" VƯỜN TAO NGỘ "
Thay đổi trang: << < 109110111 > >> | Trang 110 của 123 trang, bài viết từ 1636 đến 1650 trên tổng số 1838 bài trong đề mục
Phù vân 09.04.2011 05:44:31 (permalink)
0



                                                       http://www.box.net/shared/jir33e97n4


[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/98451/2FB8644689084711A63DAA2D6ECA8244.jpg[/image]


RỪNG ƠI
album Cuối Trời Dâu Bể
thơ : Cao Nguyên
phổ nhạc & trình bày : Dzuylynh
 

cư dân cũ, từ vùng trời xa vắng
gọi rừng xưa,ta nhớ lắm - rừng ơi!
thương mùa cây cúi đầu buồn tháng Hạ
lá chịu tang qua mấy chục năm rồi!

lúc ta đi, rừng sâu còn ngún lửa
lửa hận thù, cháy quá nửa đời ta
cháy bỏng màu da, làm sao lành vết sẹo
chung niềm đau, ta chẻ máu nuôi rừng

nửa máu ta có giúp rừng sống lại
đất có mừng lá biếc nẩy chồi xanh
cây có vui khi chim về hái trái
hoa có cười cho hương toả vây quanh?

ôi nhớ quá, rừng ơi! ta nhớ quá
cao nguyên xanh, hoa lá ấy - hồn ta
và cả máu chia cho rừng thuở ấy
nhắc ta về, dù bữa hẹn còn xa

về xem nắng ghẹo hoa tươi rói mặt
về thăm cây lành hẳn vết thương chưa
về ngồi giữa nắng mưa nghe đất hát
khúc đồng dao từ những khát khao xưa!

thơ ta đó, rừng ơi! ru chút nhé
ta chưa về thăm đất mẹ chiều nay
sợ hàng cây còn long lanh ngấn lệ
ta với rừng sẽ khóc giữa vòng tay!

Cao Nguyên


[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/98451/1CD9213D2D9D41F4A086D169F72748C2.jpg[/image]

<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.04.2011 06:46:19 bởi Phù Vân >
Attached Image(s)
Phù vân 09.04.2011 08:22:19 (permalink)
0
[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/98451/9E3CC088B3B04D83A0AC676D97E80E3F.jpg[/image]



THU_ DÃN CUỐI TUẦN


NGỒI XÚN XEM CHO ĐẦU THƯ DÃN
CUỐI TUẦN THAN DỮ MỆT THÌ THUI !
.........................................................................

13 đoản văn của học sinh trong nước.
HẬU SINH KHẢ...Ố !

Câu chuyện 1

Chí Phèo & Thị Nở

Vào một đêm trăng sáng, Chí Phèo gặp Thị Nở trong vườn chuối. Chí ôm chặt Thị định dở trò.

Lúc đầu Thị Nở cũng định phản ứng, nhưng rồi thấy xung quanh vắng vẻ (--> có kêu cũng không ai nghe), mà Chí lại ôm chặt quá, nên rồi Thị cũng mặc kệ.

Câu chuyện 2

Em hãy phân tích tấm lòng người mẹ của bà cụ Tứ trong chuyện 'Vợ nhặt' của nhà văn Kim Lân.

¨Trong cuộc sống sinh hoạt đời thường, hàng ngày chúng ta đã từng được thưởng thức rất nhiều loại lòng, như lòng lợn, lòng bò, lòng gà, lòng vịt chúng đều rất ngon và có vị riêng biệt khác nhau, nhưng tất cả đều không thể bằng lòng.... mẹ¨

Câu chuyện 3

Em hãy tả con gà trống nhà em:

'Chú trống choai nhà em lớn nhanh như thổi, càng lớn chú càng giống gà mái'!?

Câu chuyện 4

Ðề: Phân tích bài Viếng lăng bác.

Một học sinh viết:

Con ở miền Nam lăn ra thăm Bác

Tác giả là người có thân phận thắp hèn (con ở) nhưng cũng tích góp được tiền của để một lần được đi thăm bác. Trên đường đi, tác giả đã gặp bao nhiêu nguy hiểm, phải đi qua giữa hai làn đạn đang giao chiến nên tác giả đã phải lăn qua....'

Câu chuyện 5

Em hãy tả hình dáng và tính tình một cụ già mà em rất kính yêu¡¨ - là đề tập làm văn trong kỳ thi tốt nghiệp tiểu học vừa diễn ra ở tỉnh nọ. Xin trích nguyên văn từ bài làm của học sinh :

- Hình dáng của bà nội rất là thấp được hai mét rưỡi dáng đi rất chậm chạp, mắt thì lừ đừ ít thấy gì nữa¡K Tính tình cụ già rất là bực bội¡K Khi bà nội cười liền nhe mầm răng ra còn được ba bốn cái gì mà thôi.

- Con mắt của bà tròn như hòn bi, mũi có hai cái lỗ, cụ già có hai cái tai, tóc của bà đã bạc phơ. Cổ ngắn gọn, thân của bà 2, 3 thước, bà có hai cái tay, có hai cái chân.

- Bà cụ ngoài 40 tuổi. Hình dáng bình thường, chiều rộng ba mươi, chiều cao một mét sáu.

- Khi cười miệng bà em móm mém như miệng cái hố.

- Khuôn mặt ông bầu bĩnh; đôi mắt ông như mắt bồ câu trắng; dáng đi của ông rất hoang thai và cái miệng của ông như trái tim rất mảnh liệt.

- Ông của em dài thì bằng 1 mét và không mập.

Câu chuyện 6

em hãy tả bạn em

'bạn em ko cao ko thấp, trung bình. bạn em ko gầy, ko béo, trung bình. bạn em ko đen ko trắng, trung binh. bạn em ko giỏi ko kém, trung bình...'

Câu chuyện 7

em hãy tả đêm giao thừa

'em bước ra sân để chuẩn bị thắp hương giao thừa. ánh trăng tròn vằng vặc soi rõ khu tập thể, làm những chiếc lá sáng lên loang loáng...'
Cái này thì phải nói là 'sáng như đêm ba mươi'

Câu chuyện 8

em hãy kể lại tác phẩm Tắt đèn của NTT

'Chị Dậu rón rén bưng bát cháo hành vào cho anh Pha ăn'!!!!

Câu chuyện 9

Trích bài văn bình tác phẩm Tắt đèn

'Chị Dậu, như người ta vẫn nói 'con giun xéo lắm cũng quằn', đã nói với bọn lính lệ như thế này 'Mày động vào chồng bà đi, rồi bà cho mày xem'. Và chị cho chúng nó xem thật.'

Câu chuyện 10

'áng văn' độc đáo

'Nhà em có một con gà. Buổi sáng thức dậy, nó nhảy từ dưới đất lên nóc chuồng, rồi lại nhảy lên đống củi, vỗ cánh và gáy ầm ĩ. Tức mình, em ném nó què chân'.

Câu chuyện 11

'Tưởng tượng mình là Thánh Gióng lên tâu với Ngọc Hoàng những việc mình đã làm dưới trần gian'

'Lên đến cổng trời, ta gặp ngay ông Thiên Lôi, ông ấy cười khà khà vỗ vai ta và rủ ta vào nhà ông ấy làm vài chén rượu cho đã'.

Câu chuyện 12

tả tiết học trong lớp

'... Cô giáo em đang giảng bài, bỗng nhiên có tiếng gõ cửa như làm ám hiệu: Cạch... cạch... cạch. Và sau làn kính mờ là một bóng đen đứng lặng im. Cô giáo em rón rén ra mở cửa, cả lớp im lặng hồi hộp... Trời! Thì ra là bác hội trưởng hội phụ huynh của lớp...'

Câu chuyện 13

giải thích câu tục ngữ 'Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh'

'Câu tục ngữ nói lên sự dã man của bọn giặc cướp, khi đã tràn vào làng mạc, nhà cửa thì không cứ đàn ông, mà cả đàn bà, trẻ em chúng cũng đánh đập, hành hạ...'

NGUỒN : INTERNET
<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.04.2011 02:10:50 bởi Phù Vân >
Attached Image(s)
Phù vân 09.04.2011 14:45:08 (permalink)
0
ĐỨC TIN TÔN GIÁO

Có những diều kỳ diệu mà Khoa Học phải bótay.com.
Tôn giáo là một cái gì thiêng liêng mà nhân lọai lấy làm nơi nương tựa của linh hồn.
Tôi tin rằng nhục thân của các Thánh Kitô giáo sẽ trường cửu với thời gian.
Xá Lợi các Tăng Sỹ đạo hạnh Phật Giáo lưu lại cho hậu thế cũng đã minh chứng Đức Tin là tuyệt đối.
Đây là những Thông Điệp và bằng chứng cụ thể mà đấng tòan năng đã chỉ ra cho con người nên biết sống cho có đạo đức với Tình Thương Yêu , Hạnh Nhẫn Nhục ,Tính Hy Sinh và Lòng Tha Thứ.

PV 
...........

 Bí ẩn xác Thánh không hư nát!



Nhục thân của các vị thánh " bất - hoại " là một vấn đề rất huyền bí mà đến nay khoa học chưa giải thích được

Có những thi thể không bị rữa nát qua thời gian dù không trải qua bất cứ sự can thiệp kỹ thuật nào. Hiện tượng có vẻ đi ngược với quy luật tự nhiên này được gọi là nhục thân bất hoại (incorruptible body).

Thánh Bernadette (Lourder, Pháp) là một ví dụ điển hình. Bà qua đời ở tuổi 35. Và 30 năm sau đó (1909), vì một nghi lễ tôn giáo, nhà thờ đã khai quật mộ. Đại diện nhà thờ, bác sĩ phẫu thuật và những người chứng kiến đã vô cùng kinh ngạc khi thấy thi thể của bà vẫn nguyên vẹn, dường như đang trong một giấc ngủ dài.

Thánh Bernadette trong quan tài pha lê

Bác sĩ phẫu thuật Tourdan đã ghi lại những gì ông quan sát được: “Cỗ quan tài của bà được mở ra dưới sự chứng kiến của mọi người trong đó có tôi. Di hài của Thánh Bernadette trong trang phục yêu thích của bà không hề có mùi xú uế. Khuôn mặt, bàn tay và cẳng tay lộ ra bên ngoài. Đầu của bà nghiêng sang một bên, miệng hé mở có thể nhìn thấy hàm răng trắng. Hai tay đặt trên ngực, vẫn giữ được lớp da hoàn hảo”. Gia đình của Thánh Bernadette đã làm lễ tắm rửa, thay quần áo và quan tài cho bà. Di hài của bà được đặt vào một vị trí mới sâu trong nhà mồ.

Vào năm 1913, Đức Giáo Hoàng Pius X phong Chân Phước cho Bernadette. Điều này đồng nghĩa với việc mộ của bà được mở ra một lần nữa. Việc này bị gián đoạn đến năm 1919 vì cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Điều kinh ngạc là ở lần khai quật này, di hài của bà vẫn nguyên vẹn.

Năm 1925, Thánh nữ Bernadette được Đức Giáo hoàng Pius XI phong Thánh. Lần thứ ba, mộ bà được mở ra. Di hài được đưa vào một quan tài bằng pha lê cho mọi người chiêm ngưỡng và quàn tại nhà nguyện ở Nhà thờ Lourder cho đến tận ngày nay vẫn còn, nếu có dịp xin mời các bạn đến thăm để được tận mắt chứng kiến.

Hùng hồn không kém là thi hài của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII (Đấng triệu tập Thánh Công Đồng Chung Vatican II năm 1962). Ngài qua đời ngày 03/06/1963 khi Công Đồng vẫn đang diễn ra, và sau đó Đức Hồng Y Montini lên ngôi với hiệu triều Đức Thánh Cha Phaolô VI tiếp tục Thánh Công Đồng.

This image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 600x450 and
weights 81KB.

Thi hài của ĐTC John XXIII được đặt ngay bên dưới chân bàn thờ chính của Đền thờ thánh Phêrô để dân chúng chiêm ngắm

38 Năm sau ngày ngài băng hà, Tòa Thánh tiến hành các thủ tục tôn phong Chân Phước cho ngài, khi mở quan tài để kiểm tra thì phát hiện xác chết của ngài không hề mảy may hư nát và thối rữa. Thời gian sau, ngài được tôn phong Chân Phước (Beautification).
Hiện nay, thi hài của ĐTC Gioan XXIII đã được đưa lên đặt trong 1 quan tài bằng pha lê bên dưới bàn thờ chính của Đền thờ Thánh Phêrô để dân chúng có thể kính viếng và chiêm ngắm. Nét mặt ngài vẫn giữ nguyên sức sống và cơ thể không hề bị tẩm ướp bằng bất cứ loại hóa chất nào. Hầm mộ cũ trước đây nơi đặt quan tài của ngài bây giờ đã được thế chỗ bằng quan tài của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II.


This image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 800x600 and weights 128KB.
 
Di hài Đức Thánh Cha John XXIII

Các tài liệu tôn giáo ghi nhận nhiều trường hợp các vị thánh “nhục thân bất hoại”. Thánh Jean Marie Baptiste Vieanney [Gioan Maria Vianê] (1786-1859) được khai quật năm 1904, xác cũng còn nguyên vẹn. Thánh Francis Xavier [Phanxicô Xaviê] (1506-1552) được chôn cất tại một đảo ở Trung Quốc trong quan tài bằng gỗ. Khoảng 2 tháng rưỡi sau, người ta khai quật mộ ngài để di chuyển, thấy thánh thể vẫn như lúc sống. Hiện nay di hài 400 năm tuổi của ngài vẫn còn nguyên và được lưu giữ tại thành Goa (Ấn Độ).

Các tài liệu tôn giáo nhìn chung đều cho rằng hiện tượng các vị thánh đạt tới nhục thân bất hoại là do sức mạnh siêu nhiên của Thiên Chúa, hoặc tu luyện đến độ gột rửa sạch mình đến mức cơ thể không thể bị phân hủy.
Các nhà khoa học vẫn đang tiếp tục nghiên cứu hiện tượng này, nhưng theo một hướng khác tuy nhiên vẫn chưa có lời giải. Một giả thiết được đưa ra là trong những điều kiện môi trường, vật chất khá đặc biệt (như nhiệt độ, độ ẩm, yếm khí), vi khuẩn bị tiêu diệt làm quá trình phân rã theo tự nhiên không thể thực hiện. Nhưng xem ra giả thiết này không phù hợp, vì khi họ đưa xác các Thánh ra điều kiện môi trường bình thường, nó cũng không bị hư nát.


Di hài Thánh Vincent de Paul [Vinhsơn Phaolô]

Cho đến nay, chưa có cơ sở nào để giải thích hiện tượng nhục thân bất hoại. Hiện tượng này đang bị bao phủ bởi một bức màn kỳ ảo, và tất cả vẫn đang là giả thiết. Khoa học đang đau đầu khi tiếp cận với các thế lực của siêu nhiên.


Di hài Thánh Catherine Laboure (1806-1876)

Có rất nhiều trường hợp các Thánh khác xác không thối rữa và hư nát, ngược lại còn bốc mùi của hương hoa hồng như thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Thánh Martinô de Porrés...nhưng không liệt kê ra ở đây vì chưa kiếm thấy tài liệu hình ảnh,sẽ post ngay khi kiếm được ảnh chứng thực như các ảnh trên.

Nguồn: English Wikipedia + Báo Khoa Học




<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.04.2011 02:03:41 bởi Phù Vân >
Phù vân 10.04.2011 00:43:50 (permalink)
0
   



 

 

GỬI EM CÔ HÀNG CHÈ SEN
 

giá áo đa mang oằn vai nặng

túi cơm lủng lẳng phẳng phiu sờn

nhật nguyệt cuồng cơn_ tâm tĩnh động

phù vân huyễn mộng_ giọt sương đong  

mưa tạnh đầu Đông _tây ửng nắng

Xuân đơm _Hạ chớm_ tận Thu tàn

nghe vẳng nhặt khoan lời quan họ

mái đình bụi đỏ ngõ xanh rêu

triền đê Quốc đã kêu khàn giọng

Sông Thương biển nhớ vọng sơn hà

bát Chè Sen phả hương thơm ngát

tha hương Lạc Việt lạc tìm nhau

công tướng khanh hầu nhòa hư ảnh 

rơm Thơ lửa Nhạc Họa Tranh thành

tao đàn tri khách kim bằng bạn

mấy chén trà xanh sánh bát vàng

túi thơ hào sảng treo bờ ngạn

khúc cầm chao cánh nhạn tìm sang

 

tặng RauMún, chào mừng Chè Sen Quán

thunglũnghoavàng April.9.2011

PhùVân

 




 
Trong thời gian chờ đợi CHÈ SEN QUÁN KHAI TRƯƠNG , kính mời quý khách thư giãn với :


http://mp3.zing.vn/bai-hat/Chen-Tra-DzuyLynh/IW687UD0.html


[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/98451/C812EDE0C0394F7C8AD5992A96B2FB34.jpg[/image]
<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.04.2011 02:53:29 bởi Phù Vân >
Attached Image(s)
Phù vân 10.04.2011 01:56:07 (permalink)
0
 


[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/98451/55F4C536A8D140AF966148AFCFED12D4.jpg[/image]

THIỀN CA : BỌT BIỂN
 
 
 
sáng tác & trình bày : Dzuylynh
                                                               
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.04.2011 08:02:53 bởi Phù Vân >
Attached Image(s)
THƯƠNG GIANG 10.04.2011 06:47:38 (permalink)
0




 

tặng RauMún, chào mừng Chè Sen Quán





Cám ơn  anh  đã tặng TG món quà này nghen!


<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.04.2011 08:51:40 bởi THƯƠNG GIANG >
dzuylynh 10.04.2011 08:26:03 (permalink)
0
cô hàng chè xanh Thương Giang còn mãi chèo ghe hái cánh sen hồng về ứớp trà đãi khách giữa mênh mang bạt ngàn Liên Hoa ngào ngạt...
kính mời qúy bằng hữu dạo một vòng các quốc gia có truyền thống thưởng ngọan
về lọai nước giải khát thuần khiết lâu đời nhất trên hòan vũ này với dzuylynh nhé !
 từ lâu , nghệ thuật uống trà đã được nâng lên thành ĐẠO  : TRÀ ĐẠO.
 Đạo Trà khác hẳn với đạo thơ , đạo nhạc , đạo tranh , đạo văn... !
 
TẢN MẠN VỀ TRÀ ( còn gọi là CHÈ )
 

Phiếm Luận Về Nghệ Thuật Uống Trà - Trà Đạo






BÀI 1 : Trà Sen và phong cách uống trà Việt Nam

Muốn có trà ngon người ta phải ướp từ những loại trà khô như là trà mộc (black tea), trà xanh (green tea) hay trà Ô long có màu nâu sẫm. Ướp trà là một kỳ công phối hợp tinh tế giữa phong cách tao nhã, sành điệu và "ỷ thuật vi tế”. Ướp trà thường dùng các loại hoa sen, hoa cúc, hoa ngâu, hoa lài, hoa sói. Mỗi loại hoa làm cho trà có một hương vị khác nhau. Ðôi khi người ta ướp với cam thảo hay sâm để khi uống trà cảm thấy vị ngọt ở cổ họng và tinh thần phấn chấn.

Trà ướp hoa là hội tụ đỉnh cao của cái tinh tế, phong cách tao nhã, thanh lịch và sành điệu của người Tràng An. Trong đó, hoa sen là thứ hoa thông dụng nhất mà cũng quý nhất, ướp trà ngon nhất. Ðiều này được nhiều nhà trà học lý giải "bởi quan niệm về hoa sen trong đạo Phật của người Á Ðông. Hoa sen vốn dĩ là thứ hoa rất thanh cao mọc lên từ bùn lầy, điều đó tương tự như chữ Danh mà người quân tử rất coi trọng vậy". Hương hoa sen là những gì tinh tuý của trời đất tụ lại. Vì vậy, trà ướp sen là vật phẩm quý giá, xưa kia chỉ dành cho những hàng vương tôn công tử và những gia đình quyền quý. Còn theo Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720-1791) thì "Cây sen hoa mọc từ dưới bùn đen mà không ô nhiễm mùi bùn, được khí thơm trong của trời đất nên củ sen, hoa sen, tua, lá... đều là những vị thuốc hay".

Sen để ướp trà phải dùng loại sen bách hoa, phía bên trong các cánh hoa lớn có hàng trăm cánh nhỏ ôm sát vào nhau, che úp nhụy hoa, gạo sen và gương sen. Mua sen bách hoa về,(hoa sen phải hái trước lúc bình minh, phải lựa những ngày nắng ráo, tránh sau ngày mưa ) bóc từng lớp cánh sen, kế đến tẽ những hạt trắng ở đầu nhụy hoa (gạo sen), trộn chung với trà, ủ trong vò kín từ một đến hai ngày cho gạo sen quắn lại rồi mới đưa trà lên sấy khô bằng than hay bằng nước nóng cách thuỷ. Phải giữ cho nhiệt độ vừa phải và điều hoà để không mất mùi hoa. Ứơp một kí-lô trà phải dùng tới hàng trăm bông sen, và phải làm nhiều lần như thế mới dùng được. Công phu là thế nên một ấm trà sen có thể uống hàng chục tuần trà. Nước trong rồi, hương sen còn ngan ngát. Uống một tách trà vào thấy tinh thần tỉnh táo, thoải mái làm sao! Nhiều nghệ nhân về trà còn tiết lộ: "Muốn có trà ngon, chỉ hái những búp trà loại "một tôm hai lá" và phải hái nhanh, nhẹ nhàng, không để búp bị nhàu nát. Loại trà ngon là sau khi sao phải còn lại một lượng nước nhất định từ 5-7%. Trà hái xong không ướp hương ngay mà phải để trong chum đất, trên ủ lá chuối, để từ 2-3 năm nhằm làm giảm độ chát và để cánh trà phồng lên hút được nhiều hương. Một cân trà ướp hương sen cần có 800-1000 bông sen, mà phải đúng loại sen ở đầm Ðồng Trị, Thuỷ Sứ, làng Quảng Bá, Hồ Tây hoặc là sen ở hồ Tịnh Tâm-Huế (sen ở đây to và thơm hơn sen những nơi khác)."

Cụ Nguyễn Tuân ca ngợi kiểu ướp hương trà bằng cách bỏ trà mạn vào bông sen mới nở, buộc lại. Thực ra, cách chơi ngông đó của Cụ Nguyễn vừa rất cầu kỳ vừa không để trà được lâu (hay bị mốc) và hay bị mất hương, chỉ có thể dùng cho lượng trà rất ít và phải uống ngay.

Trà Phong Việt Nam (Phong cách uống trà Việt Nam)
Người Nhật có lối uống trà rất khác biệt với các dân tộc khác, khi uống trà họ phải tuân giữ một vài nghi thức nên gọi là Trà đạo. Ðối với Trung Hoa và Việt Nam, lối uống trà chỉ được coi như là nghệ thuật mà thôi, nghệ thuật thì không cần phải khuôn sáo hay công thức.

Phong cách uống trà của Việt Nam không hề bị ảnh hưởng của Tàu hay Nhật như quan niệm cuả nhiều người. Nghệ thuật uống trà phản ảnh phong cách văn hoá ứng xử của người Việt Nam.Trong gia đình truyền thống, người nhỏ pha trà mời người lớn, phụ nữ pha trà mời các ông. Người ta có thể uống trà trong yên lặng suy gẫm như để giao hoà với thiên nhiên, như để tiếp cận giữa con người với môi trường, như để nhận xét, để thảo hoạch những dự án phúc lợi cho đại chúng. Khi đã trở thành thói quen rồi thì khó mà quên được.Trà đồng nghĩa với sự tỉnh thức, sáng suốt, mưu cầu điều thiện, xa điều ác.

Theo truyền tụng, hình thức uống trà được khởi nguồn từ các chùa chiền gọi là Thiền Trà. Các nhà Sư thường uống trà trước các thời công phu sớm chiều. Cuộc đời trần tục nhiều hệ lụy, trà giúp cho con người tỉnh được mộng trần, rửa được lòng tục, xoá tan cảm giác tĩnh mịch chốn thiền môn. Ngày nay chỉ còn ngôi chuà Từ-Liêm ngoài Bắc là giữ được nghi thức Thiền Trà này.

Sau đó, trà được ưa chuộng trong giới quý tộc, trong cung đình như là một bằng chứng của sự quyền quý, để phân biệt với giai cấp thứ dân trong xã hội phong kiến.

Kế đến, trà chinh phục các tầng lớp trung lưu, nhất là các nhà Nho, các chú học trò "dài lưng tốn vải ăn no lại nằm", mượn bộ ấm trà để bàn luận văn chương thi phú, để tiêu khiển giải trí sau những giờ điên đầu vật vã với tứ thư ngũ kinh.

Do đó, dần dà uống trà là một lối tiêu khiển thanh đạm được tất cả mọi giới ưa chuộng. Pha trà mời khách cũng phải tốn nhiều công phu hàm dưỡng và trở thành một nghi thức. Trà-phong Việt Nam thật là trân trọng ở cách dâng mời nhiều ngụ ý. Dù mưa nắng, sớm chiều, buồn vui khách không thể từ chối một chung trà trong khi gia chủ trang trọng hai tay dâng mời.

Mời trà là một hành vi biểu hiện phong độ thanh nhã và hiếu khách của hầu hết các gia đình Việt Nam. Kỵ nhất là tiếp khách bằng những tách trà còn đóng ngấn hoen ố nước trà cũ. Cũng không bao giờ tiếp khách bằng một ấm nước trà nguội. Tách trà tiếp khách là thể hiện những tình cảm tối thiểu nhất, không thể tuỳ tiện coi thường, dù không nhất thiết phải là loại trà thượng hảo hạng.

Uống trà cũng phải uống từ ngụm nhỏ, để cảm nhận hết cái dư vị thơm ngon cuả trà, cái hơi ấm cuả chén trà tỏa vào hai bàn tay ấp ủ nâng chén trong muà đông tháng giá, làm ấm lòng viễn khách. Uống trà là một cách biểu thị sự tâm đắc, trình độ văn hoá và cảm tình cùng người đối thoại. Trong ấm trà ngon, người cùng uống tâm đầu ý hợp, dưới ánh trăng thanh gió mát, ngắm khung cảnh tĩnh mịch của núi rừng mà luận bàn thế sự thì không còn gì thú vị hơn nữa. Chỉ có những tao nhân mặc khách mới thưởng thức được trọn vẹn cái phong vị cuả cách uống trà này, chứ không phải như kẻ phàm phu tục tử bưng ly trà to tổ bố lên uống ừng ực, người ta gọi là "ngưu ẩm" hay là uống như trâu uống nước.

Ngoài các lối uống trà đơn giản đến cầu kỳ trong các gia đình Việt Nam, các cụ ngày xưa còn có những hình thức hội trà. Ðó là uống trà thưởng xuân, uống trà thưởng hoa, uống trà ngũ hương. Hội trà là tụ họp những người bạn sành điệu cùng chung vui trong các dịp đặc biệt hoặc có hộp trà ngon, hay có một chậu hoa quý hiếm trổ bông, hay trong nhà có giỗ chạp.

Thưởng trà đầu xuân là thói quen cuả các cụ phong lưu, khá giả. Trước tết, các cụ tự đi chọn mua các cành mai, đào, thuỷ tiên hay các chậu hoa lan, hoa cúc ở tận các nhà vườn, và chuẩn bị đầy đủ các thứ cần thiết, nhất là một hộp trà hảo hạng. Sáng mồng một, cụ pha một bình trà và ngồi chỗ thích hợp nhất, thường là giữa nhà. Cụ ngồi tĩnh tâm, ngắm nhìn những đoá hoa nở rộ, thưởng trà. Khoảng 8 giờ sáng, cả đại gia đình sum họp quanh bàn trà chúc thọ cụ và nghe những lời dặn dò của Cụ. Trẻ con thì chờ lì xì.
Uống trà thưởng hoa quý như hoa Quỳnh, hoa Trà, cũng là cái thú của nhiều người. Khi nhà cụ nào có một chậu hoa trổ, cụ chuẩn bị và mời các bạn già sành điệu tới ngắm hoa, luận bàn thế sự, hay dặn dò con cháu.

Hội trà ngũ hương chỉ giới hạn có năm người thôi. Trên khay trà có năm lỗ trũng sâu, dưới các lỗ trũng đó để năm loại hoa đang độ ngát hương : Sen, Ngâu, Lài, Sói, Cúc. Úp chén trà che kín các hoa lại rồi mang khay để trên nồi nước sôi cho hương hoa bắt đầu xông lên bám vào lòng chén. Pha bình trà cho thật ngon rót đều vào từng chén, mỗi người tham dự sau khi uống trà phải đoán hương trà mình đã uống và nhận xét. Sau mỗi tuần trà lại hoán vị các chén trà để mọi người đều thưởng thức được hết tinh tuý của năm loại hoa.


 BÀI 2 : Nghệ Thuật Gốm Trà Việt Nam

Việt Nam đã biết đến trà thời Ðông Hán, nhưng trà đạo Việt thành hình vào đời nhà Ðường, theo các nhà sư Phật giáo và Giao Châu. Sách Trà Kinh của Lục Vũ nhập đề rằng "trà là loài cây lớn ở phương nam". Chứng tích trà đạo Việt còn lưu lại trên những bình bát trà gốm Việt Dao từ thời bắc thuộc, lên đến tột đỉnh thời Phật giáo Lý, Trần. Ðạo trà Việt cổ là đạo mà không đạo, đạo vô môn quan: không cửa vào, không lối ra.

Tương truyền Bồ Ðề Ðạt Ma từ Tây Trúc sang Tàu chín năm ngồi ẩn trong hang thiền định. Mắt sụp xuống buồn ngủ, ông cả giận bứt mi mắt vất xuống đất, chỗ ấy mọc thành cây trà đầu tiên. Chuyện hoang đường này cốt đồng hóa trà cho sự thức tỉnh Ðịnh Huệ. Hoa ngữ Ch"a (Trà) và Ch"an (Thiền) nghe đồng âm và đồng nghĩa. Từ đó, trà là bạn người tu thiền như hình với bóng. Tổ thứ sáu thiền Tào Khê là Huệ Năng, tự nhận là người Man di miền Ngũ Lĩnh, xứ của trà.

Lục Vũ là một cuồng sĩ đất Hồng Tiệm đời Ðường, thường lang thang ngâm thơ rồi khóc rống. Ông để lại cho đời sách Trà Kinh gồm ba quyển bàn về trà, gốm trà, cách pha và uống trà, được người đời sau gọi là ông tiên trà, thờ làm sơ tổ trà đạo Trung Quốc.

Trà Kinh chép: Trà là loài cây quý ở phương Nam, cây như cây qua lô, lá như lá chi tử, hoa như hoa bạch tường vi, trái như trái banh lư, nhụy như nhụy hoa đinh hương, mùi vị rất hàn (lạnh).

Sách Quảng Bác Vật Chí chép: cao lư là tên riêng của một thứ trà, lá to mà nhụy nhỏ, người nam dùng để uống.

Trà Kinh lại chép: "Người phương Nam có cây qua lô giống như lá trà non mà nhụy đắng, giã nát ra pha trà mà uống thì suốt đêm không ngủ. Ở Giao Châu và Quảng Châu người ta rất quý thứ này, hễ có khách đến nhà thì trước hết bày ra đãi khách". Theo lời Ðào Hoàng Cảnh, một ẩn sĩ tài hoa đời Nam Bắc Triều thì bọn xử sĩ trong thiên hạ rất chuộng thứ trà này.

Theo sách Nghiêm Bác Tạp Chí trích lời Lý Trọng Tân học sĩ nói: "Trà ở Giao Chỉ như rêu xanh, vị cay gắt gọi là trà đăng" (tức là mạt trà). Những núi ở huyện Ngọc Sơn, tỉnh Thanh Hóa có trồng thứ trà này. Cây trà mọc liên tiếp che khắp rừng. Người bổn thổ hái lá, giã cho nát, phơi khô trong bóng mát, nấu mà uống, tính nó hơi hàn, có thể làm mát tim phổi và ngủ ngon.

Cửu Chân, tên gọi Thanh Hóa đất Việt cổ có: núi đặt tên chữ là Trà Sơn, người ta gọi nôm là núi Chè. Sách An Nam Chí lược chép: nhà Trần mỗi lần đi sứ nhà Nguyên đều cống trà thơm làm thổ sản quý.

Cái đẹp của Bát Trà

Ðời xưa, khi nhà Tống bên Tàu dựng nghiệp, chọn núi Thiên Mục ở Triết Giang làm chủ sơn, phúc địa mong cầu vững bền triều đại. Nhà Lý bên ta chọn núi Tiên Du; cũng như nhà Trần ngóng về núi Yên Tử, nơi vua dựng nhà Trần lui về ẩn tu sau việc nước.

Từ thuở triều Hán, Ðường, Tùy sứ ta đã chế được thứ gốm tên gọi Việt Dao. Gọi tên như thế để chỉ thứ "men tro" trổ màu xanh biếc như ngọc cổ. Sách Tàu chép Việt Dao phát sinh từ Nam Việt miền Ngũ Lĩnh, chứ không nói rõ đất Giao Châu, Cửu Chân. Di chứng khảo cổ học, trên đất ta nay tỏ rõ thời ấy ta đã làm được gốm Việt Dao, mà lại làm một số lượng rất lớn, khởi từ những giọt men xanh nhiễu đọng trên thân gốm, mà nay xếp vào loại gốm "Hán bản địa".

Từ màu xanh bích ngọc đời Bắc thuộc đến màu xác trà đời Lý, Trần, những bát trà Việt ra đời song song bát trà Ðường, Tống bên Tàu. Người Việt vẫn trung thành sở thích sắc màu Việt Dao của dân tộc đến mãi thế kỷ 15. Hóa ra Việt Dao là chữ gọi dân tộc ngày nay ta vẫn mang tên, là người chế ra men gốm tiền thân gốm men ngọc (proto-celadon) lừng lẫy Ðông phương.

Ðời Lý, Trần đã làm ra rất nhiều các thứ liễn, bình đựng nước pha trà đi đôi với các loại bát trà mang thần thái đặc thù Ðại Việt. Bình trang hoàng tòa sen chạm nổi, âu bát vóc dáng chẳng khác nào bình bát các tăng sư. Làng nào cũng có đình chùa. Bát trà cũng là vật không thể thiếu được trong các đồ tế nhuyễn bày trên điện thờ, cũng như cúng vào chùa chiền để các sư uống trà. Nghệ phẩm từ các làng gốm như chở chuyên hồn đạo, tiếng chuông mõ sớm hôm, mùi trầm nhang quyện trong không gian lũy tre làng trên đất nước. Thiền gốm Lý, Trần đã mang cung cách rất Việt Nam. Văn bia đời Lý do sư Pháp Ký soạn cho thầy là sư Tịnh Thiền ghi rằng "Chỗ uống trà là chỗ thập phương thí chủ dồn về". Chỗ uống trà tức là cửa Phật. Nay ngắm những trà khí cổ, ta mới biết phép uống trà Việt lồng trong thiền vị từ thuở đầu dựng nước, đưa hình sắc của tâm linh đến cả đại chúng.

Bát trà Việt trong trà đạo Nhật

Tại nền chùa cổ Dazaifu Kanzeon-ji người ta đào được những mẫu gốm vỡ của bát trà Ðại Việt đời Trần, kề bên mảnh ván mục còn đọc được vết mực ghi niên đại tương đương năm 1330. Trước đó, đã có những trà khí Ðại Việt xưa hơn vào chốn tăng đường Nhật.

Ðầu thế kỷ 13, thượng sư Eisa từ Trung Hoa mang về Nhật Bản lần đầu giống cây trà. Sau đó, đệ tử Ngài là sư Dogen sang du học tại chùa Thiên Mục Sơn, khi về nước có người hỏi sư học được gì, sư đáp: "Không có chi nhiều ngoài pháp an tâm". Pháp an tâm sư mang về cùng trà đạo và bát trà Thiên Mục (tiếng Nhật gọi là Temmoku). Dogen được coi là sư tổ của trà đạo Nhật Bản vậy.

Cũng như Ðại Việt, bấy giờ Phật giáo Nhật bén rễ vào giới thế quyền. Tăng sư là khách quý của các sứ quân và bọn phú hào. Họ học Phật rồi tiêm nhiễm luôn đạo thưởng trà. Uống trà nhằm luyện con người khu trừ những chướng ngại phiền não, để đạt chỗ rốt ráo của an bần lạc đạo, hòa đồng với Tự Nhiên, tức là Chân Như.

Uống trà, hành trà đạo phải có các trà khí mà ngành gốm Nhật bấy giờ rất phôi thai. Nên trà gốm từ Cao Ly, Trung Quốc, Ðại Việt đưa sang giá đắt, chỉ giới hạn trong hàng sứ quân và đại phú. Thay vì hấp thu nếp thanh bần, họ bèn mượn trà đạo làm trò trà dư tiêu khiển, đặt ra các quy tắc kiểu cách (Cha No Yu), muốn vào phải qua cổng Hữu Môn Quan. Trà đã đưa thiền vị đạm bạc vào trú ngụ chỗ đền các xa hoa. Trong khuôn viên cung đình nguy nga, các chúa công sai dựng nên trà thất bắt chước lều cỏ bần hàn của ẩn sĩ để hành trà đạo. Còn bên nước Việt, đạo đã từ cung cấm ra đi, bỏ phú quý phù vân để phiêu bồng nơi cảnh thật của "rừng trúc lắm chim" (Trúc lâm đa túc điểu) như thơ ngài Huyền Quang. Các vua Lý, Trần bỏ kinh về núi, thực hiện hạnh tầm đạo dẫm theo bước của thái tử Tất Ðạt Ða.

Từ bát trà Thiên Mục, về sau trà gốm Trung Quốc xa lìa hồn đạo, ngày càng tinh kỳ sắc sảo để thỏa mãn thị hiếu vua quan, kẻ nhà giàu thích trưng bày đồ mỹ ngoạn, thành kỹ nghệ xuất đi các nước. Lấy cảm hứng từ mầu xanh xác trà Việt Dao (proto-celadon), gốm Trung Quốc tiến hóa thành mầu men ngọc xa hoa (celadon), của lò Diệu Châu Bắc Tống, lò Long Tuyền Nam Tống. Trong khi nước Việt vẫn chuộng giữ mầu xác trà "thuận tự nhiên" cốt cách đạm bạc của tổ tiên.

Khi các trà sư Nhật ra tay đón nhận bát trà Việt ấy, con mắt trong tâm hồn họ như thoát nhiên thể ngộ được ấn chỉ tâm truyền ấy.

Quan hệ Trung Quốc, Nhật Bản sinh thù nghịch từ thế kỷ 14, hồi quân Nguyên Mông sang đánh Nhật, bị ngọn Thần Phong diệt. Khi nhà Minh lên ngôi, từ năm 1371 ra lệnh cấm dân duyên hải xuất ngoại. Ðến năm 1567, mới bỏ luật này, nhưng vẫn cấm vượt biển sang Nhật Bản vì nạn "Nuỵ khấu" (cướp lùn), quẫy nhiễu bờ biển Trung Quốc. Suốt mấy thế kỷ đó, Nhật đã tìm thấy nơi Ðại Việt của nhà Lê nguồn cung cấp tơ sống và gốm sứ.

Lúc này Ðại Việt đã làm sứ vẽ lam. Gốm sứ trà Việt nhập vào Nhật Bản nhiều hơn trước, đóng vai trò quan trọng trong nghệ thuật trà đạo Nhật Bản đang hồi cực thịnh. Không gò gẫm tỷ mỷ như bàn tày nghệ nhân đời Minh, mấy nét đơn sơ trên gốm Việt phóng bút cảnh chim trời, cá nước, sơn thủy, tùng thạch v.v... xuất cái thần vị Thiền Lão, chẳng khác nào tranh tốc họa Sumi-e, và thuật thư pháp, rất hợp với tâm hồn trà nhân Nhật, làm họ say mê. Vẽ gốm như vẽ tranh Thiền. Di sản tranh cổ họa Việt Nam ngày nay chừng như có thể thấy trên gốm cổ.

Nhật Bản là một dân tộc hoài cổ và có khiếu thẩm mỹ từ những vật nho nhỏ. Ngày nay trong các viện bảo tàng khắp nước này trân quý giữ những món trà khí Việt từ đời Lý - Trần - Lê - Mạc đã liên tục đến Nhật Bản qua bao thế kỷ. Trong hậu sảnh những thiền viện xưa, còn cất giữ những đồ tế nhuyễn và trà khí làm bởi những nghệ nhân vốn là người mộ Phật ở xứ Việt xa. Và trong lâu đài cổ, truyền thừa các sứ quân và giới phú hào ngày nay còn gia truyền các bộ gốm sứ Việt Nam làm báu vật. Bộ sưu tập gốm Việt trứ danh nhất của dòng họ thương nhân Ozawa Shrouemon từ Hội An trở về Nhật Bản năm 1638, khi chúa Tokugawa cấm dân Nhật xuất dương. Chiếc bát vẽ mầu "Beni-Annam" ngày ngày chúa Tokugawa ưa dùng thưởng trà nay là báu vật trong lâu đài của chúa ở Nagoya.
Dòng trà gốm đầu tiên Raku đã mang dáng bát trà Lý, Trần. Về sau truyền thừa dòng gốm này và các trường phái khác thường mô phỏng theo mỹ thuật gốm nước ta. Họ gọi là Annam Yaki để chỉ cho dòng gốm hoa lam của lò Chu Ðậu, Bát Tràng ở Ðàng Ngoài thời Lê, Mạc; và Kochi Yaki, tức gốm Cochin China xứ Quảng Nam Ðàng Trong của chúa Nguyễn về sau.

Sử Nhật chép vị sơ tổ dòng gốm Raku tên là Zengoro, còn một hiệp sĩ theo phò lãnh chúa Ashikaga, ông làm gốm tế nhuyễn cho thiền viện Kasuga, và trà khí cho tăng sư hành trà đạo. Con cháu về sau lấy đó làm nghiệp nhà.

Truyền thừa đời thứ 10, Zengoro Ryozen vẫn làm gốm lối gia truyền, và khởi đầu bát trà lừng danh Raku. Ông còn biệt tài mô phỏng trà gốm của An Nam (Annam Yaki) và Cochin China (Kochi Yaki). Ðến đời con nối dõi, Zengoro Hogen là một nghệ sĩ tài hoa nhất trong dòng họ. Ông nổi tiếng chuyên làm gốm ba mầu (tam thái) kiểu Kochi Yaki, gồm mầu lục, tím đỏ và vàng, mỗi mầu ngăn cách nhau bằng những nét chạm nổi. Hogen được lãnh chúa Tokugawa đất Kishu thu dụng và sủng ái, ban cho chiếc ấm bạc chạm tên Eiraku (Vĩnh Lạc) lưu danh trên tác phẩm, coi tài nghệ ông ngang hàng các tuyệt phẩm đời vua Minh bên Tàu cùng tên, đầu thế kỷ 15. Chúa còn ban cho ông một ấn vàng, chỉ được dùng đóng tên lên các món trà khí được chúa chuẩn nhận.

Năm 1659, một nghệ sĩ gốm người Tàu mà người Nhật gọi tên là Chin Gempin mở lò chuyên sáng tác những trà gốm bằng loại gốm tiêu biểu dòng Seto: mầu trắng rạn mịn tựa ngà cổ, mô phỏng kiểu gốm Bát Tràng của An Nam xuất sang Nhật Bản hồi trước. Ông trang trí trên gốm cảnh sơn thủy, hoặc đề thư pháp thơ cổ bằng mầu lam xanh.

Dòng gốm Kutani, chuyên làm gốm mầu sặc sỡ, trong đó có loại bắt chước làm gốm sứ cổ Tàu, Việt. Năm 1810, thương nhân giàu có tên Yoshidaya Denyemon tái dựng lại những lò gốm đã đóng cửa ở Kutani, để phục chế kiểu gốm Kochi Ðàng Trong Việt Nam đời trước.

Mokubei (1767-1833), là bậc văn nhân theo mẫu truyền thống đông phương. Ông làu thông kinh sách có khiếu làm thơ, vẽ tranh, tạo gốm, môn nào cũng tài hoa. Ông bắt chước làm các món sứ cổ, khéo léo chẳng phân biệt mới cũ đâu vào đâu. Ông đặc biệt mô phỏng các tiêu bản trà gốm Cochin China không sai sẩy, tác phẩm này nay trưng bày trong Viện Bảo tàng Nghệ thuật Tokyo.

Thế kỷ 20, những nghệ sĩ học giả Tây phương nào đến Nhật Bản bị cuốn hút trong đạo vị nền văn hóa nghệ thuật Nhật, dĩ nhiên đều mê say các cổ trà gốm Việt tại Nhật Bản. Các tên tuổi: William Willets, Stephen Addis, Hugo Munsterberg, Hazel H.Gorham, John Stevens... dày công nghiên cứu và giới thiệu cái đẹp trong văn hóa Nhật đến Tây phương. Qua họ, thế giới lần đầu tiên biết đến bát trà Việt trong trà đạo Nhật. Lừng lẫy nhất là nhà nghệ sĩ gốm kiêm đạo gia người Anh Bernard Leach, từng trải suốt đời học hỏi và sáng tạo tại Nhật Bản, được lão sư dòng gốm Kenzan thu nhận và ban ấn truyền thừa. Trong sự nghiệp tầm thầy học đạo, ông học qua thuật làm gốm nung Kochi Yaki, tức gốm Ðàng Trong Việt cổ tại Nhật Bản. Ông trân quý vô ngần một bát trà gốm trắng sứt mẻ đời Lý trong bộ sưu tập riêng mình. Về già, ông là bạn tâm đắc của Shoji Hamada, một đạo sư gốm Nhật Bản. Cả hai thuộc vào hàng bốn tên tuổi thượng thừa của ngành gốm hiện đại. Cả hai đều ưa thích sưu tầm bát trà cổ Việt, dùng đó làm tiêu bản học bí quyết làm gốm của cổ nhân.
Hai nước đều thấu nhập tinh hoa văn hóa Trung Quốc, nhưng nghệ thuật gốm trà Việt - chứ không phải Tàu - đã gây ảnh hưởng lớn trong lịch sử trà đạo Nhật, cho thấy tâm hồn và lòng rung cảm cái đạo Ðẹp của hai dân tộc đời cũ rất gần nhau. Nghệ thuật dân gian Nhật (mingei) mang những hình thái không khác mấy với nghệ thuật làng quê truyền thống Việt Nam.

(Theo Tạp chí Xưa và Nay)


 BÀI 3 : Nghệ Thuật Trà Đạo Tại Nhật Bản







Trà đạo là hoạt động uống trà đặc thù mang tính nghệ thuật, mang phong cách tình cảm riêng của người Nhật Bản, mà đặc điểm chính là pha trà và thưởng thức trà. Nghệ thuật này đã có hơn 500 năm lịch sử ở Nhật.

Người sáng lập trà đạo là một hòa thượng tên gọi Muratashu Mitsu. Ông đã tìm thấy hương vị tuyệt vời trong khi uống trà. Sau này, các đệ tử của ông đã phát huy ảnh hưởng và hình thành nên một môn nghệ thuật lưu truyền đến ngày nay.

Thời gian tổ chức trà đạo chia ra làm 4 loại: trà sáng (7h sáng), sau ăn cơm (8h sáng), giữa trưa (12h trưa) và câu chuyện buổi tối (6h tối).

Khách mời đúng giờ đến phòng nghỉ, gõ vào chiếc chuông gỗ báo hiệu đã đến. Chủ nhà nghe tiếng chuông sẽ từ phòng trà ra đón khách.
Trước cửa phòng trà có đặt một chiếc cối đá đựng đầy nước, khách phải rửa sạch tay trước khi vào phòng. Cửa ra vào có một ô cửa cao gần 3 thước để khách tháo giày đi vào. Khi bước vào phòng phải khom mình tỏ ý khiêm tốn. Nếu khách là võ sĩ thì phải tháo kiếm trước mới được bước vào để biểu thị không khí hòa bình.

Trong số khách, người tinh thông trà đạo được cử làm người chủ trì. Người chủ trì phải cạo trước đầu để biểu thị sạch sẽ, thanh khiết.




Trong phòng trà, một góc chiếu có đặt bếp lò và nồi nước bằng gốm, trước bếp đặt bộ đồ trà. Bộ đồ trà phải thô, nặng có men màu cam hoặc đen đậm dáng vẻ cổ kính.

Trong khi chủ nhân đun nước thì khách dùng điểm tâm. Món điểm tâm này hết sức tinh tế phải được làm căn cứ vào thời tiết.
Ví dụ: tổ chức trà đạo vào mùa thu thì món điểm tâm phải làm giống như lá phong hoặc hoa cúc. Trà để pha là loại bột trà xanh được chế biến cẩn thận bằng cách giã nát trong cối đá - người Nhật gọi là nghiền trà.




Có hai cách pha trà: pha đặc và pha loãng.
Trà đặc thông thường: ba người thay nhau uống một bát, mỗi người ba hớp rưỡi hết 1/3 bát. Trà loãng mỗi người uống riêng một bát.
Trà đặc có màu xanh đậm, hương thơm hơi chát. Chủ nhân múc hai muôi gỗ trà cho vào bát, đổ nước sôi, dùng que trúc khuấy đều để trà có nước đặc như bột đậu.




Bát đầu tiên mời người chủ trì, người chủ trì nâng bát trà ngang trán rồi mới uống. Khi uống phải chép miệng để tỏ ý thực sự được thưởng thức trà ngon của chủ nhân. Khi tất cả khách uống xong thì nghi thức trà đạo cũng kết thúc. Nhưng đôi khi còn một nghi lễ cao hơn là ăn cơm thường sau khi uống trà. Tuy gọi là cơm thường nhưng cũng thịnh soạn.

Trà đạo đã hình thành nhiều trường phái khác nhau, chủ yếu có ba trường phái lớn là: Risenka, Hyosenka và Bushakoro Senka. Mỗi nhà đều theo chế độ gia truyền - tức là con thường kế nghiệp bố làm người chủ trì trà đạo của gia đình đó.



Trà đạo ngày nay càng phổ biến hơn ở Nhật Bản, rất nhiều cô gái trẻ dồn tâm sức học tập trà đạo, tu nhân dưỡng tính để cuộc sống gia đình cũng như cuộc sống tinh thần phong phú và đẹp đẽ hơn

theo NHK .


 BÀI : 4  Nghệ thuật uống trà của Trung Hoa


LỊCH SỬ HÌNH THÀNH NGHỆ THUẬT UỐNG TRÀ CUẢ TRUNG HOA

 Sự phát triển của trà tại TQ chia làm 3 giai đoạn
• Giai đoạn 1: từ thời nhà Ngô đến thời nhà Đường:
Chính thức theo lịch sử thì trà chỉ mới được đề cập đến từ thời Tam Quốc, và đến tận đời Đường, người Tàu vẫn chỉ dùng các loại trà mọc hoang chứ chưa trồng và chế biến thức uống này. Trà cũng chỉ lưu hành trong giới thượng lưu miền Nam Trung Hoa chứ dân dã cũng chưa uống và tục uống trà chưa được coi như một thú thanh cao. Quả thực thời kỳ đó hai miền nam bắc Trung Hoa đời sống cách biệt như hai thế giới. Về cách uống cũng khác biệt,giữa hai bờ đai giang và nhất là dân du mục ngoài Trường Thành thì uống trà pha sữa trâu bò, dê, ngựa. Đến đời Tùy nước Tàu thống nhất thì những sinh hoạt mới lan truyền ra những vùng khác. Tuy việc uống trà đã phổ thông nhưng vẫn có một số đặc điểm khác ngày nay:
- Thứ nhất trà vẫn còn coi như một vị thuốc, chưa có mấy nơi coi như một thức uống.
- Thứ hai trà do dân chúng vào vùng hoang sơn dã lãnh hái về chứ chưa biết trồng thành đồi, thành vườn để sản xuất một cách qui mô.
- Thứ ba trà uống theo kiểu giản dị là hái lá vào đem nấu chứ chưa kiểu cách như sau này.
Tới đời Đường, khi Lục Vũ viết cuốn Trà Kinh thì trà mới trở nên phổ biến. Từ đó trở đi, nơi nơi đều uống trà, trở thành một phong trào và sản xuất trà cũng thành một lãnh vực kinh tế qui mô, đem lại một ngân khoản lớn cho triều đình.
Lục Vũ sinh ra và trưởng thành trong một thời kỳ thịnh trị văn hóa nhất trong lịch sự Trung Quốc , tại vùng Cánh Lăng, thuộc huyện Thiên Môn, tỉnh Hà Bắc ngày nay. Ông mồ côi từ nhỏ, được Trí Tích Thiền sư nuôi dưỡng trong Thiền Lâm từ bé. Dù ông không xuất gia, nhưng ông vẫn sống một đời đạo vị. Ông thích du lịch khắp nơi, luôn ẩn cư ở những vùng xa vắng. Sau này ôngrất nổi tiếng được vua và các đại thần ngưỡng mộ, các đại văn gia thi hào cũng rất kính trọng ông. Tên Lục Hồng Tiệm, tên tự này lấy từ Kinh Dịch “Hồng Tiệm Ư Lục, Kỳ Vủ Khả Dụng Vi Nhi”
Lục Vũ là tác giả của quyển trà thư nổi tiếng “Trà Kinh”, mà người đời sau xưng tụng ông là “Trà thần”. Vì ông không những là người phê bình lớn, một học giả lớn về trà mà còn là một trà thủ khó ai sánh bằng. Đề thấy rõ tài năng pha trà của ông, có một câu chuyện kể thế này.
Khi Lục Vũ bỏ chùa ra đi lần thứ hai, vị trụ trì chùa Long Cái và cũng là cha nuôi của ông đã không uống trà nữa. Đó là do ông có ai pha trà giỏi như Lục Vũ , và vị trụ trì cũng là một nhân vật nổi tiếng trong giới trà sĩ. Nhà vua muốn thử tài của hai người, xem có đúng như lời đồn hay không? Thế là nhân một dịp Lục Vũ được mời đến gặp vua, ông không cho ai biết vì muốn thử tài hai người và để hai cha con có cơ hội gặp nhau, nhà vua cho mời nhà sư trụ trì đến. Khi mời trà, lẽ dĩ nhiên nhà sư buộc phải dùng. Khi đó vua hỏi “Trà này có pha ngon bằng trà của Lục Hồng Tiệm không?”. Nhà sư nhắm một ngụm rồi đặt tách xuống không nói gì. Đến tách thứ hai, do chính Lục Vũ pha cho khách mà không biết đó là cha mình. Nhà vua thì đợi “lột áo” nhà sư. Nhưng vừa uống xong một ngụm, nhà sư bỗng sáng mắt vui mừng, lên tiếng “Muôn tâu hoàng thượng, tuyệt, tuyệt hảo, Lục vũ chẳng thể nào tài hơn thế được…” Nhà vua cả cười đứng dậy, cho mời Lục Vu ra cho hai cha con gặp mặt.

Trà Trung Hoa có nhiều loại và thay đổi theo thời gian. Vào đời nhà Đường, người Trung Hoa phơi nắng lá và nghiền nhuyễn lá trà để làm nổi bật hương vị của trà. Sau đó, trà được đãi lược, hấp và ép vào khuôn đúc và đặt trong những gian phòng có nhiệt độ cao để sấy khô. Theo Bressett (1998) trà ép khuôn được dùng làm tiền tệ cho một số vùng tại Á Châu như tại Tây Bá Lợi Á, Mông Cổ, Tây Tạng và một số vùng biên giới phía Tây của Trung Hoa. Người Nga sống trong vùng Tây Bá Lợi Á ưa chuộng trà ép khuôn hơn các đồng tiền kim loại vì lợi ích thực dụng của chúng trong việc chữa các bệnh về cảm cúm. Trà ép khuôn có nhiều kích thước và được đóng dấu cho biết giá trị của chúng. Cách dùng trà loại này khác hẳn với cách uống trà ngày nay. Khi pha trà, một phần của bánh trà được bẻ ra, nấu với chút muối tương tự như cách nấu súp. Ðây là cách pha trà của thời kỳ còn sơ khai. Trà khi nấu lên còn được bỏ thêm nhiều gia liệu, hương liệu như: cốm, gạo, vừng, vỏ cam, sữa, chà là và đôi khi cả hành. Trong tác phẩm “Trà Kinh” (Kinh thư của Trà Ðạo), Lục Vũ “một nhà thơ, đệ nhất sứ đồ của Trà Ðạo” sống ở khoảng giữa thế kỷ thứ 8 đã miêu tả cách pha trà bánh (Ðoàn trà) như sau: nước để pha trà tốt nhất là nước sơn tuyền, rồi đến nước sông và các nguồn khác. Người ta đem trà bánh hong trước bếp lửa cho đến khi thật mềm rồi đặt giữa 2 tờ giấy tốt nghiền vụn ra. Khi nước sôi ở độ thứ nhất tức là có những bọt nước nho nhỏ như mắt cá bơi trên mặt nước thì bỏ muối vào. Ðến khi nước sôi độ thứ nhì tức là khi bọt nước trông giống như những hạt châu bằng pha lê lăn đi trong suốt thì bỏ trà vào. Ðến độ sôi thứ ba tức là sóng nước sủi lên sùng sục trong ấm thì đổ một thìa nước lã vào ấm để “trấn” trà và làm cho “nước hồi phục lại nguyên khí” rồi mới rót trà ra thưởng thức.Đời Đường, khu vực sản xuất trà bao gồm Giang Hoài, Lưỡng Chiết, Lãnh Nam, Phúc Kiến, Kinh Tương và từ đó tới nay vẫn là những địa khu chủ yếu. Theo Chu Trọng Thánh, việc phong thịnh đời Đường bao gồm ba nguyên nhân chính:
- Thứ nhất, thời Đường giao thông đã phát đạt, các phương tiện chuyên chở đã cải tiến nhiều.
- Thứ hai, sau khi cuốn Trà Kinh của Lục Vũ viết ra, phong trào uống trà càng lên cao.
- Thứ ba, thời kỳ đó Phật giáo và Lão giáo hưng thịnh và việc uống trà tại các chùa chiền, miếu mạo rất phổ biến.
Giai đoạn 2: sau Đường đến thời Tống:
Trong lịch sử Trung Hoa, hoàng đế Huy Tôn (1082-1135) của nhà Bắc Tống được xem như vị có công lớn trong việc cổ vũ và phát huy một số ngành nghệ thuật như hội họa, thơ văn và uống trà. Bản thân ông là một họa sĩ chuyên vẽ về đề tài hoa điểu, và là một thư pháp gia (calligrapher) nổi tiếng. Ông cũng viết một số bài ca ngợi thú uống trà bột. Ông say mê các ngành nghệ thuật này đến độ không ý thức được việc đế quốc Kim, từ phương Bắc, sắp sửa thôn tính trọn vẹn đất nước của ông.
Mạt trà trở nên thịnh hành, thay thế Ðoàn trà. Người ta bỏ lá trà vào cối đá xay thành bột rồi đem khuấy trong nước sôi bằng một thứ dụng cụ bằng tre tốt có một đầu chẻ ra thành nhiều mảnh. Muối và các hương liệu, gia liệu bị bỏ dần. Cách uống trà này được truyền sang Nhật Bản và phát triển thành một phái Trà Ðạo riêng biệt ở xứ “Mặt trời mọc”.

Giai đoạn 3: sau thời Tống đến thời Minh – Thanh:
Khi quân Mông Cổ chiếm trọn Trung Hoa và lập ra nhà Nguyên năm 1280, vị trí của trà bị lu mờ, một phần vì thời cuộc và một phần vì những người cai trị mới có sở thích dùng các thức uống của dân du mục Mông Cổ, như rượu sữa kumiss. Đến thời nhà Minh (1368-1644), trà không những được phục hồi vị trí vẻ vang của các thời Đường, Tống, mà còn thăng hoa như một nghệ thuật cao quý. Trong hoàng cung nhà Thanh, trà không những dùng để uống, mà còn được pha tiếp khách nước ngoài. Châu Nguyên Chương (1328-1398), người sáng lập ra nhà Minh, quyết định bỏ hẳn lối sản xuất trà ép khuôn và trà bột vì quy trình sản xuất các loại trà này đòi hỏi rất nhiều thời gian và công sức. Quyết định này là động cơ thôi thúc các nghệ nhân lò Cảnh Đức Trấn, tỉnh Giang Tây và lò Yixing, tỉnh Giang Tô vẽ ra nhiều kiểu ấm và chén tinh xảo cho cách thức uống trà mới. Trà bột nhường chỗ cho trà có dạng lá tự nhiên và có cách chế biến như ngày nay.
Trà là nét văn hóa đặc thù trong nền văn hóa Trung Hoa, có sức lan tỏa mạnh mẽ. Ngày nay, những quán trà đậm chất Trung Hoa có mặt ở khắp nơi trên đường phố, các khu thương mại,… Đến với nghệ thuật “ẩm trà”, chúng ta sẽ khám phá được những vùng đất nổi tiếng, phong tục, lễ hội, văn hóa và đời sống cư dân bản địa. Và đặc biệt, ta sẽ không quên những giây phút thư giãn bên tách trà xanh thơm mát, đậm đà.

Theo Diễn Đàn Văn Hóa Học

BÀI : 5  Nghệ thuật uống trà Huế





 
Một chén trà nâng mời bạn bè, một chén trà trò chuyện tâm giao, thú uống trà đã trở thành nếp sinh hoạt quen thuộc của người dân Việt Nam cũng như của nhiều dân tộc trên thế giới. Tuy nhiên, tuỳ theo nếp sống, văn hoá của từng dân tộc mà người ta thưởng thức trà với nhiều phong cách và phương thức khác nhau. Trong chén trà mở đầu câu chuyện chung ấy, với riêng Huế, uống trà là một nghệ thuật với bao sự sắp đặt công phu và cả những nghi thức của một vùng văn hoá .

Theo sách “ Trà kinh” của Thạc Sĩ Vũ Thế Ngọc , Việt Nam là một trong những nơi phát hiện cây chè đầu tiên trên thế giới . Từ cây chè xanh , qua nhiều công đoạn hái , tẩm , sao khô và chế biến mà người ta thu được một loại đặc sản khô gọi tên là trà . Có nhiều câu chuyện xung quanh cây chè xanh này ,  từ chuyện chiến tranh giành giật cây chè cho đến những chuyện nói về sự công phu của con người để chế biến ra những loại trà đặc biệt và cả những nghi thức uống trà đã được nâng lên thành ĐẠO như Nhật Bản . Và với Huế , uống trà cũng đã được nâng lên thành một nghệ thuật .

Trước hết, uống trà theo kiểu cung đình Huế thì phải có một bộ đồ trà đúng kiểu . Không phải chỉ có một bộ đồ trà dùng cho suốt cả 4 mùa mà kiểu cách uống trà của Huế còn thể hiện ở chỗ có bốn loại chén trà dành cho bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Người Huế uống trà theo mùa còn gọi là thời trà. Trong bộ đồ trà ấy, những chén Tống, chén quân, dầm, bàn ... đều có những qui định riêng,chức năng riêng. Người Huế uống trà như là một hình thức lễ nghi, dẫu uống một người ( còn gọi độc ẩm ), hai người ( còn gọi đối ẩm ), ba người, bốn người hay nhiều người ( còn gọi quần ẩm) thì mọi thao tác vẫn được giữ nguyên, kể cả những cung cách pha trà, rót trà, nâng ly trà.
Về nguyên liệu chỉ có hai loại đó là trà và nước. Nhưng chỉ riêng hai nguyên liệu này cũng đã có hàng ngàn trang viết. Sự cầu kỳ, công phu ở đây không bút mực nào tả xiết,  từ việc hái chè xanh ở hướng nào, giờ nào, cách ngắt ngọn ra sao, người thiếu nữ hái chè để móng tay dài bao nhiêu, cho đến việc ngâm tẩm, phơi, sao khô là cả những qui trình nghiêm ngặt. Cho nên mới có những câu chuyện về Trảm mã trà ( Trà ngựa ), Hầu trà ( Trà khỉ), Trùng điệp trà ( trà sâu), Tiên knhai trà ( Trà tiên) ... Nước để pha trà cũng có những câu chuyện dài, nước mưa hứng từ đâu , nước giếng thì giếng phải sâu như thế nào, nước suối thì lấy ở đoạn nào: đầu nguồn, giữa nguồn hay cuối nguồn .... Sự công phu ấy cho thấy trà không đơn thuần là một thức uống mà người ta đã lồng vào đó bao công sức và tâm huyết để nâng lên thành một nghệ thuật .

Ở Huế còn lưu truyền câu chuyện hứng sương trên lá sen để lấy nước pha trà , còn trà thì được bọc trong hoa sen để có hương thơm tự nhiên. Đun nước để pha trà cũng là một nghệ thuật . Để có một bình trà ngon, nước đun sôi chỉ ở dạng sủi tăm, nước sôi già quá sẽ làm trà nhanh chín, hương thơm không còn. Tinh tế đến như thế thì người uống trà cũng phải có một tâm hồn nhẹ nhàng , luôn hướng đến những vẻ đẹp của đất trời, của con người thì mới thẩm thấu hết hương vị của chén trà. Cũng như nhiều quốc gia uống trà khác trên thế giới, thú uống trà của người Huế có xuất phát từ cung đình. Từ cung đình ra dân gian, tính chất nghi lễ và sang trọng giảm dần nhưng cái hồn của thú thưởng thức trà vẫn được giữ nguyên, bạn bè uống cùng nhau chén trà để tăng thêm tình thân thiết. Dẫu không uống tại lầu son, gác tía như các bậc vua chúa, quan quyền nhưng trong không gian đơn sơ, dân dã, chén trà vẫn được chủ nhân nâng hai tay mời bạn, khách và chủ đều tôn trọng nhau, chén trà vì thế vẫn nặng tình, nặng nghĩa.

Trong thú uống trà của người Huế, có một điều đặc biệt là luôn đi kèm với một loại bánh đặc sản của Huế đó là các loại bánh in làm bằng hạt sen, đậu xanh, hoặc bằng bột nếp được gói bằng giấy màu ngũ sắc của Huế. Những ngày Tết, người Huế còn có thêm món mứt gừng. Đón chén trà nóng từ tay bạn hiền trao, nếm lát mứt gừng Kim Long nổi tiếng có vị ngọt ,hơi cay nồng ấm thế là như thấy cả một mùa mùa xuân đang về trong đất trời và trong cả lòng người.

Thú vui uống trà bây giờ đã trở nên phổ biến trong đời sống của nhiều người dân Huế từ già đến trẻ. Người ta tìm thấy một sự tĩnh tâm, lắng đọng khi uống trà. Trong không gian xanh mướt của những ngôi nhà vườn xứ Huế, con người được giải toả khỏi những áp lực công việc, tìm thấy chính mình trong sự tĩnh lặng và sâu sắc mà hương vị chén trà đem lại. Đó chính là ý nghĩa cuối cùng của thú uống trà mà nhiều người đã chiêm nghiệm và thu nhận lại cho chính mình, làm giàu có đời sống tinh thần của bản thân và cũng là của vùng đất Huế.


Việt Báo(Theo website Đài Phát Thanh Truyền Hình Thừa Thiên Huế)




<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.04.2011 09:21:23 bởi dzuylynh >
dohop 10.04.2011 09:42:39 (permalink)
0

Trích đoạn: Phù Vân
Hôm nay tôi gởi đến các bạn một số nhỏ món ăn Sài Gòn và Hà Nội.
Vì quá nhiều các bạn thích món nào mời ăn món đó, tuy rằng tôi chỉ “chộp”
một số nhỏ.
Chỉ cần ăn một món thôi tôi tin các bạn sẽ giảm thọ hết một năm.
Nếu các bạn thấy mấy cái video nầy hợp khẩu vị thì nên chia cho
bà con, ăn hết một mình e tôi tốn tiền đi điếu.

Rau muống Hà Nội:
[color=#800080 size=5]http://www.youtube.com/watch?v=La9nFXHlkx4
[color=#0066cc size=5]http://www.youtube.com/watch?v=NtbTwBAg03A
[color=#0066cc size=5] 
[color=#0066cc size=5] 
Rau muống Saigon
[color=#0066cc size=5]http://www.youtube.com/watch?v=luHjTWdX8As
[color=#0066cc size=5] 
Chế biến mức đầy ruồi và dòi (Saigon)
[color=#0066cc size=5]http://www.youtube.com/watch?v=tDGXEnUjbXU
[color=#0066cc size=5] 
[color=#0066cc size=5] 
Trà sửa trân châu plastic (các bạn ở hải ngoại nên coi chừng con em mình)
[color=#0066cc size=5]http://www.youtube.com/watch?v=4Sj_d3IBZKs
[color=#0066cc size=5] 
Hành phi mỡ thúi (Ha Noi)
[color=#0066cc size=5]http://www.youtube.com/watch?v=cIK-w72F_JQ
[color=#0066cc size=5] 
Thịt thúi mang lên bàn nhậu:
[color=#0066cc size=5]http://www.youtube.com/watch?v=RCanaP0cWog
[color=#0066cc size=5] 
Cách sản xuất miếng  thấy hết dám ăn
[color=#0066cc size=5]http://www.youtube.com/watch?v=VljykrxFDNE
[color=#0066cc size=5] 
Làm nước đá bằng nước dơ (Saigon)
[color=#0066cc size=5]http://www.youtube.com/watch?v=zWG239qjYpk
[color=#0066cc size=5] 
Đầu nậu chế biến mỡ dầu phế thải bán lại
[color=#0066cc size=5]http://www.youtube.com/watch?v=DiFeRRuDLaQ
[color=#0066cc size=5] 
Rửa rau bằng nước cống công khai xong đem ra chợ bán (Hà Nội)
[color=#0066cc size=5]http://www.youtube.com/watch?v=QPBHYLV7Ajo
[color=#0066cc size=5] 
Chế biến bì lợn ghê người (Miền Bắc)
[color=#0066cc size=5]http://www.youtube.com/watch?v=IfmbcfBqKUU
[color=#0066cc size=5] 
Tẩy trắng trứng:
[color=#0066cc size=5]http://www.youtube.com/watch?v=_X4uJpZE27g
[color=#0066cc size=5] 
Dau doc nhau qua thuc pham ,  phong su tai Ha Noi
[color=#0066cc size=5]http://www.youtube.com/watch?v=viUttXN5WPM
[color=#0066cc size=5] 
Sống bồng bềnh trên nước cống (Hà Nội)
[color=#0066cc size=5]http://www.youtube.com/watch?v=QJHkCrbpyBc
[color=#0066cc size=5] 
Chan ga canh ga thay ghe
[color=#0066cc size=5]http://www.youtube.com/watch?v=qHKEcepzwUg




Chị Phù Vân ơi... Hôm qua hộp xổng chuồng khỉ ở Sóc Bom Bo Bo nhờ mấy cái cây cuốc cong vừa mới bị gãy... hộp mới đu dây đến đền thờ Vua Hùng để lạy tạ tội với tổ tiên...

Buồn quá, cách đây 4 ngàn năm thuở vua Hùng dựng nước, hộp dám quả quyết là không có con khỉ nào phải rửa rau muốn bằng nước ống cống để dâng lên vua Hùng hết...

Nay con người ta làm cái chuyện yêu nước... cống đến thế... Ngày giỗ tổ mà thấy tương lai mịt mù như nước... cống....

Buồn nhất là mình phải thông cảm với những người (?, mình còn là người không nhỉ, mình tệ hại hơn giun gián nữa...) yêu ... nước cống như vậy... Họ cũng vì hoàn cảnh thôi mà!

hộp thấy mình thật hổ thẹn với tổ tiên, mình thua luôn "thằng" Nhật, "thằng" Mỹ, "thằng" Pháp, thua một cách nhục nhã, một cách ê chề, một cách... tục tĩu.

Mình đã nhiều năm, mình đã lỡ gọi mấy "thằng" này là "thằng" rồi... Bây giờ mình phải tự gọi mình là cái gì thấp kém, hèn hạ hơn thế nữa...

Kính lại vua Hùng, con là hậu duệ, con có tội với các ngài... Con phải làm sao bây giờ để khỏi... uống và ăn mừng trên... cống rãnh.... Con phải làm thế nào để thoát khỏi kiếp dòi bọ đục nát quê hương????


Sao tự nhiên hộp căm ghét "thằng" Mỹ, "thằng" Pháp đến thế... Chỉ vì kêu nó bằng "thằng" mà bây giờ mình phải tự xem mình là một loại gì đó thấp kém hơn "thằng"...

Ôi, cuộc sống dòi bọ!!!! Có lẽ mình còn tệ hại hơn dòi bọ nữa hộp à!

Dòi bọ không biết nước cống dơ nên cứ cứ nhởn nhơ trong đó...

Mình là hạng thấp hơn dòi bọ... Biết nước cống dơ nhưng vẫn cứ nhởn nhơ, vẫn yêu nước cống, vẫn ca tụng nước cống, vẫn hôn hít tất cả những gì trong nước cống và khen .... NGON... và xem mình là đình cao của trí tuệ loài DÒI!!!!!

Xin tổ tiên tha lỗi cho con, con viết trong lúc quá buồn nên chắc là đã làm phật lòng tổ tiên.... Con xin chịu tội với tòa án nhân quả....

Xin hồn thiêng sông núi tha thứ cho con...

Xin tha thứ cho bé hộp đã vô tình làm cái trang thú tiêu khiển này hơi mùi khỉ và cống.

Hu Hu....




dzuylynh 11.04.2011 04:05:23 (permalink)
0

Trích đoạn: dohop

Xin tổ tiên tha lỗi cho con, con viết trong lúc quá buồn nên chắc là đã làm phật lòng tổ tiên.... Con xin chịu tội với tòa án nhân quả....

Xin hồn thiêng sông núi tha thứ cho con...

Xin tha thứ cho bé hộp đã vô tình làm cái trang thú tiêu khiển này hơi mùi khỉ và cống.

Hu Hu....



BGK : phải đóng Hộp , nhét dưới NGŨ HÀNH... HẠ SƠN 3.041.975 kiếp !

TỔ VĂN TIÊN
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.04.2011 06:33:35 bởi dzuylynh >
dzuylynh 11.04.2011 04:12:58 (permalink)
0
 
 
 
 
 http://www.box.net/shared/t24cgnf2i4


GIAO MÙA
album Cuối trời Dâu Bể
thơ : Vân Hồng _ phổ nhạc & trình bày : Dzuylynh
 
 
 
Bây giờ đã cuối mùa sang
Heo may rớt lại úa vàng tim nhau
Gió bấc nhói nụ hôn đầu
Mưa buồn mong nắng hong sầu lên mi
Nhớ thêm một chút làm gì
Buồn thêm một chút người đi có đành?
Cuộc vui nào chẳng tàn canh
Đời ai được mấy trống canh để cười
Ta lắng lòng, ngẫm sự đời
Càng mong càng vắng, càng tươi càng sầu
Tình là trả nợ cho nhau
Duyên là số phận trời cao định rồi
Đời người như một cuộc chơi
Lỡ lòng trót nhớ một người phải quên
Ai làm ta rối dạ thêm
Ai làm ta uống đến mềm môi say
Lả vào lòng những đắng cay
Lả vào đời những rủi may đáng ngờ
Giờ ta lại tập làm thơ
Giờ ta lại thả vẩn vơ lên trời
Sông Ngân Hà mải miết trôi
Ta trầm mình để thoát đời đa đoan!

 
13/11/2009 Vân Hồng
April 10.2011_ thunglũnghoavàng Dzuylynh




<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.04.2011 06:22:58 bởi dzuylynh >
Phù vân 11.04.2011 08:36:39 (permalink)
0

Trích đoạn: THƯƠNG GIANG



Cám ơn  anh  đã tặng TG món quà này nghen!




 
 
                                               
                                             THIỀN CA : GIỌT NƯỚC MẮT ĐẦU TIÊN
 
           còn nhớ không em? thuở em cất tiếng chào đời..
                           giọt nước mắt đầu tiên theo em vào cuộc trần thế....
                                                   giọt nước mắt của cha khi em lần đầu biết nói
                                                                      giọt nước mắt của mẹ khi em nở đóa cười trong nôi...
 
                                                    http://www.box.net/shared/y2c9ookt95
 
                                                      sáng tác & trình bày : Dzuylynh
 
 
 
 
 
                                                  
THƯƠNG GIANG 11.04.2011 08:52:29 (permalink)
0



Phù vân 11.04.2011 08:52:37 (permalink)
0
 


thương tặng bé hộp
thương yêu đến cháu Mítmimi, ngủ ngoan...

                                                   
                                                          THIỀN CA : TRỞ VỀ

                                               http://www.box.net/shared/xk548uhuht
 
                                                  sáng tác & trình bày : Dzuylynh

<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.04.2011 09:02:29 bởi Phù Vân >
Phù vân 11.04.2011 09:26:18 (permalink)
0
 
                thươngtặng bé MúiBỉn
                thươngtặng bé ÚtRau 
                mến tặng bônghoađá 
                thân tặng cỏmay                                 
 
 
                                                                       THIỀN CA : NHỚ
 
                                                                http://www.box.net/shared/2lj7u7xeqs
 
                                                                  sáng tác & trình bày : Dzuylynh
Phù vân 11.04.2011 09:37:55 (permalink)
0
 
 
thương tặng bé hộp
 
                                                   
                                                               THIỀN CA : MAI VỀ
 
 
                                                            http://www.box.net/shared/zbmb986o6d
 
 
                                                                sáng tác & trình bày : Dzuylynh
Thay đổi trang: << < 109110111 > >> | Trang 110 của 123 trang, bài viết từ 1636 đến 1650 trên tổng số 1838 bài trong đề mục
Chuyển nhanh đến:

Thống kê hiện tại

Hiện đang có 0 thành viên và 9 bạn đọc.
Kiểu:
2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9