Vườn Cổ tích Việt Nam " Sự tích các loài hoa "
Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 3 của 4 trang, bài viết từ 31 đến 45 trên tổng số 51 bài trong đề mục
Thanh Vân 29.09.2009 17:49:19 (permalink)






HOA NHẠN LAI HỒNG


Hoa NHẠN LAI HỒNG có màu xanh tinh tế và rất hài hòa với những nơi râm mát mà nó mọc lên. Loài thực vật nhỏ bé này tự gắn chặt mình vào đất nơi nó tự cho mình là vật trang trí. Những nhánh mềm bò lan khắp mặt đất và phủ đầy hoa trông như đang phản chiếu màu sắc của bầu trời.
Ở PHÁP, Nhạn lai hồng được xem là biểu tượng của ”Tình bạn chân thiết” và vì thế nó được sử dụng rộng rãi nhờ nhôn ngữ loài hoa mà chúng có.
Đối với người Anh, Loài cây xanh quanh năm này có ý nghĩa là ”những hồi ức dịu dàng”.
Ở Ý, dân quê làm những vòng hoa bằng nhạn lai hồng để đặt lên quan tài của những đứa trẻ chết vì bệnh và gọi nó là ”hoa của cái chết” .
Ở ĐỨC, nó lại là biểu tượng của ‘’sự bất tử” vì những chiếc lá xanh tươi, bóng bẩy của cây vẫn phát triển tốt suốt mùa đông.
Trong vòm xanh sau những chùm Anh thảo
Duyên dáng đong đưa những cánh Nhạn lai hồng
Đặt hết niềm tin vào trong kì ảo
Tôi hòa mình trong tình bạn mênh mông.

Quấn quýt đam mê vào bờ dậu xanh.
Nhạn Lai Hồng căng ngực trần hít thở
Với những chiếc lá xanh sáng bóng và hớn hở
Với những cánh hoa màu xanh lấp lánh như sao…

Niềm nở ân cần khi gặp gỡ nhau
Hoa xum xuê những lời chào nở rộ
Ôi, những cánh hoa chân tình của loài chim cổ đỏ
Những người bạn tuyệt vời của mùa đông băng giá…


CUỘC CHIA LI MÀU ĐỎ
Nguyễn Mỹ

Đó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ
Tươi như cánh Nhạn Lai Hồng
Trưa một chiều sắp ngả sang đông
Thu bỗng nắng vàng lên rực rỡ
Tôi nhìn thấy một cô áo đỏ
Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa
Chồng của cô sắp sửa đi xa,
Cùng đi với nhiều đồng chí nữa.
Chiếc áo đỏ rực như than lửa
Cháy không nguôi trước cảnh chia ly
Vườn cây xanh và chiếc nón trắng kia
Không giấu nổi tình yêu cô rực cháy
Không che được nước mắt cô đã chảy
Những giọt long lanh nóng bỏng, sáng ngời
Chảy trên bình minh đang hé giữa làn môi
Và rạng đông đã hừng trên nét mặt
Một rạng đông với màu hồng ngọc
Cây si xanh gọi họ đến ngồi
Trong bóng rợp của mình, nói tới ngày mai
Ngày mai sẽ là ngày sum họp
Đã toả sáng những tâm hồn cao đẹp
Nắng vẫn còn ngời trên những mắt lá si
Và người chồng ấy đã ra đi…
Cả vườn hoa đã ngập tràn nắng xế
Những cành hoa đỏ vẫn còn rung nhè nhẹ
Gió nói tôi nghe những tiếng thì thào
“Khi tổ quốc cần, họ biết sống xa nhau…”

Nhưng tôi biết cái màu đỏ ấy
Cái màu đỏ như cái màu đỏ ấy
Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi
Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người
Sẽ là ánh lửa hồng trên bếp
Một làng xa giữa đêm giá rét
Nghĩa là màu đỏ ấy theo đi
Như không hề có cuộc chia ly….
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2010 15:35:33 bởi Ct.Ly >
#31
    Thanh Vân 29.09.2009 17:49:54 (permalink)
    Sự Tích Hoa Pensée





    SỰ TÍCH HOA PENSÉE (HOA BƯỚM)


    Người VN mình thường gọi hoa pensée với những cái tên rất mộc mạc "hoa bướm", "hoa Păng-xê" hay "hoa tương tư". Hoa Bướm, có lẽ vì cánh hoa nhiều màu sắc, mỏng mượt như nhung và có hình dạng như con bướm đang đậu trên cành. Một cách quý phái hơn, hoa pensée được biết đến với tên gọi "Tử La Lan".
    Tên hoa Pensée có nguồn gốc từ tiếng Pháp là "nỗi nhớ nhung, tơ tưởng, tương tư", với thông điệp là "Nhớ về em (Thinking of You); Người đã chiếm giữ mọi ý nghĩ của tôi". Hoa Pensée cón có tên gọi tiếng Anh là Pansy, tên Latin là Violatricolor. Chữ "tricolor" là "ba màu" và "Viola" là do hoa thuộc họ hoa tím Violet (Violaceae). Tuy số lượng ba màu ở mỗi hoa không bao giờ thay đổi và đã trở thành đặc trưng của hoa Pensée, nhưng ba màu này được "tổ hợp ngẫu nhiên" từ các màu tím, đen, đỏ, vàng, xanh, trắng, cam để tạo nên nhiều giống hoa Pensée với những màu sắc lạ, rất hấp dẫn.
    Người đời đã yêu mến tặng cho loài hoa này nhiều biệt danh khác nhau, mà quen thuộc nhất có lẽ là "Heartsease", bởi vì người ta tin rằng những cánh hoa hình trái tim này có phép màu tình yêu kỳ diệu, có thể chữa lành những trái tim tan vỡ, an ủi những nỗi đau tình yêu, và nhất là, nếu bạn luôn giữ chúng bên mình thì bạn sẽ chắc chắn nhận được tình yêu của người mình yêu. Pansy là một thành phần trong "Bùa Yêu" của người Celt (ở Anh). Chính Shakespeare cũng đã đưa ý tưởng này vào trong vở kịch nổi tiếng "Giấc Mộng Đêm Hè" - với vài giọt nước cốt hoa Pansy nhỏ lên mắt khi say ngủ, Titania đã yêu "sinh vật đầu tiên mà nàng nhìn thấy".
    Pensée còn có nghĩa là "Sự thanh thản", là biểu tượng cho "vật kỷ niệm".
    Theo một truyền thuyết của Đức, ngày xưa Pansy có mùi hương thơm ngào ngạt. Người ta kéo nhau đi từ hàng dặm xa đến chỉ để được ngửi mùi hương đó. Nhưng chính vì vậy mà lớp cỏ xung quanh bị giẫm nát, tàn phá. Pansy cầu xin Chúa giúp đỡ những ngọn cỏ mong manh đó. Thế là, từ đó, Chúa lấy đi hương thơm của Pansy, nhưng bù lại cho nó một vẻ đẹp tuyệt vời.
    Păng-xê là một bông hoa Tình Yêu làm người ta liên tưởng đến thánh Valentine. Từ lâu, bông hoa đã được những người đang yêu trao gửi cho nhau như lời nhắn nhủ thương nhớ "Thinking of You". Tuy nhiên, theo dân gian, người ta cho rằng không nên hái đóa hoa Păng-xê khi trên nó có đọng giọt sương, bởi vì như thế có thể gây nên cái chết của người yêu và rất nhiều nước mắt sẽ phải tuôn rơi...
    Hoa Păng-xê xinh đẹp
    Đủ màu xanh, tím, vàng...
    Như cầu vồng bảy sắc
    Nhuộm hoàng hôn mênh mang.
    (Thomas J.Ouseley)
    Người VN biết đến hoa Pensée với bài hát "Chuyện Tình Hoa Pensée" nổi tiếng qua 2 giọng ca vàng một thời - Tuấn Vũ và Giao Linh

    Có người nào không ngậm ngùi cho duyên kiếp,
    khi nghe kể chuyện xưa..

    Chuyện hoa pensé đau thương và dang dở,
    nàng đã khoác nâu sòng
    Rồi từ đấy bao lần lệ hoen mi,
    niềm ưu tư khoác khép lên đôi vai gầy,
    cuộc đời chìm trôi theo tiếng kệ kinh,
    chuyện ngày xưa chỉ thoáng trong mơ..

    Đến một ngày kia chàng được tin cho biết
    nơi nương bóng từ bi
    Ngỡ đang trong mơ,
    bâng khuân chàng khẽ nói từ đây hết lạnh lùng
    Rồi tìm đến ngôi chùa nằm cô liêu,
    cành pensé tím trong đôi tay mong chờ
    Nguyện cầu pensé xưa trong tim em
    chưa tan vỡ những hẹn hò chưa nguôi

    Đường mòn đưa lối đến,
    chùa nằm im trong hoàng hôn..
    Trong thoáng em nguyện cầu
    quỳ nghiên nghiên chấp đôi tay
    Đau đớn thay tàn tạ
    đã phai úa nét xuân thì..
    Ai ngỡ ngàng hơn ai,
    khi em nhìn ra biển vắng..
    Chợt nghe không gian như tan vỡ
    khi thấy lại người yêu xưa
    Biết bao ngẹn ngào,
    pensé đó người yêu đâu

    Bỗng chợt thoáng đưa đâu đây vang trong gió,
    ngân nga mấy hồi chuông
    Ngày xin quy y, năm xưa nàng đã hứa,
    thành tâm hiến Phật đài..
    Chuyện tình cũ lỡ rồi thì cho quên,
    chuyện ngày xưa nhắc chi cho thêm đau lòng..
    Nàng buồn quay trở gót
    thấy chăng ai đang chua xót,
    ghiến vỡ cành hoa xưa ...

    Nhạc sỹ Hoàng Trọng cũng từng có 1 nhạc phẩm là 1 chuyện tình buồn với hoa Pensée kỷ niệm, tiêu đề "Cánh Hoa Yêu" qua giai điệu boléro:

    Một hôm anh về em bâng khuâng đứng trông theo,
    Hoàng hôn nâng niu bước đôi chân người em yêu ..
    Em nhớ thương nhiều, lòng xao xuyến thêm nhiều
    Hiu hắt sương mờ xuống tịch liêu

    Rồi em đi nhặt hoa "pensée" ép trong thơ,
    Thầm trao cho anh những khi tâm hồn bơ vơ ...
    Khi gió sang mùa làm vơi lá bên hồ,
    Hoa nói lên ngàn nỗi nhớ mong chờ ...
    Có biết rằng:
    Tâm tư em một lần đầu tiên đã mến yêu ?
    Có thấu rằng:
    Anh xa xôi còn lại mình em dưới sươg chiều !
    Tìm nhau trong mầu hoa "pensée" tím chơi vơi,
    Tìm nhau trong mơ, dắt nhau sang bờ yên vui ..
    Thương nhớ xa vời
    Gửi về chốn phương trời
    Theo cánh hoa lòng đến bên người

    Chiều nay trong vườn hoa "pensée" bướm đua bay,
    Chiều nay anh ơi, gió may như ngừng nơi đây ...
    Hoa tím nơi này chờ anh đã bao ngày,
    Anh có mơ mầu tím chiều nay ?
    Màu hoa tâm linh se duyên đôi lứa yêu nhau!
    Một mai anh ơi có ly tan đừng quên nhau!
    Hoa có phai mầu, cuộc đời có u sầu
    Xin nhớ câu thề lúc ban đầu ...
    Nhớ mãi ngày
    Anh đem hoa về tặng người yêu giữa giấc mơ .
    Đã mấy mùa
    Anh xa xôi để lại người yêu với mong chờ!
    Tìm em như mầu hoa "pensée" ngát hương yêu,
    Lòng em luôn mong giữ sao nguyên mầu trung trinh,
    Mong ước mơ thành,
    Trời cho lứa đôi mình đi hái hoa đời kết tâm tình ...
    #32
      Thanh Vân 29.09.2009 17:51:40 (permalink)
      Sự Tích Hoa Phong Lan





      SỰ TÍCH HOA PHONG LAN


      Ở một miền xa xôi, khí hậu ấm áp và đất đai trù phú có một bộ lạc tên là Aruaki may mắn hơn các bộ lạc khác vì họ sai khiến được loài chim Ócchít chuyên đẻ những quả trứng bằng vàng. Khi một con chim đẻ trứng vào tổ trong hốc cây thì thủ lĩnh Nato dùng tay chuyển quả trứng đó sang một cái cây khác, và sự kiện đó được coi như một ngày hội lớn
      Các cô gái của thủ lĩnh thay nhau phục trên các cành cây, bảo vệ tổ chim khỏi bị chim ưng phá hoại. Tuy vậy, trong từng góc buôn làng, các trai tráng tay cầm những mũi tên tẩm thuốc độc đứng canh giữ không cho các chiến binh của bộ lạc khác đến đánh chiếm kho báu của bộ lạc mình.
      Từ quả trứng vàng kia, những tay thợ lành nghề đã chế tạo ra các vòng tay, hoa tai và đủ các loại trang sức. Số trứng vàng dự trữ mỗi ngày một nhiều đồ dùng khác. Ðàn ông của bộ lạc chuyên nghề săn bắn, còn đám đàn bà, con gái ở nhà dệt những tấm khăn voan, đan giỏ và hái nhặt thảo quả.
      Một hôm cánh đàn ông đi săn trở về với một tâm trạng đầy lo lắng. Họ đã chạm trán cánh thợ săn của một bộ lạc xa lạ. Cánh thợ lạ này đã kể cho họ nghe về những chiến thuyền khổng lồ đã cập bờ biển, và về những con người tóc cắt ngắn, mặt mũi trắng trẻo nom rất lạ lùng, đã đặt chân lên đất liền.Những kẻ da trắng này rất hám vàng, đã dùng một loại súng có tai khạc ra những mũi tên có lửa khủng khiếp, cướp giật vòng chân, vòng tay của chị em, tra khảo dân bản xứ nơi có vàng. Nếu những người Aruaki hiểu rằng, con người cũng có thể biến thành những kẻ tàn ác, thấp hèn, thì chắc chắn không bao giờ họ lại cho phép kẻ lạ mặt kia vào làng bản của họ. Nhưng họ không hiểu được điều đó. Họ vẫn cứ khiêng những người thợ săn lạ mặt bị gấu đánh bị thương vào làng. Vị thủ lĩnh còn ra lệnh cho đám phụ nữ đi tìm những người bị thương, còn cánh đàn ông lại lên đường đi săn.
      Một kẻ lạ mặt có tên là Khơramooi Métvét. Anh ta rất mê những đồ trang sức của phụ nữ và cứ gặng hỏi họ kiếm ở đâu thứ đá vàng làm ra được các loại vòng và hoa tai này. Nhưng chị em chỉ trả lời bằng một nụ cười. Dần dà, Métvét kết thân được với cô gái cả con của thủ lĩnh tên là Dincadơvin, và hứa hẹn sẽ cưới nàng làm vợ rồi ở lại với bộ lạc. Dincadơvin nói rằng nàng phải chờ đợi cha trở về để xin ý kiến.
      Métvét bắt đầu làm công việc dò hỏi Dincadơvin về việc tại sao chị em nàng cứ thỉnh thoảng lại biến vào rừng sâu và ở đó làm gì. Còn Dincadơvin đã tự cho mình là vợ chưa cưới của Métvét rồi, bởi vậy nàng đã phạm sai lầm còn lớn hơn cả sai lầm của cha nàng cho phép đưa kẻ lạ mặt bị thương vào buôn làng.
      Dincadơvin không hề ngờ rằng, người tình của nàng đã bán linh hồn cho bọn da trắng để lấy một thùng rượu, và còn hứa với họ sẽ tiết lộ bí mật của bộ lạc Aruaki? Và thế là sau khi biết chắc chị em nàng thường thay nhau phục trên cây, bảo vệ bầy chim đẻ trứng vàng, Métvét liền chuốc rượu cho những người canh gác say mèm, rồi thông báo điều bí mật cho bọn da trắng biết.
      Métvét không hay rằng trên đỉnh một ngọn cây cao nhất còn có chàng Ôta Te đang phóng tầm mắt quan sát khắp vùng gần xa. Anh đã phát hiện ra có những người da trắng đang đến gần nơi con chim đẻ trứng vàng mà người dẫn đầu là Métvét. Sau khi loan báo cho buôn làng hay về mối nguy hiểm đang đe doạ và về sự phản trắc của Métvét, anh liền đóng chuông báo động.
      Dincadơvin đau đớn thốt lên:
      - Ôi, có sao ta lại tiết lộ cho chàng bí mật của loài chim? Thảo nào mà chàng cứ căn vặn ta! - Rồi nàng quay lại hỏi ông thày cúng - Hãy chỉ cho ta biết ta phải làm gì và làm thế nào để cứu loại chim đẻ trứng vàng?
      - Cô cô cô! - Tiếng thày cúng thốt lên, có nghĩa là Cứ sẵn sàng đi!
      Hết thảy đàn bà và con gái chạy đến, cùng đáp to:
      Khô!
      Ðiều đó có nghĩa là: Chúng tôi đã sẵn sàng!
      Hỡi các cô gái! Hãy nhanh chóng trèo lên ngồi vào các cành cây! Khi đó bọn da trắng sẽ không biết được chim làm tổ trên cây nào. Còn nếu chúng tìm thấy tổ chim thì Taxan útke sẽ chạy đi tìm những người thợ săn, gọi họ về đuổi bọn da trắng đi.
      Taxan útke, tên thường gọi của con Ngựa chiến, phi như bay về phía những người đàn ông của bộ lạc đang mải săn bắn, còn hàng trăm cô gái khác thì vội vàng lao lên cây, tay ôm chặt lấy các cành cây.
      Métvét dẫn đoàn người da trắng vào rừng, nhưng hắn lúng túng không biết nên chỉ vào cây nào. Bọn da trắng nổi giận, bắn những mũi tên có lửa vào các cô gái, nhưng các cô, kể cả các cô đã chết, vẫn ôm chặt các cành cây.
      Khi cánh đàn ông chạy về tới buôn làng, đuổi được bọn da trắng đi thì đã quá muộn - những người con ưu tú - những cô gái đẹp của họ đã chết. Ông thày cúng trỏ tay lên trời, gọi tên họ và nói:
      - Các con đã xả thân bảo vệ kho báu của bộ lạc ta, các con xứng đáng được ban thưởng. Tâm hồn các con sẽ biến thành những bông hoa ngát hương, chúng sẽ không ngừng sinh sôi trên các cành cây kia và sẽ kể lại cho các thế hệ mai sau về chiến công bảo vệ loài chim mỏ vàng của các con.
      Những bông hoa tuyệt vời và đủ loại tựa như các cô gái của bộ lạc Aruaki đang đua nở trên các cành cây.
      Người đời nay gọi đó là Hoa Phong Lan.
      #33
        Thanh Vân 29.09.2009 17:52:08 (permalink)
        Sự Tích Hoa Phụng Tiên





        SỰ TÍCH HOA PHỤNG TIÊN


        Niềm vui duy nhất trong đời của bà thợ cày Mađara là cô con gái Rôta. Rôta quả là một cô gái hiếm thấy - nước da rám nắng, hay lam hay làm, tính tình sởi lởi. Mới sáng ra nàng đã gặt được gần nửa cánh đồng lúa, chiều đến, trên đường trở về, nàng luôn miệng ca hát.
        Việc luôn chân luôn tay, vậy mà cô gái cứ như bông hoa bừng nở, có dễ kiếm khắp làng cũng không có bông hoa nào sánh được với nàng. Chính người làm vườn của trang trại cũng rất thích được ngắm nghía rừng hoa của Rôta đang độ khoe sắc. Mặc dù tên điền chủ đã mang về nhà đủ loại hạt giống và cây non, nhưng loại hoa như của Rôta thì y lại không có. Vậy nàng đã kiếm đâu ra? Rôta vừa mỉm cười vừa đáp:
        - Bầy chim non đã mang hạt giống từ miền xa lạ về cho tôi đấy. Tôi không nói dối ngài đâu.
        Về mùa Xuân, khi đàn chim én bay đến sớm, hy vọng tìm nơi ấm áp trú ngụ, Rôta thường bắt chúng nhốt vào lồng, đưa vào trong nhà nuôi dưỡng, chăm bẵm và khi mùa lạnh qua đi, nàng lại thả chúng về trời. Bầy chim thơ dại muốn đền đáp ơn huệ của nàng Rôta tốt bụng, song nàng chỉ mỉm cười, nói:
        - Ta cần thật nhiều loại giống hoa của các miền xa lạ. Chim hãy mang về cho ta!
        Bầy chim đã giữ lời hứa. Rôta lấy làm sung sướng được chia sẻ với chị em vì sự phong lưu của mình. Người thì nàng cung cấp hạt giống, kẻ thì nàng cho cây non. Nàng càng tỏ ra hào hiệp với mọi người bao nhiêu, hoa trong vườn nhà nàng càng đơm hương, khoe sắc rực rỡ bấy nhiêu. Duy chỉ có Kexta, người đàn bà ở bên cạnh là nàng không bao giờ cho một hạt giống nào, mặc dù bà ta có hỏi xin.
        - Con ngặt nghèo với làng giềng gần nhà thế để làm gì? - Mẹ phàn nàn với Rôta, nhưng nàng lại đáp, giọng dứt khoát:
        - Con sẽ không cho mụ rắn độc này dù chỉ là một bông hoa nhỏ.
        Kexta không phải là rắn độc mà là chủ nuôi rắn. Ai cũng biết mụ ta thường nuôi đến bảy con rắn độc trong nhà và lần lượt cho chúng bú sữa của mình.
        Một hôm, sau khi đã bú no, con rắn đầu tiên nói nhỏ vào tai mụ:
        - Vì sao hoa của nhà Rôta lúc nào cũng bừng nở, còn hoa nhà bà thì không?
        Kexta nổi cơn tam bành, dẫm nát hết vờn hoa của Rôta, thậm chí cả hàng rào cao cao bao quanh khu vườn mụ cũng phá đi.
        Con rắn thứ hai ỉ eo:
        - Nếu bà có nhiều hoa đẹp, bà có thể đem ra chợ bán, bà sẽ thu được cơ man nào là tiền.
        "Ôi, tiền! Tiền! Ta sẽ tích góp được nhiều tiền!" Kexta như một kẻ điên khùng. Lúc ấy có một người lạ mặt đói rách ghé vào sân nhà mụ xin ăn, con rắn thứ ba xúi:
        - Chớ có phung phí tiền của nhà mình, dù cho hắn chết ngay tại đây!
        Người lạ mặt liền bỏ sang nhà khác xin ăn. Thế rồi con rắn thứ năm lại phun phì phì vào tai mụ những lời đường mật:
        - Mẹ bà đã còng lưng vì bà rồi, vậy bà làm việc để làm gì? Tốt nhất là bà nên nằm khệnh với chiếc chăn bông, gối nhung kia mà nghỉ cho khoẻ.
        Kexta nằm ườn ra giường. Con rắn thứ sáu lại khích bác bà:
        - Láng giềng ở đây rất tốt bụng với nhau. Bà thử xúi họ cãi nhau xem sao.
        Thế là Kexta vùng dậy, chạy ngay sang nhà ở Babenca vốn nhẹ dạ và hay ba toác, ruột để ngoài da.
        - Này, Babenca, ta đã bắt quả tang chồng mi hay trèo qua cửa sổ sang nhà con Rôta đó.
        Mới nghe nói thế, cái lưỡi của Babenca đã liến láu tứ bề. Ả xộc ngay sang nhà kẻ tình địch. Nhưng con rắn thứ bảy mới là đáng gờm nhất. Nó luôn luôn rủ rỉ bên tai Kexta:
        - Phải bằng mọi cách quấy rối cuộc sống của con người. Làm sao cho cả ngày lẫn đêm họ không thể sống yên.
        Và mụ Kexta đã nghĩ ra một quỷ kế. Mụ buộc con chó vào đầu một sợi dây ngắn và đặt cách con vật không xa lắm một đĩa thức ăn thơm phức. Con chó ban ngày thì sủa ông ổng, tối đến cứ rống lên thảm thiết khiến láng giềng không sao chịu nổi.
        Bà chủ rắn là một con người như thế, Rôta không thể đem hoa cho mụ ta được. Còn Rôta, lẽ ra nàng đã lấy chồng, đã sinh con, đẻ cái và được hưởng một cuộc đời hạnh phúc, nếu không có đợt săn lùng phù thuỷ do đám chức sắc trong vùng dấy lên. Sự cố này như một làn sóng rất xa, bắt đầu từ xứ sở mặt trời lặn và kết thúc ở nơi mặt trời mọc. Lũ sai nha trong làng Rôta đem chiếu chỉ của quan trên về lập danh sách những ngời bị coi là phù thuỷ. Nhưng phù thuỷ ở đâu? Đó là câu hỏi làm lũ sai nha phải đau đầu. Chúng bèn treo giải thưởng lớn cho người nào có công phát giác phù thuỷ.
        Lập tức, bảy con rắn độc đồng thanh mách Kexta:
        - Thế là bà có dịp trả thù con Rôta nanh nọc rồi đó. Bà hãy đến gặp các quan và tâu rằng Rôta chính là là phù thuỷ. Bà còn được thưởng tiền nữa đấy.
        Bà chủ rắn chỉ chờ có thế. Mụ te tái chạy đến gặp các vị chức sắc và không ngớt lời vu cáo Rôta:
        - Cớ sao hoa vườn nhà nó lại nở nhiều và tươi tốt như vậy? Nhờ phép tà đấy! Vì sao lũ chim lại giúp nó? Có phép tà đấy! Vì sao lúc nào nó cũng hát với hò?
        Các vị chức sắc cả mừng vì đã tìm được phù thuỷ, chúng bất chấp cả lệ làng, chẳng tin bất kỳ một lời nói trung thực nào, chỉ tin lời mụ chủ rắn. Rôta bị chúng đem thiêu đốt trên giàn lửa. Sau đó chúng tâu lên triều đình rằng an ninh ở làng quê đã trở lại bình thường.
        Mùa xuân tới, bày chim từ khắp các miền xa xôi bay tới đậu trên cửa sổ nhà Rôta cùng với rất nhiều loại giống hoa. Bầy chim rất đỗi kinh ngạc khi thấy một bà lão lưng còng ra mở cửa sổ chứ không phải là Rôta.
        Mađara, mẹ của Rôta, đã đem những hạt giống trồng vào một chậu hoa. Chẳng bao lâu người ta thấy có những bông hoa đỏ như lửa mọc lên. - Những bông hoa đáng yêu của ta! Các ngươi khác nào cặp má hồng hào của Rôta! Các ngươi sẽ là phương thuốc thần hiệu giúp ta trị vết thương nơi trái tim.
        Từ đó, hễ có người nào bị nỗi cay đắng dày vò, bà mẹ Rôta lại đem giống dầu thơm đó phân phát cho họ. Chẳng bao lâu trên khắp các cửa sổ các gia đình nghèo đều nở óng ánh những bông hoa đỏ tươi - đấy chính là Hoa Phụng Tiên.
        #34
          Thanh Vân 29.09.2009 17:53:00 (permalink)
          Sự Tích Hoa Sen



          SỰ TÍCH HOA SEN


          Ngày xưa ở một làng nọ có 2 cô bé mồ côi cha mẹ. Hai em được một người hát xẩm đưa về nuôi. Ông dạy cho 2 em các điệu múa bài hát. Một lần cô em bị ốm, cô chị đã đốt chiếc nhẫn quý của mình làm thành thuốc thần cứu sống em.Càng lớn 2 chị em càng trở nên xinh đẹp, hát hay múa giỏi nổi tiếng khắp vùng.
          Trong vùng có một tên công tử khét tiếng độc ác, làm mưa làm gió cả vùng. Nghe tiếng 2 cô, hắn âm mưu bắt về làm vợ. Một hôm người cha nuôi phải đi xa, ông hứa sẽ mua tặng mỗi con 1 món quà. Cô chị xin cha một đôi hài màu trắng thêu chỉ vàng, còn cô em xin cha một đôi hài hồng thêu chỉ vàng.
          Nhân lúc người cha vắng nhà tên công tử đã cho người đến bắt cô chị về. Để giữ trọn trinh tiết của mình cô gieo mình xuống hồ. Quá thương chị cô em cũng theo chị. Khi người cha trở về không thấy con đâu. Ông đi tìm quanh và được biết chuyện. Đột nhiên ông ngửi thấy mùi hương thơm ngan ngát toả ra từ hồ và ông nhìn thấy trên mặt hồ những bông hoa màu trắng và màu hồng. Những cánh hoa xinh xinh tựa như dáng hài. Ở giữa có nhụy vàng như những sợi chỉ thêu màu vàng. Những chiếc lá xoè to giống như nhhững chiếc nón quai thao các cô thường đội. Hương hoa toả thơm ngào ngạt tinh khiết như tâm hồn 2 chị em. Người cha quá đau buồn bật khóc.
          Chợt 2 cô con gái từ dưới hồ hiện ra và bước lên cạnh ông. Cô chị kể lại chuyện: "Khi 2 chị em con gieo mình xuống hồ đã được bà chúa hồ thương tình dang tay đón lấy và cứu sống. Bà rất quý chúng con, muốn chúng con ở lại với bà nhưng chúng con còn muốn được về nhà chăm sóc cha. Bà đã đồng ý cho chúng con trở về với cha và tạo ra những đoá hoa kia tượng trưng cho 2 chị em để bà luôn cảm thấy có 2 chị em bên cạnh bà.
          Tên hoa là HOA SEN"
          #35
            Thanh Vân 29.09.2009 17:53:33 (permalink)
            Sự Tích Hoa Quỳnh





            SỰ TÍCH HOA QUỲNH VÀ HOA MẪU ĐƠN


            Theo truyền thuyết, ngày xưa vào thời nhà Tùy (Dương Quảng 605 - 617) ở Dương Châu, Trung Quốc, có Tùy Dạng Đế là ông vua hôn quân vô đạo, chơi bời trác táng, xa hoa, phung phí, một đêm nằm mơ thấy một cây trổ hoa đẹp. Cùng thời điểm ấy, tại Lạc Dương thành có ngôi chùa cổ kính là Dương Ly, vào giữa canh ba, ngoài cửa chùa thình lình ánh sáng rực lên như lửa cháy, hương thơm sực nức lạ lùng, như sao trên trời sa xuống, làm dân chúng bàng hoàng đổ xô đến xem đông như kiến cỏ. Gần giếng nước trong sân chùa mọc lên cây bông lạ, trên ngọn trổ một đóa ngũ sắc với 18 cánh lớn ở phía trên, 24 cánh nhỏ ở phía dưới, mùi thơm ngào ngạt bay tỏa khắp nơi nơi, lan xa ngàn dặm. Dân chúng đặt tên là hoa Quỳnh.
            Điềm báo mộng của vua Tùy Dạng Đế được ứng với tin đồn đãi, nên Vua yết bảng bố cáo: "Ai vẽ được loại hoa Quỳnh đem dâng lên, vua trọng thưởng". Không đầy tháng sau, có một họa sĩ dâng lên Vua bức họa như ý. Nhìn đóa hoa trong tranh cực kỳ xinh đẹp, tất nhiên hoa thật còn đẹp đến dường nào! Nghĩ vậy, Vua liền quyết định tuần du Dương Châu để thưởng ngoạn hoa Quỳnh.
            Trong chuyến tuần du cần có đủ mặt bá quan văn võ triều thần hộ giá, nên để tiện việc di chuyển, Tùy Dạng Đế ban lệnh khai kênh Vạn Hà từ Trường An đến Dương Châụ Hàng chục triệu ngày công lao động phải bỏ ra, hàng vạn con người phải vất vả bỏ mình. Kênh rộng cả chục trượng, sâu đủ cho thuyền rồng di chuyển. Hai bên bờ kênh được trồng toàn lệ liễu đều đặn cách nhau 10 mét một cây (cụm từ "dặm liễu" xuất phát từ đó, điển hình câu thơ: Dặm liễu sương sa khách bước dồn của Bà Huyện Thanh Quan).
            Kênh đào xong, một buổi lễ khánh thành được cử hành trọng thể, đoàn thuyền giương buồm gấm khởi hành... cả nghìn cung nữ xiêm y rực rỡ, mặt hoa da phấn... thuyền rồng được buộc bằng các dải lụa dùng để kéo đi. Vua Tùy Dạng Đế ngồi trên mui rồng uống rượu nghe đàn hát ca sang ngắm cảnh Giang Nam và đàn cung nữ tuyệt thế giai nhân. Vua thấy nàng nào thích ý cho vời vào hầu ngaỵ Chuyến tuần du của bạo chúa Tùy Dạng Đế vô cùng xa xỉ, hao tốn công quỹ triều đình. Đây là một trong những nguyên nhân đẩy đất nước đến đói nghèo, loạn lạc khắp nơi, đưa nhà Tùy đến sụp đổ, dựng nên cơ nghiệp nhà Đường. Trong những quan quân hộ giá, có cha con Lý Uyên. Qua thời gian hơn 90 ngày, đoàn du hành đến đất Dương Châụ Thuyền vừa cặp bến, con của Lý Uyên phương danh là Lý Thế Dân cùng bằng hữu rủ nhau lén lút đi xem hoa ngay trong đêm, sợ sáng hôm sau triều thần cùng đi đông vầy lớp trẻ khó chen chân lọt vào vườn hoạ Lý Thế Dân là người có chân mạng đế vương (về sau là Vua Đường Thái Tông 627 - 649) nên giống hoa nhún mình lên xuống 3 lần để nghinh đón. Cánh hoa cong trắng nõn, nhụy hoa điểm xuyết màu vàng, hương hoa ngọt ngào. Dưới ánh trăng vằng vặc hoa đẹp tuyệt vời. Xem xong, một cơn mưa to rụng hết.
            Sáng hôm sau, Tùy Dạng Đế xa giá đến xem hoa, chỉ còn thấy trơ vơ cánh hoa úa rũ, tan tác. Vua tức giận, tiếc công nghìn dặm không được xem hoa, ra lệnh nhổ bỏ, vứt đi. Từ đó hoa Quỳnh chỉ nở về đêm cho những ai có lòng: "Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên".
            Qua cuộc tuần du, nhiều cuộc bạo loạn nổi lên khắp nơị Tùy Dạng Đế bị cận thần sát hại dẫn đến nhà Tùy mất ngôi, Lý Thế Dân đứng lên lập nên nhà Đường.
            ... Đến đời Đường Cao Tông, say đắm Võ Hậu, lúc Vua băng hà con còn nhỏ, Võ Hậu chuyên quyền nhiếp chánh hãm hại công thần, tự xưng vương, đổi nhà Đường thành nhà Đại Châu, xưng hiệu Võ Tắc Thiên hoàng đế. Một hôm, Võ Tắc Thiên ngự du vườn thượng uyển nhìn cỏ cây xác xơ trơ trọi liễu đào ủ rũ điêu tàn, liền truyền lệnh bằng bài tứ tuyệt khắc ngay cửa vườn:
            Lai triều du thượng uyển - Hỏa tốc báo xuân trị
            Bách hoa liên dạ phát - Mạc đãi hiểu phong xuỵ
            Dịch: (Bãi triều du thượng uyển - Gấp gấp báo xuân haỵ
            Hoa nở hết đêm nay - Đừng chờ môn gió sớm).
            Linh ứng thay! Trăm hoa phụng mệnh, chỉ trong một đêm bừng nở khắp vườn, mùi thơm sực nức nhân gian! Rạng sáng hôm sau, Võ Tắc Thiên dạo vườn trông muôn hồng ngàn tía ngoan ngoãn đua chen nở rộ, lấy làm tự mãn cho rằng quyền uy tột đỉnh. Bất giác, bà Chúa bạo dâm Võ Tắc Thiên nhìn đóa Mẫu Đơn bất tuân thượng mệnh, thân cây khẳng khiu cứng cỏi, không hoa lá. Giận thay cho loài hoa ngoan cố, Võ Tắc Thiên ra lệnh đày Mẫu Đơn xuống tận Giang Nam. Do đó, vùng Giang Bắc thiếu vắng loài hoa vương giả, biểu trưng cho quốc sắc thiên hương nhằm ám chỉ tuyệt sắc giai nhân. Người đương thời thấy vậy dệt bài Phú Ngọc Lâu Xuân Tứ nhằm thương hại và tán thán vẻ đẹp, sự khẳng khái của hoa Mẫu Đơn, thà chịu cảnh phong trần lưu lạc tự giải phóng cuộc đời chớ không làm vương giả chốn kinh đô, chịu giam mình trong vườn hoa tù hãm của bạo chúa, đem sắc đẹp hương thơm ban rải cho mọi người để được dự phần thanh caọ
            Đó là truyền thuyết hoa Quỳnh và hoa Mẫu Đơn được đời sau dệt thành giai thoại đầy hấp dẫn qua thuyết Đường của Trung Quốc biểu thị cho người đời suy gẫm Hoa và Người: Ai là người xứng đáng thưởng hoa và hoa phải thế nào cho con người thưởng ngoạn.
            #36
              Thanh Vân 29.09.2009 17:54:04 (permalink)
              Sự Tích Hoa Sim






              SỰ TÍCH HOA SIM


              Em bay vào thế giới xa xưa
              có một chàng trai nghèo xấu xí,
              trót yêu nàng tiểu thư quyền quý
              nhưng vì nghèo chàng chẳng nói lời yêu.

              Và cứ thế cuộc sống hắt hiu
              cô đơn vây xung quanh căn lều nát,
              và bốn phía ôi bao la bát ngát
              tình yêu kia chàng chẳng nói bao giờ.

              Chàng thẫn thờ chỉ biết mượn lời thơ
              gửi vào đó cả nỗi buồn cổ tích,
              giữa màn đêm và trời sao tĩnh mịch
              chàng lặng nhìn bát ngát những hàng cây.

              Nỗi nhớ nàng công chúa bủa vây
              thành loài hoa tím đầy mặt đất,
              loài hoa nhỏ như trái tim chân thật
              chẳng phai tàn màu tím thủy chung.

              Rồi một ngày tương tư đến sau cùng
              nàng theo cha vào rừng sâu u tịch,
              một không gian và màn đêm tĩnh mịch
              có một loài hoa quanh quẩn chân nàng.

              Nàng ngỡ ngàng theo dấu hoa lang thang
              tìm đến trước căn lều nho nhỏ,
              chàng gặp nàng tình yêu đã ngỏ
              hạnh phúc đến bất ngờ chàng ngỡ như mơ.

              Tôi kể ra đây câu truyện bằng thơ
              về một loài hoa tím như cổ tích,
              màu hoa ấy giữa núi rừng tĩnh mịch
              vẫn tím màu thương nhớ tới người yêu.
              #37
                Thanh Vân 29.09.2009 17:54:30 (permalink)
                Sự Tích Hoa Thiên Lý



                SỰ TÍCH HOA THIÊN LÝ

                Hoa thiên lý còn được gọi là dạ lý hương, dạ lài hương.
                Ngày xửa ngày xưa, có một chàng trai thổi sáo rất hay. Hay đến mức, một con rắn lục mê tiếng sáo của chàng, đã quyết tâm tu luyện cho thành người để dành chàng làm chồng, mặc dù chàng đã có vợ. Lần ấy, sau một chuyến mang cây sáo trúc đi thổi thi và đoạt được giải nhất trở về, vừa đến đầu làng, chàng trai đã thấy người vợ trẻ vừa xinh, vừa hiền của mình ra đón. Chàng vui lắm, đâu biết đấy chính là con rắn lục đã biến thành người và đã giả giống y hệt vợ chàng từ vẻ mặt, lời nói đến dáng đứng, dáng đi... Về đến nhà, chàng trai bỗng rụng rời thấy một người vợ thứ hai bước ra... Chàng trai không còn biết ai là vợ thật của mình nữa. Hai người đàn bà trẻ giống nhau còn hơn cả hai giọt nước. Chàng liền tìm đến một ông cụ nổi tiếng là tài giỏi trong việc tìm ra chuyện phải trái ở trên đời, để nhờ giúp đỡ. Nghe chàng nói rõ ngọn ngành, ông cụ nhận lời ngay và cho gọi hai người đàn bà trẻ đến.
                - Cụ già lấy vải đen bịt mắt cả hai lại rồi đưa cho hai người ba cái áo có mùi mồ hôi của ba người đàn ông khác nhau và dặn:
                - Cứ ngửi đi và cái nào là của chồng thì gật đầu, không phải thì lắc đầu! Cô vợ thật được ngửi trước. Cô vợ giả ngửi sau. Mắt cô vợ giả vốn là mắt rắn nên có thể nhìn xuyên qua vải đen. Vì vậy cô ta liếc nhìn người vợ thật, thấy cô này lắc đầu thì cũng lắc đầu, thấy gật đầu thì cũng gật theo. Thế là cả hai đều đã ngửi đúng được mùi áo của người chồng có tài thổi sáo. Ông cụ liền cho mang đến ba bát canh, một bát có vị gừng, một bát có vị hành và một bát có vị lá hẹ. ông cụ dặn:
                - Thứ canh nào chồng thích ăn thì gật đầu, thứ nào chồng không thích thì lắc đầu. Sự việc lại diễn ra như lần thử trước. Thấy người vợ thật gật đầu khi nếm bát canh nấu với gừng, cô vợ giả cũng gật đầu theo. ông cụ cho cả hai cùng về, để cụ suy nghĩ thêm. Hôm sau, cụ lại cho mời hai người đến. Cụ để hai người đứng ở hai nơi, không trông thấy nhau nhưng cùng nhìn ra một con đường ở phía trước mặt, cách chỗ đứng khá xa.
                - Ta sẽ cho ba chàng trai đi ngang qua đường. Nhận ra ai là chồng mình thì cứ vẫy gọi. Ai gọi đúng chàng thổi sáo tài giỏi thì người đó là vợ thật, ai gọi sai là vợ giả và sẽ phải chịu tội với dân làng. Cô vợ giả lúc đầu lo lắm. Nhưng sau cô ta đã nghĩ ra được một lối thoát. Cô ta định bụng khi nào nghe tiếng cô vợ thật gọi thì cũng sẽ gọi ngay theo. Một người trai trẻ đi qua. Rồi hai người. Cô vợ giả không nghe tiếng cô vợ thật gọi thì cũng im lặng theo. Cô ta mừng lắm. Như thế thì người còn lại đúng là chàng trai thổi sáo tài giỏi. Vì vậy khi chàng trai thứ ba vừa xuất hiện thì cô vợ giả đã vẫy tay và gọi to:
                - Anh ơi! Em ở đằng này này! Trong lúc người vợ thật vẫn đứng im. Vì đó vẫn chưa phải là chồng cô. Cụ già liền dẫn chàng trai thứ ba đến trước cô vợ giả và nói:
                - Như vậy, cô đã tự nhận cô là kẻ manh tâm đi cướp đoạt chồng của người khác. Chàng trai này đâu phải là người mà cô đã nhận là chồng cô. Rồi cụ lại cho gọi cô vợ thật đến và hỏi:
                - Trong ba chàng trai, không có ai là chồng cô sao?
                - Thưa cụ, nếu là chồng cháu thì dẫu ở xa trăm dặm, ngàn dặm, cháu cũng nhìn ra! Cụ già liền cho ba chàng trai khác tiếp tục đi qua đường. Đến người thứ năm thì người vợ thật kêu to lên mừng rỡ:
                - Anh ơi! anh ơi! Đúng đó là chàng trai thổi sáo tài giỏi. Sự việc đã rõ ràng. Cụ già liền theo lệ của làng, nọc cô vợ giả ra đánh một trăm roi. Nhưng chỉ đánh được chục roi thì đau quá, cô vợ giả đã hiện nguyên hình con rắn lục và bò nhanh vào bụi cây trốn mất. Hai vợ chồng chàng thổi sáo vui mừng lạy tạ ông cụ. ông cụ tươi cười bảo:
                - Tìm ra được kẻ gian cho đời là lão vui rồi. Bây giờ lão chỉ muốn được nghe điệu sáo hay nhất của ônh thôi! Chàng trai liền rút cây sáo trúc luôn giắt ở bên mình ra thổi. Tiếng sáo của chàng nghe réo rắt như tiếng chim, của trời, của sông, của nước nhưng nổi lên rõ hơn cả là tiếng của con người vui mừng được sống trong lẽ phải và tình thương. ai nghe cũng ngơ ngẩn say mê... Hai vợ chồng sau đó liền kéo nhau trở về nhà. Họ sống bên nhau đầm ấm vui vẻ. Hai vợ chồng cùng làm ruộng. Lúc rảnh chồng lại đem sáo ra thổi cho vợ và hàng xóm cùng nghe. Ngày hội, ngày Tết, tiếng sáo của chàng càng làm cho mọi người thêm yêu đời và quý mến nhau. Một buổi chiều, người vợ đang gội đầu, người chồng đang thổi sáo thì bỗng có con chim gì thả rơi ở bên chân người vợ một chùm hoa màu xanh phớt vàng có mùi thơm thoang thoảng. Đêm đến mùi hoa càng thơm hơn. Người vợ liền bảo chồng đặt bông hoa bên cạnh cửa sổ để có gió, hương hoa càng bay thơm khắp nhà.
                Sáng hôm sau, thức dậy, cả hai vợ chồng đều lạ lùng thấy bông hoa đã kết liền vào một loại dây leo mọc ở cạnh cửa sổ. Và sau đó, không phải chỉ có một chùm hoa, mà rất nhiều chùm hoa khác lại nở tiếp theo. Hoa màu xanh phớt vàng hình giống như ông sao năm cánh, hương thơm dịu ngọt. Loại hoa ấy ngày nay ta gọi là hoa thiên lý. Vì sao lại có cái tên ấy? Các cụ xưa giải nghĩa: Vì tên cô vợ thật là Lý. Còn thiên lý là vì ông cụ có tài tìm ra mọi việc phải trái, đã dựa vào câu trả lời của cô vợ thật mà đặt tên mới cho cô và trêu cô:
                - Tên cô từ nay không phải là Lý mà là Thiên Lý. Thiên Lý nghĩa là nghìn dặm, nghìn dặm mà vẫn nhận ra được chồng mình...! Các cụ còn nói thêm: Cô vợ giả, tuy đã trở lại kiếp rắn lục nhưng vẫn giữ trong lòng mình mối hận đối với cô vợ thật... Vì vậy ai yêu hoa Thiên Lý, rắn lục không thích đâu. Rắn lục thường bò nấp vào các dây hoa Thiên Lý để mổ cắn những ai thích ngắm hoa Thiên Lý, yêu mùi hương Thiên Lý. Nhưng cho đến nay càng ngày mọi người càng quý càng yêu loại hoa có mùi hương rất dung dị và mộc mạc này.
                #38
                  Thanh Vân 29.09.2009 17:54:58 (permalink)
                  Sự Tích Hoa Súng





                  SỰ TÍCH HOA SÚNG TRẮNG

                  Cả làng đang bước vào mùa cưới. Và cũng chẳng nên ngạc nhiên khi Lucun, chàng trai sởi lởi và đáng yêu nhất vùng lại kết hôn với Lilia, người con gái hay lam hay làm, dễ thương nhất ở làng ấy. Thật quả là trai tài gái sắc.
                  Nhưng thời ấy có một con quỷ sông lang thang đây đó, chuyên nghề phá vỡ hạnh phúc của những đôi tân hôn. Một buổi chiều Lucun ngồi trên bờ hồ chờ đợi Lilia đáp thuyền từ bên kia sông vượt sang. Lucun đến trước, ngồi trên một gốc cây mơ màng nghĩ về niềm hạnh phúc lớn lao của mình. Vừa lúc ấy có một người lạ mặt tiến tới gần, lặng lẽ ngồi xuống một bãi cỏ ngay gần chàng và bắt chuyện.
                  Chờ đợi mãi mà chẳng thấy Lilia, Lucun nghĩ rằng có lẽ người yêu đã quên mất cuộc hẹn hò, đôi tay chàng thốt nhiên run rẩy. Người lạ mặt tỏ ra rất tinh ý liền rút trong tay áo ra một cái chai, đưa cho Lucun và nói rằng, đây là một phương thuốc chữa bệnh sầu não rất hiệu nghiệm.
                  - Chàng hãy uống thử một ly, chàng sẽ thấy tâm hồn thanh thản ngay - Người lạ mặt vừa nói vừa rót ra một ly rượu - một thứ thuốc độc và mời Lucun thưởng thức.
                  Thế là nỗi sầu muộn dường như tan biến. Chàng lại cười nói minh mẫn như thường lện. Chàng nghĩ: nàng đến chậm có thể vì còn bận nhiều việc nhà.
                  Lát sau, người lạ mặt lại rót ra một ly rượu nữa, lần này là một ly rượu đầy tràn, chuốc cho Lucun say mèm. Bây giờ đây chàng còn muốn nhảy múa ca hát nữa. Và Lilia trong khi ngồi trên thuyền ơe hồ nước đã nghe tiếng hát của Lucun vẳng lại từ xa:
                  Ở đây ta uống, ở đây ta chơi....
                  - Chàng làm sao vậy? - Lilia lo lắng tự hỏi. Nàng không thể hiểu đựơc Lucun đã kiếm đâu ra rượu độc, bởi lẽ người lạ mặt đã biến mất không để lại dấu vết.
                  Một tuần lễ sau, khi trên đường từ nhà người yêu trở về, Lucun lại gặp người lạ mặt. Trông dáng vẻ chàng buồn rầu, không được tự nhiên. Thì ra là chàng mới bị bà mẹ vợ tương lai quả trách vì tội đã nhảy múa, hát hò, gây ồn ào một buổi chiều nọ. Người lạ mặt săn đón, hỏi dò vì sao chàng lại buồn, và chàng đã không giấu diếm gã nỗi lòng mình. Ồ, chẳng việc gì phải buồn, ai mà chẳng biết được mụ phù thuỷ và bà mẹ vợ kia thực ra chỉ là một, chỉ cần nhắp một chút rượu thuốc này thôi là bao nhiêu nỗi buồn sẽ tiêu tan hết. lucun lại uống và càng uống nhiều, chàng càng cảm thấy trong ngời phấn chấn hơn. Chàng cứ tiếp tục uống nữa, uống mãi. Sáng ra, người nhà tìm thấy chàng đang nằm gục bên bờ giếng, chỗ đàn ngựa hay uống nước.
                  Cứ thế, mỗi lần Lucun gặp chuyện bất hạnh gì đấy, người lạ mặt lại xuất hiện với cái chai cầm trên tay. Có bận Lilia tìm thấy ngời tình của mình nằm trên bờ hồ, toàn thân lấm lem và đang rên rỉ. Nàng gạn hỏi chàng rất lâu, cho tới khi lucun phải thú nhận rằng, chàng đã uống quá nhiều rượu của một người lạ mặt. Lilia hết lời van xin chàng hãy xua đuổi con quỷ rượu kia đi và tìm cách vượt qua nỗi bất hạnh của mình.
                  Lucun hứa sẽ làm theo đúng lời nàng dặn. Còn người lạ mặt dường như đã nghe được câu chuyện giữa hai người nên không dám bén mảng đến nữa. Tuy vậy gã vẫn lén lút dúi chai rượu khi thì vào túi áo, khi thì đặt dưới gối lucun. Đối với Lucun nếu không uống thì anh sẽ mất ngủ và trong đầu luôn luôn quay cuồng câu hỏi: lấy đâu ra tiền để mua sắm áo cưới và tổ chức yến tiệc?
                  Chỉ còn đúng ba ngày nữa là tới đám cưới; hôm ấy, sau khi đã chờ đợi vô ích Lucun trên bờ hồ, Lilia bèn đích thân đi xem xét tại sao chàng lại không tới. Ngôi nhà và mảnh sân đã bị màn đêm bao phủ, từ phía cửa ra vào hé mở lọt ra một tia sáng xanh leo lét, Lilia tiến lại gần. Chuyện gì thế kia? Trên nắp thùng rượu, lucun và - lạy Chúa! - một người nữa đang đánh cờ. Chẳng lẽ Lucun lại không nhận ra kẻ đang ngồi đối diện với chàng kia là một con quỷ lông xù tai dài, có cặp sừng và đang gõ gõ cái móng ngựa xuống nền nhà bằng đất sét đó sao? Từ trong đôi mắt ứa máu của quỷ phát ra một tia sáng xanh leo lét, Lucun không nhận ra điều đó sap?
                  - Át chủ bài! - Quỷ hét
                  Quỷ đã thắng và giơ bàn tay ra:
                  - Đưa chiếc nhẫn đây!
                  Còn Lucun? Chàng đang tháo chiếc nhẫn, quà tặng của vợ, đưa cho quỷ.
                  Lilia toan hét lên, song vì sợ hãi và giận dữ, cổ họng nàng cứ tắc nghẹn lại.
                  - Tao cược một chai nữa - tiếng quỷ la - Mày cược gì?
                  - Tôi chẳng còn gì nữa cả - Lucun phàn nàn - Tôi đã thua trắng tay, cả nhà cửa, của cải, thậm chí đến chiếc nhẫn cưới cũng mất.
                  - Mày còn cô vợ chưa cưới đó, đưa nàng ra cá cược nốt đi! Quỷ cười.
                  Lucun thốt lên:
                  - Không được! Khác nào mày rút trái tim trong lồng ngực của tao.
                  - Hãy uống một hớp đã rồi thoả thuận sau - Quỷ đa cho chàng cái chai và Lucun đã tu thả sức.
                  - Cược Lilia nhé - Quỷ hỏi
                  - Không!
                  - Cược Lilia nhé?
                  - Hèm... - Lucun thở dài.
                  - Uống đi!
                  Uống cạn ngụm rượu thứ ba, Lucun thốt lên:
                  - Được! Chả lẽ trên thế gian này ngoài nàng ra không còn gái đẹp nữa sao?
                  Một tiếng rên thốt ra từ lồng ngực Lilia:
                  - Lucun, anh làm gì thế?
                  Nàng chạy lại bên hồ, đôi chân rớm máu. Nhưng những vết thương này làm sao có thể so sánh được với nỗi đau đang dày vò lương tâm nàng. Nàng không hề mảy may có ý nghĩ rằng trên đời này ngoài Lucun nàng còn có nhiều chàng trai khác. Không, nếu Lucun coi rượu của quỷ quý giá hơn cả nàng thì nàng chẳng nên sống làm gì. Thà nhảy xuống hồ tự vẫn còn hơn.
                  Sau khi bơi thuyền đến hồ, Lilia thốt lên:
                  - Vĩnh biệt tuổi thanh xuân của ta!
                  Nàng gieo mình xuống nước và ở lại đó vĩnh viễn, còn con thuyền thì bị gió đánh bạt sang bờ khác.
                  Đến lúc này, Lucun mới hiểu rằng chàng đã đánh mất hạnh phúc của mình. Ngày nào chàng cũng đến ngồi bên hồ và chờ đợi một điều gì đó, hy vọng một điều gì đó, cùng với nỗi lòng chàng đầy phiền muộn và tiếc thương.
                  Nhưng một hôm, đúng lúc vào ngày lễ thánh, chàng nhìn thấy một bông hoa trắng trôi nổi, bập bềnh trên mặt nước, và không hiểu tại sao chàng cứ đinh ninh đó là Lilia, người vợ chưa cưới của chàng đã mất tích ba ngày trước khi cưới. Và chàng nghe có lời ca vang xa trên hồ nước:
                  Bông hoa trắng trên hồ
                  Đó là người bạn đời của ta
                  Nhưng liệu có lời đáp lại không?
                  Không, chàng lại nghe rành rọt những lời sau:
                  Thà ở lại vĩnh viễn đáy hồ
                  Còn hơn trong vòng tay ôm ấp của chàng
                  Đó chính là Hoa Súng Trắng - Hoa của hồ nước
                  #39
                    Thanh Vân 29.09.2009 17:55:27 (permalink)
                    Sự Tích Hoa Tầm Xuân



                    SỰ TÍCH HOA TẦM XUÂN

                    Sự tích hoa Tầm Xuân là một câu chuyện rất cảm động về tình cảm chị em:
                    Ngày xưa, có hai chị em mồ côi cha từ nhỏ. Hàng ngày cô chị phải vào rừng chặt củi bán lấy tiền nuôi em. Một hôm, nhân lúc cô chị đi vắng, một con quỷ dữ đã bắt cậu em cho vào lồng và treo lên cành cây thật cao được bao quanh bởi một loại dây leo rất nhiều gai.
                    Người chị vì quá thương em nên chẳng quản gai sắc cào nát da thịt đã dũng cảm bám dây leo lên cứu em trai mình. Những giọt máu đào của chị rơi đến đâu thì nở thành những chùm hoa làm đẹp cho dây leo đến đấy.
                    Có lẽ vì vậy, người đời sau còn gọi hoa Tầm Xuân là hoa chị em (tỉ muội). Qua câu chuyện trên, ngoài giá trị làm thuốc của tầm xuân, hẳn người ta còn thêm yêu loài hoa này vì vẻ đẹp tinh thần của nó.
                    #40
                      Thanh Vân 29.09.2009 17:56:06 (permalink)
                      Sự Tích Hoa Thủy Tiên



                      SỰ TÍCH HOA THUỶ TIÊN


                      SỰ TÍCH HOA THUỶ TIÊN (1)
                      Thủy Tiên, loài hoa thuộc họ gừng nghệ, có màu vàng dịu dàng, rất được các văn-thi sĩ yêu thích và ca ngợi. Tên tiếng Anh của Thủy Tiên hoa vàng là Daffodil, có lẽ bắt nguồn từ một chữ Anh cổ : Affodyle, nghĩa là người đến sớm. Ở vào thời của Shakespeare, loại hoa này có nhiều biệt danh như Daffodilly hay Lent Lily (hoa Loa Kèn mùa chay). Ở một số nơi, Thủy Tiên còn được gọi với nhiều tên khác như : Daffodowndilly, Daffley, Chalice...
                      Có người cho rằng nếu giữ hoa này trong nhà sẽ gặp chuyện xui xẻo bởi vì Thủy Tiên hoa vàng luôn rũ đầu xuống, có thể đem lại nước mắt và bất hạnh.
                      Điều này cũng có thể bắt nguồn từ một truyền thuyết của thần thoại Hy Lạp:

                      Déméter có một nàng con gái xinh đẹp là công chúa Proserpina, kết quả cuộc tình lãng mạn giữa nữ thần và thần Zeus. Một hôm, nàng Proserpina cùng các bạn dạo chơi trên thung lũng Nisa đầy hoa.
                      Pluto là vị thần cai quản âm phủ, mặt mày dữ tợn, tóc sậm, vương miện bằng gỗ mun đứng trên chiếc xe do những con ngựa đen kéo, tay cầm quyền trượng có hai mũi nhọn.
                      Khi đứng trên ngai vàng, dưới chân Pluto thường có con chó 3 đầu.
                      Pluto nhìn thấy Proserpina và quyết định bắt cóc nàng. Pluto yêu cầu thần đất Gaia cho mọc lên những bông hoa hình loa kèn xinh đẹp lạ lùng, mùi hương tỏa khắp nơi. Proserpina nhìn thấy bông hoa, vội chạy đến, giơ tay định hái. Bỗng mặt đất nứt ra, Pluto xuất hiện. Trong nháy mắt, Pluto đã bắt dược nàng. Cỗ xe lao vút xuống lòng đất. Proserpina khiếp sợ, chỉ kịp kêu lên một tiếng "Mẹ ơi" rồi buông rơi những đóa hoa và chúng lập tức biến thành Thủy Tiên hoa vàng ngay khi vừa chạm đất.

                      Thần thoại La Mã cũng có một nhân vật tên Dis giống hệt như Pluto. Và vì từ lâu, các văn thi sĩ đã xem Thủy Tiên như là một thành viên của họ hoa loa kèn nên họ còn gọi loài hoa này là "việc làm ám muội của hoa loa kèn của Dis".
                      Ngày nay, người ta xem màu vàng tươi sáng của hoa như là một biểu tượng của sự hồi sinh-dấu hiệu cho sự bắt đầu mùa xuân. Thủy tiên được chọn là loài hoa của tháng ba - tiết xuân phân.
                      Người ta cho rằng Thủy Tiên đem lại may mắn cho những ai tránh giẫm đạp lên chúng. Tuy nhiên, do e ngại nó có thể mang lại sự phù phiếm bất hạnh cho cô dâu, Thủy Tiên không bao giờ hiện diện trong đám cưới.
                      Thủy Tiên vàng muốn nói rằng : "Mặt trời luôn chiếu sáng khi em ở bên anh". Thủy Tiên vàng biểu thị cho tình yêu đơn phương, lòng yêu mến, kính trọng và tinh thần, phong cách hiệp sĩ.
                      Cô đơn như vạt mây trôi
                      Tôi đi qua núi qua đồi lửng lơ
                      Hốt nhiên như một tình cờ
                      Tôi may mắn gặp bất ngờ Thủy Tiên
                      Bên hồ nương gió chao nghiêng
                      Tán cây che thắm thêm duyên hoa vàng
                      Tựa như sao sáng xếp hàng
                      Rạng ngời lấp lánh thênh thang Ngân hà
                      Dọc dài vô tận ngàn hoa
                      Ngất ngây vũ khúc hoan ca rộn ràng...

                      Dõi theo tôi khắp giang hà
                      Đôi mắt lóng lánh lời hoa nồng nàn
                      Cô đơn, tôi với hoa vàng
                      Hóa thân hạnh phúc muộn màng sóng đôi.

                      (William Wordsworth)



                      SỰ TÍCH HOA THUỶ TIÊN (2)

                      Ngày xưa, có một ông phú hộ sinh được 4 người con trai. Khi biết mình sắp chết, ông gọi 4 người con đến, dặn dò các con phải chia gia tài của cha làm 4 phần đều nhau. Bốn người con hứa tuân lời cha trối lại, tuy nhiên, vừa chôn cất cha xong thì 3 người con đầu dành phần gia tài nhiều hơn người em út. Họ chỉ chia cho đứa em út một mảnh đất khô cằn.
                      Người em út rất buồn, vừa thương nhớ cha, vừa buồn các anh xử tệ với em. Đang ngồi khóc một mình trước mảnh đất khô cằn, thì người em bỗng thấy một bà Tiên từ mặt ao gần đó hiện lên bảo:
                      - Này con, thôi đừng khóc nữa. Khoảng đất này của con có chứa một kho tàng, mà các anh của con không biết. Kho tàng này chứa nhiều mầm của một loại hoa quý vô giá. Mỗi năm, cứ đến mùa Xuân, thì hoa đâm chồi nẩy lộc, nở từng hàng chi chít trên đất đai của con. Con sẽ hái hoa, đem bán, rất được giá. Nhờ đó, chẳng bao lâu thì con sẽ giầu có hơn các anh.
                      Quả thật, đến mùa Xuân ấy, đúng như lời bà Tiên nói, mảnh đất khô cằn của người em bỗng nhiên mọc lên từng hàng hoa trắng, hương thơm ngào ngạt. Để nhớ đến ơn lành của bà Tiên, người em đặt tên cho loại hoa này là Hoa Thuỷ Tiên.
                      Những người thích hoa, chơi hoa, và những người nhà giầu đã thi nhau đến mua hoa Thuỷ Tiên hiếm quý, với giá rất đắt. Chẳng bao lâu, người em trở nên giầu có, nhiều tiền bạc. Rồi cứ mỗi năm Tết đến, người em út lại giầu thêm, nhờ mảnh đất nở đầy hoa thơm tươi thắm. Người em trở nên giầu hơn 3 người anh tham lam kia.
                      Người ta tin rằng Hoa Thuỷ Tiên mang lại tài lộc và thịnh vượng. Do vậy, mỗi dịp Tết đến, chơi hoa thuỷ tiên trở thành một tục lệ đón Xuân. Những ngày cuối năm, Thuỷ Tiên được chăm sóc để hoa nở đúng Giao Thừa, hy vọng mang đến tài lộc sung túc và may mắn trong năm mới



                      SỰ TÍCH HOA THUỶ TIÊN (3)

                      Dân gian có câu: "Cha mẹ sinh con, trời sinh tính", ngẫm mà đúng. Cặp vợ chồng nhà thần Kêphít và Lavơriôna sinh hạ được một cậu con trai có gương mặt trắng trẻo, cặp mắt sáng, mái tóc quăn tít, đặt tên là Narơxít thay cha làm hà bá, trị vì một vùng sông nước.
                      - Ôi, chàng mới đẹp làm sao! Thật là một đứa con tuyệt vời! - Các nữ thần đến thăm Lavơriôna đều tấm tắc khen.
                      Nhưng các thần cũng giống như con người đều có tính hay ghen ghét, đố kỵ trước những thành đạt của người khác. Loài cá bơi từ Đông sang Tây đã loan tin về vẻ đẹp tráng kiện và trí tuệ của con trai nữ thần Lavơriôna. Nữ thần Sứa biết được tin này, ả có một đứa con trai vốn xấu xí lại ngốc nghếch; khi nghe những lời khen của thiên hạ dành cho Narơxít thì ả nổi điên lên, đến nỗi những con rắn phủ trên đầu ả thay cho tóc bỗng dựng ngược lên, phun lưỡi phì phì. Nữ thần Sứa nghiến răng trèo trẹo:
                      - Vẻ đẹp của mi sẽ giết chết mi, mi sẽ phải lòng chính cái hình bóng của mi, mi sẽ trở nên tốt bụng chỉ vì lòng hiếu danh, sẽ trở nên người thông minh chỉ vì thói kiêu căng. Cái khoảnh khắc mà mi nhìn thấy bóng hình mình trong gương chính là lúc mi bắt đầu phải chấp nhận cái chết.
                      Những con cá bơi ngược lại từ Tây sang Đông mang tin về lời nguyền của nữ thần Sứa đến lưu vực sông do Kêphít trị vì. Thần Kêphít đập vỡ tất cả các loại gương có dưới thuỷ cung, còn các mảnh kính vụn thì cho quẳng lên đất liền. Từ khi còn nhỏ, Narơxít mới chỉ nghe nói về vẻ đẹp và về trái tim nhân hậu của mình, bây giờ chàng nghĩ rằng chàng cần phải là một người nhân hậu và thông minh, mặc dù làm được việc đó không phải là dễ. Khi lũ con của các nữ thần khác dành một chút trong khẩu phần ăn sáng hoặc bữa trưa của mình cho cá, thì Narơxít cũng không muốn chịu tiếng là keo kiệt bèn ném cho cá một ít thức ăn. Dù chỉ là bớt lại một chút nhỏ nhoi lượng phần ăn, nhưng chàng tin rằng việc thiện mà chàng đã làm còn tốt hơn nhiều so với những người khác, bởi lẽ chàng đã hy sinh không phải là một món ăn dân dã mà là món ăn của nhà thần. Nhưng sau đó chàng lại khôn ngoan ngầm giữ lại khẩu phần của mình mà lấy khẩu phần của mẹ để đem cho, khiến lũ con các thần phải thán phục về sự hào hiệp và quên mình của chàng.
                      Thời gian như bóng câu qua cửa sổ. Mới hồi nào Narơxít còn chơi đùa với lũ cá, nhặt nhạnh những vỏ hến, vỏ sò trang điểm cho nơi ở của mình, bây giờ chàng đã lớn phổng lên thành một chàng trai chững chạc. Khi xưa, lũ con của các thần thường cùng với chàng nuôi cá, nay lớn lên mỗi đứa lại có một sở thích riêng. Đứa nào cũng muốn tỏ ra khôn ngoan linh lợi. Chúng đọc cho nhau nghe những bài thơ tự sáng tác, hát những bài ca tự nghĩ ra và thi xem ai nhảy lên lưng cá ĐenPhin khéo léo hơn và bơi đi xa hơn. Narơxít cũng sáng tác thơ và chẳng bao lâu chàng hiểu rằng có một đứa con trong lũ con nhà thần tỏ ra trội hơn chàng, chàng liền đem lòng ghen ghét, phỉ báng cả bè bạn.
                      - Đó là một chàng trai thông minh và tài hoa! Con gái thần nào mà được chàng lấy làm vợ thì thật là diễm phúc, - Các nữ thần có tuổi xì xào, tỏ ý ghen tỵ với người vợ tương lai của Narơxít.
                      Nếu các nữ thần có tuổi bị chàng trai tuấn tú, đôn hậu và thông minh cảm hoá, thì cũng chẳng lấy gì làm ngạc nhiên khi các nữ thần trẻ trung đã rắp tâm quyến rũ chàng bằng vẻ đẹp, cuối cùng chàng quyết định kết hôn với Ekhô, cô gái đẹp nhất trong đám các tôn nữ nhà thần.
                      Trước ngày cưới, Ekhô bảo Narơxít lên bờ sông hái cho nàng bông hoa Anh Đào dại để nàng gài lên mái tóc xanh của mình. Narơxít đã hái cả một bó hoa và khi cúi gập người toan nhảy xuống nước, thì bỗng nhiên thấy một vùng nước tôi tối có bóng hình của mình.
                      - Đẹp quá! Kể từ khi khai thiên lập địa chưa một ai được chứng kiến một sự tuyệt diệu như thế này! - chàng thốt lên rồi sững người anh bị bỏ bùa mê.
                      Trong khi nhìn chằm chằm vào cái bóng của mình, chàng quên khuấy cả Ekhô, người mà ngày mai chàng sẽ tổ chức lễ cưới đón nàng. Chàng ném những bông hoa xuống cỏ và khi đứng dậy chàng lại bị mê mẩn với cái bóng của chàng trong gương nước.
                      - Đúng rồi, ta không chỉ là một chàng trai thông minh, đôn hậu nhất mà còn đẹp nhất nữa - Narơxít dương dương tự đắc.
                      Đợi mãi không thấy người tình trở về, Ekhô đành phải ngoi lên mặt nước. Tức thì nàng bị người tình mắng nhiếc thậm tệ, chỉ vì nàng đã làm gương nước xao động.
                      Ekhô không tin rằng Nanơxít lại quá giận dữ, vừa làm lành với chàng vừa xoa cho mặt nước trở lại phẳng lặng.
                      - Ta biết, em ghen với vẻ đẹp của ta, vì vậy em tìm cách cản trở ta. Đừng vờ vĩnh nữa, hãy trở lại thuỷ cung đi.
                      - Chàng thân yêu! Em là cô gái đẹp nhất trong đám tôn nữ nhà thần, cớ sao em lại ghen ghét vẻ đẹp của chàng? - Ekhô nói và vẫn nghĩ rằng người tình nói đùa.
                      - Anh cứ nghĩ em là một người đẹp, đó là khi anh chưa trông thấy mình. Hãy nhìn vào gương mặt này, vào cái hình người này, em sẽ hiểu chính Aphơrôđita còn chưa xứng đáng trở thành vợ ta, huống hồ nàng - Narơxít đáp và lại mê mẩn với vẻ đẹp của mình.
                      Đối với Ekhô cũng như đối với người đàn bà đội rắn trên đầu thay tóc, thì không có gì đáng giận hơn là việc người tình không thừa nhận sắc đẹp của nàng, còn nếu như nàng quả là không đẹp thì nàng cũng không thích bị lừa dối.
                      Những lời nói của Narơxít khiến Ekhô tức tối đến nỗi nàng gọi chàng là một kẻ ngu ngốc tự say đắm mình. Nàng liền đem chuyện này kể lại cho mẹ nàng nghe và nói rằng chàng đã bị mất trí. Kêphít đã hoài công thuyết phục con trai quay trở lại thuỷ cung, và những giọt nước mắt cầu xin của người mẹ cũng trở thành vô nghĩa.
                      Narơxít đã ở lại hẳn trên bờ, và trong khi đưa mắt nhìn xuống nước, chàng vẫn không ngớt lải nhải về sắc đẹp của mình cho tới khi người chàng teo tóp lại và hoá thân về với trần thế.
                      Không hiểu vì sao đối với người chết, người đời lại tỏ ra bao dung, độ lượng hơn so với người đang sống.
                      Khi Narơxít chết rồi, Ekhô thường bơi đến chỗ có vùng nước tối mà người tình của nàng đã từng soi mình vào đó.
                      "Tình yêu của ta mới tuyệt diệu làm sao..." - Ekhô thở dài. Để giữ lại mãi mãi những kỷ niệm về Narơxít, nàng bèn trồng ngay lên chỗ đất chàng nằm một bông hoa có sắc trắng hệt như da mặt của Narơxít. Đó chính là Hoa Thủy Tiên.
                      #41
                        Thanh Vân 29.09.2009 17:56:36 (permalink)
                        Sự Tích Hoa Thủy Vu



                        SỰ TÍCH HOA THỦY VU

                        Trên các bãi cỏ mọc đầm lầy trong những khoảng rừng sâu hẳn là các bạn đã có dịp trông thấy một loài hoa kỳ lạ mọc trên nước, duy nhất chỉ có một cái cánh trắng muốt ôm lấy một cái nhụy vàng.
                        Ở làng quê người ta gọi đó là Hoa Ráy còn ở thành phố gọi là Hoa Thủy Vu, thường được trồng trong các chậu cảnh. Thuở nhỏ tôi đã được nghe ông nội kể về gốc tích của nó.
                        Ngày xửa ngày xưa, có một cậu bé tên là Lanhit. Cậu luôn được ánh nắng mặt trời ve vuốt và bàn tay của mẹ chăm chút nên khi lớn lên cậu cũng là một đứa trẻ vui tính hoạt bát như mọi đứa trẻ khác trong làng. Nhưng thật không may, một căn bệnh quái ác đã cướp mất của cậu người mẹ thân yêu. Cuộc sống của cậu bắt đầu trở nên khó khăn. Chẳng bao lâu người cha lại rước về nhà một mụ mẹ kế ác độc, ích kỷ, chỉ cần một cái liếc mắt của mụ là Lanhit đã sợ khiếp vía.
                        Mẹ kế còn mang về nhà chồng cả một bày lợn lông trắng lông đen lốm đốm để làm của hồi môn và bắt Lanhit phải chăn dắt suốt từ bình minh cho đến hoàng hôn, từ mùa xuân xanh tươi cho đến mùa thu vàng vọt. Ở đầu bãi chăn thả có một cái ao vừa sâu lại vừa bẩn, đàn lợn thường quen xuống đó tắm mát. Phía bên kia bờ ao là cả một con lợn ranh ma thường vượt sang đó để đào khoai ăn, khiến Lanhit phải vất vả lội xuống bùn lấm để xua đuổi con vật. Mỗi buổi chiều về nhà, toàn thân Lanhit bám đầy những bùn đất hôi hám, đã thế mẹ kế lại không hề cho cậu một giọt nước để tắm rửa. Chân tay chẳng mấy chốc đã khô nứt hệt những vết rạn.
                        Trước đây Lanhit có rất nhiều bạn bè cùng vui đùa, nay đám trẻ tìm cách xa lánh cậu bé chăn lợn bẩn thỉu. Lanhit đành phải đứng từ xa trông đám trẻ vui đùa và khe khẽ huýt sáo bài ca "Mặt trời nhỏ". Một hôm, vì mải suy nghĩ, cậu không để ý thấy một con lợn dẫn cả đàn con vượt qua ao sâu, tấn công đám ruộng trồng khoai tây. Mấy đứa con của mẹ kế biết chuyện, không thèm nói cho Lanhit biết mà chạy về mách mẹ. Sợ hãi, cậu bỏ chạy thục mạng và trong lúc lúng túng cậu đã bị ngã xuống ao nước bẩn. Cậu cố leo lên bờ, mẹ kế lại tiếp tục dồn đánh. Điều kỳ lạ là tuy bị lấm bùn từ đầu đến chân, song một phía sườn của cậu vẫn còn sạch nguyên trông hệt như một cánh hoa trắng muốt.
                        - Ê, cánh hoa trắng bé xíu! Hoa ráy tụi bay ơi! - Lũ trẻ hét lên với một vẻ thích thú.
                        Không ngờ tiếng kêu đó đã cột chặt đời Lanhit vào kiếp bùn đen. Cậu đã phải mang một cái tên khác, kể cả cha cậu, mỗi lần bí mật xoa đầu cậu vẫn gọi cậu là "Hoa ráy của ta!"
                        Đó là một mùa hè khốc liệt. Cỏ cây khô héo, những cánh đồng lúa mì chết rụi. Cái ao sâu hôi hám cũng bị cạn kiệt, nứt nẻ như đá, muôn loài không còn chỗ mà tắm mát nữa. Đàn lợn hung dữ lại bươn bả khắp các bãi chăn thả, lùng xục cả vào rừng, hy vọng tìm được một bãi cỏ xanh tươi. Ngay cả hồ nước giờ đây cũng đã cạn phơi đáy, duy chỉ có ở giữa lòng hồ còn lộ ra một cái hố nhỏ đen ngòm, không một tia sáng mặt trời lọt vào.
                        Nạn hạn hán càng hoành hành dữ dội. Riêng cái hố nhỏ như có một con mắt đen kia lại có sức hấp dẫn muôn loài đi tìm kiếm nguồn nước mát.
                        Trong số những muông thú dại dột ấy có một con lợn của mẹ kế đã liều mình lao xuống cái hố đó để tắm mát và lập tức bị chìm nghỉm. Lanhit sợ hãi chạy về nhà kêu cứu. Nhưng cặp mắt của mẹ kế chợt vằn lên trông dữ dằn như cái hố nhỏ đen ngòm giữa lòng hồ khô cạn. Mụ túm lấy một tai Lanhit và kéo xềnh xệch ra miệng hố.
                        - Mày phải tự nhảy xuống hố lôi con lợn lên cho ta!
                        Cậu bé bất hạnh bị quẳng xuống cái hố nhỏ, chỉ còn thấy nhô lên một cái tai trắng của con lợn. Lanhit bèn túm lấy cái tai con lợn nhưng cái hố nhỏ quái ác đã dìm sâu cậu xuống. Chỉ còn có cái tai lợn và nắm tay nhỏ sần sùi của cậu là nổi lên trên mặt nước.
                        - Mày cứ ở lại dưới đó, Hoa ráy ạ! - Mẹ ghẻ rít lên từng tiếng một.
                        Ngày hôm sau, cái hố nhỏ đó cũng bị cạn khô và ngay chỗ đó người ta thấy mọc lên một bông hoa như một cánh hoa trắng muốt.
                        - Hoa Thủy Vu! Xem kìa, một bông Hoa Thuỷ Vu - một cô gái trẻ chạy qua thốt lên. Từ đấy, loài hoa ấy có tên gọi là Hoa Thuỷ Vu.
                        #42
                          Thanh Vân 29.09.2009 17:57:03 (permalink)
                          Sự Tích Hoa Thược Dược



                          SỰ TÍCH HOA THƯỢC DƯỢC

                          Danh y Hoa Đà trồng cây thược dược trong vườn mà không biết đó là cây thuốc. Hồn hoa hiện thành cô gái đứng khóc mong được chú ý, nhưng ông cũng chẳng bận tâm. Chỉ đến khi bà vợ được chữa khỏi bằng cây này, ông mới biết đó là thuốc quý.
                          Trong các loài hoa, mẫu đơn đứng đầu, thược dược đứng thứ hai. Mẫu đơn được tôn xưng là "hoa vương", thược dược được coi là "hoa tướng". Danh y Lý Thời Trân của Trung Quốc cũng đánh giá như vậy khi nói về tác dụng chữa bệnh của hai loài hoa này.
                          Tuy chỉ là "hoa tướng" nhưng thược dược lại thành danh sớm hơn mẫu đơn. Tương truyền từ 3.000 năm trước, vào thời Tam Đại, thược dược đã được trồng để thưởng ngoạn ở rất nhiều nơi trong khi người ta còn chưa biết đến hoa mẫu đơn. Khi mới phát hiện ra mẫu đơn, người ta tưởng đó chỉ là một loài thược dược, nên đã gọi nó là "mộc thược dược". Hai hoa này nhìn thoáng qua rất giống nhau nên người xưa thường gọi là hai chị em.
                          Về sau, người ta phát hiện mẫu đơn và thược dược tuy cùng họ nhưng là hai cây khác nhau. Thược dược là loài thân thảo, còn mẫu đơn là cây thân gỗ. Thược dược được xếp vào nhóm thuốc bổ huyết, sử dụng chủ yếu để bồi dưỡng cơ thể; còn mẫu đơn thuộc nhóm thanh nhiệt lương huyết, chủ yếu dùng khi cơ thể đã mắc bệnh.
                          Bạch thược dược (Paeonia Lactiflora) có hoa rất to, mọc ở ngọn thân, tựa như hoa mẫu đơn hay thược dược cảnh. Cánh hoa màu hồng nhạt hay trắng muốt, nhị vàng cam, rễ phình to thành củ. Củ này luộc chín phơi khô chính là vị thuốc bạch thược. Cây bạch thược này không phải là cây hoa thược dược (Dahlia variabilis Desf) vẫn được trồng nhiều trong dịp Tết

                          Tương truyền, tác dụng chữa bệnh của bạch thược đã được danh y Hoa Đà phát hiện ra trong một tình huống rất ly kỳ. Để nhận biết và tránh nhầm lẫn các vị thuốc, ông đã trồng đủ thứ cây thuốc quanh nhà. Một hôm có người đem biếu ông cây hoa lạ, nói rằng có thể dùng chữa bệnh nhưng không rõ chữa được bệnh gì. Hoa Đà đem trồng ở góc sân bên cửa sổ.
                          Xuân tới, cây ra những bông hoa rất to, trắng muốt, thơm như hoa hồng. Ông thử hái hoa sắc uống nhưng không nhận thấy có gì khác lạ. Ông lại hái lá rồi hái cành đem thử cũng không phát hiện điều gì đặc biệt. Nghĩ rằng cây hoa này tuy đẹp nhưng không có tác dụng chữa bệnh nên mấy năm liền, Hoa Đà không để ý đến nó nữa.
                          Một đêm thu, Hoa Đà đang ngồi đọc sách, bỗng nghe thấy ngoài cửa sổ có tiếng con gái khóc thút thít. Nhìn ra, ông thấy dưới ánh trăng mờ, có một người con gái rất đẹp đang đứng đó khóc. Ông tự hỏi, không biết con gái nhà ai, chắc có nỗi oan ức nào đây. Ông khoác áo ra ngoài nhưng nhìn trước nhìn sau không thấy bóng người nào nữa, chỗ cô gái đứng khóc chỉ còn một cây thược dược.
                          Hoa Đà đi vào và tự nhủ: "Cho dù nhà ngươi có linh tính thì bây giờ cũng đang là mùa thu, hoa đã tàn, lá đã rụng, còn sử dụng được vào việc gì?".
                          Nhưng ông vừa ngồi xuống tiếp tục đọc sách thì lại nghe tiếng khóc thút thít, nhìn ra vẫn là cô gái ban nãy. Hoa Đà bước ra, cô lại biến mất, vẫn chỉ có cây bạch thược. Sự việc cứ lặp đi lặp lại mấy lần khiến Hoa Đà vô cùng ngạc nhiên. Ông bèn đánh thức vợ đang ngủ say dậy kể lại chuyện.
                          Bà nói: "Tất cả các cây trong vườn đều được ông sử dụng làm thuốc cứu người, chỉ có cây bạch thược này bị bỏ quên, chắc là nó có nỗi oan ức". Hoa Đà bảo: "Tôi từng thử tất cả các bộ phận của nó thấy chả có tác dụng, vậy còn oan ức nỗi gì?".
                          Bà vợ nói: "Ông mới thử những thứ trên mặt đất, còn rễ của nó thì sao?". Nhưng danh y gạt đi: "Hoa lá cành còn chẳng có gì đặc biệt, vậy thì còn thử rễ làm gì?". Dứt lời, ông nằm xuống ngủ thiếp đi. Bà vợ suốt đêm không sao chợp mắt, nghĩ rằng chồng mình đã thay đổi, không còn lắng nghe ý kiến của người khác như trước kia nữa.
                          Vài hôm sau, bà vợ Hoa Đà bỗng nhiên bị đau bụng, băng huyết rất nhiều, uống đủ thứ thuốc không đỡ. Bà liền lén ra vườn đào rễ cây bạch thược đem sắc uống. Chỉ nửa ngày sau, bụng đã hết đau, máu cũng không còn chảy nữa. Nghe vợ kể lại, Hoa Đà rất cảm kích: "Cảm ơn bà đã thức tỉnh ta, nếu không thì ta đã để mai một cây thuốc quýquý".
                          Sau sự kiện đó, ông thử nghiệm và nhận thấy ngoài tác dụng giảm đau, cầm máu, rễ bạch thược còn có tác dụng dưỡng huyết và chữa được nhiều bệnh phụ khoa. Cây hoa lạ này ban đầu có tên bạch thược, sau đó Hoa Đà thêm chữ "dược" thành bạch thược dược.
                          Cùng với thời gian, Đông y phát hiện thêm nhiều công dụng nữa của cây bạch thược. Nó trở thành thuốc bổ huyết thiết yếu, phổ tác dụng rộng và tần suất sử dụng rất cao. Bạch thược chủ trị kinh nguyệt rối loạn, vã mồ hôi, mồ hôi trộm, đau đầu, chóng mặt. Trên lâm sàng y học hiện đại, nó chữa tử cung xuất huyết, viêm thận mạn tính, tăng huyết áp, tiểu đường, viêm võng mạc, cường tuyến giáp.
                          #43
                            Thanh Vân 29.09.2009 17:57:41 (permalink)
                            Sự Tích Hoa Trạng Nguyên





                            SỰ TÍCH HOA TRẠNG NGUYÊN


                            SỰ TÍCH HOA TRẠNG NGUYÊN (1)

                            Poinsettia (Chistmas flower) được người Mỹ biết tới vào năm 1825, do Joel Roberts Poinsett mang từ Mexico về. Khi làm đại xứ Mỹ tại Mễ Tây Cơ, trong lần thăm viếng tỉnh Taxco, ông đã khám phá ra một loại cây nhỏ mềm mại, mọc hoang nơi sườn đồi mà “hoa” là “lá xanh” chuyển màu đỏ đẹp khi đông về. Là một nhà đam mê nghiên cứu thực vật, Poinsett ngắt lấy vài cành gởi về quê nhà ông ở Greenville, tiểu bang South Carolina. (Loại cây này rất dễ trồng. Chỉ cắm cành xuống đất ở green house trong một thời gian ngắn, rễ sẽ mọc và lớn nhanh.) Bạn của gia đình Poinsett là các ông John Bartram, Robert Buist (Philadelphia), những nhà khai thác cây kiểng, thấy hoa đẹp, dễ trồng lại trổ màu đỏ đẹp đúng vào thời điểm mùa giáng sinh nên bắt đầu khai thác như một nghiệp vụ. Tên cây Poinsettia được đặt từ đó để nhớ tới công lao Joel Robert Poinsett đã tìm tòi khám phá.
                            Ngày nay ở các quốc gia Âu Mỹ, khi những cơn gió đông bắt đầu thổi về lành lạnh, đủ làm ửng hồng đôi má của những nàng thiếu nữ, mọi người rộn rịp sắm sửa trang hoàng nhà cửa với cây thông, hang đá... chuẩn bị cho mùa giáng sinh, cũng có một loài hoa âm thầm chuyển những chiếc lá xanh thành màu đỏ. Đó là hoa Poinsettia/ Christmas flower. (Ngày nay do mục đích thương mãi, hoa đã được cải biến, tinh trồng thành nhiều màu.)
                            Sau này, theo một truyền thuyết phương Tây, Hoa Giáng Sinh (Poinsettia) là loài hoa kỷ niệm ngày sinh của Chúa Jesus. Người ta cho rằng, đây là một loài hoa thần thánh do những giọt máu cuối cùng của Chúa Jesus khi bị đóng đinh trên Thập Giá rơi xuống cây này, từ đó những cụm lá nhuộm đỏ màu máu tươi của Chúa thành những cụm hoa đỏ mà chính giữa là những nhụy vàng. Quan niệm người phương Tây cho rằng, Poinsettia tượng trưng cho sự thánh thiện, đem lại sức mạnh, hy vọng, lạc quan trong cuộc sống. Do đó, trong những tấm thiệp truyền thống chúc mừng giáng sinh và năm mới đều có in hình những cụm hoa màu đỏ, chung quanh là những chùm lá xanh. Đó là một nếp văn hóa, trang trọng một ngày lễ lớn trong năm của riêng người theo đạo Thiên Chúa cũng như của tất cả mọi người trên thế giới. Ngày Noel trong mỗi gia đình trang hoàng ngoài cây thông, hang đá còn có lẵng hoa Poinsettia (giả hoặc thiệt.) Những chiếc bánh Giáng Sinh truyền thống cũng vậy, thường có hình hoa Poinsettia bên cạnh những quả chuông nhỏ.
                            Ở Việt Nam cũng có loại hoa này, gọi là hoa “Trạng Nguyên.” Đây là một loài hoa đặc biệt, vì hoa là lá màu đỏ bao quanh cụm hoa. Người Trung quốc gọi hoa Trạng Nguyên là “Nhất phẩm hồng” Người Nhật gọi hoa này là “Tinh Tinh Mộc”. Hoa Trạng Nguyên là một loài hoa dân dã của Việt Nam. Ở thôn quê, hoa Trạng Nguyên cũng như hoa “dâm bụt” thường được trồng ở trước cửa ngõ hay hàng rào, tượng trưng cho niềm vui vẻ chân thành mộc mạc khi đón khách. Nhìn xa, hoa Trạng Nguyên trước ngõ với những chùm hoa trổ trên ngọn, giống như lồng đèn màu đỏ. Cây là một loài thân mềm, lá xanh thường bị rầy trắng ở nách lá. Trạng Nguyên dễ trồng, chỉ cần cắt cành, giăm xuống đất là sống. Nét đáng yêu của loài cây này là dáng vẻ mềm mại và đặc biệt là chỉ chuyển màu đỏ vào khoảng thời gian từ Giáng Sinh đến Tết âm lịch. Thời tiết càng lạnh và nắng khô lá chuyển màu đỏ càng tươi đẹp. Mỗi năm, lá xanh chỉ chuyển màu một lần. Ban đầu trên những đọt của nhánh ra những nhụy vàng dạng chén, rồi từ từ chung quanh nhụy này những chiếc lá hình thành. Đến mùa giáng sinh những chiếc lá này có màu đỏ và đó là hoa. Khoảng tháng hai âm lịch lá đã chuyển màu rụng đi, nhìn cây chỉ thấy một màu xanh. Trong dân gian Việt Nam, chuyện xưa kể rằng: “Một cậu học trò lên kinh ứng thi, thấy một cây lá xanh ven đường. Đến khi thi đỗ trạng nguyên trở về làng. Anh bỗng nhận thấy trên ngọn cây những chiếc lá xanh ngày nào, giờ trở thành màu đỏ, dường như cây cũng đang chúc mừng anh thi đỗ. Từ đó, anh gọi cây này là cây hoa Trạng Nguyên. Dù là tên gọi gì, cây hoa Trạng Nguyên vẫn tượng trưng cho nét cao quí nhưng mộc mạc dịu dàng. Nó biểu hiện sự đoàn tụ, niềm hạnh phúc, bình an và niềm tin tưởng ở tương lai. Ngày nay, trong mùa giáng sinh, tết dương lịch, người Việt Nam thường chưng cây Trạng Nguyên trong nhà, biểu tượng cho một năm mới nhiều niềm vui, may mắn, nhất là con cái học hành đỗ đạt.
                            Viết thêm: Quá trình đổi màu của hoa Trạng Nguyên (Poinsettia) được ghi nhận như sau: Khi một chiếc lá “đến tuổi,” vào mùa hè lá có màu xanh. Trong thời gian này, lá tích tụ lượng ánh sáng quang hợp để đến mùa đông chuyển sang màu đỏ (trổ bông), kéo dài khoảng 2 - 3 tháng. Đó là do thông qua chu kỳ mặt trời chiếu sáng đầy đủ, một lượng đường lớn và một số chất hữu cơ trong lá tăng, sinh sản ra một lượng lớn thanh tố. Trong điều kiện nhất định, lượng thanh tố này sẽ biến thành màu đỏ. Theo thí nghiệm, lượng nhiệt chiếu đủ 10 giờ/ngày, thời gian 5 – 6 tuần lễ là đủ để hoa trổ màu đỏ.



                            SỰ TÍCH HOA TRẠNG NGUYÊN (2)

                            Cứ vào đêm Giáng sinh, ở một thị trấn nhỏ sát biên giới Mêhicô, người ta lại thấy ánh sáng của mười hai ngọn nến chiếu qua ô cửa sổ của một nhà thờ bằng gạch cũ kĩ. Phong tục này đã có từ nhiều năm, và đó là lúc mọi người mang theo một món quà để mừng ngày Chúa ra đời. Từ trẻ đến già, mọi thành viên trong các gia đình đều hướng đến khung cảnh thiêng liêng ấy, kính cẩn cúi đầu và đặt quà lên bàn thờ Chúa.
                            Vào một đêm Giáng sinh nọ, có cậu bé mồ côi đứng một mình trước cửa nhà thờ. Cậu ao ước được mang quà dâng Chúa như những gia đình kia, nhưng quá nghèo, cậu chẳng có gì để làm quà cả.
                            Khi đứng nép sát vào cửa sổ, cậu bé nghe tiếng đàn phát ra từ nhà thờ. Giai điệu du dương khiến trái tim cậu chợt nghĩ đến những điều kì diệu của ngày lễ, cậu quỳ xuống bên ngoài nhà thờ và cầu nguyện.
                            Khi tiếng đàn vừa dứt, cậu bé đứng dậy và chuẩn bị quay về trại trẻ mồ côi. Nhưng thật ngạc nhiên, ngay chỗ cậu quỳ lúc nãy có một loài cây rất đẹp, lá đỏ, đang nở ra những bông hoa vàng li ti. Cậu chưa từng thấy một loài cây nào đẹp như thế. “ Có lẽ thiên thần đã mang đến món quà này để mình dâng lên Chúa”, cậu nhủ thầm như thế và nhẹ nhàng bưng cây ra. Cậu chạy vào trong nhà thờ và đặt cây hoa lên bàn thờ Chúa.
                            Về sau, cứ vào mùa Giáng sinh, loài cây ấy lại ra hoa, những chiếc lá đỏ thắm bao quanh hoa vàng. Người trong thị trấn gọi đó là “ Hoa của đêm thánh vô cùng”.
                            Rồi một gia đình tử tế dòng họ Poinsettia đến nhận cậu bé về nuôi, sau này cậu đã trở thành một doanh nhân thành đạt. Nhiều năm sau, ông quay lại làng quê cũ trong nỗi nhớ da diết, ông cho xây một nhà thờ và một ngôi trường nơi đây. Để đáp lại tấm lòng hào phóng ấy, những người dân của thị trấn đã tặng ông một món quà đặc biệt: loài cây lá đỏ với những bông hoa vàng rất đẹp được đặt bằng chính tên của ông – Poinsettia ( Hoa trạng nguyên).
                            #44
                              Thanh Vân 29.09.2009 17:58:16 (permalink)
                              Sự Tích Hoa Trinh Nữ



                              SỰ TÍCH HOA TRINH NỮ

                              Thuở ấy, nhà nọ từng có hai kiếp đàn bà, cả hai kiếp đến lượt mình, đều chôn chân thờ chồng đi lính.
                              Hai người đàn ông lần lượt ra đi, nhưng người về thì chỉ một. Người chiến binh dũng cảm ấy về làng trong tiếng tiền hô hậu ủng, xênh xang trong mũ áo vua ban và làm vẻ vang cho dòng họ. Nhưng khi đón chồng, người đàn bà thứ hai khóc thầm: “Cân đai, mũ áo, bổng lộc vua ban… tất cả đều đẹp nhưng mái đầu ta và ông ấy tự lúc nào đã ngả sang màu sương!…”
                              Vậy nên, kiếp đàn bà thứ ba vừa lọt lòng và nhoe nhoe khóc, thì cả bà, cả bố và mẹ cô bé chắp tay: “Lạy Phật! Lại thêm một cái tội nữa. Nhưng lần này, chúng ta sẽ không gả nó cho bất kỳ một người lính nào đâu nhé. Hai đời, chúng ta đã đợi chờ đến bạc tóc, thế còn chưa đủ sao?”.
                              Cô bé lớn lên mơn mởn như nụ hồng. Từ nhỏ đến lớn cả nhà không cho cô được nói chuyện với bất cứ một người lính nào để cô giữ lời nguyền thuở trước.
                              Một buổi sáng, xa xa vẳng tới tiếng trống ngũ liên. Cô gái bước ra vườn, đến bên bờ giậu đẫm sương. Chàng trai nhà bên đang gấp gáp khăn gói lên đường. Vốn là đôi trẻ vẫn cũng nhau chơi trò “đố lá”, họ cùng nhìn nhau rồi cùng cúi mặt, lớp lông măng ngăm ngăm trên mép chàng trai khẽ rung. Tiếng trống thúc dồn. Chàng trai đánh bạo:
                              - Thế… có chờ… không?
                              - Sao không hỏi xem bông tầm xuân có nở trước khi mặt trời lên không? - Cô gái cắn môi, nước mắt lăn tròn trên má.
                              Và thế là mặt chàng trai đỏ đến tận chân tóc. Lâng lâng như vừa được chắp cánh, chàng bấm bụng: “Ta có thể ra đi, dù “da ngựa bọc thây”.
                              Cô gái trở vào, mắt ngấn nước và thẫn thờ như người ốm, trong tiếng trống ngũ liên xa xa thúc dồn. Vậy là cả nhà biết. Họ trách lẫn nhau, rồi hai người đàn bà ôm nhau khóc. Bà cô gái thắp ba nén hương khấn người chồng quá cố: “Ông ơi! Có lẽ cháu ông đúng, bởi tôi nghiệm rằng, nếu bây giờ ông sống dậy, lại ra trận, thì tôi vẫn chờ ông. Ôi! Cái kiếp đàn bà!…”. Mẹ cô gái nức nở: “Chỉ tại mẹ thôi, chính mẹ đã truyền cho con dòng máu “đợi chờ”! Con làm sao khác được!”. Ông bố cố gạt đi: “Thì cũng phải có một đứa con gái nào đó chờ thằng bé ấy chứ, cũng như ngày xưa, trong căn nhà này bà chờ tôi vậy! Bây giờ, chỉ còn biết mong sao thằng bé ấy trở về!”.
                              Nhưng thằng bé không sớm trở về. Chàng tân binh hăng hái giết giặc trong vài trận rồi ngôi sao chiếu mệnh mỉm cười với chàng ta, đấng quân vương vốn giỏi chọn người, vừa nhìn thấy chàng trai đã nhận ra ngay rằng đây là một tên lính hầu trung thành vô hạn. Thế là, ngài cho rút chàng trai về, ngày đêm cận kề bên ngài, một bước cũng không được rời xa. Khi còn giặc giã, vua cần chàng đưa vồng ngực vạm vỡ ra che làn đạn giặc, còn khi hết giặc, vua càng cần chàng hơn, để giữ gìn quyền uy tối hậu. Chàng là lưỡi kiếm “trừng phạt” tuyệt hảo, sẵn sàng giáng xuống đầu bất kỳ ai, theo lệnh đấng quân vương.
                              Đã mười bảy năm rồi, cô gái chờ người lính ấy. Từ một thiếu nữ như nụ hoa chớm hé, nàng đã trở thành một cô gái quá lứa nhỡ thì. Bà nàng, rồi cha mẹ nàng theo nhau lần lượt trở về cõi Phật. Trước khi nhắm mắt, họ đều gọi con gái đến bên giường dặn dò: “Mai ngày nếu sinh con gái…”. Cô gái lặng lẽ khóc khi bà và bố mẹ mất, lặng lẽ khóc khi người yêu của chúng bạn trở về hay tử trận và cuối cùng, lặng lẽ để tang người yêu năm xưa, vì đã mười mấy năm rồi, chàng biệt vô âm tín.
                              Thế rồi một buổi chiều có tiếng vó ngựa ghé sát bên thềm.
                              Bước xuống từ yên ngựa là một người đàn ông phong trần và nhìn mọi vật từ trên xuống qua ánh mắt lạnh lẽo như thép. Ngang lưng anh ta thắt chiếc đai vàng vua ban. Đó là phần thưởng sau khi anh ta lập được công đâm vào lưng người bạn cũ. Người bạn này đã cả gan ngăn vua khi ngài hạ lệnh chém một danh tướng. Ông này chỉ vì mắt kém mà trót dâng vua một quả táo bị sâu ăn. Sau bữa tiệc ngập máu ấy, vua đã cất nhắc anh ta và cho phép anh ta về thăm nhà sau mười mấy năm xa cách. Mười mấy năm qua, người lính đó vẫn không quên người yêu xưa. Giữa cuộc đời bụi bậm, giữa triều đình đầy mưu kế sâu độc, cô trinh nữ nhà lành cắn môi cố nuốt giọt nước mắt chia ly vẫn không mờ nhạt mà thật lạ kỳ, lại càng như vầng trăng xa thẳm gọi anh về.
                              Người con gái lỡ thì bước tới vài bước rồi sững lại. Nàng hoang mang tự hỏi, không biết đó có phải là chàng trai hàng xóm năm xưa rụt rè mãi mới dám hỏi: “Thế… có chờ… không?”. Nhưng khi người đàn ông ấy gọi tên nàng bằng giọng nói thân thuộc, nàng khóc, tiếng khóc nghe như ngàn mảnh thủy tinh rơi, vì nàng phải chờ đợi quá lâu, và người nàng chờ nay đã biến thành người đàn ông có cái nhìn lạnh lẽo như thép.
                              Làng xóm đua nhau chúc mừng nàng. Các ông làm nghề “gõ đầu trẻ” đem mối tình chung thủy của hai người rao giảng trong các lớp học. Thế là từ đấy có thêm nhiều cậu bé chỉ mơ về chiến trận. Mơ về một mai mình được hầu cận đấng quân vương. Còn những cô bé thì chỉ ao ước sao mai này lớn, được chờ người yêu đến khi lỡ thì!
                              Không chậm trễ gì, người ta làm lễ cưới cho đôi tình nhân chung thủy. Vua ban áo tím cho nàng trinh nữ lỡ thì và đám cưới trọng thể hết chỗ nói. Hoàng hôn xuống, cạnh chén rượu bên mâm cỗ, quan khách tròn xoe mắt nghe chú rể kể chuyện. Mười mấy năm hầu cận vua, anh ta đã quen tính kín miệng. Và chỉ bốc lên khi rượu đã ngà ngà. Nhưng anh không biết nói chuyện gì khác, ngoài chuyện chém giết. Anh kể về những bữa tiệc đầy sơn hào hải vị ngập máu trong thời bình và say sưa mô tả các kiểu chết của nhiều người khác nhau dưới tay kiếm của anh. Cuối cùng, vì sao vua đã ban cho anh ta chiếc đai vàng.
                              Người trinh nữ nghe chuyện của chồng mới cưới và nàng đứng không vững nữa. Lảo đảo, nàng lùi dần về buồng. Nép mình trên giường trong bóng tối, nàng như ngửi thấy mùi tanh lợm của máu, và trên mặt nàng như có làn môi lạnh toát của những oan hồn lướt qua. Nàng vùng dậy, run lật bật, vội vàng châm lửa lên tất cả các ngọn đèn dầu lạc mà nàng tìm được trong buồng. Ánh đèn chập chờn đỏ quạch càng làm nàng thêm sợ hãi.
                              Vừa lúc đó, có tiếng kẹt cửa. Thân hình to lớn của người chồng mới cưới chếnh choáng tiến vào. Theo thói quen, anh ta vẫn mang theo thanh kiếm. Nàng nhìn lên, và thấy anh không vào một mình. Theo liền sau anh là một người đàn bà trong veo, tóc xoã - chỉ có bộ tóc là còn màu sắc - mặc quần áo đại tang, đang cầm một tấm áo đẫm máu giơ lên và cất giọng đều đều một cách kỳ lạ, lặp đi lặp lại như không bao giờ dứt:
                              -Hãy trả chồng cho ta! Kẻ giết bạn kia, trước khi mi bước vào giường cưới! Hãy trả cha cho năm đứa con thơ dại của ta! Hãy trả…
                              Vậy mà chồng nàng không nghe thấy gì cả, anh dựng thanh kiếm vào vách, rồi xáp tới đặt tay lên ngực nàng. Ngay lúc đó, nàng nhìn thấy máu từ tấm áo trong tay người đàn bà xoã tóc rỏ xuống hai bàn tay người chồng mới cưới. Nàng ôm mặt rú lên kinh hãi:
                              - Ôi kìa, máu! Máu nhiều quá! Máu đỏ cả hai bàn tay!
                              Chồng nàng giật mình nhìn lại. Anh vẫn không thấy gì cả, ngoài những vết sẹo ngang dọc nơi bàn tay mình. Anh dỗ dành:
                              - Ồ! Can đảm lên, cô em ủy mị! Chẳng qua là vì em quá hồi hộp đó thôi! Đã bao ngày ta chờ phút giây này. Nào, hãy vui lên.
                              Anh nói vậy, nhưng miệng không cười và mắt vẫn lạnh như thép, cũng như từ ngày về đến giờ, chưa một ai nhìn thấy anh cười. Người trinh nữ bỏ hai bàn tay che mặt. Nàng không nhìn thấy người đàn bà tóc xoã nữa, nhưng trên khuôn mặt đang gần xuống mặt nàng, nàng chỉ thấy khóe miệng mím chặt và cái nhìn lạnh lẽo như cái nhìn của Thần Chết. Lại sợ hãi cuống quít, nàng van vỉ:
                              -Hãy mỉm cười đi anh! Em van đấy! Hãy cười lên để em thấy anh của ngày xưa. Bao năm chờ đợi, em đâu muốn anh buồn…
                              Người chồng cố hết sức để mỉm cười. Đã lâu lắm rồi anh không làm cử chỉ đó nên bây giờ anh không biết bắt đầu một nụ cười như thế nào. Khó nhọc lắm, anh mới nhớ ra rằng, khi cười người ta phải để lộ ít nhất là một hàm răng. Anh nhếch môi, để lộ hẳn hai hàm răng chắc khỏe.
                              Nhưng anh quên rằng, khi người ta cười, chính đôi mắt cười trước, cái miệng cười sau, thậm chí chỉ cười bằng mắt cũng đủ. Mà đôi mắt muốn cười, trước hết tâm hồn phải cười đã, cho nên cố gắng để mỉm cười, trông anh lại thêm vẻ dữ dằn đe dọa của một con sói. Ngay lập tức, vợ anh co rúm lại và quay mặt vào trong, thổn thức cố kìm tiếng khóc.
                              Người chồng buồn bã soi trong tấm gương cười, ngắm kỹ mình, rồi tuyệt vọng:
                              - Thôi, thế là hết, cả một đời chờ đợi! Em chối từ ta, em ghê tởm ta ư?
                              Anh rũ xuống thành giường, rồi gầm lên như một con thú bị thương:
                              - Tại sao em chờ ta cả đời, để rồi chối từ ta? Tại sao em bắt ta phải cười! Còn đâu nữa chàng trai với lớp lông măng trên mép ngày xưa! Ta đã trở thành “người đàn ông không cười” của triều đình, từ khi bàn tay này nhúng vào máu bạn bè, bên những bàn tiệc đầy sơn hào hải vị. Đấng quân vương sai ta giết hết những kẻ bất tuân thượng mệnh bằng các chiếc đũa. Trong mọi chiếc đũa nạm vàng nơi bàn tiệc đều có một lưỡi dao tinh tế giấu ở trong…
                              Anh nức nở, đôi vai rung lên dữ dội:
                              - Ôi! Bạn ta! Người bạn đã cùng ta tựa vào lưng nhau tìm hơi ấm chống đỡ cơn gió lạnh chiến hào. Thôi, thế là hết và đây là đêm tân hôn vĩnh biệt, phần thưởng cuối cùng cho người lính quá nửa đời phụng sự đấng quân vương.
                              Tiếng nức nở dữ dội của người chồng mới cưới rung chuyển cả căn phòng. Rồi xách kiếm trên tay, anh bỏ đi biệt xứ. Có người nói rằng anh đã đến tìm vua, định bắt vua phải đền tội đã biến anh thành người đàn ông không biết cười. Nhưng vua đã kịp giết chết anh trước, bằng chính một trong những chiếc đũa nạm vàng nơi bàn tiệc. Cũng có người bảo rằng anh lại lao vào những cuộc chém giết mới không ghê tay cho quên ngày tháng.
                              Chỉ còn lại nơi quê nhà người trinh nữ lỡ thì. Nàng sống âm thầm như cái bóng, mà không một lần nghĩ đến chuyện tự giải thoát bằng cái chết. Nhưng cái tật hễ có tiếng chân hay tiếng động mạnh là đưa tay lên ôm mặt thì nàng không sao bỏ được.
                              Một hôm, người xã trưởng được mời đến để làm giấy chứng tử cho nàng. Nàng chết mà hai tay che mặt, người khâm liệm nắn thế nào cũng không bỏ ra.
                              Vài ngày sau, trên mộ nàng rùm roà mọc một loài cây thấp lòa xòa mang hình tròn tim tím buồn man mác. Mỗi khi có chân bước qua hay va chạm mạnh, những chiếc lá lăn tăn lại giật mình khép lại, xuôi xuống như bàn tay ai che mặt.
                              Những loài hoa cỏ mọc đầy chung quanh lấy làm lạ lùng lắm về chuyện đó. Một hôm, chúng chặn chàng Gió lại:
                              - Này, anh Gió! Ở đây, không có ai già như anh và trẻ như anh. Vậy anh hãy nói cho chúng tôi biết vì sao loài cây mới đến kia, tầm thường đến vậy, lòa xòa bên vệ cỏ, khách bộ hành dễ dàng giẫm lên, có gì đặc biệt đâu mà phải gìn giữ, hơi một tí lại lấy tay che mặt, điệu đà làm vậy?
                              Từng trải như chàng Gió mà cũng không trả lời được. Thế là một đêm thanh tĩnh, dịu dàng, muôn hoa cỏ đang mơ màng trong giấc ngủ êm đềm, chàng Gió lướt tới bên loài cây tầm thường ấy, khẽ hỏi:
                              - Này cô em bé bỏng! Sao em hay che mặt thế? Ở đây có ai chọc ghẹo em sao? Em hay e thẹn lắm à? Nếu không, tại sao người ta lại gọi em là cây trinh nữ?
                              Đắn đo một chút, rồi loài cây ấy nhẹ nhàng đáp:
                              - Không phải thế đâu, mặc dù chết đi, em vẫn là trinh nữ. Em che mặt vì sợ. Ngày nay người ta càng tranh giành nhau dữ hơn, những bàn tiệc ngập máu vẫn còn nhiều. Vậy nên, mỗi va chạm, mỗi bước chân tạt qua đều làm em giật thót mình. Em sợ người ta sẽ gửi đến cho em đôi bàn tay đầy máu và khuôn mặt người yêu xưa chẳng biết cười.
                              Cây trinh nữ chợt co mình lại vì vừa nghe tiếng chân qua. Đó là bước chân sóng đôi của một đôi trai gái đang đi trong sương mù. Trước khi cẩn thận khép những mắt lá lại, cây trinh nữ cầu khẩn: “Ôi! Lạy Phật! Cầu cho đây không phải là bước chân của những người phải tiễn nhau về nơi ấy…”.
                              #45
                                Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 3 của 4 trang, bài viết từ 31 đến 45 trên tổng số 51 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9