(URL) Nhà Thơ Mặc Giang

Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 35 bài trong đề mục
Tác giả Bài
Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
(URL) Nhà Thơ Mặc Giang - 11.05.2010 17:00:34
             Mặc Giang






Tên thật Hồ Thanh Bửu.


Sinh năm 1953.


Nguyên quán Bình Định, Miền Trung nước Việt.


11 tuổi xa gia đình.


14 tuổi rời Trung vào Nam.


28 tuổi hành trình lữ thứ.


Hiện đang cư ngụ tại Úc Châu.

***

Khơi dòng Quê Hương Còn Đó
Mặc Giang



Được sinh ra, lớn lên, đi vào trường học, đi vào trường đời, rồi dong ruổi muôn phương, và dù có ra sao, Quê Hương vẫn Còn Đó !
 
Từ thuở phôi sinh xuất hiện Lạc Hồng, Hùng Vương - Văn Lang, xuyên qua chiều dài lịch sử, cấu thành mảnh dư đồ Chữ “S”, với Bắc Nam Trung gấm vóc, với núi non hùng vĩ, biển rộng sông dài, với những tên gọi thân yêu Huế - Sài Gòn - Hà Nội, với từng thời kỳ dù có qua đi, không gian dù có biến đổi, và dù cho vật đổi sao dời, Quê Hương vẫn Còn Đó !
 
Những thế hệ tiền nhân đã nằm xuống trên mọi nẻo đường quê hương, “Những lối đi chạy ngang qua đất đỏ. Những lối về chạy dọc dưới trời xanh. Những mạch máu của trái tim thành phố. Những đốt xương của thân thể châu thành”, thế hệ hôm nay đang dấn bước, thế hệ ngày mai sẽ tiếp theo, “Em vẽ một vòng tròn, Tôi vẽ một hình vuông, Khép hai chữ vuông - tròn, Thành quê hương muôn thuở”, cho từng gạch nối nối liền, dù lành lặn hay rách nát, đã đang và sẽ đi qua, Quê Hương vẫn Còn Đó !
 
Qua thời gian dài dặt trong thi thiết của tâm can đan kín, đôi mắt chìm sâu, và trong thê thiết của Biển Đông bạc sóng, Trường Sơn bạc màu, nghe tiếng gọi của đêm trường, nghe tiếng nói của canh thâu, nỗi khắc khoải của tâm tư, nỗi thổn thức của tấm lòng, được ươm vọng chia xẻ, đến với, đón nhận và cho nhau trong tình thương, sự sống, con người, tạo thành những dòng chảy mênh mông, cô đọng và tiết tấu thành ngôn từ, âm điệu, nhịp khúc, có thể cho rằng đó là những vầng thơ bơi lội trên sông biển thi ca phong phú của Việt Nam, hay “Con nai vàng ngơ ngác, Đạp trên lá vàng khô”, trên núi rừng tao đàn tuyệt tác của dân tộc. Tác giả không dám tự nhận, tự xưng, nhưng khẳng quyết có quyền được đến, nhìn, thấy và sống với Quê Hương Còn Đó ! Bởi quê hương là của Việt Nam chứ không phải của riêng ai, cho nên, ai là người Việt Nam, là đã có sẵn quê hương của mình !
 
Theo năm tháng trầm tư trong chiều sâu tâm thức để mò mẫm vào bóng dáng hư vô, gõ tiếng vô thinh vào nẻo mịt mù của có không, còn mất, tử sinh, chung thỉ, đôi lúc bị chơi vơi trên đỉnh đồi diễm ảo, hay tan hoang nơi hổ thẳm giá băng. Sự tịch vắng của siêu nhiên, dù đã có những bậc thoát trần vẽ lên nhiều nét chấm phá, nhưng rồi cũng vĩnh nhiên trầm lắng miên trường. Mượn cánh lãng du phiêu bạt vào thời gian vô tận, không gian vô cùng, bỗng dưng, tiếng vọng hồi quan, nụ cười phản chiếu từ chốn huyễn ảo, tịch băng, vĩnh nhiên ấy. Thì ra, dòng sông sinh tử, dòng chuyển sắc không luôn hiện hữu dấu nét hình hài của người lãng tử, đã từng phiêu du tự thuở hồng hoang, và mãi mãi phiêu du đến tận vô chung, chạm vào những điểm đã chấm phá và chưa chấm phá, bước đi trên lộ trình phi đạo vô môn, mà mọi nẻo vào ra chính là nhà xưa quê cũ, đánh bật gốc rễ của có không, còn mất, ghi lại thành vầng thơ ca hát trên mọi nẻo đường đi khắp ngưỡng cửa diêm phù.
 
70 bài trong Quê Hương Còn Đó là tập thơ tự in ấn phát hành đầu tay, đầu đời, và đầu tiên trong chuỗi 520 bài. Đã thực hiện 48 Dĩa Audio CD Ngâm Thơ với hơn 20 nghệ sĩ tài hoa như Hồng Vân, Thúy Vinh, Đoàn Yên Linh, Phan Xuân Thi, vân vân . . . Đã phổ nhạc 60 bài với hơn 10 nhạc sĩ tên tuổi của nền âm nhạc Việt Nam như Châu Kỳ, Lê Thụ, Hằng Vang, Thanh Nga . . . và hai tác phẩm trường thi đã sáng tác, xin theo thời gian sẽ được gởi đến tất cả mọi người.
 
Ước mong tập thơ nầy sẽ đến tay quí vị với những thịnh tình quí mến, hoan hỷ, để tạo cơ duyên, trợ lực, cho những tập kế tiếp và những sản phẩm của tác giả.  

Ngày 30-10-2005
Trân trọng
Mặc Giang


Quê Hương Còn Đó
Tuyển tập thơ Của Mặc Giang
Queensland, Brisbane, Australia
Mùa Phật Đản lần thứ 2629
Tây lịch: 2005; Phật lịch 2549

Tiếng lòng nức nở Quê Hương

 
Nắng lên cho ấm hương sầu
Gợi lên trầm bổng tiếng cầu kinh xưa
Tình quê biết nói sao vừa
Đau thương máu lệ hay chưa hỡi người ?
Còn đâu câu hát tiếng cười
Lá xanh e úng hoa tươi nghẹn ngào
Tháng ngày mòn mỏi tiêu dao
Âm vang dậy sóng rạt rào hồn ai ?
Mẹ quê khóc mãi đêm dài
Da mồi tóc bạc hôm mai bơ phờ
Kìa trông em bé ngây thơ !
Xuân xanh đốt cháy trông chờ chi đây
Kìa trông thiếu phụ vai gầy !
Phấn son nhòa nhạt niềm tây lạnh lùng
Kìa trông một thuở anh hùng !
Vì dân vì nước đau lòng không anh ?
Người đang tù tội nhục hình
Kẻ thì cúi mặt rêu xanh nấm mồ
Quê hương ơi biết bao giờ ?
Thanh bình no ấm chan hòa yêu thương
Không còn máu đổ lệ vương
Trong ngoài ca khúc liên hoan trở về
Nương dâu vườn sắn con đê
Gia đình sum hợp phu thê vui vầy
Thời gian đếm mãi nào hay
Nghe không Mẹ gọi đêm rày đầy vơi
Hương hồn Tổ Quốc ai ơi !
Hương hồn Tổ Quốc của người Việt Nam !
   
23-10-82  *  Mặc Giang




<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.06.2010 19:20:06 bởi Viet duong nhan >

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
(URL) Nhà Thơ Mặc Giang - 11.05.2010 18:42:52
Lời Giới Thiệu Quê Hương Nguồn Cội
Mộng Bình Sơn
 
 

Qua năm mươi năm, tiếp bước tiền nhân tôi trót vào con đường khảo cứu lịch sử văn học dân tộc. Tôi đã đọc rất nhiều thơ và cũng làm được một số việc cho các thế hệ thơ ca.
Nhưng khi may mắn được đọc tập thơ Quê Hương Nguồn Cội (và còn khoảng 650 bài khác nữa) của nhà thơ Mặc Giang, một tập thơ chan chứa tình quê hương dân tộc, với tâm hồn bao la, sâu rộng bằng trái tim và dòng máu của người Việt Nam, tập thơ đã làm cho tôi hòa đồng trong tác phẩm không còn phân biệt được tâm tư và cảm giác của mình và chỉ còn là một con tim, một dòng máu chung của dân tộc trộn lẫn vào sự cấu tạo chung trải qua mấy ngàn năm lịch sử của núi sông.
Hỡi các thế hệ con cháu Lạc Hồng ! Đã bao người ví quê hương như một chiếc nôi nuôi dưỡng những dòng máu của Tổ Tiên sinh ra để lớn lên dù sống nơi đâu, dù làm gì nơi đâu cũng không tể quên nổi chiếc nôi ấy.
Đọc thơ Mặc Giang, tôi tự cảm giác như cùng nhà thơ đang nằm chung trong chiếc nôi muôn thuở đó, mà reo lên tình tự quê hương, rung lên tình ca dân tộc, và bước đi theo dòng lịch sử của tổ quốc.
Gần quê nhà hay xa quê nhà, sống nơi chôn nhau cắt rốn hay xa mái tranh nghèo mới cảm hoài nhớ nhung trăn trở ?
Không phải thế !
Tình quê hương đến với dân tộc Việt Nam là một tình cảm thiêng liêng chất chứa trong con tim chúng ta ngàn đời, từ thế hệ này đến thế hệ khác, vì chúng ta cùng chung một dòng máu.
Điều tôi muốn nói ở đây là tâm tư và nghệ thuật của Mặc Giang đã gợi mở trong một tác phẩm thi ca, một tác phẩm xứng đáng để phổ biến và lưu giữ trong văn học Việt Nam.
Tôi chân thành giới thiệu với bạn đọc hãy cùng vào đây, bằng tình cảm và con tim qua những vần thơ của Mặc Giang để mà rung động, say sưa hòa nhập với thời gian trên quê hương đất Tổ từ thuở ngàn xưa, đến hôm nay và mãi mãi mai sau.

                                                                       Ngày 01 tháng 3 năm 2007
 
Mộng Bình Sơn 
 

 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 16.05.2010 19:30:40 bởi Viet duong nhan >

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
(URL) Nhà Thơ Mặc Giang - 11.05.2010 21:28:16
Nào Có Ra Đi
(Quê Hương Nguồn Cội)
Kiên Giang - Hà Huy Hà
 
“Dù xa cách mấy trùng dương
Ở đâu cũng có quê hương trong lòng”
 
Tháng 3/2007, có người trao cho tôi Tuyển tập nhạc Dòng Thơ Gọi Tình Người và Tập thơ Quê Hương Nguồn Cội của cùng tác giả Mặc Giang. Tôi nay đã 80, đang tập trung viết hồi ký, từ bỏ mọi sinh hoạt thù tạc, nhưng khi nhìn tựa đề 2 cuốn sách, tự dưng có thiện cảm nên gác lại mọi việc để đọc trong nhiều đêm, suy tư chìm lắng… thẳm sâu… ưu tư… với hồn thơ Mặc Giang.
Qua các bài : Quê hương còn đó, Ta đi trên quê hương, Ta đi trên nước non mình, Đưa nhau đi trên quê hương, Về thăm quê cũ, Việt Nam còn đó muôn đời, Sông núi hồn thiêng, . . . tôi liền bị cuốn hút theo Mặc Giang vào dòng chảy tình tự về kỷ niệm tuổi thơ, gia đình, bè bạn, và danh lam, thắng cảnh, gấm vóc, sử tích, cội nguồn v.v…
Mỗi nhà thơ là một vũ trụ thu hẹp. Vũ trụ của nhà thơ Mặc Giang không những đậm đà, sâu lắng, dịu vợi, bao trùm cả quê hương ba miền Trung Nam Bắc, mà còn lan tỏa đến tình thương nhân loại. Vũ trụ tâm hồn của Mặc Giang thật là cao rộng.
Không hề biết mặt, không hề một lần giao tiếp, với mối đồng cảm của nhà thơ cao tuổi, tôi xin đón nhận và vẫy chào.
Theo tôi, không nên chẻ sợi tóc làm ba đánh giá so le khi chưa thấu triệt ý nghĩa trầm tích trong từng bài thơ : Tình cha muôn thuở, Tình mẹ muôn đời, Reo binh minh thức dậy, Nghe rừng khua gió núi, Con người phiêu bạt, Lời thùy dương, Chiếc bóng thời gian, Miền Bắc quê hương tôi, Miền Trung quê hương tôi, Miền Nam quê hương tôi … Chúng vừa là ấn tượng, vừa là tiếng nói con tim của tâm linh tiềm tàng tình quê, hồn nước, sâu lắng trong hơi thở, cô đọng trong huyết thống của mỗi người Việt Nam đối với quê hương cố thổ.
Mỗi người đều ôm ấp quê hương trong lòng, bởi Tình quê hong giọt nắng, Thuyền về bến cũ, Mơ màng ôm vũ trụ, dù sống ở đâu, vẫn có đôi mắt trong trái tim, trái tim trong ánh mắt, để nhớ để thương từng tên sông tên núi, từng ngọn cỏ lá rau, từng bóng dáng thân quen trên mọi nẻo đường. Từ niềm vui lẫn nỗi buồn cũng như từ hy vọng lẫn đau thương, Mặc Giang viết rất thật, cảm thụ rất sâu, nên người đọc không riêng gì thân nhân mà độc giả mỗi miền đều có sự đồng cảm với tác giả.
Tâm hồn Mặc Giang tuy bay bổng nhưng biết đáp xuống trên từng phần đất mà tổ tiên dày công khai phá, gìn giữ, bảo tồn, và tứ thơ Mặc Giang khơi dậy nỗi niềm, tâm tư, chất chứa niềm tự hào, khí tiết của dòng chảy truyền lưu qua từng thế hệ.
Thi sĩ chân chính phải có khí tiết của bậc cao sĩ vô danh, là biết siêu việt và viên dung mọi giá trị đối lập. Giá trị này hẳn nhiên đã được gợi mở bằng giáo lý Bồ-tát đạo-- một giáo lý đề xướng tinh thần cứu độ chúng sinh của nhà Phật. Biết nghĩ và làm như thế, nên nhà thơ Mặc Giang có thể đánh động và xoáy động tình người, và hơn thế nữa là kêu gọi thiết lập tình nhân loại, để ai cũng tập nhìn về mối quan hệ “bốn biển đều là anh em”, để lúc nào cũng thấy rằng, “anh với tôi đâu phải người xa lạ, dù không quen cũng gợi cảm tình người ”. Là cái nhìn vượt lên mọi phân định về ý thức hệ, mở ra một chân trời sáng lạn của thông điệp tình thương. 
Đọc kỹ, nghĩ sâu, phân tích, phân đoạn trong Lời giao cảm của tác giả, chúng ta đã thấu hiểu và khám phá được Mặc Giang một phần lớn rồi. Tin tưởng Mặc Giang và mỗi chúng ta còn giữ mãi quê hương trong lòng đến cuối đời, để muôn kiếp Ta còn Việt Nam, sông núi hồn thiêng.
QUÊ HƯƠNG : mãi mãi trường tn
NGUỒN CỘI : có căn nguyên vẫn là giá trị trầm tích mà con người cần ôm ấp trong lòng, cần đào xới và gìn giữ.
Hy vọng Quê Hương Nguồn Cội của Mặc Giang sẽ được đa số người Việt Nam ở quê nhà cũng như ở phương xa đón nhận bằng cả tấm lòng.
 
Phú Lạc 04-04-2007
Kiên Giang - Hà Huy Hà

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
(URL) Nhà Thơ Mặc Giang - 11.05.2010 22:10:10
Lời Giới Thiệu Hành Trình Quê Mẹ
Tiến sĩ Lý Việt Dũng

Người phương tây thường nói “trẻ ước mơ, già hoài niệm”, nhưng sau khi đọc xong tập thơ Hành Trình Quê Mẹ, tôi thấy tác giả, một nhà thơ ở tuổi tri thiên mạng, nhưng lại luôn ghi lòng tạc dạ, nâng niu trân trọng các giá trị được tài bồi bởi tiền nhân; tác giả còn hoài bảo, mơ vọng một hướng sống thiết thực cho người Việt Nam nói chung. Với Mặc Giang, hoài niệm và ước mơ nào có  hạn cuộc bởi tuổi tác. Hoài niệm và ước mơ ấy đã trở thành chất liệu tài bồi cho dòng thơ với chủ đề Hành Trình Quê Mẹ tuôn chảy không mỏi mệt, để nguồn thơ của thi nhân vốn nhào nặn từ cuộc sống, trở lại phụng sự cuộc sống ấy, trở  thành niềm tự hào kiêu hãnh của trào lưu thi ca hiện đại.

Tập thơ Hành Trình Quê Mẹ, trước tiên cho người đọc một sự bất ngờ đầy thú vị về quá trình dong ruổi của tác giả trên các nẻo đường đất nước Việt Nam. Với các địa danh và một vài chi tiết chấm phá của mỗi nơi, tác giả đã nói lên tình tự của mình như một người con chính thống của các vùng đất mà tác giả đi qua. Tập thơ có thể được xem như là một quyển địa lý thi, một bản địa chí tóm tắt cho những ai chưa có dịp đi xa hoặc chuẩn bị cất bước lên đường làm một cuộc viễn du xuyên Việt. Riêng tôi vốn là một người trải bước giang hồ khắp 62 tỉnh trên cả nước, nên càng có sự đồng cảm cao với tác giả, bởi qua những “quê tôi” của Mặc Giang, tôi như sống và thấy lại các nơi mà có lần mình đã tạm dừng bước.

Về hình thức, tập thơ được viết bằng nhiều thể loại, có thể xem là thơ tự do, tuy nhiên lục bát vẫn giữ vai trò truyền thống của nó ở những nơi mang nặng tình tự dân tộc. Về nội dung, tác giả biết dung hòa đan xen nỗi niềm hoài cổ và phong cách hiện sinh. Ở đây, người ta bất chợt ngậm ngùi về một thời lịch sử, về một vùng địa lý gắn liền với bao biến cố đã qua. Ngậm ngùi mà không oán trách. Ngậm ngùi để trực nhận công đức của tiền nhân, để nhìn lại mình, để thế hệ hôm nay càng có ý thức xây dựng cuộc đời, gìn giữ và phát triển  đất nước.

Thoát ra ngoài những phạm trù hạn cuộc về ý thức, và nhằm trở về nguồn cội, tác giả lúc nào cũng xem mọi miền quê Việt Nam là “vùng đất hứa” là nơi “quy cố hương”. Qua đó, đã hoàn thiện hoá những hình ảnh tưởng chừng đã rạc rời vì thương hải tang điền, hay bị tha hoá bởi làn sóng văn minh cơ khí. Hình ảnh đó là ai? chính là những thanh niên, thanh nữ, thôn nữ, nông dân, chinh nhân ….; họ là những con người  đầy cốt cách và nghĩa khí. Có thể nói, chỉ những thi nhân nào mang trong lòng nhịp đập của trái tim Việt Nam, niềm tự hào dân tộc và sự vững tin vào linh khí Việt Nam mới có thể có được phong cách thi ca đó.

Qua đó chúng ta thấy, sự từng trải của tác giả qua các địa phương Viêt Nam cũng là sự đi qua các nẻo đường của tâm thức, để cuối cùng trở về với quê hương bản nguyên - quê hương vô tận vô biên tế. Vậy, ý niệm về Tổ quốc quê hương của Mặc Giang là ý niệm về  những  giá trị văn hoá vật chất và tinh thần, cụ thể là tâm linh của mỗi người chúng ta. Nói cách khác, Tổ quốc hiện hữu một cách trọn vẹn ngay trong mỗi vùng đất, mỗi ngọn núi con sông của mẹ Việt Nam, được vun đắp bởi xương máu, mồ hôi, nước mắt của tiền nhân; vừa hiện hữu trong hơi thở cha ông, trong từng nếp suy tư và dòng máu chúng ta đang mang.

Ôi ! “một nắm xương khô nghe lòng da diết, mộ giọt máu đào thấm nhuận non sông”. Quê hương bây giờ và ở đây, bạt ngàn vô tận nhưng cũng ngay trong tầm mắt, gang tay của mỗi chúng ta. Mong quý đọc giả hãy cùng thi nhân cưu mang và sống trọn vẹn với quê hương điền địa của mình.

Tháng 4/2007
Tiến sĩ Lý Việt Dũng
Cẩn chí

 
 
 52. Hành Trình Quê Mẹ (về Quê Hương)
 
 53. Hành Trình Quê Mẹ 02 (về Quê Hương)
 
 54. Hành Trình Quê Mẹ 03 (về Quê Hương)
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.05.2010 04:55:47 bởi Viet duong nhan >

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
(URL) Nhà Thơ Mặc Giang - 11.05.2010 22:13:22
 
Non nước Việt Nam
Quê Hương để giữ gìn, để Thương để Nhớ (09-2003)
Mặc Giang
 
-o0o-







Tôi xin mở bản dư đồ hình cong chữ “S”
Ngắm từng Tỉnh, từng Vùng
Của nước Việt dấu yêu
Của giang sơn cẩm tú mỹ miều
Cho dòng giống Lạc Hồng gìn giữ nâng niu


Tôi xin mở bản dư đồ hình cong chữ “S”
Bắc Nam Trung một dãi nối liền
Của quê hương gấm vóc ba miền
Để thắm tô sông núi hồn thiêng
Nối tình dài con cháu tổ tiên.



Tôi xin mở bản dư đồ hình cong chữ “S”
Biển rộng sông dài non nước Việt Nam
Đi từ Cà Mau đến Ải Nam Quan
Đi từ rừng cao cho đến đồng sâu
Đi từ bờ đê cho đến ruộng dâu
Đất nước yêu thương con cháu da vàng



Mở đầu Miền Bắc khai nguyên
Thượng du miền ngược, xuôi miền Trung du
Lai Châu kê núi gối đầu
Lào Cai, Bản Giốc sương mù Hà Giang
Lạng Sơn cách khoảng Cao Bằng
Quảng Ninh ven biển chờ trăng ánh vàng
Vàng lên tựa cửa Bắc Giang
Thái Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên Quang một nhà



Ô kìa Yên Bái, Sơn La
Anh lên miền ngược, em về miền xuôi
Xuôi về Hà Nội mới thôi
Thăng Long hoài cổ, đổi dời thành đô
Năm ngàn năm, dựng cơ đồ
Theo dòng lịch sử điểm tô muôn đời



Em đi, đi nữa em ơi
Băng qua Phú Thọ lên đồi Bắc Ninh
Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc xoay mình
Chở che Hà Nội, Hòa Bình, Hà Tây
Hà Tây còn có Sơn Tây
Hà Đông bên đó, bên nầy Hải Dương



Đi ra tận cửa Hải Phòng
Trùng dương sóng vỗ Hạ Long tuyệt vời
Hưng Yên một chuyến rong chơi
Hà Nam bén gót, buông lơi Thái Bình
Ninh Bình, Nam Định xinh xinh
Hồng Hà sông nước, Thái Bình nước sông
Em về Thanh Hóa hơn không
Nghệ An, Hà Tĩnh mênh mông núi đồi



Sông Đà, sông Mã dặm soi
Bắt ngang Đồng Hới, mù khơi Quảng Bình
Còn kia, Quảng Trị điêu linh !
Sông Gianh, Bến Hải vặn mình kêu sương
Thừa Thiên, Phố Huế, sông Hương
Hội An – Đà Nẵng dặm trường Quảng Nam
Thương ra Quảng Ngãi mới cam
Thương vô Bình Định bao hàm Phú Yên



Thương lên đến tận Cao Nguyên
Kontum, Đắc Lắc giữa miền Gia Lai
Tình xưa lối cũ dấu hài
Hoàng Triều Cương Thổ thở dài một phen !
Thu Bồn khói quyện quen quen
Đà Rằng lượn khúc, chưa hoen Khánh Hòa
Thùy dương cát trắng phôi pha
Phan Rang, Phan Rí xót xa thuở nào!


Em đi lòng dạ nao nao
Thời gian đi mãi vẫy chào tháng năm
Cam Ranh mây nước xanh lam
Đà Lạt mơ mộng Suối Vàng, Cam Ly
Đường lên Bình Phước anh đi,
Em về Phan Thiết có chi ngại ngùng
Vũng Tàu, Bà Rịa một vùng
Ra khơi nhớ Bưởi mà rung Biên Hòa


Bình Dương cây trái lá hoa
Tây Ninh là tỉnh cuối bờ Trường Sơn
Sài Gòn náo nhiệt nào hơn !
Viễn Đông Hòn Ngọc dễ sờn mấy ai ?
Ai về Gia Định, Đồng Nai ?
Đừng quên Bến Nghé, mối mai Nhà Bè.



Sài Gòn chưa vẹn câu thề !
Em đi đi nữa xuôi về miền Nam
Kề vai xỏa tóc Long An
Mỹ Tho mấy khúc, Tiền Giang mấy bờ
Em đừng vội đến Cần Thơ
Mà quên Đồng Tháp dựng cờ phía Tây
Sông Tiền, sông Hậu là đây
Bến Tre bên đó, bên này Trà Vinh



Vĩnh Long in bóng theo hình
Sóc Trăng cuối ngọn, đầu ghình An Giang
Hà Tiên, Rạch Giá, Kiên Giang
Bạc Liêu rẽ bước đôi hàng Cà Mau
Muốn ra Phú Quốc lên tàu
Côn Sơn mờ tỏa một màu xanh xanh



Việt Nam muôn thuở thanh bình
Việt Nam sông núi đầu ghềnh, biển Đông
Việt Nam còn đó non sông
Mẹ Âu, Cha Lạc, con Rồng, cháu Tiên
Việt Nam sông núi ba miền
Bắc Nam Trung, quyện an nhiên muôn đời
Hình Cong Chữ “S” nơi nơi
Non non nước nước của người Việt Nam.
Mặc Giang
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.05.2010 22:24:56 bởi Viet duong nhan >

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
(URL) Nhà Thơ Mặc Giang - 11.05.2010 22:35:23
 
Dư đồ Tổ Quốc


Đứng nơi đây, ta nhớ về Bản Giốc
Núi chót vót trên non, địa đầu phương Bắc
Thác vắt vảnh lưng đèo, đổ xuống vực sâu
Núi cả, cây cao, rừng thẳm kê đầu
Vẽ nét ngọc đầu tiên bức dư đồ tổ quốc
Ta nhìn dấu mốc
Ghi Ải Nam Quan
Khói lửa thiêng sử tích chưa tàn
Rung tình tự năm ngàn năm thuở trước
Đức Hùng Vương dựng cờ mở nước
Hiệu Văn Lang dòng giống Tiên Rồng
Xuôi xuống, tận đồng bằng sóng vỗ Biển Đông
Ngược lên, chạy dài trùng trùng Trường Sơn vách núi
Đây Chi Lăng, kia Bạch Đằng
Đó Đống Đa, nọ Chí Linh
Hồn cha ông non nước vặn mình
Bao thời đại vùi chôn xâm thực
Ôi Cổ Loa,
dấu tích đền đài, bóng mờ rêu phủ
Ôi Thăng Long,
di thành bảo quốc, rực sáng kinh đô
Đây rồi, Hà Nội bây giờ
Ngàn năm văn vật nên thơ diệu kỳ
Sông Gianh cuốn hút ta đi
Để xem nơi đó có gì hay không
Một thời Nam Bắc trôi sông
Gần ba thế kỷ bềnh bồng nước non
Thì ra « Nhất đái hoành sơn »
« Dung thân vạn đại » lối mòn chưa pha
Ghé Cố Đô nhìn qua lối cũ
Vết Kinh Kỳ bao phủ Hương Giang
Dừng chân một chút bên đàng
Trường Tiền đẩy nhịp vang vang sóng cồn
Ta ghé Qui Nhơn
Đồ Bàn xưa hồn Chiêm vợn khói
Hương nhạt nhòa nhắn gởi ngàn mây
Hòa trong chiếc lá có cây
Nhìn gốc vướng rễ nhìn dây vướng rừng
Bờ mi khép mắt rưng rưng
Trôi bờ dĩ vãng lạnh lùng Huyền Trân
Đi vào thành phố Sài Gòn
Ba trăm năm cũ vẫn còn khắc ghi
Đường qua Bến Nghé ta đi
Đường về Gia Định thầm thì trước sau
Anh ơi đừng vội đi mau
Ghé thăm Bà Chiểu sắc màu nào quên
Sài Gòn ta dễ gì quên
Nhưng xin giã biệt, vẫy chào thành đô
Miền Nam đang đợi đang chờ
Nhanh chân lên nhé xuôi về Miền Nam
Miền Nam ruộng lúa bạt ngàn
Miền Nam bất bạc đất vàng viễn đông
Vượt cầu Mỹ Thuận
Sông Hậu Sông Tiền
Hát Cửu Long giang
Hòa reo chín khúc
Miền Nam ngào ngạt
Đượm tình Miền Nam
Cà Mau mây nước mênh mông
Mới thành chữ “S” núi sông nước nhà
Cả dòng lịch sử can qua
Mới thành tổ quốc sơn hà Việt Nam
Cà Mau nhớ ải Nam Quan
Đứng đây vọng nhớ Văn Lang thuở nào
Tình quê tình nước nao nao
Hồn quê hồn nước lệ đào chưa khô
Nhìn trông một mảnh cơ đồ
Người người dân Việt thắm tô muôn đời.

*
Bảo tồn sông núi

Sống xa quê mới thấy tình cố quận
Sống xa nhà mới đậm nét cố hương
Không thiếu gì mà chỉ thiếu tình thương
Không mất gì mà chỉ mất tình ruột thịt

Không ai chia cái con tim đau buốt
Không ai chia nỗi cay xé tâm hồn
Cùng xa quê mới thấm sự héo hon
Cùng ly hương mới thấu đời biệt xứ

Ông cha ta từng chỉ dạy một chữ
Một chữ thôi mà sâu sắc vô bờ
Đánh đổi gì chứ không đánh đổi tình quê
Và tình quê chẳng có gì bù đắp được

Đã có quê thì ta phải có nước
Đã có núi thì ta phải có sông
Nước kia muôn hướng đổ về sông
Nhưng, ta không bao giờ đem đổ nước

Lại nhớ xưa từng dạy
Nước mất là nhà mất
Nhà mất là ta mất
Nước không mất một tấc đất
Thì ta không mất một cái gì
Còn nước kia bị biến thái suy vi
Cả dân tộc coi chừng không đất sống

Đừng ôm mộng leo lên đồi ảo vọng
Đừng ôm mơ thêu dệt giấc chiêm bao
Đừng ôm trăng hỏi vớ vẩn ngàn sao
Chẳng khác gì bọt bèo trôi ra biển

Tất cả, chỉ nói lên một tiếng
Nước Việt còn là dân tộc còn
Nước Việt mất là dân tộc mất
Bởi, sống mà không chủ quyền chủ đất
Nếu không nô lệ, thì cũng ngoại thuộc ngoại lai
Một ngàn năm xưa, thống thiết quá dài
Một trăm năm trước, cũng không quá ngắn

Quá khứ, ngậm bồ hòn ngậm trái đắng
Hiện tại, Tàu phù Tàu thực bủa vây
Quốc thể, Quốc hồn xúc phạm xát xây
Ta quyết chống để bảo tồn sông núi.

Tháng 4 – 2010
Mặc Giang
 

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
(URL) Nhà Thơ Mặc Giang - 11.05.2010 22:37:00
 
 
Quyền thiêng liêng tối thượng

Trời đất rộng sao thu mình ốc đảo
Dân tộc hùng sao thúc thủ bó tay
Muối kia còn mặn, gừng kia còn cay
Ai chịu được nhục nhằn đày đất mẹ

Trời đất rộng sao thu mình ngõ hẹp
Dân tộc hùng sao tắt nghẽn lối đi
Quốc hồn xúc phạm, quốc túy suy vi
Mọi người dân đều có quyền lên tiếng

Thuở lập quốc, Tổ Tiên vừa xây dựng
Họ Hồng Bàng, mười tám đời Hùng Vương
Giặc phía Nam, giặc phía Bắc nhiễu nhương
Vẫn an định gần ba mươi thế kỷ

Thời Bắc thuộc, một ngàn năm thống trị
Bạch Đằng giang, tài dũng lược Ngô Quyền
Đuổi quân thù, chấm dứt mọi ách khiên
Viết trang sử chống ngoại xâm oanh liệt

Đinh, Lê, Lý, Trần – anh hùng hào kiệt
Quật Bắc phương, mở rộng phía Nam phương
Lê Lợi, Quang Trung kiệt xuất phi thường
Quân Hán Tàu biết bao lần khóc rống

Một trăm năm, thực dân Tây nuốt hận
Dẹp mộng xâm, tủi hổ phải cuốn cờ
Trang sử ta một lần nữa điểm tô
Vào nước ta, từ bị thương tới chết

Thời hôm nay, chín chục triệu người cùng dõng dạc
Cùng tuyên xưng, bất kỳ ai đụng tới nước non này
Dân tộc ta quyết trừng trị thẳng tay
Đừng hống hách, đừng ngang tàn hung bạo

Ai tiếp tay, để giữ quyền, uy, danh, lợi
Ai tiếp tay, cõng rắn cắn gà nhà
Ai nhu nhược, mang hậu họa sơn hà
Quét sạch cả, phường buôn dân bán nước

Không có lý do gì, thu mình ốc đảo
Không có lý do gì, thu mình ngõ hẹp
Tiếng ta ta nói
Nước ta ta giữ
Đất ta ta sống
Đường ta ta đi
Đó là quyền tối thượng
Và là quyền thiêng liêng cao cả.

Tháng 4 – 2010
Mặc Giang
macgiang@y7mail.com
 
 

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
(URL) Nhà Thơ Mặc Giang - 11.05.2010 22:38:05
 
Nước Non Nhà


Nước non là nước non nhà

Nhà là của nước, nước là của dân
Trên thời ngước mặt cao ngần
Dưới thời đạp đất bước chân kiêu hùng
« Bầu ơi thương lấy Bí cùng »
Ba miền đất nước đều chung một giàn
Ngẩng đầu dõng dạc dọc ngang
Nam nhi nữ kiệt vẻ vang giống nòi
Nước non là nước non nhà
Nhà là của nước, nước là của dân
Nắng mưa dội ngược phong trần
Bền gan vững chí như thần mà đi
Trong thời dung thứ từ bi
Ngoài thời đối biện kiêu kỳ ngán ai
Chung lưng đấu cật kề vai
Thắm tô bồi đắp gia tài Việt Nam
Nước non là nước non nhà
Nhà là của nước, nước là của dân
Tin yêu bảo bọc ân cần
Anh em như thể thương thân khác gì
Lo từ việc nhỏ tí ti
Cho tới việc lớn, cũng vì chớ sao
Cùng chung một giọt máu đào
Sang hèn tài trí thấp cao không màng
Cùng chung dòng giống da vàng
Cùng chung Dân tộc huy hoàng Việt Nam
Nước non là nước non nhà
Nhà là của nước, nước là của dân
Nước non là nước non mình
Non là của nước, nước mình quang vinh.

Tháng 4 – 2010
 

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
(URL) Nhà Thơ Mặc Giang - 11.05.2010 22:39:06
 
Nước Việt dấu yêu

Ta yêu tổ quốc sơn hà

Non sông gấm vóc của nhà Việt Nam
Ta yêu thắng cảnh danh lam
Giang san cẩm tú tâm đoan sử vàng
Ta yêu từ Ải Nam Quan
Xuống sông ra biển băng ngàn Cà Mau
Ta yêu non nước một màu
Bắc Nam Trung quyện con tàu quê hương
Ta yêu khắp phố khắp phường
Xuyên qua đồng nội xuyên đường cái quan
Ta yêu khắp xóm khắp làng
Xinh xinh trúc biếc hàng hàng tre xanh
Ta yêu đồi dốc thác ghềnh
Núi cao đèo cả thênh thênh đất trời
Ta yêu nước Việt muôn đời
Ngàn năm văn hiến giống nòi Rồng Tiên
Ta yêu non nước Ba Miền
Tổ Tiên con cháu hồn thiêng kiêu hùng
Ta yêu nước Việt của chung
Truyền trao gìn giữ vô cùng mà thôi
Ta yêu ao lạch sông ngòi
Biển Đông sóng vỗ mặn mòi Trường Sơn
Ta yêu đường cũ lối mòn
Lần trang lịch sử sắt son hiện hình
Ta yêu non nước quê mình
Gừng cay muối mặn nặng tình keo sơn
Ta yêu biển mộng, ôm hòn
Thùy dương vọng ước, ôm cồn ven sông
Ta yêu ruộng lúa xanh đồng
Tươi non lá mạ đượm giồng ngô khoai
Quê hương tổ quốc ta ơi
Ta yêu mãi mãi muôn đời Việt Nam.

Tháng 4 – 2010
 
 

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
(URL) Nhà Thơ Mặc Giang - 11.05.2010 22:40:10
 
Ấm lạnh Tình Quê


Quê tôi nho nhỏ Miền Trung

Người đông đất hẹp chập chùng núi non
Đất cày sỏi đá hao mòn
Đồng khô cỏ cháy héo hon ngõ về
Quê tôi trĩu nặng tình quê
Dù kham khổ mấy cận kề có nhau
Thương như mùi trắng hoa cau
Mùi thanh hoa bưởi hoa ngâu cúc vàng
Quê tôi bốn xóm một làng
Có tre mấy lũy có hàng trúc xanh
Có con sông nhỏ trong lành
Mưa thành lũ lụt nắng thành đồng khô
Quê tôi hòa quyện bốn mùa
Xuân thu đông hạ gió lùa lại qua
Dân làng vui sống mặn mà
Sẻ chia ấm lạnh nhà nhà thân thương
Quê tôi tình nặng vấn vương
Chia chung lối nhỏ cạnh đường cái quan
Xem nhau thân thiện họ hàng
Thể như khoai sắn khoai lang một vườn
Quê tôi tôi nhớ tôi thương
Như đồng nhớ lúa như nương nắng chiều
Tình quê đâu nói chi nhiều
Chỉ hong bếp lửa nâng niu trong lòng
Tình quê đâu nói long bong
Chỉ ôm ấm lạnh trong lòng mà thôi.

Tháng 4 – 2010
 
 

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
(URL) Nhà Thơ Mặc Giang - 11.05.2010 22:41:44
 


Tưởng nhớ Trần Nhân Tôn Và Huyền Trân Công Chúa


Vua Trần Nhân Tôn
Vua Trần Nhân Tôn
Đệ nhất quân vương đất trời Nam
An dân, an quốc, bình thiên hạ
Quốc Tổ, quốc Tông, đã định ban
Vua Trần Nhân Tôn
Vua Trần Nhân Tôn
Xứng danh bậc nhất đấng minh quân
Quốc ngoại, hai phương đều khiếp vía
Quốc nội, một phương vững như thần
Vua Trần Nhân Tôn
Vua Trần Nhân Tôn
Phía Bắc, tan xương giặc Nguyên Mông
Phía Nam, Chiêm Thành xin quy phục
Rạng danh bậc nhất thời Nhà Trần
Xuyên qua lịch sử huy hoàng
Thảm nhung tô thắm giống dòng Việt Nam
Quê hương cẩm tú danh lam
Son vàng thếp ngọc, sắt chàm châu pha
Năm ngàn năm, đất nước ta
Vững như bàn thạch, một nhà Việt Nam
Năm ngàn năm, dân tộc ta
Bắc Nam Trung, quyện câu ca muôn đời
Dù cho vật đổi sao dời
Việt Nam muôn thuở, không dời đổi thay
Dù cho Nam Bắc Đông Tây
Việt Nam sông núi, không lay bụi hồng
Dòng lịch sử, năm ngàn năm văn hiến
Nước non nầy, trang lẫm liệt hùng anh
Trời, còn ê ẩm màu xanh
Đất, còn e úng ngọn ngành thấp cao
Ngàn năm Bắc Thuộc lộn nhào
Trăm năm Tây Thuộc cào cào lăn quay
Ngoại lai, ngoại nhập, biết tay
Xâm lăng, xâm thực, mặt mày nát tan
Sách, không còn chỗ luận bàn
Sử, không còn chỗ sử vàng đẹp hơn
Nay, ta nhắc Vua nhà Trần
Tự Phật Hoàng, hiệu Nhân Tôn
Làm Vua, hơn các Vua
Xuất gia, thành Sư Tổ
Trúc Lâm Đầu Đà, non Yên Tử
Giác Hoàng Điều Ngự, nước Đại Nam
Dân Việt tôn xưng “Đức Cù Đàm”
Dòng Thiền Việt Nam khai Phật tích
Ta bổng nhớ, hỡi Huyền Trân Công Chúa
Tuyệt giai nhân, với nét ngọc cành vàng
Nhớ câu “Cây quế giữa rừng”
Tiếc thay không tựa bách tùng kiêu sa
Bởi nghe lời dạy Vua Cha
Bởi thương cuộc sống cửa nhà muôn dân
Bắc, còn nghiệt ngã phong trần
Nam, yên bờ cõi, gá thân ngọc ngà
Nay, ai sinh ra, lớn lên, trưởng thành
Đang sống hay xa những tỉnh Miền Trung
Miền thùy dương nhưng khô cằn sỏi đá
Lúa mòn gốc rạ
Đèo xéo ruộng đồng
Sông dài biển rộng
Muối mặn mềm môi
Xa xa bóng núi lưng đồi
Trăng ngàn vòi vọi, dõi soi sao mờ
Có nhớ không Châu Ô, Châu Lý
Có nhớ ai sắc nước hương trời
Đêm dài ngày ngắn chơi vơi
Ai nghiêng nắng đổ mưa rơi tháng ngày
Cảm thôi, đã quý thương thay
Huống chi sương gió bụi bay bốn mùa
Bảy trăm năm trước, đèn khi mờ khi tỏ
Bức rèm thưa, nhòa dấu lệ trăng khuya
Giọt dài, giọt ngắn chia lìa
Giọt khô, giọt ướt, đầm đìa mắt mơ
Bảy trăm năm sau, xây điện ngọc bệ thờ
Khói hương trầm, linh linh hồn Công Chúa
Xin chắp tay, chân thành dâng luyến nhớ
Đàn Nam Ai, hòa điệu lý hò khoan
Huyền Trân dấu ấn thấm son
Nhân Tôn triện ngọc không mòn thời gian
Tâm nguyền, tâm hạnh, tâm đan
Muôn đời ghi nhớ, hò khoan, khoan hò
Sông Gianh, còn đó con đò
Bến Hải, còn đó ai cho ấm lòng
Thu Bồn, còn đó ước mong
Hương Giang còn đó, chờ trông ai về
Nước non, nặng một lời thề
Non non nước nước không hề chia xa
Quê hương gấm vóc sơn hà
Muôn đời rạng rỡ một nhà Việt Nam.

Mặc Giang
Ngày 14-11-2008

 

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
(URL) Nhà Thơ Mặc Giang - 12.05.2010 06:03:25
Ngưỡng Vọng Cuộc Đời Và Hành Trạng Của Đức Đệ Tứ Tăng Thống Thượng Huyền Hạ Quang
  THÍCH NHẬT TÂN . Việt Báo Thứ Hai, 7/7/2008, 12:02:00 AM


(Chỉ một câu nói của Ngài : thời thế thế thời, Chú còn nhỏ, cố gắng nghe, Thầy rất thương Chú. Câu nói đó vẫn canh cánh bên lòng, ngồi ở đây, một chốn xa xôi, xin viết dâng Ngài. Cuộc đời Ngài quá lớn, viết dù không có chỗ, nhưng một thời đã gần Ngài dù lúc đó còn nhỏ, và giữa vạn lý muôn trùng, nhiều lần cũng đã thưa chuyện, hầu chuyện, đôi lúc nhắc chuyện ngày xưa với Ngài, thế tại sao không viết ? Thích Nhật Tân.)
 
Ghi chú : Viết xong ngày hôm 26-10-2006, viết trước để sau này sử dụng.
Bài này tôi đã gởi về và HT Không Tánh đã đọc cho Ngài nghe tại Chùa Giác Hoa (Sài Gòn) trong chuyến vào trị bịnh năm ngoái.
 
Hôm nay, mới nhận tin Ngài vừa viên tịch 1.15pm (giờ VN) Thứ Bảy 05-7-2008 tại Tu viện Nguyên Thiều, và Ngài mới vừa về lại Nguyên Thiều lúc 4pm ngày hôm qua 04-7, sau hơn 1 tháng điều trị tại bịnh viện Đa Khoa Qui Nhơn, tỉnh Bình Định, trụ thế 89 tuổi.
 
Cuộc đời Ngài là ngọn núi cả, ngước nhìn, đã mỏi cổ
Cuộc đời Ngài là khu rừng thiêng, đứng ngó, đã rùng mình
Cuộc đời Ngài là biển đại thệ, như triều dâng sóng vỗ
Cuộc đời Ngài là sông đại nguyền, như nước biếc lung linh
Dùng chữ nghĩa để tôn vinh
Xứng danh, nhưng quá thường tình
Dùng tâm lượng phàm phu ca ngợi
Không đủ ngôn từ diễn tả
Dùng giải này giải kia đánh giá
Như những mòn quà dâng tặng, thế thôi
Dùng cương vị này cương vị kia, tôn ngôi
Tư thế đó, đâu cần ai đặt để
Mà chỉ có nhất nhất, tâm tâm, niệm niệm, chân thành đảnh lễ
Mà chỉ có rưng rưng, cảm cảm, bi bi, sụp lạy, cúi đầu
Trong vũ trụ bao la kia, hằng hà sa số tinh cầu
Đứng lại trong giờ phút này đây, lặng yên bất động
Trong vạn hữu phù sinh kia, hằng hà chúng sinh trầm lắng
Im bặt trong giờ phút này đây, thầm nguyện kinh cầu
Ngài về trong cõi nhiệm mầu
Ngài đi từ cõi nhiệm mầu mà đi
Ngài về trong cõi vô nghì
Ngài đi Ánh Đạo Từ Bi óng vàng
Ngài về thăm cõi Lạc Bang
Ngài quay trở lại trần gian cứu đời
Như Ngài đã nói :
“Cuộc đời tôi
Ở không nhà
Sống không đất
Tù không tội
Chết không mồ” (1)
Do đó :
Ngài sinh ra, bởi vận mệnh, cơ đồ
Ngài sống đó, bởi dân tộc, tổ quốc
Ngài ngồi đó, bởi thế thời thành thất
Ngài ra đi, bởi Đạo Pháp Quê Hương
Dù ai nói, núi là sông
Dù ai nói, đá là vàng
Dù ai nói, trắng là đen
Vẫn không có gì thay đổi được
Không lợi dụng, không giả danh, không quyền chước
Không vọng cầu, không vong bản, không phi nhân
Không cướp công, không tranh đoạt, không thủ phần
Là Long Tượng, lương đống, trượng phu, đâu cần thứ đó
Cuộc đời Ngài, cả một trăm năm, xem như tròm trèm thế kỷ
Thì Đạo Pháp và quê hương, xem như trải qua ba thời
Dị khẩu đồng âm, dõng dạt tuyên bố một lời
Cả ba thời, đều mệnh danh, thủ thuật
Cả ba thời, đều đội dù, che khuất
Cả ba thời, không thực thì cũng ngoại lai
Cả ba thời, thế nước lòng dân, ách tai
Ai không bon chen danh lợi leo đài
Ai không trùm mền, nhắm mắt, buông tay
Ai nói lên tiếng nói : vận nước điêu linh, thế nước bị xéo dày
Thì ngưỡng cửa ngục tù, nhốt khóa hãm kìm, chứ làm sao kết tội
Đã biết rồi, nếu muốn nói, thì phải nói
Đất nước Việt Nam, lịch sử đã năm ngàn năm
“Phật Giáo Việt Nam , lịch sử đã hai ngàn năm
Cơ sở Phật Giáo, là núi rừng, hải đảo, thôn quê, thị thành
Địa vị Phật Giáo, là tám mươi phần trăm dân số Việt Nam
Đạo lý Phật Giáo, là đường dài mở nước, dựng nước, cứu nước” (2)
Như vầng nguyệt thanh trong, không vẩn màu uế trược
Như vầng nhật ánh dương, không vẩn áng mây mù
Dù đời Ngài sống với lao tù, nhưng lao lý để lại thiên thu
Ai dám hỏi lao lý, lao tù, lao tình, lao tội
Cuộc đời Ngài, một trăm năm, nay qua khỏi
Ngài gian truân, vì cả đất nước gian truân
Ngài khổ thân, vì cả dân tộc cực hình
Nay Ngài chết, nhưng oai linh Ngài bất diệt
Ai đã biết và ai chưa hay biết
Mảnh trời Nam nước Việt giống Lạc Hồng
Một ngàn năm trầm thống nhớ không
Một trăm năm tai ách chất chồng
Hăm mốt năm tơi bời khói lửa
Mấy chục năm trường ray rứt hồn thiêng
Khổ đau phủ cả ba Miền
Tang thương phủ cả mọi miền quê hương
Đan tâm cay xé tư lường
Đan tay vá víu nhiểu nhương cơ đồ
Biển Đông trào sóng nhấp nhô
Trường Sơn nhả khói vật vờ hồn đau
Nước kia đã lắm nương dâu
Non kia đã lắm sắc màu nát tan
Tâm tư trăn trở tâm can
Tự tình trăn trở, tương tàn thế ni
Hùng tâm, hùng lực, ai vì
Đại bi, đại nguyện, ai vì cho ai
Hai ngàn năm qua
Bao nhiêu bậc khai tổ, danh sư, quốc sư
Vẫn phương đài, truyền đăng tục diệm
Năm ngàn năm qua
Bao nhiêu bậc minh quân, danh tướng, anh hùng
Vẫn phương đài, kim cổ soi chung
Hàng ngàn năm sau
Muốn thắm tô Dân tộc, Đạo pháp, Quê hương
Vẫn noi gương đời đời liệt Tông, liệt Tổ
Hôm nay :
Ngài đã Tây quy
Lá rụng về cội
Nước quay về nguồn
Pháp cổ trầm hùng ngân ngân mãi
Huyền Quang tâm lực sắt sắt son
Đạo pháp muôn đời bi bi nguyện
Giang sơn muôn thuở châu châu viên
Từ đông tây nam bắc
Từ quốc nội hải ngoại
Khắp bốn biển năm châu
Khác màu da chủng tộc
Của thế kỷ hai mươi
Đầu thế kỷ hăm mốt hôm nay
Tăng tín đồ cúi lạy dâng Ngài
Cả dân tộc kính vọng tên Ngài
Cả nhân loại hướng vọng tên Ngài
Một con người Việt Nam
Của dân tộc Việt Nam
Của Phật Giáo Việt Nam
Đại lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang
Đức Đệ Tứ Tăng Thống Huyền Quang bất tử !!!
 
Thích Nhật Tân ngưỡng bái
(1) và (2) : Trích những câu nói khẳng khái lịch sử của chính Đức Tăng Thống.

 THÍCH NHẬT TÂN (Mặc Giang)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.05.2010 22:47:37 bởi Viet duong nhan >

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
(URL) Nhà Thơ Mặc Giang - 12.05.2010 22:36:51
 Vài Cảm Nghĩ Về Mẹ Nhân Đọc Tập Thơ Song Đường của Mặc Giang
Hương Tâm
                                                 

              Mới hôm qua đây thôi, mẹ còn mạnh khỏe, tươi tốt, cười cười nói nói, đột nhiên sáng hôm nay người biếng ăn, nằm hoài không dậy. Thời tiết ư? Có khi một cơn trái nắng trở trời, một đêm mưa bão thình lình, có thể làm cho thân thể suy kiệt. Nào ai biết trước được. Có khi là một nỗi buồn, có khi là cơn giận, nóng lạnh bất thường
          Rồi những chứng bịnh bất thường của người già. Mẹ còn mạnh khỏe đó, sáng sớm mai chợt như già đi trăm tuổi. Có gì đâu, một đứa cháu lấy chồng Việt kiều sẽ đi xa, một một người bà con qua đời…tất cả nỗi buồn cùng cơn vui thái qúa đều đưa đến các chứng bệnh không thể nói trước ở người già. . Dân gian có câu:

           Mẹ già như chuối ba hương
          Như xôi nếp một như đường mía lau.

Mẹ là giòng suối ngọt lành, là tất cả. Và ta chạnh lòng nghĩ đến mẹ.
Không phải lúc nào ta cũng nhớ đến mẹ.Có bao giờ ta nghĩ đến một ngày kia mẹ sẽ già và sẽ bỏ ta mà đi; khi tuổi đời còn trẻ, còn năng lực cống hiến cho đời, hay thu góp của đời càng nhiều càng tốt? Thế mà lúc ta ốm đau tật bệnh, lúc ta nghèo khổ túng đói, người, như một phép lạ, luôn ở bên ta. Khi ta còn nhỏ, mỗi lần ta đau ốm, mẹ  thức suốt đêm ẵm ta trên tay, ban ngày lo nấu nướng dọn dẹp, hoặc chạy lo cái ăn cho ta, trong khi ta ngủ li bì sau khi cơn sốt đã bị đẩy lùi. Có mẹ, ta có tất cả, mất mẹ, đời ta trở thành hư vô.
Đọc những vần thơ sau:

Mẹ là một con người, nhưng là một con người không ai thay thế
Mẹ là một con người, nhưng nhờ mẹ mới có em
Chín tháng mười ngày, lòng mẹ đang quặn thắt
Ngày em ra đời, mẹ như đứt ruột đứt gan
Thân mẹ ra sao, mẹ cũng chẳng màng
Mẹ quay nhìn em, thử em có bình yên không đã!
…Em trưởng thành bao nhiêu, mẹ tàn tạ úa già
Mắt yếu, lưng còng, mòn thịt, mòn da
Để cho em thành người, như người ta trong xã hội
Đức hi sinh của mẹ như trời cao diệu vợi
Tình thương yêu của mẹ như biển cả thâm sâu
Tôi xin nhắc em, đôi lời em nhé!
Mẹ đã gian truân, đau khổ nhiều rồi
Mẹ đã vì em, tóc bạc da mồi
Nếu em thương mẹ, thì đừng để một ngày mai, quá chậm!!!
                                (Nhắc những em tôi)

Còn gì giản dị và bao la hơn tình mẹ. Và tình con càng sâu lắng:
Dù có làm ông gì
Đối diện mẹ, con cũng mong hai tiếng thương yêu
Dù có làm bà gì
Đối diện mẹ, con cũng mong được nuông chiều

Một lời thật là sâu sắc, nó nói lên qúa đủ tình mẹ mênh mông như biển trời, tình cha cao như núi Thái. Tưởng như ta còn nhỏ dại lắm; ta không bao giờ lớn khôn lên cả mỗi khi ta về bên mẹ,

Sung sướng vô cùng sau khi vượt qua một chặng đường dài về tới nhà, tắm rửa sạch sẽ, nằm trên chiếc giường chiếu gối thơm tho – có khi chỉ là mùi hoa lý, hoa nhài mà em gái hay mẹ ta cố ý để dành lại lấy hương cho căn phòng hẹp, được nằm trong phòng
đọc sách, mà không làm gì cả, sau đó được mẹ hay chị gái – mà thường là mẹ, ân cần đem tới li nước mát để uống, chỉ sợ ta đói, mệt. Mẹ luôn là vậy, một nàng tiên nhân ái, một thiên sứ. Vì ta, trước hết mùa đông người lo đan áo cho bầy con, hết đứa lớn đến đứa nhỏ, sợ con lạnh. Sau đó đan áo cho chồng. Thời đại ngày nay, có em gái nào nghĩ đến chuyện đan áo cho chồng con nữa không, hay là đổ tội cho thời đại, cho công ăn việc làm, rồi chạy ra tiệm mua áo, mua xơ, thậm chí tã lót cho đứa con đầu lòng, và các đứa thứ hai, thứ ba?

Tình mẹ bao la ngọt ngào biết mấy! Có khi cầm chiếc áo trên tay mẹ đan hồi mẹ đã 85 tuổi! Mẹ đan áo cho con, đan que nhỏ mà len sợi lớn cho dày, mặc cho ấm. Mẹ nói với tôi rằng, ngày xưa ở với mẹ con có  đi chợ đâu! Chỉ ăn rồi đọc sách và đi chơi với chúng bạn. Thậm chí việc tôi học mẹ cũng cho là không có, mẹ bảo con chỉ thích chưng diện đi chơi. Trải bao thăng trầm cuộc thế; bàng hoàng nhớ lại, ngẫm lại thì ra mẹ già thật, nhưng trái tim mẹ không bao giờ già. Trái tim không hề biết đến cái giá rét, cái nắng hạn, cái khô cằn. Trái tim người mẹ chất đầy tình yêu con mà tình yêu thì mãnh liệt hơn sự chết. Tình mẹ thì như nước biển đông không bao giờ vơi. Đó là một thứ tình cảm đặc biệt thiêng liêng vô giới hạn.
Người viết những câu thơ thật cảm động:

Ngày em ra đời mẹ như đứt ruột đứt gan
Thân mẹ ra sao, mẹ cũng chẳng màng,
Mẹ quay nhìn em, thử em có bình yên không đã!

Thế mà ngược lại, đứa con có khi, theo tiếng gọi của non sông, một đi không trở lại…
Thơ người khiến tôi nhớ lại bao kỉ niệm vui buồn. Có con mới hiểu lòng mẹ. Khi mang thai đứa con đầu, mẹ khuyên tôi mỗi buổi sáng dậy sớm trước hết mở toang hai cánh cửa, hít thật sâu vào lồng ngực sau đó mới cầm chổi quét nhà. Có thai không nói lời nung,  không hờn giận, không nuôi nấng những tình cảm xấu ác như ganh ghét, trả thù. Có thai đứa con đầu những năm 78, 80, thành phố tôi ở trước đây sáng choang ánh điện bây giờ nhà đèn trả cho Pháp? Đêm hôm mối nhà một ánh đèn dầu leo lắt. Cúp điện thường không báo trước. Không hiểu sức mạnh bên trong nào thúc đấy khiến  mối ngày tôi vượt qua được hàng chục km đường trường bằng xe đạp, ngán nhất là công việc đi dạy hay điều khiển học trò lớp 9 dạy bổ túc ban đêm. Phải vượt qua một quãng đường chừng 5km, qua một con đò, rồi còn phải đạp xe vô đường làng gập ghềnh lỗ trâu đi. Cũng chưa ngán bằng khi đạp xe trở về, đường trong làng tối thui, bởi nhà quê thì đi ngủ sớm và thường thức dậy khi thành phố vẫn còn say ngủ. Đường làng tối như hũ nút, nó chỉ được chiếu sáng nhờ ánh đèn pin của học viên về cùng lối, họa hoằn lắm mới có ánh đèn dầu từ trong một căn nhà nào đó ngủ muộn. Ra đến đường cái mới có ánh điện, qua chừng 1km50 mới tới bến đò, bà lái đò chỉ chống sào đợi một mình tôi. Rồi phải qua một nghĩa địa vắng vẻ, một bãi rác hôi thối. Cả nghĩa địa và bãi rác kéo dài khoảng gần 2 km nữa mới đến cầu Cháy. Gọi là cầu Cháy( tiếng dân gian) vì là chiến tranh bom đạn khiến thành cầu bị cháy xém. May mà chiếc cầu này do công binh Mỹ làm trước 75 nên mới không sập và còn có mấy trụ đèn trơ gan cùng tuế nguyệt, tuy chỉ đỏ le lói hai trụ nhưng có còn hơn không. Đêm nào cúp điện thôi khỏi phải bàn. Sức mạnh nào thúc đẩy tôi vượt qua các chướng ngại ấy, sự tối tăm, giá rét mùa đông, nắng khô mùa hè, cho đến ngày sinh nở nếu không vì tình mẫu tử thiêng liêng? Không dám ăn bậy, không dám đạp xe nhanh, chỉ sợ ảnh hưởng đến con. Thế mà vui biết mấy, tình thương con nảy nở khiến tiêu tan bao nỗi nhọc mệt mỗi khi ta về đến nhà.
Thật lạ, người đã nói giùm ta những điều ta trăn trở, một đôi khi thôi:

Mẹ là mây sắc hương ngàn
Thương em như nước trường giang xô bờ
Mẹ là hoa, mẹ là hương
Mẹ là nguồn cội tình thương nhiệm mầu
                       (Những lời mẹ thương)

Ta còn có mẹ trong đời, là một nguồn hạnh phúc vô biên. Thời đại bây giờ con người sống lí trí khô khan nhiều hơn tình cảm. Công việc, những mối lợi trong thương trường, tranh đấu giữ lánh thổ, khiến nhiều khi ta quên mất vai trò người mẹ. (Mấy ai còn nhớ những bà mẹ có năm đứa con tử trận, nếu bà không có con làm chức vụ nọ kia)? Sự lãng quên vô tình kia, may thay, đã có người nhắc em thơ, những đứa em còn nhỏ dại  tưởng chừng vô tư qúa lắm. Sự thật, cả khi ta khôn lớn, sáu bảy chục tuổi mẹ vẫn coi ta còn nhỏ:

Trong cuộc đời, nếu ai có hỏi
Thương yêu ai cao nhất trong đời
Em đáp liền, không do dự, em ơi
Tình thương cao cả nhất, xin dành cho cha mẹ.
                           (Bài ca hay nhất)

Không những có mẹ mà còn có tình cha. Tình cha thì sâu kín và mãnh liệt. Không những là người anh hùng ngoài trận mạc, người cha còn thương con một tình thương vô bờ bến, tình cha mãnh liệt mà sâu kín bởi đàn ông lí trí hơn đàn bà.
Hơn ai hết, người hiểu tình cha. Một tình cảm đặc biệt khiến có khi người cha có thể hi sinh, có thể bỏ tất cả, vì con.

Cha em đó, mồ hôi nước mắt
Cha em đó, chan nắng đổ mưa
Cha em đó, chân tay sần sũi
Đánh đổi một đời, gian khổ vì em
Nếu em có gì, cha em trầm ngâm không  nói
Nếu em có gì, cha em se thắt tâm can
Em có biết không, cha em đứt ruột đứt gan
Nặng trĩu khối đầu
...
Dù không buông những tiếng yếu mềm
Nhưng lòng cha chan nước mắt
Đó chính là như nhà có nóc

Che cho em, không nắng không mưa
Che cho em, sóng cả gió lùa
Khôn lớn trưởng thành, để đi vào trường đời
...
Dùng chữ nghĩa yếu mềm, thì làm sao diễn tả.
                    (Công cha, một tiếng, một đời)

Hình như người biết rằng nói bao nhiêu cũng không đủ, bởi ngôn từ thì giới hạn mà tình thương tự nó vốn vô biên. Người nhắc những em thơ và cả người lớn:

Cho nên còn có mẹ trong đời
Em hãy sung sướng lên đi!
Chị hãy sung sướng lên đi!
Và, anh hãy sung sướng lên đi!
                    (Còn mẹ là còn tất cả)

Rồi cái điều không ai muốn đã xảy ra:
Nhiều khi đem nhớ ra hong
Ấm đâu không thấy mà đông lạnh lùng
Thầy Nhất Hạnh có lần viết:
“Tôi biết tôi mất mẹ
Là mất cả bầu trơi”

Bởi vì, có ai thương ta bằng mẹ ta. Mẹ ta sung sướng khi ta cười, lo lắng buồn bã khi ta đau ốm. Rồi khi buộc lòng phải trừng phạt ta mẹ cũng khóc. Chín tháng cưu mang, ba năm chăm bẵm bú mớm, tập nói, tập đi, đều là công mẹ.

Chỉ cần mẹ, đời em biết yêu thương
Tặng phẩm mẹ trên trần gian lớn nhất.

Những điều tưởng bình thường hóa ra không phải thế. Những điều tưởng cao xa hóa ra rất giản dị. Ở đó ta có mẹ, có mẹ là ta có tất cả, mất mẹ là ta mất tất cả, mất” cả một bầu trời”.

Hỡi trời, trời cao bao lớn
Hỡi đất, đất rộng tới đâu
Đem chứa, không đầy mắt mẹ
Đem so, tim mẹ chưa tràn
 (Đừng quên có mẹ trong đời)

Phương xa mất mẹ, còn nỗi đau nào lớn hơn. Người nói lên nỗi niềm của mình với bao nhiêu tiếc thương:
Mẹ về một cõi tịch liêu
Còn đâu hai tiếng: mẹ yêu trong đời
                        (Mẹ đã đi rồi)

Lạnh lùng nghe tiếng đêm đông
Xa xôi nghe tiếng mênh mông vô bờ
Lung linh nén ngọc hương thờ
Nhưng hình bóng mẹ mịt mờ ngàn xa
Giật mình gối mộng đêm qua
Sờ trên gối mộng gối đà đẫm sương
                    (Phương xa mất mẹ)

Nào ai muốn thế? Người đã trải qua cái cảnh thức suốt một đêm trường, mong gặp mẹ lần nữa, tưởng như trong giấc mơ – cái chết của từ mẫu là điều  người không hề ngờ đến, để lại trong đời bao nỗi tiếc thương ân hận. Phải chăng vì thế, người khuyên ta, nhắc nhủ ta, ngày nào mẹ còn khỏe, ta hãy sống với mẹ thật trọn vẹn, thật đủ đầy từng khoảnh khoắc hôm nay. Thời gian thì trôi nhanh như nước chảy mà đời người có hạn.  Hiện tại là giây phút quý nhất. Người khuyên ta, hãy một lần ngồi bên mẹ, cầm tay nhìn kĩ vào khuôn măt mẹ để nói rằng:

Mẹ ơi! Mẹ có biết rằng, con thương mẹ lắm không?
Cõi trần gian,diễm phúc cho em, còn đóa hoa hồng!
Và, bất hạnh cho những ai, khi cài bông hoa trắng!!
                           (Nhắc những em tôi)

Bởi đã nếm trải cảnh chia li đau đớn với mẫu từ:
Con chim nhỏ, gọi đàn vang mé núi
Tiếng mẹ ơi, ngập ngừng bên mé núi
...
Vô thường, mẹ đã ra đi
                          (Từ tạ mẹ hiền )

Nhiều khi đem nhớ ra hong
Ấm đâu không thấy mà đông lạnh lùng
Cho rằng suy nghĩ mông lung
Xưa nay biết mấy anh hùng lệ rơi!
              (Anh hùng còn rơi lệ)

Câu thơ đọc lên buồn ứa lệ. Khép lại tập thơ, ta cám ơn người đã viết cho đời những vần thơ đẹp nhất, hay nhất về mẹ, về cha; đó là Hoa Song Đường như người đã đặt tên. Và ta cũng cám ơn đời, cám ơn trời phật đã cho ta một người mẹ hiền để mỗi lần trở về ta có thể vòi vĩnh như ngày còn bé dại, để được chiều chuộng được yêu thương và để thương.

                                                      Huế ngày 22/6/2009
 
***********
 
 47. Hoa Song Đường (về Cha Mẹ)
 
 48. Bài Ca Hay Nhất (về Cha Mẹ)
 
 
 50. Sống Vỗ Đôi Bờ (về Cha Mẹ)
 
 51. Một Mái Quê Nhà (về Cha Mẹ)
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.05.2010 01:41:12 bởi Viet duong nhan >

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
(URL) Nhà Thơ Mặc Giang - 14.05.2010 01:18:07
Đọc Thơ Mặc Giang
“Thấy tưởng Thường, nhưng Hay, Lạ và Đặc Biệt !”

 

60 năm trước, lúc trên 10 tuổi biết đọc sách, tôi cũng thích thơ, nhưng tìm đọc loại thơ chinh chiến ( người chiến binh đi chiến đấu). Những bài hay thì chép ra sổ nhỏ để đọc lai rai. Thỉnh thoảng cũng thích thơ tình, loại hay cả ý lẫn lời. Cho tới lúc sắp rụng về cát bụi, tôi chuẩn bị để ra đi cho nhẹ nên không còn hồn để đọc thơ nữa.
Tuy nhiên, nhờ biên soạn sách 30 Năm . . . Phải đọc, phải lục lọi, nên đọc đủ thứ thơ, hay cũng đọc không hay cũng đọc, vì hay và không hay thường hay lẫn lộn. Hoặc nếu nghe ai đó khen thơ tác giả này nọ hay, thì tôi chú ý đọc thử.
Một hôm, như thông lệ, tôi hay ghé các vị trong Ban Biên Soạn, vừa thăm chừng bài đánh máy và đem bài đánh rồi về đọc. Đang gặp một vị trong Ban khoảng 15 phút xong, chuẩn bị ra về, thì bất ngờ gặp Mặc Giang đeo túi vải đi vào, tôi chào cả hai, ra về. Bước đi mấy bước, tôi ngoáy lại thưa với ông : “Nội tướng tôi đọc trên báo thấy nhiều Thơ Mặc Giang, bà ấy khen quá, mà tôi chưa đọc. Nếu được, cho tôi xin những bài thơ đã phổ biến !”. Ông cười rồi móc trong túi vải đeo, lấy ra và đưa 3 tập thơ khổ A4, mỗi tập 100 bài, trông thật đẹp mắt. Tôi xin chữ ký, ông nói đóng dã chiến mà, để mai mốt in sách đã, đem về đọc đi.
Về đọc ngay hai hôm. Sau đó đến gặp, thưa với ông, tôi đang lục tìm các bài viết kể cả thơ nói về 30 năm xa xứ, nhưng tuyệt nhiên chưa thấy. Xem kỹ trong 3 tập thơ của ông mới cho, có được vài câu. Ước gì có được vài trang cho kịp, vì vài tuần nữa là sách đưa đi in. Nghe tôi nói thế, ông làm thinh. Vài ngày sau, anh Đức Lan (kỹ thuật) báo tin có 3 trang thơ của Mặc Giang mới gởi tới cho sách 30 Năm. Tôi cấp tốc chạy lấy bài về đọc. Bài 1 “Ba mươi năm, lịch sử trôi dòng !”. Bài 2 “Ba mươi năm rồi đó !”. Bài 3 “Dòng thời gian Em có nghe !”. (Cả ba bài, buồn, hay và rất cảm động). Rồi chọn một bài cho vào sách, đúng ra là cả ba, nhưng số trang dành cho từng vị có hạn. (Xin mời độc giả chờ tìm đọc khi tác giả xuất bản).
Cũng Mặc Giang, những dòng thơ khác, trong “Tôi đi mãi trên hành trình bất diệt” (tháng 6-2005) :
Nếu bảo chết là trở về cát bụi
Hỏi suối vàng còn có chỗ để dung
Mà xưa nay nhào vô đó tới cùng
Nhét một đống thì làm sao thở nổi ? ...

Trong “Rau Cỏ bốn mùa” (6-2005)
Hơn 30 loại rau được vào đây :
... Cỏ rau đều có bốn mùa
Có tiền mua chợ, không, mua ngoài đồng
Dù ngon, dù dở, cũng xong
Đói ăn khát uống no lòng thì thôi
Quê mình đẹp lắm ai ơi
Cơm ngon canh ngọt đời đời ấm no.
Trong “Sông nước Việt Nam” (7-2005)
... Bắc Nam Trung vẫn một màu
Năm ngàn năm, vẫn trước sau một dòng
Cùng đi, liền núi liền sông
Bắc cầu liền nhịp, bắc sông liền bờ
Cùng đi, gìn giữ điểm tô
Muôn năm bền vững cơ đồ Việt Nam.
Nếu ngồi mà soạn ra những dòng thơ mình thích, thì bài nào cũng có, nhưng hai câu “Mập mờ chiếc bóng lung linh. Hư vô một cõi riêng mình thế a !”, trong “Hư vô, một cõi riêng mình”, hay “Cội già ngã bóng lung linh. Rừng khuya thức giấc, hỏi mình là ai ?” trong “Quê nhà sẵn có từ lâu”, làm cho tôi, tuổi luống về chiều giật mình và rúng động.
Quả thật, “Thơ thấy Thường mà Hay, Lạ và Đặc Biệt” ! Không lạ, sao phi thuyền bắn phi tiêu vào sao chổi giữa không trung cũng diễn tả được bằng thơ. Bão tố Katrina hãi hùng bên Hoa Kỳ bữa trước, bữa sau đã có Thơ của Mặc Giang phổ biến kêu gào cứu trợ, “Lại động đất Kashmir” cấp kỳ đăng báo kêu cứu. Rồi “Từ cõi chết, em lần mò sống lại”, nói về động đất tại Iran. “SARS, cướp em tôi !” nói về dịch nhiễm thời đại. “Dịch cúm này làm hại Gà tôi !”, đang là cơn chấn động trùm khắp chưa diệt được. Nhìn qua ông và thấy được ông, sâu sắc, nhạy cảm, kịp thời, và hoạt động, làm việc, bất luận thời gian, thong dong nhưng cực khổ, chịu đựng, và có một tư thái bình dị nhưng dị thường.
Đặc Biệt nhất ở đây, bài viết về Mẹ nhân Mùa Vu Lan, do Lý Thừa Nghiệp bao dàn, có 7 bài thơ góp mặt trên Thời Báo số 402, thì Mặc Giang với nhan đề “Từ Đó Xa Mờ, dâng hương hồn Mẹ”, được một vị yêu thơ, khó tính, nhận xét và cho rằng, bài của Mặc Giang hay nhất, có ý là diễn tả cảm động nhất.
Rất tiếc, với hơn 5 tập thơ, tức hơn 500 bài, khổ A4, được in “dã chiến”, tác giả bộn bề nhiều công việc, phương tiện chưa cho phép, mà lượng thơ cứ ào ạc tuôn trào, phong phú, đa dạng, đủ mọi hình ảnh, sắc thái, như triều dâng vũ bão, xuôi ra tận biển, ngược lên tận nguồn, vần vũ mây trời, lại đổ thành mưa, tưới tẩm ruộng đồng, tắm mát muôn sông. Mới đó, những ngày chuẩn bị cho Sách 30 Năm, tác giả có hơn 260 bài, thì nay, chỉ mấy tháng thôi, con số đã lên hơn 520 bài. Vậy mà nhà thơ Mặc Giang mới chuẩn bị cho ra đời tập một “Quê Hương Còn Đó”, gồm 70 bài trong nay mai.
Tôi không phải là một nhà thơ. Nhưng một hôm, có một BS nói với tôi : “Tại Úc có một nhà thơ lớn và nhà thơ ấy cũng là một anh hùng. Hồn thơ của ông đã nâng tôi dậy”. Lại một nhà báo và là chủ nhiệm một tờ báo lớn ở nước ngoài, hồi hưng thời, có khoảng 15 ngàn độc giả dài hạn, sau đó, giản còn khoảng 10 ngàn. Ông nói bóng rằng “Cách chọn bài của tôi, không cần danh to, bằng cao, tên tuổi . . . mà phải Đặc biệt, Hay, Lạ, là nhất và được ưu tiên”. Nay ông đã qua đời, nhưng báo ấy vẫn còn sống khá mạnh. Lại thoảng nghe có người nói, “Mặc Giang, ở cương vị kia, còn phải gánh vác và hy sinh cho đến suốt đời, nhưng về lãnh vực sáng tác, ông đang có một khối lượng quá lớn, có giá trị, để lại cho đời và đóng góp vào nền thi ca dân tộc, bây giờ nếu có ra sao thì cũng đủ rồi.”
Tôi thật cảm kích khi nghe những ý đó, lại nhớ đến ý kia, liền viết những dòng nầy, nhưng vẫn mong rằng, Mặc Giang sẽ không cho vào sách, dù tôi và tác giả thân quen đã hơn 23 năm.

Ngày 25-10-2005
Ngô Lâm


Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
(URL) Nhà Thơ Mặc Giang - 16.05.2010 05:52:33
Tôi Không Bán Thơ Đâu
Ngọc Túy - Hương Tâm



 Ngày xưa có một nhà thơ viết:
       “Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
       Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”
       Là thi sĩ “tôi làm thơ là rung một làn ánh sáng” là người sống và cảm xúc trước cái đẹp.
                               Ai mua trăng tôi bán trăng cho,
Chẳng bán tình duyên ước hẹn hò” (Hàn mặc Tử)
 
         Làm thơ là cửa ngõ vào tâm linh. Cũng ánh trăng ấy, sông xa ấy, làn sương ấy, mùa thu ấy, mỗi nhà thơ cảm nhận một cách khác. Đựơc gặp và quen ông qua lời giới thiệu của một người bạn, cầm trên tay tập thơ của ông, mỗi ngày mỗi dày lên, tôi đọc liên tiếp trong gần hai tháng. Có tất cả mười tập, không thể đọc hết một lúc, phải đọc nhiều lần mỗi ngày đọc một ít bài. Và chỉ đọc về đêm vì chỉ có ban đêm tôi mới có thể lắng lòng mình nghe, cảm và rung động trước những vần thơ lạ lùng như một dòng suối chảy róc rách không ngừng; Lạ lùng vì chất tự nhiên, trong trẻo mà hàm súc vô cùng của ngôn ngữ thơ đặc biệt. Một loại hình ngôn ngữ giản dị, có khi còn dí dỏm nữa; Vui có, buồn có, đọc rồi thấy tâm hồn mình đổi khác, hết ưu tư buồn phiền trước bao nhiêu phản trắc xô bồ giữa cuộc đời hiện tại. Tuy thế thơ ông nhiều khi man mác một nỗi buồn, đọc những vần thơ sau:
 
                        Nắng lên cho ấm hương sầu
                        Gợi lên trầm bỗng tiếng cầu kinh xưa
                        Tình quê biết nói sao vừa
                        Đau thương máu lệ hay chưa hỡi người?
                     (Tiếng lòng nức nở quê hương)
                
                        Xuân đến làm chi thấy ngậm ngùi
                        Nụ cười đã chết hẳn trên môi
            Ngày vui đã mất từ lâu lắm
            Từ thuở còn thơ khóc chào đời.
                                                                         ( Thầm lặng)
 
Nỗi buồn trong thơ Mặc Giang là nỗi buồn nhân thế. Điều này thật hệ trọng. Lúc nào ông cũng làm thơ được, viết thơ được, ông sống với thơ hơn là “ ru” với nó. Chừng như qua ngôn ngữ thơ, nhà thơ không ru ai ngủ yên, trái lại - ông thức tỉnh kẻ khác, xoa dịu những buồn đau, làm lành vết thương lòng. Làm trẻ lại kẻ tật nguyền, an ủi cô nhi… Trái tim đa cảm của ông là mặt kia của lí trí, hay nói khác, lí trí sáng suốt soi đường cho trái tim đau. Lúc nào ông cũng rung động được, cảm xúc được trước khía cạnh tốt đẹp của đời sống; Sống, hiểu như những xẻ chia và hiến dâng. Sống cùng với những đau thương mất mát của con người, mà mỗi ngày mỗi khác. Đó là điều khiến ta thấy ông khác hẳn những nhà thơ khác, kể từ xưa đến nay. Mỗi ngày một niềm vui khác, một niềm cảm thông khác, mỗi rung động mới. Tuy viết nhiều - có thể nói chưa ai liên tục viết trong một thời gian ngắn với một kỉ lục như thế - thơ ông luôn luôn mới, lạ và hay.
 
Thơ là cõi riêng. Nơi Tô Đông Pha tìm thấy, tận những phương trời viễn mộng, niềm an ủi thầm kín với những con lục y yêu phượng. Và Hàn mặc Tử:
 
“Thơ tôi bay đến một trời chưa thấu
Hòn tôi bay đến bao giờ mới đậu
Trên triều thiêng ngời chói vạn hào quang?”
                             ( Xuân như ý)
Huy Cận viết:
“Ai chết đó nhạc sầu chi lắm thế
Trời đìu hiu chiều rét mướt ngoài đường.”
Và Xuân Diệu:
“Hai người, nhưng chẳng bớt bơ vơ.” (1)
 
Cũng chỉ là nỗi riêng. Nỗi buồn niềm vui của Mặc Giang nằm trong sự xẻ chia. Ông không chỉ thuần túy rung động trước cái đẹp của buổi chiều tà và bình minh. Ông còn cảm xúc trước những bất công của con người đang gánh chịu. Đó là một cõi vô thinh phong phú hình ảnh, giàu màu sắc và nhạc điệu. Nhà thơ không sử dụng từ hoa mỹ, không ngoa ngôn mà lại nói rất nhiều. Phải chăng chính vì đời là cõi tạm mà cõi thơ lại chính là chỗ “dư dục vô ngôn” nên thơ Mặc Giang khi nào cũng rõ ràng thứ ngôn ngữ nói, khi nào cũng hàm ngụ một ẩn ngữ? Có phải vì thế mà người thi sĩ phải ra đi?
Nỗi cô đơn ngàn năm của Rikle, niềm hi vọng chứa chan trong thơ Tagore, niềm vui nhẹ nhàng trước lá cỏ trong thơ William Blake và lục bát hồn nhiên trong thơ Huy Cận:
“Nằm im dưới gốc cây tơ
Nhìn xuân trải lụa muôn tờ lá non.”
Cả tính u uẩn trong thơ Kalil Gibran, tất cả tính cách trên đây thỉnh thoảng ta vẫn thấy trong thơ ông. Mặc giang là một người khác đời ư, không phải vậy. Ông là một trường hợp khác. Khác ngay trong ngôn ngữ thơ.
 
Cuộc lên đường của ông cũng khác. Ông không hề thiếu thơ. Ông làm thơ trên đường đi. Đó là một cuộc lữ hành không mệt mỏi. Những bài thơ được ông viết rất nhanh, tuồng như thơ là hơi thở, hơi thở làm nên sự sống, nguồn thơ bất tận là máu thịt của Mặc Giang. Ông viết thơ trên máy bay, trong những chuyến đi về thăm quê nhà hay đến miền đất khác cũng vậy. Cảm xúc chưa kịp hình thành câu chữ, ý thơ đã tuôn trào. Và thế là cõi thơ vẫn là một tính cách riêng dù thơ ông – không phải chưa hề riêng tư cho bản thân mình mà ngay cả điều ấy – cái ngã ấy - cũng hòa đồng vào đại ngã.
“Tàu ơi, còn nhớ sân ga!
Xe ơi, còn nhớ bến xa bến gần!
Thuyền đâu rẽ nước chia phân
Máy bay đâu xé nỗi vầng không gian!”
                                   ( Từng cuộc hành trình)    
                    
Nghệ sĩ là con tằm nhả tơ. Dù thế nhà thơ không nói đến nỗi cô đơn của mình bao giờ. Cảm xúc dạt dào lấn át tất cả, cảm xúc lớn hơn nỗi cô đơn. Thơ, ngay cả trong cuộc lữ, không tách rời người nghệ sĩ với vũ trụ vạn vật và con người. Trên đường về thăm quê, nỗi u hoài muôn thuở của người con xa xứ, niềm ưu tư trước cảnh còn mất, được thua; Bao nhiêu tấn trò đời diễn ra, nỗi buồn nhân thế trong thơ ông thật mênh mang với ý thơ hàm súc. Có điều ông không chìm đắm. Mặc Giang là người thơ của nhân loại: ông chan hòa với cỏ, cây, hoa, lá, dã thú, người, vũ trụ vạn vật. Và nhất là với quê hương. Có khoảng 135 bài, trong đó, chủ đề quê hương chiếm hết 75 bài (trong số 1000 bài).
 
Quê hương, ngày về là nỗi niềm hoài nhớ nhức nhối trong thơ Mặc Giang. Tại sao người thi sĩ phải ra đi? Gần như là định mệnh: nỗi cô đơn ngàn năm, niềm đau nhân thế, nối sầu tiền kiếp bàng bạc khắp cõi thơ Huy Cận và Rikle. Làm sao thản nhiên được trước cuộc bể dâu? Sau những bầm dập mất mát, cái chết gần kề sự sống, hạnh phúc và khổ đau hòa làm một, cả hai bay bổng trong cuộc lữ chuyển hóa thành thơ. Thơ ông nói về mình không nhiều, bài thơ nào cũng mang trong tâm tưởng lòng hoài nhớ quê hương.
 
Cả dĩ vãng, biết đâu làm dấu mốc
Đã qua rồi, xin trả lại thời gian
Có nhớ chăng như những tiếng âm vang
Đong cay đắng, đổ đầy trang kỉ niệm
 
Có thanh trong, mới thương trời màu tím
Có sơ cơ, mới quý những chân tình
Có hàn vi, mới biết kẻ thương mình
Chấm điểm son trên bức tranh phù thế
 
Đâu nói chi, và chẳng cần kể lể
Tôi giữ gìn một cõi của riêng tôi
Đời có sao rồi cũng được thôi
Cho nghĩa thú một đời tôi, ý vị.
            ( Nhớ những ngày qua)
 
Trong cuộc hành trình tìm về chính mình ông tìm thấy bản thể tự thân và giọng thơ ông tự nhiên như  một thứ ngôn ngữ nói không kiểu cách màu mè. Con người trong thơ ông nổi trôi trong cõi tạm bi thê mà không chìm đắm, từ đó phát sinh niềm hi vọng mới, một sức sống mới, ngày mới, vì đêm thì sẽ tàn. Chưa bao giờ đọc thấy sự tuyệt vọng ngay trong những vần thơ buồn nhất:
Sá gì hai chữ biệt li
Thời gian như thể bờ mi khép hờ
Mở ra còn đẹp như mơ
Khép vào lưu lại vần thơ muôn đời.
       ( Quê hương còn đó đợi chờ)
Có thể nói tình tự quê hương bàng bạc trong suốt mười tập thơ:
Không quê sầu hận ngập tràn
Làm thân lưu lạc lòng man mác buồn
 
          Dầu vậy, chỉ buồn nhẹ nhàng thôi mà thấu tâm can, nếu ta đọc thơ ông thật kĩ và thật chậm. Từng câu chữ thấm vào tim vào máu thịt ta. Khóc than ư? Ông ra đi để trở về và trở về xây đắp niềm hi vọng rồi ra đi, chừng như trên mỗi chặng đường đều có thơ vì thơ chính là máu thịt ông và hơi thở. Thơ là cõi riêng tôi, cho dù thế nào chăng nữa.
Ai gieo rắc lầm than!
Tôi vá mía đắp đường
Ai gieo rắc tham tàn!
Tôi gìn giữ yêu thương
 
Quê hương trong thơ Mặc Giang như một nỗi niềm khôn nguôi, quê hương là máu thịt và ông có rất nhiều bài hay về chủ đề đó.
Không những tự hào về quê hương mà cả ông cũng còn một lời xác quyết về mình:
Tôi là một người Việt Nam
Không tiếp tay xương máu hận thù
 
Ông khẳng định điều đó khi xẻ chia với đồng bào ruột thịt, bày tỏ tình thương cảm đến với cuộc sống của mọi người, kể cả người nghèo khổ lầm than nhất. ông thông cảm với người công nhân, thợ nề, người khuyết tật…trẻ cô nhi…Quê hương không chỉ là bờ tre bến nước mà còn có đồng bào ruột thịt. Tình yêu nước thương nòi thể hiện qua ba miền Trung, Nam, Bắc. Quê hương Việt Nam anh hùng trải qua mấy lần giữ nước và dựng nước được làm sống lại trong thơ Mặc Giang. Trái tim của nhà thơ thật rộng lớn. Ông nói với cha, mẹ, với người em thơ mới gặp bên đường, với doanh nhân, ông viết cho thế hệ mai sau, cho bản thân mình và cho sự cảm thông. Vừa có bão Chanchu đã có ngay bài thơ kêu gọi cứu trợ. Vừa nghe tin động đất đã có ngay bài thơ xẻ chia kêu gọi tình người. Hồn thơ lai láng thế mà tình người thì thâm sâu. Lạ thay ngôn ngữ nói – viết thành thơ, một loại hình ngôn ngữ tuôn trào như thác chở theo bao nhiêu tâm ý. Cũng tâm tình hiến dâng, cũng nỗi đau thầm lặng, cũng tấm lòng rộng mở mà trái tim mỗi người mỗi khác. Mặc Giang là một người thơ khác. Thơ ông nói đến tất cả chúng sanh, từ lá cây, ngọn cỏ cho đến ngọn rau. Từ con chim bé nhỏ hiền lành đến loài dã thú. Hiện hữu rõ nét nhất trong những bài thơ mang nặng tình yêu quê hương đất nước là tấm lòng thủy chung nhân hậu. Tấm lòng nhân hậu ấy trải rộng khắp trời quê, đến các loài cây cỏ chim muông. Chất lượng thơ bao dong cả thiên nhiên, muôn vật và tình người. Ông viết trên chuyến tàu tốc hành, trước giờ máy bay cất cánh. Ông viết:
Tôi đi vô thủy vô chung
Thủy chung đứng lại, đợi cùng tôi đi!!!
Không kể nhiều bài phổ nhạc, thật ra trong thơ đã giàu nhạc tính rồi. Nỗi buồn nhân thế trong thơ Mặc Giang rõ nét và sâu.
Ta hãy đọc các câu sau trong “ Dệt mộng mười đi”
 
Ai đi thơ thẩn dưới trăng
Ngẩn ngơ cho ánh trăng vàng lung linh
Ai ngồi ủ dột đầu ghềnh
Trơ vơ cho đá chênh vênh tháng ngày
Ai lùa gió nhẹ heo may
Phất phơ cho gió lung lay bụi trần
Ai lồng cho áng phù vân
Lửng lơ trôi nổi xa gần trời mây
Ai ngiêng nắng đổ về tây
Cho chim Hồng lạc buồn bay cuối trời
Ai làm lở lói bờ đê
Cho sông hỏi nước não nề nước sông
Ai làm trơ trọi ruộng đồng
Cho lúa hỏi mạ trổ bông mấy mùa
Đếm trong vụn vỡ được thua
Cái quay búng sẵn, gió lùa đêm đông.
 
Và nỗi cô đơn khi mùa xuân về thiếu người tâm sự, ông trút vào thơ:
Đất mới xuân sang rộn rã trời
Âm thầm giọt lệ cố hương ơi!
Nghẹn ngào lữ khách buồn không nói
Biết nói cùng ai đất nước tôi?
 (Tôi đâu có nói tôi làm thơ)
 
Phải, ông không làm thơ, ông chỉ nói thơ. Thơ là ngôn từ đặc biệt của Mặc Giang, của riêng Mặc Giang. Ông hòa mình với chiều tà, lúc bình minh, ông hòa mình với những khổ đau của đồng loại. Nhưng thơ Mặc Giang không thuần túy trong một không gian chật hẹp. Thơ ông bay bổng đến mọi miền. Ông về thăm quê cũ, rồi lại lên đường nơi xứ lạ quê người.
 
Tại sao người thi sĩ phải ra đi? Mặc Giang là người của cuộc lữ, ý thơ đến với trại cùi, người mù, kẻ điếc, người bán hàng rong, kẻ ăn mày. Ai khổ thì có thơ ông và tự thể ông hiện hữu cùng khắp. Nơi nào có đói khát, có thiếu thốn, có mùa đông giá lạnh, có mùa hè nóng nực, ở đó có ông và thơ.Thơ ông đến với đồng loại, sau trái tim đau. Phải, tôi nhấn mạnh. Sau trái tim đau. Có khi ta có cảm giác đau buốt, cảm nhận một khía cạnh khuất bóng của tâm hồn thi sĩ. Nó là trái tim đau lúc hoài nhớ quê hương, lúc viết những tứ thơ lạ lùng chỉ để diễn tả một ý, nhiều ý của mình về quê hương dân tộc. Tô Đông Pha vui với con Lục y Yêu phượng, một giống chim lạ nơi chốn lưu đày, còn ông có Thơ. Thơ và chốn thiền môn. 
 
 
Tôi không nghĩ ông bước ra từ nấm mộ mặc dù qua thơ ta biết ông đã mấy lần thoát hiểm. Có thể hồn thơ đẩy ông đi một bước dài ngàn dặm chăng? Dưới bóng thiền môn, ra đi và trở về nào có khác gì? Cho nên có khi thơ ông đọc lên rất giản dị tự nhiên và hóm hỉnh nữa. Có khi lại hồn nhiên, cái hồn nhiên trước đất trời với bốn mùa giao cảm. Người viết thơ hồn nhiên như lá cỏ, tự nhiên như mùa xuân, phải chăng bây giờ niềm đau cũ đã xóa sạch chỉ còn hồn thơ lai láng hiện diện. Thơ ông hiện diện cho chị, cho anh, cho mẹ, cho cha, cho mọi người. Và cho tôi. Nói thế không có nghĩa thơ Mặc Giang thiếu chất trữ tình, trái lại là đằng khác, có điều, cái tình ấy là tình thương yêu và lòng từ bi của đức Từ phụ truyền lại cho ông. Cho nên đọc thơ ông tâm hồn người cảm thấy được nâng đỡ lên nhiều.
 
Thơ đẩy màn đêm,
Xua đi bóng tối
Thơ kéo ngày lên,
Đưa ánh sáng về.
 
Tôi viết thơ để lại cho đời
Tôi viết thơ trang trải nơi nơi
 
Dòng thơ lai láng ấy được viết rõ trong các bài: “Tôi gởi thơ tôi, Tôi gởi bài thơ thứ nhất…thứ ba…thứ sáu.”
Thơ tôi gởi đến chị hàng rong
Chị múc liền tay khách đẹp lòng
Kiếm chác đôi đồng lương cuộn đáy
Sợi thơ khô cạn chị còn đong
 
Tấm lòng nhân ái ấy rải cùng khắp. Thật là một tâm hồn lạ lùng. Ý thơ không ngừng như nước chảy nhất là ở thể điệu thơ lục bát, một thành công khác của ông.  
Giữa một cõi đời ham danh vọng phồn hoa, giữa một xã hội loạn lạc như bây giờ, thơ Mặc Giang là liều thuốc an ủi xoa dịu những ai chán chường nhân thế, khích lệ em thơ, người già. Thơ ông viết gởi đến ruộng đồng, trên đồi, dưới đầm sâu, khắp trùng dương, khắp núi đồi, miền quê, thị thành, gởi quê hương, nước non, em thơ, học sinh, thiếu niên, mái trường, giới sinh viên, công nhân viên…và tất nhiên…đến người bình dân.
Cơ cùng ai bán mốc meo
Sơn khê ai bán quán đèo hoang vu
Còn tôi xin bán cái ngu
Bán luôn cái dốt mặc dù chưa mua
Bán luôn những cái hơn thua
Chỉ xin giữ lại quê mùa mà chơi
 
Có ai viết như ông đã viết không?
Lời thơ không khoa trương, nhưng ý thơ và tứ thơ liên miên không dứt.
Thơ Mặc Giang còn gởi chị hàng rong, khách tha phương, gởi cung trăng, gởi ngày mai, hôm nay…Gởi thơ chứ không bán. Ông lạc quan và hồn nhiên.
Ý thơ thấm nước chìm lâu lắm
Tôi vớt lên bờ đợi nắng hong
Con nước dung dằng kéo ý thơ
Sợi giây cột chặt quấn ngang bờ
Ê mình con nước băng đi mất
Vãi rớt thơ tôi cách mấy bờ
Để rồi sau đó. Nhưng tôi không bán thơ đâu
 
Tôi chẳng có gì, bán cái không
Đã không, nên chẳng có đôi đồng
Không ai mua hết, nhìn còn rộng
Đem chất hoài, nhưng vẫn trống không
Nhưng tôi không có bán thơ đâu.
 
Xuân Diệu làm thơ là: “Rung một làn ánh sáng”
Tagore: “Vào vườn tôi chơi đi em”
 
Ông không mời ai vào vườn thơ, ông đến thăm họ, em bé, người già, không bằng đôi chân của mình mà chỉ với trái tim, trái tim nhân ái thể hiện bằng thơ. Những tứ thơ rất lạ:
Thơ tôi trôi nổi trên sông
Tôi xin vớt lại chờ hong nắng chiều.
Trường hợp của Mặc Giang, qua thi ca, không giống như bất cứ người làm thơ thông thường khác, là sự hòa điệu tuyệt vời giữa thân và tâm, giữa lí trí và tình cảm. Là vượt lên tất cả mọi giới hạn tầm thường trong cuộc sống. Đối với nhà thơ này, hình như không còn có giải phân cách giữa đôi bờ: thiện và ác, đẹp và xấu, thương và hận. Tình thơ vượt trên những cái đó. Cho nên:
 
Thơ tôi một gánh thả trôi sông
Bèo giạt lan xa, nổi giữa giòng
Sóng gợn ướt mình, lăn sóng nước
Dòng thơ tuôn chảy khắp mênh mông
             (Thơ tôi)
Có lẽ với niềm hoan lạc ấy, Mặc Giang suốt đời có mặt cho đời, xoa dịu mọi nỗi khổ đau của người đời bằng con đường thi ca chăng?
Tôi viết cho ai cho mọi người
Đau buồn buông bỏ, tạo xinh tươi
Hoang tàn lấp lại xây cao đẹp
Thân thiện hòa vang, nở nụ cười
Cuối cùng, sau bao nhiêu trăn trở, niềm u uẩn của người lưu lạc, cùng với ánh sáng của thiền môn, đã soi sáng và tạo nên một giọng thơ bất hủ, khi người viết không hề” cân, đong, đo, đếm” không hề có giải phân cách giữa bờ này với cõi kia.
 
                                          Huế, ngày 29/8/2008

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
(URL) Nhà Thơ Mặc Giang - 16.05.2010 06:21:57
 
Quê Hương Muôn Thuở
Quốc Anh

(Những câu thơ trong các đoạn văn hoặc trong ngoặc kép đều
được trích từ Thơ Mặc Giang) – Quốc Anh

 
Bất luận anh ở đâu, chị ở đâu, em và tôi ở đâu, hễ nghe nhắc đến Quê Hương, thì cảm nghe tâm tư tràn ngập một trời nhung nhớ; hễ nghe bàn về Quê Mẹ, thì niềm tự hào và tình nhớ thương như đang chắt lọc, lắng đọng bồi vun... Bởi Quê Hương là nơi ta bi bô tập nói, nơi đầu tiên Mẹ dẫn ta vào phân khoa đại học cuộc đời, nơi Cha nghiêm hướng cho ta leo lên đỉnh cao thành tựu. Vì vậy, xưa nay, một số bài về quê hương của thi nhân đều khiến người đọc luôn thấy hấp dẫn trong cảm giác mới mẻ tinh nguyên. Những câu thơ với chủ đề Việt Nam nguồn cội, quê hương của ngàn năm oai hùng kiêu sa, cũng được nhà thơ Mặc Giang thể hiện qua những dòng thơ rất thực, thắm thiết tình nhớ thương, nhắn gởi ý thức trách nhiệm, đồng thời cũng tạo dựng một lối về thênh thang trên “hành trang lội ngược”. Sức cuốn hút của dòng thơ về tình tự Quê Hương trong thơ Mặc Giang, thiết nghĩ, là một trong những đề tài giá trị trong thơ ông. Luận bàn về chúng, cũng như đang nói với chính mình, như đang thì thầm bên Mẹ Việt Nam, đang lặng yên lắng nghe tiếng vọng của hồn thiêng sông núi Quê Hương. Mà qua đó, chất thơ, hồn thơ, tứ thơ, nội dung thơ mang phong cách đặc biệt, mới mẻ của nhà thơ Mặc Giang đã cho chúng ta có cơ hội biết lắng đọng lòng mình, biết trân qúy Quê Hương - đất nước của những dãy núi trùng điệp in hình công Cha, của những con sông mang âm hưởng tiếng hò thân thiết của Mẹ Việt Nam.
Nhờ ý thức sâu xa về nguồn cội Việt Nam, nên trong những bài thơ nói về đất nước Việt Nam nòi giống Tiên Rồng năm ngàn năm lịch sử, Mặc Giang thường thể hiện một thơ phong tự hào, phấn kích, nhưng cũng trầm ngâm qua giọng thơ tự tin khẳng định, hoành tráng.…: 
Việt Nam còn đó non sông
Mẹ Âu, cha Lạc, con Rồng, cháu Tiên
(Mặc Giang, non nước Việt Nam) 
Rồng và Tiên, một tượng trưng cho tinh hoa tiết liệt, mạnh mẽ như cuồng phong vũ bảo, hùng hồn nghĩa khí, bất khuất, tràn đầy nhựa sống, là chúa tể ngự trị cả đại dương cuồn cuộn; một tượng trưng cho sự trong sạch, thanh cao, tâm hồn đôn hậu, liêm khiết, trong sạch, ngay thẳng, chất trực, không uẩn khúc quanh co, ngự trị cả dãy Trường Sơn hùng vĩ điệp trùng. Vì ý thức cội nguồn là con cháu Rồng Tiên là một trong những tư tưởng văn hóa truyền thống về cội nguồn quý hiếm cao sang nhất trong khởi nguyên dòng giống lịch sử toàn nhân loại, nên Việt Nam quê hương trong thơ Mặc Giang luôn là những chất liệu ngọt ngào, mênh mang lai láng, kết quyện đan thanh: 
Tổ quốc Việt Nam thật mến yêu
Cầu tre lắt lẻo nhịp cầu kiều
Đò ngang đò dọc non liền nước
Cẩm tú giang sơn thật mỹ miều
 Quê hương một dãy kết ba miền
Sông núi muôn đời của Tổ Tiên …
(Mặc Giang, non nước Việt Nam non nước tôi)
Hình bóng và chất liệu quê hương Việt Nam, hậu duệ của Hùng Vương Văn Lang trong thơ Mặc Giang như là lời tự hào thi thiết của tâm can, đó cũng chính là hình ảnh của con người với quê mẹ Việt Nam tin yêu, thương nhớ, nhẹ nhàng lâng lâng như một nhà thơ đã cảm tác: 
Tôi lại về quê Mẹ nuôi xưa
Một buổi trưa, nắng dài bãi cát
Gió lộng xôn xao, sóng biển đu đưa
Mát rượi lòng ta, ngân nga tiếng hát  
Bởi quê hương trong lòng thi nhân không những là quê hương của niềm tự hào Rồng Tiên, mà qua bao biến đổi tang thương, trong chiều dài hun hút của lịch sử bế bồng năm ngàn năm, vẫn khắc sâu trong hồn sông núi quê hương những lao khổ của cha ông, nên trong Tôi chỉ là một người nước Việt Nam, thi nhân Mặc Giang viết:   
Tôi chỉ là một người nước Việt Nam
Của những nơi đất cày lên sỏi đá
Gạo thóc chua cay, đẫm mồ hôi lá mạ
Những bác nông phu tàn tạ nắng sớm mưa chiều
Nhìn những khổ đau, rách nát, điêu tàn,
Dày xéo, chất chồng trên hình cong chữ “S” 
Càng yêu sóng biển rạt rào, yêu phù sa lở bồi, yêu cảnh xanh mơn núi rừng, của từng buổi cơm canh đạm bạc chan chứa tình quê bao nhiêu, cũng chính là thương cảnh sống quê nghèo thôn dã bấy nhiêu. Quê hương bao giờ cũng mặn mà tình mẹ, dạt dào tình cha và đong đầy tình bạn. Người nông phu với con trâu, cái cày trong nắng sớm mưa chiều, một nắng hai sương luôn là hình ảnh đậm đà, chắt lọc, thắm thiết tình quê hương, đã từng khiến thi sĩ Mặc Giang ngậm ngùi trầm ngâm, rồi tuôn chảy những dòng thơ như đang thân thiết sẻ chia nỗi khó nhọc, gạt hộ giọt mặn trên ruộng đất khô cằn nước mặn đồng chua. Đây là động năng khiến dòng mực cứ chảy dài trên trang thơ khi tác giả viết về nỗi khổ nhọc của làng quê Việt Nam. Do vậy, lúc nào cũng cho chúng ta cái cảm giác, thơ của thi nhân Mặc Giang luôn là những trang thơ nóng hổi, chưa ráo mực, cho dù viết từ tháng trước, năm trước hay tự hồi nào. 
Dù hôm nay hay mai kia mốt nọ, em có làm gì đi nữa, chị có làm gì đi nữa và anh có làm chi đi nữa, thì trong chúng ta vẫn không bao giờ nhạt phai chất liệu mặn mà quê hương. Bởi sau những buổi tan trường, dọc đường về nhà, chúng ta đã từng san sẻ chia chác nhau củ sắn, củ khoai, hoặc trái sim trái mận còn non xèo đắng chát. Và khi ý thức về nguồn cội Việt Nam, về chất liệu mặn mà quê hương trong mỗi chúng ta, cũng là lúc chúng ta xác định rõ mối quan hệ thắm thiết giữa con người Việt Nam. Như trong Quê hương nguồn cội, Mặc Giang nhắc nhủ đàn em: 
Em sinh tại quê hương
Tôi sinh vùng đất khách
Dù xa xôi cách biệt
Nhưng là người Việt nam
Em máu đỏ da vàng
Nhìn tôi đâu có khác
Tóc em đen óng mượt
Tóc tôi chẳng lạ gì 
Ngăn cách không gian nào có nghĩa gì đâu, không ngăn được tình người Việt nam. Trong bất kì hoàn cảnh nào, tôi cũng sẽ dễ dàng nhận ra em, không gì có thể làm thay đổi quan hệ thâm tình giữa mỗi chúng ta. “Dù xa cách dặm trường, tình yêu thương chỉ một”, bởi trong chúng ta, ai cũng mang giọt máu của Mẹ Âu, linh hồn của Cha Lạc và bản lĩnh của vua Hùng. Cũng chính vì vậy, nên khi nào thi nhân cũng thấy tình quê hương qua hình ảnh sông nước mênh mông, tâm hồn thi sĩ Mặc Giang cũng như ánh trăng đêm hè tỏa mát lấp loáng lung linh trên dòng sông quê hương, nơi mà thi nhân đã từng: 
Đêm trăng tắm mát dòng sông
Áo phơi trước ngọn gió lồng
Cùng reo câu hò tiếng hát
Khuya về bỏ lại bến không
(Mặc Giang, xóm nhỏ làng quê) 
Hình ảnh gắn bó với làng quê vào thuở ấu thơ này đã theo suốt cuộc đời thi nhân, là một trong những hoài niệm đẹp nhất, trân quý nhất, bởi nó đã để lại trong lòng thi nhân bao ngọt ngào; từ đó có thể dệt nên những trang thơ cuộc đời, tạo nên bao ấm nồng của những chiều đông gió bấc căm căm. Hình ảnh với bao kỷ niệm thân quen đậm màu tình quê, xanh ngắt màu xanh đồng lúa Việt Nam này khiến chúng ta phải nhớ đến một hình ảnh tương tợ của thi sĩ Tế Hanh tả trong bài nhớ con sông quê hương: 
Tôi giơ tay ôm nước vào lòng
Vẫn trở về lưu luyến bên sông
 Vâng, chính nỗi niềm yêu quê luôn vò võ thổn thức trong tâm hồn đầy nhiệt huyết, nên hình bóng quê hương Việt Nam luôn là niềm thương nỗi nhớ trong lòng thi nhân, cả hai hòa quyện đan chặt nhau như sông nhớ nguồn, như núi nhớ non, thân thiết ấm nồng như con sông quê hương từng tắm mát cả đời thi nhân Mặc Giang, khiến ông như giữ mãi mối tình ấy và luôn cảm thấy mới mẻ hấp dẫn, cuốn lôi.  
Đến suốt cuộc đời, nó vẫn luôn là đầu nguồn đích thực, là hạ lưu vĩnh hằng để thi nhân kí thác nỗi nhớ niềm thương, đong đầy kỉ niệm mỗi độ thu về mát lạnh, đông đến gió rét căm căm, xuân tới rộn rã tiếng chim, hay hạ về với hương sen ngào ngạt, để rồi cất lời hoan ca như khúc nhạc khải hoàn: “ta đi trên nước non mình, ta về lưu lại bóng hình quê hương, ta đi một nhớ hai thương, ta về ta nhớ vấn vương muôn đời. ” Đây chính là lời ca quê hương được dệt kết trên cung đàn thương nhớ, vấn vương, không chia lìa, không xa cách ; là những bước chân chắc nịch nện mạnh trên lòng sông vách núi; là những “dấu hài vạn thuở vẫn chưa pha” trên lộ trình nâng niu và tiếp hướng về nguồn cội Việt Nam. 
Có được hoa trái tình thương đối với quê hương qua bao vun bồi, dưỡng nuôi, chăm bón như thế, do Người thơ Mặc Giang không những ý thức được tinh hoa nguồn cội Việt Nam, mà trước những tàng tích đau thương đất nước qua bao thời cuộc, ông còn luôn thống thiết như máu bồi trong tim, quặn thắt từng cơn như phải trăm ngàn mũi kim, hay đếm từng giọt khô giữa khắc nghiệt đông về. Trong Ta còn Việt Nam, sông núi hồn thiêng, Người thơ Mặc Giang nói:  
Một nắm xương khô nghe lòng da diết,
Một giọt máu đào thấm nhuận non sông
Năm ngàn năm lịch sử, nhục vinh thành bại
Đã biết bao lần chất chồng xương núi máu sông 
Như một sự đánh động tâm tư lãng quên của những ai nếu có, hay như một sự tài bồi cho tâm lực hằng nhiên. Giang sơn gấm vóc chúng ta đã bồi đắp biết bao mồ hôi xương máu của cha anh từ thuở dựng nước cho đến hôm nay, “là tinh hoa tiết liệt qua nhiều thời đại”, chính là tất cả những gì đã kếttinh thành người con Việt hôm nay. Bởi đó là sựï khơi động mạch nguồn giao cảm, sự vần vũ lại qua giữa thượng nguồn và hạ lưu, khắn khít keo sơn như hồn sông núi, buộc ràng miên viễn như hình với bóng, quyện hòa như sữa với nước giữa nhiều thế hệ chuyển tiếp qua bao thời đại. Và chính vì vậy, dù trên vạn nẻo đường đời và mưa nguồn thác lũ, thì Việt Nam trong tâm hồn thi nhân luôn là bài ca bi hùng, tự quyết: 
Nhìn chữ “S” cong cong
Sao nghe đau vời vợi
Tôi từng nghe tiếng gọi
Dân tộc Việt yêu thương
Dù xa cách dặm trường
Tình quê hương chỉ một
(Mặc Giang, quê hương nguồn cội) 
Càng tự hào khi nhìn giang sơn gấm vóc một cách sâu sắc bao nhiêu, thì càng nhức nhối, đau vời vợi bấy nhiêu, đó đâu không phải là ý tưởng “nhìn quê hương anh nghe nhiều cay đắng, nhìn cội nguồn tôi thấm những niềm đau ?”. Cũng vì qua chất liệu quê hương ngọt ngào, qua những thành bại trôi dòng lịch sử mấy ngàn năm, thi nhân Mặc Giang trăn trở thổn thức trong tận cùng sâu thẳm của tâm hồn hình ảnh “Mẹ nằm đó, mặt lệ nhòa, không nói. Cha trầm ngâm trắng phếu bạc mái đầu.” Niềm cay đắng của anh, nỗi đau thương của tôi, nhòa lệ trong im lặng của Mẹ và dáng điệu trầm ngâm bạc đầu của Cha, đều là cùng trầm thống về quê hương, về con người Việt Nam cùng chung máu đỏ da vàng, cùng đỡ đần qua vách chắn Trường Sơn, cùng uống cạn nguồn mạch Thái Bình. Lời thơ như vượt trùng khơi bay xa giữa cõi đời huyễn mộng, chính đã mở ra lộ trình tiến bước cho “tình ca muôn thuở của người Việt Nam”, để cùng nhau đi xa hơn trên hành trình của nẻo về tình tự quê hương. 
Chừng ấy, đủ cho ai cũng thấy biết được ý thức hệ về tình Quê Hương, tình dân tộc của Người thơ Mặc Giang. Nhà thơ đã mở ra cho chúng ta lối về quê hương nguồn cội chỉ có một mà thôi, đó là lối về của yêu thương, yêu thương vô điều kiện, không mang tính tạc thù ước lệ, không đòi hỏi yêu sách bất kì thứ gì. Chỉ cần gặp nhau cho dù chưa từng quen biết, chúng ta cũng có thể ôm choàng lấy nhau mà khóc, rồi cùng nhau ôn lại “dòng lịch sử còn rung thời tiết đọng. Thuở dựng cờ, khai tổ quốc giang san”, rồi cùng khóc cười mà hát điệp khúc: “Tình quê ca khúc nẻo đường. Em reo ca khúc quê hương muôn đời ”  
Đây là nỗi niềm khiến Người thơ Mặc Giang thao thức trằn trọc bâng khuâng, 60 ngày đêm liền không ngủ. Xưa, khi mất bạn, Nguyễn Khuyến nói:“rượu ngon không có bạn hiền. Không mua, không phải không tiền, không mua”. Nay, thi sĩ Mặc Giang có lẽ vì trầm tư trước đà biến chuyển xa khơi của con đò quê hương, trước ánh nắng vàng vọt hắt hiu yếu ớt vào một chiều lụi tàn dần tắt bình minh quê mẹ. Trong Kỉ niệm 60 đêm không ngủ, Mặc Giang nói: 
Hai ngọn đèn không cần phải châm dầu
Sáu mươi đêm cháy hoài không muốn tắt 
Tôi nằm yên, nghe đến từng hơi thở
Tôi đăm chiêu, nghe mềm cõi tâm tư  
Sáu mươi đêm không ngủ, mang nặng hình cây đa, gốc dừa, bến nước, am tranh của quê hương; hai tháng trời thức trắng, mang nỗi niềm tình tự yêu thương, để rồi trong thanh vắng đêm trường, thi nhân còn nhớ thương luôn tất cả người anh em chị em. Ở đó như mở ra một thông điệp ngõ vào tình thương giữa con người Việt Nam:“anh với tôi đâu phải người xa lạ, dù không quen cũng gợi cảm tình người ”. Cho nên thi nhân đã từng đếm từng tiếng khuya rơi rụng, từng nghe mềm cõi tâm tư, nhìn sâu vào bóng đêm trong thiết tha, đợi chờ, mong mỏi.  
Từ đó, trong Mặc Giang, những dòng thơ tràn ngập triết lí sống và dạt dào tình thương, đã thâm thiết mở ra cho đồng bào Việt Nam lối về tình tự muôn thuở trên con đường “mọi nẻo hương quê, rung hồn lệ sử”. Con người Việt Nam nên phải “nâng niu trau chuốt từng ngày”, phải biết: 
Biển rộng sông dài gìn giữ điểm tô
Phải nên khuyên nhau:
Anh đi xây đắp nẻo đường
Tôi đi vá lại quê hương rã rời
(Mặc Giang, tình ca muôn thuở của người Việt Nam) 
Những chuyển biến thời cuộc, những thay đổi do ý thức hệ trong mỗi thời đại, vô tình đã biến quê hương không còn như xưa, khiến con người đôi khi cũng nổi trôi theo thế vận, khiến nét mặt quê hương mang những dấu ấn phong sương thời gian, là nét rã rời biến thể của đồng xanh, nét tàn phai trơ trọi của mùa lúa chín, là âm vọng rời rạc chắp nối ứ nghẹn của điệp khúc tình tang trở về. Nên lời thơ của thi nhân Mặc Giang như đang thủ thỉ bên tai chúng ta là hãy tận lực, hãy dốc tâm, hãy hành động cho Việt Nam, cái nôi quê hương muôn thuở, nơi mang bao kỉ niệm tình Mẹ, bao hoài cố nghĩa Cha.  
Nhưng điểm tô, xây đắp trau chuốt bằng cách cách nào mới vẹn tình quê? Không gì khác, đó là xây dựng, bồi đắp, bền vững hơn tình người, tình đồng bào, tình huynh nghĩa đệ. Đây chính là lúc thi nhân muốn nói: 
Dòng lịch sử, muôn đời, ta chung sống
Hồn quê hương, muôn thuở ta đắp xây
Tình anh em, mãi mãi, ta tiếp tay
Tình dân tộc, ngàn đời, không lay chuyển
 (Mặc Giang, ta bước đi trên quê hương ta) 
Có một lịch sử oai hùng, hồn quê hương ngọt ngào đường mía lau như thế, thì anh em chị em phải gìn giữ, đắp xây, phải “tay trong tay, tình trong tình, máu trong máu”, để tình dân tộc ngàn đời không biến chuyển đổi thay. Thế mới chính là đích thực yêu quê hương, thương nòi giống Âu Lạc, trân quý nguồn cội Tiên Rồng.  
Một nhạc sĩ nào đó viết về quê hương cũng khá cảm động “…quê hương, mỗi người chỉ một, như là chỉ một mẹ thôi, quê hương nếu ai không hiểu, sẽ không lớn nổi thành người.” Không hiểu, tức không biết trân quý, không xây dựng tình thương , để “cho vạn vật nhân sinh hòa điệu sống.” Không lớn nổi thành người là thành thân mà không thành danh, thành khí mà không thành chất, thành hư mà không thành thực; không thực sự cưu mang tiếng hát ầu ơ của Mẹ, tiếng hát vượt băng vách chắn thời gian; không thực sự mang hình hài cốt khí của Cha, hình hài càng sắc nét, càng linh tri theo sóng nước lan tỏa không gian.   
Để xây dựng tình yêu quê hương trọn vẹn trong hoàn thiện tình người, thì bước đầu tiên, phải xác lập sự thân thiện, lòng cảm thông. Nên biết rằng, hiểu nhau và thương nhau là nhu yếu khơi dòng của mạch sống, hôm qua hôm nay ngày mai, đầu tiên sau cùng và mãi mãi. Nhạc sĩ vượt thời gian Trịnh Công Sơn có lời ca như là một lời nhắn nhủ thâm thiết, là ý thức đầu nguồn không thể thiếu để thiết lập dựng xây, vun vén tình người:
Mưa vẫn mưa bay cho đời biến động
Làm sao em biết bia đá không đau!
Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng
Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau  
Ngay sỏi đá, đâu phải vô tình, giữa chúng có mối tương quan mật thiết, chúng cũng biết đau, cũng cần có tình thương, cần có nhau, thì con người, chúng ta chắc ai cũng tự biết.
Thiết lập trọn vẹn tình huynh nghĩa đệ, tràn đầy ý thức cùng mang dòng máu cha ông, là lúc chúng ta hội đủ tư cách của một đấng trượng phu với phong thái: 
 Ngước mặt ngẩng đầu sống dọc ngang
 Cho hay con cháu giống da vàng…
(Mặc Giang, xin nguyện làm người nước Việt Nam) 
Là chính thức xác định mình trong ý thức tình tự quê hương dân tộc. Ý thơ vừa như một lời thệ nguyện kiên trinh, lại vừa như một lời khuyên chân tình của thức giả, lời kêu gọi thân thiết của người bạn hiền, lời vỗ về tâm can của cha, lời dặn dò như van lơn của mẹ. Vâng! phải cao thượng, phải khí tiết, nhìn lên không thẹn với trời xanh, ngó xuống không hỗ với đất dày, như thế mới xứng danh con cháu Tiên Rồng, mới đủ tư cách dự vào hàng ngũ hậu duệ của Văn Lang. Đã là con cháuRồng Tiên, thì nên sống như thế; sống được như thế, mới đúng hợp với chất liệu cốt cách Tiên Rồng.
Chính nhờ thế, nên một cách khẳng khái, quyết đoán, trong Xin nguyện làm người nước Việt Nam, thi sĩ Mặc Giang đã tình tự nát cõi tâm can với non sông gấm lệ, với Linh Hồn Tiên Tổ rằng:
Kiếp sau nếu được làm người nữa
Xin nguyện làm người nước Việt Nam
Như thế, nói với chính mình, nhưng chẳng khác nào tác giảnhư đang nói với đàn em đó sao! Vì trong quê hương, là hơi thở của em, là nụ cười của thi nhân, như thi nhân đã khẳng định: “em vẽ một vòng tròn, tôi vẽ một hình vuông, khép hai chữ vuông tròn, thành quê hương muôn thuở”, đây là chất liệu và cũng là tiền đề để dựng xây bồi tô cho Quê hương nguồn cội. 
Có như thế, chúng ta mới càng thêm tự hào khẳng định sự tồn tại miên trường bất diệt của quê hương, đó là sự thể hiện một cách hoành tráng, rung động như trống chiêng, và cũng êm ái dịu dàng như khúc rẽ dòng sông: 
 Việt Nam tổ quốc quê hương tôi,
Thời thế thế thời dẫu đổi ngôi,
Lịch sử năm ngàn không biến đổi,
Truyền trao thế hệ mãi tô bồi
(Mặc Giang, Nguyện làm người nước Việt Nam)
Đó cũng chính là khúc hát của Việt Nam quê hương còn đó, với lời ca vang vượt cả mây ngàn và gió núi bao la: “xưa nay trang sử lựa là, lật ra một cái còn ta với mình, Việt Nam muôn thuở tồn sinh, quê hương muôn thuở như mình với ta”. Đó là cách thể hiện hùng hồn nhất tấm lòng tri ân báo ân, biết cội biết nguồn, biết trân trọng nâng niu dòng máu khai sinh, biết quý thương từng dải giang san đẫm xương máu cha ông qua bao thời đại, và đó chính là sự thể hiện “Uống nước nhớ nguồn cây nhớ cội”. Có thế mới làm cho “ngàn năm rạng rỡ giống Rồng Tiên”  
Những chất liệu mặn mà của quê hương luôn thẩm sâu trong lòng thi nhân những khúc tao đàn tuyệt diệu, như những tình tự khắn khít niềm tin yêu: “thương quê từ bấy đến giờ, yêu quê từ độ bơ vơ khơi dòng”. Chính những chất liệu này càng thêm nung nấu nóng chảy niềm nhớ thương của nhà thơ Mặc Giang. Trong Thầm Lặng, thi nhân gởi trao niềm nhớ thương khôn nguôi: 
Khóc mẹ ủ gầy tận cuối quê
Thương em èo uột khổ trăm bề
Đôi tay nương níu hồn sông núi
Ước vọng ngày nao bước trở về 
Chỉ cần rung lên nỗi niềm tình tự, chỉ cần chùn xuống tận nẻo tâm tư, sẽ thấy bụi tre hàng dậu nghiêng bóng thân quen, thưởng thức được hương vị thơm ngon của trái bắp củ khoai vùi trong đống tro tàn, uống được từng ngụm nước sông ngọt lành đựng trong chiếc gáo dừa bền chắc, đen điu, bóng láng. Chỉ có qua những đậm đà hương vị thấm đượm tình quê ấy, chúng ta mới uống được luôn cả quốc hồn quốc túy Việt Nam. Chúng sẽ nuôi dưỡng chúng ta lớn thêm lên nhiều lắm, mà sơn hào hải vị năm châu làm sao sánh được!
Khúc hát tình tự về quê hương Việt Nam của Người thơ Mặc Giang mãi mãi như con tàu tình cảm dân tộc, đưa hướng ta đi trên hành trình vô tận không bến bờ, không sân ga, để tạo tựu chất liệu keo sơn, xây dựïng bồi tô cho non sông gấm vóc ba Miền, vun vén cho nghĩa đệ huynh thêm bao la. Nên dù anh có đi muôn hướng, chị có đến ngàn phương, thì chỉ có một chỗ duy nhất để trở về, và nẻo trở về Quê Hương chỉ một con đường mà thôi, con đường hướng đến chân trời xanh ngát màu xứ sở, hướng về buôn làng lúa trổ đòng đòng của đất mẹ dấu yêu. Quê hương mãi mãi là điệp khúc hay nhất trong tất cả các điệp khúc mà tôi hát cho anh nghe, cho chị nghe, và cho em nghe. Tình tự quê hương của thi sĩ Mặc Giang luôn rung động trào dâng thân thiết nhất trong các tình tự. Trong đó, chúng ta càng có cơ hội dệt thêm sắc màu của bếp lửa nhà tranh, để “ngọn lửa thêm hồng, Việt Nam trời Đông, quê hương ta đó!!! ”. Nét đặc biệt trong tình tự quê hương của nhà thơ Mặc Giang khiến ta bất chợt nhớ đến lời khẳng quyết: “một câu thơ, mà còn hơn triều sóng ……một ý thơ, rung động cả thiên thu”, cũng vì chủ đề quê hương đất nước của thi nhân đã mở ra cho hôm nay, cho cả mai sau lối về của ý, cõi đi về của tâm thể trên dòng đời miên viễn, xuyên suốt vô tận thời gian, bạt ngàn vô hạn không gian.
 Gió đồng nội chiều nay mát lắm, khúc mía lau như càng thêm lịm ngọt, chuyến đò ngang vẫn lững lờ đợi khách sang sông, từng cánh én đang tung mình trên nền trời quê hương xanh thẳm, những em bé mục đồng đang lùa trâu về trong ráng hồng yếu ớt… Đâu đó trong gió thoảng lưng đồi, là tiếng chày giã gạo liên hồi, tiếng ru hời của mẹ yêu như đang lâng lâng lan tỏa trên sông dài biển rộng mênh mông, ngút ngàn giữa núi thẳm rừng xanh bao la của con người Việt Nam. Cả thi nhân, cả chúng ta như đangtừng bước châïp choạng của bóng đêm để tìm về mái tranh ấm hồng bếp lửa, ngồi bên Mẹ dấu yêu, ngồi bên Cha trầm lắng,  anh chị em cùng hát và kể cho nhau nghe về điệp khúc của tình Quê Hương muôn thuở. Chắc rằng, câu chuyện sẽ cuốn hút, chìm sâu, lắng đọng tâm tư để nghe, nghe cho đến khi, ô kìa, trời Đông đã quá ửng hồng!!!
 
Một ngày cuối Thu Bính Tuất
QUỐC ANH

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
(URL) Nhà Thơ Mặc Giang - 16.05.2010 06:24:06




Giọt Lệ Hoài Thương!
 Mặc Hương


(Ghi chú : những đoạn chữ nghiêng, hoặc nằm trong ngoặc kép, được trích từ Thơ - Mặc Giang)
 
“Cây có cội mới tủa cành sanh ngọn
Nước có nguồn mới rẽ suối tuôn sông
Hôm nay mình được thong dong
Nhờ ơn cha mẹ dày công khai trường”

Mỗi chúng ta ai cũng biết rằng, núi Thái Sơn tuy cao nhưng công cha còn cao hơn núi Thái, nước trong nguồn chảy mãi như tình mẹ bao la. Và xưa nay ai ai cũng vậy, đều lớn lên bằng xương thịt và tâm hồn được đúc kết bằng giọt thủy tinh cùng với biệt thức hòa trong tiếng hát thì thầm yêu thương sóng vỗ, thơm tho như hương nếp chín đầu mùa, trên con đường làng của chiều quê rợp bóng. Rồi một ngày nào đó, nhìn dòng đời vô thường biến chuyển, ngó lại quãng đường qua thì :
Chao ôi, chua xót chạnh lòng
Ơn cha núi Thái chưa đáp
Nghĩa mẹ biển Đông chưa đền
Đã vội cài bông hoa trắng

Và hôm nay, thật xúc động khi ta “còn chút duyên lành” gặp được Đóa Song Đường mà nhà thơ Mặc Giang đã hiến tặng cho cuộc thế nhân gian, với tấm lòng nhân hậu, tình thương bao la vô bờ bến, bao trùm, nhân rộng, chan chứa hết thảy :
Hoa Song Đường ân Cha nghĩa Mẹ
Phủ đất trời đức độ tình thương
Núi cao biển rộng khôn lường
Làm sao sánh được Song Đường Mẹ Cha

Hoa Song Đường đã đưa tôi trở về nguồn cội, dừng bước chân lang thang trên dốc nẻo trường đời để nhựa sống hiếu đạo lại có dịp gieo trồng trong cuộc lữ phiêu bồng:
Rồi khách dừng chân lại một chiều
Phủi vai áo bụi giữa cô lieu
Bao nhiêu kỷ niệm xưa dồn lại
Càng thấy thương đời bao mến yêu

Tập thơ đã giúp tôi hiểu rõ thâm sâu ân nghĩa đấng song đường. Lời thơ ấy đã đánh thức tôi có dịp quay về hoài niệm lại ân cha nghĩa mẹ, để cho gương hiếu hạnh được phổ chiếu, cho lời kinh vang vọng tình đời, cho mọi suy tư của người con biến thành hành động :
Tuổi trẻ, tiên học lễ phải nhớ làm đầu
Lớn lên, lần hồi là hậu học văn
Học lễ, bảo tồn Ân Tông Tổ
Học văn, tinh luyện Đức Nghĩa Nhân
(Cảm ơn Cha Mẹ)

Thật xót xa thay, thương cho những ai đã sớm cài hoa trắng, khi tóc còn bồng bềnh thế kỷ màu xanh, cho dù, có băng qua dốc thoải lưng đồi chiều nghiêng bóng xế đi nữa, đã mấy ai tránh khỏi mỗi đêm về thao thức nghìn thu :
Vành mi khô ngấn lệ
Nhỏ hai giọt lăn tròn

Ôi ! Biết bao lần trăng tròn rồi trăng khuyết, biết bao lần nắng hạ thu sang, xuân thiếu nụ cười mà đông tràn giá lạnh. Trong nỗi niềm sâu kín, thi sĩ đã gieo vào lòng người ân tình thắm thiết trong nghĩa vụ thiêng liêng cao quý của người con, nhắc nhủ, nhắn gởi vào hồn thơ điều chi rứa ?
Mẹ tôi, mái tóc trắng bay
Một suơng hai nắng thân gầy nuôi con
Cha tôi, nào nệ hao mòn
Xuống sông tát biển lên non bắt còng

Hồi tưởng lại vóc dáng năm nào, dung nhan của mẹ cha vẫn hiện rõ trong lòng. Bây giờ nhìn di ảnh khi “Mỗi năm giỗ Mẹ” lòng thấy “thủy khứ vọng thủy lưu, ảnh trung sầu ảnh đối” (nước chảy lưu chất ướt, ảnh hiện sầu mênh mang), thầm kêu lên tiếng “Má”, để rồi nghe lòng se thắt :
Kỵ tuyệt kỳ, hương khói vợn loanh quanh
Ngày giỗ Mẹ, con thầm kêu tiếng Má

Dường như một khi cái gì đó đã nằm trong tầm tay thì người ta không cảm thấy trân trọng cho mấy, đến khi mất đi, người ta mới cảm nhận rõ sự nuối tiếc khôn nguôi. Vì vậy, có những lúc tưởng chừng như vũ trụ hòa tan thành biển cả. Chợt giật mình trong đêm dài cô quạnh, bỗng nghe lòng trống trải đơn côi. Em, chưa kịp tuổi lớn lên ! Chị, đang tay bế tay bồng ! Anh, đang công thành danh toại ! Ai đó, bên bóng xế chiều ! hay ai kia, đã cuối đời thở dốc ! Mấy ai không chạnh lòng một khoảng thinh không nào đó, chợt nghĩ đến mẹ, đến cha, nước mắt tự nhiên ứa ra và chảy ngon lành, có khi trong giấc ngủ, chắc cũng có người đã cùng thi nhân :
Giật mình, tỉnh mộng đêm qua
Sờ trên gối mộng, gối đà đẫm sương
Nghe lòng nát cõi tình thương
Rụng rơi giọt lệ đêm trường ai hay

Nhịp điệu thơ chậm rãi êm đềm, lắng sâu vào tâm hồn, gợi về những khung trời kỷ niệm thiêng liêng trong góc tối của tâm linh, bắt gặp tiếng thương yêu trổi dậy, “xót thay Xuân cõi Huyên già”, nhưng còn đâu nữa mà cõi với già, để cho “gốc Phần thấm lạnh canh gà đẫm sương”, rồi thầm vọng :
Trăng sao kia lấp lánh cả bầu trời
Không tràn ngập bằng tình thương cha mẹ

Dòng thi của người thơ Mặc Giang đã làm sống lại trong tôi những tháng ngày qua được sống trong tình thương ấm áp của hai đấng sinh thành. Nhớ khi xưa còn tấm bé, tung tăng nô đùa ngoài đồng nội, trường làng cũ năm nào theo gót ba mẹ đến trường. Và, những đêm trăng rằm sáng tỏ, ai cầm tay dẫn lên chùa lễ Phật. Bao lời khuyên răn, dạy bảo của ba mẹ thuở nào vẫn còn vang vọng bên tai. Hình bóng mẹ với đôi gánh trên vai gầy nặng oằn dưới cái nóng của những trưa hè oi ả, vóc dáng cha khẳng khiu vác cày hai buổi đi về theo mỗi vụ mùa. Đôi mắt hiền từ, nụ cười độ lượng, hằn sâu trong trái tim tôi …

Giờ đây, ai trong chúng ta, mới thấy một nỗi buồn thấm thía, chìm sâu đáy mắt, khô héo vành môi, rụng rơi trái chín, tím ngắt niềm tây, mỗi khi hoài niệm năm tháng xa xưa đong đầy ký ức, để bây chừ, “buồn lắm phải không em, phải không chị, phải không anh ?”

Nhà thơ gõ thi cú trên cung nhịp khóc thương, thấm vào tận cùng ngõ ngách tâm hồn, len qua mọi góc cạnh tâm tư, khơi các động mạch chạy đi toàn châu thể, đánh thức tĩnh mạch chảy về tim, để làm nhũn lòng những ai chai lì ngỗ nghịch, đã lãng quên hay bỏ quên những giọt ân nghĩa sinh thành, và làm cho hệ thần kinh phải động não trước khi quá chậm hay muộn màng, để một mai đụng vào bức tường thành hiếu hạnh, không đến độ gục đầu, bó trán, ôm gối tỉ tê những hối hận, ăn năn, tiếc nuối, mà màn ảnh hậu trường với đèn màu ẩn hiện, hay trai đàn lung linh phảng phất khói hương !

Ngay cả thể hiện tấm lòng hiếu thảo toàn thiện toàn chân nhất lúc cha mẹ còn hiện tiền, vẫn mơ vọng “đêm đêm thắp ngọn đèn trời”, nhưng chiếc bóng thời gian lặng lẽ đi qua, suối vàng nghiệt ngã tỉ tê róc rách, và hình ảnh “gối mộng” trong đêm dài thao thức canh thâu, làm cho tôi xúc động quá chừng. Rồi tôi bắt gặp thêm một “gối đào trũng sương” nữa. Tấm lòng của người thơ rót ra những từ ngữ lạ lùng, với thi cú độc sáng chưa từng xuất hiện trên thi đàn văn học, hay từ điển bách khoa. Vâng, người có một khối óc kỳ lạ, một trái tim kỳ lạ, thì thi tứ, từ ngữ sao không lạ kỳ ? Hèn chi, tôi có đọc “nếu ai không khóc, không phải là người, nếu ai không khóc, không phải là đời, trẻ thơ cũng khóc, khóc thật ngon lành, người lớn cũng khóc, khóc cũng tím lòng, khóc cũng mềm môi”. Kê đầu trên gối mộng, gối đào :
Lặng nhìn gác trọ đêm thâu
Hai con mắt xót, đỏ ngầu trắng canh
Cho xin giấc ngủ yên lành
Trơ vơ một cõi, ngó quanh đêm dài
Xin nâng tay làm chiếc gối cho người con mất mẹ được ôm giấc ngủ yên !
Xin dâng lời kinh cầu, thắp nén tâm nhang để lặng nhìn :
Áng mây hương cuộn tròn không nói
Bay lòng vòng khép cửa đơn côi

Đọc tập thơ Hoa Song Đường của nhà thơ Mặc Giang, lòng tôi đã khép lại những ước muốn, tham vọng cá nhân mà lắng đọng tâm tư trong nghĩa vụ thiêng liêng và lẽ sống của đạo làm người. Lời thơ như những dòng sữa pháp được rót từ uyên nguyên giáo pháp. Tôi hiểu rằng “Bên vai này con xin cõng mẹ, Bên vai kia con xin cõng cha, Cõng đi khắp cõi ta bà, Đáp đền hiếu hạnh chưa đà đủ đâu”. Và lời thơ của người như xuyên suốt dòng chảy huyết thống luân lưu từ cội nguồn tiên tổ đến mãi mãi cháu con, chiếc nôi đầu tiên trăm trứng, chiếc nôi nương náu Tiên Rồng, vẫn còn đó vô cùng hai chữ đồng bào khởi đi từ Lạc Long Quân – Âu Cơ, mà bất cứ ai đầu đen máu đỏ da vàng, còn dìu dắt nhau ta đi trên nước non mình, hay cho đến tận chân trời góc biển, muôn hướng ngàn phương, rất dễ tìm nhau và vẫy gọi tên nhau qua tiếng chíu chít yêu thương của chim Lạc chim Hồng :
“Mình với ta tuy hai mà một
Ta với mình tuy một mà hai”
Tìm nhau lối cũ dấu hài
Anh em một cội phương đài ngàn năm

… Lẽ nào… tôi cứ nhắm mắt bước thẳng tới ư ? Chứ quay mặt nhìn lại thì bao dòng thác xa xưa, bao kỷ niệm dấu yêu đều dồn về tâm tư, ký ức lăn quay con tàu dĩ vãng ! Ai bảo rằng thời gian sẽ là liều thuốc lãng quên ? Ai cho rằng, cái đã đi qua sẽ dần dần biến mất ? Vâng, có cái rất dễ quên, nhưng có cái sẽ vĩnh viễn ngự trị hơn cả lâu đài. Hoa Song Đường hôm nay đã đưa tôi đi chuyến tàu quy khứ, tôi tìm thấy mẹ tôi tựa cửa bên mái nhà tranh, bếp lửa hồng êm chưa chín cơm chiều, cha tôi bên thửa ruộng cày khi hoàng hôn buông xuống, những đêm đập lúa, giã gạo dưới trăng… Nhớ cả dòng sông mỗi mùa nước lớn, bến cũ con đò, bên nẻo thôn trang :
Tôi xin tạ tội quê nghèo 
Ấm nồng bếp lửa mái tranh
Củ khoai lùi tro vừa chín
Nuôi tôi từ thuở đầu xanh
Tôi thương mẹ tôi mưa nắng
Tôi nhớ cha tôi vun trồng
Mồ hôi phơi vành áo trắng
Cho tôi tình biển nghĩa sông

Và rồi đây… ! ai trong số đó, trường đời bôn ba tứ xứ lập thân, tìm đất sống, có nhớ bến đò xưa, nhớ dòng sông cũ, nhớ mảnh quê nghèo ! Mong sao đừng cố tìm quên, mong sao sẽ không có ai dửng dưng im bặt để người ta không biết đến mình xuất thân từ chốn nhà quê dân giã, cơm độn ngô khoai, mạ non èo uột, gốc rạ hao mòn, đất cằn sỏi đá :
Đừng quên quê mẹ, đói nghèo khốn khó
Đừng quên quê cha, đất xéo cằn khô
Cố quên mình, và quên cả tuổi thơ
Thưở bắt bướm thả diều, mòn lũng quần ba mảnh
Cho tóc cha, thêm sầu vương sợi trắng
Cho tóc mẹ, thêm bạc nắng hương cau
Quê nghèo có tội gì đâu
Mà quên cắt rốn chôn nhau đầu đời

Ngay cả ông lái đò, bên bến cũ sông xưa, đưa người đi :
Và từ đó, vẫn hàng lau lả lướt
Khách ngày xưa không trở lại sang sông
Nên mỗi chiều thả thuyền trên bến nước
Ông lái đò đưa mắt mỏi mòn trông

Nếu như quay đầu, ngoảnh mặt như ai đó, cố dấu mình xuất thân từ nơi mà cha mà mẹ, cả một đời tàn tạ vì con. Đâu là công ơn cù lao chín chữ, đâu là công đức hai đấng nghiêm đường. Chừng như giọt nước mắt đang thấm dần vào trái tim tôi. Lẽ nào, tôi lại là người khách sang sông hờ hững ấy… ? Không ! Tôi không thể nào để « bóng chiều hôm » ngang qua, và để cho « mây trời vụt tắt », rồi tiếc nuối « ôm nỗi sầu cô đọng ». Bởi vì Hoa Song Đường kia đã đưa tôi về với cội nguồn, lắng nghe mùa hiếu hạnh bao phủ chân thành, lời Kinh Báo Ân vang vọng nghĩa đạo tình đời :
Cõi trần gian thật diễm phúc cho em, còn đóa hoa hồng
Và, bất hạnh cho những ai, khi cài bông hoa trắng

Thơ Mặc Giang còn viết :
Nếu đổi được, tôi sẵn sàng đánh đổi
Thật bình thường dung dị của ngày xưa
Cái thời còn bé bỏng của tuổi thơ
Không can dự thế trần nhiều tan vỡ

Lê Quý Đôn có nói “thơ phát khởi từ trong lòng”, thì Ngô Thời Nhậm cũng nói “mây gió cỏ hoa xinh tươi kỳ diệu tới đâu, hết thảy cũng đều từ trong lòng mà ra”. Ý muốn nói đến cái gốc của tình cảm phải là cái thiện, cái tâm của thi sĩ phải là thiện tâm, giàu tình cảm, nhân hậu, thực sự yêu thương lẽ sống, con người. Mặc Giang là một con người như vậy. Đối với ông :
Đạo nghĩa, là một lâu đài đích thực
Đức nhân, là kiền thạch trụ ba chân

Cho nên thơ Mặc Giang có tính giáo dục, cảm hóa và hướng thiện sâu sắc, mang lại sự an hưởng cao đẹp của tâm hồn, nâng cao giá trị sự sống lên trên những lợi ích vật chất tầm thường. Mặc Giang là thi nhân có tâm hồn đẹp đẽ cao thượng. Những ai bắt gặp thơ ông, đến với thơ ông, sự bình an sẽ đến và cảm nhận cõi lòng thanh thản nhất. Hèn chi, nhà nghiên cứu, dịch thuật, trước tác sử học, văn học lão thành cổ thụ Việt Nam - Mộng Bình Sơn - đã không quá khi giới thiệu ông : “Mặc Giang, theo tôi, không phải một nhà thơ như bao nhà thơ khác. Ông mượn chữ nghĩa và dùng chữ nghĩa để chuyển tải tư tưởng và triết lý xưa nay. Thơ Mặc Giang nên đưa vào nền văn học nước nhà. Tôi xin giới thiệu đến mọi độc giả gần xa”.

Rất cảm ơn sự khẳng định có giá trị cao như cụ Mộng Bình Sơn đã 88 tuổi (tính tới năm 2009) lão làng cột trụ trong nền văn hóa Việt Nam, tôi không mơ vọng một thời điểm nào đó thơ Mặc Giang sẽ được chính thức giảng dạy nơi học đường, nhưng tôi thấy học sinh sinh viên, Tăng Ni sinh đã trích dẫn, sử dụng thơ ông. Chùa chiền, giáo đường có dùng thơ ông thành những bài giảng. Thơ ông có phô diễn nơi thi đàn, sân khấu. Các hướng dẫn viên mang thơ ông theo hành trình du viễn. Người bán trái cây, bán hoa màu cũng đọc. Người xích lô, người quét đường, chị bán ve chai, em bé mồ côi,…, ngay cả người tù, cũng thuộc thơ ông. Những cụ già 80, 90 tuổi hạc, dân giã có, trí thức có, đã đóng cửa đọc thơ ông một ngày cho đến nhiều ngày. Nhiều người nghe ngâm thơ của ông, quên mất thời gian. Lại còn hàng vài trăm bài thơ phổ nhạc trình tự lan đi dưới mọi vòm trời. Vân vân và vân vân…

Trong thời đại thơ ca hôm nay, tập thơ mang sắc thái triết học “Hoa Song Đường” đã nuôi dưỡng nhân cách, giáo dục con người có tình cảm đứng đắn, trong sáng, dám xả thân vì nghĩa và biết sống với đạo lý làm người.

Mặc Giang, đã âm thầm lặng lẽ tạo thành những bài pháp vô ngôn đầy sức thuyết phục nhân tâm.

Mặc Giang, đã âm thầm lặng lẽ xây dựng một núi thơ, cho cuộc đời và nhân thế cây lá xanh rừng.

Hoa Song Đường khép lại, nhưng tôi đã hiểu ra rằng, tất cả thật tuyệt vời và mầu nhiệm. Mỗi hình ảnh đều có một sự thiêng liêng huyền bí. Tôi nỗ lực sống trọn vẹn trước những phiêu bồng, bởi tất cả, đều đáng nâng niu, trân trọng.

Kinh thành, tháng 7-2009
<bài viết được chỉnh sửa lúc 16.05.2010 06:37:23 bởi Viet duong nhan >

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
(URL) Nhà Thơ Mặc Giang - 16.05.2010 06:36:14




Vọng Giữa Hư Không

Hồng Tâm
         "Hãy khơi lên những ngọn lửa lụi tàn, để cho cuộc đời là bài thơ khúc hát, tiếng ca dịu dàng như rơi nhẹ vào không gian..."
                                                                       (Gởi quê hương - Mặc Giang).

"Thương thay cá chậu chim lồng
          Nhảy bay lặn lội cũng trong ngục tù"

        Ôi! biển khổ ba đào, trùng dương dậy sóng. Trong rừng cây, cành chen nhau mà lá cũng chen nhau. Nơi phương xa hướng về cố quận, theo dõi từng hơi thở, nhịp đập của con tim, Mặc Giang thấy thương xót cảnh đời xôn xao danh lợi, rộn rực tranh đua. Để rồi, có những hôm:

Thao thức vì ai ngồi đây mãi...!

       Và ai đó đã suy gẫm, gẫm suy về lí tưởng. Bước ra đời độ sanh dễ lắm sao. Chẳng khác gì thuyền dậy sóng ba đào. Ra giữa biển chịu biết bao dồn dập...Thế nhưng, Mặc Giang đã không ngần ngại, với thệ nguyện rộng sâu như biển, "ngũ trược ác thế thệ tiên nhập". Cho nên:

                           Tiếng lòng thúc dục thương nhân thế
                            Bút mực yêu kiều dệt thành thơ...

      Cuộc tồn sinh lận đận, mây trắng ẩn non ngàn, lênh đênh như cánh nhạn chiều thu ... Trần lao là thứ vô thường.Vạn vật trong thế gian đều là giả hiện. Ngó lại càn khôn cha mẹ sanh thành chẳng khác nào hạt bụi chợt còn chợt mất, như mảnh phù du thoạt nổi thoạt tan...Bụi trần dao động lăng xăng, hư không vẫn tĩnh lặng.

     Lành thay, trong cảnh giới tài sắc, danh lợi của cõi Ta Bà, rạng rỡ hình bóng những bậc chân nhân nối tiếp trên đường dài phiêu lữ chấm phá điểm son tạo thành dấu ấn làm cho cõi diêm phù không phải chỉ là nơi đày ải tử sinh! Cái gì là khổ, cái gì là khổ đế! Cái gì là diệt, cái gì là diệt đế! Cái gì là sắc, cái gì là không sắc! Nếu trầm luân sao ta đeo đẳng ta bà? Nếu cát bụi vô thường sao ta chẳng mất hư hao?

Nhận diện, đối mặt, bước đi, nhìn thấy, cơ cảm, tư nghì thì có gì phiền ưu, kham nhẫn! Bầu trời không lồng lộng thì mây trắng đâu có thong dong! Biển cả không mênh mông thì sóng mòi đâu lướt gió! Nếu tất cả đều buông, đều bỏ, đều lẩn tránh thì chẳng khác nào thả hư vô đi vào cõi chết, thả cát bụi đi vào rêu mờ, trầm mịch lặng yên!

Sinh tử không ngừng, tại sao đóng cửa ? Mất còn biến hiện, tại sao buông trôi? Hoa hồng chỉ có khi trổ trên cây gai góc. Chồi non chỉ nẩy khi sinh lực điểm cuối cành khô. Nụ cười và tin yêu đương nhiên đã đẹp những khi diễm hạnh nhưng càng đẹp hơn trên những muộn sầu. Lìa bùn sao có được sen? Nước nào gọi là trong nếu không có đục? Đường trần mở cửa đón nhân gian. Tử sinh vẩy chào reo phù thế. Xưa nay, mãi mãi và vô cùng! Vốn như thế và trên tư thế đó, Mặc Giang, người đã đem đến cho đời món quà tinh thần lớn nhất, tạo cho con người có một nghệ thuật sống bình an, thông cảm, cởi mở, yêu quê hương, khơi dậy tình người:

                                    "Tha nhân mở cõi thương lòng
                                       Nhìn trong thiên hạ khắp trong cuộc đời
                                      Nơi nào khổ ải chơi vơi
                                       Ta xin đến đó cho đời bớt đau
                                       Nơi nào bãi biển nương dâu
                                       Ta xin đến đó bắc cầu lại qua".
                                                                         (Hoa Tha Nhân)

       Trong suốt chặng đường qua, thơ Mặc Giang đã khởi sắc, nghinh hương, và giờ đây, lại chấp cánh cho nhạc bay cao. Âm nhạc ấy của Mặc Giang đã nâng thơ lên thành một cung bậc cảm thụ mới như ngọn gió trong lành đang thổi về trên khắp mọi miền. Tập nhạc mang tính triết lý hiện sinh kỳ ảo trữ tình : "Dòng thơ gọi tình người", đi trên "Hành trình quê mẹ" không ngưng nghỉ, đâu không quê mình, đâu chẳng của ta, “Mình với ta tuy hai mà một, Ta với mình tuy một mà hai”, cùng "Lối cỏ hoa cài"... mở ra vạn lối, như cầm trên tay, ngay trước mắt, tuyệt siêu mà hiện thực, kỳ diễm mà hiện sinh, góp phần tô điểm cho vườn hoa Phật học, thơ nhạc nước nhà thêm màu sắc phồn vinh.

                                      '' Nghĩa sông tình biễn mênh mông
                                         Sông đi ra biển bềnh bồng ra khơi
                                         Sông đi từ giữa núi đồi
                                         Xuyên qua rừng nội trụt trồi cao nguyên "
                                                          (Tình nghĩa biển sông-Thơ nhạc).

       Giữa không gian tịch lặng, những ca khúc được phổ từ thơ Mặc Giang đã giao thoa, rung cảm và ngân lên thành lời ca ngọt ngào, êm dịu . Con người hội nhập cõi uyên nguyên mênh mông diệu vợi . Hương đất trời bây chừ trổi khúc lan man bất tận  trong mạch nguồn sâu thẳm của năm ngàn năm văn hiến con Lạc, cháu Hồng.

         Thơ nhạc Mặc Giang đơm hoa kết trái, đến độ chín muồi, người đã dâng cho đời những quả ngọt nồng nàn hương vị, đậm đà tình yêu quê, như trái cây bốn mùa:

                                        "Cây ngon trái ngọt tươi màu
                                          Quanh năm suốt tháng chớ đâu một ngày
                                           Sống sao cho trọn vui vầy
                                           Người kia cũng nhớ người này cũng trông"

        Ai đang sống quê mình hay dù có xa quê, nghe điệu nhạc mà không dừng chân đôi chút, để sống trọn tình quê, mà nâng niu gìn giữ, mà hoài vọng cố hương, và muốn trở gót quay về thăm lại chốn xưa:

    " ... Thái Nguyên yêu ơi, sức sống chứa chan nâng niu dân tình đảm đang, xin vẫn không nguôi thương nắng mưa quê tôi":
                                                                   ( Thái nguyên quê tôi)

    ...Và từ dạo ấy, sắc thắm muôn hoa lại nở khắp thân thương trên muôn vạn lối đi về:

                      " Hoa nào có ý lạ đời
                        Bởi hoa muôn sắc tuyệt vời thế thôi
                         Bông hoa là của đất trời
                         Ngắm hoa là của ai người biết hoa"
                                                            (Sắc thắm muôn hoa)

       Những đóa hoa lòng thánh thiện kết tinh tình thương yêu vô ngã, tung nở ngát hương theo từng nhịp đập con tim bằng những lời ca khôn xiết niềm vui bất tận vang vọng giữa cõi ta bà uế trược, đau thương :

                               "  Hướng dương khoe ánh thái dương
                                   Quỳnh hương nhoẻn nụ đêm sương rực màu
                                   Hoa sen nở rộ dưới bàu
                                   Lại chen hoa súng trắng màu hoa cau.
                                                                           (Sắc thắm muôn hoa) 

       Mặc Giang ung dung giữa cuộc đời, bình dị giản đơn, gần gũi thân thiết với cuộc sống con người như hoa sen nở rộ dưới bàu, trong đám bùn lầy không nhiễm chút tanh hôi. Hương các loài hoa thơm không bay ngược chiều gió. Nhưng hương người đức hạnh ngược gió khắp muôn phương. Chỉ có bậc chân nhân toả khắp mọi phương trời. Thơ ông là nguồn sống vô tận của vũ trụ càn khôn. Và ở đó, ta bắt gặp vẻ đẹp của một tâm hồn thi sĩ:

                      ''Tai có thể nghe ngàn vạn lí xạc xào
                        Mắt có thể thấy khuất muôn trùng vời vợi
                        Vượt cung trăng để thăm viếng hằng nga
                        Căn gác nhỏ nhưng nhìn trời đất hẹp''.

       Như vầng trăng sáng tỏ không vướng chút mây mờ, Mặc Giang đã thong dong giữa cuộc đời "bước đi không mỏi, bước tới không ngừng''. Và cứ thế:
 
                       "  Chân chưa mỏi trên nẻo đường vạn dặm
                            Núi dốc bản đồi đưa tay bắt nắm
                            Cát bụi gió sương một cõi trần gian".

       Chính vì tình thương yêu bao la nó len sâu trong tim, chảy khắp huyết mạch cuộc đời bình dị của tâm thái siêu việt, nên thi sĩ đã không ngần ngại, thăm khắp hang cùng ngõ hẻm, "biển gọi mây ngàn tôi cởi sóng vượt đi", gian nan như lửa rèn tâm trí, nện gót vang lừng nhịp khúc ca. Mỗi động tĩnh khứ lai của ông đều là bài pháp không lời.

"Phật Pháp Thân quê nhà ta đó
  Đạo cứu đời vời vợi thanh lương
                                     Chân diệu hữu ai ai cũng có
               Đạo vì đời truyền khắp muôn phương".

      Và có ai biết rằng, Mặc Giang không bao giờ bỏ lỡ cơ hội "tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức", nhiệt huyết thắp sáng ngọn đèn chánh pháp "phá nghi võng ư trùng trùng", luôn thổi ngọn gió an lành vào thế gian hỗn độn này:

                     "Hoa Nhập Thế vào cuộc đời tế độ
                       Sống an lành trang trải vạn tình thương
                       Dìu dắt nhau trên thiên lí đường trường
                       Một khi biết quay đầu là bỉ ngạn".
                                                                             (Hoa nhập thế).

      Giữa gió chướng mây ngàn và phong sương cát bụi, mỗi bước chân ông đi cũng chính là mỗi bước chân trở về. Thi sĩ đã gieo vào đời ngũ trược những bông hoa lấp lánh ánh trăng ngàn, những ca khúc trữ tình vang lên từ vần thơ ấm áp tình đời, lặng lẽ âm thầm đưa những con người còn tham sân nhân ngã bỉ thử, quay cuồng trong vòng xoáy của cơn lốc lợi danh, được tĩnh thức đi về trên một đạo lộ an bình, ngát hương đạo hạnh.

      Sự hiện hữu thơ nhạc của thi sĩ chính là suối nguồn đạo đức mà chúng ta có thể vốc uống được dòng nước mát trong lành của bản thể trào tuôn vô lượng. Thơ nhạc Mặc Giang cất lên cao. Dòng tâm thức đang ươm mình cho hoa đời đua nở, mạch sống giữa sắc pháp và tâm linh, giữa hữu tình và vô tình đang quyện lẫn vào nhau tạo nên nét đan thanh tấu hợp trên cung đàn miên viễn của thế giới và nhân sinh vũ trụ. Lời ca có lúc trầm lắng trong niềm xúc cảm thêng liêng:

       "Đồng đội ơi, anh nằm ở đâu. Không tên với tuổi hoà trong đất mẹ hồn nước oai linh. Đồng đội ơi, hương rừng núi đồi khói chiều mờ sương. Đồng đội ơi, núi rừng đất mẹ ấp ủ hồn anh..."
                                                              (Tôi là người chinh nhân-Thơ nhạc)

    Thái dương chói lọi về dãy núi xa xa, bầu trời trong xanh bao la thật đẹp. Tôi thong dong bước đi giữa làng quê yên ả miền Trung. Bên sông, bên ruộng, bên vườn, mát trong ngút ngàn màu xanh non nước, khiến cõi lòng càng thương nhớ quê hương:

"Quê hương tôi đất nghèo mưa nắng
                               An lành gian khó sẽ chia nhau
                               Miền trung lối dọc đò ngang
                               Tình người nói sao cho vừa''.
                                                   ( Miền Trung quê hương tôi-Thơ nhạc)

      Ôi! đi giữa chiều quê nghe lời ca vang vọng giữa hư không, ai cũng cảm thấy tâm hồn mình thanh thản, nhẹ nhàng, phá tung mọi giam hãm của thế giới vật chất, vượt hẳn khỏi giới hạn nhỏ bé của thân ngũ uẩn này. Tâm hồn mở rộng, đón nhịp giao thoa giữa con người và vũ trụ vạn vật. Cảm xúc trào dâng, tình người ấm áp, khơi dậy giữa chốn trần một thuở long đong, hương đồng cỏ nội in dấu hài đậm nét nguyên sơ.

         Chúng ta hãy lắng lòng hòa cùng nhịp đập của điệu nhạc cùng vũ trụ vạn hữu, giữa hàng vạn trái tim đang thổn thức giai điệu tình yêu quê hương thắm thiết, non nước phiêu bồng, sơn cùng thủy tận:

                  "  Dòng sông bến nước con đò cũ
                      Lỡ bước thiên đường chợt nhớ quê''
                                                                                     (Nhớ quê hương)

      Lời ca vút cao, làm trỗi dậy sức sống kì diệu êm đềm, nhẹ nhàng, ngọt ngào, đầm ấm như hơi thở, sẽ mãi mãi lan tỏa trong từng niệm hiện tiền, trong chiếc lá hay làn hương ngây ngất, trải dài vô tận giữa hư không. Xuân lại về sau một thời gian tàng ẩn trong mùa đông giá lạnh.

    ...Riêng anh, từ dạo xa quê, dấn thân vào đời, cuống cuồng xoáy theo cơn lốc lợi danh. Nay nghe câu hát diệu kỳ, từng bước tìm về chốn xưa sao nặng lòng luyến thương quá, những hình ảnh đã một thời cho anh bao hạnh phúc với ngọt ngào đầy vơi. Bây giờ trở lại nơi đây, hơn nữa đời người, mái đầu anh đã bám đầy bụi trần và con tim anh thổn thức tình đời  xuôi ngược. Câu hát yêu thương gợi cho anh nhớ lại tất cả, để những hình ảnh thân thương, quen thuộc đó, là hành trang cho anh sống đúng phẩm giá ý nghĩa của một con người.

     "...Người nông dân yêu thương ruộng đồng, mang gió mưa thuận hòa, thêm sức đậm đà, tay cày, tay cấy ba miền Việt Nam.
                                                                   (Người nông dân-Thơ nhạc

      Tận hưởng thơ nhạc Mặc Giang, ta cảm thấy hạnh phúc như một đứa con tìm về đất mẹ, được nâng niu trong vòng tay dịu ấm, được hấp thụ những tinh hoa quí giá mà thi sĩ đã trao gửi tận cõi lòng.

         I.M..Đô Ghen, nhà sinh học người Nga cho rằng: "Âm nhạc có ảnh hưởng đến hệ hô hấp tuần hoàn và những khía cạnh khác trong cơ thể". Thật vậy, âm nhạc từ thơ của Mặc Giang khiến người nghe cảm thấy nhẹ nhàng thư thái, xua tan những căng thẳng mỏi mệt sau một ngày lao động trí lực, miệt mài tận tụy lao lung giữa sự sống với gánh nặng áo cơm.

     Sự tái hiện những âm thanh đầy sức sống, sức hấp dẫn của quê hương, đất nước trong thơ nhạc thi sĩ, đem đến cảm giác dễ chịu như đang hít thở hương hoa sen tươi mát, dịu dàng lan tỏa giữa hư không và nó cũng đáp ứng nhu cầu tìm về non nước hồn thiêng trong mỗi chúng ta. Những ca khúc trữ tình ấy, đã tham gia và hỗ trợ trong các dịp lễ hội, nghỉ ngơi cộng đồng, trong sự chuyển động của tập thể ban ngành các cấp, làm phương tiện nghỉ ngơi, giải trí và đóng vai trò không kém phần quan trọng trong việc giáo dục con người, nhất là thế hệ trẻ về tư tưởng, đạo đức. Đánh thức lương tâm, thức tỉnh một sự bồn chồn cao quý, một nỗi niềm lo lắng thiêng liêng.

     Thơ nhạc Mặc Giang làm cho cuộc sống không còn tẻ nhạt và trầm lắng như Sô Xta côvits có nói rằng: ''Âm nhạc nâng con người lên, làm con người cao quý hơn, củng cố phẩm chất niềm tin vào sức mạnh bên trong của bản thân, vào sứ mệnh lớn lao của mình ":

   "...Hai bên mấy lối xe qua cầu rồi, cảm cơ công đức thanh cao, tăng thêm sức sống ngọt ngào miền Nam"...
                                                                         (Thương về Tiền Giang)

     Trường đời ai đã ngủ say, bỏ quên gối mộng bên rày cuộc chơi, chừ đây nắng rực lưng trời, vuờn thơ đã dậy hương rồi người ơi... Mặc Giang đã đem đến cho ta những ca khúc bay bổng diệu kỳ, vun bồi sự sống hôm nay trong suối nguồn tươi mát của đạo pháp.

      Giữa dòng nước đục, nhà thơ của của chúng ta đã xắn tay áo lên, nhẹ nhàng "lóng đục thành trong'' bằng chính những ca khúc trầm bổng, linh hoạt thanh thoát, giúp cuộc sống con người có chiều hướng vươn lên. Lời ca bày tỏ tình cảm trong sáng, ngợi ca quê hương, thể hiện tình người hướng thiện.

       Khi âm nhạc từ thơ của thi sĩ cất lên, vang vọng giữa trường đời, lòng con người trên quê hương yêu dấu một phút bừng niệm , thấy được sự thật của cuộc đời bằng chính kinh nghiệm sống với bản thân, các hạt giống thiện có cơ hội bừng dậy, đón nhận hương vị ấm áp của cuộc đời. Tâm thức con người giờ đây bừng sáng, "tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời", niềm hỷ lạc thấm nhuần trong từng trái tim, nụ cười thấy rõ thực tại sinh động, khơi nguồn tuôn chảy trong vô tận thời gian và không gian:

      "...Non đi nặng nghĩa núi non, Nước đi nặng nghĩa chờ con nước về. Trăm năm non cũng nước non, Ngàn năm non cũng nước non muôn đời. Tình non nghĩa nước tuyệt vời. Nghĩa non tình nước rạng ngời nước non".
                                                                            (Tình nghĩa non nước)

... Bên kia đường, mẹ già đang quảy gánh hàng rong bước thoăn thoắt về phía chợ, bác nông dân đang gặt lúa hối hả, mồ hôi nhễ nhại. Các em học sinh cắp sách đến trường, từng bước hồn nhiên vui khỏe, cô chú công nhân trong nhà máy đang lao động nhịp nhàng. Khi điệu nhạc từ thơ của thi sĩ ngân lên, tất cả những mệt mỏi căng thẳng sẽ được lùi dần vào quá khứ, nhường chỗ cho những tiếng cười đôn hậu của người mẹ, cái  cười đức độ của người cha, ... cho đến nụ cười cởi mở, cảm thông đều hé nở rạng rỡ trên môi người.

   Và cũng có những khi trời xanh quá mênh mang, nghe ca khúc của thi sĩ, ta lại thèm trải lá vàng làm chiếu, nằm mơ màng nghe tiếng mẹ ru xưa:

                            "Mẹ già như chuối ba hương
                              Như xôi nếp một như đường mía lau
                              Tấm lòng biển rộng sông sâu
                              Tình thương chan chứa một màu thanh lương"
                                                                            (Những lời mẹ thương)

      Thời gian đã chở tháng ngày của tuổi ấu thơ trôi nhanh, nay khôn lớn giữa dòng đời biết bao lần vấp ngã, khi nghe những lời ca ấy, tôi chỉ ước mong một điều duy nhất là được về bên mẹ cha, nghe tiếng thâm tình xoa dịu vết đau thương, đón nhận sự chia sẽ đầy ngọt yêu, cởi mở và hiểu biết, được rưng rức những giọt nước mắt hạnh phúc trong mái ấm gia đình trên từng nhịp đập hơi thở của quê hương yêu dấu… Và kia, ngôi sao mai sáng đẹp kì diệu lấp lánh trên bầu trời, vạn vật yên tĩnh. Tiếng côn trùng trên mặt đất cũng lặng im. Một bầu không khí trong lành đầy ân sũng bao trùm khắp tạo vật đang say ngủ…

    Mây nhởn nhơ bay và chồng chất cao như núi. Giữa chợ đời, người đàn bà đang ngồi trên chiếu vặn dây đàn. Bà cất lên điệu nhạc nghe thật sùng kính. Ca khúc Mặc Giang theo những vần thơ vang lên trong bầu không khí ban mai, toàn thể không trung dường như biến đổi thấm nhuần sự tràn trề kì diệu và đầy ý nghĩa:

      “Miền trung lối dọc đò ngang. Tình thương nói sao cho vừa . Ai ngang qua gởi dùm nỗi nhớ, nỗi nhớ chia xa nhớ lạ lùng”

      Tiếng gãy đàn thì ta nghe không rõ, nhưng giọng ca của người đàn bà vang dội qua mặt nước một thanh âm trong trẻo và thâm hậu. Âm thanh bài hát cất cao theo những từ ngữ câu chữ trong áng thơ bất hũ của Mặc Giang, lay lắt tràn ngập tâm hồn ta, đem lại cho ta một niềm vui thuần khiết:

     “...Đồng hương hai tiếng nặng tình, Đồng bào hai tiếng như mình với ta, Mở vòng tay lớn hoan ca, Nghe lòng chan chứa một nhà Việt Nam.”

     Âm nhạc từ thơ của Mặc Giang đã đưa ta ngược dòng dục nhiễm, trở về một thể tinh minh, thân tâm khinh an tự tại. Rồi đây, thơ nhạc của ông sẽ mãi không ngừng phát triển hoàn thiện cùng năm tháng…

      Giải quyết những khó khăn trong cuộc sống, làm vơi đi những hờn giận vu vơ, đưa người về dĩ vãng, tìm lại nét đẹp của tuổi thơ yêu dấu, nghe lòng bồi hồi, xao xuyến với tình yêu quê mẹ, nắng ấm quê cha, sống dậy lòng tự hào dân tộc: Thơ nhạc Mặc Giang đã chia sẽ với chúng ta nhiều điều…

       Với sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa ca từ, nhịp điệu, tiết tấu, thơ nhạc Mặc Giang tác động lớn đến người nghe. Sự khái quát hóa và tăng lên gấp nhiều lần những khả năng biến hiện cả ngữ điệu và tiết tấu, làm cho nó có một sức mạnh xoáy sâu vào cảm xúc thật lớn lao. Cuộc sống như bài ca còn mãi, vì "Tiếng hát chưa tan":

                                              ''Góp thời gian tôi bước lên ngàn
   Góp cuộc đời trong túi hành trang
  Bước phiêu du về miền sương gió
  Nâng tay đàn tiếng hát chưa tan"

      Hoa Ưu Đàm thản nhiên bình lặng nở, toát ra làn hương vô giá quyện vào hồn thiêng của dân tộc. Sự hiện diện của thi sĩ giữa cõi đời  thật trầm lắng nhưng quá sức hùng hồn, đáng sùng kính và ngưỡng mộ biết bao. Mặc Giang ơi! Đất nước, quê hương đang dõi soi hình bóng và dòng tâm chân thật đại đạo của thi sĩ. Nơi đó, có ánh mắt trầm tĩnh bao dung, nụ cười liễu đạo, sự hội tụ Bi Trí tròn đầy với tâm hồn trong sáng đong đầy tình thương đã trang trải đến muôn loài sức sống hồi sinh. Giờ đây, cây cỏ, lá hoa, núi đá cheo leo như bỗng hoá tâm hồn...

   Không gian thênh thang chẳng để lại vết chim bay. Đại dương nghìn trùng không lưu dấu cá lội. Rừng xanh bát ngát đâu giữ lại tiếng chim ca. Nhưng giữa bụi trần, trong nếp sống của bậc chân tu sáng ngời đức hạnh, thi sĩ Mặc Giang đã để lại trong lòng người dòng tâm tưởng chẳng bao giờ phôi phai.

    Mai đây:

                                      "Nhân sanh tự cổ thuỳ vô tử
                                        Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh"

      Sự hợp tan của sắc thân tứ đại rồi sẽ đến, nhưng đó chỉ là một lần thi sĩ rong chơi trong cõi tục để giúp Mặc Giang hoàn thành chí nguyện.

                                    "Vô thường cất bước rong chơi
                                        Mở ra gót ngọc ngát lời hoan ca"

       Vần thơ, nốt nhạc đã hoà quyện giữa hư không với gió mát trăng ngàn cùng lời ca bay bổng trên phím đàn không bao giờ dứt tuyệt. Nỗi thống khổ cô đơn trong lòng thế cuộc đã tan vào hư vô, gửi mình theo cánh gió băng ngàn vượt bể ái hà ra đi không trở lại.
                        
  ... Ngoài kia, xe đang chạy, bụi bay mờ mịt trong dòng đời xuôi ngược. Giữa hư không, âm nhạc từ thơ của thi sĩ Mặc Giang cất lên cao, rồi nhẹ nhàng rơi rơi từng giọt ấm như mưa xuống một đám, khiến bầu trời nhân gian trong sáng, cát bụi lặng yên.

Một ngày Mùa Thu 2009
<bài viết được chỉnh sửa lúc 16.05.2010 06:39:29 bởi Viet duong nhan >

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
(URL) Nhà Thơ Mặc Giang - 16.05.2010 06:42:08
 
Một cái nhìn về thơ Mặc Giang
Bảo Luân

(Trong giới hạn bài này, người viết chỉ bàn một số nội dung, còn nghệ thuật thì xin được miễn.
Những vế, những câu trong ngoặc kép “”, nhưng ngay trước và sau nó không nêu xuất xứ,
cũng là thơ của Mặc Giang ). 
 
 
    Bàn về thơ của thi hào Mặc Giang, tôi không muốn học đòi cách nói như cụ Võ Đình Cường đã tả trong Ánh Đạo Vàng là “đời Ngài là một biển cả, mà múc nước con chỉ có hai bàn tay”. Chỉ nói đơn giản thôi, thi phẩm của nhà thơ Mặc Giang là rừng bát ngát thẳm sâu, còn tôi là kẻ lạc lỏng ngơ ngác gom nhặt từng ngọn lá lưa thưa. Đem sở học mình để bàn thơ Mặc Giang, như nhìn trời qua cuộn giấy vo tròn trong tay. Thế nhưng sao lại dám“cất bước phiêu lưu” như thế ? V ì chẳng phải viết cho riêng bất kì ai. Chung cho con cháu tổ tiên Lạc Hồng. Đối với di sản được kết tinh bằng cả tâm hồn trí huệ và lòng nhiệt thành của Cha Anh, chúng ta phải nâng niu giữ gìn, cho dù chỉ bằng những giọng tiếng yếu ớt hay bàn tay èo uột dờn xanh. Bằng không, mẹ Âu Cơ của chúng ta sẽ nhỏ lệ nhạt nhòa trên vách đá oằn lịch sử thời gian, Cha Long Quân sẽ tủi mặt khóc thầm giữa non sông gấm lệ. Trong cái nhìn hun hút tận đầu mạch nguồn, Mặc Giang chỉ ra, trong chúng ta, có máu lệ của tổ tiên, mang mãi hồn sông núi Việt Nam muôn đời thân thương. Nên nhứt cử nhứt động của Mặc Giang, đều trên cơ sở xây đắp tình thương, tài bồi đạo nghĩa cho con cháu Rồng Tiên. Để biết được tư tưởng tư duy vượt thời đại ấy thể hiện ra sao trong toàn bộ tác phẩm cuộc đời, chúng ta hãy thử tìm hiểu vài nét tinh anh trong thơ của Mặc Giang. 
1.  Nhân sinh quan trong thơ Mặc Giang
    Quan niệm, quan điểm về bản chất hay nguồn gốc con người và vạn hữu, là thuộcàtriết học hoặc siêu hình học. Đã có những minh sư hiền triết trình bày dưới nhiều quan điểm và dạng thức khác nhau. Tùy mức độ trí tuệ nhận thức của loài người, mà quan niệm đó được nhìn nhận đánh giá thông qua những giá trị khác nhau.
    Trong dòng sống không thể hình dung đâu là khởi thủy này, sự xuất hiện mỗi tư tưởng, vừa được xem là sự tiếp thu một cách sâu sắc, thông minh, biết phân tích và sáng tạo về triết lí nhân sinh, nhưng cũng vừa là một tư tưởng đột phá tuyệt siêu. Tư tưởng đại diện trong một thời đại nhất định nào đó, tuy được xem là sự thống nhất hài hòa của xưa và nay, tiền bối và hậu bối ; thế nhưng giá trị sau cùng vẫn chính tùy thuộc trí tuệ sắc sảo nhạy bén, biết suy tư và chiêm nghiệm một cách thông minh, sắc bén, thuần chính. Từ góc độ này để nhận định đánh giá một tư tưởng lớn, thì dù muốn dù không, cũng phải khẳng nhận rằng, tư tưởng thơ Mặc Giang đã chiếm một vị thế ổn định sáng giá trong dòng tư tưởng viên dung giữa triết lí hiện sinh và triết học tư biện. Xuyên qua ngòi bút kiều diễm, lời thơ thống thiết, như đang chắp cánh bay vào cuộc sống để cải tạo cuộc đời của ông, chúng ta sẽ có cơ hội có được cái nhìn, cách nghĩ cuối cùng độc lập khách quan đối với tư tưởng thơ Mặc Giang.
    Qua thơ ông, ta thấy cái gọi là vạn hữu vũ trụ có mặt từ thuở hồng hoang, hay kiếp sống con người lan trải rộng dài trên vạn nẻo đường, luôn trong trạng thái diệt sanh, sanh diệt nhanh hơn dòng thác lũ. Sống và chết, chết và sống là những cõi đời vô định phiêu lưu. Xưa kia và cả nay mai, những biến cố hải chấn, địa chấn và bao tai họa khác, làm hàng ngàn hàng vạn người “mới ngày nào những ân tình trìu mến, mới ngày nào những bịn rịn chia xa” đột ngột đi vào cõi chết đến não lòng, thì ai cũng sẽ thấy:  
Sống và chết, không kịp chia tích tắc
Có khi chết một cái ào, tím ngắt
Có khi chết một cái ào, im re
Có kinh chết, một cái ào nín khe
Thật mơ hồ, trông còn hơn mộng mị
(Mặc Giang, bảo vệ hành tinh xanh)
Sự biến chuyển từ mạch sống hân hoan trong dệt mộng ươm đời hạnh phúc, đến cái chết kêu ông xanh không thấu, gọi bà dày không hay như thế, đúng còn hơn cả chiêm bao. Trong thế giới đối đãi, mộng thì không phải thực, mà thực thì không phải mộng, nhưng giờ thì không thể phân ranh xẻ giới. Vì “chết thật tình mà nghe sao vô lí, …mới đó mà trôi về một cõi lãng quên, mới đó mà lung linh mờ cát bụi”. Triết lí về vô thường biến hoại ở đây khiến ta ý thức được, “trong hội ngộ đã sẵn mầm chia li…”. Đồng thời với ý thức này, người ta càng thấu biết “trong tích tắc, biết bao nhiêu sự chết, chứ đâu cần một đêm với một ngày, chứ đâu cần một tháng với môït năm…”
    Hình ảnh thân thiết gần gũi sau chết chóc li tan, là một hiện trạng chua chát phủ phàng, khiến con người thêm chán ngán về sức mạnh của vô thừơng, là hình ảnh một chiều nào đó:
     
    Đi trong nghĩa trang chợt nhìn nấm mộ
         Nắp quan tài vỡ một lỗ tan hoang
         Nhìn vào trong tôi rún rấy bàng hoàng
         Một đầu lâu với xương khô vụn vỡ
       …Nấm mộ kia một thời nào kiếp trước
         Nắm xương tàn còn sót lại phôi phai
       (Mặc Giang, vào cửa tử tôi tìm về cõi chết) 
Lối nhìn nhận, quan niệm sâu xa thống thiết về lẽ sống như thế, biết đâu có ai đó trong cõi diêm phù ngộ tưởng là cái nhìn thiếu lạc quan, buồn tẻ thê lương. Sao không thả mộng hồn say phách tán cho chuỗi ngày hoan lạc dương gian, mà lại trầm ngâm với nỗi buồn não nềâ cõi chết. Đâu không biết rằng, trốn chạy, phớt lờ, không đủ nghị lực, không dám đối diện sự thật muôn đời, khiếp sợ đến nỗi không dám nhìn, không muốn bàn, mất đi tiết khí chí dũng trong đời, mới là bi quan. Tội nghiệp, và xót xa biết bao !!!…
    Trong cái gọi là“sống và chết gảy cung đàn bất tận” hay là “tử sinh hai nhịp vơi đầy, cung đàn sống chết còn đây vô thường” ấy, là có cơ hội để con người tiếp xúc với triết lý trong dòng sống chết luân lưu. Đó là tiếng chuông báo động về luân hồi. Ý thức, ý niệm về luân hồi, là một trong những nét son về triết lí hiện sinh nổi bật trong thơ Mặc Giang. Trình bày về triết lý này, Mặc Giang nói : 
            Khi dòng sinh đã bắt đầu chuyển mạch
            Thì dòng tử mở ra môït cõi đi về
 Hoặc       
             Khi cõi sinh hiện ra thêm một vệt
            Thì cõi tử lại trống mất một ô  
         (Mặc Giang, Tôi bước đi giữa đôi bờ sinh tử) 
Ông chỉ ra, sống và chết chẳng phải hai cõi riêng rẽ phân thù sai khác, mà tương quan mật thiết, bất khả phân giữa hai chỉnh thể đối lập, thống nhất trong mâu thuẫn. Nó là một vòng tròn khép kín liên tục. Ngay khi mạch sống mới bắt đầøu hé nụ, thì mầm chết đã kết trái trên cánh hoa tàn. Để có một chúng sanh thọ thai ở nơi này, thì trước phải có một chúng sanh ở chỗ khác qua đời. Trong Vạn Hữu Trường Ca, phần “ma quỷ thân thương”, Mặc Giang tả : “kìa em bé vừa sinh ra đó, trên dương gian bỏ xó một người. Em cười mở mắt sáng ngời, đã tan hồn phách của người trần gian.” Em bé quỷ con mới sinh ra đó, không ai lạ, mà chính là tái sinh thoát kiếp của một linh hồn của kiếp người. Tác giả lại khẳng định thêm : 
          
         Sáu nẻo xuống lên là chi nhĩ !
                  Bốn loài sinh tử tợ chiêm bao !
                        Xa xưa như mới hôm nào !
            Ngày mai mờ mịt cớ sao đón chờ ?
          ( Mặc Giang, Vạn hữu trường ca ) 
Trong mạch tử sinh luân hồi, là hình ảnh của những kiếp thác thai bất định, hôm nay là người, nhưng mai kia là kiếp sống thay hình đổi dạng trong mạch tương lưu giao cảm của kiếp hữu tình. Con người sau khi chết không nhất định tái sanh trở lại làm người, mà tái sinh xoay chuyển vào trong sáu cõi bốn loài, bởi con người không phải là chúng sanh duy nhất. Do đó có thể kết luận, “tử là điểm ngừng mà sinh là tinh ba xuất phát, linh tri đó ứng tùy một thân khác, chiêu cảm cùng vạn hữu khứ lai ”, và vì khi “ đã đi thì không phải là hai, nhưng khi đến là hai chứ không phải một, như một bản trường ca tương tục âm thanh nhiều nốt…”. Chết chỉ là đánh dấu bước ngoặc chuyển tiếp trong dòng sống luân lưu vô tận, còn linh tri hay linh hồn tiếp tục trong một đời sống mới, như mặt trời tuy lặn nơi này, nhưng thực tế đang mọc ở nơi kia. Thì ra, “giữa tử sinh có sợi dây vô hình kì diễm, như bản trường ca sinh tử vô cùng.”  
    Thế nên, chết là sự thể hiển nhiên đau thương ngàn đời hiển hiện, nhưng chỉ là huyễn hữu như giấc mộng phù du, vì “lang thang từ kiếp luân hồi, mà không thật có có luân hồi cưu mang, vẽ lên lối dọc đường ngang, lối dọc biến mất lối ngang không về, tử sinh sinh tử lí hề ……” Cả nhân gian sinh tử luân hồi thống khổ mà chỉ như một trò hề. Sau hiện tựơng sống chết ấy là cái không từng sống chết. 
    Triết lý về sống chết của nhà thơ Mặc Giang, cho chúng ta hiểu rõ, hai bờ sống chết là trên cùng một mạch tương thông, mà ở đó đâu còn nghe tiếng gõ nhịp của thời gian. Giá trị thời gian không thể thiết lập. Theo Mặc Giang, ý niệm sanh và tử, chỉ là danh từ của tương quan đối đãi, trong những giả định về thời gian. Xuyên qua đó, nhà thơ cũng đã chỉ ra, trong hiện tại cũng có mặt xa xưa, và trong xa xưa cũng vốn đeo bòng cái hiện tại sống động này đây, và tương lai càng không thể thiết lập và minh định. Thông qua chuỗi luân hồi sáu nẻo, Mặc Giang cho chỉ chúng ta nhận thức được triết lý về thời gian theo Kim Cang Kinh , là “quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc.” Ý thức được sự tương quan giữa ba khoảng thời gian ấy, là cơ sở để chúng ta càng hiểu thức rõ : 
                       Mồ hoang như ảnh ảo huyền
                  Thân như bèo bọt người thuyền phiêu du
                              Từ trong vũ trụ âm u
                  Em như điểm sáng thiên thu vẫn còn
                       (Mặc Giang, Vô tình tôi thăm Nấm mộ hoang Bé Thơ) 
Em ơi ! buồn khóc mà chi, tiếc thương mà chi ! Nấm cô mộ lạnh lùng đến tàn nhẫn ấy, nào phải hình hài đích thực của em, nó chỉ là “ ảnh ảo huyền”. Em vẫn còn mãi giữa thuyền đời vô tận đó nghe em, ! Tôi đã thấy rồi, em ra đi lang thang từ ngàn xưa, và cho đến cả mai sau. Do đó nên biết, tuy là “đường sinh tử đã mòn lối cũ, nẻo hợp tan đã phủ bao lần, bụi mờ rũ bóng phong trần” , nhưng mà em và tôi vẫn chưa hề sống hay chết, vẫn là “trăng sao chưa nhạt phù vân chưa nhòa.” Đây hẳn là sự tương quan giữa cái hữu hạn và vô hạn, giữa hữu hình và vô hình, giữa vật chất và phi vật chất. Trong sanh diệt, tồn tại cái không từng sanh diệt, đó là chân thể bất biến, là linh tri vĩnh hằng. Sống và chết có mặt trong nhau, là sự tương quan : 
              Sông với nước chung đôi một bóng
                   Nước với sông một bóng chung đôi
            Trăm năm cũng chỉ một đời
       Nghìn năm cũng chỉ một lời nước sông.
       ( Mặc Giang, Vạn hữu trường ca ) 
Lìa sông thì đâu còn nước. Không nước thì sao có thể thành sông. Sông nước chỉ là hai khái niệm được thiết lập trên trục tương quan đối đãi. Thực chất là một quan hệ đẳng thức. Trong sinh diệt có cái bất sinh diệt. Trong ra đi đã có sự hứa hẹn trở về. Trong cõi đi về đã có sẵn ngày biệt li. Qua trình bày triết lý về dòng sinh mệnh, Mặc Giang chỉ ra, không cần phải né tránh cái chết, và đi tìm cầu sự sống, vì cả hai vốn có mặt trong nhau, vốn có quan hệ “sông với nước chung đôi một bóng, nước với sông một bóng chung đôi… sông đã có cớ chi nhớ nước, nước đã hòa một thể cùng sông.” Hiện tượng sóng đào bọt bèo phập phều của sông không vốn không tách rời bản tánh bất biến của nước. Cái hạn hữu sinh diệt sinh diệt theo thời gian và ý niệm, nào có cách biệt với cái bất sinh diệt.  
    Vậy nên, chớ khi sinh ra mới bảo là có, chớ khi chết rồi mới nói là không, vì “có từ thuở hồng hoang mờ ảo, tán từ thời tuyệt xảo lân tinh, mờ mờ ảo ảo dáng hình, có không không có lưu linh vậy mà.” Nên nếu bảo rằng không, thì phải không ngay lúc ra đời . Nếu nói có thì phải ngay khi không. Ý niệm về “có- không”, không nên để bị đánh lừa bởi thế giới hữu hình, vô hình, hay bởi kiến văn giác tri thường thức. Mặc Giang còn chỉ rõ thêm, “sinh là lúc từ không ra có, tử là thời từ có ra không, có không một thể tương đồng, duyên còn ta có đến không ta về” .Vì “có không một thể tương đồng”, nên chớ khi sanh mới nói là có, khi chết rồi mới nói là không. Cả hai đều vần vũ có mặt trong nhau. Hiểu được vậy, cũng chính là lúc ta huênh hoang hát lời ca trên đồng hoang sinh tử: 
Từ trong cát bụi tử sinh
Ta xin nhớ lại bóng hình của ta
Từ trong tỉnh mộng đêm qua
Ta xin nhớ lại quê nhà xưa nay
(Mặc Giang, Ta đây, hiện hữu vô cùng )  
Do thông suốt lẽ sinh tử, nên nơi đây, Mặc Giang đã chỉ rõ thêm, lặn hụp chơi vơi trên từng nhịp bước tử sinh như sự chuyển tiếp của sóng mòi, như cát bụi hư nát phủ mờ dòng sông, thế nhưng bản tánh chân thân chưa từng biến chuyển đổi thay. Ra đi biền biệt trong dặm trường tử sinh, nhưng ta nào có ra đi, mà đã và đang trở về với ngôi nhà chân thể. Thế nhưng trở về mà thật sự đâu có trở về, vì có ra đi bao giờ đâu mà trở về. Ngôi nhà quê hương xưa ấy vốn ở ngay trong mọi sinh linh. Từ đó, sẽ vang vọng “tiếng hát chưa tan” :
Tôi đi từ chỗ không đi,
Luân hồi không đến ngại gì có không
Tôi đi pháp giới rỗng không,
Tôi về vạn hữu hằng còn hiện ra
(Mặc Giang, Sắc không mỉm nụ vô cùng)  
Tại đây, quan niệm về nhân sinh và vạn hữu của thi hào Mặc Giang đã đưa chúng ta đi sâu thẳm hun hút tận cùng của lối về tĩnh lự, để phóng cái nhìn sâu thẳm vào diệt sanh của dòng đời, vào hữu hạn của kiếp người. Con người lù lù một đống ấy vì không thật có, nên nói rằng sinh ra từ chỗ không sinh, mà chết đi cũng chẳng phải đi vào cõi lunh linh ảo huyền. Đi hay về, sống hay chêát, chỉ trên cùng một mạch tương thông lưu cảm, nào có ngại gì “có”ù với “không”. Pháp giới còn đó nhưng lại hằng rỗng không, vạn hữu rỗng không nhưng không khi nào không hiện hữu. Từ trong hữu thể mà thấu đạt vô thể, từ trong hữu cùng mà thấy rõ vô cùng, nhà thơ lại dẫn chúng ta trên lộ trình đi về “nguyên sơ, còn đó bóng hình” :  
Vỡ toang, chấn động ba ngàn
Mười phương thế giới chưa tràn chân lông
(Mặc Giang,Ta đây, hiện hữu vô cùng ) 
 Cả vũ trụ mênh mông, càn khôn mười phương thế giới khôn cùng như thế, nhưng lại nhét chưa đầy một chân lông. Theo chiều hướng tư duy thông thường, sẽ thấy thật qúa vô lý, nghịch biện, làm cho choáng voáng, vo đầu bóp trán. Thế nhưng nhà thơ Mặc Giang chẳng phải chỉ nói rõ sự thật muôn đời, chân lí vĩnh hằng đó sao. Ba ngàn cõi nước và mười phương thế giới chỉ là có ở hiện tượng phù phiếm huyễn hóa, như hoa đốm trong hư không, bởi lý thể nó là không. Nhờ “không” mà thiên hà đại địa và con người có mặt. Lìa “không” thì ngay một vi trần cũng không thể tựu thành. Pháp giới tuy thiên hình vạn trạng, nhưng thực chất không thể nắm bắt và khái niệm. Do đó “mười phương thế giới chưa tràn chân lông” chính là triết lý “sắc chẳng khác không, mà không cũng chẳng khác sắc”. Tuy như thế, nhưng thực ra nhân sinh và thế giới quan của nhà thơ chẳng phải dừng lại ở chỗ minh định sự không khác nhau giữa không và sắc, mà chính đang triển khai tư tưởng biện chứng về mối quan hệ tương tức tương nhập, mở ra một “ cõi đi về” trong vô thỉ vô chung, đó là “sắc tức là không”, và “không cũng tức là sắc”. Đó chính là thông điệp của “pháp huyền vi có mặt từ nhịp bước vạn đừơng… có với không thật ra chỉ một chữ, không với có thật ra chỉ một lời” . Từ đây, nhân sinh quan của nhà thơ như nhắn gởi cho nhân loại hiện tại này và mai sau khúc ca chứng đạo bay vào cát bụi của kiếp người, là “đã không thì mấy cũng vừa, có thì một điểm cũng thừa mà thôi”   
    Thông qua nguyên lí sắc không ấy, nhà thơ đã mang lại cho con người cái nhìn triệt để tận cùng huyền vi. Con người và vũ trụ vạn hữu chỉ sanh diệt còn mất trong thế giới hiện tượng, còn bản thể thì chưa từng sanh hay diệt, đến hay đi……. Chính nó tự tiêu dung trong những phạm trù khái niệm đối lập. Thế giới và nhân sinh vốn tồn tại từ vô thỉ, nhưng cũng chính là vừa xuất hiện ngay trong đương niệm. Tất cả vạn hữu trải dài trong vô tận, không ngằn mé, nhưng cũng chỉ là nhét chưa đầy chân lông cọng tóc mà thôi. Chúng ta thấy rõ ràng, trong quan niệm về nhân sanh vạn hữu, nhà thơ Mặc Giang đã vo tròn đơn vị không gian và thời gian thành một khối “nhất chân”, không tìm đâu ra, nhưng không đâu mà không có. Không đâu không có nhưng lại là mất hút tự ngàn xưa và chưa từng lên tiếng bao giờ.   
    Ngay khi nói, “sắc chẳng khác không”, là trong thâm ý Phật tổ đã mốn nói “sắc tức là không” rồi. Không phải ngẫu nhiên nhà thơ lại đưa ra luận thuyết về sự tương quan giữa sinh tử và không sinh tử, giữa hiện tượng và bản thể, hay nhân sinh là vô thường biến chuyển, luân hồi, khổ đau, không thực có. Mục đích tối hậu mà nhà thơ Mặc Giang, chính là muốn chỉ ra cho con người, muốn thắp sáng cho cuộc đời là nguyên lí duyên khởi của sự vật. Đó là một chuỗi móc xích liên hệ vô cùng, cái này có nên cái kia có, cái này không thì cái kia không. Vì mang tính chất duyên khởi, nên vô ngã vô thường khổ đau và luân hồi. Vì duyên khởi nên tánh vạn pháp là không. Tánh của vạn hữu là không là vì duyên khởi.  
    Nhờ sự chiếu rọi của ánh sáng duyên khởi, con người mới hiểu rõ, sinh tử sở dĩ có mặt là do sự khơi đôïng của sơ niệm vô minh, là sự khơi ngòi cho của tiến trình luân hồi và khổ đau. Cho nên nói rằng, vô minh, là cái bất giác đầu tiên trong tiến trình duyên khởi của dòng sống. Mà những gì được vận hành dưới nguyên lí duyên khởi thì không thật. Nên vô minh không có cái ngã tồn tại biệt lập, vì vậy có thể chuyển hóa. Chỉ khi nào chuyển hóa hay chấm dứt vô minh, mới chấm dứt mọi tiến trình sống chết. Vậy, đưa ra cái nhìn về sự tương quan giữa bản thể và hiện tượng của dòng sinh mạng con người, nhà thơ Mặc Giang muốn không những chỉ có chỉ ra cho con người hiểu rõ bản chất dòng sống là duyên sinh, không có một cái ngã độc lập, mà còn muốn nói rằng, trần gian là hoàn toàn có thể cải tạo chuyển hóa, khổ đau có thể chuyển thành  an lạc.  
    Từ những gì đã đề cập một cách khái quát sơ lược trên, chúng ta thấy nhà thơ Mặc Giang có cái nhìn trầm thống, chìm lắng, sâu sắc về những giá trị vĩnh hằng và và khiếm khuyết của nhân sinh. Cái nhìn này đương nhiên đã được sàng lọc qua sự phân tích, thực nghiệm, kinh nghiệm sâu dày của con tim và khối óc. Con tim đã từng rung lên từng nhịp đập yêu thương cuôïc đời, khối óc đã bao kiếp rồi thẩm thấu liễu tri những vụn vỡ thành hoại của dòng sống. Từ đó, cho chúng ta càng thấy rõ, nhân sinh quan của ông hơn lúc nào hết, cần được tư duy phân tích một cách chín chắn, siêu việt những giá trị khoa học thường thức, để đi đến tiếp nhận như không khí và hơi thở. Nếu không, thì những giá trị quý báu chân thực về quan niệm nhân sanh sẽ đi vào hư ảo méo mó, rỗng không và tụt hậu. 
    Có được cái nhìn về nhân sinh và vũ trụ như thế ấy, không biết tự lúc nào, đã tạo nên một Mặc Giang hiên ngang đầy nghĩa khí , đã “nện một khèo, ứ nự, giáng một búa, thất kinh, hư vô treo mông mênh, hỏi làm chi vũ trụ”, rồi chụp bắt tầng không trong bàn tay, để mà “gom ông trời một bọc, gom trái đất một bao, như đời tôi một túi”. Và đã tuệ tri ,“tay cầm chuỗi hạt chưa lần, Long Hoa đã hiện, Linh Sơn chưa tàn.” Vậy phong thái sống cụ thể đối trước cuộc đời, với còn mất vinh nhục ra làm sao, thiết nghĩ, chỉ cần tìm hiểu vài chí khí, nghĩa tiết thể hiện trong vài thi phú tuyệt tác của ông, thì cũng bổ ích cho thế đạo nhân tâm lắm rồi ! không thì chẳng phải đáng tiếc lắm sao!
2.  Thái độ và hướng sống
    Như chúng ta đã biết, thơ là kết tinh tinh hoa của tâm hồn, là tiếng nói trung thực và rung động chân thành của nhịp đập cảm xúc. Tiếp xúc với thi phẩm và tác giả, cho chúng ta nhận ra, diễn biến tâm tư biểu đạt trong thơ với con người đích thực của ông là một nhịp hòa điệu. Để rồi, cốt cách thể hiện trong thi phẩm, càng cho chúng ta hiểu nhiều hơn, sâu hơn về thái độ và một hướng sống chí thiện viên dung.
    Giữa biển đời quay tít mù khơi, giữa vật lộn bon chen trong dòng sống hoa lệ, khổ đau, thành bại nhục vinh, đổi thay của thời cuộc và ấm lạnh tình người, nhà thơ đã nện những bước chân vững chắc, đầu ngẩng cao hướng về phía trước, đôi mắt sáng ngời nhìn tới tận trăng sao.
    Bước đi trong đời giữa bốn mùa hoa lá, giữa gió nắng mênh mông đong đầy cát bụi dặm trường, chúng ta bắt gặp ngay hình ảnh của một người phiêu du vô định. Đối với phiền toái của thế sự, thì biết “ quên đi cho cạn ưu phiền, bỏ đi cho sạch đảo điên cuộc đời, ta vui ta hát ta chơi…” Đó cũng là hình ảnh của một người khùng, đang ngao du cùng khắp thiên hạ. Bên cạnh những người “giàu sang, phú qúi, keo kiệt, bòn chài”, là hình ảnh một người :   
                        …… Đi khắp đất đâu nơi nào có cửa
                          Ngủ khắp nơi đâu chẳng phải là nhà
                          Giàu có quá ta, chẳng có chi mà dư thấy bà
                        … Đâu tham lam, nhỏ mọn, hẹp hòi, ích kỉ
                        …Danh lợi, quyền uy, đem nhét một bồn binh
                          Bỏ trong túi tanh hôi, ôm mối sầu vạn kiếp
                          Lâu lâu móc ra coi, nó kêu đồ oan nghiệt
                        …Nếu tái sinh và cần chọn lựa, thì tôi là một người điên…
                        (Mặc Giang, tôi chỉ là một người điên)
Ôi ! người điên“tội nghiệp” của tôi ơi !!! Điên kiểu đó thì khó có tỉnh nào“theo” cho kịp, khùng kiểu ấy thì hiếm trí nào “sánh” cho ngang. Điên mà khiến trời đất nghiêng mình, gà tàng mà làm “ngân hà xao xuyến tiếc hơn thua !!!” Danh lợi quyền uy đã trở thành đồ phế liệu tanh hôi, nên cho vào trong một xó như đôi dép bỏ; nhỏ mọn, ghét ganh, tật đố đã quẳng một gánh cho trôi sông. Đó cũng chính là thái độ “lợi danh rao bán không mua, ngàn vàng ế ẩm dư thừa mà thôi.”
    Không biết cốt cách của người điên đã tạo ra sự phóng khoáng “đi khắp đất đâu nơi nào có cửa”, hay chính thái độ xem “ngủ khắp nơi đâu chẳng phải là nhà” đã phác họa nên người khùng ấy, rồi hát tặng nhân gian lời xình xoàng: “tôi bước đi trời cao điểm tựa, tôi bước đi đất rộng tương lân, trời xanh không vướng đầu trần, đất màu chẳng vướng bước chân dặm dài.” Trứng có trước hay gà có trước? nếu nói một trong hai rơi vào trước hoặc sau, thì lập luận chỉ là một vòng xoáy li tâm. Bước đi mà “đầu không vướng trời, chân không vướng đất” ấy, là hệ qủa của con người đích thực của tác giả; hay chính phong thái ấy đã tạo tựu chân nhân của tác giả, thật vi tế, khó mà quan niệm cho được. Trong thước đo thời gian để đặc định về hiện hữu giữa con người chân nhân và phong thái, thì đó là bước chân dung dị bình thường, nhưng rất đỗi phi thường. Trước, trong và sau khi đạt được phong thái thong dong, nhà thơ đều đã chiêm nghiệm được “lợi danh, là một bãi phù du lầy lội. Cuộc đời, là một bãi nhiễm thể phù sinh, trôi bồng bềnh những cặn bã nhục vinh, và bầm dập những rong rêu thành bại ” . Đồng thời, tại đây chính tác giả cũng âm thầm thức tỉnh thế nhân, “công danh giàu sang như mây nổi, năm tháng đời người tợ tên bay” ( HT Thanh Từ dịch, Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục, sanh tử nhàn nhi dĩ )ø
       Xem nhục vinh, lợi danh, thành bại đều là thứ lầy lội cặn bả rong rêu, khiến anh “khùng thế kỉ ”--- khùng mà mở ra một chân trời cao rộng đi về “viễn xứ”, khùng “chẳng có chi mà dư thấy bà” ấy chẳng biết làm chi cả, mà chỉ :
           …Góp nhặt lá vàng trên những con đường sỏi đá quanh co
                Đói ăn, khát uống, mệt nghỉ ngáy kho kho
                                                    (Mặc Giang, tôi chỉ là một ông thầy tu). 
Tuy rất bình thường, nhưng nếu làm việc này lại là người “chẳng có chi mà dư thấy bà”, thì lại siêu thường. Phải chăng đây là phong thái “ đói thì ăn chừ cơm tùy ý, mệt thì ngủ chừ nào có quê hương… Nhọc chút chừ nghỉ đất hoan hỉ, khát uống no chừ thang tiêu dao.” (HT Thanh Từ dịch, TTTS ngữ lục, phóng cuồng ca ) . Những món như cơm tùy ý, đất hoan hỉ, thang tiêu dao, vì siêu thực, nên không tìm đâu ra, nhưng cũng không ngoài cái thực, nên không đâu là không có. Ở đây, tác giả lại vì “đốt bếp lên hâm chẳng có lò”, nên ăn uống như là việc vào rừng không động lá, vào biển không quậy sóng, dọc ngang cùng khắp mà chẳng rơi vào “có” “không”. Đây hẳn chính là lúc chúng ta bắt gặp một người, mà :              
                 Kinh luân trống rỗng, lúa thóc thủng bồ
                 Đưa không nhận, đẩy không cho
                 Đường không đến, nẻo không đi, không thêm không bớt
             (Mặc Giang, tôi chỉ là một ông thầy tu)
“Kinh luân trống rỗng, lúa thóc thủng bồ” là cái nghĩa khí phi thường của đấng trượng phu. Nếu nói đủ thì chỉ cần một chữ cũng đã đủ. Nếu không đủ thì ngàn vạn lời cũng là trống không. Đó cũng có thể là gia tài kếch sù nhưng nhìn không thấy, không thấy nhưng lại sờ sờ trước mắt; đổ hoài không đầy, lấy mãi không cạn. Nên không thèm nhận, mà chẳng cần cho. Khi tác giả ung dung trên con “đường không đến, nẻo không đi, không thêm không bớt”, là lúc :
                Cõi trần gian, an lành, xáo trộn, vẫn bỉnh bơ !
                Lòng thế nhân đãi bôi, hờ hững, con cóc khô !
                                                      (Mặc Giang, tôi chỉ là một ông thầy tu).
Người ta thường đảo điên choáng voáng trước khen chê, nguyền rủa, được mất, thịnh suy… Mặc Giang xem nó chỉ là trò huyễn hoặc, là “con cóc khô”. Sự an nhiên, điềm tĩnh, mặc xác trước những nóng lạnh tình đời này càng khắc họa rõ chân dung một hiền sĩ trí dũng, đúng là : “như tảng đá kiên cố không lung lay trước gió; cũng vậy, người trí bất động trước bình phẩm khen chê của thế gian”. (kinh Pháp Cú ). Đạt được sự điềm nhiên tĩnh tại này, cũng chính là muốn bảo với thế nhân:
Đó là mới thật thâm sâu
Tiểu nhân, quân tử, trước sau khác gì
Trăm năm một cuộc cười khì
Cười như tùng bách xanh rì trăm năm
                                           (Mặc Giang, khôn chết! dại chết ! biết sống)
Thế đó, cuối cùng rồi người thông minh tài trí anh hùng, kẻ ngu si dại dột đều chỉ một nấm mồ. Cho nên, đối với Mặc Giang, cuộc đời với bao biến cố tang thương, bao vùi dập hư vinh nổi trôi ấy chỉ là một cuộc cười khì. Cái cười của tâm hồn đồng điệu với hiền Thánh, xót xa thương cảm cho cuộc đời. Đó là cái cười vang tận không gian, vượt thời gian để đi vào vĩnh hằng, nên cái cười ấy trở thành cười như tùng bách xanh rì trăm năm. Không biết tự bao giờ, cái cười đơn sơ thường hằng ấy đã vang tiếng nói của “tao nhân mặc khách trong trời đất”, là :
      Ngao du sơn thủy cho cùng khắp
                   Để tặng nhân gian một nụ cười (Mặc Giang, Chia chung NỤ CƯỜI)
Và bây giờ, trong mỗi bước chân ngao du cùng khắp sơn thủy, hay trong lối sống như Trần Tung là “gió mát trăng thanh sanh kế đủ, non xanh nước biếc nếp sống đầy” ấy, là cái cười của đầu nguồn mạch Tào Khê, chảy xuyên qua dòng lịch sử, hòa vang trên cao xa, nhưng lại quyện lấy hồn sông núi quê hương, thỏ thẻ thì thầm với mỗi cá thể trong dòng đời. Bấy giờ ở đó là hình ảnh của một người du thủ không nhà, nhưng không đâu chẳng phải là nhà, chính vì đã tự xác định, “cuộc đời tôi, một cuộc đời viễn mộng, bước phiêu du, như khúc rẽ dòng sông, đi đi mãi giữa đất trời lồng lộng, đi cho cùng điếm cuối cũng như không.” Mỗi bước chân phiêu du là bước chân đi về vô định,  không quay trở lại như khúc rẽ của dòng sông, đi mà như chưa từng ra đi, là phong thái trượng phu nghĩa khí, lúc nào cũng an vui. Đó cũng chính là cuộc sống “chẳng cần cửa tía, chẳng cần rừng, rốt cuộc chỗ nào chẳng an tâm.” (HTThanhTừdịch,TTTS Ngữ lục, viếng Đại sư Tăng Điền) Tức không màn phố thị giàu sang lòe loẹt hào nhoáng, cũng không cần rừng rậm vắng xa tĩnh mịch, mà tâm vẫn an nhiên trầm tĩnh. Rồi tác giả tiến thêm một bước khẳng định :
                   Cuộc đời tôi, đi nhưng không cần đến
                   Mỗi thời không chỉ là điểm dừng chân  (Mặc Giang, bức lục ngân sương)    
Hướng sống chân chính là sống với tinh thần đi để mà đi, chứ không phải đi để mà đến. Đi để mà đi là bước đi ổn định, không ước vọng ngày mai, không tìm cầu quá khứ, biết sống trọn vẹn với hiện tại, vì theo Mặc Giang thì, “cái hôm qua, không là của hôm nay, cái ngày mai chỉ là một bến đợi”. Nếu cho rằng có một đích đến, là tự giam hãm mình trong thành trì của bước hãm tiến bộ tâm linh, tự nhốt mình trong lâu đài tự mãn. Nếu đi để mà đến, là tâm trạng “vì không biết, nên âu lo, sợ sệt; vì không thông, nên hoảng hốt chẳng yên”, chứ không phải là tâm thái “đường thênh thang, ta cứ bước thong dong, Cứ vui sống, và hòa reo vạn hữu” của phong độ đi để mà đi.
    Thế rồi, từ bước chân đi mà không cần đến, khiến kẻ không nhà đi càng sâu, càng rộng vào đại tạo vô cùng, thoải mái như cánh chim giữa trời không : 
      Tung cánh gió, nhấc mình xa điểm tựa
      Bổng lưng trời, xé từng khoảng không gian
      Vượt mênh mông, cỡi sóng lướt mây ngàn
            Trong bất bận, tôi lù lù lao tới
      (Mặc Giang, Đại bàng tung cánh gió)  
“Tung cánh gió, Bổng lưng trời, lướt mây ngàn” là hình ảnh cụ thể chân thực, thân thiết nhất về một cánh chim rong chơi không biết mỏi mệt giữa thú vui non nước điệp trùng. Hình ảnh này khắc họa sự không vướng kẹt vào tình đời, không bị ràng buộc bởi thế gian lụy phiền như danh vọng quyền bính, không gian thời gian. Tâm hồn thênh thang, không bị khống chế vùi dập trói buộc bởi cảm xúc hay ảo ảnh trần gian này, là sự hòa điệu nhất quán với phong thái : 
                        Trời đất liếc trông chừ sao thênh thang 
                  Chống gậy rong chơi chừ phương ngoại phương
                  Hoặc cao cao chừ mây đỉnh núi
                     Hoặc sâu sâu chừ nước trùng dương  
                                               (HTThanhTừdịch,TTTS Ngữ lục, phóng cuồng ca)            
Rõ ràng là một tâm hồn cuồng nhiệt, nhiệt thành, mạnh mẽ, tự tin. Rồi nơi chốn ngao du không nơi chỗ ấy, một cách hào khí, “giữa khung trời vạch một nét đường ngang, cuối góc biển chắn một lằn lối dọc” Tại đây, con người du thủ, con người phiêu bạt ấy âm thầm xác định, mỗi lần đến và đi, đều chỉ là mỗi cuộc hành trình của người khách độc hành, của những “sân ga không đến không đi”, của “Bến xe không đỗ……cứ lững thững đến đi nhưng không phải là nhà”ø, của “thuyền không xẻ nước”. Nên trong từng cuộc hành trình ấy, không cần ai chào ai vẫy, không hẹn không thề, và chỉ cần rung khúc nhạc không tiếng, gảy cây đàn không dây mà thôi ! Để cuối mỗi cuộc hành trình, con người phiêu du tư lự với chính mình rằng, “cuộc đời tôi, một giấc mơ ! mượn thân hư huyễn trôi bờ tử sinh. Cuộc đời tôi, một bóng hình ! mờ mờ nhạt nhạt lung linh dặm trường”
    Con người của tụ hội tất cả tiết khí chí dũng nêu trên, ngao du trong bốn phương trời như cánh đại bàng vút đi mạnh mẽ thế đó, nhưng thực ra, mỗi chuyến ra đi cũng chính là sự trở về quấn quýt lấy rừng đước và tổ ấm ngày xưa. Con người du thủ ấy thong dong tĩnh tại trong mỗi cuộc hành trình, nhưng chính trong mỗi cuộc rong chơi giữa bốn mùa đắp đổi ấy, đã chuẩn bị tư lương cho sự trở về. Trở về để “khua âm vang khúc nhạc lên đường, ngân tình dài muôn vạn yêu thương”, hay là “dùng tình thương làm một bản trường ca, dùng hiểu biết làm nhịp cầu chuyển hóa” Để hoàn thành sứ mạng chuyển tải tình thương này, người rong chơi không dám mơ mộng gì cao xa, mà chỉ với Tâm nguyện bình thường là:
Tôi xin vào trong ngõ kẹt
  Nhìn trông mảnh tối cuộc đời
      Tôi xin vào nẻo đơn côi
   Nhìn trông những người cô độc
      Tôi xin vào nơi hẻm hóc
Nhìn trông cuộc sống âm u
      Tôi xin vào chốn mịt mù
Nhìn trông mảnh đời đau khổ
(Mặc Giang, Đừng có mãi hoàng hôn và đêm tối !)
Hai tiếng “Tôi xin”, nghe dễ thương qúa đi thôi !!!, nó khác xa với “tôi sẽ” nhiều lắm chứ ! “Tôi xin”, hàm nghĩa là tôi không cao vọng, không mơ ước, không thề thốt, không lên giọng, và chỉ mong những gì tối thiểu nhất, đơn giản và khiêm tốn nhất. Chỉ cần được vậy là tôi thỏa nguyện rồi, đời tôi không cần gì nữa. Đi vào trong hẻm hóc, ngõ kẹt, nẻo đơn côi, hay chốn mịt mù ở đây, chính là sự cảm thông sâu sắc, vỗ về, an ủi xót thương cho sựï gian lao vất vả, kém may mắn, khốn khổ bất hạnh của những những mảnh đời như: người mắt Cườm, người cùi, em bé mồ côi, thân phận người mù, em bé nhà nghèo, em bé cơ cùng, người nghèo, người khuyết tật, người câm, người điếc, người mù, người mua bán ve chai, người phu cầu đường, người xây mộ, người tiều phu, người phu quét đường, người phu khuân vác, người cạo mủ cao su, người phu hầm mỏ, người bán hàng rong, người lính chiến, người nông dân, gia đình bất hạnh,người phế nhân, trẻ thơ quê nghèo khốn khó, miền quê, vùng sâu, miền nước mặn đồng chua....
    Những nỗi khổ niềm đau, ước vọng, buồn thương, chán chường tủi nhục, hay những tâm sự về nỗi tuyệt vọng, tan nát rã rời tự thầm kín đáy lòng của những mảnh đời này đã được thể hiện rõ nét sinh động dưới ngòi bút của nhà thơ Mặc Giang. Mổ xẻ, phân tích trạng thái tâm tư tình cảm của những nẻo đời thương tâm gian khổ, kém may mắn, đắng cay, bất hạnh, nhưng tác giả dường như không phải viết về họ, mà như đang viết về chính mình. Do đó nên biết, không phải ngẫu nhiên mà con người “cỡi rong rêu cùng vũ trụ đi hoang” này lại thêm vào hai chữ “tôi là……”, hay “tôi mang thân phận……”. Như nhan đề “người câm” với “tôi là một người câm”, hoặc “người mù” với “tôi mang thân phận người mù ”, thì ý nghĩa chuyển tải cách xa nhau nhiều lắm! Đây là sự hóa thân đặc biệt tài tình. Nhờ đó mà tác giả đã lột tả tận cùng ngõ ngách của những tâm hồn băng giá thê lương, đã sống trọn vẹn, nhập cuộc với mỗi cảnh đời đau khổ. Và như thế, mỗi một nẻo đời đều sẽ có cảm giác là thi nhân đang xót thương, chia sẻ, đang an ủi vỗ về, hiểu biết cảm thông sâu sắc, và đang đối thoại với chính mình. Chắc chắn họ sẽ cảm thấy ấm lòng hạnh phúc nhiều lắm, vì đã tìm được tri kỉ cho đời mình. Đời chỉ cần một tri kỉ là đủ lắm rồi !
   Từ hướng sống thong dong tĩnh tại, tiêu dao phóng khoáng, cảm thương mọi nẻo đời cô độc, đắng cay, bất hạnh, khiến người du thủ từng có mặt trong những cuộc hành trình vô tận ấy chẳng màng gì cao xa, mà chỉ mong và làm những gì nhỏ nhoi tầm thường bình dị nhất mà thôi. Con người phiêu bạt tự độc thoại với mình rằng:
      Người đi cao vọng hơn thua
   Tôi về nước mặn đồng chua lúa vàng
… Người đi công toại bao nhiêu
Tôi về tô vẽ nhiễu điều giá gương
Người đi cho thõa đường trường
Tôi về ôm mộng bình thường tình quê
Người đi thõa chí hùng anh
Tôi về vá viú mái tranh hoen mờ
                                          (Mặc Giang, Hai nẻo cùng đường)
Tại đây, thêm một bước khẳng định tâm hồn hay hướng sống của tác giả. Khi thiên hạ leo đồi vinh quang thành tựu, tỏ mặt nở mày với đời, thì Người từng xem danh lợi “quyền uy, mòn đá cụi cũng lung lay”, từng “ngao du cho hết cõi đời ” ấy chỉ cần trở về ấp ủ nước mặn đồng chua quê nghèo, nâng niu bồi đắp tình thương đồng loại (tô vẽ nhiễu điều giá gương), trân qúy tình quê. Rồi chỉ “vá víu mái tranh hoen mờ” mà thôi. Ôi! ước nguyện, chủ trương khiêm tốn đơn sơ nhưng rất đỗi cao sang! bởi hiếm ai làm nỗi, chẳng ai chịu và thỏa mãn cuộc đời “tôi xin muôn kiếp bóng hình nhỏ nhoi” ấy cả.
    Sở dĩ phát nguyện và làm nỗi những dung dị bình thường nhưng phi thường, là vì “Người về” cảm thấy: “đi—về, một vạch nối liền, về—đi, không cách có phiền ngại chi. Người đi và tôi về chỉ trên cùng một trục lộ thẳng tắp, chạy dài đến tận cùng không gian và thời gian. Rồi sẽ gặp nhau đâu đó trên quê hương muôn thuở. Cũng là bởi cảm nhận sâu sắc rằng, “sá gì kẻ ở người đi, đa mang như thế, tuyệt kỳ nghe chưa.” Bấy giờ trên phố xá hoa lệ, hay trên đường quê nghèo sỏi đá quanh co, con người đi hay về đều tự tại thong dong ấy ngỏ lời nhắn gởi bội phần thống thiết :
Tôi muốn nhìn bóng đèn mờ le lói
Để thấy những vùng heo hút âm u
Những bản làng sương gió mịt mù
Sống lây lất như thời xưa hoang dại
……Tôi nhắm mắt để nghe trong tiếng khóc
  Của những con người mỏi mắt kêu thương
  Của những con người trong cảnh thê lương
                          Thử đến đó làm sao ta sống nỗi !
                                                 (Mặc Giang, tôi nhắm mắt thu mình căn gác nhỏ)
Đó là những gì thấy được và nghe được từ trong rung động của con người phiêu bạt khi thu mình căn gác nhỏ. Cái nhìn cái nghe bằng linh cảm linh tri của cội nguồn chiều sâu tâm thức này, hoàn toàn hòa nhịp với mỗi bước chân đơn côi, mỗi hơi thở nặng nề, mỗi ánh mắt mỏi mòn trông đợi ngày mai của con người trong những bản làng sương gió mịt mù, của những con người trong cảnh thê lương. Trong lần hội ngộ không hạn cuộc thời không này, Mặc GIang giả có nói chi với con người khốn khó đói nghèo ấy đâu, mà chỉ thì thầm tâm sự : “tôi muốn về thăm lại quê xưa, ngồi yên đâu đó một chiều mưa, để nghe quạnh quẽ hồn cô lữ, lệ sử điêu tàn gởi giọt mưa. Chẳng biết lúc nào, người lữ khách độc hành ấy đã tự khẳng định giá trị của giọt thương trong cõi phù sinh, là “lệ sử điêu tàn gởi giọt mưa”. Nước mắt khóc cho những cảnh đời hẩm hiu của tôi là những giọt khô lăn dài trên dòng sử Việt, chảy dài đến tận ngày mai. Nó tuy tan tụ mong manh, nhưng lại như mưa móc tưới tẩm cho bao buồn bã, đau thương trên những ruộng tâm ê chề nát tan.
    Khi đã xác định được những giá trị thường hằng trong cõi vô thường ấy, thì tác giả chỉ lập nguyện trong từ tốn khiêm cung:
                   … Không như cây lá sum xuê
                  Thì làm hoa dại mân mê lối mòn
                  …Không như tàu lớn ra khơi
                  Thì như thuyền nhỏ đưa người qua sông
                                           (Mặc Giang, Khôn chết, dại chết, biết sống) 
Hễ mang lại lợi ích thiết thực cho đời, cho dù chỉ là những gì tầm thường nhỏ nhặt nhất, thì con người đầy chí khí này vẫn người tình nguyện tiên phong, chứ không chịu ngồi vòng tay. Rõ ràng Mặc Giang không để thẹn với non sông, xấu hổ là con cháu Lạc Hồng, vì không xứng danh với tiết tháo của quân tử trượng phu, là làm trai chí hướng xông trời đất. Do đây, trong con người đi thênh thang trên hành trình du thủ trong thế giới ba ngàn này, lại chấp nhận một cách thật dễ thương:
Người vào Hoa tạng người chơi
Ta vào sinh thử cho đời bớt đau
……Người thương cây cỏ lá hoa
Ta thương bốn loại trong nhà thê lương
Người thương diệu hữu chơn thường
Ta thương muôn vật trên đường phù sinh
(Mặc Giang, Ta đi, một cõi phù sinh hiện về)
Trong cõi không, cõi vô sắc, Người làm việc của Người. Trong cõi hữu sắc, tôi làm việc của tôi. Chỉ đơn giản và âm thầm thế thôi. Tại đây, ta càng thấy, thì ra, con người phóng khoáng dọc ngang trời đất, tưởng như thờ ơ quay lưng với đời ấy, lại tình nguyện đi hun hút giữa gió chướng mây ngàn, để mang yêu thương đến với tận cùng ngõ ngách đời khốn khổ đau thương. Từ đó, giữa không gian bao la và thời gian vô cùng, chúng ta bất chợt bắt gặp hình ảnh :
          Cây đa còn đứng đầu đình
Cành mai trước ngõ nghiêng mình trổ bông
                                           (Mặc Giang, Ta đi, một cõi phù sinh hiện về)
Cũng chỉ tại những gì “tôi” làm trong cõi hữu hình này tuy không như “Người”, nhưng  chính động cơ tác ý của hành động, đã nói hộ rằng, tôi và Người đâu phải hai thể riêng nhau, mà chỉ là một. Là một quan hệ “hai chiều chạy dọc bờ đê, dòng sông chuyển hóa chưa hề tồn sinh.” Cho nên, một cách tự nhiên, trong im lặng của trời đất, trong sự chuyển giao vần vũ của bốn mùa và càn khôn vạn hữu, đã xuất hiện hình ảnh “nghiêng mình” của cành mai.
    Mai là biểu tượng của tinh anh thuần khiết và chí dũng, dám ngạo nghễ tự hào khoe mình trước giang sơn mỗi khi đông về hay hạ đến. Và cố nhiên khi trổ bông, thì càng làm cho chim sa cá lặn, nhật nguyệt thẩn thờ. Thế mà bây giờ ngay cảnh khi khai hoa, nó đành phải khiêm cung“nghiêng mình”. Đây là do đâu? vì cành mai đã thẩm thấu được điểm khác biệt nhưng lại đồng nhất giữa Người và tôi, phải vậy chăng ! Nếu “tôi” nói không đúng thì xin đừng tiếc lời, hãy chỉnh sữa lại giúp.
    Nói tóm, qua một số câu thơ nổi bật của Mặc Giang, chúng ta thấy rõ phong cách và hướng sống đặc biệt của nhà thơ. Đó là sự không cố chấp, xem khắp nơi đều là quán trọ, xem thường những danh lợi phù phiếm, bình thản bất động trước khen chê đãi bôi của người đời, tiêu dao phóng khoáng giữa non nước mây ngàn, quan tâm cảm thông thân thiết những mảnh đời bất hạnh, lập nguyện cống hiến cho con người và xã hội những gì mình có thể, cho dù chỉ đơn giản và nhỏ nhoi nhất… Đó là sự tương giao hài hòa đặc biệt giữa giữa tình và lí, giữa hữu hạn và vô hạn, giữa hình thể và phi hình thể. Phong cách và hướng sống bình dị nhưng cao thượng, viên dung và siêu việt này, ảnh hưởng mạnh mẽ đến những tâm hồn sâu lắng biết suy tư của người Việt Nam. Và đương nhiên, tư tưởng lớn đâu chịu dừng lại ở đây. Còn thao thức vò võ và vạch cho con người Việt Nam phương cách hành xử cụ thể.   
3.  Quê hương nguồn cội
 
     Cải tạo cuộc đời hay nhân sinh, là khiến hành xử tình người trở nên lương tri thánh thiện, nhằm kiến tạo một xã hội an bằng tốt đẹp hơn. Nói cách khác, ý nghĩa việc cải tạo cuộc đời chính là mở ra cho thời đại một hướng đi mới, không còn nhẫn tâm dẫm trên những bất thiện từ thô đến tế. Chúng là lối mòn cố hữu. Đã từng khiến bao lớp con cháu Tiên Rồng thống khổ nhưng vẫn không chịu dừng bước. Về phương diện này, Mặc Giang có những dòng thơ với nội dung có ý nghĩa triết lí sâu sắc cô đọng, có sức mạnh chinh phục cảm hóa lòng người hơn bao giờ cả. Nên hiểu, cuộc đời hay thời đại mà nhà thơ Mặc Giang nhắm chuyển hóa ở đây, là người Việt Nam (người cùng da vàng và cùng chung tiếng nói )
    Liên quan đến ý thức hệ đầu tiên được hình thành qua yêu thương trân quýnguồn mạch nòi giống, nên thơ Mặc Giang có giá trị ý hướng kiến lập đạo đức chân chính, chủ yếu là cho người Việt Nam. Đó đó là ý thức sâu sắc thâm thiết về hai mối đại quan hệ, là giữa nhà thơ với hơn tám mươi triệu người Việt Nam, giữa mọi người Việt Nam với nhau.
    Đầu tiên, do Mặc Giang luôn mang những ý thức và rung động sâu xa về nguồn cội Việt Nam. Do đó, trong những thi phẩm tuyệt tác nói về đất nước Việt Nam nòi giống Tiên Rồng qua năm ngàn năm lịch sử oai hùng, Mặc Giang thường biểu hiện một tâm trạng vừa tự hào nhưng lại vừa tủi nhục, vừa sung sướng nhưng lại vừa đau nhức, vừa trầm ngâm nhưng lại vừa hùng tráng.… Hình bóng và chất liệu quê hương Việt Nam, hậu duệ của Hùng vương Văn Lang, không biết tự thuở nào, đã trở thành tiền đề, thành chất xúc tác để ông sống, hành động và lên tiếng.
  Ý thức về nguồn cội Việt Nam, cũng chính là xác định mối quan hệ giữa con người Việt Nam. Trong Quê hương nguồn cội, Mặc Giang âm thầm nhắn gởi nhắc nhủ cho đàn em mai sau :
                    Em sinh tại quê hương, tôi sinh vùng đất khách
                    Dù xa xôi cách biệt, nhưng là người Việt nam
                    Em máu đỏ da vàng, nhìn tôi đâu có khác
                    Tóc em đen óng mượt, tóc tôi chẳng lạ gì 
Cảm động biết bao! Tảc giả khẳng định, không gian ngăn cách nào có nghĩa gì đâu. Có ngăn cách gì đi nữa, cũng không ngăn được tình người Việt nam không biên giới. Tại đây, Mặc Giang âm thầm nhắn gởi rằng, dù mặt em có biến dạng bởi những vết sẹo, nám xịt bởi phong trần bao nhiêu đi nữa, thì tôi vẫn mãi nhận ra em. Vừa nhìn từ xa trong mưa gió mù khơi, tôi cũng nhận ra em ngay. Cho dù ra đi giáp mặt cuộc đời trong muôn nẻo ngàn phương, nhưng chúng ta vẫn đồng cùng một nguồn cội. Không gì có thể thay đổi mối quan hệ của chúng ta. Tất cả đều mang trong mình giọt máu của một Mẹ Âu. Tác giả Mặc Giang còn muốn giải thích thêm cho đàn em là :
                    Cùng con cháu vua Hùng, à! thì ra chỉ một
                        Nhìn chữ S cong cong, Sao nghe đau vời vợi
                      Tôi từng nghe tiếng gọi, dân tộc Việt yêu thương
                     Dù xa cách dặm trường, tình yêu thương chỉ một
Giang sơn gấm vóc chúng ta đã bồi đắp biết bao mồ hôi xương máu của các cha anh từ thuở dựng nước cho đến hôm nay. “Một nắm xương khô nghe lòng da diết, một giọt máu đào thấm nhuận non sông”, cho nên “một mảnh dư đồ chữ S cong cong, là tinh hoa tiết liệt qua nhiều thời đại. Năm ngàn năm lịch sử nhục vinh thành bại, đã biết bao lần chất chồng xương núi máu sông. Do vậy, nhìn giang sơn một cách ý thức và sâu sắc, thì chúng ta càng tự hào bao nhiêu, lại càng nhức nhối, đau vời vợi bấy nhiêu. Chỉ chừng ấy thôi, không cần giải thích phân tích, cũng đủ cho ai cũng thấy biết được ý thức hệ về tình quê hương tình dân tộc của Mặc Giang. Nhà thơ đã mở ra cho chúng ta lối về quê hương nguồn cội chỉ có một mà thôi. Đó là lối về của yêu thương, yêu thương vô điều kiện, không mang tính tạc thù ước lệ, không đòi hỏi yêu sách bất kì điều gì. Chỉ cần gặp nhau cho dù chưa từng quen biết, chúng ta cũng có thể ôm choàng lấy nhau mà khóc, rồi cùng nhau ôn lại “dòng lịch sử còn rung thời tiết đọng, Thuở dựng cờ, khai tổ quốc giang san”, kế đến cùng khóc cười mà hát điệp khúc : “tình quê ca khúc nẻo đường, em reo ca khúc quê hương muôn đời ”
      Nhà thơ còn đưa chúng ta hiểu sâu rằng, tự hào và niềm đau vốn đan xen trong nhau, trong nụ cười đãù có những giọt nước mắt canh thâu. Bởi :
           Nhìn quê hương anh nghe nhiều cay đắng
             Nhìn cội nguồn tôi thấm những niềm đau
    ……Mẹ nằm đó, mặt lệ nhòa, không nói
        Cha trầm ngâm trắng phếu bạc mái đầu
                                           (Mặc Giang Sông bến cũ, mái nhà xưa ấm lạnh)
Niềm cay đắng của anh, nỗi đau thương của tôi, nhòa lệ trong im lặng của Mẹ và dáng điệu trầm ngâm bạc đầu của Cha, đều là cùng trầm thống về quê hương, về con người Việt Nam cùng chung máu đỏ da vàng, cùng tránh phong ba qua vách chắn của Trường Sơn, cùng uống nguồn nước ngọt lịm của Thái Bình. Nhưng tại sao Mẹ Cha Âu Lạc lại buồn đau khi đất nước đã có một lịch sử oai hùng năm ngàn năm, có đàn con cháu đề huề sinh ra từ một bọc? Phải chăng vì đàn con của Mẹ ứng xử với nhau theo cách mà Mẹ không muốn, theo cách mà cha nào có dạy bao giờ.
   Cùng dòng sữa Mẹ dưỡng nuôi, cùng tiếng ru hời Cha ấp ủ, lí đáng người con Việt Nam hiểu và thực thi lời ca dao của cha ông để lại :“nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng, bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Cũng còn chưa đủ, mà còn nên hiểu thêm:
                          Anh và tôi, đâu phải người xa lạ
                          Dù không quen, cũng gợi cảm tình người
                          Huống chi cùng sữa mẹ dưỡng nuôi
                          Sao để mẹ bạc đầu, không nói
                          Tiếng hồn thiêng, âm thầm khẻ gọi
                          Bước chân về bên cội rừng xưa
                          Tay nắm bàn tay, đừng nói, dư thừa !!!
                          Đưa mắt nhìn nhau ngậm ngùi ứa lệ
                           (Mặc Giang, Cuốn mộ bờ lau, bụi mờ bỏ lại)
Phải hành xử, phải nìn nhau như thế, mới xứng danh là con của Mẹ, là niềm hi vọng của Cha. Bởi con đã thật sự thẩm thấu được âm ba của “gió lộng Trường Sơn núi rừng hùng vĩ, sóng bạc Thái Bình biển cả mêng mông”. Còn minh chứng hùng hồn rằng, con rất sợ cái cảnh “tiếng khóc quê hương tê tỉ ruộng đồng, tóc mẹ trắng, xõa chiều dài lịch sử.” Thế nhưng giờ đa phần các con sống ngược lại, không có dễ thương với nhau. Các con không những không “cùng dắt nhau về ngưỡng cửa yêu thương, cùng lắng nhau nghe hai tiếng nhiễu điều”, rồi “đưa mắt nhìn nhau ngậm ngùi ứa lệ”, mà còn phản bội Mẹ, phụ bạc Cha. Quên mất nghĩa núi tình sông, các con của Mẹ tệ bạc với nhau nhiều lắm. Các con :
Đường cao rộng, lại đi về ngõ tắt
Lối thênh thang lại cắt xẻ dọc ngang
      (Mặc Giang An bình ơi, ngươi trốn mất ở đâu )
Gia tài của mẹ để lại cho chúng ta đồ sộ lắm. Đó là một Việt nam, là con đường cao rộng của tình thương, là lối thênh thang của tình người. Là con đường quang minh chính đại, nẻo về của sự sống và vun bồi tình quê muôn thuở. Nhưng đau lòng thay !  rất nhiều trong số con mẹ không chịu đi trên đường rộng sáng, mà lại láo liếng trốn nhủi trốn chui trong bóng tối của ngõ tắt của chia rẽ hận thù. Rồi “cùng phun ra những chất độc hung tàn.” Cái hung tàn này là bước rẽ lối quanh co, trớ trêu. Các con hành xử theo kiểu: “cái chân thật biến giữa ngàn quan ải, cái giả danh, lại phóng bổng trời xanh,… cái thiện mỹ, chận, rào, ngay ngoài ngõ, cái tạp ô, lại mời gọi vô nhà”. Và nghiệt ngã hơn nữa là, không ai bảo ai, chẳng ai hẹn ai, mà lại cùng nhau không khác. Nên bậc Thánh hiền đau lòng lằm khi than: “trần gian chật hẹp người chen lấn, Tịnh đôï thênh thang hiếm kẻ tìm”. Trần gian là biển sinh tử giập vùi, khổ lụy ê chề, là trái đắng não nuột, nhưng nào mấy ai chê. Cứ chui rúc dành nhau sống và mang đau khổ cho nhau. Cõi tịnh độ, hay chính những phương trời cao rộng, an lành, hòa vui, mà mấy ai đoái hoài. Thảo nào nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng đã nói “bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi, đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt……”. Đi loanh quanh vòng vo trên con đường ganh ghét hờn căm, mà đi mãi như thế thì mỏi mệt lắm chứ ! nhưng phần nhiều ai cũng xung phong! Rứa mới là nghịch đời chứ! Bất giác, nào có hay sự xoay vần của nhật nguyệt, hồn thiêng cội nguồn Việt Nam, vốn trinh nguyên chưa hoen ố sắc màu. Con của mẹ, con của đất nước ngàn năm văn vật, đã không đi tiếp con đường mang linh hồn của Mẹ, có hình bóng và nỗi niềm của Cha. Đi ngõ tắt, về ngõ hẽm quanh co như thế, cũng tại “ bỡi trần thế, ngửa nghiêng dòng uế trược, bỡi nhân tình, lặn hụp bến sông mê”
      Mặc Giang còn đau lòng hơn nữa, là khi các con của Mẹ vì “chữ đức nhân đã mờ mịt trước đèn, chữ quân tử rải lên thềm băng giá”, nên thậm chí cố tình làm cho “đứt phanh tuột đà”. Trong “Máu chảy về tim, rung lòng nhân thế”, tác giả viết :
                     Chiều rũ bóng, rừng già ru cỏ dại
                     Bờ lau lách, ao tù, reo ếch nhái
                      ……Trong ngõ tối, “dế mèn phiêu lưu kí”
                      Vạn vật gườm nhau, tha hồ đố kị
                     ……Tình nhân thế, “ngàn cân treo sợi tóc” 
Qủa là hình sắc âm thanh buồn mênh mang, não nuột. Nỗi buồn da diết và ghê rợn nhất trong màn đêm dày đặc, làm nát tan vụn vỡ không gian, là hình ảnh “dế mèn phiêu lưu kí”, là “vạn vật gườm nhau”, rồi “ tha hồ đố kị”. Có bóng tối, thì chúng  xuất hiện. Hễ những thứ này xuất hiện, là báo hiệu bóng đêm đã phủ mờ trong sương pha giá lạnh. Hai hình ảnh này rất tự nhiên, đã có trong nhau tự thuở nào. Từ đó, tạo nên cảnh trạng nín thở “ngàn cân treo sợi tóc” của tình nhân thế. Hình ảnh này, phải chăng tác giả đã gián tiếp tế nhị kín đáo chỉ ra, chính là cái trạng huống“say quyền lực, đắp bạo tàn nhũng lạm. Mị dân tình, be tham vọng hư vinh. Ai chết mặc ai, miễn không đả động tới mình” của bao người anh em Việt nam. Nếu qủa có cảnh “nồi da xáo thịt” như vậy, thì hỡi ôi, còn gì đau đớn hơn ! Thật “thương cho em có trái tim không dám thở” . Xót xa cho em “Miệng ngậm câm dù lòng có vạn lời”. Người ta “sống mà máu nóng đã phai”. Nhưng nào có biết, nếu vậy thì “chết đi máu lạnh tuyền đài đem phơi.”  
    Xót xa buồn tủi cho những nhân tình đắng cay, Mặc Giang thống thiết kêu gọi, này anh em, này chú bác…, nếu vậy thì quả là “uổng không một kiếp phù sinh, còn thua gỗ đá trêu mình thế nhân”. Đôi lúc Mặc Giang còn thấy, những người anh em chỉ còn sống trong xót xa của “trần gian còn chút đỡ đần, trơ trơ như phỗng lựa lần mà tru !!!” Đây chính là niềm đau khôn nguôi, khiến Mặc Giang thao thức trằn trọc bâng khuâng. 60 ngày đêm liền không ngủ. Khi bạn mất, Nguyễn Khuyến nói “rượu ngon không có bạn hiền. Không mua, không phải không tiền, không mua”. Nay Mặc Giang không ngủ, là vì trầm tư trước sự vùi dập rách nát loang lỗ hoang tàn của quê hương, chứ không phải không ngủ vì bị mất ngủ. Trong bài “kỉ niệm 60 đêm không ngủ”, ông viết :
                      Ngọn hải đăng cho tàu về bến cảng
                      Ngọn sao đêm cho trời bớt âm u
                      Ngọn đèn pha cho sáng tỏa mịt mù
                      Để làm chi mà sao tôi cũng có
Không phải không có lý do khi ông đưa ra ba hình ảnh với ba công năng, rồi đi đến kết thúc khổ thơ bằng câu “Để làm chi mà sao tôi cũng có”. Đã âm thầm xác định nguyên nhân việc không ngủ. Cũng chính là ý thức danh phận và trách nhiệm của mình trong cuộc đời, đặc biệt là trong cuộc đời đảo lộn khùng điên. Hay đó cũng chính là cái hùng dũng nghĩa khí mà Nguyễn Khuyến đã từng phát biểu: “đã mang tiếng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông”. Nếu không có cái nghĩa khí đó, thì làm sao Mặc Giang lại tiếp:
                         …Hai ngọn đèn không cần phải châm dầu
                         Sáu mươi đêm cháy hoài không muốn tắt 
                         …Tôi nằm yên, nghe đến từng hơi thở
                         Tôi đăm chiêu, nghe mềm cõi tâm tư
Điều giá trị ở đây là hiện tượng “không muốn tắt” của hai ngọn đèn, cho dù đã cháy  đăng đẳng sáu mươi đêm. Ấn tượng mạnh ở đây là “mềm cõi tâm tư” trong sáu mươi đêm. Trong cảnh này, “không muốn tắt” và “mềm cõi tâm tư” là một quan hệ hệ qủa hai chiều. Sáu mươi đêm không ngủ, mang nặng hình của nước. Hai tháng trời thức trắng, mang nỗi niềm mặn đắng trên môi. Cũng có ý nghĩa lắm khi Mặc Giang đặt  tựa đề bài thơ là“60 đêm không ngủ”. Không ngủ với mất ngủ, nội dung khác nhau xa lắm chứ ! 
    Rồi từ đó, những dòng thơ tràn ngập triết lí sống và dạt dào tình thương, đã thâm thiết mở ra cho đồng bào Việt nam lối về tình quê muôn thuở. Đó là linh hồn của ngọn hải đăng, ngọn đèn trung thành thức trọn 60 đêm với ông trong trầm tư mặc tưởng. Với hi vọng tổ tiên có thể mỉm cười với sử xanh, với lúa vàng đồng nội, với dòng sông quê lỡ bồi phù sa, với “mọi nẻo hương quê, rung hồn lệ sử”.                           
    Ai cũng biết đau thương, nhưng nào có mấy ai biết đi đúng hướng để hàn gắn đau thương. Mặc Giang đã chỉ cho chúng về nẻo yêu thương : 
              Cùng sống trong một cõi trần gian
               Sao không xây tình thương và sự sống
               Mang từ tâm, xóa tan đi bao biến động
               Mang tâm bi, trang trải những yêu thương
                                        (Mặc Giang, tiếng gọi yêu thương )
Chủ ý nhà thơ là, chúng ta là con người, là con cùng một bọc trứng mẹ Âu sinh ra, không có lí do gì để chúng ta không yêu thương đồng loại. Không có ý do gì để “cùng một dòng máu sao mà tệ bạc? Cùng một màu da sao nỡ can tâm?” Tại đây, Mặc Giang cho chúng ta thấy, là con người, thì không thể sống thiếu nhau. Cỏ cây vô tình cũng cần bàn tay chăm sóc của con người, mới tốt tươi xanh um. Cụ Trịnh Công Sơn có lời ca :
                 Mưa vẫn mưa bay cho đời biến động
                 Làm sao em biết bia đá không đau ?
                 Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng
                 Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau
Vâng, hãy trang trải tình thương khắp vạn hữu. Ngay sỏi đá cũng cần có tình thương . Nó đâu phải vô tình. Nó cũng biết đau như ai. Nó cũng cần có nhau. Giữa chúng có mối tương quan mật thiết. Giữa con người, cũng là một quan hệ tương sinh phức tạp, tế nhị: “Vì trông ngày, nên đêm dài đến rứa. Nếu không đêm, ngày có nghĩa gì đâu”. Trong tôi có anh, trong anh có tôi. Anh và tôi uống cùng sữa Mẹ Âu Cơ. Thế mà tại sao anh và tôi lại nhẫn tâm chà đạp vùi dập nhau. Anh hãm hại tôi, thì chẳng phải anh cũng không thể sống còn đó hay sao???ù. Anh yêu thương trân quý tôi, thì chính anh cũng đang vun bồi cho cây an bình hạnh phúc của anh đó mà thôi. Hỡi người anh em thân yêu của tôi ơi !
    Xác định sâu sắc giá trị và nhu yếu tình thương của hết thảy vạn loại, trong “Bước qua ngưỡng cửa dị đồng”, Mặc Giang hướng dẫn chúng ta đường đến cùng tận đầu nguồn tình thương, là “bằng thân thiện, để cùng nhau nương tựa. Bằng nhịp cầu, để nối kết cảm thông.” Thân thiện và cảm thông, mới là chất liệu để chúng ta tiếp bước trên :
                Dòng lịch sử, muôn đời, ta chung sống
                Hồn quê hương, muôn thuở ta đắp xây
                Tình anh em, mãi mãi, ta tiếp tay
                Tình dân tộc, ngàn đời, không lay chuyển
                 (Mặc Giang, ta bước đi trên quê hương ta)
Có một lịch sử oai hùng, hồn quê hương ngọt ngào đường mía lau như thế, thì anh em chị em phải đắp xây. Phải “tay trong tay, tình trong tình, máu trong máu”, để tình dân tộc ngàn đời không lay chuyển. Một nhạc sĩ nào đó viết về quê hương cũng khá cảm động “…… quê hương, mỗi người chỉ một, như là chỉ một mẹ thôi, quê hương nếu ai không hiểu, sẽ không lớn nỗi thành người.” Không hiểu, có nghĩa là không biết trân quý, xây dựng tình đồng loại, để “cho vạn vật nhân sinh hòa điệu sống.” Vậy thì thành thân mà không thành danh, thành khí mà không thành chất, thành hư mà không thành thực.
    Ý thức, tự hào về dòng giống Rồng Tiên cao qúy, xác định trách nhiệm với quê hương nòi giống, cũng chính là lúc mỗi chúng ta ý thức về sự có mặt trên cuộc đời là: “kiếp nhân sinh không nỡ tạc thù chiếu lệ, kiếp con người không lẽ sống chết thì xong”. Mà phải trang trải tình người, phải thay đổi cách hành xử với người anh em cùng Mẹ. Phải “đừng đem thương ghét chận đường thế nhân.” Để giúp sống cho ra sống, để cuộc sinh tử có “chút gì còn để cho nhau”. Nhà thơ Mặc Giang thêm lần nữa thống thiết nhắc nhủ đàn em:
Rồi một mai, cũng lăn vào cõi chết
Cọp để da, người để tiếng chiêm bao
(Mặc Giang, Nhân sinh tự thán)
Người xưa nói : “trăm nay bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.” Là cái hướng để con người sống và hành động. Nếu sống mà phản bội quê hương nòi giống, ghét ganh thù hận, đãi bôi đâm thọc, nguyền rủa mắng nhiếc, vu khống hãm hại, bán đứng bán ngồi danh giá người khác…, thì chết rồi sẽ “làm đau cho cát bụi hư hao, và làm đau cho sương pha giá lạnh”. Ôi ! còn gì nhức nhối hơn thế nữa !
      Mặc Giang chân thành thiết tha kêu gọi tám mươi triệu đồng bào ruột thịt anh em, ngay bây giờ hãy xây dựng lập trường và hướng sống đích thực là:
Vì con người, nếu ta còn nước mắt
  Vì nhân sinh, nếu ta còn chút tư lương
Nước mắt kia xin nối lại tình thương
  Máu chảy về tim, rung lòng nhân thế!!!
(Mặc Giang Máu chảy về tim, rung lòng nhân thế!!!)
“Máu chảy về tim”, lá rụng về cội, nước đổ về nguồn, vừa là cái lẽ tất yếu, vừ làm lời khuyên thống thiết của nhà thơ. Cho dù sống đến tàn hơi cuối cùng, cũng phải sống vì con người, vì nhân sinh.Bấy giờ chúng ta sẽ “cùng bước chân, đừng có nói năng gì. Ta sẽ nghe sóng lòng rơi biển mặn. Tan hết rồi những niềm đau cay đắng”. Vậy, không qúa muộn màng để sữa một lỗi lầm. Chỉ cần “anh hãy quay đầu” thì lập tức “bóng tối chìm sâu”. Còn tôi ư ? “tôi cuốn một bờ lau, bụi mờ bỏ lại”. Xong, chúng ta cùng “dệt nên một mái, bếp lửa nhà tranh. Em, tôi và anh. Ngọn lửa thêm hồng, Việt Nam trời đông, quê hương ta đó !!!”.Còn không, thì anh nên nhớ : “một lỡ bước, gieo vạn sầu thế kỉ ” đó nghe, người anh em!
    Thơ Mặc Giang còn có ý, nếu anh em hòa vui, quên hận thù, là cũng đang sống cho người đã chết, vì người đã mất. Chiều nay, thắp nén nhang trên án thờ Hùng Vương, đặt nhành hoa lên bia liệt vị anh hùng đã nằm xuống vì tổ quốc. Ta nghe đau nhói hơn bao giờ cả. Sẽ thấy máu của tổ tiên vẫn còn thắm đỏ Thái Bình, xương thịt cha anh mãi bồi đắp ngọn Trường Sơn thêm hùng vĩ. Anh em nhìn nhau, gạt dòng lệ nóng. Tạ tội với Mẹ Cha. Con là đứa con bất hiếu! đã từng làm mẹ khổ đau, làm cha nhức nhối. Hứa rằng, từ nay chúng con sẽ không còn khiến “Thành Hoàng rủ mặt buồn không nói, tượng đá trơ trơ lặng lẽ nhìn” vì cái lỗi “gãy một nhịp cầu sa bóng nước, sóng tràn loang lở mấy bờ đê” của chúng con nữa. Theo Mặc Giang, những nghĩa cử này là sức mạnh để ta sống cho ra lẽ, sống cho tổ tiên qúa cố. Cũng nhờ vậy, mà chúng ta biết nâng niu trân qúy từng dải đất ngọn núi quê hương. Từ đây, ta tình nguyện “xin cho nhau nụ cười, đã gượng gạo từ lâu.” Nụ cười tô thắm tình thân, có sức mạnh mở ra cho dòng sử Việt trang sách mới.
   Nhìn chung, ý thức cải tạo cuộc đời, hay nỗi niềm quê hương của thi hào Mặc Giang, là sự liên quán từ niềm tự hào con cháu Lạc Hồng, xác định mối quan hệ giữa những cá thể, xót xa lỗi lầm của nhân thế, vạch ra cho thế hệ đàn em hướng sống. Đây là một qúa trình. Qúa trình này được xuyên suốt bằng sợi chỉ của tình thương yêu cao thượng và trí huệ đặc thù. 
Tạm thay lời kết :
    Tư tưởng và triết lý, vốn không mang tính thi ca. Nhưng thi ca của bút lực vô song, làm thơ mà như không làm, lại mang tư tưởng và triết lý sâu xa. Xây dựng giá trị tư tưởng, ý hướng phục vụ cuộc đời từ một nhân sinh quan tuyệt diệu, một hướng sống tích cực sáng chói, một ý hướng cải tạo cuộc sống qua thi ca, Mặc Giang đã thành công rực rỡ. Cả ba yếu tố này vừa là tiền đề, vừa là kết qủa, thống nhất và bổ sung lẫn nhau. Bề dày, bề ngang và chiều dọc của tính triết lí và giá trị nhân bản, cố nhiên là càng phải nghiêng mình! Có ý kiến cho rằng “mỗi tư tưởng của một nhà thơ chắc chắn chứa đựng tiềm năng vô cùng trọng đại, như năng lực tiềm ẩn trong một cục than đá hay một tế bào sống, vô cùng vi tế, không thể cân lường, nhưng thật sự hùng mạnh” (Ouspensky, “Tertium Organum”, trang 125) . Chẳng lạ gì khi trong bài “xin đừng nghĩ”, Mặc Giang viết:
    Một câu thơ, mà còn hơn triều sóng,
    Một ngòi bút, mà hơn cả trống chiêng,
    Một lời thơ, trăng sao còn lấp lánh
     Một ý thơ, rung động cả thiên thu  

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Mặc Giang Không Có Bán Thơ Đâu - 17.05.2010 02:36:12
Mặc Giang Không Có Bán Thơ Đâu
Thế Huyền 
 

Đứng dậy loanh quanh một vòng. Khu vườn cuối đông trổ đầy hoa dại, những cụm nứt nẻ tím vương, mấy chùm ngũ sắc kiêu hãnh, bụi cúc dại cũng tím biếc hoan ca, rồi những loài không tên hay không biết tên vẫn hài hòa nhịp sống. Mấy con chim vui reo giục mặt trời khan hiếm mùa đông lên thăm hỏi. Loanh quanh một vòng. Đây là vòng thứ ba rồi. Không, thứ tư. Mà thứ năm mới đúng. Bắt đầu một việc gì quả thật là điều quá khó khăn, kể cả tiếng nói riêng thầm. Chúng nó đang xô đẩy nhau. Vâng, cảm xúc, tôi nghe rõ ràng sự tranh chấp của chúng. Cũng phải hiểu và bỏ qua thôi, tại dòng cảm xúc nào cũng muốn tuôn ra từ ngòi bút sớm nhất. Nguy hiểm. Bao ngòi bút đã khô khan rồi mà chưa thành dòng được bởi sự tranh chấp này, dù có lắm điều để viết.

Ôi, nấm mộ. Tôi lại nghĩ đến nấm mộ. Phải bắt đầu từ nấm mộ thôi, những nấm mộ quen thân của muôn vạn niềm diễm tuyệt. Mặc Giang ơi, tôi lại rung cảm về người thơ với nấm mộ mất rồi.

Nấm mộ, trước mắt tôi là nấm mộ. Mặc Giang trở thành nấm mộ khi nào mà nơi đó lại tái sinh, lại nảy mầm những lời thơ bất biện, miên man? Tôi đang ngồi với nấm mộ, nơi giao thoa giữa sự sống và cái chết, nơi mở đầu cho những cuộc tương phùng của niềm đau và hạnh phúc, bất ngờ và thú vị. Mặc Giang đã khai sinh liên tục từ thể trạng này sang thể trạng khác, rồi thể trạng khác nữa trên cùng một xác thân, qua chỉ ánh mắt nhìn. Thơ ông chính là minh chứng cho cuộc khai sinh kì lạ này. Bước ra từ nấm mộ, thoát thai từ những ảo ảnh phù phiếm, người thơ reo ca trong thế giới khôn cùng, góp chút lửa cho mùa đông ấm lại, rộng vòng tay cho đượm vị tình người, đem chút gió cho những ngày khan hiếm, hòa chút lòng trên ánh mắt quê hương. Trịnh Công Sơn được ca ngợi là gã hát rong phiêu du trong cõi tạm, viết ca từ y như hệt trò chơi, lạ lẫm. Hàn Mặc Tử thì rêu rao u uẩn, hát ca, thất tán, ru đời hiu quạnh bằng những trang thơ. Còn ai nữa? Nhiều lắm. Mỗi người là một trang thơ, một bài ca rất mới. Mỗi người là một thế giới thầm riêng. Với Mặc Giang, tôi có cái nhìn lạ về người thơ này. Mỗi buổi trà khuya cùng người bạn già, người bạn đã để ngòi bút mình khô khan khi viết chưa được mấy dòng bởi sự tranh chấp của cảm xúc, chúng tôi hay nhắc đến thơ ông. Bạn biến cùn dấu bút trên đá, từ đá ươm thơ, từ thơ làm nhịp thở, cũng thênh thang trong những nỗi đau đời để nở ra đóa Diệu Liên Sơn bạch phát. Người bạn già hạnh phúc lắm khi đọc được thơ Mặc Giang, hạnh phúc lắm khi hai người bạn - nối liền hai thế hệ ngồi nghĩ về người thơ này. Có lần :

“ Tôi là tôi của âm ba tích tắc
Vượt vô cùng đột phá mọi âm thanh
Đến và đi trong một thoáng thật nhanh
Sẽ có mặt nơi nơi cần biến hiện ”
(Tôi sẽ ngủ một giấc yên, bất động).

- Lâu rồi mới được đọc những vần thơ như thế này. Bồ tát thiên thủ thiên nhãn. Tui có cảm tưởng như Mặc Giang đã nói hộ tui những điều sâu kín. Ông sống chín quá, chắc thao thức nhiều! Người bạn già đã tâm sự với tôi rồi cao hứng, lấy kính đọc thêm vài trang thơ nữa, nghe xúc động dâng đầy. Tôi lên tiếng :
- Đúng chú à, thơ Mặc Giang “hằng chuyển như bộc lưu”, ai ai đọc cũng sẽ thấy được một phần hình ảnh mình trong đó. Ông viết thơ xem ra còn dễ hơn chú lôi điếu thuốc từ trong hộp. Thơ chi mà lạ lùng, càng đọc càng thấm, có khi giật mình.
- Người tui lặng lẽ tri ân.
“hằng chuyển như bộc lưu” thật. Lần đầu tiên tôi thấy một người làm thơ tài tình và dễ dàng đến vậy. Vào cõi thơ ông, ta bắt gặp một điều gì rất lạ. Lạ tại trong lúc đọc, tôi thử đưa tay qườ vào không gian là tưởng như nắm được những hình ảnh tuôn chảy trong thơ. Lạ tại ở đâu thơ cũng có mặt, y hệt như đó là những cuộc nói chuyện giữa con người và vũ trụ. Nhìn đây. Bước đi. Đi tiếp. Thấy không? Thơ Mặc Giang đang có mặt. Thử bước ra đường. Thấy chưa? Đây này, “Tôi là người đạp xích lô”, “Tôi là người phu quét đường”, “Tôi là người phu khuân vác”, mờ mờ kia, nhận ra chưa, “Tôi là người du thủ, em ơi”… Thử bước vào nơi quán trọ kì khôi, kia kìa, “Tôi là người khùng”, “Tôi là người câm”, “Tôi là người điếc”, ghé mắt nữa đi mà “Thăm viếng trại cùi”, “Thăm viếng nhà thương”, “Thăm nhà thương điên” để “Thương cảnh ngục tù"… Thử lên vùng cao một chuyến sẽ gặp “Tôi là người cạo mũ cao su”, “Tôi là người phu hầm mỏ”, để cúi đầu “Gởi người ở vùng cao”… Về đồng bằng, về vùng sâu nhé, nơi đó, thấy chưa, có “Xóm nhỏ tình quê”, có “Tôi là người nông dân” để “Tôi thương em bé nhà nghèo”, “Tôi là người dân quê đồn điền” nên thương lắm những “Vợ chồng quê”. Bóng ai xa xăm kia. Nhận ra rồi, “Tôi là người lái đò”, “Tôi chỉ là một ông thầy tu” dừng lại hỏi han, đôi lời thăm “Người mua bán ve chai”, “Thăm chị bán hàng rong”… thăm nhiều nơi nữa để “Thương cho những người bất hạnh”, để nói lên một điều tưởng chừng như đơn giản “Thương trẻ thơ quê nghèo khốn khó”… Mặc Giang bước đi, đi khắp mọi miền, bước chân in vạn dặm đường qua. Đi để biết một ngày hoang vu. Đi để hiểu một đêm mịt mù. Đi để về sống mãi với thiên thu. Đi để “Vương hình cát bụi lang thang”, để hóa “Ta là ta mãi mãi”. Cái giây phút nhiệm mầu lắm!

“ Ta đi bóng tối đêm dài
Để nghe sự sống miệt mài về đêm
Ta đi ánh nắng vươn lên
Để nghe sự sống thênh thênh ban ngày”.
( Ta xin vào cõi nhân gian )

Mặc Giang đã là quê hương, đã là Bắc Trung Nam nối liền một dải, đã là sóng biển hòa vào sương núi, thở nhịp thở chung của nhân loại. Ông gieo vào đời những phiên khúc thực tại rung cảm đến tình thương và hòa bình cho một ngày mới. Mặc Giang… cầu xin… “Người thương nước lại hai lần thoát nước”… vong quê. Con sông trầm lắng đã lìa cội nguồn rêu rao đời mình trên hành trình vô định. Con sông lặng lẽ… trôi… tìm kiếm… đợi chờ… rồi đêm đêm xa xăm nghe niềm đau buốt nhói!

“Ngày về mòn mõi ngóng trông
Nào ai hiểu được người vong quốc buồn”.
( Việt Nam, Quê hương còn đó)
Con sông trầm lặng, cựa mình xốn xang với những nỗi bọt bèo. Lạc dấu quê hương, con sông cuộn mưa vào rưng rưng dòng lệ thảm. Quê xa, hành trang tay trắng, con sông vốn tĩnh mặc cũng vài lần cựa mình tìm hơi thở Việt Nam, gần mà xa vạn dặm. Xăm xoi đời mình trong lòng bàn tay. Mười ngón khô khốc như hệ số nhân vạn lần nhớ thương cõi nhau rốn của một kiếp ra đi định mệnh. Trong lòng bàn tay, những đường rẽ dọc ngang của tỉ con đường đời muôn hướng. Nào ai hiểu được người vong quốc buồn? Câu hỏi hét toang cả vũ trụ. Quê hương đâu rồi mà mang hai chữ "vong quốc", vác ba chữ "vong quốc buồn" tới tới lui lui? Con sông thả mình lặng lẽ tìm về nguồn xưa. Đi hướng nào đây khi đôi bàn tay chai xạn, những ngã dọc ngang càng hiện rõ thiên hình? Những trằn trọc làm gợn sóng lăn tăn. Quê hương đây rồi, trong hơi thở của sông êm, trong thoáng nhìn xuôi ngược:

“Người và tôi hít thở, nói cười
Nhưng có lẽ tôi khác người
Vì tôi mang hoài quê cũ xa xôi
Nơi đó có tôi
Từ lúc sinh ra đến một khoảng cuộc đời
Dòng máu nóng còn tươi
Nhồi nhét con tim
Chiếm trọn vẹn và dâng tràn tâm tư lẽ sống
Còn nơi đây, quê hương xứ người ơi ”.
( Niềm thương )

Dòng sông thao thức, thốt ra những lời trong nỗi nghẹn ngào ứ đọng. Câu thơ gẫy khúc, đứt quãng, tiếng nấc viễn xứ đã thành hình. Con thuyền viễn xứ lênh đênh, dòng sông êm trôi mà chứa vạn ngọn ngành. Mặc Giang viết về quê hương như thở từng hơi, có khi vội vàng, có khi thanh thản, lúc thì reo vui, lúc thì quàng hoảng, gieo trong lòng người đọc những cảm xúc ứa nghẹn, rưng rưng. Dõi mắt trong thơ, ta cứ ngỡ mình bước chân đi trên vạn đường đất Việt, con đường sắc không mở ra từ cánh cửa vô thỉ và khép hờ ở cánh cửa vô chung, cả hai cánh cửa chưa ai đi thấu, mà thật ra nó có hiện hữu không? Thơ Mặc Giang trở thành biểu tượng quê hương, trở thành tiếng gọi tận cùng tâm hồn của người biết cảm thông và sẻ chia trước mọi thân phận. Cô gánh hàng rong vẫn đi về khi còn sương đọng; người phu quét đường gom luôn cả ánh nắng hạ để gọi cơn mưa đông, xua lá thu để đẩy nét xuân về; bác đạp xích lô oằn lưng như người lái đò đưa khách tới lui trong cõi ta bà; em bé nghèo ngồi ao ước một điều gì rất lạ; rồi đó, những hình ảnh tang thương, đau lòng, xót xa với bao thân phận nổi nênh trên cán cân đời hoen dấu… Tất cả đều là tiếng nói sâu kín, khó thổ lộ, khó viết, vậy mà Mặc Giang đã làm được. Nấm mộ - dòng sông, hình ảnh đẹp của buổi hoang sơ. Nấm mộ lưu xuất hình hài. Dòng sông rọi soi ảnh bóng. Như cánh chim bay ngang qua mặt hồ cúi đầu thăm hỏi, vần thơ nào đã thả xác giữa dòng sông. Mặt hồ phẳng lặng nên bóng chim không níu giữ, còn câu thơ thả vào dòng sông trở thành muôn vạn gợn sóng rì rào gửi giấc mơ đời óng ả. Mặc Giang – dòng sông tĩnh lặng thì cái gì mà không thể soi bóng và hiện rõ cơ chứ. Tất cả đã thành thơ như quá trình quán chiếu nội tâm. Đúng rồi, Mặc Giang luôn soi dòng thơ mình trên ánh mắt của quê hương. Quê hương bao mùa mưa nắng, vần thơ mấy lượt nắng mưa. Cả hai cuốn nhau đi trên lộ trình vô tận, ấp ủ giữa dòng, trôi …

Tôi không biết gì về Mặc Giang ngoài việc ông là một người thơ – nghệ sỹ. Người thơ – nghệ sỹ lặng lẽ thu xếp đời mình lên đường đi góp nhặt những rác rưởi, chăm chỉ thu gom phế thải, cần mẫn tích chứa những thứ tầm thường để chế biến chúng thành những thức ăn rất tuyệt hiến dâng lại kẻ đã vứt đi, khiến nhiều người phải giật mình sửng sốt. Tôi cũng mang tâm trạng như thế. Đọc một vài lần thơ ông bỗng lẩn thẩn: “Ủa, đời mình đã đánh mất những thứ bình dị mà rất đỗi thiêng liêng thế sao?”.

Lần này tôi đã lẩn thẩn với câu hỏi trên trang giấy, để rồi hai ngày gác bút không viết được chữ nào. Câu hỏi gì mà sâu hun hút. Hai ngày đi rong, lang thang đem thơ Mặc Giang thả trôi khắp nẻo đường xứ Huế. Dừng lại ven dòng Hương Giang, thấy câu thơ Mặc Giang nổi nênh bềnh bồng trên sóng nước. Cuối đông, lạnh kéo về, mấy pho tượng trong công viên thu mình để lộ những nét uốn cong. Tại sao? Tại sao? Câu hỏi dồn dập đến với tôi. Thư giản thôi, tôi thở nhẹ:
"Ông già thong thả chờ mưa tới
Quên kiếp bấp bênh chiếc thuyền nghèo”.

Dòng người tấp nập qua cầu. Tại sao? Tại sao tôi lại viết nên cảm xúc của mình về thơ ông? Lại hỏi. Nó đó, nó đã làm tôi thả viết, xuôi cuộc rong rêu hai ngày nay, tay bế tay bồng một điều gì không rõ. Tại sao phải viết? Tại sao phải diễn tả? Tại sao? Dòng sông ơi, trả lời cho ta với. Viết gì đây khi thơ Mặc Giang đã bàng bạc mọi cảm xúc đời, mọi nỗi đau đời, mọi tiếng rao tìm cầu hạnh phúc trên từng thân phận? Nói gì nữa đây khi thơ ông đã ấm tình người, đã đầy tình quê, đã đưa lời thề Chân Như đến với loài người trong tình thương vô ngã? “Tôi chỉ là một ông thầy tu”. Ôi, người nghệ sỹ góp sỏi đá thành thơ cho cõi người nhiều thêm hơi ấm! Cảm xúc riêng của mình là gì đây? Là trích thơ cho đầy trang giấy sao? Nếu trích thì trích hết, mấy trăm bài thơ không thiếu một chữ, kể cả một dấu câu. Như thế là người viết đã nói xong cảm xúc của mình rồi, đã viết lại toàn bộ từ ngữ của người thơ Mặc Giang rồi. Thấy thơ ông nằm ở đâu chưa? Trên mỗi cát bụi của mỗi nẻo đường đó. Tìm ra không? Ngay trong cái nhìn cố tìm thơ đã là thơ rồi, những đơn sơ đã thành thơ, bởi người nghệ sỹ thênh thang đã liễu lí‎ duyên sinh diệu vợi.

“Gã ăn trộm bỏ quên ánh trăng bên cửa sổ”. Ánh trăng vằng vặc như thế mà gã vẫn để quên, chỉ ham lao đầu vào những điều gì huyễn hoặc. Chân lí là ánh trăng. Chân lí là sự hiện hữu đời thường. Nói chi hạnh phúc khi không thấy đau thương. Sự sống được nâng niu khi ta biết đường về cái chết. Thơ Mặc Giang xoáy sâu trong dòng chảy duyên sinh, cái này mở cửa để đón nhận cái nọ. Cánh bướm bên kia đại dương chao động cũng khiến không gian bên này đại dương thấp thỏm. Cái quảy chèo nhẹ của lão ngư đầu nguồn cũng khiến nước sông trăng cuối bờ gợn sóng. Thơ ông xuyên suốt được điều này, hầu như mọi hình ảnh đều hiện hữu và đan xen với nhau khó tách rời, cho nên tất cả những gì ông viết chung quy vẫn muốn mong con người có cái nhìn thiện cảm về nhau, bỏ đi xiềng xích của cái lòng vòng, lẩn quẩn ngã – nhân. Đường tâm linh tuy mỗi cõi mỗi thân nhưng gần gũi nhau lắm, vạn sự vạn hữu trong cái nhìn người thơ đều liên hệ rõ ràng mật thiết. Đơn giản thôi. Bởi ông là cuộc di cư của muôn ngàn tinh thể, rớt rơi vài giọt sương trong; là mặt trời rong chơi cho trăng sao hiện hữu, mưa nắng đi về; là tiếng thơ vắt vẻo trên lưng đồi cho phương xa nghe ngóng, sức lực hồi sinh. Một người bạn thắc mắc khi cầm tập thơ Mặc Giang, bảo một tháng mà viết mấy chục bài thơ thì làm sao có cái mới được, làm sao không lặp đi lặp lại được. Tôi cười. Một điều nhiều người không biết đến, làm thơ đâu cần phải mất nhiều thời gian. Một bài thơ có khi chỉ cần viết trong năm hay mười phút là xong, không cần chỉnh sửa gì mà vẫn sâu và hay. Điều quan trọng của người làm thơ không phải tính trên số lượng tác phẩm, tác phẩm chỉ là khâu cuối cùng. Điều cốt tủy làm nên thơ phải là cách sống, cách nhìn. Mặc Giang đã thấy, đã biết những bọt biển sương đèo, tánh là vậy, tướng là vậy, dụng là vậy… Và viết, viết để cho thơ thành hình mà thôi. Dòng duyên sinh trôi chảy trong người thơ, đó chính là Sự Thao Thức Nhân Bản Của Một Đạo Sĩ. Mặc Giang đã sống, biết sống, sống hết mình trong tinh thần vô ngã, hoạt dụng để hóa thân khắp cõi trần ai mà xoa dịu vết thương trần thế, vẫy chào rộn rã bình minh. Dòng chảy duyên sinh trong thơ ông hiện hình ngay trên từng dấu phẩy mỗi câu. Đọc kỹ chúng ta phải giật mình. Những câu thơ bùng vỡ nguồn cơn, lặng người với mấy dấu phẩy lạ lùng. Dấu phẩy ngạo nghễ, đứng hiên ngang phân chia khoảng cách giữa các ngôn từ nhưng thật chất là kéo chúng gần lại với nhau hơn. Đọc kỹ, mấy dấu phẩy làm hồn ta tê tái, rưng rưng như chuẩn bị cho một cuộc bùng vỡ tâm linh có sự cộng tác của cuộc chấn động dữ dội mang âm hưởng thi ca. Mặc Giang đã góp nhặt, nâng niu từng thân phận, cho đến thân phận nhỏ bé của dấu phẩy, làm cuộc đời thêm đẹp và đáng trân trọng hơn trong mắt ai. Có thể đó chỉ là một việc làm vô tâm, một việc làm phát xuất từ tiềm thức nhưng chúng minh định một cách rõ ràng rằng, mọi thứ đã đầy đủ trong người thơ, xúc sự hành tàng. Dòng duyên sinh cứ trôi, và dòng sông êm cứ hát ca, ai cần rêu rao đổi chác:

“Nhưng tôi không bán thơ đâu
Óng ánh sợi thơ gợn sắc màu
Đôi mắt qua thơ đời tuyệt mỹ
Đêm tàn còn đọng những canh thâu”.
( Không bán thơ đâu )

Có lần đọc bài thơ, ngồi một mình mà như thể tôi đang trò chuyện với thi sĩ: “Hàn Mặc Tử bán trăng, Tú Xương bán nghèo, người ta bán thân phận thì thầy cứ bán thơ đi, ngại gì! Bán đi thầy, ai mua thì người đó lỗ, lỗ đậm. Hay tại thầy thương chúng sanh quá, muốn khuyên họ đừng mua thơ nên bảo trước không bán?” Cuộc độc thoại làm tôi mĩm cười. (Chà! Biết đâu có Mặc Giang thì ông đã viết thêm một bài thơ nữa khi thấy tôi cười cũng nên, nhưng nói trước, tôi không dại mà mua thơ đâu). Mặc Giang không bán cũng phải, tại thơ ông là tiếng nói của cuộc đời. Thấy đời là thấy thơ ông, lao vào đời là lao vào thế giới thơ ông. Vậy thì mua làm chi cho dư thừa rồi không có chỗ để, chẳng lẽ mua về lại thả trôi sông? Không, xin đừng làm dòng mặc giang gợn sóng!

Hai từ quê hương trong thơ ông đã xoáy sâu bao thế hệ, có đủ mọi con người, bao hàm cả thiên nhiên làm cho hai từ này trôi chảy mãi không hết chuyện, người đọc vì thế mà cũng xao xuyến, ưu tư. Quê hương là thân phận, là tình người, là tình đất đá nở hoa, là lời Kinh tuyệt diệu vang xa để trở về nơi con sông lặng lẽ trăng ngàn. Quê hương là Mặc Giang… thiên giang hữu thủy thiên giang nguyệt… Người bạn già của tôi đã trở thành nấm mộ hoang vu, cắm ngòi bút khô cằn làm bia không tên tuổi. Trên ngôi mộ ấy hoa cỏ lại tái sinh… Thà uổng khẩu vô ngôn, ngậm miệng lại đừng nói gì cả… Mà nói chi đây?... Nhìn lại thấy mình chưa nói gì… Quay đi nghe chừng đã hết chuyện… Tôi thích hình dung… Tôi hình dung thấy dòng sông… lặng lẽ… thao thức… đếm tóc bạc nghe chừng đời chưa trọn… ông lái đò khua mái chèo làm tung vỡ cả ngàn trăng, sông ôm ấp… Bác phu xe thả giọt mồ hôi xuống mặt nước, sông vỗ về… Chị hàng rong hắt phận nghèo qua ánh mắt, sông trân trọng… Bạch phát thiên vân… Cảm ơn phu quét đường Mặc Giang, cảm ơn ngôi mộ - dòng sông đã cho tôi trở về với những gì gần gũi… không dám làm phiền, chao động sông êm.

Này em ơi, đừng bao giờ hỏi thanh bình từ đâu có. Sống giữa cuộc đời với tình thương không giới hạn, sự lân mẫn chẳng điểm dừng thì nơi đó ắt sẽ trổ yên vui. Câu Sám Hồi Đầu vẫn còn vang vọng từ quê nghèo đến xứ sở xa xôi. Em ơi, không thành danh cũng thành nhân, đừng phụ!

Giật mình, nhận ra ngòi bút của mình cũng khô khan khi chưa thành ý  bởi  sự tranh chấp của những dòng cảm xúc. Thôi, hẹn gặp lại Mặc Giang, hẹn gặp lại người thơ quê hương ở một nơi nào đó, có thể ở nơi không ai thèm mua thơ, có thể trên lộ trình miên viễn không tên để Nấm mộ - Dòng sông – Hồn thơ – Thế hệ gắn quyện vào nhau. Nhưng chưa hết đâu, còn phải dâng tặng Mặc Giang một bài thơ nữa. Thơ rút tỉa từ con chữ ông dùng, rút từ tựa đề của một số bài. Có thể, đây cũng là cảm xúc mà Mặc Giang đã gửi vào thơ mình, nếu tôi cảm nhận đúng về ông:

Em thấy đó, nơi xa mờ hoang đảo
Dòng thơ ươm tình tự, gởi quê hương
Tôi xin tôi là người phu quét đường
Tôi gọi tên tôi – Bài ca sỏi đá

Này em nhé, cuộc đời là thế đó
Đôi vành khô ứ đọng, nước mắt nào?
Ngày trở về hoa nở giữa rừng hoang
Đi là đến, đường về luôn bỏ ngỏ.

Em đừng hỏi An Bình từ đâu có
Bên bờ lau biển động Sám Hồi Đầu
Nơi quê nghèo nho nhỏ gởi vùng sâu
Không thành danh cũng thành nhân em nhé!

Xin chắp tay cho Hòa Bình trở lại
Xin chắp tay tái tạo thuở hồng hoang
Tôi muốn nói giữa muôn ngàn miên viễn
Bùng vỡ Sắc không mĩm nụ vô cùng

Vén lau lách bên bờ rêu sỏi đá
Mai tôi về trao thế hệ đàn em
Tôi thương quê hương máu chảy ruột mềm
Nối một nhịp cầu – Quê hương nguồn cội
Bài ca sỏi đá - Tôi gọi tên tôi.

Hãy thử, chúng ta sẽ còn viết được nhiều bài thơ như thế.
Tất cả như một lời tri ân gửi đến Sự Thao Thức Nhân Bản của người thơ Mặc Giang, dâng lên dòng chảy tâm linh đang lưu xuất nối liền muôn cõi…
Nơi nấm mộ, một ngày mới lại bắt đầu… Nhật Tân… cuộc tái sinh thầm lặng của một dòng sông êm… Mặc Giang… cuộc hóa hiện của những vần thơ không bán…
 
Thế Huyền
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.05.2010 02:37:13 bởi Viet duong nhan >

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Dư âm và đồng vọng thơ Mặc Giang - 17.05.2010 02:38:45




Dư âm và đồng vọng thơ Mặc Giang 
 Lê Quang Thái


Thế giới ngày nay đã khẳng định Cố Ðô Huế là bài thơ đô thị, không gian Thuận Hóa ngày xưa đã trải rộng và thanh thoát theo dư âm tiếng chuông chùa nhẹ rung, nhẹ bay vào sáng sớm tinh mơ hoặc vào buổi chiều khi hoàng hôn phủ bóng đong đưa tiếng chuông ngân dài và tan loãng vào hư không.
  Huế, xứ Thần kinh trở thành đất trời thử nghiệm định giá chất thơ, hồn thơ của nhiều thế hệ tao nhân mặc khách xuyên suốt dòng chảy thời gian hơn 700 năm qua.
  Mười lăm năm gần đây, thơ Mặc Giang đã góp gió và cọng hưởng vào xứ thơ. Hồn thơ ấy đã thấm, thấm sâu vào lòng dân gian khắp cùng những tao đàn cho đến tận hang cùng xóm vắng khát thơ, khát đạo và giàu tin yêu trổi dậy bắt nhịp cùng với hơi thở đô thị, mở toang cánh cửa đón nhận luồng sinh khí của thời đại mới. Chất thơ, chất đạo và chất đời đã hòa quyện lan loãng gắn kết nhau một cách viên âm đầy vơi nên thơ Mặc Giang dễ dàng nhập vào tâm tư mọi người, mọi giới, không hạn chế ở tuổi tác, nghề nghiệp, không câu chấp định kiến tư duy trong cuộc sống, mà dạt dào hương vị nồng ấm của xứ thơ đặt niềm tin yêu lên hàng đầu “Chính khíươm mầm hoa đạo lý. Nguồn tâm tạo dựng vốn đầu tiên” như câu đối của một đình làng miền Ô Châu:
   Ðạo bổn vô tư, hiển pháp lưu thanh, tiên chính kỷ
   Ðầu chung hữu báo, thiện căn phước quả, tổng do tâm
 
Trong chiều hướng truyền thống tốt lành ấy, MỞ CỬA NGUỒN TÂM của Mặc Giang xuất bản năm 2008 ra mắt bạn đọc gần xa. Thi phẩm ấy đã được bạn đọc đón nhận như cảm thức của tác giả, như lời của nhà dịch thuật nhà phê bình văn học Bửu Ý: “thơ Mặc Giang có nhiều nét riêng biệt… Nhà thơ của chúng ta ước mơ đem hết tâm tư của mình ra đo đạc mọi chiều của đất nước quê hương để nâng niu từng cái nhỏ mảy may”. Còn giáo sư L.V.L thì cứ xuýt xoa: “Tôi năm nay đã ngoài 70, đã đọc thơ của nhiều nhà thơ từ gần 300 trăm năm trở lại, nhưng thật tình mà nói, tôi chưa thấy có nhà thơ nào trùm phủ tất cả mọi chủ đề mọi lĩnh vực như nhà thơ Mặc Giang”.
  Lời giới thiệu của Ni trưởng Thích Nữ Diệu Tấn, nhà thơ thuộc khuynh hướng cổ điển, đã viết một cách chân tình: “nay có nhân duyên dạo thăm vườn hoa của thi sĩ Mặc Giang, vườn hoa Ðạo Pháp, tôi cảm thấy một vẻ đẹp lạ thường với mùi hương tuyệt diệu đang lan tỏa muôn phương…. ”
   Rơi vào đúng thời điểm này, chúng tôi đoán già đoán non, thơ Mặc Giang đã lên tới con số hơn 1200 bài với nhiều thể loại, nhiều chủ đề với cái nhìn về đất nước quê hương, nguồn tâm phong phú và thâm hậu về muôn loài và non sông cẩm tú Việt Nam, đất nước được thế giới tôn vinh có nhiều di sản văn hóa.
  Mặc Giang làm thơ nhanh, kỳ tài như rút một cách nhẹ nhàng từ trong đãy càn khôn bất tận, như lấy ngọc từ chéo áo. Uống chưa xong một ly cà phê thì có một bài thơ hay, qua một chuyến đò ngang liền có bài thơ tuyệt cú gởi trọn niềm tâm tư:
        Trong cuộc đời ai không uống nước
Giữa trường đời ai chẳng qua song
Nhịp cầu khua, vọng vang mấy khúc
Hai đầu cầu, biết mấy dòng sông
Người như thế cảm thức sâu lắng đã tuôn trào kịp theo hơi thở và thơ tức phải thấm đẫm hương vị thanh thoát mà gói khéo tâm tư thành món tặng phẩm quý giá cho đời.
Chỉ mới đây thôi, non ba tuần lễ, nhà thơ Mặc Giang ở xa quê sáng tác nhanh bài thơ NGUYỆN CẦU PHẬT ÐẢN 28 câu nhanh như chớp ánh từ quang, gởi về cho kịp hội Phật đản tại Huế. Tiêu biểu 4 câu sau cũng nói lên được cái tâm tha thiết vì hạnh phúc an vui cho cõi đời của thi nhân:
 
Ngày Phật đản, chúng con xin cầu nguyện
Hoa Vô Ưu thơm ngát tỏa muôn phương
Đạo từ bi trang trải vạn con đường
Khắp pháp giới không còn nơi tăm tối
 
Chư Tôn đức điều hành Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán và độc giả đều rất cung ngưỡng tấm lòng của Mặc Giang. Bút hiệu Mặc Giang đã trở thành quen thuộc gần gũi với bạn yêu thơ, bình thơ, kể cả giới lao động các ngành nghề bình thường:
Ta nằm yên đánh giấc
Rung động cả thiên thu
Sóng biếc vỗ đôi bờ
Sông Trường Giang Mặc Tử
Ðón gió chờ khách trẩy hội Phật đản trước chùa Linh Mụ, mấy bạn đạp xích lô, xe thồ và xe máy đọc cho tôi nghe một số câu thơ của Mặc Giang trong tập NHỊP BƯỚC ÐĂNG TRÌNH, rồi cười duyên chúng tôi trong tình cảm tương lân, đạp xe tòn ten cả ngày mà không thấy mệt, vì có người hiểu rõ về mình như một tri kỹ:
 
“Thức khuya mới biết đêm dài
Canh tàn mới biết bóng dài tàn canh
Xích lô tử thuở đầu xanh
Đến nay bạc trắng tròng trành xích lô”.
     
Cảm động làm sao! Bác Ðàng đạp xích lô từ đời cha đến đời con, gọi tôi đến đọc bốn câu thơ trên để trút nguồn tâm sự về nghề và nghiệp. Thì ra, tôi đạp mà bác tuổi con ngựa như tôi cũng đạp, khác nhau là bác thì chở gạo, còn tôi thì chở trăng dạo quanh tháng ngày cho trót lời thề với vợ con “một đời xe đạp, một đời hư”. Ði để mà học đường học sá, học bạn đồng hành.
Tôi có cái nghề tay trái “chấm bản in”, chấm phết đủ thứ trên đời qua văn chương chữ nghĩa đời nay. Ðó là cái nghiệp mà vợ tôi cũng trối trời cái nghiệp quyền rơm vạ đá: đúng không ai khen, mà lỡ sai sót thì lãnh đủ.
Về nhà in chấm bài, các công nhân nhà in thường trêu chọc, chỉ riêng mấy cô đồng nghề đồng nghiệp chấm bản in thì tha cho tôi. Làm chi cái nghề đi hôm về tối nghiệt ngã:
 
Giữa thinh không vọng lời khe khẻ
Nhạn lưng trời vỗ cánh bay xa
Có nghĩa gì một cõi ta bà
Một điểm son, hằng diễm tinh ba
Có ai ngờ đâu, nhà thơ Mặc Giang không sáng tác bài “tôi là người chấm bản in”, thế mà thợ thầy nhà in Công ty cổ phần Thừa Thiên Huế lại chọn cho ra bốn câu thơ của bài “Ðừng hỏi chi em” trong tập NHỊP BƯỚC ÐĂNG TRÌNH để hù dọa tôi cho vui: giữa đêm khuya phải đọc lại bản sắp in lần cuối cho giờ lên kẽm ráp vào máy in, cho ra thành phẩm. Tôi nể phục luôn những thầy thợ nhà in có ý thức trách nhiệm cao và kể cả những cô phụ trách K.C.S (kiểm tra chất lượng bản in).
Còn nhiều chuyện kể khá lý thú về việc đọc thơ và thuộc thơ Mặc Giang trong nhân gian, đành xin khất lại kỳ sau in tiếp nội san Liễu Quán và những ấn phẩm khác của Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán. Xin tạm ngừng bút trước khi đọc bốn câu thơ, thay lời tác giả trực tiếp ở phương xa:
 
“Nhưng tôi không có bán thơ đâu
Óng ánh sợi thơ gợn sắc màu
Ðôi mắt qua thơ đời tuyệt mỹ
Ðêm tàn còn đọng những canh thâu”.
Trong sáng tác sáng tạo, nhà thơ Mặc Giang viết nhanh viết vội nhưng luôn đắn đo: cân, đong, đo và đếm. Hèn gì mà thơ Mặc Giang được quảng bá rộng rãi trong mọi giới, số bản in ra không đủ, số lượng ấn bản thường không đủ đáp ứng thị hiếu của người yêu thơ, yêu triết lý và nghĩa lý nhiệm mầu.
 
Huế, ngày 16 tháng 5 năm 2009
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.05.2010 02:39:57 bởi Viet duong nhan >

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Lời nói đầu Mở Cửa Nguồn Tâm - Mặc Giang - 17.05.2010 04:35:24
Lời nói đầu Mở Cửa Nguồn Tâm
Mặc Giang


Trước khi viết loạt bài thơ trong phần 1 (Hương Ðạo Pháp) của thi tập này, tôi đã có gần 900 bài thơ, xoay quanh các đề tài như quê hương đất nước, lịch sử, địa lý, giáo dục, cuộc sống hiện thực, triết lý sắc không, nhân sinh quan - vũ trụ quan Phật giáo, xưng tán Phật và Bồ-tát….. Tôi đang tạm thời dừng lại công việc sáng tác và chuẩn bị làm một số công việc chuyên và không chuyên khác. Nhưng chợt nhớ lại nhiều năm trước đây, thỉnh thoảng có trao đổi với vài vị thân, quen, những người đã đọc gần hết thơ tôi. Họ nói, trong số gần 900 bài thơ đã đọc qua, tuy cũng có nhiều bài khuyến tu, nhiều bài mang tính giáo lý sâu sắc, có khả năng tịnh hóa lòng người, tuy nhiên những bài đó nằm tản mạn chưa tập trung. Hơn nữa cũng cần một loạt bài có nội dung giáo lý căn bản với thuật ngữ, danh từ, pháp số thông dụng, nếu có thể cho thành một tập riêng biệt thì càng tốt.

Thiết nghĩ tính triết lý cao vời mà làm sao gần gũi như hình ảnh hiện thực được gút kết trong vài chục câu, để người đọc có thể dễ nắm bắt, là điều không dễ. Thế nhưng cuối cùng, hướng đi đã có, lối về rừng hoa đã mở, trong khoảng 5 ngày thì những bài thơ mang tựa đề “HOA….”…trong phần 1 của thi tập Mở cửa nguồn tâm này ra đời.  
  
Thưa các bạn !
Từ lâu lắm rồi trên muôn nẻo đường đời, trên trăm ngàn lối mòn trần gian đã phăng qua, chúng ta hẳn đã ươm và hái rất nhiều hoa trái. Với chúng ta, nó là mật ngọt sinh mạng là sức mạnh ươm mơ sự sống, vỗ về tâm tưởng và hình hài, cho chúng ta có cảm giác nội kết êm dịu. Bởi Hoa mà chúng ta gặt hái thường là hoa sân giận, ghét ganh, bất mãn, tật đố, ngạo mạn, danh tiếng, lợi tiền, ăn ngon và sung mãn tiện nghi vật dục…được kiếm tìm theo tập khí bản năng.   

Ấy cho nên hoa trái mà chúng ta ươm và hái đã biết bao lần tàn úa trên vườn trần, nhưng chúng ta nào thấy đủ, nào biết chán. Chính vì chúng ta chẳng bao giờ thỏa mãn, càng được càng thấy thiếu. Chúng ta cố bám lấy đến khi sức mòn lực kiệt, thậm chí cho đến khi dật dờ trong cõi vô hình khi đi tìm sanh mạng mới, một đời sống kế tục tiếp nối trong dòng tái sinh.

Hơn nữa, cái giá mà chúng ta phải trả ngày sau, ấy là vì cảm nghe đường trần mà chúng ta đi quá phẳng phiu. Bởi cái bóng hư hao hảo huyền hạnh phúc quá êm ái, chúng ta nào chú ý, đến khi hay thì gai nhọn đã vào chân. Cũng vì “bao nhiêu gai nhọn mọc tua tủa dưới cánh hoa đời”, mà chúng ta nào có biết; trong bửa tiệc đời, chúng ta thường mê mẫn bởi vị ngọt của thức ăn mà từng giờ phút đưa ta về huyệt mộ tuyệt vọng và khổ đau. Thì ra hoa trái mà chúng ta hái chỉ mang lại ảo giác về hạnh phúc, là cái bóng của hạnh phúc chứ nào phải là hạnh phúc thực sự.

Chỉ có những đóa Hoa với mùi Hương Ðạo Pháp, với sắc màu được thấm nhuộm từ vườn chân tâm mới thực sự cho chúng ta những đóa Hoa không bao giờ tàn úa, thực sự hiến tặng chúng ta mùi hương miên viễn với thời gian. Ðể từ đây chúng ta có thể chiêm nghiệm nghĩa lý “Hương các loài hoa bay theo chiều gió, hương người đức hạnh bay ngược gió ngàn phương.”. Vì chỉ có gặt hái nâng niu những đóa hoa trong vườn hoa Ðạo Pháp, chúng ta mới có cơ hội tiếp xúc thẳng với bổn tâm, trực tiếp nghe dòng sông tâm linh đang ngày đêm trôi chảy về miền phù trần cát bụi. Và cố nhiên Vườn Hoa này không hề có gai nhọn ẩn nấp bên trong hay đằng sau cánh hoa. Ðó là chốn để chúng ta có thể mở đầu cho cuộc hành trình “an thân lập mệnh”. Bên cạnh đó, đến với vườn Hoa Ðạo pháp, chúng ta sẽ càng dễ dàng hòa nhập với HỒN NON NƯỚC, thăng hóa hồn thiêng, chuyển hóa dòng đời.

HƯƠNG ÐẠO PHÁPHỒN NON NƯỚC sẽ chắp cánh cho chúng ta bay vào cát bụi kiếp người với nghĩa sống đích thực.

Cánh cửa vườn Hoa này khép hờ không đóng bao giờ, đang chờ đợi chào đón chúng ta đó. !!!    

Năm 2008
Tác giả kính đề 
 
 


 

 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.05.2010 04:58:37 bởi Viet duong nhan >

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
[URL] Nhà Thơ Mặc Giang - 23.05.2010 23:59:44
Nhân Mùa Phật Đản 2634 Phật lịch 2554 - năm Canh Dần 2010

chúng tôi có viết 12 bài ca ngợi, tán thán, hân hoan kính mừng Ngày thiêng liêng Khánh Đản của Đức Thế Tôn, và 3 bài viết cho Tuổi trẻ Phật Giáo cùng Gia Đình Phật Tử.
 
Thành thật cảm ơn 52 trang mạng, diễn đàn, blogs khắp nơi
từ trong Phật Giáo cho đến Văn Học Xã Hội bên ngoài
đã có lòng phổ biến hoặc trích dẫn từ đâu đó để ONLINE. Tất cả nhằm Cúng dường Mùa Phật Đản, cầu nguyện thế giới hòa bình, chúng sinh an lạc, xã hội thăng hoa, tình người thân thiện, nhân loại gần nhau, hướng đời phụng sự, lợi mình lợi người, bao dung thánh thiện.
Trân trọng,
TNT Mặc Giang
macgiang@y7mail.com
 


Nhân Mùa Phật Đản 2634 Phật lịch 2554

Năm Canh Dần 2010
Tuyển Tập Thơ Phật Đản
 

TNT Mặc Giang

        01.Cuộc đời Đức Phật





02. Kính lạy Đức Thích Ca

03. Dưới Bóng Cha Lành

04. Phật Đản thiêng liêng

05. Phật Đản nhiệm mầu

06. Phật Giáo Việt Nam muôn năm

07. Phật Đản muôn năm
08. Đích thực Cúng dường Phật Đản
09. Gia Đình Phật Tử Việt Nam
10. Phật Đản bất diệt
11. Đây mùa Phật Đản
12.Thông Điệp Phật Đản
13.Vô Ưu kết nụ Liên Đài
14. Hoa sen tám cánh
15. Tuổi trẻ Phật Giáo


Cuộc đời Đức Phật

Đức Phật Thích Ca
Từ Đâu Suất giáng trần
Nước Ca Tỳ La Vệ
Vào Rằm Tháng Tư
Hoa Vô Ưu bừng nở
Tại vườn Lâm Tỳ Ni
Trái đất sáu lần rung động
Nhạc trời trỗi khúc hoan ca
Thần dân vui khắp mọi nhà
Chúc mừng Thái tử Tất Đạt Đa
Tịnh Phạn vua cha
Rời hoàng cung đi đón
Hoàng hậu Ma Gia
Sinh ra Ngài bảy ngày thì đã quy thiên
Kiều Đàm Di mẫu, thay thế mẹ hiền
Nuôi Thái tử cho đến ngày khôn lớn
Tất Đạt Đa thông minh xuất chúng
Thiên tư cốt cách siêu phàm
Sở học không thể nghĩ bàn
Bao nhiêu thái sư cũng đều bái phục
Xuyên suốt cổ kim, không còn gì dạy nữa
Lớn lên, lời A Tư Đà, Vua Cha chợt nhớ
Mượn tay nguyệt lão kết tóc se tơ
Công chúa Gia Du kiều diễm như mơ
Để cột chân trong lâu đài nhân thế
La Hầu La, tiếng bí bô con trẻ
Mở mắt chào đời, tập nói tiếng Mẹ Cha
Ngài muốn nhìn nhân tình thế thái gần xa
Nên dạo chơi ngoài bốn cửa thành : đông tây nam bắc
Thấy cảnh sanh già bịnh chết
Ngài liền quyết chí xuất gia
Vào nửa khuya Mồng Tám Tháng Hai
Sa Nặc ơi, đưa ta vượt khỏi hoàng thành
Xa lìa cung vàng điện ngọc
Xa lìa vợ đẹp con ngoan
Vì chúng sanh, ta ra đi quyết tìm ngôi báu
Tới dòng A Nô Ma
Ngài tự tay xuống tóc
Sa Nặc ơi, thôi, ngươi hãy lui về
Trở về thưa với phụ thân
Và nhắn lời của ta từ biệt
Còn riêng ta
Đến khi nào, tìm ra đạo thì mới trở về
Bằng ngược lại, thì xem như ta đã mất
Từ đó, giữa trùng trùng Lạp Sơn Hy Mã
Đêm ngày gội tuyết nếm sương
Sáu năm khổ hạnh khôn lường
Vẫn chưa tìm ra Ánh Đạo
Bao nhiêu đạo sĩ, quyền cơ tuyệt xảo
Bao nhiêu pháp thuật, huyền vi tuyệt trần
Nhưng còn chỗ kẹt, không phải toàn chân
Ngài lại một mình, đi tìm chân lý
Bên cạnh dòng sông, Ni Liên Thuyền ý vị
Đan cỏ làm tòa, rồi khẳng quyết một câu
Chính nơi đây
Nếu không thành đạo
Thì ta quyết không rời chỗ nầy
Dù cho bụi đá trơ cây
Dù cho xương tan thịt nát
Thất thất tham thiền nghiêm mật
Cuối cùng chứng đắc đạo ca
Vô Thượng Chánh Đẳng Phật Đà
Bồ Đề Đạo Tràng, sen báu nở hoa
Vào ngày trăng tròn, tháng mười hai âm lịch
Bốn mươi lăm năm trường vân du hóa độ
Hơn ba trăm hội chuyển pháp thuyết kinh
Hàng hàng lớp lớp đệ tử đảnh lễ nghiêng mình
Sáu nẻo ba đường rợp bóng Đạo Vàng siêu tuyệt
Thuận thế vô thường
Có sinh phải có diệt
Có diệt phải có sinh
Nhưng đạo lý chơn thường
Băng ngang dòng sinh diệt
Tại rừng Sa La
Đấng Cha Lành đã tám mươi năm tuổi già
Bảy chúng đệ tử cùng quây quần câu hội
Ngài bảo các con có còn gì muốn hỏi
Những gì ta dạy xưa nay
Đại chúng im lặng tỏ bày
Nếu chúng con đã thông suốt
Thì ta có mấy lời Di Giáo
Giới luật làm Thầy, đó là bậc nhất
Giáo pháp Ba Thừa, đó là vô song
Khai thông vô thỉ vô chung
Mở đường vô sinh vô tử
Các con chớ có quên mình, gìn giữ
Đó là lời cuối cùng của Đức Như Lai
Tu chỉ một đường, không một không hai
Phật tánh muôn đời, không thêm không bớt
Mỗi mỗi chúng con, hãy chuyên tâm tu tập
Cuộc đời, không có gì bằng đạo lý từ bi
Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi
Ta từ giã các con, nơi Sa La Song Thọ
Rừng núi hoang vu, im bặt tiếng gió
Ngân hà nín thở, rơi rụng trăng sao
Rằm Tháng Hai âm lịch, trăng thắm lệ đào
Đức Từ Phụ Bổn Sư an nhiên niết bàn nhập diệt
Đại chúng cất lên Thích Ca Mâu Ni tha thiết
Núi rừng hòa vọng âm vang
Lan xa thế giới ba ngàn
Vượt qua mười phương tam thế
Vũ trụ càn khôn nhỏ lệ
Hướng về thế giới Ta Bà
Hộ trì đạo lý Thích Ca
Ngưỡng nguyện phổ chiếu Phật Đà
Hằng hà pháp giới châu sa
Nhất nhất chấp tay đồng Niệm Phật:
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
…………………………………………
…………………………………………
…………………………………………

Rằm Tháng Tư – năm Canh Dần 2010
TNT Mặc Giang




Kính lạy Đức Thích Ca

Kính lạy Đức Phật Thích Ca
Chúng sanh trong cõi Ta Bà
Vẫn còn buông lung giong ruổi
Nên nhiều thống khổ xót xa

Kính lạy Đức Phật Bổn Sư
Chúng sanh mê muội dễ hư
Gần mực thì đen nhào tới
Gần đèn thì lại hổ ngư

Kính lạy Đức Phật Từ Tôn
Hào quang phổ chiếu trường tồn
Sáng soi muôn ngàn tăm tối
Đạo mầu huyền nhiệm sắt son

Chúng con nguyện Đấng Cha Lành
Cuộc đời sinh tử trôi nhanh
Gia hộ chúng con tinh tấn
Vượt qua biển khổ loanh quanh

Chúng con nguyện Đức Từ Bi
Cuộc đời ngu muội mê si
Gia hộ chúng con vững bước
Lên đường Tứ Thành mà đi

Kính lạy Đức Phật Thích Ca
Trần gian đâu phải là nhà
Dắt con vượt qua nhà lửa
Về vui dưới bóng Phật Đà

Kính lạy Đức Phật Thế Tôn
Từ bi cứu độ chúng con
Chuông ngân ngàn năm tỉnh thức
Chơn kinh chớm nở tâm hồn

Chúng con cảm Đức quang minh
Cho con nương tựa bóng hình
Trên thời đền Bốn Ơn Nặng
Dưới thời cứu khổ hàm linh

Nam Mô Đức Phật Từ Bi
Đạo mầu diệu lý huyền vi
Sáng soi ngàn phương muôn hướng
Đưa đường dẫn lối con đi.

Rằm Tháng Tư - năm Canh Dần 2010
TNT Mặc Giang





Dưới Bóng Cha Lành

Ngày Rằm Tháng Tư, Đức Phật giáng thần
Cứu độ muôn loài, trên khắp trần gian
Cứu khổ chúng sanh, ba đường sáu nẻo
Trăm hướng ngàn phương, rực ánh đạo vàng

Ngày Rằm Tháng Tư, Đức Phật Đản Sanh
Vườn Lâm Tỳ Ni, mây trắng trời xanh
Nước Ca Tỳ La, tưng bừng mở hội
Nhơn thiên hớn hở, mừng đón Cha Lành

Ngày Rằng Tháng Tư, Tháng Tư hàng năm
Người người con Phật, trên khắp trần gian
Dù ở nơi đâu, mua bưng bán gánh
Tất cả ngừng tay, về với Đạo Vàng

Ngày Rằm Tháng Tư, Tháng Tư về đây
Về với thiền môn, quỳ dưới Phật đài
Thắp nén tâm hương, chân thành đảnh lễ
Đức Phật Từ Bi, gia hộ muôn loài

Ngày Rằm Tháng Tư, Tháng Tư còn đây
Năm châu bốn biển, Nam Bắc Đông Tây
Phật tánh Phật tâm, không lằn ranh giới
Sáng tỏa hào quang, Điều Ngự Liên đài

Ngày Rằng Tháng Tư, Đức Phật ra đời
Đuốc tuệ soi đường, chiếu sáng nơi nơi
Khai Đạo Từ Bi, hoằng dương chuyển hóa
Vượt biển trầm mê, bỉ ngạn kia rồi

Ngày Rằm Tháng Tư,  Đức Phật lâm phàm
Như đóa Vô Ưu, ngàn năm một lần
Như Phật ba đời, mười phương tam thế
Bản hoài Thị Hiện, hằng chuyển pháp luân

Ngày Rằm Tháng Tư
Đức Phật Đản Sanh
Cứu độ muôn loài
Cứu khổ chúng sanh
Nguyện Đức Từ Bi
Từ Quang phổ chiếu
Chúng con về đây
Dưới Bóng Cha Lành.

Rằm Tháng Tư năm Canh Dần 2010
TNT Mặc Giang



Phật Đản thiêng liêng

Kính mừng Phật Đản thiêng liêng
Chúng sanh trên khắp mọi miền
Nhất tâm chân thành thiết lễ
Cúng dường Phật Đản thiêng liêng

Kính mừng Phật Đản thiêng liêng
Nguyện cầu tan hết đảo điên
Vươn cao tầm chân thiện mỹ
Nhân loại chung sống bình yên

Nguyện cầu Phật Đản thiêng liêng
Quẳng đi nghiệp dĩ não phiền
Vui chi tam đồ bát nạn
Nhà xưa đoàn tụ điền viên

Nguyện cầu Phật Đản thiêng liêng
Quẳng đi bao gánh truân chuyên
Thỏng tay thong dong vào chợ
Du thuyền bát nhã vĩnh nhiên

Vườn Lâm Tỳ Ni
Hoa Vô Ưu bát ngát
Nước Ca Tỳ La
Cùng mở hội tưng bừng

Mừng Phật Đản huy hoàng
Mừng Phật Đản muôn năm
Rằm tháng Tư trăng tròn
Trăng rằm sáng tròn trăng

Mừng Phật Đản thiêng liêng
Chúng sanh khắp mọi miền
Trên tay cầm bó đuốc
Hành động nghe trái tim

Ôi, Lâm Tỳ Ni viên
Hoa Vô Ưu bừng nở
Biển trầm mê thoát khổ
Nhờ Phật Đản thiêng liêng

Hỡi chúng sanh ba cõi
Hỡi muôn loại sáu đường
Quay đầu là bỉ ngạn
Nhờ Điều Ngự Pháp Vương

Hăm lăm thế kỷ đi qua
Hăm lăm thế kỷ đang tới
Dung thông ba ngàn thế giới
Đều nhờ Phật Đản thiêng thiêng.

Rằm Tháng Tư năm Canh Dần 2010
TNT Mặc Giang




Phật Đản nhiệm mầu

Hai mươi lăm thế kỷ còn quá ngắn
Hoa Vô Ưu thơm ngát tỏa mười phương
Lâm Tỳ Ni trong vắt đón ánh dương
Bảy đóa sen nâng bước chân Đức Phật

Tay chỉ lên trời, tay chỉ xuống đất :
« Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn »
Lay chuyển ngân hà, rúng động càn khôn
Chân diệu hữu băng ngang dòng sinh diệt

Khắp Thiên Nhơn lòng vui mừng khôn xiết
Đã đợi chờ vô lượng kiếp trôi qua
Đến hôm nay mới diện kiến Phật Đà
Soi đuốc tuệ phá tan màn tăm tối

Vườn Lâm Tỳ Ni nhạc trời mở hội
Nước Ca Tỳ La hoa kết nhà nhà
Hân hoan mừng Đức Phật tổ Thích Ca
Kể từ đó cõi Ta Bà hết khổ

Hai mươi lăm thế kỷ : phong đầu gió
Vân đầu mây còn ngậm tuyết đầu sương
Đạo giải thoát là đạo lý chơn thường
Có nghĩa gì bóng thời gian giả định

Trùm pháp giới, đâu không là Phật Tánh
Phủ sắc không, đâu chẳng phải Pháp Thân
Bởi vô minh nên khổ hải trầm luân
Đáo bỉ ngạn phiêu du thuyền bát nhã

Hoa Vô Ưu nở một lần là thế
Nở một lần miên viễn đến thiên thu
Ngược vô thỉ vẫn không có chỗ dư
Tận vô chung vẫn không còn chỗ thiếu

Ngày Khánh Đản muôn đời siêu tuyệt diệu
Bởi Phật tâm Phật tánh siêu tuyệt vời
Vượt thời gian, cũng không đầy không vơi
Xuyên không gian, cũng không tăng không giảm

Người con Phật, không những chỉ vui mừng Khánh Đản
Mà bước đi trên lục độ vạn hạnh phổ châu sa
Khắp Tam Đồ đều thấm nhuận Phật Đà
Khắp Bát Nạn đều nhờ ơn tế độ

Đến khi nào chúng sanh không còn khổ
Đến khi nào chúng sanh không còn đau
Ngày Phật Đản vẫn rạng rỡ nhiệm mầu
Dòng sinh diệt nhập lưu Ngàn Hoa Tạng.

Viết, cúng dường Phật Đản 2634, Phật lịch 2554
TNT Mặc Giang
macgiang@y7mail.com




Phật Giáo Việt Nam muôn năm

Phật Giáo Việt Nam, muôn năm muôn năm
Phật Giáo Việt Nam, muôn năm muôn năm
Hai ngàn năm trước, lịch sử huy hoàng
Hai ngàn năm sau, tiếp nối vinh quang
Cho đến muôn đời, rực rỡ vang vang

Phật Giáo Việt Nam, muôn năm muôn năm
Phật Giáo Việt Nam, muôn năm muôn năm
Trên cầu Phật đạo, giải thoát thượng hoằng
Dưới cứu Tam đồ, hạnh nguyện cưu mang
Không quản phong trần, không ngại gian nan

Phật Pháp Thân thường hằng bất biến
Chân Diệu Hữu huyền nhiệm vô cùng
Còn chúng sanh thì còn chuyển hóa
Đâu ngại gì vô thỉ vô chung

Mười phương Phật ba đời thường trụ
Dõi soi đường Tứ Thánh ta đi
Nước cành dương thời thời pháp nhủ
Người người nhuần Đạo lý Từ Bi

Phật Giáo Việt Nam, muôn năm muôn năm
Phật Giáo Việt Nam, muôn năm muôn năm
Chánh pháp xiển dương, rực Ánh Đạo Vàng
Chuông mõ trầm hùng, hòa vọng âm vang
Trên khắp nẻo đường, thành thị thôn trang

Phật Giáo Việt Nam, muôn năm muôn năm
Phật Giáo Việt Nam, muôn năm muôn năm
Trăng sáng thiên thu, tuyệt thế trăng rằm
Bóng tối tan dần, trên khắp trần gian
Chuyển hóa Ta Bà, thành cõi Lạc Bang

Phật Giáo Việt Nam, muôn năm muôn năm
Phật Giáo Việt Nam, muôn năm muôn năm
Phật Giáo Việt Nam, chân lý thường hoằng
Phật Giáo Việt Nam, châu sa pháp giới
Kế thế muôn đời, Phật Giáo Việt Nam.

Viết, xin cúng dường Phật Đản 2634 PL 2554 – DL 2010
Viết, xin cúng dường Tổ Tổ truyền thừa, đền ơn Giáo dưỡng
Viết, xin cúng dường Chư Tôn, huynh đệ đồng hành và khuyến thỉnh Phật tử.

TNT Mặc Giang



Phật Đản muôn năm

Kính mừng ngày Phật Đản Sanh
Mười phương thế giới chúng sinh đều nhờ
Thoát ra bến mộng sông mơ
Quay đầu biển khổ là bờ Lạc Bang
Hòa reo vui sống đạo vàng
Dấn thân tế độ trên đàng thi ân
Đẹp trong như thể trăng rằm
Thanh cao như thể từ tâm vô nghì
Kính mừng ngày Phật Đản Sanh
Vô Ưu thọ hạ, trong lành ban mai
Ca Tỳ La Vệ hoa cài
Thần dân quốc thích đem ngai rước về
Phạn Vương toại nguyện ước thề
Ma Gia mẫu hậu đợi chờ đã lâu
Nhạc trời trổi khúc đưa chầu
Thiên nhơn hớn hở cùng châu ta bà
Nay mừng Thái tử Đạt Đa
Mai sau thành đạo Thích Già Mâu Ni
Hoằng khai giáo pháp từ bi
Ngàn phương muôn hướng đều vì độ sanh
Kính mừng ngày Phật Đản Sanh
Cùng nhau thiết lễ chân thành thiết tha
Bất luận nam nữ trẻ già
Giàu nghèo không kể gần xa không màng
Bất luận thành thị thôn trang
Cũng đều mở hội Đàn Tràng trang nghiêm
Gióng chuông pháp cổ vang rền
Mười phương ba cõi hoan nghênh cúng dường
Kính mừng ngày Phật Đản Sanh
Đất kia cũng thấm trời xanh cũng nhuần
Đưa tay vận chuyển pháp luân
Vô thỉ độ tận vô chung độ cùng
Ngu si tật đố lao lung
Tiểu nhân cũng hướng anh hùng cũng quy
Tiểu nghi cho đến đại nghi
Từ nay đã biết đường đi lối về
Dòng sông ôm ấp con đê
Đầu nguồn cuối ngọn đề huề nước reo
Kính mừng ngày Phật Đản Sanh
Muôn phương ngàn hướng chúng sinh đều nhờ
Thanh gươm trí tuệ đưa vèo
Bặt đường sinh tử đẳng đeo luân hồi
Giong thuyền Bát nhã ra khơi
Cứu người lặn hụp vớt người trầm kha
Ai còn đắm đuối la đà
Lên xe ba cỗ về nhà Như Lai
Ai còn bớt một thêm hai
Kìa trông trước ngõ hoa mai trỗ rồi
Ai còn lóng ngóng đứng ngồi
Ba rừng giáo lý núi đồi mở toang
Khắc in dấu ấn triện son
Kính mừng Phật Đản hằng còn muôn năm.

Cúng dường Phật Đản 2634 – PL 2554
Rằm Tháng Tư năm Canh Dần – 28.5.2010
TNT Mặc Giang
macgiang@y7mail.com



Đích thực Cúng dường Phật Đản

Mừng Phật Đản muôn phương cùng thiết lễ
Cúng dường ngày Khánh Đản Đức Thích Ca
Nguyện chúng sanh nhuần giáo lý Phật Đà
Cầu nhân loại sống hòa bình thiện mỹ

Mừng Phật Đản muôn phương cùng mở hội
Hoa Từ Bi gieo rắc cõi ta bà
Người nối người đồng hòa vọng thiết tha
Tay trong tay, lòng chung lòng hoan hỷ

Mừng Phật Đản thiêng liêng ngàn thiên kỷ
Ánh Đạo Vàng chiếu rọi khắp trần gian
Đưa chúng sanh hòa ánh đạo huy hoàng
Không một ai còn lầm đường lạc lối

Mừng Phật Đản khắp mười phương ba cõi
Hoa Vô Ưu muôn kiếp nở một lần
Nay Phật Đà ban pháp nhũ từ ân
Cùng quy hướng đón mừng ơn tế độ

Chúng sanh khổ, nguyện lên đường cứu khổ
Chúng sanh đau, nguyện chia sẻ hết đau
Thuyền thanh lương đưa muôn loại lên tàu
Vượt bát nạn tam đồ trầm luân mãi

Hoa Từ Bi nở trên đầu quan ải
Ánh Đạo Vàng băng giới tuyến chia xa
Khắp chúng sanh đều là con một nhà
Bởi bất giác nên trầm kha thống nỗi

Mừng Phật Đản muôn phương cùng chiếu rọi
Ánh đạo mầu trang trải đức từ bi
Mỗi một người thắp đuốc lên mà đi
Đâu còn ngại đêm dài và tăm tối

Mừng Phật Đản trần gian cùng tắm gội
Nước cam lồ dịu ngọt vẫy cành dương
Bát chánh đạo chính là tám con đường
Dù muôn lối nẻo về đều quy nhất

Mừng Phật Đản người người đều Niệm Phật
Cho Phật tâm Phật tánh tỏa hào quang
Nguyện trần gian và thế giới ba ngàn
Từ vô thỉ đến vô chung thoát khổ

Mừng Phật Đản người người đều Niệm Phật
Cho Phật ân trang trải khắp diêm phù
Ánh Đạo Vàng chiếu rọi đến thiên thu
Biển trần khổ quay đầu là bỉ ngạn

Mừng Phật Đản, Hoa Vô Ưu bừng nở
Kết thành Hoa Giải Thoát Hoa Từ Bi
Đèn Trí Tuệ thắp sáng lên mà đi
Mới đích thực Cúng dường Mùa Phật Đản.

Cúng dường Phật Đản 2634 – PL 2554
Tháng Tư năm Canh Dần – Tháng 5.2010
TNT Mặc Giang
macgiang@y7mail.com



Gia Đình Phật Tử Việt Nam

Gia Đình Phật Tử, tiến bước lên đường
Nương Đấng Nghiêm Từ, xây dựng tình thương
Bồi đắp tin yêu, chan hòa điệu sống
Màu Áo Lam hiền, tỏa ngát thơm hương

Gia Đình Phật Tử, dưới Ánh Đạo Vàng
Nương Bóng Cha Lành, cứu khổ trần gian
Đuốc tuệ từ bi, soi đường chỉ lối
Vì Đạo tiến lên, gian khó không màng

Gia Đình Phật Tử, tự độ cho mình
Hạnh nguyện lợi tha, độ tận chúng sinh
Không vị thân sơ, không vì bào ảnh
Như Áo Lam hiền, mây trắng trời xanh

Gia Đình Phật Tử, tiến bước lên đường
Đi khắp quê mình, đi khắp bốn phương
Không nơi khổ đau, không đâu tăm tối
Bát nhã cam lồ, chuyên chở thanh lương

Bi Trí Dũng làm đầu
Năm Hạnh nguyện thâm sâu
Tay trong tay dấn bước
Tim trong tim cơ cầu

Hoa Sen Trắng thanh cao
Dây Thân Ái vui nào
Chắp tay hoa Niệm Phật
Phụng hiến đời đẹp sao

Nơi nào cần ta tới
Nơi nào gọi ta đi
Rợp ánh đạo nhiệm mầu
Hòa thánh đức từ bi

Nhà nhà chứa chan sức sống
Người người thân thiện hòa vang
Lam ngoan, Lam hiền, thanh khiết
Tuổi trẻ của Đạo, Gia Đình Phật Tử Việt Nam.

Mùa Phật Đản 2634 – PL 2554
Canh Dần, Tháng 5 – 2010
Viết tặng Tổ chức Tuổi Trẻ Phật Giáo - GĐPTVN
TNT Mặc Giang




Phật Đản bất diệt


Phật Đản thiêng liêng ý nhiệm mầu
Muôn ngàn ức kiếp dễ hay đâu
Như Lai khai thị nhập tri kiến
Nhất nhất chúng sanh xin cúi đầu

Phật Đản thiêng liêng ý diệu huyền
Chúng sanh trầm khổ lụy vô biên
Đến nay nghe thấy xin trì tụng
Nguyện một lòng đi vô hậu tiền

Phật Đản thiêng liêng khắp nẻo đường
Đạo Vàng gieo rắc vạn tình thương
Kệ kinh chuông mõ thềm tôn giáo
Ngát tỏa hương lành Đấng Pháp Vương

Phật Đản thiêng liêng khắp mọi người
Nụ hoa hàm tiếu nở xinh tươi
Thiện ngôn, ái ngữ, tâm thanh tịnh
Vào chốn khổ đau gắn nụ cười

Phật Đản ngày vui khắp cửa thiền
Nhịp cầu thánh thiện kết nhân duyên
Tiến tu đạo nghiệp hoa đơm trái
Nương Bóng Phật đài sống vĩnh miên

Phật Đản ngày vui khắp mọi nhà
Con chung tất cả một Người Cha
Người Cha bốn loại trong ba cõi
Từ Phụ thâm ân Đức Phật Đà

Phật Đản thiêng liêng vô hậu tiền
Cứu người khó độ mới nhân duyên
Còn người dễ độ cần chi cứu
Chỉ nói một câu nhận biết liền

Màu cờ Phật Giáo đã tung bay
Muôn hướng ngàn phương thỏa nguyện này
Vạn hạnh leo đồi trao thế kỷ
Từ Mùa Phật Đản của năm nay

Phật Đản thiêng liêng là thế ấy
Người trong nhân thế biết hay chưa
Phổ độ quần sanh trong muôn cõi
Vận xoay chánh pháp chuyển Ba Thừa.

Tinh thần Phật Đản bất diệt
Tháng Tư âm lịch, năm Canh Dần 2010
TNT Mặc Giang



Đây Mùa Phật Đản

Đây Mùa Phật Đản lại đi qua
Đốt nén tâm hương, nguyện thiết tha
Chư Phật mười phương, xin chứng giám
Ban ân thí đức phổ châu sa

Đây Mùa Phật Đản lại băng ngang
Triệu triệu người con Phật tiến lên
Thông Điệp Từ Bi lan bốn biển
Đạo mầu trang trải khắp nhân gian

Đây Mùa Phật Đản lại đang về
Quảng gánh tang thương, dứt não nề
Mạnh bước phiêu du thuyền bát nhã
Núi đèo đâu nữa, hỏi sơn khê

Vô Ưu một đóa nở lên rồi
Sinh tử luân hồi dứt hết thôi
Ngộ nhập Như Lai tri kiến Phật
Chính là Phật Đản của muôn đời

Vô Ưu một đóa gắn trên môi
Hàm tiếu là đâu hỏi nụ cười
Tứ Chúng lục hòa dung tất cả
Ai người chưa hội chỉ đi coi

Ta hát bài ca Phật Đản Sanh
Pháp Vương Điều Ngự Đấng Cha Lành
Tam đồ bát nạn, Ân Từ Phụ
Biển khổ trầm luân vắng lạnh tanh

Bài ca, mừng Đức Phật ra đời
Cao vút trời xanh vượt núi đồi
Băng khắp năm châu cùng bốn biển
Du thuyền Bát Nhã lướt trùng khơi

Bài ca, mừng Đức Phật Như Lai
Thị hiện Đản Sanh chính bản hoài
Ba cõi mười phương Tam Thế Phật
Nhân duyên đại sự kết Liên Đài

Ta Bà thành Cực Lạc Tây Phương
Chánh đạo mang đi khắp nẻo đường
Tan biến sầu đau muôn vạn kiếp
Từ Mùa Phật Đản chuyển thanh lương

Đây Mùa Phật Đản của năm nay
Khắp cả nhân gian xin chắp tay
Nguyện Đức Từ Bi hằng cứu độ
Không còn quá khứ với tương lai.

Tháng Tư âm lịch, năm Canh Dần 2010
TNT Mặc Giang




Thông Điệp Phật Đản


Xin chắp tay hoa trước Phật đài
Cúng dường Mùa Phật Đản năm nay
Tâm hương kết tụ thành Sen Báu
Tri kiến Như Lai ngộ bản hoài

Xin chắp tay hoa dâng cúng Phật
Mười phương thế giới tỏa hào quang
Chúng sanh muôn loại nhuần mưa pháp
Cùng sống an vui Ánh Đạo Vàng

Đạo lý nhiệm mầu Đức Thích Ca
Pháp âm vi diệu phổ châu sa
« Tam đồ bát nạn câu ly khổ »
Đã biết đường đi về đến nhà

Người con Đức Phật của muôn phương
Thắp sáng đèn tâm mọi nẻo đường
Tan hết sầu bi và thống khổ
Chỉ còn hòa ái với yêu thương

Người con Đức Phật khắp năm châu
Bốn biển trần lao bắc nhịp cầu
Mở cửa thông thường liền giới tuyến
Từ bi thánh đức khởi đi đầu

Người con Đức Phật mọi nhà nhà
Tất cả là con chung một cha
Dù khác biên cương và chủng tộc
Nhưng cùng một giống Bồ Đề Gia

Bồ Đề kết tụ nở Liên Hoa
Bản giác thường chơn ngự bảo tòa
Mở mắt từ bi nhìn đại hải
Cừu thù oan trái tợ sương pha

Lo gì thế giới không hòa bình
Nhân loại biết tu ngộ tánh linh
Cởi trói trùng vây gieo vạn kỷ
Tự nhiên nhân thế sẽ hòa minh

Thông Điệp nhiệm mầu Phật Đản Sanh
Thanh thiên mây trắng lộng trời xanh
Ngã nhân bỉ thử mờ bào ảnh
Mê ngủ thiên thu bỗng giật mình

Thông Điệp nhiệm mầu Đức Thế Tôn
Bản giác xưa nay vốn thường chơn
Pháp thân vi diệu dung không sắc
Vũ trụ càn khôn bỗng tỉnh hồn

Thông Điệp nhiệm mầu Đức Thích Ca
Chúng sanh lạc lối bỏ quên nhà
Nay về đã đến mừng khôn xiết
Sụp lạy cúi đầu Đạo Phật gia

Nay, ban Thông Điệp Đức Từ Bi
Thế thế nhân sinh biết lỗi nghì
Sám hối tội tiêu tâm tịch tịnh
Cư trần lạc đạo lẽ huyền vi

Nay, ban Thông Điệp Đức Như Lai
Muôn hướng ngàn phương kết bảo đài
Bốn biển năm châu quy ngưỡng phục
Ta Bà đâu nữa hỏi Thiên Thai

Nay, ban Thông Điệp Đức Từ Nghiêm
Phân bổ mang đi khắp mọi miền
Sống với Tình Thương và Hiểu Biết
Nhân sinh thế thái sẽ bình yên

Thông Điệp đã ban từ Pháp Vương
Chúng sanh vạn loại tỏ tinh tường
Muôn đời bảo trọng truyền lưu mãi
Đây, chính là lời của Thế Tôn.

Tháng Tư năm Canh Dần 2010
TNT Mặc Giang




Vô Ưu kết nụ Liên Đài

Nhớ xưa Đức Phật Đản Sanh
Vô Ưu bừng nở trên cành ban mai
Ma Gia mẫu hậu đưa tay
Từ trong bụng mẹ, leo đài bước ra
Bước đi bảy bước kết hoa
Sen thơm bát ngát chan hòa trần gian
Trời người rạng rỡ hân hoan
Thiều quang trổi nhạc vang vang đất trời
Chư Thiên hớn hở gọi mời
Hướng về La Vệ muôn lời tán dương
Lâm Tỳ Ni hiện phi thường
Báo cho nhân thế Pháp Vương ra đời
Kìa trông Thái tử ngô khôi
Thông minh tuấn tú tuyệt vời tinh anh
Phạn Vương quả thật Vua Lành
Ma Gia quả thật Mẹ Hiền xưa nay
Vô Ưu muôn kiếp chờ ngày
Khi Phật giáng thế mới bày hiện ra
Hoằng khai chuyển pháp Thích Ca
Chúng sanh độ tận, Ta Bà trầm luân
Hơn Ba Trăm Hội thuyết kinh
Ba rừng Giáo lý nguyên trinh đạo mầu
Dù cho bốn biển năm châu
Ngăn sông cách núi bắc cầu lại qua
Dù cho phiền não trần sa
Dắt dìu tất cả vào nhà Như Lai
Tám mươi năm, in dấu hài
Đạo vàng khắc ấn phương đài thiên thư
Tám mươi năm, kết ngàn thu
Sa La song thọ, Vô Dư Niết Bàn
Chúng con nguyện Đức Từ Quang
Ban ân tế độ trên đàn con đi
Chúng con nguyện Đức Từ Bi
Gia hộ đạo lý huyền vi trường tồn
Chúng con nguyện Đấng Pháp Vương
Đẩy thuyền Bát Nhã thanh lương cứu đời
Không còn đau khổ chơi vơi
Không còn vọng tiếng nửa lời thở than
Ta Bà đã có Đạo Vàng
Tây Phương đã có Lạc Bang trông chờ
Đâu còn đêm tối mịt mờ
Đâu còn sinh tử hữu vô điệp trùng
Vẳng nghe Pháp Cổ Hồng Chung
Giộng lên một tiếng vô cùng chưa tan
Vẳng nghe kinh kệ nhịp nhàng
Chuông mõ kết thúc, âm vang hằng còn
Một đời Từ Phụ ấn son
Vô chung vô thỉ vết mòn chưa pha
Một đời Từ Phụ Thích Ca
Mười phương ba cõi vào nhà Như Lai
Vô Ưu một cánh hoa cài
Gắn trên tuyệt đỉnh phương đài diệu liên
Vô Ưu một cánh hoa thiền
Hằng hà sa số trược phiền tiêu tan
Nguyện cầu pháp nhũ từ ân
Thường Chơn diệu hữu Pháp Thân tuyệt kỳ
Nguyện cầu Đạo lý Từ Bi
Ba ngàn thế giới huyền vi Đạo Vàng
Đến vô lượng kiếp chưa tan
Vô chung vô thỉ gởi ngàn thiên thu
Trần gian có nghĩa gì ư
Niết bàn tịch tịnh hữu dư chi nào
Hư vô bào ảnh chiêm bao
Niêm hoa vi tiếu cây đào trổ bông.

Tháng Tư năm Canh Dần 2010
TNT Mặc Giang





Hoa Sen Tám Cánh


Hoa Sen tám cánh em mang
Tâm như sáng tỏa trên đàng em đi
Nhìn đời ánh mắt từ bi
Nói năng ký xuất nghĩ suy tỏ tường
Hoa Sen Tám Cánh em nương
Ba ngôi Tam Bảo pháp vương nhiệm mầu
Núi cao hố thẳm sông sâu
Mở lòng trắc ẩn, bắc cầu lại qua
Hoa Sen Tám Cánh thiết tha
Em mang dấu ngọc vào nhà Như Lai
Gồm thâu quá khứ vị lai
Sống trong hiện tại hoa mai trổ rồi
Cây xanh tươi lá đơm chồi
Hoa thơm thêm nhụy tô bồi tương lân
Hoa Sen Tám Cánh ân cần
Thời thời khắc khắc chuyên tâm tu hành
Sen vàng sen trắng sen xanh
Liên Trì Hải Hội vẫy cành thùy dương
Em mang đạo lý lên đường
Từ bi thấm nhuận yêu thương muôn loài
Du thuyền bát nhã ra khơi
Cứu người hoạn nạn độ đời trầm mê
Nhà xưa đã có lối về
Ba đường sáu nẻo mải mê lâu rồi
Hoa Sen Tám Cánh em ơi
Ưu Đàm thơm ngát, mỉm cười trao tay
Đạo vàng sáng tỏ hơn ngày
Không còn đêm tối đọa đày trần lao
Em mang hoa ấy đi nào
Đóa hoa tự tánh nhập vào pháp thân
Em mang hoa ấy chuyên cần
Ngàn năm hiện hữu trăng ngàn thiên thu.

Tháng 3 – 2010
TNT Mặc Giang
macgiang@y7mail.com



Tuổi Trẻ Phật Giáo

Tuổi trẻ Phật Giáo, biết sống dấn thân
Không quản gian nguy, không ngại phong trần
Mỗi khó khăn, rèn hạnh tinh tấn
Mỗi não phiền, rèn đức từ bi

Tuổi trẻ Phật Giáo, biết sống vươn lên
Không quản hố sâu, không ngại thác ghềnh
Mỗi bại thành, rèn hạnh hỷ xả
Mỗi ngã nhân, rèn đức bao dung

Tuổi trẻ Phật Giáo, vì Đạo tiến lên
Ơn Phật cao siêu, ta nguyện đáp đền
Thương chúng sanh, sống đời phụng sự
Thương muôn loài, ta vẫy cành dương

Nhớ ngàn xưa,
Đức Thế Tôn, vì chúng sanh, quyết tìm chân lý
Thì ngàn sau,
Cõi trần gian, vì chúng sanh, ta quyết lên đường
Nhớ ngàn xưa,
Đức Thích Ca, vượt hoàng cung, quyết tìm ngôi báu
Thì ngàn sau,
Biển trầm luân, ta du thuyền Bát Nhã thanh lương

Tuổi trẻ Phật Giáo, bi trí dũng làm đầu
Tuổi trẻ Phật Giáo, hạnh nguyện lực thâm sâu
Tuổi trẻ Phật Giáo, tay trong tay thân ái
Tuổi trẻ Phật Giáo, tim trong tim chan hòa

Tuổi trẻ Phật Giáo, từ ái vị tha
Cứu thế độ nhân, anh em một nhà
Chúng sanh an vui, sống đời thiện mỹ
Chúng sanh thái bình, ta hát đạo ca

Tuổi trẻ Phật Giáo, cứu lấy nhân gian
Không nơi khổ đau, không chốn lầm than
Chánh pháp xiển dương, duy tuệ thị nghiệp
Bốn biển năm châu, nhuận thắm Đạo Vàng.

Tháng 3 – 2010
TNT Mặc Giang
macgiang@y7mail.com
 
 
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2010 00:53:23 bởi Viet duong nhan >

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
CD Nhạc : Kính Mừng Phật Đản do Mặc Giang thực hiện - 29.05.2010 07:32:00
 CD Nhạc : Kính Mừng Phật Đản 
 do Mặc Giang thực hiện

 
01. Phật Giáo Việt Nam Ca. Thơ Mặc Giang, Ns Kiều Tấn Minh, Họp Ca
02. Mừng Phật Đản Sanh Thơ Mặc Giang, Ns Nguyễn Quang Vinh, Ca sĩ Xuân Chánh
03. Mừng Phật Đản Sanh - Thơ Mai Nhật Thu - Ns - Ca sĩ Thu Vân
04. Phật Đản muôn năm - Thơ Mặc Giang - Ns - Cs
05. Kính Mừng Phật Đản - thơ Mặc Giang - Ns - Nữ Ca sĩ
06. Phật Giáo Việt Nam muôn năm - thơ Mặc Giang - Ns - Hợp ca
07. Phật Đản nhiệm mầu - thơ Mặc Giang - Ns - Hợp ca
08. Cúng dường Phật Đản - thơ Mặc Giang - Ns - Cs Thu Vân
09. Phật Giáo Việt Nam Sử Ca.  thơ Mặc Giang - Ns Chương Đức, họp ca
10. Nguyện Cầu Phật Đản - Thơ Mặc Giang - Ns Kiều Tấn Minh - Ca sĩ Thanh Đạt
11. Tuổi Trẻ Phật Giáo - Thơ Mặc Giang - Ns Kiều Tấn Minh - Hợp ca
 


Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Nhà Thơ Mặc Giang - 06.06.2010 21:35:25
Hóa Thân
Minh Ân


Thơ là tiếng nói đầu tiên của tâm hồn khi đụng chạm đến cuộc sống, làm thơ là để bày tỏ cảm xúc tình cảm của mình. Khi tâm hồn nhà thơ Mặc Giang rung cảm trước cảnh vật thì bất chợt những dòng thơ cũng sẽ tuôn trào như thác đổ. Với Mặc Giang thì: “sông dài trời rộng tâm ta rộng”. Người đã hóa thân vào mọi cảnh khổ bằng trái tim yêu thương tất cả muôn loại, thương xót bao mảnh đời cơ cực, khó khăn của cuộc sống, mà bao người đã phải chịu trong kiếp sống phù du này:
Tôi đã thấy những con người bần hàn cơ cực
Sống gian truân trong bóng tối cuộc đời
Sống khổ đau đầy dẫy khắp nơi nơi
Từ thành thị đến thôn quê đâu đâu cũng có
(Vơi hết khổ thì tình người mới đẹp)

Lòng từ bao la, thơ ông tuôn chảy thành dòng cảm xúc vô tận. Làm sao đó để “vơi hết khổ thì tình người mới đẹp”, phải chăng cũng vì lẽ đó mà “dòng sông nhân ái” ra đời:
Kéo đại dương cho biển khơi nhỏ lại
Xếp trùng khơi, để thu hẹp hai bờ
Đưa bàn tay bắt một nhịp nên thơ
Cây cầu đã nối liền muôn giới tuyến.

Con người Mặc Giang tuy nhỏ bé giữa đất trời bao la, nhưng tấm lòng rộng lớn cao cả đến nhường nào. Sự đối lập đó đã tạo nên một dòng cảm xúc, để rồi lại cứ “mở cửa nguồn tâm” mà nâng niu từng hạt cát. Vì vậy mà trái tim biết thở và hãy hát đi:
Hát nữa đi anh tiếng tự tình muôn thuở
Hát nữa đi em lời chan chứa yêu thương
Tiếng tình tự trao nhau như thế đó
Vẹn câu thề trang trải vạn tin yêu
(Trái tim biết thở)

Thơ! mỗi người mỗi vẻ. Ðôi lúc thơ mang một nỗi buồn, thơ là lời tâm sự (Hàn Mặc Tử), hay là một sự ngợi ca quê hương và nỗi nhớ (Quang Dũng). Còn Mặc Giang, thơ là cả một tấm lòng. Biển thơ! Rừng thơ!... Ta uống trà làm thơ. Trà chưa ra, cà phê nhỏ chưa hết giọt mà thơ Mặc Giang tuôn trào như thác đổ, “đẩy tan những sắc màu buồn thảm” và “quét sạch đi những bóng dáng tối tăm”. Mở cửa tình thương để nghe sỏi đá gọi bên đường và để thấy “Xuân cười gió nắng”.
Đọc những dòng thơ Mặc Giang giữa mỗi độ đông về, ta cảm nhận điều gì đó kỳ lạ, đó là khiến tình người ấm áp hơn lên:
Ðông lạnh buốt mà sao lòng vẫn ấm
Lửa yêu thương đốt cháy những oán cừu

Thơ Mặc Giang là dòng cảm xúc chảy dài vô tận. Nó không dừng lại nơi đâu mà cứ đi, đi mãi khắp mọi miền của Tổ quốc. Người như đang hóa thân thành những mảnh đời cơ cực, muốn dang tay ôm tất cả vào trái tim mình và lòng lại cứ thương:
Tôi thương người dân quê trải cuộc đời mưa nắng
Tôi thương những người nghèo mua gánh bán bưng
Tôi thương người dân phu mỏi gối còng lưng
Tôi thương người di dân, khẩn hoang xây cuộc sống
(Tôi thương)
Tình thương hay là thơ? Thơ cũng chính là tình thương
Bởi tình thương vô bến nên biết nói sao cùng
Hỡi người nhân gian hòa tiếng gọi kêu chung
Hãy trang trải tình thương, cho ấm lòng nhân thế

Ðó chính là mục đích cuộc sống và tấm lòng nhà thơ, nó có thể làm thay đổi tất cả như ánh nắng ban mai của một ngày mới hiện về… Nhật Tân.
Tác giả an nhiên từng buớc trên mọi nẻo đường quê hương, nhìn thẳng vào bản lai diện mục khổ đế của trần gian. Cái cảnh vợ bị lao tù, chồng thay vợ chăm sóc con, được thi nhân viết thành lời thơ chân tình mộc mạc:
Em ơi em! Thôi em đừng khóc
Anh thay em làm gà trống nuôi con.

Nếu tâm hồn khép lại không rộng mở cảm thông trìu mến thì không dễ gì thi nhân có được lời thơ dễ thương dễ cảm đó. Đây là những câu thơ neo lại vững chắc trong tâm trí người đọc, theo mãi thấm đậm giữa tháng năm. Người đọc lắm lúc rơi nước mắt khóc cùng tác giả, cũng có khi họ để cho trái đập rạo rực theo nhịp sống, bước đi và hơi thở của muôn loài để lắng lòng yêu thương chia sẻ, và thêm một lần “Mở cửa mà đi”.

Ði! Mặc Giang đi đến cuối chân trời góc biển, đến hang cùng ngõ hẽm của những xóm làng heo hút, cơ cực, để nhìn, để hóa thân và để thấy:
Trăng mờ sao tỏ, núi gối đầu non
Thời gian không mòn niềm đau nhân thế!
Ông cứ đi và thả lại sau lưng một “núi thơ” chứa chan đạo tình và bao tiếng nói sâu thẳm của con tim để hy vọng những gì cho tương lai, trả tiêu điều xơ xác lại cho quá khứ và chỉ mong một ngày kia “Xuân cười gió nắng”.
Người đã hóa thân vào bất tận, ấp ủ bao mảnh đời khốn khó khắp nơi, để cho tình người cứ gần nhau mãi mãi:
Trao tin yêu tràn ngập bến tình thương
Cùng tắm mát trên dòng sông nhân ái

Mặc Giang nhìn đời bằng ánh mắt đồng cảm, bằng tấm lòng chan chứa yêu thương. Cùng “Nhịp bước đăng trình” thấy lòng sao cay đắng, nghe giọt lệ mằn mặn trên môi. Hãy lặng yên đưa nhau qua khổ ải và dìu dắt nhau về ngưỡng cửa yêu thương. Và cứ thế hãy trao và đón nhận. Người bên người sống để yêu thương.

“Tôi thương và tôi thương và còn nhiều nữa chứ. Bởi tình thương vô bờ bến nên biết nói sao cùng”. Tôi còn “Thương em bé nhà nghèo”. Thi nhân Mặc Giang đã hóa thân vào từng thân phận để cảm thông chia sẻ nỗi khốn cùng của họ. Tác giả còn hóa thân “Tôi là người mù”, “Tôi là người phu khuân vác”, “Tôi là người câm”, “Tôi là người đạp xích lô” và ngay cả “Tôi là một người khùng”, “Tôi là một người điên”,…
Thơ ông là thế đó, tâm hồn ông là thế đó. Ông đã ra khỏi cái tôi hạn hẹp ích kỷ để chia sẻ và hòa vào cảnh chung của con người.

Cho thấy thơ Mặc Giang không phải là những gì trừu tượng hay bóng mây lơ lửng cuối chân trời, mà rất gần gũi thân quen với cuộc sống. Thơ Mặc Giang là những gì trước mắt ta đang có, nó có thật trong cuộc sống biển trần đọa đày khổ đau này. Nó giúp ta ý thức ý nghĩa thâm sâu của cuộc sống và biết rằng ta phải làm gì? Thu mình trong ốc đảo độc thiện kỳ thân hay “Hãy trang trải tình thương, cho ấm lòng nhân thế”.

Hãy nhìn “Mở cửa nguồn tâm” thì sẽ thấy tất cả thơ Mặc Giang với bút pháp lạ lùng, niềm nhân ái cứ gieo vào lòng nhân thế, để cho người biết yêu thương, biết vỗ về nâng niu và chia sẻ. Cho nên Mặc Gang nói:
Không, tôi không có bán thơ đâu
Óng ánh sợi thơ gợn sắc màu
Ai có muốn mua chăng thì Mặc Giang cũng không bán đâu mà chỉ muốn ban phát. Còn tôi, tôi cũng không mua thơ ông. Dù có cất giữ thơ ông nhưng thật ra nào có cất giữ, vì cất giữ thơ Mặc Giang cũng chính là cất giữ nâng niu cảm thương những mảnh đời cơ cực đó thôi, cũng chính là sự chia sẻ ngọt bùi để làm lẽ sống cho mình và tất cả, và để trở về với đôi bờ nhớ thương:
Tôi dang ra để tránh mưa tầm tã
Anh thụt lùi để khỏi đẫm mưa tuôn
Khi đã qua cơn thác lũ điên cuồng
Nước rút xuống cùng trở về đầu ngõ
Vậy ta hãy “góp tin yêu chói sáng tỏa tình người” và “mang chân thực cho trần gian tươi đẹp ”
Mặc Giang là ai nhỉ? sao không bán thơ mà nơi đâu cũng có thơ ông, người ta nhắc đến ở trong lòng. Qua thơ Mặc Giang, ai cũng có thể tìm thấy cái cốt cách nhân bản, rồi truyền trao cho nhau khắp mọi nơi, như chính cuộc hành trình với tâm hồn rộng mở mà thi nhân đã đi qua.

Ngoài ra, một hồn thơ bình dị chân quê như “Trái cây bốn mùa”, “Muôn chim ca hát”, “Sông bến cũ mái nhà xưa ấm-lạnh”, “Xóm nhỏ quê nghèo”, “Một mái chùa quê” và “Đợi trăng về” cũng chính là xuất phát từ tấm chân tình, yêu thương cả đất trời vạn loại của người thơ; đó là một tình yêu thương trong sáng. Nước tình thương lưu xuất từ biển tâm, êm đềm như tình mẹ ru mãi ngàn năm.

Huế 2008
Minh Ân

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Nhà Thơ Mặc Giang - 10.06.2010 02:51:20
BẾN  ĐỖ BÌNH YÊN
                                           
Thời gian dẫu vô tình đến mấy
Con đò vẫn cập bến sông Thương.     
Không gian dẫu vô tận đến đâu
Hoàng hôn cứ đỗ đầu núi nhớ ...          
            
    Hoàng Linh vẫn còn đứng đó. Tà áo lam hiền cùng chiếc nón trắng xứ Huế trông thật dễ thương. Con thuyền vẫn chưa cập bến. Ở đời, cái gì thuộc về trái tim thì còn mãi giữa lòng người. Thời gian bốn mùa đắp đổi nương nhau, thế mà cái thuộc về trái tim trong cô vẫn chưa tròn ước nguyện. Chờ lâu, cô dạo bước quanh quẩn tới lui trong khoảng không gian bến đợi con thuyền:
Lênh đênh làm khách phong trần mãi!
      Trên sông, từng dòng nước gợn sóng vỗ nhẹ vào bờ. Mấy quả sung chín rụng rơi lã chã. Đứng trước bên sông chiều, nhìn cảnh sông nước mênh mông, một nỗi buồn len lén chợt dâng lên trong lòng Hoàng Linh:
                               "Từ giã quê hương ta đi tìm đất sống
                                 Giã biệt xóm làng, nơi cắt rốn chôn rau
                                  Đi đến thật xa núi thẳm rừng sâu
                                  Đôi tay trắng vẽ khung trời gian khổ"
                                                                                     (Mặc Giang)
     Cảnh ấy đã tác động vào tâm hồn Linh một chút gì đó gọi là thi sĩ: yêu thơ! Kiếp phù sinh hiện hữu, dòng thơ của  Mặc Giang gợi về trong ký ức:
                                 "Quãng đường qua sỏi đá cũng ghê gai
                                   Bước phong sương mòn sức lực dặm dài " 
 

     Hoàng Linh nghĩ về một quá khứ xa xôi, một tương lai mờ ảo huyễn tưởng. Cảnh sông nước mênh mông đang gợi cho Linh nhớ đến thơ hay tình thương đang dạt dào tuôn chảy sâu lắng của thi sĩ. Bao lời thơ Mặc Giang cũng từ đó hiện về:
                 "...Trăng lặn dòng sông đêm mấy canh.
                      Tầng không én liệng buồn bay cuối trời...'' 
 

...Đã bao lần rồi, mỗi khi  lặng  nhìn đời, con người, thế cuộc thì vần thơ của thi sĩ chợt hiển hiện sáng ngời trong tâm hồn Hoàng Linh. Vì lẽ đó, lắm lúc mọi nỗi buồn, lo lắng... trong cuộc sống lại tan biến vào hư vô, thay vào đó là niềm tin, sự an tịnh nội tâm khi tiếp xúc với vần thơ của người. Dù xa quê hương, xa gia đình, xa mẹ cha và bà con lối xóm, nhưng Hoàng Linh đâu thấy thiếu trong  mỗi bước chân qua. Bởi lời thơ của Mặc Giang như người mẹ hiền, luôn dìu dắt, an ủi, động viên Hoàng  Linh đi hết cuộc đời này. 
 

...Con đò chiều đưa Linh về lối cũ. Sông nước mênh mông, ánh nắng vàng còn le lói chưa chịu nhường chỗ cho hoàng hôn, Hoàng Linh nhìn ra xa, dòng sông nhuốm phủ một màu tím mộng của cánh hoa lục bình. Và không nằm im như những tảng bèo kia, vẫn có nhiều cánh bèo đang xuôi ngược tám hướng giữa dòng sông xứ Huế. Con thuyền vẫn ung dung lướt đi trong cõi mộng, ngao du giữa chốn phiêu bồng. Và em đã đi đâu?:
                         "Vào cửa tử sinh tôi đi tìm cõi sống
                            Của chính tôi rồi sẽ đi về đâu
                            Qua những thềm hoang sách vở phủ đầu
                            Tắc ngẽn đó không tìm ra lối thoát" 
 

...Cậu bé  đen ngòm trong chiếc nón tơi tả đang bơi chiếc xuồng
khua mái chèo  đi vớt  những khúc gỗ trôi linh đinh trên sóng nghiệp. Linh nhìn cảnh ấy mà lòng xót thương cho kiếp nhân sinh:
              Thôi rồi: "biển đục phù sinh loang lổ hoang tàn" thì ta: "gieo chi nữa những sắc màu hoen ố". Con thuyền chưa cập bến, Linh nhìn hai bên bờ sông, những cành lau trắng muốt đang vẫy gọi trong gió chiều, gửi  tình thương yêu vào sự sống trong gam tím của sắc màu xứ Huế:
                   "Thà làm cỏ cây xanh ngát bên đường
                     Hơn hoa mỹ thêu thùa bên bờ lau gió bụi"
 Cảm ơn đời, ta xin vào cõi nhân gian:  
                 "Trong bóng đen tội tình chi lầm lũi
                 Giữa khung trời, tỏa rộng ánh thiều quang 
                 Sống thanh thiên như gió mát trăng ngàn                                     
                  Cho đêm tối bừng hỏa châu tỏa sáng"                        
     Bên kia bờ, tiếng gọi yêu thương theo lời thơ của Mặc Giang đang vẫy chào, bắt nhịp vào tâm hồn kiếp nhân sinh:
                   "Gom cát bụi bên bờ rêu giá lạnh
                      Góp hoang tàn bên bờ đá rêu xanh  
                     Để lắng nghe từng giọt lệ long lanh 
                     Rơi xuống biển trần gian nhiều gai góc".   
 

     Mặc Giang ơi! con đường của thế gian thì nhỏ hẹp, con đường của thi sĩ thì rộng lớn thênh thang, ngang dọc tự do "mây nước tỳ khưu tùy ý ruỗi" Trên từng con đường quen thuộc, ven theo lối cỏ xanh và vào từng ngõ ngách của xóm làng, heo hút núi rừng, bước chân người đã đi qua với biển tâm, rải tình thương bằng những vần thơ viết về con người và thế cuộc. Vần thơ ấy đã làm hiển hiện trong ký ức Hoàng Linh một bóng hình, thi sĩ là bậc chân tu sáng ngời đạo hạnh và đức độ. Vần thơ ấy đã theo từng bước chân người đi bằng chất liệu "vô tâm", ''vô niệm", nên vào cửa "vô môn". Chính cửa vô môn đó mà bao người con Phật đã ra vào tư tại:
                        "Tôi chẳng có gì bán cái không
                          Đã không nên chẳng có đôi đồng
                          Không ai mua hết nhìn còn rộng
                          Đem chất hoài nhưng vẫn trống không"
     Những vần thơ của thi sĩ cho thấy cái cốt cách nhân bản, oai nghi khác thường, tâm từ đỉnh đạc, gợi lên trong lòng người nhiều bài pháp vô ngôn. Lời thơ ấy đã bay vào cát bụi của kiếp người một cách thầm lặng rồi lại ung dung ra khỏi cuộc đời nhẹ tựa hồng mao, thật đúng là vần thơ diệu dụng. 
 

     Và lúc này đây, trên dòng sông xứ Huế, thơ của người đang bắt nhịp êm đềm trôi chảy. Tình thương bao la, tâm từ rộng lớn đã gửi vào hồn thơ bay bỗng đến từng tâm hồn đang còn chơi vơi trong biển khổ, để từ đó, nhân rộng, bao trùm và chan chứa hết thảy. Vì vậy, bao nhiêu khách phong trần ngồi trên đây, ấy thế mà con thuyền vẫn nhẹ nhàng lướt trên sóng nước. Hoàng Linh cảm nhận từ thơ một luồng từ trường mới mẽ, xoa dịu mọi nỗi âu lo của kiếp người. Cảm ơn thi sĩ, người đã đem đến những lời thơ khai mở tâm con, đánh dẹp ý thức vọng động, hàng phục vọng tâm, hồi phục chơn tâm. Thơ Mặc Giang mênh mông như sông nước, mỗi giọt nước là một giọt  sữa pháp được rót từ uyên nguyên giáo pháp. Cảm ơn người, ta hãy sống tốt hơn, giữa sanh tử khổ đau ác kiến chập chùng. Biết thương yêu nhau, quả Bồ Đề chia chung trái ngọt... 
 

     Con thuyền vẫn lướt trên sông nước, dạo chơi qua cõi hồng trần. Dù cho nắng gió, sương sa, và cát bụi tơi bời, nhưng vượt qua là cập bến. Hoàng Linh nhẹ bước lên bờ. Cô đã vẫy chào tất cả.
                             Ôi!"Trong cuộc đời ai không uống nước
                              Giữa trường đời ai chẳng qua sông
                              Qua sông nhớ giữ lấy lòng
                             Vần thơ nơi ấy gieo lòng thế nhân" 
 

      Mặc Giang ơi! Con thuyền kia chở đầy ăm ắp những vần thơ của thi sĩ đang quay về bến đợi, nhẹ nhàng đưa lữ khách phong trần trở lại "Bến Đỗ Yêu Thương"...
      Và nơi đó, những chồi non được vun bón giờ đây đã xanh lá. Dầu chưa trở ngọn đầu mùa, nhưng có thể đứng vững để tiếp tục xanh tươi, đã góp phần tạo nên bóng râm cho đất:
                                                     " Trời chiều kéo hoàng hôn
                                                        Chim bay về tổ ấm
                                                        Cho gừng cay muối mặn
                                                         Hoa trái kết đơm bông"  
  
Hương giang, tháng 6-2009
Bạch Thu 

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Biểu hiện tinh thần khí chất Việt Nam trong sáng tác của Mặc Giang - 10.06.2010 02:57:51
Biểu hiện tinh thần khí chất Việt Nam trong sáng tác của Mặc Giang 

(Tất cả những chữ xiên là thơ Mặc Giang)
 Hồ Bảo Quốc
       Thơ Mặc Giang đề cập nhiều nội dung, trong đó không chỉ là triết lý sắc- không, là hoa lá cỏ cây, nghệ thuật ngôn ngữ, mà chủ yếu còn là một mạch tương thông với mộng cảnh nội tâm thâm sâu của tinh thần, tiết tháo, phẩm chất vốn có của người Việt Nam qua bao thời đại. Tuy nhiên, đôi khi lại trực tiếp viết về tinh thần ấy của của người Việt Nam biểu hiện qua lời nói, hành động; nhưng đôi khi cũng một cách nghệ thuật, biểu hiện chúng bằng cách thông qua miêu tả cái đẹp, cái hồn của vạn vật, thiên nhiên. Thơ Mặc Giang cũng bao gồm những từ ngữ hay đẹp như Trường Sơn, Thái Bình, sông Tiền, sông Hậu, sông Hồng Hà, sông Thu Bồn, sông Gianh, Bến Hải, Bắc Ninh, Thăng Long, Hồ Gươm…. Có thể nói rằng, thơ Mặc Giang là một trong những từ ngữ đẹp của Việt Nam. Nhắc đến thơ Mặc Giang, chúng ta có cảm giác gần gũi, đẹp, thanh thoát và dễ chịu. Chúng ta có thể từ trong nghệ thuật ngôn ngữ, di sản văn hóa và non nước hữu tình để xem thơ ông, thì sẽ thấy thật đặc biệt, cao xa nhưng dung dị; thật bình thường dân dã, nhưng không tầm thường.
       Thơ ông mang một tinh thần văn hóa khiêm dung: nông nghiệp lúa nước, lấy đời sống người dân lao khổ làm trung tâm. Ông thường mô tả cái cảnh dân quê lam lũ với ruộng quắn khô cằn, mái tranh nghèo, vườn rau xanh ngát, khói lam chiều phủ kín quê mẹ; xem cả thành thị miền quê đều là trung tâm. Mặc Giang còn đề cập đến những vấn đề như : tôn giáo, sức lực nguyên khí tràn đầy, sắc màu cổ kính, một tinh thần văn hóa vừa kế thừa, vừa sáng tạo. Vậy, thi ca Mặc Giang cuối cùng vẫn liên quan đến những gì thuộc tâm linh, tính chất tâm linh của người Việt Nam, đó chính là văn hóa tinh thần thâm sâu của thơ Mặc Giang.
Vậy, thơ là gì, là sinh mạng của con người. Nó “như mê bỗng giác, như người nô lệ thoát kiếp, như bệnh được lành”. Cho thấy, thơ là tất cả những giá trị băng vượt thời gian. Thơ chính là thức tỉnh lòng người, là cái gì đó rất gần gũi với thế giới tâm linh và bản thân cơ thể vật lý của chúng ta, là từ trong khốn khổ đau thương, phù phiếm hoa lệ, mà thức tỉnh và thấy được chân thân của chính mình.
Có hay không có chân thân, thiết nghĩ, trước nên thêm một bước luận chứng điều này. Như nhân sanh có huyễn thân và hóa thân, cũng vậy, thơ chính là tự ngã của lòng thương có sức mạnh và tự bản thân thơ cũng rất đáng yêu, vì là cái đẹp trực giác. Ngày xưa có hai vị thiền sư, hôm nọ thảo luận một vấn đề, vị thứ nhất nói nhiều đến vấn đề liên quan trời đất vũ trụ. Khi đến lượt vị thứ hai, ông ta bỗng nhiên thấy trong hồ có một đóa hoa sen đã nở, bèn nói : “khi thấy đóa hoa này, rõ biết đời huyễn mộng”. Một ví dụ khác: có một Đại sư đêm nọ ngủ trong một khu rừng. Bấy giờ có một người hái trộm dưa bên rừng, thấy trăng sáng hiện ra, ông ta lập tức ứng khẩu làm bài thơ:“trăng sáng mày chớ ra, đợi ta hái xong dưa, ta đem dưa đi rồi, mạêc tình mày ẩn hiện.”Vị Đại sư nghe rồi nghĩ rằng, ngay đứa trộm cũng biết làm thơ, ta lẽ nào không biết sao? liền ứng khẩu một bài :“ác Ma! mày chớ xuất hiện, đợi ta đoạn phiền não, phiền não đoạn xong rồi, mặc tình mày ẩn hiện.”Sau khi đọc xong bài thơ, Đại sư lặng lẽ đi sâu vào thiền định. Đây cũng là câu chuyện về sự tùy cơ dụng công, là trí huệ, và kết qủa cuối cùng được đánh dấu thông qua trực giác của tâm. Do đây, có thể nói, thơ là biểu hiện của trí tuệ, tầm quan trọng của thơ ca chính là tầm quan trọng của trí tuệ; còn đọc thơ là tiếp xúc với kinh nghiệm cảm tính mới mẻ; đọc nhiều thơ, càng tiếp xúc thư giản với những kinh nghiệm cảm tính càng nhiều hơn, cũng như xem hoa, như nhìn trăng. Do vậy, đọc thơ đọc đến nhập tâm, đột nhiên cảm thấy, dường như người xưa là người trong mộng của chúng ta, chúng ta lại cũng là thân đời trước của người xưa. Đôi lúc thơ là chắt lọc của những hồi tưởng rất ý vị, những nhận thức sâu sắc trong trần thế, những cái nhìn nhạy bén từ góc cạnh thâm sâu trong cuộc sống, nhưng cuối cùng thơ vẫn là những cảm tính luôn mới mẽ, vực dậy từ hố sâu của nhận thức lý tính.
  Thơ Mặc Giang là những ý thơ, hồn thơ tiêu biểu đại diện cho sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hai yếu tố cảm tính và lý tính như vừa nêu trên, nên khi viết về đất nước và con người Việt Nam bằng nhiều hình ảnh và thơ phong khác nhau, thơ ông hoàn toàn đủ tư cách đại diện cho sự tài hoa trong việc lột tả tinh thần, khí chất, cốt cách của người Việt Nam, con người của sự hướng nội với đời sống tâm linh phong phú, của sự kế thừa nền văn hiến mấy ngàn năm, của kiên trung nghĩa khí, cũng là con người của sự hội tụ chọn lọc của những gì thâm sâu, huyền bí, nhưng cũng thực tế nhất, hiện thực nhất.
Vì vậy, nếu khi chúng ta xa quê, mà đọc mấy câu sau trong trong bài Chùa tôi của Mặc Giang, chắc ai cũng ngậm ngùi, như đang đưa hồn mình về với cội nguồn Tiên Tổ :
Chùa tôi nho nhỏ bên làng.
Bên dòng sông quyện, bên hàng thông xanh,
…Chùa tôi cửa trước cửa sau,
Mỗi lần Hội lớn kéo nhau ra vào,
Lời kinh tiếng mõ thanh tao,
Tiếng chuông ngân vọng rạt rào hồn quê      
…Chùa tôi còn có quê tôi,
Quê tôi còn có chùa tôi muôn đời.
Trong quê đã có chùa, và trong chùa cũng vốn có quê. Chùa là là một biểu tượng văn hóa không thể thiếu trong quần thể văn hóa vật chất, tượng trưng văn hóa Việt Nam, là nơi kí thác tâm linh và nỗi niềm thầm kín nhất của đa số người Việt Nam. Hễ nói đến văn hóa Việt Nam, thì hình ảnh ngôi chùa bỗng hiện lên trong tâm hồn sâu lắng của hầu hết người dân quê Việt Nam. Hình ảnh ngôi chùa ăn sâu vào tâm hồn người Việt một cách tự nhiên, không gượng ép, không giáo điều, không quyền thế. Bởi trong dòng máu của mỗi người như đeo mang nó từ lúc cất tiếng chào đời. Do đó, Chùa là một hình ảnh sinh động nhất trong văn hóa tinh thần và văn hóa phi tinh thần của Việt Nam bởi tính thân thiết, hài hòa, thanh đạm, tự nhiên. Chính vì hình ảnh mái Chùa là một giá trị văn hóa quan trọng không thể thiếu trong mạch nguồn văn hóa Việt Nam như thế, nên ngay từ xa xưa, dân tộc ta đã có câu ca dao :
Mai này tôi bỏ quê tôi
Bỏ trăng bỏ gió, chao ôi ! bỏ Chùa 
Người ra đi xa xứ xa quê đó đã sớm xác định được rằng, “mái chùa che chở hồn dân tộc”, là “nếp sống muôn đời của Tổ tông”. Nên nếu phải ra đi, bỏ quên tất cả những kỉ niệm đẹp đẽ thanh tao của quê hương, là đã đau lòng lắm rồi, nhưng cũng có thể nguôi dần theo năm tháng. Nhưng Chùa, thì làm sao lại quên, làm sao lại không đau lòng xót ruột, không vấn vương quyến luyến, bịn rịn lúc biệt ly, nên cảm động và than van não nuột: “chao ôi ! bỏ Chùa”. Cho thấy, đời sống tâm linh hay tinh thần của người Việt Nam nói chung ngay từ xa xưa đã gắn liền với “đất vua, Chùa làng, phong cảnh Bụt”, là đời sống tâm linh linh thiêng phong phú nhất, mà hình như hiếm tìm thấy ở một quốc gia nào.
Đời sống tâm linh gắn liền với ngôi Chùa, chính là đời sống đạo đức tinh thần được thiết lập trên những đạo lý căn bản về hoàn thiện nhân cách, trong sạch từ lời nói đến hành động. Vậy, nếp sống tâm linh hay xu hướng hoàn thiện chuẩn mực đạo đức của người Việt Nam xuyên qua hình ảnh hòa vang thân thiện của ngôi Chùa, cho ta thấy thi sĩ Mặc Giang đã xác định và cũng nâng cao tầm mức chiều sâu tâm hồn Việt Nam, tâm hồn biết xúc cảm và rung động sâu xa trước bao nỗi khổ niềm đau của cuộc đời. Đó mới chính là tâm hồn chính thống Việt Nam, là trái tim Việt Nam, là suối nguồn đi về vô biên của tình thương và sự thức tỉnh.
Cũng chính suối nguồn ấy như là“định hướng cho thuyền đời và nảy hoa cho cuộc sống”, để con người Việt Nam mang nó đi khắp trên mọi nẻo quê hương bằng nhiều hình thái không giống nhau. Và đó là mạch nước đầu nguồn để dân tộc Việt Nam cảm thấy mình như đang đi xuôi thuận về miền quê hương tiền bối, nên trong hoàn cảnh chênh vênh nào đó của thời cuộc, khi mà thời gian như vẽ ra vết hằn uất hận nào đó trong chiều dài lịch sử tổ quốc, con người Việt Nam sẽ thốt lên : 
Tiếng khóc quê hương tê tỉ ruộng đồng
Tóc mẹ trắng xỏa chiều dài lịch sử
Bàn tay mẹ đưa con về tình tự,
Mái lều tranh ấp ủ những ngọt bùi  
(Cuốn một bờ lau)
Con người Việt Nam là con người của dân tộc thuần hậu, hiểu biết, biết lắng nghe, lắng nghe được những đau thương đã qua hay hiện tại của đất nước, hay những niềm đau thầm lặng tím ruột bầm gan của giang sơn, nghe rõ từng tiếng khóc tê tỉ, nghe tận cùng nỗi niềm của dân tộc. Khi đọc dòng thơ trên, chúng ta sẽ cảm thấy, trong tiếng khóc quê hương, trong nỗi buồn của mẹ, người con được đưa về trong tình cảm ngọt bùi, chính là bối ảnh của mình, lòng bỗng nhiên cảm thấy cảm động và ấm áp khó tả. Cho thấy, vì thơ Mặc Giang đã biểu đạt nhân tính tương thông kim cổ, là dùng kinh nghiệm cảm tính vĩnh viễn mới mẻ để biểu đạt. Vì vậy nên nói rằng, thơ Mặc Giang, một mặt là nhân tính vĩnh hằng, còn mặt kia là sự mới mẻ, là cảm tính vĩnh viễn. Mà nhân tính cổ kim tương thông này chính là niềm mơ ước trong nội tâm thầm kín của văn hóa Việt Nam. Người viết nghĩ, văn hóa Việt Nam của chúng ta, nằm mộng cũng mộng đến chỗ đẹp nhất, sâu sắc nhất, chính là tinh thần nhân tính tương thông cổ kim. Vĩnh viễn của ruộng đồng, của mái nhà tranh, sau lưng nó là thế giới nhân tính vĩnh viễn.
Chính cái nhân tính vĩnh viễn này đã tạo cho con người Việt Nam một hướng đi theo chiều tích cực khác, càng chứng tỏ đất nước Việt Nam là đất nước của những con người làm nên lịch sử. Và làm sao mà con người Việt Nam đã thực hiện được điều đó, chúng ta thử xem Mặc Giang viết : như “Noi chí khí là con đường phía trước. Chớ không trùm mền, nằm đợi phía sau, Băng tang hải đạp biển dâu, Sống hiên ngang, đứng ngẩng đầu”, như “Nhớ Trưng Vương cỡi voi dẹp giặc đất Mê Linh. Nhớ Triệu Trinh ra khơi vỗ sóng cỡi cá kình. Nhớ Đống Đa, tuyệt thế Quang Trung” hay như“tôi mạnh bước ra biên thùy dậy sóng”, rồi “thời tao loạn, nhuộm mình trong khói lửa”. Đất nước Việt nam là đất nước sinh ra những con người bất khuất như thế đó. Con người Việt Nam là anh hùng như thế đó, và sẽ hiên ngang như vậy đó. Đây cũng là khí tiết tự quyết của Trần Quốc Tuấn, dõng dạc dứt khoát của Trần Bình Trọng, quyết đoán của Quang Trung Nguyễn Huệ…. Thời đại nào, Việt Nam cũng sẽ có những con người như thế ấy, sẽ tiếp tục trên con đường đó, nếu cần thì sẵn sàng làm người lính tiên phong, xông pha ngẩng đầu đối diện sống chết như cha ông đã băng mình trên sa trường, mà máu hồng mãi như tắm nhuộm cho non sông thêm gấm lệ kiêu hùng.
Đề cập những tên tuổi vàng son của những anh hùng bất khuất sáng ngời lịch sử, thi nhân Mặc Giang như cảm thấy ấm lòng, ngòi bút như thần tiên chắp cánh, bởi đã thấy trong con người Việt Nam của mấy ngàn năm văn hiến là sức mạnh Phù Đổng vươn mây, là sự tuôn chảy ồ ạt của sông Hồng, là chiều cao của ngọn Ba Vì, và luôn là trong chiều hướng hội tụ đoàn kết nhân tâm của Hội nghị Diên Hồng. Đó cũng là mở đường cho sức mạnh của thời đại Đinh, Lý, Trần, Lê, là thời đại đại diện cho cái nôi tinh thần làm nên chiến thắng vẻ vang sống động sông núi hồn thiêng, biến Việt Nam trở thành tên gọi đất nước của những anh hùng làm nên lịch sử, đất nuớc của sông Hồng xuôi mãi về biển Đông, bồi đắp phù sa cho ruộng đồng cò bay thẳng cánh, là quê hương của muôn đời đi về trong suối mát sực nức hương hoa, để Việt Nam còn mãi là Việt Nam vùng vẫy dọc ngang, đội trời đạp đất vẻ vang giống nòi.
Ngoài ra, đề cập đến tinh anh của tinh thần, mặn mà của nhân cách khí chất con người Việt Nam, Người thơ Mặc Giang còn thường thường nhắc đến biển rộng sông dài, núi cao bình nguyên, cảnh quê nghèo dân dã, đồng ruộng khô cằn. Thơ ông có mấy câu như : “biển dâu xanh ngắt một màu”, như “gom ngàn vạn bóng phù vân, Vén mây trùng điệp tỏa vầng thiều quang”, như “tỏ soi như ánh trăng rằm, ngàn sao lấp lành ngàn năm vẫn còn”, như “đứng trên bèo bọt ba đào. Xô tan dòng nước vẫy chào trùng khơi” và “ Trường Sơn lan tỏa câu thề, Thái Bình loáng bạc, sóng kề nước reo”, đều là những câu thơ nói lên sức mạnh sung mãn ào ạt, sức sống vươn lên cuồn cuộn, hùng hậu, là những đức hạnh, những đức tính thanh cao trong sạch, là tinh thần tiết khí “thà làm cây cỏ xanh ngát bên đường, hơn hoa mỹ thêu thùa bên bờ lau gió bụi”. Sông Thái Bình, núi cao vách lớn, mặt trời, mặt trăng trong thơ Mặc Giang đều chính là cái khí quán thông sanh mạng vũ trụ, là những cái đẹp mạnh mẽ nhưng lại mềm mại dẻo dai bền bĩ kinh trời động đất, hào sảng, tình tiết và hùng tráng. Cũng như câu thơ : “trắng vàng rơi rụng bao màu đã. Vàng bạt Trường Sơn trắng biển Đông”, là sức sống mạnh mẽ, hùng hồn, khí thế. Đây chính là đại biểu thẩm mỹ ý thức của thơ Mặc Giang: cái đẹp của trời đất, hùng vĩ cảnh quan của tự nhiên -----đêm trăng, mây, sóng, ánh thiều quang… một khi cùng xuất hiện trong nhân gian, khiến nhân gian trở thành cái đẹp tồn hằng trong các cái đẹp, chúng là đại tự nhiên của sinh mạng hóa, là khuynh hướng mở ra một chân trời hứa hẹn lên màu.
Tổng quan ý nghĩa của những câu thơ trên, cho thấy thi nhân Mặc Giang đã khẳng định, cốt cách nòi giống Rồng Tiên là cốt cách của những người sống trên thế gian này mà biết thiện đãi chính mình, nếu không thì phụ đời này, luống uổng đời này. Thiện đãi chính mình là thiện đãi quê hương giống nòi, thiện đãi quê hương giống nòi là phụng hiến tâm huyết cho non sông, cho hương hồn liệt vị tiền bối đã không tiếc máu xương của mình, đã nằm xuống cho Việt Nam trời quê thêm xanh ngát ruộng đồng, cho Việt Nam biển Đông thêm ấm gội nắng hồng.
             Có một số thơ của Mặc Giang, đọc lên nghe rất bình thường an định, trầm tĩnh, nhưng cũng mang cái đẹp nguyên khí quán thông vũ trụ, có trời có đất, trong cái nhiêu khê chật vật chìm nổi, là cái đẹp thường nhiên. Như “Cây đa còn đứng đầu đình, cành mai trước ngõ nghiêng mình trổ bông”, như “thác róc rách trên đèo heo hốc núi, nước khơi nguồn chìm nổi giữa dòng khe” đều là khí mạch tràn trề không gián đoạn của con người và vũ trụ. Như “đi về thăm hỏi mùa đông, giá băng đâu mất bếp hồng ấm êm. Mùa thu còn ngủ bên thềm, rụng rơi lá úa đâm chồi lá non”, “bếp hồng ấm êm” “đâm chồi lá non”, chẳng phải là cái đẹp trôi chảy tiềm tàng vô biên tế, sinh đôïng không dừng nghỉ của không gian, thời gian, của đất trời, của con người  đó sao. Những câu thơ này đều là tiết tấu sinh mạng của thi nhân, tiết tấu sinh mạng cảm thông cả vũ trụ.
Rồi như khi viết về các tỉnh của Việt Nam dấu yêu, Người thơ Mặc Giang có mấy câu như : “đi ra tận cửa Hải Phòng, trùng dương sóng vỗ, Hạ Long tuyệt vời”, “Cam Ranh mây nước xanh lam, Đà lạt mơ mộng suối vàng Cam Ly”, “Sài Gòn nói thiệt nào hơn, viễn Đông hòn ngọc dễ sờn mấy ai”. Mặc Giang cho ta thấy, cái đẹp nổi bật của tỉnh vùng, cũng là cái đẹp tinh khiết, cái đẹp như đã được tôi luyện giồi mài trong truyền thống đậm màu tâm linh của trong tâm hồn con người xứ ấy nói riêng, của người Việt Nam nói chung. Chưa dừng lại ở đây, thi nhân còn đưa chúng ta đi thưởng thức cái đẹp thanh tao như chưa từng vướng lụy của đất trời :“đi vào sợi nắng long lanh, trời xanh loáng bạc rơi nhành thùy dương”. Văn tự ở đây rất dễ hiểu, đơn giản, rất bình thường dung dị, nhưng đọc lên, cho ta có cảm giác thật dễ chịu, thật thông thấu. Mặc Giang còn có một câu thơ nghe rất hay trong hình tượng tư duy, đẹp trong cái đẹp vần vũ hài hòa của đất trời : “suối vắng ven đồi reo róc rách. Đêm thanh gió lộng nhạc thần tiên”, là cái đẹp đặc biệt, mặn mà, đầy nội lực, cái đẹp không biến hoại đổi thay theo ngoại cảnh. Đọc rồi, cho người ta cảm thấy cuộc sống rất đẹp, rất mới mẻ hoạt bát, hoạt lực, có sức mạnh tiềm tàng.
Ngoài ra, còn có một số thơ vừa đọc, ta thấy có chút thương cảm, khiến thương hoa tiếc ngọc, nhưng thực tế nội lực bên trong rất mạnh, rất sung mãn. Như “trăng lặn dòng sông đêm mấy canh”, “tầng không én liệng buồn bay cuối trời”. Vậy thì đó là cái cảnh buồn thâu não ruột, buồn đến ngẩn ngơ đờ đẫn, không thiết gì cảnh sống đang vươn lên đầy sinh lực ? hoàn toàn không phải, mà thực tế sau cảnh này là “lúa đơm bông ngậm sữa ướp tinh anh”, là “như mùi mạ con, mơn mởn xanh non, như bông lúa thơm chờ mùa lúa chín”. Đây đều là những sức sống vươn lên trong sức mạnh của cái đẹp mà sự hoàn thiện tròn đầy đang chờ mong. Ngoài ra, ông cũng có những câu đọc lên nghe một chút âm hưởng giọng điệu u buồn như “tiếng dế kêu nghe ủ dột mùi sương”, “núi vẫn ngủ bên rừng già giá lạnh, rừng vẫn yên bên núi thẳm thâm u”, nhưng thực chất chuyển tải bên trong đó chính là sức mạnh, là cái cảnh huy hoàng ấm áp xán lạn của cảnh vật hòa trong điệu sống tràn đầy sinh khí, hoạt lực vô cùng, mạnh mẽ như vũ bão, mạnh như mạ xanh non chờ lúa mới . Trong tiếng kêu ủ dột của tiếng dế, trong giá lạnh của rừng già và âm u của núi, thì lúa mọc lúa tàn, hoa nở hoa rụng, vốn có bao nhiêu vạn vật mãi mãi sinh trưởng tự nhiên mạnh mẽ như hít thở không khí, không gì có thể ngăn cản nổi. Cũng thế, bao nhiêu âm thanh hình sắc đều sẽ qua đi, nhưng không phải hoại mất, mà là đang chuyển từ dạng thức này sang dạng thức khác mới mẻ hơn, hoàn chỉnh hơn trong quy luật vận động sinh tồn và chuyển hóa. Tâm tính con người Việt Nam, đất nước của những người con máu đỏ da vàng cũng vậy, tuy trong những tiến trình khác nhau trong qúa độ chuyển hướng hoàn thiện hơn trong cuộc sống, đã không ngừng đấu tranh sinh tồn để có một cuộc sống vật chất hoàn thiện và tâm linh trong sáng hơn.
Chỉ có mấy câu thơ, nhưng lại rất thiết thực ích lợi đối với nhân sinh, với đạo lý sinh mạng, có khả năng khai mở một thế giới vô hạn của sự tiến bộ, của tri thức, của tình thương và sự hiểu biết. Thơ Mặc Giang đúng là một tâm linh bất tử. Thơ ông lẽ nào không phải biểu đạt mộng ước của con người trong văn hóa tinh thần Việt Nam đó sao. Thơ Mặc Giang là tinh thần của sáng sớm, là sức mạnh tuổi trẻ, không phải là trà chiều. Trà chiều là hồi vị, phản tỉnh trầm tư nếu không ngừng suy nghĩ vấn đề. Mà sáng sớm là không đề cập vấn đề, không phân tích; sáng sớm leo lên núi cao, là để dành tình cảm cho núi, ngắm biển thời ý tràn ra biển, là trong lành mát mẻ, là tinh thần phấn khích phóng khoáng.
Chính tất cả sức sống dạt dào, hướng sống mạnh mẽ, dứt khoát trên, đã tạo nên cho con người Việt Nam một tâm hồn rộng mở, sẵn sàng chào đón chăm nhận tình đồng loại. Từ sự ít cố chấp, không hẹp hòi ấy, đã hình thành trong lòng sự cởi mở hào phóng, do đó, tâm hồn họ cũng ý vị sâu sắc, rất hay, rất đẹp. Tại ý này, Mặc Giang có mấy câu như : “tay ôm giấc điệp mân mê, vầng trăng nghiêng bóng nằm kê gối đầu”, như “bên hồ bóng nguyệt lung lay, nương làn sóng biếc đưa tay lên ngàn”, “nằm đáy biển gối đầu non, phơi mình dưới nắng tựa hồn đỉnh cao.” Tất cả đều gần như cái khí chất thong dong diễu cợt cùng chiếc bóng thời gian, như là ý thức về giá trị cuối cùng của nhân sinh là gì, đâu là giá trị chân thật giữa dòng đời phù phiếm điên loạn. Đọc mấy câu này, người viết bỗng nhớ đến phong thái của những bậc Hiền Thánh, các vị do sống không kẹt vào ý niệm không gian thời gian, nên thong dong trong giấc ngủ, rồi ngày mai chỉ tựa cửa nhìn trời, và cũng là phong thái :“bẳng quên thân thể chẳng hề vương, lặng lẽ ngồi lâu lạnh cả giường, năm đến trông non không sẵn lịch, nhìn xem cúc nở tiết trùng dương …. Lò hương tàn lụi, mặt trời lên”, là phong cách sống rất Việt Nam, rất thâm thiết với nguồn cội Tiên Rồng. Tuy nhiên, Mặc Giang không phải khẳng định sự thống nhất về phong thái sống giữa hai mẫu người, nhưng ít nhất, thi nhân đã tự khẳng định rằng, trong ngàn vạn người sống trong quay lộn loay hoay như con rối, vẫn luôn xuất hiện những con người siêu thoát ấy, họ tồn tại như một tài liệu sống, và bất kì thời đại nào cũng có. Đó chính là sự hội tụ tinh hoa của tâm hồn con người Việt Nam, đỉnh cao của nội lực tinh thần sung mãn, là phong thái của anh hùng Trần Nhân Tông, một hướng sống đại diện cho tâm hồn trí thức Việt Nam triều Trần: “ở đời vui đạo hãy tùy duyên, đói đến thì ăn, mệt ngủ liền, trong nhà có báu thôi tìm kiếm, thấy cảnh vô tâm hỏi chi thiền.”   
Tất cả những tinh thần khí chất trên, đã tạo nên một con người Việt Nam biết vun vén xây đắp tình người như keo sơn, như biển với bờ. Mặc Giang có một số câu : như “Thái Bình ngóng đợi sơn khê, Trường Sơn lan tỏa, vỗ về biển Đông”, như “núi cao gối tựa non sông, sông sâu in bóng, non bồng núi cao” và “ngày mai biển trở về sông, non quay về núi, cội trông về nguồn” nghe như một lời chung thủy sắt son, hay như một sự trở về đoàn viên. Đây phải chăng nói lên tình yêu nước của người lính chiến và mong ngày hoan ca khải hoàn trở về, là tình bạn cảm động thiêng liêng, cùng dìu dắt nhau đi trên cuộc đời, là chung thủy của tình thầy trò, tình Sư đệ, tình quân nhân, tình đồng môn đồng đội, tình chung thủy của vợ chồng, và tình gắn bó với quê hương nòi giống. 
Tình chung thủy, tình keo sơn gắn bó trong mọi quan hệ trong cái khí chất trung trinh tiết liệt ấy cố nhiên là niềm tin yêu, hy vọng ở ngày mai, quyết không thể để cho trái sầu chín rụng, cho sự thất vọng lên ngôi. Biểu đạt ý này, người thơ Mặc Giang có mấy câu sau: “ngày tàn gọi bóng chiều rơi, tà dương chưa ngủ trên đồi mênh mông”, hay như “bóng tối thâm u lộ chiếu trăng vàng, màn đêm khép lại cho vầng trăng ló dạng”, hay “đêm về gõ cửa canh thâu, màn đêm e ấp gối đầu bình minh”. Sự đợi chờ hy vọng ở ngày mai, cũng là một trong những cái khí, cái chất quan trọng quý báu của người Việt Nam. Nó là sức mạnh un đúc nên sự chiến thắng, tạo nên cho con người Việt nam cái nhuệ khí mà không gì có thể bào mòn, để cho anh cho em quyết chí hạ thủ công phu đèn sách, chờ ngày gặt hái thành quả, thành bậc anh nhi xây đắp cống hiến cho đời; để cho người lính chiến hùng dũng xông pha ra xa trường; cho người chinh phụ thêm sức sống; cho đất nước bốn mùa mãi xinh tươi trong niềm vui đầy hứa hẹn như màn đêm e ấp gối đầu bình minh, như sự đợi chờ hy vọng của cô Tấm trong chuyện cổ tích.
Sở dĩ tinh thần khí chất của dân tộc Việt Nam được thi nhân Mặc Giang nhận định đánh giá một cách khách quan, thông qua những diễn biến của quá trình lịch sử cũng như phong thái tâm hồn và lối sống, là vì thi nhân đã tiếp thu và xây dựng cho mình sự hiểu biết rằng, do con người Việt Nam trong thầm kín nội tâm, đã xác định sự quan trọng của tổ hợp thân thể tâm lí và vật lí này. Hay nói cụ thể hơn, họ hiểu “con người là cây sậy có tư tưởng”, hay như Đức Lão Tử nói “người là linh hồn của vạn vật”, còn Phật giáo nói “con người là tối thượng” và“hãy tôn trọng tánh linh của mình”. Điều này muốn nói rằng, sinh mạng con người là cái đẹp nhất, quý báu nhất trong khoảng trời đất này mênh mông này. Đây cũng chính là một nhận định quan trọng trong văn hóa Việt Nam thời cổ đại. Do vậy, ông cha ta ngày xưa đã dạy phương cách để hoàn thiện và phát triển nhân tính là: “ngọc nát còn hơn giữ ngói lành”, hay “áo rách có cách người thương”. Và cơ sở để thiết lập sức mạnh xây dựng nhân tính, đó là sự xác định rõ rằng: “dù xây chín đợt phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho môït người ”. Nhờ đó, con người mới quý tiếc thân mạng này. Nói tóm gọn, “con người là tối thượng” có mấy nghĩa là: con người là sáng tạo thiện ý của vũ trụ, sanh mạng là cao quý tốt đẹp, không thể hạ thấp và ép chế nó, ý nghĩa con người sống trên đời chính là nét đẹp thiện đãi sinh mạng, nỗ lực phát huy khả năng của mình để không phụ đời này, không luống uổng đời này. Bất luậïn khó khăn đến cỡ nào, cũng không buông lơi. Quan trọng như chiếc bè dùng để sang sông, cũng vậy, duy nhất con người mới là nhịp cầu giữa Thánh hiền và phàm phu trầm luân.
Ít nhiều, con người Việt Nam trong cái nhìn của thi nhân Mặc Giang, là con người của hội tụ đủ ý thức và kiến giải như trên. Do vậy, tinh thần nhân tính của văn hóa Việt Nam được biểu hiện trong thơ Mặc Giang, có thể có kết luận đó là: tinh thần tận khí (mạnh mẽ xốc vác hết mình), tận tài (dốc hết khả năng tài hoa của mình), tận tâm (dốc hết lòng mình để sống phục vụ trọn vẹn cho quốc gia), tận tình (đem chân  tâm thiện ý, chính trực mà đãi người ). Nhân sanh cần phải như thế, vĩnh viễn như thế không thôi dứt.
Những câu thơ tứ thơ có liên quan biểu đạt tinh thần, khí chất con người Việt Nam của Mặc Giang, có thể là những sự nhìn nhận, phát biểu ý kiến của cá nhân đối với tiền bối trong nhiều giai đoạn quá khứ; có thể là vừa nhận định và cũng vừa khuyến giải cho thế hệ hiện tại và cho cả mai sau. Thế nhưng, thi nhân cũng như chỉ làm một việc đơn giản, là:
Tôi vẽ một người Việt Nam, máu đỏ da vàng
Tôi vẽ một Nước Việt Nam, gấm vóc ba miền
Tôi vẽ một Nước Việt Nam, sông núi hồn thiêng
Trao từng thế hệ ngàn sau gìn giữ
Lội ngược thời gian theo dòng lịch sử
Của giống Rồng Tiên tình tự xưa nay
Và truyền lưu đến tận ngày mai
Cho rạng rỡ oai linh nước Việt. 
(ta còn Việt Nam sông núi hồn thiêng)
Đây như là một bài hùng ca cô đọng sau cùng, mà mỗi câu đã bao hàm xác định, phân tích, giải thích, chứng minh và ngợi ca về con người, về đất nước của mấy ngàn năm văn vật.
Tinh thần sinh mạng tích cực, tiến thủ mạnh mẽ, hướng thượng của thơ mặc Giang không phải chỉ là chất liệu khai phóng thời đại, mà còn là tinh thần rất Việt Nam, rất dân tộc, rất tự hào, rất nghĩa khí, nó rất cần thiết để xây dựng sức mạnh cả tâm linh cho một đơn vị, một tập thể, một cộng đồng, và xa hơn nữa là cho đến một quốc gia.
Ngày nay đang sống trong trào lưu vật chất, trong đắm chìm của cám dỗ cảm giác, thì những khủng hoảng đạo đức nhân tính của con người nói chung luôn là niềm đau nhức thấu tâm can của những kẻ sĩ, của đấng quân tử trượng phu nói chung và người thơ Mặc Giang nói riêng. Cho nên việc làm, ngôn từ và tứ thơ của họ không những chỉ là sự xác quyết nhận định đầy tự hào kiêu hảnh, đồng thời cũng chính là những nhiệt huyết với tinh thần dân tộc, tinh thần của tính tự quyết tự thiện với những ý thức cao độ. Do đó có thể nói rằng, giờ là bối cảnh phù hợp nhất, là hoàn cảnh cấp thiết nhất để đọc thơ Mặc Giang, nhằm cải tạo nhân tâm, vun bồi đạo nghĩa, củng cố tình người. Nhờ chúng ta là những người mang trong mình dòng máu tiên tổ cha ông với cốt cách và nghĩa khí kiên trinh, nên cho dù hoàn cảnh hay thời đại nào, các bậc trượng phu quân tử cũng hy vọng rằng, người Việt Nam chúng ta sẽ mãi là con người của tình thương, lý trí, nghị lực, không khuất phục biến thái dưới bất kỳ danh nghĩa nào, để lịch sử Việt Nam mãi chói sáng, để tinh thần khí chất, tiết liệt của người Việt Nam mãi mãi là những giá trị xuyên vượt thời gian.
Hồ Bảo Quốc
 
 

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Biểu hiện tinh thần khí chất Việt Nam trong sáng tác của Mặc Giang - 10.06.2010 04:06:58
Lòng Thành
-o0o-
“Mọi hiện hữu trong cuộc sống hồng trần
Như dòng chảy trùng trùng nhân duyên khởi”
Mặc Giang 
 
Ngày ấy, tôi như cánh nhạn lẻ loi tẻ nhạt bơ vơ trước muôn ngàn lối đi bí ẩn của cuộc đời. Tôi cất tiếng hát buồn tênh để gọi bầy trông bạn nhưng chẳng có tiếng nào đáp trả dù chỉ một lần thôi. 
Cho đến một hôm, tôi đang u buồn theo dõi những bước lang thang của đôi chân bao lần muốn ngã qụy, lẩn thẩn như người khách lạ cố tìm người quen. Hạnh phúc thay ! tôi đã gặp được vườn hoa Đạo Pháp của thi sĩ Mặc Giang. Tôi mải miết rong chơi trong đó, chiêm nghiệm từng loại hoa với cuộc đời. Ôi ! một vẻ đẹp lạ thường, cái hương đức hạnh, hương từ bi, hướng chánh pháp … đang ngược gió lan tỏa khắp muôn phương. Mặc Giang ! người lữ khách đi tìm trăng sao cửa động, đá đầu non trên “chiếc cầu mộc mộc” cheo leo giữa thế giới ba ngàn. Người đã trao cho tôi đóa hoa giác ngộ, những lúc này đây, tôi đã ngửi được hương vị giải thoát và lần theo đó mà chuyển hóa tâm mình qua những lời thơ tràn đầy nhiệt huyết, chân thành, thân thiện. Tôi đã tìm thấy sự tịch tịnh của tâm hồn, và cuộc đời tôi đã được hồi sinh từ dạo đó… 
Và cứ thế, theo thời gian, lá vẫn trải mình xanh non mấp máy xinh xắn như miệng em bé thơ ngây, những cành non đâm chồi nảy lộc óng ả xanh tươi. Hoa Đạo Pháp nở rộ. Những vần thơ của thi sĩ chan chứa tình người như những làn mây lướt qua làm dịu lại ánh nắng mặt trời để sưởi ấm lòng người. Xa xa, từng đàn én chao liệng gọi bầy ríu rít, vui tươi như hát lên bài ca muôn thuở của đất trời hòa cùng lời ca của Mặc Giang ca ngợi hương hoa Đạo pháp. Tình người tỏa sáng. Niềm tin yêu cuộc sống được thắp lên. Những cánh hoa vần vũ, lên xuống, lại qua giữa đôi bờ tình thương và trí tuệ. Những đóa hoa vẫn cứ hé nở, khởi sắc, ươm nhụy và tỏa ngát hương lành :
“Hoa Chân Lý tỏa thường hằng bất biến
Nở an nhiên cho vạn hữu tồn sinh
Một là hai, hai là một nguyên trinh
Không biến hoại trên hành trình giải thoát » 
 

Lần nữa dạo chơi giữa cõi trần, tôi lại bắt gặp Vườn hoa Đạo pháp của thi sĩ Mặc Giang qua Mở Cửa Nguồn Tâm 2. Đây là nơi lý tưởng nhất để cho ta tìm lại với chính mình, Vườn hoa ấy, mỗi loại hoa là một trong muôn vàn trân quý của gia bảo Phật pháp, làm kim chỉ nam cho lộ trình tìm về bờ giác, giúp con người tìm lại Phật tánh trong căn nhà thâm tâm của mình :
« Mở rộng, không còn đâu chốt khóa
Cửa nào khép gió lộng càn khôn
Nguồn sống, muôn đời luôn sáng tỏa
Tâm như, muôn thuở rạng sắt son » 
Thiết nghĩ, nếu đã bước chân vào cuộc đời thì phải chấp nhận nỗi dày vò của thế cuộc với bao đợt sóng trần ai. Song đến với thơ Mặc Giang, suối nguồn luân lý đạo đức chuẩn mực, mở ra cho cuộc sống đương đại, cho con người đang sống trong biển trầm luân sinh tử nghiệt ngã của vô minh, một cơ hội chuyển hóa, quay về với cội nguồn thánh thiện. Từ đó bạn sẽ hiểu rằng, nỗi đau của trần thế chẳng qua chỉ là một thoáng thăng trầm cho bước đường ước hẹn. Và một ngày kia, bầu trời sẽ lặng gió mưa bay, bể đời sẽ không còn những con sóng não phiền nhấp nhô nơi cõi nội. Đó chính là tấm lòng và tâm huyết của nhà thơ :
« Tôi viết, cho đời bớt khổ đau
Đừng mang cay đắng tạo ưu sầu
Đừng mang oan nghiệt xây phiền lụy
Mà tỏa hương thơm đượm sắc màu » 
Giữa cuộc lữ «Vạn sầu đeo thế kỷ », thi nhân đã gieo trồng, un đúc cả một Vườn hoa Đạo pháp chan chứa tình thương, nở bình yên, thanh thản. Nhà thơ đã hàn dựng lại cả một cuộc tái sinh thầm lặng để cho mọi người ai ai cũng có cơ hội tiếp xúc thẳng với bổn tâm, trực tiếp nghe dòng sông tâm linh đang ngày đêm trôi chảy về miền chân như bất hoại, làm cho tâm hồn con người trở nên thuần tuý, cảm thọ, nhẹ nhàng, thanh thoát, và an lạc, vững vàng bước đi trong cõi vô thường. 
Hoa Đạo pháp đã đơm bông !
Nhà thơ đã trao tặng cho ta món quà tinh thần vô giá. Thi sĩ không chỉ để dành tặng ngày sinh nhật, ngày lễ … mà đây chính là những đóa hoa Người tặng cho ta suốt cuộc đời, là hương ngát tình thương bàn bạc diêm phù, là ngọn lửa ấm nồng trong đông dài giá lạnh, tiếp thêm sức mạnh nghị lực để mọi người bình thản bước đi trên sáu nẻo ba đường :
« Vô thường cất bước rong chơi
Mở ra gót ngọc, ngát lời hoan ca » 
Với tình thương cao thượng, với lòng bi mẫn xót thương cuộc đời, từ ý thức sâu sắc, nhà thơ đã ươm trồng cho nhân gian nhiều loại hoa. Chính vì vậy, « Trên đất trồng nhiều hoa thì đâu ngại gì cỏ dại …» 
Ôi ! Có những người đi qua cuộc đời
Chẳng để lại một mảy may bóng dáng
Có họ hay không thì đời vẫn thế
Nhưng có những người đi qua lặng lẽ
Cõi phiêu trầm không vẽ nổi chân dung ! 
 
Trầm mặc Kinh kỳ
Ngày 20 tháng 4 năm 2009
Hoàng Thu 

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Tình Dân Lạc Việt Tấm Lòng Bậc Đại Thiền Sư - 16.06.2010 03:09:55
 
Tình Dân Lạc Việt
Tấm Lòng Bậc Đại Thiền Sư
Kính tặng nhà thơ Mặc Giang
Lu Hà


Thầy đã làm thơ gửi tặng đời
Ngàn năm lịch sử nước non trôi
Theo dòng sông thắm hồn dân tộc
Chảy mãi âm thầm thương mãi thôi

Con cháu Rồng Tiên cõi tục truyền
Âu Cơ duyên ý Lạc Long Quân
Lòng trời trăm trứng ra trăm họ
Xuống biến lên rừng xây nước non

Văng vẳng thiên thu nợ vấn vương
Kìa hồn Thục Đế khóc non sông
Bắc Nam một dải riêng bờ cõi
Dậy sóng Cửu Long gió Bạch Đằng

Thầy đã xuất gia nặng nghiã đời
Hồn thơ da diết trái tim ai
Thương yêu gói trọn ngàn câu chữ
Vạn pháp chân kinh giữ giống nòi

Một bậc Thiền Sư dạ sáng trong
Phật Đà thiên phú hạt minh quang
Điạ danh tên gọi còn lưu đọng
Chiến tích hào hùng thiên sử vang

Con đã đọc thơ kính phục Ngài
Gieo vần xếp chữ dễ như chơi
Làm thơ như thể từ tiền kiếp
Mai ẩn thiên tư cõi luân hồi

Các tỉnh liên hồi một tứ thơ
Tên người tên cảnh gắn liền nhau
Cứ như duyên lý do trời định
Lịch sử hùng văn một diễn ca

Thơ thế bài ca vẳng mái chèo
Con thuyền bát nhã trí cao siêu
Sông thương vượt sóng soi bờ bến
Giác ngộ muôn loài thoát khổ đau

Con viết bài thơ kính tặng Ngài
Lòng người viễn xứ chốn xa xôi
Hồn thơ chung một tình non nước
Máu đỏ da vàng vẫn chẳng phai....

Đức Quốc năm 2008 
Lu Hà
R
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 16.06.2010 03:14:10 bởi Viet duong nhan >

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
TÌM HIỂU BÚT HIỆU MẶC GIANG, THI SĨ MẶC GIANG VÀ “CHẤT HOA” TRONG THƠ MẶC GIANG - 16.06.2010 03:24:47
Tìm Hiểu Bút Hiệu Mặc Giang, Thi Sĩ Mặc Giang Và “Chất Hoa” Trong Thơ Mặc Giang
 Trừng Sỹ  


Để trở thành con người ý nghĩa, danh tiếng và hữu ích trong cuộc đời, ngoài cái tên thế danh ra, chúng ta có thêm một, hai hoặc ba cái tên khác nữa gọi là bút hiệu, đạo hiệu, biệt hiệu…Thế danh là cái tên gia đình do cha mẹ, người thân hoặc người thương của chúng ta đặt ra; Bút hiệu hay bút danh là cái tên viết văn hoặc viết thơ do chính mình thích và đặt ra. Đạo hiệu là cái tên đạo, cái tên pháp danh do Sư phụ hoặc thầy mình đặt ra. Biệt hiệu là cái tên riêng biệt, khác biệt do mình hoặc người khác đặt ra…
Trong bài viết này, bút hiệu và đạo hiệu được đề cập. Bút hiệu là Mặc Giang và Đạo hiệu là Nhật Tân, tên của một vị thi sĩ và tu sĩ. Bên cạnh bút hiệu và đạo hiệu, chúng ta tìm hiểu rõ “Chất Hoa” trong thơ Mặc Giang dưới đây. Theo các nhà tướng số học, cái tên có liên quan tới cái tâm và cái thân một phần. Cái tên ý nghĩa và đẹp đều có ảnh hưởng tới con người chúng ta không ít. Sau đây, người viết lần lượt đi vào định nghĩa và tìm hiểu các vấn đề trên.
Mặc Giang là một từ Hán Việt là bút hiệu của một thi sĩ. Mặc có nghĩa là tĩnh mịch, tĩnh lặng, bình thản, thanh thản, trầm lặng, yên lặng, trong lặng, lắng trong, sáng suốt, thấu suốt…Giang có nghĩa là sông, cũng có nghĩa là dòng nước của con sông. Ở trong ngữ cảnh này, Giang có nghĩa thứ hai. Mặc Giang có nghĩa là dòng nước trong lặng của con sông. Nhờ dòng nước trong, ta mới thấy được cá, cát, rác rến và lá cây. Nước trong chỉ cho cái tâm tĩnh lặng của thi sĩ. Nhờ tâm tĩnh lặng nên thi sĩ mới sáng tác ra rất nhiều bài thơ hay mang nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau như đạo Pháp, dân tộc, quê hương, làng xóm, vùng miền, cha mẹ…  
Mặc Giang1 là bút hiệu của một nhà Sư, đạo hiệu là Nhật Tân. Nhật là ngày; Tân là mới. Nhật Tân có nghĩa là ngày mới. Với bút hiệu ‘Mặc Giang’, mỗi ngày mỗi ngày mới, thi sĩ sáng tác ra nhiều bài thơ mới để cống hiến cho đời và cống hiến cho đạo. Vậy, Mặc Giang vừa là nhà thơ thời đại vừa là nhà Sư nhập thế. Thơ của ông xuất hiện trong âm nhạc, ca nhạc và trên nhiều trang web điện tử khác nhau, đa dạng và phong phú bởi vì ông viết thơ bằng cái tâm hỷ tâm xả như nước lã, ngõ ngách nào thơ ông cũng chảy tới, vùng miền nào thơ ông cũng có mặt, không vụ lợi cá nhân. Ông viết thơ bằng cái tâm cộng đồng, cái tâm tập thể, cái tâm vô ngã vị tha, nên thơ ông đi vào đạo rất dễ và vào đời cũng không khó, đối tượng nào có đủ duyên bắt gặp thơ ông đều cũng ưa chuộng.
Với bút hiệu như vậy, với đạo hiệu như vậy và với cái tâm như vậy, ông đã và đang đóng góp rất nhiều bài thơ hay cho nhân thế. Thơ của Mặc Giang mang nhiều chủ đề khác nhau, đa dạng và phong phú, trong đó đối với người viết bài này, chủ đề nổi bậc là chủ đề “Chất Hoa” trong thơ của ông. Trong bài thơ “Đóa Hoa Ðạo Ðức,” ông có đề cập tới hoa, ông viết thơ theo kiểu độc thoại vừa viết vừa trả lời:
 
Đóa hoa đạo đức là hoa gì
Tìm khắp trần gian chẳng thấy chi
Tìm khắp chợ hoa, đều chẳng có
Chưa từng nghe nói đó hoa chi.
Đóa hoa đạo đức là hoa chi
Ai biết, làm ơn chỉ giúp đi
Ai cũng lắc đầu, nghe lạ quá
      Xưa nay chẳng biết đó hoa gì.
Đạo đức đơm hoa, mới tuyệt kỳ
Mọc từ sân hận với mê si
Ươm phân phiền não, tưới ô uế
Mà kết thành hoa mới lạ hì.
Này này lẳng lặng lắng tai nghe
Lục dục thất tình thoát biển mê
Sen nở lìa bùn sao kiếm được
      Là hoa đạo đức, khó chi hè.
Đóa hoa đạo đức nở từ tâm
Thánh thiện nguồn căn kết nội hàm
Bóng tối không còn mây khuất nữa
Đêm trong bừng tỏa ánh trăng rằm
Đóa hoa đạo đức nở trong lòng
Chốt khóa ngục tù đã mở thông
Bốn biển không giam bờ ốc đảo
Thỏng tay vào chợ bước thong dong
Đóa hoa đạo đức nở tâm hồn
Tự độ độ tha nhưng xả buông
Nhân ngã trống không, lìa bỉ thử
Hư vô đâu có trói càn khôn
Đạo đức do mình, hãy tạo đi
Tự ươm, tự bón, đừng lo gì
Vun phân, tưới nước thường xuyên vậy
Thơm ngát hương lành chớ khó chi.
Nếu mình không có, chẳng ai cho
Đừng sống hoa hòe, xịt, trét, tô
Đừng bám bề ngoài mà vẽ phết
Da sần, mặt sũi, chóng tàn khô
Đóa hoa đạo đức ngát thanh lương
Độc thọ khai hoa vạn thọ hương
Như đóa vô ưu tuyệt diệu đó
Một phương lan tỏa đến muôn phương.
Đóa hoa đạo đức thật không lường
Như nước cam lồ rũ pháp vương
Sắc sắc không không bừng bát nhã
Đến nhà, còn chận hỏi chi đường.
      Đóa hoa đạo đức ấy do anh 
Do chị, do em, sống chí thành
Không khổ, không làm người khác khổ
Như mây trắng xóa giữa trời xanh
Đóa hoa đạo đức mỗi con người
Thân thiện hòa vang, kết đẹp tươi
Tiến bước trên con đường Tứ Thánh
Đóa hoa đạo đức mỉm môi cười.
(Mặc Giang – Đóa Hoa Đạo Đức – Tháng 10 – 2008)


Nhìn sự thật của sự vật bằng con mắt thiền quán, theo ý nghĩa tu tập, chúng ta biết rất rõ trong rác có hoa, trong phiền não có Bồ đề, trong khổ đau có hạnh phúc…Ngược lại, theo ý nghĩa không tu tập, trong hoa có rác, trong Bồ đề có phiền não, trong khổ đau có hạnh phúc…
Hoa và rác là nghĩa đen, nghĩa bóng của rác là các phiền não tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, khổ đau…và nghĩa bóng của hoa là Bồ đề, hạnh phúc, an lạc, tự tại, giải thoát…
Trong hoa và trong rác đều có chất tàn phai, chất héo úa, chất vô thường, vô ngã, tươi mát, vững chãi, thảnh thơi, an lạc, giải thoát…Quá trình tu tập là quá trình chuyển hóa tham, sân, si, mạn, nghi…và là quá trình gặt hái những hoa trái an lạc và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân ngay trong cuộc đời này.
Thật vậy, trong đời sống hằng ngày, chúng ta khéo biết tận dụng thời gian thích hợp để tu tập, để làm việc thiện, nói việc thiện và nghĩ việc thiện để đem lại hoa trái lợi ích cho mình, lợi ích cho người và lợi ích cho tất cả, thì chúng ta có thể chuyển rác thành hoa, phiền não thành Bồ đề, và khổ đau thành hạnh phúc. Tu là để chúng ta thấy được hoa trong rác, Bồ đề trong phiền não, hạnh phúc trong khổ đau…Từ đó, chúng ta khơi dậy và đánh thức những hạt giống hoa, Bồ đề và hạnh phúc trong thân tâm ta bằng cách thực tập, nuôi dưỡng và tưới tẩm những lời nói ái ngữ và dễ thương, những lời nói chánh niệm và tỉnh giác trong từng phút từng giây đích thực của sự sống.
Tu không phải là một sớm một chiều mới thành công được mà cần phải trải qua thời gian năm tháng tu tập, rèn luyện, thử thách, kham nhẫn, chịu đựng và khắc phục mọi chướng duyên của cuộc sống. Quá trình tu tập giỏi là quá trình ôm ấp, nhận diện và chuyển hóa tâm hành bất thiện thành tâm hành thiện. Trong suốt cả cuộc đời, nhiệm vụ cao thượng của chúng ta là tu tập giải thoát các ràng buộc, là nuôi dưỡng lòng từ bi đối với mọi người và mọi loài và là chuyển hóa những bước đi, cử chỉ, lời nói, ý nghĩ và việc làm của chúng ta cho thuần thục, thuần tịnh và thuần lạc để đem lại an lạc và hạnh phúc cho số đông. 
Trong quá trình thanh lọc và chuyển hóa, chúng ta không thể nào lìa rác phiền não mà chúng ta có thể thấy Bồ đề được. Dựa vào các phiền não để chúng ta tu tập, nhận diện, chuyển hóa chúng và tìm ra những hoa trái an lạc và hạnh phúc ngay trong thân và trong tâm chánh niệm và tỉnh giác của chúng ta. Chỉ cần áp dụng và thực tập lời Phật dạy một cách uyển chuyển, vững chãi và thảnh thơi trong từng trú xứ và trong từng thời gian thích hợp, thì chúng ta có thể chuyển hóa tà kiến thành chánh kiến, tà tư duy thành chánh tư duy, tà ngữ thành chánh ngữ, tà nghiệp thành chánh nghiệp, tà mạng thành chánh mạng, tà tinh tấn thành chánh tinh tấn, tà niệm thành chánh niệm, tà định thành chánh định, khổ đau thành hạnh phúc, vân vân và vân vân.
Dựa vào gương bụi để lau bụi để thấy được ánh sáng tuệ giác trong gương. Dựa vào con người tứ đại và ngũ uẩn để làm thơ làm văn để cống hiến cho đời và cống hiến cho đạo, để hướng tới hoa trái an lạc và hạnh phúc đích thực nơi tự thân và tha nhân ngay trong cuộc đời này.
Do vậy, lìa phiển não để kiếm Bồ đề điều đó không thể xảy ra, lìa khổ đau để kiếm hạnh phúc điều đó không thể kiếm được, lìa gương bụi để kiếm ánh sáng ngoài nó điều đó không thể xảy ra, lìa con người phàm phu để kiếm quả vị thánh bên ngoài con người chính nó điều đó không thể xảy ra.
Một người tu giỏi phải tìm thấy Bồ đề trong phiền não, hạnh phúc trong khổ đau, minh trong vô minh, chất liệu thánh trong con người phàm phu…Chúng ta hiểu và thực hành được như vậy, thì an lạc và hạnh phúc thấm nhuầm thân tâm.     
Thực vậy, mình là con người duyên sinh và giả hợp, dựa vào con người này, mình có thể kiếm được những giá trị châu báu, những quả vị an lạc và giải thoát của bậc thánh trong con người mà mình đã có. Quên và đánh mất con người, chúng ta không tìm thấy được những chất liệu ấy. Vậy, Bồ đề và hạnh phúc, vững chãi và thảnh thơi, an lạc và giải thoát được thanh lọc từ các phiền não tham, sân, si, mạn, nghi…được tìm thấy từ nơi con người tu tập và chuyển hóa của chính mình.
  
“Đạo đức đơm hoa, mới tuyệt kỳ
Mọc từ sân hận với mê si
Ươm phân phiền não, tưới ô uế
      Mà kết thành hoa mới lạ hì
Đạo đức do mình, hãy tạo đi
Tự ươm, tự bón, đừng lo gì
Vun phân, tưới nước thường xuyên vậy
Thơm ngát hương lành chớ khó chi.
Đóa hoa đạo đức ấy do anh
Do chị, do em, sống chí thành
      Không khổ, không làm người khác khổ 
Như mây trắng xóa giữa trời xanh.”


Chúng ta biết hoa được làm bằng phấn sáp, dầu thơm, nước hoa…, hoa mau tàn phai và biến đổi. Hoa được làm bằng phân, rác, không khí, ánh sáng mặt trời, nhân công…, hoa bị vô thường chi phối. Nhưng hoa được làm bằng đạo đức ta gọi là hoa đạo đức, không bị vô thường chi phối; hoa được làm bằng sự tu tập, bằng uy nghi tế hạnh, bằng sự thực tập chánh niệm và tỉnh giác…không bị vô thường chi phối, vượt thoát thời gian và không gian, chất liệu của nó rất vững chãi và thảnh thơi đối với hành giả an lạc và giải thoát.

“Nếu mình không có, chẳng ai cho
Đừng sống hoa hòe, xịt, trét, tô
Đừng bám bề ngoài mà vẽ phết
      Da sần, mặt sũi, chóng tàn khô.” 
“Hương trong các loài hoa,
Không ngược bay chiều gió,
Nhưng hương người đức hạnh,
Ngược gió khắp tung bay.”
      (Kệ Pháp Cú số 54)  
“Đóa hoa đạo đức ngát thanh lương
Độc thọ khai hoa vạn thọ hương
Như đóa vô ưu tuyệt diệu đó
Một phương lan tỏa đến muôn phương.”


Với cái nhìn tương tức, chúng ta biết hoa được làm bằng rác và sen được bằng bùn. Rời rác thì chẳng thấy hoa, rời bùn thì chẳng thấy sen. Sen làm từ bùn thì sen mới có giá trị. Hoa làm từ rác thì hoa mới thơm, đẹp và tươi mát. Dĩ nhiên, chúng còn phải phụ thuộc vào các yếu tố khác nữa như phân bón, nhân công, nước, không khí, ánh sáng mặt trời…
Cũng vậy, Bồ đề được thanh lọc từ phiền não thì Bồ đề mới có giá trị tuệ giác. Dĩ nhiên, chúng ta phải trải qua quá trình tu tập và rèn luyện thân tâm của chúng ta cho thuần thục và hoàn hảo thì chúng ta có thể trở thành bậc đống lương cho đạo Pháp và cho dân tộc và có thể đem lại niềm tin vững chãi cho số đông.
Chúng ta biết mặc dù sen, bùn, hoa, rác…có vô thường, nhưng chúng ta dựa vào chúng để tìm thấy các ý nghĩa đích thực của nó. Bùn và rác ở đây chỉ cho thân tâm phiền não, vọng động, ô uế… Sen và hoa ở đây chỉ cho thân tâm an lạc, vững chãi và thảnh thơi của hành giả.         
Quá trình tu tập là quá trình ôm ấp, nuôi dưỡng, nhận diện và chuyển hóa thân tâm phiền não, vọng động, ô uế… thành thân tâm an lạc, giải thoát, vững chãi và thảnh thơi. Thực vậy, một khi mà vô minh, phiền não và khổ đau được thanh lọc và thuần tịnh, thì ánh sáng tuệ giác, an lạc và hạnh phúc tỏa chiếu và hiển bày. Tu là để chúng ta đạt được ánh sáng tuệ giác, an lạc và hạnh phúc trong thân và trong tâm của mỗi chúng ta, từ đây chúng ta có thể đem ánh sáng tuệ giác, an lạc và hạnh phúc tới cho nhiều người.

“Xóa màn đêm, ánh vừng đông tỏa rạng
Xóa vô minh, ngọc sáng chiếu minh châu
Hỡi nhân sinh, cùng nhau bước qua cầu
Đường thánh đức, ta về chân thiện mỹ.”2
“Này này lẳng lặng lắng tai nghe
Lục dục thất tình thoát biển mê
Sen nở lìa bùn sao kiếm được
Là hoa đạo đức, khó chi hè.
Đóa hoa đạo đức nở từ tâm
Thánh thiện nguồn căn kết nội hàm
Bóng tối không còn mây khuất nữa
      Đêm trong bừng tỏa ánh trăng rằm. 
“Đóa hoa đạo đức nở trong lòng
Chốt khóa ngục tù đã mở thông
Bốn biển không giam bờ ốc đảo
Thỏng tay vào chợ bước thong dong.
Đóa hoa đạo đức nở tâm hồn
Tự độ độ tha nhưng xả buông
Nhân ngã trống không, lìa bỉ thử
      Hư vô đâu có trói càn khôn.” 

Khi hoa đạo đức hay hoa từ bi đã đạt được rồi, thì thân và tâm ta rất an lạc và hạnh phúc, viên minh châu và tuệ giác trong ta hiển lộ. Từ đây, chúng ta vững chãi đi trên con đường bình an của các bậc Thánh, ta đi cùng với chính ta và ta đi cùng với tha nhân để làm hiển lộ pháp thân của nhiều người và để thắp sáng lên ánh sáng của chánh Pháp. Muốn thực hiện được như vậy, chúng ta phải chuyển hóa và tháo gở lục dục3 và thất tình4 bằng cách giữ thân và tâm chánh niệm và tỉnh giác, hơi thở vào và thở ra có ý thức…
Chúng ta biết lục dục và thất tình là những hạt giống tiêu cực nằm ở trong thân và trong tâm ta, chúng rọ rạy và biến chuyển trong từng sát na sự sống của chúng ta. Khi những hạt giống này khởi lên, dù là hạt giống thiện hoặc bất thiện, chúng ta cứ vững tâm tu tập để nhận diện và chuyển hóa chúng. Chúng ta bình thản những lời khen chê của thế gian. ‘Bậc trí như vách đá, gió cuồn nộ chẳng lay, lời tán dương công đức, không rung động đôi mày.’5
Là hành giả ngon lành, giữ tâm được như vậy, thì chúng ta bình thản và nhẹ nhàng làm các công việc lợi ích mà chúng ta cần làm, đang làm và sẽ làm để đem lại an lạc và hạnh phúc đích thực cho tự thân và cho tha nhân ngay trong cuộc đời này.
 
“Đóa hoa đạo đức mỗi con người
      Thân thiện hòa vang, kết đẹp tươi 
Tiến bước trên con đường Tứ Thánh
      Đóa hoa đạo đức mỉm môi cười.” 
 
Chúng ta biết một khi mà chúng ta an trú, hành trì và sống với lời Phật dạy trong từng giây từng phút, thân chúng ta an lạc, tâm chúng ta vững chãi, khi ấy hoa đạo đức trong ta hiển bày, chúng ta vững vàng đi trên con đường an lạc của Bụt, của Tổ và của các bậc thánh Tăng. Con đường an lạc mang nghĩa bóng thôi chứ thật ra là ta áp dụng và thực hành lời Phật dạy vào trong đời sống hằng ngày của mỗi chúng ta. Đạt tới giai đoạn này rồi, chúng ta rất an nhiên và tự tại, chúng ta rất vững chãi và thảnh thơi, chúng ta có thể đem ánh đạo vàng tới cho số đông.

“Hoa ưu bát, ngát hương vườn chân lý
Hoa từ bi, thắm nhuận khắp muôn phương
Hỡi nhân sinh, mau cất bước lên đường
      Chắp tay nguyện, Đạo Vàng tươi sáng mãi.”6

Tóm lại, qua những gì được đề cập ở trên, mỗi chúng ta là một bông hoa đạo đức, mỗi chúng ta là một đóa hoa từ bi, mỗi chúng ta là một thi si Mặc Giang và mỗi chúng ta là một thầy Nhật Tân để mỗi ngày chúng ta có thể hiến tặng một câu thơ, một đoạn thơ, một bài thơ và nhiều hơn nữa cho quê hương, cho đạo Pháp, cho dân tộc, cho mình, cho người và cho tất cả. Để kết thúc bài viết này, tác giả tập làm một vài câu thơ để biếu tặng quý vị xem nó dưới đây cho vui.

Hoa đạo đức thấm nhuần trong tâm trí,
Hoa từ bi thấm đượm cả non sông.
Mỗi chúng ta là mỗi nhà thi sĩ,
Tặng cho đời những hoa trái thơm ngon.
Dù mai đây xa cách vạn dặm đường,
Chúng ta mãi là người con của Bụt,
Đem ánh sáng từ bi cho đạo Pháp
Đem tình thương trang trải khắp muôn phương.   
Dù gian lao cực khổ biết dường nào,   
Nhưng vững chãi là vượt qua tất cả. 

Đầu năm Kỷ Sửu – 2009
Trừng Sỹ 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 16.06.2010 03:57:31 bởi Viet duong nhan >

Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 35 bài trong đề mục