NGUYỄN HỮU THĂNG DỊCH THƠ THÁI THUẬN
Lời giới thiệu Nhà thơ, nhà báo Đại tá Nguyễn Hữu Thăng (Sinh năm 1950) quê gốc Thuận Thành, Bắc Ninh, đồng hương của Tiến sĩ, thi sĩ Thái Thuận và cũng có cuộc đời công tác “đi sứ” và nhiều năm sống tại Trung Quốc như tiền nhân Thái Thuận, cho nên ông rất yêu mến và ngưỡng mộ thơ Thái Thuận, một bậc túc nho, thi sĩ đời Lê Trung Hưng (Thế kỷ 15). Đã nhiều năm nay, ông bỏ công say mê nghiên cứu và tuyển dịch thơ chữ Hán theo thể Đường Thi của Thái Thuận ra Tiếng Việt. Chúng tôi rất vui mừng xin được giới thiệu cùng bạn đọc trong, ngoài nước tập thơ dịch thơ Thái Thuận mới được ra mắt gần đây của ông. Đào Phong Lưu Dịch thơ: NGUYỄN HỮU THĂNG Thơ danh nhân THÁI THUẬN (Tiến sĩ triều Lê) 名人蔡顺诗选
NHÀ XUẤT BẢN HÀ NỘI – 2009 LỜI GIỚI THIỆU Thái Thuận, tên chữ là Nghiã Hoà, tên hiệu Lục Khê, biệt hiệu Lữ Đường, là một danh nhân thời Lê, sinh năm 1440, đỗ tiến sĩ năm 1475. Ông quê ở làng Liễu Lâm, phủ Siêu Loại (nay là huyện Thuận Thành), tỉnh Bắc Ninh, nhưng có thời gian dài sống và làm việc ở đất Thăng Long, nên có thể coi ông là danh nhân Kinh Bắc, đồng thời là danh nhân đất kinh kỳ Thăng Long. Ông từng làm quan ở Viện Nội các hơn 20 năm, rồi được bổ nhiệm Tham chính tỉnh Hải Dương, về sau với tài thơ nổi tiếng, ông được vua Lê Thánh Tông đặc cách giữ chức Phó Nguyên suý Hội Tao Đàn. Thơ chữ Hán của Thái Thuận được người đời sau ca ngợi không hề thua kém thơ Đường của các nhà thơ cổ đại nổi tiếng Trung Quốc. Tác phẩm còn lại đến nay của Thái Thuận là tập “Lữ Đường thi di cảo” do con trai là Thái Khác và học trò là Đỗ Chính sưu tầm, biên soạn. Năm 2001, Nhà Xuất bản Văn học đã xuất bản cuốn sách “Lữ Đường thi” do Quách Tấn tuyển chọn, dịch và viết lời giới thiệu. Cụ Quách Tấn là người gốc Hoa sống ở miền Nam. Bản dịch của Quách Tấn được nhiều bạn đọc miền Nam ưa thích vì sử dụng ngôn ngữ địa phương miền Nam. Người dịch thơ Thái Thuận trong cuốn sách lần này là người miền Bắc, cùng quê Thuận Thành, Bắc Ninh với Thái Thuận. Dịch giả là người thích làm thơ Đường luật, đã tốt nghiệp Đại học tiếng Trung, từng có hơn 20 đầu sách dịch từ tiếng Hán, nguyên phóng viên Thông tấn xã Việt Nam thường trú tại Bắc Kinh. Các bài thơ dịch lần này đã cố gắng giữ nghệ thuật thơ Đường luật vốn có, đặc biệt là thể loại thất ngôn bát cú (100% thơ thất ngôn bát cú đều dịch theo đúng thể thơ này), đồng thời sử dụng từ ngữ tiếng Việt gần gũi hơn với ngôn ngữ quê hương Thái Thuận; phần dịch nghĩa và chú thích điển tích được biên dịch lại ngắn gọn, dễ hiểu, có tham khảo bản của Quách Tấn. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc./. Nhà xuất bản 征妇吟
庭草成巢柳又丝
征夫何日是归期
半帘残月伤心夜
一枕啼鹃落泪时
塞北云长孤燕影
江南春尽老蛾眉
昨来几度
相思梦
曾到
君边知不知
CHINH PHỤ NGÂM Đình thảo thành sào liễu hựu ty Chinh phu hà nhật thị quy kỳ? Bán liêm tàn nguyệt thương tâm dạ Nhất chẩm đề quyên lạc lệ thì Tái Bắc vân trường cô nhạn ảnh Giang Nam xuân tận lão nga my Sạ lai kỷ độ tương tư mộng Tằng đáo quân biên tri bất tri Dịch nghĩa: KHÚC NGÂM NGƯỜI VỢ CÓ CHỒNG RA TRẬN Cỏ nơi sân đã um tùm, liễu lại buông tơ Ngày nào là ngày về của người đi chinh chiến? Rèm vén nửa, trăng tàn đó là đêm thương tâm Một gối đơn, chim cuốc kêu, đó là lúc rơi nước mắt Bên kia ải Bắc mây vầng bóng nhạn đơn côi Bên này sông Nam xuân hết chân mày nhợt nhạt Từ trước đến nay giấc mộng tương tư đã mấy lần Thường đến bên chàng, chàng có biết hay không ? Dịch thơ: Sân đầy cỏ dại liễu buông tơ Chàng đi chinh chiến đến bao giờ? Trăng xế, nửa rèm lòng sao tủi Cuốc kêu, một gối lệ nào khô Ải Bắc mây dày, chim nhạn lẻ Sông Nam xuân úa, nét ngài thưa Chàng có hay chăng bao thương nhớ Đằng đẵng theo chàng mỗi giấc mơ. Chú thích: - Tái Bắc (phía bắc biên giới): Xưa chỉ vùng biên giới Trung Hoa giáp với xứ Hung Nô, nơi hay xảy ra chiến tranh. - Giang Nam: Vùng đất nam sông Trường Giang, có nhiều cảnh đẹp. * * * 西湖春怨
夜夜长寒月影斜
春风归去属谁家
红颜乐尽蛾眉老
肠断无人问野花
TÂY HỒ XUÂN OÁN Dạ dạ trường hàn nguyệt ảnh tà Xuân phong quy khứ thuộc thùy gia Hồng nhan lạc tận nga my lão Trường đoạn vô nhân vấn dã hoa Dịch nghĩa: NỖI OÁN XUÂN TÂY HỒ Đêm đêm lạnh giá kéo dài, ánh trăng sắp lặn Gió xuân về rôi đi, thuộc về ai đâu Cuộc vui của người con gái đẹp đã hết, mày ngài đã già Đau xót đứt ruột khi không còn ai ngó tới bông hoa dại Dịch thơ : Đêm đêm trăng xế bấy lạnh lùng Xuân đến rồi đi chẳng thủy chung Má hồng phai sắc ngày vui cạn Xót xa cô quạnh cánh hoa rừng * * * 望夫山
化石山头几夕曛
伤心无路更逢君
天涯目断年年月
江上魂消幕幕云
清泪一斑花露滴
离情万种草烟分
湘妃若识
相思苦
不惜哀弦寄与闻
VỌNG PHU SƠN Hóa thạch sơn đầu kỷ tịch huân Thương tâm vô lộ cánh phùng quân Thiên nhai mục đoạn niên niên nguyệt Giang thượng hồn tiêu mộ mộ vân Thanh lệ nhất ban hoa lộ trích Ly tình vạn chủng thảo yên phân Tương phi nhược thức tương tư khổ Bất tích ai huyền ký dữ văn. Dịch nghĩa: NÚI VỌNG PHU Đầu núi hóa đá đã bao nhiêu đêm ngày rồi Đau lòng không còn đường gặp lại chàng lần nữa Mỏi mắt nhìn trăng cuối chân trời năm này sang năm khác Chiều chiều hồn tan theo đám mây trên sông Sương đọng trên hoa như nước mắt trong vắt nhỏ từng giọt Khói tỏa trên cỏ mang theo vạn mối tình ly biệt Nàng Phi bên sông Tương nếu biết được nỗi khổ vì nhớ nhau Chớ tiếc dây đàn buồn não nuột, xin gửi đến cùng nghe. Dịch thơ: Hóa đá đêm ngày đứng đầu non Đau đáu chờ ai, mất hay còn? Mỏi mắt trăng sao chân trời thẳm Tan hồn mây nước bóng chiều hôm Hoa đẫm lệ sương ngàn nỗi thảm Cỏ lan biển khói vạn tình buồn Tương Phi thấu nỗi lòng thương nhớ Xin gửi bi ai một khúc đàn Chú thích: - Tương phi: Nàng Phi bên sông Tương. Theo tích cổ: Vua Thuấn băng hà, hai bà vợ là Hoàng Vũ, Nữ Anh khóc ở sông Tương. Nước mắt lẫn máu rơi vào thân trúc hóa thành những chấm lốm đốm, gọi là ban ban trúc. * * * 春暮
百年身世嘆浮苹
春去誰能不老成
流水橋邊楊柳影
夕陽江上鷓鴣聲
月於煙樹雖無分
風與天香尚有情
九十韶光容易過
草心游子苦難平
XUÂN MỘ Bách niên thân thế thán phù bình Xuân khứ thùy năng bất lão thành Lưu thủy kiều biên dương liễu ảnh Tịch dương giang thượng giá cô thanh Nguyệt ư yên thụ tuy vô phận Phong dữ thiên hương thượng hữu tình Cửu thập thiều quang dung dị quá Thảo tâm du tử khổ nan bình. Dịch nghĩa: CHIỀU XUÂN Thân thế trăm năm than cho kiếp bèo nổi Xuân đi rồi có ai không thành người già Bên cầu nước chảy in bóng dương liễu Trên sông chiều tà tiếng gà gô (đa đa) não nuột Trăng lồng trong khói cây tuy không có phận gì Gió quyện hương trời vẫn có tình với nhau Chín chục tuổi xuân qua một cách dễ dàng Khiến nỗi lòng người con đi xa khó bình lặng được. Dịch thơ: Thân thế trăm năm kiếp bèo trôi Xuân qua ai tránh khỏi cuối đời Bên cầu nước chảy ngời bóng liễu Dưới bến đa kêu não lòng người Trăng dẫu hững hờ buông tán lá Gió còn xao xuyến quyện hương trời Thấm thoắt thiều quang đà chín chục Day dứt cõi lòng mãi khôn nguôi Chú thích: - Du tử (người con đi xa): Mượn từ trong bài thơ “Du tử ngâm” của Mạnh Giao “Từ mẫu thủ trung tuyến, du tử thân thượng y” (Sợi chỉ trong tay mẹ hiền, tấm áo trên mình người con đi nơi xa) . - Thảo tâm (lòng cỏ) : Cũng mượn từ bài thơ trên : “Thuỳ ngôn thốn thảo tâm, báo đắc tam xuân huy” (Ai bảo rằng tấc lòng cỏ, báo đền dược đức sáng ba xuân) . * * * 梅影
倒挂斜穿淡又浓
瑶台纸帐暗相通
移来窗外风吹后
横过山前露照中
东阁传神清画笔
西湖泻兴苦吟翁
珠帘仿佛魂无碍
疑是真人在雪宫
MAI ẢNH Đảo quái tà xuyên đạm hựu hồng Dao dài chỉ trướng ám tương thông Di lai song ngoại phong xuy hậu Hoành quá sơn tiền lộ chiếu trung Đông Các truyền thần thanh họa bút Tây Hồ tả hứng khổ ngâm ông Châu liêm phảng phất hồn vô ngại Nghi thị chân nhân tại tuyết cung Dịch nghĩa: HÌNH BÓNG HOA MAI (Hoa nở) ngửa nghiêng ngang dọc, màu nhạt lại màu đậm Nối tiếp nhau kín trướng giấy đài ngọc Gió đẩy đưa qua lại ngoài cửa sổ Ngang qua trước núi trong ánh sương chiếu Ở lầu Đông, cái thần của hoa truyền vào ngọn bút vẽ thanh tao Ở hồ Tây gợi hứng để nhà thơ ngâm vịnh mãi Hương hoa luôn phảng phất cạnh rèm châu Ngờ rằng có tiên ở nơi cung tuyết . Dịch thơ: BÓNG HOA MAI Chi chít bốn bề sắc khoe tươi Đài dao trướng giấy kín trong ngoài Đung đưa bên cửa theo gió thổi Thấp thoáng sườn non giữa sương soi Đông Các họa thư say hồn bút Tây Hồ ngâm vịnh đắm tình người Phảng phất rèm châu dường bất tận Tưởng như cung tuyết có tiên trời. Chú thích: -Đông Các (lầu Đông): Theo tứ thơ Đỗ Phủ “ Đông các quan mai động thi hứng - hoàn như Hà Tổn tại Dương Châu” (Nơi gác Đông xem mai, gợi hứng thơ, không khác gì Hà Tổn tại Dương Châu): Hà Tổn trồng ở Dương Châu một cây mai, thường ngâm vịnh dưới gốc, sau đổi qua đất Lạc, nhớ Mai xin trở lại Dương Châu, đúng lúc mai nở rộ khiến ông say ngắm suốt ngày. - Tây Hồ xưa có rừng mai. Nhà thơ, họa sĩ Lâm Bô làm nhiều thơ, vẽ nhiều tranh về mai, coi mai như vợ, hạc như con. Ông từng vào rừng thưởng hoa bị lạc, trở thành giai thoại. - Cung tuyết : Chỉ cung của tể tướng Vương Hội, do thời trẻ từng có bài thơ vịnh mai “ Tuyết trung vị luận điều canh sự - tiên hướng bách ba đầu thượng khai” (Trong tuyết chưa vội bàn đến làm canh ngon, trước hết hãy nhìn phía trăm hoa nở đầu cành). * * * 下景 南风庭院日如年 面对书窗古圣贤 磅砌榴花红喷火 入 帘 草色绿生烟 元亨理 契 庖牺易 康阜功归帝舜玄 千古道心呼得起 槐茏影里夕阳蝉。 HẠ CẢNH Nam phong đình viện nhật như niên Diện đối thư song cổ thánh hiền Bàng thế lựu hoa hồng phún hỏa Nhập liêm thảo sắc lục sinh yên Nguyên hanh lý khế Bào Hy dịch Khang phụ công quy Đế Thuấn huyền Thiên cổ đạo tâm hô đắc khởi Hòe lung ảnh lý tịch dương thuyền Dịch nghĩa: CẢNH MÙA HÈ Gió nam thổi vào sân nhà, ngày dài như năm Đối diện với cửa sổ phòng sách cùng thánh hiền xưa Hoa lựu nở bên thềm sắc đỏ như phun lửa Màu cỏ nhập vào rèm ánh xanh như sinh khói Lý nguyên hanh (thuận lợi) vạch sẵn trong kinh Dịch của Bào Hy Công lao khang phụ (dân mạnh của nhiều) quy vào dây đàn Đế Thuấn Lòng đạo của nghìn xưa như bật dậy Trong bóng hòe đàn ve kêu lúc chiều hôm Dịch thơ: Ngày gió nam về thấy dài thêm Đến với sách nho gặp thánh hiền Lựu phun sắc đỏ bên thềm cửa Cỏ ngợp màu xanh khắp cánh rèm Kinh dịch Bào Hy nguyên hanh vững Dây đàn Đế Thuấn phụ khang bền Lòng đạo ngàn xưa như bừng dậy Hoàng hôn ve hát tiếng ngân rền. Chú thích: - Bào Hy: Vua Phục Hy, theo truyền thuyết là vị vua thời tiền sử Trung Hoa, thuỷ tổ của kinh Dịch. - Nguyên hanh: Nguyên hanh lợi trinh là bốn đức lớn của trời đất trong kinh dịch, vạn vật nhờ đó mà sinh thành. - Khang phụ: Tốt lành, dồi dào, đầy đủ: Mượn chữ trong bài ca Nam Phong của vua Thuấn (khả dĩ phụ ngô dân chi tài hề) và bài thơ ca ngợi vua Thuấn của Cao Dao (Nguyên thủ minh tai, cổ quang khang tai) . Từ đó thành câu “dân khang vật phụ” (dân chúng yên vui, của cải dồi dào). * * * 秋闺
朦胧残月五更钟
云雨相随楚蒙慵
孤枕寒灯秋共冷
离愁别恨酒争浓
天涯目断登楼怯
席上书
成忍泪封
无限花容消瘦尽
西风吹老水芙蓉。
THU KHUÊ Mông lung tàn nguyệt ngũ canh chung Vân vũ tương tùy Sở mộng dung Cô chẩm hàn đăng thu cộng lãnh Ly sầu biệt hận tửu tranh nồng Thiên nhai mục đoạn đăng lâu khiếp Tịch thượng thư thành nhẫn lệ phong Vô hạn hoa dung tiêu sấu tận Tây phong xuy lão thủy phù dung. Dịch nghĩa: PHÒNG KHUÊ MÙA THU Trăng tàn lờ mờ chuông đánh canh năm Mây mưa theo vào giấc mộng vua Sở Gối đơn chiếc đèn lạnh cùng đêm thu lạnh Nỗi sầu hận ly biệt sâu sắc tranh với rượu cay nồng Chân trời ngút tầm mắt lên lầu thấy sợ Thư viết xong trên chiếu, nén nước mắt phong kín lại Không biết đã có bao nhiêu khuôn mặt hoa gầy đi, tàn tạ hết Gió tây thổi lại làm già héo bông hoa thuỷ phù dung. Dịch thơ: Canh năm trăng xế vẳng tiếng chuông Mây mưa chìm đắm mộng Sở vương Gối lẻ đèn mờ đêm thu lạnh Ly sầu hận biệt chén rượu suông Nhìn chân trời thẳm lòng thấy sợ Gấp lá thư buồn lệ chực tuôn Bao kiếp má hồng tàn tạ hết Đóa sen xơ xác gió tây phương. Chú thích: - Sở mộng (giấc mộng vua Sở): Vua nước Sở đi chơi núi Vu Sơn, nằm ngủ ở quán Cao Đường, nằm mơ thấy một người con gái đẹp đến ngủ chung, tự xưng là nữ thần chốn Dương Đài, sớm làm mây tối làm mưa. Vì vậy cuộc tình trai gái gọi là “cuộc mây mưa”. - Thủy phù dung: Tức hoa sen. Câu kết ý nói hoa trên mặt đất đã tàn tạ hết, gió tây lại làm héo tiếp hoa dưới nước. * * * 冬
华年兀坐静如愚
了觉光阴似隙驹
河水有冰鱼信断
林
柯
无叶鹊巢孤
功名谁拟平淮将
文史吾惭辅汉儒
为把阴阳消长理
梅花枝上问尧夫
ĐÔNG Hoa niên ngột tọa tịnh như ngu Liễu giác quang âm tự khích cu Hà thủy hữu băng ngư tín đoạn Lâm a vô diệp thước sào cô! Công danh thùy nghĩ Bình Hoài tướng Văn sử ngô tàm Phụ Hán nho Vị bả âm dương tiêu trưởng lý Mai ba chi thượng vấn Nghiêu Phu Dịch nghĩa: MÙA ĐÔNG Tuổi hoa ngồi ngây yên lặng như người ngu Biết rõ ngày đêm qua nhanh như bóng ngựa qua cửa sổ Nước sông có băng đóng nên không biết tin tức gì của cá Cành cây rừng không còn lá khiến tổ chim khách chơ vơ Công danh ai sánh được với tướng đất Hoài Âm (tức Hàn Tín) Văn sử ta đây thấy thẹn cùng nhà nho giúp Hán (tức Trương Lương) Để hiểu được nguyên lý âm dương tiêu trưởng Biết khi nào hoa mai nở trên cành, hãy hỏi Nghiêu Phu Dịch thơ: Tuổi xuân lặng lẽ tưởng ngây ngô Bóng câu cửa sổ thoắt từng giờ Băng đóng, cá sông ai tường tỏ Lá rời, chim khách tổ chơ vơ Công danh Hàn Tín, nào so sánh? Văn sử Trương Lương, há thẹn thò ? Muốn biết âm dương suy rồi thịnh Mai nở trên cành hỏi Nghiêu Phu . Chú thích: - Văn sử: Vẻ đẹp bề ngoài - Tiêu trưởng: Mất đi và phát triển. Nghĩa bóng là suy thịnh - Nghiêu Phu: Tức Thiệu Ưng (1011-1077), hiền triết đời Tống, tinh thông dịch lý, biết trước tương lai. * * * 望白云
悠悠亲舍白云飞
回首天涯动所思
千里家山双眼断
百年母子一心悲
沾襟自信鲛珠落
戏彩谁娱鹤发垂
忠孝古来难两立
此怀分付彼苍知
VỌNG BẠCH VÂN Du du thân xá bạch vân phi Hồi thủ thiên nhai động sở ty Thiên lý gia san song nhãn đoạn Bách niên mẫu tử nhất tâm bi Triêm khâm tự tín giao châu lạc Hý thể thùy ngu hạc phát thùy Trung hiếu cổ lai nan lưỡng lập Thử hoài phân phú bỉ thương tri Dịch nghĩa: TRÔNG MÂY TRẮNG Mây trắng cuộn cuộn bay trên nóc nhà của cha mẹ Từ nơi chân trời xa ngoảnh đầu nhìn lại, động lòng nhớ nhung Quê hương xa nghìn dặm tầm mắt nhìn không hết Tình mẹ con suốt trăm năm nặng một lòng buồn thương Nước mắt thấm đẫm vạt áo, tin rằng sẽ như nước mắt giao nhân rơi thành ngọc châu. Ai là người mặc áo năm màu múa mua vui cho cha mẹ tuổi bạc đầu? Tấm lòng này xin gửi đến trời xanh để trời biết. Dịch thơ: Mái nhà cha mẹ trập trùng mây Tít tắp trời xa nỗi nhớ đầy Quê cha ngàn dặm nhìn mòn mỏi Tình mẹ trọn đời nuốt đắng cay Lệ giao hóa ngọc rơi thành kính Mái hạc còn ai múa vui vầy Trung hiếu xưa nay thường khó vẹn Trời xanh có thấu tấm lòng này? Chú thích: - Giao châu: Nước mắt thành ngọc châu của con giao nhân. Giao nhân đầu người đuôi cá, thường lên cạn giao lưu với con người, được người đối xử chí tình. Lúc biệt ly, giao nhân khóc, nước mắt rơi hóa thành ngọc châu để tỏ lòng biết ơn. - Hý thể: quần áo màu sặc sỡ. - Hạc phát: Tóc người già trắng như lông hạc. Lão Lai người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, khi đã 70 tuổi ngày ngày còn mặc quần áo nhiều màu sặc sỡ múa mua vui cho cha ngoài 90 tuổi. * * * 韩信 四海干戈正 扰攘 力能平定独君当 斋坛礼重将军拜 盟府功多敌国亡 楚地无心图鼎立 汉天有泪泣弓藏 后来说到 南巡事 应为王孙一断肠 HÀN TÍN Tứ hải can qua chính nhiễu nhương Lực năng bình định độc quân đương Trai đàn lễ trọng tương quân bái Minh phủ công đa địch quốc vong Sở địa vô tâm đồ đỉnh lập Hán thiên hữu lệ khấp cung tàng Hậu lai thuyết đáo nam tuần sự Ứng vị Vương tôn nhất đoạn trường. Dịch nghĩa: Bốn biển chiến tranh, chính lúc rối ren Chỉ một mình ông đủ sức đảm nhận đánh dẹp Dựng đàn chay làm lễ bái tướng trọng thể Nơi minh phủ ghi công lớn tiêu diệt nước địch Trên đất Sở không có mưu đồ lập đỉnh xưng đế Khoảng trời Hán có lệ khóc chôn cung nỏ Về sau nói đến chuyện vua Hán tuần du miền Nam Thương thay cho Hàn Tín đến đứt từng khúc ruột Dịch thơ: Binh đao loạn lạc khắp bốn phương Một thân đánh dẹp sức phi thường Dựng đàn lễ trọng tôn danh tướng Diệt giặc công to nức phủ đường Sở đâu lập đỉnh, lòng sáng tỏ Hán nỡ chôn cung, lệ sầu thương Nhắc chuyện tuần du phương Nam ấy Đớn đau đứt ruột tiếc Sở vương. Chú thích: - Minh phủ: Phủ đường làm lễ tuyên thệ. Sau khi diệt được Sở vương Hạng vũ, thống nhất đất nước, lên ngôi hoàng đế, Lưu Bang luận công Hàn Tín đứng đầu khai quốc công thần, phong làm Sở vương. - Lập đỉnh: Nhà Chu đúc 9 đỉnh đồng tượng trưng cho 9 châu, tức toàn cõi Trung Quốc xưa nên lập đỉnh là chỉ lập nước riêng, lên ngôi hoàng đế. Hàn Tín làm Sở vương giấu Chung Ly Muội – vong thần của Hạng Vũ vì là chỗ bạn cũ. Lưu Bang biết, nghi Hàn Tín làm phản, lập mưu đi chơi đầm Vân Mộng, Hàn Tín ra đón, Lưu Bang bắt đưa về Trường An, giáng xuống làm Hoài Âm Hầu. Sau đó Lưu Bang giả đi tuần phương Nam để ở nhà Lã hậu giết Hàn Tín. - Cung tàng: “điểu tận cung tàng”: Bắn hết chim, vứt bỏ cung. - Vương Tôn: Mỹ danh của Hàn Tín. * * * 渔笛
浮世功名绝意求
只凭一笛伴孤舟
白频江上数声晓
红柳滩前三弄秋
离浦雁回明月塞
怀乡人倚夕阳楼
不知兴尽归何处
山自青青水自流
NGƯ ĐỊCH Phù thế công danh tuyệt ý cầu Chỉ bằng nhất địch bạn cô châu Bạch tần giang thượng sổ thanh hiểu Hồng liễu na tiền tam lộng thu Ly phố nhạn hồi minh nguyệt tái Hoài hương nhân ỷ tịch dương lâu Bất tri hứng tận quy hà xứ Sơn tự thanh thanh thủy tự lưu Dịch nghĩa: TIẾNG SÁO NGƯỜI ĐÁNH CÁ Công danh cõi đời phù phiếm không hề có ý cầu mong Chỉ với chiếc sáo cùng chiếc thuyền đơn độc Đám rau bạch tần trên sông nghe mấy tiếng sáo thấy trời sáng Đám rau hồng liễu trước bến nghe ba khúc sáo như thấy mùa thu về Chim nhạn về bến cũ, rời cửa ải trăng sáng Người nhớ quê hương tựa lầu trong ánh nắng xế chiều Niềm hứng tan đi, không biết về đâu? Núi vẫn xanh xanh, nước vẫn chảy tự nhiên. Dịch thơ: Công danh phù phiếm, chẳng mưu cầu Bạn cùng cây sáo với thuyền câu Giục sáng, bạch tần như hé nụ Gọi thu, hồng liễu tưởng thay màu Nhạn nhớ bến xưa, rời trăng ải Người thương quê cũ, tựa bóng lầu Niềm hứng tan rồi, về đâu nhỉ? Vẫn núi xanh rì, nước chảy mau. Chú thích: - Bạch tần: Một loại rau dại hoa trắng, mọc ven bờ nước - Hồng liễu (hồng lục): Một loại rau dại lá xanh sẫm, hoa đỏ, mọc ven bờ nước. Câu thơ thứ ba, thứ tư mang ý nghĩa: Thổi mấy tiếng sáo, trời sáng, hoa bạch tần nở; Thổi ba khúc sáo, trời chuyển sang thu, hoa hồng liễu đang mùa xuân nở đỏ cũng ngả màu theo. - Minh nguyệt tái (Biên ải trăng sáng), Tịch dương lâu (Lầu hoàng hôn): Mượn ý trong bài “ Trường An vãn thu” của Triệu Hổ đời Đường: Tàn tinh kỷ điểm nhạn hoành tái Trường địch nhất thanh nhân ỷ lầu (Dưới mấy ánh sao tàn, chim nhạn quay ngang nơi biên ải Một tiếng sáo dài, người tựa lầu đứng nghe). Ở một vùng biên giới Trung Quốc xưa có dãy núi rất cao, chim không bay qua nổi, loài nhạn di cư đến đó phải bay trở lại, nên dãy núi đó gọi là núi Hồi Nhạn.
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu: