NCD
-
Số bài
:
1428
-
Điểm thưởng
:
0
- Từ: 28.03.2007
|
RE: TUYỂN TRẠCH CẦU CHÂN
-
16.02.2010 17:38:10
BÀI CA TẠO MỆNH THIÊN KIM (của Dương Quân Tùng đời đường làm ra. Tên là Ích hiệu cứu bần) THIÊN CƠ DIỆU QUYẾT ĐÁNG GIÁ NGÌN VÀNG, KHÔNG DÙNG HÀNH NIÊN VÀ TÍNH GIẢ, CHỈ XEM SƠN ĐẦU VÀ MỆNH VỊ, NGŨ HÀNH SINH VƯỢNG NÊN SUY TÌM. Đó là cương lĩnh của phép Tạo Mệnh. Hành Niên, như loại mấy mươi mấy tuổi, Tính Giả tức là Ngũ Tính Tu Trạch vậy. Thế tục lấy hai điều đó phân Cát Hung là lầm lắm, cho nên không dùng. Sơn đầu chính là một tiết long lại với tọa sơn, tức là Tọa Sơn. Mệnh Vị tức là ngũ hổ độn Nạp Âm của Bản Sơn Mệnh. Sơn Mệnh chỗ thuộc vào Ngũ Hành, hợp với năm tháng ngày giờ đều cần sinh vượng. Như Tý Sơn Mệnh, chọn năm tháng ngày giờ Thân Tý Thìn hữu khí để dùng, lấy cả Thiên Can hợp cách Cục thì là đại cát. Một là xét Mệnh Vị, không chuyên chỉ Bản Sơn Mệnh, nên gồm cả chủ Mệnh mà nói. Về Tạo dựng nhà chỉ lấy bản Mệnh người trạch trưởng, Táng thì lấy Mệnh người chết làm chủ. Tứ khóa đều cốt tin nhau, chính là nói về Phù Long Tướng Chủ. CỐT YẾU THỨ NHẤT: ÂM DƯƠNG KHÔNG HỖN TẠP; THỨ HAI: TỌA HƯỚNG GẶP TAM HỢP; THỨ BA: MINH TINH VÀO TỚI HƯỚNG; THỨ TƯ: ĐẾ TINH NÊN LỤC GIÁP. TRONG 4 ĐIỀU ĐÓ MẤT MỘT VẪN KHÔNG HẠI, NẾU MẤT HAI THÌ KHÔNG PHẢI PHÉP. 1. Bàn Âm Dương không hỗn tạp là nói Lai Long phải tĩnh (toàn) Âm hay tĩnh (toàn) Dương. Long đó chỉ riêng một đốt mạch nhập thủ kết huyệt, không phải Tọa Sơn vậy. Càn Giáp, Khôn Ất, Khảm Quý, Thân Thìn, Ly Nhâm, Dần Tuất 12 Lai Long thuộc Dương, nên lập Dương Hướng, dùng kỳ hạn ngày Dương là Thân Tý Thìn, Dần Ngọ Tuất vậy. Cấn Bính, Tốn TÂn, Chấn Canh, Hợi Mùi, Đoài Đinh, Tị Sửu 12 Lai Long thuộc Âm, nên lập Âm Hướng, dùng kỳ hạn ngày Âm là Tỵ Dậu Sửu, Hợi Mão Mùi vậy. Thế bảo rằng: "Dương Long nên Dương Điều, Âm Long nên Âm Khóa"; trái thế là Âm Dương hỗn tạp, không tốt. Song cũng bất tất câu nệ hết cả, như Cấn Long, Hợi Long, Cổ Nhân có dùng Thân Tí Thìn, Dần Ngọ Tuất là phép Tam Hợp bổ Long. 2. Bàn về Tọa Hướng Tam Hợp. Lấy Tam Hợp bổ Long, thời bổ vào mới có lực. Không nói Long mà nói Tọa, Hướng vậy. ẤY LÀ MƯỢN TỌA HƯỚNG ĐỂ BỔ VÀO LONG. Như Tốn Long thì làm Tị Sơn Hợi Hướng, dùng Cục Mão Mùi để bổ vào Tốn Mộc Long, không phải thực bổ Hợi Hướng. (Xét Cục Mão Mùi tuy bổ vào Tốn Mộc Long, thực ra là Tị Sơn, Cục Ấn Thụ), phát phúc hoàn toàn ở trên Long, Tọa Sơn là thứ, huống chi Hướng có ích gì đâu? Song lấy Chính Ngũ Hành để luận bàn, có Tứ Trụ cùng với Hướng Tam Hợp ấy, thì chẳng nên xung Sơn, nên phải bớt đi một chữ. Như Hợi Long thì làm Hợi Sơn Tị Hướng, chỉ dùng Dậu Sửu Kim Cục để sinh Hợi Long là được, nếu thêm chữ Tị thời xung phá Hợi Sơn. Điều khác, phỏng theo đây mà suy ra. Xét Tọa Hướng Tam Hợp, thường gồm cả Tu (sửa) mà nói. Như Tọa Hợi Hướng Tị, muốn Tu Tị hướng, thì dùng Dậu Sửu Hướng Hợp Cục Tam Hợp, lấy sinh Tọa Sơn Hợi Thuỷ vậy. 3. Bàn về Minh Tinh nhập Hướng, là cần Nhật Nguyệt thất chính đến Hướng. Minh Tinh là Nhật Nguyệt, tới Hướng thì chiếu Sơn. Hy Di (Trần Đoàn) có nói: "Thái Dương tới Sơn, chỉ nên dùng cho quốc gia tu sửa cung điện mới thích hợp, người sĩ và dân thường không thể đương được". Vì vậy Dương Công nhiều lần nói: "Tam Hợp đối cung Phúc Lộc bền vững", như Thái Âm tới Sơn tới Hướng đều được. Hoặc Nhật tới Hướng, Nguyệt tới Sơn, trước sau giáp chiếu thời càng thần diệu. 4. Bàn về Đế Tinh, tới Hướng. Cốt yếu Đế Tinh. Tịch Mậu có nói: "Đế là Thiên Đế, tức là trong Kinh Dịch nói [Đế xuất hồ Chấn, tề hồ Tốn]. Đương Lục Giáp là nói Thiên Đế mừng nắm thời Lệnh để nhận khí đất, tới Sơn thời Tinh cát, nếu trái thời thất khí, rất hung. Bốn điều này là Phương Pháp Tạo Mệnh, được cả là Thượng Cát, mất 1 còn khá, nếu được 2 mất 2 thì không phải phép Tạo Mệnh, huống chi là hoàn toàn không hợp ru! Xét Hiệp Kỷ nhầm cho là không kê cứu ở đâu Tôn Đế 2 vị sao và Thích Đế Tinh là mâu thuẩn vậy. Đây trỏ vào Thiên Đế là không nghi ngờ, xét ở dưới đây 2 thiên nói về Thiên Đế và Thiên Tướng, giao hội dùng khác nhau, thì tự rõ. SƠN ĐẦU CÓ SÁT LÀM SAO ĐÂY, QUÝ NHÂN LỘC MÃ MỪNG CÙNG TỚI. TAM KỲ TỨ ĐỨC HAY HÀNG ĐƯỢC SÁT. CÁT CHẾ HUNG THẦN PHÁT PHÚC NHIỀU. Trên nói đạo (phép, đường lối) Cát, đây nói Chế Hung. Sơn đầu là tọa sơn. sát là nói các sao ác về niên, nguyệt. Sơn đầu không phạm càng tốt.Thảng hoặc có phạm chiếm, chưa tiện vội bỏ, trừ Tuế Phá, Tam sát của niên gia, Mậu Kỷ Âm phủ, Nguyệt gia Đại Tiểu Nguyệt kiến, chưa nên khinh thường lắm. Như Quan Phù, Chá thoái, Không Vong Kim thần, loại Hỏa tinh có đã lâu, chỉ cốt Chân Quý nhân Lộc Mã của Bản mệnh, với lại Chân Quý nhân Lộc Mã của Thái Tuế, cả Tam Kỳ (Ất, Bính, Đinh), chư Đức ( Thiên đức, Nguyệt Đức, Tuế đức) đều có thể hóa giải (như năm Đinh Hợi: Giáp Sát ở Dậu, năm Đinh Quý nhân ở Dậu, phần nhiều dùng nhật, nguyệt, thời Dậu mà tu sửa tức là Quý nhân yếm sát). Nhưng chỗ này không nói khắc, vì Tọa sơn nguyên không nên chế khắc, khắc sát thì là khắc lên Tọa sơn (Kinh có nói: “Quyền hóa sát sinh, lại hay vời phúc”, là thế đó. Nói Sơn đầu có sát, chỉ nên dùng hóa để giải, chứ không nên dùng chế). Nếu Đại sát thì tất dùng chế, không chuyên bằng vào lời nói Tinh có thể hóa được , nên biết thế đấy. Có sát là chỉ Trung sát mà nói. HAI VỊ TÔN TINH NÊN GẶP NGUYỆT. NHẤT KHÍ CHỒNG CHẤT HÀNG CAN LÀ BẬC NHẤT. CỦNG LỘC CỦNG QUÝ MỪNG TỚI SƠN. PHI MÃ TỚI PHƯƠNG LÀ CÀNG TỐT. TAM NGUYÊN HỢP CÁCH RẤT LÀ THƯỢNG CÁCH. TỨ TRỤ MỪNG THẤY TÀI QUAN VƯỢNG. DÙNG HÀNG CHI KHÔNG NÊN CÓ TỔN THƯƠNG. LẤY HÀNG CAN RẤT NÊN GẶP KIỆN VƯỢNG. SINH VƯỢNG ĐƯỢC HỢP MỪNG CÙNG GẶP NHAU. NÊN BIẾT KHẮC PHÁ VỚI HÌNH XUNG. CÁT TINH CÓ KHÍ NHỎ THÀNH LỚN. SAO ÁC HƯU TÙ KHÔNG LÀM HUNG. HAI SAO TÔN ĐẾ, MỪNG Ở NIÊN NGUYỆT TỚI VẬY, MÀ NHẬT THỜI CŨNG NÊN LẤY, LẠI HAY GIÚP CÁT. Tịch Hậu nói rằng: “ Gặp hai vị Tôn tinh ,tất không phải là Tôn Đế tinh không kê cứu, nhưng không biết chỉ cái gì. Xét khóa cổ thì Dương công táng Canh sơn, Giáp hướng ,dùng năm Kỷ Mùi, tháng Tân Mùi, ngày Kỷ Mùi, giờ Tân Mùi. Ghi rằng: năm Mùi, tháng Mùi, giờ Mùi dưới ngày Mùi có thành giá hai vị Tôn tinh vào chính cung, có phúc tự nhiên thông ”. Tra xét rõ ràng khóa này Niên nguyệt nhật thời đều không hợp hai sao Tôn Đế, chỉ có tháng 6 có Thiên Đức và Nguyệt Đức tới hướng Giáp, năm Kỷ ngày Kỷ đều cùng Giáp hợp, hoặc là chỉ vào đấy chăng ? . Xét Hiệp Kỷ chỉ hai sao Tôn đế là nhầm, mà Tịch mậu chỉ Thiên đức Nguyệt đức cũng không phải xác thực. Vì Thiên tinh không vị nào tôn bằng Nhật Nguyệt, hai vị tôn tinh, tất là chỉ Thái âm, Thái dương đấy.Thất chính lấy Ngọ làm Thái dương, Mùi làm Thái âm. Tra khóa này của Dương công, thời tháng 6 Thái Dương ở Ngọ, Thái Âm gặp Mùi, đó là Nguyệt Nhật về cung điện. Huống chi Canh Sơn Quý nhân ở Mùi, Thái âm giữ Quý nguyên. Năm Kỷ Lộc ở Ngọ, Thái Dương giữ Lộc nguyên đều về cung điện. Sách nói: phàm Thất chính cùng với 4 sao dữ, nếu gặp về cung lên điện, lại gồm giử Quý Lộc Mã nguyên, đều hay vì người tạo phúc, bất tất định nên tới Sơn tới Hướng. Xem kỹ trong lời ghi “ vào chính cung ” ba chữ, tất là chỉ Nhật Nguyệt về cung điện, không nghi ngờ gì nữa; không thể, sao chẳng nói tới Chấn tới Đoài ru!. Nên Trị nhật ấy là nói ngày ấy nên được Thái âm, Thái dương tới Sơn tới Hướng, áp phục bầy tà vậy . Nhất khí chồng chất hang can ấy là nói 4 can cùng một dạng. Nhưng mà tất cùng Long Sơn Chủ mệnh Can Chi cùng hợp, mà không hình khắc mới tốt . Tịch Mậu nói : “Thiên nguyên nhất khí, cố nhiên là Thượng Cách, mà Địa nguyên nhất khí cũng là Thượng Cách ”. Nay chỉ nơi đôi Can, mà không nói đến đôi Chi, lấy cớ rằng Địa Chi có cái lệ “ Nguyệt kiến chuyển sát ”, (xét khóa đời xưa phần nhiều dùng Địa Chi nhất khí, đều không lấy kiến sát làm hiềm. Đây hãy lấy Thiên Can nhất khí để lấy lệ Địa Chi vậy), gồm nữa Long hung đới có sát là kiêng dùng, bởi thế nên châm chước . Củng Lộc ấy, như mệnh Giáp, Lộc ở Dần, Tứ trụ dùng nhị mão, Nhị Sửu, thì triều vào Dần Lộc vậy. Nhưng sự xung mà chầu (kiêng thấy chữ Thân) và lập lại (kiêng thấy chữ Dần) cũng nên Sơn Đầu cùng quan hệ mới cát. Chầu Quý cũng thế (xét Mệnh có Lộc Quý thì Bát Can sơn cũng có Lộc Quý đều phỏng y phép đấy). Mừng tới Sơn ấy là chỉ vào Lộc Quý Tứ Trụ tới Sơn. Không nói phương hướng là chỉ nói Sơn mà bao gồm cả phương hướng . Xét Lộc Quý cùng củng Giáp, mừng cả xung nữa, duy Mã thì không nên, vì Mã xung thì tan, củng thì không đi, cho nên đoạn dưới nói “ Phi mã lâm phương ” . Phi mã lại bao gồm Lộc Quý ở trong, tức là nói hoạt Lộc, hoạt Quý, hoạt Mã vậy. Như Chủ Mệnh lấy Thái Tuế vào trung cung thuận độn, bản niên ấy lấy Nguyệt kiến vào trung cung thuận độn, hoặc bay tới Sơn, hoặc bay tới Phương Hướng đều Cát, cho nên nói “ lâm phương ”. (Xét ngũ chủng bí khiếu độn Quý nhân Lộc Mã, không bàn đến Tuế mệnh, đều lấy sau ngày Đông Chí dụng sự thuận độn, sau ngày Hạ Chí dụng sự nghịch độn, Song tra trong Hiệp Kỷ Lập thành thì đều đi thuận 9 cung, chứ không lấy hai ngày Chí chia thuận nghịch. Chỉ sau ngày Đông Chí dùng Dương Quý là đắc lực, độn gặp cung dương càng hay; sau ngày Hạ Chí dùng Âm quý là đắc lực, độn gặp cung âm cũng càng hay. Lại xét sách Thời hiến nói: Quý nhân Lộc Mã cùng Thiên Đức, Nguyệt Đức đều đi thuận 9 cung, chứ không phân chia hai ngày Chí). Tam nguyên ấy là lấy Can làm Thiên nguyên, Chi làm Địa nguyên, Nạp Âm làm Nhân nguyên. Hợp cách như đôi Can đôi Chi, lưỡng can không lẫn lộn. Địa Chi song phi, Tam Hợp cục với lại Tứ Nạp Âm ….., đều nên thuần túy không hỗn tạp, mà lại hay ở Bổ giúp vào Long Sơn Tướng Chủ mệnh, cho nên là Thượng Cát . Tài Quan là bàn Chủ Mệnh, không phải bàn Long sơn. Như người mệnh Giáp dùng 3, 4 điểm chữ Kỷ làm hợp Tài. Người mệnh Kỷ dùng 3,4 điểm chữ Giáp làm hợp Quan. Hợp là tốt, không hợp là không tốt. Tra trong Dương Tăng nhật khóa: phàm dụng Tài Quan, đều là Thập Can hợp khí. Nhưng Tài Quan tứ trụ, cũng nên mở lộ ra, tức là chưa lộ; cũng nên sinh vượng có khí. Như Quách công táng Mậu Thin hóa mệnh (tuổi người chết), dùng năm Nhâm Tý, tháng Nhâm Tý, ngày Nhâm Tý, giờ Canh Tý. Lời ghi rằng : “ Nhâm Tý một khí đi thuận, giàu sang vượng ruộng trâu, không thấy sao Quan ra chỗ nào, Tài vượng sinh Quan gấp. Giáp Ất đầu hàng Can Chi tên đề bảng vàng, chỉ vì thấy sao Quan ”. Dùng Tứ Trụ hàng Chi, là Địa chi nên làm cục hợp hội, nếu cùng hình xung nhau, thì đó đây đều bị thương mà Đại Hung. Cho nên nói: không nên có tổn thương. Trong Tứ trụ thời Nhật Can là rất trọng, nên Vượng, Tướng, Đắc lệnh; nếu Nhật Can mà Hưu Tù, không nghèo thì chết non, và chủ con cháu lụn bại. Cho nên dùng Can, nếu không được thời (giờ) hợp nên lấy 3 can, 4 can một khí để giúp đỡ vào. Như Tỷ Kiên đã ít, lại không đương nguyệt lệnh, cốt phải trên năm có Ấn để sinh, lại dùng Lộc thì để giúp vào, thì cũng trong chỗ nhược (yếu đuối) biến ra vượng mà là có lực vậy. Song tứ trụ dù được sinh vượng có khí lực tức càng phải Long sơn và Chủ mệnh hợp nhau. Bổ Long, bổ Sơn, bổ Chủ mệnh, đó là được nhiều sức giúp đỡ, cát còn gì bằng. Nếu khắc Long, khắc Sơn, Khắc Mệnh; Hình Long, hình Sơn, hình Mệnh; xung Long, xung Sơn, xung Mệnh, đó là bị nhiều sức đánh đập, khá biết là hung. Cho nên nói rằng : Sinh vượng được lệnh mừng càng gặp, nên tránh khắc phá với hình xung. Đến đây là phép Tạo Mệnh không sót một chút ý kín đáo gì . Nếu tứ trụ tự cùng hình xung nhau, thì là nói : dùng Chi tổn thương. Đời xưa Bát tự cũng có tự cùng xung nhau, xung tức là phá. Như dùng cục Thìn Tuất, cục Sửu Mùi, để bổ vào Thổ Sơn …., tứ Mộ sơn không xung thì không mở (xét 4 sơn Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, dù không thích xung lắm nhưng Tuế xung cũng hung, Nguyệt xung hung vừa, duy trong Nhật Thời chỉ lấy một chữ mà xung, thì không kiêng, nếu xung nhiều cũng phá mà hung. Còn các trường hợp khác, các Sơn rất kỵ Chi xung : tai họa kỵ Thiên Can khắc Sơn. Sách nói : xung hướng thì không thể nói được, là thế đó. Song có lấy giờ Thái Dương tới Hướng; như Tý Sơn Ngọ Hướng dùng giờ Ngọ; Hợi Sơn Tị Hướng dùng giờ Tị …..xét không bằng Nhâm Sơn kiêm Tý: dùng trên giờ Ngọ 4 khắc, mà Kiêm Hợi: dùng dưới giờ Tị 4 khắc, đó cũng là thuần chính, ngỏ hầu không hiềm xung Sơn, nhưng phép này chỉ nên dùng giờ ban ngày, không nên dùng giờ ban đêm. Nếu xung chủ mệnh thì không dứt, dứt thì không thể đến chế sát. Tu phương thì trung, đẳng thần sát, cát tinh có thể lấy chế phục. Song lấy cát chế hung, thì hoàn toàn xem Nguyệt lệnh, tất là tháng hung sát hưu tù, chế thần thì tháng vượng tướng tốt. Như lấy một sao Bạch thủy, Nhâm Quý thủy tinh, chế hỏa phương Nam, tất đợi tháng về mùa Đông lúc thủy vượng hỏa suy, hoặc tháng Thân Tí cũng được, cho nên nói : “ sao cát có khí nhỏ thành lớn, sao ác hưu tù không làm hung ”. Đây chuyên chỉ Tu phương mà nói, còn như Tọa sơn Tu Tù thì lại không cát . SƠN GIA TẠO MỆNH ĐÃ HỢP CỤC LẠI MỪNG KIM THỦY TỚI CÙNG THEO, CHỖ MÀ THÁI DƯƠNG CHIẾU TỰ NHIÊN SÁNG. ĐỘ SỐ VÒNG TRỜI XEM VÒNG SAO PHỤC CHỖ NÀO, 7 ĐỘ CỦA THÁI DƯƠNG 3 CÁI KHẪN YẾU SỐ ĐI KHẮP TRUNG GIAN THÌ SỐ GẦN THỨ NHẤT, TRƯỚC SAU SOI TỚI GIÚP SƠN MẠCH, KHÔNG NÊN NGỒI XUỐNG CHỖ CAN CHI KHUYẾT, LẠI ĐƯỢC NGỌC THỐ ( Tức Mặt Trăng ) SOI CHỖ NGỒI, CÓ THỂ KHIẾN NGƯỜI SỐNG THẤM NHUẦN ƠN . Trên nói cách làm cụ thể cho tạo mệnh, đây nói hợp cát làm Dụng cho tạo mệnh. Phép Tạo mệnh là tạo thành 8 chữ, đã hợp cách cục, rồi sau tìm các sao tốt soi tới Sơn Hướng, thế là gồm cả thể dụng, có thể đạt được thần công mà đổi mệnh trời vậy. Vì Trời lấy 5 sao làm kinh, ngoài mặt trời mặt trăng ra, không gì tôn bằng. Song sao Hỏa hung liệt, hai sao Thổ Mộc, lại hay che lấp ánh sáng của mặt trời mặt trăng, và che sự sáng của Sơn Hướng, cho nên không thể dùng, duy sao Kim thanh, sao Thủy tốt đẹp, là sao rất tốt trong 5 sao, nếu dùng với mặt trời mặt trăng cùng tới Sơn Hướng, gọi là Kim Thủy giúp nhật nguyệt, là triệu đại cát, nhưng tất phải lấy Đài lịch mặt trời đi vòng cung độ mới là thực. Đến như Thăng huyền kim thủy, Chu thiên kim thủy suốt năm, giữ nhiệm vụ ở một phương, mà không đi vần thì không đủ tin. Thái dương cũng tra Đài lịch mới là thật. Ngoài đây ra còn có Thăng huyền Thái dương, Đô toản Thái dương, Ô thỏ Thái dương, Tứ lợi tam nguyên Thái dương, Tuần hoàn Thái dương, Lôi đình Thái dương, Đô thiên bảo chiếu Thái dương, dù là 7 thứ đều thuộc to giả dối cả. Vả lại trên trời không có 2 mặt trời, há lại có một Thái dương ở Đông, một Thái dương ở Tây, suốt năm không chuyển động, nếu thực có sao ấy mà lòng lại không có lý ấy. Vả lại chọn ngày mà lấy nhật, nguyệt, tinh thần tới Sơn tới Hướng , mừng Sơn Hướng sáng sủa. Tăng nói: trong Nhật, Nguyệt, Tinh, Thần có thần tiên à? kẻ kia tối tăm không biết, mừng lấy Đạo giả gọi là Thái Dương Đế Quân, Thái Âm Đế Quân, Ngân Hà Tinh Quân rồi phụ họa với nhau nặn ra một vị Ngọc Hoàng để đè ép đến nỗi bời bời không nhất định, thật dối trá rất mực. Lại như hai sao Tôn Đế rất nói cát, mà xét khởi lệ rất là vô nghĩa, niên lệ thì lấy Thượng nguyên Hạ nguyên Giáp Tý khời từ cung Càn 6; Trung nguyên Giáp Tý khởi từ cung Khảm 1; vì từ Thượng nguyên năm Giáp Tý khởi từ cung Càn 6, đến năm Kỷ Mùi mà 7 vòng, năm Canh Thân lại gặp Càn 6, thì Trung nguyên Giáp Tý tất khởi từ Khảm 1, lại đến năm Kỷ Mùi mà 7 vòng, thì năm Canh Thân lại gặp Khảm 1, thì Hạ nguyên Giáp Tý tất khởi từ Càn 6 vậy. Nhưng Hạ nguyên Giáp Tý 60 năm đã hết mà lại khởi Thượng nguyên, thì không thể lại tới Càn 6. Đến như cái nghĩa Tam nguyên cửu cung vòng rồi lại bắt đầu, hoàn toàn không hợp nhau. Vã lại đã dùng Cửu cung phi độn, mà không dùng trung cung 5, càng thuộc vào phi lý. Đến lệ tháng lấy tháng giêng năm dương khởi từ Cấn 5, cũng tức tháng 9 cung, cái nghĩa tháng giêng khởi Bát Bạch, nhưng lệ năm đã không hợp, thì ngày, tháng, giờ không đủ tin. Về hung tinh thì có 24 Tuần Sơn thần sát : Tuần sơn La hầu, Âm diêu Thổ tú, Ôn tinh (đều hung), Thủy tinh, Tài bảo (cát), Kim tinh, Huyết quang (hung), Thái dương, Cát tinh (cát), Hỏa tinh, Viêm diệu (hung), Tử khí, Vinh quan (cát), Kế đô, Đao binh (hung), Mộc tinh, Vượng điền (cát), Quỷ sát, Thương vong (hung), Thái âm, Cát khánh (cát), Nhiếp đề (hung), Vượng tàm ( cát, tức thái tuế bản vị), cộng 24 vị, theo các Tuế chi trước Can duy khởi La Hầu rồi dần dần tính thuận 24 Sơn, 12 năm cùng lệ này. Nay xem những tên ấy mà nghĩ đến nghĩa xét đến lệ, mà đo liệu đến tình, thì đúng là các thuật sĩ hùa nhau nặn ra làm thỏa bọn họ, rõ ràng lắm rồi. Duy có Tuần sơn La hầu, cho là gần kề Thái tuế, không đến hướng, hầu gần như có lý, há phải thuật sĩ nhầm tong 24 sao sát có tên Kế đô, bèn chỉ La hầu thuộc Hỏa, thật là nhầm sai quá lắm ( nói rõ ở dưới trong thiên La hầu ). Lại đến Ẩn phục Huyết nhận, Thiên kim Huyết nhận, Đã kiếp Huyết nhận, Sơn gia Hỏa huyết, Sơn gia đao châm, hoặc theo thiên can khởi hoặc theo niên chi khởi đến như lẽ sinh khắc chế hóa, tuyệt nhiên không liên quan nhau. Đến nghịch Huyết nhận, lấy bát can tứ duy chia rải cho 60 Giáp tí, đều chiếm một chữ mà không dùng 12 chi, không có chút đường lý gì chỉ lấy 3 chữ là đáng sợ để làm người ta sợ hãi. Chín sao lành cũng chia rải cho 60 giáp tí, mỗi ngày ở một xứ Ám đao sát, thì 60 tháng chia chiếm 12 xứ, 5 năm một lần thì lầm lẩn càng sâu. Lại có một sao mà cát hay hung không định rõ, như Dịch Mã Lâm quan, tức là trước Dịch mã hai can và cả đối phương, thuật sĩ tục lại lấy Dịch mã trước một can là Mã, trước Lục hại đối phương làm Kim đồng. Chàng một sát phu, cùng là lẽ trước 1 mã, cho là Lâm quan : tốt, cho là Lục hại : hung, rõ ràng tự cùng mâu thuẫn nhau. Xét ra tam hợp Trường sinh đối xung là Dịch mã, cùng với can chi trước sau, không can thiệp mảy may. Mệnh cát Mệnh hung đều bàn càn bậy. Lâm qua Lục hại, đã không phải nghĩa, Kim đồng Chàng mệnh, càng là quái đản không ít. Vì niên nguyệt thần sát, có tự lâu rồi, các thuật sĩ hiếu kỳ, mỗi việc hùa nhau nặn ra, nặn tạo ra không được, thì cứ đem thần sát ấy nặn ra tên khác, lại lược đổi khác đi, để làm văn vẻ sự hủ lậu, mà Thần sát tự đó càng ngày càng rối bời, tức như một Phù thiên không vong, lại gọi là Dầu bạc không vong, lại gọi là Bát sơn không vong : như Nhất tọa sát hướng sát, lại gọi là Linh mao cấm hướng, lại gọi là Bát sơn đao châm, nên cũng tự chán là chồng chập, thì ở như Bát sơn đao châm mà thế vào, lấy Tam hợp nguyệt ở Đầu bạch không vong mà thêm vào; lấy Bát quý sơn chi chia lìa gượng gạo làm vài sao sát, Lại thêm Lục hại thì lại gọi tên khác là Âm trung Thái tuế. Âm trung sát tiểu hao thì gọi tên khác là Tĩnh lan sát mà đều dấu kín tên cũ đi. Lại như Hoàng đạo, Hắc đạo thì lại lập riêng danh sắc, gọi là Minh tinh, Hắc tinh, mà Lôi công với Thiên nhạc, Cát Hung đều khác nhau. Lôi công tức là Thanh Long vốn là sao cát. Thiên Nhạc tức là Thiên Lao vốn là Hung tinh. Nhân Thiên Lao mà gọi khác tên là Thiên Ngục, Nhân Ngục mà ngoa ra Nhạc, lại nhân Nhạc mà ngoa ra Nhạc, bèn lấy Thiên Nhạc là Cát mà Lôi công là Hung. Lại như Thiên quan Thú Tướng dân, ngày thì diễn ra lấy ngày ngục, ngày Đô lệ lao chết rieng chịu tội, không nói ra tội hình, và đến như 12 mà lại riêng ra các tên Phúc hậu Ân thắng. Kiến Trừ 12 vị thần đã có cùng vị khác tên, mà lại chia riêng làm các hiệu Chu tước, Quý nhân. Ôi! chỉ một Thần sát mà danh hiệu càng được càng nhiều, cát hung không bằng cứ gì, bèn khiến kẻ Nghiệp thuật hoa mắt rối lòng, tới hay tráng không biết đâu mà mò! Chẳng lạ gì, vì người ta tạo Phúc, mà lại tới Họa. Cái tệ hại này đều do người đời thích sao Cát, ghét sao Hung, cho nên những kẻ tục thuật hùa nhau nặn ra danh hiệu Cát để gieo vào sự muốn sự ghét vậy, đâu có biết Cát không phải thực Cát, Hung không phải thực Hung. Vì Thần sát Cát Hung to nhỏ, nên đều theo Thái Tuế, Nguyệt kiến mới là thực. Nếu không do đó, dù có thi, ca, đồ, lệ, cũng đều là thuật giả dối hùa nhau tạo nặn ra . Xét kỹ Quốc triều bản Khâm định Hiệp Kỷ, thì sự thật hay giả rõ ràng lắm. Các điều đó đều lập thành ở thiên Biên ngụy ở sau .
<bài viết được chỉnh sửa lúc 16.02.2010 17:44:10 bởi NCD >
Đã quyết Đạo Đời hai nẻo bước song đôi Tâm Không luôn giữ, chẳng phút lơi Gìn lòng trong sạch, không Danh, Lợi Đạo trưởng, Nghệ thông để giúp đời.
|