Vườn Cổ tích Việt Nam " Sự tích các loài hoa "
Thay đổi trang: 123 > >> | Trang 1 của 4 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 51 bài trong đề mục
Leo* 20.09.2009 17:14:05 (permalink)
Truyện 1
 
Sự tích Hoa Trinh Nữ

Thuở ấy, nhà nọ từng có hai kiếp đàn bà, cả hai kiếp đến lượt mình, đều chôn chân thờ chồng đi lính.
Hai người đàn ông lần lượt ra đi, nhưng người về thì chỉ một. Người chiến binh dũng cảm ấy về làng trong tiếng tiền hô hậu ủng, xênh xang trong mũ áo vua ban và làm vẻ vang cho dòng họ. Nhưng khi đón chồng, người đàn bà thứ hai khóc thầm: “Cân đai, mũ áo, bổng lộc vua ban… tất cả đều đẹp nhưng mái đầu ta và ông ấy tự lúc nào đã ngả sang màu sương!…”

Vậy nên, kiếp đàn bà thứ ba vừa lọt lòng và nhoe nhoe khóc, thì cả bà, cả bố và mẹ cô bé chắp tay: “Lạy Phật! Lại thêm một cái tội nữa. Nhưng lần này, chúng ta sẽ không gả nó cho bất kỳ một người lính nào đâu nhé. Hai đời, chúng ta đã đợi chờ đến bạc tóc, thế còn chưa đủ sao?”.

Cô bé lớn lên mơn mởn như nụ hồng. Từ nhỏ đến lớn cả nhà không cho cô được nói chuyện với bất cứ một người lính nào để cô giữ lời nguyền thuở trước.

Một buổi sáng, xa xa vẳng tới tiếng trống ngũ liên. Cô gái bước ra vườn, đến bên bờ giậu đẫm sương. Chàng trai nhà bên đang gấp gáp khăn gói lên đường. Vốn là đôi trẻ vẫn cũng nhau chơi trò “đố lá”, họ cùng nhìn nhau rồi cùng cúi mặt, lớp lông măng ngăm ngăm trên mép chàng trai khẽ rung. Tiếng trống thúc dồn. Chàng trai đánh bạo:

- Thế… có chờ… không?

- Sao không hỏi xem bông tầm xuân có nở trước khi mặt trời lên không? - Cô gái cắn môi, nước mắt lăn tròn trên má.

Và thế là mặt chàng trai đỏ đến tận chân tóc. Lâng lâng như vừa được chắp cánh, chàng bấm bụng: “Ta có thể ra đi, dù “da ngựa bọc thây”.

Cô gái trở vào, mắt ngấn nước và thẫn thờ như người ốm, trong tiếng trống ngũ liên xa xa thúc dồn. Vậy là cả nhà biết. Họ trách lẫn nhau, rồi hai người đàn bà ôm nhau khóc. Bà cô gái thắp ba nén hương khấn người chồng quá cố: “Ông ơi! Có lẽ cháu ông đúng, bởi tôi nghiệm rằng, nếu bây giờ ông sống dậy, lại ra trận, thì tôi vẫn chờ ông. Ôi! Cái kiếp đàn bà!…”. Mẹ cô gái nức nở: “Chỉ tại mẹ thôi, chính mẹ đã truyền cho con dòng máu “đợi chờ”! Con làm sao khác được!”. Ông bố cố gạt đi: “Thì cũng phải có một đứa con gái nào đó chờ thằng bé ấy chứ, cũng như ngày xưa, trong căn nhà này bà chờ tôi vậy! Bây giờ, chỉ còn biết mong sao thằng bé ấy trở về!”.

Nhưng thằng bé không sớm trở về. Chàng tân binh hăng hái giết giặc trong vài trận rồi ngôi sao chiếu mệnh mỉm cười với chàng ta, đấng quân vương vốn giỏi chọn người, vừa nhìn thấy chàng trai đã nhận ra ngay rằng đây là một tên lính hầu trung thành vô hạn. Thế là, ngài cho rút chàng trai về, ngày đêm cận kề bên ngài, một bước cũng không được rời xa. Khi còn giặc giã, vua cần chàng đưa vồng ngực vạm vỡ ra che làn đạn giặc, còn khi hết giặc, vua càng cần chàng hơn, để giữ gìn quyền uy tối hậu. Chàng là lưỡi kiếm “trừng phạt” tuyệt hảo, sẵn sàng giáng xuống đầu bất kỳ ai, theo lệnh đấng quân vương.
Đã mười bảy năm rồi, cô gái chờ người lính ấy. Từ một thiếu nữ như nụ hoa chớm hé, nàng đã trở thành một cô gái quá lứa nhỡ thì. Bà nàng, rồi cha mẹ nàng theo nhau lần lượt trở về cõi Phật. Trước khi nhắm mắt, họ đều gọi con gái đến bên giường dặn dò: “Mai ngày nếu sinh con gái…”. Cô gái lặng lẽ khóc khi bà và bố mẹ mất, lặng lẽ khóc khi người yêu của chúng bạn trở về hay tử trận và cuối cùng, lặng lẽ để tang người yêu năm xưa, vì đã mười mấy năm rồi, chàng biệt vô âm tín.

Thế rồi một buổi chiều có tiếng vó ngựa ghé sát bên thềm.

Bước xuống từ yên ngựa là một người đàn ông phong trần và nhìn mọi vật từ trên xuống qua ánh mắt lạnh lẽo như thép. Ngang lưng anh ta thắt chiếc đai vàng vua ban. Đó là phần thưởng sau khi anh ta lập được công đâm vào lưng người bạn cũ. Người bạn này đã cả gan ngăn vua khi ngài hạ lệnh chém một danh tướng. Ông này chỉ vì mắt kém mà trót dâng vua một quả táo bị sâu ăn. Sau bữa tiệc ngập máu ấy, vua đã cất nhắc anh ta và cho phép anh ta về thăm nhà sau mười mấy năm xa cách. Mười mấy năm qua, người lính đó vẫn không quên người yêu xưa. Giữa cuộc đời bụi bậm, giữa triều đình đầy mưu kế sâu độc, cô trinh nữ nhà lành cắn môi cố nuốt giọt nước mắt chia ly vẫn không mờ nhạt mà thật lạ kỳ, lại càng như vầng trăng xa thẳm gọi anh về.

Người con gái lỡ thì bước tới vài bước rồi sững lại. Nàng hoang mang tự hỏi, không biết đó có phải là chàng trai hàng xóm năm xưa rụt rè mãi mới dám hỏi: “Thế… có chờ… không?”. Nhưng khi người đàn ông ấy gọi tên nàng bằng giọng nói thân thuộc, nàng khóc, tiếng khóc nghe như ngàn mảnh thủy tinh rơi, vì nàng phải chờ đợi quá lâu, và người nàng chờ nay đã biến thành người đàn ông có cái nhìn lạnh lẽo như thép.

Làng xóm đua nhau chúc mừng nàng. Các ông làm nghề “gõ đầu trẻ” đem mối tình chung thủy của hai người rao giảng trong các lớp học. Thế là từ đấy có thêm nhiều cậu bé chỉ mơ về chiến trận. Mơ về một mai mình được hầu cận đấng quân vương. Còn những cô bé thì chỉ ao ước sao mai này lớn, được chờ người yêu đến khi lỡ thì!

Không chậm trễ gì, người ta làm lễ cưới cho đôi tình nhân chung thủy. Vua ban áo tím cho nàng trinh nữ lỡ thì và đám cưới trọng thể hết chỗ nói. Hoàng hôn xuống, cạnh chén rượu bên mâm cỗ, quan khách tròn xoe mắt nghe chú rể kể chuyện. Mười mấy năm hầu cận vua, anh ta đã quen tính kín miệng. Và chỉ bốc lên khi rượu đã ngà ngà. Nhưng anh không biết nói chuyện gì khác, ngoài chuyện chém giết. Anh kể về những bữa tiệc đầy sơn hào hải vị ngập máu trong thời bình và say sưa mô tả các kiểu chết của nhiều người khác nhau dưới tay kiếm của anh. Cuối cùng, vì sao vua đã ban cho anh ta chiếc đai vàng.

Người trinh nữ nghe chuyện của chồng mới cưới và nàng đứng không vững nữa. Lảo đảo, nàng lùi dần về buồng. Nép mình trên giường trong bóng tối, nàng như ngửi thấy mùi tanh lợm của máu, và trên mặt nàng như có làn môi lạnh toát của những oan hồn lướt qua. Nàng vùng dậy, run lật bật, vội vàng châm lửa lên tất cả các ngọn đèn dầu lạc mà nàng tìm được trong buồng. Ánh đèn chập chờn đỏ quạch càng làm nàng thêm sợ hãi.

Vừa lúc đó, có tiếng kẹt cửa. Thân hình to lớn của người chồng mới cưới chếnh choáng tiến vào. Theo thói quen, anh ta vẫn mang theo thanh kiếm. Nàng nhìn lên, và thấy anh không vào một mình. Theo liền sau anh là một người đàn bà trong veo, tóc xoã - chỉ có bộ tóc là còn màu sắc - mặc quần áo đại tang, đang cầm một tấm áo đẫm máu giơ lên và cất giọng đều đều một cách kỳ lạ, lặp đi lặp lại như không bao giờ dứt:

-Hãy trả chồng cho ta! Kẻ giết bạn kia, trước khi mi bước vào giường cưới! Hãy trả cha cho năm đứa con thơ dại của ta! Hãy trả…

Vậy mà chồng nàng không nghe thấy gì cả, anh dựng thanh kiếm vào vách, rồi xáp tới đặt tay lên ngực nàng. Ngay lúc đó, nàng nhìn thấy máu từ tấm áo trong tay người đàn bà xoã tóc rỏ xuống hai bàn tay người chồng mới cưới. Nàng ôm mặt rú lên kinh hãi:

- Ôi kìa, máu! Máu nhiều quá! Máu đỏ cả hai bàn tay!

Chồng nàng giật mình nhìn lại. Anh vẫn không thấy gì cả, ngoài những vết sẹo ngang dọc nơi bàn tay mình. Anh dỗ dành:

- Ồ! Can đảm lên, cô em ủy mị! Chẳng qua là vì em quá hồi hộp đó thôi! Đã bao ngày ta chờ phút giây này. Nào, hãy vui lên.

Anh nói vậy, nhưng miệng không cười và mắt vẫn lạnh như thép, cũng như từ ngày về đến giờ, chưa một ai nhìn thấy anh cười. Người trinh nữ bỏ hai bàn tay che mặt. Nàng không nhìn thấy người đàn bà tóc xoã nữa, nhưng trên khuôn mặt đang gần xuống mặt nàng, nàng chỉ thấy khóe miệng mím chặt và cái nhìn lạnh lẽo như cái nhìn của Thần Chết. Lại sợ hãi cuống quít, nàng van vỉ:

-Hãy mỉm cười đi anh! Em van đấy! Hãy cười lên để em thấy anh của ngày xưa. Bao năm chờ đợi, em đâu muốn anh buồn…

Người chồng cố hết sức để mỉm cười. Đã lâu lắm rồi anh không làm cử chỉ đó nên bây giờ anh không biết bắt đầu một nụ cười như thế nào. Khó nhọc lắm, anh mới nhớ ra rằng, khi cười người ta phải để lộ ít nhất là một hàm răng. Anh nhếch môi, để lộ hẳn hai hàm răng chắc khỏe.

Nhưng anh quên rằng, khi người ta cười, chính đôi mắt cười trước, cái miệng cười sau, thậm chí chỉ cười bằng mắt cũng đủ. Mà đôi mắt muốn cười, trước hết tâm hồn phải cười đã, cho nên cố gắng để mỉm cười, trông anh lại thêm vẻ dữ dằn đe dọa của một con sói. Ngay lập tức, vợ anh co rúm lại và quay mặt vào trong, thổn thức cố kìm tiếng khóc.

Người chồng buồn bã soi trong tấm gương cười, ngắm kỹ mình, rồi tuyệt vọng:

- Thôi, thế là hết, cả một đời chờ đợi! Em chối từ ta, em ghê tởm ta ư?

Anh rũ xuống thành giường, rồi gầm lên như một con thú bị thương:

- Tại sao em chờ ta cả đời, để rồi chối từ ta? Tại sao em bắt ta phải cười! Còn đâu nữa chàng trai với lớp lông măng trên mép ngày xưa! Ta đã trở thành “người đàn ông không cười” của triều đình, từ khi bàn tay này nhúng vào máu bạn bè, bên những bàn tiệc đầy sơn hào hải vị. Đấng quân vương sai ta giết hết những kẻ bất tuân thượng mệnh bằng các chiếc đũa. Trong mọi chiếc đũa nạm vàng nơi bàn tiệc đều có một lưỡi dao tinh tế giấu ở trong…

Anh nức nở, đôi vai rung lên dữ dội:

- Ôi! Bạn ta! Người bạn đã cùng ta tựa vào lưng nhau tìm hơi ấm chống đỡ cơn gió lạnh chiến hào. Thôi, thế là hết và đây là đêm tân hôn vĩnh biệt, phần thưởng cuối cùng cho người lính quá nửa đời phụng sự đấng quân vương.

Tiếng nức nở dữ dội của người chồng mới cưới rung chuyển cả căn phòng. Rồi xách kiếm trên tay, anh bỏ đi biệt xứ. Có người nói rằng anh đã đến tìm vua, định bắt vua phải đền tội đã biến anh thành người đàn ông không biết cười. Nhưng vua đã kịp giết chết anh trước, bằng chính một trong những chiếc đũa nạm vàng nơi bàn tiệc. Cũng có người bảo rằng anh lại lao vào những cuộc chém giết mới không ghê tay cho quên ngày tháng.
Chỉ còn lại nơi quê nhà người trinh nữ lỡ thì. Nàng sống âm thầm như cái bóng, mà không một lần nghĩ đến chuyện tự giải thoát bằng cái chết. Nhưng cái tật hễ có tiếng chân hay tiếng động mạnh là đưa tay lên ôm mặt thì nàng không sao bỏ được.

Một hôm, người xã trưởng được mời đến để làm giấy chứng tử cho nàng. Nàng chết mà hai tay che mặt, người khâm liệm nắn thế nào cũng không bỏ ra.

Vài ngày sau, trên mộ nàng rùm roà mọc một loài cây thấp lòa xòa mang hình tròn tim tím buồn man mác. Mỗi khi có chân bước qua hay va chạm mạnh, những chiếc lá lăn tăn lại giật mình khép lại, xuôi xuống như bàn tay ai che mặt.

Những loài hoa cỏ mọc đầy chung quanh lấy làm lạ lùng lắm về chuyện đó. Một hôm, chúng chặn chàng Gió lại:

- Này, anh Gió! Ở đây, không có ai già như anh và trẻ như anh. Vậy anh hãy nói cho chúng tôi biết vì sao loài cây mới đến kia, tầm thường đến vậy, lòa xòa bên vệ cỏ, khách bộ hành dễ dàng giẫm lên, có gì đặc biệt đâu mà phải gìn giữ, hơi một tí lại lấy tay che mặt, điệu đà làm vậy?

Từng trải như chàng Gió mà cũng không trả lời được.
Thế là một đêm thanh tĩnh, dịu dàng, muôn hoa cỏ đang mơ màng trong giấc ngủ êm đềm, chàng Gió lướt tới bên loài cây tầm thường ấy, khẽ hỏi:

- Này cô em bé bỏng! Sao em hay che mặt thế? Ở đây có ai chọc ghẹo em sao? Em hay e thẹn lắm à? Nếu không, tại sao người ta lại gọi em là cây trinh nữ?

Đắn đo một chút, rồi loài cây ấy nhẹ nhàng đáp:

- Không phải thế đâu, mặc dù chết đi, em vẫn là trinh nữ. Em che mặt vì sợ. Ngày nay người ta càng tranh giành nhau dữ hơn, những bàn tiệc ngập máu vẫn còn nhiều. Vậy nên, mỗi va chạm, mỗi bước chân tạt qua đều làm em giật thót mình. Em sợ người ta sẽ gửi đến cho em đôi bàn tay đầy máu và khuôn mặt người yêu xưa chẳng biết cười.

Cây trinh nữ chợt co mình lại vì vừa nghe tiếng chân qua. Đó là bước chân sóng đôi của một đôi trai gái đang đi trong sương mù. Trước khi cẩn thận khép những mắt lá lại, cây trinh nữ cầu khẩn: “Ôi! Lạy Phật! Cầu cho đây không phải là bước chân của những người phải tiễn nhau về nơi ấy…”.

st
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.09.2009 17:51:00 bởi Thanh Vân >
#1
    Thanh Vân 29.09.2009 17:12:52 (permalink)
    SỰ TÍCH CẢI HOA VÀNG


    Ngày xưa, xưa, xưa, tại vùng đồi núi nọ, có một cụ già chỉ bán dao kéo mà nổi tiếng khắp gần xa. Không ai biết ông cụ ở đâu. Cũng không biết ông đi mua dao kéo hay làm ra dao kéo để bán. Vùng này lâu lâu mới họp chợ. Nhưng không phải phiên chợ nào ông cũng đến. Mà thường chỉ có mặt vào những phiên chợ cuối tháng. Vì vậy, mỗi lần thấy ông, mọi người lại xô đến mua dao kéo. Người trong vùng ai cũng biết là dao kéo ông cụ bán vừa sắc, vừa bền. Ngoài ra, người ta đồn ông còn bán cả những con dao, cái kéo kỳ lạ nữa. Lần ấy có một gã dáng vẻ ngông nghênh đến hỏi mua một con dao lớn. ông cụ nhìn mặt gã rồi hỏi rất nhẹ nhàng:
    -Anh mua con dao này để làm gì?
    -Để chặt cây.
    Ông già nhìn kỹ vào đôi mắt gã kia và biết là gã nói dối. ông liền bảo:
    -Con dao này đã có người mua!
    Gã kia trợn mắt quát to:
    -Có người mua, sao không nói ngay, lại còn hỏi ta mua để làm gì?
    Gã định giở trò cướp không con dao. Nhưng ông cụ đã nhanh tay cầm trước con dao và nói:
    -Đây là một con dao quý. Tôi có thể dùng nó chém đổ cái cây bên kia đường.
    Ông cụ nói xong, dùng dao chém nghe vù một cái. Lập tức cái cây bên kia đường kêu rắc rắc một tiếng và đổ gục xuống. Gã kia sợ quá. Gã hiểu rằng nếu gã định giở trò gì thì ngay lập tức, có thể bị ông cụ dùng con dao ấy, chém gãy tay, thậm chí đứt đầu mà con dao không cần chạm đến người. Gã ta chuồn thẳng. Hỏi ra mới biết đó là một tay trộm cướp nhiều người đã biết mặt. Một lúc sau, một người trai trẻ khác đến hỏi mua con dao nọ. ông cụ nhìn anh, hỏi nhẹ nhàng:
    -Anh mua con dao này để làm gì?
    -Thưa cụ! Để cùng dân làng cháu đánh đuổi bọn cướp ở nước bên kia, cứ thỉnh thoảng kéo sang cướp của, giết người.
    Ông cụ nhìn kỹ vào đôi mắt chàng trai và biết đây là một người tốt. Ông bán ngay con dao nọ cho chàng trai với cái giá không đắt như mọi người tưởng. Ông còn bày cho anh cách tập dùng dao để có thể chém giết những tên giặc cướp từ xa. Sau đấy khá lâu, có một chú bé chừng mười bốn tuổi, mười lăm tuổi tìm đến gặp ông cụ ở chợ phiên. Chú mừng lắm. Nhưng chú chỉ đứng nhìn ông trân trân... ông cụ liền hỏi:
    -Cháu muốn gì cứ nói cho ta biết!
    -Thưa cụ, không biết có cái kéo nào...
    Chú bé ngập ngừng. ông cụ lại khuyến khích chú:
    -Cháu cần thứ kéo gì?
    Thấy vẻ mặt ông vẫn hiền lành, vui vẻ, chú bé mới dám nói thêm:
    -Thưa cụ, cái thứ kéo có thể cắt được... nắng ấy mà!
    Mọi người đứng xung quanh đấy cười ồ lên... trừ ông cụ. ông cụ ôn tồn hỏi chú bé:
    -Cháu cần cắt nắng để làm gì?
    -Thưa cụ, bà cháu già yếu quá. Mùa đông vừa mới đến mà ban đêm, đắp chiếu nằm trên ổ lá, bà cháu kêu là rét quá cứ như nằm trên nước... Bà cháu ốm liền hai trận. Bà cháu ước có cái kéo, cắt được một vạt nắng mang về cất giữ, đêm đến mang ra cho bà cháu đắp, chắc bà cháu sẽ được ấm, sẽ khỏi bị ốm và chết vì rét ạ!
    -Nhà cháu ở gần đây chứ?
    -Thưa cụ xa lắm ạ. Cháu phải đi mất hai ngày đường.
    -Bố mẹ cháu đâu?
    -Thưa cụ, bố mẹ cháu mất sớm cả rồi. Bà cháu đã vất vả nuôi cháu từ bao năm nay.
    -Bà bao nhiêu tuổi rồi, còn làm gì được không?
    -Thưa cụ, sang năm là bà cháu đúng bảy mươi tuổi đấy ạ! Bà cháu vẫn nhúc nhắc dệt cho nhà người ta mỗi ngày được một ít vải để kiếm gạo ăn.
    -Còn cháu?
    -Cháu đi chăn lợn cho nhà hàng xóm, và cũng bắt đầu đi xin học dệt ạ.
    Ông cụ nhìn chú một cách trìu mến rồi bảo:
    -Cháu ạ! Đây là lần đầu tiên ta nghe có người hỏi mua kéo để cắt nắng... Cũng hay, hay lắm. Nhưng ta chưa có để bán cho cháu ngay được... Phiên sau, ta sẽ mang kéo đến đây. Liệu cháu có thể đến được lần nữa không?
    -Thưa cụ, một lần chứ hai lần, ba lần, cháu vẫn xin đến.
    Vào ngày phiên chợ sau chú bé lại đến ngóng đợi ông cụ. Mọi người biết chuyện cũng kéo đến xem. ông cụ đến chào mọi người rồi đưa cho chú bé một cái túi xếp bằng bẹ chuối khô. Chú bé mở ra thấy một cái kéo, chỗ cầm cắt thì bằng sắt nhưng lưỡi lại bằng cật tre, và kèm theo một mảnh giấy có chép mấy câu thơ. ông cụ bảo chú bé:
    -Cháu cứ làm đúng theo mấy câu này thì sẽ cắt được nắng cho bà cháu đắp. Ta biết cháu nghèo lắm nên tặng cho cháu cái kéo này. Thôi, cháu về đi. Ta cũng phải đi ngay vì có hẹn với khách hàng ở nơi khác.
    Nói xong, ông xách bị dao kéo đi luôn. Mọi người xúm lại bảo chú bé đọc mấy câu thơ, chú liền đọc:
    Kéo cắt một lần
    Biến mất liền tay
    Nắng chảy thành sợi
    Cắt ngay! Cắt ngay!
    Cái chăn toàn nắng
    Ấm đêm ấm ngày
    Chăn truyền hơi ấm
    Nhà ấy, nhà này,
    Nắng chui xuống đất
    Trở về, lung lay...
    Mang cái kéo và mấy câu thơ về làng, chú bé kể lại hết mọi chuyện cho bà nghe. Cả hai bà cháu nghĩ mãi mà vẫn chưa hiểu mấy câu thơ nói gì. Một buổi trưa, đang ngồi bần thần nhìn mấy tia nắng từ mái nhà tranh dột nát rọi xuống nền nhà, chú bé bỗng reo lên:
    -Đúng là nắng chảy thành sợi kia rồi!
    Chú bé liền chạy đi lấy cái sàng gạo, rồi leo lên mái nhà. Chú bới chỗ mái tranh bị dột nát cho rộng ra rồi đặt cái sàng vào đó. Mặt trời rọi xuống, cái sàng có bao nhiêu lỗ thì có bấy nhiêu tia nắng rọi xuống, nhìn cứ vàng óng. Chú bé liền đem cái kéo của ông cụ cho thử cắt những sợi nắng xem có cắt được không. Lạ lùng chưa, những sợi nắng theo nhau rơi xuống cứ óng ánh, lấp lánh. Chú bé liền cắt tiếp. Những sợi nắng chồng lên nhau cao dần. Chú lại cắt nữa, cắt nữa. Bây giờ thì những sợi nắng đã vun lên thành một đống khá cao. Bỗng chú bé "ồ" lên một tiếng. Cái kéo tự nó đã biến mất ở ngay trong tay chú bé lúc nào không hay. Chú bé liền chạy ra vườn sau mừng rỡ gọi bà về. Thấy cả một núi sợi nắng nằm sáng rực ở giữa nền nhà, bà cụ mừng quá cứ tưởng mình đang nằm mê.
    -Bà ơi! Cháu và bà hãy dệt những sợi nắng này thành một tấm chăn thật dày. Bà không còn phải lo bị rét, bị ốm nữa!
    Hai bà cháu dệt xong tấm chăn thì người trong xóm kéo đến chật cả nhà. Ai cũng sờ tấm chăn và ai cũng khen là ấm quá. Chú bé sực nhớ hai câu thơ: "Chăn truyền hơi ấm. Nhà ấy, nhà này" Chú liền bảo mấy người hàng xóm mang chăn của họ đến nhà chú. Chú trải từng cái chăn của họ rồi đắp cái chăn vàng óng của bà mình lên trên. Chỉ một lúc sau, cả hai cái chăn đều ấm như nhau. Người xóm gần xóm xa thấy thế mừng quá liền rủ nhau mang chăn đến để xin cái hơi nắng ấm. Nhớ ơn ông cụ đã cho mình cái kéo có phép lạ, chú bé liền đi tìm ông để tạ ơn. Nhưng một lần, rồi hai lần, đi chợ phiên chú bé không làm sao gặp lại được ông cụ. Chú bé đành buồn rầu ra về. Nhờ có cái chăn ấm, tuổi thọ của bà cụ được kéo dài ra. Chú bé đã thành một chàng trai, dệt giỏi có tiếng. Chàng trai lấy vợ rồi có con. Bà cụ vui lắm. Nhưng rồi cũng đến lúc bà phải từ giã cõi đời. Trước khi nhắm mắt, bà dặn các cháu chắt:
    -Các cháu đã thương bà hết lòng. Bà con ai cũng yêu quý các cháu. Bà chết mà lòng rất nhẹ nhàng.
    Nhớ đến cái chăn quý, bà cụ lại dặn:
    -Bà về với đất, đất ấm chứ chẳng lạnh đâu. Các cháu cứ giữ cái chăn quý lại mà dùng.
    Ngày chôn cất bà cụ, trời bỗng trở rét đậm. Hai vợ chồng người cháu bàn nhau mang cái chăn quý ra đắp lên trên mộ cho bà được ấm. Trời xẩm tối. Bó hương cắm ở đầu nấm mồ đỏ rực. Cái chăn phủ lên nấm mồ cũng sáng bừng lên.
    Hai vợ chồng người cháu ngồi bên nấm mồ một lúc lâu rồi trở về nhà. Nửa đêm thức dậy, nhìn ra nấm mồ của người bà, chôn ngay trên cái gò ở trước mặt nhà, hai vợ chồng người cháu bỗng thấy có khói bốc nhiều trên nấm mồ. Hai vợ chồng chạy ra thì thấy tàn lửa của bó hương bay đáp xuống làm cái chăn cứ cháy âm ỉ, lửa không bốc thành ngọn. Cái chăn đã thành tàn tro đen. Sáng hôm sau, ra thăm lại mộ thì những tàn tro đen của cái chăn đã bị gió thổi bay tản mạn khắp trên gò. Mùa đông năm sau đến. Cái gò trước kia, vào mùa giá rét, thường vẫn trở lạnh, vắng vẻ, năm nay bỗng mọc đầy một loài cây mới lá xanh một màu xanh thật hiền lành, lặng lẽ. Khi những cây ấy trổ hoa thì cả khu gò vàng rực lên như được phủ đầy nắng. Gió bấc thổi, cả khu gò đầy hoa vàng lại lung lay. Mãi đến lúc này, người cháu mới sực nhớ đến hai câu cuối trong bài thơ: Nắng chui xuống đất. Trở về, lung lay. Như thế có nghĩa là loài cây mới, có hoa vàng như nắng này là từ những tàn tro của cái chăn dệt bằng những sợi nắng, vùi xuống đất, sinh ra.
    Qua hết mùa hoa, những cây kia kết quả. Những quả nhỏ và dài trong đựng đầy những hạt nhỏ li ti, màu nâu đen, nhìn giống như những tàn tro của chiếc chăn quý. Mang những hạt ấy về vườn gieo vãi, bà con trong xóm lại thấy mọc lên loài cây mới mà ngày nay ta gọi là cây Cải Hoa Vàng. Bà con thường gieo cải trên những mảnh vườn lớn, nhỏ, khi cải nở hoa, từng mảnh vườn lớn, nhỏ ấy cứ vàng rực như từng mảng nắng lớn, có gió thổi cứ khẽ đong đưa, đong đưa... và từng bông hoa như muốn nói một điều gì với ai đang nhìn nó.
    #2
      Thanh Vân 29.09.2009 17:13:18 (permalink)
      SỰ TÍCH HOA CẨM CHƯỚNG


      Cẩm Chướng, đóa hoa hồng như những viên bông gòn, không hương, nhưng lại rất đẹp. Cái đẹp thầm lặng. Cẩm Chướng rất quan trọng trong cuộc sống của người Hy lạp và Ý. Vào thời phồn thịnh của Ý(Romans era) cẩm Chướng trở thành biểu tượng của sự hùng mạnh của dân tộc nàỵ Cẩm Chướng cũng được gọi là hoa của Jove, vì Jove là một trong những thần được quý chuộng nhất.
      Sự tích cẩm Chướng thật khó biết, nhưng một trong những điển tích của nó xuất phát từ thánh kinh. Sách vở kể lại trong thánh kinh, khi Đức Mẹ Đồng Trinh Mary nhìn thấy chúa Jesus bị đóng đinh, bà bật khóc. Từng giọt nước mắt của bà rơi xuống chân Chúa, thấm vào lòng đất và từ đó mọc lên những cành cẩm Chướng đủ màu lộng lẫy.
      Cẩm Chướng còn được dùng trong việc tiên đoán tương lai của người con gái vị thành niên ở Đại Hàn. Khi người con gái ở vào tuổi vị thành niên, ba đóa hoa cẩm Chướng được cài lên búi tóc của cô gái theo thứ tự. Nếu đóa hoa nào tàn trước, chẳng hạn như đóa dưới cùng, cô bé sẽ phải chịu khổ cực cả cuộc đời. Còn nếu đóa trên cùng, thì những ngày cuối cuộc đời, cô bé phải chịu nhiều đau khổ. Khoảng đầu đời của cô bé sẽ rất khốn khó, nếu như đóa chính giữa tàn nhanh hơn hai đóa hoa kia.
      Trong chuyện cổ tích của nước chúng tạ. Sự tích hoa cẩm Chướng ít được người nhắc đến, có lẽ vì cẩm Chướng không phải là hoa địa phương vì nó không xuất phát từ Việt Nam? Dù gì chăng nữa, hoa cẩm Chướng cũng đã để lại một huyền thoại trong lòng những đứa trẻ thơ, trong những đêm trăng sáng quân quần nghe mẹ kể chuyện.

      Cẩm Chướng cũng xuất phát từ một chuyện tình. Câu chuyện tình của một cô công chúa tóc dài sống lẻ loi trong cung điện trên vùng thượng nguồn. Trời cao nguyên lành lạnh đủ làm tăng màu đen óng ả của mái tóc, làm căng làn da mặt trắng hồng mịn màng như bông, làm màu đỏ của đôi môi người con gái như mọng hơn lên trong màn sương xám, và nhất là làm đôi mắt ướt cuả nàng như sáng long lanh trong những giọt sương. Cẩm Chướng đẹp nổi tiếng khắp nơi, nhưng đồng thời nàng bao giờ cũng mang một vẻ buồn. Sở dĩ nàng phải chịu cảnh sống lẻ loi giữa vùng hẻo lánh này chỉ vì lời tiên đóan của một lão ông với vua cha, khi nàng vừa chào đời, rằng nàng sẽ phải chịu nhiều bất hạnh. Vua cha vì sợ, và thương con, nên đành đem nàng đi cất giấu nơi đèo heo khuất gió để tránh khỏi hung tà. Thế nhưng tiếng đồn xa gần về sắc đẹp của Cẩm Chướng cũng lan nhanh, nhất là những buổi chiều khi giọng hát của nàng lan rộng khắp núi đồi, hoà vào hợp âm của những chú chim non hót véo von xung quanh, và những cơn gió reo bên ngoài.
      Bao nhiêu người đánh tiếng hỏi vợ, nhưng vua cha một mực từ chối, thâm tâm vẫn để ý kiếm tìm một phò mã xứng danh. Một ngày kia, Cẩm Chướng lâm bạo bệnh. Thầy thuốc hết sức chữa nhưng đành cúi đầu chịu thua. Bỗng đâu vị lão phu ngày nọ đòi diện kiến nhà vua, và phán rằng bệnh của nàng chỉ có thể chữa được bằng lá của một loài hoa trắng, mọc cheo leo trên đỉnh núi, giữa hai vực thẳm và một ngọn thác. Vua phải tìm cho bằng được cánh hoa đó để cứu con, nên truyền lệnh hễ ai kiếm được đóa hoa đó, sẽ lấy được nàng, và sẽ được truyền ngôi cho. Bao nhiêu chàng trai đua nhau vào rừng tìm kiếm, nhưng đều thất vọng, trong khi đó sức khoẻ của Cẩm Chướng tắt dần.
      Trong lúc mọi người thất vọng, một hôm, người tiều phu trẻ, dáng nghèo nàn, xuống ngựa đem dâng vua cha bông hoa màu trắng. Từng cánh hoa phục hồi sức khỏe của nàng. Đôi mắt từ từ mở ra, lần đầu tiên để người ân nhân nhìn thấy bóng hình của hai đóa hoa thấp thoáng trong ánh mắt đó.
      Lễ cưới được cử hành chưa được bao lâu, thì tai biến xảy đến cho đất nước. Tuân lệnh vua cha, chàng phò mã trẻ cầm quân, tạm chia tay với vợ, ra xa trường dẹp giặc ngoại xâm. Họ hẹn nhau ngày đoàn tụ, và chiều chiều nhờ gió hát gửi theo hướng đến người kia, như một lời trò chuyện... Những lá thư viết trên những cánh chim làm tin, đều đặn bay đi về.
      Một hôm nàng bặt tin chồng, tiếng hát của nàng dường như loãng vào khoảng không, chỉ còn tiếng vọng lại từ gió núi. Cẩm Chướng chờ mãi tin chồng, nhưng những cánh chim bay đi, rồi lại trở về không. Đoán điềm chẳng lành đã xảy ra, chiều chiều nàng ra nơi thác núi, tiếp tục chờ tin. Cho đến một buổi chiều, chim bay về đem tin chẳng lành. Bật khóc, và tuyệt vọng, Cẩm Chướng tung mình theo dòng thác, mất tích giữa giòng nước ồ ạt.
      Từ chỗ chân nàng đứng, theo những giọt nước mắt rơi xuống, người ta về sau tìm thấy một loài hoa mới, với dáng dấp y hệt như đóa hoa trắng của anh tiều phu trẻ cứu người, chỉ khác màu đỏ thắm. Đóa hoa nở cạnh giòng thác, êm đềm, và dịu dàng, nhưng vẫn kiêu sa và vững vàng giữa trời gió cao nguyên và khí trời khắc nghiệt của cao nguyên.
      Lạ hơn nữa, trong những ngày u uất nhất, người lữ khách vô tình soi bóng trên giòng nước, sẽ thấy bóng phản chiếu của những đóa hoa mang màu mắt long lanh, và bóng hình y hệt đôi mắt nàng công chúa. Từ đó hoa mang tên Cẩm Chướng, để tưởng nhớ hoài đến nàng công chúa chung thuỷ chờ chồng.
      Sự tích hoa cẩm Chướng có lẽ mang cùng một xuất phát, vì trong tiếng Pháp, hoa cẩm Chướng cũng mang cùng một cái tên "Oeillet"(đôi mắt). Huyền thoại Pháp cũng đã kể về một chuyện tình tương tự. Có thể đó cũng chỉ cùng một xuất xứ, một truyền thuyết? Như câu chuyện trong thánh kinh của mẹ Maria.
      #3
        Thanh Vân 29.09.2009 17:13:57 (permalink)

        SỰ TÍCH HOA CỎ MAY


        Ngày xửa ngày xưa, tại một ngôi làng nọ có đôi trai gái yêu nhau rất thắm thiết. Nàng xinh đẹp, là con gái của một gia đình giàu có, một tiểu thư khuê các, còn chàng chỉ là anh đốn củi nghèo, mồ côi sống trong túp lều tranh xơ xác.
        Có không ít những người môn đăng hộ đối muốn cùng nàng “kết tóc xe tơ”, nhưng nàng chẳng cảm mến ai, vì trọn con tim đã gửi cho chàng trai chăm chỉ, thật thà, tốt bụng.
        Mối tình của họ không được chấp thuận, bố mẹ nàng đuổi chàng ra khỏi làng. Vì quá yêu nhau, họ bàn bạc đi đến một nơi thật xa, nơi không ai biết để cùng làm ăn sinh sống. Chàng sẽ cày cuốc thuê, nàng ở nhà trồng rau, dệt vải. Họ chấp nhận cơ cực để được sống bên nhau trọn đời.
        Nhưng cuộc sống cơ cực đã biến nàng từ một tiểu thư khuê các thành người đàn bà lam lũ. Nhìn người vợ trẻ rất mực yêu quý phải vất vả đầu tắt mặt tối, chàng không an lòng.
        Hàng đêm chàng tự dày vò, trách cứ bản thân đã không đem lại được cuộc sống đầy đủ cho vợ. Nỗi day dứt khiến chàng quyết chí ra đi làm giàu. Chàng để chút vốn liếng ít ỏi còn lại đỡ đần người vợ trẻ rồi ra đi, hẹn một năm sau trở về với cuộc sống đầy đủ, khá giả hơn.
        Người con gái ở nhà dệt đan, trồng rau, nuôi trong mình niềm tin, niềm hy vọng mãnh liệt chàng sẽ trở về. Một năm, hai năm, rồi ba năm…thời gian cứ đằng đẵng trôi đi, nàng vẫn không nhận được tin tức của chồng. Nỗi nhớ nhung cùng niềm mong mỏi làm nàng ngày càng trở nên xơ xác, héo hon. Tình yêu, niềm tin vào người chồng thật thà, tốt bụng khiến nàng quyết định đi tìm chàng với ước mong về một ngày mai đoàn tụ.
        Nàng ra đi, đi đến đâu cũng hỏi về tung tích người chồng yêu quý. Biển người mênh mông bao nhiêu, đất trời rộng lớn bao nhiêu cũng không làm người con gái ấy nản lòng. Tình yêu vẫn luôn thường trực và bùng cháy trong sâu thẳm trái tim, một trái tim khát khao kiếm tìm hạnh phúc.
        Thế nhưng tình yêu, niềm tin và hy vọng của nàng cuối cùng chỉ đổi lại bằng những cái lắc đầu, xua tay. Nàng cứ đi, đi mãi, cho đến một ngày mệt quá xỉu lúc nào không hay. Nàng nằm xuống, trong lòng vẫn đau đáu nỗi niềm chờ mong, hy vọng.
        Cảm kích trước tình yêu son sắt thủy chung của người vợ trẻ, sau khi nàng chết, Ngọc Hoàng đã hóa phép biến nàng thành một loài hoa cỏ, loài hoa cỏ màu tím bàng bạc, có sức sống mãnh liệt giống như tình yêu thủy chung của nàng.
        Chị gió tốt bụng cảm động trước tấm chân tình của người con gái đã đem loài hoa cỏ ấy đi khắp mọi nơi trên các nẻo đường gần xa.
        Dù cho người con gái ấy không còn nữa, nhưng tình yêu của nàng thì bất diệt cùng tháng năm, để rồi mỗi lần có khách đi đường ngang qua, nàng vẫn cố gắng níu bám vạt áo họ để hỏi thăm tin tức về chồng.
        Hoa cỏ may sắc nhọn, nhức nhối một nỗi niềm đau của tình yêu trong xa cách.
        #4
          Thanh Vân 29.09.2009 17:31:23 (permalink)
          SỰ TÍCH HOA BÍCH THẢO


          Thuở ấy khi vừa bước vào Thiên Đường, Bích Thảo đến đứng trước một cây kỳ lạ, cây vừa là đàn ông vừa là đàn bà. Bích Thảo cúi chào cây một cách kính cẩn và hỏi : "Chào cây, cây có phải là cây của sự sống không?" Nhưng khi có con rắn muốn thay cây trả lời cho chàng thì Bích Thảo quay lưng bỏ đi.
          Chàng tập trung thị giác để nhìn, mọi thứ ở trên Thiên Đường đều làm cho chàng thích thú. Chàng cảm thấy rõ mình đang ở chốn quê hương, đang ở nơi cội nguồn cuộc sống.
          Chàng tiếp tục đi và lại gặp một cây kỳ dị khác, cây này vừa là mặt trời vừa là mặt trăng. Bích Thảo hỏi : "Này cây ơi, cây có phải là cây của sự sống không ?"
          Bên phía cây mặt trời gật gật cái đầu và cười toét miệng còn bên phía mặt trăng thì gật nhẹ đầu và nhoẻn miệng cười mủm mỉm.
          Những bông hoa tuyệt diệu nhất chớp mắt nhìn chàng với nhiều màu sắc và ánh sáng khác nhau, với nhiều đôi mắt long lanh và nhiều vẻ mặt khác nhau. Có những khóm cây gật đầu và cười toe toét. Vài cây khác chỉ gật đầu và cười chúm chím. Có những cây khác thì chẳng gật đầu mà cũng chẳng mỉm cười. Chúng đứng yên mê mẩn, chúng đắm mình suy ngẫm như say như đắm đuối trong suối hương nồng, hoa hương quyện lẫn.
          Một đóa hoa cất tiếng ca bài Tím nhạt, đóa khác hát bài ru con Xanh thẫm. Một đóa hoa trong đám hoa có đôi mắt to màu xanh da trời, còn một đóa hoa khác có khuôn mặt làm cho Bích Thảo nhớ đến mối tình đầu tiên của chàng. Có đóa hoa thơm mùi hương của khu vườn thời thơ ấu, hương thơm ngọt ngào của hoa thoảng nhẹ như giọng nói của mẹ chàng. Còn đóa hoa khác tươi cười chào chàng và thè cái lưỡi đỏ uốn cong đến gần chàng. Chàng đưa lưỡi chạm vào hoa, cảm nghe hương vị nồng nàn man dại như nhựa cây, như mật ong và như nụ hôn của một người đàn bà. Bích Thảo đứng giữa ngàn hoa, lòng tràn ngập những ước ao và những niềm vui mong manh. Ngân nga như tiếng chuông reo, tim chàng đập liên thanh trái tim nóng bỏng, trái tim cuồng vọng những ham muốn vô tri và linh cảm huyền hoặc.
          Bích Thảo tiếp tục nhìn ngắm Thiên Đường chàng bỗng thấy một con chim đang đậu trong vùng cỏ dại, con chim lấp lánh muôn màu muôn sắc, hầu như tất cả các màu sắc ở trên thế gian chim đều chiếm hết. Chàng hỏi con chim mỹ miều muôn sắc : "Này chim, vậy hạnh phúc ở đâu vậy hỡi chim ?"
          "Hạnh phúc hả ?", con chim mỹ miều nói và cười bằng cái mỏ vàng của nó, "Này bạn ơi, hạnh phúc ở khắp mọi nơi, ở núi rừng, ở đồng bằng thung lũng, ở hoa bướm, ở trong pha-lê".
          Vừa mới buông lời con chim hớn hở rũ lông, rụt cổ nhịp đuôi, há mỏ cười một lần nữa rồi lại đứng bất động lặng yên trong đám cỏ. Và này hãy xem! Thoáng chốc con chim đã hóa ra một đóa hoa sặc sỡ, lông chim là những ngọn lá, móng chim là rễ cây. Trong vẻ lóng lánh muôn màu, giữa lúc nhảy nhót múa may con chim lại biến mình thành một cái cây. Bích Thảo trố mắt kinh ngạc trong lúc chứng kiến trò ảo thuật kỳ diệu này.
          Ngay sau đó "đóa hoa chim" rung động những ngọn lá và những giây bụi phấn của hoa thế là lại thấy chim biến thành đóa hoa, không còn rễ cây, đóa hoa chuyển mình nhẹ nhàng từ từ cất bổng mình lên cao, rồi bỗng hóa ra một con bươm bướm sáng ngời, lượn mình trên khôn nhẹ bổng nhẹ bông như không có trọng lượng, hoa bấy giờ toàn thân là ánh sáng, vẻ hoa là hào quang. Bích Thảo ngây người càng mở lớn đôi mắt kinh ngạc.
          Con bươm bướm mới, con bướm-hoa-chim sặc sỡ, hớn hở, quang diệu như gương, nhởn nhơ lượn quanh chàng Bích Thảo sững sờ, lấp la lấp lánh trong ánh mặt trời, bướm bay bay lượn lượn rồi từ từ hạ mình xuống đất nhẹ nhàng như một nắm tơ, đậu sát vào chân Bích Thảo, bướm thở nhẹ nhàng, rung nhẹ thân mình với đôi cánh lóng lánh - và khoảnh khắc - bướm lại hóa thành một viên pha-lê muôn màu, ở một góc pha-lê lóe ra một tia sáng đỏ hồng.
          Viên pha-lê đỏ chiếu lấp lánh tuyệt vời trong đám cỏ và bụi cây, sáng rõ dòn dã như tiếng chuông ngân ngày hội. Nhưng rồi hình như có tiếng gọi về của quê hương viên ngọc-đó là lòng trái đất-cho nên viên ngọc từ từ thu bé lại và sắp sửa lịm dần vào lòng đất...
          Trong lúc chứng kiến cảnh này trong lòng Bích Thảo bỗng nổi lên một ham muốn dữ dội, chàng vội vàng nhặt nhanh viên ngọc lên trước khi ngọc sắp tan biến vào lòng đất.
          Bích Thảo ngây người ngắm nhìn ánh sáng huyền hoặc của viên ngọc trong tay.
          Ánh hào quang như tỏa ra cho Bích Thảo một linh cảm về niềm hạnh phúc toàn diện trong tâm khảm.
          Trong lúc ấy bỗng nhiên con rắn trườn đến quấn mình vào một nhánh cây khô, rắn ghé đầu rít vào tai chàng : "Viên ngọc này có thể biến mày thành điều gì mà mày muốn Bích Thảo ạ. Hãy nói nhanh cho viên ngọc biết điều ước của mày trước khi ngọc thu lại, kẻo chậm mất !"
          Bích Thảo giật mình, chàng sợ đánh lỡ mất hạnh phúc vội vàng nói nhanh ước muốn của mình, lập tức chàng liền biến thành một cái cây. Bởi vì đã từ lâu chàng mơ ước mình được làm một cái cây, bởi lẽ cây đối với chàng là sự bình an, là nhựa sống, là niềm vinh dự.
          Như vậy Bích Thảo hóa thân thành một cây xanh.
          Chàng đâm rễ vào lòng đất, lớn nhanh và vươn mình lên cao. Lá và cành mọc ra từ tứ chi của chàng. Chàng rất tự mãn về sức lớn của mình, với những rễ cây khát nhựa chàng đâm mình hút sâu vào lòng đất, chàng phất cao thân trong tầng xanh với cành lá của mình. Những con bọ rầy bắt đầu tìm đến cư ngụ nơi thân cây. Thỏ và nhím đến tá túc ở gốc cây, còn chim thì đến làm tổ ở cành cây.
          Cây "Bích Thảo" rất đỗi hạnh phúc và không màng đến năm tháng trôi qua. Đã có nhiều năm qua đi trước khi chàng nhận ra rằng thật sự hạnh phúc của chàng không được hoàn toàn. Phải tốn một khoảng thời gian chàng mới học được cách nhìn với "con mắt cây". Cho đến khi chàng đạt được cách nhìn này thì chàng đâm ra buồn rầu.
          Chàng nhìn thấy được rằng ở trên Thiên Đường quanh chàng mọi vật thường đổi kiếp thay thân, rằng mọi vật đều nằm trong giòng luân lưu ảo thuật của sự hóa thân vĩnh cửu. Chàng thấy những bông hoa biến thành châu ngọc hay hóa thành những con chim líu lo đầy ánh sáng bay vụt đi. Chàng thấy bên cạnh mình có nhiều cây bỗng biến mất, có cây tan ra thành nguồn suối, có cây thành cá sấu, có cây lại bơi lội như loại cá nhởn nhơ mát mẻ, đầy khoái lạc và cảm quan vui thú, với những hình dạng mới mẻ, chúng bắt đầu những trò chơi khác lạ. Những chú voi đổi áo của mình với các tảng đá núi, những chàng hươu cao cổ đổi hình dạng của mình với các bông hoa. Chỉ riêng chàng -cây Bích Thảo- thì vẫn giữ nguyên là cái cây, chàng không thể biến đổi ra cái gì khác nữa.
          Từ khi nhận biết được điều này, hạnh phúc của Bích Thảo biến mất đi. Chàng bắt đầu trở nên già cỗi, chàng bắt đầu có dáng điệu mệt mỏi nghiêm nghị và lo âu. Điều này người ta thường thấy được hằng ngày ở các loài ngựa, loài chim, loài người. Những sinh vật thường trở nên già nua nếu chúng không có được năng khiếu hóa thân thì với thời gian chúng sẽ rơi vào sự buồn nản và lo âu xao xuyến và cứ thế mà mọi vẻ đẹp dần dần biến mất.
          Cái cây Bích Thảo cứ đứng yên như thế ở Thiên Đường...
          Cho đến một ngày nọ có một người con gái trẻ đi đâu lạc vào chốn Thiên Đường, cô gái có một mái tóc vàng óng ả, cô mặc một chiếc áo xanh màu thiên thanh. Cô bước đi thảnh thơi trong chốn bồng lai, nhởn nhơ dưới các cây xanh, cô vừa hát vừa nhảy múa và trong đầu cô chưa bao giờ nghĩ đến việc ước mong có biệt tài hóa thân.
          Nhiều chú khỉ khôn ngoan mỉm cười nhìn theo cô, các khóm cây vuốt ve cô bằng cành cây, các cây khác ném tặng cô một búp hoa, một hạt dẻ, một trái táo nhưng cô không để ý đến, cứ thảnh thơi đi, hát và nhảy múa.
          Khi cây Bích Thảo thấy được cô gái, chàng liền cảm nghe trong tim một nỗi nhớ nhung mông mênh chảy dội về, một thứ nhớ như một lời kêu gọi hạnh phúc chưa bao giờ có được. Đồng thời một ý nghĩ thầm kín choáng ngập tâm hồn chàng, chàng cảm nghe như chính giòng máu của mình lên tiếng gọi : Bích Thảo, hãy suy nghĩ kỹ đi. Trong giờ phút này hãy nhớ lại cả cuộc đời mình, nếu không sẽ muộn mất thôi, và không bao giờ, không bao giờ nữa mày sẽ gặp được hạnh phúc.
          Bích Thảo tuân theo tiếng gọi của con tim, chàng đứng nhớ về tất cả nguồn cội của mình, nhớ những năm làm người, nhớ lúc nhập vào Thiên Đường và nhất là nhớ đến giây phút xa kia, trước khi chàng biến thành cái cây, giây phút chàng cầm trong tay viên ngọc nhiệm màu ấy. Nhớ đến thuở ấy, khi mà mọi sự hóa thân đối với chàng còn mở ngỏ, cái thuở mà cuộc sống như chưa bao giờ nóng bỏng đến như thế. Chàng nhớ lại con chim ngày ấy đã cười vang, nhớ cái cây kỳ lạ vừa là mặt trời vừa là mặt trăng. Trong thoáng chốc linh tính cho chàng biết rằng thuở ấy chàng đã bỏ một điều gì đó, rằng lời khuyên của con rắn đã không là lời khuyên tốt lành.
          Giữa lúc đang đi, cô gái tóc vàng chợt nghe trong đám lá của cây Bích Thảo có tiếng rì rào như một lời kêu nho nhỏ cô ta ngẩng đầu nhìn lên, tim cô bỗng nhói lên một niềm cảm xúc, từ đáy lòng cô nghe rạo rực những tưởng tượng mới mẻ, một ước muốn khác thường, những mộng mơ chưa bao giờ có ở trong tâm. Như bị cuốn hút bởi một sức mạnh lạ lùng cô đi đến ngồi dưới cây, cô nhìn cây Bích Thảo và thấy cây có vẻ cô đơn, lẻ loi và buồn bã, nhưng lại có một vẻ gì đẹp đẽ dễ rung cảm và cao quý trong nỗi buồn câm lặng của cây. Tiếng ca thỏ thẻ dịu dàng của cây vẳng lên làm cho cô ngây ngất tâm hồn. Cô gái tựa mình vào thân cây xù xì cảm nghe cây rùng mình thâm sâu và nghe trái tim mình như đang cảm nhận nỗi giao động của cây. Tim cô nhói đau một nỗi lạ lùng, trên bầu trời linh hồn cô những đám mây như vụt bay cao và không khóc mà nước mắt trĩu nặng bờ mi. Có chuyện gì thế này ? Có thể đau đớn đến thế này sao ? Tại sao con tim chỉ chờ phá tan lồng ngực để chảy tràn ra, tan biến đến người, vào tận trong người, con người cô đơn đẹp đẽ kia ?
          Cây người Bích Thảo run lên như cảm thông được nỗi lòng người con gái, thân cây rung động đến tận gốc rễ rồi dồn hết tất cả sức sống của mình cây hướng về phía người con gái trẻ với tất cả ước muốn nóng bỏng được tan hòa với nàng. Cây nghĩ : Chà, ta đã bị con rắn độc đánh lừa để tự đưa mình vĩnh viễn thành một cây cô đơn. Ôi ta đã mù quáng biết bao ! Ôi ta đã điên rồ biết bao ! Ta đã không có một tri thức nào cả sao ? Tại sao sự bí mật của cuộc sống đối với ta lại xa lạ đến thế kia ư ? Không, không, thuở ấy ta đã linh cảm đến điều ấy rồi .Chà bây giờ chàng nhớ đến cái cây vừa là đàn bà vừa là đàn ông (mà con rắn không cho cây trả lời) với nỗi buồn rầu và nỗi giác ngộ sâu xa.
          Giữa lúc ấy có một con chim bay đến, con chim xanh lục đỏ điều, con chim mỹ miều, con chim anh điểu, con chim vàng anh bay lượn thanh thanh. Cô gái nhìn chim bay quanh, nhìn thấy từ mỏ chim nhả ra một vật gì rơi xuống cỏ, vật ấy long lanh màu đỏ như máu đỏ, như lửa hồng, nó rơi xuống đám cỏ dại màu xanh chiếu sáng để cho cỏ ngời ánh hào quang, rất quen thuộc như thuở ấy ánh xuân xanh. Màu đỏ của nó chiếu sáng rộn rã tưng bừng đến nỗi cô gái phải cúi mình xuống nhặt cái màu đỏ ấy lên. Thì thấy đó là một viên ngọc pha-lê, một viên ngọc muôn màu muôn vẻ, ở đâu có ngọc ở đấy không bao giờ có bóng tối.
          Lúc cô gái cầm viên ngọc kỳ diệu trong bàn tay trắng nõn nà của cô thì lập tức điều ước của Bích Thảo liền thành sự thực, điều ước mà tim chàng bấy lâu nay đang ấp ủ. Liền ngay cô gái đẹp bỗng nhiên thấy người lảo đảo, cô ngã xuống hóa thân dính liền với cây Bích Thảo làm một, từ thân cây một cành cây non chồi lên non trẻ, vươn lên cao vút và đầy sức lực.
          Đến giờ phút này, mọi sự việc đều trở thành toàn thiện. Bấy giờ thế giới mới được an bài và chỉ trong khoảnh khắc này, Thiên Đường mới thực sự được tìm thấy, bây giờ Thiên Đường mới thực sự là Thiên Đường. Bích Thảo không còn là cái cây ưu tư già cỗi nữa, bây giờ chàng cất cao tiếng hát : "Bích Thảo vui ! Thành Thảo vui !"
          Chàng đã hóa kiếp. Lần này chàng đã đạt được sự hóa thân đúng đắn và trường cửu, bởi vì chàng đã từ cái một nửa chuyển sang cái toàn thể cho nên chàng có biệt tài (biến) đổi (thân) xác từng giờ từng phút thành bất cứ cái gì chàng muốn. Giòng luân lưu (hồi) huyền diệu của sự trở thành (vô thường) tuôn chảy không ngừng trong huyết mạch của chàng vĩnh viễn chàng có thể tham dự vào sự sáng tạo chớm nở trong từng phút từng giây.
          Chàng thở thành nai, trở thành cá, trở thành người và trở thành rắn, thành mây bay, thành chim. Nhưng trong mỗi hình hài chàng vẫn là toàn thể, vẫn là "một đôi", vẫn mang trong mình Mặt trời và Mặt trăng, Đàn ông và Đàn bà.
          Như một con sông "sinh đôi" chàng chảy mê mải qua các núi rừng đồng ruộng.
          Và lấp lánh trên nền trời chàng sáng ánh sáng của "ngôi sao đôi".
          #5
            Thanh Vân 29.09.2009 17:32:03 (permalink)
            SỰ TÍCH HOA DÃ QUỲ


            Ngày xửa ngày xưa, nơi buôn sóc nọ có chàng K'lang của núi rừng yêu tha thiết nàng H'limh của con suối. Ngày ngày chàng K'lang vào rừng săn bắt thú rừng còn nàng khéo léo dệt tấm chăn kiệu chồng (vì theo tục lệ của bộ tộc nàng con gái trước khi lấy chồng phải dệt một tấm chăn thật đẹp để mang về nhà chồng). Rồi tối tối họ lại quây quần đốt lửa và múa hát cùng dân làng trong buôn. Cuộc sống vui vẻ hạnh phúc của họ cứ trôi đi.
            Đến một ngày kia khi H'limh chờ hoài đến tối mà vẫn không thấy K'lang đi săn về, nàng lo lắng từ buôn sóc nàng đi tìm K'lang, nàng cứ đi, đi mãi đi hết mười mấy con suối, mười mấy ngọn núi rồi mà không thấy người yêu của mình đâu cả. Mệt quá nàng ngủ thiếp đi trong giấc mơ nàng thấy K'lang gọi nàng và bảo nàng hãy đi thêm một con suối nữa sẽ gặp chàng ở đó. Nàng giật mình rồi đi tiếp đến cuối nguồn nàng nhìn thấy K'lang đang bị những tên hung ác của bộ tộc Lasiêng trói chặt. Nàng chạy lại ôm lấy chàng mặc cho những mũi tên, những ngọn giáo đâm vào da thịt. Mặc cho bao nhiêu đau đớn nàng vẫn quyết bảo vệ cho người yêu cho tới khi nàng bị trúng mũi tên độc cuối cùng của chàng Larihn con trai tộc trưởng Lasiêng. Vì quá hờn ghen với tình yêu của H'limh dành cho K'lang chàng đã buông lơi mũi tên hận tình. Chàng cũng không ngờ người lãnh trọn mũi tên ngiệt ngã ấy lại là H'limh - người con gái mà chàng ngày đêm thương thầm trộm nhớ mà không được đáp lại tình cảm.
            Từ đó cứ mỗi độ tháng mười nơi nàng H'limh chết lại nở ra một loài hoa có màu vàng rực. Người ta thường gọi là hoa Dã Quỳ. Cây hoa Dã quỳ rất dễ mọc và mọc rất nhanh những cánh hoa màu vàng tràn đấy sức sống mãnh liệt như tình yêu chung thủy.
            #6
              Thanh Vân 29.09.2009 17:32:31 (permalink)



              SỰ TÍCH HOA DỀN (HOA ĐUÔI CÁO)

              Gia đình nhà chuột cống đang có một niềm vui lớn, song bên cạnh đó vẫn canh cánh một mối lo âu. Vui vì cô út của họ nhà chuột đuôi cụt bằng lòng làm vợ đứa con trai cả họ nhà chuột đuôi dài. Còn nỗi lo thì bắt đầu từ việc vị bô lão chuột đưa ra một điều kiện mà nếu thiếu nó thì chuột đuôi cụt không sao lấy được chồng.
              Điều kiện thật khắc nghiệt: trong ngày cưới, chuột đuôi dài phải trang hoàng trên các bụi cây quanh nơi ở của mình bằng những cái đuôi mèo. Làm như thế chẳng những đẹp mắt mà còn chứng tỏ được lòng dũng cảm của chú rể, rằng ngay trong giờ phút bất lợi nhất chú vẫn bảo vệ được gia đình mình thoát khỏi kẻ thù độc ác nhất của tất cả các loài chuột, đó là Mèo đen khét tiếng.
              Gia đình nhà chuột cống sống ở dưới kêng đào, trong các bụi cây gai cách xa nơi ở của con người. Không biết đã bao nhiêu buổi chiều, họ nhà chuột cống cứ tranh cãi nhau mãi về loài mèo kia. Tin đồn về sự ác độc của chúng truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, nhưng chưa đứa nào được tận mắt trông thấy một con mèo bằng xương, bằng thịt, thậm chí cả đến con mèo cao tuổi nhất cũng chưa được mục sở thị.
              Vậy mà trước ngày hôn lễ phải tìm bằng được mấy con mèo, phải kiếm bằng được mấy cái đuôi mèo. Lũ chuột cống nghèo hèn nghĩ: chú rể chuột đuôi dài sẽ bị mèo bắt và sẽ không có đám cưới nào hết.
              Nhưng chuột đuôi dài yêu chuột đuôi cụt đến nỗi nó đã chuẩn bị sẵn một thanh gươm và chuẩn bị lên đường đi tìm mèo để chặt lấy cái đuôi của nó. Chỉ có điều là gươm ấy làm bằng lá cây vải gai. Chuột đuôi dài chưa bao giờ trông thấy mèo mà vẫn mơ ước dùng kiếm ấy để chặt đuôi mèo. Thế là chuột hăm hở đi lùng mèo, mặc cho mẹ khóc cạn nước mắt vì lo sợ.
              Mẹ chuột bò ra khỏi bụi cây, nghếch mõm lên suy nghĩ. Nó suy nghĩ căng thẳng đến nỗi cái mõm của nó cứ giật giật và mấy cái râu thì rung rung. Nghĩ mãi rồi thì cũng phải ra một điều gì đó. Nó quyết định đến gặp chị cáo, một con vật tinh khôn có bộ lông đuôi sặc sỡ, mời nó đến dự đám cưới và xin nó lấy cái đuôi của mình làm quà tặng cô dâu, chú rể, treo trên bụi gai.
              Được tin về đám cưới chuột, cáo ta mừng rơn, cứ liếm lưỡi liên tục. Cáo không thích chuột đồng vì thịt không ngon, còn thịt chuột nhà thì khỏi phải nói.
              Cáo hỏi thăm chuột đồng nhà cô dâu có đông không và chúng không thể không đem lũ con đi theo, vì lũ con này cũng phải treo đuôi trên các bụi cây.
              Nói là làm. Cáo mẹ và lũ con đến đám cưới rất đúng giờ và treo đuôi mình lên các cành cây, rồi nấp vào các chỗ kín, sau các tảng đá, mô đất, đồng thời không quên phòng ngừa thợ săn.
              Khi hoàng hôn buông xuống, đám cỏ trên bãi ven kêng đào nghiêng ngả, chính là lúc họ hàng nhà cô dâu kéo đến đông đúc.
              Cả nhà chuột cống ùa ra đón khách, hỏi han bà con họ hàng xem họ có hài lòng về cách trang trí ngày cưới không.
              -Tuyệt quá! – Mẹ chuột đuôi cụt nói. – Nhưng tôi chưa hề thấy loài mèo nào có những cái đuôi như thế kia.
              -Đây là đuôi của loài mèo rừng, - mẹ chuột đuôi dài giải thích. – Mèo rừng ấy mà. Chúng ác độc hơn mèo nhà rất nhiều. Sáng kiến này chỉ có cậu ấm nhà tôi mới làm được thôi.
              -Phải tay tôi, tôi cũng sẽ không tha, - người anh trai của chuột đuôi cụt thốt lên. Trước khi đến đám cưới, anh ta đã tráng miệng chút xíu rồi và bây giờ thì đang đứng ở dưới cái nút thùng rượu.
              Anh ta vừa dứt lời thì từ trong một tảng đá lớn, rồi từ dưới bờ kênh đào cả một đàn cáo nhảy ra, con thì tấn công kẻ vừa ba hoa, con thì nhảy bổ vào chuột mẹ, rồi lần lượt cha, anh và họ hàng nhà chuột đều bị lân nạn. Chuột đuôi dài chỉ kịp lôi chuột đuôi cụt vào trong một bụi cây tầm ma. Chuột đuôi cụt sợ hãi đến nỗi không kịp nhận ra ai trong số họ hàng nhà mình đã bị lũ cáo ám hại.
              Khi chuột đuôi dài khám phá ra điều bí mật của vợ mình thì chuột đuôi cụt bèn cột chặt những cái đuôi cáo vào cành tầm ma, nơi mà chúng để lại đuôi ở đó. Một hôm, có người qua đường trông thấy cây tầm ma rực rỡ, bèn đào lên, đem về trồng ở vườn nhà mình.
              “Hoa đuôi cáo”, đó chính là tên gọi của loài hoa này. Các nhà bác học về nghề làm vườn thì gọi chúng bằng một cái tên khác, không hề liên quan gì đến một cái đuôi nào cả - “Maranthus” tiếng La Tinh có nghĩa là Hoa Dền.
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2010 15:33:05 bởi Ct.Ly >
              #7
                Thanh Vân 29.09.2009 17:33:13 (permalink)
                Sự Tích Hoa Đại

                SỰ TÍCH HOA ĐẠI


                Ngày xưa, xưa lắm, có một em bé nghèo, rất thương mẹ mà đành phải xa mẹ, đi ở cho một lão đồ tể chuyên nghề giết lợn. Lão đồ tể ngày ngày bắt em lên rừng hái củi để đun nước giết lợn, cạo lông. Những ngày đầu em còn phải bám theo các bác đốt than cho biết đường đi, đường về. Nhưng sau đó em đi một mình. Dăm ngày một lần, em lại đi đường vòng xa hơn, để ghé qua nhà thăm mẹ cho đỡ nhớ. Nhân tiện em biếu mẹ một mớ củi và một ít sim rừng, ổi rừng. Đường lên núi phải qua một ngôi chùa nhỏ ở ngay lưng núi. Lên đến chỗ hái được củi thì mặt trời cũng vừa lên cao. Em bé nhìn xuống chân núi tìm bến nước và túp lều của mẹ, xa quá em không thấy gì nhưng cũng nhìn cho đỡ nhớ. Một hôm em đang chặt củi ở bên một sườn núi thì bỗng thấy ở dưới một cái hố sâu có một chú hươu con bị sa xuống đó từ lúc nào không rõ. Chú hươu con lo lắng một cách im lặng. Chú mở to đôi mắt, ngẩng đầu lên nhìn quanh, như đợi mẹ đến cứu mình. Chú bé cũng nhìn quanh xem hươu mẹ có ở đâu đó không. Chỉ thấy cây rừng và tiếng gió chạy vòng quanh chân núi. Em bé liền lần xuống hố ẵm chú hươu con lên. Thấy người, lúc đầu chú hươu con cũng lo sợ. Nhưng chỉ một lúc, chú đã để yên cho em bé vuốt ve. Em bé bứt một ít cỏ non cho hươu con ăn, rồi lại bẻ một miếng cơm nhỏ xíu ở cái nắm cơm không lớn bằng nắm tay của mình, chấm vào muối bón thử cho hươu con. Hươu con chưa quen ăn cơm, nhưng hình như thích cái vị mằn mặn của muối. Em bé muốn đem hươu con về nhà mẹ nhưng sợ lão chủ biết. Còn đem về nhà lão chủ, thì lão sẽ thịt mất hươu con của mình. Lão vẫn thường nói với mọi người là lão rất thèm thịt hươu. Em vẫn nhìn quanh và mong đợi hươu mẹ trở lại để cho hươu con được gặp và sống với mẹ. Mình cũng còn thích sống gần mẹ nữa là.
                Chờ mãi không thấy, mà trời đã xế chiều. Em bé đành tìm một cái hang nhỏ, cho hươu con vào đó và lấy đá chặn kín lại.
                -Ngày mai ta sẽ lên với hươu con! Hươu con đừng lo, cứ ngủ cho ngon nhé! Hôm sau em bé lại lên rừng. Em thở phào mừng rỡ khi thấy hươu con vẫn còn đó. Gặp lại em, hươu con cũng vui lắm, cứ lấy mũi ngửi ngửi vào tay em.
                -À! Mày lại muốn ăn cơm với muối chứ gì? Chú bé lại bẻ một miếng cơm nhỏ xíu, chấm vào muối rồi bón cho hươu con. Em lại đi hái cỏ non mang đến. Trong lúc chặt củi, em cho hươu con đứng cạnh. Có hươu con, em chặt củi không mệt chút nào. Từ đó em bé và hươu con trở thành đôi bạn, ngày nào cũng gặp nhau, nhưng đêm nào cũng phải xa nhau. Thương hươu con không có mẹ, lại quấn quít với mình, nhiều đêm em bé nằm mơ gặp hươu con đùa giỡn với nó. Một đêm lão đồ tể thức dậy ra sân xem trời gần sáng chưa để giết lợn. Bỗng hắn nghe ở dưới bếp tiếng em bé đang nằm nói mê, rõ thành lời như đang thức:
                -Hươu à, hươu ăn chóng lớn, hươu mọc đôi sừng thật cao, thật đẹp nhé! Lần ấy lão không để ý mấy. Nhưng sau đó, lão lại nghe bọn người nhà mách là em bé cứ thường nói mê như thế. Và cái câu em hay nói nhất vẫn là câu này:
                -Hươu à, hươu ăn chóng lớn, hươu mọc đôi sừng thật cao, thật đẹp nhé! Lão đồ tể cau đôi mày sâu róm lại nghĩ bụng:
                -Biết đâu lại chẳng có hươu thật! Lão sai người nhà lén theo em bé lên rừng. Tên người nhà ranh ma lên rừng, thấy hết cảnh em bé cùng chú hươu con gặp nhau và sống bên nhau suốt cả ngày. Nó về mách với lão chủ. Lão chủ liền nói:
                -Đúng vậy thì ngày mai tao sẽ đi xem, chúng mày theo tao bắt cho kỳ được con hươu về. Hôm sau em bé lại lên rừng. Lòng em vui biết bao nhiêu. Mới chỉ một thời gian ngắn, hươu con đã lớn lên trông thấy và ngày càng tỏ ra khôn ngoan không ngờ. Hình như em bé nói gì, nghĩ gì, hươu con đều hiểu được cả và ngoan ngoãn làm theo. Nhưng hôm đó, khi em vừa đón hươu con ở trong hang ra, chưa kịp cho hươu ăn, lão đồ tể cùng hai tên người nhà đã ập tới. Em bé đành quát to:
                -Hươu ơi chạy đi! Hươu còn chần chừ. Em bé bèn phát vào cổ nó một cái thật mạnh và quát:
                -Chạy đi! Hươu con hiểu ý phóng như bay vào rừng. Lão đồ tể và hai tên người nhà đuổi theo nhưng không kịp. Hươu con lẫn vào với cây cỏ, không biết đâu mà tìm. Lão đồ tể giận lắm, quay lại đánh em bé một trận. Trong cơn điên tiết lão lấy luôn một hòn đá nện vào lưng em bé. Không may hòn đá lại trúng vào đầu. Em bé ngã lăn ra nằm không động đậy. Lão đồ tể bỏ mặc em giữa rừng, cùng hai tên người nhà trở về. Hươu con chạy rất xa, lên một đỉnh đồi nhìn xuống. Thấy lão đồ tể độc ác cùng hai tên người nhà đã về thật rồi, hươu con chạy xuống với người bạn thân thiết của mình. Hươu con hà hơi ấm vào lưng, vào ngực em bé. Một lúc lâu em bé tỉnh dậy. Thấy hươu con, em mừng quá, ôm lấy cổ hươu và khóc.
                -Không có hươu thì ta chết rồi! Người và hươu kéo nhau đi sang khu rừng khác, tránh ngày mai lão đồ tể lại có thể đưa người và dắt cả chó lên theo. Phải đi thật xa, thật xa. Vì vậy, đã khuya rồi, trăng đã lặn mà vẫn có hai cái bóng nhỏ, em bé và hươu con nương vào nhau mà đi. Vết thương ở trên đầu đau nhức nhưng muốn cứu hươu, cứu mình, em bé cố bước đi. Lúc nào mệt quá em lại ngồi xuống, hươu con lại quấn quýt như vỗ về, ôn ủi, lại hà hơi ấm vào lưng, vào ngực em bé. Hôm sau, lão đồ tể đưa người, đưa chó lên thật. Nhưng lùng sục mãi không thấy hươu đâu, lão đành hậm hực trở về. Không thấy xác em bé, lão cũng hơi lo lo, không biết là thú rừng đã ăn thịt hay em bé đã sống lại? Em bé ở với hươu mấy ngày liền trong khu rừng xa, tìm lá để chữa vết thương. Người và hươu toàn ăn quả rừng, cỏ rừng để sống. Được mấy ngày, nhớ mẹ quá, em bé nói với hươu con:
                -Hươu ơi, ta nhớ mẹ quá. Ta về thăm một bữa rồi trở lên ngay với hươu. Hươu con như hiểu được ý em bé. Nó mở to đôi mắt nhìn người chủ nhỏ. Đôi mắt nó bỗng ươn ướt như đang khóc. Rồi nó gật đầu liền mấy cái. Nó đưa người chủ nhỏ ra tận bìa rừng và quay lại đứng trên một hòn đá to nhìn theo.
                Em bé về gặp mẹ, được cho hay là, cách đây vài hôm, lão chủ có sai người đến dò hỏi xem em bé có trốn về không... Mẹ em không hề hay biết là em đã bị lão đánh suýt chết. Em về thì cũng gặp ngay người chú đi chèo thuyền thuê ghé thăm, nghe chuyện em kể, người chú liền nói:
                -Đã vậy thì cháu cứ theo chú. Chú sẽ giúp cho cháu ăn học nên người. Em bé lo lắng:
                -Nhưng còn hươu con?
                -Hươu con ở trong rừng thì có gì mà cháu lo?
                -Cháu hẹn với hươu con sẽ trở lên với nó mà!
                -Hươu con làm sao mà hiểu được lời người nói?
                -Chú ơi, nó hiểu được đấy. Nó tiễn cháu đi, còn biết khóc nữa kia mà!
                -Thì cháu cứ theo chú ăn học. Nay mai khôn lớn cháu trở về. Lúc đó sẽ gặp lại hươu không muộn.
                -Liệu hươu có chờ cháu không?
                -Có chứ! Nó khôn vậy thì nó sẽ biết chờ.
                -Cháu chỉ thương nó sống một mình, nó sẽ buồn lắm.
                -Cháu đừng lo! Rồi nó sẽ tìm đàn, nhập đàn mà sống.
                -Nhưng rồi nó có quên cháu không?
                -Nó khôn ngoan, nó thương cháu thì sẽ không quên cháu đâu. Em bé đành nghe theo lời dỗ dành của chú và mẹ. Chỉ khổ cho em là ngay tối hôm đó, người chú đã phải cho thuyền rời bến để đi về cho kịp ngày đã hẹn với chủ thuyền. Đêm đó, em bé cứ ngồi ở đầu mũi thuyền nhìn lên ngả núi cao... Hươu con ơi! Hươu chờ ta nhé! Ta sẽ về, sẽ đưa hươu xuống dưới này sống với mẹ con ta. Lòng em bé muốn vậy, nhưng cuộc đời đâu có phải ai muốn gì thì được nấy. Em bé về với ông chú, được ông chú gửi cho ăn học ở nhà một ông đồ nghèo nhưng rất thương người. Trong một chuyến đi xa, thuyền ông chú bị đắm. ông chú không về nữa. Em bé được ông đồ nuôi dạy, nhưng từ đó phải ở luôn với ông. Đường về quê mẹ xa quá, em càng thấy thương mẹ gấp bội. Sau đó vài năm em nghe tin mẹ đã mất... Hết thương mẹ, em lại nhớ đến hươu, chú hươu con ngày nào, nhưng em cứ tin là chú hươu bây giờ đã lớn và đã nhập đàn sống với đồng loại của nó. Và chắc nó đã quên mình...
                Nhưng hươu kia không quên. Hươu vẫn nhớ người bạn, người chủ nhỏ của mình. Hươu chỉ lạ sao loài người lại khác nhau như vậy. Người thì tốt như em bé. Người thì ác như lão đánh em và hai cái tên cứ chực đuổi bắt cho được hươu. Một hôm từ trên mỏm đồi cỏ tranh cao, hươu bỗng thấy có bóng người đi lại ở ngôi chùa. Từ xa hươu cứ tưởng trong đấy có em bé, bạn và chủ của mình, người đã cứu mình. Hươu liền đi về phía ngôi chùa. Nhưng hươu cũng biết nghĩ chưa chắc đã là cậu bé, nếu không cậu ấy đã đi tìm gặp mình. Dù sao cũng cứ đến gần xem... Những con người này có vẻ cũng không phải là ác như cái lão đồ tể và hai tên kia... Hươu đến sát chân chùa thì bỗng nghe một tiếng chuông đánh. Tiếng chuông đánh gần quá làm hươu hoảng hồn. Hươu phóng thẳng một mạch vào rừng sâu. Nhiều năm trôi qua... Hươu lớn lên, sừng bắt đầu mọc. Đôi sừng cao khỏe, nhưng nhìn hươu vẫn rất hiền lành. Hươu vẫn có ý chờ gặp lại người bạn chủ cũ. Đời hươu không thể dài bằng đời người. Hươu đã trở thành con hươu đầu đàn. Một hôm hươu bỗng gặp một đoàn người đi đốt than. Hươu muốn đến gần nhưng ngại lắm.
                Chờ cho họ về hết, hươu mới rời đàn, một mình đến gần chỗ họ đã ngồi tụ tập với nhau. Một ít muối của những người đốt than còn để rơi lại. Hươu nếm cái vị mặn của muối bỗng thấy nhớ người bạn của mình không chịu nổi. Thế là hươu để đàn lại cho một con hươu khác, rồi một mình tìm đến chốn cũ, nơi có cái hang xưa hươu đã sống ở đó để ngày ngày chờ cậu bé đã cứu mình. Cái hang vẫn còn nguyên. Cỏ mọc quanh miệng hang rất tốt, rất xanh nhưng hươu mỗi ngày một già dần. Mặt trời sắp lặn. Hươu già nằm xuống, giấu mình trong bụi cây rậm ở ngay bên hang. Hươu cảm thấy mình không thể đứng dậy được nữa. Một thời gian sau, hươu già chết. Chết ở ngay bên miệng hang. Người bạn của hươu lúc này ở một nơi xa, đã có vợ có con. Một hôm, thấy người đi bán sừng hươu, anh bỗng nhớ lại chuyện cũ và kể cho vợ con nghe. anh nhắc lại câu nói năm xưa khi cho hươu ăn:
                -Hươu à, hươu ăn chóng lớn, hươu mọc đôi sừng thật cao, thật đẹp nhé! Đứa con lập tức đòi bố phải đưa về thăm quê, viếng mộ bà và đi lên rừng tìm xem chú hươu có còn không? Thương con, nhớ mẹ và nhớ hươu, một thời gian sau người bố đưa vợ con về quê. Hỏi người trong làng, mới biết lão đồ tể độc ác một hôm dẫn chó lên rừng săn hươu, bị rắn độc cắn chết. Thật đáng đời nhà lão. Thăm mộ mẹ xong, người bố đưa con lên rừng. Đường vẫn phải đi ngang qua ngôi chùa nhỏ ở lưng núi. Hai bố con đi mãi, đi mãi... Trong gió bỗng có mùi hương, vừa gần gũi, vừa xa xôi. Mùi hương như chào đón như dẫn đường. Theo mùi hương, hai bố con đến ngay được chỗ cái hang ngày xưa đã giấu chú hươu con. Cả hai bố con sửng sốt, cùng đứng im lặng. Bên cạnh miệng hang có một giống cây lạ đang nở đầy hoa. Mùi hoa thơm đậm. Nhìn kỹ thì cành cây rất giống những cái sừng hươu. Có mấy người đốt than đi qua. Họ kể rằng, trước đây ngay tại chỗ cây hoa đang nở, có một con hươu già từ đâu không biết, đến đó rồi nằm chết luôn, mà không ai biết. Sau đó, ở gần miệng hang bỗng thấy xuất hiện một giống cây lá to giống tai hươu, cành giống sừng hươu. Người bố nghe nói, đoán ngay đấy là chú hươu con ngày xưa. Thì ra chú vẫn nhớ mình. Lớn lên vẫn nhớ. Và chờ đợi mình về nữa. Lòng đầy ân hận người bố liền nói:
                -Hươu ơi, ta muốn về sớm với hươu mà nào có về được. Dù sao bây giờ ta cũng đã gặp lại nhau. Hai bố con cùng khấn xin hươu cho mình mấy cành cây lạ mang về làng quê để trồng, để luôn nhớ tới hươu. Lúc hai bố con đi ngang qua chùa, các ông sư nghe kể cũng cảm thương về chuyện con hươu có nghĩa nên họ xin người bố một cành cây lạ để trồng trước sân chùa. Cây hoa ấy là cây hoa đại ngày nay. Có người bảo chữ Đại là do chữ Đợi, chờ đợi mà có. Cây hoa Đại, lá to giống tai hươu, cành giống sừng hươu đã đành mà những bông hoa cũng giống như những con mắt hươu đang mở tròn, mở to, để trông ngóng, đợi chờ...
                #8
                  Thanh Vân 29.09.2009 17:34:49 (permalink)
                  Sự Tích Vòng Nguyệt Quế



                  SỰ TÍCH VÒNG NGUYỆT QUẾ


                  Mối tình của Apônlông với tiên nữ Đaphnê. Thần Apônlông sau khi dùng những mũi tên vàng giết chết con mãng xà Pitông, đã gặp phải một chuyện bất hạnh, tuy là một chuyện nhỏ song cũng đem lại cho thần nhiều phút giây đau khổ, luyến tiếc, nhớ nhung. Chuyện xảy ra bắt đầu từ lúc Apônlông bắn mũi tên cuối cùng, kết liễu đời con quái vật. Khi đó với niềm kiêu hãnh tràn ngập của người chiến thắng, Apônlông chạy băng tới trèo lên lưng Pitông, đứng hiên ngang trên thân hình đầy vẩy cứng của nó, giơ cao cây cung bạc, hét lên những tiếng sung sướng: "Chiến thắng rồi!", "Pitông chết rồi!"... "Chiến thắng rồi!", "Pitông chết rồi!". Bỗng Apônlông nhìn thấy một chú bé, một chàng thiếu niên lưng đeo một ống tên vàng, tay cầm cung, đang từ phía trước đi tới. Chú bé, thân hình thon thả, đẹp đẽ, lại có đại cánh vàng ở sau lưng, ngước nhìn Apônlông với vẻ mặt điềm tĩnh dường như không thán phục khiến cho Apônlông cảm thấy bị xúc phạm. Apônlông mỉm cười, hỏi chú bé với một giọng coi thường:
                  -Này chú bé kia! Mi mà biết bắn cung cơ à? Thế mà phải đợi đến ngày hôm nay con mãng xà Pitông mới chết thì ta chẳng hiểu mi cầm cung và đeo ống tên để làm gì?. Thôi tốt hơn hết là đưa cho ta ống tên vàng ấy để ta lập những chiến công vinh quang hơn nữa. Ống tên trong tay mi thật vô dụng. Chú bé vô cùng tức giận, đáp lại lời Apônlông:
                  -Hỡi thần Apônlông vĩ đại! Xin chớ coi thường những mũi tên của ta. Ta sẽ bắn trúng nhà ngươi cho mà xem! Dù nhà ngươi có tài giỏi đến đâu chăng nữa cũng không sao tránh khỏi mũi tên vàng của ta. Nói xong, chú bé vỗ cánh bay vụt đi để mặc Apônlông đứng lại với niềm kiêu hãnh của kẻ chiến thắng. Chú bé đó là ai mà lại coi thường Apônlông như thế? Đó là thần Tình yêu Erôt
                  -Erôt mà Apônlông không biết. Erôt bay lên đỉnh núi Parnax cao, chọn một nơi đứng để có thể bao quát được bốn phương. Chàng lấy từ sau lưng ra một mũi tên "mũi tên khơi dậy tình yêu" lắp vào cây cung và bắn đi. Chàng truyền cho mũi tên của mình, mũi tên vô hình đối với những người bị bắn, bay đến xuyên thấu vào trái tim Apônlông. Và Apônlông đã bị trúng tên mà vẫn không hay, không biết. Chưa hết, Erôt lại lấy từ sau lưng ra một mũi tên khác, "mũi tên giết chết tình yêu" bắn đi. Lần này bắn về một hướng khác. Chàng truyền cho mũi tên của mình bay đến xuyên thấu vào trái tim tiên nữ Đaphnê, con gái của vị thần Sông Pênê (Pénée). Và nỗi bất hạnh bắt nguồn từ hai mũi tên vô hình đó của Erôt. Chuyện xảy ra sau khi Apônlông giết được con mãng xà Pitông sau thời gian không rõ bao lâu. Chỉ biết một buổi sớm kia như thường lệ, Apônlông với cây cung bạc vào rừng săn bắn. Đây là khu rừng thuộc đất Texxali (Thessalie) dưới quyền cai quản của vị thần Sông Pênê. Các tiên nữ Nanhphơ con của Pênê, thường vào rừng vui chơi, săn bắt thú vật. Apônlông trông thấy Đaphnê khi nàng đang hái hoa. Quả là một tiên nữ xinh đẹp, một vẻ đẹp tự nhiên, hiền hòa như những bông hoa rừng nàng đang hái. Từ trái tim của vị thần ánh sáng có bộ tóc vàng dâng lên một niềm xúc động và khát khao được bày tỏ tình cảm với tiên nữ Nanhphơ Đaphnê. Apônlông tiến đến gần nàng.
                  Một tiếng động nhẹ do bước chân của Apônlông giẫm trên thảm lá rừng khiến Đaphnê giật mình, quay lại. Vừa trông thấy Apônlông là nàng vứt vội bó hoa xuống đất, cắm đầu chạy, chạy miết như bị ai đang duổi. Mũi tên vô hình của chú bé Êrôt đã giết chết những xúc động và thèm khát ái ân trong trái tim Đaphnê. Apônlông chạy theo nàng. Vừa chạy chàng vừa gọi:
                  -Hỡi tiên nữ xinh đẹp! Hãy dừng lại, dừng lại! Đừng sợ! Ta không phải là một tên chăn chiên thô bạo hay là kẻ thù của nàng đâu! Càng gọi Đaphnê càng chạy. Apônlông càng ra sức đuổi theo và ra sức kêu gọi:
                  -Đừng chạy! Đừng chạy nữa! Ta là Apônlông, người con trai vinh quang của thần Dớt đây! Ta yêu nàng! Ta yêu nàng! Đứng lại! Đừng chạy nữa! Nhưng Đaphnê vẫn cứ chạy. Và Apônlông lại ra sức đuổi theo. Apônlông đuổi với sức mạnh của trái tim nồng nhiệt. Còn Đaphnê chạy với nỗi sợ hãi của một trái tim đã tắt ngấm mất ngọn lửa khát khao nóng bỏng của hạnh phúc lứa đại. Apônlông đuổi ngày càng gần Đaphnê. Nàng có cảm giác như nghe thấy tiếng thở hổn hển của Apônlông ở sau lưng mình và hơi thở ấy hình như đã phả vào gáy nàng và lướt qua má nàng. Nhưng đây rồi trước mặt nàng là con sông của vua cha. Nàng vội kêu lên:
                  -Cha ơi! Cha ơi! Cứu con với, cứu con với! Mau lên, mau lên! Không có con bị bắt bây giờ! Nàng vừa nói dứt lời bỗng nhiên rùng mình một cái, đại chân mềm mại bỗng cứng đờ ra, cả hai tay vừa giơ ra chới với cầu xin cha cũng cứng ngắc. Toàn thân nàng biến thành một thân cây, chân như cắm sâu xuống đất và các ngón chân vươn dài ra thành những rễ lớn rễ nhỏ. Mái tóc đẹp đẽ của nàng biến thành những lá cây. Apônlông chạy đến nơi thì nàng trinh nữ xinh đẹp Đaphnê đã biến thành một cây nguyệt quế xanh tươi, tự nhiên như đã mọc lên từ ngàn xưa và từ ngàn xưa vốn tự nhiên và xanh tươi như vậy. Apônlông đứng sững sờ ngơ ngác trước sự biến hóa quá nhanh. Chàng đứng hồi lâu rồi đưa tay vuốt ve trên cành lá của nó, buồn rầu nói với nó những lời từ biệt chân thành:
                  -Hỡi người thiếu nữ xinh đẹp nhất trong đám tiên nữ Nanhphơ. Ta có ngờ đâu tình yêu chân thành và nồng thắm của ta lại gây ra nông nỗi oan trái này. Vì ta mà nàng đã mất đi cuộc sống của một tiên nữ vô vàn hạnh phúc. Thôi được, từ nay trở đi nàng sẽ là người bạn đường thân thiết của thần Apônlông này. Từ nay trở đi chỉ những ai chiến thắng trong các cuộc tranh tài đua sức ở các ngày hội thì mới được đội vòng lá nguyệt quế lên đầu. Apônlông và cây nguyệt quế là vinh quang của chiến thắng, chỉ giành cho chiến thắng. Ta chúc em mãi mãi xanh tươi.
                  Cây nguyệt quế run lên xào xạc. Chỉ có thần Apônlông mới hiểu được tiếng nói của nó. Nhưng một nguồn khác kể, sau khi Apônlông giết chết con mãng xà Pitông, thần đã tự mình tẩy rửa sự ô uế với sự giúp đỡ của cây nguyệt quế. Vì lẽ đó thần đã lấy lá nguyệt quế làm vật trang điểm cho mình.
                  #9
                    Thanh Vân 29.09.2009 17:35:18 (permalink)
                    HOA DIÊN VĨ - IRIS


                    Ý nghĩa : Lòng trung thành, sự khôn ngoan, lòng dũng cảm, niềm hy vọng.
                    Tiếng Hy Lạp, "Iris" có nghĩa là Cầu Vồng. Trong thần thoại Hy Lạp, Iris là tín sứ của thần Zeus và nàng thường xuất hiện dưới hình một chiếc cầu vồng. Nàng là người đưa tin trên đỉnh Olympus, Iris mang thông điệp của các vị thần linh từ "con mắt Thiên Đường" xuống cho nhân loại trên trái đất qua vòng cung cầu vồng rực rỡ. Từ Iris cũng có nghĩa là "con mắt Thiên Đường" . Iris, như ta đã biết, là tên của một nữ thần Hy Lạp, một loài hoa, và nó còn có nghĩa là tròng đen trong con mắt chúng ta. Điều này ngụ ý rằng mỗi chúng ta đều mang trong mình một mảnh của Thiên Đường. Những người đàn ông Hy Lạp thường trồng hoa Diên Vĩ tím trên mộ những người phụ nữ mà họ yêu thương để tỏ lòng tôn kính nữ thần Iris, người mang sứ mệnh dẫn dắt những linh hồn phụ nữ này đến chốn Thiên Đàng.
                    Diên Vĩ là loài cây lưu niên có thân thảo vươn cao, lá hình lưỡi kiếm và những đóa hoa to nhiều màu sắc với ba cánh và ba đài hoa rũ xuống. Có hơn 300 loài hoa Diên Vĩ xinh đẹp khác nhau với các màu xanh da trời nhạt, tím, vàng, trắng, hồng, cam, nâu đỏ...đa dạng như màu sắc cầu vồng. Hoa Diên Vĩ được xem như sứ giả mang đến những điềm lành. niềm hy vọng. Ba cánh hoa Diên Vĩ đại diện cho lòng Trung Thành, sự Khôn Ngoan và lòng Dũng Cảm. Hoa Diên Vĩ vàng là biểu tượng của ngọn lửa và niềm đam mê
                    Hoa Diên Vĩ đã từng được thấy ở sa mạc, đầm lầy hay cả miền Bắc cực Siberia lạnh giá, nhiều nhất vẫn là ở các vùng khí hậu ôn hòa. Hoa Diên Vĩ thường được vẽ trong những bức tranh tĩnh vật, như của các danh họa Vincent van Gogh, Monet...Có nguồn gốc từ vùng Địa Trung Hải và phía Nam Châu Âu, hoa Iris đã từng được những người Hy Lạp cổ đặt trên trán của Nhân Sư và trên vương trượng của đức vua xem như là biểu tượng của quyền lực. Vào năm 1479 trước Công Nguyên, ở Ai Cập, để ghi nhớ chiến công tại Syria, vua Thutmose III đã cho vẽ những bông hoa Diên Vĩ trên bức tường ngôi đền thờ của mình.
                    Nhà thờ La Mã xem hoa Diên vĩ là hiện thân của Đức Mẹ Đồng Trinh. Do có ba cánh đặc biệt, fleur-de-lis cũng được làm hình ảnh tượng trưng cho Chúa Ba Ngôi linh thiêng (Sainte Trinité).
                    Hoa Diên Vĩ đã là biểu tượng của hoàng gia và sự che chở thần thánh suốt hàng thế kỷ trên khắp thế giới. Loài hoa đầy sức thu hút này được rất nhiều người ngưỡng mộ. Các vị vua chúa nước Pháp đã dùng nó làm biểu tượng hoàng gia và gọi nó là Fleur-de-lis. "Fleur-de-lis" có nguồn gốc từ tên "Fleur-de-Louis", sau thời vua Louis VII, năm 1147. Theo thời gian, tên đó chuyển thành "Fleur-de-luce", có nghĩa là hoa của ánh sáng ( fleur de lumière), cuối cùng đến ngày nay, nó được gọi là "Fleur-de-Lis". Fleur-de-Lis đã là biểu tượng của nước Pháp từ thế kỷ 13. Hoàng gia Pháp trang trí hoa Diên Vĩ trên áo choàng, các đồ vật trong cung điện và trên những bức tường như biểu hiện của sự toàn bích, ánh sáng và cuộc sống. Có nhiều truyền thuyết khác nhau giải thích tại sao hoa Diên Vĩ được chế độ quân chủ Pháp chọn làm biểu tượng .
                    Tương truyền rằng, Clovis, vua nước Pháp (triều đại Mérovingiens) khi đối mặt với đội quân thiện chiến của Alamans (Đức) đến xâm chiếm vương quốc mình, ông đã nói với hoàng hậu Clotilde rằng ông sẽ theo đạo và chịu rửa tội nếu như Chúa phù hộ ông đánh thắng trận đấu này (trước đó hoàng hậu đã nhiều lần khuyên chồng mình vào đạo nhưng ông vẫn không nghe). Cuối cùng, ông thắng thật và nhận fleur-de-lis làm biểu tượng. Tiếp đó, vào thế kỷ 12, vua Louis trở thành hoàng đế nước Pháp đầu tiên khắc họa hoa Diên Vĩ trên chiếc khiên của mình. Nữ anh hùng nước Pháp, Jeanne d'Arc đã mang theo lá cờ trắng có biểu tượng Chúa hộ mệnh của hoàng gia (hoa Diên Vĩ) khi bà đánh bại quân Anh tại Orléans (1429).
                    Theo người Hồi giáo, hoa Diên vĩ lại được coi là loài hoa biểu tượng cho thần chết: L' Iris albicans, họ đã chọn Diên Vĩ để trang trí trên các ngôi mộ của những chiến sĩ đã chết trong chiến tranh.
                    Nhưng đó cũng là loài hoa của mùa xuân cho nên người Nhật rất quý và xem đây là hoa tẩy trần, còn tượng trưng cho chí khí anh hùng và dòng dõi quý phái. Hoa Diên Vĩ là một phần quan trọng trong lễ hội mùa xuân dành cho các bé trai. Người Pháp vùng Bretagne và Normandie họ trồng hoa này trên nóc nhà để tránh hoả hoạn!
                    Được xem như một loài hoa thiêng, người ta tin rằng hoa Diên Vĩ có khả năng chữa bệnh và đã được dùng làm thuốc từ thời xa xưa. Vào thế kỷ đâu tiên sau Công Nguyên, vị y sĩ Hy Lạp Dioscorides đã đưa ra bài thuốc dùng rễ cây hoa Diên Vĩ uống với mật ong, giấm hay rượu vang để chữa ho, cảm lạnh, khó tiêu và chứng đau thần kinh tọa. Rễ cây hoa Diên Vĩ cũng được dùng để tạo hương thơm.
                    Một trong những bức tranh đắt giá nhất thế giới đó là bức tranh nhóm hoa Diên vĩ vẽ bởi hoạ sĩ Vincent Van Gogh, trong lúc ông đang bệnh ở Saint-Rémy-de-Provence, một năm trước khi ông mất.
                    #10
                      Thanh Vân 29.09.2009 17:35:48 (permalink)
                      SỰ TÍCH HOA HẢI ĐƯỜNG


                      Khi linh mục Kamêli được phái tới Nhật Bản để truyền đạo thì ông không ngờ rằng ông lại bắt gặp ở đây những vị thần có khả năng quyến rũ cả những cha cố tiếng tăm. Ông thề rằng ông sẽ tránh xa mọi cám dỗ trần thế và tự hành hạ mình bằng cái đói và cái khát. Bởi vậy các thầy học của ông và bản thân ông đều tin rằng với sự trong sáng của mình ông rất đáng được ơn huệ của Chúa và Chúa sẽ giúp ông biến những ngời Nhật Bản lầm lạc theo đạo.
                      Ở Nhật Bản, trong lúc chuẩn bị cho công việc đại sự, cứ chiều chiều ông lại vào rừng nhặt nhạnh các rễ cây và bắt châu chấu đem phơi khô dành cho mùa đông. Phải nói rằng số lượng lớn châu chấu mà ông kiếm được là ở trên các cành của một cái cây lớn. Châu chấu nhiều đến nỗi dù ông cố bắt hết thì sang chiều hôm sau chúng lại phát triển thành bầy nhung nhúc.
                      Vào một buổi chiều nóng bức, Kamêli dừng chân trong một làng xa, kể chuyện cho những người nông dân nghe về buổi truyền đạo trên núi và mãi tới tận nửa đêm ông mới tới được cái cây lạ lùng kia. Mặt trăng tròn vành vạnh nhô cao trên đỉnh rừng, cây cối đứng im lìm tựa như đã thấm mệt, còn lũ châu chấu thì im lặng hoặc có thể vị linh mục đã quá quen với tiếng kêu ri rỉ của nó đến nỗi chẳng buồn nghe nói nữa.
                      Khi Kamêli chắp hai tay vẻ thành kính và ngước lên trời tạ Thượng Đế vì ơn huệ của một ngày qua thì trong đám lá cây bỗng vang lên tiếng cười ngọt ngào của một thiếu phụ.
                      - Ha Ha Ha! - một sinh vật như một chú thỏ, thoăn thoắt nhảy từ cành nọ qua cành kia, phô hàm răng trắng xoá.
                      "Một kẻ vô đạo đã phái con quỷ này đến cám dỗ ta đây" - Kamêli quả quyết. Sau cái khoát tay của ông, con quỷ dường như hứng chí hơn, nó liền nhảy ngay xuống cành cây thấp nhất và bắt đầu huơ huơ đôi chân trắng ngay trên đầu vị linh mục.
                      Kamêli lùi lại vài bước, chăm chú nhìn cái sinh vật kỳ dị kia. Toàn thân nó được bao bọc một lớp xanh hoà lẫn trong màu xanh lá cây, chỉ có đôi chân trắng muốt và cái đầu nhỏ tóc vàng lấp loá ánh trăng là thấy rõ và được thu lại tựa một bông hoa sặc sỡ đang kỳ nở rộ.
                      - Ngươi là ai? - tu sĩ hỏi
                      - Hi hi! Ha ha!
                      - Ngươi là nữ nhi ?
                      Sinh vật lắc đầu quầy quậy
                      - Vậy ngươi là ai? Tên ngươi là gì?
                      - Ta là Đơriađa, linh hồn của cái cây này, - đầu tóc vàng thú nhận - Ta đến để tạ ơn ngươi vì ngươi đã làm cho thân cây của ta sạch bóng lũ châu chấu tanh hôi.
                      Nói xong, hồn cây nhảy luôn vào lòng bàn tay của tu sĩ, đoạn ôm chầm lấy ông và gắn vào bộ râu của ông một nụ hôn. Kamêli lúng túng đến nỗi đáng lẽ phải đẩy cô gái rừng xanh ấy ra xa thì ông lại kéo diết cô ta lại phía mình và cứ để nguyên giây phút kỳ diệu như thế một hồi lâu.
                      - Ta không thể ở lại với ngài lâu hơn được nữa, - Đơriađa thì thào - nếu không cái cây của ta sẽ khô héo mất.
                      Con quỷ vùng ra khỏi tay ôm của Kamêli và nhảy lên một cành cây xanh.
                      Chỉ đến lúc này vị tu sĩ mới hiểu rằng ông đã phá bỏ lời thề về sự trinh trắng và ông trở về nhà trong tâm trạng đầy u uất. Biết làm sao được? Liệu ta có còn xứng đáng là một vị linh mục nữa hay không?
                      Cho đến tận đêm khuya lạnh lẽo cái đầu bốc lửa của Kamêli mới nguôi ngoai được đôi chút. Ông bắt đầu suy nghĩ nghiêm túc về những sự việc vừa xảy ra. Ông đã phá bỏ lời thề rồi ? Người đã hôn ông không phải là một thiếu phụ mà là một linh hồn, bởi vậy, cái hôn này chẳng phải đem lại niềm vui sướng xác thịt. Nàng không phải là phù thuỷ, nếu không nàng đã biết sợ dấu hiệu của nhà thờ. Phải, trong kinh thánh không hề nói đến chuyện tiếp xúc với thần linh, như vậy là đã phạm tội. Sau khi tự chấn an như vậy, vị linh mục thấy tự tin hẳn lên.
                      Nửa đêm hôm sau, bị tính tò mò thôi thúc, Kamêli lại đến trước cái cây lạ.
                      - Đơriađa! - Ông cất tiếng gọi và dừng lại với một chiếc lá to bản.
                      - Hi hi! Ha ha! - Một tiếng cười hỉ hả cất lên. Và qua tiếng lá cây sột soạt có thể đoán ra cô gái rừng xanh đang tụt xuống đất.
                      Ngay từ lúc trưa, vị tu sĩ đã nghĩ cách giải thích lý do ông trở lại chỗ cây này. Khi Đơriađa đã ngồi trên một cành cây thấp, ông không hề lúng túng thanh minh:
                      - Tôi đến để xem lũ châu chấu có còn quấy rối các cây của bà nữa không.
                      - Một tên vô lại nào đó đã leo lên tận ngọn cây rồi, - Cô gái rừng xanh than phiền - nếu ngươi bắt được nó, ta sẽ rất biết ơn ngươi.
                      Kamêli quấn hai vạt áo quanh thắt lưng và thoăn thoắt leo lên cây. Một con châu chấu đã bị tóm và ông đã được thưởng công xứng đáng.
                      Cả lũ châu cháu đã bị diệt gọn, song Kamêli không hề lúng túng, nghĩ cách đoạt được nụ hôn của Đơriađa. Mùa đông đã đến gần, không khí bắt đầu nhuốm lạnh. Trong một đêm Đơriađa đã nói với Kamêli:
                      - Ngày mai ngươi đừng đến đây nữa. Trước mùa xuân, cái cây phải nghỉ ngơi và ta sẽ cùng nghỉ với nó.
                      Cái tin lạ lùng khiến Kamêli sửng sốt. Ông sẽ sống ra sao đây nếu thiếu niềm vui? Hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng, rồi nhiều tháng cứ qua đi thì sao? Còn linh hồn dịu dàng - Đơriađa - hẳn nàng đang bị chết cóng trong hốc cây không, phải nghĩ ra một điều gì đó, phải làm một cái gì đấy để cứu nàng.
                      Giá như còn thời gian hẳn Kamêli sẽ nghĩ ra được điều gì đấy, nhưng bây giờ chẳng còn thời gian để nghĩ nữa, cần phải hành động. Ông túm lấy cô gái rừng xanh, giấu dưới vạt áo rộng và đem về nhà mình. Suốt dọc đường Đơriađa đành câm miệng hến, chỉ khi bước vào gian phòng mà vị linh mục đặt nàng xuống giường, nàng mới kêu lên:
                      - Ngươi làm cái trò gì thế? Giờ này chắc cái cây của ta đang bắt đầu chết héo....
                      - Mặc cho nó chết héo. Chẳng lẽ trong rừng hiếm cây sao? Kamêli an ủi nàng.
                      - Ông hiểu việc đó như thế nào. Nếu cái cây của tôi khô héo thì tôi sẽ chết. - Đơriađa nói, giọng buồn bã.
                      - Đó là chuyện nhảm nhí, ta sẽ giải phóng nàng khỏi nơi này. - Vị tu sĩ thề thốt.
                      Tới mùa xuân, khi các lá cây bắt đầu trổ màu xanh, Đơriađa cứ yếu dần và gầy rộc hẳn đi.
                      - Hãy trả ta về với cây của ta! - Nàng khẩn khoản nói với Kamêli và ông đã sẵn sàng thực hiện yêu cầu của nàng, đồng thời hy vọng không khí mùa xuân sẽ chữa cho Đơriađa lành bệnh.
                      - Thật là đau khổ! - Đơriađa kêu lên khi Kamêli đặt nàng ngồi trên cành cây thấp - Cái cây của tôi đã chết rồi.
                      Trớc mắt Kamêli nàng cứ tự tan biến đi và hoà lẫn vào cây xanh: Mãi tới một ngày kia, hệt như bông hoa lộng lẫy, mớ tóc hung hung của nàng bừng đỏ lên, rồi sau đó chúng cứ lấp loáng.
                      - Xin nàng đừng bỏ đi, hãy nói với ta, dù chỉ là đôi lời!
                      Kamêli thất vọng cầu xin và ông đã nghe được giọng nói yếu ớt đáp lại:
                      - Trên đỉnh ngọn cây kia vẫn còn hơi thở nóng hổi của cuộc sống. Hãy bẻ lấy một nhành cây trên đó và đem trồng ngay xuống đất.
                      Kamêli bẻ ngay một cành cây tươi và đau đớn trở về nhà. ít lâu sau, từ cành cây đó mọc lên một bụi cây và nở ra những bông hoa đỏ sặc sỡ.
                      Vài năm sau, vị tu sĩ già từ Nhật Bản trở về Châu Âu. Ông là người duy nhất mang theo về một chậu hoa mà ai cũng phải trầm trồ. Kamêli đặt tên nó là Hoa Đơriađa nhưng người đời không thể nhập tâm được một cái từ khó đọc như vậy nên đã gọi tên hoa bằng tên vị linh mục: Kamêli - Hoa Hải Đường
                      #11
                        Thanh Vân 29.09.2009 17:36:12 (permalink)
                        SỰ TÍCH HOA ĐỖ QUYÊN


                        Có một đôi vợ chồng nọ, sống trong một khu làng nhỏ, nhà nghèo nhưng sống hạnh phúc, rất yêu thương nhau. Người chồng thì thường xuyên vào rừng sâu săn bắn, đốn củi. Bỗng một hôm đợi mãi chẳng thấy chồng quay về, mỗi ngày người vợ cứ ngóng dáng chồng sau buổi hoàng hôn.
                        Một tháng, hai tháng, ba tháng vẫn chẳng thấy tin tức gì. Người vợ quyết định khăn gói lên đường đi tìm chồng, lúc sáng người vợ ra đi buổi chiều hôm đó người chồng đã quay về.
                        Cứ đi, cứ đi, ngày này qua ngày khác, đi đến lúc người vợ gục ngã bên tảng đá và trút hơi thở cuối cùng, thân xác này rã đi, bên tảng đá ấy mộc lên một loài cây, chỉ nở hoa khi mùa xuân về, màu hoa rất tươi và đẹp. Hồn người vợ bay về trời gặp Ông Tiên. Ông Tiên hỏi vì sao con gục gã và chết đi trong rừng sâu như thế này. Người vợ trả lời con đi tìm chồng. Ông đặt tên cho loài hoa này là hoa Đỗ (Đỗ có nghĩa là đợi).
                        Khi người chồng trở về nhà thì chẳng thắy vợ mình đâu, bèn hỏi những người xung quanh, họ bảo rằng cô ấy đã vào rừng sâu tìm cậu. Thế là chồng cũng khăn gói lên đường tìm vợ, đi mãi đi mãi, lại kiệt sức đúng trên tảng đá mà người vợ đã chết trước kia. Người chồng hoá kiếp thành một loài chim, loài chim này sống đơn độc một mình và đặt biệt cất tiếng hót khi trời đã hoàng hôn, tiếng hót như tiếng kêu than, tuyệt vọng.
                        Ông Tiên đã chứng kiến tình yêu thương của đôi vợ chồng này, đặt tên cho loài chim này là chim Quyên (Quyên đọc trại có nghĩa là Quên).
                        Và không biết từ bao giờ lài hoa này được mọi người gọi là Hoa Đỗ Quyên. Để tưởng nhớ cho mối tình chung thuỷ!
                        #12
                          Thanh Vân 29.09.2009 17:36:58 (permalink)
                          Sự Tích Hoa Đồng Thảo





                          SỰ TÍCH HOA ĐỒNG THẢO


                          Hoa thường xuất hiện vào đầu mùa xuân, trông tựa cô gái nhỏ mảnh mai mang chiếc vĩ cầm màu xanh trên tay. Mỗi khi cô gái biểu diễn thì chim muông ngừng hót, lắng nghe tiếng vĩ cầm kỳ diệu, ong bướm cứ bay lượn chung quanh hát hoà theo những giai điệu phát ra từ thứ nhạc cụ khiêm tốn kia.
                          - Này, Phianca (Hoa Đồng Thảo) - một cô gái má đỏ, nguyên là em của hoa Anh Túc, ba hoa nói - Cậu có thể biểu diễn cả dàn nhạc được đấy, cậu sẽ thu được ối tiền!
                          - Ôi, mình có qua trường lớp nào đâu. - Phianca đáp - Tớ rất vui, nếu tiếng đàn của tớ đem lại niềm vui cho mọi người.
                          - Nếu cậu có tiền, cậu sẽ tha hồ ăn diện - Cô gái má đỏ khuyên - Chả lẽ ngày thường cũng như trong ngày hội cậu chỉ mặc duy nhất bộ cánh xanh thôi à.
                          - Thế này cũng được rồi, còn ăn diện thì tớ không dám màng - Phianca trả lời.
                          - Này nhé, nếu có tiền, cậu sẽ mua hẳn một chuỗi vòng bằng ngọc trai, quàng lên cái cổ mảnh dẻ của mình ấy - Hoa Uất Kim Cương xinh đẹp chen vào - Biết đâu người ngoài chẳng để mắt tới.
                          - Cổ tớ khẳng khiu, khó coi lắm. Các vòng ngọc trai như vậy đâu phải để cho tớ. Cứ giản dị thôi.
                          - Cậu cứ như trẻ con ấy, nói chẳng nghe gì cả, - cô gái má đỏ tức giận, vừa cong cái môi lên vừa mỉm cười nhìn về phía hoa Rẻ Quạt đang đứng bên kia đường.
                          Rẻ Quạt không mỉm cười đáp lại vì nó đang bị tiếng đàn của Phianca thu hết hồn. Những giai điệu huyền hoặc từ cây đàn vĩ cầm kia cứ lan xa, lan xa mãi, tựa như bài hát du dương về tình yêu và tình bạn bất diệt. Phianca ngừng chơi. Hoa Lưu Ly mắt xanh bèn cúi sát gần nó, thì thào:
                          - Cậu có thấy Rẻ Quạt nhìn cậu như thế nào chưa? Như bị thôi miên vậy. Nó phải lòng cậu rồi!
                          - Rõ thật là! - Phianca khẽ thở dài - Mình thuộc diện xấu mã. Đứng bên cạnh chị má đỏ và Uất Kim Cương, mình chỉ là con lọ lem thôi. Rẻ Quạt xinh trai thế kia, nó phải lòng mình vì lẽ gì cơ chứ? Có lẽ nó yêu âm nhạc và thích nghe tiếng đàn của mình thì đúng hơn, còn cậu thì định lừa mình để rồi sau đó lại cười vào mũi mình là con ngốc cả tin chứ gì. Phianca đã trả lời như thế nhưng trái tim nó cứ chộn rộn khôn nguôi. Nó bắt đầu kẹp chặt chiếc vĩ cầm xanh vào vai và thổ lộ nỗi buồn cùng những ước mơ của mình qua một giai điệu êm ái. Qua tiếng đàn của nó, người nghe có cảm giác hạnh phúc trên đời này thật vô tận, chỉ việc chìa tay ra mà đón nhận, và tất cả những gì mà bạn ao ước như tình yêu, tình bạn và niềm vui, sẽ lần lượt đến với bạn, tựa như những vì sao trên bầu trời mùa hè đang rớt xuống.
                          Tiếng đàn của Phianca ngưng bặt. Rẻ Quạt cứ bứt rứt trong người, nếu như Tử Đinh Hương không nói nhỏ vào tai nó:
                          - Rẻ Quạt ơi, cậu sẽ là một thằng ngốc nếu để tuột hạnh phúc khỏi tầm tay. Chả lẽ cậu không thấy Phianca chơi đàn chỉ để cho mình cậu đó sao? Nó đã phải lòng cậu rồi, đến thằng thong manh cũng nhận ra!
                          - Làm sao cậu biết được? - Rẻ Quạt tỏ vẻ không hài lòng - nó giống như một nhà nghệ sĩ lúc nào cũng mơ màng trên bầu trời xanh, xa lạ với những tình cảm trần thế, nó sống với nghệ thuật riêng mình và một chàng trai tầm thường như mình, đối với nó không hơn một cọng rơm.
                          Một buổi chiều ấm áp, Phianca chơi bản Xônát ánh trăng. Thoạt đầu âm nhạc vang lên một nỗi buồn khó hiểu, một lời cầu xin bứt rứt, nỗi sầu muộn bị chối bỏ nhưng rồi giai điệu được chuyển ngay sang những lời thủ thỉ say đắm, đầy quyến rũ, giục giã và cứ thế mà mãnh liệt hơn lên, kêu gào đòi được hạnh phúc.
                          Cô gái má đỏ đứng bên cạnh Rẻ Quạt trút một hơi thở đầy say mê. Tiếng thở của nó như một thứ rượu làm say lòng người. Rẻ Quạt đã bị nhiễm hơi men và đang mê mẩn cả tâm thần.
                          Phianca đã biến hoá thành âm thanh cây đàn, còn cô má đỏ thì áp sát toàn thân vào người nó, hôn hít nó, tâm tình với nó những lời âu yếm, còn Rẻ Quạt thì đã bắt đầu cảm nhận được cô má đỏ kia chính là hạnh phúc của mình. Sáng hôm sau, khi Rẻ Quạt vẫn còn đang nhớ lại và luyến tiếc giây phút đầy vui sướng thoảng qua thì cô má đỏ đã thông báo cho các bạn gái về đám cưới sắp tới của mình. Như thông lệ, mọi người hân hoan chào đón chàng rể và cô dâu, đồng thanh chúc họ hạnh phúc của cải đầy nhà.
                          Cô má đỏ hài lòng quay một vòng khiến chiếc váy đỏ xoè ra, còn Rẻ Quạt thì cứ đứng bất động, vẻ thờ ơ như không hề có ý định cưới cô má đỏ làm vợ.
                          Sau tiệc cưới, mọi người phải nhảy múa và thế là Phianca bắt đầu chơi một bản nhạc vanxơ và pônca. Trong lúc khách khứa còn đang say sưa với vũ điệu thì ông bố Uất Kim Cương bỗng ra hiệu cho người chơi vĩ cầm và thế là một không khí im lặng nặng nề trùm lên. Quả là trong lúc nhộn nhạo, không ai hay rằng Phianca đã biến mất. Mãi tới lúc này cô má đỏ mới nhớ ra rằng trong lúc bỏ đi, nàng có dặn lại:
                          - Chúc bạn hạnh phúc! Cảm ơn bạn về việc đã đón tiếp tôi! Nhưng nỗi đau của tôi đang làm sản sinh ra những bài ca mới và những bài ca ấy cũng đang đưa tới hạnh phúc cho nhiều người khác.
                          #13
                            Thanh Vân 29.09.2009 17:37:35 (permalink)
                            SỰ TÍCH HOA HƯỚNG DƯƠNG
                            SỰ TÍCH HOA HƯỚNG DƯƠNG (1)

                            Thuở xa xưa khi trái đất còn ngập chìm trong đêm tối hoang sơ, những bông hoa ủ rũ nép bên nhau để tìm hơi ấm. Không gian luôn chìm trong một màn đêm u tối, vắng lặng không một tiếng chim ca.
                            Ngày lại ngày trôi qua trong buồn bã. Các loài hoa chỉ biết chờ và hát những bài ca buồn bã hi vọng sẽ có một điều kỳ diệu xảy ra giải thoát chúng khỏi những ngày dài u tối...
                            Và khi những giọt nước mắt vương trên cánh hoa giá lạnh, bất chợt các loài hoa cảm nhận được một hơi ấm và cả không gian bừng sáng. Điều kỳ diệu mang tên Mặt trời đã đến đem theo những tia nắng ấm áp, những làn gió nhẹ xua tan màn đêm tăm tối... Một thời kỳ tươi sáng mở ra cho trái đất. Một thời kỳ đầy sức sống và thanh bình...
                            Dưới ánh nắng ấm áp của mặt trời, muôn loài hoa nở rộ khoe sắc thắm, ong bướm bay lượn rập rờn hòa trong bản giao hưởng của trăm tiếng chim ca. Tất cả đều dành cho mặt trời tình cảm yêu thương nhất. Những bông hoa đều khoác lên mình màu sắc tươi đẹp, hương thơm quyến rũ để mong có được tình yêu của mặt trời...
                            Trong muôn nghìn bông hoa rực rỡ ấy có một bông hoa tên là Hướng dương. Hoa Hướng dương cũng mang trong tim một tình yêu cháy bỏng với mặt trời. Hoa quyết định nhuộm vàng mình, cũng như luôn vươn cao mình hướng về mặt trời mặc cho những lời đường mật của ong bướm, lời thì thầm của làn gió và sự dịu dàng của mây...
                            Mặt trời vô tình không hiểu được tình cảm của hoa hướng dương, vẫn vô tư dạo chơi trên trời cao và tỏa ánh nắng sưởi ấm cho muôn loài. Hoa Hướng dương buồn lắm, sau bao ngày đau đớn trong tuyệt vọng, hoa quyết định sẽ bứt mình khỏi mặt đất bay đến gần mặt trời để nói cho mặt trời biết tình cảm của mình...
                            Dù rất đau đớn, hoa vẫn cố vươn mình lên. Tự nhủ vẫn còn nặng lắm hoa bèn bứt những chiếc lá ra khỏi mình... Vẫn không thể cất mình lên nổi, hoa bèn bứt nốt những cánh hoa và hoa thầm nghĩ: "Dù mình có xấu xí đến đâu, dù mặt trời có từ chối mình thì chỉ cần mình nói ra được tình cảm trong lòng là đủ lắm rồi ...". Hoa Hướng dương lả đi nhưng bỗng hoa cảm thấy mình đang bay lên, bay đến với mặt trời. Trong những phút giây cuối cùng hoa Hướng dương vẫn luôn nghĩ đến mặt trời với nụ cười trên môi.
                            Thời gian như ngừng lại, gió cất tiếng khóc than, muôn hoa thổn thức khóc cho sự hi sinh vô điều kiện vì tình yêu của hoa Hướng dương... Mặt trời đến lặng mình trước tình yêu của hoa Hướng dương. Những giọt nước mắt của mặt trời lăn xuống rơi lên hoa hướng dương...
                            Kể từ ngày đó những bông hoa Hướng dương luôn vươn mình hướng tới mặt trời và mặt trời cũng luôn dành cho hoa Hướng dương những tia nắng ấm áp nhất với tất cả tình yêu dịu ngọt...
                            Hạnh phúc luôn đến với những người lạc quan và mạnh mẽ như "Hoa Hướng Dương luôn hướng tới Mặt Trời ".



                            SỰ TÍCH HOA HƯỚNG DƯƠNG (2)

                            Khi các cô gái của thần Mặt Trời tắm táp xong, đáp thuyền du ngoạn ra tận biển khơi thì nàng út mới sực nhớ ra là nàng đã bỏ quên chiếc vương miện bằng vàng của mình trên cành cây sồi ven bờ. Không có vương miện, nàng không dám về nhà và nàng tha thiết xin các chị hãy quay thuyền lại. Nhưng các chị kêu mệt, thoái thác và chỉ muốn được đi nằm ngủ ngay, còn nếu nàng út lơ đễnh quá đáng như vậy thì hãy tự quay lại bờ một mình, và cứ đứng chờ ở đó một mình cho đến sáng, cho đến khi các chị lại trở lại tắm lần nữa.
                            Nàng út bơi đến bờ.... nhưng thật là khủng khiếp : chiếc vương miện không còn trên cành sồi nữa! Dưới gốc cây là một chàng trai tuấn tú, tóc đen, mắt xanh màu nước biển. Chàng giơ cả hai cánh tay vạm vỡ về phía cô gái và ôm chầm lấy nàng vừa nói những lời ngọt ngào tựa mật ong vàng.
                            - Nàng hãy ở lại đây mãi mãi với ta, đôi ta sẽ yêu nhau và đừng bao giờ xa nhau - Chàng thì thào rồi lại hôn nàng thật lâu và thật thắm thiết.
                            - Em ở lại trần gian sao được, hỡi chàng? Đêm tối ở đây mịt mùng, lạnh lẽo lắm, mà em đã quen ở lầu son, gác tía, nơi dưới từng trần nhà đều có những chùm ngọc tía sáng chói; ban ngày em ngồi dệt chỉ vàng, tối đến đi tắm biển thật thoả thích. Trong những buổi vũ hội, chúng em nhảy múa cùng các chàng trai của Hằng Nga và cưỡi những con ngựa bạc. Chàng có thể hứa hẹn với em một cuộc sống như thế nào ở nơi trần thế này? - Con gái Thần Mặt Trời hỏi.
                            - Ta hứa với nàng sẽ có những buổi sáng đầy sương làm mát dịu đôi chân nàng, sẽ có tiếng chim ca, tiếng lá cây rì rầm làm vui tai nàng. Ta hứa với nàng những ngày lao động cật lực và cái mệt mỏi vào những buổi chiều. Còn đêm đến, nàng sẽ được sưởi ấm trong vòng tay ôm ấp của ta - con trai Thần Đất nhẹ nhàng đáp lời.
                            - Chàng hãy chỉ cho em vẻ đẹp tuyệt vời của trần thế đi, khi đó em sẽ quyết định có ở lại với chàng hay là quay về quê hương - con gái Thần Mặt Trời nói.
                            Và con trai Thần Đất đã dẫn nàng út tới bên bờ sông, nơi có những cây Anh Đào nở hoa và tiếng hoạ mi líu lo. Chàng trai hỏi:
                            - Nàng đã được nghe bài ca tuyệt diệu ấy bao giờ chưa?
                            - Chưa, - nàng út thú nhận.
                            - Thế nàng đã được nghe tiếng sóng nước ồn ào của những con sông đổ ra biển cả chưa? Nàng cảm thấy hương hoa Anh Đào thế nào? Và nàng đã biết tình yêu là gì chưa?
                            - Chàng chính là tình yêu của em, em sẽ ở lại đây với chàng - nàng út sung sướng hứa. Và con trai Thần Đất bèn dẫn nàng tới một căn hầm để nàng được thấy lại vương miện của mình.
                            Cứ sáng sáng, Thần Mặt Trời lại ra rả gọi con gái quay về thiên cung, đồng thời không quên báo cho nàng biết, nếu nàng quyết chí ở lại hạ giới thì nàng sẽ phải làm việc quần quật ngoài đồng. Nhưng nàng út khăng khăng không chịu vâng lệnh cha, bởi lẽ nàng cảm thấy cuộc sống nơi trần thế này thú vị hơn nhiều so với ở thiên cung, nơi mà nàng đã chán ngấy những chuỗi ngày lê thê ngồi bên khung cửi. Ở trần thế nàng được nghe không biết chán tai tiếng sông nước chảy rì rào, tiếng hoạ mi lảnh lót và được thưởng ngoạn những mùa hoa Anh Đào rực rỡ. Thần Mặt Trời đành phải gửi của hồi môn cho nàng út, và nàng đã làm lễ thành hôn với chàng trai trần thế.
                            - Ta không ưa chàng trai Thần Đất, song ta không thể cấm đoán tình yêu của con được. Nhưng không nên vì ái tình mà con xem thường quê hương, tổ quốc. Sẽ xảy ra chuyện gì, nếu con thấy buồn nhớ nhà? - Thần Mặt Trời hỏi và khép màn mây lại có ý báo rằng, cuộc trò chuyện với con gái đã chấm dứt.
                            - Con sẽ không cầu xin trở về đâu! - nàng út kêu lên một cách kiêu ngạo.
                            Hôn lễ vừa xong, mẹ Thần Đất đã bắt con dâu phải lao động. Nàng phải ra vườn coi sóc đàn ong, còn công việc khác xem chừng đôi tay trắng ngần của nàng không cáng đáng nổi. Bây giờ hàng ngày nàng út phải đứng chôn chân giữa vườn trông coi đàn ong để chúng khỏi lạc vào tổ khác. Ngày tháng cứ trôi qua bình lặng, tẻ ngắt như tiếng ong rù rì. Còn đâu nữa những buổi dong chơi trên lưng ngựa bạc, những đêm nhảy múa cùng các chàng trai của Hằng Nga, những chuyến du ngoạn bằng thuyền trên biển lớn cùng các chị?
                            Những con ngựa bị xua đuổi ra cánh đồng nặng nề lê từng bước còn chàng trai Thần Đất bị công việc đồng áng hút hết sức lực nên chẳng còn thời gian nói với nàng những lời lẽ âu yếm nữa. Một hôm nàng út đòi:
                            - Chàng hãy mang hoa Anh Đào về cho em!
                            - Hoa Anh Đào chỉ nở có mùa thôi - chàng trai giận dữ đáp.
                            - Hãy mang tiếng hót hoạ mi về cho em nghe!
                            - Hoạ mi đâu phải lúc nào cũng cất tiếng hót.
                            - Đã lâu rồi chàng chưa hôn em. Chả lẽ tình yêu của chàng không còn vĩnh hằng nữa sao?
                            - Tình yêu không là vĩnh hằng.
                            - Vậy thì cái gì là vĩnh hằng, thưa chàng?
                            - Lao động là vĩnh hằng - chàng trai đáp và cầm cái liềm đi ra đồng.
                            Con gái của Thần Mặt Trời lại phải ở nhà một mình. Nàng buồn nhớ nơi chôn rau, cắt rốn đến nỗi mất cả lòng kiêu ngạo bấy lâu nay, nàng quay về phía Mặt Trời da diết cầu xin :
                            - Hỡi Thần Mặt Trời kính yêu của con, xin người hãy chấp thuận lời giãi bày của con đây. Hiện giờ con rất nhớ quê nhà. Con thường nằm mơ thấy những con đường của tuổi ấu thơ, thường nghe các chị dệt trên khung cửi rào rào. Người hãy thương con và cho con được trở về thiên cung!
                            Thần Mặt Trời chỉ im lặng.
                            Nàng út vẫn không ngừng van xin :
                            - Hỡi người cha đáng kính, chẳng nhẽ Người không cảm thấy đứa con gái của Người đang bất hạnh trên đất khách, quê người ? Người hãy gọi con về, nếu Người không muốn thừa nhận con là con gái nữa thì con xin làm kẻ hầu hạ Người.
                            - Con gái ta ở hạ giới quá lâu rồi, đến nỗi đôi chân con đã bén rễ, khó mà bứt ra được. Giờ đây, Cha không thể giúp con được nữa.
                            Thần Mặt Trời vừa dứt lời, Người dùng ngay chiếc khăn mây trắng che kín hai mắt. Những giọt nước mắt của Người như những giọt thủy tinh trong suốt cứ rơi lã chã xuống đôi tay của con gái.
                            Nàng út toan nhấc đôi tay lên, song mặt đất này đã giữ chặt lấy nàng. Và nàng đã phải ở lại trần thế trong tình trạng như vậy, để rồi sau đó biến thành một bông hoa, luôn luôn hướng về phía mặt trời, về phía quê cha, đất tổ. Chính vì thế loài hoa này có tên gọi: Hoa Hướng Dương.
                            #14
                              Thanh Vân 29.09.2009 17:38:21 (permalink)
                              Sự Tích Hoa Lan Dạ Điệp



                              SỰ TÍCH HOA LAN DẠ ĐIỆP


                              Lanhit trở dậy, mặc quần áo và thận trọng men theo con đường sống trâu đi về khu rừng tùng đen. Rừng tùng rậm rạp, tối sẫm. Những cây thông đỏ chót, ngạo nghễ có tuổi hàng thế kỷ đang dạo những bản nhạc buồn bã của mình.
                              Chính Lanhit cũng không hiểu sức mạnh nào đã lôi cuốn anh đi vào rừng. Ði về nơi còn lưu truyền nhiều truyền thuyết kỳ lạ. Trước đây, Lanhit vốn rất sợ những câu chuyện hoang đường về rừng tùng đen, nhưng từ khi Dane người vợ chưa cưới của chàng biến mất thì đôi chân của chàng đã cưỡng lại ý nghĩ của chàng và đưa chàng đến đây.
                              Nỗi lo lắng trong ngày lễ thánh luôn luôn dày vò Lanhit. Chàng làm sao hiểu được đó là tiếng rừng ồn ào, tiếng chim hót hay hương thơm kỳ lạ của các loài hoa, tất cả đang lôi cuốn bước chân chàng vào rừng. Có thể tất cả đó cả hình là loài hoa rừng mà ba mươi năm nay chàng đã đem lòng yêu.
                              Gần tới ngày lễ thánh, khi hoa Lan Dạ Ðiệp hai lá bắt đầu tỏa hương thơm, Lanhit lại bị một mối lo âu khó hiểu hành hạ. Ðêm nào chàng cũng bị mất ngủ. Chàng đi lang thang trong rừng và khi tìm thấy một khu rừng thưa có một bông hoa Lan Dạ Ðiệp hai lá, chàng liền nằm xuống bên cạnh và bị thứ hương quyến rũ của nó hút hết tâm sức. Nhưng chàng chẳng nỡ hái hoa, dù chỉ là một bông Lan Dạ Ðiệp. Những cánh nhỏ trong suốt của nó trông thật dịu dàng và mảnh dẻ, những bông hoa trắng thật tuyệt vời, hương của nó ngọt ngào đến nỗi Lanhit cảm thấy mình sẽ có tội nếu dám chạm bàn tay thô ráp, xấu xí vào chúng.
                              Lanhit yêu hoa đến độ cuồng nhiệt có thể vì Dane của chàng cũng yêu hoa. Chàng lấy làm sung sướng vuốt ve từng bông hoa.
                              Những bông hoa gợi cho chàng nhớ tới những sớm, những chiều Dane đã đưa vào phòng chàng những bó hoa thơm ngào ngạt.
                              Chính bởi vậy mà đêm nay Lanhit đi sâu mãi, vào trong rừng, nơi có một bông Lan Dạ Ðiệp hai lá. Chàng phát hiện ra một không rừng thưa với cơ man những hoa là hoa.
                              Lanhit nằm xuống đất và suy nghĩ về Dane của mình. Ðã ba mươi năm trôi qua kể từ khi nàng biến mất, nhưng cho đến tận bây giờ, những ý nghĩ về nàng cứ đeo đẳng chàng suốt cả ngày lẫn đêm.
                              - Dane, Dane ơi, cuộc sống đang reo vui quanh ta, bây giờ em đang ở bên ta - Lanhit thì thào và ghé sát cặp môi vào một bông hoa Lan Dạ Ðiệp.
                              Và Lanhit lại nhớ tới cái thời cách đây đã hai mươi tư năm. Dạo ấy, bà mẹ Vaidune và cô con gái Dane đến định cư ở buôn làng chàng. Ngày mới đến Dane còn e lệ, dụt dè lắm, chỉ thỉnh thoảng mới dám liếc nhìn Lanhit.
                              Bà Vaidune biết chế biến thuốc chữa được các loại bệnh khác nhau, nhưng bà đã tuổi cao, sức yếu, Dane phải đi hái lượm các loại cỏ làm thuốc. Cô gái ra khỏi nhà lúc mặt trời lặn, toàn thân ướt đẫm song, hai bên vạt áo đầy những cỏ và hoa.
                              Khi Lanhit kết bạn với Dane, chàng cũng đi hái cỏ với nàng. Ðó là những chuyến du ngoạn không sao quên được. Chỉ có điều Dane không kể chuyện về các loài cỏ và hoa, nàng gọi tên từng loài chim qua giọng hót của nó. Khi hết chuyện, họ bắt đầu huýt sáo hoặc cất tiếng hát vang. Chiều đến, nàng đem hoa đặt vào phòng Lanhit, sáng hôm sau nàng lại đòi chàng phải kể lại giấc mơ đêm qua của mình.
                              Trước ngày lễ thành không lâu, Dane bỗng thay đổi một cách khác thường, nàng trở nên đăm chiêu và đêm đêm thường đi lang thang trong rừng tùng đen. Lanhit gạn hỏi, nàng cũng không biết trả lời ra sao. Có lần nàng nói: "Không nửa đêm hoặc giữa trưa khi em đi vào rừng kiếm cây cỏ làm thuốc em thường nghe có tiếng người gọi. Lúc đó em thấy trong người sảng khoái một cách khác lạ, bởi lẽ em không biết người vừa gọi mình đó là ai".
                              Ðúng vào buổi dạ hội, Lanhit và Dane cùng nhóm một bếp lửa nơi bìa rừng. Ngồi bên bếp lửa họ nói cười vui vẻ và tung hoa vào người nhau.
                              Bỗng Dane đứng dậy và nói:
                              - Lanhit ơi, em biết trong khu rừng rậm rạp này có một loài hoa bí ẩn đã nở. Gió đang đưa mùi hương của nó tới đây, và mùi hương ấy đang làm em ngây ngất còn hơn là những cái hôn của chàng. Ðêm nay em muốn mang bông hoa đó về tặng chàng.
                              - Ta sẽ chờ em, Lanhit đáp và ở lại canh chừng bếp lửa.
                              Chàng chờ Dane thật lâu, cuối cùng không chờ được nữa, chàng đành phải đi tìm nàng.
                              Chàng lên tiếng gọi, rồi đích thân đến tận chỗ có tiếng nàng đáp lại thì chỉ thấy ở đây bao trùm một bầu không khí yên lặng, và ở một phía khác vang lên tiếng cười của một cô gái.
                              - Dane, đừng làm khổ ta nữa - Lanhit hét lên nhưng vẫn không thấy Dane xuất hiện.
                              Sáng ra, Lanhit trở về nhà trong tâm trạng mỏi mệt và giận dữ.
                              Ðêm sau rồi đêm sau nữa Dane vẫn không quay lại.
                              Lanhit cùng đám gia nhân lên đường đi tìm kiếm. Họ lục soát khắp rừng, song vẫn không gặp nàng ở đâu, Lanhit đành ở lại rừng một mình. Chàng lại tiếp tục tìm kiếm Dane, cuối cùng thì chàng lạc vào một khu rừng rậm. Bỗng dưng có một bông hoa lạ tỏa ra một mùi hương đầy quyến rũ khiến chàng phải chú ý.
                              - Ðúng rồi, đây chính là loài hoa đã tỏa ra thứ hương thơm có sức quyến rũ mãnh liệt hơn tất cả những cái hôn của ta, và chính nó đã vẫy gọi nàng vào rừng! - Lanhit thốt kêu lên và tức giận lao vào chực ngắt bông hoa, song chàng vấp ngay phi một khúc gỗ và ngã sóng soài, chân tay sây sát tứa đầy máu.
                              Lanhit đi tìm nơi có nước để rửa sạch vết thương. "Thật là kỳ cục - chàng nghĩ - sao lại giận dỗi một bông hoa khi nó tỏa hương?
                              Một năm, hai năm rồi mười năm trôi qua, vẫn không thấy Dane trở lại. Lanhit thương nhớ nàng như thương nhớ người vợ hiền, song chàng không thể bắt đầu lại cuộc sống đã tan nát của mình được. Có những giây phút chàng muốn chết đi cho lòng thanh thản, nhưng chàng đã thắng được những ý nghĩ đen tối của mình. "Cuộc sống mà thiếu Dane khác nào địa ngục - chàng tự nhủ - Song ta nỡ nào tước bỏ cuộc sống khi nó không còn thuộc về riêng ta nữa. Vì có sống thì ta mới được trông thấy Dane, dù chỉ là trong mơ..."
                              Hương hoa Lan Dạ Ðiệp quả thật kỳ diệu. Lanhit có cảm giác hương của loài hoa này đang dần cô đặc lại, biến thành làn khói nhẹ thấp thoáng một bóng hình. Bóng hình ấy mỗi lúc một rõ hơn và bỗng dưng Lanhit nhìn thấy Dane, vợ chưa cưới của mình. Nàng đang tiến lại gần, quỳ xuống và khẽ chạm hai làn môi mát lạnh vào đôi mắt chàng.
                              - Dane! Dane của ta! - Lanhit kêu lên - cuối cùng ta cũng đã tìm được nàng. Nàng biến đi đâu mà lâu vậy? Tóc ta đã bạc hết rồi, và ta dường như đã thành một ông già.
                              Hương hoa thơm cứ quấn quýt bên chàng.
                              - Hỡi ngời tình chung thuỷ của em! Vì sao chàng không ngắt được hoa khi chàng ngã xuống, chàng còn nhớ không? Tóc chàng bạc trắng vì mội nỗi buồn khôn dứt, giá như em đày đọa ở đây vĩnh viễn dưới cái lốt bông hoa Lan Dạ Ðiệp hai lá.
                              Lanhit không sao hiểu được những lời nói lạ lùng của nàng, vì thế Dane bèn cắt nghĩa cho chàng hiểu tất cả:
                              - Chàng ơi, vào cái đêm xa xôi ấy, con Quỷ rừng đã đến quyến rũ em. Từ trước đó, nó đã dụ dỗ em rồi, nhng em đi theo tiếng gọi với một tâm trạng sợ hãi , vì em không hiểu ai đã gọi em. Lúc đó nó nghĩ ra một quỷ kế: trồng một bông hoa có hương thơm quyến rũ mãnh liệt hơn cả những cái hôn của anh. Nó biết rằng em yêu hoa cũng mãnh liệt chẳng kém gì yêu anh. Trước ngày lễ thánh, làm cho anh một tặng phẩm, đó là đi tìm một bông hoa bí ẩn. Và thế là Quỷ rừng bèn phả vào hoa Lan Dạ Ðiệp một thứ hương huyền ảo và em thì chạy đi tìm bông hoa kỳ lạ ấy. Chính ngay tại chỗ này, Quỷ rừng đã bắt được em. Nó nói rằng nó đã để ý đến em đã lâu, nó muốn em làm vợ nó và vĩnh viễn ở trong rừng. Em đáp lại rằng không thể có chuyện đó, rằng em chỉ yêu một mình chàng thôi. Nó vật vã cầu xin em hết một đêm nhưng em vẫn cưỡng lại, vì em tin chắc rằng chàng sẽ đi tìm em, và khi ấy tà phép của nó sẽ mất hết sức mạnh.
                              Tới đêm thứ hai, khi chàng một mình đi vào rừng sâu, Quỷ rừng bèn biến em thành hoa Lan Dạ Ðiệp hai lá để che mắt chàng. Nếu lúc đó chàng ngắt được hoa, em đã trở lại thành Dane của chàng rồi, nhưng Quỷ rừng đã hoá thành khúc gỗ khô, ngáng chân chàng, chàng đã ngã và sau đó chàng đi lại phía bờ suối.
                              Ðã ba mươi năm nay em mong chàng tới ngắt hoa, nhưng chàng thì lại chỉ rủ lòng thương bông hoa mảnh dẻ. Ba mươi năm nay em không chịu làm vợ Quỷ rừng. Nó dùng mọi thủ đoạn dụ dỗ, đe doạ em nhưng em chỉ một lòng chờ đợi, mong ngóng chàng.
                              Nhưng ba mươi năm ấy trôi qua, con người không đủ sức chiến thắng tà phép của Quỷ rừng, em đành phải chấp nhận số phận ở lại rừng sâu vĩnh viễn cùng với những cô gái sắp sửa xuất giá cũng bị bỏ bùa mê như em. Chàng thấy đấy, ở đây rất đông các cô gái ấy, nhưng tất cả họ đều một lòng chung thuỷ với người chồng chưa cưới của mình. Quỷ rừng thì đã già lại xấu xí như một khúc gỗ khô cong queo.
                              Hỡi người bạn tình chung thuỷ của em, vì sao chàng không hái hoa ngay sau đêm lễ thánh ấy?...
                              Hương hoa thơm làm say lòng Lanhit, và hình như người con gái chợt loé lên trước mắt chàng rồi biến mất!
                              - Dane, đừng bỏ anh! - Lanhit gào lên, như muốn cố níu người vợ bị hoá kiếp của mình lại để được ôm ấp nàng. Nhưng trong tay Lanhit chỉ còn là một bông hoa trắng muốt, đầy vẻ dịu dàng đang tỏa ngát hương thơm kỳ ảo như bao bọc lấy chàng.
                              #15
                                Thay đổi trang: 123 > >> | Trang 1 của 4 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 51 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9