Thư ngỏ gửi các nhà văn có tác phẩm sau 1975 Đỗ Ngọc Thống
Kính gửi các nhà văn có tác phẩm viết sau 1975,
Trên báo Văn nghệ số 32 (ra ngày 7/8/2004) có đăng bài Các nhà văn xuất hiện sau 1975 và sự trống vắng trong sách giáo khoa. Bài viết nêu lên ý kiến của một số nhà văn, nhà báo, cán bộ giảng dạy đại học về tình trạng sách giáo khoa văn trong nhà trường phổ thông không đưa các tác giả, tác phẩm sau 1975 vào chương trình và sách giáo khoa. Tất cả các ý kiến đều cho rằng đây là điều bất bình thường, là “vô lý”. Có người cho đây là biểu hiện của “vòng luẩn quẩn”, có người còn khái quát “đó chính là sự trì trệ của nền giáo dục”. Y Ban khẳng định: “Sự vắng bóng của các tác giả sau năm 1975 là nguyên nhân cơ bản dẫn đến học sinh chán học văn học”, v.v...
Là người tham gia xây dựng chương trình và viết sách giáo khoa Ngữ văn mới từ lớp 6 đến lớp 12, tôi thấy cần phải trao đổi lại đôi điều và chủ yếu là gửi đến các nhà văn có tác phẩm viết sau 1975 một số thông tin cần thiết để hiểu đúng sự thật hơn.
1. Trước hết cần khẳng định việc đưa các tác phẩm sau 1975 vào chương trình và sách giáo khoa văn trong nhà trường là cần thiết và đúng đắn. Cách đây 5 năm, bản thân tôi cũng đã nêu vấn đề này trên báo Văn nghệ(1). Chúng tôi cho rằng ở đây nên dùng cụm từ các tác phẩm xuất hiện sau 1975 hơn là các nhà văn xuất hiện sau 1975. Bởi vì, đối tượng để lựa chọn vào sách giáo khoa văn học trong nhà trường là những tác phẩm tiêu biểu cho thành tựu của văn học từng thời kỳ, không phân biệt thời điểm xuất hiện của các tác giả,. Sự bức xúc của các nhà văn về hiện tượng vắng bóng các tác phẩm sau 1975 trong sách giáo khoa là chính đáng và có thể thông cảm... Nhưng không phải vì thế mà có những nhận xét và khái quát vội vã, thiếu khách quan, nhất là khi chưa tìm hiểu, chưa nắm được chính xác những thông tin cần thiết.
2. Sự thật là chương trình và sách giáo khoa văn hệ cải cách giáo dục (CCGD) cấp Trung học cơ sở (THCS) được biên soạn từ 1985; còn sách giáo khoa văn Trung học phổ thông (THPT) bắt đầu cải cách năm 1989. Như vậy nếu lấy mốc 1975 thì lúc biên soạn chương trình và sách giáo khoa văn THCS hệ CCGD chỉ mới có khoảng cách 10 năm và cấp THPT cũng chỉ là 14 năm. Rõ ràng ở thời điểm 1985 và 1989 chưa thể đặt ra vấn đề đưa văn học sau 1975 vào chương trình và sách giáo khoa văn học được. Việc bổ sung và biên soạn lại sách giáo khoa nói chung và sách văn học nói riêng không thể nay nói là mai đưa vào được. Năm 2000 mới xây dựng lại chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn TCHS, tức là sau 15 năm mới thay đổi, thế mà nhiều người đã phê phán gay gắt, cho rằng ngành giáo dục “thay đổi chương trình và sách giáo khoa liên tục”, “năm nào cũng biên soạn lại sách giáo khoa mới”...
3. Thực hiện Nghị quyết 40 của Quốc hội khóa X, sách Ngữ văn mới viết theo chương trình 2000 (cả THCS và THPT) đã có nhiều thay đổi. Một trong những thay đổi đó là mở rộng mốc lịch sử văn học đến những năm cuối thế kỷ 20, đưa các tác phẩm văn học sau 1975 vào chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn. Để các nhà văn và bạn đọc có cứ liệu, xin nêu lên các dẫn chứng cụ thể về các tác giả, tác phẩm sau 1975 có mặt trong chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn mới (ở đây chưa kể các tác phẩm có ở sách Tiếng Việt tiểu học 2000).
* Với sách Ngữ văn THCS (từ lớp 6 đến lớp 9), học sinh được học các tác phẩm viết sau 1975 như: Bức tranh của em gái tôi (Tạ Duy Anh); Sài Gòn tôi yêu của Minh Hương; Ánh trăng (Nguyễn Duy); Viếng lăng Bác (Viễn Phương); Một mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải); Chiều sông Thương (Hữu Thỉnh); Nói với con (Y Phương); Bến quê (Nguyễn Minh Châu); Tuổi thơ im lặng (Duy Khán); Tôi và chúng ta (Lưu Quang Vũ).
* Với sách Ngữ văn THPT (chủ yếu tập trung ở lớp 12), học sinh được học các tác giả và tác phẩm viết sau 1975 như: Một người Hà Nội (Nguyễn Khải); Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu); Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng); Đò Lèn (Nguyễn Duy); Phan Thiết có anh tôi (Hữu Thỉnh); Ai đã đặt tên cho dòng sông (Hoàng Phủ Ngọc Tường); Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ).
4. Nhìn vào danh sách các tác giả và tác phẩm viết sau 1975 được đưa vào sách giáo khoa hai cấp học trên, có thể còn điều này, điều nọ cần trao đổi(2), nhưng không thể nói chương trình và sách giáo khoa văn trong nhà trường phổ thông không chú ý gì đến các tác giả, tác phẩm sau 1975. Không hiểu những người phát biểu trong bài báo nói trên lấy cứ liệu ở đâu mà đưa ra các ý kiến và sự lập luận khá võ đoán, rằng không đưa các tác giả, tác phẩm văn học sau 1975 vào sách giáo khoa văn trong nhà trường là biểu hiện của “vòng luẩn quẩn”, “là sự trì trệ của nền giáo dục”, “là nguyên nhân cơ bản dẫn đến học sinh chán học văn học ” v.v... Nếu theo lập luận như thế thì có nghĩa là cứ đưa vào sách giáo khoa văn các tác giả, tác phẩm sau 1975 là giáo dục sẽ thoát khỏi vòng luẩn quẩn, sẽ không trì trệ nữa và học sinh sẽ thích học văn hơn ư? Chẳng lẽ chỉ đơn giản thế thôi sao?
5. Do thời gian học trên lớp rất có hạn(3), do phải đáp ứng nhiều yêu cầu về giáo dục, khoa học, sư phạm, thẩm mỹ... chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn trong nhà trường không có nhiệm vụ dạy tất cả, giới thiệu đầy đủ tất cả các tác giả, tác phẩm văn học của mọi thời kỳ và có muốn cũng không thực hiện được. Sách giáo khoa Văn học chỉ tập trung phản ánh những thành tựu tiêu biểu của lịch sử văn học quá khứ, những tác phẩm cổ điển tiêu biểu cho các thể loại văn học của dân tộc và một phần của nhân loại. Nhưng mặt khác cũng hết sức chú ý tới những vấn đề đương đại như ngôn ngữ, tâm lý tiếp nhận và thị hiếu thẩm mỹ của HS đầu thế kỷ 21. Với cuộc sống mới, với những điều kiện về kinh tế, xã hội mới, tâm tư, tình cảm, cách sống của HS hiện nay đã rất khác. Do đó cách tiếp nhận thưởng thức văn học của họ cũng rất khác. Đặc điểm ấy đòi hỏi cần có một giải pháp phù hợp: một mặt giảng dạy những tác phẩm tiêu biểu cho các thể loại của lịch sử văn học đã được sàng lọc qua thời gian, mặt khác đưa vào một số tác phẩm đương đại có chất lượng và đáp ứng được những yêu cầu mới của chương trình Ngữ văn đầu thế kỷ. Các tác phẩm sau 1975 đưa vào sách giáo khoa Ngữ văn mới tiêu biểu cho các thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, ký, thơ và kịch. Những tác phẩm này chỉ là những “mẫu đại diện” để tổ chức dạy học Ngữ văn theo cụm thể loại chứ không phải giai đoạn đó chỉ có các tác phẩm ấy. Việc giới thiệu tương đối đầy đủ diện mạo văn học giai đoạn sau 1975 được trình bày trong bài văn học sử: Khái quát về văn học Việt Nam từ cách mạng tháng Tám 1945 đến nay. Thêm vào đó, ngoài những tác giả, tác phẩm đã đưa vào sách giáo khoa, một số tác giả, tác phẩm khác viết sau 1975 sẽ tiếp tục được giới thiệu thêm trong bộ sách Văn bản chọn lọc kèm theo để học sinh tự đọc, giáo viên có tư liệu tham khảo và ra đề kiểm tra đánh giá theo tinh thần mới.
6. Việc lựa chọn tác giả, tác phẩm văn học đương đại nào vào sách giáo khoa là hết sức phức tạp. Thời gian dành cho nó rất ít, văn học viết sau 1975 lại có số lượng tác giả, tác phẩm rất lớn, đa dạng về chủng loại, phong phú về cách viết, cách thể hiện; có nhiều trăn trở tìm tòi nhằm khai phá một hướng đi mới... Đó là những gì rất đáng trân trọng của văn học Việt Nam sau 1975. Tuy nhiên cũng cần thấy phần lớn các tác phẩm chỉ như là những thể nghiệm bước đầu. Văn học nhà trường cần phải cập nhật được với những thành tựu tiêu biểu của văn học Việt Nam sau 1975, nhưng chỉ có thể lựa chọn những gì tương đối ổn định. Một trong những giải pháp là lựa chọn các tác phẩm có những khám phá mới viết sau 1975 của những tác giả vốn đã thành danh ở giai đoạn trước. Chẳng hạn, với Nguyễn Minh Châu, không học Mảnh trăng cuối rừng (1970) nữa mà thay vào đó là Chiếc thuyền ngoài xa (1987). Với Nguyễn Khải không học Mùa lạc (1960) mà học Một người Hà Nội (1995)... Đây là hướng chọn lọc khá phù hợp với xu hướng biên soạn sách giáo khoa Văn học của một số nước trên thế giới. Sách giáo khoa văn THPT của Pháp in năm 1996(4) đã đưa vào một số tác phẩm đương đại sau đây: Georges Perec (1936-1982) với tác phẩm La vie mode d"emploi (1978); P. Grainville (sinh 1947) với tác phẩm Les Flamboyants (1976); J. Roubaud (sinh 1932) với tác phẩm Quelque chose noir (1986); M. Tournier (sinh 1924) với tác phẩm Le vol du vampire (1981); C. Roy (sinh 1915) với tác phẩm À la lisière du temps (1984); Nathalie Sarraute (sinh 1902) với tác phẩm Enfance (1983); Le Clézio (sinh 1940) với tác phẩm La quarantaine (1995)...
Có thể thấy, mặc dù đã chú ý đưa vào sách giáo khoa các tác phẩm đương đại, nhưng tác giả của những tác phẩm ấy đều là những nhà văn đã khá nổi tiếng; người trẻ nhất là Le Clézio vào năm 1996 cũng đã 56 tuổi (sinh 1940).
7. Văn học Việt Nam sau 1975, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới (từ 1986 trở đi) đã có một bước chuyển mình khá mạnh mẽ về tư duy nghệ thuật, về bút pháp và ngôn ngữ... Với những nội dung mới mẻ, cách nhìn nhận, cách phản ánh, mô tả hiện thực đa dạng, phong phú, khác lạ, văn học giai đoạn cuối thế kỷ 20 này sẽ mang đến cho học sinh và giáo viên, nhất là những giáo viên giỏi, niềm vui và một không khí dạy học văn chương sôi nổi hơn. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, dạy và học những tác phẩm trong giai đoạn này là thú vị nhưng hoàn toàn không dễ, thậm chí là rất khó. Vì thế chúng tôi cho rằng muốn học sinh học và đọc - hiểu được đúng những tác phẩm cuối thế kỷ 20, cần làm tốt công tác bồi dưỡng giáo viên; các trường Đại học sư phạm cần trang bị tốt cho sinh viên phần giáo trình này. Các nhà văn, nhà lý luận, phê bình, qua báo chí, sách vở cũng nên góp phần giúp học sinh cách đọc loại tác phẩm viết theo kiểu mới này.
Trong điều kiện của một xã hội phát triển, với sự trợ giúp của các phương tiện truyền thông hiện đại, con đường hình thành vốn tri thức văn hóa cơ bản không còn là đặc quyền của nhà trường phổ thông. Với văn học, một sự thật giản đơn là dù có đưa vào nhà trường hay không, học sinh vẫn đã, đang và sẽ tiếp tục đọc các tác phẩm đương đại này. Vì thế đối với các nhà văn, điều quan trọng nhất vẫn là chất lượng cùa chính những sản phẩm mà họ tạo ra. Nguyễn Huy Thiệp có đưa vào sách giáo khoa hay không hình như không quan trọng với anh và càng không quan trọng với các tác phẩm rất hay do anh tạo ra.
Sứ mạng thiêng liêng của nhà văn là cứ âm thầm tạo ra những tác phẩm tuyệt vời. Nếu văn học nhà trường không biết đến những tác phẩm tuyệt vời ấy thì chính các nhà soạn sách giáo khoa sẽ tự thấy xấu hổ...
Và nếu như thế thì có chăng trong lần thay đổi sách giáo khoa này, chúng tôi thấy xấu hổ trước một số tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp.
Hà Nội, 22/8/2004
Văn nghệ, số 37 (11/9/2004)
_______________________
Chú thích:
(1) Xem bài Môn văn trong nhà trường phổ thông - Mấy vấn đề cần trao đổi - số 24 - 12/6/1999.
(2) Chương trình Ngữ văn THPT chỉ mới là chương trình thí điểm, vì thế tất cả các ý kiến đóng góp đều sẽ được nghiên cứu để có thể bổ sung và hoàn chỉnh trước khi ban hành chính thức vào năm 2006.
(3) Từ lớp 6 đến lớp 12, mỗi lớp trung bình học 4 tiết/tuần bao gồm cả văn, tiếng Việt và làm văn.
(4) Littérature 2de (Textes et méthode) - HATIER, 1996
Littérature 1re (Textes et méthode) - HATIER, 1996
Lettres 2de (Textes - Méthodes - Histoire littéraire) - NATHAN, 1996
Lettres 1re (Textes - Méthodes - Histoire littéraire) - NATHAN, 1996
Nguồn: www.eVan.com.vn