Mùa Mưa Gai Sắc - Trần Vũ

Tác giả Bài
Trương Củng
  • Số bài : 531
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.01.2005
  • Nơi: Dòng sông quê hương
Mùa Mưa Gai Sắc - Trần Vũ - 26.05.2005 14:32:40
Mùa mưa gai sắc


Tôi biết Huệ đã lâu. Từ lúc Huệ còn niên thiếu, những trận mưa rào còn bất chợt đổ về qua qua ấp Tây Sơn, thứ mưa nóng và ẩm của vùng Qui Nhơn sỏi đá. Suốt quãng đời niên thiếu, hình như Huệ chỉ đi chơi xa có hai lần. Một lần lên Phú Xuân và một lần bơi xuồng băng ngang đầm Thị Nại. Cả hai lần, lần nào cũng có hai anh lớn của Huệ: Nhạc và Lữ.
Hôm ấy ám trời, cả một mặt đầm gợn sắc mây, mưa lướt thướt mỏng như những cánh chuồn rù rì vẩn vơ trên mặt nước. Nhạc bản tính tục tằn không ngớt lầm bầm trong miệng, quở trách trời đất. Nhạc quở những hạt mưa nhỏ mọn đương vãi xuống khoang thuyền làm hỏng cuộc vui. Lữ không nói gì, chỉ im lặng nhìn những cánh bèo nổi lặng lờ như không muốn trôi, trong ba anh em Lữ là người ít cá tánh nhất. Ánh mắt Lữ, lúc nào cũng phảng phất nghĩ ngợi, một chút buồn, một chút thiền vị vu vơ, chứa mà không chứa đạo Phật. Đợi Lữ leo lên ngồi rồi Huệ mới lấy sức, dẫm chân xuống nước, đẩy xuồng cho xa bờ. Những đám lau lác đác, già nua, xanh điệp tách dần ra cho đến lúc không còn trông thấy nữa. Nhạc làu bàu hối Huệ bơi ra giữa đầm. Nhạc ngồi ở mũi xuồng, đúng chỗ, đúng vai vị của người con cả. Đầm Thị Nại không biết tự thưở nào mang tâm trạng u uất ui ui trên mặt nước, ngay dưới mưa cũng phẳng lì không gợn sóng. Tiếng động duy nhất phát ra từ mái chèo khoắng nước trong tay Huệ. Huệ cũng ít nói, nhưng không câm lặng như Lữ, chỉ nói những khi cần, cùng những gì đáng nói. Tôi ngắm những bắp cơ trên cánh tay Huệ thong thả nhịp nhàng dầm mái, rồi vạc nước về sau, nhấc lên rồi lại thả xuống, cử động thuần nhất đến độ trông như Huệ không hề chú tâm đến việc bơi xuồng. Nhưng có nhìn vào đôi mắt Huệ thì mới biết Huệ tập trung lắm. Hướng xuồng đi không chệch, không lệch về trái, không thả sang phải, thẳng tắp theo một hướng đi mà Huệ tự chọn lấy.
Mặt nước u tịch, im lìm, chốc chốc lại vang tiếng khạc nhổ của Nhạc. Nhạc mắng Lữ và Huệ chọn đi đâu không đi, ra chỗ buồn tênh. Thái độ gắt gỏng cộc tính của Nhạc, hơn một thói quen, thành thứ nền nếp trong nhà đến độ Lữ và Huệ không buồn chú ý. Suốt buổi đi chơi, ba anh em không ai vãn chuyện. Gần về, Huệ chỉ nói một câu duy nhất:
- Nước ở đầm này bao nhiêu đời không thay, vừa đục, vừa tanh, mai mốt có quyền chức, tôi sẽ cho thay nước.
Nhạc đang ngồi xếp bằng ở mui, nghe Huệ nói, liền khạc thêm đờm xuống đầm, cho là chuyện không đâu. Còn Lữ nói một câu vô thưởng vô phạt:
- Đầm này không sạch bằng cửa sông đổ ra An Nhơn.
Huệ cũng không bằng lòng, gắt:
- An Nhơn cũng không sạch.
Những khi giận, hai tròng đỏ trong mắt Huệ lập lòe lửa, tất cả thần khí dữ dội hiện lên ở đồng tử, nên nhìn rất sợ. Nhạc và Lữ biết rõ tánh Huệ nên im lặng không nói thêm điều gì. Đoạn đường từ đầm về bờ, chỉ còn tiếng mái chèo Huệ sục sạo cắm xuống mặt nước. Sông xẻ hai bên mạn xuồng, trong ba anh em bao giờ Huệ cũng là người cầm mái, tạo ra sóng.
*
Lần ra Phú Xuân thứ nhất, trong đời Huệ, có lẽ cũng là lần quan trọng nhất. Phú Xuân ở vào thời điểm đó mang sắc đẹp của một người đàn bà cực kỳ sắc sảo, nhưng đã chung chạ quá nhiều, sau bao nhiêu đời chồng đâm ủ ê, bệ rạc. Song trong đôi mắt của Huệ, xuyên qua cặp mắt của Lữ, trước cái nhìn ham muốn của Nhạc, Phú Xuân giữ nguyên vẹn nét lộng lẫy, thứ lộng lẫy tìm thấy trên yếm gấm viền thêu mà những người con gái ở ấp Tây Sơn, huyện Phù Ly không có để mặc trên mình. Hôm ba anh em Huệ tới Phú Xuân, trời cũng vần mưa, nhưng không phải thứ mưa dông cẩu thả, ít nước nhiều hơi không đủ làm mọc những ruộng lúa phì nhiêu quanh thành Qui Nhơn. Mưa ở Phú Xuân là những váng mưa ngà ngọc, buông như buông trướng, kiêu sa đổ đều lên mái tường thành cung điện của Nguyễn Vương. Nhạc đã trưởng thành, nhưng không bao giờ chững, không đủ sức kềm chế trước vẻ lẳng lơ lộ liểu, da thịt mời gọi của Phú Xuân. Vẫn bản chất tham lam của người đã chọn cho mình nghề biện lại, Nhạc vỗ đùi rồi để bàn tay ở lại tự mân mê như đang sờ nắn chỗ kín của một người đàn bà chốn kinh kỳ:
- Trên đời được làm Nguyễn Vương thì mới đáng sống!
- Anh làm Nguyễn Vương cho tôi một chỗ trong cung, tôi thích dãy lầu nóc giá chiêng phía hữu.
Lữ cảm hứng từ tham vọng của Nhạc, góp ý.
Mưa vẫn ướt mặt ba người. Những hột mưa đài các lạnh lẽo tiếp tục rưới xuống dinh thự nhà Chúa. Song mưa không làm tắt nỗi ánh lửa cháy rập rờn trong đôi mắt Huệ. Tia lửa ngời lên như muốn táp vào mặt Nhạc.
- Sống chỉ ao ước như Nguyễn Vương là một kiếp sống ngu xuẩn. Mà được như Nguyễn Vương cũng chưa phải là tất !
Nhạc quay phắt lại, giận gữ vì bị xúc phạm, nhưng chất cộc cằn thô tục ngồn ngộn trong con người Nhạc chưa kịp phát ra đã chạm phải ngọn lửa nóng bỏng ở đôi mắt Huệ đành nén giọng, chỉ rít qua kẽ răng:
- Thế nào mới không ngu xuẩn, mới gọi là tất ?
- Giết Nguyễn thì được Nguyễn, giết Trịnh thì được thêm Trịnh, Nam lẫn Bắc Hà thế mới gọi là Đế !
Buổi trưa ở Phú Xuân, Huệ khơi dậy lần đầu tiên ý niệm vương đế. Cái ý niệm phải thực hiện để khỏi sống kiếp người ngu xuẩn. Năm đó Huệ chỉ mới mười sáu tuổi, lứa tuổi thật thà và hay ước vọng. Huệ mơ ước, nhưng không đủ thật thà để nói với Nhạc cái người dẹp Nguyễn, diệt Trịnh xưng Đế phải là mình. Sau này khi đã toại ước, Huệ cũng không còn là Huệ ở đầm Thị Nại, ao ước có quyền chức để thay nước đầm đã quá cũ kỹ, nổi rêu xanh. Huệ chỉ nghĩ tới việc giết người để lấy phần người chết. Ở khía cạnh đó thì Huệ vẫn mãi mãi là Huệ. Nhưng có điều Huệ không ngờ ở đất Bắc Hà, có một người cũng nghĩ như Huệ. Song đó lại là chuyện khác.
*
Tháng sáu năm Bính Ngọ 1786, Thăng Long như bầy heo nái nằm đợi người tới giết. Tâm trạng của vua Lê Hiển Tông trong cung Vạn Thọ là tâm trạng của con heo nái xề suốt bốn mươi bảy năm ở ngôi, chỉ làm nổi một việc là cho thê thiếp lâm bồn hai mươi mốt vị công chúa. Cảnh Trịnh Khải bị thọc tiết ở làng Hạ Lôi, tỉnh Phúc Yên sau khi bại trận thê thảm trước quân Tây Sơn ngay cửa Tây Long, càng làm long thể vua Lê thêm bất an, hoang mang, cực kỳ lo lắng. Trong khuê phòng, Ngọc Hân như lửa cháy. Suốt mấy đêm liền, canh này qua canh khác, Ngọc Hân bồn chồn trong tiếng trống giục điểm canh. Đã đành cái tin Trịnh Khải mất mạng ở làng Hạ Lôi làm nàng thỏa mãn. Ngọc Hân không ngớt bắt kẻ hầu kể đi kể lại chi tiết cảnh Trịnh Khải rút dao tự đâm cổ chết. Máu Trịnh Khải đỏ gấc? đỏ bầm? hay đỏ tươi như thảm điều lót chân cho Khải mỗi lần hắn ghé qua cung Vạn Thọ? Trịnh Khải trong mỗi bữa ăn ở phủ Chúa, khi yến tiệc tàn thường vung tay quát tả hữu:
- Đem mấy cân thịt thừa qua cung Vạn Thọ kẻo lão già chết đói!
Ngọc Hân nhớ đời những câu mỉa mai ấy. Hai bàn tay nàng bấu chặt lấy tấm màn nhung vì phẫn. Ngọc Hân đã thề độc sẽ rửa mối nhục cho vua cha, nhưng bay giờ Trịnh Khải thác rồi, mà không bởi tay nàng, khiến Ngọc Hân tuy thỏa mãn nhưng chưa hả dạ. Nụ cười trên môi Trịnh Khải, nụ cười mang nốt ruồi dư giật giật mỗi khi chiếc cằm bạnh ra phán lệnh còn sống trong trí não Ngọc Hân. Nàng nghiêng người nắm ghì lấy tay nhũ mẫu, giọng kích động :
- Rồi sao nữa? Máu hắn chảy nhiều không? Hấp hối trong bao lâu? Có rống gào không?
- Bẩm nghe bảo Chúa đau đớn lắm, lúc chết gào tên "Huệ".
Thoắt cái, Ngọc Hân buông tay nhũ mẫu. Tấm trướng bao phủ đất không che được những nghĩ ngợi rối rắm trong đầu Ngọc Hân chỉ trực trào ra ngoài. Nhũ mẫu nàng vẫn nhắc đến tên con người đã làm kinh thiên động địa đất Bắc Hà. Nguyễn còn, Trịnh còn, thì Lê không phất. Nguyễn vong, Trịnh diệt, nhưng còn Tây Sơn thì Lê cũng mạt. Tất cả bỗng trở nên giản dị trong đầu Ngọc Hân. Nàng với tay lấy tráp phấn son rồi gọi nhũ mẫu đi lấy xiêm áo cho mình.
Năm Bính Ngọ, Ngọc Hân chỉ mới mười sáu tuổi, nhưng mang tất cả nhan sắc của Bắc Hà. Ngọc Hân biết mình đẹp, và biết sắc đẹp là vũ khí duy nhất của người đàn bà. Nàng dồi phấn lên mặt, chăm chỉ chuốt lông mày. Những ngón tay tỉ mỉ kẻ viền mắt, đánh thật sắc khóe mắt vốn đã sắc lịm bén như nước lam nhìn ai thường hớp hồn kẻ đó. Ngọc Hân không vội, chậm rãi dồn hết công phu vào việc trang điểm. Lúc bà nhũ mẫu mang xiêm y tới sau lưng, người bà chợt rợn lên vì hình ảnh lúc ấy trước mặt, không phải hình ảnh điểm trang thông thường, mà là cái cảnh của một người con gái sắp thành đàn bà ngồi đánh mắt như đang mài dao, mải miết cho đến lúc bản thép nhọn, bén ngời.
Ngọc Hân thay áo, thứ hàng lụa mỏng mát rượi chảy mềm trên thân thể nàng. Dăm cánh hoa cúc vàng điểm lăn tăn ở chéo áo như hé mình bung cánh nở đẹp lạ thường ở mỗi bước chân uyển chuyển của Ngọc Hân. Hôm nay Huệ và Chỉnh vào gặp vua Lê. Ngọc Hân quát nhũ mẫu lấy giấy bút cho mình làm vội bài phú để lấy lòng Huệ. Ngọc Hân chấm bút vào mực, nóng nảy viết thoăn thoắt một lúc 164 câu. Trong lúc sơ ý, nàng để ống tay áo nhúng vào liễn mực thấm loang một góc. Đến khi đọc lại đến đoạn mà nay áo vải cờ đào... mới chợt nhận thấy tay áo mình bị ố. Chỗ lụa lấm đen làm nàng khó chịu, toan đi thay, nhưng rồi chợt nghĩ biết đâu chỗ mực lem ấy sẽ làm Huệ cảm động. Ngọc Hân đọc lại bài phú, lời lẽ nhún nhường mà sắc, các thanh chập vào nhau như tiếng dây chuông rung ở cửa lầu phủ Chúa. Huệ là kẻ biền võ, nhưng đọc thì ắt phải xúc động. Đã có tiếng trống hiệu đón người ngựa của Tây Sơn vào cung Vạn Thọ, Ngọc Hân búi lại tóc, tra thêm chiếc trâm cài có nạm ngọc, dấu hiệu của trinh tiết không thể thiếu trong buổi ra mắt đầu tiên. Âm trống chưa dứt và tiếng đập mạnh của trái tim trong lồng ngực làm nàng nghe như tiếng chân Huệ dõng dạc bước lên điện. Cái con người đang nắm vận mệnh Bắc Hà, Ngọc Hân quyết chiếm cho bằng được, trả bất cứ giá nào kể cả bán thân xác. Nhũ mẫu gọi hai tỳ nữ đi theo nàng, lúc ra khỏi khuê phòng, Ngọc Hân không quên đem theo bài phú xếp trong áo.
*
Hữu đô đốc Tây Sơn Nguyễn Hữu Chỉnh dõng dạc đi lại, điệu bộ của con lang đi theo chấm mút bữa ăn còn sót của hổ. Khuôn mặt Chỉnh dài, cái cằm nhọn, cánh mũi mỏng quá độ dễ làm liên tưởng đến mỏ quạ. Chỉnh nói chuyện nhưng không nhìn Hiển Tông xem như không có. Ngọc Hân vừa giận, vừa thất vọng. Huệ không đến, Chỉnh đi lại một mình bàn chuyện tấn phong Nguyên Súy cho Huệ ở điện Kính Thiên. Vua Lê – con heo già – chỉ biết giương đôi mắt lờ đờ thở ì ạch, tán đồng, thứ công việc mà người ta đãi công bằng chiếc ngai sơn son thếp vàng lâu ngày tróc lở như lên hủi. Xong chuyện, Chỉnh cho vua Lê lui gót rồng, còn lại một mình hắn cười khẩy săm soi sàm sỡ nhìn Ngọc Hân. Khóe miệng Chỉnh khinh khỉnh, khẽ nhếch lên đuổi hết tả hữu ra ngoài, đai áo óp vào rồi phình ra theo nhịp thở có mùi trầu cay bám đỏ ở những kẽ răng Chỉnh mỗi lúc gần sát mặt Ngọc Hân. Chỉnh đưa đẩy mấy câu vu vơ bàn chuyện hôn nhân sắp tới, tia mắt chỉ chực dịp là thả vào ngấn cổ Ngọc Hân để đo lường sắc trắng của da thịt với vải lụa bạch. Ngọc Hân nhìn trừng Chỉnh, nhưng cái thế của nàng chưa cho phép đối đầu với Chỉnh. Chỉnh nắm Ngọc Hân như nắm chuôi dao, muốn chém vào đâu thì chém. Chỉnh xòe một bàn tay trước mặt Ngọc Hân, bàn tay có đeo chiếc nhẫn khảm phượng, phần thưởng thi Hương Cống của vua Lê ban cho Chỉnh lúc xưa.
- Thiên hạ vạn kẻ, nhưng nhân tài ở đất Bắc Hà chỉ một mình ta. Ta về với Tây Sơn, Bắc Hà chỉ là cái đất không!
Chỉnh hầm hè.
Chưa rõ Chỉnh muốn gì, Ngọc Hân nửa muốn bước lùi một bước để tránh hơi thở ám mùi trầu lẫn mùi giềng của gã, nhưng lại sợ Chỉnh khi mình chịu kém, nàng dùng dằng chưa biết tính sao. Chỉnh lại cất giọng:
- Cuộc hôn nhân này, phú quý vinh hoa chỗ nằm bên cạnh Thượng Công thì chớ quên ta.
Chỉnh vừa nói, bất ngờ chụp lấy vai Ngọc Hân, rồi lợi dụng Ngọc Hân đương bối rối, Chỉnh luồn ngay tay vào trong yếm ghì chặt lấy ngực nàng.
- Buông ra!
Ngọc Hân vùng vẫy, đẩy Chỉnh, cố lùi ra sau nhưng lưng đã chạm bức chắn bình phong. Vừa hổ ngươi, vừa nhục, Ngọc Hân vung tay tát trái Chỉnh. Song Chỉnh phản ứng bằng tất cả nhanh nhẹn tốc chiến của thủy quân Tây Sơn, bẻ quặt lấy tay nàng.
- Tri hô cầu cứu đi! Để cho Thăng Long rõ cái nhục của cung Vạn Thọ!
Chỉnh chồm người, gầm gừ, đầy đắc thắng, bàn tay vẫn luồn trong yếm đào, vừa mân mê, vừa đe dọa. Thư phòng vắng người, như tất cả đang đồng lõa với Chỉnh. Một bức hoành phi sau lưng Chỉnh chạm lộng đôi Giao Long đang cấu xé nhau như hoạt cảnh diễn ra. Ngọc Hân giận tím mặt. Bàn tay Chỉnh đọng mồ hôi ẩm ướt trên da thịt khiến nàng lợm giọng. Ở người con gái khác sẽ là mối nhục ngàn đời đưa đến tự vẫn, nhưng với Ngọc Hân đó là lối xử ngu xuẩn. Máu nóng dồn lên làm đôi mắt nàng vốn sắc sảo càng thêm sắc. Tia mắt Ngọc Hân dữ dội đến độ, đương suồng sả, Chỉnh lặng đi, choáng người, phải rút vội tay. Ngọn lửa đằng đằng sát khí trong mắt Ngọc Hân, Chỉnh đã trông thấy nhiều lần trong đôi mắt Huệ. Đôi mắt của kẻ hiếu sát, đã quả quyết làm gì là làm cho đến cùng. Châu thân Chỉnh lạnh toát, mồ hôi bất ngờ vả ra ở sống lưng. Ánh mắt đương cháy lập lòe của Ngọc Hân rõ ràng là ánh mắt của Huệ, cái nhìn trừng phạt của Huệ trước cảnh hành quyết. Lần vào Gia Định tàn sát tập thể các chú khách, Huệ đã nhìn những xác người Minh Hương bằng cặp mắt của Ngọc Hân đang nhìn Chỉnh lúc này. Chỉnh cảm thấy khó chịu, khô ở đầu lưỡi, gượng gạo sửa lại đai áo. Ngọc Hân tiếp tục nhìn trừng trừng cho tới lúc Chỉnh phải quày quả bỏ ra. Ngọn gió luồn từ cánh cửa Chỉnh không khép thổi lùa thốc qua gian phòng. Những lá thế kỳ, cườm hoa mừng chiến thắng Tây Sơn diệt Trịnh treo khắp nhà như cung Vạn Thọ đang có lễ tang. Khuôn mặt Ngọc Hân vẫn tím xanh vì giận dữ. Nếp vải xổ ở ngực áo như còn bày năm dấu tay Chỉnh in trên mình nàng. Ý nghĩ căm ghét quan lính Tây Sơn càng tăng trong đầu Ngọc Hân. Đến lúc nắng xếch qua riềm cửa, rọi lòe khóm trúc trồng ở chậu đồng, Ngọc Hân mới bỏ vào trong, nhưng bàn tay Chỉnh cũng đã theo nàng vào khuê phòng.
Suốt trưa đó, Ngọc Hân bứt rứt, khó chịu, ý nghĩ có mối thù chưa trả làm nàng như đứng trên giàn hỏa. Đến chiều, bức bối không sao chịu nổi, Ngọc Hân sai thị tỳ cùng nô tài khiêng kiệu đưa nàng ra cửa Tuyên Vũ xem bêu xác Trịnh Khải. Tất cả những uất ức của Ngọc Hân như được trút ra khi trông thấy thủ cấp nhà Chúa. Đầu mắc một nơi, xác phanh một góc. Cả xác của Nguyễn Noãn gia thần Trịnh Khải và Đỗ Thế Long bị quy phản dìm chết ở sông Phú Lương cũng được vớt về căng lên cho mọi người làm gương. Ngọc Hân nhìn ngắm chăm chăm từng nét mặt của Trịnh Khải, từ cặp mắt trợn ngược, nốt ruồi dư mà lúc sinh tiền Khải thường hay vân vê, đến lỗ dao sâu hoắm ở cổ họng và những sợi gân còn vướng mắc đong đưa lòng thòng bên dưới. Ngọc Hân cảm thấy hả dạ, cúi xuống lần lần khăn san cầm ở tay ra vẻ xúc động, nhưng kỳ thực là để che dấu nụ cười thỏa mãn, cực sung sướng. Lần đầu tiên nàng khám phá ra hiệu quả của những xác chết có thể giải bày mọi uất ức trong người mình. Ngọc Hân lấy móng tay vẽ mơ màng lên khăn tay. Hai gã nô tài đợi lâu, dợm chân định đưa kiệu về, Ngọc Hân đã ngửng phắt lên bắt ngừng, để nàng được dịp ngắm Trịnh Khải cho thỏa thích. Nhưng lần này ở chỗ móc xác Trịnh Khải, Ngọc Hân mường tượng ra thủ cấp của Chỉnh.
*
Đám cưới của Huệ sau chiến thắng vang dội được xem là một ngày trọng thể. Trong phủ Chúa, binh lính Tây Sơn tạm đóng đại bản doanh, người con rể của Thăng Long đi lại với tất cả dáng vẻ của một con hổ sau bữa tiệc hoẵng. Huệ ở thời kỳ này đã khác xa Huệ của Thị Nại, hay Huệ của Phú Xuân. Trong phủ Chúa, chốn sang trọng lộng lẫy nhất Thăng Long từng mảng da beo lớn trải làm thảm lót chân, Huệ đi lại trên đó và khạc nhổ cũng trên đó. Những tấm khiên lớn bằng đồng bóng loáng soi khuôn mặt Huệ đỏ sần lên vì rượu. Tả đô đốc Vũ Văn Nhậm nhắc:
- Sắp tới giờ, Thượng Công nên đi rước dâu.
Huệ đang dùng đoản đao bổ đôi quả cau, quẹt vôi rồi ăn sống, buông đao, ngửng lên nhìn Nhậm. Huệ thấy Nhậm y như lời Chỉnh thường rỉ tai: Vũ Văn Nhậm hữu dõng vô mưu, đầu óc trống trải, tựa như một cánh đồng khô, không hoa, không lúa. Huệ gắt:
- Ta dẫn mấy vạn quân ra đây, đánh một trận dẹp yên thiên hạ, lão già họ Lê, dòng họ, ngai vàng lão thuộc về ta như trâu bò, đất đai, người ngợm của Bắc Hà. Việc gì phải đi đón! Đem con nộp thì ta lấy!
Chỉnh từ nãy ngồi ở ghế trường kỷ, không ngớt rót rượu cho Huệ, nghe Nhậm bị mắng, khẽ nhếch môi nhưng không cười. Chỉnh vươn tay bẻ một nụ vạn thọ cắm vàng hoe trong lọ độc bình.
- Ý của Tả đô đốc là muốn Thượng Công giữ tiếng. Bề ngoài mình vẫn mang danh nghĩa phù Lê. Sá gì cái chức Nguyên Súy, Dực Chính Phù Vận Uy Quốc Công. Ngai vàng của Hiển Tông, Thượng Công muốn ngồi lúc nào bọn tôi cũng kéo sẵn!
Mấy lời của Chỉnh làm đẹp lòng Huệ. Đang bẳn gắt, Huệ trở ra vui. Lại dùng đoản đao chém cổ bầu rượu. Hiểu lòng Huệ như Chỉnh, thiên hạ không có mấy người, kể cả Ngô Thì Nhậm sau này khi Huệ ra Bắc lần thứ nhì thu phục được. Vui vẻ nên Huệ trở nên hào phóng, trở lại trướng ngồi. Sau lưng Huệ là một tấm cờ đào to bản vẽ chính giữa một chữ "Tâm" thật lớn. Huệ vẫn hãnh diện về cách đãi người của mình, không "Dũng", không "Mưu", nhưng chính cái "Tâm" mà Huệ tự nhận là thiên tài lớn. Quân Tây Sơn đi đến đâu, Huệ cấm không được tơ hào, nhưng dân các vùng phải nuôi ăn và cúng góp. Huệ sai Nhậm:
- Thằng Chỉnh nói hợp ý ta ta. Ngươi xuất kho hai trăm lạng vàng, hai nghìn lạng bạc, hai chục tấm đoạn mang sang cung Vạn Thọ, nói là của ta thí cho!
- Lễ vật cầu hôn của Thượng Công dâng lên Hiến Tông.
Chỉnh chữa lại.
Nhậm từ nãy nóng bừng mặt vì mấy lời bàn của Chỉnh, nhưng vốn chậm chạp, còn lúng túng chưa kiếm được cách "phóng trả lao", thì Huệ đã giục:
- Thằng chết bầm! Còn đứng đó!
Nhậm vội vã cúi chào lãnh mệnh đi. Nhậm đi khuất, chất hào phóng trong người Huệ cũng tan đi. Huệ đâm tiếc của, nhưng ngại nói ra mất mặt trước bề tôi, đành hỏi vờ:
- Ta xuất kho nhiều như thế, liệu đủ chăng?
- Thấm vào đâu!
Chỉnh vẫn vân vê nụ vạn thọ, trả lời. Những cánh vàng mềm mềm áp trong tay khiến Chỉnh vụt nhớ tới Ngọc Hân, nhớ sắc đẹp mê hồn mà sắc sảo, Chỉnh lỡ đụng vào đứt tay, vết thương không khép miệng. Tự nhiên Chỉnh ghen tức với Huệ, vò nát nụ vạn thọ, mỉa:
- Dân Bắc Hà chăm cúng góp. Thượng Công muốn bao nhiêu trong kho cũng có!
Nhưng Huệ không hiểu thâm ý, mãn nguyện ngả người lên bệ Chúa. Cuối tháng sáu, tiết trời Thăng Long đã chực bước sang tháng bảy nên hầm bức. Huệ cởi hẳn chiến bào nằm duỗi người dang vai như dáng nằm của loài hổ chùi mình trên cỏ trước cơn rượn đực. Chỉnh biết ý Huệ không còn muốn tiếp chuyện, lẳng lặng bỏ về. Những cánh vạn thọ còn dính ở kẽ tay khiến lòng Chỉnh bâng khuâng, vừa tiếc Ngọc Hân, nửa giận Huệ. Mưu phản ngấm ngầm từ lúc đó.
*
Đêm hợp cẩn của Ngọc Hân, mưa xé qua rèm trướng phủ Chúa. Tất cả hầm bức của ban ngày nổ tung xuống nóc lầu Tửu Các. Trước đây là chỗ riêng của Trịnh Cẩn. Tiếng sấm dậy vạch chớp những đường dài lòe rực nơi ô cửa. Tâm thần Ngọc Hân dao động theo dông bão trộn lẫn những bối rối lo lắng tìm cách khuất phục Huệ. Nằm một mình trên chiếc giường của Trịnh Cẩn, Ngọc Hân không ngớt nghĩ ngợi tới những người con gái đã vào nằm trong lòng giường này. Từ thời Trịnh Tùng Bình An Vương đến Tôn Đô Vương là Trịnh Cán, tính ra tất cả chín đời Chúa, hai trăm mười ba năm ròng rã. Bao nhiêu người con gái tan xương nát thịt dưới mình Chúa? Bây giờ tới phiên Ngọc Hân. Nếu không là Huệ, thì trước sau nàng cũng phải thất thân với Trịnh Khải. Trước sau Ngọc Hân cũng phải trao thân cho kẻ nắm quyền ở Bắc Hà, như cánh cửa ải phải đi qua. Việc quan trọng là sau khi qua ải, phải làm thế nào để khôi phục vương triều Lê. Ngọc Hân cắn môi, day trở một lúc rồi không nằm được nữa, những kèo cột chống rường và thượng lương chống đỡ nóc lầu như cứ muốn ngã vật đè lên đầu nàng. Ngọc Hân bực bỏ ngồi dậy, xoay mặt vào vách đợi Huệ.
Đêm khuya lắm. Tiếng trống kéo dài thõng thượt chạy xoáy qua khắp hành lang. Huệ vẫn còn ngồi uống với bọn Chỉnh, Nhậm. Uống theo kiểu Tây Sơn, từng cối, từng thau, khi uống vục mặt vào chậu cho ướt hết tóc tai. Rượu là thứ rượu đế của làng Vân ngoại thành Thăng Long cay xè lưỡi, nhưng xuống đến cổ thì ngọt lừ hương vị của men rượu hạ thổ như đưa hết âm khí của đất Bắc Hà vào mình, khiến bao nhiêu nước trong người Huệ theo mồ hôi xuất hạn đầm đìa, như muốn dành chỗ để chứa rượu. Uống đến thau chót, Nhậm đã say lắm, nhưng còn sực nhớ điều gì, khuyên Huệ:
- Lầu Tử Các ngày xưa là chỗ ở của Trịnh Cán, làm Chúa chưa đầy hai tháng thì bị truất, Thượng Công hợp cẩn ở đó không nên!
- Thượng Công oai vũ uy dũng, cho sống thì sống, bắt chết phải chết, cớ sao phải sợ?
Chỉnh ngà say, nhưng cũng cất giọng, theo thói tật hễ Nhậm bàn điều gì thì Chỉnh phải bác đi. Huệ lừ lừ dốc hết thau rượu, rồi đứng lên, hai ngọn lửa trong mắt vẫn không suy suyển, rượu chỉ làm sức cháy phừng lên mãnh liệt hơn.
- Đạo làm tướng không biết sợ! Chỉ có mệnh trời mới hại được ta!
Huệ tiện tay lật bàn. Chỉnh và Nhậm ngã chúi xuống nền nhà. Nhậm nhằm cơn, ói mửa tung tóe. Chỉnh vừa lấy tay lau mặt, vừa gạt chén đĩa thau chậu quanh mình, nhìn Huệ hậm hực cố gượng dậy. Song Huệ đã lừng lững bỏ đi. Ánh đèn lồng treo ở xà thượng, về khuya, vắt lên lưng Huệ những vằn vện của cột mái trông như tấm lưng hổ đi kiếm mồi.
*
Lúc Huệ dẫm chân lên thang lầu Tử Các, mùi xạ hương tẩm trong chăn gối bỗng tan mất nhường cho hơi rượu nồng nặc. Chưa trông thấy, nhưng Ngọc Hân biết ngay Huệ đến. Nàng xoay mặt đợi, hơi nép vào tấm màn thêu quanh giường. Đã chuẩn bị sẵn, nhưng lúc Huệ đẩy cánh cửa gỗ nặng nề chạm long ly qui phượng, rồi giật mạnh tấm màn gấm che ngoài, Ngọc Hân cũng thót người sợ hãi. Tia lửa lập lòe từ mắt Huệ cháy rờn rợn như muốn đốt nàng. Huệ quả như lời đồn đãi, vai to bè hơn vai tê giác, mặt vuông ván gỗ. Huệ cất tiếng nói. Giọng ồ ề vỡ ra như tiếng thác đổ vào giữa khuya. Huệ nói gì, Ngọc Hân không hiểu, hơi rượu ngập ngụa kèm theo chữ mất chữ còn phát ra từ thân hình quá đẫy đà chỉ chực đổ xuống. Giọng vỡ của Huệ làm Ngọc Hân nhớ tới lời đồn, trước đây giọng Huệ thanh, từ khi kéo quân ra Rạch Gầm đánh quân Xiêm tự nhiên mất giọng, tiếng bể như tiếng rạch nước đổ xuống trũng sâu. Dân dã bảo là điềm trời không thuận cho Huệ diệt Nguyễn Ánh. Ngọc Hân níu lấy vải mền, bao nhiêu quả quyết như tan vụn trước mặt Huệ. Nhưng Ngọc Hân không muốn bị khuất phục, không muốn Huệ cưỡng chiếm mình như cưỡng chiếm dinh thự, trâu bò của Bắc Hà. Nàng nhìn trừng trừng Huệ. Cái nhìn của con thú sắp bị cắt tiết. Cái nhìn của Ngọc Hân có thể làm chùn tay Chỉnh, nhưng với Huệ – uy-vũ-dũng – cái nhìn chỉ làm cho Huệ đang say bỗng sôi gan. Huệ chụp lấy ngực áo cưới của Ngọc Hân xé toạc. Bằng hành động của con mãnh thú, Huệ xô ngã sấp Ngọc Hân ra giường, tháo dây đai quật xối xả lên tấm lưng mảnh dễ tưởng như giải lụa bạch đang oằn mình chịu đòn. Huệ quất như thúc voi, thúc ngựa, tiếng roi đánh chát chúa tóe lửa vun vút cuồng nộ. Rồi không kềm chế được, như Nguyễn Nhạc ngày xưa mất tự chủ trước da thịt mời gọi của Phú Xuân, Huệ đè ngửa lên biểu tượng trinh trắng của Thăng Long. Những bắp cơ Huệ còn nhớp nháp mồ hôi quấn lấy mình Ngọc Hân đang nghiến chặt răng chịu đựng. Huệ vục xuống gáy Ngọc Hân cắn như xé thịt. Dáng đè của Huệ, hai đùi chống xuống giường, mình trần phủ lên người Ngọc Hân y như dáng hổ đang ngoạm hoãng. Đến lúc Huệ bắt Ngọc Hân co hai đầu gối, thì nàng quá đau đớn không dằn được, bật tiếng kêu nấc trong đêm tối. Huệ nghe tiếng nấc, khoái cảm càng tăng lên như những lúc chứng kiến hành quyết. Đao phủ Tây Sơn xử trảm bằng cách chém ngửa nghịch nhân, mã tấu phập xuống tiếng thét của tội đồ bị đứt ngang ở cuống họng chỉ phát ra được tiếng nấc khô. Tiếng nấc khô của Ngọc Hân lúc nãy.
Mùi mỡ trong đèn chai cháy èo uột ngọn lửa lúc tối lúc sáng, căn phòng của Trịnh Cán đóng xong vai trò lịch sử rơi chìm vào giấc ngủ đẫm mùi rượu đế của Huệ. Cơn dông chùng xuống sau gần suốt đêm quất qua lầu Tử Các. Những hột mưa gai sắc như muốn trổ mái bắn xuống mình Ngọc Hân ẩm ướt, tủi hổ. Lúc cơn mưa tạnh hẳn, bóng trăng bắt đầu lấp ló, chạy ngang trên trục xà hạ, thì Ngọc Hân không còn thấy đau đớn, chỉ trông rõ xác Huệ bị bêu ở Tuyên Vũ. Thói đời phong kiến, nợ máu phải trả bằng máu. Ngọc Hân chấm tay vào giọt máu còn rỉ ra ở bụng mình, đưa lên môi, máu của họ Lê phải trả bằng máu của Tây Sơn.
*
Lúc tôi ra Thăng Long, tiết trời tháng bảy nặng nề lắm. Những cánh lá bàng to như xác trâu mộng, rụng ì ạch xuống kinh thành đã cũ mục, dậy mùi cũ kỹ, từ triều đại đến máu huyết. Huệ đợi tôi ở phủ Chúa, Huệ hơi ngượng, tia mắt dữ dội của Huệ nhìn lên tấm vải cờ đào vẽ chữ "Tâm". Nhưng rồi như nhận ra chữ "Tâm" không đúng với lối hành xử của mình, Huệ lại nhìn xuống ngón chân bị dập từ thưở thiếu thời, máu bầm làm đen móng. Trong thiên hạ, có lẽ chỉ mình tôi là Huệ không dám hành xử chữ "Tâm", dùng ngọn lửa của đôi mắt để đốt… Huệ sai Nhậm lấy rượu ra uống. Tôi cùng uống thố rượu mời của Huệ. Giống như thời ở Qui Nhơn, hết thố này qua thố khác, hết chậu này sang chậu khác, bao giờ Huệ cũng say trước tôi. Tôi được trời phú cho khả năng ngậm rượu. Rượu tôi uống vào, bao nhiêu cũng chảy sang mình Huệ. Làm như thân thể cả hai nối với nhau bằng một sợi giây vô hình. Uống một lát, rồi Huệ quát đuổi Nhậm và Chỉnh ra. Phủ Chúa lộng lẫy mà lạnh lẽo sự lẻ loi cô độc của Huệ. Tôi nhắc chuyện Nhạc ở Qui Nhơn không bằng lòng việc Huệ ra Bắc. Thái Đức sắp kéo binh ra. Nhưng Huệ thờ ơ lắm, không để tâm, hay không xem Nhạc ra gì. Nhìn mấy bông vạn thọ cắm vụng về trong lọ, tôi hỏi Huệ:
- Phủ Nguyên Súy sao chưng thứ bông quê mùa này? Đất Bắc Hà không thiếu hoa đẹp, hồng gai, phong lan, thủy tiên, hoa loa đỏ...
- Ta không biết thưởng hoa!
Huệ lắc đầu, chán chường đáp. Rồi không dằn được, trong vật vã của cơn say, Huệ kể hằng đêm phải lôi Ngọc Hân ra đánh mới thỏa mãn. Khuôn mặt Huệ lúc đó đau khổ lắm. Huệ lại kể hôm giữa tháng bảy, "con heo già" mất, Hoàng Tôn Lê Duy Kỳ lên ở ngôi. Ý Huệ không thuận, bởi Huệ muốn ngồi trên ngôi báu đó, nhưng lòng dân chưa ngã ngũ. Lễ Thành Phục Huệ đưa Ngọc Hân về lãnh tang, trước linh sàng Hiển Tông, Huệ nóng nảy sai Nhậm chém một viên Tả Phiên triều Lê, chỉ bởi hắn dám cười cách đọc điếu văn của Huệ. Lúc chém: Nhậm cằm dao chém ngửa, máu bắn cả vào ỷ Hiển Tông đặt trên linh sàng nơi cửa Đông. Thủ cấp Huệ sai bỏ trên mâm bạc đặt lên áo quan vua làm kinh động khắp thành. Thân nhân người có tội hay biết, chạy đến cửa cung kêu khóc. Huệ cũng sai chém. Tính ra lúc động quan, chém cả thảy mười bảy người. Càng kể, hai mắt Huệ càng ngầu đỏ vẩn đục. Huệ ngồi trên một chiếc rương to, hai người ôm không hết. Như muốn cởi hết tâm sự lòng, Huệ đứng dậy, chậm rãi mở rương, bên trong chồng chất từng xấp phướng. Từ trong chiếc rương hòm như bốc lên cả một khối chì chiết. Lá phướng dài dằng dặc chép đen nghịt tên tuổi những người Huệ đã đích thân sai chém. Có đến cả trăm, nghìn tên, đó là chưa kể những người do quan lính Tây Sơn tự ý giết. Huệ lần giở, lá phướng di chuyển rơi thõng xuống rương, rơi đến đâu tên tuổi người chết bật ra đến đó. Đến phần phướng trắng, Huệ dừng lại. Cả mình mẩy tôi đều rợn lên vì ở phần phướng còn trống, Huệ đã nối sẵn, dài gấp năm sáu lần lá phướng đã chép. Và cái tên cuối cùng được ghi sẵn là hai chữ rắn rỏi: Nguyễn Nhạc!
Không khí trong phủ Chúa lúc đó nặng nề, u uẩn không sao thở được. Người tôi khô đi vì sợ. Tấm bản đồ Huệ cho vẽ treo cạnh đầu hổ, phía Tây vẽ hết biên giới Tiêm La, phía Bắc lên hết vùng Lưỡng Quảng, còn phía Nam qua khỏi Vĩnh Trấn chấm biển. Gió đẩy tấm bản đồ lắc lơ, như nhắc nhủ những tham vọng của Huệ. Những tham vọng đã vượt xa ngày đầu tiên lên Phú Xuân. Lúc đó Huệ chỉ nghĩ tới Nam, Bắc Hà, bây giờ ngọn lửa trong đôi mắt Huệ cháy lan đến những vùng khác. Nơi nào có đất, có người, thì coi như của Huệ. Huệ đã thay đổi, chỉ có Nguyễn Nhạc còn bằng lòng mãi với chiếc ngai của Nguyễn Vương. Lần ở phủ Chúa, là lần duy nhất Huệ thố lộ tâm sự với tôi nhiều như vậy. Ở đầm Thị Nại, Huệ chỉ mở miệng một hai câu, phơi cả lòng mình cất trong rương là quá nhiều. Nên Huệ trở ngay lại với tính bẳn gắt. Khạc nhổ, lầm bầm chửi rủa, đóng mạnh rương, rồi trở ra bàn gục mặt vào thau rượu. Huệ uống tới lúc ngủ quên trong thau. Tôi đỡ Huệ dậy, dìu đặt nằm ở bệ Chúa. Từng cánh vạn thọ vàng rụng rây rắc xuống lồng ngực Huệ, thở đều đặn nhịp sống của đất nước. Buổi trưa xác xao đến độ buồn tẻ, tiếng ngựa hí, tiếng trống dồn binh không có, vắng lặng tẻ nhạt, chỉ lâu lâu mới có tiếng quân cờ Chỉnh và Nhậm đang đánh, đập lẻ tẻ ngoài mặt phản.
Tôi đứng một mình một lúc không biết làm gì, lần ra Bắc này gặp Huệ sao tôi không được vui, lòng cứ phân vân vì những biến chuyển nội tại đang xảy ra. Tên Nhạc chép trên lá phướng như một vết dao cắt ruột. Lương tri tôi khổ sở nghĩ ngợi, bỏ mắt Huệ hành xử chữ "Tâm" với Nhạc sẽ là vết nhơ muôn đời. Nghĩ tới lui không được kế gì, tôi đành bỏ ra xem Chỉnh và Nhậm đánh cờ.
Thế cờ của Chỉnh sáng lắm, linh hoạt, xảo quyệt, quyền biến. Đôi mã giao chân xấn xổ tạt bên hữu, nhảy bên tả, áp đảo Nhậm trông thấy. Ở ngoài nhìn thì Nhậm có vẻ lúng túng, xoay trở chậm chạp. Công không ồ ạt, chỉ lo thủ, xây đắp tường thành, bẫy Tượng, gểnh Sĩ. Chẳng mấy chốc Chỉnh đã xua hết quân sang sông. Cống Chỉnh đánh cờ bằng phong thái tự tin của mình ngày xưa đi thi Hương Cống, tin ở tài biện luận xuất chúng, trước sau thì Chỉnh cũng đỗ. Nhưng đánh càng lâu, thế cờ càng đổi khác. Nhậm nếu chậm chạp, nhưng một khi đã làm xong hết những công việc chậm chạp của mình thì trở thành một pháo đài kiên cố. Quân Nhậm còn đủ Sĩ Tượng, năm Chốt giàn đồng, hai Pháo Thần Công, trong lúc Chỉnh chỉ còn độc mỗi một mình một ngựa. Chỉnh lùi mã về Bắc, hy vọng cố thủ, nhưng cung vua đã mất hết Sĩ Tượng, thế trận của Chỉnh trống trải, toang hoác, Nhậm muốn vào ra lúc nào tùy ý. Kết cuộc ván cờ không có gì lạ, Nhậm kiêu hãnh trong lúc Chỉnh bực bội.
Tôi đứng im theo dõi, ván cờ định mệnh, muốn bàn với Chỉnh, Nhậm khuyên Huệ đừng giết Nhạc, tránh cảnh nồi da sáo thịt. Song nhìn khuôn mặt họ, cằm nhọn lưỡi cày của Chỉnh, vai u thịt bắp nồn nận ở Nhậm, tôi hiểu họ không có giá trị gì với Huệ. Cái người khuyên Huệ đãi chữ "Tâm" đích thực với Nhạc, chỉ có thể là tôi, vào lúc thời cơ thuận tiện nhất.
Chỉnh và Nhậm còn đang tranh cãi, Chỉnh đòi bày lại cờ, Nhậm dứt khoát tuyên bố mình đã thắng Chỉnh, cờ soái về tay, cả hai không ngờ Huệ đã thức giấc từ lúc nào. Huệ đưa tay chụp bắt quân Tướng của Nhậm, cả bọn mới đực ra rồi vội vã cúi chào. Vẻ mặt Huệ lúc đó, không còn biểu hiện thành thật nào nữa, Huệ đã ra khỏi trạng thái tâm sự với tôi lúc nãy, trở lại nguyên vẹn vai trò Chúa Tây Sơn.
- Đất Đại Việt chỉ có một chủ!
Huệ quát bằng giọng Rạch Gầm, bốn ngón cái và trỏ bẻ đôi quân tướng của Nhậm.
*
Đêm ở phủ Chúa, Huệ bước chân lên lầu Tử Các, lòng âm ỉ cơn say. Sống với Huệ hơn ba tháng, Ngọc Hân đã biết những thói quen chung chạ của Huệ. Thứ thói quen của chứng bệnh thường thấy đi kèm với bệnh cuồng sát. Lẳng lặng, tự nguyện, không đợi Huệ bắt, nàng cởi xiêm áo đến quỳ trước chân giường. Cái liếc mắt của Ngọc Hân ném về phía Huệ sắc đến nổi gai. Huệ lấy roi, không phải dây đai của đêm hợp cẩn, mà là thứ roi gai của quản tượng dùng quất voi khi lâm trận. Ngọc Hân uốn lưng đợi, tóc xoã chảy xuống nền đá, không trang sức, không cả chiếc vòng cổ truyền của con gái Bắc Hà, chỉ một dấu thẹo đỏ do sắt nung ở vai. Vết thẹo đã lên da non nhưng đoán được dấu tỉ ấn của Huệ. Hai ba tấm màn gấm dụ buông quanh chỗ Ngọc Hân quỳ, Huệ tiến tới một bước, hai bước, rồi vung tay quất. Đầu roi vút tiếng rít như rạch rách tấm màn gấm. Ngọc Hân oằn người bấu cứng lấy trụ giường. Huệ đã say máu, những chấm máu li ti tím bầm nổi trên lưng Ngọc Hân trông như vệt ong đốt, hay những giọt mực son rỏ lên vũng sữa, Huệ vung tay tới tấp.
Khác với đêm hợp cẩn, Ngọc Hân rên rỉ, oằn oại kêu rất lớn. Nhưng nếu Ngọc Hân đau đớn, thì nỗi đau đớn đầy đắc thắng. Huệ quất roi như một kẻ suốt đời hành nghề tra tấn, không được đánh người thì không biết phải làm gì. Huệ bị ràng buộc vào người đàn bà mà mãi mãi từ đây, hằng đêm Huệ phải tìm đến. Khuôn mặt Huệ toát ra vẻ mãn nguyện, thỏa mãn. Huệ chỉ buông roi khi Ngọc Hân đã ngã khụy dưới chân giường. Cảnh giao hoan của Huệ với Ngọc Hân, cũng không còn là cảnh cưỡng bức ban đầu, nếu dáng ngồi đè của Huệ vẫn in dáng hổ nhai mồi, thì hai cườm tay Ngọc Hân đã quấn chặt lấy cổ Huệ, và trên lưng Huệ đầy những vết cào của một con sư tử cái.
*
Tôi chơi với Hân từ thưở bé. Từ thưở Hân còn ưa chơi ô quan trong sân cung Vạn Thọ. Bao giờ tôi cũng về phe Hân. Vua Lê có hai mươi mốt vị công chúa, họ thường nhiếc tôi là cái đuôi của Hân. Tôi với Hân như đôi bạn, chẳng vậy mà ngày xuất giá, Hân chỉ mang theo mình tôi để hầu cận, người nhũ mẫu nuôi Hân từ thưở lọt lòng, Hân cũng không thiết. Hân mặc bộ áo lụa có thêu bông cúc, thân áo mềm như cuống hoa hải đường chỉ nở một lần rồi chết. Tôi lấy thau nước cho Hân rửa mặt. Nhìn khuôn mặt đẹp, mà nét mày não nùng, tôi không khỏi xúc động. Bây giờ tôi mới hiểu vì sao người xưa nói: hôn nhân, điền thổ, vạn cố chi thù! Đất đai ở Bắc Hà này là của họ Lê, Hân tin như mấy đời nhà Lê tin vào mệnh trời, thế nước có hưng thì cũng có suy, nhưng bản mệnh họ Lê là trị vì trăm họ. Hân lấy gương lược chải lại tóc, lúc cong tay búi tó, Hân chợt chú ý chỗ ống tay áo mình lấm mực. Hân thõng tay nghĩ ngợi, rồi quay phắt lại hỏi tôi:
- Bài phú hôm nọ còn giữ không?
- Bẩm còn.
- Đưa đây!
Hân hơi gắt, mỗi lần mưu tính chuyện gì, Hân thường trở nên nóng nảy. Tôi hấp tấp chạy tìm lục trong số rương hòm vật dụng của Hân mang theo sang phủ Chúa. Mấy chiếc hài cườm, dăm cây quạt bông, một tập Chinh Phụ Ngâm ép ở giữa là bài phú. Hân sai tôi lấy bút, mài mực ra liễn. Hân đọc suốt lại 164 câu, rồi chữa, bỏ những đoạn mừng Tây Sơn vào Thăng Long, vẫn giữ nguyên những đoạn kể chiến công, chỉ thêm thắt chữa lại cho bài phú trở thành bài văn tế Huệ. Hân bảo tôi đè giấy, để mình ghi tựa. Ba chữ "Ai Tư Văn" sắc như dao khắc trên mặt gỗ. Nhẩm đi nhẩm lại, Hân nói với tôi vẫn câu "Mà nay áo vải cờ đào" là hay hơn cả. Không nói ra, nhưng nhìn đôi môi khinh bỉ, tôi hiểu Hân muốn ám chỉ ba anh em Huệ xuất thân dân dã, đầu đường xó chợ nhờ vận may mà có quyền bính, chứ không thuộc dòng dõi quý tộc vương đế chính thống lâu đời như Hân. Âm hưởng của bài tế não lòng làm tôi rợn.
- Phu nhân viết chi những lời ai oán. Thượng Công đã mệnh một đâu?
- Rồi sẽ mệnh một! Viết sẵn sau này sẽ có dịp dùng!
Hân đập mạnh tay xuống mặt bàn, rồi như sực nhớ ra điều gì, cầm lại bút, nhúng mực nắn nót đề ở cuối bài tế ba chữ: Lê Ngọc Hân. Hình như Hân do dự một giây rồi mới hạ bút quả quyết thêm vào hai chữ: Công Chúa. Không phải Nguyên Súy phu nhân, nhưng mãi mãi là Công Chúa Lê Ngọc Hân, không bao giờ là người của Tây Sơn. Làm xong bài tế, Hân có vẻ vui thích lắm. Ánh mắt long lanh như buổi trưa cùng tôi đứng ở Nghênh Phong Lầu nhìn xuống sân phủ, đám vệ sĩ của Huệ loay hoay trui nướng cóc. Mùi cóc nướng, mùi thịt ướp sả, khói than, mồ hôi, da thịt trai tráng nồng nặc cả bao lơn. Trong bọn có gã vệ sĩ riêng của Huệ, người đen như cột đình, to lớn, kềnh càng chẳng khác một con khổng tượng. Gã vệ sĩ "cột đình" nắm hai chân sau cóc xé toạc nhai nhồm nhoàm, vừa ăn vừa lấy đoản côn đánh thùng thùng vào tấm khiên lớn đeo ở vai. Tấm thớt lưng săn chắc hung đỏ như thứ đồng dùng đúc lư, tưởng đứng đâu là chôn vững vàng xuống mặt đất vậy mà bất ngờ đổ kềnh, ngã nhào chúi sấp người đập mặt vào bếp lửa. Cái "cột đình" dẫy lên, hai tay co giật, hai chân đạp đạp như đôi chân của loài ếch. Gã trợn ngược mắt, xủi bọt ở mép rồi đứng tròng. Cả đám lính xô vội vỉ cóc đang nướng chảy mỡ, rùng rùng kéo chạy. Quang cảnh diễn ra thật gấp. Hân bấm mạnh tay tôi như khám phá ra điều gì. Miếng mật cóc đắng gã "cột đình" ăn phải, không ngờ ám ảnh Hân. Khi rỗi ngồi một mình, Hân thường ấp tay lên tay tôi, nhắc lại chuyện mật cóc ấy. Con khổng tượng, con thú lớn nhất của loài thú cũng có thể bị giết bởi thứ mật của con vật bé nhỏ nhất.
Tôi kéo tay Hân, rủ ra ngoài bao lơn. Lầu Tử Các vắng lặng, trống trải, từng lớp bụi bay mờ trong nắng. Lá trúc rắc đầy bực tam cấp. Hân ngồi xuống bên cạnh tôi, lúc nãy sắc sảo linh hoạt bao nhiêu, bây giờ thẫn thờ như mất hồn. Hân sống như người bệnh trí từ hôm về với Huệ. Đêm đêm chứng kiến cảnh Hân chịu đòn, tâm thần tôi tan nát. Tôi thân thiết với Hân như hai chị em song sinh, cùng cha, cùng mẹ, cùng một nỗi lòng con gái mới lớn, kê vai lãnh trọng trách trung hưng nhà Lê chẳng khác đội đá vá trời. Ngày mai Thái Đức đưa quân vào thành, rồi Huệ chuyển quân về Nam. Từ nhỏ tôi với Hân chưa bao giờ rời Thăng Long một bước, giờ phải xa kinh thành, qua xứ Nghệ hiểm trở để ra Phú Xuân. Đường vô xứ Nghệ quanh co... Tôi chắc lưỡi. Gió thổi phất những lọn tóc mai của Hân bay sẽ như sợi chỉ loảng. Màu hoa loa đỏ treo ở chậu bình bao lơn, cũng thẫn thờ đỏ như màu gấc ở đĩa xôi cúng vua Lê đặt ngoài hiên đã nguội khói. Mắt Hân nhìn về phía cung Vạn Thọ xa vắng. Hân bất chợt hỏi:
- Nguyễn vong, Trịnh mạt, Tây Sơn diệt thì thiên hạ chỉ còn cách phù Lê phải không?
Hân lấy chân du di tới lui trên mặt tam cấp, hỏi lại: Có phải không? Tôi siết tay Hân. Những đường gân xanh đã lờ mờ nổi lên trên bàn tay mảnh khảnh, những đường gân của nặng nhọc tinh thần.
- Huệ này! Thằng Nhậm có ý đồ riêng, thằng Chỉnh không ngay thẳng, hắn lại trêu tôi, tìm cớ mà giết đi để trừ họa!
Hân nhìn tôi đăm đăm, như đang nói chuyện với Huệ. Giọng trong trẻo tỉnh táo quá độ và ánh mắt khô ráo làm tôi hoảng:
- Phu nhân! Tôi đây mà!
- Láo! Vua băng sao không quỳ xuống!
Hân lồng lên. Nhưng rồi lại đổ rũ người ra khóc nức nở. Nhục cha chưa trả, đã nhục con. Tang lễ vua Hiển Tông, tôi cùng nằm với Hân trên đất, cho đô tùy khiêng linh cửu dẫm lên như một nghĩa cử trả ơn cuối cùng. Huệ thì đứng dõng dạc, ngạo mạn, người ngựa lồng lộng cờ đào như diễn tập. Họ Lê đã mạt thật rồi!
Chính sử của mỗi triều chép mỗi khác. Sau này tôi vẫn tự hỏi: những âm mưu của Ngọc Hân là đáng thương hay đáng tội? Chép trong chính sử Tây Sơn thì đáng tội. Xét theo sử triều Lê thì đáng phục. Nhưng sống trong một đất nước chỉ biết lấy chữ ‘‘Sát’’ làm chuẩn thì mới thật đáng thương.
Mấy lá trúc vàng, rây rắc gió cuốn rụng xuống Thăng Long xao xác hơn bao giờ.
TRẦN VŨ
20/ 01/ 1992
Nguồn: Ăn Mày Văn Chương

Trương Củng
  • Số bài : 531
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.01.2005
  • Nơi: Dòng sông quê hương
PHÁO THUYỀN TRÊN DÒNG YANG-TSÉ - Trần Vũ - 26.05.2005 14:41:10
PHÁO THUYỀN TRÊN DÒNG YANG-TSÉ

Một hôm, Toàn bất ngờ đến từ sau lưng, phủ một lần vải đen trùm xuống đầu tôi và nói :
- Nhiều khi người ta có thể nhìn xuyên qua màn đen.
Câu nói lửng lơ và Toàn rời ra. Tôi quay lại, trông thấy làn vải đen lúc nãy đang vung vẩy lên xuống trong tay Toàn, gần như một điệu múa
- Cái gì không trông thấy mới thật kích thích.
Toàn lại nói, vẫn lửng lơ không rõ nghĩa. Mẩu vải đen cứ phất phơ, lùng phùng từng lúc tung xòe ra như cái nan quạt, khi chấp chới tựa một cánh dơi chập chờn rồi rũ xuống như một mình rắn. Loài rắn hổ. Có ý nghĩ cực mạnh chạy qua đầu tôi, là Toàn là một con rắn hổ chỉ chực mổ vào người mình, nhưng Toàn đã bước tới, phe phẩy mẩu vải như một tay matador thiện nghệ. Toàn xếp hẳn mẩu vải thành một giải băng và dùng nó để bịt mắt tôi.
- Chị trông thấy gì không ?
Khuôn mặt Toàn xáp gần đến nỗi thổi phà từng con hơi thở nóng hực vào má tôi.
- Không thấy gì hết.
Tôi trả lời.
Toàn xiết thật mạnh băng vải rồi lại hỏi.
- Ðã thấy gì chưa?
Tôi vẫn lắc đầu. Lần này Toàn xiết chặt hơn nữa làm tôi bỏng rát ở mắt.
- Người ta chỉ chịu khó suy nghĩ khi đau đớn.
Toàn nói với hai bàn tay ghịt chặt với hai đầu vải, không trông thấy nhưng tôi hình dung ra bắp tay Toàn nổi lên gân guốc và mồ hôi ở cổ tay nó chạm vào mặt tôi rườn rượt, nhớp nhờn. Băng vải căng cứng đến đau hai bên thái dương. Tôi quát :
- Ðủ rồi.
Tiếng thét của tôi, trong một giây, bức phá khoảng không khí nặng nề hơi ấm của căn phòng. Toàn bỏ đi, tôi loay hoay gỡ dây vải. Mảnh vải đen rơi xuống, thõng thượt, nằm chết như cái xác rắn vắt vẻo lên thành phố. Tôi còn nhức ở mắt, Toàn đã ra góc nhà ngồi dạo bản đàn mà nó ưa thích. Tiếng đàn đại vĩ cầm trầm trầm, từng điệu, từng thanh, từng nhịp, từng cung, lên bổng rồi lại trầm trầm liên tục gần nhu bứt rứt.
Toàn ngồi hơi cúi, liếc nhìn tôi bằng đôi mắt vô hình. Cánh tay mặt của Toàn mãi miết kéo mã vĩ, tay trái ôm lấy thùng đàn như một người đàn ông say mê ôm một người đàn bà. Năm ngón tay Toàn bấm xuống dây đàn, nhấc lên, rồi lại miết xuống. Thanh mã vĩ đưa tới, kéo lui, đưa tới, rồi lại kéo lui. Tiếng đàn cò cưa phừng phừng không điêu luyện, giống tiếng một lưỡi cưa cùn trên dây thép chùng nhão. Thứ âm thanh chùng nhão bò trườn, lê lết, oằn oại lấn dần trong phòng, nuốt từ cái bàn ăn qua tủ sách đến tận chỗ tôi.
- Ðủ rồi !
Tôi quát lên lần nữa, không chịu nổi sự lì lợm tai quái ở dáng nhìn trừng trừng nhưng vô hình dạng của nó, Tiếng đàn đột ngột đứt quãng. Thanh mã vĩ rời ra và cái thùng đàn tròn lẳn đầy đủ hình dạng một người đàn bà thôi nhúc nhích. Toàn cất tiếng:
- Cấm đàn hay cấm nhìn chị ?
- Cả hai.
- Ðúng rồi, cả hai đều là gỗ đá vô tri.
Toàn cười sực lên, đứng dậy biến mất vào buồng riêng.
Tôi còn lại một mình, sợ.
Từ lâu Toàn đã sống trong sự bất thường của thế giới màu đen vây lấy nó, nhưng buổi tối nay, sự bất thường đó đã trở thành nghiêm trọng. Nghiêm trọng hơn nữa là tôi hiểu căn do của sự bất thường ấy. Tôi quẹt tay lên má, chùi giọt mồ hôi nhờn nhờn lúc nãy như đã bám sâu vào da. Khi tôi trở vào buồng ngủ, những tiếng động của Toàn từ buồng bên vọng sang kêu lịch kịch. Tôi kéo chăn trùm kín đầu, trốn thứ tiếng động giẫy giụa của một thân mình dằn vặt cô đơn. Nhưng dưới lớp chăn, trong bóng tối bao trùm, tôi lại bắt gặp cái màu đen mà Toàn đã muốn tôi đối diện, nhìn và trông thấy.
*
Ngày đến, tôi thức giấc muộn, bần thần vì cả đêm không nhắm mắt. Tôi nhớ đã nhìn thao láo suốt đêm vào tấm màn đen căng cứng, trong tư thế nằm ngửa với hai tay ôm lấy đầu trốn tránh. Buổi sáng chủ nhật xác xơ, hình ảnh Toàn hằn lên bên hông cửa sổ. Những tàn cây bên ngoài gầy guộc trơ xương, như đang đưa những cánh tay khẳng khiu lên trời van xin thượng đế một ân phước. Tôi đến bàn ăn lấy phần ăn sáng của mình, một ly cà phê đen với một viên đường vỡ duy nhất. Toàn là người lo điểm tâm trong nhà, mỗi buổi sáng nó đặt bên tách cà phê của tôi một viên đường vỡ, và tôi hiểu.
- Chị nói sang đây sẽ không bỏ Toàn, chỉ sống cho Toàn và một mình Toàn. Nhớ không ?
Toàn nói, khi nhận ra tôi đã hiện diện trong phòng.
- Chị nhớ.
Tôi đáp.
Nghe tôi nói “Chị nhớ”, Toàn đứng phắt dậy.
- Nhớ sao không làm ? Ai hy sinh cho chị ?
- Toàn hy sinh cho chị.
Tôi trả lời, lặp lại, không dám ngửng lên. Toàn bước đến chậm chạp, như hôm qua, từ sau lưng lùa bàn tay bịt lấy mắt tôi.
- Ðừng !
Tôi cố gỡ tay Toàn với tách cà phê đang cầm, mười ngón tay Toàn đè mắt tôi đen tối. Hơi thở Toàn sau tóc chậm, nặng, đứt quãng.
- Ðừng, cho chị xin ...
Mười ngón tay Toàn nới lỏng dần dần, ôm lấy thái dương, ve vuốt lấy má, lần xuống cầm rồi đùa với ngấn cổ. Tôi rùng mình, hai bàn tay Toàn như hai gọng kềm kẹp cứng, không buông. Toàn tiếp tục động tác mạnh bạo, khi mơn trớn cho đến lúc tôi nổi gai phải hất tay nó ra.
- Thôi đủ rồi.
- “Ðủ rồi”. Lúc nào cũng đủ rồi.
Toàn day tôi lại, lấy ngón tay trỏ lần theo sóng mũi tôi xuống môi, và ngừng ở môi. Tôi thấy mình nhượng bộ và đáp ứng tất cả những trò chơi của Toàn. Ðể làm gì ? Ðể Toàn đừng tuyệt vọng đi đến tự hủy ?
- Chị biết hôn không ?
Khuôn mặt Toàn bất ngờ rơi xà xuống, vết thẹo ăn sâu giữa môi hiện ra sâu hoắm. Tôi hốt hoảng chống hai tay đỡ lấy ngực Toàn, tách cà phê đổ xuống ghế bành ẩm ướt. Hai bàn tay Toàn đã chụp vội, nâng khuôn mặt tôi lên hôn.
- Chị xem phim thấy người ta hôn nhau thì phải biết hôn.
- Ðủ rồi !
Cặp môi mang vết sẹo trờ tới, tôi nghiêng mặt tránh nên đôi môi Toàn rơi vào má, gai gai, cảm giác vừa mềm, vừa khô, vừa ướt. Cặp môi Toàn ở trên da mặt tôi, đầu Toàn gục trong khoảng cổ không chịu rời đi. Tôi thôi chống trả, để nguyên thân người ướt cà phê, vươn hai tay ôm lấy khuôn mặt đó. Tôi không thấy ghê sợ sự tiếp xúc của da thịt mình với cái khuôn mặt lồi lõm những chỗ thịt phồng trồi trũng không liền da. Tôi chỉ thấy thương Toàn.
- Ðủ rồi, đi đánh đàn đi.
Toàn nhìn tôi lạnh lùng như tất cả bao lần tôi cự tuyệt, nhưng tia nhìn vô hình đã dịu đi. Tiếng đại vĩ cầm vọng lên, cũng giống hôm qua, trầm trầm không điêu luyện và thất vọng. Toàn nghe thấy gì trong điệu nhạc dạo mãi từ ngày này qua tháng khác ? Tôi không biết, nhưng tôi đã rõ cái hình ảnh mà Toàn muốn tôi trông thấy trong tấm màn đen.
- Toàn phải có một người bạn gái.
Tôi nói, lúc Toàn không ngờ nhất, đang cắm cúi với cây mã vĩ. Tiếng đàn vụt im, nhường cho ánh mắt nhìn không có hình dạng, hướng về chỗ tôi không mấy chính xác.
- Chị nói gì ?
- Toàn phải có bạn gái.
- Ai dám yêu thằng này ?
- Chị sẽ tìm cho Toàn.
Toàn im lặng một lúc rồi đứng lên mở cửa sổ. Hơi gió lạnh ùa vào, hai lớp màn cửa thổi tốc lên, rơi xuống rồi lại rung động dập dình như đôi cánh bướm bị nghẽn. Toàn quay lại, cố tình hướng mặt nhìn ra cửa, cho ánh sáng soi rõ những vết sẹo chằng chịt ngang dọc trên khuôn mặt. Những vết sẹo mà tôi đã chứng kiến, đã thấy chúng bầm dập vì khâu dối, đã thấy chúng chai nám vì nắng hải đảo cháy lửa. Khuôn mặt đầy sẹo của Toàn kỳ dị kinh khủng dưới ánh sáng ngày.
- Chị nhìn kỹ tôi, ai yêu được khuôn mặt này. Bộ chị tưởng Toàn không biết mặt mũi mình như thế nào hay sao ? Chỉ cần sờ vào là biết !
Toàn đưa mười ngón tay lên rờ nắn lớp da tật nguyền, đột nhiên những móng tay cong lại cào mạnh như muốn lột tróc cái hình thù kinh tởm.
- Ðừng, Toàn !
Tôi hét lên, chạy tới, giằng lấy những đầu móng đang cào cấu trầy trụa khuôn mặt nó. Thân hình Toàn giật lên, cả tấm lưng co giật vùng vẫy muốn chạy trốn. Toàn cất tiếng hú đau đớn, tôi ghì cứng lấy Toàn, áp mặt nó vào mặt tôi, vít lấy đầu, xoa xoa lớp da sần xùi, hôn vào từng chỗ sẹo vỗ về, an ủi.
- Ðừng bao giờ làm vậy nữa nghe Toàn, đừng bao giờ, nghe chị, đừng bao giờ...
- Chị đâu có yêu Toàn.
- Chị không thể, chị không có quyền...
Toàn ôm lấy tôi, vòng hai tay ôm lấy lưng tôi. Ðợi cho tất cả nguôi ngoai, bình tĩnh, tôi gỡ tay Toàn, nói trong hơi thở kiệt sức.
- Chị sẽ tìm cho Toàn một người bạn gái, chị hứa, chị hứa ...
Toàn bỏ ra ngồi ở bàn ăn, cầm lấy cuốn sách cố quên sự xúc động quá mạnh vừa qua. Ngón tay Toàn sờ soạng những mặt chữ nổi, lần từng mẫu tự, cố tìm một ý nghĩa trên trang giấy. Cái hình dáng Toàn ngồi chịu đựng, mệt nhọc đè lên tôi. Không có gì đau đớn bằng phải chứng kiến một đời sống thân thuộc chết dần mòn, thoi thóp ở bên trong. Những khuôn mặt của chúng bạn gái lần lượt lướt qua, những dấu hỏi, phân vân, xét đoán, do dự, sợ hãi lẫn lộn không thành hình thể. Joelle, Kate, Florence, Isabelle ? Ai cũng được, nhưng không thể là tôi, nhất định không thể là tôi.
*
Kate vào nhà, cởi áo dạ rồi mới tháo mũ. Mớ tóc đỏ tuôn ra từ chiếc nón nỉ rơi xuống thân áo đầm len có đính một hàng khuy nút. Kate nói để cô ta tự nhiên, rồi ngồi xuống sofa. Cô ta đưa mắt nhìn quanh quất, tôi biết Kate kiếm ai.
- Kate uống chút rượu ?
Tôi hỏi vỉ Kate ít khi uống rượu. Quả nhiên cô ta lắc đầu, nhưng tôi mời thêm lần nữa, cố tình nài ép và Kate nhận lời. Tôi rót Vodka vào ly thủy tinh trao cho Kate. Tôi nhìn đăm đăm vào chất lỏng trong suốt lúc cô ta đưa lên môi uống, như thể tôi mong đó là phương thuốc nhiệm màu làm tăng can đảm cho Kate.
- Trời lạnh uống rượu nhiều khi cũng thú.
Kate đặt ly xuống bàn, xoa hai tay vào nhau dễ chịu. Kate còn trẻ, trạc tuổi Toàn, hiền lành và biết suy nghĩ. Nhìn cô ta thoải mái, không có vẻ bồn chồn, tôi cảm thấy yên tâm. Tôi đã nói với Kate về Toàn, là Toàn gặp một tai nạn, phải sống cô độc nên rất buồn. Nếu Kate có thể đến chơi với Toàn vào cuối tuần...
Kate chuyện trò vu vơ với tôi về đời sống, hỏi có phải Toàn thích chơi đàn và đọc sách ? Nhà có tủ sách lớn quá. Tôi trả lời là Toàn say mê vĩ cầm, còn tủ sách là của tôi vì Toàn chỉ đọc được một ít sách đặc biệt dành riêng cho những người như Toàn. Kate ngạc nhiên hỏi tại sao, tôi cố giải thích cho cô ta hiểu rằng Toàn rất yếu thị giác, bị thương ở mắt. Tôi muốn chuẩn bị cho Kate nhiều hơn nữa, nhưng cô ta có vẻ tự tin và nói tôi không phải lo.
- Kate hiểu, Kate đã gặp những trường hợp như vậy. Chị đừng ngại, Kate tin mình sẽ trở thành bạn thân của Toàn.
Kate nắm tay tôi trấn an, khuôn mặt cô ta vẫn bình thường và điềm tĩnh.
- Kate đã gặp nhiều người thanh niên, Kate biết xử sự, Kate sẽ không để chị buồn. Chị cho Kate gặp Toàn đi.
Khi ấy tiếng đại vĩ cầm của Toàn từ buồng trong trổi lên. Tôi thấy mặt Kate có hơi thay đổi. Tôi hiểu vì sao, tiếng đàn chùng nhão, rã rời gần như bệnh hoạn của Toàn, đối với tôi dù đã quen thuộc nhưng mỗi khi tấu lên vẫn mang một thứ âm thanh lạnh lẽo kỳ quặc. Song Kate đã đứng lên, nói cho cô ta vào gặp Toàn. Tôi đưa Kate đến trước cửa buồng Toàn, gõ tay nói có khách. Toàn không trả lời, tiếng đàn vẫn cò cưa ở một điệu duy nhất. Tôi và Kate đẩy cửa vào, Toàn đang ngồi quay lưng, hai vai rung rung với thân đàn và thanh mã vĩ kéo qua lại. Tôi nghe Kate nói chào Toàn, cô ta bước hẳn vào buồng. Toàn dấu mặt mải miết kéo mã vĩ như không nghe thấy gì hết. Tôi nhìn Kate đứng sau lưng Toàn, với tiếng đại vĩ cầm xoáy tròn trong buồng. Tự nhiên tôi hối tiếc đã đưa Kate tới đây, thấy giận hờn ghen tuông trong lòng. ý nghĩ sắp mất Toàn làm tôi hơi buồn, dù biết mâu thuẫn. Kate vừa đặt tay lên vai Toàn.
Những gì xảy ra kế tiếp ngoài dự đoán của tôi, của Toàn, của Kate. Lúc Toàn quay đầu lại, khuôn mặt từ từ quay sang phơi bày những thớ thịt nhăn nheo, trồi trũng ghê tởm với hai lỗ hổng ở mắt, một nửa cánh mũi không còn hình thể, và một rãnh thẹo chạy từ nhân trung ngang môi xuống quá cằm, thì Kate vụt rú lên. Khuôn mặt Kate khiếp hãi, sự điềm tĩnh biến thành kinh hoàng tột độ. Thứ tiếng rú của một người đàn bà sợ hãi quá mức làm rũ liệt cả chân tay tôi, rồi Kate bỏ chạy. Cô ta vừa chạy vừa la thét gọi cầu cứu. Lúc Kate đã chạy ra khỏi nhà, những tiếng hú ác quỷ, quái vật hãy còn rớt lại trong hành lang, cây đại vĩ cầm ngả xấp trên đất và tôi thấy từ hai hố mắt Toàn những giọt nước mắt ứa ra. Ở khối thịt ngày xưa là mặt mũi Toàn, toát ra vẻ đau đớn, tủi hổ. Những giọt nước tủi hổ lăn từng hột xuống bờ môi run run hằn thẹo. Toàn khóc không có tiếng, nhưng tôi thì bật khóc nức nở. Tôi ôm lấy Toàn, ghì xiết lấy mặt mũi tóc tai nó. Nước mắt tôi hòa vào những giọt nước ở hố mắt Toàn.
- Không ai có thể yêu Toàn, làm bạn gái của Toàn.
Toàn nói với tiếng rên đau đớn, tôi bịt môi nó nói tôi yêu Toàn, sẽ làm bạn gái của Toàn. Tôi nói tôi sẽ làm tất cả những gì Toàn muốn, để Toàn không cô đơn, để Toàn được sống bình thường như tất cả mọi người thanh niên. Tôi chấp nhận hết, chấp nhận tất cả. Toàn hỏi tại sao tôi tiếc, tại sao gìn giữ với Toàn. Tôi nói tôi không tiếc với Toàn nữa đâu, người ta cưỡng bức tôi trên biển, tôi còn gì để gìn giữ.
Hai chúng tôi ôm nhau trên thảm. Toàn úp mặt vào tóc tôi khóc thầm lặng. Tôi vỗ về trên lưng Toàn như ngày xưa, dạo nào tôi thường vỗ về nó. Cách đây đã lâu lắm. Những hình ảnh cũ, những thương yêu máu mủ của quá khứ hiện về, những kỷ niệm dịu dàng khiến tôi nghĩ tôi và Toàn là một. Tôi và Toàn đã thuộc về nhau từ dòng máu, đâu có khác biệt gì nếu tôi thuộc về Toàn hôm nay, lấy máu của hai chúng tôi trộn lại. Tôi không muốn thuộc về một người đàn ông nào khác nữa. Tất cả đàn ông làm tôi ghê sợ, trừ Toàn. Hai chúng tôi nhìn những đám mây trôi tịch mịch lặng lẽ qua ô cửa sổ. Tôi tả cho Toàn nghe màu sắc của những cụm mây, của đường chân trời đuối lịm ngoài xa. Toàn không trông thấy và tôi bù đắp cho Toàn những thiếu xót của thân thể. Hai chúng tôi chia sẻ cái màn tối vây bọc lấy nhau. Nụ hôn của Toàn dài thăm thẳm như chiều sâu của bóng tối. Sau nụ hôn đó, tôi biết chúng tôi không còn thuộc về thế giới luân lý của loài người.
*
Hôm đầu tiên, hai chúng tôi ăn cơm trong yên lặng. Toàn ngồi đối diện tôi, đầu hơi cúi, chăm chú nhìn bát cơm. Chỉ có tiếng những hạt mưa rơi vỡ rả rích và ánh đèn trần vặn nhỏ, buông thứ ánh sáng loãng giăng lên bàn. Tôi nhìn ánh điện vỡ li ti trên da mặt Toàn, cố nghĩ đó không phải là những ngấn sẹo mà là thứ ánh sáng trổ hoa màu vàng. Toàn cắm cúi ăn với trận mưa mỗi lúc một lớn. Hai chúng tôi chờ nhau lên tiếng, nhưng rồi chỉ một bàn tay Toàn trờ tới, trên khăn trải bàn nắm lấy tay tôi, những ngón tay mở rộng, xòe đan vào nhau, ấp ủ xúc cảm và nhục cảm cho nhau. Toàn vẫn cúi đầu yên lặng, nhưng nói với tôi rất nhiều bằng cách tiếp xúc ấy. Sau bữa cơm, Toàn đứng lên kéo tôi vào buồng.
Hai chúng tôi đứng gần nhau trong bóng tối, chỉ có ánh sáng của những hạt mưa, phản chiếu từ trụ đèn đường, hắt dội vào buồng điểm lăn tăn lấm tấm từng hôït nhỏ lóng lánh trên thân thể Toàn. Tôi để yên cho Toàn cởi quần áo, bàn tay Toàn khéo léo, giống như tất cả người mù đều có đôi bàn tay tinh tường. Toàn gỡ từng khuy cúc, hôn vào từng chỗ da thịt tôi vừa thôi hết giam hãm. Ðến lúc Toàn tháo làn áo lót, thì đột nhiên bên ngoài có tia chớp chói lòe, lóe đập vào buồng soi vữa một nửa khuôn mặt của Toàn. Tôi vụt gai người bắt gặp trong thứ ánh sáng xanh điện, một thứ ánh thép sắc lạnh của từng nhát mác chém bổ xuống. Những thanh mã tấu bầm xuống, xối xả, liền tay, từng nhát, từng nhát man rợ lên mặt mũi Toàn. Tôi cũng thấy giữa ánh chớp của cơn giông những hình ảnh tắt hiện, tắt hiện đau đớn điên dại của thân xác chính mình. Tất cả những hình ảnh đó, gẫy vụn, rách nát, hiện lên trên khuôn mặt xần xùi của Toàn.
- Ðừng, ...
Tôi rụt người lại trong cơn sợ hãi.
Toàn nhận ra sự không tự nhiên, ôm lấy tôi cố truyền hơi nóng từ người nó sang. Toàn thì thầm bên tai tôi những câu nói yêu đương vô bờ bến nhất.
- Tòan yêu chị vô vàn, Toàn không hối hận gì hết. Ðừng nhìn mặt Toàn, sẽ làm chị sợ.
Toàn bảo tôi quay lưng lại, nói đừng sợ, đừng nhớ, đừng nghĩ gì hết, sống cho hai chị em thôi. Tôi gật đầu, tôi sẽ không nhớ ... Toàn bước tới, ôm tôi vào lòng, áp thân mình vào lưng tôi. Tiếng của những giọt mưa bắn lách tách trên mặt kính, tiếng Toàn nói thật nhỏ rằng Toàn muốn yêu tôi từ sau lưng, tiếng của chính tôi đáp lại là tôi cần Toàn và cho Toàn hết. Bây giờ trong nhà chỉ có hai chúng tôi với một tình yêu cật ruột.
Khi Toàn lấy băng vải đen hôm nọ buộc quanh mắt tôi, hơi ấm từ người Toàn cũng đã truyền hẳn sang tôi. Sức nóng tỏa lan, cuồn cuộn và tôi trông thấy xuyên qua tấm màn đen những hình ảnh thật rõ nét. Hai chúng tôi lõa thể nhập vào làm một, hai cánh tay Toàn ôm vòng quanh bụng tôi, một đôi môi hôn tôi ở cổ, lần xuống vai và cắn vào lưng. Một cảm giác chậm, rạt rào tình thương, từ sâu kín dâng lên dần. Những đau đớn từ vết thương ở quá khứ tan vào niềm sung sướng không ngờ, nhịp nhàng ở mỗi cử động của Toàn thận trọng, nhẹ nhàng, từng chút, từng chút, cho từng yêu thương máu mủ.
Tôi và Toàn yêu nhau trong bóng tối, gượng nhẹ, xoa dịu, giúp đỡ lẫn nhau xóa nhòa một vết thương không may mắn của cuộc đời. Rồi Toàn bồng tôi lên giường, rồi tôi úp mặt vào ngực Toàn khóc nức nở vì sung sướng, đã bù đắp, giải thoát được cho nhau. Những giọt nước mắt nhiễu xuống chan hòa ngực Toàn nồng ấm. Rồi Toàn mơn man những sợi lông măng ở cằm tôi, hỏi tôi có yêu Toàn, có hạnh phúc hay là hối tiếc? Tôi trả lời là tôi yêu Toàn, rất hạnh phúc và không hối tiếc. Có thể tôi đang phạm tội, nhưng ai hiểu cho rằng một giọt máu đào hơn ao nước lã, và tôi cần giọt máu đào của Tòa biết chừng nào.
Trăng lên, cơn mưa tạnh. Hai chúng tôi nằm kề nhau lắng nghe im ắng của đêm hoang vu như thuở loài người còn tiền sử. Thời hồng hoang, trong gia tộc chị em vẫn thường lấy nhau, tôi và Toàn chỉ lập lại cách sống của loài người ban sơ. Ðêm thanh vắng che chở cho chúng tôi, không có con mắt của người ngoài, không có luân lý của cuộc đời, không có chi hết, chỉ có chị em chúng tôi yêu nhau.
*
Những ngày sau đó, những ngày tôi và Toàn chung sống với nhau thật tuyệt diệu. Tôi là chị, là người yêu, vợ của Toàn. Toàn là em, là người tình, là chồng tôi. Thật tuyệt diệu khi tất cả những tình cảm ấy gộp lại làm một, thứ tình thương duy nhất gọi là tình yêu. Tôi không thể xa Toàn, những giờ làm việc trong hãng trở nên ray rứt nhớ nhung. Những phút hấp tấp bước như chạy vào nhà để bồi hồi lịm người trong tay nhau. Những nụ hôn trao vội vàng, những ghì xiết hối hả ... Ðêm nằm bên gối Toàn thường nhắc lại những kỷ niệm cũ.
- Chị còn nhớ những buổi chiều mình đi dạo ở bãi sau ? Toàn nhớ mãi chiếc áo tím của chị in trên nền cát vàng chạy dài đến chân núi. Tóc chị lúc đó còn dài chấm lưng, gió biển thổi phất bay theo từng gợn mây trắng. Toàn yêu chị từ lúc đó, chị biết không ?
Chị biết không ? Toàn úp mặt vào tóc tôi thì thầm, sống mũi Toàn cọ đùa vào chân tóc. Những lúc ấy hai chúng tôi trở về với quá khứ, sống mũi Toàn hãy còn nguyên vẹn hình hài, chưa gẫy nát, tôi hãy còn mái tóc thề con gái chưa tủi nhục. Toàn còn kể nhiều kỷ niệm khác, làm như đôi mắt mù lòa không trông thấy được hiện tại và tương lai của Toàn khi chỉ còn thấy những hình ảnh xưa cũ lúc trước.
- Chị nhớ bắt đầu trang điểm lúc nào không ? Buổi tối sinh nhật anh Thuấn, chị Niệm đem phấn tới đánh cho chị. Toàn núp ngoài cửa buồng lén nhìn vào chắc chị không biết ? Tối đó ba nhốt chị trong buồng cấm không cho đi, chị khóc suốt đêm làm Toàn cũng khóc theo, chị nhớ không ?
Chị nhớ không ? Tôi nhớ. Nhớ Toàn luôn lẽo đẽo theo sau vòi vĩnh, nhớ Toàn đeo lấy mình từng bước, không rời, không chịu ngủ giường riêng, giận hờn mỗi khi Thuấn đến đón đi chơi.
- Chị còn yêu anh Thuấn phải không ?
Toàn thường hỏi tôi câu đó đầy ghen tuông, hờn mát.
- Anh Thuấn hôn chị rồi phải không ? Nó đã làm gì chị ?
Nếu tôi gật đầu thì Toàn trở nên hung dữ, ân ái mạnh bạo, lấy móng tay cào sướt lưng tôi như để trả thù, để rồi sau đó khóc lóc xin lỗi. Nếu tôi lắc đầu quả quyết Thuấn chỉ là bạn, Toàn có vẻ bằng lòng, không muốn tôi thuộc về ai khác.
- Chị hứa đi, đừng lấy ai khác ngoài Toàn, hứa đi.
- Chị hứa.
Tôi hứa. Tôi biết mình không thể nào bỏ rơi Toàn, không thể nào sống xa nó. Chúng tôi nằm áp người vào nhau cho hơi nóng của cả hai trùm lên thân thể trốn mùa đông bên ngoài dầy đặc cơn mưa tuyết. Những hạt tuyết rơi lất phất chạm vào mặt kính, đọng rồi tan, tan rồi đọng. Suốt mùa đông, tôi và Toàn giam kín trong nhà không đi đâu, xa lánh mọi người. Tôi sợ người ta khám phá cuộc tình của mình, tôi sợ tôi bỏ nó ra đi. Chúng tôi có thể ngủ vùi hàng giờ trong chăn ấm bên nhau. Giữa những cơn ân ái, khi trao thân cho Toàn, hai chữ loạn luân thường lởn vởn hiện trên trần nhà. Tôi rúc mặt vào ngực Toàn để không phải nhìn cái chữ loạn luân vô hình, nhưng rắn rỏi đậm nét viết thật rõ ràng ở trần buồng. Băng vải đen bịt quanh mắt là phương cách tốt nhất để tôi không thấy nó. Có khi cuối tuần, suốt ngày tôi giữ nguyên giải băng đen quanh mắt chia sẻ thế giới không ánh sáng của Toàn. Chúng tôi chơi trốn tìm nhau trong nhà. Núp sau cánh cửa, trốn trong tủ quần áo, nín thở,... Toàn dạy tôi học những bài học vỡ lòng của người mù. Làm thế nào để di chuyển trong bóng tối ? Từ phòng khách xuống bếp mất bao nhiêu bước chân ? Từ bàn ăn đến đài truyền hình cách mấy sải tay ? Làm thế nào để biết thức ăn vừa chín tới ?
- Thì nếm thử !
Toàn cười ròn tan khi tôi hỏi nó điều đó.
- Chị muốn canh giờ giấc để biết ngày hay đêm thì phải tập kiểm soát cơn đói và sự bài tiết của cơ thể.
- Nhưng làm sao mặc đúng kiểu áo mình muốn ?
- Phải tập rờ nắn sợi vải, tẩm vào mỗi kiểu quần áo một mùi nước hoa riêng...
Dần dà tôi bước vào thế giới bóng tối của Toàn một cách lý thú. Mỗi khi tôi vấp ngã, Toàn cười thành tiếng. Mỗi khi Toàn lấy lộn bột mì với bột bắp tôi cười chế nhạo. Những niềm tin vui nhỏ bé mà chỉ từ khi trở thành vợ chồng, tôi mới biết cảm thông chia sẻ với Toàn.
Chưa có bao giờ tôi hạnh phúc như vậy. Hạnh phúc được làm một người đàn bà bình thường, có cuộc sống lứa đôi, thứ hạnh phúc mà tôi tưởng đã mất từ sau tai nạn. Toàn đã chịu khó đến trường mù, chịu khó lãnh hàng từ trường tật nguyền về ráp nối ở nhà kiếm thêm tiền phụ tôi. Những đồng tiền rẻ mạt nhưng lại là niềm vui của chúng tôi. Toàn vui vì thấy hữu ích. Tôi vui vì Toàn đã bớt bất bình thường, chăm chỉ tập luyện vĩ cầm, gắng sức học tiếng Pháp với mặt chữ nổi. Toàn bỏ hút thuốc lá, bỏ uống rượu. Tôi cảm động vì thấy Toàn cố gắng trở thành một người chồng gương mẫu. Nhiều lúc Toàn ngượng ngập một cách trẻ con, cố ý phát âm chữ “Chị” thành “Chi”.
- Chi còn yêu Toàn không ?
- Còn, với một điều kiện phải gọi bằng chị.
- Sao không cho Toàn gọi bằng tên ?
- Chị yêu Toàn, và muốn được mãi mãi làm chị của Toàn, Toàn hiểu không ?
Toàn gật đầu, yên lặng để cho tôi vuốt ve những sợi tóc lòa xòa trước trán. Cũng có những buổi tối, sáng trăng, tôi và Toàn đi dạo bên ngoài. Mỗi khi ra đường, tôi luôn cố gắng ăn vận, trang điểm sao cho Toàn biết rằng tôi làm đẹp vì Toàn, để Toàn được hãnh diện đi bên tôi. Toàn rất nhạy cảm, đứng chờ tôi thay quần áo, rồi với vẻ trịnh trọng khen tôi đẹp với dáng vẻ say mê ngắm nghía. Những lúc ấy Toàn thật tội nghiệp, khi đưa ngón tay mơn qua môi tôi để đoán màu son, khi rờ nắn lớp vải để đoán kiểu áo.
- Ðêm nay chị đẹp lắm, Toàn rất hài lòng.
Tôi muốn khóc khi đó, nhưng đè nén được cảm xúc, giữ cho buổi tối được trọn vẹn, thắt lại cà vạt cho Toàn, rồi hai chúng tôi bát phố. Thường thường Toàn nắm tay tôi cho vào túi áo dạ của Toàn, chúng tôi chọn những con đường thật vắng, ít người qua lại, để Toàn không phải nghe những lời xầm xì hay tiếng kêu sợ hãi của các đứa bé đi ngang. Chúng tôi có một quán ăn quen, gần nhà, tôi và Toàn chỉ dám đi ăn tối thứ hai là tối thưa khách nhất. Người chủ quán dành cho chúng tôi một bàn ăn khuất trong góc, có cắm đèn cầy và một bông hồng.
- Chị đừng kêu những món đắt tiền, Toàn chỉ muốn ngồi đây với chị, thức ăn không quan trọng đâu.
Tôi và Toàn dùng bữa dưới ánh bạch lạp êm đềm, có nụ hồng nở dịu dàng và những chăm sóc ân cần của người chủ quán già.
- Ông bà dùng bữa có ngon miệng ?
- Vâng, tốt lắm.
Toàn mạnh dạn trả lời thay tôi. Nét mặt rạng rỡ, sung sướng. Suốt bữa ăn đôi chân chúng tôi quấn lấy nhau, không rời.
*
Rồi mùa đông đi qua trong tình yêu lén lút của hai chúng tôi. Mùa xuân đến làm nẩy chồi những nụ non trên thân cây lật trước đường. Những cành khẳng khiu tỏa vươn như đôi tay thiếu nữ kết vòng hoa trái. Từng đọt xanh nhú mình tìm sự sống. Tôi đã tưởng, trong nắng sáng dờn dợn, cuộc sống mình tái sinh cùng với thiên nhiên huyền nhiệm đó. Nhưng nào ngờ đột biến vùng thức dậy khi Toàn đòi hỏi tôi một đứa con.
Toàn nói nó chỉ tìm được cuộc sống bình thường nếu được chung sống với tôi như đôi vợ chồng đàng hoàng, sinh con đẻ cái ...
Tôi sợ hãi từ chối. ý tưởng có một đứa con với Toàn như mũi kim khều phọt giọt máu tội lỗi. Nó chọc thủng tấm màn đen đui mù mà tôi che dấu sự loạn luân. Những đứa trẻ kết tinh từ huyết thống loạn luân ít khi bình thường. Tôi nói với Tòan làm sao ăn nói với gia đình, với bố mẹ, với họ hàng ? Không lẽ sống cô lập, trốn tránh gia tộc suốt đời ? Tôi sợ. Run rẩy khi nghe Toàn thì thầm muốn có một đứa bé.
- Ðừng ! Ðừng nghĩ đến chuyện đó, chị sợ lắm !
Tôi hốt hoảng, giọng Toàn rên rỉ khẩn nài, vòng tay ôm mạnh chắc, những ghì xiết ôm tròn xót xa.
- Cho Toàn một đứa bé, một đứa, một đứa thôi. Nó sẽ gọi mình là ba mẹ. Mình sẽ cho nó thật nhiều tình thương.
Toàn van lơn mỗi đêm, thúc hối, ám ảnh, quên mất khía cạnh loạn luân của tình yêu cả hai. Tôi đã phá bỏ lý trí để yêu Toàn, nhưng không đủ can đảm tạo hình ra tội lỗi. Rồi làm sao giải thích cho đứa con vế mối quan hệ bố mẹ nó ?
- Không ! Chị không muốn ! Mình không phải là vợ chồng, hiểu cho chị, cho chị... Tôi khóc khi Toàn hôn vùi vào cổ.
- Nhưng Toàn muốn ! Toàn muốn !
Toàn hất đầu, hất đầu, những cái hất đầu ích kỷ, những giọt nước mắt của tôi mặn đắng và không lối thoát.
- Thương giùm chị, giùm chị ...
Nhưng Toàn không hiểu, không xem đó là lời năn nỉ của người chị đã đến ranh giới chót của tình thương em. Toàn cho đó là sự chống đối. Bắt đầu từ hôm đó Toàn thay đổi, trở về trạng thái lầm lì, hung bạo trước đây. Toàn biến dạng, từ từ, chậm chạp, đến dần cực điểm của hung dữ, đàn áp, sai khiến. Toàn cấm tôi uống thuốc ngừa thai, lục lọi khám phá từng chỗ dấu thuốc với một ý nghĩ duy nhất là bắt tôi có con. Ban đêm tôi không dám ngủ chung với Toàn. Ban ngày vùi đầu vào máy truyền hình để tránh trò chuyện. Tôi sống trong sự kháng cự, bị rình mò, chờ đợi sự tấn công.
Hôm đó, tôi ngồi trước máy truyền hình xem một cuốn phim quay lại. Những hình ảnh thoáng qua, rời rạc, hiện lên, biến mất. Tiếng vĩ cầm của Toàn đã từ lâu vọng lên trở lại cái điệp khúc chùng nhão, vô hồn, vô tính. Tiếng đàn cuốn từng vòng dây thép gai, xoáy từng chốt đinh ba chấu trong đầu tôi. Thứ âm thanh sắc nhọn, thủy tinh, cứa vào từng thớ thịt trong lúc trên màn ảnh là một chuyện phim đầy biến động. Tôi chỉ nhớ cuốn phim có cái tên lạ là Pháo Thuyền Trên Dòng Yăng-Tsé, có Steve Mc Queen đóng. Chuyện một người thủy thủ phục vụ trên một chiến thuyền Hoa Kỳ nối liền Hàn Châu và Hán Khẩu. Có những xáo trộn tâm tính con người thật dữ dội. Có những phản ứng bản năng bất thường. Tôi chỉ nhớ chừng ấy, còn bao nhiêu hình ảnh khác không phải là của cuốn phim mà là cảnh một bào thai đẻ non đương sinh nở trong lòng người mẹ. Trên màn ảnh tôi thấy một bọc nước vỡ, một cuống nhau lòng thòng, những mũi thuốc giục, những cơn rặn tím bầm thân thể, những tia máu phọt ra theo từng cái quẫy mình. Những tia máu cứ bắn ra, cái đầu hài nhi thậm thụt trồi ra thụt vào. Một kềm gắp, một máy hút, một da con toang hoác ! Và ở giữa cái dạ con toang hoác đỏ lòm đó là cái đầu hài nhi mang khuôn mặt của Steve Mc Queen bậm môi trợn mắt khúc cuối đoạn phim bị bắn té ngồi lảo đảo gượng dậy bò bơi trườn lềnh bềnh trong túi nước. Ánh mắt người lính thủy lạc đi, thất thần khi thấy ở bụng mình một lỗ thủng máu huyết cứ trào ra, trào ra. Tôi nghe được câu nói của người lính sắp chết : mais bon sang! Qu’est ce qui m’est arrivé? J’étais encore chez moi hier! Ðứa trẻ vùng vẫy. Mười ngón tay cào cấu. Mười ngón chân giẫy đạp. Bụng người mẹ rách bươm và tiếng đàn của Toàn cuồng loạn liên tục một điệu chà xát mải miết trên dây thần kinh tôi căng cứng. Ðầu tôi rối chằng với những hình ảnh xếp chồng trong thứ âm thanh ép chặt. Tôi không hiểu nổi câu nói sau cùng của người lính thủy bị bắn trên màn ảnh. Tôi muốn hiểu và muốn trông thấy khuôn mặt thật của hài nhi nhưng tiếng đàn đã đổ ào đứt ngang. Không còn là tiếng đàn nhưng là ly bể chai vỡ, cửa đóng máu ngừng, tim thôi đập phổi trút hơi và dạ con khép chặt. Tòa đến đứng sau lưng im lìm.
- Cho Toàn một đứa bé.
- Không! Chị không thể!
Toàn không nghe tôi nói, hươi chiếc lưỡi lam xanh biếc ngời chiếu lên sát mặt tôi. Rồi Toàn vụt cắt mạnh dây đàn đứt phựt. Một. Toàn gầm gừ rồi hươi tiếp lưỡi lam lên cao trở lại, vung lên múa xuống. Toàn hoa ánh lam xanh ngời như khi múa làn vải đen chấp chới chập chờn rờn rợn. Hình ảnh cái xác rắn chết thõng thượt hôm nào sống dậy, ngoằn ngoèo trườn trườn quấn lấy yết hầu tôi lúc Toàn kề lưỡi lam vào cổ tôi gạch nhẹ. Máu chảy ứa ra bỏng xót. Tôi căng người sợ hãi, hai tay chới với tìm sự chống đỡ.
- Ðừng!
- Chị đâu yêu Toàn ?
- Chị thương Toàn.
- Không đúng! Thương sao không muốn có con với Toàn!
Toàn hét lên và cắt đứt thêm một sợi dây đàn. Hai rồi.
- Không! Ðừng ép chị!
Tôi đẩy Toàn, xô hất bỏ chạy. Toàn rượt theo, tủ sách bàn ăn ghế đẩu đâm sầm vào người tôi ngã xấp té ngữa. Tôi đứng lên, té ngã, chậu cây níu chân, cửa buồng chắn lối, hành lang dài thẳm. Phòng tắm, phòng tắm, chốt khóa, tên bố, tên mẹ, tôi thét gọi với tiếng động của Toàn đập phá.
- Trời ơi! Tha cho chị!
Toàn không nghe, phá cửa, chụp lấy tôi xé áo.
- Ðừng! Buông chị!
Tôi ngã xuống sàn gạch. Toàn ngã đè lên người. Thằng này tật nguyền, lúc điên lúc tỉnh, phải chị sợ vậy không? Phải chị sợ vậy không? Nói! Toàn tát tôi, lột áo, hai bàn tay mạnh bạo, mười ngón tay hung dữ bẻ quặt tay tôi, bắp đùi đè ngang chân, hơi thở, tiếng la, men gạch lát tường, đèn trần, khăn tắm, thân thể trần truồng, nhễ nhại, bả vai, bắp thịt, sức lực, môi cắn, tay cào, móng nhọn, mũi, mắt, ngấn sẹo, tinh trùng, bào thai, đứa bé, tôi hét gọi mẹ bị Toàn bịt miệng.
- Nói yêu Toàn! Nói muốn có con với Toàn! Nói! Nói!
Toàn hãm tôi tàn bạo trên mặt đất. Nói thèm muốn da thịt tôi thơm mát, thèm ngực tôi tròn trịa, đùi tôi tươi trắng, con chúng tôi kháu khỉnh. Toàn nói, nói thật nhiều không ngừng trong lúc tôi giẫy giụa la khóc thét kêu van nài đau đớn.
Tôi nắm trần truồng trên đất. Phòng tắm tan hoang. Thần kinh xơ xác. Tôi nghĩ đến một điều gì đó mà không nghĩ ra. Một vài giọt máu dập ở môi trong mằn mặn. Từ đâu cuốn phim lúc nãy quay lại, chậm chạp mà rõ ràng. Tôi nằm đó xem lại cuộn phim trong trí nhớ. Cảnh người lính thủy xung đột với thủy thủ đoàn, ý niệm danh dự giằng co trong đầu viên thuyền trưởng. Những người Trung hoa quá khích. Những pha bạo động. Người phụ máy bị tra tấn. Người nữ truyền giáo thơ ngây. Viên đạn bắn vào bụng Steve Mc Queen trổ ra sau lưng, câu nói bừng tỉnh trước khi chết. Câu nói? Người thủy thủ nói điều gì tôi không hiểu ? Giống xem phim câm không có tiếng...
Lâu lắm lúc tôi gượng dậy trời vẫn sáng tỏ. Toàn đang ngồi khóc ở bàn ăn. Tiếng khóc thút thít hiền lành. Tiếng khóc của Toàn thời thơ ấu. Cánh cửa sổ mở rộng, không có chút nắng nào. Tôi nhìn bầu trời, màu trời đục lờ lợ. Ðột nhiên tôi nhớ lại tất cả, nhớ từng chi tiết thật kỹ càng. Nhớ từ lúc đặt chân xuống thuyền vượt biên gặp hải tặc cho đến lúc Toàn hãm tôi mới đây. Nhớ cả câu nói của người lính thủy bị bắn. Nhưng mà... Trời ơi! Chuyện gì đã xảy ra? Chúng tôi còn ở Vũng Tàu hôm qua kia mà! Tôi gục xuống, Toàn quay lại mặt đầy thẹo. Vết thẹo. Trời ơi, buổi sáng.
Trần-Vũ
Nguồn: Ăn Mày Văn Chương

Trương Củng
  • Số bài : 531
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.01.2005
  • Nơi: Dòng sông quê hương
Gia Phả - Trần Vũ - 26.05.2005 14:49:14
Gia Phả

I
Tôi đi ở cho tộc Trần từ lâu lắm. Từ cuối đời Lý. Lúc Trần Thị chỉ vừa cắt nhau. Ðêm tháo thai, sống cảnh sinh nở đầu đời nên tâm hồn tôi ngập kinh hãi. Máu từ cửa mình vợ Trần Lý chảy xối, bắn phun tung tóe như bát canh rau dền rơi vãi trên đất. Thứ canh đỏ thẫm, lợn cợn những nhau, thịt, chất nhờn. Trần Thị giẫy, vùng, đôi tay chới với cào cấu vươn tới trong động tác nắm tìm sự sống. Ðã biết đi vào đời là đi vào khổ đau, nhưng tôi cũng không ngờ khổ đau to lớn tàn phá đến rách bươm cửa mình vợ Trần Lý. Mỗi cái quẫy mình là mỗi một vũng máu, trào ra, trào cho đến đầy thau. Máu bê bết chẳng khác một pháp trường.
Cánh tay mụ đỡ đưa cao lắm. Cánh tay lằn những sợi gân oan nghiệt. Miểng chai cắm lùi trong than hồng đỏ rực. Loại miểng chai sắc cạnh, bén nhọn chỉ dùng cho mỗi thứ công việc đành đoạn là cắt cổ người, hoặc nhẹ nhàng lắm: thọc huyết heo. Vợ Trần Lý co rúm như con lợn lôi ra sân bếp. Tôi nhắm mắt, đã hiểu mình sẽ không bao giờ lớn. Trần Thị mất mẹ ở hành động cưỡng ép chối bỏ tình mẫu tử đó. Cuống rốn nắm trong tay mụ đỡ hiểu được số mệnh, vùng vẫy, cựa quậy, tháo thân, cuống rốn như con rắn nước liều lĩnh kháng cự trước lúc bị chặt đầu. Miểng chai xắn xuống, xắn xuống, cứa mãi, thịt rách, gân đứt, máu phụt, vợ Trần Lý căng, đạp, thét la oằn oại gào trong mất mát. Trần Thị bật khóc, tiếng khóc đầu tiên vỡ òa khi cuống nhau nối mình vừa đứt. Máu tiếp tục phun. Nước mắt tôi chảy cho Trần Thị: Vào đời giữa máu me hung bạo.

II

Tôi về ở cho tộc Trần, như thế, từ sau đêm máu me ấy. Tộc Trần là một tộc lớn, ngự trị khắp phủ Xuân Trường. Hiếm ai ngờ một dòng họ còn sót lại từ thời Bắc Tống, kéo xuống lập nghiệp phương Nam khởi đi từ nghề đánh cá nhỏ mọn, sau một trăm năm lại hùng mạnh chừng ấy. Ở cho một gia tộc quyền thế, song công việc của tôi cực nhàn nhã. Ngày ngày theo chân Trần Thị, lẫm chẫm quanh vùng Hải Ấp, rồi lớn dần chạy nhảy bên bờ sông Thao. Trần Thị lớn vụt lên như lẵm lúa bát ngát mênh mông của tộc Trần. Sức sống của con sông Thao cuồn cuộn chảy buông mênh mang về Phú Thọ, cũng chở mang sắc đẹp của Trần Thị. Mỗi dòng sông ở đầu thế kỷ 13 mang một vẻ đẹp riêng, nhưng sông Thao mang vẻ đẹp của đất nước.
Nhưng nếu tôi không bao giờ lớn, ở lại mãi mãi cái đêm sinh nở tàn bạo, thì Trần Thị trổ vươn như nhành lúa bắn mình đẹp đẽ. Nhành lúa đẹp tựa một ánh chớp sánh bừng rực rỡ, ửng hồng giữa bầu trời tối tăm tàn tạ cuối triều Lý. Chưa ý thức, song Trần Thị thường nắm tay tôi nhìn đăm ra khoảng sân sau, khoảng sân huyễn hoặc, lót đá vân lọt thỏm giữa lòng nhà lưa thưa nắng. Những tia nắng kỳ ảo lấp lánh lăn quăn khắp bức tường loang loáng vẽ nghìn tia ngũ sắc ngời ngời óng ả phản quang không ngớt trên mặt vại nước. Trần Thị kéo tay tôi ngồi xuống. Chúng tôi ngồi sát nhau tưởng chừng có thể nhập làm một, như thể tôi với Trần Thị chỉ là một - một người con gái nhiều giờ liền ngắm bức tường say mê. Nắng nung những ước vọng thầm kín trong tôi, còn khoảng tường vạch lên trước mắt Trần Thị vị trí của tộc Trần. Có lẽ trưa đó, Trần Thị cũng bắt đầu nhận biết vai trò của mình trước lịch sử khi đối diện khoảng tường soi nắng ấy. Nắng soi như chưa bao giờ được soi xuống từ mảnh ngói vỡ vàng chóe, lập lòe, rũ màu sắc, buông thả từng đường, từng mảng, từng cánh tay ôm choàng ngang bức tường rêu cũ kỹ xanh ố mờ thời gian. Cả bức tường vụt sống. Cả thời gian cũng vụt trỗi mình quẩy cuồng sáng lóa trong khóe mắt Trần Thị. Tiếng nước rỏ xuống sân nghe váng âm hắt dội giữa trưa vắng tịch mịch, chợt vang vang thành bước chân của những tên khổng lồ đuổi bắt thời gian. Thời gian của thời đại hay của định mệnh ? Gã khổng lồ mang thân xác tên tuổi tộc Trần - tôi rùng mình nhớ tới Thủ Ðộ - Trần Thị cũng rùng mình lúc tôi cởi cúc, tuột áo, bắt đầu múc nước từ bồn chứa xối cho Trần Thị tắm. Những ngón tay tôi xoa nắn, những ngón tay Trần Thị nắm lại. Mặt đất nở hoa. Không khí thơm sữa. Trần Thị khép hờ mắt, chỉ còn thân xác hiến dâng trọn vẹn. Tôi đuối vào giữa ngực Trần Thị, ngỡ mình sẽ hưởng những dòng máu chảy ấm bên trong, sẽ ôm lấy vào lòng thịt da run rẩy, sẽ ấp ủ thân thể trắng trong mềm nõn. Dưới trần mái âm u không tiếng động, ngón tay tôi ngẩn ngơ mê mẩn, những ngón tay Trần Thị chậm lắm níu chặt, kéo giữ bàn tay tôi ở lại, thúc hối nhịp nhàng nhịp nhàng từng khắc từng khoảnh khắc van lơn nài kéo. Tôi mê man xoa nắn, mân mê âu yếm. Trần Thị khép mở đùi rồi thõng hai tay ngửa mặt buông cho thể xác tận hưởng chút thiên nhiên mỏng manh đang lọt vào tòa nhà. Từng đốm sắc xanh mờ tối, nhảy múa lung linh như có lân tinh, tôi hôn tới đâu đốm sáng bốc thành ngọn lửa phụt cháy. Tôi nuốt lửa cuồn cuộn trên ngực Trần Thị nghe vang vang tiếng nước chảy róc rách, nhưng không chỉ có tiếng nuớc mà bất chợt tiếng đập cánh của bầy quạ đen thất thanh ầm ĩ trên mái vùng bay. Trần Thị giật mình bấu lấy tay tôi thảng thốt:
- Chị Ðào! Thị sợ!
Mình mẫy ướt đẫm, tôi cũng sợ. Nhưng không phải nỗi sợ hãi vu vơ của cánh quạ đen tuyền đập phần phật quýnh quáng âm động giữa không gian vắng. Nhưng là nỗi sợ hãi sâu chín hun hút từ thịt da trắng ngần trong trẻo của Trần Thị như có nạm ngọc. Mỗi một hột nước là một hạt trân châu óng ánh không bao giờ tắt. Cánh tay tôi cứng sững không dám vươn tới, không bao giờ chạm vào được thân Trần Thị lõa thể đứng tắm giữa sân. Qua mí mắt Trần Thị tôi đã hiểu: Bức tường choáng ngợp. Rõ ràng Trần Thị không thuộc về tôi, nhưng thuộc về khoảng tường xây đắp hơn một trăm năm của tộc Trần. Bức tường đối diện, sừng sững, ngạo mạn đầy uy quyền đời đời không bao giờ sụp đổ. Cả tiếng nước rỉ, võng âm như bước chân của gã khổng lồ man dại chạy sấm sẩn sầm sầm cũng trở nên đe dọa... Nắng nghiêng dần, bức tường lùi vào bóng tối, tới lúc những giọt nắng cuối cùng từ trong gáo nhiễu bay thánh thót chạm đất, vỡ toang trên nền đá ẩm, thì hai chúng tôi mới bừng tỉnh. Khoảng tường cuốn hút kỳ lạ. Bở tường ủ ê hâm hấp. Bàn tay tôi trơ trẽn, buông vội tiếc rẻ vuông ngực trần mơn mởn, đầu vú nhọn nhú lên xuôi mềm mại tròn trĩnh trắng muốt thắt hẹp ở hông rồi lại nở vung ôm chặt lấy đáy thân Trần Thị. Trần Thị cắn môi nhìn tôi bẽn lẽn, một tiếng trống chùa vang xa nhắc nhở...
Tắm xong, tôi lấy xiêm áo cho Trần Thị thay. Vải lụa tím ngà thêu những nụ thủy tiên thôi còn e ấp, nhưng bắt đầu nở. Trần Thị xỏ ống tay áo, khép vạt, chéo áo lập lòe bâng quơ rộn ràng đàn bướm vàng rực. Trần Thị xoay mình ngắm, vạt áo xòe rộng ở gót chân, trong gương váy áo phập phồng phơi múa giống chiếc đuôi của loài công làm đẹp cho cơ ngơi tộc Trần. Tôi không khỏi ngăn mình liên tưởng Trần Thị cũng là một con công, song không phải một loài công nuôi, mà là thứ công để thịt. Chẳng phải ngẫu nhiên mà có câu tục ngữ: nem công, chả phượng. Trên đất nước này, loài vật đẹp đẽ nhất, cũng chỉ phục vụ cho một mục đích phàm phu nhất.
Chúng tôi bước ra gian thờ. Trần Thị nhắc tôi khép cửa. Căn buồng đóng lại, chỉ còn hương thơm thoang thoảng theo dấu chân Trần Thị. Công việc của tôi ngoài nuôi nấng Trần Thị, còn được giao trọng trách chăm sóc bàn thờ. Thứ trọng trách mà tộc Trần chỉ giao cho kẻ bất lực, không có khả năng chống đối, lật đổ tham vọng. Mỗi ngày tôi với Trần Thị quẩn quanh, chữa lại một cành vạn thọ cắm không ngay, treo thêm những vòng nhang xoắn, đốt cho khói hương không bao giờ đứt. Bột nhang vàng lấm tấm, tàn nhang cong oằn, tôi quét dọn tro than không ngừng rơi xuống. Trần Thị hay phụ tôi xếp những trái vải đỏ mọng, xoay những quả cam Bố Hạ phơi mặt vàng óng, rồi lau khắp lượt những mặt người quá cố. Chân dung Trần Kính vẽ bằng than chì như hãy còn sống, nhìn thèm muốn từ bắp chân Trần Thị lên quá đùi. Con ruột Trần Kính là Trần Hấp, cha đẻ của Trần Lý cũng nhìn Trần Thị như thôi miên. Cặp mắt hấp háy của bức vẽ truyền thần tôi lau tới đâu sáng quắc tới đó, muốn hớp hồn, níu kéo từ cổ tay trắng mịn của Trần Thị lục lọi mân mê cho đến tận bờ ngực con gái mềm vun. Tia mắt sờ soạng rờ rẫm. Tia mắt dâm dật ruột thịt. Trần Thị hốt hoảng đánh rơi mâm ngũ quả, những trái hồng quân lăn trên đất chạy trốn. Tôi cũng hốt hoảng bởi hiểu trong cái nhìn ham muốn thèm khát của Trần Hấp đầy dẫy những đòi hỏi chiếm hữu. Trần Thị tung chạy ra cửa, vụt đứng sững ngay lại: Tiếng vó ngựa dồn dập dã man phóng nước kiệu trên con đường đất đỏ bụi mù dẫn đến gian nhà thờ. Tim tôi cũng đập mạnh đứt quãng, cái con người hung hãn nắm vận mệnh tộc Trần đã đến. Yêu Trần Thị nhưng tôi bất lực, thứ bất lực của kẻ ở theo hầu một triều đại.

III

Tôi theo dạy chữ thánh hiền cho Thủ Ðộ từ tấm bé. Thứ chữ dùng làm đạo. Thứ đạo của người quân tử. Nhưng với Ðộ, không có thứ đạo nào hơn sức mạnh. Học hết Tam Tự Kinh, Ðộ không xem tôi như thầy nữa, nhưng coi như một thứ quân hầu đi theo sai việc. Ðộ sớm phát triển cơ thể. Bắp tay nở nang, bả vai đồ sộ. Phóng đao, đâm giáo, dùng đoản côn, tráng đinh khắp làng Tức Mặc không ai hơn Ðộ. Sự phát triển của cơ thể chỉ đưa đến gia tăng tính dục. Ðộ mạnh về đường sinh lý, những chiều đi tập võ về, Ðộ thường cởi trần trùng trục, đứng trần truồng khoe thân trước đám thôn nữ. Ai không muốn xem, Ðộ cho tiền bắt xem. Ai bỏ chạy, Ðộ rượt theo đánh. Chữ Thánh Hiền lúc đó chỉ còn là một mớ hình dáng tạp nham làm bẩn óc Ðộ. Có lần điểm mặt Trần Lý, Ðộ nói không nể nang:
- Ở đời không mưu, không đạt việc lớn!
Trần Lý cúi gầm mặt. Bản chất yếu đuối, trí não không hơn một kẻ đánh cá, Trần Lý không sao trấn áp, tranh được với trí xảo của Ðộ. Năm Kỷ Tỵ 1209, Ðộ mười lăm tuổi, mang sức vóc của loài vượn trắng. Trưa quất ngựa theo Ðộ đến gian nhà thờ của tộc Trần, tâm thần tôi đầy ray rứt của nhà nho bất lực với chữ nghĩa thả mặc dây cương cho môn sinh tìm tội lỗi.
Chiều đó, bầu trời bẩn lắm. Có nắng, nhưng cũng nhiều mây, thứ mây đen tối bao phủ trên nền trời đất nước. Ðộ thúc ngựa như điên, như dại. Nắng ruổi theo sau hớt hãi. Nhưng nếu nắng cuối triều Lý không đủ ấm, thì khi soi xuống mình Ðộ lại biến chất. Lúc vó ngựa của Ðộ rầm rập dẫm vào trong sân thì mặt trời đã trở nên cực hung hãn, mặt trời như có đúc vàng đặc cứng chật căng trên da mặt Ðộ phừng phừng lửa giận. Ðộ thắng ngựa, buộc chặt trước rào. Cả một gian nhà thờ vụt kinh hãi cung kính phủ phục đợi Ðộ. Ðôi mắt Trần Kính sợ sệt trốn tránh. Cặp mắt Trần Hấp nhợt nhạt nhìn lảng vu vơ. Cả một dẫy chân dung cúi gầm mặt không dám ngẩng lên. Anh ruột Trần Thị là Trần Tự Khánh trông thấy Ðộ cũng vội vã bỏ trốn. Ở đời không mưu không đạt việc lớn. Song Ðộ không chỉ mưu mà còn có cả sức lực. Tất cả kẻ sống và kẻ chết trong gia tộc Trần đều biết. Ðộ đá bật cửa, giật mạnh tấm màn gấm che ngoài. Nắng xộc vào hung tợn hơn lũ ăn cướp soi trắng thịt da Trần Thị tái ngắt sợ hãi. Trần Thị luống cuống hỏi:
- Cậu Ðộ tới tìm tôi?
- Không tìm chị thì tìm ai? Tìm chó à?
Ðộ gầm. Giọng nói như tên bắn.
- Phải thằng Sam trốn giặc Quách Bốc về đây hỏi cưới chị?
- Tôi không biết!
Trần Thị co rúm mình lùi vào góc nhà. Ðộ sấn tới, vóc vạc không thua con dã nhân đeo cung kiếm. Sử quan triều sau, với lối chép sử biên niên cổ lỗ, không ai tả được đôi mắt Ðộ. Ðôi mắt của kẻ nhất quyết nắm chức Ðiện Tiền Chỉ Huy Sứ năm mười lăm tuổi. Trần Thị kinh hãi lùi dần, lùi dần, cho tới khi bị Ðộ chụp lấp cằm bóp mạnh:
- Có phải chị nhận lời vì thằng Sam là hoàng thái tử ? Có phải?
- Cậu buông tôi ra!
- Có phải?
Ðộ tát Trần Thị một bạt tai ngã sấp. Máu ứa ra ngoài môi. Trần Thị bưng mặt, Ðộ đến siết cổ, Trần Thị cố dẫy, búi tóc xổ tung, những sợi tóc đen nhánh đổ vung vãi xuống phần ức trắng. Ðộ xé toạc ngực áo lột trần xuống tới lưng. Trần Thị gào la khóc lóc thở hổn hển.
- Tôi lạy cậu!
Trần Thị van lơn nhưng Ðộ không nghe, không ai có thể kềm chế đuợc Ðộ. Tôi run rẩy đứng chết trân sau cột nhà, không gian đặc quánh nỗi sợ sệt tê điếng, đã hiểu mình không sao giúp gì được cho Trần Thị, đã hiểu chữ Thánh Hiền chỉ là mớ chữ vô dụng. Số phần Trần Thị chỉ có thể do Trần Thị quyết định, nhưng Ðộ đã nắm lấy tóc kéo lôi đi. Trần Thị giẫy dụa, mười ngón tay bấu sướt trên nền đất cốt trì kéo mà không được. Ðộ ném Trần Thị ngã ngồi, rồi từ từ cỡi giáp. Hai bắp vai Ðộ lồi ra đen đỏ màu đồng. Nắng dát vàng khắp lưng bóng lưỡng, Ðộ đứng xoay lưng nên tôi chỉ trông thấy được những bắp cơ rắn rỏi chạy dọc từ cần cổ xuống gót chân Ðộ trần truồng thô lỗ. Trần Thị tái mặt. Ðôi mắt của Ðộ dâm dật bệnh hoạn, nhưng cũng đầy thỏa mãn, Ðộ từ từ quay lại nhìn tôi hỏi:
- Chữ gì?
- Bẩm, chữ nhân.
Tôi lắp bắp. Ðộ phá ra cười, tiếng cười lồng lộng xuyên xoáy trên nóc nhà, rồi dội hắt xuống. Tiếng cười như có khảm gai. Không phải là Nhân mà là Dục, không phải Dục mà là Trí, không phải Trí nhưng là Dũng. Nhân, Trí, Dũng, Dục, Ðộ có đủ. Lấy thằng Sam là Trí, ăn ở với hắn là Dục, giết hắn là Dũng. Ðộ tiếp tục cười khùng khục đứng dạng chân, vươn tay phơi mình nhìn sững Trần Thị trong tư thế nham nhở. Trần Thị nhắm mắt úp mặt vào lòng bàn tay nức nở. Ðộ bỗng lầm lì cúi nhặt thanh mã nằm rơi trên nền đất. Tiếng cười im bặt.
- Tộc Lý là con ngựa này!
Ðộ chỉ con ngựa ô buộc ngoài máng. Tay chân tôi lạnh ngắt, người rã ra trong cơn sợ hãi, tôi đã hiểu Ðộ sắp làm gì. Ðộ lại nắm tóc kéo lôi Trần Thị lê lết trên mặt đất bắt nhìn quang cảnh. Hai cánh tay Ðộ hươi cao lắm, gân guốc, mạnh mẽ. Bản dao sáng lóa, suốt đời chưa bao giờ tôi trông thấy một thanh mã rùng rợn như thế, đôi mắt của Trần Thị mở căng khiếp đảm, đôi mắt của Ðộ hung bạo, đôi cánh tay vung lên rồi quất xuống bằng tất cả sức lực. Tiếng ngựa rống chói tai. Tiếng vó sắt đập tung như trống nện. Cần cổ con ngựa ô ngập lún bản đao vùng lên, từ chỗ vết thương thịt da máu me đổ trào ra như thác, máu ngập máng, máu lênh láng bắn phun lên nền đất. Tiếng rống khủng khiếp của con vật kêu thất thanh, cố giật ra khỏi rào buộc. Ðộ đã chém tiếp, thân thể trần truồng của Ðộ cũng vấy máu chém xối xả liền tay không ngừng nghỉ, mã tấu hươi lên rồi lại bổ xuống, máu tung như sóng, lớp lớp trào trào. Bản thép sáng lòe lòe sắc lạnh. Hình ảnh một kẻ trần truồng chém đầu ngựa trông kinh hãi. Chất thép rờn rợn. Hai chân trước của con vật đã khuỵu xuống, khoảng lưng đen nhẵn lềnh máu. Những móng ngựa nhồi xuống mặt đất chỉ còn là những vẫy vùng tuyệt vọng, thứ co thắt của ruột gan đứt đoạn. Máu ộc ra ở miệng, đôi mắt con vật đứng tròng nhìn trừng trừng lên nền trời bát ngát. Mình ngựa đã xụm xuống, Ðộ xắn lấy đầu giơ cao. Những ngón tay tôi thâm tím đi vì sợ. Cặp mắt con vật, chính là cặp mắt của Lý Huệ Tông sau này ở chùa Chân Giáo.
Ðộ bước trở lên thềm, người tắm máu, dáng dấp của tên khổng lồ cuồn cuộn thịt gân. Xét theo sách tướng, Ðộ có thiên mệnh, nhưng thần sắc lại nửa rắn, nửa rồng. Không làm vua mà lại coi vua. Ðộ nhìn Trần Thị say mê, vẻ say mê hung bạo.
- Chị yêu tôi không?
Ðộ cúi xuống, hôn vào giữa đôi môi run rẩy của Trần Thị, một bàn tay sờ soạng phần ức trắng, mân mê nơi đầu vú. Rồi bàn tay trườn xuống bụng, Trần Thị thót người, co rút mình mẩy. Nhưng cử chỉ đối kháng chót cùng đó chỉ làm Ðộ giận dữ:
- Trao thân cho tôi là trao thân cho đất nước. Hiến thân cho tôi là hiến thân cho tộc Trần! Cớ chi phải sợ? Hay chị muốn như con ngựa này?
Ðộ quát.
Buổi chiều đó, tộc Trần khởi nghiệp trên thân xác Trần Thị.

IV

U Ðào đi ở cho dòng họ tôi, từ lâu lắm. Mỗi sáng u thường hay quẩn quơ trước bàn thờ, chữa lại hương án, rót nước, châm trà, rồi lau khắp lượt những mặt người quá vãng, từ tổ phụ, cố nội, bà, cho đến chú tôi mà ánh mắt cứ một ngày một nhạt phai trên bức vẽ. Không có ai trên bức vẽ mà u không biết. Từ cố có chiếc bình điếu bằng ngà khi làm đến chức Thái Sư có người dâng cây gậy bằng vàng lúc chết chôn theo, đến ông tôi từng đăng quang ở điện Thiên An, khi ông khuất chính u là người tự tay khâm liệm. Còn bà tôi theo lời u kể, chạy tản cư giặc Nguyên từ kinh sư về tới phủ Thiên Trường dọc đường trúng tên mà mất. Phút lâm chung bà không ngớt kêu tên cố. Tại sao lại kêu tên cố mà không là ông? U Ðào không bao giờ giải thích cho tôi rõ.
U Ðào như thế, đã ở với từng ấy người của họ Trần. Bây giờ trong bức vẽ nhìn ra, không biết họ có còn trông thấy u? Từ thuở tấm bé, tôi đã trông thấy chiếc bóng của u vật vờ, dật dờ, làm như u đã ở cho tộc Trần suốt nhiều kỷ. Không rõ từ khi nào, nhưng chiếc bóng của u đã ăn sâu lắm, chạm khảm vào trong trí não tôi như thể u chính là sự hiện diện của gian nhà thờ trong mỗi gia đình Việt, từ đời này qua đến đời khác, hết thế hệ này xuyên suốt thế hệ khác, luôn luôn ở đó bất di bất dịch.
Dạo ấy, mỗi sáng, qua khe hở của hai tấm ván ghép rời, lập lòe soi đỏ một tim đèn cầy thắp đêm ngày cạnh hương án, tôi đều trông thấy u Ðào nhặt nhạnh từng cánh hoa tàn rụng rơi, vương vãi dưới gốc chân nhang. U quét tước tro hương, xếp lại những quả na, bày biện thêm những quả xoài cống từ đất Chiêm Thành vàng ửng màu cát. U không biết chữ, lại không có thì giờ đi nghe giảng kinh, nên đối với u dọn dẹp bàn thờ là một hành động hướng thượng. U rất chăm làm, ngày xưa Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị gọi u là sự tôi luyện của thời gian. Thời gian phơi trên mấy ngón tay trắng trẻo trẻ trung của u lúc vào ở cho tộc Trần, cần mẫn sắp xếp hai thếp nhang, đôi nến trắng, một cho khám thờ Phật và một đặt trước bài vị gia tiên. Vẫn động tác đó, nhưng thời gian đã bào mòn, ăn nhấm từng đầu ngón tay, khiến lớp da nhão nhoẹt nhăn nheo như thứ da bị ngâm nước lâu ngày chỉ chực lột để lộ xương. Nhưng hình như u không để ý mấy tới việc thịt da mình bị tàn phá. U vẫn cẩn trọng quét dọn bàn thờ. Xong xuôi tươm tất đâu đó rồi u mới lẳng lặng, lặng lẽ lên gác mời tôi:
- Mời Thiếu Ðế xuống lễ.
Chiếc bóng tôi đi trước, chiếc bóng u già cỗi theo sau. Trẻ thơ, song tôi sớm có ý nghĩ: U Ðào chỉ là một chiếc bóng mờ câm sẵn sàng tan biến nhập hẳn vào từng thớ gỗ, trộn lẫn cùng với mối mọt ở đà nhà mình. Chiếc bóng im lìm không động đậy nơi bức vách. Nếu không phải gia tộc Trần thì cũng là gia tộc khác. U sinh ra chỉ để đi ở, chấp nhận bất lực.
Tôi thắp nhang, van vái, rồi thỉnh một tiếng chuông rước thầy, cố, cùng các nội tổ về.
Quay lại trong thấy u, tôi lại tự hỏi: Tại sao gia phả của dòng họ Trần không thấy chép tên của u Ðào? Dù u đã ở với chúng tôi nhiều kỷ. Cả một kiếp người, vậy mà u cũng chỉ giống giọt nước rỏ từ mái hiên điện xuống chậu kiểng, giọt nước kêu đánh “tạch“ trên tàu lá rồi chảy xuống đất vô tâm tích. Nếu nhìn từ toàn cảnh, tôi chính là cái chậu kiểng tiếp tục hứng giọt nước nhỏ mọn ấy chảy từ thân u Ðào. Tôi, thái tử Ân - Trần Thiếu Ðế - đứa trẻ được nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa, chăm sóc, chăm bón, để mong nối dõi cơ nghiệp của tộc Trần.
Song năm Kỷ Mão 1399, triều Trần đã bạc nhược lắm. Thượng Hoàng Thuận Tông bị Quý Ly chuyên quyền đầy ra ở Ngọc Thanh Quán huyện Ðông Triều tỉnh Hải Dương. Tôi cũng phải rời cung Bảo Thanh về ở phủ Thiên Trường, mang danh hiệu Thiếu Ðế mà không có quyền bính. Kẻ ăn, người ở trong nhà chỉ còn mỗi u Ðào và bõ Phúc. Bõ Phúc cũng già lắm, lúc xưa là con của thầy đồ, được nội tổ Trần Hấp rước về dạy chữ Hán cho cụ cố Thủ Ðộ. Thầy đồ qua đời, con trai ở lại giúp việc rồi thành bõ. Lúc tôi bước chân ra sân, nắng rơi lác đác trên những tờ giấy chép chữ Thánh Hiền. Bõ Phúc đang ngồi lom khom phơi kinh sử, mặt bõ ngơ ngác, nói cười như mếu:
- Bẩm Thiếu Ðế ra sân chầu?
- Ðạo đã nát, chữ đã nhòe mực, bõ còn phơi làm chi?
Bõ nhướng mắt ngạc nhiên, những xấp kinh Luận Ngữ của Khổng Tử nhầu nát trong tay bõ. Những tấm giấy đen đũi chép Ðạo Ðức Kinh của Lão Tử ố vàng, thấm nước mềm ủng như bún. Bõ Phúc không hiểu tôi nói gì, lại cúi xuống chăm chỉ xếp từng tờ một, ngay ngắn, thẳng hàng. Những ngón tay già héo của bõ chậm chạp vuốt lại những trang Nam Hoa Kinh rồi bày trên mặt đá. Một cơn gió thổi bất ngờ làm chữ nghĩa bay tán loạn, bõ Phúc hối hả tất tả chạy đuổi theo cho tới lúc cả chiếc bóng bõ cùng những tờ giấymất hút. Sân đá lạnh câm. Không chiêng, không trống, không cờ hiệu, không cả tiếng hát của cung nga, tôi đứng trơ trọi một mình. Phủ Thiên Trường lúc xưa là nơi khởi phát của tộc Trần, về sau là nơi các thượng hoàng sau khi truyền ngôi cho thái tử về dưỡng lão. Chiếc nôi của triều đại mỗi ngày một cũ mục, suy tàn. Tiếng gió lay lắt mấy tấm rèm cửa.
Mãi đến chiều bõ Phúc mới lượm hết chữ Thánh Hiền trở về. Mặt mũi bõ phờ phạc, thở hổn hển. Trông bõ tội nghiệp. Tôi lại đứng xem bõ nhẫn nại phơi kinh sử. Tôi muốn tìm người hiến kế, nhưng không có ai khác, đành hỏi bõ:
- Quý Ly muốn soán ngôi, tôi còn nhỏ dại, phải làm sao?
Bõ Phúc đang ngồi xổm, lấy đá lèn giấy, nghe tôi hỏi bỗng ngửng phắt lên chỉ tay xuống ao quát:
- Ðầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo! Trận này không phá giặc thề không trở lại khúc sông này nữa!
Vẻ mặt bõ Phúc đột ngột hùng dũng, quả quyết. Tiếng nói đanh thép của người bõ già làm tôi muốn khóc, không ngờ những lúc lâm nguy của gia tộc hãy còn người trung. Tôi ôm chầm lấy bõ Phúc, quỳ vội xuống đỡ bõ đứng dậy. Tôi vái sống bõ Phúc hai vái:
- Trời ơi! Mệnh trời chưa hết mới xui bõ về đây, thiên mệnh nhà Trần chưa hết, mai này về được kinh sư tôi nguyện không quên ơn cứu giúp! Vậy bõ có kế chi?
Bõ Phúc cũng xúc động lắm, hai vai run run, đưa tay vấn lại khăn nhiễu. Mặt bõ băn khoăn, hết quấn khăn lại vuốt vạt áo thâm, mãi mới ấp úng:
- Nhổ cỏ thì phải nhổ cả cái rễ nó đi!
Tôi sửng người chưa hiểu bõ Phúc muốn nói gì. Thấy bõ do dự, tôi gặng hỏi:
- Cỏ nào? Ở đâu?
Lúc ấy, tự nhiên mặt bõ Phúc mất hết thần khí, chỉ còn trơ lại thân xác khô vắt của một kẻ già. Nhìn vào đôi mắt bõ trống rỗng, ngơ ngác, hai đồng tử bạc phếch, lờ đờ, tôi chợt hiểu. Hai cha con bõ Phúc theo hầu nội tổ Thái Sư Thủ Ðộ và họ Trần đã quá lâu, về già chẳng còn biết gì nữa; chỉ lập lại những điều được rao truyền, nghe thấy. Tôi muốn giở cười, giở khóc, đâm giận mình thiếu lý trí, kế giữ ngôi báu không ai hỏi kẻ ở đợ trong nhà.
Lúc tôi quay trở vào trong, hàng liễu rũ đứng dưới sắc trời chiều chạng vạng, vẩn vơ chiếc bóng của bõ Phúc hãy còn ngồi lom khom ngờ nghệch phơi ủ chữ Thánh Hiền.
Ðêm đó, sau bữa cơm, tôi hỏi u Ðào:
- Tộc Trần chỉ còn mỗi mình tôi ư?
- Bẩm Thiếu Ðế còn đông lắm.
U mỉm cười, hàm răng nhuộm đen tuyền làm vẻ mặt u thêm trắng. U nói u không bao giờ lớn, trước tôi không tin, bay giờ nhìn u đứng trong bóng tôi, vóc vạc nhỏ nhắn, hai tay xuôi mềm, hai chân bé bỏng, sau lớp da nhăn còn giữ dáng dấp thiếu nữ, tôi mới nhận ra u hãy còn rất trẻ. U bưng khay trà, rót vào chung kính cẩn mời:
- Bẩm Thiếu Ðế ngự.
- U nói sao, tôi không hiểu. Ðông là những ai?
- Bẩm tất cả.
U lại nhìn tôi do dự. Có điều gì bí ẩn u muốn dấu. Tôi nắm tay u, u run se sẽ, tôi cảm nhận rõ ràng mạch máu ấm giữa lòng tay u chảy mạnh. Có lẽ u chưa bao giờ biết đàn ông.
- U còn thương tộc Trần thì dẫn tôi đi gặp.
Ðôi mắt u buồn lắm. Ðôi mắt u nhìn kỹ trong veo như đáy sông Thao, phảng phất tia nhìn của Linh Từ Quốc Mẫu. Tôi ôm u vào lòng và u bật khóc. U Ðào khóc nức nở, nước mắt u đầm đìa, những giọt nước mắt của bao nhiêu năm câm nín, cam chịu, của nhẫn nhục cô đơn. U nuôi tôi từ tấm bé, nhưng chưa bao giờ tôi thấy u khóc nhiều và thành thật như tối đó. Tôi biết u không thể nói, nên u phải khóc. Tôi cũng khóc, vì gia phả tộc Trần xuống tới đời tôi là hết. Quý Ly đã sai Phạm Khả Vĩnh đi giết thượng hoàng Thuận Tông, như ngày xưa nội tổ Thủ Ðộ sai thắt cổ Lý Huệ Tông chồng Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị ở chùa Chân Giáo. Vài hôm nữa chắc Quý Ly cũng cho người đến bắt ép tôi uống độc dược tự tử. Tôi úp mặt vào ngực u thổn thức. Nhưng u Ðào đã lặng lẽ lạnh lẽo gỡ tay. Những giọt nước mắt của u sao mau cạn? Tôi đâm ngờ u không khóc cho tộc Trần.
- Bẩm Thiếu Ðế đã đến tuần.
U đốt đèn lồng dẫn tôi vào sân trong. Khoảng sân lưa thưa gió, tối ám, nước rỉ hai bên vách tường lâu năm bám ẩm rêu. Khói nhang từ lư hương với vàng mã đốt liên tục cay nồng nặc. Bõ Phúc đứng đợi kéo ngai cho tôi ngồi. U Ðào đốt thêm nhang đèn vàng mã. Tiếng nước nhiễu xuống vại nước nghe rõ mồn một. Cả một bức tường khổng lồ soi ánh trăng sáng như một trụ tháp nhà dát bạc. Bức tường sừng sững vĩ đại, bên trên khắc chi chít tên tuổi của những người trong tộc Trần, cùng những chiến công lừng lẫy từ trận Tây Kết, đến Hàm Tử Quan, Vân Ðồn, Bạch Ðằng, hội nghị Bình Than, Diên Hồng... Nghi tục của các vua Trần về ở phủ Thiên Trường là mỗi tối phải mặc niệm trước bức tường đã ghi chép chiến tích. Tôi cũng không thoát ra khỏi tập quán đó.
U Ðào với bõ Phúc xá lạy rồi bước ra.
Chỉ còn tôi với chiếc ngai và bức tường mỗi lúc một sáng lộng lẫy. Ban đầu tôi tưởng là sáng trăng, song cứ mỗi lúc ánh sáng càng rực rỡ chiếu phát như bức tường là cả một khối ngọc khi ửng đỏ lúc long lanh ngời ngời. Ánh sáng huyễn hoặc thu hút đến độ tôi không sao rời mắt đi được. Người tôi mụ đi, chả trách bao nhiêu đời vua Trần đều say mê chiêm ngưỡng bức tường. Ánh sáng từ bức tường thấm vào người tôi tới đâu tê mê tới đó, máu như thông chảy trong cơ thể, sảng khoái, rã rượi, ngọt lịm như say, toàn thân tôi vẫn ngồi yên trong ngai mà như ân ái với nhiều cung nữ, với Chiêu Thánh, với Thuận Thiên, với Linh Từ Quốc Mẫu, với cả u Ðào. Ánh sáng cứ một lúc một mãnh liệt từng vòng từng vòng lớn mãi. Ánh sáng chỉ thoi thóp tắt dần khi trời ửng sáng. Nhiều đêm, nhiều tháng sau, mỗi tối tôi đều đến với bức tường. Cho đến lúc tinh khí kiệt quệ, tôi mới hiểu thứ ánh sáng huyễn mộng đó đến từ hào quang của quá khứ.
Trần Vũ
tháng 6-1992
Nguồn: Ăn Mày Văn Chương
<bài viết được chỉnh sửa lúc 26.05.2005 14:56:39 bởi Trương Củng >

Trương Củng
  • Số bài : 531
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.01.2005
  • Nơi: Dòng sông quê hương
Cái Chết Sau Quá Khứ - Trần Vũ - 26.05.2005 14:55:29
Cái Chết Sau Quá Khứ


Ngày xưa, những cơn mưa đầu thu về qua đất Thuận Hoá tuyệt dữ dội. Lão Chu là người thường rũ tôi đi ngắm mưa. Lão đứng hàng giờ ở phá, ngẩng cổ, ngửa mặt thách thức cơn giận dỗi của trời đất. Mưa chúi xuống đất, mưa tắm lên đầu, mưa cắm đầy miệng lão, song lão Chu vẫn trơ trẻn cướp giật thức uống với thượng đế. Lão phá ra cười; tiếng cười sằng sặc lăn lộn trên sóng. Lão Chu nuôi tôi bằng tiếng cười khật khùng điên dại của lão. Nhưng dạo đó tôi còn trẻ, chưa khùng, cũng chưa dại. Tôi chỉ mới bắt đầu biết say mưa. Mà mưa ở phá đẹp kỳ ảo. Cả một vùng trắng ngần, trắng lịm, những tảng nước trắng xóa lồng lộn sa sầm xuống mặt đầm rồi tung bắn lên quẩy với hơi sương, giăng giăng mờ mờ, chạy chạy đường võng trên không. Mưa ở phá rầm rập, ào ạt mạnh mẽ. Bầu trời trắng lòa lòa những nước là nước.
Từ khi biết say mưa, tôi đâm biết say Ngự. Những lần theo lão Chu ra phá, Ngự đẹp man dã. Vải áo mớ ba chảy dán, bó rịt người, thân thể Ngự nổi lửng như một nhành lúa trổ vươn trên mặt ruộng lụt nước. Ngự xõa tóc xổ tung rã rượi, chân dầm trong nước, mắt dầm trong mưa. Ngự xòe hai cánh tay mở lòng đón mưa. Những hột mưa nhỏ mà tròn mọng. Ngự bảo là đốt tay Phật, vỡ vào đâu, phúc đến ấy. Phật tắm phúc lên người Ngự. Tôi đứng ngẩn ngơ nhìn phúc của Thượng Đế vỡ hoa trên da thịt Ngự. Lão Chu lại rống tiếng cười sang sảng, thỏa mãn đã uống hết cơn bão mùa vào bụng. Lão trỏ ngón tay lóng nhọn chỉ lên trời, rồi chỉ vào bụng hỏi: Cuộc đời muốn cái chi? Lần nào cũng như lần ấy, trăm lần như một, lão Chu tự giải đáp một mình. Lão gọi Ngự, vít lấy đầu cổ ướt nhẹp của Ngự, cắn vào rái tai Ngự, rồi run run trả lời: Ngự là cuộc đời! Ngự là cuộc đời! Lão Chu lại ré lên cười the thé sung sướng. Mỗi lẫn lão Chu làm những cử chỉ khật khùng đáng ghét đó, thay vì bực tức, Ngự lại phát tiếng cười con gái đương thì ròn tan. Giọng cười của Ngự cũng như của lão Chu bắn theo mưa, châm chích, rã rích, làm tay chân tôi bủn rủn. Vì không hẳn chỉ đơn thuần là giọng cười mà là tiếng kêu khát vọng của một loài sinh vật thèm khát thiên nhiên lẫn hạnh phúc của sự sống. Lão Chu ngắm Ngự, rồi nhìn tôi kiêu hãnh. Bão đã đong đầy bụng lão, bão ngập trong ruột, bão làm căng lòng dạ khác thường của lão Chu. Lão tiến lại gần hỏi: Mi hiểu không? Tôi trả lời: Tôi hiểu, tôi hiểu... Mưa ở Thuận Hóa cực kỳ huyền ảo.
*
Trời vần vần nước. Chúng tôi ở phá suốt buổi, đến khi chiều chạng vạng mới về làng. Cơn giận của thượng đế lắng dần, những cái quẩy thét sau cùng biến thành làn chớp lóe, chưa kịp xé trời đã mất hút. Dọc đường về lão Chu lừng khừng ít nói, lão mất hẳn cái nét xuất thần ngoài phá. Chỉ còn Ngự rủ tôi rình nghe những váng mưa đương vẩy qua đình, nghe giống đấu gạo huyền trân các mụ ưa vãi ra sân kêu lanh tanh, lách tách. Về tới nhà, lão Chu vụt đống quần áo ướt vào góc, xà ngay vào bếp khợi tro lửa. Lửa té tát lên mặt, lửa đỏ kè đôi con mắt lão, lửa phà cả vào mồm miệng bắt lấy hơi rượu cay lão đương tợp lấy tợp để, tu uống ừng ực như con vắt thèm máu. Nền nhà bằng đất, âm ẩm lạnh. Ngự thay áo trở ra than đói. Lão Chu vụt ngay bình rượu, nhào vào bắt siêu đun nước. Lão sàng sàng gạo như người làm xiếc. Lão Chu làm tất. Ngự muốn phụ lão, nhưng lão Chu đã lồng lên dằn lấy con dao trong tay Ngự. Giọng lão bực tức: Mi là cuộc đời!
Phải, Ngự chính là cuộc đời của lão Chu. Và lão chẳng muốn ai đụng đến cuộc đời của mình, chỉ muốn cuộc đời của lão sung sướng. Ngự và tôi đành ngồi im thin thít nhìn khúc cá bơi lội thoăn thoắt giữa bàn tay lão Chu. Thớt cá bóng mú, lão Chu đem cắt khía, bằm xả bỏ vào tượng kho. Cá chín, nước kho sánh mỡ, cặp mắt lão Chu sánh niềm vui. Lão ngửng lên ngó Ngự cười ngây ngô. Nét mặt lão giống y vẻ mặt của những đứa trẻ chóng già, mắt có đuôi nheo mà tròng mắt thì dại khờ. Lão Chu kỳ quặc như vậy mà Ngự lại nói Ngự yêu lão. Tôi thù Ngự mỗi khi nghe Ngự nói yêu lão Chu.
Mưa đêm nhả nước nhay nhắt từng nhịp. Tiếng mưa khuya nghe như tiếng mõ cầu siêu cho ai văng vẳng buốt vào từng thớ thịt. Tiếng mõ là tiếng kinh kệ, nghe mà thấy buốt là bởi tâm không sạch, Ngự diễn giảng lúc kéo tôi đi nằm. Lão Chu ngó theo chằm chằm, hai con ngươi lão chăm chắp rình mò, nghi kỵ, như thể lão biết hết. Mà lão Chu tinh như quỷ. Lão đe bọn trai làng: Thằng mô để con Ngự ốm nghén, tau giết! Tau xẻ hắn làm đôi, lóc nứa máng cho voi giầy! Lão nói là lão làm. Lão hung ác đến độ vác rựa rượt thằng Hiểm chạy băng đồng, năm ngày không dám về làng. Mẹ thằng Hiểm đang đi cầm bò trên núi phải vội vàng về lạy lão Chu ba lạy, lão mới tha. Mà có gì đâu, thằng Hiểm chỉ mới chòng ghẹo Ngự chưa quá hai câu.
Tôi len lén thả tay, chuồi mình dưới lớp chăn đay, cho bàn tay hoá con trăn trườn lên bụng Ngự. Thịt da Ngự lạnh ngắt. Hơi thở Ngự rùng mình bấu nghiếng lấy đùi tôi không cho cử động tiếp. Trong bóng tối, hai con mắt Ngự, hai mắt tôi, bốn con mắt ẩn trốn cặp mắt rình rập của lão Chu. Đôi mắt lão chăm bẳm lục lọi. Lão Chu nhìn tôi nằm chung với Ngự khó chịu. Ánh mắt lão đầy trăn trở, ánh mắt của một kẻ điên biết đang xảy ra điều ám muội mà lý trí không giải quyết. Ý nghĩ lão biết tôi ăn nằm với Ngự đem mổ bụng dồn trấu thả trôi sông làm tôi run lẩy bẩy. Ngự cũng sợ, ghì lấy nan giường mây, thứ mây quý lão Chu vào tận rừng sâu đốn về uốn làm chỗ ngủ cho Ngự. Càng sợ, hơi thở của tôi càng níu lấy hơi thở của Ngự. Trong bóng tối lão Chu d đốt củi suốt đêm, cháy lòe lòe khắp nhà như thể sợ đêm tối có ai vào đánh cắp mất cuộc đời của lão. Lão Chu chỉ mở hé một liếp cửa duy nhất, cho sao đêm ở Thuận Hóa những khuya dứt mưa lấp lánh, chiếu tắt, nhảy nhót động đạy giữa cái nền tím lặng mà sâu hút, đẹp không thua chi đôi mắt Ngự, tưởng chừng là nhúm ngọc trai ai vớt ở dưới đáy biển sâu đem gắn trên trời. Ngự thì thầm hạt sao đêm là mắt Phật. Tôi uống tiếng à ơi và nuốt con mắt Phật bà từ ái dưới mí mắt Ngự.
Lửa cháy lồng lộn, như lòng dạ hung dữ của lão Chu, tưởng sôi sục suốt đêm vậy mà cũng nguôi. Tôi đợi cho lửa tắt dần, tắt nhúm trên khuôn mặt lão, chỉ còn soi một đốm hồng cuối cùng mới dám cắn môi Ngự. Miếng lửa bỏng rát ở đầu lưỡi chảy lan vào người tôi những hột mưa châm chích, những váng mưa đã hắt qua mái đình còn nhiểu giọt tâm tích từ những trận nước tinh chất vỡ suốt trên cánh đồng bạt ngàn gió chướng kết lại trong tôi. Mãi sau này nhớ lại, tôi vẫn còn thấy đầy những cơn mưa tầm thu, bay trĩu trĩu qua vai, làm ướt áo lão Chu và ướt tóc Ngự.
*
Thuở đó, ai có sống ở làng Sình mới nghe danh lão Chu Khỏe. Lão Chu không khỏe việc đồng án, nhưng lại khỏe vẽ tranh. Mà lão Chu vẽ cực đẹp. Người ta nói lão có hoa tay. Nhìn lão miên man phóng bút khai họa, rồng bay phụng múa, voi quỳ hổ lạy, Phật bà, tố nữ, núi biển sông đồi, chim lồng cá chậu... tôi cứ ngẩn ngơ. Lão Chu vẽ cực lẹ. Lão vẽ tuyệt nhanh, nhanh như người ta đi tưới trên giấy. Chịch: một bức hình. Rồi chịch: bức nữa. Lại “chịch“, “chịch“, cứ thế lão ’’đi tả“ một lúc mười mấy bức, mà bức nào cũng sắc, đường nét vun vút như roi quất. Chẳng thế mà tranh Sình của lão Chu bán chạy. Lão vẽ trên giấy mộc, rồi đem khắc in lên thếp gỗ mút. Người ta mua tranh Sình của lão để thờ, cúng bổn mạng, cúng gia tiên, cúng sao, tế lễ trời đất, lễ tạ mùa màng. Mấy năm liền ở đất Thuận Hóa được mùa, lúa cấy phơi phới trên ruộng vàng rức mắt. Nhà nông tranh nhau mua tranh Sình, thóc đổ vào túi lão Chu. Người ta càng trọng lão, trọng cái thiêng liêng của tranh Sình. Được tiếng hóa cuồng. Lão Chu rủng rỉnh tiền bạc, mặc nhiên tự xem mình như một thứ thần linh. Lão nhận càn là tổ họa của làng Sình, tên chữ là Lại-Ân. Danh tiếng càng cao, lão Chu càng khó ở. Hễ ai nói động đến, dù chỉ nói khóe, nói cạnh xa xa, tức thì lão nhảy cỡn lên rủa xã bằng cái giọng dấm đặc ợ hơi khế chua; chửi bới người này, xỉa xói kẻ nọ. Lão Chu quá quắt đến độ trong làng bắt đầu ghét lão. Những người xấu miệng thì bảo Lòng dạ hắn dơ dáy như rươi, vẽ tranh Sình Phật mô có chứng, thôi không mua nữa. Những kẻ độc mồm thì trù ếm Lão không biết nhân nghĩa, thị phi phép tắc, bữa mô trời phạt, cho sét đánh hộc máu. Người ta muốn lão Chu chết, nhưng lão không chết, vẫn trơ trơ ra phá, đứng phơi gan thách thức thượng đế. Lão là thần linh, lão có sợ chi. Lão Chu cười rung cả người, mỗi bận ở phá về, ướt nhẹp đầu cổ, lão lại kiếm chuyện để chửi bới, kiếm người để đay nghiến. Những khi ấy, hai con ngươi lão chạy sòng sọc, mùi rượu tanh nồng nặc ở mồm miệng nhớm nhúa ộc ra. Vậy mà Ngự yêu lão. Mà ở làng Sình cũng chỉ có mỗi mình Ngự là thương lão, cho nên lão Chu càng thích gọi Ngự là cuộc đời. Một hôm hứng chí, lão Chu quyết định vẽ lại cuộc đời mình. Lão nắn nót vẻ truyền thần cho Ngự một bức bán thân. Ngự mặc áo Mã-Tiên màu đỏ nghệ, ai cũng trầm trồ khen đẹp. Có người xin hỏi mua, lão Chu nghe được, trợn mắt, thè lưỡi: Mi dám mua cuộc đời của thần linh, tau vẽ mi ra con bòi! Lão Chu ném chai lọ, rác rưởi đuổi khách. Ngự buồn lắm. Tôi xin Ngự bức vẽ, song Ngự không cho. Ngự nói: Ngự muốn giữ giùm cuộc đời cho lão. Tự trong thâm tâm, tôi biết Ngự rất yêu bức vẽ truyền thần đó. Còn tôi? Tôi yêu Ngự. Tôi si tình Ngự, mà sao không ai biết?
Tháng Giêng, triều đình làm lễ tế đàn Nam Giao. Không hiểu vì cớ chi? Lão Chu nằng nặc đòi lên kinh thành Huế. Lão sắm sửa cho Ngự, mướn thuyền, thâu tóm tiền bạc, quyết định làm một chuyến thưởng ngoạn kinh kỳ. Trời tờ mờ sáng, những hàng cây ngô đồng dọc ven làng Sình còn chưa thức, lão Chu đã dắt díu tôi với Ngự xuống thuyền, bơi ngược khúc sông Bồ lên Bao-Vinh. Tôi với lão dầm mái chèo khoắn nước. Mặt sông trong như mặt kính, lai láng, sáng lưỡng, từ từ rạn vỡ lúc xuồng rẽ nước xa bờ. Lão Chu xăng xái, chèo lấy chèo để, mặt sông dậy sóng, sóng đánh tràn khoang. Ngự la hốt hoảng, nhưng lão Chu cứ bơi dầm cười nắc nẻ. Không phải chỉ có một mình lão Chu kích động, cả tôi lẫn Ngự đều háo hức. Nắng lên ối mui thuyền. Thếp nắng rạng đông, đỏ bừng, dọi vào những đám mây còn đọng ở đáy sông. Ngự hò tiếp sức tôi với lão Chu. Giọng hò Nam Ai của Ngự lẳng lơ, vọng tới cồn, váng trong lau lách. Lão Chu đắc chí cười khanh khách. Cười chán lão vỗ đùi làm nhịp, hai vai oằn xuống, hai chân xoạc, tay vươn tới, khủy kéo về, lão đẩy mái chèo khua thuyền trôi băng băng. Ngự hò một lúc rồi lôi truyện Tàu “Tuyết Hồng Lệ Sử’’ của Từ Trẫm Á đọc cho tôi và lão Chu nghe. Tôi nghe truyện kể thì ít mà say giọng đọc của Ngự thì nhiều. Tôi uống từng câu, nuốt từng chữ, ngậm từng cái ngắt hơi của Ngự.
Thuyền qua Thanh Hà, qua Bao Mỹ, đến Bao Vinh, mà giọng kể của Ngự hãy còn chạy trong máu tôi rần rần. Lão Chu cắm nọc, giam thuyền. Mặt lão bỡ ngỡ nhìn mái tường thành, đang ngã bóng đồ sộ, vĩ đại, đè lên người lão. Thân thể lão Chu bẹp dí, như bị tường thành nghiến nát. Lão vụt trở nên nóng nảy giục giả tôi với Ngự nhập vào đám người đi rước Hoàng Thượng ngự đạo. Tôi nắm tay Ngự, chen trong thác người khổng lồ đi dọc sông Hương, ngang chùa Diệu Ðế, ngang cổng Thượng Tứ, qua cầu phao, đổ dốc Nam Giao. Hoàng Thượng từ điện Cần Chánh trong Tử Cấm Thành ngự giá lên Trai Cung, lính hầu đánh chuông thét: Thiên tử thọ mệnh ư thiên! Cả giòng thác người cúi rạp đầu khiếp hãi! Lúc Thiên Tử đã đi qua, tôi ngửng lên còn trông thấy hai tròng mắt lão Chu thất đảm, hồn phi phách tán. Kiệu Rồng đi đến đâu, mây cuộn nước dạt, trăm họ vái lạy: Thiên tử vạn niên, Vạn thọ vô cương, Quần phương tập khánh, Vạn bảo trình tường! Lão Chu run lẩy bẩy, cái chức vị “thần linh” của lão xem ra nhỏ mọn, không sánh nổi với Thiên tử. Tranh Sình của lão vẽ trên giấy mộc bản thì có ra gì, so với cờ quạt, trướng liễn, tàn lọng, chiêng trống, voi ngựa, long đình, ngự liễn, hoành phi, lân cầu, bảo kiếm, chung đỉnh, đĩa chạm? Người lão Chu cứ co rúm lại từng chốc, lão đã thật sự gặp thượng đế!
Tiếng trống lùng thùng chiêu hô, tiếng chuông xướng họa, phường bát âm tấu nhạc cho đám vũ Bát Dật múa tế giao. Các ngón đàn tỳ, nhị, nguyệt, sáo, uốn éo vây lấy tôi và Ngự. Mặt lão Chu đang xám hóa đỏ bầm như gấc, tôi biết lão sắp lên cơn. Mà lão lên cơn thật. Một hai lão nhảy qua khuôn thành, đòi lên Viên Ðàn, chỗ lập án thờ, nhưng quan lính đuổi lão. Lão Chu lại đòi vô Phương Ðàn xem tế khí và tế phẩm, cũng không được. Mặt lão hầm hầm, cơn giận xé ruột, cơn giận xé gan, cơn giận bức bối trong óc lão. Song lão Chu cũng biết sợ. Thượng đế ở đàn Nam Giao, không chỉ làm mưa như ở phá, mà có quyền tế sống lão. Giữa rừng người đi xem tế giao, lão Chu lôi ngược tôi với Ngự. Lão xua tôi như xua tà, lão bắt Ngự về. Tội nghiệp Ngự khóc hết nước mắt, lão cứ lầm bầm chửi rủa: Trời sinh vua, sao còn sinh lão? Lão muốn thọ mệnh ư thiên, quần phương tập khánh, muốn mặc áo đại triều, đi guốc cẩn, uống rượu trong chén sứ cẩn tam khí, hút thuốc trong bình điếu bằng ngà, lão muốn tất. Ngự khóc ròng rã, lão Chu quầy quầy xô đuổi. Lần đầu tiên tôi thấy lão Chu xua đuổi cuộc đời của chính lão.
Những ngày sống ở Thuận hóa, chỉ có mối tình của tôi với Ngự là đẹp. Mưa xuân trắng mờ mịt cánh đồng. Cả một láng mưa bay vút qua mặt ruộng điểm sương, trổ mai trắng, mọc rưng rứt đến ngút ngàn. Ngự chạy băng đồng, ném chiếc nón Phú Cam xoáy tròn trong không khí. Vải áo lụa mỡ gà của Ngự tất tả, bén nước, nhễu rây trên đất. Tôi theo vết nước tìm bắt Ngự. Hai đứa chạy ra bờ ao, xem sen nở. Màu sen cánh phấn, chao chao, mặt ao chao sóng, những cánh sen dập dình nổi lửng trên cái nền rêu thẳm. Ngự hay cởi áo cho tôi cắn lưng để rụt cổ rùng mình. Tôi thích mơn trớn Ngự dưới gốc đại, nhìn lá đại rụng xuống bụng Ngự, phập phồng lên xuống theo hơi thở Ngự. Mà thịt da Ngự thẩm thấu lạ. Mỗi bận mưa giông, cả một láng mưa, nhọn hoắt, buốt như kim quất qua mái chùa trước khi đâm xuống mặt hồ xanh ngọc, vậy mà khi gieo xuống mình Ngự, những kim mưa tan biến không để lại dấu vết. Tôi săm soi tìm dấu tích của trận bão, chỉ thấy dấu vết con gái thâm sâu giữa bụng Ngự. Tôi mê mùi hương trầm thắp trong chùa đọng ở tóc Ngự. Tôi tưởng tôi sẽ sống với Ngự suốt đời, ai ngờ lão Chu đã nghĩ khác.
Từ khi viếng kinh thành Huế trở về, lão Chu đâm khó chịu. Lão dở người cả với Ngự và tôi. Lão giống kẻ thất chí, công không thành, danh không toại. Gặp ai lão cũng lải nhải: Cuộc đời phải cao sang quyền quý? Tôi chán lão, còn Ngự thương lão. Mưa Thuận Hóa vẫn trắng mị mờ những ruộng lúa, hương trầm tiếp tục nồng nàn trên da thịt Ngự. Chỉ có lão Chu là đổi khác.
Một sáng tôi đang ngủ với Ngự trên giường mây, thì lão Chu xồng xộc xông vào. Lão ném bắn tôi xuống giường, lôi Ngự dậy. Lão Chu loan cái tin động trời: Tau đem con Ngự tiến cung! Tôi thét: Lão không có quyền! Tôi thề không để lão bắt Ngự đi ở Nội. Nhưng lão Chu đã lồng lên như con báo đói mồi, lão gầm: Mi muốn cái chi? Lão vung tay tát tôi. Lão nện tôi như người ta nện chó hoang. Lão Chu đánh tôi giống lúc lão vẽ tranh Sình. Chịch; một thọi. Chịch; thọi nữa. Rồi chịch; chịch; cứù thế lão thọi. Ngự khóc oà, lão Chu xoay mình xáng Ngự một bạt tai ngã chúi vào góc nhà. Tôi cố chụp thanh củi, nhưng lão Chu đã nhanh tay lấy đòn gánh phang vào đầu tôi đổ máu. Lão đánh tôi ngất lịm ngay trên nền đất. Lúc tôi tỉnh dậy, nhà đầy tiếng khóc. Tiếng khóc của Ngự mang mang, thê thiết tủi hờn. Lão Chu đã trói nghiến tôi lại, lão buộc chân tay tôi quanh cột nhà, mình mẩy tôi còn tắm máu trận đòn ban sáng. Lão Chu thuê các mụ đến trang điểm cho Ngự, rẽ tóc giữa, đội khăn, bắt mặc áo mớ năm, đi hài, đeo kiềng. Ngự nhìn tôi ai oán, tiếng khóc Ngự tức tưởi, đặc khản, sầu thảm. Lão Chu cho mổ heo, mổ bò, giết trâu thết làng. Lão trịch thượng ra vào, trịch thượng độc thoại: Cuộc đời muốn cái chi? – Phú quý! Lão Chu ré lên cười thỏa mãn, giọng cười khé khắt hăng hắc như nước sôi quá độ, tiếng cười luộc bỏng tim gan tôi. Lão Chu vỗ đùi trỏ Ngự kêu: Mi ráng hầu hạ Ngài, Ngài thương cho làm quý phi thì tau được làm Quốc Công! Lão lại ré lên. Mọi người im thin thít, không ai dám phản đối. Người ta sợ lão lên chức Quốc Công thật, vì Ngự đẹp, xứng làm quý phi cho Hoàng thượng. Triều đình đưa kiệu tới đón, phường kèn trống so dây, trổi nhạc. Tiếng Sên Tiền, Tám Âm, đàn Sến, đàn Cầm, mõ Song Lan đệm nhịp ò e. Ngự không ngớt khóc thảm. Tôi lồng lộn chửi mắng lão Chu, đào bới ba họ nhà lão, song lão Chu hung dữ dị thường, lão lấy dẻ tộng vào miệng tôi, rồi lại đánh tôi chết ngất. Hôm Ngự bị mang tiến cung, tôi với Ngự không nói được với nhau một câu vĩnh quyết.
Mấy ngày sau, được các mụ cởi trói, tôi vác dao rượt lão Chu. Tôi đã thề giết lão là tôi giết lão. Tôi bửa lão làm đôi, tôi chém lão làm năm, tôi băm lão làm tám. Tôi cắt gân, chọc ruột, moi phèo lão Chu. Trời mưa bẩn xối nước, ruộng ngập sình, tôi vác dao lội sình đuổi lão Chu. Nước sình bắn lên mặt, cỏ lau cứa người, lão Chu chạy như gió, lão phóng mình như cáo nhảy chuồng gà, tôi lụi dao vào lưng lão. Nhưng lão Chu né tài tình, uốn người thót bụng cong lưng tránh những mũi dao tôi không ngớt lia tới. Lão rít kìn kịt: A! Mi giỏi! Mi đòi chém Quốc Công? Tau thưa triều đình cùm mi! Lão Chu vươn hai tay dài khẳng khiu chận lưỡi dao nhọn trong tay tôi, lão nắm chặt bản dao không cho tôi giật lại. Ðất sình dính bê bết lên người, tôi vòng tay lấy hết sức bình sinh rút con dao phai dắt ở hông, chém bổ xuống đầu lão Chu, thớt dao xé mưa phạt xuống. Lão Chu nhanh như sét oằn người tránh, làm lưỡi dao trợt trúng vai tóe máu. Tiếng rống lão Chu nứt trời đất. Lão rú lên trong lúc máu phụt có vòi, xịt trây vào mặt mũi tôi tối tăm đỏ kè. A! Mi giết Quốc Công! Lão Chu ngoác mồm trợn mắt, lão không chết, cũng không ngã, máu lênh láng tuôn ròng ròng tắm đẫm châu thân lão, máu chảy theo mưa xuống nước ruộng loang loáng đỏ ngầu, nhưng lão Chu chẳng có vẻ gì là hề hấn, lão chỉ ngạc nhiên vì chức Quốc Công không bảo vệ được lão. Tôi gồng tay, xĩa dao vào mặt lão, con dao nhọn tôi cắm vào mắt, con dao phai tôi chặt ngang bụng. Lão Chu phải chết, lão phải đền mạng cho Ngự dù mười cái mạng lão cũng không bằng một đốt ngón chân Ngự. Lão Chu vùng bỏ chạy. Lão chạy nhanh như cắt, hai đầu gối cất lên khỏi mặt ruộng phóng nước kiệu, chỉ có máu rớt lại đằng sau từng dúm, từng bệt lớn như có ai nhổ trầu. Tôi lao theo lão, mưa giăng kín trời đất, bóng lão hiện, bóng lão mất, mưa cứng như đá, mưa dầy như thép, tôi vụt mặt vào bức tường mưa rượt lão Chu. Tôi đã thề giết lão là tôi giết lão, có ba đầu sáu tay lão cũng không thoát. Tôi sẽ bằm lão ra cám. Ai bảo lão dạy tôi điên, ai bảo lão bắt tôi khùng? Lão đem Ngự tiến cung, tôi biết yêu ai? Tôi biết ngủ với ai nữa? Thịt da Ngự, thân thể Ngự, mắt môi mũi miệng tóc chân mày rái tai Ngự lão đem cho Hoàng Thượng thưởng nguyệt, tôi thù lão. Rừng mía lấp loáng, những đọt mía ròn tan hôm nào tôi cùng cắn với Ngự. Lão đã bẻ mía đứng đợi tôi ở bìa rừng. Mắt lão gườm gườm, môi lão thâm, miệng lão mím, chân lão xoạc xuống tấn, hai tay khuỳnh khuỳnh thủ thế. Mi giỏi, mi đến đây, mi ăn nằm với con Ngự mi tưởng tau khôn biết? Con Ngự mất trinh, tau đem gã cho vua, mi còn muốn chi? Mi muốn chi? – Tôi muốn bới mả con mụ lão, sanh nhằm giờ chi mà độc địa, lòng dạ dơ dáy muối biển cũng khôn rửa được! Tôi lao vào chém lão Chu, lão hươi quyền đỡ. Lão lấy cây mía gạt những mũi dao tôi lụi tới, lão nhảy qua, xạt lại, tiến lui tài tình, không cách chi tôi đâm được lão. Chém một lúc, tôi đuối sức, người vả mồ hôi, nhịp thở hổn hển, mất hết sức lực, lão Chu biết tôi tàn lực, cười khe khé: Răng mi không chém tau nữa? Mi thua rồi ư? Chừ tau độp mi cho mi biết! Lão Chu bất ngờ nhảy bổng lên khỏi mặt đất, quật gốc mía vào đầu tôi tới tấp, lão đánh văng hai con dao trên tay tôi, đè ngửa tôi ra ruộng. Tôi vùng vẫy, lão Chu nhúng đầu tôi xuống nước ruộng, tôi ngạt thở há mồm uống từng bụng nước thum thủm sền sệt đất sình, lão Chu nhấc đầu tôi lên cho thở một giây rồi lại dộng xuống mặt sình, lão la chói lói, tôi thét dẫy dụa cố vùng ra mà không được. Sình chui vào mắt, vào tai, vào lỗ mũi, tôi uống sình căng đầy ruột, mấy ngón tay lão Chu siết ở cần cổ tôi như kềm người ta siết cổ tội hình. Tôi ú ớ, lão Chu bẻ quặt tôi lên, hai tròng mắt lão trắng dã, to như hai cái thúng. Lão Chu ghé sát miệng vào mặt tôi gằn từng chữ: Con Ngự là cuộc đời tau, tau đem hiến vua để nó được quyền quý, sung sướng. Cuộc đời tau được ở trong cung, vàng châu, gấm lụa, một bước có người hầu, hai bước có kiệu khiêng, Ngài thương cho nó làm nhất giai phi, thì nó thành bậc mẫu nghi thiên hạ. Còn mi? Mi có chi cho nó? Răng tau nói khôn đúng ư? Mi là cái thớ chi trong trời đất?
Lão Chu buông tôi ra, cái bóng lão dọi lên giữa rừng mưa, cái bóng thấm đẫm máu lúc lão bước đi, tan biến vào hơi nước. Tôi nằm vật ra trên mặt ruộng, thân thể đau dần bãi hoãi, song cái đau thể xác cũng chưa bằng nỗi đau linh hồn bức từng sợi gân trong người tôi. Mỗi sợi thần kinh bức làm tôi quẫy mình trào nước mắt. Lão Chu đã nói ra sự thật, tôi có gì cho Ngự? Tôi nằm cho mưa nổ xuống mình, đốp chát từng hạt thù hận. Thượng đế là ai? Khóc cho tôi hay khóc giùm Ngự? Chừng nào thì lão Chu mới biết khóc?
Mưa ở đâu xót xa cho bằng mưa ở Thuận Hóa? Mưa ở đâu?
*
Những cơn mưa tầm thu trở về qua đất Thuận Hóa lạnh tăm tăm từ sau khi Ngự đi ở Nội. Váng mưa không còn trong mà đục. Hột mưa nặng như có huyết, nhễu xuống da buốt thấu xương tủy. Thời gian bỗng ngừng lại ở làng Sình, dài thậm thượt lê thê... Mỗi khắc mưa là một niên kỷ, đợi cho hạt mưa bám ở mái rỏ xuống sân, mất từng canh. Mỗi giọt nước là một khối chờ đợi, thai nghén, thành hình, dâng tròn rồi căng cứng mạch máu đầu óc đến lúc vỡ tung vào hư không vắng lặng. Tất cả tẻ nhạt, trầm buồn, u uất. Tất cả theo Ngự đằng đẳng mất biệt âm tín. Tất cả theo lão Chu đằng đẳng mõi mòn đợi chờ chiếu chỉ triều đình ban xuống tấn phong Quốc Công. Chiếu không đến, chỉ không về, lão Chu chỉ còn biết sống với nỗi điên khùng tạo tợn. Nhưng lão già đi trông thấy, người lão teo tộp lại chẳng khác trái ớt mất mùa, vừa dú lên, đã nhăn nheo như da mụ già. Lão giống một hình nộm cũ, Thượng Ðế lôi ở đáy rương mang ra giật dây, cho cử động, bắt ăn uống và cho nheo mắt ngủ gà ngủ gật những trưa thoi thóp tàn tạ. Lão Chu tuyệt vọng đợi một tờ chiếu có đóng ấn ngà.
Vết thương tôi chém vào vai lão Chu khép miệng liền da, thì viên mụt nhọt thâm sâu giữa bụng lão lở lói. Lão Chu đau căn bệnh cuộc đời. Lão cũng đoán lờ mờ là Ngự bị thất sủng. Nhưng lão Chu chỉ đoán, còn các mụ ở làng Sình thì bém xém sau lưng lão. A! Con Ngự mắt phụng mày ngài, mặt trái soan, vú non da hồng... Con nớ đi ở mô trong Nội, biệt tăm rồi, chắc là không biết cách giao hoan nên Ngài không thỏa mãn, răng cho làm nhứt giai phi! Một mụ nói, bốn mụ cười hăng hắc, tôi tránh ra đình những buổi chợ phiên. Chợ phiên ở làng Sình không giống chợ Gia Lạc trên kinh thành Huế, đông vui như ngày hội. Lúc xưa Ngự chỉ đợi phiên chợ họp để rủ tôi ra đình đánh bài thai, chơi bài ghế, đậu bài chòi... Giờ Ngự ở cung Ðoan Hòa, còn tôi trốn ở nhà, sợ hãi từng giọt mưa bay. Những sáng không có mưa thì thằng Hiểm dẫn con vợ mới cưới đi qua nhà lão Chu. Thằng Hiểm cay lão vác rựa rượt nó lúc xưa, bây giờ thấy lão mất Ngự thân tàn ma dại, nó lấy làm hả hê. Lúc vợ chồng thằng Hiểm đi ngang, lão Chu còn ngủ. Chỉ có tôi đứng dựa cửa. Con vợ thằng Hiểm vác bụng bầu chửa vượt mặt, đi thè lè nói lớn tiếng: Tưởng ăn nằm với con nớ, dạy hắn kiểu cách, ai ngờ cũng có biết chi tề! – Bậy! Hắn có dạy con nớ đó ri, răng khôn dạy sao con nớ vú tưng bụng ỏng? Thứ chi mờ hắn khôn dạy, nhưng dạy thét Hoàng thượng biết con nớ hết trinh, Ngài giận! Thằng Hiểm oang oang trả lời con vợ hắn nham nhở. Tôi nóng bừng mặt, trời đánh thánh đâm vợ chồng thằng Hiểm! Tôi bứt dây lạc lão Chu cột ở cửa, mười ngón tay tôi co giật run bắn muốn chém thằng Hiểm, nhưng thằng mất nết lực lưỡng như trâu, sô vai hắn nổi từng bện, thằng Hiểm quá tuổi dậy thì ngực nở chướng phình như cái trống, tôi có muốn chém hắn cũng khó. Ngự đâu biết sáng đó tôi cắn dập môi trong mình vì giận, vì bất lực?
Còn nhiều chuyện nữa mà Ngự không biết. Lão Chu sau này ít nói, hay nằm liệt ở một góc nhà cho đến lúc nắng đổ lửa vào đầu lão mới tỉnh dậy. Những lúc thức giấc, lão Chu như đứa trẻ sơ sinh, lão bặp bặp môi, mắt đảo loanh quanh, ngây thơ tìm kiếm... Ðến lúc nhận ra Ngự không còn nằm ở chiếc giường mây, lão mới khom lưng oằn mình cho cái lỗ miệng móm mém khạc đờm. Nắng rơi đầy vại nước, soi phơ phất mấy hàng tranh lão Chu tết trước nhà. Lập đông, nắng ở Thuận Hóa ui ui khô đét, xương xẩy theo lão Chu bước dần ra phá. Nhưng nắng không đủ ấm, chỉ chảy nhớt, bỡn cợt xuồng xả cắm loe hoe trên trán lão Chu đã gần rụng hết tóc. Tôi theo lão Chu ra phá đứng nghe tiếng thở mệt nhọc của đất. Cả một mặt đầm óc ách, nhấp nhô ruớn mình thở. Tôi lắng nghe, nhưng không tài nào phân biệt được đâu là hơi thở hổn hển của lão Chu, đâu là tiếng thở hì hục của phá. Chỉ thấy ở những kẽ nứt, hơi nước toát ra, tung phụt lên tỏa mờ trên không. Cái khối trắng ngần, trắng lịm, trắng mờ, trắng lòa lòa vẫn còn đó, vẫn còn giăng giăng quẩy mình cựa quậy, song lão Chu không còn gì để thách thức. Lão đã đem cuộc đời của lão tiến cung, lão không còn gì trong túi để dám ngửa mặt thách đố cơn giận dỗi của Thượng Ðế. Lão Chu đứng lặng trước mắt đầm. Ðến lúc tôi kêu lão về, lão Chu nghe tiêùng gọi quay lại, thì nước mắt đã giàn đầy ra má. Lần đầu tiên tôi chứng kiến lão Chu khóc.
Tin Ngự được tấn phong cửu giai Tài Nhân đưa về làng Sình như sét đánh. Lão Chu chạy bổ từ phá về làng, phủ phục trước sân thềm để nghe chiếu chỉ. Lão vỡ òa tiếng khóc như trẻ nít. Lão khóc vì mất chức Quốc Công. Trong triều đình, có cửu phẩm cho các quan, thì cũng có cửu giai cho các mệ. Ngự được phong giai áp chót, chỉ trên bọn cung nga thế nữ. Giọng khóc nấc của lão Chu đau đớn tủi hèn, lão khóc ngất hơn bọ chết mạ chết, lão dập đầu tóe máu, gục mặt nhận chỉ. Quỳ bên cạnh lão Chu, hai bàn tay tôi bảo dậy, vật vả trăm nghìn phen vì thương Ngự. Tiếng chuông chùa ai đánh gõ loong koong... Mỗi đêm lão Chu rên rỉ lảm nhảm độc thoại: Nhất giai phi, nhị giai phi, tam giai tân, tứ giai tân, ngũ giai tiếp dư, lục giai tiếp dư, thất giai mỹ nhân, bát giai quý nhân, cửu giai tài nhân... Ðến chữ tài nhân thì lão chết lịm đi, tròng mắt đứng lại, trong bóng tối lão thở hắt rồi há hốc mồm, quai hàm cứng lại như chết rồi, cho tới lúc lão từ từ hồi lại, nằm xụi lơ như cái xác sống. Cái buổi sáng mà thằng mõ đi gõ rao trong làng bản tin rùng rợn: Hoàng thượng băng hà! Lão Chu mới thật sự hóa cuồng. Tiếng rống khủng khiếp của lão Chu chạy khắp làng gào thảm thiết. Lão như một con quái vật trúng tên, lồng lộn tìm chỗ chết. Lão Chu tự cắt gân, rạch mặt, khợi cho máu phun, người ta phải buộc lão lại, kềm tay, giữ chân, đánh cho lão ngất, để lão đừng tự vẫn. Mùa mưa năm đó, cả kinh thành Huế để tang Hoàng Thượng, khắp lành Sình trắng khăn sô. Mình Rồng được khâm liệm để lên trướng chở qua sông Hương đi vào núi an nghỉ. Các mệ phi âm thầm, lẳng lặng lên ở Khiêm Lăng để suốt đời lo việc hương khói. Tôi trông thấy bóng Ngự đi theo các mệ lên Khiêm Lăng. Mặt Ngự tái nhờn nhợt, màu trắng của sợ hãi, màu trắng của những giọt mưa bay. Màu trắng của thần trùng. Những trận mưa trắng ngần trắng lịm khăn tang, màu trắng của vải sô bay phần phật trên khói hương thắp nghi ngút không đứt. Bao nhiêu bó nhang đốt đời Ngự? Lão Chu đã thật sự đánh mất cuộc đời.
Cuộc đời lão Chu đi khuất thì gió Lào nườm nượp thổi về đất Thần Kinh. Sức nóng dữ dội chui hút vào dãi đất nằm kề bên dãy Trường Sơn, giống con rắn hổ chui vào hũ tĩnh, bị đóng nắp, sùng sục tháo bẫy. Cái đuôi rắn quất lửa xuống những cánh đồng cháy oằn oại. Cái đầu rắn hổ mổ chan chát vào lưng vại sành chẳng khác chi tiếng chày các mụ nện lên cối đá. Hơi nóng tát lên mặt, hơi nóng bỏng rát làm đỏ dộp mình mẩy. Cả một biển lửa vàng thau cháy lan lan đến tận rừng chuối. Tôi tắm ở ao, thấy lửa xém vào gốc chuối, tức thì thân cây chuối teo xộp lại chẳng khác bị vắt hết nước. Những tàu lá chuối mới xanh non nõn rờn rờn phe phất, chạm phải nắng cứ khô ròn, khô ròn rồi vàng ỏng rụng dần, cho đến khi cả một rừng chuối mật chỉ còn là một bãi đất cằn đá. Buồng chuối nào thoát chết, thì đỏ toét màu máu, người ta gọi là chuối lửa. Ðất Thuận Hóa trở thành nứt nẻ. Ðất như thiêu, nung hừng hực. Buổi trưa ít khi nào có tiếng động, một cánh ruồi bay cũng nghe, từng tiếng chắc luỡi của thạch thùng nhấp môi giữa cái nóng ran người. Làng Sình vắng danh, vắng ngắt. Họ đổ hết ra sông, xuống biển, xuống đầm, phá. Lão Chu hồi sinh bởi cái sức nóng kinh khiếp của Thuận Hóa. Mà lão lấy lại sức lực nhanh không ngờ. Không ai có thể ngờ. Sét đánh lão không chết. Rạch mặt, cắt gân, cứa cổ tự vẫn lão cũng không chết. Lão Chu nghiễm nhiên trở thành biểu tượng của một sinh vật bất tử. Mà chính lão Chu cũng tin rằng lão bất tử, sống mãi. Sống - nên lão sùng sục - xục xạo đi tìm lại cuộc đời. Thịt da lão đã mọc trở lại. Thịt mọc trên xương, mỡ bao lấy thịt, da bao lấy mỡ, lão Chu cường tráng như cũ. Trưa dập lửa xuống mình lão Chu. Gió đưa hơi nóng dộp lên trên tấm thớt lưng của lão, song lão Chu vẫn khởi công đi kiếm cuộc đời. Cuộc đời thứ nhì thay cho cái cuộc đời thứ nhất là Ngự lão đã vụng dại đánh mất. Cuộc đời ở mô? Mi biết cuộc đời ở mô? Lão Chu thè chiếc lưỡi dài đụng mặt tôi hỏi. Ðầu lưỡi lão nhọn hoắc, nháùm nhạp, trây vào đâu làm tôi nổi gai ốc tới đó. Cuộc đời ở mô? Tôi trả lời: Không biết, không biết... Lão Chu cởi trần trùng trục, ngâm mình xuống biển. Mồ hôi võng trên mặt lão nhễu xuống biển. Nước biển cũng hóa thành mồ hôi lão Chu mặn chát. Lão Chu chọn chỗ vắng, khúc biển cuối bãi Thuận An nối liền đầm Thanh Lam xanh ngời ngợi nước. Cả một mặt bể lõng trồi sụt, sóng té tạt vào bờ lôi rong rêu tràn ra đất. Rong bấu trên cát, rong quấn mình lão Chu, rong đu trên vai lão. Lão Chu bắt tôi xuống đứng nước cùng với lão, phơi mắt hứng ánh mặt trời bắn xuyên qua da từng nhát như lao phóng chọc bị. Cái khối lửa chói lọi, chói lòa, chói lòe làm tôi nhức mắt, nhưng lão Chu nhất định không cho tôi đội mũ, nhắm mắt, hay lấy tay che mặt. Lão bắt tôi nhìn trừng trừng vào đường chân trời đang cong oằn theo eo biển sẫm đậm, sẫm rịt. Mi thấy chi? Răng tau hỏi sao mi khôn trả lời? Cái ri ở ngoài nớ? Cái ri kia? Lão Chu xoắn tóc tôi nắm cứng bắt nhìn mặt biển. Giọng lão chắc nịch: Cuộc đời! Cuộc đời ở bên kia biển! Tiếng nói lão Chu tan trên mặt sóng dâng hân hoan bất thần. Thoắt cái lão buông tay cho tôi té vục mặt xuống nước, lão đã phóng mình bơi, hai đầu gối đạp nước, cần cổ lão bạnh ra như mang cá. Nước cản thân, nước ghịt lưng, nước lột vai, nước ngán chân, song lão Chu cứ rẽ sóng bơi vùn vụt . Lão bơi mau lắm, xa tít tắp, chừng muốn vượt đại dương để đến với cuộc đời ở bên kia biển. Nhưng sức lão Chu có hạn, hà bá lùa lão vào bờ, ném lão vật ra đất. Lão Chu thở hổn hển: Tau biết cuộc đời ở bên kia biển! Cuộc đời của tau ở bên kia biển, sống chết tau cũng qua, bão tố tau cũng đi, hải tặc cá kình chi tau khôn ngán! Lão Chu ngồi trở dậy, lão hỏi tôi : Mi thấy không? Thấy không? Tôi trả lời: Tôi thấy, tôi thấy... mặt biển giàn ra vĩ đại. Một sự vĩ đại mà lão Chu không thấy.
Thời gian đó, vợ thằng Hiểm sanh khó, làm băng suốt một đêm rồi đi khuất. Hài nhi lẫn sản phụ chết tức tưởi. Cái mặt thằng Hiểm trơ tráo, nham nhở hôm đi qua nhà tôi nói xấu Ngự, vậy mà lúc bốc từng vụm đất ném xuống áo quan cho vợ trông cũng thật thương tâm. Tôi thắp ba nén nhang cắm trong cái bát sành đặt trước linh sàn vợ thằng Hiểm gọi là xá vong, xin nó đừng về quấy rầy tôi với Ngọc Trản. Ngọc Trản chỉ mới mười lăm, không đẹp bằng Ngự, song nước da đã ngó sen, cổ tay tròn bầu bĩnh, và khóe mắt lẫy tình rớp hồn tôi. Tôi yêu Ngọc Trản không giống như say Ngự, với Ngự tôi đong từng nụ cười, hít chậm chạp mùi hương, quý từng phân xương thịt, ân ái dịu dàng, ôm ấp nhẹ nhàng, khẽ từng vuốt ve, nâng niu âu yếm, hứng đón cẩn trọng. Còn với Ngọc Trản, Ngọc Trản bắt tôi yêu khác thường. Chôn vợ rồi thằng Hiểm bỏ làng đi biệt tích. Ngọc Trản nói với tôi rằng bọ mạ Ngọc Trản nói thằng Hiểm đi theo phái Văn Thân. Hai chữ Văn Thân làm tôi rùng mình. Tôi cắn ghì lấy môi Ngọc Trản không cho kể tiếp. Mùi nắng dậy ở đầu lưỡi Ngọc Trản, tôi cắn vào nghe gió Lào thổi từng luồng phừng phựt. Rơm ở chỗ nằm đâm vào người tôi với Ngọc Trản như kim chích. Tóc vướng rơm, ngực vươn trái sữa, thân mình Ngọc Trản nhỏ bằng bàn tay, vết thương con gái còn bọc da non, đỏ hồng. Tôi lấy móng tay cào cho lưng Ngọc Trản chảy máu, để được uống những giọt máu son của Ngọc Trản vừa chảy vào đời mình. Gió Lào tát hơi lửa lên mình Ngọc Trản, cháy lan lan, hai cườm tay quỷ quái của Ngọc Trản đưa lên siết cổ tôi mạnh y hệt như hôm nào lão Chu ghịt đầu tôi nhúng xuống sình. Ngọc Trản khác Ngự ở phong cách, Ngự ngây thơ, Ngọc Trản tinh nghịch, không bao giờ chịu nằm yên lúc giao hoan. Qua kẻ rạ, tôi trông thấy bước chân chú tiểu cầm dùi dộng vào mặt trống đồng. Tiếng trống chùa hắt dội vào ngực Ngọc Trản nẩy lên cằm tôi tiếng nấc bật kêu lạc phúc. Lạc phúc? Cuộc đời ? Lão Chu thét: Tau đã tìm ra cuộc đời! Mi coi tau tìm ra cuộc đời! Lão Chu chồm vào trong đống rạ chỗ tôi đang nằm truy hoan với Ngọc Trản. Lão dí đầu, thè lưỡi, đặt một con mắt lão lên bụng Ngọc Trản, thả nốt con mắt còn lại vào mặt tôi. Tôi tưởng lão lại sắp hóa cuồng vì thấy tôi trần truồng bên cạnh Ngọc Trản, nhưng lão Chu chỉ cười khe khé, dáng điệu ở trên tột đỉnh của sung sướng mãn nguyện. Lão Chu rút đầu ra, lao vun vút về làng Sình, lão vừa chạy vừa cất tiếng hét: «Giô án nà! Giô án nà!» Tiếng hét của lão Chu mau lắm, nắng đuổi không kịp, rơi rớt lại tràn lên mình Ngọc Trản. Tôi bở ngỡ với cái thứ âm thanh lạ lùng, nửa kỳ quặc, nửa chói tai mà lão Chu vừa phát âm. Lão Chu học ở đâu thứ âm thanh kỳ lạ đó? Lão đã thật sự tìm thấy cuộc đời ở bên kia biển chăng? Hai bàn chân Phật, mười ngón chân bồ tát hiện ra trước đống rơm. Tia mắt sư ông trợn ngược trên thân thể Ngọc Trản, tia mắt đám sãi đuối lờ đờ khát vọng. Tôi quờ cào quần áo, kéo Ngọc Trản nhảy ùm xuống ao, bơi cắm mạng sang bên kia bờ. Những cuống sen xanh mát rượi, những lá sen mượt mà trải rộng như những lát chiếu hoa điều đỏ nắng, che chở cho tôi với Ngọc Trản trốn Phật Thích Ca. Nước hồ lạnh mát. Trong vắt. Ngọc Trản lặn thât sâu, tóc bềnh bồng như vi cá. Lúc tôi với Ngọc Trản trồi lên giữa những đài sen nhụy vàng óng ánh, sư ông và các sãi đã về chùa, chỉ còn âm vang của tiếng hét lão Chu «Giô án nà!» váng âm rơi vỡ rợp trên những tàu sen chật mặt nước. Cả một đầm sen xanh ngắt, run rẩy lay động. Các cuống sen cong búp, như thể tiếng kêu của lão Chu làm chúng sợ hãi. Từng hột nước, từng hột nước chảy lăn trên mình Ngọc Trản. Tôi cuối xuống vết thương giữa bụng Ngọc Trản còn nở ngát, hai đứa nắm tay nhau chạy bổ về làng, từ đầu lũy tre, người ta đã xì xầm bàn tán tin lão Chu gặp gỡ kẻ lạ.
Lão Chu kể oang oang, dưới nắng chan chan lão nói với mọi người là lão đã tìm lại được «cuộc đời». Những kẻ lạ đến từ bên kia biển lớn cho lão biết: Rằng bên kia đại dương có một người con gái mắt xanh hơn ngọc, tóc vàng hơn tơ, da trắng hơn tuyết, bằng lòng lấy lão làm ông giôn. Hỏi lão có thuận hay không? Lão thuận hay không? Lão Chu mừng quýnh! Lão té tát tươi tả trả lời: Lão thuận! Lão thuận! Lão Chu quýnh quáng lấy tiền dành dụm, những đồng Thông Bảo quý giá mà lão nâng niu, chắt chiu, bỏ trong rương, bỏ trong ruột, chôn dưới đất. Lão đào lên, đào lên, những đồng Thông Bảo nặng chịch sức lao động của mấy trăm, mấy nghìn bức họa mà lão Chu đã vẽ bán cho mọi người, lão đào lên trả công cho kẻ lạ đã đưa tin đến. Vợ lão tên chữ Giô-an-na, nhưng lão Chu thích gọi lãnh lót yêu thương là Giô-án-nà. Giô-án-nà có mái tóc vàng kim óng ả, mắt xanh màu lục lấp lánh ngọc quý và da trắng mịn hơn tuyết phủ trên đỉnh những ngọn núi ở bên Tàu. Lão Chu không ngớt nhắc đi, nhắc lại các chi tiết ấy. Lão hãnh diện vô ngần. «Cuộc đời» bên kia biển của lão cực kỳ đẹp đẽ. Cuộc đời bên kia biển tuyệt lộng lẫy, mà gặp ai lão Chu cũng khoe khoang kể lể. Lão chỉ không nghe thấy những tiếng xầm xì, rì rầm sau lưng lão.
Lão Chu bắt đầu nhảy múa trên những đường mương quanh mặt ruộng. Lão say ngất ngưỡng, một tay hồ rượu, một tay đánh quạt, lão phe phẩy điệu múa thỏa mãn. Giọng lão Chu nghêu ngao đầy khoái lạc: «Giôôáánnàà!». Cái bóng lão Chu tắt, cái bóng lão Chu hiện, chiếc bóng lão vờn vờn thoắt thoắt tắt hiện đi tìm kẻ lạ. Ngọc Trản tinh như quỷ, rủ tôi đi rình lão Chu. Nắng hầm hầm oi oi, nhễ nhại lửa cháy ngoằn ngoèo mặt biển lấm tấm đầy dấu chân lão Chu dẫm trên cát. Nắng thêu khắp rừng dương, đổ xuống chỗ tôi với Ngọc Trản núp. Nắng dữ dội vậy mà tay chân Ngọc Trản lạnh tướp mồ hôi vì hồi hộp. Trống cũng đánh trong bụng tôi quặn ruột, tiếng trống ngực dội kinh hơn tiếng trống cửa Ngọ môn. Từ biển lớn, ngược nắng chói lòa, vọng tiếng khoắn nước của mái dầm to bản bơi rẽ vào bờ. Kẻ lạ đến từ một khối nổi sừng sửng mọc nhú lên giữa biển cả. Gót giày của kẻ lạ lún bì bạch trên mặt cát. Bỗng chốc tôi hiểu tất cả! Những chiếc nón rộng vành to như cái mâm, những đôi ủng cao tới háng, muốn liếm bẹn: Thì ra chính là bọn lái Bồ Ðào! Những tấm áo choàng của bọn lái buôn Bồ Ðào Nha bay phập phùng uốn éo trên sóng biển, rồi rũ đứng trước mặt lão Chu. Gió đưa câu chuyện trọ trẹ giữa lão Chu với kẻ lạ mất, còn: «Vợ ngươi đã hạ sinh được một bé gái đặt tên cho nó là Ô-rô-ra! Ô-rô-ra, ánh mặt trời bình minh!» Tiếng hú lão Chu re ré vang lừng biển lớn. Tiếng lão cúi đầu lạy tạ, mở túi tiền, trút những đồng Thông Bảo chót cùng của đời lão trả cho bọn lái Bồ. Tiếng đồng thau chạm vào nhau loẻng xoẻng, tiếng kêu thương bát ngàn rừng dương của lão Chu. «Ô rô ra! Ô rô ra!» Lão Chu chết lịm đi vì hạnh phúc của đứa con gái mới sanh bên kia biển. Bọn lái Bồ Ðào căng áo choàng gói tiền Thông Bảo của lão Chu lại, chúng trở ra khơi, hẹn lần đưa tin khác. Trên bãi cát chỉ còn lại một mình lão Chu đơn độc nhảy múa, và một cái bóng nữa, cao lớn dị thường. Chiếc bóng lạ của kẻ lạ đứng im lìm từ nãy chờ đợi. Ngọc Trản đeo cứng lấy tôi: «Ai mờ dị rứa? Ai mờ dị rứa? Răng lão Chu khôn về đi, lão còn muốn cái chi?» Tôi lắc đầu chịu, không biết. Giải lụa đỏ buột quanh bụng kẻ lạ bay phất phới, tung giật, thướt tha cùng với thân vải đen phủ chùm kín đôi chân. Nếp vải chùng cứ gợn lên, trôi bập bềnh dọc theo mặt biển lưa thưa gió. Tôi với Ngọc Trản nhìn say mê kẻ lạ. Mà lão Chu cũng bất động. Ánh sáng ngời ngời từ mặt trời giăng sau lưng kẻ lạ làm sáng lừng bãi cát. Ngọc Trản nén tiếng kêu, tôi nén tiếng thở, kẻ lạ thong thả, từ tốn, chậm rãi trao cho lão Chu một cuốn sách và một vòng tràng, rồi răn dạy: «Hãy tạ ơn Thượng Ðế đã ban ân phước cho ngươi là tôi tớ của Ngài! Ta là đường đi, lẻ thật và sự sống, chẳng bởi ta, chẳng có sự sống đời đời!» Lão Chu phủ phục ngay xuống. Kẻ lạ chậm rải vốc từng vụm nước biển rưới lên đầu lão Chu. Từng vốc nước rơi thánh thót, nhễu bay. Tôi vụt hiểu. Tôi đã chứng kiến cảnh tượng này ở Hải Phố: Kẻ lạ chính là một giáo sĩ! Lão Chu đang chịu phép bí tích! Người tôi run lên, những thớ gân co giật liên hồi làm tứ chi lẩy bẩy không sao điều khiển được nữa. Những giáo sĩ đang bị triều đình truy nã, ai quan hệ thì lụy vào thân. Tôi kéo Ngọc Trản vùng chạy. Mây rượt trên đầu, nắng đuổi sau lưng, gió cản mặt, cát xiềng chân, những bài kinh La ngữ của giáo sĩ réo gọi. Ngọc Trản cuống cuồng ngã ngồi, tôi lôi dậy bắt chạy cho xa, thật xa tai họa. Biển gầm ở phía sau, sóng đập vào óc não tôi tê rần vì sợ, chân vấp đá, gối va vào cây, vai cứa gai, lá chém mặt. Trong nỗi sợ hãi bừng bừng, tôi với Ngọc Trản ngã lăn xuống triền đồi cát lún, cả một khoảng trời lõm trong ngần mây trắng đương tụ lại ở động cát. Ngọc Trản thở hào hển, mồ hôi ứa ở màn tang, tuôn xuống mắt mũi miệng cằm bắp tay bắp chân đùi ngực bụng trây vàng cát. Lẫn trong những bụm cát vàng ngập miệng, ngập trí não, tôi cũng còn đủ tỉnh táo để hiểu lão Chu đã đem vào làng Sình một Thượng Ðế mới.
*
Lão Chu ba lần lên hầu quan. Quan bắt lão giải thích quan hệ với giáo sĩ. Lão Chu nhận. Quan bắt lão bỏ đạo, lão Chu từ chối. Ba lần quan sai lính nọc lão ra đánh. Lính đánh đòn thù, gậy táng vào mặt, roi quất xối xả vào người, kềm bẻ ngón tay, búa đập dập chân, nhưng cả ba lần lão Chu đều không chết. Lão Chu không thể chết, thân thể lão có sức kháng cự phi thường. Lão Chu đã bất tử. Mùa hè đỏ rộ nắng Lào đi qua, lão Chu được thả về, lão cười ré lên hãnh diện: Tau khôn có tội, ngôi thứ ba chứng giám cho tau! Lão Chu cười ha hả. Người lão tàn dại, tay chân bầm dập, mắt mũi tan nát, xương sườn chằng chịt thẹo, song lão Chu bừng bừng sức sống. Người ta bu quanh lão. Một kẻ hỏi: Ngôi thứ ba là cái chi? Răng ngôi thứ nhất, thứ nhị ở mô? Lão Chu nghe hỏi, ngửng phắt lên, lấy ngón trỏ chỉ lên trời: Ngôi thứ nhất là Thượng Ðế của lão. Ngôi thứ hai là con Ngài đã xuống thế gian chịu chết thay cho lão, và ngôi chót là ngôi thứ ba giữ mình cho lão! Cái giọng ụa hơi khế chua, mắt sắc như thép nạo, móng tay nhọn như lưỡi câu của lão Chu làm người ta sợ. Mọi người dạt lối cho lão đi, song mọi người cũng khâm phục lão. Lão Chu là cái thứ chi mà Thượng Ðế phải cử con Ngài xuống chết thay cho lão? Lão đóng đến chức chi ở trên trời? Lão Chu cười khè khè: Giô án nà! Giô án nà! Lão đã về đây! Ô rô ra! Ô rô ra! Bọ đã về đây!
Lão Chu xộc vào nhà, dắt vợ con dạo chơi. Người lão Chu như mọc cánh, bay là là lướt trên những lẫm lúa khô, từng cọng lúa nặng trĩu hạt, mọc vươn muốn níu chân lão. Mọi người đổ dồn chạy theo xem lão Chu tung tăn lượn trên mặt ruộng. Hơi nắng rươm dầm dề quanh người, phông nắng chín vàng càng làm nổi bật tấm thân thương tích của lão chờn vờn, ngả nghiêng, xiêu vẹo. Lão Chu giang tay như thể đang dắt tay vợ con lão thật. Mỗi bận gần chạm một ngọn cỏ lau cao hút đầu, lão lại giật giật khuỷu tay như nhấc đứa trẻ lên tránh khỏi bị tranh cắt. Lão Chu cứ tiếp tục cái điệp khúc : Ô rô ra! Giô án nà! «cuộc đời» của lão.
Triều đình thôi không còn dám bắt lão Chu nữa, mà để yên cho lão an hưởng hạnh phúc, không phải nể vì Thượng Ðế của lão, nhưng vì những thế lực bên kia biển mỗi ngày một mạnh. Chiếu dụ cấm đạo thôi còn hiệu lực.
Dạo đó lão Chu đã quên hẳn mất Ngự. Lão quên sự hiện diện của tôi trong cuộc sống lão. Tôi làm gì? Yêu ai? Muốn ngủ với Ngọc Trản lúc nào, ở đâu, trước mặt hay sau lưng, lão Chu cũng mặc. Lão chỉ biết đòi lại chiếc giường mây của Ngự, để dành cho Ô rô ra và Giô án nà của lão từ bên kia biển trở về ngủ. Lão Chu trải nệm hồng thúy thơm tho mùi xạ, nhưng mặt giường mây thì cứ trống ngắt. Ngọc Trản trổ mã với cơn mưa tầm thu trở lại đất Thuận Hóa. Cái khối nước trắng mờ ngày xưa giăng trên tóc Ngự, kéo về gieo xuống rưới lên mình Ngọc Trản, mỗi bận Ngọc Trản tắm mưa, da thịt nẩy nở giống cuống hoa dú mình bung cánh đẹp lạ thường. Tôi bảo lão Chu lấy Ngọc Trản làm lẻ, song lão không ưng thuận, lão còn biết gì nữa ngoài mối tình vượt đại dương? Ðêm đêm tôi nằm với Ngọc Trản, nghe lão Chu ngâm khe khẽ: ngày sáu khắc tin mong nhạn vắng, đêm năm canh tiếng lắng chuông rền... Lão Chu chờ cái ngày Giô án nà đưa Ô rô ra về thăm lão. Lão Chu đợi và tôi cũng đợi.
*
Phong trào Văn Thân có một năm phừng lên mãnh liệt. Nhắc đến Văn Thân là người ta nhắc đến ái quốc, mà cũng nhắc đến đầu rơi, máu đổ, tương tàn. Ai ở làng Sình nghe hai chữ Văn Thân cũng sợ. Chỉ có lão Chu là không sợ. Lão nói con thượng đế đã chết thay cho lão, lão không chết nữa. Ngôi thứ ba giữ mình cho lão, thì lão sợ thứ chi? Lão sợ chi? Lão Chu cười hăng hắc, xối xả. Tiếng cười khật khùng, điên dại của lão Chu trêu ghẹo Văn Thân đang tàn lụi dần, yếu ớt hẳn đi trước ảnh hưởng vũ bão, mỗi ngày một lan rộng của Tây phương. Lão Chu tin mình đã theo đúng chiều mạnh của lịch sử.
Nhưng cái đêm mà thằng Hiểm trở về làng, trán thích hai chữ Văn Thân, ngực xăm hình trống đồng Ðông Sơn, thằng Hiểm không có vẻ gì là yếu ớt. Nửa đêm trăng sáng, thằng Hiểm đạp tung cửa, rạch mùng, vác mã tấu chém đôi mình lão Chu. Ðôi cánh tay thằng Hiểm cuồn cuộn bắp thịt, ngực nó nở, sô vai nó dầy, thằng Hiểm điểm mặt lão Chu thét: Việt gian! đền tội! Rồi nó bổ phập xuống. Thằng Hiểm chém xuống, chém tới đâu lạc đứt, cột gẫy, mái đổ. Bản thém sáng lạnh trên tay thằng Hiểm giống trận cuồng phong quét ngang mình lão Chu, tưởng đứt làm đôi, tưởng nát thịt, tan xương. Gió đêm rào rào qua mái, gió thổi thốc vào nhà, gió đưa hơi thép của thanh mã tấu rờn rợn buốt thấu tủy. Tiếng gió giống tiếng gào của Thượng Ðế ở đất Thuận Hóa nổi giận sai thằng Hiểm trừng trị lão Chu. Song lão Chu cũng có Thượng Ðế của lão. Tấm thân ngỡ tàn phế của lão coi vậy mà nhanh như cắt, lão lăn xuống đất tránh thanh mã chặt bửa đôi chiếc giường tre. Thằng Hiểm lại hươi mã, hai bắp đùi lão Chu búng phắt lên, bẩy thân mình lão bỗng mềm dẻo giống thân báo nhảy thót lên mặt bàn. Thằng Hiểm trở đà dao chém nát mặt bàn, làm lão Chu té ngửa ra bếp. Ngọc Trản rú lên sợ hãi, còn tứ chi tôi tê liệt nằm chết cứng ở ổ rạ. Khuôn mặt thằng Hiểm lầm lì, dễ sợ, nó quát: Việt gian! Trả nợ máu! Rồi lại chém xuống nữa. Hai bàn tay thằng Hiểm cầm chắc cán mã, đừng tưởng thằng Hiểm chậm, nó nhanh kinh hồn, lão Chu vừa chụp lấy nan thép khợi lửa, nó đã chém bay tạt đi. Lão Chu túng thế giật thanh củi đương cháy dở chích vào giữa mặt thằng Hiểm mong lửa làm nó lóa mắt. Nhưng thanh mã tấu của thằng Hiểm đã chém vỡ vụn đầu củi, tàn lửa văng tung tóe, những đốm than hồng cháy xòe đôi con ngươi thằng Hiểm đỏ dừ. Lão Chu lồng lên, lão thét: A! Mi giỏi! Mi dám giết chiên của Ngài! Quỷ bắt mi đi! Lão Chu chưa kịp thốt gọi tên Thượng Ðế của lão thì thằng Hiểm đã chém phụp tới, bản thép sáng lóe phạt ngang bụng lão Chu, từ cái đường cắt mỏng thịt da lão Chu bỗng vỡ ào đổ ra, máu phụt thành vòi lia tia phun tứ phía. Ngọc Trản kêu rú lên úp mặt vào lòng tôi kinh hãi, tôi cũng kinh hãi, nhưng không sao xoay được đầu đi chỗ khác. Hai cánh tay lão Chu cào cấu, bơi cuống cuồng trong không khí, cằm lão bạnh ra, mắt trợn ngược thất thần không hiểu vì sao ngôi thứ ba không giữ mình cho lão? Lão Chu ngã ngồi xuống đất, mười ngón tay cố đỡ chùm ruột đương lòi ra, song lão kiệt lực ngã gục mặt vào đống máu bất động. Thằng Hiểm từ từ quay lại nhìn tôi với Ngọc Trản. Sắc mặt nó lạnh như lưỡi thép biếc ngời vết máu. Chúng tôi khiếp đảm vái lạy thằng Hiểm. Tôi với Ngọc Trản chắp tay xá không ngừng, như hôm đi đưa ma con vợ thằng Hiểm, tôi cũng chắp tay xá vong. Có lẽ thằng Hiểm bắt gặp lại hình ảnh đó, nhớ lúc hạ quan tôi cùng phụ với nó lắp đất cho người khuất mặt, nên chùn tay do dự. Lão Chu đã ngồi dậy, mắt lão đầy tròng trắng, thằng Hiểm không thấy, lão đứng sau lưng với cây đòn gánh, hươi cao, rồi quất xuống thật mạnh, lão Chu quất liền tay xối xả tàn bạo, man rợ vào sọ thằng Hiểm. Lão Chu quật tới tấp điên dại, không kịp thở cho tới lúc thằng Hiểm chỉ còn là một đống thịt bầy nhầy dẫy giụa. Ngọc Trản rú lên từng hồi, tiếng gió rít giữa đêm khuya khoắt lẫn vào với tiếng sấm làm mưa kinh hoàng.
Lão Chu bắt tôi với Ngọc Trản lôi xác thằng Hiểm ra bờ sông, buộc đá thả xuống. Mưa ướt mặt, sình bết chân, tôi với Ngọc Trản khó khăn lôi thằng Hiểm. Xác nó như các trâu nặng chịch. Ngọc Trản vừa kéo vừa khóc, tâm thần tôi chết đi sống lại, bị khủng bố bởi cảnh người Thuận Hoá giết người Thuận Hoá. Nhưng thằng Hiểm không chết, nước sông đêm mát lạnh làm nó tỉnh dậy, vùng vẫy tháo dây bơi tìm sự sống. Thân thể thằng Hiểm quẫy sóng chìm vào tâm tích của mặt sông. Thằng Hiểm không chết, Văn Thân không chết, chỉ tan vào lòng đất Thần Kinh mai ẩn rình rập.
Lúc tôi với Ngọc Trản ôm nhau ở bờ sông về, lão Chu đã tự nhét ruột gan vào bụng, và tự khâu vết thương lại. Lão nằm trên chiếc giường mây của Ngự, mắt nhắm nghiền, miệng lảm nhảm đọc những bài kinh La ngữ. Trong cái đêm rùng rợn đó, tôi đã tin lão Chu không bao giờ có thể chết. Lão đã biến thành một sinh vật bất tử, bởi niềm tin vào cuộc đời.
Vậy mà lão Chu chết. Lão Chu chết ba tháng sau khi thằng Hiểm chém lão, khi vết thương ở bụng đã lành, đã kéo da non, lão đã đi đứng được. Lão Chu chết giữa mùa đông, mưa trắng trời, trắng đất. Tôi khóc hết nước mắt, Ngọc Trản khóc khô giọng, đám ma lão Chu chỉ có mỗi mình tôi và Ngọc trản với giáo sĩ đi đưa. Lão Chu yên nghỉ ở ngoài làng Sình, trên đường đi Vĩnh Lại. Có ai ngờ lão Chu chết? Tôi chém lão không chết, sét đánh lão không chết. Vậy mà cái hôm bọn lái Bồ Ðào trở lại đưa tin: Vợ con lão ở bên kia biển, Giô án nà và Ô rô ra đã lâm trọng bệnh chết rồi, lão hãy để tang đi! Lão Chu khóc rống lên, thổ huyết ồng ộc, máu vãi ra đất, máu đẫm trên cát, máu nhuộm biển, máu đặc sánh một mặt đại dương đen thẫm. Và lão Chu chết. Suốt đời, chưa khi nào tôi chứng kiến một cái chết kinh khủng như vậy. Mưa bay nghiêng linh cữu hôm động quan. Giáo sĩ không cho thắp nhang, chỉ cho đốt đèn cầy, nên đám tang ảm đạm lạnh lẽo. Tôi với Ngọc Trản oằn vai gánh quan tài ra tới huyệt mộ. Giáo sĩ đi trước, chốc chốc vẫy vào hai bên mặt ruộng những giọt nước phép. Nước phép nhễu vào đâu thấm loang loang đến đó, như dấu ấn của vị Thượng Ðế mới ấn vào đất Thuận Hóa.
Ở làng Sình, cái chết của lão Chu gây ấn tượng rất mạnh. Các mụ kháo nhau rằng lão chết bởi chứng lạ, song tôi, tôi biết lão chết vì bệnh khát vọng. Tôi chờ giáo sĩ đi khuất, vập đầu khấn: Lão Chu sống khôn, thác thiêng, đừng về quấy rầy tôi với Ngọc Trản, đừng bắt ai phải chết giống lão. Nhưng lão Chu sống không khôn, thác không thiêng, lão không chịu nghe lời khấn của tôi. Hết mùa mưa, Ngọc Trản bỏ tôi lên sống trên kinh thành Huế. Mai trắng ở Huế, mọc quanh hồ Xung Khiêm Tạ có đẹp bằng mai trắng mọc rưng rức quanh làng Sình hay không? Hở Ngọc Trản? Sao bỏ tôi đi? Tình yêu tôi không đủ thắm hay Ngọc Trản cũng đi tìm quyền quý như lão Chu đã khát vọng? Mà lão có tìm được đâu? Mà người ta sau này chết giống lão?
Những cái chết sau quá khứ về sau vẫn tiếp tục tiếp diễn mãi cho đến tận bây giờ. Những cái chết trên biển, bên kia biển, và bên này đất liền. Tôi mãn tang chồng, mãn tang lão Chu, rồi tiến thêm bước nữa. Lập gia đình hạ sanh thêm một đứa con gái. Tôi sống sót bằng cách hạ sanh một đứa con. Ðứa con gái không đẹp bằng Ngự, song tôi cũng say nó như ngày xưa tôi say Ngự. Mưa ở Thuận Hóa vẫn trắng trời, trắng đất và kéo dài mãi cho tới tận bây giờ. Những cơn mưa của khát vọng vỡ trong suốt trên những cánh đồng bạt ngàn gió chướng.
TRẦN VŨ
22 tháng 12, 1990
Nguồn: Ăn Mày Văn Chương

Trương Củng
  • Số bài : 531
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.01.2005
  • Nơi: Dòng sông quê hương
CÁNH ÐỒNG MÙA GẶT KHÔ - Trần Vũ - 26.05.2005 15:02:50
CÁNH ÐỒNG MÙA GẶT KHÔ

cho những bữa rượu sân si
Cách đây không lâu, một lần tôi nhờ Tam đến nhà làm hộ bữa tiệc. Tam đi vượt biên từ miền Bắc, ngoài giọng nói phát âm nặng hơi của vùng núi đá vôi Ninh Bình, anh còn đem sang đất Pháp cả thuật nấu ăn kỳ diệu. Tài bếp núc của Tam không chỉ ngon ở miếng dồi tiết bầm sả, lúc đem nướng tỏa bốc thơm ngào ngạt, hay trong mơn mởn ở bát canh cải có ngâm gừng, nổi xanh non nõn từng cọng cải tươi che giấu miếng giò gà trắng mịn. Cái khéo của Tam là ở chỗ làm cho thức ăn trở nên thật bắt mắt, quyến rũ, lôi cuốn đến điên người. Quả tình có đứng ở bên cạnh, trông thấy anh làm bếp thì mới triệt thấu rõ hết những tài hoa điệu nghệ trổ vươn đâm ra từ mười ngón tay phù thủy của Tam không ngớt vung vẩy, múa may thoăn thoắt, lúc anh nhồi vào thân mực ống nào thịt bầm, nấm hương, hành tỏi xắt vụn trộn với miến. Xong món mực ống là Tam bắt đầu thái thịt. Cả một dẻo thịt bò cứ thế lụn dần rồi biến mất. Con dao to bản tôi mua ở chợ Sắt được dịp hoa vun vút. Trông xa Tam như người thuật sĩ đương múa kiếm. Chẳng vậy mà từ khi biết Tam, tôi vẫn thường có thói quen thích lượn lờ bên cạnh mỗi khi anh làm bếp, bởi tôi vốn có nhiều thiện cảm với món mực ống nhồi làm theo kiểu Hải Phòng, lẫn cảm mến đức tánh rất mực hiền hòa của Tam. Bữa đó, tôi nhớ có hỏi Tam: Vì sao anh hay làm các món ăn miền bể, mà ít khi chịu cho chúng tôi thưởng thức nghệ thuật bếp của quê hương anh ? Ninh Bình chắc hẳn có nhiều món ngon vật lạ như trên khắp các miền đất nước ? Hôm ấy tôi chỉ hỏi đùa, ai ngờ câu hỏi của tôi lại làm Tam mất hẳn sinh khí của một người đầu bếp đương hăng. Anh ngừng hẳn tay, thõng cho lưỡi dao hươi xuống đất, dáng vẻ của Tam giống dáng dấp của một người viết văn bỗng nhiên khựng lại vì bị ai hỏi xoáy vào tận cùng chốn tư duy giấu kín. Bản dao chênh chếch, lóe chút sắc kim lạnh phản chiếu lên mặt, xuất nắng hiu hiu của Paris đầu hè càng làm cho vẻ mặt Tam thêm tiềm ẩn. Tôi nhớ lúc ấy, ánh kim loại bật lên làm mặt anh như bị chẻ đôi. Mà là thứ vệt cắt từ trong ra ngoài. Cặp mắt Tam hấp háy, anh ngập ngừng chùi tay vào quần, rồi mới rút vội điếu thuốc tôi mời. Tam rít vài ngụm khói, trước khi phả ra ngoài cửa sổ. Lẫn trong màn khói làm như cũng có chất suy tư nặng sền sệt, dầy dặc len vào những bụi cây. Lần nào đến nhà tôi, hình như Tam cũng chỉ làm có ngần ấy cử chỉ: thái thịt, xắt hành, bầm sả, nhồi mực, đánh vẩy cá, pha tiết, rồi thở cho khói bay qua ô vuông cửa. Ðến lúc điếu thuốc cháy gần hết, anh mới quay lại, giọng buồn buồn: Ninh Bình quê anh nghèo lắm, chỉ có vôi và núi đá. Núi, Vôi, Ðất, Ðá là quê hương, nhưng những thứ đó không ăn được. Muốn ăn ngon thì phải đi xa, thật xa, càng xa bao nhiêu thì vật lạ của ngon càng nhiều chừng ấy. Ở đời thường có nhiều chuyện ngược ngạo, chính những kẻ nghèo khó, không may mắn, cơ cực ở đời lại là những người dám bán mạng vì miếng ăn, là những kẻ khó ăn, sành ăn, và thích ăn. Tam nói là anh ở trong số những con người ấy. Tam bỏ Ninh Bình ra Hải Phòng vì những lưới cá tươi, cách hấp cá, làm bún, rang cua, nhồi mực của những phu phen ven bến cảng. Hải Phòng thì có gì mà đẹp. Thô lậu bỏ cha! Tam chắc lưỡi mỉa. Chỉ được nước bạo phổi, bạo ăn, bạo đàn đúm, chẳng thế mà phát sinh ra điệu hát Ðúm Hải Phòng, tương tợ như hát quan họ Bắc Ninh, nhưng giản dị và bình dân, ít rườm rà, “nhộn” hơn nhiều. Nhưng cậu đừng tưởng bở là bọn Hải Phòng hiếu khách! Tam lên giọng bất chợt. Anh lấy cán dao gõ gõ đập đập vào mặt bàn như muốn nhấn mạnh, hù họa kẻ chưa bao giờ trông thấy miền Bắc là tôi. Hải Phòng là đất thảo khấu! Dân anh chị có, bọn buôn chui chém mướn có, đảng viên thoái hóa có, cán bộ nòng cốt đi đêm có, tàn dư phong kiến địa chủ tái sinh cũng có, tất cả mọi người hội tụ về chỗ điểm nóng ấy để giành nhau chút khoắng bể nhổ neo cho tàu rời nước. Kỳ quặc là ở chỗ đó. Ở miền Bắc sau này ăn là lẽ sống, được ăn nhiều, uống nhiều... thoải mái, tức là có thực thi dân chủ! Dĩ nhiên cái ngon ở Hải Phòng không thể nào sánh bằng miếng ngon Hà Nội. Bánh đúc, bánh tôm, cốm vòng, tiết canh vịt... từ thời Lý Công Uẩn cho tới đời Lê mạt ở Hà Nội thì vẫn tuyệt sắc. Nhưng ở Hà Nội, ăn giữa khung cảnh sừng sững của lịch sử, nhấm nháp bát bún chả mà cứ khổ não vì chung quanh chứng tích công đức của tiền nhân nhiều quá, công khó oai hùng ngày xưa nhiều quá, rực rỡ là thế mà thời đại mình thì cứ tàn lụi, tâm thần ray rứt thì còn bụng dạ đâu mà thưởng thức. Bốn bề tiền nhân, văn hóa bao đời, từ cái cổng Văn Miếu, đến ngôi đền Quan Thánh, tượng Trấn Võ... sao mà lắm! Của ngon có dâng đến miệng cũng chả nuốt được. Nghẹn! Phải nói là mình bị nghẹn!
Tam uống bia, lý giải cái phần tâm linh nhầu nát trong anh những ngày còn ở quê nhà. Cách kể chuyện, lối so đo của Tam có vẻ hơi cường điệu, giống lối kể chuyện của những người Bắc vào Nam sau năm 75, khiến tôi đâm ngờ ngợ, nghĩ là anh nói quá. Ăn ở đâu thì ăn. Cớ gì phải sợ hãi lịch sử ? Ngày trước tôi vẫn thường hay ăn dồi chó bên hông Lăng Ông Bà Chiểu, mà có mặc cảm bao giờ đâu? Chừng như đoán ra được ý nghĩ trong đầu tôi, Tam chắc lưỡi: Cậu không tin thì cứ về du lịch nước mình một chuyến. Ra Hà Nội vào ăn chả cá ở quán Lã Vọng thì sẽ thấy, chan mắm tôm lên bún mà sao mùi mắm với mùi rau thì là cứ xông lên đến là bẽ bàng. Mỡ xối lên cá kêu xèo xèo cũng không đánh thức được những rạo rực trong bụng mình. Chỉ vì không khí, khung cảnh, con người, cuộc sống ở Hà Nội nó nhếch nhác thế nào, không giống ở Hải Phòng.
- Nhưng ở Hải Phòng thì khác ra sao ?
Tôi nóng nảy, bộp chộp hỏi.
- Khác chứ!
Tam chìa ly cho tôi rót thêm bia. Những sóng bia vàng óng ánh, tưởng là sóng biển xanh ngoài vịnh Bắc Việt còn đọng trong mắt Tam lăn tăn. Khác lắm. Bát bún tàu xào cua bể ăn ở Hải Phòng không chỉ có nấm mèo, thịt cua, hành ngò, mà còn trộn lẫn mây trắng, ước mơ của thuyền bè đến từ biển lớn. Sau này Hải Phòng là trung tâm xuất khẩu người đi Hồng Kông. Ăn ở Hải Phòng, là ăn với tâm trạng nắm bắt được tương lai trước mắt. Bát miến cuối, ngày mai đời nở hoa! Mình sống với ý nghĩ không còn vướng bận, trách nhiệm gì với 4000 năm lịch sử đang vây kín chung quanh mình nữa. Thoải mái ăn, tự do ăn, hạnh phúc dân chủ mớm được tới nơi... ! Tam cười ha hả, giọng Bắc đậm đà hào sảng. Cười đã đời rồi anh vụt im lặng, trở lại làm bếp, như thể anh chẳng còn liên quan gì đến câu chuyện nữa. Tam nhẫn nại thái da heo ngâm vào nước nóng, rồi giã gừng lấy tinh chất, chế vào thau nước lạnh, cho thêm rượu trắng, thả bóng bóp nhẹ... Không trông thấy mặt, song tôi biết anh xúc động lắm, bởi cử chỉ Tam không còn nhịp nhàng, đứt quãng, như anh phải thừ người suy nghĩ để nhớ ra mình đang làm gì. Chén rượu trắng pha nước lã trong tay Tam cứ chao nghiêng ngả như chỉ chực đổ. Cách “hãm”, lối kềm chế những tình cảm vui buồn, thất vọng, khổ não, bất ngờ dậy dâng trong lòng Tam khiến tôi cũng buồn lây. Những thống khoái, há hê, tin tưởng vào cuộc đời ở những con người như Tam, sang đến trại Cấm Hồng Kông bỗng nhiên bị đập vỡ, đập vụn, tan thành từng mảnh. Có là con vật cũng phải chua xót.
Bữa tiệc chiều đó, tôi ăn không ngon, nuốt không vui. Miếng rượu cay cất mười hai năm trong chai đục, nút có đóng sáp, mua với giá một ngày lương mà rót vô miệng vẫn thấy đắng.
*
Hình như tôi có duyên với Tam. Tuổi rượu tôi thua tuổi rượu anh, thế giới của tôi khác xa thế giới của anh, tôi sinh trưởng trong một gia đình tiểu tư sản thành thị miền Nam, không biết thế nào là đói, khổ, là oằn oại nhão người. Song giữa tôi và Tam hình như còn có một cái gì khác, phải lâu lắm sau này tôi mới nhận ra trong anh là cái phần thằng người miền Bắc trong tôi không được sống. Nó ở đó. Chờ đợi. Câm nín và chờ đợi. Nhưng chờ đợi điều gì ? Bao nhiêu đêm tôi thức trắng tự hỏi ? Tôi cần gì ? Kiếm gì ? Và tìm gì ở cái đất nước này ? Ðất nước ba trăm sáu mươi lăm ngày thuế má. Ðất nước đi rửa chén cũng phải có bằng. Ðất nước ăn ngủ mối tình đầu không thấy người yêu nhỏ giọt nước mắt khóc cho phần trinh tiết đánh mất.
Một lần khác, tôi rủ Tam đi dạo phố. Phố xá ở đây thì chỉ có hàng quán. Sang ra khu Khải Hoàn Môn, nghèo lầm lũi trong những con đường hầm ngun ngút mắt. Không có thành phố nào tồi tệ, sống chui rúc dưới đất bằng Paris. Mồ hôi, thuốc lá, son phấn, bọ rận chen chúc nhau trong những toa tàu cáu bẩn. Bên trên sự cáu bẩn đó là quán Fouquet. Trời mùa hè, nắng phơi bên trên những tàng dù lấp phấp. Tam gọi một ly đế William Bon Père. Tôi kêu hai chope bia vàng ngậy. Lúc tôi uống hết chope thứ nhất, một tên Ả Rập đi ngang, giọng hát nghìn lẻ một đêm vang từ máy cassette trên vai hắn đong đưa rên rỉ thiểu não chảy vào giữa dòng người cuồn cuộn khắp mặt lộ. Tiếng hát Ả Rập nghe trước quán Fouquet, đối diện tiệm nhảy Lido tương phản đến lạ lùng. Tôi có cảm tưởng phải nghe cải lương trong Caféteria Rex. Song Tam lại tỏ vẻ thích thú. Anh bảo tôi thằng này khá đấy. Ngày xưa có lần đi Tunisie, dẫm chân vào khu sa mạc cát vàng, tôi cũng có lần bắt gặp thứ âm thanh nỉ non, rung nhiều ở đầu lưỡi, và “láy” bằng cổ họng vang vang trên mặt đất. Quả tình, chỉ có trên sa mạc, nhạc Ả Rập mới cất hết sức chuyên chở kỳ bí của nó. Âm thanh cứ kéo dài ra mãi. Nhạc Ả Rập lạ ở giọng ngân, một thứ ngân gần như khốn khổ đứt hơi, mà cứ phải ngân hoài hủy. Chuyến autocar bỏ chúng tôi xuống bách bộ, chỉ có một máy transitor nhỏ của người tài xế mà tiếng ngân như đi suốt sa mạc. Ði hết cả một nền trời đỏ cát lừng lững nắng. Có tiếng nhạc mắc võng trên đầu những trụ điện tồi tàn của Tunis, luồn lách trong chợ Souk, băng ngang cổng đền cấm đàn bà, và bám trên những mảng thịt cừu đỏ tươi treo bằng móc đen đặc ruồi bu, thì mới thấy hết cái hay của nhạc. Nhưng ở đây, trong khu Khải Hoàn Môn sang trọng, âm thanh trở nên lạc lõng kỳ dị, gần như một thứ quái thai. Vậy mà Tam lại bảo khá! Tôi nhìn Tam không mấy hiểu. Tam chiêu một hơi đế, hỏi ngược:
- Cậu có dám vác máy ra đây phát nhạc hồ quảng, cải lương không ?
- Anh khùng à! Tây nó cười cho.
- Thế thì cậu thua thằng Ả Rập rồi. Niềm tự hào dân tộc của hắn mạnh hơn cậu.
- Tự hào không đúng chỗ!
- Ừ, đúng. Tự hào không đúng chỗ. Nhưng vẫn cứ là tự hào.
Tam uống cạn ly đế. Không nói gì nữa. Như đã rời xa, trở về đất nước. Cái con người ham sống, thích ăn, thích uống ở anh như biến đâu mất. Cả cái kẻ làm bếp tài hoa sống động cũng không còn ngồi đó nữa. Tam có lẽ đã trở về với những khoảng sân thượng chìm trong màu lam đục của buổi chiều tắt nắng Hà Nội. Tam có đôi mắt mệt mỏi, khuôn mặt mang nhiều vết tích cuộc đời, ở nhân dáng anh hình như chỉ đội chiếc mũ phở là hợp nhất. Mà Tam có lẽ cũng chỉ hợp với vị trí anh hàng phở, tự hào về nồi nước gia truyền, về thế đứng chỗ đậu của chiếc xe kéo thơm lừng nước dùng. Nếu lùi được nửa thế kỷ, Tam sẽ là anh hàng phở Sức. Chậm nửa thế kỷ, anh ngồi đây, dưới chân Khải Hoàn Môn vĩ đại, nhưng vô dụng. Ngồi quán chán, tôi với Tam về nhà. Nắng sắp tắt, còn phải lo bữa chiều.
*
Tam mở chạn bếp, lấy vỉ sắt, bật ga cho nóng rồi mới thảy một chân giò heo lên trên. Ðùi heo săn ngay lại, bắt đầu đen cháy. Bao giờ mùi thịt nướng cũng khơi dậy hình ảnh trong trí óc tôi. Miếng dồi chó tím lợt, hay miếng chả nướng bằng than tàu đỏ rực chảy nhễu mỡ ròng ròng cứ ám ảnh đeo đuổi tôi hoài. Tôi mở tủ tìm rượu. Bản nhạc Ả Rập lúc nãy đã tan mất, chỉ còn mùi vị quê hương thơm lừng ngầy ngậy giữa gian bếp. Tam vừa giã giềng, trộn với yaourt thay mẻ, vừa kể chuyện những năm sống dưới thảm bom B-52, chỉ có thịt cầy là bán chạy nhất. Hình như ai cũng sợ chết trước khi kịp thưởng thức. Anh đương dở tay, nên nhờ tôi trở thịt. Cả một mảng đùi heo đen rắn bốc ngào ngạt. Tam nhấp một ngụm Rhum, khà trong tiếng reo:
- Úi chà ! Cái thằng Rhum này tuyệt! Hắn là cái thằng hay gắt gỏng, mà chịu nằm yên trôi lừ lừ qua cổ họng mình thì khá! Năm nào ?
- Một chín bảy tám.
Tam ngửng vội nhìn tôi, vẻ mặt anh có nét sửng sờ. Tam nhấp thêm ngụm nữa rồi sang sảng kể: Năm bảy tám cậu ở đâu? Ngoài Bắc chuẩn bị chiến tranh chống Bá Quyền, mình hùng hục đào hầm ở biên giới, ai ngờ bên này có thằng nấu ruợu vô chai đợi mình sẵn... kỳ diệu! Quả thật đúng là kỳ diệu. Năm bảy tám gia đình tôi bị đánh tư sản, kiểm kê từ cây đinh đến con ốc. Thuế siêu ngạch, nghĩa vụ quân sự rình rập. Mối tình đầu tan vỡ. Bằng phổ thông cấp ba hụt thi. Trốn chui trốn nhủi sau những cồn cát Phan Thiết đợi đi chui... Chai Rhum vơi bén đi quá nửa. Chết thì thôi, nhưng sống phải uống cho bằng hết cái thứ nước kỳ diệu này. Có chất đốt, tôi với Tam thi nhau nổ chuyện. Tam kể ở Hà Nội có thứ rượu sen cất ven hồ Tây, trời chiều mưa lạnh uống vào nóng ran mình mẩy, mà hương sen còn đọng ở đầu lưỡi. Tôi không chịu kém, kể ở Củ Chi có thứ rượu hạ thổ chỉ mới ngửi qua đã nóng bừng mặt. Tam cười ha hả, bảo cậu rời Việt Nam còn thơm sữa biết thế quái nào là hạ thổ! Sợ nhà thổ cậu cũng chưa biết ?
- Ừ thì biết qua sách vỡ.
Tôi cứng lưỡi, chống chế. Tam càng cười lớn. Giọng cười của anh tôi để ý bình sinh ròn rã, chỉ có những lúc tuyệt vọng thì nghẽn như cái kèn đồng bị đổ nước.
- Này, bắn đi.
Cái kèn đồng chiều nay trơn tru, với tay lấy gói thuốc lào ba số 1, nhãn đề bán ở cửa hiệu Lý Thái Tổ, vo, se nhồi rồi đưa tôi đốt. Tôi bắt chước Tam tập hút từ hơn một năm nay. Từ khi “chạm” thuốc ta, tôi đâm mê mẩn, hút thuốc điếu không còn thấy ngon. Ðóm thuốc xòe lên, ngọn lửa vừa tắt thì gót chân tôi cũng tê rần. Trong cái bải hoải rã rời của tứ chi, mạch máu nở ra, tôi loáng thoáng nghe tiếng ríu rít như chim hót từ chiếc điếu cày trên tay Tam. Tiếng kêu của điếu cày nghe thật hay, khi buồn nghe như giọng thút thít của người con gái nức nở đêm tân hôn tấm tức khóc cho mối tình đầu, lúc vui vẻ nghe như con gà trống gân cổ gáy, khi giận thì chẳng khác mấy mụ nạ dòng đang rít qua kẽ răng. Thuốc lào không chỉ là thuốc, mà là cả một nền văn minh! Tam mạnh mẽ phát biểu trong lúc tôi lờ đờ. Bao nhiêu sáng tạo, thử thách, kinh qua để rồi mới chiêm nghiệm phải châm bằng đóm mới ngon. Ðốt thuóc lào bằng quẹt ga thì hỏng. Bằng diêm quẹt cũng hỏng nốt. Châm bằng Zippo thì chẳng khác mọi rợ mán mường. Ðem thuốc ngoại, thuốc tẩu mà nhồi thì hút không thấy hơi, bã bèn bẹt chả ra đâu vào đâu. Bởi thuốc lào sấy nắng, bao nhiêu gio’ sương nắng nôi của đất nước làm thành.
- Cậu ếm cả nắng gió quê nhà vào buồng phổi thì thấy, không có cái say nào bằng say quê hương!
Tam thở khói. Tôi gật đầu, còn lơ đãng trên những cánh đồng ruộng lúa ở nơi đâu, chưa đứng dậy được. Tam đã giở đùi heo đem xuống cạo, chặt thái hình quân cờ, rồi bóp riềng mẻ mắm tôm. Nồi thịt tím ngắt hoa cà. Cậu đem hầm đi, mình chuẩn bị thức ăn chơi. Tam rửa tay, lại sục vào chạn bát. Tôi lễ mễ bưng nồi thịt đặt lên bếp, lửa ga phừng phừng đến nóng mặt. Mười đầu ngón chân tôi hãy còn tê. Chỉ có một chút khói quê hương sao mà say.
Cái bàn sắt tôi với Tam khệ nệ khiêng ra sân sau. Ðêm hè gió mát rượi làm khô những giọt mồ hôi chỉ mới rịn trên da vụt tan ngay. Tôi đi đốt đèn dầu, không phải cúp điện, nhưng tôi với Tam vẫn ưa thứ ánh sáng tù mù vàng võ bâng khuâng, cháy èo uột của những đêm mưa, hay những đêm ngoại ô bắc ghế đẩu ngồi tán chuyện. Ánh đèn Hoa Kỳ hắt loang xuống thềm. Tôi khui rượu. Tam bày hai đĩa tiết mới đánh. Không có tiết vịt, đành đánh tiết heo. Tiết heo bán đong chai, một lít pha được không biết bao nhiêu đĩa. Tôi vắt chanh, ngắt rau thơm, cắn một miếng mề, nhai một quả ớt, rồi nhấm thêm một mẩu gan, bao nhiêu chất ngọt của tiết hòa vào mạch máu mát mẻ đến sảng khoái. Tôi rót rượu liền tay. Chiếc bóng của Tam ngả hẳng người ra bàn, mặt anh ửng đỏ trông như mặt Quan Công về hưu. Tam bắt đầu ngà. Ở Hà Nội lạ lắm. Mai mốt cậu về chơi sẽ thấy. Có những ngôi nhà cũ không tưởng tượng, rêu ẩm bám đen từ mặt trong ra mặt ngoài. Ngủ đêm cứ rờn rợn. Miền Nam mới quá, không dấu ấn của lịch sử. Nhưng ở Hà Nội, lắm lúc lịch sử cứ sờ sờ ra đó, bình thường mình không để ý, nhưng đêm nằm có lúc thảng thốt chợt nhận ra đầu ngõ là chỗ Chiêu Thống đón Tôn Sĩ Nghị chứ đâu xa, có khi cả cái nhà mình cũng là nhà của Nguyễn Hữu Chỉnh lúc trước. Nằm cứ toát mồ hôi. Mới hôm qua chứ bao lâu! Cái đất Thăng Long lạ. Ði xa như Nguyễn Hữu Chỉnh rồi cũng phải về chết ở đó. Mà chết tan xương nát thịt mới đau.
- Nguyễn Huệ không biết dùng người! Tự chặt tay chân mình thì sống với ai?
Tôi vét nốt đĩa tiết, tự nhiên thấy mình nóng nẩy vô lý. Tam đang đơm bún vào bát, ngắt rau húng, chan xâm xấp giả cầy, ngửng nhìn tôi ngạc nhiên :
- Ai bảo cậu thế?
- Chẳng ai bảo, nhưng thảm kịch của đất nước là từ khi Nguyễn Huệ tự ý đại cử Bắc phạt đấy thôi? Nồi da xáo thịt tự đó mà ra.
Không phải!
Tam đập mạnh ly xuống mặt bàn, rượu sánh cả ra ngoài. Những vũng rượu vang đỏ thẫm. Tôi cũng biết rượu vào lời ra nhưng không ngờ Tam cáu kỉnh đến thế. Anh nhai ớt rồn rột :
- Bi kịch của đất nước này xãy ra ở làng Hạ Lôi, cậu biết chưa? Cái làng ấy có tay Lý Trần Quán làm Thiêm Sai, lúc Chúa Trịnh chết thì tự chôn mình, chết ngu xuẩn thế mà người đời cứ xem như bậc nghĩa khí!
- Trung thế thôi anh còn đòi ?
Tôi cắn một miếng riềng, nhất quyết không chịu thua. Gì chứ chuyện lịch sử, tôi thuộc làu làu, lúc còn đi học trả bài bao giờ cũng được điểm cao. Trời sụp tối hẳn. Cái bàn sắt của hai chúng tôi nhô ra vườn trông như boong tàu thắp sáng lênh đênh trôi dập dềnh ngoài đêm. Mà chúng tôi cũng lênh đênh dập dềnh thật. Mấy tàng lá xum xuê trên đầu cứ ngả nghiêng chờn vờn, lất phất đong đưa như chỉ chực rớt xuống bàn. Bữa rượu đã lên tới tột đỉnh. Tam ném vỏ chai vào một góc vườn, khật khưỡng khui thêm chai nữa. Nắm tay anh xoay theo cái vặn quả quyết :
- Trung với ai, chứ với cái nhà chúa Trịnh thì mình ngờ lắm!
Bọn viết sử khen chê không đúng chỗ! Sao không nhắc cái công tôn phò nhà Lê hai trăm năm? Bằng chứng: Chúa vong thì Lê mạt!
-Ừ thì Lê mạt. Nhưng Hiển Tông, Chiêu Thống là cái gì ? Nhà Tây Sơn mới là cuộc cách mạng đích thực! Tay Lý Trần Quán đổ tiến sĩ nhé. Mẹ chết thì ở nhà mồ ba năm, không ăn thịt cá? Hắn làm thế để làm gì? Sao không ra giúp Nguyễn Huệ lại tự chôn sống mình? Làm màu à? Thảm kịch của đất nước là bởi bọn “trung trinh tiết tháo” kiểu ấy. Cho ăn học phí đi! Hai trăm năm rồi mà ở Hà Nội lẫn Saigon cứ còn đường Lý Trần Quán, người ta theo tấm gương ấy đến độ đất nước lụn bại!
Tam nói một hơi. Chất rượu trong người anh bốc ra như giông gió. Tôi cũng say lắm, miệng lúng búng bún lẫn giả cầy. Vài miếng măng thái, ít củ chuối, hai ba miếng da lợn cháy vàng nổi lên mặt bát. Tôi và cho hết chén, làm cạn ly rượu, rồi phản pháo :
- Thiết tha, trăn trở cho bi kịch đất nước, thế sao anh còn qua đây làm gì?
Sắc màu hồng đỏ au trên da mặt Tam vụt trở nên xám lại. Tôi chỉ hỏi câu châm biếm, ai ngờ, ai ngờ cả thân mình anh cứng lại. Vai Tam nhô lên cao lắm, như thể anh muốn rụt đầu trốn tránh. Trông anh như bức tượng tội nghiệp hôm nào, và cái vệt cắt trên da mặt – cái vết chém từ bên trong – Tôi đã trong thấy một lần ở sau bếp khi hỏi Tam về trại Cấm Hồng Kông, cái vệt chém đó như bất ngờ mọc ra trở lại, năm ngón tay Tam cũng cứng lại làm rơi đôi đũa. Tam ngồi bất động, như trớ lưỡi, tròng mắt anh vừa ngượng nghịu, nửa xấu hổ, nửa giận hờn tại sao tôi lại hỏi như vậy? Vẻ mặt Tam lúc đó tôi không quên được, song tôi không dám ngó anh lâu, không khí đang hăng của bữa tiệc bỗng chùng hẳn xuống. Tam bất chợt cười ngúc ngắc, tiếng cuời như khóc của cái loa kèn nghẽn nước.
- Qua thì sao? Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu cũng lưu vong mà?
- Các cụ có làm được gì đâu ?
Tam im lặng. Biết anh không muốn trả lời, tôi lảng chuyện bằng cách rót thêm rượu vào ly. Tam nạp liên tục như muốn khỏa lấp. Một, hai, ba, rồi bốn, năm ly, chẳng mấy chốc anh đổ kềnh ra ghế.
Tam “lật” rồi tôi mới thấy mình lạc lõng. Khu vườn rộng hẳn, dài mênh mông gấp bội. Một đống vỏ chai, thau bún rỗng, nồi giả cầy cạn, nhưng còn rượu. Giá tôi đừng hỏi điều ấy, chắc bữa rượu hãy còn vui. Lần đầu, tôi trông thấy tận mắt đau khổ của một kiếp người. Tôi khui hết những chai rượu còn sót. Uống một mình. Từ năm 78, tôi đã uống hết bao nhiêu chai rồi?

Trần Vũ
Nguồn: Ăn Mày Văn Chương

Trương Củng
  • Số bài : 531
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.01.2005
  • Nơi: Dòng sông quê hương
Buổi sáng sinh phần - Trần Vũ - 26.05.2005 15:05:43
Buổi sáng sinh phần

Mưa vẫn còn rơi lai rai khi Ðiềm vào tới nghĩa trang. Hai ven đường mồ mả mọc đìu hiu nằm men sau dẫy tường thấp. Gió thổi bời rời, phe phẩy dăm ba hột mưa ảm đạm. Chàng trả tiền cho người phu xe dặn ngồi đợi. Ðiềm còn đau râm ran trong bụng, không đau xẻ ruột đứt gan và ói máu như lúc nằm viện, nhưng là cái đau dai dẳng chậm rãi âm ỉ. Chàng cố dỗ dành viên mụt nhọt thâm sâu trong dạ dày khi bước vào cổng. Bà cụ già ngồi bán nhang chào mời chàng với ham răng nhuộm. Ðiềm mua lấy một bó đến thắp ở miếu thổ thần. Mùi nhang đốt, hương đèn xông nghi ngút, khói cay bỏng mắt đột ngột đưa chàng vào hẳn thế giới của người chết. Bó nhang chập một bén lửa cứ phựt lên làm Ðiềm phải vẩy mấy lần trước khi lâm râm khấn rồi cắm vào bát sành. Vài ngọn gió lùa tha theo nước mưa vào trong miếu làm chàng gây gây lạnh. Ðiềm lại thấy đau nhói trong phủ tạng, chàng chờ cho khỏe lại rồi mới đi quanh quất giữa những hàng mồ mả. Nghĩa trang hiu hắt, hoang vắng. Thế giới sau lưng con người chỉ phơ phất mấy đường mưa chảy lăn ròng trên bia đá. Trời mưa ri ri suốt cả một buổi làm bầu trời xám ngắt như đã ngã về chiều dù chỉ mới quá trưa. Hai ba giọt nước luồn qua cổ áo khiến Ðiềm rùng mình ớn lạnh.
Chung quanh miếu thổ thần mộ lập san sát nên Ðiềm chỉ nhìn lướt các kiểu bia xây. Nhiều tấm bằng đá hoa chạm đẹp, nhiều tấm cẩn xà cừ, và những tấm đá thạch đơn giản chỉ mài nhẵn. Những bia mộ làm Ðiềm xúc động. Những đôi mắt người chết nhìn chàng u uất trên dòng chữ khắc mặc niệm. Vợ hiền lập mộ. Em và các con thương nhớ anh hoài. Bố mẹ thương con vô cùng... Lác đác vài vòng hoa cườm bằng nhựa lây lất trên đầu mộ chí, người ta quên đem về đã phai nước sơn nhưng còn đọc được những chữ Thành kính phân ưu. Ðau xót chia buồn. Thương tiếc tiễn đưa... Chàng buồn buồn đi rảo qua lối đi nhỏ, tiếng cỏ tranh lay chạm lào xào như có ai than. Thân phận kiếp người quá là mong manh. Sống gửi thác về, tro tàn bụi cát, hồn phách tiêu tán. Gió thổi nâng đong đưa vài miếng tro nơi đống vàng mả ai đó vừa đi thăm mộ đốt xong. Phiến tro bay trĩu trĩu theo mùi nhang đưa từ ngôi mả mới cắm. Ðiềm đi sâu vào trong. Những người khuất mặt còn lưu trữ chút chân dung qua di ảnh vẫn theo dõi chàng. Có người mất thật trẻ, hưởng dương hai mươi mốt tuổi, kẻ thất lộc ngoài tám mươi. Ðiềm đi tới cuối nghĩa trang chỗ có bức tường đổ xiêu trông qua mấy dãy nhà lợp tôn phía Tân Sơn Nhất. Mồ mả đan kín không còn đất trống. Chàng phân vân nửa muốn trở ra sang khu nghĩa trang bên kia đường, nửa muốn đi tiếp sâu vào hướng ngược lại con đường dẫn ra miếu thổ thần. Ðiềm còn chần chừ thì nghe tiếng người gọi:
- Cậu kiếm mả ai?
Chàng giật mình quay lại, bắt gặp một cụ già đứng cách mấy hàng bia. Ông cụ đi giày tây nhưng vận áo dài, chít khăn nhiễu và cắp ô đen. Trời gió thổi hai vạt áo the rung rung.
- Thưa cháu kiếm đất. Ðiềm trả lời.
- Cậu cũng người Bắc à?
Ông cũ lại hỏi, nét vui mừng mà phúc hậu.
- Dạ, cháu sinh quán Hải Dương.
- Quý hóa quá! Tôi là Chương, người huyện Tiên Sơn tỉnh Hà Bắc, hân hạnh biết cậu. Nhưng kiếm đất ở đây làm sao có, khu này họ xây choáng hết cả rồi. Nếu cậu không vội, theo tôi sang đằng này họa may.
- Dạ, cám ơn cụ chỉ đường.
Ông cụ phát tay, chỉ về hướng tượng Quan Âm xây ở đằng xa, ra dấu bảo Ðiềm đi theo. Trời mưa lâm râm không nặng hạt nhưng ông cụ vẫn giăng ô, hai ống quần lụa giặt trắng phau. Chàng để ý thấy đôi giày tây của cụ Chương còn mới nguyên chưa mòn đế.
- Cậu kiếm đất cho ai? Cụ Chương bỗng hỏi.
- Dạ, không dấu gì cụ... cháu muốn mua sẵn một miếng đất cho mình.
Ðiềm hơi ngần ngại, nhưng rồi cái phong thái hồn nhiên của cụ Chương giúp chàng nói thật. Chàng bỗng thấy mình khỏe hẳn sau khi nói ra mục đích đến nghĩa trang.
- Ối giời! Còn trẻ thế mà đã lo xa kia à? Xem như là chúng mình đồng bệnh tương lân rồi nhé! Cứ coi như ta đã là tri kỷ!
Cụ Chương bật cười lớn khoác vai chàng tương đắc. Ðiềm không hiểu gì khi thấy ông cụ đưa tay làm loa gọi những người khác. Cụ Chương tươi cười:
- Lâu lâu mới gặp một người còn trẻ mà đã cẩn thận biết lo chốn yên nghĩ của mình, chúng tôi quý lắm. Người xưa vẫn dạy cái phần mả bao giờ cũng là trọng, mà tuổi trẻ đời nay họ chỉ ham sống. Thật bụng chỗ đồng hương với nhau, gặp cậu tôi rất cảm kích, sẵn có vài người bạn đằng mả, nếu cậu cho phép xin được giới thiệu.
Ðiềm còn đang chần chừ do dự không biết tính sao, thì đã thấy mấy người từ dẫy mộ phía trong đi ra. Cụ Chương vừa kéo tay chàng vừa vẫy họ.
- Các ông lại đây! Có anh bạn trẻ này hợp với chúng mình lắm!
Người đàn ông đi đầu tuổi trạc ngoài năm mươi, tóc chải kiểu hai thập niên trước, complet cà vạt ủi hồ thật thẳng. Trông ông ta như sắp đi dự đại tiệc. Người đàn ông nói:
- Tôi là Thanh, chủ hãng cưa Phúc Lợi, rất vui được biết cậu.
- Không dám làm phiền bác, cháu là Ðiềm vừa quen với cụ đây.
Chàng bắt tay ông Thanh. Ba người đi sau cũng vừa tới. Một cô gái mặc áo dài trắng tóc thề, một người lính trong bộ lễ phục sĩ quan Ðà Lạt và một người thương phế binh áo ngụy trang bê bết bùn đất. Người thương binh cụt chân, Ðiềm nhìn sững họ quên cả chào, lúc này mà còn mặc áo lính Cộng Hòa thì phải cómáu mặt.
- Chào anh bạn! Tôi là Trình Văn Khánh! Người thương phế binh phác tay chào Ðiềm theo cung cách quân đội cũ.
- Mừng anh ghé tham quan! Người sĩ quan võ bị vồn vã ôm hôn chàng, vừa vỗ vỗ vào lưng thân ái. Không quen với kiểu chào này nên Ðiềm ngượng đỏ mặt. Cô gái chỉ khẽ gật đầu nhìn chàng, không xưng tên, chỉ lẳng lặng đứng nép một bên mả.
- Tôi tên Thìn, sinh đẻ ở phố Kim Mã, quận Ba Ðình châu thành Hà Nội, rất hãnh diện được đón tiếp anh hôm nay!
Người sĩ quan Ðà Lạt bây giờ mới trịnh trọng tự giới thiệu. Chàng không hiểu gì ngớ người ra nghe.
- Thôi bây giờ là người nhà rồi cả nhé, không cần khách sáo nữa. Nếu cậu Ðiềm không bận thì ra ngôi mả uống với chúng tôi một ly, chả mấy hôm mới có được chút rượu đế. Ta đi nào!
Cụ Chương không chờ Ðiềm trả lời, thân mật nắm tay dẫn ra một chỗ mả tương đối sạch sẽ trống trải. Ông cụ vừa đi vừa kể cho mấy người kia nghe ý định tìm đất của chàng. Hai người lính bật cười ha hả còn ông Thanh thì khen ý hay, chỉ có cô gái vẫn không nói gì chỉ lẳng lặng theo sau. Trưa nghĩa trang gió buồn buồn đưa mưa qua những ngôi mộ vắng vẻ, có được vài người cùng đi kiếm đất chung thì cũng bớt cô đơn, nghĩ vậy Ðiềm mạnh dạn bước theo họ.
- Nhấm nháp qua loa rồi chúng tôi đưa cậu đi coi đất, trong này thì không có chỗ nào mà chúng tôi không biết. Nhưng chọn đất là việc hệ trọng, cậu không nên hấp tấp, con cháu mai sau nhờ cả vào đó.
Sáu người ngồi dưới một tàn cây nhạc ngựa, chung quanh cỏ lau, mồ mả im lắng như tờ. Ðiềm trông thấy một hàng phượng nở hoa đỏ, giữa chiều mưa in hình lên nền trời ướt nước của lối đi chính mãi tận đầu nghĩa trang. Cụ Chương không biết lôi ở đâu mấy đĩa xôi gấc, loay hoay tháo bọc ny lông phủ mặt. Ông thanh cũng rở mấy bánh oản, lớp giấy bóng kính xanh đỏ đủ màu. Thìn rót nước trà ra tách, Khánh chuyển cho mỗi người một ly đế. Cô gái ngồi im nhìn.
- Làm một ly anh bạn!
Khánh đưa ruợu đến chàng, vui vẻ.
- Ruợu trắng hơi nặng, nhưng trời lạnh uống vào nóng ran người, thích thật! Cụ Chương gật gù khề khà.
Ðiềm cũng đưa ly lên môi nhấp, rượu đế rẻ tiền cay bỏng lưỡi lại nồng nặc mùi nhang, chắc tro tàn rơi vào ly. Chàng cố chiêu ngụm rượu, lẽ ra Ðiềm không được uống nhưng trước sau thêm vài tháng thì có khác gì đâu. Nghĩ vậy Ðiềm nhắm mắt uống cạn ly, chất lỏng nóng như sôi sục trong dạ dày Ðiềm. Chàng khà một tiếng lớn.
- Bạn chịu chơi lắm! Tôi phục bạn, ít người uống nổi thứ ruợu đế này!
Khánh ngồi xuống cạnh Ðiềm có vẻ thích thú, anh ta nói tiếp:
- Tôi là hạ sĩ quan nhảy dù, tiểu đoàn 11 của Nguyễn Ðình Bảo, bạn biết chứ? Trận Charlie tôi bị vào đây.
Khánh đưa tay đập đập vào phần đùi còn sót, rồi nói không tải thương được. Khánh nốc hết ly ruợu một hơi, rồi phác một cử chỉ nửa đáng tiếc mà cũng bất cần.
- Sống khôn thác thiêng, sống hùng chết vinh, trúng đạn què chân, binh chủng hào hùng thì phải bỏ mạng sa trường, poncho gói thây. Bạn đồng ý không? Ai như thằng này!
Khánh nói một hơi trước khi đưa tay chỉ vào mặt Thìn.
- Cứ phát biểu linh tinh! Thế nào là sống hùng chết vinh? Ði lính thuê cho đế quốc ấy à?
Thìn, người mặc áo sĩ quan Ðà Lạt, đeo kiếm và mang găng trắng như sắp đi duyệt binh ngày quốc khánh, đang ngồi chồm hổm trên một ngôi mả bực bội trả lời. Anh ta gỡ cái nón kết lưỡi trai trên đầu xuống cầm tay quạt.
- Rắm thối nhà anh! Cứ có tí ruợu đổ vào là chết vinh hơn sống nhục!
Thìn nói thêm câu nữa, trước khi xúc miệng òng ọc bằng trà. Chờ cho Thìn nhổ toẹt bãi nước xuống đất rồi Khánh mới dằn mạnh ly.
- Ðù mẹ mày! Ðội đồ đi bộ từ Bắc vào Nam gia tài có mỗi đôi dép Bình Trị Thiên, bây giờ đeo găng, mắc kiếm, mang anh dũng bội tinh Việt Nam Cộng Hoà không biết xấu hổ! Giải phóng cái con mẹ mày!
Khánh chửi lại:
- Này, đừng có chạm vào thành quả đấu tranh của nhân dân Nam bộ! Việc tôi mặc áo sĩ quan đeo quân hàm ngụy thì không phải do tôi muốn. Người ta lộn, đem tôi về tắm rửa cho mặc áo lính ngụy đành chịu. Lúc đó ngoài Trung tình hình găng quá, thân nhân của cái thằng lộn không ra nhận được, chờ lâu họ phải hàn xì vì sợ xông mùi. Thật tình là như thế anh ạ!
Thìn quay lại phân bua với chàng. Ðiềm không hiểu họ muốn nói gì, chàng cho là cả hai chóng say đâm ra dở hơi. Nhưng Khánh thì vẫn cứ hùng hổ:
- Ðù mẹ! Cứ coi là mày bị cầm nhầm, nhưng đồ ăn của gia đình thằng bị lộn vào cúng mày cứ xơi là thế nào? Còn giấu ăn riêng thì quân đội giải phóng chúng mày tệ thật!
- Ðói thì phải ăn! Chứ thân nhân có biết tôi ở đâu đâu mà thăm nuôi! Sự đời nó có nhiều cái oái oăm, không biết thằng lộn bây giờ nằm đâu. Hôm ấy tắm ở suối lên chậm một chút thì chưa chắc đến nỗi, mình lại bò lên trước các đồng chí ấy, chưa kịp chòng cái áo thì bị biệt kích nó bắn. Ði không mang theo được một món kỷ niệm. Tiếc hoài cái áo trấn thủ anh Ðiềm à. Cái áo tự tay cô Miễn may lấy cho tôi có thêu cả tên họ chữ lót của hai đứa. Tiếc quá. Bây giờ nước nhà thống nhất, người ta xum họp còn tôi không biết đến khi nào mới gặp lại...
Thìn thở dài thườn thượt, nhìn đăm chiêu ra cổng nghĩa trang, nhưng lối ra bị mấy hàng tranh cao che khuất. Ðiềm lạ lùng theo dõi cuộc cãi vã giữa hai người lính, chàng ngờ ngợ một chuyện gì mà chưa dám tin vội. Ðiềm thấy tay chân mình bủn rủn cả.
Từ nãy vẫn có vài người đàn bào đi tảo mộ ngang qua chỗ họ ngồi. Mỗi lần Ðiềm đều để ý thấy mấy người đàn bàn chỉ nhìn một mình chàng. Mưa lâm râm gần tạnh hẳn, mùi đất xông lên ngai ngái cả một khu mả đìu hiu thê thiết. Ðiềm cứ ớn lạnh từng chập, chàng nhìn mấy người ngồi quanh thấy họ tự nhiên như không. Chàng muốn bỏ đi mà không nhấc nổi chân. Ông Thanh bóc một bánh oản mời chàng.
- Cậu xơi miếng bánh! Còn hai anh kia thôi cho tôi can, nể mặt cậu Ðiềm với chứ. Xin lỗi cậu Ðiềm nhé, ngày xưa họ đánh nhau chưa chán nên bây giờ cứ gặp nhau là kiếm chuyện thù oán.
- Này ông Thanh! Không có bọn lính tráng tụi này xả thân bảo vệ lãnh thổ cho ông làm ăn để tụi nó vào đặt chất nổ khủng bố, thì có mười trại cưa Phúc Lợi ông cũng không mở được. Ðừng khi dễ bọn này chứ!
Khánh quay sang cãi nhau với ông Thanh. Ông chủ hãng Phúc Lợi chưa kịp có ý kiến thì Thìn đã chõ vào:
- Bảo vệ lãnh thổ? Nghe thối!
- Thôi thôi! Tôi đã bảo hai anh thôi là thôi. Câu Ðiềm đâu có vào đây nghe hai anh cải nhau. Chuyện cũ qua rồi, tôi bây giờ cũng không còn điều khiển trại cưa nữa. Cậu thấy tôi nói có phải không cậu Ðiềm? Họ hăng máu quá, cái thời trẻ của tôi đâu có như vậy, lúc ấy tôi chỉ nghĩ làm sao học một nghề kiếm ăn lương thiện có ích và hữu dụng, có vốn rồi mở một cơ xưởng để của cho con cháu nhờ... Suốt cuộc đời tôi chỉ ước vọng có bấy nhiêu, thế mà tôi không đạt được cậu Ðiềm à, khi đau bệnh gan không làm việc được nữa, tôi để lại cho vợ con cả một cơ sở phồn thịnh. Vợ chồng thằng cả đưa nhau trốn ra nước ngoài bị bắt, cơ xưởng máy móc ván gỗ họ tịch biên hết, mẹ chúng nó vào đây than thở, nghe mà tôi cứ khóc ròng, bao nhiêu năm gầy dựng chớp mắt đổ đi.
- Chính sách nhà nước bao giờ cũng đúng đắn, để phường tư sản các anh lũng đoạn thị trường cạnh tranh vô tổ chức ấy à!
Thìn lại chõ vào câu chuyện, không nể nang. Ðiềm tưởng ông Thanh sẽ trả lễ ngay, nhưng không ngờ ông ta chỉ nhỏ nhẹ đáp.
- Các anh cứ cho chúng tôi là giai cấp bóc lột, nhưng thật sự nếu không có các cơ sở thương mãi của chúng tôi, những hãng xưởng thủ công nghiệp mà các anh gọi là tư sản dân tộc, thì nhiều người dân mà các anh tự hào là chiến đấu cho quyền lợi của họ không có công ăn việc làm đâu. Kinh tế nước nhà cũng không phát triển vì thiếu vốn đầu tư. Xã hội nào, tầng lớp nào cũng có kẻ xấu người tốt, đừng nên vơ đũa cả nắm thế. Tôi nói thế đúng không cậu Ðiềm?
- Dạ, cháu cũng nghĩ như bác.
Ðiềm trả lời, chàng bị hút vào các mẩu tranh luận của họ mà bấy lâu nằm bệnh chàng ít khi được tham dự. Chàng ngờ ngợ họ không phải là người sống, một lúc chàng đã ớn lạnh khắp cả người, nhưng rồi Ðiềm lại thấy họ bình thường quá, thật quá, còn sống động hơn cả người thật. Có thể nào mấy người này đang đóng kịch để trêu chàng. Nghĩ kỹ rồi Ðiềm thấy không đúng, làm sao đóng kịch tài đến như thế. Nhưng nếu họ là ma thì Ðiềm lại thấy không có gì để sợ. Trời còn sáng, người phu xe còn đợi chàng ngoài cổng. Hơn nữa... chậm nhanh một vài tháng Ðiềm cũng vào nằm trong này. Làm bạn với họ trong một vài tháng, hay làm bạn bây giờ thì cũng thế. Nghĩ vậy chàng không còn thấy sợ.
Mấy người trong bọn chia nhau xôi gấc. Cũng loại xôi bán để cúng. Phẩm đỏ loẹt gặp mưa dính nhớp nháp ra tay. Bận ăn, hai anh lính thôi cãi nhau, ông Thanh cũng im lặng. Cụ Chương từ nãy không nói gì cứ lâu lâu nhìn chàng tủm tỉm cười. Cô gái thì ngồi xõa tóc, lâu lâu thu vén những giấy rác mấy người đàn ông bày bừa. Ðiềm thấy thiếu nữ trông mặn mòi, hai con mắt đen láy, tóc óng ả như lụa. Chàng đang định bụng hỏi chuyện nàng thì nghe tiếng xột xoạt ở mả bên. Tiếng cười con gái rúc rích. Tiếng vải quần tuột mau. Giọng đứa con gái nũng nịu rinh rích.
- Anh trả tiền em trước đi!
- Thì xong rồi đưa, có mất đi đâu.
- Thôi đưa tiền em liền đi, nghe!
- Ừ, thì đưa. Bộ em hay bị quỵt lắm hả?
- Cũng có bị, nhưng có tiền trước em mới phấn khởi!
- Rồi đó. Bây giờ thì phu với cho ngon coi!
Giọng đàn ông cười hình hịch dâm đãng. Ðứa con gái vẫn cứ cười rúc rích. Thấp thoáng sau mấy cành lau sau lưng mả Ðiềm trông rõ cái bụng trắng tươi của đứa con gái làng chơi. Cánh tay nó lúc đưa lên níu cổ gã đàn ông, khi buông để giữ vạt áo bà ba cho khỏi rớt xuống đùi làm vướng víu. Gã đàn ông làm hùng hục như trâu kéo cày. Ðiềm chợt thấy Khánh và Thìn nhảy leo lên nóc mộ chỗ cặp trai gái đang làm tình để nhìn. Thìn cười hô hố chỉ trỏ mỗi khi gã đàn ông đổi kiểu, còn Khánh huýt sáo khi nghe đứa con gái rên ư ử. Kỳ cục là họ đứng ngay trên mả ngay chỗ cặp trai gái đang chơi mà gã đàn ông với đứa con gái vẫn tiếp tục làm tình. Bất chợt đứa con gái ngẩng đầu ngước nhìn bốn phía, nó chợt thấy Ðiềm ngồi ở bên này.
- Chết rồi có người! Anh!
- Ðâu? Ai?
- Dậy đi anh! Mặc đồ vô! Ði!
Gã đàn ông cũng vừa trông thấy chàng, hắn hối hả kéo quần dắt đứa con gái chạy đi. Khánh và Thìn cũng nhảy xuống đất chạy theo coi.
Ðứa con gái chòng được cái quần lãnh đen nhưng còn chưa kịp cài nút áo tất tả chạy theo gã đàn ông. Ðứa con gái vừa chạy vừa nói léo nhéo:
- Ðừng vô miểu thổ thần tội lắm anh! Qua bên kia kìa, mà coi như xong một cối rồi nghe anh! Phải trả em thêm đó!
- Xong cái gì! Người ta chưa ra mà! Sao em chơi đểu vậy?
- Chứ còn gì nữa, chẳng lẽ nảy giờ chùa sao!
Khánh và Thìn chạy đuổi theo sau cười nắc nẻ, nhưng cặp trai gái làm như không thấy hai người lính vẫn léo nhéo vừa chạy vừa mặc cả. Trời tạnh mưa, chút nắng muộn le lói soi khu nghĩa địa. Bốn người cùng chạy nhưng chỉ có hai cái bóng của cặp trai gái phơi trên lối đi đất. Cả bốn xa dần và khuất hẳn. Cụ Chương chờ cho tất cả trở lại yên tĩnh rồi mới lên tiếng.
- Tội nghiệp! Hai anh lính vào trong này giữa lúc đời họ còn sôi động quá. Còn dở dang tuổi trẻ nên họ ham vui, đôi lúc hiếu thắng, có lúc lại bất mãn tất cả. Tôi hiểu họ còn vướng nhiều bụi trần chưa dứt được, nên hay theo khuyên bảo nói chuyện với họ. Cái phần số không do mình định đoạt, cũng không do thượng đế đâu, do ở cái tiền kiếp lúc trước ăn ở thế nào kiếp này chịu vậy. Thượng đế không có bất công với ai, không có quýt làm cam chịu, mà ai làm người nấy nhận. Tôi ở trong này trên hai mươi năm rồi, gặp đủ hạng người, đủ khắp các thành phần nên tôi hiểu rõ con người ta lắm. Con người ta nhiều lúc đáng thương mà nhiều lúc cũng đáng ghét. Không biết ông bạn Thanh với cậu Ðiềm và cô Thủy nghĩ thế nào, nhưng tôi thì thấy con người ta là nạn nhân của chính mình mà lại thường đổ tội cho trời cao không có mắt.
- Thưa, cháu muốn hỏi cụ một điều không biết có nên chăng?
Ðiềm ngắt lời cụ Chương. Tự nhiên anh cảm thấy mến cái thần thái ung dung tự tại, phong cách chấp nhận cuộc đời, kiếp người ngay cả sau khi chết của ông cụ.
- Cậu cứ hỏi không việc gì mà ngại.
- Cụ vừa bảo nằm ở đây trên hai mươi năm, sao vong hồn không được siêu thoát?
- Trả lời cho cậu tôi cũng không biết nói thế nào, chuyện ấy ngoài thẩm quyền của chúng tôi, nhưng thời buổi nhiễu nhương của chúng mình bây giờ hồn âm khó mà siêu linh tịnh độ. Lũ chúng tôi ở đây không có ai được lên cõi niết bàn, mà đều chờ vào vòng luân hồi, chậm hay mau thì tùy thuộc vào ân đức của mình khi sống để lại. Lúc còn sinh tiền tôi không thấy mình có làm điều gì xấu, nhưng biết đâu! Có chuyện mình không cho là xấu mà nó vẫn cứ xấu, mà mình không nghĩ ra thôi. Nhưng cứ chờ mãi rồi mình đâm ra tin mình đã làm chuyện xấu, đành phải thay đổi cách nhìn chấp nhận ở đây vậy. Ở riết lại thấy trong này cũng vui vui cậu Ðiềm à. Chẳng hạn cái cảnh giang hồ vừa rồi, cái thời tôi còn ở vùng quê mình ngoài Bắc làm sao có. Lúc ấy trai gái gặp nhau thì chỉ hát quan họ. Cậu biết quả đồi Lim không? Chùa Lim, xã Lim bên cạnh sông Tiêu Tương, làng tôi là cái nôi quan họ cổ truyền đấy!
- Lúc di cư cháu chỉ trên mười tuổi nên bây giờ không nhớ gì, thưa cụ.
- Ối giời ơi! Hát quan họ thì mê lắm lắm! Âm điệu của nó du dương tỏa khắp cả người mình. Cái giọng con gái Bắc Ninh mới chết!
Cụ Chương nói rồi liền cất giọng hát:
Em là con gái Bắc Ninh
Em nghiêng vành nón mái đình nghiêng theo
Tòa sen Phật muốn lặng thinh
Nghe em ca bỗng thấy mình trần gian
Quê em sóng, nhịp, gió, đàn
Nắng thêu nên nhạc, trăng vờn nên thơ
Tiêu Tương dấu cũ con đò
Xuống sông nỗi nhớ, ngóng hờ nỗi thương...
- Mấy chục năm rồi mà tôi vẫn không quên mấy câu hát ấy, nó như ăn vào hồn mình. Trần Linh Quý làm bài hát ấy nổi tiếng cả vùng Bắc Ninh.
- Cậu Ðiềm rảnh rang thì vào đây nghe cụ Chương hát quan họ, kể chuyện hội Lim thú lắm.
Ông Thanh nói với chàng.
- Cụ Chương còn biết nhiều thắng cảnh miền Bắc, những đêm trăng bọn trẻ chúng em thường tụ tập nghe cụ kể chuyện đi chùa Hương, chùa Keo, viếng đền Kiếp Bạc, hồ Ba Bể thích lắm. Hôm nào không bận bịu anh Ðiềm ghé chơi nhé!
Cô gái tên Thủy nãy giờ mới lên tiếng. Ðiềm trông nàng duyên dáng quá. Ðột nhiên chàng thấy vui vui, buổi trưa lúc vào nghĩa địa tìm cho mình miếng đất sinh phần, chàng đâu nghĩ có cuộc gặp gỡ kỳ lạ này. Nói chuyện miên man, bâng quơ giữa kiếp người, cõi sống, cõi âm, làng quê đất tổ ngoài Bắc, cãi lộn quốc cộng giữa hai người lính, kinh tế tư bản cá thể, kinh tế Mác xít quốc doanh, Ðiềm nhận thấy cõi âm cũng khác không bao xa với cõi người sống. Ðời sống vẫn tiếp tục, kéo dài dù chỉ là những hệ lụy đem theo. Vài tháng nữa vào đây nằm, chàng không đánh mất gì nhiều, vẫn tiếp tục sống dù chỉ còn là linh hồn vấn vưởng. Nghĩ thế Ðiềm thấy chàng thật sảng khoái, không còn sợ hãi buồn chán cho số phần mình chẳng may ngắn ngủi.
- Thế nào tôi cũng trở lại thăm cô với bác và cụ.
Ðiềm trả lời cô gái. Chàng tiếp:
- Chắc cũng chẳng còn bao lâu thì tôi vào ở luôn, nếu may mắn tìm được miếng đất.
- Thế thì còn gì bằng. Ấy chết! Em nói bậy quá! ý em muốn nói là chắc bác và cụ đây đã có cảm tình với anh cũng mong gặp lại thường.
Thủy nói lỡ vội chữa, nàng cười xin lỗi câu nói gỡ khi nãy. Lúc cười, Thủy có hai lúm đồng tiền nho nhỏ và chiếc răng khểnh mà Ðiềm thấy có duyên lạ.
- Thôi, mình cũng sửa soạn đi tìm đất cho cậu Ðiềm đi bác Thanh nhỉ?
- Ừ, mình đi kẻo muộn để cậu ấy còn về cho kịp, chiều hôm ở đây cũng ngại.
Ông Thanh đứng lên theo cụ Chương. Thủy cũng đứng dậy thu vén chỗ ngồi lần chót, nàng không quên liếc nhìn chàng và cứ cười tủm tỉm.
- Mình đi phía đằng này, tôi chắc còn một vài khoanh trống. Tôi không rành khoa địa lý nên khong biết đất tốt xấu thế nào, để tùy cậu định đoạt không dám ép. Mà cậu đã có đi xem ở chỗ nào khác chưa?
- Thưa cụ chưa. Trước khi vào đây cháu có định lên xem nghĩa trang Gò Vấp nữa đã rồi mới quyết định, nhưng bây giờ được biết cụ, bác Thanh và cô đây thì cháu nghĩ cũng là do ý trời xếp đặt, nếu được một miếng đất đủ nằm thì cháu mua ngay không lên Gò Vấp đâu. Trăm sự nhờ cụ và bác Thanh cho.
- Thôi được rồi, nếu cậu tha thiết như thế thì tôi chỉ cho một miếng đất còn chừa, đúng ra thì họ đã đặt cọc nhưng mình có thể mua lại. Cậu đi xem rồi trở ra thành phố thương lượng với người ta. Mà này, sau này nằm có bị kiến với trùn, mối nhiều quá thì đừng có mắng vốn tôi đấy nhé!
Cụ Chương cười thật đôn hậu. Hai người đi trước, Thủy và ông Thanh đi sau. Cụ Chương ghé tai chàng nói nhỏ:
- Cô ấy ngoan lắm, con nhà đàng hoàng, tính tình hiền lành, lần đầu tiên tôi thấy cô ấy vui vẻ dạn dĩ với một người đàn ông là cậu đó. Nếu duyên định cô cậu gặp nhau dưới này cũng hay.
Ðiềm cười theo, chưa dám thổ lộ nhiều, chỉ mới lần đầu, biết Thủy xem chàng ở vai vị nào. Ðiềm thấy có nhiều đứa trẻ ở đâu chạy chơi trong khu nghĩa trang. Có đứa tụ nhau đánh đáo, bắn bi, có đứa chơi ô quan, và có một đứa chạy ngang khoanh tay chào cụ Chương. Chàng biết chúng là ma, nhưng có cảm tưởng chúng mới vừa ngủ trưa dậy ra sân chơi. Trông chúng cũng hồn nhiên không khác mấy những đứa trẻ trong trường học, chỉ có điều đứa nào cũng mặc đồ mới. Ðiềm đi xem đất và bằng lòng lắm. Khoanh đất mát mẻ, có bóng cây, không bị mộ nào lấn. Ðất cứng không sợ bị xụp, chỉ xa lối vào nghĩa trang nhưng được cái ở gần chỗ Thủy nằm. Nghĩ mai mốt có thể qua lại chỗ Thủy, chàng đã vừa ý.
Ðiềm ra về sau khi cụ Chương cho chàng địa chỉ của người chủ đất. Lúc bước ra cổng, Ðiềm thấy bà già bán nhang đang ngủ gật. Người phu xe trông thấy chàng ngồi bật dậy, rời lòng xích lô dẩy nẩy:
- Bắt đợi cả buổi như vầy ông phải tăng tiền cho tôi!
- Anh cầm lấy tất.
Ðiềm móc túi còn bao nhiêu tiền trao hết cho người phu xe. Trình giấy cho người bộ đội gác cổng ngoài rồi chàng bảo người phu đánh xe lên Phú Nhuận. Rời Bắc Việt Nghĩa Trang, trên đường Chi Lăng Ðiềm lại phân vân nửa muốn về nhà báo tin mừng cho mẹ, nửa ngập ngừng nhớ cái không khí đưa đám ở nhà mình từ khi bác sĩ bảo bó tay. Suy nghĩ một chốc rồi chàng đổi ý, quay gọi người phu xe chở chàng đến thẳng cái địa chỉ cụ Chương vừa cho.
*
Ðiềm trở vào nghĩa trang tuần sau, nắng nóng chói chang trên mấy ngôi mộ, chứ không mưa lai rai ướt mặt người chết như hôm đầu. Cả khu mả thiêm thiếp giấc trưa, yên lặng không bóng người. Chàng cũng vào khấn nơi miếu thổ thần, rồi đi rảo tìm khoanh đất trống đã hẹn với người chủ cũ tiù nữa đến xem lại và ký giấy thỏa thuận. Trưa nắng chang chang trên mấy lùm cỏ lau gai sắc, không có bóng mây chỉ có mỗi một chiếc bóng của Ðiềm duy nhất vởn qua vởn lại tìm lối đi. Cỏ mọc che kín nhiều chỗ mả rậm rạp, chàng loay hoay bưng đồ cúng vạch lau lách. Quần hai ba vòng Ðiềm vẫn chưa tìm ra chỗ đất cụ Chương đã giắt chàng tới, Những kiểu mả lập bảo tháp, long đình, xây uynh thành giông giống nhau nên chàng không nhớ đã có đi qua hay không. Ðiềm đi tìm một hồi thì mệt, mồ hôi rũ ra ướt đẫm sống lưng, cơn đau bụng lại trổi lên hành hạ. Chàng ngồi vật xuống ven con đường đất thở dốc, dạ dày như có ai lấy kim chích đau xon xót. Ðiềm cố cất tiếng gọi cụ Chương ra đón mình, nhưng tiếng kêu của chàng chạm những thành bia đá dội đi vang vang không có người trả lời. Ðiềm vuốt mồ hôi chảy ướt cả cổ áo, rút khăn tay đắp lên đầu che nắng, rồi lại gọi ba bốn lượt. Cụ Chương ơi! Cụ Chương ơi! Có cháu đến tìm! Khánh ơi... Bác Thanh ơi! Cháu mang quà vào! Ðiềm nghe tiếng chàng vọng vang dội trở về lặp lại như có ai đùa. Chàng đứng lên dáo dác tìm rồi lại ngồi xuống thất vọng. Khu mả vắng vẻ quá, mộ lập chùng chùng biết đường nào mà tìm. Chàng tự trách mình hôm nọ đã không nhớ kỹ lối đi, lại để quên ở nhà tờ giấy người chủ đất ghi lô thứ tự. Ðiềm đành ngồi đợi, lâu lâu chàng ngước mặt nhìn bắt gặp một vài nụ cười hóm hỉnh trên bia đá.
Có cái am chúng sinh gần đó. Ðiềm chợt nảy ra một ý. Chàng tháo giỏ đồ cúng, bày cau chè, xôi vịt với rượu bánh ra trước am. Ðiềm đốt ba nén hương khấn vái những âm hồn đi hoang. Không có gió, khói nhang bay đè trên mặt đất, di di buồn buồn lượn lờ theo bóng nắng. Chàng gấp giấy báo lại làm quạt, mấy luồng hơi gió làm Ðiềm dễ chịu, như đẩy được chút nắng ra xa. Làn gió cũng đẩy khói hương đi bốn phía.
- Này anh bạn! Sao đem đồ cúng ở đây!
Ðiềm giật mình quay về phía có tiếng nói, thấy Trình Văn Khánh đang nhảy lò cò với chiếc chân cụt, mặt hớt hơ hớt hải:
- Dẹp đi! Trời ơi! Ðây là am chúng sinh, bạn cúng như vậy cô hồn các đảng tụi nó ùa tới ăn sao cho đủ!
- Phải đấy! Cất ngay đi, khẩn trương lên!
Chạy sau Khánh là Thìn, vẫn tươm tất trong bộ lễ phục sĩ quan Ðà Lạt. Cây kiếm mãn khóa Võ Bị, Thìn đeo bên hông chạm vào chân kêu lanh kanh.
- Cụ Chương có ra không? Chàng hỏi họ, vừa thương vừa tức cười.
- Có, ra liền bây giờ nhưng ông cụ đi chậm lắm. Phụ tôi khuân ra đằng mả cô Thủy, có bấy nhiêu mà chia cho cả nghĩa địa thì mỗi người chỉ được một hột xôi!
Khánh quơ quào mấy đĩa đồ cúng, trong lúc Thìn nhanh tay tắt nhang, nhặt chai ruợu. Ðã có dăm mười bóng người từ mấy ngôi mả xa ùn ùn kéo ra, mặt mũi ai trông cũng phấn chấn!
- Phát chẩn chúng mày ơi!
- Chẩn cái củ thìu biu! Không có hộ khẩu thì không được quyền nhận!
Thìn rút kiếm võ bị chống nhau với mấy người tha phương cầu thực. Ðiềm bị Khánh lôi bắn đi, chạy như ma đuổi.
- Lần sau anh bạn đừng có dại như vậy nữa nhé! Có hảo tâm cúng ai thì cúng một người đó thôi, nhân đạo chung chung như vầy vô bổ lắm!
Khánh lôi chàng phăng phăng băng qua mấy dẫy mả liền. Thìn ở đằng sau múa máy đường kiếm rồi cũng chạy theo.
- Các cậu ơi! Chúng nó đeo mình găng quá!
- Quẳng cho họ mấy cái bánh! Khánh hét.
Thìn vừa chạy vừa ném ra sau mấy phong bánh đậu và buồng cau Ðiềm mua lúc sáng, chỉ giữ lại chai rượu đế Hiệp Hòa với cây thuốc lá. Ðám cô hồn giành nhau mấy thứ rơi rớt trên đất quên cả đuổi.
*
- Các anh làm gì mà la toáng lên thế? Lại đánh nhau nữa à?
Thủy từ sau mồ của nàng bước ra hỏi. Ðiềm để ý thấy nàng hôm nay bới tóc, xăn tay áo, để lộ cái cườm tay nhỏ đeo hai chiếc vòng ngọc thạch và một ngấn cổ ngó sen. Hai má lúm đồng tiền vẫn duyên dáng như hôm nọ, còn có phần xinh hơn.
- Anh bạn Ðiềm đến dâng cau chạm ngõ cô em mà bị chúng nó lột rồi!
Khánh cười hềnh hệch đắc chí với câu pha trò của mình.
- Nói tầm bậy nào! Thủy nhìn chàng đỏ mặt, không quên liếc một cái sắc lẻm về phía Khánh.
Bốn người bày mấy món còn đem theo được trên mả Thủy.
- Xem nào, còn một con vịt luộc, hai đĩa xôi, cây thuốc và chai rượu, tốt chán! Chỉ mất có buồng cau, năm phong bánh với nải chuối để quên trong am. Cứ xem như thắng lợi vẻ vang!
Thìn khoái trá đếm đi đếm lại mấy món đồ cúng, trịnh trọng rót ruợu ra ly bày sẵn. Khánh vội vã mồi thuốc rít từng hơi, ếm sâu vào phổi rồi mới từ từ thở ra bằng lỗ mũi:
- Phê quá!
Người hạ sĩ quan Cộng Hòa tiểu đoàn 11 Dù ngồi tựa tấm bia của ngôi mả bên cạnh lim dim mắt. Thủy từ lúc nãy đến giờ vẫn đứng nhìn chàng ngượng ngùng, lên tiếng hỏi bâng quơ:
- Anh Ðiềm thết tiệc chuyện gì vậy?
- Hôm nay tôi ký giấy mua đất nên muốn ăn mừng với Thủy, cụ Chương, bác Thanh và hai anh Khánh, Thìn.
- Cứ coi như anh bạn đãi tân gia!
Khánh lại mở mắt pha trò.
- Vậy là nhập hội tương tế với bọn mình rồi nhá!
Thìn vui vẻ cởi mở. Thủy cuời ngặt nghẽo với mấy câu đùa của hai người lính.
- Anh đã nhất quyết vào với chúng em?
Một lúc nàng chậm rãi hỏi.
- Tôi đã quyết định từ hôm đầu gặp cô.
Ðiềm nhìn nàng khi trả lời, chàng đọc thấy sự bối rối mà sung sướng ẩn trong đôi mắt Thủy đen láy. Chàng muốn nói đã yêu Thủy ngay hôm đầu nhưng không dám.
- Sao cụ Chương với bác Thanh lâu đến?
Thủy lảng chuyện, không dám ngó chàng nữa.
- Chúng tôi đây!
Bốn người quay ra, thấy cụ Chương và ông Thanh đang đi tới. Khánh cằn nhằn:
- Chờ hai cụ cắp ô tới thì con người ta đói rã ruột!
- Anh em chúng tôi phải chiến đấu căng lắm mới bảo vệ được thành quả của nhân dân lao động là mấy món ăn này do anh Ðiềm đem vào.
Thìn kể công.
- Chúng tôi biết! Xin lỗi các bạn trẻ vậy. Nào ta dùng cỗ đi chứ, chắc cậu Ðiềm có mấy lời ngỏ đầu?
- Dạ, thật ra cũng không có gì trọng đại, hôm nay cháu mua được cái sinh phần cho mình hẹn với người ta đến ký giấy lát nữa, được như vậy cũng là do cụ, bác Thanh, hai anh Khánh, Thìn và Thủy đây giúp đỡ, nên cháu muốn báo tin vui cho tất cả, nhân thể có ít xôi rượu mời mọi người đánh chén.
Mọi người vỗ tay khi Ðiềm dứt lời, chàng cảm động thấy mọi người đều thành thật chia vui với mình. Họ ngồi bệt xuống đất, Thủy chặt vịt, ông Thanh bới xôi, Khánh và Thìn rót rượu tiếp mọi người. Cụ Chương châm điếu thuốc hỏi chàng:
- Ðã sắm cỗ hậu quan quách gì chưa?
- Dạ chưa, nhưng chắc cũng phải đi mua nay mai. Ðiềm đáp.
- Ừ, liệu trước vẫn hay hơn, mua loại gỗ vàng tâm thì mới không sợ bị mục nước sau này.
- Sợ thời buổi khó khăn lúc này không tìm được thứ gỗ quý đó.
Ông Thanh vừa nhằn xương vịt nói. Cụ Chương gật gù đồng ý, bảo thôi thì gỗ lim cũng được.
- Anh đã chọn kiểu mộ chưa, anh Ðiềm?
Thủy hỏi thêm.
Chàng còn đương suy nghĩ, Khánh đã ồn ào:
- Mộ lập cho ngon thì phải xây ít ra cũng giống mồ cụ Chương với ông Thanh. Có bình phong, sân bái đường, hồ nước, hương án, thành mộ trồng hoa giấy, hoa dâm bụt, bên ngoài xây viên thành có cổng uốn. Người sống đi qua nhìn mới dễ nễ!
- Trong Nam các anh cứ quen thói tư sản! Xây cho đẹp vào chỉ tốn tiền của thân nhân mình chứ ích gì. Ngoài Bắc lúc tôi lên đường cứu quốc năm 73, người ta chỉ đắp đất hình nấm, không có xây gạch xây gung như trong này.
Thìn, tương phản trong bộ lễ phục võ bị, vừa nhồm nhoàm ăn vừa phát biểu.
- Bị bắt lính thì nói bị bắt lính, lên đường cứu quốc! Nghe không giống ai!
Khánh ực một hơi cạn ly rượu, rót thêm rồi lại ực. Mặt người thương phế binh đã đỏ gay. Thìn bị nói móc, cũng buông cái chân vịt, tợp một ngụm rượu.
- Ừ, không giống ai mà chúng tôi chiến thắng các anh lẫy lừng!
- Ðù mẹ! Chó táp phải ruồi! Bộ đội anh hùng, chỉ đạo đứng đắn, thi đua lập chiến công... tới Xuân Lộc chết như rạ!
- Ừ, chết đấy, nhưng ngụy quân ngụy quyền thì bị bắt sống cả bầy!
Thìn hất mặt thách thức. Khánh toan chồm lên phang chai rượu Hiệp Hòa vào đầu Thìn nhưng ông Thanh đã kịp thời can họ.
- Thôi thôi cho tôi xin, lại cãi nhau nữa. Cứ lần nào có rượu vào là các anh lại đánh nhau. Hai anh thoi nhau vì rượu chứ có phải vì chính nghĩa của hai bên đâu! Hôm nay là ngày vui của cậu Ðiềm, người ta làm tiệc đãi thì phải biết giữ tư cách một chút chứ. Các anh làm sao mang tiếng người chết chúng mình, không khéo cậu Ðiềm đổi ý không mua sinh phần ở đây nữa.
Ông Thanh bắt họ mỗi người ra ngồi một góc. Như hôm nọ, cụ Chương không nói gì chỉ tủm tỉm cười. Ông Thanh chiêu ngụm rượu rồi mới lên tiếng nói về cách thức xây mộ.
- Lập mộ có nhiều kiểu, Bảo Châu, Bảo Tháp, Trúc Cách, Long Ðình, đó là những kiểu đắt tiền xưa chỉ có triều thần hoàng tộc hay các nhà quyền quý mới được xây. Sau này trong Nam ai có tiền, muốn xây sao thì làm. Nhưng những kiểu mộ đó đòi hỏi đất rộng, ít ra cũng rộng bằng cái âm phần của tôi hay của cụ Chương. Chỗ đất của cậu mua thì hơi chật, không làm được sân bái đường đâu. Tôi đề nghị cậu xây kiểu trúc cách tam cấp, có bình phong với một ao nước nhỏ trước mặt là đủ đẹp. Cậu Ðiềm thấy thế nào? Còn hoa giấy, hoa dâm bụt thì tùy người nhà mình giồng, nhưng cũng chỉ được ít lâu rồi héo cả thôi mà.
- Dạ, cám ơn bác đã chí tình chỉ bảo, nhưng đời sống bây giờ đắt đỏ quá, cháu không rõ gia đình có đủ tiền lập mộ khang trang như lúc trước hay không? Cháu đã định bụng xây kiểu mộ liếp thường, đơn giản mà cũng tươm tất.
Ðiềm nói với ông Thanh. Cụ Chương nghe thế thì chen vào câu chuyện.
- Ừ, cậu Ðiềm nói cũng đúng, tôi thấy từ sau bảy mươi nhăm mấy người vào đây mồ mả ai cũng xoàng xoàng, hẳn là vật liệu bây giờ đắt kinh lắm. Thôi thì cậu cứ xây theo khả năng của mình. Nhưng nếu vẫn thích tối tối ngồi sân bái đường, trông sao uống chè, ngắm hoa, ngắm trăng soi hồ nước thì lại đằng tôi và ông bạn Thanh. Cửa mả chúng tôi lúc nào cũng mở rộng đón cậu.
- Cám ơn cụ đã có lòng xem cháu như con cái.
- Nhưng tôi chắc anh bạn đây thích ngắm sao đêm với cô em Thủy hơn là với cụ!
- Thích mê đi chứ lị!
Khánh và Thìn đã thôi cãi nhau, mỗi người một câu đùa làm người thiếu nữ đỏ bừng mặt.
- Cấm hai anh không được nhắc đến em nữa! Sàm sỡ vừa vừa chứ!
Mọi người bật cười ròn. Cụ Chương trịnh trọng nâng ly mời:
- Nào, ta nâng ly chúc mừng cậu Ðiềm sắp xây kim tĩnh.
- Mừng anh bạn!
- Mừng anh!
*
Tàn tiệc, cụ Chương và ông Thanh cáo từ đi ngả lưng. Khánh và Thìn rủ nhau đi rình mấy cảnh bán tình của những ả giang hồ làm ăn trong nghĩa địa. Chỉ còn lại một mình chàng và Thủy. Thủy dợm đứng lên đi dọn dẹp, nhưng Ðiềm kéo nàng ngồi xuống.
- Thư thả, lát nữa anh phụ Thủy một tay.
Thủy nhìn chàng do dự, rồi ngồi xuống kế bên không nói gì. Ðiềm nhìn cánh tay nắng ôm ngang khu mả, lấp lánh trên những bia đá như có dát vàng. Yên tịnh quá, không có tiếng trẻ nít đùa giỡn như hôm nào. Có lẽ chúng đang ngủ trưa. Thế giới trong nghĩa trang im vắng khác hẳn cái cuộc đời trần tục xô bồ ở ngoài thành phố, chỉ cách nhau có con đường lộ. Ðiềm phân vân tự hỏi, không hiểu Thủy có hay biết những thay đổi biến động kinh khủng của xã hội người sống? Chàng thầm mong là nàng không hay biết gì hết, vẫn giữ trong đầu những hình ảnh vui tươi của miền Nam trước đây. Ðiềm nhìn tấm bia khắc trên mộ nàng. Phạm Thị Thu Thủy, hưởng dương mười bảy tuổi, thương con lập mộ. Dưới tấm hình nàng là hai câu thơ của bố mẹ Thủy thương tiếc con: Nụ cười đã tắt trên môi thắm, hình bóng con yêu đã khuất mờ. Chàng thấy thương cô gái đang ngồi cạnh mình, nàng đã ở trong này mười mấy năm rồi, một thân, một mình cô độc lẻ loi. Trông Thủy không khác trong hình bao nhiêu, có lẽ âm hồn nàng giữ lại hình ảnh của thể phách lúc chết.
- Có thật anh quyết định mua sinh phần vì em?
Thủy bất ngờ hỏi, hơi cúi mặt không nhìn chàng. Ðiềm gật đầu.
- Tôi không hiểu vì sao, nhưng thấy mình có cảm tình nhiều với Thủy.
Chàng do dự rồi nắm lấy bàn tay nhỏ trắng ngó sen, mấy ngón tay thuôn bum búp như những đọt măng non. Thủy để yên không phản đối, hai người không nói tiếng nào nữa, nhưng họ xúc động lắm. Mãi Thủy mới dám ngửng mặt. Nàng bắt gặp khuôn mặt Ðiềm ở sát mình, nghiêng nghiêng cúi xuống gần ở ngang tầm môi.
- Có phải anh săp hôn em?
Nàng đỡ khuôn mặt Ðiềm, hơi hốt hoảng. Chàng lại khẽ gật đầu.
- Âm dương chạm nhau không tốt đâu, bây giờ anh còn xác phàm.
- Chẳng bao lâu nữa là anh vào đây rồi, tốt hay không tốt thì cũng như nhau.
Ðiềm nói và nâng cằm nàng. Thủy nhìn sâu trong mắt chàng thật lâu, Ðiềm đọc được trên khuôn mặt nàng tất cả băn khoăn lo lắng chen lẫn tình yêu bối rối. Nhưng rồi nàng nhắm nghiền mắt, ngửa mặt chờ đợi. Ðiềm cúi xuống đặt nụ hôn khẽ vào giữa đôi môi thơm thơm hồng. Cảm giác lạnh khô và nhạt nhạt. Người Thủy mềm nhũn đi, đôi tay cũng lạnh mát níu lấy vai chàng. Ðiềm thấy nàng lẩy bẩy run rẩy đánh rơi một chiếc guốc xuống đất. Chàng cũng đê mê sung sướng, người con gái hiền quá, ngoan quá, đẹp quá, ngấn cổ thơm ngọc lan thoang thoảng. Chàng hôn tiếp không muốn rời...
- Ê! Anh làm cái gì vậy? Tôi tìm anh từ nãy!
Chàng và Thủy lật đật buông nhau ra. Người đàn ông mặc áo ôm vạt bầu, cỗ lưỡi mèo đứng nhìn chàng chăm chăm. Người chủ miếng đất trố mắt nhìn mấy đĩa đồ cúng lây lất trên mặt đất, rồi lại ngó chàng, hiển nhiên là ông ta không trông thấy cô gái.
- Một mình anh ăn hết chừng này à?
- Buổi sáng quên ăn sáng, nên hôm nay tôi đói quá!
Ðiềm lúng túng, không biết phải giải thích làm sao. Người đàn ông ngó vỏ chai rượu Hiệp Hòa mà Khánh vất chỏng trơ trên đất. Ông ta hất mặt.
- Uống nguyên lít đế thế này, không ung thư dạ dày cũng uổng! Nhưng sao lại ăn toàn đồ cúng không thế?
Người đàn ông nhìn quanh quất mấy ngôi mả bên cạnh như có ý nghi ngờ chàng lấy trộm thức ăn. Gã lấy chân đá mấy cái xương vịt rồi nói:
- Thôi đi xem đất nào, tôi còn phải về áp phe. Như vậy là anh đã thỏa thuận giá cả với vợ tôi?
- Bà ấy bảo tôi thương lượng với anh.
- Không thương lượng gì ráo, tôi có giá của tôi, anh không mua thì thôi. Tôi không thích mặc cả.
Gã đàn ông đi xăm xăm về khoảng đất trống còn chừa nằm cách mộ Thủy hai dẫy. Ðiềm cùng bước với nàng theo sau người đàn ông. Ông ta mặc quần gin Mỹ, có thêu nhãn hiệu Levis, đôi dép sabot đế cao, đồng hồ vàng Oméga và tấm lắc bự lủng lẳng ở cườm tay. Gã đàn ông tỏ ra là dân làm áp phe chuyên nghiệp. Thủy đi theo Ðiềm, chốc chốc lại nhìn chàng lo lắng. Ðiềm chỉ biết ra dấu trấn an nàng và đối đáp cầm chừng với gã đàn ông. Ðến chỗ ngôi đất, gã móc trong túi một sợi dây thước đo nói giọng chắc nịch.
- Hai thước ngang, hai thước dọc, vuông vức như vầy mới vừa đẹp. Năm bảy mươi tư tôi mua ngôi đất này ngót hai trăm năm chục ngàn tiền cũ, bây giờ thì giá lên gấp trăm. Giá thị trường sao thì tôi để anh vậy, không bớt, không tăng giá!
Ðiềm biết chàng gặp phải tay buôn chợ trời thứ thiệt. Sau bao kỳ đánh tư sản, truy quét tàn dư, dẹp chợ trời mà gã vẫn ung dung sinh sống, phát phì mỡ màng như vậy, tay này hẳn phải có bản lãnh hơn người. Và hiện giờ hắn đang nắm đàng chuôi, chàng là người cần đất, hắn không cần bán, trừ phi giá hời.
Gã đàn ông nhăn mặt nhìn đám tranh mọc rậm rạp kín mít ngôi đất.
- Tiên sư chúng nó, trả bao nhiêu tiền cũng không bao giờ chịu cắt cỏ. Tiền niên liễm hàng năm mình đóng cho hội không biết chúng vứt đi đằng nào! Cỏ xanh um thế này thì có ỉa vào đấy cũng không ai thấy!
Gã đàn ông lấy chân đạp cỏ, càu nhàu, nhưng rồi như nghĩ ra chuyện gì có lợi, ngoảnh ngay mặt lại nhìn Ðiềm vênh váo:
- Người ta nói khi nào cỏ quanh mả khô héo chết hết, hay đất nứt thành đường thì con cháu phải cải táng. Cỏ chỗ này xanh tươi tức là đất tốt có sinh khí, xem này có nứt chỗ nào đâu! Lẽ ra tôi phải tăng giá, tìm được đất tốt không phải dễ, anh may mà không biết!
- Tôi ứng tiền trước cho anh một nửa, khi nao tôi qua đời người nhà sẽ trả nốt phần còn lại, anh bằng lòng không?
Ðiềm lên tiếng, chàng biết trận chiến mặc cả bắt đầu.
- Không đưa trước đưa sau gì ráo, biết chừng nào anh mới chết!
Gã đàn ông quay phắt lại, rõ ràng là phản ứng của gã trở nên quyết liệt gấp bội khi đụng tới tiền.
- Tôi chỉ còn sống nữa năm sáu tháng, anh không phải chờ lâu.
- Anh chết tuần sau mặc xác anh, tôi bán đất tiền trao cháo múc, sống nhờ bát cơm, chết nhờ đất cát, anh chết anh cần đất, tôi sống tôi cần tiền. Không mua thây kệ anh, tôi không vội bán.
- Ðược, tôi bằng lòng trả ngay bằng bạc mặt, nhưng anh phải bớt cho tôi một phần ba cái giá mà vợ anh đã nói với tôi. Cái giá đó anh đã nhân gấp đôi giá thị trường.
- Bớt? Trong tự điển Việt Nam quốc âm tự vị của tôi không có chữ này! Anh muốn mua đất rẻ thì đến mấy chỗ họ đào kinh thủy lợi mà mua, đất ở đó người ta xúc cho không, đổ đi không hết!
Gã đàn ông như bức tường thép, không tài nào lay chuyển. Thủy nhìn chàng lo ngại, Ðiềm thấy mình đã hơi quá vội vui mừng khi làm tiệc đãi mọi người lức nãy. Chàng không dễ dàng mua được miếng đất mà không bị cứa cổ.
- Tôi tên là Thế, mua đất xây kim tĩnh cho mình nhưng mấy năm nay bận quá chưa có thì giờ làm. Bây giờ tôi có giấy bảo lãnh của ông anh ruột không cần nữa, tôi đi Pháp nay mai, nhưng nếu anh không đủ tiền trả thì tôi để lại cho người khác. Người chết bây giờ không thiếu!
Gã đàn ông tên Thế, tự giới thiệu rồi rút dây thước ra đo đạc. Ðiềm không hiểu tại sao gã chỉ mua đất để sẵn cho mình mà không mua cho vợ. Gã đàn ông vừa đo đất vừa nói như rao hàng.
- Dài hai thước đúng, không thiếu một phân. Tôi nói đâu có sai, tính ra rẻ chán, chỉ có mấy chục đồng một mi li mét!
Gã lại cắm cúi đo đạc chiều ngang, đến chân ngôi mả mới xây bên cạnh gã chợt đứng dựng lên la bải hải:
- Thôi chết tôi rồi! Tiên nhân cái thằng nào xây lấn qua đất của mình ba mươi cen ti mét! Sư cha nhà nó! Quân ăn cướp!
Gã Thế lồng lên, chồm người nhìn xuống ngôi mả còn tương đối mới. Gã đọc lẩm nhẩm tên họ người chết, nhìn vào tấm bia trừng trừng như đang đối diện người lấy cắp đất của gã.
- Nguyễn Văn Nhâm... sinh 1761, một ngàn bảy trăm sáu mốt...! Chắc là khắc nhầm! Ðồ đểu nhà nó, không biết dạy con cháu, xây lấn qua đất người khác!
Gã đàn ông văng tục, vừa chưởi thề vò đầu bức tai, vừa đá vào hông mả mấy cái. Giận quá mất khôn gã đập luôn hai cái bình bông để trên mộ. Ðiềm chụp vội ngay cơ hội.
- Thiếu ba mươi phân đất, như vậy anh phải bớt cho tôi một phần ba giá.
- Cái gì? Tôi bán đưa đủ giấy tờ cho anh, anh lên mà kiện với công an quận, không thì cho người tới cào bố mả nó lên. Ðất này của mình, mình có quyền đào xới!
Chàng nhận ra gã đàn ông đã dùng chữ “đất của mình”. Ðiềm lắc đầu.
- Tôi không biết, việc kiện tụng là việc của anh, chỉ có một mét bảy ngang và hai mét dọc, anh không thể đòi giá cao được. Chật thế này, ai nằm cho vừa!
- Tôi gần đi Pháp, không muốn giấy tờ lôi thôi, nếu anh không muốn kiện thì thôi, nhưng tôi không thể bớt được.
- Tùy anh, tưởng đất rộng tôi mua, ai ngờ đất hẹp thì thôi, tôi lên nghĩa trang Gò Vấp vậy.
Ðiềm nhún vai. Mặt gã đàn ông đỏ gay, mồ hôi chảy nhớt trên mặt. Gã thở phì phò mặt nhăn như táo bón.
- Thôi được, tôi bớt anh một phần ba giá.
- Bây giờ không phải một phần ba nữa mà là phân nửa!
Ðiềm thản nhiên, như việc xuống giá thật bình thường. Gã Thế hét lên:
- Anh bảo sao? Một nửa giá thôi ấy à? Anh cút đi tôi không cần bán nữa!
- Anh có ông bà cụ thân sinh cũng chôn trong này phải không?
Chàng từ tốn hỏi, trong lúc gã Thế biến sắc.
- Ai nói với anh?
- Vợ anh có nói với tôi là cả gia tộc anh chôn trong này. Anh nghĩ sao nếu tôi nói với thân nhân của cụ Nguyễn Văn Nhâm nằm đây rằng anh đã đá vào sườn ông cụ và đập bể hai lọ hoa. Anh nghĩ họ sẽ phản ứng như thế nào, nếu tôi chỉ mả của ông bà thân sinh ra anh? Dĩ nhiên là tôi sẽ nói luôn là anh muốn chạy tiền công an cào mả ông cụ lên chắc họ không hài lòng đâu!
- Anh, anh... dám làm điều đó?
Gã Thế lặng người nhìn Ðiềm, mồ hôi chảy võng trên mặt. Gã hung hãn bao nhiêu khi mới vào, lúc này xanh mướt hiền lành chẳng khác một kẻ buôn chui bị bắt.
- Dĩ nhiên là tôi không làm chuyện thất đức đó rồi, nếu anh chịu để cho tôi phân nửa cái giá chỗ đất này.
Ðiềm đưa tay chỉ chỗ mấy lùm cỏ um tùm. Chàng biết gã Thê đã giao động lắm và mình đã thắng cuộc mặc cả. Buổi chiều ôm nắng qua vòm nghĩa trang. Gió thổi hiu hiu những lọn tóc Thủy bay bay nhè nhẹ đong đưa. Nàng nhìn Ðiềm mỉm cười ranh mãnh, đan năm ngón tay nhỏ vào tay chàng. Bầu trời vẫn xanh biếc không gợn mây, nhưng nghĩa trang đã mất đi cái âm u rờn rợn lạnh lẽo, thê lương của nơi cúng tế. Bên cạnh người yêu, Ðiềm có cảm tưởng chàng đang đứng trong một khu an phúc, nơi cuộc đời tàn bạo là gã con buôn kia đã chịu thua. Chàng xiết tay Thủy tin tưởng. Nàng gật đầu khuyến khích. Ðiềm trông thấy thấp thoáng bóng của Khánh và Thìn đứng ngoài rình nghe. Ðiềm mạnh dạn lên tiếng:
- Anh suy nghĩ lẹ lên chứ! Chiều rồi tôi còn phải đi, nói tôi một tiếng anh có bằng lòng hay không? Bớt phân nửa giá, anh vẫn còn lời mà!

Trần Vũ
7-1991
Nguồn: Ăn Mày Văn Chương

Ct.Ly