P.M.T
-
Số bài
:
156
-
Điểm thưởng
:
0
- Từ: 07.05.2010
- Nơi: Vietnam
|
Ý thức ảo
-
13.05.2010 11:35:45
Ý thức ảo. P.M.T 1. Vật chất và thông tin. Vật chất vận động tạo ra thông tin, thông tin được phát ra từ nguồn tin, truyền qua môi trường truyền tin để đến đích nhận thông tin. Tuỳ theo bản chất của môi trường truyền tin sẽ quyết định cách mà thông tin được truyền trong đó. Đích nhận thông tin sẽ tiếp nhận và xử lý tuỳ thuộc vào bản chất của nó. Khi có thông tin hồi tiếp về nguồn phát ta gọi là cách nhận thông tin tích cực, ngược lại đó là cách nhận thông tin thông thường. Trong cách nhận thông tin thông thường, nếu thông tin chỉ được giữ lại, ta gọi là cách nhận thông tin thụ động, còn nếu nó được truyền đi nguyên mẫu thì đích nhận thông tin đang đóng vai trò nguồn phát thông tin trong môi trường truyền tin. 2. Vật chất và ý thức. Vật chất tạo nên môi trường truyền tin, vật chất cũng là nguồn phát và đích nhận thông tin. Cách phát, truyền và ghi nhận, xử lý thông tin trong thế giới vật chất luôn theo một quy luật nào đó, ta gọi là định luật. Ý thức không sinh ra định luật, không làm thay đổi định luật, nó vận động theo định luật. Ý thức điều khiển cách mà thông tin tồn tại, vận động trong môi trường truyền tin. Vật chất luôn luôn vận động, do vậy, môi trường truyền tin cũng luôn thay đổi và sẽ làm thay đổi quỹ đạo của ý thức. 3. Định luật và vật chất. Định luật có trước, Vật chất có sau. Vật chất vận động theo định luật. Ý thức là một tập hợp các phương thức, là quá trình xử lý thông tin do sự vận động của vật chất sinh ra. Vật chất làm ý thức thay đổi trong quá trình xử lý thông tin. Vì thông tin là vô hạn, nên vật chất không quyết định được sự ràng buộc giữa ý thức và thông tin. Do đó, vật chất không thể quyết định được ý thức phải xử lý thông tin nào mà chỉ điều khiển ý thức xử lý thông tin như thế nào mà thôi. Vì ý thức cũng vận động theo định luật, cho nên ý thức có khả năng làm thay đổi cấu trúc vật chất, biến nó từ dạng này sang dạng khác. 4. Thuộc tính vật chất. Trong thế giới khách quan, chỉ tồn tại hai dạng khách thể: Định luật và Vật chất. Thông tin và Ý thức là hai thuộc tính tạo nên cấu trúc của Vật chất. Vạn vật trong thế giới tự nhiên đều chứa thông tin và có ý thức ( tập hợp các phương thức xử lý thông tin ) và đều có khả năng sản sinh và tiếp nhận thông tin. Sự quang hợp của cây trồng là ý thức xử lý thông tin ngày và đêm; Hòn đá bị vỡ ra do ý thức xử lý thông tin từ sức nặng của bánh xe lu theo định luật có sẵn, biến nó từ dạng này sang dạng khác; Đường ranh giới giữa hai miền đen, trắng trên tờ giấy không phải vật chất mà là kết quả có bỡi ý thức xử lý thông tin của con người. 5. Quỹ đạo của ý thức. Ý thức thay đổi do vật chất vận động làm môi trường truyền tin thay đổi. Tại mỗi thời điểm, nếu ta mô tả ý thức dưới dạng tường minh toán học, có lẽ thích hợp bỡi một véctơ thuộc hệ toạ độ Đềcác Oxy: Hướng của vectơ ý thức thể hiện chiều truyền tin, mục đích mà nó đang mong muốn được đạt tới, độ lớn của vectơ ý thức tượng trưng cho tốc độ, cường độ truyền tin và góc tạo bỡi vectơ ý thức với trục Ox ( góc ý thức ) tượng trưng cho sự thay đổi ý thức, hướng xử lý cho phù hợp với môi trường truyền tin. [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/87409/E87F83A438F54216ADD42354AF25C322.jpg[/image] Giả sử tại một thời điểm nào đó ý thức bắt đầu thay đổi, gọi V1(x1,y1) và vectơ ý thức hiện tại, và V2(x2,y2) là vectơ ý thức sẽ thay đổi tiếp sau đó. Tương ứng với các góc ý thức là a1 và a2. Giả thiết rằng, quy luật thay đổi của ý thức tuân theo nguyên tắc tổng các tốc độ truyền tin trong suốt quá trình là nhanh nhất, tiết kiệm năng lượng nhất. Gọi t1, t2,... và s1, s2,... là thời gian và khoảng cách truyền tin tương ứng. Ký hiệu v1, v2, v3,... tương ứng là độ dài của các véctơ V1, V2, V3,.... Do s1 = x1/cos(a1) và s2 = x2/cos(a2) nên: Ta có các biểu thức: t1 = s1/v1 = x1/v1.cos(a1). Tương tự t2 = x2/v2.cos(a2) Tức ta tìm điều kiện cho tổng: T = t1 + t2 là nhỏ nhất ( Min ). (1) Hay: T = t1 + t2 = x1/v1.cos(a1) + x2/v2.cos(a2) là Min (2) Mặt khác ta cũng có các đẳng thức: tg(a1) = y1/x1 và tg(a2) = y2/x2. Hay: y1 = tg(a1).x1 và y2 = tg(a2).x2 y = y1 + y2 = tg(a1).x1 + tg(a2).x2 Đặt: Y = y1 + y2 - y = tg(a1).x1 + tg(a2).x2 - y = 0 (3) Áp dụng phương pháp nhân tử Lagrăng. Điều kiện cực trị (1) tương đương với hàm F: F = T + z.Y = x1/v1.cos(a1) + x2/v2.cos(a2) + z.( tg(a1).x1 + tg(a2).x2 - y ) (4) Trong đó z là nhân tử Lagrăng. Tìm điều kiện sao cho hàm F là Min. Lần lượt lấy đạo hàm riêng cho các biến a1 và a2, điều kiện cực trị khi các giá trị của nó bằng không. Do khó đưa các ký hiệu toán học thông dụng vào bài viết này, nên nếu ta ký hiệu dr(F)/dr(x) được hiểu là đạo hàm riêng của hàm F theo biến x, và ký hiệu cos^2(x) được hiểu là cos luỹ thừa 2 của góc x, ta được các biểu thức sau: dr(F)/dr(a1) = (x1/v1).(sin(a1)/cos^2(a1)) + z.x1.(1/cos^2(a1)) = 0. dr(F)/dr(a1) = sin(a1)/v1 + z. = 0. Hay ta có điều kiện cực trị: sin(a1)/v1 = -z (5) Tương tự ta cũng có: sin(a2)/v2 = -z (6). Từ (5) và (6) ta có điều kiện cực trị tổng quát cho suốt quá trình thay đổi ý thức: v1/sin(a1) = v2/sin(a2) = v3/sin(v3) = ... = vn/sin(an) = C = Const ( Hằng số nào đó ) (7) Để xác định xem (7) làm cho hàm F là Max hay Min ta xét đến vi phân cấp 2: Ta ký hiệu d2(F) là vi phân cấp 2 của hàm F: d2(F) = [ (x1/v1).[(cos^3(a1) + 2.sin^2(a1))/cos^4(a1)] + z.x1.(2.sin(a1)/cos^4(a1) ].d(a1) + [ (x2/v2).[(cos^3(a2) + 2.sin^2(a2))/cos^4(a2)] + z.x2.(2.sin(a2)/cos^4(a2) ].d(a2) = [ x1/v1.cos(a1) + 2.x1.sin^2(a1)/v1.cos^4(a1) + 2.z.x1.sin(a1)/cos^4(a1) ].d(a1) + [ x2/v2.cos(a2) + 2.x2.sin^2(a2)/v2.cos^4(a2) + 2.z.x2.sin(a2)/cos^4(a2) ].d(a2) = [ x1/v1.cos(a1) + [2.x1.sin(a1)/v1.cos^4(a1)].[sin(a1)/v1 + z] ].d(a1) + [ x2/v2.cos(a2) + [2.x2.sin(a2)/v2.cos^4(a2)].[sin(a2)/v2 + z] ].d(a2) Do (5) và (6) nên: d2(F) = [x1/v1.cos(a1)].d(a1) + [x2/v2.cos(a2)].d(a2) > 0 (8) Vậy, kết quả (8) cho ta hàm F là cực tiểu. Để ý rằng trong một tam giác ABC với các cạnh đối góc tương ứng a,b,c ta có định lý hàm số sin sau đây: a/sin(A) = b/sin(B) = c/sin(C) = 2R. Với R là bán kính đường tròn ngoại tiếp. Trong trường hợp tam giác vuông thì 2R chính là độ dài cạnh huyền. Nếu ta ký hiệu hằng số C trong phương trình (7) bỡi 2R: Tức C = 2R thì dãy số v1, v2, v3,... chính là trị số độ dài của cạnh góc vuông tương ứng với các góc đối a1, a2, a3,... được xác định bỡi định lý hàm số sin. [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/87409/9475071AB53649BEAD3750DB2A869997.jpg[/image] Ta phát biểu: Trên đường tròn (T), đường kính AC = 2R = C, một điểm B trên đường tròn xác định tam giác ABC. Tỷ số độ dài vectơ AB và góc đối luôn luôn thoả (7). Vậy, nếu chúng ta tịnh tiến tất cả gốc các vétơ ý thức về điểm A thì quỹ đạo các điểm mút của vectơ ý thức là đường tròn (T). Phát biểu này mô tả trực quan hình học quy luật thay đổi ý thức của vạn vật. 6. Phương trình vectơ ý thức. Ta gọi i là số mà khi ta nhân một vectơ với nó thì vectơ ấy sẽ quay đi 90 độ theo chiều lượng giác ( i là số ảo ), gọi n là vectơ đơn vị trên phương AC, và a là góc đối của vectơ ý thức AB, ta biểu diển lại vectơ ý thức AB như sau: vectơ AB = n.AB.sin(a) + n.AB.i.cos(a) = n.AB.[ sin(a) + i.cos(a) ] (9) Với j = Pi/2 - a. Ta viết lại (9): vectơ AB = n.AB.( cos(j) + i.sin(j) ] (10) Áp dụng công thức Ơle: cos(j) + i.sin(j) = e^(i.j) = Exp(i.j). Ta đi đến phương trình: vectơ AB = n.AB.Exp(i.j) (11) Để ý rằng: AB = AC.sin(a) = AC.cos(j) = 2R.cos(j) = C.cos(j). (12) Thế (12) vào (11) ta được: vectơ AB = n.C.cos(j).Exp(i.j) (13). Ký hiệu lại V = vectơ AB ( vectơ ý thức ) ta đi đến kết quả: V = n.C.cos(j).e^(i.j) Viết cách khác: V = n.C.cos(j).Exp(i.j) (14). Phương trình (14) gọi là phương trình vectơ ý thức. Trong đó: n là vectơ chỉ phương mà theo đó tốc độ xử lý, truyền tin là nhanh nhất = C. j là góc lệch ý thức, góc lệch chiến thuật khi thay đổi ý thức. i là số ảo ( i^2 = -1 ). e là số Ơle = 2,71828. Điều kiện (7) tương tự nguyên lý Huyghen - Định luật khúc xạ ánh sáng. Ánh sáng là một dạng vật chất, thông tin mà nó xử lý khi đi vào các môi trường truyền tin có chiết suất khác nhau, ý thức vận động theo định luật có sẵn sẽ tạo ra góc lệch chiến thuật j mà ta gọi là góc khúc xạ. Vận tốc truyền tin cực đại ( điều kiện j = 0, lúc đó |V| = C ) trong trường hợp này, có thể hiểu là điều kiện trong môi trường chân không và hằng số C trong phương trình (14) bằng 300.000 km/s theo đề nghị của Anhxtanh. Điều kiện (7) mô tả quy luật vận động của ý thức. [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/87409/96935689CBBE4E618AD0CF500C579D75.jpg[/image] Giả sử một con báo săn mồi xuất phát từ điểm M và bắt được mồi tại điểm N. Trong thế giới tự nhiên, sẽ không bao giờ tồn tại mức chiến thuật đuổi bắt là quỹ đạo nối thẳng MN, bao giờ con báo cũng phải chạy theo quỹ đạo cong nào đó cho dù con mồi chỉ di chuyển theo đường thẳng và không thay đổi chiến thuật trong suốt quá trình. Bỡi tư duy của con báo phải thoả (14). Hơn nữa, trong thế giới tự nhiên, các mục tiêu săn đuổi thường là mục tiêu thông minh. Thế giới vật chất thật kỳ diệu, tất cả có thể chỉ là một tổng thể thống nhất. Từ cách một con báo săn mồi đến đường truyền của tia sáng và ngay cả nghệ thuật quản lý xã hội mềm dẻo thật ra chỉ là một. Đó là nghiệm của phương trình (14) - Phương trình vectơ ý thức (!). Phương trình (14) hàm chứa một triết lý sâu xa đáng để chúng ta suy ngẫm. Dưới đây là các hệ quả rút ra từ phương trình vectơ ý thức. 7. Ý thức ảo. Từ phương trình (10) và (14), ta thấy vectơ ý thức bao gồm hai phần: Phần thực và phần ảo. Cả hai phần quyết định trạng thái, hành vi của vật chất, khi phần thực thay đổi do sự vận động không ngừng của vật chất sẽ sinh ra dạng vật chất mới, giống loài mới mang tính kế thừa - tương tự thuyết tiến hoá của Đácuyn. Khi phần ảo thay đổi chỉ làm thay đổi trạng thái nhận thức ( góc ý thức j ) và phương thức xử lý thông tin của vật chất mà thôi. Phần ảo của ý thức chịu sự tác động của môi trường vật chất truyền tin, là phần giao tiếp chung với thế giới bên ngoài của vạn vật. Còn phần thực chỉ chịu sự tác động riêng của bản thân dạng vật chất mà nó là thuộc tính. Phần thực thuộc về bản năng sẵn có, phần ảo là kỹ năng học tập từ môi trường. Phần thực của ý thức có trong tất cả các dạng vật chất, còn phần ảo có giá trị trong dạng vật chất này nhưng có thể không có giá trị trong dạng vật chất kia phụ thuộc vào dạng vật chất đó có đang tư duy hay không. Để chứng minh luận điểm trên, ta để ý rằng, nếu j = 0 thì i.sin(j) = 0, theo phương trình (10) thì phần ảo của ý thức bằng không, và do j = 0 nên vật ấy không đang tư duy, bỡi góc ý thức hay góc lệch chiến thuật j không thay đổi, luôn bằng không. Do vậy, khi vật chất không có phần ảo của ý thức thì khi ấy vật chất không đang tư duy và ngược lại. Phần thực của ý thức quyết định bản chất còn phần ảo quyết định hành vi. Ý thức trong bài viết này phải được hiểu theo nghĩa rộng. Đôi khi vật chất có hành vi đối với nhóm thông tin này nhưng lại không có hành vi đối với nhóm thông tin khác, bỡi bản chất của vật chất phụ thuộc vào loại thông tin mà nó có thể tiếp nhận, xử lý và lưu giữ. Đối với xã hội loài người, sự thay đổi phần thực của ý thức sinh ra các dân tộc và tôn giáo, thay đổi phần ảo của ý thức sinh ra các trường phái và giai cấp. Phần thực của ý thức chứa bản năng sinh tồn chính là nguồn gốc của chiến tranh, còn phần ảo của ý thức sinh ra các học thuyết, chủ nghĩa, và tư tưởng đã đưa chiến tranh lên tầm nghệ thuật, và chính nó, phần ảo của ý thức cũng là nguồn gốc của sự giảng hoà. Chiến tranh là do phần thực, còn hoà bình là do phần ảo, đó cũng là hai mặt đối lập trong thế giới vật chất. Giả thiết rằng vật chất vận động luôn hướng đến sự cân bằng, thì tổng các vectơ ý thức săn mồi của loài đi săn và của các loài bị săn theo phương trình (14) sẽ dần đến bằng không, ta gọi đây là sự cân bằng sinh thái. Trong xã hội loài người, hành vi khéo léo thể hiện bản năng sinh tồn trong sự cân bằng về dân tộc và tôn giáo sẽ dẫn tới sự giảng hoà mà ta quen gọi là hoà bình, chừng nào sự cân bằng ấy còn tồn tại. 8. Cấu trúc của vật chất. Vật chất cơ bản được cấu trúc từ hai phần: Loại thông tin mà nó chứa bên trong cùng với ý thức xử lý các thông tin đó để trao đổi với môi trường bên ngoài. [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/87409/54EF5D853D754513A0151AC5780B6B3B.jpg[/image] Thông tin chứa trong vật chất có hai dạng: Thông tin công cộng và thông tin nền. Thông tin nền không nhận giá trị trực tiếp từ bên ngoài ( môi trường truyền tin ), nó như là bản chất khó thay đổi ( chỉ được thay đổi bỡi ý thức nền ) để đánh dấu sự khác biệt, trong khi đó, thông tin công cộng trực tiếp nhận giá trị từ bên ngoài để làm dữ liệu thích hợp cho ý thức tiếp nhận và xử lý. Ý thức của vật chất cũng có hai dạng: Ý thức công cộng ( phần ảo ) và ý thức nền ( phần thực ). Ý thức công cộng thể hiện sự thay đổi phương thức xử lý để thích ứng với môi trường xung quanh, nó có khả năng sử dụng thông tin nền nhưng không làm thay đổi nội dung. Ý thức nền là những gì diễn ra bên trong vật chất, nó không bị thay đổi phương thức xử lý trực tiếp bỡi môi trường bên ngoài, nhưng nó có khả năng làm thay đổi thông tin nền. Cấu trúc vật chất này có thể là thừa kế từ một cấu trúc vật chất khác do sự đột biến. Sự thừa kế cấu trúc có thể sẽ bổ sung thêm ý thức nền; làm thay đổi, bổ sung ý thức công cộng; bổ sung thêm loại thông tin mà nó có khả năng xử lý. Sự thừa kế không làm mất đi loại thông tin cũ và cũng không làm mất đi các ý thức nền sẵn có. Hiện tượng thừa kế cấu trúc của vật chất là nguyên nhân của sự tiến hoá, sự thông minh và sự biến chất. 9. Sự đột biến. Trong ý thức công cộng có thể bao hàm cả phương thức xử lý của ý thức nền. Ý thức công cộng bị sự tác động trực tiếp của môi trường bên ngoài. Khi ý thức công cộng xử lý thông tin, nó có thể yêu cầu sử dụng phương thức xử lý nền bên trong vật chất. Trong điều kiện thích hợp, nhiều phương thức nền được các phương thức công cộng yêu cầu xử lý cùng lúc, chúng sử dụng chung một loại thông tin nền làm dữ liệu và cố thay đổi giá trị này theo nhiều cách khác nhau sẽ sinh ra mâu thuẩn nội tại trong bản thân của vật chất. Việc kết hợp nhiều phương thức xử lý nền cùng lúc, thực chất về mặt lôgích chính là cách tạo ra phương thức nền mới, kéo theo loại dữ liệu mới cũng được hình thành để đáp ứng về yêu cầu thay đổi giá trị hay sự đa dạng của thông tin nền, đây là nguyên nhân gây ra đột biến của muôn loài. 10. Chiến tranh và đấu tranh. Cũng từ phương trình (14) - Phương trình vectơ ý thức, hệ quả rút ra từ nó là hai khái niệm chiến tranh và đấu tranh trong xã hội loài người. Chiến tranh thuộc phần thực của ý thức, còn đấu tranh do phần ảo sinh ra. Chiến tranh nhắm đến mục đích đồng hoá hoặc khai hoá phục vụ nhu cầu sinh tồn hoặc đức tin, còn đấu tranh nhắm đến tư tưởng hoặc chủ nghĩa làm thay đổi cách tổ chức xã hội, phân chia tư liệu sản xuất. Chủ nghĩa tư bản được xây dựng trên nền tảng đấu tranh dân chủ, Chủ nghĩa cộng sản được xây dựng trên nền tảng đấu tranh giai cấp. Cả hai được xây dựng trên phần ảo của ý thức, nên không có khả năng làm thay đổi bản sắc dân tộc hoặc đức tin. 11. Triết học và toán học. Nhà triết học Mác có một luận điểm nổi tiếng: Một khoa học sẽ không đạt đến sự hoàn thiện chừng nào nó còn chưa biết sử dụng đến toán học. Triết học là một khoa học, người ta cũng cho rằng nó bao trùm luôn cả toán học. Luận điểm này có lẽ không đúng, bỡi lẽ toán học với lôgích nội tại của nó, diễn tả quy luật khách quan đang tồn tại đâu đó trong thế giới tự nhiên, không cần đến sự hỗ trợ của triết học. Toán học rất gần gũi với triết học. Sử dụng toán học để suy diễn các quan điểm triết học là điều không phải dễ làm, nhưng không phải là không làm được. Nhưng ngược lại, ta không thể sử dụng một quan điểm triết học nào đó để biện minh cho một kết quả toán học. Vậy, quan điểm toán học bao trùm cả triết học có lẽ đúng hơn. Hãy nhìn lại phương trình (14) - Phương trình vectơ ý thức - nó hàm chứa một triết lý rất sâu xa vượt ra ngoài phạm vi của bài viết này.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.05.2010 11:48:56 bởi P.M.T >
|