Ngôi Sao Giáng Sinh: Ngôi sao 5 cánh thường xuất hiện rực rỡ đủ màu sắc trong mùa Giáng sinh. Một ngôi sao to lớn được treo ở chỗ cao nhất của tháp chuông nhà thờ. Từ đó căng giấy ra bốn phía, có nhiều ngôi sao nhỏ, treo đèn lồng và kết hoa rất đẹp mắt.
Ngôi sao trong lễ Giáng sinh có ý nghĩa đặc biệt, theo tương truyền lúc Chúa vừa chào đời thì trên trời xuất hiện một ngôi sao rực rỡ. Ánh sáng tỏa ra mấy trăm dặm. Từ các vùng phía đông xa xôi nay thuộc lãnh thổ Iran và Syria, có 3 vị vua được mặc khải tin rằng cứ lần theo ánh sáng ngôi sao tìm tới chắc chắn sẽ gặp phép lạ gọi là lễ ba vua. Từ đó, ba vị tìm theo sự dẫn đường của ánh sáng để đến được hang đá thành Bethelem nơi Chúa đã ra đời. Ba vị này thân quỳ trước mặt Chúa, dâng lên Chúa các phẩm vật trầm hương và vàng bạc châu báu.
Ngôi sao trở thành biểu trưng ý nghĩa trong mùa Giáng sinh và được treo chỗ trang trọng nhất ở các giáo đường, cơ sở tôn giáo trong đêm Giáng sinh để nhớ đến sự tích trên. Do ý nghĩa ngôi sao còn tượng trưng cho phép lạ của Thượng đế.
Hang Đá và Máng Cỏ:
Nguồn gốc dùng hang đá và máng cỏ trong lễ Giáng Sinh là do truyền thuyết Chúa sinh ra đời trong một hang đá nhỏ, nơi máng cỏ của các mục đồng chăn chiên tại thành Bethelem.
Ðêm 24/12 tại các Giáo đường đều có hang đá với máng cỏ, bên trong có tượng chúa Hài đồng tượng Đức Mẹ Maria, chung quanh có những con lừa, các tượng Ba Vua một số thiên thần, thánh Giuse trên mái nhà có ánh sáng, chiếu từ một ngôi sao hướng dẫn 3 vua tìm đến với Chúa. Mọi người đều hướng về Chúa nhân từ, cầu nguyện Chúa cứu rỗi cho nhân loại tránh chiến tranh, nghèo đói và độc tài.
Ngày này, người ta vẫn dựng máng cỏ trong gia đình để tưởng niệm nơi Jesus ra đời. Theo truyền thống, mỗi gia đình theo đạo thiên chúa sẽ dựng một máng cỏ ở một vị trí trang trọng nhất trong nhà vào ngày chủ nhật trước Noel. Máng cỏ phải dựa lưng vào tường, xung quanh được trát bằng đất bùn, mái được lợp bằng một viên đá tảng, các thanh củi dùng để làm kèo. Người ta còn dùng thêm trái thông, sợi rơm và sỏi trắng lượm từ bờ biển, để trang trí sao cho khung cảnh trông thật tự nhiên. Ngoài ra, không thể thiếu tượng của đức mẹ Marie đang bồng chúa hài nhi, Joseph, những người chăn cừu, cừu, bò, thiên thần và một ngôi sao.
Gia đình sẽ cầu nguyện trước máng cỏ trong ngày lễ. Chiếc máng cỏ sẽ ở trong nhà đến tận ngày mùng 2 tháng hai, ngày chúa Jésus được làm lễ rửa tội.
Cây Thông Noel: Vào mùa đông, trong khi mọi cây cối đều héo rũ thì riêng mình cây thông vẫn xanh tươi. Chính bởi vậy, người cổ đại đã coi thông là loại cây phục sinh. Để có sự hoà hợp con người và thiên nhiên, hơn 500 năm trước trong mùa Giáng sinh, người ta dùng thông làm cây Christbaum, thông xanh tươi, có mùi thơm màu xanh biểu tượng cho sự sống. Nến mang đến ánh sáng hy vọng. Vào ngày đông chí, họ trang trí cây thông với trái cây, hoa và lúa mỳ. Lần đầu tiên mà cây thông được biết đến như loại cây của ngày lễ Noël là ở Đức. Truyền thuyết kể lại rằng vào cuối thế kỷ VII, thánh Boniface (sinh vào năm 680) đã cố gắng thuyết phục các đạo sỹ rằng cây sồi không phải là cây thánh bằng cách cho đốn một cây sồi. Khi cây sồi đổ, nó đè bẹp mội vật nằm dưới đường đổ của nó, trừ một cây thông nhỏ. Từ đó, ra đời ý nghĩa cây thông là cây của chúa Jesus. Bởi vậy mà vào lễ Noël, người Đức đã từng có truyền thống trồng những cây thông nhỏ.
Thời Trung đại, trong nhiều lễ hội tại Ðức đều xuất hiện cây thông. Đây là loại cây sống trong khí hậu khắc nghiệt nhưng vẫn giữ được dáng vẻ mạnh mẽ, vững chãi và màu xanh vĩnh cửu. Dần dần hình ảnh của loài cây này xuất hiện thường xuyên hơn và nó được coi là trung tâm của lễ hội, nơi mọi người cùng nắm tay nhau nhảy múa xung quanh cây thông được trang trí công phu. Ngày nay, gần tới dịp Noel, người ta thường sắm một cây thông và trang trí lên đó những ngôi sao, những quả châu, dải kim tuyến lấp lánh, hoa... Cây thông được xem là biểu tượng của niềm hy vọng và sức sống mới trong lễ hội đón chào năm mới.
Đến thế kỷ thứ 11, cây thông Noël còn được gán cho biểu tượng là cây thiên đường. Điều này giải thích lý do vì sao mà người ta còn treo thêm lên cây những trái táo đỏ, để gợi lại hình ảnh trái cấm của Adam và Eva. Đến thế kỷ 14, cây thông Noël được gắn thêm ngôi sao ở trên đỉnh cây. Đây chính là biểu tượng của ngôi sao Bethleem chiếu sáng trên bầu trời khi chúa hài nhi ra đời. Ngôi sao này đã dẫn đường cho ba vị thần cư ngụ ở phương đông ( « rois mages » ) Gaspard, Melchior và Balthasar đến gặp chúa. Đã từng có giả thuyết khoa học cho đó chính là sao chổi Halley. Mãi đến thế kỉ 19 thì cây Noel mới được sử dụng rộng rãi ở Anh. Nó được những người Ðức ở Pennsylvania mang sang nước Mỹ vào những năm 182.
Nến Giáng Sinh:
Có nhiều truyền thuyết kể về những cây nến đêm Giáng Sinh. Nhiều người cho rằng Martin Luther là người đầu tiên có sáng kiến thắp nhiều cây nến trên các cành cây thông mùa Giáng Sinh. Khi trở về nhà vào một đêm mùa đông gần lễ Giáng Sinh, ông đã sững sờ trước vẻ đẹp của ánh sáng từ các ngôi sao chiếu rọi trên cành cây thông nhỏ trước cửa nhà mình. Ông tái hiện lại cảnh tượng này bằng cách gắn các cây nến lên cành của cây thông Noel trong nhà để tượng trưng cho Ngôi Sao trên làng Bê-lem.
Có một huyền thoại khác kể rằng một bé trai nọ bị đi lạc đêm Giáng Sinh nhưng nhờ ánh đèn nến nới cửa sổ phòng mẹ, đã tìm được lối về đến nhà.
Ngoài ra, nến tượng trưng cho ánh sáng Chúa Kitô. Mỗi tuần 1 cây nến được đốt lên nhắc nhở cho chúng ta nhớ Chúa Cứu Thế đang đến. Dựa vào lời kinh Cựu ước đã loan báo Đấng cứu độ là "Mặt Trời Công Chính" (Mal 3,20), Chúa Giêsu cũng tự ví mình là "Ánh sáng trần gian" (Ga 8,12), là "ánh sáng thật soi chiếu mọi người" (Ga 1,9) đã đến trần gian. Ngày Giáng sinh của Chúa là lễ "Thần mặt trời bách chiến bách thắng". Người Kitô cũng muốn loan báo cho người khác biết: Mặt trời thì tốt, và chúng tôi cũng vui như các bạn về chiến thắng của mặt trời. Nhưng mà mặt trời tự nó không có ánh sáng, nó chỉ có ánh sáng là do Thiên Chúa tạo dựng và ban cho. Qua đó mặt trời báo cho chúng ta ánh sáng thật, ánh sáng từ Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa của mọi loài thụ tạo. Ngài là nguồn của tất cả ánh sáng, không như mặt trời chỉ là công trình tạo dựng của Thiên Chúa, vì nó chỉ là một vật không có sự sống nếu không có Thiên Chúa. Đây là ý nghĩa của ngày lễ giáng sinh. Ngày sinh của Chúa Kitô, ngày mặt trời đổi vòng luân chuyển trong mùa đông của lịch sử thế giới, ngày cho chúng ta tin tưởng trong những bước thăng trầm của lịch sử quyền lực của tối tăm.
Vòng Hoa Mùa Vọng: Mùa Giáng sinh bắt đầu với 4 tuần mùa vọng từ ngày Chúa nhật Adventsonntag ngày 27 cuối tháng 11 hay ngày 3 tháng 12 và chấm dứt vào đêm 24.12 Heiligen Abend. Danh từ Mùa Vọng bắt nguồn từ tiếng La Tinh "Adventus"/Ankunft", có nghĩa là đến. Theo tài liệu, mùa vọng đầu tiên được tổ chức tại thành phố Ravenna Ý vào thế kỷ thứ 5. Đến thế kỷ thứ 6 thời Đức giáo hoàng Gregor, mùa vọng có 6 Chúa nhật đến lễ ba Vua, nhưng đến thời Đức Giáo hoàng Pius V, mùa vọng chỉ còn 4 Chúa nhật.
Lần đầu tiên mùa Vọng ở Đức năm 1839 sử dụng „Advantkranz“ trong phòng lớn nhà „Rauhe Haus“ của mục sư Johann, mỗi ngày thắp một cây nến, trên khung gỗ hình tròn có 4 cây nến lớn màu đỏ, và 19 cây nến nhỏ. Cho đến đêm Giáng sinh căn phòng rực sáng, ánh sáng nến tượng trưng cho Chúa Kitô, ánh sáng trần gian. Những năm sau người ta trang trí thêm những nhánh thông xanh, từ năm 1860 có sự thay đổi vòng hoa hình tròn là những nhánh thông xanh, 23 cây nến gom lại còn 4 cây tượng trưng cho 4 tuần cho sự chờ đợi ngày Chúa ra đời. Vì thế là vòng hoa mùa vọng ra đời lần đầu tiên được treo trong nhà thờ ở Köln năm 1925 cho đến năm 1935 phổ biến rộng rãi khắp nơi. Vòng hoa đường kính lớn nhỏ khác nhau, phần trong làm bằng rơm khô, chung quanh bọc lá thông xanh tượng trưng cho sự sống muôn đời. Nhiều gia đình gắn thêm trái hồ đào trên vòng hoa tượng trưng cho sự sống lại và những hoa trái tiêu biểu cho lương thực dồi dào của đời sống Kito hữu. Bốn cây nến này được lần lượt thắp lên mỗi tuần ý nghiã hướng chúng ta về với ánh sáng tránh xa tội lỗi.. Mùa vọng nói lên niềm vui như Thánh Phao lô kêu gọi: Hãy vui lên... vì Chúa đang đến!
Chuông Thánh Đường:
Trong vài nền văn hóa Á Châu, tiếng chuông được dùng báo hiệu cho quần chúng biết một biến cố hoan hỉ hay một sự kiện buồn não vừa xảy đến. Sau khi Chúa hài đồng giáng sinh, tục lệ này được truyền đến cho những quốc gia Tây phương để rung lên chào mừng Chúa Cứu thế xuống trần. Tại đất nước Tây Ban Nha, các chuông nhà thờ ngân vang vào lúc nửa đêm báo hiệu Chúa ra đời.
Chiếc Gậy Kẹo: Vào năm 1800, một người làm kẹo ở Ấn Độ muốn biểu đạt ý nghĩa của lễ Giáng sinh qua một biểu tượng được làm bằng kẹo. Ông bắt đầu thực hiện ý tưởng của mình bằng cách uốn cong một trong những thỏi kẹo của mình thành hình một chiếc gậy kẹo. Qua cây gậy kẹo của mình, ông đã kết hợp những biểu tượng thể hiện tình yêu và sự hy sinh của Chúa Jesus.
Màu trắng biểu hiện cho sự trong trắng và vô tội của Chúa Jesus. Sau đó, ba sọc nhỏ tượng trưng cho những đau đớn mà Ðức Chúa đã phải chịu trước khi ngài chết trên cây thập tự giá. Ba sọc đó còn biểu hiện ba ngôi thiêng liêng của Chúa (sự hợp nhất của Cha, Con và Thánh thần). Ông thêm vào một sọc đậm để tượng trưng cho máu mà Chúa đã đổ cho loài người. Khi nhìn vào cái móc của cây gậy, ta thấy nó giống hệt cây gậy của người chăn cừu vì Chúa Jesus chính là người chăn dắt con người. Nếu bạn lật ngược cây gậy, nó sẽ trở thành chữ J tượng trưng cho chữ cái đầu tiên của tên Chúa Jesus.
Cây Tầm Gửi và Cây Ô Rô:
Hai trăm năm trước khi Chúa Giê su ra đời, người ngoại đạo dùng cây tầm gửi để kỉ niệm ngày Mùa Ðông đến. Họ thường hái loại cây kí gửi này và dùng nó để trang trí cho ngôi nhà của mình. Họ tin tưởng rằng loại cây này có một khả năng chữa trị đặc biệt đối với mọi loại bệnh tật từ bệnh vô sinh của phụ nữ cho đến ngộ độc thức ăn. Những người dân ở bán đảo Xcăngđinavi cũng coi cây tầm gửi là biểu tượng của hoà bình và sự hòa thuận. Họ còn đồng nhất hình tượng cây tầm gửi với nữ thần tình yêu của họ là thần Frigga. Phong tục hôn nhau dưới bóng cây tầm gửi hẳn là xuất phát từ từ niềm tin này.
Lúc đầu nhà thờ cấm sử dụng cây tầm gửi trong lễ Giáng Sinh vì nguồn gốc ngoại đạo của nó. Thay vì sử dụng tầm gửi, các cha đạo đề nghị dùng cây ô rô làm loại cây dùng cho Lễ Giáng Sinh. Vòng lá tượng trưng cho mão gai được đặt trên đầu Chúa Giêsu và trái berries màu đỏ tượng trưng cho Máu Thánh của Ngài.
Hoa Poinsettia: Truyền thuyết Mexico kể rằng có một cậu bé không có gì để dâng lên mừng sinh nhật Chúa Hài Đồng. Trong lúc cậu bé đang quỳ cầu nguyện nơi bàn thờ thì ý nguyện của cậu được nhận lời và "Hoa của Đêm Thánh" (Flower of the Holy Night) được nảy sinh ra trước mắt cậu bé. Những cánh màu đỏ tươi thật chất là những chiếc là. Loại hoa này bắt nguồn từ Mexico và được mang vào Mỹ năm 1800 bởi người đàn ông tên là Poisett và từ đó tên ông được dùng đặc cho loại hoa này.
Ông Già Noel: Nguồn gốc của từ “ông già Noel” (Santa Claus) hay thánh Ni-kô-la bắt đầu ở Thổ Nhĩ Kì từ thế kỉ thứ 4. Từ lúc còn nhỏ thánh đã là một người rất ngoan đạo và đã hiến cả cuộc đời của mình cho đạo Cơ Ðốc. Thánh Ni-kô-la đặc biệt được ca tụng vì tình yêu đối với trẻ em và sự hào phóng của ngài. Thánh Ni-kô-la là người bảo trợ cho các thuỷ thủ, đảo Xi-xin-li, nước Hy Lạp và nước Nga và tất nhiên thánh cũng là người bảo trợ của trẻ em. Vào thế kỉ thứ 16, ở Hà Lan trẻ em thường đặt những chiếc giầy gỗ của mình bên cạnh lò sưởi với hy vọng là chúng sẽ được thánh Ni-kô-la thết đãi no nê. Người Hà Lan phát âm từ St. Nicholas (thánh Ni-kô-la) thành Sint Nicholaas, sau đó nói chệch thành Sinterklaas và cuối cùng được những người theo giáo phái Anh đọc thành Santa Claus. Năm 1882, Clê-mơn C. Mo-rơ đã viết bài hát nổi tiếng của mình “A visit from St. Nick” (chuyến thăm của thánh Nick) và sau đó được xuất bản với cái tên “The night before Christmas” (Ðêm trước Giáng Sinh). Mo-rơ được coi là người đã hiện đại hóa hình tượng ông già Noel bằng hình ảnh một ông già to béo, vui tính trong bộ đồ màu đỏ.
Bộ Quần Áo Đỏ Của Ông Già Noel:
Ông già tuyết chưa trở thành ông già tuyết, vì ông vẫn mặc bộ quần áo tiều phu cũ kỹ, cưỡi ngựa mỗi khi đến cho quà bọn trẻ. Một ngày nọ, ông địa chủ làng Nicholas đi ngang qua nhà ông, và lập tức Nicholas bị mê hoặc bởi chiếc xe kéo với hai con tuần lộc xinh đẹp, xe có gắn những cái chuông kêu lanh canh dễ thương. Ông địa chủ mặc một bộ đồ đỏ tươi, đầu đội mũ lông cùng màu. “Mình cũng đáng để có nó lắm chứ, con ngựa nhà mình đã quá già và hay than thở, còn bộ quần áo này thì không chịu nổi cái giá rét mùa đông nữa”. Nicholas tìm đến bà thợ may giỏi nhất vùng để có bộ đồ đỏ mơ ước ấy. Nhưng lạ lùng thay, khi bộ đồ hoàn thành thì nó to đến độ trông Nicholas như lọt thỏm vào trong ấy “Ôi tôi đã làm hỏng bộ đồ của ông rồi, nó mới thùng thình làm sao! “. ” Không sao cả, tôi sẽ ăn bánh kẹo cho người to lên như bộ quần áo. Cái quần dài này ư? Tôi sẽ mang một đôi ủng đen để bớt độ lùng xùng. Và bà cứ yên tâm, trông tôi sẽ tuyệt vời trong bộ quần áo này đấy!” . Và như thế, ông già Noel đã ra đời như một huyền thoại, nhưng đến mấy mươi năm sau, thì bộ trang phục đỏ gắn liền với huyền thoại ấy mới có. Còn bây giờ, hãy tự tin mà bảo với với mọi người rằng: “Ông già Noel trên xe trượt tuyết với hai con tuần lộc là hoàn toàn có thật”.
Quà Tặng Trong Những Chiếc Bít Tất: Bánh Buche Noel:
Tổ tiên người phương Tây thường nhóm củi trong ống khói nhà, họ tin rằng lửa càng kêu lách cách thì các thần dữ sẽ tránh xa. Ngày nay, tập tục biến dần vì không mấy nhà còn ống khói. Thay vào đó, theo sáng kiến của một thợ làm bánh ở Pháp, năm 1875, người ta làm chiếc bánh ngọt có hình cây củi để mọi người thưởng thức trong đêm Noel và lưu truyền cho đến nay.
Bánh Stollen: Dù với tên gọi Stolle hay là Stollen có từ năm 1330, bánh này không thể thiếu trong các loại bánh của mùa giáng sinh. Hình thức của bánh ngày nay nhắc lại những trẻ nhỏ đã bị giết tại Bethlehem và cuốn trong khăn. Vì lý do này mà trong thời trung cổ người ta không cắt bánh trước ngày 28 .12.
Tuy nhiên, theo nhiều bài viết bằng tiếng Anh thì hình thức của bánh này tượng trưng cho hình ảnh Chúa Hài Đồng được cuốn trong vải trắng.
Trái Đất:
Biểu tượng của trái đất tượng trưng cho sự hoà bình trên trái đất. Tuy nhiên, biểu tượng này chúng ta thường ít được nhìn thấy hơn.
Nơ Bướm (Bows) và Ruy Băng (Ribbons):
Thể hiện sự kết hiệp của chúng ta trong thiện ý muôn đời.
Bữa Ăn Reveillon : Tại Alsace, Pháp, bữa ăn này phải gồm có tam hành là thủy (cá chép, con hàu), không khí (gà tây hay ngỗng) và mộc (thịt heo). Tập tục ăn gà tây là do thủy thủ của nhà thám hiểm Christophe Colomb du nhập từ Mehico.
Tiệc đêm Giáng sinh, "Reveillon.“ Theo truyền thống gia đình Đức thường ăn ngỗng quay, tiếng Đức gọi là „Weihnachtsgans“, họ ít ăn gà tây nướng như lễ Tạ ơn, "Thanhsgiving“ của người Mỹ. Ngoài ra có các lọai bánh hình ngôi sao, các tượng Thiên thần, hình ông già Noel và những thứ bánh gọi là Weihnachtstollen, Weihnachtgebäck .. và rượu nho.
Miền New England dân chúng ăn tiệc mừng Giáng Sinh theo người Anh. Trong bữa ăn "Réveillon" luôn luôn tổ chức trọng thể có một loại rượu đặc biệt, chế bằng nước trái cây ép với vài hương liệu Đông Phương như đinh hương đậu khấu và rượu nho. Thứ rượu đặc biệt trên phải hâm nóng, uống như rượu saké của Nhật. Người Island mùa Vọng từ ngày 12 đến 24, mỗi ngày thường bỏ những món quà nhỏ trong chiếc giày tượng trưng qùa của Nikolaus dành cho trẻ con. Chiều 24 bắt đầu bữa tiệc mừng Giáng Sinh, sau đó họ đi thăm nghiã trang mang đến những tràng hoa và đốt nến trên mộ phần người thân.
Ở Ý Italy họ không dùng cây thông trang điểm cho mùa Giáng sinh, nhưng họ làm hang đá và ăn tiệc đêm 24 cho đến lễ Ba Vua 6 tháng 1, họ bỏ kẹo bánh vào chiếc vớ hay giày làm qùa cho trẻ con.
Người Tây Ban Nha Spanien/Spain và Bồ Đồ Nha/Portugal chỉ tặng qùa vào lễ Ba vua.
Hòa Lan Niederlande/Netherlands từ 6/12 hàng năm họ tổ chức rước lễ lớn ở hải cảng Amsterdame và trong đêm giao thừa, các gia đình mang ra đường đốt những cây thông (Christbäume) cùng với tiếng pháo tống cưụ nghinh tân.
Vùng Đông âu giá lạnh như Schweden/Sweden mùa Giáng sinh cũng là ngày chí điểm (Sonnenwende/solstice) khởi điểm muà Đông và Jul-Fest. Chiều 24 sau 15 giờ trời sẩm tối, qùa tặng Giáng sinh là các con dê đực bằng rơm và lò sưởi họ đốt than củi từ 24.12 đến 6.1 chấm dứt Giáng sinh vào ngày 13 cũng là ngày Thánh Knut. Họ ném những cây thông qua cửa sổ; đó cũng là một phong tục.
Người Mỹ trong đêm Giáng sinh mọi gia đình cũng tổ chức ăn uống, trao đổi qùa tặng cùng những lời chúc tốt đẹp.
Thiệp Giáng Sinh:
Vào thời cổ Ai Cập và La Mã, người ta có thói quen gửi lời chúc mừng đầu năm khắc trên những mảnh gỗ. Đến năm 1843, tại Anh quốc, Sir Henry Cole, vì quá bận bịu trong công việc làm ăn không thể viết thư được nhân mùa Giáng SInh và muốn giúp phát triển hệ thống Bưu điện nên đã in một số thiệp gửi đến các đồng sự của ông. Lần ấy, đã có hàng ngàn tấm thiệp được in và bán với giá một "shilling".
Hạt Dẻ:
Một dĩa đầy màu sắc với những hạt dẻ và bánh giáng sinh thì không thể thiếu trong bầu khí lễ Giáng sinh tại Đức. Những hạt dẻ Walnuesse được nhập cảng từ Pháp, Haselnuesse từ Ý, Hy Lạp, Tây Ban Nha và Thổ Nhĩ Kỳ, từ Ba Tây có những hạt dẻ Paranuss ba cạnh. Dù là hạt dẻ nào chăng nữa, chúng có chung một đặc điểm, đó là chúng có vỏ cứng và nhân ngọt bùi. Những hạt dẻ cho chúng ta nhận ra biểu tượng: Chúa ban cho chúng ta đời sống, nhiều khi vỏ của đời sống thật cứng, nhưng muốn nếm được sự ngọt bùi bên trong của đời sống, mỗi người phải tự mở ra, phải bẻ chiếc vỏ cứng đó ra. Hạnh phúc thay ai có kềm để bẻ hột dẻ trong tay.
Ðêm Thánh Vô Cùng / Heiligabend / Silent Night:
Bài thánh ca "Đêm Thánh Vô Cùng" tác giả là Cha xứ Joseph Mohr (1792 † 1848) viết lời và nhạc do thầy giáo Franz Xaver Gruber(1787-†1863) soạn. Lần đầu tiên bản thánh ca này được hát vào ngày 24.12.1818. Cha Mohr sinh tại Salzburg Áo. Sau khi chịu chức linh mục năm 1815, cha về làm việc tại nhà thờ St. Nikolaus Oberndorf Đức. Bài thánh ca Weihnachtslied "'Stille Nacht! Heilige Nacht! Silent Night/ Đêm Thánh Vô Cùng" ra đời và được hợp ca với một cây đàn nhỏ phụ họa, đó là bài thánh ca bất hủ, trở thành những bài ca quốc tế, dịch ra nhiều thứ tiếng.
Jingle Bells (Chuông Reo Vang):
Jingle Bells có lẽ là nhạc phẩm nhiều người biết, không thể thiếu được trong mùa lễ Giáng sinh. Nhạc phẩm nầy được nhạc sĩ Nguyễn Duy đặt lời Việt trở thành một bài hát với tiếng lục lạc leng keng trên cổ ngựa, tiếng chuông giáo đường vang vang.
Bài Jingle Bells do nhạc sĩ J.Pierpont sáng tác nhưng lại đặt vào chùm bài hát trong danh sách những bản nhạc dân ca nổi tiếng của Mỹ với tên gọi American song bag của nhà thơ Carl Sandburg. Bài này không phải sáng tác cho đêm Noel như người ta lầm tưởng. Lời bài hát đậm tính dân dã mộc mạc, diễn tả tâm hồn của người dân Mỹ hướng đến một mùa tuyết rơi thật tốt lành. Hình ảnh ông Noel với túi quà đồ chơi, ngồi trên xe tuần lộc với tiếng chuông leng keng diễn tả sinh động, quyến rủ làm cho người ta thích nghêu ngao, nó vô tình trở thành bài hát Giáng sinh.
Màu Sắc Mùa Noel:
Đỏ: Màu Chúa đổ ra vì tội lỗi của nhân loại (John 19:34)
Xanh: Chúng ta có cuộc sống vĩnh cữu trong Chúa Kitô (John 3:16-17)
Trắng: Đức tinh khiết của Đức Kitô (2 Corinthians 5:21)
Vàng: Vương quyền của Đức Kitô (Isaiah 9:6-7)
Ký Hiệu Xmas:
Từ viết tắt này có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp. Trong tiếng Hy Lạp Xristos là Chúa Jesus. Vào thế kỷ thứ XVI, những người châu Âu bắt đầu dùng chữ cái đầu tiên của tên Ðức Chúa là “X” để viết tắt cho từ Christ trong Christmas.
(Nguồn: sưu tầm nhiều bài Anh-Việt khác nhau từ internet)
Một số hình ảnh không thể mang về được, thành thật xin lỗi.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.12.2009 15:44:13 bởi lyenson >