Hoa Kiều tại Việt Nam Hoa Kiều tại Việt Nam, cũng giống như ở những quốc gia Đông Nam Á khác, chủ yếu đến từ các tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến. (55) Dưới đời nhà Tống (960-1279), người Hoa phát triển mạnh mẽ hải quân và giao thương tại miền duyên hải Nam Trung Hoa, thúc đẩy thương mại tại Đông Nam Á. Theo những bằng chứng có sức thuyết phục, thương nhân Trung Hoa đã có mặt nhiều tại những chợ và hải cảng ở Vịnh Thái Lan vào thế kỷ thứ 13, trong thập niên cuối cùng của thế kỷ 13, người Hoa liên tục đi đến Campuchia, nơi bao gồm phần lớn diện tích của miền nam Việt Nam ngày nay. (56) Trong thời nhà Minh (1368-1644), người Hoa đến Việt Nam vì mục đích giao thương và định cư, số lượng khác đến Việt Nam trong thời nhà Thanh (1644-1911). Sau cuộc Chiến tranh Nha phiến (1840-1842), sự rối loạn tại Trung Hoa và sự thịnh vượng tại Đông Nam Á đã thúc đẩy mạnh mẽ dòng chảy người Hoa đổ về Đông Nam Á, gồm cả Việt Nam. Động cơ chính của việc di dân là kinh tế.
Tổ chức Trong suốt những thế kỷ qua, cộng đồng người Hoa tại Việt Nam và ở những nước Đông Nam Á khác đã hình thành nên nhiều đặc tính khác nhau. Đầu tiên, tư duy kinh tế và khả năng làm việc chăm chỉ đã giúp họ đạt được vị thế kinh tế tại Việt Nam. Phần lớn định kỳ hoặc gửi tiến một cách có hệ thống về lại Trung Quốc. Thứ hai, họ truyền tải những di sản văn hóa của mình bằng cách mở các trường học người Hoa và xuất bản báo chí bằng tiếng Hoa. Một số người giàu có hoặc cha mẹ có định hướng giáo dục cũng gửi con cái trở về lại Trung Hoa để học tập trước khi được gửi đến Tây Âu học ở những bậc cao hơn. Thứ ba, nhìn chung họ duy trì hôn nhân trong cùng sắc tộc. Hôn nhân ngoài sắc tộc chỉ là lựa chọn thứ hai, một vài người kết hôn với người không phải người Hoa vì lý do kinh tế hoặc di trú. Thứ tư, họ không nắm quyền lực chính trị, một phần vì họ không phải là những con người chính trị, phần khác vì người Hoa chỉ là một sắc dân thiểu số. Họ cũng không sản sinh ra những nhà lãnh đạo quân đội. Tư tưởng truyền thống của người Hoa là "hảo tử bất tân binh" (một chàng trai tốt sẽ không phải là một người lính), tư tưởng này vẫn chiếm ưu thế trong cộng đồng người Hoa. Khi người Hoa buộc phải gia nhập quân đội như công dân Việt Nam, họ sẽ tìm cách để miễn quân dịch thông qua những quan chức Việt Nam tham nhũng hoặc tham gia lực lượng lính gác của Sài Gòn hơn là chiến đấu ngoài mặt trận. (37)
Về chính trị, việc người Hoa ủng hộ chính quyền Nam Việt Nam đã chứng kiến một sự thay đổi lớn vào năm 1965. Trước 1965, chỉ khoảng một nửa trong số 1,3 triệu người Hoa ủng hộ chế độ Sài Gòn (chế độ chống cộng sản). Sau 1965, đặc biệt là sau cuộc Tổng tiến công Mậu Thân 1968, lực lượng người Hoa chống cộng gia tăng lên 75-80%. (38) Lý do rất đơn giản: người Hoa cũng như phần đông người Việt từ 1965-1968 đã có cơ hội tốt hơn để quan sát và chứng kiến chính sách thật sự của cộng sản là gì. Tuy nhiên, một phần nhỏ người Hoa, phần lớn là thế hệ trẻ, vẫn gia nhập Việt Cộng. Họ tham gia đe dọa, ám sát và chiến tranh du kích. Đương nhiên những phần tử chống cộng là mục tiêu của họ. Dù người Hoa có những hội đoàn kinh tế xã hội được tổ chức tốt nhưng những hội đoàn này là để người Hoa gia nhập chứ không phải để kiểm soát hành vi chính trị của người Hoa. Trong phần lớn trường hợp, thông lệ này không mang lại hiệu quả. Trước 1975, chỉ có 5 dân biểu gốc Hoa trong chính quyền Sài Gòn. Không ai trong số đó có thực quyền. Do những đặc tính trên, người Hoa vẫn duy trì một vị thế phức tạp tại Việt Nam. Một mặt họ có đóng góp lớn vào đất nước, mặt khác họ không hoàn toàn hòa nhập vào xã hội Việt Nam. Họ giữ đặc trưng cơ bản của mình và có địa vị kinh tế tốt hơn so với người Việt. Đặc tính đó cũng làm người Hoa trở thành một vấn đề tại Việt Nam (cũng như ở những nước Đông Nam Á khác). Hoàn cảnh này được kết hợp bởi những thay đổi mạnh mẽ trong chính quyền và xã hội sau khi Bắc Việt giải phóng Nam Việt Nam.
Trước tháng 4 năm 1975, nhiều tổ chức phi chính phủ và tổ chức kinh tế xã hội được thành lập vững chắc trong cộng đồng người Hoa. Trên cơ sở khác biệt về ngôn ngữ và địa lý, người Hoa được chia thành 5 nhóm (bang hội) bao gồm Bang Quảng Đông (nhóm Quảng Đông và Quảng Châu), Bang Phúc Kiến, Bang Triều Châu, Bang Khách Gia và Bang Hải Nam. (99) Mỗi bang thành lập các hội đoàn riêng tại cả Sài Gòn và Chợ Lớn và bầu ra chủ tịch bang (người chỉ huy của bang). Nói cách khác, có tất cả 10 bang tại khu vực Sài Gòn-Chợ Lớn. Thành viên của bang bao gồm tất cả mọi thành phần trong xã hội. Mỗi bang có riêng trường học, bệnh viện và câu lạc bộ thể thao người Hoa. Họ xuất bản 11 tờ báo tiếng Hoa phục vụ cho khoảng từ 1,2 đến 1,4 triệu người Hoa tại Nam Việt Nam, nhưng việc xuất bản không được các bang ủng hộ hay tài trợ. Trên các bang là Cơ quan Quản lý Khu vực người Hoa. Thực ra cơ quan này có thể được gọi là Tổng hội đồng của 10 bang tại Sài Gòn và Chợ Lớn. Đó là một tổ chức hoạt động hiệu quả và giàu có. Ngoài ra, người Hoa còn thành lập Phòng thương mại người Hoa tại Nam Việt Nam phục vụ cho cộng đồng người Hoa và hoạt động kinh doanh khắp miền nam, tương tự như Phòng thương mại tại Hoa Kỳ. Việc thành lập (Hội đồng Bang) căn cứ trên các nhóm ngôn ngữ và địa lý còn việc thành lập Phòng thương mại căn cứ trên hoạt động kinh doanh. Các bang cùng tồn tại độc lập trên cơ sở bình đẳng dưới chính phủ Nam Việt Nam. (60) Để nhìn nhận rõ hơn, vui lòng xem Biểu đồ 3.1.
Có ba điểm quan trọng cần phải nhấn mạnh ở đây. Thứ nhất, những bang hội này đã tổ chức người Hoa thiểu số vào những cơ quan thống nhất về mặt xã hội, gần như không ai đứng ngoài tổ chức của cộng đồng người Hoa. Theo truyền thống người mới đến phải báo cáo với bang của mình và gia nhập bang. Mặc dù không có thông lệ cụ thể về việc đăng ký dân số nhưng mỗi bang đều theo dõi số lượng dân số của mình. Ngoài chức năng là một tổ chức xã hội, các bang còn có chức năng duy trì lễ nghi và tục lệ. Thứ hai, hoạt động kinh doanh phần lớn dựa trên cơ sở cá nhân, bang hội không kiểm soát vấn đề này. Hợp tác và trợ giúp lẫn nhau diễn ra thường xuyên hơn trong mỗi bang hơn là giữa các bang. Hợp tác và cạnh tranh đã thúc đẩy doanh thương phát triển. Hầu hết đều thành công nên đã giữ vị thế độc quyền kinh tế tại Nam Việt Nam. Thứ ba, có hơn 11 tờ báo tiếng Hoa tại Sài Gòn Chợ Lớn và 34 trường tiểu học và trung học tại khu vực này. Mục đích là để khuyến khích những di sản văn hóa của người Hoa. Dù một số người Việt gốc Hoa trẻ tuổi cũng tham gia trường quân sự Việt Nam, nhưng không có người nào là chỉ huy quân sự. Do đó cộng đồng người Hoa có khả năng thúc đẩy và duy trì con người về văn hóa nhưng không tạo ra những nhà lãnh đạo về chính trị và quân sự. Kết quả là cộng đồng người Hoa thậm chí gần như không có quyền lực để chống chọi trước những cơn bão tố trên chính trường Việt Nam, chứ đừng nói việc chống chọi lại cuộc cách mạng thay đổi triệt để do người Việt tạo ra.
Tại miền bắc Việt Nam, hàng trăm ngàn Hoa Kiều đã di cư vào miền nam sau khi đất nước bị phân chia tháng 7 năm 1954. Năm 1955, Bắc Kinh và Hà Nội đồng ý rằng người Hoa tại miền bắc sẽ từng bước được nhập tịch. Họ phải được đối xử như những người Việt Nam. Vào năm 1978 có khoảng 300.000 người Hoa sinh sống tại miền bắc Việt Nam.
Tại miền nam, những cơn bão chính trị chống lại người Hoa được tạo ra bởi hai động cơ chính là kinh tế và chủ nghĩa dân tộc. Vào năm 1954, sau khi Ngô Đình Diệm, người sau này trở thành tổng thống Nam Việt Nam, cũng cố quyền lực tại miền nam, ông đã ban hành một nghị định yêu cầu tất cả người Hoa phải từ bỏ quốc tịch Trung Quốc và nhập quốc tịch Việt Nam nếu họ muốn tiếp tục kinh doanh tại Việt Nam. Vào tháng 4 năm 1957, chế độ Ngô Đình Diệm tuyên bố thêm rằng tất cả thẻ căn cước ngoại kiều của người Hoa đều không còn hiệu lực. Người Hoa không có quyền để phản kháng. Họ chấp nhận những biện pháp này một cách miễn cưỡng. Một số người bày tỏ chính sách bất hợp tác bằng cách đóng cửa kinh doanh trong một thời gian. Rõ ràng người Hoa đã chịu tổn thất lớn, nhưng chính phủ cũng mất một khoảng tiền đóng thuế đáng kể.
Người Hoa đã có được một giai đoạn phát triển kinh tế từ 1963 đến 1975. (62) Tuy nhiên sau khi Cộng Sản chiếm Nam Việt Nam, lợi tức của họ đã trở thành mục tiêu tấn công của người Việt. Tờ luận thuyết hàng tháng Tạp chí Cộng Sản của Hà Nội đã cáo buộc:
Đến cuối 1974, họ [người Hoa] đã kiểm soát hơn 80% lương thực, may mặc, hóa chất, công nghiệp xây dựng và điện năng, và gần như độc quyền về giao thương-chiếm 100% về môi giới, hơn 50% về bán lẻ và 90% về xuất nhập khẩu thương mại. Họ hoàn toàn kiểm soát việc mua lúa gạo và nắm 80% tiền cho vay trên toàn miền nam. Họ sở hữu 42 trên tổng số 60 công ty có doanh số hàng năm lơn hơn 1 triệu đồng tiền chế độ cũ và đầu tư của họ luôn luôn chiếm 2/3 tổng số đầu tư hàng năm ở miền nam.
Dù có sự thổi phòng trong cáo buộc trên, nhưng người Hoa đã nắm giữ phần quan trọng trong nền kinh tế miền nam trước 1975 như đã đề cập. Tình hình này sẽ trở thành một điều không thể bỏ qua được dưới chế độ mời, nơi mà chính sách kinh tế không cho phép tư hữu và ý thức chủ nghĩa dân tộc và sự căm phẫn với Trung Quốc là rất lớn trong thời điểm đó. Việc thanh lọc sự giàu có của người Hoa và thay đổi địa vị của họ là không thể tránh khỏi. Bi quan trước viễn cảnh tình hình Việt Nam, nhiều người Hoa giàu có đã lặng lẽ rời khỏi Sài Gòn trước ngày thành phố sụp đổ vào cuối tháng 4 năm 1975.
Những biện pháp mới và Hoa Kiều giai đoạn 1975-1978 Nhìn lại quá khứ chúng ta nhận thấy rõ ràng là từ 1975-1978 chính phủ Việt Nam thống nhất đã tiến hành một loạt những biện pháp chuyển đổi kinh tế xã hội tại miền nam Việt Nam và gần như những biện pháp này chỉ nhằm đánh vào cộng đồng người Hoa. Theo trình tự thời gian, những biện pháp đó gồm phong trào đánh tư sản mại bản (1975), cải cách tiền tệ (1975, 1978) chuyển đổi sang xã hội chủ nghĩa đối với tư hữu và thương mại (1978). Những biện pháp này áp dụng cho tất cả người Việt tại miền nam (cải cách tiền tệ cũng được áp dụng tại miền bắc), chứ không chỉ áp dụng đối với Hoa Kiều. Tuy nhiên, phần lớn Hoa Kiều là những doanh nhân giàu có hoặc tư sản mại bản. do đó họ trở thành những mục tiêu chính làm bùng nổ tình cảm chủ nghĩa dân tộc của người Việt. Việc trục xuất Hoa Kiều là biện pháp có ảnh hưởng nhất gần như chỉ nhằm để quét sạch cộng đồng người Hoa trên toàn cỏi Việt Nam.
Phong trào đánh tư sản mại bản 1975 Sau khi chiếm Sài Gòn tháng 4 1975, chính quyền Việt Nam lập kế hoạch thanh trừng sự giàu có của cộng đồng doanh nghiệp. Vào tháng 7 và tháng 8 năm 1975, chính quyền tuyển mộ hàng trăm thanh niên trẻ kể cả những sinh viên gốc Hoa để huấn luyện về tư tưởng trong một thời gian ngắn. Khóa huấn luyện tập trung học tư tưởng Mác về đấu tranh giai cấp và nhằm để thanh trừng những phần tử bóc lột, giàu có, phản động và tư sản mại bản.Tất cả người Hoa giàu có được xác định thuộc vào nhóm này và phải đăng ký với chính quyền. Khi đã hoàn tất việc huấn luyện và chuẩn bị, chiến dịch đầy mạnh mẽ đẵ bắt đầu từ ngày 5 tháng 9 tại Sài Gòn-Chợ Lớn cũng như tại một số thành phố khác ở miền nam. Những cuộc biểu tình và mít-ting rộng lớn được tổ chức hàng ngày. Truyền thông không ngừng lên án tội ác của tư sản mại bản, cáo buộc họ độc chiếm thị trường, thao túng giá cả, tích trữ hàng hóa và mua bán vàng và đô la trái pháp luật. Cuộc vận động vừa hào hùng vừa đáng sợ, nó đáng sợ đối với những người giàu, đặc biệt là người Hoa và nó hào hùng đối với những người trẻ tuổi, những người ảo tưởng về một xã hội tốt đẹp hơn dưới chế độ cộng sản.
Chiến dịch rộng lớn kéo dài trong 5 ngày. Sau đó cơn bão bắt đầu nổi lên. Từ 10 giờ tối ngày 9 tháng 9, nhiều nhóm cảnh sát trang bị vũ khí, nhân viên an ninh và những thanh niên qua đào tạo đã tiến chiếm một số công ty, cửa hàng, nhà máy và nhà ở của những doanh nhân người Việt lẫn người Hoa tại Sài Gòn-Chợ Lớn. Những thanh niên gốc Hoa hỗ trợ các nhóm này trong việc phiên dịch và xác minh. Họ bắt giữ các doanh nhân hoặc tạm giam (trong một hoặc hai ngày). Khi đó họ lục soát và hoàn tất hồ sơ về hàng tích trữ và tài sản, gồm đô la Mỹ, vàng thẻ, kim cương, hàng hóa, xe cộ, tủ lạnh, ti vi, nội thất và cả quạt máy. Họ lục soát tỉ mỉ từ phòng khách đến đền cái lư hương bé nhỏ, để không thiếu sót dù chỉ là “một cây kim hay sợi chỉ”.
Không phải đến tận sáng ngày hôm sau khi chính phủ ban hành bản thông cáo 14 điểm về chiến dịch. Bản thông cáo cáo buộc tư sản mại bản đã “phá hoại nền kinh tế, độc chiếm thị trường và tích lủy giàu có bằng xương máu của đồng bào”. Bản thông có cũng nói rằng nhân dân yêu cầu nhà nước cần phải áp dụng những biện pháp khắt khe đối với họ. (65) Trong điểm thứ tư và thứ năm, bản thông cáo đưa ra khả năng xung công nhưng cơ sở kinh doanh và tài sản:
4. Nhà nước sẽ nỗ lực hết sức mình để khuyến khích và giúp đỡ tư sản đóng góp vốn, hiểu biết kỹ thuật và tài năng để tham gia xây dựng các vùng kinh tế mới.
5. Trong một số trường hợp đặc biệt, tư sản có thể bán sản phẩm và cơ sở kinh doanh cho nhà nước. Nhà nước sẽ đánh giá và xem xét theo từng trường hợp cụ thể.
Trong ngày hôm đó, phát ngôn viên Ủy ban Quân quản thành phố Hồ Chí Minh tuyên bố chính quyền đã ra lệnh bắt giữ một số phần tử tư sản “sai trái”; chính quyền cũng ra lệnh kê biên tất cả tài sản của họ. (66) Cũng trong ngày đó, tờ Sài Gòn Giải Phóng đăng bài xã luận nói rằng bọn tư sản mại bản đã thông đồng với bọn xâm lược Mỹ và chính quyền bù nhìn. Máu của “đổng bào chúng ta” càng đổ ra, thì sự giàu có của chúng càng gia tăng hơn. Chúng đã trở thành “những ông vua”, như vua lúa gạo, vua thép gai, vua xây dựng, vua café và vua sắt thép. Tội ác của bọn chúng là “cực kỳ nghiêm trọng và hoàn toàn không thể dung tha”, tờ nhật báo cáo buộc đầy giận dữ. Phải “cương quyết than trừng” bọn chúng. Ngày 12 tháng 9, thêm nhiều ông vua nữa bị bắt. Những vụ bắt giữ cũng được tiến hành ở nhiều thành phố khác. Tờ Sài Gòn Giải Phóng tiếp tục công kích tư sản mại bản, Đài phát thanh Hà Nội nói rằng người Hoa đã chào đón chiến dịch này. (68)
Chiến dịch này kéo dài đến đầu tháng 10, gần một tháng. Về lý thuyết cả tư sản người Hoa và người Việt đều là mục tiêu. Nhưng trong thực tế người Hoa chịu tổn thất lớn nhất. Nhưng có bao nhiều công ty của người Hoa hay cửa hàng bị lục soát và “làm tê liệt”? và có bao nhiêu nhà tư sản người Hoa bị bắt giữ? Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chưa bao giờ công bố một con số chính xác. Không cách gì để biết chắc chắn. Tuy nhiên sau đó người ta biết rằng có ít nhất 100 công ty của người Hoa đã bị lục soát một cách kỹ lưỡng chỉ trong một đêm, ngày 9 tháng 9, và hơn 250 người Hoa giàu có đã bị bắt trong suốt chiến dịch. Một số đã tự sát. Tài sản vô chủ kể cả nhà cửa đều bị tịch thu ngay lập tức. Những người bị bắt gồm chủ tịch và/hoặc chủ sở hữu các công ty kinh doanh bột ngọt, kim loại, bột mì, rạp hát, xuất nhập khẩu, dệt, giấy, nhà hàng và đồ sắt. (69) Phần lớn trong số họ được thả ra trước 1979 sau khi đã đóng góp vốn liếng và cơ sở kinh doanh cho nhà nước. Đối với những nhà lãnh đạo chính trị phản động, lãnh đạo văn hóa-giáo dục, họ là một trong số những nhóm đầu tiên trở thành tù nhân hoặc thất nghiệp.
Như đã đề cập, đầu tháng 4 năm 1975, một số lãnh đạo cộng đồng người Hoa đã rời Việt Nam ra nước ngoài. Sau tháng 5 năm 1975, thêm nhiều lãnh đạo bang hội khác ra đi. Những lãnh đạo ban đầu gần như không còn tồn tại. Sau đó chính quyền cách mạng chiếm tòa nhà văn phòng của Tổng hội và Tổng hội đồng, rồi là câu lạc bộ của các bang và đóng cửa 11 tờ báo tiếng Hoa. Chính quyền cũng chiếm luôn Bệnh viện đa khoa Sùng Chính vào đầu 1976 và 5 bệnh viện khác của các bang vào tháng 1 năm 1978.