Tìm Về Nguồn Cội Kinh Dịch

Tác giả Bài
Leo*
  • Số bài : 1800
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.05.2009
  • Nơi: The best simple things
Tìm Về Nguồn Cội Kinh Dịch - 31.01.2010 22:47:21
 

 
 
 

Tìm về cội nguồn kinh Dịch

Nguyễn Vũ Tuấn Anh
Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương
Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin
Lời giới thiệu
Say sưa miệt mài trên con đường tìm hiểu về nền văn hóa Á Đông, từ tác phẩm “Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại” rồi “Thời Hùng Vương và bí ẩn lục thập hoa giáp” và bây giờ là cuốn “Tìm về cội nguồn kinh Dịch”, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh dường như không biết mệt mỏi, đã cố gắng tham khảo tìm tòi, luận cổ suy kim rồi vắt óc mình mà đưa ra những phát kiến mới lạ trong Dịch học để cống hiến cho mọi người. Thiện chí và công phu của tác giả tưởng đáng nên trân trọng.

 

Trong “Tìm về cội nguồn kinh Dịch” tác giả lập luận rằng:
Dịch học mà ta nghiên cứu xưa nay được ghi trên các cổ thư chữ Hán có cả trăm pho ngàn quyển, nhưng phần nhiều các luận thuyết lại khác biệt nhau. Thậm chí những luận thuyết đó lại trái ngược, mâu thuẫn nhau. Do vậy mà: mặc dầu việc ứng dụng Dịch lý trong mọi lĩnh vực sinh hoạt của xã hội Đông phương từ bao đời nay vẫn luôn luôn có giá trị cao, nhưng hệ thống lý luận của nó lại có chỗ chưa đủ sức thuyết phục nhiều người. Sự mầu nhiệm có tính huyền bí của nó chưa được khai phát, khải minh, nên nhiều người đã nhận xét một cách dễ dãi và cho rằng khó tin… Vậy ta cần phải tìm hiểu cho ra mặt khiếm khuyết này để đưa Dịch học về chỗ đứng đích thực của nó.
Sách vở bằng chữ Hán viết về Dịch học trong nền văn minh Hoa Hạ chưa đủ tin cậy tức là có vấn đề. Vì vậy ta phải tìm nó ở nơi một nền văn minh thân cận khác, đó là nền văn minh Lạc Việt. Tác giả đưa ra những nét văn hóa truyền thống trong sinh hoạt dân gian Việt Nam để tìm cho ra đâu là chân lý, đâu là nguồn gốc. Sách viết với những phát kiến và lập luận khác hẳn với các sách viết về Dịch học xưa nay, thì chắc chắn rằng sẽ không tránh khỏi sẽ có ít nhiều búa rìu dư luận. Bởi vì việc nhận định đúng sai, hay dở là quyền của độc giả.
Tưởng cũng nên lưu ý bạn đọc: sách nghiên cứu tất nhiên là phải có phát kiến (dù chưa biết đúng sai). Trong những phát kiến của tác giả, có phát kiến mà cổ nhân cũng có kẻ đồng tình. Như việc tác giả sửa lại vị trí và thuận tự của Hậu thiên Bát quái thì nhà Dịch học Bảo Ba vào thời nhà Nguyên bên Trung Quốc, cũng đã từng làm giống vậy, đó là đã lập thêm “Trung thiên Bát quái đồ”, nằm giữa Tiên thiên Bát quái và Hậu thiên Bát quái (!).
Vấn đề mới mẻ được đưa ra tất nhiên sẽ có sự nhận xét của dư luận, và bạn đọc chúng ta chắc không quên câu nói của người xưa “Bất đắc dĩ nhân phế ngôn” (không bỏ qua lời nói (dầu là) bỏ đi của người khác). Biết đâu sau từ những phát kiến mới lạ trong “Tìm về cội nguồn kinh Dịch” sẽ là sự tiếp theo của những phát kiến tân kỳ khác để ta có thể đi sâu vào con đường Dịch học ngút ngàn.

 
Lê Gia
 
 
Cái gì xuất phát từ trái tim thì sẽ đi đến trái tim
G. Piet – Pháp
Leo*


Leo*
  • Số bài : 1800
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.05.2009
  • Nơi: The best simple things
RE: Tìm Về Nguồn Cội Kinh Dịch - 31.01.2010 23:56:23
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những sách cổ của nền văn minh Đông
phương, người ta thường nói đến những phương pháp ứng
dụng được thực hiện với một thời gian tính bằng thiên niên kỷ cho hầu
hết mọi lĩnh vực trong xã hội Đông phương cổ: thiên văn, địa lý, y lý,
lịch số và cả trong dự đoán tương lai cho số phận của mỗi con người
một cách hiệu quả. Những phương pháp ứng dụng này đều có phương
pháp luận của nó, nhưng lại thiếu hẳn một hệ thống lý thuyết căn bản.
Do đó, người ta không thể so sánh giữa phương pháp luận được thể
hiện trên thực tế ứng dụng với một hệ thống lý thuyết cần có để tìm ra
tính hợp lý, dù chỉ là một tính hợp lý với chính nó. Người ta chỉ có thể
căn cứ vào hiệu quả của những phương pháp ứng dụng trên thực tế và
liên hệ về mặt hiện tượng với khoa học hiện đại để khám phá. Nhưng
trong thực tế ứng dụng của nền văn minh phương Đông có những hiện
tượng mà khoa học hiện đại chưa thể lý giải được. Bởi vậy, đó là
nguyên nhân để đến tận ngày hôm nay khi bạn đang đọc cuốn sách
này, việc tìm hiểu những bí ẩn của nền văn hóa cổ Đông phương vẫn
đi vào bế tắc. Giáo sư Lê Văn Sửu – một học giả có nhiều công trình
nghiên cứu văn hóa cổ Đông phương – đã nhận xét trong tác phẩm
Nguyên lý thời sinh học cổ phương Đông của ông như sau:
Gần đây có rất nhiều nhà khoa học ở đủ mọi ngành và ở nhiều
nơi trên thế giới, với các phương tiện hiện đại có nhiều đặc tính ưu việt
như: tinh vi, nhanh chóng, chính xác trong tay, họ đã và đang nghiên
cứu nền tảng của di sản văn minh phương Đông này. Thế nhưng, sự
tiếp cận thực chất của nó còn đang là một khó khăn to lớn.
Sự huyễn ảo của nền văn minh Đông phương không phải chỉ đối
với các học giả Tây phương, mà ngay với những nhà nghiên cứu Đông
phương cũng chưa hiểu được nó. Bởi vậy cho đến tận ngày hôm nay,
những cuộc tranh luận, phản bác, minh chứng vẫn chưa kết thúc. Không
ít những học giả đơn giản hóa vấn đề bằng cách cho rằng sự huyền bí
của văn minh Đông phương mang tính mê tín dị đoan. Đương nhiên
với một nhận xét như trên thì chỉ có thể kết luận rằng những thành tựu
của nền văn minh Đông phương liên quan đến một học thuyết còn bí
ẩn là Âm dương – Ngũ hành như thiên văn, y lý, lịch số, dự đoán
6869
tương lai… đều chỉ là do kinh nghiệm tích lũy và không còn gì để bàn.
Nhưng với nhận xét như vậy, không lý giải được sự tồn tại của những
phương pháp luận cho sự ứng dụng có hiệu quả trên thực tế của nền
văn minh Đông phương đã trải hàng thiên niên kỷ. Bởi vậy, nhận xét
cho rằng nền văn minh Đông phương mang tính mê tín dị đoan là
không thuyết phục.
Cũng không ít những học giả hoài nghi nhận xét trên và đi tìm
cội nguồn của nền văn minh Đông phương đầy bí ẩn. Tính hợp lý của
những học giả đi theo hướng này chính là sự ứng dụng trên thực tế trải
hàng ngàn năm của học thuật Đông phương, đã chứng tỏ một sự tồn tại
khách quan mà tri thức khoa học hiện đại chưa nắm bắt được. Một thí
dụ cho những hiện tượng bí ẩn của văn minh phương Đông là sự tồn tại
của những đường kinh Lạc và những huyệt vị trên cơ thể con người.
Hoặc hiện tượng các thuật sĩ Yoga có thể tự chôn sống, vượt quá giới
hạn cho phép mà những tri thức khoa học hiện đại phát hiện được
trong sự vận động tâm sinh lý của con người. Điều đặc biệt đáng lưu ý
ở đây là: năng lực của những thuật sĩ Yoga không phải do bẩm sinh,
mà là một sự luyện tập có phương pháp hẳn hoi. Nguyên lý lý thuyết
căn bản nào đã tạo ra phương pháp để đạt được hiệu quả vượt ngoài
khả năng của tri thức hiện đại?
Nếu kinh Lạc và Yoga chỉ là những hiện tượng trong đời sống thì
trong nền văn minh Đông phương đã tồn tại những giá trị văn hóa lớn
đầy bí ẩn. Một trong những sự bí ẩn lớn của nền văn hóa Đông phương
chính là Bát quái của Dịch học. Sự vận động của Bát quái đã thách đố
tri thức của nhân loại kể từ khi nó được phát hiện đến nay trải đã hàng
ngàn năm. Đã hàng ngàn cuốn sách chồng lên nhau (*), thậm chí gần
đây Unesco đã tổ chức bốn cuộc hội nghị về kinh Dịch, tập trung hầu
hết những nhà nghiên cứu Dịch học trên thế giới, cũng chưa lý giải
được những bí ẩn của nó. Hiện nay, Unesco và ngay tại những nước có
nền khoa học tiên tiến như: Anh, Pháp, Đức, Mỹ đều có những hội
nghiên cứu kinh Dịch. Mặc dù với một qui mô lớn như vậy, nhưng có
* Chú thích: Theo tư liệu từ cuốn “Kinh dịch & cấu hình tư tưởng Trung Quốc” (tác
giả Lê Ngọc Dũng & Lê Anh Minh, Nxb Khoa học xã hội, 1999) thì cho đến năm 1993
có tất cả 1171 bộ,4397 cuốn sách viết bằng chữ Hán về kinh Dịch, trong đó có 9 bộ
được coi là viết trước thời Tần. Riêng sách viết về Lạc thư Hà đồ - cũng tính đến thời
gian nói trên - có 153 bộ, 156 cuốn. Chưa tính đến sách viết về kinh Dịch ngoài chữ
Hán.
144
145
thể nói rằng sự nghiên cứu về kinh Dịch chính thức phát triển từ thời
Hán cho đến tận ngày hôm nay – trải hơn 2000 năm – hầu như vẫn bế
tắc.
Nguyên nhân của sự bế tắc này vì phạm trù của kinh Dịch bao
trùm từ sự vận động của vũ trụ cho đến những hiện tượng liên quan
đến con người, đáp ứng được những nhu cầu của con người trong xã
hội Đông phương cổ. Nhưng kinh Dịch lại thiếu hẳn một hệ thống lý
luận căn bản. Hay nói đúng hơn là đã thất truyền, những cái còn lại thì
rất mơ hồ, không đủ chứng tỏ tầm cỡ của một học thuyết mà Bát quái
chỉ là đồ hình ký hiệu tổng hợp của một hệ thống lý thuyết cần có. Do
đó, những bản văn và hệ thống ký hiệu của kinh Dịch lưu truyền hiện
nay chỉ có thể coi là một phương pháp ứng dụng đã có sẵn. Người ta
không thể so sánh tính hợp lý giữa những vấn đề được đặt ra trong
kinh Dịch với hệ thống lý thuyết bản nguyên là tiền đề cần có của nó.
Đây là nguyên nhân sự bí ẩn của kinh Dịch. Bởi vậy, mặc dù rất nhiều
công phu trải hàng ngàn năm, nhưng hầu hết các sách nghiên cứu từ
thời Hán trở lại đây gần như chỉ căn cứ vào những vấn đề được đặt ra
trong kinh Dịch để cố gắng giải thích những cái đã có sẵn. Có thể
đúng và cũng có thể sai, đôi khi trái ngược nhau không có cách nào
kiểm chứng để tìm hiểu về bản chất của nó. Kinh Dịch được coi là một
kỳ thư đã tạo nên sự bí ẩn hàng thiên niên kỷ. Mặc cho sự thăng trầm
của lịch sử, kinh Dịch vẫn là một sự bí ẩn kỳ vĩ, sừng sững thách đố trí
tuệ của con người.
Từ sự bế tắc trong việc tìm hiểu kinh Dịch trải hơn 2000 năm
qua, đã dẫn đến một giả thuyết về những sai lệch có thể có trong kinh
Dịch với thực tế nguyên thủy đã tồn tại của nó được trình bày trong
sách này. Bởi vì, nếu có sự sai lệch giữa thực tế tồn tại nguyên thủy
của kinh Dịch với bản văn kinh Dịch được lưu truyền qua cổ thư chữ
Hán; trong khi thiếu hẳn một hệ thống lý thuyết bản nguyên cần có để
so sánh, thì người ta không thể nào khám phá được những bí ẩn của
nó. Không ai có thể đạt được một sự hoàn thiện mà bắt đầu bằng sự sai
lệch bất hợp lý.
Khi khoa học hiện đại bắt đầu nhìn lại quá khứ, những nhà khoa
học trên thế giới đã xem xét kinh Dịch với tri thức của con người hiện
đại và liên hệ với những thành tựu hiện nay. Trong cuốn Kinh Dịch với
vũ trụ quan Đông phương (Giáo sư Nguyễn Hữu Lượng. Nxb TP. Hồ
218219
Chí Minh – 1992) phần thay lời giới thiệu có tựa là “Tìm hiểu về kinh
Dịch” do ông Trần Nguyên (viết theo De R. Wilhem. Yi King – với
chú thích: đăng trong Phụ san Khoa học phổ thông số 190, tháng 6 –
1992) đã viết :
“Kinh Dịch đã được ứng dụng dần dần vào khoa học kỹ thuật
phương Tây.
Người thực hiện sớm nhất có lẽ là Leibniz, triết gia và toán học
gia người Đức (1646 – 1716). Ông đã quan sát Bát quái, nghĩ ra phép
nhị phân thay cho phép thập phân bằng cách chỉ dùng hai con số: 1
làm dương và 0 làm âm để mã vào máy tính điện tử. Hai con số này
thành mỗi nhóm 6 số và gồm 64 nhóm, khi có điện vào đèn bật là 1
và điện tắt là 0, cứ như thế để truyền các tín hiệu.
Còn C. G. Jung là một người gốc Thuỵ Sĩ đã cùng với Freud tạo
ra khoa phân tâm học (Psychanalyse). Ông cũng là bạn thân của
R.Wilhem, người đã dịch kinh Dịch ra tiếng Đức. Jung cho là có thể sử
dụng kinh Dịch để tìm hiểu tiềm thức con người, trong đó có việc bói
toán.
Lưu Tử Hoa, một nhà bác học Trung Quốc ở Anh cũng nói là đã
vận dụng nguyên lý “Bát quái’’ từ năm 1930, đã tìm ra quỹ đạo hành
tinh thứ 10 trong hệ Mặt trời.
Hai nhà vật lý học người Mỹ gốc Trung Hoa là Lý Chính Đạo
(Tsung Tao Lee) giáo sư Đại học Princeton và Dương Chấn Ninh
(Tchen Ning Ang), giáo sư Đại học Columbia đã tuyên bố nhờ nghiên
cứu kinh Dịch mà biết rằng trong thế giới điện tử, phía trái và phía phải
không như nhau, dương thì 9 mà âm thì 6, có tỷ số là 3/2. Hai ông
chứng minh khi hạt nguyên tử nổ thì bắn ra những ly tử âm và ly tử
dương, tia dương bắn xa hơn tia âm theo tỷ lệ 3/2 tạo ra định luật cơ
ngẫu. Hai ông đã được giải Nobel Vật lý năm 1957.
Các bác sĩ Âu Tây ngày nay muốn học qua Đông y đều phải
thuộc lý thuyết sinh khắc của Âm dương Ngũ hành, đặc biệt là khoa
châm cứu. Họ đều ngạc nhiên về kinh huyệt có thể châm tê để giải
phẫu một cách không đau cho người bệnh.
Ngày nay người ta đã đem đối chiếu kinh Dịch với nhiều lý
thuyết triết học, khoa học Tây phương như lý thuyết về nguyên tử,
thuyết sinh vật tiến hóa của Lamark Darwin, biện chứng pháp của
Hegel, Karl Marx, thuyết tương đối của Einstein với phương trình E =
mc2, lý thuyết quan trọng, người ta hy vọng qua kinh Dịch sẽ ước đoán
để tìm ra những cái mới rồi sẽ dùng khoa học để kiểm chứng lại. Như
vậy là đúng với lời của nhà toán học Pháp H. Poincaré đã nói: “Phỏng
đoán trước rồi hãy chứng minh! Tôi có cần nhắc lại chăng rằng chính
300
301
như vậy mà đã có những phát minh quan trọng’’.
Hiện nay, chưa có một công trình khoa học nào chứng minh được
sự tồn tại một hệ thống lý thuyết căn bản là tiền đề dẫn đến sự hình
thành của Bát quái và sự vận động của nó. Thậm chí cũng chưa hề có
một công trình nghiên cứu nào chứng minh được tính hợp lý trong sự
tương quan giữa những vấn đề được đặt ra trong kinh Dịch. Vậy trên
cơ sở lý thuyết nào để có sự liên hệ như đã trích dẫn ở trên? Phải chăng
đây là một sự liên hệ khiên cưỡng do những hiện tượng trùng lặp? Hay
là kinh Dịch với những ký hiệu của nó chính là một siêu công thức
phản ánh một chân lý bao trùm lên mọi sự vận động trên mọi lĩnh vực
từ vũ trụ đến những hiện tượng liên quan đến con người. Do đó, những
sự phát hiện của khoa học hiện đại đều nằm trong phạm trù của nó.
Bởi vậy, có sự liên hệ về mặt hiện tượng, mặc dù người ta chưa khám
phá được bí ẩn của kinh Dịch? Nhưng nếu như Bát quái và 64 quẻ là
một siêu công thức thì đó là một công thức không có nguyên lý lý
thuyết khởi nguyên và đó cũng là điều bí ẩn lớn nhất của Bát quái.
Các nhà khoa học hiện đại đang mơ ước:
“Tạo ra một lý thuyết thống nhất các định luật vũ trụ! Một
siêu công thức bao trùm mọi định luật của thiên nhiên, hoàn toàn
có thể giải thích được mọi sự kiện bao quanh con người từ những
hạt vật chất cực nhỏ đến những thiên hà khổng lồ” (*).
Trong lịch sử văn minh cổ Đông phương tồn tại một cách huyễn
ảo thuyết Âm dương và Ngũ hành. Về mặt hiện tượng, phải chăng
thuyết Âm dương Ngũ hành chính là một học thuyết hoàn chỉnh và
nhất quán với chính nó, một siêu lý thuyết bao trùm mà các nhà khoa
học đang mơ ước và kinh Dịch chỉ là một hệ thống ký hiệu? Hay đúng
hơn là một công thức tổng hợp của học thuyết này? Phải chăng chính
nền văn minh cổ Đông phương đã đạt đến điều mà khoa học hiện đại
đang mơ ước theo cái nhìn của thời đại đó?
Cuốn Tìm về cội nguồn kinh Dịch được biên soạn xuất phát từ
giả thuyết cho rằng: Học thuyết Âm dương – Ngũ hành là một học
thuyết vũ trụ quan nhất quán và hoàn chỉnh của một nền văn minh cổ
đã bị hủy diệt và kinh Dịch chính là một siêu công thức của học thuyết
* Chú thích: Trích đoạn trong bài “Ba thách thức lớn của khoa học trong thế kỷ 21”
- Kiến thức ngày nay số 314 - 1/5/1999)
372373
này. Giả thuyết này cho rằng: Bản văn kinh Dịch được lưu truyền qua
cổ thư chữ Hán là một bản văn không hoàn chỉnh và trong đó đã sai
lệch so với thực tế nguyên thủy của nó. Nền văn minh cổ đó chính là
nền văn minh Văn Lang dưới triều đại của các vua Hùng, tổ tiên của
người Việt.
Trên cơ sở của giả thuyết đã nêu, cuốn Tìm về cội nguồn kinh
Dịch nhằm tìm về thực tế đã tồn tại của kinh Dịch trên cơ sở sự tương
quan một cách hợp lý với những hiện tượng thuộc phạm trù của nó.
Một trong những sai lệch lớn nhất có tính chất tiên quyết cần hiệu
chỉnh: đó chính là nền văn minh xuất xứ của kinh Dịch. Tìm về cội
nguồn đích thực của kinh Dịch sẽ là một điều kiện cần thiết để tái tạo
chiếc chìa khóa mở kho tàng đầy bí ẩn của văn minh Đông phương.
Văn hóa và những giá trị nhân bản của nó là tài sản chung của
nhân loại. Sự phục hồi và gìn giữ những giá trị văn hóa đã thất truyền
trong quá khứ là một trong những cố gắng của con người và cũng là
nhu cầu cho sự phát triển xã hội. Tìm về cội nguồn đích thực của
những giá trị văn hóa Đông phương là một phương tiện quan yếu nhằm
chứng minh quan điểm cho rằng: Thời đại Hùng Vương chính là cội
nguồn lịch sử nền văn hiến gần 5000 năm của dân tộc Việt Nam. Đó
chính là cái nôi của nền văn minh Đông phương cổ đại. Quan điểm
này đã được trình bày trong cuốn Thời Hùng Vương qua truyền thuyết
và huyền thoại (Nxb Văn hóa thông tin 2002) và cuốn Thời Hùng Vương
và bí ẩn Lục thập Hoa giáp (Nxb Văn hóa thông tin 2002). Sự chứng
minh tính bất hợp lý trong bản văn kinh Dịch và những vấn đề liên
quan được lưu truyền qua cổ thư chữ Hán, dẫn đến sự hiệu chỉnh lại
kinh Dịch thông qua ca dao tục ngữ, truyền thuyết và những trò chơi
trẻ em mà ông cha còn truyền lại trong nền văn hóa Việt Nam, sự tiếp
nối của nền văn minh Lạc Việt sẽ minh chứng cho quan điểm trên.
Nhưng đây là một công việc rất khó khăn vì sự bí ẩn của Bát
quái đã thách đố trí tuệ những ai quan tâm đến nó từ hàng ngàn năm.
Bởi vậy, với khả năng có hạn, công việc thì quá lớn lao, do đó vấn đề
chưa thể giải quyết rốt ráo trong cuốn sách này. Rất mong được bạn
đọc quan tâm đóng góp ý kiến. Hy vọng cuốn Tìm về cội nguồn kinh
Dịch sẽ là những đóng góp nhỏ tiếp nối với những công trình nghiên
cứu đồ sộ của các học giả cổ kim.
Xin chân thành cảm tạ bạn đọc quan tâm.
 
PHẦN DẪN NHẬP
Cuốn Tìm về cội nguồn kinh Dịch không nhằm giới thiệu nội
dung của kinh Dịch theo cách hiểu phổ biến từ trước đến
nay qua cổ thư chữ Hán, mà là một sự cố gắng làm sáng tỏ một trong
những hiện tượng bí ẩn của nền văn hóa Đông phương, đó là căn nguyên
của Bát quái. Bởi vậy, cuốn sách này sẽ không trình bày toàn bộ nội
dung kinh Dịch, mà chỉ giới thiệu lịch sử và tóm lược nội dung của nó
thông qua các tài liệu của các học giả nghiên cứu về kinh Dịch để
chứng minh cho giả thuyết nêu trên. Cuốn sách này cũng không nhằm
mục đích chứng minh tính khoa học hoặc phi khoa học của thuyết Âm
dương - Ngũ hành, mà chỉ chứng minh sự tồn tại trên thực tế của học
thuyết này, một thực tế đã bị khuất lấp hàng thiên niên kỷ. Người viết
hy vọng việc tìm lại căn nguyên của Bát quái và những bí ẩn trong lịch
sử kinh Dịch sẽ là phương tiện chứng minh một giai đoạn huyền sử của
Việt Nam đó là thời Hùng Vương, quốc gia đầu tiên của người Lạc
Việt.
Nội dung cuốn sách được chia làm bốn phần:
Phần một: Giới thiệu tóm lược lịch sử, nội dung của kinh Dịch
với những diễn biến và ý kiến của các nhà nghiên cứu cổ kim. Trong
phần này là những tư liệu được tóm lược, trích dẫn trên cơ sở những tài
liệu sưu tầm được.
Phần hai: Trình bày những mâu thuẫn trong sự diễn biến và
hình thành kinh Dịch và những vấn đề liên quan, trên cơ sở sự tương
quan hợp lý theo cách nhìn của người viết, từ đó chứng minh cho cơ sở
của giả thuyết nêu trên.
Phần ba: Hiệu chỉnh lại những sai lầm căn bản của kinh Dịch từ
cổ thư chữ Hán trên cơ sở sự tương quan hợp lý của những vấn đề đã
đặt ra ở phần hai, từ những di sản văn hóa còn lưu truyền trong dân
gian Việt Nam và Trung Quốc.
Phần bốn: Từ những nguyên lý căn bản của thuyết Âm dương -
Ngũ hành và Bát quái đã được hiệu chỉnh, lý giải những hiện tượng bí
ẩn khác liên quan và là sự minh chứng tiếp tục cho giả thuyết đã nêu.
512513
Kinh Dịch bắt đầu được sự chú ý của các nhà nghiên cứu lưu
truyền từ đời Hán, có hai bộ phận chính là ký hiệu của 64 quẻ và phần
kinh văn . Theo truyền thuyết và cổ thư chữ Hán thì phần kinh văn này
do Chu Văn Vương, Chu Công và Khổng tử viết (sẽ được trình bày kỹ
hơn ở phần I, chương I – Lịch sử kinh Dịch theo cổ thư chữ Hán). Do
phần kinh văn quá dài, những bản dịch có đôi chỗ khác nhau. Thậm
chí do nhiều đoạn kinh văn tối nghĩa, nên các học giả nghiên cứu Dịch
học đôi khi mâu thuẫn nhau trong cách dịch và lý giải. Vì vậy, chỉ xin
giới thiệu nội dung và trích dẫn những đoạn cần thiết nhằm minh chứng
cho giả thuyết đặt ra. Bởi vậy, để tiện tham khảo và so sánh với những
vấn đề được nêu ra trong cuốn sách này, bạn đọc có thể tham khảo
cuốn Kinh Dịch với vũ trụ quan Đông phương của Nguyễn Hữu Lượng
(Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1992) và một trong ba cuốn sau đây: Kinh
Dịch của Ngô Tất Tố (Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1992); Kinh Dịch - Đạo
của người quân tử, Nguyễn Hiến Lê (Nxb Văn học, 1994); Kinh Dịch
và đời sống, Hải Ân (Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1996) - để tham
khảo và đối chiếu.
Những bản văn kinh Dịch được dịch ra chữ quốc ngữ hiện lưu
hành thường không thống nhất về danh từ, thí dụ như trong kinh văn:
phần được coi là của Chu Văn Vương soạn thảo có sách viết là Soán
từ, có sách viết là Thoán từ, nhưng trong sách này thống nhất chung là
Soán từ. Lời kinh văn được coi là của Khổng tử, có sách gọi là Thoán
từ (thượng, hạ) truyện, có sách gọi là Soán từ (thượng, hạ) truyện;
trong sách này gọi là Thoán từ (thượng, hạ) truyện.
Bát quái đôi khi được diễn đạt là 8 quẻ; nhưng những quẻ kép
cũng được gọi là quẻ… Trong cuốn sách này có một số qui ước như
sau:
Tám ký hiệu căn bản của Dịch học (tức Bát quái) mỗi ký hiệu
đều được gọi là “quái”.
Hai “quái” chồng lên nhau (tức “trùng quái”) được gọi là “quẻ”.
Trong các sách, khi trình bày những đồ hình liên quan đến kinh
Dịch thì phương Bắc thường đặt ở phía dưới, phương Nam đặt ở phía
trên. Trong sách này, tất cả những đồ hình trưng dẫn để chứng minh
những vấn đề thuộc phạm trù kinh Dịch liên quan đến phương vị đều
được sắp xếp phù hợp với những qui ước về phương vị bản đồ hiện đại
584
585
để bạn đọc dễ dàng phân định, như: phương Bắc ở phía trên, phương
Đông ở bên phải, phương Nam ở phía dưới và phương Tây ở bên trái;
ngoại trừ sự trích dẫn thì phương vị để nguyên theo tư liệu đã trích
dẫn.
Trong sách này, phần trích dẫn tư liệu được thể hiện bằng kiểu
chữ “Vni-Helve 10”. Trong phần trích dẫn, để lưu ý bạn đọc, những chữ
in đậm là do người viết thực hiện. Phần chính văn của người viết được
thể hiện bằng kiểu chữ “Vni-Times 12”.
 
Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng do khả năng có hạn, chắc chắn
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Mong được quí độc giả lượng
thứ.

 

 
 


[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/69566/B770060196404A8787AEF900BEBE4AD4.JPG[/image]

[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/69566/EA591148A8EB45B0BDE065C14EDE0E2F.JPG[/image]
<bài viết được chỉnh sửa lúc 31.01.2010 23:59:16 bởi Leo* >
Attached Image(s)
Cái gì xuất phát từ trái tim thì sẽ đi đến trái tim
G. Piet – Pháp
Leo*


Leo*
  • Số bài : 1800
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.05.2009
  • Nơi: The best simple things
RE: Tìm Về Nguồn Cội Kinh Dịch - 03.02.2010 21:54:14
Chương I
TÓM LƯỢC LỊCH SỬ KINH DỊCH
THEO CỔ THƯ CHỮ HÁN


Tương truyền vào thời tối cổ, vua Phục Hy–vị vua huyền
thoại của Trung Quốc, niên đại khoảng 3500 năm trước
CN (có sách chép 4477 – 4363 trước CN) – là người đầu tiên phát
minh ra những ký hiệu nguyên thủy của kinh Dịch.
Hệ từ hạ chương II – tiết 1 trong kinh Dịch chép:
Cổ giả Bào Hy thị chi vương thiên hạ dã, ngưỡng tắc quan tượng
ư thiên, phủ tắc quan pháp ư địa; quan điểu thú chi văn, dữ địa chi
nghi; cận thủ chư thân, viễn thủ chư vật; ư thị thủy tác Bát quái dĩ
thông thần minh chi đức, dĩ loại vạn vật chi tình.
Vua Phục Hy (*) ngửa xem tượng trời, cúi xem phép tắc dưới
đất, xem các văn vẻ của chim muông cùng những thích nghi của trời
đất. Gần thì lấy thân mình, xa thì lấy ở vật, thế rồi mới làm ra Bát quái
để thông suốt cái đức của thần minh và phân loại các tính của vạn vật.
Sau đó vua Phục Hy kết hợp 8 quái thuộc Tiên thiên Bát quái
thành một hệ thống 64 quẻ kép gọi là Hy Dịch. Hệ thống Hy Dịch chỉ
gồm những ký hiệu không có văn tự (tuy nhiên, đồ hình Tiên thiên Bát
quái và hệ thống 64 quẻ của vua Phục Hy chỉ được công bố vào đời
Tống; kinh Dịch truyền từ đời Hán đến trước Tống không có đồ hình
Tiên thiên Bát quái và hệ thống quẻ Hy Dịch, xin trình bày rõ hơn ở
phần sau).
Đến đời vua Đại Vũ (2205 năm trước CN), là vị vua khai sáng
nhà Hạ của Trung Quốc. Tương truyền ngài đi trị thủy đến sông Lạc
bắt được con rùa thần trên mai có ghi một đồ hình kỳ bí, ngài chép lại
gọi là Lạc thư. Trên cơ sở Cửu cung của Lạc thư, ngài lập ra Hồng
phạm cửu trù. Hiện tượng đầu tiên của thuyết Ngũ hành xuất hiện ở
trù thứ nhất của Hồng phạm cửu trù.
* Chú thích: Họ Bào Hy nói đến trong Hệ từ hạ được hiểu là vua Phục Hy.




Hệ từ thượng, chương XI trong kinh Dịch chép:
“Thị cố thiên sinh thần vật, thánh nhân tắc chi, thiên địa biến
hóa, thánh nhân hiệu chi; thiên thùy tượng, hiện cát hung, thánh nhân
tượng chi. Hà xuất đồ, Lạc xuất thư, thánh nhân tắc chi”.
Với đoạn văn trên hầu hết các sách nghiên cứu về kinh Dịch từ
thời Hán đến nay đều hiểu như sau:
“Trời sinh ra thần vật, thánh nhân áp dụng theo; trời đất biến
hoá thánh nhân bắt chước; trời bày ra hình tượng hiện ra sự tốt xấu,
thánh nhân phỏng theo ý tượng”; riêng câu “Hà xuất đồ, Lạc xuất thư,
thánh nhân tắc chi” được hiểu rằng Hà là sông Hoàng Hà; Lạc là
sông Lạc Thủy; bởi vậy nên được hiểu là: “Bức đồ hiện ra ở sông
Hoàng Hà, hình chữ hiện ra ở sông Lạc, thánh nhân áp dụng theo” (*).
Theo Khổng An Quốc – một danh nho thời Tây Hán, cháu 12
đời của Khổng tử – người phát hiện ra những sách cổ được coi là kinh
điển của Nho giáo trong vách nhà Khổng tử và là người đầu tiên chú
giải kinh Dịch, viết về sự liên hệ giữa Bát quái với Hà đồ như sau:

 
 [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/69566/544E378B030C4641AA662B2E95CC84E3.gif[/image]

Người đầu tiên viết về vua Đại Vũ tìm được Lạc thư và những
vấn đề liên quan, cũng là Khổng An Quốc. Ông ta viết:
“Đời vua Vũ có con thần quy xuất hiện trên sông Lạc. Nhà vua
bèn nhân đó mà xếp đặt để làm thành 9 loại, gọi là Lạc thư”.
Qua gần 3000 năm, kể từ thời vua Phục Hy đến cuối đời nhà Ân
Thương, vua Chu Văn Vương (có niên đại khoảng 1200 năm trước
CN) là một chư hầu của Ân Thương; khi bị cầm tù ở ngục Dữu Lý, đã
nghiên cứu Tiên thiên Bát quái. Vua Văn Vương đã dựa trên đồ hình
Lạc thư của vua Đại Vũ sắp xếp lại vị trí 8 quái trong Tiên thiên Bát
quái của vua Phục Hy thành Hậu thiên Bát quái. Sau dó, ông kết hợp
8 quái của Hậu thiên thành một hệ thống 64 quẻ kép Hậu thiên và viết
rõ nghĩa lại từng quẻ gọi là Soán từ. Tiếp theo, đời con của ông là Chu
Công Đán viết rõ nghĩa từng hào trong quẻ kép gọi là Hào từ (mỗi
quái có 3 vạch, mỗi vạch gọi là một hào, mỗi quẻ có 6 hào gồm 2
quái). Đến đây, bộ Chu dịch (hiểu theo nghĩa là Dịch của nhà Chu)
được căn bản hoàn thành. Tương truyền khái niệm Âm dương xuất
hiện vào thời nhà Chu. Nhưng trong Soán từ và Hào từ được coi là của
Chu Văn Vương và Chu Công làm ra, không nói đến Âm dương.
Sau đó gần 700 năm, vào cuối thời Xuân Thu đầu đời Chiến
quốc – cũng theo Khổng An Quốc – Khổng tử (551 – 479 trước CN)
tiếp tục diễn giải Chu Dịch gồm Thoán truyện (thượng, hạ), Tượng
truyện (thượng, hạ), Hệ từ truyện (Thượng, hạ), Văn ngôn, Thuyết
22
* Chú thích: Nguyễn Hữu Lượng, Kinh Dịch với Vũ trụ quan Đông phương, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, 1992 .
quái, Tự quái, Tạp quái; gọi chung là thập Dực.
Khái niệm Âm dương và Thái cực xuất hiện trong thập Dực này.
Hệ từ thượng, chương V có đoạn viết:
“Nhất Âm, nhất Dương vị chi đạo”;
Chương XI viết:
“Thị cố dịch hữu Thái cực, thị sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh
Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái”
Bộ kinh Dịch được hoàn chỉnh và lưu truyền đến nay là bộ Chu
dịch được coi là của Chu Văn Vương gồm: hệ thống 64 quẻ thuộc Hậu
thiên Bát quái và lời kinh văn của Chu Văn Vương, Chu Công và
Khổng tử viết. Tuy nhiên, người ta vẫn ghi nhận công lao của vua
Phục Hy là người đầu tiên vạch quái. Những tác giả làm ra kinh Dịch
theo cổ thư chữ Hán nói trên được gọi là tứ Thánh. Các thầy bói ngày
xưa khi gieo quẻ và luận đoán thường nói: “Theo quẻ này thì thánh
nói rằng…”, tức là muốn nói đến các vị được coi là tác giả Dịch học nói
trên.
Việc lưu truyền bản Chu Dịch từ sau Khổng tử đến thời Hán còn
được cổ thư ghi rõ như sau:
Cổ thư chép rằng: “Khổng tử truyền Dịch cho Thương Cù, Tử
Mộc. Tử Mộc truyền cho Kiều Tý, Tử Dung nước Lỗ. Tử Dung truyền
cho Hàn Tý, Tử Cung miền Giang Đông. Tử Cung truyền cho Châu Xú,
Tử Gia nước Yên. Tử Gia truyền cho Tôn Ngu, Tử Thừa đất Đông Võ.
Tử Thừa truyền cho Điền Hà, Tử Trang nước Tề. Điền Hà ở đầu đời
Hán lại truyền cho Vương Đồng, Tử Trung đất Đông Võ và Châu
Vương Tôn đất Lạc Dương, Đinh Khoan, Trai Phục Sinh người nước
Lương. Vương Đồng truyền cho Vương Hà tự Thúc Nguyên đất Tri
Xuyên. Thúc Nguyên truyền cho Kinh Phòng. Kinh Phòng truyền cho
Lưu Khâu Hạ. Khâu Hạ truyền cho Tử Lâm. Tử Lâm truyền cho Ngự sử
đại phu Vương Tuấn. Đinh Khoan lại truyền riêng cho Điền Vương Tôn.
Vương Tôn truyền cho Thi Xưu, Mạnh Hỉ. Thi Xưu truyền cho Trương
Vũ. Trương Vũ truyền cho Bành Tuyên. Mạnh Hỉ truyền cho Tiêu
Diên Thọ. Kinh Phòng lại học Dịch ở Tiêu Diên Thọ. (*)
Trong sách đã dẫn, không chép cổ thư có từ bao giờ, nhưng căn
cứ vào tên tuổi của những người học Dịch như: Kinh Phòng, Mạnh Hỉ


<bài viết được chỉnh sửa lúc 15.02.2010 21:23:26 bởi Leo* >
Attached Image(s)
Cái gì xuất phát từ trái tim thì sẽ đi đến trái tim
G. Piet – Pháp
Leo*


Leo*
  • Số bài : 1800
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.05.2009
  • Nơi: The best simple things
RE: Tìm Về Nguồn Cội Kinh Dịch - 15.02.2010 21:34:39
* Chú thích: Nguyeên Hữu Lượng, Kinh Dịch với Vũ trú quan Đođng phương, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, 1992 .
Tiêu Diên Thọ là những nhân vật thời Tây Hán, như vậy cổ thư này
phải có từ sau thời Tây Hán.
Vào cuối thời nhà Chu, các nước chư hầu đánh nhau liên miên.
Năm 221 trước CN, đất nước Trung Hoa thống nhất bởi nhà Tần. Năm
năm sau, Tần Thủy Hoàng ra lệnh triệt hạ Nho giáo, hầu hết sách vở
đều bị đốt và cấm lưu truyền, 463 (có sách chép 464) nho sinh bị chôn
sống vì trái lệnh. Bởi vậy, hầu hết những trước tác liên quan đến Nho
giáo bị thất lạc. Riêng kinh Dịch vì được coi là sách bói và những
sách thuốc còn được lưu truyền.
Đoạn trích dẫn trong Sử ký của Tư Mã Thiên, phần Tần Thủy
Hoàng bản kỷ, miêu tả cuộc đối thoại giữa Tần Thủy Hoàng với thừa
tướng Lý Tư dưới đây, chứng tỏ điều này:
“…Nhưng nay Hoàng đế đã thâu tóm cả thiên hạ, phân biệt trắng
đen mà định ra điều duy nhất được tôn trọng. Những kẻ học Nho theo
cái học riêng của mình lại cùng nhau chê cười pháp luật rồi đem dạy
cho người ta. Khi nghe lệnh ban xuống thì họ đều lấy cái học riêng của
mình để bàn tán. Khi vào triều, trong bụng chê bai. Ra đường, thì bàn
bạc chê vua của mình để lấy danh, làm cho khác người để tỏ là cao,
bày cho kẻ ở dưới phỉ báng. Nếu như thế mà không cấm thì ở trên uy
thế của nhà vua sẽ bị giảm sút; ở dưới các bè đảng sẽ nổi lên. Nên
cấm là hơn. Thần xin đốt tất cả các sách sử, trừ những sách sử nhà
Tần (2).Trừ những người làm chức bác sĩ, ai cất giấu kinh Thư,
kinh Thi, sách vở của trăm nhà thì đều đem đến các quan thú,
quan uý mà đốt đi, hai người dám bàn nhau về việc kinh Thư, kinh Thi
chém giữa chợ, lấy đời xưa mà chê đời nay thì giết cả họ. Quan lại biết
mà không tố cáo, thì cũng bị tội. Lệnh ban ra trong ba mươi ngày
không đốt sách thì khắc vào mặt cho đi thú để xây và canh giữ Trường
thành. Những sách không bỏ là sách thuốc, sách bói, sách trồng
cây. Ai muốn học pháp luật thì thờ quan lại làm thầy.
Chế của vua nói: “Được”
Đến năm 207 trước CN, nhà Hán thay thế nhà Tần. Vào cuối đời
Tây Hán – Hán Vũ Đế Lưu Triệt (156 – 87 tr.CN) phục hồi lại Nho
giáo. Từ đó kinh Dịch được xiển dương vì được coi là một trong 5 bộ
kinh quan trọng của Nho giáo. Bản kinh Dịch lưu truyền từ đời Hán
chỉ có hệù thống 64 que ûthuộc Hậu thiên Bát quái và lời kinh văn –
tức bản Chu Dịch – được coi là của Chu Văn Vương, Chu Công, Khổng
tử đã trình bày ở trên. Đến đây việc nghiên cứu kinh Dịch bắt đầu. Các
học giả thời Hán chia ra nhiều phái khác nhau khi tìm hiểu về lịch sử
24
và cơ sở lý luận của Dịch. Việc nghiên cứu Dịch học phát triển đến đời
Tống chia làm hai phái là Lý học của Trình Di, Chu Hy và phái tượng
số học của Trần Đoàn (còn gọi là Đồ thư). Phái tượng số học có hai đại
biểu nổi tiếng là Trần Đoàn Lão Tổ và Thiệu Ung – tức là Thiệu
Khang Tiết.
Thời Tống là một thời kỳ rất đáng chú ý trong lịch sử kinh Dịch.
Ở thời đại này các nhà Lý học nổi tiếng như Trần Đoàn Lão Tổ, Thiệu
Khang Tiết công bố đồ hình Hà đồ – Lạc thư và đồ hình Tiên thiên Bát
quái cùng hệ thống 64 quẻ Hy Dịch; đồng thời cũng liên hệ giữa đồ
hình Hà đồ với đồ hình Tiên thiên Bát quái, đồ hình Lạc thư với Hậu
thiên Bát quái. Những nhà Lý học đời Tống cũng cho rằng những
phát minh này thuộc về cổ nhân, như các nhà Lý học thời Hán đã nói
tới. Bạn đọc tham khảo các đoạn sau đây được trích trong cuốn Chu Dịch và Dự đoán học (Thiệu Vĩ Hoa, Nxb Văn hóa Thông tin 1995):
Trang 14: Thuyết Tiên thiên Bát quái là từ triều Tống tạo ra.
Trước triều Tống chỉ có Bát quái và 64 quẻ. Các học giả đời Tống căn
cứ vào “thiên địa định vị, sơn trạch thông khí, lôi phong tương bạc, thủy
hỏa bất tương xạ” (Trời đất phân rõ, núi sông thông suốt, sấm gió yếu
đi, nước lửa ít va chạm) trong “Thuyết quái” mà tạo ra “hình Tiên thiên
Bát quái”.
Trang 16:Thuyết Tiên thiên Bát quái và Hậu thiên Bát quái từ
sau đời Tống tranh luận mãi không thôi, tức là trước Tống căn bản
không tồn tại thuyết Tiên thiên. Trước Tống, đời Hán và Đường,
không thể chỉ ra được ai là người đề ra “phương vị Tiên thiên”, đến
đời Tống các đạo gia mới đưa ra “Hình Tiên thiên”. “Hình phương vị Bát
quái của Phục Hy” là dựa theo hình Tiên thiên của Thiệu Ung, gọi là
“Phương vị Tiên thiên Bát quái”. Hình phương vị Bát quái của Văn
Vương còn gọi là “Phương vị Hậu thiên Bát quái” như sẽ thấy ở “Thuyết
quái” phần sau. Cái gọi Hậu thiên Bát quái thực tế là dựa theo
phương vị của các quẻ trong câu “Đế xuất hồ Chấn (1), tề hồ Tốn
(2), tương kiến hồ Ly (3), chí dịch hồ Khôn (4), thuyết ngôn hồ
Đoài (5), chiến hồ Càn (6), lao hồ Khảm (7), thành ngôn hồ Cấn
(8)”.
Trang 17: Hình Tiên thiên Bát quái mà ngay nay ta nhìn thấy
là từ hình Tiên thiên của Thiệu Ung đời Tống mà ra. Còn hình Hậu
thiên Bát quái là từ “Thuyết quái”, người đời Tống cho là do Văn
Vương tạo ra. Ngày nay, rất nhiều học giả đưa ra nhiều cách phỏng
đoán, vì sao Văn Vương đã sửa Tiên thiên Bát quái thành Hậu thiên
25
Bát quái. Họ cho rằng: thời nhà Hạ băng tuyết tan, nước biển dâng lên,
ngập chìm những khoảng đất lớn, khắp nơi bị ngập nước. Đến đời nhà
Chu, hoàn cảnh tự nhiên thay đổi, vận khí trời đất không còn thống
nhất với Tiên thiên Bát quái nữa, cho nên Chu Văn Vương đã sửa Tiên
thiên Bát quái thành Hậu thiên Bát quái.
Trang 20: 2. Khi dự đoán, Thiệu Khang Tiết dùng hình Hậu
thiên Bát quái, còn số là của Tiên thiên Bát quái, rất kỳ diệu. Nhưng vì
sao Thiệu Khang Tiết lại dùng hình của Hậu thiên Bát quái và số của
Tiên thiên ngày nay vẫn chưa rõ nguyên do. Ngày nay khi gieo quẻ
theo thời gian và dự đoán theo “sáu hào” thì đều phối hợp hình này với
số của Tiên thiên.
Về việc Tiên thiên Bát quái do ông Thiệu Khang Tiết công bố
vào đời Tống, cũng được ghi nhận trong sách Kinh Dịch với Vũ trụ
quan Đông phương của giáo sư Nguyễn Huy Lượng cũng viết như sau:
“Về Dịch học của đời Tống, ta thấy có Thiệu Ung. Họ Thiệu lấy
Châu Dịch làm Hậu thiên Dịch, lấy Bao Hy Dịch làm Tiên thiên Dịch.
Họ Thiệu cũng làm Tiên thiên quái vị đồ để phát huy thuyết trên”.
Trên đây là tóm lược những nét căn bản của lịch sử kinh Dịch
theo cổ thư chữ Hán được lưu truyền đến nay và được coi như giá trị
lịch sử chính thống của kinh Dịch. Mặc dù còn có nhiều ý kiến khác
nhau về tác giả và thời điểm xuất hiện của kinh Dịch, nhưng hầu hết
các học giả khi giới thiệu về kinh Dịch đều nói đến lịch sử của kinh
Dịch như trên. Những ý kiến phản bác của các nhà nghiên cứu kinh
Dịch và những vấn đề liên quan xin được tiếp tục trình bày ở phần tiếp
theo.
 
 


[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/69566/A8BBD9C774684AE58453A6BEA6DD9290.JPG[/image]
Attached Image(s)
Cái gì xuất phát từ trái tim thì sẽ đi đến trái tim
G. Piet – Pháp
Leo*


Leo*
  • Số bài : 1800
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.05.2009
  • Nơi: The best simple things
RE: Tìm Về Nguồn Cội Kinh Dịch - 12.03.2010 17:18:56
Chương II


TRUYỀN THUYẾT BÀ NỮ OA VÁ TRỜI
& PHƯƠNG VỊ HẬU THIÊN BÁT QUÁI


NỘI DUNG TRUYỀN THUYẾT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
LIÊN QUAN ĐẾN PHƯƠNG VỊ HẬU THIÊN BÁT QUÁI
Căn nguyên của Hậu thiên Bát quái, là một trong những
hiện tượng bí ẩn lớn trong văn minh Đông phương - cũng
là mâu thuẫn chủ yếu của vấn đề được đặt ra - phải lý giải trong sách
này. Đặc biệt trong trường hợp này, sự hướng dẫn giải mã lại bắt đầu
bằng những truyền thuyết được coi là của chính nền văn minh Trung
Hoa. Đó là những truyền thuyết “Thần Bàn Cổ” và “Bà Nữ Oa vá
trời”.
Truyền thuyết “Thần Bàn Cổ” và “Bà Nữ Oa vá trời từ trước
đến nay vốn được coi là những truyền thuyết xưa nhất của nền văn hóa
dân gian Trung Hoa. Nhưng truyền thuyết này lại ẩn chứa những giá
trị có tính hướng dẫn về một tiền đề căn bản nhất của kinh Dịch, đó là:
Tiên thiên và Hậu thiên Bát quái. Để bạn đọc tiện tham khảo và nhận
xét, người viết xin được tóm lược và trích dẫn nội dung của những
truyền thuyết này căn cứ theo tư liệu trong sách Thần thoại Trung
Quốc của giáo sư Đinh Gia Khánh (Nxb Khoa học xã hội – 1998) và
vài dị bản khác được sưu tầm.
Trang 11 (trích):
Chống màn trời, Bàn Cổ làm trụ,
Hóa thân thành sông núi, cỏ cây.
Xưa kia, vũ trụ vốn là một khối hỗn độn, đen ngòm, hình giống
quả trứng. Thần Bàn Cổ sinh ra từ trong quả trứng vũ trụ ấy.
Thần Bàn Cổ ngủ 18000 năm thì tỉnh dậy. Ông thấy trời tối
đen rất khó chịu.
Thần Bàn Cổ rất bực tức. Không biết thần vớ đâu ra một
chiếc rìu lớn và thần nhằm thẳng phía trước mặt mà bổ vào cái
khoảng mù mờ đen tối ấy. Thần vung rìu lên bổ về phía trước như
188
thế một nhát. Quả trứng ấy vỡ toang ra. Có chất gì trong suốt và
nhè nhẹ bốc dần lên cao, trở thành bầu trời, lại có chất gì đó đùng
đục và nằng nặng lắng dần xuống thấp, trở thành mặt đất. Thế là
nhờ có nhát rìu của thần Bàn Cổ mà vũ trụ phân khai thành trời và đất.
Tiếp theo là tóm lược và trích dẫn truyền thuyết “Bà Nữ Oa vá
trời”:
Nữ Oa khéo nặn con người khôn,
Chọn đá quí vá màn trời rách.
Bà Nữ Oa là vợ thần Phục Hy, được sinh ra ngay sau khi
thần Bàn Cổ tạo ra thế giới. Bà lấy đất sét vàng nặn ra con người.
Loài người lấy nhau và sinh sôi nảy nở trên thế gian ngày càng
đông vui. Mọi người tôn bà làm nữ thần hôn nhân (thần Cao Môi).
Nhưng, đến một ngày kia tai họa đã xảy ra.
Bỗng nhiên, chẳng hiểu vì sao một ngày kia xảy ra một biến cố
lớn. Đó là việc thần nước Cộng Công và thần lửa Chúc Dung choảng
nhau.
Cuộc chiến tranh rất khốc liệt, cuối cùng thần nước Cộng
Công bị thần lửa Chúc Dung đánh thua.
Phẫn chí, thần Cộng Công bèn lao đầu vào núi Bất Chu ở
phương Tây. Lao đầu húc núi như vậy, mà Cộng Công vẫn không bị
chết. Nhưng một cái húc đầu ấy đã làm cho trời đất biến đổi hẳn, làm
cho nhân gian gặp tai họa lớn.
Núi Bất Chu vốn là một trong những cây trụ chống trời. Cây
gậy Bất Chu ấy bị Cộng Công húc bèn bị gãy. Thế là một nửa bầu trời
ở phía Tây bị sụp xuống, bị rách nát và có nhiều lỗ thủng. Trời đổ
xuống lại làm cho mặt đất nhiều chỗ sụt xuống thành hang sâu. Trong
khoảng trời long đất lở ấy, lửa bốc lên rần rật, thiêu đốt núi rừng, nước
sông sóng sánh dâng lên cao, hầu như đến lưng trời, làm cho mặt đất
khắp nơi bị ngập nước.
Bà Nữ Oa thấy loài người, đám con cháu do bà tạo dựng nên,
gặp cảnh khốn khổ như vậy thì vô cùng đau đớn. Bà đành lại phải đi tu
bổ lại trời đất. Công việc này thực là vất vả, nhưng bà Nữ Oa không hề
quản ngại.
Bà chọn thứ đá ngũ sắc lấy từ các sông lớn, dùng lửa nung nấu
thành một thứ keo đặc biệt. Bà đem thứ keo ấy dán vá lại lỗ thủng trên
bầu trời. Để chống bầu trời lên, bà chọn một con rùa lớn, chặt bốn
chân của nó làm trụ. Bốn cái chân của nó dựng lên ở bốn góc trời, là
bốn cái trụ vững chắc để chống đỡ bầu trời. Bà xua đuổi các loài ác
189
thú, mãnh điểu để cho loài người khỏi bị chúng làm hại. Bà lại đốt cỏ
lau thành tro, chất tro thành đống lớn để làm vật liệu xây đắp đê
đập chống nạn lũ lụt.
Cuối cùng tai họa lớn của loài người đã qua khỏi. Đó đều là nhờ
công lao của bà Nữ Oa.
Trời và đất đã được bà Nữ Oa sửa chữa, vá víu và chống dựng
lại. Tuy nhiên, trời và đất không giữ lại được nguyên vẹn hình thể trước
kia. Bầu trời vẫn cứ hơi nghiêng về phía Tây. Vì vậy mà mặt trời,
mặt trăng và các tinh tú cứ theo chiều hướng nghiêng ấy mà chạy
từ đông sang tây. Mặt đất tuy có được tu bổ, nhưng lại vẫn còn vực
sâu ở phía đông nam. Vì vậy nước các sông ngòi đều chảy từ tây sang
đông và dần dần các sông ngòi ấy đều chảy xuống vực sâu, tích tụ
dần thành biển lớn.
Cùng với nội dung trên, trong cuốn Kinh Dịch và cấu hình tư
tưởng Trung Quốc (sách đã dẫn trang 583) chép như sau:
Ngày xa xưa, bốn trụ chống trời bị hư hoại, Cửu Châu [tức là
Trung Quốc] bị đổ lở, không đâu mà không bị lật úp, đất không được
che kín, lửa cháy hừng hực liên miên không tắt, nước ngập lụt mênh
mông không ngưng, thú dữ ăn thịt dân lành, chim ưng hung ác quắp
lấy người già cả ốm yếu. Cho nên bà Nữ Oa mới luyện đá năm màu
để vá trời xanh, chặt chân rùa lớn làm bốn cột chống đỡ bầu trời, giết
rồng đen cứu Ký Châu, chèn tro cỏ lư để ngăn nước lụt. Bầu trời
xanh được vá lại, bốn trụ chống đỡ ngay ngắn, nước lụt rút khô đi, Ký
Châu yên bình, thuồng luồng chết, dân lành sống, dựa lưng vào đất
vuông ôm lấy bầu trời tròn.
Một dị bản khác khá phổ biến được ghi nhận như sau. Đoạn sau
đây được trích trong bộ Tam quốc chí – La Quán Trung (Dịch giả Phan
Kế Bính; Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội 1988 –
tập 6, trang 167):
… Khi ấy Tần Bật ứng đối trôi chảy, nói năng hoạt bát, cả đám
ngồi đều kinh. Trương Ôn không hỏi vặn được câu gì nữa. Bật mới hỏi
lại rằng:
– Tiên sinh là danh sĩ Đông Ngô, đã lấy việc trên trời mà hỏi, tất
là hiểu sâu lẽ trời. Khi xưa lúc hỗn độn mới mở, Âm dương chia biệt,
khí nhẹ mà trong thì bay lên thành trời; khí nặng mà đục thì đọng
xuống dưới thành đất. Đến đời họ Cung Công đánh trận thua, húc
đầu vào núi Bất Chu thì cột trời đổ gẫy mà rường đất sứt mẻ, trời
nghiêng về phía Tây Bắc, đất đổ về phía Đông Nam. Trời đã là khí
nhẹ mà trong, làm sao lại còn nghiêng về phía Tây Bắc? Vả lại, ở
ngoài lần khí nhẹ mà trong còn có vật gì nữa, xin cho tiên sinh dạy cho tôi được biết?
Trương Ôn không biết đối đáp ra sao mới đứng dậy tạ rằng:
– Tôi không ngờ trong Thục lắm người tuấn kiệt thế này; nghe
lời ngài giảng luận, khiến tôi mở được đường ngu dốt…
Như vậy, qua truyền thuyết “Thần Bàn Cổ”, “Bà Nữ Oa vá trời”
và những dị bản được trích dẫn ở trên, tổng hợp lại, chúng ta sẽ thấy
mấy vấn đề sau đây:
1) – Đây là một câu chuyện bắt đầu từ một nội dung thần thoại
phát triển liên hệ dẫn tới một ý niệm vũ trụ quan mơ hồ; ý niệm vũ trụ
quan này, xuất hiện sớm nhất vào Đông Hán (Tam quốc chí là truyện
lịch sử cuối thời Đông Hán). Điều này thể hiện ở sự liên hệ giữa nội
dung truyền thuyết “Thần Bàn Cổ “, “Bà Nữ Oa vá trời” với đoạn
tranh luận của các danh sĩ Ngô – Thục.
2) – Mang dấu ấn Hán hóa trong quá trình phát triển từ nội dung
thần thoại của truyền thuyết nguyên thủy cho đến đoạn trích dẫn trong
Kinh Dịch & Cấu hình tư tưởng Trung Quốc. Điều này thể hiện ở những
địa danh Hán như Ký Châu, hoặc được coi là thuộc về Hán như Cửu
Châu. Cổ thư chữ Hán ghi nhận theo truyền thuyết thì: danh từ Cửu
Châu chỉ có sớm nhất bắt đầu từ vua Vũ khi tìm được Lạc thư đặt ra
Hồng phạm cửu trù và định ra phép cống chín Châu. Ký Châu là một
địa danh xuất hiện rất muộn trong lịch sử Trung Hoa không thể có từ
thời bà Nữ Oa vá trời được (?!)
3) – Sử dụng những yếu tố căn bản trong truyền thuyết “Thần
Bàn Cổ”, “Bà Nữ Oa vá trời” và dị bản được dẫn chứng từ cuốn Tam
quốc chí, so sánh với cấu hình của Tiên thiên và Hậu thiên Bát quái sẽ
có một sự tương hợp gần như hoàn toàn sau đây:
@ Chuyện “Thần Bàn Cổ” và phần đầu của truyền thuyết “Bà
Nữ Oa vá trời“ hoàn toàn trùng khớp với cấu hình của Tiên thiên Bát
quái được minh họa trong đồ hình dưới đây:
 

 
 
Qua đồ hình trên bạn đọc cũng nhận thấy rằng nửa phần trên của
hình Tiên thiên Bát quái: số hào Dương trội hơn hào Âm, mà cao nhất
là quẻ Càn – tượng trời, ứng với câu “Âm dương chia biệt, khí nhẹ và trong
bay lên thành trời”. Nửa phần dưới số hào Âm nhiều hơn số hào Dương,
ở vị trí thấp nhất là quẻ Khôn – tượng đất, ứng với câu “Khí nặng và đục
tụ xuống thành đất”.
@ Trong nội dung của truyền thuyết “Bà Nữ Oa vá trời“ và
đoạn sau lời đối thoại của Tần Bật, hoàn toàn trùng khớp với cấu hình
của Bát quái Hậu thiên được minh họa bằng hình vẽ dưới đây:
 
ĐỒ HÌNH MINH HỌA TRUYỀN THUYẾT
BÀ NỮ OA VÁ TRỚI VÀ CẤU HÌNH HẬU THIÊN BÁT QUÁI
 


Qua đồ hình trên bạn đọc cũng nhận thấy rằng:
 
Qua đồ hình trên bạn đọc cũng nhận thấy rằng:
Về cấu hình phương vị Hậu thiên Bát quái
* Trục Càn – Khôn ở Tiên thiên là trục thẳng đứng; hình tượng
cây cột chống trời Bất Chu (chống trên đất Khôn, đỡ trời Càn) chính là
trục Càn Khôn trong Tiên thiên Bát quái. Nhưng trong Hậu thiên được
thay thế bằng trục Khảm (Thủy) – Ly (Hỏa). Thủy – Hỏa xung khắc
được hình tượng bằng cuộc chiến giữa thần nước Cộng Công và thần
lửa Chúc Dung.
* Quẻ Càn (Trời) trong Hậu thiên lệch về phía Tây Bắc, ứng
với câu “Trời nghiêng về phía Tây Bắc”.
* Quẻ Khảm (Thủy) ở Hậu thiên, được thay thế cho vị trí quẻ
CÀN - Trời
Nghiêng về phía
Tây Bắc
KHÔN - Đất
Lệch về phía
Đông Nam
KHẢM - Thủy
Thần nước Cộng Công
Thần lửa Chúc Dung
LY - Hỏa
CÀN - Trời
Tây Bắc
KHÔN - Đất
Đông Nam
193
Càn ở Tiên thiên ứng với câu “Nước từ trên trời đổ xuống gây ngập lụt ở
trần gian”.
* Sự khác nhau duy nhất giữa truyền thuyết và cấu hình của Hậu
thiên Bát quái là “Đất đổ về phía Đông Nam”, nhưng ở Hậu thiên Bát
quái quẻ Khôn – tượng đất – lại ở về phía Tây Nam. Nếu ta theo
truyền thuyết, đưa quẻ Khôn – tượng đất về phía Đông Nam và quẻ
Tốn về phía Tây Nam thì hoàn toàn bảo đảm được tính cân đối của đồ
hình Bát quái Hậu thiên như trong Bát quái Tiên thiên, được minh họa
bằng hình vẽ trên.
Về nội dung liên hệ Bát quái với
thuyết Âm dương – Ngũ hành
* Cột trời có tên Bất Chu – hiểu theo một nghĩa khác – thì đây là
sự phủ định: Chu Dịch không phải do Chu Văn Vương (Nhà Chu) làm
ra. Liên hệ với quả trứng vũ trụ trong “Truyền thuyết Thần Bàn Cổ”
cho thấy chữ Chu phải hiểu là một vòng tròn (quả trứng).
*Hình ảnh bà Nữ Oa sử dụng đá Ngũ sắc làm vật liệu để vá trời
cho thấy: Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là nền tảng của Tiên
thiên và Hậu thiên Bát quái.
* Hình ảnh bà Nữ Oa đốt cỏ lấy tro ngăn nước (phần trích dẫn
chữ đậm) còn có một ý nghĩa liên hệ: Hỏa (đốt cỏ) – sinh Thổ (thành
tro, còn có nghĩa là Âm Hỏa) – khắc Thủy (ngăn nước). Hiện tượng
này còn chứng tỏ sự liên quan giữa Hậu thiên Bát quái và Hà đồ, sẽ
được minh chứng ở chương sau.
Tính cân đối sau khi đổi vị trí quái Tốn – Khôn sẽ hoàn toàn vô
nghĩa, nếu chỉ dừng lại ở đây. Sự hướng dẫn mang tính mật ngữ ẩn
chứa trong các truyền thuyết dân gian được coi là của Trung quốc –
nhưng không loại trừ khả năng có nguồn gốc Lạc Việt, còn tồn tại ở
Nam sông Dương Tử – sẽ không hơn một ý tưởng về tính cân đối của
Bát quái Hậu thiên trong các cuộc tranh luận về vấn đề này. Nhưng
tính cân đối rất quan yếu – trong việc đổi chỗ hai quái Tốn Khôn của
cấu hình Bát quái Hậu thiên – lại thể hiện sự tương quan hợp lý trong
sự liên hệ với thứ tự của 64 quẻ kép thuộc hệ thống Hậu thiên và một
số vấn đề liên quan được trình bày dưới đây.
194
SỰ TƯƠNG QUAN CẤU HÌNH HẬU THIÊN BÁT QUÁI
& THỨ TỰ 64 QUẺ THUỘC HỆ THỐNG HẬU THIÊN
Lời mở đầu của phần III đã chứng tỏ với bạn đọc tính suy diễn
chủ quan trong việc giải mã những mật ngữ ẩn chứa trong văn hóa dân
gian. Tính hướng dẫn của mật ngữ – thông qua sự suy diễn chủ quan –
chỉ được coi là đúng, nếu chứng tỏ được một thực tế, hoặc một sự tương
quan hợp lý cho vấn đề được đặt ra. Trong phần này, tính hợp lý trong
việc giải mã truyền thuyết “Thần Bàn Cổ”, “Bà Nữ Oa vá trời” được
chứng tỏ trong tương quan cấu hình Bát quái Hậu thiên – đã đổi phương
vị quẻ Tốn & Khôn – với thứ tự 64 quẻ thuộc Hậu thiên Bát quái.
Trước hết, bạn đọc làm quen với một sự phân định sau: Các nhà
nghiên cứu Dịch học chia Bát quái làm 2 nhóm là:

Cái gì xuất phát từ trái tim thì sẽ đi đến trái tim
G. Piet – Pháp
Leo*


Leo*
  • Số bài : 1800
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.05.2009
  • Nơi: The best simple things
RE: Tìm Về Nguồn Cội Kinh Dịch - 28.03.2010 23:31:17


Chương II
TÓM TẮT NỘI DUNG
&
NHỮNG KÝ HIỆU CĂN BẢN
CỦA KINH DỊCH TRONG CỔ THƯ CHỮ HÁN
Kinh Dịch được truyền lại từ đời Hán là bản Chu dịch, gồm
có hai phần là phần kinh văn và hệ thống ký hiệu 64 quẻ
Hậu thiên. Phần kinh văn được coi là do Chu Văn Vương, Chu Công
Đán, Khổng tử trước tác như đã trình bày ở phần trên. Nhưng theo lịch
sử chính thống mà cổ thư chữ Hán nói tới thì ký hiệu của quẻ Dịch
được bắt đầu từ vua Phục Hy. Vì vậy trong chương này xin được trình
bày theo trình tự thời gian của lịch sử kinh Dịch theo cổ thư chữ Hán
đã nói tới.
HỆ THỐNG KÝ HIỆU CỦA KINH DỊCH
Hệ thống ký hiệu của kinh Dịch được truyền cho tới nay gồm hai
hệ thống chính là:
1) Hệ thống Hy Dịch tức kinh Dịch của Phục Hy có nguồn gốc từ
đồ hình Tiên thiên Bát quái.
2) Hệ thống Chu Dịch, có nguồn gốc từ đồ hình Hậu thiên Bát
quái.
Đồ hình ký hiệu của hai hệ thống ký hiệu này như sau:
Tiên thiên Bát quái và ký hiệu 64 quẻ Hy Dịch
Đồ hình Tiên thiên Bát quái và hệ thống Hy Dịch được coi của
do vua Phục Hy (nhưng chỉ phát hiện và lưu truyền từ đời Tốâng), bắt
đầu bằng hai ký hiệu căn bản sau đây:
 
(-)vạch liền
thuộc Dương
 
(--)vạch đứt
thuộc Âm
 
Từ hai ký hiệu này, cũng theo cổ thư chữ Hán thì vua Phục Hy đã
vạch ra 8 quái gọi là Tiên thiên Bát quái, mỗi quái gồm 3 vạch (liền
hoặc đứt ) có một trình tự phát triển từ dưới lên, được trình bày theo đồ
hình sau đây trong Chu Dịch và dự đoán học (sách đã dẫn, trang 15).
THỨ TỰ BÁT QUÁI PHỤC HY
 

 
Đồ hình kết cấu trình tự Bát quái trên đây được phổ biến trong
các sách kinh Dịch nói chung.
 
ĐỒ HÌNH TIÊN THIÊN BÁT QUÁI
của vua Phục Hy
 

 
Tám quái này lần lượt có tên gọi là: 1-Càn, 2-Đoài, 3-Ly, 4-
Chấn, 5-Tốn, 6-Khảm, 7-Cấn, 8-Khôn, được sắp xếp theo đồ hình
có thứ tự như trên.
Cổ thư chữ Hán cho rằng: vua Phục Hy đã dựa theo Hà đồ phát
hiện trên sông Hoàng Hà để sắp xếp Tiên thiên Bát quái, như đã trình
bày ở trên. Sự liên quan giữa Bát quái Tiên thiên và Hà đồ được các cổ
thư chữ Hán từ đời Tống minh họa như sau:
 
ĐỒ HÌNH TƯƠNG QUAN HÀ ĐỒ & TIÊN THIÊN BÁT QUÁI
(Vẽ theo Kinh Dịch với Vũ trụ quan Đông phương)
 

 
Trên cơ sở vị trí của Bát quái Tiên thiên hình thành một hệ thống
64 quẻ gọi là Hy Dịch. Những quẻ này do 8 quái lần lượt kết hợp với
nhau theo một nguyên tắc nhất định và hình thành 64 quẻ kép theo thứ
tự có ký hiệu và tên gọi như sau:
 
 
Cái gì xuất phát từ trái tim thì sẽ đi đến trái tim
G. Piet – Pháp
Leo*


Leo*
  • Số bài : 1800
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.05.2009
  • Nơi: The best simple things
RE: Tìm Về Nguồn Cội Kinh Dịch - 04.04.2010 15:38:50
CỬU CUNG HÀ ĐỒ & TIÊN THIÊN BÁT QUÁI
(Đã xoay 180o cho phù hợp với phương vị bản đồ hiện đại)




CỬU CUNG LẠC THƯ & HẬU THIÊN BÁT QUÁI
(Đã xoay 180o cho phù hợp với phương vị bản đồ hiện đại)



Trên cơ sở đồ hình Hậu thiên Bát quái, vua Chu Văn Vương đã
sắp xếp một hệ thống mới 64 quẻ gọi là Chu Dịch. Bảng kinh Dịch nổi
tiếng hiện còn lưu hành, chính là bản Chu Dịch được coi là của Chu
Văn Vương. Dưới đây là đồ hình thứ tự 64 quẻ của Chu Văn Vương.





[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/69566/FB71582D25F447C487CB3B1659695275.gif[/image]

[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/69566/C1C93794DF924CC1AB1481A039C19095.gif[/image]

TÓM LƯỢC NỘI DUNG PHẦN KINH VĂN CHU DỊCH
Trên thực tế bản Chu dịch truyền lại từ thời Hán chỉ có hệ thống
64 quẻ được coi là của Chu Văn Vương và hệ thống kinh văn gồm:
Soán từ; Hào từ và Thập dực. Đồ hình Tiên thiên, Hậu thiên Bát quái
cũng như đồ hình Hà đồ – Lạc thư là do các nhà lý học đời Tống công
bố (tức là hơn 1000 năm sau kể từ khi các học giả thời Hán nói tới
những đồ hình này) như đã trình bày ở trên.
Về phần kinh văn thuộc hệ thống Chu dịch lần lượt có nội dung
như sau:
I– Soán từ được coi là của Chu Văn Vương soạn nhằm giải thích
ý nghĩa của từng quẻ trong hệ thống 64 quẻ Hậu thiên.
II– Hào từ được coi là của Chu Công Đán soạn nhằm giải thích ý
nghĩa từng “hào” trong quẻ gọi là “Hào từ”. Do cấu trúc quẻ gồm 6
vạch (liền hoặc đứt) mỗi vạch gọi là “hào”. Thứ tự 6 hào được tính từ
dưới lên. Hào đầu tiên gọi là hào sơ, hào thứ hai gọi là hào nhị… Hào
trên cùng thay vì hào lục thì gọi là hào thượng. Nếu hào là vạch liền
thì bên cạnh từ chỉ số đếm gọi là “cửu”; thí dụ: “Sơ cửu” có nghĩa là
hào đầu tiên là Dương (*). Nếu hào là vạch đứt thì bên cạnh từ chỉ số
đếm gọi là “lục”, thí dụ: Sơ lục, có nghĩa là hào đầu tiên là Âm(*).
Tiếp theo đó là cửu nhị (hoặc lục nhị) có nghĩa là hào 2 là Dương (cửu)
hoặc Âm (lục). Tùy theo vị trí của hào trong toàn ý nghĩa của quẻ, có
lời diễn giải ý nghĩa của từng hào gọi là “Hào từ”.


 




* Chú thích: Ở phần này vẫn tạm dùng khái niệm “hào âm” và “hào dương” vì các
sách quen dùng, đúng ra phải gọi là: “hào thuộc dương” hoặc “hào thuộc âm”. Trong
kinh văn chỉ dùng từ “cửu” và “lục”, khái niệm “hào âm” và “hào dương” là do các
nhà nghiên cứu đời sau đặt ra.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.04.2010 15:54:57 bởi Leo* >
Attached Image(s)
Cái gì xuất phát từ trái tim thì sẽ đi đến trái tim
G. Piet – Pháp
Leo*


Leo*
  • Số bài : 1800
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.05.2009
  • Nơi: The best simple things
RE: Tìm Về Nguồn Cội Kinh Dịch - 04.04.2010 15:57:59
III– Thập dực được coi là của Khổng tử soạn gồm các phần sau
đây:

1) Thoán truyện có nội dung giải thích rõ ý nghĩa từng quẻ, bổ
sung ý nghĩa của Soán từ. Thoán truyện chia làm hai phần thượng và
hạ.
2) Tượng truyện được chia làm hai phần là Đại tượng truyện –
giải thích hình ảnh (tượng) của mỗi quẻ; Tiểu tượng truyện có nội
dung giải thích tượng của mỗi hào (cửu, lục) và vị trí của mỗi quẻ
trong hệ thống 64 quẻ Hậu thiên.
3) Hệ từ truyện còn gọi là Hệ từ đại truyện, cũng chia làm hai
thiên thượng và hạ nhằm giải thích những vấn đề và những hiện tượng
liên quan đến kinh Dịch.
4) Văn ngôn cũng chia làm hai phần thượng và hạ. Thiên thượng
bàn về quẻ thuần Càn, phần hạ bàn về quẻ thuần Khôn và các hào của
hai quẻ này.
5) Thuyết quái nội dung giảng về 8 quái đơn và ý nghĩa cũng
như hình tượng của mỗi quái.
6) Tự quái truyện nội dung giải thích về thứ tự của 64 quẻ trong
hệ thống Chu dịch cũng chia làm hai phần thượng và hạ.
7) Tạp quái truyện nội dung là giải thích thêm về một số quẻ.
Trên đây, chỉ xin được tóm tắt nội dung của những lời kinh văn
trong kinh Dịch. Do phần kinh văn quá nhiều, nên trong cuốn sách này
chỉ trưng dẫn những lời kinh văn có liên quan – nhằm chứng minh cho
giả thuyết đã nêu; mong được bạn đọc thông cảm, lượng thứ. Bạn đọc
nếu muốn tìm hiểu sâu về kinh Dịch hoặc kiểm chứng những vấn đề
nêu ra trong sách này, có thể tham khảo và đối chứng qua những sách
dịch về kinh Dịch đã giới thiệu với bạn đọc ở trên, hoặc qua các sách
tham khảo được trình bày ở cuối cuốn sách này.
39

Chương III
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM KHÁC NHAU VỀ
THỜI ĐIỂM XUẤT XỨ
VÀ TÁC GIẢ CỦA KINH DỊCH



Như phần trên đã trình bày, mặc dù hầu hết các học giả khi
giới thiệu về kinh Dịch đều nhắc đến lịch sử và thời điểm
xuất xứ như đã trình bày ở trên. Tuy nhiên cũng có một số nhà nghiên
cứu có những quan điểm khác như sau:
VỀ THỜI ĐIỂM XUẤT XỨ .
Theo sách Chu Dịch và dự đoán học (Nxb Văn hóa Hà Nội 1995
– Thiệu Vĩ Hoa – trang 27) viết:
Thời gian hình thành Bát quái và 64 quẻ khoảng đời nhà Hạ.
Điều đó có “Ngọc Hải” dẫn chứng từ “Sơn hải kinh” như sau: “Phục Hi
được Hà đồ, do đó người Hạ nói “Liên sơn”; Hoàng đế được Hà
đồ, do đó người Thương nói “Quy Tàng”. Liệt Sơn thị được Hà đồ,
do đó mà người Chu nói “Chu dịch”. “Dịch tán”, “Dịch luận” của
Trịnh Huyền nói : “Hạ viết “Liên Sơn”, Ân viết “Quy Tàng”, Chu viết
“Chu dịch”.
Trong “Chu lễ” có ghi: Cung Xuân đại bốc “nắm cả phép của
ba bộ dịch là “Liên sơn”, “Quy tàng”, “Chu dịch”. Quái của các
kinh đó đều là 8, quẻ đều là 64”. Còn nói: cuối thời kỳ đồ đồng ở An
Dương đã xuất hiện những dấu hiệu Bát quái (trang 77 sách “Lịch sử
chữ viết trên xương của Trung Quốc”). Do đó có thể thấy thời kỳ hình
thành Bát quái và 64 quẻ nên vào đời nhà Hạ. Còn những người đời
sau nói Văn Vương đã làm lại 64 quẻ, điều đó chắc không đúng, tuy
nhiên Văn Vương đã sắp xếp lại cho nó chỉnh hơn thì rất có thể.
Hai quyển sách “Liên sơn”, “Quy tàng” đã mất từ lâu, quyển
sách người đời sau nhìn thấy chỉ là “Kinh Dịch”. Nhưng thời kỳ ra đời
của kinh Dịch từ xưa tới nay vẫn còn bàn cãi mãi. Căn cứ kết quả khảo
cứu của hơn ba mươi năm nay thì có ba loại ý kiến.
1. Kinh Dịch ra đời thời Xuân Thu. Quách Mạc Nhược nói:
Quan niệm trời đất đối lập xuất hiện rất muộn trong lịch sử tư tưởng
Trung Quốc. Những văn tự đời nhà Chu không có vết tích của Bát
quái, thậm chí không có chữ “địa”; những chữ như “Càn, Khôn” trong
40
sách cổ mãi về sau mới xuất hiện… đủ thấy “Kinh Dịch” không thể ra
đời trước thời Xuân Thu.
2. Kinh Dịch ra đời đầu thời Tây Chu. Trương Đại Niên, căn cứ
câu chuyện trong hào từ quẻ như “táng ngưu ư dịch”, “táng dương ư
dịch”, “Cao tôn phiệt quỷ phương”, “Đế Ất quy muội”, “kỳ tử chi minh
di” v.v… đều là các câu chuyện của nhà Thương và Tây Chu. Những
sách về sau của Chu Thành Vương, không viện dẫn đến, nên suy ra
kinh Dịch thành sách không thể sau đời Thành Vương.
3. Kinh Dịch thành sách vào thời kỳ giao thời nhà Ân và nhà
Chu. Kim Cảnh Phương v.v… cho rằng: Kinh Dịch là tác phẩm giao thời
giữa nhà Ân và nhà Chu. Họ khẳng định “quái xuất ư thi”. Thi sử đời
xưa dần dần được tổng kết lại qua nhiều bài ghi chép hoạt động của
chiêm thi, qua sàng lọc, chỉnh lại mà thành “Kinh Dịch”. Có học giả
còn từ tiến trình lôgíc phát triển tư tưởng của Trung Quốc và từ trong
mâu thuẫn xã hội các đời nhà Ân, nhà Chu mà nghiên cứu các niên đại
thành sách của kinh Dịch, họ cho rằng đó là thời kỳ giao tiếp giữa nhà
Ân và nhà Chu.
TÁC GIẢ CỦA KINH DỊCH
Ngoài những ý kiến khác nhau về thời điểm ra đời của kinh
Dịch, ngay cả vấn đề tác giả của kinh Dịch, những nhà nghiên cứu
cũng có những ý kiến không thống nhất:
Tác giả Tiên thiên Bát quái
Về đồ hình Tiên thiên Bát quái – mặc dù xuất hiện vào đời Tống
– nhưng được coi là do vua Phục Hy làm ra hầu như không có ai phản
bác. Bởi vì, người công bố đồ hình này là ông Thiệu Khang Tiết cũng
thừa nhận tác giả của nó là ngài Phục Hy và được bảo chứng ở đoạn
sau đây trong Hệ từ hạ chương II của Chu Dịch:
Ngày xưa họ Bào Hy cai trị thiên hạ, ngẩng lên thì xem tượng ở
trên trời, cúi xuống thì nhìn hình ở dưới đất, xem cái vẻ sắc của chim
muông, cùng những tiện nghi của mặt đất, gần thì lấy ở thân mình, xa
thì lấy ở mọi vật; do đó mới làm ra Bát quái để cảm thông cái đức của
thần linh và để phân loại cái tính tình của muôn vật.
Tuy nhiên sự việc cũng không đơn giản như vậy, cũng có học giả
đặt vấn đề ý nghĩa của hai đồ hình này qua tên gọi của nó. Đoạn trích
dẫn sau đây trong sách Kinh Dịch – Đạo của người quân tử (Nguyễn
Hiến Lê – sách đã dẫn, trang 28) chứng tỏ điều này:
41
Hình I gọi là Tiên thiên Bát quái, hình II là Hậu thiên Bát quái.
Hai tên đó không có trong Kinh Dịch, hiển nhiên là do người đời sau,
hoặc một đời Hán, hoặc Thiệu Khang Tiết đặt ra.
Tiên thiên Bát quái có nghĩa là Bát quái tượng trưng vũ trụ
(thiên) hồi đầu, Hậu thiên Bát quái tượng trưng vũ trụ hồi sau. Hồi đầu
là hồi nào? Hồi sau là hồi nào? Không ai biết chắc. Có người giảng hồi
đầu là hồi vũ trụ còn vô hình, hồi sau là hồi vũ trụ đã hình thành. Vô
lý: khi vũ trụ còn vô hình thì sao đã có núi, có chằm?
Có người lại giảng Tiên thiên Bát quái là những hiện tượng xảy
ra trên các thiên thể (nghĩa là khi vũ trụ đã thành hình), còn Hậu thiên
là những hiện tượng ở trên mặt đất (Bửu Cầm – Tìm hiểu kinh Dịch –
Saigon 1957). Vậy là trên các thiên thể cũng có trời, có đất, có núi,
chằm... như trên trái đất?
Có người đem thiên văn học của phương Tây mà giảng Tiên
thiên Bát quái, chẳng hạn bảo Càn gồm ba hào dương, toàn là dương
khí, sáng rực rỡ chính là một biển lửa, một định tinh, Khôn có ba hào
Âm, toàn khí Âm, đen lạnh, “có thể ví các sao đen tối của nhà thiên
văn học Emile Belot”... (Bùi Thị Bích Trâm, Thiên Văn, Huế 1942.
Nguyễn Duy Cần dẫn trong Dịch học Tinh hoa – Saigon 1973).
Từ một số học giả đời Hán dùng kinh Dịch để giảng về thiên
văn, về nguồn gốc vũ trụ, nhất là từ khi có hai hình Tiên thiên và Hậu
thiên Bát quái, chắc đã có nhiều người căn cứ vào hai hình ấy, rồi vào
hai hình Hà đồ, Lạc thư mà lập ra những thuyết mới sau này khoa thiên
văn của phương Tây có một phát kiến nào mới thì tất sẽ có những
người giảng lại, Tiên thiên và Hậu thiên Bát quái cho hợp với những
phát kiến mới. Chỉ có tám hình hai mươi bốn vạch liền và đứt, cho nên
rất dễ gợi sự tưởng tượng của con người.
Tác giả Hậu thiên Bát quái
Đồ hình Hậu thiên Bát quái, căn nguyên của 64 quẻ thuộc hệ
thống Hậu thiên cũng được Thiệu Khang Tiết công bố vào đời Tống,
nhưng ông cũng thừa nhận tác giả của nó là Chu Văn Vương làm ra.
Đây cũng là một nhận thức phổ biến của hầu hết các nhà nghiên cứu
dịch học từ trước đến nay. Nhưng đến đời nhà Mãn Thanh các nhà
nghiên cứu căn cứ theo phương pháp khảo chứng học cho rằng: Dịch
kinh không phải của Chu Văn Vương, Chu Công. Đến thời Dân Quốc,
Thôi Đông Bích và nhiều người khác cũng đồng nhận xét như trên.
Gần đây, Quách Mạc Nhược trong tác phẩm Chu Dịch chế tác chi thời
đại cũng cho rằng: kinh Dịch không thể xuất hiện sớm hơn thời Xuân
42
* Chú thích: Theo tài liệu chép tay của lương y Lê Hồng Sơn tại thư viện Viện nghiên
cứu Đông y Hà Nội, “Những nét cơ bản về kinh Dịch”, do giáo sư Cao Xuân Huy trình
bày.
thu và Dịch truyện còn xuất hiện sau đó (*).

Tác giả trùng quái
Việc trùng quái để tạo ra 64 quẻ thì những nhà nghiên cứu từ đời
Hán trở lại đây cũng có những ý kiến khác nhau:
1– Theo Tư Mã Thiên đời Tiền Hán thì cho rằng do vua Chu
Văn Vương trùng quái.
Tư Mã Thiên căn cứ vào việc vua Văn Vương bị giam ở ngục
Dữu Lý và đã trùng quái trong thời gian này.
2– Theo Trịnh Huyền đời Hậu Hán cho rằng do vua Thần Nông
trùng quái.
Trịnh Huyền căn cứ vào đoạn văn trong Hệ từ hạ viết: “Họ Bào
Hy mất họ Thần Nông lên thay, lấy tượng quẻ Ích để làm cày bừa và lấy
tượng quẻ Phệ Hạp định thể chế họp chợ”. Quẻ Ích và quẻ Phệ Hạp là hai
quẻ trùng quái.
3– Theo Tôn Thịnh đời Tấn cho rằng do vua Đại Vũ trùng quái.
Tôn Thịnh căn cứ vào câu trong sách Chu Lễ Tam Dịch Chú của
Trịnh Huyền nói: “Nhà Hạ là Liên Sơn, nói họ Liên Sơn lấy việc trùng Cấn
làm đầu” nên nhận việc trùng Cấn là việc của vua Đại Vũ.
4– Theo Ngu Phiên, Vương Bật đời Hán thì do vua Phục Hy
trùng quái.
Vương Bật, Ngu Phiên thì căn cứ vào chương I Hệ từ hạ có câu:
“Khi Bát quái thành hàng, tượng ở ngay trong đó; nhân đấy mà trùng lên, thì
hào cũng đã có trong đó”. Do đó cho rằng vua Phục Hy tạo ra đồ hình
Bát quái thì trùng quái ngay.
Với những ý kiến trên đây, nhà nghiên cứu Dịch học Việt Nam
là Thu Giang Nguyễn Duy Cần cho rằng:
Theo 4 giả thuyết trên đây ta không thấy giả thuyết nào đứng
vững, vì không có chứng cứ xác thực. Chỉ có giả thuyết thứ nhất và thứ
43
tư là được truyền tụng. Vậy, ta hãy tạm nhận như thế: có thể do vua
Phục Hy hoặc Văn Vương sáng chế, không sao.
(Dịch học tinh hoa – Nxb T/p HCM – 1992 – Thu Giang – Nguyễn
Duy Cần)
Nhận xét của học giả Nguyễn Duy Cần cũng là nhận xét của
hầu hết các nhà nghiên cứu về Dịch học từ trước đến nay.

Tác giả của Soán từ và Hào từ
Có hai giả thuyết:
1)– Giả thuyết này do Mã Dung và Lục Tích thời Hán đặt ra.
Thuyết này phù hợp với sự tóm lược về sự phát triển của kinh Dịch đã
trình bày ở trên, được lưu truyền đến ngày nay và cho rằng Soán từ là
của Chu Văn Vương, còn Hào từ là của Chu Công làm ra.
2)– Thuyết này do Trịnh Huyền (cuối thời Đông Hán, đầu thời
Tam Quốc) cho rằng Soán từ và Hào từ đều do Chu Công làm ra.
Tác giả của thập Dực
Có 3 thuyết sau đây:
1– Thuyết của Hán thư: Hán thư lại chia làm hai phái Cổ văn và
Kim văn. Phái Cổ văn cho rằng thập Dực là do Khổng tử làm ra. Phái
Kim văn phản bác cho rằng Khổng tử không quan hệ gì đến thập Dực
mà do người đời sau Khổng tử viết.
2– Thuyết của những người theo Sử ký: thập Dực là do những
người đời sau Khổng tử viết.
3– Thuyết của học giả Nhật Bản Đông Điền Nhất Đường: Dịch
truyện viết vào khoảng đời nhà Tần.
Đại Kiều Chính Thuận – một học giả người Nhật nói:“thập Dực
do Khổng tử viết, chỉ thấy có Tư Mã Thiên trong Sử ký nói đến mà thôi.
Các sách Kinh truyện (của Nho giáo cổ trước Hán), không thấy
trưng dẫn. Vì thế Âu Dương Tu (một học giả thời hậu Hán) mới sinh
nghi, các học giả sau này đua nhau biện bác… Soát lại lời văn của thập
Dực, quyết không phải của một người làm ra…”. Đành thế nhưng Thân
Vương tử có nói: “Lời văn Hệ Từ, tiên Nho nhiều người cũng đã nghi
ngờ không phải do Khổng tử làm ra, nhưng ở trong đó tác giả Dịch
44
Truyện đã phát minh được mọi lẽ cương yếu của Dịch, chỉ vẽ cho
người ta ứng dụng các phép tắc của Dịch một cách gãy gọn, vỡ vạc, rõ
ràng có “điều”, có “lý”, vậy nếu không phải ở một đầu óc đã có đầy đủ
hoàn toàn được cái học Dịch , quyết không thể nào nói rõ ra được như
thế”.
Tịnh Mộc Chính Thiều (người Nhật) nói:
“Thập Dực truyện là của Khổng tử, các hậu Nho thường có lời
bàn ra nói vào. Tôi đọc Hệ Từ, thường thấy hai chữ “tử viết” thì cũng
nghi không chắc Khổng tử đã thân hành viết ra. Nhưng rồi nghĩ kỹ lại,
xét rõ lại, thấy ở Hệ từ, tác giả đã xiển phát được nhiều lẽ tinh vi rõ
ràng hết sức, đã ghi lại được đầy đủ dấu vết của Âm dương Tạo Hoá,
cùng những mầu nhiệm của Quỷ Thần, của Trời Đất, của Nhân Loại,
không có một cái nào là chẳng khải phát một cách rõ ràng để chỉ vẽ
cho người đời sau. Nếu chẳng phải việc làm của một bậc đại thánh
nhân thì ai đã đủ tài sức làm nổi ? Nếu lại đem so sánh lời nói của các
bậc thầy như Tử Tư, Mạnh tử thực có thể làm “biểu lý” cho nhau
được”(*).
Về ý nghĩa chữ Chu trong Chu Dịch
Xin bạn đọc tham khảo đoạn sau đây trong Kinh Dịch – Đạo
người quân tử (Nguyễn Hiến Lê – sách đã dẫn):
Có hai thuyết:
a) Một thuyết, đại biểu là Trịnh Huyền (đời Hán), bảo Chu đó
không có nghĩa là nhà Chu, mà có nghĩa là hết một vòng rồi trở về
(Chu nhi phục thuỷ), là chu lưu trong vũ trụ, là phổ cập. Chu Dịch có
nghĩa là: đạo dịch, phổ biến khắp vũ trụ; là hết một vòng rồi trở về.
Trịnh Huyền lấy lẽ rằng ba sách Dịch đời Chu: Liên Sơn, Qui Tàng,
Chu Dịch, trên hai sách trên không chỉ thời đại, thì tên cuốn cuối cũng
không chỉ thời đại (để khỏi rườm, chúng tôi chỉ tóm tắt như vậy thôi).
b) Một thuyết nữa, đại biểu là Khổng Dĩnh Đạt (đời Đường) bác
lẽ đó, bảo người ta gọi hai sách trên là Liên Sơn, Qui Tàng, không
thêm chữ dịch ở sau, mà Chu dịch là có chữ dịch tức là chữ dịch này
không thể tách khỏi chữ Chu được mà như vậy Chu dịch phải có nghĩa
là dịch của đời nhà Chu.
* Chú thích: Dịch học tinh hoa – Thu Giang Nguyễn Duy Cần – Nxb TP Hồ Chí Minh
– 1992.
45
Lý luận của Trịnh và Khổng đều không vững, và chúng ta chỉ
cần biết rằng ngày nay mọi người đều hiểu Chu là đời Chu, mà tên
Chu dịch xuất hiện sau Khổng tử, Mạnh tử vì trong Luận ngữ, Mạnh tử,
chỉ thấy dùng tên Dịch thôi, không dùng tên Chu dịch.
Một cuốn sách rất quan trọng mà từ nguồn gốc đến chúng tôi,
thời đại xuất hiện, ý nghĩa của tên sách đều gây nhiều thắc mắc, mấy
nghìn năm sau chưa giải quyết được; đó cũng là một lẽ khiến cho Chu
dịch thành một kỳ thư.
Trên đây là tóm lược và trích dẫn những ý kiến khác nhau tiêu
biểu về quá trình hình thành và phát triển của kinh Dịch mà hầu hết
các sách nghiên cứu hiện đại về Kinh Dịch đều ghi nhận. Những ý
kiến phản bác, kể cả những ý kiến thừa nhận diễn biến lịch sử Dịch
học theo cổ thư chữ Hán đều thiếu những luận cứ chặt chẽ, như phần
trích dẫn giới thiệu với bạn đọc ở trên. Nhưng những ý kiến này dù
mâu thuẫn với nhau và hết sức mơ hồ, vẫn mặc nhiên thừa nhận kinh
Dịch là sản phẩm của nền văn minh Hoa Hạ.
Cái gì xuất phát từ trái tim thì sẽ đi đến trái tim
G. Piet – Pháp
Leo*


Leo*
  • Số bài : 1800
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.05.2009
  • Nơi: The best simple things
RE: Tìm Về Nguồn Cội Kinh Dịch - 08.04.2010 23:02:30



 

 
Chương IV
MỘT SỐ Ý KIẾN CỦA CÁC HỌC GIẢ CỔ KIM
VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ
CĂN NGUYÊN TRONG KINH DỊCH
HẬU THIÊN BÁT QUÁI
VÀ HỆ THỐNG 64 QUẺ CHU DỊCH Căn nguyên trực tiếp của bản kinh Dịch lưu hành từ thời
Hán chính là Hậu thiên Bát quái. Có thể nói rằng kể từ khi
đồ hình Hậu thiên Bát quái được các nhà lý học đời Tống công bố và
gán cho Chu Văn Vương là tác giả của nó cho đến gần đây, hầu như ít
có ai nghi ngờ về tính hợp lý của nó.Trong kinh văn phần Thuyết quái
của Chu Dịch có đoạn liên quan đến đồ hình này như sau:
Đế xuất hồ Chấn; Tề hồ Tốn; tương kiến hồ Ly; chí dịch hồ
Khôn; thuyết ngôn hồ Đoài; chiến hồ Càn; lao hồ Khảm; thành ngôn
hồ Cấn.
Qua đoạn kinh văn ở trên, bạn đọc cũng nhận thấy sự trùng hợp
hoàn toàn với thứ tự của các quái trong đồ hình Hậu thiên Bát quái,
nếu bắt đầu tính từ quái Chấn thuận theo chiều kim đồng hồ như hình
vẽ dưới đây.
Đoạn kinh văn trên còn được diễn giải cụ thể như sau:
Vạn vật xuất từ Chấn, Chấn thuộc phương Đông. Hoà đồng ở
Tốn, Tốn thuộc đông nam. Hoà đồng là nói vạn vật tu sửa để được
bằng nhau. Ly là sáng, là quẻ của phương Nam, là nơi vạn vật gặp
nhau. Đấng thánh nhân quay mặt về nam, lắng tai nghe thiên hạ, theo
lời hay ý đẹp mà cai trị, đó là ý nghĩa ở đấy. Khôn là đất; vạn vật đều
được Khôn nuôi dưỡng, cho nên nói: làm việc ở Khôn. Đoài thuộc
chính thu, đó là lúc vạn vật vui mừng: mừng vui ở Đoài. Chiến đấu ở
Kiền, Kiền là quẻ của tây bắc, ý nói nơi Âm dương chống đối. Khảm là
nước, là quẻ của chính bắc, là quẻ của công cuộc uỷ lạo, là nơi quay
về của vạn vật, cho nên nói: uỷ lạo ở Khảm. Cấn là quẻ của đông bắc,
nơi vạn vật hoàn thành chung cũng như thủy, cho nên nói: hoàn thành
48
ở Cấn. (*)
* Chú thích: Kinh Dịch với vũ trụ quan Đông phương – sách đã dẫn.
ĐỒ HÌNH THUYẾT MINH
SỰ TƯƠNG QUAN GIỮA THUYẾT QUÁI
VÀ CẤU TRÚC PHƯƠNG VỊ HẬU THIÊN BÁT QUÁI

 

 
Tuy nhiên, qua nội dung của đoạn kinh văn nói trên, bạn đọc
cũng nhận thấy nó không trực tiếp diễn đạt cấu hình phương vị Hậu
thiên Bát quái, mà chỉ là một sự liên hệ trùng hợp theo thứ tự diễn đạt.
Đoạn kinh văn trong Thuyết quái nói trên có đúng là căn nguyên của
đồ hình hậu thiên Bát quái hay không thì cho đến nay vẫn còn là điều
bí ẩn. Trong kinh Dịch truyền lại từ đời Hán, không có đồ hình Tiên
thiên và Hậu thiên Bát quái. Nhưng không thể vì thế mà cho rằng đồ
hình Bát quái nói chung gồm cả Tiên thiên lẫn Hậu thiên không phải
là một thực tế tồn tại như là một đồ hình căn nguyên của kinh Dịch.
Như vậy, đoạn kinh văn trên vẫn có thể không phải là căn nguyên của
đồ hình Hậu thiên Bát quái. Đã có rất nhiều nhà lý học cổ kim căn cứ
vào đoạn kinh văn trên để lý giải cấu trúc hợp lý mang tính quy luật
bao trùm của đồ hình Hậu thiên Bát quái.
49
Đoạn dưới đây trình bày sự lý giải của ông Thiệu Vĩ Hoa để
bạn đọc nghiệm lý. Sự lý giải của ông Thiệu Vĩ Hoa chưa thể được
coi là đúng đắn, nhưng đó là sự lý giải của một nhà lý học nổi tiếng
nhất hiện nay và là hậu duệ của nhà lý học Thiệu Khang Tiết thời
Tống. Tất nhiên ông Thiệu Vĩ Hoa đã có điều kiện nghiên cứu tổng
hợp rất nhiều những sự lý giải của các nhà lý học cổ kim trước ông.
Do đó, ít nhất nó cũng tiêu biểu cho sự tổng hợp những lý giải cho
đoạn kinh văn nói trên. Ông Thiệu Vĩ Hoa cho rằng:
1) Đế xuất hồ Chấn: vũ trụ vận động bắt đầu từ quẻ Chấn.
(Quẻ Chấn là phương đông, lệnh của tháng 2 mùa xuân, mặt trời phía
đông mọc lên, là thời kỳ tỏa chiếu cho vạn vật sinh trưởng).
2) Tề hồ Tốn: Vận hành đến quẻ Tốn, vạn vật đã đầy đủ, hưng
vượng (Quẻ Tốn là đông nam, lệnh của tháng 3 tháng 4, mặt trời đã
lên cao, chiếu rọi vạn vật rõ ràng).
3) Tương kiến hồ Ly: Quẻ Ly là tượng trong ngày, ánh sáng rực
rỡ, mọi vật đều thấy rõ (Quẻ Ly là phương nam, lệnh của tháng 5,
chính là lúc mặt trời ở trên cao, nhìn rõ mọi vật đang sinh trưởng).
4) Chí dịch hồ Khôn: Thiên đế (chỉ vũ trụ) giao cho đất (Khôn)
trọng trách (dịch) nuôi dưỡng vạn vật. (Quẻ Khôn là phương tây nam,
lệnh của tháng 6 tháng 7; Khôn là đất, nuôi dưỡng vạn vật, thời kỳ vạn
vật đã phát triển đầy đủ).
5) Thuyết ngôn hồ Đoài: là lúc vạn vật tươi vui (thuyết tức tươi
vui) bèn ứng ở quẻ Đoài. (Quẻ Đoài là phương tây, lệnh của tháng 8,
chính là lúc hoa quả trĩu đầy, lúc mừng được mùa).
6) Chiến hồ Càn: Thời khắc tương ứng với Càn mọi vật mâu
thuẫn, đối lập, đấu tranh. (Quẻ Càn là phương tây bắc, lệnh của tháng
9 tháng 10, mặt trời đã xuống chân phía tây, là lúc tối sáng, Âm dương
đấu tranh lẫn nhau).
7) Lao hồ Khảm: khi vũ trụ vận hành đến Khảm, mặt trời đã lặn
vạn vật mệt mỏi. (Quẻ Khảm là phương bắc lệnh của tháng 11. Khảm
là nước, không ngừng chảy, nghĩa là lao khổ. Mặt trời ở phương này
hoàn toàn không có, vạn vật mệt mỏi, là lúc yên nghỉ).
8) Thành ngôn hồ Cấn: vũ trụ vận hành đến Cấn là đã hoàn
thành một chu kỳ và sắp bước sang một chu kỳ mới. (Quẻ Cấn là
phương đông bắc, lệnh của tháng 12 và tháng giêng, tức giao thời của
đông và xuân, đen tối sắp qua, ánh sáng sắp tới, vạn vật đến đây đã
kết thúc một ngày, cũng là lúc ngày mới sắp bắt đầu) (*).
* Chú thích: Chu Dịch với dự đoán học, sách đã dẫn, trang 20
50
* Chú thích: Kinh Dịch - Đạo của người quân tử. Sách đã dẫn, trang 29.
Những nhà nghiên cứu lý học từ thời Tống trở về sau cho rằng:
Hậu thiên Bát quái được sắp xếp theo đồ hình Lạc thư. Hay nói một
cách khác đồ hình Lạc thư được coi là căn nguyên của Hậu thiên Bát
quái.
Có thể nói rằng: Cho đến tận ngày hôm nay, hầu như rất ít người
còn mảy may nghi ngờ cấu trúc đồ hình Hậu thiên Bát quái. Theo như
sự tìm hiểu của người viết thì ở Việt Nam có ba học giả là giáo sư Bùi
Văn Nguyên, giáo sư Lê Văn Sửu và học giả Nguyễn Hiến Lê đặt vấn
đề nghi ngờ tính hợp lý của đồ hình này.
Học giả Nguyễn Hiến Lê đặt vấn đề:
“Nếu quả do Văn Vương sắp lại Bát quái thì tại sao ông lại thay
đổi như vậy. Ông để Ly ở phương Nam, có lý, mà Khảm ở phương Bắc,
kể như cũng có lý. Vì Khảm trái với Ly, nước trái với hỏa, bắc đối với
nam. Nhưng tại sao ông lại không cho Kiền đối với Khôn, như ở đồ
hình Tiên thiên, mà lại cho nó đối với Tốn, và cho Khôn đối với
Cấn? Chúng tôi thú thực không hiểu nổi!…” (*).
Lập luận của giáo sư Bùi Văn Nguyên trong cuốn Kinh Dịch
Phục Hy (Nxb Khoa học xã hội – 1997) xin được tóm lược và trích dẫn
như sau:
Căn cứ theo độ số hào Dương là 3; hào Âm là 2, ứng dụng vào
từng quẻ trong Bát quái Hậu thiên chúng ta có độ số như sau:

Cái gì xuất phát từ trái tim thì sẽ đi đến trái tim
G. Piet – Pháp
Leo*


Leo*
  • Số bài : 1800
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.05.2009
  • Nơi: The best simple things
RE: Tìm Về Nguồn Cội Kinh Dịch - 02.05.2010 00:22:24
Qua đồ hình Hậu thiên Bát quái trên đây, chúng ta thấy nó
không đại biểu cho tỷ lệ Âm dương trong khí theo phương vị địa bàn,
bởi vì nó không có đối đãi Âm dương theo các trục phát triển của tỷ lệ
khí ở đủ cả tám hướng mà chỉ mới có sự đối đãi ở bốn hướng chính.
...Nay nếu ta đem hoán đổi hai quái ở hai vị trí đông bắc và tây
nam cho nhau, Cấn từ đông bắc chuyển sang tây nam, đem Khôn ở
tây nam về đông bắc, chúng ta sẽ thấy được tính chất hợp lý giữa hai
cung đều là hành thổ được ở đúng vị trí của mình. Cấn là thổ có thêm
Dương trong Âm ở về phía nam là gốc của Dương, Khôn là thổ thuần
Âm nằm ở phía bắc là gốc của Âm. Vả lại, nếu Cửu cung là cái dụng
của Bát quái ở thời gian, Hậu thiên Bát quái là cái dụng của Bát quái
ở trong không gian thì, sau khi ta hoán vị hai cung Cấn và Khôn xong,
chúng ta sẽ thấy chu kỳ Cửu cung chín năm chính là sự vận động vũ
trụ đem lại ảnh hưởng Âm dương cho môi trường trùng lặp với hai nửa
của Hậu thiên Bát quái tính theo hai hệ quy chiếu khác nhau, giữa hai
nửa ấy thêm một cung trung mà thành. Lý do để Chu Văn Vương xếp
cung Khôn ở tây nam, Cấn ở đông bắc chỉ có thể là ông đã lấy khí thổ
của mùa tiết trưởng hạ ở cuối hạ đầu thu tức là trùng phương hướng với
phương tây nam, bởi chỉ ở mùa tiết này trong năm là mùa mưa, thổ khí
được biểu hiện mạnh mẽ bằng độ ẩm thấp và các bệnh biến theo thấp
khí xuất hiện nhiều nhất. Nếu lý do này là chủ yếu và đúng như ý thức
của Chu Văn Vương chúng ta lại được có một nhận xét rằng Chu Văn
Vương và những cộng sự của ông đã không nhận thức được giá trị của
Bát quái trong thời gian theo nhiều năm tức là cửu cung tương ứng với
54
giá trị của Bát quái trong không gian địa bàn, nên các vị đã nhầm mà
lấy giá trị của bát quái trong thời gian theo mùa tiết để ứng với giá trị
của Bát quái trong không gian địa bàn.
b. Một lý do nữa để nói lên rằng việc xếp đồ hình Hậu thiên Bát
quái và Chu Văn Vương đã làm là không có cơ sở đúng, là luận thuyết
cho rằng Chu Văn Vương đã căn cứ vào đồ hình Lạc thư để lập nên đồ
hình Hậu thiên Bát quái. Sự thật thì nội dung của Lạc thư và nội
dung của Hậu thiên Bát quái hoàn toàn không có một khía cạnh
liên quan nào để nói rằng đó là cơ sở của nhau.
Hãy nói riêng về Lạc thư một chút, trong các tài liệu có ghi về
những lời bàn tới nội dung của Lạc thư từ trước tới nay, tất cả các học
giả đều xoay quanh giá trị con số theo sự phân chia chẵn lẻ và mức độ
lớn nhỏ của nó. Người ta còn bàn đến nhiều hướng vận hành của số
theo mức độ lớn dần, đặc biết là tính chất ma phương theo sự sắp xếp
vị trí các số tạo ra. Mỗi người, tùy theo nhận thức của mình mà khai
thác các khía cạnh khác nhau và phát triển suy lý khác nhau, nhưng
nhìn chung lại, chưa có một tài liệu nào nói đúng về bản chất của các
con số và mục đích lập ra đồ hình. Cho nên, đã trải mấy ngàn năm và
không biết bao nhiêu ngàn chữ được dùng để bàn về nó, thế mà Lạc
thư cùng với Hà đồ vẫn nằm trong đáy bể “huyễn hoặc” mung lung.
Chưa hiểu rõ về nó mà lại khẳng định nó là cơ sở của Hậu thiên Bát
quái, thật quả là một việc làm không thể chấp nhận được.
Giáo sư cho rằng: Lạc thư là một đồ hình diễn tả độ ẩm và sự
tương tác giữa nhiệt độ và độ ẩm môi trường.
...Điều mà trong lịch sử chưa có ai nghĩ về Lạc thư như vừa
nêu trên lại chính là nội dung của nó. Tôi xin trình bày nội dung này
như sau:
Hãy lấy những số lẻ vốn được coi là số dương để chỉ nhiệt độ =
1, 3, 5, 7, 9 trong đó số tối đa là 9, tối thiểu là 1, trung bình là 5, dưới
trung bình là 3 trên trung bình là 7.
Hãy lấy những số chẵn vốn được coi là số Âm để chỉ độ ẩm = 2,
4, 6, 8, trong đó số tối đa là 8, tối thiểu là 2, trung bình là 5, dưới trung
bình là 4, trên trung bình là 6.
Theo địa dư khí hậu vùng phương Đông: sự phát triển của nhiệt
độ từ tối đa đến tối thiểu là từ phía nam lên phía bắc, do đó số 9 ở phía
nam, số 1 ở phía bắc, số 5 ở trung ương. Phía tây và phía đông của
trung ương đáng lẽ nhiệt đều là trung bình, nhưng vì phía đông là biển,
nhiệt gặp ẩm nhiều cho nên nhiệt gặp bị giảm từ trung bình xuống
thành dưới trung bình, tức là bằng 3, còn như phía tây là trung tâm đại
lục địa, có nhiều cao nguyên như nóc nhà của thế giới, khí hậu khô
ráo, nhiệt gặp khô ráo thì nhiệt được tăng từ trung bình lên trên trung
55
bình, tức là bằng 7. Đó là sự hình thành vị trí các số dương trong đồ
hình Lạc thư; hình 36.
Cái gì xuất phát từ trái tim thì sẽ đi đến trái tim
G. Piet – Pháp
Leo*