Bệnh Gan
HongYen 29.05.2005 18:21:14 (permalink)
28 Tháng 5 2005 - Cập nhật 20h25 GMT

Chứng mất ngủ và bệnh gan


Những người mắc chứng rối loạn giấc ngủ thường không ngon giấc


Những người bị chứng rối loạn giấc ngủ nghiêm trọng có nhiều nguy cơ bị bệnh gan, một chương trình nghiên cứu mới đây cho biết.
Tình trạng quá cân được liên hệ tới cả hai bệnh trên, nhưng các nghiên cứu từ bệnh viện Saint-Antoine ở Paris nói tình trạng ngừng thở trong lúc ngủ có thể trực tiếp gây ra bệnh gan.

Chương trình nghiên cứu Hepatology nói những người nặng quá cỡ, nếu bị chứng mất ngủ thì sẽ bị nhiều rủi ro hơn so với những người khác.

Tuy nhiên, một chuyên gia người Anh nói rằng điều đó không có nghĩa là việc ngừng thở trong lúc ngủ thực sự gây ra các vấn đề về gan.

Hàng ngàn người bị tình trạng ngừng thở trong lúc ngủ, tức là có đôi lúc họ tạm ngưng hít thở trong đêm.

Tình trạng này có thể khiến ngủ không ngon giấc, làm người bệnh căng thẳng, mệt mỏi trong ngày.

Những người bị chứng tạm ngừng thở trong lúc ngủ có nguy cơ cao huyết áp nhiều hơn, do vậy, dễ bị các chứng đột quỵ hoặc bệnh tim hơn.

Mối liên hệ

Các khoa học gia của Pháp đã nghiên cứu trên 163 người không uống rượu bia và bị mắc chứng mỡ trong gan để tìm hiểu về chứng rối loạn giấc ngủ của họ.

Tình trạng thường xuyên tạm ngưng thở trong lúc ngủ được phát hiện thấy ở 27% bệnh nhân, và 52% có mức độ ít hơn.

Các nghiên cứu gia thuộc nhóm của tiến sỹ Lawrence Serfaty tìm ra rằng các bệnh nhân thường xuyên tạm ngưng thở trong lúc ngủ thì có mức đề kháng insulin cao hơn và gan có vẻ như bị ảnh hưởng hơn, so với những người có cùng trọng lượng nhưng không bị chứng rối loạn giấc ngủ.

John Stradling, giáo sư chuyên khoa hô hấp tại Trung Tâm Nghiên Cứu Hô Hấp Oxford nói có nhiều điều kiện liên quan lẫn nhau và hiện vẫn chưa rõ nguyên nhân ban đầu là gì.

"Tình trạng tạm ngưng thở trong lúc ngủ xảy ra cùng với rất nhiều thứ khác, như là cao huyết áp, đề kháng insulin và hội chứng metabolic gây bệnh tim và tiểu đường."

"Ngày càng khó khẳng định rằng chứng tạm ngưng thở trong lúc ngủ là do kết quả của tất cả các bệnh này, là các bệnh phát sinh đều từ chứng nặng quá cân."

Ông bổ sung: "Tìm ra mối liên hệ giữa hai chuyện là điều dễ dàng, nhưng điều đó không có nghĩa đó là mối liên hệ dẫn tới nguyên nhân gây bệnh."

Thế nhưng ông nói có thể lượng ô-xy được hít thở vào một cách hạn chế trong đêm khiến gan bị ảnh hưởng.

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/science/story/2005/05/050528_sleep_liver.shtml
#1
    HongYen 30.06.2005 07:36:49 (permalink)
    Dinh Dưỡng Cho Người Bệnh Gan

    Bác Sĩ Nguyễn A. Huy, M.D.

    Khi bị bệnh gan, chúng ta không thể không lưu ý tới vấn đề dinh dưỡng. Gan đóng một vai trò quan trọng trong sự hoạt động của cơ thể. Hầu hết các chất bổ quan trọng đều đưa qua gan để dự trữ, biến thành hoá chất cần thiết cho cơ thể hay bài tiết. Người bệnh thường có quan niệm sai lầm về dinh dưỡng. Vì lo sợ sẽ làm hại cho gan, bệnh nhân thường không ăn uống đúng đưa đến trường hợp thiếu dinh dưỡng, hoặc ăn quá nhiều những thức ăn không có lợi cho gan chẳng hạn như ăn quá nhiều muối có thể đưa đến tình trạng lú lẫn hoặc cổ chướng. Dinh dưỡng khác nhau tuỳ theo loại bệnh gan, tình trạng bệnh của gan chẳng hạn khi lúc bị gan cấp tính, lúc mãn tính, hoặc lúc chai gan, hay ung thư.

    Tại sao gan quan trọng cho cơ thể?

    Gan là một cơ quan lớn nhất trong cơ thể và gan có rất nhiều nhiệm vụ rất cần thiết để nuôi nấng cơ thể. Những vai trò quan trọng của gan bao gồm:

    Biến hóa thực phẩm hấp thụ thành năng lượng và những chất sinh hoá cần thiết cho cơ thể.
    Biến lọc các chất độc và thuốc.
    Sản xuất những chất sinh hoá quan trọng cho cơ thể.
    Vai trò của gan trong dinh dưỡng:

    Thực phẩm ăn được tiêu hoá trong bao tử và ruô.t. Khoảng 85% tới 90% máu rời bao tử và ruột đem những chất bổ quan trọng tới gan để được biến hoá thành những chất sinh hóa quan trọng để cơ thể dùng. Gan giúp dự trữ hoặc tiêu hoá những chất bổ hấp thụ để cung cấp cho cơ thể dùng. Ðại khái khi bị bệnh gan, vai trò của gan vẫn được tiếp tục nhưng có thể không làm việc hữu hiệu như lúc khỏe ma.nh. Tuy nhiên bệnh nhân nên biết là bị bệnh gan không có nghĩa là thay đổi buổi ăn bình thường. Nên tham khảo ý kiến với bác sĩ để biết mình có nên kiêng cữ không và những thực phẩm nào nên tránh trong bữa ăn.

    Những chất dinh dưỡng quan trọng trong cơ thể:

    Thực phẩm thường chứa 3 loại dinh dưỡng quan trọng cung cấp năng lượng cho cơ thể: Chất Glucid (Carbohydrate), chất đạm (protein), chất mỡ (fats).


    Chất Glucid (Carbohydrate) và mỡ đóng vai trò quan trọng cung cấp năng lượng giúp cho cơ thể và tế bào hoạt đô.ng. Riêng chất đạm thường được dùng bởi cơ thể cho vấn đề sinh trưởng và sửa chữa tế bào.

    Chất Glucid (Carbohydrate)

    Chất Glucid có trong những thức ăn như bánh mì, cơm, khoai tây, pasta, ngũ cốc, trái cây và đồ ngo.t. Chất glucid thường là những hợp chất đường và được dự trữ trong gan là chất glycogen. Khi cơ thể trong thời kỳ hoạt động cần nhiều năng lượng, gan giúp phân ly chất glycogen thành những chất đường đơn giản (chẳng hạn như glucose, sucrose, lactose) để tế bào hoạt đô.ng. Như vậy, cơ thể tránh những trường hợp đường trong máu quá thấp. Có những trường hợp khi gan quá suy yếu không thể hoạt động được, cơ thể đưa đến tình trạng nguy hiểm nếu chất đường xuống quá thấp.

    Chất Ðạm (Protein)

    Chất đạm thường được phân ly và hấp thụ vào máu và đưa tới gan bằng những chất amino acid. Khi tới gan, các chất amino acid được dự trữ để sau này dùng hay là chuyển thành năng lượng cho cơ bắp thịt hoặc chuyển biến thành chất urê để bài tiết qua đường thâ.n. Khi bệnh xơ gan người bệnh có thể bị lú lẫn khi chất ammonia cao. Những chất đạm quan trọng trong gan sản xuất chẳng hạn như albumin, transferin, ceruloplasmin và lipproteins. Tất cả những chất đạm này đóng những vai trò quan trọng khác nhau trong cơ thể. Chất đạm có trong thịt cá, trứng, cheese, hột dẻ, và dairy.

    Chất Mỡ (Fats)

    Chất mỡ thường có những thực phẩm như bơ, phó mát, dầu ăn, thịt mỡ. Mỡ không thể tiêu hoá nếu không có chất mâ.t. Mật được làm từ gan và được dữ trữ trong túi mâ.t. Mật được tiết vào ruột non để giúp cơ thể hấp thụ chất mỡ. Mật cần thiết để hấp thụ các sinh tố tan trong mỡ A, D, E, và K. Chất mỡ có thể dùng cho năng lượng dài hạn khi cần.


    Dinh dưỡng cân bình

    Trong đời sống chúng ta, ăn uống đúng dinh dưỡng giúp chúng ta duy trì một cuộc sống khoẻ ma.nh. Một buổi ăn cân bình thường có ít chất mỡ, đường nhưng có nhiều chất xơ (fiber) và đủ chất đạm, vitamin và khoáng chất (minerals). Dinh dưỡng đúng khi chúng ta ăn đầy đủ thực phẩm khác nhau để cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng kể trên.

    Có năm loại thực phẩm chính:

    Bánh mì, ngũ cốc, cơm
    Rau và trái cây
    Sữa, yogurt, phó mát
    Thịt, cá, đậu
    Mỡ, dầu, đồ ăn ngo.t.
    Mỡ, dầu, đồ ăn ngọt cung cấp rất nhiều năng lượng (calories) và có thể đưa đến trường hợp bị mập nếu ăn nhiều quá. Quan trọng trong bữa ăn là chọn từ 4 loại thực phẩm đầu tiên. Mỡ, dầu, đồ ăn ngọt nên ăn nhiều hơn cho những người thiếu cân. Riêng những người mập nên ăn ít hơn. Chúng ta cần calories khác nhau tùy theo tuổi tác, sex, trọng lượng và sinh hoa.t. Thí dụ: một người già và nhỏ con sẽ cần ít thực phẩm hơn một thanh niên trẻ nhiều nghị lư.c. Nếu chúng ta ăn ít calorie hơn cơ thể cần, chúng ta sẽ sút cân. Nếu ăn nhiều hơn lượng cơ thể cần làm chúng ta mâ.p.


    Dinh dưỡng tuỳ theo tình trạng của bệnh gan

    Như đã nói trên, dinh dưỡng tuỳ theo bệnh gan và ở giai đoạn nào. Gan cần năng lượng khác nhau tuỳ theo giai đoạn bê.nh. Trong lúc bị gan cấp tính bệnh nhân cần nhiều năng lượng vì thế nên ăn nhiều chất có năng lượng (calories) hơn. Nhưng lúc bị chai gan nặng, người bệnh nên giảm đi chất đa.m.


    tiếp.....
    #2
      HongYen 30.06.2005 07:42:26 (permalink)
      tiếp.....

      Bệnh sưng gan cấp tính

      Bệnh gan cấp tính thường do viêm gan A, B, C, D, E hay rượu, thuốc. Ða số những bệnh nhân bị sưng gan cấp tính thường là khoẻ mạnh trước khi bê.nh. Thiếu dinh dưỡng không phải là một vấn đề quan tro.ng. Nhưng lúc bị cấp tính, bệnh nhân có thể bị buồn nôn, ói mửa, tiêu chảy hay đau bụng, nên cơ thể không thể ăn uống đươ.c. Những trường hợp đó cần phải nhập viện để điều trị. Riêng những bệnh nhân không có nhiều triệu chứng, không cần phải kiêng cữ nhiều. Tuy nhiên khi lúc bệnh viêm gan cấp tính, tế bào rất cần nhiều năng lượng để phục hồi, nên ăn uống nhiều calories hơn bình thường. Nếu ăn được, nên ăn nhiều thực phẩm có nhiều chất đạm và mỡ trong thời gian phục hồi. Nhưng trong lúc bệnh có thể làm cho người bệnh buồn nôn, khó chịu và không muốn ăn. Trong những trường hợp đó, tốt nhất là ăn ít và ăn nhiều lần.

      Bệnh sưng gan mãn tính

      Trong lúc bị sưng gan mãn tính, đa số gan vẫn hoạt động bình thường, ngoại trừ khi gan tới thời kỳ chai gan nă.ng. Trong lúc giai đoạn đầu, người bệnh nên ăn bình thường, bữa ăn được cân bằng có đầy đủ các chất năng lượng, vitamins và khoáng chất. Ðại khái là không cần phải kiêng cữ thức ăn.

      Tuy nhiên có vài loại bệnh gan đặc biệt, người bệnh nên cần phải thay đổi thức ăn. Bệnh gan do nhiều chất sắt (Hemochroma-tosis), người bệnh nên tránh uống hoặc chích chất sắt và tránh ăn những đồ ăn có chất sắt hoặc nấu ăn dùng nồi nấu bằng sắt. Bệnh gan vì nhiều chất đồng (Wilson’s disease), nên tránh ăn những đồ ăn có chứa nhiều chất đồng chẳng hạn như chocolate, hạt dẻ, shelfish, nấm. Bệnh mỡ gan thường gây ra bởi nhiều lý do chẳng hạn như starvation (đói), mập phì, thiếu chất đạm và phẫu thuật giảm cân (intestinal bypass), tiểu đường hoặc nhiều chất triglyceride. Dinh dưỡng cho bệnh mỡ gan khác nhau tuỳ theo căn bê.nh. Nếu bị mỡ gan vì thiếu dinh dưỡng nên ăn uống cân bình đầy đủ các chất glucid, đạm và mỡ. Nhưng bị vì lý do mập hay bị bệnh mỡ cao, nên xuống cân và giảm đồ ăn mỡ. Nếu vì lý do rượu bia, người bệnh nên giảm uống rượu và tránh ăn thiếu dinh dưỡng.

      Bệnh chai gan

      Khi bị chai gan, những tế bào bị thay thế bằng những tế bào se.o. Những tế bào sẹo không có còn giúp gan hoạt động bình thường đươ.c. Chai gan có thể đưa tới tình trạng thiếu dinh dưỡng. Bệnh nhân chai gan có thể cảm thấy buồn nôn, chán ăn, ói mửa và sút cân. Bệnh nhân vẫn nên ăn uống bình thường và điều độ trong thời kỳ chai gan chưa nă.ng. Chỉ khi thời kỳ gan bị chai nặng, thay đổi thức ăn rất cần thiết bằng cách giảm chất đạm và muối. Trung bình bệnh nhân bị chai gan cần 2.000 tới 3.000 calories một ngày để giúp gan phục sinh (regenerate). Tuy nhiên khi bị chai gan nặng ăn nhiều chất đạm quá có thể đưa đến tình trạng chất ammonia tăng trưởng trong máu và có thể ra lú lẫn. Nhưng ăn ít chất đạm quá sẽ không giúp gan phục hồi. Ða số bệnh nhân nên ăn ít chất đạm khi đã từng bị lú lẫn do bệnh gan. Trung bình mỗi ngày không nên ăn hơn 2gm muối hay không chấm hay đổ thêm nước mắm hay xì dầu trong lúc ăn. Vì nhiều chất muối có thể gây ra cổ chướng, sưng chân. Khi bị cổ chướng hoặc sưng phù chân, người bệnh phải nên giảm chất muối trong đồ ăn và đôi khi phải bớt đi nước uống. Muối có rất nhiều trong thực phẩm khi chúng ta ăn vì thế nên cẩn thận khi mua đồ ăn hộp hoặc ra ngoài ăn. Ðặc biệt đồ ăn Việt chúng ta có rất nhiều muối, buổi ăn lúc nào cũng có nước mắm hay nước tương. Trong nước mắm hay nước tương có rất nhiều chất muối. Vì vậy nên cẩn thận khi nêm nếm thức ăn mỗi ngày.

      Gan và rượu

      Gan bảo vệ cơ thể từ những ảnh hưởng độc của rượu bằng cách phân ly rượu thành những chất không đô.c. Nhưng khi bị bệnh gan do rượu, siêu vi trùng gan B, C hay các bệnh gan khác, người bệnh tốt nhất không nên uống rươ.u. Khi bị bệnh gan nhẹ, hiện nay chưa có bằng chứng nào bắt bệnh nhân không uống rươ.u. Nhưng đa số bác sĩ khuyên bệnh nhân không nên uống rượu khi bị bệnh gan. Khi bị bệnh gan, mức được uống rượu có thể khác cho mỗi cá nhân, vì mỗi bệnh nhân có thể bị bệnh trong những giai đoạn khác nhau. Nhưng có thể cùng giai đoạn bị bệnh gan giống nhau, người bệnh có thể bị ảnh hưởng khác nhau khi uống cùng một số lượng rượu giống nhau.

      Thuốc và Gan

      Có nhiều loại thuốc rất là hại cho gan trong lúc bị bệnh gan. Bệnh nhân nên biết thuốc có lợi hay hại cho gan khi dùng bất cứ loại thuốc nào. Khi ăn uống không được, người bệnh có thể cần phải uống thêm sinh tố (vitamins) và các khoáng chất khác. Nhưng không có nghĩa là phải ăn uống rất nhiều vitamins, vì nhiều quá có thể gây ra rất nhiều tai hại cho cơ thể. Thuốc acetamin-ophen (Tylenol) có thể hại cho gan nếu dùng quá độ khi bị bệnh gan. Trung bình không nên dùng hơn 2gm Tylenol khi bị chai gan. Những thuốc nhức chẳng hạn như thuốc bắc, dược thảo, cỏ cây hoặc thức ăn. Nhưng cho tới nay đa số không có được nghiên cứu lâu dài và công hiệu của những loại thuốc này không rõ ràng. Có nhiều dược phẩm bổ ít cho gan nhưng lại có ảnh hưởng phụ tai hại cho các cơ quan khác trong cơ thể. Vì thế khi dùng những thuốc trên, người bệnh nên cân nhắc kỹ lưỡng.

      Bệnh sưng gan cấp tínhNhững chướng ngại khi ăn uống lúc bị bệnh gan

      Khi bị bệnh gan, nhiều người không ăn uống vì bị mất cân. Hai lý do chính là chán ăn (loss of appetie) và buồn nôn. Ðây là những cách (tips) có thể giúp cho bệnh nhân ăn uống đầy đủ dinh dưỡng.

      Khi chán ăn:

      Ăn ít nhưng thường xuyên thay vì ăn một bữa ăn to nhiều.
      Cố gắng ăn thường xuyên khoảng 2-3 tiếng một lần
      Ăn những loại thực phẩm mình thích.
      Ăn từ từ.
      Nếu ăn không được những chất solid, nên uống thêm các nước dinh dưỡng chẳng hạn như glucerna, ensure.
      Khi bị buồn nôn:

      Ðừng để cho mình đói, vì khi đói có thể mình bị buồn nôn hơn.
      Ðồ lạnh dễ ăn hơn đồ nóng.
      Ăn ít nhưng ăn thường khoảng 2-3 tiếng một lần. Không nên lo là phải ăn một buổi ăn cân bằng khi bị buồn nôn. Ăn những gì mình có thể ăn đươ.c.
      Nếu một buổi ăn nào làm cho mình buồn nôn, nên hít thở không khí trong lành trước khi ăn. Nên giữ miệng fresh bằng cách đánh răng, dùng các thuốc súc miệng hoặc chất mints.

      Nên tránh ăn những thực phẩm có acid chẳng hạn như cam, bưởi, khóm. Tránh ăn những thực phẩm cay, mỡ, hoặc thực phẩm có mùi vị, quá nóng.

      Tóm lại dinh dưỡng rất là quan trọng khi bị bệnh gan. Hầu hết những người bị bệnh gan nên cần có một bữa ăn cân bình, điều độ. Trong trường hợp bị chai gan nặng, đa số cần phải giảm đi chất đạm và muối. Bệnh nhân nên tham khảo với bác sĩ để có một chương trình dinh dưỡng; dược thảo đang được tiến hành nhưng hiện nay chưa có nghiên cứu nào chứng minh các thuốc Nam, thuốc Bắc, dược thảo, thức ăn bổ gan chữa cho hết bệnh gan. Tương lai, chúng ta sẽ hiểu biết thêm nhiều qua các nghiên cứu khác nhau để giúp chúng ta đề phòng, điều trị bệnh hữu hiệu hơn.


      Bác sĩ Nguyễn A. Huy tốt nghiệp Y khoa tại University of Minnesota; tốt nghiệp Chuyên khoa bệnh Nội Thương tại Santa Clara Medical Center, California; tốt nghiệp Chuyên khoa bệnh Tiêu Hóa và Gan tại University of Minnesota. Bác sĩ Huy hiện đang hành nghề tư tại San Jose, California.
      #3
        HongYen 19.07.2005 09:56:23 (permalink)
        DuongBuiMD.com
        CHAI GAN
        (Bài này trích từ sách "Sống với Bệnh Viêm Gan", viết bằng VNI times, nên Quư Vị phải cĩ VNI times font mới đọc được)

        Khi tôi vừa bước chân vào pḥòng cấp cứu của nhà thương Fountain Valley, người bác sĩ trực đă đưa ngay cho tôi những kết quả thử máu của một bệnh nhân vừa được người nhà chở đến. Bệnh nhân đang nằm trên giường, “giây nhợ” cắm “lung tung”. Đứng bên cạnh là người cháu gái với nét mặt đăm chiêu, lo lắng. Người bạn đồng nghiệp nói luôn một hơi:
        - Bà ta ói ra máu nhiều lần ở nhà và phân thì́ đen như mực (black tarry stool). Chỉ số hồng huyết cầu (hemoglobin) chỉ có 6 thôi. Tôi đang truyền cho bà ta 2 túi máu. Máu của bà cũng rất loăng. Chất PT cao hơn 18. Tôi đă cho đi siêu âm gan, kết quả chưa về. Anh xem có cách nào cầm máu lại cho bà ta không?

        Tôi nhận ra ngay người phụ nữ người Việt gốc Hoa với tên của một tài tử Tầu nổi tiếng. Bà ta là một trong những bệnh nhân mà tôi đă điều trị vào nhiều năm trước. Bà bị viêm gan C măn tính, nhưng lúc bấy giờ không muốn chữa trị. Có một dạo bà vẫn uống thuốc Bắc từ một số thân nhân bên Hồng Kông gởi sang. Có lẽ ít nhất là 5 đến 6 năm nay, bà đă không quay lại pḥng mạch của tôi để tái khám. So với những năm trước, bà trông già đi nhiều. Nước da tái xanh, nhợt nhạt. Tôi lại gần người phụ nữ, nắm lấy cánh tay “xanh rờn” của bà và hỏi:
        - Chào bà H., bà cọ̀n nhớ tôi là ai không?

        Người phụ nữ mừng rỡ khi thấy tôi bước vào pḥòng, và nói như khóc:
        - May quá, bác sĩ Dương ơi, cứu tôi với. Tôi không biết nói tiếng Mỹ, người thông dịch đi đâu mất rồi. Tôi mệt và khó chịu quá. Họ nói gan tôi có bướu. Tôi có phải mổ xẻ ǵ không?

        Sau khi đặt một số câu hỏi cần thiết, tôi bắt đầu khám bệnh. Da của bà hơi vàng và có nhiều vết bầm tím, có lẽ v́ì mạch máu đă bị vỡ, hoặc máu quá loăng. Huyết áp rất thấp, và tim đập rất nhanh. Đây là những triệu chứng khi bệnh nhân đă mất rất nhiều máu. Bụng của bà vừa mập mỡ lẫn mập nước (ascites). Chân bị phù cả hai bên (pitting edema). Phân th́ nửa đen nửa mầu gạch cua đậm. Khi xuất huyết bao tử, phân thường đen như mực. Nhưng nếu bệnh nhân mất máu quá nhiều và quá nhanh, như trường hợp của bà H., phân có thể có mầu đỏ sẫm như gạch cua. Đây là trường hợp rất nguy hiểm. Sau khi bảo cô y tá truyền cho bà ta hai đơn vị huyết tương (fresh frozen plasma) và thuốc Octreotide để cầm máu, tôi t́m cách giải thích cho bệnh nhân, biết rằng bà không hiểu nhiều tiếng Việt. Phần tôi thì́ không biết nói tiếng Tầu:

        - Thưa bà, có lẽ gan bà đă bị chai quá nặng. Chức năng gan của bà đă bị hư hỏng rất nhiều, nên máu của bà rất loăng. Nước bị ứ đọng lại trong bụng, và có lẽ một trong những tĩnh mạch trướng (varices) của thực quản bị vỡ nên bà đang bị mất máu rất nhiều. Tôi cần phải soi bao tử cho bà ngay lập tức. Soi bao tử tiếng Mỹ gọi là upper endoscopy. Trong lúc soi, tôi sẽ tiêm thuốc hoặc cột những mạch máu này lại cho Bà. Nếu tôi có thể cầm được máu trong lúc soi bao tử, thì́ bà không cần phải mổ xẻ gì́ cả.
        Người phụ nữ nh́ìn tôi với đôi mắt ngơ ngác:

        - Bác sĩ, nói ǵ tôi không hiểu. Xin bác sĩ giải thích cho đứa cháu của tôi được không?
        Tôi gật đầu, rồi đi kiếm một tờ giấy trắng. Tôi bắt đầu “loay hoay” vẽ h́nh của hệ thống tiêu hóa với lá gan và những mạch máu . . .

        Đây là thí dụ điển h́ình khi gan đẵ hoàn toàn bị chai. Nhiều nguyên nhân khác nhau có thể làm tế bào gan bị viêm hoặc tổn thương. Nếu không chữa hoặc hủy bỏ những nguyên nhân tác hại tế bào gan, gan sẽ dần dần bị xơ (fibrosis). Từ xơ, gan sẽ biến thành chai (cirrhosis). Tại Hoa Kỳ, nghiện rượu là nguyên nhân chính đưa tới xơ và chai gan. Tại đa số các nước Phi Châu, và Á Châu trong đó có Việt Nam, vi khuẩn viêm gan B là nguyên nhân hàng đầu đưa đến chai gan.

        V́ tế bào gan không có dây thần kinh cảm giác. Nên ngay cả khi tế bào bị tổn thương, chúng cũng không “một lời than thở”. Chỉ có màng bọc chung quanh lá gan với tên là Gibson mới có những dây thần kinh cảm giác.

        Trong trường hợp viêm cấp tính (acute inflamma-tion), những tế bào gan bị sưng lớn, làm giăn màng Gibson bọc chung quanh lá gan. Bệnh nhân có thể sẽ bị đau “âm ỉ”, “tưng tức” ở vùng bụng trên, bên phải. Có lẽ đây là thời điểm duy nhất mà bệnh có thể mang lại những cảm giác đau đớn, khó chịu. Những cảm giác này, đôi khi, có thể rất nhẹ nên đa số bệnh nhân mặc dầu lá gan bị viêm rất nặng vẫn không hề có một triệu chứng nào cả.

        Sau khi bị viêm, một số tế bào gan không chữa tự nhiên cũng trở lại “b́nh thường”, như trong đa số các trường hợp của bệnh viêm gan do vi khuẩn gây ra. Tuy nhiên trong một số bệnh nhân không may, lá gan tiếp tục bị tàn phá. Một số tế bào gan chết dần, nhường lại cho những tế bào xẹo. Lá gan bị “teo” lại. Màng Gibson không c̣n bị kéo giăn ra nữa, nên bệnh nhân mất đi những cảm giác đau đớn. Tuy là không có một triệu chứng ǵ cả, bệnh nay đă bước qua một giai đoạn nguy hiểm hơn: xơ gan.

        XƠ GAN (liver fibrosis)
        Đây là hậu quả sơ khởi khi gan bị viêm từ năm này qua tháng nọ. Trong một số trường hợp, bệnh có thể tiến triển một cách rất nhanh chóng. Thông thường quá tŕnh từ viêm đến xơ, rồi qua chai gan sẽ cần một thời gian từ nhiều tháng đến nhiều năm. Tốc độ phát triển của bệnh lệ thuộc vào t́nh trạng tổn thương của lá gan, sức tàn phá của bệnh và phản ứng của cơ thể khi gan bị kích thích liên tục và lâu dài.

        Khi bị “tấn công” “triền miên”, cơ thể tì́m cách “cô lập hóa” những “chiến địa” bằng những mô xơ (fibrotic tissue). Những mô xơ này được dùng như những bức b́nh phong bọc chung quanh các tế bào gan đang bị viêm. V́ thế, kiến trúc của gan sẽ dần dần bị thay đổi với những mô xơ lan rộng khắp nơi, chạy ngang dọc, xen kẽ lẫn nhau chia những tế bào gan c̣n lại thành những u (nodules) nhỏ.

        Tùy theo vị trí và mối liên quan của những mô xơ này với kiến trúc của lá gan, bệnh nhân sẽ có những triệu chứng rất tiêu biểu. Nếu ống dẫn mật bị tắc nghẽn hoặc “thắt chặt” lại bởi những mô xơ, bệnh nhân sẽ bị vàng da. Nếu những mô xơ “mọc” chung quanh tĩnh mạch gan, các mạch máu này sẽ bị “xiết” lại từ từ gây ra tăng áp xuất mạch môn (portal hypertension). Đây là một hậu quả vô cùng tai hại gây ra hàng loạt những biến chứng dây truyền như lớn lá lách (splenomegaly), giăn các tĩnh mạch thực quản (esophageal varices), tích tụ dịch trong xoang phúc mạc v.v. Khi bị cổ trướng (ascites) bệnh có thể trở thành nguy hiểm hơn. May mắn thay, nếu gan “chỉ” mới kéo xơ thôi, bệnh vẫn có thể chữa trị được. Những mô xơ này có thể biến dần, và các triệu chứng kể trên sẽ từ từ biến mất, nếu bệnh được phát giác và chữa trị đúng cách và kịp thời. Nếu không được chữa trị hẳn hoi, bệnh sẽ bước qua một giai đoạn nguy hiểm hơn: chai gan.
        Tiếc thay, v́ đa số bệnh nhân xơ gan không hề có bất cứ một triệu chứng nào rơ rệt, bệnh mỗi ngày một nặng hơn. Rồi thời gian trôi qua, cơ hội chữa lành bệnh nhạt dần theo năm tháng. Điều này, một lần nữa nói lên tính cách quan trọng của việc khám định kỳ và thử máu thường xuyên.

        CHAI GAN (liver cirrhosis)
        Hăy tưởng tượng một thành phố không điện nước, không thức ăn, không nhiên liệu. Cầu cống tắc nghẽn, đường xá hư hỏng. Không khí hôi hám. Rác chất thành núi. Ngày thiếu mặt trời, đêm thiếu đèn đuốc. Một thành phố không trật tự, thiếu an ninh. Người hôi của, kẻ giết người. Một thành phố mà không c̣n một công dân nào hoàn toàn lành lặn. Nếu không “sức mẻ” cũng tàn tật hoan phế v.v. và v.v. Thành phố này không khác ǵ là cơ thể của người đang bị chai gan.

        Chai gan, v́ì thế được xem là kết quả cuối cùng khi phản ứng của gan với chấn thương đă kéo dài quá lâu và nay bệnh đă đến thời kỳ “không c̣n thuốc chữa” (irreversible process). Đây là trường hợp khi những mô xơ trở nên “chằng chịt” hơn, biến những mô liên kết (connective tissues) thành những “sẹo” lớn chạy ngang dọc, chia lá gan thành những kết tiết nhỏ (nodules). Những kết tiết này là tập hợp của những tế bào gan c̣n sống sót, hoặc mới được tái sinh. Một khi gan đă bị chai, bệnh sẽ tiếp tục tăng trưởng một cách liên tục và không ngừng. Bệnh mỗi ngày một nặng hơn. Gan mỗi ngày một chai hơn.
        Như chiếc xe đang tuột dốc, vận tốc “lao đồi” mỗi ngày một nhanh hơn, ngay cả khi những “mănh lực” đẩy xe ban đầu không c̣n nữa. V́ thế, tế bào của gan-đang-bị-chai, tương tự như tâm trạng của nhà văn Hồ Dzếnh trong câu “tôi càng đi, trời càng tối”. Và trên con đường “một chiều” này, bệnh cứ thế tăng trưởng mỗi ngày một nhanh hơn, một nhiều hơn, với một tương lai mỗi ngày một . . . đen tối hơn. Tới lúc này, bệnh không thể đảo ngược lại được nữa . . . trừ khi có thuốc tiên. (Tiếc thay, vì́ chúng ta đang sống trên trần thế, “thuốc tiên” chỉ có trong những chuyện kiếm hiệp Tầu mà thôi.) Tuy nhiên, trong những hơi thở cuối cùng, tế bào gan vẫn “anh dũng” tì́m cách tự chữa trị bằng phương thức tái sinh và tăng trưởng những tế bào cọ̀n lại, cũng như thông mở những mạch máu mới (revascularization). Điều này chỉ giúp bệnh nhân sống thêm một thời gian ngắn ngủi nếu không được ghép gan (liver transplant).

        Tùy theo vị trí của mô xơ và mô sẹo, chai gan sẽ đưa đến những hậu quả và biến chứng khác nhau. Mỗi một hậu quả sẽ đưa đến một số triệu chứng điển hì́nh khác nhau.

        tiếp....
        #4
          HongYen 19.07.2005 10:04:31 (permalink)
          tiếp...

          TRIỆU CHỨNG CỦA CHAI GAN

          Ngay cả trong trường hợp khi gan đă bị chai rất nặng, nhiều bệnh nhân vẫn tiếp tục sống một cách khỏe mạnh và không hề có bất cứ một triệu chứng nào đáng kể. Khi thử máu tổng quát, định kỳ, chất ALT vẫn có thể hoàn toàn b́nh thường. V́ thế, nhiều kinh ngạc bất ngờ có thể xẩy ra cho cả bác sĩ lẫn bệnh nhân, khi bệnh “bỗng dưng” bộc phát một cách bất th́nh ĺnh. Đây cũng là lư do thường xuyên mà một số bác sĩ vẫn bị trách móc một cách “oan ức” là đă “để” cho bệnh nhân chết v́ chai gan mà không hề hay biết.

          Những triệu chứng thông thường nhất của chai gan, nếu có, thường rất mơ hồ với những cơn mệt mỏi không một nguyên cớ rơ rệt. Người có thể bần thần, khó chịu, không tha thiết làm bất cứ việc ǵ. Người trở nên yếu đuối, chán ăn, mất kư. Tay chân có thể mất cảm giác. Lưỡi bị nóng rát. Bụng có thể đau “ê ẩm” ở chấn thủy hoặc phần bụng trên bên phải. Một số người da bắt đầu mất đi vẻ hồng hào. Mặt có thể bị xám đen. Nhiều mạch máu li ti như những màng nhện (spider angiomata) có thể t́m thấy trên khắp cơ thể, nhất là trên ngực và sau lưng. Khi nước bắt đầu ứ đọng lại trong cơ thể, bệnh trở nên nguy ngập hơn. Bệnh nhân có thể ĺa trần một cách nhanh chóng và dễ dàng.
          V́ì gan đóng vai tṛò cực kỳ quan trọng trong việc bảo tồn sức khỏe, bệnh chai gan sẽ gây tổn thương cho nhiều cơ quan khác nhau trong cơ thể. Sau đây là một số triệu chứng điển h́nh của nhiều cơ quan và hệ thống khác nhau, khi gan bị chai:

          HỆ THỐNG * TRIỆU CHỨNG

          Tiêu Hóa
          1. Xuất huyết đường ruột: đi cầu phân đen, ói ra máu
          2. Loét lở bao tử, ruột non và ruột ǵa.
          3. Đau bụng, ăn kém ngon, buồn nôn, ói mửa. Thức ăn không được hấp thụ và tiêu hóa một cách dễ dàng như xưa, đưa đến thiếu dinh dưỡng, ốm c̣i, xuống kư nhanh chóng.
          4. Cổ trướng (ascites).

          Thần Kinh
          1. Gan thanh lọc và loại trừ chất độc và các chất cặn bă. Khi gan bị chai, chất độc tăng dần trong máu. Tế bào óc bị tê liệt gây ra những triệu chứng như bần thần, buồn phiền, chán nản, mất ngủ, chóng quên, không tập trung tư tưởng, dễ cáu kỉnh, thay đổi tính t́nh.
          2. Mất định hướng, mất tự chủ, ăn nói “lung tung”, khó hiểu, chân tay run “lẩy bẩy”. Khi nặng hơn, bệnh nhân trở nên “lờ đờ”, buồn ngủ, loạn trí, rồi bất tỉnh và chết (hepatic encephalopathy).

          Máu
          1. Máu trở nên loăng, không đông đặc dễ dàng như xưa. Điều này dễ làm bệnh nhân xuất huyết bao tử hơn.
          2. Lá lách sưng lớn, dễ vỡ.

          Thận
          1. Thận giữ muối và nước nhiều hơn b́nh thường nên người bị sưng phù. Nước ứ đọng khắp nơi trong cơ thể.
          2. Thận mỗi ngày một yếu, khi hoàn toàn hư, bệnh nhân phải lọc thận (hepatorenal syndrome).

          Nội Tiết
          1. Giảm năng tuyến sinh dục (hypogonadism): Chất steroid giảm dần gây ra rỗng xương (osteoporosis), hiếm muộn. Nam bệnh nhân trở nên bất lực, chân tay yếu đuối, bắp thịt teo nhỏ lại, vú nở lớn như phụ nữ (gynecomastia). Nữ bệnh nhân thường kinh nguyệt trở nên thất thường.
          2. Tuyến giáp trạng (thyroid): Gan là cơ quan chính trong việc chuyển hóa các kích thích tố (hormone) của tuyến giáp trạng. Bệnh nhân chai gan có thể bị giảm năng tuyến giáp (hypothyroidism) hoặc tăng năng tuyến giáp (hyperthyroidism). V́ thế bệnh nhân có thể bắt đầu bằng triệu chứng của bệnh tuyến giáp trạng làm việc thái quá rồi từ từ chuyển sang triệu chứng của người với tuyến giáp trạng không hoạt động đúng cách, và ngược lại.
          3. Tụy tạng (pancreas): 60% bệnh nhân chai gan sẽ không dung nạp được chất đường (glucose intolerance) và hơn 20% sẽ bị tiểu đường (diabetes). V́ thế bệnh tiểu đường của người viêm gan trở nên nặng hơn, một khi gan bị chai.

          Phổi
          1. Hơi thở có mùi “ngọt lờ lợ của trái cây”. Đôi khi giống như mùi rượu lên men.
          2. Nước có thể ứ đọng trong xoang phế mạc (pleural effusion) gây ra ngộp thở. Hơn nữa, các mạch máu trong phổi cũng có thể bị thay đổi làm sự trao đổi dưỡng khí trở nên khó khăn. Bệnh nhân trở nên khó thở. Áp xuất máu của phổi tăng dần đưa đến lớn tim.
          Trong lúc đang chuẩn bị để soi bao tử cho bệnh nhân, người bác sĩ trực của pḥng cấp cứu bước vào phọ̀ng đưa cho tôi kết quả của siêu âm gan. Ông ta nói:
          - Anh xem phim này thì́ rõ, bà ta có một bướu khá lớn trong gan, khoảng 7 cm đường kính. Trong bụng có nhiều nước lắm. Và đây là kết quả thử máu của chất alpha feto protein. It’s sky high, lên tới 48 ngàn!

          Tôi đưa mắt nh́ìn qua tấm phim nhận ra ngay vết “nám” lớn trong lá gan của bệnh nhân. Gan trông có vẻ nhỏ hơn bì́nh thường. Cấu trúc không đều với những vết lồi lỡm. Đây là trường hợp khi gan bị chai lâu năm, gan không cọ̀n “sưng lớn” như xưa. Phần lớn tế bào gan, nay đă bị thay thế bởi tế bào xẹo, nên gan “teo” nhỏ lại. Vết nám trong hì́nh có lẽ là một trong những biến chứng đáng ngại nhất của viêm gan B và C măn tính: đó là ung thư gan. Thông thường gan phải chai trong một thời gian khá lâu, trước khi một tế bào gan nào đó bỗng dưng “dở chứng” thay đổi chất DNA một cách khác thường. Tế bào này, sau đó sinh sôi nẩy nở và tăng trưởng một cách nhanh chóng và vô trật tự. Một thành 2, 2 thành 4; 4 thành 8; 8 thành 16 v.v., và cứ thế bướu lớn dần một cách nhanh chóng, làm bệnh nhân cảm thấy mệt mỏi, đau âm ỉ phần bụng trên hoặc hâm hấp nóng sốt. Khi tí́nh nghi là ung thư, các bác sĩ thường gởi bệnh nhân đi sinh thiết gan dưới máy CT-scan (CT-scan guided liver biopsy). Nhưng trong trường hợp này, với chất alpha feto protein lên đến 48 ngàn, chắc chắn vết nám trong lá gan của bệnh nhân xấu số này là do những tế bào ung thư tạo nên.

          Tôi đặt bệnh nhân nằm nghiêng qua bên trái, rồi bắt đầu tiêm cho bà một ít thuốc ngủ Versed và thuốc chống đau Demerol. Chẳng bao lâu, bệnh nhân bắt đầu “thiu thiu” ngủ. Tôi từ từ đưa ống soi bao tử vào miệng bệnh nhân, rồi đi vào thực quản. Trong những năm vừa qua, với sự phát minh của high definition TV, máy soi bao tử trở nên tối tân hơn. Ống soi nhỏ hơn, mềm mại hơn; và h́nh rơ hơn nhiều lần so với những năm trước. Trên màn ảnh TV, hiện ra những tĩnh mạch thực quản giăn nở lớn, chạy “ngoằn ngèo” như những con sâu tím thẫm. Một trong những tĩnh mạch trướng này (esophageal varices) có một vết trầy đỏ, nơi mạch máu đă bị vỡ khiến bệnh nhân đă mất quá nhiều máu. Khi vào đến bao tử, màn ảnh trên TV tối đen lại v́ bao tử bây giờ đă trở thành một “bể máu”. May mắn thay bao tử và tá tràng chỉ hơi viêm đỏ thôi, chứ không bị lở loét.

          Để cầm máu, tôi luồn một kim nhỏ vào ống soi bao tử rồi tiêm thuốc vào các tĩnh mạch trướng của thực quản. Đây là một phương thức cầm máu rất hữu hiệu với danh từ y khoa là endoscopic sclerotherapy.

          Hì́nh 7-6: Tiêm thuốc để cầm máu. Trong lúc soi bao tử, những tĩnh mạch trướng có thể được cầm máu bằng cách tiêm thuốc như h́nh vẽ ở trên.
          Thay v́ tiêm thuốc, người ta cũng có thể dùng một dụng cụ đặc biệt gắn lên trên ống soi bao tử để cột những tĩnh mạch trướng này mà không cần mổ xẻ. Tiếng Mỹ gọi là endoscopic banding ligation. Trong những trường hợp mất máu quá nhiều, tôi thường dùng cả hai phương pháp chích thuốc và “cột bằng giây cao-xu”.

          H́nh Số 7-7: Cầm máu bằng phương pháp cột bằng dây cao xu.
          Trên lư thuyết cả hai phương pháp này đều tốt ngang nhau, nhưng nếu dùng chung với nhau, kết quả cầm máu có thể được khả quan hơn. Sau khi tiêm khoảng 8 cc chất ethanolamine, các tĩnh mạch thực quản không c̣n bị chảy máu nữa. Người bác sĩ trực vỗ nhẹ lên vai tôi rồi nói:
          - Good job! Thế anh có định rút nước trong bụng của bà ta không?
          Khi ngước mắt nh́n sang, tôi đă thấy anh ta mở sẵn khay dụng cụ đặc biệt dành cho việc rút nước trong bụng. Tôi biết ngay là anh chỉ “hỏi kháy” tôi thôi, nên vừa cười vừa đáp lại:
          - Do I have a choice?
          Cho tới nay để định bệnh chai gan, thử nghiệm tế bào gan dưới kính hiển vi vẫn là phương pháp độc nhất và chính xác nhất. Tuy nhiên trong trường hợp của bệnh nhân kể trên, với tất cả những triệu chứng và biến chứng của chai gan, sinh thiết gan trở nên dư thừa và không cần thiết. Sự hiện diện của tĩnh mạch trướng được xem là một dấu hiệu quan trọng cho biết gan đă bị chai.
          Người ta cho rằng, những triệu chứng khi gan bị chai thường gây ra bởi 2 lư do chính: 1) áp xuất mạch môn quá cao và 2) tế bào gan đă bị tổn thương quá nặng, không c̣n hoạt động một cách đắc lực. Với sự suy luận này, lối chữa trị bệnh chai gan đă thay đổi nhiều trong những năm vừa qua.

          1) TĂNG ÁP XUẤT MẠCH MÔN (portal hypertension):Đây là biến chứng thường xuyên và cũng nguy hiểm nhất của bệnh viêm gan măn tính. Khi thực phẩm trong ruột non và ruột ǵa được hấp thụ sau mỗi bữa ăn, chúng sẽ đi thẳng vào gan qua tĩnh mạch cửa (portal vein). Sau khi được tế bào gan biến chế thành nhiều chất hóa học khác nhau, chúng sẽ theo những tĩnh mạch lớn quay về tim, và từ đó được phân phát cho toàn cơ thể. Tĩnh mạch cửa này cũng nhận máu từ nhiều cơ quan khác trong hệ thống tiêu hóa như tụy tạng (pancreas), bao tử (stomach), thực quản (esophagus), màng treo ruột (mesenterium), ruột non (small intestine), ruột già (colon), hậu môn (anus) và lá lách (spleen). V́ thế, khi cửa chính này bị bế tắc, nhiều biến chứng sẽ xẩy ra. Một vài thí dụ điển h́nh là xuất huyết từ các mạch trướng, nước ứ đọng lại trong bụng (cổ trướng), sưng lá lách v.v.

          a) TĨNH MẠCH TRƯỚNG (Varices):
          Khi bị viêm lâu năm, các mạch máu của gan bị những mô xơ “ép nhỏ” lại. Sự lưu thông của máu qua những tĩnh mạch này trở nên ngày một khó khăn hơn. Áp xuất mạch môn dần dần tăng cao. Máu, v́ thế, sẽ bị ứ đọng lại tại nhiều cơ quan khác nhau.
          Lúc bấy giờ cơ thể sẽ t́m cách chuyên chở máu về tim qua những “đường ṿng” khác. Những đường ṿng này là những mạch máu đă được tạo h́nh trong thời kỳ phôi thai (embryonic channels), khi hệ thống tiêu hóa của thai nhi chưa tích cực hoạt động. V́ những mạch máu “phụ” này có bán kính nhỏ hơn tĩnh mạch cửa rất nhiều, nên chẳng bao lâu chúng sẽ không “chịu nổi” số lượng máu quá mạnh và quá nhiều. Có lẽ đây là hậu quả nguy hiểm nhất khi áp xuất mạch môn bị tăng quá cao.

          Khi phải chuyên chở một số lượng máu quá nhiều từ bụng về tim, những mạch máu nhỏ kể trên sẽ giăn to và dễ vỡ. Chúng được gọi là tĩnh mạch trướng (varices). Quang trọng nhất là mạch trướng thực quản (esophageal varices), mạch trướng bao tử (gastric varices) và mạch trướng hậu môn (rectal varices). Người ta ước đoán, mỗi năm khoảng 5 đến 8 % bệnh nhân bị chai gan sẽ bị tĩnh mạch trướng thực quản. Như những “quả bom nổ chậm”, những mạch trướng này có thể vỡ tung và chảy máu bất cứ lúc nào.
          Hơn nữa, v́ sự tuần hoàn nuôi dưỡng hệ thống tiêu hóa bị ứ đọng và tắt nghẽn, màng bao tử và ruột già có thể bị viêm đỏ, loét lở và chảy máu. V́ vậy, không sớm th́ muộn bệnh nhân chai gan sẽ bị xuất huyết bao tử. Họ có thể đang sống một cách rất “b́nh thường”, bỗng dưng cảm thấy khó chịu, bụng đau “tưng tức” rồi ói ra máu hoặc đi cầu phân đen như mực. Trong những trường hợp này, bệnh nhân cần phải nhập viện ngay lập tức.
          b) CỔ TRƯỚNG (Ascites):
          Đây là một trong những biến chứng thường xuyên nhất của chai gan, và chai gan là nguyên nhân số một đưa đến cổ trướng. Trong trường hợp này một số dung dịch bị ứ đọng và tích tụ trong xoang phúc mạc, làm bụng trở nên căng phồng. Hơn 30% bệnh nhân chai gan, nhất là chai gan từ vi khuẩn viêm gan C, sẽ bị cổ trướng trong ṿng 10 năm. Ban đầu bệnh nhân có cảm tưởng như ḿnh đang “phát tướng”, với bụng “mập” hơn một chút. Sau đó quần áo mỗi ngày một chật hơn. Rồi bụng có thể lớn rất nhanh và rất lớn như người đang mang thai. Nước cũng có thể ứ đọng ở hai chân. Song song vào đó, bệnh nhân c̣n cảm thấy ngày một mệt mỏi hơn, họ bỗng trở nên “lười biến”, không tha thiết đến bất cứ việc ǵ, ngay cả những vấn đề chính yếu như ăn uống. Lâu dần họ sẽ mất kư và trở nên thiếu dinh dưỡng một cách trầm trọng. Khi bụng bị quá căng, bệnh nhân cảm thấy nặng nề, đau đớn, khó thở.

          Với số nước “lơng bơng” trong xoang phúc mạc, ruột non có thể “bơi” và di chuyển một cách tự do, nên có thể đưa đến sa ruột (hernia) hoặc nguy hiểm hơn bị tắt nghẽn ruột (hernial incarceration). Khi ruột bị nghẽn, bụng bỗng dưng đau “khủng khiếp” và nếu không được chữa trị đúng cách và kịp thời, phần ruột bị xoắn có thể bị thối và làm độc. Bệnh nhân có thể ĺa trần một cách dễ dàng.
          Một trong những biến chứng khác khi nước bị ứ đọng trong bụng là nhiễm trùng phúc mạc (bacterial peritonitis). Đây cũng là một dữ kiện có thể nguy hiểm đến tính mạng bệnh nhân, nếu không được khám phá kịp thời. V́ thế sự hiện diện của xưng cổ trướng nơi bệnh nhân đang bị xuất huyết bao tử là một điểm không tốt. Nhiễm trùng phúc mạc thường gây tổn thương lan qua những hệ thống khác, như thận, phổi, tim v.v. (multiorgan failure)

          Sau khi cầm máu xong, tôi tiếp tục truyền cho người phụ nữ thêm 2 túi máu nữa. Lúc bấy giờ, áp xuất đă trở lại b́nh thường và tim bắt đầu đập chậm lại. Da người phụ nữ có vẻ hồng hào hơn, nhưng bà ta vẫn cảm thấy rất mệt và khó thở. Bụng căng cứng v́ nước. Thông thường xoang phúc mạc (peritoneal cavity) chỉ chứa đựng một ít dung dịch (thường dưới 200 cc). Nhưng xoang của bà H. chứa ít nhất từ 3 đến 4 lít nước. Số nước “khổng lồ” này đă đẩy hoành cách mô ngược về lồng ngực, làm ba ta khó thở. Ứ đọng lâu ngày, xoang phúc mạc có thể bị nhiễm trùng: một biến chứng vô cùng tai hại, nếu không được khám phá và chữa trị kịp thời. Bằng mọi gía, số nước trong này phải được lấy ra, càng sớm càng tốt.
          Rút nước từ bụng bệnh nhân xưng cổ trướng (paracentesis) là một lối trị bệnh đă được ứng dụng từ đầu thế kỷ thứ 18. Trong phương pháp này, một ống cao su nhỏ sẽ được đưa thẳng vào bụng để rút nước ra và gởi đi pḥng thí nghiệm. Cách thức thực hiện rất đơn giản với một ít thuốc tê để tiêm vào da và một vài ống chích đặc biệt để hút nước. Để giảm thiểu những biến chứng hiếm hoi như chảy máu và lủng ruột, vị trí hút nước thường được ấn định trước bằng máy siêu âm (ultrasound). Thông thường sau khi rút nước ra, bệnh nhân cảm thấy rất dễ chịu và có thể thở lại một cách dễ dàng. Bụng không c̣n đau “tưng tức” nữa. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ có tính cách tạm thời mà thôi. Sau khi rút nước ra, bụng sẽ sưng trướng trở lại một cách nhanh chóng. V́ thế, người bị chai gan nên tránh ăn quá nhiều muối và uống quá nhiều nước. V́ khuôn khổ sách giới hạn, nên chúng tôi không đi vào chi tiết hơn trong việc chữa trị cổ trướng.
          Ngoài xuất huyết từ những mạch trướng và những biến chứng gây ra từ cổ trướng, bệnh nhân chai gan có thể bị “hành hạ” bởi những hậu quả khi tế khả năng hoạt động của gan hoàn toàn bị tê liệt.
          2) TẾ BÀO GAN BỊ HƯ
          Khi sinh thiết gan (liver biopsy), người ta có thể nhận diện được sự tiến triển của bệnh viêm gan một cách trực tiếp và rơ ràng. Như đă tŕnh bầy ở trên, khi gan bị viêm măn tính, một số tế bào gan sẽ bị tiêu hủy dần dần. Những tế bào c̣n lại “tụ hợp” thành từng nhóm, nằm xen kẽ giữa những mô xẹo chạy ngang dọc. Dần dần các nhóm tế bào này cũng “chết lần chết ṃn”, nên khả năng “làm việc” của lá gan mỗi ngày một kém đi.
          Sự bào chế của nhiều chất hóa học và chất đạm giảm dần. Nước ứ đọng khắp nơi trong cơ thể. Người dễ bị cảm cúm, bệnh tật hơn. Thiếu chất mật (bile), sự tiêu hóa và hấp thụ thức ăn, nhất là các chất dầu mỡ trở nên khó khăn hơn. Người bệnh, v́ thế cảm thấy rất mệt mỏi, khó chịu sau mỗi bữa ăn. Họ trở nên “lười” ăn hơn. Ban đầu, họ chỉ tránh những thực phẩm nhiều dầu mỡ, lâu dần họ trở nên “sợ sệt” trước mỗi bữa ăn.
          Người chai gan không sớm th́ muộn sẽ bị thiếu dinh dưỡng một cách trầm trọng. Cơ thể, không c̣n khả năng hấp thụ những thức ăn mỗi ngày một ít đi. Các loại vitamines tan trong mỡ như Vitamin A, D, E, K v.v. bị thiếu một cách kinh niên. Thiếu Vitamine K, máu trở nên loăng hơn, và bệnh nhân dễ bị chảy máu hơn.
          V́ gan là cơ quan chính để “giải độc” trong cơ thể, “rác rưới” sẽ bị ứ đọng khắp nơi gây “ngộp thở” cho tất cả các tế bào. Người bệnh trở nên kém minh mẫn. Trí nhớ giảm dần. Cơ thể và hơi thở trở nên nặng mùi. Chất mật vàng (bilirubin) tăng dần. Da và mắt trở nên vàng, mặt nám đen v.v. Bệnh nhân, như thế mỗi ngày một yếu đi.

          Tóm lại, chai gan là giai đoạn cuối cùng khi gan đă bị viêm quá lâu năm. Người bị chai gan trong những giai đoạn đầu tiên thường không có một triệu chứng nào đáng kể. Nhưng một khi bộc phát, bệnh trở nên trầm trọng một cách nhanh chóng, “kéo theo” tất cả những hệ thống khác trong cơ thể chúng ta. Tuy một số thuốc men có thể dùng trong việc chữa trị cho người bị chai gan, bệnh nhân sẽ đi dần đến cái chết một cách tương đối lẹ làng nếu không được ghép gan.

          Tiếc thay, ghép gan là một phương pháp chữa bệnh rất tốn kém, và người cho th́ ít, người nhận th́ nhiều. Do đó, không phải ai cũng có may mắn được nhận gan của người khác một cách kịp thời. V́ thế, đa số bệnh nhân trong danh sách chờ đợi để được ghép gan (waiting list), phải chờ đợi rất lâu. Đôi khi quá lâu.

          #5
            Chuyển nhanh đến:

            Thống kê hiện tại

            Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
            Kiểu:
            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9