Cái đầu ruồi chầm chậm bám theo vệt chuyển động mơ hồ của đám lá rừng phía xa rồi dừng lại ở chỗ mấy chiếc lá khẽ rung cuối cùng trước khi im hẳn. Ngón tay trỏ từ từ siết cò, hơi ngừng lại khi lẫy cò chạm vào chốt hãm rồi lại từ từ siết tiếp. Rồi chốt hãm hạ xuống, lò xo đẩy kim hỏa đập vào hạt nổ gắn ở đuôi vỏ đạn. Hạt nổ bị nổ, đốt cháy thuốc đạn trong vỏ đạn, tạo ra một áp lực rất lớn đẩy đầu đạn bật ra khỏi vỏ đạn chui vào nòng súng. Thuốc đạn vẫn cháy, liên tục sinh ra áp lực lớn đẩy viên đạn chạy càng lúc càng nhanh trong nòng súng. Nòng súng đã được khía những rãnh xoắn làm cho đầu đạn xoay tít khi chạy bên trong. Người ta làm như vậy để đầu đạn không bị quay lộn trong khi bay, tăng độ chính xác khi bắn và cũng để tăng sức công phá của viên đạn. Cuối cùng, khi đầu đạn ra khỏi nòng súng thì nó đã bay nhanh hơn cả âm thanh, bỏ lại phía sau một quầng lửa do thuốc súng phụt ra cháy nốt ở đầu nòng cùng một tiếng nổ lớn.
Nói thì lâu vậy nhưng thực ra từ lúc siết cò tới khi đạn bay ra khỏi nòng mọi việc diễn ra rất nhanh, trong không đầy một phần chớp mắt.
***
Hồi còn đi học cấp 1 Nam được cả trường biết tới vì anh hát rất hay. Thỉnh thoảng mỗi năm vài lần nhà trường tổ chức kỷ niệm nhân dịp gì đó hoặc hội diễn văn nghệ là cả trường lại được nghe giọng hát véo von như giọng con gái của Nam, con chim sơn ca của nhà trường. Nhưng những kỷ niệm mà Nam nhớ nhất không phải là những tiếng vỗ tay hay những lời khen nồng nhiệt của mọi người sau mỗi bài hát mà lại là ánh mắt lo âu khắc khoải của mẹ chập chờn suốt mấy ngày đêm khi anh nằm viện. Hồi đó còn trẻ con nên Nam chỉ nhớ là anh nằm ở trạm xá lâu lắm, vì bị sốt dịch hay gì đó. Bố làm công nhân trên huyện lâu lâu mới về nên mẹ anh vừa phải trông hai đứa em ở nhà, vừa trông Nam ở trạm xá, vậy mà chẳng hiểu bằng cách nào mà mỗi khi Nam mở mắt ra sau những cơn mê ngủ chập chờn là anh lại nhìn thấy đôi mắt âu yếm và lo lắng của mẹ bên cạnh mình. Đến bây giờ lòng Nam vẫn như chùng xuống mỗi khi nhớ lại lời mẹ thủ thỉ dỗ dành anh ăn thêm thìa cháo hay bàn tay mẹ ân cần xoa nhẹ tóc anh cho đỡ nhức đầu …
Tháng 2 năm 1979. Buổi sáng hôm đó ngôi trường cấp 3 ở phố huyện của Nam như sôi lên sùng sục khi nghe tin Trung quốc xâm lược Việt nam. Dù trước đó mọi người đã nghe trên đài TNVN rất nhiều về chuyện “nạn kiều” hay những lời tố cáo chủ nghĩa bá quyền, những va chạm ở biên giới … thế nhưng khi nghe tin đó mọi người vẫn sững sờ. Một cái gì đó rất thiêng liêng và lớn lao bỗng chợt bừng lên trong lòng những gã trai mới lớn mà trước đó vẫn chỉ là một đám lộc ngộc như lũ vịt cồ. Rất nhiều học sinh lớp 10 cuối cấp rủ nhau bỏ học lên chầu chực ở huyện đội để xin đi bộ đội, rất nhiều gã đã chích máu để viết đơn tình nguyện… Nam cũng hòa vào không khí hừng hực ấy. Lần đầu tiên Nam nhìn lại ước mơ trở thành ca sĩ của mình với một tầm mắt khác. 2 năm sau, khi đã đủ tuổi đi nghĩa vụ quân sự, cùng với gần chục thằng bạn trong xã, Nam hồ hởi lên đường.
2 năm đời lính đã qua với bao nhọc nhằn gian khổ. Nó giống như một cái nồi chưng cất những cảm xúc và ước mơ để cái gì còn lại trở nên đậm đặc và sâu nặng hơn. Không còn nhiều chỗ cho mơ mộng bay bổng nữa. Ở vùng biên cương này, tuy không còn cảnh dàn trận đánh nhau như hồi năm 79 nhưng thỉnh thoảng pháo lớn từ Trung quốc vẫn dội sang. Những quả đạn pháo rú rít bay qua trên đầu rồi nổ phía sau lưng, làm trắng cả những đỉnh núi đá như vãi bột. Còn cánh bộ binh thì như chơi trò mèo vờn chuột, có điều từ mèo sang chuột thì không biết trước được, và khác trò chơi ở chỗ mỗi sơ suất đều phải trả bằng máu khi thỉnh thoảng lại có vài loạt đạn từ bên nọ bay sang bên kia. Lính Trung quốc không còn hay giở trò đêm đêm đào trộm cột mốc nữa, nhưng Nam và đồng đội vẫn phải ngày đêm thay nhau lên chốt nằm canh. Phía trước là đường biên, phía sau là hình ảnh người mẹ trông con trở về. Là nỗi nhớ người bạn gái thẹn thùng trao chiếc khăn tay, bên trong có một lọn tóc nhỏ hôm tiễn Nam lên đường mà chưa nói với nhau một lời nói yêu thương. Và những ước mơ về ngày mai, khi anh trở về …
Nói thì nhanh vậy nhưng thực ra mọi chuyện diễn ra rất lâu. Bao nhiêu năm rồi còn gì…
***
Viên đạn xoay tít và bay một đoạn đường rất dài trong không khí trước khi gặp mục tiêu mà không bị giảm tốc độ nhiều, vì bên trong đầu đạn đã được đổ chì để nó tích lũy được nhiều động năng lúc ra khỏi nòng súng và hình dạng khí động đã được tính toán kỹ. Bởi thế khi đâm vào mục tiêu, nó vẫn đủ sức mạnh vừa xoáy vừa xuyên qua mục tiêu rồi thoát ra ngoài. Một lỗ nhỏ phía trước chỗ nó chui vào và một vết phá cỡ bằng bàn tay nơi nó chui ra. Quán tính vẫn còn lớn nên đầu đạn còn bay tiếp một đoạn rồi cắm sâu vào vách đất phía sau chiến hào. Gặp đất đá cản lại nên đầu đạn bị móp méo, chùn lại nhưng không còn dính tí máu nào.
Mọi việc chỉ diễn ra trong không đầy một phần chớp mắt.
***
Cây đa đầu làng không biết đã được bao nhiêu tuổi nhưng nó không xum xuê như những cây đa khác. Từ xa nhìn về, trông cây đa giống như một bà còng. Dưới gốc đa, nơi bọn trẻ con hay tụ tập là bộ rễ lớn trông như một đàn rắn khổng lồ cuộn vào nhau. Cách cây đa một đoạn là nghĩa trang liệt sĩ của xã. Một nghĩa trang nhỏ, nằm yên bình dưới hàng phi lao với tiếng reo vi vút trong gió suốt đêm ngày, cùng với tiếng lích chích của những đàn chim sâu, chim sẻ như đang cãi nhau không biết mệt mỏi.
Người quản trang là một người đàn ông chừng năm mươi tuổi nhưng trông già hơn tuổi nhiều, gầy gò và cao lêu đêu, dáng đi nghiêng nghiêng như sắp ngã. Anh là một thương binh nặng thời chiến tranh biên giới. Đạn của quân địch không lấy đi của anh cánh tay hay đôi chân mà lấy đi của anh gần 80% sức khỏe. Và tất cả những ước mơ của một thời trai trẻ, cùng toàn bộ những gì, dù là bình thường nhất đối với mọi người,còn lại trong anh. Nỗi đau lớn nhất của anh không phải là những cơn đau lúc dính đạn hay lúc tỉnh lại sau khi từ trên bàn mổ xuống, hay những cơn đau dai dẳng mỗi khi trái gió trở trời, mà là nỗi đau khi phải khước từ tình yêu của người con gái đã chở anh đằng đẵng bao năm ròng. Bởi anh biết trái tim và buồng phổi của anh không đủ sức cho anh được hưởng hạnh phúc như mọi người. Anh không thể để người mình yêu bất cứ lúc nào cũng có nguy cơ trở thành góa phụ.
Nhưng dù vậy người quản trang vẫn thấy mình còn may mắn hơn người đồng đội đang nằm ở góc đằng kia của nghĩa trang. Trong số gần một chục người đi bộ đội cùng nhau năm ấy, chỉ có duy nhất một người nằm xuống. Từ ngày người liệt sĩ ấy được quy tập về quê hương, thỉnh thoảng anh lại thấy có một bà cụ ra ngồi bên cạnh ngôi mộ. Bà ngồi rất lâu, tay rờ rẫm vuốt ve ngôi mộ và thì thầm những chuyện gì đó. Có lẽ bà kể lại những câu chuyện xưa, có một cô bé hay sang chơi với bà hồi anh đi bộ đội vắng nhà, hay có thể bà đang dỗ dành anh nghe lời ăn thêm cho chóng khỏe mỗi khi ốm đau, như ngày anh còn bé…Gần chục năm như vậy, chỉ khác là mỗi năm lưng bà cụ lại còng thêm một chút. Rôi mấy năm nay không còn thấy bà ra ngồi cùng với con nữa. Có lẽ bà đã mất rồi. Mấy năm rồi. Nhưng người quản trang vẫn cảm thấy trống trải mỗi khi nhìn tới cuối nghĩa trang mà không còn thấy bóng dáng bà mẹ ấy.
Không hiểu sao, đôi khi vào những ngày lễ lớn anh hay chạnh lòng. Những cuộc kháng chiến trước đây của dân tộc đều có những ngày kỷ niệm tưng bừng, nhân đó nhắc cho người ta tưởng nhớ tới công lao của những người lính thế hệ cha ông. Nhưng cuộc chiến mà anh và đồng đội đã đi qua, đã đổ máu và hy sinh thì lại không có ngày kỷ niệm kết thúc hay lễ mừng chiến thắng nào. Giống như một cuộc chiến bị lãng quên.
Tháng 4 năm 2010
Văn Thiện
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.03.2011 22:07:47 bởi vanthien116 >