THƠ ĐƯỜNG : HAI CÁCH LÀM THƠ TNBC ĐƯỜNG LUẬT
Hai bài viết :
THƠ ĐƯỜNG : THẤY SAO NÓI VẬY
và HỌC LÀM THƠ ĐƯỜNG như THI NHÂN ĐỜI ĐƯỜNG
cho thấy phớt qua là có 2 cách làm một bài thơ TNBC Đường Luật, khó dễ khác nhau. Bài này xin nói rõ hơn về hai cách đó :
* làm thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật, nếu theo kiểu mẫu qui định bởi dải số 1-8 2-3 4-5 6-7, thì tương đối gặp khá nhiều sự ràng buộc.
* làm thơ TNBC Đường Luật theo kiểu mẫu thi nhân đời Đường áp dụng, thì cách thực hành đơn giản hơn nhiều, mà lại bao gồm luôn những cách chơi quy định bởi dải số 1-8 2-3 4-5 6-7.
Để tránh lập lại những chi tiết dông dài, xin gọi tắt cách chơi theo dải số 1-8 2-3 4-5 6-7 là cách “theo Dải Số”, và cách chơi kia là cách “theo Đường Thi”.
Hai cách làm 1 bài thơ TNBC Đường Luật nói trên, có sự khó dễ khác nhau theo từng bước như sau :
Khi viết câu 1 và câu 2 : 1. Hai câu 1 và 2 không cần phải đối nhau.
2. Hai câu đều phải mang vần (chỉ nói về vần Bằng). Câu 1 có thể không có vần.
3. hai câu phải khác Luật nhau, một câu theo luật Bằng, một câu theo luật Trắc, Luật nào trên Luật nào dưới cũng đều được cả.
3 qui định trên đều áp dụng cho cả hai cách (“theo Dải Số” và “theo Đường Thi”). Ví dụ như câu 1 và câu 2 là :
Lá úa lao xao vẩy phất phơ = (câu trên theo luật Trắc)
Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
hoặc là :
Một trời hương sắc một trời thơ = (câu trên theo luật Bằng)
Dâu bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung
Khi viết câu 3 và câu 4 : 1. Hai câu 3 và 4 phải đối nhau.
2. Chữ thứ 7 của câu trên là một chữ Trắc
3. Chữ thứ 7 của câu dưới phải mang vần.
3 qui định này áp dụng cho cả hai cách. 4. hai câu phải khác Luật nhau, một câu theo luật Bằng một câu theo luật Trắc,
Cách “theo Đường Thi” thì : Luật nào trên luật nào dưới cũng đều được cả, bất cứ là những câu trên (1 và 2) ra sao.
Ví dụ dùng hai câu 1 và 2 của Đồng Lão :
Lá
úa lao xao vẩy phất phơ
Nơi
vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
Chẳng nhớ sao ngày luôn ngóng đợi.
Chưa yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng
Còn cách “theo Dải Số” thì đòi hỏi : nếu lấy hai câu 1 và 2 của Đồng Lão, thì câu 3 phải theo luật Bằng, câu 4 phải theo luật Trắc. Ví dụ :
Lá
úa lao xao vẩy phất phơ
Nơi
vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
Lưu ý là cách chơi
“theo Đường Thi” bao gồm luôn cách chơi
“theo Dải Số” .
Khi viết câu 5 và câu 6 : 1. Hai câu 5 và 6 phải đối nhau.
2. Chữ thứ 7 của câu trên là một chữ Trắc
3. Chữ thứ 7 của câu dưới phải mang vần.
3 qui định này áp dụng cho cả hai cách. 4. hai câu phải khác Luật nhau, một câu theo luật Bằng một câu theo luật Trắc,
Cách “theo Đường Thi” thì : Luật nào trên luật nào dưới cũng đều được cả, bất cứ là những câu trên ra sao.
Ví dụ, nối tiếp 4 câu trên của cách
“theo Dải Số” :
Lá
úa lao xao vẩy phất phơ
Nơi
vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
Tam phân thiên hạ điều lo thực
Tứ hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong
Còn cách “theo Dải Số” thì đòi hỏi : nếu nối tiếp 4 câu trên của cách “theo Dải Số” , thì câu 5 phải theo luật Trắc, câu 6 phải theo luật Bằng. Ví dụ :
Lá
úa lao xao vẩy phất phơ
Nơi
vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước
Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
Nhắc lại là cách chơi
“theo Đường Thi” bao gồm luôn cách chơi
“theo Dải Số” .
Khi viết câu 7 và câu 8 : 1. Hai câu 7 và 8 không cần phải đối nhau.
2. Chữ thứ 7 của câu trên là một chữ Trắc
3. Chữ thứ 7 của câu dưới phải mang vần.
3 qui định này áp dụng cho cả hai cách. 4. hai câu phải khác Luật nhau, một câu theo luật Bằng một câu theo luật Trắc,
Cách “theo Đường Thi” thì : Luật nào trên luật nào dưới cũng đều được cả, bất cứ là những câu trên ra sao.
Ví dụ, nối tiếp 6 câu trên của cách
“theo Dải Số” :
Lá
úa lao xao vẩy phất phơ
Nơi
vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
Đáy
giếng nhìn trăng mây trộn nước
Đầu
song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
Dẫu đã xa rồi nhưng nhớ mãi
Từ khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang
Còn cách “theo Dải Số” thì đòi hỏi : nếu nối tiếp 6 câu trên của cách “theo Dải Số”, thì câu 7 phải theo luật Bằng, câu 8 phải theo luật Trắc. Ví dụ :
Lá
úa lao xao vẩy phất phơ
Nơi
vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
Đáy
giếng nhìn trăng mây trộn nước
Đầu
song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
Như hồn thơ dậy trong tiền kiếp
Còn chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi
8 câu trên được Dải Số chấp nhận, vì thỏa mãn được mọi sự ràng buộc từ câu 3 trở xuống đến câu 8.
Còn với cách chơi thoải mái
“theo Đường Thi” , thì từ câu 3 trở xuống đến câu 8 có rất ít sự ràng buộc, và toàn bài thơ có thể như thế này :
Lá
úa lao xao vẩy phất phơ
Nơi
vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
Chẳng
nhớ sao ngày luôn ngóng đợi.
Chưa
yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng
Đáy
giếng nhìn trăng mây trộn nước
Đầu
song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
Dẫu
đã xa rồi nhưng nhớ mãi
Từ
khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang
8 câu này trúng vào phép Niêm và Luật của bài CHƯỚC TỬU DỮ BÙI DỊCH của Vương Duy và bài ĐỀ ĐÔNG KHÊ CÔNG U CƯ của Lý Bạch.
Nhắc lại là cách chơi
“theo Đường Thi” bao gồm luôn cách chơi
“theo Dải Số” .
Đi vào chi tiết để thấy rõ như sau :
Về Niêm : Trên hai phần tứ cú của bài bát cú, thi nhân đời Đường dùng cả hai phép Niêm 1-4 2-3 và 1-3 2-4, đồng thời cho phép hai phần tứ cú (một trên một dưới) tự do dùng phép Niêm khác nhau.
Do đó nên trên nguyên tắc, có cả thảy 4 dạng Niêm :
1/ trên Niêm
1-4 2-3, dưới Niêm
1-4 2-3 2/ trên Niêm
1-4 2-3, dưới Niêm
1-3 2-4 3/ trên Niêm
1-3 2-4, dưới Niêm
1-4 2-3 4/ trên Niêm
1-3 2-4, dưới Niêm
1-3 2-4 Về Luật : Thi nhân đời Đường cũng cho phép hai phần tứ cú (một trên một dưới) tự do theo Luật khác nhau.
Nên trên nguyên tắc, cũng có cả thảy 4 dạng Luật :
a/ trên theo Luật
Bằng, dưới theo Luật
Bằng b/ trên theo Luật
Bằng, dưới theo Luật
Trắc c/ trên theo Luật
Trắc, dưới theo Luật
Bằng d/ trên theo Luật
Trắc, dưới theo Luật
Trắc Bất cứ thể Niêm nào cũng đều mang theo một thể Luật nên sự pha trộn đầy đủ trên nguyên tắc sẽ cho 16 dạng Niêm + Luật là :
1.a, 1.b, 1.c, 1.d
2.a, 2.b, 2.c, 2.d
3.a, 3.b, 3.c, 3.d
4.a, 4.b, 4.c, 4.d
Tổng cộng 16 dạng Niêm+Luật trên lý thuyết đó có thể mô tả với những cặp 2 câu thơ viết sẵn đã nêu ở phần trên như sau :
1.a - ráp các câu của : Chí Trung + TMH + Hàn Phong + Thi Nang
Một
trời hương sắc một trời thơ
Dâu
bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung
Chẳng
nhớ sao ngày luôn ngóng đợi.
Chưa
yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng
Tam
phân thiên hạ điều lo thực
Tứ
hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong
Dẫu
đã xa rồi nhưng nhớ mãi
Từ
khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang
Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là : (các con số chỉ phép Niêm, Bằng hay Trắc chỉ Luật)
1-4 2-3 Bằng, 1-4 2-3 Bằng (đây là một bài TNBC đúng
“theo Dải Số” )
- giống như bài KHÚC GIANG NHỊ THỦ (kỳ nhị) của Đỗ Phủ -
1.b - ráp các câu của : Chí Trung + TMH + Vancali + lá chờ rơi
Một
trời hương sắc một trời thơ
Dâu
bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung
Chẳng
nhớ sao ngày luôn ngóng đợi.
Chưa
yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng
Đáy
giếng nhìn trăng mây trộn nước
Đầu
song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
Như
hồn thơ dậy trong tiền kiếp
Còn
chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi
Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
1-4 2-3 Bằng, 1-4 2-3 Trắc. (đây là một bài TNBC đúng
“theo Đường Thi” ) - giống như bài HÀ TIỆN của Nguyễn Minh Triết -
1.c - ráp các câu của : Đồng Lão + Vũ Kim Thanh + Hàn Phong + Thi Nang
Lá
úa lao xao vẩy phất phơ
Nơi
vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
Tam
phân thiên hạ điều lo thực
Tứ
hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong
Dẫu
đã xa rồi nhưng nhớ mãi
Từ
khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang
Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
1-4 2-3 Trắc, 1-4 2-3 Bằng. (đây là một bài TNBC đúng
“theo Đường Thi” ) - giống như bài VĂN LÂN GIA LÝ TRANH của Từ An Trinh -
1.d - ráp các câu của : Đồng Lão + Vũ Kim Thanh + Vancali + Lá chờ rơi
Lá
úa lao xao vẩy phất phơ
Nơi
vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
Đáy
giếng nhìn trăng mây trộn nước
Đầu
song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
Như
hồn thơ dậy trong tiền kiếp
Còn
chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi
Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
1-4 2-3 Trắc, 1-4 2-3 Trắc. (đây là một bài TNBC đúng
“theo Dải Số ) - giống như bài KHÚC GIANG ÐỐI TỬU của Đỗ Phủ -
2.a - ráp các câu của : Chí Trung + TMH + Hàn Phong + lá chờ rơi
Một
trời hương sắc một trời thơ
Dâu
bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung
Chẳng
nhớ sao ngày luôn ngóng đợi.
Chưa
yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng
Tam
phân thiên hạ điều lo thực
Tứ
hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong
Như
hồn thơ dậy trong tiền kiếp
Còn
chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi
Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
1-4 2-3 Bằng, 1-3 2-4 Bằng. (đây là một bài TNBC đúng
“theo Đường Thi” ) - giống như bài ÐỘC TIỂU THANH KÝ của Nguyễn Du -
2.b - ráp các câu của : Chí Trung + TMH + Vancali + Thi Nang
Một
trời hương sắc một trời thơ
Dâu
bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung
Chẳng
nhớ sao ngày luôn ngóng đợi.
Chưa
yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng
Đáy
giếng nhìn trăng mây trộn nước
Đầu
song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
Dẫu
đã xa rồi nhưng nhớ mãi
Từ
khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang
Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
1-4 2-3 Bằng, 1-3 2-4 Trắc. (đây là một bài TNBC đúng
“theo Đường Thi” ) - tương tự như bài TỐNG TIỀN VỆ HUYỆN - LÝ THẨM THIẾU PHỦ của Cao Thich, bài của Cao Thích có Niêm + Luật tréo lại là (1-3 2-4 Trắc + 1-4 2-3 Bằng) -
2.c - ráp các câu của : Đồng Lão + Vũ Kim Thanh + Hàn Phong + Lá chờ rơi
Lá
úa lao xao vẩy phất phơ
Nơi
vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
Tam
phân thiên hạ điều lo thực
Tứ
hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong
Như
hồn thơ dậy trong tiền kiếp
Còn
chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi
Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
1-4 2-3 Trắc, 1-3 2-4 Bằng. (đây là một bài TNBC đúng
“theo Đường Thi” ) - giống như bài ĐĂNG TÙNG GIANG DỊCH LÂU BẮC VỌNG CỐ VIÊN của Lưu Trường Khanh -
2.d - ráp các câu của : Đồng Lão + Vũ Kim Thanh + Vancali + Thi Nang
Lá
úa lao xao vẩy phất phơ
Nơi
vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
Đáy
giếng nhìn trăng mây trộn nước
Đầu
song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
Dẫu
đã xa rồi nhưng nhớ mãi
Từ
khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang
Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
1-4 2-3 Trắc, 1-3 2-4 Trắc. (đây là một bài TNBC đúng
“theo Đường Thi” ) - giống như bài SỐNG ĐỜI TIÊN
của lá chờ rơi -
3.a - ráp các câu của : Chí Trung + Vũ Kim Thanh + Hàn Phong + Thi Nang
Một
trời hương sắc một trời thơ
Dâu
bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung
Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
Tam
phân thiên hạ điều lo thực
Tứ
hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong
Dẫu
đã xa rồi nhưng nhớ mãi
Từ
khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang
Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
1-3 2-4 Bằng, 1-4 2-3 Bằng. (đây là một bài TNBC đúng
“theo Đường Thi” ) - giống như bài KÝ THÔI THỊ NGỰ của Lý Bạch -
3.b - ráp các câu của : Chí Trung + Vũ Kim Thanh + Vancali + lá chờ rơi
Một
trời hương sắc một trời thơ
Dâu
bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung
Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
Đáy
giếng nhìn trăng mây trộn nước
Đầu
song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
Như
hồn thơ dậy trong tiền kiếp
Còn
chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi
Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
1-3 2-4 Bằng, 1-4 2-3 Trắc. (đây là một bài TNBC đúng
“theo Đường Thi” ) - tương tự như bài ĐĂNG KIM LĂNG PHƯỢNG HOÀNG ĐÀI của Lý Bạch, bài của Lý Bạch có Niêm + Luật là (1-3 2-4 Bằng, 1-4 2-3 Bằng) -
3.c - ráp các câu của : Đồng Lão + TMH + Hàn Phong + Thi Nang
Lá
úa lao xao vẩy phất phơ
Nơi
vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
Chẳng
nhớ sao ngày luôn ngóng đợi.
Chưa
yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng
Tam
phân thiên hạ điều lo thực
Tứ
hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong
Dẫu
đã xa rồi nhưng nhớ mãi
Từ
khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang
Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
1-3 2-4 Trắc, 1-4 2-3 Bằng. (đây là một bài TNBC đúng
“theo Đường Thi” ) - giống như bài HOÀI CỔ TÍCH - KỲ NHỊ của Đỗ Phủ -
3.d - ráp các câu của : Đồng Lão + TMH + Vancali + Lá chờ rơi
Lá
úa lao xao vẩy phất phơ
Nơi
vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
Chẳng
nhớ sao ngày luôn ngóng đợi.
Chưa
yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng
Đáy
giếng nhìn trăng mây trộn nước
Đầu
song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
Như
hồn thơ dậy trong tiền kiếp
Còn
chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi
Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
1-3 2-4 Trắc, 1-4 2-3 Trắc. (đây là một bài TNBC đúng
“theo Đường Thi” ) - giống như bài DĨ HÒA VI QUÝ của Nguyễn-Bỉnh-Khiêm -
4.a - ráp các câu của : Chí Trung + Vũ Kim Thanh + Hàn Phong + lá chờ rơi
Một
trời hương sắc một trời thơ
Dâu
bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung
Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
Tam
phân thiên hạ điều lo thực
Tứ
hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong
Như
hồn thơ dậy trong tiền kiếp
Còn
chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi
Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
1-3 2-4 Bằng, 1-3 2-4 Bằng. (đây là một bài TNBC đúng
“theo Đường Thi” ) - Niêm giống như bài CHƯỚC TỬU DỮ BÙI DỊCH của Vương Duy nhưng khác Luật, bài của Vương Duy có Niêm + Luật là (1-3 2-4 Trắc, 1-3 2-4 Trắc) –
4.b - ráp các câu của : Chí Trung + Vũ Kim Thanh + Vancali + Thi Nang
Một
trời hương sắc một trời thơ
Dâu
bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung
Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
Đáy
giếng nhìn trăng mây trộn nước
Đầu
song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
Dẫu
đã xa rồi nhưng nhớ mãi
Từ
khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang
Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
1-3 2-4 Bằng, 1-3 2-4 Trắc. (đây là một bài TNBC đúng
“theo Đường Thi” ) - giống như bài VUI XUÂN CON TRÂU của Sương Anh -
4.c - ráp các câu của : Đồng Lão + TMH + Hàn Phong + Lá chờ rơi
Lá
úa lao xao vẩy phất phơ
Nơi
vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
Chẳng
nhớ sao ngày luôn ngóng đợi
Chưa
yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng
Tam
phân thiên hạ điều lo thực
Tứ
hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong
Như
hồn thơ dậy trong tiền kiếp
Còn
chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi
Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
1-3 2-4 Trắc, 1-3 2-4 Bằng. (đây là một bài TNBC đúng
“theo Đường Thi” ) - giống như bài BÁC LÁ YÊU DẤU ! của Vancali -
4.d - ráp các câu của : Đồng Lão + TMH + Vancali + Thi Nang
Lá
úa lao xao vẩy phất phơ
Nơi
vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
Chẳng
nhớ sao ngày luôn ngóng đợi.
Chưa
yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng
Đáy
giếng nhìn trăng mây trộn nước
Đầu
song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
Dẫu
đã xa rồi nhưng nhớ mãi
Từ
khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang
Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
1-3 2-4 Trắc, 1-3 2-4 Trắc. (đây là một bài TNBC đúng
“theo Đường Thi” ) - giống như bài ĐỀ ĐÔNG KHÊ CÔNG U CƯ của Lý Bạch -
*******
Tất cả 16 bài TNBC trên đây đều có âm điệu hài hòa.
Phép Niêm 1-3 2-4 là một trong 2 phép Niêm chính thống của thơ Tứ Tuyệt. Dải Số không dùng nhưng thi nhân đời Đường vẫn dùng.
Ngoài ra những nơi có sự đổi Niêm, đổi Luật đều không hề gây ra sự chói tai, khổ độc nào, mà có khi lại cho người đọc cái cảm giác nghe hay hơn, nhờ sự “đổi mới” thay vì sự “nhàm chán” khi gặp hoài một “điệu thơ cũ” dù là hay đến mấy.
Như mọi người có thể nhận ra là phép chơi
“theo Đường Thi” không cần biết các câu phía trên theo luật nào, những câu thơ từ 1 đến 8 sẽ như sao và sẽ đan kết với nhau ra sao. Cứ tự nhiên để cho hứng thơ, tứ thơ đun đẩy mà viết mỗi cặp với 1 câu Trắc 1 câu Bằng, thì có thể hoàn toàn yên trí rằng, khi xong hết 8 câu, chúng sẽ tạo ra hai phần tứ cú đúng Niêm 1-4 2-3 hoặc 1-3 2-4.
Cái dễ của cách chơi
“theo Đường Thi” là như vậy. Nhưng dùng cách chơi này là chấp nhận cách chơi của thi nhân đời Đường. Phần lớn các tác phẩm sẽ khác với cách chơi
“theo Dải Số” . Trung bình cứ 16 bài thì mới có 2 bài
“theo Dải Số” . Những tác phẩm
“không theo Dải Số” có thể sẽ bị coi là “thất niêm” bởi những người trung thành với dải số. Tiếng “phá cách” thì họ để dành gọi những tác phẩm của các đại thi nhân tiền bối đời Đường với câu “Đại gia văn chương bất câu Niêm Luật”. Thơ của bọn mình thì chưa có cái vinh hạnh được gọi là thơ phá cách !
Nhưng việc gọi những bài thơ nằm ngoài dải số là thơ “thất niêm, phá cách hay thơ Cổ Phong” là một sự sai lầm hoàn toàn.
Phần trình bày về 16 cách chơi
“theo Đường Thi” trên đây đã chứng tõ rằng đó là những bài thơ Đường Luật. Dải số không bao gồm được hết 16 cách Niêm Luật ấy, thì đó là việc của dải số.
Vậy : CHÍNH DANH “ĐƯỜNG LUẬT” LÀ ĐÂU ?
Chắc mọi người đều đồng ý với Quách-Tấn trong định nghĩa trích dẫn sau đây :
“Ðường Luật không phải do một cá nhân hay một nhóm thi nhân cao hứng đặt ra theo sở kiến, sở thích của mình, mà chính là sự đúc kết những kinh nghiệm kỹ thuật lâu đời đã thành công, và điển chế những thành công ấy làm khuôn phép chung cho làng Thơ.”
(trích Thi Pháp Thơ Ðường của Quách-Tấn, trang 38)
* những kinh nghiệm kỹ thuật lâu đời đã thành công thì hẳn là phải lấy từ các bài Đường Thi còn lưu truyền đến nay.
Và cách chơi “theo Đường Thi” mô tả trên đây chỉ là “thấy sao nói vậy” về những kinh nghiệm kỹ thuật đã thành công của thi nhân đời Đường.
Đường Luật lấy ra từ phần kỹ thuật của Đường Thi là như thế. Còn việc sau đó Đường Luật bị thay đổi do nhu cầu nọ kia (ví dụ như do nhu cầu chấm thi của giới quan trường) để trở thành Đường Luật mà dải số đang theo thì đó là việc khác.
Nếu cần chính danh cho dải số thì đó là việc của những người theo dải số.
Rất có thể là có một đạo luật nào đó của triều đình đã quy định những điều phải học về thơ Đường là như vậy.
Nhưng dù sao thì cũng xin nêu lại những điểm vô lý đã ăn sâu vào quan điểm của khá nhiều người, khi gọi những bài thơ Đường chính thống ấy là Thất Niêm, Phá Cách, hay thơ Cổ Phong như sau :
* sao gọi được là “thất Niêm” khi bài thơ sử dụng 2 phép Niêm chính thống của thơ tứ cú là 1-4 2-3 và 1-3 2-4 ? Dải số cũng dùng 1 trong hai phép Niêm đó (1-4 2-3) thì sao ? Chỉ có thể gọi là thất Niêm khi trong phần tứ cú, câu 1 niêm với câu 2 (1-2), hoặc câu 3 niêm với câu 4 (3-4), hoặc cả 4 câu 1-2-3-4 đều cùng theo một luật (1-2-3-4).
* sao gọi được là ‘phá cách’ khi những cách chơi đa dạng đều đi theo một nguyên tắc rõ ràng là : cho phép hai phần tứ cú được tự do theo Niêm, theo Luật khác nhau, với sự pha trộn mọi cách Niêm + Luật. Không biết dải số căn cứ vào đâu mà chỉ dùng 2 trong số 16 cách Niêm + Luật trên lý thuyết của Đường Thi. Đường Thi là gốc, đáng lẽ dải số phải theo. Nhưng vì một lý do gì đó mà dải số không theo. Vậy sự “phá cách” chính là do dải số.
* Những đặc điểm của thơ Cổ Phong là : được dùng nhiều vần, được dùng số câu khác nhau 6, 8, 10, 12, không cần có đối, không cần theo Niêm Luật. Vậy tại sao trong số bị gọi là thơ Cổ Phong lại chẳng có bài nào có 2 vần ? chẳng có bài nào có số câu là 6, 10, 12 ? chẳng có bài nào không có đối ở các cặp 3-4 và 5-6 của bài bát cú ? chẳng có bài nào có được vài câu với nhì-tứ-lục chẳng phân minh một cách hiển nhiên? (không kể những câu tác giả cố ý bỏ luật 1 chữ để bảo toàn ý nghĩa).
Ngày nay thơ Đường chỉ dùng cho sự tiêu khiển của những người yêu thơ. Mọi người tự do chọn hướng đi của mình.
Chẳng ai đả kích người chơi theo dải số. Họ có thể được hoan hô với chủ trương thích tìm cái khó để chơi, để trao dồi…..
Còn sự gieo tiếng xấu cho Đường Thi là “thất Niêm, phá cách, thơ Cổ Phong” cũng chẳng biết do đâu, nhưng cũng chẳng có gì quan trọng.
Vì những sự phân tách mỗ xẻ phần kỹ thuật Đường Thi, như vừa lập lại trên đây, đã cho thấy rõ ràng đâu là sự thật đâu là ác ý.
Sự làm thơ cốt là để giúp chúng ta vui chơi trong sự thoải mái. Mà thơ thì có nhiều khuynh hướng khác nhau.
Ai muốn làm thơ theo dải số thì cứ theo. Ai muốn làm thơ theo Đường Thi thì cũng không ai cấm cản.
Và có một điểm chung quan trọng : là mọi người đều có bổn phận cống hiến cho Làng thơ những bài thơ hay để thưởng thức.
Rất cám ơn quý bạn Đồng Lão, Vũ Kim Thanh, Trần Mạnh Hùng, Hàn Phong, Vancali, Thi Nang và Chí Trung đã soạn giúp cho những cặp 2 câu thơ dùng trong phần giải thích trên.
Thân ái chào tất cả quý bạn đã bỏ công ra đọc bài này.
Lá chờ rơi 23/08/09
&&&&&&&&
Phụ lục : Nguyên văn những bài thơ chỉ mới kê tên nơi phía trên :
(trong ngoặc : các con số là phép Niêm của từng phần tứ cú, Bằng hay Trắc là Luật của phần tứ cú đó.)
1.a KHÚC GIANG NHỊ THỦ - kỳ nhị (1-4 2-3 Bằng, 1-4 2-3 Bằng)
Triều
hồi nhật nhật điển xuân y
Mỗi
nhật giang đầu tận túy quy
Tửu
trái tầm thường hành xứ hữu
Nhân
sinh thất thập cổ lai hi
Xuyên
hoa giáp điệp thâm thâm hiện
Ðiểm
thủy thanh đình khoản khoản phi
Truyền
ngữ phong quang cộng lưu chuyển = bỏ luật chữ thứ 6
Tạm
thời tương thưởng mạc tương vi.
Ðỗ Phủ
BÀI THƠ TRÊN SÔNG KHÚC GIANG (bài hai)
Mỗi buổi chầu lui thường cố áo (cố = cầm cố)
Bên sông say khướt mới ra về
Vài ba nợ rượu đâu không có
Bẩy chục đời người dễ mấy khi
Cánh bướm vờn hoa bay thấp thoáng
Ðuôi chuồn giỡn nước kéo lê thê
Xưa nay quang cảnh cùng thay đổi
Ðược lúc vui chơi há ngại gì.
Bùi Khánh Ðản
1.b HÀ TIỆN (1-4 2-3 Bằng, 1-4 2-3 Trắc)
Giàu
thì ba
bữa khó
thì hai
Lần
lữa cho
qua tháng
thiếu đầy
Nón
đổi lá
ngoài quần
đổi ống
Dép
thay da
mặt túi
thay quai
Dặn
vợ có
cà đừng
gắp mắm
Bảo
con bớt
gạo bỏ
thêm khoai
Thế
gian mặc
kẻ cười
hà tiện
Ta
chẳng phiền
ai chẳng
lụy ai.
Nguyễn-Minh-Triết
1.c VĂN LÂN GIA LÝ TRANH (1-4 2-3 Trắc, 1-4 2-3 Bằng)
Bắc
đẩu hoành
thiên dạ
dục lan
Sầu
nhân ỷ
nguyệt tứ
vô đoan
Hốt
văn họa
các Tần
tranh dật
Tri
thị lân
gia Triệu
nữ đàn
Khúc
thành hư
ức song
nga liễm
Điệu
cấp giao
liên ngọc
chỉ hàn
Ngân
thược trùng
quan thính
vị tịch
Bất
như miên
khứ mộng
trung khan.
Từ An Trinh
NGHE ĐÀN TRANH NHÀ HÀNG XÓM
Bắc đẩu ngang trời đêm sắp tan
Buồn trong trăng sáng ý mơ màng
Chợt nghe gác họa âm Tần vọng
Mới biết nhà bên gái Triệu đàn
Khúc trọn hẳn chau đôi mắt ngọc
Điệu mau e buốt ngón tay vàng
Lắng nghe then khóa còn chưa mở
Ngủ quách may ra mộng gặp nàng.
Đinh Vũ Ngọc
1.d KHÚC GIANG ĐỐI TỬU (1-4 2-3 Trắc, 1-4 2-3 Trắc)
Uyển
ngoại giang đầu tọa bất quy
Thủy
tinh cung điện chuyển phi vi
Ðào
hoa tế trục dương hoa lạc
Hoàng
điểu thời kiêm bạch điểu phi
Túng
ẩm cửu biền nhân cộng khí
Lãn
triều chân dữ thế tương vi
Lại
tình cánh giác Thương Châu viễn
Lão
đại đồ thương vị phất y.
Ðỗ Phủ
UỐNG RƯỢU TRÊN SÔNG KHÚC GIANG
Ngồi mãi bên vườn bến Khúc Giang
Thủy tinh cung điện bóng mờ gương
Hoa tơi tả rụng đào chen liễu
Chim nhởn nhơ bay trắng lẩn vàng
Chén rượu thường say người đã chán
Phiên chầu vẫn trễ tiếng còn mang
Biết rằng hoạn lộ xa tiên cảnh
Tuổi tác chưa về nghĩ tự thương.
Bùi Khánh Ðản
2.a ÐỘC TIỂU THANH KÝ (1-4 2-3 Bằng, 1-3 2-4 Bằng)
Tây
Hồ mai
uyển tẫn
thành khư
Ðộc
điếu song
tiền nhất
chỉ thư
Chi
phấn hữu
thần liên
tử hậu
Văn
chương vô
mệnh lụy
phần dư
Cổ
kim hận
sự thiên
nan vấn
Phong
vận kỳ
oan ngã
tự cư
Bất
tri tam
bách dư
niên hậu
Thiên
hạ hà
nhân khấp
Tố Như.
Nguyễn-Du
2.b TỐNG TIỀN VỆ HUYỆN - LÝ THẨM THIẾU PHỦ (1-3 2-4 Trắc + 1-4 2-3 Bằng)
Hoàng
điểu phiêu
phiêu dương
liễu thùy
Xuân
phong tống
khách sử
nhân bi
Oán
biệt tự
kinh thiên
lý ngoại
Luân
giao khước
ức thập
niên thì
Vân
khai Mấn
Thủy cô
phàm viễn
Lộ
nhiễu Lương
Sơn thất
mã trì
Thử
địa tòng
lai khả
thừa hứng = bỏ luật chữ thứ 6
Lưu
quân bất
trú ích
thê kỳ.
Cao Thích
TIỄN ĐƯA QUA THIẾU PHỦ - LÝ THẨM HUYỆN TIỀN VỆ
Vút giọng oanh vàng tơ liễu buông
Gió xuân tiễn khách dạ sầu thương
Chia ly ngàn dặm bao đau xót
Gắn bó mười năm mấy vấn vương
Mấn Thủy mây giăng buồm lẻ bóng
Lương Sơn ngựa chậm núi chen đường
Nơi đây ngày trước cùng vui thú
Chẳng giữ chân anh thật đáng buồn !
Đinh Vũ Ngọc
2.c ĐĂNG TÙNG GIANG DỊCH LÂU BẮC VỌNG CỐ VIÊN (1-4 2-3 Trắc, 1-3 2-4 Bằng)
Lệ
tận giang
lâu vọng
Bắc quy
Điền
viên dĩ
hãm bách
trùng vi
Bình
vô vạn
lý hà
nhân khứ
Lạc
nhật thiên
sơn không
điểu phi
Cô
chu dạng
dạng hàn
triều tiểu
Cực
phố thương
thương viễn
thụ vi
Bạch
âu ngư
phủ đồ
tương đãi
Vị
tảo Sam
Thương lãn
tức ky.
Lưu Trường Khanh
LÊN LẦU TRẠM TÙNG GIANG - TRÔNG VỀ QUÊ PHƯƠNG BẮC
Lầu sông lệ cạn trông về Bắc
Vườn ruộng trăm vòng chịu bủa vây
Vạn dặm đồng không người chẳng đến
Nghìn non chiều xuống chim còn bay
Thuyền đơn thấp thoáng triều se lạnh
Bến cũ xanh xanh cây mọc dày
Âu trắng ngư ông xin hãy đợi
Chưa qua hoạn nạn khó về ngay.
Đinh Vũ Ngọc
2.d SỐNG ĐỜI TIÊN (1-4 2-3 Trắc, 1-3 2-4 Trắc)
(thân tặng Thảo My)
Có
một nàng thơ đang ngủ yên
Say
nồng quên tỉnh giấc cô miên
Đầu
xuân nên tránh tìm thương ghét
Sắp
Tết đừng quên chúc bạc tiền
Ông
muốn ăn nem nhiều kẻ trách
Bà
không nếm chả chẳng ai phiền
Chín
bỏ làm mười hung hóa kiết
Gìn
lòng “vô hận” kiếp thần tiên*.
Lá chờ rơi 23/01/08
* nhẫn nhẫn nhẫn, vô hận thần tiên tùng thử đắc ! (Minh Tâm Bửu Giám)
3.a KÝ THÔI THỊ NGỰ (1-3 2-4 Bằng + 1-4 2-3 Bằng)
Uyển
khê sương
dạ thính
viên sầu
Khứ
quốc trường
như bất
hệ châu
Độc
liên nhất
nhạn phi
Nam độ
Khước
tiện song
khê giải
Bắc lưu
Cao
nhân lũ
giải Trần
Phồn tháp
Quá
khách nan
đăng Tạ
Diễu lâu
Thử
xứ biệt
ly đồng
lạc diệp
Triêu
triêu phân
tán Kính
Đình thu.
Lý Bạch
GỬI QUAN THỊ NGỰ HỌ THÔI
Vượn khóc đêm sương xứ uyển khê
Như thuyền không buộc mãi xa quê
Nhạn đành lẻ một phương Nam đến
Suối chẳng chung đôi đất Bắc về
Hạ chỏng Trần Phồn còn lắm kẻ
Leo lầu Tạ Diễu khó trăm bề
Nơi đây lá rụng cùng chia biệt
Núi Kính Đình thu vẫn cách ly.
Đinh Vũ Ngọc
3.b ĐĂNG KIM LĂNG PHƯỢNG HOÀNG ĐÀI (1-3 2-4 Bằng, 1-4 2-3 Bằng)
Phượng
Hoàng Ðài thượng phượng hoàng du
Phượng
khứ đài không giang tự lưu
Ngô
cung hoa thảo mai u kính
Tấn
đại y quan thành cổ khâu
Tam
sơn bán lạc thanh thiên ngoại
Nhị
thủy trung phân bạch lộ châu
Tổng
vị phù vân năng tế nhật
Trường
An bất kiến sử nhân sầu.
Lý Bạch
LÊN ĐÀI PHƯỢNG HOÀNG Ở KIM LĂNG
Chim Phượng hoàng chơi lầu Phượng hoàng
Phượng bay lầu trống với trường giang
Cung Ngô hoa cỏ con đường rậm
Thời Tấn xiêm y nấm mộ tàn
Ngọn núi Tam Sơn trời xẻ nửa
Dòng sông Nhị Thủy bãi chia ngang
Ô hay mây nổi che trời sáng
Chẳng thấy Trường An sầu chứa chan.
Đinh Vũ Ngọc
3.c HOÀI CỔ TÍCH - KỲ NHỊ (1-3 2-4 Trắc + 1-4 2-3 Bằng)
Dao
lạc thâm
tri Tống
Ngọc bi
Phong
lưu nho
nhả diệc
ngô sư
Trướng
vọng thiên
thu nhất
sái lệ
Tiêu
điều dị
đại bất
đồng thì
Giang
san cố
trạch không
văn tảo
Vân
vũ hoang
đài khởi
mộng tư
Tối
thị Sở
cung câu
dẫn diệt
Châu
nhân chỉ
điểm đáo
kim nghi.
Đỗ Phủ
NHỚ CHUYỆN XƯA – BÀI HAI
Tống Ngọc sầu thương cảnh rụng rơi
Phong lưu nho nhả bậc thầy tôi
Nghìn thu tưởng nhớ còn rơi lệ
Một cảnh tiêu sơ dẫu khác thời
Sông núi nhà xưa văn vẻ đó
Mây mưa đài cũ mộng mơ thôi
Thương thay cung Sở tiêu tan hết
Nơi lái thuyền xưa chỉ vẫn ngờ.
Đinh Vũ Ngọc
3.d DĨ HÒA VI QUÝ (1-3 2-4 Trắc + 1-4 2-3 Trắc)
Ở
thế đừng
tranh tiếng
trượng phu
Làm
chi cho
có sự
đôi co
Đây
cậy đây
khôn đây
chẳng nhịn
Ðấy
rằng đấy
phải đấy
không thua
Duật
nọ hãy
còn đua
đến bạng
Lươn
kia hầu
dễ kém
chi cò
Chữ
rằng : Nhân
dĩ hòa
vi quý
Vô
sự thì
hơn khỏi
phải lo.
Nguyễn-Bỉnh-Khiêm
4.a CHƯỚC TỬU DỮ BÙI DỊCH (1-3 2-4 Trắc, 1-3 2-4 Trắc)
Chước
tửu dữ
quân quân
tự khoan
Nhân
tình phiên
phúc tự
ba lan
Bạch
thủ tương
tri do
án kiếm
Chu
môn tiên
đạt tiếu
đàn quan
Thảo
sắc toàn
kinh tế
vũ thấp
Hoa
chi dục
động xuân
phong hàn
Thế
sự phù
vân hà
túc vấn
Bất
như cao
ngọa thả
gia xan.
Vương Duy
RÓT RƯỢU MỜI BÙI DỊCH
Mời anh cạn chén để nguôi sầu
Tráo trở tình đời khác sóng đâu
Tóc trắng quen thân còn thủ kiếm
Cửa son hiển đạt lại cười nhau
Mưa dầm cỏ dại càng phơi phới
Gió lạnh hoa xuân chịu dãi dầu
Chuyện thế mây trôi thôi chớ hỏi
Chi bằng ăn ngủ khỏi lo âu.
Đinh Vũ Ngọc
4.b VUI XUÂN CON TRÂU (1-3 2-4 Bằng, 1-3 2-4 Trắc)
Không
chờ chẳng đợi cũng nhanh qua
Tiễn
chuột mừng trâu đến viếng nhà
Vui
Xuân hý hoạ vài câu đối
Đón
Tết nhâm nhi mấy chén trà
Xúc
cảnh lời vàng bay bỗng mãi
Tri
tình bút ngọc toả lan xa
Nắn
nót bài thơ xin chúc Bác
Thi
ca đám trẻ chạy theo già.
Sương Anh
4.c BÁC LÁ YÊU DẤU ! (1-3 2-4 Trắc, 1-3 2-4 Bằng)
Bác
Lá vui đùa bạn hữu đông
Ông
đi vắng lặng hỏi buồn không ?
Chỉ
lối ngay đường thường đụng chạm
Lời
ngay nẻo phải khó tương đồng
Tình
ơi kính Lão đời thanh thản
Bạn
hởi thương người nước đục trong
Chờ
Rơi ở lại đừng xa nhé
Bé
tịt hồn thơ muối xát lòng.
Vancali 9.23.08
4.d ĐỀ ĐÔNG KHÊ CÔNG U CƯ (1-3 2-4 Trắc, 1-3 2-4 Trắc)
Đỗ
Lăng hiền
nhân thanh
thả liêm (bỏ Luật ở chữ Lăng
Đông
Khê bốc
trúc tuế
thời yêm
Trạch
cận thanh
sơn đồng
Tạ Diễu
Môn
thùy bích
liễu tự
Đào Tiềm
Hảo
điểu nghinh
xuân ca
hậu viện
Phi
hoa tống
tửu vũ
tiền thiềm
Khách
đáo đãn
tri lưu
nhất túy
Bàn
trung chi
hữu thủy
tinh diêm.
Lý Bạch
ĐỀ CHỖ Ở ẨN CỦA ĐÔNG KHÊ CÔNG
Đỗ Lăng đã nổi tiếng người hiền
Về ẩn Đông Khê trải mấy niên
Nhà cận núi xanh như Tạ Diễu
Cửa buông liễu biếc tựa Đào Tiềm
Đón xuân chim quý ca sau viện
Mời rượu hoa bay múa trước hiên
Khách đến nài nhau say một bữa
Trong mâm chỉ có muối tinh nghiền.
Đinh Vũ Ngọc
***********
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.09.2009 14:08:28 bởi lá chờ rơi >