GIẢI TRỪ VŨ KHÍ NỘI TẠI VÀ NGOẠI TẠI
Do vậy, để có an bình nội tại và hòa bình thế giới, chúng ta cần cả sự giải trừ quân bị bên trong lẫn bên ngoài. Điều này có nghĩa rằng trong thể trạng nội tại, chúng ta phát triển từ ái cùng bi mẫn và rồi thì cuối cùng, trên căn bản ấy, chúng ta có thể giải trừ vũ khí ở khắp mọi lĩnh vực, tất cả các quốc gia, trên tình trạng ngoại tại. Điều ấy giống như có một lực lượng hợp nhất của Liên Hiệp Quân Sự Châu Âu Pháp – Đức; điều này thật là tuyệt diệu. Nếu có thể có một lực lượng vũ trang hợp nhất cho toàn thể Âu châu, thế thì không thể có những sự xung đột vũ trang giữa những thành viên.
Một lần ở Brussels, thủ đô Bỉ Quốc, có một cuộc gặp mặt của những ngoại trưởng và chúng tôi đã nói rằng trong tương lai sẽ rất lợi ích nếu đại bản doanh của Liên Hiệp Âu Châu được di chuyển sang về phía Đông hơn, đến một trong các nước thuộc Đông Âu, thí dụ như là Ba Lan. Rồi thì, cuối cùng sẽ vô cùng lợi lạc để mở rộng bao gồm cả nước Nga, và rồi cuối cùng di chuyển đại bản doanh NATO sang Mạc Tư Khoa. Nếu chúng ta để điều ấy xãy ra, thế thì sẽ thật sự có hòa bình và không có hiểm họa chiến tranh ở Âu châu. Bây giờ, hiện tại, có một vài khó khăn giữa Nga và Georgia, nhưng chúng ta cần giữ gìn hy vọng của chính mình.
Trên căn bản của sự rộng mở hòa bình to lớn hơn, rồi thì, thí dụ, những công nghiệp quân sự, ở Pháp quốc chẳng hạn, có thể cuối cùng đóng cửa và chúng ta có thể chuyển đổi nền kinh tế đến những phương diện sản xuất nhiều hơn. Thay vì xe thiết giáp, những nhà máy có thể thay đổi để chế tạo xe ủi đất, thí dụ như thế!
Những quốc gia Phi châu cũng cần sự giúp đở của chúng ta rất nhiều. Khoảng cách giữa giàu và nghèo là một vấn nạn lớn, không chỉ trên bình diện toàn cầu; mà cũng trên phương diện quốc gia, khoảng cách này giữa giảu và nghèo là vô cùng kinh khiếp. Thí dụ, ở Pháp, có một sự trái ngược nhau giữa sự giàu và nghèo. Thậm chí một số người đối diện với nạn đói. Nhưng tất cả những con người chúng ta và tất cả chúng ta có cùng hy vọng, nhu cầu, và rối rắm. Chúng ta cần quan tâm đến tất cả những điều này để phát triển hòa bình qua an bình nội tại.
Phụ giải:
(1) Intelligence: khả năng để phân biệt giữa những gì đúng và những gì sai, và giữa những gì lợi ích và những gì tổn hại.
(2) Mind: hành vi nhận thức chỉ đơn thuần cho sự sinh khởi một sự xuất hiện hay bản vẽ của tinh thần của điểu gì đấy có thể biết được và sự tiến hành xứng hợp một cách hiểu biết với nó.
(3) Appreciate: sự đánh giá điều gì cao thượng, thông thường là sự ân cần tử tế của ai đấy. Thường được dùng trong ngữ cảnh của sự cảm kích lòng tử tế ân cần của một người dìu dắt tâm linh. Đôi khi được dịch là ‘tôn trọng – respect’.
(4) View: trong sự diễn tả của hệ thống Phật Giáo trong hình thức của quan điểm về thực tại, một phương pháp thiền quán, và một cung cách ứng xử mà nó tán thành con đường chính để quan tâm và thông hiểu thực tại.
(5) Nirvana-niết bàn: thể trạng giải thoát – hoặc là trạng thái đạt được, mà trong ấy tất cả khổ đau và nguyên nhân luân hồi đã bị diệt trừ, hay một trạng thái hiện hữu một cách tự nhiên, mà trong ấy tất cả những cấu nhiễm không thể tồn tại, đã vĩnh viễn bị loại trừ. Thuật ngữ Tây Tạng có nghĩa đúng là ‘một thể trạng vượt thoát khổ đau.’
---
Achieving Peace through Inner Peace
Tuệ Uyển chuyển ngữ
27-12-2009
http://www.berzinarchives.com/
Alexander Berzin, June 2007
Berzin sinh tại Paterson, New jersey, Hoa Kỳ. Ông nhận bằng cử nhân năm 1965 tại Khoa Nghiên cứu Đông phương học, Đại học Rutgers, và bằng Thạc sĩ năm 1967 cùng bằng Tiến sĩ triết học từ Khoa Ngôn ngữ học Viễn đông, Hoa ngữ và Phạn ngữ cùng Nghiên cứu Ấn Độ, Đại học Harvard. Từ năm 1969 đến 1998, ông cư trú chính yếu ở Dharamsala, Ấn Độ ban đầu như một học giả của chương trình Fulbright, nghiên cứu và thực hành với những đạo sư từ tất cả bốn truyền thống Phật Giáo Tây Tạng. Năm 1998, ông trở lại phương Tây và viết sách nhiều hơn cùng giảng dạy Giáo Pháp tại một số trung tâm, nhưng ông cống hiến nhiều thời gian hơn để chuẩn bị những tư liệu chưa xuất bản từ trang web Berzin Archives. Trang web chứa đựng nhiều tài liệu Phật Giáo chưa phổ thông trong ngôn ngữ Tây phương.
http://en.wikipedia.org/wiki/Alexander_Berzin_(scholar)