Dân tộc Hmông ở Việt Nam: nguồn gốc tộc người và dân số
venus4t.vns_hnu 25.11.2009 22:31:44 (permalink)
Có thể nói, dân tộc Hmông là đại diện cho cộng đồng các tộc người thiểu số sống ở vùng núi cao ở Việt Nam với nhiều nét văn hoá truyền độc đáo... [ http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=511620 ]
Để bổ sung thêm hiểu biết về dân tộc này, ND xin mời các bạn tham khảo thêm một số thông tin sau:

DÂN TỘC H MÔNG Ở VIỆT NAM: NGUỒN GỐC TỘC NGƯỜI VÀ DÂN SỐ

1. Quá trình di cư của người Hmông vào Việt Nam.

Người Hmông ở Việt Nam hiện nay đều có nguồn gốc từ phương Bắc. Theo các truyền thuyết của Trung Quốc thì người Hmông xuất hiện sớm nhất ở khu vực trung và hạ lưu sông Trường Giang. Cách đây 5000 năm đã có liên minh bộ lạc do tù trưởng Suy Vưu làm thủ lĩnh. Suy Vưu tức là Vua của Cửu Lê. Cũng trong thời kỳ này có liên minh bộ lạc khác do Hiên Viên đứng đầu, nổi lên ở thượng nguồn sông Hoàng Hà. Hai liên minh bộ lạc này luôn xung đột với nhau, cuối cùng Cửu Lê bị bại trận, Hiên Viên xưng Hoàng đế (vào khoảng 2.700 năm TCN).

Ở thời kỳ của vua Nghiêu, Thuấn, Vũ (theo truyền thuyết) lại xuất hiện liên minh mới là “Tam Miêu”, “Hữu Miêu” hoặc “Miêu Dân” và khá hùng mạnh. Họ đã đứng lên chiến đấu rất kiên cường chống lại các thế lực nhà nước do các Vua đứng đầu. Trong các thế kỷ 16 đến 11 T.Cn, phần lớn người dân “Tam Miêu” cùng các tộc người khác ở miền trung lưu Trường Giang được gọi là “Kinh Sở”, có thời kỳ còn gọi là “Nam Man”, đời sống kinh tế khá phát đạt, có một bộ phận được gọi là “Kinh man” rất cường thịnh. Đến các triều Ân, Chu, nhà nước Trung Quốc vẫn coi Kinh Man là thù địch. Từ đó trở đi, sự đối địch giữa Nam Man và Bắc Địch ngày một gia tăng, làm cho tình hình Trung Quốc không lúc nào được yên ổn.

Như vậy từ Cử Lê đến Tam Miêu, Nam Man, Kinh Sở đều có mối liên hệ về nguồn gốc với nhau. Có thể coi đó là tổ tiên của người Hmông hiện nay. Lúc đầu người Hmông cư trú ở phía bắc sông Hoàng Hà, giai đoạn phát triển nhất của họ là Tam Miêu, về sau do sự phát triển và mở rộng lãnh thổ của người Hán, họ lui dần xuống phía nam của con sông này. Sau nhiều cuộc chiến diễn ra rất khốc liệt giữa người Hán với người Hmông, người Hmông luôn thua trận và phải rút về lưu vực sông Dương Tử, rồi vượt qua con sông này đi về phía Nam và Tây Nam, khu vực giáp giới với 5 tỉnh của Trung Quốc hiện nay là Hồ Nam (tương), Quý Châu (Kiềm), Tứ Xuyên (Xuyên), Hồ Bắc (Ngạc) và Quảng Tây (Quế), lấy Nguyên Giang làm trung tâm.
Theo các nhà dân tộc học Việt Nam thì phần lớn những người Hmông ở các tỉnh miền núi phía Bắc đều di cư trực tiếp từ Quý Châu, Quảng Tây và Vân Nam (Trung Quốc) sang. Riêng một số nhóm ở Thanh Hoá, Nghệ An di cư đến Việt Nam qua Lào. Người Hmông đến Việt Nam bằng các con đường khác nhau và chia thành nhiều đợt, trong đó có 3 đợt chính:

- Đợt thứ nhất,
khoảng 100 hộ, thuộc các họ Lù, Giàng từ Quý Châu đến khu vực các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang, thời gian vào quãng cuối đời Minh, đầu đời thanh của lịch sử Trung Quốc, tương đương với những năm có phong trào của người Miêu ở Quý Châu chống lại chính sách “cải tổ quy lưu” và bị thất bại, cách đây trên 300 năm. Từ đây, họ bắt đầu tiếp tục di cư vào sâu hơn đến các tỉnh thuộc Đông Bắc Việt Nam;

- Đợt thứ hai,
khoảng trên 100 hộ, trong đó có những hộ thuộc họ Vàng, họ Lý cũng vào khu vực Đồng Văn. Còn một nhóm khác số người ít hơn, thuộc các họ Vàng, Lù, Chấu, Sùng, Hoàng, Vừ vào khu vực Si Ma Cai, Bắc Hà, tỉnh Lào Cai. Sau đó có khoảng 30 hộ gồm các họ Vừ, Sùng chuyển sang phía Tây Bắc Việt Nam. Thời gian của đợt di chuyển này cách đây trên 200 năm. Một số hộ người Hmông này sau đó tiếp tục di cư rải rác đến các tỉnh của Tây Bắc Việt Nam;

- Đợt thứ ba,
số người Hmông di cư vào Việt Nam đông nhất, gồm khoảng trên 10 ngàn người. Phần lớn họ từ Quý Châu, có một số từ Quảng Tây và Vân Nam sang, chủ yếu vào các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái … Thời gian của đợt di cư này tương đương với thời kỳ của phong trào “Thái Bình Thiên Quốc”, trong đó có người Miêu tham gia, chống lại nhà Mãn Thanh từ năm 1840 đến 1868. Về sau, họ tiếp tục di cư đến các huyện của các tỉnh thuộc Đông Bắc và Tây Bắc Việt Nam.

Về sau hàng năm vẫn có người Hmông di cư lẻ tẻ sang Việt Nam. Các con đường di chuyển của đồng bào là vào Đồng Văn rồi xuống Tuyên Quang. Riêng các nhóm Hmông cư trú ở hai tỉnh Thanh Hoá và Nghệ An và các huyện giáp biên giới Lào của Sơn La như Mai Sơn, Mộc Châu, Sốp Cộp, Sông Mã cũng từ Lào và các tỉnh miền núi miền Bắc vào trên dưới 100 năm trở lại đây.

Từ sau ngày đất nước ta thực hiện công cuộc đổi mới (1986), tình hình di chuyển của người Hmông luôn gia tăng, theo hai hướng Bắc – Nam và Đông – Tây. Vì vậy, số địa phương có người Hmông sinh sống ngày càng tăng lên đáng kể.

2. Vài nét về dân số người Hmông ở Việt Nam

          Trước năm 1960, dù có một số tài liệu được công bố về dân tộc Hmông, vẫn chưa có một công trình nào xác định được chính xác dân tộc Hmông ở Việt Nam có bao nhiêu người. Chỉ đến ngày 1 – 3 – 1960, với cuộc Tổng điều tra dân số toàn miền Bắc, người ta mới biết được người Hmông có 105.521 người. Đến cuộc tổng điều tra dân số toàn miền Bắc lần thứ hai ngày 1 – 4 – 1974, người Hmông có 348.722 người.

Như vậy, sau 14 năm dân số người Hmông tăng thêm 243.201 người. Tại cuộc Tổng điều tra dân số toàn quốc lần thứ nhất (1 – 10 – 1979), dân số Hmông là 411.074 người. Ở cuộc Tổng điều tra dân số toàn quốc lần thứ hai (1 – 4 – 1989), dân số Hmông là 558.053 người, vậy là sau khoảng 10 năm, dân số Hmông tăng thêm 146.979 người, bình quân hàng năm trong giai đoạn này tăng 3.2%. Đến cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam lần thứ ba (1 – 4 – 1999), dân số Hmông là 787.604 người, sau 10 năm tăng thêm 229.551 người, bình quân tăng hằng năm là 3.4%. So với các dân tộc ở Việt Nam, tốc độ tăng dân số bình quân của người Hmông thuộc loại cao.

Người Hmông không những có tỉ lệ phát triển dân số cao mà còn có tốc độ di chuyển dân cư khá lớn. Nếu như năm 1960 họ chỉ có mặt ở 398 xã, năm 1979 có mặt ở 677 xã, thì năm 1989 họ đã có mặt ở 802 xã và năm 1999 có mặt ở trên 1.000 xã. Chỉ tính ở cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 1999, họ đã có mặt ở tất cả các vùng trong cả nước, đông nhất là khu vực Đông Bắc 445.782 người (56.60%), tiếp đến là Tây Bắc 289.000 người (36.69%), Bắc Trung Bộ 39.373 người (4.99%), Tây Nguyên 12.392 người (1.57%), đồng bằng Sông Hồng 533 người, Đông Nam Bộ 431 người và đồng bằng sông Cửu Long 53 người.

Hmông là một dân tộc có dân số tương đối đông (trên 9 triệu người), cư trú ở nhiều nước khác nhau trên thế giới, trong đó đông nhất là ở Trung Quốc (khoảng 7,5 triệu người). Ở Việt Nam, người Hmông có trên 80 vạn, ở Lào – khoảng 25 vạn, ở Thái Lan – 15 vạn … Trong vài ba thập niên gần đây, người Hmông còn có mặt ở một số nước ngoài châu Á như: Pháp, Mỹ, Canada, Ốtxtrây lia …

Ở nước ta, người Hmông nằm trong nhóm các dân tộc nói ngôn ngữ Hmông – Dao (gồm ba dân tộc: Hmông, Dao và Pà Thẻn). Trước năm 1979, họ được gọi là người Mèo. Ở Trung Quốc, người Hmông được gọi là người Miêu. Ở Lào gọi là người Mẹo. Hiện nay, ngoài Trung Quốc, còn ở hầu hết các nước trên thế giới, họ đều được gọi là Hmông.

Gần đây có người cho rằng, nên gọi dân tộc này là Mông, thay cho Hmông, nhưng cũng có những ý kiến khác không tán thành và cho rằng bản thân trong chữ viết của họ, người Hmông viết tên dân tộc mình là Hmôngz; lại có ý kiến cho rằng Mông là một tục từ  không được đẹp và ảnh hưởng đến tinh thần tự tôn của dân tộc này. Một số nhà khoa học nước ngoài có lưu ý, nếu viết là Mông thì có thể nhầm với dân tộc Mông ở Mông Cổ và Trung Quốc … Vì vậy, theo chúng tôi viết tên dân tộc này là Hmông, đó là cách viết chính xác nhất. Hiện nay ở nước ta có các nhóm Hmông như sau:

1. Hmông Đơ hoặc Hmông Đâu (Hmông trắng).
2. Hmông Đu (Hmông Đen).
3. Hmông Si (Hmông Đỏ).
4. Hmông Dua (Hmông Xanh).
5. Hmông Lềnh (Hmông Hoa).
6. Hmông Xúa (Hmông Lai).
7. Ná Mẻo (Hmông Nước).

Riêng nhóm Ná Mẻo, cho đến nay cũng có các ý kiến khác nhau, vì sống tách biệt với cộng đồng Hmông nói chung và sống kề cận với các dân tộc nói ngôn ngữ Tày – Thái, Việt – Mường nên hiện có những đặc điểm riêng, có thể là một nhóm dân tộc Hmông hoặc là một nhóm của dân tộc khác, cần được nghiên cứu tiếp.
___________________________
Tài liệu tham khảo:

1. Lã Văn Lô (1973): Bước đầu tìm hiểu các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong sự  nghiệp dựng nước và giữ nước. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Người Hmông ở Việt Nam. Nxb Thông tấn, Hà Nội, 2005.
3. Lò Giàng Páo (1997): Tìm hiểu văn hoá vùng các dân tộc thiểu số. Nxb Văn hoá, Hà Nội.
4. http://vi.wikipedia.org/wiki/H%27M%C3%B4ng
 .....

<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.11.2009 22:36:02 bởi Mục Đồng >
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 3 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9