Vấn đề phát triển loài cây cọ khiết

Tác giả Bài
nhánh lan rừng_27
  • Số bài : 69
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 03.04.2009
  • Nơi: Điện Biên < - > Thanh Hoá
Vấn đề phát triển loài cây cọ khiết - 29.12.2009 14:48:00
VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN CÂY CỌ KHIẾT
Ở HUYỆN MƯỜNG CHÀ – TỈNH ĐIỆN BIÊN
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
                                                                Ngày 29.12.2009
                                                 T/g: Trần Tâm 
       Địa chỉ: Ban Quản lý Rừng Phòng Hộ Huyện Mường Chà, Tỉnh Điện Biên.



            Được sự ưu đãi của thiên nhiên, Việt Nam được coi là một trong những đất nước nhiệt đới giàu có về các nguồn tài nguyên và có tính đa dạng sinh học cao vào bậc nhất thế giới. Sự giàu có ấy chủ yếu thể hiện ở hai hệ sinh thái lớn đó là rừng và biển mà từ xưa, ông cha ta thường nói: “ Rừng vàng, Biển bạc ”. Rừng có ý nghĩa to lớn trong quốc tế dân sinh, rừng là kho chứa những tài nguyên sinh vật, những nguồn gen và các hệ sinh thái vô giá của cả nhân loại, là lá phổi của trái đất, là môi trường sống của tất cả chúng ta.
          Những năm gần đây, dưới sức ép của sự gia tăng dân số, nạn di cư tự do, tập tục phá rừng làm nương rẫy của đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao, do chính sách kinh tế trong giai đoạn mới phải chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng,... Đặc biệt là nạn khai thác ồ ạt, quá mức và việc sử dụng các nguồn tài nguyên bừa bãi, không bền vững đã làm cho các nguồn TNTN cạn kiệt. Tính đa dạng sinh học bị suy thoái trầm trọng, nhiều loài Động – Thực vật quý hiếm giờ đây chỉ còn tồn tại trong sách vở và tài liệu. Theo thống kê của Cục Kiểm Lâm, chỉ tính từ năm 1991 đến tháng 10/2008 nguồn tài nguyên “ Rừng Vàng ” của nước ta đã bị mất 399.118 ha, bình quân mất 57.019 ha/năm. Nhận thức rõ vai trò và ý nghĩa to lớn của rừng cũng như tình trạng rừng ngày một suy giảm hiện nay, Đảng, Chính phủ, Bộ Nông nghiệp & PTNN cùng toàn thể cộng đồng đã sớm có những hành động để bảo vệ và phát triển rừng.
             Song song với chủ trương đóng cửa rừng tự nhiên và ban hành các bộ luật trong lĩnh vực lâm  nghiệp như: Luật bảo vệ và phát triển rừng ( Sửa đổi năm 2004 ); Quy định về Đa dạng sinh học; Tham gia Công ước Cites, Nghị định thư Kyoto;... Ban hành nhiều cơ chế QLBV rừng như: Quyết định 245/1998/QQĐ- TTg ngày 25/11/1998 quy định trách nhiệm quản lý nhà nước của các cấp về rừng và đất lâm nghiệp; Quyết định số 187/1999/QĐ- TTg về việc đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý Lâm trường quốc doanh; Quyết định số 178/2001/QĐ- TTg ngày 12/01/2001, chính sách về quyền hưởng lợi của chủ rừng và người nhận khoán bảo vệ rừng;...Thì việc triển khai thực hiện những chương trình, dự án trọng điểm quốc gia như: Chương trình 327, chương trình 661 làm cho diện tích rừng tăng lên nhanh chóng do khoanh nuôi, xúc tiến tái sinh tự nhiên và trồng mới những năm qua luôn cao hơn diện tích rừng bị suy giảm ( Theo số liệu của Tổng cục Thống kê: Diện tích rừng trồng tập trung cả nước 05 tháng đầu năm 2009 ước đạt 45,8 nghìn ha; Số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 89,5 triệu cây ).
            Việc xác định chủng loại và cơ cấu cây trồng rừng, đặc biệt là các loài cây có giá trị về nhiều mặt, có đặc tính sinh thái phù hợp với điều kiện lập địa, được ưu tiên gây trồng trên diện tích rộng là một vấn đề rất quan trọng, được chủ dự án trồng rừng ở các tỉnh hết sức quan tâm. Trong “ Hội thảo Quốc gia về loài cây ưu tiên trong trồng rừng ”, diễn ra hai ngày từ 7- 8/9/2000 tại Hà Nội do Bộ Nông nghiệp & PTNT phối hợp với Công ty giống Lâm nghiệp Trung ương tổ chức, đã đưa ra: Danh mục các loài cây trồng rừng tại các vùng lâm nghiệp với 192 loài, danh mục các loài cây ưu tiên cho trồng rừng trong toàn quốc với 57 loài và Danh mục các loài cây ưu tiên cho bảo tồn với 63 loài. Điều này có ý nghĩa to lớn trong quá trình triển khai, thực hiện Dự án trồng mới 5 triệu ha trên toàn quốc.
              Cây Cọ Khiết ( Có tên khoa học: Dalbergia Hupeana - Thuộc họ: Leguminoseae ) là loài cây họ đậu bản địa của tỉnh Điện Biên, chủ yếu phân bố tự nhiên tại các xã: Sa Lông, Ma Thì Hồ, Huổi Lèng, Hừa Ngài,... huyện Mường Chà. Đây là loài cây được ngoài dân địa phương gây trồng làm cây chủ thả cánh kiến đỏ, phát triển ngành Lâm sản ngoài gỗ từ lâu đời. Đây cũng là loài cây được Sở Nông nghiệp & PTNT Tỉnh Điện Biên, Chi cục Lâm nghiệp tỉnh Điện Biên chọn là loài cây trong thiết kế trồng rừng sản xuất, trồng rừng phòng hộ cho Dự án QHPT rừng phòng hộ Nậm Mức huyện Mường Chà và Sông Đà Thị xã Mường Lay.
                 Là một loài dễ gây trồng, Cọ Khiết có thể nhân giống bằng cách gieo hạt và giâm hom cành rễ, sinh trưởng và phát triển nhanh. Nhưng trong những năm gần đây do thị trường tiêu thụ cánh kiến đỏ mất giá, làm tâm lý người sản xuất chán nản, không còn quan tâm đến ngành nghề truyền thống. Diện tích rừng Cọ Khiết bị thu hẹp nhanh chóng do người dân địa phương chuyển đổi loài cây trồng và sử dụng vào nhiều mục đích khác.
                   Loài cây Cọ Khiết hiện nay đang được Sở Nông nghiệp & PTNT tỉnh Điện Biên, Chi Cục Lâm Ngiệp tỉnh Điên Biên chú trọng, quan tâm lựa chọn là loài cây trong quy hoạch thiết kế trồng rừng sản xuất và phòng hộ của chương trình 661, dự án trọng điểm của Quốc Gia. Điều đó mở ra cơ hội tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện quy trình kỹ thuật công tác nhân giống, trồng và chăm sóc loài cây này. Đó cũng là cơ hội cũng như thách thức trong việc thúc đẩy sự phát triển của nghề nuôi thả cánh kiến đỏ truyền thống của huyện Mường Chà, tỉnh Điện Biên./.        
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.04.2010 15:14:05 bởi nhánh lan rừng_27 >
Thơ tôi viết vốn chẳng hay
Dăm vần lục bát giải bày tâm tư...
-----------------------------------------

nhánh lan rừng_27
  • Số bài : 69
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 03.04.2009
  • Nơi: Điện Biên < - > Thanh Hoá
Tổng quan vấn đề nghiên cứu Cánh kiến đỏ - 29.12.2009 14:56:00
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
CÁNH KIẾN ĐỎ
---------------------------------------------------------------------
                                                          T/giả: Trần Tâm


 
         1. Lịch sử sản xuất cánh kiến đỏ
          Sản phẩm nhựa cánh kiến đỏ ( Shellac ) được xếp vào mặt hàng “ Lâm, thổ sản ” quý hiếm của không chỉ ở nước ta mà còn đối với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Được dùng nhiều trong công nghiệp Vecni, sơn cách điện cao cấp cho máy bay, đồ điện tử, những sản phẩm có khả năng chịu nhiệt cao, chịu axít, chịu tác động khắc nghiệt của môi trường, dùng trong mỹ phẩm, dược phẩm, sản xuất nilon tự hủy,...
          Từ ngày xưa đến nay, nghề nuôi thả và chế biến cánh kiến đã trở thành một thương hiệu lớn của các nước Nam Á – Châu Á. Các nước sản xuất cánh kiến đỏ lớn hiện nay trên thế giới hiện nay là: Ấn Độ, Việt Nam, Thái Lan, Trung Quốc,... Trong đó, Ấn độ và Thái Lan là hai nước có tiềm năng sản xuất nhựa nhiều nhất, sản lượng nhựa cánh kiến của hai nước này chiếm tới 80 – 90% sản lượng nhựa của toàn thế giới. Trong thời gian giữa hai năm 1956, 1957 riêng Ấn Độ đã xuất cảng đến 43.000 tấn nhựa cánh kiến. Còn thời gian trong giữa hai năm 1995 và 1996, Ấn Độ cũng xuất cảng được gần 9.000 tấn nhựa cánh kiến.
          Ở việt Nam, nhựa cánh kiến đỏ được sử dụng từ lâu đời làm chất nhuộm các tấm vải, nhuộm răng cho phụ nữ,... Theo nhiều tài liệu nghiên cứu  ( Lê Văn Giai  - 1976 ) cho thấy, việc sử dụng nhựa cánh kiến trong cuộc sống xuất hiện ở nước ta cách đây khoảng hơn 300 năm. Những năm 70, 80 của thế kỷ XX, Nhà nước ta đã đầu tư phát triển hàng loạt các Lâm trường Quốc doanh trồng rừng nuôi thả cánh kiến và sản phẩm nhựa cánh kiến đỏ là mặt hàng xuất khẩu giữ vị trí quan trọng của Việt Nam sang thị trường Liên Xô. Những Lâm trường điển hình trong thời gian này là: Lâm trường Mường Lát – Thanh Hóa, Lâm trường Tương Dương, Kỳ Sơn – Nghệ An, Lâm trường Mai Châu – Hòa Bình, Lâm trường Đặc Sản – Điện Biên, ....
          Từ năm 2000 đến nay, nhu cầu thị trường nhựa cánh kiến đỏ nước ta có xu hướng tăng lên. Nhiều người đã thu gom cánh kiến đỏ cung cấp cho các cơ sở chế biến trong nước và xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc theo đường tiểu ngạch. Năm 2006 tỉnh Điện Biên đã sản xuất và bán được 130 tấn, chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc. Giá bán nhựa thô cánh kiến ở các địa phương lên xuống thất thường từng năm. Tại Hà Nội tăng từ 7.000 đồng/kg ( Năm 2000 ) lên 55.000 đồng/kg ( Năm 2006 ). Tại huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa giá cánh kiến đỏ tăng từ 5.000 đồng/kg ( Năm 2000 ) lên 35.000 đồng/kg ( Tháng 2 năm 2007 ). Còn tại huyện Mường Chà, tỉnh Điện Biên giá bán hiện nay dao động từ 19.000 – 20.000 đồng/kg ( Tháng 11 năm 2009 ). Giá bán nhựa cánh kiến và thị trường tiêu thụ không ổn định tạo tâm lý không tốt cho người trồng cũng như sản xuất cánh kiến nước ta hiện nay, người dân vẫn chưa yên tâm phát triển nghề.
          2. Các công trình nghiên cứu về cánh kiến đỏ
        2.1. Trên thế giới
          Là nước có lịch sử phát triển nghề nuôi thả và chế biến nhựa cánh kiến lâu đời nhất thế giới, Ấn Độ là nước đầu tiên trên thế giới thành lập được       “ Viện nghiên cứu cánh kiến đỏ - Năm 1925 ”. Sự ra đời của viện đánh dấu sự phát triển vượt bậc cũng như góp phần thúc đẩy việc nghiên cứu về cánh kiến đỏ của Quốc gia này nói riêng và của cả thế giới. Theo thống kê của viện này cho đến năm 1983, có đến 4000 tài liệu được công bố về rệp cánh kiến đỏ, cây chủ, kỹ thuật nuôi thả và phòng trừ sâu bệnh hại.
          Những tác giã đầu tiên nghiên cứu về cánh kiến đỏ trên thế giới phải kể đến là: Tachard ( 1709 ), Kerr ( 1781 ), Mirsa ( 1929 ), P.S.Teotia và Majundar ( 1967 ), G.P Luxikhia ( 1968 ),... Nghiên cứu cánh kiến là một đề tài rất rộng, nó bao gồm nhiều nội dung và khía cạnh khác nhau vì vậy đối với từng nội dung cụ thể mà có những công trình với những mục tiêu nghiên cứu khác nhau. Những khía cạnh chủ yếu mà các nhà khoa học quan tâm khi nghiên cứu là: Tính năng, tác dụng và ứng dụng của nhựa cánh kiến đỏ; Đặc điểm sinh thái – sinh vật học; Sâu bệnh hại và cây chủ thả cánh kiến; Sự phân bố và kỹ thuật nhân giống các loài cây chủ thả cánh kiến. Cụ thể như sau:
          *) Nghiên cứu về cây chủ và kỹ thuật nuôi thả cánh kiến đỏ có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu:
          Tại Ấn Độ có các tác giả: Nisra ( 1929 ), Nirit ( 1937 ), Singh ( 1956 ), Nel.Ronwal và N.B.Raizada ( 1958 ),... Hầu hết các tác giả đã đi sâu nghiên cứu các biện pháp chọn giống, bảo tồn, biện pháp giữ và nâng cao sản lượng giống tại Ấn Độ.  Theo các tác giả thì: “ Một trong những nhân tố chính làm cản trở việc giữ vững sản xuất cánh kiến đỏ tại Ấn Độ là thiếu tổ giống, nhất là vào vụ mất mùa kiệt. Hiện tượng này thường do các trận mưa kéo dài và nóng ắc liệt của mùa hè ”.
Nirit ( 1937 ) đã  nghiên cứu thử nghiệm biện pháp giữ giống và nâng cao sản lượng ở vụ mùa hè trên các loài cây Táo dại và Riềng riềng.
Lassan ( 1936 ) đã nghiên cứu về khả năng lựa chọn thức ăn của cây chủ và tương quan giữa lượng thức ăn của cây chủ và tương quan giữa lượng thức ăn bón cho cây chủ với sản lượng cánh kiến đỏ có trên cây, nhằm nâng cao năng suất cánh kiến đỏ.
          *) Nghiên cứu về đặc điểm sinh vật học, sinh thái học cũng có những công trình và tác giả nghiên cứu quan trọng như:
          Mirsa ( 1929 ), P.M Glover ( 1932 ) đã nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ, độ ẩm đến sinh trưởng và phát triển của cánh kiến đỏ. Các tác giả đã khẳng định: Mùa hè, nhiệt độ dưới 17oC và mùa đông nhiệt độ dưới 150C thì con cái không đẻ trứng. Độ ẩm tương đối của không khí từ 50 – 90% là điều kiện cần thiết đối với đời sống của cánh kiến đỏ.
          Tác giả R.Majumdar và A.Bhattacharya ( 1968 ) thì cho rằng: Ảnh hưởng của khí hậu không chỉ tác động trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của một thế hệ mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến 2 – 3 thế hệ sau thông qua quá trình sinh sản của chúng.
          *) Nghiên cứu sự biến động của quần thể và nguyên nhân chính gây ra hiện tượng mất màu các tác giả: Mirsa, Glover ( 1932 ), Mahdi hasan                   ( 1933 ), Haumdar và Bhattacharya ( 1968 ) đã có những đóng góp quan trọng.
          *) Những nghiên cứu về tính năng tác dụng của nhựa cánh kiến đỏ đã chỉ ra rằng: Nhựa cánh kiến đỏ là một hợp chất trong đó chất nhựa chiếm nhiều nhất từ 70 – 80%; Chất màu chiếm từ 5 – 7%; Chất sáp chiếm từ 3 – 5%; Các chất đường, muối khoáng, protein chiếm khoảng 4 – 5% còn lại là các tạp chất.
          *) Nghiên cứu về Sâu bệnh hại cánh kiến đỏ có các tác giả: Moore        ( 1887 ), Meyrick ( 1907 ) đã phát hiện ra hai loài sâu chính là Eublemma amabilis và Holcocera pulvera. Đến nay các tác giả đã phát hiện ra: 29 loài gây hại cho rệp cánh kiến đỏ, trong đó 24 loài côn trùng và 5 loài động vật có xương sống. Hầu hết các công trình nghiên cứu đưa ra các giải pháp phòng trừ là chính. Các biện pháp phòng trừ được các tác giả đưa ra là: Biện pháp chăm sóc cải tạo cây chủ ( Chọn giống cải tạo tán, tỉa thưa và bón phân ), tuyển giống rệp tốt, thu bã giống kịp thời, diệt trừ nguồn gốc gây hại ngay từ tổ giống. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu còn đưa ra một số loại hóa chất như: Malathion, DDT, Metyl parathion,... giúp tiêu diệt sâu bệnh hại cho rệp cánh kiến có hiệu quả.
          2.2. Ở Việt Nam
          Ở Việt Nam, Các công trình nghiên cứu đầu tiên được xuất bản vào  năm 1960 của các tác giả: Thái Văn Trừng, Nguyễn Đức Khảm ( 1976 ), Đặng Văn A và Hà Văn Thi ( 1978 ); Nguyễn Đức Khảm và Đặng Văn A        ( 1970 – 1985 ) đã nghiên cứu sự phát triển bên ngoài tổ nhựa ( Điểm vàng, vết nứt tổ và hình thái sợi sáp ) liên hệ với thời gian phát triển của phôi, làm cơ sở cho việc dự đoán thời gian thiếu trùng nở.
          Các tác giả: Phùng Tiến Huy, Lương Gia Thụy, Thân Văn Cảnh ( 1968 – 1985 ) đã nghiên cứu kỹ thuật tạo cây chủ, gieo ươm và trồng rừng cây chủ thả cánh kiến đỏ như Cọ phèn, cọ khiết, đậu thiều. Tiến sĩ Thái Văn Trừng cùng các cộng sự đã có những công trình ngiên cứu về cánh kiến đỏ tại huyện Ngọc Lạc – tỉnh Thanh Hóa ( Năm 1971 – 1973 ) Và ở huyện Quan Hóa         ( Năm 1974 – 1977 ).
          Tác giả Lê Văn Giai ( 1960 ) đã tổng kết một số kinh nghiệm sản xuất cánh kiến đỏ. Kỹ thuật buộc giống, định lượng thả, kỹ thuật thả được       Đặng Văn A ( 1976 – 1985 ) nghiên cứu và đưa vào áp dụng tại các Lâm trường sản xuất cánh kiến đỏ lúc bấy giờ.
          Các tác giả: Ngô Huấn Kỷ ( 1961 ), Vũ Văn Hon ( 1987 ) đã biên soạn tài liệu thống kê được 10 loài cây chủ thả cánh kiến đỏ ở khu vực Đông Nam Á. Theo Vũ  Đức sinh ( 1956 ) đã thống kê được hơn 200 loài cây có khả năng cho rệp cánh kiến đỏ ký sinh và phát triển.
          Nghiên cứu về sâu bệnh hại cánh kiến đỏ ở nước ta được các tác giả quan tâm từ những năm 1970: Lê Thị Phi đã nghiên cứu về quần xã sinh vật sống ở trên tổ nhựa cánh kiến đỏ và thu được 22 loài. Theo Lê Nam Hùng      ( 1973 – 1985 ) ở Lương Sơn – Hòa Bình có 5 thế hệ Eublemma amabilis trong một năm, tác giả cũng đề xuất các biện pháp phòng trừ. Theo Đặng văn A và Hà Văn Thi ( 1985 ) tại Thanh Hóa và Nghệ An có 5 lứa bướm trắng/năm.
Tác giả Lê Thị Phi và Thân Đức Nhả ( 1985 ) đã nghiên cứu các biện pháp phòng trừ bằng sinh học và cũng đã thử độ mẫn cảm của Eublemma amabilis đối với chế phẩm Bacterin do công ty kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh sản xuất. Kết quả cho thấy: 100% sâu chết sau khi phun chế phẩm này ở nồng độ 0,5%.
          Tóm lại, hầu hết các công trình nghiên cứu về cánh kiến đỏ của các nhà khoa học Việt Nam từ trước đến nay chủ yếu tập trung nghiên cứu về đặc điểm sinh thái – sinh vật học của cây chủ, kỹ thuật trồng cây chủ và thả cánh kiến, sự phân bố và thống kê số lượng các loài cây chủ thả cánh kiến. Các công trình nghiên cứu về các loại sâu bệnh hại và biện pháp phòng trừ chưa có công trình lớn và ứng dụng thực tiễn rộng khắp ở các địa phương.

<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.04.2010 15:19:38 bởi nhánh lan rừng_27 >
Thơ tôi viết vốn chẳng hay
Dăm vần lục bát giải bày tâm tư...
-----------------------------------------

nhánh lan rừng_27
  • Số bài : 69
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 03.04.2009
  • Nơi: Điện Biên < - > Thanh Hoá
RE: Vấn đề phát triển loài cây cọ khiết - 21.12.2011 16:19:19
NỖI NIỀM CÁNH KIẾN ĐỎ
--------------------------------
                                               Ngày 17.11.2011
                                               Trần Tâm


          Khi thực hiện bài viết này tôi đã có nhiều ngày đêm trải nghiệm tại Huổi Lèng và Mường Tùng. Cái cảnh từng tốp người đi xe máy phía sau trở những bó củi lớn bé, rồng rắn nhau đi về phía TX. Mường Lay đã trở nên quá đỗi quen thuộc.
Chất đốt là một nhu cầu tất yếu trong cuộc sống, đối với đồng bào dân tộc Tây Bắc thì hoạt động “ Lấy củi” gần như là một bản năng sống. Ngay thời còn thơ bé, các cô cậu bé vùng cao khi mới cất tiếng khóc trào đời đã được chính cái hơi ấm từ củi sưởi ấm trong những đêm đông giá rét. Khi lớn hơn một chút biết cắp sách tới trường thì ngoài việc đi học cái chữ thì công việc đầu tiên bố mẹ giao cho có lẽ là lên rừng lấy củi. Như vậy hoạt động “ Lấy củi” đã trở nên rất thân quen và gần gủi đối với người dân tộc vùng cao, chỉ khi họ về với đất thì công việc này có lẽ mới chấm dứt…
“ Lấy củi” là một việc làm không hề xấu xa mà ngược lại nó còn thể hiện cái bản chất cần cù, chịu khó của người vùng cao tuy nhiên chỉ khi làm công việc này đúng với cái nghĩa của nó. Tức là chỉ được phép vào rừng lấy những cành khô lá rụng, cây chết tự nhiên mà không làm ảnh hưởng đến rừng thì đấy được coi là lấy củi. Những hoạt động khác như tự ý vào rừng hạ cây để chết khô mục hoặc chặt hạ rồi cắt khúc những cây đang sống biến nó thành củi thì đấy là hành vi vi phạm lâm luật. Tôi quan sát thấy những tốp người này có lẽ hầu hết đều là những người lách luật hay cố tình vi phạm lâm luật vì họ đã lợi dụng hoạt động lấy củi thông thường để che dấu hành vi chiệt hạ rừng của mình. Những khu rừng sẽ chết dần chết mòn vì họ…
             Đau lòng hơn là họ đang giết hại những loài cây đặc sản đã và đang nuôi sống chính họ, con cháu họ bao đời nay như cây Cọ Khiết ( hay còn gọi là cây cánh kiến đỏ ). Đây là loài cây thuộc họ đậu ( Fagacea ) có tên khoa học là Dalbergia hupeana Varlacifera là cây chủ để thả cánh kiến đỏ phân bố chủ yếu ở các xã Sa Lông, Huổi Lèng, Hừa Ngài, Ma Thì Hồ và Mường Tùng. Chính vì vậy, cọ khiết được xem là loài cây bản địa của huyện Mường Chà. Là người làm công tác lâm nghiệp đã nhiều năm nay tôi rất quan tâm đến sự phát triển của loài này và thị trường cánh kiến đỏ chính vì vậy tôi khá hiểu giá thu mua cánh kiến của thương lái tại địa phương, đang có xu hướng tăng cao trong những năm gần đây. Cụ thể là qua phỏng vấn trực tiếp nhiều hộ gia đình sản xuất cánh kiến đỏ tại địa phương thì giá biến động như sau:
-         Năm 2009 giá bán từ: 18.000 – 20.000 đồng/kg.
-         Năm 2010 giá bán từ: 60.000 – 63.000 đồng/kg.
-         Năm 2011 giá bán từ: 230.000 – 280.000 đồng/kg.
Như vậy, năm 2011 giá cánh kiến đỏ tăng đột biến. Đây là tín hiệu vui hay buồn? Tôi nghĩ là buồn thì nhiều hơn vì nó nói lên một thực tế đó là sản lượng cánh kiến đang có chiều hướng giảm sút nhanh. Vậy thì nguyên nhân là do đâu? Câu trả lời là do chính cái hoạt động “ lấy củi” đã nói ở trên.
              Đáng buồn hơn khi giá cánh kiến đỏ tăng đột biến trong năm nay thì lại xuất hiện những tốp người lũ lượt đổ về Huổi Lèng, Sa Lông để “ cướp” cánh kiến đỏ của những hộ gia đình đã bỏ nhiều mồ hôi nước mắt từ lúc ươm cây giống, đem trồng, bảo vệ rừng và đem thả kiến, rồi mất ăn mất ngủ để đợi ngày “ Kiến nở đỏ” trên cây thì đột nhiên bị cướp trắng. Một cái “ Vòng luẩn quẩn” bỗng nhiên xuất hiện đó là khi cánh kiến đỏ bị cạo trắng đem bán thì nhiều hộ sẽ lâm vào tình trạng mất giống thả vào mùa vụ năm sau, dẫn đến giá lại tăng cao đến lúc đó có khi chính những kẻ chủ mưu vì hám cái lợi nhuận trước mắt lại bắt tay vào việc trồng lại những rừng cọ khiết… Nếu điều đó xảy ra thì xem như họ biết hoàn lương chỉ sợ một điều có khi họ lại trở thành những tên cướp chuyên nghiệp!
Những năm qua với sự nỗ lực của tỉnh Điện Biên, Sở Nông nghiệp & PTNT trong việc thúc đẩy việc trồng mới để mở rộng diện tích rừng cánh kiến tại huyện Mường Chà bằng việc nâng cao các chính sách hỗ trợ cho người dân tham gia trồng rừng cụ thể như:
- Ban hành định mức suất đầu tư hỗ trợ phát triển và bảo vệ rừng giai đoạn 2011- 2015 theo Quyết định số 10/2011/QĐ – UBND, ngày 22/4/2011 của UBND tỉnh Điện Biên đã nâng suất đầu tư hỗ trợ trồng rừng phòng hộ lên 15 triệu đồng/ha. Bảo vệ và KNTS rừng cũng được nâng lên từ 100.000 đ thành 200.000 đồng/ha
- Tiếp nữa là, thực hiện chính sách trợ cấp gạo cho đồng bào dân tộc thiểu số tham gia trồng rừng sản xuất và phòng hộ thay thế nương rẫy đã bạc màu. Đến nay bước sang năm thứ 3 thực hiện đã thu được những tín hiệu vui, thiết thực và đáng khích lệ. Đây chính là những biện pháp chỉ đạo kịp thời của Lãnh đạo các cấp nhằm thực hiện chương trình kế hoạch trồng mới 5 triệu ha rừng, thúc đẩy sự phát triển ngành Lâm nghiệp nói chung và phát triển – bảo tồn nghề nuôi thả cánh kiến đỏ tại địa phương nói riêng.
            Ban quản lý RPH huyện Mường Chà nỗi lên như một nhân tố điển hình trong việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng đã đem chính sách hỗ trợ phát triển rừng đến các địa phương trong huyện. Từ năm 2009 đến nay đã thực hiện nhiệm vụ “ Trồng rừng phòng hộ và sản xuất thay thế diện tích nương rẫy bạc màu của đồng bào dân tộc thiểu số” và triển khai chính sách trợ cấp gạo cho đồng bào dân tộc tham gia trồng rừng tại các xã Mường Mươn, Ma Thì Hồ, Sa Lông và Huổi Lèng của huyện Mường Chà thu được những kết quả đáng mừng đó là: Trong toàn huyện có 78 hộ với 462 nhân khẩu đã tham gia trồng 113,8 ha rừng phòng hộ & sản xuất thay thế nương rẫy bạc màu, hàng năm cấp gần 59 tấn gạo cho đồng bào cho đến khi rừng khép tán ( trong 7 năm ). Mới bước sang năm thứ 3 thực hiện nhưng đã xuất hiện những hộ có thu nhập đầu tiên từ việc thả cánh kiến đỏ trên diện tích rừng trồng của mình.
          Thiết nghĩ để phát triển Ngành Lâm nghiệp bền vững thì song song với việc phát triển diện tích rừng cánh kiến như mô hình của Ban QLRPH đã thực hiện cần biểu dương và nhân rộng, ngoài ra cần bổ sung các chế tài xử phạt hợp lý để siết chặt hơn các biện pháp quản lý bảo vệ rừng bắt những đối tượng xâm hại rừng phải cúi đầu chịu tội trước pháp luật thì vốn rừng hiện có sẽ không bị xâm hại thêm. Lúc ấy các hộ sẽ yên tâm sản xuất hơn còn những người tâm huyết với nghề sẽ được động viên và không còn cảm thấy đơn độc. Khi đó màu xanh của rừng và màu nâu đỏ của cánh kiến sẽ là hai màu chính trong “ Bức tranh no ấm ” của người dân địa phương./.  
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.12.2011 16:20:49 bởi nhánh lan rừng_27 >
Thơ tôi viết vốn chẳng hay
Dăm vần lục bát giải bày tâm tư...
-----------------------------------------

nhánh lan rừng_27
  • Số bài : 69
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 03.04.2009
  • Nơi: Điện Biên < - > Thanh Hoá
RE: Vấn đề phát triển loài cây cọ khiết - 21.12.2011 16:22:54
  NHỮNG BÓNG MA RỪNG

------------------------------------
                                      Ngày 04.12.2011
                                      Trần Tâm



          Cái dáng tiều tụy, tiêu điều của hắn trông giống như cái cột nhà bị cháy dở, vừa đen bẩn lại thêm phần nhếch nhác bởi bộ quần áo đang mặc. Chắc lâu rồi hắn không thay nên màu áo trông rất giống màu đất.
          Cái túp lều mà hắn ở thì xiêu vẹo, dúm dó như muốn nằm kềnh ra mặt đất bất cứ lúc nào. Mặc dù nằm cạnh đường quốc lộ nhưng phải nhìn kỹ mới nhận ra vì nó vốn nhỏ bé lại càng trở nên bé nhỏ dưới tán rừng cánh kiến và trước cái không gian hùng vĩ của núi rừng Huổi Lèng.
          Trời vừa nhá nhem tối, những chuyến xe cứ lao vùn vụt về phía Thị trấn Mường Chà và đi ngược về TX. Mường Lay giống như những chú dê núi đang vội vã tìm về nhà sau một ngày mệt mỏi. Trong ánh đèn xe chói lóa, tôi vẫn nhận ra cái dáng liêu xiêu của hắn. Hình như hôm nay hắn có bạn? Sao trông giống nó thế? Hai cái bóng lẫn khuất nhanh trong bóng chiều nhá nhem.
          Trời mùa đông ở trên rừng lại càng nhanh tối, lúc chiều tôi vừa tranh thủ cuốc được hai luống đất để vải rau cải quay đi quẩn lại nhặt sạch cỏ trời đã tối sập. Tôi vội vàng đi tắm rồi chuẩn bị cơm nước, hôm nay lại một mình… Những đợt gió mùa tăng cường vụt qua làm tôi ớn lạnh sống lưng, mới sáu giờ chiều mà đã tối mịt. Tôi ăn vội bát cơm rồi đứng lên, ăn một mình khó vào quá.
          Ánh trăng non đầu tháng mười một lờ mờ hòa quện với màu trắng mù mù của những làn sương đang sà xuống cánh rừng làm cho không gian càng trở nên huyền bí. Thi thoảng vẫn thấy có bóng người thất thểu, lững thửng đi trên đường chắc là đi rừng về muộn? Mùa này cây cánh kiến đang rụng lá, những chùm quả chín già khô xám lẫn vào tán lá cây rất khó phân biệt đâu là quả đâu là lá khô. Nếu không thu hái kịp thì chỉ một cơn gió nhẹ là có thể tuốt sạch quả trên cây. Cái giống cây này là vậy, cọ khiết thuộc họ đậu nên quả của nó là kiểu quả đậu trông giống quả đậu ván non nhưng mỏng dẹt như lá của nó vậy vì thế mà nhờ gió có thể khuếch tán quả hạt đi xa.
          Đang nhấp chén trà nóng bên anh hàng xóm thì chợt có tiếng chó sủa, chúng tôi đưa mắt nhìn ra ngoài nhưng chỉ thấy một khoảng tối vô tận. Con chó như sợ hãi một điều gì đó cứ chạy thụt lùi rồi im bặt, bỗng nhiên hắn xuất hiện trước mặt chúng tôi trên vai còn đeo theo cái túi, hình như có vật gì cồm cộm bên trong … Hắn không chào hỏi ai cứ vừa nói vừa làm rất tự nhiên, gọi anh chủ nhà mang chiếc cân ra rồi lấy một bọc nilon trong cái túi ra đặt lên bàn cân. Thì ra là cánh kiến đỏ… Hắn cười hả hê khoe hàm răng lởm chởm, ố vàng vì khói thuốc rồi nói:
        - Hôm nay tao hạ được một cây, nhìn cân xem được bao nhiêu hả?
        - Một cân tám nhưng kiến xấu quá, toàn rác thôi. Ba trăm rưỡi nhé? Tiếng anh chủ nhà đáp lại nó. Lại cái vẻ mặt nhơn nhơn hắn lại hớn hở kể tiếp:
        - Hôm nay tao mà đi sớm thì sẽ hạ thêm được một cây nữa, cây này còn nhiều “ kiến” hơn có khi sáng mai tao phải đi sớm để hạ ngay không thì chúng nó hạ mất. Lúc về tao thấy có hai thằng đang quanh quẩn ở đấy.
Hắn bắn một bi thuốc lào, ánh mắt đờ đẫn rồi nhả khói trắng xóa như những làn sương muối đang dày đặc ở cánh rừng trước mặt. Lấy tiền xong hắn vơ vội cái túi rồi đeo chéo ngang ngực, phút chốc biến mất vào bóng tối.
Tôi có nghe kể rằng khu vực này ngày xưa đông vui lắm vì vốn là nơi đóng đô của một đội sản xất có đến mấy chục người thuộc Lâm Trường chuyên trồng rừng và khai thác cánh kiến đỏ. Đến năm 1996 ông trời nỗi giận tạo thành cơn lũ cuốn phăng tất cả, chết nhiều người lắm mà chủ yếu là công nhân Lâm trường. Lũ về lúc nữa đêm không ai kịp chạy mà có chạy thì cũng khó thoát khỏi họa trời. Ở đây giờ thì không còn ai ở nữa ngoài gia đình anh hàng xóm và anh em hắn. Sau đợt lũ ấy có người thì sơ tán xuống huyện, có người lại chuyển về Thành phố Điện Biên Phủ … làm ăn và sinh sống. Nghe nói bố mẹ hắn vốn là công nhân của Lâm trường về hưu còn hắn là một thầy giáo cấp 2 đã có một vợ và một con. Do công tác ở vùng sâu hẻo lánh và có lẽ bản lĩnh thấp nên hắn đã bị “ Nàng tiên nâu” cướp mất hồn. Hắn bị phát hiện và bị đuổi việc còn mẹ và vợ con hắn rồi cũng rời xa hắn… Bây giờ trong túp lều tềnh toàng kia chỉ có hai anh em nó bầu bạn với nhau, sống dựa vào chiến lợi phẩm từ những cuộc trộm cắp và làm lâm tặc. Đến giờ anh em hắn đã trở thành nỗi kinh hoàng của nhiều gia đình gần đây và khu vực lân cận.
Anh chủ nhà đánh thức tôi khi đang miên man suy nghĩ về hắn, bằng cái giọng ồm ồm anh lại thao thao kể tiếp:
       - Đêm hôm trước hai anh em nó đã hô biến mấy trăm mét vuông lúa nương chín của một nhà bản bên. Anh lại gật gù …
       - Anh em nó “ giỏi thật ”! Chỉ có một đêm sáng trăng mà hôm sau đã thấy chở thóc đi bán.
       - Nếu là anh em mình chắc chịu chú nhỉ?
Tôi chợt rùng mình, không hiểu sao anh chủ nhà lại đưa tôi vào trường hợp đấy? Tôi nghĩ bụng hay ho gì cái trò trộm cắp nhỉ! Có lẽ anh ta bất ngờ vì khả năng trộm nhanh đến phi thường của anh em hắn. Tôi cũng ậm ờ cho qua chuyện rồi từ giã ra về.
Từ dạo đó tôi trở nên cảnh giác hơn. Chúng tôi ở cách chỗ anh em hắn cũng không xa nên muốn không để ý nhau cũng khó. Tôi biết nhiều lúc mình lọt vào ánh những ánh mắt theo dõi, dò xét của anh em hắn và ngược lại. Mặc kệ chúng việc mình, mình cứ làm tôi nghĩ vậy. Đôi khi những hoạt động lén lút của anh em hắn cũng vô tình đập vào mắt tôi. Chúng nó đích thị là những tên Lâm tặc và trộm cắp chuyên nghiệp! Tôi vẫn thấy hắn chở những tấm gỗ còn rỉ nhựa đi bán, có những hôm đợi cho trời tối hắn cùng đồng bọn dùng xe kéo chở những cột nhà to như cái xô nước đem bán cho các đầu nậu. Những lúc như vậy trong đầu tôi chợt quẩn quanh với những câu hỏi:
        - Tại sao anh em hắn hành nghề lâu như vậy mà đến giờ vẫn tồn tại? Những hành động phi pháp ngang nhiên chẳng lẽ lại qua mặt được tất cả? Cuối cùng tôi đã tự đi tìm câu trả lời cho mình:
       - Chắc là khu vực này heo hút nên người ta không để ý hay là có những kẻ khác đang lợi dụng đứng sau hắn để trục lợi nên dù biết nhưng vẫn không tố cáo hắn? Hay không ai muốn đụng vào những kẻ bất cần đời này nữa?
       - Có lẽ vì chúng là những bóng ma rừng nên con người sợ hãi…

      Một buổi sáng lại bắt đầu, tôi bị đánh thức từ rất sớm bởi tiếng còi xe tải làm inh tai. Hôm nay sương xuống dầy quá, chắc là đêm qua mới mưa một trận và rét lại tăng cường lên Vùng Tây Bắc. Nhìn lên Đỉnh Cổng trời chỉ là một màu trắng đục mịt mù … Tôi giật mình nhận ra hai cái bóng tiều tụy quen thuộc đang lẩn khuất trong màn sương sớm. Không biết anh em hắn dậy từ lúc nào hay bây giờ mới tìm đường về …?




Note:
          “ Những bóng ma rừng ”  là một câu chuyện hoàn toàn có thật! Sau những chuyến đi cơ sở nhiều ngày tôi chợt ghi chép lại những điều mình trông thấy. Hoàn cảnh sống của anh em hắn bây giờ thật đáng thương nhưng cũng không thể không lên án! Không biết kết cục cuối cùng của anh em hắn sẽ ra sao đây? Chắc chúng ta có thể hình dung và đoán được…
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.12.2011 16:24:26 bởi nhánh lan rừng_27 >
Thơ tôi viết vốn chẳng hay
Dăm vần lục bát giải bày tâm tư...
-----------------------------------------