--------蒹葭
-----蒹葭苍苍
-----白露爲霜,
-----所謂伊人
-----在水一方
-----溯洄從之
-----道阻且長
-----溯游從之
-----宛在水中央
-----蒹葭凄凄
-----白露未晞
-----所谓伊人
-----在水之湄
-----溯洄從之
-----道阻且跻
-----道阻且跻
-----溯游從之
-----宛在水中坻
-----蒹葭采采
-----白露未已
-----所谓伊人
-----在水之涘
-----溯洄從之
-----道阻且右
-----溯游從之
-----宛在水中沚
-----KHIÊM HÀ
-----Khiêm hà sương sương,
-----Bạch lộ vi sương.
-----Sở vị y nhân,
-----Tại thuỷ nhất phương.
-----Tố hồi tòng chi,
-----Đạo trở thả trường;
-----Tố du tòng chi, -
----Uyển tại thuỷ trung ương.
-----Khiêm hà thê thê,
-----Bạch lộ vị hi. -
----Sở vị y nhân,
-----Tại thuỷ chi mi.
-----Tố hồi tòng chi,
-----Đạo trở thả tê;
-----Tố du tòng chi,
-----Uyển tại thuỷ trung trì.
-----Khiêm hà thái thái,
-----Bạch lộ vị dĩ.
-----Sở vị y nhân,
-----Tại thuỷ chi hĩ[20]
-----Tố hồi tòng chi.
-----Đạo trở thả hữu;
-----Tố du tòng chi,
-----Uyển tại thuỷ trung chỉ.
-----RAU KHIÊM HÀ -----Khiêm hà xanh xanh, -----Lộ[21] trắng thành sương. -----Kìa người ấy ở, -----Bên nước một phương, -----Ngược dòng theo đi, -----Ngán nỗi đường trường; -----Xuôi dòng theo đi, -----In như ở trung ương[22]. -----Khiêm hà lô nhô, -----Lộ trắng chưa khô, -----Kìa người ấy ở, -----Cỏ nước gần bờ. -----Ngược dòng theo đi, -----Ngán nỗi đường vô; -----Xuôi dòng theo đi, -----In như tại trong gò. -----Khiêm hà tha thướt, -----Lộ trằng còn ướt, -----Kìa người ấy ở -----Bên cạnh bến nước, -----Ngược dòng theo đi, -----Ngán nỗi lạc đường; -----Xuôi dòng theo đi, -----Bãi trong nước rõ ràng. ------------------- (Vô danh dịch)
--------燕燕
-----燕燕于飛
-----差池其羽
-----之子于歸
-----遠送于野
-----瞻望弗及
-----泣涕如雨
-----燕燕于飛
-----頡之頏之
-----之子于歸
-----遠于將之
-----瞻望弗及
-----佇立以泣
-----燕燕于飛
-----下上其音
-----之子于歸
-----遠送于南
-----瞻望弗及
-----實勞我心
--------YẾN YẾN
-----Yến yến vu phi,
-----Si trì kỳ vũ.
-----Chi tử vu quy,
-----Viễn tống vu dã.
-----Chiêm vọng phất cập,
-----Khấp thế như vũ.
-----Yến yến vu phi,
-----Hiệt chi hàng chi.
-----Chi tử vu quy,
-----Viễn vu tương chi.
-----Chiêm vọng phất cập,
-----Trữ lập dĩ khấp.
-----Yến yến vu phi,
-----Há thướng kỳ âm.
-----Chi tử vu quy,
-----Viễn tống vu nam.
-----Chiêm vọng phất cập,
-----Thực lao ngã tâm.
YẾN YẾN Kìa trông con én nó bay, Nó sa cành này, nó liệng cành kia. Gã kia bước chân ra về, Ta tiễn mình về đến quãng đồng không. Trông theo nào thấy mà trông, Nước mắt ta khóc ròng ròng như mưa. Kìa trông con én nó bay, Bay bổng nơi này, bay xuống nơi kia. Gã kia bước chân ra về, Ta tiễn mình về, chẳng quản đường xa. Trông theo nào thấy đâu mà, Một mình thơ thẩn đừng mà khóc thương. Kìa trông con én nó bay, Kêu lên tiếng này, kêu xuống tiếng kia. Gã kia bước chân ra về, Ta tiễn mình về, xa tiễn sang nam. Lòng ta vơ vẩn ai làm, Trông theo chẳng thấy cho thêm nhọc lòng. --------------------------------------(Tản Đà dịch) 8. ĐẶC SẮC TRONG KINH THI
Lời lẽ trong những bài đó thật tự nhiên; ngôn ngữ tận mà ý vô cùng. Bạn nói: Chẳng qua cũng mộc mạc như ca dao của ta chứ khác gì? - Phải. Cũng chỉ như ca dao của ta, nhưng xin bạn nhớ, những bài trong Kinh Thi đã có trên 3.000 năm nay, hồi mà hầu hết nhân loại còn dã man. Còn bạn chê là mộc mạc thì chính đó là một đức nó làm cảm động lòng người hơn những câu đẽo gọt của văn nhân. Càng chạm, càng khắc, càng vẽ càng tô, thì càng đẹp thật, nhưng nhân công cùng nhiều thì tình cảm phải lạt. Ca dao phát ngay từ tim người làm rồi đi thẳng vào tim người nghe, còn thơ của văn nhân phải qua bộ óc của họ rồi mới nhập vào óc của ta, sau cùng vào lòng ta, nên cơ hồ kém sinh khí. Tôi nhớ hồi nhỏ nghe một thôn nữ hát những câu sau này theo giọng “đi cấy”, ở sau một bụi tre, bên một cổ miếu:
Yêu nhau chẳng lấy được nhau, Trăm thảm nghìn sầu đắp đã nên non, Vo đã thành hòn. Lời tự nhiên, thành thật làm sao! Sau này đọc câu:
Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng. ------------------------(Chinh phụ ngâm) và câu: Vạn lý sầu lên núi tiếp mây. ----------------------------(Huy Cận) tôi thấy nó đẹp, đẹp quá đến gần như hết buồn. Cái hay của Kinh Thi là vậy. Những bài trong đó hoặc uẩn súc, hoặc uyển chuyển, hoặc nhẹ nhàng, hoặc tươi nhã, nhưng hầu hết được lưu truyền nhờ tình cảm mộc mạc, chân thật. Kinh Thi lại còn đặc điểm này nữa: * lời thơ thường láy đi láy lại mà không thừa, nên dư âm vô cùng, như bài “Con én” ở trên, * không theo phép tắc nào, số tiếng và vần thật tự do, * không dùng những tiếng trừu tượng, chỉ dùng những tiếng cụ thể, nhưng miêu tả có khi lại theo phép tượng trưng, * có nhiều nhạc. Nhờ những đặc điểm đó mà Kinh Thi tuy không phải là một kiệt tác không tiền tuyệt hậu, như nhiều người phụ hoạ, suy tôn, song thiệt cũng đáng giữ một địa vị cao trong văn học Trung Quốc.
9. ẢNH HƯỞNG CỦA KINH THI
Ảnh hưởng của nó rất lớn. Từ sau đời Hán, các nhà Nho dùng nó để khuyến thiện, răn ác. Về văn học, nó là một nguồn thi hứng để thi nhân mượn đề mục. Nó lại là một kho điển tích. Đọc thơ văn Trung Quốc và Việt Nam, ta thường thấy nhiều điển mượn ở Kinh Thi, như những tiếng:
- Nhà huyên để chỉ mẹ (1)[23], - Chín chữ cù lao để kể công cha mẹ. Câu: Ba thu dọn lại một ngày dài ghê trong truyện Kiều là mượn câu:
Nhất nhật bất kiến như tam nguyệt hề trong Kinh Thi.
Câu: Vẻ chi một đoá yêu đào để chỉ người con gái ít tuổi, gốc ở Kinh Thi (Đào chi yêu yêu: đào kia mơn mởn). Điển “trên bộc trong dâu” cũng ở trong Kinh Thi (Tang trung Bộc thượng: trai gái hẹn hò nhau trong bụi dâu, trên bờ sông Bộc)[24]. Những sự vay mượn như vậy rất nhiều, kể ra không hết. Cả khi mừng đám cưới, phúng đám ma, người ta cũng dùng chữ trong Kinh Thi như:
----Cầm sắt hoà hài 琴瑟和諧 (mừng đám cưới) ----Ta ngã hoài nhân 嗟我懷人 (phúng đám ma) Sau cùng, lối thơ văn bốn chữ trong Kinh Thi có ảnh hưởng lớn đến thơ đời sau. Tuy thi nhân ít dùng nó, song theo các học giả Trung Hoa, thì chính nó là nguồn gốc của lối thơ ngũ ngôn (năm chữ) đời Nguỵ.
[1] Do có một nick dùng mấy chữ “Yểu điệu thục nữ” làm chữ ký nên có lần tôi trêu bằng mấy câu: “Yểu điệu thục nữ, Quân tử hảo cầu”. Bậu ơi cho qua đây nói nhỏ một câu: Hái chi thì hái, chớ hái trái bí… Hò ơ… chớ hái trái bí bán chẳng ai mua. (
http://www.thuvien-ebook.com/forums/showthread.php?t=6015&page=13, post #124). Những ngày làm thơ… thẩn đó thật là vui. Phải không Buiquochuy, Haphuong, Thamtubonngu…? Bao giờ mới có dịp cùng anh em “xướng hoạ” đây? (Goldfish).
[2] Xem thêm bài Tựa tại
http://www.thuvien-ebook.com/forums/showthread.php?t=14297, post #8. (Goldfish).
[3] Trương Trường Cung trong cuốn Trung Quốc văn học sử tân biên cho rằng Khổng Tử chỉ có công chỉnh lý lại Kinh Thi, chứ không có công san định vì theo ông công cụ ghi chép thời đó còn thô sơ, người ta không thể ghi được vài ngàn bài thi và do đào thải tự nhiên, chỉ còn lại ba trăm bài thôi. Thuyết đó còn mới mẻ quá chưa được phần đông học giả Trung Quốc công nhận.
[4] Một thuyết nói rằng nhiều bài làm từ đời Thương (1783-1135), nhưng không chắc.
[5] Có tác giả chia làm 2 loại: phong và nhã (Tụng gồm trong nhã). Phong là của bình dân, nhã là của quý tộc.
[6] Thành ngữ “Chín chữ cù lao” gốc ở đây. [Truyện Kiều có câu: Duyên hội ngộ, đức cù lao. (Goldfish)]
[7] Lục lục chính nghĩa là lớn dài.
[8] Nga là một loại rau tốt đẹp, cao là một loại cỏ xấu. Ý nói: cha mẹ sinh ta, mong ta báo đáp lại, nay cha mẹ mất sớm, ta không đền đáp được, ta hoá vô dụng đối với các người, như cỏ cao kia.
[9] Ý nói: ân đức cha mẹ như trời cao lồng lộng không sao đền đáp được. [10] Chữ 餐, ở đây phiên âm là “sôn”, nhưng trong Phần I: Vài nét sơ lược về sự phát triển triết học Trung Hoa (trong Đại cương triết học Trung Quốc) lại phiên âm là “san”: “Bọn ăn không (tố san) đó…”. Thiều Chửu phiên âm là “xan”. (Goldfish).
[11] Chính nghĩa là gặt.
[12] Chính nghĩa là ba trăm ức, mười vạn là một ức.
[13] Quân tử, trỏ hạng trị dân.
[14] Tên một loài chim.
[15] Tức Phương Sơn dịch. (Goldfish).
[16] Chữ 闕 Thiều Chửu phiên âm là “khuyết”. Chắc sách in sai thành “quyết”. (Goldfish).
[17] Chữ 崔, Thiều Chửu phiên âm là “thôi”. (Goldfish).
[18] Chữ 虺, Thiều Chửu phiên âm là “huỷ”. (Goldfish).
[19] Chữ 痡, Thiều Chửu phiên âm là “phô”. (Goldfish).
[20] Chữ 涘, Thiều Chửu phiên âm là “sĩ”, chắc sách in sai thành “hĩ”. (Goldfish).
[21] Tức giọt nước.
[22] Ý nói gần đấy mà tới không được.
[23] Trong sách không có chú thích (1) này. Trong truyện Kiều có câu: Thưa nhà huyên hết mọi tình. Theo Thiều Chửu thì trong Kinh Thi có câu: yên đắc huyên thảo, ngôn thụ chi bối 焉得萱草, 言樹之背. (Goldfish).
[24] Truyện Kiều có câu: Ra tuồng trên bộc, trong dâu. (Goldfish).
Hết.