Những hiện vật được tạm gọi là lưỡi cày ở vùng sông Hồng có hình lá trầu hay hình tim, kích thước lớn, nhưng ở vùng sông Mã lại có hình chân vịt, vùng sông Cả có hình tam giác.
Những nông cụ làm đất khác cũng mang đặc trưng vùng miền rất rõ nét như loại thuổng, xẻng của loại hình sông Hồng to khoẻ; của loại hình sông Cả thì nhỏ và mảnh hơn.
Sự khác biệt về tỉ lệ của những hiện vật cùng loại ở các vùng cũng là những biểu hiện góp phần làm nên đặc trưng cho từng loại hình. Kết quả của những cuộc khai quật mộ táng cho thấy cư dân ở lưu vực sông Cả thích dùng dao găm hơn ở vùng sông Mã và sông Hồng.
Giai đoạn cuối của văn hoá Đông Sơn được đánh dấu bằng sự xuất hiện ngày càng nhiều của các hiện vật và yếu tố ngoại lai, thí dụ như đồ minh khí tùy táng bằng đồng thau thay vì chỉ bằng gốm, gỗ trước đó, trong khi đồ đồng bản địa khác biến mất dần trong các mộ táng địa phương. Hiện tượng này tăng lên cùng chiều với sự bành trướng của người Hán xuống phía Nam. Ở các địa bàn văn hoá sông Hồng và sông Mã điều này xảy ra vào khoảng thế kỷ I sau Công Nguyên. Nhưng sâu hơn về phía Nam, ở lưu vực sông Cả, văn hoá Đông Sơn còn kéo dài đến các thế kỷ II - III.
Có thể nói là những người thợ kim khí Đông Sơn đã hoàn toàn làm chủ được kỹ thuật của họ trong tất cả các lĩnh vực của quá trình đúc đồng. Thành phần chính của đồng thau Đông Sơn là đồng, chì, thiếc. Hợp kim của đồng với tỉ lệ chì cao đã trở thành nét độc đáo của cổ đồng Đông Sơn. Kỹ thuật luyện kim và hợp chất đồng đặc biệt này đã được sử dụng một cách đồng nhất trong toàn địa bàn phân bố của văn hoá Đông Sơn, từ vùng đất cao Âu Việt cho đến vùng đồng bằng Lạc Việt của cư dân Âu Lạc thời cổ. Chỉ thỉnh thoảng lắm mới có biệt lệ, thí dụ như chiếc trống đồng Thượng Nông và các nông cụ bằng đồng tìm được ở Cổ Loa gần Hà Nội.
Dựa theo chủng loại và chức năng, các loại đồ đồng thau sử dụng trong khu vực văn hoá Đông Sơn được phân thành 7 nhóm sau đây:
1- Vũ khí: Lưỡi giáo, mũi tên, dao găm, đoản kiếm, rìu chiến, qua, giáp che ngực, vật dụng đeo binh khí, cung và nỏ.
2- Dụng cụ sản xuất: Rìu, cuốc, thuổng, lưỡi cầy, lưỡi liềm, dùi, đục, dũa.
3- Dụng cụ sinh hoạt: Thạp, thố, bình, âu, khay, đĩa, chậu, lọ, ấm, muôi, đèn dầu, cốc trầm.
4- Nhạc cụ: Chuông, lục lạc, trống. Ngoài ra còn có các nhạc cụ như khèn, chiêng, cồng chỉ tìm thấy trong phần trang trí trên các trống, thạp, hoặc các hình tượng nhỏ.
5- Đồ trang sức: Vòng tay, vòng chân, vòng tai, khóa thắt lưng.
6- Hình tượng nhỏ: Thường là các tượng người hay thú đúc nhỏ để gắn trên các hiện vật khác, dùng để trang trí, vừa có công dụng cầm tay hoặc làm móc chặn.
7- Hiện vật minh khí: Đồ thu nhỏ dùng để tùy táng, với hầu hết các vật dụng bằng đồng thau điển hình dùng trong sinh hoạt hàng ngày. Kỹ thuật đúc các đồ đồng này thường sơ sài, mỏng manh.
Chuông đồng có hình voi.
Chuông đồng Đông Sơn.
Một số loại chuông đồng Đông Sơn.
Lọ đồng.
Nhẫn đồng có hình trâu.
Một số loại vòng, kiềng trang sức bằng đồng.
Khóa thắt lưng bằng đồng trang trí hình rùa.
Vật dụng cùng chủng loại ở mỗi địa phương có khác nhau về hình dáng và hoa văn trang trí. Hình dạng của chúng được biến cải cho thích hợp với môi trường thiên nhiên sinh thái của từng vùng. Có ba loại hình dạng và hoa văn trang trí chủ yếu, được tập chung vào ba con sông chính trong phạm vi tồn tại của văn hóa Đông Sơn.
1- Loại hình Đường Cồ, sông Hồng.
2- Loại hình Đông Sơn, sông Mã.
3- Loại hình làng Vạc, sông Cả.
Mối giao lưu trao đổi của văn hóa Đông Sơn với các nền văn hóa láng giềng một mặt góp phần làm tăng thêm những sắc thái địa phương của các loại hình trong quá trình phát triển và hội tụ của nền văn hóa, nhưng mặt khác cũng khẳng định tính cởi mở của người Đông Sơn về sự hòa nhập với các nền văn hóa lân cận.
Phong cách họng lõm ở một số giáo, ở những chiếc rìu chiến, thuổng – mai, kiểu dao găm lưỡi lượn gấp khúc, kiểu dao găm có cán là các khối tượng động vật, khóa thắt lưng, các tượng tròn, tượng bẹt là kết quả học tập của văn hóa Đông Sơn từ các nền văn hóa của các cư dân chuyên chăn nuôi của văn hóa Điền. Những âu có chân, chậu đồng, bình đồng là những hiện vật mà người Đông Sơn đã học từ người Hán nhưng đã biết khéo léo kết hợp những trang trí ưa thích của mình như những đường văn thừng nổi, người trang sức lông chim cách điệu, ngôi sao – mặt trời ở trung tâm các đồ vật. Đồ đồng của nền văn hóa Điền, Hán đã làm phong phú thêm chủng loại hiện vật của văn hóa Đông Sơn. Các khóa thắt lưng do người Đông Sơn chế tạo được gắn thêm các lục lạc trang trí. Những con thú dữ như voi, cọp trên cán dao găm hoặc vòng trang sức của người Điền đã được biến cải thành hiền hòa, dễ mến trong đồ đồng Đông Sơn.
Trong khi văn hóa Đông Sơn tiếp thu những ảnh hưởng từ bên ngoài thì ngược lại, ảnh hưởng của nó cũng lan tỏa đến các vùng văn hóa khác.
Ra ngoài địa phận Việt Nam, ảnh hưởng của văn hóa Đông Sơn cũng đã được nhận ra, trải từ miền Nam Trung Quốc đến các hải đảo phía dưới Đông Nam Á.
Trống đồng Đông Sơn tại Selayar, Indonesia.
Ở các tỉnh miền Nam và duyên hải Nam Trung Hoa, số lượng trống đồng cổ có hoa văn trang trí hình người đội lông chim cách điệu, hình thuyền đi biển, chim lạc và những trang trí hình học đặc biệt của văn hóa Đông Sơn được phát hiện không ít.
Các đồ đồng thau với hình dạng đặc trưng của loại hình sông Hồng như rìu hình bàn chân có hoa văn trang trí hình người hóa trang, rìu gót vuông có trang trí ở họng, dao găm có cán là khối tượng người, rìu hình lưỡi câu có hoa văn hình học, đã được tìm thấy trong khắp vùng hạ lưu sông Dương Tử.
Lao có chuôi tra cán hình ngòi bút, lưỡi cuốc đồng hình chữ U đặc biệt của loại hình sông Hồng đã được sử dụng rộng rãi lan đến tận vùng Bắc sông Trường Giang (sông Dương Tử). Các loại rìu chiến lưỡi xéo, hay gót vuông họng lõm, lưỡi giáo tam giác có lỗ để treo các khối tượng người nhỏ, loại lưỡi cày hình tim đã được dùng rộng rãi trong văn hóa Điền ở Vân Nam. Những đồ đựng ốc tiền bằng đồng thau của vùng văn hóa Điền có xuất xứ từ miền duyên hải Việt Nam.
Trong địa bàn văn hóa Sa Huỳnh phía Nam, lưỡi giáo và rìu Đông Sơn được tìm ra ở các vùng Tam Kỳ, Điện Bàn. Trống đồng Đông Sơn tuy chưa được tìm ra trong các di tích khảo cổ Sa Huỳnh, nhưng chúng đã có mặt ở nhiều nơi trong địa bàn thuộc văn hóa này.
Đặc biệt những năm gần đây ở vùng Tây Nguyên phát hiện được một số lượng lớn các trống loại I Hêgơ, chứng minh sức lan tỏa mạnh mẽ của văn hóa Đông Sơn, cũng như tính thống nhất trong đa dạng của văn hóa này.
Trống đồng Đông Sơn ở Tây Nguyên.
Dù ở trong hay ngoài phạm vi phân bố văn hóa Đông Sơn, đồ đồng Đông Sơn vẫn dễ nhận ra được với màu sắc rỉ đồng, hình dáng, và các hoa văn trang trí đặc biệt. Đấy là các dấu ấn khó lầm lẫn được của nền văn hóa Đông Sơn độc đáo. Vậy nên có thể nhận xét rằng đồ đồng Đông Sơn, thời đại vàng của Nghệ thuật Việt Nam. Văn hóa Đông Sơn thống nhất đã hình thành nên bản sắc văn hóa thống nhất. Trong cả một thiên niên kỷ mà văn hóa Đông Sơn tồn tại, trên khắp lục địa Á - Âu, những sự thăng trầm đầy kịch tính của các nền văn hóa khảo cổ cũng đồng thời là một thực tế lịch sử. Sự tồn tại sống động và phát triển rực rỡ của nền văn hóa Đông Sơn đã làm nên bản lĩnh Đông Sơn.
Nguyễn Quốc Bình.