Tân Dã đồn
Vở tuồng Tân Dã đồn còn gọi là Từ Thứ quy Tào hoặc Từ Thứ phân binh dựa theo truyện Tam Quốc Chí. Khi soạn vở này Đào Tấn mới 19 tuổi, đây là vở đầu tay của ông. Tuy Tân Dã đồn chưa được đánh giá cao như các cở Trầm Hương các, Hộ sanh đàn, Diễn võ đình…của ông nhưng nó lại có ý nghĩa lớn trong quá trình sáng tác, cũng như trong quá trình phát triển tư tưởng của Đào Tấn về quan niêm trung, hiếu. Văn bản kịch bản này trích từ cuốn Tuồng Đào Tấn do nhà xuất bản Sân khấu-Sở Văn hóa Nghĩa Bình xuất bản năm 1987, Vũ Ngọc Liễn, Phan Hiền phiên âm chú thích khảo dị, Mạc Như Tông, Tống Phước Phổ hiệu đính.
Tóm tắt nội dung Tào Nhân vâng lệnh Tào Tháo ra trấn thủ Phàn Thành và mang quân đi đánh Lưu Bị ở Tân Dã Thành. Nhờ mưu kế của Từ Thứ quân lưu Bị đại thắng. Tào Nhân thoát chết về Hứa Xương chịu tội với Tào Tháo. Mưu sĩ của Tào Tháo là Trình Dục bày kế bắt mẹ Từ Thứ để buộc Từ Thứ quy hàng. Từ Thứ nhận được một bức thư của mẹ, nội dung rằng bà đã bị Tào Tháo bắt về Hứa Xương, khuyên Từ Thứ về quy Tào để cứu mẹ. Vì nặng tình hiếu tử, Từ Thứ chia tay với Lưu Bị. Từ Thứ không hay biết đó chỉ là bức thư giả mạo. Trước khi quy Tào, Từ Thứ tiến cử với Lưu Bị mưu sĩ Gia Cát Lượng.
Nhân vật Tào Tháo
Tào Nhân
Trình Dục (Mưu sĩ của Tào Tháo)
Hổ Bôn (Quân và tâm phúc quân của Tào Tháo)
Bả Trạo (Quân của Tào Nhân)
Lưu Bị
Quan Công
Trương Phi
Từ Thứ (Đơn Phước)
Triệu Tử Vân
Ông chài
Mụ chài
Quân của anh em Lưu Bị
Tào Nhân: Non bình gáy phụng
Vườn mậu chơi lân1
Tứ bề tâm ngặt lặng bâng
Tám cõi cánh hồng im rập
Quyền phong đô đốc
Mỗ hiệu Tào Nhân
Cùng Thừa tướng chí thân
Thay công khanh đều nhượng
Như tôi Từ vâng lời thừa tướng
Ra trấn thủ Phàn Thành
Trước đề phòng Lưu Bị hùng binh
Sau thám thính Kinh Châu hư thực
Bởi Tường, Phán một phen kém sức
Nên Phi, Vân hai gã tung hoành
Làm cho Bắc Ngụy hổ danh
Vì bởi Kinh Châu đắc thế…
Phen ni Quyết đạp bằng Tân Dã
Thề nã tróc Lưu gia
Chư tướng
Truyền tam quân tề chỉnh can qua
Y nhất lệnh độ hà khiêu chiến 2
(Lại ra bước xuống thuyền) Bả Trạo khai thuyền Bả Trạo: Bài nhịp một Thừa dạ độ Nam Giang
Trừng ngưng đầu khí hàn
Giang vân diêu bố hộ
Kỳ ảnh diệu ba giang 3
Kỳ ảnh diệu ba giang
Tào Nhân: Đồ giang sơn một bức
Đêm phong nguyệt nửa trời
Chí thệ thanh dòng nước chơi vơi 4
Trường oanh liệt cánh buồm phơi phới
Nam
Phới phới duyền quyên lướt dặm 5
Nước thanh bình gió lặng sao thưa
Bả Trạo:
Bài Vân đạm thủy thanh thanh
Phàm lực trục phong khinh
Hà biên diêu nhất vọng
Khí thối lãng ba bình
Khí thối lãng ba bình 6
Tào Nhân: Nam
Một màu thủy bích, sơn thanh
Ngàm sâm gió lướt, hơi kình sóng xao 7
Bả Trạo: Bài
Huy trạo nhập thương ba
Đào thanh tráng viễn hà
Hoành giang đồng khoái ẩm
Dự tấu khải hoàn ca
Dự tấu khải hoàn ca 8
Tào Nhân: Nam Khải hoàn ca tiêu ma phân tiết 9
Tân Dã đồn bóng nguyệt xa xa
Bả Trạo: Dạ Tân Dã đáo lai
Tào Nhân: Mần rứa à?
Bạt thuyền vụ giang ngạn 10
(Đồng hạ) Lưu Bị: Trằn trọc thương thay Hiệp Hán
Xốn xang lo nỗi người Tào
Thời từ nay Bị chiếm Tân Dã thành, tự thử chí tư 11
Bị cũng mừng cho
Đơn quân sư gồm đủ lược thao
Quan, Trương, Triệu thảy đều trí dũng
Mã thượng dã nhiều phen hống tống 12
Vức trung chưa một thuở thanh bình 13
Đóai giang sơn tình thổn thức tình
Gẫm thời thế dạ ngao ngán dạ
Quân: Cúi tâu qua trướng hạ
Tào giặc quá giang tân
Hiệu cờ đề đại tướng Tào Nhân
Cử thập vạn hùng binh khiêu chiến.
Lưu Bị: Một trận đã tan bày kiến
Hai phen (còn) dám đến hang hùm
Xuống lời hỏi quân trung
Hà nhân lai trận thượng 14
Trương Phi: Úy a! Phủ chưởng, phủ chưởng
Hoan tình, hoan tình 15
Xinh a, ha ha
Trương tam đệ nguyện dương thần võ
Phen ni Đáo trận tiền diễn diệt Tào binh 16
Quan Công: Tam đệ hưu dương phấn lực
Thử hành khả nhượng cho nhị huynh đã ma
Dạ dạ Nguyện đề nhất lữu chi bình
Trực thủ Tào Nhân chi quách cho 17
Từ thứ: Quan, Trương nhị tướng quân!
Vật khả khinh địch, khinh địch
Thính ngã phân binh, phân binh cho mà nghe 18
Khách Triệu Tướng Quân nghe dặn à
Ngũ bách tinh binh, tiên phong ấn Triệu Vân xuất trận 19
Triệu Tử Vân: Thưa vâng
Khách Ngất chi tiền đạo, ngũ bách quân nghe ta dặn
Tân dã đồn tiểu tướng giao binh 20
Từ Thứ: Nấy cho
Triệu Tử Vân:
Phụng mạng!
Từ Thứ: Quan tướng quân nghe dặn…
Khách
Quan tướng đề binh, hậu lộ hướng Phàn Thành tập thủ 21
Quang Công: Phụng mạng!
Từ Thứ: Tương tướng quân nghe dặn:
Khách
Trương Phi chỉnh lữ, phục binh lai giang thượng giao phong 22
Trương Phi: Phụng Mạng!
(Hạ) Từ Thứ: Bẩm Chúa công!
Thần dữ Chúa công
Thổ sơn khán trận 23
(Đồng hạ) Quân của Quan Công: Bài gia ban
Chỉnh hùng binh, chỉnh hùng binh
Giương hổ lữ, giương hổ lữ
Tùng hậu lộ phân binh
Hướng Phàn Thành tập thủ 24
Quan Công:
Khách
Viên môn xuất mã biệt Tân Thành
Thống lãnh tỳ hưu, đoạt đạo hành
Tập thủ Hàn thành quy Hán thất
Bát giao (giáo) tắc bối tự tung hoành 25
Trương Phi: Trương Phi tính hỏa liệt
Quân sư hảo mật sai
Xin a hả hả…chư tướng ngghe dặn à
Tùng kỉnh lộ sát lai
Đáo hà biên mai phục mau mau đi
Khách Khâm thừa tướng lệnh thiết kỳ binh
Trực đáo hà biên chiếm tặc hình
Chư tướng nghe dặn
Cứ hiềm tàng quân, văn pháo hướng, tứ phương tịnh khởi
Hoành mâu đãi địch, triệt tiền đồ, lưỡng lộ giao chinh. 26
(Hạ) Quân Triệu Tử:
Gia ban
Thừa tướng lệnh, thừa tướng lệnh
Thiết kỳ binh, thiết kỳ binh
Tào Nhân lai xâm cảnh
Vương sư xuất hữu danh 27
Triệu Tử Vân: Khách
Đề thương xuất trận khí lãng không
Đáo thử nam nhi thỉ vị hùng
Khiếu nề gian đồ tu khí giáp
Thường sơn Triệu tướng tự thân cân 28
(Hạ) Tào Nhân: Hiệu cờ để tỏ rõ
Thường Sơn Triệu Tử Vân
Triệu Tử Vân, người về thưa cùng Lưu Bị cho rõ
Rằng Đại tướng Tào Nhân
Nhắn Lưu Hoàng xuất trận
Triệu Tử Vân: Trận trước phút đà vỡ mật
Phen này khen cũng cả gan
Tay mỗ động thương vàng
đầu ngươi treo mũi bạc
(Khấu, Tào Nhân trá bại, Triệu Tử truy, Tào Nhân lại ra) Dữ ngã trận môn giao chiến
Khán tha phương pháp tối tinh
Chừ thôi thời
Tứ hướng phục kỳ binh
Bát môn khai đại trận 29
(Tào Nhân lập trận “bát môn Kim Tỏa” rồi vào cửa snh dụ Triệu Tử Vân vào trận đồ, Triệu Tử lâm trận,. Từ Thứ đang đứng trên thổ sơn gọi Triệu Tử) Từ Thứ: Ớ, Triệu Vân tướng quân, nghe đây này
Trận danh “Kim Tỏa”
Môn hữu sanh khái
Tùng Tây Nam giác lộ sát lai
Trung vô chủ, khán tha loạn xuất 30
(Triệu Tử Vân theo lời dạy, phá trận đánh bại Tào Nhân, Triệu Tử truy theo Lưu Bị không cho) Lưu Bị: Tào tặc đã kinh tâm bại Bắc
Quân mã đều tán thủ vọng Đông
Hạ lệnh giữ quân trung
Thâu can qua hồi trại 31
(Đồng hạ) Ông chài: Lánh ngọn chèo đủng đỉnh sông Tương
Gieo tay lưới nghêu ngao dòng bích (mụ hà)
Nam
Dòng bích mụ chèo tôi thả
Nước vừa chừng tăm cá le the
Mụ chài: Ớ ông chài ơi, tôi có nghe thiên hạ người ta nói rằng:
“Tử phi ngư, yên tri ngư chi lạc” 32
Nam
Cái mừng đặt nước xo xe
Vì chẳng khác như hai vợ chồng ta đó ông à
Trăng lau mến thú, ngơ bề lợi danh
Ông chài: Yêu cảnh vẻ vời văn đại khối 33
Giang hồ lai láng đất ngư ông
Nước lên ròng mặc thế phập phồng
Thuyền trôi nổi dầu ta thong thả
Nam
Thong thả cười may cợt nước
Một chữ nhàn nửa phước nửa duyên
Tào Nhân: (Chạy đến bờ sông thấy ông chài gọi) Đại khiếu ngư thuyền, ngư thuyền
Tốc lai cứu ngã, cứu ngã với nào 34
Ông chài: Việc chi nên vôi vã?
Mụ ơi, vậy thời…
Qua rước đó làm ơn
Âu là Day thuyền tại thủy tân
Đưa người qua giang khẩu 35
(Thuyền ra giữa sông, nghe có tiếng quân reo. Trương Phi đuổi theo) Ớ mụ, ớ mụ
Phản trạo, phản trạo 36
Tào Nhân: Đình thuyền, đình thuyền đã nào
Tẩu Tương tế cấp thời chân hảo ý 37
Ông chài: Không biết, không biết
Tẩu Bất can kỷ sự mạt đương đầu 38
(Trương Phi đến gặp Tào Nhân) Trương Phi; Dục Đức tại thử tại thử
Tào tặc nan đào, nan đào
(Khấu, Tào Nhân nhảy xuống sông) Nó nhảy xuống sông rồi, à có chiếc thuyền đây, âu là
Cấp hạ khinh thuyền
Truy tha cuồng khấu 39
(Chèo thuyền rượt theo Tào Nhân) Ông bà chài: Tẩu
Tiền lộ hữu duyên, nhữ phi nhữ, Nam khả, Bắc khả
Chết đi trời hỡi trời
Ngư ông hà dự, tri bất tri, Hán gia, Sở gia 40
(Hạ) Tào Nhân:(Bơi) Tẩu Dượt lảng lăng ba, vô nại, vô nại 41
Trương Phi: Tẩu
Đố mày, đố mày
Cùng sơn kiệt thủy, bất dung, bất dung. 42
(Tào Nhân đoạt thuyền, hất vợ chồng ông chài xuống nước) Tào Nhân: Dĩ đoạt đắc ngư châu
Bạt thuyền vu giang ngạn 43
(Chạy về thành gọi quân mở cửa) Bớ môn quân!
Đô đốc dĩ hồi quy
Khai thàn môn tiếp ngã 44
(Không nghe quân trả lời, thấy cờ Quan Công đã chiếm thành) Chao ôi ! Thời thất lợi, thời thất lợi
Vận tao nguy, vận tao nguy
Phàn thành kim dĩ thất, dĩ thất
Âu là… Tòng sanh lộ đào quy, đào quy
(Hạ lại ra) Dĩ bất kiến binh truy rồi nọ
Vọng cố đô mã phản.
(Hạ) Tào Tháo: Quyền phong Thừa tướng
Mỗ hiệu Tào Công
Thanh thế chốn triều trung
Oai danh kinh viễn duệ
Từ ngày khiến Tào Nhân lệnh đệ 45
Ra Phàn Thành ngăn đảng hùng phong 46
Ngày, đêm luống những đợi trông
Hư, thực sao không tin tức
Tào Nhân: (Trói mình vào) Dạ, Giai tiến đốn thủ
Các hạ thằn thân 47
Trấn Phàn Thành từ lãnh đại quân
Đồn Tân Dã mong tranh thắng trạng 48
Bởi đơn phước quân sư diệu toán
Phá “bát môn Kim Tỏa’ trận đồ,
Một mình tôi trận thượng trì xu
Nó sai kẻ thành trung tập thủ 49
Khi rứa chừ, tôi đây
Tiến thối vô lộ
Tiền hậu giai binh 50
Nên chi Một mình kiếm chốn đào sinh
Ba tấc xin nhờ miễn tử.
Tào Tháo: Thắng bại thường sự
Công quá tương đương
Quân, giải tỏa
Tha lệnh đệ Tào Nhân
Hồi dinh trung giải đáp
(Tào Nhân hạ) 51
Bát môn nọ dùng đà phải pháp
Đơn phước nào nghe cũng lạ tên
Luận tướng tài bậc ấy dư nên
Mưu sĩ! Hỏi mưu sĩ ai từng biết gã.
Trình Dục: Dạ, dạ
Tên kia tuy lạ,
Gã ấy từng nghe
Thuở thanh xuân cung ngựa riêng nghề
Nhơn đại nạn bèo mây xa dấu
Cùng Thủy Kỉnh tiên sinh kết nghĩa 52
Ngụ Dĩnh Châu, Tự Thứ là danh
Giã Đơn Phước đào sinh
Cùng Lưu Huyền kết nghĩa
Tân Dã tuy vầy ngư thủy
Dĩnh Châu bận nỗi thần hôn
Chừ thôi thời
Dụ mẹ chàng tới chốn dinh môn
Nhắn nhà gã bảo về tướng phủ
Tên mẹ dầu nghe tỏ rõ
Lòng con chi khỏi chàn ràn
Dẫu gã chẳng thúc thủ lai hàng
Thời chàng cũng vô tâm trù hoạch cho Lưu Bị nữa
Thưa thưa
Thử vị thượng sách
Thỉnh lượng hạ tình
Tốc sai tâm phúc mật hành
Trực Đáo Dĩnh Châu Khiểm dụ 53
Tào Tháo: Hay a
Hảo tai Trình Dục
Kế xuất Tử Phòng 54 giỏi a
Tâm phúc quân, ông bảo
Ghé tai tua khá dặn lòng
Việc này thành công rồi ông thưởng cho
Hết sức khuyên đừng ngại dạ nghe.
Hổ Bôn Quân: Chẳng ra sức đá
Sao biết tuổi vàng
Vọng dinh môn bái biệt đại quan
Triển thần lực sanh cầm lão mụ 55
Tào Tháo: Nấy cho
(Đồng hạ) Trình Dục: Khen Từ thị nên trang hiền liệt
Gẫm lại mình cũng đấng trí mưu
Trước dụ về kế ấy đã sâu
Sau nghĩ lại mưu kia rất hợp
Thời từ lúc Từ thị mắng nhiếc Thừa tướng, khi rứa người dạy chém mụ đi. Rồi tôi thưa cùng người xin lưu giam mụ lại đã. Nói cho mụ phải biết ơn tôi. Bởi rứa cho nên nhật thường thư lễ vãng lai.
Từ thư tập tôi đà in thiếp 56
Ngụy thư hành kế ắt thành công 57
Kíp đà mật bẩm Tào công 58
Chừ ta phải
Sai kẻ đệ giao Từ Thứ
Tâm phúc quân tốc khứ
Tân Dã địa đáo lai 59
Rằng nhạn thư Từ mẫu mật sai
Tương ngư tín quân sư chiết khán 60
Nghe dặn
Ngôn từ cho cẩn thận
Cử động phá quan phòng
Lãnh tờ mây dầu đó tin lòng
An việc nước con may ấm cật
Tâm Phúc Quân: Vâng lời gang tấc
Giữa dạ sắt đinh
Tạ đại quan an tại bản dinh
(doanh) Cho thần hạ trông chừng Tân Dã
Trình Dục: Nấy cho (
Đồng hạ) Từ Thứ: Tân Dã từ ngày hội ngộ
Dĩnh Châu chạnh nỗi thần hôn
Bướm Trang Sinh lơ lửng mộng hồn
Chim Thục Đế não nùng oán mộ
Mẫu thân ôi!
Già lụm cụm tuyết sương mấy độ
Con lãng sao xung ngựa bốn phương
Biết sao cho mẫu tử nhất đường 61
Vậy mới gọi hiếu trung lưỡng lập 62
Quân: Dạ cúi thưa qua trướng hạ
Xin tỏ nỗi tình trung
Có Từ mẫu thư phong
Trình quân sư khai khán
Từ Thứ: Úy a
Hồ trướng mang còn bàn bạc
Ngư thơ bỗng tiếp phong vàng
Xinh a, lai nhơn
Ngươi khá vào tư viện nghỉ an
(Quân hạ) Thưa thưa
Cúi đầu lạy mẫu từ khương cát
(Mở thư mẹ xem đọ thư) “Tờ mây một bức
Nỗi nước trăm đường
Con trẻ từ dời gót ngọc
Mẹ già luống chịu đêm sương
Một trẻ đã xa chơi tiên cảnh
Từ Khương, con hỡi Từ Khương” 63
Ối mẹ mẹ ơi!
Rủi ro chi xiết nỗi em
Quạnh quẽ càng đau dạ mẹ, em, em ơi!
Đọc thư
“Nghe rằng, con giúo họ Lưu nên tài hữu dụng
Mỗ phút, xui cho ngươi Tháo đem dạ bất lương
E con trẻ lập công Tân Dã
Úy chao ôi!
Bắt mẹ già tù cấm Hứa Xương…”
Mẹ ơi!
Con xiết chi nỗi bi thương
Mẹ chịu trăm đường thê thảm mẹ, mẹ ơi!
(Lại đọc thư) “Duyên là cá nước
Tình vốn thịt xương
Thủ tín, này thư Từ mẫu
Hiên môn gửi lạy Thúc hoàng
Mau từ Chúa phăng phăng đường nhạn
Luống trông con vòi vọi đêm trường
Cát can trường, cát can trường
Lưu ngọc lụy, lưu ngọc lụy
Những tưởng con vầy ngư thủy
Nào hay mẹ chịu phong trần
Ngưỡng quý thiên, phủ tạc nhân
Đặc ư trung, thất ư hiếu...mẹ ơi
Ngâm Nhân tình ta điên đảo
Thế sự tối đa mang
Ái a… Trung hiếu lưỡng kiên, lưu khứ thủ trung đo bất dị
Cù lao cửu tự, vân sơn hồi thủ cánh như hà 64
Nhất thiên phương tròng mắt xa xa
Chúa công ơi!
Thiên tải hội, tấc lòng quặn quặn 65
Như tôi chừ!
Đắc thất dễ thanh thời vận
Khứ lưu thêm tủi sự tình
Chi nữa Tới trướng tiền ngõ đặng bẩm minh
Từ các hạ toan bề quy khứ
(Hạ, lại ra) Từ Thứ: (Quỳ) Dạ!
Lưu Bị Vậy chớ…, cớ chi mà
Thương tâm đề sự?
Lụy nhãn giao thùy
Bị tâm thậm hồ nghi
Quân sư tự giải thuyết 66 cho Bị nghe thử nào?
Từ Thứ:
Dạ!
Bỡ ngỡ không lời phân thuyết
Ngập ngừng bày nỗi trước sau
Vì mẫu Từ mắc phải mưu sâu
Có thơ tín xin nhờ lượng cả
(Trương Phi tiếp thư đưa Lưu Bị xem) Thơ trung khán quá
Tâm nội sinh nghi
Có đâu việc trá khi
Sinh ra điều thắc mắc
Mần rứa quân sư? Thơ chăng là thơ của Từ thị gửi cho Từ Thứ, can chi quân sư phòng rơi lụy? Vả Từ Thứ cùng Bị chăng là…Chưa biết mặt
Mà trong thơ lại có…ờ…ờ
Lòng hỡi nghi lòng
Chưa tỏ nỗi tình chung
Dám xin bày ý hạ…cho Bị nghe thử nào?
Từ Thứ: Dạ!
Thủy chung xin tỏ dạ
Sau trước dám bày lời
Ngũ Dĩnh Châu, Từ Thứ là tôi
Giả Đơn Phước, Tân Thành gặp Chúa
Lưu Bị: Nói vậy Từ Thứ cũng là quân sư, Đơn Phước cũng là quân sư, cam khổ chưa, quân sư không nói trước cho Bị hay, chừ quân sư hà liệu?
Từ Thứ: Dám bẩm Chúa công:
Con khoan khoái lo phần thủy thổ 67
Mẹ hắt hiu mến thú gia hương
Ai ngờ Kế Tào man bắt tới Hứa Xương
Nên chi Thư lão mẫu gởi sang Tân Dã
Tình mẫu tử tấc lòng giục giã
Nghĩa khứ lưu hai chữ chàn ràn
Dễ muốn chi chim trời cá nước cách hai phương
Cực vì nỗi chỉ thắt tơ vò trong chín đoạn.
Chúa công ơi!
Lưu Bị: Huống giã Vĩnh thán
Hồ vi ký nhiên 68
Rồng mây Bị khéo vô duyên
Cả nước người thêm tủi phận
Nhị đệ, tam đệ
Tình mẫu tử người đà cẩn khẩn
Nghĩa khứ lưu ta phải cầu quyền
Chư khanh!
Truyền chư khanh thiết hạ yến diên
Minh nhật tống quân sư thượng lộ 69
Trương Phi: Thưa, khoan đã. Thưa đại ca, hãy cầm quân sư ở lại
đặng cho Phi thưa cùng quân sư một đôi điều, họa
may có mưu kế chi cứu lão bà. Nếu để quân sư về,
Phi thương, Pho nhớ quân sư lắm, ca ca ơi!
Phi tuy rằng chất lỗ
Song cũng biết hiếu trung
Như thằng Tào man nó bắt lão bà là…
Tào man chi kế xuất ư cùng 70
Còn như thư của lão bà gởi cho quân sư là
Mẫu thị chi thư nghi thị bức 71
Phi xin tới nhung thành đối địch
Bảo chúng đem lão mẫu tống hoan
Nấu quân sư lưu khứ thông mang
E sợ nữa sự cơ thố ngộ 72 chớ chẳng không
Quan Công: Thủ thư túc cứ
Con như quân sư chừ
Tâm sư khả liên 73
Ta muốn cho tôi chúa đoàn viên
Người chi khỏi mẹ con ly biệt
Mà Tam đệ cầm quân sư ở lại, thôi để cho quân sư ngài lên đường.
Từ Thứ: Tiêu hồn hữu biệt
Bất ngộ giả thiên 74
Chúa công ơi!
Rượu tương tư nửa chén nghiêng triền
Lời tâm ước vài câu dan díu
Nam Dan díu cạn lời chung thủy
Tạ Chúa công, khanh, sĩ dời chân
(Hạ) Lưu Bị: Chư tướng!
Các các tùy tùng
Trường đình tiễn biệt 75
(Hạ lại ra) Lưu, Quang, Trương: Đồng tâm huynh đệ
Tiễn biệt quân sư
Quân sư ơi! Thiên nhai hải giác ký tương tư
Bích thủy xuân hoa ngâm biệt cú 76
(Ngâm) Nhất chước ly bôi tống tử hành
Cô sầu ám ám lụy thùy linh
Từ Thứ: Ngâm: Chúa công ôi!
Kim bôi ngọc dịch hà kham thưởng
Lưu, Quan, Trương: Ngâm: Quân sư ôi!
Bắc nhạn, Nam hồng tối khả liên 77
Từ Thứ: Non chập chùng nghĩa chúa
Nước lai láng lòng tôi
Phút gặp gỡ, phút chia phôi
Hay nhân tình, hay thế sự
Nam Thế sự nhân tình khéo khéo
Với hỏi người toàn hiếu, toàn trung?
Lưu, Quan, Trương: Lộ viễn vân thiên lý
Hồn tiên tửu nhất chi
Mẫu tử chi tình, quân ý nhiệt
Giang sơn cựu ước ngã tâm vi 78
Nam Ngậm ngùi kẻ ở người đi
Tình ly tơ vướng, chén ly lụy dầm.
Từ Thứ: Nam Bớt cơn sầu cúi đầu từu tạ
Hòa họ… Giục vó lừa quày quả dời chân
(Hạ) Lưu Bị: Nguyên Trực!
Nguyên Trực khá hỉ
Ngô tương nại hà? 79
Trương Phi: Ớ chư tướng, chư tướng!
Cấp thượng sơn a
Diêu diêu tống bộ 80
(Đồng thượng thổ sơn…nhìn theo Từ Thứ) Từ Thứ: iền lộ khứ ngô khứ
Bàn nhân tri bất nhân
Diêu vọng Hứa Đô tâm áo não
Hồi đầu Tân Dã lụy lâm ly 81
Nam Lụy lâm ly nửa đi, nửa ở
Nặng chút tình vì nợ quân thân
Mãng bận tình lưu khứ
Đà quên sự thủy chung
Đồ trung tưởng khi Ngọa long
Gia Cát nên tài phụ phụng 82
Ngưới có lòng thiện dụng
Ta há dễ vô tình
Ờ phải phải…
Gấp trở lại trường đình
Ngõ bày lời trung khúc .
( Hạ) Trương Phi: Bóng ngựa vừa qua thốc thốc
Dáng người trở lại xăm xăm
Thưa đại ca!
Phi nghĩ lại đã nhằm
Quân sư đi đà chẳng dứt đó đại ca
Lưu Bị: Tam đệ!
Việc chưa tường hư thực
Xem thấy bỗng sinh nghi
Chư tướng!
Áng mã nghinh chi
Vãn lai đề sự 83
(Đồng hạ, lại ra) Trương Phi: Nhấp nhpán vừa trông bóng ngựa
Vội vàng dáng trở đường de
Nhộn nhàng chi xiết mừng ghê
Thưa thưa…
Sau trước trình bày hư thiệt?
Lưu Bị: Mần răng mà quân sư trở lại?
Từ Thứ: Ngã tâm chính nhiệt
Hảo sự cơ vong
Đồ trung tưởng khi Ngọa Long
Đình Bắc hân nhiên phản mã 84
Trương Phi: Hốt văn thuyết quá
Bất giác hoan sinh 85
Xinh a, tưởng là quân sư không biết ông Khổng Minh Gia
Cát, chớ quân sư đã biết thời quân sư gửi thư cho thằng Tào
Tháo, khiến nó rước ông Khổng Minh về làm quân sư cho nó. Còn quân sư ở lại bên này cùng ca ca ta, mần rứa là…
Thị lưỡng đắc kỳ tình
Chớ quân sư mà về, tôi e lắm
Khủng nhất phiên ngộ sự 86 chớ chẳng không.
Lưu Bị: Ai kia chứ như ông Khổng Minh Gia Cát
Tằng văn thử xứ
Nan kiến kỳ nhân lắm ma
Hà do viễn trí ân cần
Cảm khất phân tường áo uẩn 87 cho Bị nghe thử nào?
Từ Thứ: Dạ dám bẩm Chúa công! Như Ngọa long tiên sinh này là
Cửu hỉ tâm trung hữu Hán
Đoạn nhiên mục hạ vô Tào
Hung tàng tam lực lục thao
Danh mãn cửu châu tứ hải đó mà 88
Xin Chúa công hết lòng thiện đãi
Thời Khổng Minh đành dạ hồi quy
Thưa thưa
Cậu đắc sĩ thường ghi
Xe nghinh hiền mựa trễ
Lưu Bị: Còn phần quân sư chừ tính sao?
Từ Thứ: Như tôi chừ:
Nông nả vì thương nỗi mẹ
Lỡ làng cam lỗi đạo tôi
Giữa lộ đồ lời đã cạn lời 89
Từ các hạ bước xin dời bước
(Hạ) Lưu Bị: Phiến ngôn tài lãnh lược
Để ý thậm ân cần
Quân sư à!
Nam Biết sao trong đạo quân thần
Thủy ngư tái hội, phong vân nhất đường
Quân sư đà trực chỉ Hứa Xương
Huynh đệ cấp phản hồi Tân dã
Cùng Nam
Tân Dã một đoàn quày quả
Quân sư ôi!
Lụy hai háng lã chã châu rơi
Chư tướng!
Vọng chinh trần bái biệt hiền nhân
Trạch cát nhật lễ nghinh xao sĩ
Cùng khách
Vạn kim bửu kiến tàng thu thủy
Mãn mã xuân sầu chức bố yêng
Thế phụng tường lân nhân võ tế
Bích vân hương thảo mộng hồn biên 90
HẾT
______________________________
1. Non bình: Tức núi Ngự Bình (Bình Sơn) ở Huế. Vườn mậu: Gốc từ chữ “Mậu lâm” (rừng xanh tốt) khu rừng dành riêng cho vua chúa ăn chơi. Hai câu này chỉ cảnh tượng thái bình.
2. Theo một lệnh qua sông gây chiến tranh.
3. Bả Trạo: Quân cầm cheo (thủy thủ)
(Bài gia ban): ban đêm qua sông phía Nam. Hơi nước sông bốc lạnh, mây bủa trên sông dày đặc. Bóng cờ xao theo lượn sóng.
4. Thệ thanh: thề quét sạch.
5. Duyềnh quyên: Duyền: đầm, vịnh. Quyên: dòng nước trong.
6. (Bài gia ban): Mây thưa thớt, nước xanh xanh. Cánh buồm xuôi theo gió. Xa trôngmé sông. Khí lạnh lui, sóng cũng êm dần
7. Ngàn sâm: Chóp lông cắm ở đầu ngọn cờ thêu hình sao Sâm
8. (Bàn gia ban): Ủa mái chèo lao vào lượn sóng. Tiếng sóng rền sông xa, giăng ngang thuyền trên sông cùng chè chén. Chuẩn bị hát khúc khải hoàn.
9. Tiêu ma phân tiết: Tiêu sạch mọi thứ dơ bẩn.
10. Đã đến đồn Tân Dã, đậu thuyền tại bờ sông.
11. Tự thử chí tư: Từ ấy đến nay.
12.Hống tống: Chiến thắng vang dội.
13. Vức trung: Trong nước.
14. Ai ra trận.
15. Vỗ tay, vỗ tay, vui sướng.
16. Diễn diệt Tào binh: Tiêu diệt quân Tào trong chớp nhoáng.
17. Chú ba khỏi nhọc sức, trận này nhường lại cho anh hai, chỉ cần một cánh quân ra trận là lấy ngay đầu tên Tào Nhân.
18. Chớ xem thường (kẻ thù) nghe ta chia binh đây.
19. Triệu Tử Vân lãnh ấn tiên phong ra trận với năm trăm quân tinh nhuệ.
20. Là cánh quân tiền đạo, tiểu tướng đánh trận Tân Dã đồn.
21. Cánh quân của Quan Công đánh bọc ngõ sau tập kích chiếm giữu Phàn Thành (căn cứ quân của Tào Nhân).
22. Cách quân của Trương Phi thì đậu đó sẵn sàng mai phục đánh địch trên sông.
23. Còn tôi và chúa công (Lưu Bị) lên núi đất xem xét mặt trận.
24. (Bài gia ban) Rập binh hùng, tung quân hổ, lên đánh bọc phía sau, tập kích chiếm Phàn Thành.
25. Cửa tướng ra trận, tạm biệt thành Tân Dã, chỉ huy cánh quân mạnh, hành quân nhanh chóng. Tập kích chiếm Phàn Thành đem về cho nhà Hán. Không để cho giặc Tào tự ý ngang dọc.
26. Tính Trương Phi nóng nảy, quân sư giao nhiệm vụ bí mật. Theo đường tắt nhanh đến mé sông mai phục. (Khách): Vâng lệnh nhà tướng chỉ huy cánh quân. Thẳng đến mé sông chiếm giữu địa hình đánh giặc. Giấu quân nơi hiểm yếu nghe pháo hiệu bốn mặt xông ra. Day ngang mũi giáo đợi giặc đến, cắt đường phía trước, hai mặt xáp lá cà.
27. (Bài gia ban): Vâng lệnh tướng, chỉ huy quân, đánh bọn Tào Nhân đến xâm lấn bờ cõi, quân ta ra trận với danh nghĩa ấy.
28. (Khách): Cầm thương ra trận, khí thế bừng bừng, làm trai có được như vậy mới gọi là bậc anh hùng. Bảo lũ gian tham tự bỏ vũ khí , có tướng họ Triều ở Thường Sơn đích thân xuất trận.
29. Cùng ta đánh nhau ở mặt trận, thấy ngón thương của hắn rất giỏi, phải phục binh bốn phía mở thế trận tám cửa.
30. Tên trận này là Kim Tỏa, có chừng cửa rút lui, phải đánh từ góc phía Tây nam tới, chính giữa không người, xem chúng nó tháo chạy tán loạn.
31. Tên giặc Tào Nhân đã mất hồn chạy về phía Bắc (Bắc Ngụy, phần đất của Tào Tháo) còn bọn tàn quân thì hoảng hốt chạy loạn xạ về phía Đông. Hạ lệnh cho các cánh quân thu hết về doanh trại.
32. “Tử phi ngư, yên tri ngư chi lạc”: ngài không phải là cá làm sao biết được niềm vui của cá. Theo cụ Tống Phước Phổ thì hình như trong một vỡ diễn cũ đoạn này có chi tiết như sau:
Mụ chài: Ớ ông chài ơi! Ông coi coi “ngự lạc” (nghĩa là: cá đang vui)
Ông chài: Đã lạ chưa “Nhữ pji ngư yên tri ngư chi lạc?” (nghĩa là: bà không là cá, sao lại biết được cá vui?)
Mụ chài: Ông nói mới là lạ chớ “tử phi ngã yên tri bất ngã tri ngư chi lạc” (nghĩa là: ông không phải là tôi, sao biết tôi không biết được niềm vui của cá) kế hát Nam. Như vậy tác giả sử dụng trọn vẹn mẫu câu triết lý của Trang Tử vào đây.
33. Yên cảnh: cảnh mây khói.
Văn đại chương: văn chương của trời đất gốc từ câu văn của Lý Bạch “Mùa xuân mở ta xem cảnh mây khói, trời đất cho ta mượn văn chương”.
34. Cả kêu thuyền đánh cá mau mau đến cứu ta.
35. Thủy tân: mé sông. Giang khẩu: cửa sông.
36. Thản trạo: chèo quay thuyền lại.
37. Tương tế cấp thời chân hảo ý: cứu nguy lúc gấp rút mới thật là tốt bụng.
38. Không dính líu gì đến việc ấy nên khong đưa đầu ra hứng chịu.
39. Có Dục Đức (tức Trương Phi) ở đây, giặc Tào khó trốn thoát, mau xuống chiéc thuyền con đuổi theo tên giặc dữ.
40. Tẩu: may thay chặng đường trước của đời ta, thắng hay bại mặc các ông muốn Nam, muốn bắc gì cũng được.
Ông chài nào có quân hệ gì đến việc này, chả cần biết nhà Hán có nhân, hay nước Sở độc ác.
41. Hụp sóng lặn nước ta cũng chẳng quản.
42. Non cùng nước cạn ta cũng chẳng tha.
43. Đã cướp đượ thuyền câu, cập thuyền vào bờ sông.
44. Ớ quân giữu cửa thành, đô đốc đã trở về, mở cửa thành ra đón ta.
45. Viễn duệ: vùng ở xa; lệnh đe: em ta.
46. Hùng phong: ong dữ
47. Cúi đầu trước bệ, trói mình dưới ngai.
48. Thắng trạng: phần thắng.
49. Trì xu: xông pha, lui tới. Tập thủ: tập kích chiếm giữu.
50. không đường lui tới, quân đầy trước sau.
51. Cho về dinh cởi giáp.
52. Thủy Kỉnh: tức Tư Mã huy, danh sĩ cùng thời với Gia Cát lượng và Từ Thứ.
53. Đây là mưu hay, xin xét đến kẻ dưới, mau sai người tin cậy bí mật đi đến Dĩnh Châu để phỉnh lừa dụ dỗ. Khiểm dụ: phỉnh dụ.
54. Giỏi thay trình dục, kế như tử Phòng.
55. Sanh cầm lão mụ: bắt sông bà già.
56. Từ thư tập: tập viết theo chữ trong trong thư của bà Từ (mẹ Từ Thứ gửi đến cho trình Dục). In thiếp: giống như kiểu đồ “thiếp´(kiểu chữ mẫu).
57. Ngụy thư hành: làm thư giả.
58: Kíp: đã từng.
59: Quân tin cậy mau đến đất Tân Dã.
60. Ngư tín: tín cá. Chiết khán: mở xem.
61. Mẫu tử nhất đường: mẹ con ở một nhà.
62. Hiếu trung lưỡng lập: hiếu và trung hai mặt đều được vẹn toàn.
63. Từ khương: em ruột của Từ Thứ.
64. Than ôi, tình người đảo lộn, chuyện đời lắm rắc rối, hai vai gánh trung và gánh hiếu, trong việc đi ở đều không dễ, chín chữ khó nhọc (công lao mẹ sinh) như mây núi, ngẩng đầu nhìn không biết tính sao đây?
65. Nhất thiên phương: một góc trời xa. Thiên tái hội: cuộc gặp gỡ ngàn năm.
66. việc gì mà đau lòng, nước mắt liên tiếp rơi, lòng Bị còn nghi ngờ, quân sư tự nói cặn kẽ.
67. Thủy thổ: đất nước.
68. Tình cảnh này mãi than, biết làm sao bây giờ.
69. Ngày mai tiễn quân sư lên đường.
70. Kế của tên mọi Tào đã cùng đường.
71. Bức thư của mẹ ngài e đã bị bức phải viết.
72. Thố ngộ: sai lầm, tai ương
73. Bức thư tay này đủ chứng cơ, tâm sự đáng thương
74. Nỗi biệt ly nào cũng đều đau xót, việc không thể cùng nhau được là do trời khiến.
75. Mọi người đều đi theo đến trường đình để tiễn đưa.
76. Góc biển chân trời ghi sâu nỗi nhung nhớ.
nước biếc hoa xuân cùng ngâm bài thơ tiễn biệt.
77. Rót chen rượu chia ly tặng người lên đường, nỗi sầu cô đơn nặng nềm, nước mắt rơi lã chã. Chén vàng rượu ngọc làm sao uống được nữa. Cánh nhạn phía Bắc, chim Hồng phía Nam thật thảm thương.
78. Ngàn dặm tấm mây xa, một chén rượu đau lòng, ngài đang nóng lòng về tình mẹ con. Lời thề núi sông của chúng ta đã có sự đổi đời.
79. Nguyên Trực (biệt hiệu của Từ Thừu) đã đi rồi ta biết làm sao bây giờ.
80. Lên gấp trên gò, dõi theo đưa đường.
81. Đường trước ra ra đi. Mọi người biết cho chăng. Nhìn tới kinh đô Hứa Xương lòng não ruột. Ngoảnh đầu lại trông về Tân Dã sa nước mắt.
82. Giữa đường nghĩ đến Ngọa long Gia Cát đáng bậc giúp nước (cho Lưu bị).
83. Dừng ngựa để rước, hỏi lại việc này.
84. Lòng tôi đang sốt ruột nên quên nói chuyện hay. Giưũa đường chợt nhớ tới oong Gia Cát, nên đang về bắc (Ngụy) vội vã quay ngựa trở lại.
85. Thật là thích thú, thình lình sinh vui.
86. Cả hai đều được việc, e một phen gặp nạn.
87. Từng nghe ở đấy: Chưa thấy được người. Cớ sao có sự ân cần lo lắng ấy. Dám xin trình bày khúc nói nghe thử.
88. Từ lâu trong lòng chỉ có nhà Hán. Chứ dưới mắt (ông ta) không có tên Tào Thjáo. Bụng chưa sáu ba thao lược (mưu trí thao lược cính trị). Tiếng tăm khắp chín châu bốn bể.
89. Từ câu này đến hết vở, chùng tôi căn cứ vào bản chép tay của bà chi Tiên vì trong bản Hán Nôm của ông Phan Hiền về đoạn tuồng này ngờ rằng người sau thêm vào chứ không phải của nguyên tác. Bản ông Phan Hiền chép:
“……………………..đạo tôi
Xin chúa công Tân Dã phản hồi
Cho thần hạ Hứa Xương cử bộ
Nam Cử bộ hai hàng lụy ứa
Cũng bởi vì nghĩa chúa tình thân.
90. Vừa nghe qua lời nói
ý kiến rất tha thiết, hết lòng.
Dõi theo dấu bụi đường mà từ giã người hiền
Chọn ngày lành để làm lễ ước kẻ sĩ cao kiến.
Gươm báu muôn vàng chứa trong nước màu thu
Nỗi buồn mùa xuân đầm đầy lưng ngựa, dệt nên tấm vải lót yên
Phụng đẹp cùng lân lành bên cạnh mưa nhàn
Mây biếc và cỏ thơm quanh bên giấc mơ.