NGÀY THỨ BA ĐIỀU THỨ BA MƯƠI BẢY
Đấy là sự thực hành của những vị Bồ tát để dâng hiến đạo đức
Đạt được bằng sự cố gắng trong cách này đến Giác ngộ,
Nhầm để loại trừ khổ đau của vô lượng chúng sinh lang thang trong cõi luân hồi
Với tuệ trí của sự thanh tịnh nơi ba cõi (cõi vô sắc, cõi sắc, cõi dục).
Dịch kệ:
37. Hồi hướng trọn công đức
Mọi công đức tích từ nỗ lực
Đưa vào tu tập đạo thiện đức
Ta hành hầu giải thoát khổ đau
Của vô lượng bà mẹ nhiều đời,
Trọn hồi hướng cho họ thành Phật,
Với tuệ kiến, tha ngã không thật
Lẫn công đức, thảy chẳng phải chân -
Chư Bồ tát trọn hành cách này.
Chúng ta nên đem tất cả những hành vi tốt đẹp lành mạnh mà chúng ta đã hoàn thành qua những nổ lực tinh tấn chân thành của chúng ta theo Ba Mươi Phầm Trợ Đạo Giác Ngộ của Bồ tát, và đúng hơn là hồi hướng dâng hiến tất cả những thiện nghiệp đến sự trường thọ và tự tại của chính chúng ta khỏi bệnh tật, và chúng ta nên dâng hiến chúng đến vô lượng, vô biên chúng sinh lang thang trong cõi luân hồi những người đã rơi vào khổ đau. Trong cách này chúng ta hồi hướng những công đức tích cực của chúng ta để hổ trợ những người khác loại trừ khổ đau cũng như nguyên nhân của khổ đau, với kiến giải từ tuệ trí của chúng ta về vô tự tính của người dâng cúng, hành động dâng cúng, và người nhận sự dâng cúng (tam luân không tịch). Từ quan kiến này, như được nói, chúng ta nên tiến tới và phát nguyện hồi hướng.
Điều này được bao hàm trong luận bản. Bây giờ chúng ta đem toàn bộ đến một kết luận:
Tôi biên soạn Ba Mươi Bảy Phầm Trợ Đạo Giác Ngộ của Bồ Tát cho những ai
Nguyện ước thực hành theo con đường Bồ tát, qua
Việc tôn trọng triệt để những lời nói của những chúng sinh cao thượng siêu phàm quan tâm
Đến những phương tiện liên hệ trong kinh điển, mật điển tantra và những luận giải. Luận bản này được nói là liên hệ với cội nguồn của kinh điển và mật điển tantra. Tác giả nói rằng ngài đã miêu tả sinh động ở đây ý nghĩa được giải thích trong kinh điển, mật điển tantra, và những luận giải, theo những hướng dẫn được ban bố bởi những tiền bối tôn kính của chúng ta trong những phương pháp của Ba Mươi Bảy Phẩm thực hành của Bồ tát. Những điều này được thực hành ngày qua ngày trong đời sốn bởi những ai có khuynh hướng rèn luyện trong con đường của Bồ tát.
Bởi vì tôi có sự thông tuệ thấp thỏm và học vấn ít ỏi,
Đây không là một sáng tác thơ văn làm hài lòng những học giả
Tuy thế, khi tôi đã dựa trên kinh điển và lời dạy của những bậc siêu phàm,
Tôi nghĩ luận văn này tự giảng giải một cách không thể tranh cải.
Ở đây nó giải thích rằng luận văn này có một nguồn gốc rõ ràng. Ngài nói rằng ngài thiếu kiến thức bẩm sinh và phẩm lượng nhỏ nhoi một cách tương đối về nghiên cứu làm cho ngài không đủ khả năng đề hùng biện, những từ ngữ hay thành ngữ tiêu biểu để làm vui lòng những bậc học giả. Tuy thế, ngài đã diến tả ở đây quan điểm của kinh điển, mật điển tantra bắt nguồn từ những lời dạy của những bậc tối thánh thiện, và vì thế ngài tin tưởng điều này sẽ là những điều thực hành không thể tranh cải được của những vị Bồ tát. Dường như rằng ngài nói điều này ở đây nhầm mục tiêu giản dị cũng như khiêm tốn.
Tuy thế, bởi vì khó khăn cho những người như tôi,
Thông tuệ thấp thỏm, thăm dò những chiều sâu những sự thực tập của những vị đại Bồ tát,
Tôi thỉnh cầu những bậc cao nhân tha thứ cho tôi
Vì lỗi lầm đầy dẫy, như những mâu thuẩn và sự rời rạc.
Như ngài nói, nếu có bất cứ những thông điệp nào mâu thuẩn những chỗ dường như không liên hệ giữa những sự trình bày trước và sau, hay nếu có một số giải thích không cần thiết, ngài thỉnh cầu những bậc học giả bao dung cho những thiếu sót này. Ngài thỉnh cầu họ hãy có nhẫn nại và bỏ qua tính hãnh diện của ngài trong cách này. Tiếp theo ngài hồi hướng những việc làm thánh thiện của ngài.
Qua những đạo hạnh sinh khởi từ điều này, nguyện cho tất cả chúng sinh,
Bằng những phương tiện của tâm thức siêu việt và trần gian của sự Giác ngộ,
Trở thành như đấng Thủ Hộ Quán Tự Tại, người không ở trong
Những cực đoan của cõi luân hồi và sự cứu độ tịch tĩnh [tự độ].
Vì thế, Ngulchu Gyalsas Thogmed dâng hiến bất cứ công đức tốt lành nào mà ngài có được qua việc sáng tác luận văn này đến tất cả chúng sinh, và nguyện ước họ có thể phát sinh tâm giác ngộ tương xứng và vô điều kiện. Ngài nguyện ước rằng điều này có thể làm phát sinh trong họ một lần nữa nếu hiện tại không sẳn sàng và tâm giác ngộ có thể được tăng tiến xa hơn nếu đã phát sinh rồi. Bằng đạo đức của sự phát sinh như thế, tâm giác ngộ kiên cố sẽ mang đến sự chấm dứt những cực đoan của cõi luân hồi sinh tử, trong khi tâm giác ngộ tương xứng loại trừ cực đoan cứu độ vì chính cá nhân mình mà thôi. Bằng sự không dừng lại trong cõi luân hồi cũng không cứu độ tự mình mà thôi, chúng ta đạt đến đại bát niết bàn hay sự giác ngộ tối thượng, như được hưởng bởi đạo sư tâm linh Quán Tự Tại. Đây là sự thỉnh cầu hay dâng hiến tinh thần của tác giả.
Kệ văn này được sáng tác trong hang động Ngulchu bởi người duy trì những luận lý (logic) và luận văn là tỳ kheo Vô Trước (Asanga), vì tự lợi và lợi tha. Lời thình cầu được ban cho sự bảo trợ việc in ấn tác phẩm này đọc như sau:
“Lòng tha thiết và hấp dẫn của tâm giác ngộ (bodhicitta) là căn bản và cốt lõi của Đại thừa. Bằng năng lực của những hành động đạo đức và in ấn tài liệu này xuất phát từ nguyện ước chân thành để làm lợi ích cho những người khác, nguyện cho giáo huấn của Đức Phật toàn thiện toàn giác toàn tri được lan tỏa. Giáo huấn siêu việt này là sự phối hợp của phương pháp và tuệ trí mà nó chứa đựng sự giải thích theo đúng nguyên văn và sự thực chứng tâm linh được giảng giải chi tiết bởi đức Tổ sư toàn hảo Tông Khách Ba. Nguyện cho những ai sống trong bất cứ nơi nào của thế giới cùng sự thủ hộ, duy trì, và khuyến khích giáo huấn này được thấy tất cả những nguyện ước của họ tất nhiên tự phát sinh, và nguyện cho họ tiếp tục sống cho đến hết thọ mạng.
“Hơn thế nữa, nguyện cho những nguyện ước trần gian tạm bợ cùng nguyện ước cơ bản xuất trần của Dorje Tsewang cao thượng, gia đình của ông và toàn thể chúng sinh được hoàn thành trọn vẹn, nguyện cho họ du hành không chướng ngại đến lãnh địa của ba thân Phật.”
Bằng sự cúng dường tượng trưng về thân, khẩu, ý, nhà bảo trợ Dorje Tsewang đã thỉnh cầu những người khác hãy hồi hướng đến những người bảo trợ cho việc in ấn tác phẩm này. Do thế, bắt nguồn từ tình cảm của Dewa Rinpoche, Lhatsun Tulku, đã viết lời nguyện cầu hồi hướng này bày tỏ lòng biết ơn.