, dịch giảng thuộc quyền sở hửu tác giả ngoại trừ sự dẫn chứng từng nguồn khác đã được chú thích.

    Dịch giả:  Trương Văn Tú (Lãng Nhai)
    Vu Lan, August 28, 2009
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 21.08.2010 10:00:48 bởi poisonivy >
    Attached Image(s)
    #2
      Ct.Ly 31.08.2009 06:03:23 (permalink)
      #3
        poisonivy 01.09.2009 09:55:23 (permalink)
        0
        Cám ơn cô Ct.Ly nhiều. Hy vọng tôi có thể góp sức nhiều hơn cho diễn đàn và cho nền văn hoá Việt, và Hoa.
        #4
          poisonivy 09.11.2009 08:32:24 (permalink)
          0
          Kính chào Hiệp Sĩ Hào Hoa,

          Tôi phát hiện bài Du Tử Ngâm do tôi dịch có một lỗi chính tả, "vung vúc" thay vì "vun vút", đã sửa. Nhưng không biết sao để sửa bài đã nằm trong thư viện? Nhờ cô hướng dẫn.
          http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nvnvn4nvnmn31n343tq83a3q3m3237nvn
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 10.11.2009 04:43:12 bởi poisonivy >
          #5
            Ct.Ly 19.12.2009 15:34:07 (permalink)
            #6
              poisonivy 28.01.2011 11:21:02 (permalink)
              0
              Du Tử Ngôn (Phản Du Tử Ngâm)
              tác giả: Trương Văn Tú

              Bài thơ sau đây được viết cho ngày 80 thượng thọ của mẹ già. Thật sự tôi có nên vui mừng mẹ mình đã được 80 hay không. Nhưng cứ mỗi năm đi qua, nhìn cha mẹ già tôi càng cảm thấy cha mẹ hình như cứ xa dần tầm tay mà tôi thì không có một quyền năng nào để kéo cha mẹ tôi gần hơn nữa. Con Tạo nghiệt ngã thì cứ tàn nhẫn xoay vần.

              Đúng ra đó là hạnh phúc của một đời người mà tôi phải tạ ơn trời đất. Nhưng sao trong lòng tôi cứ sợ hãi cái hạnh phúc ấy nó sẽ vội tan biến bất cứ lúc nào. Tôi đọc thơ cho mẹ tôi nghe, mắt thì cứ nhìn mẹ. Mẹ tôi trông không già tí nào. Có lẽ bộ đồ trẻ trung của mẹ tôi mang trong mình cho ngày thượng thọ. Tôi vội bậc khóc vì tôi biết đó chỉ là cái áo giả tạo để che dấu một cơ thể già nua.

              “Nắng xuân” ân tình của mẹ tôi làm sao báo đáp. Ngoài việc không bướng bỉnh như xưa tôi không biết làm gì cho mẹ tôi cả, thì làm sao bảo tôi dám thốt ra lời “thảo tâm” với mẹ tôi chứ. Thôi thì cứ để trong lòng vậy!

              遊子言 (反遊子吟)- 張文秀

              十月胎恩重,
              一生為子憂。
              深深慈母情,
              悠悠遊子心。
              春暉難以報,
              難言寸草心!

              Cù lao chín chữ ân tình,
              Một đời tất bật vì con không nề.
              Mẫu từ nghĩa nặng ân sâu,
              Con xa day dứt đêm thâu trong lòng.
              Nắng xuân báo đáp không xong,
              Nói chi một tấc thảo tâm với người!

              Trương Văn Tú
              San Jose, CA
              November 17th, 2010


              [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/69959/7FB07515DCB2441EB162D0E57682F333.jpg[/image]
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 29.01.2011 12:04:37 bởi poisonivy >
              Attached Image(s)
              #7
                Chuyển nhanh đến:

                Thống kê hiện tại

                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                Kiểu:
                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9