Làng Phố giao duyên-Trường ca của Phạm Công Trứ
tamvanvov 06.10.2009 15:33:47 (permalink)
Làng phố giao duyên 
                                     
            Trường ca của Phạm Công Trứ. 
                          
                                                                            
                                      Nhà quê khí huyết tràn trề 
                                      Tớ đi rung cả vỉa hè Đồng Xuân

 
I. Mở
Anh sinh ra từ Tam-Giác-Hồng
Chỗ hợp giao giữa Sông và Biển
Tình biển duyên sông
Vừa dài vừa rộng
Hoá mênh mông
Anh lớn lên nơi xứ gạo có tên “Hải-Hậu”
Xứ phở mệnh danh “Nam-Định-Gia-Truyền”
Sơn-Nam-Hạ trấn xưa phù sa miền châu thổ
Sông bồi
Biển rút
Hiện dần lên
Này đây
Những “Cồn Mu”, “Cồn Mờ” gợi cái thủa hồng hoang
Những “Thương Điền”, “Tang Điền” nhắc một thời dâu bể
Những “Thượng Trại”, “Hạ Trại” đánh dấu quân chiêu mộ
Những “Quần Anh”, “Quần Phương”ghi nhớ buổi tứ xứ hợp quần
Những địa danh phương đang chào mời, thách đố
Sử gia nào cùng múa bút với văn nhân
Này đây
Phong-Ninh-Giang nức nở vị tám xoan
Hà-Phúc-Lộc ngát hương hoa vàng nếp cái
Quang-Thanh-Hưng nồng nàn chiếu cói
Thịnh-Triều-Đông muối cá thương thuyền
Tằm tơ Hải Trung, cam quýt Hải Đường
Thong thả vắt ngang nhịp cầu Yên Định
Nhà xứ Đông Biên vi vút mấy tầm chuông
Bong!
Bính!
Bong... Bính... Bong...!
  “Ai ra Văn Lý - Chợ Cồn...”
Câu phương ca ấy bắt hồn từ đâu?
Anh - kẻ chân đất hành hương
Đi tìm cái một thời một thuở
Trong cái hằng nhiên vô thường
Như chân trắng dã tràng mênh mang trên cát
Trước biển đời ngợp sóng gió đại dương
Như cánh xanh cào cào miên man trên cỏ
Cánh đồng quê nặng nỗi tổ tông truyền                                                           
Trong cõi diệu linh ảo huyền nhà Phật
Một chữ “về” là“nghiệp” cũng là “duyên”
Liên làng con đê ưỡn cong một dáng thuyền
Trong đê: ruộng đồng
Ngoài đê: biển cả
Ngút ngàn một dải phì nhiêu
Dằng dặc một miền dân dã
(Phì nhiêu xứ bãi xứ đồng
Dân dã mớ rau con cá)
Nhịp nhàng lên xuống sông nương nhịp thủy triều
Nông nổi cuộn trào biển một mình cãi vã
Không ngừng nghỉ sông cuồn cuộn bao nhiêu phù sa
Biển thâu nhận cần mẫn tháng ngày đắp bồi sinh hạ
Phồn thực: gái xứ đồng cả vú, bự mông
Tráng dương: trai miền biển đùi săn, ngực nở
Chật căng sự muốn tỏ bày
E thẹn vẻ còn như để ngỏ
Lưng đê dài phơ phớt hoa cỏ may
Tim tím ngàn thiên kim xâu gió
Khâu đêm vào ngày
Khâu làng vào phố
Đính những từng trải vào với thơ ngây
Anh đâu ngờ thứ dã thảo quê mùa lam lũ đó
Không giồng mà nên
Không gieo mà có
Như khúc giao duyên này
Đã bắt anh vui buồn, sướng khổ
Như dằm khó khêu
Như gai khó nhổ
Găm vào ký ức chính anh đây
Dáng hình anh mộc thô, vạm vỡ
Phóng túng như sông
Buông tuồng như gió
Tượng hình thi ảnh chính anh đây
Câu thơ anh cũng điệp hồn xứ sở
Giăng hoa như loã thần
Chân truyền như bún phở
Cấu thành thi pháp chính anh đây
Thay cho đề từ
Vòng vo mấy lời xin được xem như “mở”
Thơ phú giao duyên cho nó dễ dãi bày
Cỏ may, sao lại cỏ may
Không hương, không sắc dựng đầy bờ đê
  Nhớ đồng, nhằm biển anh về
Gỡ cỏ sống lại lời thề ngày xưa

II. Ngày xưa
Ngày xưa
Kéo cưa lừa xẻ
Chẳng hám cơm Vua
Chỉ mong được thua
Về bú tí mẹ (!)
Ngày xưa
Mặc quần thủng đít
Chi chi chành chành
Quả khế quả chanh
Gốc ổi gốc mít
Ríu ra ríu rít
Ngày xưa
Đung đưa hoa bìm
Lim dim hoa khế
Sao mẹ đi chợ lâu thế?
Ngày xưa
Đi trốn
Đi tìm
Đống rơm, đống rạ
Góc bếp, cánh cửa
He hé mắt nhìn
"ù oà", "ù ập"
Thế là ú tim!
Ngày xưa rất bướm
Ngày xưa rất hoa
Nào thuyền gấp giấy
Nào trâu lá đa
Ngày xưa rất bạn
Ngày xưa rất ta
Lăn tăn cỏ chỉ
Rung rung cỏ gà
Ngày xưa rất sâu
Ngày xưa rất xa
Quanh quanh bể nước
Men men thềm nhà
  Rón rén là rón rén ơi
Chú chuồn ớt mới đậu rồi, tóm ngay
  Rón rén là rón rén này
Nàng bướm trắng lại vút bay mất rồi

III. Tự bạch
Ngày sinh anh không vầng hào quang chớp sáng nóc nhà
Không đàn thiên sứ hiện về nghiêng cánh báo mộng
Không nhà hộ sinh áo bờ-lu trắng toát khoa phụ sản
Một chéo vải cho ra hình tã lót cũng không!
Chỉ rạ rơm là có
Chỉ những cơn đau sinh nở của mẹ là có
Trên manh chiếu sờn nửa giường, nửa ổ
Bà đỡ vườn gập nửa tấm lưng còng
(Phải lăn lóc giữa rạ rơm đời thường như vậy
Lấp lánh hồn anh luôn bảy sắc cầu vồng?)
  Cầu vồng đi đón cơn mưa
Mống dài, mống cụt đi đưa cầu vồng
  Tập tầm vó, tập tầm vông
Tay nào có tay nào không... tay nào
Đêm ấy
Sông cuồn cuộn trôi
Biển ầm ào động
(Đời anh sau này đồng vọng nhiều tiếng sóng)
Phía bốt Đông Biên súng đạn nổ đì đùng
(Đời anh sau này hơn một lần âm vang tiếng súng)
Khói đạn bom trùm lên khói đốt đồng
Dưới căn hầm bịt bùng
Đêm tháng năm hầm hập nóng
Le lói đèn dầu hôi mù bất động
Anh đã oe oe vào đời
Loạn lạc ấy là thời
Gian nan rồi là số
Cái quay búng sẵn rồi
Quyền chi mà chọn lựa!
Trùng với tên danh nhân, chẳng hiểu vì sao, cha lại đặt là Công Trứ
(Chữ Trứ có “bộ thảo”- ấy là theo lời người biết Hán tự)
Chỉ họ Phạm khác biệt thôi
Ngày tháng giờ sinh mẹ cũng đâu nhớ rõ
(25 tháng 7 chỉ là khai theo toạ độ)
“Thời đao binh sống được cũng phúc rồi!”
(Mẹ “nựng” bảo thế vào một đêm tối trời
Biển lừng sóng bờ phi lao rúng động
Bốt Đông Biên bộc phá nổ liên hồi)
Như con sông quê bên lở bên bồi
Quý Tỵ (1953) tuổi anh cầm tinh con Rắn
Rắn là một loài bò... mơ gì như Rồng có ngày cất cánh
Phải ẩn mình ngay giữa thanh thiên khi bất ngờ đối mặt với con người
“Trường lưu thuỷ” mệnh anh là một dòng chảy dài
Buồn thay, tuổi lại thuộc cung “hoả”
“Mệnh” với  “tuổi” như nước với lửa
Ngũ hành gọi là tương khắc, hỡi ôi!
Tử vi phán: tiền vận coi như vứt bỏ
May mà “thuỷ” khắc được “hoả”
Hậu vận bù lại cũng chẳng kém chi người
(“Tri thiên mệnh” đã qua,
“Nhi nhĩ thuận” sắp rồi
“Cổ lai hy” chắc gì mong được thấy)
Thiên cơ sắp bày huyền vi đưa đẩy
Tường trình bản thân xin được “bạch” đôi lời
  Từ trong bụng mẹ sinh ra
Chẳng dòng quý tộc chỉ là thường dân
  Thường dân thân tự lập thân
Chẳng mơ có được quý nhân độ trì

IV. Trích ngang
Lý lịch anh “thành phần cơ bản”
Nguyên quán thôn Hà Nam, xã Hải Thanh
Gia đình không có ai làm gì cho đế quốc, phong kiến
Bố đảng viên Đảng Lao động Việt Nam
Thời chống Pháp còn được thưởng “Huy chương Kháng chiến”
Mẹ thuần túy nông dân
Ông nội sinh thời làm thầy đồ xóm
Ông bà đều chết trước Cách mạng
Anh tự khai, cam đoan và đã ký tên như thế biết bao lần
(Có khi khai là một việc cần
Nhiều khi khai chỉ là lấy le lấy lệ
Nhà nước ta là “nhà nước của dân, do dân, vì dân”
Dân chủ, cộng hoà... vốn dĩ là chính thể)
Cụ nội nhà nho từng đỗ “nhị trường”
(ấy là vào khoa thi cuối cùng)
Cũng vì cái danh hờ này mà về già còn bị bần cố nông đem ra đấu tố
Mực tàu giấy bản bao năm phút chốc hóa tanh bành!
Cụ Tổ đầu quân theo “Vua Ba Vành”
Tử chiến mất thây, mộ “xương dâu đầu gáo”
(Triều đình nhà Nguyễn gọi là lũ giặc cỏ bất hảo
Sử sách hiện hành tôn vinh là khởi nghĩa nông dân)
Cụ thuỷ Tổ họ Phạm, tương truyền, gốc Hoa Đường, Đường An, Hải Dương
Chẳng rõ vì cơn cớ gì dạt xuống miền đất hoang ngập mặn
Sát cánh cùng các họ Vũ, Trần, Hoàng quai đê lấn biển
Rửa mặn, thau chua lập nên xóm nên làng
Không bút tích, văn bia, gia phả
Rần rật trong mình dòng huyết hệ
Con cháu “Phạm-đại-tộc” hôm nay vẫn thầm lặng truy tầm
Bao giả thiết đặt ra mong được làm sáng tỏ:
Phải vì đây là đất cửa sông hợp khoai, thịnh lúa
Phải vì đây là nơi ven biển nhiều muối, lắm cá
Hay do làm quan mà được bổ nhiệm xứ người
Hay do bị truy bức nên buộc phải rời bỏ cố hương thôi
Hay như hoa cỏ may
Cuốn theo chiều gió
Gặp đâu bám đó
Chọn gì điểm rơi
Đã là phận cỏ
Sá chi váy người
Đã rằng dân dã
Kể chi miệng đời
Chẳng để làm gì, chỉ để bám trêu chơi?
Không rõ!
  Không sắc lại cũng không hương
Chân cắm xuống đất, ngọn dương lên trời    
  Nhỏ nhoi cọng cỏ, kiếp người
Vẫn mong đứng thẳng dù đời đạp lên

V. Làng
Ký ức tuổi thơ anh:        
Lên hai lẫm chẫm tập đi
Lên ba bi bô tập nói
Lên bốn khóc thầm đứng đợi
Mẹ buổi chợ muộn về
Lên năm chân trần thám hiểm cánh đồng quê
Tôi là con của cánh đồng
Cánh đồng con của dòng sông trước nhà
  Cỏ lăn, cỏ lác, cỏ gà
Tổ tiên cây lúa cũng là cỏ thôi
Đồng quê tràn ngập lúa khoai
Ngô đỗ bạt ngàn bờ bãi
Dọc ngang đỗi Nhất, đỗi Nhì
Cao thấp tùng Trên, tùng Dưới
Sông quê nước chảy rầm rì
Mặt sông sẫm màu nước vối
Gái quê đi làm đồng về
Kéo nhau ra sông tắm tối
Sớm ra vạn chài hành nghề
Rộn rịp vãi chài tung lưới
Đôi cánh buồm nâu ven đê
Mất hút vào miền chưa tới
Vài rặng núi xanh mờ xa
Thôi thúc một lời mời gọi
Đường quê lắm cát dễ đi
Thoang thoảng hoa xoan, hoa bưởi
Ngõ quê tre trúc rậm rì
Lập lòe hoa dong, hoa chuối
Lách chách chim sâu, chim ri
Thập thò quả dâu, quả ruối
Láo lơ rắn ráo, thằn lằn
Chung chiêng tổ kiến, tổ mối
Trai quê tán gái về khuya
Trêu nhau chạy như ma đuổi
Tỏ tình trước mặt người yêu
Bẽn lẽn như là thú tội
Người quê chân lấm tay bùn
Suốt ngày trên đồng cắm cúi
Chăm lúa như chăm con thơ
Rảnh rang đôi ngày lễ hội
Trai làng rước kiệu, múa cờ
Gái làng hát đúm, hát đối
Tháng năm vào vụ gặt chiêm
Dân làng ăn tết cơm mới
Trước là tạ ơn đất trời
Sau để cầu cho vụ tới
Tháng bảy lắc thắc mưa ngâu
Lễ gọi “vong nhân xá tội”
“Trần sao âm vậy” bảo nhau
Quỷ ma cũng không để đói
Tạnh mưa vừa độ trăng tròn
Trung thu lòng người thơ thới
Trẻ con đánh trống rước đèn
Chia nhau miếng bánh, múi bưởi
Người lớn tam cúc, tổ tôm
Phát bài chiếu trên, chiếu dưới
Tháng chín bước sang tháng mười
Cốm mới thơm mùi mời gọi
Rải đồng chim ngói từng đàn
Thôn xóm bước vào mùa cưới
Cô dâu nửa khóc nửa cười
Chú rể mong trời chóng tối
Lúa chiêm cấy hái xong xuôi
Tết Ta cũng vừa kịp tới
Nhà nhà gói bánh, đồ xôi
Giồng nêu, quét lại tường mới
Sân đình náo nức cờ người
Ao làng om thòm diễn rối
Thôn nữ váy ngắn nhún đu
Các cụ ngước nhìn không nói
Tháng giêng là tháng ăn chơi
Lũ lượt dân quê trẩy hội
Gần thì Cổ Lễ, Phủ Giầy
Xa tận Hương Sơn, Hà Nội…
Cảnh quê nghìn đời không đổi
Trâu bò gặm cỏ triền đê
Lông mượt vo ve ruồi muỗi
Nối đuôi từng đàn chiều về
Thậm thịch chìm vào ngõ tối
Mục đồng tóc gió vàng hoe
Sáo trúc lưng trâu nhẹ thổi
Bập bùng ánh lửa bên hè
Mùi cơm quyện vào mùi khói
Lấp ló trên đầu ngọn tre
Trăng non cong hình lưỡi hái
Dưới trăng trai gái nguyện thề
Thầm thì bãi dâu, ruộng cói
Vi vu suốt cả đêm quê
Sáo diều rót vào tận cửa
Làm tắt những tiếng ve ve
Xua tan một ngày nắng lửa
Đuổi nhau đom đóm nhập nhoè
Ôm nhau ếch nhái sấp ngửa
Cót két gió vặn thân tre
Tưởng tiếng dân nghèo than thở
Lấp loáng cánh dơi đi về
Mèo hoang từng hồi nức nở
Lửa chài thấp thoáng ven đê
Bờ bụi nhọc nhằn tiếng cú
Kẽo kẹt bên sông vó bè
Ma trơi trên cồn nhảy múa
Say rượu giọng ai lè nhè
Vu vơ đôi tiếng chó sủa
Đều đều mẹ kể con nghe
Cái thời ngày xưa ngày xửa
Bến sông trăng ném thia lia
Thôn xóm chìm vào giấc ngủ
Ngoài ngõ sương giăng đầm đìa
Trong nhà tiếng người nói mớ
Mảnh mai tiếng hạc về khuya
Chém màn đêm thành hai nửa
Thoạt tưởng tinh cầu đang rơi
Sau ngỡ bình vàng chợt vỡ…
  Như tôi bạn đã từng nghe
Bản giao hưởng của đồng quê không lời
  Như tôi bạn có từng chơi
Li ti với kiến, tơi bời cùng giun?
                     *
Làng quê bước vào mùa gặt
Thuyền, xe rộn rịp ra đồng
Hạt sương sớm đánh đu đầu bông lúa
Thoả tay liềm thuở vừa cấy... vừa trông
Này là cơn đằng Đông
(Cơn đằng Đông vừa trông vừa chạy)
Này là cơn đằng Tây
(Cơn đằng Tây mưa giây bão giật)
Này là cơn đằng Nam
(Cơn đằng Nam vừa làm vừa chơi)
Này là cơn đằng Bắc
(Cơn đằng Bắc đổ thóc ra phơi)
Này, bầy cào cào đầu nhọn
Đàn châu chấu đầu vuông
Bọn muồm muỗm béo nhẫy vàng hươm
Lũ cà cuống xập xè rú rít
Núc ních chuột đồng
Hôi mù bọ xít
Ngoe nguẩy đỉa trâu
Thập thò rắn nước
Chàng bọ ngựa vung vẩy thanh gươm
óng ánh những nàng cánh cam, cánh quít
Gánh, đội người lớn mải miết
Ta tha thẩn mót bông rơi
Buổi đầu đời thấm thía giọt mồ hôi
Biết câu “đắng cay muôn phần.... dẻo thơm một hạt”
Biết câu“làm như ngày mùa để đâu cho hết”
Đối với câu “ăn như ăn tết lấy gì mà ăn”
Thế nào là “tháng tám đói qua, tháng ba đói chết”
Vì sao lại “bán anh em xa mua láng giềng gần”
Biết chuyện bất hoà giữa“cái cò cái vạc cái nông”
Đám cưới chuột muốn xuôi thì phải lo lót miệng mèo già cá chép
Lọ xương Bống thần kỳ đã đưa cô Tấm đến hội làng trong bộ quần áo đẹp
Tránh sao khỏi nỗi oan khi Thị Kính giữa trưa cầm dao toan xén “râu rồng”
Trê Cóc kiện nhau nguyên cớ đâu chỉ vì lũ con giống lạ giống lùng
Thạch Sanh tha Lý Thông nhưng giữa đường sét đâu có tha tội chết
Trương Chi đã trầm mình thì ích gì khi Mỵ Nương để rơi nước mắt
Nàng Thúy Vân vô tâm lại cưới được chàng Kim Trọng hào hoa hỏi có ức không
Là thiếu phụ Nam Xương đây sẽ không bao giờ lấy kẻ đa nghi như chàng Trương làm chồng
Là nàng Châu Long đây sẽ không bao giờ nghe lời chàng tân quan Dương Lễ
Một năm một lần như vợ chồng Ngâu (con Trời) thì thà làm thảo dân cho khoẻ
Sơn Tinh thắng Thủy Tinh vì bói đâu ra dưới nước những “voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao”
Chử Đồng Tử trần truồng mà lấy được nàng Tiên Dung (con Vua Hùng) chuyện tình xứ mình mới kỳ lạ làm sao
Có bất công không khi thần Kim Quy bảo Thục Vương rằng“chính kẻ ngồi sau lưng nhà ngươi là giặc”
Phá tan giặc Ân rồi sao Thánh Gióng vội bay về trời làm Phù-Đổng-Thiên-Vương cùng ngựa sắt
Mê người trong tranh mà Tú Uyên cưới được Giáng Kiều thật đúng là kỳ ngộ thiên duyên
Duyên cớ gì mà Lạc Long Quân lại bảo với Âu Cơ rằng “ta là giống Rồng còn nàng là giống Tiên...”
Bánh chưng, bánh dầy đã khiến Lang Liêu được vua cha nhường ngôi quả là trời kia có mắt
“Nhất sĩ nhì nông...”
Đã hết gạo chạy rông thì sĩ cứ là chết trước
Ân oán giang hồ,
Nợ nần mộng ước
Chuyện nhỏ chuyện to
Việc nhà, việc làng, việc nước
Nhà nông cùng đưa ra bàn luận công khai ngay giữa cánh đồng
  Nhà nông muôn thuở muốn gì?
Muốn ruộng ngoài bãi, muốn nghề trong tay
  Vào mùa tối mặt cấy cày
Nông nhàn rỗi rãi lại bày việc ra
Nung nống nu na
Thợ nề xây nhà
Thợ đấu đóng gạch
Thợ cạo tay dao tay kéo lanh tanh
Thợ mộc tay đục tay chạm ký cách
Thầy cúng ngắc ngư bắt ma
Thầy lang trầm ngâm bắt mạch
Thầy cò, thầy kiện đơn từ
Thầy giáo, thầy đồ bút sách
Gặp thời gặp thế ăn nên làm ra
Thất cơ lỡ vận bí ba bí bách
Ăn đố làm khoán nồi bảy nồi ba
Thùng bất chì thình nhí nha nhí nhách
                                 *
Phía đầu làng ngày trước có bến Trâu Đằm
Vào mù lũ nước bất ngờ chảy xiết
Trẻ làng thường tụ tập bên bờ sông chơi trò chọi cỏ gà
Thằng nào cũng thủ một quân “Vua” quật nhau cho biết
(Nếu có ai đó hỏi Vua là gì
Thì chúng bảo Vua chính là huỷ diệt
Đến hôm nay có đứa vẫn mơ làm Vua
Mở miệng là “bệ hạ” với “nô tài” nghe mà sôi tiết)
Rồi cả bọn rủ nhau bắt chuồn chuồn cắn rốn tập bơi
Thật đúng là quân “giời đánh, thánh vật không chết”
Trần truồng vài đứa vật lộn giữa dòng
Cả lũ đứng trên bờ vỗ tay hò hét
Có đứa xẩy chân xuýt bị nước cuốn trôi
May mà người lớn chạy tới cứu không thì hết phép
(Ai ngờ mấy năm sau thằng ấy lại thành anh hùng
Đeo huân chương về làng khối gái làng mắt la mày lét)
Nghe đồn trước đây dưới sông có cả hà bá, thuồng luồng
Những thần sông chỉ rình bắt gái đẹp, trẻ con
Mỗi năm một mạng người, nghe mà phát khiếp
Cạnh đình làng là đền miếu thờ các thần linh, cô hồn
Dưới gốc đa già “người âm” thường mở dạ tiệc
Trống mõ thoát y lũ ếch nhái nhảy nhót uôm uôm
Đàn nhị giỡn trăng bọn dế mèn cờ ri cờ ríc
Năm dịch bệnh xác người la liệt chẳng có người chôn
“Quan-ôn” các ngài đi tuần rậm rà rậm rịch
Chuyện nạn đói “bốn lăm” bạt vía kinh hồn
Bọn trẻ bấm nhau cười bảo nghe cứ như là “cổ tích” (!)
Bạo mồm trai làng trổ tài kể chuyện “tiếu lâm”
E lệ đấm lưng nhau gái làng khúc kha khúc khích
Chuyện năm bộ đội kéo về diệt bốt, phá đồn
Đền, miếu thành nơi đi về của dân quân du kích
Trên bệ thờ nghi ngút khói hương
Dưới hầm tối súng đạn lịch kịch
Bây giờ dưới gốc đa già
Đền, miếu còn trơ nền gạch
Nhân danh chính quyền mới từ công nông mà ra
Những gì của đế quốc, phong kiến người ta đốt sạch, phá sạch
Chữ Nho, chữ Pháp
Lửa chỉ một mồi
Ngựa đá, bia đá
Vào lò nung vôi
Tượng Thánh, tượng Phật
Giữa dòng nước trôi
Ai mà luyến tiếc
Là không thức thời
Kẻ nào chống đối
Đừng có trách trời!
Các “ngài” cùng các “cô hồn” bỗng nhiên không cửa không nhà
Dắt díu bồng bế nhau dạt về nơi bãi bờ lau lách
Lấp ló giữa những cành đa quả chín vàng hoe
Chim sẻ lau chau
Chim sâu loách choách
Chìa vôi quẹt cái đuôi chào khách
Đom đóm hoa đăng hội mở lập loè
Quấn lấy nhau nhảy múa trên nền bệ thờ
Một đôi bạch xà hiện hình vào đêm mãn nguyệt
Thoáng thấy bóng người là liền biến mất
Đàn sáo canh khuya đâu đó chợt nổi lên…
(ấy là theo lời các thảo dân thân Cò thân Vạc ăn đêm
Bờ bụi đó đăng kiếm con lươn, con rạm)
Mới đây dân làng bàn tính chung tay tái dựng lại miếu, đền
Người này góp vôi
Người kia cúng gạch
Người lo dựng văn bia
Người lo làm văn sách
Có người ở tận Đà Nẵng, Sài Gòn cao hứng lên
Cúng cả voi đá, ngựa đá để công trình không kém gì ngày trước
Có người gốc quê định cư ở nước ngoài biết tin
Cũng gửi đô-la về gọi là có chút công đức
Cả những người đã từng ra tay triệt phá một thời
Nay cũng đứng ra dứng dả như đang làm một việc cực kỳ công tích!
Hơn thế, lại còn đưa ra sáng kiến trên cả tuyệt vời
Sẽ hoàn thiện hồ sơ xin công nhận di tích lịch sử để rồi sớm mở dịch vụ du lịch
Nếu biết tân trang lại khéo tiếp thị biết đâu sẽ thu hút rất nhiều du khách (?)
  Người quê nhân hậu bao đời
Đền miếu cho cả cõi người âm ty
  Ai bảo đã chết còn gì
Họ rằng xác chết hồn thì thăng hoa
                     *
Anh lớn lên cùng lúa khoai
Sớm đánh bạn với cua cá
Tròn năm tuổi đã biết buông câu
Hơn mười tuổi đã biêt vác vó
Tôm-cua-ốc-ếch lởn vởn trong đầu
Toán-văn-sử-địa đêm về mới ngó
Câu chầu văn hương nến phủ điện lung linh
Điệu xẩm soan khăn áo sân đình óng ả
Trưa, rộn rã chuông nhà xứ Đông Biên đổ
Tối, chuông chùa Thanh Quang thảng thốt buông
Cùng nghe chuông
đâu kể bên “Giáo” bên “Lương”
Chung một dòng sông
chẳng cứ họ “Đời” họ “Đạo”
Niên hoa chưa cập tuổi cắp sách tới trường
Thôn ổ lòng đã thấm nỗi buồn dịu nhẹ
Đánh đáo, chơi bi anh như bao đứa trẻ
Tắm ao chưa thoả thì ra tắm sông       
Ao nhà lao xao
Sông quê mênh mông
Bè cây chuối ngao du cùng chúng bạn
Lặn xuống đáy sông nhô lên cùng sen, súng
Ê hề những là cua, ốc, cá, tôm, lươn
Túm tụm giữa đồng rơm rạ nhóm lửa lên
Mặt mũi nhọ nhem mắt cay xè vì khói
Đứa tiếp rạ rơm đứa phùng mồm lên thổi
Một đứa kêu lên “tao thấy thơm rồi”
Cả lũ đồng thanh “đánh chén đi thôi”
Bới tro trấu cùng chia phần thơm nóng
Này là củ khoai: ngọt bùi nghẹn họng
Này là củ súng: chẳng mất tiền mua
Này là con cua: hai càng, tám cẳng
Này là con ốc: di chuyển bằng mồm
Này là con tôm: đi lùi lúng búng
Nếu mà trời nắng: lá sen đội đầu
Nếu mà trời ngâu: tàu chuối làm nón
Nếu mà mưa rào: trần truồng cùng tắm
Nếu mà giá lạnh: đốt lửa cho nhiều
Thả trâu ra đồng
Lũ con gái tìm chỗ chuyền chắt, thùa thêu
Chia phe “địch-ta”
Lũ con trai bày binh bố trận
Thắng hay thua cũng cứ phải hò reo
Tiếng “pằng” “pằng” chen tiếng trâu bò rống
Bê nghé giật mình ngỡ mẹ gọi lồng theo
Buổi kiếm được đánh chén cho tới số
Hôm không gì mặt thưỡn bụng đói meo
Lều chăn vịt trưa hè nằm tránh nắng
Bếp quả thông hun khói ấm đông chiều
Nép ánh trăng xuân cùng đứng rình đom đóm
Đón gió đầu thu xé trộm vở thả diều
Về nhà muộn bị bao phen mẹ mắng
Mông nổi lươn cha đánh chẳng dám kêu
Bên kia dậu thập thò đôi mắt thỏ
Cứ khi nào chọc tức lại “lêu lêu...”
  Hồn quê vi vút phiêu diêu
ấy là mộng ước trẻ nghèo thả lên
  Nghèo là nghèo bạc, nghèo tiền
Dưng mà giăng gió thiên nhiên chẳng nghèo
                     *
Tiếng sóng dội
Gọi anh chạy ra với biển
Mịt mùng chẳng thấy bến bờ đâu
Biển là một cái ao cực lớn
Lô xô cánh buồm
Biển là một cải chảo cực to
Rán mẻ cá không bao giờ chín
Ngàn lưỡi chó dưới chân sóng liếm
Trăm tay mèo trên đầu gió mơn
Lũ còng gió ườn mình nằm phơi nắng
Đàn dã tràng miệt mài xe cát lấp đại dương
Người đi te chân kheo cao nghễu nghện
Dân bắt còng giỏ nặng kéo lệch sườn
Gái làm muối bịt mặt cười lấp loá
Trai kéo rùng cơ bắp cuộn như lươn
Anh quỳ xuống ô nề trưa nắng toé
Lưỡi thấm mùi mặn chát kiếp gío sương
Anh soi lên ánh mặt trời nhiệt đới
Những long lanh tinh kết giữa ngày thường
Anh chạy vồ những con còng gọng đỏ
Những mắt lồi sắp chết vẫn còn giương
Anh áp tai vào những vỏ sò, vỏ ốc
Nghe u u hồn biển giục lên đường
Anh leo lên những con thuyền tả tơi trên cát
Như chiến binh say sóng gió muôn phương
Anh trà trộn vào đám người hôi tôm cá
Ngồi ngóng thuyền nhấm nháp vị ẩm ương
Nhập cuộc cùng bọn trẻ anh xây lâu đài cát
Ghé tai nhau thầm bảo ấy “thiên đường”
Lâu đài đổ kéo theo bao mộng ước
Nơi đại đồng thế giới của tình thương
Đứa đa cảm lén đưa tay chùi nước mắt
Tiếc thương cho đời “hoàng tử” với “công nương”
Đứa cười bảo dựng thiên đường trên mặt đất
Hoạ có là kẻ đầu óc đẫm văn chương
Đứa nghiêm mặt bảo sau những gì còn mất
Là nỗi đau xin đừng có xem thường
Chẳng khóc cười anh xoài mình trên cát                                                                      
Gío xạc xào vi vút lướt cành dương
Cánh hải âu chớp sáng đầu sóng bạc
Biển đổi màu tím ngắt lúc chiều buông
Gió lồng lộng đẩy hồn lên bát ngát
Biển tiễn ngày đỏ rực phút hoàng hôn
Trút bỏ quần đùi cùng nhào xuống biển
Tuyệt vời làm sao giây phút được trần truồng!
Tắm truồng thú của trẻ quê
Ra phố là hết đam mê tắm truồng
  Về quê tìm lại cội nguồn
Hoà cùng lũ trẻ “diễn tuồng” trên sông
                     *
Lên sáu anh cắp sách đến trường
Trường làng xinh xinh
Bạn gái cùng bàn be bé
Đôi lần mạnh miệng ghẹo chòng
Khiến bạn khóc oà chạy về mách mẹ
Trước người lớn đã hứa rằng “không”
Quen mùi rồi hôm sau vưỡn thế
Tan học rồi bắt chước “văn công”
Chia vai nhau diễn tích ông Hoàng bà Chúa
Đóng hoàng tử con trai gài mũ lông chim
Giả công chúa con gái đội vương miện cỏ
Nửa đầu còn “như ta đây” hề chèo, hề hoạn, hề mồi
Nửa sau đã “trẫm”, “ái khanh” nhuốm mùi cải lương, tuồng cổ
Rồi thì bày trò gán ghép vợ chồng
Chẳng dè hai đứa lại thành ra xứng đôi hợp lứa
(Xứng đôi vì thường cho nhau nhìn bài
Hợp lứa vì cứ luôn miệng mình mình, tớ tớ)
Thế rồi khi má bạn biết hồng
Ngực bạn đã chớm thì nhu nhú
Thi thoảng gặp nhau ngoài bãi, ngoài đồng
Bạn ngúng nga ngúng nguẩy bảo rằng:
- Sao “đằng ấy” lại nhìn tớ như thế?
- Như thế là như thế nào?
- Như thế là như thế chứ sao!
(Ôi “đằng ấy” của một thời thơ trẻ
Bao năm rồi nhớ lại vẫn nôn nao
Ôi “như thế” của  một thời mộng mị
Đến bạc đầu cũng chẳng hiểu vì sao)
Nhắc lại chuyện công chúa, hoàng tử ngày nào
Mặt đỏ lên hai đứa cùng cười mắc cỡ
Hoàng tử gì mà quần xắn phân gio gồng gánh ra đồng
Công chúa chi mà suốt ngày khom lưng bắt sâu nhặt cỏ
Cười cười nói nói giả bộ như chẳng có gì trước đám đông
Chân tay mồm mép cứ như thừa khi còn trơ hai đứa
Phận nhà nghèo bạn phải bỏ học giữa chừng
Mộng ước tuổi thơ thành chuyện giữa đường dang dở
(Bạn ước sau này là kỹ sư canh nông
Lai giống lúa một năm có thể gieo cấy bốn vụ)
Thế rồi chẳng biết gì đâu bạn vội lấy chồng
Chú rể là ngoại kiều nghe đâu rất là giầu có
Đám cưới rất to sao bạn cứ khóc ròng
Gặp lại nhau chắc chẳng còn bao giờ nữa!
Bạn gái ơi có bao giờ nhớ tới tôi không?
Cái thằng răng lợi vêu vao, mắt thì hơn một mí
Rất nhát gái nhưng lại thích trêu chòng
Ôm mộng sau này sẽ trở thành văn nhân, thi sĩ
Làm thơ chỉ để ca ngợi cỏ nội, hương đồng
Phồn hoa thị thành quyết không thể quyến rũ
Bạn gái ơi cũng có hiểu cho không?
Cái thằng ngồi cùng bàn hôm xưa vì sao lại muộn vợ
Vẫn còn nhớ mấy câu thầy giáo bắt học thuộc lòng
Mỗi khi trái gió trở trời vẫn thường rên lên khe khẽ
  Khe khẽ là khe khẽ thôi
Xin người chầm chậm để tôi theo cùng
  Hiếm hoi một giấc phiêu bồng
Nữa rồi tỉnh dậy lại không có gì!
“Cứ mỗi độ thu sang
Hoa cúc lại nở vàng…”
(Hoa cúc năm nào chẳng nở
Chỉ lòng ta không còn vàng tươi nữa)
“Luỹ tre xanh xanh
Làng tôi làng anh…”
(Luỹ tre bao đời vẫn xanh như thế
Chẳng biết ma quỷ nào xui khiến bỏ quê đi)
“Chú mèo trèo cau
Trong ba phút đầu…”
(Ta đã từng háo hức trèo cây thơ như vậy
Để rồi như chú mèo tụt hậu những phút sau)
“Hải Thanh là anh Hải Hà
Hải Hà là bà Hải Phú
Hải Phú là chú Hải Quang
Hải Quang mà quàng Hải Hưng
Hải Hưng lại bưng Hải Thắng
Hải Thắng lại mắng Hải Thanh
Hải Thanh là anh Hải Hà…”
(Huyện ven biển biết bao nhiêu là “Hải”
Ngỡ là đùa chạm nọc lại đánh nhau)
Ký ức như khuôn đúc hằn sâu
Những trích đoạn bất phân văn-sử-địa
Huyền ảo sự tích con Rồng cháu Tiên
Chìm nổi sắc màu đất nung, bi ký
Xa xăm như thời khai sáng Lý-Trần-Lê
Gần gặn như hồi quyết chiến Pháp-Nhật-Mỹ
Nối tiếp những Bạch Đằng, Hàm Tử, Chương Dương, Chi Lăng, Gò Đống Đa
Là những Biên Giới, Điện Biên, Bầu Bàng, Khe Sanh, Thành Quảng Trị
Thà hy sinh đến người cuối cùng
Quyết không chịu sống đời nô lệ
Ta đâu có thích làm kẻ anh hùng
Vì thời thế thế thời phải thế
Mặc người đời đàm tiếu chuyện “cát hung”
Về thế kỷ đã quá nhiều “dâu bể”
“Bà Trưng quê ở Châu Phong
Giận phường tham bạo thù chồng chẳng quên…”
(Mình voi một chị một em
Hai nghìn năm phố đứng đầu tên hai Bà)
“Ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc,
lớn lên gặp buổi gian nan…”
(Ai ngờ sau đấy ngót nghìn năm
Loạn lạc vẫn còn, gian nan vẫn lắm)
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu….”
(Sau hào hùng là thảm khốc thương đau
Lệ-chi-viên ròng ròng máu rỏ)
“Bát cơm manh áo ở đời
Mắc mớ chi ông cha nó…”
(Chúng nó đã quấn cờ về rồi
Nợ áo cơm sao vẫn còn nguyên đó?)
Những đứt nối thăng trầm mờ tỏ
“Chiếu” anh minh
“Hịch” hùng hồn
“Cáo” hào sảng
“Tế” bùi ngùi
“Chiêu hồn” lãng đãng
Men lịch sử sống lại cùng dĩ vãng
Day dứt buổi tìm đường, dõng dạc phút nhân danh:
“Dân tộc Việt nam có quyền hưởng Tự do và Độc lập
Và sự thật đã thành một nước Tự do và Độc lập…”
ấy là cáo: biết bao là hào sảng
ấy là hịch: đâu thiếu sự hùng hồn
ấy là thơ: chẳng khuyết phần lãng mạn
Trong “phút giây lịch sử sáng Tuyên ngôn”
  Ghé vai vào cuộc chiến tranh
Tổ tiên đã trải, cha anh đã tường
  Mịt mù đạn lửa chiến trường
Vững lòng biết có “đồng hương”… đồng hành
                     *
Làng ơi, ta đã về đây!
Trường làng mái đỏ, tường xây
Thầy giáo già đã thành người thiên cổ
ở đâu, hỡi chân đất đầu trần bạn bè một thuở
Luỹ tre xanh xanh, con sáo nhỏ thanh thanh
ở đâu, hỡi những mái hầm kèo chìm nổi thuở chiến tranh
Sáng đến lớp đầu đội mũ rơm, vai mang túi thuốc
ở đâu, hỡi chiều lưng trâu mải chơi bài về nhà không thuộc
Thầy giáo phạt giam rấm rứt khóc một mình
ở đâu, hỡi người cuốc cày vất vả nuôi tôi, nuôi anh
Hun hút nghĩa linh hương khói nhập nhoà bia mộ
ở đâu, hỡi những thuyền câu rập rình bến đỗ
Mùi mắm chượp hôi rình, mùi khô cá nồng tanh
ở đâu, hỡi cái liềm, cái quang, cái sọt, cái trành
Đã chia ngọt sẻ bùi giữa những ngày gian khó
ở đâu, hỡi cái dậm, cái nơm, cái lờ, cái đó
Chân đất đầu trần tập tẹ chuyện mưu sinh
ở đâu, hỡi em gái chưa một lần nói ra câu “yêu anh”
Ta đã thầm trao nhau tất cả
Nóng bỏng, tình như ngô rang
Êm ái, tình như rơm rạ
Như muối tình còn mặn mòi
Như mắm tình không rớt giá
Anh trót ký gửi đời mình cho phố xá
Lòng vẫn thầm thương nhớ chỉ em thôi
Em không son phấn,
Em ít nói cười
Tóc thề vương hương rơm cỏ
Lưng áo thường rịn mồ hôi
Ban ngày chăm lo việc đồng áng
Đêm bên nhau thầm đếm sao trời
Đám dã thảo thơ ngây vụng dại ấy
Ngờ đâu đã thành chứng nhân của mối tình hoa cỏ buổi đầu đời
Cái hôm anh bỏ làng ra phố
Em khóc bảo: coi như em đã chết rồi!
  Mỗi người chỉ có một quê
Khi đi để nhớ, khi về có nơi
  Hài hoà như đất với trời
Như sông với biển, như người với nhau
                     *
Trường huyện vẫn đây
Đồn bốt cắm một thời
Nhà dòng Đông Biên tân trang thành trường lớp
Em xóm Đạo mắt bồ câu hàng mi dài khẽ chớp
Tay làm dấu thánh miệng “Jêsume, lạy Chúa tôi”
Lạy Chúa tôi!
Hiệu làm đầu đã thay cho Hiệu sách nhân dân tự lâu rồi
Cô bán sách tóc bạc phơ giờ bán hàng khô trước cửa
Hỏi cái thằng bé mê sách năm xưa cô lắc đầu không nhớ
Cô có lỗi gì đâu người có lỗi là chính cái thằng tôi
Cái thằng tôi cứ thích lôi thôi
Cái thằng tôi quầy tây dây rút
Cái thằng tôi mũ lá dép lốp
Túi chẳng bao giờ có lấy đủ một đồng
Mê mẩn những kim cổ Tây - Đông
Chẳng tuần nào là không mon men nơi hiệu sách
Thỉnh thoảng cao hứng lại còn tập tành viết lách
Rất khoái tích mất ngựa của Tái Ông
Tâm đắc với sự lười biếng kiểu Lãn Ông
Bắt chước hiền nhân thập thành triết luận
“Thấy ai ai thì mình cũng ai ai
Ai ai ấy thì mình cũng ấy
Thấy ai ai thì mình cũng ai ai
Ai ai vậy thì mình cũng vậy”
Chư Bát Giới, Sa Tăng, Tôn Ngộ Không chia tay vừa mới đấy
Đã lao ngay vào Quan Vân Trường, Trương Dực Đức, Triệu Tử Long
Thương cho Phăngtin, Giăngvangiăng
Ghen với Côdet, Mariuýt
Cứ tưởng bạn trai mình ai cũng là những công tước Anđờrây Bônkônxky, Pie Bêdukhốp
Còn bạn gái mình ai cũng là những Natasa Rôxtốpva, Tachianna tiểu thư
“Không ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông”
Lời của triết nhân nào vẫn nhớ
“Đời người chỉ sống có một lần”
Lời của một nhà văn nào vẫn nhớ
“Tượng thờ dù đổ vẫn thiêng”
Lời của nhà thơ nào vẫn nhớ
Dòng ký ức xưa dù bên bồi bên lở
Bụi thời gian có phủ xám miếu thờ
Cỏ quên lãng có trùm xanh bia mộ
Thì tận đáy sâu vẫn vang vọng những vần xưa
“Ta lớn lên đời không là trang sách
Trong khổ đau Bụt chưa hiện bao giờ
Chẳng vì thế ta hoài nghi cổ tích
Và phàn nàn rằng đã trót yêu thơ!”
                     *
Như vẫn còn đâu đây
Thím Biềng, thím Lược, chú Cừ, Chú Lộ, chú Kiến, chú Cân
Bác Tiệm, bác Ba, bác Tập, bác Cật
Rì Mạc, cậu Tiền, bá Mùi, bá Vịnh
Ông Tầm, ông Mạo, bà Điếm, bà Quýnh, bà Chương, bà Thấu, bà Nô
Anh Thứ, anh Điền, anh Biều, anh Phô
Chị Nụ, chị Nhung, chị Xuân, chị Yến
Bạn Dũng, bạn Vô, bạn Dung, bạn Thắng
Em Mận, em Hồng, em Nết, em Na …
Những con dân của châu thổ sông Hồng
Lam lũ mà tươi vui
Hồn hậu mà khí khái
Chẳng kể bên Đạo, bên Đời
Không phân kẻ Đồng, người Bãi
Họ đã dậy ta lẽ sống làm người
Quý trọng anh em, thương yêu đồng loại
Có thể không chức quyền, giầu sang
Nhưng không được lọc lừa, cơ hội
Có người cả đời chưa đi quá gốc đa đầu làng
Còn nói chi đến những Nam Định, Hải Phòng, Hà Nội…
Có người cả đời đi làm thuê làm mướn xứ người
Ba mươi tết mới chen chúc về quê sấp ngửa dập dụi
Có người thất học vì mải lo tìm kiếm miếng ăn
Cầm tờ khai mà cũng không tự điền được tên được tuổi
Có người phát âm con trâu thành “con tâu”, đi làm thành “đi nàm”
Cũng do nói ít làm nhiều nên lâu dần hoá ra ngọng mồm cứng lưỡi
Có người bán cả gia tài quyết chí nuôi con ăn học nên người
Hy vọng sau này chúng có quyền được ăn được nói
Có người gặp thời gặp vận vừa mới chập chững phất lên
Biết tin nhà báo, nhà đài đã thay nhau tìm tới thăm hỏi
Đã từng nghe
“Nông dân là đội quên chủ lực của cách mạng” chao ôi biết mấy là vinh quang
Lại từng nghe
“Tiểu nông từng giờ từng phút tự phát đẻ ra chủ nghĩa tư bản” cha chả là nặng tội
Kinh điển đã dậy rồi ấy năm, ấy tập, ấy trang
Chỉ có quán triệt thôi không được hoài nghi xét lại(?)
Làng xóm tiêu điều hợp tác tan hoang
Loay hoay mãi rồi cũng đến thời “cải tổ”,“đổi mới”
Đã từng thấy
Quai đê lấn biển người dân quê đã làm ra bao nhiêu mùa vàng
Thế mà cái nghèo cái khó vẫn chưa thôi bám đuổi
Bán lưng cho trời đổi hạt lúa, củ khoai
Giong buồm khơi xa bắt con nhụ, con bẹ
Mưa nguồn, bão bể có người đi mãi không về
Trắng khăn tang quấn quanh đầu con, đầu mẹ
Đã từng thấy
Biển, đảo nước mình ngư dân vẫn chài lưới xưa nay
Bỗng nhiên bọn cướp biển xông tới bao vây hăm doạ
Có những ngư dân bị bắt giam hàng tháng trời
Phải mất hàng trăm triệu tiền chuộc mới mong được thả
Tàu chúng kia, cờ chúng kia, lơ lớ tiếng chúng kia
ấy thế mà chẳng hiểu sao “người phát ngôn” xứ mình lại nhất mực gọi là “tàu lạ” (?)
Đã từng thấy
Làm ăn, chống giặc người dân quê oằn nặng vai
Hết thiên tai, nhân tai, lại rập rình địch hoạ
Từ bên kia biên giới ngựa xe ngênh ngáo chúng sang
Từ ngoài khơi xa tàu chiến rùng rình chúng đến
Rốc két chúng phóng xuống từ trên trời
Đại bác chúng câu vào từ cửa bể
Đứa đe áp đặt lại ách “đô hộ phủ” xưa
Đứa doạ bắt phải quay lại “thời đồ đá” cũ
Sao dân Việt lại phải đương đầu với nhiều loại giặc thế?
Vì kẻ thù lòng sói dạ lang
Vì trớ trêu môi trường địa lý
Vì láng giềng nói chẳng như làm
Vì dân mình “dĩ hoà vi quý”
Vì chủ thuyết đến đận suy tàn
Vì cung đình thấp cơ, rối trí
Hay vì tất cả những cái đó cộng lại, nhân lên?
Không rõ!
Chỉ biết rằng:
Sau nhiều cuộc huyết chiến ác liệt và không cân sức ấy
Rốt cuộc kẻ tháo chạy vẫn là “chúng” - thật là thảm hại
Chúng là Thoát Hoan hèn nhát chui vào ống đồng
Chúng là Hoàng Phúc tự trói tay để mong được tha mạng sống
Chúng là Tôn Sĩ Nghị đang đêm mình trần trốn lủi thoát thân
Chúng là Đơcat Xtơri cùng lũ hàng binh cờ trắng run rẩy
Chúng là Matin cùng bọn tàn quân cuống cuồng cướp máy bay tháo chạy…
Trong cuộc huyết chiến ác liệt và không cân sức này
Một vài người được phong tặng dũng sĩ, anh hùng
Rất nhiều người đã hoá thành liệt sĩ, tử sĩ
Bao nhiêu nghĩa trang cũng chưa tìm hết cốt xương
Bấy nhiêu tượng đài tuổi tên cũng không ghi xuể
Hàng vạn bà mẹ mất con, mất chồng
Hàng vạn cô gái không cơ may làm vợ, làm mẹ
Hàng triệu thương binh, trẻ mồ côi, người tàn phế
Những quái thai - nạn nhân của chất độc điôxin
Đến hôm nay vẫn trên lộ trình đi kiện đòi công lý
Bác đơn, toà án phía bên bị tuyên bố “không đủ chứng cớ đòi bồi thường”
Củng cố hồ sơ, phía bên nguyên quyết kiện ra Toà án Quốc tế
Cả những cựu binh một thời ở chiến tuyến phía bên kia
Cũng chia sẻ đau thương dù chỉ là góp thêm chữ ký
Có những nạn nhân trước khi nhắm mắt lìa đời
Còn giối giăng lại rằng các “chiến hữu” quyết không được giữa đường nhụt chí
Thương thay những hương hồn nơi biên giới, hải đảo mới rồi
Chẳng được chính danh như lớp cha anh chống Pháp, chống Mỹ
Những Xướng Cau, Hoàng Quất, Nguyễn Chẩm, Nguyễn My
Ba Loan, Hoan Huỳnh, Trần Cường, Thức Tới, Lưu Tuỳ…
Tên liệt sĩ ghép thành tên thôn xóm
Xao xuyến lòng thầm gọi phút nhớ quê
ấy là chưa kể còn bao nhiêu những “thuyền nhân” bỏ làng ra đi
Ai làm mồi cho giao long
Ai cập “miền-đất-hứa”?
Có ngoái lại một lần bến quê
Vào cái phút xẻ đàn tan nghé
Rời đất mẹ những con Lạc cháu Hồng nghĩ suy gì?
Vì đói nghèo
Vì kỳ thị
Vì quyết chí thành kiêu
Vì phẫn chí hoá liều
Hay còn vì những gì gì đó nữa?
Không rõ!
Nay thấp thoáng có đôi ba người trở về
Trong vị thế “Việt-kiều-yêu-nước” thật là danh giá
Người đầu tư mở nhà máy, nhà hàng
Người bỏ tiền nâng cấp cầu cống, đường xá
Có người bảo có thể còn nâng cấp cả những nếp nghĩ, cách làm
Nếu chính quyền sở tại không cảm thấy lăn tăn cấn cá
Đã ngấp nghé trọn một vòng đời
Càng sống càng thấy nhiều chuyện lạ!
  “Còn non, còn nước, còn người
Thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay”
  Tóc giờ sắp trắng như mây
Bao giờ cho đến cái ngày… hơn xưa?

VI. Đấng sinh thành
Bóng dáng sinh thành như còn ẩn khuẩn đâu đây
Mẹ là chợ là chùa
Cha là đồng là bãi
Chợ là chỗ bán mua
Chùa là nơi chiêm bái
Đồng là chỗ cấy cày
Bãi là nơi lượm hái
Làm chung, ăn chung những năm tháng ấy
Từ tổ đổi công lên hợp tác xã đầu tiên
Được bầu làm chủ nhiệm bởi bố là đảng viên
Mà đảng viên nghĩa là “đầy tớ của nhân dân”
“Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”
Suốt ngày đánh vật với đất đai ngoài đồng
Đêm về lại liên miên học hành, hội họp
Mỗi người làm việc bằng hai vì đồng bào miền Nam ruột thịt
“Gạo không thiếu một cân, quân không thiếu một người”
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là lương tâm, lẽ sống một thời
Cả nước hành quân dân làng mình cũng hướng lên phía trước
Là cán bộ bố phải phân thân cho việc nhà, việc làng, việc nước
Vừa buông tay cuốc tay cày
Lại cầm cuốn sổ cái thước
Chỗ này kêu thiếu phân
Nơi kia réo thiếu nước
Ruộng cạn bừa không xong
Đồng sâu cày không được
Rồi bố lại cuốn sổ cái cân
Cân thóc ăn chia, cân lợn nghĩa vụ
Những năm ấy cái gì cũng phải chia thành suất, thành phần
Kẻ khen người chê là chủ nhiệm thôi thì lĩnh đủ
Bắn máy bay, lứa thanh niên thay nhau trực chiến dân quân
Quai đê biển, đám người già hăng hái nơi đầu sóng ngọn gió
Hợp tác xã lên cao, cần có chủ nhiệm năng nổ được việc hơn
Bố sang làm trại trưởng chăn nuôi suốt ngày đánh vật với phân gio, lợn gà, cám bã
Trại chăn nuôi tập thể nhanh chóng hết thời
Người ta lại điều bố về làm đội trưởng trồng cây trong xã
Người lại cùng các cụ sớm hôm lỉnh kỉnh quang gánh, xô thùng
Chỉ dăm năm bạch đàn, phi lao lại mướt xanh bờ vùng bờ thửa
(Ai bây giờ giễu cợt mỉa mai
Biết đâu rằng thời ấy nó thế!)
Người ta làm cán bộ mái ngói, tường xây
Bố làm cán bộ gia cảnh càng thêm bấn khó
Nhà đông con thành ra thiếu ăn thường xuyên
(Vì lẽ này mà cha mẹ bất hoà liên miên)
Bù lại nhà phải phụ thêm hàng xay hàng xáo
Ban ngày thay phiên nhau chúng con xay thóc ù ù
Ban đêm nối đuôi nhau anh em thìch thịch giã gạo
Những phiên chợ xa mẹ phải đội gạo ra đi từ sáng tờ mờ
Mẹ lại đội thóc về khi trời đã tối nham nhám
Đường về qua bãi tha ma
Rờn rợn vẽ vờn đom đóm
Chân mỏi mẹ cố tới nhà
Chúng con ra đầu ngõ đón
Quê mình chợ Quán, chợ Cầu, chợ Đông Biên, chợ Đình, chợ Chùa
Chợ Quán vì quanh chợ lắm quán
Chợ Cầu vì chợ họp gần cầu
Chợ Đình vì bên chợ có đình
Chợ Bến vì trên thuyền dưới bến
Chợ Chùa vì cạnh chợ có chùa
Xa hơn nữa là chợ ấp, chợ Trâu, chợ Cồn, chợ Viềng, chợ Bể…
Chợ họp có phiên, có buổi đông đúc kẻ bán người mua
Sản vật xứ bãi, xứ đồng thôi thì lớn bé đủ cả
Mớ cá, mớ tôm, xâu ếch, giỏ cua
Sọt bưởi, sọt bòng, thúng na, rổ khế
Hàng thóc, hàng gạo chỗ khảo chỗ đong
Hàng lợn, hàng gà lồng to lồng bé
Thơm thảo hàng bãi, hàng đồng
Tanh tưởi hàng sông, hàng bể
Nơi này đon đả chào mời
Chỗ nọ đôi co chí choé
Những hôm đắt hàng mặt mẹ rất tươi
Thoáng mặt mẹ buồn chắc là hàng ế
Quà cho con sang thì bánh đúc, bánh đa
Mèng thì cũng là quả bỏng, gióng mía
Chia nhau anh em thường thì cười nói hì hà
Có hôm phần kém phần hơn có đứa ỉ eo chạy đi mách mẹ!
Về già mẹ năng đi lễ bái đền phủ, chùa chiền
(Việc này cũng khiến cha mẹ không ít bất đồng)
Gần thì chùa thôn, chùa làng, rộng ra tới chùa Keo, Cổ Lễ
Đôi lần mẹ đã góp mặt nơi Chùa Hương, Phủ Giầy
Có năm mẹ còn lên cả Vạn Kiếp, Yên Tử
Bảo mẹ già rồi đường xá xa xôi núi non cách trở mẹ cố làm gì
Mẹ bảo có Thần Phật độ trì vừa đi vừa tụng kinh càng leo càng khoẻ
Một  ngày trời rước mẹ đi
Thế là chúng con mất mẹ
Đau lòng tử biệt sinh ly
Dù biết luật đời là thế
Bố sớm mất việc xóm việc làng thiếu người dậy sớm thức khuya
Mẹ ra đi việc họ việc nhà khuyết thêm kẻ lo toan dứng dả
Đã quy y nên chúng con rước mẹ lên chùa nương cửa Bồ đề
Là người duy vật bố chấp nhận dãi dầu cùng đất đai cây cỏ
Gặp lại nhau ở cõi trời phiêu diêu cực lạc kia
Bố mẹ hoà hợp bên nhau hay vẫn thường xuyên cãi cọ?
Không rõ!
Thưa đấng sinh thành!
Sáu anh chị em chúng con: một gái, năm trai
Nhờ trời đến nay vẫn đang sống cả
Đứa đủ chi tiêu
Đứa còn túng khó
Đứa tha phương tìm kế sinh nhai
Đứa cắm chốt chăm nom phần mộ
Đua tranh với đời không dám nói rằng khôn
Nhưng không làm gì đến nỗi phải tủi hổ
Trước khi nhắm mắt chẳng hiểu bố có những buồn vui gì
Nhưng có ba điều băn khoăn về “Thằng-Hà-Nội” thì là quá rõ:
“Một là vì sao nó không là đảng viên?”
(Trong khi các anh chị em lần lượt đứng vào đội ngũ)
“Hai là vì sao nó mãi không chịu lấy vợ?”
(Trong khi nó đã bước sang tuổi bốn mươi)
“Ba là vì sao đã là giáo viên trường Luật rồi
Nó lại rẽ ngang đi làm văn làm báo?”
(Cái nghiệp viết lách ở nước mình không khéo thì vào tù ra tội chứ chẳng chơi!)
Kính thưa bố:
Không là đảng viên thì con lại được là chính mình
(Là chính mình ở vào thời buổi này cũng đâu có dễ)
“Đảng viên” những từ viết hoa vẫn được xem là vẻ vang, cao quý
Người gàn dở như con đâu dám nguyện “xin thề”
Con chậm vợ vì chuyện bếp núc đời thường vụng về
(Nếu duy tâm thì cũng có lẽ tại vì con cao số)
Dẫu muộn mằn, nay con cũng đã hai con, một vợ
Các cháu vẫn chăm về quê nhang khói từ đường
Nghiệp văn chương ít nhiều do gien di truyền 
Là nông dân song con biết trong bố có dòng máu văn nghệ
Nếu gặp thời bình yên lại được học hành
Thì chắc bố cũng khó thoát được nỗi nhục vinh chữ “sĩ”
Đã sớm mồ côi lại trải mấy cuộc chiến tranh
Bố hy vọng các con sau này sẽ có ngày nối chí
Tiếc thay khi đất nước vừa chớm thanh bình
Bắt đầu “đổi mới”, “mở cửa” thì bố cũng về nơi tiên tổ
Nhưng dù có hay dở như thế nào
Thì thằng Tr. vẫn là con của bố
Không làm to cũng chẳng leo cao
Nhưng việc học hành không đến nỗi lỡ dở
Lấy câu văn, câu thơ vui thú thanh tao
Chức tước, lợi quyền thật không dám đua chen ham hố
Gót rỗ kỳ khu trên bước đường hoạn lộ
Cái bả vinh hoa đâu dám dấn thân vào!
Thưa bố:
Thú thực con cũng đã từng có lúc so sánh, ước ao
Nếu bố là thị dân hoặc là quan chức cấp cao, doanh nhân thành đạt
Mình chắc đã sớm có thẻ thông hành vào giới quan trường đa phương lắm cực
Nay mới thấy sao mà ấu trĩ tầm phào
Cúi xin người hai từ “lượng thứ”
Những dòng này thay cho một nén tâm hương
Cầu cho được âm phù, dương trợ!
  Làng quê nguồn cội bao đời
Ông bà cha mẹ nằm ngoài tha ma
  Nay người mai đến lượt ta
Bao giờ trời gọi ấy là… phải “vâng”!

VII. Cho các con
Ngoài bốn mươi tuổi bố mới có các con
Gốc gác nhà quê nên thân mật gọi là Tít, Mít
Mít là chị chân chất lành hiền
Tít là em lém lỉnh láu lít
Các con sinh ra trong yên ả thanh bình
Không đại bác cầm canh, máy bay rú rít
Xích-lô ta-xi đón đưa
Nội ngoại mừng thăm tíu tít
Nấu nướng giặt giũ chợ búa linh tinh
Giúp việc người quê hàng ngày bấn bít
Ăn thì những thịt nghiền nát, xương ninh nhừ cùng với nước cháo nước cơm
Uống thì những sữa Hươu Cao Cổ, Cô Gái Hà Lan lại còn nước cam, nước quýt
Nhức đầu sổ mũi đã sẵn thuốc uống, thuốc bôi
Đau bụng đau bão đã có kẻ đấm người xoa rối rít
Thèm gấu bông thì có gấu bông
Thích chó kít thì có chó kít
Lớn lên đến trường mẫu giáo Hoa Hồng, Hoa Mai
Sớm làm quen với xe máy, xe buýt
Không biết đến ngọn đèn dầu hoả là gì
Chẳng bao giờ phải mặc áo vá, quần bít-kê
Kim chỉ vá may chỉ là chuyện của Lọ Lem trong truyện cổ tích
Cứ mỗi khi nghe bố nhắc đến chuyện gian khó năm xưa
Các con lại bụm miệng cười rích rích
Lâu lâu một bận các con về thăm quê
Chẳng phân biệt nổi con trâu với con bò
Lầm con nghé với con bê
Lẫn lộn con rạm, con ra, con cua, con còng, con cáy
Thắc mắc rằng cùng là loài tám cẳng hai càng
Mà sao lại “đời cáy cáy đào, đời cua cua máy”?
Trố mắt nhìn vào cái cối xay
Tò mò trèo lên cái cối gạo
Reo lên khi thấy chú cá mắc câu
Hét lên khi thấy con đỉa đeo bám
Bằng tuổi các con bố đã ra đồng xuống sông
Biết làm sao khi đã là con cái nhà nông
Không chịu khó lam làm thì sẽ đói
“Đói” là gì ư? Các con sẽ hỏi
“Tháng tám đói qua,
Tháng ba đói chết”
“Được mùa chớ phụ ngô khoai
Đến khi thất bát lấy ai bạn cùng”
Những câu ấy người dân quê chân lấm tay bùn thường lấy làm lòng
Các con là dân phố ăn trắng mặc trơn khó lòng mà cảm nổi
Từ ngày có chính sách “giao ruộng”, ”khuyến nông”
Dù chậm chạp nhưng làng quê đã ít nhiều thay đổi
Đã đèn điện dẫu còn phập phù
Đã ti vi dẫu chỉ đen trắng
Đã xe máy dẫu là đồ Tàu
Đã computơ dù chưa nối mạng
Viễn cảnh “tam nông” nghị quyết đã vẽ ra
Năm năm, mười năm, hai mươi năm... nông thôn rồi cũng phải văn minh, hiện đại
Hiện đại phải chăng là nhà nào rồi cũng hon đa, tủ lạnh, ti vi
Ngoài đồng dọc ngang toàn những cày máy, gặt máy
Văn minh có nghĩa là không chửi tục, ỉa đồng, đái đường
“Hân hạnh”, “cảm ơn” sẽ thành câu đầu môi đầu lưỡi
ấy là nôm na mấy điều
Cái gì tới ắt rồi sẽ tới
Tuy nhiên, nó tới sớm thì người “chân đất mắt toét” còn có phận nhờ
Còn nếu muộn mằn thì các “lão nông tri điền” sẽ chẳng còn gì để nói!
Cái nhà gỗ cũ năm gian của ông bà để lại
Có cột có kèo
Sau nhà có vườn
Trước nhà có ao
Vườn thì trồng đỗ trồng rau
Ao thì thả muống thả cá
Trong chuồng ủn ỉn con lợn con gà
Ngoài sân xăng xái con mèo con chó
Chó mèo nhà quê thường tên “Mướp”, tên “Vện”, tên “Vàng”
Chẳng lịch sự  là “Jon”, là “Mik”, là “Bob” như chó mèo thành phố
Phung gio cái rế cái kiềng
Gác bếp cái lờ cái đó
Trên tường cái thớt, cái dao
Dưới đất cái nồi, cái chõ
Trải mưa nắng bão gió nay cái nhà đã hư heo
Nhưng với bố con mình vẫn là một gia tài vô giá
Là gia tài vì đó là mô hôi nước mắt của ông bà
Nó vô giá vì như người quê gọi là “hương hoả”
Thật khó giải thích rõ “hương hoả” là gì, “truyền thống”  là gì
Cũng như khó lý giải “chân quê” là gì, “hồn làng” là gì
Chỉ biết rằng nó không thể đếm đo, không dễ dứt bỏ
Ngỡ quên rồi thì nó lại hiện ra
Tưởng chôn đi nhưng nó vẫn đứng đó
Trước nhà ta có một chốn linh thiêng gọi là “từ đường”
Nơi một năm đôi ba lần các cụ làm cỗ gọi là “việc họ”
Trong từ đường có một thứ lưu truyền gọi là “tộc phả”
Cái cây có cội có cành
Con người có hàng có họ
Cây có cành có cội cây mãi mãi tươi xanh
Người có họ có hàng người đời đời khấm khá
Nhiều họ cùng chung một thôn
(Như thôn Đông thôn Đoài, thôn Thượng, thôn Hạ)
Nhiều thôn hợp thành một làng
(Như làng Bãi, làng Chài, làng Đồng, làng Bể)
Nhiều làng làm thành một xã
Những cái thiêng liêng lớn lao như Tổ quốc, Đất nước, Nhân dân
Thì cũng hình thành từ một thôn, một xóm, một làng
Thì cũng bắt đầu từ một nhà, một họ
  “Cây có gốc mới nở cành xanh ngọn
   Nước có nguồn mới biển rộng sông sâu
  Người ta nguồn gốc từ đâu
Có tổ tiên trước rồi sau có mình...”
Các con hãy ghi nhớ đinh ninh
Những câu mở đầu gia phong, gia phả
Trong gia phả có tuổi tên của cụ kỵ ông bà lẽ dĩ nhiên rồi
Tên tuổi của bố con mình sau này cũng sẽ ghi vào đó
Đây là thông điệp truyền lưu của gia đình, dòng tộc thôi
Nó không họ hàng gì với “sổ hộ khẩu” ở ngoài thành phố
Không dám mong sau này các con làm rạng danh cha mẹ họ hàng
Chỉ mong các con sống lương thiện và không làm điều gì thất thố
Cùng với từ đường
Còn là lăng mộ
Những cái thuộc về thể phách, tinh anh
Vừa “vật thể” vừa “phi vật thể”
Tưởng hư vô nhưng lại rất hữu hình
Lăng thường nằm trong “nghĩa trang”, “nghĩa địa” hay là“nghĩa linh”
Xưa kia gọi là “bãi tha ma” thì cũng thế
Đây là chỗ để làm việc hiếu việc nghĩa
Nghĩa địa quê mình nằm ở giữa cánh đồng trước làng
Quanh năm tắm gội gió trăng
Bốn bề ngát hương ngô lúa
Mỗi dòng họ quy vào một “lăng”
Trong lăng táng các phần mộ
Họ lớn lăng to
Họ bé lăng nhỏ
Họ nghèo lăng trồng cỏ, trồng hoa
Họ giầu lăng ốp gạch, ốp đá
Họ bình dân lăng là nơi chăm sóc phụng thờ
Họ thành đạt lăng là chỗ phô trương giàu có
Trong số đó có lăng của chi họ Phạm ta
Kích cỡ trung bình không nhỏ không to
Cảnh vẻ phong quang bốn mùa lộng gió
Bia mộ khắc tên cụ kỵ ông bà
Bố các con rồi có ngày cũng sẽ về nằm đó
“Lá rụng về cội” các cụ nói rồi
“Sống gửi, thác về” có chi là lạ
Sau này các con có ở đâu làm gì
Dù trong nước hay sang tận Anh quốc, Hoa Kỳ
Là thường dân hay là làm đại diện ở Liên Hợp Quốc
Thì cũng đừng lãng quên nơi này
Nơi này gọi là “nguyên quán” hay “chính quê”
Nơi này do sông bồi mà nổi lên
Nơi này do biển rút mà phát lộ
Tiền nhân vì sinh tồn mà đến đây
Tổ tiên vì dài lâu mà khai mở
Ông bà đã vì cháu chắt mà dựng xây
Bố mẹ đã vì các con mà gìn giữ
Dù các con không sinh ra và lớn lên ở nơi đây
Nhưng nó vẫn thiêng liêng và cực kỳ gắn bó
Với bố thì là nơi “cắt-rốn-chôn-nhau”
Với các con thì nó có tên là “quê-Cha-đất-Tổ”
Nhờ ơn âm đức mà dài lâu
Cần cù đắp xây mà rạng rỡ

VIII. Phố
Bắt đầu là làng
Có sông, có chợ
Có thị có thành
Làng dần hóa phố
Này là phố Cổ
Nép mình dưới cây
Này là phố Cũ
Nửa gỗ, nửa xây
Này là phố Tây
Vuông như sắp cỗ
Này là phố Ta
Vữa vôi dang dở
Phố nhà có số
Số một, số hai..
Phố xếp theo hàng
Hàng ngang, hàng dọc
Hàng Tiện thợ mộc
Hàng Bạc kim hoàn
Lem luốc Hàng Than
Trằng tinh Hàng Muối
Thơm lừng Hàng Chuối
Thơm ngát Hàng Hương
Ngọt ngào Hàng Đường
Nặng mùi Hàng Mắm
Hàng Sắt thì cứng
Hàng Bún lại mềm
Rộn rã Hàng Kèn
Vang lừng Hàng Trống
Hàng Buồm chẳng rộng
Hàng Đẫy chẳng to
Hàng Da chẳng bò
Hàng Cỏ chẳng ngựa
Hàng Lược chẳng lựa
Hàng Vải chẳng đo
Hàng Thùng chẳng gò
Hàng Hòm chẳng đóng
Hàng Cót thì đứng
Hàng Bồ thì ngồi
Hàng Mã lên ngôi
Hàng Mành nấp bóng
Kia là Hàng Lọng
Phố của vua quan
Nọ là Hàng Đàn
Phố của tài tử
Có phố bán chữ
Chữ “Nhẫn” chữ “Tâm”
Có phố bán dâm
Tiếng “Tom”, tiếng “Chát”
Phố nhà san sát
Nhà nát, nhà sang
Phố người chan chan
Người khinh, người trọng
Phố đường không rộng
Cách một câu chào
Phố nhà không cao
Gác trên, gác dưới
Phố cũng có tuổi
Sắp nghìn năm tròn
Phố cũng có hồn
Rì rầm ngõ tối
Phố cũng có bụi
Bụi đất, bụi người
Phố cũng có mùi
Mùi hoa, mùi rác
Phồn hoa, đạm bạc
ấy là phố tôi!
  Phố tôi có ngõ có người
Ngõ thì rất nhỏ người thời rất đông
Phố tôi có bãi có sông
Sông đỏ màu gạch bãi trồng đỗ ngô
*
Anh không có tuổi thơ ở đây
Rình chim, bắt ve
Săn chuột, đào dế
Trèo sấu, trèo me
Chọc ổi, chọc khế
Ngô nướng mùa đông, kem mút mùa hè
Lớn lên không là đứa con của đại lộ
Sáng một ly cà phê
Tối vài vòng bát phố
Bập bùng dăm nốt ghi ta
Điệu đà đôi nụ hôn gió
Tài hoa nhảy tàu điện ngã bảy ngã ba
Lịch lãm đứng ngồi nơi công viên công sở
Chưa từng sống cảnh hai nhà đối nhau cửa sổ
Chẳng hiểu vì sao “không khép lại bao giờ”
Những năm Hà Thành bom đạn mịt mờ
Không ôm be bé bằng bông sơ tán về làng Cổ Tích
Buổi uy thế không lực Hoa Kỳ rơi tõm xuống hồ Trúc Bạch
Không chạy theo tự vệ thành xem mặt giặc lái Giôn Mắc-kên
Những ngày pháo đài bay bê-năm-hai rải thảm phố Khâm Thiên
Cũng là lúc anh có giấy gọi vào khoa Văn Tổng hợp
Giống như rất nhiều số phận tuổi trẻ của một thời
Thay cho giảng đường anh đã vượt Trường Sơn nhập cuộc
(Đâu dám nói là đã từng vào sinh ra tử, dũng cảm như ai
Nhưng không đảo ngũ để mang tiếng là kẻ tham sống sợ chết)
Anh chỉ biết phố sau khi xe tăng húc đổ cổng dinh Độc Lập
Bản thân cũng đã nếm ít nhiều mùi vị chiến tranh
Hơn ba chục năm rồi ký ức vẫn long lanh
Tiếng tàu điện leng keng bến Bờ Hồ - Cầu Mới
Tiếng xe lửa tu tu kéo còi vào ga Hàng Cỏ - Hà Nội
Sương mù giăng
Nhấp nháy phố lên đèn
Hun hút ngõ lầy những tiếng rao đêm
- Ai bánh mì nóng đ…ơi!
- Ai bánh khúc đ…ơi!
- Ai xôi nếp, bánh giò đ… ơi!
Đêm ôn thi bụng đói sôi thèm một cái bánh mì giòn
Túi sinh viên đếm đi đếm lại tiền vẫn còn chưa đủ
Những câu thơ “giường tầng” viết vào những đêm Thượng Đình khó ngủ
Vẫn dạt dào thao thiết những… yêu em
Em Mễ Trì điệu đà, môi đỏ, tóc ngắn, kính trắng ôm cặp làm duyên
Em Làng Vòng chân chất, da nâu, tóc dài, nón mê bán cốm kiếm sống
Hiện hữu đời thường đan xen mơ mộng
Vừa chân chất thôn quê, vừa hoa lệ phố phường
Mọc ra
Những “Tôn Đản”, “Chợ giời” đẳng cấp bất công
Những “đổi tiền”, “giéc ba mươi” tối tăm mặt mũi
Những “vua lốp”, “núi điện” sớm tra tay vào còng
Những “phò phạch”, “con phe” sống chui sống lủi
Mọc ra
Những “quần loe”, quần bó”, “ áo Nato”, “áo phông”
Những đội “văn hoá học đường”, “thanh niên cờ đỏ”
Những xóm thơ “Thanh Xuân”, “Hoa lạ”, “Làng Vòng”,
Những “Bút tre giả cầy”, “Tiếu lâm hiện đại”
  Trần Côn bẩn nhất trần đời
Mình trần như nhộng ở nơi trần nhà
  Tổng hợp có Bạn là thù
Có Thiện là ác, có Khu là hiền
  Giữa Quán Gánh cạnh đường đi
Là trường Đại học Pháp Ly Hạ Nồi
  Bên kia là trại Văn Hoà
Bên này Pháp Lý cũng là trại giam (!)
  Một yêu anh có may ô
Hai yêu anh có cá khô ăn dần
  Mười năm lao động quang vinh
Không bằng chó giống xuất tinh một lần...
Hỡi cái thời “tem phiếu” khốn khổ, khốn nạn của bạn của tôi!
Người ta gắp thăm một cái xăm xe, chia nhau một mảnh quần đùi
Người ta cân nhắc lương tâm nhau qua một lần chia thịt
Người ta có thể cấu xé nhau chỉ vì đã xí phần viên gạch
Bìa A, bìa B cũng là phần quan trọng cấu thành nên nhân cách
Người ta tranh luận xem “người nuôi lợn” hay là “lợn nuôi người”
                                 *
Quên được sao
Đời sinh viên Tổng hợp cơm tập thể, giường tầng
Những bốc đồng khoa Văn, đăm đăm khoa Triết
Khoa Luật cãi nhau không bao giờ chấm hết
Quên được sao
Thuở hàn vi phố Cát Linh cơm bụi, nằm bàn
Không tính toán so đo những gì được mất
Thời gian khó cũng là thời lòng ta trong trẻo nhất
Quên được sao
Thuở tụ tập văn chương nhóm bạn làng Vòng
Cùng Trần Hoà Bình, Châu Hồng Thuỷ, Văn Giá, Chu Sơn… thập thành thơ phú
Nay đứa thành “nhà”, đứa thành “ma” ngoài nghĩa địa
Đứa lặn lội xứ người tuyết trắng rợn chiều đông
Quên được sao
Buổi “Tiền Phong” đăng cho bài thơ về mối tình đầu
Trăng vàng bờ đê in bóng người ngồi gỡ lời thề với cỏ
Hỏi, đã “chân quê” bao giờ thì  “chân phố”?
Thưa, phố váy ngắn chân dài cỏ biết bám vào đâu!
Quên được sao
Buổi lên lớp đọc bài giảng Luật Lao động lần đầu
Ta chẳng phải là cha tinh thần, em cũng không là con chiên ngoan đạo
Thầy vãi hết cả linh hồn trước câu hỏi của trò rất chi là táo bạo
Tóc bạc, da mồi ký ức thuở Đại học Pháp lý vẫn tươi nguyên
Quên được sao
Một sáng đầu thu chuyển về báo “Pháp Luật thường thức” số 5b Ông ích Khiêm
Với cây bút nguyện thề quyết chiến đấu cho công lý
Buồn thay, hơn hai chục năm sau khi đã mang danh phó giáo sư, tiến sĩ
Vẫn chưa thôi day dứt công lý là gì? Công lý có hay không?
Quên được sao
Những tháng năm lãng du nghiên cứu luật lệ ở xứ người
Mùa đông lê thê một mình ngồi sau cửa kính ngắm tuyết rơi
Nhớ nước nhớ quê nhớ Hà Nội nhớ quay nhớ quắt
Thèm trăm thứ linh tinh nhưng “phở” là thèm nhất
Từ Ông ích Khiêm chuyển về Cát Linh
Rồi Thái Hà - Quốc Tử Giám - Phan Văn Trị…
Dăm lần chuyển cơ quan là mất toi tuổi trẻ
Sắp hồi hưu vẫn loanh quanh nửa đạo nửa đời!
                     *
Trái đất tròn
Anh đã từng diện kiến khá nhiều nơi
Những cổ kính đền đài, vút cao điện tháp
Chẳng có hình dung từ nào tương xứng hơn ngoài những “hoành tráng”, “vĩ đại”, “tuyệt vời”
Hà Nội không tháp Epphen, không đồng hồ Bichben, hay bảo tàng Ermitát
Nhỏ nhắn, khiêm nhường làm sao những Cột Cờ, Tháp Rùa, Khuê Văn Các
Những điện cũ, đài xưa đã đổ nát mất rồi
Phần do nước lửa, binh đao, phần bởi chính tay người
Báo Thiên tháp ngất trời
Chỉ còn chân cốt móng
Quy Điền chuông trùm đời
Đã vào lò đúc súng
Cửu Trùng đài ra tro
Vũ Như Tô vỡ mộng
Kinh đô hoá cố đô
Hà Thành bị san phẳng
Hồng Hà không rộng dài như Von Ga, Dương  Tử, Tigơrat
Cũng chẳng trong xanh êm đềm như  Đôngơ, Đunai, Đờnhiep
Về mùa lũ nước sông đỏ quạch màu gạch non
Phi như đàn chiến mã cuồng say bạt gió tung bờm
Mang phù sa của trăm suối sông đắp bồi nên rộng dài châu thổ
Sông Đà nước đen
Sông Thao nước đỏ
Sông Lô dạt dào sóng vỗ
Mở ra một Nhị Hà - sông Mẹ - vạm vỡ mênh mang
Thấp thoi nhô lên những cồn trắng, đảo xanh, ngút ngát bãi vàng
Nhằm thẳng hướng đại dương mà hành tiến
Thoáng trầm tĩnh khi sông về gần biển
Sông là cái biển chờ
Biển là nơi sông đến
Biết biển nuốt sông
Sông vẫn về với biển
Chính con sông nửa hung dữ, nửa trữ tình
Vừa phá phách ngang tàng, vừa bối đắp phồn sinh
Là nơi khu trú cộng cư của người Việt cổ
Từ đó thăng hoa lên “Nền-Văn-Minh-Sông-Hồng” rực rỡ
Bên kia là Cổ Loa thành
Không đầu
Tượng Mỵ Châu đêm đêm vẫn chưa  thôi nức nở
Bên này là Thăng Long thành
Xoáy sâu
Lỗ đạn cửa Bắc vẫn ngày ngày nhắc nhớ
Đất này
Đã bao phen bị thiêu trụi bởi binh đao, đạn lửa
Cùng bao lần bị nhấn chìm trong mưa giông, bão lũ
Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội, với riêng ta, vẫn cứ trên cả tuyệt vời
Dù là tuyệt vời một cách bộn bề,
     khấp khểnh,
                        lôi thôi
“Hà Nội có cầu Long biên
Vừa dài vừa rộng bắc trên sông Hồng”
(Đã thêm những Thăng Long, Thanh Trì, Vĩnh Tuy…
Long Biên dĩ nhiên vẫn là cây cầu thứ nhất)
“Hà Nội có hồ Gươm
Nước xanh như pha mực”
(Có người bảo xanh màu rau muống luộc
Thì có sao đâu, thi sĩ có quyền mà)
“Hà Nội toàn phố ngắn
Bắt đầu từ Hồ Gươm”
(Bây giờ biết bao nhiêu phố dài hơn
Đã vượt quá sông Tô, cập bờ sông Nhuệ)
Thăng Long - Hà Nội còn biết bao nhiêu linh vật, linh địa
Chùa Một Cột thanh thoát như một bông sen từ bùn nước nhô lên
Sân Văn Miếu có đàn rùa đá lầm lũi đội hàng bia khắc những tuổi tên
Cạnh đền Ngọc Sơn là đài Nghiên, tháp Bút
Cột Cờ cửa Nam, Đoan Môn cửa Bắc
Bạch Mã trấn Đông, Voi Phục trấn Tây
Những cửa ô còn lưu dấu đâu đây
Đống Mác, Cầu Dền, Yên Phụ, Quan Chưởng, Chợ Dừa, Đồng Lầm, Cầu Giấy...
Là năm là bảy hay là mười cửa ô đến nay vẫn còn chưa thôi tranh cãi
Khói hương nghi ngút trùm phủ Tây Hồ
Mõ thảm từ bi vọng chùa Trấn Quốc
“Thăng-Long-tứ-trấn” sử sách còn ghi
“Bích-Câu-kỳ-ngộ” đạo quán vẫn đó
Cổ kính rêu phong với ba mươi sáu phố phường
Hiện đại trẻ trung cùng những khu đô thị mới khai trương
Sau những nói cười hào hoa thanh lịch
Hà Nội ẩn tàng lắng sâu long mạch
“Thành phố vì hoà bình” chưa nguội chuyện vinh danh
Trầm tích ngàn năm bỗng hiển lộ một Hoàng Thành
Này là đất nung đầu rồng, đầu phượng thời Lý
Này là men ngọc, hoa lam gốm sứ thời Trần
Đế cột chạm hoa sen to dầy gợi nhớ điện Kính Thiên
Viên gạch khắc Đại Việt cho biết thời Đinh Lê chế tác
Đài điện nguy nga
Vàng son lầu gác
Ngút ngát cùng hồ
Lung linh cùng tháp
Chim uyên ương tiết lộ một thời phồn thịnh thái bình
Súng thần công cảnh báo những đận binh đao trận mạc
Trầm tích bao thời cái này gợi nhớ cái kia
Văn hoá đa tầng lớp này chồng lên lớp khác
                                 *
Em trách anh đã nhiều năm ở phố
Sao chẳng rõ những điều giản đơn đến thế
Phố Hoè Nhai do ngõ xưa mọc lắm cây hoè
Phố Liễu Giai bởi thuở trước trồng nhiều cây liễu
Phường Nghi Tàm vì một thời thịnh nghề trồng dâu chăn tằm
Phường Trúc Bạch vì làng tre trúc lại có nghề dệt lụa
Tên Cầu Giấy vì nơi đây có nghề xeo dó làm giấy
Phố Hàng Buồm do ngày trước nơi này bên bờ sông Tô
Cửa Hà Khẩu thuyền bè thương nhân tấp nập vào ra 
Qua sông không luỵ đò nên nay mới có phố Cầu Gỗ
Buổi Lý Thái Tổ từ Hoa Lư ngược sông Hồng tìm chỗ mới định đô
Thoáng thấy rồng vàng bay lên nhà Vua mới đặt là Thăng Long thay cho Đại La
Ba mươi sáu phố phường cũng manh nha các “hàng” từ đó
Anh tài tứ xứ kéo về hợp thành chốn phồn hoa Kinh kỳ - kẻ Chợ
Này là chợ Mơ
Đua chen vào sáng
Này là chợ Hôm
Rộn rịp về chiều
Này là chợ Bưởi
Chen chúc nông dân
Này là Đồng Xuân
Leng keng tàu điện
Này nữa chợ Giời
Bán buôn tứ chiếng...
                                 *                                 
Em trách anh khá về các môn văn - sử
Mà sao “Thiên đô chiếu” của Lý Thái Tổ lại không thật rõ rành
“Trên vâng mệnh trời, dưới làm theo ý dân”, lại còn “xin ý kiến các khanh”
(Ai bảo đã là “Trẫm” thì không thể đề cao dân chủ)
Đất ấy rộng rãi mà bằng phẳng, cao ráo mà sáng sủa
Lại có cái thế địa linh của “rồng phục hổ ngồi”
Thật xứng là nơi đặt làm Kinh sư cho Đại Việt muôn đời
Việc trọng đại ngàn đời mà gói gọn trong vẻn vẹn hai trăm mười bốn chữ
“Xem khắp nước Việt…” tài đức ấy hỏi được mấy ai?
Em trách anh khá thông kim bác cổ
Việc chuyển đổi vương triều từ Lý sângTrần sao lại hoang mang
Thì lịch sử vô tình mượn tay vua gái Lý Chiêu Hoàng
Té nước vào cậu bé Trần Cảnh mà Thái sư Trần Thủ Độ đã một tay sắp đặt
Nếu không thế thì làm sao chống lại được vó ngựa lũ cường xâm Thát Đát
Làm nên Đông Bộ Đầu, Chương Dương, Hàm Tử… âm vang hào khí Đông A
Lịch sử, đến lượt mình, lại quá độ từ nhà Hồ chuyển sang nhà Lê
Đông Đô, Đông Quan, Đông Kinh… mới vang danh từ đấy
Sự tích rùa vàng đòi Gươm gắn liền với người anh hùng đất Lam Sơn - Lê Lợi
Mười năm nằm gai nếm mật chống quân cường bạo nhà Minh
Gò Đống Đa mồ chôn xác quân tướng nhà Thanh
Là chiến tích của người anh hùng áo vải ấp Tây Sơn - Nguyễn Huệ
Xưa Phú Xuân sau này là thành phố Huế
Đã từng là kinh đô của vương triều Nguyễn mấy trăm năm
Khiến bà Huyện Thanh Quan hoài cổ thành Thăng Long
Than khóc cho những nền cũ lâu đài, dấu xưa xe ngựa
Nguyễn Du lăn lóc gió bụi mười năm sau trở về Long Thành chốn cũ
Nghe tiếng đàn xưa đã nhỏ lệ xót thương cho mệnh bạc cô Cầm
Em bảo anh vẫn không quên chứ?
Sự kiện tàu chiến Pháp ngược sông Hồng hai lần vây hãm Hà Thành
Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu đã nối nhau tử thủ
Đau đớn thay khi đất nước ở vào vận bi, thế bĩ
Thì anh hùng, hỡi ôi, cũng đành chỉ than trời
Tám mươi năm nối tiếp nhau bao nhiêu máu chảy đầu rơi
Để đến một ngày Cách Mạng sục sôi Mùa Thu Tháng Tám
Rồi Ba Đình Tuyên ngôn sáng Mồng Hai Tháng Chín
Hiến pháp đầu tiên khai sinh nền Dân chủ - Cộng hoà
Đến lượt mình, cố đô, lại trở về với vị thế Thủ đô
Cờ đỏ sao vàng thành Quốc kỳ
Tiến quân ca thành Quốc ca
“Đoàn quân việt Nam đi…” âm vang từ đó
Em bảo rằng Sấm Trạng nói “Thăng Long phi chiến địa”
ấy thế mà Hà Nội còn thêm nhiều lần khói lửa
Khi kẻ thù muốn áp đặt lại ách thực dân xưa
Thì câu trả lời là “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”
Từ cảm tử quân ôm bom ba càng lao vào xe tăng Pháp “mùa Đông năm bốn sáu”
Đến chiến sĩ tên lửa trong 12 ngày đêm “mùa Đông năm bảy hai” nhằm thẳng vào pháo đài bay B52 bấm nút phóng
Vẫn âm vang hùng khí đất đế đô
Có mất mát đau thương nhưng không than khóc bao giờ!
Em trách anh đã mang danh thi sĩ
Sao vẫn nhạt mùi hoàng lan, vắng hương hoa sữa trong thơ
Đâu những mái chiều xao xác hơi mưa
Những trưa gác bập bùng phượng cháy
Thánh thót Văn Cao đứt nối suối mơ
Liêu xiêu Mã Mây hút rêu Xuân Phái
Nguyễn Huy Tưởng “sống mãi với Thủ đô”
Nguyễn Đình Thi âm vang “người Hà Nội”
Quang Dũng lang thang cùng “mây đầu ô”
Quang Vũ ngẩn ngơ với “vườn trong phố”
Em bảo sao anh cứ loanh quanh mãi với vườn xưa ngõ cũ
Sáng phải quần soóc áo phông dưỡng sinh quanh Hồ Gươm như thể người ta
Chiều ra bờ Hồ Tây lắng chuông chùa Trấn Quốc ngân nga
Tối vào nhà Hát Lớn thưởng một vài trích đoạn giao hưởng
Thứ bảy vác máy ảnh đi rình cụ Rùa Hồ Gươm bất ngờ nhô đầu đội sóng
Chủ nhật ra bãi sông Hồng hóng gió thưởng thức mùi vị ngô non
Tuần đôi lần ghé thăm Viện Gớt, Nhà Việt- Pháp, Nhà Việt-Nhật, Trung tâm Đông - Tây… để đầu óc được mở mang
Tháng dăm bận lui tới New Century, Hồ Gươm Xanh, Tràng An Quán…  cho tâm hồn thêm tươi trẻ
Em bảo chính cạnh Hồ Tây mịt mờ trời bể
Nguyễn Trãi đã thử tài thôn nữ “bán chiếu gon”
Nguyễn Huy Lượng đã từng viết “Tụng Tây Hồ phú”
Hồ Xuân Hương treo biển “Cổ Nguyệt Đường”
Anh bảo rằng anh cũng cũng có thơ về Hồ Tây
Anh sẽ đọc em nghe dù dở dù hay
Thơ rằng:
  Trăng lên nghiêng một tứ thơ
Hồ nâng gió dậy, gió chờ trăng cao
  Sâm cầm cánh ướt lao xao
Nghi Tàm Quảng Bá chỗ nào cũng trăng              
  Trăng là thuyền mộng chở đêm
Thuyền là trăng nổi êm êm mặt hồ
  Thuyền trôi vàng vỡ lô xô
Mặt thuyền đầy gió mặt hồ đầy trăng
Anh bảo rằng anh cũng có thơ về Văn Miếu
Anh sẽ đọc em nghe dù thừa dù thiếu
Thơ rằng:
Khuê văn gác không rộng
Hồ văn nước không sâu
Miếu văn tượng không lớn
Bia văn chữ không làu
Hỏi rùa lưng mải đội
Hỏi rồng râu mải chầu
Hỏi hạc cánh mải múa
Hỏi tượng mặt mải cầu
Chuông nhắc đừng quên lễ
Trống giục hội khai mau
Cờ bảo đề chữ “sĩ”
Văn mạch rồi dài lâu
                     *
Ẩm thực Hà Thành chẳng thiếu những thứ thơm ngon
Em bảo sao anh cứ vội vàng “thực bất chi kỳ vị”
Những bún ốc Hồ Tây, chả cá Lã Vọng
Cay xè cà cuống, xanh ngắt húng thơm
Bánh cuốn Thanh Trì mỏng như giấy lụa tẩm sương
Lá chuối bọc xanh nhuyễn như giò chả ước Lễ
Bánh cốm Hàng Than,
Phồng tôm phố Huế
Cà phê Hàng Hành
Kem cốc Thuỷ Tạ
Giòn tan là nem
Nức thơm là phở
Phở có tự bao giờ?
Cả những gánh phở gia truyền hàng chục đời cũng không thật rành rõ
Quê phở gốc gác đâu như từ đất Nam Định - cố hương anh
Nhưng phải ra kinh kỳ phở mới thực là “quốc hồn quốc tuý”
Đã là con dân Hà Thành
Hỏi xem có ai là người chưa từng một lần ăn phở
Du khách - anh là người nước nào chưa tỏ
Nhưng nếu chưa phở thế thì chưa thực biết Hà Nội đâu nhé!
Hà Thành biết bao nhiêu những thứ có biển hiệu “gia truyền”
Kể cả “xích lô gia truyền”, “tẩm quất gia truyền”
Có “phở gia truyền” lừng danh nhập họ
Phở Chất được mùi
Phở Thìn được vị
Phở Tư Lùn một dạo nhà hàng không kịp xếp ghế
Phở “Hai Tư” thời nay thật lịch sự khang trang
Phở “Bát Vuông” có băng rôn biển hiệu đàng hoàng
Nghĩa là đã bắt được nhịp sành điệu ở thời mở cửa
Nhưng lại vơi đi cái tinh thần bình dân một thuở
Cứ hôm nào thấy nhạt miệng nhạt mồm
Em lại bảo hay là hôm nay ta phở !
ừ, đi thì đi!
Nào, phở thì phở!
Quà Hà Thành hôm nay vẫn vui vẫn đông
Sao vẫn thấy như thiêu thiếu một cái gì đó
Thanh lịch, hào hoa, chung đúc, lắng trong
“Vang bóng” kinh kỳ một thời, một thuở
Một Tản Đà cầu kỳ
Một Thạch Lam tinh tế
Một Nguyễn Tuân nhâm nhi
Một Vũ Bằng chí lý
Đã có một Nguyễn Bính tinh cất “hồn quê”
Ai sẽ là người sẽ vinh danh “hồn phố”?
Hồn phố cổ kính lắng đọng rì rầm
Hồn phố trẻ trung vỡ giọng đâu đó
Chưa rõ!

IX. Hà Thành hồi cố
Hà Thành cổ bằng phố
Hà Thành rộng bằng hồ
Hà Thành cao bằng tháp
Hà Thành thiêng bằng rùa
Này Hàng Bồ, Hàng Bạc
Này Cầu Gỗ, Mã Mây...
Người mê phố đã mất
Ai lưu hồn phố đây?
Đây Bảy Mẫu, Hoàn Kiếm
Đây Thủ Lệ, Hồ Tây...
Người yêu hồ cũng khuất
Ai lắng hồn nước mây?
Báo Thiên: tháp đã đổ
Cửu Trùng: đài không thành
Trên nền xe ngựa cũ
Siêu thị vờn trời xanh
Chứng tích cho truyền thuyết
Còn sót một Cụ Rùa
Lâu lâu ngoi lên thở
Rồi lặn sâu đáy hồ
Chẳng như thơ Bà Huyện
Than "tạo hoá gây chi..."
Gọi một ấm trà nóng
Quán cóc ngồi nhâm nhi

X. Hai khúc sông Tô
I.
Chảy cùng huyền thoại
Một  Tô Giang trong ngần
Cánh buồm trắng in dấu
Thăng Long
Đông Đô...
  Hỡi người, khuất lấp như sông
Lật câu ca cổ tìm dòng Tô xưa
  Thuyền rồng ngự kín mui Vua
Cung tần, mĩ nữ mắt đưa nghiêng thành
  Trời xanh sông nước cũng xanh
Thuyền em ghé sát thuyền anh tự tình
  Không Vua thì cứ là mình
Trồng rau, xeo giấy cũng xinh nét cười
  Thế rồi cửa lấp, bến bồi
Hàng Buồm nhường chỗ cho thời hộp đêm
  Thế rồi Chợ Bưởi mọc lên
Tô Giang xắt khúc lỡ duyên về chiều
  Thế rồi đất chật người nhiều
Sông thơ bỗng hóa sông tiêu bao giờ...
II.
Nhà anh ở cạnh sông
Gần Cầu Giấy
(nay là tên quận mới)
Sống lại rồi ư, con sông huyền thoại
Đá đổ đầy bờ kè cọc nhấp nhô?
  Tên sông giờ vẫn là Tô
Vàng son vang bóng đế đô một thời
  Tên sông gợi nhớ dáng người
Tô sóng với Lịch, Lịch ngồi cùng Tô
  Hà Thành sót một khúc thơ
Đá xanh kè xám đôi bờ cỏ len
  Bây giờ Chợ Bưởi liền phiên
Người ta đến chợ đờ-rem, a-còng
  Bây giờ Cầu Giấy mở thông
Nhiều xe lắm biển, chỉ không thấy thuyền
  Bây giờ Phường Láng thành tên
Giã từ mẹt húng em lên sạp hàng
  Bây giờ lỗi nhịp thi đàn
Anh thành phụ việc chạy bàn cho em!

XI. Làng trong phố   
  Đất này vốn đất ngoại ô
Thoắt thôi nâng cấp nội đô thật rồi
  Bán mua rặt những khóc cưưười
Đất thì lạ chủ, ngưưười thời lạ nhau
  Làng xưa vãi húng, trồng rau
Phố giờ cắt tóc, gội đầu nhưưư ai
  Ngõ xưưưa thoang thoảng ngâu, nhài
Ngách giờ lởm chởm mảnh chai, mảnh sành
  Cửa thiền cát-xét tụng kinh
Nhà hàng khuất lấp mái đình, cây đa
  Tình xưa gắn bó dưưưa cà
Tình nay động tý ra toà ly hôn
  Bảo buồn thì có hơi buồn
Bảo vui thì cũng lấy "phồn" làm vui  
  Chưa qua một cuộc đổi dời
Ngoái trông vời vợi một thời đã xa
                     *
  Chỗ này xưa gọi làng Hoa
Đẹp duyên Hữu Tiệp - Ngọc Hà sánh đôi
  Từ ngày hoa bướm về trời
Thay cho tỉa cảnh anh ngồi… vặt râu
  Chỗ này xưa gọi làng Rau
Lừng danh húng Láng, mát câu chào mời
  Từ ngày làng - phố đổi ngôi
Thay cho quang gánh chị tôi…. cháo lòng
  Chỗ này xưa gọi làng Vòng
Tiếng chày giã cốm uốn cong trăng vàng
  Từ ngày phố nuốt mất làng
Những em giã cốm chuyển sang… làm đầu
  Chỗ này nữa…  có còn đâu
Chỗ kia cũng sắp nhuốm màu phôi pha
  “Trăm năm trong cõi người ta”
Mười năm bãi biển đã là nương dâu!
                     *     
  Yêu em biện một cơi trầu
Đến nay chữ “biện” tìm đâu chỗ ngồi   
    Ai xui danh thiếp lên ngôi
Để cho hồng cốm đến hồi lãng quên?
  Yêu em yêu bởi cái duyên
Nét “duyên” nay cũng biến thiên theo thời 
  Ai xui dầu gội lên ngôi
Để cho hương bưởi thẹn mùi săm-pul?      
  Yêu em yêu xóm, yêu thôn
Cảnh “thôn” nay nhuốm hoàng hôn mặt người
  Ai xui số hoá lên ngôi
Nhà nhà gắn biển để rồi “một”… “hai”...?
  Hôn em, em bảo: anh ơi
Kiểu hôn cũng phải tân thời, chứ anh?
  “Tân thời”… đâu phải… “tân thanh”
Đoạn trường thoáng bóng áo xanh hiện về!

XII. Phố nửa làng
Ban ngày phố nhưưư làng
Em tóc vưưương rơm cỏ
Đêm về làng hoá phố
Em mắt nâu môi trầm
Hội đến đã bao lần
Vẫn nửa quen nửa lạ
Xe lướt trên rơm rạ
Tai nghe nhạc xập xình
Đi tìm cây trúc xinh
Tang tình… cây còn gốc
Chị Hai đứng một mình
ố tình… chị Hai khóc
Nhấn ga lên quán Dốc
Cây đa ngả xuống rồi
Anh Hai túm tụm ngồi
Tính chuyện đào cả gộc
Dỗ chị Hai đừng khóc
Chị Hai bảo “ứ vào”
Van anh Hai đừng đào
Anh Hai bảo “xem đã”
Rẽ thăm chủ tịch xã
Ngài sửa soạn ra đồng
Lệnh giải phóng mặt bằng
Không được chậm tiến độ
Quay xe về thành phố
Ngang qua phía đình làng
Tiếng các cụ râm ran:
“Quê mình đất văn vật…”

XIII. Chợ quê mở giữa nội đô
   Chợ quê mở giữa nội đô
Trên phố đu nhún, dưưưới hồ thuyền bơi
   Dăm nàng yếm thắm tân thời
Váy bò cạp trễ chào mời vắt ve
   Vài chàng khăn xếp, áo the
Kính tròng lap-top lập loè văn nhân
   Nơi này "gút gút" làm thân
Chỗ kia "hảo hảo" thêm phần cố tri
   Hỡi em, bánh cuốn Thanh Trì
Đắt thì bảo đắt, ăn thì vẫn ăn
   Này anh, phở tái phở lăn
Gia truyền Nam Định miếng thăn, miếng gầu
   Nem Thanh lưưườm nguýt chả Tàu
Vạn Vân rưưượu hũ đấu nhau Jôn thùng
   Pep-si, bảy-ăp tưưưng bừng
Quà quê ngô nưưướng, kẹo vừng nằm không
   Tò he xanh đỏ đứng trông
Nhật Tân cầy quán quạt hồng bánh đa
   Rủ nhau vào hiệu mat-sa
Ra cửa mấy bác làng ta thất thần:
   Có "mới" song chẳng thấy "tân"
Vẫn "quê" nhưưng liệu còn "chân"… mà về ! 

XIV.Thị dân
Sống lâu ở phố
Hoá thành thị dân
Thị dân trong mặc
Váy áo ngắn dần
Thị dân trong ăn
Chán cơm có phở
Thị dân trong ở
Nhà ống mái tôn
Thị dân phát ngôn
Cám ơn! Hân hạnh!
Thích coi phim ảnh
Thuê đĩa xi-đi
Muốn uống cà phê
Quán vưườn mờ ảo
Rất chăm đi dạo
Vì ngại bụng to
Cần gọi xích-lô
Thì ra đầu phố
Thuê một tốp thợ
Cứ đến chợ ngưười
Cả đến khóc cưười
Cũng có dịch vụ
Sống lâu ở phố...
XV. Mê hồn phố
Thơ thẩn tìm chân quê
Lạc vào mê hồn phố
Từ ngày khơi mạch “phồn”
Thấy bao nhiêu chuyện lạ:
Xuân trước gặp chị Hai
Chùa Hương ngồi gõ mõ
Chị Hai xinh nhất phố
Bỗng xuống tóc đi tu
Xuân này thấy anh Ba
Phủ Giầy ngồi viết sớ
Anh ba giầu nhất sở
Thoắt sắm vai “thủ từ”
Đêm nào gặp chú Tư
Bích Câu ngồi tom, chát
Chú Tư soạn “giáo trình”
Giờ tay đàn, tay tráp
Tối qua đụng thím Năm
Xe hơi vào nhà hát
Thím Năm tay đầy vàng
Trước là dân bãi rác
Nhớ lần gặp bác Sáu
Tay xách va ly tiền
Bác Sáu từng vượt biên
Nay chuyên làm từ thiện
Sáng bắt tay cháu Bảy
Cháu Bảy xưa phụ nhảy
Giờ tuyển thủ cầu mây
Cháu vừa thắng cả Tây
Đi tìm gặp bác Cả
Kể bấy nhiêu chuyện lạ
“Phỉ phui cái mồm anh!”
Bác Cả cười ha hả

XIV. Duyên kỳ ngộ
Nhớ biển tìm ra sông
Chẳng sông suối thì hồ ao cũng được
Nhớ đồng tìm ra bãi
Chẳng bãi thì sân thượng cũng xong
Đến hồ ao, sân thượng cũng không
Thì miễn là có nước
Có nước là có ang cây,
Có nước là có bể cá
Nhớ núi: đắp non giả
Nhớ rừng: trồng bon-sai
Không núi, không cây
Một cóng-bơ-hoa treo ngoài cửa sổ
  Đung đưa, đung đưa, đung đưa
Những chiều cả gió, những trưa vắng người
  Gió thì chỉ biết rong chơi
Người xây nhà hộp để rồi… cóng bơ
Rưới một chút nước
Thấy đời xanh thêm
Lắng tiếng chim hót
Từ lồng nhà bên
Chạm vào đôi mắt
Vừa tròn vừa đen
Bắt được cái miệng
Vừa xinh vừa duyên
Thế là trưa ấy
Nói cười huyên thuyên
Thế là đêm ấy
Thức thi với đèn
Chập chờn bắt gặp
Giáng Kiều - Tú Uyên
   Ngờ rằng đã mất từ lâu
Kỳ ngộ còn một Bích Câu chốn này
   Cổng ngoài "xổm bệt" hàng bày
Sân trong "đạo quán" thờ thầy Tú Uyên
   Lách qua ồn ã mặt tiền
Tĩnh tâm mờ ảo mặt thiền hiện ra
  Động cành bưướm nép vào hoa
Ngưười nấp vào giấy, trần nhoà mất tiên
   Cầu tranh mà hoá cầu duyên
Giáng Kiều hiển sánh Tú Uyên, ý trời
   Tâm hưương một nén thay lời
Trời rằng: "Ta kén chọn người để cho
   Thời nay rốn trễ cạp bò
Gặp "quỷ" thì có, đừng chờ gặp "tiên"
   Bích Câu cũng thể Đào Nguyên
Duyên kỳ ngộ ấy là duyên một lần!"
   Lời truyền vừa dứt tiếng ngân
Từ trong hưương khói bần thần bưước ra
  Hỡi ơi, lại phố lại nhà
Lại chìa vé số, lại rà xe ôm
  Thập thò cửa kính khung nhôm     
Đậu phụ lại chấm mắm tôm dậy mùi
  Cái mất thì đã mất rồi
Cái còn nhấp nhổm đứng ngồi chẳng an

XVI. Làng phố tương giao     
  Tuổi trẻ ra phố bỏ quê
“Tri thiên mệnh” bỗng nhớ về điền viên
  Dẫu không thẹn với Đào Tiềm
Cũng theo Nguyễn Khuyến tái duyên quê nhà
  Đường làng vẫn đường làng ta
Đèn cao áp đã đuổi xa trăng vàng
  Đầy đường xe máy dọc ngang
Cái luồn ngõ Huyện, cái sang chợ Cầu
  Mẹ già mới mất ít lâu
Chợ giờ trống chỗ bán trầu, bán vôi!
  Đầu đường thoáng dáng em tôi
Mắt xanh, môi đỏ đang ngồi đợi ai
  “Người ta Hàn Quốc, Mã Lai
Thì em cũng phải liệu bài chứ anh?”
Giữa đường dưới tán cây xanh
Bạn tôi đang cúi gập mình bơm xe
“Con đông, ruộng hết, chân què…”  
Bạn cười khoé mắt đỏ hoe cả chiều
  Cuối đường rộn tiếng hò reo
Đuổi theo trái bưởi trẻ nghèo cùng vui
“Nhà hàng hoá giải sân chơi  
Chúng em đành phải ra nơi mặt đường”
  Thăm quê lòng dạ vấn vương
Phần buồn cảnh sắc, phần thương nỗi đời
Toét!… toe! Giật thót cả người
Đoàn xe quan khách hú còi lướt qua
  Rẽ tìm lối cũ về nhà
Ngoáy đuôi chú Vện chạy ra đón mình
                *
  Đêm nay rời bỏ thị thành
Về nghe ếch nhái kêu quanh ao làng
  Khi chẳng chuộc, lúc rộn ràng
Đêm càng sâu lắng, tiếng càng lâm ly
  Tiếng rằng, mới đó nhà quê
Trúc tre soi bóng liền kề đầm ao
  Sông tôm cá, bãi chấu cào
Tháng ba trời đổ mưa rào sấm vang
   Từ ngày cơ giới về làng
“Công nông” đầu dọc, đầu ngang hãi hùng
  Lấp ao, đổi thửa, khoanh vùng
Ai còn cấn cá là không thị trường
Tiếng rằng, vui lắm hội làng
Dưới ao rối diễn, trên đường rồng bay
Sân đình cô Tấm rơi hài
Để cho Hoàng Tử trổ tài… ướm chân
  Điệu chèo từ độ cách tân
Ba phần rốk-rép bảy phần ơí a:
  “Gái làng í í í gái làng ta
Lấy chồng Đài-Bắc… ắc ắc ắc… hoá ra Việt kiều”!
  Tiếng rằng, ruộng ít người nhiều
Trông vào hạt thóc trăm điều lo xa
  Lo con học, lo sửa nhà
Nữa lo cha héo, mẹ già nay mai
  Hàng xóm sắm xe, lên đài
Nhà mình không có cũng dài mặt ra
  Vay vốn phải thế chấp nhà
Xuất khẩu thì ngại đường xa xứ người
  Tiếng rằng, dự án lập rồi
Không khu công nghiệp, cũng thời sân gôn
  Số ít bảo thế là khôn
Không đô thị hoá thì còn nghèo lâu
  Số đông ngờ vực hỏi nhau
Không dưng mình cũng nhà lầu, xe hơi?
  Đồng làng sắp hoá sân chơi
Muốn nghe tiếng ếch nữa rồi tìm đâu!

XVII. Là ếch
  Là ếch, ta chỉ mong mưưa
Trưước tìm bạn gái, sau thưưa với trời
  Vô tưư nào biết có ngưười
Bụi bờ rình rập chờ thời chộp ta
  Ta đâu phải lão ba ba
Cậy mình vỏ cứng thò ra, thụt vào
  Ta đâu phải gã cào cào
áo xanh, áo đỏ lao xao bờ đầm
  Ta - kẻ lĩnh xưướng giọng trầm
Giữa dàn giao hưưởng tiễn xuân sang hè
  Ta - kẻ réo gọi hồn quê
Sông xưưa khuất lấp hiện về trong mơ
  Trần truồng vũ điệu mừng mưưa
Trong dạ tiệc nưước khởi mùa "phồn thê"
  U uôm... ộp oạp... tê mê 
Ôm nhau chết bởi lăng-xê chính mình!
  Xưa nay trong kiếp phù sinh   
Hỏi rằng đưược chết vì tình, mấy ai
  Tìm xem khắp chốn tượng đài
Thấy đâu hình bóng của loài lưỡng thê
  Buồn cho những kẻ về quê
Chẳng vang “chẳng.... chuộc” còn gì là đêm

XVIII. Cỏ
  Cùng nhau men lối bờ đê
Giữa bao la cỏ em mê cỏ nào?
   Thuở ấy tóc để chỏm đào
Cầm tay cỏ dắt anh vào xưưưa xa
   Hồn nhiên nhất đám cỏ gà
Chọi nhau túi bụi để mà cưưười vui
   Mập to đích thực cỏ voi
Cỏ mật thì ngọt, nhọ nồi lại đen
   Cỏ may xiên một mũi kim
Chân vịt mỏng mảnh, chân chim loè xoè
   Cỏ lăn, cỏ lác, cỏ le
Khoẻ nhưưư cỏ gấu lại e cỏ gừng...
   Trâu bò lúc lắc cặp sừng
Bên nhau gặm cỏ thung dung chiều hè
  Mục đồng tóc gió vàng hoe
Vật nhau trên cỏ để khoe đùi lưưườn
  Chắp tay vái cỏ dọc đưưường
Hẳn là mấy bác tha hưưương về làng
   Lúa là một giống cỏ hoang
ông cha thuần dưưưỡng mùa màng trĩu bông
   Quê mình hoa cỏ đầy đồng
Ngoài thành phố cỏ phải trồng đó em.

XIX. Là trâu
  Gặm cỏ để rồi kéo cày
Kéo cày gặm cỏ lâu ngày thành chai
  Buồn thì lại ợ ra nhai
Lắc mông xua muỗi, vẫy tai đuổi ruồi
  Sướng thì cong tớn cái đuôi
Chân cẳng dậm dựt, “của giời” lắc lư
  “Hùng hục như họ nhà tru”
May đời chưa rủa là ngu với đần
  Từ ngày về với thảo dân
Trên thừng xiên mũi, dưới chân lội bùn
Trưa hè nước bỏng như đun
Chiều đông sương muối rét run từng hồi
  Vụ năm cho chí vụ mười
Hạt vàng người hưởng, rơm mời trâu ăn
  Lòng riêng thoáng chút lăn tăn
Vẫn thề đi với thảo dân trọn đời
  Là trâu tớ cũng thích cười
Đánh lừa lão cọp hỏi người “trí khôn” (!)
  Là trâu tớ chịu anh Bờm
Ba bò chẳng đổi, đổi hòn xôi to (?)
  Tớ mà có cái quạt mo
Gạ người đổi lấy một vò rượu ngon
  Uống say vằn mắt, gếch mồm
Hỏi rằng: “máy hoá” người còn dùng ta?
  Có thịt nhớ chừa sừng, da
Góp vào bộ gõ cùng là bộ hơi
  Kiếp trâu đưa tiễn kiếp người
Tùng!
Bi… ri!
           Cắc!
Thế rồi… nấc lên!

XX. Mục đồng  
Mục đồng là trẻ chăn trâu
Ăn sống ăn sít vật nhau cả ngày…”
  Mục tử là chúng anh đây
Lưng trâu từng cưỡi, liềm tay đã cầm
  Cắt cỏ không sợ gai đâm
Lội ruộng chẳng hãi âm thầm bùn rêu
  Con gái nhóm lửa, thùa thêu
Con trai đánh trận hò reo dậy trời
  Đóng bè chuối để tập bơi
Phất diều mong thả lên trời ước mơ
  Trâu thì bữa đói, bữa no
Người chăn quần áo khét mù như trâu…
  Một ngày chẳng hiểu vì đâu
Đua nhau kéo đến cả Tàu lẫn Tây
  Kẻ đóng cọc, người chăng dây
Biển treo: đất này đã chủ đầu tư (?)
  Thế rồi đường xá bụi mù
Đen ngòm nước thải lừ đừ sông quê
  Thế rồi đứa đi làm thuê
Đứa theo chồng ngoại chẳng về thăm nhau
  Đường làng hết vết chân trâu
Đồng làng hết cỏ, tìm đâu…. mục đồng!

XXI. Dã tràng tự bạch
  Xe duyên giữa biển với bờ
Cớ  chi lũ sóng xoá mờ tình tang
Để cho miệng lưưưỡi thế gian
Dệt thêu nên "chuyện dã tràng" kể chơi
  Vì không giữ được bạn đời
Xe cát lấp biển cho vơi hận mình
  Thế là từ gã thưưư sinh
Ta thành một kẻ thất tình, dở hơi
  Thế là từ kẻ yêu đời
Ta thành một gã biển trời bằng vung
  Chẳng tin hỏi họ nhà Thông
Trót phải lòng biển ta không muốn về
  Chôn chân mãi chốn thôn quê
Hay ra phố thị hành nghề thưưương gia
  Bãi bờ riêng một mình ta
Dẫu thân cua cáy nhưưưng mà thanh tao
  Đời tẻ nhạt, đời ca dao
Thì ta xe cát tôn cao miệng đời
  Miệng đời tròn méo theo thời
Dù rằng đang khóc hay cười đều thương
  Dã tràng hay đấng quân vương
Gẫm ra thì cũng vô thường cả thôi!

XXI. Tễu: ba trong một
                     I.                     
  Cởi trần đóng khố múa chơi
Hát rằng, giữa đất và trời có ta
  Đất là mẹ, trời là cha
Chính danh gọi Tễu, tự là Thảo Dân
  Gia tài độc một chữ "cần"
Trọng thực thường lấy chữ "ăn" làm đầu
  Bạn thì những chó cùng trâu
Những bí cùng bầu, những lúa cùng ngô
  Người ta bầu rượu, túi thơ
Mình thì khuya sớm bụi bờ đó đăng
  Vui cùng con diếc, con măng
Buồn thì gõ bát hát nhăng giải sầu
  Ra trận đành phận tốt đầu
Về làng thì lại cưỡi trâu ra đồng
  Ai nhanh hoá hổ, hoá rồng
Ta tuy trâu chậm nhưng không sá gì
  Kéo cày đã cực chai lì
Khi giương sừng nhọn hổ thì ngán ta
Đã cười, cứ phải ha! ha!
Đã hát, cứ phải í a... tình  rằng...
  Đã ngắm, cứ phải Thị Hằng
Đã uống, cứ phải tính bằng hũ, ang
  Giáo trò nhân lúc xuân sang
Tễu tôi xin được trình làng đôi câu
                     II.
  Độc một mảnh khố che thân
Giấc mơ xuất ngoại đâu phần Tễu tôi
  Ai ngờ dân giã lên ngôi
Thế rồi Tễu cũng đưược ngồi máy bay
  Ngất ngưư trên chín tầng mây
Giật mình nhòm xuống nhà Tây chọc trời
  Lung linh mặt nưước xứ ngưười
Diễn ra đủ cả khóc cưười xứ ta:
  Mình voi lẫm liệt tưướng bà
Rồng thiêng phun lửa, rùa già đớp gưươm
  Nào là đánh dậm, úp nơm
Cày bừa, tát nưước, nhào rơm, cất nhà
  Nào là đám cưưới, đám ma
Hát chèo, đấu vật, chọi gà, đánh đu...
  Miền "gà trống", xứ "sưương mù"
Ngữ ngôn dẫu khác, gật gù giống nhau  
  Thì ra Tây cũng nhưư Tàu
Cũng thèm của lạ, cũng giàu hồn nhiên
  Thì ra lắm của, nhiều tiền
Cũng cười cùng Tễu cho quên sự đời
  Cũ ta lại hoá mới người
Hồn quê “rối nưước” một thời, kém ai!
  Thực là có một, không hai
Tễu tôi xuất ngoại chuyện dài... hơn sông
                     III.
  Dưới khố, trên áo gi-lê
Đầu mang mũ phớt Tễu đi xứ người
  Âu-Tây gô-tích chọc trời
Âm dương ngói úp nghìn đời á-Đông
  Chán chê xúc-xích, dăm-bông
Màn-thầu, sủi-cảo cũng không lạ gì
  Nơi nâng bát, chỗ cụng ly
Trả lời phỏng vấn rồi thì ôm hôn
   Người rằng: “rối nước hớp hồn
Đã câu “giã bạn” liệu còn gặp nhau?”
Tễu rằng: “chắc cũng chẳng lâu!”
Chắp tay đáp lễ, nghiêng đầu gút-bai!
   Người tung mũ, kẻ vẫy tay
Ngất ngư lại chín tầng mây trở về
  Bỏ mũ phớt, cởi ghi-lê
Phất phơ giải khố ao quê thật mình
  Này nước tre trúc lung linh
Này mây lồng bóng thuỷ đình gần xa
  Này người dân giã quê ta
Cắc tùng nhịp trống, ối a điệu chèo
  Trò xưa, tích cũ trong veo
“Trình-diễn”, “xếp-đặt” ăn theo ngập ngừng
  Ngàn năm vận hội phục hưng
Tễu mang hồn Việt sánh cùng thế gian

XXIII. Hồn
  Hôm xưưưa em đi tỉnh về
"Tách" hàng khuy bấm... buồn tê cả lòng
  Em giờ "roạt" cái là xong
Phéc-mơ-tuya hẳn làm ông... hết hồn!
  Dẫu gì, hiện đại vẫn hơn
Van ông, ông chớ nặng buồn làm chi
  Kể nhưưư cái chuyện "chân quê"
Đã xưưa nhưư thể "lời thề cỏ may"
  Đến nhưưư cái chuyện lấy Tây
Vào thời mở cửa sự nay cũng thưưường
  Còn nhưư cái chuyện văn chưưương
Nặng phần xếch xéc, nhẹ đưưường thanh tao
   Lại nhưưư cái chuyện thấp cao
Mái bằng mái nhọn, cái vào cái ra
  Xác mình hồn của ngưưười ta
Cố hưưương cũng khác chi là tha hưưương
  Nhịp nhanh cơ chế thị trưưường
Muốn buồn cũng chẳng kịp buồn, thưưưa ông:
  Lục bát ngưưười viết vẫn đông
Đúng vần, đủ điệu chỉ không thấy... hồn
  Mồng tơi dậu vẫn xanh rờn
Chỉ bươm bưưướm trắng không còn đưưưa thưưư!
  Sông xưa cầu đã thay đò
Sang ngang lỡ bước bây giờ… mình tôi!
  Hồn làng xác phố hỡi ơi
Giao duyên một khúc ai người tri âm?

XXIV. Hỏi                                         
Đã “thơ phú giao duyên”, lại “làng phố giao duyên”
Có “giao” không, khi phú khác thơ, khi làng khác phố
Có “duyên” không, khi thơ nép phú, khi phố nuốt làng?
Gã đầu bạc ơi!
Thương tiếc mà làm chi mái đình cây đa, bến đá trăng vàng
Những bèo dạt mây trôi, cò la cò lả
Cánh cò trắng từ lâu đã chết khô trong sách vở
Muốn biết thân cò con trẻ thời nay phải lặn lội vào thảo-cầm-viên
Thay chỗ cây đa hôm nào là cây-ống-khói ngạo nghễ vút lên
Phun những đen sì mà cụ Đồ Chiểu năm xưa muốn “chạy ra cắn cổ”
Chí Phèo thời nay đi làm vệ sĩ bảo kê cho vũ trường, nhà hàng trên phố
Về quê tậu đất lập trang trại là những chàng Xuân Tóc Đỏ mới phất lên
Cụ Cố Hồng bây giờ xe hơi về gặp cụ Bá Kiến thường xuyên
Giữa chiếu rượu làng Hiện Đại cụ cứ gật gù: “chưa biết, sướng lắm, nói nữa, nói mãi!”
Lão Hạc sau khi bán chó, bán vườn chẳng những thôi kiếp cô đơn thui thủi
Mà nghe đâu còn thường cặp kè với đám thằng Mục, thằng Xiên
Giáo Thứ từ lâu cũng đã dứt bỏ lũ học trò cùng đèn sách, bút nghiên
Hoà vào đội quân xuất khẩu lao động mãi đâu tận xứ I-rắc, Cô-oét
Hỡi ôi, nói gì đến làm giầu, làm sang, làm đẹp
Chỉ để làm người lương thiện thôi cũng đã đủ nhọc nhằn
Người ta bảo:
Thời nay, đã cũ lắm rồi những “tiên học lễ, hậu học văn”
Hãy nhớ lấy chữ “đoạt”, chữ  “tranh”, chữ “quyền”, chữ “biến”
Thay cho chữ “hiếu”, chữ “trinh”, chữ “cần”, chữ “kiệm”
Những bảo tàng, nhà hát, thư viện… tốt thôi, nhưng xin quý vị cứ thư thư
Phải có ngay những ri-zót, plaza, sân golf để thu hút vốn đầu tư
Khi đã có tiền rồi thì, “mèo trắng mèo đen” có lo gì không vồ được chuột!
Người ta bảo:
Thời nay, nếu không là tứ trụ triều đình, văn võ quan viên
Thì cũng phải là người mẫu chân dài, doanh nhân bụng nở
Nếu không có bố làm to, có nhà mặt phố
Thì cũng phải có sổ tiết kiệm ngân hàng, có ki-ốt cho thuê
Thế mới biết chữ “thời”, chữ “thế” thực là gớm ghê
“Thác lộ”, “phùng thời” “tốt” hay “xe” ai mà biết được!
Chẳng thế mà:
Mãn Giác, thời Lý, răn rằng “sự trục nhãn tiền”
Đặng Dung, thời Trần, cảm hoài  “thời lai đồ điếu”
Nguyễn Trãi, thời Lê, di hận “hoạ phúc hữu môi”
Nguyễn Bỉnh Khiêm, thời Mạc, luận giải “thất thế đắc thời”
Ngô Thì Nhậm, thời Nguyễn,  cắn răng “thế thời phải thế”
Phan Bội Châu, thời Tây, nghiến răng “giang sơn tử hĩ”
Chẳng thế mà:
Ai có quyền thì nguời đó sẽ độc tôn chân lý
Sẽ áp đặt bóng mình trong phê văn, chép sử
Ai có tiền thì người đó sẽ cầm trịch luật chơi
Sẽ “Suối mơ”, “Thiên thai” ngay giữa trần đời
Không quyền, không tiền thì cứ ngồi mà sáng tác, tối tác
Tự huyễn hoặc rằng sẽ có ngày di cảo, hồi ký vươn mình sống dậy… lên ngôi!
Chẳng thế mà:
Tú Xương giật mình tưởng nghe tiếng ếch kêu sông Lấp
Thì ra giữa dòng Mê vẫn ngóng ai một tiếng gọi đò
á Nam thác lời người vợ nơi bến tàu tiễn đưa anh Khoá
Cái khăn trầu bao lần ngập ngừng đã thắt lại mở ra
Nguyễn Bính khóc than cho thân phận mình sang ngang lỡ bước
Với bao kiếp người đương thời đổ bóng xuống sân ga
Đoàn Văn Cừ níu giữ một đám rước xuân, một phiên chợ tết
Về đâu hỡi những cư dân nô nức dưới trăng tà?
Này, gã cỏ may!
Đã quá nửa cuộc đời hãm mình trong thành, chung thân với phố
Mùa đông trải đệm Kim-đan, mùa hè bật Nick-ko điều hoà nhiệt độ
Có phải đạo không khi ngồi Quan-Hoa-Các mà thương nhớ đồng quê?
Lại còn cao giọng “bồi tụng” những văn minh này, những hiện đại kia
Khi sông làng mình đang chết dần vì ô nhiễm
Khi biển quê mình cá tôm ngày một hiếm
Khi đảo nước mình láng giềng mưu độc chiếm
Trai gái làng đang lũ lượt kéo nhau đi
Thì thơ phú giao duyên như vậy để làm gì?

XXV. Khép
  Sao người lại hỏi làm chi
Giao thì phải hợp, duyên thì phải nên
  Chữ rằng “thập nhị nhân duyên”
Đá vàng cũng lắm, biến thiên cũng nhiều
  Làng từng tìm thật mà yêu
Phố nay lấy khéo làm điều vinh danh
  Không làng tự đánh mất mình
Thiếu phố thật khó đua tranh với đời
  Biết rằng có một chữ “thời”
Chẳng quên chữ “thế” tuyệt vời dịch kinh
  Chữ “lý” bắt bí chữ “tình”
Chữ “yêu” chữ “gét” lình sình cả hai
  Cậy chi đến chuyện chữ “tài”
Khi mà liền với chữ “tai” một vần
  Chữ “may” chữ “rủi” cùng sân
Chữ “được” chữ “mất” cũng gần hỡi ôi   
  Công nghiệp hóa mốc cắm rồi
Hiện đại hóa cũng men thời mà lên
  Bão bùng thời đại thông tin
Toàn cầu hóa vẫn dò tìm luật chơi
  Luật chơi tung hứng đầy vơi
Hỏi kẻ cầm trịch là người nào đây
  Gió Đông xoắn xuýt gió Tây
Thuở trước che chắn, thời nay đón mời
  Thật thà có chốn có nơi
Khéo khôn cũng phải chờ thời lựa cơ
  Thực dụng nuôi lớn mộng mơ
Mười tin bởi có một ngờ đó thôi
  Chữ nghĩa thông tỏ lẽ đời
ậm ừ ra vẻ như người thấp cơ
  Ngẫm xem trong cõi mộng mơ
Tựu thành thì ít ất ơ thì nhiều
  Nói chi những “khoản” những “điều”
Càng cao quyền lực càng teo tình người
  Biết thân thấp thế, lỗi thời
Giữa làng và phố đành ngồi giao duyên
  Sâu sắc phát lộ hồn nhiên
Rạ rơm khuất lấp một miền phồn hoa
  áo xiêm mớ bảy mớ ba    
Khép vào tưởng phố mở ra thấy làng.

               12/2008 - 7/2009
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.10.2009 10:05:11 bởi tamvanvov >
#1
    tamvanvov 10.10.2009 22:01:22 (permalink)
    Khi đưa trường ca này lên, thì bị đổi phông chữ, không thể đọc được.
    Tôi đã đổi hết các phông chữ sẵn có ở đây song vẫn không được.
    Mong bạn nào biết cách thì đổi lại phông chữ để mọi người đọc được trường ca này.
    Cảm ơn.
    #2
      tamvanvov 18.10.2009 10:20:48 (permalink)
      Cảm ơn bạc Mars đã đổi giúp Fonts chữ để mọi người có thể đọc được trường ca này của nhà thơ Phạm Công Trứ.
      #3
        tamvanvov 24.10.2009 23:27:06 (permalink)
                                          Chính danh gọi Tễu...
                            ( chân dung nhà  thơ Phạm Công trứ )
                  
                                                                                                               Nguyễn Chu Nhạc
         
                  Ấy là một gã đặc biệt. Đặc biệt người, đặc biệt thơ. Cứ nhìn cách gã đặt tên cho những đứa con tinh thần của gã-các tập thơ là đủ thấy : Lời thề cỏ may I-II-III, rồi Cỏ may thi tập ; Phồn thi I-II và tới đây là Phồn thi III, để hoàn tất thành Phồn tập.
                  Tôi thì nhất quyết gọi gã là Tễu. Đơn giản bởi tôi thấy gã đã tự họa chân dung mình khá ấn tượng trong bài thơ Tễu :
                            Cởi trần đống khố múa chơi
                           Hát rằng, giữa đất và trời có ta
                           Đất là mẹ, trời là cha
                           Chính danh là Tễu, tự là Thảo Dân ...       
                  Còn tên khai sinh do cha mẹ đặt cho là Phạm Công Trứ- Tiến sĩ Luật- Nhà thơ- Nhà báo.  
                  Thật khốn khổ cho cái thân gã, sinh ra lớn lên đã phải mang vác những tên tuổi lớn trên thân xác cực kỳ quê mùa của mình.
                  Thoạt đầu là cái tên. Công Trứ , khiến người ta nhớ đến danh nhân Nguyễn Công Trứ- Doanh điền sứ, nhà thơ và nhà khẩn hoang lỗi lạc của đất Việt thời Nguyễn, đầu thế kỷ 19. Có lẽ cha mẹ gã, những nông dân của vùng đất biển bồi Hải Hậu ( Nam Định ) vốn là những người hiểu biết nên lấy tên Công Trứ  đặt cho gã, một để tỏ lòng kính trọng với danh nhân Nguyễn Công Trứ, người đã có công sáng lập ra hai huyện nguyên là vùng đất mới bồi, Tiền Hải ( Thái Bình) , Kim Sơn  (Ninh Bình ), hơn nữa, cũng là sự kỳ vọng vào tương lai của gã. Hẳn sau này, nếu tài danh không mấy nổi thì gã cũng có cớ để biện bạch rằng, vị danh nhân kia họ Nguyễn, còn gã họ Phạm.
                  Khốn nỗi, chẳng hiểu gã có biết rằng, trong lịch sử xa xưa, còn có một người trùng danh tính với gã, song lại rất nổi tiếng, ấy là Phạm Công Trứ, một nhà chính trị danh tiếng, nhà sử học thời Lê, đầu thế kỷ 17. Ông này sinh năm 1600, quê Liêu Xuyên, Đường Hào ( Hưng Yên ), đậu tiến sĩ năm 1628, làm quan to trải các chức Đô ngự sử, Thượng thư Bộ Lễ, Thượng thư Bộ Lại, Tham tụng phủ Chúa, tước Yến quận công, người từng được nhà vua giao trọng trách cùng với cộng sự đương triều sửa chữa và duyệt bộ quốc sử Đại Việt sử ký toàn thư .
                  Thôi rồi, gã hết đường biện bạch nếu chẳng may sự nghiệp không thành. May thay, gã không hổ danh đội tên danh sĩ, danh nhân, dù thân xác quê mùa, trí tuệ chú Tễu. đã từng và hiện vẫn đứng trên bục giảng của giảng đường đại học mà cao giọng giảng luật học, cũng tiến sĩ và thơ phú như ai, lại thêm cái danh nhà báo, dẫu chẳng dám so sánh với tiền nhân, thì cũng có thể tự hào mà đứng trong trời đất này !...
                  Tôi biết Phạm Công Trứ khi đã nổi danh với bài thơ Lời thề cỏ may, sau cả khi lấy bằng Phó tiến sĩ Luật từ Liên Xô về, làm việc tại Báo Pháp luật, và còn độc thân. Trứ tuổi Quý Tỵ, tôi tuổi Đinh Dậu, hơn kém những 4 tuổi, song chơi ngang hàng, xưng hô ông-tôi thân mật. Chúng tôi biết nhau nhờ cùng là cộng tác viên của Báo Nông nghiệp Việt Nam. Biết thì thế, song chơi được với nhau lại qua trung gian là Trần Đăng Khoa và Trịnh Bá Ninh  ( hiện là Phó Tổng biên tập Báo NNVN ). Tiếng là thân, nhưng không gần. Cứ ai việc nấy, lâu lâu gặp nhau do hẹn hò hoặc tình cờ thì vẫn có chuyện để mà nói. Ngồi với nhau, lúc tại công sở, khi nhâm nhi tách cà-phê nơi quán xá, đủ độ thân để thật lòng chuyện nghề, chuyện thơ văn, chuyện gia đình, chuyện đời... Khi nghe nhau nói, lúc hăng lên cùng tranh nhau nói, một bộc trực to tát, một uyển chuyển nhỏ nhẹ hơn, và chưa bao giờ bất đồng hoặc gay gắt đến phát cáu, đến mức một ai đó phải bỏ đi trước. 
                  Song le, nhắc đến Phạm Công Trứ, thì phải nói đến thơ của gã. Thơ lại dăm bảy loại, Phạm Công Trứ chỉ gắn với thơ lục bát thôi. Thế quả có thiệt cho gã, bởi thơ không lục bát gã cũng có ối bài hay, song người đời đã nghĩ thế, cho là thế, nên đành vậy, thanh minh mà làm gì .
                  Như một định mệnh, Phạm Công Trứ đến với người yêu thơ bằng lục bát Lời thề cỏ may, rồi cứ đà tiếp mạch nguồn tuôn chảy. Hễ đụng đến lục bát là ngòi bút của gã trơn tru, tung tẩy, uyển chuyển làm sao. Tôi biết, với ngần ấy tập thơ, Phạm Công Trứ đã được nhiều nhà phê bình thơ để mắt, săm soi, và trong số đó, đáng kể là Vũ Quần Phương, Trần Đăng Khoa, Vũ Nho và Chu Văn Sơn. Khen chê đủ mùi, có cả chuyện bảo gã ngồi vào chiếu của Nguyễn Bính. Dẫu vậy thì có sao đâu.
                  Quả thật, Phạm Công Trứ sở trường về thơ lục bát. Song le, khốn nạn thay cho gã, ngay cái tên đã đội danh nhân lên đầu, đến nghiệp thơ cũng không thoát khỏi kiếp con rùa vào chùa đội hạc ra đình đội bia , phải đội các bậc cao thủ  tiền bối thơ lục bát là Nguyễn Du, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu và Nguyễn Bính. Là kẻ hậu sinh, dẫu chỉ bén gót các bậc danh tài tiền bối cũng chẳng có gì xấu hổ. Xét hiện tại, trong làng thi ca Việt mình, chiếu thơ lục bát có mấy người thành danh thì trong số ấy cũng có tên gã. Bốn người ngồi bốn góc : Nguyễn Duy-Lê Đình Cánh-Phạm Công Trứ-Đồng Đức Bốn, mỗi người riêng một vẻ hay.
                  Chơi với Phạm Công Trứ, cũng thích nhiều bài thơ của gã, tôi đã tự chọn và bình dăm ba bài, đăng báo chỗ này chỗ nọ. Lẽ dĩ nhiên, cũng na ná những bài viết của làng phê bình ta, khen một tý và chê một tý, rồi cộng thêm tham số hy vọng bằng kết quả bài thơ ( tập thơ ). Tôi không thông báo, cũng chẳng kể công gì với gã, song gã để ý và gom góp đủ cả. Lại còn tuyên bố, khi làm tuyển các bài giới thiệu phê bình thơ gã, thì gã sẽ chọn lựa đưa vào. Không rõ đến bao giờ gã mới làm cái tuyển đó? A ha, gã đã vậy thì sợ gì mà không biếm họa chân dung gã ?
                  Tôi từng viết một bài tạp văn Sân trăng ( in trong tập Lên núi tầm mai - NXB Văn học-2005 ), lấy cảm hứng từ mấy câu thơ của gã: " ... Vợ thì mặt khó đăm đăm/ Con thì ọ oẹ đái dầm cả đêm/ Mình thì ngồi xuống đứng lên/ Trăng thì cứ vãy đầy thêm như trêu ". Tôi gán chàng thi sĩ trong tạp văn ấy vào gã, và còn rủa khéo, bảo gã hãy bỏ cái chốn phồn hoa đô hội mà về quê cày cuốc cấy hái, để rồi tha hồ ngắm trăng. Gã biết, không giận bạn, mà lại cười hiền.
                  Thoạt trông tướng gã quê quê, lại thêm ẩm ương thơ phú, nhiều người lo không biết gã làm gì ra tiền để nuôi vợ con ( một vợ, hai con-một gái một nữ ). Đùng một cái, gã mua đất xây nhà lầu ở Cầu Giấy. Xây nhà rồi, lại còn bắt chước người xưa đặt tên chữ nữa. Thảo am thì quyết không phải rồi, thế thì phải là hiên, hoặc các, lâu chi đó. Kể từ đấy, nhiều bài thơ, gã đề bên dưới là Quan Hoa các, hoặc giả Nghênh Phong hiên, hay Vọng Nguyệt lâu...cho thêm phần nho nhã. Vậy mà Tễu , một kẻ đặc quê mùa và láu cá lại được ra đời từ đấy.
                  Đa phần người yêu thơ, biết đến Phạm Công Trứ là nhờ Lời thế cỏ may. Hẳn tự thân gã cũng nghĩ vậy, thế nên mới có chuyện gã lấy tên một bài đặt cho cả tập, rồi không những một mà cả ba tập, lại còn thành tên tuyển. Tôi biết, trong cuộc đời, đã có bao nhiêu cô gái sướt mướt chùi nước mắt, bao kẻ ngậm ngùi nhớ về cái thuở " ngồi gỡ lời thề cỏ may ". Song chuyện gió trăng ấy chỉ là những phút thăng hoa ban đầu dễ làm người ta lầm tưởng, thực ra, không mấy hợp cái tạng của gã. Gã là fonklore , gã tưng tửng mang mình ra mà tự trào để rồi bông lơn, trêu ghẹo, châm chọc cả  làng, cả tổng, cả thiên hạ.( Đâu kém cạnh gì các cụ Nguyễn Khuyến, Tú Xương cùng quê với gã ). Tôi lại cho rằng, sự nghiệp thi ca của gã là ở trâu với cỏ, là ở Bờm với Cuội, là ở Tễu kia.
                  Tễu sinh ra ở quê, đích thị nông dân. Ở quê, Tễu là đệ nhất, đếch sợ bố con thằng nào. Vậy nên, Tễu mới " cởi trần đóng khố múa chơi ". Hãy xem cái chú Tễu của gã tự bạch : " Đất là mẹ, trời là cha/ Chính danh gọi Tễu, tự là Thảo Dân/ Gia tài độc một chữ cần/ `Trọng thực thường lấy chữ ăn làm đầu / Bạn thì những chó cùng trâu... ". Nhưng đâu chỉ lầm lụi, hèn mọn, cần lao,Tễu bình thường cam phận là thế : " Ra trận đành phận tốt đầu/ Về làng thì lại cưỡi trâu ra đồng " , song lúc máu yêng hùng nổi lên thì nhất là bét nhé: " Kéo cày đã cực chai lỳ/ Khi giương sừng nhọn hổ thì ngán ta ". Gì thì gì, Tễu vẫn biết và trở về với thân phận giáo trò của mình.
                  Đấy là Tễu gốc. Biến tướng sang Tễu II , Tễu ta không còn chính hiệu nông dân nữa, mà đã nhuốm màu thị dân rồi. Nghĩ phận mình bèo bọt, cỏ rả " Độc một mảnh vải che thân/ Giấc mơ xuất ngoại đâu phần Tễu tôi ", Tễu đâu tài cán như Trạng tiên tri mà biết, chỉ là chó ngáp phải ruồi, há miệng chờ sung may sung rụng thôi: " Ai ngờ dân dã lên ngôi/ Thế rồi Tễu cùng được ngồi máy bay ". Tễu ta ngồi máy bay, nhòm xuống nhân gian thấy dân làng mình cấy cày vất vả, mới ô hay biết phận mình bấy lâu là thế. Rồi trải đất Tàu trời Tây, diễn trò đồng áng , thảo dân ma lanh hết xứ gà trống đến xứ sương mù, trở về quê, chợt thấy mình không còn là nông dân nữa. Vậy không là nông dân thì là ai ? Là thị dân chứ còn gì. Nhưng muốn thành thị dân thì cũng phải có điều kiện gì chứ? Đơn giản thôi, thì cứ  " sống lâu ở phố/ hóa thành thị dân ".
                  Thế là thành Tễu III, thị dân, kiêm nghệ sĩ. Tễu-thị dân khác hẳn với Tễu-nhà quê hồi mới bén mảng ra phố " Nhà quê khí huyết tràn trề/ Tớ đi rung cả vỉa hè Đồng Xuân ".  Thêm nữa, sau lần đầu xuất ngoại, Tễu ta quen mui. Bây giờ xuất ngoại với Tễu không còn là may, đã thành chuyện cơm bữa. Tễu biểu diễn chuyên nghiệp, mặc thì quen với gi-lê , mũ phớt, ăn thì quen xúc-xích, dăm-bông, màn-thầu, sủi-cảo, nói năng thì gút-bai, nỉ-hảo... Đấy là trước đám đông Tây Tàu bộ tịch thế thôi, chứ hễ xong việc trở về, Tễu ta chỉ dễ chịu khi là chính mình, với khố áo , với tre trúc ngõ quê, với ao bèo sân đình, với ối a điệu chèo và câu dân ca não buồn giã bạn đếm trăng.
                  Tễu ta đành lột xác, song chớ trêu thay, nỗi ám ảnh nông dân bám lấy Tễu, lẽo đẽo theo đi mọi lúc mọi nơi, trung thành và nhẫn nại. Kỳ thực, bước ra với đời thì cũng bộ tịch thế thôi, chứ sâu thẳm cõi lòng, nếp văn hóa làng quê Việt luôn ẩn chứa " Này nước tre trúc lung linh/ Này mây lồng bóng thủy đình gần xa ". Kỳ cùng cho đến một ngày kia, con cháu Tễu tiễn đưa Tễu về nằm lại nghĩa địa làng bằng một đám rước ra trò !... Song trước khi sắp đặt sẵn cho Tễu một kết cục bi hài, hãy xem Tễu ta sống ở phố thế nào, ăn ở với dân khối phố, đối xử với kẻ phường ra sao ?
                  Tễu ta, thị dân : " Thị dân trong mặc/ Váy áo ngắn dần/ Thị dân trong ăn/ Chán cơm có phở/ Thị dân trong ở/ Nhà ống mái tôn/ Thị dân phát ngôn/ Cám ơn! Hân hạnh/ Thích coi phim ảnh/ Thuê đĩa xi-đi/ Muốn uống cà phê/ Quán vườn mờ ảo/ Rất chăm đi dạo/ Vì ngại bụng to/ Cần gọi xích lô/ Thì ra đầu phố/ Thuê một tốp thợ/ Cứ đến chợ người/ Cả đến khóc cười/ Cũng có dịch vụ ...". Mọi việc dễ ợt, như là lẽ đương nhiên. Ở quê khó hơn nhiều.
                   Quanh đi quẩn lại, Tễu thấy mình chỉ có thể về quê, đánh bạn với trâu. Đấy là con vật luôn gần gũi, thân mật với mình, buồn vui chia xẻ cùng mình. Tễu nhận mình là Thảo Dân. Trâu lại là bạn của thảo dân : " Từ ngày về với thảo dân/ Trên thừng xiên mũi, dưới chân lội bùn/ Trưa hè nước bỏng như đun/ Chiều đông sương muối rét run từng hồi/ Vụ năm cho chí vụ mười/ Hạt vàng người hưởng, rơm mời trâu ăn/ Lòng riêng thoáng chút lăn tăn/ Vẫn thề đi với thảo dân trọn đời ".
                  Xin được nhắc lại, gã biết tuốt song giả ngây giả ngô, tưng tửng, chất chưởng, chẳng ngại gì và cũng không ngán ai . Thấy chướng tai gai mắt là phê, là trào lộng. Bây giờ thì gã quen với cái giọng điệu này rồi. Châm chọc, chê bai rồi gã cười. Cười chán cười chê, cười đến trào nước mắt. Rồi gã giật mình, tỉnh ngộ. Lại buồn, lại hoài cổ, hoài quê... Thân phận gã đâu khác thân phận Tễu kia chứ ?!
                  Khi ngồi với vài ba bạn bè thân mật, lúc ngồi riêng với tôi, Phạm Công Trứ không tiếc lời khen chúng bạn, rằng ông này nhàn, cậu kia thì sướng, tay nọ khôn ngoan...chỉ riêng gã là khổ. Cơ khổ. Rằng cái mặt gã ... ý muốn nói là khó coi, khó chơi, hãm tài ... ! Có phải vậy không ? Có lần tôi giở trò chữ nghĩa suy luận, mang tên gã ra chiết tự mà đoán : Trứ , có nghĩa là sự rõ ràng, còn chỉ sự soạn thuật, làm văn, làm sách ( theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh ), chữ này bao gồm chữ giả và bộ thảo đầu. Giả ở đây là chỉ người ( như học giả, hiền giả ), còn bộ thảo chỉ cây cỏ . Vậy là kẻ đội tên Trứ muốn thành  giả ( như tác giả thi ca chẳng hạn ) là phải nhập vào cây cỏ. Chẳng trách, thoạt đầu gã thành danh là nhờ cỏ may. Rồi để nổi tiếng hơn lên, gã phải gắn với trâu, với cỏ, rồi hóa thân vào Bờm, vào Cuội, vào Tễu, toàn những loại gần gũi thân thuộc với thôn xóm, với chuyện cỏ rơm và công việc nông phu.
                  Phạm Công Trứ nghe. Gã gật gù cười ra chiều tán đồng, lại như nghi ngờ. Thì cũng là chuyện vui thôi mà. Định viết thêm về gã, song thấy chẳng hơn gì gã tự bạch rất ngắn gọn : " Đúng là/ Hồn gửi ngõ quê/ Xác chôn hẻm phố/ Chưa giây phút thăng thiên/ Đã đôi lần thất thố/ Nhờ câu thơ làm tin/ Lấy đức năng thắng số/ Sớm muộn trời gọi mình/ Việc chi mà lo sợ ".
                  Không những thế, ở phần V bài Thơ phú giao duyên , gã thẳng thắn tự giễu cợt mình : " Nửa kim nửa cổ/ Dăm câu trần tình/ Vừa thơ, vừa phú/ Chắp nhặt linh tinh/ Nếu có điều gì/  Xin được lượng thứ/ Hoặc nữa : chấp chi / Hắn-Phạm Công Trứ ! ".     
                  Gã đã chơi bài ngửa, trắng phớ trước bàn dân thiên hạ.Trước tiên, gã lấy bản thân ra mà châm biếm cái đã ( kiểu như cụ Tú Xương, người cùng quê Nam Định với gã, tự rủa mình là kẻ cao lâu thường ăn quỵt, thổ đĩ lại chơi lường, rồi mới xỏ đổng thiên hạ ; hoặc như bạn thơ cùng thời là Trần Đăng Khoa, trước khi chê cả làng văn chương thì hạ mình tự nhận là kẻ vô tích sự ). Đến ngay cái thân mình cũng chẳng buồn nương tay, thề thì thương xót và nương nhẹ  ai đây ?!...   
         
                                                                           ( Rút từ tập Những người thắp lửa –NXB Văn học-2009 )
                 
         
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 25.10.2009 09:50:51 bởi tamvanvov >
        #4
          Chuyển nhanh đến:

          Thống kê hiện tại

          Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
          Kiểu:
          2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9