(URL) Nhà Thơ Mặc Giang
Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 35 bài trong đề mục
Viet duong nhan 11.05.2010 17:00:34 (permalink)
             Mặc Giang






Tên thật Hồ Thanh Bửu.


Sinh năm 1953.


Nguyên quán Bình Định, Miền Trung nước Việt.


11 tuổi xa gia đình.


14 tuổi rời Trung vào Nam.


28 tuổi hành trình lữ thứ.


Hiện đang cư ngụ tại Úc Châu.

***

Khơi dòng Quê Hương Còn Đó
Mặc Giang



Được sinh ra, lớn lên, đi vào trường học, đi vào trường đời, rồi dong ruổi muôn phương, và dù có ra sao, Quê Hương vẫn Còn Đó !
 
Từ thuở phôi sinh xuất hiện Lạc Hồng, Hùng Vương - Văn Lang, xuyên qua chiều dài lịch sử, cấu thành mảnh dư đồ Chữ “S”, với Bắc Nam Trung gấm vóc, với núi non hùng vĩ, biển rộng sông dài, với những tên gọi thân yêu Huế - Sài Gòn - Hà Nội, với từng thời kỳ dù có qua đi, không gian dù có biến đổi, và dù cho vật đổi sao dời, Quê Hương vẫn Còn Đó !
 
Những thế hệ tiền nhân đã nằm xuống trên mọi nẻo đường quê hương, “Những lối đi chạy ngang qua đất đỏ. Những lối về chạy dọc dưới trời xanh. Những mạch máu của trái tim thành phố. Những đốt xương của thân thể châu thành”, thế hệ hôm nay đang dấn bước, thế hệ ngày mai sẽ tiếp theo, “Em vẽ một vòng tròn, Tôi vẽ một hình vuông, Khép hai chữ vuông - tròn, Thành quê hương muôn thuở”, cho từng gạch nối nối liền, dù lành lặn hay rách nát, đã đang và sẽ đi qua, Quê Hương vẫn Còn Đó !
 
Qua thời gian dài dặt trong thi thiết của tâm can đan kín, đôi mắt chìm sâu, và trong thê thiết của Biển Đông bạc sóng, Trường Sơn bạc màu, nghe tiếng gọi của đêm trường, nghe tiếng nói của canh thâu, nỗi khắc khoải của tâm tư, nỗi thổn thức của tấm lòng, được ươm vọng chia xẻ, đến với, đón nhận và cho nhau trong tình thương, sự sống, con người, tạo thành những dòng chảy mênh mông, cô đọng và tiết tấu thành ngôn từ, âm điệu, nhịp khúc, có thể cho rằng đó là những vầng thơ bơi lội trên sông biển thi ca phong phú của Việt Nam, hay “Con nai vàng ngơ ngác, Đạp trên lá vàng khô”, trên núi rừng tao đàn tuyệt tác của dân tộc. Tác giả không dám tự nhận, tự xưng, nhưng khẳng quyết có quyền được đến, nhìn, thấy và sống với Quê Hương Còn Đó ! Bởi quê hương là của Việt Nam chứ không phải của riêng ai, cho nên, ai là người Việt Nam, là đã có sẵn quê hương của mình !
 
Theo năm tháng trầm tư trong chiều sâu tâm thức để mò mẫm vào bóng dáng hư vô, gõ tiếng vô thinh vào nẻo mịt mù của có không, còn mất, tử sinh, chung thỉ, đôi lúc bị chơi vơi trên đỉnh đồi diễm ảo, hay tan hoang nơi hổ thẳm giá băng. Sự tịch vắng của siêu nhiên, dù đã có những bậc thoát trần vẽ lên nhiều nét chấm phá, nhưng rồi cũng vĩnh nhiên trầm lắng miên trường. Mượn cánh lãng du phiêu bạt vào thời gian vô tận, không gian vô cùng, bỗng dưng, tiếng vọng hồi quan, nụ cười phản chiếu từ chốn huyễn ảo, tịch băng, vĩnh nhiên ấy. Thì ra, dòng sông sinh tử, dòng chuyển sắc không luôn hiện hữu dấu nét hình hài của người lãng tử, đã từng phiêu du tự thuở hồng hoang, và mãi mãi phiêu du đến tận vô chung, chạm vào những điểm đã chấm phá và chưa chấm phá, bước đi trên lộ trình phi đạo vô môn, mà mọi nẻo vào ra chính là nhà xưa quê cũ, đánh bật gốc rễ của có không, còn mất, ghi lại thành vầng thơ ca hát trên mọi nẻo đường đi khắp ngưỡng cửa diêm phù.
 
70 bài trong Quê Hương Còn Đó là tập thơ tự in ấn phát hành đầu tay, đầu đời, và đầu tiên trong chuỗi 520 bài. Đã thực hiện 48 Dĩa Audio CD Ngâm Thơ với hơn 20 nghệ sĩ tài hoa như Hồng Vân, Thúy Vinh, Đoàn Yên Linh, Phan Xuân Thi, vân vân . . . Đã phổ nhạc 60 bài với hơn 10 nhạc sĩ tên tuổi của nền âm nhạc Việt Nam như Châu Kỳ, Lê Thụ, Hằng Vang, Thanh Nga . . . và hai tác phẩm trường thi đã sáng tác, xin theo thời gian sẽ được gởi đến tất cả mọi người.
 
Ước mong tập thơ nầy sẽ đến tay quí vị với những thịnh tình quí mến, hoan hỷ, để tạo cơ duyên, trợ lực, cho những tập kế tiếp và những sản phẩm của tác giả.  

Ngày 30-10-2005
Trân trọng
Mặc Giang


Quê Hương Còn Đó
Tuyển tập thơ Của Mặc Giang
Queensland, Brisbane, Australia
Mùa Phật Đản lần thứ 2629
Tây lịch: 2005; Phật lịch 2549

Tiếng lòng nức nở Quê Hương

 
Nắng lên cho ấm hương sầu
Gợi lên trầm bổng tiếng cầu kinh xưa
Tình quê biết nói sao vừa
Đau thương máu lệ hay chưa hỡi người ?
Còn đâu câu hát tiếng cười
Lá xanh e úng hoa tươi nghẹn ngào
Tháng ngày mòn mỏi tiêu dao
Âm vang dậy sóng rạt rào hồn ai ?
Mẹ quê khóc mãi đêm dài
Da mồi tóc bạc hôm mai bơ phờ
Kìa trông em bé ngây thơ !
Xuân xanh đốt cháy trông chờ chi đây
Kìa trông thiếu phụ vai gầy !
Phấn son nhòa nhạt niềm tây lạnh lùng
Kìa trông một thuở anh hùng !
Vì dân vì nước đau lòng không anh ?
Người đang tù tội nhục hình
Kẻ thì cúi mặt rêu xanh nấm mồ
Quê hương ơi biết bao giờ ?
Thanh bình no ấm chan hòa yêu thương
Không còn máu đổ lệ vương
Trong ngoài ca khúc liên hoan trở về
Nương dâu vườn sắn con đê
Gia đình sum hợp phu thê vui vầy
Thời gian đếm mãi nào hay
Nghe không Mẹ gọi đêm rày đầy vơi
Hương hồn Tổ Quốc ai ơi !
Hương hồn Tổ Quốc của người Việt Nam !
   
23-10-82  *  Mặc Giang




<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.06.2010 19:20:06 bởi Viet duong nhan >
#1
    Viet duong nhan 11.05.2010 18:42:52 (permalink)
    Lời Giới Thiệu Quê Hương Nguồn Cội
    Mộng Bình Sơn
     
     

    Qua năm mươi năm, tiếp bước tiền nhân tôi trót vào con đường khảo cứu lịch sử văn học dân tộc. Tôi đã đọc rất nhiều thơ và cũng làm được một số việc cho các thế hệ thơ ca.
    Nhưng khi may mắn được đọc tập thơ Quê Hương Nguồn Cội (và còn khoảng 650 bài khác nữa) của nhà thơ Mặc Giang, một tập thơ chan chứa tình quê hương dân tộc, với tâm hồn bao la, sâu rộng bằng trái tim và dòng máu của người Việt Nam, tập thơ đã làm cho tôi hòa đồng trong tác phẩm không còn phân biệt được tâm tư và cảm giác của mình và chỉ còn là một con tim, một dòng máu chung của dân tộc trộn lẫn vào sự cấu tạo chung trải qua mấy ngàn năm lịch sử của núi sông.
    Hỡi các thế hệ con cháu Lạc Hồng ! Đã bao người ví quê hương như một chiếc nôi nuôi dưỡng những dòng máu của Tổ Tiên sinh ra để lớn lên dù sống nơi đâu, dù làm gì nơi đâu cũng không tể quên nổi chiếc nôi ấy.
    Đọc thơ Mặc Giang, tôi tự cảm giác như cùng nhà thơ đang nằm chung trong chiếc nôi muôn thuở đó, mà reo lên tình tự quê hương, rung lên tình ca dân tộc, và bước đi theo dòng lịch sử của tổ quốc.
    Gần quê nhà hay xa quê nhà, sống nơi chôn nhau cắt rốn hay xa mái tranh nghèo mới cảm hoài nhớ nhung trăn trở ?
    Không phải thế !
    Tình quê hương đến với dân tộc Việt Nam là một tình cảm thiêng liêng chất chứa trong con tim chúng ta ngàn đời, từ thế hệ này đến thế hệ khác, vì chúng ta cùng chung một dòng máu.
    Điều tôi muốn nói ở đây là tâm tư và nghệ thuật của Mặc Giang đã gợi mở trong một tác phẩm thi ca, một tác phẩm xứng đáng để phổ biến và lưu giữ trong văn học Việt Nam.
    Tôi chân thành giới thiệu với bạn đọc hãy cùng vào đây, bằng tình cảm và con tim qua những vần thơ của Mặc Giang để mà rung động, say sưa hòa nhập với thời gian trên quê hương đất Tổ từ thuở ngàn xưa, đến hôm nay và mãi mãi mai sau.

                                                                           Ngày 01 tháng 3 năm 2007
     
    Mộng Bình Sơn 
     

     
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 16.05.2010 19:30:40 bởi Viet duong nhan >
    #2
      Viet duong nhan 11.05.2010 21:28:16 (permalink)
      Nào Có Ra Đi
      (Quê Hương Nguồn Cội)
      Kiên Giang - Hà Huy Hà
       
      “Dù xa cách mấy trùng dương
      Ở đâu cũng có quê hương trong lòng”
       
      Tháng 3/2007, có người trao cho tôi Tuyển tập nhạc Dòng Thơ Gọi Tình Người và Tập thơ Quê Hương Nguồn Cội của cùng tác giả Mặc Giang. Tôi nay đã 80, đang tập trung viết hồi ký, từ bỏ mọi sinh hoạt thù tạc, nhưng khi nhìn tựa đề 2 cuốn sách, tự dưng có thiện cảm nên gác lại mọi việc để đọc trong nhiều đêm, suy tư chìm lắng… thẳm sâu… ưu tư… với hồn thơ Mặc Giang.
      Qua các bài : Quê hương còn đó, Ta đi trên quê hương, Ta đi trên nước non mình, Đưa nhau đi trên quê hương, Về thăm quê cũ, Việt Nam còn đó muôn đời, Sông núi hồn thiêng, . . . tôi liền bị cuốn hút theo Mặc Giang vào dòng chảy tình tự về kỷ niệm tuổi thơ, gia đình, bè bạn, và danh lam, thắng cảnh, gấm vóc, sử tích, cội nguồn v.v…
      Mỗi nhà thơ là một vũ trụ thu hẹp. Vũ trụ của nhà thơ Mặc Giang không những đậm đà, sâu lắng, dịu vợi, bao trùm cả quê hương ba miền Trung Nam Bắc, mà còn lan tỏa đến tình thương nhân loại. Vũ trụ tâm hồn của Mặc Giang thật là cao rộng.
      Không hề biết mặt, không hề một lần giao tiếp, với mối đồng cảm của nhà thơ cao tuổi, tôi xin đón nhận và vẫy chào.
      Theo tôi, không nên chẻ sợi tóc làm ba đánh giá so le khi chưa thấu triệt ý nghĩa trầm tích trong từng bài thơ : Tình cha muôn thuở, Tình mẹ muôn đời, Reo binh minh thức dậy, Nghe rừng khua gió núi, Con người phiêu bạt, Lời thùy dương, Chiếc bóng thời gian, Miền Bắc quê hương tôi, Miền Trung quê hương tôi, Miền Nam quê hương tôi … Chúng vừa là ấn tượng, vừa là tiếng nói con tim của tâm linh tiềm tàng tình quê, hồn nước, sâu lắng trong hơi thở, cô đọng trong huyết thống của mỗi người Việt Nam đối với quê hương cố thổ.
      Mỗi người đều ôm ấp quê hương trong lòng, bởi Tình quê hong giọt nắng, Thuyền về bến cũ, Mơ màng ôm vũ trụ, dù sống ở đâu, vẫn có đôi mắt trong trái tim, trái tim trong ánh mắt, để nhớ để thương từng tên sông tên núi, từng ngọn cỏ lá rau, từng bóng dáng thân quen trên mọi nẻo đường. Từ niềm vui lẫn nỗi buồn cũng như từ hy vọng lẫn đau thương, Mặc Giang viết rất thật, cảm thụ rất sâu, nên người đọc không riêng gì thân nhân mà độc giả mỗi miền đều có sự đồng cảm với tác giả.
      Tâm hồn Mặc Giang tuy bay bổng nhưng biết đáp xuống trên từng phần đất mà tổ tiên dày công khai phá, gìn giữ, bảo tồn, và tứ thơ Mặc Giang khơi dậy nỗi niềm, tâm tư, chất chứa niềm tự hào, khí tiết của dòng chảy truyền lưu qua từng thế hệ.
      Thi sĩ chân chính phải có khí tiết của bậc cao sĩ vô danh, là biết siêu việt và viên dung mọi giá trị đối lập. Giá trị này hẳn nhiên đã được gợi mở bằng giáo lý Bồ-tát đạo-- một giáo lý đề xướng tinh thần cứu độ chúng sinh của nhà Phật. Biết nghĩ và làm như thế, nên nhà thơ Mặc Giang có thể đánh động và xoáy động tình người, và hơn thế nữa là kêu gọi thiết lập tình nhân loại, để ai cũng tập nhìn về mối quan hệ “bốn biển đều là anh em”, để lúc nào cũng thấy rằng, “anh với tôi đâu phải người xa lạ, dù không quen cũng gợi cảm tình người ”. Là cái nhìn vượt lên mọi phân định về ý thức hệ, mở ra một chân trời sáng lạn của thông điệp tình thương. 
      Đọc kỹ, nghĩ sâu, phân tích, phân đoạn trong Lời giao cảm của tác giả, chúng ta đã thấu hiểu và khám phá được Mặc Giang một phần lớn rồi. Tin tưởng Mặc Giang và mỗi chúng ta còn giữ mãi quê hương trong lòng đến cuối đời, để muôn kiếp Ta còn Việt Nam, sông núi hồn thiêng.
      QUÊ HƯƠNG : mãi mãi trường tn
      NGUỒN CỘI : có căn nguyên vẫn là giá trị trầm tích mà con người cần ôm ấp trong lòng, cần đào xới và gìn giữ.
      Hy vọng Quê Hương Nguồn Cội của Mặc Giang sẽ được đa số người Việt Nam ở quê nhà cũng như ở phương xa đón nhận bằng cả tấm lòng.
       
      Phú Lạc 04-04-2007
      Kiên Giang - Hà Huy Hà
      #3
        Viet duong nhan 11.05.2010 22:10:10 (permalink)
        Lời Giới Thiệu Hành Trình Quê Mẹ
        Tiến sĩ Lý Việt Dũng

        Người phương tây thường nói “trẻ ước mơ, già hoài niệm”, nhưng sau khi đọc xong tập thơ Hành Trình Quê Mẹ, tôi thấy tác giả, một nhà thơ ở tuổi tri thiên mạng, nhưng lại luôn ghi lòng tạc dạ, nâng niu trân trọng các giá trị được tài bồi bởi tiền nhân; tác giả còn hoài bảo, mơ vọng một hướng sống thiết thực cho người Việt Nam nói chung. Với Mặc Giang, hoài niệm và ước mơ nào có  hạn cuộc bởi tuổi tác. Hoài niệm và ước mơ ấy đã trở thành chất liệu tài bồi cho dòng thơ với chủ đề Hành Trình Quê Mẹ tuôn chảy không mỏi mệt, để nguồn thơ của thi nhân vốn nhào nặn từ cuộc sống, trở lại phụng sự cuộc sống ấy, trở  thành niềm tự hào kiêu hãnh của trào lưu thi ca hiện đại.

        Tập thơ Hành Trình Quê Mẹ, trước tiên cho người đọc một sự bất ngờ đầy thú vị về quá trình dong ruổi của tác giả trên các nẻo đường đất nước Việt Nam. Với các địa danh và một vài chi tiết chấm phá của mỗi nơi, tác giả đã nói lên tình tự của mình như một người con chính thống của các vùng đất mà tác giả đi qua. Tập thơ có thể được xem như là một quyển địa lý thi, một bản địa chí tóm tắt cho những ai chưa có dịp đi xa hoặc chuẩn bị cất bước lên đường làm một cuộc viễn du xuyên Việt. Riêng tôi vốn là một người trải bước giang hồ khắp 62 tỉnh trên cả nước, nên càng có sự đồng cảm cao với tác giả, bởi qua những “quê tôi” của Mặc Giang, tôi như sống và thấy lại các nơi mà có lần mình đã tạm dừng bước.

        Về hình thức, tập thơ được viết bằng nhiều thể loại, có thể xem là thơ tự do, tuy nhiên lục bát vẫn giữ vai trò truyền thống của nó ở những nơi mang nặng tình tự dân tộc. Về nội dung, tác giả biết dung hòa đan xen nỗi niềm hoài cổ và phong cách hiện sinh. Ở đây, người ta bất chợt ngậm ngùi về một thời lịch sử, về một vùng địa lý gắn liền với bao biến cố đã qua. Ngậm ngùi mà không oán trách. Ngậm ngùi để trực nhận công đức của tiền nhân, để nhìn lại mình, để thế hệ hôm nay càng có ý thức xây dựng cuộc đời, gìn giữ và phát triển  đất nước.

        Thoát ra ngoài những phạm trù hạn cuộc về ý thức, và nhằm trở về nguồn cội, tác giả lúc nào cũng xem mọi miền quê Việt Nam là “vùng đất hứa” là nơi “quy cố hương”. Qua đó, đã hoàn thiện hoá những hình ảnh tưởng chừng đã rạc rời vì thương hải tang điền, hay bị tha hoá bởi làn sóng văn minh cơ khí. Hình ảnh đó là ai? chính là những thanh niên, thanh nữ, thôn nữ, nông dân, chinh nhân ….; họ là những con người  đầy cốt cách và nghĩa khí. Có thể nói, chỉ những thi nhân nào mang trong lòng nhịp đập của trái tim Việt Nam, niềm tự hào dân tộc và sự vững tin vào linh khí Việt Nam mới có thể có được phong cách thi ca đó.

        Qua đó chúng ta thấy, sự từng trải của tác giả qua các địa phương Viêt Nam cũng là sự đi qua các nẻo đường của tâm thức, để cuối cùng trở về với quê hương bản nguyên - quê hương vô tận vô biên tế. Vậy, ý niệm về Tổ quốc quê hương của Mặc Giang là ý niệm về  những  giá trị văn hoá vật chất và tinh thần, cụ thể là tâm linh của mỗi người chúng ta. Nói cách khác, Tổ quốc hiện hữu một cách trọn vẹn ngay trong mỗi vùng đất, mỗi ngọn núi con sông của mẹ Việt Nam, được vun đắp bởi xương máu, mồ hôi, nước mắt của tiền nhân; vừa hiện hữu trong hơi thở cha ông, trong từng nếp suy tư và dòng máu chúng ta đang mang.

        Ôi ! “một nắm xương khô nghe lòng da diết, mộ giọt máu đào thấm nhuận non sông”. Quê hương bây giờ và ở đây, bạt ngàn vô tận nhưng cũng ngay trong tầm mắt, gang tay của mỗi chúng ta. Mong quý đọc giả hãy cùng thi nhân cưu mang và sống trọn vẹn với quê hương điền địa của mình.

        Tháng 4/2007
        Tiến sĩ Lý Việt Dũng
        Cẩn chí

         
         
         52. Hành Trình Quê Mẹ (về Quê Hương)
         
         53. Hành Trình Quê Mẹ 02 (về Quê Hương)
         
         54. Hành Trình Quê Mẹ 03 (về Quê Hương)
         
         
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 17.05.2010 04:55:47 bởi Viet duong nhan >
        #4
          Viet duong nhan 11.05.2010 22:13:22 (permalink)
           
          Non nước Việt Nam
          Quê Hương để giữ gìn, để Thương để Nhớ (09-2003)
          Mặc Giang
           
          -o0o-







          Tôi xin mở bản dư đồ hình cong chữ “S”
          Ngắm từng Tỉnh, từng Vùng
          Của nước Việt dấu yêu
          Của giang sơn cẩm tú mỹ miều
          Cho dòng giống Lạc Hồng gìn giữ nâng niu


          Tôi xin mở bản dư đồ hình cong chữ “S”
          Bắc Nam Trung một dãi nối liền
          Của quê hương gấm vóc ba miền
          Để thắm tô sông núi hồn thiêng
          Nối tình dài con cháu tổ tiên.



          Tôi xin mở bản dư đồ hình cong chữ “S”
          Biển rộng sông dài non nước Việt Nam
          Đi từ Cà Mau đến Ải Nam Quan
          Đi từ rừng cao cho đến đồng sâu
          Đi từ bờ đê cho đến ruộng dâu
          Đất nước yêu thương con cháu da vàng



          Mở đầu Miền Bắc khai nguyên
          Thượng du miền ngược, xuôi miền Trung du
          Lai Châu kê núi gối đầu
          Lào Cai, Bản Giốc sương mù Hà Giang
          Lạng Sơn cách khoảng Cao Bằng
          Quảng Ninh ven biển chờ trăng ánh vàng
          Vàng lên tựa cửa Bắc Giang
          Thái Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên Quang một nhà



          Ô kìa Yên Bái, Sơn La
          Anh lên miền ngược, em về miền xuôi
          Xuôi về Hà Nội mới thôi
          Thăng Long hoài cổ, đổi dời thành đô
          Năm ngàn năm, dựng cơ đồ
          Theo dòng lịch sử điểm tô muôn đời



          Em đi, đi nữa em ơi
          Băng qua Phú Thọ lên đồi Bắc Ninh
          Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc xoay mình
          Chở che Hà Nội, Hòa Bình, Hà Tây
          Hà Tây còn có Sơn Tây
          Hà Đông bên đó, bên nầy Hải Dương



          Đi ra tận cửa Hải Phòng
          Trùng dương sóng vỗ Hạ Long tuyệt vời
          Hưng Yên một chuyến rong chơi
          Hà Nam bén gót, buông lơi Thái Bình
          Ninh Bình, Nam Định xinh xinh
          Hồng Hà sông nước, Thái Bình nước sông
          Em về Thanh Hóa hơn không
          Nghệ An, Hà Tĩnh mênh mông núi đồi



          Sông Đà, sông Mã dặm soi
          Bắt ngang Đồng Hới, mù khơi Quảng Bình
          Còn kia, Quảng Trị điêu linh !
          Sông Gianh, Bến Hải vặn mình kêu sương
          Thừa Thiên, Phố Huế, sông Hương
          Hội An – Đà Nẵng dặm trường Quảng Nam
          Thương ra Quảng Ngãi mới cam
          Thương vô Bình Định bao hàm Phú Yên



          Thương lên đến tận Cao Nguyên
          Kontum, Đắc Lắc giữa miền Gia Lai
          Tình xưa lối cũ dấu hài
          Hoàng Triều Cương Thổ thở dài một phen !
          Thu Bồn khói quyện quen quen
          Đà Rằng lượn khúc, chưa hoen Khánh Hòa
          Thùy dương cát trắng phôi pha
          Phan Rang, Phan Rí xót xa thuở nào!


          Em đi lòng dạ nao nao
          Thời gian đi mãi vẫy chào tháng năm
          Cam Ranh mây nước xanh lam
          Đà Lạt mơ mộng Suối Vàng, Cam Ly
          Đường lên Bình Phước anh đi,
          Em về Phan Thiết có chi ngại ngùng
          Vũng Tàu, Bà Rịa một vùng
          Ra khơi nhớ Bưởi mà rung Biên Hòa


          Bình Dương cây trái lá hoa
          Tây Ninh là tỉnh cuối bờ Trường Sơn
          Sài Gòn náo nhiệt nào hơn !
          Viễn Đông Hòn Ngọc dễ sờn mấy ai ?
          Ai về Gia Định, Đồng Nai ?
          Đừng quên Bến Nghé, mối mai Nhà Bè.



          Sài Gòn chưa vẹn câu thề !
          Em đi đi nữa xuôi về miền Nam
          Kề vai xỏa tóc Long An
          Mỹ Tho mấy khúc, Tiền Giang mấy bờ
          Em đừng vội đến Cần Thơ
          Mà quên Đồng Tháp dựng cờ phía Tây
          Sông Tiền, sông Hậu là đây
          Bến Tre bên đó, bên này Trà Vinh



          Vĩnh Long in bóng theo hình
          Sóc Trăng cuối ngọn, đầu ghình An Giang
          Hà Tiên, Rạch Giá, Kiên Giang
          Bạc Liêu rẽ bước đôi hàng Cà Mau
          Muốn ra Phú Quốc lên tàu
          Côn Sơn mờ tỏa một màu xanh xanh



          Việt Nam muôn thuở thanh bình
          Việt Nam sông núi đầu ghềnh, biển Đông
          Việt Nam còn đó non sông
          Mẹ Âu, Cha Lạc, con Rồng, cháu Tiên
          Việt Nam sông núi ba miền
          Bắc Nam Trung, quyện an nhiên muôn đời
          Hình Cong Chữ “S” nơi nơi
          Non non nước nước của người Việt Nam.
          Mặc Giang
           
           
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.05.2010 22:24:56 bởi Viet duong nhan >
          #5
            Viet duong nhan 11.05.2010 22:35:23 (permalink)
             
            Dư đồ Tổ Quốc


            Đứng nơi đây, ta nhớ về Bản Giốc
            Núi chót vót trên non, địa đầu phương Bắc
            Thác vắt vảnh lưng đèo, đổ xuống vực sâu
            Núi cả, cây cao, rừng thẳm kê đầu
            Vẽ nét ngọc đầu tiên bức dư đồ tổ quốc
            Ta nhìn dấu mốc
            Ghi Ải Nam Quan
            Khói lửa thiêng sử tích chưa tàn
            Rung tình tự năm ngàn năm thuở trước
            Đức Hùng Vương dựng cờ mở nước
            Hiệu Văn Lang dòng giống Tiên Rồng
            Xuôi xuống, tận đồng bằng sóng vỗ Biển Đông
            Ngược lên, chạy dài trùng trùng Trường Sơn vách núi
            Đây Chi Lăng, kia Bạch Đằng
            Đó Đống Đa, nọ Chí Linh
            Hồn cha ông non nước vặn mình
            Bao thời đại vùi chôn xâm thực
            Ôi Cổ Loa,
            dấu tích đền đài, bóng mờ rêu phủ
            Ôi Thăng Long,
            di thành bảo quốc, rực sáng kinh đô
            Đây rồi, Hà Nội bây giờ
            Ngàn năm văn vật nên thơ diệu kỳ
            Sông Gianh cuốn hút ta đi
            Để xem nơi đó có gì hay không
            Một thời Nam Bắc trôi sông
            Gần ba thế kỷ bềnh bồng nước non
            Thì ra « Nhất đái hoành sơn »
            « Dung thân vạn đại » lối mòn chưa pha
            Ghé Cố Đô nhìn qua lối cũ
            Vết Kinh Kỳ bao phủ Hương Giang
            Dừng chân một chút bên đàng
            Trường Tiền đẩy nhịp vang vang sóng cồn
            Ta ghé Qui Nhơn
            Đồ Bàn xưa hồn Chiêm vợn khói
            Hương nhạt nhòa nhắn gởi ngàn mây
            Hòa trong chiếc lá có cây
            Nhìn gốc vướng rễ nhìn dây vướng rừng
            Bờ mi khép mắt rưng rưng
            Trôi bờ dĩ vãng lạnh lùng Huyền Trân
            Đi vào thành phố Sài Gòn
            Ba trăm năm cũ vẫn còn khắc ghi
            Đường qua Bến Nghé ta đi
            Đường về Gia Định thầm thì trước sau
            Anh ơi đừng vội đi mau
            Ghé thăm Bà Chiểu sắc màu nào quên
            Sài Gòn ta dễ gì quên
            Nhưng xin giã biệt, vẫy chào thành đô
            Miền Nam đang đợi đang chờ
            Nhanh chân lên nhé xuôi về Miền Nam
            Miền Nam ruộng lúa bạt ngàn
            Miền Nam bất bạc đất vàng viễn đông
            Vượt cầu Mỹ Thuận
            Sông Hậu Sông Tiền
            Hát Cửu Long giang
            Hòa reo chín khúc
            Miền Nam ngào ngạt
            Đượm tình Miền Nam
            Cà Mau mây nước mênh mông
            Mới thành chữ “S” núi sông nước nhà
            Cả dòng lịch sử can qua
            Mới thành tổ quốc sơn hà Việt Nam
            Cà Mau nhớ ải Nam Quan
            Đứng đây vọng nhớ Văn Lang thuở nào
            Tình quê tình nước nao nao
            Hồn quê hồn nước lệ đào chưa khô
            Nhìn trông một mảnh cơ đồ
            Người người dân Việt thắm tô muôn đời.

            *
            Bảo tồn sông núi

            Sống xa quê mới thấy tình cố quận
            Sống xa nhà mới đậm nét cố hương
            Không thiếu gì mà chỉ thiếu tình thương
            Không mất gì mà chỉ mất tình ruột thịt

            Không ai chia cái con tim đau buốt
            Không ai chia nỗi cay xé tâm hồn
            Cùng xa quê mới thấm sự héo hon
            Cùng ly hương mới thấu đời biệt xứ

            Ông cha ta từng chỉ dạy một chữ
            Một chữ thôi mà sâu sắc vô bờ
            Đánh đổi gì chứ không đánh đổi tình quê
            Và tình quê chẳng có gì bù đắp được

            Đã có quê thì ta phải có nước
            Đã có núi thì ta phải có sông
            Nước kia muôn hướng đổ về sông
            Nhưng, ta không bao giờ đem đổ nước

            Lại nhớ xưa từng dạy
            Nước mất là nhà mất
            Nhà mất là ta mất
            Nước không mất một tấc đất
            Thì ta không mất một cái gì
            Còn nước kia bị biến thái suy vi
            Cả dân tộc coi chừng không đất sống

            Đừng ôm mộng leo lên đồi ảo vọng
            Đừng ôm mơ thêu dệt giấc chiêm bao
            Đừng ôm trăng hỏi vớ vẩn ngàn sao
            Chẳng khác gì bọt bèo trôi ra biển

            Tất cả, chỉ nói lên một tiếng
            Nước Việt còn là dân tộc còn
            Nước Việt mất là dân tộc mất
            Bởi, sống mà không chủ quyền chủ đất
            Nếu không nô lệ, thì cũng ngoại thuộc ngoại lai
            Một ngàn năm xưa, thống thiết quá dài
            Một trăm năm trước, cũng không quá ngắn

            Quá khứ, ngậm bồ hòn ngậm trái đắng
            Hiện tại, Tàu phù Tàu thực bủa vây
            Quốc thể, Quốc hồn xúc phạm xát xây
            Ta quyết chống để bảo tồn sông núi.

            Tháng 4 – 2010
            Mặc Giang
             
            #6
              Viet duong nhan 11.05.2010 22:37:00 (permalink)
               
               
              Quyền thiêng liêng tối thượng

              Trời đất rộng sao thu mình ốc đảo
              Dân tộc hùng sao thúc thủ bó tay
              Muối kia còn mặn, gừng kia còn cay
              Ai chịu được nhục nhằn đày đất mẹ

              Trời đất rộng sao thu mình ngõ hẹp
              Dân tộc hùng sao tắt nghẽn lối đi
              Quốc hồn xúc phạm, quốc túy suy vi
              Mọi người dân đều có quyền lên tiếng

              Thuở lập quốc, Tổ Tiên vừa xây dựng
              Họ Hồng Bàng, mười tám đời Hùng Vương
              Giặc phía Nam, giặc phía Bắc nhiễu nhương
              Vẫn an định gần ba mươi thế kỷ

              Thời Bắc thuộc, một ngàn năm thống trị
              Bạch Đằng giang, tài dũng lược Ngô Quyền
              Đuổi quân thù, chấm dứt mọi ách khiên
              Viết trang sử chống ngoại xâm oanh liệt

              Đinh, Lê, Lý, Trần – anh hùng hào kiệt
              Quật Bắc phương, mở rộng phía Nam phương
              Lê Lợi, Quang Trung kiệt xuất phi thường
              Quân Hán Tàu biết bao lần khóc rống

              Một trăm năm, thực dân Tây nuốt hận
              Dẹp mộng xâm, tủi hổ phải cuốn cờ
              Trang sử ta một lần nữa điểm tô
              Vào nước ta, từ bị thương tới chết

              Thời hôm nay, chín chục triệu người cùng dõng dạc
              Cùng tuyên xưng, bất kỳ ai đụng tới nước non này
              Dân tộc ta quyết trừng trị thẳng tay
              Đừng hống hách, đừng ngang tàn hung bạo

              Ai tiếp tay, để giữ quyền, uy, danh, lợi
              Ai tiếp tay, cõng rắn cắn gà nhà
              Ai nhu nhược, mang hậu họa sơn hà
              Quét sạch cả, phường buôn dân bán nước

              Không có lý do gì, thu mình ốc đảo
              Không có lý do gì, thu mình ngõ hẹp
              Tiếng ta ta nói
              Nước ta ta giữ
              Đất ta ta sống
              Đường ta ta đi
              Đó là quyền tối thượng
              Và là quyền thiêng liêng cao cả.

              Tháng 4 – 2010
              Mặc Giang
              macgiang@y7mail.com
               
               
              #7
                Viet duong nhan 11.05.2010 22:38:05 (permalink)
                 
                Nước Non Nhà


                Nước non là nước non nhà

                Nhà là của nước, nước là của dân
                Trên thời ngước mặt cao ngần
                Dưới thời đạp đất bước chân kiêu hùng
                « Bầu ơi thương lấy Bí cùng »
                Ba miền đất nước đều chung một giàn
                Ngẩng đầu dõng dạc dọc ngang
                Nam nhi nữ kiệt vẻ vang giống nòi
                Nước non là nước non nhà
                Nhà là của nước, nước là của dân
                Nắng mưa dội ngược phong trần
                Bền gan vững chí như thần mà đi
                Trong thời dung thứ từ bi
                Ngoài thời đối biện kiêu kỳ ngán ai
                Chung lưng đấu cật kề vai
                Thắm tô bồi đắp gia tài Việt Nam
                Nước non là nước non nhà
                Nhà là của nước, nước là của dân
                Tin yêu bảo bọc ân cần
                Anh em như thể thương thân khác gì
                Lo từ việc nhỏ tí ti
                Cho tới việc lớn, cũng vì chớ sao
                Cùng chung một giọt máu đào
                Sang hèn tài trí thấp cao không màng
                Cùng chung dòng giống da vàng
                Cùng chung Dân tộc huy hoàng Việt Nam
                Nước non là nước non nhà
                Nhà là của nước, nước là của dân
                Nước non là nước non mình
                Non là của nước, nước mình quang vinh.

                Tháng 4 – 2010
                 
                #8
                  Viet duong nhan 11.05.2010 22:39:06 (permalink)
                   
                  Nước Việt dấu yêu

                  Ta yêu tổ quốc sơn hà

                  Non sông gấm vóc của nhà Việt Nam
                  Ta yêu thắng cảnh danh lam
                  Giang san cẩm tú tâm đoan sử vàng
                  Ta yêu từ Ải Nam Quan
                  Xuống sông ra biển băng ngàn Cà Mau
                  Ta yêu non nước một màu
                  Bắc Nam Trung quyện con tàu quê hương
                  Ta yêu khắp phố khắp phường
                  Xuyên qua đồng nội xuyên đường cái quan
                  Ta yêu khắp xóm khắp làng
                  Xinh xinh trúc biếc hàng hàng tre xanh
                  Ta yêu đồi dốc thác ghềnh
                  Núi cao đèo cả thênh thênh đất trời
                  Ta yêu nước Việt muôn đời
                  Ngàn năm văn hiến giống nòi Rồng Tiên
                  Ta yêu non nước Ba Miền
                  Tổ Tiên con cháu hồn thiêng kiêu hùng
                  Ta yêu nước Việt của chung
                  Truyền trao gìn giữ vô cùng mà thôi
                  Ta yêu ao lạch sông ngòi
                  Biển Đông sóng vỗ mặn mòi Trường Sơn
                  Ta yêu đường cũ lối mòn
                  Lần trang lịch sử sắt son hiện hình
                  Ta yêu non nước quê mình
                  Gừng cay muối mặn nặng tình keo sơn
                  Ta yêu biển mộng, ôm hòn
                  Thùy dương vọng ước, ôm cồn ven sông
                  Ta yêu ruộng lúa xanh đồng
                  Tươi non lá mạ đượm giồng ngô khoai
                  Quê hương tổ quốc ta ơi
                  Ta yêu mãi mãi muôn đời Việt Nam.

                  Tháng 4 – 2010
                   
                   
                  #9
                    Viet duong nhan 11.05.2010 22:40:10 (permalink)
                     
                    Ấm lạnh Tình Quê


                    Quê tôi nho nhỏ Miền Trung

                    Người đông đất hẹp chập chùng núi non
                    Đất cày sỏi đá hao mòn
                    Đồng khô cỏ cháy héo hon ngõ về
                    Quê tôi trĩu nặng tình quê
                    Dù kham khổ mấy cận kề có nhau
                    Thương như mùi trắng hoa cau
                    Mùi thanh hoa bưởi hoa ngâu cúc vàng
                    Quê tôi bốn xóm một làng
                    Có tre mấy lũy có hàng trúc xanh
                    Có con sông nhỏ trong lành
                    Mưa thành lũ lụt nắng thành đồng khô
                    Quê tôi hòa quyện bốn mùa
                    Xuân thu đông hạ gió lùa lại qua
                    Dân làng vui sống mặn mà
                    Sẻ chia ấm lạnh nhà nhà thân thương
                    Quê tôi tình nặng vấn vương
                    Chia chung lối nhỏ cạnh đường cái quan
                    Xem nhau thân thiện họ hàng
                    Thể như khoai sắn khoai lang một vườn
                    Quê tôi tôi nhớ tôi thương
                    Như đồng nhớ lúa như nương nắng chiều
                    Tình quê đâu nói chi nhiều
                    Chỉ hong bếp lửa nâng niu trong lòng
                    Tình quê đâu nói long bong
                    Chỉ ôm ấm lạnh trong lòng mà thôi.

                    Tháng 4 – 2010
                     
                     
                    #10
                      Viet duong nhan 11.05.2010 22:41:44 (permalink)
                       


                      Tưởng nhớ Trần Nhân Tôn Và Huyền Trân Công Chúa


                      Vua Trần Nhân Tôn
                      Vua Trần Nhân Tôn
                      Đệ nhất quân vương đất trời Nam
                      An dân, an quốc, bình thiên hạ
                      Quốc Tổ, quốc Tông, đã định ban
                      Vua Trần Nhân Tôn
                      Vua Trần Nhân Tôn
                      Xứng danh bậc nhất đấng minh quân
                      Quốc ngoại, hai phương đều khiếp vía
                      Quốc nội, một phương vững như thần
                      Vua Trần Nhân Tôn
                      Vua Trần Nhân Tôn
                      Phía Bắc, tan xương giặc Nguyên Mông
                      Phía Nam, Chiêm Thành xin quy phục
                      Rạng danh bậc nhất thời Nhà Trần
                      Xuyên qua lịch sử huy hoàng
                      Thảm nhung tô thắm giống dòng Việt Nam
                      Quê hương cẩm tú danh lam
                      Son vàng thếp ngọc, sắt chàm châu pha
                      Năm ngàn năm, đất nước ta
                      Vững như bàn thạch, một nhà Việt Nam
                      Năm ngàn năm, dân tộc ta
                      Bắc Nam Trung, quyện câu ca muôn đời
                      Dù cho vật đổi sao dời
                      Việt Nam muôn thuở, không dời đổi thay
                      Dù cho Nam Bắc Đông Tây
                      Việt Nam sông núi, không lay bụi hồng
                      Dòng lịch sử, năm ngàn năm văn hiến
                      Nước non nầy, trang lẫm liệt hùng anh
                      Trời, còn ê ẩm màu xanh
                      Đất, còn e úng ngọn ngành thấp cao
                      Ngàn năm Bắc Thuộc lộn nhào
                      Trăm năm Tây Thuộc cào cào lăn quay
                      Ngoại lai, ngoại nhập, biết tay
                      Xâm lăng, xâm thực, mặt mày nát tan
                      Sách, không còn chỗ luận bàn
                      Sử, không còn chỗ sử vàng đẹp hơn
                      Nay, ta nhắc Vua nhà Trần
                      Tự Phật Hoàng, hiệu Nhân Tôn
                      Làm Vua, hơn các Vua
                      Xuất gia, thành Sư Tổ
                      Trúc Lâm Đầu Đà, non Yên Tử
                      Giác Hoàng Điều Ngự, nước Đại Nam
                      Dân Việt tôn xưng “Đức Cù Đàm”
                      Dòng Thiền Việt Nam khai Phật tích
                      Ta bổng nhớ, hỡi Huyền Trân Công Chúa
                      Tuyệt giai nhân, với nét ngọc cành vàng
                      Nhớ câu “Cây quế giữa rừng”
                      Tiếc thay không tựa bách tùng kiêu sa
                      Bởi nghe lời dạy Vua Cha
                      Bởi thương cuộc sống cửa nhà muôn dân
                      Bắc, còn nghiệt ngã phong trần
                      Nam, yên bờ cõi, gá thân ngọc ngà
                      Nay, ai sinh ra, lớn lên, trưởng thành
                      Đang sống hay xa những tỉnh Miền Trung
                      Miền thùy dương nhưng khô cằn sỏi đá
                      Lúa mòn gốc rạ
                      Đèo xéo ruộng đồng
                      Sông dài biển rộng
                      Muối mặn mềm môi
                      Xa xa bóng núi lưng đồi
                      Trăng ngàn vòi vọi, dõi soi sao mờ
                      Có nhớ không Châu Ô, Châu Lý
                      Có nhớ ai sắc nước hương trời
                      Đêm dài ngày ngắn chơi vơi
                      Ai nghiêng nắng đổ mưa rơi tháng ngày
                      Cảm thôi, đã quý thương thay
                      Huống chi sương gió bụi bay bốn mùa
                      Bảy trăm năm trước, đèn khi mờ khi tỏ
                      Bức rèm thưa, nhòa dấu lệ trăng khuya
                      Giọt dài, giọt ngắn chia lìa
                      Giọt khô, giọt ướt, đầm đìa mắt mơ
                      Bảy trăm năm sau, xây điện ngọc bệ thờ
                      Khói hương trầm, linh linh hồn Công Chúa
                      Xin chắp tay, chân thành dâng luyến nhớ
                      Đàn Nam Ai, hòa điệu lý hò khoan
                      Huyền Trân dấu ấn thấm son
                      Nhân Tôn triện ngọc không mòn thời gian
                      Tâm nguyền, tâm hạnh, tâm đan
                      Muôn đời ghi nhớ, hò khoan, khoan hò
                      Sông Gianh, còn đó con đò
                      Bến Hải, còn đó ai cho ấm lòng
                      Thu Bồn, còn đó ước mong
                      Hương Giang còn đó, chờ trông ai về
                      Nước non, nặng một lời thề
                      Non non nước nước không hề chia xa
                      Quê hương gấm vóc sơn hà
                      Muôn đời rạng rỡ một nhà Việt Nam.

                      Mặc Giang
                      Ngày 14-11-2008

                       
                      #11
                        Viet duong nhan 12.05.2010 06:03:25 (permalink)
                        Ngưỡng Vọng Cuộc Đời Và Hành Trạng Của Đức Đệ Tứ Tăng Thống Thượng Huyền Hạ Quang
                          THÍCH NHẬT TÂN . Việt Báo Thứ Hai, 7/7/2008, 12:02:00 AM


                        (Chỉ một câu nói của Ngài : thời thế thế thời, Chú còn nhỏ, cố gắng nghe, Thầy rất thương Chú. Câu nói đó vẫn canh cánh bên lòng, ngồi ở đây, một chốn xa xôi, xin viết dâng Ngài. Cuộc đời Ngài quá lớn, viết dù không có chỗ, nhưng một thời đã gần Ngài dù lúc đó còn nhỏ, và giữa vạn lý muôn trùng, nhiều lần cũng đã thưa chuyện, hầu chuyện, đôi lúc nhắc chuyện ngày xưa với Ngài, thế tại sao không viết ? Thích Nhật Tân.)
                         
                        Ghi chú : Viết xong ngày hôm 26-10-2006, viết trước để sau này sử dụng.
                        Bài này tôi đã gởi về và HT Không Tánh đã đọc cho Ngài nghe tại Chùa Giác Hoa (Sài Gòn) trong chuyến vào trị bịnh năm ngoái.
                         
                        Hôm nay, mới nhận tin Ngài vừa viên tịch 1.15pm (giờ VN) Thứ Bảy 05-7-2008 tại Tu viện Nguyên Thiều, và Ngài mới vừa về lại Nguyên Thiều lúc 4pm ngày hôm qua 04-7, sau hơn 1 tháng điều trị tại bịnh viện Đa Khoa Qui Nhơn, tỉnh Bình Định, trụ thế 89 tuổi.
                         
                        Cuộc đời Ngài là ngọn núi cả, ngước nhìn, đã mỏi cổ
                        Cuộc đời Ngài là khu rừng thiêng, đứng ngó, đã rùng mình
                        Cuộc đời Ngài là biển đại thệ, như triều dâng sóng vỗ
                        Cuộc đời Ngài là sông đại nguyền, như nước biếc lung linh
                        Dùng chữ nghĩa để tôn vinh
                        Xứng danh, nhưng quá thường tình
                        Dùng tâm lượng phàm phu ca ngợi
                        Không đủ ngôn từ diễn tả
                        Dùng giải này giải kia đánh giá
                        Như những mòn quà dâng tặng, thế thôi
                        Dùng cương vị này cương vị kia, tôn ngôi
                        Tư thế đó, đâu cần ai đặt để
                        Mà chỉ có nhất nhất, tâm tâm, niệm niệm, chân thành đảnh lễ
                        Mà chỉ có rưng rưng, cảm cảm, bi bi, sụp lạy, cúi đầu
                        Trong vũ trụ bao la kia, hằng hà sa số tinh cầu
                        Đứng lại trong giờ phút này đây, lặng yên bất động
                        Trong vạn hữu phù sinh kia, hằng hà chúng sinh trầm lắng
                        Im bặt trong giờ phút này đây, thầm nguyện kinh cầu
                        Ngài về trong cõi nhiệm mầu
                        Ngài đi từ cõi nhiệm mầu mà đi
                        Ngài về trong cõi vô nghì
                        Ngài đi Ánh Đạo Từ Bi óng vàng
                        Ngài về thăm cõi Lạc Bang
                        Ngài quay trở lại trần gian cứu đời
                        Như Ngài đã nói :
                        “Cuộc đời tôi
                        Ở không nhà
                        Sống không đất
                        Tù không tội
                        Chết không mồ” (1)
                        Do đó :
                        Ngài sinh ra, bởi vận mệnh, cơ đồ
                        Ngài sống đó, bởi dân tộc, tổ quốc
                        Ngài ngồi đó, bởi thế thời thành thất
                        Ngài ra đi, bởi Đạo Pháp Quê Hương
                        Dù ai nói, núi là sông
                        Dù ai nói, đá là vàng
                        Dù ai nói, trắng là đen
                        Vẫn không có gì thay đổi được
                        Không lợi dụng, không giả danh, không quyền chước
                        Không vọng cầu, không vong bản, không phi nhân
                        Không cướp công, không tranh đoạt, không thủ phần
                        Là Long Tượng, lương đống, trượng phu, đâu cần thứ đó
                        Cuộc đời Ngài, cả một trăm năm, xem như tròm trèm thế kỷ
                        Thì Đạo Pháp và quê hương, xem như trải qua ba thời
                        Dị khẩu đồng âm, dõng dạt tuyên bố một lời
                        Cả ba thời, đều mệnh danh, thủ thuật
                        Cả ba thời, đều đội dù, che khuất
                        Cả ba thời, không thực thì cũng ngoại lai
                        Cả ba thời, thế nước lòng dân, ách tai
                        Ai không bon chen danh lợi leo đài
                        Ai không trùm mền, nhắm mắt, buông tay
                        Ai nói lên tiếng nói : vận nước điêu linh, thế nước bị xéo dày
                        Thì ngưỡng cửa ngục tù, nhốt khóa hãm kìm, chứ làm sao kết tội
                        Đã biết rồi, nếu muốn nói, thì phải nói
                        Đất nước Việt Nam, lịch sử đã năm ngàn năm
                        “Phật Giáo Việt Nam , lịch sử đã hai ngàn năm
                        Cơ sở Phật Giáo, là núi rừng, hải đảo, thôn quê, thị thành
                        Địa vị Phật Giáo, là tám mươi phần trăm dân số Việt Nam
                        Đạo lý Phật Giáo, là đường dài mở nước, dựng nước, cứu nước” (2)
                        Như vầng nguyệt thanh trong, không vẩn màu uế trược
                        Như vầng nhật ánh dương, không vẩn áng mây mù
                        Dù đời Ngài sống với lao tù, nhưng lao lý để lại thiên thu
                        Ai dám hỏi lao lý, lao tù, lao tình, lao tội
                        Cuộc đời Ngài, một trăm năm, nay qua khỏi
                        Ngài gian truân, vì cả đất nước gian truân
                        Ngài khổ thân, vì cả dân tộc cực hình
                        Nay Ngài chết, nhưng oai linh Ngài bất diệt
                        Ai đã biết và ai chưa hay biết
                        Mảnh trời Nam nước Việt giống Lạc Hồng
                        Một ngàn năm trầm thống nhớ không
                        Một trăm năm tai ách chất chồng
                        Hăm mốt năm tơi bời khói lửa
                        Mấy chục năm trường ray rứt hồn thiêng
                        Khổ đau phủ cả ba Miền
                        Tang thương phủ cả mọi miền quê hương
                        Đan tâm cay xé tư lường
                        Đan tay vá víu nhiểu nhương cơ đồ
                        Biển Đông trào sóng nhấp nhô
                        Trường Sơn nhả khói vật vờ hồn đau
                        Nước kia đã lắm nương dâu
                        Non kia đã lắm sắc màu nát tan
                        Tâm tư trăn trở tâm can
                        Tự tình trăn trở, tương tàn thế ni
                        Hùng tâm, hùng lực, ai vì
                        Đại bi, đại nguyện, ai vì cho ai
                        Hai ngàn năm qua
                        Bao nhiêu bậc khai tổ, danh sư, quốc sư
                        Vẫn phương đài, truyền đăng tục diệm
                        Năm ngàn năm qua
                        Bao nhiêu bậc minh quân, danh tướng, anh hùng
                        Vẫn phương đài, kim cổ soi chung
                        Hàng ngàn năm sau
                        Muốn thắm tô Dân tộc, Đạo pháp, Quê hương
                        Vẫn noi gương đời đời liệt Tông, liệt Tổ
                        Hôm nay :
                        Ngài đã Tây quy
                        Lá rụng về cội
                        Nước quay về nguồn
                        Pháp cổ trầm hùng ngân ngân mãi
                        Huyền Quang tâm lực sắt sắt son
                        Đạo pháp muôn đời bi bi nguyện
                        Giang sơn muôn thuở châu châu viên
                        Từ đông tây nam bắc
                        Từ quốc nội hải ngoại
                        Khắp bốn biển năm châu
                        Khác màu da chủng tộc
                        Của thế kỷ hai mươi
                        Đầu thế kỷ hăm mốt hôm nay
                        Tăng tín đồ cúi lạy dâng Ngài
                        Cả dân tộc kính vọng tên Ngài
                        Cả nhân loại hướng vọng tên Ngài
                        Một con người Việt Nam
                        Của dân tộc Việt Nam
                        Của Phật Giáo Việt Nam
                        Đại lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang
                        Đức Đệ Tứ Tăng Thống Huyền Quang bất tử !!!
                         
                        Thích Nhật Tân ngưỡng bái
                        (1) và (2) : Trích những câu nói khẳng khái lịch sử của chính Đức Tăng Thống.

                         THÍCH NHẬT TÂN (Mặc Giang)
                        <bài viết được chỉnh sửa lúc 12.05.2010 22:47:37 bởi Viet duong nhan >
                        #12
                          Viet duong nhan 12.05.2010 22:36:51 (permalink)
                           Vài Cảm Nghĩ Về Mẹ Nhân Đọc Tập Thơ Song Đường của Mặc Giang
                          Hương Tâm
                                                                           

                                        Mới hôm qua đây thôi, mẹ còn mạnh khỏe, tươi tốt, cười cười nói nói, đột nhiên sáng hôm nay người biếng ăn, nằm hoài không dậy. Thời tiết ư? Có khi một cơn trái nắng trở trời, một đêm mưa bão thình lình, có thể làm cho thân thể suy kiệt. Nào ai biết trước được. Có khi là một nỗi buồn, có khi là cơn giận, nóng lạnh bất thường
                                    Rồi những chứng bịnh bất thường của người già. Mẹ còn mạnh khỏe đó, sáng sớm mai chợt như già đi trăm tuổi. Có gì đâu, một đứa cháu lấy chồng Việt kiều sẽ đi xa, một một người bà con qua đời…tất cả nỗi buồn cùng cơn vui thái qúa đều đưa đến các chứng bệnh không thể nói trước ở người già. . Dân gian có câu:

                                     Mẹ già như chuối ba hương
                                    Như xôi nếp một như đường mía lau.

                          Mẹ là giòng suối ngọt lành, là tất cả. Và ta chạnh lòng nghĩ đến mẹ.
                          Không phải lúc nào ta cũng nhớ đến mẹ.Có bao giờ ta nghĩ đến một ngày kia mẹ sẽ già và sẽ bỏ ta mà đi; khi tuổi đời còn trẻ, còn năng lực cống hiến cho đời, hay thu góp của đời càng nhiều càng tốt? Thế mà lúc ta ốm đau tật bệnh, lúc ta nghèo khổ túng đói, người, như một phép lạ, luôn ở bên ta. Khi ta còn nhỏ, mỗi lần ta đau ốm, mẹ  thức suốt đêm ẵm ta trên tay, ban ngày lo nấu nướng dọn dẹp, hoặc chạy lo cái ăn cho ta, trong khi ta ngủ li bì sau khi cơn sốt đã bị đẩy lùi. Có mẹ, ta có tất cả, mất mẹ, đời ta trở thành hư vô.
                          Đọc những vần thơ sau:

                          Mẹ là một con người, nhưng là một con người không ai thay thế
                          Mẹ là một con người, nhưng nhờ mẹ mới có em
                          Chín tháng mười ngày, lòng mẹ đang quặn thắt
                          Ngày em ra đời, mẹ như đứt ruột đứt gan
                          Thân mẹ ra sao, mẹ cũng chẳng màng
                          Mẹ quay nhìn em, thử em có bình yên không đã!
                          …Em trưởng thành bao nhiêu, mẹ tàn tạ úa già
                          Mắt yếu, lưng còng, mòn thịt, mòn da
                          Để cho em thành người, như người ta trong xã hội
                          Đức hi sinh của mẹ như trời cao diệu vợi
                          Tình thương yêu của mẹ như biển cả thâm sâu
                          Tôi xin nhắc em, đôi lời em nhé!
                          Mẹ đã gian truân, đau khổ nhiều rồi
                          Mẹ đã vì em, tóc bạc da mồi
                          Nếu em thương mẹ, thì đừng để một ngày mai, quá chậm!!!
                                                          (Nhắc những em tôi)

                          Còn gì giản dị và bao la hơn tình mẹ. Và tình con càng sâu lắng:
                          Dù có làm ông gì
                          Đối diện mẹ, con cũng mong hai tiếng thương yêu
                          Dù có làm bà gì
                          Đối diện mẹ, con cũng mong được nuông chiều

                          Một lời thật là sâu sắc, nó nói lên qúa đủ tình mẹ mênh mông như biển trời, tình cha cao như núi Thái. Tưởng như ta còn nhỏ dại lắm; ta không bao giờ lớn khôn lên cả mỗi khi ta về bên mẹ,

                          Sung sướng vô cùng sau khi vượt qua một chặng đường dài về tới nhà, tắm rửa sạch sẽ, nằm trên chiếc giường chiếu gối thơm tho – có khi chỉ là mùi hoa lý, hoa nhài mà em gái hay mẹ ta cố ý để dành lại lấy hương cho căn phòng hẹp, được nằm trong phòng
                          đọc sách, mà không làm gì cả, sau đó được mẹ hay chị gái – mà thường là mẹ, ân cần đem tới li nước mát để uống, chỉ sợ ta đói, mệt. Mẹ luôn là vậy, một nàng tiên nhân ái, một thiên sứ. Vì ta, trước hết mùa đông người lo đan áo cho bầy con, hết đứa lớn đến đứa nhỏ, sợ con lạnh. Sau đó đan áo cho chồng. Thời đại ngày nay, có em gái nào nghĩ đến chuyện đan áo cho chồng con nữa không, hay là đổ tội cho thời đại, cho công ăn việc làm, rồi chạy ra tiệm mua áo, mua xơ, thậm chí tã lót cho đứa con đầu lòng, và các đứa thứ hai, thứ ba?

                          Tình mẹ bao la ngọt ngào biết mấy! Có khi cầm chiếc áo trên tay mẹ đan hồi mẹ đã 85 tuổi! Mẹ đan áo cho con, đan que nhỏ mà len sợi lớn cho dày, mặc cho ấm. Mẹ nói với tôi rằng, ngày xưa ở với mẹ con có  đi chợ đâu! Chỉ ăn rồi đọc sách và đi chơi với chúng bạn. Thậm chí việc tôi học mẹ cũng cho là không có, mẹ bảo con chỉ thích chưng diện đi chơi. Trải bao thăng trầm cuộc thế; bàng hoàng nhớ lại, ngẫm lại thì ra mẹ già thật, nhưng trái tim mẹ không bao giờ già. Trái tim không hề biết đến cái giá rét, cái nắng hạn, cái khô cằn. Trái tim người mẹ chất đầy tình yêu con mà tình yêu thì mãnh liệt hơn sự chết. Tình mẹ thì như nước biển đông không bao giờ vơi. Đó là một thứ tình cảm đặc biệt thiêng liêng vô giới hạn.
                          Người viết những câu thơ thật cảm động:

                          Ngày em ra đời mẹ như đứt ruột đứt gan
                          Thân mẹ ra sao, mẹ cũng chẳng màng,
                          Mẹ quay nhìn em, thử em có bình yên không đã!

                          Thế mà ngược lại, đứa con có khi, theo tiếng gọi của non sông, một đi không trở lại…
                          Thơ người khiến tôi nhớ lại bao kỉ niệm vui buồn. Có con mới hiểu lòng mẹ. Khi mang thai đứa con đầu, mẹ khuyên tôi mỗi buổi sáng dậy sớm trước hết mở toang hai cánh cửa, hít thật sâu vào lồng ngực sau đó mới cầm chổi quét nhà. Có thai không nói lời nung,  không hờn giận, không nuôi nấng những tình cảm xấu ác như ganh ghét, trả thù. Có thai đứa con đầu những năm 78, 80, thành phố tôi ở trước đây sáng choang ánh điện bây giờ nhà đèn trả cho Pháp? Đêm hôm mối nhà một ánh đèn dầu leo lắt. Cúp điện thường không báo trước. Không hiểu sức mạnh bên trong nào thúc đấy khiến  mối ngày tôi vượt qua được hàng chục km đường trường bằng xe đạp, ngán nhất là công việc đi dạy hay điều khiển học trò lớp 9 dạy bổ túc ban đêm. Phải vượt qua một quãng đường chừng 5km, qua một con đò, rồi còn phải đạp xe vô đường làng gập ghềnh lỗ trâu đi. Cũng chưa ngán bằng khi đạp xe trở về, đường trong làng tối thui, bởi nhà quê thì đi ngủ sớm và thường thức dậy khi thành phố vẫn còn say ngủ. Đường làng tối như hũ nút, nó chỉ được chiếu sáng nhờ ánh đèn pin của học viên về cùng lối, họa hoằn lắm mới có ánh đèn dầu từ trong một căn nhà nào đó ngủ muộn. Ra đến đường cái mới có ánh điện, qua chừng 1km50 mới tới bến đò, bà lái đò chỉ chống sào đợi một mình tôi. Rồi phải qua một nghĩa địa vắng vẻ, một bãi rác hôi thối. Cả nghĩa địa và bãi rác kéo dài khoảng gần 2 km nữa mới đến cầu Cháy. Gọi là cầu Cháy( tiếng dân gian) vì là chiến tranh bom đạn khiến thành cầu bị cháy xém. May mà chiếc cầu này do công binh Mỹ làm trước 75 nên mới không sập và còn có mấy trụ đèn trơ gan cùng tuế nguyệt, tuy chỉ đỏ le lói hai trụ nhưng có còn hơn không. Đêm nào cúp điện thôi khỏi phải bàn. Sức mạnh nào thúc đẩy tôi vượt qua các chướng ngại ấy, sự tối tăm, giá rét mùa đông, nắng khô mùa hè, cho đến ngày sinh nở nếu không vì tình mẫu tử thiêng liêng? Không dám ăn bậy, không dám đạp xe nhanh, chỉ sợ ảnh hưởng đến con. Thế mà vui biết mấy, tình thương con nảy nở khiến tiêu tan bao nỗi nhọc mệt mỗi khi ta về đến nhà.
                          Thật lạ, người đã nói giùm ta những điều ta trăn trở, một đôi khi thôi:

                          Mẹ là mây sắc hương ngàn
                          Thương em như nước trường giang xô bờ
                          Mẹ là hoa, mẹ là hương
                          Mẹ là nguồn cội tình thương nhiệm mầu
                                                 (Những lời mẹ thương)

                          Ta còn có mẹ trong đời, là một nguồn hạnh phúc vô biên. Thời đại bây giờ con người sống lí trí khô khan nhiều hơn tình cảm. Công việc, những mối lợi trong thương trường, tranh đấu giữ lánh thổ, khiến nhiều khi ta quên mất vai trò người mẹ. (Mấy ai còn nhớ những bà mẹ có năm đứa con tử trận, nếu bà không có con làm chức vụ nọ kia)? Sự lãng quên vô tình kia, may thay, đã có người nhắc em thơ, những đứa em còn nhỏ dại  tưởng chừng vô tư qúa lắm. Sự thật, cả khi ta khôn lớn, sáu bảy chục tuổi mẹ vẫn coi ta còn nhỏ:

                          Trong cuộc đời, nếu ai có hỏi
                          Thương yêu ai cao nhất trong đời
                          Em đáp liền, không do dự, em ơi
                          Tình thương cao cả nhất, xin dành cho cha mẹ.
                                                     (Bài ca hay nhất)

                          Không những có mẹ mà còn có tình cha. Tình cha thì sâu kín và mãnh liệt. Không những là người anh hùng ngoài trận mạc, người cha còn thương con một tình thương vô bờ bến, tình cha mãnh liệt mà sâu kín bởi đàn ông lí trí hơn đàn bà.
                          Hơn ai hết, người hiểu tình cha. Một tình cảm đặc biệt khiến có khi người cha có thể hi sinh, có thể bỏ tất cả, vì con.

                          Cha em đó, mồ hôi nước mắt
                          Cha em đó, chan nắng đổ mưa
                          Cha em đó, chân tay sần sũi
                          Đánh đổi một đời, gian khổ vì em
                          Nếu em có gì, cha em trầm ngâm không  nói
                          Nếu em có gì, cha em se thắt tâm can
                          Em có biết không, cha em đứt ruột đứt gan
                          Nặng trĩu khối đầu
                          ...
                          Dù không buông những tiếng yếu mềm
                          Nhưng lòng cha chan nước mắt
                          Đó chính là như nhà có nóc

                          Che cho em, không nắng không mưa
                          Che cho em, sóng cả gió lùa
                          Khôn lớn trưởng thành, để đi vào trường đời
                          ...
                          Dùng chữ nghĩa yếu mềm, thì làm sao diễn tả.
                                              (Công cha, một tiếng, một đời)

                          Hình như người biết rằng nói bao nhiêu cũng không đủ, bởi ngôn từ thì giới hạn mà tình thương tự nó vốn vô biên. Người nhắc những em thơ và cả người lớn:

                          Cho nên còn có mẹ trong đời
                          Em hãy sung sướng lên đi!
                          Chị hãy sung sướng lên đi!
                          Và, anh hãy sung sướng lên đi!
                                              (Còn mẹ là còn tất cả)

                          Rồi cái điều không ai muốn đã xảy ra:
                          Nhiều khi đem nhớ ra hong
                          Ấm đâu không thấy mà đông lạnh lùng
                          Thầy Nhất Hạnh có lần viết:
                          “Tôi biết tôi mất mẹ
                          Là mất cả bầu trơi”

                          Bởi vì, có ai thương ta bằng mẹ ta. Mẹ ta sung sướng khi ta cười, lo lắng buồn bã khi ta đau ốm. Rồi khi buộc lòng phải trừng phạt ta mẹ cũng khóc. Chín tháng cưu mang, ba năm chăm bẵm bú mớm, tập nói, tập đi, đều là công mẹ.

                          Chỉ cần mẹ, đời em biết yêu thương
                          Tặng phẩm mẹ trên trần gian lớn nhất.

                          Những điều tưởng bình thường hóa ra không phải thế. Những điều tưởng cao xa hóa ra rất giản dị. Ở đó ta có mẹ, có mẹ là ta có tất cả, mất mẹ là ta mất tất cả, mất” cả một bầu trời”.

                          Hỡi trời, trời cao bao lớn
                          Hỡi đất, đất rộng tới đâu
                          Đem chứa, không đầy mắt mẹ
                          Đem so, tim mẹ chưa tràn
                           (Đừng quên có mẹ trong đời)

                          Phương xa mất mẹ, còn nỗi đau nào lớn hơn. Người nói lên nỗi niềm của mình với bao nhiêu tiếc thương:
                          Mẹ về một cõi tịch liêu
                          Còn đâu hai tiếng: mẹ yêu trong đời
                                                  (Mẹ đã đi rồi)

                          Lạnh lùng nghe tiếng đêm đông
                          Xa xôi nghe tiếng mênh mông vô bờ
                          Lung linh nén ngọc hương thờ
                          Nhưng hình bóng mẹ mịt mờ ngàn xa
                          Giật mình gối mộng đêm qua
                          Sờ trên gối mộng gối đà đẫm sương
                                              (Phương xa mất mẹ)

                          Nào ai muốn thế? Người đã trải qua cái cảnh thức suốt một đêm trường, mong gặp mẹ lần nữa, tưởng như trong giấc mơ – cái chết của từ mẫu là điều  người không hề ngờ đến, để lại trong đời bao nỗi tiếc thương ân hận. Phải chăng vì thế, người khuyên ta, nhắc nhủ ta, ngày nào mẹ còn khỏe, ta hãy sống với mẹ thật trọn vẹn, thật đủ đầy từng khoảnh khoắc hôm nay. Thời gian thì trôi nhanh như nước chảy mà đời người có hạn.  Hiện tại là giây phút quý nhất. Người khuyên ta, hãy một lần ngồi bên mẹ, cầm tay nhìn kĩ vào khuôn măt mẹ để nói rằng:

                          Mẹ ơi! Mẹ có biết rằng, con thương mẹ lắm không?
                          Cõi trần gian,diễm phúc cho em, còn đóa hoa hồng!
                          Và, bất hạnh cho những ai, khi cài bông hoa trắng!!
                                                     (Nhắc những em tôi)

                          Bởi đã nếm trải cảnh chia li đau đớn với mẫu từ:
                          Con chim nhỏ, gọi đàn vang mé núi
                          Tiếng mẹ ơi, ngập ngừng bên mé núi
                          ...
                          Vô thường, mẹ đã ra đi
                                                    (Từ tạ mẹ hiền )

                          Nhiều khi đem nhớ ra hong
                          Ấm đâu không thấy mà đông lạnh lùng
                          Cho rằng suy nghĩ mông lung
                          Xưa nay biết mấy anh hùng lệ rơi!
                                        (Anh hùng còn rơi lệ)

                          Câu thơ đọc lên buồn ứa lệ. Khép lại tập thơ, ta cám ơn người đã viết cho đời những vần thơ đẹp nhất, hay nhất về mẹ, về cha; đó là Hoa Song Đường như người đã đặt tên. Và ta cũng cám ơn đời, cám ơn trời phật đã cho ta một người mẹ hiền để mỗi lần trở về ta có thể vòi vĩnh như ngày còn bé dại, để được chiều chuộng được yêu thương và để thương.

                                                                                Huế ngày 22/6/2009
                           
                          ***********
                           
                           47. Hoa Song Đường (về Cha Mẹ)
                           
                           48. Bài Ca Hay Nhất (về Cha Mẹ)
                           
                           49. Mẹ Đi Lối Cỏ Hoa Cài (về Cha Mẹ)
                           
                           50. Sống Vỗ Đôi Bờ (về Cha Mẹ)
                           
                           51. Một Mái Quê Nhà (về Cha Mẹ)
                           
                          *** 
                          Kính mời xem tiếp >> Thơ Mặc Giang
                          <bài viết được chỉnh sửa lúc 17.05.2010 01:41:12 bởi Viet duong nhan >
                          #13
                            Viet duong nhan 14.05.2010 01:18:07 (permalink)
                            Đọc Thơ Mặc Giang
                            “Thấy tưởng Thường, nhưng Hay, Lạ và Đặc Biệt !”

                             

                            60 năm trước, lúc trên 10 tuổi biết đọc sách, tôi cũng thích thơ, nhưng tìm đọc loại thơ chinh chiến ( người chiến binh đi chiến đấu). Những bài hay thì chép ra sổ nhỏ để đọc lai rai. Thỉnh thoảng cũng thích thơ tình, loại hay cả ý lẫn lời. Cho tới lúc sắp rụng về cát bụi, tôi chuẩn bị để ra đi cho nhẹ nên không còn hồn để đọc thơ nữa.
                            Tuy nhiên, nhờ biên soạn sách 30 Năm . . . Phải đọc, phải lục lọi, nên đọc đủ thứ thơ, hay cũng đọc không hay cũng đọc, vì hay và không hay thường hay lẫn lộn. Hoặc nếu nghe ai đó khen thơ tác giả này nọ hay, thì tôi chú ý đọc thử.
                            Một hôm, như thông lệ, tôi hay ghé các vị trong Ban Biên Soạn, vừa thăm chừng bài đánh máy và đem bài đánh rồi về đọc. Đang gặp một vị trong Ban khoảng 15 phút xong, chuẩn bị ra về, thì bất ngờ gặp Mặc Giang đeo túi vải đi vào, tôi chào cả hai, ra về. Bước đi mấy bước, tôi ngoáy lại thưa với ông : “Nội tướng tôi đọc trên báo thấy nhiều Thơ Mặc Giang, bà ấy khen quá, mà tôi chưa đọc. Nếu được, cho tôi xin những bài thơ đã phổ biến !”. Ông cười rồi móc trong túi vải đeo, lấy ra và đưa 3 tập thơ khổ A4, mỗi tập 100 bài, trông thật đẹp mắt. Tôi xin chữ ký, ông nói đóng dã chiến mà, để mai mốt in sách đã, đem về đọc đi.
                            Về đọc ngay hai hôm. Sau đó đến gặp, thưa với ông, tôi đang lục tìm các bài viết kể cả thơ nói về 30 năm xa xứ, nhưng tuyệt nhiên chưa thấy. Xem kỹ trong 3 tập thơ của ông mới cho, có được vài câu. Ước gì có được vài trang cho kịp, vì vài tuần nữa là sách đưa đi in. Nghe tôi nói thế, ông làm thinh. Vài ngày sau, anh Đức Lan (kỹ thuật) báo tin có 3 trang thơ của Mặc Giang mới gởi tới cho sách 30 Năm. Tôi cấp tốc chạy lấy bài về đọc. Bài 1 “Ba mươi năm, lịch sử trôi dòng !”. Bài 2 “Ba mươi năm rồi đó !”. Bài 3 “Dòng thời gian Em có nghe !”. (Cả ba bài, buồn, hay và rất cảm động). Rồi chọn một bài cho vào sách, đúng ra là cả ba, nhưng số trang dành cho từng vị có hạn. (Xin mời độc giả chờ tìm đọc khi tác giả xuất bản).
                            Cũng Mặc Giang, những dòng thơ khác, trong “Tôi đi mãi trên hành trình bất diệt” (tháng 6-2005) :
                            Nếu bảo chết là trở về cát bụi
                            Hỏi suối vàng còn có chỗ để dung
                            Mà xưa nay nhào vô đó tới cùng
                            Nhét một đống thì làm sao thở nổi ? ...

                            Trong “Rau Cỏ bốn mùa” (6-2005)
                            Hơn 30 loại rau được vào đây :
                            ... Cỏ rau đều có bốn mùa
                            Có tiền mua chợ, không, mua ngoài đồng
                            Dù ngon, dù dở, cũng xong
                            Đói ăn khát uống no lòng thì thôi
                            Quê mình đẹp lắm ai ơi
                            Cơm ngon canh ngọt đời đời ấm no.
                            Trong “Sông nước Việt Nam” (7-2005)
                            ... Bắc Nam Trung vẫn một màu
                            Năm ngàn năm, vẫn trước sau một dòng
                            Cùng đi, liền núi liền sông
                            Bắc cầu liền nhịp, bắc sông liền bờ
                            Cùng đi, gìn giữ điểm tô
                            Muôn năm bền vững cơ đồ Việt Nam.
                            Nếu ngồi mà soạn ra những dòng thơ mình thích, thì bài nào cũng có, nhưng hai câu “Mập mờ chiếc bóng lung linh. Hư vô một cõi riêng mình thế a !”, trong “Hư vô, một cõi riêng mình”, hay “Cội già ngã bóng lung linh. Rừng khuya thức giấc, hỏi mình là ai ?” trong “Quê nhà sẵn có từ lâu”, làm cho tôi, tuổi luống về chiều giật mình và rúng động.
                            Quả thật, “Thơ thấy Thường mà Hay, Lạ và Đặc Biệt” ! Không lạ, sao phi thuyền bắn phi tiêu vào sao chổi giữa không trung cũng diễn tả được bằng thơ. Bão tố Katrina hãi hùng bên Hoa Kỳ bữa trước, bữa sau đã có Thơ của Mặc Giang phổ biến kêu gào cứu trợ, “Lại động đất Kashmir” cấp kỳ đăng báo kêu cứu. Rồi “Từ cõi chết, em lần mò sống lại”, nói về động đất tại Iran. “SARS, cướp em tôi !” nói về dịch nhiễm thời đại. “Dịch cúm này làm hại Gà tôi !”, đang là cơn chấn động trùm khắp chưa diệt được. Nhìn qua ông và thấy được ông, sâu sắc, nhạy cảm, kịp thời, và hoạt động, làm việc, bất luận thời gian, thong dong nhưng cực khổ, chịu đựng, và có một tư thái bình dị nhưng dị thường.
                            Đặc Biệt nhất ở đây, bài viết về Mẹ nhân Mùa Vu Lan, do Lý Thừa Nghiệp bao dàn, có 7 bài thơ góp mặt trên Thời Báo số 402, thì Mặc Giang với nhan đề “Từ Đó Xa Mờ, dâng hương hồn Mẹ”, được một vị yêu thơ, khó tính, nhận xét và cho rằng, bài của Mặc Giang hay nhất, có ý là diễn tả cảm động nhất.
                            Rất tiếc, với hơn 5 tập thơ, tức hơn 500 bài, khổ A4, được in “dã chiến”, tác giả bộn bề nhiều công việc, phương tiện chưa cho phép, mà lượng thơ cứ ào ạc tuôn trào, phong phú, đa dạng, đủ mọi hình ảnh, sắc thái, như triều dâng vũ bão, xuôi ra tận biển, ngược lên tận nguồn, vần vũ mây trời, lại đổ thành mưa, tưới tẩm ruộng đồng, tắm mát muôn sông. Mới đó, những ngày chuẩn bị cho Sách 30 Năm, tác giả có hơn 260 bài, thì nay, chỉ mấy tháng thôi, con số đã lên hơn 520 bài. Vậy mà nhà thơ Mặc Giang mới chuẩn bị cho ra đời tập một “Quê Hương Còn Đó”, gồm 70 bài trong nay mai.
                            Tôi không phải là một nhà thơ. Nhưng một hôm, có một BS nói với tôi : “Tại Úc có một nhà thơ lớn và nhà thơ ấy cũng là một anh hùng. Hồn thơ của ông đã nâng tôi dậy”. Lại một nhà báo và là chủ nhiệm một tờ báo lớn ở nước ngoài, hồi hưng thời, có khoảng 15 ngàn độc giả dài hạn, sau đó, giản còn khoảng 10 ngàn. Ông nói bóng rằng “Cách chọn bài của tôi, không cần danh to, bằng cao, tên tuổi . . . mà phải Đặc biệt, Hay, Lạ, là nhất và được ưu tiên”. Nay ông đã qua đời, nhưng báo ấy vẫn còn sống khá mạnh. Lại thoảng nghe có người nói, “Mặc Giang, ở cương vị kia, còn phải gánh vác và hy sinh cho đến suốt đời, nhưng về lãnh vực sáng tác, ông đang có một khối lượng quá lớn, có giá trị, để lại cho đời và đóng góp vào nền thi ca dân tộc, bây giờ nếu có ra sao thì cũng đủ rồi.”
                            Tôi thật cảm kích khi nghe những ý đó, lại nhớ đến ý kia, liền viết những dòng nầy, nhưng vẫn mong rằng, Mặc Giang sẽ không cho vào sách, dù tôi và tác giả thân quen đã hơn 23 năm.

                            Ngày 25-10-2005
                            Ngô Lâm

                            #14
                              Viet duong nhan 16.05.2010 05:52:33 (permalink)
                              Tôi Không Bán Thơ Đâu
                              Ngọc Túy - Hương Tâm



                               Ngày xưa có một nhà thơ viết:
                                     “Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
                                     Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”
                                     Là thi sĩ “tôi làm thơ là rung một làn ánh sáng” là người sống và cảm xúc trước cái đẹp.
                                                             Ai mua trăng tôi bán trăng cho,
                              Chẳng bán tình duyên ước hẹn hò” (Hàn mặc Tử)
                               
                                       Làm thơ là cửa ngõ vào tâm linh. Cũng ánh trăng ấy, sông xa ấy, làn sương ấy, mùa thu ấy, mỗi nhà thơ cảm nhận một cách khác. Đựơc gặp và quen ông qua lời giới thiệu của một người bạn, cầm trên tay tập thơ của ông, mỗi ngày mỗi dày lên, tôi đọc liên tiếp trong gần hai tháng. Có tất cả mười tập, không thể đọc hết một lúc, phải đọc nhiều lần mỗi ngày đọc một ít bài. Và chỉ đọc về đêm vì chỉ có ban đêm tôi mới có thể lắng lòng mình nghe, cảm và rung động trước những vần thơ lạ lùng như một dòng suối chảy róc rách không ngừng; Lạ lùng vì chất tự nhiên, trong trẻo mà hàm súc vô cùng của ngôn ngữ thơ đặc biệt. Một loại hình ngôn ngữ giản dị, có khi còn dí dỏm nữa; Vui có, buồn có, đọc rồi thấy tâm hồn mình đổi khác, hết ưu tư buồn phiền trước bao nhiêu phản trắc xô bồ giữa cuộc đời hiện tại. Tuy thế thơ ông nhiều khi man mác một nỗi buồn, đọc những vần thơ sau:
                               
                                                      Nắng lên cho ấm hương sầu
                                                      Gợi lên trầm bỗng tiếng cầu kinh xưa
                                                      Tình quê biết nói sao vừa
                                                      Đau thương máu lệ hay chưa hỡi người?
                                                   (Tiếng lòng nức nở quê hương)
                                              
                                                      Xuân đến làm chi thấy ngậm ngùi
                                                      Nụ cười đã chết hẳn trên môi
                                          Ngày vui đã mất từ lâu lắm
                                          Từ thuở còn thơ khóc chào đời.
                                                                                                       ( Thầm lặng)
                               
                              Nỗi buồn trong thơ Mặc Giang là nỗi buồn nhân thế. Điều này thật hệ trọng. Lúc nào ông cũng làm thơ được, viết thơ được, ông sống với thơ hơn là “ ru” với nó. Chừng như qua ngôn ngữ thơ, nhà thơ không ru ai ngủ yên, trái lại - ông thức tỉnh kẻ khác, xoa dịu những buồn đau, làm lành vết thương lòng. Làm trẻ lại kẻ tật nguyền, an ủi cô nhi… Trái tim đa cảm của ông là mặt kia của lí trí, hay nói khác, lí trí sáng suốt soi đường cho trái tim đau. Lúc nào ông cũng rung động được, cảm xúc được trước khía cạnh tốt đẹp của đời sống; Sống, hiểu như những xẻ chia và hiến dâng. Sống cùng với những đau thương mất mát của con người, mà mỗi ngày mỗi khác. Đó là điều khiến ta thấy ông khác hẳn những nhà thơ khác, kể từ xưa đến nay. Mỗi ngày một niềm vui khác, một niềm cảm thông khác, mỗi rung động mới. Tuy viết nhiều - có thể nói chưa ai liên tục viết trong một thời gian ngắn với một kỉ lục như thế - thơ ông luôn luôn mới, lạ và hay.
                               
                              Thơ là cõi riêng. Nơi Tô Đông Pha tìm thấy, tận những phương trời viễn mộng, niềm an ủi thầm kín với những con lục y yêu phượng. Và Hàn mặc Tử:
                               
                              “Thơ tôi bay đến một trời chưa thấu
                              Hòn tôi bay đến bao giờ mới đậu
                              Trên triều thiêng ngời chói vạn hào quang?”
                                                           ( Xuân như ý)
                              Huy Cận viết:
                              “Ai chết đó nhạc sầu chi lắm thế
                              Trời đìu hiu chiều rét mướt ngoài đường.”
                              Và Xuân Diệu:
                              “Hai người, nhưng chẳng bớt bơ vơ.” (1)
                               
                              Cũng chỉ là nỗi riêng. Nỗi buồn niềm vui của Mặc Giang nằm trong sự xẻ chia. Ông không chỉ thuần túy rung động trước cái đẹp của buổi chiều tà và bình minh. Ông còn cảm xúc trước những bất công của con người đang gánh chịu. Đó là một cõi vô thinh phong phú hình ảnh, giàu màu sắc và nhạc điệu. Nhà thơ không sử dụng từ hoa mỹ, không ngoa ngôn mà lại nói rất nhiều. Phải chăng chính vì đời là cõi tạm mà cõi thơ lại chính là chỗ “dư dục vô ngôn” nên thơ Mặc Giang khi nào cũng rõ ràng thứ ngôn ngữ nói, khi nào cũng hàm ngụ một ẩn ngữ? Có phải vì thế mà người thi sĩ phải ra đi?
                              Nỗi cô đơn ngàn năm của Rikle, niềm hi vọng chứa chan trong thơ Tagore, niềm vui nhẹ nhàng trước lá cỏ trong thơ William Blake và lục bát hồn nhiên trong thơ Huy Cận:
                              “Nằm im dưới gốc cây tơ
                              Nhìn xuân trải lụa muôn tờ lá non.”
                              Cả tính u uẩn trong thơ Kalil Gibran, tất cả tính cách trên đây thỉnh thoảng ta vẫn thấy trong thơ ông. Mặc giang là một người khác đời ư, không phải vậy. Ông là một trường hợp khác. Khác ngay trong ngôn ngữ thơ.
                               
                              Cuộc lên đường của ông cũng khác. Ông không hề thiếu thơ. Ông làm thơ trên đường đi. Đó là một cuộc lữ hành không mệt mỏi. Những bài thơ được ông viết rất nhanh, tuồng như thơ là hơi thở, hơi thở làm nên sự sống, nguồn thơ bất tận là máu thịt của Mặc Giang. Ông viết thơ trên máy bay, trong những chuyến đi về thăm quê nhà hay đến miền đất khác cũng vậy. Cảm xúc chưa kịp hình thành câu chữ, ý thơ đã tuôn trào. Và thế là cõi thơ vẫn là một tính cách riêng dù thơ ông – không phải chưa hề riêng tư cho bản thân mình mà ngay cả điều ấy – cái ngã ấy - cũng hòa đồng vào đại ngã.
                              “Tàu ơi, còn nhớ sân ga!
                              Xe ơi, còn nhớ bến xa bến gần!
                              Thuyền đâu rẽ nước chia phân
                              Máy bay đâu xé nỗi vầng không gian!”
                                                                 ( Từng cuộc hành trình)    
                                                  
                              Nghệ sĩ là con tằm nhả tơ. Dù thế nhà thơ không nói đến nỗi cô đơn của mình bao giờ. Cảm xúc dạt dào lấn át tất cả, cảm xúc lớn hơn nỗi cô đơn. Thơ, ngay cả trong cuộc lữ, không tách rời người nghệ sĩ với vũ trụ vạn vật và con người. Trên đường về thăm quê, nỗi u hoài muôn thuở của người con xa xứ, niềm ưu tư trước cảnh còn mất, được thua; Bao nhiêu tấn trò đời diễn ra, nỗi buồn nhân thế trong thơ ông thật mênh mang với ý thơ hàm súc. Có điều ông không chìm đắm. Mặc Giang là người thơ của nhân loại: ông chan hòa với cỏ, cây, hoa, lá, dã thú, người, vũ trụ vạn vật. Và nhất là với quê hương. Có khoảng 135 bài, trong đó, chủ đề quê hương chiếm hết 75 bài (trong số 1000 bài).
                               
                              Quê hương, ngày về là nỗi niềm hoài nhớ nhức nhối trong thơ Mặc Giang. Tại sao người thi sĩ phải ra đi? Gần như là định mệnh: nỗi cô đơn ngàn năm, niềm đau nhân thế, nối sầu tiền kiếp bàng bạc khắp cõi thơ Huy Cận và Rikle. Làm sao thản nhiên được trước cuộc bể dâu? Sau những bầm dập mất mát, cái chết gần kề sự sống, hạnh phúc và khổ đau hòa làm một, cả hai bay bổng trong cuộc lữ chuyển hóa thành thơ. Thơ ông nói về mình không nhiều, bài thơ nào cũng mang trong tâm tưởng lòng hoài nhớ quê hương.
                               
                              Cả dĩ vãng, biết đâu làm dấu mốc
                              Đã qua rồi, xin trả lại thời gian
                              Có nhớ chăng như những tiếng âm vang
                              Đong cay đắng, đổ đầy trang kỉ niệm
                               
                              Có thanh trong, mới thương trời màu tím
                              Có sơ cơ, mới quý những chân tình
                              Có hàn vi, mới biết kẻ thương mình
                              Chấm điểm son trên bức tranh phù thế
                               
                              Đâu nói chi, và chẳng cần kể lể
                              Tôi giữ gìn một cõi của riêng tôi
                              Đời có sao rồi cũng được thôi
                              Cho nghĩa thú một đời tôi, ý vị.
                                          ( Nhớ những ngày qua)
                               
                              Trong cuộc hành trình tìm về chính mình ông tìm thấy bản thể tự thân và giọng thơ ông tự nhiên như  một thứ ngôn ngữ nói không kiểu cách màu mè. Con người trong thơ ông nổi trôi trong cõi tạm bi thê mà không chìm đắm, từ đó phát sinh niềm hi vọng mới, một sức sống mới, ngày mới, vì đêm thì sẽ tàn. Chưa bao giờ đọc thấy sự tuyệt vọng ngay trong những vần thơ buồn nhất:
                              Sá gì hai chữ biệt li
                              Thời gian như thể bờ mi khép hờ
                              Mở ra còn đẹp như mơ
                              Khép vào lưu lại vần thơ muôn đời.
                                     ( Quê hương còn đó đợi chờ)
                              Có thể nói tình tự quê hương bàng bạc trong suốt mười tập thơ:
                              Không quê sầu hận ngập tràn
                              Làm thân lưu lạc lòng man mác buồn
                               
                                        Dầu vậy, chỉ buồn nhẹ nhàng thôi mà thấu tâm can, nếu ta đọc thơ ông thật kĩ và thật chậm. Từng câu chữ thấm vào tim vào máu thịt ta. Khóc than ư? Ông ra đi để trở về và trở về xây đắp niềm hi vọng rồi ra đi, chừng như trên mỗi chặng đường đều có thơ vì thơ chính là máu thịt ông và hơi thở. Thơ là cõi riêng tôi, cho dù thế nào chăng nữa.
                              Ai gieo rắc lầm than!
                              Tôi vá mía đắp đường
                              Ai gieo rắc tham tàn!
                              Tôi gìn giữ yêu thương
                               
                              Quê hương trong thơ Mặc Giang như một nỗi niềm khôn nguôi, quê hương là máu thịt và ông có rất nhiều bài hay về chủ đề đó.
                              Không những tự hào về quê hương mà cả ông cũng còn một lời xác quyết về mình:
                              Tôi là một người Việt Nam
                              Không tiếp tay xương máu hận thù
                               
                              Ông khẳng định điều đó khi xẻ chia với đồng bào ruột thịt, bày tỏ tình thương cảm đến với cuộc sống của mọi người, kể cả người nghèo khổ lầm than nhất. ông thông cảm với người công nhân, thợ nề, người khuyết tật…trẻ cô nhi…Quê hương không chỉ là bờ tre bến nước mà còn có đồng bào ruột thịt. Tình yêu nước thương nòi thể hiện qua ba miền Trung, Nam, Bắc. Quê hương Việt Nam anh hùng trải qua mấy lần giữ nước và dựng nước được làm sống lại trong thơ Mặc Giang. Trái tim của nhà thơ thật rộng lớn. Ông nói với cha, mẹ, với người em thơ mới gặp bên đường, với doanh nhân, ông viết cho thế hệ mai sau, cho bản thân mình và cho sự cảm thông. Vừa có bão Chanchu đã có ngay bài thơ kêu gọi cứu trợ. Vừa nghe tin động đất đã có ngay bài thơ xẻ chia kêu gọi tình người. Hồn thơ lai láng thế mà tình người thì thâm sâu. Lạ thay ngôn ngữ nói – viết thành thơ, một loại hình ngôn ngữ tuôn trào như thác chở theo bao nhiêu tâm ý. Cũng tâm tình hiến dâng, cũng nỗi đau thầm lặng, cũng tấm lòng rộng mở mà trái tim mỗi người mỗi khác. Mặc Giang là một người thơ khác. Thơ ông nói đến tất cả chúng sanh, từ lá cây, ngọn cỏ cho đến ngọn rau. Từ con chim bé nhỏ hiền lành đến loài dã thú. Hiện hữu rõ nét nhất trong những bài thơ mang nặng tình yêu quê hương đất nước là tấm lòng thủy chung nhân hậu. Tấm lòng nhân hậu ấy trải rộng khắp trời quê, đến các loài cây cỏ chim muông. Chất lượng thơ bao dong cả thiên nhiên, muôn vật và tình người. Ông viết trên chuyến tàu tốc hành, trước giờ máy bay cất cánh. Ông viết:
                              Tôi đi vô thủy vô chung
                              Thủy chung đứng lại, đợi cùng tôi đi!!!
                              Không kể nhiều bài phổ nhạc, thật ra trong thơ đã giàu nhạc tính rồi. Nỗi buồn nhân thế trong thơ Mặc Giang rõ nét và sâu.
                              Ta hãy đọc các câu sau trong “ Dệt mộng mười đi”
                               
                              Ai đi thơ thẩn dưới trăng
                              Ngẩn ngơ cho ánh trăng vàng lung linh
                              Ai ngồi ủ dột đầu ghềnh
                              Trơ vơ cho đá chênh vênh tháng ngày
                              Ai lùa gió nhẹ heo may
                              Phất phơ cho gió lung lay bụi trần
                              Ai lồng cho áng phù vân
                              Lửng lơ trôi nổi xa gần trời mây
                              Ai ngiêng nắng đổ về tây
                              Cho chim Hồng lạc buồn bay cuối trời
                              Ai làm lở lói bờ đê
                              Cho sông hỏi nước não nề nước sông
                              Ai làm trơ trọi ruộng đồng
                              Cho lúa hỏi mạ trổ bông mấy mùa
                              Đếm trong vụn vỡ được thua
                              Cái quay búng sẵn, gió lùa đêm đông.
                               
                              Và nỗi cô đơn khi mùa xuân về thiếu người tâm sự, ông trút vào thơ:
                              Đất mới xuân sang rộn rã trời
                              Âm thầm giọt lệ cố hương ơi!
                              Nghẹn ngào lữ khách buồn không nói
                              Biết nói cùng ai đất nước tôi?
                               (Tôi đâu có nói tôi làm thơ)
                               
                              Phải, ông không làm thơ, ông chỉ nói thơ. Thơ là ngôn từ đặc biệt của Mặc Giang, của riêng Mặc Giang. Ông hòa mình với chiều tà, lúc bình minh, ông hòa mình với những khổ đau của đồng loại. Nhưng thơ Mặc Giang không thuần túy trong một không gian chật hẹp. Thơ ông bay bổng đến mọi miền. Ông về thăm quê cũ, rồi lại lên đường nơi xứ lạ quê người.
                               
                              Tại sao người thi sĩ phải ra đi? Mặc Giang là người của cuộc lữ, ý thơ đến với trại cùi, người mù, kẻ điếc, người bán hàng rong, kẻ ăn mày. Ai khổ thì có thơ ông và tự thể ông hiện hữu cùng khắp. Nơi nào có đói khát, có thiếu thốn, có mùa đông giá lạnh, có mùa hè nóng nực, ở đó có ông và thơ.Thơ ông đến với đồng loại, sau trái tim đau. Phải, tôi nhấn mạnh. Sau trái tim đau. Có khi ta có cảm giác đau buốt, cảm nhận một khía cạnh khuất bóng của tâm hồn thi sĩ. Nó là trái tim đau lúc hoài nhớ quê hương, lúc viết những tứ thơ lạ lùng chỉ để diễn tả một ý, nhiều ý của mình về quê hương dân tộc. Tô Đông Pha vui với con Lục y Yêu phượng, một giống chim lạ nơi chốn lưu đày, còn ông có Thơ. Thơ và chốn thiền môn. 
                               
                               
                              Tôi không nghĩ ông bước ra từ nấm mộ mặc dù qua thơ ta biết ông đã mấy lần thoát hiểm. Có thể hồn thơ đẩy ông đi một bước dài ngàn dặm chăng? Dưới bóng thiền môn, ra đi và trở về nào có khác gì? Cho nên có khi thơ ông đọc lên rất giản dị tự nhiên và hóm hỉnh nữa. Có khi lại hồn nhiên, cái hồn nhiên trước đất trời với bốn mùa giao cảm. Người viết thơ hồn nhiên như lá cỏ, tự nhiên như mùa xuân, phải chăng bây giờ niềm đau cũ đã xóa sạch chỉ còn hồn thơ lai láng hiện diện. Thơ ông hiện diện cho chị, cho anh, cho mẹ, cho cha, cho mọi người. Và cho tôi. Nói thế không có nghĩa thơ Mặc Giang thiếu chất trữ tình, trái lại là đằng khác, có điều, cái tình ấy là tình thương yêu và lòng từ bi của đức Từ phụ truyền lại cho ông. Cho nên đọc thơ ông tâm hồn người cảm thấy được nâng đỡ lên nhiều.
                               
                              Thơ đẩy màn đêm,
                              Xua đi bóng tối
                              Thơ kéo ngày lên,
                              Đưa ánh sáng về.
                               
                              Tôi viết thơ để lại cho đời
                              Tôi viết thơ trang trải nơi nơi
                               
                              Dòng thơ lai láng ấy được viết rõ trong các bài: “Tôi gởi thơ tôi, Tôi gởi bài thơ thứ nhất…thứ ba…thứ sáu.”
                              Thơ tôi gởi đến chị hàng rong
                              Chị múc liền tay khách đẹp lòng
                              Kiếm chác đôi đồng lương cuộn đáy
                              Sợi thơ khô cạn chị còn đong
                               
                              Tấm lòng nhân ái ấy rải cùng khắp. Thật là một tâm hồn lạ lùng. Ý thơ không ngừng như nước chảy nhất là ở thể điệu thơ lục bát, một thành công khác của ông.  
                              Giữa một cõi đời ham danh vọng phồn hoa, giữa một xã hội loạn lạc như bây giờ, thơ Mặc Giang là liều thuốc an ủi xoa dịu những ai chán chường nhân thế, khích lệ em thơ, người già. Thơ ông viết gởi đến ruộng đồng, trên đồi, dưới đầm sâu, khắp trùng dương, khắp núi đồi, miền quê, thị thành, gởi quê hương, nước non, em thơ, học sinh, thiếu niên, mái trường, giới sinh viên, công nhân viên…và tất nhiên…đến người bình dân.
                              Cơ cùng ai bán mốc meo
                              Sơn khê ai bán quán đèo hoang vu
                              Còn tôi xin bán cái ngu
                              Bán luôn cái dốt mặc dù chưa mua
                              Bán luôn những cái hơn thua
                              Chỉ xin giữ lại quê mùa mà chơi
                               
                              Có ai viết như ông đã viết không?
                              Lời thơ không khoa trương, nhưng ý thơ và tứ thơ liên miên không dứt.
                              Thơ Mặc Giang còn gởi chị hàng rong, khách tha phương, gởi cung trăng, gởi ngày mai, hôm nay…Gởi thơ chứ không bán. Ông lạc quan và hồn nhiên.
                              Ý thơ thấm nước chìm lâu lắm
                              Tôi vớt lên bờ đợi nắng hong
                              Con nước dung dằng kéo ý thơ
                              Sợi giây cột chặt quấn ngang bờ
                              Ê mình con nước băng đi mất
                              Vãi rớt thơ tôi cách mấy bờ
                              Để rồi sau đó. Nhưng tôi không bán thơ đâu
                               
                              Tôi chẳng có gì, bán cái không
                              Đã không, nên chẳng có đôi đồng
                              Không ai mua hết, nhìn còn rộng
                              Đem chất hoài, nhưng vẫn trống không
                              Nhưng tôi không có bán thơ đâu.
                               
                              Xuân Diệu làm thơ là: “Rung một làn ánh sáng”
                              Tagore: “Vào vườn tôi chơi đi em”
                               
                              Ông không mời ai vào vườn thơ, ông đến thăm họ, em bé, người già, không bằng đôi chân của mình mà chỉ với trái tim, trái tim nhân ái thể hiện bằng thơ. Những tứ thơ rất lạ:
                              Thơ tôi trôi nổi trên sông
                              Tôi xin vớt lại chờ hong nắng chiều.
                              Trường hợp của Mặc Giang, qua thi ca, không giống như bất cứ người làm thơ thông thường khác, là sự hòa điệu tuyệt vời giữa thân và tâm, giữa lí trí và tình cảm. Là vượt lên tất cả mọi giới hạn tầm thường trong cuộc sống. Đối với nhà thơ này, hình như không còn có giải phân cách giữa đôi bờ: thiện và ác, đẹp và xấu, thương và hận. Tình thơ vượt trên những cái đó. Cho nên:
                               
                              Thơ tôi một gánh thả trôi sông
                              Bèo giạt lan xa, nổi giữa giòng
                              Sóng gợn ướt mình, lăn sóng nước
                              Dòng thơ tuôn chảy khắp mênh mông
                                           (Thơ tôi)
                              Có lẽ với niềm hoan lạc ấy, Mặc Giang suốt đời có mặt cho đời, xoa dịu mọi nỗi khổ đau của người đời bằng con đường thi ca chăng?
                              Tôi viết cho ai cho mọi người
                              Đau buồn buông bỏ, tạo xinh tươi
                              Hoang tàn lấp lại xây cao đẹp
                              Thân thiện hòa vang, nở nụ cười
                              Cuối cùng, sau bao nhiêu trăn trở, niềm u uẩn của người lưu lạc, cùng với ánh sáng của thiền môn, đã soi sáng và tạo nên một giọng thơ bất hủ, khi người viết không hề” cân, đong, đo, đếm” không hề có giải phân cách giữa bờ này với cõi kia.
                               
                                                                        Huế, ngày 29/8/2008
                              #15
                                Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 35 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9