NGUYỄN HỮU THĂNG DỊCH THƠ THÁI THUẬN
Lời giới thiệu Nhà thơ, nhà báo Đại tá Nguyễn Hữu Thăng (Sinh năm 1950) quê gốc Thuận Thành, Bắc Ninh, đồng hương của Tiến sĩ, thi sĩ Thái Thuận và cũng có cuộc đời công tác “đi sứ” và nhiều năm sống tại Trung Quốc như tiền nhân Thái Thuận, cho nên ông rất yêu mến và ngưỡng mộ thơ Thái Thuận, một bậc túc nho, thi sĩ đời Lê Trung Hưng (Thế kỷ 15). Đã nhiều năm nay, ông bỏ công say mê nghiên cứu và tuyển dịch thơ chữ Hán theo thể Đường Thi của Thái Thuận ra Tiếng Việt. Chúng tôi rất vui mừng xin được giới thiệu cùng bạn đọc trong, ngoài nước tập thơ dịch thơ Thái Thuận mới được ra mắt gần đây của ông. Đào Phong Lưu Dịch thơ: NGUYỄN HỮU THĂNG Thơ danh nhân THÁI THUẬN (Tiến sĩ triều Lê) 名人蔡顺诗选
NHÀ XUẤT BẢN HÀ NỘI – 2009 LỜI GIỚI THIỆU Thái Thuận, tên chữ là Nghiã Hoà, tên hiệu Lục Khê, biệt hiệu Lữ Đường, là một danh nhân thời Lê, sinh năm 1440, đỗ tiến sĩ năm 1475. Ông quê ở làng Liễu Lâm, phủ Siêu Loại (nay là huyện Thuận Thành), tỉnh Bắc Ninh, nhưng có thời gian dài sống và làm việc ở đất Thăng Long, nên có thể coi ông là danh nhân Kinh Bắc, đồng thời là danh nhân đất kinh kỳ Thăng Long. Ông từng làm quan ở Viện Nội các hơn 20 năm, rồi được bổ nhiệm Tham chính tỉnh Hải Dương, về sau với tài thơ nổi tiếng, ông được vua Lê Thánh Tông đặc cách giữ chức Phó Nguyên suý Hội Tao Đàn. Thơ chữ Hán của Thái Thuận được người đời sau ca ngợi không hề thua kém thơ Đường của các nhà thơ cổ đại nổi tiếng Trung Quốc. Tác phẩm còn lại đến nay của Thái Thuận là tập “Lữ Đường thi di cảo” do con trai là Thái Khác và học trò là Đỗ Chính sưu tầm, biên soạn. Năm 2001, Nhà Xuất bản Văn học đã xuất bản cuốn sách “Lữ Đường thi” do Quách Tấn tuyển chọn, dịch và viết lời giới thiệu. Cụ Quách Tấn là người gốc Hoa sống ở miền Nam. Bản dịch của Quách Tấn được nhiều bạn đọc miền Nam ưa thích vì sử dụng ngôn ngữ địa phương miền Nam. Người dịch thơ Thái Thuận trong cuốn sách lần này là người miền Bắc, cùng quê Thuận Thành, Bắc Ninh với Thái Thuận. Dịch giả là người thích làm thơ Đường luật, đã tốt nghiệp Đại học tiếng Trung, từng có hơn 20 đầu sách dịch từ tiếng Hán, nguyên phóng viên Thông tấn xã Việt Nam thường trú tại Bắc Kinh. Các bài thơ dịch lần này đã cố gắng giữ nghệ thuật thơ Đường luật vốn có, đặc biệt là thể loại thất ngôn bát cú (100% thơ thất ngôn bát cú đều dịch theo đúng thể thơ này), đồng thời sử dụng từ ngữ tiếng Việt gần gũi hơn với ngôn ngữ quê hương Thái Thuận; phần dịch nghĩa và chú thích điển tích được biên dịch lại ngắn gọn, dễ hiểu, có tham khảo bản của Quách Tấn. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc./. Nhà xuất bản 征妇吟
庭草成巢柳又丝
征夫何日是归期
半帘残月伤心夜
一枕啼鹃落泪时
塞北云长孤燕影
江南春尽老蛾眉
昨来几度
相思梦
曾到
君边知不知
CHINH PHỤ NGÂM Đình thảo thành sào liễu hựu ty Chinh phu hà nhật thị quy kỳ? Bán liêm tàn nguyệt thương tâm dạ Nhất chẩm đề quyên lạc lệ thì Tái Bắc vân trường cô nhạn ảnh Giang Nam xuân tận lão nga my Sạ lai kỷ độ tương tư mộng Tằng đáo quân biên tri bất tri Dịch nghĩa: KHÚC NGÂM NGƯỜI VỢ CÓ CHỒNG RA TRẬN Cỏ nơi sân đã um tùm, liễu lại buông tơ Ngày nào là ngày về của người đi chinh chiến? Rèm vén nửa, trăng tàn đó là đêm thương tâm Một gối đơn, chim cuốc kêu, đó là lúc rơi nước mắt Bên kia ải Bắc mây vầng bóng nhạn đơn côi Bên này sông Nam xuân hết chân mày nhợt nhạt Từ trước đến nay giấc mộng tương tư đã mấy lần Thường đến bên chàng, chàng có biết hay không ? Dịch thơ: Sân đầy cỏ dại liễu buông tơ Chàng đi chinh chiến đến bao giờ? Trăng xế, nửa rèm lòng sao tủi Cuốc kêu, một gối lệ nào khô Ải Bắc mây dày, chim nhạn lẻ Sông Nam xuân úa, nét ngài thưa Chàng có hay chăng bao thương nhớ Đằng đẵng theo chàng mỗi giấc mơ. Chú thích: - Tái Bắc (phía bắc biên giới): Xưa chỉ vùng biên giới Trung Hoa giáp với xứ Hung Nô, nơi hay xảy ra chiến tranh. - Giang Nam: Vùng đất nam sông Trường Giang, có nhiều cảnh đẹp. * * * 西湖春怨
夜夜长寒月影斜
春风归去属谁家
红颜乐尽蛾眉老
肠断无人问野花
TÂY HỒ XUÂN OÁN Dạ dạ trường hàn nguyệt ảnh tà Xuân phong quy khứ thuộc thùy gia Hồng nhan lạc tận nga my lão Trường đoạn vô nhân vấn dã hoa Dịch nghĩa: NỖI OÁN XUÂN TÂY HỒ Đêm đêm lạnh giá kéo dài, ánh trăng sắp lặn Gió xuân về rôi đi, thuộc về ai đâu Cuộc vui của người con gái đẹp đã hết, mày ngài đã già Đau xót đứt ruột khi không còn ai ngó tới bông hoa dại Dịch thơ : Đêm đêm trăng xế bấy lạnh lùng Xuân đến rồi đi chẳng thủy chung Má hồng phai sắc ngày vui cạn Xót xa cô quạnh cánh hoa rừng * * * 望夫山
化石山头几夕曛
伤心无路更逢君
天涯目断年年月
江上魂消幕幕云
清泪一斑花露滴
离情万种草烟分
湘妃若识
相思苦
不惜哀弦寄与闻
VỌNG PHU SƠN Hóa thạch sơn đầu kỷ tịch huân Thương tâm vô lộ cánh phùng quân Thiên nhai mục đoạn niên niên nguyệt Giang thượng hồn tiêu mộ mộ vân Thanh lệ nhất ban hoa lộ trích Ly tình vạn chủng thảo yên phân Tương phi nhược thức tương tư khổ Bất tích ai huyền ký dữ văn. Dịch nghĩa: NÚI VỌNG PHU Đầu núi hóa đá đã bao nhiêu đêm ngày rồi Đau lòng không còn đường gặp lại chàng lần nữa Mỏi mắt nhìn trăng cuối chân trời năm này sang năm khác Chiều chiều hồn tan theo đám mây trên sông Sương đọng trên hoa như nước mắt trong vắt nhỏ từng giọt Khói tỏa trên cỏ mang theo vạn mối tình ly biệt Nàng Phi bên sông Tương nếu biết được nỗi khổ vì nhớ nhau Chớ tiếc dây đàn buồn não nuột, xin gửi đến cùng nghe. Dịch thơ: Hóa đá đêm ngày đứng đầu non Đau đáu chờ ai, mất hay còn? Mỏi mắt trăng sao chân trời thẳm Tan hồn mây nước bóng chiều hôm Hoa đẫm lệ sương ngàn nỗi thảm Cỏ lan biển khói vạn tình buồn Tương Phi thấu nỗi lòng thương nhớ Xin gửi bi ai một khúc đàn Chú thích: - Tương phi: Nàng Phi bên sông Tương. Theo tích cổ: Vua Thuấn băng hà, hai bà vợ là Hoàng Vũ, Nữ Anh khóc ở sông Tương. Nước mắt lẫn máu rơi vào thân trúc hóa thành những chấm lốm đốm, gọi là ban ban trúc. * * * 春暮
百年身世嘆浮苹
春去誰能不老成
流水橋邊楊柳影
夕陽江上鷓鴣聲
月於煙樹雖無分
風與天香尚有情
九十韶光容易過
草心游子苦難平
XUÂN MỘ Bách niên thân thế thán phù bình Xuân khứ thùy năng bất lão thành Lưu thủy kiều biên dương liễu ảnh Tịch dương giang thượng giá cô thanh Nguyệt ư yên thụ tuy vô phận Phong dữ thiên hương thượng hữu tình Cửu thập thiều quang dung dị quá Thảo tâm du tử khổ nan bình. Dịch nghĩa: CHIỀU XUÂN Thân thế trăm năm than cho kiếp bèo nổi Xuân đi rồi có ai không thành người già Bên cầu nước chảy in bóng dương liễu Trên sông chiều tà tiếng gà gô (đa đa) não nuột Trăng lồng trong khói cây tuy không có phận gì Gió quyện hương trời vẫn có tình với nhau Chín chục tuổi xuân qua một cách dễ dàng Khiến nỗi lòng người con đi xa khó bình lặng được. Dịch thơ: Thân thế trăm năm kiếp bèo trôi Xuân qua ai tránh khỏi cuối đời Bên cầu nước chảy ngời bóng liễu Dưới bến đa kêu não lòng người Trăng dẫu hững hờ buông tán lá Gió còn xao xuyến quyện hương trời Thấm thoắt thiều quang đà chín chục Day dứt cõi lòng mãi khôn nguôi Chú thích: - Du tử (người con đi xa): Mượn từ trong bài thơ “Du tử ngâm” của Mạnh Giao “Từ mẫu thủ trung tuyến, du tử thân thượng y” (Sợi chỉ trong tay mẹ hiền, tấm áo trên mình người con đi nơi xa) . - Thảo tâm (lòng cỏ) : Cũng mượn từ bài thơ trên : “Thuỳ ngôn thốn thảo tâm, báo đắc tam xuân huy” (Ai bảo rằng tấc lòng cỏ, báo đền dược đức sáng ba xuân) . * * * 梅影
倒挂斜穿淡又浓
瑶台纸帐暗相通
移来窗外风吹后
横过山前露照中
东阁传神清画笔
西湖泻兴苦吟翁
珠帘仿佛魂无碍
疑是真人在雪宫
MAI ẢNH Đảo quái tà xuyên đạm hựu hồng Dao dài chỉ trướng ám tương thông Di lai song ngoại phong xuy hậu Hoành quá sơn tiền lộ chiếu trung Đông Các truyền thần thanh họa bút Tây Hồ tả hứng khổ ngâm ông Châu liêm phảng phất hồn vô ngại Nghi thị chân nhân tại tuyết cung Dịch nghĩa: HÌNH BÓNG HOA MAI (Hoa nở) ngửa nghiêng ngang dọc, màu nhạt lại màu đậm Nối tiếp nhau kín trướng giấy đài ngọc Gió đẩy đưa qua lại ngoài cửa sổ Ngang qua trước núi trong ánh sương chiếu Ở lầu Đông, cái thần của hoa truyền vào ngọn bút vẽ thanh tao Ở hồ Tây gợi hứng để nhà thơ ngâm vịnh mãi Hương hoa luôn phảng phất cạnh rèm châu Ngờ rằng có tiên ở nơi cung tuyết . Dịch thơ: BÓNG HOA MAI Chi chít bốn bề sắc khoe tươi Đài dao trướng giấy kín trong ngoài Đung đưa bên cửa theo gió thổi Thấp thoáng sườn non giữa sương soi Đông Các họa thư say hồn bút Tây Hồ ngâm vịnh đắm tình người Phảng phất rèm châu dường bất tận Tưởng như cung tuyết có tiên trời. Chú thích: -Đông Các (lầu Đông): Theo tứ thơ Đỗ Phủ “ Đông các quan mai động thi hứng - hoàn như Hà Tổn tại Dương Châu” (Nơi gác Đông xem mai, gợi hứng thơ, không khác gì Hà Tổn tại Dương Châu): Hà Tổn trồng ở Dương Châu một cây mai, thường ngâm vịnh dưới gốc, sau đổi qua đất Lạc, nhớ Mai xin trở lại Dương Châu, đúng lúc mai nở rộ khiến ông say ngắm suốt ngày. - Tây Hồ xưa có rừng mai. Nhà thơ, họa sĩ Lâm Bô làm nhiều thơ, vẽ nhiều tranh về mai, coi mai như vợ, hạc như con. Ông từng vào rừng thưởng hoa bị lạc, trở thành giai thoại. - Cung tuyết : Chỉ cung của tể tướng Vương Hội, do thời trẻ từng có bài thơ vịnh mai “ Tuyết trung vị luận điều canh sự - tiên hướng bách ba đầu thượng khai” (Trong tuyết chưa vội bàn đến làm canh ngon, trước hết hãy nhìn phía trăm hoa nở đầu cành). * * * 下景 南风庭院日如年 面对书窗古圣贤 磅砌榴花红喷火 入 帘 草色绿生烟 元亨理 契 庖牺易 康阜功归帝舜玄 千古道心呼得起 槐茏影里夕阳蝉。 HẠ CẢNH Nam phong đình viện nhật như niên Diện đối thư song cổ thánh hiền Bàng thế lựu hoa hồng phún hỏa Nhập liêm thảo sắc lục sinh yên Nguyên hanh lý khế Bào Hy dịch Khang phụ công quy Đế Thuấn huyền Thiên cổ đạo tâm hô đắc khởi Hòe lung ảnh lý tịch dương thuyền Dịch nghĩa: CẢNH MÙA HÈ Gió nam thổi vào sân nhà, ngày dài như năm Đối diện với cửa sổ phòng sách cùng thánh hiền xưa Hoa lựu nở bên thềm sắc đỏ như phun lửa Màu cỏ nhập vào rèm ánh xanh như sinh khói Lý nguyên hanh (thuận lợi) vạch sẵn trong kinh Dịch của Bào Hy Công lao khang phụ (dân mạnh của nhiều) quy vào dây đàn Đế Thuấn Lòng đạo của nghìn xưa như bật dậy Trong bóng hòe đàn ve kêu lúc chiều hôm Dịch thơ: Ngày gió nam về thấy dài thêm Đến với sách nho gặp thánh hiền Lựu phun sắc đỏ bên thềm cửa Cỏ ngợp màu xanh khắp cánh rèm Kinh dịch Bào Hy nguyên hanh vững Dây đàn Đế Thuấn phụ khang bền Lòng đạo ngàn xưa như bừng dậy Hoàng hôn ve hát tiếng ngân rền. Chú thích: - Bào Hy: Vua Phục Hy, theo truyền thuyết là vị vua thời tiền sử Trung Hoa, thuỷ tổ của kinh Dịch. - Nguyên hanh: Nguyên hanh lợi trinh là bốn đức lớn của trời đất trong kinh dịch, vạn vật nhờ đó mà sinh thành. - Khang phụ: Tốt lành, dồi dào, đầy đủ: Mượn chữ trong bài ca Nam Phong của vua Thuấn (khả dĩ phụ ngô dân chi tài hề) và bài thơ ca ngợi vua Thuấn của Cao Dao (Nguyên thủ minh tai, cổ quang khang tai) . Từ đó thành câu “dân khang vật phụ” (dân chúng yên vui, của cải dồi dào). * * * 秋闺
朦胧残月五更钟
云雨相随楚蒙慵
孤枕寒灯秋共冷
离愁别恨酒争浓
天涯目断登楼怯
席上书
成忍泪封
无限花容消瘦尽
西风吹老水芙蓉。
THU KHUÊ Mông lung tàn nguyệt ngũ canh chung Vân vũ tương tùy Sở mộng dung Cô chẩm hàn đăng thu cộng lãnh Ly sầu biệt hận tửu tranh nồng Thiên nhai mục đoạn đăng lâu khiếp Tịch thượng thư thành nhẫn lệ phong Vô hạn hoa dung tiêu sấu tận Tây phong xuy lão thủy phù dung. Dịch nghĩa: PHÒNG KHUÊ MÙA THU Trăng tàn lờ mờ chuông đánh canh năm Mây mưa theo vào giấc mộng vua Sở Gối đơn chiếc đèn lạnh cùng đêm thu lạnh Nỗi sầu hận ly biệt sâu sắc tranh với rượu cay nồng Chân trời ngút tầm mắt lên lầu thấy sợ Thư viết xong trên chiếu, nén nước mắt phong kín lại Không biết đã có bao nhiêu khuôn mặt hoa gầy đi, tàn tạ hết Gió tây thổi lại làm già héo bông hoa thuỷ phù dung. Dịch thơ: Canh năm trăng xế vẳng tiếng chuông Mây mưa chìm đắm mộng Sở vương Gối lẻ đèn mờ đêm thu lạnh Ly sầu hận biệt chén rượu suông Nhìn chân trời thẳm lòng thấy sợ Gấp lá thư buồn lệ chực tuôn Bao kiếp má hồng tàn tạ hết Đóa sen xơ xác gió tây phương. Chú thích: - Sở mộng (giấc mộng vua Sở): Vua nước Sở đi chơi núi Vu Sơn, nằm ngủ ở quán Cao Đường, nằm mơ thấy một người con gái đẹp đến ngủ chung, tự xưng là nữ thần chốn Dương Đài, sớm làm mây tối làm mưa. Vì vậy cuộc tình trai gái gọi là “cuộc mây mưa”. - Thủy phù dung: Tức hoa sen. Câu kết ý nói hoa trên mặt đất đã tàn tạ hết, gió tây lại làm héo tiếp hoa dưới nước. * * * 冬
华年兀坐静如愚
了觉光阴似隙驹
河水有冰鱼信断
林
柯
无叶鹊巢孤
功名谁拟平淮将
文史吾惭辅汉儒
为把阴阳消长理
梅花枝上问尧夫
ĐÔNG Hoa niên ngột tọa tịnh như ngu Liễu giác quang âm tự khích cu Hà thủy hữu băng ngư tín đoạn Lâm a vô diệp thước sào cô! Công danh thùy nghĩ Bình Hoài tướng Văn sử ngô tàm Phụ Hán nho Vị bả âm dương tiêu trưởng lý Mai ba chi thượng vấn Nghiêu Phu Dịch nghĩa: MÙA ĐÔNG Tuổi hoa ngồi ngây yên lặng như người ngu Biết rõ ngày đêm qua nhanh như bóng ngựa qua cửa sổ Nước sông có băng đóng nên không biết tin tức gì của cá Cành cây rừng không còn lá khiến tổ chim khách chơ vơ Công danh ai sánh được với tướng đất Hoài Âm (tức Hàn Tín) Văn sử ta đây thấy thẹn cùng nhà nho giúp Hán (tức Trương Lương) Để hiểu được nguyên lý âm dương tiêu trưởng Biết khi nào hoa mai nở trên cành, hãy hỏi Nghiêu Phu Dịch thơ: Tuổi xuân lặng lẽ tưởng ngây ngô Bóng câu cửa sổ thoắt từng giờ Băng đóng, cá sông ai tường tỏ Lá rời, chim khách tổ chơ vơ Công danh Hàn Tín, nào so sánh? Văn sử Trương Lương, há thẹn thò ? Muốn biết âm dương suy rồi thịnh Mai nở trên cành hỏi Nghiêu Phu . Chú thích: - Văn sử: Vẻ đẹp bề ngoài - Tiêu trưởng: Mất đi và phát triển. Nghĩa bóng là suy thịnh - Nghiêu Phu: Tức Thiệu Ưng (1011-1077), hiền triết đời Tống, tinh thông dịch lý, biết trước tương lai. * * * 望白云
悠悠亲舍白云飞
回首天涯动所思
千里家山双眼断
百年母子一心悲
沾襟自信鲛珠落
戏彩谁娱鹤发垂
忠孝古来难两立
此怀分付彼苍知
VỌNG BẠCH VÂN Du du thân xá bạch vân phi Hồi thủ thiên nhai động sở ty Thiên lý gia san song nhãn đoạn Bách niên mẫu tử nhất tâm bi Triêm khâm tự tín giao châu lạc Hý thể thùy ngu hạc phát thùy Trung hiếu cổ lai nan lưỡng lập Thử hoài phân phú bỉ thương tri Dịch nghĩa: TRÔNG MÂY TRẮNG Mây trắng cuộn cuộn bay trên nóc nhà của cha mẹ Từ nơi chân trời xa ngoảnh đầu nhìn lại, động lòng nhớ nhung Quê hương xa nghìn dặm tầm mắt nhìn không hết Tình mẹ con suốt trăm năm nặng một lòng buồn thương Nước mắt thấm đẫm vạt áo, tin rằng sẽ như nước mắt giao nhân rơi thành ngọc châu. Ai là người mặc áo năm màu múa mua vui cho cha mẹ tuổi bạc đầu? Tấm lòng này xin gửi đến trời xanh để trời biết. Dịch thơ: Mái nhà cha mẹ trập trùng mây Tít tắp trời xa nỗi nhớ đầy Quê cha ngàn dặm nhìn mòn mỏi Tình mẹ trọn đời nuốt đắng cay Lệ giao hóa ngọc rơi thành kính Mái hạc còn ai múa vui vầy Trung hiếu xưa nay thường khó vẹn Trời xanh có thấu tấm lòng này? Chú thích: - Giao châu: Nước mắt thành ngọc châu của con giao nhân. Giao nhân đầu người đuôi cá, thường lên cạn giao lưu với con người, được người đối xử chí tình. Lúc biệt ly, giao nhân khóc, nước mắt rơi hóa thành ngọc châu để tỏ lòng biết ơn. - Hý thể: quần áo màu sặc sỡ. - Hạc phát: Tóc người già trắng như lông hạc. Lão Lai người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, khi đã 70 tuổi ngày ngày còn mặc quần áo nhiều màu sặc sỡ múa mua vui cho cha ngoài 90 tuổi. * * * 韩信 四海干戈正 扰攘 力能平定独君当 斋坛礼重将军拜 盟府功多敌国亡 楚地无心图鼎立 汉天有泪泣弓藏 后来说到 南巡事 应为王孙一断肠 HÀN TÍN Tứ hải can qua chính nhiễu nhương Lực năng bình định độc quân đương Trai đàn lễ trọng tương quân bái Minh phủ công đa địch quốc vong Sở địa vô tâm đồ đỉnh lập Hán thiên hữu lệ khấp cung tàng Hậu lai thuyết đáo nam tuần sự Ứng vị Vương tôn nhất đoạn trường. Dịch nghĩa: Bốn biển chiến tranh, chính lúc rối ren Chỉ một mình ông đủ sức đảm nhận đánh dẹp Dựng đàn chay làm lễ bái tướng trọng thể Nơi minh phủ ghi công lớn tiêu diệt nước địch Trên đất Sở không có mưu đồ lập đỉnh xưng đế Khoảng trời Hán có lệ khóc chôn cung nỏ Về sau nói đến chuyện vua Hán tuần du miền Nam Thương thay cho Hàn Tín đến đứt từng khúc ruột Dịch thơ: Binh đao loạn lạc khắp bốn phương Một thân đánh dẹp sức phi thường Dựng đàn lễ trọng tôn danh tướng Diệt giặc công to nức phủ đường Sở đâu lập đỉnh, lòng sáng tỏ Hán nỡ chôn cung, lệ sầu thương Nhắc chuyện tuần du phương Nam ấy Đớn đau đứt ruột tiếc Sở vương. Chú thích: - Minh phủ: Phủ đường làm lễ tuyên thệ. Sau khi diệt được Sở vương Hạng vũ, thống nhất đất nước, lên ngôi hoàng đế, Lưu Bang luận công Hàn Tín đứng đầu khai quốc công thần, phong làm Sở vương. - Lập đỉnh: Nhà Chu đúc 9 đỉnh đồng tượng trưng cho 9 châu, tức toàn cõi Trung Quốc xưa nên lập đỉnh là chỉ lập nước riêng, lên ngôi hoàng đế. Hàn Tín làm Sở vương giấu Chung Ly Muội – vong thần của Hạng Vũ vì là chỗ bạn cũ. Lưu Bang biết, nghi Hàn Tín làm phản, lập mưu đi chơi đầm Vân Mộng, Hàn Tín ra đón, Lưu Bang bắt đưa về Trường An, giáng xuống làm Hoài Âm Hầu. Sau đó Lưu Bang giả đi tuần phương Nam để ở nhà Lã hậu giết Hàn Tín. - Cung tàng: “điểu tận cung tàng”: Bắn hết chim, vứt bỏ cung. - Vương Tôn: Mỹ danh của Hàn Tín. * * * 渔笛
浮世功名绝意求
只凭一笛伴孤舟
白频江上数声晓
红柳滩前三弄秋
离浦雁回明月塞
怀乡人倚夕阳楼
不知兴尽归何处
山自青青水自流
NGƯ ĐỊCH Phù thế công danh tuyệt ý cầu Chỉ bằng nhất địch bạn cô châu Bạch tần giang thượng sổ thanh hiểu Hồng liễu na tiền tam lộng thu Ly phố nhạn hồi minh nguyệt tái Hoài hương nhân ỷ tịch dương lâu Bất tri hứng tận quy hà xứ Sơn tự thanh thanh thủy tự lưu Dịch nghĩa: TIẾNG SÁO NGƯỜI ĐÁNH CÁ Công danh cõi đời phù phiếm không hề có ý cầu mong Chỉ với chiếc sáo cùng chiếc thuyền đơn độc Đám rau bạch tần trên sông nghe mấy tiếng sáo thấy trời sáng Đám rau hồng liễu trước bến nghe ba khúc sáo như thấy mùa thu về Chim nhạn về bến cũ, rời cửa ải trăng sáng Người nhớ quê hương tựa lầu trong ánh nắng xế chiều Niềm hứng tan đi, không biết về đâu? Núi vẫn xanh xanh, nước vẫn chảy tự nhiên. Dịch thơ: Công danh phù phiếm, chẳng mưu cầu Bạn cùng cây sáo với thuyền câu Giục sáng, bạch tần như hé nụ Gọi thu, hồng liễu tưởng thay màu Nhạn nhớ bến xưa, rời trăng ải Người thương quê cũ, tựa bóng lầu Niềm hứng tan rồi, về đâu nhỉ? Vẫn núi xanh rì, nước chảy mau. Chú thích: - Bạch tần: Một loại rau dại hoa trắng, mọc ven bờ nước - Hồng liễu (hồng lục): Một loại rau dại lá xanh sẫm, hoa đỏ, mọc ven bờ nước. Câu thơ thứ ba, thứ tư mang ý nghĩa: Thổi mấy tiếng sáo, trời sáng, hoa bạch tần nở; Thổi ba khúc sáo, trời chuyển sang thu, hoa hồng liễu đang mùa xuân nở đỏ cũng ngả màu theo. - Minh nguyệt tái (Biên ải trăng sáng), Tịch dương lâu (Lầu hoàng hôn): Mượn ý trong bài “ Trường An vãn thu” của Triệu Hổ đời Đường: Tàn tinh kỷ điểm nhạn hoành tái Trường địch nhất thanh nhân ỷ lầu (Dưới mấy ánh sao tàn, chim nhạn quay ngang nơi biên ải Một tiếng sáo dài, người tựa lầu đứng nghe). Ở một vùng biên giới Trung Quốc xưa có dãy núi rất cao, chim không bay qua nổi, loài nhạn di cư đến đó phải bay trở lại, nên dãy núi đó gọi là núi Hồi Nhạn.
* * * 隐者
往来踪迹倦红尘
占断
林泉作十人
景有山川花是客
门无车马草常春
桐江钓月忘归汉
芝岭耕云乐去秦
却羡陶朱兴越日
五湖烟水一闲身
ẨN GIẢ Vãng lai tông tích quyện hồng trần Chiếm đoạn lâm tuyền tác thập phân Cảnh hữu sơn xuyên hoa thị khách Môn vô xa mã thảo thường xuân Đồng Giang điếu nguyệt vong quy Hán Chi Lãnh canh vân lạc khứ Tần Khước tiện Đào Chu hưng Việt nhật Ngũ Hồ yên thủy nhất nhàn thân Dịch nghĩa: NGƯỜI Ở ẨN Dấu vết lại qua đã mỏi mệt với bụi đỏ Chiếm lấy đoạn suối rừng lập xóm nương thân Cảnh vật có núi sông, hoa là khách Cửa ngõ không xe ngựa, cỏ luôn tươi như mùa xuân Câu trăng nơi Đồng Giang, quên về với vua Hán Cày mây nơi núi Chi , vui lánh nạn để xa rời vua Tần Thật đáng khâm phục ông Đào Chu, ngày lấy lại nước Việt Vui nhàn hạ ở Năm Hồ một mình. Dịch thơ: Dấu chân mòn mỏi bết hồng trần Suối sâu rừng thẳm chốn nương thân Cảnh có núi sông, hoa làm khách Cổng không xe ngựa, cỏ thành xuân Câu nguyệt Đồng Giang quên về Hán Cày mây Chi Lĩnh nguyện xa Tần Khen cụ Đào Chu ngày Việt thắng Khói nước Ngũ Hồ sống nhàn thân Chú thích: - Thập nhân (mười người): Ngày xưa cứ 5 nhà gần nhau hợp thành một lân (xóm), hai xóm 10 nhà gần nhau sẽ được vua giao ruộng làm ăn và đóng thuế, ruộng đó gọi là “thập nhân chi điền” . “Tác thập nhân” trong bài thơ là lập xóm đủ làm ăn với nhau. - Đồng Giang: Một con sông bắt nguồn từ Tứ Xuyên. Đời Hán có Nghiêm Tử Lãng, một người tài đức không chịu ra làm quan, ở ẩn tại Đồng Giang, ngày ngày câu cá mua vui. - Điếu nguyệt (câu trăng): Vì câu cá đêm trăng mua vui nên gọi là câu trăng. - Chi Lĩnh (ngọn núi Chi): Tên ngọn núi ở Giang Tây, còn gọi là Thổ Tố. Đời Đường có quan thứ sử là Tiết Chấn lên núi tìm được linh chi nên gọi là núi Chi. Đời Tống có Giang Vạn Lý bị nịnh thần dèm pha, mất chức, lên nui Chi đào ao làm vườn sống ẩn dật. Khi quân Nguyên đánh chiếm được Trung Quốc, ông nhảy xuống ao tự tử. - Đào Chu: tiên hiệu của Phạm Lãi, từng giúp Câu Tiễn diệt được nước Ngô, dựng nước Việt. Biết Câu Tiễn sẽ sát hại công thần nên ông lánh trước, dong thuyền chơi Ngũ Hồ rồi đi mất. * * * 五湖游
霸越平吴志已酬
扁舟遥
向五湖游
清风明月孤篷叶
远水长天一叶秋
鸥鹭沙边闲共泛
波涛世上谢私优
可怜溺没功名者
鸟尽弓藏空自愁。
NGŨ HỒ DU Bá Việt bình ngô chí dĩ thù Biến châu diêu hướng ngũ hồ du Thanh phong minh nguyệt cô bồng dạ Viễn thủy trường thiên nhất diệp thu Âu lộ sa biên nhàn cộng phiếm Ba đào thế thượng tạ tư ưu Khả lân mịch một công danh giả Điểu tận cung tàng không tự sầu Dịch nghĩa: DẠO CHƠI NGŨ HỒ Nước Việt dựng nghiệp bá, diệt được nước Ngô, chí đã thỏa Một chiếc thuyền con ra ngũ hồ dong chơi Gió mát trăng sáng, cánh buồm đơn độc lẻ loi Nước thẳm trời xa, mùa thu chỉ một chiếc lá Vui đùa nhàn nhã cùng đám cò le trên bãi cát Bỏ hết buồn lo sóng gió trên đời Đáng thương cho kẻ chìm đắm trong công danh Để đến khi chim hết cung vùi, một mình chịu đau buồn vô ích Dịch thơ: Nghiệp bá thỏa lòng, Việt thắng Ngô Dong chiếc thuyền con dạo Ngũ Hồ Gió mát trăng thanh, buồm một cánh Trời cao nước thẳm, lá đơn thu Bãi cát cò le cùng vui thú Đời người sóng gió hết âu lo Thương kẻ đắm chìm công danh hão Chim hết bẻ cung, họa chực chờ. Chú thích: - Bài thơ dựa theo tích: Phạm Lãi giúp Câu Tiễn nước Việt diệt nước Ngô của Phù Sai, sau đó chào từ biệt Câu Tiễn, đi chiếc thuyền nhỏ ra Ngũ hồ dong chơi, không còn tông tích. Câu Tiễn sai công thần Văn Chủng đuổi theo, nhặt được thư Phạm Lãi, thư khuyên Văn Chủng chạy đi để tránh tai họa, Văn Chủng không nghe, cuối cùng bị Câu Tiễn bức tử. - Ngũ hồ: 5 hồ lớn thuộc nước Sở, nay thuộc tỉnh Hồ Nam: Động Đình, Ba Dương, Sào Hồ, Thái Hồ, Chung Hồ. - Điểu tận cung tàng (chim hết cung vùi): Khi Phù Sai nước Ngô bị vây, viết thư cầu cứu Văn Chủng, có câu; “cao điểu tận lương cung tàng, địch quốc phá mưu thần vong” (chim trên trời cao hết, cung tốt vùi lấp đi, nước địch bị diệt xong, mưu thần sẽ chết). hai câu cuối chỉ số phận Văn Chủng, cũng ám chỉ việc Lê Lợi lên ngôi, đã hãm hại các công thần Phạm Xảo, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Trãi. * * * 秋夜客舍
茅檐蓼落曙星沉
草际寒霜未了吟
半枕
寒风吹梦断
满庭落叶报秋深
人生有泪多南北
天地无情自古今
几度
相思诗兴断
旅怀苦恶不成吟
THU DẠ KHÁCH XÁ Mao thiềm liêu lạc thự tinh trầm Thảo tế hàn tương vị liễu ngâm Bán chẩm hàn phong xuy mộng đoạn Mãn đình lạc diệp báo thu thâm Nhân sinh hữu lệ đa nam bắc Thiên địa vô tình tự cổ kim Kỷ độ tương tư thi hứng đoạn Lữ hoài khổ ác bất thành ngâm. Dịch nghĩa: QUÁN KHÁCH ĐÊM THU Sao buổi sớm đã lặn khuất mái tranh xa mờ Tiếng dế kêu trong cỏ còn chưa dứt Nửa gối gió lạnh làm đứt giấc mộng Đầy sân lá rụng báo tin đã cuối thu Người đời có nước mắt nên nhiều cuộc chia ly kẻ Nam người Bắc Trời đất xưa nay vốn không có tình Mấy lần thương nhớ nhau làm đứt thi hứng Nỗi nhớ nơi quán khách da diết ngâm không thành tiếng. Dịch thơ: Sao mai lặn khuất mái tranh nhòa Trong cỏ còn nghe dế rên la Nửa gối gió lùa, cơn mộng dứt Đầy sân lá rụng, tiết thu qua Đời người lắm lệ nhiều ly biệt Trời đất không tình chẳng xót xa Tương tư mấy độ ngăn thi hứng Khách nghẹn lời ngâm lúc nhớ nhà. * * * 山村即事
惨径残红雨后多
狂风犹绕未归鸦
白头野老无春思
日暮门前扫落花
SƠN THÔN TỨC SỰ Thảm kỉnh tàn hồng vũ hậu đa Cuồng phong du nhiễu vị quy nha Bạch đầu dã lão vô xuân tứ Nhật mộ môn tiền tảo lạc hoa Dịch nghĩa: GHI CHÉP Ở XÓM NÚI Sau cơn mưa, trên đường quanh có nhiều hoa rụng Gió bão quần đảo, quạ chưa về tổ Cụ già nhà quê bạc đầu không còn để ý mùa xuân. Chiều tối quét hoa rụng trước cổng Dịch thơ: Sau mưa tơi tả những cánh hoa Quạ chưa về tổ bởi phong ba Đầu bạc chốn quê xuân hờ hững Chiều quét hoa rơi trước cửa nhà. * * * 江村即事
嫩潮半落晓风微
个个沙鸥向背飞
江上天归何处所
寒烟冷雨一褪衣
GIANG THÔN TỨC SỰ Nỗn triều bán lạc hiểu phong vi Cá cá sa âu hướng bối phi Giang thượng thiên quy hà xứ sở Hàn yên lãnh vũ nhất thôi y Dịch nghĩa: GHI CHÉP Ở LÀNG VEN SÔNG Nước triều rút một nửa, gió sớm thổi nhẹ Từng con chim âu cát nối sau lưng nhau bay đi Trên sông, trời về nơi nào? Chỉ một chiếc áo tơi trong khói sương lạnh, mưa lạnh. Dịch thơ: Gió sớm hiu hiu nước triều lùi Đàn âu tung cánh nối dài đuôi Sông rộng phương trời nơi đâu nhỉ? Mưa móc lạnh lùng chiếc áo tơi. * * * 江村晓发
鸡声何处是渔家
烟水茫茫月影斜
一阵荻花秋万里
白鸥初见壤平沙
GIANG THÔN HIỂU PHÁT Kê thanh hà xứ thị ngư gia Yên thủy mang mang nguyệt ảnh tà Nhất trận địch hoa thu vạn lý Bạch âu sơ kiến nhưỡng bình sa Dịch nghĩa: SÁNG SỚM LÀNG BÊN SÔNG Tiếng gà gáy nơi đâu là nhà chài lưới? Màn sương như khói nước mênh mông dưới bóng trăng xế Một cơn gió thổi hoa lau, mùa thu muôn dặm Mới thấy đàn âu trắng lác đác trên bãi cát bằng Dịch thơ: Làng cá đâu đây vẳng tiếng gà Trăng tà, khói nước phủ bao la Lộng gió hoa lau, thu vạn dặm Đàn âu điểm trắng bãi phù sa. * * * 顺化城即事
舟楫
东西往复回
虹桥横处水门开
云连山色天边去
风卷涛声海上来
晚市绮罗
人会合
夜船丝竹月徘徊
歌儿不管江南怨
时有横吹唱落梅
THUẬN HÓA THÀNH TỨC SỰ Châu chấp đông tây vãng phục hồi Hồng kiều hoành xứ thủy môn khai Vân liên sơn sắc thiên biên khứ Phong quyện đào thanh hải thượng lai Vãn thị ỷ la nhân hội hiệp Dạ thuyền ty trúc nguyệt bồi hồi Ca nhi bất quản Giang Nam oán Thời hữu hoành xuy xướng lạc mai Dịch nghĩa: GHI CHÉP Ở THÀNH THUẬN HÓA Thuyền bè đông tây tấp nập qua lại Cầu vồng vươn rộng ngang qua cửa sông Màu mây màu núi liền nhau đến tận chân trời Gió quyện tiếng sóng từ mặt biển tới Chợ chiều người mặc lụa là đến hội họp Thuyền đêm tiếng trúc tơ làm trăng phải bồi hồi Bọn đào hát bất chấp nỗi hận Giang Nam Có lúc cầm ngang ống sáo thổi khúc Lạc mai Dịch thơ: Thuyền bè tấp nập chạy ngược xuôi Cầu vồng cửa bến vắt ngang trời Tít tắp núi đồi chân mây biếc Rì rào sóng gió mặt biển khơi Chợ họp lụa là người xúng xính Trăng nghe tơ trúc dáng bồi hồi Mối hận Giang Nam, nào biết đến Lạc mai, đào kép cứ thổi chơi. Chú thích: - Thuận Hóa: Tức Thừa Thiên – Huế. - Nỗi hận Giang Nam: Theo câu thơ của Văn Thiên Tường thời Tống “ Tùng kim biệt khước Giang Nam lộ- Hoán tác đề quyên đới huyết quy” (Từ nay từ biệt hằn đường Giang Nam, hóa làm chim cuốc mang máu hận mà về). - Khúc Lạc mai: Tên một khúc nhạc buồn “Lạc mai hoa”. Thơ Lý Bạch có câu: “Hoàng Hạc lâu trung xuy ngọc địch Giang thành ngũ nguyệt lạc mai hoa” (Trong lầu Hoàng Hạc nghe tiếng sáo ngọc thổi Điệu Lạc mai hoa vào tháng năm trên đất Giang Thành) . Hai câu cuối mang ẩn ý chê trách bọn người mất nước chỉ biết thú vui trước mắt, không biết nhục mất nước. * * * 黄江即景
安波江上浩无穷
万里乾坤醉眼中
照野灯明家远近
漫天潮涨水西东
莩霞影里孤舟月
鸥鹭沙边一笛风
客枕夜深方就睡
三更飞梦到天宫
HOÀNG GIANG TỨC CẢNH An ba giang thượng hạo vô cùng Vạn lý càn khôn túy nhãn trung Chiếu dã đăng minh gia viễn cận Mạn thiên trào trướng thủy tây đông Phu hà ảnh lý cô châu nguyệt Âu lộ sa biên nhất địch phong Khách chẩm dạ thâm phương tựu thụy Tam canh phi mộng đáo thiên cung. Dịch nghĩa: VỊNH CẢNH SÔNG HOÀNG Sóng yên trên sông nhìn rộng vô cùng Mắt say sưa nhìn đất trời vạn dặm Vùng quê đèn sáng nhà nhà xa gần Đầy trời nước thủy triều dâng khắp đông tây Trong bóng lau lách trăng soi con thuyền đơn độc Bên bãi cò le gió đưa tiếng sáo lẻ loi Đêm khuya trên gối khách vừa chợp ngủ Giấc mộng lúc canh ba bay đến tận cung trời. Dịch thơ: Sóng lặng mặt sông trải mênh mông Ngắm say trời đất rộng muôn trùng Vùng quê lấp lánh nhà đèn sáng Trời biển bao la nước triều dâng Bờ sậy con thuyền đầy bóng nguyệt Bãi cò tiếng sáo vút tầng không Đêm khuya trên gối vừa chợp mắt Giấc mộng canh chầy đến thiên cung. Chú thích: - Hoàng giang: Đoạn sông Hồng qua tỉnh Hà Nam * * * 黄江即事
茅舍人烟里
孤舟小泊时
村童三四辈
沿水觅蟛蜞
HOÀNG GIANG TỨC SỰ Mao xá nhân yên lý Cô châu tiểu bạc thì Thôn đồng tam tứ bối Duyên thủy mạch bành kỳ Dịch nghĩa: Ở nơi khói bếp nhà tranh Lúc chiếc thuyền lẻ loi ghé vào chốc lát Trẻ em nhà quê ba bốn đưa Tìm bắt cáy ven bờ nước Dịch thơ: Ghi
CHÉP Ở SÔNG HOÀNG Mái tranh khói tỏa bềnh bồng Thuyền ai chợt ghé bến sông lúc này Dăm ba dứa trẻ thơ ngây Mò cua băt cáy ở ngay ven bờ * * * 晚至绰津感成
夕阳江上北风寒
底事伤心可永叹
村为年荒民少在
田因雨啬水多酸
烟斜刺野龙须起
云影翻空凤
尾幡
俯仰忽逢三四皓
问与何日到长安
VÃN CHÍ TRIỀU TÂN CẢM THÀNH Tịch dương giang thượng bắc phong hàn Để sự thương tâm khả vĩnh than Thôn vị niên hoang dân thiểu tại Điền nhân vũ sắc thủy đa toan Yên tà thích dã long tu khởi Vân ảnh phiên không phượng vĩ phan Phủ ngưỡng hốt phùng tam tứ hạo Vấn dư hà nhật đáo Trường An Dịch nghĩa: XÚC CẢM KHI ĐẾN TRIỀU TÂN BUỔI CHIỀU Bóng chiều tà xuống trên sông, gió bắc thổi lạnh Nhiều việc đau lòng cứ than dài mãi Thôn xóm vì phải năm mất mùa nên dân còn lại thưa thớt Ruộng đồng không mưa nên khô hạn nặng Khói tỏa la đà trên đồng như râu rồng Bóng mây vần trên không như đuôi chim phượng Chợt gặp ba bốn ông già hết ngẩng đầu lại cuí xuống Hỏi ta rằng : Ngày nào đến Trường An Dịch thơ: Chiều tà gió bấc lạnh bến sông Thở dài than ngắn chuyện đau lòng Đói gạo lưa thưa người thôn xóm Không mưa khô khốc đất ruộng đồng Mây trắng mỏng manh hình đuôi phượng Khói lam lãng đãng dáng râu rồng Mấy cụ chợt nhìn, đầu lại cúi Hỏi Trường An ấy, sớm về không? Chú thích: - Triều Tân: Chưa rõ thuộc nơi nào hiện nay - Trường An: Chỉ kinh đô. Hai câu cuối cho thấy tác giả từ kinh đô đến Triều Tân có việc quan. Các cụ già hỏi khi nào trở về kinh đô là muốn nhờ tâu trình hoàn cảnh mất mùa để mong được cứu giúp. * * * 昭君
出塞
南来程尽北来程
南北那堪涨别情
万里汉天花有泪
百年胡地马无声
一团罗绮伤春老
几曲琵琶诉月明
吩咐君王安枕席
愁城一片是长城。
CHIÊU QUÂN XUẤT TÁI Nam lai trình tận Bắc lai trình Nam Bắc na kham trướng biệt tình Vạn lý Hán thiên hoa hữu lệ Bách niên Hồ địa mã vô thanh Nhất đoàn la ỷ thương xuân lão Kỷ khúc tỳ bà tố nguyệt minh Phân phú quân vương an chẩm thượng Sầu thành nhất phiếm thị trường thành Dịch nghĩa: CHIÊU QUÂN QUA ẢI Chặng đường từ miền Nam đến đã hết, sang chặng lên miền Bắc Làm sao chịu đựng nổi nỗi buồn ly biệt Nam Bắc Trời Hán muôn dặm hoa có nước mắt Đất Hồ trăm năm ngựa không còn hý nữa Một đoàn gấm vóc xót thương cảnh già nua của mùa xuân Mấy khúc tỳ bà kêu than cùng ánh trăng sáng Nhắn nhủ nhà vua ngủ yên trên gối Một mảnh thành xây bằng nỗi sầu, đó chính là bức trường thành chặn giặc. Dịch thơ: Hết Nam lên Bắc bấy xa xăm Nỗi đau ly biệt dạ khó cầm Trời Hán lệ hoa tuôn vạn dặm Đất Hồ ngựa chiến lặng trăm năm Gấm vóc đầy thân thương xuân héo Tỳ bà mấy khúc khóc trăng rằm Nhắn nhủ quân vương đang yên giấc Thành sầu chặn giặc hỏi ai cam? Chú thích: Chiêu Quân là cung nữ đẹp nổi tiếng thời Hán Nguyên Đế (48 – 33 tr.CN) . Khi vua Hung Nô phương Bắc đòi mỹ nhân, để giữ yên bờ cõi, Hán Nguyên Đế phải đưa Chiêu Quân cống nạp sang đất Hồ. * * * 老妓吟
雨态云情
损少年
红装翠抹不成颜
落花庭院慵开镜
明月池塘亿采莲
金屋却惭新窈窕
青楼汪信旧婵娟
觉来唯有游仙枕
犹目分他一半眠
LÃO KỸ NGÂM Vũ thái vân tình tổn thiếu niên Hồng trang thúy mạc bất thành nghiên Lạc hoa đình viện dung khai cảnh Minh nguyệt trì đường ức thái liên Kim ốc khước tàm tân yểu điệu Thanh lâu uổng tín cựu thuyền quyên Giác lai duy hữu du tiên chẩm Do mục phân tha nhất bán miên Dịch nghĩa: KHÚC NGÂM NGƯỜI KỸ NỮ GIÀ Tình mây mưa làm tổn hại tuổi trẻ Trang điểm xanh đỏ cũng không đẹp thêm được nữa Nơi đình viện thấy hoa rụng ngại mở gương soi Trên ao hồ nhìn trăng sáng nhớ lúc hái sen Nơi nhà vàng lại thấy thẹn cùng người yểu điệu trẻ trung Không tin nổi mình trước kia là thuyền quyên nơi lầu xanh Nhớ lại chỉ có chiếc gối du tiên Còn có thể nhắm mắt chia sẻ cùng người nửa giấc. Dịch thơ: Mây ám mưa vùi cả thời xuân Đỏ xanh trang điểm chẳng thêm phần Hoa rơi trước cửa, quên gương lược Trăng sáng trên ao, nhớ sen đầm Nhà vàng thẹn sánh người xuân sắc Lầu xanh tiếc nuối thủa giai nhân Đến với cảnh tiên còn chiếc gối Chợp mắt xa đi cõi bụi trần. Chú thích: - Vân vũ (mây mưa): Theo tích xưa, vua Sở Tương vương đi chơi núi Vu Sơn, nằm ngủ ở quán Cao Đường, nằm mơ thấy một người con gái đẹp đến ngủ chung, tự xưng là nữ thần núi Vu Sơn, sớm làm mây tối làm mưa. Vì vậy quan hệ trai gái gọi là “ mây mưa”. - Thái liên ( hái sen): Theo tên bài hát cổ “Thái liên tử” là bài gái lầu xanh thường hát mua vui cho khách làng chơi, có câu : Hãm diệm hương liên thập khoảng bi Tiểu cô tham hý thái liên trì (Hoa sen ngào ngạt mười khoảnh ruộng Cô bé ham vui hái sen về nhà chậm) Câu thơ mang ý nghĩa: Nhìn trăng sáng trên ao hồ lại nhớ lúc trẻ trung cùng khách bơi thuyền đi hái sen mua vui; cũng có thể hiểu là nhìn trăng sáng trên ao lại nhớ bài hát “Thái liên tử”. - Du tiên chẩm (gối du tiên): Nước chư hầu Quy Tư dâng tặng Đường Minh Hoàng chiếc gối màu mã não, khi gối đầu ngủ thì mơ thấy đi chơi khắp cảnh tiên nên Đường Minh Hoàng gọi là “gối du tiên”. Câu thơ ý nói: có chăng chỉ còn thấy vui trong mơ, không còn trong đời thực. * * * 蛩声
九秋风露正凄凄
如此谁悲作意啼
唧唧已应鸣月砌
吆吆还自绕霜闺
愁来旅舍成孤起
老去宫妆怨独妻
多感更堪欧氏子
吟窗坐到玉绳低
CÙNG THANH Cửu thu phong lộ chính thê thê Như thử thùy bi tác ý đề? Tức tức dĩ ưng minh nguyệt xế Yêu yêu hoàn tự nhiễu sương khuê Sầu lai lữ xá thành cô khởi Lão khứ cung trang oán độc thê Đa cảm cánh kham Âu thị tử Ngâm song tọa đáo ngọc thằng đê Dịch nghĩa: TIẾNG DẾ Tháng chín mùa thu sương gió đang lúc lạnh lẽo Tạo ra tiếng kêu như thế là để dành cho nỗi buồn của ai? Tiếng rỉ rả đã đến bên thềm có ánh trăng Giọng nỉ non đã trở lại xung quanh phòng khuê đầy hơi sương Nỗi buồn đến với người nơi quán khách ngủ dậy một mình Tuổi già đến với cung nữ xinh đẹp oán cảnh cô đơn Càng thương cảm nhiều với ông Âu Dương Tu Ngồi ngâm thơ cạnh cửa sổ đến khi ngôi sao Ngọc thằng xuống thấp Dịch thơ: Cuối thu sương gió lạnh tái tê Khúc hát cho ai bấy não nề! Trăng lên rên rỉ bên thềm vắng Sương xuống nỉ non cạnh phòng khuê Than thân cô quả cơn sầu đến Oán phận cung phi tuổi già về Càng xót thương thêm Âu Vĩnh Thúc Sao lặn thơ buồn vịnh ai nghe! Chú thích: - Nguyệt xế (thềm có ánh trăng) : Thềm vắng người, chỉ có ánh trăng soi. - Sương khuê (phòng con gái đầy hơi sương): Chỉ cảnh phòng cung nữ cô đơn lạnh lẽo. - Âu thị tử: Tức Âu Dương Tu, tên chữ là Vĩnh Thúc, một nhà thơ danh tiếng đời Tống. - Sao Ngọc thằng: Tên nhóm sao lặn hướng tây lúc trời sắp sáng
* * * 绿珠坠楼
婉转
蛾眉曙晓妆
楼前效死扺堪伤
月沉易失当天影
花落难留朴地香
金谷园寒春寂寞
玉箫声断夜凄凉
齐奴
若识亡家祸
应为明珠赎孟光。
LỤC CHÂU TRỤY LÂU Uyển chuyển nga my thự hiểu trang Lâu tiền hiệu tử chỉ kham thương Nguyệt trầm dị thất đương thiên ảnh Hoa lạc nan lưu phác địa hương Kim cốc viên hàn xuân tịch mịch Ngọc tiêu thanh đoạn dạ thê lương Tề Nô nhược thức vong gia họa Ưng bả minh châu thục Mạnh Quang Dịch nghĩa: NÀNG LỤC CHÂU NHẢY LẦU Mày ngài mềm mại vừa trang điểm sáng sớm Đã thấy chết trước lầu thật thảm thương Mặt trăng chìm rồi dễ mất hình ảnh đẹp tự nhiên trời cho Đóa hoa rụng xuống khó giữ lại mùi hương mộc mạc của đất Vườn Kim Cốc lạnh lẽo, mùa xuân tiêu điều Tiếng sáo tiêu bằng ngọc đứt tiếng, ban đêm thật thê lương Tề Nô nếu biết được tai họa tan cửa nát nhà Thì đã đưa ngọc minh châu mua nàng Mạnh Quang làm vợ. Dịch thơ: Mày ngài trang điểm sớm còn tươi Lầu tía thương thay đã lìa đời Hoa rụng đâu còn thơm hương đất Trăng đi thôi mất đẹp sắc trời Kim cốc vườn tàn, xuân lạnh lẽo Ngọc tiêu tiếng đứt, tối đơn côi Tề Nô nếu biết nhà tai họa Ngọc đổi Mạnh Quang nết tuyệt vời. Chú thích: - Nàng Lục Châu là một tuyệt thế giai nhân, lại giỏi âm nhạc, là vợ Thạch Sùng (hiệu là Tề Nô), đời Tây Tấn. Thạch Sùng thông minh, giàu sang, làm thứ sử Kinh Châu, có dinh thự ở lũng Kim Cốc nguy nga tráng lệ , thường là nơi cùng Lục Châu vui chơi. Tướng quóc Tư Mã Luân muốn cướp Lục Châu bèn tâu vua vu cho Thạch Sùng có ý làm phản. Lục Châu biết vì mình mà chống bị hại bèn nhảy lầu tự tử để trọn đạo thủy chung, giữ danh tiết. - Mạnh Quang: Vợ Lương Hồng đời Hán Minh Đế. Lương Hồng có tài nhưng không ra làm quan. Mạnh Quang tuy không đẹp nhưng nổi tiếng là người đức độ, rất mực kính trọng chồng. Khi đưa gì cho chồng đều dâng lên ngang lông mày (cử án đề mi). Câu kết bài thơ có ý: Nếu biết sắc đẹp dễ đem đến tai họa thì đã mang châu báu cưới người như Mạnh Quang làm vợ. * * * 子规枝上月三更
碧天如水夜漫漫
杜宇声中月色澜
灯暗几家人正寂
酒醒孤馆客初寒
关河往事伤心易
故国多情入梦难
此外若非歌舞席
阿谁倚得
玉栏杆
TỬ QUY CHI THƯỢNG NGUYỆT TAM CANH Bích thiên như thủy dạ man man Đỗ vũ thanh trung nguyệt sắc lan Đăng ám kỷ gia nhân chính tịch Tửu tinh cô quán khách sơ hàn Quan hà vãng sự thương tâm dị Cố quốc đa tình nhập mộng nan Thử ngoại nhược phi ca vũ tịch A thùy ỷ đắc ngọc lan can. Dịch nghĩa: ĐÊM TRĂNG CANH BA CUỐC KÊU TRÊN CÀNH Trời xanh biếc trong đêm như nước mênh mông Trong tiếng cuốc, ánh trăng lai láng Mấy nhà đèn tối, mọi người đều yên lặng Quán lẻ loi tỉnh rượu khách thấy chớm lạnh Chuyện cũ nơi ải sông cách trở dễ làm cho người ta đau lòng Tình sâu với đất nước thủa xưa khó vào trong mộng Ngoài những kẻ nơi chiếc chiếu ca múa Còn ai mà được tựa lan can ngọc. Dịch thơ: Trời đêm như nước biếc mênh mang Tiếng cuốc rơi trong ánh trăng vàng Mấy nhà đèn tắt người yên giấc Một quán rượu vơi khách lạnh lòng Chuyện cũ quan hà thêm não nuột Tình xưa cố quốc khó mơ màng Nếu không biết chiếu đêm ca múa Nào ai tựa nổi ngọc lan can? Chú thích: - Quan hà: Cửa ải và sông, thường chỉ sự xa cách - Cố quốc: Nước cũ, chỉ thời thịnh trị xa xưa. - Ca vũ tịch: Chiếu ca múa; ý nói kẻ tầm thường chỉ biết mua vui, phụng sự cá nhân bề trên. * * * 送杜明府
忆昔西湖我与君
轻衫小扇共游春
秋千庭院花迎鸟
歌管楼台月照人
风雨一朝生别恨
江山两处限通津
可怜今日重回头
肠断丁洲但白频
TỐNG ĐỖ MINH PHỦ Ức tích Tây Hồ ngã dữ quân Khinh sam tiểu phiến cộng du xuân Thu thiên đình viện hoa nghênh điểu Ca quản lâu đài nguyệt chiếu nhân Phong vũ nhất triêu sinh biệt hận Giang sơn lưỡng xứ hạn thông tân Khả linh kim nhật trùng hồi thủ Trường đoạn Đinh Châu đản Bạch Tần Dịch nghĩa: TIỄN ĐƯA ĐỖ MINH PHỦ Nhớ thủa tôi cùng bạn ở Tây Hồ Áo mỏng, quạt con cùng đi du xuân Nơi đình viện có treo đu tiên, hoa đón chim Tại lâu đài có đàn hát, trăng soi xuống người Chỉ một sớm gió mưa mà gây nên cảnh ly biệt Núi sông đôi ngả ngăn cách nhau Đáng thương thay, hôm nay cùng ngoảnh đầu nhìn lại Nơi Đinh Châu xót xa đứt ruột chỉ có rau bạch tần Dịch thơ: Nhớ thủa Tây Hồ đôi bạn thân Áo the quạt nhỏ sánh du xuân Chim hót hoa cười sân đu rộng Lầu vui người hát ánh trăng ngần Một cơn mưa gíó đành xa cách Đôi ngả non sông hết lại gần Thương cảnh ngoảnh đầu cùng nhìn lại Đau xót Đinh Châu ngọn bạch tần. * * * 送别
禁树莺声晓
江风燕子斜
胜游新夏景
归兴故园花
TỐNG BIỆT Cấm thụ oanh thanh hiểu Giang phong yến tử tà Thắng du tân hạ cảnh Quy hứng cố viên hoa Dịch nghĩa: TIỄN BIỆT Nơi vườn ngự uyển tiếng oanh hót buổi sớm Én bay liệng theo làn gió trên sông Du ngoạn ngày xuân ngắm cảnh đẹp Trở về thưởng thức hoa vườn cũ Dịch thơ: Vườn vua oanh hót ban mai Gió nâng cánh én liệng ngoài bãi sông Du xuân ngàn tía muôn hồng Nhớ hoa vườn cũ bâng khuâng lại về. * * * 罗江偶成
风月醉人江上去
薄书迟我夜中眠
五更欲放归来梦
何处一声啼杜鹃
LA GIANG NGẪU THÀNH Phong nguyệt túy nhân giang thượng khứ Bộ thư trì ngã dạ trung miên Ngũ canh dục phóng quy lai mộng Hà xứ nhất thanh đề đỗ quyên Dịch nghĩa: NGẪU HỨNG SÔNG LA Trăng gió làm say người, đã đi qua trên sông Công việc sổ sách làm chậm giấc ngủ của ta Năm canh muốn thả giấc mộng về nhà Từ đâu vọng đến một tiếng cuốc kêu. Dịch thơ: Sông tràn trăng gió để người say Sổ sách chưa xong giấc chẳng đầy Năm canh muốn mộng về quê cũ Vẳng nghe tiếng cuốc gọi đâu đây * * * 墨洞桥
溪边一带板桥横
篱落人家旁去程
浮月疏疏山竹影
吟风细细野弹声
潮咸水似盐中出
岸转帆如地上行
沙戏蟛蜞无胆略
忽逢客过便相惊
MẶC ĐỘNG KIỀU Khê biên nhất đới bản kiều hoành Ly lạc nhân gia bảng khứ trình Phù nguyệt sơ sơ sơn trúc ảnh Ngâm phong tế tế dã đàn thanh Trào hàm thủy tự diêm trung xuất Ngạn chuyển phàm như địa thượng hành Sa hý bành kỳ vô đảm lược Hốt phùng khách quá tiện tương kinh Dịch nghĩa: CẦU MẶC ĐỘNG Một chiếc cầu ván bắc qua con suối Gần con đường men theo bờ dậu nhà ai đó Bóng trăng nổi (trên mặt nước) lấp loáng cùng bóng trúc núi Gió nhẹ rì rào mang theo tiếng đàn thôn dã Triều dâng nước như đưa muối bên trong Thuyền buồm chuyển động bên bờ tưởng như lướt trên mặt đất Đàn cáy nhút nhát đùa trên cát Gặp người đi qua là hốt hoảng sợ hãi. Dịch thơ: Chênh vênh cầu ván bắc qua khe Bên dậu nhà ai ngõ đi về Lấp loáng hình trăng, hình trúc núi Dặt dìu tiếng gió, tiếng đàn quê Nước mặn ngỡ triều mang muối biển Buồm dong tưởng đất có thuyền bè Lũ cáy nhát gan đùa bãi cát Gặp ai tan tác chạy tứ bề. * * * 闷江
平浦乘潮上
农民趁晓耕
喝牛飞白鸟
风外两三声
MUỘN GIANG Bình phố thừa triều thượng Nông dân sấn hiểu canh Hát ngưu phi bạch điểu Phong ngoại lưỡng tam thanh Dịch nghĩa: TRÊN SÔNG MUỘN Bãi phẳng nhân lú
c nước lê
n Nông dân tranh thủ cà
y sớm Tiếng giục trâu là
m cho cò
trắng sợ bay đi Và
i ba tiếng cò
cò
n thoảng theo ngoà
i gió
Dịch thơ: Nhân nước lên ngập bãi Nhà nông vội sớm cày Giục trâu, cò nháo nhác Tiếng kêu gió thoảng bay. * * * 早起
三千客梦曲肱馀
一辩清香数卷书
院宇蛩声霜落后
池塘梅影月斜初
灯前宾主留残夜
分外功名付太虚
村北村南鸡屋屋
仰瞻星斗正朝裾
TẢO KHỞI Tam thiên khách mộng khúc quãng dư Nhất biện thanh hương sổ quyển thư Viện vũ cùng thanh sương lạc hậu Trì đường mai ảnh nguyệt tà sơ Đăng tiền tân chủ lưu tàn dạ Phận ngoại công danh phú thái hư Thôn bắc thôn nam kê ốc ốc Ngưỡng chiêm tinh đẩu chánh triêu cư Dịch nghĩa: DẬY SỚM Giấc mộng của người khách trong cõi ba nghìn thế giới (theo giáo lý nhà Phật) còn vương lại trên gối cánh tay co. Thấy rõ mùi hương ngát trong bay ra từ mấy quyển sách Tiếng dế kêu nơi hiên sảnh sau khi sương đã rơi Bóng hoa mai dọi xuống ao hồ cùng ánh trăng tà Trước đèn, chủ cùng khách còn lưu luyến trong đêm tàn. Thân phận ngoài vòng công danh, phó mặc cho trời. Tiếng gà gáy o o thôn nam thôn bắc Ngửa mặt nhìn sao, đúng lúc trời rạng sáng. Dịch thơ: Gối tay vương mộng cõi ba ngàn Phảng phất thư phòng hương tỏa lan Dế gọi cửa thềm khi sương xuống Mai soi hồ nước lúc trăng tàn Chủ khách trước đèn, tình chưa dứt Công danh ngoài phận, ý chẳng ham Thôn Bắc thôn Nam gà gáy sáng Bình minh thức dậy, ánh sao tàn. * * * 初春
三冬过了一春归
做暖
东风放放吹
冰雪冻
痕铺水面
乾坤生意上林枝
柳还旧绿鹦犹静
桃试新红蝶未知
日暮乡贯回首望
草心游子不胜悲
SƠ XUÂN Tam đông quá liễu nhất xuân quy Tác noãn đông phong phóng phóng xuy Băng tuyết đông ngân phô thủy diện Càn khôn sinh ý thượng lâm chi Liễu hoàn cựu lục oanh du tĩnh Đào thí tân hồng điệp vị tri Nhật mộ hương quán hồi thủ vọng Thảo tâm du tử bất thắng bi Dịch nghĩa : ĐẦU XUÂN Ba tháng mùa đông đã qua đi, một mùa xuân lại về Gió đông đem hơi ấm nhè nhẹ thổi Dấu vết băng tuyết đọng phô bày trên mặt nước Ý của đất trời gửi gắm trên nhánh cây rừng Liễu trở lại màu xanh cũ, con oanh còn im tiếng Đào thử màu hồng mới, con bướm chưa hay biết Trời tối, ngoảnh đầu trông về quê cũ Lòng người con nơi xa buồn thương vô cùng Dịch thơ: Đông qua, xuân mới đã lại về Gió tràn hơi ấm khắp làng quê Nước phô băng tuyết tan lặng lẽ Chồi ẩn càn khôn sức tràn trề Liễu lại thắm xanh, oanh lặng hót Đào vừa hé đỏ, bướm chưa về Trời tối, ngoảnh đầu nhìn quê cũ Nỗi nhớ niềm thương bấy não nề . * * * 早行
起来天未晓
江月遇人行
蝴蝶梦中影
杜鹃花外声
低云连野馆
孤火隔江城
前到花林市
天山终始鸣
TẢO HÀNH Khởi lai thiên vị hiểu Giang nguyệt ngộ nhân hành Hồ điệp mộng trung cảnh Đỗ quyên hoa ngoại thanh Đê vân liên dã quán Cô hỏa cách giang thành Tiền đáo Hoa Lâm thị Thiên san chung thủy minh. Dịch nghĩa: ĐI SỚM Ra đi trời chưa hửng sáng Trăng trên sông gặp người đi Cảnh có trong mộng bướm Tiếng cuốc bên ngoài hoa Mây bay thấp liền với quán đồng quê Đèn lẻ loi cách xa thành bên sông Đến chợ Ha Lâm trước Chuông chùa Thiên Sơn bắt đầu vang. Dịch thơ: Khởi hành trời chưa rạng Dòng trăng bên bóng thuyền Cảnh lung linh mộng bướm Hoa phảng phất tiếng quyên Mây la đà quán vắng Sông le lói ánh đèn Chợ Hoa Lâm đến trước Chuông Thiên Sơn ngân rền. Chú thích: - Hoa Lâm, Thiên Sơn: địa danh, chưa rõ nơi nào hiện nay * * * 春烟晓望
天际空蒙月落时
斜笼花影度林枝
渐从日上轻轻散
分付春愁与柳眉
XUÂN YÊN HIỂU VỌNG Thiên tế không mông nguyệt lạc thì Tà lung hoa ảnh độ lâm chi Tiệm tùng nhật thượng khinh khinh tán Phân phú xuân sầu dữ liễu mi Dịch nghĩa: NHÌN KHÓI SƯƠNG XUÂN BUỔI SỚM Chân trời mênh mông mờ mờ khi trăng lặn Trùm nghiêng lên bóng hoa, qua cành cây rừng Mặt trời dần dần nhô lên, bóng tối tan nhè nhẹ Đưa sang mày liễu nỗi buồn mùa xuân Dịch thơ: Trăng lặn chân trời mịt mờ xa Chếch bóng rừng hoa chút ánh tà Nhè nhẹ dần tan, vầng dương mọc Gửi sầu mày liễu sắc xuân qua * * * 春夜
重重帘影月斜移
刺绣无人语夜迟
枕上梦魂谁唤醒
杜鹃春在百花枝
XUÂN DẠ Trùng trùng liêm ảnh nguyệt tà di Thích tú vô nhân ngữ dạ trì Chẩm thượng mộng hồn thuỳ hoán tỉnh Đỗ quyên thanh tại bách hoa chi Dịch nghĩa: ĐÊM XUÂN Lớp lớp bóng rèm lay động theo ánh trăng tà Đêm khuya không có ai cùng trò chuyện với người thêu gấm Mộng hồn ở trên gối, ai đánh thức ? Có tiếng chim cuốc ở nơi cành trăm hoa Dịch thơ: Trăng xế in muôn lớp bóng rèm Gấm thêu lặng lẽ giữa trời đêm Gối trĩu hồn mơ, ai gọi tỉnh? Một nhánh trăm hoa vọng tiếng quyên. * * * 伤春
水流东逝日西奔
九十韶光几
见存
雨暗云埋芳草渡
莺愁燕惨落花村
浮生易悟南华梦
乐事谁同北海樽
江上不堪回首望
烟波渺渺又黄昏
THƯƠNG XUÂN Thủy lưu đông thệ nhật tây bôn Cửu thập thiều quang kỷ kiến tồn Vũ ám vân mai phương thảo độ Oanh sầu yến thảm lạc hoa thôn Phù sinh dị ngộ Nam Hoa mộng Lạc sự thùy đồng Bắc Hải tôn Giang thượng bất kham hồi thủ vọng Yên ba diếu diếu hựu hoàng hôn Dịch nghĩa: THƯƠNG XUÂN Nước chảy xuôi về đông, mặt trời chạy về tây Chín chục thiều quang (thời thanh xuân) còn được bao lâu nữa? Mưa và mây u ám bến đò cỏ thơm Yến oanh sầu thảm nơi thôn xóm hoa rụng Sống phù phiếm dễ lầm giấc mộng của Nam Hoa Cảnh vui khó ai bằng được Bắc Hải Trên sông ngoảnh đầu lại lòng buồn không chịu nổi Khói sóng mờ mờ rồi trời chạng vạng tối Dịch thơ: Mặt trời cứ lặn, nước cứ xuôi Xuân xanh thấm thoắt sắp qua rồi Mưa ám mây che bờ cỏ ngát Oanh buồn yến thảm xóm hoa rơi Giấc mộng Nam Hoa, phù phiếm thế ! Chén vui Bắc Hải, lẫn lầm thôi ! Trên sông nhìn lại lòng đau quặn Mịt mù khói sóng tối tăm trời. Chú thích: - Nam Hoa mộng: Giấc mộng Nam Hoa. Theo sách Nam Hoa của Trang Chu: Trang Chu mơ thấy mình hóa bướm, khi tỉnh ngỡ ngàng không biết mình nằm mơ hóa bướm hay bướm mộng hoá ra mình. - Bắc Hải tôn: Chén rượu của Bắc Hải, tên hiệu của Khổng Dung, thời Hậu Hán, tính hào hoa, luôn đông khách, chén rượu không mấy lúc trống không. * * * 春感
乾始坤
生共到头
丝毫未报我心愁
梅花十二
楼台梦
草色三千
世界愁
鬓雪东风吹不散
泪珠夜雨滴空流
此身此日将何似
浩浩
长江泛泛舟
XUÂN CẢM Càn thủy khôn sinh cộng đáo đầu Ty hào vị báo ngã tâm ưu Mai hoa thập nhị lâu đài mộng Thảo sắc tam thiên thế giới sầu Mấn tuyết đông phong xuy bất tán Lụy châu dạ vũ trích không lưu Thử thân thử nhật tương hà tự Hạo hạo trường giang biếm biếm châu Dịch nghĩa: CẢM XÚC MÙA XUÂN Từ khi trời đất sinh ra cho tới nay Chưa hề báo đáp được (công ơn cha mẹ)- điều ta phiền muộn Mười hai tầng lầu chỉ là giấc mộng dưới gốc cây hoa mai Ba nghìn thế giới sắc cỏ xanh vẫn đầy sầu muộn Tóc trắng như tuyết, gió đông thổi không tan Nước mắt như mưa đêm chảy mãi Thân này ngày này cứ như vậy hay sao? Sông dài mênh mông, thuyền cứ lênh đênh vô định. Dịch thơ: Trời đất sinh ra đến bây giờ Ơn dày chưa trả, những buồn lo Lâu đài hoa lệ đều ảo mộng Thế giới xanh rờn chỉ ước mơ Gió chẳng thổi tan đầu điểm tuyết Lệ cứ tuôn trào mắt sa mưa Thân sống vật vờ theo ngày tháng Thuyền cứ lênh đênh chẳng bến bờ. Chú thích: - Càn khôn: Quẻ càn, quẻ khôn trong kinh dịch, chỉ trời đất, cha mẹ. - Tam thiên thế giới (ba ngàn thế giới): Theo giáo lý nhà Phật, , trong vũ trụ có ba ngàn thế giới, thế giới người ta đang sống gọi là cõi Ta bà * * * 春晚
参差
野树暮烟笼
四顾微茫夕照中
歌管楼台芳草雨
秋千庭院落花风
诗书醉我三杯酒
岁月惊人两鬓逢
云阙未应甘酯断
故乡江上见来鸿
XUÂN VÃN Sâm si dã thụ mộ yên lung Tứ cố vi mang tịch chiếu trung Ca quản lâu đài phương thảo vũ Thu thiên đình viện lạc hoa phong Thi thư túy ngã tam bôi tửu Tuế nguyệt kinh nhan lưỡng mấn bồng Vân khuyết vị ưng cam chỉ đoạn Cố hương giang thượng kiến lai hồng Dịch nghĩa: HOÀNG HÔN MÙA XUÂN Khói chiều tỏa trên cây ngoài đồng nội trông so le Bốn bề mờ ảo trong ánh hoàng hôn Tiếng ca tiếng sáo dìu dặt trong lâu đài, mưa rơi trên cỏ thơm Cây đu trong khuôn viên đánh đu, gió thổi hoa rụng Thơ phú thư pháp làm ta say cùng ba chén rượu Năm tháng làm ta kinh sợ tóc rối như cỏ bồng Chốn cửa rồng chưa đành lòng ra về vì ngọt bùi (dâng cha mẹ) bị đứt Trên sông chợt thấy con chim hồng từ quê hương bay đến Dịch thơ: Khói chiều bảng lảng ngọn cây đồng Hoàng hôn mờ ảo phủ mênh mông Mưa hát người ca vui lầu phượng Hoa rơi đu lặng vắng sân rồng Say ba chén nhỏ thơ lai láng Sợ những ngày dài tóc rối tung Ngọt bùi cửa khuyết lòng chưa thỏa Chim hồng quê mẹ thoáng trên sông. * * * 長安春暮 自信才非十八仙
長安空此歲花遷
蕭條官舍如僧舍
潦倒今年劇往年
上苑顛狂憐戲蝶
故鄉歸去負啼鵑
妻孥猶嫌時能飯
未辨囊中買酒錢
TRƯỜNG AN XUÂN MỘ
Tự tín tài phi thập bát tiên,
Trường An không thử tuế hoa thiên
Tiêu điều quan xá như tăng xá,
Lão đão kim niên kịch vãng niên.
Thượng uyển điên cuồng linh hý điệp,
Cố hương quy khứ phụ đề quyên.
Thê noa do hiểm thời năng phạn,
Vị biện nang trung mãi tửu tiền. Dịch nghĩa: CHIỀU XUÂN TRÀNG AN Tự biết tài mình không sánh được như mười tám vị tiên Nơi kinh đô để tuổi trẻ qua đi một cách vô ích Nhà quan buồn vắng như nhà của sư sãi Năm nay vất vả chẳng khác gì năm ngoái Thương con bướm say múa ham vui ở vườn thượng uyển Phụ lòng con chim cuốc gọi trở về quê cũ Ngại nỗi vợ con đang lúc phải lo cơm gạo Chưa sẵn tiền giắt lưng để mua rượu Dịch thơ: Thần tiên tài giỏi ắt hơn đây Tuổi trẻ Trường An phí tháng ngày Hiu hắt nhà quan như nhà sãi Long long năm ngoái hệt năm nay Thượng uyển bướm đùa đâu mỏi cánh Quê hương cuốc gọi chỉ nhàm tai Vợ con nheo nhóc lo cơm cháo Chưa sẵn tiền lưng để rượu say. Chú thích: - Thập bát tiên (mười tám vị tiên): Đường Thái Tông lập quán văn chương, 18 người tài cao được tuyển dụng và phong làm học sĩ, được vẽ hình và viết lời ca ngợi treo ở nơi thư phủ, đời sau gọi là “thập bát tiên”. Đến đời Tống, vua Thiên Định mở 18 phòng để các sĩ tử đến thi. Người đỗ được gọi là “Thập bát thiên tài”.
* * * 长安秋夜
捣衣何处杵丁东
客舍秋声独坐中
凉飔满庭风在树
寒光入户月当空
呜呜城上鸣哇
角
唧唧篱边诉草虫
百感攻心难自若
明朝只恐鬓成翁
TRƯỜNG AN THU DẠ Đảo y hà xứ xử đinh đông Khách xá thu thanh độc tọa trung Lương tứ mãn đình phong tại thụ Hàn quang nhập hộ nguyệt đương không Ô ô thành thượng minh oa giác Tức tức ly biên tố thảo trùng Bách cảm công tâm nan tự nhược Minh triêu chỉ khủng mấn thành ông Dịch nghĩa: ĐÊM THU TRƯỜNG AN Tiếng chày đập vải thình thịch nơi đâu Một mình trong quán trọ nghe tiếng thu Không khí mát mẻ đầy sân, gió từ cây đưa đẩy Ánh sáng lạnh lẽo lọt vào phòng, trăng treo giữa trời Trên thành tiếng tù và kêu tu tu Bên bờ rào, tiếng dế kêu ra rả Trăm cảm xúc đến trong lòng khó kìm nén Sáng mai chỉ sợ tóc đã bạc như ông già. Dịch thơ: Tiếng chày đập vải rộn đâu đây Trong quán ngồi nghe tiếng thu đầy Trăng lửng lơ trời soi lành lạnh Cây phơ phất gió thổi hây hây Trên thành văng vẳng tù rúc tiếng Bên dậu nỉ non dế gọi bầy Trăm mối tơ lòng sao bứt dứt Mai đầu bạc trắng thấy lo thay! * * * 题普吏寺
东来山欲断
复起驾寒龙
浮夜钟归海
涵秋月坠江
龙吟门外水
鹭宿雾边窗
往往敲曾梦
渔矶断笛腔
ĐỀ PHẢ LẠI TỰ Đông lai sơn dục đoạn Phục khởi giá hàn long Phù dạ chung quy hải Hàm thu nguyệt trụy giang Long ngâm môn ngoại thủy Lộ túc vụ biên song Vãng vãng xao tăng mộng Ngư cơ đoản địch xoang. Dịch nghĩa: ĐỀ THƠ Ở CHÙA PHẢ LẠI Núi chạy từ phương đông tới, tưởng như muốn dừng Lại nổi lên bên mạch nước lạnh Ban đêm tiếng chuông chùa vọng ra biển Trăng mang mùa thu rơi trên sông Rồng ngâm mình trong nước ở ngoài ngõ Cò ngủ trong sương bên cửa sổ Thường vẫn động đến tỉnh giấc ngủ của nhà sư Đó là tiếng sáo ngắn của người đánh cá ngồi trên ghềnh đá. Dịch thơ: Núi tưởng dừng, lại tiếp Hùng vĩ cạnh mạch rồng Chuông đêm ngân khắp biển Trăng thu rơi đầy sông Rồng ngâm mình trước cửa Cò ngủ sương bên song Sáo chài vang ghềnh đá Chập chờn mộng sư ông. * * * 夏日酷暑
庭院归飞卷鸟禽
午窗睡起不成吟
赫曦汗海消膏火
闪烁丹台曜制金
青樾
有情移客枕
冷泉何处涤尘襟
九嶷
欲见重华帝
一鼓南风解愠琴
HẠ NHẬT KHỐC THỬ Đình viện quy phi quyện dực cầm Ngọ song thụy khởi bất thành ngâm Hích hy hạn hải tiêu cao hỏa Thiểm thước đơn đài dược trị kim Thanh việt hữu tình di khách chẩm Lãnh tuyền hà xứ điệu trần khâm Cửu Nghi dục kiến trùng hoa đế Nhất cổ Nam phong giải uẩn cầm Dịch nghĩa: NÓNG BỨC MÙA HÈ Chim bay mỏi cánh về nơi khuôn viên Ban trưa thức dậy bên cửa sổ thầm ngâm nga Nóng toát mồ hôi đầm đìa như chảy mỡ Nóng rừng rực làm chảy kim đan trong nồi nấu thuốc Bóng râm cây xanh có tình nên rời đến gối khách Nước suối lạnh từ đâu giặt sạch áo lấm bụi Muốn thấy vua Thuấn (có hai con ngươi) ở gò Cửu Nghi Để gảy khúc Nam Phong giải cơn nóng bức bực bội Dịch thơ: Chim trở lại sân cánh rã rời Tỉnh giấc ngâm thơ chẳng thành hơi Nóng như rán mỡ mồ hôi sũng Nắng tựa nung lò thuốc đan sôi Bóng mát dịu dàng che gối khách Nước trong rười ruợi gột bụi đời Muốn tới Cửu Nghi bên vua Thuấn Nghe khúc Nam Phong được nhẹ người. Chú thích: - Trùng hoa đế (vua có hai con ngươi): Tức vua Thuấn, có tướng lạ - Cửu Nghi: Gò Cửu Nghi, tương truyền là nơi an táng vua Thuấn. - Khúc Nam Phong: Tên bài hát của vua Thuấn, còn gọi là khúc Nam Huân : Nam Phong chi huân hề Khả dĩ giải ngô dân chi uẩn hề Nam Phong chi thời hề Khả dĩ phụ ngô dân chi tài hề (Gió nam ấm áp vô ngần Dân ta trăm mối giận buồn đều nguôi Gió nam thổi đến phải thời Dân ta của cải gấp mười lần thêm) * * * 菊花
冷列秋深独耐霜
绕纵开遍旁篱光
草边日暮萤分影
竹里风寒麝进香
众艳应惭愧晚节
一生哪肯负重阳
闲中俄起陶彭泽
坐对悠然趣味长
CÚC HOA Lãnh liệt thu thâm độc nại sương Nhiễu tùng khai biến bạn ly quang Thảo biên nhật mộ hoàng phân ảnh Trúc lý phong hàn xạ tiến hương Chúng diễm ưng tàm khuy vãn tiết Nhất sinh ná khẳng phụ trùng dương Nhàn trung nga khởi Đào Bành Trạch Tọa đới du nhiên thú vị trường Dịch nghĩa: HOA CÚC Cuối thu giá rét, chịu sương một mình Quanh những đóa hoa nở rộ bên ánh sáng bờ rào Bên bờ cỏ ánh sáng đom đóm hiện rõ trong đêm Mùi xạ hương theo gió lạnh đưa đến trong khóm trúc Nhiều hoa đẹp chê cười (hoa cúc) nở muộn Suốt đời nào phụ tiết trùng dương Trong lúc nhàn nhã chợt nhớ Đào Bành Trạch Ngồi đối diện bóng mình thấy thú vị vô cùng Dịch thơ: Sương thu lạnh buốt chịu một mình Nở bừng quanh dậu ánh lung linh Đóm sáng lập lòe rìa cỏ tối Xạ thơm ngào ngạt khóm tre xanh Trăm hoa muôn sắc chê muộn nở Một tiết trùng dương đợi chung tình Thanh nhàn chợt nhớ Đào Bành Trạch Thích thú ngồi chơi ngắm bóng mình Chú thích: - Tiết trùng dương: Tiết 9-9 âm lịch, là ngày tết truyền thống của người già. - Đào Bành Trạch: Đào Tiềm, từng làm quan huyện Bành Trạch, danh nhân đời Tấn, nổi tiếng tài văn chương, sống thanh cao, chính trực, từng treo ấn từ quan vì không chịu sống luồn cúi. * * * 秋夜
碧天如水露花零
桐叶无风落满庭
望断鹊桥人独坐
一般诗思到繁星
THU DẠ Bích thiên như thuỷ lộ hoa linh Đồng diệp vô phong lạc mãn đình Vọng đoạn thước kiều nhân độc toạ Nhất ban thi tứ đáo phồn tinh Dịch nghĩa: ĐÊM THU Trời xanh biếc như mặt nước hết hoa sương Lá ngô đồng không có gió mà rụng đầy sân Người ngồi một mình, nhìn cầu ô hết tầm mắt Một tứ thơ đến nơi tập trung đầy sao (dải ngân hà). Dịch thơ: Trời xanh như nước hoa sương vắng Gió lặng ngô đồng lá đầy sân Cầu ô tít tắp người ngồi ngắm Ý thơ dào dạt tới sông Ngân * * * 晓烟
五
更星斗淡馀辉
漠漠轻流拂曙
飞
乱逐
野云添飘遥
韩笼江月共依稀
戍楼角断横游塞
书舍灯残落竹扉
多少客愁消不得
春城付与柳依依。
HIỂU YÊN Ngũ canh tinh đẩu đạm dư huy Mạc mạc khinh lưu phất thự phi Loạn trục dã vân thiêm phiếu diếu Hàn lung giang nguyệt cộng y hy Thú lầu giác đoạn hoành du tái Thư xá đăng tàn hộ trúc phi Đa thiểu khách sầu tiêu bất đắc Xuân thành phú dữ liễu y y Dịch nghĩa: KHÓI SỚM Canh năm ánh sao còn sót lại mờ nhạt Lặng lẽ hòa vào ánh sáng buổi sớm Đám mây trên đồng bị xua lên lãng đãng tầng không Khí lạnh bao trùm, trăng và sông cùng mờ ảo Tiếng tù và trên điếm canh dứt, người du hành ngang qua ải biên giới Quán sách đèn tàn soi bảo vệ cho cửa trúc Ít nhiều khách xa nhà khó nguôi nỗi buồn Thành Xuân vẫn gửi tình qua cây liễu như xưa Dịch thơ: Canh năm bàng bạc ánh sao trời Lặng lẽ tan dần trong ánh mai Giục giã mây đồng lang thang chạy Lờ mờ trăng nước lạnh lẽo trôi Khách quá ải biên tù và dứt Cửa che quán sách bóng đèn soi Thành Xuân tình liễu còn thắm thiết Phảng phất nỗi sầu khách khó nguôi. * * * 秋夜即事
雨过闲庭绝点埃
无端秋兴夜中推
梧桐叶老风飘散
杨柳阴疏月到来
露
滴蛩声应有泪
草烧萤火不成灰
共谁唤报
陶彭泽
乐乐黄花泛酒杯。
THU DẠ TỨC SỰ Vũ quá nhàn đình tuyệt điểm ai Vô đoan thu hứng dạ trung thôi Ngô đồng diệp lão phong phiêu tán Dương liễu âm sơ nguyệt đáo lai Lộ khấp cùng thanh ưng hữu lệ Thảo thiêu huỳnh hỏa bất thành khôi Cộng thùy hoán báo Đào Bành Trạch Lạc lạc hoàng hoa phiếm tửu bôi Dịch nghĩa: GHI CHÉP ĐÊM THU Mưa qua rồi, sân quang không còn bụi Không biết từ đâu hứng thu đến giục giã trong đêm Lá ngô đồng già úa, gió thổi bay tản mát Bóng dương liễu lưa thưa, trăng đến soi Sương khóc tiếng dế như có nước mắt Cỏ đốt bằng ánh đom đóm không cháy được thành tro Cùng ai gọi ông Đào Bành Trạch (tức Đào Tiềm) Vui vẻ uống suông chén rượu Hoàng hoa (rượu cúc) Dịch thơ: Mưa tạnh sân quang hết bụi trần Đêm thu thi hứng bỗng trào dâng Ngô đồng xao xác theo gió lộng Dương liễu lơ thơ đón trăng ngần Dế đẫm hạt sương còn nhòa lệ Cỏ thiêu ánh đóm vẫn nguyên thân Cụ Đào đâu nhỉ, xin cùng gọi Nâng chén rượu hoa thú bội phần. Chú thích: - Đào Bành Trạch: Tức Đào Tiềm (365-427), tên chữ Uyên Minh, hiệu Ngũ Liễu, tài ba lỗi lạc nhưng ba lần ra làm quan, ba lần bỏ về do không chịu luồn cúi. Lần cuối làm quan huyện Bành Trạch. * * * 禁中秋夜
井梧宫叶共萧条
坐觉浮凉到翠袍
栏绕
西风帘影动
城临北斗鼓声高
三生香火惊残梦
半世光阴感二
毛
登下渊明诗朗读
故乡归思哲正滔滔
CẤM TRUNG THU DẠ Cảnh ngô cung diệp cộng tiêu tao Tọa giác phù lương đáo thúy bào Lãm nhiễu tây phong liêm ảnh động Thành lâm bắc đẩu cổ thinh cao Tam sinh hương hỏa kinh tàn mộng Bán thế quang âm cảm nhị mao Đăng hạ Uyên Minh thi lãng đọc Cố hương quy tư (khứ?) chính thao thao Dịch nghĩa: ĐÊM THU NƠI CUNG CẤM Cây ngô đồng bên giếng, lá cây trong cung vua cũng héo tàn như nhau Ngồi đây cảm thấy khí lạnh đã đến bên áo lông vũ Gió tây luồn theo bao lơn, bóng rèm lay động Thành cao ngang sao Bắc đẩu, tiếng trống cũng vút cao Hương lửa ba kiếp làm tỉnh giấc mộng tàn Ngày lại đêm, nửa đời người cảm thương đầu hai thứ tóc Dưới đèn đọc thơ Uyển Minh (Đào Tiềm) Tâm trạng muốn về quê luôn rạo rực. Dịch thơ: Úa lá trong cung lẫn ngô đồng Ngồi thấy se se lạnh áo lông Gió bám bao lơn, rèm động bóng Thành kề sao đẩu, trống lừng không Năm tháng nửa đời thương đầu bạc Lửa hương ba kiếp xót mộng hồng Dưới đèn thơ cũ Uyên Minh đọc Về với quê hương xốn xang lòng. Chú thích: - Tam sinh hương hỏa: Tích xưa có người lên chùa, thấy một nén hương cháy được hai phần ba, được giải thích: Đó là của người đã luân hồi ba kiếp mà hương vẫn chưa cháy hết. Trong văn chương thường dùng chỉ duyên nợ nam nữ. - Quang âm: Ánh sáng và bóng tối, tức ngày đêm. - Uyên Minh: Đào Tiềm, thi nhân đời Tấn, nhà nghèo, nhưng khi được làm quan lại từ chức vui sống ẩn dật vì không muốn luồn cúi. * * * 有所嘲
珠帘夜夜护妆台
密思幽情禁不开
无奈清风明月里
梦魂偷得外边来
HỮU SỞ TRÀO Châu liêm dạ dạ hộ trang đài Mật tứ u tình cấm bất khai Vô nại thanh phong minh nguyệt lý Mộng hồn du đắc ngoại biên lai Dịch nghĩa: KHÁ NỰC CƯỜI Rèm ngọc châu đêm đêm che đài trang điểm Nỗi niềm thầm kín không được nói ra Không làm sao đến được nơi gió mát trăng trong Mộng hồn vẫn lén lút từ ngoài vào được. Dịch thơ: Đêm đêm rèm ngọc chắn đài trang Nỗi niềm sâu kín, dạ đeo mang Gió mát trăng trong đành cách trở Hồn mộng ngoài kia lẻn dễ dàng./. * * * 柳毅 传书 相逢话了不相欢 管得伤心上马鞍 桐野云深 红日幕 洞庭天远碧波寒 数行燕序缄愁去 一帷龙巾拭泪看 此后定 成云雨约 恩情如海水漫漫。 LIỄU NGHỊ TRUYỀN THƯ Tương phùng thoại liễu bất tương hoan Quản đắc thương tâm thượng mã an Đồng Dã vân thâm hồng nhật mộ Động Đình thiên viễn bích ba hàn Sổ hàng nhạn tự giam sầu khứ Nhất bức long cân thức lệ khan Thử hậu định thành vân vũ ước Ân tình như thủy hải man man Dịch nghĩa: CHÀNG LIỄU NGHỊ ĐƯA THƯ Gặp nhau nói chuyện xong không kịp cùng vui vẻ Phải mang theo lên yên ngựa nỗi thương tâm Nơi Đồng Dã mây đen dày, mặt trời hồng về chiều tối Hồ Động Đình trời xa thẳm, sóng biếc lạnh lùng Vài hàng chữ nhạn buộc nỗi sầu mà đi Vua mở xem thư, lấy khăn rồng lau nước mắt Mơ ước mây mưa sau trở thành hiện thực Mối ân tình như nước biển mênh mông Dịch thơ: Thoáng gặp, chưa vui vội lên đường Mang theo trên ngựa vạn niềm thương Đồng Dã chiều hồng mây u ám Động Đình trời biếc sóng thê lương Chữ nhạn gửi sầu người thục nữ Khăn rồng thấm lệ đức quân vương Hẹn ước mây mưa sau tròn vẹn Ân tình như biển nước mênh mông Chú thích: Tích xưa có Liễu Nghị, người đời Đường, thi hỏng về nhà, đến Đồng Dã thấy một thiếu phụ tiều tụy chăn dê, cho biết là con gái út Long vương hồ Động Đình, nhờ đem thư đến cho cha. Liễu Nghị đem thư đến, Long vương xúc động cảm tạ, cho nhiều châu báu. Sau Liễu Nghị đến Quảng Lăng lấy người họ Lư, đem chuyện xưa kể lại thì vợ chính là người đã từng nhờ chàng đưa thư trước đây. Hai người sống rất hạnh phúc. * * * 老雁旅夕
夜寒潮涨水溶溶
极目江山倚短蓬
野渡霜飞船有月
海山云静树无风
百年吟忆红都客
半世身疑赤壁翁
遥岸更闻何处笛
声声吹彻水晶宫
LÃO NHẠN LỮ TỊCH Dạ hàn trào trướng thủy dung dung Cực mục giang sơn ỷ đoạn bồng Dã độ sương phi thuyền hữu nguyệt Hải sơn vân tịnh thụ vô phong Bách niên ngâm ức Hồng Đô khách Bán thế thân nghi Xích Bích ông Diêu ngạn cánh văn hà xứ địch Thanh thanh duy triệt thủy tinh cung Dịch nghĩa: NGHỈ ĐÊM BẾN LÃO NHẠN Đêm lạnh thủy triều dâng đầy Tựa thuyền buồm nhìn sông núi ngút tầm mắt Bến đò quê sương xuống, thuyền có ánh trăng Hòn đảo biển mây tạnh, cây không gió Trăm năm ngâm thơ nhớ khách Hồng Đô Nửa đời người ngờ là người sông Xích Bích Bờ xa nghe tiếng sáo không biết nơi đâu Từng âm thanh vọng đến tận cung Thủy tinh Dịch thơ: Đêm lạnh triều dâng biển mênh mông Tựa buồm nhìn khắp dải non sông Thuyền chở trăng vàng, sương giăng bến Mây ôm đảo đá, gió lặng đồng Nhớ khách Hồng Đô đời may mắn Ngờ người Xích Bích kiếp long đong Sáo vẳng đâu đây bờ xa tắp Tiếng khoan tiếng nhặt tận cung Rồng Chú thích: - Khách Hồng Đô: Tức Vương Bột đầu đời Đường, khi còn trẻ chơi thuyền tình cờ đến Nam Xương, đúng lúc quan đô đốc Hồng Châu đặt yến đãi khách ở Đằng Vương các. Vương Bột được mời dự và làm bài tự rất hay, tiếng tăm từ đó lẫy lừng khắp Trung Quốc. Bài tự mở đầu :”Nam Xương cố quân, Hồng Đô tân phủ” nên Vương Bột được gọi là khách Hồng Đô. - Ông Xích Bích: Tô Đông Pha đời Tống, làm quan nhưng lận đận, từng có hai bài phú là Tiền Xích Bích phú và Hậu Xích Bích phú nên được gọi là ông Xích Bích. Tích truyện Vương Bột và Tô Đông Pha mang ẩn ý: đều là người tài nhưng người gặp may, người không may. * * * 东潮早发
晨鸡犹未报
客棹起江心
月淡山斜翠
潮咸水跃金
沙鸥风冷冷
渔浦树荫荫
谁咏苍郎曲
前村惊睡禽
ĐÔNG TRIỀU TẢO PHÁT Thần kê do vị báo Khách trạo khởi giang tâm Nguyệt đạm sơn tà thúy Triều hàm thủy việt kim Sa âu phong lãnh lãnh Ngư phố thụ thâm thâm Thùy vịnh Thương lang khúc Tiền thôn kinh thụy cầm Dịch nghĩa: SỚM RA ĐÔNG TRIỀU Gà còn chưa gáy sáng Mái chèo khách đã khua dậy lòng sông Ánh trăng làm nhạt màu xanh biếc sườn núi Thủy triều đã mang nước vàng óng ánh Đàn sa âu bị gió thổi lành lạnh Bến đánh cá cây cối rậm rạp Ai đó hát khún Thương lang Làm thức tỉnh bầy chim đang ngủ trước thôn. Dịch thơ: SÁNG RA ĐÔNG TRIỀU Tiếng gà chưa gáy sáng Tiếng chèo dậy lòng sông Trăng nhạt nhòa núi biếc Nước óng ánh triều dâng Bến cá cây rậm rạp Đàn âu gió lạnh lùng Khúc Thương lang ai hát Đánh thức cả chim đồng Chú thích: - Thương lang: Tên điệu hát của dân chài lưới trong thơ Khuất Nguyên: Thương lang chi thủy thanh hề Khả dĩ trạc ngô anh Thương lang chi thủy trọc hề Khả dĩ trạc ngã túc (Nước song Thương mà trong Thì ta dùng giặt dải mũ Nước sông Thương mà đục Thì ta dùng rửa chân). * * * 晓过沉濠海口
绕浦孤灯减却红
愁云如积树无风
江花暗淡轻烟外
岸草稀微细雨中
散队鱼虾惊客棹
作群鸥鹭押鱼翁
船头仰酒停
吾酌
坐看滔滔水逝东
HIỂU QUÁ TRẦM HÀO HẢI KHẨU Nhiễu phố cô đăng giảm khước hồng Sầu vân như tích thụ vô phong Giang hoa ám đạm khinh yên ngoại Ngạn thảo hy vi tế vũ trung Tán đội ngư hà kinh khách trạo Tác quần âu lộ áp ngư ông Thuyền đầu ngưỡng tửu đình ngô trước Tọa khán thao thao thủy thệ đông Dịch nghĩa: SÁNG SỚM QUA CỬA BIỂN TRẦM HÀO Quanh cửa biển ngọn đèn lẻ loi đã nhạt màu hồng Mây buồn như tụ lại, cây không gió Hoa trên sông u ám như ngoài màn khói nhẹ Cỏ trên bờ thưa thớt như trong mưa phùn Tôm cá nhảy tán loạn vì sợ tiếng mái chèo của khách Bầy cò le tụ tập quanh ông đánh cá Đầu thuyền đã nhìn rượu nhưng chưa rót Ngồi xem nước chảy cuồn cuộn về phía đông Dịch thơ: Đèn soi nhợt nhạt bến nước này Cây im ắng gió, lặng lờ mây Hoa sóng mịt mờ như khói tỏa Cỏ bờ lác đác tựa mưa rây Tôm cá đụng chèo nhao nhác đám Cò le thấy bóng tụ tập bầy Đầu thuyền mở rượu, ngừng chẳng rót Nước cuồn cuộn chảy, chợt nhìn ngây. Chú thích: - Thủy thệ đông (nước chảy về đông) : Xưa Khổng Tử đứng trên sông nhìn nước chảy than thở : “Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ” (nước chảy mãi như thế này, ngày đêm không dứt); có ý than ngày tháng trôi nhanh. Tác giả mượn ý Khổng Tử để than phiền thời gian cứ trôi, chí lớn không biết có thành hay không. * * * 盆蛮道中征西时行
路过千山昂复低
绝闻犬吠与鸣鸡
青青独有松岩树
到处秋声落鼓悲
BỒN MAN ĐẠO TRUNG CHINH TÂY THỜI HÀNH Lộ quá thiên sơn ngang phục đê Tuyệt văn phệ khuyển dữ minh kê Thanh thanh độc hữu tùng nham thụ Đáo xứ thu thanh lạc cổ bê Dịch nghĩa: TRÊN ĐƯỜNG BỒN MAN LÚC CHINH TÂY Đường đi qua nghìn núi hết lên lại xuống Không hề nghe tiếng chó sủa cũng như gà gáy Chỉ có màu xanh của cây tùng trên vách núi đá Đâu đâu cũng có tiếng thu rơi cùng tiếng trống hành quân. Dịch thơ: Gập gềnh ngàn núi chặng đường xa Chẳng nghe tiếng chó lẫn tiếng gà Chỉ thấy xanh xanh tùng vách đá Tiếng thu tiếng trống não nùng qua. Chú thích: - Bồn Man: Vùng biên giới phía Tây Bắc Việt Nam trước đây. Năm Kỷ Hợi (1479), tù trưởng xứ Bồn Man làm phản, vua Lê Thánh Tông phải ngự giá chinh phạt; Thái Thuận đi theo vua. Bài thơ làm lúc hành quân. * * * 草
暖扇东风特地生
闭门要地一般青
萋萋野外黄牛渚
褐褐沙边白鹭町
南浦离人愁易断
西堂诗客梦初醒
三春一念凭谁报
说到於余但泪零
THẢO Noãn phiến đông phong đặc địa sinh Bế môn yếu địa nhất ban thanh Thê thê dã ngoại hoàng ngưu chử Hạc hạc sa biên bạch lộ đinh Nam Phố ly nhân sầu dị đoạn Tây Đường thi khách mộng sơ tinh Tam xuân nhất niệm bằng thùy báo Tuyết đáo ư dư đản lệ linh Dịch nghĩa: CỎ Sinh sôi đầy mặt đất theo gió đông thổi quạt Một dải màu xanh khắp nơi ngõ kín đất hiểm Um tùm đồng nội, nơi bãi giữa sông có đàn bò vàng Tốt tươi bờ cát, nơi bờ nước có đàn cò trắng Người phận biệt ly ở Nam Phố buồn đến đứt ruột Khách thơ ở Tây Đường vừa tỉnh giấc mộng Một lòng luôn mong báo đáp ơn ba xuân Hễ nói đến là lại muốn rơi nước mắt. Dịch thơ: Lan khắp mọi miền theo gió đông Trải xanh ngõ hẻm tới hang cùng Bò thả bãi sông màu bát ngát Cò chơi bờ nước sắc mênh mông Tây Đường thi phú người tỉnh mộng Nam Phố biệt ly khách nẫu lòng Ơn nghĩa ba xuân hằng day dứt Nghĩ đến rưng rưng lệ lưng tròng. Chú thích: - Nam Phố: Theo bài phú Tống biệt của Giang Yêm : “Xuân thảo bích sắc, xuân thủy lục ba - Tống quân Nam Phố, Thương như chi hà”, nghĩa là: “ Cỏ xuân màu biếc, nước xuân sóng xanh - Tiễn người ở bến Nam Phố, lòng buồn thương không biết nói sao cho hết”. - Tây Đường: Theo tích Tạ Huệ Liên đời Tấn, mười tuổi đã biết làm thơ. Người anh là Linh Vận thường nói rằng, ngồi cùng Huệ Liên thế nào cũng nghĩa ra thơ hay. Một hôm Linh Vận ngồi bờ ao làm thơ nhưng không nghĩ ra được câu nào. Về nhà ở Tây Dương ngủ mơ thấy Huệ Liên, tỉnh dậy là được câu: “ Trì đường sinh xuân thảo” (Ao nước sinh sôi cỏ xuân). - Tam xuân: Ba năm đầu khi mới sinh ra là thời gian cha mẹ nuôi nấng vất vả nhất. Thơ Mạnh Giao đời Đường có câu :”Dục tương thốn thảo tâm – báo đáp tam xuân huy” (Muốn đem tấc lòng cỏ, đền đáp ánh ba xuân). * * * 风
珠帘卷起半参差
佐问从头总不知
凉飔旁花红弄影
寒声到竹翠低枝
八窗尘世闲中遣
一枕羲皇份外移
却笑雌雄分太别
茫茫天地亦谁思
PHONG Châu liêm quyện khởi bán sâm si Tá vấn tùng đầu tổng bất tri Lương tứ bàng hoa hồng lộng ảnh Hàn thanh đáo trúc thúy đê tri Bát song trần thế nhàn trung khiển Nhất chẩm Hy Hoàng phận ngoại di Khước tiếu thư hùng phân thái biệt Mang mang thiên địa diệc thùy ty Dịch nghĩa: GIÓ Rèm hạt châu cuốn lên trông gần như so le Hỏi nguồn gốc từ đâu, mọi người đều không biết Hơi mát gần bên hoa, màu hồng đùa với bóng Tiếng lạnh đến với trúc, màu xanh biếc tới hết cành Tám hướng cửa sổ trần gian vui vẻ cảnh nhàn Một gối của thời vua Phục Hy dời ra ngoài công việc Nực cười chuyện phân biệt trống mái Trời đất mênh mông đã có ai hiểu đến cùng. Dịch thơ: Rèm ngọc đung đưa cuốn chờn vờn Hỏi ai tường tỏ hết nguồn cơn? Rười rượi cánh hồng hoa đỏ thắm Se se cành trúc lá xanh rờn Tám song trần thế đời nhàn nhã Một gối Hy hoàng phận con con Nực cười thiên hạ phân trống mái Mênh mang trời đất nghĩ gì hơn? Chú thích: - Bát song trần thế (tám hướng cửa sổ trần gian): Chỉ cảnh thanh nhàn ngồi hóng mát bên cửa sổ. - Nhất chẩm Hy Hoàng (một gối của thời vua Phục Hy): Chỉ giấc ngủ yên lành thời thanh bình, chỉ việc tác giả phận nhỏ, ít phải lo việc lớn triều đình. - Thư hùng (trống mái): Gió được gọi là phong di, phong bá sang hèn khác nhau, là tước hiệu chỉ dành cho đàn ông.
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
Kiểu: