TRAU DỒI, không phải "Trau giồi"
Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 16 đến 23 trên tổng số 23 bài trong đề mục
HongYen 24.07.2005 06:03:48 (permalink)

có dịp nào mình mong sẽ đón bạn trên mảnh đất của mình ,mảnh đất rất ngọt ngào ,con người chân thật ,chất phát và đầy lòng mến khách , đó chính là đồng bằng sông cửu long vừa là vựa lúa ,trái cây ...vv


Hi maiyeuem (MYE hay mye),

Bây giờ cho lý sự nha.

Mai yêu em có nghĩa là qua hết ngày nay rồi tới ngày mai sẽ yêu em. Hưá chắc từ 1% đến 99%.

Mai yêu em có nghiã là hôm nay đang bận yêu...yêu tiếng điạ phương.

Mai yêu em có thể hiểu là đang bị độc thân, ờ mà Hy cũng độc thân sao hông bắt chước nói maiyeuanh hay Mai, anh yêu hay yêu anh Mai...

Xong lý sự bây giờ noí đến ăn uống, mye mời tất cả đến miền traí cây, vậy có HY nưã há. Điều đó mong lắm hay là mừng lắm.

Kết luân,

Post nầy để cám ơn mye nói về tiếng trò. Cám ơn maiyeuem.
#16
    HongYen 24.07.2005 06:10:35 (permalink)

    Post nầy để cám ơn mye nói về tiếng trò


    Câu sư như phụ, nên thầy giáo được coi như cha; còn cô thì sao?

    Không biết khi nào thầy goị học trò là trò, em, chaú, và con...

    Thầy cô xung danh thì tuỳ ý...

    Rồi bắt đầu lúc naò đó thầy cô không được gọi học trò là con? Taị gì tiếng con đó chỉ dành chỉ cha mẹ...

    Một lần nữa cám ơn trò mye

    PS. Khi là học sinh thì thích đùa "Thầy ạ, thầy ạ...", mà hình như thầy cũng khoái, còn bọn con trai thì ít khi nghe giọng thầy a a a.. lắm.

    Lên sinh viên thì sao? Tại vài nước tân tiến gọi tên thầy cô...và xưng I...

    Chúc vui trò ạ.
    #17
      hardbee 28.07.2005 01:08:55 (permalink)
      Mấy hôm nay Hardbee quá bận nên không tiếp tục thảo luận với bạn TC. Hardbee đã khẳng định trong lần trước, Từ điển Tiếng Việtchuẩn mực cho việc tranh luận, tuy nhiên bạn TC cũng đừng phủ nhận vai trò tích cực của Google khi dùng nó làm công cụ tham khảo. Tài liệu tham khảo thì có nhiều, tuy nhiên không phải tài liệu nào cũng đáng tin cậy. Hardbee hiện không ở VN nên không thể tìm tài liệu tham khảo dưới dạng hardcopy, vì vậy rất khó có bằng chứng thuyết phục. Thôi chúng ta tạm bằng lòng với vốn từ vựng ít ỏi của Từ điển Tiếng Việt ngay trong Website:

      http://www.vietlex.com/vietlex-dict/

      Hardbee tạm trích dẫn như sau:

      dùi mài đg. (vch.). Cố công, kiên nhẫn học tập cho tinh thông. Dùi mài kinh sử.

      rán1 đg. Làm cho chín trong dầu mỡ đun sôi. Đậu phụ rán vàng. Cá rán. Rán mỡ (làm cho thành mỡ nước chín).

      rán2 đg. (cũ; id.). Ráng. Rán sức.

      ráng1 d. Hiện tượng ánh sáng mặt trời lúc mọc hay lặn phản chiếu lên các đám mây, làm cho cả một khoảng bầu trời sáng rực rỡ, nhuộm màu vàng đỏ hay hồng sẫm.
      Ráng chiều. Ráng vàng thì gió, ráng đỏ thì mưa (tng.).

      ráng2 đg. (ph.). Cố.
      Ráng học cho giỏi. Ráng sức chịu đựng. Ngủ ráng thêm ít phút.

      trau dồi đg. Làm cho ngày càng trở thành tốt đẹp hơn, có chất lượng hơn. "Trau dồi vốn hiểu biết. Trau dồi đạo đức."

      trau giồi (cũ; id.). x. trau dồi

      Không tìm đuợc nghĩa cho từ giồi mài

      Qua các kết quả này, Hardbee có mấy ý kiến cá nhân như sau:

      1. Tiếng Việt giữa ba miền rất khác nhau, nên "Tiếng phổ thông" đựoc xem là chuẩn mực để phổ biến trên các phương tiện truyền thông.

      2. Sự phát triển của từ vựng và ngôn ngữ luôn gắn liền với sự phát triển của xã hội, vì vậy có nhũng từ mới đuợc bổ xung và có những từ không còn đuợc tiếp tục sử dụng. VD như "trau giồi và rán"

      3. Hardbee cho là bạn TC không sai với các từ "rán, trau giồi", nhưng cách viết này hiện nay không còn phổ biến. Và chúng ta nên chấp nhận thói quen dùng từ đựoc số đông chấp nhận. Hardbee cho rằng cách giải thích riêng rẽ "trau, dồi và giồi" là gì? của TC không thuyết phục, vì "trau dồi" là một cụm từ tiếng Việt hoàn chỉnh và đủ nghĩa (ví dụ ko thể giải thích "dồi dào" theo kiểu "dồi" là "dồi lợn")

      4. Từ "giồi mài" không tìm thấy trong từ điển, hoặc có thể là từ địa phương, vì vậy chúng ta nên tránh sử dụng.

      5. Thực sự từ "ráng" hoặc "rán" là từ gốc Nam bộ, trong tiếng phổ thông nó đuợc thay bằng "cố gắng". Hardbee có gần 06 tháng công tác ở các tỉnh phía Nam, thì thấy người ta dùng từ "ráng" chứ không thấy nói là "rán" theo kiểu:

      "Ráng học đi con", "ráng lên, gần đến đích rồi"....

      Cuối cùng thì Hardbee cho rằng bạn TC nên đổi "trau giồi" thành "trau dồi", vì với số đông người Việt Nam cách viết như vậy không thuận mắt.

      PS có thể tham khảo thêm từ điển tiếng Việt ngay trong VNTHUQUAN
      http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nvnqnvnnn31n343tq83a3q3m3237nvn&cochu=
      #18
        HongYen 28.07.2005 04:09:18 (permalink)
        Chào Trương Củng






        Chúc vui với "Mong được ý kiến..."
        #19
          ha noi trong toi 30.07.2005 13:33:25 (permalink)
          Tất nhiên là mình rất vui vì mọi người để ý tới ý kiến của mình cũng như là cùng có niềm tin là sẽ làm đẹp hơn cho tiếng Việt , hơi khó nhưng không có nghĩa là không làm được , việc thì cứ làm từ từ , truớc tiên ở tại mình , chúng ta tự coi về việc viết đúng chính tả , rồi khi nói cũng rõ ràng , từ từ khi mọi người thấy chúng ta để ý như vậy chắc cũng sẽ để ý mà làm theo thôi , không biết điều đó có ấu trĩ không ? nhưng mình nghĩ đó là 1 việc có thể làm được.
          #20
            HongYen 30.07.2005 15:49:50 (permalink)

            Bây giờ nói dựa theo tiếng Việt Anh, tác giả Trần Văn Điền, tự diển trang 630:

            Trao đổi: to exchange ....(từ trao, trao đổi, trao gởi....kinh qua trao dồi)
            Trau giồi: to improve


            Vòng vo trở lại tiếng Anh Việt, tác giả Bùi Phụng,
            exchange: trao đổi (tr. 195)
            improve: trau dồi (tr.263)


            Chào Quý Bạn Thân Thương,

            Không phải HY biết tiếng Việt hay tiếng Anh mà đem Trần Văn Điền hay Buì Phụng vào đây. Lý do.

            1. Có sách nào vớ sách đó.
            2. Trong tự điển cuả ông TVD không có trau dồi và cuả ông BP không có trau giồi.
            3. Có nói có bàn thì mới có lưu ý.
            4. Thời gian và thể chế ảnh hưởng đến tiếng nói và cách dùng.
            5. Chợt nghĩ trong ta, có thể chưa ai có đủ thẩm quyền để định đoạt tiếng chuẩn.
            6. Khi củng trả lời qua laị trong mục nầy đã là người quan tâm đến tiếng Việt và là thân thương.
            7. Chúc nhau vui vẻ.
            #21
              NuHiepDeThuong 01.08.2005 08:37:47 (permalink)


              Trích đoạn: hardbee

              Mấy hôm nay Hardbee quá bận nên không tiếp tục thảo luận với bạn TC. Hardbee đã khẳng định trong lần trước, Từ điển Tiếng Việtchuẩn mực cho việc tranh luận, tuy nhiên bạn TC cũng đừng phủ nhận vai trò tích cực của Google khi dùng nó làm công cụ tham khảo. Tài liệu tham khảo thì có nhiều, tuy nhiên không phải tài liệu nào cũng đáng tin cậy. Hardbee hiện không ở VN nên không thể tìm tài liệu tham khảo dưới dạng hardcopy, vì vậy rất khó có bằng chứng thuyết phục. Thôi chúng ta tạm bằng lòng với vốn từ vựng ít ỏi của Từ điển Tiếng Việt ngay trong Website:

              http://www.vietlex.com/vietlex-dict/

              Hardbee tạm trích dẫn như sau:

              dùi mài đg. (vch.). Cố công, kiên nhẫn học tập cho tinh thông. Dùi mài kinh sử.

              rán1 đg. Làm cho chín trong dầu mỡ đun sôi. Đậu phụ rán vàng. Cá rán. Rán mỡ (làm cho thành mỡ nước chín).

              rán2 đg. (cũ; id.). Ráng. Rán sức.

              ráng1 d. Hiện tượng ánh sáng mặt trời lúc mọc hay lặn phản chiếu lên các đám mây, làm cho cả một khoảng bầu trời sáng rực rỡ, nhuộm màu vàng đỏ hay hồng sẫm.
              Ráng chiều. Ráng vàng thì gió, ráng đỏ thì mưa (tng.).

              ráng2 đg. (ph.). Cố.
              Ráng học cho giỏi. Ráng sức chịu đựng. Ngủ ráng thêm ít phút.

              trau dồi đg. Làm cho ngày càng trở thành tốt đẹp hơn, có chất lượng hơn. "Trau dồi vốn hiểu biết. Trau dồi đạo đức."

              trau giồi (cũ; id.). x. trau dồi

              Không tìm đuợc nghĩa cho từ giồi mài

              Qua các kết quả này, Hardbee có mấy ý kiến cá nhân như sau:

              1. Tiếng Việt giữa ba miền rất khác nhau, nên "Tiếng phổ thông" đựoc xem là chuẩn mực để phổ biến trên các phương tiện truyền thông.

              2. Sự phát triển của từ vựng và ngôn ngữ luôn gắn liền với sự phát triển của xã hội, vì vậy có nhũng từ mới đuợc bổ xung và có những từ không còn đuợc tiếp tục sử dụng. VD như "trau giồi và rán"

              3. Hardbee cho là bạn TC không sai với các từ "rán, trau giồi", nhưng cách viết này hiện nay không còn phổ biến. Và chúng ta nên chấp nhận thói quen dùng từ đựoc số đông chấp nhận. Hardbee cho rằng cách giải thích riêng rẽ "trau, dồi và giồi" là gì? của TC không thuyết phục, vì "trau dồi" là một cụm từ tiếng Việt hoàn chỉnh và đủ nghĩa (ví dụ ko thể giải thích "dồi dào" theo kiểu "dồi" là "dồi lợn")

              4. Từ "giồi mài" không tìm thấy trong từ điển, hoặc có thể là từ địa phương, vì vậy chúng ta nên tránh sử dụng.

              5. Thực sự từ "ráng" hoặc "rán" là từ gốc Nam bộ, trong tiếng phổ thông nó đuợc thay bằng "cố gắng". Hardbee có gần 06 tháng công tác ở các tỉnh phía Nam, thì thấy người ta dùng từ "ráng" chứ không thấy nói là "rán" theo kiểu:

              "Ráng học đi con", "ráng lên, gần đến đích rồi"....

              Cuối cùng thì Hardbee cho rằng bạn TC nên đổi "trau giồi" thành "trau dồi", vì với số đông người Việt Nam cách viết như vậy không thuận mắt.

              PS có thể tham khảo thêm từ điển tiếng Việt ngay trong VNTHUQUAN
              http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nvnqnvnnn31n343tq83a3q3m3237nvn&cochu=


              Chào hardbee,

              Trước tiên NH cảm ơn hardbee đã đăng bài sưu tầm nầy.
              NH thì chỉ học tiếng Việt cho biết đọc biết viết chứ khg rành về gốc tích cho nên bài viết sau đây chỉ là ý kiến riêng tư, rất ư là chủ quan.

              Hardbee đưa bài sưu tầm lên NH mới thấy thở phào nhẹ nhỏm. Cảm ơn hardbee rất nhiều.
              Bởi vì NH học tiếng Việt ở hải ngọai thì người ta cũng dạy viết "trau dồi" và "rán cá, rán đậu", "ráng học nha con".
              Khi gia nhập VNTQ phụ gõ truyện thì thấy sách in là "trau giồi, giúp giùm", trong khi hồi đó đi học thì lại học viết "trau dồi, giúp dùm". Rồi còn I và Y nữa.... Cứ lộn tùng phèo cả lên... Đọc một lúc muốn sảng luôn !?
              Những sách báo NH đã đọc qua ở hải ngọai trước năm 90 đều viết như hardbee đã nói.
              Sau nầy thì lộn xà ngầu luôn.... cho nên đôi lúc NH cũng lọng cọng, hết biết chữ nào đúng, chữ nào sai.
              Tuy vậy, tất cả các sách báo ở VN, đa số thì đều viết như TC đã trích dẫn.
              Có lẽ cách viết trước 75 và sau 75 có sự khác biệt. Ở VN thì học theo kiểu khác, trường Việt ngữ ở hải ngọai thì dạy kiểu khác..... Rất tiếc là chúng ta khg có Hàn Lâm Viện để "làm chuẩn mực" cho chữ viết... cho nên chuyện chính tả của tiếng Việt còn là đề tài... nhiều tập... như phim HK, HQ.

              NH chỉ mong sau tiếng Việt đừng bị lai căng nhiều quá... nghe hổng hiểu gì hết. Dạo nầy, mấy người lồng tiếng cho phim HK, HQ cho vào những chữ nghe hổng lọt lỗ tai chút nào. Chẳng hạn, con gái, con trai tới "tuổi dậy thì" (puberty) thì họ dịch Việt là "phát dục" (???) nghe lùng bùng lỗ tai; còn nữa... cái bảng ghi là CEO William Chang. Họ gọi là Xã Trưởng (???) nếu khg có bảng ghi tiếng Anh chắc NH liên tưởng tới ông hương xã của làng. Sao khg gọi là Tổng Giám Đốc???? Chắc bữa nào NH rảnh, phải tìm địa chỉ liên lạc than phiền với nhóm lồng tiếng mới được. Dịch tiếng Việt kiểu nầy thì còn gì là sự trong sáng của tiếng Việt nữa... Càng nghĩ càng thấy rầu và tội nghiệp cho tiếng Việt !!!




              #22
                hardbee 08.08.2005 20:46:07 (permalink)

                Những sách báo NH đã đọc qua ở hải ngọai trước năm 90 đều viết như hardbee đã nói.
                Sau nầy thì lộn xà ngầu luôn.... cho nên đôi lúc NH cũng lọng cọng, hết biết chữ nào đúng, chữ nào sai.
                Tuy vậy, tất cả các sách báo ở VN, đa số thì đều viết như TC đã trích dẫn.


                Trước hết xin cám ơn ban Hồng Yến đã post một loạt bài sưu tầm trong chủ đề tiếng Việt với nhiều trích dẫn và ý kiến phong phú. Hardbee cũng cảm ơn Nuhiepdethuong đã có ý kiến về bài viết của mình. Tuy nhiên theo mình, phần kết luận của Nuhiepdethuong không chính xác lắm.

                Mình cho rằng, cách viết của TC là phổ biến trước năm 1975 o miền Nam VN và Hải Ngoại hiện nay. Còn cách viết như Hardbee đá trình bày là phổ biến trên tất cả các sách báo ở VN hiện nay. Sở dĩ có sự khác biệt này là do biến cố 1975, nên tiếng Việt của một bộ phận người Việt ở Hải Ngoại và trong nước ít có sự giao lưu trao đổi. Hy vọng với điều kiện trao đổi thông tin như hiện nay, chúng ta sẽ có điều kiện trao đổi để ngày càng làm cho tiếng Việt trở nên trong sáng hơn.

                Thân mến, Hardbee
                #23
                  Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 16 đến 23 trên tổng số 23 bài trong đề mục
                  Chuyển nhanh đến:

                  Thống kê hiện tại

                  Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                  Kiểu:
                  2000-2025 ASPPlayground.NET Forum Commercial Version 3.9