Chương II TRUYỀN THUYẾT BÀ NỮ OA VÁ TRỜI
& PHƯƠNG VỊ HẬU THIÊN BÁT QUÁI NỘI DUNG TRUYỀN THUYẾT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
LIÊN QUAN ĐẾN PHƯƠNG VỊ HẬU THIÊN BÁT QUÁI
Căn nguyên của Hậu thiên Bát quái, là một trong những
hiện tượng bí ẩn lớn trong văn minh Đông phương - cũng
là mâu thuẫn chủ yếu của vấn đề được đặt ra - phải lý giải trong sách
này. Đặc biệt trong trường hợp này, sự hướng dẫn giải mã lại bắt đầu
bằng những truyền thuyết được coi là của chính nền văn minh Trung
Hoa. Đó là những truyền thuyết “Thần Bàn Cổ” và “Bà Nữ Oa vá
trời”.
Truyền thuyết “Thần Bàn Cổ” và “Bà Nữ Oa vá trời từ trước
đến nay vốn được coi là những truyền thuyết xưa nhất của nền văn hóa
dân gian Trung Hoa. Nhưng truyền thuyết này lại ẩn chứa những giá
trị có tính hướng dẫn về một tiền đề căn bản nhất của kinh Dịch, đó là:
Tiên thiên và Hậu thiên Bát quái. Để bạn đọc tiện tham khảo và nhận
xét, người viết xin được tóm lược và trích dẫn nội dung của những
truyền thuyết này căn cứ theo tư liệu trong sách Thần thoại Trung
Quốc của giáo sư Đinh Gia Khánh (Nxb Khoa học xã hội – 1998) và
vài dị bản khác được sưu tầm.
Trang 11 (trích):
Chống màn trời, Bàn Cổ làm trụ,
Hóa thân thành sông núi, cỏ cây.
Xưa kia, vũ trụ vốn là một khối hỗn độn, đen ngòm, hình giống
quả trứng. Thần Bàn Cổ sinh ra từ trong quả trứng vũ trụ ấy.
Thần Bàn Cổ ngủ 18000 năm thì tỉnh dậy. Ông thấy trời tối
đen rất khó chịu.
Thần Bàn Cổ rất bực tức. Không biết thần vớ đâu ra một
chiếc rìu lớn và thần nhằm thẳng phía trước mặt mà bổ vào cái
khoảng mù mờ đen tối ấy. Thần vung rìu lên bổ về phía trước như
188
thế một nhát. Quả trứng ấy vỡ toang ra. Có chất gì trong suốt và
nhè nhẹ bốc dần lên cao, trở thành bầu trời, lại có chất gì đó đùng
đục và nằng nặng lắng dần xuống thấp, trở thành mặt đất. Thế là
nhờ có nhát rìu của thần Bàn Cổ mà vũ trụ phân khai thành trời và đất.
Tiếp theo là tóm lược và trích dẫn truyền thuyết “Bà Nữ Oa vá
trời”:
Nữ Oa khéo nặn con người khôn,
Chọn đá quí vá màn trời rách.
Bà Nữ Oa là vợ thần Phục Hy, được sinh ra ngay sau khi
thần Bàn Cổ tạo ra thế giới. Bà lấy đất sét vàng nặn ra con người.
Loài người lấy nhau và sinh sôi nảy nở trên thế gian ngày càng
đông vui. Mọi người tôn bà làm nữ thần hôn nhân (thần Cao Môi).
Nhưng, đến một ngày kia tai họa đã xảy ra.
Bỗng nhiên, chẳng hiểu vì sao một ngày kia xảy ra một biến cố
lớn. Đó là việc thần nước Cộng Công và thần lửa Chúc Dung choảng
nhau.
Cuộc chiến tranh rất khốc liệt, cuối cùng thần nước Cộng
Công bị thần lửa Chúc Dung đánh thua.
Phẫn chí, thần Cộng Công bèn lao đầu vào núi Bất Chu ở
phương Tây. Lao đầu húc núi như vậy, mà Cộng Công vẫn không bị
chết. Nhưng một cái húc đầu ấy đã làm cho trời đất biến đổi hẳn, làm
cho nhân gian gặp tai họa lớn.
Núi Bất Chu vốn là một trong những cây trụ chống trời. Cây
gậy Bất Chu ấy bị Cộng Công húc bèn bị gãy. Thế là một nửa bầu trời
ở phía Tây bị sụp xuống, bị rách nát và có nhiều lỗ thủng. Trời đổ
xuống lại làm cho mặt đất nhiều chỗ sụt xuống thành hang sâu. Trong
khoảng trời long đất lở ấy, lửa bốc lên rần rật, thiêu đốt núi rừng, nước
sông sóng sánh dâng lên cao, hầu như đến lưng trời, làm cho mặt đất
khắp nơi bị ngập nước.
Bà Nữ Oa thấy loài người, đám con cháu do bà tạo dựng nên,
gặp cảnh khốn khổ như vậy thì vô cùng đau đớn. Bà đành lại phải đi tu
bổ lại trời đất. Công việc này thực là vất vả, nhưng bà Nữ Oa không hề
quản ngại.
Bà chọn thứ đá ngũ sắc lấy từ các sông lớn, dùng lửa nung nấu
thành một thứ keo đặc biệt. Bà đem thứ keo ấy dán vá lại lỗ thủng trên
bầu trời. Để chống bầu trời lên, bà chọn một con rùa lớn, chặt bốn
chân của nó làm trụ. Bốn cái chân của nó dựng lên ở bốn góc trời, là
bốn cái trụ vững chắc để chống đỡ bầu trời. Bà xua đuổi các loài ác
189
thú, mãnh điểu để cho loài người khỏi bị chúng làm hại. Bà lại đốt cỏ
lau thành tro, chất tro thành đống lớn để làm vật liệu xây đắp đê
đập chống nạn lũ lụt.
Cuối cùng tai họa lớn của loài người đã qua khỏi. Đó đều là nhờ
công lao của bà Nữ Oa.
Trời và đất đã được bà Nữ Oa sửa chữa, vá víu và chống dựng
lại. Tuy nhiên, trời và đất không giữ lại được nguyên vẹn hình thể trước
kia. Bầu trời vẫn cứ hơi nghiêng về phía Tây. Vì vậy mà mặt trời,
mặt trăng và các tinh tú cứ theo chiều hướng nghiêng ấy mà chạy
từ đông sang tây. Mặt đất tuy có được tu bổ, nhưng lại vẫn còn vực
sâu ở phía đông nam. Vì vậy nước các sông ngòi đều chảy từ tây sang
đông và dần dần các sông ngòi ấy đều chảy xuống vực sâu, tích tụ
dần thành biển lớn.
Cùng với nội dung trên, trong cuốn Kinh Dịch và cấu hình tư
tưởng Trung Quốc (sách đã dẫn trang 583) chép như sau:
Ngày xa xưa, bốn trụ chống trời bị hư hoại, Cửu Châu [tức là
Trung Quốc] bị đổ lở, không đâu mà không bị lật úp, đất không được
che kín, lửa cháy hừng hực liên miên không tắt, nước ngập lụt mênh
mông không ngưng, thú dữ ăn thịt dân lành, chim ưng hung ác quắp
lấy người già cả ốm yếu. Cho nên bà Nữ Oa mới luyện đá năm màu
để vá trời xanh, chặt chân rùa lớn làm bốn cột chống đỡ bầu trời, giết
rồng đen cứu Ký Châu, chèn tro cỏ lư để ngăn nước lụt. Bầu trời
xanh được vá lại, bốn trụ chống đỡ ngay ngắn, nước lụt rút khô đi, Ký
Châu yên bình, thuồng luồng chết, dân lành sống, dựa lưng vào đất
vuông ôm lấy bầu trời tròn.
Một dị bản khác khá phổ biến được ghi nhận như sau. Đoạn sau
đây được trích trong bộ Tam quốc chí – La Quán Trung (Dịch giả Phan
Kế Bính; Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội 1988 –
tập 6, trang 167):
… Khi ấy Tần Bật ứng đối trôi chảy, nói năng hoạt bát, cả đám
ngồi đều kinh. Trương Ôn không hỏi vặn được câu gì nữa. Bật mới hỏi
lại rằng:
– Tiên sinh là danh sĩ Đông Ngô, đã lấy việc trên trời mà hỏi, tất
là hiểu sâu lẽ trời. Khi xưa lúc hỗn độn mới mở, Âm dương chia biệt,
khí nhẹ mà trong thì bay lên thành trời; khí nặng mà đục thì đọng
xuống dưới thành đất. Đến đời họ Cung Công đánh trận thua, húc
đầu vào núi Bất Chu thì cột trời đổ gẫy mà rường đất sứt mẻ, trời
nghiêng về phía Tây Bắc, đất đổ về phía Đông Nam. Trời đã là khí
nhẹ mà trong, làm sao lại còn nghiêng về phía Tây Bắc? Vả lại, ở
ngoài lần khí nhẹ mà trong còn có vật gì nữa, xin cho tiên sinh dạy cho tôi được biết?
Trương Ôn không biết đối đáp ra sao mới đứng dậy tạ rằng:
– Tôi không ngờ trong Thục lắm người tuấn kiệt thế này; nghe
lời ngài giảng luận, khiến tôi mở được đường ngu dốt…
Như vậy, qua truyền thuyết “Thần Bàn Cổ”, “Bà Nữ Oa vá trời”
và những dị bản được trích dẫn ở trên, tổng hợp lại, chúng ta sẽ thấy
mấy vấn đề sau đây:
1) – Đây là một câu chuyện bắt đầu từ một nội dung thần thoại
phát triển liên hệ dẫn tới một ý niệm vũ trụ quan mơ hồ; ý niệm vũ trụ
quan này, xuất hiện sớm nhất vào Đông Hán (Tam quốc chí là truyện
lịch sử cuối thời Đông Hán). Điều này thể hiện ở sự liên hệ giữa nội
dung truyền thuyết “Thần Bàn Cổ “, “Bà Nữ Oa vá trời” với đoạn
tranh luận của các danh sĩ Ngô – Thục.
2) – Mang dấu ấn Hán hóa trong quá trình phát triển từ nội dung
thần thoại của truyền thuyết nguyên thủy cho đến đoạn trích dẫn trong
Kinh Dịch & Cấu hình tư tưởng Trung Quốc. Điều này thể hiện ở những
địa danh Hán như Ký Châu, hoặc được coi là thuộc về Hán như Cửu
Châu. Cổ thư chữ Hán ghi nhận theo truyền thuyết thì: danh từ Cửu
Châu chỉ có sớm nhất bắt đầu từ vua Vũ khi tìm được Lạc thư đặt ra
Hồng phạm cửu trù và định ra phép cống chín Châu. Ký Châu là một
địa danh xuất hiện rất muộn trong lịch sử Trung Hoa không thể có từ
thời bà Nữ Oa vá trời được (?!)
3) – Sử dụng những yếu tố căn bản trong truyền thuyết “Thần
Bàn Cổ”, “Bà Nữ Oa vá trời” và dị bản được dẫn chứng từ cuốn Tam
quốc chí, so sánh với cấu hình của Tiên thiên và Hậu thiên Bát quái sẽ
có một sự tương hợp gần như hoàn toàn sau đây:
@ Chuyện “Thần Bàn Cổ” và phần đầu của truyền thuyết “Bà
Nữ Oa vá trời“ hoàn toàn trùng khớp với cấu hình của Tiên thiên Bát
quái được minh họa trong đồ hình dưới đây:
Qua đồ hình trên bạn đọc cũng nhận thấy rằng nửa phần trên của
hình Tiên thiên Bát quái: số hào Dương trội hơn hào Âm, mà cao nhất
là quẻ Càn – tượng trời, ứng với câu “Âm dương chia biệt, khí nhẹ và trong
bay lên thành trời”. Nửa phần dưới số hào Âm nhiều hơn số hào Dương,
ở vị trí thấp nhất là quẻ Khôn – tượng đất, ứng với câu “Khí nặng và đục
tụ xuống thành đất”.
@ Trong nội dung của truyền thuyết “Bà Nữ Oa vá trời“ và
đoạn sau lời đối thoại của Tần Bật, hoàn toàn trùng khớp với cấu hình
của Bát quái Hậu thiên được minh họa bằng hình vẽ dưới đây:
ĐỒ HÌNH MINH HỌA TRUYỀN THUYẾT
BÀ NỮ OA VÁ TRỚI VÀ CẤU HÌNH HẬU THIÊN BÁT QUÁI
Qua đồ hình trên bạn đọc cũng nhận thấy rằng:
Qua đồ hình trên bạn đọc cũng nhận thấy rằng:
Về cấu hình phương vị Hậu thiên Bát quái
* Trục Càn – Khôn ở Tiên thiên là trục thẳng đứng; hình tượng
cây cột chống trời Bất Chu (chống trên đất Khôn, đỡ trời Càn) chính là
trục Càn Khôn trong Tiên thiên Bát quái. Nhưng trong Hậu thiên được
thay thế bằng trục Khảm (Thủy) – Ly (Hỏa). Thủy – Hỏa xung khắc
được hình tượng bằng cuộc chiến giữa thần nước Cộng Công và thần
lửa Chúc Dung.
* Quẻ Càn (Trời) trong Hậu thiên lệch về phía Tây Bắc, ứng
với câu “Trời nghiêng về phía Tây Bắc”.
* Quẻ Khảm (Thủy) ở Hậu thiên, được thay thế cho vị trí quẻ
CÀN - Trời
Nghiêng về phía
Tây Bắc
KHÔN - Đất
Lệch về phía
Đông Nam
KHẢM - Thủy
Thần nước Cộng Công
Thần lửa Chúc Dung
LY - Hỏa
CÀN - Trời
Tây Bắc
KHÔN - Đất
Đông Nam
193
Càn ở Tiên thiên ứng với câu “Nước từ trên trời đổ xuống gây ngập lụt ở
trần gian”.
* Sự khác nhau duy nhất giữa truyền thuyết và cấu hình của Hậu
thiên Bát quái là “Đất đổ về phía Đông Nam”, nhưng ở Hậu thiên Bát
quái quẻ Khôn – tượng đất – lại ở về phía Tây Nam. Nếu ta theo
truyền thuyết, đưa quẻ Khôn – tượng đất về phía Đông Nam và quẻ
Tốn về phía Tây Nam thì hoàn toàn bảo đảm được tính cân đối của đồ
hình Bát quái Hậu thiên như trong Bát quái Tiên thiên, được minh họa
bằng hình vẽ trên.
Về nội dung liên hệ Bát quái với
thuyết Âm dương – Ngũ hành
* Cột trời có tên Bất Chu – hiểu theo một nghĩa khác – thì đây là
sự phủ định: Chu Dịch không phải do Chu Văn Vương (Nhà Chu) làm
ra. Liên hệ với quả trứng vũ trụ trong “Truyền thuyết Thần Bàn Cổ”
cho thấy chữ Chu phải hiểu là một vòng tròn (quả trứng).
*Hình ảnh bà Nữ Oa sử dụng đá Ngũ sắc làm vật liệu để vá trời
cho thấy: Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là nền tảng của Tiên
thiên và Hậu thiên Bát quái.
* Hình ảnh bà Nữ Oa đốt cỏ lấy tro ngăn nước (phần trích dẫn
chữ đậm) còn có một ý nghĩa liên hệ: Hỏa (đốt cỏ) – sinh Thổ (thành
tro, còn có nghĩa là Âm Hỏa) – khắc Thủy (ngăn nước). Hiện tượng
này còn chứng tỏ sự liên quan giữa Hậu thiên Bát quái và Hà đồ, sẽ
được minh chứng ở chương sau.
Tính cân đối sau khi đổi vị trí quái Tốn – Khôn sẽ hoàn toàn vô
nghĩa, nếu chỉ dừng lại ở đây. Sự hướng dẫn mang tính mật ngữ ẩn
chứa trong các truyền thuyết dân gian được coi là của Trung quốc –
nhưng không loại trừ khả năng có nguồn gốc Lạc Việt, còn tồn tại ở
Nam sông Dương Tử – sẽ không hơn một ý tưởng về tính cân đối của
Bát quái Hậu thiên trong các cuộc tranh luận về vấn đề này. Nhưng
tính cân đối rất quan yếu – trong việc đổi chỗ hai quái Tốn Khôn của
cấu hình Bát quái Hậu thiên – lại thể hiện sự tương quan hợp lý trong
sự liên hệ với thứ tự của 64 quẻ kép thuộc hệ thống Hậu thiên và một
số vấn đề liên quan được trình bày dưới đây.
194
SỰ TƯƠNG QUAN CẤU HÌNH HẬU THIÊN BÁT QUÁI
& THỨ TỰ 64 QUẺ THUỘC HỆ THỐNG HẬU THIÊN
Lời mở đầu của phần III đã chứng tỏ với bạn đọc tính suy diễn
chủ quan trong việc giải mã những mật ngữ ẩn chứa trong văn hóa dân
gian. Tính hướng dẫn của mật ngữ – thông qua sự suy diễn chủ quan –
chỉ được coi là đúng, nếu chứng tỏ được một thực tế, hoặc một sự tương
quan hợp lý cho vấn đề được đặt ra. Trong phần này, tính hợp lý trong
việc giải mã truyền thuyết “Thần Bàn Cổ”, “Bà Nữ Oa vá trời” được
chứng tỏ trong tương quan cấu hình Bát quái Hậu thiên – đã đổi phương
vị quẻ Tốn & Khôn – với thứ tự 64 quẻ thuộc Hậu thiên Bát quái.
Trước hết, bạn đọc làm quen với một sự phân định sau: Các nhà
nghiên cứu Dịch học chia Bát quái làm 2 nhóm là: