nguyễn thế duyên
-
Số bài
:
1176
-
Điểm thưởng
:
0
- Từ: 01.05.2008
- Nơi: Hà nội
|
RE: Bàn về cái dâm và cái tục trong thơ Hồ Xuân Hương
-
01.12.2009 23:21:21
Một đôi điều về bài thơ Mộ (Chiều) Của cụ Hồ chi Minh Tôi đã đọc thắc mắc của bạn Hương tình yêu và ý kiến của một vài bạn xung quanh bài thơ này. Tôi cũng đã đọc một vài bài bình về bài thơ này . Những bài bình ấy làm tôi không thỏa mãn. Nó có vẻ hơi khiên cưỡng khi người viết cố áp đặt cho nó những điều vốn nó không có ( có thể là vì một lí do tế nhị nào đó) Vì vậy tôi mạnh dạn viết bài này Quyện điểu qui lâm tầm thúc thụ Cô vân mạn mạn độ thiên không Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng Điều đầu tiên phải nói rằng : Đây là một bài thơ hay, rất hay và độc đáo. Nó hay và độc đáo ở ngay trong hoàn cảnh sáng tác bài thơ . Những bài thơ tả cảnh như thế này các thi nhân đều làm trong những lúc trà dư ,tửu hậu, nhàn nhã còn cụ Hồ chí minh làm nó trong lúc bị giải đi tù. Trong hoàn cảnh đó, phải là một người rất lạc quan, rất tin vào lí tưởng của mình, rất tin vào sự chiến thắng của con đường mình đã lựa chọn thì cụ mới có thể ung dung ngắm nhìn phong cảnh, cảm hứng viết thơ như một người đang du ngoạn Phong thái đó chỉ có thể tìm thấy trong những vĩ nhân. Nếu không hiểu điều này bài thơ bị mất một nửa giá trị Quyện điểu phi lâm tầm thúc thụ Quy lâm mạn mạn độ thiên không Hai câu đầu đẫm chất đường thi. Hai câu tả cảnh và là hai câu thực . Chim mỏi cánh rồi đi tìm chỗ để ngủ. Trên trời,những đám mây cô độc đang chầm chậm trôi về rừng. Chỉ với hai câu một cảnh chiều bình yên ở một miền rừng núi vắng vẻ đã được nhà thơ vẽ nên một cách sinh động. năm từ “mạn mạn độ thiên không” thật là tuyệt bút. “Mạn mạn”có nghĩa là chậm chạp, từ “Độ” có nghĩa từ từ . Đọc cả câu “Mạn mạn độ thiên không”người đọc có cảm giác thời gian như ngưng đọng lại. Nhịp thơ kéo dài triền miên tạo nên được một cảm giác vắng vẻ u buồn của một miền sơn cước Nhưng nếu chỉ như vậy thôi thì đó chưa phải là Hồ chí Minh mà ta mong đợi . Vì tất cả các nhà thơ đường đều làm được điều này. Ta thử đọc một vài câu thực của những bài thơ đường nổi tiếng để thấy được điều đó Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên Giang phong ngư hỏa đối sầu miên Hay như Cốc khẩu sơn tàn hoàng điểu hi Tân di hoa tận hạnh hoa phi Ta sẽ thấy tất cả các nhà thơ đường đều có thể chỉ bằng hai câu thơ mà vẽ nên một bức tranh rất sinh động. Vậy đâu là sự khác biệt của một bậc vĩ nhân, của một danh nhân văn hóa thế giới? Điều đó nằm trong hai câu kết của bài thơ. Đối với các nhà thơ xưa,cái tôi của thi nhân bao giờ cũng là trung tâm của bài thơ. Muốn nói trời nói đất gì thì nói thì cuối cùng câu kết bao giờ cũng nhằm nói đến tâm trạng, một ước vọngcủa chính tác giả. Cái “Tôi”của người viết trùm lên toàn bộ bài thơ. Ta thử đọc một vài câu kết của những bài thơ nổi tiếng để thấy được điều này Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu (tôi say nằm lăn ở sa trường anh đừng cười) Cổ lai chinh chiến thử nhân hồi ( vì xưa nay đánh trận mấy ai trở về) Hay Thi liên u trúc sơn song hạ ( Thương mấy cây trúc lặng lẽ trước song) Bất cải thanh âm đãi ngã quy (Không thay màu chờ ta về) Nhưng trong bài mộ này thì khác. Cái “Tôi” của người viết đã biến mất mà thay vào đó là một cô thôn nữ và chính cô đã trở thành trung tâm của bài thơ Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng Giữa cảnh chiều vắng vẻ, u buồn hình bóng một cô gái hiện lên làm không khí thay đổi hẳn. Thời gian như ngưng đọng của hai câu thực bắt đầu chuyển động. Nếu hai câu thực “Tĩnh”bao nhiêu thì hai câu kết lại “ Động” bấy nhiêu.Đặt hai câu động cạnh hai câu tĩnh, bản thân sự sắp xếp này đã chứng tỏ bút lực dồi dào của người viết. Chúng tôn nhau lên làm cả hai đều rực rỡ Tôi xin tự nhận tôi là người đọc không nhiều. nhất là cổ thi nhưng những bài cổ thi nổi tiếng tôi đều đã đọc và tôi chưa đọc được một bài thơ tả cảnh nào lấy con người làm trung tâm của bài thơ cả. (Tôi xin giới hạn điều này ở thơ tả cảnh vì những bài thơ cổ tố cáo chế độ , thương sót người nghèo như bài bần nữ của Tần thao Ngọc hay bài Thạch hào lại của Đỗ Phủ thì lại khác. Nhưng kể cả những bài đó hình ảnh con người cũng không phải là trung tâm của bài thơ mà phải nói chính xác là số phận con người mới là trung tâm của bài thơ) Đây là bài thơ tả cảnh nếu không nói là duy nhất thì cũng là cực kì hiếm hoi đã lấy hình ảnh con người làm trung tâm của bài thơ và đấy,theo tôi,chính là sự khác biệt giữa một danh nhân văn hóa với những nhà thơ khác. Việc bao túc ma hoàn (xay ngô xong) với việc “Lô dĩ hồng” (lò than hồng) là hai việc độc lập với nhau chẳng hề có một chút quan hệ gì thế nhưng chính cô gái, chính con người, đã làm cho những thứ rời rạc ấy đã có mối liên kết với nhau. Người đọc như có cảm giác rằng chính vì cô gái xay ngô xong nên lò than mới rực hồng Chắc có bạn sẽ hỏi tôi rằng : Vậy anh nói thế nào về Bà huyện thanh quan? Tôi xin thưa rằng trong thơ của bà huyện thanh quan hình bóng con người cũng luôn xuất hiện như câu Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông rợ mấy nhà Hay Gác mái ngư ông về viễn phố Gõ sừng mục tử lại cô thôn Nhưng hình ảnh con người ở đây chỉ là những nét chấm phá của một bức tranh tả cảnh chứ nó không phải là hình ảnh trung tâm của bài thơ. Trung tâm bài thơ vẫn là nỗi lòng của người viết là cái “ Ta với ta “của bà Tôi nhớ rằng Hồ chí Minh chưa bao giờ nói nghệ thuật vị nhân sinh. Nhưng qua bài thơ này , cụ đã thể hiện rõ quan điểm sáng tác của mình Chúng ta hãy đọc lại câu cuối của bài thơ Bao túc ma hoàn – lô dĩ hồng Câu thơ bị ngắt làm đôi. Nhịp thơ nhanh khác hẳn với nhịp thơ của hai câu thực càng làm cho người đọc có cảm giác “ động” của câu kết. Tiếng Hồng ở cuối bài thơ làm không gian bừng sáng. Giữa khung cảnh sâm sẩm tối một miền rừng núi hoang vắng, hình ảnh bếp lửa hồng rực rỡ gieo vào lòng người đọc một cảm giác tươi sáng ở phía trước. Một số nhà phê bình văn học thường ví bếp lửa hồng như một niềm tin,vào lí tưởng hay những gì khác nữa tôi cho rằng như thế quá khiên cưỡng, có vẻ chính trị hóa văn học. Nó chỉ làm cho bài thơ mất đi vẻ đẹp đích thực của nó Nếu hai câu thực là một bức tranh mầu xám thì hai câu kết là một bức tranh mầu hồng. Đặt hai bức tranh cạnh nhau và giữa hai bức tranh ấy là hình bóng một cô gái. Cụ đúng là một thiên tài. Có phải cụ muốn nói :Con người, Chỉ có con người mới làm nên sự thay đổi kì diệu này? Bài viết đã đăng: 8 Gia nhập ngày: 16.11.2008 Hiện trạng: offline Tôi rất thích bài bình trên của Nguyễn Thế Duyên.Phải nói là anh có ngòi bút bình luận rất hay,hấp dẫn và thuyết phục người đọc.Chân thành cảm ơn anh! Bài viết đã đăng: 3 Gia nhập ngày: 12.7.2008 Đến từ: Mui Hao Vong Hiện trạng: offline Nhờ xem bài bình của Nguyễn Thế Duyên mà mình biết đến bài thơ này của cụ Hồ, thơ đã hay, người bình càng làm tôn vinh cái đẹp của bài thơ lên. Lời bàn xác đáng, dẫn chứng thuyết phục, lập luận chắc chắn, tâm hồn nhiệt thành. Đó là những gì mình cảm nhận được qua bài bình luận của Nguyễn huynh. Một bài thơ đẹp và một cảm nhận đẹp. _____________________________ Diễm diễm tuỳ ba thiên vạn lý Hà xứ xuân giang vô nguyệt minh ? Bài viết đã đăng: 2 Gia nhập ngày: 28.4.2009 Hiện trạng: offline Phải thừa nhận bài bình luận thật hay, cảm ơn tác giả.Tôi nhớ thầy tôi từng nói nếu đặt Ngục trung nhật kí cạnh những bài thơ Đường đặc sắc ngày trước sẽ có rất nhiều nét tương đồng.Quả không sai. showPicture("5/6/2009 3:27:32 AM",0,0,0,400470,242) Thanh Công titleAndStar(68,0,false,false,"","")Bạn Thân Bài viết đã đăng: 68 Gia nhập ngày: 7.3.2008 Hiện trạng: offline MỘ Mộ (chiều tối) là bài thơ tiêu biểu của NKTT, thuộc mảng thơ viết về những lần người tù HCM bị giải đi trên đường. Bài thơ không chỉ cho ta biết về cảnh ngộ đau khổ của HCM trong những ngày bị giam cầm mà còn cho ta hiểu rõ đời sống nội tâm phong phú cùng những phẩm chất đẹp đẽ của Người. Bài thơ có sự hoà quyện giữa vẻ đẹp cổ điển và vẻ đẹp hiện đại. Bài thơ mở đầu bằng những hình ảnh rất thực về cảnh núi rừng nơi sơn cước: Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ Chòm Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không (Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ Cô Cô vân mạn mạn độ thiên không) Bằng hình ảnh những cánh chim mỏi mệt bay tìm về tổ, câu mở đầu đã giới thiệu được rất cụ thể về khoảng thời gian mà tên bài thơ đã báo hiệu: trời sắp tối, ánh sáng ban ngày gần tắt hẳn, những hoạt động ngừng lại, cần tìm chốn nghỉ ngơi. Câu thứ hai (Thừa), tiếp tục làm nổi bật không khí đặc trưng của buổi chiều muộn nơi xóm núi bằng việc vẽ ra dáng di chuyển chậm chạp của một chòm mây lẻ loi. Bản dịch bỏ mất chữ “cô” (cô đơn) và chữ “mạn mạn” (chầm chậm) nên phần nào chưa diễn đạt hết ý câu thơ Cô vân mạn mạn độ thiên không. Chính sự tuân thủ những đòi hỏi ngặt nghèo của thể loại như trên đã cho ta thấy phần nào sự già dặn trong nghệ thuật làm thơ của Bác và màu sắc cổ điển của tác phẩm. Đi vào kho tàng thơ ca truyền thống Trung Quốc và Việt Nam, ta từng bắt gặp rất nhiều bài nói tới hình ảnh cánh chim chiều và chòm mây cô độc: Chúng điểu cao phi tận Cô vân độc khứ nhàn (Chim bầy vút bay hết Mây lẻ đi một mình) (Độc tọa Kính Đình sơn - Lý Bạch) Chim hôm thoi thót về rừng (Truyện Kiều - Nguyễn Du) Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi (Chiều hôm nhớ nhà - Bà huyện Thanh Quan) Tuy nhiên, việc đưa ra những hình ảnh thơ trên không nhằm dẫn đến kết luận đơn giản rằng hình ảnh thơ trong bài Chiều tối của Bác chỉ mang tính ước lệ, khuôn sáo mà giúp chúng ta thấy màu sắc cổ điển đã hòa quyện với chất hiện đại trong thơ Người. Cái hay của các câu thơ này có lẽ thể hiện ở chỗ: chúng phảng phất hồn xưa mà vẫn không hoàn toàn giống xưa, vẫn thấm đẫm ý vị cuộc sống đời thường. Dù hai câu đầu tả cảnh có thần tình bao nhiêu thì ý nghĩa của chúng vẫn không bị giới hạn ở đó. Đằng sau các nét tả, ta đọc thấy cả một bầu tâm trạng. Chính bầu tâm trạng này đã chi phối sự miêu tả, khiến cho cảnh vật hiện lên mang đậm màu sắc chủ quan. Vẻ uể oải của cánh chim và vẻ lữ hành đơn độc của chòm mây phản ánh rất sâu sắc cảm giác mỏi mệt và cô đơn của chính Bác sau một ngày lê bước dặm trường, là niềm mong mỏi có được chỗ dừng chân qua đêm trên vùng núi xa lạ. Theo một góc nhìn khác, ta có thể thấy ở đây tình cảm nồng đượm của Bác đối với thiên nhiên. Bác đã không để cho cảnh ngộ đau khổ trói buộc cảm xúc của mình. Hồn thơ của Bác vẫn thoát ra, rung động với thiên nhiên vùng sơn cước lúc chiều buông - một thiên nhiên bình dị, đượm chút hiu hắt dễ khơi lên những cảm nhận u buồn về thân phận lưu đày nhưng không phải không chứa đựng những nét đẹp đáng nhớ. Cô em xóm núi xay ngô tối Xay hết, lò than đã rực hồng (Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng) Hai câu cuối của bài thơ nói về một cảnh sinh hoạt rất gần gũi: một cô gái xóm núi xay ngô và nhóm lên bếp lửa hồng lúc bóng đêm lan toả. Đối với thi sĩ nào khác, hình ảnh này chưa chắc đã nên thơ nhưng đối với Bác, nó đã đưa lại những cảm xúc đậm đà. Điều này chứng tỏ hồn thơ của Bác rất gắn bó với cuộc sống, đặc biệt là cuộc sống ngưòi lao động. Với sự xuất hiện của hình ảnh cô gái trong câu 3, con người đã trở thành tâm điểm của bức tranh. Những quan sát về mặt đất đã dần thay thế cho những quan sát hướng lên bầu trời. Trình tự quan sát đó có tính chất tự nhiên vì khi chút ánh ngày nhợt nhạt còn sót lại trên bầu trời vừa tắt thì con mắt người ta phải hướng nhìn về nơi có ánh lửa. Nhưng nếu xét sâu vào cấu trúc bên trong của bài thơ, ta phải thừa nhận rằng đây chính là một sự di chuyển điểm nhìn rất đặc trưng cho phong cách thơ HCM - một thứ thơ ưu tiên trước hết cho việc thể hiện mọi buồn vui trong cuộc sống con người. Hình tượng thơ HCM nói chung ít khi đứng bất động, im lìm. Việc lặp lại cụm từ ma bao túc theo trật tự đảo ngược trong hai câu thơ liền kề nhau có tác dụng mô tả rất xác thực động tác xay ngô đều đặn, nhẫn nại, kiên trì của cô gái hay là vòng quay tuần hoàn chậm chạp của cối xay. Nhưng điều đáng nói hơn cả là đọc hai câu thơ ta không chỉ thấy đối tượng miêu tả (cô gái) mà còn thấy đôi mắt Bác đang dõi theo công việc lao động của cô với biết bao đồng cảm và trìu mến. Đặc biệt, lòng Bác như reo vui trước lò lửa đỏ rực mà cô gái nhóm lên lúc ngô đã xay xong. Nếu liên hệ, đối chiếu cảm giác hân hoan toát lên ở cuối bài với cảm giác hiu quạnh bàng bạc ở nửa đầu bài thơ, chúng ta có thể khẳng định chính cảnh sinh hoạt bình dị cùng bếp lửa chiều hôm đã đưa lại cho Bác niềm an ủi đồng thời đã thức dậy trong lòng Bác niềm mong mỏi về một không khí gia đình ấm cúng, về một nơi cư ngụ bình yên giữa cuộc đời gian khó. Ở đây, Bác tự bộc lộ mình là một con người của đời sống thực, không có gì cách biệt với đồng loại chung quanh. Nhìn trên nét lớn, âm điệu bài thơ có sự chuyển biến từ buồn sang vui và màu sắc của bức tranh được vẽ ra cũng có sự chuyển biến từ ảm đạm sang tươi sáng. Tất cả những sự chuyển biến này trước hết cho thấy sự nhạy cảm khác thường của Bác với muôn sắc thái đa dạng của cuộc sống. Mọi niềm vui nỗi buồn của nó đều in dấu trong tim Bác và để lại niềm rung động trong thơ Bác. Mặt khác, những chuyển biến đó chứng tỏ cái nhìn lạc quan của Bác về chiều hướng phát triển của sự vật. Bài thơ đã không kết thúc bằng hình ảnh bóng tối mà bằng hình ảnh lò lửa đỏ. Chính cái ánh sáng của lò lửa nhỏ bé này từ chỗ sưởi ấm tâm hồn Bác lúc bị lưu đày đã có tác dụng nhóm lên trong lòng người đọc niềm tin bền bỉ vào cuộc sống. Trong bài thơ Chiều tối, HCM đã vận dụng rất thành công nghệ thuật điểm nhãn (vẽ mắt) - một nghệ thuật khá cao siêu mà phải những người lão luyện trong nghề thơ mới làm được. Chữ hồng ở cuối bài chính là nhãn tự của tác phẩm. Sự xuất hiện của nó một mặt có ý nghĩa mô tả gián tiếp cái bóng tối đang lan nhanh đến xóm núi (dùng chữ nói về ánh sáng để diễn tả bóng tối, chữ tối trong bản dịch là của dịch giả thêm vào), mặt khác nó giữ vai trò tạo nên chút kịch tính cho tác phẩm (cả bài thơ 28 chữ thì đã có đến 27 chữ diễn tả sự mệt mỏi và những hoạt động nặng nhọc, chỉ chữ hồng như muốn “chọi” lại tất cả và sự thực đã làm được điều đó). Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng trong trường hợp này, cái tài dùng chữ dù đáng khâm phục bao nhiêu cũng chưa sánh được với niềm yêu cuộc sống và bản chất lạc quan của chính con người Hồ Chí Minh. Nếu không có những điều sau, sự xuất hiện của chữ hồng chưa chắc đã gây được ấn tượng đột ngột và mạnh mẽ đến như vậy. Đọc Chiều tối, chúng ta có dịp bâng khuâng sống lại với không khí của những buổi chiều từng được gợi lên trong nhiều bài thơ cổ điển. Tuy nhiên, sức lay động mạnh mẽ của bài thơ lại chính ở chỗ nó đã cho ta hiểu được những nỗi niềm chân thực, rất nhân bản của Hồ Chí Minh-một con người vĩ đại mà hết sức gần gũi với chúng ta. Bài thơ thể hiện đầy đủ bản chất thi sĩ của Bác lại vừa có một dáng nét gân guốc riêng bộc lộ rõ sự vận động trong tư tưởng của một nhà cách mạng rất mực gắn bó với sinh hoạt bình dị thường ngày và luôn giữ được niềm tin vào cuộc sống. (Huy Dũng-Thanh Công) < Sửa đổi bởi: Thanh Công -- 6.5.2009 9:36:40 > _____________________________
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.12.2009 23:24:56 bởi nguyễn thế duyên >
|