Nhà Minh đã kể hòn Bảng là một trong số 21 ngọn danh sơn của nước Nam sai người vẽ đồ bản đem về. Nhà Thanh thì gọi một nhóm những hòn đảo ấy là Thập bát mã. Mặc dầu bị đặt tên Tàu như vậy, những hòn đảo chung quanh hòn Bảng không vì thế mà không thuộc lãnh thổ Việt Nam nữa. Trái lại, dân chúng Việt Nam không hề để ý tới tên ngoại lai Thập bát mã của nhà Thanh đã tự ý đặt ra nữa mà chỉ thường biết đến những danh xưng Việt Nam hòn Bảng, hòn Trò cũng như họ chỉ thường biết đến những danh xưng nôm Bãi Cát Vàng, Bãi Cát Dài của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Có lẽ vì đã nhận thấy luận cứ “lấy tên tàu đạt cho đất Việt” quá yếu kém nên ông Chu Kiệt 朱 傑 tác giả bài 南 沙 群 島 和 東 西 中 沙 群 島 一 向 是 中 國 的 領 土 Nam Sa quần đảo hòa Đông, Tây, Trung Sa quần đảo nhất hướng thị Trung Quốc đích lãnh thổ, đăng tải trong Quang Minh Nhật báo số ra ngày 7-6-1956 đã cố đưa ra một luận cứ khác cứ thoạt nghe có vẻ là chứng cứ lịch sử hơn. Trước hết, ký giả này đã dẫn ra một đoạn như sau ở cuốn Tây Dương triều cống điển lục [南 澳 又 四 十 更 (原 注 六 十 里 為 一 更) 至 獨 豬 山 、 又 十 更 見 通 草 之 嶼 、 取 外 羅 之 山 ;又七 更 收 羊 嶼 。 國 東 北 百 里 巨 口 曰 新 洲 港 。 。 。 港 西 南 陸 行 百 里 為 王 之 都 城 、 其 名 曰 占 城 、 疊 石 為 元 、 四 方 有 門 、 門 有 防 衛] nghĩa là ở Nam Áo lại đi 40 canh nữa (nguyên chú 60 dặm là 1 canh) thời đến Độc Trư Sơn, lại đi 10 canh nữa thời thấy Thông Thảo Dư, đi tới được Ngoại La Sơn, lại đi 7 canh nữa thời đến Thu Dương dư, đi trăm dặm về phía Đông- băc xứ đí là cửa biển lớn gọi là Tân châu cảng. Đi bộ một trăm dặm về phía Tây Nam hải cảng này thời là đô thành của nhà Vua, gọi là Chiêm thành, đá chồng chất làm nên, bốn phương có cổng, cổng lại có phòng vệ.” Kế đến, họ Chu chú thích như sau: Nam Áo là Đảo Nam Áo ở vào nơi giao giới hải ngạn hai tỉnh Phúc-Kiến và Quảng-Đông; đi khỏi đó hai nghìn bốn trăm dặm về phía Tây Nam thời tới Độc Trư Sơn. Ước chừng hơn sáu trăm dặm tất cả thời đúng là vị trí đảo Vũ Đức thuộc Tây-Sa quần đảo. Lại đi về phía Nam sáu trăm dặm thời thấy Thông thảo dư. Ước chừng một trăm tám mươi dặm tất cả, thời là một hòn đảo nhỏ ở ngoài hải ngạn Trung Bộ Việt Nam ngày nay. Hòn đảo đó gọi là Ngoại la Sơn tức là Cù Lao Ré của Việt Nam hiện tại. Lại đi bốn trăm hai mươi dặm về phía Tây Nam, thời đến Thu dương dư. Ước chừng một trăm mười dặm nữa , theo sự khảo chứng của các nhà Sử địa học Trung Quốc và ngoại quốc, thời đúng đảo Pulo Gambier của Việt Nam ngày nay. Còn nơi gọi là Tân châu Cảng tức là Qui Nhơn của Việt nam hồi thế kỉ 15 vốn là quốc đô Chiêm thành và nay Bình Định của Việt Nam. Năm xưa, Trịnh Hòa bảy lần xuống Tây dương, đới lãnh hai vạn bảy nghìn sĩ tốt thuyền lớn sáu mươi hai cỗ, xuất phát từ Trung Quốc, đến Chiêm thành là quốc gia được cập bến đầu tiên và trước đó, thế tất phải qua Tây Sa và Trung Sa quần đảo. Xem đó đủ biết nước ta (tức là Trung Quốc) ngay từ sơ kì thế kỉ 15 đã sớm chiếm lãnh Tây Sa và Trung Sa quần đảo rồi. Còn về Nam Sa quần đảo, thời muốn tới Tô lộc Quốc (nay là đảo Tô lộc của Phi-luật-Tân) và Bộc-nê-quốc (nay tức là Gia-lý-ma-đinh của Anh-đô-nê-xi-a), tất nhiên phải qua đó như đã ghi chép trên bản đồ hàng hải của Trịnh-Hòa. Lại nữa người nước ta (tức Trung Quốc) di dân đến Nam dương tất nhiên phải lấy Nam Sa quần đảo làm một trạm trung gian và trên thực tế đã sớm chiếm-hữu và khai-phá”. Nguyên văn đoạn trên như sau: 這 里 謂 南 澳 、 即 現 在 福 建 、 廣 東 二 省 海 岸 交 界 處 的 南 澳 島 。 其 西 南 二 千 四 百 里 至 獨 豬 之 山 、 約 合 六 百 餘 理 、 正 當 西 沙 群 島 武 德 島 的 地 位 。 再 南 六 百 里 見 通 草 之 嶼 、 約 合 一 百 八 十 理 、 當 為 現 在 越 南 中 部 海 岸 外 一 個 小 島 ;所 謂 外 羅 之 山 、 即 現 在 越 南 的 Cù Lao Ré 島 。 又 西 南 四 百 二 十 里 收 羊 嶼 、 約 一 百 十 理 、 根 據 中 外 史 地 學 考 證 、 當 為 現 在 越 南 的 Pulo Gambier 島 。 而 所 謂 新 洲 港 即 越 南 歸 仁 、 15 世 紀 的 占 城 國 都 、 當 在 今 越 南 平 定 。 當 年 鄭 和 七 次 下 西 洋 、 帶 領 士 卒 二 萬 七 千 多 人 、 大 船 六 十 二 艘 、 從 中 國 出 發 、 第 一 個 國 家 、 便 到 占 城 、 而 省 先 要 經 過 的 地 方 、 便 是 西 沙 群 島 和 中 沙 群 島 。 可 見 我 國 選 在 15世 紀 初 期 、 即 早 已 占 領 了 西 沙 群 島 和 中 沙 群 島 。 至 于 南 沙 群 島 、 是 到 蘇 祿 國 (現 在 菲 律 賓 蘇 祿 島) 和 勃 泥 國 (現 在 即 度 尼 西 亞 加 里 馬 丁) 的 必 經 之 路 、 在 鄭 和 航 海 地 圖 上 、 也 有 記 載 ; 我 國 移 民 到 南 洋 去 的 、 更 以 南 沙 群 島 為 中 間 站 、 事 實 上 早 已 加 以 占 有 和 開 發 。
Đoạn trích lục ở Tây Dương Triều Cống Điển Lục cùng lời chú thích, hay nói cho đúng sự thực hơn, lời giải thích chủ quan về đoạn đó, trái hẳn dụng ý của ông Chu Kiệt, đã không chứng minh được chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Thực tế, mấy câu trong sách trên do ký giả họ Chu dẫn ra đâu có đề cập đến những đảo-dư mà ngày nay Trung Quốc đặt tên cho Tây Sa và Nam Sa quần đảo. Còn những chi tiết về vị trí địa lí của đảo Vũ Đức, đảo Pulo Gambir và của Nam Sa quần đảo chẳng qua là do ông ta phỏng đoán ra mà thêm thắt vào đó mà thôi.
Vả lại, cuốn Tây Dương Triều Cống Điển Lục của Hoàng Tinh Tăng phần nhiều đã phỏng đoán theo cuốn Doanh Nhai Thắng Lãm của Mã Hoan mà riêng những điều ghi chép về Chiêm thành, Mã Hoan đã tỏ ra không được đích xác bằng Phí Tín soạn giả cuốn Tinh Sai Thắng Lãm. Mặt khác, có lẽ vì quá tôn sùng uy tín của Mã Hoan người đã ba lần được theo Trịnh Hòa xuống Tây Dương, nên quên phức mình là ký giả một nước tự xưng là xã-hội chủ nghĩa, ông Chu Kiệt đã hăng say nhắc nhở tới thủ đoạn xâm lược của Thái Giám họ Trịnh của nhà Minh đối với Chiêm Thành, lại quả quyết cho là nhờ cái thủ đoạn đó mà Trung Quốc đã sớm chiếm lĩnh được Tây Sa và Trung Sa quần đảo ngay từ sơ kì thế kỉ 15 rồi.
Chẳng biết ông ta căn cứ vào sử tịch nào mà dám dựng đứng lên câu chuyện như vậy. Theo như ông ta cho biết, thời Trịnh Hòa nhân bảy lần xuống Tây Dương đã chiếm lãnh Tây Sa và Trung Sa quần đảo của Chiêm Thành, nhưng ông không nói rõ là lần nào trong bảy lần đó. Cũng may là ông đã cho vài chi tiết khác khả dĩ giúp ta suy luận ra điểm đó được. Những chi tiết ấy là số sĩ tốt và số tàu bè do Trịnh Hòa đới lãnh lần nào đó, gồm có hai vạn bảy nghìn sĩ tốt và sáu mươi hai chiếc tàu lớn. Nhờ về công trình khảo cứu của các sử gia có uy tín như Rockhill, Duyvendak và Pelliot, ngày nay ta có thể biết được số sĩ tốt và số tàu bè được Trịnh Hòa huy động mỗi lần trong bảy lần xuống Tây Dương như sau: lần thứ nhất (1405-7) có 27.870 người, 311 chiếc tàu và 62 bảo thuyền tức là thuyền dùng riêng để chuyên chở châu báu; lần thứ hai (1407-9) có 240 chiếc tàu nhưng không rõ bao nhiêu sĩ tốt; lần thứ ba (1409-11) có 30.000 sĩ tốt và 48 chiếc tàu; lần thứ tư (1413-15) có 28.560 sĩ tốt và 63 chiếc tàu; lần thứ năm (1417-19) không rõ có bao nhiêu sĩ tốt và tàu; lần thứ sáu (1421-2) có 41 tàu và không rõ có bao nhiêu sĩ tốt; lần thứ bảy (1931-3) có 27.550 và hơn 100 chiếc tàu. Nay nếu so sánh số sĩ tốt và số tàu của ông Chu Kiệt dẫn ra với số sĩ tốt và số tàu của mỗi lần Trịnh Hòa xuống Tây Dương như vừa kể ra, thời có thể phỏng đoán được rằng ông Chu Kiệt đã muốn nói tới lần thứ tư Trịnh Hòa xuống Tây Dương, vì những con số ông đã cho biết gần bằng với số sĩ tốt và số tàu lần này. Đồng thời, lại có thể phỏng đoán ra được rằng sự chiếm lĩnh Tây Sa và Trung Sa quần đảo, nếu quả có sự chiếm lĩnh đó, đã xảy ra vào năm 1413. Nhưng đọc lại sử ta và sử Chàm không hề thấy có sự kiên như thế vào năm đó cả. Thực tế, từ năm 1368 là năm nhà Minh lên ngôi, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga kết liên với triều đình nhà Minh rất thân, thường vu cáo với triều Minh là nước ta cứ tấn công mãi đất Chiêm. Sự thực thì chính là Chế Bồng Nga, ngay từ năm tức vị (1360), đã bắt đầu gây hấn với ta. Năm 1361, quân Chàm đổ lên bến Đà Lí (Bố Trạch) cướp phá châu thành tàn sát dân chúng ở đó. Năm 1365, giữa ngày Tết, quân Chàm tấn công Bà dương (Hóa Châu), cướp đàn bà con gái nước ta đem đi. Năm 1366, quân Chàm lại tấn công nhưng bị quân ta phản công phải chạy tán loạn. Năm 1371, Chế Bồng Nga chỉ huy một đội chiến thuyền lọt vào cửa Đại An rồi từ đó tiến lên thủ đô Thăng Long. Năm 1376, quân Chàm lại đánh phá Hóa Châu , Vua Trần Duệ Tôn bèn quyết định thân chinh đi tiễu phạt Chiêm Thành. Đầu năm 1377, quân ta tiến đánh cửa Thị Nại (Qui Nhơn) lấy được mấy đồn rồi kéo đến thủ đô của Chiêm Thành, nhưng vua Duệ Tôn khinh suất hạ lệnh tiến quân mà chẳng cho thám thính địa thế trước, nên đại quân ta sa cơ chết trận khá nhiều và bị tan vỡ. Duệ Tôn cũng bị tử trận. Quân Chiêm thừa thắng, tấn công ra Bắc, đi vào cửa Thần Phù (thuộc huyện Yên Mô, Ninh Bình), tới thủ đô cướp phá trong một ngày rồi theo đường sông lên cướp phá Thăng Long lần nữa. Năm 1380 quân Chiêm Thành lại mộ quân ở Thuận Hóa, từ Nghệ An đánh lên Thanh Hóa, định tiến thẳng lên Thăng Long. Năm 1382, Chế Bồng Nga lại tấn công miền Thanh Hóa, nhưng bị quân ta đánh đuổi tới tận Nghệ An. Năm 1383, Chế Bồng Nga không vượt qua trận tuyến của ta ở Thanh Hóa, bèn tấn công lên phía Bắc Thăng Long (miền Sơn Tây) đến mãi đầu năm 1384 mới rút đi. Năm 1389, Chế Bồng Nga lại tấn công Thanh Hóa. Quân ta đại bại, quân Chàm tiến lên, Kinh Thành sắp bị tàn phá thì may sao Chế Bồng Nga bị trúng đạn tử trận. Thường-tướng của Chế Bồng Nga là La-Khải rút quân về nước và cướp lấy ngôi. Ở nước ta, Lê Quý-Ly mưu thoán-đoạt nhà Trần, lên ngôi vua rồi chỉnh đốn binh bị để đánh Chiêm Thành. Năm 1402 Quý Ly chiếm được của Chiêm Thành một ít đất nữa ở Quảng Nam, Quảng-Nghĩa nhưng chưa kịp tổ chức cho chắc chắn tìh bị nhà Minh lấy cớ là muốn khôi phục nhà Trần, dốc toàn lực xuống đánh, chiếm đoạt hết nước ta (1413). Quân Chiêm Thành lại thừa cơ tiến lên sát biên cảnh Hóa-Châu.
Vậy trong lịch sử Chiêm Thành cũng như trong lịch sử Việt Nam vào cuối thế kỉ thứ 14 và đầu thế kỉ thứ 15 không hề thấy ở đâu có chép đến việc nhà Minh chiếm cứ Tây Sa và Nam Sa quần đảo. Dù có sự chiếm lãnh đó vào sơ kì thế kỉ 15 như ông Chu Kiệt đã xác nhận bên trên, đồng thời không thể phủ nhận được sự kiện lịch sử đã xảy ra vào năm 1470 là năm Lê Thánh Tôn đã bình định được Chiêm Thành. Sau khi phái sứ giả sang Tàu báo tin cho triều Minh rằng quân ta sắp tấn công Chiêm Thành để chấm dứt các vụ cướp phá của quân Chiêm, ngày 9-11-1470, vua Lê Thánh Tông hạ một bài chiếu dài cho dân Chiêm, trong đó kết tội Chiêm-Thành đã vu cáo cho Đại-Việt với nhà Minh đã tiếp sứ thần Đại-Việt không được châu đáo, đã giết vua cũ để lập vua mới, lại kết tội quân Chiêm đã quá tàn ác với dân chúng Đại-Việt. Sau đó lệnh tiến quân đã được ban ra và đến ngày 29 tháng chạp, quân Đại Việt đã tới được tận Đồ Bàn, bắt được vua Chàm là Trà Toàn cùng gia quyến 50 người. Biên thùy Đại Việt từ miền Thuận Hóa chuyển được thêm 700 cây số xuống phía Nam tới rặng núi Phú-Yên và Khánh-Hòa ngày nay, tức là tới Đèo Cả (Pháp gọi là Varella). Để ghi dấu biên thùy mới đó, một cây cột đá được dựng lên trên núi. Bởi vậy rặng núi đó đã được mệnh danh là Thạch Bi Sơn. Về võ công này của vua Lê Thánh Tôn, sách Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi có chép như sau: Lê Thánh Tôn đánh Chiêm Thành, mở đất đến Thạch Bi Sơn bốn phủ ở Phan Định trở về Nam vẫn là địa giới của Chiêm. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí quyển II về tỉnh Khánh Hòa thời Minh sử cũng có chép “Sứ thần của vua Chiêm nói” cổ lai, đất đai của nước ấy có 27 xứ, 4 phủ, 7 châu, 22 huyện mà vua An-Nam lấy đi chỉ còn có 5 xứ từ Bang-Đô-Lang đến Châu-Lạp mà thôi”.
明 史 占 主 使 臣 言 古 來 其 國 土 地 有 二 十 七 處 四 府 七 州 二 十 二 縣 安 南 取 之 止 存 自 邦 都 郎 至 真 臘 凡 五 處 耳 。
Vậy trễ nhất vào đầu phần tư thế kỉ thứ 15, Hoàng Sa và Trường Sa quần đảo đã thuộc về lãnh hải của Đại Việt tức là Việt Nam đương thời.
Có một điểm đáng được chú ý trong lối lập luận của ký giả Quang Minh Nhật Báo là ký giả này đã sử dụng hai danh xưng hiện đại Tây Sa và Nam Sa để nói về hai quần đảo trên của Chiêm Thành về thế kỷ thứ 15. Thực là chuyện lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia.
Kể ông họ Chu cũng khá bối rối vì chính ông đã phải thú nhận là danh xưng Tàu hóa của hai quần đảo liên hệ thay đổi với mỗi triều đại khiến ông không còn hiểu tại sao nữa. Đây là lời thú nhận đó của ông: « 遠 在 唐 、 宋 以 前 、 我 國 移 民 海 外 、 途 經 這 些 島 嶼 、 即 已 經 有 種 種 私 人 記 載 。 但 是 所 記 名 稱 不 一 、 道 里 不 詳 、 自 難 作 為 確 實 證 明 。 到 15 世 紀 初 期 、 即 明 朝 永 樂 到 宣 德 年 間 (1405-1433)、 鄭 和 七 次 下 西 洋 、 繪 有 航 海 地 圖 (戴 明 朝 茅 元 儀 [武 備 志] 、 把 南 中 國 海 所 有 島 嶼 、 一 齊 收 入 版 圖 。)
Nghĩa là: “ Đã lâu về trước đời Đường, đời Tống, người nước ta di dân ra hải ngoại đã qua những hải dư đó, và những đảo dư này đã được nhiều tư nhân ghi chép. Song, danh xưng đã được ghi chép một cách bất nhất, chẳng rõ vì lẽ gì, thật khó mà chứng minh cho xác thực được. Kế đến sơ kì thế kỷ 15 tức là khoảng triều Vĩnh Lạc cho tới triều Tuyên Đức nhà Minh (1405-1433) Trịnh Hòa nhân bảy lần xuống Tây dương có vẻ được đại đồ hàng hải (Có in trong cuốn Vũ Bị Chí của Mao Nguyên Nghi triều Minh ), và đem những đảo dư của Trung Quốc thâu nhập cả vào trong địa đồ đó”. Địa đồ hàng hải được nói tới trong đoạn trích lục trên tức là bản đồ của Mao Khôn như đã đề cập tới ở bên trên. Nhưng trong bản đồ của Mao Khôn không hề thấy có hai đảo danh Vĩnh Lạc và Tuyên Đức mà chỉ thấy những đảo danh như Thạch Đường, Thạch Sinh, Thạch Sinh Thạch Đường Dư và Vạn Tinh Thạch Đường mà thôi. Vậy sao ông Chu Kiệt không xài mấy danh xưng này lại đi xài hai danh xưng Tây Sa và Nam Sa. Có lẽ vì đó chỉ là những danh xưng do tư nhân đặt ra chứ không phải tên những tên chính thức như Tây Sa và Nam Sa do chính phủ Trung Quốc đã tự ý đặt ra cho hai quần đảo vốn thuộc chủ quyền sở hữu của Chiêm Thành xưa và Việt Nam ngày nay. Học thời sự do Văn hối Báo biên soạn và ấn hành số ra ngày hai mươi tháng giêng 1974 thời lại căn cứ vào danh xưng của hai đảo quần Tuyên Đức và Vĩnh Lạc để cố chứng minh rằng quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc nay mệnh danh cho Tây Sa quần đảo thuộc chủ quyền của Trung Quốc từ đời Minh.
Học Thời Sự lập luận như sau: “Tây Sa quần đảo có hai đảo- quần một là thuộc nhóm đảo Tuyên Đức hai là nhóm đảo Vĩnh Lạc. Đó là để kỷ niệm Trịnh Hòa mà đặt nên tên như vậy. Trịnh Hòa vốn là một nhà hàng hải vĩ đại của nước ta, bảy lần xuống Tây Dương (1404-1433) đã nhiều phen qua lại Đông Hải và đã từng đi khắp các đảo trên Đông Hải. Trong bảy lần Trịnh Hòa xuống Tây Dương , có sáu lần dưới triều Vĩnh Lạc và một lần dưới triều Tuyên Đức, đời Minh. Bởi vậy Tây Sa quần đảo đã lấy hai niên hiệu Tuyên Đức, Vĩnh Lạc đặt tên cho hai quần đảo đó”. Nguyên văn như sau: 西 沙 群 島 有 兩 個 群 島 、 一 是 宣 德 群 島 、 一 是 永 樂 群 島 、 這 是 為 了 紀 念 鄭 和 而 定 名 的 。 鄭 和 是 我 國 偉 大 航 海 家 、 七 下 西 洋 (1404-1433)、 數 度 過 往 南 海 、 遍 歷 南 海 諸 島 。 因 為 鄭 和 七 下 西 洋 、 有 六 次 是 在 明 朝 永 樂 年 間 、 而 有 一 次 是 在 宣 德 年 間 。 所 以 西 沙 群 島 以 宣 德 、 永 樂 作 為 島 群 名 。
Trong Nguyệt-san Thất Thập Niên Đại số tháng ba năm 1974, ông Tề Tân cũng lặp lại luận cứ này, khi ông viết như sau: 在 這 些 群 島 上 曾 發 掘 出 永 樂 年 間 德 銅 幣 、 這 更 足 以 證 明 五 百 多 年 前、 已 有 中 國 人 民 在 島 上 居 住 的 事 實 。 而 且 、 至 今 西 沙 、 南 沙 群 島 中 還 保 存 著 [宣 德 群 島] 、 [永 樂 群 島] 等 名 稱 。
Nghĩa là: “Ở thượng tầng những quần đảo này đã phát quật được tiền đồng khoảng đời Vĩnh-Lạc, điều đó đủ chứng minh cho sự thực là hơn 500 năm về trước, đã có người Trung-Quốc cư-trú trên những đảo đó rồi. Lại nữa, cho tới ngày nay trong Tây-sa quần đảo và Nam sa (sic) quần đảo vẫn còn bảo-tồn những danh xưng Tuyên-Đức và Vĩnh-Lạc quần đảo".
Về danh xưng Tuyên-Đức và Vĩnh Lạc, rất có thể những danh xưng đó được Trung Quốc đặt ra để kỹ niệm những cuộc viễn chinh của họ Trịnh. Vả lại những danh xưng đó và vài danh xưng khác đã được đặt trùng với những đảo danh ở Việt Nam, mặc dầu ý nghĩa có khác nhau. Tỉ dụ vài đảo danh Việt Nam cũng mới được đặt ra gần đây thôi như Tuyên Đức và Vĩnh Lạc không có cái ý nghĩa kỹ niệm nhũng cuộc viễn chinh của Viên Thái Giám nhà Minh nhưng chỉ có nghĩa như những địa danh Tuyên Đức tên một tỉnh ở Trung phần VIệt Nam ngày nay và Vĩnh Lạc, tên một thành đắp bằng đất (bảo) ở nam phần Việt Nam dưới Triều Nguyễn mà thôi.
[1] Mặt khác, Hoàng Sa và Trường Sa vốn nằm trên hải đảo Trung quốc Nam- Dương, như đã nói tới bên trên, tất nhiên đã từng được dùng làm những trạm trung gian không những cho dân Tàu trên đường đi Nam- Dương nhưng cho cả thương nhân và các nhà mạo hiểm Ả Rập, Ba Tư, Ấn Độ và Tây phương đến Hoa Nam nữa. Tiền đồng niên hiệu Vĩnh Lạc đã tìm thấy trên vài hòn đảo thuộc Trường Sa và Hoàng Sa không thể viện dẫn ra làm chứng cứ cho chủ quyền của Trung quốc trên những đảo đó được. Trước hết, theo sự khảo cứu của học giả Jung Pang Lo, soạn giả cuốn The Decline of The Early Ming Navy (Sự suy sụp của chiến thuyền triều Minh sơ), thời nhân dịp viễn chinh Tây Dương quân Minh và Hoa Kiều ở Đông Nam Á đã lợi dụng địa vị nước họ là một thượng quốc ép uổng thương nhân các nước nhỏ không những phải bán hang giá rẻ cho họ, mà phải chịu để họ trả tiền mua hàng bằng tiền nhà Minh. Do lẽ đó, những đồng tiền thời Vĩnh Lạc đào bới được trên đảo Đông Hải có thể thuộc về người Tàu cũng như người Việt và người nước khác giao dịch với người Tàu dưới triều Minh. Ngoài tiền Tàu ra lại thấy có nhiều đồ vật khác trên những đảo nói trên. Trong Phủ Biển Tạp Lục, Lê Quí Đôn cũng có chép như sau về quần đảo Hoàng Sa “Những thuyền lớn đi biển thường gặp gió đều đến nương hậu ở đảo. Ngày trước họ Nguyễn có thiết lập đội Hoàng Sa gồm 70 suất, lấy người ở xã Yên Vĩnh bổ sung. Mỗi năm họ luân phiên nhau đi biển lấy tháng giêng ra nhận lãnh chỉ thị làm sai dịch. Đội Hoàng Sa này được cấp phát mỗi người sáu tháng lương. Họ chèo năm chiếc thuyền câu nhỏ ra ngoài biển cả ba ngày ba đêm mới đến đảo. Họ tha hồ lượm lặt, tự ý bắt chim, bắt cá làm đồ ăn. Họ được những đồ hải vật như gươm và ngựa bằng đồng, hoa bạc, tiền bạc, sáp ong vàng, đồ chiến gia, đồ sứ…Họ còn lượm lặt những vỏ đồi mồi,những con hải sâm, những hạt con ốc rằn thật là nhiều”. (Phủ Biển Tạp Lục, quyển hai).
Lê Quí Đôn lại cho biết cả chi tiết về những thứ đã lượm được như sau: “Năm Nhâm ngọ (1702) đội Hoàng Sa lượm được bạc 30 thoi. Năm Giáp thân (1704) lượm được thiết 5.100 cân. Năm Ất Dậu (1705) lượm được bạc 126 thoi. Còn từ năm Kỷ Sửu (1709) đến năm Quí Tị (1713) tức là trong khoảng 5 năm, thỉnh thoảng họ cũng lượm được mấy cân đồi mồi và hải sâm. Cũng có lần họ chỉ lượm được mấy khối thiếc, mấy cái bát và hai khẩu sung đồng”. ( Phủ Biên Tạp Lục, quyển hai).
Có điểm đáng chú ý là những người trong đội Bắc Hải do họ Nguyễn đã thiết lập thêm thừa lệnh quân trên chèo thuyền tư và thuyền nhỏ câu cá ra cù lao Côn lôn ở giữa Bắc Hải hoặc đi đến xứ Côn tự thuộc vùng Hà tiên tìm kiếm hải vật, chỉ lấy được đồi mồi, hải ba, đồn ngư, lực quí ngư và hải sâm thôi mà ít khi lượm được vàng bạc và các của cải quí báu khác như thấy có trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Xem đó đủ biết xưa nay của hai quần đảo này vẫn có một vai trò trọng yếu là nhường nào đối với sự giao thương quốc tế trên biển Đông Hải.
Những cuộc đi kiếm tìm hải vật trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cũng như trên nhiều đảo khác ở ngoài các cửa biển Việt Nam không hề có tính cách cướp bóc của bọn giặc biển trên đảo- dư của nước khác nhưng chỉ là những hoạt động trong khuôn khổ hành sử chủ quyền của một quốc gia trên những đảo đó. Tỉ như đội Hoàng Sa do họ Nguyễn thiết lập ra cứ hàng năm cắt người luân phiên nhau đi biển, lấy tháng giêng ra đi nhận lãnh chỉ thị làm sai dịch, họ được cấp phát mỗi người sáu tháng lương để ra ngoài biển cả tìm kiếm hải vật trên các đảo dư. Đến kỳ tháng tám họ mới trở về rồi tới thành Phú Xuân trình nạp các vật họ đã lượm nhặt được. Người ta cân, khám nghiệm và định xong đẳng- hạng các sản vật rồi mới cho đội này bán riêng những con ốc rằn, hải ba, hải sâm; bấy giờ đội ấy được nhận lãnh bằng cấp trở về nhà. Đội Bắc Hải cũng được tổ chức một cách tương tự như đội Hoàng Sa ngoại trừ một điểm là không định trước bao nhiêu suất. Những người tình nguyện bổ sung vào đội này đều được miễn nạp tiền sưu cùng các thứ tiền lặt vặt như tiền đi qua đồn- tuần, qua đò. Ngoài những đội tìm kiếm hải vật mà ta có thể coi là một hình thức hành sử chủ quyền Việt Nam trên các đảo- dư của ta hồi thế kỷ 17, lại còn một hình thức thực thi chủ quyền Việt Nam đương thời nữa là phép đánh thuế khóa của họ Nguyễn đối với các tàu bè ngoại quốc lui tới ở các cửa biển nước ta. Lê Quí Đôn có chép về điều này như sau:
“ Xứ Thuận Hóa, đường thủy và các đường lục giao- thông với tỉnh Quảng- Nam. Về phía hữu, tỉnh Quảng- Nam thông với các phiên quốc. Còn đường biển thì xứ Thuận Hóa và xứ Quảng Nam chỉ cách tỉnh Mân và tỉnh Quảng (Quảng Đông) Trung quốc có ba, bốn ngày đường nên các tàu buôn của Trung quốc từ xưa đến nay thường thường tụ tập ở hải phận Thuận Hóa và Quảng Nam. Vào thời niên hiệu Vĩnh Lạc nhà Đại- Minh, có các thuyền buôn của Trung quốc trôi vào bến chợ Thuận Hóa. Tại đây, lúc bấy giờ, nhà nước đã thiết lập ty Đề- Cử lại có trường Sưu tiền.
Đến thời nhà Nguyễn cắt giữ đất Thuận Hóa và Quảng Nam, thâu được những khoảng thuế tàu thuyền các nước đến đậu ở đấy rất nhiều. Cai quản các bến có một viên Cai- tàu, một viên Tri- tàu, hai viên Cai- bạ, hai viên Cai phủ, hai viên Ký- lục, hai viên Phủ- tàu, sáu người Cai- phòng, 30 người Lệnh sử, cùng với nhuệ- binh 50 danh, 4 đội lính cộng 60 danh, với 6 danh Thông sự.
Tại các làng Minh- hương ở Hội- An, Cù- lao Chiêm, Cẩm Phố, Làng Câu thì có chức quan “ Sai- ty thái- báo”. Hễ tàu nước ngoài đến xứ Quảng Nam vào cửa biển Đại Chiêm đến phố Hội An, hay vào cửa biển Đà- nẵng, đến xứ Lưu- Lâm mà buôn bán, thì phải nạp các hang thổ- vật ( sản vật địa phương), và phải nạp thuế nhập xuất theo lệ định phân biệt đẳng- bậc khác nhau. Cùng năm, thông tính thâu được những khoản tiền thuế cảng. Còn 4 phần 10, các quan lại quân dân cứ chiếu theo số người nhiều ít mà chia phần đồng- đều như nhau. Nếu có những tàu bị gió bão trôi giạt đến, không có hàng hóa gì đáng chịu thuế lệ, thì sau khi viên Tàu- trưởng làm giấy khai- trình, tức thì quan hữu- trách truyền cho tuần- nha giữa cửa biển cùng với viên Đồn- thủ đến tàu khám xét qua. Rồi cho phép người trong tàu được đi mua củi, gạo, và họ chỉ được lưu lại 2, 3 ngày, rồi bị đuổi ra biển cả ( đại- dương). Không cho tàu họ vào cảng để khỏi sinh những việc lôi thôi. Nhưng cũng có trường- hợp họ cố ý tạo ra cảnh bị gió trôi- giạt đến, để được tạm trú, và ngầm đem lén hàng hóa lên phố, rồi sau mới trình xin chịu một số ít thuế. Những cách gian- lận ngoài pháp luật như thế vốn không thể nào đề- phòng cho hết được. Nay tra xét lại việc ngày trước, khi quan Lệnh- sử coi về các tàu là ông Võ- Trực kê khai những thuế lệ như sau:
Tàu từ Thượng- Hải đến, phải nạp tiền thuế: 3.000 quan.
Tàu từ Quảng- Đông đến, phải nạp tiền thuế: 3.000 quan. Còn thuế lệ lúc tàu trở lui: 300 quan.
Tàu từ Phước- Kiến đến, phải nạp tiền thuế: 2.000 quan. Còn lúc tàu trở về, lại phải nạp thuế: 200 quan.
Tàu từ Hải- Nam đến, phải nạp tiền thuế: 4.000. Khi tàu trở về lại phải nạp tiền thuế: 400 quan.
Tàu từ nước Nhật Bản đến, và khi tàu trở về, lệ thuế đều như tàu từ Mã- Cao đến, và lúc trở về.
Tàu từ nước Xiêm- La đến, phải nạp thuế: 2.000 quan, và lúc tàu ấy trở về, lại phải nạp tiền thuế: 500 quan.
Tàu từ Lữ- Tống đến, phải nạp tiền thuế: 2.000 quan, và lúc tàu trở về, lại phải nạp tiền thuế: 200 quan.
Tàu từ xứ Cựu- Cảng đến, phải nạp tiền thuế: 500 quan, và lúc tàu trở về, lại phải nạp 50 quan tiền thuế.
Tàu từ Hà- Tiên đến, phải nạp tiền thuế: 300 quan, và lúc tàu trở về, lại phải nạp tiền thuế: 30 quan.
Tàu khách từ Sơn- Đô đến, phải nạp tiền thuế: 300 quan, và đến khi tàu trở về, lại phải nạp thuế: 30 quan.
Ở Thượng- Hải, có thuyền từ tỉnh Triết- Giang đôi khi chở sứ- quán của Thiên- triều [ tức triều- đình nước Trung- Hoa] đến mua hàng- hóa. Ở Hải- Nam, có thuyền Quỳnh- Châu đến mua hàng- hóa. Ở Mã- Cao, có thuyền nước Hòa- Lan đến mua hàng- hóa.
Năm Nhâm- thìn [ tức năm 1772 là năm thứ 33 niên- hiệu Lê Cảnh- Hưng] và năm Quý- tị [ tức năm 1773], có lệnh giảm cả tiền thuế các tàu ngoại- quốc đến, và tiền thuế lúc các tàu ấy trở về, mỗi tàu chỉ nạp 2.100 quan.
Năm Tân-mão [tức năm 1771 là năm thứ 32 niên-hiệu Lê Cảnh-Hưng], những tàu thuyền buôn từ các xứ đến bến Hội-An cộng 16 chiếc, tiền thuế tất cả cộng 38.000 quan tiền.
Năm Nhâm-thìn, thuyền buôn từ các xứ đến bến Hội-An cộng 12 chiếc, tiền thuế tất cả cộng 14.300 quan.
Năm Quý-tị [1773], thuyền buôn từ các xứ đến bến Hội-An cộng 8 chiếc, tiền thuế cộng 3.200 quan.
32b Thể lệ về tào-vụ [coi về tàu thuyền] của nhà Nguyễn như sau:
Cứ thường năm, đến tháng giêng, các viên Cai-bạ, viên Tri-bạ, viên Lệnh-sử, viên Ký-lục thuộc Tàu-ty đều phải vào phố Hội-An. Họ phân-công, sai-phái thuộc quân của mình có người nào thông-hiểu tiếng ngoại-quốc, thì cho ra đóng giữ ở cửa biển Cù-lao Chiêm hoặc cửa biển Đà-nẵng. Khi nào có thuyền, tàu buôn các nước ngoài đến đây, người ấy phải xét hỏi kỹ-lưỡng từng thuyền một. Nếu xét quả thuyền, tàu ra vào buôn-bán, người ấy mới dẫn viên thuyền-trưởng hoặc viên phó thuyền-trưởng vào phố Hội-An trình với quan Cai-bạ tra xét để làm giấy tờ trình lên cấp trên. Đoạn người ta báo cho quan Cai-tàu, cùng thuyền lệnh đến ty Tuần-áp để sai người hộ-tống thuyền, tàu ấy vào cửa biển, đến sở Bạc-tuần. Rồi quan Lệnh-sử cùng các nha đến xét giấy-tờ của viên thuyền-trưởng. Viên tài-phó tàu phải kê-khai số hóa-vật. Quan Lệnh-sử chiếu từng mục hóa-vật xét xong mới cho họ qua sở Tuần, rồi lên bến phố trú-ngụ. Viên thuyền-trưởng phải sửa-soạn lễ vật “báo tín” đệ lên ông Nguyễn-Lệnh [Lệnh sử họ Nguyễn] 4 cân trà, các quan Tứ-trụ văn-ban cùng quan Thái-giám thủ-tài-vụ, quan Cai-bạ mỗi người 1 cân trà,các viên Tri-bạ, Cai-phủ, Ký lục mỗi người nữa cân trà. Đơn khai lễ vật được đệ nạp tại chính-dinh quan Nguyễn-Lệnh xem xét rồi chiếu theo bản kê-khai lễ-vật ấy mà phân-phát cho các quan.
33a Viên thuyền-trưởng lại phải sửa-soạn đầy-đủ lễ tiến [tiến lên chúa Nguyễn chăng?] hoặc giấm, đoạn, lụa mỏng có hoa, sa, đồ chơi cùng các hạng trái cây, và phải kê trình trước với quan Cai-bạ. Rồi sang nầy sai lính đệ đến quan Cai-tàu. Bấy giờ thuyền-trưởng mới dân nạp lễ-vật cho ông Nguyễn-Lệnh. Lễ vật ấy vốn không có hạn định, nhưng đại-khái lễ-vật cũng đáng 500 quan tiền. Nhưng cũng có khi viên thuyền-trưởng dâng một vài món quà mà được quan thích ý thì có thể quan truyền tha đánh thuế cũng nên. Tiến lễ-vật xong, viên thuyền-trưởng phải kê-khai các hàng hóa trong tàu, cứ mỗi hạng hóa-vật phải kê ra một tấm thiếp riêng-biệt. Nếu viên thuyền-trưởng cố tình giấu-giếm hóa-vật, thì khi mà người ta xét ra, các hóa-vật trong tàu sẽ bị tịch-thâu sùng công hết, và còn có thể chiếu pháp-luật nhà-nước mà trị tội nữa. Như ông Nguyễn-Lệnh muốn mua một món hàng-hóa nào, thì cứ truyền cho viên Cai-quan chiếu theo tấm thiếp kê hàng đệ nạp vào công-khố thau-trữ. Viên thuyền-trưởng và viên tài-phó đều phải theo vào kho xem cân được bao nhiêu. Dầu có vật-hạng nào không mua, cũng cho phép viên thuyền-trưởng và viên tài-phó đem đi bán hay đổi-chác. Nếu họ có kêu quan mua giảm giá quá đáng, thì cũng có thể được trả thêm tiền mua hàng ít nhiều.
Cả đến các người khách đi tàu, trong hành-lý có những món đồ chơi nào, cũng đều phải kê-khai nhứt thể đệ lên quan xem. Quan có mua những hàng gì, được bao nhiêu, thì cho họ trừ vào thuế nhập cảng. Còn thiếu thuế nhập-cảng bao nhiêu nữa, thì cho họ đem đi bán nơi khác được sẽ nạp sau.
Về lễ trình diện, quan Cai-tàu xem lễ dâng lên Thượng-quan là bao nhiêu rồi giảm đi một nữa. Lễ nạp cho các quan Cai-bạ và các nha-thuộc đều khác nhau.
33b Các tàu từ Thượng-hải, Quảng-đông, Phước-kiến và Mã-cao đến, đều có đâng lễ tiến lên Thượng-quan. Còn tàu từ Hải-nam đến, không có lễ tiến, chỉ đến ngày tàu nhổ neo ra về, mới dâng lễ tiến. Tùy theo lễ hậu hay bạc để các quan đáp lễ lại, hoặc tặng họ 5 thoi bạc, 5 cây quyến, 50 quan tiền, và 5 bao gạo; hoặc tặng 3 thoi bạc, 3 cây quyến, 30 quan tiền và 3 bao gạo ; hoặc 2 thoi bạc, quyến 2 cây, tiền 20 quan và gạo 2 bao, không có tiêu chuẩn nhứt định.
Còn như Thượng-quốc [tức nước Trung-Hoa] có sai tàu nhà-nước trao-trả số dân bị sóng gió trôi giạt vì đắm tàu cho ta, theo lệ định ta tặng sai-quan và thuyền của họ 50 quan tiền, và cho dân-đinh và thủy-thủ mỗi người một quan tiền. Nếu họ sai thuyền buôn trao-trả cho ta những người dân bị đắm tàu trôi giạt vào nước họ, nhân đó thuyền buôn nọ vào buôn-bán đổi-trác hàng-hóa, thì thuyền buôn ấy được tha, khỏi phải đóng thuế nhập-cảng. Còn những tàu buôn nào chuyên-chở hàng-hóa của nước họ đến nước ta, đều phải có đơn trình quan Cai-bạ để quan nầy sai-phái người đến phán xét. Rồi mới sai quan lính áp điệu tới thuyền, chứ không được thiện-tiện chở riêng đi bán.
Nếu có chiếc tàu nào chở khách hay hàng-hóa đầy quá, viên thuyền-trưởng phải có đơn trình, quan chiếu theo số khách khi tàu mới đến nơi, cho người đến tận thuyền đếm lại phân-minh, rồi sai lính thuộc quyền cùng với tuần-ty cho dân phụ-lũy [dân khuôn vác] [34a] hộ-tống thuyền ra ngoài cảng.
Còn như những người buôn-bán ở nước khác mà bị sóng gió trôi giạt đến hải-phận nước ta, nếu họ xin tạm-thời đậu lại để sửa-chữa thuyền, thì thuyền họ được đậu ở cửa Hàn và xứ Cù-lao. Khi đã sửa-chữa thuyền xong, quân lính giữ cửa biển và dân tiếp-cận phải xua-đuổi họ ra biển cả. Nếu họ còn muốn vào hải-phận nước ta để mua bán, thì quan Cai-bạ cùng với quân lính thuộc quyền các Tàu-ty phải đến nơi khám-nghiệm hàng-hóa của họ còn nhiều ít như thế nào, rồi chuyển trình lên cấp trên. Nếu thuyền của họ còn nhiều hàng-hóa, thì họ được miễn thuế một phần ba ; nếu còn ít hàng-hóa thì họ được miễn thuế một nửa; nếu không còn hàng-hóa gì, thì được miễn các thứ thuế.
Nếu họ muốn chở hàng-hóa của các khách buôn, họ phải làm đơn trình nói rõ những người khách ấy là người ở xứ-sở nào ? Thuyền lớn hay nhỏ ? Chở hành khách nhiều hay ít ? để định lệ đánh thuế, rồi mới cho họ chở mướn. Cũng có khi người ta chẳng căn-cứ một lệ củ nào cả. Khi nào những thuyền chở khách bị sóng gió phá hoại, thì sau khi tra xét số hành khách, quan Cai-bạ giao-phó cho hội-quán giữ họ lại, và cấp-phát cho họ mỗi người 5 quan tiền. Đợi đến lúc thuận gió thì cho họ sang thuyền khác trở về Trung-quốc. Nếu họ là người ở xứ khác, thì tùy theo quan sở-tại cấp-phát giấy-tờ để họ được trở về nguyên quán. “Phủ biên tạp lục, quyển bốn” (bản dịch của Lê Xuân Giáo, Saigon, 1973).
<bài viết được chỉnh sửa lúc 16.03.2010 22:48:47 bởi lyenson >