:: Cuộc Đời Đức Phật - Thơ Mặc Giang ::

Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 31 đến 58 trên tổng số 58 bài trong đề mục
Tác giả Bài
Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Hoa Đạo Pháp từ 01 đến 10 - Mặc Giang - 11.06.2010 03:47:57
10 bài – Hoa Đạo Pháp 06
Thơ Mặc Giang

1. Hoa nở giữa rừng hoang
2. Hoa Chân Lý
3. Hoa Bất Diệt
4. Hoa Vũ Trụ
5. Hoa Đạo Pháp
6. Hoa Vô Thường
7. Hoa Tạng trổ bông
8. Hoa Diễm Hằng mỉm nụ
9. Hoa Chơn Thường
10. Hoa Từ Bi Hỷ Xả


Hoa nở giữa rừng hoang
Tháng 5-2005

Ai có nghe cõi trần gian đau khổ
Ai có nghe người nhân thế mỉm cười
Trên rừng hoang có những đóa hoa tươi
Mọc xen kẽ giữa cỏ cây hoang dại

Đời đau khổ bỡi phù du thành bại
Đời còn vui bỡi dạo bước nhân gian
Đem tin yêu đắp vá những bẽ bàng
Mang hy vọng gắn hàn trên đổ nát

Trong tiếng khổ vẫn còn nghe tiếng hát
Trong niềm đau vẫn vang vọng lời ca
Để nhân sinh sống nổi cảnh ta bà
Cho con người vượt nhiều phen gió bụi

Thác róc rách trên đèo heo hóc núi
Nước khơi nguồn chìm nổi giữa lòng khe
Áo gấm kia lại còn bọc vải the
Còn gai bố lại chai sần rách vá

Đường khổ ải hãy trèo lên dốc đá
Nhặt tiêu điều cho hết những tàn khô
Khơi rộng thêm cho thư thả ao hồ
Để giao tiếp với suối nguồn sông biển

Đất bao la cản ngăn chi giới tuyến
Trời bao la chia cắt chi tầng không
Hãy nhìn kia cái giá buốt mùa đông
Vẫn còn ấm lửa hồng trong nắng hạ.

Hoa Chân Lý
Tháng 9 – 2007

Hoa Chân Lý nở trên dòng bất nhị
Ðưa muôn loài về tánh thể nhất nguyên
Ðể nhận chân, lý vô thượng diệu huyền
Luôn hiện hữu, giữa đôi bờ không sắc

Hoa Chân Lý tỏa thường hằng bất diệt
Nở an nhiên cho vạn hữu tồn sinh
Một là hai, hai là một, nguyên trinh
Không biến hoại trên hành trình còn mất

Hoa Chân Lý vượt trụ thành đắc thất
Kim cương tòa bừng tỏa ánh minh châu
Tỏa ngũ sắc thanh thiên mọi nhịp cầu
Dung tất cả trên dòng sông tam thế

Không kẹt giữa rừng vô minh nghẹt thở
Không vướng vào biển sinh tử trầm mê
Ngàn năm trước, vẫn là núi Tào Khê
Ngàn năm sau, vẫn là sơn Linh Thứu

Hoa Chân Lý, em ơi, đừng có hỏi
Hoa Ưu Ðàm, em ơi, thật huyền vi
Nhận ra rồi, em cứ bước chân đi
Giác hữu tình, cùng hòa reo tiếng hát

Ngọn bát phong, tan hoang bên bờ cát
Lửa tam đồ, xơ xác cạnh bờ lau
Hoa Chân Lý trăng trắng như hoa cau
Thơm bát ngát trên đường về quê cũ.

Hoa Bất Diệt
Tháng 9 – 2007

Hoa Bất Diệt nở trên dòng sinh diệt
Cỡi vô thường để tỏa đóa vô sanh
Biển trần gian, hiện hữu nét tinh anh
Ta bà khổ, bừng minh châu muôn thuở

Hoa Bất Diệt ngàn đời, ta vẫn nhớ
Tỏa chơn thường, vạn thuở, ta không quên
Trên lộ trình Bồ Tát đạo, thênh thênh
Ðưa chúng sinh bước lên đường Tứ Thánh

Hoa Bất Diệt vào tam đồ giá lạnh
Cửa tam vô, bừng ánh đạo từ bi
Ngân tiếng chuông đạo lý bất tư nghì
Tan tất cả biển trầm luân thống khổ

Này em hỡi, ta biết nhau từ đó
Này em hỡi, ta còn nhau muôn đời
Như mây trời, cỡi sóng bạc rong chơi
Như trùng dương, du thuyền, reo bát nhã

Một là một, ta còn đây tất cả
Ðường quy nhất, ta có mất gì đâu
Hoa Bất Diệt chính là đóa minh châu
Tâm như như, vốn thường hằng miên viễn

Vẫy chào nghe, leo lên đò vĩ tuyến
Không còn đau, tiếng vỗ khóc ly tan
Hoa Bất Diệt ngợi ca ánh đạo vàng
Tỏa bát ngát khắp mười phương ba cõi.

Hoa vũ trụ
Tháng 9 – 2007

Hoa vũ trụ nở ra vầng nhật nguyệt
Ðể Thái dương xoay chuyển có đêm ngày
Tạo sự sống hiện sinh trái đất này
Con người và vạn vật chung nhau hòa điệu

Hoa vũ trụ thắp vầng trăng vi diệu
Ðể đêm đêm bừng tỏa ánh trăng ngàn
Tạo an lành trang trải khắp trần gian
Chứ nếu không, nửa dòng đời khép lại

Hoa vũ trụ nở hằng sa tinh tú
Ðể bảo hòa vô hạn cõi thái hư
Một ánh sao mờ, không có chỗ dư
Một ánh sao băng, không hề biến mất

Ta vén tay, đỡ vành hoa vũ trụ
Xoay và nhìn từng cánh thắm càn khôn
Từ li ti đến biến hóa vô cùng
Như Hoa Tạng trùng trùng nhân duyên khởi

Nơi ta đi, không đâu là chỗ tới
Nơi ta đến, không đâu chẳng nẻo về
Như đi trên thềm vũ trụ nở hoa
Nhìn sắc thể đi qua từng cánh mở.

Hoa Ðạo Pháp
Tháng 9 – 2007

Hoa Ðạo Pháp nở trên dòng sinh diệt
Tỏa hương từ khắp ba nẻo sáu đường
Tỏa hương bi khắp pháp giới mười phương
Cho vạn hữu kết cành dương cam lộ

Hoa Ðạo Pháp đã hiển sinh từ độ
Khi đất trời thành trụ thuở hồng hoang
Khách lữ hành lưu lại những điểm son
Ðường vô tận không nhạt nhòa dấu vết

Mỗi nhân sinh đi qua dòng không sắc
Mỗi bóng hình tan tụ bước tử sinh
Vẫn còn mang mãi mãi nét nguyên trinh
Chân tánh thể không phôi pha hư huyễn

Hoa Ðạo Pháp vượt muôn ngàn giới tuyến
Tỏa đạo vàng thắm nhuận khắp muôn phương
Tỏa từ bi chan sức sống tình thương
Cho vạn loại xóa tan bờ ngân ngã

Hoa Ðạo Pháp đơm bông thuyền bát nhã
Ðưa chúng sinh vượt biển khổ trầm luân
Cứu chúng sinh vì tam độc quên mình
Ðáo bỉ ngạn ngời minh châu rực sáng

Hoa Ðạo Pháp, muôn đời luôn tỏ rạng
Qua ba thời, ngát hương đạo từ bi
Cỡi vô thường, thắp đuốc lên mà đi
Dòng sinh tử, ngát hương Hoa Ðạo Pháp.

Hoa Vô Thường
Tháng 9 – 2007

Hoa Vô Thường nở trên dòng nhân thế
Ðể tặng người đang sống cõi trần gian
Ngắm nhụy hương tan hợp - hợp tan
Bay phảng phất đi qua bờ không sắc

Hoa Vô Thường nở trên dòng sinh diệt
Tặng nhân gian hiểu chân lý cuộc đời
Ðã đắm chìm trong ba cõi nổi trôi
Ði đi mãi trên sáu đường hư huyễn

Hoa Vô Thường nở trên bờ vĩ tuyến
Tặng nhân sinh qua khúc rẽ đò ngang
Bên này bờ là dòng sống mênh mang
Bên kia bờ là phương trời ly khách

Hoa Vô Thường luôn luôn chuyển mạch
Tỏa đổi thay từng một sát na
Tỏa mất còn từng một âm ba
Kết hòa hóa trước muôn ngàn hiện hữu

Xin tặng cho anh đóa Vô Thường tuyệt mỹ
Xin tặng cho em đóa Vô Thường tinh anh
Xin tặng cho người đóa Vô Thường thiên thanh
Ði, đi khắp trên ba đường sáu nẻo.

Hoa Tạng trổ bông
Tháng 9 – 2007

Ði đâu, không bằng quê nhà
Với cơm dưa muối, với cà dầm tương
Ði đâu, không bằng quê hương
Có người thân, với tình thương quê mùa
Không cần ai bán ai mua
Không xua Nắng Hạ, không lùa Gió Ðông
Không Xuân cầu sắc cạnh hồng
Không Thu tím ngắt theo dòng buông trôi
Không treo nhân ảnh đãi bôi
Không tô nhân ngã lở bồi trần gian
Ði đâu, dù có trăng vàng
Nhưng trăng không bước trên ngàn rong chơi
Ði đâu, dù có mưa rơi
Nhưng không tí tách ngỏ lời thùy dương
Ði đâu, dù rộng muôn đường
Nhưng không rung nhịp vấn vương dặm dài
Nhìn góc biển, có thiên nhai
Nhìn hải giác, có phương đài riêng ta
Chẳng hôm nay
Chẳng hôm qua
Chẳng ngay mai
Vắt vảnh thiên thư
Vũ trụ không chỗ dư
Hư vô không chỗ trống
Búng ngón tay, cuối đỉnh đồi đồng vọng
Bặt âm vang, tịch lắng chốn vĩnh băng
Ta nghe tiếng diễm hằng
Ngân pháp âm bất tuyệt
Ta nghe vô sinh vô diệt
Reo tiếng hát núi Tỳ Lô
Thấy âm linh ngủ kín đáy mồ
Chợt tỉnh hồn mừng vui thức dậy
Những bậc Thánh Ðức an nhiên đại định
Xuất thần trổi khúc hoan ca
Ðâu không là của ta
Căn nhà nguyên trinh nhiệm thể
Ðâu, không là chỗ đến
Ðâu, chẳng phải đường về
Nụ cười hàm tiếu nguyên sơ
Vũ trụ ngàn sao lấp lánh
Riêng ta, tự thể, bao giờ
Trùng trùng Hoa Tạng trổ bông.

Hoa Diễm Hằng mỉm nụ !
Tháng 9 - 2007

Những bông hoa trên dọc đường sỏi đá
Mỉm nụ hồng giữa cát bụi sương sa
Trải nắng mưa đong giọt đọng cánh hoa
Trĩu xuống thấp la đà phô nhụy trắng

Mưa tạnh hột, mây tan dần, hé nắng
Giọt mưa rơi, giọt nhiểu, giọt vương cành
Nắng lên rồi làm giọt nhỏ tan nhanh
Cánh hoa khép vương vương hơi ươn ướt

Gió lay động, hoa đong đưa tha thướt
Nhoẻn cánh cười khoe sắc lộng phù vân
Hương bay bay nhòe cát bụi phong trần
Nổi hương sắc giữa hoa đồng cỏ nội

Có bông hoa mỉm cười bên bờ suối
Có bông hoa đeo vách núi cheo leo
Có bông hoa reo gió nắng lưng đèo
Và bông hoa rực thành đô phố thị

Khi sinh thái hiện hình từ vô thỉ
Khi phù sinh khởi động thuở hồng hoang
Tiếng BIG BANG lồng theo tiếng Ửng Hồng
Ðã báo hiệu hoa cười reo vạn thể

Cho dù di hành không nhiễm thể
Cho dù độc mộc giữa muôn phương
Xuyên trục Hoành, xoáy trục Tung
Hoa Diễm Hằng vẫn mỉm cười chuyển hóa.

Hoa Chơn Thường
Tháng 9 – 2007

Hoa Chơn Thường nở trên dòng huyễn hóa
Tỏa đạo vàng trang trải khắp mười phương
Ðưa chúng sanh về bờ bến thanh lương
Rửa tam nghiệp bằng cành dương cam lộ

Hoa Chơn Thường hiện hữu từ vô thỉ
Ngát hương lành vi diệu đến vô chung
Vượt hằng sa thế giới đến vô cùng
Ðể chúng sanh hưởng mùi hương diệu tánh

Hoa Chơn Thường nở trên đường Bát Chánh
Khắp muôn loài thấm nhuận đức từ bi
Sông vô thường vỗ sóng chuyển huyền vi
Chứng đạo ca du thuyền reo bát nhã

Ngã nhơn, ngã tướng, sinh vô ngã
Vô nhơn, vô tướng, diệt vô sinh
Hữu – vô, tuyệt lộ, duy huệ minh
Chư Phật bản hoài, vi sự nghiệp

Hoa Chơn Thường chuyển qua tay Ca Diếp
Kế thế, trao hăm tám Tổ - Tây Thiên
Một cây năm nhánh, Ðông Ðộ hoằng truyền
Tâm ứng tâm, không cần y bát nữa

Hoa Chơn Thường, hằng hiển sinh muôn thuở
Bừng vô ưu, qua thành trụ hoại không
Kìa xem, núi là núi, sông là sông
Nếu luận bàn, nện ba hèo vụn vỡ

Hoa Chơn Thường, chúng sanh luôn ghi nhớ
Nâng hai tay, ngào ngạt đóa vô tâm
Như thanh thiên bát ngát tựa trăng rằm
Bồ Tát đạo, hành trình, luôn tự chiếu

Hoa Chơn Thường, ôi nụ hoa hàm tiếu
Nở trong vườn giác ngộ, ngát tâm hương
Từ Hành tinh này cho đến khắp mười phương
Chơn chơn tánh, thường chơn, chơn bất thối.

Hoa Từ Bi Hỷ Xả
Tháng 9 – 2007

Hoa Từ nở cho chúng sanh an lạc
Hoa Bi nở cho chúng sanh hết đau
Hoa Hỷ ban, vượt thoát mọi tinh cầu
Hoa Xả tận, diệt tam đồ bát nạn

Chúng sanh khổ, như con tàu mắc cạn
Chúng sanh đau, như cầu váng long đinh
Bởi si mê nên trầm thống quên mình
Ðường sinh tử, nghiệp mang, lao vút mãi

Khi cô độc giữa rừng thiêng quan ải
Khi bôn ba giữa hỗn tạp quần sanh
Thiệt hơn, cao thấp, danh lợi, đua tranh
Ðầu xơ xác mấy lần thay tóc trắng

Hoa Từ nở, đêm đông rơi giọt nắng
Hoa Bi bừng, hạ trắng đón giọt mưa
Hoa Hỷ thơm, xuân đến khắp bốn mùa
Hoa Xả hết, cho đời không thu tím

Em hãy nâng Ðóa Từ Bi tâm nguyện
Em hãy trao Ðóa Hỷ Xả thanh lương
Ðưa chúng sanh về bờ bến yêu thương
Không đau khổ trên dọc đường tam thế

Từ nay, cuộc đời không còn đau khổ
Từ nay, cuộc đời không còn kêu thương
Tay trao tay, gieo cam lộ cành dương
Ðời hạnh phúc, không còn ai khóc nữa

Hoa Từ Bi là thế
Hoa Hỷ Xả là đây
Báo Phật ân, vô thượng, đức cao dày
Cứu chúng sanh, vô biên, thề nguyện độ

Hoa Từ Bi, đức từ bi, rạng rỡ
Hoa Hỷ Xả, đức hỷ xả, không lường
Kết từng vòng dâng lên Ðấng Pháp Vương
Khắp chúng sanh đồng chắp tay đảnh lễ.

Mặc Giang

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Hoa Đạo Pháp từ 01 đến 10 - Mặc Giang - 11.06.2010 03:49:19


10 bài – Hoa Đạo Pháp 01-7
Thơ Mặc Giang

1. Hoa Chánh Pháp
2. Hương thơm giải thoát
3. Hoa Phật Pháp
4. Hoa Giác Ngộ
5. Vạn đóa hoa
6. Hoa Chánh Đạo
7. Hoa Vô Lượng Tâm
8. Hoa Bồ Đề Tâm
9.nHoa Tu Tập
10. Hoa Giải Thoát
Hoa Chánh Pháp
Tháng 9 – 2007

Hoa Chánh Pháp nở trong vườn giác ngộ
Tỏa hương thơm thấu triệt giữa chánh tà
Cho chúng sanh khắp đại địa ta bà
Dung tam thế, nhiếp mười phương, ba cõi

Hoa Chánh Pháp vẫn muôn đời chiếu rọi
Xóa tan đi bóng dáng của vô minh
Diệt mê si, mê hoặc, đến mê tình
Ðừng đánh lận ma cường hay pháp nhược

Hoa Chánh Pháp, không có cường có nhược
Không có đường mượn Phật nói chuyện ma
Không có phương mượn chánh lấp nẻo tà
Phật là Phật, ma là ma, rõ mặt

Hoa Chánh Pháp, không đi ngang về tắc
Không bẻ cong, không đi ngược về xuôi
Dù hằng sa, cũng biết rõ mười mươi
Nào có nghĩa một hai, lòa nhân thế

Dùng đuốc tuệ chiếu muôn ngàn vi tế
Dùng chánh tâm quét sạch mọi tà tâm
Không thân sơ, không vị nể, sụp hầm
Hoa Chánh Pháp bừng hương thơm pháp giới.

Hương thơm giải thoát
Tháng 9 – 2007

Em hãy trồng khu vườn Hoa Giác Ngộ
Anh hãy gieo hạt giống Ðạo Từ Bi
Ðường Tứ Thánh, an lành, dắt nhau đi
Hỡi nhân sinh, khép khung trời nhỏ hẹp

Hãy vượt qua bức tường thành cưỡng ép
Hãy băng qua đáy hố thẳm tỵ hiềm
Quét sạch đi bờ đố kỵ, nhỏ nhen
Mở đại lộ nhân từ reo chánh đạo

Tiếng sân si, không trở thành giông bão
Tiếng oán cừu, không thành sóng phân tranh
Lửa vô minh, cùng dập tắt tơ mành
Thì nhân thế sẽ hòa bình miên viễn

Ðường tu tập cùng nhau đi tiệm tiến
Ðạo nhiệm mầu cùng hạ thủ công phu
Tự xưa nay, bởi ta là rùa mù
Chìm biển khổ, bộng cây xa mút nẻo

Giữa Mê - Ngộ, một âm ba tích tắc
Giữa Thánh - Phàm, ngắn ngủi một lằn ranh
Hãy nhìn kia, bừng một đóa tinh anh
Em và anh đã vun trồng từ đó

Em rảo bước qua vườn Hoa Giác Ngộ
Anh rong chơi trên đại lộ từ bi
Cuộc đời ta sẽ chuyển hóa huyền vi
Trao nhân thế mùi hương thơm giải thoát.

Hoa Phật Pháp
Tháng 9- 2007

Hoa Phật Pháp gieo trên vườn nhân thế
Cho người người gặt hái đóa từ bi
Vượt trùng dương, băng giới tuyến phân ly
Thơm bát ngát hương tin yêu, sự sống

Hoa Phật Pháp đi vào nơi điểm nóng
Sẽ xóa tan những bức xúc oán cừu
Những hơn thua tranh chấp gởi thiên thu
Biết nhìn nhau cảm thông tình nhân loại

Hoa Phật Pháp đi vào nơi lửa khói
Tiếng hoan ca reo khúc hát hòa bình
Bom đạn tàn theo dấu vết chiến chinh
Chan tình tự đơm bông hòa điệu sống

Hoa Phật Pháp băng qua mọi giới tuyến
Không phân chia lãnh thổ, phong tục, chủng tộc, quốc gia
Vượt trường thành vạn lý giàu nghèo, vật chất, trầm kha
Các màu da, chung vuờn hoa nhân loại

Không còn đâu là điểm nóng điểm lạnh
Không còn đâu là biên giới tang thương
Cùng dựng xây, trang trải đóa thanh lương
Hương dịu ngọt ấm lòng đêm giá lạnh

Phải thế không em, trao cho nhau lành mạnh
Phải thế không anh, trao cho nhau thăng hoa
Hoa Phật Pháp, nâng hai tay, kết tòa
Lòng nhân thế kể từ nay, hướng thượng

Cả thế giới, hãy cùng nhau quy hướng
Cả nhân loại, hãy cùng nhau tin yêu
Mỉm cười nhau, trao tặng đóa yêu kiều
Cõi trần gian bừng bông Hoa Phật Pháp.

Hoa Giác Ngộ
Tháng 7 – 2007

Hoa Giác Ngộ kết sáu thời tu tập
Hoa Hành Trì quyết hạ thủ công phu
Tu đến khi chỉ còn một chữ NHƯ
Cũng dứt bỏ bước lên bờ bỉ ngạn

Hoa Giác Ngộ trổ lên rồi, bừng sáng
Dứt trầm luân khổ ải tự xưa nay
Không có Ðông, mà cũng không có Tây
Không có Nam, mà cũng không có Bắc

Phật tánh, không phân chia : màu da, chủng tộc
Phật tâm, không mắc kẹt : cao thấp, nghèo giàu
Phật từ, không mắc cạn : bến cát, bờ lau
Phật quang, khắp mười phương phổ chiếu

Hoa Giác Ngộ, ngát hương hoa hàm tiếu
Mỗi chúng sanh là một đóa vô ưu
Dung ba thời, chuyển ba thế, truyền lưu
Cùng xuất xử, cộng nhập Tỳ Lô Tánh Hải

Hoa Giác Ngộ du thuyền vô quái ngại
Ðộ chúng sanh khắp pháp giới mười phương
Ðèn trí tuệ soi sáng vạn nẻo đường
Ðánh bật gốc mọi trần sa phiền não

Hoa Giác Ngộ trổ bông đường thánh đạo
Ðạt chơn thường, chứng đạo lý thường chơn
Chứng đạo ca, tô thêm một điểm son
Hòa hương sắc nhiệm mầu vô thượng giác.

Vạn Ðóa Hoa
Tháng 9 – 2007

Hoa Diệu Liên, em trồng đầm ba cõi
Hoa Hạnh Nguyền, em gieo ao sáu đường
Hoa Từ Bi, em rải trời đau thương
Hoa Bồ Ðề, em ươm đất phiền não

Hoa Chân Lý trổ bông bờ huyễn ảo
Hoa Chân Như kết nụ bến diêm phù
Hoa Minh Châu tỏa ngọc chốn thâm u
Hoa Bất Hoại ngát đôi bờ không sắc

Hoa Thanh Tịnh mọc trên đất bất tịnh
Hoa Ưu Ðàm ngát tỏa nẻo vô minh
Hoa Kim Cương trổi ngọc chốn điêu linh
Hoa Bất Thối thơm hương trời điên đảo

Hoa Tín Tâm, em ươm ngôi Tam Bảo
Hoa Tín Nguyện, em kết cõi Lạc Bang
Hoa Tín Hành, em dệt khắp đạo tràng
Hoa Vạn Hạnh, em xây đường lục độ

Hoa Nguyện Từ, em lên đường cứu khổ
Hoa Nguyện Bi, em xoa dịu thương đau
Hoa Nguyện Trí, em kết hạt minh châu
Hoa Nguyện Huệ, em rạng soi pháp giới

Chúng sanh khổ, mang tâm nguyền tự độ
Chúng sanh đau, mang tâm nguyện độ tha
Một bông hoa kết nối Vạn Ðóa Hoa
Hoa Bất Diệt chuyển mười phương tam thế.

Hoa Chánh Ðạo
Tháng 9 – 2007

Hoa Chánh Ðạo, thơm mùi hương chơn thật
Khách lữ hành biết đúng hướng mà đi
Tránh phù trầm mê hoặc, dù một ly
Sẽ lầm lạc ngàn xa hơn vạn dặm

Hoa Chánh Ðạo, tỏa hương thơm tĩnh lặng
Không vẽ tô, sơn phết đủ sắc màu
Ðạo càng tô, càng sai lệch chìm sâu
Như rùa mù còn ăn thêm bánh vẽ

Hoa Chánh Ðạo, không nương quyền cậy thế
Không sa mù để đánh lận con đen
Có tội không, nghiệt ngã con dế mèn
Núp bóng đêm mơ màng phiêu lưu ký

Hoa Chánh Ðạo, chận trên đầu của ý
Ðẩy bất chân, bất chánh, hết đường đi
Biết nhận chân đạo lý bất tư nghì
Ðường bát chánh trổ bông Hoa Chánh Ðạo

Hương pháp thân uyên áo
Tỏa pháp Phật nhiệm mầu
Tu tập không vị cầu
Mới thường, lạc, ngã, tịnh

Hoa Chánh Ðạo, cao ngần Linh Sơn đỉnh
Tỏa sắc hương cao cả lý chơn thường
Bồ đề tòa, điều ngự Ðấng Pháp Vương
Chúng sanh nguyện, kết đài vô thượng giác.

Hoa Vô Lượng Tâm
Tháng 9 – 2007

Hoa Vô Lượng Tâm nở trên đường lục độ
Cứu chúng sanh vô lượng số hàm linh
Ðã từ lâu chìm khổ hải cực hình
Quên đi mất con đường về quê cũ

Hoa Vô Lượng Tâm ươm nhụy hương hội tụ
Tỏa thanh lương đi muôn hướng phân kỳ
Trải trần gian nhuần ánh đạo từ bi
Lòng nhân thế thấm mưa nguồn pháp vũ

Một sinh linh còn lầm đường lạc lối
Hạnh độ tha còn nhủ bóng từ ân
Một sinh linh còn nay lựa mai lần
Nguyện cứu đời còn dang tay dìu dắt

Ðây là con đường tắt
Ðây là con đường dài
Pháp thượng thừa ngàn muôn hướng, không hai
Tùy trình độ, căn cơ mà chỉ hướng

Ðây là tánh là tướng
Ðây là nhân là duyên
Khi nhận chân được chân lý diệu huyền
Dung tất cả để trở thành quy nhất

Hoa Vô Lượng Tâm, tỏa hương nghiêm mật
Khách lữ hành hưởng đúng vị khai tâm
Quyết hành trì y như pháp thậm thâm
Sẽ hiển lộ trong ngôi nhà giải thoát.

Hoa Bồ Ðề Tâm
Tháng 9 – 2007

Hoa Bồ Ðề Tâm, nở trên phiền não
Tỏa hương lành ngào ngạt khắp mười phương
Ðưa chúng sanh về bờ bến thanh lương
Rong bốn biển du thuyền reo bát nhã

Hoa Bồ Ðề Tâm, ngàn cây xanh lá
Ðẹp tâm hoa gieo rắt ánh đạo vàng
Chiếu muôn phương ngời sáng bóng thiều quang
Khắp trần gian không còn đâu tăm tối

Hoa Bồ Ðề Tâm, nụ hoa biết nói
Ðây đạo mầu giác ngộ, Ðấng Từ Bi
Nếu biết tu, đạo lý, quả vô nghì
Ðường giải thoát, ai tu đều được chứng

Hoa Bồ Ðề Tâm, mười phương Thánh Chúng
Ðến hồng trần lục đạo kiếp phàm nhân
Nở tâm hoa, người đó sẽ dự phần
Nhập hoa tạng huyền môn vô thượng giác

Hoa Bồ Ðề Tâm, hương bay ngào ngạt
Ðuốc tuệ rạng ngời, năm sắc hào quang
Khắp chúng sanh hòa reo ánh đạo vàng
Vì nghiệp đạo, bồ đề tâm bất thoái.

Hoa Tu Tập
Tháng 9 – 2007

Hoa Tu Tập xóa tan ba nghiệp chướng
Tỏa sắc hương vượt thoát khỏi tam đồ
Rải nhụy vàng tươi thắm mảnh tàn khô
Ðeo đẳng mãi, nát tan bao cuộc lữ

Hoa Tu Tập phá tường thành hùng cứ
Ðập vỡ toang những ốc đảo lao tù
Ðánh tan tành cái bản ngã thâm u
Ðã muôn kiếp đọa đày trong ngục tối

Hoa Tu Tập nở trên đồi vời vợi
Ðổ tỵ hiềm, ích kỷ xuống vực sâu
Rải công danh, phú quý chảy qua cầu
Trổ dấu ngọc trên hành trình hoằng hóa

Hoa Tu Tập chuyển dòng đời hết khổ
Nở từ tâm, ban đức độ, tin yêu
Một người tu, kết muôn đóa diễm kiều
Vạn người tu, kết lạc bang pháp giới

Hoa Tu Tập xóa tan đi bão thổi
Xây an lành trước sóng vỗ triều dâng
Một đóa hoa, vạn thọ sẽ thơm hương
Muôn đóa hoa, ngạt ngào reo nhân thế

Hoa Tu Tập nở trong vườn giác ngộ
Mỗi nhân sinh nương ánh đạo từ bi
Khắp nhân gian cùng dẫn dắt nhau đi
Trái đất này đâu còn ta bà nữa.

Hoa Giải Thoát
Tháng 9 – 2007

Hoa Giải Thoát ngát mười phương pháp giới
Cho chúng sanh qui ngưỡng đạo từ bi
Ba cõi sáu loài biết hướng mà đi
Ðã lầm lạc, trầm luân từ vô thỉ

Hoa Giải Thoát tỏa hương chân thiện mỹ
Mọi chúng sanh trên khắp cõi trần gian
Xin chắp tay về dưới ánh đạo vàng
Ðêm tăm tối rạng soi đèn trí tuệ

Chúng sanh khổ lặn hụp trong bốn bể
Nước mắt nhiều hơn bốn biển đại dương
Ðem khổ đau vùi dập bến tang thương
Bãi nương dâu lấp điền tang hải biến

Tham sân si, bậc thầy của đạo diễn
Ðeo tam đồ, làm con rối hát ca
Thì làm sao không thống nỗi ta bà
Lại trách cứ than thầm cho duyên kiếp

Biến sinh linh thành tác nhân tội nghiệp
Biến muôn loài nô lệ những tiền khiên
Dây oán trái kết chặt sợi não phiền
Không tỉnh ngộ, muôn đời đeo đẳng mãi

Hoa Giải Thoát, em ơi vô quái ngại
Tỏa hương lành mầu nhiệm lắm, người ơi
Một bước đi, im bặt hết tăm hơi
Diệt bóng dáng luân hồi trong ba cõi

Hoa Giải Thoát tỏa vô sinh vô tử
Tỏa hương lành, vi diệu tướng pháp thân
Như trăng ngàn trong vắt ánh tường vân
Dung pháp giới, không còn đâu ngằn mé

Trao cho nhau niềm tin yêu tuyệt thế
Hương từ bi, hoa giải thoát nhiệm mầu
Sáng trong ngần ánh ngọc tỏa minh châu
Bóng từ quang soi khắp cùng đại thể.

Mặc Giang

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Hoa Đạo Pháp từ 01 đến 10 - Mặc Giang - 11.06.2010 03:50:39


10 bài – Hoa Đạo Pháp 08
Thơ Mặc Giang

1. Hoa Vô Thường bất biến
2. Hoa Không Sắc
3. Hoa Từ Tâm
4. Điểm nụ Không Hoa
5. Hoa Rộng Lượng
6. Hoa Dấn Thân
7. Hoa Thân Thiện
8. Hoa Nhân Ái
9. Hoa Nhân Sinh
10. Hoa Tình Thương
Hoa Vô Thường bất biến
Tháng 9 – 2007

Hoa Vô Thường, hiển sinh dòng huyễn hóa
Tặng cuộc đời nhìn ngắm đóa ngân sương
Dù ra đi trên muôn hướng ngàn phương
Như ánh chớp, tia pha, bọt bèo, bào ảnh

Hoa Vô Thường, một đóa hoa không cánh
Gắn thực chơn thành muôn cánh phù vân
Mọi hiện hữu trong cuộc sống hồng trần
Như dòng chảy trùng trùng nhân duyên khởi

Hoa Vô Thường trổ bông từ vô thỉ
Ðến vô chung vẫn kết nụ phù hoa
Vẽ chân như thật tánh kết nên tòa
Như, như huyễn giữa muôn ngàn không sắc

Lật cánh hoa mang hình hài không sắc
Biến vô thường thành một đóa sắc không
Bóng hình thế núi, bóng dáng dòng sông
Nhìn bào ảnh, không còn sông núi nữa

Tự ngàn xưa, dòng huyễn sinh đã thế
Ðến ngàn sau, trổi muôn khúc hợp tan
Lắng tai nghe tiếng gảy của cung đàn
Không gảy nữa, tiếng đàn đâu cho biết

Lắng tai nghe trên cung bật còn mất
Tiếng đàn kia lại lên tiếng cung đàn
Ngân ngân vang theo nhịp khúc thời gian
Hoa Vô Thường vẫn còn đây, bất biến.

Hoa Không Sắc
Tháng 9 – 2007

Xin tặng em một bông Hoa Không Sắc
Em mang đi trên mọi nẻo trường đời
Thấy gì không từ trong đó em ơi
Mọi không sắc hiện lên màu huyễn hóa

Ánh nhật lên vầng đông dần sáng tỏa
Hoàng hôn về ảnh hiện kết vầng trăng
Trùng dương kia kết một đóa hải đăng
Thuyền viễn xứ, đường về theo chỉ hướng

Nhìn qua sắc, một bóng hình có tướng
Nhìn qua không, hình tướng tự phan duyên
Lật lại qua, hai mặt của đồng tiền
Cả hai mặt, dường như không phải trái

Ðồng tiền mất, cái nào là phải trái
Hỏi áng mây, ai vẽ đóa phù vân
Hỏi bụi bay, ai vẽ đóa phong trần
Em diễm phúc mỉm cười Hoa Không Sắc

Hôm nay, em mang hình hài không sắc
Ngày mai, em ẩn hiện bóng sắc không
Như càn khôn, như bọt sóng, tương đồng
Em có mặt giữa muôn ngàn hiện hữu

Cho nên, xin tặng em một bông Hoa Không Sắc
Cho nên, xin tặng người một bóng dáng sắc không
Và mỉm cười trên muôn hướng ngàn phương
Khi cần có, sẽ hiện hình muôn thể.

Hoa Từ Tâm
Tháng 9 – 2007

Xin tặng em một bông hoa rạng rỡ
Nở trong lòng thành một đóa Từ Tâm
Thanh thiên hơn bát ngát của trăng rằm
Tỏa hương sắc thương yêu khắp cùng nhân thế

Hoa Từ Tâm, không cần ai đặt để
Tự nở ra từ nét đẹp tâm hồn
Hương tình thương chan chứa cả tấm lòng
Bay ngào ngạt hương yêu hòa điệu sống

Hoa Từ Tâm trổ bông trên đồng cạn
Biết mỉm cười nở rộ dưới đồng sâu
Tỏa hương bi mọi ngỏ ngách thương đau
Tỏa hương từ đến mọi nơi trầm thống

Hoa Từ Tâm, không cần cầu, bái vọng
Không ngã nhân, danh tướng, vị thân sơ
Tự xưa nay, mang sắc đẹp tinh mơ
Khắp nhân loại, đều ngợi ca trân quý

Trong cuộc đời, hỏi hoa nào tuyệt mỹ
Xin trả lời, là một đóa từ tâm
Có từ tâm, em mới có bi tâm
Tình nhân loại, cần tình thương để sống

Xin tặng em, một bông hoa chỉ hướng
Xin tặng người, một bông hoa để đi
Cả trần gian, sẽ trân quý tuyệt kỳ
Hoa Từ Tâm, cứu cho đời bớt khổ.

Ðiểm nụ Không Hoa
Tháng 10 – 2007

Ðem ghép chữ mà thành thơ mới lạ
Ðem ghép từ mà thành ngữ mới hay
Còn riêng tôi, không chứa một mảy may
Nắm cái không, nên tôi tha hồ bắt

Bẻ đi một điểm quặt
Ðã đánh mất chỗ cong
Cuốn xoáy đi một vòng
Ðã ngửa nghiêng nhật nguyệt

Ai bảo đó là biển băng, giá tuyết
Ta đốt lên một đóm lửa có không
Băng giá kia băng trinh, nhẹ hơn mảnh lông hồng
Cột chặt và treo lơ lửng mấy tầng vũ trụ

Ai bảo kia là bát nạn, tam đồ khổ
Ta đốt lên vạn hạnh đẹp như mơ
Vô số sinh linh trầm thống mong chờ
Sao lại ngại đường đi không có nẻo

Gắn trên cành khô héo
Một điểm nụ không hoa
Khắp pháp giới sáng lòa
Nụ không hoa rạng rỡ.

Hoa Rộng Lượng
Tháng 10 – 2007

Hoa Rộng Lượng núng lòng người nhỏ hẹp
Mở rộng ra cho đẹp lối nhân từ
Tội tình chi mà đóng cửa ngục tù
Sẽ ngọp thở trong căn hầm ích kỷ

Hoa Rộng Lượng nở nguồn tâm của ý
Vị nhân tình, vị nhân thế, vị tha
Ðường thênh thang lộng hương sắc châu pha
Thơm bát ngát trên hành trình cao quý

Khắc một triện son, treo thiện mỹ
Gắn một dấu ấn, lộng tấm gương
Không gì hơn tiếng nói tình thương
Trao nhân thế đèn tâm sáng tỏa

Hoa Rộng Lượng, xin em nâng một đóa
Hoa Nhân Từ, xin chị mở vòng tay
Xin người người, hãy mở rộng hôm nay
Ðể ngày mai, đầy lòng vàng chan chứa

Nhân thế, không còn những nơi đói khổ
Trần gian, không còn ngõ tối hẩm hiu
Vì đâu đâu cũng có nhịp cầu kiều
Bắc qua sông giàu nghèo reo tiếng hát

Hoa Rộng Lượng là cung đàn tiếng nhạc
Là lời ca cao vút tiếng tình thương
Là nhịp cầu bắc muôn hướng ngàn phương
Cùng hòa tấu vạn lời ca nhân ái.

Hoa Dấn Thân
Tháng 10 – 2007

Hoa Dấn Thân, hiến cho đời phụng sự
Tặng cho người giàu tâm lực cưu mang
Tặng cho ai có những tấm lòng vàng
Cho sức sống bình minh reo gió nắng

Hoa Dấn Thân, mọc trên rừng hoang vắng
Nở trong đầm, dưới hố thẳm thâm u
Giữa đồng khô, băng suối nhỏ, ao tù
Vào sông lớn, hát trời cao biển rộng

Hoa Dấn Thân, đức trượng phu gối mộng
Hạnh quân tử làm đức độ kê đầu
Ðêm không trăng, nhờ ánh chớp hỏa châu
Đêm tăm tối, nhờ bàn tay tiếp lửa

Em đã có, xin em làm thêm nữa
Anh đã có, xin anh cứ miệt mài
Nếu chỉ sống riêng mình, không biết sống cho ai
Cũng mệt mỏi, cũng già, và ngày mai cũng chết

Chết là lẽ thường tình, ai ai cũng chết
Sống, không biết sống cho ai, sống cũng dư thừa
Nếu biết sống, một ngày trọn vẹn, đẹp như mơ
Không biết sống, dù có trăm năm, thêm chật đất

Hoa Dấn Thân, xin người người mạnh bước
Một bàn tay, kết nối vạn bàn tay
Một bước chân, kết nối vạn bước chân
Trao bông hoa dấn thân và phụng hiến.

Hoa Thân Thiện
Tháng 10 – 2007

Hoa Thân Thiện, lòng người không ngăn cách
Không khép khung, đóng kín cổng, cao tường
Không hàng rào, hàng giậu vượt quá tầm
Mắt nhắm mở, nhiều gai đâm mách xé

Hoa Thân Thiện, hát câu hò khe khẽ
Tình tương thân, tương ái, vạn lời ca
Tình ấm êm chan chứa khắp mọi nhà
Nếu ai ai cũng có lòng rộng mở

Hoa Thân Thiện tỏa mùi hương biết thở
Ðể hai chiều không bít lối, nghẽn tim
Thở không ra, mạch máu lại tăng lên
Tràn lên óc và bầm gan, tím mặt

Hoa Thân Thiện, xóa tan đi rắng mắc
Mở đôi đàng kết nối lại thân thương
Mà lâu nay cắt đứt bỏ bên đường
Thật uổng phí những tình thân đánh mất

Hoa Thân Thiện, thật bình thường, chơn chất
Vốn gần nhau và có mặt bên nhau
Như miếng trầu, lại có thêm miếng cau
Cộng chút vôi, ôi mặn mà hết ý

Hoa Thân Thiện nở trên đầu sông Vị
Xuống sông Thương vang vọng vạn lời ca
Tình thân thương chan chứa đến mọi nhà
Tay bắt, mặt mừng, hòa nhau chung sống.

Hoa Nhân Ái
Tháng 10 – 2007

Hoa Nhân Ái cho lòng người thêm đẹp
Biết tương kính, tương yêu, tương ái, tương thân,
Biết tương hoan, tương hỷ, tương nhượng, tương lân
Tương càng lớn thì nhân càng cao quý

Hoa Nhân Ái, trao cái nhìn thiện mỹ
Biển trần ai sẽ trổ đóa tin yêu
Biển gian truân sẽ đơm nụ mỹ miều
Xây dựng lại những hoang tàn đổ nát

Hoa Nhân Ái, em cất cao tiếng hát
Anh hòa ca theo điệp khúc chân tình
Người người vui, reo ánh sáng bình minh
Cơn gió mát mang óng vàng nắng mới

Cùng hân hoan trên đồi cao dịu vợi
Cùng sẻ chia trên môi thắm hoa cười
Chim reo mừng cùng ca hát vui tươi
Người người trổi, khúc tình ca nhân ái

Gởi ngăn cách đi ra ngoài quan ải
Gởi tỵ hiềm xuống hố thẳm chìm sâu
Bởi mây mù nhân ngã phủ ngập đầu
Ðã đánh mất tình thân thương nhân ái

Kể từ nay, xin đừng ai ái ngại
Hãy cắt cành, hoa nhân ái trao nhau
Người với người, hết sỏi, đá, chì, thau
Chỉ còn lại màu hoàng kim thân mến.

Hoa Nhân Sinh
Tháng 10 – 2007

Hoa Nhân Sinh, ươm dòng đời và sự sống
Cho người người cùng reo khúc hòa ca
Cho người người cùng kết trái đơm hoa
Cùng trân trọng tình người là hơn hết

Hoa Nhân Sinh mọc trên những tỳ vết
Những hận thù, những ai oán làm phân
Hoa Nhân Sinh hòa nhân ái nảy mầm
Từ ũng thối tạo thành cây trái ngọt

Diệt hờn căm theo chiều dài chất ngất
Diệt hơn thua theo lịch sử đẳng đeo
Chiến tranh, khủng bố, đối trả, quẳng xuống đèo
Kỳ thị, chủng tộc, màu da, treo gió thổi

Xương tan, thịt nát, máu rơi,
là ô nhục tồi tàn muôn thuở
Tranh tối, tranh sáng, gườm nhau,
Không phải là văn minh, tiến bộ, con người
Hoa Nhân Sinh, trồng trong vườn hoa nhân loại xinh tươi
Khắp thế giới, vút cao tiếng hát hòa bình thánh thiện

Tặng cho nhau Hoa Nhân Sinh kiều diễm
Tặng cho nhau Tình Nhân Loại bao la
Tình anh em trong bốn biển một nhà
Cùng ca hát trên đồi cao thế kỷ.

Hoa Tình Thương
Tháng 10 – 2007

Hoa Tình Thương trên phiêu trầm phù thế
Xoa dịu người đau khổ cõi trần gian
Sống hẩm hiu, đầy cay đắng ngập tràn
Ðánh đổi cả cuộc đời không trả nổi

Hoa Tình Thương nở những nơi tăm tối
Xóa bóng đen, mang chút sáng hiện về
Ðể dòng đời, thôi ác mộng trong mê
Bừng tỉnh dậy, da gà còn sởn ốc

Hoa Tình Thương trổ bông, thơm ngào ngạt
Cho người người chung sức sống thăng hoa
Một bông hoa thành muôn vạn đóa hoa
Không khô cứng trên pháo đài yêu ghét

Hoa Tình Thương, thắp lòng người nến ngọc
Gieo cam lồ dịu ngọt, ngát hương thơm
Chan tình người, xẻ manh áo, chén cơm
Khơi bếp lửa sưởi hồng cơn ấm lạnh

Em bé nghèo được miếng quà, miếng bánh
Trẻ cơ cùng được bút mực, sách đèn
Nước văn minh, đừng ủ vật chất, lên men
Nước chậm tiến, đừng vắt cần lao, chết đói

Hoa Tình Thương, hết đạn bom, hận thù, lửa khói
Nghe lương tâm, nhìn nước mắt biết đau
Nghe trái tim, khóc da nát thịt thau
Vì sự sống, cùng khai thông dị biệt

Hoa Tình Thương, tương thân tha thiết
Hoa Tình Thương, tương ái mặn nồng
Nước khác nguồn, trôi muôn nẻo, kéo về sông
Năm đại dương, năm đại lục, mọi màu da
Ðồng thăng hoa tiệm tiến.

Mặc Giang

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Hoa Đạo Pháp từ 01 đến 10 - Mặc Giang - 11.06.2010 03:51:59


10 bài – Hoa Đạo Pháp 09
Thơ Mặc Giang

1. Hoa Đồng Nội
2. Hoa Không Tên
3. Hoa Tự Tôn
4. Hoa Tủi Thân
5. Hoa Mặc Cảm
6. Kết Vòng Tay Hoa
7. Kết một Đài Sen
8. Những cánh Hoa Rừng
9.Hoa Vũ Trụ
10. Xuân Hoa bốn mùa
Hoa Ðồng Nội
Tháng 10 – 2007

Xin tặng em một bông hoa đồng nội
Em ươm mơ trên hoa nội cỏ đồng
Chào ngày lên, đem ánh nắng ra hong
Ðón đêm đến, khi hoàng hôn buông xuống

Hoa Ðồng Nội, nở ngày mùa đến muộn
Tỏa hương lành từng vụ sống ấm êm
Khi chậm tay, khi hối hả, nhanh lên
Cùng chia sẻ giọt mồ hôi, cơm áo

Em có mặt, khi đất trời giông bão
Em an nhiên, khi mưa thuận gió hòa
Bởi vì em, vốn là một bông hoa
Từ đồng nội mang sắc hương thơm ngát

Hoa Ðồng Nội, cất tiếng reo ca hát
Tiếng nhặc khoan, đồng vọng tiếng hò đưa
Ðẹp thanh thiên, ôi, biết nói sao vừa
Như cỏ non hứng ngàn hạt sương trắng

Vầng đông hiện, em mỉm cười gió nắng
Hoàng hôn về, em nán đợi chiều hôm
Ngày ngày lên rảo nhẹ bước chân êm
Đêm đêm xuống vẳng nghe niềm xao xuyến

Đêm ơi đêm, sao thời gian dài quá
Ngày ơi ngày, hãy mở cửa đêm mơ
Kẻo chìm sâu, trống vắng đến dại khờ
Trời u uẩn, tiếc hoa đồng cỏ nội.

Hoa Không Tên
Tháng 10 – 2007

Xin tặng em, một bông hoa không tên không tuổi
Xin tặng anh, một bông hoa không tuổi không tên
Ðể nhìn đời bằng nỗi nhớ tìm quên
Ðể thương đời bằng tìm quên gởi nhớ

Ðóa hoa đó, em đã mang từ thuở
Vừa sinh ra, cất tiếng khóc chào đời
Rồi theo em, từng tiếng nói, câu cười
Chia sẻ những buồn vui, ngọt bùi, gian khó

Ðóa hoa đó, anh đã mang từ thuở
Bước vào đời trên mọi nẻo dọc ngang
Khi núi thét mưa rừng, khi sóng vỗ trường giang
Và thôi thúc tiếng nam nhi, đội trời, đạp đất

Tôi có mãi bên anh, trải qua nhiều dấu ngoặt
Tôi có mãi bên em, nâng đỡ bước chân mềm
Có nhiều khi, tôi thức trắng thâu đêm
Cùng bùi ngọt, canh tàn, trăng sao khóc

Tôi đứng bên anh, đồi cao đỉnh dốc
Tôi đứng bên em, đèo cả mênh mông
Ðể lắng nghe cái giá buốt mùa đông
Và lắng nghe cái oi nồng nắng hạ

Hoa Không Tên, ai mua, tôi không bán
Hoa Không Tên, ai bán, tôi không mua
Em, là đóa trinh nguyên, có sẵn bốn mùa
Ðể trao tặng cõi trần ai thống khổ

Không có tôi, nhưng em luôn vẫn nhớ
Không có tôi, nhưng anh mãi không quên
Bởi vì tôi, là một đóa không tên
Khi cảm nhận, có mặt nhau mãi mãi.

Hoa Tự Tôn
Tháng 10 – 2007

Hoa Tự Tôn, bím đời, ba hoa quá
Tự cho mình cao nhất, chẳng còn ai
Rồi đong đưa ngất ngưỡng ngồi trên đài
Đeo tự hào, tự kiêu, cống cao, ngã mạn

Hoa Tự Tôn, bím đời, sao quá đáng
Không hiểu câu, thiên hạ biết bao người
Nhưng người ta không đãi mép khua môi
Vì thẩm thấu, “cao nhơn tấc hữu cao nhơn trị”

Hãy nhìn xem, con ếch nằm đáy giếng
Rống thật to, rồi uệch uệch, oang oang
Ðâu biết rằng vo tròn trong nắp vung
Làm sao thấy trời cao và biển rộng

Hoa Tự Tôn, chết không còn đất sống
Huống chi đời, tinh tế lắm đó nghe
Ðừng mục hạ vô nhơn
Ðừng mặt đá mày dày
Không lẽ nói toạc ra
Thắng được người đã khó
Thắng được mình mới hay
Vậy mà từ xưa nay
Cứ oang oang đáy giếng

Hoa Tự Tôn, nói ra, là hết chuyện
Nên ở đời, biết sống, mới đáng khen
Ðừng đợi khi người ta vén bức rèm
Thì mặt mũi, còn đâu, nhìn thiên hạ

Hoa Tự Tôn, trên bờ cây khép lá
Báo cho người xấu xí cõi trần gian
Hễ gieo gì, thì nghiệp dĩ phải mang
Ðừng cứ mãi mành thưa che mắt thánh

Hoa Tự Tôn, Hoa Tự Tôn, muôn cánh
Xấu xí ơi, xấu xí ơi, nặng mùi
Hãy tỉnh lòng và vứt bỏ đi thôi
Biết bao tiếng cười chê, sao không biết ???

Hoa Tủi Thân
Tháng 10 – 2007

Hoa Tủi Thân xếp cánh sầu, khóc nắng
Dáng buồn buồn khép lá mộng, ru mưa
Ðêm tối tăm, ủ dột, đã dài chưa
Kéo lê thê, biết bao giờ được sáng

Hoa Tủi Thân đeo mảnh đời bất hạnh
Nở trong vườn muôn sắc của trần gian
Ðể những ai mang thân phận bẽ bàng
Vẫn còn có một bông hoa an ủi

Hoa Tủi Thân trên dọc đường lầm lũi
Khách lữ hành lững thững bước chân đi
Cánh hoa kia, có tên gọi là chi
Sao ủm thủm giống đời ta quá nhĩ

Người với ta, phải chăng, là tri kỷ
Ta với người, nào hẳn, kẻ tri âm
Thôi từ nay, làm đôi bạn tương lân
Cùng chia sẻ vui buồn trong nhân thế

Cuộc đời, là một bản trường ca, em nhé
Không cần đàn mà trổi khúc ngân vang
Khi đau thương, khi hạnh phúc kéo màn
Ðại nhạc hội, ai không là ca sĩ

Hát không cùng, ôi, bài hát tuyệt mỹ
Ca không cùng, ôi, bài ca tuyệt vời
Hát du dương cho tiếng hát đong đời
Ca réo rắt cho lời ca đồng vọng

Hoa Tủi Thân không bao giờ ai oán
Ðau buồn chi, trần thế biết bao người
Vốn đa mang tiếng khóc thay tiếng cười
Người ta sống, thì ta đây phải sống

Ðời, không phải lúc nào cũng hoa mộng
Ðời, không phải lúc nào cũng hoa mơ
Hạnh phúc, khổ đau, có sẵn tự bao giờ
Cùng hiện hữu, mới trở thành trần thế

Hoa Tủi Thân, xin tặng người bất hạnh
Xin tặng người may mắn cõi nhân gian
Trong cuộc đời đã biết bao lần mang
Ðừng quên tôi, mỗi khi lâm cảnh ngộ

Tôi tin chắc thế nào em vẫn nhớ
Tôi tin chắc làm sao anh sẽ quên
Biết bao lần đứng trên mỏm chênh vênh
Ðã mang tôi, Hoa Tủi Thân dai dẳng ???

Hoa Mặc Cảm
Tháng 10 – 2007

Này em hỡi, đeo chi Hoa Mặc Cảm
Này anh hỡi, mang chi đóa tự ti
Trên trường đời muôn nẻo cứ bước đi
Góc buồn thảm nhét bên lề cuộc sống

Hoa Mặc Cảm, không nhoẻn cười cao vọng
Không khinh đời, tự mãn, nở kiêu sa
Ai không từng đã lâm cảnh nhiêu khê
Ðừng ngồi đó mà than thân trách phận

Chính tôi đây, nở trên đầu ghềnh ráng
Rơi tận cùng hố thẳm của thương đau
Thất bại rồi, thì ngồi dậy, đứng lên, ngẩng đầu
Hoa Mặc Cảm đeo chơi trong giây lát

Tôi vẫn đứng trên đồi cao, ca hát
Tôi vẫn đứng dưới đáy vực, ngân vang
Sống ở đời, thì ngại gì trần gian
Trời đất rộng, khép mình chi cửa hẹp

Có thất vọng, mới có niềm hy vọng
Có bại thành, mới thấm những chua cay
Khi ra đời, ta đã trắng đôi tay
Thế thì nay, ngại gì hai tay trắng

Hoa Mặc Cảm, nghe trái sầu trĩu nặng
Chín nỗi niềm, khô héo cảnh trần ai
Từng nấc thang, bước lên nẻo thiên thai
Trả cái giá cuộc đời cần phải trả

Lúa mộng vàng trên đầu xanh lá mạ
Hoa nhoẻn cười từ phân bón ươm cây
Mặc cảm chi mà sầu mộng vơi đầy
Sông có khúc, đời người, ai không lúc

Hãy đưa tay vén bức màn héo hắt
Mở khung trời lồng lộng bước chân đi
Hoa Mặc Cảm sẽ lên tiếng thầm thì
Ðời là thế, có gì mà than thở !!!

Kết Vòng Tay Hoa
Tháng 10 – 2007

Kìa xem, cá lội trên đèo
Chim bay dưới nước, thuyền chèo trên non
Kìa xem, sắt nhạt hơn son
Cong ngay hơn thẳng, méo tròn hơn vuông
Ðố ai, ngậm trái bồ hòn
Mà không biết đắng, da mòn thịt thau
Ðố ai, gông cũi đeo đầu
Mà không ô nhục con tàu trần ai
“Thức đêm, mới biết đêm dài
Tối tăm, mới biết lối cài dặm băng
Lên ngàn, thử hỏi cung trăng
Cây đa, Chú Cuội, Chị Hằng, đi đâu
Rụng rơi, chín mấy trái sầu
Tang thương nát mấy biển dâu, nghiêng bờ
Khom lưng đem đổ cơ đồ
Tiền nhân ơi hỡi, đáy mồ sao yên
Sục sôi đến cả hoàng tuyền
Rung rinh đến cả hồn thiêng năm ngàn
Nhìn trông, gạch lót trên đàng
Bắc cầu nối nhịp, bắc thang leo đèo
Bắc thừng, nối cáp, dây treo
Cá tung tăng lội, chim vèo bay cao
Thuyền xưa chở một bến nào
Sông sâu biển rộng ra vào mênh mông
Vuông tròn trả lại sắt son
Trinh nguyên muôn thuở, kết Vòng Tay Hoa.

Kết một Đài Sen
Tháng 12 – 2007

Một ngày mai em nhé
Ta sẽ nói em nghe
Nhìn sông nước đây này
Nghe gì không sóng vỗ

Dừng tâm tư, bỏ ngõ
Cái gì vỗ, nói đi
Mở miệng, nện ba hèo
Ngậm câm, khư ba trượng

Nhìn thêm kia, lá phướng
Phất phơ trước gió lồng
Hỏi có gió hay không
Gió lộng hay phướng lộng

Và nhìn đây, nắm tuyết
Cái gì đóng tuyết băng
Mỉm cười, không nói năng
Như nụ hoa hàm tiếu

Hoa cười, ai có hiểu
Em cười, em hiểu hoa
Là đã kết nên tòa
Nở đài sen bát ngát.

Những Cánh Hoa Rừng
Tháng 3 – 2008

Giữa núi rừng có những bông hoa kỳ lạ
Nở thắm tươi, màu sắc tuyệt vời
Mỗi cánh hoa, có một nụ cười
Tô nét đẹp cho ngàn cây xanh lá

Sáng tinh mơ óng ánh làn sương nhẹ
Từng cánh hoa đón nắng đợi ngày lên
Nhoẻn nụ hoa như nét đẹp thần tiên
Thoáng hương bay, thơm núi rừng lộng gió

Vầng đông hiện, giọt sương sa, bỏ ngỏ
Từng cánh hoa, trĩu xuống, nhụy phô hình
Nhô lưng chừng, trên đồi núi nguyên trinh
Giữa thiên nhiên mở khung trời diễm ảo

Mỗi chiều về khép nụ mơ nho nhỏ
Đỡ nắng vàng, vén nhẹ ánh hoàng hôn
Mây lửng lơ, treo chót đỉnh chập chờn
Gió ngưng đọng, phủ màn đêm buông xuống

Những bông hoa kỳ lạ
Diễm tuyệt giữa núi rừng
Cho ngàn cây xanh lá
Cho nắng gió mưa rừng

Những bông hoa kỳ lạ
Bên dốc đá lưng đồi
Trời xanh vờn sắc thể
Mây trắng ngập ngừng trôi

Giữa núi rừng có những bông hoa kỳ lạ
Những bông hoa đẹp nhất của loài hoa
Những bông hoa đẹp nhất kết tòa
Hoa giữa núi rừng, bồng lai hạ giới.

Hoa Vũ Trụ
Tháng 4 – 2008

Hoa vũ trụ nở muôn ngàn tinh thể
Nở hằng sa vô số vạn tinh cầu
Xoay vô cùng ngàn xưa đến ngàn sau
Từ vô thỉ đến vô chung miên viễn

Hoa vũ trụ nở muôn ngàn vạn hữu
Bao hình hài vóc dáng của sinh linh
Bao kệch thô vi tế thật tài tình
Rồi kết nối lưu truyền sinh sôi mãi

Hoa vũ trụ nở muôn ngàn sinh thái
Sống vô cùng trong nhiễm thể sinh môi
Dù thời gian có vật đổi sao dời
Vẫn sinh tồn giữa mọi dòng biến chuyển

Hoa vũ trụ nở muôn ngàn kinh tuyến
Với muôn ngàn vĩ tuyến kết hư vô
Đồi núi, biển sông, đồng ruộng, ao hồ
Trời đất, trăng sao, ngân hà, thiên thể

Hoa vũ trụ nở muôn ngàn dương hệ
Mỗi thái dương cuốn hút bảo hòa nhau
Có ngày đêm sáng tối vút con tàu
Đi đi mãi trên vành hoa vũ trụ

Hoa vũ trụ đẹp vô cùng tuyệt thế
Tạo muôn loài rồi tự nở sinh sôi
Tạo muôn vật rồi tự biến đắp bồi
Sống sống mãi trên vành hoa vũ trụ.

Xuân Hoa bốn mùa
Tháng 4 – 2008

Xuân chưa đến, bởi đông dài rét buốt
Khép nụ hoa xếp lá trải đông băng
Mỉm cười, trông xuân diễm ảo xa xăm
Ta thách đố thử đông dài lạnh giá

Xuân chưa đến, bởi hạ nồng oi ả
Xếp cành khô, ve réo gọi, kêu sầu
Mỉm cười trông, xuân nhân thế bao lâu
Ta thách đố, thử hạ nồng mấy độ

Xuân chưa đến, bởi thu tàn chín nụ
Lá vàng rơi tan tác bụi nắng mưa
Mỉm cười, trông thu tím đã vừa chưa
Ta thách đố, thử thu buồn mấy nẻo

Mỗi mùa đến, xuân chưa hề khô héo
Khi đúng thời, xuân thổi mộng ru bông
Bởi trần gian, vốn ôm ấp hoài mong
Nên không nhận, hương thơm xuân tự thể

Xuân có sẵn trong bốn mùa như thế
Không đông tàn, hạ trắng với thu phong
Không sầu vương lệ đá kiếm diêu bông
Ôm vọng tưởng tìm đâu bong bóng nước

Xuân bốn mùa nở trên ngàn diễm phúc
Vượt thời gian, ươm hương sắc trong lành
Vượt không gian, mỉm nụ mới tinh anh
Xuân tự thể trong hồn ai biết sống.

Mặc Giang

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Hoa Đạo Pháp từ 01 đến 10 - Mặc Giang - 11.06.2010 03:53:28


10 bài – Hoa Đạo Pháp 10
Thơ Mặc Giang

1. Chùa tôi
2. Nụ Hồng cho em
3. Sắc – Không, mỉm nụ vô cùng
4. Tôi chỉ là một Ông Thầy Tu
5. Bài ca sỏi đá
6. Xin cho em Một Đóa Nhiệm Mầu
7. Một nụ cười vang
8. Ta đi, một cõi phù sinh hiện về
9. Biết rồi, thì tích tịch tình tang
10. Khôn chết ! dại chết, biết sống
Chùa tôi
Mồng 8 tháng Chạp, Vía Phật Thành Đạo,
Nhớ lại chùa xưa, quê cũ - Ngày 10-01-2003


Chùa tôi nho nhỏ bên làng
Bên dòng sông quyện bên hàng thông xanh
Có tre mấy lũy yên lành
Có chim ca hót trên cành líu lo
Có con đường đất quanh co
Có người đưa đẩy con đò lại qua
Có mưa có nắng chan hòa
Có trăng có gió mặn mà tình quê
Có đầm sen nở sum suê
Dân làng xin hái đem về cúng dâng
Tương chao dưa muối thanh bần
Dân làng san sẻ góp phần chia nhau
Chùa tôi cửa trước cửa sau
Mỗi lần Hội lớn kéo nhau ra vào
Lời kinh tiếng mõ thanh tao
Tiếng chuông ngân vọng rạt rào hồn quê
Có ve réo rắt trưa hè
Có cây phượng vĩ chở che oi nồng
Chùa tôi có kiểng có bông
Xanh vàng đỏ trắng điểm hồng tô son
Có hàng ghế đá rêu phong
Có hòn non bộ nằm trong sân chùa
Chùa tôi quanh quẩn bốn mùa
Cùng dân làng sống hơn thua không màn
Thương yêu thân thiện hòa vang
Có ân có nghĩa chứa chan tình người
Chia nhau câu hát tiếng cười
Chia nhau sướng khổ đẹp tươi dân làng
Chùa tôi còn đó âm vang
Tôi xa lâu lắm còn mang nặng tins
Tôi mang một chút xinh xinh
Tôi thương tôi nhớ một mình tôi thôi
Chùa tôi còn có quê tôi
Quê tôi còn có chùa tôi muôn đời
Đưa hồn về chốn xa xôi
Sờ lên đôi má lệ rơi hai hàng
Cho tôi xin được cưu mang
Dù cho một chút hành trang trong đời
Thuyền ơi ! Sao mãi xa khơi
Xin ngưng mái đẩy cho tôi trở về
Trở về thăm lại chùa quê
Thăm trăng thăm gió thăm quê thăm làng
Hay trăng còn đợi trăng ngàn ?
Ước mong còn đợi miên man chưa tròn
Khó hơn xuống biển lên non
Khi xa mới biết mỏi mòn tháng năm
Gió ơi ! còn nhớ ly tăm
Mây ơi ! còn nhớ dặm băng chưa về
Ra đi một mảnh tình quê
Chỉ xin một chuyến trở về mà thôi
Không ngờ một chuyến chia phôi
Trở thành một chuyến nửa đời phân đôi
Rêu mờ mấy lớp lên ngôi
Trăng mờ mấy lớp dặm soi bên đường
Chùa tôi tôi nhớ tôi thương
Quê tôi tôi nhớ vấn vương đêm dài
Một đi cửa đóng then cài
Một đi lối cũ dấu hài dặm băng
Vi vu thông gọi lời ngàn
Nao nao nước chảy miên man mịt mờ.

Nụ hồng cho em
Tháng 6 -2002

Đừng tìm về quá khứ
Đừng kiếm cái đã qua
Quá khứ không còn nữa
Đã qua biến mất rồi

Muốn làm người hạnh phúc
Phải là người biết sống
Sống làm người tỉnh thức
Cực Lạc vốn là đây

An vui trong hiện tại
Là đã có quá khứ
Là đã biết tương lai
Dòng ý thức không hai

Qua dòng sông ý thức
Qua mấy nẻo luân hồi
Và bốn loài sinh tử
Chung cùng chỉ một thôi

Tung lên khung trời rộng
Thu ngắn nẻo đường về
Không từ trong cái có
Có nào khác với không

Em có biết gì không ?
Tôi sẵn có bên người
Em có nghe gì không ?
Em còn mãi trong tôi !

Tôi là em tất cả
Em là tôi nhiệm mầu
Đâu còn tan hợp nữa
Muôn ngàn, hiện hữu thôi

Tôi mãi là nhịp cầu
Bắc đôi bờ sinh tử
Tôi mãi là thuyền từ
Đưa đón mọi người qua

Tôi nguyện cõi ta bà
Là Tây Phương Cực Lạc
Tôi nguyện bãi tha ma
Là dòng sông tươi mát

Chúng sanh hay Hiền Thánh
Địa ngục hay thiên đường
Gian tà hay chân chánh
Quy hướng chỉ một phương

Tam đồ hay sáu nẻo
Ánh sáng hay u minh
Là trò chơi lắt lẻo
Làm khổ mọi sinh linh

Hỡi mười phương ba cõi
Hỡi muôn kiếp u hoài
Bao trầm luân khoắc khoải
Sao cứ mãi lạc loài

Nguyện hay là vô nguyện
Vô nguyện tức nguyện rồi
Cửa tam vô tịch diệt
Chơn thường chơn lạc thôi

Vô ngôn tức không lời
Tôi có nói gì đâu
Núi cao, cao ngất mãi
Biển thẳm, thẳm thật sâu

Tôi sụp lạy cúi đầu
Xin kết một đài sen
Chắp tay dâng khắp cõi
Gởi cho em nụ hồng

Nụ hồng hai cõi sắc không
Sắc không hai cõi nụ hồng cho em.

Sắc Không Mỉm Nụ Vô Cùng
Bài nầy tôi viết vào dịp Tết Tây 2003,
Trong lúc đang thăm viếng một ngôi chùa nhỏ,
nghe tiếng tụng kinh của một vị Thầy, và quý Phật tử
trong buổi lễ hàng tuần của ngôi chùa này.

Tôi nằm nghe từ nơi chùa nhỏ
Pháp âm vi diệu của Phật Đà
Nghe như Hội Linh Sơn còn đó
Bóng thời gian năm tháng không xa
Ngày xưa Đức Phật
Dưới cội Bồ Đề
Lục thông chứng đắc
Chân lý trổ hoa
Hoa chân lý hiện sinh trên lộ trình muôn nẻo
Pháp huyền vi có mặt từ nhịp bước vạn đường
Đức Thích Ca
Đã đón nhận từ hai ngàn năm trăm năm trước
Tôi mỉm cười
dong ruổi mấy chục thế kỷ sau
Giải thoát là gì ?
Sinh tử là gì ?
Nếu không sinh làm sao có tử ?
Không luân hồi nói giải thoát mà chi ?
Có với không, thật ra chỉ một chữ
Không với có, nhận ra chỉ một lời
Chữ với lời tôi nói để mà chơi
Hèn chi Ba trăm hội thuyết kinh
mà chưa từng lên tiếng
Phật với chúng sinh
Phàm với Thánh
Tôi với người
Thật ra như một nụ cười
Nụ cười vụt tắt trên môi điểm hồng
Điểm hồng hai chữ có không
Có không rũ mặt điểm hồng còn nguyên
Sông xưa bến cũ con thuyền
Trời xanh mây trắng chim chuyền xa đưa
Đã không thì mấy cũng vừa
Có thì một điểm cũng thừa mà thôi
Ô kìa mây gió lên ngôi
Cỡi trên sóng bạc rụng rời trăng sao
Vượt từng không, phớt hồng mao
Xa in dấu ngọc cây đào trước sân
Hèn chi Đức Thích Ca bảo
Ta chưa từng sinh ra
Ta chưa nhập niết bàn
Tam vô từ đó tôi mang
Tứ đức rũ sạch trên đàng tôi đi
Tôi đi từ chỗ không đi
Luân hồi không đến ngại gì có không
Tôi đi pháp giới rỗng không
Tôi về vạn hữu hằng còn hiện ra
Tôi đi không cửa không nhà
Tôi về lầu các phong ba rêu mờ
Thì ra Đức Phật
Nói chữ Pháp thân
Ngàn sao vụt tắt
Hiện bóng phù vân
Mười phương thế giới ba ngàn
Chân lông nguyên vẹn chưa tràn phải không
Nhẹ hơn một áng mây hồng
Vô chung vô thỉ cũng đồng thế thôi
Biển sông nào khác núi đồi
Tử sinh còn ngắn hơn hồi chuông ngân
Tay cầm hạt chuỗi chưa lần
Long Hoa đã hiện, Linh Sơn chưa tàn
Ngược dòng thời gian
Đứng trên đồi vô thỉ
Vạn hữu mênh mang
Lưu tận đáy vô chung
Sắc, Không mỉm nụ vô cùng !

Tôi Chỉ Là
MỘT ÔNG THẦY TU

Trọng Đông 2003

Tôi chỉ là một ông Thầy tu
Với tiếng chuông tiếng mõ thâm u
Tránh khỏi những mây mù thấp cao danh lợi
Chức vụ, địa vị, quyền uy không màng tới
Bát phong phe phẩy tựa gió thoảng mây bay
Tương chao dưa muối cỡi theo tháng với ngày
Vẫn tự tại đơn sơ như từ ngày tôi có mặt
Tôi chỉ là một ông Thầy tu, quê mùa cạn cợt
Phủ lớp nâu sồng áo vải xa xưa
Tránh những tranh chấp, xảo thuật hơn thua
Thong dong rảo bước giữa bốn mùa
Chân đạp đất, đầu nhìn cao giữa trời xanh mây trắng
Lột xác trinh nguyên, gội mình mưa nắng
Góp nhặt ba rừng giáo lý, trắng tay
Đức Phật ngồi yên, bất động, không lay !
Thánh Tổ bặt hình, không vang, không tiếng !
Vũ trụ càn khôn, không cùng không nguyện
Nghe, biết, thấy, làm, vô tác vô tâm
Bước chân đi giữa gió mát trăng rằm
Đếm lại được mấy đồi xanh ngọn cỏ ?
Tôi chỉ là một ông Thầy tu, nhỏ nhoi kham khổ
Góp nhặt lá vàng trên những con đường sỏi đá quanh co
Đói ăn, khát uống, mệt nghỉ, ngáy kho kho
Kinh luân trống rỗng, lúa thóc thủng bồ
Đưa không nhận, đẩy không cho
Đường không đến, nẻo không đi, không thêm không bớt
Chim hót, bướm bay, ếch nhái ọt ẹt, chật ních đồng gò
Chưa làm loang lổ trên hành tinh xanh rách nát
Tôi chỉ là một ông Thầy tu, lạnh co nóng quạt
Dọ giẫm, lần mò lối cũ tích xưa
Nhìn những thềm hoang rêu phủ dư thừa
Nhòa bóng thời gian trải dài thế kỷ
Đâu là những vàng son ! uy nghi tuyệt mỹ !!!
Đâu là những cơ ngơi ! đồ sộ huy hoàng !!!
Còn không loang lổ còn không ?
Còn không loang lổ chất chồng phong sương ?
Ô kìa ? Phật Giáo - Quê Hương
Biển dâu mấy độ, tang thương mấy lần ?
Đưa tay vá lại phù vân
Đan tâm vá lại phong trần biển dâu
Tôi chỉ là một ông Thầy tu, tóc bạc mái đầu
Những sợi đen nhiều xen kẽ điểm sương, nên trắng
Tôi đi trên những con đường quê trống vắng
Nghe tâm tư trĩu nặng
Giang sơn gấm vóc năm ngàn năm
Gia tài Phật Giáo hai ngàn năm
Bóng tối thủng dần, đôi mắt chăm chăm
Màn đêm chợt tắt, hừng đông ló dạng
Tôi chỉ là một ông Thầy tu, đôi tay chống nạn
Đỡ vòm trời oan nghiệt phủ quê hương
Đẩy vô minh dày xéo làng quê, thành thị, phố phường
Cho Phật Giáo với Quê Hương
Đầy sức sống trong tình thương dịu ngọt
Tôi chỉ là một ông Thầy tu, cà thò cà thọt
Trông thật khù khờ, hiền giả quá ngu
Lặng tìm từ cõi thâm u
Lòa lên ánh chớp mây mù trần gian
Lặng tìm từ cõi mơ màng
Vẽ lên dấu ngọc leo thang trở về
Lặng tìm từ cõi u mê
Rung chuông đánh thức, đã về hay chưa ?
Gật gù tôi dạ tôi thưa
Đời tôi ư hữ !!! Thầy Chùa thế thôi !!!

Bài Ca SỎI ĐÁ
* 12-2003 *

Tôi bước đi bốn biển là nhà
Tôi bước đi là lá là hoa
Chân khua nhẹ bài ca sỏi đá
Tôi bước đi mưa nắng chan hòa
Tôi bước đi ngọc nhểu châu sa
Chân lay động sương pha tuyết giá
Lúa chín trĩu trên đầu lá mạ
Bóng chiều ngưng trên nắng mai vàng
Thuyền muộn màng dừng chuyến đò ngang
Đưa khách cuối bên bờ sông vắng
Đêm về, nhẹ rơi giọt nắng
Ngày lên, nhẹ bóng hoàng hôn
Bước về bên nẻo cô thôn
Ửng hồng nhà tranh bếp lửa
Tôi bước đi trời cao điểm tựa
Tôi bước đi đất rộng tương lân
Trời xanh không vướng đầu trần
Đất màu chẳng vướng bước chân dặm dài
Tôi bước đi nhạc trổi thiên thai
Sờ ảnh tượng thần tiên mở cửa
Tôi bước đi lối cũ chưa cài
Đường vô tận thập thò không đóng
Cành lá nhỏ giọt sương còn đọng
Biển trùng khơi đã cạn lâu rồi
Trùng trùng vạn hữu lên ngôi
Chập chùng lân thể leo đồi phiêu du
Tôi bước đi mây mù vén lối
Nhạc đêm khuya bừng trổi vang vang
Muỗi mòng chào đón hai hàng
Đưa tay vốc bóng trăng vàng lung linh
Tôi đi ngóng gió đầu ghềnh
Tôi đi cát bụi mông mênh
Chận sóng từ xa biển động
Tôi đi trời đất chênh vênh
Tôi đi đánh thức bình minh
Sức sống hồi sinh hoa mộng
Cụ già hằn sâu nghe ngóng
Em thơ đưa vói tầm tay
Mẹ quê cằn khô mơ vọng
Hoa cau thức trắng đêm ngày
Tôi bước đi trời đất ngủ say
Tôi bước đi sóng nước chưa lay
Chim ngủ trên cây
Mây ngủ trên ngàn
Tôi bước đi xuân đến đông tàn
Tôi bước đi hạ cuối thu sang
Bốn mùa tương sinh là hoa là lá
Tôi bước đi bài ca sỏi đá
Khua âm vang khúc nhạc lên đường
Ngân tình dài muôn vạn yêu thương
Nắng sớm mai chiều
Ngọn cỏ vương vương.

Xin Cho Em
Một Đóa Nhiệm Mầu

Thơ Nhạc * 03-01-2004 *

Xin cho em một đóa hoa hồng
Xin cho em một đóa hoa tâm
Hoa chân lý nở vạn tình thương

Xin cho em một đóa nhiệm mầu
Xin cho em một đóa minh châu
Rừng giác ngộ, vườn hoa từ bi

Hoa vẫn nở trên đường cứu khổ
Hoa vẫn nở trên đường tự độ
Mà con người hờ hững không hay

Em có biết từ lâu lạc lối
Em có biết từ lâu lạc loài
Sáu nẻo luân hồi mòn mỏi xưa nay

Em có biết đêm dài tăm tối
Em có biết xa hẳn đường về
Sinh tử bốn loài đau khổ đắng cay

Một ngày tu nở đóa hoa hồng
Một ngày tu nở đóa hoa tâm
Đã từ lâu vùi lấp xa xăm

Một ngày tu nở đóa ưu đàm
Một ngày tu rạng ánh đạo vàng
Đạo cứu đời từ đó em mang

Một ngày tu em bước lên thuyền
Thuyền đạo mầu cắt đứt vạn duyên
Thuyền từ bi về bến thanh lương

Một ngày tu em bước lên thuyền
Chuyên chở người từ khắp muôn phương
Đến bờ bến đạo vàng yêu thương

Xin cho em một đóa hoa hồng
Xin cho em một đóa hoa tâm
Hoa từ bi nở khắp muôn phương

Xin cho em một đóa hoa hồng
Xin cho em một đóa hoa tâm
Hoa từ bi thấm nhuận muôn phương.

Một Nụ Cười Vang
Tết Giáp Thân 2004

Ta hỏi ngày mai ta ở đâu
Băng trong vũ trụ vượt tinh cầu
Trăng sao úp mở, thôi chao động
Thương hải tang điền khép biển dâu

Ta hỏi ngày mai có trở về
Đường xưa lối cũ bước lê thê
Bóng em tựa cửa, chờ lâu lắm
Chợt tỉnh hồn ai lỗi ước thề

Ta hỏi ngày mai chớ dại khờ
Trần gian tay trắng nẻo bơ vơ
Lang thang khắp chốn chìm sinh tử
Em đứng buồn trông, khách hừng hờ

Ta hỏi ngày mai mấy nhịp cầu
Sông dài mấy khúc cạn hay sâu
Đôi bờ mấp mé bên dòng nước
Ta dắt tay em bước nhiệm mầu

Ta chẻ thời gian chẳng có gì
Dọc đường trổi nhạc bước chân đi
Ru em giấc ngủ, yên không động
Ta đã là em thật diệu kỳ

Ta cắt không gian thử mấy chiều
Một vòm trống rỗng tợ cô liêu
Đẩy đưa dung chứa cho cùng khắp
Chẳng chút bớt thêm chẳng ít nhiều

Chớ hỏi làm chi bóng nguyệt tàn
Thời gian theo gió gởi mênh mang
Phút giây nắm bắt trùm chung thỉ
Tiếng vỗ bàn tay nhịp khúc vang

Chớ hỏi ngày mai đã đến chưa
Hôm qua còn đó tự bao giờ
Hôm nay gói trọn ba thời nữa
Hiển hiện nguyên hình bóng dáng xưa

Chớ hỏi làm chi khách vắng nhà
Đường đi vạn lý có đâu xa
Bước chân dong ruổi chưa mòn mỏi
Nở nụ cười vang, ta với ta.

Ta Đi, Một Cõi Phù Sinh Hiện Về * Xuân Giáp Thân 2004 *

Người vào hoa tạng người chơi
Ta vào sinh tử cho đời bớt đau
Người vào một cõi nhiệm mầu
Ta vào ba cõi bắc cầu lại qua
Người thương cây cỏ lá hoa
Ta thương bốn loại trong nhà thê lương
Người thương diệu hữu chơn thường
Ta thương muôn vật trên đường phù sinh
Người hòa âm điệu kệ kinh
Ta hòa âm điệu tang tình chiều đông
Người hòa tịch tịnh mênh mông
Ta hòa tình tự trên dòng nổi trôi
Người vui thanh vắng núi đồi
Ta chia ai oán lở bồi nhân gian
Người vui huyền diệu mây ngàn
Ta chia trầm thống lang thang không đường
Người chơi trong cõi thanh lương
Ta chơi nhân ảnh nghê thường hợp tan
Người chơi dưới ánh trăng vàng
Ta chơi bóng nguyệt mênh mang ao hồ
Người xa phố thị thành đô
Ta vào đồng nội bên bờ ruộng xanh
Người reo châu ngọc long lanh
Ta reo gió gọi bên cành thùy dương
Người reo cam lộ pháp vương
Ta reo tiếng gọi tình thương con người
Người reo một đóa hoa cười
Ta reo muôn đóa thắm tươi nhân tình
Người vào tự thể quang minh
Ta vào thực chất như mình với ta
Người về thăm lại quê nhà
Ta đi rung cõi ta bà ngấn sương
Người về thăm lại cố hương
Ta đi trên khắp nẻo đường tử sinh
Người đi nguyên vẹn bóng hình
Ta đi, một cõi phù sinh hiện về
Hai chiều chạy dọc bờ đê
Dòng sông chuyển hóa chưa hề tồn sinh
Cây đa còn đứng đầu đình
Cành mai trước ngõ nghiêng mình trổ bông.

Biết Rồi Thì Tích Tịch Tình Tang
* Xuân Giáp Thân 2004 *

Này nhé, mùa xuân đang ở đâu ?
Cho hoa ươm nhụy vấn vương sầu
Xuân đến rồi đi hoa rơi rụng
Từng cánh nhạt phai đổi sắc màu

Như thế thì xuân có nghĩa gì
Để hoa tan tác mỗi xuân suy
Đến chưa khoe sắc đà tàn úa
Thà chẳng có xuân, lỡ mộng thì

Còn hạ đeo mang những bức nồng
Cội cằn sỏi đá, lá khô bông
Trưa bừng nóng nực kêu oi ả
Đêm đến ngây ngây bảo quá hầm

Đi vào mùa hạ luống khô khan
Đồng cháy cỏ khô nắng chói chang
Nước cạn sông mòn xoi đất nẻ
Xuân tàn hoa héo hạ không kham

Cất bước vào thu coi thử sao
Cây trơ xác lá gió rì rào
Trăng sao mờ nhạt thu hiu hắt
Ray rứt hồn ai sóng rạt rào

Ngẩn ngơ chiếc lá rụng mùa thu
Chiếc đã sang ngang chiếc gật gù
Gió tấp muôn bề tơi tấp mãi
Buồn không chiếc lá rụng thâm u

Lẻn bước vào đông thăm chút nào
Đêm đông lành lạnh thấy buồn sao
Một mình trơ trọi đêm đông lạnh
Trống vắng còn hơn nỗi vắng teo

Đợi chờ chi nữa những đêm đông
Vốn biết vào đông thật lạnh lùng
Hơi ấm tàn nhanh trong giá buốt
Gởi lòng tê tái những đêm đông

Thời tiết tự nhiên của đất trời
Nắng mưa nóng lạnh đến từng nơi
Nếu không chuyển hóa thì than trách
Chuyển hóa thì than hỡi đất trời

Cứ mỗi một năm có bốn mùa
Bốn mùa tuần tự chẳng hơn thua
Xuân sang hạ đến thu đông lại
Cho trọn một năm với bốn mùa

Mỗi mùa thay đổi mới dễ thương
Ươm mơ sự sống mộng bình thường
Bốn mùa tương tức nhồi sinh lực
Khá biết nhau nghe mới tỏ tường

Bốn mùa cho hết cõi nhân gian
Nặng nhẹ nhau chi lắm bẽ bàng
Há biết bốn mùa thay đổi mãi
Biết rồi thì tích tịch tình tang.

Khôn Chết ! Dại Chết ! Biết Sống !
Tháng 02 - 2004.

Làm trăng sáng tỏa khắp trời
Làm sao lấp lánh tuyệt vời bao la
Không như ánh hỏa châu pha
Thì như đôm đốm gần xa lập lòe
Không như cây lá sum suê
Thì làm hoa dại mân mê lối mòn
Không cao cây cả núi non
Thì làm cây nhỏ bên hòn đá xanh
Không như mấy lũy tre xanh
Thì làm ngọn trúc xinh xinh đầu làng
Không như man mác mây ngàn
Thì làm vành mống vắt ngang chân trời
Không như tàu lớn ra khơi
Thì như thuyền nhỏ đưa người qua sông
Không thanh như tiếng chuông đồng
Thì như chim Lạc chim Hồng kêu chơi
Không vang dậy sóng dậy trời
Thì kêu nho nhỏ cho người đủ nghe
Không mơ thành lũy đắp be
Thì làm hàng dậu chở che hai chiều
Không sang gấm vóc mỹ miều
Thì thanh thì bạch nâng niu nhẹ nhàng
Không như đường rộng thênh thang
Thì làm lối nhỏ dọc ngang đi về
Nhục vinh, thành bại, khen chê
Hư danh, giả tướng, ê chề nhân gian
Việc gì mang lại bình an
Đừng gây ai oán, đừng quàng khổ đau
Đó là mới thật thâm sâu
Tiểu nhân, quân tử, trước sau khác gì
Trăm năm một cuộc cười khì
Cười như tùng bách xanh xì trăm năm.

Mặc Giang

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Tôi chỉ là một Ông Thầy Tu - Mặc Giang - 11.06.2010 03:59:35
 
Tôi chỉ là một Ông Thầy Tu
 
 
Tôi Chỉ Là
MỘT ÔNG THẦY TU

Trọng Đông 2003
Mặc Giang

Tôi chỉ là một ông Thầy tu
Với tiếng chuông tiếng mõ thâm u
Tránh khỏi những mây mù thấp cao danh lợi
Chức vụ, địa vị, quyền uy không màng tới
Bát phong phe phẩy tựa gió thoảng mây bay
Tương chao dưa muối cỡi theo tháng với ngày
Vẫn tự tại đơn sơ như từ ngày tôi có mặt
Tôi chỉ là một ông Thầy tu, quê mùa cạn cợt
Phủ lớp nâu sồng áo vải xa xưa
Tránh những tranh chấp, xảo thuật hơn thua
Thong dong rảo bước giữa bốn mùa
Chân đạp đất, đầu nhìn cao giữa trời xanh mây trắng
Lột xác trinh nguyên, gội mình mưa nắng
Góp nhặt ba rừng giáo lý, trắng tay
Đức Phật ngồi yên, bất động, không lay !
Thánh Tổ bặt hình, không vang, không tiếng !
Vũ trụ càn khôn, không cùng không nguyện
Nghe, biết, thấy, làm, vô tác vô tâm
Bước chân đi giữa gió mát trăng rằm
Đếm lại được mấy đồi xanh ngọn cỏ ?
Tôi chỉ là một ông Thầy tu, nhỏ nhoi kham khổ
Góp nhặt lá vàng trên những con đường sỏi đá quanh co
Đói ăn, khát uống, mệt nghỉ, ngáy kho kho
Kinh luân trống rỗng, lúa thóc thủng bồ
Đưa không nhận, đẩy không cho
Đường không đến, nẻo không đi, không thêm không bớt
Chim hót, bướm bay, ếch nhái ọt ẹt, chật ních đồng gò
Chưa làm loang lổ trên hành tinh xanh rách nát
Tôi chỉ là một ông Thầy tu, lạnh co nóng quạt
Dọ giẫm, lần mò lối cũ tích xưa
Nhìn những thềm hoang rêu phủ dư thừa
Nhòa bóng thời gian trải dài thế kỷ
Đâu là những vàng son ! uy nghi tuyệt mỹ !!!
Đâu là những cơ ngơi ! đồ sộ huy hoàng !!!
Còn không loang lổ còn không ?
Còn không loang lổ chất chồng phong sương ?
Ô kìa ? Phật Giáo - Quê Hương
Biển dâu mấy độ, tang thương mấy lần ?
Đưa tay vá lại phù vân
Đan tâm vá lại phong trần biển dâu
Tôi chỉ là một ông Thầy tu, tóc bạc mái đầu
Những sợi đen nhiều xen kẽ điểm sương, nên trắng
Tôi đi trên những con đường quê trống vắng
Nghe tâm tư trĩu nặng
Giang sơn gấm vóc năm ngàn năm
Gia tài Phật Giáo hai ngàn năm
Bóng tối thủng dần, đôi mắt chăm chăm
Màn đêm chợt tắt, hừng đông ló dạng
Tôi chỉ là một ông Thầy tu, đôi tay chống nạn
Đỡ vòm trời oan nghiệt phủ quê hương
Đẩy vô minh dày xéo làng quê, thành thị, phố phường
Cho Phật Giáo với Quê Hương
Đầy sức sống trong tình thương dịu ngọt
Tôi chỉ là một ông Thầy tu, cà thò cà thọt
Trông thật khù khờ, hiền giả quá ngu
Lặng tìm từ cõi thâm u
Lòa lên ánh chớp mây mù trần gian
Lặng tìm từ cõi mơ màng
Vẽ lên dấu ngọc leo thang trở về
Lặng tìm từ cõi u mê
Rung chuông đánh thức, đã về hay chưa ?
Gật gù tôi dạ tôi thưa
Đời tôi ư hữ !!! Thầy Chùa thế thôi !!!

 
:: Tất cả bài thơ đã đưa vào TV ::
<bài viết được chỉnh sửa lúc 16.06.2010 09:02:38 bởi Viet duong nhan >

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
10 bài – Hoa Đạo Pháp 11 đến 15 - Mặc Giang - 18.06.2010 00:12:25



10 bài – Hoa Đạo Pháp 11
Thơ Mặc Giang

1. Đạo vàng tỏa rạng Như An
2. Nam năm trước – Năm năm sau
3. Tọa thị phương dài
4. Không mộng hoa gầy
5. Tỉnh mộng hồn đau
6. Giã từ quán trọ
7. Từ giã con tàu
8. Hành trình lữ thứ
9. Cùng ta xuyên vũ trụ
10. Tử Thần lên tiếng

Đạo Vàng tỏa rạng Như An
Viết 7.20am, xong 8am
Trên chuyến bay ngày 06-7-2008
Dâng lên Giác Linh Ngài.
TNT

Vũ trụ lăn quay
Ngân hà xao xuyến
Mây mù vẫn vũ
Khuất bóng trăng sao
Ba ngàn thế giới rung động
Ba đường sáu nẻo xôn xao
Trái đất rợn hồn nín lặng
Lòng người im bặt, nao nao
Ngưỡng bạch Đệ tứ Tăng Thống
Huyền Quang chín phẩm trên cao
Ngài đi, hằng viễn nhiệm mầu
Chúng con ở lại, rầu rầu ruột đau
Ngài đi, đứt mấy nhịp cầu
Chúng con ở lại, chìm sâu vuông tròn
Ngài đi, lửa đốt sắt son
Chúng con ở lại, lối mòn sương pha
Hỡi ôi, là cõi ta bà
Tâm nguyền nguyền đắng, hạnh ngà ngà cay
Hỡi ôi, cát đá bụi bay
Tình vương vương nặng, nghĩa ngây ngây nồng
Hỡi ôi, núi Thái biển Đông
Dư đồ một mảnh giống dòng Việt Nam
Chung nhau lịch sử năm ngàn
Chung nhau ấm lạnh cơ hàn thịnh suy
Chung nhau khổ nhục vô nghì
Chung nhau nước mắt, bờ mi đã mòn
Trước năm 1954, rách nát !
Sau năm 1954, tương tàn !
Trước năm 1975, bi đát !
Sau năm 1975, lầm than !
Nhục nhằn, từ Nam tới Bắc
Khổ đau, từ Bắc tới Nam
Quốc nội, hải ngoại, tim thắt
Trong ngoài, hai mối, lòng se
Ngài đi, Mùa Hạ đang về
Tiếng chuông tiếng mõ nhịp khua Đàn tràng
Ngài đi, Mùa Hạ băng ngang
Tăng Ni tứ chúng hàng hàng xót xa
Ngài đi, Mùa Hạ chưa qua
Hương bay khói quyện gần xa Nguyên Thiều
Trông về Phương trượng tịch liêu
Ngày đêm sáu khắc, chín chiều ruột đau
Cách ngăn, còn mấy nhịp cầu
Dập vùi, còn mấy sắc màu tang thương
Tâm nguyền Đạo pháp - Quê hương
Hạnh nguyền chan chứa tư lường hồn ai
Rêu mờ, son sắt không phai
Dấu mờ, không nhạt phương đài Huyền Quang
Chắp tay, nâng đóa Ưu Đàm
Giải Hòa tỏa rạng Đạo Vàng Như An.

Mặc Giang

Năm năm trước - Năm năm sau !
Kính dâng Giác linh Đức TT
Viết 8.20am, xong 8.55am
Trên chuyến bay ngày 06-7-2008
TNT

Năm năm trước
Thiết lễ, suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống
Năm năm sau
Cúi đầu, đảnh lễ Ngài tịch lắng Tây quy
89 năm trần thế, tâm lực vô nghì
69 năm Pháp lạp, Tăng phong, Đạo cốt
Tu viện Nguyên Thiều
Một bậc long tượng ẩn khuất
Phật Giáo Việt Nam
Một bậc lương đống xả thân
Phong trần mấy gánh phong trần
Đắng cay mấy gánh, cơ cần ruột gan
Quê hương - Đạo pháp cưu mang
Một đời lao khổ, lầm than vô ngần
Xích xiềng, không dám đeo gông
Một đời, ba thuở nằm trong lao tù
Sắt son, rực sáng tâm như
Bách niên ư hữ, không dư, thiếu - thừa
Thế thời đưa đẩy, đủ chưa
Chín mươi độc ảnh, chưa vừa hay sao
Thế thời nghiêng ngửa bờ lau
Đạo - Đời, vùi dập nao nao đoạn đành
Một đời, ai nhục, ai vinh
Một đời, bóng núi nghiêng mình tiêu sơ
Năm năm trước, Ngài không ước mơ
Năm năm sau, Ngài chẳng trông chờ
Ngài đã từng nói :
Đạo pháp - Dân tộc ư !
Tấm thân tôi này !
Quê hương - Lịch sử ư !
Đôi tay tôi này !
Cứ tội, cứ tù, cứ lao, cứ lý
Cứ nhục, cứ hình, nếu chết thì thôi
Chứ không hề lay chuyển
Không thể đổi thay
và trước sau như một
Hôm nay, Ngài xả báo thân, quy nhất
Nhưng thật ra, Ngài đã quy nhất từ lâu
Đạo pháp gắn liền với Dân tộc - tuy một mà hai
Lịch sử gắn liền với đất nước - tuy hai mà một
2000 năm Phật Giáo
5000 năm Dân Tộc
Đá dẫu mòn, nhưng ngọc không phai
Lửa càng nung, thì vàng càng sáng
Nguyên Thiều, 1 giờ chiều ngày 5 tháng 7, Hạ nắng
Huyền Quang, xả nhục thân, Mậu Tý lục ngoạt, bảo sở hoàn nguyên
Ngài về một cõi tịch biên
Quê hương - Đạo pháp, con thuyền lao linh
Ngài về, thăm cõi vô sinh
Ta bà nhập thế, đăng trình độ sanh.

Mặc Giang

Tọa thị phương đài
Tháng 7 – 2008

Đạo mầu nhiệm thể từ bi
Muôn loài thấm nhuận tư nghì pháp vương
Đạo vàng nhiệm thể tình thương
Chúng sanh tắm gội sáu đường trầm mê
Linh Sơn kéo tới Tào Khê
Hăm sáu thế kỷ chưa hề đổi thay
Xa hơn, từ thuở mảy may
Hồng hoang kết tạo dựng xây phù trần
Sâu hơn, trùm khắp pháp thân
Thỉ chung khép cửa tinh lân không còn
Huyền môn vết cũ lối mòn
Trùng trùng hoa tạng điểm son vô bờ
Sắc không đôi ngả trơ vơ
Vô sinh vô trụ hư vô rợn hồn
Đưa tay bắt bóng càn khôn
Đêm tàn nguyệt khuyết vuông tròn bặt âm
Diệu huyền đạo lý thậm thâm
Không còn sinh thể mê lầm mới thôi
Phương đài tọa thị lên ngôi
Nụ hoa hàm tiếu tuyệt vời thiên thu
Không còn bóng dáng thật hư
Hỏi chi viễn mộng mây mù ngàn năm.

Mặc Giang

Không mộng hoa gầy
Tháng 7 – 2008

Người ta có mộng hoa vàng
Tôi không có mộng lang thang muôn đường
Người ta có mộng hoa hương
Tôi không có mộng nghê thường trần gian
Nên đi khắp nẻo đàng tràng
Nên về khắp chốn dọc ngang chẳng sờn
Hỏi chi góc biển đầu non
Ngại chi vết cũ lối mòn phù sinh
Ngàn xưa chiếc bóng vương hình
Ngàn sau gối mộng tự tình phiêu du
Ta còn có cả thiên thu
Ta còn có cả mịt mù thỉ chung
Đi chưa hết nẻo đường cùng
Về chưa hết nẻo điệp trùng xa xưa
Hư vô trống rỗng dư thừa
Thì ta đi mãi cho vừa lòng ta
Hoa vàng rồi cũng sương pha
Hoa hương rồi cũng la đà bèo mây
Ta không ôm mộng hoa gầy
Bờ rêu thấm lạnh xát xây úa tàn
Ta không ôm mộng hoa vàng
Một mai tím ngắt hoa vàng nơi đâu
Ta đi không trước không sau
Bước chân là mỗi nhịp cầu lại qua
Ta đi không cửa không nhà
Hành trình là chốn ta bà phiêu dinh
Khi nào kết thúc tử sinh
Thì ta chấm dứt hành trình ta đi.

Mặc Giang

Tỉnh mộng hồn đau
Tháng 7 – 2008

Trần gian thống nỗi ta bà
Thế gian thống nỗi trầm kha đọa đày
Mới sinh nguyên lộ trắng tay
Ngày tàn ngọn cỏ lung lay bụi mờ
Vậy mà suốt kiếp vật vờ
Nổi trôi oan nghiệt muôn bờ lao linh
Ngã nhân bào ảnh tuyệt tình
Lợi danh tráo đấu xẫu mình cùng ta
Thanh xuân vật lộn xông pha
Cội cằn tóc trắng chưa pha nỗi niềm
Đến khi hắt gió đứng tim
Buông tay nhắm mắt mới im lặng sầu
Ô hay cuộc lữ con tàu
Lại qua biết mấy sắc màu thời gian
Sao không dừng lại bên đàng
Trước khi rũ cánh lá vàng nhẹ bay
Cho ta bớt nỗi đắng cay
Cho người bớt nỗi trả vay muộn màn
Cớ chi xéo dọc xẻ ngang
Ngược xuôi cong quẹo, bẽ bàng bờ lau
Người đau như thể ta đau
Ta đau như thể người đau khác nào
Đeo chi giấc mộng chiêm bao
Bừng con mắt dậy đổ vào hồn đau.

Mặc Giang

Giã từ quán trọ
Tháng 7 – 2008

Có một ngày ta giã từ trọ quán
Nét rong rêu phủ kín quãng đường qua
Để vẽ thêm dấu vết cõi ta bà
Cát bụi bay dập vùi phơi sỏi đá

Có một ngày ta giã từ nhân thế
Đã đẳng đeo một cuộc lữ trăm năm
Tiếng thương yêu vạn hữu kết hoa đăng
Làm hành trang trên nhịp cầu sinh tử

Có một ngày ta tạ từ xe cũ
Mượn một lần dong ruổi kiếp ba sinh
Đường trần gian xây xát thể băng trinh
Cạn sinh lực xin giã từ một chuyến

Có một ngày ta về căn gác nhỏ
Đã ra đi từ thuở mới phiêu du
Bước lang thang trên vạn nẻo diêm phù
Đường quê cũ đợi chờ ta lâu lắm

Ta trở về giữa đêm tàn giá lạnh
Nhặt thời gian nhìn dấu vết đi qua
Nét rong rêu phơi tàn tạ úa già
Hình bóng cũ nhìn ta thương gió bụi

Có một ngày ta về như thế ấy
Để rồi đi thuyền vũ trụ tinh mơ
Đến và đi như bỏ ngõ bao giờ
Ta đứng lại là thỉ chung biến mất.

Mặc Giang

Từ giã con tàu

Mang một kiếp trên hành trình phiêu lữ
Ba vạn sáu gõ nhịp tháng ngày qua
Ta bước đi chưa hết cõi ta bà
Tâm còn đó những lực tàn xuống dốc

Trời đất rộng thu dần khung cửa hẹp
Nẻo tung hoành bít lối nhỏ trơ vơ
Sức bình sinh đã cạn kiệt tàn khô
Xe huyễn hóa đang thời kỳ rệu rã

Chân khẳng khiu đỡ tấm thân tàn tạ
Tay hao gầy vén bức ảnh thời gian
Mắt mù mờ nhìn không quá mấy gang
Vai co rút đâu còn ngang mấy thước

Căn phòng nhỏ chỉ ra vô lê bước
Ngồi không xong, đi dứng cũng ê mình
Cả cuộc đời xin trả lại lao linh
Ôm mộng mị gối đầu trên đỉnh bạc

Ta vẫn nghe thuở hồng hoang ca hát
Cõi thiên thu khép mở biết bao lần
Bụi phong trần góp gió đãi phù vân
Vẽ bước chân trên muôn ngàn thiên lý

Chiều xuống thấp nắng vàng rơi yếu ớt
Hoàng hôn về chim vỗ cánh bay mau
Thế thì ta xin từ giã con tàu
Kẻo phụ lòng một sân ga chuyển tiếp.

Tháng 8 – 2008
Mặc Giang

Hành trình lữ thứ

Chiều xuống thấp rừng cây nghiêng bóng núi
Gác lưng trời mây kéo ngả đầu non
Đàn chim muông mạnh cánh đuổi hoàng hôn
Đêm thôi thúc ngập ngừng khung cửa khép

Trời đất rộng thu dần vào ngõ hẹp
Bóng chiều hôm gối mộng đón trăng ngàn
Biển trùng khơi lồng lộng sóng âm vang
Ta đứng đó giữa hư vô bất tận

Gió thét núi vạt rừng khua thăm thẳm
Trăng gọi sao bóng tối phủ hoang mờ
Một mình ta đếm từng bước tiêu sơ
Đi đi mãi trên hành trình lữ thứ

Tiếng thiên thu chờ ta đó
Chốn vô tận đợi ta về
Và người em bé nhỏ
Ta dẫn bước em đi

Một điểm son không muốn tắt
Bờ không sắc chẳng đôi đàng
Linh Sơn reo gió hát
Ta khơi mạch Tào Khê

Bóng dáng em lộ diện từ vô thỉ
Vóc thân ta có mặt đến vô chung
Nhịp tử sinh gõ từng bước vô cùng
Đi đi mãi giữa đôi dòng huyễn hóa

Cõi diêm phù còn phiêu bồng muôn thuở
Thì ta đây hiện hữu đến muôn đời
Và em ơi, cùng dạo bước rong chơi
Đi đi mãi giữa thềm hoang vạn thể.

Mặc Giang
Tháng 8 – 2008

Cùng ta xuyên vũ trụ

Ta tìm lại đống tro tàn dĩ vãng
Để còn gì quá khứ những ngày qua
Đời là một giấc mơ, loang vết nhạt nhòa
Vẫn lưu dấu trong thềm hoang ký ức

Đêm canh dài, ngàn sao không muốn tắt
Ta nhìn trông cho thẩm thấu đêm thâu
Gối đầu non, nghiêng ngửa vạn tinh cầu
Duỗi góc biển, lung linh bờ ảo tượng

Nhớ ngày xưa, ra đi trên muôn hướng
Đến hôm nay, đứng cuối nẻo đường xa
Em vẫn còn đây, ta vẫn là ta
Nhưng dĩ vãng rêu mờ phơi gió bụi

Hình ảnh cũ phôi pha mờ sương khói
Bóng hình xưa phai nhạt ngả bờ cây
Máy trí não khơi nhịp kéo truông mây
Nhưng nắm bắt, mảnh phù du tan vỡ

Nếu là mộng, sao còn lưu nỗi nhớ
Nếu không thực, sao chẳng khuất niềm quên
Em vẫn nguyên trinh, ta chẳng xa em
Cùng ẩn hiện giữa bức tranh không sắc

Em không nói, ta nhìn em giây lát
Nhịp đăng trình, lại cất bước ra đi
Thế thì thôi, không cần nói năng chi
Em hiện hữu cùng ta xuyên vũ trụ.

Mặc Giang
Tháng 8 – 2008

Tử Thần lên tiếng !

Này Tử Thần, có gan thì lộ diện
Hễ có làm có chịu, mới xứng danh
Đừng thấp tha thấp thỏm, chạy loanh quanh
Lén chụp bắt mà gọi Thần sao được

Ta từng nghe khắp đông tây nam bắc
Ngươi ra tay thì hết cách tìm cầu
Vậy thì ngươi lẩn quẩn trốn nơi đâu
Có bản lãnh, hãy trườn ra ánh sáng

Dù phàm phu, ta đây đâu có ngán
Ngươi là Thần, mà tiểu tử thế sao
Vội ra tay, rồi dở chước bôn đào
Mang tiếng Thần, quá ô danh không hĩ !

Ta hỏi thật, nếu nhà ngươi biết chuyện
Bắt vạn loài phải chết, bởi do ngươi
Chết đoạn đành, chết nghiệt ngã, chết tươi
Nếu là ngươi, hãy mau mau lên tiếng

Người ta dựng biết bao nhiêu cốt truyện
Có bàn tay lông lá của Tử Thần
Hay là ai, rồi tiếm vị tiếm danh
Tranh tối sáng, phải trắng đen, ngả ngũ

Có một kẻ dáng trượng phu quân tử
Dõng dạc tuyên, làm gì có tử thần
Không một ai là thần tử thần sinh
Băng sinh tử chỉ là dòng chuyển hóa

Đừng buôn Thần bán Thánh, lòa thiên hạ
Hù nhân gian, dọa nạt kẻ nhát gan
Làm con buôn cho những kẻ manh tâm
Giả phù phép để kiềm tiền cơm cháo

Đã là Thần, thì đường đường chân tướng
Đâu có chuyện núp mái khói am tranh
Tử, tức cuối đời ; Sinh, tức chuyển sanh
Khắp sáu nẻo ba đường đều như thế.

Mặc Giang
Tháng 8 – 2008

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
10 bài – Hoa Đạo Pháp 11 đến 15 - Mặc Giang - 18.06.2010 00:13:42


10 bài – Hoa Đạo Pháp 12
Thơ Mặc Giang

1. Ưu Đàm vô nhiễm
2. Tìm em cho đến vô cùng
3. Mai tôi đi rồi
4. Kết tòa thiên thu
5. Khép cửa đêm dài
6. Tiếng gõ cô liêu
7. Còn gì sau trái tim đau
8. Trái tim đau
9. Ta mang một trái tim đau
10. Thắp đèn trượng phu
Ưu Đàm vô nhiễm

Đêm khuya khoắt rừng sâu còn kéo gió
Canh thâu dài núi thẳm thét hoang vu
Biển trùng khơi lồng lộng sóng mịt mù
Sông hun hút xạc xào khua đáy nước

Vành vũ trụ khép khung trời xa tít
Thắp ngàn sao nhấp nháy dệt tầng không
Một mình ta phiêu bạt giữa mênh mông
Ôm hư vô thả xuống bờ băng giá

Vọng âm vang, vẳng nghe hồn sỏi đá
Tấm hình hài xơ xác mảnh hồn đau
Ta vẳng nghe tiếng nói của thiên thu
Gõ khoan nhặt trên nhịp cầu còn mất

Cát bụi bay trả về cho đất
Sương gió bay trả lại cho trời
Một mình ta độc lữ không thôi
Đi đi mãi con đường không sắc

Không, ta trả về cho sắc
Sắc, ta trả về cho không
Tử sinh hai nẻo bềnh bồng
Chân thân hồi quan tự kỷ

Vành vũ trụ khép khung trời vô thỉ
Nẻo hư vô khép cánh cửa vô chung
Ta cứ đi, không có điểm cuối cùng
Gói hành trang là Ưu Đàm vô nhiễm.

Tháng 9 – 2008

Tìm em cho đến vô cùng

Tìm em muôn kiếp tử sinh
Lang thang từ độ đăng trình xa xưa
Tìm em muôn kiếp chưa vừa
Chia tay từ độ gió lùa hồng hoang
Ba đường sáu nẻo đưa chân
Rụng rơi cát đá dấu mòn bụi bay
Phơi sương đãi nắng khô cày
Miếng cơm manh áo xéo dày tóc tang
Ươm mơ em ẩn trên ngàn
Bắt thang lên hỏi thiên đàng nơi đâu
Ươm mơ em đứng bên cầu
Nhặt khoan gõ nhịp đêm sâu lụn tàn
Tìm em lặn xuống suối vàng
Trùng trùng địa ngục ngỡ ngàng trống không
Tìm em đi hết mùa đông
Băng qua mùa hạ xuân lồng sang thu
Biển khơi sóng vỗ mịt mù
Núi rừng khép kín âm u lạnh lùng
Tìm em tìm đến vô cùng
Dù cho vô thỉ vô chung mấy thì
Mắt mòn hun hút bờ mi
Tâm đan hun hút tư nghì mù sương
Tìm em trăm hướng ngàn phương
Dù cho muôn kiếp dặm trường nghe em.

Tháng 9 – 2008

Mai tôi đi rồi

Mai tôi đi rồi, từ giã thân thương
Một kiếp lang thang trên một quãng đường
Ngừng bước đăng trình gởi mây theo gió
Cát bụi ru hời, còn đó vương vương

Mai tôi đi rồi, từ giã trần gian
Ngừng bước phiêu du trên một đoạn đàng
Dòng sông đôi bờ, chia xa hai nẻo
Sóng nước gập ghình, đập vỗ mênh mang

Mai tôi đi rồi, từ giã đời tôi
Ngừng bước tử sinh, một kiếp con người
Sáu nẻo ba đường, khép hờ bỏ ngỏ
Vang vọng thiên thu, còn đó tiếng cười

Mai tôi đi rồi, về với hư vô
Cát bụi lung linh, nghĩa địa hoang mờ
Sương khói nhạt nhòa, hồn ru băng giá
Tinh tú muôn trùng, tìm bóng nguyên sơ

Mai tôi đi rồi, từ giã thân thương
Ngừng bước phiêu du, một kiếp con người
Mai tôi đi rồi, từ giã trần gian
Ngừng bước lang thang, tiếng nói câu cười
Cát bụi xa mờ, về với hư vô
Sương gió đợi chờ, hình bóng nguyên sơ.

Tháng 9 - 2008

Kết tòa thiên thu

Ta đi trong nắng trong mưa
Để nghe hoang lạnh gió lùa đêm đông
Ta đi góc biển đầu non
Để nghe ghềnh láng sóng cồn kêu vang
Ta đi khắp nẻo quan san
Để nghe đan chéo dọc ngang đổ đường
Không nghe nát cõi tình thương
Sao nghe thống nỗi tư lường hồn đau
Không nghe tàn tạ con tàu
Sao nghe cạn kiệt sắc màu thời gian
Không nghe khô cháy tâm can
Sao nghe thấm thía tro tàn tiêu sơ
Sông khuya nước chảy xa mờ
Thuyền ai thấp thoáng trăng mơ đêm dài
Bến xưa lối cũ hoa cài
Đường xưa gối mộng gởi đài rêu phong
Ta đi cuối nẻo xa dòng
Vẽ lên dấu ngọc kết vòng tay hoa
Ta đi âm vọng giao thoa
Núi rừng đan kín kết tòa thiên thu.

Tháng 8 – 2008

Khép cửa đêm dài

Băng giá lên ngôi, phủ đỉnh đồi tuyết trắng
Cát đá lở bồi, ngập hố thẳm tiêu sơ
Nát hồn đau, đay nghiến dại khờ
Tan lòng dạ, xát xây son sắt

Đóm lửa lập lòe, trải đêm dài chưa tắt
Bếp hồng vợn khói, phờ phạt gió bụi bay
Đôi bờ khô, rỉ giọt cay cay
Không đủ long, ướt vành héo muộn

Thế kỷ băng ngang, bao bão giông xoáy cuốn
Đất trời nghiêng ngửa, bao nghiệt ngã can qua
Bánh xe lăn, nghiến nát trầm kha
Vết thời đại, lở loang dấu sử

Ngàn sao vẫn nghìn trùng le lói
Đom đóm bay ủ dột miệt mài
Vầng nhật hiện, ngày lên quá ngắn
Bóng hoàng hôn, ập phủ đêm dài

Rừng cây non chưa xanh chiếc lá
Đám cây già nứt nẻ tàn khô
Mưa gió nắng, gục đầu lá mạ
Lúa lép thừa, đồng ruộng xác xơ

Đẩy xô lưỡng cực đôi bờ
Hai chiều mấy máy động cơ mấy thì
Vàng thau bạc trắng pha chì
Nhôm đồng kẽm sắt đen sì ngổn ngang
Đổ trên nghĩa địa hoang tàn
Tang thương lở lói ngỡ ngàng biển dâu
Đêm dài khép cửa canh thâu.

Tháng 8 – 2008

Tiếng gõ cô liêu

Sỏi đá nghe đau mỗi khi khua xào xạt
Cây cỏ nghe đau mỗi lúc động đong đưa
Lại còn thêm sương nắng gió mưa
Bào mòn cõi vô tri thi thiết

Chiếc lá non vừa xanh mơn biên biếc
Chiếc lá già vàng úa kéo mong manh
Chưa vào thu, đã có chiếc xa cành
Chưa hết thu, chiếc cuối cùng phơi bụi

Sỏi đá kia đang nằm yên đâu đó
Bổng vô tình ai bước nhịp khua vang
Dẫm xát xây rồi bỏ lại bên đàng
Trải thời gian nhuộm mình rêu hoang lạnh

Vô tri không, hỡi hư vô lồng lộng
Hữu tri không, hỡi vô hữu hai bờ
Trăng lung linh, soi bóng nguyệt đêm mơ
Vầng nhật hiện, chiếu thiều quang hé nắng

Bên sau hè rau đắng
Cạnh bờ ao rau thơm
Nghe sỏi đá gọi hồn
Núi rừng khua gió hú

Đâu là vì tinh tú
Đâu là cõi vô tri
Thinh không ngỏ thầm thì
Mình với ta là một

Hữu vô phân lằn mứt
Ta với mình là hai
Cánh cửa khép tuyền đài
Giữa đôi đàng biến mất

Sỏi đá kia vẫn nằm bên bờ cát
Gió bụi bay xào xạt mảnh hồn rêu
Đường thủy chung còn gõ tiếng cô liêu
Khua nhịp bước trên hành trình phiêu lữ.

Tháng 9 – 2008

Còn gì sau trái tim đau

Còn gì sau trái tim đau
Kìa trông bãi biển nương dâu xanh màu
Còn gì sau trái tim đau
Kìa trông bãi cát bờ lau xạt xào
Còn gì sau trái tim đau
Nước đi đi mãi qua cầu chìm sâu
Còn gì sau trái tim đau
Miếng cau đăng đắng miếng trầu cay cay
Trời không, đẩy gió lay lay
Đất không, trơ bụi bay bay mây ngàn
Trông qua chiếc bóng thời gian
Rong rêu sót lại trên đàng ta đi
Bên cầu giã biệt từ ly
Dòng sông mấy khúc thầm thì gió reo
Vàng thu, chiếc lá đưa vèo
Đông tàn lành lạnh, giữa đèo sơn khê
Xuân sang, khép nụ mơ về
Hạ nồng oi ả, ước thề ngậm sương
Nhện giăng rủ bóng nghê thường
Trăm năm rồi cũng vô thường chìm sâu
Còn gì sau trái tim đau
Hỏi ai góp nhặt sắc màu thời gian
Phiêu du một kiếp trần gian
Hồn ru viễn mộng trên đàng tầm không
Còn gì sau trái tim đau
Hỏi chi nước chảy qua cầu về đâu
Còn gì sau trái tim đau
Hỏi chi bãi biển bờ lau xạt xào
Còn gì sau trái tim đau
Hỏi chi đỉnh bạc gối đầu sơn khê
Mai sau dù có đi về
Hư vô một cõi mịt mờ thiên thu.

Tháng 9 – 2008

Trái tim đau

Trái tim nào là trái tim đau
Hỏi làm chi sắc úa pha màu
Theo thời gian bào mòn mưa nắng
Gió dập vùi xơ xác bờ lau

Trái tim nào là trái tim đau
Hỏi làm chi nước chảy qua cầu
Nước trên cầu xoáy xoay xuôi ngược
Nước dưới cầu cuồn cuộn ngược xuôi

Trái tim nào là trái tim đau
Hỏi làm chi một mái trắng đầu
Nước đầu nguồn cạn khô sinh lực
Nước cuối dòng hun hút chìm sâu

Trái tim nào là trái tim đau
Hỏi làm chi cạn kiệt con tàu
Trải bao phen tang điền hải biến
Vẫn gập ghình bãi biển nương dâu

Trái tim nào là trái tim đau
Hỏi làm chi nát bã cau trầu
Những mặn nồng trộn cay pha đắng
Hương vị nào bạc trắng hoa cau

Trái tim nào là trái tim đau
Hỏi làm chi mưa dãi nắng dầu
Ngày chưa lên hoàng hôn đã xuống
Bóng đêm về đằng đẵng canh thâu

Thế còn gì hỏi trái tim đau
Máu khô khan co bóp nát nhàu
Cố đẩy xô khắp cùng thân thể
Còn giọt nào để chảy về tim

Thế còn gì là trái tim đau
Tay run run, đứt quãng kinh cầu
Giọng khô hơi, lời không ra tiếng
Đất trời buồn, lành lạnh mưa ngâu

Thế còn gì là trái tim đau
Một trăm năm rồi cũng qua mau
Một đời người bóng câu cửa sổ
Con đường về cuối nẻo là đâu.

Tháng 9 – 2008

Ta mang một trái tim đau

Sao ta mang một trái tim đau
Tự nhiên thôi, từ thuở ban đầu
Mới sinh ra, thời đà khóc chóe
Khi lớn lên, tiếng khóc câu cười

Sao ta mang một trái tim đau
Bởi trần gian thống khổ ngập đầu
Bởi nhân sinh bùn đen quện cáu
Cõi ta bà vùi dập chìm sâu

Sao ta mang một trái tim đau
Bởi Trường Sơn sương khói phủ màu
Bởi Biển Đông bạc đầu sóng vỗ
Chim Lạc Hồng tan tác thuẫn mâu

Sao ta mang một trái tim đau
Bởi tình quê khô khốc hương cau
Bởi đồng quê ngô khoai háp nắng
Mạ chết non, lúa cháy sạm màu

Thế tại sao mang trái tim đau
Hỏi làm chi núi Thái kê đầu
Sóng biển Đông rạt rào cứ vỗ
Trắng mái đầu, trắng cả bờ lau

Thế tại sao mang trái tim đau
Hỏi làm chi nước chảy qua cầu
Nước trên nguồn mênh mang cứ chảy
Nước cuối nguồn dù có chìm sâu

Nên ta mang một trái tim đau
Dẫu bức tranh phù thế phai màu
Dẫu nhân ảnh phù sinh biến sắc
Để lắng nghe cát đá nhuộm sầu

Nên ta mang một trái tim đau
Hư vô kia biết mấy tinh cầu
Vũ trụ kia xoay vần cuốn xoáy
Ta mỉm cười mang trái tim đau.

Tháng 9 – 2008

Thắp đèn trượng phu

Hãy bỏ đường đi nho nhỏ
Bước vào đại lộ thênh thang
Kia là dõng dạc đường ngang
Đây là ngẩng đầu lối dọc

Hãy cởi bỏ đi túi bọc
Mới biết trời đất mênh mông
Đừng làm con ếch oang oang
Quẩn quanh lòng vòng đáy giếng

Xa lìa cống cao ngã mạn
Đẹp gì tánh khí cù nhây
Đeo chi mặt đá mày dày
Vải thưa sao che mắt Thánh

Bỏ đi hẹp hòi ương ngạnh
Mang chi ích kỷ nặng mo
Trơ trơ “Mẹ Hến, Trùm Sò”
Hết đời, túi tham thũng đáy

Đẹp không, nhân từ bác ái
Quý không, từ tốn vị tha
Khắp trong bốn biển là nhà
Tứ hải đâu không huynh đệ

Ca vang trên đỉnh núi cả
Reo hò cuối mỏm non cao
Đưa tay nắm bắt ngàn sao
Rải đi trăng vàng khắp nẻo

Thắp ánh thiều quang chói lọi
Rạng ngời vạn lý châu pha
Khác chi là ngọc là ngà
Đâu cần ao tù bé nhỏ

Mở lòng, có chi là khó
Khép lòng, chốt khóa sao ra
Hỡi người trong cõi ta bà
Thắp đèn trượng phu quân tử.

Mặc Giang
Tháng 9 – 2008

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
10 bài – Hoa Đạo Pháp 11 đến 15 - Mặc Giang - 18.06.2010 00:14:56


10 bài – Hoa Đạo Pháp 13
Thơ Mặc Giang

1. Ca vang cùng vạn thể
2. Hằng hữu vô cùng
3. Xin ngưỡng phục
4. Hư vô nhờ hạt bụi
5. Mỉm nụ cười khô
6. Xin hỏi người, đó là ai
7. Đừng đợi ngày mai
8. Dòng suối nhỏ
9. Nghe tiếng chuông ngân
10. Đóa Hoa Đạo Đức
Ca vang cùng vạn thể

Ta đi trong mộng trong mơ
Để cùng tinh tú lững lờ hư vô
Ta đi bến đợi sông chờ
Để cùng hai ngả đôi bờ nước reo
Ta đi dốc thẳm núi đèo
Để cùng ghềnh láng cheo leo đỉnh đồi
Kia thời đá lở cát bồi
Đây thời bèo bọt nổi trôi vô thường
Kia thời tiếng nhạn kêu sương
Đây thời tiếng quốc tư lường núi sông
Đi cho hết cả mùa đông
Băng qua mùa hạ oi nồng can qua
Đi cho hết cả xuân hoa
Băng qua thu tím lá sa sau cùng
Không còn có điểm vô chung
Ngược về khởi thủy lạnh lùng bèo mây
Không còn ngọn gió heo may
Phất phơ tê tỉ nỗi này tình kia
Rụng rơi hết cả chia lìa
Thênh thang lối ngỏ mang hia lên ngàn
Hòa cùng vạn thể ca vang.

Tháng 9 – 2008

Hằng hữu vô cùng

Đêm đêm thắp ánh sao mờ
Ô kìa tinh tú lững lờ mà chi
Canh thâu gõ nhịp thầm thì
Hư vô khép mở đường đi lối về
Bắt ngang ngọn mạch Tào Khê
Nhìn trông bến mộng sông mê điệp trùng
Có hoành thì mới có tung
Nếu thỉ không có, thì chung có gì
Băng trình từ thuở ra đi
Đan thanh từ độ tư nghì băng tâm
Ba mươi mới có ngày rằm
Ngàn sao lấp lánh trăng vàng mới thanh
Nhìn trông mây trắng trời xanh
Nụ hoa chúm chím trên cành Vô Ưu
Hữu vô cứ thế chuyển lưu
Thỏng tay vào chợ tầm ngưu chi hè
Từ trong chỉ một tánh nghe
Thì bao thể tánh muôn bề tinh thông
Khi thời núi khác với sông
Khi thời núi núi sông sông khác nào
Mộng đâu mà hỏi chiêm bao
Phong sương tuế nguyệt cây đào trổ bông.

Tháng 9 – 2008

Xin ngưỡng phục

Xin ngưỡng phục trái tim to lớn quá
Ôm trọn tin yêu trải địa cầu
Trải khắp cùng bốn biển năm châu
Cho nhân loại hài hòa chung sự sống

Xin ngưỡng phục tấm lòng to lớn quá
Ôm trọn tình thương trải địa cầu
Cho con người xít lại gần nhau
Không ngăn cách bởi màu da chủng tộc

Xin ngưỡng phục tâm hồn to lớn quá
Ôm trọn từ bi trải mọi người
Cho ai ai cũng mở nụ cười
Không ngậm hờn ẩn sâu chôn đáy mắt

Xin ngưỡng phục trái tim to lớn quá
Ôm trọn bác ái trải nơi nơi
Cho ai ai cũng được thắm tươi
Không nứt nẻ vùi khô cằn máu lệ

Xin ngưỡng phục tấm lòng to lớn quá
Nước bốn biển dù có lúc đầy vơi
Nhưng tình người không có những chơi vơi
Để ai oán cừu thù đeo giới tuyến

Xin ngưỡng phục tâm hồn to lớn quá
Ai ai cũng tôn thờ quân tử trượng phu
Thì mong sao không ốc đảo, ao tù
Để giao tiếp với sông dài biển rộng

Xin ngưỡng phục những con người như thế
Để cuộc đời chấm dứt những đau thương
Để trần gian thấm nhuận đức thanh lương
Cho nhân thế hòa vui trong thánh thiện.

Tháng 9 – 2008

Hư vô nhờ hạt bụi

Ta hỏi không gian rộng mấy chiều
Có còn một khoảng nhỏ hoang liêu
Để ta đến cuối bờ xa vắng
Vén bức rèm ghi dấu tuyệt siêu

Ta hỏi thời gian kéo mấy thì
Quá - tương - hiện tại, thử còn chi
Mà sao cuốn hút ba thời mãi
Nếu chẳng có ta, nghĩa lý gì

Ta hỏi trần gian rộng tới đâu
Có nơi nào đó thật thâm sâu
Để ta đi đến lưu vài nét
Mai mốt bắt lên một nhịp cầu

Vũ trụ nhìn ta luống ngại ngùng
Có gì vô thỉ với vô chung
Nếu không hạt bụi trùng trùng chuyển
Thì cả hư vô chết lạnh lùng

Thế thì ta có ngại chi đâu
Bởi vọng, nên đeo lắm móng cầu
Bỏ vọng, chơn như tròn tánh thể
Sóng tan biển lặng gối kê đầu.

Tháng 10 – 2008

Mỉm nụ cười khô

Muốn niềm đau hết khổ
Hãy mỉm nụ cười khô
Tim đau hết dại khờ
Thảy xuống thềm băng giá

Muốn niềm vui xuất hiện
Hãy quẳng gánh ưu sầu
Nước mắt hết giọt châu
Biết tháo tung cánh cửa

Tim đau chết quá nửa
Mang sức sống hồi sinh
Hạnh phúc mãi bên mình
Đừng đóng khung lộng kính

Cỏ úa vàng chết lá
Chỉ mưa nhẹ bay bay
Màu xanh thoáng hiện ngay
Trên đồng khô nắng cháy

Nụ cười thật bén nhạy
Chỉ cần nhoẻn vành môi
Hạnh phúc thật tinh khôi
Sẽ rụng rơi trái chín

Cuộc đời nào màu tím
Cuộc đời nào màu hồng
Mây ngủ gối đầu non
Giọt mơ, ươm sự sống.

Tháng 10 – 2008

Xin hỏi người, đó là ai ?

Đi trong mưa, không ướt áo
Vào trong nước, không bị chìm
Sống trong đời, không khổ não
Xin hỏi người, đó là ai ?

Vào trong lửa, không bị cháy
Vào trong bếp, không tro tàn
Vào bùn đen, không quện cáu
Xin hỏi người, đó là ai ?

Giữa biển cả, không sóng đẩy
Giữa trùng dương, không hải triều
Lòng chứa đầy, tâm trống rỗng
Xin hỏi người, đó là ai ?

Đi ba đường, không chắn lối
Vào sáu nẻo, mãi thông thương
Cả hư vô, không thế giới
Xin hỏi người, đó là ai ?

Giữa mùa xuân, không hoa nở
Vào lạnh giá, không đông hàn
Mỗi thu về, không lá đổ
Mỗi hạ nắng, không khô khan

Không có đâu, là thời gian
Không có đâu, là không gian
Nhét hư vô trong hột cải
Nhét vũ trụ lọt chân lông

Trong đêm đen, vẫn ánh sáng
Trong tăm tối, vẫn thấy đường
Không hố đèo, không ghềnh ráng
Xin hỏi người, đó là ai ?

Trong rừng sâu, không cô độc
Giữa phố thị, như không người
Sống thanh bần, không thôn dã
Xin hỏi người, đó là ai ?

Mang ba y, trùm pháp giới
Đời một áo, mặc không cùng
Không cần nhà, có ba cõi
Xin hỏi người, đó là ai ?

Khắp ba đường, không đóng cửa
Khắp sáu nẻo, rộng lối đi
Mang hầu bao, không chỗ chứa
Xin hỏi người, đó là ai ?

Tháng 10 – 2008

Đừng đợi ngày mai

Hỡi đau khổ, sao đong đầy mắt lệ
Bởi giọt khô chất chứa ngập lưng tròng
Thế tại sao không cho chảy tuôn dòng
Bởi nước mắt ngập ngừng chưa muốn khóc

Thế tại sao ngậm sầu, ru trái chín
Bởi nguồn cơn không lối thoát thông hơi
Thế thì thu chưa tím ngắt cuộc đời
Chờ cuối mùa ào ào phơi lá rụng

Thế tại sao lại ôm đầu bóp trán
Bởi động não ray rứt mảnh hồn đau
Thế niềm đau sao không thảy xuống cầu
Bởi chưa thoát bốn bức tường quán trọ

Thế tại sao đèn khi mờ khi tỏ
Bởi cõi lòng khép kín chốn thâm u
Bầu trời trong sao vẩn đục mây mù
Bởi đen đặc nhưng mưa chưa muốn đổ

Thế tại sao trải bốn mùa than thở
Bởi muộn phiền u uẩn suốt tháng năm
Không mùa đông mà sao rét căm căm
Bởi hạ trắng chiếm ấm nồng tất cả

Hỏi tim nào là tim đau chất chứa
Hỏi lòng nào là nát dạ nắng mưa
Khổ đau không bán, ai bảo tìm mua
Hạnh phúc trên tay, sao đem đánh mất

Tìm gì khi đã mất
Đã mất biết đâu tìm
Giọt khô tràn mi mắt
Chứa đầy ánh sao đêm

Hãy nhìn kia ngõ tối
Đom đóm thắp đêm dài
Bóng thời gian qua khỏi
Đừng đợi đến ngày mai.

Tháng 10 – 2008

Dòng suối nhỏ

Đẹp thay dòng suối nhỏ
Hai bờ mơn cỏ xanh
Nước trong veo róc rách
Gió thoảng mát trong lành

Quý thay dòng suối nhỏ
Ngơ ngác con nai hiền
Giữa núi rừng thanh khiết
Rảo bước thật hồn nhiên

Lành thay dòng suối nhỏ
Mang cam lộ tình thương
Ươm hương thơm dịu ngọt
Trang trải đức thanh lương

Trọng thay dòng suối nhỏ
Ngày lên đón nắng đào
Đêm xuống loang sương bạc
Chất chứa cả trăng sao

Mến thay dòng suối nhỏ
Ôm vũ trụ vào lòng
Ôm ngân hà xao xuyến
Muôn đời vẫn xanh trong

Thương thay dòng suối nhỏ
Mãi tuôn chảy không ngừng
Qua núi rừng đồng nội
Vào biển cả vô cùng

Biển đời còn đau khổ
Cuộc đời còn tang thương
Cưu mang dòng suối nhỏ
Ban cam lộ pháp vương.

Tháng 10 – 2008

Nghe tiếng chuông ngân

Ai không nghe tiếng chuông ngân
Sao không nghe cả phong trần rụng rơi
Ngã nhân bào ảnh trong đời
Lợi danh phù phiếm chơi vơi gió lùa
Ai không nghe tiếng chuông chùa
Sao không nghe cả hơn thua bềnh bồng
Bọt bèo quẳng gánh trôi sông
Ưu phiền thán oán theo dòng nhẹ tuôn
Ai không nghe tiếng chuông đồng
Sao không nghe cả chìm xuồng tử sinh
Bụi bay không vướng tánh linh
Sóng lay không gợn chút tình trần gian
Ai không nghe tiếng chuông vàng
Sao không nghe cả muôn ngàn trầm mê
Đường xưa cùng dắt nhau về
Rong rêu bỏ lại bên lề vô minh
Ai không nghe tiếng cầu kinh
Sao không tỏ ngộ bóng hình xưa nay
“Có thì có tự mảy may
Không thì cả thế gian này cũng không”
Lành thay, nghe tiếng chuông ngân
Nghe như thế đó, dự phần Thánh Lưu
Bồ Đề một đóa Vô Ưu
Trổ bông sen quý tặng người biết nghe.

Tháng 10 – 2008

Đóa hoa đạo đức

Đóa hoa đạo đức là hoa gì
Tìm khắp trần gian chẳng thấy chi
Tìm khắp chợ hoa, đều chẳng có
Chưa từng nghe nói đó hoa chi

Đóa hoa đạo đức là hoa chi
Ai biết, làm ơn chỉ giúp đi
Ai cũng lắc đầu, nghe lạ quá
Xưa nay chẳng biết đó hoa gì

Đạo đức đơm hoa, mới tuyệt kỳ
Mọc từ sân hận với mê si
Ươm phân phiền não, tưới ô uế
Mà kết thành hoa mới lạ hì

Này này lẳng lặng lắng tai nghe
Lục dục thất tình thoát biển mê
Sen nở lìa bùn sao kiếm được
Là hoa đạo đức, khó chi hè

Đóa hoa đạo đức nở từ tâm
Thánh thiện nguồn căn kết nội hàm
Bóng tối không còn mây khuất nữa
Đêm trong bừng tỏa ánh trăng rằm

Đóa hoa đạo đức nở trong lòng
Chốt khóa ngục tù đã mở thông
Bốn biển không giam bờ ốc đảo
Thỏng tay vào chợ bước thong dong

Đóa hoa đạo đức nở tâm hồn
Tự độ độ tha nhưng xả buông
Nhân ngã trống không, lìa bỉ thử
Hư vô đâu có trói càn khôn

Đạo đức do mình, hãy tạo đi
Tự ươm, tự bón, đừng lo gì
Vun phân, tưới nước thường xuyên vậy
Thơm ngát hương lành chớ khó chi

Nếu mình không có, chẳng ai cho
Đừng sống hoa hòe, xịt, trét, tô
Đừng bám bề ngoài mà vẽ phết
Da sần, mặt sũi, chóng tàn khô

Đóa hoa đạo đức ngát thanh lương
Độc thọ khai hoa vạn thọ hương
Như đóa vô ưu tuyệt diệu đó
Một phương lan tỏa đến muôn phương

Đóa hoa đạo đức thật không lường
Như nước cam lồ rũ pháp vương
Sắc sắc không không bừng bát nhã
Đến nhà, còn chận hỏi chi đường

Đóa hoa đạo đức ấy do anh
Do chị, do em, sống chí thành
Không khổ, không làm người khác khổ
Như mây trắng xóa giữa trời xanh

Đóa hoa đạo đức mỗi con người
Thân thiện hòa vang, kết đẹp tươi
Tiến bước trên con đường Tứ Thánh
Đóa hoa đạo đức mỉm môi cười.

Mặc Giang
Tháng 10 – 2008

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
10 bài – Hoa Đạo Pháp 11 đến 15 - Mặc Giang - 18.06.2010 00:18:40


10 bài – Hoa Đạo Pháp 14
Thơ Mặc Giang

1. Trái ngọt tình thương
2. Lệ đá đơm bông
3. Hoa Đàm reo nhân thế
4. Nói đi
5. Thôi nghe
6. Biết chưa
7. Biết rồi
8. Điểm nụ cành khô
9. Dù có vô thường - 1
10. Đừng đổ giọt đau
Trái ngọt tình thương

Trái ngọt tình thương xin tặng người
Chia nhau ấm lạnh sống vui tươi
Tương thân tương ái trong trần thế
Xoa dịu khổ đau nở nụ cười

Trái ngọt tình thương tặng cuộc đời
Ươm mơ hy vọng khắp nơi nơi
Tin yêu chan chứa tình nhân loại
Sự sống thăng hoa mãi đắp bồi

Trái ngọt tình thương trổ vạn đường
Nơi đâu cũng biết sống yêu thương
Ai ai cũng hóa hòa tương kính
Đạo đức từ bi tỏa bốn phương

Trái ngọt tình thương hết khổ sầu
Trần lao phiền não chảy qua cầu
Đừng khơi động nhịp si mê nữa
Lạc cảnh là đây chứ ở đâu

Trái ngọt tình thương đến mọi nhà
Mỗi người hiến tặng một bông hoa
Nụ hoa sẽ biết lan hương tỏa
Độc thọ danh hương vạn điểm hoa

Trái ngọt tình thương đến mọi nơi
Châu thành, thôn dã, hay xa xôi
Hễ đâu, đức nghĩa tình sâu nặng
Ở đó, hết than khổ cuộc đời

Mong đời biết kết trái tình thương
Từ một lan đi khắp nẻo đường
Phú quý giàu nghèo đều thể hiện
Thiên Đàng nào khác với Tây Phương

Trái ngọt tình thương quý hóa thay
Vậy mà tìm kiếm đó hay đây
Nào ngờ hạnh phúc trên tay vậy
Xuất phát tâm hồn ai có hay

Đã biết rồi thì vui sống đi
Hết đau hết khổ hết sầu bi
Không ai không oán không oan trái
Trái ngọt tình thương thật diệu kỳ

Đã biết rồi thì hiến tặng nhau
Thân sơ xấu tốt chẳng cơ cầu
Vô tư bình đẳng cùng chia sẻ
Trái ngọt tình thương hóa nhiệm mầu.

Tháng 10 – 2008

Lệ đá đơm bông

Khổ đau mà mỉm môi cười
Như hoa biết gắn nụ tươi treo cành
Mắt mà thiếu chất long lanh
Sao không khô cứng trên vành mi đau
Tim mà không nhỏ giọt châu
Sao nghe rung cảm cơ cầu trần ai
Chưa chi, than vắn thở dài
Nhìn kia, bao kẻ miệt mài trầm kha
Chưa chi, than vãn kêu ca
Nhìn kia, bao kẻ đẫy đà phong sương
Thuyền du trong biển tình thương
Mới chia thống khổ trăm đường trần gian
Đàn không tích tịch tình tang
Làm sao có tiếng cung đàn ngân vang
“Đã đày vào kiếp phong trần”
Đừng chui ốc đảo bình an riêng mình
Đã đày vào kiếp tử sinh
Đừng mơ mộng mị lao linh xa vời
Khổ đau, mới thấm cuộc đời
Không đau không khổ khóc cười mà chi
Cuộc đời không khổ mới kỳ
Nhân sinh không khổ, lạ hì, biết không
Sống sao đẹp dạ đẹp lòng
Dù cho sương bạc còn hong nắng chiều
Sống sao nhịp thở tim yêu
Dù cho trổi khúc cầu kiều rung dây
Hoa hồng rón rén cành gai
Kẻo đau hương nhụy phương đài ươm bông
Không lạnh, sao có mùa đông
Không khô, sao có hạ nồng chói chang
Không cười, sao có xuân sang
Không tím, sao có thu vàng chờ ai
Đường đi bước ngắn bước dài
Lối về mới trổ hoa cài hoài trông
Đẹp thay lệ đá đơm bông !

Tháng 11 – 2008

Hoa Đàm reo pháp giới

Giữa đôi bờ không sắc
Ta muôn kiếp đi quanh
Mây trắng cỡi trời xanh
Nát tan dòng sinh tử

Đứng trên đầu vô thỉ
Chận tột đáy vô chung
Nghe tiếng nói điệp trùng
Của ba đường sáu nẻo

Xuân tàn hoa không héo
Đông đến chẳng lạnh băng
Giữa thu thiếu lá vàng
Vào Hạ thôi đổ nắng

Người già chưa tóc trắng
Em bé rũ bạc phơ
Nai hiền dáng ơ hờ
Ngác ngơ bên bờ suối

Hoàng hôn gác mé núi
Triều sóng vỗ biển xa
Nhìn trông cõi ta bà
Vo tròn trong ánh mắt

Đạt Ma đang diện bích
Thấy Ca Diếp mỉm cười
Ta nở nụ tinh khôi
Linh Sơn còn nguyên vẹn

Kinh hành ba vòng xoắn
Đức Như Lai ngồi yên
Xoay hai mặt đồng tiền
Long Hoa Di Lặc hiện

Bờ nào bờ không sắc
Bờ nào bờ sắc không
Nên muôn kiếp thong dong
Hoa Đàm reo pháp giới.

Tháng 11 – 2008

Nói đi

Nói đi, đừng để mai sau
Lùi về quá khứ biết đâu mà lần
Nói đi, cơ cảm lượng phân
Mây ngàn đem gởi phù vân còn gì
Dẫu rằng đời chẳng có chi
Nhưng mang một kiếp, còn gì hay không
Lên rừng tìm lá diêu bông
Xuống biển dũi cát con còng đi đâu
Trên cầu, mặt nước chìm sâu
Dưới cầu, nước chảy rầu rầu mờ xa
Đổ cho một cõi ta bà
Như bong bóng nước, xây nhà phù sinh
Đổ cho cát bụi vương hình
Bọt bèo trôi nổi tơ tình chi đau
Thu mình ốc đảo thật sâu
Khép trong vũng tối gối đầu hoang sơ
Có gì, cũng trả hư vô
Không gì, cũng trả cuối bờ phong sương
Tự ti, an phận thủ thường
Khác chi sỏi đá bên đường bụi bay
Yếm thời yếm thế quá thay
Làm cây làm cỏ còn lay hồng trần
Nói đi, mới biết lựa lần
Có thân mới thể thương thân mới là
Nói đi, mới biết gần xa
Có nhân có kỷ với ta cùng mình
Hư không, chưa hẳn lặng thinh
Lâu lâu vẳng tiếng vang rền hư vô.

Tháng 11 – 2008

Thôi nghe

Thôi nghe, đừng nói chi nhiều
Con người, ai cũng biết điều, phải không
Thôi nghe, đừng xé cay lòng
Thế gian sao nữa, cũng trong biển trần
Đã dày cát bụi phù vân
Còn đay nghiếng mãi lựa lần sao cam
Sét kia, rỉ sét lên chàm
Đồng kia loang lổ lam nham ố màu
Con người, ai lại không đau
Có nghe sỏi đá còn cau tơ tình
Người ta, nào khác chi mình
Sống sao cho phải, biết mình biết ta
Kì kèo bớt một thêm ba
Cộng năm trừ bảy cũng là số không
Thôi nghe, trong dị có đồng
Trong đồng có dị, mới mong vuông tròn
Nếu vuông, mà chẳng có tròn
Lấy gì so sánh vuông tròn cùng ai
Bàn tay, ngón ngắn ngón dài
Cùng nương cùng tựa hòa hài biết bao
Con người, có thấp có cao
Có dung có dị chớ nào giống nhau
Ở đời, có trước có sau
Sống sao cho phải, đâu mâu làm gì
Thôi nghe, nhân ngã lắm chi
Thế gian bỉ thử đen sì trần lao
Thôi nghe, biết sống đi nào
Nụ mai chúm chím, cành đào trổ bông.

Tháng 11 – 2008

Biết chưa

Biết chưa, từ độ đăng trình
Ba đường sáu nẻo lưu linh chưa về
Biết chưa, từ độ ngu ngơ
Nổi trôi bến mộng, sông mê vô chừng
Phiêu bồng nghiệp dĩ lao lung
Cho rằng hổ thỉ vẫy vùng dọc ngang
Ba sinh luống những trễ tràng
Cội già long gốc bẽ bàng tàn khô
Nghĩa trang động đậy đáy mồ
Ôm đầu bạc hếu gá bờ rêu xanh
Sương sa ngọn cỏ ngậm vành
Âm linh suối lạnh đoạn đành tóc tan
Biết chưa, từ độ đi hoang
Lang thang trần thế, dấu son lu mờ
Vào ra sinh tử tóc tơ
Hồn phiêu phách lạc, dại khờ tim đau
Bao phen cát bụi rầu rầu
Xát xây sương gió biển dâu úa màu
Trăng tàn, sao lặn, đêm thâu
Ô hay bèo bọt con tàu phù sinh
Tưởng ai, cũng lại là mình
Lâu nay, sao cứ vô thinh lững lờ
Hèn chi ôm mộng gối mơ
Phiêu du quán trọ vật vờ hồn mê
Biết chưa, hay mãi lê thê
Mai sau còn hỏi, đường về là đâu !

Tháng 11 – 2008

Biết rồi

Biết rồi bóng dáng vô thường
Rong rêu đã phủ trên đường phù sinh
Biết rồi không sắc vương hình
Hư vô mờ ảo như mình với ta
Biết rồi một cõi ta bà
Ba chìm bảy nổi đẫy đà trần lao
Biết rồi giấc mộng chiêm bao
Tìm trong huyễn tượng hư hao làm gì
Hợp tan tự độ ra đi
Đến nay cũng thế có chi ngỡ ngàng
Như vì tinh tú trên ngàn
Có khi nào hỏi trăng vàng lung linh
Như cây đa đứng đầu đình
Có khi nào hỏi quê mình nơi đâu
Nước kia cứ chảy qua cầu
Có khi nào hỏi biển sâu mấy bờ
Biết rồi dấu ngọc tinh mơ
Đừng ngu ngơ mãi dại khờ hồn đau
Biết rồi ảnh tượng minh châu
Thong dong đẩy nhịp con tàu ba sinh.

Tháng 11 – 2008

Điểm nụ cành khô

Cội già điểm nụ cành khô
Lung linh thanh thủy bên hồ nước xanh
Lơ thơ liễu rũ buông mành
Mênh mang bóng nguyệt treo nhành thùy dương
Xa xa ngọn cỏ bên đường
Long lanh giọt nắng vương vương ánh hồng
Hong hong bếp lửa vào đông
Hiu hiu chiếc lá gió lồng thu sang
Lan man hoa rụng xuân tàn
Nồng nồng hạ trắng mây ngàn bay bay
Cội già gối mộng khô cây
Rừng khuya thức giấc gác tay canh dài
Đèo heo dốc đá phương đài
Núi cao chót đỉnh lối hài dặm băng
Trường giang gợn sóng lăn tăn
Lung linh chiếc bóng vầng trăng xa mờ
Trùng dương biển gọi đêm mơ
Vành mi khép lại gởi bờ mênh mông.

Tháng 12 – 2008

Dù có vô thường

Mai sau dù có vô thường
Dấu chân cát bụi bên đường ngấn sương
Rong rêu có nhớ có thương
Ngày hong vạt nắng, đêm vương sao mờ
Cuộc đời như một giấc mơ
Vào sinh ra tử dại khờ mới thôi
Nghiêng nghiêng bóng núi lưng đồi
Mờ mờ nhân ảnh lở bồi trần gian
Ngàn xưa còn đó âm vang
Ngàn sau còn đó trên đàng ta đi.

Tháng 12 – 2008

Đừng đổ giọt đau

Đổ mất giọt đau xuống vệ đường
Tan theo gió bụi thấy thương thương
Ở đời, không lẽ vui cười mãi
Sao hiểu trần ai lệ ngấn sương

Đổ mất giọt đau rớt xuống cầu
Lăn theo nước cuốn, xoáy chìm sâu
Một mai luyến tiếc ra bờ vắng
Dĩ vãng xa xưa biến mất rồi

Đổ mất giọt đau, miệng nhoẻn cười
Cuộc đời sống lại, bắt đầu tươi
Thành công, hạnh phúc, lên hương mãi
Chưa hẳn đâu nghe một kiếp người

Trần thế, mấy ai không khổ đau
Không nhiều thì ít, chớ cơ cầu
Quan quân, lê thứ nào chi khác
Không khổ, sao ai cũng bạc đầu

Nước mắt còn nhiều hơn đại dương
Là câu chân lý chớ coi thường
Gẫm đi, mới hiểu đời là thế
Dù đổ giọt đau, lệ vẫn vương

Thời gian gõ nhịp sẽ đi qua
Dấu mốc đắng đeo cho tới già
Quá khứ lùi về trong dĩ vãng
Thềm hoang ký ức động, khơi ra

Như thế thì ta nhận giọt đau
Bao nhiêu đem chất hết lên tàu
Ta bà một cõi trong trần thế
Chạy khắp đâu còn nữa giọt đau

Con tàu trần thế chạy loanh quanh
Tóc trắng bềnh bồng đổi tóc xanh
Nhận hết giọt đau, thêm giọt đắng
Ông trời nhìn đất, ngán rồi anh

Còn chị, và em, hết khổ chưa
Chiếc xe trần thế vẫn dư thừa
Khổ đâu, đem chất lên xe ấy
Tìm mãi không ra, hết khổ, ừa

Như thế ta đừng ngại giọt đau
Cố xô, cố đẩy, nó làm nau
Để yên, nó sẽ tan đi mất
Lưu lại đời ta những giọt châu.

Mặc Giang
Tháng 01 – 2009

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
10 bài – Hoa Đạo Pháp 11 đến 15 - Mặc Giang - 18.06.2010 00:20:23



10 bài – Hoa Đạo Pháp 15
Thơ Mặc Giang

1. Chưa nát đầu vũ trụ
2. Bừng tỉnh cơn mơ
3. Dù có vô thường
4. Cho nhau nụ cười
5. Tay hoa mầu nhiệm
6. Xin chắp tay hoa
7. Nhớ chùa nhớ quê
8. Lối về ngàn xưa
9. Mấy tuổi trong đời
10. Đi tận cùng chung thỉ
Chưa nát đầu vũ trụ

Một cuộc lữ trên đường dài cát bụi
Gội phong trần dẫm đồi dốc nhiêu khê
Nhuộm tóc tang chưa vẹn một lời thề
Nên đi mãi giữa thềm hoang băng giá

“Hạt ngọc, đã từ lâu mòn gốc rạ
Ũng ruộng đồng, khô mộng lúc mạ non”
Đưa bàn tay, góp nhặt những mất còn
Vẽ nhòa nhạt trên bờ lau cát trắng

Ra vườn sau, lây lan tràn rau đắng
Đến ngõ trước, cỏ dại mọc hoang đầy
Áo quần xưa đan kín bông cỏ may
Mang tư lự leo đồi cao gió hú

Trường Sơn lộng thét hoang vu hùng cứ
Biển Đông trào sóng cả vỗ triều dâng
“Bắt phong trần, phải phong trần
Sao cho sỉ nhục mấy lần mới thôi”

Bãi ta bà, một đời đi chưa đủ
Cát đá nhiều, gió bụi vẫn tiêu sơ
Nên ta đi, như con tạo dại khờ
Quay tít mãi, chưa nát đầu vũ trụ.

Tháng 02 – 2009

Bừng tỉnh cơn mơ

Từ ngày cất bước ra đi
Dòng đời dập dũa tư nghì tóc tơ
Trần gian là một trận đồ
Xát xây nhân thế dại khờ chưa thôi
Đất, còn núi lở đá bồi
Trời, còn lồng lộng cõm còi hư vô
Kia thời sa mạc tàn khô
Đây thời bãi sậy xác xơ đầm lầy
Rừng già gốc cội trơ cây
Núi non chằng chịt truông mây lạnh mình
Nhân gian chìm nổi ba sinh
Đọa đày cuộc lữ phiêu trình nổi trôi
Bọt tan cát đá sóng mòi
Bèo giạt bến lở sông ngòi vũng nông
Nhân tình thế thái long đong
Lợi danh phù phiếm tréo tròng trần lao
Khổ đau phất gió lên cao
An lành trốt xoáy lộn nhào hố sâu
Nửa đời, đã sớm bạc đầu
Hỏi chi trắng dã da mồi tóc sương
Cuộc đời giấc mộng nghê thường
Trăm năm rồi cũng khói sương phai mờ
Mau mau bừng tỉnh cơn mơ
Ba đường sáu nẻo vật vờ xưa nay.

Tháng 02 – 2009

Dù có vô thường

Một mai dù có vô thường
Chuyển thân cát bụi trên đường ta đi
Kìa trông, vô thỉ là gì
Vô chung cũng thế, có chi ngại ngùng
Từ trong diệu hữu vô cùng
Chữ hoành vừa biến, chữ tung hiện hình
Xưa nay ta vẫn nguyên trinh
Minh châu ánh ngọc, tánh linh rạng ngời
Vô thường cất bước rong chơi
Chứ đừng cố thủ, chết đời đó nghe
Lá me đưa đẩy lá me
Ngàn năm phớt gió, lá me la đà
Lở bồi mới nhuận phù sa
Nếu không, một bãi tha ma hoang tàn
Thiên hà vạn thể mênh mang
Không, thành, hoại, trụ biến tàng nên thơ
Vô thường hằng diễm như mơ
Mê si chấp thủ, dại khờ mới đau
Đêm dài mê ngủ đã lâu
Tóe lên ánh ngọc, canh thâu lụn tàn
Một mai cũng có trăng vàng
Mai một cũng có trăng ngàn rong chơi
Nhất chân tánh thể tinh khôi
Vô thường hằng hữu tuyệt vời ai hay.

Tháng 02 – 2009

Cho nhau nụ cười

Ai ai cũng có nụ cười
Phải chi trao tặng nụ cười cho nhau
Cuộc đời sẽ bớt khổ đau
Nhân gian sẽ bớt bãi sầu đắng cay
Tiền khiên sẽ giảm trả vay
Oan trái sẽ giảm bủa vây chất chồng
Oán cừu hết chỗ cân đong
Hận thù hết chỗ tréo tròng tang thương
Nụ cười mầu nhiệm không lường
Trao nhau, đón nhận, rộng đường tương giao
Nụ cười diễm phúc biết bao
Năm châu bốn biển cổng rào mở toang
Nụ cười dấu ấn điểm son
Xa nhau, thân thiện vẫn còn mến nhau
Núi cao, hố thẳm, biển sâu
Vẫn không cách trở nhịp cầu lại qua
Niềm vui mở cửa trong nhà
Băng ra đầu ngõ, lan xa ngoài đường
Niềm vui ngập bến thanh lương
Tràn lòng nhân thế thơm hương tình người
Ai ơi, trân quý nụ cười
Nở hoa thiện mỹ đẹp tươi xây đời
Ai ơi, trao tặng nụ cười
Kết hoa thân ái cho đời an vui.

Tháng 02 – 2009

Tay hoa nhiệm mầu

Chắp tay đảnh lễ Phật Đà
Chúng sanh quá khổ trong nhà phù sinh
Tam đồ bát nạn cực hình
Tham si, tật đố, hư vinh não phiền
Chắp tay lạy Đấng Từ Nghiêm
Đưa đường chỉ lối nổi chìm trần lao
Mờ mờ ảo ảnh chiêm bao
Bọt trôi biển mộng, bèo trào sông mê
Nhà xưa lạc lối đi về
Ta bà cuốn hút lê thê miệt mài
Chắp tay qùy dưới Phật đài
Xin nguyền ra khỏi đêm dài đã lâu
Từ khi bất giác chìm sâu
Ba đường sáu nẻo nát đầu tử sinh
Phóng lao hướng ngoại quên mình
Trần sa đắm lụy, vô minh đọa đày
Vào ra xuôi ngược lăn quay
Xuống lên qua lại xát xây lối mòn
Chắp tay lạy Đấng Từ Tôn
Chúng sanh mê muội nát hồn thương đau
Quên mình cũng có minh châu
Bên bờ giác ngạn hồi đầu đến ngay
Tiếng chuông thức tỉnh đêm ngày
Dứt mê là ngộ hiển bày chân tâm
Sáng hơn ánh sáng trăng rằm
Tròn hơn mười sáu trăng ngàn lung linh
Hồng tâm nhất điểm tánh linh
Ứng tùy hóa hiện vô sinh phương đài
Chắp tay cảm tạ Như Lai
Hồi đầu bỉ ngạn đáo lai liên tòa
Chúng con xin chắp tay hoa
Nhiệm mầu, vi diệu tay hoa nhiệm mầu.

Tháng 02 – 2009

Xin chắp tay hoa

Xin chắp tay hoa dưới Phật đài
Thành tâm đảnh lễ Đức Như Lai
Chứng minh gia hộ hằng sa cõi
Thoát khỏi tam đồ, bỉ ngạn lai

Xin chắp tay hoa đảnh lễ Ngài
Ta bà Giáo chủ Đấng Như Lai
Ban ân cứu tế chúng sanh khổ
Phản kỷ hồi quan ngộ bản lai

Ba đường sáu nẻo mãi trầm luân
Tâm địa chúng sanh cố dự phần
Quên hẳn đường về lên Tứ Thánh
Phong trần điên đảo ngập gian truân

Nghiệp dĩ đeo mang lội tử sinh
“Ba chìm bảy nổi chín lênh đênh”
Một mê, mười mẩn, trăm lăn lộn
Muôn hướng ngàn phương, đọa cực hình

Vô thỉ, khởi tâm bất giác rồi
Đến nay, còn lặn hụp lơi bơi
Vô chung, cuốn hút làm sao thoát
Bức trướng vô minh phủ bản hoài

Tử sinh, sinh tử, bởi tâm mê
Tâm ngộ, hốt nhiên biết nẻo về
Quê cũ phương đài hằng chiếu diệu
Quay đầu, thẳng tắp tới Tào Khê

Xin chắp tay hoa mỉm miệng cười
Hoa Ưu Đàm Bát nở xinh tươi
Xanh vàng đỏ trắng sen thơm ngát
Phiền não, Bồ đề, một niệm thôi

Chắp tay đảnh lễ Phật Như Lai
Tự độ, độ tha, giác bản hoài
Bát nạn, tam đồ, cơn gió thoảng
Trước sân, hiện hữu một cành mai

Chắp tay đảnh lễ Đấng Từ Nghiêm
Cảm ứng Thích Tôn tự tánh thiền
Hóa hiện thường tùy tâm bất thối
Mười phương pháp giới thị như nhiên.

Tháng 02 – 2009

Nhớ chùa nhớ quê

Chùa quê thanh đạm giữa thôn làng
Mỗi sáng mỗi chiều chuông mõ vang
Kinh kệ ngân nga reo ánh đạo
Đêm thanh gió mát rợp trăng vàng

Chùa quê nho nhỏ giữa thôn trang
Quyện khói trầm hương thoảng nhẹ nhàng
Thân thiện tin yêu thềm cửa Phật
Dân làng hoan hỷ sống hòa vang

Dân quê ai cũng mến thương chùa
Ngày tháng lại qua trải bốn mùa
Lão ấu nữ nam chung sức sống
Tương thân tương ái tránh hơn thua

Mồng một, ba mươi, mười bốn, rằm
Cả làng lũ lượt vẻ băn khoăn
Xôi chè bánh chuối bày la liệt
Trước cúng, sau ăn, đều ấm lòng

Từ nhỏ lớn lên đã có chùa
Có trăng, có gió, mạ xanh lơ
Có đồng, có ruộng, thơm mùi lúa
Nên nhớ tới quê, lại nhớ chùa

Nhớ chùa lại nhớ đến tình quê
Dù có đi đâu cũng nhớ về
Như nước nhớ nguồn cây nhớ cội
Vì chùa chan chứa trọn tình quê.

Tháng 02 – 2009

Lối về ngàn xưa

Ta xin tìm lại nét trinh nguyên
Từ thuở ra đi khắp mọi miền
Thỉnh thoảng mơ về hình bóng cũ
Rêu mờ ẩn hiện cuối trời quên

Ra đi, từ vọng gác Hoa Nghiêm
Dần bỏ xa em khuất nẻo « thuyền »
Phiêu bạt trường đời phơi gió bụi
Ba đường sáu nẻo mãi lênh đênh

Từ thuở ra đi, bóng đổ dài
Tử sinh nặng trĩu cả đôi vai
Càng xa vóc dáng nghìn xưa ấy
Nhòa nhạt rong rêu phủ lối hài

Nhiều khi ta muốn gọi tên em
Ma qủy hiện hình muốn đảo điên
Bày thế trận đồ muôn bát quái
Hồn phiêu phách tán lạc đêm đen

Ta biết rằng em thân cận ta
Mờ mờ ảo ảo nhưng không xa
Vì em chẳng hiện cho ta thấy
Mặt mũi xưa nay chưa nhận ra

Em vẫn là em của thuở nào
Nhưng ta mộng mị như chiêm bao
Hồn mê gợi nhớ ngàn yêu dấu
Chợt tỉnh, mắt mơ đượm gối đào

Ta biết, đường ngang xẻ lối về
Thế trần dong ruổi vạn sơn khê
Nên em ẩn kín thềm hoang lạnh
Mong mỏi một mai ta trở về

Hôm nay, ta đã quyết đi về
Em hiện nguyên hình bóng dáng xưa
Vẫn nét diệu kỳ siêu tuyệt ấy
Cùng ta sánh bước dẫn nhau về

Quê nhà vắng bóng đã từ lâu
Nay trở về, nhìn trước ngó sau
Ăm ắp tròn đầy không biển đổi
Em cùng ta sống mãi thiên thu.

Tháng 02 – 2009

Mấy tuổi trong đời

Bách niên là bách niên nào
Nhân sinh ai đã dự vào bách niên
Trăm năm là hậu hay tiền
Thinh không tĩnh lặng chim chuyền xa bay
Thiếu niên hoa mộng đơm cây
Nụ xuân chưa chớm tóc mây xanh ngàn
Ngẩn ngơ phe phảy nai vàng
Dẫm vào thu tím lá vàng nhẹ rơi
Thanh niên, cái tuổi vào đời
Sông dài biển rộng trùng khơi xô bờ
Tang bồng thử sức mấy mo
Phỉ chí vùng vẫy mấy bồ mới thôi
Trung niên, đứng dốc lưng đồi
Trời nghiêng nghiêng bóng nửa đời trôi nhanh
Tóc không còn mái xuân xanh
Phong sương dấm muối treo cành phù sinh
Cao niên chợt ngó lại mình
Trần gian đập dũa bóng hình phôi pha
An lành mỏng mảnh sương sa
Khổ đau dày cộm, trầm kha chất chồng
Lão niên đỉnh núi mây bồng
Rừng khuya thổi mộng, cuối sông xa bờ
Bọt bèo cát đá xác xơ
Thân tàn sức kiệt mắt mờ tai u
Đỡ trên đôi gậy lù khù
Quên sau quên trước mây mù đêm đen
Trăm năm ngọn gió trước đèn
Bách niên ư hữ, buông rèm bụi bay.

Tháng 3 – 2009

Đi tận cùng chung thỉ !

Tôi mở mắt, người ngồi yên, không nói
Tôi nhắm mắt, người đứng đó, giang tay
Dù nắng mưa, sương gió, sáng tối, đêm ngày
Trải năm tháng trầm ngâm cùng vũ trụ

Tôi nhặt rong rêu bóng hình xưa cũ
Cát bụi nhòa xây xát bãi phù sa
Trải tang thương, nghiệt ngã vẽ ta bà
Hằng lưu xuất huyễn thân cùng thiên thể

Hạt cát kia từ hồng hoang chưa bể
Hạt muối này trong biển mặn chưa tan
Đường dọc, ngóng đợi con đường ngang
Đường tung, chờ đường hoành cuối đỉnh

Cỡi vô thường vào chiều hoang tịch tĩnh
Đón rong rêu về quán trọ hoàng hôn
Nhặt tiêu sơ để đếm những mất còn
Vẽ trinh nguyên quẳng trên bờ thạch thảo

Hèn chi, người ngồi yên, không nói
Thảo nào, người đứng đó, thỏng tay
Và tôi, không biến thể mảy may
Hòa vũ trụ đi tận cùng chung thỉ.

Mặc Giang
Tháng 3 – 2009

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Dõng Dạc Tuyên Ngôn - Mặc Giang - 18.06.2010 00:22:59
Dõng dạc tuyên ngôn
 

Ta đâu có bỏ quê hương ta
Bởi thế thời nghiêng ngửa lại qua
Bởi ngã nhân bào ảnh lộng gió
Nên phong ba bão táp quê nhà

Ta đâu đánh đổi quê hương ta
Nhũng nhặng đẩy đưa nghiệt ngã mà
Xanh đỏ trắng đen đeo thế kỷ
Nên trầm kha đất mẹ quê cha

Ta luôn ngước mặt ngẩng cao đầu
Chống đỡ cái khiên đạp thuẫn mâu
Đẽo đá tô bồi son sắt thắm
Lửa vàng gang thép luyện minh châu

Hãy nhớ, ngàn năm đuổi Bắc xâm
Trăm năm ròng rã chống Tây xâm
Rong rêu bèo bọt phường vong bản
Nào nghĩa gì đâu bóng ngoại nhân

Dõng dạc tuyên ngôn non nước ta
Nguồn xưa trả lại đất quê cha
Cội xưa trả lại tình quê mẹ
Tiên Tổ muôn đời trổi khúc ca

Tích tịch tình tang vạn lý hề
Quê hương gấm vóc lộng sơn khê
Giang san cẩm tú reo sông biển
Văn hiến ngàn năm vẹn ước thề

Tích tịch tình tang vạn nhịp cầu
Viễn đông hòn ngọc rạng minh châu
Đông Tây Nam Bắc soi kim cổ
Dòng giống Lạc Hồng không dễ đâu

Quê hương đâu mất, bỏ quê hương
Sông núi đâu mòn, bởi gió sương
Trải nắng bền gan trêu tuế nguyệt
Dầm mưa vững chí cợt phong trần

Quê hương còn đó vẹn câu thề
Kế thế truyền nhau mãi nhớ nghe
Dạ sắt tô bồi thêu gấm ngọc
Lòng son nhuận thắm lộng pha lê

Quê hương ta đó đẹp nhà nhà
Khói quyện cờ bay nhờ đức Cha
Bát ngát hương thơm nhờ đức Mẹ
Dấu son ấn ngọc tỏa châu pha

Quê hương ta đó nhớ nghe em
Chị vén mành thưa tựa bức rèm
Anh đứng giữa trời cao đất rộng
Cùng tôi dõng dạc phát tuyên ngôn

Lịch sử huy hoàng nước Việt Nam
Muôn năm rạng rỡ đất trời nam
Hùng thiêng sông núi hồn dân tộc
Tọa thị phương đài đã định ban.

Mặc Giang
Tháng 10 – 2008
 
:: Những bài thơ trên đã đưa vào TV ::
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.06.2010 07:05:05 bởi Viet duong nhan >

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Xưng Tán Chư Phật Bồ Tát - Mặc Giang - 25.06.2010 06:48:10
Xưng Tán Chư Phật Bồ Tát
Mặc Giang


01. Mừng Phật Đản Sanh
02. Mừng ngày Phật Đản
03. Kính lạy Đức Phật Thích Ca
04. Kính lạy Đức Phật Di Đà
05. Nam Mô Đức Phật Di Đà
06. Kính lạy Đức Phật Dược Sư
07. Nam Mô Di Lặc Tôn Phật
08. Nam Mô Phật Mẫu Chuẩn Đề
09. Xưng tán Đức Quán Thế Âm
10. Xưng tán Ngài Đại Thế Chí
11. Xưng tán Bồ Tát Văn Thù
12. Xưng tán Bồ Tát Phổ Hiền
13. Noi gương Đức Mục Kiền Liên
14. Xưng tán Bồ Tát Địa Tạng
15. Xưng Tán Bồ Tát Hộ Pháp
16. Xưng tán Bồ Tát Giám Trai

Mừng Phật Đản Sanh
Tháng 8-2006


Ba ngàn thế giới đều rung chuyển
Cùng hân hoan mở hội rải hoa
Cùng đằng vân hội nhập cõi ta bà
Cúng dường ngày Phật Đản Thích Ca
Vườn Lâm Tỳ Ni, hoa vô ưu thơm bát ngát
Nước Ca Tỳ La, thần dân trổi nhạc hát tưng bừng
Mừng ngày Phật Đản huy hoàng
Mừng ngày Thích Tôn giáng thế
Bốn loài chúng sanh hết khổ
Sáu đường sinh tử hết đau
Tựa nương dưới ánh đạo mầu
Đuốc tuệ, từ bi soi sáng
Ba ngàn thế giới hoan ca
Mừng vui dưới ánh Phật Đà
Mừng ngày Phật Đản, Đức Thích Ca ra đời
Phổ chiếu Đạo Vàng, ban pháp nhủ nơi nơi
Cứu độ chúng sanh, lên thuyền từ bát nhã
Cứu độ muôn loài, dứt tăm tối lầm mê
Mừng ngày Phật Đản, Đức Thích Ca giáng trần
Khái sáng Đạo mầu, ban pháp nhủ thanh lương
Ba rừng giáo lý, soi khắp cùng thế giới
Mười phương tam thế, nhờ cam lộ Pháp Vương.


Mừng Ngày Phật Đản
Tháng 8-2006

Mừng ngày Phật Đản tháng tư về đây
Nam bắc đông tây một dạ chí thành
Nhân loại năm châu cùng chung qui hướng
Xây Đạo Từ Bi theo bóng Cha Lành
Mừng ngày Phật Đản tháng tư hàng năm
Tự độ độ tha quả mãn châu viên
Chuyển xe tam thừa, hoằng dương chánh pháp
Mười phương ba cõi đều nhờ Đạo Thiêng
Ngày Phật Đản huy hoàng
Khắp nhân thiên hân hoan
Cùng tưng bừng mở hội
Hòa ca ánh đạo vàng
Ngày Phật Đản thiêng liêng
Chúng sanh khắp mọi miền
Cùng chắp tay đảnh lễ
Vui mừng ánh đạo thiêng
Mừng ngày Phật Đản tháng tư về đây
Nguyện Đức Thế Tôn ân đức sâu dày
Chúng con lòng thành nhất tâm đảnh lễ
Nguyện khắp nhân gian nhuận thấm Đạo Vàng
Mừng ngày Phật Đản tháng tư về đây
Nguyện ánh từ quang phổ chiếu muôn phương
Chúng sanh dị đồng thành tâm quy ngưỡng
Dưới Bóng Cha Lành, Điều Ngự Pháp Vương.


Kính lạy Đức Phật Thích Ca
Tháng 8-2006

Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật

Kính lạy Đức Phật Thích Ca

Từ trời Đâu Suất giáng trần
Tỳ Ni, vô ưu bừng nở
Vương thành Tịnh Phạn Tỳ La
Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật

Kính lạy Đức Phật Thích Ca

Từ thân cắt ái xuất gia
Sáu năm rừng già khổ hạnh
Bồ Đề tốc chứng đạo ca
Bốn mươi lăm năm trường, hoằng khai chuyển hóa
Hơn ba trăm hội, thân giáo thuyết kinh
Ba rừng giáo lý, rạng rỡ pháp vương
Tám mươi tuổi thọ, an nhiên thị tịch chơn thường

Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật

Kính lạy Đức Phật Thích Ca
Bổn Sư Giáo chủ Ta bà
Trang Nghiêm liên đài hiện kiếp
Dứt mê, bờ giác không xa
Kính lạy Đức Phật Thích Ca
Tại rừng song thọ Sa La
Pháp âm hòa vang bất tuyệt
Đồng thanh niệm niệm Phật Đà

Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật


Kính lạy Đức Phật Di Dà
Tháng 8-2006

Nam Mô A Di Đà Phật

Kính lạy Đức Phật Như Lai
Từ quang tỏa sáng liên đài
Chúng con ngày tối đêm dài
Kể từ bất giác khứ lai
Nam Mô A Di Đà Phật

Kính lạy Đức Phật Thế Tôn
Chúng sanh đau khổ mõi mòn
Tang thương trầm thống dập dồn
Nổi chìm sinh tử trầm luân
Nam Mô A Di Đà Phật

Lạc Bang Giáo chủ Tây Phương
Bốn mươi tám nguyện không lường
Mười niệm tâm không thất tán
Một đường về bến thanh lương
Nam Mô A Di Đà Phật
Liên trì ao báu nở hoa
Hoa sen chín phẩm kết tòa
Một lòng Tây Phương trực vãng
Chắp tay đồng niệm Nam Mô

A Di Đà Phật Nam Mô
A Di Dà Phật Nam Mô
A Di Đà Phật Nam Mô


Nam Mô Đức Phật Di Dà
Tháng 8-2006

Nam Mô Đức Phật Di Đà
Phóng quang tiếp độ hằng hà sinh linh
Kể từ bất giác vô minh
Trầm luân biển khổ tử sinh mịt mờ

Nam Mô Đức Phật Di Đà
Chúng sanh trong cõi Ta Bà khổ đau
Liên hoa chín phẩm muôn màu
Dang tay độ tận con tàu trần gian

Khổ ải ngập tràn
Tang thương trầm thống
Mê mờ ảo vọng
Chìm nổi ba sinh
Bất giác quên mình
Lầm đường lạc lối

Từ nay sám hối
Xin nguyện quay về
Nam Mô Đức Phật Di Đà
Chúng con lạc mất căn nhà xưa nay
May nhờ Phật Tổ giải bày
Chúng con xin nguyện từ nay trở về

Nam Mô Đức Phật Di Đà
Nhất tâm bất loạn, sát na dứt liền
Từ quang phổ chiếu thiêng liêng
Đằng vân chi lộ về miền Tây Phương

Nam Mô Tây Phương Giáo Chủ, A Di Đà Phật
Nam Mô Tây Phương Giáo Chủ, A Di Đà Phật
Nam Mô Tây Phương Giáo Chủ, A Di Đà Phật


Kính lạy Đức Phật Dược Sư
Tháng 8-2006

Kính lạy Đức Phật Dược Sư
Đông Phương Giáo Chủ năng dư
Chúng sanh một lòng quy ngưỡng
Linh thiêng bất khả tư nghì
Đảnh lễ Đức Phật Dược Sư
Trang nghiêm sắc tướng lưu ly
Bổn nguyền mười hai nguyện lớn
Ân thâm biển thệ từ bi
Kính lạy Đức Phật Dược Sư
Chúng sanh đa bịnh không lường
Bịnh thân, bịnh tâm, bịnh chướng
May nhờ Đức Phật Quang Vương
Nhớ xưa một Thầy Thư ký
Sống trong đau khổ âm thầm
Thời thời tâm thành niệm ý
Kiếp sau thành Ngài Ngọc Lâm
Hỡi nhân sinh trần thế
Ai bịnh khổ nguyện cầu
Hỡi trần lao biển khổ
Ai hiểu được ân sâu
Cuộc đời là trọ quán
Đây diệu tánh chơn thường
Tử sinh là ghềnh ráng
An lành niệm Quang Vương

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật
Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật
Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật


Nam mô Di Lặc Tôn Phật
Tháng 8-2006

Nam Mô Di Lặc Thế Tôn
Đương Lai thị hiện châu toàn Long Hoa
Độ sinh, thuyết giáo ta bà
Mở ra Ba Hội về nhà Như Lai
Nam Mô Di Lặc Thế Tôn
Từ bi, hỷ xả, hân hoan tuyệt vời
Cung trời Đao Lợi dõi soi
Đương Lai ứng thế cứu đời chúng sanh
Vào một thuở thời Đường
Bố Đại là hiện thân
Trên vai mang một đãy
Bụng chứa một hầu bao
Chứa những gì khó chứa
Xưa nay mấy ai, nào !
Chỉ làm mà không nói
Tay phất phất cười khì
Đến khi biến mất đi
Ta chính là Từ Thị
Nam Mô Di Lặc Thế Tôn
Chúng sanh tha thiết mõi mòn
Bởi thời pháp nhược ma cường
Xin Ngài ứng hiện pháp thân
Nam Mô Di Lặc Hạ Sanh
Mười phương một dạ chí thành
Long Hoa trông chờ mở Hội
Xin Ngài cứu độ quần sanh
Nam Mô Long Hoa Hải Hội
Nam Mô Long Hoa Hải Hội
Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật
Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật


Nam Mô Phật Mẫu Chuẩn Đề
Tháng 8-2006

Nam Mô Phật Mẫu Chuẩn Đề
Ban ân thí đức chan hòa thanh lương
Chúng sanh khổ ải trăm đường
Lại thời mạt pháp nhiểu nhương ngập tràn
Nam Mô Phật Mẫu ai lân
Cứu nhân độ thế dương trần lầm than
Tai ương trầm thống vô vàn
Chìm muôn tội lỗi xa ngàn hiền lương
Nam Mô Phật Mẫu xót thương
Cứu người tánh thiện cứu phường tà ma
Diêm phù kham nhẫn ta bà
Chúng sanh quên mất căn nhà Như Lai
Thiện với ác tuy hai
Nhưng cả hai là một
Lìa hai bờ xấu tốt
Một với một không hai
Đâu bồ đề, đâu phiền não
Đâu bờ giác, đâu bến mê
Một khi đã quay về
Tất cả đều quy nhất
Nam Mô Phật Mẫu bản hoài
Chúng sanh nhớ Mẹ,
như sông Dài nhớ sông Thương
Đi xa, quên dấu quên đường
Đi về, lại nhớ cố hương mà về
Nam Mô Phật Mẫu Chuẩn Đề
Nam Mô Phật Mẫu Chuẩn Đề, Nam Mô.


Xưng Tán Đức Quán Thế Âm
Tháng 8-2006

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát
Từ nhãn thị chúng sanh
Mắt thương nhìn cuộc đời
Ngàn tay ngàn mắt, chiếu diệu nơi nơi
Đại bi đại nguyện, cứu khổ cho đời
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát
Lắng tai nghe, tiếng cứu khổ tầm thinh
Lắng tai nghe, tiếng nghiệt ngã điêu linh
Của trần gian, của vạn loại, của nhân sinh
Cứu độ chúng con, muôn vẻ muôn hình
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát
Mẹ Hiền, trang trải đức tình thương
Chúng sanh khổ nạn khắp trăm đường
Hỷ nộ dục lạc ai ái ố
Cam lộ bình thùy, nước cành dương
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát
Xin Ngài thùy từ cứu chúng con
Trần lao nghiệp cảnh khổ không lường
Nước mắt còn nhiều hơn nước biển
Nguyện Đức Từ Bi chứng lòng con
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát


Xưng tán Ngài Đại Thế Chí
Tháng 8-2006

Nam Mô Bồ Tát Đại Thế Chí
Tâm như tuệ mới là tâm như ý
Tánh như tuệ mới là tánh Như Lai
Hạnh nguyện châu toàn chân thiện mỹ
Phàm, Thánh đừng quên những lời này
Nam Mô Bồ Tát Đại Thế Chí
Ngài đang cùng Bồ Tát Quán Thế Âm
Vì Từ Phụ Di Đà
Ứng hóa vô số thân
Châu du khắp mười phương
Cứu chúng sanh không lường
Chúng sanh, bởi vì đâu thống khổ
Bởi do vì thiếu đuốc tuệ quang minh
Nhân gian, bởi vì không tàm quý
Nên chất chồng thảm não điêu linh
Nói và làm mà trước, không suy nghĩ
Thì hậu quả sẽ biết đâu mà lường
Khi đã vắt cạn nguồn cơn của ý
Thiếu từ bi trí tuệ, vẫn đau thương
Nam Mô Đức Đại Thế
Chúng sanh từ nay, nhớ ơn Ngài
Bất luận việc gì, phải tính một hai
Ly đã sai, dặm ngàn còn phi mã
Chúng sanh từ nay, noi gương Ngài
Trên đường về pháp tánh Như Lai
Trên đường về pháp tánh Như Lai


Xưng tán Bồ Tát Văn Thù
Tháng 8-2006

Nam Mô Bồ Tát Văn Thù
Trí tuệ, sanh ra Chư Phật ba đời
Trí tuệ, phá tà hiển chánh thời thời
Nên trí tuệ, chính là kim cương trí
Còn đâu là bến mê
Nơi nào không bờ giác
Nam Mô Bồ Tát Văn Thù
Bởi chúng sanh mờ tối âm u
Chứ phải đâu Hiền Giả Quá Ngu
Tránh làm sao trầm luân thống khổ
Bởi chúng sanh tự nhốt ngục tù
Không dừng chân, thiếu phước, vụng tu
Thì ba cõi là căn nhà lửa
Địa ngục không chỗ chứa
Đường Thánh chẳng chịu về
Chần chừ rồi lần lữa
Nên tràn ngập sông mê
Hỡi chúng sanh, tỉnh thức
Đừng có mãi nhiều lời
Đêm tàn canh, thao thức
Đừng có mãi lơi bơi
Nương nhờ Bồ Tát Văn Thù
Thanh gươm trí tuệ tuyệt vời
Cắt đứt muôn ngàn hư dối
Một khi đã quyết
xa lìa ba cõi
Chơn thường, chơn lạc,
ngã tịnh là đây
Nam Mô Văn Thù Sư Lợi Vương Bồ Tát
Nam Mô Văn Thù Sư Lợi Vương Bồ Tát
Ma ha tát


Xưng Tán Bồ Tát Phổ Hiền
Tháng 8-2006

Nam Mô Bồ Tát Phổ Hiền Vương
Một, nguyền đảnh lễ Chư Phật
Hai, nguyền xưng tán Như Lai
Ba, nguyền rộng khắp cúng dường
Bốn, nguyền sám hối nghiệp chướng
Nam Mô Bồ Tát Phổ Hiền Vương
Năm, nguyền tùy hỷ công đức
Sáu, nguyền thỉnh chuyển pháp luân
Bảy, nguyền thỉnh Phật trụ thế
Tám, nguyền thường tùy Phật học
Nam Mô Bồ Tát Phổ Hiền Vương
Chín, nguyền hằng thuận chúng sanh
Mười, nguyền khắp đều hồi hướng
Mười phương thế giới vô lượng
Chúng sanh Tứ Thánh đồng về
Không còn bờ Giác bến mê
Tất cả, đồng chơn, nhất thể
Không còn lậu, thô, vi, tế
Như như, hằng viễn, như như
Nam Mô Bồ Tát Phổ Hiền Vương
Nam Mô Bồ Tát Phổ Hiền Vương


Noi gương Đức Mục Kiền Liên
Tháng 8-2006

Nam Mô Bồ Tát Mục Kiền Liên
Sáng soi con đường hiếu hạnh
Đáp đền công đức Mẹ Cha
Cũng vì con cháu oan gia
Đọa đày, lầm than, thống khổ
Kính lạy Bồ Tát Mục Kiền Liên
Thập đại, thần thông đệ nhứt
Sau khi tu hành chứng đắc
Dõi soi, tìm kiếm Mẹ già
Không ngờ A Tỳ địa ngục
Thanh Đề đền tội can qua
Mẹ ơi Mẹ ơi ! Mẹ ơi Mẹ ơi !
Cơm đà đã biến thành than
Lòng con đau xót vô vàn
Hầm chông, còn thêm chảo lửa
Ruột cào, tim thắt, nát tan
Vội về bạch Phật Như Lai
Mẹ con thống khổ tuyền đài
Xin Ngài tầm phương giải cứu
Phật rằng, Pháp Hội Vu Lan
Kính lạy Bồ Tát Mục Kiền Liên
Chúng con, nhất nhất noi gương
Đền ơn dưỡng dục song đường
Núi cao, sông sâu, biển cả
Công Cha nghĩa Mẹ, tình thương
Kính lạy Bồ Tát Mục Kiền Liên
Chúng con, lớp lớp hàng hàng
Thành tâm thiết lễ đàn tràng
Nguyện Phật mười phương minh chứng
Cúng dường Pháp Hội Vu Lan
Cúng dường Pháp Hội Vu Lan


Xứng tán Bồ Tát Địa Tạng
Tháng 8-2006

Nam Mô Bồ Tát Địa Tạng Vương
“U Minh Giáo chủ Bổn tôn
Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật
Chúng sanh độ tận, phương chứng Bồ Đề”
Tu Di vời vợi, còn nhỏ sơn khê
Nam Mô Bồ Tát Địa Tạng Vương
Vì thương chúng sanh, phát đại bi tâm
Vì cứu chúng sanh, phát đại bi nguyện
Màn đêm chợt tắt, sáng hơn trăng rằm
Ngọn lửa đại hùng, tuyết lở, băng tan
Kính lạy Bồ Tát Địa Tạng Vương
Chúng con phủ phục kính ơn Ngài
Địa ngục chín tầng, xin tiếp tay
Trần lao nghiệp cảnh, xin lìa dứt
Nào dám dễ duôi, phụ ơn Ngài
Kính lạy Bồ Tát Địa Tạng Vương
Biển khổ luân hồi sóng đại dương
Bến mê, bờ giác, đã tỏ tường
Tam đồ, bát nạn, câu ly khổ
Thế thế hoằng truyền Địa Tạng Vương
Nam Mô Bồ Tát Địa Tạng Vương
Nam Mô Bồ Tát Địa Tạng Vương
Nam Mô Bồ Tát Địa Tạng Vương


Xưng tán Bồ Tát Hộ Pháp
Tháng 8-2006

Nam Mô Bồ Tát Hộ Pháp
Chúng con phước mỏng tội dày
Không sanh vào thời Đức Phật
Khổ đau, nghiệp chướng, đọa đày
Chất chồng bi lụy đắng cay
Kính lạy Bồ Tát Hộ Pháp
Trong thời mạt pháp nhiểu nhương
Trong thời pháp nhược ma cường
Đạo đức suy vi ma chướng
Chánh tà hỗn tạp mà thương
Kính lạy Bồ Tát Hộ Pháp
Thùy từ bảo vệ thiền môn
Thế đạo nhân tâm điên đảo
Quỷ ma bức bách kinh hồn
Chúng sanh sơ cơ ngơ ngác
Cao tăng thạc đức hao mòn
Kính lạy Bồ Tát Hộ Pháp
Thùy từ chấn tích trùng quang
Phá tà hiển chánh đường đường
Thiện ác một lòng qui nhiếp
Trước tòa Điều Ngự Pháp Vương
Cho ánh đạo huy hoàng
Cho nhân thế hòa vang
Cho ánh đạo huy hoàng
Cho phạm vũ trang nghiêm.


Xưng tán Bồ Tát Giám Trai
Tháng 8-2006

Nam Mô Bồ Tát Giám Trai
Gia trì đại chúng không ai não phiền
Đẹp thay chiếc áo phước điền
Một trăm mảnh vá nối liền đẹp thay
Nam Mô Bồ Tát Giám Trai
Đại chúng hòa hợp lòng Ngài thảnh thơi
Đạo mầu là đạo cứu đời
Cứu cho tứ chúng thời thời hỷ hoan
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Trăng tròn mười sáu trăng tròn đẹp không
Nam Mô Bồ Tát Giám Trai
Nhìn trông nước chảy về sông
Sông đi ra biển, biển trông về nguồn
Trầm hùng tiếng mõ lời chuông
Chan hòa đại chúng tròn vuông vuông tròn
Đá vàng đem thử sắt son
Trang nghiêm thanh tịnh đẹp hơn đá vàng
Cũng nhờ Bồ Tát Giám Trai
Thiền gia sứ giả xin Ngài chứng tri
Nam Mô Bồ Tát Giám Trai
Nam Mô Bồ Tát Giám Trai.

Mặc Giang

<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.06.2010 06:52:10 bởi Viet duong nhan >

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Việt Nam Thi Sử Hùng Ca * Phần 1 - Mặc Giang - 26.06.2010 01:46:25
Thúy Vinh & Đoàn Yên Linh: diễn ngâm
VIỆT NAM Thi Sử Hùng Ca * Phần 1 & 2

* DẪN NHẬP *

Việt Nam Thi Sử Hùng Ca, là Thi Tập có tính sơ lược, tổng quát, đại cương xuyên suốt chiều dài 5000 năm lịch sử dân tộc, từ Hồng Bàng, các quốc tổ Hùng Vương, cho đến thời cận và hiện đại, tức cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, được soạn bằng thi ca, căn cứ theo các tài liệu :
 
1. Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim
2. Việt Sử Toàn Thư của Phạm Văn Sơn
3. Việt Sử của Nguyễn Văn Bường
4. Các Triều Đại Việt Nam của Quỳnh Cư – Đỗ Đức Hùng
5. Tóm tắt Niên biểu Lịch sử Việt Nam của Hà Văn Thư – Trần Hồng Đức
6. Địa lý Việt Nam của Nguyễn Khắc Ngữ – Phạm Đình Tiếu
7. Bản đồ địa lý Việt Nam, theo số liệu của Tổng Cục Thống Kê năm 1999

Việt Nam Thi Sử Hùng Ca, được dẫn nhập bài Non Nước Việt Nam, bằng 16 câu thơ biến thể tự do, và tiếp theo 80 câu theo thể lục bát, nói về địa lý Việt Nam, nhưng chỉ liệt kê tên tất cả mọi Tỉnh, Thành của đất nước, từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau, để tất cả mọi người Việt Nam dù được sinh ra ở bất cứ nơi đâu, xuyên qua mọi không gian, thời gian, nhưng khi nói về nguyên quán, là để nhớ đến vùng đất đầu đời, và nhớ đến toàn cõi Việt Nam.

Sau đó, để có cái nhìn tổng quát và khái lược 5000 năm lịch sử huy hoàng của dân tộc, dọc theo chiều dài mở nước, dựng nước, giữ nước, từ Tổ Tiên, qua các triều đại, cho đến từng thế hệ hôm nay, được diễn theo Thi Sử Hùng Ca, mở lối bằng 14 câu thơ biến thể tự do, và tiếp theo 722 câu theo thể thơ lục bát.

Hình dung bản đồ Việt Nam trước mặt, như chính mình đang đi, đang nhìn, đang thấy khắp Ba Miền, đi từ Bắc vào Nam, từ cao nguyên cho tới đồng bằng, qua sông qua suối qua đèo, băng rừng băng núi băng non, qua mọi Tỉnh, Thành của quê hương đất nước :


“Tôi xin mở bản dư đồ Hình cong chữ S
Ngắm từng Tỉnh, từng Vùng
Của nước Việt dấu yêu
Của giang sơn cẩm tú mỹ miều...
... Mở đầu, Miền Bắc khai nguyên
... Anh lên Miền Ngược, em về Miền Xuôi
Xuôi về Hà Nội mới thôi
Thăng Long hoài cổ, đổi dời Thành Đô
... Sài Gòn chưa vẹn câu thề
Em đi, đi nữa xuôi về Miền Nam
... Em đi, đi nữa em ơi
... Hình cong chữ “S” nơi nơi
Non non nước nước của Người Việt Nam”.


Khi từng miền đất nước, như đã cấu thành cho con người Việt Nam máu đỏ da vàng, cho tình tự yêu thương chạy dài từ thành thị đến thôn trang. Thật vậy, từng nẻo đường quê hương như phảng phất : Kia bóng cờ bay, với “Những lối đi, chạy ngang qua đất đỏ”. Nọ khúc khải hoàn, với “Những lối về, chạy dọc dưới trời xanh”. Và mỗi bước đi như có hồn thiêng khói quyện, hồn sử lung linh, máu lệ đầy vơi nhưng lẫm liệt oai hùng, hy sinh gian khổ nhưng huy hoàng bất khuất. Mỗi chúng ta hãy lần theo từng trang sử qua từng thời kỳ của 5000 năm văn hiến của đất nước Việt Nam, đang được mở ra :

“Tôi xin mở bản đồ đất nước Việt Nam
... Tổ quốc, giang sơn, giòng giống Tiên Rồng”
“Quê hương từ độ khơi dòng
Mở trang Sử Việt oai hùng ngàn năm
Đi từ huyền sử xa xăm
Hồn thiêng sông núi Việt Nam muôn đời
... Em đi trong mộng trong mơ
Năm ngàn năm đã đợi chờ thật lâu...


Và cuối cùng, đi vào kết thúc lịch sử 5000 năm, rồi lại mở ra 5000 năm nữa ...

“Nước là nước, nhà là nhà
Nhà là của nước, nước là của sông
Em ơi, con cháu Lạc Hồng
Em ơi, dòng dõi con Rồng cháu Tiên
Quê hương còn đó, Ba Miền
Việt Nam còn đó, núi liền với sông
Trường Sơn có thấu Biển Đông !
Thái Bình có thấu Sông Hồng, Cửu Long !
Đồng Nai đứng đợi cuối dòng
Nước bao nhiêu nữa, cũng nguồn mà ra
VIỆT NAM, NON NƯỚC MỘT NHÀ
NĂM NGÀN NĂM NỮA CŨNG LÀ VIỆT NAM”.


Việt Nam Thi Sử Hùng Ca, được soạn thảo bằng cách, nhìn vào bản đồ Việt Nam và cuốn Địa lý Việt Nam từ Bắc vào Nam ; đọc, lược, đối chiếu qua 5 bộ sách lịch sử, qua thời gian, qua từng thời kỳ và các triều đại, cảm tác suốt một tuần lễ, tổng cộng 832 câu thơ, gồm 30 câu biến thể tự do, 802 câu theo thể lục bát. Sau đó, tự tác giả đọc lại, sửa, đánh máy, bình chú, cũng xuyên suốt trong vòng một tuần lễ.

Như vậy, suốt hai tuần lễ của tháng 9 năm 2003, Thi Tập VIỆT NAM THI SỬ HÙNG CA, một sản phẩm của con tim, khối óc, tình tự, trí tuệ được thành hình. Thi tập này chưa nhưng sẽ được tác giả tự ấn hành trong nay mai.

Rất mong những bậc cao minh góp ý hoặc mách bảo những sai sót, khiếm khuyết, nhất là về sử, hay tự chính tác giả khi phát hiện được, sẽ sửa chữa, đính chính, trước khi in ấn, hoặc vào những lần tái bản, để Việt Nam Thi Sử Hùng Ca được hoàn thiện hoàn mỹ, không phải của riêng tác giả, mà của tất cả mọi người.

Rất mong, Việt Nam Thi Sử Hùng Ca sẽ được chân thành gởi đến, và như một cống hiến dâng tặng đến tất cả mọi người Việt Nam, qua mọi không gian thời gian, và ao ước mọi người Việt Nam đều mang tình tự quê hương đậm đà, đều có những nỗi niềm khắc khoải nhưng tràn đầy diễm phúc tự hào, qua âm hưởng Việt Nam Thi Sử Hùng Ca 5000 năm dân tộc và Ba Miền nước Việt dấu yêu.

Ngày 06 tháng 8 năm 2005
Trân trọng và cẩn chí
Mặc Giang


**************

Non Nước VIỆT NAM
Quê Hương để giữ gìn, để thương, để nhớ

************

01. Tôi xin mở bản dư đồ hình cong chữ “S”
Ngắm từng Tỉnh, từng Vùng
Của nước Việt dấu yêu
04. Của giang sơn cẩm tú mỹ miều
Cho dòng giống Lạc Hồng gìn giữ nâng niu
Tôi xin mở bản dư đồ hình cong chữ “S”
Bắc Nam Trung một dãi nối liền
08. Của quê hương gấm vóc Ba Miền
Để thắm tô Sông Núi Hồn Thiêng
Nối tình dài Con-Cháu-Tổ-Tiên
Tôi xin mở bản dư đồ hình cong chữ “S”
12. Biển rộng sông dài non nước Việt Nam
Đi từ Cà Mau đến Ải Nam Quan
Đi từ rừng cao cho đến đồng sâu
Đi từ bờ đê cho đến ruộng dâu
16. Đất nước yêu thương con cháu da vàng

****

Mở đầu Miền Bắc khai nguyên
Thượng du miền ngược, xuôi miền Trung du
LAI CHÂU kê núi gối đầu
04. LÀO CAI Bản Giốc sương mù HÀ GIANG
LẠNG SƠN cách khoảng CAO BẰNG
QUẢNG NINH ven biển chờ trăng ánh vàng
Vàng lên tựa cửa BẮC GIANG
08. THÁI NGUYÊN, BẮC KẠN, TUYÊN QUANG một nhà
Ô kìa YÊN BÁI, SƠN LA
Anh lên Miền Ngược, em về Miền Xuôi
Xuôi về HÀ NỘI mới thôi
12. Thăng Long hoài cổ, đổi dời thành đô
Năm ngàn năm, dựng cơ đồ
Theo dòng lịch sử điểm tô muôn đời
Em đi, đi nữa em ơi
16. Băng qua PHÚ THỌ lên đồi BẮC NINH
VĨNH YÊN, VĨNH PHÚC xoay mình
Chở che Hà Nội, HÒA BÌNH, HÀ TÂY
Hà Tây còn có SƠN TÂY
20. HÀ ĐÔNG bên đó, bên nầy HẢI DƯƠNG
Đi ra tận cửa HẢI PHÒNG
Trùng dương sóng vỗ HẠ LONG tuyệt vời
HƯNG YÊN một chuyến rong chơi
24. HÀ NAM bén gót, buông lơi THÁI BÌNH
NINH BÌNH, NAM ĐỊNH xinh xinh
Hồng Hà sông nước, Thái Bình nước sông
Em về THANH HÓA hơn không
28. NGHỆ AN, HÀ TĨNH mênh mông núi đồi
Sông Đà, sông Mã dặm soi
Bắt ngang Đồng Hới, mù khơi QUẢNG BÌNH
Còn kia, QUẢNG TRỊ điêu linh !
32. Sông Gianh, Bến Hải vặn mình kêu sương !!!
THỪA THIÊN, Phố Huế, sông Hương
Hội An – Đà Nẵng, dặm trường Quảng Nam
Thương ra QUẢNG NGÃI mới cam
36. Thương vô BÌNH ĐỊNH bao hàm PHÚ YÊN
Thương lên đến tận Cao Nguyên
KON TUM, ĐÁC LẮC giữa miền GIA LAI
Tình xưa lối cũ dấu hài
40. Hoàng Triều Cương Thổ thở dài một phen !
Thu Bồn khói quyện quen quen
Đà Rằng lượn khúc, chưa hoen KHÁNH HÒA
Thùy dương cát trắng phôi pha
44. PHAN RANG, PHAN RÍ xót xa thuở nào !!!
Em đi lòng dạ nao nao
Thời gian đi mãi vẫy chào tháng năm
CAM RANH mây nước xanh lam
48. ĐÀ LẠT mơ mộng Suối Vàng, Cam Ly
Đường lên BÌNH PHƯỚC anh đi !
Em về PHAN THIẾT có chi ngại ngùng ?
VŨNG TÀU, BÀ RỊA một vùng
52. Ra khơi nhớ Bưởi mà rung BIÊN HÒA
BÌNH DƯƠNG cây trái lá hoa
TÂY NINH là tỉnh cuối bờ Trường Sơn
SÀI GÒN nói thiệt nào hơn !
56. Viễn Đông Hòn Ngọc dễ sờn mấy ai ???
Ai về GIA ĐỊNH, ĐỒNG NAI ?
Đừng quên Bến Nghé, mối mai Nhà Bè !
SÀI GÒN chưa vẹn câu thề !!!
60. Em đi đi nữa xuôi về Miền Nam
Kề vai xỏa tóc LONG AN
MỸ THO mấy khúc, TIỀN GIANG mấy bờ
Em đừng vội đến CẦN THƠ
64. Mà quên ĐỒNG THÁP dựng cờ phía Tây
Sông Tiền, sông Hậu là đây
BẾN TRE bên đó, bên này TRÀ VINH
VĨNH LONG in bóng theo hình
68. SÓC TRĂNG cuối ngọn, đầu ghình AN GIANG
Hà Tiên, Rạch Giá, KIÊN GIANG
BẠC LIÊU rẽ bước đôi hàng CÀ MAU
Muốn ra PHÚ QUỐC lên tàu
72. CÔN SƠN mờ tỏa một màu xanh xanh
Việt Nam muôn thuở thanh bình
Việt Nam sông núi đầu ghềnh, biển Đông
Việt Nam còn đó non sông
76. Mẹ Âu, Cha Lạc, con Rồng, cháu Tiên
Việt Nam sông núi Ba Miền
Bắc Nam Trung, quyện an nhiên muôn đời
Hình Cong Chữ “S” nơi nơi
80. Non non nước nước của Người Việt Nam.

*************

VIỆT NAM Thi Sử Hùng Ca

*****

MỞ LỐI

01. Tôi xin mở bản đồ Đất Nước Việt Nam

Đi từ Cà Mau đến Ải Nam Quan

Đi từ Vùng Sâu lên đến Cao Nguyên

04. Đi khắp quê hương, đi khắp mọi miền

Tôi xin mở bản đồ Đất Nước Việt Nam

Đi từ Biển Đông lên tới Trường Sơn

Đi từ làng quê, đi khắp phố phường

08. Đi khắp đất liền, đi khắp non sông

Tôi xin mở bản đồ Đất Nước Việt Nam

Là thịt là da xương máu Tổ Tiên

Là thịt là da xương máu Cha Ông

12. Là thịt là da xương máu cháu con

Truyền trao thế hệ, tô thắm non sông

14. Tổ quốc, giang sơn, dòng giống Tiên Rồng

_________________________________

* Dòng họ Hồng Bàng thay nhau gìn giữ dòng giống Lạc Việt ở Phương Nam. Cho tới đời Vua Kinh Dương Vương, truyền lại Lạc Long Quân hiệu Hùng Hiền Vương và truyền lại đến 16 đời sau, đều mang hiệu Hùng Vương, chỉ khác nhau chữ húy chính giữa, từ Hiền, Quốc, Việt, . . . đến Duệ là vị thứ 17. Từ Kinh Dương Vương đến Hùng Duệ Vương gồm 18 đời, nên gọi là 18 đời Vua Hùng Vương. Quốc hiệu là nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu, và kéo dài từ năm 2879 đến năm 258, tức được 2621 năm, trước Dương lịch.

* Vua Đế Minh lấy một nàng tiên rồi sanh ra Kinh Dương Vương. Kinh Dương Vương lấy Long Nữ sinh ra Lạc Long Quân. Long Quân lấy Âu Cơ, con gái người đất Âu, sinh ra 100 anh chị em. Do đó, Thời sơ khai, nước ta có khi gọi là nước Lạc Việt, có khi gọi Âu-Lạc, là kết hợp người gốc Lạc gốc Âu mà thành. Khi người con trưởng nối ngôi, tức đời Hùng Vương thứ 3, mới đặt quốc
hiệu là Văn Lang. Lạc Long Quân gốc Rồng, Âu Cơ gốc Tiên. Cho nên dân tộc Việt Nam được gọi con cháu Lạc Hồng thuộc dòng giống Rồng Tiên là vậy.


* Hùng Vương khai quốc, bảo quốc, truyền trao tiếp nối cho tới hôm nay. Do đó, nên gọi Quốc Tổ Hùng Vương. Lập đền thờ tưởng nhớ gọi là Đền Hùng. ______________________________

TỪ NGUỒN CỘI đến BẮC THUỘC

Việt Nam độc lập 2768 năm

(Từ câu 1 đến câu 54)

********

Quê hương từ độ khơi dòng

Mở trang Sử Việt oai hùng ngàn năm

Đi từ huyền sử xa xăm

04. Hồn thiêng sông núi Việt Nam muôn đời

Đi từ nguồn cội em ơi !

Lạc Long Quân kết duyên đời Âu Cơ (1)

Năm mươi xuống biển đợi chờ (2)

08. Năm mươi lên núi dựng cờ an bang

Triển khai lập quốc Văn Lang (3)

Người con trai trưởng đăng đàn làm vua

Tựa nương bảo vệ cho vừa

12. Anh em một bọc nắng mưa đỡ đần

Trước sau thứ đệ một vần

Đều mang danh hiệu cao ngần Hùng Vương

Mười tám đời thật phi thường

16. Chung lưng đấu cật lo lường mến thương

Hùng Vương thứ sáu, Bắc phương

Giặc Ân ôm mộng mở đường xâm lăng

Thiên Vương Phù Đổng oai thần

20. Thét roi ngựa sắt, giặc Ân qui hàng (4)

Sóc Sơn biến mất mây ngàn (5)

Mở ra Hội Gióng leo thang mà thờ (6)

Mỵ Nương công chúa huyền mơ (7)

24. Sắc hương cá nước vật vờ chim sa

Hoàng hôn nán đợi chiều tà

Lẻn nhìn nét ngọc trăng ngà soi gương

Hai chàng đều ngỏ đều thương

28. Sơn Tinh nhanh bước, quê hương Ba Vì (8)

Thủy Tinh hận mối tình si (9)

Làm mưa làm gió, đuối thì phải thua

Nắng mưa nhờ đó bốn mùa

32. Nước Nam hưng thịnh thuận hòa bình an

Kéo dài lịch sử Văn Lang

Hăm sáu hai một là ngàn với năm (10)

Hai năm bảy, trước công nguyên

36. Biến thành Âu Lạc lưu truyền
Dương Vương (11)

Cổ Loa xây dựng phi thường (12)

Bao nhiêu thành lũy là phương huy hoàng

Rùa Vàng xuất hiện Hồ Gươm (13)

40. An bang định quốc nỏ thần giương cao

Giặc Tần chạy rớt chiến bào

Quân năm mươi vạn ào ào lá thu (14)

Chuyện tình sử, lệ chưa nhòa

44. Tình đang như mộng Cổ Loa kinh thành (15)

Thương thay hai mái đầu xanh

Mỵ Châu – Trọng Thủy ôm vành trăng soi

Dương Vương ngoảnh lại mà coi

48. Thanh gươm đã toát đầu rơi nghẹn ngào (16)

Hai lẻ bảy, sóng rạc rào (17)

Vỗ tan Âu Lạc vẫy chào châu sa

Ấy là kế sách Triệu Đà

52. Nam Việt danh hiệu kinh qua một thời (18)

Triệu Vương truyền nối năm đời

54. Dù sao đi nữa cũng người nước Nam (19)

__________________________________

(1,2,3) Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh được 100 người con. Khai triển lập quốc Văn Lang. Một nửa cùng Mẹ ở lại quê nhà cùng nhau đùm bọc, một nửa theo Cha cặp theo dòng nước xuống tận biển để khai khẩn tìm kế sinh nhai. Từ 100
anh chị em, lần lần kết duyên với những bộ tộc khác và truyền tiếp giống nòi.


(4,5,6) Nhà Ân (Trung Hoa) xâm lăng VN lần thứ nhất vào đời Hùng Vương thứ 6, nhưng thất bại. Nhờ cậu bé làng Phù Đổng, cỡi ngựa sắt, gươm sắt, nón sắt phi mã như thần, giặc Ân tan nát, qui hàng. Phá xong giặc Ân, về đến Sóc Sơn thì biến mất. Vua nhớ ơn, lập đền thờ tại Phù Đổng, và tôn Phù Đổng Thiên Vương. Hàng năm, ngày 8-4, làng Gióng (Phù Đổng) mở hội lớn gọi là Hội Gióng, lan xa cả Miền Bắc, đến nay vẫn còn.


(7,8,9) Thời Hùng Vương, các công chúa đều gọi là Mỵ Nương. Hùng Vương thứ 18, công chúa Mỵ Nương đẹp tuyệt trần, Sơn Tinh, Thủy Tinh đều muốn xin làm Phò Mã. Sơn Tinh được chọn, đón Mỵ Nương về Ba Vì.

(10,11) Nước Văn Lang kéo dài 2621 năm thì biến thành nước Âu Lạc, thời An Dương Vương, đóng đô tại Phong Châu, kéo dài 50 năm.


(12) Cổ Loa, một kinh thành tại Phong Châu, đồ sộ, cổ nhất của dân tộc

(13) Tương truyền Thần Kim Quy xuất hiện tại Hồ Gươm (tức Hồ Hoàn Kiếm) mách bảo cho phương cách để xây thành Cổ Loa.

(14) Nhà Tần thống nhất Trung Hoa, xâm lăng VN lần thứ 2, nhưng thất bại.

(15) Tìm hiểu nỏ thần Liên Châu là kế sách chính trị, nhưng không thể phủ nhận chuyện tình sử đẫm lệ giữa Trọng Thủy – Mỵ Châu !

(16) Một câu nói “kẻ thù sau lưng“, An Dương Vương quay lại, không thấy ai, đành rơi lệ chém con gái của mình rồi trầm mình xuống biển.

(17,18,19) Triệu Đà lên ngôi năm 207, sáp nhập Nam Hải, Âu Lạc thành Nam Việt. Từ Hùng Vương đến cuối Nhà Triệu năm 111 trước Dương lịch, VN kéo dài nền độc lập tự trị 2768 năm, sau đó là 1000 năm Bắc thuộc.


____________________________________

VIỆT NAM, THỜI KỲ BẮC THUỘC
Từ năm 111 trước Dương lịch
đến năm 939 sau Dương lịch

***

Cuộc Khởi Nghĩa của
HAI BÀ TRƯNG, BÀ TRIỆU


(Từ câu 55 đến câu 82)
__________

Năm ba số một mới cam

56. Là thời Bắc thuộc ngàn năm oán hờn (1)

Mở đầu, Nhà Hán vẽ, sơn

Chia thành chín quận dễ vờn, dễ sai (2)

Nhâm Diên, Tô Định oằn vai (3)

60. Trưng Trắc, Trưng Nhị cỡi voi diệt thù (4)

Đất Mê Linh đẹp thiên thu

Ba năm hưng khởi oán thù chưa tan

Đoàn quân Mã Viện kéo sang

64. Hai Bà Trưng, mượn Hát Giang trầm mình

Em xin giọt lệ lung linh

Tuổi hai mươi hiến dâng mình nước non

Điểm ghi thật đậm nét son

68. Cho trang Sử Việt huy hoàng mai sau

Vàng ròng há lộn chì thau

Lửa nung mới sáng ửng màu tinh anh

Ra khơi vỗ sóng Cá Kình

72. Chớ làm tôm tép dầm mình dưới thung (5)

Nữ nhi đáng mặt anh hùng

Triệu Trinh mười chín nghĩa chung khởi cờ (6)

Bốn năm tinh luyện binh cơ

76. Xuất chinh Thanh Hóa, Đông Ngô hãi hùng

Đấu tranh oanh liệt vẫy vùng

Năm hai bốn tám, núi Tùng gởi thân (7)

Bà Trưng, Bà Triệu một vần

80. Anh thư Nước Việt quần thần phải kiêng

Ba Bà xưng tụng Ba Miền

82. Sử xanh rực sáng hậu tiền soi chung.
____________________________

(1,2,3) Tể tướng Lữ Gia và vua tôi Nhà Triệu đều bị bắt giết bỡi tướng Lộ Bác Đức, Dương Bộc của Vua Hán Vũ Đế. VN chỉ được gọi Giao Chỉ Bộ, chia ra 9 quận, mà các thái thú như Tô Định vờn, sai như mèo vờn chuột.

(4) 151 năm đầu của 1000 năm Bắc thuộc, mới có cuộc khởi nghĩa giành độc lập đầu tiên vào năm 40 của Hai Bà Trưng, đánh quân Nam Hán ra khỏi VN, lên ngôi xưng Trưng Vương, đóng đô Mê Linh, kéo dài được 3 năm (40-43). Kể cũng lạ ? Càng lạ hơn, mãi đến năm 248, mới có cuộc khởi nghĩa đáng kể thứ 2 của Bà Triệu thời Đông Ngô. Nghĩa là 359 năm đầu Bắc thuộc, chỉ có 2 lần gọi là khởi nghĩa, đều là Bậc Nữ Nhi, tuổi vừa chớm đôi mươi !!!


(5,6,7) Cuộc khởi nghĩa thứ hai được lãnh đạo bỡi cô Triệu Thị Trinh. Mới 19 tuổi. Anh của bà là Quốc Đạt, bảo phận gái 12 bến nước, không lo sớm coi chừng ...
Cô Trinh đáp, em phải ra khơi, cỡi Cá Kình, lấp biển Đông, đạp sóng Ngô,... Và thật vậy, Đông Ngô khiếp vía, nhưng vì có nội gian phản bội, không biết đàn ông hay đàn bà ? Bà phải hy sinh tại Núi Tùng, Thanh Hóa năm 23 tuổi. Còn Hai Bà Trưng trầm mình tại Hát Giang, Mê Linh, tuổi còn nhỏ hơn Bà.

_________________________________

Cuộc Khởi Nghĩa của
LÝ NAM ĐẾ – MAI HẮC ĐẾ

(Từ câu 83 đến câu 124)

***

Nhà Ngô suy tính lo lường

84. Nước Nam biến mất, rẽ đường thật sâu

Giao Châu ngăn cách Quảng Châu

Quảng Châu từ đó gồm thâu bên Tàu (1)

Dòng tao loạn, biến thật mau

88. Giao Châu cuốn hút cúi đầu Nhà Lương (2)

Mà dày mà xéo tang thương

Lý Bôn xuất hiện dẹp phường ngoại xâm

Giành độc lập, cứu nước Nam

92. Kinh đô Tô Lịch, Vạn Xuân tô bồi (3)

Năm trăm bốn bốn lên ngôi

Tiền Lý Nam Đế phục hồi dựng xây (4)

Lập chùa Trấn Quốc, Hồ Tây (5)

96. An dân, an quốc, đêm ngày chỉnh trang

Kinh qua sức kiệt lực tàn

Bèn giao danh tướng Triệu Quang lo lường

Lên ngôi hiệu Triệu Việt Vương (6)

100. Hải Hưng-Dạ Trạch tầm phương lâu dài (7)

Lý Phật Tử, quyết một hai

Giành ngôi rồi lại mắc quai Nhà Tùy (8)

Vạn Xuân ngắn ngủi phải suy

104. Tay mang ách vác khốn nguy kéo dài

Nhà Đường đày ải vạn tai

An Nam đô hộ trâu cày lưỡi le (9)

Dương Quí Phi, phận phòng the (10)

108. Nhờ hương sắc nước mà đè mày râu

Vua Đường cùng các chư hầu

Món ngon vật lạ đêm tâu ngày trình

Vì ăn mà khổ dân mình

112. Lệ chi - trái vải, lội sình trèo non (11)

Đất Hà Tĩnh – Mai Thúc Loan

Nâng cao sĩ khí căm hờn thúc quân

Giặc Đường tan rã thoát thân

116. Tung hô vạn tuế muôn dân tôn thờ

Xưng, Mai Hắc Đế huyền cơ

Một năm nung nấu cơ đồ mai sau

Vạn An thành, khóc đêm thâu

120. Một năm còn có gì đâu dặm trường (12)

Nhà Đường cử vạn binh nhung

Vạn An ngập lửa chập chùng máu xương

Thúc Loan yếu thế cùng đường

124. Lui binh, thúc thủ, bỏ xương trong rừng.
_____________________________

(1,2) Nhà Tây Hán nước Việt từ Giao Châu tới Quảng Châu, thời Đông Hán chỉ còn Giao Châu. Khi Ngụy-Thục-Ngô thời tam quốc kết thúc, nước Trung Hoa nhanh chóng loạn lạc thành nhiều nước nhỏ Tấn, Tần, Triệu, Yên, Lương, Hạ,
Hán, Tống, Tề tranh bá đồ vương, thành Nam – Bắc Triều, thay ngôi đổi chủ, thì Giao Châu lần lượt cũng bị chuyển theo, rồi lệ thuộc Nhà Lương, cho tới cuộc khởi nghĩa của Lý Bôn vào năm 544. Đã thấy Nam nhi xuất hiện !!!

(3,4,5) Lý Bôn người Thái Bình, mồ côi cha mẹ lúc lên 7 tuổi, ở nhờ nhà chú. Sau được Thiền sư chùa Linh Bảo đem về nuôi. Lớn lên kháng chiến giành độc lập, đặt tên nước Vạn Xuân, xây kinh đô tại Sông Tô Lịch (Hà Nội), lên ngôi hoàng đế, mở ra Nhà Tiền Lý khá dài (544-602). Lập Chùa Trấn Quốc (Hồ Tây) để cầu nguyện gia hộ cho nước nhà.


(6,7) Triệu Quang Phục người Hải Hưng, là danh tướng của Vua Lý Nam Đế, đóng quân tại chiến lũy Dạ Trạch, lên ngôi tức Triệu Việt Vương, còn gọi là Dạ Trạch Vương, đến năm 571 thì mất.


(8) Lý Phật Tử tiếp ngôi Triệu Việt Vương, tức Hậu Lý Nam Đế, kéo dài đến năm 602, thì lệ thuộc Nhà Tùy. Lúc bấy giờ, nhà Tùy lớn mạnh, tóm thâu các nước nhỏ, dẹp yên Nam Bắc triều, thống nhất Trung Hoa.

(9) Nhà Tùy chuyển sang Đường, học kinh nghiệm các triều đại trước. Nước ta không những bị xâm thuộc Nhà Đường, mà càng thêm khốn khổ bội phần. Năm 671, Vua Cao Tông nhà Đường đặt tên nước ta là An Nam đô hộ phủ.

(10,11) Dương Quí Phi một ái khanh kiều diễm của thời nhà Đường. Xem những diễn xuất, sách vở, ai không khen là một tuyệt thế giai nhân. Nhưng cũng chính vì Bà, nước ta vì trái lệ chi, mà khổ, mà đày, mà nhục, mà chết.

(12) Đã từng gian khổ trước đó, nên Mai Thúc Loan, tự luyện võ-văn, thúc giục nhân tâm, chờ ngày phục hận, và mùa vải năm 722, thời cơ chín mùi, cùng đoàn dân phu tải vải, một người vì vải bể đầu, một ông gìa sắp bị chẻ đôi, Thúc Loan vùng lên, đánh tan quân áp tải, chiếm cả Tống Bình, đuổi quân Đường về nước, lên ngôi Hoàng Đế. Đặt tên nước Vạn An, xây Vạn An
thành, nhưng rất tiếc, Nhà Đường đang hồi cực thịnh, đem quân báo thù, Thúc Loan phải bỏ thân trong rừng, nước ta mất thêm một cơ hội khôi phục.

_____________________________

Cuộc Khởi Nghĩa của
BỐ CÁI ĐẠI VƯƠNG

(Từ câu 125 đến câu 140)


********

Non sông là sự nghiệp chung

Dấy lên ngọn đuốc Phùng Hưng – Ba Vì

Hai mươi năm, trí dũng phi

128. Khi đánh khi thủ có khi vây thành

Tướng Đường sợ thấu mật xanh

Một tuần bủn rủn phải đành trút hơi (1)

Tướng còn kinh đảm rụng rời

132. Quân quỳ lập cập, van lơi xin hàng

Muôn tâu Bố Cái Đại Vương (2)

Một thời ngang dọc tỏ tường hồn ai

Mai sau con nước còn dài

136. Bạch Đằng linh hiển oai tài giúp Ngô (3)

Mang thân đem vá cơ đồ

Suối vàng đoái tưởng đội mồ báo tin

Chín năm công đức vang rền

140. Đại Vương Bố Cái thênh thênh đất trời.
_________________________

(1,2) Phùng Hưng 20 năm kháng chiến, trận quyết định tại Tống Bình – Hà Nội năm 791, quân Đường thúc thủ, tướng Đường là Cao Chính Bình run sợ mà chết, quân giặc đầu hàng. Phùng Hưng được tôn là Bố Cái Đại Vương. Ở
ngôi và truyền cho con là Phùng An kéo dài 9 năm, thì bị chiếm năm 802.

(3) Tương truyền trận Bạch Đằng, Phùng Hưng hiển linh để giúp Ngô Quyền, làm cho quân Nam Hán khiếp vía, bị chết chìm và tan rã nhanh chóng.
________________________________

Cuộc Khởi Nghĩa của
Họ KHÚC và Họ DƯƠNG

(Từ câu 141 đến câu 158)

********

Chưa tàn giọt lệ đầy vơi

Máu xương chồng chất tiếp đời mai sau

Khúc Thừa Dụ, chẳng bao lâu

144. Người Hải Hưng, hận mối sầu điêu linh (1)

Chiêu quân mãi tướng xuất chinh

Quan quân đô hộ, Tống Bình tan hoang

Đường dài mới biết ngựa boong

148. Chiến bào mấy lớp, sắc mòn xông pha

Khúc Hạo, Khúc Mỹ một nhà

Chín lẻ sáu, chín hăm ba – một thời (2)

Một thời máu lệ đầy vơi

152. Một thời trong cả suốt thời Bắc xâm

Xương chồng, máu đổ từng năm

Từng năm xương máu, tơ tằm lột da

Dương Đình Nghệ, thuộc tướng nhà

156. Khởi thân Thanh Hóa, Đại La công đồn (3)

Kiều Công Tiễn, dạ sói chồn

Cướp ngôi giết chủ, cúi lòn ra chi (4)

***

(1,2) Họ Khúc dấy nghiệp giành nền tự chủ nước ta kéo dài 17 năm (906-923). Lúc bấy giờ, Trung Hoa là thời ngũ đại tranh quyền. Năm 923, Quân Nam Hán xâm chiếm nước ta, bắt gia đình họ Khúc hãm hại.

(3,4) Dương Đình Nghệ là tùy tướng của Khúc Hạo tiếp tục sự nghiệp, đánh thắng ngoại xâm năm 931, độc lập 6 năm thì bị nha tướng là tên Tiễn hãm hại soán đoạt. Quân Giao Châu quyết trừ thì Công Tiễn thần phục Trung Hoa.

_____________________________

NGÔ QUYỀN
CHIẾN THẮNG BẠCH ĐẰNG
Chấm dứt Ngàn Năm Bắc thuộc

(Từ câu 159 đến câu 188)

********

Trời sanh cũng đất Ba Vì

160. Ngô Quyền lẫm liệt nam nhi oai hùng

Dọc ngang chinh chiến vẫy vùng

Hoàng Thao – Nam Hán ùn ùn kéo sang

Bạch Đằng giang, Bạch Đằng giang

164. Ngàn năm Bắc thuộc âm vang chốn này (1)

Bạch Đằng giang, khói lửa bay

Ba phương bốn hướng ra tay diệt thù

Quân mai phục hiện lù lù

168. Giữa dòng sông, cọc nhọn, vù sáng choang

Chiến thuyền xuyên thủng ngửa nghiêng

Bắc quân ngã gục lòng sông nghẽn dòng

Vua Nam Hán, bật khóc ròng (2)

172. Bạch Đằng dậy sóng rửa lòng thiên thu (3)

Hồn tử sĩ gió vi vu

Vọng vang vang vọng, mịt mù nỉ non

Bạch Đằng đưa nước về non

176. Dân Nam ca khúc khải hoàn thái lai.

Ngàn năm thống trị lâu dài

Kinh bao kháng chiến đến nay mới là

Giành độc lập, thiết triều ca

180. Dựng xây, khai phóng nước nhà Việt Nam

Bạch Đằng giang, Bạch Đằng giang

Bạch Đằng sử tích ngàn năm vẫn còn

Ngô Vương truyền lại cháu con

184. Ba đời non trẻ, nước non cấu thành

Non như vận nước mới toanh

Mới như con nước đầu ngành trên non

Em ơi, xin mở triện son

188. Khắc ghi dấu ấn huy hoàng Việt Nam (4)

*****

(1,2,3) Đây là trận chiến sau cùng vào năm 939, kết thúc chuỗi dài 1050 năm Bắc thuộc, dù trước đó có đôi lần giành độc lập thành công nhưng chẳng bao lâu lại bị thống trị, và sau này, cái mộng xâm lăng vẫn còn, nhiều phen xua
quân toan tính, kể cả vào cuối thế kỷ 20, nhưng có lẽ, người Trung Hoa, đã đến lúc không khóc ròng như triều thần Nam Hán, thì cũng ê ẩm trước sức quật khởi quật cường bất khuất của người VN, đành phải giảng hòa, cầu hòa, bang giao ngang hàng, và nể mặt VN, như sử sách và thời đại chứng minh.

(4) Ngô Quyền giành độc lập tự chủ hoàn toàn cho nước ta vào năm 939 và truyền nhau ba đời, kéo dài 26 năm (939-965).

________________________________

Triều Đại NHÀ ĐINH
Từ năm 968 đến năm 980
(từ câu 189 đến câu 214)


********

Lau chùi bóng dáng ngoại xâm

Ruột gan phơi núi tơ tằm phơi non

Nhưng rồi lồi lõm cục hòn

192. Cục hòn danh lợi bào mòn núi sông

Mười hai cái loạn sứ quân

Loạn danh loạn lợi, quân dân cấu nhàu (1)

Tí hon Bộ Lĩnh cờ lau

196. Hoa Lư tập trận, chăn trâu anh tài

Một là một, hai là hai

Tướng danh, danh tướng mấy ai sánh bằng

Mười hai bộ sứ như măng

200. Dễ hơn tre chẻ, mà băng lên đài

Đinh Tiên Hoàng Đế lên ngôi

Nước Đại Cồ Việt cho dài tâm can

Hoa Lư thiết trí đăng đàn

204. Quân dân tướng sĩ bá quan vui mừng (2)

Cờ lau Bộ Lĩnh anh hùng

Chưa dày triều chính nên chung khóc thầm

Em ơi, nên nhớ lỗi lầm

208. Khinh trưởng trọng ấu nên cầm lưỡi dao (3)

Đỗ Thích đêm lẻn vào trào

Chưa an giấc điệp máu đào tuôn rơi (4)

Cờ lau Bộ Lĩnh, em ơi !

212. Nhà Đinh kế nghiệp nửa đời không xong

Cha thì hàm én mày rồng

214. Con vừa sáu tuổi mà trông được gì (5)

*****

(1) Tục ngữ có câu “thừa nước đục thả câu”, có lẽ lúc nào cũng có, thời nào cũng có. Hễ tham vọng ít thì gây đau khổ ít, tham vọng nhiều thì gây đau khổ nhiều. Bất luận là thành phần nào, giỏi hay dở, có học hay thất học. Cái loạn 12 Sứ
Quân này, và biết bao nhiêu giai đoạn khác nữa trong lịch sử, thật đúng nghĩa với câu tục ngữ này. Nói câu này, ai cũng nói được, nhưng tránh được, phàm là người dễ được mấy ai ? Cái loạn 12 Sứ Quân này kéo dài 3 năm thì mới yên được.

(2) Đinh Bộ Lĩnh, người đất Hoa Lư, Ninh Bình. Còn gọi là Anh Hùng Tí Hon. Dẹp loạn 12 sứ quân, lên ngôi Hoàng Đế, đóng đô tại Hoa Lư, quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Nhà Đinh không tới 2 đời, kéo dài được 12 năm (968-980)

(3) Tiên Hoàng bỏ trưởng lập ấu. Người anh giận, bèn giết em. Xin mở dấu ngoặt nơi đây, cái chữ ruột thịt, dòng họ, có lẽ chỉ đẹp lúc cơ hàn, nhưng khi giàu sang, quyền thế, lợi danh, đã diễn ra thế nào, lịch sử nước mắt quá nhiều.
Riêng chính mỗi chúng ta, đã đang sẽ sống ra sao, tự suy tự nghĩ !!!

(4) Một nha lại, một thuộc hạ, vì sao phản trắc ? Xưa nay đâu phải chỉ có một mình Đỗ Thích ??? Lịch sử phê phán, hậu thế chê cười là một chuyện, nhưng những tang thương, đổ nát, ai đền bù, ai trả được ?

(5) Sau khi cha con Đinh Tiên Hoàng, Đinh Liễn bị Đỗ Thích ám hại, thì Đinh Toàn lên ngôi năm 980 mới 6 tuổi, tại vị được 8 tháng thì sự nghiệp Nhà Đinh chuyển sang Nhà Lê cũng cùng vào năm này. Vì vậy, Đinh Toàn còn gọi là Đinh Phế Đế.

_____________________________

NHÀ TIỀN LÊ (980 - 1009)
(Từ câu 215 đến câu 254)


***


Xin ngâm một bản trường thi

216. Ngày thì trổi nhạc đêm thì hát ca

Dương Vân Nga, Dương Vân Nga

Được như Thái Hậu quê nhà mấy ai ?

Biết việc lớn, trọng người tài

220. Việc nhà việc nước phân hai rõ ràng (1)

Ai mà chí cả đã mang

Nam hùng, nữ kiệt, định, ban, cả rồi

Tệ là cái nạn của tôi

224. Của tôi, mà phải da mồi tóc phơ

Của tôi, mà phải xác xơ

Vân Nga Thái Hậu tôn thờ chẳng phai

Lê Hoàn đáng bậc anh tài

228. Chuyển trao sự nghiệp nắng mai chan hòa

Đinh – Lê như một vườn hoa (2)

Vườn hoa hai sắc chan hòa cả hai

Nực cười Nhà Tống chạy dài

232. Hai đường thủy – bộ dép giày xốc mang

Một Bạch Đằng, một Chi Lăng

Vua Tống hống hách phải lăn phục tài (3)

Mở trang oanh liệt ngày mai

236. Đại Hành rực rỡ lên đài vinh quang (4)

Ai hay danh nghĩa Lê Hoàn

Tình riêng khen trách bồ hòn đắng cay

Cho dù là đúng là sai ?

240. Thời gian có khóc sắc tài phấn hương

Đại Hành đã vẹn đường đường

Vân Nga lại vẹn tình thương cùng chồng (5)

Tiếc là tiếc những người con

244. Tranh giành cấu xé có còn chi đâu

Tệ hơn bãi biển nương dâu

Bạc hơn sóng vỗ trên đầu trùng dương (6)

Lê Long Đĩnh, thật chán chường

248. Ô danh bốn chữ “đế vương ngọa triều”

Lật qua trang sử tiêu điều

Nhắc gì không nhắc, nhắc nhiều vô luân (7)

Biết bao cái quí để tuân

252. Có đông thu hạ thì xuân mới toàn

Có chì thiếc, có vàng son

Tiểu nhân quân tử đều trong cuộc đời (8)

**************

(1,2) Thái Hậu Dương Vân Nga, giữ kỷ cương thay con, tức Đinh Phế Đế mới 6 tuổi, lên nhiếp chánh. Vì nước không vì nhà, không vì chồng, không vì con. Và việc nước biết đặt trên việc nhà, không lấy cái chung làm cái riêng, không lấy cái riêng làm cái chung, tận trao sự nghiệp nước nhà lại cho thập đạo tướng quân Lê Hoàn, để mở ra Nhà Tiền Lê (980-1009). Dùng chữ Tiền Lê ở đây, để phân biệt với Triều Lê Lợi tức Hậu Lê sau này. Đinh Phế Đế vẫn giữ một vị trí trong triều Lê suốt 20 năm. Làm người mà có được cái nhìn, và ứng xử như Thái Hậu đâu phải dễ. Thật đáng tôn thờ !

(3) Năm 980, Nhà Tống xuất đại quân hai đường thủy bộ xâm lăng nước ta. Không ngờ một Bạch Đằng lại tái diễn, thêm một Chi Lăng trên bộ kinh hoàng. Bạch Đằng, Chi Lăng đã nhận chìm và chôn quân nhà Tống.

Và, VN đâu muốn là nơi đón nhận người phương Bắc đến để bị chôn vùi. Nhưng rất tiếc cả quá khứ, cả đường dài về sau, vẫn còn tái diễn. Họ quên mất câu :

Tiếc thay Phương Bắc dễ ngươi.
Nước Nam định sẵn cho người Phương Nam.

(4) Lê Hoàn lên ngôi tức Vua Lê Đại Hành, tạo sự nghiệp Nhà Lê được 29 năm. Đại Hành Hoàng Đế và nước ta lại thêm một lần làm cho Trung Hoa thời Nhà Tống phải ngã gục, tháo chạy về nước.

(5) Thái Hậu Vân Nga sau này lại là Hoàng Hậu của Đại Hành. Đại Hành lại là tướng quân của Bộ Lĩnh. Hoàng Đế Cờ Lau lúc sinh thời thì vợ là Vân Nga. Có trớ trêu không ? Có oan nghiệt không ? Nếu không có Vân Nga, chưa chắc có nhà Lê, nếu không có Lê, Đinh hẳn đã yên, nước hẳn đã còn ? Hơn nữa, Đinh Bộ Lĩnh đã ra người thiên cổ rồi, thì chuyện kia mới có đến sau này !!!

(6) Lại cảnh 4 anh em ruột chém giết nhau vì lợi danh quyền lực ! Tưởng sao, cuối cùng, người còn sống sót lên làm đế vương lại là Long Đĩnh. Hèn chi họ đã chém giết với nhau, tranh giành với nhau để trở thành hôn quân bạo chúa !
Chúng ta đừng vội trách quá nặng, hãy nhìn lại chính chúng ta đi ! Nhớ ngẫm :

“Gót danh lợi bùn pha sắc xám.
Mặt phong trần nắng nám mùi dâu,. . .“ ???


(7,8) Nếu không có Hạ, Thu, Đông thì làm sao có Xuân ? Ngược lại, nếu không có đá, sắt, chì thì làm sao biết được kim ngân, ngọc thạch ? Nhưng, nếu có đáng tiếc chăng, là tiếc một người ngồi trên ngôi tột đỉnh, mà lại có một cuộc sống, hành vi, bản chất không bằng một người hạ tiện trong bàng dân thiên hạ.
________________________________

Triều Đại NHÀ LÝ
Từ năm 1010 đến năm 1225
(Từ câu 255 đến câu 288)

*****


Bước sang Triều Lý rạng ngời

256. Nước non Đại Việt tuyệt vời thanh cao (1)

Tối tăm đã hiện nắng đào

Vươn từ bùn đất mới chào ánh dương

Nếu không những trải phong sương

260. Nối từng viên gạch thành đường thênh thang

Cũng đừng chỉ biết vẻ vang

Mà quên sỉ nhục, phũ phàng, đắng cay

Kết tinh lâu tháng lâu ngày

264. Ngày qua tô thắm, ngày nay huy hoàng (2)

Rồng vàng xuất hiện Thăng Long (3)

Pháp cương, đức trị, nức lòng ngợi ca (4)

Mở mang, kiến thiết nước nhà

268. Tiếng thơm vang dội thật là rạng danh

Lý Triều trung liệt hùng anh

Trong ngoài thịnh vượng an lành bốn phương

Nhớ Công Uẩn, nghĩ mà thương !

272. Nhớ Vạn Hạnh, thắp nén hương, để thờ !

Nhớ Thường Kiệt, vịnh vầng thơ

Vầng thơ bất tuyệt dưới cờ Việt Nam (5)

Xưa bất khuất, nay quyết tâm

276. Biển khơi phải dội trời xanh phải chùn

Sá gì lũ kiến chồn ong (6)

Việt Nam đâu phải dễ tròng lắm sao (7)

Em thương một mảnh má đào

280. Chiêu Hoàng phận đã trọn trao cho chồng

Dù không tát cạn biển đông

Của em không một của chồng không hai

Giang sơn một gánh còn dài

284. Tình sông nghĩa biển nào phai sắc màu

Lý – Trần cắt rốn chôn nhau

Vương dây vướng nhợ một bầu bí ơi

Nặng nợ nước, nặng nợ đời

288. Cả hai mà vẹn hết lời ngợi khen. (8)

************

(1,2,3,4) Sang Triều Lý (1010-1225), đổi tên nước Đại Việt. Đại La đổi thành Thăng Long, truyền nhau được 9 đời thái bình thịnh trị, kéo dài 215 năm. Ở đây, nên suy, Triều Ngô-Đinh-Lê ngắn ngủi, tao loạn là lẽ đương nhiên vì là cái cây mới vươn lên từ sóng gió, còn Triều Lý, và Trần sau này được như thế là hoa trái tự thành.

* Lý Công Uẩn, người làng Cổ Pháp, Hà Bắc, mất cha từ trong bụng mẹ, vừa ra đời mẹ cũng không còn. Sống, lớn lên nhờ tương chao nuôi dưỡng của Chùa Tiên Sơn, với sự dìu dắt, nương tựa đức độ của Thiền sư Vạn Hạnh. Đây là triều đại dài nhất trong lịch sử các triều đại VN, nếu không tính thời Hồng Bàng và triều đại Hùng
Vương.
Xin thương kính một em bé mồ côi trở thành bậc Minh Quân, và xin thắp một nén hương hướng về Vạn Hạnh !!!

(5,6,7) Bốn câu thơ để đời của danh tướng Lý Thường Kiệt, :
“Nam quốc sơn hà Nam Đế cư . . .” như câu sấm, từ nay VN là của người VN. Dù có trải những oan nghiệt đã đang sẽ ra sao, nhưng VN vẫn mãi mãi là của người VN !

(8) Công chúa Chiêu Thánh lên ngôi tức Lý Chiêu Hoàng năm 1225, và nhường ngôi cho chồng tức Trần Cảnh lập nên nhà Trần. Lý-Trần vẫn yên thắm, sơn hà xã tắc vẫn thái bình kéo dài thêm 175 năm vàng son. Ắt hẳn đó là ân của
Nhà Lý và đức của Nhà Trần !

________________________________

Triều Đại NHÀ TRẦN
Từ năm 1225 đến năm 1400
(Từ câu 289 đến câu 330)


*******


289. Đẹp thay triều đại Lý – Trần

Non xanh nước biếc xanh ngần nước non

Ngược dòng lịch sử không hơn

292. Xuôi dòng ai bảo đẹp hơn Lý – Trần (1)

Đẹp hơn diễm ảo cẩm vân

Tinh hơn nét ngọc đã lần minh châu

Trăm năm bia đá cần cầu

296. Ngàn năm sử sách tô màu sắc son

Đã vừa Thái, Thánh, Nhân Tôn,... (2)

Lại thêm Hưng Đạo Đại Vương phi thường

Quốc Toản, Bình Trọng nhớ thương

300. Quang Khải, Nhật Duật,..tấm gương để đời

Bao nhiêu tinh túy rạng ngời

Bao nhiêu kiệt xuất cũng thời này đây

Lan từ góc biển chân mây

304. Sáng soi kim cổ đông tây khen thầm (3)

Em đi dưới ánh trăng rằm

Ngàn sao lấp lánh xa xăm gợn lòng

Ơn tổ quốc, nợ tang bồng

308. Muôn người như một Diên Hồng đưa tay (4)

Trời phải chuyển, đất phải xoay

Việt Nam sừng sững, đừng bày dễ ngươi

Nguyên-Mông Âu – Á không người (5)

312. Tiến vào Đại Việt tơi bời tan hoang

Ba lần máu đỏ còn loang

Ba lần xương trắng chồng hòn núi cao (6)

Nguyên–Mông vung vãi chiến bào

316. Ngựa tung té ngã, dẫm gào thoát thân

Gan đã nát, rủn tay chân

Van lơn qui phục triều thần Việt Nam (7)

Đường đi gác lại tơ tằm

320. Đường về để lại hoa vàng thế thân

Em thương công chúa Huyền Trân

Hai châu Ô – Lý phương gần phương xa

Đền ơn nước, báo ơn cha

324. Sắc hương ngà ngọc gởi ra núi rừng

Huyền Trân, giọt lệ rưng rưng

Ra về sao nỡ ngập ngừng phút giây

Ô hay ! Một nỗi niềm tây ?

328. Ô hay ! Chớ trách dạ này lâng lâng ? (8)

Thôi, không nói nữa Lý - Trần

330. Bốn trăm năm chỉ mấy vầng được ru !!! (9)

***********

(1,2,3) Hai triều đại Lý – Trần từ 1010 đến 1400, kéo dài 390 năm huy hoàng nhất, rạng rỡ nhất, thái bình thịnh trị nhất trong dòng lịch sử VN. Có thể nói, những nhân vật tài ba xuất chúng cũng đều xuất hiện trong thời này, để cấu thành một VN 4 thế kỷ văn võ toàn tài, vua dân toàn thiện, và mở ra trang sử dài toàn mỹ toàn chơn. Có lẽ 1000 năm Bắc thuộc đã tôi luyện nhuần nhuyễn, chín mùi, và 70 năm của ba triều Ngô-Đinh-Lê đã sàn sảy gạn lọc, quá dài, quá nhiều và quá đủ để hoàn thành một vườn hoa kỳ diễm cho Dân Tộc Việt Nam.

(4) Hội nghị Diên Hồng đã có tại VN vào thời kỳ này. Phải chăng, cha ông ta đã bằng trí tuệ, con người và tình tự dân tộc, thể hiện ý thức dân chủ trước nhân loại đến nhiều thế kỷ ?

(5,6,7) Sử sách để lại cho biết nước Trung Hoa thời Mông Cổ đã tung gót vó chiến chinh đởm lược khắp Á, Âu, đánh đâu thắng đó, nhưng ba lần tấn công xâm lược đều ba lần đại bại tại VN. Vậy mà, vẫn chưa đủ là bài học cho nước này !

(8) Thời Nhà Trần, nước ta thái bình, cực thịnh. Trong thì an cư lạc nghiệp, xây dựng quốc gia, tài bồi văn hóa, hòa hóa tam giáo đồng nguyên, thắm tô đạo đức. Ngoài thì bang giao tương nhượng bình đẳng, nhưng nếu cần, cũng không ngại thể hiện sức mãnh liệt bất khuất oai hùng biến thành trời long đất lở để dẹp tan quân xâm lược bạo tàn. Như Nguyên Mông ba lần đã chứng minh.

* Tuy nhiên, nhà Trần cũng nêu cao đức hiếu sinh, biết thương nước nhỏ và yếu hơn mình, giao hảo hiền hòa, mà câu chuyện Huyền Trân công chúa là một cách ứng xử. Đứng bên ngoài, có thể có khen chê, nhưng chúng ta không phải là Nhân Tôn ! Dù ai dù oán, nhưng chúng ta không là Huyền Trân công chúa !

Riêng tôi, thầm nhớ câu ca dao thuở nào :

“Tiếc thay Cây Quế giữa rừng,
Để cho “dây” mán “rễ” mường nó leo”

(9) 400 năm Lý – Trần vàng son, bao nhiêu sử sách mà còn thiếu còn thừa, huống chi chỉ mấy vầng thơ giản lược để đề cập cả chiều dài lịch sử huy hoàng !
_______________________________

NHÀ HỒ và HẬU TRẦN
Từ năm 1400 đến năm 1413
(Từ câu 331 đến câu 346)


*****


331. Em về thăm nước Đại Ngu

Đại Việt sao lại Đại Ngu là gì ?

Hồ Quý Ly, lỡ một khi

334. Tài không đúng chỗ trách gì tiếng tăm

Vào đầu thế kỷ mười lăm

Ép Trần kế vị lập nên Nhà Hồ (1)

Bảy năm thương ghét Nhà Hồ

338. Hai điều đáng nhớ để nhờ nghe em !

Mở ra tiền giấy đầu tiên

Lại còn đúc súng thần công trước Tàu (2)

Tài mà không lượng trước sau

342. Nhân tâm bất phục biển sầu đeo mang

Hậu Trần vá víu chóng tàn

Hết thời thịnh lạc hạ màn phải xong

Tình xưa vương nhợ đèo bồng

346. Cho tròn danh nghĩa chớ mong chi nào ! (3)

*****

(1,2) Hồ Quý Ly, người Thanh Hóa, ép Vua Trần lên ngôi năm 1400, đổi tên nước Đại Ngu, dời đô vào Thanh Hóa, sau này còn gọi Tây Đô. Có tài nhưng thiếu thiên thời, nhân hòa. Một khi đã mất lòng dân thì không chóng thì chầy sẽ chuốc họa vào thân, và 3 cha con, vừa đỡ đòn bên trong, vừa chống trả bên ngoài, sau cùng bị bắt và bỏ thân bên Tàu. Cờ trong tay chỉ vung được 7 năm.

(3) Con cháu Hậu Trần xuất hiện và chống đỡ 6 năm, nhưng cuộc cờ lẫm liệt và giai đoạn vàng son đã đến hồi kết thúc, đành nhảy xuống sông tự tử. Hành động này cũng là khí phách Nhà Trần, thật đáng khen ! Nhà Trần trước sau làm Vua được 14 đời.

_______________________________

LAM SƠN LÊ LỢI
Và Triều Đại LÊ SƠ (1428-1527)
(Từ câu 347 đến câu 382)


*****


347. Lên non mới biết non cao

Xuống biển mới biết biển khơi điệp trùng

Đường xa mới biết anh hùng

350. Ngựa hay mới biết dặm trường chưa xa

Em về thưa với mẹ cha

Đang cơn nguy biến nước nhà thuộc Minh (1)

Mười năm kháng chiến Quân Minh

354. Lam Sơn - Áo Vải xuất chinh diệt thù (2)

Bình Ngô Đại Cáo thiên thu (3)

Mười năm sương khói mịt mù khói sương

Làng quê, rừng núi, phố phường

358. Ùn ùn trai tráng lên đường tòng chinh

Chưa quên quốc nhục ngàn năm

Lại mang chính khí Lý-Trần-Đinh-Lê

Anh hùng tên Lợi họ Lê

362. Công, thương, nông, sĩ dưới cờ phạt Minh

Thương người đấu cật thay lưng

Lê Lai cứu Chúa, Lê Vương mới còn (4)

Mở ra thêm một dấu son

366. Một hai rõ nét nào ân nào thù

Thù khi ngất ngưởng gật gù

Thất tha thất thểu, ta vù mở ân

Vừa thương vừa tiếc tiễn chân

370. Họ thương họ phục lòng nhân của mình (5)

Ô kìa cành trúc xinh xinh

Trúc xinh đâu có trau mình phấn son

Tây Hồ, em gái chiếu gon

374. Chiếu gon ba mảnh, có còn không em ?

Tơ lòng kiếp trước chưa quên

Kiếp này em trả, lại thêm ba đời

Hồn em còn đó tăm hơi

378. Có ai thương tiếc đôi lời “chiếu gon”

Chiếu gon dù hết hay còn

Còn không một mảnh chiếu gon Tây Hồ ?

Trăm năm hết vận Nhà Lê

382. Nhưng em muôn thuở,
câu thề chiếu gon ! (6)

***************

(1) Khi nước ta lâm biến thì Trung Hoa xuất hiện. Và nên nhớ họ lúc nào cũng lâm le nuốt trửng VN. Khi cường thịnh thì ra bộ bang giao, khi suy vi thì không ngại xâm thực, mà lòng dạ của họ đã đầy ắp tham vọng cống cao là “thiên tử” là “Trung Quốc, có nghĩa nước lớn ở giữa”.

(2,3) Thời Nhà Trần, có Trần Hưng Đạo với Hịch Tướng Sĩ. Thời Nhà Lê, có Nguyễn Trãi với Bình Ngô Đại Cáo. Hưng Đạo giúp nhà Trần ba lần đại thắng Mông Cổ thì Nguyễn Trãi một lần giúp Lê Lợi chiến thắng quân Minh. Đó cũng là lẽ tự
nhiên mà thôi. Và Lê Lợi mở ra triều Lê Sơ 100 năm, trải qua 10 đời.

(4,5) Nhớ Lê Lợi, lại nhớ Lê Lai. Và VN ta vốn đã có nhiều Lê Lai từ xưa tới nay để bừng sáng lên ai là vương mệnh, tướng mệnh để cầm cân nẩy mực. Xin mở một dấu ngoặc ở đây, 10 năm bị đàn áp tàn bạo, nhưng khi quân Minh thất trận
qui phục, nước ta rơi lệ tiễn chân, còn cung cấp cả phương tiện nữa. Phải chăng nhờ ân đức cao dày mà tổ tiên ta đã đi trước thiên hạ nhiều thế kỷ về chính sách tù binh hàng binh !

(6) Câu chuyện Thị Lộ “chiếu gon” và danh thần quân sư Nguyễn Trãi bị ba đời tru di tam tộc, dù là lệnh nước và thân phận làm tôi, nhưng chúng ta vẫn cảm nhớ, thương tiếc cho Nguyễn Trãi và khóc thương cho cô gái Tây Hồ !!!


(Xin xem tiếp phần 2)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 26.06.2010 02:01:51 bởi Viet duong nhan >

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Việt Nam Thi Sử Hùng Ca * Phần 2 và hết- Mặc Giang - 26.06.2010 01:55:34
VIỆT NAM Thi Sử Hùng Ca * Phần 2 và hết

NAM – BẮC TRIỀU
TRỊNH – NGUYỄN Phân Tranh
Kéo dài từ 1527 đến Tây Sơn 1788
(Từ câu 383 đến câu 426)

********

383. Khổ đau đeo mãi đèo bồng

Tang thương đeo mãi nỗi lòng héo hon

Em về nghe tiếng nỉ non

386. Em đi nghe tiếng bồ hòn đắng cay

Gần ba thế kỷ úa gầy

Sông Gianh gãy nhịp, đọa đày Bắc – Nam

Vì đâu ập phủ màu tang ?

390. Vì đâu khổ ải miên man vô cùng

Mở đầu Nhà Mạc Đăng Dung

Sáu mươi năm lẻ, trong chùn ngoài xiêu (1)

Năm mươi năm, Nam – Bắc triều

394. Nam–Lê, Bắc–Mạc tiêu điều núi sông (2)

Hậu Lê rối tựa tơ bòng

Biến thành Trịnh-Nguyễn, Đàng Trong-Đàng Ngoài (3)

Nồi da xáo thịt tơi bời

398. Hai trăm năm nữa rụng rời thịt da

Hai bên Trịnh – Nguyễn một nhà (4)

Vì say quyền lực mà ra thế này

Quay lưng chặt đứt chân tay

402. Bằm tan thân thể tháng ngày chưa nguôi

Bằm nhừ, bằm tới, bằm lui

Bằm lên bằm xuống bằm nhùi tan hoang

Máu đâu còn nữa để loang ???

406. Thịt đâu còn nữa để còn mai sau !!!

Thân đi không có mái đầu

Tay chân không có xỏ xâu đem về

Đem về mà đắp bờ đê

410. Đắp sông đắp núi ê chề nghe em ! (5)

Tìm trong le lói sao đêm

Tối tăm mới biết, hết thèm canh thâu

Tìm trong bãi biển nương dâu !

414. Bước chân đã mỏi, cuối đầu Cà Mau (6)

Thương Chiêm Thành cuốn bờ lau

Thương Chân Lạp, nước chìm sâu dưới cầu

Qua cầu dừng bước bên cầu

418. Nước lung linh mãi chân cầu dặm soi (7)

Còn kia, hai ánh sao rơi

Một Lê Chiêu Thống rước voi về nhà

Chạy sang tận Pháp, Xiêm La

422. Thêm một Chúa Nguyễn bôn ba cậy nhờ (8)

Tan đi cho hết vật vờ !

Cuốn đi cho tận cuối bờ trầm kha !

Còn chăng là những mồ ma ???

426. Gần ba thế kỷ, quốc đà kêu sương !!! (9)

********
(1) Mạc Đăng Dung người Hải Dương tiếp nối Lê Sơ nhưng cơ nghiệp không thành, cho đất nước biến thành Nam – Bắc triều tang tóc hơn 50 năm. Từ Hậu Lê sản sanh Trịnh – Nguyễn Phân Tranh kéo dài cả 200 năm, lấy Sông Gianh chia đôi và từ đó, cảnh nồi da xáo thịt cay nghiệt nhất, tang thương nhất, dai dẳng nhất trong lịch sử 5000 năm của Dân Tộc.

(2,3) Dù Nhà Mạc, rồi Vua Lê Chúa Trịnh Đàng Ngoài có làm được gì ? Nam triều rồi Chúa Nguyễn Đàng Trong có làm được gì ? Những thành công đó có đủ để trả lại 261 năm xương máu của dân tộc, và hàn gắn 261 năm dày nát non sông ???

(4) Khởi đầu giúp Nhà Hậu Lê, vì không thần phục Nhà Mạc, là cha vợ con rể Nguyễn Kim – Trịnh Kiểm. Từ giúp Vua giúp nước biến thành cha con, anh em, rồi kéo theo cả dòng họ, cả dân tộc, cả đất nước lâm vào cảnh nồi da bại hoại 261 năm. Yêu nước ư ? Quyền lực ư ? Danh vọng ư ? Còn chúng ta, sống ra sao đối với gia đình ? Đối với quê hương ? Đối với đất nước ?

(5) Chiến tranh là như thế. Tàn cuộc là đầu rơi, tay chân đứt lìa, thân thể nát tan mà hốt, mà xâu từng bó đem về mà chôn tập thể, vì không thể nhận diện !!!

(6) Đứng về mặt mở mang đất nước, Việt Nam chúng ta đến thời này đã kéo dài từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau. Vì có lẽ hình thái quê hương đã ẩn trong chữ “S”, hai đầu bao la, chính giữa nhỏ lại, như Người Cha Việt Nam gánh cả giang sơn, như Người Mẹ Việt Nam gánh cả nước non, chứ đầu bên kia, nếu tiến xa hơn nữa về Phía Tây, hay xa hơn ra Phía Bắc, thì hình thể của nước Việt Nam đã khác !!!

(7) Trên quê hương Miền Trung VN còn nhiều ngọn Tháp điêu tàn, dù muốn dù không, nhất là đọc vài bài thơ của Chế Lan Viên, nghe vài tiếng hát của Chế Linh, hay nhìn một ít người đầu quấn khăn, thân quấn xà rông, về tính giang
sơn xin tạm gác lại, về tính tình tự, vẫn nghe một nỗi khắc khoải, u hoài !!!

(8) Lại thêm một vị Vua cầu cứu Bắc phương, bao bài học đã qua đâu cần nghĩ tới, Ông Vua này đã đưa đến một hậu quả, may nhờ có Quang Trung xuất hiện chứ không thì VN dễ gì thoát khỏi cái ách đã bị tròng lên ??? Nhưng rất tiếc, một cái ách xa hơn, lại từ Chúa Nguyễn mở đường cho họ xâm thực nước ta sau này !!!

(9) Nhớ lại Bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan. Ở đây, con quốc đã 261 năm trường có còn nước miếng để kêu, có còn hơi để lên tiếng nữa không ? Không biết con quốc của Bà Huyện là con quốc nào ???

****************

NGUYỄN TÂY SƠN 1778-1802
(Từ câu 427 đến câu 458)

********

An Khê, Bình Định quê hương

Đất cày sỏi đá, kim cương cũng cày

Nếu không sỏi đá xưa nay

430. Bao nhiêu thành quách ai bày đứng yên

Quang Trung Nguyễn Huệ lên yên

Ba quân tướng sĩ, khiếp liền chạy tan

Bắc bình Nam phạt chỉnh trang

434. Bình Vương Nguyễn Huệ sấm vang dậy trời

Xuất quân như chỗ không người

Nhà Thanh ngã gục tơi bời Đống Đa (1)

Tây Sơn quét sạch nước nhà

438. Bao nhiêu rác rưới tiêu ma cấp kỳ (2)

Nửa đường Lưỡng Quảng lượng suy (3)

Nửa đường thôi hết, lỡ thì Quang Trung

Quang Trung ơi ! hỡi Quang Trung !

442. Anh hùng hơn những anh hùng xưa nay

Một nhật lệnh, khói mù bay

Một bước chân, vạn dấu giày phải rung

Nhà Thanh cũng phải hãi hùng

446. Thỉnh ngai rước kiệu cùng chung giải hòa (4)

Một Hưng Đạo, thắm rừng hoa

Một Nguyễn Huệ, chớp sáng lòa đỉnh cao

Bước chân chưa vẹt chiến bào

450. Vầng trăng vụt tắt, ngàn sao chập chùng

Còn đâu nữa, hỡi Quang Trung !

Mới bốn mươi, đã mệnh chung xuất thần (5)

Em thương công chúa Ngọc Hân

454. Em thương Công chúa - Càn Long tuyệt trần (6)

Xót thay mờ khói Phú Xuân

Hương không chỗ tụ, chập chờn hồn ai ? (7)

Quang Trung ngủ dưới tuyền đài

458. Gia Long kế đó lên ngai Hàm Rồng (8)

*******

(1,3) 20 vạn quân Thanh ngã gục tại Đống Đa, tiếp tục truy quét, đang tiến tới một nửa Lưỡng Quảng thì tạm dừng chân. Nếu Quang Trung còn, chưa biết phía Bắc nước VN sẽ ở vị trí nào ?

(2) Nhà Nguyễn Tây Sơn kéo dài 24 năm, tuy có ba anh em Nhạc, Huệ, Lữ, nhưng nếu không có người ở giữa thì hai người kia chưa chắc làm nên chuyện lớn, mà lịch sử để lại đã đủ chứng minh.

(4,5,6) Thừa thắng Đống Đa năm 1788, đang tiến tới nửa hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, tạm cho nghỉ quân. Quang Trung Hoàng Đế lo chỉnh trang đất nước, về kinh đô Phú Xuân để vừa giữ Bắc phòng Nam. Vua Càn Long vừa muốn kết giao hai nước, vừa mến tài đảm lược nên đã bằng lòng gả một công chúa do Quang Trung chọn lựa, để tạo mối thâm tình, và giao Lưỡng Quảng cho Quang Trung cai quản. Chẳng may tuổi mới 40 đã băng hà, đất hai Quảng chỉ còn là câu chuyện. Và nếu Quang Trung còn thì VN sau đó chưa biết sẽ ra sao ?

(7) Ai có tưởng Quang Trung thì truy niệm, chứ nấm mộ còn đâu mà khói mà hương !!! Có trách là trách Nguyễn Ánh khi lên ngôi, vì mối thù bôn tẩu, đã quật mồ Quang Trung rồi ném xuống biển. Tấm lòng một vị vua mà như vậy, thật đáng tiếc !

(8) Quang Trung băng hà năm 1792, vậy mà mãi đến 10 năm sau, Chúa Nguyễn Ánh mới thống nhất được nước nhà vào năm 1802.

****************************

Triều NGUYỄN GIA LONG
Triều Đại Vua Chúa cuối cùng của Việt Nam
Từ năm 1802 đến năm 1945
(Từ câu 459 đến câu 506)

********

Lựa là núi núi sông sông

Lựa là phù ảnh tang bồng lung linh

Em về đất Huế thần kinh (1)

462. Thăm Triều Nguyễn, nước non mình nghe em

Bước đi từng bậc cung thềm

Nghe trong gió thoảng nghe mềm tâm tư

Cố đô trầm lặng bao chừ !

466. Vân Lâu, Núi Ngự, bóng đò Hương Giang

Lâu đài, cung điện huy hoàng

Dòng thời gian, đã phủ mòn gió sương

Trường Tiền gõ nhịp còn vương

470. Nào ai đưa đẩy nhớ thương một thời

Nhớ Hoàng Triều, khuất xa khơi ! (2)

Nhớ Thuận An, nước đầy vơi sóng dồn

Thời gian sỏi đá cũng mòn

474. Cuối cùng, Bảo Đại cựu hoàng theo mây

Mây mờ tận cuối trời Tây (3)

Còn Nghi - Tân nữa, lòng này xót xa (4)

Nam Kỳ lục tỉnh, em qua

478. Phan Thanh, Minh Giảng la đà nghe em ! (5)

Em thương tổ quốc Việt Nam (6)

Em thương quốc ngữ Việt Nam rõ ràng

Chỉ bao chữ, dấu gọn gàng

482. Học vần xuôi ngược lẹ làng là xong

Lại càng đa phú đa phong

Rồng bay phượng múa chỉ trong mấy vần

Thay cho chữ viết lần quần

492. Nào Nôm nào Hán dễ lầm lộn nhau

Học chữ trước, quên chữ sau

Nhớ sau quên trước mà đau cái đầu

Qua cầu, lại nói qua cầu

496. Cầu bao nhiêu nhịp, có cầu “nghĩa ân” ?

Là Việt Nam, đã có ân

Là chữ Việt, cũng có phần Nguyễn Gia (7).

Em thương nước em thương nhà

500 “Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương”

Kìa Từ Dũ ! Nọ Nam Phương ! (8)

Em mang tiếng khóc lên đường biết không ?

Nước ơi, cứ đổ về sông

504 Hoa ơi cứ cuốn theo dòng buông trôi

Vừa mang tiếng khóc chào đời

506. Đã mang tiếng nói con người Việt Nam !!!

********

(1,2) Vua Gia Long lên ngôi năm 1802, đặt quốc hiệu Việt Nam, kinh đô tại Huế, đây là triều đại Vua Chúa cuối cùng của nước VN, kéo dài đến năm 1945.

* Nhà Nguyễn gần gũi tới thời cận đại của đầu nửa thế kỷ 20, nhiều âm vang thời này vẫn còn. Hơn nữa, triều Nguyễn Gia Long còn để lại khá nhiều tàn tích cho VN, Huế cố đô còn đó, tên nước Việt Nam đang dùng, chữ nước Việt Nam đang gọi, làm sao không nhớ không thương và làm sao quên được !!!

(3,4) Bảo Đại, vị vua cuối cùng của VN mất tại Pháp mới đây, với 50 năm lưu vong. Chợt lại nhớ Vua Hàm Nghi, Duy Tân, vì yêu nước phải mất tận Phi Châu trong cuộc sống lưu đày. Để em có nghe “Con đường Duy Tân, cây mát bóng mát,...” ?

(5) Đi đường Phan Thanh Giản, Trương Minh Giảng tại Sài Gòn, hay trên những phố thị đó đây. Một vị là Trấn Tây thành tức Cam Bốt bây giờ, bị bịnh mất tại An Giang, một vị tuẫn tiết bỡi Nam Kỳ Lục Tỉnh thất thủ. Ai còn nhớ không ?

(6,7) Tên nước Việt Nam được đặt vào năm 1804, sau 2 năm Gia Long lên ngôi, và chữ Việt trở thành chữ quốc ngữ VN ngày nay, cho dù Bá Đa Lộc là vị khai tổ, nhưng cũng có phần của Triều Nguyễn vậy !

(8) Trước khi kết thúc Triều Nguyễn, xin nhắc lại :

a) Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cho câu sấm : “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” để báo trước dòng dõi Chúa Nguyễn về sau.

b) Chúa Nguyễn Hoàng nằm mơ có thấy một người đàn bà từ trên trời xuống báo mộng, nên xây một ngôi chùa tại địa điểm nầy thì tự thân mới an, cơ nghiệp mới thành. Nên ngôi chùa được trùng tu, sắc tứ, các Chúa Nguyễn và nhân gian có khi gọi là Linh Mụ, có khi là Thiên Mụ.

c) Bảo sanh viện Từ Dũ tại Sài Gòn được đặt tên Mẫu hậu của Vua Tự Đức và là Hoàng thái hậu Vua Hàm Nghi. Khi Hàm Nghi bị Pháp bắt mới 16 tuổi, đày sang Phi Châu, rồi chết tại đó sau này, thì Bà Từ Dũ đưa các cung phi, cung tần, mỹ nữ, đàn bà ốm yếu, trẻ thơ về Kinh chăm sóc. Có lẽ từ đó, để tưởng nhớ tới bà, xem như một người mẹ bảo bọc cho những đứa con thơ, mà Bảo sanh viện được chọn tên Từ Dũ, mang danh của Bà. Và tôi xin nhắc tới Bà Nam Phương, để nhớ tới một Hoàng hậu sau cùng của vua chúa Việt Nam.

*********************************

Một Cái Nhìn Về PHƯƠNG TÂY
(Từ câu 507 đến câu 570)

*******

Vàng xanh đỏ trắng lam lam

508. Còn đen còn xám biết kham sao này !

Cái thời xâm thực mới gay

Người Tây Phương, họ cố bày cuộc chơi

Họ dùng thủ thuật khơi khơi

512. Bán buôn, truyền giáo khắp nơi khắp vùng

Nơi nào đóng cửa quay lưng

Họ vung khí giới, đùng đùng dọa đe

Thực dân một lũ một bè

516. Bán dân, rao đạo cá mè giống nhau !

Thương nhân, Giáo sĩ một tàu

Tới đâu, không trước thì sau cũng vùi

Một khi họ đã tới lui

520. Thuộc địa, đô hộ cùng nhùi cả lên

Phân chia đi khắp lền khên

Năm châu bốn biển có quên chỗ nào

Thuộc địa, giáo địa cùng đào

524. Cùng xâm, cùng thực, cùng gào, cùng la (1)

Cùng vơ, cùng vét, cùng chà

Cùng moi, cùng móc, cùng tha về nhà

Đã năm thế kỷ trôi qua

528. Cuối đà xâm thực, vậy mà không yên

Châu Phi chết chóc triền miên

Trung Đông, Châu Á đảo điên rợn mình

Còn kia, Châu Mỹ – La Tinh

532. Châu Âu cũng thế, rung rinh từng vùng

Đã là Đạo ! Chẳng tương dung ?

Lại thêm chủng tộc, phát khùng lên không ?

Chiến tranh cứ thế ! Lên nòng

536. Oán thù cứ thế ! Móc tròng lên nhau

Còn thêm đen, đỏ, trắng, màu

Khinh khi, kỳ thị khổ đau dậy trời

Cũng chính họ cho ra đời

540. Tư bản – Cộng sản tơi bời dập nhau

Thế giới từ đó cuốn màu

Một màu Cộng Sản, một màu Tự Do

Lưng chừng, nhũn nhẵn, cân đo

544. Biến thành Trung Lập thập thò hai bên

Thế thời, thời thế tạo nên

Đường nào cũng lún, bấp bênh đường nào

Bước ra, chân đã vướng vào

548. Bước vào lại dính, chân nào bước ra ?

Gập ghềnh đày ải phong ba

Gần một thế kỷ đâu đà đã xong !

Đạn bom Hai Khối trời long

552. Đất còn lún lở, mà mong chi người

Khối Kia đâu có êm xuôi

Cũng đánh, cánh đấm, cũng bươi, cũng tầm

Ngắc ngư tận cuối đường hầm

556. Ba đường gặp lại, âm thầm nhắc thôi

Bày trò xâm thực : lỗi thời

Bày trò lưỡng cực : mà nhồi mà thưng

Bày trò giải thực : đọ chừng

560. Bày trò dân chủ, nhân quyền : đu dây

Nhìn xem thế giới hôm nay

Bao nhiêu cái thứ đã bày ra kia

Từng quốc gia, đã yên chưa ?

564. Khắp năm châu, đã đẩy đưa thế nào ?

Nước tiên tiến, khuấy lao chao

Nước chậm tiến, loạn cào cào khó khăn

Vì Trí – Đức thiếu cân bằng

568. Vì Mạnh – Yếu mà đẩy, đằng, thúc, thoi

Vì thế lực mà đãi bôi

570. Còn tình nhân loại, hạ hồi tính sau !!!

*********

(1) Các nước Tây Phương bắt đầu tìm thị trường buôn bán, người của họ vốn theo đạo Ki Tô, nên cũng theo bước chân đó lan đi. Hễ nơi nào dễ bị khuất phục bỡi hào quang vật chất, để họ mở thị trường và người của họ tự do vừa truyền giáo
vừa ban bố phần nào vật chất, thì nơi đó sẽ mang cái ách nhẹ hơn. Hễ nơi nào cứng rắn, cấm cản, thì họ gào, họ la và trước sau gì cũng có chuyện.

Xanh : Tư Bản ;
Đỏ : Cộng Sản ;
Đen : Quân Phiệt ;
Lam : nô lệ ;
Trắng : đầu hàng
Vàng : Trung Lập nửa mùa ;
Xám : Bản chất các thể chế.

* Bài này, sơ lược tính thực dân của những nước thực dân bắt đầu từ thế kỷ 15 trở đi cho tới hôm nay. Từ hình thái đó biến thành Thực dân, Tư Bản, Cộng Sản, Trung Lập, mà tất cả các quốc gia, tự cuốn vào không khối nầy thì khối kia, rồi chậm tiến, tiến bộ hay siêu cường. Lại rêu rao tự do, dân chủ, nhân quyền nhưng là những mỹ từ mà kẻ mạnh lúc nào cũng hơn. Vì vậy, thế giới chưa yên được, nhân loại chưa yên được. Đạn bom ba khối đã đổ ra, trời còn long, đất còn lở, huống chi con người.

Và tài nguyên để chạy đua vũ khí lo phòng, chống, đỡ, mà dừng lại được, để dùng vào mục tiêu nhân sinh, môi trường, . . . và hàn gắn lại những đổ vỡ thì cuộc sống con người sẽ an lành thay, trái đất sẽ an lành thay !!!

********************************

VIỆT NAM Trăm Năm Pháp Thuộc
(Từ câu 571 đến câu 616)

********

571. Em ơi, nói nữa chi đau

Về thăm lịch sử từ lâu quê nhà

Việt Nam những luống can qua

574. Địa dư không thể thoát ra cái vòng

Cái vòng truyền giáo cong cong

Cái vòng mua bán, lòng thòng thực dân

Đã từ thế kỷ mười lăm

578. Cả hai thứ ấy ăn nằm nước ta (1)

Khi nói gần, khi nói xa

Cái màn xâm thực hiện ra cả rồi

Đời Thiệu Trị, họ châm ngòi (2)

582. Đến đời Tự Đức, coi mòi không xong (3)

Hai lần đại bác đì đùng

Hai lần Đà Nẵng, lưng tròng đứng trông

Rồi thì Ba tỉnh Miền Đông

586. Miền Tây Ba tỉnh cũng vong theo ngày

Miền Nam tự trị từ đây (4)

Miền Bắc thuộc địa, lan lây mấy hồi

Miền Trung bảo hộ, ôi thôi

590. Ba Miền nước Việt đến hồi tang thương

Xéo dày cho nát quê hương

Trăm năm Pháp thuộc, trăm đường âm u

Đường đi kháng chiến mịt mù

594. Đường vào thăm thẳm ngục tù mở ra

Đường thì đày ải châu sa

Đồn điền, phu tải, thịt da lưng còng

Hàm Nghi mang nỗi hờn vong (5)

598. Thanh Giảng tuẫn tiết trôi dòng vấn vương

Em thương Hoàng Diệu, Tri Phương (6)

Phận làm tướng, chỉ một đường tử sinh

Duy Tân biệt xứ một mình (7)

602. Huế Triều nuốt ngậm điêu linh âm thầm

Cả dân tộc, khối hờn căm

Cả quê hương, bóng ngoại xâm phủ mờ

Cần Vương lên ải mịt mờ (8)

606. Văn Thân gắng gượng xác xơ não nùng (9)

Đông Kinh Nghĩa Thục, điệp trùng (10)

Tiếng lòng cứu nước đều cùng đứng lên

Đường đi kháng chiến thênh thênh

610. Khi nào hết giặc, quê mình mới thôi

Hoàng Hoa Thám, tựa núi đồi (11)

Nguyễn Trung Trực, mượn con mồi hiếu ân (12)

Em thương Thái Học vong thân

614. Còn quay nhìn, lưỡi dao đâm vào người

Trước khi chết, ngạo nghễ cười

Hôm nay ta chết, mai người Pháp tây (13)

Tù đày, xử tử, phanh thây

618. Biết bao liệt sĩ tháng ngày âm vang

Em thương Cô Bắc, Cô Giang (14)

Tuổi còn xuân, gãy nửa đàng, em ơi !

Bắc – Giang, về với chơi vơi

622. Em theo Trưng-Triệu, muôn đời nhớ thương

Em đi khắp phố khắp phường

Từng đốt xương, nối con đường quê hương (15)

Ba Kỳ, hai chữ đoạn trường

626. Một Kỳ đã khổ, còn vương Ba Kỳ (16)

Bắc Nam Trung đẹp thế ni !

Đừng kêu đừng gọi Ba Kỳ nữa nghe !

Võng đưa kẽo kẹt trưa hè

630. Em ơi, có cảm tiếng ve kêu sầu

Sầu ai réo tận canh thâu !

632. Khóc ai réo tận tinh cầu lan xa !!!

*********

(1) Những doanh nhân và những nhà truyền giáo các nước Pháp, Bồ, Hòa Lan đã có mặt tại VN rất sớm, từ những thế kỷ 15 trở đi rồi.

(2,3) Nói nặng với kẻ mạnh đã mệt, mà máu của kẻ mạnh đã đổ ra, thiếu tinh tế, bén nhạy để nhìn tình hình, cái trục quay đang chuyển, nghiền những sức cản yếu đuối, lại còn hà khắc, bảo thủ, thì đương nhiên phải có chuyện. Và năm 1847 đời Thiệu Trị, năm 1857 đời Tự Đức, 2 lần súng nổ là 2 lần báo hiệu với khoảng cách 10 năm, cho biết đất nước ta đã được chấm điểm và chấm tọa độ rồi. Vậy mà để đến nhất quá tam là xong !!!

(4) Sau tiếng súng lần thứ 2 bắn vào cửa biển Đà Nẵng mà triều thần Tự Đức chưa bừng tỉnh. Hai năm sau 1859, Pháp chính thức tấn công xâm chiếm Vũng Tàu, Sài Gòn. Năm 1861 chiếm Định Tường. Mất 3 tỉnh miền Đông : Gia Định, Biên Hòa, Định Tường. Năm 1882, mất tiếp 3 tỉnh miền Tây : An Giang, Hà Tiên, Vĩnh Long. Phan Thanh Giảng đã tuẫn tiết vì mất Nam Kỳ Lục Tỉnh.

(5) Năm 1883, Pháp tấn công Miền Bắc, tấn công Hà Nội, Nguyễn Tri Phương bị thương, không chịu băng bó, không chịu ăn uống rồi chết. Hoàng Diệu tiếp tục chống cự nhưng chẳng bao lâu Hà Nội bị thất thủ. Ông đã treo cổ tự tử.

(6) Hòa ước Patenôtre 1884, nước ta bị Pháp thuộc hoàn toàn : Miền Nam tự trị, Miền Bắc thuộc địa, Miền Trung bảo hộ. Vua Hàm Nghi và các trung thần lập kế hoạch chống Pháp. Phong trào Cần Vương nổi lên, Hàm Nghi là linh hồn của
phong trào này. Năm 1888, nhà vua bị bắt.
Khâm phục một vị Vua mới 16 tuổi đã nói : &quot;nước đã mất, nhà đã tan, thân tôi nào đáng gì, mấy ông làm gì thì làm&quot;. Vì không mua chuộc được, nên bị đày đi Algérie, thuộc địa của Pháp ở Phi Châu. Rồi chết tại đó.

(7,8,9) Vua Duy Tân, chưa đầy 16 tuổi đã nói : “Tay dơ lấy nước rửa, nước dơ lấy gì rửa ?”, lời nói của Nhà Vua có khác ! Ai mà không Cần Vương cho được ? Ai mà không Văn Thân cho được ? Vua bị bắt năm 1916, mới 16 tuổi, nhốt 10 ngày tại đồn Mang Cá, rồi đày đi Phi Châu, chết tại xứ người.

* Hai nhà vua Hàm Nghi, Duy Tân còn như thế, thành ra bao nhà cách mạng không lên đường sao được, dù bị tử trận, tù đày, xử tử, cũng chỉ vì nước vì dân.

(10) Đông Kinh Nghĩa Thục được khai sinh năm 1904 bỡi nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu, và kẻ đồng sàng Phan Chu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền...

(11) Hoàng Hoa Thám, con hùm xám Yên Thế, khét tiếng những vùng đồi núi Bắc Việt với 26 năm trường dai dẳng đấu tranh, chết năm 1913.

(12) Khét tiếng Miền Nam có Nguyễn Trung Trực “Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa. Kiếm bạt Kiên Giang khắp quỉ thần”, Pháp phải dùng quỉ kế “bắt mẹ làm mồi&quot;, và Ông bị bắt, bị tử hình năm 1868.

(13) Nguyễn Thái Học, một sinh viên, 25 tuổi đã là lãnh tụ Quốc Dân Đảng, bị bắt cùng 12 chí sĩ bước lên đoạn đầu đài Yên Bái năm 1930, Thái Học vừa tròn 28 tuổi.

(14) Tức Nguyễn Thị Bắc, Nguyễn Thị Giang, hai chị em ruột, sinh tại Bắc Giang, nên cha mẹ đặt tên cô chị là Bắc, cô em là Giang. Phong trào Yên Bái thất bại, cô Bắc bị giam, tự tử trong tù trước khi đưa ra hành quyết. Cô Giang, một nữ đảng viên, hôn thê của Thái Học, cô chưa bị bắt, tính phá pháp trường, nhưng không được, cô
nhìn tận mắt 13 anh hùng Yên Bái lên đoạn đầu đài, rồi cô tìm về Vĩnh Yên, quê quán cố nhân, thắp một nén hương truy niệm, và kết liễu đời mình, được 22 tuổi.

(15) Từng con đường thành phố của quê hương, nào Hùng Vương, Thái Tổ, Hưng Đạo, Quang Trung, Nào Trưng Vương, Bà Triệu, Cô Bắc, Cô Giang, . . . Anh có nghe ? Chị có nghe ? Em có nghe ? Tôi có nghe và ai có nghe ???

(16) Danh từ Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ là hình ảnh đau thương 100 Pháp thuộc, cái từ để phân chia, phân hóa, ngăn cách, và có thể hàm ý ai oán, hận thù. Đúng ra, nó đã bị tự diệt theo Pháp từ ngày biến khỏi VN, ta không nên dùng và không nên để nó tồn tạị. Bắc Nam Trung là địa dư, chứ đã là người VN thì đâu nên ám thị quá nặng người Bắc Kỳ, người Trung Kỳ, người Nam Kỳ cho Mẹ Việt Nam đau khổ !!!

*************************

Năm Năm Người NHẬT Xuất Hiện
Và Chín Năm Người PHÁP Quay Lại
(Từ câu 633 đến câu 666)

********

Nhìn thêm chút nữa chưa qua

634. Chiến tranh thế giới xảy ra hai thời (1)

Năm châu bốn biển nơi nơi

Đạn bay bom xéo tơi bời muôn phương

Nhìn về thân phận quê hương

636. Việt Nam đâu có thoát đường tóc tang

Nực cười đất nước Phù Tang (2)

Tròng hia bảy dặm, vượt ngàn biển khơi

Năm năm kế sách động trời

642. Thực dân, quân phiệt, ai người ách tai (3)

Ất Dậu chết đói, chết dài

Chết la, chết liệt đến hai triệu người (4)

Việt Nam vựa lúa xinh tươi

646. Lúa đâu biến mất, khóc cười với ai ?

Văn minh, tiến bộ khôi hài

Lòng lang, dạ thú phơi bày thối tha

Chiến tranh đệ nhị hết đà

650. Nhật mang cờ trắng về nhà đóng khung

Tưởng rằng xâm thực cáo chung

Bàn tay lông lá chập chùng phủ lên

Mượn giải giới để trùm mền

654. Phân chia thế giới trùm lền khắp nơi (5)

Việt Nam mình đó em ơi !

Chín năm Pháp nữa, tơi bời không thôi

Tiếng kháng chiến, vọng nức đồi

658. Tiếng hồn đau, vọng xa xôi đáy mồ

Thương anh lính chiến xương khô

Thương em thiếu phụ khăn sô quấn đầu

Thương Mẹ Quê, khóc ưu sầu

662. Thương em bé nhỏ dãi dầu không cha

Chín năm một mảnh quê nhà

Trăm năm Pháp thuộc cũng là thuộc Tây

Năm Mươi Tư, cuốn trời mây (6)

666. Việt Nam sao nữa, em nầy, biết không ?

***************

(1) Thế giới chiến tranh đệ I : 1914-1918 ; Đệ II : 1939-1945 cùng thế kỷ 20.

(2) Khối trục Đức, Ý, Nhật chủ động và phát khởi chiến tranh thế giới đệ nhị. Nhật Bản chiếm toàn bộ Đông Dương, trong đó có Việt Nam từ năm 1940 đến năm 1945, thay thế Pháp. Khi đồng minh thắng Trục thì Nhật đầu hàng vô đìều kiện, quân Nhật đóng tại nước ta phải rút về.

(3,4) Pháp, Nhật cùng cai trị VN và năm Ất Dậu 1945, gạo thóc biến mất, 2 triệu người Việt Nam phải chết đói, không căm thù nhưng ta không quên : Một Ba Lê, thủ đô ánh sáng, và một Đông Kinh, Thái dương Thần Nữ !!!

(5) Đệ II thế chiến kết thúc, những nước gọi là đồng minh đứng trong thế lưỡng cực tự họ khoanh vùng, phân chia, chấm điểm cài răng lược khắp các quốc gia, mà những nước nhỏ, tự bị cuốn theo, và bị trùm lên cái mền được phủ sẵn. Mọi đỡ, chống là chỉ để co để duỗi sao cho khỏi bị nắng táp ba đào, phải thế không ???

(6) Năm 1954, cái mền của Pháp đã hết hiệu nghiệm trên quê hương Việt Nam. Những 90 năm rồi 9 năm quay lại nữa. Đã trùm đã phủ rồi.
Trăm năm đô hộ còn gì ? Trăm năm đô hộ còn chi ?

***************************

Một Mốc THỜI GIAN
(Từ câu 667 đến câu 694)

********

Xuân chưa hết, đã vào đông

Oi nồng mùa hạ đã lồng thu phong

Nhìn trông ngọn lá thu phong

670. Lá thu tàn tạ theo dòng thời gian

Nhìn trông ngọn lá thu vàng

Lá vàng rơi rụng bẽ bàng bờ cây

Nhìn trông ngọn gió heo may

674. Trời vừa hanh nắng chưa ngày lại đêm

Năm Tư chia cách Hai Miền

Tình Nam nghĩa Bắc nỗi niềm chưa xong ?

Kìa Bến Hải, chỉ một dòng

678. Sao phân Nam–Bắc để thòng tang thương

Hăm mốt năm, rẽ hai đường

Hai đường làm ngập máu xương dân mình

Mịt mù khói lửa chiến chinh

682. Nát thân con Việt, nát mình núi sông

Nát cả ruộng, nát cả đồng

Nát phường, nát phố, nát chồng lên cao

Một tấc đất, đẫm máu đào

686. Lượm từ tấc đất, đất cào thịt da

Là xương là thịt ông cha

Là con là cháu một nhà, khác chi ?

Em ơi ! Sao nặng bờ mi ?

690. Chảy ròng lên má, nước gì hở em !!!

Ru em nước mắt ngủ êm

Còn non còn nước thì em vẫn còn

Bảy Lăm, một dấu chấm thêm

694. Cùng bao dấu chấm trên thềm quê hương

*************

EM TÔI, CÒN ĐÓ QUÊ HƯƠNG
Lịch Sử Nối Dài
(Từ câu 695 đến câu 722)

**********

695. Em đi, lòng những vấn vương

Em về, lòng những nhớ thương muôn đời

Em đi, mang nặng xa khơi

698. Em về, mang nặng đầy vơi bên dòng

Em đi, lòng nhớ dặn lòng

Em về, đếm lại chờ mong đợi chờ

Non ơi ! Đứng đó ! Bao giờ !

702. Nước ơi ! Đứng đó ! Bên bờ lên non !

Trăm năm, núi cũng núi non

Ngàn năm, nước cũng nước non bên bờ

Em đi, trong mộng trong mơ

706. Năm ngàn năm, đã đợi chờ thật lâu !

Dòng lịch sử, bãi nương dâu

Nhục vinh, vinh nhục ngập đầu núi sông

Một nét nhục, cũng phải lồng

710. Một nét vinh, cũng phải trông, mới là !

Nước là nước, nhà là nhà

Nhà là của nước, nước là của sông

Em ơi, con Lạc cháu Hồng

714. Em ơi, dòng dõi con Rồng cháu Tiên

Quê hương còn đó, Ba Miền

Việt Nam còn đó, núi liền với sông

Trường Sơn có thấu Biển Đông !

718. Thái Bình có thấu Sông Hồng, Cửu Long !

Đồng Nai đứng đợi cuối dòng

Nước bao nhiêu nữa, cũng nguồn mà ra

VIỆT NAM, non nước một nhà

722. NĂM NGÀN NĂM nữa cũng là VIỆT NAM !!!

*********

Việt Nam Thi Sử Hùng Ca, Phần 1 và Phần 2,
của tác giả Mặc Giang
Đưa lên Lương Sơn Thi Đàn
Hoàn tất ngày 08 tháng 8 năm 2005

macgiang@y7mail.com
>> Trang Mặc Giang


R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.06.2010 17:39:55 bởi Viet duong nhan >

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Mở Trang Hiếu Hạnh (tt) - Mặc Giang - 04.07.2010 20:12:44


Mở Trang Hiếu Hạnh (tt)

21. Nở Đóa Từ Thân
22. Công đức Phụ thân
23. Hoa Hồng dâng Mẹ
24. Thắm tô Tình Mẹ
25. Công đức Song Đường
26. Hiếu Hạnh đền ơn

Nở Đóa Từ Thân

Người đời hát tiếng Mẹ Cha
Ta đưa Cha Mẹ vào nhà Như Lai
Người đời sắc thắm hoa cài
Ta đưa Cha Mẹ lên đài sen thơm
Người đời hầu hạ áo cơm
Ta đưa Cha Mẹ thoát vòng trầm luân
Người đời sớm tối ân cần
Ta đưa Cha Mẹ dự phần Thánh nhan
Mai sau sẵn có sen vàng
Hôm nay thấm nhuận chứa chan cam lồ
Công Cha đức Mẹ tôn thờ
Con hiền cháu thảo ươm mơ vẹn tình
Không tranh thua thiệt lợi mình
Lời qua tiếng lại lao linh Tông Đường
Không màng nặng nhẹ tầm thường
Bào mòn nghĩa cử tình thương nhiệm mầu
Khắc ghi nhớ mãi trong đầu
Xuôi thuyền mát mái một tàu Mẹ Cha
Anh em con cháu gần xa
Ở đâu đi nữa một nhà mà thôi
Nhờ Cha, ta mới nên người
Nhờ Mẹ, ta biết nụ cười yêu thương
Nhờ Cha, thõa chí cương thường
Nhờ Mẹ, tắm gội sắc hương trong đời
Càn khôn nở đóa tinh khôi
Ngàn năm sừng sững đất trời Mẹ Cha.

Tháng 6 – 2010
TNT Mặc Giang

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Mở Trang Hiếu Hạnh (tt) - Mặc Giang - 04.07.2010 20:14:48
Công đức Phụ Thân

Công Cha núi Thái thua xa
Trường Sơn mờ khói quan hà xanh xanh
Khi nghe công đức Sinh Thành
Hòn chồng đá tảng loanh quanh thẹn thùng
Ơn Cha một tiếng vô cùng
Vô thỉ kính cẩn vô chung nghiêng mình
Gom ngàn vạn thể trung trinh
Vẽ chưa đủ nét bóng hình của Cha
Gom ngàn vạn thể thiên hà
Cũng chưa thể sánh đậm đà Từ Nghiêm
Con đom đóm nhỏ đêm đen
Vẽ tình Phụ Tử khép thềm hư vô
Dế mèn lưu ký tàn khô
Vẽ tình Phụ Tử xô bờ rêu xanh
Mồ hoang cây cỏ ngậm vành
Đất kia thấu ruột trời xanh nhũng lòng
Ơn Cha, huyết thống tồn vong
Cội nguồn chuyển mạch nối dòng thiên thu
Ơn Cha, một tiếng Nghiêm Từ
Chất đầy vũ trụ còn dư Nghiêm Đường
Ơn Cha, hằng hữu phi thường
Băng qua bóng dáng vô thường còn nguyên
Cõi nào là cõi thiêng liêng
Gắn trên chót đỉnh hậu – tiền Ơn Cha.

Tháng 6 – 2010
TNT Mặc Giang

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Mở Trang Hiếu Hạnh (tt) - Mặc Giang - 04.07.2010 20:16:58
 
Hoa Hồng dâng Mẹ

Hoa hồng một đóa xinh xinh
Gắn trên vành áo thắm tình mẫu thân
Còn Mẹ diễm phúc tuyệt trần
Một lòng hiếu thảo ân cần mến yêu
Hoa hồng một đóa nâng niu
Bước đi trỗi nhịp cầu kiều Mẹ thương
Mẹ hiền ngát tỏa mùi hương
Ươm tình dịu ngọt trên đường trần gian
Còn Mẹ hơn cả bạc vàng
Hơn muôn phú quý hơn ngàn minh châu
Mẹ là hằng hữu nhiệm mầu
Cháu con tận hưởng sắc màu yêu thương
Mẹ là vạn lý thiên hương
Trời cao biển rộng vấn vương nghĩa tình
Hoa hồng một đóa xinh xinh
Em còn có mẹ bên mình nghe em
Thắp nhang khấn nguyện hàng đêm
Đừng ai ập phủ bóng thềm hoang vu
Chập chờn vần vũ mây mù
Đừng ai mở cửa thiên thu vạn sầu
Dòng sông Ái Tử bên cầu
Vô thường im sóng chìm sâu xa bờ
Hoa hồng dâng Mẹ ươm mơ…

Tháng 6 – 2010
TNT Mặc Giang

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Mở Trang Hiếu Hạnh (tt) - Mặc Giang - 04.07.2010 20:18:52
 
Thắm tô Tình Mẹ

Hỡi Mẹ Hiền ơi Mẹ ở đâu
Con đi tìm Mẹ khắp tinh cầu
Chân trời góc biển, nhìn hoang đảo
Núi cả lưng đèo, ngóng hố sâu

Con đi tìm Mẹ đếm tình thương
Đom đóm dõi soi khắp nẻo đường
Thắp sáng mập mờ chìm bóng tối
Đêm dài tĩnh mịch phủ mùi sương

Mẹ Hiền ơi hỡi ở nơi nào
Vạn hữu im re chẳng xuyến xao
Vũ trụ lặng thinh không tiếng động
Phương trời mờ mịt gởi ngàn sao

Chừng như có một cõi đi về
Lặn lội đi tìm đã mỏi mê
Đi khắp mồ hoang cùng nghĩa địa
Lối mòn phơi dốc đá nhiêu khê

Bóng hình của Mẹ hiện đâu đây
Đưa mắt nhìn con không chớp lay
Hun hút thiên thu chừ bỏ ngõ
Hư vô nắm lại chẳng đong đầy

Tôi vẫn ươm mơ bóng Mẹ hiền
Tinh cầu có một cõi thiêng liêng
Tôi xin tô thắm tình thương Mẹ
Trụ vũ muôn đời đẹp vĩnh nhiên.

Tháng 6 – 2010
TNT Mặc Giang

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Mở Trang Hiếu Hạnh (tt) - Mặc Giang - 04.07.2010 20:20:38
 
Công đức Song Đường

Nói về công đức của Song Đường
Biển rộng trời cao không thể lường
Núi thẳm sông sâu không thể sánh
Không gì bù đắp nổi tình thương

Lòng Mẹ bao la phủ đất trời
Thái Bình biển sóng vỗ đầy vơi
Tin yêu sức sống bình minh gội
Con thảo cháu hiền hưởng thế thôi

Ơn Cha cao cả nặng ngàn cân
Núi Thái thấm đâu đừng lựa lần
Vũ trụ càn khôn còn nể mặt
Không Cha, mưa gió đổ phong trần

Hai Đấng Song Đường tuyệt sắt son
Cho ta thân thể có tâm hồn
Có lòng chan chứa ươm tình tự
Ái Tử là gì hỡi cháu con

Công đức Song Đường tuyệt thế thay
Ơn Cha một tiếng phủ trời mây
Một lời Nghĩa Mẹ tràn chung thủy
Nhắc nhở ngàn sau, không đổi thay.

Tháng 6 – 2010
TNT Mặc Giang
 

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Mở Trang Hiếu Hạnh (tt) - Mặc Giang - 04.07.2010 20:22:14
 
Hiếu Hạnh đền Ơn

Công đức Mẹ Cha thật nhiệm mầu
Không gì so sánh nổi cho đâu
Lời ca tiếng hát còn trầm bỗng
Chữ nghĩa văn chương chẳng hết câu

Sân khấu muôn phương kéo, mở màn
Núi rừng thư viện của trần gian
Không sao diễn hết Tình Cha Mẹ
Công đức sinh thành mãi vọng vang

Nhắc nhau muôn một nghĩa thù ân
Máu chảy về tim xin dự phần
Châu thể vo tròn nhìn gốc cội
Song đường nghiêm tỏa đức từ thân

Con thảo cháu hiền hãy nhớ này
Đây là phương cách của xưa nay
Lắng nghe cho kỹ và gìn giữ
Tam thế ba đời không đổi thay

Đáp đền chỉ có Hội Vu Lan
Chư Phật Mười Phương đồng hỷ hoan
Tứ Chúng một lòng quy thiết lễ
Mỗi Mùa Báo Hiếu tạ thù ân

Chuông chùa thánh thoát vọng ngân vang
Ngưỡng cửa thiền môn của Đạo Vàng
Sống chết đôi bờ nghe sóng vỗ
Nhiệm mầu thù thắng Hội Vu Lan

Cửa ngục trùng trùng sẽ mở toang
Thiên Đường rợp Ánh Đạo huy hoàng
Sinh linh vạn loại đều nương bóng
Thoát khỏi Tam Đồ, đáo Lạc Bang

Khá khen nhân thế nhớ Thù Ân
Công đức Mẹ Cha đừng lựa lần
Khắc cốt ghi tâm và bái tạ
Đáp đền ơn trọng nặng ngàn cân

Ông Cha nhờ đó được siêu thăng
Còn Mẹ an khương chốn diễm hằng
Tất cả hàm linh đều giải cứu
Mỗi Mùa Hiếu Hạnh, Hội Vu Lan.

Tháng 6 – 2010
TNT Mặc Giang

>> Trang Nhà Mặc Giang
______________
:: Phủi Bụi Trừ Dơ ::



 

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
12 bài, dành cho Chư Tôn Đức Tăng Ni - TNT Mặc Giang - 06.09.2010 06:15:49
12 bài, dành cho Chư Tôn Đức Tăng Ni - TNT Mặc Giang
    01. Xin cảm Ơn Thầy
    02. Kính mừng Thầy
    03. Công đức Tôn Sư
    04. Hành trạng Ơn Thầy
    05. Trọn nghĩa Ơn Thầy
    06. Hạnh nguyện đăng trình
    07. Đền Ơn Thầy Tổ
    08. Xin Thầy quay lại
    09. Bài ca Diệu Hữu
    10. Hạnh nguyện cưu mang
    11. Hát Chứng đạo ca
    12. Lời cầu nguyện

Xin cảm Ơn Thầy

Thầy mang hạnh nguyện Pháp vương
Chúng sanh dìu dắt thoát đường trầm luân
Đọa đày từ độ phong trần
Xát xây từ thuở phù vân nắng chiều
Thầy mang hạnh nguyện Cha Lành
Ba đường sáu nẻo chúng sanh đều nhờ
Xa rời bến mộng sông mê
Quay đầu bỉ ngạn cùng về Nhà Xưa
“Thầy là con thuyền thanh lương”
Đức từ cam lộ cành dương
Dịu xoa khổ đau trầm thống
Xóa tan bóng tối cùng đường
Thầy là hiện Phật Pháp Thân
Pháp từ, pháp nhủ, pháp ân
Chúng con lên đường Tứ Thánh
Tiến tu đạo nghiệp chuyên cần
Chúng con xin cảm ơn Thầy
Lời vàng thước ngọc mảy may không sờn
Luyện tô bồi đắp sắt son
Lìa xa đường dữ lối mòn tử sinh
Chúng con xin cảm ơn Thầy
Không còn lầm lạc từ nay trở về
Linh Sơn chờ đón Long Hoa
Liên trì Hải Hội kết tòa Sen thơm
Sen vàng sen trắng sen xanh
Đài sen thơm ngát để dành chúng con.

Tháng 9 – 2010
TNT Mặc Giang

Kính mừng Thầy

Mừng Thầy đến với chúng con
Cha Lành pháp nhủ từ ân
Bảo ban, khuyên răn, sách tấn
Chúng con gìn giữ chuyên cần

Mừng Thầy đến với chúng con
Đạo Vàng thêm những dấu son
Tiến tu trên đường giải thoát
Cứu nhân độ thế không sờn

Mừng Thầy đến với chúng con
“Nhứt Tăng đáo, nhứt Phật lai”
Một quay đầu là bỉ ngạn
Hào quang tỏa chiếu Liên đài

Mừng Thầy đến với chúng con
“Nhứt Tăng đáo, nhứt Phật lai”
Một quay đầu là quy nhất
Nhà xưa xa vắng lâu rồi

Chúng con xin cảm ơn Thầy
Đạo mầu giải thoát là đây
Không còn si mê lạc lối
Giã từ quá khứ tương lai

Chúng con xin cảm ơn Thầy
Lời vàng, thước ngọc hôm nay
Chúng con xin nguyền tinh tấn
Một đường kết tọa bảo Liên

Thành tâm kính chúc dâng Thầy
Thời thời, pháp nhủ từ ân
Đuốc tuệ, hàm linh phổ chiếu
Trượng thừa công đức bi lân

Thành tâm kính chúc dâng Thầy
Thường hằng, pháp thể khinh an
Thường chơn, chúng sanh dị độ
Ta Bà chuyển hóa, Lạc Bang.

Tháng 9 – 2010
TNT Mặc Giang

Công Đức Tôn Sư

Thầy là bậc Thượng sĩ xuất trần
Siêu phàm xuất chúng
Mỗi ứng xử thiên hà rúng động
Mỗi hành trạng trái đất nghiêng mình
Tứ chúng, môn đồ đến nhân loại chúng sinh
Đều bái phục, tôn vinh, kính ngưỡng
Thầy là bậc Danh Tăng lương đống
Đỡ ngôi nhà chánh pháp của Như Lai
Mỗi bước chân sen quý tỏa liên đài
Mỗi ngôn từ gầm vang sư tử hống
Trên, đất trời ngân vọng
Dưới, cơ cảm A Tỳ
Đạo vàng tỏa rạng từ bi
Tâm như vô trụ tư nghì độ sanh
Cây cao bóng cả vươn cành
Cam lồ ban đức reo nhành thùy dương
Thầy là bậc minh sư, tăng tướng đường đường
Bi trí lực xuất thần oai nghi tế hạnh
Nguyện độ lực tuyệt siêu, hành tung Tứ Thánh
Tam đồ quy phục
Bát nạn tiêu tan
Linh Sơn, thơm ngát Đạo Vàng
Tào Khê, Tổ ấn trùng quang pháp mầu
Trên tay bửu bối minh châu
Hóa Thành Bảo Sở bắc cầu lại qua
Thầy là bậc Thánh Tăng, chỉnh lý Phật Đà
Băng thời đại trần lao uế trược
Cây Hạnh, trồng thêm cây Phước
Cây Đức, trồng thêm cây Ân
Từ Bi trái ngọt tình thương
Bảo ban giáo dưỡng trên đường độ sanh
Vô tàm vô quý đeo cành
Tầng không mây trắng trời xanh vô cùng
Nay Ngài về với thường chơn
Không ai vẽ nổi chân dung của Người
Nhớ xưa, Ca Diếp hoa cười
Nay Ngài tròn chín vẹn mười năm xưa
Chúng con thương nhớ sao vừa
Chiếc xe chuyển hóa Ba Thừa còn đây
Thầy về, gió lặng im cây
Đất trời ngưng bặt nỗi nầy tình kia
Chúng con đếm giọt chia lìa
Linh Sơn trầm mặc Tào Khê đoạn đành
Thầy đi sương đọng nghiêng cành
Chúng con lượm hạt long lanh vương sầu
Tiễn Thầy, lệ đá sa châu
Nam Mô Phật Quốc, kinh cầu vọng vang
Tiễn Thầy, thượng phẩm Sen Vàng
Nam Mô Cực Lạc, gió ngàn bay bay
Tiễn Thầy, thương cảm run tay
Xin Thầy quay lại một ngày không xa
Hồi nhập tế độ Ta Bà
Chúng con chờ đợi trong nhà Như Lai
Thiền môn lối cỏ hoa cài
Thầy Trò bảo tọa phương đài thiên thư.

Tháng 9 – 2010
TNT Mặc Giang

Hành trạng Ơn Thầy

Thầy là Bắc Đẩu trên cao
Sáng soi đến cả ngàn sao
Xuyến xao ngân hà rung động
Môn sanh Tứ Chúng đi vào

Thầy là thạch trụ thiền môn
Trăm năm khó có người hơn
Ngàn năm khó tìm người sánh
Dấu son ửng nhất sắt son

Thầy mang hạnh nguyện Pháp vương
Đức từ lan tỏa bốn phương
Đức bi thấm nhuần tám hướng
Mở thông muôn vạn nẻo đường

Thầy mang dấu ảnh Cha Lành
Nguyện lớn cứu độ chúng sanh
Ân lớn thống nhiếp Tứ Chúng
Sắc không bắc nhịp vô sanh

Thầy là bốn biển hải đăng
Trên thờ Tam Bảo thượng hoằng
Dưới cứu Tam Đồ hạ tế
Cổ kim chuông lớn ngân vang

Chúng con tưởng nhớ ơn Thầy
Đáp đền muôn một mảy may
Dâng nén hương mờ châu nguyện
Sa sa nặng giọt đong đầy

Chúng con tưởng nhớ ơn Thầy
Lớp lớp hàng hàng chắp tay
Truy niệm tuyên xưng tán thán
Muôn thương ngàn kính tỏ bày

Chúng con quỳ dưới chân Thầy
Thánh nhan ngự trị đâu đây
Giác Linh nhiệm mầu minh chứng
Chúng con nhớ mãi Ơn Thầy.

Tháng 9 – 2010
TNT Mặc Giang

Trọn nghĩa Ơn Thầy

Chùa xưa quyền quyện khói trầm hương
Thầy ẩn tịch băng thuận thế thường
Đệ tử môn đồ nay vắng bóng
Nhớ ơn Thầy Tổ đọng ngân sương

Chuông chùa từng tiếng vọng ngân xa
Dưa muối tương chao thiếu mặn mà
Kinh kệ trầm trầm nghe đứt đoạn
Nhớ Thầy ươm giọt nhỏ châu pha

Thầy đi tịch lắng phủ sân chùa
Kéo nặng chân mây như đổ mưa
Trĩu ánh thái dương tà giọt nắng
Gió ngừng cây cỏ hết đong đưa

Bởi Thầy mang tất cả đi rồi
Để lại bi từ nghèn nghẹn thôi
Dẫu biết trần gian như trọ quán
Tránh sao lệ đá nhỏ đầy vơi

Ơn Thầy một kiếp đã cưu mang
Cửa Phật từ bi tỏa đạo vàng
Rũ áo Thầy về ngôi Thánh trụ
Chùa xưa mây trắng kéo lang thang

Di ảnh tôn thờ nguyện Giác Linh
Cao đăng Thánh quả vị vô sinh
Ta bà thương cảm châu toàn nguyện
Dìu dắt chúng con trọn nghĩa tình

Nhớ Thầy tay chắp búp sen đài
Sinh tử đôi đường đếm một hai
Cho đến hữu vô thôi gõ cửa
Sắc không ngưng đọng giọt sương mai.

Tháng 9 – 2010
TNT Mặc Giang

Hạnh nguyện đăng trình

Mượn thân tứ đại đăng trình
Minh châu ngời sáng minh tinh
Dõi soi ba đường sáu nẻo
Tầng không, nào vẽ bóng hình

Duy tuệ thị nghiệp là nhà
Theo chân Phật Tổ Thích Ca
Giác hạnh châu viên quả mãn
Thỏng buông Song Thọ Ta La

Hữu tình mới giác hữu tình
Vô tình đi hỏi vô minh
Hữu vô tùy duyên bất biến
Ưu Đàm mỉm nụ lặng thinh

Bồ đề vô thọ thường chơn
Viên dung đừng hỏi vòng tròn
Dấu chấm tương ưng tiếp nối
Đường xưa nào mất lối mòn

Thầy đi hoại sắc Ta Bà
Thầy về nhuận áo Cà Sa
Thắm tô con đường Tứ Thánh
Hoa mai trước cửa đêm qua

Thầy đi đất mới nở hoa
Thầy về sen quý kết tòa
Bồ đề ươm từ phiền não
Phật tâm phổ chiếu châu sa

Thầy đi mở cửa Từ Bi
Thầy về ân đức vô nghì
Đệ tử môn đồ pháp quyến
Nhìn nhau biết nói năng chi

Nghĩa tình sâu nặng ơn Thầy
Tâm hương thầm nguyện chắp tay
Thượng phẩm kết đài vô trụ
Ta Bà thương cảm hồi quy.

Tháng 9 – 2010
TNT Mặc Giang
 

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
12 bài, dành cho Chư Tôn Đức Tăng Ni - TNT Mặc Giang - 06.09.2010 06:16:53
 
Đền Ơn Thầy Tổ

Một đời, huệ mạng uyên thâm

Ân Sư Thầy Tổ đáp đền
Trên thời, thượng cầu Phật Đạo
Dưới thời, cửu hữu bi lân

Một đời, nhờ ơn giáo dưỡng
Muôn kiếp không thể nào quên
Trải qua muôn hình sắc tướng
Ba đường sáu nẻo chông chênh

Kiếp này hữu duyên cửa Phật
Bồ đề tâm nguyện vun trồng
Dắt nhau đi vào cửa hữu
Tột cùng trả lại cửa không

Còn chúng sanh, còn Bồ Tát hạnh
Hết chúng sanh, hạnh nguyện viên dung
Mỗi chúng sanh, đều có Phật tánh
Hình tướng dị, Phật tánh tương đồng

“Tam đồ bát nạn câu ly khổ”
Tứ sanh cửu hữu đáo huyền môn
Lậu thô vi tế lìa căn cội
Băng ngàn Hoa Tạng tỏa thường chơn

Một đời, duyên ngộ Phật ân
Muôn kiếp trôi nổi luân trầm
Không còn lầm đường lạc lối
Bọt bèo mây cỡi phù vân

Một đời, nên thân huệ mạng
Nhớ ơn giáo dưỡng đáp đền
Trên thời phụng thờ Tam Bảo
Dưới thời tế độ cưu mang.

Tháng 9 – 2010
TNT Mặc Giang

Xin Thầy quay lại

Thầy về diệu hữu chơn thường
Giã từ quán trọ trên đường phù sinh
Nhà xưa thăm lại quê mình
Bản lai diện mục bóng hình thiên thu
Thầy về tịch tịnh chân như
Giã từ nhiễm thể thật hư phiêu bồng
Băng qua ngưỡng cửa sắc không
Rạng soi dấu ấn điểm hồng tô son
Thầy về thăm lại Linh Sơn
Ngàn năm đậm nét lối mòn chưa pha
Cửa không, đâu chẳng là nhà
Cửa sắc, đâu chẳng Ta Bà trần lao
Giật mình chợt tỉnh chiêm bao
Ô hay nguyên vẹn cây đào trước sân
Vạn niên, mây trả phù vân
Thiên thu, tâm thể thường chân vô cùng
Chim bay, nào vẽ tầng không
Lưu chi dấu ảnh dòng sông lững lờ
Chúng sinh chìm mộng ru mơ
Xin Thầy quay lại phất cờ độ sanh
Chúng sinh chìm nổi loanh quanh
Xin Thầy quay lại vẫy cành thùy dương
Lục độ vạn hạnh lên đường
Du thuyền Bát Nhã thanh lương vô cùng.

Tháng 9 – 2010
TNT Mặc Giang

Bài ca Diệu Hữu

Cuộc đời như quán trọ
Thân giả huyễn phù sinh
Trên nhịp bước đăng trình
Băng qua từng cuộc lữ

Xuyên thiên hà vũ trụ
Đáo nhân thế trần gian
Rạng soi Ánh Đạo Vàng
Giữa muôn ngàn tăm tối

Hỡi chúng sinh ba cõi
Hỡi muôn loại sáu đường
Chìm biển khổ trầm luân
Quay đầu là bỉ ngạn

Đây, con đường giác ngộ
Đây, Ánh Đạo Từ Bi
Đừng mê ngủ làm gì
Trở về trong tỉnh thức

Hãy xa lìa đáy vực
Hãy dứt bỏ hố sâu
Nương đạo lý nhiệm mầu
Bước lên đài sen quý

Nhà xưa ngàn ý vị
Lối cũ vạn tin yêu
An tọa đỉnh nguyên siêu
Hát bài ca Diệu Hữu.

Tháng 9 – 2010
TNT Mặc Giang

Hạnh nguyện cưu mang

Thầy về Hoa Tạng Huyền Môn
Chúng con ở lại sóng cồn nghe đau
Biển khơi cần những con tàu
Cứu người thống khổ mau mau lên bờ
Thầy về thăm lại Nhà Xưa
Chúng con ở lại gió lùa đêm đông
Nhớ ơn Giáo dưỡng chạnh lòng
Một đời Huệ Mạng nặng oằn thâm ân
Thầy về rũ áo phong trần
Chúng con ở lại phù vân mưa ngàn
Dẫu rằng cát bụi mênh mang
Nhưng đời cần Ánh Đạo Vàng dõi soi
Hợp tan nay lở mai bồi
Nhân duyên bến mộng sông ngòi biển Đông
Tử sinh còn mất tuôn dòng
Nên người đại nguyện cạn lòng chưa thôi
Xin Thầy hồi nhập Ta Bà
Chiếc áo hoại sắc Cà Sa không sờn
Dù cho nước chảy đá mòn
Nhưng người tế độ sắt son tinh kỳ
Nhiệm mầu Ánh Đạo Từ Bi
Cưu mang muôn kiếp cũng vì độ sanh.

Tháng 9 – 2010
TNT Mặc Giang

Hát Chứng Đạo Ca

Mấy mươi năm mượn tấm thân giả huyễn
Hạnh cưu mang giong ruổi cõi diêm phù
Đức Phật ra đời chỉ một chữ NHƯ
Thầy xuất nhập cũng chỉ một chữ NHẤT

Nhất tột Thượng thừa, tam dung nhị đế
Như thị hoằng khai, diệu hữu chơn thường
Từng điểm son, tiếp nối những dấu son
Cho đạo lý từ bi thêm tỏ rạng

Cửu hữu đồng đăng Huyền môn Hoa Tạng
Chúng sanh đồng đẳng Phật Tánh không hai
Chủng loại dị biệt Nam Bắc Đông Tây
Linh Sơn tọa thị phương đài đâu khác

Vũ trụ càn khôn không đầy hạt cải
Thiên hà đại địa lọt bũm chân lông
Du thuyền Bát Nhã, ca hát Tánh Không
Bốn biển trầm luân, hồi đầu bỉ ngạn

Thầy nhập diệt trở về thăm Hoa Tạng
Căn nhà xưa an trụ đã lâu rồi
Nhưng chúng con vẫn thương tiếc Thầy ơi
Bởi Ta Bà, cần bàn tay hóa độ

Chúng sanh khổ, nguyện lên đường cứu khổ
Chúng sanh đau, nguyện xoa dịu thương đau
Hạnh độ tha, chưa xơ mạn con tàu
Thân cát bụi, không bào mòn tâm lực

Cho đến khi nào, chúng sanh quy NHẤT
Ba đường sáu nẻo, thông suốt chữ NHƯ
Liên đài bảo tọa, không thiếu không dư
Hát Chứng Đạo Ca, Tỳ Lô Tánh Hải.

Tháng 9 – 2010
TNT Mặc Giang

Lời Cầu Nguyện

Kính lạy Mười phương Phật
Kính lạy Mười phương Pháp
Kính lạy Mười phương Tăng
Xin từ mẫn chứng minh
Lời chúng con Cầu Nguyện
Nguyện thượng cầu Phật đạo
Nguyện hạ hóa chúng sanh
Tất cả sống an lành
Quay về đường Giác ngộ
Nguyện chúng sanh Ba cõi
Nguyện muôn loại Sáu đường
Hết thống khổ đau thương
Nhuận từ ân phổ chiếu
Kính lạy Mười phương Phật
Kính lạy Mười phương Pháp
Kính lạy Mười phương Tăng
Xin từ mẫn chứng minh
Lời chúng con Cầu Nguyện
Nguyện thế giới hòa bình
Nguyện chúng sanh an lạc
Mọi thời thời khắc khắc
Sống thân thiện thanh lương
Nguyện mưa thuận gió hòa
Nguyện bốn mùa đồng bạn
Không thiên tai hạn hán
Không tiếng khóc bi thương
Không ai oán nhiễu nhương
Không cừu thù oán hận
Không ngã nhân quanh quẩn
Không bỉ thử leo đài
Kính lạy Mười phương Phật
Pháp thân phổ châu sa
Cùng thế giới Ta Bà
Đều nhờ Ơn tế độ
Kính lạy Mười phương Pháp
Pháp bổn pháp vô sanh
Bồ đề bổn vô thọ
Mây trắng cỡi trời xanh
Kính lạy Mười phương Tăng
Đi trên đường giải thoát
Vào cửa vô không sắc
Vào cửa hữu không hình
Chim bay giữa tầng không
Ảnh hiện trong dòng nước
Khi lai không lưu tích
Khi khứ chẳng lưu hình
Kính lạy Mười phương Phật
Kính lạy Mười phương Pháp
Kính lạy Mười phương Tăng
Xin từ mẫn chứng minh
Lời chúng con Cầu Nguyện
Nguyện mười phương ba cõi
Nguyện sáu nẻo ba đường
Thuyền bát nhã thanh lương
Đưa người lên bờ giác
Biển trầm luân trôi giạt
Thống khổ đã lâu rồi
Đừng lần lữa lơi bơi
Quay đầu là bỉ ngạn
Ánh Đạo Vàng tỏa rạng
Khắp pháp giới hằng sa
Chúng sanh cõi Ta Bà
Đức Từ bi thấm nhuận
Nhà nhà đều ân hưởng
Người người được an vui
Hoa hàm tiếu mỉm cười
Nở trên cây giác ngộ
Không nơi nào còn khổ
Không nơi nào còn đau
Phật Pháp vốn nhiệm mầu
Tỏa đài sen bát ngát
Tây Phương Cực Lạc quốc
Ta Bà tịnh độ bang
Dưới ánh đạo huy hoàng
Dung thông vô lượng cõi
Vượt thiên hà vũ trụ
Vượt vô thỉ vô chung
Một chữ NHƯ vô cùng
Một chữ PHÁP vô tận
Chắp tay Dâng Cầu Nguyện
Lời Cầu Nguyện hôm nay
Kim cổ không đổi thay
Băng ngang dòng sinh diệt
Không diệt, nào có diệt
Không sinh, nào có sinh
Băng ngang dòng diệt sinh
Vào hằng sa Pháp giới.

Tháng 12 – 2003
Mặc Giang
 
>> Trang Mặc Giang
______________
:: Phủi Bụi Trừ Dơ ::
 
 

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Những mảnh tối cuộc đời - TNT Mặc Giang - 12.11.2010 18:10:27




01. Những mảnh tối cuộc đời
02. Xin cảm ơn đời

Viết, nhân đọc hai câu chuyện “Người Đàn Ông Da Cá Sấu”, và “Người Vợ Van Xin Cứu Chồng”, đăng trên Bán Tuần báo Việt Luận vào 2 Tuần khác nhau, và tôi đã tìm đọc thêm trên các Mạng để nắm rõ.
Viết, để khen tặng người trong cuộc đã vì tình thương, sự sống, vượt qua mọi lằn mức của khổ đau, chịu đựng và thân phận.
Viết, để chia sẻ những mảnh tối cuộc đời
Và viết từ trên Chuyến bay Bris – Mel trong chuyến đi…


Những mảnh tối cuộc đời


Em cứ bảo, em đủ sức chịu đựng
Dù khổ đau đến mấy cũng cam lòng
Dù cơ cùng đến mấy cũng ước mong
Miễn anh sống và vượt qua cái chết

Em cứ nói, em đủ sức chịu hết
Anh biết rồi, chịu hết, phải không em
Anh thấy rồi, em đếm cả bóng đêm
Chan nước mắt xuống thềm hoang tê tái

Khổ đau quá, em trở thành ngây dại
Nụ cười khô, đeo cành héo, vương sầu
Mắt trĩu buồn thăm thẳm đáy vực sâu
Tim quặn thắt, buốt từng cơn rỉ máu

Anh biết mà, bởi tim anh biết nói
Anh nghe mà, bởi lòng anh biết nghe
Nằm một chỗ, nhưng em đâu có dè
Cái tri giác của anh băng cách cảm

Trong bóng đêm còn mù mờ chút sáng
Cuối đường hầm còn ngõ ngách tìm đi
Nhưng đời anh, chấm hết, chẳng còn chi
Em vẫn chấp nhận bởi tình thương và sự sống

Trong thất vọng, ươm mơ tia hy vọng
Cuối điểm cùng bỉ cực lại thái lai
Nhưng đời anh, chấm hết, chẳng mảy may
Em vẫn chấp nhận, giọt đau mòn ánh mắt

Tận đáy hồn mê, mây mù giăng mắc
Cuối bờ vực thẳm, băng giá lên ngôi
Anh úp mặt trong mảnh tối cuộc đời
Em cam chịu những gì cay đắng nhất.

Tháng 10 – 2010
Mặc Giang

Xin cảm ơn đời


Từ ngày đó bỗng đất trời sụp đổ
Cuộc đời tôi còn có nghĩa gì đâu
Ngày không sáng mà đêm lại canh thâu
Để đón nhận bóng đen, sâu thăm thẳm

Gõ cung nhịp kiếp người trong bất hạnh
Nghe đau thương rả rích tận nguồn cơn
Nghe đắng cay xuống tận đáy tâm hồn
Càng thẩm thấu cõi phù sinh mộng mị

Tâm còn đây, nhưng xa rời nẻo ý
Lòng còn đây, nhưng xé nát đoạn trường
Tay ơ hờ, ôm không nổi thê lương
Chân hụt hẵng, lết lê từng bước mỏi

Những tối thiểu bản thân lo không nổi
Chỉ cái ăn, cái uống đã cậy nhờ
Còn cái đi, cái đứng, như nằm mơ
Thì huống chi cái gì to lớn khác

Từ ngày đó, bổng trở thành bịnh tật
Thành phế nhân cho đến cả cuộc đời
Thành người thừa trong xã hội mà thôi
Khổ thân tôi, và những người thân thích

Vậy mà không ai muốn tôi phải chết
Dù khổ đau đến mấy cũng cam lòng
Dù hy sinh đến mấy cũng van xin
Dẫu bất hạnh đẳng đeo cùng thân phận

Cao quý thay cuộc đời và sự sống
Cao thượng thay nghĩa cử và tình thương
Chết, chỉ là ngõ cụt và hết đường
Chứ không nỡ nhìn, buông tay thúc thủ

Tôi còn sống nhờ biết bao nhân ngãi
Của người thân, bằng hữu đến tương lân
Của Y Dược, thuốc thang đều dự phần
Xin cơ cảm tri ân và cảm tạ

Tôi còn sống, cảm ơn đời cao cả
Cảm ơn người, ơn xã hội ban cho
Dẫu mai kia có rũ mục xuống mồ
Tôi vẫn nhớ, và khắc ghi mãi mãi.

Tháng 10 – 2010
Mặc Giang

<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.11.2010 18:12:15 bởi Viet duong nhan >

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Những mảnh tối cuộc đời - TNT Mặc Giang - 29.11.2010 03:33:49

01.  Những mảnh tối cuộc đời
02.  Xin cảm ơn đời
03.  Trái tim đâu rồi ?
04.  Người con Đức Phật
05.  Đừng có than van!
06.  Yêu quê hương đích thực
07.  Trường ca sông núi
08.  Ai bì Việt Nam ?
09.  Ôm quê hương vào lòng
10.  Việt Nam non nuớc hữu tình
11.  Lớp ba trường làng
12.  Quê Hương là gì hỡ Mẹ ?
13.  Sức sống Việt Nam
14.  Khúc ruột Miền Trung
 
Những mảnh tối cuộc đời
 
·          Viết, nhân đọc hai câu chuyện “Người Đàn Ông Da Cá Sấu”, và “Người Vợ Van Xin Cứu Chồng”, đăng trên Bán Tuần báo VL vào 2 Tuần khác nhau, và tôi đã tìm đọc thêm trên các Mạng để nắm rõ.
·          Viết, để khen tặng người trong cuộc đã vì tình thương, sự sống, vượt qua mọi lằn mức của khổ đau, chịu đựng và thân phận.
·          Viết, để chia sẻ những mảnh tối cuộc đời.
·          Và bài này cùng bài kế Xin Cảm Ơn Đời, viết từ trên Chuyến bay …  trong chuyến đi …
·          Cá nhân chúng tôi đã trực tiếp liên lạc thăm hỏi, CPQ đã giúp vợ chồng anh chị Phương + Bưởi …t ; vợ chồng anh chị Sơn + Hoa …t và ước mong vẫn còn tiếp tục.
·          Những vị hảo tâm có lòng qua 2 câu chuyện Người Đàn Ông "Da Cá Sấu"Người Vợ Van Xin Cứu Chồng, xin liên lạc trực tiếp qua số điện thoại: Anh chị Phương & Bưởi 0166-5181981 ; Anh chị Sơn & Hoa 0974-926249.
 
Em cứ bảo, em đủ sức chịu đựng
Dù khổ đau đến mấy cũng cam lòng
Dù cơ cùng đến mấy cũng ước mong
Miễn anh sống và vượt qua cái chết
 
Em cứ nói, em đủ sức chịu hết
Anh biết rồi, chịu hết, phải không em
Anh thấy rồi, em đếm cả bóng đêm
Chan nước mắt xuống thềm hoang tê tái
 
Khổ đau quá, em trở thành ngây dại
Nụ cười khô, đeo cành héo, vương sầu
Mắt trĩu buồn thăm thẳm đáy vực sâu
Tim quặn thắt, buốt từng cơn rỉ máu
 
Anh biết mà, bởi tim anh biết nói
Anh nghe mà, bởi lòng anh biết nghe
Nằm một chỗ, nhưng em đâu có dè
Cái tri giác của anh băng cách cảm
 
Trong bóng đêm còn mù mờ chút sáng
Cuối đường hầm còn ngõ ngách tìm đi
Nhưng đời anh, chấm hết, chẳng còn chi
Em vẫn chấp nhận bởi tình thương và sự sống
 
Trong thất vọng, ươm mơ tia hy vọng
Cuối điểm cùng bỉ cực lại thái lai
Nhưng đời anh, chấm hết, chẳng mảy may
Em vẫn chấp nhận, giọt đau mòn ánh mắt
 
Tận đáy hồn mê, mây mù giăng mắc
Cuối bờ vực thẳm, băng giá lên ngôi
Anh úp mặt trong mảnh tối cuộc đời
Em cam chịu những gì cay đắng nhất.
 
Tháng 10 – 2010
Mặc Giang
 
Xin cảm ơn đời
 
Từ ngày đó bổng đất trời sụp đổ
Cuộc đời tôi còn có nghĩa gì đâu
Ngày không sáng mà đêm lại canh thâu
Để đón nhận bóng đen, sâu thăm thẳm
 
Gõ cung nhịp kiếp người trong bất hạnh
Nghe đau thương rả rích tận nguồn cơn
Nghe đắng cay xuống tận đáy tâm hồn
Càng thẩm thấu cõi phù sinh mộng mị
 
Tâm còn đây, nhưng xa rời nẻo ý
Lòng còn đây, nhưng xé nát đoạn trường
Tay ơ hờ, ôm không nổi thê lương
Chân hụt hẵng, lết lê từng bước mỏi
 
Những tối thiểu bản thân lo không nổi
Chỉ cái ăn, cái uống đã cậy nhờ
Còn cái đi, cái đứng, như nằm mơ
Thì huống chi cái gì to lớn khác
 
Từ ngày đó, bổng trở thành bịnh tật
Thành phế nhân cho đến cả cuộc đời
Thành người thừa trong xã hội mà thôi
Khổ thân tôi, và những người thân thích
 
Vậy mà không ai muốn tôi phải chết
Dù khổ đau đến mấy cũng cam lòng
Dù hy sinh đến mấy cũng van xin
Dẫu bất hạnh đẳng đeo cùng thân phận
 
Cao quý thay cuộc đời và sự sống
Cao thượng thay nghĩa cử và tình thương
Chết, chỉ là ngõ cụt và hết đường
Chứ không nỡ nhìn, buông tay thúc thủ
 
Tôi còn sống nhờ biết bao nhân ngãi
Của người thân, bằng hữu đến tương lân
Của Y Dược, thuốc thang đều dự phần
Xin cơ cảm tri ân và cảm tạ
 
Tôi còn sống, cảm ơn đời cao cả
Cảm ơn người, ơn xã hội ban cho
Dẫu mai kia có rũ mục xuống mồ
Tôi vẫn nhớ, và khắc ghi mãi mãi.
 
Tháng 10 – 2010
Mặc Giang
 
Trái Tim Đâu Rồi ?
Bài này đã viết từ 2008, nhưng đến nay mới đánh máy
Xin mời xem qua.
 
45 năm trước
Hai tay nâng trái tim, giữ gìn Đạo Pháp
45 năm sau
Hàng triệu Tăng Tín đồ thổn thức tâm can
Ngài đã nằm yên, thời thế mang mang
Cho trầm tỏa Nguyên Thiều, bi bi khói quyện
Trước Linh Đài, chan nước mắt, hòa câu kinh, vọng tiếng
Tôn dung Ngài, ẩn hiện bậc thạch trụ, quang minh
Ngài về một cõi Vô Sinh
Chúng con ở lại đong tình sắt son
Ngài về núi ngả đầu non
Chúng con ở lại lối mòn bụi bay
Ngài về Thượng phẩm Phương Tây
Chúng con ở cây cỏ cây lên màu
45 năm trước
Một trái tim lửa đốt không cháy
45 năm sau
Một trái tim sắt máu không sờn
Ngọc ngà chưa hẳn đã hơn
Kim cương chưa hẳn vàng son hơn Người
Thế gian, cứ thử lò cừ
Trần gian, cứ thử thật hư chánh tà
Một khi nhìn lại quê nhà
Lâu nay lạc lối Ta Bà thế sao
Lộn tròng trời thấp đất cao
Bùn đen quện cáu, phóng lao tuyệt tình
Sống thời tráo đấu chốt đinh
Chết thời non nỉ chút tình can qua
Thảm thay cái nỗi Ta Bà
Mịt mờ nhân ảnh la đà bèo mây
Thảm thay con tạo lăn quay
Vật vờ nhân ngã mù say giọt nồng
Đâu là núi, đâu là sông
Cơ đồ đem đổ, cạn dòng nát tan
Đâu là đá, đâu là vàng
Cơ ngơi đem đổ giữa ngàn nhiễu nhương
Thương Đạo pháp, thương Quê hương
Thương như thế đó, máu xương rục hình
Thương Dân tộc, thương Tự tình
Thương như thế đó, điêu linh nhũn tàn
45 năm trước
Hai tay nâng một Trái Tim
45 năm sau
Hỡi người Dân Việt, Trái Tim đâu rồi
Tím lòng cát đá nổi trôi
Tan hoang vết sử lở bồi Việt Nam.
 
Tháng 11 – 2010
T Nhật Tân
 
Người Con Đức Phật
 
Người người Phật Tử cùng nhau tinh tấn chuyên cần
Tam Vô Lậu Học thượng thừa diệu pháp hộ thân
Ngọn gió bát phong, không hề lay chuyển
Tam đồ bát nạn, giả huyễn phù vân
 
Người người Phật Tử cùng nhau tinh tấn tu hành
Ba nghiệp thanh tịnh, thong dong mây trắng trời xanh
Hát chứng đạo ca, thỏng tay vào chợ
Người con Đức Phật, tuyệt thế tinh anh
 
Người người Phật Tử, thành tâm noi Đấng Nghiêm Từ
Chánh pháp xiển dương, tùy duyên bất biến, hữu dư
Chúng sanh vô biên, hạnh nguyện vô tận
Hành Bồ Tát đạo, trùm khắp thái hư
 
Đây diệu lý chơn thường
Thắp đuốc tuệ tình thương
Soi mười phương tám hướng
Quy nhiếp Đạo Pháp Vương
 
Về dưới Ánh Đạo Vàng
Lìa quán trọ trần gian
Đi qua dòng không sắc
Ta Bà thành Lạc Bang
 
Người người Phật Tử, Như Lai tự tánh là nhà
Vào sinh ra tử, viên dung tự giác giác tha
Biển khổ trầm luân, du thuyền Bát Nhã
Quay đầu là bờ, bỉ ngạn không xa
 
Người người Phật Tử, người con Đức Phật nhiệm mầu
Thường Lạc Ngã Tịnh, từ nay, biển khổ còn đâu
Vô thỉ lặng thinh, vô chung biến mất
Tâm như vô trụ, Tâm thể minh châu.
 
Tháng 11 – 2010
TNT Mặc Giang
 
Đừng có than van!
 
Hỏi trời có mấy vì sao
Mà sao nhấp nháy lao chao đêm về
Hỏi núi có mấy sơn khê
Mà sao non nước não về nước non
Hỏi tim có mấy sắt son
Mà sao lòng dạ nát hồn thương đau
Bọt bèo đập vỗ biển dâu
Rong rêu xây xát bờ lau hao gầy
Phù vân gởi gió ngàn mây
Hồng bay quên Cội Lạc bay quên Nguồn
Tròn đâu mà hỏi chi vuông
Con thoi gãy trục quay cuồng đảo điên
Nhân đâu mà hỏi hậu tiền
Bêu rêu sỉ nhục Tổ Tiên rêm mình
Nói ra, thẹn nước non mình
Còn không nói cũng chình ình thế kia
Cỏ cây còn biết chia lìa
Người thời vênh váo mang hia tráo lường
Mề đay, Khen thưởng, Huy chương
Trông ra chẳng khác cái phường vong nhân
Chức danh, địa vị cao ngần
Trông ra một lũ phong thần vong nô
Chưa chôn, đã chết đáy mồ
Chôn rồi, nghĩa địa vật vờ hồn ma
Cái phường phá quốc hại gia
Cái phường hại Tổ Tông nhà Việt Nam
Hỏi trời, trời cũng chẳng cam
Hỏi đất, đất cũng chẳng kham bọn này
Dân mình biết rõ mặt mày
Nếu không tỉnh ngộ, thẳng tay chẳng màng
Một mai đừng có than van!!!
 
Tháng 11 – 2010
Mặc Giang
 
Yêu quê hương đích thực
 
Tình yêu quê hương, nói suốt đời không hết
Từ quê hương, tôi mới có mặt trong đời
Từ quê hương, tôi mới được làm người
Để ngước mặt nhìn trần gian và dương thế
 
Yêu quê hương, tôi đã yêu từ thuở bé
Vừa chui ra, tôi đã nói tiếng Ba Ba
Chín tháng 10 ngày trong bụng mẹ ấm ghê
Nên vừa bập bẹ, tôi liền kêu Má Má
 
Yêu quê hương như lúa vàng yêu lá mạ
Như trúc biếc yêu những lũy tre xanh
Như con sông yêu tiếng vỗ đầu gành
Như sóng nước mơn man bờ cát trắng
 
Tôi còn yêu sau hè mọc rau đắng
Yêu trước ngõ thoang thoảng mùi hương cau
Khi lớn lên đi bất cứ nơi đâu
Cũng không so sánh được Quê Cha Đất Mẹ
 
Tôi vẫn nhớ ve kêu mỗi mùa hè oi ả
Mỗi mùa xuân hoa chớm nụ vươn lên
Mỗi mùa đông với cái rét căm căm
Và thu đến đượm buồn màu tim tím
 
Tôi vẫn nhớ con đường quê gọi nắng
Con đường làng thơm ngát vị thương yêu
Từng cái nhỏ nhoi tôi vẫn nâng niu
Bởi tất cả là quê hương tôi đó
 
Tôi không quen cái hào nhoáng tạm bợ
Tôi không ưa cái giả huyễn châu thành
Xưa gần bùn mà sao chẳng hôi tanh
Nay nhựa đắp mà sao tanh quá đỗi
 
Cho nên, mỗi khi có ai han hỏi
Tôi ước gì lớn nhất trong đời tôi
Xin trả lời, ước gì được Bé mãi mà thôi
Chứ lớn chi giữa thế đời nghiêng ngửa
 
Yêu quê hương mà phải yêu đúng chỗ
Nghịch ngợm chưa, nói thế nghe sao xong
Họ đáp quanh co, đảo lộn lòng vòng
Lòi cái đuôi phường vong nhân vong bản
 
Yêu quê hương mà phải yêu bài bản
Lịch sử năm ngàn năm, không bài bản hay sao
Mà nay phải vay mượn Bắc đẩu, Nam tào
Tào với Đẩu thi nhau đâm đầu xuống hố
 
Tôi chỉ muốn làm người dân bình thường lam lũ
Tôi chỉ muốn làm người con nước Việt của ngàn xưa
Chứ không mệnh danh những cặn bã dư thừa
Rồi đổ xuống quê hương, bắt dân tôi gánh chịu
 
Yêu quê hương, tôi yêu từ cái nhỏ xíu
Đến cái hùng anh lẫm liệt phi thường
Chứ không mệnh danh những xảo thuật nhiễu nhương
Bắt dân tôi phải gục đầu thúc thủ
 
Yêu quê hương, chứ không phải yêu thuốc lú
Yêu lai căng, yêu loạn thị, yêu cửa quyền
Yêu quê hương là tình yêu thiêng liêng
Tôi dõng dạc tuyên xưng và tôn thờ mãi mãi.
 
Tháng 11 – 2010
Mặc Giang
 
Trường ca sông núi
 
Tôi yêu quê hương từ nhỏ
Đường làng lối ngõ loanh quanh
Chim reo ca hót trên cành
Đồng vàng thơm thơm lúa chín
 
Yêu quê lên ba, lên bốn
Lên năm, lên bảy, lên mười
Đến khi khôn lớn thành người
Càng yêu quê hương da diết
 
Thương thương trúc xanh, xanh biếc
Nhớ nhớ thoang thoảng hương cau
Quê hương dù có lên màu
Mặn nồng ươm ươm trái chín
 
Đến nay mái đầu bạc trắng
Tình quê cay đắng ngọt bùi
Nhớ thương vẫn thế khôn nguôi
Cơ chừng còn tăng hơn nữa
 
Chiều chiều chim bay về tổ
Lá rung nhớ cội nguồn xưa
Tình quê chan nắng đổ mưa
Con tim thấm đau se thắt
 
Đất Mẹ, Mẹ ơi có biết
Quê Cha, Cha hỡi có hay
Cuối trời gió cuốn ngàn mây
Chim ơi cho ta bay với
 
Chim Lạc chim Hồng quay lại
Ơ hay, muốn bay về đâu
Ta cùng Hồng Lạc nhìn nhau
Biết rồi, cần chi phải hỏi
 
Chúng ta cứ bay đừng nói
Cứ bay sẽ biết về đâu
Vượt qua bãi biển nương dâu
Tận cùng nguồn xưa tổ ấm
 
Tôi đứng từ Cao - Bắc - Lạng
Anh thì Nam – Ngãi – Phú – Bình
Còn em Rạch Giá – Hà Tiên
Hát khúc trường ca non nước
 
Văn Hiến năm ngàn năm trước
Rồng Tiên muôn thuở cao kỳ
Băng qua vinh nhục thịnh suy
Đến tận ngàn sau không đổi
 
Chim Lạc một khi có mỏi
Còn đây đôi cánh chim Hồng
Ta bay khắp núi khắp sông
Dựng xây quê hương muôn thuở
 
Em yêu quê hương từ nhỏ
Anh yêu khi mới lớn lên
Tôi yêu lên thác xuống ghềnh
Biển Đông gầm vang Núi Thái
 
Rồng Tiên muôn đời sống mãi
Hồng Lạc muôn thuở keo sơn
Trường ca sông núi gọi hồn
Thế thế truyền lưu bất biến.
 
Tháng 11 – 2010
Mặc Giang
 
Ai bì Việt Nam ?
 
Nước non là nước non thề
Nước đi với nước, non về với non
Nước đi muôn thuở không mòn
Hát Hai Ô (H2O) vẫn sắt son muôn đời
Non cao lên tận đỉnh đồi
Núi cao đổ bóng sông ngòi Biển Đông
Kết thành nghĩa biển tình sông
Nghĩa non tình nước giống dòng Việt Nam
Kiêu sa từ Ải Nam Quan
Cài trang gấm vóc băng ngàn Cà Mau
Nước non xanh ngát một màu
Theo dòng lịch sử trước sau tôn thờ
Núi sông từ thuở ươm mơ
Hùng Vương mở nước dựng cờ đến nay
Kiên cường, bất khuất, không thay
Không suy, không suyễn, không rày, không mai
Nước non biển rộng sông dài
Con Hồng cháu Lạc dấu hài thơm hương
Băng qua lịch sử đường đường
Dựng xây tô thắm phi thường Việt Nam
Ngoại thù, vỡ mộng xâm lăng
Nội thù, tan tác, đừng hòng thuẫn mâu
« Gà nhà, Cõng rắn », còn lâu
Mồ hoang nghĩa địa cỏ khâu xanh rì
Việt Nam non nước cao kỳ
Nước đi với nước, non thì về non
Việt Nam sông núi vẹn toàn
Không suy một tấc, không mòn một ly
Năm Châu, bốn biển ngại gì
Hỏi ra mới biết, ai bì Việt Nam ?
 
Tháng 11 – 2010
Mặc Giang
 
Ôm quê hương vào lòng
Thỉnh thoảng vẫn nhớ Cụ H.Giác, một bậc trưởng thượng, hai tay cầm Tuyển tập Quê Hương Còn Đó của tôi tặng, đưa sát vào lồng ngực, mắt rung động nhìn tôi, và nói : «Tôi tự hứa sẽ học thuộc lòng bài Non Nước Việt Nam, để ôm quê hương vào lòng, cho tới khi nhắm mắt …»
 
Ôm quê hương vào lòng
Để trọn vẹn ước mong
Nâng niu và gìn giữ
Ôi tình biển nghĩa sông
 
Ôm quê hương vào lòng
Để ấp ủ nhớ trông
Đây hình hài đất Mẹ
Kia vóc dáng quê Cha
 
Cho em tôi được sống
Cho trẻ thơ biết cười
Tháng năm dài khắc khoải
Chưa từng có niềm vui
 
Cho đồng xanh lúa chín
Cho mạ non tươi mầm
Đã qua rồi khép kín
Thôi hết những lặng câm
 
Ôm quê hương vào lòng
Tan hết những mùa đông
Không hạ nồng thu tím
Còn lại những mùa xuân
 
Ôm quê hương vào lòng
Cho trọn vẹn hoài mong
Giọt buồn khô lệ đá
Hoa trái đã đơm bông.
 
Tháng 11 – 2010
Mặc Giang
 
Việt Nam non nước hữu tình
 
Việt Nam non nước hữu tình
Quê hương gấm vóc in hình Rồng Tiên
Việt Nam non nước Ba Miền
Bắc Nam Trung quyện hồn thiêng muôn đời
Kể từ dựng nước xưng ngôi
Kinh qua lịch sử tô bồi thắm tươi
Ươm mơ sức sống con người
Chứa chan hy vọng nụ cười cho nhau
Miếng Trầu rồi lại miếng Cau
Bánh Qui bánh Ít bắc cầu lại qua
Xa gần rồi lại gần xa
Tương thân tương ái mọi nhà Việt Nam
Thương nhau, miệng nói tay làm
Giúp nhau, còn để bao hàm mai sau
Ngọt thanh như thể mía lau
Thơm thơm như thể hương cau đầu mùa
Không màng danh lợi hơn thua
Không tranh cao thấp bán mua thường tình
Việt Nam non nước hữu tình
Đi đâu cũng thấy như mình với ta
Việt Nam tình nghĩa đậm đà
Đi đâu niềm nỡ câu ca tiếng cười
Việt Nam đẹp lắm ai ơi
Quê hương non nước của người Việt Nam.
 
Tháng 11 – 2010
Mặc Giang
 
Lớp Ba Trường Làng
 
Học hành thật khổ lắm a
Trèo lên trụt xuống lớp ba trường làng
Đành thôi đâu dám bỏ ngang
Ì ạch bì bõm trường làng lớp ba
Sống cùng Đất Mẹ Quê Cha
Nên yêu nên quý cửa nhà Việt Nam
Yêu từ đất nẻ khó kham
Quý đến sắc chạm son chàm tinh anh
Yêu từ mái khói nhà tranh
Quý đến Phố thị Châu thành nước non
Đầu ghềnh nước chảy sóng cồn
Cuối sông in bóng gợn hồn sơn khê
Đi đâu cũng nhớ nhung về
Đến đâu cũng giữ vẹn thề mới thôi
Học lễ phải nhớ đầu đời
Học văn phải giữ rạng ngời sắt son
Nhớ câu Bia đá thì mòn
Nhớ câu Bia miệng vẫn còn trơ trơ
Hồn thiêng sông núi tôn thờ
Vong nô vong bản, phất cờ đuổi ngay
Cơ đồ thạch trụ không lay
Ngoại xâm nội ứng, biết tay, đừng hòng
Quê hương từ độ khơi dòng
Đến nay đất lở trời long không sờn
Dân tộc từ độ tấm son
Đến nay trọn vẹn sắt mòn không pha
Trường làng học đến lớp ba
Học hết cũng chỉ lớp ba trường làng
Vẫy vùng bốn biển dọc ngang
Vẫn chưa qua khỏi trường làng lớp ba
Anh hùng nữ kiệt kiêu sa
Luyện tôi từ thuở lớp ba trường làng
Tài ba tế thế an bang
Nhồi kinh luyện sử trường làng lớp ba
Trường làng ơi hỡi lớp ba!!!
 
Tháng 11 – 2010
MG
 
Quê Hương là gì hỡ Mẹ ?
 
Quê hương là gì hỡ Mẹ
Đất Tổ là gì hỡ Cha
Sao gọi quốc quốc gia gia
Cái gì là non là nước
 
Con ơi, năm ngàn năm trước
Con người từ thuở sơ khai
Âu Cơ, tiên nữ phương đài
Long Quân, rồng bay cỡi gió
 
Dân tộc Việt Nam từ đó
Gọi là dòng giống Rồng Tiên
Trên non nước Việt Ba Miền
Dư đồ giang sơn cẩm tú
 
Hùng Vương, Vua cha Quốc Tổ
Dựng cờ, đất Mẹ Văn Lang
Lịch sử băng qua năm ngàn
Đạo đức nhân từ văn hiến
 
Sông núi hồn thiêng khói quyện
Quê hương lịch sử kiêu hùng
Một nguồn một cội của chung
Thế thế truyền trao gìn giữ
 
Quê hương là gì hỡ Mẹ
Quê hương, nơi Mẹ sinh ra
Quê hương, xương máu Ông Cha
Kết tinh thành đất thành nước
 
Quê hương là sông là núi
Quê hương là nước là non
Quê hương muôn thuở sống còn
Cháu con da vàng máu đỏ
 
Quê hương là gì hỡ Mẹ
Quê hương, con mới thành người
Quê hương, con thắm môi cười
Ngợi ca Đất Nước Quê Hương.
 
Tháng 11 – 2010
Mặc Giang
 
Sức sống Việt Nam
 
Em đi trên những con đường
Quê hương đất Mẹ nở hoa
Thương yêu sức sống chan hòa
Chạy dài từ Nam tới Bắc
 
Em đi Phường vui Phố hát
Làng quê hương lúa trỗ bông
Ngô khoai xanh ngát ruộng đồng
Tự tình thơm thơm Quê Mẹ
 
Em đi nhịp cầu khe khẽ
Nghiêng nghiêng vành nón ngang vai
Nắng lên đưa bóng đổ dài
Núi cao sông sâu biển rộng
 
Em đi, quê Mẹ lên tiếng
Vang vang lời nói thương yêu
Quê hương gấm vóc mỹ miều
Đất nước nở hoa Hồng Lạc
 
Chim Hồng bay cao ca hát
Chim Lạc hòa khúc hoan ca
Quê hương non nước sơn hà
Dòng giống Rồng Tiên đẹp quá
 
Hà Nội, cái nôi văn hóa
Sài Gòn, hòn ngọc minh châu
Kéo dài đến tận Cà Mau
Đi ra Nam Quan cửa ải
 
Em đi, và đi mãi mãi
Bàn tay chung sức đắp xây
Con tim chan chứa đong đầy
Tự tình thơm thơm đất Mẹ
 
Em đi, cùng đi em nhé
Triệu triệu bàn tay chan hòa
Triệu triệu con tim nở hoa
Tô bồi sức sống Việt Nam.
 
Tháng 11 – 2010
Mặc Giang
 
Khúc Ruột Miền Trung
 
Ngẫm về khúc ruột Miền Trung
Vùng đất kỳ lạ của cùng quê hương
Dân tình sống thật dễ thương
Tài ba cũng lắm, tai ương cũng nhiều
Địa linh nhân kiệt tuyệt siêu
Anh hùng liệt nữ mực điều viết son
Gương cao vắt đỉnh Trường Sơn
Thâm sâu in bóng rợn hồn Biển Đông
Nhưng sao nghiệt ngã chất chồng
Dân sinh thống khổ gánh gồng nhiễu nhương
Nắng thời, đất nẻ ra mương
Mưa thời, lũ lụt vô phương chịu trời
Nước dâng ăm ắp núi đồi
Đâu đâu cũng nước mưa nhồi biển dâng
Phố phường nước xoáy cao tầng
Miền quê ngập mái phong trần đảo điên
Nhà trôi cây đổ ngửa nghiêng
Mùa màng cuốn sạch gạo tiền ra tro
Nghèo trơ túi mốc ra mo
Đói trơ túi mốc tóc tơ ra mành
Khổ đau, thấu tận trời xanh
Tang thương, thấu tận đoạn đành tâm can
Nắng thời, đổ lửa chói chan
Mưa thời, lũ lụt ngập tràn thế ni
Miền Trung ơi hỡi còn gì
Mỗi năm như thế, răn ri chi hè
Nắng thời, khô héo tiếng ve
Mưa thời, dai đẳng dầm dề đổ mưa
Bão giông nước cuốn gió lùa
Núi sa, đất lở, nát bừa nhiêu khê
Miền Trung khúc ruột thắt se
Câu ca não nuột, câu vè thê lương
Miền Trung khúc ruột quê hương
Ai nghe cơ cảm, ai thương cơ cùng
Núi cao đồi thẳm chập chùng
Đèo heo hút gió lạnh lùng lao lung
Thương thay Khúc Ruột Miền Trung!!!
 
Tháng 11 – 2010
TNT Mặc Giang
 

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Xuân Bốn Mùa - TNT Mặc Giang - 05.02.2011 20:12:14
Xuân Bốn Mùa

 


Xuân chưa đến, bởi đông dài rét buốt
Khép nụ hoa xếp lá trải đông băng
Mỉm cười trông xuân diễm ảo xa xăm
Ta thách đố thử đông dài lạnh giá 
 
Xuân chưa đến, bởi hạ nồng oi ả
Xếp cành khô, ve réo gọi, kêu sầu
Mỉm cười trông, xuân nhân thế bao lâu
Ta thách đố, thử hạ nồng mấy độ
 
Xuân chưa đến, bởi thu tàn chín nụ
Lá vàng rơi tan tác bụi nắng mưa
Mỉm cười trông thu tím đã vừa chưa
Ta thách đố, thử thu buồn mấy nẻo
 
Mỗi mùa đến, xuân chưa hề khô héo
Khi đúng thời, xuân thổi mộng ru bông
Bởi trần gian, vốn ôm ấp hoài mong
Nên không nhận, hương thơm xuân tự thể
 
Xuân có sẵn trong bốn mùa như thế
Không đông tàn, hạ trắng với thu phong
Không sầu vương lệ đá kiếm diêu bông
Ôm vọng tưởng tìm đâu bong bóng nước
 
Xuân bốn mùa nở trên ngàn diễm phúc
Vượt thời gian, ươm hương sắc trong lành
Vượt không gian, mỉm nụ mới tinh anh
Xuân tự thể trong hồn ai biết sống.
 
Tháng 4 – 2008
TNT Mặc Giang





Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Vạn lời Mẹ Thương - TNT Mặc Giang - 24.06.2011 05:02:39
1. Vạn lời Mẹ Thương
2. Vu Lan nhớ Mẹ
3. Vườn Hồng kết nụ Mẹ Yêu



Vạn lời Mẹ Thương

Tôi viết vạn lời tiếng Mẹ thương
Tôi xin mang Mẹ đi muôn đường
Để hình bóng Mẹ in tâm khảm
Để nhớ Mẹ yêu đếm ngấn sương

Đôi mắt Mẹ hiền vạn mến yêu
Tình thương gom hết vẫn chưa nhiều
Chưa đầy mắt Mẹ mênh mông quá
Còn trống nhiều khung của ấp yêu

Tấm lòng của Mẹ rộng thênh thang
Nhặt hết càn khôn chưa ngập tràn
Nhặt hết Biển Đông còn chỗ trống
Mẹ hơn Cực Lạc lẫn Thiên Đàng

Tay Mẹ thiêng liêng vô hậu tiền
Sá gì tay ngọc với tay tiên
Tay Hiền tay Thánh còn ranh giới
Tay Mẹ vô biên khắp mọi miền

Chỉ cần mắt Mẹ ngó nhìn thôi
Diễm phúc chứa chan nhất cuộc đời
Vàng bạc kim ngân không thể sánh
Giàu sang địa vị chẳng lên ngôi

Chỉ nắm bàn tay Mẹ dấu yêu
Tan đi tất cả mọi liu xiu
Khổ đau biến mất tiêu sầu khổ
Êm ấm an vui phủ nhiễu điều

Tôi không nói khoác, ngẫm đi nghe
Còn Mẹ, sống đi, sẽ biết, hè
Đừng để một mai chìm ngõ tối
Thắp đèn đom đóm đếm sao khuya

Tôi không nói khoác với ai đâu
Đừng đợi khăn sô chít mái đầu
Trũng ướt giọt châu thềm giá lạnh
Tóc tang gõ nhịp vọng kinh cầu

Dù tôi có viết đến muôn lời
Chữ nghĩa thế gian vét cạn từ
Tiếng MẸ vô cùng không diễn hết
Dù cho một tiếng MẸ mà thôi

Những ai còn Mẹ cứ vui đi
Kẻo để một mai héo nụ cười
Dù nụ cười khô đong mắt ướt
Suối vàng róc rách gõ thiên thu.

Tháng 6 – 2011
TNT Mặc Giang

Vu Lan Nhớ Mẹ

Vu Lan nhớ Mẹ nhớ vô vàn
Hai tiếng Mẫu Từ luôn vọng vang
Một cõi đi về lồng lộng quá
Đôi bờ sóng vỗ nước mênh mang

Thương nhớ Mẹ hiền lắm Mẹ ơi
Từ khi Mẹ khép cửa ru hời
Con thầm kiếm Mẹ trong vô tận
Chỉ vọng hai từ tiếng Mẹ Ơi

Có nghe cửa ngõ của A Tỳ
Con cố kiếm tìm chẳng lối đi
Không nẻo xuống lên không dấu vết
Chỉ nghe văng vẳng bất tư nghì

Có nghe một cõi Nước An Bang
Mẹ có về không kết Nụ Vàng
Vạn hữu trùng trùng sa pháp giới
Làm sao con biết chẳng âm vang

Sinh tử oan khiên nghiệt ngã, ừ
Một khi khép mở rẽ thiên thu
Cửa sinh cửa tử im phăng phắc
Một tiếng vô thinh phủ thái hư

Chắp tay đảnh lễ Hội Vu Lan
Quyện khói trầm hương thoảng nhẹ nhàng
Vạn đức Hồng Danh ban tế độ
Cha Lành vô lượng nhũ Từ Ân

Công đức sinh thành nguyện đáp đền
Mẹ ơi nhớ Mẹ không hề quên
Dù cho nhắm mắt xin ghi nhớ
Mang Mẹ đi theo vạn nẻo đường

Dù cho muôn hướng đến ngàn phương
Mang Mẹ đi theo nhé Mẹ thương
Để kiếp phù sinh không thống nỗi
Không reo điệp khúc của vô thường.

Tháng 6 – 2011
TNT Mặc Giang

Vườn Hồng kết nụ Mẹ Yêu

Cho tôi được gắn mãi hoa hồng
Hoa trắng xin đừng vội trắng bông
Còn Mẹ là còn hơn tất cả
Không gì so sánh Mẹ, nghe không

Hoa hồng một đóa mãi xinh tươi
Còn Mẹ, là còn có nụ cười
Mất Mẹ, cuộc đời mất tất cả
Mẹ ơi, xin Mẹ sống muôn đời

Hoa hồng cài áo chẳng sờn vai
Thương Mẹ nâng niu đỡ cánh cài
Đừng để cánh phai tàn tím tím
Ngàn năm ngậm suối khóc tuyền đài

Hoa hồng như Mẹ thắm hồng tươi
Đỏ thắm trong tim thắm cả người
Rào rạc Biển Đông triều sóng vỗ
Tình tang điệp khúc Mẹ à ơi

Vườn hồng kết nụ Mẹ yêu thương
Một đóa Mẫu Thân thơm vạn đường
Còn có mía lau hương dịu ngọt
Tay tiên nét ngọc tỏa đài phương

Vườn hồng xin Mẹ kết thiên thu
Cửa Tử im re, chẳng ứ ừ
Chỉ có Cửa Sinh tràn sức sống
Ngàn năm trăng sáng chẳng mây mù

Những ai còn Mẹ hãy nâng niu
Bất kể ngày đêm mỗi sớm chiều
Những lúc canh khuya Mẹ trở giấc
Nhìn xem thử Mẹ có liu xiu

Bóng chiều sẽ vội thoáng qua mau
Mây gác tầng không phủ xuống đầu
Bãng lãng hoàng hôn chờ bóng tối
Sao trời le lói nhỏ canh thâu

Cẩn trọng thâm sâu giữ đóa hồng
Nhớ nghe đừng đợi lá diêu bông
Rừng hoang cỏ dại xanh rì đó
Thu tím hạ nồng lạnh gió đông

Bông hồng cài áo tỏa thơm hương
Vành áo cài hoa kết Mẹ thương
Diễm phúc nhất đời còn có Mẹ
Ta xin đánh đổi mọi nghê thường

Đừng để vô thường kéo đến nghe
Nước sông đừng ngập vỡ bờ đê
Đơn côi sóng lệ mòn mi mắt
Réo rắt đêm hè vọng tiếng ve

Thôi, xin kết thúc áo cài hoa
Hoa Trắng Hoa Hồng tự điểm hoa
Đừng để một mai đến quá trễ
Hoa Hồng Hoa Trắng hỡi là hoa.

Tháng 6 – 2011
TNT Mặc Giang

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Kim Cổ Sắt Son - TNT Mặc Giang - 24.06.2011 05:41:13
Kim Cổ Sắt Son

Xin ngắt một cành hoa
Dâng lên công đức Mẹ
Xin ngắt một cành hoa
Dâng lên công đức Cha
Nhớ thương cửa cửa nhà nhà
Non non nước nước gia gia hữu tình
Ta đi trên nước non mình
Ta về đồng nội in hình núi sông
Dư đồ một dãi cong cong
Uốn theo chữ “S” Tiên Rồng Việt Nam
Xin ngắt một cành hoa
Tôn thờ công đức Mẹ
Xin ngắt một cành hoa
Phụng cúng công đức Cha
Nước non non nước của ta
Tiếng Quốc sông núi tiếng Gia cửa nhà
Ngàn năm Văn Hiến tinh ba
Rồng Tiên mở hội hoan ca kiêu hùng
Đất này là đất nước chung
Nước này là của giống dòng Việt Nam
Vàng son chạm sắt lên chàm
Ngoại thực sạch bóng ngoại xâm tiêu đời
Hỡi người Việt Nam ta ơi
Nhất hô bá ứng vạn lời tuyên ngôn
Đông Nam Tây Bắc đừng hòng
Tan hoang khiếp vía kinh hồn biết chưa
Xin ngắt một cành hoa
Đáp đền ơn Mẫu Tử
Xin ngắt một cành hoa
Nhớ nghĩa đức Phụ Thân
Nếu cần, đánh đổ phù vân
Nếu cần, quét sạch phong trần bụi bay
Nói cho biết đó biết đây
Đừng gieo ách họa đừng bày tai ương
Việt Nam dũng khí đường đường
Trọng nghĩa thì sống, dở tuồng ra tro
Xâm lăng, xâm thực chật mồ
Hống hách, bạo ngược, xương khô chất chồng
Này này, ta bảo nhớ không
Lật trang sử cũ thoát tròng nhớ nghe
Này này, ta bảo đừng mê
Đựng vào biết mặt, chui về nhà ma
Việt Nam Dân Tộc của ta
Nhứt ngôn ký xuất thiên la rợn hồn
Xưa nay vẫn thế không sờn
Cổ kim không đổi sắt son Tiên Rồng
Đó là núi núi sông sông
Định ban tọa thị giống dòng Việt Nam.

Tháng 6 – 2011
TNT Mặc Giang

Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 31 đến 58 trên tổng số 58 bài trong đề mục