Chủ nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn - Chủ Nghĩa Quốc-gia khoa-Học - Nguyễn Ngọc Huy
Sun Ming 29.12.2009 03:06:39 (permalink)
Nguồn: http://www.tinparis.net/chanhtri/DTST_Q1MucLuc.html






Chủ nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn -  Chủ Nghĩa Quốc-gia khoa-Học
Quyển 1 : Lược khảo về các lý thuyết đã lưu- hành
Tác giả : Hùng Nguyên  Nguyễn ngọc Huy.
Xuất bản năm 1964 - Tái bản năm 2006 - Nhà Phát Hành Gió Đông












MỤC-LỤC
 

DÂN-TỘC SINH-TỒN :  Chủ-nghĩa quốc-gia khoa-học
Quyển 1 : Lược khảo về các lý thuyết đã lưu- hành
 

 
VAI TUỒNG CỦA TƯ-TƯỞNG TRONG XÃ-HỘI LOÀI NGƯỜI
 
I.   - Sự liên-quan giữa tư-tưởng và hành-động  
II. - Tư-tưởng chủ-động và sự hoạt-động chánh-trị
III.- Điều-kiện quyết-thắng của một tư-tưởng chủ-động   
IV.- Sự xung-đột giữa những tư-tưởng chánh-trị trong thế-giới hiện-đại  




PHẦN THỨ NHẤT
 
LƯỢC-KHẢO VỀ NHỮNG LÝ-THUYẾT CHÁNH-TRỊ 
ĐÃ LƯU-HÀNH TRÊN THẾ-GIỚI TỪ TRƯỚC ĐẾN NAY
 
 


  • CHƯƠNG I.   Những tôn-giáo, lý-thuyết thần-quyền  ( Xin bấm vào đây để download / tải xuống/ télécharger Chương I )  

    • I.- Sự phát-sanh của những tôn-giáo, lý-thuyết thần-quyền
    Ý-niệm linh-hồn
    B-   Ý-niệm thần-minh    
    C-   Ý-niệm vật-tổ         
    D-   Ý-niệm về vị thần bảo-vệ đoàn-thể    
    Đ-   Ý-niệm Thượng-Đế  
    E-   Sự phát-triển của tinh-thần đạo-đức    
     

    • II - Thử khảo-sát về một vài tôn-giáo quan-trọng trên thế-giới

    A- Đạo Bà-la-môn, Phật-Giáo và Ấn-độ-giáo    

    1.- KINH PHỆ-ĐÀ VÀ ĐẠO BÀ-LA-MÔN  
     
    a) Các kinh-điển        
    b) Quan-niệm về Phạn-thiên      
    c) Quan-niệm về võ-trụ      
    d) Linh-hồn người và thuyết luân-hồi      
    đ) Ý-niệm đạo-đức      
    e) Sự thờ cúng và tu-niệm     

    2.- PHẬT-GIÁO      

    a) Tiểu-sử Phật   
    b) Những điểm khác nhau giữa Phật-giáo và đạo Bà-la-môn         
    c) Lý-thuyết đặc-biệt của Phật-giáo : sự khổ và phép diệt khổ   
    d) Sự tu thân và lòng từ-bi bác-ái   
    đ) Sự thay đổi giáo-lý của Phật với phái Đại-thừa      
    e) Sự truyền-bá Phật-giáo     

    3.- ẤN-ĐỘ-GIÁO    

    a) Giáo-lý Ấn-độ-giáo so với đạo Bà-la-môn và Phật-giáo   
    b) Sự thờ cúng
     
    B- Nho-giáo và Đạo-giáo      

    1.- NHO-GIÁO   
    a) Tiểu-sử Khổng-tử   
    b) Phần triết-lý trong học-thuyết Khổng-tử      

    1- Tư-tưởng Trung Hoa thời thái-cổ
    2- Thái-cực và sự biến-hóa của thiên-lý   
    3- Người và sự tri-giác         
    4- Đạo-Trung      
    5- Sự sanh     
    6- Đạo Nhơn
    7- Thiên-mạng     
    8- Quỉ thần và sự sống chết       
  •  
    c) Chủ-trương trị-thế của Khổng-tử       


    1- Quân-tử và tiểu-nhơn    
    2- Sự học của người quân-tử       
    3- Lễ và Nhạc 4- Đạo nhơn và đức-độ nhà cầm quyền  
    d) Sự phát-triển của Nho-giáo sau Khổng-tử   
    2.- ĐẠO-GIÁO   
    a) Tiểu-sử Lão-tử          
    b) Triết-lý Đạo-giáo   
    c) Luân-lý Đạo-giáo        
    d) Ảnh-hưởng Đạo-giáo trong xã-hội Trung-Hoa     
     
    C.- Thiên-chúa-giáo và Hồi-giáo         
     
    1.- THIÊN-CHÚA-GIÁO     
    a) Tiểu-sử nhà sáng lập Thiên-chúa-giáo        
    b) Những tư-tưởng Do-thái làm nền tảng cho Thiên-chúa-giáo           
    c) Giáo-lý Thiên-chúa-giáo         
    d) Nền luân-lý của Thiên-chúa-giáo           
    đ) Sự truyền-bá Thiên-chúa-giáo và các chi-phái hiện-tại của đạo ấy        
     
     2.- HỒI-GIÁO
    a) Tiểu-sử Mahomet        
    b) Giáo-lý Hồi-giáo        
    c) Sự phát-triển của Hồi-giáo        


    A.- Vai tuồng và ảnh-hưởng của tôn-giáo đối với xã-hội cổ-thời    
    B.- Vai tuồng và ảnh-hưởng của tôn-giáo trong xã-hội cận-đại         


     


  • CHƯƠNG II . Lý-thuyết dân-chủ ( Xin bấm vào đây để download / tải xuống/ télécharger Chương I I  )  

    • I.- Những mầm mống của tư-tưởng dân-chủ trong xã-hội cổ-thời 

    • II.- Xã-hội Âu-châu cận-kim và sự phôi-thai ra những lý-thuyết  dân-chủ hiện lưu-hành     

    A.- So sánh xã-hội quân-chủ Trung Hoa và xã-hội quân-chủ Âu-châu      
    1.- Xã-hỘi Trung-Hoa  
    2.- Xã-hỘi âu-châu    
    B.- Những khởi-điểm của lý-thuyết dân-chủ hiện lưu-hành        
    1.- CÁC HỘI-NGHỊ VÀ ĐẶC-QUYỀN ĐÔ-THỊ
    2.- NHỮNG PHONG-TRÀO TƯ-TƯỞNG  
     
    C.- Sự phát-sanh những lý-thuyết dân-chủ 
               
    1.- SỰ PHÁT-SANH LÝ-THUYẾT DÂN-CHỦ Ở ANH        
    a) Locke và thời-đại của ông                  
    b) Lý-thuyết dân-chủ của Locke            

    1.- Con người trong trạng-thái thiên-nhiên   
    2.- Những khuyết điểm của trạng-thái thiên-nhiên và sự cần dùng lập thành xã-hội      
    3.- Sự tổ-chức hợp-lý của xã-hội    
    4.- Đặc-quyền cá-nhơn trong xã-hội        
  •  
    2.- SỰ PHÁT-SANH LÝ-THUYẾT DÂN-CHỦ Ở PHÁP
    a) Xã-hội Pháp vào thế-kỷ thứ 17 và 18                 
    b) Montesquieu và tư-tưởng của ông                   

    1.- Tiểu-sử Montesquieu  
    2.- Tư-tưởng chánh-trị của Montesquieu trong quyển « Vạn-Pháp tinh-lý »     
    c) Rousseau và tư-tưởng của ông             

    1.- Tiểu-sử Rousseau      
    2.- Tư-tưởng chánh-trị của Rousseau        
    a) Con người và trạng-thái thiên-nhiên              
    b) Con người trong xã-hội cũ                
    c) Giải- pháp của Rousseau             
    d) Những yếu-điểm   của thuyết Rousseau      
     

    A.- Sự thành-lập chế-độ dân-chủ ở Anh    
    B.- Sự thành-lập chế-độ dân-chủ ở Hiệp-chủng-quốc Mỹ         
    C.- Sự thành-lập chế-độ dân-chủ ở Pháp và các nước trên lục-địa Âu-châu     
    D.- Sự áp-dụng lý-thuyết dân-chủ trong công việc tổ-chức quốc-gia       
     

    A.- Những nhược-điểm của chủ-nghĩa dân-chủ tư-sản về phương diện lý-thuyết      

    1.- THUYẾT TRẠNG-THÁI THIÊN-NHIÊN     
    2.- THUYẾT QUYÈN THIÊN-NHIÊN CỦA CON NGƯỜI
    3.- THUYẾT NGƯỜI SANH TỰ-DO VÀ BÌNH-ĐẲNG  
    4.- THUYẾT CHỦ-QUYỀN QUỐC-GIA  
       a) Chủ-quyền quốc-gia thuộc về toàn thể dân-chúng         
       b) Chủ-quyền quốc-gia phải dựa vào sự ích-lợi chung, nó đơn-nhứt và tối cao    

    B.- Những nhược-điểm của chủ-nghĩa dân-chủ tư-sản về phương-diện thực-tế       

     
     


  • CHƯƠNG  III . Lý-thuyết Xã-hội  ( Xin bấm vào đây để download / tải xuống/ télécharger Chương I I I )
    A.- Những ý-tưởng xã-hội thời cổ  
      B.- Những lý-thuyết xã-hội duy-tâm   

    1.- SỰ PHÁT-SANH NHỮNG LÝ-THUYẾT XÃ-HỘI      

    2.- NHỮNG LÝ-THUYẾT XÃ-HỘI DUY-TÂM     
     
    a) Nhóm chủ-trương dựa vào quốc-gia      
    1.- Saint Simon   (1760-1825) và các môn-đồ ông      
    2.- Louis Blanc   (1811-1882)        
     
    b) Nhóm chủ-trương hoạt-động   ngoài quốc-gia
    1.- Owen   (1771-1858)         
    2.- Fourier   (1772-1837)  
    3.- Proudhon   (1811-1882)   

    3.- LUẬN CHUNG VỀ CÁC LÝ-THUYẾT-GIA XÃ-HỘI DUY-TÂM     
     

    A.- Những ly-thuyết-gia duy-vật : Karl Marx và Engels     
    B.- Những nguyên-tắc căn-bản của lý-thuyết xã-hội duy-vật   

    1.- THUYẾT DUY-VẬT BIỆN-CHỨNG VÀ DUY-VẬT SỬ-QUAN    
    a) Thuyết duỵ-vật               

    1.- Những chủ trương duy-tâm               
    2.- Chủ-trương duy-vật          
    b) Biện-chứng-pháp :               

    1.- Định-nghĩa  
    2.- Biện-chứng-pháp cổ-thời     
    3.- Biện-chứng-pháp Hegel      
    c) Thuyết duy-vật biện-chứng của Karl Marx và Engels               
    d) Những nguyên-tắc căn-bản của duy-vật biện-chứng-pháp   

    1.- Sự tác-động lẫn nhau giữa sự-vật        
    2.- Sự biến đổi trong sự-vật        
    3.- Sự thay đổi từ lượng sang phẩm     
    4.- Sự mâu-thuẫn nội-tại của sự vật   
    5.- Tánh-cách tạm-thời của chơn-lý      
    đ) Thuyết duy-vật sử-quan              
     
    2.- SỰ ÁP-DỤNG NHỮNG LÝ-THUYẾT DUY-VẬT BIỆN-CHỨNG VÀ DUY-VẬT SỬ-QUAN VÀO VIỆC CẢI TẠO XÃ-HỘI  
     
    a) Thuyết giai-cấp đấu-tranh         
    b) Những thuyết phụ thêm vào chủ-trương giai-cấp tranh-đấu

    1.- Thuyết giá-trị    
    2.- Thuyết giá-trị thặng-dư    
    3.- Thuyết tích-lũy tư-bản           
    4.- Thuyết quần-chúng vô-sản-hóa và cách-mạng dĩ-nhiên           
     
    c) Sự chuyên-chánh của giai-cấp vô-sản và sứ-mạng người cộng-sản         
    1.- Sự chuyên-chánh của giai-cấp vô-sản        
    2.- Sứ-mạng những người cộng-sản

    a) Sự   hủy-diệt tư-sản                               
    b) Sự hủy-diệt tự-do và cá-tánh                       
    c) Sự hủy-diệt văn-hóa và luật-pháp                 
    d) Sự hủy-diệt luân-lý và tôn-giáo                    
    đ) Sự hủy-diệt gia-đình                    
    e) Sự hủy-diệt tổ-quốc                                
    d) Xã-hội cộng-sản                          
    1.- Giai-đoạn chế-độ xã-hội        
    2.- Giai-đoạn cộng-sản        
     
    A.- Sự hoạt-động của Karl Marx và môn-đồ    
    B.- Các chi-phái chánh-trị theo lý-thuyết xã-hội duy-vật Karl Marx              

    1.- SỰ PHÂN-BIỆT GIỮA HAI ĐẢNG XÃ-HỘI VÀ CỘNG-SẢN   
    2.- SỰ PHÂN-BIỆT GIỮA ĐẢNG CỘNG-SẢN ĐỆ TAM VÀ ĐỆ TỨ       
    3.- XU-HƯỚNG TITO VÀ SỰ XUNG-ĐỘT GIỮA NGA-SÔ VÀ TRUNG-CỘNG
     
            
     A.- Những khuyết-điểm của lý-thuyết xã-hội duy-vật về phương-diện lý-thuyết     

    a) Thuyết duy-vật
    b) Thuyết duy-vật biện-chứng  

    1.- Sự tác-động lẫn nhau  
    2.- Sự biến đổi trong sự vật  
     3.- Sự thay đổi từ lượng sang phẩm
    4.- Sự mâu-thuẩn nội-tại của sự vật  
    5.- Tánh-cách tạm-thời của chơn-lý     
    c) Duy-vật sử-quan

    a)    Chủ-trương cho lịch-sử là một cuộc giai-cấp tranh-đấiu liên tiếp dựa vào một ý-niệm sai lầm              
    b)    Sự phân chia xã-hội hiện-thời ra làm hai giai-cấp tư-bản và vô sản không được rõ rệt            

    1.- Tiền bạc và sự phân chia giai-cấp   
    2.- Nghề-nghiệp và sự phân chia giai-cấp  
    3.- Học-thức và sự phân chia giai-cấp           
    4.- Việc CÓ hay KHÔNG CÓ những phương-tiện sản-xuất và sự phân chia giai-cấp  
    c) Những cuộc xung-đột bên trong một giai-cấp        

    1.- Sự xung-đột giữa những người cùng giai-cấp trong một nước       
    2.- Sự xung-đột giữa những người cùng giai-cấp ở những nước khác nhau    
    d) Nguyên-nhơn sự lầm lạc của Karl Marx      
    đ) Kết-luận của Marx về giai-cấp tranh-đấu cũng sai lầm     

    a) Thuyết giá-trị
    b) Thuyết giá-trị thặng-dư                    
    c) Luật tích-lũy tư-bản và quần-chúng vô-sản-hóa         
    d) Thuyết cách-mạng dĩ-nhiên             

     
      
    a) Sự chuyên-chánh của giai-cấp vô-sản        
    b) Sứ-mạng người cộng-sản         
     

    a) Những điều-kiện tất-yếu để thực-hiện chế-độ cộng-sản        
    b) Sự thực-hành nguyên-tắc nhị-các         

    1.- Sự thực-hành nguyên-tắc nhị-các với chế-độ tự-do

    a) Nguyên-tắc các tận sở năng     
    b) Nguyên-tắc các thủ sở nhu   
    2.- Sự thi-hành nguyên-tắc nhị các với chế-độ độc-tài  

    B.- Những khuyết-điểm của lý-thuyết xã-hội duy-vật về phương-diện thực hành        




     

         
    A.- Tình-trạng nước Ý sau trận Đại-chiến 1914-1918   
    B.- Benito Mussolini và phong-trào phát-xít   
    C.- Những nguyên-tắc căn-bản của chủ-nghĩa Phát-xít  
    D.- Chế-độ Phát-xít      
    Đ.- Những nhược-điểm của chủ-nghĩa và chế-độ phát-xít     



    A.- Tình trạng nước Đức sau trận Đại-chiến 1914-1918  
    B.- Hitler và đảng Quốc-xã   
    C.- Những nguyên-tắc căn-bản của chủ-nghĩa Quốc-xã :  Thuyết siêu-nhơn và siêu-tộc


    1.-NHỮNG TÁC-GIẢ ĐÃ ẢNH-HƯỞNG ĐẾN HITLER    

    a) Nietszche và thuyết siêu-nhơn     
    b) Bá-tước Gobineau và quyển “Tiểu-luận về sự bất-bình-đẳng giữa các chủng-tộc”  
    c) Vacher de Lapouge và quyển “Người Ayren và vai tuồng xã-hội của họ”        
    d) Houston Stewart Chamberlain và quyển“Cơ-sở của thê-kỷ thứ 19”      

    2.- THUYẾT CHỦNG-TỘC CỦA HITLER   

    a) Thuyết siêu-nhơn  
    b) Sự phân-biệt những chủng-tộc ra làm ba loại : Tạo-lập, duy-trì và phá-hoại văn-minh                 
    c) Dân Ayren là chủng-tộc độc nhứt tạo-lập văn-minh  
    d) Điều-kiện quyết-thắng cho siêu-tộc : một dòng máu thuần-túy        
    đ) Phong-trào bài Do-thái và qui-tập người thuộc máu Đức về một khối       

    D.- Chế-độ quốc-xã     
    Đ.- Những nhược-điểm của chủ-nghĩa và chế-độ quốc-xã  
     

     
     


    A.- Tình-thế Trung Hoa vào khoảng cuối thế-kỷ thứ 19 và đầu thế-kỷ thứ 20     
    B.- Tôn Văn và Trung-Hoa Dân-quốc
    C.- Những nguyên-tắc căn-bản của chủ-nghĩa Tam Dân      


    1.- CHỦ-NGHĨA DÂN-TỘC     
    2.- CHỦ-NGHĨA DÂN-QUYỀN     
    3.- CHỦ-NGHĨA DÂN-SINH     
    D.- Những nhược-điểm của chủ-nghĩa Tam Dân      
    Đ.- Nguyên-nhơn những mâu-thuẫn của Tôn Văn     
    E.- Sự thi-hành chủ-nghĩa Tam Dân   



    A.- Tình-thế nước Trung Hoa sau khi Tôn Văn từ trần     
    B.- Mao Trạch Đông và đảng Cộng-sản Trung-Hoa    
    C.- Những nguyên-tắc căn-bản của chủ-nghĩa Tân-Dân        


    1.- DÂN-TỘC   
    2.- DÂN-QUYỀN      
    3.- DÂN-SINH    
     
    D.- Những chỗ dị-đồng giữa hai chủ-nghĩa Tam Dân và Tân-Dân       
    Đ.- Những nhược-điểm của chủ-nghĩa Tân-Dân 
          

     

    - Tổng-luận về những lý-thuyết chánh-trị đã lưu-hành        








     Quyển 2 : Chủ nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn
    Tác giả : Hùng Nguyên  Nguyễn ngọc Huy.
    Xuất bản năm 1964 - Tái bản năm 2006 - Nhà Phát Hành Gió Đông











    MỤC-LỤC
     
    Quyển 2 : Chủ nghĩa Dân Tộc sinh tồn
     




    I. SỰ HOẠT-ĐỘNG CHÁNH-TRỊ CỦA NGƯỜI
    A.- Mục-đích hoạt-động chánh-trị.      
    B.- Sự quan-trọng của hoạt-động chánh-trị đối với người.              
     
     
    II. VAI TUỒNG XÃ-HỘI CỦA NHỮNG LÝ-THUYẾT VÀ CHỦ-NGHĨA CHÁNH -TRỊ.
     
    A - Sự cần-thiết của tư-tưởng chánh-trị.
    B - Sự xuất-hiện của những lý-thuyết và chủ-nghĩa chánh-trị.     
    C - Ảnh-hưởng những lý-thuyết và chủ-nghĩa chánh-trị đã ra đời.   
     
     
    III. NHỮNG KHUYẾT-ĐIỂM CỦA NHỮNG LÝ-THUYẾT VÀ  CHỦ-NGHĨA CHÁNH-TRỊ ĐÃ RA ĐỜI.
    A - Khuyết-điểm của những lý-thuyết thần-quyền.
    B - Khuyết-điểm của lý- thuyết dân-chủ.    
    C - Khuyết-điểm của lý-thuyết xã-hội.   
    D - Khuyết-điểm của những chủ-nghĩa phát-hiện sau lý-thuyết dân-chủ và xã-hội         
     
     
    IV. ĐIỀU-KIỆN CẦN-THIẾT ĐỂ THÀNH-CÔNG TRONG SỰ KIẾN-THIẾT MỘT XÃ-HỘI    ĐIỀU-HÒA : MỘT CHỦ-NGHĨA CHÁNH-TRỊ HỢP-LÝ.    
     
    A- Chỗ bất hợp-lý của các lý-thuyết và chủ-nghĩa chánh-trị ra đời.
    B- Những nguyên-tắc tất-yếu hướng-dẫn sự xây dựng một chủ-nghĩa chánh-trị hợp-lý.


     
    I. CON NGƯỜI TRONG KHUNG-CẢNH THIÊN-NHIÊN.
     
    A- Con người trong vũ-trụ.
    B- Con người trên địa-cầu.   
    1.SỰ PHÁT-HIỆN SANH-CHẤT TRÊN ĐỊA CẦU VÀ SỰ TIẾN-HÓA CỦA NGƯỜI.    
    2.VỊ -TRÍ CON NGƯỜI ĐỐI VỚI NHỮNG GIỚI TỬ-CHẤT VÀ SINH-VẬT TRÊN ĐỊA-CẦU.

    II- NHỮNG TRI-THỨC CỐT-YẾU VỀ NGƯỜI.

    A- Sự sanh-dục của người.
    B- Vấn-đề phân-biệt cơ-thể với tâm-hồn người.
    C- Cơ-thể con người.
     

    1. KÍCH-THƯỚC VÀ HÌNH-DÁNG VỀ NGƯỜI.
    2. TỔ-CHỨC THÂN-THỂ CON NGƯỜI.
     
    a) Da và các niêm-mạc.                          
    b) Tồ-chức nội-tại của thân người.                      
    c) Sự dinh-dưỡng của các tổ-chức tế-bào.                 
    d) Sự giao-tiếp vật-lý giữa cơ-thể và ngoại-giới :các hệ-thống thần-kinh, hài-cốt và cân nhục.                 
     
    3. SỰ PHÂN-BIỆT  NAM NỮ.      
    4. TỔNG-LUẬN VỀ CƠ-THỂ CON NGƯỜI.      
     
    D- Tâm-hồn con người.


    1. KHÁI-LƯỢC VỀ Ý-THỨC VÀ TÂM-HỒN NGƯỜI.        
    2. TRÍ THÔNG-MINH , LÒNG TÍN-NGƯỠNG VÀ TRỰC-GIÁC CỦA NGƯỜI.
    3.TÌNH-CẢM VÀ NĂNG-KHIẾU LUÂN-LÝ CỦA NGƯỜI.          
    4. NHỮNG TRẠNG-THÁI HOẠT-ĐỘNG KHÁC CỦA TÂM-HỒN :
     5.  NĂNG-KHIẾU, THẨM-MỸ VÀ KHUYNH-HƯỚNG THẦN-BÍ.      
    Đ- Sự tương-quan giữa những hoạt-động sanh-lý và tâm-lý.
     
    III.- BẢN-TÁNH CON NGƯỜI.
     
    A- Những bản-năng.
      
    1. ĐẠI-LƯỢC VỀ BẢN-NĂNG.          
    2. CÁC LOẠI BẢN-NĂNG.          
     
    a) Những bản-năng vị-kỷ.
     

    1. Bản-năng tự-vệ.
    2. Bản-năng dinh-dưỡng.     
    3. Bản-năng tự-do và bản-năng hoạt-động.     
    4. Những bản-năng vị-kỷ phức-tạp.     
     
    b) Những bản-năng tình-dục.
      

    1. Bản-năng tình-dục chánh-danh.
    2. Bản-năng gia-đình.
     
    c) Những bản-năng xã-hội.
     

    1. Bản-năng hợp-quần.
    2. Những hình-thức biểu-hiệu phức-tạp của bản-năng hợp-quần.
    3. Bản-năng đạo-đức.      
    4. Bản-năng quần-chúng.   
    5. Những khuynh-hướng phức-tạp dựa vào các loại bản-năng
     
    3. NHỮNG ĐẶC-TÁNH CỦA BẢN-NĂNG.   


    a) Sự phức-tạp của bản-năng.     
    b) Sự sắp hạng các bản-năng.
    c) Ý-thức người về bản-năng và sự chuyển-hóa các bản-năng.     
     
    B- Vấn-đề cá-tánh của người.
     
    1.  CÁ-TÁNH CỦA NGƯỜI.


    a) Về phương-diện thể-chất.
    b) Về phương-diện tinh-thần.
      
    2. NGUỒN-GỐC CỦA CÁ-TÁNH.
       

    1.- MỤC-ĐÍCH HOẠT-ĐỘNG CỦA NGƯỜI : SINH-TỒN
     
    A- Ý-chí sinh-tồn của người. 
     

    1. BẢN-NĂNG SINH-TỒN CỦA NGƯỜI.  
    2. SỰ HOẠT-ĐỘNG SINH-TỒN CỦA NGƯỜI.

    B- Những biểu-lộ khác nhau của ý-chí sinh-tồn.
    C- Ý-chí sinh-tồn với hoàn-cảnh.
     

    1. NHỮNG THUYẾT TIỀN-ĐỊNH. 
    2. THUYẾT TỰ-DO Ý-CHÍ.
    3. TÁNH-CÁCH TỰ-DO CỦA NGƯỜI
     
    D- Vấn-đề hạnh-phúc.
     

    1. SỰ PHỨC-TẠP CỦA VẤN-ĐỀ HẠNH-PHÚC.      
    2. VẤN ĐỀ HẠNH-PHÚC ĐỐI CHIẾU VỚI SỰ HOẠT-ĐỘNG SINH-TỒN.     
    3. SỰ GIẢI-QUYẾT VẤN-ĐỀ HẠNH-PHÚC.   
        
    II. TÁNH-CÁCH CĂN-BẢN CỦA SỰ SINH-TỒN : VỊ-KỶ     
     
    A- Khuynh-hướng vị-kỷ của người.   
    B- Sự vị-kỷ trong những hoạt-động cao-thượng của người.
     

    1. SỰ VỊ-KỶ TRONG CÁCH CẤU-TẠO VÀ PHÁT-HUY  TIN-TƯỞNG CỦA NGƯỜI.   
    2. SỰ VỊ-KỶ TRONG CẢM-GIÁC CỦA NGƯỜI.
    3. SỰ VỊ-KỶ TRONG NHỮNG HOẠT-ĐỘNG CỦA TÂM-TRÍ NGƯỜI.
    4. SỰ VỊ-KỶ TRONG TRÍ-THỨC CỦA NGƯỜI VÀ KHOA HỌC.
    5. SỰ VỊ-KỶ TRONG HOẠT-ĐỘNG NGHỆ -THUẬT CỦA NGƯỜI.
    6. SỰ VỊ-KỶ TRONG HOẠT-ĐỘNG TÔN-GIÁO   
     
    C- Sự vị-kỷ trong nhu-cầu phát-triển của người
    D- Sự vị-kỷ và sự hy-sanh tánh-mệnh.
    Đ- Sự vị-kỷ trong những hành-động vị-tha.   
     

    1. SỰ VỊ-KỶ TRONG TÌNH YÊU.        
    2. SỰ VỊ-KỶ TRONG TÌNH GIA-ĐÌNH.    
    3. SỰ VỊ-KỶ TRONG TÌNH BẠN.
    4. SỰ VỊ-KỶ VÀ LÒNG THƯƠNG XÓT.
    5. SỰ TƯƠNG-QUAN GIỮA LÒNG VỊ-THA VÀ LÒNG VỊ-KỶ.      
     
    III.- ĐIỀU-KIỆN CỐT-YẾU CHO SỰ SINH-TỒN CỦA NGƯỜI : LUẬT TRANH-ĐẤU.   
     
    A- Lý-do tranh-đấu và đối-thủ của người.   
    B- Những hình-thức tranh-đấu.
     

    1. NHỮNG CUỘC TRANH-ĐẤU BẠO TỢN.
    2. NHỮNG CUỘC TRANH ĐẤU ÔN-HÒA.
     
    C- Hậu-quả của sự tranh-đấu và sự quan-trọng của nó.        
     
    IV.- ĐIỀU-KIỆN THẮNG-LỢI TRONG CUỘC TRANH-ĐẤU :  SỨC MẠNH VÀ QUAN-NĂNG BIẾN CẢI.      
     
    A- Luật sức mạnh.
     

    1. ĐẠI-LƯỢC VỀ SỨC MẠNH.

    a) Lực vật-chất.
    b) Sức mạnh thể-chất và tinh-thần của người.   

    2. VAI TUỒNG CỦA SỨC MẠNH TRONG SỰ TRANH-ĐẤU.
    3. THÁI-ĐỘ CỦA XÃ-HỘI ĐỐI VỚI SỨC MẠNH.
    4. LUẬT-PHÁP VÀ SỨC MẠNH.

    B.- Luật biến-cải.


    1. QUAN-NĂNG BIẾN-CẢI CỦA LOÀI THÚ.


    a) Nghĩ-thái bằng thái-độ hay bằng sự sử-dụng các phân-tiết tự-nhiên.
    b) Nghĩ-thái bằng cách mang những đồ vật lạ vào mình.
    c) Nghĩ-thái bằng cách biến mình cho tiệp với khung-cảnh chung quanh.
    d) Nghĩ-thái bằng cách biến mình cho giống những thú khác.

    2. QUAN-NĂNG BIẾN CẢI CỦA NGƯỜI.

    a) Đại lược về quan-năng biến-cải của người.
     
    1° Sự biến-cải nội-quan.
     
    a - Sự điều chỉnh nội-giới của người.
    b - Sự hòa-hợp các cơ-quan nội tại.
    c - Sự tu-bổ các tổ-chức.
    d - Sự trị-liệu các bệnh-tật.                                              
     

    2° Sự biến-cải ngoại-quan.
     
    a - Sự biến-cải để ứng-phó với thế-giới vật-chất.                      
    b - Sự biến-cải để ứng-phó với hoàn-cảnh xã-hội.

    b) Tánh-cách của những quan-năng biến-cải và ảnh-hưởng của nó với đời sống con người.
    c) Sự mở mang quan-năng biến-cải của người.
    d) Quan-năng biến-cải của người so với quan-năng biến-cải của loài thú.   
     
    V.- SỰ TIẾN-HÓA CỦA NGƯỜI.     
     
    A- Khái-quan về tiến-hóa của người.
    B- Nguyên-nhơn làm cho người tiến-hóa.

      
     
    1.- VẤN-ĐỀ HỢP-QUẦN.

    A- Lý-do khiến cho người hợp-quần với những thể-thức hợp-quần của người.
    B- Sự tiến-triển của hợp-quần giữa loài người.
    C- Sự liên-lạc giữa con người trong những thể-thức hợp-quần khác nhau của xã-hội.


    1. SỰ LIÊN-LẠC GIỮA CON NGƯỜI TRONG NHỮNG TỔ-CHỨC NHỎ NHƯ GIA-ĐÌNH, THỊ TỘC, BỘ LẠC.  
    2. SỰ LIÊN-LẠC GIỮA CON NGƯỜI TRONG NHỮNG TỔ-CHỨC RỘNG RÃI NHƯ QUỒC-GIA.       
    3. SỰ LIÊN-LẠC GIỮA CON NGƯỜI TRONG PHẠM-VI NHƠN-LOẠI.
    D- Những đặc-điểm trong sự hợp-quần của người.   
    Đ- Những định-luật chi-phối sự hợp-quần của con người.  
    E- Những loại tương-đồng làm cho người hợp-quần nhau lại.      
     

    1. TƯƠNG-ĐỒNG CHỦNG-LOẠI.  
    2. TƯƠNG-ĐỒNG TÂM-TÌNH.     
    3. TƯƠNG-ĐỒNG TƯ-TƯỞNG.
    4. TƯƠNG-ĐỒNG HOÀN-CẢNH.      
     
    G- Những phương-pháp để duy-trì sự hợp-quần của người.  

    1. NHỮNG YẾU-TỐ DUY-TRÌ SỰ HỢP-QUẦN CỦA NGƯỜI.   
    2. SỰ LỢI-DỤNG YẾU-TỐ TƯƠNG ĐỒNG TRONG VIỆC DUY-TRÌ SỰ HỢP-QUẦN.     
     
    II.- SỰ TRANH-ĐẤU LẪN-NHAU GIỮA CÁC ĐOÀN-THỂ LOÀI NGƯỜI.   
     
    A- Mộng tưởng đại-đồng.        

     
    1. NHỮNG BẬC VĨ-NHƠN CHỦ-TRƯƠNG ĐẠI-ĐỒNG.     
      a) Những triết-gia. 
      b) Những nhà tôn-giáo.         
     
    2. TÁNH-CÁCH KHÔNG-TƯỞNG CỦA CHỦ-TRƯƠNG  ĐẠI- ĐỒNG.  
     
    B- Những nguyên-nhơn chia rẽ loài người.

    1. BẢN-NĂNG SINH-TỒN CÁ-NHƠN.     
    2. Ý-THỨC CHỦNG-LOẠI.    
     
    C- Sự tăng-tiến của những nguyên-nhơn chia rẽ loài người.
    D- Những phương-pháp được nêu ra để chấm dứt sự chia rẽ giữa loài người.
     

    1. NHỮNG PHƯƠNG-PHÁP ĐƯỢC NÊU RA ĐỂ GIẢI QUYẾT SỰ CHIA RẼ VÌ BẢN-NĂNG SINH-TỒN.          
    a) Sự hủy-diệt lòng vị-kỷ.
    b) Sự tiết-chế nhân-dục.
    c) Sự tiết-chế sanh-dục.
    d) Sự tăng-gia sản-xuất bằng phương-pháp khoa-học.

    2. PHƯƠNG-PHÁP ĐƯỢC ĐƯA RA ĐỂ GIẢI-QUYẾT SỰ CHIA RẼ VÌ Ý -THỨC CHỦNG-LOẠI.  
     
    Đ- Những cuộc tranh-đấu giữa các đoàn-thể hợp-quần của người.   
    E- Những xu-hướng hợp-quần quan-trọng trong lịch-sử.      
     

    1. NHỮNG LOẠI CHIẾN-TRANH ĐÃ XẢY RA TRONG LỊCH-SỬ LOÀINGƯỜI         

    a) Chiến-tranh dân-tộc.
    b) Chiến-tranh giai-cấp.
    c) Chiến-tranh chánh-trị.
    d) Chiến-tranh tôn-giáo.   

    2. VAI TUỒNG ƯU-TIÊN CỦA CHỦNG-TỘC TRONG CÁC LOẠI CHIẾN-TRANH GIỮA LOÀI NGƯỜI.

    G- Những khối và xu-hướng hợp-quần hiện-tại trên thế-giới.
    H- So-sánh những thể-thức hợp-quần trong nhơn-loại.


    1. VAI TUỒNG HIỆN-THỜI CỦA YẾU-TỐ TÔN-GIÁO VÀ TƯ-TƯỞNG CHÁNH-TRỊ.         
     
    a) Yếu-tố tôn-giáo.  
    b) Yếu-tố chánh-trị.  
     
    2. SO SÁNH HAI YẾU-TỐ DÂN-TỘC VÀ GIAI-CẤP.            
     
    a) Sự phân-biệt dân-tộc có tiêu-chuẩn rõ rệt hơn sự phân-biệt giai-cấp.


    1° Yếu-tố huyết-thống.
    a- Yếu-tố huyết-thống trong sự cấu-tạo tánh-cách một dân-tộc.
    b- Yếu-tố huyết-thống đối với người Thụy-sĩ.
    c- Yếu-tố huyết-thống đối với dân-tộc Mỹ.
    d- Yếu-tố huyết-thống và hai dân-tộc Anh Mỹ.
     
    2° Những yếu-tố phụ-thuộc cấu-tạo tánh-cách một dân-tộc.
    3° Sự rõ rệt của những giới-hạn phân chia các dân-tộc.
     
    b) Nền tảng dân-tộc vững chắc và tự-nhiên hơn nền tảng giai-cấp.  
     

    1° Sự phân-biệt dân-tộc tự-nhiên hơn sự phân-biệt giai-cấp.
    2° Sự thắng-thế của nền tảng dân-tộc đối với nền tảng giai-cấp về phương-diện vững bền trong quá-khứ.
     

    a- Sự suy sụp của chế-độ phân chia giai-cấp trong lịch-sử.
    b- Sự tăng-tiến của ý-thức dân-tộc.
     

    3° Sự thắng thế của nền tảng dân-tộc đối với nền tảng giai-cấp về phương-diện vững bền trong tương-lai.
    4° Những sự kiện chứng-nhận thêm cho sự vững bền của dân-tộc trong tương-lai.
     

    a- Sự thay đổi dân-tộc phiền-phức và có tánh-cách gượng gạo hơn sự thay đổi giai-cấp.   
    b- Người ta không tha-thiết muốn đổi quốc-tịch mà tha-thiết muốn lên giai-cấp trên.
    c- Sự phản-bội dân-tộc bị dư-luận kết-án nặng nề còn sự phản bội giai-cấp  không bị xem như là một điều đáng khinh bỉ.          
      
    c) Dân-tộc có một sức mạnh cổ-truyền mà giai-cấp không có.  
    d) Quyền-lợi của người trong dân-tộc nhiều hơn trong giai-cấp   

    1° Sự xung-đột quyền-lợi trong dân-tộc và trong giai-cấp.
    2° So sánh quyền-lợi của người trong dân-tộc và trong giai-cấp.  

    a- Vấn-đề dân-tộc tranh-đấu và giai-cấp tranh-đấu chỉ  có thể đặt ra trong phạm-vi nhơn-loại.   
    b- Trình-độ sinh-hoạt của cá-nhơn trong dân-tộc hùng-cường, nhược-tiểu và nô-lệ.
    c- Sự hùng-cường và trù phú của dân-tộc là một điều-kiện tất yếu cho hạnh-phúc cá-nhơn.
    d- Chiến-tranh giữa các nước là chiến-tranh của toàn-thể  dân-chúng nước ấy chớ không phải là chiến-tranh của một thiểu-số tư-bản hay thực-dân.
    đ- Sự hợp-quần trong giai-cấp chỉ dựa vào quyền-lợi  nên không vững chắc bắng sự hợp-quần trong dân-tộc.   
    e-Sự hợp-quần trong dân-tộc có lợi cho người hơn  sự hợp-quần trong giai-cấp   
    I.  PHẠM-VI HỢP-QUẦN LỢI NHỨT CHO NGƯỜI.   
     

       
    I.- ĐẠI CƯƠNG CHỦ-NGHĨA DÂN-TỘC SINH-TỒN.

    II.- NHỮNG CHỦ-TRƯƠNG CĂN-BẢN CỦA CHỦ-NGHĨA DÂN-TỘC SINH-TỒN.        
      
    A- Điều-kiện cốt-yếu cho sự sinh-tồn của dân-tộc.
    B- Vấn-đề tổ-chức dân-tộc.
     
    1. KHẢO-LUẬN VỀ VẤN-ĐỀ CHẾ-ĐỘ XÃ-HỘI.
    2. TỔ-CHỨC CHÁNH-TRỊ.
     

    a) Lược-khảo về các chế-độ chánh-trị đã lưu-hành.
     
    1° Chế-độ độc-tài.
    2° Chế-độ đại-nghị.
    3° Chế-độ Tổng-Thống.                                          
     
    b) Các chế-độ chánh-trị đã lưu-hành và sự sinh-tồn của dân-tộc.
    c) Sự tổ-chức cai-trị địa-phương.
    d) Tổ-chức gia-đình.
     
    3. TỔ-CHỨC KINH-TẾ.
     

    a) Lược-khảo về các chế-độ kinh-tế.


    1° Chế-độ kinh-tế tự-do.
    2° Chế-độ kinh-tế tập-sản.
    3° Chế-độ kinh-tế hướng-dẫn.
    b) Các chế-độ kinh-tế và sự sinh-tồn của dân-tộc.
    4. NHỮNG VẤN-ĐỀ XÃ-HÔI.
    5. VẤN-ĐỀ VĂN-HÓA VÀ HỌC-THUẬT.    
    6. VẤN-ĐỀ BINH-BỊ.      
    7. VẤN-ĐỀ CHỈ-HUY DÂN-TỘC.

    a) Những người ưu-tú.
    b) Vấn-đề tuyển-trạch người chỉ-huy.
     
    III.- CHỦ-NGHĨA DÂN-TỘC SINH-TỒN VÀ NHỮNG LÝ-THUYẾT  CHÁNH-TRỊ ĐÃ LƯU-HÀNH TỪ TRƯỚC ĐẾN NAY.
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 29.12.2009 03:09:47 bởi Sun Ming >
    #1
      Sun Ming 29.12.2009 03:12:43 (permalink)
      CHỦ-NGHĨA
       DÂN-TỘC  SINH-TỒN
       
      Quyển   I
       
       1964


       
       
      LỜI MỞ ĐẦU

      VAI TUỒNG CỦA TƯ-TƯỞNG
      TRONG XÃ-HỘI LOÀI NGƯỜI

      I- SỰ LIÊN-QUAN GIỮA TƯ-TƯỞNG VÀ HÀNH-ĐỘNG


      "Người chỉ là một cây sậy, cây sậy yếu nhứt của Tạo-vật; nhưng đó là một cây sậy biết suy nghĩ." Câu nói trên đây của một nhà hiền-triết Tây-phương đã chỉ tỏ một cách rõ rệt đặc-tánh của con người.

      Xét về phương-diện thể-xác, người không khác cầm thú bao nhiêu. Giác-quan của con người không hơn gì giác-quan loài súc-vật. Về thị-quan, thính-quan, và khứu-quan, người lại còn kém một vài giống như giống chó giống mèo.

      Những hình-tượng người nhờ trí-thức cảm-giác mà có cũng tồn-tại và liên-hợp nhau trong trí người y như trong trí loài thú, theo một cơ-cấu tạo nên thói quen là điều rất trở ngại cho sự suy tưởng. Người vốn là nô-lệ của tập-quán, của não nhơn-tuần.

      Ngoài ra, người còn là nô-lệ của khoái-lạc nữa. Hoạt-động của người luôn luôn bị quyền-lợi chi-phối. Người lúc nào cũng tự-nhiên hướng về phía thỏa mãn được quyền-lợi vật-chất hay tinh-thần mình.

      Tuy vậy, người vẫn khác thú ở chổ người có ý-thức, có trí khôn. Người không phải lúc nào cũng hành-động theo những phản ứng tự-nhiên như loài súc-vật. Trừ ra những trường-hợp nguy-hiểm và cấp-bách trong đó họ hoàn toàn tuân theo những bản-năng, những xúc-cảm của mình một cách vô-ý-thức, những con người trí óc bình-thường luôn luôn có xu-hướng suy-luận về những hành-động của mình. Đối tượng của sự suy-luận này có thể là nguyên-nhân hay cứu-cánh của sự hành-động. Nhưng nó cũng có thể là sự tìm tòi những phương-tiện, cách thức hành-động để đạt mục-đích một cách dễ dàng và chắc chắn.

      Như vậy, trong phần lớn những công việc làm của người, ta đều có thể nhận thấy một tư-tưởng làm gốc. Phát-sanh từ một ý muốn, tư-tưởng đưa người đến chỗ cân nhắc, đắn đo sự lợi hại, phải trái của công việc mình định làm một cách kỹ lưỡng. Chỉ sau khi nhận thấy rằng công việc ấy phải và không có không xong, người mới hăng hái đứng ra hành-động.

      Tư-tưởng của người thật ra không phải hoàn-toàn hợp-lý. Trong đời sống ý-thức của người, tiềm-thức hãy còn có một ảnh-hưởng lớn lao và tư-tưởng người tùy-thuộc những bản-năng, những nhu-cầu của người một cách chặt chẽ. Lắm khi nó chỉ dùng để biện-chánh cho những hành-động vô-ý-thức của người.

      Thêm nữa, dầu cho người có thoát-ly được ảnh-hưởng của tiềm-thức, sự suy luận của người cũng không sao đi đến chổ hợp-lý hoàn-toàn. Như thế là vì hệ-thống suy-luận nào cũng phải đặt nền tảng trên một định-đề tiên-quyết không chứng-minh được.

      Trong tất cả những khoa-học, không khoa nào chánh-xác và có tính-cách thuần-lý bằng toán-học. Các định-đề toán-học liên-hợp nhau trong một hệ-thống suy-luận hết sức chặt-chẽ. Tuy nhiên, hệ-thống suy-luận này phải phát-xuất từ một công-ước hay một định-lý căn-bản không chứng-minh được.

      Khoa hình-học cổ-điển đặt nền-tảng trên định-lý Euclide. Đối với những người công-nhận định-lý này, khoa hình-học cổ-điển có một giá-trị tuyệt-đối. Nhưng nếu ta phủ-nhận định-lý Euclide thì tất cả hệ-thống hình-học cổ-điển đều sụp đổ hết. Khoa hình-học phi-Euclide do một nhà toán học cận-đại đưa ra, chính dựa vào một định-lý phủ-nhận định-lý Euclide.

      Sau hết, ta có thể nhận thấy rằng người ta lắm khi cùng dựa vào một định-lý như nhau mà lại đi về hai ngã chống chọi nhau; hay trái lại, dựa vào hai định-lý trái ngược nhau mà lại đi đến một kết-quả như nhau. Hệ-thống triết-lý nào cũng phát-xuất từ một giáo-tổ, nhưng sau đó, môn-đồ lại phân ra hai phe tả hữu xung-đột lẫn nhau, mà phe nào cũng tự xem mình là nhóm thọ được chơn-truyền. Trái lại, hai căn-bản triết-lý khác nhau có thể đưa đến một chủ-trương tương-tự. Mạnh tử quả quyết rằng người tánh thiện, Tuân tử, trái lại, cho rằng người tánh ác, nhưng cả hai đều đồng ý với Khổng tử công-nhận rằng nền-tảng của chánh-trị phải là sự giáo-hóa người theo nhơn nghĩa.

      Vậy, tánh-cách hợp-lý của tư-tưởng con người thật là giới-hạn, nhưng dầu sao, nó vẫn là một yếu-tố quan-trọng của đời sống con người. Chính nó làm cho con người phân-biệt với thú, chính nó làm cho hành-động của người có tánh-cách người.

      Nơi những người cổ-sơ, tư-tưởng đến sau hành-động. Nhưng từ khi người thoát khỏi trạng thái cầm-thú để tiến đến trạng-thái nhơn-loại, tư-tưởng thường có trước hành- động và hướng-dẫn sự hành-động của người, ít nhứt là trong những biến-cố quan-trọng của đời người. Không có nó, người thiếu lòng tin tưởng và không hăng-hái trong sự hành- động, nhứt là khi sự hành-động này có tánh-cách nguy-hiểm hay lâu dài. Không có nó, hành-động người thiếu vẻ duy-nhứt, đã không đem đến kết-quả gì mà có khi lại còn mâu-thuẫn nhau nữa.

      Bời vậy, muốn cho hành-động mình đưa đến một công-trình hữu-ích, người cần có một tư-tưởng làm nền móng, vạch sẵn mục-đích cho mình, và cần phải hết lòng tin nơi tư-tưởng ấy. Hành-động càng khó khăn, càng nguy-hiểm, càng lâu dài, thì tín-ngưỡng càng phải mạnh mẽ và tư-tưởng càng phải vững chắc. Có một tư-tưởng đúng đắn làm căn-bản và một lòng tín-ngưỡng nhiệt-thành nơi tư-tưởng ấy rồi, người sẽ tận-tâm, tận-lực hành-động bền gan chiến-đấu, dẫu gặp khó khăn nguy-hiểm cũng không chán nản, bỏ cuộc nửa chừng.



      II- TƯ-TƯỞNG CHỦ-ĐỘNG VÀ SỰ HOẠT-ĐỘNG CHÁNH-TRỊ



      Tư-tưởng có ảnh-hưởng rất nhiều đến sự hành-động của người; nó là một trong những điều-kiện quyết-thắng của người. Những nhà chánh-khách cổ-kim đã hiểu rõ sự quan-trọng của tư-tưởng nên đã luôn luôn dựa vào nó để giữ vững trật-tự xã-hội hay để lôi cuốn quần-chúng theo mình mà làm một việc gì.

      Charles Morgan, một tiểu-thuyết-gia Anh, đã bảo: "Lịch-sử loài người là lịch-sử của trí-tuệ họ ". Dầu không hoàn-toàn tán-đồng ý-kiến đó, chúng ta cũng phải công-nhận rằng tư-tưởng đã đóng một vai-tuồng chánh-yếu trong lịch-sử loài người. Những hoạt động chánh-trị của người, tức là những hoạt-động có liên-quan đến sự tổ-chức xã-hội, tổ-chức những cơ-quan cai-trị, tổ-chức sự liên-lạc giữa những người nắm chánh-quyền và dân-chúng, phần lớn đều bị sự chi-phối của những tư-tưởng chánh-trị.

      Chúng ta có thể bảo rằng từ khi biết suy-nghĩ, biện-luận, người đã tìm lý lẽ để biện-minh cho sự tồn-tại của chánh-quyền. Họ đưa ra những tư-tưởng vạch rõ ý nghĩa của đời sống chung, nêu ra những qui-tắc mà người phải noi theo trong sự cư-xử với nhau, và trong sự đối-đãi với cơ-quan chỉ-huy đoàn-thể.

      Những tư-tưởng này thường được lồng vào một hệ-thống triết-lý rộng rãi hơn, bao gồm cả võ-trụ-quan và nhơn-sinh-quan, làm nền-tảng cho mọi suy-luận. Vị-trí loài người trong võ-trụ cũng như vị-trí mỗi hạng người trong xã-hội đều được qui-định rạch ròi.

      Nhà cầm quyền luôn luôn tìm cách giáo-hóa những người đặt dưới sự điều-khiển của mình, cho họ tin nơi những tư-tưởng được đưa ra, sống theo một quan-niệm, một ý hướng chung, và khép mình trong những qui-tắc nhứt-định. Nhờ đó, mọi người trong xã-hội có thể sống điều-hòa nhau và chấp-nhận oai-quyền của cơ-quan cai-trị. Trật tự xã-hội bởi đó mà được kính nể một cách đúng đắn và tự-nhiên

      Toàn-thể những quan-niệm, ý-hướng và qui-tắc chi-phối đời sống một xã-hội hợp lại làm cái ý-thức-hệ của xã-hội ấy. Tất cả những lực-lượng vật-chất và tinh-thần của xã-hội, đều hướng đến chổ bảo-vệ và duy-trì ý-thức-hệ, cho nên thế-lực của ý-thức-hệ đối với xã-hội hết sức mạnh mẽ.

      Người bị nhào nắn trong khuôn khổ một xã-hội từ bé đến lớn tự-nhiên có một nếp sống phù-hợp với ý-thức-hệ của xã-hội ấy. Thói quen làm cho mọi người công-nhận rằng nếp sống đó là một nếp sống hợp-lý, và những người muốn thoát-ly khỏi khuôn khổ ấy đều bị xem là hạng người quái-đản. Thái-độ chiều theo thói tục của đại-đa-số người trong xã-hội làm cho ý-thức-hệ có một sức mạnh vô-hình mà thật là hùng-hậu.

      Áp-lực của ý-thức-hệ đối với cá-nhơn trong xã-hội rất mãnh-liệt, và đồng-thời cũng rất có hiệu lực, vì người không nhận thấy nó. Thế-lực của ý-thức-hệ đối với xã-hội mạnh mẽ đến nỗi nhà cầm quyền cũng phải noi theo nó mới tồn-tại được.

      Trong lịch-sử, nhiều người đã nắm được đại quyền trong tay mà đã phải nếm mùi thất-bại trong việc cố gắng sửa chữa lại xã-hội, vì họ đã vi-phạm ý-thức-hệ lưu-hành. Vương An Thạch ờ Tàu, Hồ Quí Ly ở Việt Nam, Joseph II ở Áo đều không thực-hiện được chương-trình cải-cách của mình, mặc dầu đã ở trên tột đỉnh của quyền-thế.

      Bởi đó, nhà cầm quyền thường phải noi theo ý-thức-hệ của xã-hội. Trong mọi công cuộc kinh-dinh, mọi chương-trình kiến-thiết, mọi phương-lược, chánh-sách, họ đều phải dựa vào nó mới lôi kéo được quần-chúng theo họ.

      Muốn đánh đổ nhà cầm quyền của một xã-hội, người ta không thể chỉ dựa vào võ-lực suông, trừ ra khi nào sự chênh lệch lực-lượng quá lớn lao khiến cho người ta có thể chế-ngự được đối-phương một cách nhanh chóng.

      Những kẻ đi chiếm nước người muốn thành-công dễ dàng bao giờ cũng phải đưa ra những lý lẽ biện-chánh cho hành-vi xâm-lược và sự đô-hộ của họ, để cho dân nước bị công-kích tán-thành họ, hay ít nhứt, cũng chấp-nhận sự ngự-trị của họ.

      Những tư-tưởng mà bọn người xâm lược đưa ra có thể tôn-trọng ý-thức-hệ cũ của xã-hội họ chiếm-đoạt. Và sau khi xây dựng xong chủ-quyền của họ, bọn người xâm-lược này để cho dân-chúng xã-hội bị chiếm-đoạt sống theo nền nếp cũ, chỉ cố gắng hướng về phía họ sự tôn-trọng mà trước kia dân-chúng đó dành cho nhà cầm quyền cũ.

      Nhưng bọn người xâm-lược cũng có thể đem một ý-thức-hệ mới thay vào ý-thức-hệ cũ. Sau khi xây-dựng được chủ-quyền của mình và tổ-chức được một chế-độ cai-trị vững chắc, họ đem phổ-biến những tư-tưởng chánh-trị của họ, và lần lần uốn nắn đời sống của nhóm người họ chinh-phục theo những quan-niệm, ý-hướng và qui-tắc của họ.

      Những nhà cách-mạng muốn cướp được chánh-quyền cũng phải tìm cách chứng tỏ rằng công cuộc hoạt-động của mình hợp với chánh-nghĩa. Họ có thể là những người tôn thờ ý-thức-hệ cũ, và lấy cớ nhà cầm quyền không xứng đáng với nhiệm-vụ hay thi-hành sai những nguyên-tắc chánh-trị do ý-thức-hệ cũ nêu ra, để hô hào dân-chúng theo họ mà lật đổ nhà cầm quyền. Trong trường-hợp đó, khi nắm được chánh-quyền, những nhà cách-mạng này tiếp tục duy-trì ý-thức-hệ cũ, chỉ sửa chữa một vài điểm mà họ cho là sai lầm, và bài trừ những tệ-chánh mà nhà cầm quyền trước lưu lại.

      Quan-niệm cách-mạng này là quan-niệm cách-mạng cổ ở nước ta và nước Tàu. Trong hơn hai mươi thế-kỷ, người Việt-Nam và người Trung Hoa đã làm cách-mạng theo lối Võ Thang, nghĩa là chỉ nghĩ đến việc thay đổi chánh-sách và nhà cầm quyền chớ không nghĩ đến việc thay đổi cả ý-thức-hệ của xã-hội.

      Nhưng cũng có khi sự bất-bình của những nhóm người sống trong một chế-độ bất-công đưa đến những kết-quả tai-hại cho ý-thức-hệ chi-phối xã-hội. Không những oán ghét người thống-trị, người bị thống-trị còn ghét luôn đến những tư-tưởng, những quan-niệm mà người thống-trị đưa ra để biện-chánh và duy-trì quyền lực của mình. Họ cho rằng tất cả những sự cơ-cực, khổ sở của họ đều do ý-thức-hệ cũ gây ra. Những nhà cách-mạng có thể đưa ra những tư-tưởng mới, bày tỏ một quan-niệm tổ-chức xã-hội mới, dựa vào những nguyên-tắc khác với những nguyên-tắc làm căn-bản cho ý-thức-hệ cũ.

      Những tư-tưởng chánh-trị mới này, nếu thích-hợp với nguyện-vọng của dân-chúng, thì sẽ được họ hoan-nghinh và chấp-nhận. Những người mê say nó thì noi theo nó mà tranh-đãu chống lại nhà cầm quyền dựa vào ý-thức-hệ cũ, và chống lại những nhóm cách-mạng khác, theo những xu-hướng chánh-trị khác.

      Nhóm cách-mạng nào thành-công trong cuộc chiến-đãu này cũng tìm cách hủy-diệt ý-thức-hệ cũ và những xu-hướng chánh-trị cạnh-tranh với lý-tưởng mình. Cùng với sự củng-cố chánh-quyền bằng võ-lực, họ phổ-biến lý-tưởng đó ra. Bằng sự tuyên-truyền, bằng sự giáo-dục, họ tìm cách gột rửa hết ảnh-hưởng của ý-thức-hệ cũ và của những xu-hướng chánh-trị khác để cho tư-tưởng chánh-trị họ phụng thờ được hưởng địa-vị độc-tôn. Nhờ địa-vị độc-tôn này, tư-tưởng chánh-trị đó lần lần uốn nắn đời sống xã-hội theo quan niệm nó đưa ra, và tạo cho xã-hội một ý-thức-hệ mới thích-hợp với nó. Đó là quan-niệm cách-mạng thời cận-đại được thực-hiện một cách triệt-để ở nước Pháp năm 1789 và nước Nga năm 1917.

      Muốn tiêu-diệt những tư-tưởng nghịch với mình, nhà cầm quyền cũng phải dùng một tư-tưởng khác làm căn-bản. Tư-tưởng này có thể dựa vào ý-thức-hệ cũ của xã-hội hay dựa vào một ý-thức-hệ mới. Nhưng dầu sao, nó cũng phải chỉ rõ chổ sai lầm của tư-tưởng kia, để cho những kẻ thừa-hành việc đàn-áp tư-tưởng kia và những người trung- lập có cảm-tưởng rằng việc đàn-áp ấy là một việc làm chánh-đáng.

      Một chánh-sách đàn-áp chỉ dựa vào võ-lực suông thế nào cũng đưa đến sự thất-bại. Mà nếu nó có thành-công đi nữa, thì sự thành-công ấy cũng phải trả một giá rất đắt. Vì những người bị đàn-áp vẫn tin rằng tư-tưởng mình là đúng, và vui lòng chết vì nó; người trung-lập cũng bất-bình vì sự tàn-bạo của chánh-phủ và có cảm-tình với nạn-nhơn của sự tàn-bạo ấy. Như thế uy-tín của chánh-phủ thế nào cũng phải bị lung lay.

      Những tư-tưởng làm căn-bản cho hành-vi những người cầm vận-mạng các dân-tộc từ trước đến giờ có khi thành thật, có khi chỉ là một tấm màn che đậy những lý do ẩn-áo khác. Nhưng trong trường-hợp nào, nó cũng phải được tín-nhiệm mới thành-công được, và mới chủ-trương được sự hành-động của một số đông người trong xã-hội.

      Lúc con người còn ở trong trạng-thái bán-khai thì những tư-tưởng chủ-động có vẻ thô-sơ giản-dị lắm. Những vị tù-trưởng gây sự cố-kết trong bộ-lạc mình bằng tư-tưởng cho rằng tất cả mọi người trong bộ-lạc đều do một ông tổ mà sanh ra. Những vị giáo-chủ đã xây-dựng tôn-giáo mình trên một thuyết khởi-nguyên và một võ-trụ-quan huyền-bí. Những nhà vua cổ-thời thì duy-trì thế lực của dòng họ mình bằng thuyết thiên-mạng.

      Trong tất cả những tổ-chức cổ-sơ ấy, tư-tưởng thường hay hỗn-hợp với cá-nhơn chủ-trương nó. Vì thế, nhiều nhà hướng-dẫn quần-chúng đã tìm cách làm cho người ta tín-ngưỡng nơi mình trước khi bắt họ thi-hành tư-tưởng của mình. Do đó mà phát-sanh những câu sấm-ngữ, những câu chuyện huyền-hoặc, những mưu-mẹo kỳ-khôi của những nhà cầm quyền thuở trước.

      Nhưng con người càng ngày càng tiến-hóa, khoa-học mở mang thêm mãi, óc phê-bình cũng lần lần phát-triển, những tư-tưởng mộc-mạc thô-sơ, những mưu-mẹo ngây thơ không đủ sức gây sự tin- tưởng cần-thiết nữa. Muốn tạo ra một phong-trào mạnh mẽ, những chánh-khách phải nêu ra nhiều tư-tưởng sắp đặt thành hệ-thống, luận-điệu chặt chẽ, mạch-lạc phân-minh. Đó là những lý-thuyết chánh-trị được nhiều người tôn thờ làm chủ-nghĩa, và làm nền-tảng cho những ý-thức-hệ của những xã-hội văn-minh.


      III- ĐIỀU-KIỆN QUYẾT-THẮNG CỦA MỘT TƯ-TƯỞNG CHỦ-ĐỘNG


      Dầu cho tư-tưởng chủ-động là một ý-tưởng thô-sơ hay là một lý-thuyết có căn-bản vững chắc cũng thế, muốn nắm phần thắng-lợi, nó phải có một số điều-kiện thiết-yếu.

      Trước hết, tư-tưởng chủ-động phải có tánh-cách thiết-thật, đi sát tâm-lý và quyền-lợi quần-chúng. Một lý-thuyết chánh-trị hoàn-toàn không-tưởng không sao có thể thành-công được. Tuy nhiên, sự thật phũ phàng rất khó cám dỗ con người. Ngay đến những kẻ chỉ tranh-đấu vì quyền-lợi thiển-cận cũng không mấy khi dám vỗ ngực tuyên-bố rằng mình chỉ nhắm một mục-đích ích-kỷ. Vì đó, muốn cho người hoạt-động một cách hăng hái bền bỉ và sẵn sàng hy-sinh cho một công-nghiệp chung, cần phải có một lý-tưởng cao-siêu có thể hấp-dẫn quần-chúng.

      Những lý-thuyết chánh-trị đã thành-công trên thế-giới từ trước đến nay là những lý-thuyết đã dung-hòa được tánh-cách thiết-thật và không-tưởng. Ở Trung-Quốc, tư-tưởng Đạo gia và Mặc gia đã thất-bại vì quá không-tưởng, trong khi tư-tưởng Pháp gia thất-bại vì quá thiết-thật. Chỉ có tư-tưởng Nho gia, nhờ dung-hòa được lý-tưởng và thật-tế một cách đồng đều, nên mới thành-công được lâu dài.

      Ngoài ra, tư-tưởng chủ-động còn phải có tánh-cách giản-dị, dễ hiểu, để cho người tầm-thường thấy rõ sự cần-ích và chánh-đáng của nó mà hưởng-ứng theo.

      Những chánh-khách cận-đại đã nhận thấy những điều-kiện quyết-thắng của tư-tưởng chủ-động. Do đó họ tìm cách đơn-hóa những lý-thuyết khó hiểu của họ. Lược bỏ hết những phần luận-lý cao-siêu, họ tóm tắt chương-trình và chủ-nghĩa của họ trong một vài tiêu-ngữ làm khẩu-hiệu tranh-đấu. Những tiêu-ngữ ấy là kết-tinh của lý-thuyết. Nó phản-chiếu một hình-ảnh lý-tưởng và gọn gàng, dễ hiểu đủ sức kích-thích một người trí óc tầm-thường.

      Nhờ một phương-pháp tuyên-truyền nhồi sọ, những khẩu-hiệu ấy có thể phổ-biến trong dân chúng. Nếu những yêu-sách nó gợi ra phù-hợp với nguyện-vọng nhiều người, nó có thể tạo ra một hạng người nhiệt-tin, phụng thờ lý-thuyết như là một tôn-giáo, mặc dầu nhiều khi không ai hiểu phần hình-nhi-thượng của lý-thuyết ấy ra sao, và cố-nhiên không biết luận-lý của nó đúng hay sai. Vì thế, ta thấy rất nhiều lý-thuyết chánh-trị dựa vào những tư-tưởng không thể giảI-thích được bằng khoa-học hay kinh-nghiệm, luận-lý rất sai lầm mà được một số người xem như là một chơn-lý cao-siêu, thần thánh, bất-khả xâm phạm.


      IV- SỰ XUNG-ĐỘT GIỮA NHỮNG TƯ-TƯỞNG CHÁNH-TRỊ TRONG THẾ-GIỚI HIỆN ĐẠI


      Thế-kỷ thứ 20, các lý-thuyết chánh-trị đã được mờ mang đến một mực độ chưa từng thấy trong lịch-sử và mọi cuộc chiến-đấu chánh-trị hiện giờ đều mang dấu hiệu của một cuộc xung-đột tư-tưởng. Trong trận thế-chiến thứ nhứt, hai bên đối-lập đã bắt đầu lưu tâm đến việc phổ-biến ra quần-chúng những lý-luận biện-chánh cho mục-đích mình đeo đuổi. Về phương-diện này, việc tổng-thống Mỹ Wilson nêu ra 14 điểm làm nền tảng cho công cuộc tổ-chức thế-giới thời hậu-chiến đã đánh dấu cho một kỷ-nguyên mới.

      Với sự thành-công của đảng cộng-sản ở nga năm 1917 và sau đó, của các đảng phát-xít ở Ý và quốc-xã ở Đức, công-tác tuyên-truyền đóng một vai tuồng quan-trọng trong đời sống chánh-trị các nước. Trong trận thế-chiến thứ nhì, hai khối đối-lập nhau đã vận dụng những phương-tiện khổng lồ để giành phần phải về mình trước dư-luận quốc-tế.

      Sau khi chiến-tranh kết-liễu, các nước chiến-thắng lại phân ra làm hai khối xung đột nhau. Giữa hai khối này, chiến-tranh thật sự chưa nổ bùng ra, nhưng trận giặc tuyên-truyền đã thấy diễn ra một cách vô cùng ráo riết.

      Ghép vào cuộc xung-đột giữa hai khối Mỹ Nga, lại còn có những cuộc xung-đột khác nữa. Những dân-tộc bị trị đứng lên giành độc-lập phải đương đầu lại các đế-quốc xâm-lược. Ngoài ra, những nước ban đầu cùng ở trong một khối với nhau, sau lại đâm ra chống chọi lẫn nhau. Nhiều quốc-gia thân Mỹ trước đây nay quay ra chủ-trương trung-lập. Và trong khối cộng-sản thì sau Tito lại đến Trung-Cộng đứng lên chống lại Nga. 

      Trong những nguyên-nhơn gây ra những cuộc xung-đột trên này, tất-nhiên là quyền-lợi đóng một vai tuồng không nhỏ. Nhưng trong tất cả những nhóm đứng lên tranh-đấu, không nhóm nào là không dựa vào một lý-thuyết chánh-trị. Trong cuộc chiến-đấu gay go này, những nhóm nắm lấy ưu-thế là những nhóm khéo léo trong sự tuyên-truyền và dựa vào một hệ-thống tư-tưởng hấp-dẫn được quần-chúng.

      Nước ta cùng ở trong một trào-lưu chung tràn ngập cả thế-giới, nên cũng bị ảnh-hưởng lây. Cuộc đấu-tranh tự giải-phóng của dân-tộc ta đã bị bọn cộng-sản lợi-dụng để phụng-sự cho khối Nga. Nhờ một tổ-chức chặt chẽ, một bộ máy tuyên-truyền tinh-xảo và một chánh sách khéo léo, họ đã lôi kéo được một phần quần-chúng theo họ. Những nhóm chánh-trị khác đã đứng lên chống chọi lại cọng-sản, nhưng lại theo nhiều xu-hướng khác nhau nên không cố kết nhau được.

      Sự xung-đột giữa người Việt-nam với thực-dân cũng như của các nhóm chánh-trị Việt-Nam với nhau đã bị ảnh-hưởng nặng nề của thời-cuộc quốc-tế. Vì không nhóm nào nắm phần thắng-lợi hoàn-toàn nên đất nước Việt-Nam bị phân đôi, và ở mỗi phần, sự xung-đột giữa hai phe cọng-sản và quốc-gia, giữa các phe phái cọng-sản với nhau, và giữa các xu-hướng quốc-gia khác nhau, cũng không kém phần mãnh-liệt. Kết-quả là dân-chúng Việt-nam bị điêu-đứng khổ-sở, và sống mãi trong một bầu không-khí chiến-tranh, không thể kiến-thiết xứ sở được.

      Tình-trạng này không thể kéo dài ra mãi. Muốn thoát khỏi sự bế tắc hiện nay, người Việt-Nam cần phải cố kết nhau lại làm một khối tranh-đấu cho quyền lợi chung. Mà muốn được như thế, chúng ta cần phải có một nền tư-tưởng chánh-đáng làm gốc.

      Quyển sách này ra đời là để đóng góp một phần công-nghiệp vào việc đả-phá những tư-tưởng sai lầm và xây-dựng một lý-thuyết thích-hợp cho dân-tộc Việ-Nam. Vì đó, nó chia ra làm hai phần. Phần đầu nghiên-cứu về những chủ-nghĩa chánh-trị danh tiếng đã ra đời ; phần sau trình bày một chủ-nghĩa quốc-gia đã được một nhà lãnh-tụ cách-mạng nêu ra từ năm 1939 và sau đó được nhiều anh em chiến-sĩ vun bồi tu-bổ thêm. Tác-giả mong ước rằng những bạn độc-giả của quyển sách này sẽ không ngần ngại phê-bình sửa chữa nó và nên thêm ý-kiến để cho người quốc-gia Việt-Nam có được một nền tư-tưởng căn-bản khả dĩ dùng làm một lợi-khí tranh-đấu cho sự sống còn chung của toàn-thể dân-tộc Việt Nam.
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 29.12.2009 03:18:58 bởi Sun Ming >
      #2
        Sun Ming 29.12.2009 03:23:14 (permalink)
        PHẦN THỨ NHỨT
         
        LƯỢC KHẢO VỀ CÁC LÝ THUYẾT ĐÃ LƯU HÀNH TRÊN THẾ-GIỚI TỪ TRƯỚC ĐẾN NAY


        CHƯƠNG I

        NHỮNG TÔN-GIÁO, LÝ-THUYẾT THẦN QUYỀN

        I- SỰ PHÁT-SANH CỦA NHỮNG TÔN-GIÁO, LÝ-THUYẾT THẦN QUYỀN


        Trong sự hoạt-động không ngừng của mình để sinh-tồn và tiến-hóa, loài người đã nhờ một khả-năng đặc-biệt mà vượt lên trên mọi loài sanh-vật khác rất xa. Khả-năng đó là trí khôn của người. Trí khôn này không phải chỉ lo giải-quyết những vấn-đề trực-tiếp cần-thiết cho đời sống của người. Nó còn đưa người đến chổ tìm hiểu những lý lẽ, những nguyên-nhơn của sự vật.

        Cố-nhiên là sự suy-tưởng của người không phải đạt ngay được mực hoàn toàn từ khi phát-hiện. Lúc ban đầu, những tri-thức của người về thế-giới ngoại quan hãy còn thô-sơ lắm và những tư-tưởng của người, ngay đến những tư-tưởng rất sâu sắc và có một lập-luận rất chặt chẽ, cũng vẫn dựa vào một nền tảng mơ-hồ không vững chắc. Chỉ sau khi khảo sát kỹ càng về sự vật chung quanh mình và về ý-thức mình, người mới tiến đến những tri-thức thực-nghiệm và lý-luận của người mới có một cơ-sở khoa-học hơn.

        Nói một cách khái-quát, những tôn-giáo là kết-quả sự cố gắng của người để giải-thích sự vật lúc người vừa thoát khỏi thú tánh, lúc tư-tưởng người chưa đạt được trình-độ chánh xác và chắc chắn của khoa-học. Sự phát-sanh của các tôn-giáo thật ra rất là phức-tạp, và hiện giờ, chúng ta thiếu những tài-liệu cần-thiết để phác lại lịch-trình cấu-tạo của nó một cách rõ ràng, đứng đắn. Tuy thế, sự khảo-sát về phong-tục và tư-tưởng của những nhóm người còn lạc-hậu, và sự nghiên-cứu về đời sống tâm-lý của người, đã giúp những nhà khoa-học nêu ra những giả-thuyết có thể xem là phù-hợp với sự thật về vấn-đề này.



        A- Ý-NIỆM LINH-HỒN


        Một trong những sự-kiện làm phát-sanh ra những tôn-giáo là sự nhận có linh-hồn. Người cổ-sơ thấy rằng khi mình thức và tỉnh-táo, mình có ý-thức, và nhận-chơn được bản-ngã thường-nhựt của mình. Những khi ngủ hay bất-tỉnh, trái lại, người mê man không cảm thấy gì cả, hay có chiêm bao mà cảm thấy điều kia việc nọ thì những trí-thức của người cũng không phù-hợp với cái bản-ngã bình-thường của mình. Điều này làm cho người nghĩ rằng ngoài thể-xác, còn có một nguyên-tố khác tạo nên mình. Nguyên-tố đó là linh-hồn. Khi người thức và tỉnh-táo, linh-hồn ở trong thể-xác người, khi người ngủ hay bất-tỉnh, linh-hồn tạm rời khỏi thể-xác ấy.

        Trong những giấc chiêm bao của mình, người cổ-sơ nhiều khi lại thấy những người quen thuộc đã chết. Giữa giấc chiêm bao, họ thường ngộ-nhận rằng những kẻ ấy còn sống như mình. Chỉ khi tỉnh dậy, họ mới nhớ rằng những kẻ ấy không còn ờ cõi đời và không thể gặp được trong thế-giới này nữa. Do đó, họ nghĩ rằng khi người chết, chỉ có thể-xác người là tan rã, còn linh-hồn thì tồn-tại mãi.

        Những linh-hồn này vô-hình đối với người thường, nhưng vẫn ở chung quanh họ; nó cũng có những tình-cảm, nhu-cầu như người sống, và có thể hại đến tánh-mạng người sống. Đối với những linh-hồn không hình không ảnh, chỉ có thể gặp được trong chiêm bao, người hoàn toàn bất-lực. Phương-pháp duy-nhứt của người để đối-phó với các linh-hồn ấy là thỏa mãn những nhu-cầu của nó, và tỏ ra phục-tùng nó để nó không phá-hoại mình. Vì đó, người nghĩ đến việc thờ phụng những linh-hồn người chết.



        B- Ý-NIỆM THẦN-MINH

        Một mặt khác, người cổ-sơ nhận thấy rằng phần lớn những vật ở quanh mình đều biến hình hay chuyển động, hoặc có những hình dáng lúc thì oai-nghiêm, lúc thì hùng-vĩ lúc thì đáng ghê rợn. Mặt trời, mặt trăng và các vị tinh-tú luân phiên lặn mọc; núi non rừng rú và mặt đất cùng biển cả hiện ra dưới những ảnh-tượng khác nhau tùy mùa, tùy lúc; bầu trời khi thì quang-đãng, mây bay gió thổi nhẹ nhàng, khi thì đen tối âm u, với bão tố, với sấm sét đùng đùng. Từng ấy hiện-tượng đánh mạnh vào trí óc người.

        Vì không hiểu rõ những cơ-cấu tác-động của các lực-lượng thiên-nhiên trên này, và thấy rằng những tác-động đó khi thì có lợi, khi thì có hại cho mình, người cổ-sơ cho rằng sau mỗi lực-lượng, đều có một nguyên-lý thiêng liêng điều-khiển. Nguyên-lý này là vị thần-minh vô-hình và có nhu-cầu, tình-cảm như linh-hồn người chết, nhưng có oai-quyền và thế-lực hơn linh-hồn người chết rất nhiều. Đối với thần-minh, người cũng không có cách nào đối-phó lại, ngoài việc tế-lễ tôn-sùng họ để họ thương tình mà tha thứ hay tin yêu mà bảo-vệ cho mình.

        C- Ý-NIỆM VẬT-TỔ


        Trong sự vật lộn với vạn-vật để mưu-cầu sự sống, người phải đụng chạm với nhiều loài khác. Có nhiều loài thực-vật và nhất là động-vật làm cho người kinh sợ hay cảm-phục. Với tâm-hồn mộc-mạc của mình, người cổ-sơ tưởng rằng nếu mình ăn thịt những loài vật ấy, hoặc trá hình cho giống nó, mình cũng có những đức-tánh như nó, hay được nó cho rằng mình đồng-loại với nó mà không sát-hại mình. 

        Người Việt-tộc ngày xưa làm nghề chài lưới nên thường hay lặn lội dưới sông dưới biển. Họ rất sợ giống giao-long, tức là một loại thuồng luồng cá sấu, làm hại mình. Vì đó, họ xâm mình cho giống nó và lần lần đi đến chỗ cho rằng mình thuộc chủng-tộc giao-long.

        Về sau, một chi-nhánh Việt-tộc đến đất Phước-kiến. Thường năm, họ hay đáp thuyền vượt biển đi lại từ đất căn-cứ đến các miền duyên-hải ở phương nam, như Hải nam, Bắc-Việt, có lẽ cả Nam-dương quần-đảo nữa. Mùa gió bấc, họ khởi-hành, đến gió nồm, họ lại trở về quê quán. Trong những lần vượt biển như vậy, họ tự so sánh mình với những đàn chim lạc, một giống hậu-điểu thuộc loại ngỗng trời, cũng mỗi năm theo gió bấc bay về bờ biển phương nam, và đến mùa gió nồm thì bay trở về đất cũ. Do đó, họ mang lông chim lạc để giả làm giống chim ấy. Sau đó, họ thờ chim lạc làm vật-tổ, lấy tên nó làm tên bộ-lạc mình và tự gọi mình là dân tộc Lạc-Việt. Họ là thủy-tổ của dân-tộc Việt-nam ta.

        Dãu vết của sự thờ phụng vật-tổ trên này hãy còn trong lịch sử nước ta, với những truyền-thuyết cho rằng nòi giống ta là con cháu Rồng Tiên, với những tên Lạc-Long quân và Lạc-Vương, mà ta dùng để gọi những vị vua đầu tiên của đất nước ta.

        Có khi vật-tổ là một con vật đóng vai tuồng quan-trọng trong sự sống của dân, hay đã giúp ích rất nhiều cho người quốc-tổ. Sự thờ phụng vật-tổ thường làm cho mối dây liên-lạc quan-trọng cho tất cả mọi người trong một bộ-lạc, một thị-tộc, có khi đến cả một tiểu-bang. Người cổ-sơ phải giữ nhiều qui-tắc đối với vật-tổ. Thường, họ phải tỏ ý tôn-sùng vật-tổ, không bao giờ phạm đến nó, nhưng cũng có nhiều bộ-lạc được phép ăn thịt vật-tổ trong một thời kỳ nhứt-định mỗi năm để nhờ đó mà có được những đức-tánh quí báu của vật-tổ.

        D- Ý-NIỆM VỀ VỊ THẦN BẢO-VỆ ĐOÀN-THỂ


        Khi xã-hội tiến đến một trình-độ văn-minh cao hơn, ý-niệm vật-tổ lần lần phai mờ trong trí người, và được thay thế bằng ý-niệm về một vị thần đặc-biệt bảo-vệ đoàn-thể. Vị thần này có thể là người lãnh tụ đầu tiên đã điều-khiển đoàn-thể hay là một vị anh-hùng của đoàn-thể, nhưng cũng có thể là một vị thần tưởng-tượng ra, hay một vị thần nguyên-lý của lực lượng thiên-nhiên được đoàn-thể thờ cúng.



        Đ- Ý-NIỆM THƯỢNG-ĐẾ


        Những ý-tưởng về linh-hồn, về thần-minh, về vật-tổ, về vị thần bảo-vệ đoàn-thể thường trộn lộn vào nhau. Nó tạo ra trong trí người một thế-giới vô hình đầy những nhơn-vật quyền-năng rất lớn đối với võ-trụ và nhứt là đối với người.

        Ban đầu, người thờ cúng tất cả những ma quỉ thần thánh như nhau. Nhưng sự quan-sát bộ máy cai-trị chung quanh mình cho người thấy rằng xã-hội nào cũng có trật-tự, có các cấp bực cao thấp.

        Những thị-tộc đều có người tộc-trưởng cầm đầu. Những bộ-lạc do các thị-tộc liên minh nhau lại để lập thành thì có người tù-trưởng chỉ-huy. Những tiểu-bang và quốc-gia, kết-quả sự thôn-tính lẫn nhau hay sự thông-hôn giữa những bộ-lạc, cũng có vị lãnh-chúa hay quốc-vương điều-khiển. Những tộc-trưởng, tù-trưởng có thể còn được dung-nạp trong tiểu-bang và cai-trị thị-tộc hay bộ-lạc mình dưới quyền lãnh-chúa hay quốc-vương.

        Những điều này đưa người đến ý nghĩ sắp hạng các nhơn-vật của thế-giới vô-hình. Bên trên những vị thần-minh, những linh-hồn người chết, người cổ-sơ tưởng-tượng ra một vị thần có quyền-lực tối-cao, điều-khiển tất cả những thần-minh và linh-hồn người chết, điều-khiển cả những lực-lượng thiên-nhiên và võ-trụ. Vị thần này thường là vị thần bảo-vệ cho đoàn-thể đã thực-hiện được sự thống-nhứt các bộ-lạc để lập nên tiểu-bang hay quốc-gia. Nhưng đó cũng có thể là một nhơn-vật khác hơn tất cả những vị thần-minh sẵn có: đó là Trời hay Thượng-Đế.

        Khi tư-tưởng người đã tiến đến một mực cao hơn, người suy nghĩ sâu xa hơn về võ-trụ trong đó mình sống. Điều người nhận thấy trước hết là nó rất minh-mông vĩ-đại, nhưng lại rất có trật-tự, rất điều-hòa. Người nghĩ rằng một công-trình tinh-xảo như vậy không thể nào do sự ngẫu-nhiên mà cấu tạo được. Do đó mới phát-sanh ý-tưởng cho rằng nhứt-định phải có một đứng toàn-thiện toàn-năng sáng-tạo ra muôn vật. Đứng Tạo-hóa này tất-nhiên phải là ông Trời, vị Thượng-Đế người đã tôn thờ. 

        Trong khi một số đông dân-tộc giữ mãi lòng tin tưởng nơi nhiều vị thần-minh, một vài giống dân, sau khi có ý-niệm về Thượng-Đế khai sáng võ-trụ rồi, thì hướng về thuyết độc-thần. Theo thuyết này, ngoài Thượng-Đế ra, không còn có vị thần-minh nào khác nữa, và con người chỉ nên thờ cúng một mình Thượng-Đế mà thôi.

        Buổi đầu, đứng Thượng-Đế do người tưởng-tưởng là một nhơn-vật có hình thể giống như người, lắm khi lại có những nhu-cầu, xúc cảm, tánh-tình như người nữa. Nhưng sau đó, những triết-gia lần lần trừu-tượng-hóa hình ảnh Thượng-Đế, và cuối cùng, xem Thượng-Đế như là một nguyên-lý linh thiêng, ở đâu cũng có và lúc nào cũng có, nhưng không có hình-thể tánh-chất như người. 


        E- SỰ PHÁT-TRIỂN CỦA TINH-THẦN ĐẠO-ĐỨC.

        Với ý-niệm mới này về Thượng-Đế, những tôn-giáo bắt đầu có một nền triết-lý uyên-thâm. Nền triết-lý này có khi đi đến chổ không công-nhận Thượng-Đế, cho dẫu là dưới hình thức một nguyên-lý vi-diệu. Tuy thế, nó vẫn nhuộm màu huyền-bí và không đạt được tánh-cách rõ ràng của khoa-học. Nhưng dầu sao nó cũng đưa đến cho tư-tưởng người một yếu-tố mới là một nền đạo-đức trước kia chưa có.

        Người cổ-sơ chỉ thờ cúng tôn-sùng các linh-hồn, các vị thần-minh hay Thượng-Đế với mục-đích mua cảm-tình những đứng thiêng liêng để khỏi bị những đứng ấy trừng-phạt, hay hơn nữa, để được những đứng ấy bảo-trợ, phù-trì cho. Với một nền-tảng triết-lý cao hơn, các tôn-giáo đưa người đến ý-niệm tu-thân để xứng-đáng với Ngài, để có thể hòa-hợp hồn mình với linh-hồn Thượng-Đế. Điều này giúp người tiến một bước khá dài trên địa-hạt tinh-thần và làm cho nhơn-loại được thuần-lương hơn trước.


        II- THỬ KHẢO-SÁT VỀ MỘT VÀI TÔN-GIÁO QUAN TRỌNG TRÊN THẾ- GIỚI.

        Những tư-tưởng thần-quyền đã phát-sanh nơi tất cả mọi dân-tộc trên thế-giới. Nguyên tắc căn-bản của tư-tưởng ấy là lòng tin nơi một thế-giới vô-hình với những nhơn-vật có nhiều quyền-năng đối với võ-trụ và đời sống con người. Nó chung cho tất cả mọi giống dân. Tuy thế, về phương-diện thực-hành, những hình-thức tôn-giáo khác nhau vô-cùng tùy xã-hội, tùy thời-đại.

        Nghiên-cứu tường-tận tất cả những hệ-thống tư-tưởng thần-quyền trong nhơn-loại từ xưa đến nay là một việc làm phức-tạp mà không ích-lợi gì nhiều. Để thấy rõ tánh-cách của những lý-thuyết thần-quyền, chúng ta chỉ cần khảo-sát qua những tôn-giáo quan-trọng hiện còn được sùng-mộ trên thế-giới.

        A- ĐẠO BA-LA-MON, PHẬT-GIAO VA ẤN-ĐỘ-GIAO

        Dân Ấn-độ là một giống dân có một óc thần-bí mạnh mẽ vô-cùng. Tư-tưởng tôn-giáo của họ rất uyên-thâm và ảnh-hưởng tôn-giáo đối với họ mãi đến ngày nay mà hãy còn hết sức trọng-đại.

        1- KINH PHỆ-ĐA VA ĐẠO BA-LA-MON

        a- CÁC KINH ĐIỂN

        Những di-tích cổ nhứt về nền tư-tưởng Ấn-độ gồm lại trong bốn quyển sách Phệ-đà (Védas) mà người Ấn xem như là những thánh kinh. Sách này chép những lời cầu nguyện, những bài thánh-ca, những câu thần chú liên-quan đến sự tế-lễ và việc gìn giữ ngọn lửa thiêng. Qua những sách này, người ta có thể biết được rằng thời cổ người Ấn-độ nhơn-cách-hóa và thờ cúng làm thần-minh những lực-lượng thiên-nhiên mà họ thấy chung quanh họ.

        Những tư-tưởng thô-sơ này lần lần tiến-hóa để biến thành đạo Bà-la-môn vào khoảng từ thế-kỷ thứ 12 đến thế-kỷ thứ 6 trước Công-nguyên. Những kinh-điển của mối đạo mới ấy gồm những sách viết bằng văn xuôi chú-thích những sách Phệ-đà và luận về mọi vấn-đề trong võ-trụ và xã-hội.

        b- QUAN-NIỆM VỀ PHẠN-THIÊN

        Trong các sách nầy, các vị thần cổ nhường chỗ cho Phạn-thiên (Brahma). Đó là linh-hồn của võ-trụ làm nguyên-lý cho mọi vật và hiển-hiện ở mọi vật. Phạn-thiên khi thì phân-biệt với vật-chất hữu-hình, khi thì hoà-hợp với vật-chất, khi thì khác với linh-hồn riêng mỗi vật, khi thì giống các linh-hồn ấy.

        Lúc sáng-tạo võ-trụ, Phạn-thiên ra khỏi trạng-thái yên nghỉ rồi làm ra một quả trứng vàng giữa khoảng hỗn-mang, và cho vào đó một mầm rút ra từ bản thể mình. Mầm này cũng gọi là Phạn-thiên. Phạn-thiên ấy ra khỏi trứng rồi phân nó ra làm hai phần bằng nhau đề làm nên trời và đất, rồi tạo nên chư-thần, quỉ và mọi vật khác.

        c- QUAN-NIỆM VỀ VÕ-TRỤ

        Võ-trụ do Phạn-thiên tạo nên chia ra làm ba phần. Trên hết là sáu từng trời chồng chất lên nhau làm chỗ ở của chư-thần; giữa là mặt đất chia ra làm bảy châu đồng-tâm bị bảy đại-dương làm cho phân-cách nhau và quây quần quanh một ngọn núi thiêng chống trời; chót hết là năm từng hạ-giới, chỗ ở của quỉ. Từng chót của hạ-giới là nơi địa-ngục.

        Võ-trụ này tồn tại trong một ngày Phạn-thiên dài bằng 2.160 triệu năm. Hết hạn này, nó trở về trạng-thái hỗn-mang trong một đêm dài bằng ngày Phạn-thiên. Sau đó, Phạn-thiên lại dậy, tạo trở lại võ-trụ y như trên. Vậy, lịch-sử thế-giới gồm có nhiều đời kế tiếp nhau mãi-mãi không cùng.

        d- LINH-HỒN NGƯỜI VÀ THUYẾT LUÂN-HỒI

        Thể-xác chỉ sống một thời-gian ngắn ngủi ở thế-gian, nhưng linh-hồn người không thể tiêu-diệt. Sau khi người chết, hồn xuất ra khỏi xác, nhưng vẫn không được tự-do vì nó lại phải đầu thai qua kiếp khác, cứ sống, chết, đầu thai lại, rồi sống, chết, đầu thai như thế mãi không ngừng. Người Ấn-độ gọi sự sống, chết và đầu thai đó là luân-hồi, vì họ so sánh nó với sự quay tròn của một bánh xe, hết vòng này thì lại sang vòng khác.

        đ- Ý-NIỆM ĐẠO-ĐỨC.

        Linh-hồn người cũng như linh-hồn vạn-vật, thật ra vốn là một phần của linh-hồn võ-trụ, một chất tinh-tế, thuần-khiết và sáng suốt. Nhưng vì hỗn-hợp với vật-chất, nó bị dơ bẩn đi, và kẹt trong vật-chất, không thể thoát ra được. Trong những kiếp liên-tiếp nhau, linh-hồn có thể mang nhiều hình thể tử thực vật đến người.

        Những linh-hồn biết tu luyện và noi theo đường đạo-đức thì có thể trong sạch lại và trở về nhập với hồn võ-trụ. Trái lại, những linh-hồn chìm đắm trong những chỗ dơ bẩn thì cứ bị luân-hồi, có thể phải mang mãi cái thể-xác thú-vật, hoặc thành quỉ, hay sa xuống địa-ngục. Từ khi quan-niệm này phát hiện, luân-lý cũng nảy mầm.

        Tuy nhiên, nền luân-lý Ấn-độ, cho đến một thời-kỳ gần đây, vẫn có tánh-cách tiêu-cực. Người Ấn-độ vốn cho rằng thế-giới hữu-hình chỉ là một trò ảo-thuật của Phạn-thiên tạo ra để tự tiêu khiển. Hồn cá-nhơn bị lôi kéo vào trong trò ảo-thuật này và cho nó là sự thật nên đắm đuối vào đó. Những người có học đạo và giác-ngộ được rằng mình bị gạt thì cố gắng để thoát-ly trò ảo-thuật của Phạn-thiên, bằng cách tự mình rút ra khỏi trò chơi để làm một khán-giả điềm-nhiên tọa-thị.

        Như vậy, nền tư-tưởng Ấn-độ đặt cơ-sở trên nguyên-tắc xem cuộc đời là hư-ảo và lấy làm cứu-cánh chánh-yếu của người, sự thoát-ly đời sống hữu-hình để hòa-hợp hồn mình vào hồn Tạo-vật. Do đó, sự tu-niệm của họ chỉ hướng về chỗ tự tu-thân, tự làm cho tâm-hồn mình thanh-cao xa trần-tục, và đạo-đức của họ hướng về chỗ giữ cho mình hoàn-toàn hơn là về chỗ giúp đỡ kẻ khác.

        e- SỰ THỜ CÚNG VÀ TU-NIỆM.

        Cũng như mọi giống dân khác, người Ấn-độ ngày xưa rất lo nghĩ đến việc cúng tế thần-minh. Sự cúng tế này ban đầu có tánh-cách cá-nhơn, nhưng về sau, nó trở thành công-cộng. Những cuộc hành-lễ càng ngày càng phức-tạp lên mãi, và cuối cùng, xã-hội cần đến một hạng giáo-sĩ chuyên lo việc cúng tế.

        Những giáo-sĩ này hợp lại làm một giai-cấp, giai-cấp Bà-la-môn. Họ cho rằng họ từ miệng Phạn-thiên mà thác-sanh ra, nên giai-cấp họ là giai-cấp cao nhứt ở Ấn-độ, trên những giai-cấp chiến-sĩ, trưởng-giả và nông công. Ngoài ra những giai-cấp trên này, xã-hội Ấn-độ còn có nhiều giai-cấp khác. Những giai-cấp ấy phân-biệt nhau một cách rõ rệt. Không ai có thể vượt khỏi giai-cấp mình, và người khác giai-cấp với nhau không có quyền thông-hôn với nhau.

        Chỉ có ba giai-cấp Bà-la-môn, chiến-sĩ và trưởng-giả là có quyền học đạo. Họ được làm lễ nhập đạo và sau lễ đó, họ tự xem như là được sanh một lần thứ nhì.

        Đời của một người dân kiểu-mẫu trong ba giai-cấp trên của xã-hội Ấn-độ ngày xưa có thể chia ra làm bốn giai-đoạn: lúc còn bé thì học kinh sách, đến tuổi thanh-niên thì cưới vợ, làm gia-trưởng, khi con đã thành gia-thất thì vào rừng ở ẩn,sống một cuộc đời thanh-tĩnh, trở về già thì làm một tu-sĩ khổ hạnh, đi ăn xin.

        Trong những người học đạo như thế, chỉ có người thuộc giai-cấp Bà-la-môn là có hy-vọng được trở về với hồn Tạo-vật sau khi chết. Người thuộc giai-cấp chiến-sĩ và trưởng-giả chỉ có hy-vọng thác-sanh vào giai-cấp Bà-la-môn mà thôi.

        Người thuộc giai-cấp nông công không được học đạo, họ chỉ có quyền bố-thí cho các thầy tu để cầu phước cho mình. Những giai-cấp hạ-tiện hơn thì chẳng những không được tu-hành hay bố-thí cho người tu-hành, mà còn phải lánh xa người thuộc giai-cấp trên, vì sự có mặt của họ có thể làm bẩn đến những người giai-cấp trên.

        2- PHẬT-GIÁO

        Đến thế-kỷ thứ sáu trước Công-nguyên, đạo Bà-la-môn bị một giáo-phái khác cũng phát-sanh ở Ấn-độ là Phật-giáo đánh đổ.

        a- TIỂU-SỬ PHẬT

        Người sáng-lập Phật-giáo cũng gọi là Thích-giáo là Tất-đạt-ta (Siddhârtha) họ Cồ-đàm (Gotama) thuộc dòng Thích-ca, cũng gọi là Thích-già (Sâkya). Người sanh tại thành Già-tỉ-la (Kapilavastu) ở phía Bắc Ấn-độ vào thế-kỷ thứ sáu và mất vào khoảng năm 480 trước Công-nguyên.

        Người là con một nhà quí-tộc thuộc giai-cấp chiến-sĩ, có vợ con và sống một cuộc đời phú-quí. Nhưng nhận thấy đời người khổ-sở, Người bỏ vợ con, bỏ quyền-vị để đi tu. Ban đầu, người theo lối khổ-hạnh, ép xác như hầu hết các vị ẩn-tu Ấn-độ thời bấy giờ. Nhưng sau, Người tỉnh-ngộ, và bỏ sự khổ-hạnh vì cho rằng nó cũng hại cho con người như sự ăn chơi phóng-túng. Nghiền ngẫm mối đạo trong mấy năm, Người mới thành chánh-quả, tự xưng là Như-lai rồi đi khắp nơi truyền mối đạo mình.

        b- NHỮNG ĐIỂM KHÁC NHAU GIỮA PHẬT-GIÁO VÀ ĐẠO BÀ-LA-MÔN.

        Đạo của Phật so với đạo Bà-la-môn có nhiều chổ khác nhau. Phật không nhận thuyết linh-hồn võ-trụ cùng thuyết cho rằng hồn cá-nhơn và hồn võ-trụ đồng-thể với nhau. Người không nhận có Phạn-thiên là bực thần tối-cao sáng-tạo vạn-vật. Người cho rằng những vị thần-minh là những nhơn-vật cao hơn con người, nhưng vẫn chịu những nỗi khổ như con người. Họ không giúp ích gì cho con người, và con người cũng không có nhiệm-vụ gì đối với họ. Sau hết, Phật không nhìn nhận những kinh điển cũ của Ấn-độ, từ những kinh Phệ-đà đến những kinh sách của đạo Bà-la-môn.

        Một mặt khác, Phật cho rằng không riêng gì người của giai-cấp Bà-la-môn mới có thể được giải-thoát. Bất cứ người nào có lòng thành cầu đạo cũng đều có thể thành-công cả. Vì đó, Người nhận làm đệ-tử người của tất cả mọi giai-cấp, ngay cả đến giai-cấp hạ-tiện nhứt. Về sau, Người còn nhận phụ-nữ làm tín-đồ, điều mà đạo Bà-la-môn không khi nào chịu.

        c- LÝ-THUYẾT ĐẶC-BIỆT CỦA PHẬT-GIÁO: SỰ KHỔ VÀ PHÉP DIỆT KHỔ

        Phật không đề-cập đến nhiều vấn-đề thường được các triết-gia khác chú ý. Người vốn chủ-trương rằng trong sự đi tìm chơn-lý, con người chỉ nên nghĩ đến những điều gì hữu-ích cho sự giải-thoát của mình mà thôi.

        Vì lẽ đó, theo Người, con người không nên tìm biết xem võ-trụ vĩnh-viễn hay tạm-thời, vô-cùng hay hữu-hạn. Con người chỉ cần biết rằng đời là khổ-hải, và mình bị chìm đắm vào trong ấy. Sự khỗ-sở, con người không phải chỉ chịu một kiếp mà phải chịu hết kiếp này sang kiếp khác, cứ sanh sanh tử tử mãi mà mang nỗi khổ không biết bao giờ thôi.

        Ở đây, Phật nhận thuyết luân-hồi của Bà-la-môn cho rằng sự sanh tử của con người như cái bánh xe, quay hết vòng này lại đến vòng khác không ngừng. Cái nghiệp người chịu ở kiếp này là cái quả công việc người làm ở kiếp trước, mà những công việc người làm ở kiếp này lại là cái nhơn của nghiệp người về kiếp sau. Như thế, người cứ phải chịu sự nghiệp-báo ấy mãi.

        Nhưng nguyên-nhơn sự khổ là gì? Nó chính là lòng tham muốn của người: tham sống, tham sướng, tham mạnh. Muốn diệt khổ, người phải tiêu-trừ lòng tham muốn. Mà muốn tiêu-trừ lòng tham muốn, người phải dốc chí tu-hành, chánh tâm theo đạo để cắt đứt những cái nhơn-duyên ràng buộc mình ở trần-thế. Khi đã diệt được sự khổ rồi, tức là được giải-thoát rồi, người ra khỏi vòng luân-hồi, nghiệp-báo, không sanh không tử nữa mà tới cõi Niết-bàn.

        d- SỰ TU-THÂN VÀ LÒNG TỪ-BI BÁC-ÁI

        Về sự tu thân, Phật dạy tín-đồ lấy lòng từ-bi bác ái mà đối với vạn-vật. Nhưng cũng như những giáo-sĩ Bà-la-môn, Phật vốn chủ-trương xem cõi đời là bào-ảnh chớ không phải thật, nên lòng từ-bi của Người ít nhắm đến sự cải-thiện đời sống của con người, mà nhắm vào việc làm cho lòng con người hoàn-toàn hơn, cao quí hơn, trong sạch hơn, để cho con người dễ tập-trung tư-tưởng trong khi nhập-định tham-thiền hầu tiến lên cuộc đời đạo-đức.

        Tuy vậy, lòng từ-bi bác-ái nầy cũng làm cho Phật-giáo khác đạo Bà-la-môn dạy con người có một thái độ hờ-hững với tất cả những cái gì ở ngoài mình.

        đ- SỰ THAY ĐỔI GIÁO-LÝ CỦA PHẬT VỚI PHÁI ĐẠI-THỪA

        Năm trăm năm sau khi Phật tịch, đạo Người rất thạnh-hành ở Ấn-độ. Nhưng lúc ấy, môn-đồ Phật đã chia ra làm hai phái tiểu-thừa và đại-thừa.

        Phái tiểu-thừa noi theo giáo-lý cũ của Phật. Phái đại-thừa trái lại, đã nhận chịu nhiều tư-tưởng khác và đưa ra những lập-luận khác hẳn lập-luận của phái tiểu-thừa. Những tín-đồ Phật-giáo phái đại-thừa tin nơi một thuyết Bà-la-môn theo đó, thế-giới trải qua nhiều đời khác nhau. Họ cho rằng mỗi đời đều có một vị Phật giáng-thế để độ dân. Ngoài Phật Thích-ca, họ còn tôn-sùng nhiều vị Phật khác, và thêm vào nhiều vị bồ-tát, nhiều vị thần-minh.

        Theo phái đại-thừa, chơn-lý có hai mặt. Võ-trụ vốn là hư-ảo, nhưng đối với con người, nó vẫn thật. Vậy, nhiệm vụ người là phải cố gắng làm cho đời bớt khổ đi. Cái tư-tưởng gánh nhiệm-vụ với đời cũng chỉ là một ảo-tưởng, song nó là một ảo-tưởng tốt mà người nên có.

        Như vậy, những tín-đồ phái đại-thừa không xem sự thoát khỏi vòng luân-hồi là cứu-cánh của mình như tín-đồ phái tiểu-thừa noi đúng theo lời Phật dạy. Họ đã có tư-tưởng cứu đời. Họ tin rằng có nhiều bực tu-hành đắc-đạo rồi, nhưng chưa nhập Niết-bàn mà còn ở lại chốn thế-gian để cứu-độ chúng-sanh như Quan-thế-âm Bồ-tát.

        Chủ-trương này làm cho tư-tưởng từ-bi bác-ái phát-triển rất mạnh. Mặc dầu hãy còn bị ý-niệm cho đời là hư-ảo gán cho nó một tánh-cách tiêu-cực khó hủy-diệt được, tư-tưởng này cũng đã đóng một vai tuồng rất quan-trọng trong sự nâng cao tinh-thần đạo-đức của loài người.

        e- SỰ TRUYỀN-BÁ PHẬt-GIÁO

        Ðạo Phật từ Ấn-độ lần lần truyền-bá đi khắp các nước khác. Đảo Tích-lan và những nước Diến-điện, Cao-miên, Thái-lan theo Phật-giáo tiểu-thừa, nhưng them vào đó nhiều tín-ngưỡng bình-dân cổ-truyền của họ. Những nước Nê-Ban ( Népal ), Tây Tạng, Trung Hoa, Triều- tiên, Nhựt - Bổn và Việt- Nam thì theo Phật-Giáo Đại-thừa. Ngay ở Ấn- Độ thì Đạo Phật lần lần lui bước trước sự phản công của đạo Bà-la-môn và hầu như mất hẳn từ thế kỷ thứ 17.

        3- ẤN-ÐỘ-GIÁO

        Nền tôn-giáo thạnh-hành ở Ấn-độ trong thời-đại cận-kim là Ấn-độ-giáo, hỗn-hợp những tư-tưởng của đạo Bà-la-môn và Phật-giáo với những tín-ngưỡng của dân chúng.

        a- GIÁO-LÝ ẤN-ÐỘ-GIÁO SO VỚI ÐẠO BẦ-LA-MÔN VÀ PHẬT-GIÁO

        Ấn-độ-giáo hướng về chủ-trương độc thần, song không chống chọi lại thuyết đa-thần của đạo Bà-la-môn, vì theo Ấn-độ-giáo, những vị thần khác nhau thật ra đều là hiện-thân của Phạn-thiên. Trong khi đạo Bà-la-môn dạy người nên để cho hồn mình lặn mất vào hồn Phạn-Thiên, Ấn-độ-giáo dạy người đem hòa-hợp linh-hồn riêng biệt của mình với linh-hồn Phạn-thiên.

        Cũng như đạo Bà-la-môn, Ấn-độ-giáo nhận rằng võ-trụ là hư-ảo, nhưng trái với đạo Bà-la-môn khuyên người nên cố thoát trò ảo-thuật của tạo-hóa, nó dạy người nên tham-dự trò ảo-thuật ấy. Tuy không hoàn-toàn gạt bỏ chủ-trương vô-vi của đạo Bà-la-môn, Ấn-độ-giáo công-nhận giá-trị của sự hoạt-động, và xem nó ngang hàng với sự vô-vi.

        Thật ra, đối với người theo Ấn-độ-giáo, cái quan-trọng không phải là vô-vi hay hoạt-động. Ðiều cần là làm cho con tâm thoát khỏi tinh-thần vụ-lợi ích kỷ. Nếu không vụ-lợi thì người dầu có hoạt-động nhiều bao nhiêu, cũng có thể xem như là không hoạt-động gì cả.

        Vậy, Ấn-độ-giáo noi theo con đường Phật đã đi, vì Phật bài-xích sự khổ-hạnh và dạy rằng trước hêt, người phải lo đạt được sự tự-do nội-tâm đối với thế-giới. Nhưng theo Ấn-độ-giáo, mực tối-cao của sự vô-vi là hoạt-động với tấm lòng thanh-thản như không hoạt-động vậy. Người nên hoạt-động không phải vì kết quả sẽ đến cho mình hay cho kẻ khác, mà chỉ vì nhiệm-vụ mình. Vả lại, khi người đã dưng mình cho Phạn-thiên người chỉ là dụng cụ của Phạn-thiên mà thôi. Một việc quấy đối với người đời có thể lại là việc phải, nếu người làm việc ấy hoàn-toàn chiều theo Phạn-thiên trong khi làm.

        Vậy, trung-thành với đạo Bà-la-môn, Ấn-độ-giáo xem Phạn-thiên cao hơn ý-niệm Thiện và Ác. Nó không kể việc giết người là tội vì theo nó, khi ta giết một người, ta chỉ đẩy hồn người ấy từ trạng-thái này sang trạng-thái khác mà thôi. Vì đó, nền đạo-đức của nó vẫn chưa được hoàn-mỹ. Ðó là nhược-điểm chung của những lý-thuyết cho rằng đời là ảo-tưởng.

        b- SỰ THỜ CÚNG

        Về phương-diện thờ cúng, Ấn-đ-giáo cũng thờ phụng Phạn-thiên, nhưng thêm vào hai vị thần Civa và Vishnou. Ba vị Phạn-thiên, Civa và Vishnou hòa-hợp nhau làm một và tiêu-biểu cho ba trạng-thái động của hồn võ-trụ, mỗi vị có một nguyên-lý riêng. Phạn-thiên là đứng Tạo-hóa, nguyên-lý là hoạt-động; Vishnou là thần bảo-tồn, nguyên-lý là lòng từ-ái; Civa là thần phá-hoại, nguyên-lý
        là dục-vọng, là sự tối tăm.Các vị thần này không phải chỉ được thờ cúng trong bản-thể họ, mà còn trong những hiện-thân của họ nữa. Vishnou được thờ dưới hình-thức những hiện-thân của mình trong nhiều kiếp khác với tên là Rama, Krishna. Thần Civa thường được thờ
        trong những hình-thể đàn-bà: Kâli, Donga v.v...

        Do lối thờ cúng này, những môn-đồ Ấn-độ-giáo chia ra thành phái thờ Vishnou và phái thờ Civa. Trong những nghi lễ, Ấn-độ-giáo cũng có khác đạo Bà-la-môn xưa. Thêm vào sự cầu-nguyện lễ-bái theo lối cổ, tín-đồ Ấn-độ-giáo còn dùng những bùa chú và phù-pháp có vẻ huyền-bí hơn. Sau hết, Ấn-độ-giáo cũng quảng-bá ý tưởng cho rằng sự thăm viếng các thánh địa ban phước lành cho các tín-đồ.



        B- NHO-GIÁO VÀ ÐẠO-GIÁO



        1- NHO-GIÁO



        Trái với người Ấn-độ có óc thần-bí, người Trung-Hoa chuộng sự thực-tiễn hơn. Bởi đó, mặc dầu dân Trung-Hoa vẫn noi theo những lý-thuyết thần-quyền như tất cả các dân-tộc khác, mối đạo nắm phần thắng-lợi ở nước họ là Nho-giáo nghiêng về phía đời sống thế-gian nhiều hơn.

        Những tư-tưởng làm nền-tảng cho Nho-giáo đã xuất-hiện từ đời thượng-cổ với các nhà vua Nghiêu, Thuấn, Hạ Võ, Thành-Thang. Ðến đầu đời nhà Châu, nó đã phát-triển rất mạnh mẽ với Châu Văn-Vương, Châu Võ-Vương, và Châu-công Cơ Ðán. Tuy thế, chỉ đến lúc Khổng-tử ra đời, nó mới được sắp đặt thành một hệ-thống chặt chẽ và trở nên một học-thuyết ngự-trị trên dân-chúng Trung-Hoa.

        a- TIỂU-SỬ KHỔNG-TỬ

        Khổng-tử húy là Khâu, người làng Xương-bình, huyện Khúc-phụ, nay thuộc phủ Duyện-Châu, tỉnh Sơn-đông, trước thuộc nước Lỗ. Ông sanh vào năm thứ 21 đời vua Linh nhà Châu, nhằm năm 551 trước Công-nguyên. Khi trẻ, ông làm quan ở nước Lỗ, nhưng vì tánh hiếu học, ông lại tìm đến kinh-đô nhà Châu là Lạc-ấp để khảo-cứu về chế-độ hiến-chương đời trước. Lúc thành tài ông về nước Lỗ, tìm cách xuất-thân để thực-hiện lý-tưởng chánh-trị của mình.

        Năm 51 tuổi, ông được vua nước Lỗ dùng làm Trung-đô-tể, rồi thăng chức Ðại-tư-khấu. Bốn năm sau, ông được vua cho nhiếp tướng-sự nước Lỗ. Nhờ tài cai-trị của ông, nước Lỗ thạnh lên. Nước Tề bên cạnh lo sợ, bèn dùng kế ly-gián, đem nữ nhạc dâng cho vua Lỗ. Vua Lỗ ham mê nữ-nhạc đến bỏ việc chánh. Khổng-tử thấy thế bèn kiếm dịp từ chức đễ bỏ đi. Ông châu du các nước để tìm một vị anh-quân có thể dùng tài mình mà đem sự thái-bình đến cho cái thiên-hạ loan-lạc thời Xuân-thu. Nhưng mặc dầu được mọi người tôn-trọng, ông không được nhà vua nào tin dùng.

        Ðến năm 68 tuổi, ông trở về nước Lỗ viết sách, dạy học trò. Ông mất năm thứ tư đời vua Châu-kính, tức là năm 478 trước Công-nguyên. Mộ ông hiện ở Khổng-lâm, cách huyện Khúc-phụ chừng hai dặm.

        b- PHẦN TRIẾT-LÝ TRONG HỌC-THUYẾT KHỔNG-TỬ

        Về phương-diện triết-lý, Khổng-tử thật ra không nêu ra một thuyết gì mới lạ, ông chỉ ghi lại những tư-tưởng đã có trong xã-hội Trung-hoa.

        1° TƯ-TUỞNG TRUNG-HOA THỜI THÁI-CỔ

        Người Trung-hoa đời thái-cổ, cũng như mọi giống dân bán khai khác, tin rằng trong trời đất cái gì có hình hoặc là vận-động được như mặt trời, mặt trăng, sao, núi, sông, sấm, chớp, gió, mưa, là có thần cả... Họ cho rằng những vị thần này can-thiệp đến sự sanh-hoạt của người. Ngoài ra, lại có ma quỉ là những linh-hồn người chết có thể hại đến người.

        Ðã có người, lại có quỉ, có thần, tất phải có một thế-lực to hơn làm chủ cả võ-trụ. Nhưng võ-trụ mênh-mông mà chỗ nào cũng thấy từng trời xanh bao trùm mọi nơi. Do đó, họ mới nghĩ là có Trời. Có lẽ người Trung-hoa ngày xưa cho rằng Trời cai-quản chư-thần y như vua cai-quản chư-hầu ở thế-gian nên gọi Trời là Ðế hay Thượng-Ðế.

        2° THÁI-CỰC VÀ SỰ BIẾN-HÓA CỦA THIÊN-LÝ

        Sau đó, những nhà hiền-triết nghĩ ngợi sâu xa hơn, mới cho Trời là một cái lý chí-linh, chí- diệu làm chúa tể muôn vật và chủ-trương sự sanh-hóa của muôn vật. Khổng-tử noi theo tư-tưởng này mà lấy chủ-trương "Thiên-địa vạn-vật nhứt-thể " làm thống-hệ cho học-thuyết mình.

        Theo chủ-trương đó, tất cả mọi vật đều do nơi một cái lý nhứt-thể biến-hóa mà ra. Võ-trụ ban đầu vốn hỗn-mang, nhưng bên trong đã sẵn chứa cái lý vô-hình rất linh-diệu, rất cường-kiện ấy. Nó mang tên là Thái-cực và huyền-bí vô-cùng nên người rất khó nhận ra bản-thể nó. Người chỉ có thể xem sự biến-hóa của vạn-vật mà biết động-thể của nó. Ðộng-thể này phát hiện do hai thể khác nhau là động và tĩnh. Ðộng là dương, tĩnh là âm. Dương đến cực-độ thì ra âm, âm đến cực độ lại ra dương. Hai thể này theo liền nhau rồi tương-đối, tương điều-hòa mà biến-hóa để sanh ra trời đất và vạn-vật.

        Khởi-điểm của Tạo-hóa là do hai cái tương-đối là âm và dương, mà đạo Trời Ðất cũng bắt đầu bằng sự biến-hóa của hai cái tương-đối ấy. Xét động-thể của lý Thái-cực để biết sự biến-hóa của Trời Ðất và vạn vật, ấy là tôn-chỉ của Dịch-học, lấy vạch liền để biểu-hiệu thể dương và vạch đứt để biểu-hiệu thể âm.

        Cứ theo thuyết này thì đạo Trời Ðất lúc đầu rất giản-dị, sau mới phồn-tạp. Tuy vậy, người vẫn có thể nhờ lẽ âm dương mà hiểu được đạo ấy, vì dầu phồn-tạp đến đâu, nó cũng qui về lẽ âm dương đó. Nhưng ta nên nhớ rằng âm dương không phải là vật có hình, nó chỉ là cái phù-hiệu cho hai thể tương-đối nhau. Có sự tương-đối đó mới có sự biến hóa, mà có biến hóa mới có tiến; cái gì không tiến thì định, mà định thì thoái. Ðạo Trời không có định, vì cứ hết cái qua, thì có cái lại, qua qua lại lại không cùng. Sự qua lại đó là hành-động của thần. Bởi đó, Khổng-tử nói: "Ai biết đạo biến-hóa thì có lẽ biết sự làm của thần" /"Tri biến-hóa chi đạo giả, kỳ tri thần chi sở vi hồ" (Dịch: Hệ từ thượng).

        3° NGƯỜI VÀ SỰ TRI-GIÁC

        Trong các loài vật Trời sanh ra, chỉ có người là linh nhứt, vì người được Trời phú cho một tánh rất quí, lại bẩm-thụ được hoàn toàn cả tinh thần linh-diệu và khí chất của tinh tú. Nhờ đó, người có cái sáng suốt để hiểu biết các sự vật. Cái sáng suốt ấy ở trong tâm người tức là cái thần-minh làm chủ-tể cho sự tư-tưởng cùng hành-vi của người. Tâm hư-tĩnh không bị vật-dục che tối mất cái sáng suốt tự nhiên thì cảm-ứng được với vạn-vật mà suốt được mọi lẽ trong thiên-hạ.

        4° ÐẠO TRUNG

        Trong sự biến-hóa của trời đất, lúc nào cũng có điều-hòa, có bình-hành tức là có cái trung. Trời Ðất có cái trung mới đứng được. Vậy trung là cái gốc lớn của trời đất, và người ai cũng bẩm thụ cái trung để làm tánh thường. Ðược cái trung thì có một thái-độ ngay chánh, lúc nào cũng không nghiêng, không lệch, lại có cái sáng suốt biết rõ sự thật, làm việc gì cũng đúng đắn, không thái-quá, không bất-cập. Theo cái trung tức là theo thiên-lý mà lưu-hành, biến-hóa cho được điều-hòa. Nó là một điểm cốt-yếu trong đạo Nho, nhưng người rất khó theo nó, vì tâm người dễ bị vật-dục làm nghiêng lệch mà đạo thì ẩn-áo tinh-vi, khó lòng nhận thấy được.

        5° SỰ SANH

        Sự tương-đối, tương-điều-hòa của âm dương đưa đến sự sanh-hóa vạn-vật. Nòi giống nào đã sanh ra đều thuần, nghĩa là cứ thế mà sanh ra mãi. Trong võ-trụ, chổ nào cũng đầy sanh-ý. Khác với phần nhiều các tôn-giáo xem thế giới là hư-ảo và dạy người nên tách mình ra khỏi sự sống để tránh cái khổ, Khổng-tử lấy sự sống làm một mục-đích của Tạo-hóa và dạy người lấy sự sanh-hoạt ở đời làm vui thú.

        6° ÐẠO NHƠN

        Trời với người vốn tương-thông tương-cảm nhau, nên người phải hành-động hợp với ý Trời. Bởi đó, người phải bồi-dưỡng sự sanh, tức là thi-hành đạo nhơn. Theo đạo này, người phải bỏ hết tư-tâm tư-ý, đối với người cũng như đối với mình, lúc nào cũng kính-cẩn và thân-ái như một. Ðạo nhơn hàm ý bác-ái và lòng thương người, yêu vật, muốn cho vạn-vật đều hưởng cái khoái-lạc ở đời.

        7° THIÊN-MẠNG

        Sự biến-hóa trong thế-gian sở dĩ điều-hòa được là nhờ thiên-mạng điều khiển nó. Ðó là một cái lý vô-hình, rất linh-diệu, rất cường kiện, nhưng không phải có hình dáng, tình-cảm, tư-dục như người. Công việc người ta ở đời thạnh hay suy đều do thiên-mạng cả.

        Người phải biết tri-mạng, tức là vui theo mạng trời mà sanh-hoạt, ăn ở cho phải đạo, không lập ý riêng mà làm theo tư-tâm của mình. Tuy vậy, đó không phải là thụ-động chiều theo hoàn-cảnh. Người phải cố sức hoạt-động luôn để cho cái tâm mình sáng-suốt, mẫn-
        nhuệ, hành-động không mất cái trung.

        8° QUỈ THẦN VÀ SỰ SỐNG CHẾT

        Quỉ thần là những khí thiêng-liêng trong trời đất, mắt người không thấy, tai người không nghe, song vẫn có ở khắp nơi. Việc quỉ thần vốn là việc cao xa u-ẩn, nên Khổng-tử dạy người nên kính trọng mà lánh xa. Sự tế quỉ thần cốt là để tỏ lòng tôn-kính chớ không phải để cầu phước riêng cho mình.

        Ðối với sự sống chết Khổng-tử cũng không bàn đến nhiều. Có lẽ ông cũng tin như người đồng-thời, rằng người sanh ra có khí, có hồn, có phách. Khí, hồn, phách hội lại là sống. Khi người chết rồi, cái hài-cốt chôn xuống đất lần lần tan nát đi, còn cái khí tinh-anh thì lên trên khoảng không-gian sáng rực-rỡ.

        c- CHỦ-TRƯƠNG TRỊ-THẾ CỦA KHỔNG-TỬ

        Khổng-tử là người có cái chí muốn giúp đời cứu dân nên rất chú-trọng đến vấn-đề chánh-trị. Những chủ-trương của ông về vấn-đề này phần lớn cũng có sẵn từ đời trước, và về sau rất thạnh-hành trong xã-hội Trung-hoa.

        1° QUÂN-TỬ VÀ TIỂU-NHƠN

        Theo Khổng-tử, thiên-hạ chia ra nhiều hạng người mà hai hạng chánh là: Quân-tử và tiểu-nhơn. Ban đầu, quân-tử là người có địa-vị tôn-quí mà tiểu-nhơn là hạng lê-dân. Về sau, tiếng quân-tử dùng để chỉ người có đức-hạnh tôn-quí còn tiếng tiểu-nhơn dùng để chỉ người có chí-khí hèn hạ.

        2° SỰ HỌC CỦA NGƯỜI QUÂN-TỬ

        Người quân-tử là người có nhiệm-vụ điều-khiển xã-hội. Bởi vậy, họ phải hết sức học-tập để xứng đáng với sứ-mạng mình. Sự học cốt ở chỗ sửa mình cho tâm được trung-chánh, ý cho thành, giúp người thông suốt mọi vật và đạt mực đức-hạnh cần-thiết để noi theo đạo Trời mà hành-động.

        Người quân-tử bao giờ cũng giữ sự công-bằng, đối với mình thì khổ-khắc, nhưng đối với người khác phải có lượng bao-dung, đối với cha mẹ, phải hết lòng hiếu-kính, đối với nhà vua, phải hết dạ trung-thành.

        3° LỄ VÀ NHẠC

        Trong sự điều-khiển dân-chúng, Khổng-tử chủ-trương dùng lễ nhạc làm gốc.

        Lễ là để hàm-dưỡng tánh-tình, tạo ra một không-khí thích-hợp cho tâm dễ có những tình-cảm người cần có. Nhạc là để cho tâm-hồn người được thơ-thới và hành-vi người được điều-hòa.

        4° ÐẠO NHƠN VÀ ÐỨC-ÐỘ NHÀ CẦM QUYỀN

        Việc chánh-trị thì cốt ở đạo nhơn. Theo Khổng-tử, sự trị loạn trong xã-hội không phải do nơi chánh-thể mà do tài đức người hành-pháp. Bởi vậy, người cầm quyền phải cố sửa mình cho đến bậc nhơn, hầu đem đạo ra thi-hành trong thiên-hạ. Khổng-tử dạy rằng, bầy tôi phải trung với vua vì quân quyền do mạng Trời mà ra. Tuy vậy, nhà vua phải làm tròn nhiệm-vụ mình và thi-hành nhân-chánh, lo cho quyền-lợi dân chúng. Trời với dân vốn tương thông nhau nên Trời lúc nào cũng chiều theo ý dân. Khi dân đã oán vua, mạng Trời có thể bị thu lại và người khác có quyền thay mặt Trời mà trị tội nhà vua.

        d) SỰ PHÁT-TRIỂN CỦA NHO-GIÁO SAU KHỔNG-TỬ

        Ðời Chiến-quốc, tư-tưởng Nho-giáo lần lần mạnh lên. Tuy phải cạnh-tranh kịch-liệt với những học thuyết khác đương thời như Mặc-giáo, Lão-giáo, nó đã nắm phần thắng-lợi một cách rõ-rệt. Ðời nhà Tần, Nho-giáo trải qua một đàn áp dữ-dội: nhiều nho-sĩ bị chôn sống, tất cả các sách vở đều bị đốt. Song từ đời Hán, nó được tôn trọng lại và chiếm một địa-vị ưu-thắng trong nền tư-tưởng Trung-hoa cho đến đầu thế-kỷ thứ 20. Tuy vậy, nó không tiêu-diệt hẳn các học thuyết khác, và đồng thời với nó, người Trung-hoa còn nhiều tín-ngưỡng khác nữa, trong đó, ngoài Phật-giáo từ Ấn-độ tràn vào, có Ðạo-giáo là quan-trọng hơn cả.

        2- ÐẠO-GIÁO

        a. TIỂU-SỬ LÃO-TỬ

        Người sáng-lập ra Ðạo-giáo là Lão-tử. Ông họ Lý, tên Nhĩ, tự Bá Ðương, thụy là Ðam, người huyện Hỗ, nước Sở, nay thuộc tỉnh An-huy, không rõ sanh và mất năm nào, nhưng cũng đồng-thời với Khổng-tử, nghĩa là sống vào thế-kỷ thứ 6 trước Công-nguyên. Sử chép rằng Khổng-tử có một lần đến hỏi lễ ông. Lão-tử có làm quan trụ-hạ-sử nhà Châu. Sau ông bỏ đi về phía tây, hướng tỉnh Cam-túc, không biết về sau ra thế nào.

        b. TRIẾT-LÝ ÐẠO-GIÁO

        Lão-tử có viết cuốn Ðạo-đức-kinh để bày tỏ tôn-chỉ của mình. Theo ông, thoạt kỳ-thủy thì không có gì cả, rồi bởi cái không mà thành cái có, và do cái có đó mà thành ra muôn vật. Nói một cách khác, trước hết là không, rồi tự nhiên thành ra một vật độc-nhứt trong khoảng không-gian, do vật độc-nhứt ấy mà sanh ra muôn vật trong thiên-hạ. Vật độc-nhứt ấy gọi là gì? Lão-tử bảo rằng mình không biết gọi nó tên là gì, nhưng đặt tên chữ là Ðạo. Ðạo là một tên chữ đặt ra để có tên mà gọi cho dễ, chứ kỳ-thực không sao tò rõ được.

        Ðạo là một vật tự-nhiên hỗn-thành ra trước khi có trời đất, mờ mờ mịt mịt, im lặng một mình trong khoảng không-gian, ở đâu cũng có mà bao giờ cũng thế, không suy-suyển chút nào, mà muôn vật trong võ-trụ đều do đó mà sanh ra cả.

        Ðạo lại là một giống rất to mà không có hình-thể, trông không thấy, nghe không thấy, sờ mó không thấy, mênh-mông lờ mờ, nhưng bao giờ cũng vẫn đơn-nhứt. Nhơn cái tính đơn-nhứt của đạo mà sanh ra âm dương, tức là trời đất; trời đất cùng với khí sanh ra vạn-vật.

        c. LUÂN-LÝ ÐẠO-GIÁO

        Ðứng về phương-diện triết-lý mà nói, Ðạo-giáo khác Nho-giáo ở chỗ nó cho rằng Trời không hề có cảm-thông với người. Lão-tử bảo rằng: " Trời đất bất nhơn, xem vạn-vật như con chó kết bằng rơm cỏ" (Thiên địa bất-nhơn, thị vạn-vật như sô-cẩu). Vì chủ-trương này, Ðạo-giáo có một nền luân-lý khác hẳn Nho-giáo. Trong khi Nho-giáo lấy sự sống ở đời làm vui thú và dạy người phải ráng lo gánh vác việc đời, Ðạo-giáo cho rằng người muốn theo Ðạo phải " thanh-tĩnh vô-vi" nghĩa là phải tuyệt hết những sự nghĩ ngợi ham muốn mà quên cả hình-hài đi, để lòng được trong sạch yên lặng, và không hành-động gì cả, cứ phó mặc tự-nhiên. Càng hành-động, người càng khổ-sở và càng làm người khác khổ-sở. Nguồn gốc của sự hành-động là dục-tình; bởi thế, nếu dứt hết dục-tình thì không phải hành-động, không phải lo nghĩ khổ-sở mà lòng được thư-thái, thân được an-nhàn.

        d. ẢNH-HƯỞNG ÐẠO-GIÁO TRONG XÃ-HỘI TRUNG-HOA

        Sau Lão-tử có những môn-đồ ông là Liệt-tử và Trang-tử làm sách để diễn-giải và truyền-bá tôn-chỉ ông và bài-bác các học-thuyết khác, nhứt là Nho-giáo. Họ không thành-công trong dự- định sau, nhưng cũng có một ảnh-hưởng rất lớn đến nền văn-hóa Trung-hoa. Nho-giáo vốn chăm chăm vào việc làm nhiệm-vụ đối với đời và đem lễ nhạc thúc-phược người thái-quá nên tâm-trí người không mấy khi được thảnh-thơi. Những tư-tưởng yếm-thế nhàn-tản của Ðạo-giáo có vẻ phóng-khoáng hơn đối với người và cổi mở cho tâm-hồn người một phần nào nên vẫn được những nhà nho dung nạp. Nó phát-triển nhiều nhứt trong lãnh-vực thi-ca, nơi mà những tư-tưởng đạo-mạo nghiêm-trang của Nho-giáo rất khó được phô-bày.

        Ðối với dân-chúng, Ðạo-giáo lại có ảnh-hưởng đặc-biệt bất ngờ. Vì tư-tưởng Lão-tử cao thâm quá mà chủ-trương vô-vi của ông không hợp tánh hiếu-động tự-nhiên của người tầm-thường, họ không thể hiểu được nguyên-ý Lão-tử. Do đó, họ đã đem nó ghép vào hệ-thống tư-tưởng huyền-bí của họ. Vì thế, Ðạo-giáo lần lần biến đổi đi để thành một tôn-giáo có nhiều dị-đoan và ảo-thuật. Người ta tôn Lão-tử làm Thái-thượng lão quân và bày ra thuật tu tiên, luyện thuốc trường-sanh, thuật-số, phù-thủy v.v...

        Một mặt khác, thái-độ yếm-thế của Ðạo-giáo đã mờ đường cho Phật-giáo tràn sang Trung-hoa, và ta có thể xem nó là điểm nối liền giữa hai thuyết hoàn-toàn trái ngược nhau là Nho-giáo chủ-trương lấy sự sống ở đời làm vui thú, và Phật-giáo chủ-trương diệt sự sống để chấm dứt nỗi khổ của người.

        C- THIÊN-CHÚA-GIÁO VÀ HỒI-GIÁO.

        1- THIEN-CHUA-GIAO

        Trong tất cả những tôn-giáo còn lưu-hành trên thế-giới hiện nay, tôn-giáo bành-trướng mạnh nhứt và tổ-chức chặt-chẽ nhứt là Thiên-chúa-giáo.

        a. TIỂU-SỬ NHÀ SÁNG-LẬP THIÊN-CHÚA-GIÁO.

        Người sáng-lập ra Thiên-chúa-giáo là Giê-su, gốc người Do-thái, sanh tại thành Bethleem xứ Palestine. Năm sanh của Người đã được chọn làm năm đầu của Công-nguyên đang được dùng trên thế-giới. Ý-định lấy năm sanh của Giê-su làm năm đầu của kỷ-nguyên hiện-tại là ý-định của Giáo-hội Thiên-chúa; nhưng nó chỉ thực-hiện được khi giáo-hội Thiên-chúa đã thạnh lên, nghĩa là một thời-gian khá lâu sau khi Giê-su đã chết. Người ta đã dựa vào sự suy-toán của một tu-sĩ sống vào thế-kỷ thứ sáu tên là Dyonisius mà định năm sanh của Giê-su và cũng là năm đầu của công-nguyên. Nhưng sau đó, người ta nhận thấy rằng nhà tu-sĩ này đã tính sai và thật sự Giê-su sanh trong khoảng từ 4 đến 8 năm trước công-nguyên hiện được dùng trên thế giới. Mẹ Giê-su là bà Marie, vốn thuộc dòng-dõi vua David là vị vua Do-thái đã xây thành Jérusalem, cha nuôi người là Joseph làm nghề thợ mộc. Lúc Người còn nhỏ, gia-đình Người phải trốn sang Ai-cập để tránh sự đàn-áp của vị bạo-chúa cai-trị người Do-thái. Ðến khi vị bạo-chúa này chết, Người lại được đưa về ở Nazareth đất Galilée, ở miền bắc xứ Palestine.

        Ban đầu, Người làm nghề thợ mộc như cha nuôi là Joseph. Ðến khoảng 30 tuổi, người bắt đầu giảng-đạo ở đất Galilée, rồi ở thành Jérusalem. Trong khi giảng-đạo ở Jérusalem, Người đã gặp sự phản-kháng rất mạnh của người Pharisien, tức là những tín-đồ của một môn-phái Do-thái tu theo cổ-luật của nòi giống họ. Họ liên-minh với các giáo-sĩ và hô hào dân-chúng chống lại Người. Người bị một sứ-đồ là Judas phản, bán Người lấy 30 đồng bạc nên bị bắt đưa ra tòa-án Do-thái và toà-án La-mã.

        Quan tổng-đốc La-mã bấy giờ là ông Ponce Pilate nhận thấy rằng Người vô-tội, nhưng có lẽ sợ tha Người ra thì dân-chúng dấy loạn nên giao Người cho những vị giáo-sĩ thẩm-phán Do-thái xử. Những người này kết-án Giê-su và đem người đóng đinh lên cây thập tự. Theo những tín-đồ Thiên-chúa-giáo, thì ba ngày sau khi được khâm liệm, Giê-su sống lại dạy đạo cho những tín-đồ thân thuộc, rồi 40 ngày sau Người mới thăng-thiên.

        b. NHỮNG TƯ-TƯỞNG DO-THÁI LÀM NỀN-TẢNG CHO THIÊN-CHÚA-GIÁO

        Mối đạo của Giê-su truyền dạy phát nguồn từ nơi những tin-tưởng của người Do-thái chép trong sách Cựu-Ước. Khác với những giống dân đồng-thời theo chủ-trương đa-thần, người Do-thái ngày xưa tin-tưởng vào nơi một vị-thần duy nhứt là Jahvé hay Jéhovah. Ðó là vị Thượng-Ðế tạo nên võ-trụ, vạn-vật và chư-thần.

        Trong số các thần được Thượng-Ðế sanh ra, có một vị tự-kiêu quá và muốn kình chống lại Thượng-Ðế nên trở thành ác-quỉ Satan. Sau khi tạo nên võ-trụ, Thượng-Ðế dùng bùn đất tạo ra Adam, một người đàn ông có hình-thể giống như mình. Ngài thổi sanh-khí vào cho người ấy và cho ở tại Thiên-đường. Ít lâu sau, thấy Adam cô-độc, Thượng-Ðế thương tình, lựa lúc Adam ngủ, lấy một cái sườn của ông ta để tạo nên Eve là người đàn bà đầu tiên.
        Hai vợ chồng Adam và Eve được Thượng-Ðế cho ở thiên-đường và được phép hưởng mọi thứ hoa quả trong ấy. Nhưng Thượng-Ðế nghiêm-cấm họ động đến một thứ cây ở giữa thiên-đường là cây giúp người hiểu biết sự vật. Lúc đầu, vợ chồng Adam và Eve tuân theo lịnh ấy và hưởng được một hạnh-phúc hoàn-toàn. Nhưng sau đó, Eve nghe lời dụ dỗ của quỉ Satan biến thành con rắn nên xúi giục Adam ăn quả cây cấm. Vừa nếm xong quả này, họ có trí khôn và cảm thấy xấu hổ vì mình trần truồng. Cùng lúc ấy, Thượng-Ðế hiện ra, đuổi Adam và Eve ra khỏi thiên-đường và bắt họ phải chịu cực-khổ để mưu-cầu cái sống.

        Adam và Eve xuống trần làm thủy-tổ loài người. Tất cả mọi người đều là con cháu họ. Về sau, loài người có lúc họp nhau lại xây-dựng một cái tháp cao để lên trời. Thượng-Ðế không muốn cho họ thành-công mới khiến cho họ nói tiếng khác nhau; từ đó mới có nhiều dân-tộc trên thế-giới. Vì cái tội nguyên-thủy của tổ-tiên mình là Adam và Eve phạm phải, loài người cứ đi sâu mãi vào con đường quấy và phải chịu những nỗi khổ-cực lầm-than.

        Người Do-thái cho rằng Thượng-Ðế là Jéhovah rất nghiêm-khắc. Ngài thẳng tay trừng-trị những kẻ không tôn-sùng mình và không làm theo ý mình. Họ tin rằng những dân-tộc khác đều thờ phụng tà-thần, chỉ có họ là thờ đúng Thượng-Ðế cho nên họ được lựa chọn để hưởng mọi hạnh-phúc.

        Thượng-Ðế đã từng tìm cách để dạy đỗ họ bằng cách gửi xuống thế những nhà tiên-tri mang lời của Ngài đến nói cho họ nghe. Một trong những nhà tiên-tri, Moise đã nhận được của Thượng-Ðế mười điều luật trên núi Sinaï để giáo-hóa dân Do-thái ăn ở cho hợp đạo trời. Nhưng người Do-thái thực-sự nhiều lần lâm vào cảnh quốc phá gia vong và sống một cuộc đời rất khổ-sở. Do đó, một số nhà tiên-tri Do-thái bảo rằng người Do-thái chưa được hạnh-phúc là vì chưa sạch tội. Họ nêu ra ý-tưởng rằng một ngày kia Thượng-Ðế sẽ gửi xuống thế-gian một đứa con của Ngài để chịu tội thế cho loài người và đưa dân Do-thái đến đất cực-lạc dưới trần.

        c. GIÁO–LÝ THIÊN-CHÚA-GIÁO

        Giê-su tự xưng là đấng cứu-thế được các nhà tiên-tri nói đến. Theo sự tin-tưởng của Thiên-chúa-giáo do Người sáng-lập, linh-hồn con người vốn bất-diệt, nhưng không đầu-thai lại như người Á-Ðông bảo. Linh-hồn người toàn-thiện được lên Thiên-đường, linh-hồn những người tốt, nhưng còn phạm lỗi phải qua một hỏa-ngục gọi là nơi luyện tội để lọc hết tội trước khi được lên thiên-đường. Những người hung dữ không tin nơi Trời hay theo ác-quỉ Satan thì bị xuống địa-ngục.

        Ðời sống của thế-gian không phải cứ kéo dài như thế này mãi. Một ngày kia sẽ đến lúc tận-thế. Lúc ấy, Thượng-Đế sẽ giáng những tai-ách kinh-khủng gớm ghê xuống cho loài người. Chỉ có những người tin-tưởng nơi Thượng-Đế mới được Ngài bảo-vệ, còn những người không thờ-phụng Ngài sẽ bị tận-diệt.

        Ngày tận-thế, Thượng-Đế sẽ hiện ra. Tất cả mọi người sẽ được sống lại và được đưa đến trước mặt Ngài. Thượng-đế sẽ phán xét mỗi người lại một lần cuối cùng. Những người tội lỗi sẽ bị trừng-phạt đời đời, còn những kẻ được Thượng-Đế nhận là xứng đáng sẽ sống trong một thế-giới vĩnh-viễn yên vui hoàn-hảo.

        Vậy, theo Giê-su, quốc-gia của Thượng-Đế không thể thực-hiện ở cõi đời này, và trần-gian phải bị sụp đổ để nhường chỗ lại cho một thế-giới đặc-biệt trong đó mọi điều quấy, mọi cái sai lầm đều bị Thượng-Đế hủy-diệt hết.

        d. NỀN LUÂN-LÝ CỦA THIÊN-CHÚA-GIÁO.

        Về phương-diện luân-lý, Giê-su lấy đạo " huynh-đệ hữu ái " mà dạy người. Tuy không tin nơi thế-giới hiện tại, Giê-su không đến nỗi cho đời hoàn-toàn hư-ảo như các tôn-giáo Ấn-độ. Do đó, nền luân-lý của Người còn chứa đựng một nguyên-tắc hoạt động và có thể dung-hòa với quan-niệm công-nhận sự thực-tại của cuộc đời.

        Nhưng cho đến hết đời trung-cổ, tư-tưởng Thiên-chúa-giáo hãy còn dính dáng với ý-niệm phủ-nhận thế-giới hiện tại nên tín-đồ đạo này cũng chỉ lo tu-niệm để giải-thoát lấy mình. Với phong-trào Phục-hưng phát-khởi từ thế-kỷ thứ 15, Âu-châu mới thấy sự thắng-lợi của quan-niệm công-nhận cuộc đời là thực-tại. Người ta quên hẳn phần phủ-nhận thế-giới hiện-tại chứa đựng trong tư-tưởng Giê-su, và tin chắc rằng Giê-su muốn tạo ngay quốc-gia của Thượng-Ðế dưới thế-gian. Do đó, phát-sanh và nẩy nở một nền luân-lý mới, nhắm vào việc cải-thiện những điều-kiện sanh-hoạt xã-hội và chuẩn-bị cho nhơn-loại một tương-lai xán-lạn hơn.

        đ. SỰ TRUYỀN-BÁ THIÊN-CHÚA-GIÁO VÀ CÁC CHI-PHÁI HIỆN-TẠI CỦA ÐẠO ẤY

        Sau khi Giê-su chết, những tín-đồ của Người mang giáo-lý Người truyền dạy khắp các nơi trong đế-quốc La-mã. Ban đầu, Thiên-chúa-giáo bị các Hoàng-đế La-mã đàn-áp dữ di, song nó lần lần thắng thế lên và đến thế-kỷ thứ tư thì thành ra quốc-giáo. Từ đó, nó lan rộng ra rất mạnh và chinh-phục được hầu hết các giống dân da trắng trước khi được truyền sang các châu Á, Mỹ, Úc và Phi.

        Hiện giờ, Thiên-chúa-giáo có rất đông tín-đồ hợp lại làm ba phái. Ở Nga và các nước thuộc tộc Tư-lạp-phu, những tín-đồ Thiên-chúa-giáo có những giáo-hội riêng cho mỗi nước. Họ tự xưng là phái Thiên-chúa-giáo chánh-thống. Phái thứ nhì là Thiên-chúa-giáo La-mã có tín-đồ ở khắp nơi trên thế-giới và tuân theo lịnh một vị Giáo-hoàng ở La-mã. Phái Thiên-chúa-giáo cải-lương gồm rất nhiều chi thành-lập từ thế-kỷ thứ 16 với phong-trào chống chọi lại giáo-hội La-mã. Người Anh, Mỹ, Ðức và Bắc-Âu phần lớn thuộc phái nầy. Nói một cách khái-quát, giáo-lý những chi Thiên-chúa-giáo cải-lương khác giáo-lý của phái Thiên-chúa-giáo La-mã ở mấy điểm chánh sau đây:

        1° Họ đặt tiêu-chuẩn của sự tín-ngưỡng không phải trong những cổ-truyền do các Giáo-hoàng và hi-đồng tôn-giáo qui-định hay giải-thích, mà trong thánh-kinh do mỗi người tự tìm và hiểu lấy.
        2° Họ không nhận rằng trong các cuộc lễ có chúa Giê-su chứng-kiến thật-sự, không chịu thờ cúng hình-tượng và bà Thánh-mẫu đồng-trinh là bà Marie, mẹ của Giê-su.
        3° Họ hủy bỏ chế-độ độc-thân của giáo-sĩ, hạn-chế quyền-hành các mục-sư và để cho các tín-đồ có một sự tự-do rộng rãi hơn trong sự điều-khiển giáo-hội.

        2- HỒI-GIÁO

        Ngoài những tôn-giáo kể trên đây, trên thế-giới còn một mối đạo quan-trọng khác là Hồi-giáo. Người sáng lập tôn-giáo này là Mahomet.

        a. TIỂU-SỬ MAHOMET

        Mahomet sanh ở La Mecque, xứ Arabie Séoudite, năm 571 và tự xưng mình là dòng-dõi Abraham, thủy-tổ dân Do-thái được nói đến trong sách Cựu-Ước. Thân-phụ ông là một thương-gia chết khi ông còn trong bụng mẹ. Ông mồ côi luôn mẹ từ nhỏ, và được ông nội nuôi. Sau đó, ông ở với một người chú. Năm 13 tuổi, ông theo chú đi buôn và gặp một giáo-sĩ Thiên-chúa giảng-đạo cho nên được biết qua giáo-lý Thiên-chúa. Giáo-lý này có ảnh-hưởng rất lớn đến tư-tưởng ông về sau.

        Lớn lên, Mahomet buôn bán ở La Mecque và cưới một quả-phụ làm vợ. Năm 40 tuổi, ông thấy thiên-thần Gabriel - vị thiên-thần đã báo cho bà Marie, mẹ Giê-su biết rằng bà sẽ sanh ra một đứng cứu-thế - hiện ra trước mặt ông và đọc cho ông nghe một đoạn kinh Coran.
        Từ đó, Mahomet bắt đầu giảng đạo. Năm 621, thành Médine chịu theo giáo-lý của ông và rước ông đến đó ở. Dân La Mecque đuổi theo, nhưng không bắt được ông. Sau đó ông tổ-chức quân-đội, đánh nhau với các bộ-lạc Á-rập khác để truyền-bá giáo-lý mình. Cuối cùng, ông thắng được những bộ-lạc ấy và được họ tôn làm đứng Tiên-tri của họ. Ông chết tại Medine năm 632.

        b. GIÁO-LÝ HỒI-GIÁO

        Về phương-diện giáo-lý, Hồi-giáo chủ-trương chế-độ độc thần. Theo tín-đồ đạo này, chỉ có Allah là Thượng-đế và Mahomet là vị Tiên-tri của Ngài. Người ta chỉ cần tin như thế cũng đủ lên thiên-đường.

        Tin-tưởng đặc-biệt của Hồi-giáo là người nào tham-dự cuộc Thánh-chiến để bảo-vệ hay bành-trướng giáo-lý Mahomet thì sẽ được đưa ngay lên Thiên-đường hưởng mọi lạc-thú. Do đó, người theo Hồi-giáo tác-chiến rất hăng khi những lãnh-tụ họ dùng khẩu-hiệu Thánh-chiến để kêu gọi họ chiến-đấu.

        Thánh-kinh của Hồi-giáo là kinh Coran. Nó vừa là một quyển sách dạy giáo-lý, vừa là một bộ luật, vừa là một quyển sách luân-lý. Nó bao gồm cả tổ-chức xã-hội và đời sống tinh-thần của tín-đồ. Nó khép tín-đồ vào một khuôn-khổ rất khắc-nghiệt và qui-định từng cử-chỉ nhỏ nhặt hàng ngày của mỗi người.

        Theo nguyên-tắc, tín-đồ nào cũng có thể tự cầu cúng Thượng-Đế, nhưng về sau, một giáo-hội được thành-lập với những giáo-sĩ chuyên-môn nghiên cứu Thánh-kinh và giữ luôn chức-vụ thẩm-phán.

        c. SỰ PHÁT-TRIỂN CỦA HỒI-GIÁO

        Sau một thời-kỳ bành-trướng rất mạnh ở nhiều nơi trên các châu Á, Âu và Phi, Hồi-giáo hiện còn được thạnh-hành trong các chủng-tộc Á-rập ở Phi-châu và Á-châu. Ngoài ra, nó còn một số khá đông tín-đồ ở Ấn-độ, Trung-hoa, Nam-dương quần-đảo, Phi-luật-tân và Nga.

        III- VAI-TUỒNG VÀ ẢNH-HƯỞNG CỦA CÁC TÔN-GIÁO ÐỐI VỚI XÃ-HỘI

        A- VAI TUỒNG VÀ ẢNH-HƯỞNG CỦA CÁC TÔN-GIÁO ÐỐI VỚI XÃ-HỘI CỔ-THỜI.

        Phát-sanh từ ý muốn giải-thích võ-trụ, những tư-tưởng thần-quyền của người đời trước lần lần đưa họ đến những tín-ngưỡng chi phối đời sống xã-hội của họ một cách chặt-chẽ. Vốn cho rằng thần-minh có oai-quyền rất lớn đối với mình, không những khi mình sống, mà còn đối với linh-hồn mình sau khi mình chết, người cổ-sơ rất sợ thần thánh.

        Theo họ, những khi không hài lòng, thần thánh chẳng những trừng-phạt cá-nhơn phạm lỗi mà thôi, mà còn có thể trừng-phạt cả đoàn-thể của cá-nhơn phạm lỗi nữa. Do đó phát-sanh ra quan-niệm cho rằng đoàn-thể phải kiểm-soát cá-nhơn, giữ cho cá-nhơn không phạm lỗi với thần-minh. Mọi hành-động phạm lỗi đều phải bị trừng-phạt thẳng tay. Ðể cho thần-minh vui lòng bảo vệ xã-hội, những nhà cầm quyền phải đặc-biệt chăm nom đến việc cúng tế thần-minh. Trong trường-hợp đó, tất nhiên tôn-giáo đóng vai-tuồng ý-thức-hệ chi-phối những tư-tưởng lý-luận của người, và trở thành điểm qui-tập tất cả những hoạt-động văn-hóa của người.

        Những nhà cầm quyền thuở trước, từ những gia-trưởng, tộc-trưởng của chế-độ du-mục, qua những tù-trưởng của chế-độ bộ-lạc, đến những quốc-vương hoàng-đế của chế-độ quân-chủ, đều có liên-lạc mật-thiết đến các giáo-hội.

        Có khi chính người chỉ-huy đoàn-thể về mặt chánh-trị cũng là người cao-cấp nhứt trong hệ-thống tổ-chức tôn-giáo. Các gia-trưởng, tộc-trưởng là người lãnh trách-nhiệm coi sóc sự thờ cúng lễ-bái chung cho gia-tộc mình. Người tù-trưởng của nhiều bộ-lạc cũng là người chỉ-huy mọi cuộc hành-lễ của bộ-lạc. Những nhà vua nhiều nước ngày xưa là những người đại-diện cho đoàn- thể dân-chúng để cúng-tế Trời Ðất và lãnh mạng Trời mà cai-trị muôn dân.

        Nhưng ở nhiều xã-hội, ngoài người chỉ-huy chánh-trị, lại còn những người đặc-biệt điều-khiển đoàn-thể về phương-diện tôn-giáo nữa. Trong nhiều bộ-lạc, ta thấy có những thầy phù-thủy lo việc lễ-bái cúng-tế. Ở nhiều nước, ngoài vị quốc-vương, còn có một giáo-hội tổ-chức thờ phụng chư thần. Trong trường-hợp này, người nắm quyền chánh-trị thường phải tùy thuộc người nắm quyền tôn-giáo trong nước. Các nhà vua Ấn-độ xưa kia, vốn thuộc giai-cấp chiến-sĩ, phải kính nhường các giáo-sĩ Bà-la-môn; những nhà vua Âu-châu thuở trước phải tùng-phục Giáo-hoàng La-mã.

        Tôn-giáo đã được trọng như thế thì tất-nhiên nó phải thu hút phần lớn sự hoạt-động của dân. Người đời trước vốn nghĩ rằng, cuộc đời dương thế rất ngắn so với đời sống vĩnh-cửu của linh-hồn, nên lo cho đời sống của linh-hồn nhiều hơn lo cho đời sống vật-chất. Những bài thơ, bài hát, những điệu nhảy múa trước kia thường ca-tụng thần thánh và dùng để xướng-tấu trong những cuộc hành-lễ. Những đền đài dùng làm nơi tôn thờ thần thánh và những lăng-tẩm có khi đẹp-đẽ, hùng-tráng hơn những cung-điện dùng làm trụ-sở cho kẻ nắm chánh-quyền. Kim-tự tháp Ai-cập và điện Ðế-thiên Ðế-thích muôn phần to lớn và vững chắc hơn những đền đài của vua chúa Ai-cập và Cao-miên thời trước. Ðối với dân-chúng nhiều nước, các phần-mộ cũng tốt đẹp hơn nhà cửa họ dùng làm nơi ăn chốn ở hàng ngày.

        Không những làm cái căn-bản hướng-dẫn mọi hoạt-động chánh-trị và văn-hóa, tôn-giáo lại còn ăn sâu vào tiềm-thức của đại-chúng. Những quan-niệm luân-lý, những hệ-thống suy-luận của người dân đời trước đều đượm nhuần tư-tưởng tôn-giáo. Trong lời ca, tiếng hát, trong cử-chỉ hàng ngày, trong những sự-biến vui buồn của đời họ, có rất nhiều dấu vết của lòng tin-tưởng nơi Trời Phật, nơi một thế-giới vô-hình với những quyền-năng thiêng-liêng có nhiều thế-lực đối với đời sống con người.

        Những hình-thức thờ cúng cũng như các vị thần thánh được thờ cúng có thể thay đổi, vì các dân-tộc thua trận phải chấp-nhận tôn-giáo các dân-tộc chiến thắng. Nhưng chung-qui, những nguyên-tắc căn-bản của tôn-giáo là lòng tin nơi những quyền-lực vô-hình cùng sự hướng cả tâm-tư và hoạt-động mình vào việc thờ-phụng những quyền-lực ấy, vẫn không thay đổi.

        Như vậy, trong xã-hội thời trước, tôn-giáo đóng vai-tuồng những lý-thuyết chánh-trị, những lý-thuyết chánh-trị dựa vào thần-quyền và có tánh-cách độc-tôn, tuyệt-đối, luôn luôn hướng đến sự uốn nắn tất cả xã-hội theo mình.

        Khi xã-hội đã đạt một mực văn-minh khá cao, phần hình-nhi-thượng của tôn-giáo có thể tiến đến những tư-tưởng siêu-hình rất uyên-thâm. Nhưng phần triết-lý này, chĩ riêng một số ít người hiểu nổi mà thôi. Ðối với đại-chúng, các tôn-giáo thường có một phần hình-nhi-hạ gồm những tin-tưởng mộc-mạc và những giáo-điều luân-lý thông-thường.

        Hai phần hình-nhi-thượng và hình-nhi-hạ của tôn-giáo nhiều khi không hoàn-toàn phù-hợp nhau. Phật-giáo vốn xem đời là hư-ảo nên dạy người tìm cách diệt sự sống để chấm dứt nỗi khổ, và nhập Niết-bàn là một chổ tịch-mịch hư-vô. Nhưng phần lớn tín-đồ Phật-giáo chỉ biết việc bố-thí, làm phước, ăn chay và lạy Phật tụng kinh để được lên thiên-đường, toàn là những hành-vi gián-tiếp công nhận sự thật-tại của đời sống trần-gian và thiên-đường cực-lạc.

        B- VAI-TUỒNG VÀ ẢNH-HƯỞNG CỦA TÔN-GIÁO TRONG XÃ-HỘI CẬN-ÐẠI

        Những lý-thuyết thần-quyền ngày xưa bó buộc người trong một khuôn khổ chật hẹp. Nhưng oai-quyền nó không phải tồn-tại mãi. Loài người lần lần tiến-hóa về phương-diện kỹ-thuật và có ý muốn nâng cao đời sống vật-chất của mình lên. Họ lo thỏa-mãn những nhu-cầu hiện-tại của thể xác nhiều hơn. Do đó, họ xao-lãng bớt sự hoạt-động để phụng sự tôn-giáo mà mục-đích chánh-yếu là sự an-ủi và cứu-rổi linh-hồn.

        Trong bộ máy cai-trị, những hoạt-động có tánh-cách thuần-túy chánh-trị càng ngày càng thắng-thế hơn những hoạt-động có tánh-cách tôn-giáo. Ở những xã-hội mà chánh-quyền và giáo-quyền phân ra cho hai cơ-quan khác nhau, người nắm chánh-quyền lần lần thoát-ly sự chi-phối của người nắm giáo-quyền, rồi trở thành có thế-lực hơn người nắm giáo-quyền. Tuy vậy, chánh-quyền còn phải lo bảo-vệ tôn-giáo, vì tôn-giáo hãy còn là một chế-độ quan-trọng làm nền-tảng cho xã-hội.

        Từ thế-kỷ thứ 18 trở đi, óc suy-luận nảy nở ra, khoa-học manh-nha rồi phát-triển một cách nhanh chóng. Những phần-tử cấp-tiến không còn tin nơi những thuyết khởi-nguyên, những tư-tưởng siêu-hình của các tôn-giáo nữa. Các lý-thuyết khoa-học về võ-trụ và các lý-thuyết chánh-trị thành hình rồi chinh-phục được số đông người trong xã-hội.

        Sau những cuộc cách-mạng đẫm máu, những chánh-phủ vô-thần được thành-lập. Những tư-tưởng tôn-giáo và những tư-tưởng vô-thần xung-đột nhau mãnh-liệt. Nhưng sau đó, nguyên-tắc tự-do tín-ngưỡng được chấp-nhận và tôn-giáo được dung-nạp trong xã-hội mới. Tuy thế, quyền chánh-trị và quyền tôn-giáo được phân ra rõ rệt, mỗi bên có một phạm-vi hoạt-động riêng. Nhà chánh-trị thì lo việc cai-trị dân-chúng, còn những giáo-chủ, giáo-sĩ thì lãnh phần hướng-dẫn tín-đồ mình trên con đường đạo-đức. Ý-thức-hệ mới do những lý-thuyết chánh-trị vô-thần đưa ra đặt nền-tảng trên sự tự-do và lần lần thấm-nhuần vào đầu óc dân-chúng. Do đó số người cuồng-tín tôn-giáo ngày một bớt đi, và những cuộc xung-đột tôn-giáo mất lần tánh-cách tàn-khốc.

        Sự phân-biệt hai quyền chánh-trị và tôn-giáo làm cho chánh-trị thoát-ly sự chi-phối của tôn-giáo một cách rõ rệt, và người ta có lúc đã tin rằng, chánh-trị và tôn-giáo có thể sống chung nhau một cách hòa-bình trong xã-hội. Nhưng sau những lý-thuyết chánh-trị dung-nạp sự tồn-tại của tôn-giáo, xã-hội cận-đại lại sản xuất những lý-thuyết chánh-trị bài-trừ tôn-giáo, và sự tồn-tại của tôn-giáo lại được đặt ra làm một đề-mục tranh-đấu chánh-trị.

        Trong khi chánh-quyền lần lần thoát-ly sự chi-phối của tôn-giáo thì những hoạt-động văn-hóa cũng đi xa tôn-giáo. Những sản-phẩm văn-chương nghệ-thuật càng ngày càng hướng về mục-đích phụng-sự chánh-quyền và nhơn-sanh nên bớt chú-trọng đến tôn-giáo. Ðối với dân-chúng, ảnh-hưởng của tôn-giáo cũng kém bớt thế-lực. Thiếu cái quyền đàn-áp bắt buộc người ta theo mình, tôn-giáo không còn thu hút phần lớn sự hoạt-động của loài người vào việc phụng-sự mình được nữa.

        Tuy thế, về phương-diện tinh-thần, tôn-giáo hãy còn một ảnh-hưởng to tát đối với loài người. Ảnh-hưởng này tiềm-tàng trong ý-thức người và uốn nắn tâm hồn người một cách mạnh-mẽ. Những quan-niệm luân-lý đạo-đức, những hoạt-động dính dáng đến đời tư của người vẫn còn do tôn-giáo điều-khiển nếu chánh-quyền không công-khai bài-xích tôn-giáo.

        Trong những xã-hội tôn thờ nguyên-tắc tự-do, đời tư của người được kính nể bảo-vệ một cách trân-trọng. Do đó, phạm-vi thế-lực của tôn-giáo tuy bị thâu hẹp hơn trước, nhưng cũng hãy còn rộng rãi lắm.

        Trong những xã-hội bài-xích tôn-giáo và đặt nền tảng trên sự độc tài chánh-trị, tôn-giáo rất khó hoạt-động để tồn-tại một cách công-khai. Nhưng vì nó thấm-nhuần tiềm-thức của con người một cách mạnh-mẽ hoàn-toàn quá nên nó vẫn còn tồn-tại qua mọi sự đàn-áp. Tuy thế, sự tồn-tại ấy chỉ là một sự tồn-tại vô-hình, không cụ-thể, hay chỉ được cụ-thể-hóa một cách yếu ớt.

        Nói một cách khái-quát thì trong thế-giới hiện-tại, những tín-đồ các tôn-giáo hãy còn chiếm lấy một phần lớn nhơn-loại. Trong những tín-đồ này, người nhiệt-tín để hết tâm-trí vào việc phụng-sự tôn-giáo chỉ là một số nhỏ nhoi; những người khác, mặc dầu vẫn chịu sự chi-phối mạnh-mẽ của tôn-giáo về phương-diện tinh-thần, chỉ để một ít thời-giờ rảnh-rang của mình hiến cho tôn-giáo. Họ lại thường thờ-ơ đối với vấn-đề chánh-trị, và xem tôn-giáo như là một việc riêng của mình nên ít khi nhơn-danh tín-đồ một tôn-giáo mà hoạt-động chánh-trị.

        Tuy thế, lúc sau này, trước sự tấn-công mãnh-liệt đẫm máu của những phong-trào bài-xích tôn-giáo, ý-thức tôn-giáo của người lại bừng dậy. Những người nhiệt-tín tôn-giáo bèn đứng lên hô-hào cho người đồng-đạo hội-họp nhau lại tranh-đấu để bảo-vệ quyền tín-ngưỡng tôn-giáo của mình. Họ đã thành-lập những đoàn-thể hoạt-động chánh-trị, nhưng trong sự hoạt-động này, đoàn-thể họ chỉ được xem như là những đoàn-thể chánh-trị. Sự khác nhau giữa những đoàn-thể tôn-giáo này và những chánh-đảng qui về một điểm duy-nhứt là một bên dựa vào lý-thuyết thần-quyền, một bên dựa vào lý-thuyết nhơn-quyền.

        IV- THÁI-ÐỘ CHÁNH-TRỊ HỢP-LÝ NHỨT ÐỐI VỚI CÁC GIÁO-LÝ THẦN-QUYỀN.

        Các lý-thuyết thần-quyền đặt nền-tảng trên sự tin-tưởng nơi một đứng chí-tôn toàn-thiện toàn-năng có quyền-lực vô-hạn đối với con người. Nếu không như thế, nó cũng nêu ra những ý-tưởng siêu-hình rất tinh-tế, nhưng không khoa-học.

        Ðứng về phương-diện lý-trí mà nói, những nguyên-tắc căn-bản của những lý-thuyết thần-quyền không thể chứng-minh được, và không thể dùng làm lý-thuyết chánh-trị để hướng-dẫn con người.

        Thật ra trên thế-giới, hãy còn nhiều đám quần-chúng chưa được văn-minh và cuồng-tín nơi tôn-giáo họ phụng-thờ. Nhưng nếu sự cuồng-tín này có thể giúp cho họ một sự đoàn-kết và một lòng khinh-sanh làm cho họ mạnh lên, nó cũng nhốt họ trong những khuôn-khổ tư-tưởng quá chật hẹp và không cho phép họ tiến-bộ một cách nhanh chóng được. Do đó, những quốc-gia muốn canh-tân như Thổ-nhĩ-kỳ trước đây và Ấn-độ hiện giờ, đều phải cố vượt ra khỏi sự kiềm-tỏa của tôn-giáo.

        Tuy thế, loài người vẫn chưa có thể bỏ hẳn tôn-giáo được như một số người khác đang chủ-trương, vì tôn-giáo, ít ra là dưới hình-thức cao cả và trong sạch của nó, hãy còn hết sức cần-thiết cho người.

        Loài người vốn không phải cục-súc như loài cầm-thú, chỉ lo mưu-đồ sự sống vật-chất của mình. Họ còn biết suy nghĩ lý-luận, biết tìm hiểu nguyên-nhơn tận cùng của sự vật, lý do tồn-tại của mình và tìm kiếm những nguyên-tắc hướng-dẫn sự hành-động của mình. Những tư-tưởng lý-luận của người đành là bị sự chi-phối chặt-chẽ của đời sống vật-chất, nhưng sự phát-sanh của nó cũng đủ chứng tỏ rằng, con người không phải cam-tâm chịu khép mình trong đời sống vật-chất, mà lại muốn vượt lên khỏi đời sống vật-chất ấy.

        Trong một thời-gian dài dặc, vì không đủ phương-tiện và trí thông-minh để giải-thích những hiện-tượng thiên-nhiên bao bọc lấy mình, người đã có những quan niệm sai lầm về võ-trụ và những hoạt-động tinh-thần của người đã đưa đến những hệ-thống tư-tưởng lấy thần-quyền làm nền tảng.

        Lúc những lời giải-thích của những hệ-thống tư-tưởng ấy còn có thể làm thỏa-mãn tất cả mọi người thì tôn-giáo chiếm địa-vị độc-tôn trong lãnh-vực tinh-thần, và thành ra cái lý-thuyết chánh-trị duy-nhứt của xã-hội. Nhưng đến khi người có nhiều kinh-nghiệm hơn trong việc sử-dụng vật-chất, và hiểu biết võ-trụ bao quanh mình một cách rõ rệt hơn, người lần lần nhận thấy những chỗ sai lầm của hệ-thống tư-tưởng thần-quyền. Óc khoa-học mở mang ra, và những sự giải-thích của tôn-giáo không còn thỏa-mãn được lý-trí của tất cả mọi người nữa. Do đó, tôn-giáo phải nhường bước cho những tư-tưởng đặt nền tảng trên sự quan-sát thực tế về võ-trụ và dựa vào những nguyên-tắc mà người ta có thể dùng sự thí-nghiệm để chứng tỏ sự đúng đắn.

        Chúng ta không thể chối cãi rằng, những hệ-thống tư-tưởng dựa vào khoa-học này cũng cốt để thoả-mãn sự sống còn tinh-thần của con người. Chúng ta cũng có thể chấp-nhận rằng những suy-luận của nó có tánh-cách thiết-thực và hợp-lý hơn những suy-luận của tôn-giáo. Nhưng không phải vì đó mà chúng ta phải chủ-trương hủy-diệt tôn-giáo để đem khoa-học thay vào. Như thế là vì tôn-giáo hiện đặt nền tảng trên một lòng tin-tưởng mà khoa-học không thể nào đánh đổ được.

        Những người theo thuyết duy-vật khoe rằng mình đã chứng-minh được một cách khoa-học rằng Trời không có. Nhưng kỳ-thực, họ chỉ chứng-minh được rằng những hiện-tượng vật-chất chung quanh ta phải tùy thuộc những định-luật bất-di bất-dịch, và những biến-cố xảy đến cho ta là kết-quả sự tác-động của vật-chất theo những định-luật ấy.

        Ðối với những người sùng-thượng tôn-giáo, chỉ bằng vào đó mà quả-quyết rằng Trời không có thì cũng như là người dốt không sờ mó, không thấy được không-khí rồi quả-quyết rằng không có không-khí vậy. Nhóm người sùng-thượng tôn-giáo này cho rằng một công-trình vĩ-đại và tinh-xảo như võ-trụ và sự sống không thể là kết-quả những phản-ứng tự nhiên của vật-chất. Theo họ, nhứt định là phải có một nguyên-lý điều-khiển tất cả sự biến-hóa để làm cho quả địa-cầu nguyên là một khối lửa cháy đỏ mà lần lần phát-sanh được sự sống và sản-xuất được một giống vật rất khôn ngoan, rất đạo-đức là người.

        Thêm nữa, một số nhà tôn-giáo hiện giờ lại dùng khoa-học để chỉ tỏ sự cần-thiết của một quyền-lực vô-hình và tối-cao chi phối võ-trụ. Những người này đã chỉ-trích những thuyết khoa-học về sự phát-hiện của sanh-chất từ nơi tử-chất ở chổ những thuyết ấy đã dựa quá nhiều vào sự ngẫu-nhiên.

        Nói cho thực đúng thì chủ-trương rằng sự ngẫu-nhiên có một vai tuồng trong sự diễn-tiến của vật-chất không phải là chọi lại khoa-học, vì trái với những nhà khoa-học của thế-kỷ thứ 19, những nhà khoa-học hiện-đại đã chấp-nhận có sự ngẫu-nhiên trong các diễn-tiến vật-chất. Nhưng nhược-điểm của các thuyết khoa-học về sự phát-hiện của sanh-chất là sự ngẫu-nhiên rất ít có cơ-hội đưa đến kết-quả tốt được.

        Tất cả những nhà khoa-học đều nhận rằng sanh-chất có một kết-cấu vô-cùng phức-tạp. Một phần-tử một của chất đản-bạch-tinh thông-thường nhất đã gồm có 5941 nguyên-tử chồng chất lên nhau và sắp nhau theo một hệ-thống nhứt-định.

        Những nhà học-giả duy-vật đã cho rằng những nguyên-tử vô-cơ trước đây đã tự-nhiên kết-hợp nhau lại để thành ra phần-tử sanh-chất đầu tiên. Nhưng bảo như thế chẳng khác nào bảo rằng một thúng chữ nhà in đổ đại xuống đất có thể tình cờ tự sắp thành bản in của bài Tự-tình-khúc vậy. Bởi đó, học-giả Lecomte du Noüy đã nhiệt-liệt bài bác thuyết của những học-giả duy-vật cho rằng sự sống tự-nhiên từ tử-chất mà sanh ra.

        Luận-chứng của Lecomte du Noüy dựa vào một suy-toán của giáo-sư Charles Eugène Guy, một nhà toán-học Thụy-sĩ đã nhờ phép tính xác-xuất mà định những trường hợp thành-lập một sanh-chất hữu-cơ từ các nguyên-tử.

        Giáo-sư Charles Eugène Guy đã lấy làm thí-dụ một phần-tử đản-bạch-tinh đã được đơn-giản-hóa đến một mực thấp hơn những phần-tử đản-bạch-tinh thực-sự rất xa. Phần-tử này chỉ gồm có 1.000 nguyên-tử hýt-rô và 1.000 nguyên-tử các-bon. Cứ theo sự tính-toán của giáo-sư thì 2.000 nguyên-tử nói trên đây phải qui-tập nhau trong số 10^312 lần (một con số viết bằng con số 1 và 312 con số không tiếp theo nó) mới có được 2,02 lần đúng cách-thức để lập-thành một phần-tử đản-bạch-tinh hữu-cơ.

        Muốn cho trường-hợp hết sức hiếm-hoi này xuất-hiện, phải có một khối vật-chất bằng một quả cầu tròn bề bán-kính là 10^82 năm ánh sáng (1). Và khoảng thời-gian cần-thiết để cho một phần-tử như thế được tạo thành trong một khối vật-chất bằng khối quả đất ta ở là 10^243 tỉ năm.

        Muốn gây ra sự sống, cần phải có hằng trăm triệu phần-tử sanh-chất phức-tạp hơn phần-tử đản-bạch-tinh lấy làm thí-dụ trên đây. Vậy muốn giải-thích sự xuất-hiện của những tế-bào sống, ta phải cần đến những con số lớn hơn những con số nêu ra trên này vạn-bội.

        Những nhà khoa-học hiện-đại đã tính rằng quả đất ta ở chỉ xuất-hiện trong vòng năm tỉ năm nay. Như thế, với những phương-pháp khoa-học, người ta không thể giải-thích ngay đến những chất cần-thiết để xây-dựng sự sống, chớ đừng nói đến việc xuất-hiện sự sống.
        Dựa vào lý lẽ trên này, Lecomte du Noüy chủ-trương rằng trong sự tạo thành cái tế-bào sanh-vật đầu tiên, phải có một nguyên-lý bí-mật hướng-dẫn các nguyên-tử trong sự cấu-hợp nhau một cách đặc-biệt để thành ra sanh-chất.

        Lý-luận của Charles Eugène Guy và Lecomte du Noüy thật ra hãy còn bị một số nhà khoa-học bắt bẻ. Những nhà khoa-học này cho rằng những nguyên-tử không phải là những vật hoàn-toàn thiếu hoạt-lực, nó có ái-lực đối với nhau và điều này hạn-chế bớt vai-tuồng của sự ngẫu-nhiên. Một mặt khác, hoàn-cảnh thiên-nhiên thuở trước không phải như bây giờ và quả đất ngày xưa có thể có những điều-kiện thích hợp hơn cho việc phát-xuất sự sống. Thêm nữa, thuyết của Lecomte du Noüy và Charles Eugène Guy cũng không phải chứng-minh được một cách trực-tiếp rằng võ-trụ và nhơn-loại do Thượng-Ðế tạo ra.

        Tuy nhiên, nó cũng làm kém bớt giá-trị những quả-quyết của các học-giả duy-vật cho rằng Thượng-Ðế không có, và võ-trụ cùng nhơn-loại tự-nhiên do vật chất mà ra. Nó lại cho ta thấy rằng khoa-học không phải chỉ cung-cấp luận-chứng cho phái phản-đối tôn-giáo, mà cũng cung-cấp luận-chứng cho những người binh-vực tôn-giáo nữa.

        Vì đó, người ta thật ra không thể-giải quyết vấn đề tôn-giáo bằng luận-lý. Nếu những người duy-vật cho rằng những định-luật chi-phối vật-chất là những định-luật khoa-học chỉ do nơi vật-chất mà ra, những người duy-tâm lại cho rằng, những định-luật ấy là những định-luật thiên-nhiên do tạo-hóa mà có. Trong trường-hợp đó, lòng tin có Trời cũng như sự tin rằng không có Trời cần một lòng tín-ngưỡng ở ngoài những chứng-minh khoa-học.

        Vả lại, khoa-học cũng chưa phải là một quyền-lực vạn-năng. Từ trước đến giờ, nó chỉ vén một góc màn nhỏ nhặt cho người thấy bên trong bộ máy võ-trụ, chứ chưa giúp cho người hiểu biết võ-trụ một cách hoàn-toàn. Ngay trong những lãnh vực mà khoa-học có thể dùng sự thí- nghiệm để mở rộng những tri-thức của con người, phần mà khoa-học chưa biết so với phần mà khoa-học đã biết thật hãy còn nhiều hơn vạn-bội. Như trong khoa-học sanh-lý nghiên cứu về sự cấu-tạo cơ-thể con người, người ta vẫn chưa đạt đến một sự hiểu biết đủ để đảm bảo đời sống của người một cách chắc chắn đối với sự uy-hiếp của thời-tiết, của các bịnh-căn. Khoa tâm-lý nghiên-cứu về những tình-cảm, những tánh nết, những bản-năng ẩn-áo của con người lại càng thua sút hơn nữa.

        Vậy, chính những khoa-học thực-nghiệm có nhiều điều-kiện hơn hết để tộiến-triển cũng chỉ khám-phá được một phần sự bí mật của võ-trụ mà thôi. Nhưng giá như những nhà khoa-học ấy đã khám phá hết những sự bí-mật của võ-trụ, người ta cũng chưa có thể dựa vào nó mà giải-quyết vấn đề có Trời hay không có Trời được. Như thế là vì khoa-học từ trước đến giờ, cũng như mãi mãi về sau này, chỉ có thể trả lời được câu hỏi: ‘’sự việc đã xảy ra như thế nào?’’ mà không thể trả lời được câu hỏi ‘’ tại sao nó lại xảy ra như thế ấy’’.

        Ta có thể biết rằng hai nguyên-tử hýt-rô hòa-hợp với một nguyên-tử óc-xy để thành ra một phần-tử nước, nhưng ta không thể biết tại sao hýt-rô và óc-xy hòa hợp lại thì thành nước mà không thành một chất khác, cũng không thể biết tại sao hýt-rô và óc-xy lúc nào cũng hòa-hợp lại thành nước chớ không phải khi thì hóa ra nước, khi thì hóa ra chất khác.

        Ta cũng có thể đi ngược thời-gian để tìm xem võ-trụ được cấu tạo như thế nào, nhưng ta không thể biết tại sao nó được cấu-tạo như thế. Hơn nữa, trong sự đi ngược thời-gian này, dầu những luận cứ khoa-học có đưa ta đi xa đến đâu, ta cũng không thể đi đến nguồn gốc ban-sơ của võ-trụ. Trong tất cả những giả-thuyết được nêu ra, không cái nào đi đến phát-đoan tuyệt-đối của võ-trụ: người ta chỉ đi đến phát-đoan của một thời-kỳ đang diễn-tiến mà thôi.

        Ðối với vấn-đề làm cho loài người thắc mắc nhứt từ xưa đến nay là lý-do tồn-tại của con người thì chắc chắn là mãi mãi khoa-học phải chịu bó tay không giải-quyết được.
        Ngoài những nhược-điểm trên đây, khoa-học lại còn một nhược-điểm khác nữa, là những giải-pháp của nó cũng chưa phải là luôn luôn hoàn-toàn đúng với sự thật. Trừ toán-học là một khoa-học phần lớn dựa vào luận-lý, chỉ có những khoa-học mà lãnh-vực bao gồm những vật-chất người có thể sờ mó được như hóa-học chẳng hạn mới có thể đưa ra những định-luật có tánh-cách vững chắc. Những ngành khoa-học khác thì chỉ có thể đưa ra những giả-thuyết mà sự chặt chẽ của lý-luận không đủ để bảo-đảm cho sự đúng đắn của nó.

        Người ta đã đưa ra nhiều giả-thuyết khác nhau về sự thành-lập thái-dương-hệ, về lịch-sử địa-cầu, về sự phát sanh các sanh-vật và về bao nhiêu vấn-đề khác nữa. Những giả-thuyết này nhiều cái rất được hoan-nghinh và được xem là đúng với sự thật. Nhưng chỉ ít lâu sau đó, người ta lại đưa ra những giả-thuyết khác đánh đổ giả-thuyết trước. Giả-thuyết mới này cũng chỉ được nhìn nhận trong một thời-gian, rồi lại bị đánh đổ nữa, và tấn tuồng cứ tiếp-tục như thế mãi không ngừng. Cũng có khi hai ba giả-thuyết đưa ra được xem là có lý cả, và người thì binh vực cái này, người thì binh vực cái kia để cãi nhau mãi mà không giải-quyết được vấn-đề.

        Chúng ta có thể bảo rằng phạm-vi trong đó khoa-học có thể quả-quyết chắc chắn về sự hiểu biết của mình hết sức nhỏ hẹp, còn phần lớn những sự phát-minh khoa-học chỉ giúp cho con người biết chắc sự lầm lạc trước của mình, nhưng không đưa người đến một sự thật chắc chắn. Trong trường-hợp đó, loài người chưa có thể lấy khoa-học làm một nền tảng vững chắc hoàn-toàn và bắt mọi người phải tin vào đó.

        Như thế, khoa-học không thể giải-quyết được những vấn-đề làm cho loài người thắc mắc từ trước đến giờ. Nó chỉ có thể giúp người hiểu biết thêm vật chất và hiến cho người những phương-tiện để chế-ngự vật-chất hầu nâng cao đời sống vật-chất của mình lên. Về phương-diện tinh-thần, nó không giúp người trấn-áp được những nỗi băn khoăn lo ngại trước sự to rộng vô- cùng của tạo-vật mà lại còn tăng thêm sự băn khoăn lo ngại ấy.

        Những giả-thuyết khoa-học hiện-tại bày tỏ cho người thấy rằng, người chỉ là một khối vật-chất do sự tác-động của những nguyên-tử mà thành, và trái đất trên đó con người sống cũng là một khối vật-chất quay cuồng trong một võ-trụ xung-động không ngừng. Vậy, người chỉ là một hột bụi lửng lơ trên không-trung, một hột bụi không biết vì sao mình có và có để làm gì. Hình ảnh trên này tự nhiên không thể đưa đến cho tâm-hồn của người một sự an-ủi gì, trái lại là khác.

        Bản-năng sinh-tồn của người không cho phép người cúi đầu khuất-phục trước hình ảnh đó. Nó làm cho người không thể cam-tâm chấp-nhận rằng mình chỉ là một khối vật-chất vì sự ngẫu-nhiên mà biết cảm-xúc, biết suy nghĩ, biết lý-luận và chỉ sống trong một thời-hạn vài mươi năm rồi tan rã, không còn hy-vọng tồn-tại. Bản-năng sinh-tồn của người bắt buộc người phải tìm một cái gì để mà bấu víu vào cho đỡ bớt cảm giác lửng lơ cô-độc, cho bớt sự băn-khoăn, cho dịu bớt lòng lo âu sợ-hãi trước sự vô-cùng, cho có một điểm hy-vọng soi sáng tương-lai mù mịt của mình. Cái mà bản-năng sinh-tồn xúi giục người tìm kiếm phải là một cái tuyệt-đối và cái tuyệt-đối này, người tìn được không phải bằng lý-trí thuần-túy, mà bằng tấm lòng tín-ngưỡng, chỉ dựa vào lý-luận một phần nào mà thôi.

        Ðối với một thiểu-số người có năng-khiếu đặc biệt, lẽ sống có thể là khoa-học, là nghệ-thuật, là đạo-đức thuần-túy, là một lý-tưởng nào đó. Nhưng đại-đa-số loài người chỉ có thể lấy sự tin tưởng nơi Thượng-Ðế, nơi một oai-quyền chí-công chí-chánh và tối thiêng-liêng điều-khiển loài người, nói tóm lại, lấy tôn-giáo làm lẽ sống cho mình. Chỉ có tôn-giáo mới giải-quyết được những nỗi băn khoăn, những nỗi lo âu sợ-hãi của họ, chỉ có tôn-giáo mới làm cho họ thấy rằng cuộc đời có ý nghĩa và đáng sống, chỉ có tôn-giáo hứa hẹn cho linh-hồn họ sống một đời sống miên-trường sau khi thể-xác họ chết mới giúp cho họ có đủ can-đảm gánh vác cái gánh nặng của kiếp sống trần-gian.

        Như thế, đứng về phương-diện sinh-tồn tinh-thần mà nói thì tôn-giáo hết sức cần-thiết cho con người. Sự cần-thiết này càng được chứng tỏ ở chỗ nhiều người bình-thường không nhìn nhận quyền-oai của Thượng-đế và hết sức chống chọi lại các tôn-giáo, nhưng đến lúc gặp những sự-biến lớn lao, hay đứng trước những cảnh tàn-phá khổ-sở mà sự hàn gắn vượt hẳn quyền-lực của con người, họ lại quay về tìm nguồn an-ủi và hy-vọng nơi tôn-giáo.

        Bởi đó, sự hủy-diệt tôn-giáo trở nên một điều hết sức trái với sự sinh-tồn của con người, và vì thế mà không thể nào thực-hiện được. Ở Liên-bang Sô-viết, nhà cầm quyền Cộng-sản từ khi lên nắm chánh-quyền đến nay đã luôn luôn tìm cách quét sạch ảnh-hưởng tôn-giáo trên đất nước Nga. Nhưng mặc dầu họ dùng những phương-pháp hết sức tàn-bạo để đạt mục-đích này, họ cũng không thành-công được. Ý-niệm tôn-giáo của người dân Nga tuy không được bộc-lộ công-khai, nhưng vẫn duy-trì mãi không tiêu-diệt. Và khi trận chiến-tranh Ðức Nga nổ bùng, thừa dịp Staline cho phép các giáo-đường mở cửa giảng đạo lại cho tín-đồ để mua lòng các nước Mỹ Anh, tinh-thần tôn-giáo bừng bừng chỗi dậy. Lúc chiến-tranh chấm dứt, chánh-phủ Sô-viết tìm cách hạn-chế trở lại sự bành-trướng của giáo-hội Nga, nhưng người ta vẫn cứ đổ xô đến các giáo-đường bất-chấp cả sự đàn-áp.

        Một điều ta nên lưu-ý là thế-hệ thanh-niên Nga hiện-thời đã được sanh-trưởng trong bầu không-khí Cộng-sản, đã được giáo-dục theo phương-pháp duy-vật và được huấn-luyện kỹ càng theo chủ-nghĩa vô-thần, thế mà họ vẫn nhờ tôn-giáo làm cái lẽ sống cao-siêu của đời họ. Ðiều này chỉ tỏ rằng, chương-trình hủy-diệt tôn-giáo của Cộng-sản ở Nga đã thất-bại hoàn-toàn. Và như thế, chủ-trương hủy-diệt tôn-giáo của nhóm duy-vật chỉ là một chủ-trương sai lầm không thực-hiện được.

        Ở các nước bị Nga chiếm đóng và chi-phối sau khi trận thế-giới đại-chiến thứ nhì kết-liễu, sự thất-bại của chương-trình bài-trừ tôn-giáo do bọn Cộng-sản đưa ra lại càng rõ rệt hơn nữa. Những biến-cố làm đẫm máu đất Trung-Âu vào hạ tuần tháng 10 năm 1956 đã chứng tỏ rằng mười năm đàn-áp của bọn vô-thần chẳng những không tiêu-diệt được ảnh-hưởng của Công-giáo La-mã ở Ba-lan và Hung-gia-lợi, mà còn làm cho ảnh-hưởng ấy mạnh hơn lên. Những quan-sát-viên ngoại-quốc đều nhận thấy rằng, nếu hai nước Ba-lan và Hung-gia-lợi tổ-chức những cuộc tuyển-cử tự-do, chắc chắn những nhóm chánh-trị dựa vào Công-giáo sẽ được một đa-số thăm tuyệt-đối, trong khi đảng Cộng-sản sẽ phải thất-bại nặng nề.

        Về sự tác-dụng của tôn-giáo đối với xã-hội, hiện nay người ta có nhiều ý-kiến khác nhau. Những người chủ-trương hủy-diệt tôn-giáo chỉ thấy cái hại của nó và gán cho nó tất cả những tội ác gây ra trong thời-đại trước. Những tội ác này có thể gồm trong ba khoản: phản khoa-học, phản đạo-đức và phụng-sự giai-cấp thống-trị bằng cách mê-hoặc dân-chúng, khiến cho họ mất cả ý-chí tranh đấu, cam-tâm cúi đầu khuất-phục giai-cấp cầm quyền. Những người bảo-vệ tôn-giáo thì nhiệt-liệt bài-bác những lời buộc tội trên này, và cho rằng chính tôn-giáo rất hợp với tinh-thần đạo-đức, và luôn luôn chủ-trương binh-vực những người yếu-đuối chống lại người có quyền-thế.

        Bình-tâm mà xét luận-lý đôi bên, chúng ta sẽ nhận thấy rằng mỗi bên đều có lý một phần nào. Ðối với khoa-học, quả thật tôn-giáo nhiều khi có những hành-động chống chọi lại một cách hết sức mãnh-liệt: những nhà khoa-học Âu-châu thuở trước đã bị giáo-hội Thiên-chúa đàn áp bức bách rất nhiều. Nhưng vì đó mà quả-quyết rằng tôn-giáo quyết-chí giam cầm con người trong chổ ngu-muội thì có lẽ cũng hơi quá.

        Chúng ta nên nhớ rằng, tôn-giáo là một sự cố gắng của loài người để giải-thích những hiện-tượng của võ-trụ. Những sự giải-thích này đã đành là sai lầm, nhưng sự sai lầm ấy không phải riêng tôn-giáo mới có. Chính nhiều giả-thuyết khoa-học sau một thời-kỳ được mọi người chấp-nhận thì cũng bị chứng tỏ là sai lầm. Xét mọi việc trên quan-điểm tương-đối, ta sẽ thấy rằng, tôn-giáo lúc mới phát-sanh cũng được xem là những hệ-thống có vẻ hợp-lý nhứt trong thời-đại. Chỉ sau này, khi trí óc con người mở mang hơn, nó mới bị cho là không hợp-lý.

        Hơn nữa, những nhà khoa-học đầu tiên, chính là những người giáo-chủ hay giáo-sĩ của các tôn-giáo. Những công-trình khoa-học đầu tiên như khoa làm lịch, khoa kiến-trúc, khoa đạc-điền trắc-lượng v.v... phần lớn do họ phát-minh ra.

        Những giáo-hội chỉ có những hành-động chống chọi lại khoa-học khi những sự phát minh khoa-học này có hại cho sự vững chãi của nền tảng luận lý nó đưa ra, nghĩa là sau một thời gian nó được tôn sùng, lúc sự tiến triển của trí óc con người đã đưa họ đi xa trình độ hiểu biết của họ khi nền tôn-giáo mới phát sanh ra.

        Hành-động này không phải là hành-động đặc biệt của tôn-giáo. Nó chung cho tất cả những chế-độ đã từng thắng lợi và có một oai quyền lâu dài trên xã-hội. Bất cứ hệ thống tư tưởng nào nắm được quyền cai trị xã-hội rồi cũng trở nên bảo-thủ và cương-quyết chống lại những tư-tưởng có thể làm lung lay bá-quyền của nó. Thí-dụ như có nhà khoa-học nào ở Liên bang Sô-viết mà phát minh được những định luật làm nền tảng cho một học-thuyết đánh đổ được thuyết duy-vật thì chắc chắn nhà khoa-học ấy phải bị đày đi Tây-bá-lợi-á nếu không bị mất đầu trong những khám tối âm-u của cơ quan trinh-sát cộng-sản.

        Những thí-dụ mà những người bài trừ tôn-giáo đưa ra để chỉ tỏ rằng tôn-giáo phản đạo-đức kể ra cũng có đúng sự thật. Những tôn-giáo xưa kia đã dùng người làm vật hy-sanh trong những cuộc tế-lễ, và mãi đến một thờI-đại gần đây, óc thiên-chấp của các giáo-hội đã gây không biết bao nhiêu cuộc chém giết đẫm máu giữa các dân-tộc và ngay giữa người một dân-tộc nữa. Tất cả những giáo-điều mà các tôn-giáo đưa ra để bắt buộc tín-đồ mình tuân theo củng không phải đều hoàn-toàn có tánh cách đạo-đức cả. Nhiều nhà chinh-phục đã mượn danh nghĩa truyền bá tôn-giáo mà thi-hành chánh-sách xâm lược của mình.
         
         Nhưng nếu đặt những hành-động tôn-giáo trên này trong khung cảnh thời đại đã sanh ra nó, chúng ta sẽ thấy rằng nó không phải đặc-biệt vì tôn-giáo mà có.

        Việc đem giết người để cúng tế thần minh là việc xảy ra lúc người còn ăn thịt đồng-loại sau khi đã hạ sát hay bắt họ trên bãi chiến-trường. Những cuộc tàn sát vì bất đồng tôn-giáo kể ra thì cũng như những cuộc xung đột chém giết nhau vì chánh-kiến khác nhau.
        Những cuộc thẩm-phán của các tôn-giáo pháp-đình Âu-châu thuở trước sỡ dĩ có tính cách rùng rợn ghê gớm như ta thấy là vì thời ấy, sự đối-đãi với các tội-phạm hãy còn dã-man: những tù nhơn của nhà vua cũng không hưởng được một chế-độ nhơn-đạo hơn những người bị giáo-hội truy-tố. Vả lại, ngay đến thế-kỷ nguyên-tử này mà cách đối đãi của những chánh-phủ thực-dân đối với những nhà cách-mạng ở thuộc-địa và của các chính-phủ cộng- sản và phát xít đối với những người đối-lập chánh-trị cũng không phải là kém sự tàn-nhẫn hơn những giáo-hội trước kia.

        Về những người xâm-lược lấy tôn-giáo làm một lợi-khí trong sự chinh-phục những nước khác, chúng ta có thể bảo rằng đó không phải là một hiện-tượng riêng của tôn-giáo: chính những chủ-nghĩa chánh-trị củng bị những nước đế-quốc xâm-lược lợi dụng. Hiện giờ, ngoài những kẻ đã mắc phải bùa mê của bọn cộng-sản, còn ai không thấy việc các chính- phủ Nga và Tàu dùng chủ-nghĩa cộng-sản để dọn đường cho cuộc chinh-phục thế-giới bằng võ-lực của họ?

        Sau cùng, những giáo-điều mà hiện giờ ta xem là phản đạo-đức, cũng như những quan- niệm chánh-trị sai lầm đồng-thời, chỉ là sản-phẩm của sự lầm lạc trong thời-kỳ mà nhơn-loại chưa được mở mang về phương-diện trí-tuệ và tinh-thần. Nó chỉ có tánh-cách phản đạo-đức đối với chúng ta là những người đã có một quan-niệm đạo-đức cao hơn. Xã-hội hiện thời dựa vào nhiều quan-niệm đạo-đức mà chúng ta cho là hợp nhơn-đạo, vì nó thích hợp với sự sinh-tồn của chúng ta, nhưng có thể sau này, khi tình thế đổi thay, những quan- niệm ấy không còn thích-hợp với sự sinh-tồn của con cháu ta nữa, và sẽ bị coi là phản đạo-đức.

        Vậy, những hành-động phản đạo-đức của các tôn-giáo xưa kia vẫn có thật, nhưng nó không phải đặc-biệt vì tôn-giáo mà có. Nó chỉ là sản-phẩm của đời sống lúc ấy.

        Ta có thể bảo rằng tôn-giáo không phải là một chế-độ đặc-biệt phản đạo-đức, nó chỉ là cái nồng cốt trên đó những hành- động phản đạo-đức dựa vào để biện-chánh lấy mình mà thôi. Hơn nữa, ảnh-hưởng của tôn-giáo trong sự làm cho phong-tục thuần lương bớt, tuy không phải hoàn-toàn, nhưng cũng không phải là không có. Chính sự hướng-dẫn của tôn-giáo trong mấy ngàn năm đã làm cho con người lần lần vượt khỏi thú-tánh để có tánh-cách nhơn-loại. Ðành rằng lý-trí và đạo-đức thuần-túy cũng có dự một phần lớn vào công việc này, nhưng công-lao của tôn-giáo cũng không phải nhỏ.

        Ðối với xã-hội hiện-tại, tôn-giáo cũng rất cần-thiết để duy-trì đạo-đức. Những người theo quan-niệm duy-vật cho rằng đạo-đức thuần-túy đủ sức lôi kéo con người đi trên con đường nhiệm-vụ. Nhưng sự thật, số người có thể lấy việc phụng-sự đạo-đức thuần-túy làm lẽ sống chỉ chiếm một phần hết sức ít oi trong nhơn-loại.

        Nếu quan-niệm duy-vật thạnh-hành, đạo-đức sẽ bị suy-đồi mau lẹ lắm, vì đại-đa-số loài người sẽ không còn thấy lý-do gì bắt họ phải sống một cuộc đời đạo-đức nữa. Xét cho kỹ, họ rất có lý mà không cần đến đạo-đức, vì nếu chúng ta chỉ là những khối vật-chất không hiểu căn-nguyên, không biết cứu-cánh của mình, không có hy-vọng gì nơi một cuộc đời mai hậu, chỉ sống trong vòng mấy mươi năm rồi tan thành cát bụi, thì chúng ta không có lý-do gì mà tự kềm thúc lấy mình. Giải-pháp hay hơn hết là tìm cách thỏa-mãn sự sống vật- chất của mình càng nhiều càng tốt, dầu cho điều này có hại cho người khác cũng mặc.

        Sự tàn-nhẫn vô-đạo của những nhà cầm quyền cộng-sản đã làm kinh-ngạc hết những người văn-minh thật ra không có lý do gì khác hơn là chủ-trương duy-vật của họ. Khi hy sanh hàng triệu con người để thử dựng lên một chế-độ mới, khi tàn sát đến cả những người bạn đồng-chí nằm sương gối tuyết với mình trong thời-kỳ lao-khổ, họ đã có những hành-động vô-cùng thích- hợp với chủ nghĩa vô-thần của họ.

        Như vậy, sự duy-trì tôn-giáo hết sức cần-thiết để giữ con người trên con đường đạo-đức. Vì đối với đại-đa-số con người, chỉ có tôn-giáo mới làm cho đời sống đạo-đức của họ có ý nghĩa và có lý-do tồn-tại.

        Về ý-kiến những người chủ-trương bài-trừ tôn-giáo cho rằng tôn-giáo là thuốc mê của dân chúng, chúng ta có thể đem nó gán cho tất cả những lý-luận nào đem sự an-ủi đến cho loài người. Nếu cho rằng dùng lời ngọt dịu khuyên nhủ con người ráng chịu khổ-cực trong hiện-tại để hưởng một đời sống hạnh-phúc hơn trong tương-lai là làm tê liệt tinh-thần tranh-đấu của người và phụng-sự chế-độ bất công đương-hữu, thì chính chủ-nghĩa cộng -sản hiện lấy viễn-ảnh của chế-độ xã-hội tương-lai hô hào dân-chúng các nước bên trong màn sắt thắt lưng buộc bụng làm việc đầu tắt mặt tối suốt ngày để xây-dựng một nền hạnh -phúc mà chắc chắn họ sẽ
         không được hưởng, hẳn cũng là thuốc mê của dân chúng nốt.
        Nói tóm lại, sự tác-dụng của tôn-giáo đã đưa nhiều ảnh-hưởng tốt đến cho xã-hội, nhưng cũng có gây nhiều kết-quả tai-hại làm cho nhiều người có một cảm-tưởng không tốt đối với tôn-giáo. Phủ-nhận những sự tai-hại mà tôn-giáo gây cho loài người là mù quáng, nhưng dựa vào những tai-hại ấy mà mà kết-luận rằng chế-độ tôn-giáo là một chế-độ cần phải hủy-diệt thì cũng là thiên-vị thái quá.

        Ta nên nhớ rằng những sự lầm lỗi của tôn-giáo không phải do bản chất tôn-giáo, mà do vai tuồng chánh-trị của tôn-giáo gây ra. Phàm một hệ-thống tư-tưởng lúc còn phải tranh-đấu để giành quyền-chánh thì thường có tánh-cách cấp-tiến, công-bằng. Nhưng đến khi chế-ngự được xã-hội thì nó cố tìm cách duy-trì thế-lực. Nó trở thành bảo-thủ, vận-dụng hết lực-lượng để đàn áp những tư-tưởng có thể làm lung lay bá-quyền mình.

        Trong sự cố-gắng duy-trì thế-lực mình, hệ-thống tư-tưởng ngự-trị trên một xã-hội thường duy-trì luôn cả chế-độ xã-hội nó chế-ngự và thành ra bất-công tàn-bạo. Nó cũng có thể bị những người có dã-tâm lấy làm lợi-khí để phụng-sự quyền-lợi riêng. Chỉ đến khi thế-lực bị đổ vỡ rồi, và cần phải khôi-phục bá-quyền, hoặc tranh-đấu cho sự tồn-tại của mình, nó mới trở về bản-chất và tánh-cách nguyên-thủy của nó.

        Tôn-giáo ở trong trường-hợp này, muốn phán-đoán ảnh-hưởng nó trong xã-hội, ta phải xét sự tác-dụng của nó đối với sự sinh-tồn của loài người. Nhưng muốn có một ý-kiến đúng đắn, ta phải xét sự tác-dụng và sự sinh- tồn này trong một thời-đại, một khung cảnh với nhau, chớ không thể lấy sự tác-dụng của tôn-giáo thời xưa đối với sự sinh-tồn của người hiện giờ mà phán đoán tôn-giáo. Cứ noi theo nguyên-tắc này mà xét, ta có thể bảo rằng dầu sao, tôn-giáo vẫn có một ảnh-hưởng tốt đối với sự sinh-tồn của con người, và sự lầm-lỗi của nó tuy có gây nhiều tai-hại khổ- sở cho người, nhưng chẳng qua cũng chỉ là những lầm-lỗi do manh-tâm của người thừa-hành, chứ không phải do những nguyên-tắc căn-bản của nó mà có.

        Xét tình-thế một cách khách-quan, ta có thể bảo rằng với những nguyên-lý cao-thâm của nó, tôn-giáo còn cần-thiết cho con người, khi nào con người chưa đạt được một trí- thức rõ rệt và chắc chắn về nguồn gốc và cứu-cánh của nhơn-loại.

        Những nguyên-lý siêu hình của tôn-giáo giúp cho một số người giải quyết những nỗi băn khoăn thắc mắc của mình. Những giáo-điều căn-bản của những mối đạo có một tinh thần cao quí lại còn đóng góp một phần lớn công-nghiệp vào việc duy-trì đạo-đức cho đại-chúng.

        Với tư-cách ấy, tôn-giáo đáng được bảo-vệ chống lại những chủ-trương vô-thần. Nhưng một quốc-gia muốn sống còn được phải cố giữ sao cho sự thờ phụng tôn-giáo khỏi đưa đến những thái-độ quá khích có hại, như óc bảo-thủ, óc mê-tín, lòng nhiệt-tín và tánh thiên-chấp tôn-giáo thường đưa đến những cuộc tranh-chấp tai-hại giữa người trong nước.

        Vậy, thái-độ chánh-trị thích-hợp nhứt đối với tôn-giáo là dung-nạp nó và bảo-vệ nó, nhưng đưa nó ra ngoài vòng hoạt-động chánh-trị của người.
         
         

         
         
         
         
         
         
         
         
         
         
         
         







        (1) Ánh sáng mỗi giây chạy được 300.000 cây số. Năm ánh sáng là chiều dài mà một tia ánh sáng chạy suốt được trong một năm, tức là 9,463 tỉ cây số.



        <bài viết được chỉnh sửa lúc 29.12.2009 03:29:02 bởi Sun Ming >
        #3
          Sun Ming 29.12.2009 03:32:56 (permalink)

          CHƯƠNG  II
          LÝ-THUYẾT DÂN-CHỦ
           
          I- NHỮNG MẦM MỐNG CỦA TƯ-TƯỞNG DÂN-CHỦ TRONG XÃ-HỘI CỔ THỜI.
           
          Trong xã-hội cổ-thời, tư-tưởng chánh-trị đặt nền tảng trên lý-thuyết thần-quyền. Theo lý-thuyết này, võ trụ do Thượng-Đế là một đứng toàn thiện, toàn năng tạo nên. Người do Thượng-Đế sanh ra, lại được Thượng-Đế ban cho một linh-hồn tinh túy nên đứng đầu vạn-vật. Nhưng được hưởng đặc-ân, tất phải có nhiệm-vụ. Muốn xứng đáng với địa-vị tôn-quí của mình, người phải luôn luôn sống theo lề luật Thượng-Đế.
           
          Lề luật này khác nhau vô-cùng theo các dân-tộc, nhưng lòng tin tưởng của họ có một điểm chung là những kẻ không chịu khép mình vào những qui-tắc mà Thượng-Đế nêu ra cho người không sao tránh khỏi sự trừng-phạt. Mà trong sự trừng-phạt, Thượng-Đế không phải chỉ nhắm vào kẻ phạm tội mà thôi. Nhiều khi, cả xã-hội trong đó kẻ phạm tội sống cũng phải chịu vạ lây. Với một quan-niệm như thế, người cổ-thời tất nhiên có một thái-độ khắc-nghiệt, cố-chấp không những đối với những vấn-đề công-cộng mà còn đối với những hành-động hoàn-toàn cá-nhơn nữa.
           
          Một mặt khác, những người cầm-quyền thường được cho là những kẻ đại-diện Thượng-Đế ở trần gian. Đối với người, Thượng-Đế có oai-quyền tuyệt-đối như thế nào thì những kẻ đại-diện Ngài để thi-hành mạng lịnh Ngài cũng phải có oai-quyền tuyệt-đối như thế ấy đối với dân-chúng.
           
          Vì những lý lẽ trên này, xã-hội cổ-thời thường có tánh-cách chuyên-chế. Nếu các phần tử khác nhau trong quốc-gia có hưởng được một phần tự-do nào thì đó chỉ là vì nhà cầm-quyền bên trên không đủ phương tiện chế-ngự họ như ý muốn mà thôi. Bởi đó, xã-hội ngày trước có xu-hướng tiến về hình-thể độc-tài.
           
          Những chế-độ quân-chủ tuyển-cử mà người Trung-Hoa gọi một cách văn vẻ là chế-độ truyền-hiền lần lần biến thành những chế-độ quân-chủ truyền-tử, những chế-độ phong-kiến thì trở nên chế-độ quân-chủ tập-trung. Có nhiều nước khi mới được thành-lập thì theo chế-độ cộng-hòa mà về sau lại hóa ra đế-quốc.
           
          Do đó, chế-độ chánh-trị thạnh-hành nhứt trong xã-hội cổ-thời là chế-độ quân-chủ chuyên-chánh. Trong chế-độ này, tất cả quyền-chánh trong một nước đều nằm trong tay một nhà vua – quốc-vương hay hoàng-đế –  vâng mạng Trời mà cai-trị dân. Nhà vua đã nhận được thiên-mạng rồi thì trọn quyền điều- khiển việc nước theo ý mình. Oai-quyền của vua có thể bảo là vô-hạn vậy.
          Nhưng muốn nắm giữ được quyền-chánh, nhà vua phải có lực-lượng trong tay. Lực-lượng này do đâu mà ra? Trước hết, nó dựa vào những bộ-hạ của nhà vua, tức là đám quan-lại và quân-sĩ trung-thành với cá-nhơn, với dòng họ nhà vua.
           
          Tuy thế, thiếu sự ủng-hộ của dân-chúng, không chánh-quyền nào có thể đứng vững được lâu dài, nhứt là khi có sự xâm-lược từ ngoài đưa đến. Ngay bên trong nước, nếu dân-chúng cùng đứng lên chống lại nhà vua, nhà vua củng khó lòng đàn-áp. Vua Kiệt nhà Hạ cho rằng mình là mặt trời cần cho sự sống của muôn dân. Nhưng ông bạo-ngược quá, khiến cho dân hết sức cơ-cực. Họ thán oán, hát lên rằng: “Mặt trời kia, bao giờ thì mày tắt, để chúng tao cùng chết với mày?”.  Dân đã thù hằn đến mực đó thì không còn oai-lực nào trên thế-giới có thể giữ được ngai vàng cho nhà vua nữa.
           
          Bởi đó, các chánh-khách sáng suốt đời xưa đều nhận rằng sự ủng-hộ của dân-chúng rất cần. Và muốn cho chánh-quyền mình vững chắc, nhà vua phải thỏa-mãn dân-chúng một phần nào, hay ít nhứt cũng không xử tệ-ngược với họ đến nỗi họ bất-bình mà chống chọi lại mình. Ngoài sự khôn ngoan chánh-trị trên này, lại còn một xu-hướng đạo-đức thêm vào khiến cho các chánh-khách nêu ra nhiều ý-tưởng binh-vực dân-chúng và chủ-trương bảo-vệ quyền-lợi những kẻ bị bạc-đãi, xem mọi người như nhau.
           
          Người Do-thái ngày xưa rất tin tưởng nơi sức mạnh của dư-luận, và cho rằng dư-luận có thể ảnh-hưởng đến nền quân-chủ. Những tư-tưởng gia của họ không ngần ngại mà công-kích những nhà cầm-quyền. Các nhà tiên tri của họ thường nhiệt-liệt bài-xích các hành-vi bạo-ngược của vua họ.
           
          Ở đô-thị Nhã-điển (Athènes) thuộc đất Hy-lạp, ban đầu quyền chánh-trị nằm trọn trong tay những nhà quí-tộc. Đến thế-kỷ thứ 7 trước công-nguyên, hai bên quí-tộc và thường-dân xung-đột lẫn nhau, ông Solon phải cải-lương chế-độ chánh-trị, cho phép những người dân có tiền của tham-dự việc công. Chế-độ này lần lần mở rộng ra cho tất cả dân đô-thị, khi Thượng và Hạ Nghị-viện được chánh-thức thiết- lập. Đến thế-kỷ thứ 5 trước công-nguyên thì chế-độ dân-chủ Nhã-điển đã phát-triển đến mực cao nhứt của nó.
           
          Đô-thị La-mã trước kia cũng phải trải qua những cuộc xung-đột nhau giữa quí-tộc và thường-dân. Đầu thế-kỷ thứ 3 trước công-nguyên, thường-dân được quyền giữ mọi chức-vụ trong nước y như quí-tộc. Điều này đưa La-mã đến một thể-chế cộng-hòa trong đó, theo một câu ngạn-ngữ, “tiếng dân được xem là tiếng của Trời”.
           
          Người Trung-Hoa vốn đã có tư-tưởng dân-bản từ lâu. Đời thượng-cổ đã phát-sanh thuyết cho rằng nhà vua cai-trị dân là do mạng Trời, song nếu nhà vua làm quấy thì mạng Trời ấy có thể mất đi được. Thêm nữa, Nho-giáo dạy rằng Trời với người đồng một thể cho nên hễ dân muốn thế nào thì Trời cũng muốn thế ấy. Thiên Thái-thệ trong kinh Thư có chép rằng: “ Trời thương dân, dân muốn điều gì, Trời cũng theo” (Thiên căng vu dân, dân chi sở dục, thiên tất tùng chi), lại chép: “Trời trông thấy do dân ta trông thấy, Trời nghe thấy do dân ta nghe thấy” (Thiên thị tự ngã dân thị, thiên thính tự ngã dân thính).
           
          Nhưng có lẽ đến đời Chiến-quốc, tư-tưởng dân-chủ Trung-Hoa mới nãy nở một cách mạnh mẽ. Thầy Mạnh tử đã táo-bạo nêu ra nguyên-tắc: “Dân là quí, xã tắc kế đó, vua là khinh” (Dân vi quí xã tắc thứ chi, quân vi khinh). Và gạt bỏ chủ-trương tôn Châu của Khổng-tử, thầy dạy rằng trong thiên-hạ, ai có đức thì có thể nhận thiên-mạng mà làm vua; trái lại, nhà vua hôn bạo thì mất mạng Trời, ai cũng có quyền chống lại. Quan-niệm cho rằng vua Võ nhà Châu giết một tên thất phu tên là Trụ chớ không phải giết vua Trụ đã bày tỏ một cách rõ ràng chánh-sách tôn-trọng dân ý của thầy.
           
          Những xã-hội Âu-châu đời Trung-cổ cũng có nhiều chế-độ bảo-vệ sự tự-do của dân-chúng một phần nào. Các pháp-viện, các Nghị-hội, các Quốc-dân đạI-hội, các đặc-quyền mà một số đô-thị được hưởng là những thành lũy của tư-tưởng dân-chủ trong những xã-hội chuyên-chế. Về phương-diện tôn-giáo, Giê-su đã dạy rằng mọi người đều là con Thượng-Đế và được xem bằng nhau trước mặt Thượng-Đế.
           
          Ở nước Việt-Nam ta, trước kia tư-tưởng dân-chủ được biểu-thị trong chế-độ tuyển-cử những vị hương- chức lập nên ban hộI-tề. Câu tục-ngữ: “Phép vua thua lệ làng” lại chỉ tỏ rằng xã-thôn có một quyền tự-trị rất lớn đối với chánh-quyền trung-ương.
           
          Những gương trên này cho phép chúng ta quả-quyết rằng trong những xã-hội chuyên-chế cổ-thời, đã có những mầm mống của tư-tưởng dân-chủ. Tuy vậy, những tư-tưởng dân-chủ trên đây thường có tính- cách đạo-đức hơn là có tánh-cách luật-pháp. Một số những tư-tưởng tốt đẹp này đã được dùng để giáo- hóa những nhà vua, những ông hoàng, những người có địa-vị tôn-quí trong xã-hội. Nếu họ biết nghe theo và thi-hành được những nguyên-tắc đó thì dân-chúng được sung sướng. Trái lại, gặp những nhà vua, những ông hoàng hôn-ám, không biết sống một cuộc đời đạo-lý  – trường-hợp này lại thường xảy ra hơn –  thì dân-chúng phải chịu khổ-sở lầm-than. Những chế-độ đặt ra để hạn-chế quyền tuyệt-đối của nhà vua thường không đủ hiệu-lực để binh-vực dân-chúng và cứ luôn luôn hao mòn khi quyền-chánh nhà vua lớn lên.
           
          Thêm nữa, những ý-niệm về dân-chủ, về bình-đẳng, về tự-do của người xưa không phải giống những ý-niệm tương-ứng của chúng ta hiện giờ. Ngay đến những xã-hội gọi là cộng-hòa ngày trước cũng không đạt được lý-tưởng bình-đẳng và tự-do mà chúng ta nói đến ngày nay. Trong những xã-hội cộng-hòa ấy, có một số rất đông nô-lệ bị xem như là súc-vật và cố-nhiên chẳng có chút quyền gì. Đàn bà thời ấy cũng ờ vào một địa-vị rất ti-tiện. Việc tham-dự chánh-sự chỉ dành riêng cho một số người được gọi là công-dân mà thôi.
           
          Nhưng công-dân cũng chưa phải được tự-do như ta tưởng. Mỗi ý-kiến, mỗi tư-tưởng của họ đều phải phù hợp với ý-thức-hệ lưu-hành; một câu nói phạm vào thần-thánh hay vào chế-độ đương-hữu, một chủ-trương chánh-trị không hợp với xu-hướng của số đông có thể đưa người công-dân đến cái chết hay sự lưu-đày.
           
          Như vậy, ý-niệm về nhơn quyền, về giá-trị của con người với tư-cách là người chưa xuất hiện trong xã-hội cổ và lý-thuyết dân-chủ với những nguyên-tắc căn-bản hiện-thời của nó chỉ mới phát-sanh ở Âu-châu vào thế-kỷ 17 và 18 mà thôi.
           
          II- XÃ-HỘI ÂU-CHÂU CẬN KIM VÀ SỰ PHÔI-THAI RA NHỮNG LÝ-THUYẾT DÂN-CHỦ HIỆN LƯU- HÀNH
           
          A- So Sánh Xã-hỘi Quân-chỦ Trung-Hoa Và Xã-hỘi Quân-chỦ ÂU-Châu.
          1- Xã-hỘi Trung-Hoa
           
          Trong tất cả những chủ-trương quân-chủ ngày xưa, chỉ có chủ-trương Nho-giáo là có tánh-cách trọng dân hơn cả. Nhà vua, theo Nho-giáo, vẫn được xem là bực thay mạng Trời mà trị dân. Nhưng ông ta phải hoàn-toàn chịu trách-nhiệm đối với dân. Dân phải nhận chịu quyền vua cai-trị, nhưng bù lại, họ có quyền bắt vua làm điều lành. Khi vua tàn-bạo, dân-chúng có thể lấy cớ vua không còn xứng đáng thay mạng Trời mà trị vì nữa, và có quyền đánh đổ vua, đem người khác lên thay. Vậy, cái quyền khởi loạn chỉ được nói đến ở Âu-châu sau thời Trung-cổ đã được nhà Nho công-nhận mấy thế-kỷ trước công-nguyên rồi.
           
          Từ đời Hán trở về sau, Nho-giáo chiếm được địa-vị độc tôn trong xã-hội Trung-Hoa, và các nhà chánh-khách không ít thì nhiều đều là môn-đồ của nó. Lẽ cố-nhiên là họ cố gắng thực-hiện lý-tưởng nó nêu ra. Nhưng họ không thể hoàn-toàn thành-công trong dự-định họ. Xã-hội Trung-Hoa cũng như hầu hết mọi xã-hội thời-cổ, là một xã-hội chuyên-chế. Những nhà vua có đức-hạnh, cũng như những viên quan mẫn-cán thanh-liêm chỉ là số ít, còn số vua hôn-ám bạo-ngược và số quan-lại tham lam nhũng-nhiễu là số đông.
           
          Tuy thế, ảnh-hưởng Nho-giáo không phải là không có kết-quả tốt. Từ đời Hán trở đi, xã-hội Trung-Hoa lần lần đi xa chế-độ phong-kiến. Ngoài vua ra, không còn chức-vụ nào thế-tập nữa. Con cháu những người được phong tước-vị chỉ có thể tập-ấm những chức nhỏ hơn, và sau vài đời, nếu không lập nên công trạng gì đặc-biệt nữa, họ lãi trở thành bạch-đinh. Ngay đến những nhơn-viên hoàng-tộc cũng có thể lọt vào trong đám dân-chúng tầm-thường khi thế-phổ đã xa nhà vua đang tại vị. Các quan trong triều phần lớn đều xuất-thân trong đám dân-chúng, nhờ những cuộc thi cử hay những công-trạng đặc-biệt đối với quốc-gia.
           
          Người trong xã-hội tuy chia ra làm bốn hạng sĩ, nông, công, thương, nhưng sự phân-biệt này không phải có tánh-cách đẳng-cấp như ở trong xã-hội phong-kiến. Người nào cũng có quyền đổi nghề theo ý muốn, và những kẻ sĩ có thể nhờ sự học-hành mà tham-dự quyền-chánh được. Lịch-sử Trung-Hoa ngày xưa đầy dẫy gương những người nghèo hèn chỉ nhờ cố công đèn sách hay gắng sức luyện-tập võ-nghệ mà ngày sau chiếm được những địa-vị rất cao quí trên nấc thang xã-hội. Như vậy, đại-khái, ai cũng có hy-vọng nhờ nơi tài-lực, đức-tánh cá-nhơn mà cải-thiện đời sống của mình.
           
          Bộ máy chánh-quyền tự-nhiên là hết sức khắc-nghiệt như mọi bộ máy chánh-quyền chuyên-chế khác. Nhưng các vua quan Trung-Hoa ngày trước chỉ để ý trừng-phạt những kẻ mà họ nghi là có ý khuynh-đảo triều-đình. Nếu sự kiểm-soát có khi lan rộng đến thái-độ con người đối với gia-đình mình thì đó là vì theo Nho-giáo, chỉ những người con hiếu mới có thể làm người tôi trung đối với triều-đình.
           
          Về những phương-diện khác, nhà cầm-quyền Trung-Hoa ngày xưa thường tỏ ra rất khoan-dung. Người dân được đi lại thong thả khắp nơi trong nước và có thể tôn thờ một mối đạo theo ý thích của mình. Nho-giáo được trọng-vọng hơn cả, nhưng những tôn-giáo khác vẫn còn được dung-nạp dầu nó trái với chủ-trương của Nho-giáo cũng vậy. Lẽ cố-nhiên là trong hàng-ngũ những môn-đồ của Khổng tử, vẫn có những người nhiệt-liệt bài-xích đạo Phật hay đạo Lão, nhưng sự bài-xích này chưa bao giờ đưa đến sự cấm-đoán bạo-tàn, những cuộc giết hại đẫm máu.
           
          Vậy, cứ công-bằng mà nói, xã-hội Trung-Hoa ngày trước có tánh-cách bình-đẳng và tự-do hơn xã-hội Âu-châu đồng-thời.
          2- Xã-hỘi Âu-ChÂu
           
          Sau khi đế-quốc La mã sụp đổ, xã-hội Âu-châu lọt vào trong sự hỗn-loan. Đời Trung-cổ, vua Charlemagne đã cố gắng tạo nên một đế-quốc theo đạo Thiên-chúa. Nhưng đế-quốc này không đứng vững được lâu dài, và khi nó tan rã, đất Tây-Âu chia ra thành nhiều lãnh-vực. Các quốc-gia bắt đầu thành-lập khi những nhà vua mở rộng được quyền-hành mình và chế-ngự được các nhà quí-tộc phong-kiến.
           
          Đến thế-kỷ thứ 15, 16 sau công-nguyên, phần lớn các quốc-gia Âu-châu đã có những nền tảng vững chắc rồi. Trừ ra một số đô-thị ở đất Ý mà chánh-thể cứ thay đổi mãi, những tiểu-bang Thụy sĩ được hưởng một chế-độ tự-do đặc-biệt, nước Ba lan tổ-chức theo lối quân-chủ tuyển-cử, và những đất trực thuộc Giáo-hoàng, những nước lớn ở Âu-châu lúc bấy giờ đều tổ-chức theo chế-độ quân-chủ chuyên-chánh.
           
          Về phương-diện lý-thuyết, những nhà giáo-sĩ của đạo Thiên chúa đã nhiều lần nêu lên ý-kiến rằng nền tảng quân-quyền phải dựa vào quyền-lợi công-cộng, và khi một nhà vua làm sai nhiệm-vụ, hoặc vượt ra khỏi giới-hạn chỉ-định cho mình, dân-chúng có thể xem ông ta như là đã mất hết đặc-quyền và đứng lên chống lại. Tuy vậy, những ý-tưởng này không được phổ-cập ra trong dân-chúng bằng những lý-thuyết binh-vực quyền tuyệt-đối của vua. Theo những lý-thuyết đó, nhà vua là người trực-tiếp nhận mạng Trời mà cai-trị dân, và chỉ phải chịu trách-nhiệm về những hành-vi của mình đối với Trời mà thôi. Để có thể thi-hành nhiệm-vụ mình, nhà vua phải nắm cả chủ-quyền của quốc-gia trong tay, và đứng trên cả Giáo-hội. Câu “Quốc-gia là ta, ta là quốc-gia” mà người ta bảo là của vua Louis thứ 14 nước Pháp thật ra có thể xem là lý-tưởng thầm kín của tất cả các nhà vua Âu-châu thời bấy giờ.
           
          Ngoài nhà vua ra, trong nước lại còn có một giai-cấp quí-tộc thế tập. Những nhà quí-tộc này hoặc là tước chủ của những thái-ấp rộng minh mông, hoặc lãnh những chức-vụ tôn quí ở triều đình, trong quân đội, hay trong ngạch tư-pháp. Họ nắm giữ phần lớn nguồn tài lợi trong nước và chiếm hầu hết các địa-vị trọng-yếu trong bộ máy cai-trị.
           
          Kế bên giai-cấp quí-tộc là giai-cấp tăng-lữ gồm những tử-đệ nhà quí-tộc không được kế tước. Giáo-hội vốn có nhiều đất đai, lại được hưởng nhiều đặc-quyền về thuế-vụ nên giai-cấp tăng-lữ cũng rất giàu sang.
           
          Phần dân-chúng còn lại gồm những nông-nô, thợ thuyền và một thiểu-số trưởng-giả.
           
          Nông-nô là những người làm ruộng rẫy. Họ thuộc quyền sở_hữu của vị quí-tộc địa-chủ và phải trọn đời phục-vụ vị địa-chủ này. Ngoài ra, họ còn phải nộp các thứ sưu-thuế cho nhà vua và thuế thập-phân cho giáo-hội. Vì đó, họ hết sức cơ-cực. Và trừ ra một số rất ít người nhờ dua nịnh, bợ đỡ vị quí-tộc địa-chủ mà được no ấm, đại-đa-số nông nô sống một cuộc đời tối tăm, không có cách nào để tiến thân.
           
          Những người thợ thuyền sống ở các đô-thị thì họp lại thành phường, họ không được đổi nghề, mà muốn lên chức trùm phường thì phải trải qua nhiều cuộc thi khó khăn và tốn kém. Vì đó, hầu hết đều phải giữ một địa-vị ti-tiện đời này sang đời khác.
           
          Thiểu-số trưởng-giả thì sung sướng hơn hai hạng nông-nô và thợ thuyền đôi chút, vì họ nhờ những cuộc kinh-dinh về thương mại và kỹ-nghệ mà thâu góp được ít nhiều tư-sản. Hơn nữa, một vài người nhờ học rộng hoặc có tài cao mà được nhà vua giao cho trọng-trách ở triều-đình. Tuy thế, phần lớn vẫn bị gạt ra ngoài chánh-quyền, và thường bị hai giai-cấp tăng-lữ và quí-tộc khinh-thị và tìm cách bóc lột.
           
          Thời ấy, nhơn-dân toàn quốc phải theo quốc-giáo là tôn-giáo của nhà vua. Những kẻ thờ chủ-nghĩa vô-thần hay theo một tôn-giáo khác thì bị đàn-áp giết hại một cách tàn-bạo.
           
          B.- NhỮng KhỞi-ĐiỂm CỦa Lý-thuyẾt Dân-chỦ HiỆn Lưu-hành
          1. CÁc HỘi-NghỊ Và ĐẶc-QuyỀn Đô-ThỊ
           
          Trong cái xã-hội chuyên-chế hoàn-toàn bất bình-đẳng và thiếu tự-do ấy, tuy thế, hãy còn một ít cơ-sở làm gốc cho những tư-tưởng dân-chủ về sau.
           
          Ở nước Anh, từ thế-kỷ thứ 13, các nhà quí-tộc đã họp nhau yêu cầu nhà vua ban cho một Đại Hiến-chương bảo-đảm một số đặc-quyền cho họ. Cuối thế-kỷ 13, nước ấy lại có được một Nghị-hội.
          Ban đầu, nhơn-viên Nghị-hội này chỉ gồm những đại-biểu của hạng quí-tộc và tăng-lữ cao-cấp. Nhưng sau đó, nhiều đại-biểu của hạng quí-tộc và tăng-lữ cấp dưới được nhà vua mời đến tham-dự những buổi hội. Và đến thế-kỷ thứ 14, dân-chúng những thị-trấn quan-trọng được quyền cử người vào Nghị-hội ấy.Về sau, những đại-biểu tăng-lữ cấp dưới tách ra khỏi Nghị-hội luôn; những nghị-viên còn lại thì chia ra làm hai phần: những đại-biểu của hạng quí-tộc và tăng-lữ cao-cấp họp lại làm Quí-tộc nghị-viện, những đại-biểu quí-tộc cấp dưới cùng đại-biểu thị-trấn họp lại làm Thứ dân nghị-viện.
           
          Hai nghị-viện này nhóm họp riêng ra, nhưng cũng có quyền như nhau.
           
          Quyền quan-trọng hơn hết của Nghị-hội Anh là quyền quyết-định về thuế-vụ: nhà vua bình-thường chỉ có một ngân-sách rất nhỏ, mỗi khi muốn thi-hành một chương-trình gì cần nhiều tiền và do đó mà phải đánh những món thuế mới, nhà vua phải triệu-tập Nghị-hội để yêu cầu Nghị-hội chấp-thuận những món thuế ấy. Lẽ cố-nhiên là Nghị-hội Anh đã không ngần-ngại lợi-dụng đặc-quyền mình để bắt bí nhà vua. Trước khi chấp-nhận một đạo luật về thuế-vụ, Nghị-hội thường hay yêu cầu nhà vua ban-bố một đạo luật mở rộng quyền-hành mình hoặc bảo-vệ một quyền-lợi của dân-chúng.
           
          Như thế, với quyền quyết-định về thuế-vụ, Nghị-hội Anh đã làm trở ngại cho quân-quyền nước Anh không ít. Do đó, nhiều nhà vua đã tìm cách thoát-ly thế-lực Nghị-hội, hoặc bằng cách bổ sung ngân-quỹ với những món tiền khác hơn là tiền thuế để khỏi phải triệu-tập Nghị-hội, hoặc bằng cách đánh thuế dân-chúng mà không hỏi đến ý-kiến Nghị-hội.
           
          Nhưng sự phát-triển của quốc-gia làm cho nhà vua càng ngày càng cần dùng một ngân-sách lớn hơn và không thể không đánh thuế dân-chúng được. Một mặt khác, quyền quyết-định về thuế của Nghị-hội Anh lần lần trở thành một tập-tục được mọi người chấp-nhận, cho nên mỗi khi nhà vua qua mặt Nghị-hội thì dân-chúng phản-ứng lại rất mạnh mẽ, và nhà vua gặp rất nhiều khó khăn trong việc thâu thuế. Vì đó, quân-quyền Anh không đánh đổ được Nghị-hội và thế-lực Nghị-hội, mặc dầu còn yếu hơn quân-quyền Anh nhiều, cứ càng ngày càng bành trướng mãi ra. Điều này đã giúp nước Anh đi đến chế-độ Đại-nghị và chế-độ dân-chủ sau này.
           
          Ở Pháp, từ thời-đại phong-kiến, bên nhà vua cũng có những Pháp-viện trước gồm những viên thẩm-phán lo việc xử kiện, nhưng về sau được phép bàn về quốc-sự và đăng-lục những pháp-lịnh của nhà vua. Nhơn nhiệm-vụ sau chót đó, Pháp-viện Pháp tự cho mình có quyền “gián-nghị” tức là quyền bày tỏ cho nhà vua biết những khuyết-điểm của một pháp-lịnh đưa đi đăng-lục.
           
          Thêm vào những Pháp-viện này, nước Pháp ngày xưa có chế-độ đặc-quyền của thị-trấn. Đặc-quyền này do nhơn-dân các thị-trấn mua được của nhà vua hay những nhà quí-tộc khi họ túng tiền; nó giúp dân-chúng các thị-trấn ấy thoát khỏi sự cai-trị chuyên-chế của những nhà quí-tộc hay của quan-lại nhà vua.
          2. NhỮng Phong-TrÀo Tư-tưỞng
           
          Ngoài những chế-độ kể trên này làm nền móng cho lý-tưởng dân-chủ, ỡ Âu-châu còn có những phong-trào tư-tưởng phụ giúp vào việc đánh đổ chế-độ chuyên-chế được thi-hành.
           
          Thời Trung-cổ, đời sống tinh-thần người Âu-châu bị khép chặt trong khuôn khổ của Giáo-hội La-mã. Tư-tưởng họ bị phái kinh-viện uốn nắn theo nguyên-tắc quyền-oai. Thánh Augustin, thánh Thomas và Aristote là những thánh-sư mà họ phải cúi đầu tôn sùng không được cãi lại.
          Nhưng đến cuối thế-kỷ thứ 15 và nhứt là đầu thế-kỷ và nhứt là đầu thế-kỷ thứ 16, sự thành-lập những quốc-gia tập-trung chấm dứt những cuộc chiến-tranh giữa các chúa phong-kiến. Xã-hội được thái-bình và bắt đầu thạnh-vượng. Những nhà học-giả có điều-kiện học hỏi liền nghĩ đến việc mở mang trí-thức mình bằng cách nghiên-cứu những kinh sách cùng công-trình nghệ-thuật cổ của người Hy-lạp và La-mã. Sự phát-minh máy in và nghệ-thuật khắc hình làm cho những tác-phẩm cổ-điển ấy được phổ-biến ra.
          Sự nghiên-cứu về những nền văn-hóa cổ này làm phát khởi một phong-trào gọi là Phong-trào Phục-hưng Văn-Nghệ. Nó bắt đầu cho sự phóng-túng nhơn-dục và tự-do tư-tưởng. Nhiều tác-phẩm văn-chương nghệ-thuật có giá-trị được sản-xuất trong thời-kỳ này và nền văn-hóa Âu-châu đột-nhiên sáng lên rực rỡ. Phần lớn những nhà vua, những nhà quí-tộc, những tăng-lữ cao-cấp và ngay đến các vị Giáo-hoàng đều hưởng ứng theo phong-trào và tranh nhau khuyến-khích, bảo-vệ các văn-sĩ, nghệ-sĩ. Lý-tưởng khổ-hạnh thời trung-cổ bị gạt qua một bên và hạng ưu-tú của xã-hội đua nhau chạy theo cái xa-hoa hào nhoáng.
           
          Sự thay đổi phong-tục do Phong-trào Phục-hưng Văn-Nghệ gây ra, tự-nhiên đưa đến một phản-ứng mạnh mẽ. Một số nhà đạo-đức chống chọi lại sự sa ngã theo vật-chất và sự lãng quên những đức-tánh mà Giê-su đã dạy người nên có là đức khiêm-tốn, sự thanh-bần, sự giản-dị trong cách cư-xử và sự xa lánh cuộc đời trần-tục. Họ càng uất ức khi thấy một số nhà tăng-lữ cao-cấp của Giáo-hội La-mã dùng những phương-pháp không chánh-đáng như là bán giấy “xá-tội” cho người giàu để lấy tiền cung-phụng cho đời sống xa-hoa của mình. Do đó, họ gây ra phong-trào Cải-lương Thiên-chúa-giáo.
           
          Phong-trào này khởi lên từ đầu thế-kỷ thứ 16 và được một số quốc-vương cùng lãnh-chúa hưởng-ứng để thoát-ly sự chi-phối của Giáo-hội La-mã. Do đó, nó tách một phần khá quan-trọng tín-đồ Thiên-chúa-giáo ra khỏi Giáo-hội La-mã, nhứt là ở các nước miền Trung và Bắc-Âu.
           
          Phát khởi một phần nào với mục-đích chống chọi lại sự phóng-túng nhơn-dục và sự tự-do tư-tưởng của Phong-trào Phục-hưng Văn-nghệ, Phong-trào Cải-lương Thiên-chúa-giáo cuối cùng lại phụ giúp vào việc bành-trướng tư-tưởng tự-do, vì nó đánh đổ quyền-thế Giáo-hội La-mã là một chế-độ đã được xây dựng từ lâu và rất có thế-lực đối với tư-tưởng người Âu-châu thời bấy giờ.
           
          Những tín-đồ và nhứt là những giáo-sĩ trung-thành với Giáo-hội La-mã tự-nhiên không thể công-nhận được Phong-trào CảI-lương này. Do đó, hai bên Tân và Cựu-giáo tranh-đấu nhau một cách hết sức mãnh-liệt. Những nhà vua trung-thành với Giáo-hội La-mã thì đàn-áp, sát-hại các tín-đồ Thiên-chúa-giáo Cải-lương trong khi những nhà vua theo Thiên-chúa-giáo Cải-lương đàn-áp, sát-hại những tín-đồ trung-thành với Giáo-hội La-mã.
           
          Những cuộc chiến-tranh tôn-giáo đẫm máu này gây những xúc -ộng mạnh mẽ trong quần-chúng mỗi quốc-gia. Và ngoài những xu-hướng thiên hẳn về bên này hay bên kia, lại có một xu-hướng thứ ba chủ-trương nên có một thái-độ khoan-dung rộng rãi dựa vào sự tự-do tín-ngưỡng của tất cả mọi người.
           
          Như vậy, thế-kỷ thứ 16 đã tạo cho xã-hội Âu-châu những điều-kiện chánh-trị hết sức đặc-biệt làm khởi-điểm cho những lý-thuyết dân-chủ sau này. Tuy thế, những lý-thuyết ấy chỉ phát-sanh ở hai nước Anh và Pháp, nhờ một số những nhà văn cấp-tiến trong đó quan-trọng nhứt là John Locke, Montesquieu và Jean-Jacques Rousseau.
          C.- SỰ Phát-Sanh NhỮng Lý-thuyẾt Dân-chỦ.
          1) SỰ PhÁt-Sanh Lý-thuyẾt Dân-chỦ Ở Anh
          a) LOCKE VÀ THỜI-ĐẠI ÔNG.
           
          Những ý-tưởng dân-chủ thật ra đã manh-nha ở nước Anh từ khi các nhà quí-tộc họp nhau lại bắt nhà vua phải ban cho mình một Đại Hiến-chương. Nó lần lần phát-triển trong những cuộc tranh-đấu giữa nhà vua một bên với những nhà quí-tộc và dân-chúng một bên để thành-lập và củng cố Nghị-hội. Tuy thế, nó chỉ được nêu ra thành học-thuyết của hệ-thống rõ rệt với John Locke.
           
          Locke sanh năm 1632, lúc vua Charles đệ nhứt họ Stuart cầm-quyền. Vua này cưới một bà công chúa Pháp là Henriette làm vợ nên bị dân-chúng Anh không ưa. Sự thất-bại của ông trong công cuộc giúp những tín-đồ Thiên-chúa-giáo CảI-lương thành La Rochelle chống lại Pháp-hoàng Louis thứ 14 lại càng làm ông mất uy-tín.
           
          Một mặt khác, ông nghe lời những người cộng-sự nên muốn thi-hành chế-độ chuyên-chánh trong nước. Ông cho phép thủ-tướng Strafford đánh nhiều món thuế không được Nghị-hội chuẩn y, và cùng giám-mục Laud  mưu-đồ thống-nhứt dân Anh về phương-diện tôn-giáo. Để tránh sự phản-kháng của Nghị-hội, ông giảI-tán nó nhiều lần.
           
          Chánh-sách đó tự-nhiên gây ra những cuộc biến động trong nước. Dân Tô-cách lan theo phái Trưởng lão (1)[1], dân Ái-nhĩ-lan theo Thiên-chúa-giáo La-mã và người Anh theo phái Thanh-giáo (2)[2] đều bị đàn-áp nên đứng lên chống lại nhà vua. Do đó, phát khởi cuộc nội-chiến năm 1642 do Nghị-hội cầm đầu. Vua Charles đệ nhứt thất-bại và bị xử-tử năm 1649. Cromwell, một lãnh-tụ phái Thanh-giáo lên nắm quyền ở nước Anh.
           
          Thân-phụ Locke là người tham-dự cuộc tranh-chiến bên phái Nghị-hội chống nhà vua. Locke chịu ảnh-hưởng của than-phụ và rất phục Cromwell. Tuy thế, những cuộc xung-khắc nhau giữa các chi-phái Thiên-chúa-giáo Cải-lương trong nước ông về sau làm cho ông đâm chán.
           
          Năm 1660, con vua Charles đệ nhứt là Charles đệ nhị được rước về làm vua nước Anh. Ông ta cũng muốn thi-hành chánh-sách chuyên-chế y như cha và chống chọi Nghị-hội. Vốn là một y-sĩ, Locke kết thân với Bá-tước Shaftesbury là một chánh-khách làm cố-vấn cho vua Charles đệ nhị.
           
          Ban đầu ông này được Charles đệ nhị tin dùng, nhưng về sau ông chọi lại nhà vua và cầm đầu phái Whig trong Nghị-hội, chủ-trương hạn-chế bớt quyền vua. Thời-kỳ kế tiếp theo đó là một thời-kỳ rối loạn, đầy những cuộc âm-mưu, những cuộc phản-biến. Trong cuộc cạnh-tranh với nhà vua, bá-tước Shaftesbury nếm mùi thất-bại. Ông bị bắt, rồi được nhà vua tha, song phải sang nước Hoà-lan. Locke sợ bị liên-lụy, phải trốn theo.
           
          Lúc bấy giờ, ở Âu-châu, Thiên-chúa-giáo Cải-lương đang bị nguy-ngập. Năm 1685, tại Pháp, vua Louis thứ 14 hủy bỏ pháp-lịnh Nantes và đàn-áp những tín-đồ Thiên-chúa-giáo Cải-lương một cách tàn-bạo. Cùng lúc ấy, vua Charles đệ nhị chết, em là Jacques đệ nhị nối ngôi. Ông này tuyên-bố theo Thiên-chúa-giáo La-mã nên bị ác-cảm của dân-chúng nước Anh.
           
          Những điều này làm cho Locke rất mực thù-hận các nhà vua chuyên-chế mà Louis thứ 14 là kiểu mẫu hoàn-bị nhứt. Ông đồng-thời dứt tình với dòng họ Stuart mà ông xem là đồng lõa với vua Pháp. Ông ngờ rằng vua Jacques đệ nhị muốn lập lại Thiên-chúa-giáo La-mã trên nước Anh để làm hài lòng vua Pháp. Chính lúc ấy, ông gặp rể vua Jacques đệ nhị là Guillaume d’Orange. Đó là một ông hoàng người Hòa-lan rất trung-thành với Thiên-chúa-giáo Cải-lương. John Locke mến phục Guillaume d’Orange và theo cộng-tác với ông này.
           
          Năm 1688, Guillaume d'Orange được dân Anh rước về làm vua nước mình. Vua Jacques đệ nhị chống không lại, phải bỏ ngôi. Nghị-hội Anh được thắng-lợi hoàn-toàn và sẵn dịp đó, họ yêu-cầu tân quân chấp-thuận những điều-kiện của mình: công-nhận chế-độ tự-do và Thiên-chúa-giáo Cải-lương. Tháng 2 năm 1689, Locke theo hoàng-hậu Mary về Anh, mang theo quyển "Tiểu luận về chánh-phủ dân-sự", một tác-phẩm chánh-trị sẽ có một ảnh-hưởng lớn lao trên thế-giới về sau.
          b) LÝ-THUYẾT DÂN-CHỦ CỦA LOCKE
           
          Dụng-ý của Locke khi viết quyển "Tiểu luận về chánh-phủ dân-sự", là tạo ra một hệ-thống lý-luận chánh-trị chống chọi lại sự chuyên-chế của nhà vua. Hệ-thống này chẳng những dùng để hướng-dẫn đồng bào ông trong sự hoạt-động chánh-trị tương-lai mà lại còn dùng để biện-chánh cho cuộc cách-mạng năm 1688 và đánh tan những nỗi thắc mắc trong lòng một số người Anh còn băn khoăn về chỗ đã đánh đuổi Jacques đệ nhị là nhà vua chánh-thống của nước mình.
           
          1°. CON NGƯỜI TRONG TRẠNG-THÁI THIÊN-NHIÊN
           
          Theo khuynh-hướng chung của những triết-gia đương-thời, Locke cũng bắt đầu sự suy-luận của mình với trạng-thái thiên-nhiên là trạng-thái của người khi chưa sống thành xã-hội. Kể ra thì trước Locke, đã có nhiều người nói đến trạng-thái thiên-nhiên ấy, và một văn sĩ Anh khác, Hobbes đã dựa vào nó mà viết một quyển sách để biện-chánh cho quyền chuyên-chế của nhà vua.
           
          Theo Hobbes, trong trạng-thái thiên-nhiên, người chiến-đấu nhau rất dữ dội và sống trong cảnh khủng-khiếp, trong sự lo sợ một cái chết ghê gớm bất ngờ. Lý-trí người xui giục người hợp-quần nhau lại thành một xã-hội để sống được an-ổn hơn. Muốn giữ được trật-tự trong xã-hội, người phải tuân theo luật-pháp và tôn-trọng chánh-quyền.
           
          Trái với Hobbes, Locke cho rằng trạng-thái thiên-nhiên là một trạng-thái tự-do và bình-đẳng. Lý-trí dạy cho mỗi người biết rằng mình bằng kẻ khác và độc-lập đối với kẻ khác, và không người nào nên phạm vào đời sống, sức khoẻ hay tài-sản kẻ khác.
           
          Để cho những kẻ bạo-ngược không thể làm bậy được, thiên-nhiên cho phép mỗi người được quyền bảo-vệ người vô tội, đàn-áp kẻ bất-lương. Đó là quyền trừng-phạt thiên-nhiên. Nó không phải là tuyệt-đối và độc-đoán. Nó cấm người hành-động khi giận dữ hay thù hằn, và chỉ cho phép người thi-hành các trừng-phạt do một lý-trí bình-tĩnh quyết-định theo đúng lương-tâm người. Những trừng-phạt này phải cân-phân với những tộI-lỗi, cốt để sửa chữa những sai lầm đã qua và đề-phòng sự tái-phạm trong tương-lai.
           
          Trong những quyền thiên-nhiên của người, còn có quyền tư-hữu. Tạo hóa ban địa-cầu cho tất cả mọi người, song lý-trí Tạo hóa phú cho người cũng dạy rằng người phải sử-dụng đất đai cách nào cho tiện-lợi nhứt. Muốn được như thế, ta phải để cho cá-nhơn có quyền sử-dụng những hoa quả do đất đai sản-xuất, và sau đó, sử-dụng đến chính mặt đất. Quyền tư-hữu phải dựa vào sự làm việc và hạn-chế bằng khả-năng tiêu thụ. Do đó, sự xung-đột không thể xảy ra được, vì ai cũng tự nhận thấy rằng mình cần bao nhiêu đất đai và chỉ bao nhiêu đất đai là đủ cho mình.
           
          2°. NHỮNG KHUYẾT-ĐIỂM CỦA TRẠNG-THÁI THIÊN-NHIÊN VÀ SỰ CẦN DÙNG LẬP THÀNH XÃ -HỘI.
           
          Nói một cách khái-quát, trong trạng-thái thiên-nhiên, người được sung sướng. Tuy vậy, sự tự-do của người cũng đưa đến những mối hại. Mỗi người đều tự xét về những trường-hợp có dính dáng đến mình. Do đó, người có thể thiếu sự công-bằng vì sự thiên-vị cho mình, cho bà con bạn bè, vì quyền-lợi hay có khi vì dục-vọng, vì ý muốn trả thù. Đó là nguy-cơ hăm dọa sự tự-do và bình-đẳng tự-nhiên, cùng sự tự-do hưởng quyền tư-hữu.
           
          Vậy, trạng-thái thiên-nhiên hãy chưa được hoàn-toàn, nó thiếu những luật-lệ rõ ràng, được mọi người công-nhận và vui lòng chấp-thuận, thiếu những tòa án để phân-xử mọi việc kiện-tụng theo luật-pháp, và thiếu một oai-quyền để thi-hành các bản án. Người sở-dĩ chịu sống chung nhau thành xã-hội là để có những món thiếu kể trên đây, để được sung sướng hơn trong trạng-thái thiên-nhiên.
           
          3°. SỰ TỔ-CHỨC HỢP-LÝ CỦA XÃ-HỘI.
           
          Cứ theo chủ-trương trên này của Locke, thì xã-hội được thành-lập do sự chấp-thuận của mọi người. Như vậy, chỉ đáng xem là hợp-pháp những chánh-phủ nào thiết-lập với sự công-thuận của dân-chúng. Trong trường-hợp đó, những chánh-phủ chuyên-chế nhứt-định không thể hợp-pháp được.
           
          Nhưng chánh-phủ hợp-pháp phải tổ-chức theo nguyên-tắc nào? Theo Locke, trong trạng-thái thiên-nhiên, người có hai loại quyền mà người nhường cho xã-hội khi họp lại sống chung nhau.
           
          Trước hết, người có quyền làm những điều gì người xét là phải làm để bảo-vệ sự sinh-tồn của mình và của người khác. Người nhường quyền này lại cho xã-hội để xã-hội đặt nó dưới sự điều-khiển của luật-pháp.
           
          Kế đó, người có quyền trừng-phạt những kẻ phạm tội đối với những điều luật thiên-nhiên, tức là quyền dùng sức mạnh tự-nhiên của mình để thi-hành những luật ấy. Người nhường quyền này lại cho xã-hội để phụ lực và tăng-cường quyền hành-pháp.
           
          Xã-hội thừa-hưởng những quyền do cá-nhơn nhường lại cho mình, và có hai quyền: lập-pháp và hành-pháp. Quyền lập-pháp qui-định cách dùng những lực-lượng của quốc-gia để bảo tồn xã-hội và dân-chúng. Quyền-hành-pháp thi-hành các luật-pháp bên trong quốc-gia. Ngoài ra, Locke còn nhìn nhận cho chánh-phủ một quốc-gia một quyền thứ ba là quyền bang-giao, tức là quyền thương-thảo với các quốc-gia khác. Nhưng thật ra, quyền bang-giao này không thể tách riêng ra được và phải nhập vào các quyền kia.
           
          Vậy, chung qui, chỉ có hai quyền chánh-yếu là lập-pháp và hành-pháp. Hai quyền này phải phân-biệt nhau, vì quyền hành-pháp phải luôn luôn có, còn quyền lập-pháp thì không phải lúc nào cũng cần. Thêm nữa, nếu hai quyền qui-tập về một mối, thì thế nào cũng có sự lạm-dụng. Một chánh-phủ kiêm lãnh cả hai quyền lập-pháp và hành-pháp nhứt-định trở thành chuyên-chế: nó sẽ tạo ra những luật-pháp lợi cho nó và chỉ thi-hành những luật-pháp lợi cho nó.
           
          Hai quyền lập-pháp và hành-pháp không phải bình-đẳng nhau. Quyền lập-pháp là quyền căn-bản của mọi quốc-gia. Nó là linh-hồn của xã-hội và có tánh-cách rất thiêng liêng. Do đó, quyền hành-pháp phải đặt dưới quyền lập-pháp. Tuy vậy, cơ-quan hành-pháp không phải giữ một vai tuồng hạ-cấp, tùy thuộc. Nhà lập-pháp không thể dự định hết mọi trường-hợp có thể xảy ra, và phải để cho cơ-quan hành-pháp một phần oai lực rất lớn để giải-quyết những vấn-đề đặc-biệt nó có thể gặp.
           
          4°. ĐẶC-QUYỀN CÁ-NHƠN TRONG XÃ-HỘI
           
          Khi nhận sống chung nhau thành xã-hội, người nhường quyền lập-pháp cho xã-hội ấy. Tuy vậy, sự để-nhượng này không phải đặt người công-dân dưới sự chuyên-chế của chánh-phủ. Trong xã-hội, quyền thiên-nhiên của người vẩn còn, còn để hạn-chế oai-quyền xã-hội và làm cơ-sở cho sự tự-do.
           
          Trong trạng-thái thiên-nhiên, người vốn đã sung sướng rồi. Người chỉ nhận vào xã-hội để được sung sướng hơn, để bảo-vệ cá-nhơn, sự tự-do và tài-sản mình một cách chắc chắn. Vậy, quyền lập-pháp của xã-hội không thể đi xa hơn mực cần dùng của sự công-ích. Nó không thể tuyệt-đối chuyên-chế đối với sanh-mạng và tài-sản công-dân.
           
          Trong trạng-thái thiên-nhiên, người không có cái quyền tuyệt-đối này đối với mình và đối với người khác. Bởi lẽ không ai có thể ủy cho kẻ khác một oai-quyền lớn hơn oai-quyền mình có, xã-hội thừa-hưởng những quyền cá-nhơn nhường lại cho mình không thể có cái quyền tuyệt-đối nói trên đây.
           
          Nói tóm lại, cứu-cánh xã-hội là bảo tồn sanh-mạng, tự-do và tài-sản của người; vì đó, nó không có quyền giết hại, nô-lệ hóa hay làm nghèo một công-dân nào.
           
          Quyền hành-pháp thấp hơn quyền lập-pháp và tự-nhiên không thể hơn được quyền lập-pháp; đặc-quyền nó không thể đi quá giới-hạn do dân-chúng vạch ra.
           
          Như vậy, tuy Locke không nói rõ ra, dân-chúng vẫn nắm quyền tối-cao trong quốc-gia. Họ chỉ giữ quyền ấy cho xã-hội giữ hộ chớ không phải chấp-nhận việc thần-phục xã-hội. Trong tình-trạng bình-thường, dân-chúng để cho quyền hành-pháp làm việc. Nhưng khi có sự xung-đột giữa các quyền-hành khác nhau trong nước, dân-chúng sẽ phán đoán và quyết-định.
           
          Trong trường-hợp bị đặt dưới một ách chuyên-chế khắc-nghiệt, dân có quyền khởi loạn mà Locke gọi là quyền kêu gọi đến Trời.
           
          Để trả lời cho những kẻ ngại rằng công-nhận quyền này cho dân-chúng là đưa xã-hội đến sự hỗn-loạn không ngừng, Locke bảo rằng nọa-lực của dân-chúng làm cho họ thường thụ-động, cho nên họ chỉ nổi dậy khi bị ức-hiếp thái-quá. Vả lại, trong trường-hợp bị ức-hiếp như thế thì không có lý-thuyết gì giữ cho họ không nổi dậy được. Sau hết, trật-tự đã đành là quí, nhưng cũng không đến nỗi bắt người phải trả nó với bất cứ giá nào, cũng như lòng yêu chuộng hòa-bình không đến nỗi khiến cho chúng ta nhận được sự hòa-bình của nghĩa địa.
           
          2.- SỰ Phát-sanh Lý-thuyẾt Dân-chỦ Ở Pháp
          a) XÃ-HỘI PHÁP VÀO THẾ -KỶ THỨ 17 VÀ 18
           
          Trong khi xã-hội Anh nhờ những cuộc xung-đột giữa quí-tộc và Nghị-hội với nhà vua mà tiến lần đến một chế-độ dân-chủ, xã-hội Pháp vẫn duy-trì mãi tánh-cách chuyên-chế của mình. Quân-quyền Pháp càng ngày càng trở thành độc-đoán, vì các hạng người trong nước chia rẽ nhau và không đủ sức chế-ngự nó. Hạng tăng-lữ bỏ hẳn lý-thuyết cổ-điển đặt Giáo-hoàng trên nhà vua, để được hưởng những quyền-lợi nhà vua ban cho. Hạng quí-tộc trở thành nghèo túng cũng phải tùy thuộc nhà vua để xin địa-vị và tiền trợ-cấp. Hạng trưởng-giả muốn thoát địa-vị ti-tiện của mình chỉ có cách là hết lòng phụng-sự nhà vua để được nhà vua cất nhắc cho. Nhà vua và những hội-đồng đặc-biệt của ông ta trở thành cơ-quan duy-nhứt phát xuất ra luật-pháp. Pháp-viện tuy có quyền gián-nghị, song quyền này không có hiệu-quả gì đối với nhà vua.
           
          Lẽ cố-nhiên là sự chuyên-quyền của nhà vua gây một sự phản-động mạnh mẽ của nhiều giới trong nước. Trong thế-kỷ thứ 16, đã có những nhà tư-tưởng viết sách chống lại chế-độ độc-đoán, nhưng họ không chọi lại nổi những luật gia chủ-trương ủng-hộ quân-quyền, cũng như những cuộc phản-biến không thắng nổi quân-đội nhà vua. Chỉ đến cuối thế-kỷ thứ 17 khi vua Louis thứ 14 mất uy-tín vì sự xa xí quá-độ và vì những sự thất-bại trong chánh-sách ông, sự phản-đối lại quân-quyền mới nhen nhúm trở lại. Những nhà văn của thế-kỷ thứ 17 đã lên tiếng chỉ-trích chánh-sách vua Louis thứ 14 một cách kín đáo, nhưng ta phải chờ đến thế-kỷ thứ 18 mới thấy xuất hiện những học-thuyết hướng về lý-tưởng dân-chủ một cách rõ rệt.
           
          Yếu-tố quan-trọng hơn hết làm động-lực cho phong-trào tư-tưởng của thế-kỷ 18 tại Pháp là sự phát-triển của giai-cấp trưởng-giả. Nhờ những phát-minh cơ-giới, nhờ sự an-ninh tương-đối mà chế-độ quân-chủ tập-trung mang đến cho xã-hội Pháp, nền kinh-tế Pháp thạnh lên; do đó, những người trưởng-giả đóng vai tuồng chủ-động trong đời sống kinh-tế cũng có ảnh-hưởng nhiều hơn trước đối với xã-hội. Những đặc-quyền, những sự bó buộc của chế-độ cũ là những trở-lực cho sự khuếch-trương kinh-tế. Vì thế, hạng trưởng-giả Pháp nhiệt-liệt hướng đến sự tự-do, nhứt là sự tự-do tư-hữu.
           
          Trong sự yêu-sách của họ, hang trưởng-giả Pháp đã dựa rất nhiều vào triết-lý “quyền thiên-nhiên” từ Anh du-nhập vào nước Pháp. Quyển “ Tiểu-luận về chánh-phủ dân-sự” của Locke đã có ảnh-hưởng rất lớn đến họ. trong những nhà văn có một quyền-lực tinh-thần mạnh mẽ đối với dân-chúng Pháp sau này, có Montesquieu và Rousseau là quan-trọng hơn cả.
          b) MONTESQUIEU VÀ TƯ -TƯỞNG CỦA ÔNG
           
          1°. TIỂU-SỬ MONTESQUIEU
           
          Montesquieu là một nhà quí-tộc Pháp, sanh ở đền Brède gần Bordeaux năm 1689. Ông là thẩm-phán rồi chánh-án tòa án Bordeaux. Nhưng ông không thích nghề làm tòa, và để thì giờ rảnh viết quyển “những lá thư Ba-tư” trong đó ông chế-nhạo những phong-tục và chế-độ Pháp thời ông. Quyển sách này rất được hoan-nghinh. Vì đó, ông nhứt-định theo đuổi nghề văn.
           
          Ông bán chức-vụ mình và đi châu-du khắp Âu-châu để nghiên-cứu phong-tục và luật-pháp các nước. Khi trở về Pháp, ông khi thì ở Paris, khi thì về ở quê nhà, sống một cuộc đời nghiệp-chủ thanh-nhàn. Ngoài việc cai-quản sự-nghiệp mình, ông đọc và viết sách. Công trình quan-trọng nhứt của ông là quyển “Vạn pháp tinh-lý”. Ông được bầu vào Hàn-lâm-viện Pháp từ năm 1728 và mất năm 1755.
           
          2°. TƯ-TƯỞNG CHÁNH-TRỊ CỦA MONTESQUIEU TRONG QUYỂN “VẠN-PHÁP TINH-LÝ”.
           
          Trong quyển “Vạn Pháp Tinh-lý”, Montesquieu chủ-trương rằng các luật-lệ chế-độ không có tánh-cách tuyệt-đối, mà tùy thuộc những điều-kiện vật-lý và khí hậu của mỗi nước, và nhứt là phong-tục của dân-chúng. Giá-trị nó ở chỗ thích-hợp hay không thích-hợp với xã-hội nó chi-phối.
           
          Nghiên-cứu các chế-độ chánh-trị khác nhau trên thế-giới từ xưa đến nay, Montesqiueu phân-biệt ba loại chánh-thể: Cộng-hoà, quân-chủ và độc-tài và cố tìm những động-lực thúc đẩy người hoạt-động trong mỗi chánh-thể. Theo ông, chánh-thể cộng-hòa có thể có tánh-cách dân-chủ hay quí-tộc. Nếu nó dân-chủ, nó dựa vào “đức-hạnh” hay “lòng ưa chuộng bình-đẳng”, nếu nó có tánh-cách quí-tộc, nó dựa vào tánh-cách “ôn-hòa của giai-cấp cầm-quyền”. Chánh-thể quân-chủ là chánh-thể trong đó nhà vua cai-trị dân-chúng theo những luật-pháp ổn-định, nó dựa vào “danh-dự”. Chánh-thể độc-tài là kết-quả sự hủ-hóa của những chánh-thể kia.
           
          Dựa vào hiến-pháp Anh, Montesquieu chứng tỏ rằng muốn tránh sự chuyên-chế, người ta phải thi-hành chế-độ phân-quyền. Nhưng ngoài hai quyền lập-pháp và hành-pháp mà Locke nói đến trong quyển “Tiểu-luận về chánh-phủ dân-sự”, Montequieu còn thêm vào một quyền thứ ba là quyền tư-pháp. Đó là quyền trừng-phạt những kẻ phạm tội.
           
          Tuy hết sức thán-phục hiến-pháp Anh, Montesquieu không tin rằng nó có thể áp-dụng được một cách có hiệu-quả ở Pháp. Ông chỉ tỏ ý mong muốn rằng tinh-thần tự-do của người Pháp sẽ giữ cho nền quân-chủ Pháp không tiến đến chế-độ chuyên-chế độc-tài.
           
          Trong tất cả những ý-tưởng chánh-trị của Montesquieu, chỉ có chủ-trương phân-quyền là được người ta nhớ đến nhiều nhứt, còn những ý-tưởng khác, ngay đến những ý-tưởng rất đúng, sau khi gây cho tác-giả một danh-vọng khá lớn trong giới trí-thức đồng-thời, thì lần lần chìm trong quên lãng. Do đó, khi nói đến phong-trào tư-tưởng dân-chủ ở Pháp, người ta nói đến Rousseau nhiều hơn.
           
          c) ROUSSEAU VÀ TƯ-TƯỞNG CỦA ÔNG
          1° TIỂU-SỬ ROUSSEAU.
           
          Jean Jacques Rousseau sanh ngày 28-6-1712 tại Genève. Ông là con một người thợ sửa đồng-hồ và mồ côi mẹ rất sớm. Thân-phụ ông rất ưa đọc tiểu-thuyết, và từ lúc bảy tuổi, ông đã lây tánh của cha. Có khi hai cha con cùng thức đọc sách suốt đêm đến gần sáng mới đi nghỉ.
           
          Sau đó, thân-phụ ông, vì sự tranh-chấp với người, phải bỏ đất Genève ra đi, và gửi ông cho một nhà mục-sư. Được ít lâu, chú ông đưa ông đến ở nhà một viên lục-sự tòa án, rồi lại cho ông đi tập-sự với một người thợ khác. Ông này thô-bạo quá và đối-đãi với Rousseau một cách phũ phàng, làm Rousseau uất ức. Vì thế, năm 16 tuổi, ông bỏ nhà trốn đi.
           
          Từ đó, ông sống một cuộc đời phiêu-lưu và làm đủ mọi thứ nghề. Sau cùng ông đến Paris. Nhờ một bài trần-thuyết trả lời cho một đề-mục do Hàn-lâm-viện Dijon nêu ra về ảnh-hưởng của khoa-học và nghệ-thuật đối với phong-tục, ông đột-nhiên nổi danh trong giới trí-thức. Lúc ấy, ông 37 tuổi. Từ đó trở đi, ông chuyên về nghề văn và sản-xuất nhiều sách được công chúng hoan-nghinh. Ông mất năm 1788.
           
          2° TƯ-TƯỞNG CHÁNH-TRỊ CỦA ROUSSEAU
           
          Những tư-tưởng chánh-trị của Rousseau được phát-biểu rõ ràng và đầy đù trong hai quyển « Luận về nguyên-nhơn bất-bình-đẳng » và « Dân-ước ».
           
          a) Con NgưỜi VÀ TrẠng-thÁi ThiÊn-nhiÊn
           
          Cũng như Locke và một số đông các triết-gia đồng-thời, Rousseau noi theo chủ-trương cho rằng trước khi sống thành xã-hội, con người sống trong trạng-thái thiên-nhiên. Trong trạng-thái này, người ở riêng rẽ nhau và ít liên-lạc nhau. Vì bản-tánh người vốn tốt và vì sự ích-kỷ không có cơ phát-hiện, người không thù ghét, không xung-đột lẫn nhau. Người cũng không bị sự chi-phối của đồng-loại và được tự-do hưởng trọn quyền thiên-nhiên của mình.
           
          Nhờ một đời sống giản-dị đơn-sơ, tất cả mọi người đều giữ được sức khoẻ của mình và có một sức lực thể-chất tương-đương. Trình độ trí-thức của người thuở ấy có kém hơn người sống trong trạng-thái xã-hội, song mọi người đều như nhau, thành ra sự sai-biệt về trí thông-minh không có. Bởi đó, loài người bình-đẳng nhau, không ai được ưu-đãi hơn ai.
           
          b) Con NgưỜi Trong Xã-hỘi CŨ
           
          Nhưng vì trạng-thái thiên-nhiên không thể kéo dài ra mãi được, vì sự tranh-đấu để mưu sự sinh-tồn riêng từng người càng ngày càng khó nên người hợp nhau lại thành gia-đình rồi thành xã-hội để tranh-đấu chung nhau. Do đó, người lần lần liên-lạc mật-thiết với nhau.
           
          Lúc đầu, tất cả mọi người trong đoàn-thể đều có những công việc như nhau. Nhưng sau đó, người ta tùy theo khả-năng và sở-thích mỗi người mà chia công việc để làm. Điều này làm cho năng-lực người phát-triển khác nhau và đưa đến sự chênh lệch về tài trí và sức lực giữa người này với người nọ. Sự gần gũi nhau làm cho người có dịp so sánh thân-phận của nhau, và sanh ra đố-kỵ nhau. Muốn hơn kẻ khác, người cố tạo ra tư-sản.
           
          Tất cả những đau khổ của người do nơi sự thiết-lập tư-sản mà ra. Theo Rousseau, người đầu tiên đã rào một khoảnh đất rồi bảo rằng « đất này của tôi », và tìm được nhiều kẻ ngốc nghếch để tin anh ta chính là sáng-lập-viên thật sự của xã-hội dân-sự. Từ đó, sự bất-bình-đẳng phát-sanh.
           
          Những kẻ có tư-sản đã không ngần ngại lợi-dụng điạ-vị ưu-thắng của mình để bóc lột người nghèo khó hơn. Lẽ cố-nhiên là những người bị bóc lột phải phản-ứng lại và điều này gây ra một trạng-thái chiến-tranh chỉ chấm dứt bằng một chế-độ độc-tài khắc-nghiệt. Thế là sự bất-bình-đẳng đưa đến sự mất tự-do. Xã-hội dân-sự hoàn-toàn thành-lập với một bộ máy đàn-áp những kẻ cùng-đinh thất thế.
           
          Trong hoàn-cảnh u trệ này, tánh tốt bẩm-sinh của ngưới tự-nhiên biến mất, nhường chổ cho lòng độc ác. Vì thế, người xâu xé nhau một cách hết sức mãnh-liệt. Xã-hội càng phức-tạp, những mánh khoé người đặt ra để bóc lột nhau càng tinh-xảo và người cùng-đinh càng nghèo khó khổ cực.
           
          c) GiẢi Pháp CỦa Rousseau
           
          Muốn chấm dứt sự xâu xé giữa loài người, muốn chặt đứt những xiềng xích làm cho loài người đau khổ, phải làm sao cho con người phục-hồi cái bản-tánh hiền lành của họ, và cho họ bình-đẳng nhau để chung hưởng quyền tự-do thiên-nhiên của họ.
           
          Nhưng Rousseau nhận thấy rằng, người ta không thể hủy-diệt đến tận gốc xã-hội hiện-thời để trở về trạng-thái thiên-nhiên, trong đó người trong trắng, ngây thơ và bình-đẳng nhau. Vì thế, ông chủ-trương cải-tổ nó lại như thế nào cho sự tự-do và bình-đẳng của người được công-nhận và kính nể.
           
          Vậy, theo ông, vấn-đề chánh-trị cần phải giải-quyết cách nào cho thỏa-hợp với quyền thiên-nhiên của con người.
           
          d) NHỮNG YẾU-ĐIỂM CỦA THUYẾT ROUSSEAU
           
          Lý-tưởng của Rousseau là tìm một hình-thức hợp-quần dùng lực-lượng công-cộng để binh-vực và bảo-vệ cá-nhơn cùng tài-sản mỗi công-dân như thế nào cho mỗi người trong xã-hội hòa-hợp với tất cả những nguời khác, nhưng cũng vẫn chỉ tuân lịnh của chính mình và vẫn được tự-do như trước.
           
          Trong trường-hợp đó, mọi xã-hội đặt nền tảng trên cường-quyền đều phải bị hủy bỏ. Xã-hội dân-chính phải là kết-quả một bản « dân-ước » theo đó, mỗi người dâng cá-nhơn và quyền thiên-nhiên của mình cho đoàn-thể và chấp-nhận khép mình vào luật-lệ chung.
           
          Người chỉ từ bỏ ý muốn riêng của mình để tự đặt mình dưới sự điều-khiển tối-cao của ý muốn chung, tức là dưới một qui-pháp đại-đồng. Làm như thế, người đã hành-động như một kẻ có lý-trí và tự-do, có lý-trí, vì người đặt ý muốn riêng của mình dưới một qui-pháp đại-đồng, tự-do, vì người chỉ tuân theo những luật-lệ mà chính người công-nhận.
           
          Một khi bản dân-ước đã được công-nhận rồi, người phải tự xem rằng mình hoàn-toàn bị nó trói buộc. Theo Rousseau, không ai có quyền phản-bội lời cam-kết của mình. Người nào không chịu tuân lịnh ý muốn chung sẽ bị cả đoàn-thể bắt buộc phải tuân lịnh. Điều này không có nghĩa là đoàn-thể phạm vào sự tự-do của cá-nhơn bướng bỉnh này, nó chỉ có nghĩa là đoàn-thể bắt buộc anh ta phải tự-do.
           
          Tất cả những công-dân trong xã-hội-họp lại làm vị chủ-nhơn của xã-hội, và ý muốn chung mà họ phải tuân theo là ý muốn của đa-số. Ý muốn này thật ra không phải là toàn-thiện, vì nó có thể lầm lạc, song nó luôn luôn chánh-trực trong nguyện-vọng nó. Chủ-quyền của dân-chúng không thể trao cả cho một người duy-nhứt, cũng không thể phân ra nhiều cơ-quan khác nhau như Locke và Montesquieu chủ-trương.
           
          Như vậy, trong quốc-gia tổ-chức theo ý Rousseau, thật sự chỉ có một quyền, quyền lập-pháp nắm cả oai-lực. Nhưng nó phải thuộc về toàn-thể dân-chúng chớ không phải trao về cho một số đại-biểu như ở nước Anh. Vốn là công-dân đô-thị Genève, Rousseau hướng về thể-chế đô-thị ấy và muốn thành-lập một chánh-quyền do toàn dân trực-tiếp nắm giữ. Những nhơn-viên hành-pháp không có nhiệm-vụ gì khác hơn là tuân-hành những quyết-định của dân-chúng chủ-nhơn, họ chỉ nhận một ủy-nhiệm tạm-thời, và chỉ là những công-bộc mà dân-chúng có thể dùng hay đuổi đi bất-cứ lúc nào.
           
          Rousseau không cho rằng ý muốn chung có thể áp-bức được công-dân. Do bản dân-ước, cá-nhơn quả có hoàn-toàn nhường cho xã-hội những quyền mà người sẵn có trong trạng-thái thiên-nhiên, nhưng cá-nhơn chỉ nhường những quyền thiên-nhiên này để có những quyền vững chắc hơn. Vậy, chẳng những không giảm-thiểu giá-trị của con người, quốc-gia còn giúp đỡ con người trong sự cố gắng để phát-triển đến tuyệt độ những khả-năng của mình nữa.
           
          Theo Rousseau, chỉ có sự cường-thạnh của quốc-gia mới làm cho công-dân được tự-do. Như thế, ông không đem cá-nhơn đối chọi lại quốc-gia, mà lại lấy quốc-gia làm bảo-đảm cho sự tự-do và sự bình-đẳng của các công-dân. Do đó, ông giao cho quốc-gia rất nhiều trách-vụ trong sự giáo-dục, lại chủ-trương tạo ra một tôn-giáo đặc-biệt do quốc-gia truyền dạy cho dân-chúng. Tôn-giáo này gồm những giáo-điều căn-bản chung cho mọi mối đạo. Sau hết, Rousseau cho phép quốc-gia qui định quyền tư-hữu theo sự công-ích như thế nào cho trong xã-hội không có những người giàu quá.
           
          Rousseau không cho rằng cái quốc-gia đa-quyền trên này có tánh-cách chuyên-chế, vì nó không phải là sản-phẩm của ý muốn độc-đoán một người, mà là sản-phẩm của ý muốn chung. Do đó, nó chỉ dùng để phụng-sự luật-pháp và không thể làm bậy được.
           
          III- NHỮNG NGUYÊN-TẮC CĂN-BẢN CỦA LÝ-THUYẾT DÂN-CHỦ
           
          Trong ba nhà văn-sĩ được kể là những kẻ đã xây dựng nên lý-thuyết dân-chủ hiện lưu-hành, Montesquieu là người tham-dự ít hơn hết. Thật ra, ông chỉ khơi sâu thêm ý-tưởng về nhơn quyền mà Locke đã nêu ra. Do đó, những vai tuồng trọng-yếu trong công việc xây dựng lý-thuyết dân-chủ qui về Locke và Jean Jacques Rousseau. Tư-tưởng hai ông này có những điểm giống nhau, nhưng cũng có nhiều chỗ khác nhau.
           
          Trước hết, đối với ý-niệm thần-quyền, cả hai đều tỏ vẻ tôn-trọng chớ không hề đánh đổ. Locke vốn là tín-đồ nhiệt thành của Thiên-chúa-giáo Cải-lương nên đã nói đến Thượng-Đế một cách kính-cẩn. Rousseau thì sanh-trưởng ở Genève là một thành-lũy kiên-cố của đạo này. Do đó, ông cũng chịu ảnh-hưởng nó, và chủ-trương thành-lập một nền tôn-giáo riêng biệt cho quốc-gia. Tuy vậy, Locke và Rousseau đã dựa vào một nguyên-tắc hoàn-toàn mới đối với người đồng-thời, là lấy con người làm trung-tâm của nền tư-tưởng chánh-trị mình chớ không dựa vào ý muốn phụng-sự Thượng-Đế mà suy-luận như những nhà văn sĩ chánh-trị trước họ.
           
          Locke và Rousseau lại còn một chỗ này giống nhau, là họ đều chấp-nhận rằng trước khi thành-lập xã-hội, người sống trong trạng-thái thiên-nhiên. Trong trạng-thái ấy, người được tự-do, bình-đẳng và sung sướng. Chủ-trương trên này đưa Locke và Rousseau đến quan-niệm cho rằng người có những quyền thiên-nhiên cao-quí cần phải được kính nể.
           
          Theo Locke, người sở-dĩ vào xã-hội là để tránh một số họa-hại và để được sung sướng hơn. Rousseau thì cho rằng người vì tình-thế bắt buộc phải sống thành xã-hội rồi bị trói buộc luôn trong một guồng máy khổng-lồ mà người không thể thoát ra được. Trong xã-hội tổ-chức theo lối quyền-thế, những quyền thiên-nhiên của người không được kính nể nên người rất khổ sở. Theo Rousseau, họ mất cả bản-tánh tốt của mình và trở thành hung-ác, tàn-bạo.
           
          Trong sự giải-quyết vấn-đề xã-hội, Locke và Rousseau cũng có một nguyên-tắc chung: họ nhấn mạnh trên sự cần-thiết phải lập một chánh-phủ chơn-chánh không phải dựa vào cường-quyền mà dựa vào sự chấp-thuận của toàn-dân. Để biện-minh cho chủ-trương này, Locke và Rousseau cùng nêu ra quan-niệm dân-ước theo đó, xã-hội được thành-lập do sự đồng-thuận của người. Cứu-cánh nó là bảo-vệ quyền-lợi người, và giúp người phát-triển những khả-năng của mình.
           
          Về sự áp-dụng nguyên-tắc trên này trong việc tổ-chức chánh-quyền, Locke và Rousseau có những ý-kiến hoàn-toàn trái ngược nhau.
           
          Trung-thành với chánh-thể quân-chủ và chú-trọng trước nhứt đến sự bảo-vệ quyền-lợi cá-nhơn của người, Locke chủ-trương phân-quyền. Sự hiệu-lực của Nghị-hội Anh trong công cuộc hạn-chế quyền nhà vua làm cho ông tín-nhiệm nơi chế-độ đại-nghị. Những gương các nhà vua Charles đệ nhứt và Jacques đệ nhị vận-động để tái-lập chế-độ chuyên-chánh làm cho Locke lo ngại về tương-lai nên ông nêu ra quyền khởi-loạn của dân-chúng để đề-phòng.
           
          Rousseau vốn là người sanh-trưởng ở Genève, một thị-trấn tổ-chức theo chế-độ dân-quốc. Ông bị ảnh-hưởng của chế-độ này nên không nhìn nhận quân-quyền và cho rằng vị chủ-tể một nước phải là toàn-thể dân-chúng nước ấy.
           
          Chủ-quyền một quốc-gia do nơi ý muốn của người chủ-tể quốc-gia, tức là ý muốn chung của toàn-thể dân-chúng. Nó có tánh-cách của mọi ý muốn nghĩa là không thể trao nhượng cho ai, cũng không thể phân chia được. Vì lý lẽ này, Rousseau không công-nhận chế-độ đại-nghị và phản-đối luôn chủ-trương phân-quyền. Như thế, theo Rousseau, quốc-gia lý-tưởng là một quốc-gia nhỏ trong đó dân-chúng có thể trực-tiếp quyết-định về mọi việc có dính dáng đến quyền-lợi chung.
           
          Mặc dầu vẫn chủ-trương tôn-trọng sự tự-do của cá-nhơn, Rousseau giao cho quốc-gia một oai-quyền tuyệt-đối. Ông cho rằng sự bắt buộc cá-nhơn tùy thuộc ý muốn chung không trái với nguyên-tắc tự-do, và để trả lời lại những kẻ lo sợ rằng sự chuyên-chế của quốc-gia sẽ phạm vào quyền-lợi cá-nhơn, Rousseau quả-quyết rằng ý muốn chung của toàn dân nhứt-định là tốt và không thể làm cho người khổ-sở được.
           
          IV- SỰ THỰC-HÀNH LÝ-THUYẾT DÂN-CHỦ: CHỦ-NGHĨA DÂN-CHỦ TƯ-SẢN
           
          Những tác-phẩm của Locke, Montesquieu và Rousseau có một ảnh-hưởng rất lớn. Bên cái xã-hội bất-công và đầy khốn khổ của chế-độ chuyên-chánh, những tư-tưởng chứa đựng trong các tác-phẩm ấy bày ra một chơn trời mới, phản-chiếu nhơn-đạo và công-bình, hứa hẹn một ngày mai rực rỡ. Vì thế, nó được nhiệt-liệt hoan-nghinh. Phong-trào dân-chủ càng ngày càng bành-trướng và sau cùng làm biến đổi hẳn cuộc-diện chánh-trị Âu-châu.
           
          Những nước đi đầu trong công cuộc thay đổi này tự-nhiên là những nước đã sản-xuất ra lý-thuyết dân-chủ, tức là Anh và Pháp. Thêm vào đó, còn một nước thứ ba là Hiệp-chúng-quốc Mỹ, một nước chịu ảnh-hưởng văn-hóa của Anh rất sâu xa.
           
          Tuy vậy, những nước trên này đã thực-hiện nền dân-chủ theo những đường lối khác nhau vì tình-thế khác nhau, mà cũng vì những xu-hướng dân-chủ của những dân-tộc ấy khác nhau.
           
          A.- SỰ THĀNH-LẬP CHẾ-ĐỘ DÂN-CHỦ Ở ANH.
           
          Ở nước Anh, khi chế-độ quân-chủ được thành-lập, oai-quyền của nhà vua rất to. Những nhà quí-tộc có những thái-ấp gồm những đất đai nhỏ phân-tán ở nhiều nơi. Do đó, nếu đứng riêng ra, họ rất yếu thế, không sao có thể chống chọi lại nhà vua. Bởi thế, không những hợp-tác nhau một cách chặt chẽ, họ còn liên-minh với dân-chúng để đối phó với nhà vua. Điều này làm cho dân-chúng được tham-gia chánh-sự rất sớm.
           
          Một mặt khác, khi Phong-trào CảI-lương Thiên-chúa-giáo phát-khởi, một số lớn người Anh đã hưởng-ứng theo nó, và vấn-đề tự-do tín-ngưỡng được nêu ra một cách khẩn-thiết. Những điều-kiện trên này thúc giục dân Anh đi trên đường dân-chủ trước các dân-tộc khác.
           
          Nền tảng của chế-độ dân-chủ Anh bắt đầu được xây dựng với sự thành-lập Nghị-hội từ thế-kỷ thứ 13, rồi được củng cố thêm mãi. Đến thế-kỷ thứ 17, những nhà vua muốn phản-động lại đều bị dân-chúng phản-kháng, vua Charles đệ nhứt bị xử-tử, vua Jacques đệ nhị bị đuổi ra khỏi nước.
           
          Với quyển “Tiểu-luận về chánh-phủ dân-sự”, Locke đã tạo cho tư-tưởng dân-chủ Anh một cơ-sở triết-lý và trình bày nó thành một lý-thuyết. Lý-thuyết này không những trả lời đúng nguyện-vọng dân Anh, nó còn phù-hợp với những cơ-sở sẵn có của nước họ. Trong trường-hợp đó, nó tự-nhiên đóng một vai tuồng quan-trọng trong sự tổ-chức chánh-trị của người Anh.Từ khi nó ra đời cho đến sau, xã-hội Anh lần lần tiến theo hướng dân-chủ, không gặp sự phản-ứng đáng kể của nhà vua nữa.
           
          Trong sự tiến hóa này, người Anh lại gặp một trường-hợp hy-hữu. Năm 1714, hoàng-hậu Ann từ trần, không con kế-vị. Người Anh rước một ông hoàng người Đức về làm vua nước mình. Ông này lên ngôi, lấy hiệu là George đệ nhứt. Vì không nói được tiếng Anh và không thảo-luận về quốc-sự được với các vị tổng-trưởng, ông giao cho một vị thủ-tướng chủ-tọa các hội-đồng nội-các rồi báo-cáo lại ông kết-quả những sự bàn cãi. Điều này làm khởi điểm cho chế-độ đại-nghị. Quyền nhà vua từ đó cứ hao mòn lần, và cuối cùng nhà vua chỉ còn là một vị quốc-trưởng tượng-trưng cho toàn-quốc, trị-vì trên dân-chúng, nhưng không nắm giữ quyền cai-trị nữa.
           
          B.- SỰ THĀNH-LẬP CHẾ-ĐỘ DÂN-CHỦ Ở HIỆP-CHÚNG-QUỐC MỸ
           
          Cuối thế-kỷ 18, sau nước Anh, lại đến phiên Hiệp-chúng-quốc Mỹ theo chế-độ dân-chủ. Châu Mỹ ngày xưa vốn là đất của dân da đỏ. Người Âu chỉ khám-phá ra nó vào cuối thế-kỷ 15, và đến đầu thế-kỷ thứ 17, họ mới đến lập gia-cư tại đó.
           
          Trong khoảng từ năm 1607 đến năm 1733, người Anh tổ-chức được 13 thực-dân-địa ở Bắc Mỹ-châu, trên bờ Đại-tây-dương. Ban đầu, dân-chúng các đất này vẫn trung-thành với nước Anh. Nhưng sau đó, vì bất-bình chánh-phủ Anh trong sự đánh thuế, họ nổi lên chống lại. Năm 1776, mười ba thực-dân-địa trên này tuyên-bố độc-lập và tự xưng là Hiệp-chúng-quốc Mỹ. Sau một cuộc chiến-đấu anh-dũng kéo dài trong 8 năm, nước này được chánh-phủ Anh công-nhận độc-lập và năm 1787, một hiến-pháp liên-bang được ban-bố. Sau đó, Hiệp-chúng-quốc Mỹ mở rộng thêm cương-giới ra và trở thành một nước lớn trong hoàn-cầu, gồm 50 tiểu-bang hợp lại lập nên.
           
          Vốn là miêu-duệ những người dân Anh có một tinh-thần tự-do mạnh mẽ, lại đứng lên chọi lại sự áp-bức của mẫu-quốc, dân Hiệp-chúng-quốc Mỹ có những truyền-thống dân-chủ rất mạnh, và cố-nhiên là tổ-chức nước họ theo chế-độ dân-chủ. Họ còn đi xa hơn dân-chúng Anh thời bấy giờ ở chỗ họ đã lập nước họ thành một dân-quốc theo chánh-thể Tổng-thống chớ không chấp-nhận nền quân-chủ như dân-chúng Anh.
          C.- SỰ THĀNH-LẬP CHẾ-ĐỘ DÂN-CHỦ Ở PHÁP VĀ CÁC NƯỚC TRÊN LỤC-ĐỊA ÂU-CHÂU.
           
          Lịch-sử thiết-lập chế-độ dân-chủ ở Pháp so với lịch-sử thiết lập chế-độ dân-chủ Anh có nhiều điểm khác nhau. Trái với tình-thế nước Anh, ở Pháp, khi quốc-gia thành-lập, chánh-quyền của nhà vua không mấy gì vững chãi. Những nhà quí-tộc trong nước có những thái-ấp rộng rãi và liền nhau làm một khối. Do đó, oai-quyền họ không kém nhà vua bao nhiêu. Những khi nghịch nhau với nhà vua, họ có thể tự mình chống lại nhà vua một cách dễ dàng. Muốn thực-hiện sự tập-trung quyền-chánh và thống-nhứt quốc-gia, các nhà vua Pháp phải cố tìm cách làm hao mòn thế-lực những nhà quí-tộc. Trong công việc làm này, họ đã được dân-chúng Pháp hết sức giúp đỡ vì đám dân-chúng ấy thường bị các lãnh-chúa bóc lột thái-quá.
           
          Khi quốc-gia được thống-nhứt hoàn-toàn, những nhà vua Pháp có một thế-lực rất lớn. Họ không chịu nhượng bộ dân-chúng khi dân-chúng quay lại yêu cầu bảo-đảm những quyền-lợi cho mình. Bởi đó, khi ở Anh, chế-độ tự-do đã có những nền móng vững chắc rồi, ở Pháp, nhà vua vẫn nắm trọn quyền trong sự điều-khiển việc nước.
           
          Phát-sanh trong bầu không khí khắc-nghiệt ấy, tư-tưởng dân-chủ Pháp ban đầu hãy còn tỏ vẻ kính-nể hoàng-gia, nhưng càng ngày càng có tánh-cách quá-khích hơn. Với quyển “Dân-ước”, Rousseau đã nêu hẳn ý-tưởng chủ-quyền thuộc toàn-thể dân-chúng và một cách gián-tiếp, chủ-trương lập nền dân-quốc.
           
          Chủ-trương này thật ra chưa đủ sức đánh bạt hết lòng tôn-quân của dân Pháp. Nếu những nhà vua Pháp kế-nghiệp cho vua Louis thứ 14 sáng suốt khôn ngoan hơn, có lẽ dân Pháp không đến nỗi phải đi đến những giảI-pháp cực-đoan, mà chế-độ quân-chủ chắc cũng không bị đánh đổ hẳn. Nhưng vì vua Louis thứ 16 của Pháp nghe lời những kẻ tả hữu quá phản-động, vì những nhà quí-tộc Pháp quá ích-kỷ, cứ khư khư đòi giữ hết những đặc-quyền mình, người Pháp mới khởi-xướng ra cuộc cách-mạng năm 1789.
          Từ đó, dân-tộc Pháp dấn mình vào những cuộc phiêu-lưu chánh-trị và trải qua những chánh-thể khác nhau, từ chánh-thể dân-quốc độc-tài qua chánh-thể đế-quốc sang chánh-thể quân-chủ lập-hiến, rồi từ chánh-thể dân-chủ cộng-hòa sang chánh-thể đế-quốc trở lại để cuối cùng thành-lập một cộng-hòa quốc theo chánh-thể dân-chủ đại-nghị từ năm 1875.
           
          Những cuộc cách-mạng ở Pháp có ảnh-hưởng rất lớn đến các nước khác ở Âu-châu. Và sau hoàng-gia Pháp, các hoàng-gia Âu-châu hoặc phải chấp-nhận chánh-thể lập-hiến, hoặc bị dân-chúng đánh đổ để theo những chánh-thể khác hơn chánh-thể quân-chủ chuyên-chế lối cổ-điển.
           
          D.- SỰ ÁP-DỤNG LÝ-THUYẾT DÂN-CHỦ TRONG CÔNG VIỆC TỔ-CHỨC QUỐC-GIA.
          Trong sự tổ-chức quốc-gia mình theo lý-thuyết dân-chủ, các dân-tộc Âu Mỹ có những nguyên-tắc giống nhau, nhưng cũng có nhiều chi-tiết khác nhau.
           
          Nước Anh và một số nước Bắc-Âu chịu ảnh-hưởng của Locke đã tổ-chức theo chế-độ quân-chủ lập-hiến đại-nghị. Trong những nước ấy, nhà vua là một vị quốc-trưởng được trọng-vọng, nhưng vô-trách-nhiệm và vì đó mà thật sự vô-quyền, mặc dầu theo nguyên-tắc, mọi pháp-lịnh đều do nhà vua mà ra. Quyền lập-pháp nằm trong tay một Nghị-viện Thứ-dân gồm những đại-biểu do dân công-cử và một Nghị-viện Quí-tộc ít quyền-hành hơn. Quyền hành-pháp thuộc về một chánh-phủ được nghị-viện uỷ nhiệm.
           
          Những nhà cách-mạng nước Pháp chịu ảnh-hưởng của Rousseau rất nhiều. Nhưng trong sự xây dựng chế-độ dân-chủ cộng-hòa trên nước họ, họ không thể áp-dụng được hoàn-toàn lý-thuyết Rousseau.
          Trong sách “Dân-ước”, Rousseau đã bảo rằng chủ-quyền một quốc-gia thuộc về toàn-thể dân-chúng và không thể phân chia, cũng không thể nhượng cho ai. Chiếu theo nguyên-tắc đó, Rousseau chủ-trương để cho dân-chúng trực-tiếp nắm hết quyền-hành trong tay. Những nhơn-viên chánh-phủ chỉ là những kẻ thừa-hành mạng-lịnh dân-chúng mà thôi. Nhưng chánh-thể này chỉ có thể thi-hành được ở những nước nhỏ hẹp, trong ấy mọi người đều biết rõ nhau và có thể tụ-tập nhau lại đông đủ để bày tỏ ý-kiến mình về những việc có ích-lợi chung. Ở Âu-châu, chỉ có Thụy sĩ - một liên-bang gồm những tiểu-bang nhỏ hẹp kết-hợp nhau lại một cách lỏng lẻo, lại được các cường-quốc khác công-nhận là nước trung-lập nên không sợ nạn ngoại –xâm – là có thể áp-dụng được ý-tưởng này.
           
          Một quốc-gia đông hàng triệu người, lại sống bên cạnh nhiều cường-quốc sẵn sàng xâm lấn mình như quốc-gia Pháp, tự-nhiên không thể theo chơn Rousseau trên con đường ấy. Vì đó, người Pháp phải nghiêng về phía Locke và Montesquieu. Sau khi thí nghiệm nhiều hình-thức chánh-thể khác nhau, họ tổ-chức quốc-gia theo nguyên-tắc đại-nghị và phân-quyền. Quốc-trưởng Đệ Tam và Đệ Tứ Cộng-hòa Pháp là một vị Tổng-thống cũng vô trách-nhiệm và vô quyền như nhà vua Anh. Quyền lập-pháp thuộc về một Nghị-viện gồm những đại-biểu được dân-chúng bầu ra, còn quyền-hành-pháp thì giao cho chánh-phủ do Nghị-viện công-cử.
           
          Qua Đệ Ngũ Cộng-hòa, Tổng-thống Pháp do dân-chúng bầu cử và có một quyền-hành rộng rãi. Tuy nhiên, người Pháp vẫn chưa bỏ hẳn chế-độ đại-nghị nên kế bên Tổng-thống, họ lại đặt một Thủ-tướng do Tổng-thống chỉ-định và Quốc hội tấn phong.
           
          Hiệp-chúng-quốc Mỹ chịu ảnh-hưởng của Anh lẫn Pháp, nhưng có một chánh-thể đặc-biệt khác hai nước này.
           
          Quốc-trưởng Hiệp-chúng-quốc Mỹ là một vị Tổng-thống do dân-chúng cử ra và nắm quyền-hành-pháp. Nhờ sự ủy nhiệm trực-tiếp của dân-chúng chớ không phải qua Nghị-hội, Tổng-thống Hiệp-chúng-quốc Mỹ có quyền rộng hơn nhà vua và Thủ-tướng Anh, hay Tổng-thống và Thủ-tướng Pháp họp lại. Thật ra, ông có quyền như một nhà vua Anh lúc Hiệp-chúng-quốc vừa độc-lập, khi chế-độ đại-nghị ở Anh chưa tiến đến hình-thức hiện-thời và còn để cho hoàng-gia một phần quyền khá lớn.
           
          Quyền lập-pháp thì thuộc về Nghị-hội, phân ra làm hai viện, một Hạ-nghị-viện gồm đại-biểu cho dân-chúng cử ra theo nguyên-tắc dân số, và một Thượng-nghị-viện gồm đại-biểu các tiểu-bang họp lại làm Hiệp-chúng-quốc, cứ mỗi tiểu-bang hai người.
           
          Không như hai nước Anh và Pháp, nhìn nhận sự tự trị của cơ-quan tư-pháp, song vẫn đặt nó vào hệ-thống chánh-phủ lo việc hành-pháp, người Mỹ nói đúng theo ý Montesquieu tách hẳn ngành tư-pháp ra khỏi quyền-hành-pháp và giao cho một Thượng-thẩm-viện gồm chín vị thẩm-phán do Tổng-thống cử và Nghị-hội chấp-thuận cái quyền làm trọng tài khi có sự xung-đột giữa hai quyền lập-pháp và hành-pháp, cũng như giữa chánh-phủ liên-bang và các chánh-phủ tiểu-bang. Vai tuồng “bảo-vệ hiến-pháp” của quyền tư-pháp Mỹ làm cho nó trở thành quan-trọng và hoàn-toàn bình-đẳng với hai quyền lập-pháp và hành-pháp, nếu không vượt lên trên hai quyền ấy.
           
          Xét ba hình-thức tổ-chức khác nhau ở Anh, Pháp và Hiệp-chúng-quốc Mỹ, ta thấy nó có chổ giống nhau là đều dùng cách đầu-phiếu để cử ra một Nghị-hội đại-diện cho dân-chúng mà quyết-định những điều công-ích. Lúc ban đầu, nhiều nhà chánh-khách lấy cớ rằng những người dân dốt nát không am-hiểu chánh-trị và dễ bị mua chuộc có thể đưa người không xứng đáng ra thay mặt mình và làm hư việc nước để hạn-chế quyền đầu-phiếu, hoặc chỉ cho một số ít người có đủ những điều-kiện nhứt-định về trí-thức hay tài-sản đi bầu-cử, hoặc thi-hành phương-pháp đầu-phiếu nhiều từng trong đó dân-chúng chỉ trực-tiếp cử ra những người thay mặt cho mình để bầu Nghị-viện. Nhưng sau đó, dân-chúng nhơn danh nguyên-tắc bình-đẳng mà đòi quyền đầu-phiếu cho tất cả mọi người, và chế-độ phổ-thông đầu-phiếu lần lần được thi-hành ở những nước dân-chủ.
           
          Nghị-hội do dân-chúng cử ra được xem là đại-diện cho ý muốn của dân và giữ hết chủ-quyền quốc-gia. Như ta thấy ở Anh và ở Pháp, thời Đệ Tam và Đệ Tứ Cộng-hòa, nó nắm quyền tối-cao và kiểm-soát hết công việc làm của các cơ-quan hành-pháp và tư-pháp. Hiệp-chúng-quốc Mỹ thì theo sát nguyên-tắc phân-quyền của Montesquieu, để cho cơ-quan hành-pháp một sự tự-do rộng rãi hơn và giao cho quyền tư-pháp cái trách vụ làm vị trọng tài tối-cao cho cả nước.
           
          Chiếu theo nguyên-tắc tự-do và bình-đẳng, các chánh-thể dân-chủ bảo-đảm những quyền tự-do thân thể, tự-do hội-họp, tự-do tín-ngưỡng, tự-do lưu-thông, tự-do ngôn-luận, tự-do báo chí v.v... và xem mọi người bình-đẳng nhau trước pháp-luật.
           
          Về mặt kinh-tế, quyền tư-hữu được nhìn nhận và bảo-đảm, những xiềng xích phong-tỏa nền thương mãi và kỹ-nghệ trong chế-độ cũ bị hủy-diệt. Chánh-sách kinh-tế tự-do cạnh tranh này cho phép mọi người đem hết năng-lực của mình ra kinh-dinh trong phạm-vi pháp-luật.
           
          Những nhà lãnh-đạo phong-trào dân-chủ ở các nước trên này là những nhà trí-thức thuộc hạng trưởng-giả, và sau khi thành công, họ nhiệt-liệt binh-vực quyền tư-hữu. Chế-độ họ xây dựng nên, theo nguyên-tắc thì xem mọi người như nhau; nhưng trong thực-tế, nó ưu-đãi giai-cấp trưởng-giả nhiều hơn. Bởi đó, người ta gọi họ là những chánh-khách dân-chủ tư-sản và chủ-nghĩa dân-chủ của họ được mạng danh là chủ-nghĩa dân-chủ tư-sản.
           
          V- NHỮNG NHƯỢC-ĐIỂM CỦA CHỦ-NGHĨA DÂN-CHỦ TƯ-SẢN.
           
          Chủ-nghĩa dân-chủ tư-sản-xuất hiện và phát-triển trong một tình-trạng xã-hội đặc-biệt. Phôi-thai trong một xã-hội chuyên-chế gây sự khổ sở cho người, nó tự đặt ra nhiệm-vụ cải-tổ xã-hội ấy và cố-nhiên phải tạo ra những lý-luận làm khí-cụ để thi-hành công việc đánh đổ chế-độ cũ.
           
          Chế-độ cũ đặt nền tảng trên ý-niệm chủ-quyền thuộc về một nhà vua thay mạng Trời mà cai-trị thiên-hạ nên nó nêu ra thuyết chủ-quyền do nơi sự họp-tập những quyền thiên-nhiên của mọi người mà có, và do đó mà phải thuộc về dân-chúng.
           
          Chế-độ cũ chia xã-hội ra làm nhiều giai-cấp khu-biệt nhau, và đặt ra nhiều luật-lệ bó buộc dân-chúng một cách vô lối nên nó tuyên bố rằng người sanh ra tự-do bình-đẳng và phải được tự-do bình-đẳng trong xã-hội.
           
          So với những tư-tưởng thần-quyền hướng dẫn sự hoạt-động chánh-trị trong xã-hội cũ, lý-thuyết dân-chủ có tánh-cách tiến-bộ hơn nhiều. Tuy vậy, nó không phải là không có nhược-điểm. Trong thời-kỳ người ta phải dựa vào nó để chống chọi lại ý-thức-hệ của xã-hội cũ, người ta chỉ thấy cái hay của nó. Nhưng đến khi kiến-thiết, đụng đầu với thực-tế, những sự sai lầm và mâu-thuẫn của nó lần lần hiện ra rõ rệt.
           
          A.- NHỮNG NHƯỢC-ĐIỂM CỦA CHỦ-NGHĨA DÂN-CHỦ TƯ-SẢN VỀ PHƯƠNG-DIỆN LÝ-THUYẾT
          1. ThuyẾt TrẠng-thÁi ThiÊn-nhiÊn
          Đứng về phương-diện thuần lý-thuyết mà nói, ta nhận thấy rằng cả chủ-nghĩa dân-chủ của Locke và Rousseau dựa vào một ý-niệm căn-bản, ý-niệm về một trạng-thái thiên-nhiên có trước khi xã-hội thành-lập. Ý-niệm này là một định lý làm cơ-sở cho tất cả lý-luận của các lý-thuyết gia dân-chủ về sau, và sự sai lầm của nó tự-nhiên làm cho cả hệ-thống suy-luận của họ phải sụp đổ.
           
          Trong trạng-thái thiên-nhiên của Locke và Rousseau, người sung sướng vì họ không làm hại nhau, không phạm vào quyền-lợi của nhau như trong xã-hội. Kết-quả tốt đẹp này sở-dĩ có được, theo Locke, là nhờ lý-trí, còn theo Rousseau thì nhờ nơi tánh tốt bẩm-sinh của người. Nhưng sự thật có phải tươi đẹp như Locke và Rousseau tưởng chăng? Sự nghiên-cứu kỹ càng về người dã-man và người bán khai đã cho ta một hình ảnh đúng đắn hơn, nhưng cũng đen tối hơn hình ảnh của Locke và Rousseau về trạng-thái thiên-nhiên ấy.
           
          Ta có thể chấp-nhận cùng với Locke rằng, người trong trạng-thái thiên-nhiên đã có lý-trí. Lý-trí ấy chưa đủ sắc bén để làm cho người có những mưu-mô giảo-quyệt và còn để cho ta có cảm tưởng rằng người ngây thơ, thành-thật. Tuy thế, chắc chắn nó cũng chưa đưa người đến một tinh-thần đạo-đức cao-thâm, cũng chưa giúp người đủ sự khôn ngoan để có một quan-niệm đúng đắn về quyền-lợi hiểu một cách sáng suốt. Nó chỉ cho người có một ít trí-thức thiển-cận để giải-quyết những vấn-đề do sự sống còn hằng ngày đặt ra. Người dùng phần lớn nếu không phải tất cả tâm-tư để mưu-đồ sự sống còn ấy. Sự chân-thật chất-phác của người – vốn không phải là dấu hiệu của đạo-đức mà chỉ là dấu hiệu của sự kém thông-minh – chưa chắc đã giữ cho người khỏi dã-man tàn-bạo.
           
          Trong hoàn-cảnh cổ-sơ, sự sống còn của người rất bấp bênh, không có chi là vững chắc, và sự kiếm ăn rất đổi bất-thường. Sự tranh giành xâu xé giữa loài người hẳn phải hung tợn gớm ghê lắm, và sự giết hại nhau là việc rất thường. Chỉ đến khi người biết tụ-họp nhau lại và dùng những phương-pháp chăn nuôi trồng tỉa để tăng-gia những nguồn tài lợi thiên-nhiên, đời sống mới dễ dàng đôi chút và người mới lần lần dịu sự giết hại lẫn nhau.
           
          Vậy, trái với ý-kiến Rousseau, bản-tánh người không phải là tốt. Nếu tánh người vốn tốt như Rousseau tưởng thì xã-hội người lập ra không thể mục nát xấu xa đến nỗi làm cho người sanh ra xấu được. Thật ra, người chỉ có thể tốt khi nào họ đã thỏa-mãn được những  nhu-cầu thiết-yếu của mình.
           
          Nói một cách công-bằng thì xã-hội, dầu là xã-hội cổ-thời, với tất cả những chế-độ khắc-nghiệt, những cư-xử dã-man của nó, cũng giúp cho người tiến-bộ nhiều về cả hai mặt sanh hoạt vật-chất và tinh-thần đạo-đức. Cho rằng trạng-thái thiên-nhiên hơn hẳn xã-hội, cho rằng người trong trạng-thái thiên-nhiên tốt hơn và sung sướng hơn người trong xã-hội là một điều lầm lạc rất to của chủ-nghĩa dân-chủ tư-sản.
           
          2. ThuyẾt QuyỀn ThiÊn-nhiÊn CỦa Con NgưỜi
          Thuyết cho rằng người sanh ra đã có những quyền thiêng liêng bất-khả xâm-phạm cũng không đứng vững được. Vì ý-niệm quyền-hành bao hàm một người sử-dụng, một phạm-vi sử-dụng, một hoặc nhiều người khác nhận chịu sự sử-dụng ấy và một lực-lượng công-cộng, bảo-đảm cho sự sử-dụng ấy. Như vậy, nó có tánh-cách luật-pháp và chỉ có thể xuất-hiện trong xã-hội mà thôi.
           
          Hơn nữa, quyền của người trong xã-hội luôn luôn là một cái để đền bù lại một nhiệm-vụ mà người phải gánh vác. Xã-hội chuyên-chế cũ bắt đám bần-dân làm nhiệm-vụ mà không nói đến quyền của họ đã đành là quấy, nhưng chủ-nghĩa dân-chủ nêu ra ý-niệm quyền thiên-nhiên bất khả xâm-phạm mà không nhắc liền đến nhiệm-vụ của người lại rơi vào cái quấy nghịch lại. Muốn cho hợp-lý, ta phải đặt ý-niệm quyền-lợi chung với ý-niệm nhiệm-vụ.
           
          Nói tóm lại, không có xã-hội thì không có quyền, mà không có nhiệm-vụ cũng không có quyền nốt. Vậy, quyền thiên-nhiên của người chỉ là một luận-chứng vô-căn-cứ.
           
          Người ta có thể cãi lại rằng người có quyền thiên-nhiên vì trong trạng-thái thiên-nhiên, người muốn làm gì thì làm, không bị ai cản trở, bó buộc. Quả thật, trong trạng-thái thiên-nhiên, người có thể muốn làm gì thì làm. Nhưng ta có thể gọi đó là một cái quyền được chăng, khi mà bất cứ ai cũng có thể phạm vào nó? Nếu ta gọi như thế là có quyền thì đó chỉ là quyền của kẻ mạnh mà thôi, vì chỉ có kẻ mạnh mới đủ sức tự mình bảo-vệ sanh-mạng mình và hoạt-động hoàn-toàn theo ý muốn mình. Còn những kẻ yếu, họ khó lòng sống được chớ đừng nói gì đến việc làm theo ý muốn của mình.
           
          3. ThuyẾt NgưỜi Sanh TỰ-do VÀ BÌnh-đẲng
           
          Những ý-niệm tự-do và bình-đẳng là những ý-niệm đặc-biệt của lý-thuyết dân-chủ. Bởi thế, khi nói đến lý-thuyết dân-chủ, người ta nghĩ ngay đến khẩu-hiệu tự-do và bình-đẳng, và ngược lại khi nói đến khẩu-hiệu tự-do và bỉnh đẳng, người ta cũng nghĩ ngay đến lý-thuyết dân-chủ.
           
          Như ta đã thấy, sở-dĩ những lý-thuyết gia dân-chủ nêu ra chủ-trương tự-do và bình-đẳng là vì xã-hội trong đó họ sống hết sức bó buộc người và đầy dẫy những sự bất-công. Vậy, tự-do và bình-đẳng thật ra là kết-quả sự phản-động lại chế-độ quân-chủ chuyên-chế ngày xưa. Đó là những thần-thoại đặt ra để đối chiếu lại những điều-kiện khắc-nghiệt uy-hiếp con người của xã-hội cũ. Vì thế, nó có một hấp-lực rất mạnh, nhứt là đối với những người sống trong xã-hội bó buộc và bất-công. Tuy vậy, nếu ta bình-tỉnh mà xét nó, ta sẽ thấy rằng ý-niệm tự-do và bình-đẳng thật ra không có tánh-cách rõ ràng minh-xác.
           
          Khi nói đến hai tiếng tự-do, người ta nghĩ ngay đến một con người muốn làm gì thì làm, không bị ai kềm chế bó buộc gì cả. Cứ theo định-nghĩa này thì thật sự chỉ có những người rừng – những người mà Locke và Rousseau bảo là ở trong trạng-thái thiên-nhiên – mới được tự-do. Những người này sống cô- độc ở những chốn hoang-vu, và nếu ta gạt bỏ những bó buộc của khung cảnh thiên-nhiên qua một bên, những hoạt-động của họ chỉ bị hạn-chế khi gặp một hay nhiều người rừng khác mạnh hơn. Trong trường-hợp này, chẳng những là sự tự-do của họ bị uy-hiếp, mà ngay đến tánh-mạng họ cũng không có gì bảo-đảm.
           
          Nếu ta cho như thế là tự-do thì đó là một sự tự-do rừng rú, đầy nguy-hiểm, đầy đe dọa, đầy sợ sệt, đầy lo âu. Nó là kết-quả một cuộc chiến-đấu gian-nan không phút giây nào ngừng được.
           
          Trong xã-hội, người ta không thể quan-niệm được một sự tự-do như thế. Người sống trong một xã-hội nhứt-định phải lệ thuộc xã-hội ấy không ít thì nhiều. Chẳng những phải tuân theo pháp-luật, người trong xã-hội còn phải tùy theo phong-tục tập-quán, tùy theo những công-ước mà quần-chúng đã mặc nhiên chấp-nhận. Chẳng những phải cố giữ cho khỏi bị nhà cầm-quyền trừng-phạt, họ còn phải ráng tránh sự chê bai của dư-luận nữa.
           
          Như vậy, người trong xã-hội phải khép mình vào một khuôn khổ. Khuôn khổ này có thể hẹp hay rộng, khắc-nghiệt hay khoan-dung, nhưng dầu sao, nó vẫn hạn-chế bớt sự hoạt-động của người. Trong trường-hợp đó, sự tự-do hoàn-toàn không thể có trong xã-hội được. Đời sống xã-hội ám tàng việc hạn-chế sự tự-do của người. Vì thế, sự tự-do trong xã-hội chỉ có thể là một sự tự-do tương-đối, dựa vào một số quyền cụ-thể và nằm trong một phạm-vi nào đó mà thôi.
           
          Trong trí óc mọi người, sự tự-do và sự hạn-chế vốn trái ngược nhau. Do đó, ý-niệm tự-do dựa vào một số quyền nhứt-định và nằm trong một phạm-vi nhứt-định, tức là ý-niệm tự-do hạn-chế tự hàm lấy một sự mâu-thuẫn nộI-bộ rõ rệt. Sở-dĩ người ta không nhận thấy sự mâu-thuẫn nộI-bộ của chủ-trương tự-do là vì khi nói đến tự-do, người ta không lưu-ý đến những hạn-chế bắt buộc phải có của đời sống xã-hội.
          Nói tóm lại, sự tự-do hoàn-toàn chỉ có thể là một sự tự-do rừng rú. Trong xã-hội, sự tự-do của người nhứt-định phải bị hạn-chế, mà ý-niệm tự-do hạn-chế này là một ý-niệm chứa đựng một sự mâu-thuẫn hiển-hiện.
           
          Bởi lý do trên này, sự tự-do theo ý nghĩa trừu-tượng của nó chỉ tốt đẹp với tư-cách là một lý-tưởng. Nó có thể có một hấp-lực rất mạnh mẽ. đối với con người. Nhưng với tư-cách là một mục-tiêu chánh-trị, nó rất mù mờ, và vì sự mù mờ đó, nó có thể xua đẩy người vào những cuộc phiêu-lưu nguy-hiểm. Với danh-nghĩa phụng-sự tự-do, người ta đã đưa ra nhiều chủ-trương khác nhau, từ chủ-trương phóng-túng hoàn-toàn đến những chủ-trương kỷ-luật chặt chẽ. Và người ta đã không ngần ngại chém giết nhau để binh-vực những chủ-trương này.
           
          Ôi! Tự-do! Tự-do! Nhơn danh-nghĩa ngươi, người ta đã phạm biết bao nhiêu là tội ác”. Câu than thở này của Roland phu-nhơn quả có giá-trị của một lời cảnh-cáo nhơn-loại nên đề phòng lý-tưởng tự-do.
           
          Về chủ-trương bình-đẳng, nó không hơn gì chủ-trương tự-do. Lời những nhà lý-thuyết dân-chủ quả-quyết rằng trong trạng-thái thiên-nhiên, người ta hoàn-toàn bình-đẳng nhau, thật ra không chứng minh bằng kinh-nghiệm hay khoa-học được. Người ta vốn sanh ra thể-chất, năng-lực, tài trí, đức-hạnh, tánh khí khác nhau nên nhứt-định hơn kém khác nhau.
           
          Rất có thể rằng trong trạng-thái thiên-nhiên, sự sanh-hoạt của người đại-để giống nhau và sự hơn kém này không xa nhau quá như trong xã-hội. Tuy vậy, sự tranh-đấu lẫn nhau có tánh-cách ác-nghiệt hơn, và một sự hơn kém nhỏ nhặt có thể đưa đến những kết-quả khốc-liệt cho người.
           
          Không có điều gì chứng-nhận rằng trong trạng-thái thiên-nhiên, người không lợI-dụng những ưu-điểm của mình để tranh-đấu với đồng-loại. Trái lại, sự quan-sát những dân-tộc bán-khai cho ta biết rằng, trong trạng-thái thiên-nhiên mà Locke và Rousseau ca tụng như một cảnh thiên-đường, chỉ có lẽ phải của kẻ mạnh nhứt là đáng kể. Lẽ tự-nhiên là sự bình-đẳng không thể phát-hiện trong hoàn-cảnh ấy được.
           
          Vậy, nói cho thật đúng thì ngay trong trạng-thái thiên-nhiên, sự bình-đẳng hoàn-toàn cũng không thể có. Trong xã-hội, sự bình-đẳng hoàn-toàn này lại càng không thể có hơn nữa. Vì hoàn-cảnh và cơ-vận khác nhau, người ta hơn kém nhau rất nhiều. Sự bất-bình-đẳng thiên-nhiên này làm cho chủ-trương bình-đẳng trong xã-hội hóa ra phức-tạp vô cùng.
           
          Người ta có thể quan-niệm sự bình-đẳng theo nhiều lối khác nhau. Đối với những người mộc mạc, bình-đẳng thường có nghĩa là tất cả mọi người đều ngang nhau về mọi phương-diện. Mọi người đều có một địa-vị như nhau, và đều hưởng những quyền-lợi của xã-hội một cách đồng đều nhau. Trong sự tuyên-truyền lôi kéo quần-chúng, chắc hẳn người ta đã nêu chủ-trương bình-đẳng này ra.
           
          Nhưng không cần phải nói nhiều, chắc những người có chút ít lương-tri cũng đã nhận thấy rằng chủ-trương bình-đẳng máy móc trên đây không thể nào thực-hiện trong xã-hội. Ta rất khó tưởng-tượng ra một đoàn-thể họp-quần trong đó mọi người đều có những nhiệm-vụ, những hoạt-động y hệt như nhau và đều lãnh một phần tài-vật hoàn-toàn đồng đều nhau.
           
          Vả lại, một xã-hội như thế dầu cho có thực-hiện được cũng không thể làm thỏa-mãn được mọi người. Vì sở-thích, nguyện-vọng, năng-lực,  nhu-cầu của người khác nhau vô cùng; một công việc làm cho người này ưa thích có thể làm cho người khác không ưa; và một phần tài-vật đủ dùng cho người này có thể thiếu hụt đối với người khác.
           
          Bởi đó, sau này, những người chủ-trương bình-đẳng nêu ra quan-niệm xem chế-độ bình-đẳng là chế-độ thỏa-mãn  nhu-cầu của người một cách đồng đều nhau. Theo những người này, mọi người đều bình-đẳng nhau khi người nào cũng được thỏa-mãn như nhau cả. Tuy thế, vấn-đề thỏa-mãn  nhu-cầu của người thật ra không phải là một vấn-đề giản-dị.
           
          Trước hết,  nhu-cầu của mỗi người có thể mở mang đến vô cùng, và lý-tưởng bình-đẳng thật sự không cho phép ta hạn-chế sự  nhu-cầu của một hạng người nào. Trong một xã-hội chủ-trương thỏa-mãn hết  nhu-cầu của tất cả mọi người, mà người ta để cho mỗi người tự định lấy  nhu-cầu mình thì người ta không thể nào sản-xuất đủ những món tiện-nghi, những xa-xí-phẩm mà mọi người đòi hỏi. Trái lại, nếu người ta giao cho cơ-quan nắm chánh-quyền nhiệm-vụ qui-định  nhu-cầu của mỗi người, chắc chắn những người có địa-vị sẽ được ưu-đãi hơn đám dân-chúng đứng xa chánh-quyền.
           
          Như thế, vì bản-chất của người, vì sự bất-bình-đẳng tự-nhiên Tạo hóa phú cho người, sự bình-đẳng tuyệt-đối không thể thực-hiện được trong xã-hội. Cũng như đối với vấn-đề tự-do, trong xã-hội, người ta chỉ có thể quan-niệm một sự bình-đẳng tương-đối, một sự bình-đẳng nằm trong một phạm-vi nhứt-định, thí dụ như bình-đẳng trước pháp-luật, bình-đẳng về quyền-hạn công-dân. Trong trường-hợp này, sự bất-bình-đẳng thiên-nhiên sẽ đưa người đến những địa-vị khác nhau, khiến cho họ hưởng những quyền-lợi xã-hội mang đến cho người một cách không đồng đều nhau. Và chung-qui, sự bình-đẳng vẫn không có được.
           
          Xét cho cạn lẽ, ta có thể nhận thấy rằng, vấn-đề bình-đẳng quả là một vấn-đề nan-giải và hai tiếng bình-đẳng chỉ có thể dùng làm một khẩu-hiệu để lôi cuốn người chớ không thể là một mục-tiêu chánh-trị. Về phương-diện này, có lẽ ý-tưởng công-bình xã-hội đáng được dùng hơn là ý-tưởng bình-đẳng, vì nó minh-xác hơn và dễ thực-hiện hơn.
           
          Những chủ-trương tự-do và bình-đẳng hoàn-toàn, xem thế, không thể chấp-nhận được, nếu ta suy xét về nó một cách kỹ càng. Đã vậy, nó còn chống chọi lại nhau nữa. Những người chủ-trương dân-chủ vì tinh-thần phản-ứng lại chế-độ khắc-nghiệt của xã-hội cũ nên không nhận thấy sự mâu-thuẫn nhau giữa hai lý-tưởng tự-do và bình-đẳng. Nhưng đối với người thời nay, sự mâu-thuẫn này hết sức là rõ rệt.
           
          Như ta đã thấy, người sanh ra thể-chất tài-trí không bằng nhau. Dầu cho ta có đặt mọi người chung trong một cảnh-huống và giáo-dục họ y nhau, ta cũng không làm cho năng-lực họ bằng nhau được.
          Nếu để cho mọi người được tự-do sử-dụng hết năng-lực của mình thì thế nào họ cũng đi đến những kết-quả hơn kém khác nhau, dầu cho lúc khởi-hành, họ ở vào một tình-cảnh hoàn-toàn giống nhau cũng thế. Muốn cho mọi người bình-đẳng nhau, không có ai vượt hẳn được người khác hay có thể uy-hiếp người khác, ta phải hạn-chế bớt năng-lực của những người ưu-tú. Như thế, ta phải phạm vào sự tự-do của họ.
           
          Tóm lại, tự-do đưa đến sự bất-bình-đẳng, còn bình-đẳng ám-tàng ý-tưởng hạn-chế năng-lực của người, nghĩa là phạm vào sự tự-do của người. Nếu sự bất-bình-đẳng và sự thiếu tự-do có thể cùng gặp nhau trong xã-hội cũ để giăng một tấm màn hắc-ám lên đời sống người bần-dân, sự bình-đẳng và sự tự-do hoàn-toàn lại không thể đứng chung với nhau để làm cho xã-hội được tươi đẹp. Do đó, khi ghép hai nguyên-tắc tự-do và bình-đẳng lại dưới một hiệu cờ tranh-đấu, người ta đã gieo một mầm chia rẽ làm cho những người chủ-trương dân-chủ về sau sanh ra xung-đột lẫn nhau.
           
          4. ThuyẾt ChỦ-quyỀn QuỐc-gia
          a) CHỦ-QUYỀN QUỐC-GIA THUỘC VỀ TOÀN-THỂ DÂN-CHÚNG
          Locke và Rousseau đặt nền tảng quốc-gia trên một bản dân-ước theo đó mọi người cùng vui lòng chấp-nhận nhường quyền thiên-nhiên của mình cho xã-hội, để bù lại, xã-hội bảo-đảm quyền-lợi mình. Dựa vào ý này, họ nêu ra thuyết chủ-quyền phải thuộc về toàn-thể dân-chúng.
           
          Thật ra, trong sự thành-lập xã-hội, lý-trí cá-nhơn nếu có, cũng chỉ đóng một vai tuồng rất nhỏ. Ta rất khó tưởng-tượng được con người cổ-sơ mộc mạc mà suy-luận một cách sâu sắc hợp-lý về đời sống thiên-nhiên và đời sống xã-hội, rồi nhận chân rằng hợp-quần thành xã-hội, mình được sung sướng hơn trong trạng-thái thiên-nhiên và vui lòng chấp-nhận một bản dân-ước để lập thành xã-hội. Đúng ra thì người đã họp nhau sống thành xã-hội một cách vô-ý-thức vì sự thúc đẩy của sự cần dùng, nếu không bị những kẻ mạnh lôi vào vòng kềm chế của họ.
           
          Nhưng mặc dầu chúng ta không thể cho là đúng cái chủ-trương của Locke và Rousseau lấy một bản dân-ước làm nền tảng cho xã-hội, ta vẫn có thể nhận rằng ý-tưởng chủ-quyền phải thuộc về toàn-thể dân-chúng rất hợp công-lý. Tuy vậy, ở đây, chúng ta cũng vấp phải một sự khó khăn nan-giải về sự thực hành.
           
          Muốn được hoàn-toàn hợp-lý, ta phải theo đúng chủ-trương Rousseau để cho toàn-thể dân-chúng trực-tiếp điều-khiển việc công và giải-quyết mọi vấn-đề quan-trọng. Như ta đã thấy trên kia, điều-kiện này chỉ thực-hiện được với những xã-hội nhỏ, dân số chừng vài ngàn người. Những quốc-gia nhỏ bé như thế tự-nhiên rất khó chống lại nạn ngoại-xâm. Vì thế, ngoại trừ trường-hợp nước Thụy-sĩ, có một thể-chế trung-lập được hoàn-cầu nhìn nhận và tôn-trọng, những quốc-gia khác rất khó mà thực-hiện được nguyên-tắc chánh-trị trên này.
           
          Đối với những quốc-gia rộng rãi, dân-số trên hàng triệu người và đủ sức tự-vệ chống nạn xâm-lược từ ngoài đưa đến, người ta chỉ có thể theo chế-độ đại-nghị mà thôi. Chế-độ này thật ra không thể phù-hợp với thuyết chủ-quyền thuộc về toàn-thể dân-chúng. Áp-dụng nó, dân-chúng chỉ nắm chủ-quyền thật sự trong giây phút mình bỏ vào thùng thăm lá phiếu công-cử ông đại-biểu thay mặt mình trong quốc-hội. Như vậy, thuyết chủ-quyền thuộc toàn-thể dân-chúng không thể nào thực-hiện một cách đúng đắn được.
           
          b) CHỦ-QUYỀN QUỐC-GIA PHẢI DỰA VÀO SỰ ÍCH-LỢI CHUNG,  NÓ ĐƠN-NHỨT VÀ TỐI-CAO
          Chủ-trương cho rằng chủ-quyền quốc-gia phải dựa vào sự lợi-ích chung là một chủ-trương khái-quát có thể biện-chánh cho bất cứ chánh-thể nào. Ta đã thấy rằng nhiều chế-độ quân-chủ ngày xưa cũng đã nêu nguyên-tắc nhà vua phải lo phụng-sự quyền-lợi dân. Điểm đặc-biệt của chủ-nghĩa dân-chủ tư-sản là chủ-quyền ấy phải bảo-đảm sự tự-do cho mỗi cá-nhơn.
           
          Rousseau vốn cho rằng chủ-quyền quốc-gia đơn-nhứt và tối-cao nên không thể giải-quyết được vấn-đề một cách ổn-thỏa. Vì nếu chủ-quyền của quốc-gia đơn-nhất và tối-cao thì nó không nhìn nhận một quyền-hạn hay một luật-lệ nào trên nó, nó có thể hủy bỏ quyền cá-nhơn một cách tuyệt-đối, và hoàn-toàn trái với nguyên-tắc tự-do cá-nhơn.
           
          Rousseau có thể nêu thêm ý-kiến rằng chủ-quyền quốc-gia chỉ hạn-chế quyền cá-nhơn đến mực cần-thiết cho cho sự ích-lợi chung, và bao giờ cũng thi-hành đúng theo luật-pháp. Nhưng điều này cũng không làm cho ta tiến thêm một bước nào trong việc bảo-đảm tự-do cá-nhơn. Như thế vì ta rất khó mà nêu ra một tiêu-chuẩn rõ rệt để định giới-hạn của sự ích-lợi chung, và chung-qui, vẫn phải để cho quốc-gia phán-đoán và quyết-định về sự ích-lợi chung ấy. Trong trường-hợp đó, nó có thể hiếp-chế cá-nhơn một cách dễ dàng, chỉ cần che đậy sự hiếp-chế này bằng một tố-tụng định sẵn mà thôi.
           
          Xem thế, nguyên-tắc chủ-quyền quốc-gia đơn-nhứt, tối-cao và nguyên-tắc tự-do cá-nhơn đã không hợp nhau, mà lại còn chống chọi nhau nữa. Rousseau có lẽ cũng nhận thấy chổ ấy nên tạo ra một định-lý nữa làm làm luận-chứng cho mình, định-lý về ý muốn chung.
           
          Theo ông, tánh người vốn tốt nên ý muốn chung của người tất-nhiên phải tốt và nhứt-định không thể phạm vào quyền-lợi cá-nhơn được. Ta đã thấy rằng bẩm-tính người không phải tốt như Rousseau lầm tưởng, và cái ý muốn chung của ông cũng rất khó mà có được. Cái mà ông gọi là ý muốn chung thật ra là ý muốn của đa-số, mà cái ý muốn của đa-số này chung-qui cũng chỉ là kết-quả sự hòa-hợp quyền-lợi của các nhóm người trong nước mà thôi. Một khi cái nền tảng của nó là ý muốn chung không đứng vững được, tất cả chủ-trương của Rousseau về chủ-quyền cũng phải sụp đổ theo.
           
          Bởi đó, người ta không thể noi theo Rousseau về vấn-đề này và thuyết phân-quyền của Locke và Montesquieu được áp-dụng nhiều hơn. Đúng như Rousseau nói, sự phân-quyền làm thương-tổn chủ-quyền quốc-gia. Tuy thế, về phương-diện thực-tế, nó bảo-đảm được quyền-lợi cá-nhơn của người và đó là điều đáng kể nhứt cho những người theo chủ-trương dân-chủ.
           
          B.- NhỮng NhưỢc-ĐiỂm CỦa ChỦ-nghĩa Dân-chỦ Tư-sẢn VỀ Phương-diỆn ThỰc-tẾ
          Những tư-tưởng dân-chủ tư-sản được phổ biến và thi-hành trước hết ở ba nước Anh, Hiệp-chúng-quốc Mỹ và Pháp. Ba nước này theo những nguyên-tắc chánh-trị chung nhau, nhưng cũng có nhiều điểm khác nhau trong sự tổ-chức. Trong sự thi-hành những nguyên-tắc dân-chủ, họ đã đi đến những kết-quả hơn kém không giống nhau, một phần vì những chỗ khác nhau trong tổ-chức, một phần vì những điều-kiện địa-dư và kinh-tế riêng biệt cho mỗi nước, và một phần nữa, vì những đặc-tánh dân-tộc của họ.
           
          Dân-chúng Hiệp-chúng-quốc Mỹ là hậu-duệ những phần-tử có tánh mạo-hiểm, ham phiêu-lưu, thích một đời sống tự-do phóng-khoáng, nói tóm lại, là những phần-tử cang-cường bặt-thiệp nhứt của những dân-tộc Âu-châu, nhứt là dân-tộc Anh. Do đó, họ có những đức-tánh hăng hái, quả-cảm, ham hoạt-động và xảo-kỹ của một giống dân trẻ mạnh. Sự nhập-cư mỗi năm lại đưa vào đất họ một số người tháo vát, trốn cảnh cơ-hàn của Cựu lục-địa đến làm ăn, nên họ duy-trì được những tánh-cách trên này. Nhờ sống trên một lãnh-thổ rộng rãi phì-nhiêu, lại chứa đựng hầu hết những khoáng-chất cần-thiết, họ đã xây dựng được một nền kinh-tế thạnh-vượng vững vàng.
           
          Về phương-diện địa-dư, Hiệp-chúng-quốc Mỹ được hai đại-dương rộng bao la là Đại-tây-dương và Thái-bình-dương che chở. Sau khi được người Anh nhìn nhận độc-lập, nước ấy lại gần như luôn luôn liên-minh với nước Anh, một nước đồng-chủng có một hảI-quân rất mạnh. Nhờ đó, trước khi sự phát-minh những phương-tiện giao-thông, thâu hẹp mặt quả địa-cầu lại. Hiệp-chúng-quốc Mỹ được hưởng một sự an-ninh hầu như hoàn-toàn vì không cường-quốc nào có thể uy-hiếp được họ tại chính lãnh-thổ họ.
           
          Về phương-diện chánh-thể, Hiệp-chúng-quốc Mỹ theo chế-độ Tổng-thống. Sự phân-quyền giữa ba cơ-quan: lập-pháp, hành-pháp và tư-pháp rất rõ rệt, và vị Tổng-thống tuy không được trọn quyền, vẫn không đến nỗi tùy thuộc Quốc-hội một cách chặt chẽ quá. Thêm nữa, ông được giữ quyền trong một thời-hạn khá lâu, nên có đủ thì giờ thi-hành chánh-sách mình cho có hiệu-quả.
           
          Dân-tộc Anh là một dân-tộc rất bảo-thủ, rất trầm-tĩnh, song rất thực-tiễn và có một truyền-thống tự-do rất mạnh. Họ đã đặt nền tảng cho chế-độ dân-chủ ở nước họ từ thế-kỷ thứ 13 và từ đó, không ngớt củng-cố và khuếch-trương nền tảng ấy cho vững chắc và to rộng thêm lên. Mặc dầu cũng phải làm cách-mạng để thực-hiện lý-tưởng mình, họ không đi đến những giải-pháp quá-khích, nhờ tánh trầm-tĩnh và thực-tiễn của họ, song cũng nhờ sự già giặn chánh-trị của dân-chúng đã được tham-gia chánh-sự từ lâu, và nhứt là nhờ một trường-hợp đặc-biệt đã nói trên này. Đó là việc nhà vua George đệ nhứt vì không biết tiếng Anh nên giao-quyền cho một vị thủ-tướng, rồi các nhà vua về sau lại khôn ngoan lần lần tự mình nhượng bỏ quyền-hành thật-sự để trị vì mà không cai-trị dân-chúng, làm cho dân-chúng có thể tôn thờ vua mà không sợ vua chuyên-quyền.
           
          Về mặt kinh-tế, nước Anh là nước đầu tiên đi trên đường kỹ-nghệ-hóa. Điều này, phụ thêm vào bá quyền trên mặt biển mà người Anh nắm giữ trong mấy thế-kỷ đã giúp cho nước Anh rất mực hùng-cường. Vị-trí đảo-quốc của nước ấy làm cho các cường-quốc Âu-châu khác khó uy-hiếp được nước ấy và do đó mà không ảnh-hưởng đến tình-hình nộI-trị của nước ấy được.
           
          Về phương-diện chánh-thể, nước Anh theo chế-độ đại-nghị. Quyền tối-cao trong nước theo nguyên-tắc thì thuộc về Nghị-hội, song nhờ chế-độ lưỡng-đảng, chánh-phủ chẳng những có thể đứng vững khá lâu mà lại còn có thể điều-khiển được Nghị-hội nữa, bởi lẽ Thủ-tướng chánh-phủ cũng là người lãnh-tụ của đảng mạnh nhứt trong Nghị-hội. Do đó, chánh-phủ có thể thi-hành được chánh-sách mình một cách đúng đắn và nếu theo nguyên-tắc, Thủ-tướng Anh ít quyền hơn Tổng-thống Mỹ, trong thực-tế, Thủ-tướng Anh lại được nhiều tự-do hơn trong sự hoạt-động của mình.
           
          Nước Pháp ở vào một tình-thế khác hẳn Hiệp-chúng-quốc Mỹ và Anh. Dân Pháp vốn thuộc chủng tộc Latinh là một chủng tộc nóng tánh và cực đoan. Xã-hội Pháp ngày xưa tổ-chức theo lối chuyên-chế, những nhà vua và quí-tộc Pháp nhứt-định không chịu bỏ những đặc-quyền mình, thành ra dân-chúng Pháp phải gây một cuộc cách-mạng đẫm máu để xây dựng nền dân-chủ. Vì nước Pháp ở lục địa Âu-châu, sát nách những cường-quốc khác mà tình-hình chánh-trị bên trong nước Pháp có ảnh-hưởng nhiều đến tình-hình chánh-trị các cường-quốc ấy, nên họ phải cố tìm cách chống chọi lại phong-trào dân-chủ ở Pháp. Các nhà vua Âu-châu đã liên-minh nhau để bênh vực vua Louis thứ 16 và đương đầu với nền Đệ Nhứt Cộng-hòa Pháp. Điều này càng làm cho dân Pháp dễ trở nên quá-khích. Thật sự thì nước Pháp đã phải trải qua không biết bao nhiêu cuộc chiến-đấu, bao nhiều lần hỗn-loạn mới đặt được một chế-độ dân-chủ cộng-hòa vững chắc.
           
          Sự chiến-đấu dai dẳng ấy làm phát-sanh ra những xu-hướng khác nhau, cũng như nhiều đảng phái khác nhau. Những điều trên này thêm vào óc quá-khích và tánh chuộng lý-thuyết của người Pháp khiến cho sự thống-nhứt chí-hướng toàn-dân rất mực khó khăn. Bởi đó, chế-độ đại-nghị của Pháp không được ổn-định bằng chế-độ đại-nghị của Anh. Trong Nghị-hội, có nhiều đảng phái cạnh-tranh nhau mãnh-liệt và chánh-phủ khó đứng vững được lâu. Do đó, những lưu-tệ của chủ-nghĩa dân-chủ tư-sản hiện ra ở Pháp rõ rệt hơn bất cứ ở nước nào khác.
           
          Xét các chế-độ thi-hành ở ba nước Hiệp-chúng-quốc Mỹ, Anh và Pháp, ta có thể nhận thấy rằng chủ-trương dân-chủ không phải hoàn-toàn như những tín-đồ của Locke, Montesquieu và Rousseau lầm tưởng. Sự thi-hành nó có thể đưa một quốc-gia đến nhiều họa hại. Ở những nước có những điều-kiện đặc-biệt thuận-tiện như Hiệp-chúng-quốc Mỹ và Anh, những họa hại này không đến nỗi làm suy-nhược quốc-gia thái-quá, nhưng nó vẫn tồn-tại, và chúng ta không thể không biết đến nó được.
           
          Điểm chung cho tất cả các xã-hội tổ-chức theo chủ-nghĩa dân-chủ tư-sản là chủ-quyền quốc-gia giao cho Nghị-hội nắm giữ. Cứ theo lý-thuyết mà nói, những Nghị-hội gồm các đại-biểu do dân cử phải đại-diện cho ý muốn chung của toàn-thể dân-chúng. Nhưng sự thật đã chỉ tỏ rằng nó chỉ là một trường cạnh-tranh giữa những quyền-lợi cá-nhơn hay đảng-phái. Quần-chúng thường thường dốt nát, dễ tin và chỉ do nơi những lời tuyên-truyền, những câu tuyên-bố của những người ứng-cử mà xét đoán họ. Vì thế, sự đầu-phiếu thường chỉ đưa những kẻ bẻm mép ra nắm chánh-quyền, nếu cử-tri không bị áp lực của chánh-phủ hay của những tổ-chức tài-phiệt mà bỏ thăm cho những vị "chánh-phủ-biểu " hay những vị "tài-phiệt-biểu". Những nghị-sĩ đắc cử, theo nguyên-tắc thì phải lo cho quyền-lợi của nhơn-dân, nhưng trong thực-tế, họ chỉ có một mục-đích duy-nhứt là làm sao được tái-cử khi thời-hạn ủy-nhiệm chấm dứt. Vì lẽ ấy, họ đi đến sự nịnh dân thái-quá, và hành-động họ nhắm vào việc gây ra một dư-luận thuận-tiện cho họ hơn là vào việc làm ích-lợi cho dân-chúng.
           
          Quyền tự-do hội-họp và ngôn-luận đưa đến sự thiết lập những chánh-đảng. Theo nguyên-tắc thi-hành ở những nước dân-chủ cộng-hòa hay quân-chủ lập-hiến đại-nghị, một chánh-phủ muốn đứng vững phải được đa-số nghị-sĩ tán-thành, và cố-nhiên phải được sự ủng-hộ của những chánh-đảng có nhiều nghị-sĩ nhứt trong Nghị-hội. Ở những nước theo chế-độ Tổng-thống như ở Hiệp-chúng-quốc Mỹ, những người tranh-cử Tổng-thống cũng phài được sự ủng-hộ của một chánh-đảng lớn mới mong đắc cử. Do đó các quốc-gia dân-chủ lần lần theo chế-độ đảng-trị, trong ấy các đảng phái cạnh tranh nhau ráo riết. Chương-trình các chánh-đảng lập ra chỉ cốt để lấy lòng dân-chúng và đưa một số đông đảng-viên vào Nghị-hội. Nhiều khi những chương-trình ấy tương-tự nhau, nhưng đảng nào cũng muốn giành sự thi-hành nó về cho mình để lấy lòng tín-nhiệm của quần-chúng và cố tìm cách phá-hoại khi một chánh-đảng khác đứng ra làm việc.
           
          Kết-quả của những sự cạnh tranh đảng phái ấy là lực-lượng quốc-gia phân chia, lòng người ly-tán, quốc-gia suy yếu lần lần. Ở những quốc-gia nhờ một truyền-thống lâu đời mà chỉ có hai đảng như Hiệp-chúng-quốc Mỹ và Anh thì cuộc cạnh tranh đảng phái chỉ mãnh-liệt vào mùa tuyển-cử, còn bình-thường thì nó dịu hơn, và sự họa hại cũng được hạn-chế bớt. Trong những quốc-gia có nhiều đảng phái như Pháp, sự cạnh-tranh có tánh-cách thường-trực và sự hư hỏng không thể lường được.
           
          Thêm vào những lưu-tệ của chế-độ đại-nghị, óc tự-do quá-độ đã đưa người ta đến chủ-nghĩa cá-nhơn ích-kỷ và chủ-nghĩa vô-chánh-phủ làm rối loạn trật-tự ở các nước Âu-châu.
           
          Về mặt kinh-tế, chánh-sách tự-do mậu dịch lần lần biến đổi xã-hội phong-kiến cũ thành ra một xã-hội tư-bản. Sự tự-do dinh-nghiệp đưa đến một sự cạnh-tranh ráo riết giữa các kỹ-nghệ-gia và thương-gia. Những người ít vốn, ngay thật hay thủ cựu, không biết lợi-dụng sự phát-minh cơ-giới tối tân bị đào-thải. Nhiều nhà tiểu-công-nghệ bị thất-nghiệp, nhiều nhà tiểu-tư-sản phá sản trong lúc một ít người sẵn vốn, gian-giảo hay khôn khéo, biết áp-dụng những phương-pháp tối tân trong nghề mình, tạo ra được những sự-nghiệp khổng-lồ.
           
          Những nhà phú-hào mới này lại dùng tài-sản mình để gây thế-lực trong trường chánh-trị hầu bảo-vệ quyền-lợi mình. Họ cũng thừa thế nắm được những nguồn tài-sản trong nước để bắt chẹt những công-nhơn, trả cho thợ thuyền một số lương chết đói. Sự chênh lệch giữa các hạng người trong xã-hội mà người ta tưởng đã tiêu-diệt với xã-hội phong-kiến lại xuất hiện và càng ngày càng lớn mãi ra.
           
          Ngoài những họa hại trên này, sự tự-do về mặt kinh-tế để cho những nhà tư-bản sản-xuất hàng-hóa một cách hỗn-độn theo ý muốn cá-nhơn, theo định-kiến mưu-đồ tư-lợi, lại còn đưa đến những cuộc khủng-hoảng kinh-tế trầm trọng.
          Trong khi đa-số quần-chúng không có những nhu-dụng cần-thiết cho đời sống hàng ngày, ở nhiều nơi, người ta lại đem đốt hay đem đổ xuống biển không biết bao nhiêu hàng-hóa để kềm giữ cho giá bán khỏi sụt xuống. Những cuộc khủng-hoảng kinh-tế tự-nhiên làm phá-sản một số nhà tư-sản, nhưng nó cũng hại đến hạng bần-dân rất nhiều. Nó làm cho đời sống của người lao-động đã đen tối lại còn đen tối hơn nữa.
           
          VI- KẾT-LUẬN VỀ LÝ-THUYẾT DÂN-CHỦ
           
          Lý-thuyết dân-chủ so với các lý-thuyết thần-quyền, đã có một sự tiến-bộ rất lớn ở chỗ nó biết tôn-trọng con người và đặt con người vào địa-vị mà con người xứng đáng được hưởng: địa-vị trung-tâm của mọi tác-động chánh-trị.
           
          Tuy vậy, lý-thuyết dân-chủ vẫn dựa vào những nguyên-tắc không thể chứng-nhận bằng khoa-học hay bằng kinh-nghiệm, mà nhiều khi lại còn mâu-thuẫn cùng nhau. Nó chỉ xuất hiện để đối-phó với một tình-thế đặc-biệt ở xã-hội Âu-châu về thế-kỷ thứ 17 và 18, và thắng-lợi được nhờ sự hủ-bại của chế-độ cũ hơn là nhờ sự đúng đắn của nó. Vì những nhược-điểm của nó, chủ-nghĩa dân-chủ đưa đến những kết-quả hoàn-toàn trái với ý-định nó. Nó muốn lập một chánh-thể đại-diện cho ý muốn chung của dân-chúng mà lại đi đến một chánh-phủ đảng-trị bấp-bênh vì những cuộc cạnh-tranh bè phái. Nó muốn lập một xã-hội công-dân tự-do mà lại đi đến sự giúp vào công việc tạo-lập một chế-độ tư-bản trong ấy sự hiếp-chế bần-dân cũng cay nghiệt chẳng kém gì trong chế-độ cũ.
           
          Để cứu-vãn tình-trạng khốn-đốn do chế-độ tư-bản gây nên, một nhóm người chủ-trương hủy bỏ quyền tư-hữu mà chế-độ dân-chủ trịnh-trọng nhìn nhận là một quyền thiêng liêng bất khả xâm-phạm của con người. Đó là nhóm theo chủ-nghĩa xã-hội, một chủ-nghĩa hiện đang được nhiều người nói đến và rất mực tôn-sùng.
           





          [1] Một phái Thiên-chúa-giáo CảI-lương ở Tô-cách-lan không nhìn nhận quyền-oai của giám-mục, chỉ nhận quyền-oai của các mục-sư.

          [2]  Một chi-phái đặc-biệt của phái Trưởng-lão, có một chủ-trương khổ-khắc và theo sát những huấn-thị của Thánh-kinh.
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 01.01.2010 10:34:26 bởi Sun Ming >
          #4
            Chuyển nhanh đến:

            Thống kê hiện tại

            Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
            Kiểu:
            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9