VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( I )

Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 3 của 5 trang, bài viết từ 61 đến 90 trên tổng số 138 bài trong đề mục
Tác giả Bài
tamvanvov
  • Số bài : 807
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Dùng dằng phận cối, nhộ nhem phận nồi - 02.12.2017 16:27:37
Rong chơi với một chữ Tình ( I ),
 
1.
Sống chậm,…
Hãy tập cách sống chậm.
Tôi đã nhủ mình như vậy. 
Đúng ra, tự lệnh cho mình cần phái như thế,
Nửa năm trước, nhận cái thông báo mang tính khuôn mẫu, rằng từ ngày này, tháng này, năm này, ông ( bà )… sẽ nghỉ hưu, hưởng chế độ bảo hiểm xã hội, rằng từ nay, ông ( ba ) rút dần ra khỏi công việc công sở. v,v,,, Trước đây với cương vị công tác của mình, hằng năm, mình phải ký nháy bao nhiêu văn bản như vậy. Giờ thì đến lượt mình, lẽ dĩ nhiên, người khác ký nháy cái văn bản gửi cho mình, Nhưng rồi đâu có được giãn công việc như tinh thần của thông báo.. Phần vì việc công sở luôn bề bộn, nhiều sự kiện lớn nhỏ, cả sự kiện trọng đại, mà mình vốn được tín nhiệm trong các kiểu công việc, sự kiện lớn, nên vẫn bị cấp trên chỉ định, thế là lại lao vào việc như thiêu thân. Công bằng mà nói, tự thân cũng chưa quen với sự nhàn rỗi. Gần bốn chục năm nay, lang thang đây đó, có bao giờ được thư nhàn đâu. Nợ cơm áo gia đình vợ con, nghiệp báo chí, văn chương đeo đuổi mà nên thế rồi,
Đã nhiều năm rồi, sáng sáng, 7 giờ ra khỏi nhà, cho đến 7 giờ tối mới mò về đến nhà. Cuối tuần, ngày nghỉ, vẫn thường xuyên dính việc công. Năm này qua năm khác, mãi thành nếp, nay không dễ mà thay đổi thói quen ngay được.
Một tháng, trước cái đích nghỉ hưu, cũng vậy. Anh em đồng nghiệp tứ xứ gọi điện í ới mời mọc, nể mọi người lại búc vé, bay vào với anh em, bè bạn. Gọi là đi chơi thăm thú đây đó, nhưng cũng lại đi quần quật, nhậu quần quật, còn mệt hơn ở nhà. Một sự vất vả kiều khác chứ đâu phải là thư giãn. Lại càng không phải là làm quen với cách sống chậm. 
Rồi còn nửa tháng, một tuần, thì hết ban này đến đơn vị nọ, nhóm này nhóm kia mời dự cơm chia tay. Nể nhau, lại ngồi nhâm nhi, trưa có, tối có. Vui đấy, nhưng cũng buồn đấy và thêm phần bề bộn. Lại nữa, cả thàng cả tuần, mỗi này tha lôi những đồ souvenir gần chục năm nay mua sắm, tích cóp, bày cả ở văn phòng làm việc tại cơ quan, nay mang về nhà, rồi xếp xếp đặt đặt, cũng ra chiều vất vả lắm. Cái sự mêt mỏi dồn lại,…
Rồi còn một ngày. Ngày cuối tại vị ở công sở, lại phải ký tá giấy tờ, văn bản, ký biên bản bàn giao công việc cho người kế vị mình… Thêm nữa, đồ riêng tư còn gì thì tha nốt về nhà. Từ sang sớm, thông trua, đến tận 8 giờ tối mới xong. Bã người và trống rỗng. 
Bữa cơm tối tại gia, làm ly bia đá cho đớ háo. Nửa nằm nửa ngồi, cái remot tivi trong tay nháy liên tục, hết kênh này kênh kia mà chẳng buồn xem cái gì. Chợt nhớ, từ nay trở đi, mình sẽ phải thường xuyên xem các kênh của VTC, đặng để biết, vì ngay sau đây, mình sẽ trở thành một trong những chuyên gia tư vấn và hội đồng nghiệm thu chương trình của Đài này. Đảo một hồi, mấy kênh, ngó nghiêng, xem xét, và ngẫm nghĩ để tự đưa ra một vài nhận xét. Mỏi mắt, ngủ thiếp đi lúc nào chẳng hay…
Trở dậy, cũng đã khuya, làm vài việc vặt, rồi đi nghỉ.
Lâu lắm rồi, trước khi đi ngủ, không cần đặt chuông báo thức, mà tắt hết cả mấy chiếc điện thoại di động.
Ừm, động thái đầu tiên của lối sống chậm là đây chăng?
Hình như, ngoài trời trở gió ?
Đợt gió mùa đầu tiên của mùa đông này..
Lắc rắc mưa thì phải ?...
( còn nữa )

tamvanvov
  • Số bài : 807
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Dùng dằng phận cối, nhộ nhem phận nồi - 30.07.2018 12:01:11
Rong chơi với Một chữ Tình ( II )

2. Như gió thoảng qua,
 
 Có những lúc, ngồi một mình trong phòng làm việc, không muốn làm gì và viết gì. Lòng trống vắng không tưởng. Và thường, để phá vỡ cái trạng thái ấy, tôi hay vào mạng, tìm đến một vài địa chỉ quen thuộc của mấy trang cá nhân, đọc bài này bài kia, hy vọng lấy lại được cảm xúc, đặng làm việc tiếp; hoặc tìm sự khơi gợi dù chỉ là mong manh, viết một chút gì đấy.
Chiều nay, mới đầu đông mà trời khá lạnh. Ngoài hành lang gió lùa hun hút lạnh giá, trong phòng thì ấm áp. Sau giấc ngủ trưa thức dậy bởi tiếng ồn ào phía ngoài. Bâng lâng mất một lát mà chẳng biết nên bắt đầu từ việc gì?...
Đợt gió mùa đầu tiên của mùa đông này…
Lắc rắc mưa thì phải ?...
Nhấp vài ngụm cà phê sáng pha nhiều còn dư, cho thêm nước ấm thành loãng, đầu óc vẫn u u minh minh. Thẫn người, và rồi theo thói quen,  lại tìm vào vài trang quen, bâng quơ lướt bất cứ bài viết nào…
          Nhìn các địa chỉ liên kết, nháy vào một cái nick theo cảm tính tức thì, đọc nhanh tên các chuyên mục, tên bài viết, bao quát tổng thể giao diện thấy khá bắt mắt, ấn tượng. Mở vài ba bài viết cụ thể, đọc thấy là lạ, hay hay… Đọc thêm chút nữa, đoán chủ bút là nữ giới. Thơ, tản văn, tạp bút, đủ món như một mâm cỗ đầy đặn … nhưng xem kỹ, những bài viết ở đây được đăng cũng đã vài năm nay rồi. Vậy là đồ cũ. Lối viết bộc lộ cá tính, chữ nghĩa trau chuốt, có chút điệu đàng làm dáng, nhưng đầy tâm trạng. Tự nhiên lại đồ đoán chủ bút là người làm nghề gì, sống như thế nào nhỉ, Kiểu người như thế giờ không nhiều, nhất là vào thời cuộc xã hội xô bồ như lúc này. Và nữa, đã vài năm nay không đăng bài viết mới, vậy chủ bút đi đâu, có chuyện gì xảy ra không, giờ  ra sao, mà lại bỏ bê vậy?
          Tự nhiên, hình dung ra hàng loạt những sự kiện ẩn sau mỗi bài viết đó; tiếp nữa, lại hình dung những sự kiện chuyển dịch kể từ đó cho đến nay; rồi cả quáng thời gian dài trở về trước của bài viết… Nghĩ thế và thấy thú vị… Là mình cứ tưởng tượng ra vậy, chứ thực ra cuộc đời đơn giản hơn nhiều. Lại chợt nghĩ, lâu lắm rồi mình không viết một truyện ngắn nào, kể từ khi xuất bản gần chục tập truyện ngắn, và truyện ngắn “Mỹ nhân mộng” về chuyện tình bất hủ thế gian giữa vua Đường Minh Hoàng và nàng Dương Quý Phi, một trong Tứ đại mỹ nhân của Trung Hoa kim cổ, thì ta cũng viết cách đây dăm năm rồi,...
          Và, lại muốn viết một cái gì đấy, …
            Lâu lâu, trở lại trang cá nhân ấy, cái tên như gió thoảng ấy lại không hề thoảng chút nào. Cứ nhè nhẹ, bay bay, dìu dịu nhưng không mất hút như là gió ngoài trời kia. Thế mới biết, con người là hữu hạn, nhưng cũng vô hạn làm sao!
          Và rồi, vào mộ ngày nọ, trong câu chuyện tình cờ, được biết, chủ bút của trang cá nhân ấy đã ra đi vĩnh viễn. Chị là một người có hoàn cảnh éo le, thích đọc sách, thích viết và đi du lịch, cũng thích nấu ăn và nấu ăn rất ngon. Người vậy, hẳn đáng quý đấy chứ. Những bài viết ấy, được chị viết trong những ngày ủ bệnh, và chữa căn bệnh ung thư. Thảo nào, có gì đó u hoài, lại có gì đó khao khát, lại có gì đó như thiền định, như sương khói, hư vô?...
          Người chủ bút ấy đã mãi ra đi về phía chân trời xa thẳm, nhưng các viết vẫn còn đây, như gió thoảng, lại như khắc, như tạc vào ý nghĩ của hết thảy những ai tình cờ được biết,…
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.07.2018 12:03:48 bởi tamvanvov >

tamvanvov
  • Số bài : 807
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Dùng dằng phận cối, nhộ nhem phận nồi - 07.01.2019 10:33:44
Những đứa trẻ ngày ấy,
 
Mới gần đây, tôi đi ăn đám giỗ người bác ruột, bác trai là con cả rồi kế đến là mẹ tôi. Bà ngoại tôi có tới chín người con, xưa cũng thuộc diện khá giả, nhưng nhà đông con, nên cơ bản vẫn phải tần tảo mới khỏi lo thiếu đói. Cả nhà bên ngoại, bác trai cả sớmđược cho ăn học, nhưng lại lười học, hay trốn học rong chơi nên cũng chẳng có bằng cấp và nghề ngỗng gì. Mẹ tôi lớn một chút đã phải phụ giúp quán cơm cho người bà trẻ ở phố Mã Mây, Hà Nội để thêm thắt giúp gia đình. Nhà ngoại tôi đông anh chị em, sau mỗi người mỗi hoàn cảnh, nhưng được cái đoàn kết, thương yêu và giúp đỡ nhau lắm. Đám giỗ bác Cả, các nhà đều có đại diện tham dự. Sau bác Cả, thì mẹ tôi và mấy dì liền kề cũng đã mất rồi. Buổi giỗ, ăn gọi là, chủ yếu chuyện trò nhắc những chuyện ngày xưa. Thế hệ anh chị em con chú con bác, đôi con dì, con cô con cậu trong chín người bên ngoại ngang hàng tôi cũng mấy chục. Đến nay, những ai đi làm nhà nươc cũng nghỉ hưu cả rồi. Năm đôi ba lần giỗ tết, ngồi với nhau, kể chuyện ngày xưa là phải thôi,
 
 
Những năm chiến tranh chống Mỹ Ngụy, có hai địa điểm tập trung trẻ con trong đại gia đình bên ngoại tôi, đông nhất, là ngôi nhà ngói đại khoa trong mảnh vườn rộng năm sào Bắc Bộ ở Chợ Đường Cái (Hưng Yên), và căn nhà bác Cả tôi sống, ngay mặt phố gần ngã tư Khâm Thiên (Hà Nội). Khi máy bay Mỹ còn ném bom ra miền Bắc, nhất là những đợt cao điểm, thì đám trẻ con con bác Cả và mấy đứa con cậu tôi ở Hà Nội, sơ tán về nhà bà ngoại tôi hết. Sau 12 ngày đêm tháng 12 năm 1972 máy bay Mỹ oanh tạc Hà Nội dữ dội, thủ đô yên hàn, Hội nghị Pa-ri được ký kết, thì mỗi kỷ nghỉ hè, đám trẻ con ở quê lại thay nhau ra Hà Nội chơi, và nơi tá túc là căn nhà của bác Cả ở gần ngã tư Khâm Thiên. Sỏ dĩ đám trẻ con quê thích được ra nhà bác Cả, bởi ở đây, thế nào đám trẻ cũng được bác Cả cho đi xem xiếc...
Với riêng tôi, có chút khác. Nhà tôi, trước nằm trong ngõ Trúc Lạc, thuộc phố Phó Đức Chính, tôi sống ở đấy từ lúc sinh ra đến năm 7 tuổi thì về quê. Thế nên, ký ức về phố phường luôn chập chờn trong tôi. Sau này, lớn lên, đi học, cứ mỗi kỳ nghỉ hè, tôi đều đòi bố mẹ đưa tôi ra nhà bác Cả, như để sống lại những năm bé tí mình còn ở phố. Ra chơi nhà bác Cả, thường là nửa tháng. Mỗi lần như vậy, tôi thích lắm, bởi không chỉ đám trẻ con bác, mà ở trong khu vực nhà bác Cả, mặt phố, sân sau, ngõ trong, cả thẩy có hơn chục gia đình, nên rất đông trẻ con. Các nhà ở đây gắn bó với nhau, bởi chiến tranh thiếu thốn và chết chóc, bởi cả khu dùng chung một vòi nước, một nhà tắm, một nhà vệ sinh công cộng. Va chạm nhau cũng nhiều, nhưng rồi mọi chuyện đều xí xóa hết. Ngày ấy, chỉ vật chất là thiếu thốn, chứ tình người thì thừa thãi. Chi chục nhà, nhung hơn ba chục đứa trẻ, tha hồ mà vui đùa. Tuy không gian chật hẹp của cái sân chung, lại bị chiếm dụng để các nhà đặt bếp than, rồi phi đựng nước sạch, rồi khoảng không trên cao là chằng chịt dây thép phơi quần áo, thì đám trẻ con vẫn biết thu xếp chỗ để chơi, các trò chơi dân gian ngày ấy như dánh chuyền, nhảy dây, chơi bi, chơi ô ăn quan...
          Niềm vui lớn nhất, ấy là được xem xiếc, mà là xiếc trung ương hẳn hoi. Ngày ấy, cái rạp xiếc trung ương đã tọa lạc ở một góc công viên Thống Nhất, đúng vị trí bây giờ. Như vậy, có thể suy ra, nó tồn tại ở đấy đã hơn nửa thế kỷ nay. Nhà bác Cả tôi làm nghề giặt là quần áo, nhà lại gần rạp Xiếc, chỉ ngang qua bến xe khách Kim Liên là đến. Rạp Xiếc Trưng ương, toàn bộ quần áo biểu diễn của các diễn viên và nhạc công đều mang thuê nhà bác Cả tôi giặt là. Vì là chỗ quen biết, thân tình, nên tất cả trẻ con của bác Cả tôi, cùng hết thảy đám trẻ con ngõ đó đều được vào xem xiếc miễn phí, tức là không phải bỏ tiền để mua vé. Không những thế, hầu như tất cả lũ trẻ con cháu trong gia đình bên ngoại tôi, trong đó có tôi, mỗi mùa hè ra chơi nhà bác Cả, đều được các anh chị con bác Cả đưa vào rạp, xem xiếc miễn phí. Năm nào cũng thế, đến nỗi tôi gần như thuộc lòng các tiết mục xiếc, lâu lâu rạp có một vài tiết mục mới, tôi cũng biết. Tôi còn thuộc cả điệu nhạc mở màn và điệu nhạc kết thúc mỗi buổi diễn, mà mọi người gọi đùa bản nhạc đó là “nhạc tính số tiền”. Ra đấy chơi, tôi nhanh chóng hòa nhập với đám trẻ lớn nhở ở đó, bởi dẫu sao tôi cũng đã sinh ra và có một số năm sống ở Hà Nội, nên dễ thich nghi. Thỉnh thoảng, có đứa đùa trêu tôi là “thằng nhà quê”, thì mấy anh chị con bác Cả lớn tiếng đứng ra bênh vực tôi ngay.
          Có một điều, mấy chục đứa trẻ ở đấy đều phải nể phục tôi, ấy là tôi có tài kể chuyện. Những chuyện từ Tam QuốcTây Du kýThủy Hử được tôi mang ra kể cho chúng nghe. Nhiều đứa trong số chúng nó, đã được xem phim “Tôn Ngộ Không đại náo thiên cung” và “Tôn Ngộ Không ba lần đánh Bạch Cốt Tinh” rồi, biết chút ít về Tây Du ký nên háo hức lắm. Buổi tối mùa hè, thời tiết nóng bức, vài chục đứa trẻ bắc thang leo lên sân thượng tầng hai, trải chiếu ngủ đêm ở trên đó cho mát. Gió trời mát rượi, lồng lộng trăng sao, tôi bắt đầu kể chuyện cho cả đám nghe. Ngày ấy, tôi hầu như thuộc hết cả Tam QuốcThủy Hử,Tây Du ký và một chuyện kiếm hiệp có tên là “Lục Kiềm đồng” dài cỡ nghìn trang. Tôi cũng không hiểu vì sao, ngày ấy, trí nhở của tôi lại tuyệt vời đến vậy. Khi kể, không những tình tiết câu chuyện, tôi còn thuộc cả những đoạn hội thoại trong truyện. Thường mỗi tối như vậy, tôi chỉ kẻ một, hai chương hồi gì đó. Cứ câu dầm thế. Có tối tôi mệt, hoăc giả làm cao không kể, khiến cả bọn phải nằn nì, thì tôi mới kể. Vì thế, chúng coi trọng tôi lắm. Đám con cái nhà bác Cả cùng lấy làm hãnh diện vì có một thằng em ở quê ra, mà lại làu làu sử sách, truyện cổ như vậy. Có đến vài ba mùa hè như vậy, mỗi khi tôi nghỉ hè ra chơi nhà bác Cả, đám trẻ hân hoan, và tôi bỗng trở thành trung tâm của bầy trẻ ở ngõ phố ấy... Trong đám trẻ ngày ấy, tôi có chú ý đến dăm đứa, trai thì hoặc nghịch ngợm hoặc có tài lẻ chi đó, còn gái, lẽ dĩ nhiên là đứa xinh xắn dễ thương...
          Trở lại câu chuyện trong đám giỗ bác Cả tôi. Nhớ chuyện ngày xưa, tôi hỏi thăm mấy đứa trẻ ngày ấy mà tôi còn nhớ mặt thuộc tên... Hỏi cậu H. thì bảo là đã chết. Anh chàng này dính vào buôn bán ma túy, ra tù vào tội vài lần, rồi dính tiếp vào các cuộc thanh toán lẫn nhau. Ngày ấy, H là đứa lớn nhất, khỏe mạnh và táo tợn, có lần, tôi làm cao không kể chuyện, H nài tôi không được bèn dọa “Mày không kể, tao bê mày lên rồi lẳng mày từ trể nóc nhà xuống đất”, khiến tôi sợ mà phải kể... Hỏi tiếp đến B. Gái, lại nghe bảo, cũng bệnh tật mà chết vài năm nay rồi. Cậu B này ngày ấy tuổi ngang bọn tôi, nhưng phổng phao như người lớn, da trắng môi đỏ bảnh trai thư sinh và đặc biệt điệu bộ và cách nói năng như con gái. Vậy nên, cậu ta mới có biệt danh là B. Gái. Lũ trẻ chúng tôi hồi đó chưa hiểu gì về tính lưỡng giới, chỉ nhìn điệu bộ bên ngoài mà gọi thế thôi. B. Gái ít hòa nhập, cậu ta có tài xiếc ảo thuật, nghe nói sau này có đi biểu diễn ảo thuật một thời gian, và cũng có vợ con hẳn hoi... B. Gái có một đứa em gái, cũng tên H, khá phổng phao xinh xắn. Mỗi khi kể chuyện, tôi hay nhìn vào gương mặt hồn nhiên của cô bé này. Cô bé sớm dậy thì, bố mẹ mất cả, lớn lên chút, loanh quanh thế nào dính chuyện có thai với cậu H ngổ ngáo, buộc thành đôi, nên duyên vợ chồng. Khi H dính chuyện ma túy thì vợ H thành người phân phối lẻ. Chồng tù thì vợ được cho tại ngoại để nuôi con. Giờ chồng chết, cuộc sống của gia đình họ bươn chải, vất vả lắm... Hỏi tiếp đến cậu Th, thì nói, nhà ấy đã chuyển đi nơi khác, vì góc phố nơi có nhà của Th. đã được sang nhượng cùng mấy chủ hộ khác, để người ta lấy đất xây bệnh viện tư nhân. Thảo nào, lâu nay mỗi khi ngang qua góc phố ấy, tôi thấy một bệnh viện tư mọc lên. Cái cậu Th. này xưa là cậu bé tốt tính. Nhà Th. có một chiếc xe ngựa kéo, bố cậu ta chuyên nghề chở thuê bằng xe ngựa. Ngày ấy, ở phố, nuôi một con ngựa thồ là chuyện không dễ chút nào với những phiền toái như chuồng nhốt, phân thải, cỏ rả làm thức ăn cho ngựa. Mỗi khi tôi kể chuyện kiếm hiệp, cậu chàng nghe chăm chú đến há hốc mồm, khuôn mặt thì mừng vui lo âu, biểu cảm theo tình tiết câu chuyện. Cậu ta hay rúi cho tôi khi thì thanh kẹo lạc, lúc mấy cái kẹo vừng, quà bớt lại mỗi khi cậu chàng theo bố áp tải xe ngựa...
          Những đứa trẻ ngõ phố nhà bác Cả tôi ngày ấy, mỗi tính mỗi nết, sau mỗi cuộc đời số phận. Vài đứa đã thành sương khói hư vô cả rồi. Ngẫm nghĩ mà buồn. Nhưng chẳng thể ước ao một cách vô lý, ấy là con người ta cứ mãi trẻ con, và cuộc đời cứ mãi gian khổ để mà người ta thương yêu, đùm bọc nhau!... Đoạn mặt tiền phố ít thay đổi, nhưng cả hai góc phố mỗi đầu, đều đã được người ta trưng mua để xây dựng công trình to hơn cho mục đích kinh doanh. Thế gian biến cải vũng lên đồi kia mà. Chín anh chị em con của bà ngoại tôi, đã non nửa đi vào cõi xa xăm, mấy cậu dì út cũng đã gần tám mươi tuổi. Kể từ ngày ấy, đã già nửa thế kỷ trôi qua còn gỉ. Mấy anh chị em con bác Cả và cái thằng tôi bé con hay chuyện ngày ấy, giờ đầu đã bạc cả rồi, và mỗi khi có dịp gặp nhau, quây quần, nâng ly rượu, lại bồi hổi nhắc chuyện ngày xưa !...
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.01.2019 10:35:16 bởi tamvanvov >

tamvanvov
  • Số bài : 807
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Dùng dằng phận cối, nhộ nhem phận nồi - 09.10.2019 17:12:42
Em một thời má đỏ,
Truyện ngắn của Nguyễn Chu Nhạc
Em một thời má đỏTa một thời long đong (Chỉ lửa là rất thật-NCN)
Anh lên Châu Mộc, theo lời mời của Quân, người bạn thân, cán bộ quản lý Văn phòng khu vực Tây Bắc của một cơ quan báo chí lớn. Quân sắp đến tuổi nghỉ hưu, vốn yêu mến miền đất thơ mộng này, muốn tìm một mảnh đất rộng để làm nhà vườn, đặng an nhàn tuổi già. Quân bảo: “Tôi biết ông cũng yêu quý vùng đất này chẳng kém gì tôi, cuối tuần ông lên đây chơi với tôi, cùng tôi tìm đất, biết đâu, ông cũng động lòng, kiếm một mảnh đất… Đồng bệnh tương lân mà, tôi và ông đều tương tư vùng đất này, bởi cả hai ta, cùng để lại nơi đây một mối tình dang dở, một thời… nhỉ”. Nghe vậy, anh cười: “Mối tình dang dở ư? Có thể với ông là đúng, song với tôi, thì chưa hẳn… Nhưng thật tình, tôi yếu mến miền đất thơ mộng này, có khi còn hơn ông!”. Cả hai cười vang.          Quân đưa xe về Hà Nội đón anh lên. Chiều cuối tuần, xe ngược lên châu Mộc. Qua Thung Khe, cơn giông kéo lên đầy trời, may là đầu hè nên không bị sương mù. Trời đổ mưa nặng hạt.  Quân lặng nhìn quang cảnh đồi núi gội mưa, cảm thán:”Tôi rất thích ngồi xe ngắm trời mưa, ông ạ”. Cậu lái xe nghe vậy hài hước: “ Ôi, sếp thích, nhưng em khổ sếp ơi. Lái xe đường núi trong mưa thế này, cực lắm, sếp à”. Chúng tôi phá lên cười, rồi lặng đi nhìn mưa rơi hồi lâu, hình như mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng. Anh chợt nhớ, động lòng thốt lên mấy câu thơ:” Ơi một thời khao khát/ Em thì còn trẻ măng/ Ngước cái nhìn ngơ ngác/ Ta vờ ngó vầng trăng/ Chỉ lửa là rất thật/ Bừng lên cháy hết lòng/ Em một thời má đỏ/ Ta một thời long đong”… Quân nghe, nói mơ màng như đẩu đâu ấy” Ừ,… đúng là em một thời má đỏ, … ông nhỉ?’. Anh cùng ờ như mơ hồ…          Mưa dứt từ lúc nào, xe lên tới cao nguyên Châu Mộc. Cao nguyên sau cơn mưa gột rửa, tươi mát yên lành trong màu xanh  mướt của ngô và chè. Những năm rồi, anh qua lại vùng đất này nhiều lần, nhưng mỗi lần mỗi ngỡ ngàng. Lần này, là sự ngỡ ngàng về vẻ tươi mới và có gì đó khang khác của cao nguyên mà anh chưa nhận ra.
          Lấy phòng khách sạn, tắm rửa sạch sẽ, mọi người đi ăn nhà hàng theo lời mời của một người bạn với Quân. Món ăn bản địa, ẩm thực Thái Mường lạ miệng. Cụng ly chúc tụng, nên ai cũng ngà ngà, một trạng thấy đầy hưng phấn. Anh cao hứng đọc thơ, là thơ tình, về mảnh đất này, nên mọi người đều vui lắm.          Đêm về, tưởng là ngủ được ngay, nhưng không ngờ, anh lại khó ngủ làm sao… 
#          Ngày ấy, cách đây gần bốn mươi năm rồi, anh đang học năm cuối đại học Nông nghiệp. Lớp của anh lên đây thực tập, đồng thời học nốt mấy môn học phù hợp với điều kiện thực tế của Nông trường Bộ ở đây.          Mấy chiếc xe khách Hải Âu đã chở đoàn sinh viên vượt dốc Cun, rồi Thung Khe lên với Mộc Châu. Ngày đó, khi xe ì ạch leo đèo, cả đám sinh viên, phần lớn quê các tỉnh đồng bằng, lần đầu lên miền núi, đã tranh nhau ghé nhìn qua cửa kính phong cảnh núi non hùng vĩ  của vùng cửa ngõ Tây Bắc, thích thú lắm. Khi đó, một chàng sinh viên lớn tuổi, là bộ đội chuyển ngành, cảm khái khi cất tiếng đọc mấy câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/ Heo hút cồn mây sung ngửi trời/Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống/Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, khiến mọi ngượi lặng đi…Ngày ấy, bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng chưa nhiều người biết, song sức gợi của nó thì cả người không yêu thơ cũng cảm thấy gai người. Đường sá nhỏ hẹp, quanh co,  nhiều đoạn xóc này người, rồi cuối cùng cao nguyên châu Mộc cũng hiện ra trong màn sương chiều se lạnh. Đêm ấy, mọi người được bố trí nghỉ ở nhà khách Nông trường Bộ, sau một buổi tối lang thang ra những nương chè. Thời gian cả lớp ở lại đây chừng mươi ngày để học nội quy chung, học nốt vài môn học, rồi sau đó chia ra từng nhóm nhỏ, về thực tập tại các đội sản xuất cụ thể. Dạo ấy, Nông trường Mộc Châu được chính phủ Cuba giúp đỡ xây dựng nên khang trang và quy củ lắm. Các đội sản xuất được phân chia theo các loại hình công việc chuyện biệt hoặc kết hợp, chẳng hạn chuyên trồng chè, chuyên trồng cỏ và nuôi bò sữa, hoặc kết hợp cả trồng chè và nuôi bò sữa…Anh được phân về một đội sản xuất cách xa trung tâm Nông trường Bộ chừng dăm cây số, chuyên về đồng cỏ và bò sữa. Từ trung tâm phải ngược dốc vào sâu tít nơi rải rác có những bản người Mường, người Thái, người Mông Hoa. Đội sản xuất này, có khoảng gần trăm công nhân, phần lớn chưa lập gia đình, ở tập thể tại khu lán trại đơn giản kiểu nhà cấp 4, giường tầng. Để nhường chỗ cho cánh sinh viên thực tập ở, các công nhân phải dồn lại, nhường riêng một khu nhà cho khách.Ở đội sản xuất này, chỉ có chừng gần chục nam giới, trong đó có vị Đội trưởng. Còn lại là nữ, chủ yếu độ tuổi trên đôi mươi, đều quê ở các tỉnh đồng bằng Bắc bộ như Hà Tây, Hải Hưng, Hà Bắc, Nam Hà, Thái Bình… Tay đội trưởng, tên Thiết, tuổi ngoài ba chục, đã có vợ con, và thật hợp với cái tên của mình, người y còi đen xắt lại, thêm hiếng một mắt, nhìn khá gớm ghiếc. Nghe đám công nhân nữ xì xào với nhau, y rất tinh ranh, ghê gớm và là một sát thủ tình trường. Cánh sinh viên thì bảo nhau, chẳng qua, thời chiến tranh vừa rồi, con trai mạnh khỏe ra trận hết, chỉ còn lại ít đàn ông đui què mẻ sứt ở nhà, nên của hiếm mà thành tinh thôi. Chuyện làng quê thời chiến thiếu đàn ông, không lạ, nhưng không thể sánh với chuyện nông trường thiếu đàn ông. Cái tỷ lệ, một đàn ông với mười đàn bà đang độ tuổi thanh xuân bị dồn vào một chỗ thì mới ghê gớm làm sao. Đàn bà sung sức, lại thừa mứa như thế, bị dồn nén nơi xó rừng, dễ làm họ rực lên…Mang tiếng nhiều phụ nữ như thế, nhưng ở đội sản xuất này anh cũng chỉ để ý và nhớ tên được mấy người mà thôi. Và đương nhiên, phụ nữ để nam giới thuộc mặt nhớ tên giữa đám đông ắt phải có gì đặc biệt, xinh hoặc xấu, hoặc tính tình có gì đó khác lạ. Người đầu tiên, để anh lưu tâm, ấy là Duyên, một kỹ thuật viên, cỡ tuổi anh, quê dưới xuôi, vóc dáng tầm thước, da nâu, gương mặt không hẳn xinh nhưng ưa nhìn và khá lạnh. Người thứ hai, là Hương, vóc dáng nhỏ nhắn, gương mặt khá xinh, hay cười nói, nhí nhảnh kiểu trẻ mới lớn. Người thứ ba, ấy là Lan, tạng người có da có thịt, gương mặt tròn trịa, hàm răng trắng đều, tính tình xởi lởi, dễ chịu. Và cuối cùng là Tẻo, tên xấu, người thấp lùn, gương mặt có gì đó dị dạng, lại mắc chứng điên tình. Ngày làm việc, rồi các bữa cơm tập thể, anh hay gặp họ, nhưng thi thoảng hỏi chơi mấy câu tầm phào, theo kiểu mà người ta hay nói cửa miệng là ”trai sinh viên, gái nông trường”, tán tỉnh chút cho vui . Với Duyên, cô gái này luôn giữ ý đúng mực giữa đám đông, không chủ động chuyện bao giờ, chỉ trả lời khi bị hỏi, và luôn có ý phòng thủ. Cánh nam sinh viên bảo nhau “con bé này kiêu lắm”, nhưng nghe đâu, cô đã từng yêu sâu nặng và rồi thất tình với một chàng sinh viên Hà Nội hào hoa nào đó, dạng về đây thực tập từ vài năm trước đó, nên tính tình sinh ra vậy.Với Hương, anh đã vài lần nói chuyện, thậm chí, đã có lần, anh cùng cô bé này ra đồng cỏ chăn bò. Buổi sáng, lùa bò ra đồng cỏ, thả rông để chúng gặm cỏ và vận động cho thoải mái. Nhũng con bò sữa lang trắng đen, giống của nước ngoài, điểm xuyết trên nền cỏ xanh, giữa quang cảnh núi non, trông thật thơ mộng. Hương thả bò rồi tìm một gốc cây có bóng mát ngồi, canh chừng. Có anh bên cạnh, cô hát véo von, hết bài này sang bài khác. Anh cũng dở bài tán, đọc lên mấy câu thơ tình của mình, khiến cô bé thich lắm. Cô khen thơ hay rồi bắt đọc thơ nữa, nhưng anh thì lại chán. Anh vờ chiều nhưng cũng không thích cái tính trẻ con của cô bé. Tuổi đôi mươi, học hết cấp hai rồi lên đây, tính trẻ con là phải thôi. Riêng cô bé này có biệt tài, dăm chục con bò cô chăn thả, cô thuộc dáng hình của từng con, đến mức ở rất xa, hễ chỉ đến con nào, cô cũng đoán trúng phóc tên số của con ấy. Anh đã thử tài cô mầy bận và cô chưa bao giờ sai.Còn với Lan, anh chuyện trò nhiều hơn cả, bởi tính cô xởi lởi, tự nhiên, không né tránh kiểu Duyên và cũng không làm ra vẻ trẻ trung hồn nhiên như Hương. Lan quê Thái Bình, kém anh  vài tuổi và đã có thâm niên tại nông trường dăm năm rồi. Một sáng chủ nhật, khi anh vẩn vơ bên đường, có ý quan sát quang cảnh, thì bắt gặp Lan. Cô rủ anh cùng đi hái nấm với cô, anh vui lắm. Lan bảo, mùa hè, sau những ngày có mưa, nấm sẽ mọc nhiều. Điều này thì anh hiểu, vì hồi còn ở quê, những ngày mưa nhiều, khi đi thả trâu cùng đám trẻ làng, anh cũng đã từng lấy được nhiều nấm, loại nấm cỏ, từng cái to nhỏ như trứng gà, như củ khoai tây nảy nhan nhản ở sườn bờ mương. Hái về, thái thành lát xào lên, hoặc xắt đôi kho kỹ với tương, ăn rất ngon. Anh và Lan tha thẩn trên đồng cỏ, vừa dõi mắt trên mặt đồng cỏ tìm nấm, vừa hỏi chuyện nhau. Cô kể, hồi ở quê, thỉnh thoảng được đi xem chiếu phim, thấy cảnh nông trường ở Liên Xô, có những cánh đồng lúa mì bát ngát, những đàn bò sữa cao lớn gặm cỏ nhởn nhơ trên thảm cỏ xanh bao la, thì cô thích lắm, ước ao một ngày kia thoát ly khỏi làng que nghèo, trở thành công nhân nông trường. Vậy khi có người làng sống ở trên này, về thăm quê, bảo ở đây đang tuyển công nhân nông trường, giống như cảnh phim cô đã xem thì cô háo hức muốn đi ngay. Và cô đã trở thành công nhân nông trường Châu Mộc. Tuy không đẹp mơ mộng như phim ảnh thì công việc cô đang làm cũng tạm ổn. Chỉ mỗi tội, ở đây ít nam giới, mà chị em thì quá đông. Lan bảo, ông giám đốc nông trường thương các cô lắm. Có lần ông nói vui rằng, nếu pháp luật cho phép đàn ông được lấy nhiều vợ, thì ông sẽ lấy mười vợ để giúp một số cô có gia đình. Lại có lần, ông giám đốc bảo, cứ tình cảnh này thì các nữ công nhân bỏ nông trường về quê lấy chồng hết, rồi ông lại ước ao, ở gần đây, có vài đơn vị bộ đội thì tốt quá. Ông giám đốc, còn kêu gọi các chàng sinh viên hãy lưu tâm giúp ông điều đó, tuy nhiên, không phải là cái cách, mỗi đợt sinh viên về thực tập, kết thúc mỗi đợt, để lại vài ba cô công nhân bụng mang dạ chửa và sau đó là những đứa trẻ không cha…mà phải thực sự gắn bó với nông trường, lấy vợ và ở lại đây.  Đấy là những gì Lan nói cùng anh khi hai người đi hái nấm với nhau. Chốc lát, chiếc làn cô mang theo đã đầy ắp những trái nấm trắng ngà nhìn thật ngon mắt. Trời đang nắng đẹp chợt mây đen kéo lên rất nhanh, và cơn mưa bóng mây đổ xuống, hai người vừa chạy vừa cười đùa, khi trú được vào một lán trại thì quần áo cả hai gần như ướt hết. Lan tỏ ra ái ngại khi quần áo ướt bết vào thân hình cô. Biết cô ngượng, anh vờ nhìn lảng ra đồng cỏ, song thế cũng đủ để cảm nhận được sự hấp dẫn toát ra từ dáng vè thanh xuân đầy sức sống nơi cô. Cầu vồng bảy sắc bừng giăng chân dãy núi xa xa, anh nhìn trộm Lan và vờ nhìn cầu vồng than:’Tưởng mưa bóng mây thì nhanh, nhưng không ngờ lâu tạnh thế nhỉ?”. Cô chỉ ầm ờ, lén gỡ từng mảng quần áo ướt bết vào người, mặt đỏ bừng…#Và một lần, nhóm sinh viên của anh trực kỹ thuật đêm. Đêm ấy, Lan là công nhân trực kỹ thuật chính. Chập tối, Lan thông báo, rất có thể đêm nay, sẽ có bò đẻ, bởi theo bảng theo dõi kỹ thuật và thăm khám thực tế, khả năng sẽ có vài con bò mẹ sinh nở nay mai. Thế nhưng, anh bạn cùng ca trực với an bảo là thấy người ơn ớn như sốt, xin về trước vì ngại sương đêm sẽ ốm. Vậy là, chi còn lại có anh và Lan, nên anh có chút gì đó hồi hộp... Lan luôn chân luôn tay, nhóm bếp củi rồi bắc lên một nồi nước to, nói là để có nước sôi sát trùng dụng cụ, chuẩn bị cho bò đẻ. Anh ngồi canh chừng bếp lửa, thêm củi, gạt tàn. Đêm mùa hè mà sương dày đặc. Anh hỏi bâng quơ:- Này em, mùa hè ở đây lạnh vậy sao?- Khí hậu cao nguyên mà anh… Thế mới nuôi được bò sữa chứ, anh  - cô cười – Ôi, em quên mất, anh là kỹ sư đến nơi rồi mà em lại đi giải thích cho anh. Em xin lỗi nhé. Cô cất miệng hát một đoạn chèo, hình như điệu Đường trường thu không thì phải, nghe man mát buồn...Thấy anh vẫn ngồi im lặng, Lan gợi chuyện:- Em hỏi đùa nhé,... anh tên Mạnh, nhưng sao cứ nhan nhát làm sao ấy... Dáng dấp thì  thư sinh ... cứ như là... con gái ấy – Cô lại cười – Hay là, anh ...Lan bỏ lửng, lại hát tiếp câu chèo đang bỏ lửng.- Thì bố mẹ mình để mãi toàn con gái, út ít đến mình là trai, nên đặt tên vậy cho vẻ khí thế... Cha mẹ sinh con, trời sinh tính mà...Anh cũng đang cố làm cho mạnh mẽ đây – Anh chống chế, đùa lại.- Thì cứ như em đây, tên khai sinh trong giấy tờ là Lang, khoai lang ấy. Chả là mẹ em đẻ rơi em ở ruộng khoai lang, nhà đông con nên đặt tên là Lang cho dễ nuôi, mà anh. Tên làm sao, người bao hao làm vậy, thế nên người em giờ cứ nuột nà nhẵn nhụn như củ khoai lang đấy thây – Cô cười to khiến anh cảm thấy thoải mái, dễ chuyện hơn – Bọn con gái ở đây trêu em, bảo là, ai lại tên Lang, khoai lang cơ chứ, quê mùa chết ấy. Thế rồi, chúng nó cắt của em cái chữ “g” thành ra Lan. Gọi thế hay anh nhỉ? Mà anh có thấy, ở đây, hoa phong lan rừng đẹp tuyệt vời không?... Giờ thì mọi người ở đây toàn gọi em là Lan thôi...- Cô dừng chuyện, giọng buồn buồn -  Này anh, nghe nói hôm trước, cái con bé Tẻo nó xông vào chỗ các anh quấy quả đấy à?- Ừ, … nhưng mà…nghe nói cô ấy bị căn bệnh oái oăm gì thì phải?- Vâng anh, chẳng rõ, nhưng người ta bảo nó điên tình... là cái bệnh phát do thiếu đàn ông ấy. Nó phát bệnh như vậy mấy lần rồi… Rõ khổ cái Tẻo, người gợm như vậy, đàn ông nào nó màng. Đến như chúng em đây, nghĩ chẳng đến nỗi nào mà cũng chẳng có ma nào thèm ngó nữa là... Lâu lâu, rồi bọn em cũng đến phát bệnh như nó mất... Lan như xịu xuống. Quả là, vài hôm trước, tối muộn, khi cánh con trai tán gẫu chán chê, đang định đi ngủ, thì của nhà bật mở tung. Tẻo xông vào, miệng huyên thuyên không rõ, choàng ôm chặt một cậu giường gần ngay cửa vào. Cậu ta sợ quá, vùng người gỡ tay Tẻo ra nhưng cô này ôm chặt quá, miệng cô lại sùi bọt như người lên cơn động kinh. Mấy cậu khác sợ quá, ré lên, quáng quàng nhảy bắn ra khỏi nhà. Một cậu liều xông vào gỡ giúp cậu kia, gỡ được rồi cùng bỏ chạy hết ra ngoài. Tẻo gầm gừ, chừng mắt đuổi theo, cho đến khi mấy cô công nhân chạy đến, ôm ghì và lôi Tẻo về khu nhà nữ công nhân. Anh cũng hoảng, lần đầu tiên biết thế nào là điên tình. -Giá cứ sống ở quê, tuổi này như em chắc con bồng con bế cả rồi. Nghe nói ở quê, chiến tranh hết, mấy năm nay, bộ đội phục viên, xuất ngũ về đông lắm. Dẫu chẳng được người lành lặn, thì thương binh, cụt chân cụt tay cung chả sao, miễn là còn cái ấy... Lan nhìn anh cười - Biết đâu lại vớ được chàng trung úy cũng nên,- và cô cất tiếng hát đùa “ tình tang tình, em đi rình trung úy…”Cô cười to khiến anh bật cười theo, thú vị :- Người như em, kiểu gì mà chẳng lấy được chàng trung úy, mà thiếu tá cho oách, em ơi... Nhưng mà thôi, chẳng lẽ. giờ bỏ về? Chịu khó ở đây săn một chàng kỹ sư nào đó, em ạ.- Vậy à? Em chẳng tin – Cứ  hết đợt sinh viên này về, rồi đi... rồi lại đợt khác, mà có đứa nào bắt chết được ai đâu... Giọng cô buồn hẳn – Đấy, cứ như cái Duyên, anh biết rồi đấy, xinh và duyên thế, năm trước có một chàng kháu đáo để, ngỏ lời yêu nó. Những tưởng mặn nồng, cưới nhau đến nơi rồi, mà nó cũng được chàng đưa về tận thủ đô thăm nhà, giới thiệu với cha mẹ... Nhưng rồi, nàng trở lên, ỉu xìu, thất tình, nghe nói chàng vẫn thiết tha lắm, song cha mẹ thì đâu có chấp nhận cô con dâu là công nhân chăn bò nơi xó xỉnh rừng xanh núi đỏ, cơ chứ?...Lan bỏ lơi câu chuyện, nhưng thấy anh lặng lẽ cời củi bếp, lại tiếp:- May mà, còn chưa kịp vác cái trống ỏng, kẻo ê mặt mà lại nuôi con một mình – Lan chép miệng – Cũng chẳng biết thế là may hay không... Có khi, có thai, kiếm được đứa con, nếp tẻ gì cũng được, phòng thân, ngộ nhỡ sau này “chống ề” thì cũng có đứa con nương tựa tuổi già...Quả là, chuyện này, anh không dễ nói, vì chính anh nay cũng đã thành người của câu chuyện đó rồi. Biết nói gì, thanh minh cho người ta à? Còn anh thì sao, nếu ở vào hoàn cảnh như chàng sinh viên nọ?- Anh biết không, có mấy chị lơn lớn tuổi ở đội này, cũng đang nuôi con một mình đấy. Anh để ý, có vai ba ngôi nhà tranh bên rìa đường đi vào bản người Mông, là nhà của các chị ấy đấy. Nhỡ có con rồi , sinh hoạt tập thể cũng khó, nên Nông trường cám cảnh, cho mượn đất làm nhà tạm để ở... - Lan tiếp câu chuyện.- Thế có biết cha mấy đứa trẻ là ai không? Họ có biết và quan tâm đến chuyện này không? Anh thăm dò.- Em cũng chẳng rõ nữa ...- Cô xa xôi, rồi giọng tự nhiên đanh lại – Thà có con rơi với các chàng sinh viên, còn đáng hơn có con với con khỉ đột gớm giếc ở đây...- Là em... muốn nói tới tay Thiết, đội trưởng phải không? Anh dò đoán vì ít nhiều nghe mọi người rì rầm về con người này.- Đồ khỉ đột. Gớm giếc lắm... – Cô như nghẹn giọng - Hắn chăn bọn con gái, nhất là đứa nào người gợm mặt mũi sáng sủa chút,… hắn giống như chuyện con dê đực, sáng ra đứng cửa chuồng canh từng con cái một để làm cái chuyện súc vật ấy..- Đến vậy sao? Anh ái ngại, so người, bất lực. Chẳng hiểu Lan có nhìn thấy bộ dạng và cử chỉ của anh không?- May mà, năm nào cũng có những đợt sinh viên về đây thực tập. Có các đoàn khách, lão ta đành bớt đi, giả bộ xởi lởi, là sợ mang tiếng này nọ đấy thôi. Còn không, chỉ có người ở đây với nhau, lão ấy dữ lắm, như quỷ ám ấy, anh ạ. Các anh về đây bao lâu, bọn em được dễ thở và thoải mái bấy nhiêu... Ngay như tối nay, vì lão ấy nghĩ em trực cùng một nhóm vài ba người, chứ mà biết chỉ còn em và anh thôi thì thế nào lão ấy cũng mò ra... Mà cũng chả biết đâu, lão ấy lại lù lù xuất hiện ngay bây giờ, cứ như ma xó ấy - Cô nói giọng ớn lạnh, anh nghe cũng gai người.- Chắc là... lão ấy thích em?... – Anh nói nhỏ và có gì đó như ghen tuông - Đúng thế chứ ?...- Cũng chẳng rõ ... Em ghê sợ lão ta – Em chẳng được cứng cõi như cái Duyên, nó đã thẳng thừng cự tuyệt lão ấy. Lão ấy thích nó lắm. Không xơ múi gì, nên lão ấy căm nó, anh ạ. Em thì ... em, cứ sờ sợ là...- Sợ gì lão ấy, còn có ... mọi người - Anh xuýt buộc miệng- còn có anh,- thì kịp ngưng, đổi cách nói.Thực tình, anh làm gì có sức, có quyền, có điều kiện và kể cả sự can đảm kiểu “người hùng cứu mỹ nhân” cơ chứ?!... Vả lại, anh có định ăn đời ở kiếp đây đâu, chẳng qua, vài tháng thực tập rồi về. Hoặc giả, có anh hùng anh trưởng, ra mặt bệnh vực cô thì chỉ tội mua thù chuốc oán cho cô mà thôi. Nghĩ vậy, máu yêng hùng trong anh dịu lại. Lan chuẩn bị xong công việc, cô lấy đâu ra mấy bắp ngô, củ sắn, ra bếp lửa ngồi bên anh, lặng lẽ cho ngô và sắp vào bếp than hồng nướng.- Thức đêm là hay đói lắm anh à. Anh em mình chịu khó nướng, lát nữa ăn – À, nếu có bò đẻ, mai kia em sẽ chiêu đãi anh món sữa đầu. Ngon lắm anh ạ. Anh đã ăn sữa đầu bao giờ chưa? – Rồi không đợi anh trả lời –cô liến thoắng – Sữa đầu không lấy làm thương phẩm được vì nó quá nhiều chất béo, dễ sinh men làm hỏng sữa, nên mọi người được lấy ăn thoải mái. Chỉ cần nấu chừng khoảng bảy, tám mươi độ là nó đóng bánh đặc sệt lại, bổ và ngon tuyệt.Anh và cô, lặng lẽ nướng ngô sắn. Anh liếc trộm, má cô đỏ hồng lên, gương mặt tròn xinh có phần quyến rũ, mắt to đen nhìn vào ngọn lửa đầy xa xôi. Lòng anh dâng lên một mối thương cảm. Bản thân, anh đã trải qua mối tình đầu, từng thất tình và thất vọng, anh hiểu được sự trống vắng, cô lẻ. Cứ mãi nơi này, tìm đâu ra một bóng đàn ông cho ra hồn? Rồi anh lại tự hỏi mình, với Lan, tình cảm của anh ra sao? Anh có thích cô không? Rõ ràng là có. Nhưng anh cũng thích và còn để ý đến Duyên, đến Hương. Vậy tức là anh chơi trò phiêu lưu theo kiểu tìm cảm hứng tình cảm thoáng qua rồi. Thực lòng, anh có bị cuốn hút bởi vẻ đẹp lành  lạnh, xa cách và bí ẩn của Duyên, song anh cũng thích sự thân thiện, xởi lởi, chân thành và sự khỏe mạnh đầy nữ tính của Lan. Còn về tương quan, rõ ràng, anh và Lan hay chuyện trò và gấn gũi, thân tình với nhau hơn. Giờ đây, anh được ngồi sát bên cô, cảm nhận được sức hút, mùi vị đàn bà từ nơi cô, trong một phong cảnh nên thơ huyền bí như ảo, đồng cỏ mênh mông chìm trong sương đêm, se lạnh, trăng muộn cuối tháng mờ tỏ đầu núi, bếp lửa bập bùng... Cảm nhận sự gần gụi, anh lại nghĩ xa... Lúc mới lên đây, còn ở nhà khách Nông trường Bộ, anh đã từng bắt quen với một dược sĩ nghiên cứu sinh điển trai  lịch thiệp đang là nghiên cứu sinh về cây dược liệu cho đề tài Phó tiến sĩ của anh ta; rồi anh cũng đã xem đoàn làm phim lên đây quay nhiều cảnh cho bộ phim truyện về đề tài vận động người Mông vào nông trường, với cô diễn viên xinh đẹp thủ vai chính; rồi chính anh, bắt gặp chàng dược sĩ và nàng diễn viên xinh đẹp sóng đôi tình tứ đi chơi đêm hút bóng vào đồng cỏ; lại cũng anh, chứng kiến cảnh một anh chàng cao to đẹp giai râu quai nón như tài tử xi-nê nước ngoài, từ Hà Nội lên, chẳng rõ là chồng hay người yêu của nữ diễn viên nọ, cãi cự nhau, động thủ kiểu ghen tuông... Tình yêu và tình dục, là vậy ư?... Giờ đây, anh và cô, như hút vào nhau. Ban nãy, cô đã đùa trêu anh, tên là Mạnh nhưng lại đầy thư sình và nhát quá đấy thôi... Cô cũng nói chuyện, nhiều chàng sinh viên về đây, khi về xuôi đã để lại giọt máu rơi của mình,... rồi cả chuyện, các nữ công nhân chủ động kiếm đứa con phòng nương tựa sau này... lại cả chuyện tay Thiết quỷ ám, luôn rình rập, gạ gẫm các nữ công nhân, trong đó có cả cô... Hẳn là, cô có ý bóng gió, xa xôi? Chắc là, cô đang muốn điều gì đó ở anh?Lan lấy ra ngô và sắn  đã chín – Anh ăn đi, nóng mới ngon – Giục anh ăn, cô thừ người, rồi như nén tiếng thở dài, cất giọng hát một đoạn chèo điệu sử rầu buồn thảm, trong vở Quan âm Thị Kính, khi Thị Kính phải đi xin ăn để nuôi con của Thị Màu… Anh ăn ngô nướng, nghe mà lòng nghẹn thắt, khó nuốt... Có gì như trách cứ, ai oán... Cô trách anh sao?  Trong khi anh lại ý thức trách nhiệm, vì nhà trường đã phổ biến nội quy thực tập, đặc biệt lưu ý, các sinh viên nam phải giữ mối quan hệ nghiêm túc, đúng mực với các nữ công nhân nông trường, tránh việc quan hệ nam nữ bừa bãi ngoài hôn nhân, và nếu ai vi phạm, tuy mức độ mà xử phạt, có thể không cho thi tốt nghiệp, hoặc đuổi học. Nghĩ mà kinh.Cô bỏ lửng câu hát, nín thinh, rồi nghe như có tiếng nức nở. Anh se sắt thương cảm, lại có gì đó bừng dậy sức nóng đàn ông...- Thương Thị Kính, anh nhỉ ... nhưng Thị Màu còn tội nghiệp, đáng thương hơn, ... nàng ta có lỗi gì đâu... anh nhỉ?...- cô cảm động.Anh bừng tỉnh, choàng tay qua người cô, kéo riết về phía mình– Không sao mà – Anh chỉ nói được có thế - Cô ngả hẳn đầu vào bờ vai anh. Anh vuốt tóc, chạm vào má cô, cảm nhận được những giọt nước mắt. Bàn tay cô dẫn dắt bàn tay anh tìm kiếm... Anh mụ mị đi và hai người xoay lại ập vào nhau, nụ hôn dính chặt, những cánh tay xoắn xuýt, cái ghì xiết lại...- Ôi thôi chết,... – Cô bừng tỉnh, gỡ môi khỏi cái hôn nghẹt thở, ngơ ngác, thất thần... – Anh ơi, con bò sắp sinh rồi !...Cô vùng khỏi vòng tay ôm của anh, cuống quýt, chân tay luýnh quýnh như thừa, không biết phải làm gì. Anh choáng váng, vẫn u minh chưa hiểu ra sao. Cô giục anh:- Anh vào đây, giúp em với, bò mẹ đang sinh. Em vừa thoáng nghe tiếng bò mẹ, em biết...Cô chạy vội vào chuồng ngay cạnh đấy, nơi nhốt con bò mẹ đang sinh, khi anh vào đến nơi, thấy cô đang loay hoay, đỡ phần đầu và hai chân trước con bê đã thòi ra giữa hai chân sau con bò mẹ. Chấn tĩnh, cô tỏ ra thành thạo với công việc, anh thì loanh quanh vòng ngoài, chờ cô sai bảo việc gì thì làm theo việc nấy. Tự thân, thấy ngường ngượng, nghĩ mình sắp thành kỹ sư rồi, ngoài mớ lý thuyết suông ra, thực tế công việc thì phụ giúp cho cô không xong. Ca sinh suôn sẻ, chú bê ra ngoài, lóng ngóng một chút cũng đứng lên được khi cô nâng đỡ. Bò mẹ liếm láp cho con vẻ an lành, trìu mến, và bê con đã biết rụi đầu vào bụng, tìm vú mẹ.  Cô dọn dẹp cho sạch sẽ. Anh quay lại bếp lửa thì khẽ giật mình khi thấy tay Thiết đội trưởng đã lù lù ngồi đấy rồi. Anh khẽ chào. Hắn nhìn anh bằng con mắt rưỡi, đầy vẻ dò la, nghi ngờ, mặt lạnh như tiền bảo:- Tôi đến đây từ nãy, không đánh tiếng, thử xem anh chị làm ăn thế nào. Ca đẻ suôn sẻ nhỉ. Được đấy, cô Lang ơi...Hắn nói to, gọi cô bằng tên tục. Lúc ấy, cô mới biết sự có mặt của hắn, và vâng dạ cho qua chuyện. Hắn nhìn anh chằm chằm, ỡm ờ:- Này cậu, ca trực của sinh viên các cậu tối nay, tưởng có mấy người cơ mà, sao lại chỉ mỗi mình cậu vậy?Anh giải thích sơ qua lý do sao lại có mình anh trực, hắn ngúc ngắc cái đầu nhỏ như chim sẻ, nhìn cô, dò trống không:- Chắc không có chuyện gì chứ ? Cô, cậu?- Chuyện gì là chuyện gì ạ? Em không hiểu – cô bình thản, và hình như cô cố giấu đi cái cười mỉa.Anh không sợ gì hắn, nhưng trong lòng cũng sinh ái ngại. Hồi nãy, nếu bò mẹ không sinh con đúng lúc ấy, thì không biết, trong vòng ôm của nhau, anh và cô sẽ ra sao ? Rồi hắn xuất hiện, bắt quả tang hai người... và làm toáng lên... rồi nữa, chuyện này sẽ đi đến đâu?... Anh nhìn cô, nhìn hắn, cố làm như vô sự. Hắn bảo:- Thôi khuya rồi, công việc cũng xong rồi... Cậu về đi, không phải trực nữa. Tôi đợi cô Lang dọn dẹp xong rồi về sau – Hắn đuổi khéo anh.Điều anh lo ngại, là anh về rồi, chỉ còn hắn với cô, hắn sẽ làm gì cô? Cưỡng bức chăng, khi rõ ràng hẳn tỏ ra ghen tức với anh, và thái độ của hắn có gì đó đầy mưu mô, thủ đoạn? Anh nhìn cô dò hỏi. Cô vẫn bình thản, lấy mảnh giấy báo, gói mấy bắp ngô và củ sắn đã chín, đưa cho anh, nhìn thẳng vào mắt anh cái nhìn như ra hiệu rằng hãy yên tâm:- Xong cả rồi, anh Mạnh về đi, anh cầm cả gói ngô sắn nướng này về cho mấy anh chị sinh viên cùng ăn. Em cũng xong ca trực rồi, về luôn đây. Anh yên tâm, em không sợ ma đâu... – Cô bật cười – mà có anh Thiết đây,…ma nó cũng sợ mất vía. Anh Thiết nhỉ?- Vâng... hắn xẵng giọng – Các cô ở đây, tôi thấy, có cô nào sợ ma đâu,... Còn cô, ma nó sợ cô thì có...Anh ôm bọc ngô sắn trong tay, bước thấp bước cao. Quãng đường từ trại trực về chỗ anh ở chỉ già trăm mét mà anh đi mãi, bởi chốc chốc, lại ngoái đầu nhìn về hướng trại, nghe ngóng, xem có động tĩnh gì không. Về đến khu nhà ở, anh nép vào đầu hồi ngầm quan sát, cho đến khi nhác thấy bóng hai người đi về gần đấy, và anh nghe tiếng cô nói chuyện khá to, cứ như là thầm báo với anh, rằng cô không sao, chằng có chuyện gì xảy ra…Đêm ấy, anh mất ngủ, đầu óc cứ ong ong những gì vừa xảy ra ... Anh thiếp đi và bừng tỉnh dậy, lắng nghe, trời còn tinh mơ. Anh nhẹ ra khỏi giường khi mọi người vẫn còn ngủ. Mở cửa nhìn ra, trời đất thảo nguyên ban mai thật tinh nguyên...

#  Cũng như đêm năm nào, anh khó ngủ, cứ miên man trôi dạt trong dòng ký ức. Đêm năm nao mất ngủ, khi ấy, anh chộn rộn bởi sự bột phát tình cảm và lo lắng cho cô bị tay đội trưởng ma quỷ xâm hại. Giờ đây, là sự thức dậy của tiềm thức và sự chiêm nghiệm cuộc đời. Anh đã trải qua những mối tình, được mất, cuộc sống cũng thành bại, đây đó. Cao nguyên châu Mộc không còn sự tinh khiết, trinh nguyên và hoang sơ của ngày xưa, mang vẻ đẹp mộc mạc của cô gái quê pha chút rung núi, còn bây giờ có vẻ đẹp của sự kiến tạo, kiểu vẻ đẹp của thiếu phụ biết son phấn ăn diện và làm dáng. Non sông thay đổi là thường tình, nhưng lòng anh thì đã đằm một châu Mộc xưa cũ rồi.  Mươi năm gần đây, do tính chất công việc, năm nào anh cũng ngang qua vùng đất thảo nguyên này vài ba lần. Cũng có đêm ngủ lại, cùng đó là các cuộc rượu say nghiêng ngả. Nhớ có lần, trong một tiệc vui, anh có khoe, mình đã từng thực tập ở đây, rằng này nọ. .. Chuyện sinh ra chuyện, có một cậu thanh niên điển trao nhận vui, bảo:” Này bố…có khi bố là bố đẻ của con đấy… Ngày xưa, bố thực tập ở đội ấy chứ gì, mẹ con cũng là công nhân ở đội ấy đấy… Tính thời gian bố ở đấy, so với tuổi con hiện nay, rất có thể, con là con rơi của bố, bố ơi !...”. Rồi cứ một lần gọi “Bố”, cu cậu lại chuốc anh một chén rượu. Hăng lên, anh cũng gọi cậu ta là “con”, rồi cả tiệc cụng ly, reo hò rôm rả, bảo chúc mừng cho bố con nhận nhau. Lúc say, cu cậu rụi đầu vào vai anh lè nhè: “Bố ơi, bố còn miếng đất nào ở Hà Nội không? Bố cho con nhé… Con sẽ đưa mẹ con về dưới ấy… sống cả đời trên này,…chán lắm rồi, bố ạ… Cho bõ cái công, bố bỏ rơi hai mẹ con ngần ấy năm trời…”. Anh say, cứ ầm à cho qua chuyện. Cu cậu nhè nhè: “Hay là…Bố sợ con đòi đất à?... Thôi, đất cát, chuyện ấy tính sau… Hôm nay, nhân bố con mình gặp nhau,… bố là bố cứ kỷ niệm thằng con giai bố quả máy ảnh G11 này,..”. Miệng nói, tay cu cậu giằng giằng chiếc máy ảnh đeo lủng lẳng trước ngực anh. Chuyện vui là vậy, nhưng anh cũng đã ngầm hỏi đây đó, xem còn dấu tích gì của Lan không. Nghe đâu, cô lấy chồng vài năm sau đó, giờ nhà cửa con cái ở đấy, cũng gần nơi đội sản xuất cũ. Giờ đây, nông trường sản xuất tập trung xưa cũ không còn, thay vào đó là công ty cổ phần, đât đai, nương chè, đồng cỏ, bò sữa đều giao khoán hộ. Chuyện về cô nghe vậy, song chẳng rõ thực hư, nhưng thời gian quá lâu, nên giờ đây nghĩ lại, chỉ chút xao lòng, nhẹ như một tiếng thở dài… Khó ngủ lại hay dậy sớm. Sáng ra, anh tỉnh ngủ, kéo của kính phòng nơi tầng cao khách sạn, nhìn ra xa. Vẫn còn đó những cánh đồng chè, nhưng nhà cửa đã san sát. Cứ tốc độ này, nếu không gìn giữ, thì chẳng mấy Châu Mộc sẽ mất đi thứ quý nhất, ấy là khí hậu cao nguyên đặc trưng, sương mù và se lạnh ngay giữa mù hè. Anh nhìn quanh quất, thử tìm hướng đi vào đội sản xuất năm xưa anh thực tập. Anh mất phương hướng bởi giờ đây chẳng còn gì dấu vết xưa. Cảnh thay thì người cũng đổi là thế.  Sau bữa ăn sáng, anh cán bộ địa chính đến khách sạn, đón đoàn của anh đi thăm khu di tích Trung đoàn Tây Tiến mới được xây dựng vài năm nay. Rồi nữa, ghé thăm thác Giải yếm, một thác nước rất đẹp đang được khai thác thành khu vui chơi giải trí. Gần trưa, cậu cán bộ địa chính mới đưa Quân đi tìm đất mua làm trang trại. Loanh quanh vài ba chỗ, Quân xem có vể không thích. Định thôi thì chợt anh cán bộ địa chính nhớ ra, dẫn mọi người loanh quanh một hồi nữa, đến một khu vườn trại, phía trước là tường cao, có cồng ra vào chắc chắn. Người chủ bán đất vưa kịp phóng xe máy đến, dẫn Quân và cậu địa chính vào xem đất vườn. Nắng lên, mệt vì đêm qua mất ngủ, anh ngồi lại trong xe, lim dim ngủ. Chợt anh nghe tiếng người nói to, choàng tỉnh. Nhìn ra, trước cổng vườn, Quân và anh địa chính đang nói chuyện với nữ chủ vườn. Nhìn kỹ, anh ngây người bởi cô chủ giống Lan quá. Lúc nãy, cô mặc áo chống nắng, kính râm và mũ bảo hiểm che kín nên anh không tường mặt. Có lẽ nào là Lan, cô công nhân anh quen biết ngày nào? Người thì giống, tính độ già đi sau từng ấy năm cũng tương đồng. Duy chỉ có tên thì không đúng. Anh nghe rõ cậu địa chính gọi chủ vườn là Linh. Còn cô, tên Lan, và gọi theo tên tục là Lang, đâu phải là Linh. Không phải chăng? Hay cô lại đổi tên? Hoặc giả, vì lý do nào khác nữa? Anh chộn rộn, khó tả. Chưa định thần, thì mọi người chào chia tay nhau và cô chủ đóng cổng khuất vào bên trong. Trở lại xe, Quân khen đất được, nhưng mua hết thì nhiều tiền quá. Quân phân vân, bảo sẽ rủ người chung vốn mua cả khu vườn trại, rồi vui miệng rủ anh. Hay là, anh nảy ý định, nếu Quân quyết, anh sẽ chung mua. Biết đâu, gặp lại, đúng là cô ấy?... Ngày ấy, anh không quên Lan. Sau đêm đó, chừng hơn nửa tháng, nhóm của anh rút về Nông trường Bộ, thị trấn Nông trường ngày nay. Có lần, trước khi về xuôi, anh và mấy đứa bạn thân rủ nhau đi thăm bản người Mông. Bọn anh đi nhờ được xe tải của quân đội. ngang qua đó, song lúc về, phải đi bộ, anh nán lại, tranh thủ ghé vào thăm. Chỉ gặp Duyên và Hương, còn Lan lại ra chơi thị trấn thăm nhà người quen từ sang, chưa về. Không gặp lại cô, anh buồn, không hẳn vì nhớ nhung tức thì, song ít nhiều, anh và cô có điều riêng với nhau để mà nhớ mãi về sau…  Kết thúc đợt thực tập, anh cũng không gặp lại Lan. Thực lòng, anh e ngại và chưa đủ sức mạnh tình cảm để một mình trở lại đó, chia tay riêng với cô. Khi về trường, anh có viết vài bức thư gửi lên, trong đó có thư cho Lan. Và cũng chỉ riêng cô hồi đáp thư  anh. Thư ngắn gọn, nét chữ to tròn, ngồ ngộ. Nội dung, tình cảm chung chung và có gì đó xã giao, anh cố tìm nhưng không thấy chút gì riêng tư ở đó. Và câu chuyện chấm dứt, khi anh gửi cô thư nữa, nhưng không có hồi đáp. Cũng có thể, anh tốt nghiệp ra trường, nên thư cô gửi lại thất lạc chăng? Và rồi, trước khi nhận quyết định vào Nam công tác, anh gặp lại người bạn học cũ ở Hà Nội, là giáo viên đi nhận công tác ở một trường học gần quê anh. Anh đi xa, để lại sau lưng, một người mẹ già, và một mối tình với người bạn giáo viên ấy… Rồi anh cũng thất bại trong chuyến đi xa và mối tình để lại. Lại những cuộc kiếm tìm mới, anh lập gia đình khi đã cứng tuổi. Thi thoảng, anh vẫn nghĩ đến cô, phảng phất như một một lặng buổn xưa cũ…  Giờ gặp lại nhau ư, rất có thể là vậy? Nhưng chẳng để làm gì, anh còn nhớ đến cô, song chắc gì cô còn nhớ đến anh. Hay chăng, cứ để câu chuyện cũ là một ký ức đẹp và buồn!... ./.
 
R

<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.10.2019 03:54:07 bởi Ct.Ly >

tamvanvov
  • Số bài : 807
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Dùng dằng phận cối, nhộ nhem phận nồi - 09.10.2019 17:15:46
Chuyện cha con người đốt than.
 
          1.
          Tôi còn nhớ, khi ấy, từ mấy chục năm trước, trên đường từ Long  Xuyên, Châu Đốc về Thất Sơn, ngồi trong chiếc xe khách cà tang nhày chồm chồm trên con đường đá long lở với trạng thái như bị xảy, tôi vẫn cố ngoi đầu ra ngoài cửa xe, để hóng gió đồng và cũng là để ngắm quang cảnh vùng đất mà mình sẽ phải sống Người phụ nữ nạ dòng ngồi bên cạnh tôi cứ bứt dứt không yên, hết khậm khoạc trong cổ lại buông lời ta than, chốc chốc đưa bịch cà phê đã ướt nhẹp lên miệng mút chùn chụt. Chị ta hỏi tôi:
-Chắc cậu từ vùng khác đến đây, ha ?
-Vâng,
-A… cậu người Bắc, mới dô hả? Chèng đéc ơi, thảo nào ngắm trời đất dữ quá ha- Chị ta nói liền một mạch chẳng buồn xem tôi trả lời gì. -Tui quê Long Xuyên, lên Sài Gòn từ nhỏ, thỉnh thoảng mới về quê. Lần này, trời đất biên giới yên hàn rồi, tui có thể đi lễ chùa Bà Chúa Xứ và các chùa khác ở Thất Sơn…Này cậu, hẳn là cậu không hiểu gì về vùng đất này phải hông? Linh thiêng và huyền bí lắm đó, chỗ nào cùng chùa chiền, nghe nói vẫn còn người sống ở trên núi, lẫn với trăn và rắn rít… Ui chao, nghe mà đã muốn ớn cả xương sống…
-Thế ạ…-Tôi nghe và trả lời qua quýt, nhưng cũng thấy mên mến cái tinh xởi lởi của chị ta.
Từ phút đó, tiếng của chị ta chỉ còn loáng thoáng bên tai, câu được câu mất bởi trí óc tôi mông lung vô định, lúc nghĩ về nhà, về người thân, lúc lại lo lắng cho những ngày tới đây mình sẽ sống ra sao ở cái nơi mà người ta cho là “linh thiêng và đầy bí ẩn” này. Dẫu sao, những lời bô lô ba la của người đàn bà ngồi bên cũng cho tôi một khái niệm mơ hồ về cái chốn mình sẽ đến và phải sống ở đó, nhất là với người sẵn có trong mình chút lãng mạn phiêu bạt và tập tọng cầm bút văn chương như tôi. Linh thiêng và huyền bí ư, những cái đó đâu có làm tôi sợ, chỉ chút ái ngại xen lẫn trí tò mò mà thôi.
Và rồi, tôi chẳng còn đâu thời gian mà suy nghĩ bởi chiếc xe khách cà tang bị chết máy, không làm sao nổ máy lại được, và rồi, tôi và cả đám hành khách được chủ xe chuyển sang mấy chiếc xe thổ mộ. Bị lèn chặt giữa đám phụ nữ người Khmer lẫn đám quang gánh và sọt lợn gà, tôi chỉ còn biết bám chặt lấy thành ghế mỗi khi chiếc xe thổ mộ đổ dốc ngoằn ngoèo, bên tai ù ù tiếng gió pha lẫn tiếng Khmer líu ríu. Lại thêm một cuốc xe lôi nữa, tôi mới đến được nơi mình cần đến, là Trung tâm ý tế huyện. Khi ấy, bộ dạng tôi thật lôi thôi bởi không chỉ quần áo mà cả chiếc va ly của tôi đều dính phân gà. Cô nhân viên Trung tâm y tế chào đón, tiếp tôi khá niềm nở, miệng cô như đáng nén một nụ cười, chắc vì nhìn bộ dạng nhếch nhác của tôi. Dẫu sao, thái độ ấy của cô cũng làm cho tôi thấy mạnh bạo và tự tin hơn.
 
2. 
Và rồi, kể từ cái buổi đặt chân đến đây, tôi luôn bị chúc mừng, bị chuốc, thậm chí bị ép uống rượu cho tới say mèm, đến mức phải thổ ra hết những gì mình đã nuốt vào, không những thế, còn lỗ vốn chút mật xanh mật vàng lẫn trong đống thức ăn hổ lốn nồng nặc. Mấy lần, trong lúc say, cô gái đón tôi hôm đầu tiên, có tên là Thư, khi bôi vôi vào gan bàn chân tôi, vừa lẩm bẩm: “Tội nghiệp cho ảnh quá ta”. Tôi say đấy, nhưng trí óc vẫn tỉnh táo, nên mỗi lần như vậy, tôi thầm nghĩ: “Cô bé ơi, say rượu mà được người xinh xắn. dễ thương như cô bé săn sóc thì tôi đây sẵn sàng say sưa cả một đời”. Là nghĩ đùa thế thôi chứ thực lòng tôi mệt và sợ những trận say như vậy.
Đấy là vào những dịp rồi rãi, khi Trung tâm ý tế ít bệnh nhân, và cũng không phải mùa dịch bệnh. Một hôm, Thư bảo tôi:
              -Anh mới vô, còn chưa rõ đấy thôi, chỉ ít bữa nữa là bà con ở đây sốt rét lia chia, mọi người lại bận tối tăm mắt mũi đến mức không còn thời gian uống nước, lùa chén cơm vào miệng đâu, chứ đứng nói đến chuyện nhậu nhẹt say sỉn.
Quả như lời Thư nói, người bị chứng sốt rét từ các xã, các phum sõ Khmer trong vùng ùn ùn kéo đến trung tâm y tế huyện cấp cứu, chữa trị. Có ngày tiếp nhận vài chục ca, một giường bệnh nằm hai bệnh nhân không xuể. Cả Trung tâm y tế như cũng lên cơn sốt theo. Đâu đã hết, ngoài việc trực suốt ngày ở bệnh viện, Trung tâm phải chia người thành từng tốp, xuống tận xã, ấp giúp y tế cơ sở hướng dẫn bà con cách phòng bệnh và chữa trị các ca bệnh nhẹ. Tôi và Thư được phân thành một nhóm. Cô gái còn quá trẻ và mới chỉ qua lớp sơ cấp y tế, khi được điều đi cơ sở chữa bệnh, chẳng thấy lo lắng gì, trái lại cứ hơn hớn như đi hội vậy. Cả hai anh em tôi lủng củng những quần áo, trang bị đồ nghề và thuốc men, choán hết cả một góc xe đò. Thư chỉ tay vào một dải núi nằm xoải ra như một con rắn đang trườn, bảo:
              -Anh Tuấn nè, mình sẽ phải đến cụm nhà bên chân dãy núi kia. Đấy là một điểm sốt rét. Núi này có cái tên rất hay, Ngọc Long, thế nhưng nước suối ở đấy lại chứa đầy ấu trùng sốt rét thôi à... Ba em giải thích tên núi có nghĩa là con rồng ngậm viên ngọc quý… Nghe đâu, còn có cả một câu chuyện về sự tích tên núi nữa, nhưng mà em hổng nhớ…
Câu chuyện của Thư gợi cho tôi một ý nghĩ hay hay về sự tích tên núi mà tôi mường tượng ra, mặc dù chưa từng được nghe, nhưng công việc đang chờ đón chúng tôi chưa rõ sẽ nặng nhẹ thế nào, nên tôi chỉ ừ hữ qua chuyện. Quả nhiên, hai anh em tôi không còn lòng dạ nào để nghĩ đến chuyện gì khác bởi chúng tôi đều choáng khi bước chân vào Trạm Y tế xã. Chỉ vỏn vẻn chưa đầy chục giường bệnh mà đã có gần hai chục bệnh nhân nằm ngổn ngang, mỗi giường hai người trở đầu đuôi. Lại thêm người nhà bệnh nhân nữa nên cái trạm xá bé nhỏ và sơ sài nhồi đặc những người là người làm không khí ngột ngạt. Người y sĩ trạm trưởng và mấy cô y tá đang cuống lên, khi thấy chúng tôi thì mừng ra mặt. Thế là chẳng kịp uống hớp nước, hỏi han gì nhiều, tôi và Thư lấy đồ nghề ra, bắt tay vào công việc luôn.
          Đến chiều muộn thì công việc khám chữa bệnh cũng bớt căng thẳng, các bệnh nhân nặng được chỉ định chuyển lên tuyến trên, số còn lại đã được thăm khám, thuốc men, lúc ấy, tôi và Thư cùng các đồng nghiệp mệt mỏi, được nghỉ chút, ngồi xuống mâm cơm. Bụng đã đói meo. Cơm cá lóc kho tộ, canh chua cá rô bông sung ngon là thế mà ai cũng nhai nuốt uể oải vì kiệt sức. Tôi vừa bưng bát cơm thứ hai lên thì một người đàn bà nạ dòng ùa tới, vừa kêu la, thở hổn hển, nói lắp bắp. Tôi nghe, không mấy hiểu. song cứ nhìn gương mặt căng thẳng của mọi người là phần nào hiểu được sự tình. Thư nói lại cho tôi rõ, đại ý là đang có một người ở đâu đó bị sốt rét nặng, nguy hiểm đến tính mạng, phải đi đến tận nơi để cấp cứu gấp, may ra còn kịp cứu chữa. Thư hỏi người đàn bà nạ dòng:
              -Thế ổng đang ở đâu? Là chồng dì à?
              -Không phải chồng tui… Ổng ở mãi trong núi ấy, ngay cạnh lán củi nhà tui. Tội nghiệp cho ổng, bệnh nặng lắm, mà chỉ có hai cha con, con gái ổng thì cứ khờ khờ làm sao… Xin các ông bà làm phước, gắng vô trỏng cứu ổng… Ổng chết mất.
Người đàn bà mếu máo, lấy tay quệt nước mắt trên má. Mọi người lung túng, nhìn tôi như dò hỏi, cầu cứu. Thư nhìn trời đang dần tối, lại nhìn vào sâu trong núi, rồi nhìn tôi như hỏi, sao đây anh? Tôi buông bát cơm ăn dở xuống mâm, quả quyết:
              -Ta đi ngay thôi, may ra còn kịp…
Như chỉ chờ có vậy, một y tá của Trạm nhận việc cầm đèn pin đưa đường. Tôi nhắc Thư chuẩn bị gấp dụng cụ thuốc men, và chỉ kịp uống miếng nước rồi cả ba lên đường, theo chân người đàn bà nọ. Đường đi hút sâu vào trong núi, quanh co, leo trèo, tôi bước thập thõm cố bám theo mọi người như vô thức. Thư tinh ý, tụt lại đi sau tôi canh chừng. Ánh sáng đèn pin loang loáng, chập chờn, ánh lửa lập lòe từ các lều trại trong núi gây cho tôi cảm giác khó tả, cứ như là trở về thời hồng hoang vậy… Sương núi mờ mịt, tôi như thấy những mỏm núi nhô lên, rồi dài ra như đám vẩy rồng và cả dải núi bỗng thành con rồng khổng lồ khẽ rung mình, quẫy cựa… Không, đúng như một con khùng long thời tiền sử bừng trỗi dậy. Và tôi, cùng mấy người cùng đi chỉ là những sinh linh bé nhỏ, bất lực, lồm cồm như sâu kiến trên lung khủng long. Chẳng ai trong chúng tôi đáng mặt là Thạch Sanh cả. Tôi bừng dứt khỏi cơm mê muội như thế đang choán lấy mình…
          Hơi lạnh tỏa ra từ các hõm núi, cùng với hơi ẩm mốc lẫn mùi sắn nướng, cá khô chiên mằn mặn ngầy ngậy, đưa tôi trở lại với hoàn cảnh thực tại, và tôi cảm thấy miệng mình đắng nghét như người sốt rét ngậm ký ninh vậy. Thư sốt ruột, phá tan sự im lặng rờn rợn, hỏi người đàn bà dẫn đường:
              -Dì ba, sao đi hoài vậy? Tới chưa dì?
              -Rồi. Vài chục bước nữa thôi à.- Người đàn bà chỉ tay vào một hẻm núi ngay trước mặt, nơi trong ánh sang lờ mở tỏa ra từ bếp lửa, tôi có thể nhận ra là một túp lều hay lán trại gì đấy, bảo- Đó đó – rồi cất tiếng gọi to:
              -Út Thiệt à… ra mà đón mấy ổng đến chữa bệnh cho ba con đây nè… Đó, mấy cô chú dô đi. Cha con ổng ở trỏng… Thiệt là tội nghiệp cho ổng.
          Người đàn bà rẽ ngoặt đi rồi mất hút ngay trong bóng tối. Chúng tôi dò dẫm đến được cửa lán thì một cô gái tóc buộc đuổi gà, vận bộ bà ba đen nhô ra, vẻ mặt lo âu xen lẫn mừng rỡ, nước mắt chùi vội còn hoen trên má. Trái với sự phỏng đoán của tôi rằng khi thấy chúng tôi thì cô sẽ kêu lên vì mừng có người đến cứu giúp cha mình, đằng này, cô có vẻ bẽn lẽn, cúi đầu lễ phép, lí nhí trong miệng:
              - Mời mấy chú, cô dô nhà… mấy chú cô ngồi tạm, để con đi châm bình trà…
          Thư ngọ ngậy, bấu nhẹ vào tay tôi, ý ám chỉ và tỏ vẻ khó chịụ trước thái độ vô sự của cô gái. Tôi lừ mắt, cô đành thôi, nhưng lại tỏ thái độ bằng cách bưng chén nước lên, thổi nguội phù phù và xì xụp uống. Cô gái chủ nhà tên gọi Út Thiệt cứ loanh quanh như tìm một cái gì đó. Lúc này, tôi đã quen với ánh sang trong lán, đưa mắt quan sát và nhận ra mình đang ngồi trong một căn nhà thì đúng hơn, chứ không phải lán trại hay lêu củi chi đó. Căn nhà tuy nhỏ, sơ sài, được thưng vách bằng lá dừa nước, nhưng cũng được ngăn thành mấy khu vực, buồng chính nơi chúng tôi ngồi rộng rãi hơn cả, bên trong là một buồng nhỏ để chừa lối đi ra phía bếp ở sau cùng.
              -Cô ơi… Nghe nói ba cô đang bị sốt rét nặng? Tôi gọi,
              -Dạ, ba... bệnh nặng… Ổng nằm ở trỏng.
              -Vậy mà nãy giờ, cô cứ đủng đỉnh, chúng tôi đến đây lúc đêm hôm thế này không phải để ngồi nhâm nhi trà, mà để cứu ba cô, cô hiểu chứ- Thư không nén được bực dọc. hơi sẵng giọng.
              -Này cô Út… Út Thiệt à- Tôi lên tiếng át giọng Thư - Giờ cô đưa tôi vào khám bệnh cho ba cô, kẻo trễ quá là nguy hiểm lắm đó nghe…
Út Thiệt thấy thái độ của chúng tôi như vậy, cô sợ và cuống, chân tay như thừa, miệng há ra dịnh nói gì đấy nhưng chỉ nghe hấm hứ trong cổ… Chợt tôi nghe có tiếng rên khe khẽ nơi buồng trong, đoán là của người bệnh, tôi quyết định bèn giật lấy cây đèn dầu trong tay Út Thiệt, lệnh:
              -Mọi người ngồi ngoài này cả, riêng Thư mang túi thuốc theo tôi.
Tôi soi đèn bước vào buồng trong. Quả nhiên, ba của Út Thiệt, một người đàn ông thân thể cường tráng khó đoán tuổi, nằm miên man trên chiếc giường cây tự đóng trải nệm bàng. Có lẽ do sốt cao, nóng lạnh thất thường,  ông ta đã tự cởi bỏ áo, tấm mền mỏng đắp ngang bụng, bên dưới trần trụi với chiếc quần xà lỏn. Trên trán, ấp chiếc khăn mặt ướt gấp lại đã gần khô. Tôi sờ tay vào người ông ta và giật mình vì sức nóng của cơ thể hầm hập. Dễ phải ngót 40 độ C. Tình thế thật nguy hiểm, tôi thầm nghĩ, may ông ta là người có sức vóc nếu không thì đã đi rồi. Người lớn chịu sốt cao kém trẻ em. Trong lúc tôi soi đèn xem bệnh trạng thì Thư đã hiểu ý, cô nhanh chóng chuẩn bị dụng cụ thuốc men. Sau khi tôi tiêm thuốc, Thư lấy đá cục mang theo trong phích lạnh, bọc khăn mặt chườm khắp người và đắp lên trán nhằm hạ nhiệt cho bệnh nhân. Út Thiệt nước mắt ướt nhèm, cứ loanh quanh bên ngoài không biết phải làm gì.
-Đã bớt nguy kịch rồi, ta nên ra bên ngoài, để không khí ở đây thoáng hơn- Tôi bảo.
Để Thư lại trong buồng theo dõi, tôi trở ra bên ngoài. Út Thiệt rót cho tôi chén trà nóng. Bấy giờ, anh nhân viên Trạm xá xã trách nhẹ:
-Ba cô bệnh năng vậy, sao cô không đưa ra Trạm y tế xã. Nếu anh Tuấn đây không cắp cứu kịp là ba cô chết oan đó nghen.
-Ủa, mà sao cô Út không đưa ba cô đi bệnh viện? Tôi bảo- Cô Út không rõ đấy thôi, phàm những người khỏe mạnh, khi bị sốt rét lại hay sinh ác tính. Như ba cô đây là nguy hiểm lắm đấy.
-Dạ, dạ… ba con… em… à ba con mới bệnh hôm qua. Trước đó, thỉnh thoảng ổng cũng vậy, nhưng chỉ sơ sơ, lá lẩu xì xằng mấy bữa khỏi liền à. Đâu có ngờ là lần này lại dữ vậy... Lúc chiều, thấy sốt dữ, con ngỏ ý muốn nhờ người đưa ba ra ngoải, để đi chữa trị nhưng ổng nhất định không chịu. Ổng còn gắt: “Tiền đâu mà thuốc men tốn kém. Bệnh khắc đến khắc đi. Tau không chết đâu mà lo”... Lo lo là, nhưng hổng biết phải làm sao…
- Và chỉ biết khóc thôi, phải hông? Anh nhân viên y tế xã cười trêu- Út Thiệt nè, đừng xưng con nữa, quê lắm… Bác sĩ Tuấn đây còn trẻ lắm, chỉ hơn Út Thiệt dăm tuổi thôi à. Gọi ảnh bằng chú, xưng con ảnh không chịu, không vui đâu… Phải vậy không bác sĩ Tuấn?
Anh nhân viên y tế xã cười làm Út Thiệt ngớ ra, đần mặt, tay chân lúng túng. Tôi cười giải nguy:
              -Đúng đấy, Út Thiệt à… Tôi chỉ tuổi anh cô thôi.
-Dạ, là cháu… à em… là tại em cứ nghĩ…  bác sĩ… phải là người giỏi giang và nhiều tuổi…
Tôi bật cười vì ý nghĩ thật thà dễ thương của cô gái, bèn đùa:
-Thì cô nhìn kỹ lại tôi coi…Tôi đâu có dán chữ bác sĩ lên trán, cũng đâu có khác anh gì đây… chưa có râu, tóc chưa bạc… và còn chưa có… Tôi nheo mắt cười, giọng bỗng vẻ trai lơ, bỡn cợt hơn – Nào, cô Út có đoán ra không?
Liền đó, tôi nghe rõ tiếng Thư nói nhỏ, vọng từ buồng trong bởi tôi ngồi sát với tấm thưng vách: “Thật rõ là khéo tán…Xưng cháu, con cũng được chứ bộ… Anh, anh cái gì…”. Tôi ngưng bặt, còn anh nhân viên y tế xã thì cười phá lên, đùa hùa theo, át đi, nên có thể Út Thiệt không nghe được, hoặc không hiểu câu nói vẻ bực bội vừa rồi của Thư.
Út Thiệt e lệ, tìm cớ đứng lên, lui vào trong bếp và chỉ ít phút sau, mùi cá khô nướng thơm lựng tỏa ra, khiến tôi chảy nước miếng, bụng thì óc ách, và lúc này tôi mới nhớ ra là mình mới chỉ kịp lùa vào bụng mỗi lưng cơm từ lúc chập tối. Út Thiệt bưng ra một đĩa khô cá nướng, xoài xanh cắt lát mỏng, nước mắm chế với đường thốt nốt. Lại thêm một đĩa thịt khô nướng mà tôi không đoán được thịt thú gì.
-Anh Hai… anh chị dùng chút cho vui…- Út Thiệt cười bẽn lẽn… nếu ba em không bệnh… thì mấy anh chị đâu có đến nhà…
Mời rồi, cô trở lui và bê ra một hũ sành rượu đế cùng mấy chiếc ly nhỏ. Cô cười cười, không biết nói gì, chỉ làm cử chỉ ra chiều khẩn khoản lắm. Anh nhân viên y tế xã sà xuống ngồi, tếu táo:
-Cô Út đã có lòng thì mấy anh em chúng tôi đây có dạ. Nhậu bậy chút đi anh Hai, … cô Thư ơi,... cho cô Út vui lòng.
Út Thiệt lui vào bên trong chăm sóc ba và mời Thư ra ăn. Không khách sáo, tôi và anh nhân viên y tế xã cụng ly, riêng Thư chỉ nhấm chút chút, đủ ướt môi, để ly xuống, lặng lẽ xé khô cá nướng. Tôi biết, Thư tỏ ra không vui, nếu không nói là khó chịu, khi thấy tôi quan tâm, hỏi han Út Thiệt này nọ. Điều đó không có gì lạ, khi mà mới quen biết nhau vài ba tháng, Thư đã tỏ ra quý mến tôi đặc biệt, nếu không nhầm thì cô có tình cảm khác thường với tôi.
Vài lần cụng ly, tôi đã thấy mình bồng bềnh như lướt sóng. Có lẽ mệt và đói nên nhanh say. Tôi không nhớ là mình đã nói cười thế nào, và Thư đã tỏ vẻ khó chịu ra sao… Cũng không nhớ rõ mình đã thập thõm bước thấp bước cao, bước xiêu bước vẹo từ nhà Út Thiệt trở về Trạm y tế xã như thế nào nữa…
Khi tôi mở mắt nhìn đồng hồ thì đã hơn 3 giờ sáng. Định thần, tôi biết là mình đang nằm trong phòng của người Trạm trưởng. Vậy là tối qua tôi đã quá say, đã thổ hết những gì mình ăn ở nhà Út Thiệt. Nào có nhiều nhặn chi cho cam, chỉ dăm ly nhỏ, nhưng chắc do thể trạng quá mệt mỏi, sức chịu đựng kém đi, lại thêm gió núi, mà sinh vậy. Khát khô cổ, đầu thì nặng trình trịch, tôi cố gắng ngồi dậy, lần ra bàn tim nước uống. Phía nhà bệnh nhân vẫn có tiếng người rì rầm. Không thấy người trạm trưởng và cũng không thấy bóng dáng Thư đâu. Họ đã đi nghỉ hay chăm sóc bệnh nhân đâu đó. Chết thật, tôi thoáng ân hận, tự trách mình, chỉ vì chút hung phấn mà để say, bỏ mất công việc chính là mình xuống đây để giúp họ khám chữa bệnh... Rồi ngày mai, thế nào Thư cũng lại dỗi bõ, khó chịu. Nghĩ thế, tôi dịnh vùng dậy đi sang nhà bên, nhưng cảm thấy quá sức nên đành nằm lại, đầu óc vẫn ong ong. Thôi thây kệ. Và rồi, tôi lại thiếp đi nặng nề…
Hắt hơi một cái rõ mạnh, tôi choàng tỉnh, trước mặt tôi là Thư. Cô ngồi ghé bên mép giường tôi, tay bụm miệng cười, còn tay kia loe ngoe cọng cỏ. Tôi bật dậy và điếng người nhăn mặt vì đầu còn đau nhức. Thư nghiêm nét mặt, lên giọng, thù dai:
-Chà… Đêm qua anh Tuấn ga lăng hết cỡ ha…Làm cho sơn nữ chết mê muốn bỏ núi theo ra…
-Ờ… may mà sơn nữ không theo ra, chứ theo ra thì… có ối người lại khó chịu… rồi khua gậy gộc lùa sơn nữ trở lại núi, nhỉ ?
-Hứ…-Thư vênh mặt- Cũng không đến mức mức quý như đồ gia bảo đâu nha.- Thư ngúng nguẩy bỏ ra ngoài.
Tôi nhìn theo, cười nhẹ với chút tự mãn.
Lại một ngày vất vả bắt đầu. Thư mau quên, líu ríu theo tôi thăm khám, chữa trị cho bệnh nhân. Tầm đứng bóng, vãn việc, tôi bảo Thư là sẽ vào núi một mình, xem bệnh tình và khám lại cho ba của Út Thiệt. Nghe vậy, Thư nổi cáu, nói dỗi, tôi đành phải cho cô đi cùng. Thực lòng, tôi không muốn Thư vất vả, và tôi cũng đâu có tình ý gì với cô bé sơn nữ cơ chứ. Song Thư cứ khăng khăng đòi theo nên tôi để cô theo, biết đâu giúp được gì chăng. Hôm qua, là đêm tối nên chỉ nhớ mang mang đường, thành ra hai anh em tôi loanh quanh tìm kiếm, vừa đi vừa hỏi đường rồi cũng tìm ra căn nhà của cha con Út Thiệt. Giữa ban ngày ban mặt, trông căn nhà của họ nhỏ bé và tuềnh toàng hơn. Khi tôi và Thư vào nhà thì thấy Út Thiệt đang cho ba cô ăn nước cháo. Với sức lực tiềm tàng, lại được tiêm thuốc chữa trị kịp thời, qua cơn nguy kịch, sức khỏe của ba Út Thiệt hồi phục nhanh. Đêm qua con sốt cao mê man, thế mà hôm sau, ông đã nửa nằm nửa ngồi trên giường để cô con gái bón cho từng thìa nước cháo. Ông khẽ gật đầu với chúng tôi đầy vẻ biết ơn, cái nhìn chậm chạp, thiện cảm. Ông lẩm bẩm trong miệng như nói điều gì đó với con gái, tôi phóng đoán là sai Út Thiệt lo việc tiếp khách, liền vội gạt đi:
-Cô Út cứ cho bác Hai ăn cháo đi. Cần phải có chất gạo vào người thì mới có sức mà chống bệnh được. Bác Hai còn mệt, cô Út không phải câu nệ gì, cứ xem chúng tôi như người nhà…
-Ba… ba em tên gọi Tư Thà – Út Thiệt nhỏ nhẹ.
Tiêm thuốc xong cho ông, tôi để lại chút thuốc uống cho Út Thiệt và dặn:
-Bác Tư à, tuy đã qua cơn nguy kịch song bệnh của bác rất dễ biến chứng. Bác Tư nhớ nghe lời cô Út, uống hết số thuốc tụi cháu để lại, với lại cũng phải kiêng chút, nhất là rượu, bệnh sẽ khỏi thôi.
Tôi gọi Út Thiệt ra ngoài để căn dặn và chỉ cho cô phân biệt từng loại thuốc, liều uống ra sao. Cô nghe chăm chú nhưng căng thẳng như cô bé con lần đầu đi học được thầy cô giáo dạy từng chữ cái. Lúc này, tôi mới có dịp ngắm kỹ cô. Dáng người nhỏ nhắn, thon gọn, săn chắc, nước da ngăm đen nhưng mịn màng, gương mặt xinh xắn, bầu bĩnh và có vẻ u hoài, thế nhưng cái trán hơi dô và cái cằm chẻ khiến gương mặt dịu hiền ấy pha chút bưởng bỉnh. Út Thiệt có dáng vẻ của một người mang trong mình dòng máu Khmer thường thấy ở vùng này. Trong tôi dâng lên một cảm xúc là lạ, trìu mến với người con gái trước đó hơn một ngày tôi cỏn chưa biết đến. Dường như Thư đọc được ý nghĩ ấy của tôi, cô chen vao:
-Nè… cô Út nhớ lời anh Tuấn dặn đó nha… Chỉ mấy bữa nữa là cha cô khỏi bệnh, làm việc lại được rồi… Thôi, ta về. Anh Tuấn, ở ngoải còn nhiều bệnh nhân đang đợi anh em mình.
Thư cố tình nhấn mạnh câu cuối “anh em mình” như là để nói riêng với Út Thiệt, ngầm xác định quyền sở hữu của cô đối với tôi. Nhìn tôi rồi nhìn Thư, Út Thiệt là người nhạy cảm, bởi thế cô mới đủ bình tĩnh trả lời nhẹ nhàng song không kém phần thua thiệt:
-Dạ… ba con em thật biết ơn anh… chị… đã làm phước vô đây cứu chữa… Ơn phước này… cha con em không biết lấy gì báo đáp… Ba con em đâu dám quên. Hễ có dịp ra thị trấn, em sẽ tìm vô nhà để tạ ơn anh… chị.
-Hứ…-Thư cố kìm nén-  Ơn phước chi đâu… Cô Út khỏi phải tìm vô cảm ơn chúng tôi làm gì… Thế này, cô Út cũng đã trọn tình trọn nghĩa với anh em tôi, ha… Ta đi thôi anh Tuấn.
Tôi khó chịu vì thái độ thái quá của Thư nhưng cũng không có cớ gì để nấn ná thêm, đành chào cha con Út Thiệt. Rời nhà Út Thiệt, tôi cố tình đi thật chậm, còn Thư thì cứ líu ríu bên tôi, lúc trước lúc sau, khi bên cạnh. Mấy lần tôi định ngoảnh lại nhưng ngại Thư nên thôi. Đến khúc ngoặt, tôi ngoái nhanh nhìn lại căn nhà Út Thiệt, bắt gặp cô đứng nép bên cửa nhà nhìn theo, và khi bắt gặp ánh nhìn của tôi, cô liền thụt hẳn người vào trong mất hút. Từ bấy, đi mấy bước tôi lại ngoảnh nhìn về phía đó nhưng Út Thiệt không hề xuất hiện ở khung của nữa. Tôi thầm đoán, biết đâu cô vẫn núp đâu đó trong nhà ngó theo tôi. Còn Thư, cô đã hết bực dọc, vô tư cất lời ca một câu vọng cổ về tinh yêu đôi lứa. Tôi nghe mà cảm thấy tự ái, thoáng khó chịu…
 
          3.
          Sau đó, những ngày còn lại ở Trạm y tế xã, công việc bận rộn, và Thư cũng không cho tôi cơ hội nào trở lại căn nhà nhỏ trong hẻm núi của cha con Út Thiệt. Song hễ công việc rỗi rãi, là tôi nghĩ đến cô, kể cả lúc tôi và Thư ngồi tán chuyện gẫu với nhau. Hôm rời xã về lại Trung tâm Y tế huyện, cảm cảm giác chống chếnh thế nào ấy. Lúc chờ xe đò, tự nhiên tôi mong ngóng và ước chi Út Thiệt ra bến xe tiễn. Khi xe chạy, tôi ngó mông lung lên những hõm núi cao như thể do tìm cái chấm nhỏ nào là căn nhà của cha con cô. Thực ram tôi hoài công, bởi làm sao cô có thể xuất hiện vào lúc này được. Nhủ lòng, hiểu từ đây, dải núi mang hình một con rắn hơn là con rồng, có cái tên mỹ miều Ngọc Long kia, sẽ có ý nghĩa với mình như thế nào...
          Cho đến một hôm, từ phòng điều trị trở về nơi ở trong dãy nhà tập thể của bệnh viện, tôi sững người bởi cô gái trẻ ngồi đợi trước căn phòng khóa im ỉm của tôi là Út Thiệt. Cô bày trước cửa căn phòng của tôi mấy chiếc giỏ bàng to tướng đầy ắp hàng hóa, đồ dùng.
          -Út Thiệt ?-... em ra hồi nào vậy? Đợi lâu chưa ? ...
          -Ôi anh Hai... Em ra từ sớm,...- Cô hồ hởi-Đi chợ chút rồi dô đây luôn. Biết là anh Hai bận công việc... Là em đi chợ, phải mua nhiều đồ lắm... bởi lâu lâu mới có dịp ra thị trấn... Rồi cô lôi từ trong giỏ bàng ra một bọc tướng- Ba nói mang quà biếu anh Hai... Đố anh Hai, quà chi đây?... Mà thôi, anh Hai sao biết được... Thị nhím đó... anh Hai biết con nhím là con chi hông? Ba em bảo, thịt nhím ngon bổ số dách trong những thịt thú rừng... Để anh Hai và mấy anh chị trong cơ quan nhậu chơi... Ba em vữa bẫy được con nhím bự, nặng những mười bảy ký. Ui chao, con này vào mùa rãy năm ngoái phá rãy khoai mì của nhà em và bà com xóm núi ghê gớm.  Săn hoài không được. Nay mùa khô, hiếm thức ăn nên mới bẫy được đó, anh Hai... Con nhím vào mùa khô càng quý. Dạ dày của nó chữa toàn cây ngải rừng, vị thuốc nam đó anh Hai. Cứ để nguyên cả dạ dày, đem phơi rồi sấy khô, ngâm rượu thành thuốc chữa đau bao tử người ta, tuyệt lắm đó, anh Hai à....
          Út Thiệt nói liền một hồi không để tôi chen được câu nào.
          Ui chao – cô cười – em cứ huyên thuyên về thuốc mà quên mất anh Hai là bác sĩ... Thiệt tình, con gái như em... quê quá à...
          Út Thiệt đang hồn nhiên vô tư, chợt tư lự... Tôi mời mãi cô mới chịu vào phòng.
          - Út này, nghe em nói anh nghĩ đến món thịt nhím ngon tuyệt, thèm đến chảy nước miếng... Nhưng mà, mấy đứa tụi anh đây có ai biết nấu món thịt nhím ra sao đâu... hay là, trưa nay, Út ở đây ăn cơm với tụi anh, nhân tiện trổ tài nấu món thịt nhím chiêu đãi mọi người... được không?
          -Hứ, hổng được đâu... em phải về, kẻo ba mong... Với lại, em chưa xin phép ba... Thế chị Năm Thư đâu, không nấu cho tụi anh?...
          - À...-Tôi cười- Bữa nay chị Thư đi công tác trên tỉnh, mốt mới về... Với lại, có ở đây thì chị Thư đâu có ăn tập thể như đám đàn ông độc thân tụi anh, cô ấy ăn cơm ở nhà với ba má chớ... Nếu Út không nấu giùm... thì anh đành ăn thịt nhím sống thôi...- Tôi vờ nói dỗi,
          -Vậy à...-Út THiệt nhẹ nhõm... vậy mà em cứ nghĩ ... chỉ với anh Hai là... là...
          -Là đồng nghiệp thôi-Tôi cướp lời và cười phá lên, làm Út Thiệt cười theo...- Anh đang muốn nhận Thư làm em gái nuôi đây nhưng mà cô ấy còn chưa chịu, nói là bao giờ anh Hai lấy vợ rồi thì cô ấy mới chịu nhận là em gái... Hay là... Út Thiệt xem có đám nào làm mai cho anh Hai đi ?...
          -Chịu thôi...-Út Thiệt giãy nảy- Con gái miệt núi này xấu xí, thô lắm, anh Hai à... Anh Hai vừa giỏi giang lại vừa... chẳng có ai xứng cả... Có chăng, chỉ có chị Năm Thư... cũng giỏi giang..,
          -Thôi, chuyện ấy bàn sau – Tôi vội lảng tránh- Còn bây giờ, Út Thiệt có chịu ở lại trổ tài nấu món thịt nhím cho tui anh nhậu chơi không?
          -Thôi được... Ba có mắng em về trễ,,, em đổ thừa tội cho anh Hai đó nghen.
          Út Thiệt bắt tay làm bếp, tôi gọi mấy anh em bạn bè Trưa ấy, chúng tôi nhậu một trận thỏa mái với hai món là thịt nhím xào lăn và thịt nhìm nấu ca-ri ăn với bún. Mấy đứa bạn, cứ lén nhìn trộm Út Thiệt, nhấm nháy tôi, bóng gió:
           -Cha Tuấn này giỏi thiệt... Đi cơ sở cớ vài bữa, mà đã có người thương từ trỏng ra chơi, chăm sóc này nọ... lại còn quà độc nữa...
          -Này nhậu đi mấy cha,... đừng có nói bừa đó nghe...
          Út Thiệt nghe chuyện chúng tôi, ngường ngượng, không cãi, chỉ mủm mỉm cười duyên. Tôi thấy thinh thích, vui nên lại quá chén, đầu óc lơ mơ, chập chờn đâu đó bóng Út Thiệt lui cui dọn dẹp bếp núc và giặt giũ gì đó sau nhà... Không có ca trực, tôi ngủ miết cho đến chạng vạng tối. Lúc tỉnh ngủ, nhà vắng tanh, mọi thứ gọn gàng ngăn nắp hơn thường ngày. Cửa khép hờ. Tôi nhìn quanh quất, đập vào tôi là mảnh giấy để trên bàn làm việc. Chữ viết to cộ, là của Út Thiệt: “Em phải về, kẻo ba mong. Anh Hai có đói bụng thì vẫn còn cơm  Em kho sẵn một tộ cá. Nhớ cất quần áo em giặt phơi sau nhà, kẻo mưa ướt. Nếu có dịp xuống xã thì vô núi thăm ba con em. Út Thiệt”. Cô không ký mà ghi rõ tên mình. Tôi nhẩm đọc mảnh giấy đến mấy lần rồi gấp lại cất vào đáy va-li. Lòng thấy buâng khuâng lạ. Ôi, cô Tấm của tôi...
          Vài hôm sau, khi gặp Thư ở phòng khám, cô nhìn tôi không mấy thiện cảm, giọng tưng tửng:
          -Coi bộ... anh Tuấn sướng ha... Có sơn nữ từ trong động ra tận nơi thăm ha... Rõ thấy ghét...
          Tôi lặng thinh, trong bụng tưng tức, định cự lại, song kịp nén. Mình tức là vô lý. Người ta vậy, cũng chỉ vì quý mến mình thôi...
 
          4.
          Một dịp may hiếm có đến với tôi. Thư được cử đi học lớp trung cấp y tế ở Cần Thơ. Còn tôi, thì đi cơ sở để rà soát lại mạng lưới y tế xã trong toàn huyện và phổ biến kiên thức vệ sinh phòng bệnh cho người dân. Lẽ dĩ nhiên, địa phương của nhà Út Thiệt là một trong số điểm tôi chọn đăng ký. Ngay ngày nghỉ đầu tiên, tôi vào núi tìm đến căn nhà của cha con cô. Quang cảnh hiu quạnh, nhìn quanh quất chẳng thấy ai. Tôi tần ngần, rồi khẽ đảy cửa, nhưng cửa chỉ khép hờ. Vậy là có người ở nhà. Tôi cất tiếng gọi. Có tiếng người thưa đâu đó phía sau nhà xa xa. Và chỉ lát sau, Út Thiệt xuất hiện, cô thở hổn hển, áo đẫm mồ hôi... Cô reo lên mừng rỡ:
          -Ối trời, anh Hai... Anh vô khi nào?... Em làm cỏ khoai mì ở rãy phía sau nhà... nghe tiếng gọi giọng Bắc... em đoán là anh Hai... nhưng mà hồi hộp, không dám tin là anh Hai vô đây thăm... Thiệt mừng... đúng anh Hai thiệt rồi...
          -Thì tôi đang đứng đây... Út Thiệt tin chưa? – Tôi cười trêu, nếu còn chưa tin thì cứ rờ thử coi... cho nó chắc...
          -Thôi mà, anh Hai... Cô le lưỡi – em hổng dám đâu... lỡ chị Năm mà nhìn thấy thì chỉ thù em đến chết... Mà chị Năm đâu anh Hai?
          -Hừ... tôi chỉ là của riêng tôi thôi... chẳng có chị Năm nào hết ...-Tôi tỉnh bơ và chuyển giọng như hát – Ta muốn như Từ Thức năm xưa, vô núi tìm sơn tiên trong cõi mộng Thiên Thai...
          -Ha... bộ anh Hai học ca vọng cổ mùi mẫn quá ta...
          Tôi không ngờ Út Thiệt nhanh trí và hài hước vậy, bèn cười to. Hai chúng tôi vô nhà. Út Thiệt nhanh nhẹn thổi lửa đun nước pha trà. Cô bảo:
          -Ba em vắng nhà... đợt này ba cùng mấy người chòm xóm vô núi làm than chừng nửa tháng mới về. Tranh thủ đốt đợt than cưối cùng của mùa khô, rồi nghỉ chờ sa mưa, khi đồng tràm ngập nước lại đến mùa làm củi tràm... Anh Hai biết không, làm than củi trên nũi còn đỡ, chứ làm than tràm trong đồng cực lắm. Phải ngụp sâu dưới nước nhiều lần, lay cho gốc tràm lỏng rễ, nhổ bật gốc đưa lên xuồng, chở vô bờ kinh phơi khô, rồi cưa thành khúc một, làm hầm đốt. Cực lắm đấy... nhưng mà vui, anh Hai à...
 
-Vậy Út Thiệt ở nhà một mình không thấy sợ… thấy buồn à?
         - Em quen rồi, anh Hai – Cô cười- Với lại, em làm rẫy tối ngày… đêm về mệt muốn chết, ngủ như heo ấy, có đâu mà buồn… Em lớn lên, nhà có hai cha con, ba em cũng phải làm đây đó, ở nhà thì lấy gì mà ăn, xa nhà liền à… lâu thành quen, anh Hai… Với lại, ngày nhỏ, em hay theo ba đi làm ăn xa, hoàn cảnh nào cũng chịu được… Thường thì, những chuyến ngắn ngày, em theo phụ giúp ba, còn chuyến nào lâu ngày, vất vả thì em ở nhà, tranh thủ coi rãy, chăm đám khoai mì… Bữa nay, anh Hai vô chơi nhà, anh Hai là khách quý đặc biệt đó… Anh Hai là ân nhân của ba con em… nên anh Hai phải ở lại ăn cơm đó.
          - Xin sẵn lòng… nhưng anh chỉ dám nhận là khách quý thôi… chứ không dám nhận là ân nhân đâu… Út có đồng ý vậy, anh mới ở lại ăn cơm. Chịu không?- Tôi đùa- với lại, nhà có gì ăn nấy, không bày vẽ chợ búa gì thêm nghe…
          Út Thiệt dạ đễ thương lạ, rồi cô bắt tay làm cơm. Tôi lăng xăng phụ giúp, thấy vui như hồi còn là sinh viên, ngày nghỉ về nhà giúp mẹ và chị làm cơm. Bữa cơm giản dị, toàn những thứ tự kiếm, tự tạo như măng tươi luộc chấm mắm, khô cá chiên, canh chua bạc hà và thịt con mang rừng khô nướng. Khi Út Thiệt bê ra hũ rượu đế, tôi vội gạt đi vì ớn người nghĩ đến trận say rượu thổ ta mật xanh mật vàng lần đầu đến nhà cô. Thế nhưng, Út Thiệt không chịu, cô nói sẽ thay ba tiếp rượu tôi để tỏ lòng mến khách theo phong tục bà con ở vùng này. Thế là hai anh em cụng ly. Cô chỉ nhấp môi gọi là. Tôi uống nhẹ nhàng từ tốn, vừa ăn vừa kể chuyện, huyên thuyên đủ thứ, nhảy cóc từ chuyện này sang chuyện khác. Út Thiệt chỉ nghe, cười hiền đáp lễ, thỉnh thoáng mới đế vào, hỏi thêm gợi chuyện. nhưng tôi đang hưng phấn nên cảm giác là cô thích thú với những điều tôi nói. Gương mặt cô rạng lên, sinh động, ánh nhìn hiền dịu, chan chứa một nỗi niềm. Còn tôi, cứ như một triết gia, nhà thông thái đi khai hóa…
          Buổi trưa, Út Thiệt giăng chiêc võng dù bộ đội để tôi nằm nghỉ cho mát. Nằm trên võng đung đưa, đầu óc tôi lơ mơ vì men, lặng ngắm dáng hình uyển chuyển linh hoạt của Út Thiệt, tôi thấy mình như một vị hoàng tử trong các câu chuyện cổ tích xưa, đi săn, bị lạc rừng, được sơn nữ đưa về nhà chăm sóc, nâng giấc. bởi thế, tôi cũng náy sinh sự liên tưởng đến một ngày nào đó, vị hoàng tử trở về chốn hoàng cung lộng lẫy của mình, đột ngột tuyên bố với vua cha và quần thần được đón sơn nữ về làm vợ… Tôi như trôi đi trong giấc mộng, tỉnh dậy, định thần, nghe tiếng nước róc rách đâu đây. Tôi nhẹ nhàng đi ra sau nhà, linh cảm như mách bảo, rằng Út Thiệt đang tắm… Tự nhiên, tôi chùn chân,tim đập mạnh và mặt bừng nóng. Người như nặng trịch, lún sâu xuống đất, nhấc không nổi chân, cứ dùng dằng trong trạng thái vừa muốn trở lui, vừa muốn dấn thêm… Út Thiệt ngồi tắm xây lung lại, cả mảng lưng trần trắng ngà, mịn màng và bóng nước, tóc cuốn cao búi lại trên đỉnh đầu càng làm tôn thêm vẻ thanh mảnh cho cần cổ, dôi bàn tay cô thoăn thoắt vừa kỳ cọ vừa không ngừng múc nước từ chiếc khạp đất nung dội lên người. Tôi đắm mình trong xúc cảm mê hoặc, hơi thở gấp gáp, và cảm thấy sao mình thở to thế… Hình như, Út Thiệt cũng cảm giác có gì không bình thường, cô ngừng tay, như bất động, nghe ngóng trong giây lát… rồi cô khẽ lắc đầu vẻ bắt cần, tiếp tục việc tắm táp của mình Tôi chới với mất đà, người chúi về phía trước, tì mạnh người vào bức vách thưng lá gây tiếng động… Út Thiệt hấp tấp choàng tấm khan rằn lên mình, kêu nhỏ:
          -Anh…Anh Hai…ấy đừng...
          -Tôi… tôi… tỉnh rượu… khát nước quá…
          -Bình trà còn đó… anh Hai… Em vô ngay đây…
          Tôi trở lui, với bình trà, rót ra ly, uống lấy uống để. Lát sau, Út Thiệt trở vào nhà trong bộ đồ bà ba đen, xúng xính đi lại, cô liếc nhanh tôi và lờ chuyện ban nãy…
          -Ôi,,, anh Hai ngủ ngon quá… cứ như cả tuần rồi không được ngủ…lại còn mơ, nói lẩm bẩm cái gì đó… và cười nữa, heng…- Út Thiệt che miệng cười khẽ, khiến tôi tự nhiên trở lại…
          -Thế à…Tôi vờ gãi đầu – Út Thiệt à, tôi đoảng quá, lần nào vô nhà Út, tôi cũng quá chén, say sỉn… Xấu hổ quá đi thôi… Út bỏ qua cho anh nghe?...
          -Anh Hai có vầy… em mới vui… Bởi anh Hai thiệt lòng, không làm khách… Nếu anh Hai khác,… em buồn…
          - Này… thế ba vắng nhà lâu vậy… để Út một mình… ba không thấy lo sao? Tôi hỏi làng sang chuyện khác.
 - Có chớ… -Út Thiệt cười- nhưng mà lo vừa thôi à… bởi ba biết ở nhà, em cớ có bà con chòm xóm đây… Anh Hai, có biết hông, mọi người sống ở hém núi này thương nhau lắm, như người một nhà vậy…Đó, bữa nọ, ba của em bị bệnh nặng, em nói sao ba cũng không chịu vô bệnh viện… thế là dì Ba, nhà cách đây chút, đến thẳng Trạm xá xã, kêu các anh chị vô đây cứu chữa … Nếu không có dì Ba... em hổng biết sao nữa...
-Được, việc ăn ở có thể không đáng lo …cứ cho là thế đi, nhưng… ổng không lo cánh đàn ông… đại loại như anh đây chẳng hạn… tìm đến nhà bắt cóc cô con gái rượu của ổng à? –Tôi cười trêu
Út Thiệt cười đỏ mặt, lườm tôi và nguýt rõ dài, kêu lên:
-Em hổng thích anh Hai đùa vậy đâu… Mà có ai vô bắt cóc con gái ổng đi thì càng tốt chứ bộ… Ổng đang phát rồ lên vì chẳng có ma nào ngó ngàng gì đến cô con gái rượu của ổng đó. Sống mãi ở hẻm núi này… anh Hai ơi, có ma nó cũng chẳng buồn vô…
-Vậy anh hơn cả ma xó rồi… Với lại, anh đâu có đùa… nói thiệt đó…anh đang nuôi ý đồ bắt cóc cô con gái rượu của ông đi đây…
Út Thiệt củng nhẹ lên trán tôi, vùng vằng ra sân trước bảo:
-Em đi làm cỏ khoai mì đây… Anh Hai có đi hổng, hay ở nhà?
Chiều ấy, tôi và Út Thiệt cùng xới cỏ rẫy khoai mì phía sau nhà. Chiều muộn, không thấy tôi nhắc gì chuyện về hay ở, và dương như cảm thấy tôi dùng dằng, Út Thiệt nhắc chủ động nhắc khéo:
-Thôi, để em làm nốt… anh Hai về đi kẻo muộn…Mai anh Hai còn phải làm việc nữa mà… vài bữa nữa, nếu rảnh… và không chê nhà em nghèo khó… thì anh Hai lại vô thăm… À, cũng sắp đến tết Cholchnamthmay của người Khmer rồi đó, anh Hai vô đây, Út sẽ đưa anh Hai đi xem hội đua bò, coi hát Yuke,… vui và hay lắm đó, anh Hai à… Em có mấy đứa bạn ở trong Sóc Khmer gần đây… Nếu anh Hai ưng… cô cười trêu… em sẽ làm mai cho anh Hai một đứa thật xinh…
-Ừ… vậy nhé… nhưng Út phải hứa đưa anh đi chơi cùng… thì anh mới chịu về… mấy hôm nữa, rảnh anh vô… Nếu không, anh sẽ ăn vạ, lăn ra rấy đây này…
-Út hứa… nhưng anh Hai cũng không được sai hẹn… với lại, Út chỉ muốn anh Hai vô chơi một mình thôi à…
-Xin hứa…à, còn chuyện làm mai… thì chưa vội… để xem mấy cô bạn của Út… có xinh hơn… cô con gái rượu của ổng không đã?...
Tôi cười tinh ranh, ra về. Út Thiệt nhìn tôi, cô nũng nịu nửa trẻ con nửa thiếu nữ…
5. Đúng hẹn, tôi đến nhà Út Thiệt từ mờ sớm Cô đợi tôi cớ vẻ bồn chồn vì lo tôi sai hẹn. Men theo chân núi, chúng tôi đi một thôi đường, rồi bang qua mọt cánh đồng không rộng lắm. Đang mùa khô, mặt ruongj nứt nẻ trơ gốc rạ nên chúng tôi cứ cắt mặt ruộng mà đi. Thỉnh thoảng lại bắt gặp một khoảnh ruộng, mặt đất bị đốt khô nám đen và lổn nhổn những tro than củi. Lúc đầu do không biết nên tôi vô tình giẫm lên, nhưng sau để ý thấy Út Thiệt thường đi tránh những chỗ như vậy, tôi hồ nghi có gì đó khác thường nên hỏi, thì cô bảo:
          -Đó là chỗ bà con sóc Khmer thiêu người chết. Anh Hai để ý kỹ, xem có còn sót những mẩu xương nhỏ không? Có khi, vẫn còn xương chưa cháy hết đấy…
          - Vậy à…-tôi lè lưỡi- Thế mà Út chẳng nói cho anh biết để anh tránh. Giẫm lên thế… ngộ nhỡ làm sao?...
          -Anh Hai chớ lo… không việc chi đâu…Là em thdeo thói quen cứ đi tránh vậy thôi… Vơi lại, người Khmer theo phong tục hỏa tang… như vầy là lành lắm đó… người chết siêu thoát mà… không làm con ma đi hành người ta đâu…- Út Thiệt chỉ tay vào nơi xanh um những vòm cây thốt nốt, thấp thoáng bên dưới những mái nhà- Đó, mình vô đó… Bữa nọ, em gặp Chau Khonm một người quen, ở trên rẫy, em đã hẹn bữa nay đón an hem mình đi chơi tết. Năm nay tết nhuận, có đến bốn ngày lận… Bữa nay là ngày Vonbat đầu tiên, bớt lễ rươc mà vui chơi thôi… An hem mình vô tha hồ mà vui…
          -Ôi, không ngờ Út thông thạo ghê.
          -Thì… ba con em sống ở đây lâu rồi, Năm nào em cũng vô chơi tết nên biết thôi… Với lại, Chau Khon cậu ấy chu đáo lắm, hay giảng giải cho em những gì em chưa biết…
          -Này, thế cái cô tên Chau Khon, bạn em ấy…cô ấy đã lấy chồng chưa? Có đẹp… như Út không? Hay là…Út làm mai cho anh đi?...
          -Ô,… Chau Khon là tên con trai… -Út Thiệt cười thành tiếng- Nếu anh Hai muốn làm rể Khmer thiệt… thì để em nhớ Chau Khon, tìm xem trong sóc có cô nào xinh đẹp thì làm mai giùm anh Hai?...
          -Vậy à…-Tôi xao động-Hay là…Chau Khon là… người thương của Út ?
          - Ô…hổng phải… Anh Hai nhầm rồi. Chau Khon có người thương rồi… Neang Hên đó. Hai người thương nhau lâu rồi… nhưng chưa làm đám cưới được… Là vì, nhà Neang Hên giàu lắm… nhưng nhà Chau Khon thì nghèo, má của Chau Khon bệnh hoài, mấy đứa em còn nhỏ, nên Chau Khon phải đi làm thuê, lúc rành thì vô núi kiếm củi, đốt than. Ba má Neang Hên chê, không cho cưới… Nhừng hai người vẫn thương nhau lắm… Chau Khon đẹp trai và tốt bụng lắm đó. Nghe nói, Neang Hên hăm ba má cổ là nếu không cho lấy Chau Khon thì sẽ không lấy ai nữa, thà ở giá còn hơn…
          -Rồi đấy, họ sẽ lấy được nhau thôi… Người ta có câu “Đất không chịu trời thì trời phải chịu đất thôi”…Tôi hùn vào-Thế nào ba má Neang Hên cũng phải chịu cho họ lấy nhau tôi mà…
          -Em cũng nghĩ vậy... đã có lần Chau Khon nói với em, nếu ba má Neang Hên không đồng ý cho hai người cưới nhau thì họ sẽ bỏ trốn sang miệt Sóc Trăng, ở đó Chau Khon có nhà bà con, họ hứa sẽ giúp hai người sinh sống làm ăn... Nhưng em can, nói hai người không được bỏ sóc... Như vầy, ba má Neang Hên sẽ khó ăn nói với ba con trong sóc, còn Chau Khon thì má hay bệnh và các em còn nhỏ dại... Chau Khon nghe lời, thôi ý định bở sóc mà đi rồi...
          Út Thiệt lặng thinh sau câu chuyện tình dang dở của người bạn Khmer, cô cắm cúi đi nhanh đến nỗi chốc lát đã bỏ tôi một quãng xa, trong khi tôi như đánh vật với mặt ruông nút nẻ mấp mô, Chợt nhận ra, cô dừng lại đợi. Khi tới gần, tôi thở mạnh song định buông lời trêu thì nhận thấy mặt cô thàng thốt khác thường, mắt ngấn nước. Tôi im bặt. Rồi nói lảng nhằm phá vỡ sự im lặng:
          -Sắp tới rồi nhỉ?... Anh nghe thấy tiếng chiêng trống từ phum sóc vọng ra... lòng dạ cũng nôn nao...
          Chau Khon không có nhà. Má Chau Khon nói là cậu ấy chờ mãi không thấy chúng tôi đến, vì hội đua bò sắp bắt đầu, mà Chau Khon có tham gia đua nên phải ra nơi tập trung trước, dặn nhà là hễ chúng tôi tới thì đã có em gái là Neang Mai đưa đi...
          Thế là tôi và Út Thiệt có mặt ở hội đua bò. Người đông nghịt, chen chúc nhau, có cảm giác là cả phum sóc tụ về đây. Tôi như bị thu hút bởi trang phục rực rỡ ngày hội của người Khmer, ngơ ngẩn ngó nhìn, khiến Út Thiệt cứ phải nắm tay tôi lôi đi xềnh xệch như chị gái đưa cậu em đi chơi hội lo bị lạc nhau.
          Trường đua là một mảnh ruộng rộng chừng già nửa hec-ta , hình chữ nhật, được cày bữa vỡ và giữ mức nước xăm xắp. Các cặp bò đua được đóng bừa đứng dàn hàng ngang ở mép đường đua, nơi được chọn làm điểm xuất phát. Các tay đua ăn vận giống hệt nhau, đóng săm-pốt, một kiểu khố con trai, đầu chit khăn gọn gàng, tay cầm chà-lun, là một cây gậy có đầu bịt sắt nhọn và đầu kia uốn móc câu như đầu ba-toong. Út Thiệt kiễng chân nhìn khắp lượt, rồi chỉ cho tôi biết Chau Khon. Đó là một chàng trai cao lớn, săn chắc, da đen bóng, tóc xoăn, gương mặt rất đàn ông, ưa nhìn. Út Thiệt dẫn tôi men dần đến chỗ các tay đua đứng, cô tìm cách ra hiệu và rồi Chau Khon cũng nhận ra sự có mặt của chúng tôi. Chàng ta khẽ cười gật gật đầu bày tỏ niềm vui. Khi trống lệnh xuất phát vang lên, các cập bò đua thứ tự phi lướt tạo thành một vòng xoay gần khép kín trên mặt ruộng. Tôi nhìn loang loáng, chẳng còn nhận biết đâu là Chau Khon nữa. Mười vòng đầu đua thử, vậy mà đã có đến mấy cặp bò bỏ cuộc. Bây giờ mới là lúc các cặp bò và tay đua trổ tài cao thấp. bùn đất bắn tung tóe, những tiếng thúc bò, tiếng chiêng trống và tiếng hò hét cổ vũ của người xem rộn lên. Kia rồi, cặp bò của Chau Khon chạy thứ hai, cậu chàng đứng vững trên chạc bừa, mặt đanh lại căng thẳng. Chốc chốc mọi người lại rồ lên, khi có một tay đua nào đó bị vằng khỏi chạc bừa xuống ruộng. Và cuối cùng, chỉ còn lại hai cặp bò đua đang phi nhanh trên đường đua, trong đó có Chau Khon, nhưng cặp bò của chàng ta tụt phía sau chút. Vi bò chạy nhanh và cũng phần nào thấm mệt, nên cậu ta chốc chốc lại chúi người tưởng ngã, nhưng rồi lại trụ vững trên chạc bừa. Tôi thầm nghĩ, cổ vũ “Nào cố lên. Cố lên nào. Như trong tình yêu của cậu ấy. Thế nào cũng chiến thắng”. Tôi hiểu, thời khắc này, một chiến thắng để trở thành quán quân của cuộc đua có thể sẽ thay đổi được quyết định của ba má Neang Hên, họ sẽ chấp nhận chàng rể tương lai… Nhưng kia, Chau Khon lại xuýt ngã và một lần nữa cậu ta lại đứng vững… Nếu chiến thắng, cậu ta có quyền hãnh diện và trong mắt của bà con Phum sóc, và hình ảnh cậu ta sẽ khác đi, được tôn trọng, nể vì hơn. Quan trọng nữa, ấy là Neang Hên sẽ tự hào về sự lựa chọn đúng người thương mà kiên quyết không thay lòng đổi dạ, và rất có thể, ba má cô đồng ý cho hai người cưới nhau… Và bỗng, tay đua phía trước giật mình vì cặp bò chồm lên, đột ngột bị ưỡn người ra phía sau, mất trụ, văng khỏi chạc bừa ngã xuống mặt ruộng đường đua. Tôi thót tim, chút nữa hét lên vì lo cặp bò của Chau Khon đang chạy hăng bứt tốc ngay phía sau sẽ ập tới và có thể chèn lên người ạnh chàng bị ngã. Nhưng may mắn và khéo léo sao, Chau Khon điều khiển cặp bò lượn nép vào phía trong tránh được. Đến lúc này, không cần phải vội, Chau Khon cho cặp bò chạy chậm dần về đích, rồi dừng hẳn. Cậu ta bước ra giữa trường đua, hướng mặt về phía Ban giám khảo, cúi người chào, rồi vươn ngửa người, giơ hai tay lên làm dấu hiệu của kẻ chiến thắng. Chiêng trống, thanh la rộ lên, nhưng tiếng reo hò còn vang dội hơn. Chau Khon đi một vòng quanh trường đấu chào mọi người. Đến chỗ tôi và Út Thiệt đứng, cậu ta khẽ nháy mắt tinh nghịch. Tôi bấm nhẹ vào tay Út Thiệt hỏi:
          -Neang Hên đâu? Cô ta không có ở đây à?
          -Ô… Út Thiệt đưa mắt tìm quanh- Em hổng thấy… Chắc Neang Hên sợ Chau Khon thua, xấu hổ, nên tránh, ở nhà…
          Trưa ấy, tôi và Út Thiệt ăn tết với gia đình Chau Khon. Phần thưởng cho giải nhất cuộc đua bò của Chau Khon là một đôi khăn karma, một chiếc săm-pốt, một xa-rông và một vò sra-thnốt, loại rượu truyền thống của người Khmer được lên men từ nước thốt-nốt. Chau Khon rót sra-thnốt cho mọi người cùng uống. Tôi cảm thấy ngon, phần vì vui, phần vì vừa uống vừa ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm. Neang Mai, em gái của Chau Khon, chừng mười hai, mười ba tuổi gì đó, cô bé ăn nhanh, loáng một cái đã xong. Cô bé đi ra đi vào, nhìn chúng tôi, rồi nhìn anh trai mình, nhấm nhẳng hát một bài dân ca Khmer. Chau Khon nghe, mỉm cười rồi nói gỉ đó với cô bé, tôi không hiểu, nhưng quan sát thái độ của hai anh em họ, tôi đoán là Chau Khon đùa hay mắng yêu em gái mình. Út Thiệt biết tiếng Khmer, nói chuyện với hai anh em họ, cô cười rất tươi, rồi ghé sát tai tôi dịch nghĩa cho tôi hiểu lời Neang Mai vừa hát trêu anh trai mình. Đại loại: “Anh đi tìm mỏi mắt/ Anh tìm người anh yêu/ Và anh chộp được em/ Ơi cô nàng xinh đẹp”… Hiểu nôm na lời bài hát, tôi trêu đùa Chau Khon:
          -Cô nàng xinh đẹp là Neang Hên phải không?
          -Vậy… anh Tuấn cũng biết chuyện?... Út Thiệt kể cho anh à?
          Tôi cười trừ. Út Thiệt giải thích:
          -Anh Hai Tuấn khen ngợi tình yêu của Chau Khon và Neang Hên lắm đó… Ảnh bảo,- Yêu như thế mới là yêu chứ!...
          Nghe vậy, Chau Khon có vẻ hãnh diện. Chiều ấy, Út Thiệt và Neang Mai háo hức, cứ đòi mọi người cũng ra sân chơi chung của trai gái trong sóc, nhưng Chau Khon không đồng ý, bắt mọi người phải ra chùa trước đã. Tôi ngạc nhiên vì thấy hành làng và khắp sân chùa nhan nhản những đống cát nhỏ sạch bong. Chau Khon giải thích, đây là một tập tục cổ của người Khmer, có tên gọi là Pun-Phnôm-Khsach, hiểu nôm na là tục đắp núi cát. Theo thông tục của Phật giáo Tiểu thừa, tục này bắt nguồn từ một sự tích lâu đời với ý nghĩa là nhằm tránh tiền oan nghiệp chướng, tránh mang nợ oan khiên theo thuyết luân hôi nhân quả. Năm nào cũng vậy, mọi nhà đều làm với hy vọng năm ấy nhà họ sẽ may mắn, lành ở dữ đi… Cũng như mọi người, hai anh em Chau Khon, Neang Mai tiến hành những thủ tục hành lễ rất thành kính. Thế nhưng, khi tham gia trò chơi dân gian tập thể, hai anh em họ hào hứng lắm, hò hét đến khản cả giọng. Để ý, trong khung cảnh đầy náo nhiệt đó, mặc dù hăng hái tham gia trò chơi, nhưng thỉnh thoảng, Chau Khon sững người như mất hồn, rồi ngơ ngác nhìn quanh quất như tìm ai. Út Thiệt ngầm cho tôi biết, có lẽ Chau Khon không thấy bóng dáng Neang Hên đâu, nên sinh lo lắng? Ừ nhỉ. Sự vắng mặt của Neang Hên có thể báo hiệu sự không vui, không may chăng?...
Thế nhưng, không lâu sau, tôi được biết mặt Neang Hên. Cô là một người có nhan sắc. Nếu chỉ thoáng gặp, người ta dễ nghĩ cô là một người lạnh lùng, pha chút kiêu kỳ. Song khi hát Aday, một kiểu đối đáp huê tình thì Neang Hên là người đầu trò, nhiệt tình và khá sắc sảo trong các câu đối đáp của bè nữ. Neang Hên tham gia bè nữ, nhưng Chau Khon lại không có mặt trong bè nam. Hình như hai người ngầm thỏa thuận với nhau là không cùng tham gia bất cứ một trò chơi chung nào, để tránh sự gán ghép hoặc trêu đùa của chúng bạn. Một chàng trai, không biết có phải là tình địch của Chau Khon hay không, cất lời hát trêu ghẹo Neang Hên, mà Út Thiệt dịch cho tôi nghe: “Này em gái xinh tươi kia ơi/ Có người bảo là da em nứt nẻ/ Nhưng anh chỉ cần em chăm chỉ, vui tươi/ Thốt nốt nhà anh nhiều đủ tắm da em đẹp…”.  Ngay lập tức, Neang Hên cất lời hát đối lại: “Em nết na, chăm chỉ nhất phum/ Nhiều chàng trai khen em xinh nhất sóc/ Ap-sa-ra phải ghen em múa đẹp/ Anh cầu hôn chưa hẳn em bằng lòng…”.
Tôi thầm khen cô gái đáo để. Chợt bàn tay Út Thiệt thầm tìm và nắm chặt bàn tay tôi. Còn Châu Khon cố ghìm mình, môi mắm lại và hai bàn tay nắm chặt.
          Hai anh em nhà Chau Khon giữ chúng tôi ở lại xem Yukê, một kiểu kịch hát như cải lương, song vì sợ khuya, chúng tôi từ chối ra về. Chau Khon tiễn chúng tôi ra tận bìa sóc. Cậu ta chào Út Thiệt và dặn dò cô gì đó bằng tiếng Khmer. Trước khi quay trờ lại, Chau Khon xiết chặt tay tôi, bảo:
          -Út Thiệt là cô gái chăm ngoan và tốt bụng lắm đó… Anh Hai là bạn của cô ấy, hãy giúp cổ… Út Thiệt có nói với tui, về anh Hai… Khen anh Hai là người hiểu biết, đứng đắn và có lòng thường người… Út Thiệt cũng thương anh Hai lắm đó… hẳn anh Hai biết rồi…
          Chau Khon đưa cho chúng tôi chiếc đèn pin. Hai chúng tôi trở về trong màn sương tối, bỏ lại sau lung sóc Khmer vẫn rộn ràng tiếng đàn nhị, tiếng hát và còn đó mối tình vẫn dang dở và đầy bất trắc của cặp trai gái Chau Khon-Neang Hên. Lúc này, trông Út Thiệt mới bé nhỏ làm sao. Cô đi rúm vào người tôi, và bỗng nhiên tôi có cảm giác mình trờ thành người khổng lồ, che chở cho cô bé con…
          Về tới nhà Út Thiệt thì đã muộn lắm rồi. Biết tôi lưỡng lự giữa về hay ở lại, Út Thiệt chủ động:
          -Anh Hai à… bữa nay anh ngủ lại đi… khuya rồi… anh Hai chưa thạo đường, dễ lạc lắm đó… Mới lại, dạo này hay có heo rừng bị đói, lùng sục ăn đêm, dữ tợn lắm… ngộ nhỡ đụng phải chúng thì nguy hiểm đó, anh Hai à.
          -Ừ, nếu Út không thấy ngại tiếng này nọ thì anh ngủ lại đây-
Tôi nói như mở cờ trong bụng, bởi thực lòng, tôi sợ phải bang rừng trẻ về Trạm Y tế xã lúc đêm hôm khuya khoắt thế này, và còn một lý do mơ hồ trong đầu…rằng dịp như thế này, không dễ có, được ngủ qua đêm trong một căn nhà như lều trại giữa hoang sơ, cùng một cô gái dễ thương như Út Thiệt, nhất là giữa hai người chung một tình cảm manh nha…
          -Anh Hai tắm trước đi… Em bận dọn dẹp nhà của qua chút đã.
          Tôi tắm rửa qua loa, khi trở vào nhà thì Út Thiệt cũng đã dọn xong bộ ngựa bằng gỗ thô tự làm vốn là chỗ nằm của ba cô, đệm gối, mùng màn đã giăng sẵn. Út Thiệt bảo:
          -Anh Hai phải nằm mùng keo muỗi đốt sốt rét đó… Em mua mùng cho ba nhưng ba em không có thói quen nằm mùng, nên mới sốt rét chứ. Em nói mãi mà ba đâu có nghe. Bữa nào rảnh, nhờ anh Hai nói giùm xem ba có nể anh Hai mà nghe lời ?...
          Út Thiệt đợi tôi chui vô mùng nằm yên vị, cô mới lấy quần áo đi tắm. Trong đêm tối hoang dã, tôi nghe tiếng nước dội, tiếng Út Thiệt thở nhè nhẹ mà lòng xốn xang, mường tượng ra thân thể cô với những đường cong gợi cảm. Tôi trở mình nằm xấp, cố nén đi những dục cảm đang trỗi dậy trong lòng. Lúc Út Thiệt trở vào, kiểm tra quanh quất rồi chốt cửa, tôi vờ nằm in, thở nhẹ đều như đã ngủ.
Cô hãm nhỏ ngọn đèn, treo lên chiếc móc sắt gân đầu giường tôi nằm. Cô nấn ná như quan sát tôi ngủ, thở nhẹ trở vào buồng mình, và lục xục gì đó, rồi cả căn nhà chìm trong yên ắng. Tôi nào có ngủ được, mở chong mắt hết nhìn lên đỉnh mùng lại nhìn ngọn đèn dầu hãm nhỏ, xanh lét đung đưa, và nhìn ra bên ngoài qua khe cửa sổ màn trời tối đen. Tiếng mái lá xào xạc, tiếng giun dế i ỉ, tiếng gió hoang đuổi nhau ngoài nương khoai mì bên sườn núi, tiếng tắc kè đánh lưỡi, và tiếng thú đi ăn sương gầm gừ xa xa, tất cả quện vào nhau, cộng hưởng tạo thành một thế giới âm thanh, khiến cho cái đầu không ngủ của tôi mường tượng về một thế giới thời tiền sử. Thế nhưng, chỉ một tiếng kẹt giường, tiềng thở dài mơ hồ, hay tiếng trở mình nhẹ nhữ bỗng nơi buồng trong cũng làm đủ cho tôi sống với thực tại. Sức sống căng lên trong người tôi, cuồn cuộn chảy khiến tôi cảm giác như có một dòng thủy ngân đang uốn lượn như một con rắn hoang dại trong lòng mình. Tôi trở mình liên tục, đập chân đạp tay, vật vã. Tôi không cố ý song mỗi động thái của tôi đều gây ra những chấn động, và tôi biết, nơi buồng trong ngay đấy, Út Thiệt cũng không ngủ được. Tôi trở dậy, ngồi chồm hỗm trong màn như bụt mọc và tưởng tượng ra cánh màn tuyn mỏng tang kia là những bức tưởng thép giam hãm dục vọng đang sôi sục có thể làm nóng chảy cả thép... Và rồi, không hiểu bằng cách nào, tôi đã đứng ngay bên mép giường nằm của Út Thiệt.
          -Kìa... anh Hai hông ngủ nổi sao? –Giọng Út Thiệt lạc đi và ngay lập tức tiếng bật lửa xi xoẹt, rồi ánh sáng bùng lên, như đóng đinh tôi lại bên giường...
          Thì ra, Út Thiệt cũng ngồi như thế tự bao giờ. Cô nhanh chóng  định thần, bảo:
          - Em cũng khó ngủ... Mấy giờ rồi anh Hai?... Hay để em đi châm bình trà nóng, hai anh em mình uống trà nói chuyện cho đỡ buồn ha?...
          Rồi cô không đợi xem ý tôi ra sao, chủ động ra khỏi giường, nhóm bếp đun nước. Tôi đực người một lát rồi chẳng biết sao, đành theo ý cô, ngoan ngoãn như cậu em nhỏ vậy. Ngồi xuống bên bếp lửa, tim tôi vẫn còn đập nhanh, tránh nhìn vào mặt cô, tôi chăm chăm vào ngọn lửa bập bùng. Út Thiệt ngồi cách tôi một chút, không gần không xa, mà đủ giữ khoảng cách thân thiện. Tôi im lặng và cô cũng im lặng cời lửa. Hồi lâu, cô lí nhí:
          -Anh Hai... hồi nãy...  có giận em hông?...
          -Ồ,,, không đâu... Anh là người... có lỗi với Út mà... Anh cũng không hiểu sao... mình lại thế?...
          -Anh Hai... Út Thiệt bỏ lửng, cúi mặt, cầm thanh củi cháy dở, dụi lửa rồi vạch vạch xuống mặt đất... – Tình cảm của Út... với anh Hai thế nào... anh Hai biết mà...
          -Thế Út có biết tình cảm của anh... với Út thế nào không?... Nếu bình thường thì sao...  ban nãy... anh lại như vậy... Tử lúc mới gặp, anh đã linh cảm... một điều, anh và Út ...
          Trong niềm xúc động ngọt ngào, tôi nói như mê sảng. Và tôi cũng không hiểu nổi tôi đã nói những gì nữa... Chỉ biết, em nhìn chằm chằm vào tôi, như nuốt hết những gì tôi nói ra, mắt sáng lên niềm hạnh ngộ. Tôi mạnh bạo cầm hai bàn tay em, giữ trong tay tôi.... Xiết chặt...
          -Đau em... anh Hai!... Út Thiệt kêu lên khe khẽ, nhưng vẫn để yên tay cô trong tay tôi. Em nhìn tôi chan chứa, hạnh phúc mà lại như có gì đó cầu khẩn:
          - Anh Hai... bỏ tay em ra... Ngộ nhỡ có làm sao... em chết mất... Ba em dữ lắm...
-Sao?... Ba em làm sao? – Tôi như người bị đạp lộn từ chin tầng mấy xuống đất- Ba em không thể đối xử tệ với con gái của được… Nhà em chỉ có hai cha con với nhau
          -Anh Hai… đừng nói vậy… tội nghiệp ba em…ổng hiền lắm… lại rất thương em…Nhưng ổng nghĩ là hư hỏng…ổng sẽ lột da, chon sống em mất… Anh Hai,… em xin anh Hai… đừng nghĩ về ba em như vầy… Tội nghiệp ổng… anh Hai ơi,…
          -Út đừng lo- Tôi an ủi- Anh nghĩ ba em là người nhân hậu, thương con , thương người mà… Với lại, em đâu có làm gì nên tội mà ba em trách mắng… Anh với Út thương nhau… trời thương cho nên chồng nên vợ là chuyện bình thường… mà còn đáng mừng là đàng khác…
          -Không đâu… em hiểu lòng anh Hai, nhưng ba em nghĩ khác… Anh Hai là người có học, giỏi giang, đi đây đó, biết nhiều… Còn Út… ngu dốt, chẳng học hành gì và nhà của cũng không ra sao… quanh năm ba con thui thủi nơi hẻm núi xó rừng… Có chuyện gì… rồi ra… chắc gì anh Hai chung tình?... Ba em hổng tin đâu, anh Hai à?...
          -Thì cứ cho là ổng chưa tin đi, nhưng Út có tin anh không? Anh chẳng muốn so đo, là em cứ nghĩ quẩn vậy thôi… Hôm nào rảnh, anh sẽ lựa chuyện thưa với ba em về tình cảm của an hem mình… Anh nghĩ, ba sẽ tin thôi, Út à…
          -Không… em không nghĩ quẩn đâu, anh Hai…-Út Thiệt đã phần nào chấn tĩnh… Thiệt tình là như vầy… Giờ thương Út, anh Hai nghĩ thế, bỏ qua này nọ… chứ rồi đây sống với nhau, anh Hai sẽ thấy nản, thấy bó buộc…- Tôi im lặng, Út Thiệt chân thành- Anh Hai ơi, ba con em biết thân phận nghèo hèn, chẳng bằng ai của mình…Giá như anh Hai là người mầm ruộng rãy, làm than, kiếm củi như ba con em thì em dám chắc ba em ưng liền… mà ổng còn lấy làm mừng… Anh Hai là người tốt, không tính chuyện thân phận, thiệt lòng thương, em biết vầy… nhưng cuộc đời không đơn giản chỉ là vậy, anh Hai…
          Tôi bất ngờ vì Út Thiệt lại cớ những suy nghĩ thấu đáo và nói năng mạch lạc, lý lẽ chặt chẽ, rành rẽ  đến thế. Trước thái độ bình tĩnh, chân thành, sâu sắc ấy. lòng tôi dâng lên một niềm thương cảm vô biên, lấn áp nỗi dục vòng bùng cháy dữ dội vừa nãy. Tôi nghẹn lời không thành tiếng. Và ngay lúc ấy, tôi chỉ muốn kéo cô về phía mình, ôm vào lòng, vỗ về an ủi như một cô em gái nhỏ gặp chuyện buồn khổ. Nghĩ vậy nhưng tôi đâu có dám làm bởi sợ Út Thiệt hiểu lầm, nên cứ ngây ra.
          -Anh Hai biết hông? –Út Thiệt rủ rỉ - Ba con em không phải quê đây. Mà mãi miệt Cà Mau, Bặc Liêu. Ba đưa về về đây sinh sống khi em mới năm tuổi… Phải bỏ quê, dạt vô xứ này, ba em đâu muốn vậy, nhưng thiệt tình, ổng không thể sống ở quê được nữa,
          -Vậy sao?- Tôi băn khoăn-Chắc phải có chuyện gì uẩn khúc?
          -Anh Hai đoán trúng rồi đó- Cô rầu rầu-Mãi sau này em mới được ba nói cho hay. Đời ba em cực lắm anh Hai à. Bởi vậy, ngày nhỏ em thương ba một, sau biết chuyện đời ổng, em thương ba mười. ..-Út Thiệt ngừng kể, cô cho thêm củi vào bếp, rồi lặng lẽ rót thêm trà cho tôi, ch cô- Anh Hai có thấy đói bụng hông? Có sắn khoai mì em mới nhổ, để em nướng mấy củ, hai an hem mình ăn cho vui.
          Út Thiệt vô trong lựa mấy củ khoai mì mang ra bếp nướng. Tôi lặng theo dõi từng cử chỉ của cô vẻ sốt ruột. Chợt Út Thiệt hỏi:
          -Dọc đường vô Thất Sơn, anh Hai có để ý đến núi Bà Đọi hông?
          -Có. Anh có thấy… nhưng sao?
          -Vậy anh Hai có nghe gì về sự tich núi Bà Đọi hông?
          -Có nghe-Tôi ngạc nhiên- Anh thấy có gì đó na ná như chuyện núi Vọng Phu ở miền Trung hay ngoài quê anh…
          -Vậy sao? Anh Hai thấy những nhân vật trong câu chuyện sự tích ấy như thế nào?
          -Anh không hiểu ý Út?
          -Là em… Ý em là muốn anh Hai cho là những người trong sự tích đó là người tốt hay xấu?
          -À ra vậy… Anh nghĩ, đây là câu chuyện gia đình, bi thảm và những nhân vật ấy đều là người tốt… Nhưng chỉ vì vô tình…
          -Vầy… Út cũng nghĩ như anh Hai… Ba em cũng nghĩ thế… Song suốt đời… và cho đến sau này, mãi tận cuối đời, ổng vẫn cứ ân hận…cứ tự hành hạ mình… cứ như thể ông tự làm khổ mình cho mau chết… Và nếu không phải vì em, thì ổng đã tìm đến cái chết lâu rồi, anh Hai ơi…
          -Sao vậy Út? Tôi ngạc nhiên khi nghe câu cuối của Út Thiệt như nghẹn trong nước mắt- Sao lại có ba em ở đây? Sự tích từ xa xưa, mà chắc gì có thật… Út không sao chứ?
          -Là em định kể cho anh nghe đây, anh Hai ơi… Cuộc đời của ba e in như trong câu chuyện ấy… Anh Hai bảo chắc gì có thiệt… Vậy mà thiệt đó… Chính ba em mà…
          Tôi thoáng chút bàng hoàng. Giọng Út Thiệt vỡ thành tiếng nấc, nghẹn nước mắt…Mặc dù cô chưa kể gì, nhưng cứ đó mà suy, những gì tôi biết về cha con cô mới đây, và các tình tiết éo le bi sầu trong câu chuyện về sự tích núi Bà Đọi, tôi lờ mờ đoán được uẩn khúc cuộc đời của ba Út Thiệt…Và lúc này, tôi không nén được cảm xúc mãnh liệt của mình, tôi choàng ôm lấy cô xiết nhẹ trong vòng tay tôi, và thay vì đặt một cái hôn nồng nàn vào môi cô thì tôi lại nhẹ nhàng đặt cái hôn ấy khẽ chạm vào vầng trán cô. Và hai bàn tay tôi vỗ về an ủi vào đôi bờ vai cô. Xúc cảm xác thịt hừng hực ban nãy biến mất và chỉ còn một niềm thương cảm êm ái, chia sẻ. Tôi như thành một con người khác, và thực tình, tôi cũng không hiểu vì sao tôi lại như vậy?...
 
          6.
            Quê gốc em ở miệt Rạch Giá. Xưa kia, gia đình cố nội em rất giàu, có nhiều ruộng đất, tài sản. Nhưng rồi, do sinh chuyện tranh chấp ruộng đất với gia đình vị Hội đồng giàu có và uy lực nhất vùng đó mà nảy sinh mâu thuẫn, kiện tụng nhau liên miên. Để có thể thắng kiện, cố nội em phải bán dần ruộng đất, tài sản. Song rồi, cứ vậy, đâm lao theo lao, thắng kiện chẳng thấy đâu mà ruộng đất tài sản tứ tán gần hết. Uất hận sinh bệnh tật, cố nội em chết, mang theo mối hận. Trước khi chết, cố nội có trăng trối lại cho ông nội em, theo tiếp vụ kiện. Biết là khó thắng được, nhưng là người có hiếu với cha mẹ, muốn làm yên lòng cha dưới  suối vàng, ông nội em tiếp tục vụ kiện. Số ruộng đất, tài sản còn lại lần lượt theo chân vụ kiện đi nốt. Vụ kiện kết thúc bi thảm bằng cái chết của ông nội em. Người ta tìm thấy xác ông nội nổi lập lờ trong đồng nước. Có người cho rằng, ông nội phẫn chí bỏ nhà đi lang thang, nhậu say rồi cảm mà chết. Lại có tin đồn là, nhà Hội đồng lén thuê người đánh chết ông nội rồi mang xác quẳng ra đồng nước. Chẳng biết tin vào đâu, nhưng có lẽ bị đánh chết thì có lý hơn. Ông nội em chết đi, để lại bà nội em và cha em khi đó mới lên năm, sáu tuổi gì đó. Và còn một người em gái của cha, con của ông nội em với một người ở đợ, khi đó mới chừng đầy tuổi tôi. Trước đó, người gái ở đó có thai rồi sinh con, thì để lại đứa con gái mới sinh cho ông nội em, rồi bỏ đi biệt tích. Bà nội em nuôi đứa trẻ gái, nhà hiếm con nên thương yêu như con mình đẻ ra. Khi gia đình gặp chuyện chẳng lành, ông nội em chết, bà nội cũng buồn phiền mà sinh bệnh, nằm liệt giường. Biết khó sống được, nhân có một người buôn nước mắm quê mãi miệt U Minh Hạ, Cà Mau, hiếm hoi, nên bà nội em mang đứa con gái cùng cha khác mẹ với ba em cho người ấy nhận làm con nuôi. Trước khi cho đi, bà nội em lấy ra đôi vòng bạc cổ chân của ba em, trên mỗi chiếc có chạm hình một con cá sấu và tên ba em, một đeo vào cổ chân bé gái, chiếc còn lại mang cất kỹ bảo là giữ cho ba em, ý là sau này bà mệnh hệ gì, anh em thất tán thì còn có bằng chứng mà nhận nhau. Bà em cận thận, chú đáo thế đấy, và quả là không thừa cho chuyện về sau. Ba em vốn rất quý người em gái, nên khi buộc phải xa nhau, ba em cứ giữ chặt không cho đi, và hai đứa trẻ khóc dữ lắm. Bà nội cũng khóc nhưng biết làm sao đây. Và sau đấy chưa đầy năm, bà nội em mất. Ba em còn nhỏ dại lắm, nên được anh em họ hàng đùm dúm nhận nuôi…
Ba em lớn lên, vì không có tài sản ruộng đất nên sinh sống bằng đủ các nghê lặt vặt mà ông có thể làm, theo bà con, anh em lang bạt khắp nơi. Trong một lần đi làm ăn ở miệt Bạc Liêu, ba em bị bệnh nặng, may được hai mẹ con một gia đình ở có chăm sóc, thuốc thang, mà qua khỏi. Thời gian chăm ba em bệnh, cô gái và ba em nhanh chóng này sinh mối thiện cảm, rồi thương nhau. Ba em biết cô gái là con nuôi của bà cụ. Người mẹ nuôi khi đó cũng đã cao tuổi, thấy ba em là người mạnh khỏe, có tư chất và tốt bụng nên đồng tình hùn vào cho hai người nên duyện vợ chồng. Em được sinh ra, và lên hai tuổi thì bà ngoại mất. Ba em thương má và bà ngoại em lắm, lại thêm cái ơn cứu mạng, nên ba em đã hứa với bà ngoại trước lúc bà nhắm mắt xuôi tay rằng suốt đời chăm sóc má con em, để bà yên tâm. Cuộc sống gia đình em sẽ yên ấm trong yêu thương đùm bọc lẫn nhau, nếu như không xảy ra một chuyện động trời, sập đất…
          Số là, gia đình người buôn bán nước mắm hiếm hoi không có con, khi xin được má em thì ông bà cũng đã nhiều tuổi. Lo có người nhà tìm kiếm xin lại má em, và sau này, khi lớn khôn má em tìm vê quê cũ, nên họ giấu biệt, để má em không biết gì về cha mẹ và quê gốc. Khi ông mất, bà sinh phiền não, và nhân một lần bà yếu lòng, chỉ hé lộ chút xíu đưa cho má em chiếc vòng bạc đeo chân hồi nhỏ, dặn giữ lấy sau này làm kỷ vật. Má em cũng chỉ biết vậy, nâng niu, cất giữ chiếc vòng đó cận thận, coi như dấu ấn duy nhất về nguồn gốc của mình. Lúc lấy má em, thì ba cũng chỉ biết rằng má là con nuôi của bà cụ ở Bạc Liêu mà thôi. Ba em yêu thương má lắm, và ông coi má em là tất cả những gì yêu thương mà ông có được. Với ba em, má là vợ, vừa như em gái, chị gái, thậm chí như mẹ, bởi ổng được tận hưởng tất cả các trạng thái tình cảm và sự săn sóc ấy từ má em… Chính vì vậy, ổng rất ghen. Không muốn cho má em trò chuyện với bất kỳ người đàn ông nào khác. Vì ghen nên tính ông lầm lỳ, cau có, khó tính đến thành vô lý. Có một lần, thấy ổng ghen vô lý, má em bực quá, nói lại vài câu, ổng nổi giận, mất khôn, tát má em một cái. Ổng hối hận ngay, nhưng má em bị bất ngở, thành uất ức, tính bỏ nhà, sang ở nhờ nhà hàng xóm mấy ngày cho bõ tức, với mong muốn ba em thay đổi tâm tính. Song không ngờ, trong lúc giận dỗi, lôi bọc quần áo tư trang, lục lấy chút đồ mang theo, má vô tình làm bung chiếc khăn nhỏ gói đồ tư trang, làm rơi ra chiếc vòng bạc đeo chân. Ba em nhìn thấy chiếc vòng bạc đeo cổ chân thì sững người, và khi ông cầm lên xem kỹ thì thấy rõ chiếc vòng bạc đó được chạm khắc chữ cái tên mình và hình một con cá sấu, hệt như chiếc vòng bạc mà má ông trao cho ông cùng vài lời trăng trối trước lúc bà mất. Ông chết lặng, sụn người và đổ ập xuống. Má em sợ quá, vực ông lên giường, thấy hàm ông cứng lại, hai mắt mở trừng trừng. Lay gọi mãi ba em mới tỉnh, và từ đó, ông hấu như câm lặng. Má em sợ quá, không dám bỏ nhà đi nữa, nhưng cũng không hiểu vì sao ba em lại có phản ứng mãnh liệt đến như thế. Những ngày sau, ba em vật vờ như người mất hồn, má có hỏi gì thì chỉ ầm ừ cho qua chuyện, mà mắt ông luôn nhìn đi đâu, không dám nhìn thẳng vào mắt má em. Ba em bê trễ, chểnh mảng công việc, hay kiếm cở hoặc lẳng lặng bỏ khỏi nhà, đến một nhà ai đó, nhậu say xỉn mới mò về, Và ông không bao giờ ngủ trong buồng chung mùng với má em nữa, mà trải tấm đệm bàng ngủ một mình ở gian ngoài. Má em đau khổ, buồn phiên lắm, nhưng gặng hỏi gì thì ba cũng chỉ qua quýt, nói thác rằng đang mang trọng bệnh trong người, sợ lây sang má em. Rồi một bữa, hai má con em đi chợ về, thì không thấy ba em ở nhà. Cũng chỉ nghĩ là ông bỏ đến nhà ai đó nhậu say xỉn như mấy lần trước. Nhưng đêm áy, không thấy ông về nhà, má em sinh nghi. Lại thêm một ngày đêm nữa, vẫn không thấy ba em trở về, má linh cảm xấu. Khi ấy em còn nhỏ dại, má em gửi em cho bà con trông giùm, khăn gói đi tìm ba em, đôn đáo khắp nơi má biết và đồ đoán, song càng tìm thì ba em vẫn biệt tăm. Má em trở về trong thất vọng nặng nề. Linh cảm mách bảo, má em chợt nhơ tới chiếc vòng bạc đeo cổ chân bữa bà định bỏ nhà đã vô tình làm rơi để ba em thấy, bèn lục rương, mở bọc tư trang, và má em cũng chết sững, không tin vào mắt mình. Hai chiếc vòng bạc giống nhau, má em cầm lên xem kỹ và không phân biệt được chiếc vòng nào là của mình. Vậy ai có thể bỏ thêm một chiếc vòng bạc nữa vào đây thành cặp vòng song sinh, nếu không phải là ba em?... Tại sao ba em lại có chiếc vòng bạc thứ hai giống hệt như chiếc của má em? Nghi ngờ nhanh chóng được giải đáp, khi má em tìm thấy trong bọc tư trang của má bức thư ba viết để lại, nói rõ vì sao ông lại như vậy và quyết bỏ nhà đi biệt xứ…
Dù ngày ấy còn bé, nhưng đến tận giờ em vẫn còn nhớ nỗi đau lòng, thất vọng của má em. Thì ra ba em, nhờ chiếc vòng bạc đeo chân, đã nhận ra, người vợ hiện giờ hàng ngày đầu gối tay ấp của mình lại chính là người em gái cùng cha khác mẹ với ông, đã được cho đi làm con nuôi từ lúc tuổi thôi nôi. Ba em quá đau khổ vì sự thật phũ phàng, thêm mặc cảm tội lỗi, đã quyết bỏ nhà ra đi. Ba em đi đâu, ở đâu, làm gì, má em không rõ. Má em cũng đau lòng lắm, nhưng bả vẫn hy vọng một ngày nào đó, ổng nghĩ lại mà trở về nhà. Rồi một năm, hai năm, ổng vẫn biệt tăm tích. Má em nghĩ ngợi mà sinh bệnh. Cũng thuốc thang chữa chạy đấy, nhưng dường như thuốc chẳng có tác dụng gì, là bệnh ở tâm thì thuốc nào chữa nổi. Và má em qua đời. Người ta bảo má em mất vì tuyệt vọng, mà người tuyệt vọng, không còn chút niềm tin nào vào cuộc sống thì có thuốc tiên cũng thành vô ích…
Má mất, em thành bơ vơ, sống nhờ bà con xóm ấp. Nhưng rồi, ba em trở về. Ba nghe ai đó mách bảo, việc má em sinh bệnh nặng rồi chết, nên ổng vội vàng trở về ngay. Song đâu có yên, ở nhà, ba em lại chịu bao điểu tiếng. Dân xóm ấp đâu có hiểu nguồn cơn câu chuyện, lên tiếng chê trách ba em là kẻ bội bạc. nghí là ổng bỏ mặc vợ con để chạy theo một mụ đàn bà nào đó. Khi ấy, đến em cũng tin là thế. Dù không căm ghét, nhưng em cũng không yêu quý ba. Em nhớ, lúc má còn sống, có hai má con với nhau, em đã nhiều lần hỏi ba đi đâu, thì má đều nói là ba mắc công chuyện lâu ngày, xong việc thì ba về. Lúc má em sắp mất, có dặn em rằng, hãy yêu quý ba vì ổng là người tốt. ba không có lỗi gì, chẳng qua vì bắt buộc mà ổng phải xa nhà thôi. Nhớ lời má dặn, em muốn tin lời má em lắm, thế nhưng thâm tâm em không thể hiểu, nên cũng không thể thương quý ba em được. Ngày nào, ba cũng dắt em ra mộ má em thắp hương, và ổng lầm rầm khấn vái gì đó. Rồi một ngày, ba em thu xếp đồ đạc, dắt em theo, rời bỏ miệt Bạc Liêu về vùng Thất Sơn này sinh sống từ đấy. Ở Thất Sơn, năm nào, cứ vào dịp cuối năm, ba gửi em nhờ người quen giữ giùm, đi vắng đâu đó mấy ngày. Sau này, em mới biết, ba về lại miệt Bạc Liêu chăm mộ và thắp cho má em nén hương...
          Em lớn lên trong tình yêu thương của ba. Ổng chiều em lắm, em muốn gì ba em cũng cố làm cho kỳ được, miễn sao em vui. Tình cảm của em với ba có gần gũi hơn, nhưng em vẫn giữ một khoảng cách nhất định. Ba em cũng biết vậy, và ổng không hề trách móc, đòi hỏi gì. Và lạ một điều, khi má em mang bệnh rồi mất, bà con xóm ấp rủa là ba em vì mê gái nên mới bỏ vợ con, nhà cửa chạy theo gái, nhưng sau này, ngần ấy năm sống cùng ba, em chưa hề thấy ổng làm thân, gần gụi với bất kỳ người đàn bà nào khác. Em nghĩ, có lẽ vì ba em hối hận chuyện ngày trước, nên ngại và cố tình xa lánh đàn bà? Cho đến tuổi dậy thì, em vẫn chỉ hiểu lờ mờ là ba má em, giữa hai người có chuyện gì đấy rất hệ trọng, song cụ thể là gì và như thế nào thì không rõ. Và cho đến một lần…
          Ba em cùng những người làm than đi săn chơi. Ba em đụng phải một con heo rừng rất to và hung dữ. Ba em bắn mà súng không nổ được. Con heo xông thẳng tới, ba em luống cuống ngã xuống, ổng dùng súng đánh lại, chống đỡ các cú tấn công của con heo rừng. nhung nó vẫn cắn ba em bầm rập cả người. May có chúng bạn ứng cứu, đuổi con lợn rừng đi. Ba em bị thương khá nặng, sung tấy khắp mình mẩy, viêm nhiễm vết thương nên sốt cao lắm. Bạn bè rửa ráy, sát trùng vết thương, đắp lá lẩu theo kinh nghiệm dân gian chữa thương cho ông. Em thương ba lắm, nghĩ ông không qua khỏi. Tự thân, ổng cũng nghĩ vậy. Và có lẽ vì thế, ba em đã kể cho em nghe chuyện bí mật giữa ba má. Em rụng rời chân tay, không muốn tin lời ba kể, rặng chuyện đó là sự thật. Vì như thế, đối với ba má, em là nghiệp chướng. là nỗi đau không thể quên của gia đình em. Em đã khôn lớn để hiểu chuyện đời. Có lúc, em cũng đã từng nghĩ đến cái chết, coi cái chết như một sự giải thoát, và chỉ có như vậy, thì mới giúp cha em giải được nghiệp chướng vô tình ấy. Nhưng rồi, lý chí mách bảo, nếu em chết đi, thì ba em đâu có hết đau, thậm chí còn đau khổ hơn, và ổng cũng sẽ chết theo em thôi...
          Từ đấy, em thương ba lắm. Má em mất đi, má đâu có biết nỗi đau đớn của ba em đến mức nào. Em phải thương yêu ba cả phần của má nữa. Cuộc đời em thế nào, em không cần biết, đúng ra là không dám nghĩ, em chỉ biết là phải sống sao để bù đắp cho hết thảy những mất mát, đau lòng mà ba em phải chịu đựng bấy lâu nay. Vậy là đủ… 
 
7.
Chuyện của gia đình Út Thiệt là vậy. Một cảnh ngộ bi thảm hiếm thấy. Tôi đã gạn lọc từ những lời kể lộn xộn, đẫm nước mắt của em để hiểu được tấ cả nững gì xảy ra với gia đình em trong ngần ất năm trời. Kể từ cái đêm ấy, nghe chuyện của em, tôi thấy em bé nhỏ, tội nghiệp, thiệt thòi làm sao và có gì đó thật bất nhẫn. Rồi tôi cảm thấy mình như lớn vổng lên thành người khổng lồ có thể đạp núi, lấp khe vượt qua hết thảy khó khăn, cản trở miễn sao che chở, bảo vệ được em…
Gần một tuần nữa trồi qua. Tôi nóng lòng đợi đến ngày mình không có phiên trực ở bệnh viên, bắt xe ôm vô núi thăm Út Thiệt. Em có nhà, thấy tôi thì mừng lắm, chân tay luýnh quýnh như mượn, cầm gì cũng lóng ngóng chực rơi. Ba Út Thiệt vẫn chưa về. Út Thiệt bảo:
           -Ba em nhắn về, đốt thêm hầm than nữa, xong thì xuống núi. Ba em ham việc lắm. Nghỉ ở nhà, dăm bữa không có viêc chi làm là người ổng cứ như cuồng chân tay, dư thừa sưc lực, hay gắt gỏng, sinh chuyện. Chỉ có làm thật nhiều, làm hết sức lực và liên tục thì ba em mới thuần tính. Cứ như ổng sinh ra để làm hết phần việc của mọi người ấy.
          Út Thiệt cười. Nụ cười ấm áp và dễ thương làm sao. Em mở radio, bảo tôi:
          -Anh Hai ngồi uống trà, nghe chơi, em bận làm cơm, chíu xíu là xong liền à.
          Giọng hát một làn điệu Quan họ từ radio trỏng trẻo, quyến rũ, tha thiết làm sao. Bài Ngồi tựa mạn thuyến. Càng nghe, càng nhớ nhà, da diết buồn. Ờ mà cái cô gái trong bài hát ấy mới đam mê, đằm thắm, nhưng cũng sắc sảo đến thành ngẩn ngơ làm sao ấy. Mà cái mạn thuyền đó là mạ thuyền nào nhỉ, thuyền rồng hay thuyền chai đây? Tôi như bị cuốn theo. Như trở lại tuổi thơ đi học sơ tán về quê, theo lũ trẻ trâu đi thả diều tắm sông, bắt cua ốc nướng ăn, đêm về ra sân đình rình các anh chị mới lớn hát chèo vừa ngầm cấu chí, đụng chạm nhau…Những hình ảnh ấy như một cuốn phim sai tốc độ chạy lướt trong đầu tôi...
         -Nhớ nhà sao, anh Hai?
         Út Thiệt bưng mâm cơm ra, gọi làm tôi bừng tỉnh, rụi mắt cười xòa
         -Ừ, nhớ nhà quá. Vào đây hơn năm trời rồi, bận công việc quá nên anh chưa đi phép về thăm nhà được.
        - Anh Hai… Giá mà … Út được theo anh Hai ra ngoải… thăm thủ đô… rồi thăm gia đình anh Hai, hí…?
        -Ừ hay đó. Năm tới anh xin nghỉ phép ra ngoài đó… Út có dám đi theo anh không?
        -Hổng dám đâu- Út Thiệt kêu to – Là em ước vậy thôi, chứ em biết, chừng nào anh Hai dám cho em theo… chừng nào ba em đồng ý vậy…
        Thấy Út Thiệt nghẹo đầu cười nhưng xịu mặt buồn ngay đó, tôi cố trêu cho em vui:
         -Thì Út cứ đồng ý trước đã, rồi anh em mình sẽ xin ba em đồng ý. Anh sẽ đưa Út về nhà, giới thiệu với ba mẹ anh, với bà con họ hàng… coi như lễ ra mắt gia đình nhà chồng tương lai…
        -Hổng dám -Út Thiệt ré lên-Không nghe anh Hai rỡn nữa đâu nghen- Con gái Hà Nội vừa xinh đẹp, vừa giỏi giang, còn em vừa xấu như ma, vừa ngu dốt, sống chui lủi nơi xó núi… ai dám so kè…
         -Xinh đẹp, giỏi giang ở đâu thì không biết… anh chỉ biết mình…thương người ở ngay đây thôi…
         Tôi nói cứ như đùa vậy, nhưng tình cảm trong lòng tôi lúc ấy thì rất thật. Nhìn nét mặt Út Thiệt, tôi thấy em hạnh phúc xen lẫn lo âu. Em nói như cố tình gạt chuyện đi:
          -Đồ ăn nguôi hết cả rồi. Anh em mình rỡn chuyện vậy thôi. Ăn đi anh Hai ơi.
          Út Thiệt rót rượu ngâm bao tử nhím của ba cô cho tôi, và tự rót cho mình môt chút. Cụng ly. Tôi uống nhấm nháp chút một, còn em thì nhắm mắt làm một hơi hết luôn. Nhìn Út Thiệt, thấy có gì là lạ, cứ như em đang cần có chút can đảm để làm việc gì đó hệ trọng vậy. Em giục tôi uống hết và tôi chiều theo, bởi chẳng có lý do gì để từ chối, khi mà em cũng đã cạn ly. Cứ như vậy, sau ly thứ ba, thì tôi ngờ ngợ, cảnh giác. Tôi có ý can, nhưng Út Thiệt gạt đi, bảo là em chưa từng say rượu ba giờ. Nghe vậy, tôi có chút ngỡ ngàng, thì ra trước đó, mỗi lần tôi say rượu chắc em nhìn tôi buồn cười lắm. Nghĩ vậy, nhưng men say làm cho tôi bất cần. Cụng leng keng bao lần nữa tôi chẳng rõ, cho đến khi ngà ngà… Tôi nhìn ra ngoài trời, bóng chiều đã xế, hắt lên hẻm núi những sải nắng kỳ quặc… Lơ mơ, lơ mơ, đất trời, rừng núi, nương rãy, sân vườn, cả em và tôi như chìm vào hôn mê…
          Tôi không nhớ, tôi và em đã nói những gì trong bữa ăn, chỉ là mớ lộn xộn mơ hồ trong cái đầu váng vất của tôi. Tôi tỉnh dần, mở mắt he hé, định thần, biết mình đang nằm trên giường trong buồng, buông mùng hẳn hoi. Ý thức được, tôi căng mũi hít thứ hương là lạ, quyến rũ. Thôi đúng rồi, tôi đang gối đầu trên chiếc gối của em. Vừa rồi, trong cơn mơ lúc say, tôi thấy xống núi hình con rồng chuyển động, vươn lên trời biến thành con mãng xà khổng lồ, còn tôi, cầm chiếc rìu đốn củi, bay theo, cưỡi lên cổ mãng xà, diều khiển nó, bay trên những ngọn núi, lượn ra xa tít trên đồng lúa, rừng tràm, kinh rạch, theo ý mình. Chợt mãng xà vẫy vùng dữ dội, cố hất tôi văng ra, còn tôi, vung rìu chém lia lịa vào vùng huyệt đạo ở cổ nó. Nó sà xuống mặt đất, vật lộn nhiều vòng, hất tôi văng ra xa. Rồi nó thu nhỏ mình lại như con trăn, luồn lách và chui tụt vào một hẻm núi. Tôi vùng dậy, xách rìu lao theo và bỗng nhiên rơi tõm vào khoảng không đen ngòm. Tay vẫn nắm chắc chiếc rìu, tôi đình thần lần theo ánh sáng lờ mờ lọt vào đáy hang, đến một khoảng rộng thì thấy con mãng xà đang lấy mình quấn chặt một người con gái, trông như hình một nhũ đá. Cô gái bị tóc xoã che hết mặt, nhưng khi cô gái hất mái tóc sang bên, hé lộ khuôn mặt thì tôi sững người…
         Cô gái ấy chính là em, Út Thiệt của tôi. Lạ quá. Tôi nhớ lại giấc mơ vừa qua, và bật lên tiếng gọi em… Tôi chưa hết bần thần thì ngay lập tức ấp xuống mặt, xuống đầu cổ tôi một suối tóc… rồi những cái hôn nồng cháy. Mặt tôi ướt đẫm bởi suối tóc còn ướt, và bởi nước mắt người…Tôi mụ mị cả người, thân thể căng lên, nóng bỏng và tan chảy theo dòng vô thức…
         -Út Thiệt ơi ! Có nhà không đấy?
         Cả hai cùng giật bắn người vì tiếng gọi đột ngột và tiếng đập cửa thình thình. Út Thiệt vùng ra khỏi tôi, luống cuống tìm quần áo, run run thì thào:
        -Thôi chết… Dì Ba đấy. anh Hai ơi... Anh Hai cứ ở yên trong này… Để mình em ra. 
         Út Thiệt đánh tiếng. Hình như dì Ba tự biết cách mở cửa vào nhà, cất giọng oang oang:
         -Bây ngủ rồi hả Út? Ngủ chi sớm dậy? Ra đây dì hỏi. Mai dì lên rẫy sớm, có gởi gì cho ba mầy, đưa tao mang giùm cho?...
          -Dì Ba à,… con sắp đồ để sẵn trong giỏ xách đây rồi. Tính chút nữa qua bên dì Ba, gởi dì mang lên núi cho ba con… Con thấy người mệt ngả lưng chút, không ngờ ngủ quên mất …
          -Ủa, hồi chiều dì thấy cậu Hai bác sĩ có vô đây? Cậu ấy về thị trấn rồi hả con?
          -Dạ… Anh Hai bác sĩ có vô đây…  hỏi thăm bệnh tình của ba con…Anh Hai…
          Út Thiệt lúng túng, ậm ở. Đúng lúc ấy tôi bật lên tiếng ho. Thôi rồi, tôi thấy như trời sập. Dì Ba lên tiếng:
           -Cậu Hai bác sĩ còn đây à?
           -Dạ, dạ… con mời ảnh ly rượu… Ảnh không quen uống rượu, vài ly nhỏ đã xỉn, đi không vững… Còn vừa đỡ ảnh vào giường trong nằm nghỉ chút… con đang tính kiếm chút lá lẩu, giã lấy nước cho ảnh uống giải rượu, để ảnh về…
          -Vậy hả?... Đưa giỏ đồ đây…Có nhắn gì cho ba mầy hông? 
          -Dì nói với ba con, làm vừa thôi… Đừng gắng quá sức, kẻo sốt rét nó quật lại thì khốn đó… dì à.
          -Ừa… Thôi dì Ba về bển. Ở nhà… nhớ giữ gìn cẩn thận… nghe con… Ngộ nhỡ, chuyện gì… tội nghiệp đó nghe… Có rõ lời di Ba dặn hông, Út?...
         Dì Ba nói vậy, nhưng dung dằng mãi rồi mới trở ra sân, miệng lầm bầm như tự nói với chính mình:
-Cái con nhỏ nầy, nói dối cũng không biết đường...
 Căn nhà im ắng. Tôi ra gian ngoài, thấy Út Thiệt ngồi chết lặng, hai tay ôm đầu, mặt cúi gằm. Tôi đặt nhẹ tay lên vai em: 
        -Út Thiệt à… anh xin lỗi… Anh thật vô duyên…
         -Dì Ba biết rồi… Sao đây, anh Hai?... Hổng biết dì Ba có nói cho ba em hay? Út Thiệt thẫn thờ như người mất hồn. 
         -Bây giờ…có lẽ anh phải về thôi… Anh ở lại đây, nếu di Ba biết chuyện, thêm phiền cho em.  Anh thật có lỗi…
          -Anh Hai không có lỗi gì… là do em… Út thật lòng thương anh Hai, mong có được những lúc ở bên anh Hai như thế này…Bây giờ thì Út hiểu anh Hai cũng thương em thật lòng …- Út Thiệt im lặng, khiến tôi bối rối, chân tay như thừa, còn lưỡi thì rụt lại. Chợt em mạnh mẽ - Anh Hai... Có anh Hai rồi, Út không sợ điều chi cả. Anh Hai không được về lúc này… Sẽ chằng còn khi nào được như đêm nay nữa ... Út muốn được gần gũi anh Hai, được anh Hai thương, được anh Hai… 
        Em nghẹn lời, nức nở. Lòng tôi tan nát. Tôi ngồi xuống bên em, choàng tay ôm lấy em, ghì đầu em vào lòng mình. Cả hai đều hiểu rằng, đêm nay là đêm của nhau, dành trọn cho nhau, dẫu có đất lở trời nghiêng thì cũng mặc…
 
        8.
          Ít ngày sau, tôi trở lại nhà Út Thiệt. Cửa đóng then cài vắng hoe. Chú chó vàng dường như đã quen hơi, thấy tôi, nó không xồ ra sủa, vẫn nằm sân, khễ ve vẩy đuôi ra chiều quen thân, nhưng cũng không mừng quấn quýt như những lần tôi đến mà có em ở nhà. Tôi ngó nghiêng, bần thần, lưỡng lự nên chờ đợi hay ra về? Chợt có tiếng gọi từ nhà bên:
       - Cậu Hai vô đấy à ?
       Thì ra, dì Ba gọi với từ nhà mình sang. Tôi hơi chột dạ, bà này đã biết chuyện giữa mình và Út Thiệt rồi, không khéo sinh phiền đây, đàn bà là hay lắm chuyện, thêm thắt này nọ. Nhưng trái lại với suy đoán của tôi, dì Ba vẫn bình thường, vui vẻ, giải thích,
        - Ba con nhà con Út sang bên Bạc Liêu mấy bữa nay rồi. Nghe đâu cha con về bển để sửa sang lại phần mộ của má nó. Bận rộn công việc, vài năm nay không về bển mà…
         Thấy tôi có vẻ băn khoăn, như muốn hỏi điều gì, dì Ba bảo:
         - Ba con nó nhờ tui coi nhà giùm… À, con Út nó còn nhờ tui là nếu thấy cậu Hai tới, thì nói với cậu Hai là chỉ mấy bữa nữa là nó về thôi. Hôm  nào rảnh, đi chợ thị trấn, nó sẽ vô thăm cậu Hại…
        Tôi nấn ná, ngắm quanh cảnh trước sau căn nhà của cha con Út Thiệt. Con chó vàng đã thân thiện hơn. Nó lẵng nhẵng bám theo chân tôi, ve vẩy đuôi, thỉnh thoảng sủa nhấm nhẳng vu vơ đâu đó. Nó theo chân tôi ra tận ngoài ngõ, đi một quãng, ngoảnh lại, tôi vẫn thấy nó đâu đó đằng sau…Tự nhiên tôi cam thấy thân thiện với nó. Không gặp em, con đường và hẻm núi như hoang vu hơn…
        Quả nhiên, mấy hôm sau, khi tôi ở phòng trực bệnh viện về căn phòng trong khu tập thể của mình thì thấy Út Thiệt ngôi đợi ngoài cửa. Em cố nói cười vui vẻ, nhưng tôi vẫn đọc từ nét mặt đến ánh mắt chút gì buồn buồn. Cũng như lần trước, Út Thiệt chuẩn bị sẵn mang ra cho tôi ít khô cá để ăn và khô nai để nhậu. Em chào hỏi vài câu xã giao thông thường, hỏi tôi ăn ở ra sao, tuyệt nhiên không đả động gì đến chuyện của hai chúng tôi. Rồi em loanh quanh dọn dẹp căn phòng của tôi, như công việc của một người vợ tần tảo. Không nén được, tôi ướm:
        - Thế ba em… đã biết chuyện của chúng mình chưa ?
        - Em hổng rõ… Vẫn thấy ba em bình thường như nọi khi…cũng không nói năng, mắng mỏ gì em cả…
        - Hay là… ba em chưa biết chuyện. Cũng có thể, hôm ấy, dì Ba cũng chỉ ngờ ngợ thôi nên không nói gì với ba em? Hôm rồi, anh đến nhà em, có gặp dì Ba, dì ấy cũng nói chuyện vui vẻ, bình thường mà… không thấy nhắc gì đến chuyện đêm nọ… Nhưng mà,…
        - Chi, anh Hai?...
        - Anh tính… hôm nào anh sẽ chủ động thưa chuyện với ba em về tình cảm của chúng mình… Nếu ba em không phản đối, anh sẽ nhờ bác giám đốc bệnh viện của anh, thay mặt cơ quan và gia đình anh, đến đặt vấn đề với gia đình em? Vì gia đình anh mãi ngoãi Bắc, xa xôi nên đành thế trước đã ?...
       - Đừng…anh Hai. –Út Thiệt lắc đầu quầy quậy- Lúc này, ba em đang rối bời… không phải chuyện của anh em mình đâu, mà là chuyện của ổng… Anh biết dì Ba nhà bên rồi đó… lâu nay bả thương yêu ba em… Ba em hình như cũng cảm động, nhưng không rõ ổng có thương bả không? …Song từ ngày má em mất đi, em lớn lên ngần ấy năm, tuyệt nhiên không thấy ba em để tâm đến bất cứ người đàn bà nào nữa… Nay ba em cao tuổi, kể ra, cũng nên có người chăm sóc… Với lại, dì Ba cũng là người tốt, bả khổ lắm, đời chồng trước của bả chẳng ra gì, lão ta thường say xỉn, chửi nhiếc, đánh đập bả thâm tím cả người, may cho bả là lão ta lăn đùng ra chết trước… Trước đây, biết chuyện dì Ba thương ba em, em ngầm đồng tình… là bởi, em lo, khi em đi lấy chổng, ba em sẽ cô đơn, nên cần có người đỡ đần ba em, chăm sóc ổng, làm nơi cho ổng nương tựa… Ổng mạnh mẽ vậy, nhưng thực ra cũng yếu đuối lắm… Mấy hôm theo ba em sang Bạc Liêu, em có rỉ rả với ổng chuyện này, nhưng ổng chỉ ậm ờ, chưa biết rồi sẽ ra sao? …Em có thắp hương cho má, khấn vái xin với má tha lỗi ba em, để ba lấy dì Ba,… và còn khấn xin má cho cả em… Nhưng giờ, thì tùy duyên phận… em thấy cũng không cần nữa… Có gì, em sẽ ở cùng ba em, chăm sóc cho ổng…
         Út Thiệt rân rấn nước mắt. Tôi lựa lời an ủi và đồng ý với em là để thư thư mới thưa với ba em chuyện của hai đứa. Em chào đòi về, chợt nhớ ra, bảo:
        - À... Ba em nhắn anh Hai, nói là chủ nhật này, nếu anh Hai rảnh thì vô nhà em ổng muốn rủ anh Hai cùng mấy người bạn làm than của ổng, lên núi săn một chuyến, cho biết đó…
        Nghe Út Thiệt nói, tôi vui lắm, nhận lời, cố gắng thu xếp công việc, đổi ca trực miễn sao được tham gia buổi đi săn. Chưa từng biết đi săn là thế nào, nhưng đọc sách, nghe kể chuyện về săn bắn, tôi thích lắm.
        Tôi đến y hẹn, Nước nôi, xã giao qua quýt, ba Út Thiệt lấy súng săn khoác lên vai, giục đi. Tôi hỏi những người đi săn cùng đâu thì ông bảo họ ở sẵn trên núi rồi, vì họ còn phải trông coi lán chứa than nữa. Khi hai người ra đến đường, chợt ông bảo tôi dừng đợi ông chút vì ông phải quay vào dặn dò con gái gì đó. Vừa nói với con gái, ông vừa hất đầu về phía tôi đứng, còn Út Thiệt chỉ thấy cúi đầu, khẽ gật ra chiều vâng lời. Lúc ông quay lung đi ra cổng, em ngẩng đầu tìm mắt tôi. Ánh mắt tôi và em gặp nhau, chỉ thoáng thôi, nhưng tôi đọc được ở em sự cô đơn, u buồn, da diết, bất lực và có gì đó ám ảnh… Tôi như bị đóng đinh chặt xuống đất bởi một luông điện nội sinh đánh nhoằng từ đỉnh đầu theo dọc sống lung xuống chân vào đất, người ớn lạnh ròi nóng bừng lên …
        Leo trèo một hồi, mệt vã mồ hôi hột, tôi cố bám theo ông để không bị rớt lại, mới tới được lán chứa than ở mãi sườn núi bên kia. Thấy ở đó hai người đàn ông, vẻ ngoài đều ít tuổi hơn ba Út Thiệt. Tôi chào thì họ chỉ gật đầu khẽ mỉm cười đáp lễ, nhưng gương mặt thì vẫn lạnh lìng, thản nhiên như không. Ba Út Thiệt hỏi:
        - Chuẩn bị xong chưa, mấy chú?
        - Rồi… chỉ chờ anh Tư đến…
        Tôi hiểu, anh Tư ở đây là ba Út Thiệt. Ba người trao đổi với nhau bằng khẩu ngữ địa phương, cộc lốc, tôi nghe chỉ hiểu loáng thoáng. Khi thấy hai người kia bưng ra đồ nhậu và một sũ sành rượu, tôi ngạc nhiên, vì cứ tưởng mọi người chuẩn bị xong đồ nghề đi săn, chứ không phải đồ nhậu. Mọi người tuần tự ngồi xuống chiếc chiếu bàng bày đồ nhậu, ba Út Thiệt bảo tôi:
        - Cậu Hai dô đi. Nhậu bậy miếng cho vui… Mùa này không phải là mùa săn đâu, để khi khác vậy… Tôi nói vầy… là muốn có cớ riêng để đôi ba câu chuyện với cậu Hai đây…
        - Dạ… Chú… chú Tư có chuyện gì hỏi cháu ạ?...Tôi nhói ở tim, chột dạ, nhẩm bụng, chắc ông già biết chuyện rồi, bày cớ để hỏi tội mình đây – Thâm tâm, tôi thấy lo thật sự, nhưng cố trấn tĩnh, tự biện hộ rằng mình thương yêu Út Thiệt, cô con gái cưng của ông thật lòng, chứ không phải là kẻ chơi bời, lợi dụng, tán gái lăng nhăng. Và nếu, cần để xử lý mình vì cho là mình tội nọ kia thì ông cũng đâu cần phải đưa mình lên tận đây với mấy người hỗ trợ thế này?- Tôi cố làm ra cứng cỏi- Con sẵn sàng nghe chú Tư dạy bảo ạ…
         - Hừ…Tôi đâu có tư cách chi mà dám dạy bảo cậu Hai... Ly đây… Cậu Hai là người nhỏ tuổi nhất ở đây, phiền cậu rót rượu ra ly đi.
         Ông đưa cho tôi chiếc ly duy nhất. Tôi lóng ngóng rót đầy, bưng hai tay để trước mặt ông.
         - Con kính chú Tư!...
         Ông không khách khí, cầm ly lên ngửa cổ làm một hơi cạn sạch, trả ly lại cho tôi, bảo:
          - Các chú và cậu Hai theo thứ tự dô đi.
          Theo phong tục của người Nam Bộ, tôi hiểu đây là mệnh lệnh, nên đến lượt mình, tôi cố bình thản một hơi cạn ly, uống sao cho không để sặc, dù chất rượu trong miệng và cổ họng tôi đắng như bọ nẹt. Chờ tôi uống xong, ba Út Thiệt hắng giọng:
          - Có hai chú em đây làm chứng, cậu Hai phải trả lời tui thành thật nghe…-Ông húng hắng ho mấy tiếng, ừa à mãi vẫn không thành lời, làm tôi càng hồi hộp-…Tui đã đã biết chuyện của cậu Hai với con Út nhà tui… Cậu Hai làm như thế là không phải rồi đó…Thương nhau thì tui không cấm, nhưng không được làm cái chuyện bậy bạ đó… khi chưa cười hỏi gì… Con gái tui, nó dại dột… Đáng ra, là người có học, hiểu biết lẽ đờì, cậu Hai phải thay tui dạy dỗ, bảo ban nó chớ… Đằng này…
         -Thưa chú Tư… thưa mấy chú. Chàu và Út Thiệt thương yêu nhau thật lòng… chúng cháu còn trẻ nên dại dột, nhưng tình cảm của cháu chân thành… Cháu đã nói với em Út, xin được thưa chuyện với chú Tư, rồi nhờ cơ quan cháu đến gặp gia đình ta xin phép cho hai đứa chúng cháu được quan hệ lâu dài, để đi đến hôn nhân… Thế nhưng, em Út chưa đồng ý việc này, bảo là để thư thư đã… Nhân đây, chú đã hỏi chuyện, thưa chú Tư… cháu xin phép được…
         - Không! Không được -Ông ngắt lời tôi, không cho tôi dài dòng thưa gửi gì hết -Cậu Hai nói hay lắm, nhưng tui không tin… Con Út nhà tui nghèo hèn, vô học, không xứng với người có học như cậu Hai… Lấy nhau, nó mang bụng bầu, rồi sanh vài ba đứa con, người ngợm bèo nhèo lôi thôi, rồi cậu Hai có còn thương nó hông? Hay cậu Hai chán chường mà bỏ nó à? ... Thiệt tình, con Út nhà này chỉ nên lấy những người làm than, mần rãy như tụi tui đây…
        Tôi nói nhiều lắm. Không hiểu sao đầu óc tôi tỉnh táo lạ thường và tôi cố gắng dùng mọi lời lẽ để thuyết phục, nhưng vô ích, ông già nhất định không nghe. Hồi lâu, ông nổi cáu, dường như để chấm dứt sự lải nhải của tôi, hoặc đã có chủ động trước, ông tợp nhanh một ngụm rượu, đứng phắt lên, vớ lấy cây súng săn treo trên vách lán, lên đạn đánh rốp, rồi đặt ngay xuống giữa chiếu nhậu.
         -Thôi, đủ rồi!... Ông dằn giọng- Với cái tội của cậu, đáng lý tôi có thể xử theo luật của những người đi săn, làm than trên núi này, là cho cậu một phát đạn… Vì cái tội gì, cậu biết không?... Ấy là cái tội không xin phép, vẫn lấy đi những thứ… của người khác…- Vì nể cái ơn cậu chữa bệnh cứu mạng tui… Tui biết, nếu tui bắn chết cậu thì con Út cả đời này nó sẽ không tha thứ cho tui… Cậu có biết là vì sao hông? Là vì...vì nó thương yêu cậu hơn thương tui, ba nó… còn hơn cả chính nó…- Mắt ông đẫm nước, cố nuốt khan cục giận, xẵng giọng- Tui tha cho cậu đó… Có hai chú ở đây làm chứng… Tui tha….
        Tôi chuyển từ nỗi sợ hãi sang cảm động, cảm thông với ông, nhưng tôi đau thắt lòng vì biết mình sẽ mất em vĩnh viễn. Sẽ chẳng còn có gì nữa giữa tôi với em, khi ba em kiên quyết như vậy. Song tôi cố cứu vãn tình thế, đứng lên, nhìn mọi người khắp lượt như cầu cứu.
        - Một lần nữa… cháu xin chú Tư… cho cháu và em Út Thiệt được gắn bó với nhau...
         - Đi đi! - Ông gầm lên ghìm trong họng, chạm tay vào khẩu súng, mắt long lên - Cậu đi mau đi, kẻo tui đổi ý!...
        Tôi tê tái, cúi đầu lặng lẽ chui ra khỏi lán trại. Ra bên ngoài, tôi liếc nhanh vào trong, thấy hai người bạn làm than với ông im lặng nhấp rượu. Còn ba Út Thiệt, đầu cúi gắm, vai rung lên, nức nở. Ông khóc… 
        Tôi đi như người mộng du, vô định, bước thấp bước cao, phập phõm, mấy lần vấp ngã, xước cả chân tay mặt mày. Xuống gần tời chân núi, nơi có lối rẽ vào sóc Khmer, tôi suýt đâm sầm vào một người. Cả hai đều giật mình, định thần, nhận ra nhau. Đó là Chau Khon, người bạn Khmer của Út Thiệt, mà cách đây không lâu, tôi còn cùng em vào tận sóc người bạn này ăn tết cổ truyền với gia đình họ, và đươc nghe câu chuyện tình duyên trắc trở của anh ta với cô nàng Neang Hên. Nhận ra tôi, chàng ta nắm chặt tay tôi xiết mạnh đau nhới, hồn nhiên bảo:
         -Anh Hai ơi… Tui quên chưa báo cho Út Thiệt biết, nhưng giờ tình cờ gặp anh Hai ở đây, báo để anh Hai và Út Thiệt vui, mừng cho chuyện của tụi tui êm đẹp rồi. Khi nào cưới, tui sẽ gừi Út Thiệt và anh Hai thiệp mời… Nhất định hai người phải đến dự đám cưới của tụi tui đấy.
        Chau Khon cười thật tươi, khuôn mặt rạng rỡ, ánh mắt đầy niềm vui, chứa chan hạnh phúc. Chắc là lúc ấy mặt tôi nhìn ngơ ngác, thiểu não lắm, khiến cậu ta nhận ra, thôi cười, hỏi:
        -Ủa, bộ anh Hai bệnh sao?... Mặt anh Hai tái nhợt đi, lại có mấy vết xước nữa?...
       -Ừ… Tôi nhăn nhó-Có lẽ tôi bị sốt rét….Mấy bữa rồi tôi theo chú Tư, ba Út Thiệt lên rãy làm than… không may bị…
       -Anh Hai là bác sĩ… chắc biết cách chữa trị… Nhưng giờ anh Hai đang mệt… đường về còn xa, nên ghé vô nhà Út Thiệt nghỉ chút… Anh Hai có mệt lắm hông? Hay để tui đưa anh Hai về?...
       Tôi gạt phắt. Cảm ơn Chau Khon và giục cậu ta cứ đi công chuyện của mình, tôi tự lo được. Chia tay nhau, cậu ta cứ nhắc đi nhắc lại là thế nào tôi và Út Thiệt cũng phải thu xếp đến dự đám cưới của họ. Chau Khon còn không quên hỏi, xem đến chừng nào thì tôi và Út Thiệt làm đám cưới. Tôi cố làm vui, cười như mếu. Đợi cho câu ta đi một quâng xa, dường quá sức chịu đựng, tôi mệt mỏi ngồi bệt xuống một tảng đá ven đường, thở dốc. Nhìn dáng vẻ Chau Khon vừa đi vừa vung vẩy con dao đi rừng, thoăn thoắt lên dốc núi, thỉnh thoảng lại dừng, hét lên một tiếng vang động cả hẻm núi vì cảm xúc hạnh phúc, tôi thấy thèm. Giá như lúc này, tôi cũng thét lên tiếng gọi hoang dã như tổ tiên tôi thời nguyên thủy mỗi khi săn được con mồi, hay mỗi khi có đôi!...
 
        9.
         Dễ chừng, cả tháng dài lê thê, nặng nề và u ám. Tôi sống vật vờ, vẫn ăn, vẫn ngủ, vẫn trực ca ở bệnh viện. Tôi thấy may mắn làm sao khi mình đã không gây ra sự cố đáng tiếc nào cho người bệnh. Tôi sống bằng tiềm thức, mà đã là tiềm thức thì hơn cơn vật là mấy. Buồn cười là, có những lúc khám bệnh cho bệnh nhân nữ nào đó, tôi ao ước người bệnh đó là em, để tôi được gần gũi, chăm sóc, nâng niu. Nhưng khi ý thức được điều đó là không thể, tự dưng tôi lại nảy sinh ý nghĩ nanh ác là tiêm cho người bệnh ấy vài mũi tiêm nước cất, vô hại thôi, song người bệnh sẽ đau đớn. Rồi tôi tự thấy hổ thẹn với ý nghĩ muốn hành hạ người khác của mình. Dường như, tôi cố nghĩ ra một thứ gì đó để trút giận, để xoa dịu nỗi đau của mình? Sự thất vọng, ê chề vô tình đã biến tôi thành một con người khác. May sao, mọi thứ đều ở trong ý nghĩ!...
        Tôi chủ động, cáo ốm, xin bệnh viện cho nghỉ vài ngày. Thực lòng, đi làm, tôi lo mình dễ sa sảy điều gi. Ở nhà, ngủ, ngồi, đi đứng, vẫn không yên. Tôi lang thang đến nhà mấy người quen, lân la kiếm chuyện trò này nọ cho quên đi, v à nếu được ai đó mời mọc, tôi sẵn sàng lao vào cuộc nhậu hết mình...
         Vừa mới đó, tôi bỗng thành một bợm nhậu. Một hôm nhậu say, tôi lảo đảo về nhà, cứ nhằm cây cột điện bên đường làm đích, dăm chục mét một, bốn lần như vậy cũng về đến nơi. Lăn ra giường lịm đi, tỉnh dậy nôn thốc nôn tháo, mệt tưởng chết đi được. Tôi mơ màng tỉnh thức thì chợt thấy nước. Nước mát trên mặt, trên cổ rồi chảy tràn xuống ngực. Ô hô, tôi đang đứng dưới thác nước đổ tử đỉnh núi Rồng, mát rượi, sung sướng thay. Tôi ngửa mặt nhìn lên, muôn vàn tia nước li ti tung tóe, khiến tôi phải nhắm nghiền mắt lại vì sợ… Bỗng tôi không nghe thấy tiếng thác nước dội nữa. Im lặng. Tôi nghe ngóng và từ từ hé mở mắt… Một khuôn mặt con gái chập chờn, ghé sát mặt tôi. Hai, ba khuôn mặt nhập nhòa, rồi từ từ chập lại. Ai đây? … Thôi đúng là em rồi… Tôi há miệng, gọi nhưng giọng khé lại không thành lời…
       Mấy cái tát nhẹ vào hai bên má. Rồi cũng bàn tay đó xoa xoa trán, và day day lồng ngực tôi…
       - Thư… Thư đấy à?... Em về từ bao giờ ?...
       - Anh Hai tỉnh chưa?...Nhậu quá trời!... Thư cau có, vẻ trách móc.
       Thì ra, tháy tôi trong trạng thái sống dở chết dở như vậy, Thư đã dùng khăn mặt ướt lau mặt, cổ và người cho tôi tỉnh. Tôi định ngồi dậy, nhưng đầu choáng váng, mệt rã rời. Thư đỡ tôi nằm xuống.
       - Anh Hai nằm nghỉ chút nữa đi. Để em mua cho anh Hai ly chanh đá uống cho tỉnh.
       Thư nói rồi đi luôn, lát sau trở về đưa tôi bịch đá chanh. Rồi cô xắn tay áo, bê chậu nôn đi đổ, lau dọn nhà cửa. Tôi đã tỉnh, nhưng vẫn nằm im, vở nhắm mắt. ngầm quan sát Thư. Cô vừa làm, vừa khe khẽ ca một điệu vọng cổ. Ừ, mà ở đây, có ai tốt hơn, quan tâm và chăm sóc mình hơn Thư đâu. Người trông cũng được, song phải cái tính đành hanh, hiếu thắng, miệng lưỡi thi sắc lẻm. Tính khí thế, đàn ông gần bên dễ cảm thấy lép về hơn, khó mà chịu nổi. Mà sao cô ta lại quan tâm, săn đón và tử tế với mình vậy, khi biết mình yêu thích người đàn bà khác?...
       Xong việc, Thư dựng tôi dậy, như người chị gái chăm chút cho người em trai mình, cô mắng yêu:
       - Ông mãnh, trông người ngợm ghê chết đi được… Mới sểnh tay tui có hơn tháng nay mà trông đã như người rừng… - Thư vờ nghiêm- Này, anh Hai… có nghe rõ hông?...- Là em còn tha cho cái tội, vừa nãy, nhìn em nhưng miệng lại kêu tên người khác… Rõ ghét!...
       Thư mắng mỏ bằng sự hờn giận đầy yêu thương. Tôi không thấy bực như mọi khi, lòng vui vui vì mình vẫn được quan tâm. Có chút hung phần, tôi nở một nụ cười ngô nghê. Thư hoành hành thêm chập nữa, rồi bỏ đi, khi quay trở lại, cô bưng trên tay tô cháo gà nóng nghi ngút. Thư ép tôi ăn, thiếu như bón từng thìa. Dù còn mệt, ăn chưa ngon miệng, nhưng chiều lòng Thư nên tôi cố nuốt.
       Chủ nhật ngay sau đó, Thư về thăm nhà, cách thị trấn gần chục cây số. Cô năn nỉ rủ tôi về cùng. Tôi kiếm cớ từ chối, bảo để lần sau. Thư bực mình đây đảy một hồi rồi mới chịu đi một mình. Thực tình, tôi cũng quý Thư, nhưng chỉ xem là sự quý mến với tư cách là đồng nghiệp với nhau, hơn nữa thì cũng chỉ như một cô em gái. Thế nên, tôi chưa muốn xuất hiện ở nhà cô, vì lo ngại ba má cô hiểu lầm tôi là bạn trai, người yêu của cô. Khi Thư đi rồi, ngồi buồn, tôi lôi một cuốn sách viết về lịch sử, địa ly vùng đất Nam Bộ ra đọc, nhưng chữ nghĩa bay đâu khỏi tầm mắt. . Ngầm nghĩ, ừ mà sao mình không thử đến nhà Út Thiệt một lần nữa xem sao nhỉ? Mình đâu phải là người hèn nhát, kẻ xấu xa hay tội đồ, trốn tránh trách nhiệm, chối bỏ việc mình đã làm. Và nữa, mình cũng đâu có sợ ba Út Thiệt mặc dù ông đã giơ súng đe dọa…
      Nghĩ vậy, tôi quyết định ngay. Tôi đến nhà một người bạn, mượn xe máy đi cho nhanh. Dọc đường, tôi mường tượng ra cảnh sẽ gặp lại ba con Út Thiệt thế nào, và họ đối xử với tôi ra sao? Tôi còn nhẩm nghĩ ra những câu hội thoại mà tôi trù tính có thể xảy ra. Tóm lại, phóng xe trên đường mà tôi cứ ám ảnh trong đầu những kịch bản gặp lại, từ tốt đến xấu nhất… Đến lối rẽ vào chân rãy, tim tôi như thắt lại, hồi hộp, lo lắng…
      Nhà của em kia rồi. Tôi dừng xe, chống chân, lưỡng lự nên vào nhà hay quay xe trở về?... Nhưng nhìn kỹ lại, căn nhà như thể bỏ không? Máu dồn lên mặt, quên hết, tôi ào xe vào trong sân. Bỏ xe, tôi lao ngay vào nhà. Đẩy cửa, nhưng không được. Cửa nhà được đóng chốt lại cẩn thận, kiểu nhà không có người ở. Ba con em đi đâu rồi, tôi thảng thốt đờ cả người. Thôi đúng rồi, không thấy con chó vàng xồ ra như mọi khi, và trong sân vườn cũng không thấy bóng dáng con gà con heo nào. Tôi làm lũi đi vòng quanh căn nhà lá vài lần, đưa tay khẽ đẩy thử tấm phên che cửa sổ. Cũng bị đóng chặt. Tôi trở lại sân trước, ra cổng ngóng lối ngõ, rồi vòng mãi ra rãy sắn kế bên. Tất cả đều hoang vắng, không một bóng người. Lẩn quẩn, quan sát kỹ, nhận thấy những thân sắn, và đám rễ củ nhỏ bỏ lại vương vãi trong sân còn chưa mấy khô. Tôi nghĩ, hay cha con Út Thiệt lên rẫy, nơi có lán trại làm than tôi từng đến hôm nào? Nếu vậy, cùng lắm dăm ba buổi cha con cô sẽ về nhà thôi. Sao đây, mình có nên gửi xe để lên núi tìm cha con cô hay quay về, ít lâu sau trở lại? Tôi băn khoăn tự hỏi mình. Tôi phân vân, mải nghĩ, chợt giật mình, sững người, đột ngột phát hiện dì Ba đứng cạnh chiếc xe máy từ lúc nào.
       - Dì Ba… Con chào dì…
       - Bộ cậu Hai… tính gặp ba con nhà con Út sao?...
      - Dạ… con muốn gặp… để thưa lại chuyện của con với Út Thiệt… nhưng mà, nhà đi đâu cả rồi… dì Ba?
       - Đứng đây nói chuyện không tiện… Nếu cậu Hai rảnh, thì qua bên nhà tui, uống miếng nước, rồi hỏi gì thì hỏi… Nhưng mà, tui cũng chỉ biết chút chút thôi, cậu Hai à… 
        Ngồi trong căn nhà lá của dì Ba, nhìn kỹ thấy căn nhà này tuềnh toàng quá và chỉ hơn cái lều củi chút ít. Đồ đạc cũng sơ sài, trống rỗng, cô quạnh.
      - Dì Ba… sống ở đây có một mình sao?...
      - Ừa… Cậu Hai giờ mới biết hả? …Tui tưởng con Út nói cho cậu Hai biết rồi chớ? … Vợ chồng tui thôi nhau… Thằng lớn ở với ba nó, còn con nhỏ ở với tui… Nhưng nó đi lấy chồng vài năm nay rồi. Bữa nọ, con nhỏ sanh con đầu lòng, tui qua bển giúp nó chăm cháu… Khi về lại nhà, qua đây. thấy cha con nhà con Út bỏ đi mất rồi…- Dì Ba lau nước mắt, nghẹn lời- Rõ khổ!... Cuộc đời ba con nhà ổng sao cơ khổ!... Còn đi đâu nữa cho đời thêm cực?... Ổng già rồi, còn con nhỏ thì phải lấy chồng chớ. Cứ nay đây mai đó với thiên hạ… biết tính sao?...
       Thấy đì Ba khóc, tôi cũng rân rấn nước mắt, thở dài…
       - Tui nói vầy, cậu Hại đừng có giận… Tất cả tại cậu Hai đấy. Nếu không có chuyện cậu Hai đến đây, rồi quen và thương con Út, thì cuộc sống của cha con ổng đâu đến nỗi này, mà phải bỏ đi nơi khác sống!?...Trời xui đất khiến làm sao… bữa ấy, tui lại tìm mời cậu Hai vô đây chữa bệnh cho ổng chớ?... Di Ba rên rẩm, bứt rứt…
        - Dì Ba đâu có lỗi gì…Lỗi là ở con…Nhưng mà, con đâu có muốn thế… Thực lòng, con thương em Út Thiệt… con muốn xin với chú Tư cho con được cưới em Út… song chú Tư nhất mực không chịu… Tại sao lại như vậy, dì Ba?...
       - Là ổng lo sợ cậu Hai là người có học, đi đây đó, quê mãi ngoài kia, chỉ say mê nhất thời thế thôi… Sợ cậu Hai bỏ rơi con Út Thiệt… Tui có nói, nhưng ổng nhất định giữ ý mình… Tính ổng vậy, một lời như dao chém đá, đến chết cũng không thay…- Dì Ba sụt sịt- Cũng tại cả tui nữa… Sau cái bữa, tui bắt gặp con Út với cậu Hai ở chung nhà… tui lại đi nói cho ổng biết… Thiệt tình, tui cũng chỉ nói bóng gió, hình như là hai đứa thương nhau thôi… Rồi ổng đùng đùng nổi giận, tra khảo con Út… và nó đã thú thiệt hết với ổng… Vậy mới có chuyện ổng dọa và đe bắn cậu Hai… rồi cha con ổng bỏ đi…- Dì Ba nghẹn lời,khóc…
       - Thì ra… Út Thiệt cũng biết rõ chuyện chú Tư vờ rủ con đi săn… mướn cớ đe dọa con, bắt con và em Út phải thôi nhau, sao dì Ba?
      Này cậu Hai… đừng nghĩ oan cho con Út mà tội nghiệp nó… Nó thương yêu cậu lắm… nó hổng biết chi về chuyện đó trước đâu, cậu Hai ơi… Nó cũng như cậu thôi… nghĩ ổng thân thiện rủ cậu đi săn… Ai dè, ông âm thầm tính toán làm chuyện ấy với cậu… Thiệt tội tình cho cha con ổng… Giờ hổng biết cha con phiêu dạt phương nào?...
        Dì Ba hết thở dài rồi nức nở. Tôi chợt nhớ, đã có lần Út Thiệt tiết lộ chuyện tình cảm của dì Ba với ba em, nên tôi hiểu nỗi đau của dì Ba cũng đâu kém gì tôi, và hiểu sự chua xót của những giọt nước này…
        - Dì Ba… vì sao ba con Út Thiệt lại bỏ đi, hả dì? Cứ cho là, chú Tư không chấp nhận chuyện tình cảm của con với em Út,…nhưng còn của ổng? …Con có biết dì Ba và ổng cũng tội nghiệp cảnh ngộ của nhau mà… hai người còn tính sống chung nữa, dì Ba ?…
        - Hết cả rồi… Cậu Hai ơi… Dì Ba ngước nhìn tôi, khóc sầu não hơn…Đời tui có còn gì đâu,…Lúc già tưởng gặp được người tử tế…tính nương tựa vào nhau cho đến cuối đời… Đâu ngờ, người tính không bằng trời tính... ông trời không thương nên chẳng cho… Vậy mới sinh chuyện bày đặt tai ác để chia lìa con người ta…
        Dì Ba nức nở, kể lể, than vãn mãi, Tôi tê dại, chẳng cảm giác được gì. Chỉ biết, có hai con người, một già một trẻ cùng chết lặng trong căn lều tuềnh toàng, một người nước mắt chảy ràn rụa trên mặt, một người nước mắt ngầm vào trong, đều xót xa, thương cho người mình yêu, tủi cho thân phận bạc bẽo, bẽ bàng…
        Lặng đi hồi lâu. Tôi gắng gượng nói những lời an ủi, cho dì Ba ư, không, là cho chính bản thân… Tôi cáo lui, Đứng tần ngần trên mảnh sân con con sỏi đá lẫn với cỏ dại, lổn nhổn, tâm thần vô định…
       - Cậu Hai ơi… Tui quên, con Út có gởi tui một bức thơ cho cậu Hai đây nè… - Dì Ba móc túi áo bà ba lấy đưa tôi mảnh giấy xé vội từ một cuốn vở học trò gấp tư, bảo – Chắc con Út nó ném qua cửa sổ vào nhà cho tui… Tui đọc không nổi, nhưng nghĩ là nó nhờ tui chuyển cho cậu Hai… Cậu đọc mau đi, xem ba con nó nói gì … Liệu có biết ba con nó đi phương nào hông?
        Tôi hồi hộp mở thư, đọc lướt nhanh một lượt, Út Thiệt giải thích lý do vì sao cha con em  phải bỏ đi nơi khác, xin lỗi tôi và hẹn gặp lại nhau ở kiếp sau.
       - Dì Ba à… không thấy nói đi đâu cả…-Tôi buồn rầu,
       - Vậy à?...- Dì Ba thở dài đánh sượt, lau mước mắt- Hôm rồi, tui xuống thị trấn, lân la hỏi chuyện… Có người quen nói rằng, thấy cha con ổng xuống một chiếc tắc-ráng theo kinh Tám Ngàn, chạy xuyên đồng tram về hướng Hòn Đất, Kiên Lương, Rạch Giá chi đó… Lại nghe đâu, ổng đã tích cóp tiền bán than, nhượng lại mấy rãy khoai mì.. lấy tiềm sắm chiếc tắc-ráng này… chắc về lại quê bển, làm nghề chở thuê, hay thương hồ chi đó?...
       - Vậy là… mình có cơ hội tìm được ba con Út Thiệt không, di Ba?
       - Ừa… cậu Hai còn trẻ tuổi, còn sống lâu…lại đi đây đó… Nếu không tìm lại được con Út thì cậu còn có người khác… chớ tui… già rồi, lại sống nơi hẻm núi nầy…Thế là hết rồi… cậu Hai ơi!...
      Dì Ba không buồn nhìn tôi, lặng lẽ đi vô nhà, khép cửa lại. Im lặng. Tôi lắng nghe, chỉ thấy tiếng nức nở…
      Qua nhiều lần di chuyển nơi ở, nơi làm việc, đến nay, tôi không còn giữ được mảnh giấy Út Thiệt viết cho tôi, nhưng tôi vẫn nhớ và hình dung được tùng nét chữ của em…
 
       Anh Hai thương,
       Anh Hai ơi, khi anh nhân được lá thơ nầy thì em đã xa anh Hai rồi. Cùng không rõ ba em đưa đi đâu. Út không hận gì anh Hai, cũng không hối tiếc gì vì đã thương anh Hai như vầy. Em là người có lỗi, vì đã không giữ được lời hứa với anh Hai. Thương anh Hai nhiều lắm, nhưng em cũng thương ba em thiệt nhiều. Cuộc đời ba em đã khổ lắm rồi, nên em không muốn làm ba em khổ thêm nữa. Em đành chiều theo ý ba. Mong anh Hai đừng oán trách gì ba em mà tội nghiệp cho ổng.
       Em biết chắc là… em chỉ tiếc đã không lưu giữ được chút gì… Giá như, em có với anh Hai… thì mai sau em sẽ nói với con… rằng ba nó là người tốt nhất trên đời… và má nó yêu thương ba nó vô cùng…
      Thương anh. Hẹn gặp lại anh Hai ở kiếp sau.
      Út Thiệt.
      
       Tái thơ: Em quên, em không biết chuyện ba em dọa bắn anh Hai. Sau ba em nói, em mới hay. Ổng còn nói em nhắn với anh Hai là, đừng vì chuyện đó mà thù hận con nhỏ, tội nghiệp cho nó quá.
 
      Thâm tâm, tôi tự hổ thẹn với mình, bởi tôi không phải là người tốt nhất trên đời, như em nghĩ. Út Thiệt ơi, giờ em đang ở đâu? Em có còn nhớ đến tôi?
      Tại sao, tôi không là khách thương hồ đi cùng em trên chuyến đò dọc của cuộc đời này???... ./.
 
  R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.10.2019 05:17:33 bởi Ct.Ly >

tamvanvov
  • Số bài : 807
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Dùng dằng phận cối, nhộ nhem phận nồi - 24.10.2019 10:27:09
Giấc mộng của lão Chủ
 
 Tiết Lập Đông, đám con cái của lão Chủ họp nhau lại, mua ít lòng lợn, cổ hũ về làm bữa chén. Chúng nó chủ định tụ họp là để bàn việc qua tết sang xuân tới, làm lễ khao thượng thọ cho lão. Đến ngưỡng tuổi này, ngày trai trẻ có nằm mơ lão cũng không dám nghĩ. Kiếm ăn từng bữa, hai tay vặt đút miệng chẳng đủ, ước ao lớn nhất là được no bụng, khổ nhục trăm bề, làm sao dám nghĩ đến ngày con đàn cháu đống, nhà cao cửa rộng, hưởng phúc dương gian đến chừng này cơ chứ.
Lão bảo: "Khao làm gì... Tao đã chín mươi đâu mà khao thượng thọ ... không khéo lại mang tiếng với làng xóm cũng nên". Thằng Điền, con trai thứ của lão Chủ, làm cán bộ xã, bảo: "Thầy cứ để chúng con. Ở xã này, mấy ông bí thư, chủ tịch đều đã làm lễ khao thọ cho cha mẹ họ cả, con dẫu không bằng họ, nhưng nhà mình đông con nhiều cháu, cha mẹ chỉ có một, kinh tế cũng khá giả... Thầy phải cho chúng con ngẩng mặt với làng xóm, bằng anh bằng em chứ... Ai đâu nhớ tuổi thầy, mình nói sao nên vậy. Đành rằng, thêm mấy tuổi nữa mới là thượng thọ... nhưng ngộ nhỡ... thầy tạch trước,... phỉ phui cái gở... Nhà mình cứ khao trước, nếu trời cho thầy  đến ngưỡng ấy, thành người cao tuổi nhất làng, có mà cả làng phải làm lễ cho thầy, chứ đâu đến phần con cháu". Bụng nghĩ, nó nói cũng phải, song lão ngại, bản tính căn cơ hà tiện trong máu, sợ tốn kém là chính. Vợ lão đoán được bụng lão, thủng thẳng bàn góp: "Thì ông cứ để cho chúng nó làm... Tốn kém là bao, mà chúng nó góp vào... Tôi đàn bà con gái, không cần... Còn ông là trụ cột nhà này... ông không nghĩ đến mình, nhưng cũng phải để con cháu nó mát mặt với hàng xã chứ!...". Lão im lặng hồi lâu, nói dỗi: "Thây kệ nhà các anh các chị, muốn làm gì thì làm... Giờ tôi già lão, mất thiêng rồi, nói gì cũng có ai nghe đâu". Cả nhà ồ lên, vui vẻ lắm, chén chú chén anh, rượu vào lời ra, bàn tán xôm lắm. Lão buông đũa, ra bàn nước, làm điếu thuốc lào, lo mơ phả khói, như bỏ ngoài tai lời bàn của vợ con...
 
XXX
 
        Nhà lão là dân ngụ cư ở làng Đặng này. Ông nội lão từ xứ khác phiêu bạt đến đây làm mõ làng. Ngụ cư đã lép vế, thêm nghề mõ là xuống tận đáy rồi. Lão không nghe ai nói về bà nội mình, chỉ biết khi đến làng này, ông nội mang theo cha lão, khi ấy mới còn trẻ con. Rìa đình làng, giáp bờ sông, có một thẻo đất hình dải khoai ngứa, có mấy cây vối um tùm, làng cho phép ông nội lão làm một nếp nhà gianh, chỉ hơn túp lều chút, ở cho tiện lo công việc của làng, điếu đóm các cụ dịp đình đám. Có chỗ chui ra chui vào, tránh mưa nắng, là may mắn rồi. Cha lão, thân thể yếu ớt, lại mắc tật nói ngọng, lớn lên chẳng lấy được vợ. Vậy mà, chẳng ai để ý, loắng ngoắng thế nào, có cô gái dở hơi ở làng bên, đến tận nhà trả con. Cha lão ú ớ, ngọng ríu lưỡi, mặt xanh như đít nhái, xua tay lia lịa, cố đẩy cô gái dơ hơi bế đứa bé ra khỏi cửa. Cả hai mẹ con đều khóc. Cô gái dở hơi tay bế con tay bứt tóc ngào ngào. Đứa bé oe oe rồi toét miệng cười. Ông nội lão, bế lấy đứa bé nhìn mặt, vạch tã thấy cái chim thây lẩy, bảo cô gái: "Đưa đây, ta nhận cho". Cô gái dở hơi nín khóc, cười nhệu nhạo, sung sướng bỏ về. Lúc ấy, ông cụ mới bảo cậu con: "Con cái là của trời cho... lại là thằng cu... thật phúc nào bằng... Không lấy vợ mà lại được con... Nhìn này, cái trán dô, cái cầm lẹm này, đúng là của nhà này rồi, con ơi...". 
         Chuyện ấy, là mãi về sau, khi ông nội lão già yếu, kể lại cho nghe, khi chỉ còn hai ông cháu sống với nhau. Thằng bé con ngày đó, chính là lão Chủ bây giờ. Còn cha lão yểu mệnh, sống lay lắt, đến trông con cũng chằng xong. Ngày nhỏ, bị cha bỏ mặc, cứ lê la đất cát, tha thẩn tự chơi, cho đến khi lớn một chút thì người cha qua đời...
         Nhà có hai ông cháu với nhau, rau cháo qua ngày. Ông nội làm mõ, là Mới ông, cha lão tuy chưa một ngày làm mõ nhưng làng cũng gọi là Mới con, và lão ngày bé được làng gọi là Mới cháu. Ông nội bận việc làng cả ngày, Mới cháu tự lớn, tự chơi. Nó người quắt, nhưng rắn ròi, mạnh bạo. Thấy đám trẻ làng chơi với nhau, nó đứng xem rồi nhập vào lúc nào không biết. Khi lũ trẻ làng phát hiện, đuổi thì nó ra, nó lì ra đấy, bọn trẻ cũng thôi. Song cũng vì cái tinh mạnh bạo, gan lì đó mà nó nhiều lần một mình ẩu đả với đám trẻ làng đến bầm dập tả tơi. Mỗi lần bị đánh vậy, nó bặm môi nén khóc, về nhà, khi ông nội rửa ráy, chăm các vết thương, nó vẫn không khóc, bảo ông: "Có ngày, cháu sẽ cho chúng nó trắng mắt ra...". Ông nó bảo: "Thôi đi, cháu ạ... đâu có ai thương đến những người nghèo hèn như nhà mình, hở cháu?... Cứ nhịn đi cho nó lành... Đời ông với cha mày, nhục lắm,... Dưng mà, gia tài ông còn mỗi mình mày... Ngộ nhỡ ra thì mất giống à ...". Nó ngước nhìn, ông nó quệt tay, như chùi nước mắt đọng trên da mặt nhăn nheo, khắc khổ...
 
XXX
 
        Thế rồi, làng xóm cũng đâu có được yên. Các cuộc săn lùng, vây bắt của lính triều đình và lính Pháp với những người hoạt động cách mạng xảy ra thường xuyên nên việc đình đám ở làng cũng thôi, ông nội nó mất việc. Ruộng không có một tấc, lấy gì mà đút miệng đây. May mắn cho nhà nó, trong làng có nhà cụ Đồ Sinh, gia đình giàu có nhất mực, ruộng vườn nhiều, đã nhận ông nội nó vào làm thuê, chuyên việc chăm sóc ao vườn, vậy còn đường sinh nhai. Nghe nói, nhà cụ Đồ Sinh vốn dòng thi thư, trước đó cũng chỉ thuộc tầm trung, kể cả lúc cụ Đồ còn sống, mở lớp dạy chữ Nho, chỉ từ khi ông Phúc, con trai cụ Đồ, bỏ chữ Nho ra Hà Nội học tiếng Tây, rồi theo nghề thiết kế xây dựng gì đó, bốc lên nhanh, đã bỏ tiền cho bà cụ Đồ mua điền thổ ở làng, mới thành giàu có nhất vùng. Ông Phúc mua trương thêm được vườn tược của mấy nhà bên, mở rộng thổ đến gần mẫu ruộng, rồi cho xây một ngôi nhà Tây ở giữa, to đẹp, sừng sững giữa làng. Cu Mới thi thoảng bám đũng quần ông nội được vào khu dinh thự nhà vườn của gia đình cụ Đồ SInh. Nó chỉ quanh quẩn ngoài sân vườn, nhìn ngôi nhà Tây thèm muốn lắm, nhưng sợ không dám bén mảng vào xem. Theo ông nội, nó được no bụng bởi ăn hoa quả rụng trong vườn, thi thoảng vớ miếng cơm cháy to tướng...
         Nạn đói năm Ất Dậu, người ăn xin rạc rài đầy đường, chết đói đầy chợ. Nó còn nhỏ những cũng đủ hiểu, may cho ông cháu nó, được nép mái hiên nhà giàu nên còn có miếng ăn, chứ không thì đói rã họng, chết còng queo rồi cũng nên. Một hôm, người em gái bà cụ Đồ Sinh, dắt đến nhà một đứa bé gái chừng năm tuổi, quần áo nhếch nhác bẩn thỉu, nhưng có khuôn trắng xinh, nói là nhặt được con bé ở chợ, đói lả khóc bên xác bố mẹ chết đói, bảo mang về cho cụ Đồ nuôi làm phúc. Kể từ hôm đó,  nó có bạn chơi. Nhà cụ Đồ Sinh đặt tên con bé là Lúa. Con Lúa kém nó dăm tuổi, khi được ăn no, quần áo sạch sẽ vào, trông kháu khỉnh phết. Chiều chiều, mỗi đứa một chiếc chổi tre, tha thẩn giúp ông nội nó quét lá vườn vun thành đống. Nó luôn tỏ vẻ đàn anh, để ý chăm sóc con bé, giúp việc nặng và hễ hái lượn được quả gì ngon ngon trong vườn, đều dành cho cái Lúa, nên con bé cũng quấn nó lắm.
         Cuộc sống có vẻ yên bình với nó ngắn ngủi, lại xáo trộn bởi cách mạng thành công. Không khí xã hội mới tưng bừng lắm. Ông Phúc, con trai cụ Đồ Sinh từ Hà Nội về quê, làm cán bộ của chính phủ lâm thời ở làng. Xã hội mới là xóa bỏ bóc lột nữa, ông Phúc phải làm gương, nên bà Đồ thôi không thuê ông nội nó nữa. Nhưng mà, không làm thuê thì đi làm việc gì. Thà làm thuê con có công xá, có miếng ăn. Cách mạng ở đâu đâu ấy, chứ với ông cháu nó thì chưa thấy lợi lộc gì, ngoài cái khí thế hừng hực ở hàng xã, hàng tổng... Nghe nói, chính phủ mới còn chẳng có tiền tiêu, nữa là dân chúng. Với nó, không được ở nhà cụ Đồ, là không được tầm hoa quả chín, không được miếng cháy to, và chẳng được chơi với cái Lúa. Vậy thôi.
Cách mạng rồi, nghề mõ làng cũng mất, không làm thuê cho nhà cụ Đồ thì ông nội nó đành vơ bèo vạt tép, mò cua bắt ốc, hễ ai thuê mướn việc vặt gì cũng làm tuốt, miễn là có chút công xá. Rồi lại kháng chiến, cán bộ chính phủ đi tản cư, lên chiến khu hết. Nghe nói, ông Phúc mang cậu con trai đi tản cư mãi đâu mạn Bắc Giang. Tây càn về làng, đóng quân ở lại, chúng lấy ngôi biệt thự Tây của nhà cụ Đồ Sinh làm căn cứ đóng quân, nên bà cụ Đồ, vợ và con gái ông Phúc, cả cái Lúa dạt vào nhà họ hàng ở cuối làng ở đậu. Làng thành làng tề, mọi người ngại ra đường, nhưng nó chẳng thấy ngại. Thân phận con cháu nhà mõ, bần hàn, lao lực kiếm miếng ăn thì có gì mà phải sợ. Ông nó dặn nó, chớ có chạy lông nhông, ngộ nhỡ ra làm sao thì khốn, nhà có mỗi mống. Khi quân Tây rút đi, chúng chôn mìn giật nổ, phá tan tành ngôi nhà Tây của nhà cụ Đồ. Thỉnh thoảng nó ngang qua khu nhà vườn của cụ Đồ, nhìn ngổn ngang gạch ngói, cây cối xơ xác thì thấy tiếc lắm. Chẳng gì ông cháu nó cũng từng trú ngụ ở đấy. Nó thèm những ngày được ăn no mặc ấm, được chơi với cái Lúa trong khu nhà vườn ấy. 
Một lần đi tiếp tế cho chồng con trở về, vợ ông Phúc bị đắm đò, chết đuối, tìm mãi mới thấy xác, chôn tạm ở xứ người. Không lâu sau, nhà ông Phúc lại gặp họa, cậu con trai bị chạy nọc sởi  thành thương hàn mà mất ở chỗ tản cư. Nghe nói ông Phúc buồn phiền suy sụp vì mất vợ con, bỏ về thành phố, tiếp nghề xây dựng gì đó, cho đến khi làng quê tạm yên, mới về cho dọn dẹp khu nhà vườn đổ nát. Rồi ông Phúc gượng dậy cho xây ngôi nhà ngói năm gian, kiểu nhà đại khoa cửa bức bàn. Khu nhà vườn của cụ Đồ có sinh khí trở lại. Bà cụ Đồ cho gọi ông nội nó đến, thuê làm một số việc, vậy là nó lại có cơ hội ra vào nơi đây. Giờ thì nó lớn nhiều, tính tình cũng thay đổi, bớt nghịch ngợm, chăm giúp đỡ ông hơn. Cái Lúa phổng phao và lộ rõ nét xinh. Công việc va chạm hàng ngày, hai đứa vẫn thân nhau, nhưng có phần ý tứ hơn. Không rõ cái Lúa thế nào, chứ nó thì thích cái Lúa lắm, kiểu thích của trai gái dậy thì ấy,... 
Có lần, ông nội nó bảo: "Ông ngẫm ra... như là kiếp trước, nhà mình và nhà cụ Đồ nợ nần gì nhau ấy, nên kiếp này hai nhà cứ nhú dính vào nhau,...  nhà mình thân phận mõ nghèo hèn, còn nhà họ giàu có nhất đẳng...". Nó nghe không mấy hiểu, ngây ngô: "Thế cái Lúa có phải là con ông Phúc không?... Con nuôi ấy". Ông nó ừ à. Nó gặng: "Ngộ nhỡ... nhà cụ Đồ có chê nhà mình là không môn đăng hộ đối không, ông?". Ông nội nhìn nó, nói như mếu: "Ừ, cháu đã lớn rồi... Ông không biết nữa ... Thương mày quá... Ta già yếu quá rồi... Giá trời thương, cho sống đến ngày cưới cho mày con vợ, thì xuống địa ngục có phải chịu đày đọa gì cũng cam lòng, cháu ạ". Lâu lắm rồi, nó mới thấy ông nội nó khóc, kể cả lúc bố nó chết. Sau đấy, ông nội nó yếu đi nhiều, nó thay ông đảm đương hầu hết công việc thuê mướn bên nhà cụ Đồ... 
Nhà cụ Đồ Sinh có niềm vui, ông Phúc lấy vợ kế. Người vợ kế của ông Phúc con nhà gia giáo, mỏng mày hay hạt, tính tình hiền thục, nhưng con đầu lòng vẫn con gái. Vậy là nhà cụ Đồ vẫn chưa có cháu đích tôn nối dõi tông đường, song bà kế còn đang tuổi sinh nở, lo gì. Bà Nhu, vợ kế ông phúc làm ăn buôn bán ở phố, thi thoảng mới về quê, ngó ngàng qua chút, vì bà không mấy thạo việc nhà nông. Ruộng vườn ở nhà vẫn do bà cụ Đồ và cô con gái của bà cả trông nom. Bà cụ thì già yếu, cô cháu gái lại đoảng, nên bà cụ Đồ hay nhờ nó chạy việc ngoài đồng giúp. Ruộng chủ yếu vẫn phát canh thu tô, nên chỉ cần trông nom quán xuyến thôi. Vì được bà cụ Đồ tin cậy giao việc chân chạy ngoài đồng, nên thỉnh thoảng nó lén rủ cái Lúa cùng ra đồng. Cái Lúa chủ yếu việc nhà vườn, mỗi khi được nó rủ thăm đồng thì thích lắm. Nhìn cái Lúa lớn mẩy từng ngày thành cô gái xinh xắn, nó thầm ao ước, một ngày kia, xin cưới cái Lúa làm vợ, được bà cụ Đồ đồng ý, cho thêm miếng ruộng làm của hồi môn. Chỉ cần vậy thôi, nó sẽ tự biết cách làm này nở sinh sôi cuộc đời nó rồi. Trên đời này, ai chẩng muốn giàu sang phú quý, vậy thì, giấc mộng "đa đinh phú túc" của nó, dẫu con cháu nhà mõ, có gì sai đâu?... 
 
XXX
Tin quân ta thắng Tây ở các mặt trận rừng núi cũng về đến làng. Người ta bàn tán này nọ, nó nghe thì biết vậy, chứ nó bận đến tối tăm mắt mũi, vừa lo công việc đồng áng cho nhà cụ Đồ, vừa phải lo cơm cháo chăm ông. Ông nó yếu lắm, ngày nhệu nhạo nuốt vài lưng cháo. Nó lo ông nó khó qua khỏi, bởi mỗi ngày mỗi yếu. Bà cụ Đồ là người tử tế, đưa cho ít tiền, bảo cắt mấy thang thuốc bắc để ông nó tẩm bổ. Chưa hết, người đàn bà dở hơi làng bên, người đã sinh ra nó, bệnh tật mà chết. Đã có lần nó hỏi đến mẹ đẻ, ông nó kể qua loa. Nó gặng, sao mẹ nó không ở cùng, thì ông nó bảo, mẹ nó dở người, còn gia đình bên ấy, người ta cũng không muốn dây với nhà mõ, nên cắt đứt quan hệ. Nó cũng không hề lai vãng gì đến gia đình bên người đàn bà đã đẻ ra nó. Nhung nghĩa tử là nghĩa tận, ông nội nó bảo: "Dẫu người ta không nuôi mày ngày nào, nhưng có công mang nặng đẻ đau... nay người ta mất, cố sửa lấy cái lễ đến viếng người ta... là giữ lấy lễ nghĩa ở đời, cháu ạ...". Nó nghe lời, làm như ông bảo, bên nhà ấy cũng có vẻ hối lỗi việc đã bỏ rơi nó ngần ấy năm trời... 
            Chiến thắng Điện Biên vang dội. Thế là từ nay không còn sợ lính Tây, lính tề nữa. Chính phủ kháng chiến từ rừng núi đã về thủ đô, nước nhà đã hòa bình. Song khi niềm vui xã hội mới còn chưa lắng xuống, thì một bầu không khí nặng nề lại bao trùm lên làng xóm. Người làng bàn tán, nghe đâu trong kia, người ta đã triệt địa chủ rồi. Nó nghe lỏm, xã hội mới sẽ không dung thứ những nhà giàu có, vì họ giàu lên là do bóc lột sức lao động của người nghèo. Vậy là nhà bà cụ Đồ Sinh cũng là địa chủ mất, bởi có bao nhiêu ruộng đất. Nó nghĩ, bà cụ Đồ tốt bụng là thế, lại sống tằn tiện, tương ủng cà meo nếu còn ăn được thì không đổ bỏ bao giờ, chỉ mỗi tật già khó tính, hay lằn nhằn, chứ không nỡ hại ai bao giờ. Bà Như, vợ kế của ông Phúc, thôi việc buôn bán ở thành phố, về làng trông nom ruộng vườn, thấy cũng xởi lởi tốt bụng. Nhà ấy, chỉ mỗi chị Loan, con gái bà vợ cả của ông Phúc là  lười, tính nóng, hay to tiếng nọ kia, chứ thực ra cũng diện nhẹ dạ. Thực lòng, nó không ghét ai trong nhà bà cụ Đồ cả, thậm chí, nó còn lo, nếu nhà ấy bị tịch thu hết gia sản, ruộng đất, thì nó mất việc làm, lại đói rã họng.
            Nhưng rồi, sự việc ập đến. Trước hết, là việc cưới xin của chị Loan, nghe nói đã có người dạm hỏi, sêu lễ mấy năm rồi, nhưng vì anh này đi bộ đội Cụ Hồ, tham gia chiến dịch Điện Biên, nên chưa cưới. Chiến thắng Điện Biên, anh ta về quê, nhưng từ hôn chị Loan, nghe đâu biết nhà vợ chưa cưới sẽ bị quy địa chủ, sợ thành phần xấu, nên chạy làng trước cho đỡ bị liên lụy về sau. Bị từ hôn, chị Loan bực tức, làm mình làm mẩy, trút giận lên bà cụ Đồ và cái Lúa. Cái Lúa đã lớn nhiều, bị vạ lây nên cãi lại, khiến chị Lúa tức quá, vớ cán chổi, quất mấy cái vào mông cái Lúa. Cái Lúa khóc, bỏ nhà bỏ ăn, Nó thương cái Lúa, đi tìm và dỗ dành, khuyên về nhà. Cái Lúa hậm hực bảo, rằng có ngày sẽ trả thù chị Loan. 
           Hết giảm tô, đến cải cách ruộng đất. Làng xã rối tung rối mù. Nó và cái Lúa là thành phần cốt cán ở làng, nên cán bộ cải cách từ trên cử về, triệu tập cả hai đứa vào diện những người cốt cán. Nghe cán bộ thảo luận, nó biết nhà bà cụ Đồ Sinh sẽ bị quy địa chủ. Nó thấy thương, đắn đo, bứt rứt việc có nên ngầm báo tin cho bà cụ không, nhưng rồi giữ đúng nguyên tắc của tổ chức nên thôi. Tham gia tổ chức, nó vui lắm, nhất là việc được cán bộ cấp trên đặt tên cho. Anh cán bộ hỏi tên, nó nói tên là Mới cháu, thì anh cười khoái chí, vỗ thật mạnh vào vai nó bảo: "Đồng chí, từ nay tên của đồng chí là Chủ. Xã hội mới của chúng ta, mọi người dân, ai cũng là chủ. Nay đặt tên cho đồng chí là Chủ, để khẳng định vị thế của mọi công dân trong chế độ mới, để đồng chí ghi nhớ công ơn của cách mạng đem về cho  đồng chí sứ mệnh và quyền lợi là được làm chủ xã hội. Đồng chí hãy quên cái tên Mới đi. Trong xã hội dân chủ của chúng ta, không còn nghề mõ, giờ đây, bất kể nghề nghiệp gì cũng đều vình quang như nhau...". Nó nghe như nuốt từng lời của cấp trên, cảm động rưng rưng. Nó ghi nhớ, từ nay, tên nó là Chủ.
          Giữa những ngày sôi sục ấy, ông nội của Chủ mất. Ốm yếu lâu ngày, ông nó như ngọn đèn hết dầu thì tắt. Thương ông lắm, chẳng được mấy ngày sung sướng, dẫu sao, ông nội cũng biết được ngày đất nước độc lập, biết nó không còn mang cái tên Mới từng đeo đẳng mấy thế hệ nhà mình. Lời trăng trối của ông nội nó: "Từ rày, mày không còn phải mang thân làm mõ nữa, cũng không lo phải làm thuê ở đợ nữa... cháu à...Ông nhắm mắt cũng yên lòng". Đám ma ông nó, làng xóm hỗ trợ theo sự chỉ đạo của cấp trên, và đây cũng là đám ma đầu tiên ở làng làm theo tinh thần của xã hội mới, văn hóa mới. Bà cụ Đồ không đến viếng, nhưng sai chị Loan mang đến ít tiền, gọi là chút lễ thắp nén nhang cho ông nội nó. 
           Một hôm, sau buổi tập huấn, cái Lúa gọi Chủ ra vườn chuối sau trụ sở của Đội cải cách, rỉ tai, bàn cách trả thù chị Loan.  Khi ấy, cái Lúa đã gói ghém quần áo, bỏ khỏi nhà bà cụ Đồ, ra nơi ở chung của Đội cái cách rồi. Nghe xong, Chủ áy náy, thấy làm như vậy có gì ang ác, thật không phải với nhà bà cụ Đồ và cả chị Loan nữa. Nghĩ thế, song Chủ không nỡ trái ý cái Loan, và hai đứa cầm đầu cho một trò đùa ác ý. Chúng xúi lũ trẻ làng, đứng ngoài cổng nhà bà cụ Đồ, reo hò, réo gọi tên bà cụ và chị Loan, bảo là đồ địa chủ hại dân hại nước. Chị Loan tức quá, mở cổng, xồ ra đuổi lũ trẻ, thì lũ trẻ chạy túa đi, ngày lập tức, Chủ vào cái Lúa xuất hiện. Cái Lúa chỉ mặt chị Loan, mắng là dám dẫm chân, bước qua hình cờ tổ quốc. Lúc ấy chị Loan ớ người, nhìn xuống thấy dưới đất thấy có hình vẽ lá cờ thật, vừa giận vừa sợ, òa khóc, chạy vội vào nhà. Chủ thấy hối hận, trong khi cái Lúa vẻ đắc ý...
          Hôm đấu tố, bà cụ Đồ bị một số người làm thuê tố là "hà tiện, bắt người làm thuê cùng ăn cơm nguội cà meo với mình", rồi mấy người họ hàng trước hay nhờ vả, thì tố là "nhận mua lúa non" mỗi khi họ thiếu thốn phải đến vay mượn. Cái Lúa lên đấu tố, gán chị Loan tội hay mắng mỏ, có lần cầm cán chổi đánh mình, còn với bà cụ Đồ, thì gán tội bắt phải quét hết lá  cây rụng cả cái vườn rộng, đến nỗi có người thương xót quét hộ. Chủ nghe cái Lúa tố hộ và khen mình tốt bụng thì ngượng hết cả mặt, lỉnh ra bên ngoài. Sau đó, bà cụ Đồ và bà Nhu, vợ kế ông Phúc bị đội cải cách dẫn giải giam vào chuồng trâu ở cuối làng. Mấy lần, Chủ lảng vảng gần nơi bà cụ Đồ và bà Nhu bị giam, tính hỏi han hoặc đưa chút gì ăn cho hai người, nhưng Đội canh gác rất chặt, nó sợ bị thấy, chỉ dám nấp kín nhìn vào thôi. Thực lòng, Chủ thấy nhiều người tố ép này nọ, chẳng biết đối xử với mọi người ra sao, chứ với ông cháu nó và cái Lúa thì đâu đến nỗi nào, nên thương cho bà cụ Đồ và bà Nhu. Rồi nghe nói, ông Phúc viết thư tay nhờ người quen mang về quê đưa đến Đội cái cách xin thoái tô. Đội đã cử người ra Hà Nội nhận tiền và thóc thoái tô, chở những mấy xe cam-nhông, nên hai mẹ con bà cụ Đồ được thả về nhà. 
          Sau khi được thả ra ít ngày, thì bà cụ Đồ chết, nghe nói, bà cụ chỉ ốm xì xằng mấy hôm, rồi thổ huyết mà mất. Người làng đồn bà cụ uất ức vì chứng kiến nhiều người, trong đó cả họ hàng thân thích, trước đây toàn nhờ vả nhà mình, nay được thời nhảy lên điêu toa, vu oan giá họa cho bà cụ tội này nọ. Năm ấy mưa nhiều, đồng làng ngập nước, nên đám bà cụ Đồ phải chôn nhờ vào đất ruộng của người nhà ở làng bên. Người đưa đám thưa thớt vị sợ bị liên lụy. Chủ và cái Lúa xin với Đội giúp nhà đám với tinh thần tổ chức cử người hổ trợ. Chủ thương bà cụ Đồ và thấy tội nghiệp cho bà Nhu, con gái hàng phố ngơ ngác nơi quê chồng, vập mặt vào những ngày khổ ải, tủi nhục nhất. Đám ma bà cụ Đồ, mà ông Phúc, một người rất hiếu nghĩa, mà không dám về chịu tang mẹ. Người ta bảo, ông ấy sợ về thì bị Đội bắt giam, xử tội này nọ, bởi lúc ấy, đã có ông làm bí thư ở xã bên còn bị Đội xử bắn với tội danh phản động. Cái chết của bà cụ Đồ làm cái Lụa có vẻ ân hận. 
           Tết năm ấy, rét rét là. Đêm ba mươi tết, trời tối đen như mực, lợi dụng lúc giao thừa mọi người mải cúng bái, Chủ trèo tường lẻn vào vườn nhà bà cụ Đồ, gọi bà Nhu, đưa cặp bánh chưng và một khoanh giò, bảo: "Cháu chỉ có vậy, mong bà nhận cho, thắp hương bàn thờ gia tiên và khấn bà cụ Đồ giúp cháu...". Bà Nhu cảm động lắm, trong bóng đèn chập chờn, nó thấy hình nhứ bà ấy khóc... Chủ cũng rân rấn, thấy ấm lòng vì làm được một việc phải đạo. Tết nhất, một mình, nó có bánh trái gì đâu, là mấy nhà hàng xóm nịnh nó, biếu quà tết và cái Lụa mang đến cho. Chẳng gì, nó là thành phần cốt cán, giúp việc cho Đội, oách lắm chứ, ối người muốn nịnh. Nó chỉ việc bớt ra, mang đến nhà bà Nhu. Nhớ lời ông nó vẫn dạy "một miếng khi đói hơn một gói khi no", nay nhà cụ Đồ hoạn nạn, chẳng ai đoái hoài, ông cháu nó ít nhiều mang ơn, có chút quà tết, mất gì đâu, lại được việc phải đạo...
XXX
 
Qua tết, bà Nhu ra Hà Nội, bỏ lại cơ ngơi ở quê. Tiếng vậy thôi, chứ đâu còn gia sản và ruộng đất. Đội tích thu hết ruộng đất, khu nhà vườn rộng ngót mẫu đất được chia ra gần chục  suất, trả lại một suất cho gia chủ, còn lại mang chia cho dân nghèo trong làng. Ngôi nhà lối đại khoa cũng bị dỡ bỏ, chia chác hết. Buồn cười, lúc chia quả thực, đồ đạc của nả nhà cụ Đồ được bày ra sân, cán bộ Đội cứ ang áng mà chia. Cái cối xay bột to tướng, Chủ nhường cái Lúa nhận thớt dưới, còn nó nhận thớt trên, bị sứt tí chút nhưng không hê hấn gì. Mọi người cứ cười trêu hai đứa, bảo mỗi đứa một thớt thì xay kiểu gì. Chủ thấy kệ, vì nó đã có chủ ý, người làng sao biết được. It lâu sau, vì có tình ý từ trước, Chủ xin cưới cái Lúa. Đám cưới theo văn hóa mới, đơn giản, kiểu như một buổi hội họp. Chủ nghĩ, thật may, cưới theo lệ làng cũ, thì lấy gì mà cưới. Thế là, hai cái thớt cối, đồ quả thực từ nhà cụ Đồ lại về chung một nhà. Lúc ấy, làng lại cười, là cưới thầm thôi, khen cho ý tứ và sự tính toán của Chủ. Cối to, xay được nhiều gạo, bột lại mịn, dùng xay bột làm bún thì nhất, nên vợ chồng chủ mang bán cho một nhà chuyên nghề làm bún, được một khoản tiền kha khá làm lưng vốn. 
            Ở phố, vợ chồng ông Phúc sinh con trai, vậy là nhà ông ấy có người nối dõi tông đường, tiếc là đã tay trắng, chẳng còn gì để nhà ấy nối nghiệp giàu sang nữa. Chị Loan đi lấy chồng xa, về làm dâu một ông lái trâu khấm khá. Vợ chồng Chủ sinh con đầu lòng. Giấc mộng đa đinh phú túc ám ảnh Chủ, tủi nhục mấy đời không một tấc đất cắm dùi, làm nghề mõ, người ta cho một chỗ dựng lều ở tạm, giờ có nhà của mình. Cải cách, Chủ được chia một miếng đất vườn nhỏ, phía sau đình làng, nên đặt tên con là Thổ, ý là từ nay ta đây đã có thổ cư.
          Yên hàn một thời, vợ chồng Chủ vẫn cảm thấy áy náy với gia đình cụ Đồ. Thực ra, khi sửa sai, Chủ biết là, việc đấu tố địa chủ ở làng có nhiều sai trái, với nhà cụ Đồ cũng vậy. Giờ thì chuyện cũng dần nguôi ngoai, là lúc sai có thể nhận lỗi, nên bảo vợ: "Nhà ạ... xem hôm nào, nhà ra Hà Nội gặp ông Phúc bà Nhu... xin lỗi ông bà ấy một lời... Hồi cải cách, nhà đã đấu tố bà cụ Đồ... Đành rằng khi ấy phải vậy, nhưng... nhà thử nghĩ lại... năm loạn đói... nếu không có gia đình cụ Đồ... thì nhà chết rồi cũng nên... Ơn ấy thật như trời bể...". Nghe vậy, Lúa chỉ ừ à cho qua, nhưng vài hôm sau, bảo đồng ý ra Hà Nội. Vợ chồng ông Phúc được lời như cởi tấm lòng, chuyện cũ cho qua. Chủ thầm nghĩ, ông Phúc là người có học, nên hiểu chuyện thời thế, còn với bà Nhu, thế nào bà ấy cũng nghĩ đến chuyện cặp bánh chưng và khoanh giò đêm ba mươi tết năm đó, Chủ dám mạo hiểm trèo tường vào nhà biếu ...
          Mọi chuyện tưởng vậy là xong, thì chiến tranh lại nổ ra. Mỹ mang máy bay ra bắn phá miền Bắc. Vợ chồng ông Phúc rời thủ đô về lại quê sinh sống. Khổ nỗi, lâm vào cảnh không tấc đất cắm dùi. Thế gian biến cải vũng lên đồi là vậy, từ chỗ vườn rộng nhà lớn, ruộng chiếm một phần ba ruộng làng thì nay lại tay trắng. Số là, miếng đất Đội cái cách trả lại cho gia đình, ông Phúc cho chị Loan, khi chị lấy chồng, chị đem bán đi, cẩm tiền về nhà chồng. Ông bà Phúc có bao nhiêu vốn liếng dốc ra mua được một được mảnh đất ở, vẫn thiếu nợ, phải vài năm sau mới trả hết, cất ngôi nhà tường đất mái rạ, ba gian hai chái. Không thạo việc nhà nông, nên cuộc sống của ông bà cùng mấy đứa con bạch diện học trò khá vất vả. Vợ chồng Chủ có cơ hội qua lại, giúp giập việc này nọ, xem như một sự trả ơn. Cuộc sống vất vả những năm chiến tranh, hai gia đình thường xuyên qua lại, giỗ tết, ít nhiều nương tựa vào nhau. Ông bà Phúc coi nhà Chủ như con cái, và vợ chồng Chủ mặc nhiên thế. Con cái ông Phúc việc ruộng đồng thì kém, nhưng học hành lại giỏi. Khi họ phương trưởng, người lập gia đình riêng, người thành tài ra lại phố lập nghiệp, cũng là lúc ông bà lần lượt ra đi. Mộ ông Phúc, bà Nhu để cả ở nghĩa địa làng. Vậy là ngôi nhà tường đất mái rạ trên mảnh đất khá rộng kề ngay trục đường làng lại bỏ không. Ai qua lại, nhìn ngắm mảnh đất địa thế thuận lợi là thế, mà phát thèm, sinh ý này nọ.
XXX
 
Cứ ba năm đôi, vợ chồng Chủ sòn sòn thêm năm đứa nữa, tổng cộng ba trai, ba gái. Thằng con cả là Thổ rồi thì hai thằng em là Điền và Trì, tức là ruộng và ao, còn mấy đứa con gái, theo tên mẹ là Lúa thì chúng là Gạo, The, Lụa. Tên như vậy, Chủ thấy cũng nhã, kiểu nhà có chữ nghĩa, mà nghe vẫn dân giã. Cả nhà tám người, con cái là của trời cho, với cách đặt tên như vậy, Chủ xem như mình có đủ ruộng vườn, ao chuôm, thóc gạo ăn, the lụa mặc, để mộng tiếp giấc mộng "đa đình phú túc"... Nhưng cái mảnh đất được Đội cải cách chia năm nào, tuy giữa làng, sau đình ấy, chật hẹp quá. Đành rằng con gái lớn lên đi lấy chồng, nhưng ba thằng con trai thì ở làm sao đây. Nhân một đợt làng giãn dân, Chủ xin nhường lại mảnh đất sau đình để làng chia cho người khác, nhận một miếng đất mới, vốn trước là ruộng nhưng ngay bìa làng, bị cớm tre pheo, và bị lợn gà trong làng phá phách, được chuyển đổi sang đất ở. Miếng đất này rộng gấp ba miếng đất cũ, mặt giáp dãy ao làng bên, mặt liền bờ mương thủy lợi. Chủ nhẩm tính, sau này ba thằng con lớn lên, không đi làm ăn đâu xa, ở làng bám đít trâu, thì chia làm ba, làm bốn chỗ đất ấy cũng ổn. Lão đã ngắm nghía chán rồi, ở đây lão sẽ lấn thổ dễ như bỡn. Nghĩ là làm, hàng năm, dịp cuối năm, mùa nước cạn, vợ chồng và mấy đứa con lớn của lão hì hụi xúc bùn ao, bùn phù sa từ lòng mương vật vào vườn nhà, cạp mép ao, nói cho đỡ lở nhưng thực chất là ngầm lấn đất ao. Nhà lão bìa làng, khuất lấp, mấy ai để ý, mà ai đó có thấy thì cũng thây kệ, là lão lấn đất công chứ thiệt nhà nào đâu. Chỗ đất lấn được, lão cấy khoai nước, trồng chuối, xanh um lên, vừa lợi vừa để phi tang... Xem ra, cuộc lấn đất công mở thổ của lão thành công mỹ mãn...
          Đất vườn nhà lão phì ra thì người lão tóp lại. Lão vốn mình dây, lăn lộn làm việc chân tay từ bé nên như người luyện thành dẻo dai. Làm việc luôn chân luôn tay ban ngày, đêm lại phục vụ mụ vợ mướp đẻ đái dễ như lợn, người lão sắt đi, nhưng chẳng bệnh tật gì. Thằng cả khù khì, chăm chỉ, lấy vợ sớm. Thằng Điền thứ hai, tinh ranh, đến tuổi vào lính, đánh trận biên giới phía Bắc, may mắn không sứt mẻ gì, phục viên về, là đảng viên nên tham gia cán bộ xã. Ba con vịt giời, cố học hết cấp hai, ở nhà làm ruộng rồi lần lượt lấy chồng, đều sinh đẻ như lợn đàn, cho vợ chồng lão cả đống cháu. Riêng thằng cu út, lông bông, khó bảo, nghề ngỗng chẳng ra sao, chán chê, xoay ra mở quán thịt cày lại ổn. Lão thở phào sung sướng,
          Giờ sống đến cái tuổi này, thôi cũng một lần chiều con, nhất là khi mụ vợ lão cùng đứng về phía chúng nó. Có lần, riêng hai vợ chồng với nhau, vợ lão thủng thẳng: "Ở cái làng này, ông và tôi thế nào, người ta biết cả. Nay nhà mình thế nào, người ta cũng biết cả... Mình cũng phải ngửa mặt lên với đời... Sống tới ngần này tuổi đầu, chẳng phải trời cho hay sao... Chẳng nhẽ, cứ đợi lúc xuống lỗ, con cái mới được làm ma to à?...". Ngẫm ra, vợ lão nghĩ phải. 
          Lễ khao thượng thọ của lão Chủ hoành tráng như những gì vợ con lão muốn. Lần đầu tiên trong đời, lão không phải đứng ra chỉ huy, để mặc cho đám con tự lo. Lão xúng xính bộ quần áo, đội khăn xếp màu đỏ, giống nghi lễ thượng thọ người ta vẫn làm. Lũ con cháu lão xếp hàng trước ghế lão, lạy mừng chúc thọ. Trong lúc chúng nó rào rào chúc tụng này nọ, thì lão lại nghĩ đến ông nội và cha lão, thầm khấn họ về chứng giám cái gọi là phúc thọ mà các đấng sinh thành dồn lại cho lão hưởng, đầu óc lão âm âm câu dân gian "mấy ai giàu ba họ, chẳng ai khó ba đời". Lão xúc động ràn nước mắt, thầm gọi tên ông và cha mình, thấp thoáng hình bóng ngôi nhà gianh như túp lều nơi vạt đất ven sông làng... " Ôi, ông nội khóc kìa", thằng cháu đích tôn của lão vô tình kêu lên, khiến lão bối rối...
           Dăm chục mâm cỗ hết bay, khách khứa đủ thành phần. Cuối ngày, hạ rạp, con cháu trong nhà ngồi lại với nhau, vui mừng, hỉ hả lắm. Thằng cả khề khà "ở cái xã này chẳng kém bố con thằng nào", thằng Điền thì cao giọng "thầy u vui mà anh em mình cũng vui, vì ngẩng mặt lên với thiên hạ". Lão nghe, hơi khó chịu, ăn qua loa rồi ra bàn nước, xỉa răng. Lão vẫn có cảm giác bâng lâng, như người vừa tỉnh dậy sau một giấc mơ dài. Chính lễ, phải tiếp khách, giữ lễ , xong việc rồi mới là lúc đám con cái chén chú chén anh. Rượu vào lời ra, thằng cả túy lúy, cười như ngây ngô. Còn thằng Điền, huyên thuyên một hồi, nhừa nhựa, hắng giọng mấy lần, bảo: "Thầy ơi... con mạnh bạo, xin thưa với thầy u ... có mắng chửi, có đánh đập gì thì con xin chịu... Thầy u ngần này tuổi rồi... người già như chuối chìn cây ấy... Ngộ nhỡ...  phỉ phui cái ngộ nhỡ... sớm chiều gió máy...thì khổ...". Lão hiểu ngay, giả bộ không rõ: "Cái gì ... gió máy?". Thằng cả say nhưng vẫn tỉnh: "Chú cứ quanh coì... xin gì thì thẳng tưng với thầy u...". Lão ngắt lời: "Anh em mày khó nói nhỉ. Lại chuyện đất cát chứ gì?". Thằng Điền reo lên: "Ôi thánh thật. Khôn đâu đến trẻ... Thầy thật là thánh!...". Lão mát mẻ: "Thôi, anh không phải nịnh tôi... Vợ chồng già chúng tôi biết thân biết phần rồi...". Thằng Điền cầu tài: "Thầy ạ, nhờ tài trí của thầy u, vườn tược nhà mình mở được thế này... Con và anh cả cũng đã lo được chỗ ở rồi,... còn mỗi chú út ở với thầy u. Ba chị em gái đi lấy chồng, nhà nào cũng cửa cao nhà rộng cả... Thiêu thì không, nhưng công bằng thì cần có... Theo luật thì tất cả các con bình đẳng, song lệ quê xưa nay, con gái về nhà chồng thì thôi... Thầy u xem, lúc còn minh mẫn, lập cái di chúc về đất cát... là tránh những phiền phức sau này...". Lão nín lặng, chiêu hớp nước trà, hiếng mắt nhìn vợ thăm dò, thủng thẳng: "Anh hai nói cũng có lý... để rồi vợ chồng tôi tính...". Được một lời của lão, đám con cái vui như bắt được của, hể hả tranh nhau nói. Rượu lại rót ra, dô vào dô ra, ầm ĩ...
           Lão tựa người vào tràng kỷ, nhìn ra vườn cây mơ màng. Lũ con đâu thấu hiểu bụng lão, cũng vì tham đất cát mà vợ chồng lão lại thêm lần mất tình mất nghĩa với gia đình bà cụ Đồ Sinh. Trước khi mất, bà ra Hà Nội ở với con gái giữ cháu ngoại, nhà vườn bỏ không, nhờ vợ chồng Chủ trông nom giùm. Lúc thằng cả cưới vợ, chưa có đất ở, lão đánh tiếng cho vợ chồng nó ở nhờ, nói để trông coi cho tiện. Ở lâu, sinh thèm, không muốn đi nữa. Lão lại đánh tiếng muốn bà Nhu nhượng rẻ miếng đất ấy cho lão.  Không được, lão giận dỗi mất khôn, nói bóng gió xin lại cái mái ngói móc mà lão mới lợp lại vì mái rạ cũ dột nát. Lời nói ra, lấy lại không được nữa, sinh bất hòa. Hơn chục năm qua, lão bỏ giỗ ông bà. Tết nhất cũng không qua lại nhau. Tự thân, vợ chồng lão thấy phiền lòng... Ôi, cái giấc mộng đa đinh phú túc của lão đến bao giờ mới chấm dứt đây?... Cuộc đời lão, từ không mảnh đất cắm dùi, giờ nhà vườn rộng rãi, con đàn cháu đống thế này mà vẫn tham. Lại tham cả những thứ không phải của mình.... Lão chợt nhớ, lão xem trên ti vi, thấy người ta nói chuyện về một ông vua nào ở bên Tây đã mang đất nước của mình chia cho con cái, khi có được đất đai quyền lực rồi, lũ con bất hiếu ấy đuổi vua cha ra khỏi đất nước mình. Người ta chuyện thế là để răn đời thôi, chứ lũ con lão chắc không tệ bạc đến vậy...
           Nghe người làng đồn, mấy anh chị em con ông Phúc bàn bạc, dự định xây ngôi thờ tự trên mảnh đất vườn hoang ấy, để lấy chỗ thờ cúng tổ tiên, ông bà, và nơi chốn đi lại?... Đây là cơ hội để vợ chồng lão sửa sai. Rồi ra, vợ chống lão sẽ ứng xử như thế nào cho phải đạo?
           Lão Chủ ngợp đi trong ý nghĩ, như bỏ ngoài tai những ồn ào của bữa tiệc hạ rạp... ./.
 
Đã mang vào thư viện
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.11.2019 16:39:59 bởi Ct.Ly >

tamvanvov
  • Số bài : 807
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Dùng dằng phận cối, nhộ nhem phận nồi - 13.02.2020 11:20:54
Một thời má đỏ,
Truyện ngắn của Nguyễn Chu Nhạc
Anh lên Châu Mộc, theo lời mời của Quân, người bạn thân, cán bộ quản lý Văn phòng khu vực Tây Bắc của một cơ quan báo chí lớn. Quân sắp đến tuổi nghỉ hưu, vốn yêu mến miền đất thơ mộng này, muốn tìm một mảnh đất rộng để làm nhà vườn, đặng an nhàn tuổi già. Quân bảo: “Tôi biết ông cũng yêu quý vùng đất này chẳng kém gì tôi, cuối tuần ông lên đây chơi với tôi, cùng tôi tìm đất, biết đâu, ông cũng động lòng, kiếm một mảnh đất… Đồng bệnh tương lân mà, tôi và ông đều tương tư vùng đất này, bởi cả hai ta, cùng để lại nơi đây một mối tình dang dở, một thời… nhỉ”. Nghe vậy, anh cười: “Mối tình dang dở ư? Có thể với ông là đúng, song với tôi, thì chưa hẳn… Nhưng thật tình, tôi yếu mến miền đất thơ mộng này, có khi còn hơn ông!”. Cả hai cười vang.          Quân đưa xe về Hà Nội đón anh lên. Chiều cuối tuần, xe ngược lên châu Mộc. Qua Thung Khe, cơn giông kéo lên đầy trời, may là đầu hè nên không bị sương mù. Trời đổ mưa nặng hạt.  Quân lặng nhìn quang cảnh đồi núi gội mưa, cảm thán:”Tôi rất thích ngồi xe ngắm trời mưa, ông ạ”. Cậu lái xe nghe vậy hài hước: “ Ôi, sếp thích, nhưng em khổ sếp ơi. Lái xe đường núi trong mưa thế này, cực lắm, sếp à”. Chúng tôi phá lên cười, rồi lặng đi nhìn mưa rơi hồi lâu, hình như mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng. Anh chợt nhớ, động lòng thốt lên mấy câu thơ:” Ơi một thời khao khát/ Em thì còn trẻ măng/ Ngước cái nhìn ngơ ngác/ Ta vờ ngó vầng trăng/ Chỉ lửa là rất thật/ Bừng lên cháy hết lòng/ Em một thời má đỏ/ Ta một thời long đong”… Quân nghe, nói mơ màng như đẩu đâu ấy” Ừ,… đúng là em một thời má đỏ, … ông nhỉ?’. Anh cùng ờ như mơ hồ…          Mưa dứt từ lúc nào, xe lên tới cao nguyên Châu Mộc. Cao nguyên sau cơn mưa gột rửa, tươi mát yên lành trong màu xanh  mướt của ngô và chè. Những năm rồi, anh qua lại vùng đất này nhiều lần, nhưng mỗi lần mỗi ngỡ ngàng. Lần này, là sự ngỡ ngàng về vẻ tươi mới và có gì đó khang khác của cao nguyên mà anh chưa nhận ra.
          Lấy phòng khách sạn, tắm rửa sạch sẽ, mọi người đi ăn nhà hàng theo lời mời của một người bạn với Quân. Món ăn bản địa, ẩm thực Thái Mường lạ miệng. Cụng ly chúc tụng, nên ai cũng ngà ngà, một trạng thấy đầy hưng phấn. Anh cao hứng đọc thơ, là thơ tình, về mảnh đất này, nên mọi người đều vui lắm.          Đêm về, tưởng là ngủ được ngay, nhưng không ngờ, anh lại khó ngủ làm sao… 
#          Ngày ấy, cách đây gần bốn mươi năm rồi, anh đang học năm cuối đại học Nông nghiệp. Lớp của anh lên đây thực tập, đồng thời học nốt mấy môn học phù hợp với điều kiện thực tế của Nông trường Bộ ở đây.          Mấy chiếc xe khách Hải Âu đã chở đoàn sinh viên vượt dốc Cun, rồi Thung Khe lên với Mộc Châu. Ngày đó, khi xe ì ạch leo đèo, cả đám sinh viên, phần lớn quê các tỉnh đồng bằng, lần đầu lên miền núi, đã tranh nhau ghé nhìn qua cửa kính phong cảnh núi non hùng vĩ  của vùng cửa ngõ Tây Bắc, thích thú lắm. Khi đó, một chàng sinh viên lớn tuổi, là bộ đội chuyển ngành, cảm khái khi cất tiếng đọc mấy câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/ Heo hút cồn mây sung ngửi trời/Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống/Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, khiến mọi ngượi lặng đi…Ngày ấy, bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng chưa nhiều người biết, song sức gợi của nó thì cả người không yêu thơ cũng cảm thấy gai người. Đường sá nhỏ hẹp, quanh co,  nhiều đoạn xóc này người, rồi cuối cùng cao nguyên châu Mộc cũng hiện ra trong màn sương chiều se lạnh. Đêm ấy, mọi người được bố trí nghỉ ở nhà khách Nông trường Bộ, sau một buổi tối lang thang ra những nương chè. Thời gian cả lớp ở lại đây chừng mươi ngày để học nội quy chung, học nốt vài môn học, rồi sau đó chia ra từng nhóm nhỏ, về thực tập tại các đội sản xuất cụ thể. Dạo ấy, Nông trường Mộc Châu được chính phủ Cuba giúp đỡ xây dựng nên khang trang và quy củ lắm. Các đội sản xuất được phân chia theo các loại hình công việc chuyện biệt hoặc kết hợp, chẳng hạn chuyên trồng chè, chuyên trồng cỏ và nuôi bò sữa, hoặc kết hợp cả trồng chè và nuôi bò sữa…Anh được phân về một đội sản xuất cách xa trung tâm Nông trường Bộ chừng dăm cây số, chuyên về đồng cỏ và bò sữa. Từ trung tâm phải ngược dốc vào sâu tít nơi rải rác có những bản người Mường, người Thái, người Mông Hoa. Đội sản xuất này, có khoảng gần trăm công nhân, phần lớn chưa lập gia đình, ở tập thể tại khu lán trại đơn giản kiểu nhà cấp 4, giường tầng. Để nhường chỗ cho cánh sinh viên thực tập ở, các công nhân phải dồn lại, nhường riêng một khu nhà cho khách.Ở đội sản xuất này, chỉ có chừng gần chục nam giới, trong đó có vị Đội trưởng. Còn lại là nữ, chủ yếu độ tuổi trên đôi mươi, đều quê ở các tỉnh đồng bằng Bắc bộ như Hà Tây, Hải Hưng, Hà Bắc, Nam Hà, Thái Bình… Tay đội trưởng, tên Thiết, tuổi ngoài ba chục, đã có vợ con, và thật hợp với cái tên của mình, người y còi đen xắt lại, thêm hiếng một mắt, nhìn khá gớm ghiếc. Nghe đám công nhân nữ xì xào với nhau, y rất tinh ranh, ghê gớm và là một sát thủ tình trường. Cánh sinh viên thì bảo nhau, chẳng qua, thời chiến tranh vừa rồi, con trai mạnh khỏe ra trận hết, chỉ còn lại ít đàn ông đui què mẻ sứt ở nhà, nên của hiếm mà thành tinh thôi. Chuyện làng quê thời chiến thiếu đàn ông, không lạ, nhưng không thể sánh với chuyện nông trường thiếu đàn ông. Cái tỷ lệ, một đàn ông với mười đàn bà đang độ tuổi thanh xuân bị dồn vào một chỗ thì mới ghê gớm làm sao. Đàn bà sung sức, lại thừa mứa như thế, bị dồn nén nơi xó rừng, dễ làm họ rực lên…Mang tiếng nhiều phụ nữ như thế, nhưng ở đội sản xuất này anh cũng chỉ để ý và nhớ tên được mấy người mà thôi. Và đương nhiên, phụ nữ để nam giới thuộc mặt nhớ tên giữa đám đông ắt phải có gì đặc biệt, xinh hoặc xấu, hoặc tính tình có gì đó khác lạ. Người đầu tiên, để anh lưu tâm, ấy là Duyên, một kỹ thuật viên, cỡ tuổi anh, quê dưới xuôi, vóc dáng tầm thước, da nâu, gương mặt không hẳn xinh nhưng ưa nhìn và khá lạnh. Người thứ hai, là Hương, vóc dáng nhỏ nhắn, gương mặt khá xinh, hay cười nói, nhí nhảnh kiểu trẻ mới lớn. Người thứ ba, ấy là Lan, tạng người có da có thịt, gương mặt tròn trịa, hàm răng trắng đều, tính tình xởi lởi, dễ chịu. Và cuối cùng là Tẻo, tên xấu, người thấp lùn, gương mặt có gì đó dị dạng, lại mắc chứng điên tình. Ngày làm việc, rồi các bữa cơm tập thể, anh hay gặp họ, nhưng thi thoảng hỏi chơi mấy câu tầm phào, theo kiểu mà người ta hay nói cửa miệng là ”trai sinh viên, gái nông trường”, tán tỉnh chút cho vui . Với Duyên, cô gái này luôn giữ ý đúng mực giữa đám đông, không chủ động chuyện bao giờ, chỉ trả lời khi bị hỏi, và luôn có ý phòng thủ. Cánh nam sinh viên bảo nhau “con bé này kiêu lắm”, nhưng nghe đâu, cô đã từng yêu sâu nặng và rồi thất tình với một chàng sinh viên Hà Nội hào hoa nào đó, dạng về đây thực tập từ vài năm trước đó, nên tính tình sinh ra vậy.Với Hương, anh đã vài lần nói chuyện, thậm chí, đã có lần, anh cùng cô bé này ra đồng cỏ chăn bò. Buổi sáng, lùa bò ra đồng cỏ, thả rông để chúng gặm cỏ và vận động cho thoải mái. Nhũng con bò sữa lang trắng đen, giống của nước ngoài, điểm xuyết trên nền cỏ xanh, giữa quang cảnh núi non, trông thật thơ mộng. Hương thả bò rồi tìm một gốc cây có bóng mát ngồi, canh chừng. Có anh bên cạnh, cô hát véo von, hết bài này sang bài khác. Anh cũng dở bài tán, đọc lên mấy câu thơ tình của mình, khiến cô bé thich lắm. Cô khen thơ hay rồi bắt đọc thơ nữa, nhưng anh thì lại chán. Anh vờ chiều nhưng cũng không thích cái tính trẻ con của cô bé. Tuổi đôi mươi, học hết cấp hai rồi lên đây, tính trẻ con là phải thôi. Riêng cô bé này có biệt tài, dăm chục con bò cô chăn thả, cô thuộc dáng hình của từng con, đến mức ở rất xa, hễ chỉ đến con nào, cô cũng đoán trúng phóc tên số của con ấy. Anh đã thử tài cô mầy bận và cô chưa bao giờ sai.Còn với Lan, anh chuyện trò nhiều hơn cả, bởi tính cô xởi lởi, tự nhiên, không né tránh kiểu Duyên và cũng không làm ra vẻ trẻ trung hồn nhiên như Hương. Lan quê Thái Bình, kém anh  vài tuổi và đã có thâm niên tại nông trường dăm năm rồi. Một sáng chủ nhật, khi anh vẩn vơ bên đường, có ý quan sát quang cảnh, thì bắt gặp Lan. Cô rủ anh cùng đi hái nấm với cô, anh vui lắm. Lan bảo, mùa hè, sau những ngày có mưa, nấm sẽ mọc nhiều. Điều này thì anh hiểu, vì hồi còn ở quê, những ngày mưa nhiều, khi đi thả trâu cùng đám trẻ làng, anh cũng đã từng lấy được nhiều nấm, loại nấm cỏ, từng cái to nhỏ như trứng gà, như củ khoai tây nảy nhan nhản ở sườn bờ mương. Hái về, thái thành lát xào lên, hoặc xắt đôi kho kỹ với tương, ăn rất ngon. Anh và Lan tha thẩn trên đồng cỏ, vừa dõi mắt trên mặt đồng cỏ tìm nấm, vừa hỏi chuyện nhau. Cô kể, hồi ở quê, thỉnh thoảng được đi xem chiếu phim, thấy cảnh nông trường ở Liên Xô, có những cánh đồng lúa mì bát ngát, những đàn bò sữa cao lớn gặm cỏ nhởn nhơ trên thảm cỏ xanh bao la, thì cô thích lắm, ước ao một ngày kia thoát ly khỏi làng que nghèo, trở thành công nhân nông trường. Vậy khi có người làng sống ở trên này, về thăm quê, bảo ở đây đang tuyển công nhân nông trường, giống như cảnh phim cô đã xem thì cô háo hức muốn đi ngay. Và cô đã trở thành công nhân nông trường Châu Mộc. Tuy không đẹp mơ mộng như phim ảnh thì công việc cô đang làm cũng tạm ổn. Chỉ mỗi tội, ở đây ít nam giới, mà chị em thì quá đông. Lan bảo, ông giám đốc nông trường thương các cô lắm. Có lần ông nói vui rằng, nếu pháp luật cho phép đàn ông được lấy nhiều vợ, thì ông sẽ lấy mười vợ để giúp một số cô có gia đình. Lại có lần, ông giám đốc bảo, cứ tình cảnh này thì các nữ công nhân bỏ nông trường về quê lấy chồng hết, rồi ông lại ước ao, ở gần đây, có vài đơn vị bộ đội thì tốt quá. Ông giám đốc, còn kêu gọi các chàng sinh viên hãy lưu tâm giúp ông điều đó, tuy nhiên, không phải là cái cách, mỗi đợt sinh viên về thực tập, kết thúc mỗi đợt, để lại vài ba cô công nhân bụng mang dạ chửa và sau đó là những đứa trẻ không cha…mà phải thực sự gắn bó với nông trường, lấy vợ và ở lại đây.  Đấy là những gì Lan nói cùng anh khi hai người đi hái nấm với nhau. Chốc lát, chiếc làn cô mang theo đã đầy ắp những trái nấm trắng ngà nhìn thật ngon mắt. Trời đang nắng đẹp chợt mây đen kéo lên rất nhanh, và cơn mưa bóng mây đổ xuống, hai người vừa chạy vừa cười đùa, khi trú được vào một lán trại thì quần áo cả hai gần như ướt hết. Lan tỏ ra ái ngại khi quần áo ướt bết vào thân hình cô. Biết cô ngượng, anh vờ nhìn lảng ra đồng cỏ, song thế cũng đủ để cảm nhận được sự hấp dẫn toát ra từ dáng vè thanh xuân đầy sức sống nơi cô. Cầu vồng bảy sắc bừng giăng chân dãy núi xa xa, anh nhìn trộm Lan và vờ nhìn cầu vồng than:’Tưởng mưa bóng mây thì nhanh, nhưng không ngờ lâu tạnh thế nhỉ?”. Cô chỉ ầm ờ, lén gỡ từng mảng quần áo ướt bết vào người, mặt đỏ bừng…#Và một lần, nhóm sinh viên của anh trực kỹ thuật đêm. Đêm ấy, Lan là công nhân trực kỹ thuật chính. Chập tối, Lan thông báo, rất có thể đêm nay, sẽ có bò đẻ, bởi theo bảng theo dõi kỹ thuật và thăm khám thực tế, khả năng sẽ có vài con bò mẹ sinh nở nay mai. Thế nhưng, anh bạn cùng ca trực với an bảo là thấy người ơn ớn như sốt, xin về trước vì ngại sương đêm sẽ ốm. Vậy là, chi còn lại có anh và Lan, nên anh có chút gì đó hồi hộp... Lan luôn chân luôn tay, nhóm bếp củi rồi bắc lên một nồi nước to, nói là để có nước sôi sát trùng dụng cụ, chuẩn bị cho bò đẻ. Anh ngồi canh chừng bếp lửa, thêm củi, gạt tàn. Đêm mùa hè mà sương dày đặc. Anh hỏi bâng quơ:- Này em, mùa hè ở đây lạnh vậy sao?- Khí hậu cao nguyên mà anh… Thế mới nuôi được bò sữa chứ, anh  - cô cười – Ôi, em quên mất, anh là kỹ sư đến nơi rồi mà em lại đi giải thích cho anh. Em xin lỗi nhé. Cô cất miệng hát một đoạn chèo, hình như điệu Đường trường thu không thì phải, nghe man mát buồn...Thấy anh vẫn ngồi im lặng, Lan gợi chuyện:- Em hỏi đùa nhé,... anh tên Mạnh, nhưng sao cứ nhan nhát làm sao ấy... Dáng dấp thì  thư sinh ... cứ như là... con gái ấy – Cô lại cười – Hay là, anh ...Lan bỏ lửng, lại hát tiếp câu chèo đang bỏ lửng.- Thì bố mẹ mình để mãi toàn con gái, út ít đến mình là trai, nên đặt tên vậy cho vẻ khí thế... Cha mẹ sinh con, trời sinh tính mà...Anh cũng đang cố làm cho mạnh mẽ đây – Anh chống chế, đùa lại.- Thì cứ như em đây, tên khai sinh trong giấy tờ là Lang, khoai lang ấy. Chả là mẹ em đẻ rơi em ở ruộng khoai lang, nhà đông con nên đặt tên là Lang cho dễ nuôi, mà anh. Tên làm sao, người bao hao làm vậy, thế nên người em giờ cứ nuột nà nhẵn nhụn như củ khoai lang đấy thây – Cô cười to khiến anh cảm thấy thoải mái, dễ chuyện hơn – Bọn con gái ở đây trêu em, bảo là, ai lại tên Lang, khoai lang cơ chứ, quê mùa chết ấy. Thế rồi, chúng nó cắt của em cái chữ “g” thành ra Lan. Gọi thế hay anh nhỉ? Mà anh có thấy, ở đây, hoa phong lan rừng đẹp tuyệt vời không?... Giờ thì mọi người ở đây toàn gọi em là Lan thôi...- Cô dừng chuyện, giọng buồn buồn -  Này anh, nghe nói hôm trước, cái con bé Tẻo nó xông vào chỗ các anh quấy quả đấy à?- Ừ, … nhưng mà…nghe nói cô ấy bị căn bệnh oái oăm gì thì phải?- Vâng anh, chẳng rõ, nhưng người ta bảo nó điên tình... là cái bệnh phát do thiếu đàn ông ấy. Nó phát bệnh như vậy mấy lần rồi… Rõ khổ cái Tẻo, người gợm như vậy, đàn ông nào nó màng. Đến như chúng em đây, nghĩ chẳng đến nỗi nào mà cũng chẳng có ma nào thèm ngó nữa là... Lâu lâu, rồi bọn em cũng đến phát bệnh như nó mất... Lan như xịu xuống. Quả là, vài hôm trước, tối muộn, khi cánh con trai tán gẫu chán chê, đang định đi ngủ, thì của nhà bật mở tung. Tẻo xông vào, miệng huyên thuyên không rõ, choàng ôm chặt một cậu giường gần ngay cửa vào. Cậu ta sợ quá, vùng người gỡ tay Tẻo ra nhưng cô này ôm chặt quá, miệng cô lại sùi bọt như người lên cơn động kinh. Mấy cậu khác sợ quá, ré lên, quáng quàng nhảy bắn ra khỏi nhà. Một cậu liều xông vào gỡ giúp cậu kia, gỡ được rồi cùng bỏ chạy hết ra ngoài. Tẻo gầm gừ, chừng mắt đuổi theo, cho đến khi mấy cô công nhân chạy đến, ôm ghì và lôi Tẻo về khu nhà nữ công nhân. Anh cũng hoảng, lần đầu tiên biết thế nào là điên tình. -Giá cứ sống ở quê, tuổi này như em chắc con bồng con bế cả rồi. Nghe nói ở quê, chiến tranh hết, mấy năm nay, bộ đội phục viên, xuất ngũ về đông lắm. Dẫu chẳng được người lành lặn, thì thương binh, cụt chân cụt tay cung chả sao, miễn là còn cái ấy... Lan nhìn anh cười - Biết đâu lại vớ được chàng trung úy cũng nên,- và cô cất tiếng hát đùa “ tình tang tình, em đi rình trung úy…”Cô cười to khiến anh bật cười theo, thú vị :- Người như em, kiểu gì mà chẳng lấy được chàng trung úy, mà thiếu tá cho oách, em ơi... Nhưng mà thôi, chẳng lẽ. giờ bỏ về? Chịu khó ở đây săn một chàng kỹ sư nào đó, em ạ.- Vậy à? Em chẳng tin – Cứ  hết đợt sinh viên này về, rồi đi... rồi lại đợt khác, mà có đứa nào bắt chết được ai đâu... Giọng cô buồn hẳn – Đấy, cứ như cái Duyên, anh biết rồi đấy, xinh và duyên thế, năm trước có một chàng kháu đáo để, ngỏ lời yêu nó. Những tưởng mặn nồng, cưới nhau đến nơi rồi, mà nó cũng được chàng đưa về tận thủ đô thăm nhà, giới thiệu với cha mẹ... Nhưng rồi, nàng trở lên, ỉu xìu, thất tình, nghe nói chàng vẫn thiết tha lắm, song cha mẹ thì đâu có chấp nhận cô con dâu là công nhân chăn bò nơi xó xỉnh rừng xanh núi đỏ, cơ chứ?...Lan bỏ lơi câu chuyện, nhưng thấy anh lặng lẽ cời củi bếp, lại tiếp:- May mà, còn chưa kịp vác cái trống ỏng, kẻo ê mặt mà lại nuôi con một mình – Lan chép miệng – Cũng chẳng biết thế là may hay không... Có khi, có thai, kiếm được đứa con, nếp tẻ gì cũng được, phòng thân, ngộ nhỡ sau này “chống ề” thì cũng có đứa con nương tựa tuổi già...Quả là, chuyện này, anh không dễ nói, vì chính anh nay cũng đã thành người của câu chuyện đó rồi. Biết nói gì, thanh minh cho người ta à? Còn anh thì sao, nếu ở vào hoàn cảnh như chàng sinh viên nọ?- Anh biết không, có mấy chị lơn lớn tuổi ở đội này, cũng đang nuôi con một mình đấy. Anh để ý, có vai ba ngôi nhà tranh bên rìa đường đi vào bản người Mông, là nhà của các chị ấy đấy. Nhỡ có con rồi , sinh hoạt tập thể cũng khó, nên Nông trường cám cảnh, cho mượn đất làm nhà tạm để ở... - Lan tiếp câu chuyện.- Thế có biết cha mấy đứa trẻ là ai không? Họ có biết và quan tâm đến chuyện này không? Anh thăm dò.- Em cũng chẳng rõ nữa ...- Cô xa xôi, rồi giọng tự nhiên đanh lại – Thà có con rơi với các chàng sinh viên, còn đáng hơn có con với con khỉ đột gớm giếc ở đây...- Là em... muốn nói tới tay Thiết, đội trưởng phải không? Anh dò đoán vì ít nhiều nghe mọi người rì rầm về con người này.- Đồ khỉ đột. Gớm giếc lắm... – Cô như nghẹn giọng - Hắn chăn bọn con gái, nhất là đứa nào người gợm mặt mũi sáng sủa chút,… hắn giống như chuyện con dê đực, sáng ra đứng cửa chuồng canh từng con cái một để làm cái chuyện súc vật ấy..- Đến vậy sao? Anh ái ngại, so người, bất lực. Chẳng hiểu Lan có nhìn thấy bộ dạng và cử chỉ của anh không?- May mà, năm nào cũng có những đợt sinh viên về đây thực tập. Có các đoàn khách, lão ta đành bớt đi, giả bộ xởi lởi, là sợ mang tiếng này nọ đấy thôi. Còn không, chỉ có người ở đây với nhau, lão ấy dữ lắm, như quỷ ám ấy, anh ạ. Các anh về đây bao lâu, bọn em được dễ thở và thoải mái bấy nhiêu... Ngay như tối nay, vì lão ấy nghĩ em trực cùng một nhóm vài ba người, chứ mà biết chỉ còn em và anh thôi thì thế nào lão ấy cũng mò ra... Mà cũng chả biết đâu, lão ấy lại lù lù xuất hiện ngay bây giờ, cứ như ma xó ấy - Cô nói giọng ớn lạnh, anh nghe cũng gai người.- Chắc là... lão ấy thích em?... – Anh nói nhỏ và có gì đó như ghen tuông - Đúng thế chứ ?...- Cũng chẳng rõ ... Em ghê sợ lão ta – Em chẳng được cứng cõi như cái Duyên, nó đã thẳng thừng cự tuyệt lão ấy. Lão ấy thích nó lắm. Không xơ múi gì, nên lão ấy căm nó, anh ạ. Em thì ... em, cứ sờ sợ là...- Sợ gì lão ấy, còn có ... mọi người - Anh xuýt buộc miệng- còn có anh,- thì kịp ngưng, đổi cách nói.Thực tình, anh làm gì có sức, có quyền, có điều kiện và kể cả sự can đảm kiểu “người hùng cứu mỹ nhân” cơ chứ?!... Vả lại, anh có định ăn đời ở kiếp đây đâu, chẳng qua, vài tháng thực tập rồi về. Hoặc giả, có anh hùng anh trưởng, ra mặt bệnh vực cô thì chỉ tội mua thù chuốc oán cho cô mà thôi. Nghĩ vậy, máu yêng hùng trong anh dịu lại. Lan chuẩn bị xong công việc, cô lấy đâu ra mấy bắp ngô, củ sắn, ra bếp lửa ngồi bên anh, lặng lẽ cho ngô và sắp vào bếp than hồng nướng.- Thức đêm là hay đói lắm anh à. Anh em mình chịu khó nướng, lát nữa ăn – À, nếu có bò đẻ, mai kia em sẽ chiêu đãi anh món sữa đầu. Ngon lắm anh ạ. Anh đã ăn sữa đầu bao giờ chưa? – Rồi không đợi anh trả lời –cô liến thoắng – Sữa đầu không lấy làm thương phẩm được vì nó quá nhiều chất béo, dễ sinh men làm hỏng sữa, nên mọi người được lấy ăn thoải mái. Chỉ cần nấu chừng khoảng bảy, tám mươi độ là nó đóng bánh đặc sệt lại, bổ và ngon tuyệt.Anh và cô, lặng lẽ nướng ngô sắn. Anh liếc trộm, má cô đỏ hồng lên, gương mặt tròn xinh có phần quyến rũ, mắt to đen nhìn vào ngọn lửa đầy xa xôi. Lòng anh dâng lên một mối thương cảm. Bản thân, anh đã trải qua mối tình đầu, từng thất tình và thất vọng, anh hiểu được sự trống vắng, cô lẻ. Cứ mãi nơi này, tìm đâu ra một bóng đàn ông cho ra hồn? Rồi anh lại tự hỏi mình, với Lan, tình cảm của anh ra sao? Anh có thích cô không? Rõ ràng là có. Nhưng anh cũng thích và còn để ý đến Duyên, đến Hương. Vậy tức là anh chơi trò phiêu lưu theo kiểu tìm cảm hứng tình cảm thoáng qua rồi. Thực lòng, anh có bị cuốn hút bởi vẻ đẹp lành  lạnh, xa cách và bí ẩn của Duyên, song anh cũng thích sự thân thiện, xởi lởi, chân thành và sự khỏe mạnh đầy nữ tính của Lan. Còn về tương quan, rõ ràng, anh và Lan hay chuyện trò và gấn gũi, thân tình với nhau hơn. Giờ đây, anh được ngồi sát bên cô, cảm nhận được sức hút, mùi vị đàn bà từ nơi cô, trong một phong cảnh nên thơ huyền bí như ảo, đồng cỏ mênh mông chìm trong sương đêm, se lạnh, trăng muộn cuối tháng mờ tỏ đầu núi, bếp lửa bập bùng... Cảm nhận sự gần gụi, anh lại nghĩ xa... Lúc mới lên đây, còn ở nhà khách Nông trường Bộ, anh đã từng bắt quen với một dược sĩ nghiên cứu sinh điển trai  lịch thiệp đang là nghiên cứu sinh về cây dược liệu cho đề tài Phó tiến sĩ của anh ta; rồi anh cũng đã xem đoàn làm phim lên đây quay nhiều cảnh cho bộ phim truyện về đề tài vận động người Mông vào nông trường, với cô diễn viên xinh đẹp thủ vai chính; rồi chính anh, bắt gặp chàng dược sĩ và nàng diễn viên xinh đẹp sóng đôi tình tứ đi chơi đêm hút bóng vào đồng cỏ; lại cũng anh, chứng kiến cảnh một anh chàng cao to đẹp giai râu quai nón như tài tử xi-nê nước ngoài, từ Hà Nội lên, chẳng rõ là chồng hay người yêu của nữ diễn viên nọ, cãi cự nhau, động thủ kiểu ghen tuông... Tình yêu và tình dục, là vậy ư?... Giờ đây, anh và cô, như hút vào nhau. Ban nãy, cô đã đùa trêu anh, tên là Mạnh nhưng lại đầy thư sình và nhát quá đấy thôi... Cô cũng nói chuyện, nhiều chàng sinh viên về đây, khi về xuôi đã để lại giọt máu rơi của mình,... rồi cả chuyện, các nữ công nhân chủ động kiếm đứa con phòng nương tựa sau này... lại cả chuyện tay Thiết quỷ ám, luôn rình rập, gạ gẫm các nữ công nhân, trong đó có cả cô... Hẳn là, cô có ý bóng gió, xa xôi? Chắc là, cô đang muốn điều gì đó ở anh?Lan lấy ra ngô và sắn  đã chín – Anh ăn đi, nóng mới ngon – Giục anh ăn, cô thừ người, rồi như nén tiếng thở dài, cất giọng hát một đoạn chèo điệu sử rầu buồn thảm, trong vở Quan âm Thị Kính, khi Thị Kính phải đi xin ăn để nuôi con của Thị Màu… Anh ăn ngô nướng, nghe mà lòng nghẹn thắt, khó nuốt... Có gì như trách cứ, ai oán... Cô trách anh sao?  Trong khi anh lại ý thức trách nhiệm, vì nhà trường đã phổ biến nội quy thực tập, đặc biệt lưu ý, các sinh viên nam phải giữ mối quan hệ nghiêm túc, đúng mực với các nữ công nhân nông trường, tránh việc quan hệ nam nữ bừa bãi ngoài hôn nhân, và nếu ai vi phạm, tuy mức độ mà xử phạt, có thể không cho thi tốt nghiệp, hoặc đuổi học. Nghĩ mà kinh.Cô bỏ lửng câu hát, nín thinh, rồi nghe như có tiếng nức nở. Anh se sắt thương cảm, lại có gì đó bừng dậy sức nóng đàn ông...- Thương Thị Kính, anh nhỉ ... nhưng Thị Màu còn tội nghiệp, đáng thương hơn, ... nàng ta có lỗi gì đâu... anh nhỉ?...- cô cảm động.Anh bừng tỉnh, choàng tay qua người cô, kéo riết về phía mình– Không sao mà – Anh chỉ nói được có thế - Cô ngả hẳn đầu vào bờ vai anh. Anh vuốt tóc, chạm vào má cô, cảm nhận được những giọt nước mắt. Bàn tay cô dẫn dắt bàn tay anh tìm kiếm... Anh mụ mị đi và hai người xoay lại ập vào nhau, nụ hôn dính chặt, những cánh tay xoắn xuýt, cái ghì xiết lại...- Ôi thôi chết,... – Cô bừng tỉnh, gỡ môi khỏi cái hôn nghẹt thở, ngơ ngác, thất thần... – Anh ơi, con bò sắp sinh rồi !...Cô vùng khỏi vòng tay ôm của anh, cuống quýt, chân tay luýnh quýnh như thừa, không biết phải làm gì. Anh choáng váng, vẫn u minh chưa hiểu ra sao. Cô giục anh:- Anh vào đây, giúp em với, bò mẹ đang sinh. Em vừa thoáng nghe tiếng bò mẹ, em biết...Cô chạy vội vào chuồng ngay cạnh đấy, nơi nhốt con bò mẹ đang sinh, khi anh vào đến nơi, thấy cô đang loay hoay, đỡ phần đầu và hai chân trước con bê đã thòi ra giữa hai chân sau con bò mẹ. Chấn tĩnh, cô tỏ ra thành thạo với công việc, anh thì loanh quanh vòng ngoài, chờ cô sai bảo việc gì thì làm theo việc nấy. Tự thân, thấy ngường ngượng, nghĩ mình sắp thành kỹ sư rồi, ngoài mớ lý thuyết suông ra, thực tế công việc thì phụ giúp cho cô không xong. Ca sinh suôn sẻ, chú bê ra ngoài, lóng ngóng một chút cũng đứng lên được khi cô nâng đỡ. Bò mẹ liếm láp cho con vẻ an lành, trìu mến, và bê con đã biết rụi đầu vào bụng, tìm vú mẹ.  Cô dọn dẹp cho sạch sẽ. Anh quay lại bếp lửa thì khẽ giật mình khi thấy tay Thiết đội trưởng đã lù lù ngồi đấy rồi. Anh khẽ chào. Hắn nhìn anh bằng con mắt rưỡi, đầy vẻ dò la, nghi ngờ, mặt lạnh như tiền bảo:- Tôi đến đây từ nãy, không đánh tiếng, thử xem anh chị làm ăn thế nào. Ca đẻ suôn sẻ nhỉ. Được đấy, cô Lang ơi...Hắn nói to, gọi cô bằng tên tục. Lúc ấy, cô mới biết sự có mặt của hắn, và vâng dạ cho qua chuyện. Hắn nhìn anh chằm chằm, ỡm ờ:- Này cậu, ca trực của sinh viên các cậu tối nay, tưởng có mấy người cơ mà, sao lại chỉ mỗi mình cậu vậy?Anh giải thích sơ qua lý do sao lại có mình anh trực, hắn ngúc ngắc cái đầu nhỏ như chim sẻ, nhìn cô, dò trống không:- Chắc không có chuyện gì chứ ? Cô, cậu?- Chuyện gì là chuyện gì ạ? Em không hiểu – cô bình thản, và hình như cô cố giấu đi cái cười mỉa.Anh không sợ gì hắn, nhưng trong lòng cũng sinh ái ngại. Hồi nãy, nếu bò mẹ không sinh con đúng lúc ấy, thì không biết, trong vòng ôm của nhau, anh và cô sẽ ra sao ? Rồi hắn xuất hiện, bắt quả tang hai người... và làm toáng lên... rồi nữa, chuyện này sẽ đi đến đâu?... Anh nhìn cô, nhìn hắn, cố làm như vô sự. Hắn bảo:- Thôi khuya rồi, công việc cũng xong rồi... Cậu về đi, không phải trực nữa. Tôi đợi cô Lang dọn dẹp xong rồi về sau – Hắn đuổi khéo anh.Điều anh lo ngại, là anh về rồi, chỉ còn hắn với cô, hắn sẽ làm gì cô? Cưỡng bức chăng, khi rõ ràng hẳn tỏ ra ghen tức với anh, và thái độ của hắn có gì đó đầy mưu mô, thủ đoạn? Anh nhìn cô dò hỏi. Cô vẫn bình thản, lấy mảnh giấy báo, gói mấy bắp ngô và củ sắn đã chín, đưa cho anh, nhìn thẳng vào mắt anh cái nhìn như ra hiệu rằng hãy yên tâm:- Xong cả rồi, anh Mạnh về đi, anh cầm cả gói ngô sắn nướng này về cho mấy anh chị sinh viên cùng ăn. Em cũng xong ca trực rồi, về luôn đây. Anh yên tâm, em không sợ ma đâu... – Cô bật cười – mà có anh Thiết đây,…ma nó cũng sợ mất vía. Anh Thiết nhỉ?- Vâng... hắn xẵng giọng – Các cô ở đây, tôi thấy, có cô nào sợ ma đâu,... Còn cô, ma nó sợ cô thì có...Anh ôm bọc ngô sắn trong tay, bước thấp bước cao. Quãng đường từ trại trực về chỗ anh ở chỉ già trăm mét mà anh đi mãi, bởi chốc chốc, lại ngoái đầu nhìn về hướng trại, nghe ngóng, xem có động tĩnh gì không. Về đến khu nhà ở, anh nép vào đầu hồi ngầm quan sát, cho đến khi nhác thấy bóng hai người đi về gần đấy, và anh nghe tiếng cô nói chuyện khá to, cứ như là thầm báo với anh, rằng cô không sao, chằng có chuyện gì xảy ra…Đêm ấy, anh mất ngủ, đầu óc cứ ong ong những gì vừa xảy ra ... Anh thiếp đi và bừng tỉnh dậy, lắng nghe, trời còn tinh mơ. Anh nhẹ ra khỏi giường khi mọi người vẫn còn ngủ. Mở cửa nhìn ra, trời đất thảo nguyên ban mai thật tinh nguyên...


tamvanvov
  • Số bài : 807
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Dùng dằng phận cối, nhộ nhem phận nồi - 13.02.2020 11:37:02
Một ngày ở quê
 
Truyện ngắn của Nguyễn Chu Nhạc
 
                                     
          Tôi nhận được giấy mời từ quê do trưởng thôn ký, đại khái thông báo việc tổ chức lễ khánh thành đình làng sau một thời gian tu sửa. Vợ tôi bảo: “ Chuyện đình đám thờ cúng là việc hệ trọng. Nhà mình cũng phải góp thêm ít tiền công đức nữa chứ...”. Tôi gàn, bảo về trước dự lễ xem sao đã, rồi tranh thủ thắp hương mộ các cụ, để cuối năm xây lại mấy phần mộ lâu năm đã bị hư hại nhiều.
          Thế là tôi về quê. Tiện và sướng làm sao, xe buýt tuyến ngoại tỉnh cứ dăm phút một chuyến, mà đi nửa chặng hết có hơn chục ngàn đồng. thêm một cuốc xe ôm chừng ba cây số mới tới quê. Cậu xe ôm chở tôi mặt non choẹt đòi đắt gấp rưỡi. Tôi chê đắt thì cậu ta cười khơ khớ: “ Bác ơi, cháu hữu nghị lắm rồi đấy… Cháu chở hội cờ bạc, cũng từ thành phố về đây chơi, gấp đôi gấp ba họ cũng ok. Họ thua được cả trăm triệu ấy chứ, đâu thèm ỉ eo mấy đồng bạc bọ”. Tôi không ngạc nhiên về những chuyện cờ bạc, ma tuý, kao-rao-kê và mại dâm về quê, song cũng hơi ngạc nhiên bởi không ngờ qui mô sòng bạc ở đây lại lớn đến vậy. “Thế chính quyền địa phương, và công an ở đây không ra tay à ?”. Cậu xe ôm ôi dào to tướng:” Bác ơi, chúng mua hết cả, nhưng  rồi cũng toi!...”. Tôi cứng lưỡi, chẳng biết nói gì. Cậu xe ôm thấy tôi im lặng, lại bắt chuyện: “Bác quê đây à? Thôn nào đấy?”. Tôi trả lời, cậu ta bảo: “Đúng rồi, hôm nay, thôn ấy hội làng, khánh thành việc tu sửa đình làng, nghe đâu trước đó còn xây cả nghè tiến sĩ nữa. Trống phách ầm ĩ từ chiều qua,”. Tôi ừ hữ cho qua chuyện. Vào làng, tôi bách bộ ra thẳng sân đình vì muốn dự chính lễ. Vừa kịp, sân đình cờ quạt, trống chiêng tưng bừng khai lễ…
 Đình làng tôi thờ Thành hoàng là Thái sư Lý Đạo Thành, một nhân vật lịch sử quê châu Cổ Pháp, Kinh Bắc, từng là trụ cột dưới hai triều vua Lý Thánh Tông và Lý Nhân Tông. Vốn là người thông minh dĩnh ngộ, tài cao đức trọng, thanh liêm chính trực, đương thời, khi vua Lý Thánh Tông xuất kinh đi đánh dẹp quân Chiêm, ông và Nguyên phi Ỷ Lan đã được nhà vua giao nhiếp chính. Sau này, khi nhà vua băng hà, Lý Nhân Tông lên ngôi lúc mới bày tuổi, ông cùng hai vị Hoàng thái hậu là Thượng Dương và Linh Nhân Ỷ Lan cùng giúp vua bé việc triều chính thì xảy ra sự chia rẽ, tranh giành quyền lực và sự chi phối nhà vua giữa hai vị này. Ông đứng về phía bà Thượng Dương, trong khi Thái úy Lý Thường Kiệt nghiêng về bà Linh Nhân Ỷ Lan. Cuộc tranh giành phân định, bà Linh Nhân Ỷ Lan là mẹ đích của vua Lý Nhân Tông, thắng thế, bà Thượng Dương cùng bảy mươi hai cung nữ của vua cha phải chết, còn Thái sư Lý Đạo Thành bị giáng chức và bị biếm vào quản xứ Nghệ An, cho đến khi quân Tống xâm lược, mới được gọi về triều phục chức và ông góp công lớn trong việc đánh thắng giặc Tống và ổn định triều chính, đặc biệt là các chính sách phát triển dân sinh. Lý Đạo Thành chết trẻ, sau được phong làm Thành hoàng ở nhiều làng mạc quanh vùng Kinh Bắc, trong đó có làng tôi. Nhiều đời nay, dân làng lấy làm tự hào vì được thờ phụng vị Thành hoàng dày công đức với dất nước và dân chúng. Chính vì vậy, sau nhiều năm. ngôi đình được sử dụng làm kho chứa, rồi lớp mầm non, khi phong trào khôi phục các chùa chiền, miếu mạo nở rộ, nhất là khi ngôi chùa cổ Linh Hương ở làng bên được tôn tạo thì bà con hô hào, hùn nhau đóng góp công đức, khôi phục lại đình làng.
          Tôi tìm đến bàn ghi công đức, thực hiện nghĩa vụ, rồi quay ra xem lễ, một vài người làng cao tuổi nhận ra tôi gật đầu, mìm cười chào. Bỗng có ai đó vỗ nhẹ vào vai tôi, ngoảnh ra, thì ra Đăng, một người em họ bên bà nội tôi. Lâu rồi mới gặp nhau, tay bắt mặt mừng. Hai anh em đứng xem lễ một lát, Đăng rủ tôi ra ngoài cầu sông chuyện trò cho đỡ ngột ngạt. Có lẽ,  mấy chục năm rồi, tôi mới ra lại cầu sông cửa đình này, nơi lưu giữ bao kỷ niệm tuổi thơ tôi ngày còn đi học, khi nhà tôi từ Hà Nội chuyển về quê sinh sống những năm đầu của cuộc chiến tranh chống Mỹ. Cầu sông đã xây mới, không còn sứt mẻ ngày nào, nhưng nước sông mùa cuối năm cạn gần đáy và lên mùi khó chịu. Riêng cây đa già cỗi thêm, nhưng thân cành chẳng mấy sum suê, còn cây bàng tơ ngày xưa đã dần thành cổ thụ. Chẳng gì cùng một phần ba thế kỷ đã qua. Đăng cười bảo:
          - Bác à, chẳng hay bác có rỗi rãi thì ở quê vài ngày... lâu lâu anh em mình mới gặp nhau, chuyện trò cho đã những năm tháng xa...
          - Mình định chiều ra lại Hà Nội. Lát tranh thủ ra đồng thắp hương mộ ông bà và các cụ...
          - Bác ạ, em đề nghị thế này... Bác cứ xong việc hương khói đi. Chiều nay về nhà em chơi, mừng cho em có cái nhà mới khang trang, tối nay bác ngủ lại nhà em một đêm, anh em mình làm dăm chén rượu, chuyện trò đôi câu... là em còn có chuyện muốn thưa với bác, lại cũng muốn xin ý kiến bác một việc quan trọng,...
          Thấy tôi ầm ừ định từ chối, Đăng dấn tới:
          - Hay bác chê nhà em nghèo, nông dân chính hiệu? Bác đồng ý đi cho em vui – Đặng cười cầu tài – Bác không biết đấy thôi, cháu nhà em nó nối mạng, lập cho em cái Phây-búc, là để tiện vào mạng xem tin tức thời sự, xã hội,... Bác ạ, em vẫn mò vào đọc trộm cái Phây-búc của bác đấy. Gớm, thơ văn bác lai láng, chuyện làng quê, chuyện tình tang đủ cả... Em thực sự kính phục bác đấy.
          Biết là khó từ chối, nhất là ngại việc Đặng nghĩ mình chê bai này nọ. Nghĩ bụng, cái nhà tay Đăng này thật khéo nói, nhung mà cũng không phải là người lẻo mép. Trong số những người cùng lứa với tôi, ở lại làng, Đăng là người có kiến thức nhất. Thời chiến tranh, Đăng nhập ngũ, làm y tá y sĩ gì đó, phục viên về, làm ở Trạm y tế xã, nghe nói có học thêm Đông y, giờ nghỉ, vẫn nhận chữa bệnh ở nhà, cũng là người có uy tín ở làng xã. Thôi kệ, cứ xem sao đã... Mình hay phải đi đi về về làng xóm, cầu thân với người như vậy, âu cũng là cái hay.
          Tôi tha thẩn bày lễ, thắp hương trên mộ ông bà nội, cha mẹ ở nghĩa địa làng, đợi tàn hương hóa vàng, ngồi tạm ở Nghè tiến sĩ đợi. Cuối làng tôi, đường ra cánh đồng rộng, ngoài nghĩa địa làng, có có đôi giếng đất cổ, và ở mỗi giếng đất, trên bờ có một cây si và một cây đa, tuổi cây đến nay cũng ngót trăm năm rồi. Hai giếng đất này ngày xưa làng chuyên lấy nước về ăn, đến khi xây dụng hợp tác xã nông nghiệp, làng có phong trào giếng khơi, mỗi nhà đều đào riêng, nên giếng đất chung bỏ không dùng, lâu ngày thành ao tù nước đọng. Còn nghè tiến sĩ thì làm mới, cũng là mong muốn phục hồi cái sự học, bởi ngày xưa, thời Lê Trịnh, làng từng có một vị đậu Tiến sĩ...
@
 
          Ngày nhỏ, khi từ Hà Nội chuyển về quê sinh sống ngày năm đầu cuộc chiến tranh chống Mỹ, trong căn nhà mái rạ tường đất, để cho con biết lịch sử và văn hóa làng, bố tôi, thưởng kể chuyện cho tôi nghe. Bao nhiêu là chuyện, nay tôi quên nhiều, nhưng chuyện này thì tôi nhớ lắm...
          Rằng Thành hoàng làng tôi thờ ở đình là Thái sư Lý Đạo Thành, một vị quan đầu triều tài ba, thanh liêm, đức độ. Song không chỉ vậy, làng tôi, ngay gò đất cao cổng khu đất cũ của ông nội tôi do các cụ xưa để lại, đồn là nơi trú ngụ của một vị thần giữ của. Mà thần giữ của này, tục gọi là Cô Yêu, thường hiện lên dưới hình bóng đàn bà quần áo trắng toát, đầu đội nón thúng quai thao, dật dờ tha thướt, như kiểu chị Hai đi hội Lim quan họ, vào những đêm trăng suông sương mở. Với hình bóng ấy, Cô Yêu là nỗi ám ảnh cho hết thảy những ai hay phải đêm hôm khuya sớm. Không những thế, Cô Yêu không ai thờ cúng, nên đói khát, hay trêu ghẹo, quấy đảo người trần, nhất là đám trẻ con trong làng vốn leo trèo bẻ cành hái hoa quả dại nơi gò đất Cô trú ngụ. Đồn rằng, nhiều đứa trẻ bị Cô Yêu làm ốm, nhưng khi nhà chúng sửa lễ cúng và cầu khẩn, là Cô cho khỏi liền. Ông nội tôi, một nhà Nho được xem là nhiều chữ nhất hàng xã, thì cử mấy khoa thi cuối cùng của Triều Nguyễn, đều thất bại. về mở lớp dạy chữ Nho tại gia, thấy như vậy lấy làm bực tức, bèn đánh tiếng thách Cô Yêu. Thế là một đêm trăng suông mùa hè, Cô Yêu hiện hình băng qua đám học trò ngủ la liệt ngoài hiên và sàn nhà, chống tay đầu giường nhòm thẳng vào mặt ông nội tôi. Ông tôi bàng hoàng vùng dậy, bám theo, bóng Cô lướt ra sân vườn rồi mất hút vào gò đất. Ngay sau đó, ông cụ cho xây một miếu nhỏ ngay trên gò, tuần rằm mùng một, bày lễ vật hương khói. Từ đấy, Cô Yêu không quấy đảo làm bệnh tật cho ai nữa. Âu cũng là một việc phúc đức. Thế nhưng, ông nội tôi lại bị ám ảnh hình bóng Cô Yêu, thể chất vốn ốm yếu, mấy năm sau nên trọng bệnh rồi mất, khi mới ngoài bốn chục tuổi. Bố tôi bảo, đêm Cô Yêu hiện hình, bố tôi bé tý, ngủ chung giường với ông nội tôi, cũng bị ông tôi lay thức dậy, chỉ cho xem bóng dáng Cô nhưng bố tôi chẳng thấy gì. Bố tôi lớn lên, thể chất mạnh khỏe, tính cách bạo dạn, bảo là, yêu ma thường chỉ bắt nạt những người yếu bóng vía thôi...
          `Chuyện về Cô Yêu không chỉ có thế. Nguyên là, làng bên, giáp với làng tôi, có ngôi cổ tự Linh Hương, được cho là xây dựng từ thời Lý, theo lệnh của bà Linh Nhân hoàng thái hậu Ỷ Lan để sãm hối việc bày mưu sát hại Hoàng thái hậu Thượng Dương cùng bảy mươi hai cung nữ của vua Lý Thánh Tông. Trải qua nhiều thế kỷ, đến nay, ngôi cổ tự sau nhiều lần hưng phế, vẫn còn một bệ đá khổng lồ hình sư tử đá đội tòa sen được chạm khắc tinh xảo, vốn là bệ tượng Phật Thích Ca màu ni. Kể rằng, bệ đá hình sư tử này, xưa kia là một con sư tử thành tinh ở xứ người từng ăn thịt nhiều người, rồi bị Đức Phật cảm hóa, giác ngộ thành tảng đá. Cơ duyên, tảng đá ấy được chọn chế tác thành bệ Phật hình sư tử đội tòa sen, đặt ở chùa này, tục gọi Sấm Đá. Yên phận theo nhà Phật vậy, nhưng bản năng thú tính xưa vẫn ngọ ngậy, lâu lâu thoát ra ngoài. Tinh Sấm Đá biết được thân phận Cô Yêu xưa vốn là một cô gái vùng đất Quan họ, nổi tiếng xinh đẹp hát hay. Cô gái này con nhà nghèo ở một làng ven sông Cầu, thời Bắc thuộc, thủ phủ xứ ta đóng tại Luy Lâu, nên được một viên quan nhỏ người Tàu, tậu về lấy tiếng làm vợ lẽ. Cô gái được giữ đồng trinh để rồi phù chú thành thần giữ của cho nhà viên quan đó, trước khi về lại xứ Tàu. Tinh Sấm Đá si mê và theo đuổi Cô Yêu, như nợ duyên tình dở dang nảo nao kiếp trước. Khốn nỗi, Cô Yêu chỉ đỏng đảnh đưa tình với Tinh Sấm Đá, chứ thâm tâm, Cô vừa say mê, vừa ngưỡng mộ đến sùng kính vị Thành hoàng làng Lý Đạo Thành, vốn người cùng quê, lại đức cao vọng trọng một thời. Thành hoàng giữ đạo Nho, nghiêm cẩn, không màng danh lợi, tình ái. Và khi bị lâm vào tình trạng khó xử, ngài không muốn phũ phàng, hắt hủi Cô Yêu, mà cũng chẳng muốn gây thù chuốc oán với Tinh Sấm Đá. Cuộc tình tay ba đuổi bắt ấy xuyên qua nhiều thế kỷ, lâu lâu các vị ấy dậy sóng là người làng hoặc lâm vào tính trạng úng lụt, sâu bệnh, mất mùa, đói kém, hoặc dịch bệnh chết người. hoặc xảy ra cảnh giặc giã chiếm làng đốt nhà...
          Chuyện xưa là vậy, cho đến đầu thế kỷ XX, vẫn còn chuyện Cô Yêu hiện hình đòi ông nội tôi xây miếu thờ, hay chuyện Tinh Sấm Đá gầm lên rung nhà chuyển đất, thị uy oai linh, khi người Pháp cho làm con đường xe lửa Hà Nội-Hải Phòng chạy ngang qua vùng đất này. Ấy vậy, khi cách mạng thành công, chính phủ và nhà nươc dân chủ mới ra đời, thay thế cho chế độ tập quyền nhà Nguyễn, rồi sau này là cải cách điền địa, tiếp đến phong trào văn hóa mới, câu chuyện rắc rối giữa ba vị không còn nữa. Đất vườn nhà tôi được Đội Cải cách lấy đem chia cho các nhà bần cố nông, miếu Cô Yêu bị bỏ hoang, không ai hương khói, thậm chí âm phần bị đào bới tìm của, nhưng Cô Yêu nào thấy bóng vía;  đình làng tôi được trưng dụng làm kho chứa đồ đạc do Đội cải cách tịch thu của các nhà địa chủ về để chia cho dân nghèo, rồi sau biến thành lớp tiểu học, mầm non, trẻ con thài bậy, thành hoàng cũng đâu dám ỉ eo gì; còn chùa cổ Linh Hương làng bên cũng bị đập phá hoang tàn, tượng Phật bỏ trôi sông hoặc vứt nổi dập dềnh nơi ao chùa, bệ tượng Sấm Đá trơ trọi nắng mưa, hàng ngày bị bọn trẻ làng, học trò chúng tôi leo trèo, vẽ bẩn, tè bậy, cũng đâu thấy Tinh Sấm Đá nổi giận... Thế mới hay, cái uy của dương gian, khi mạnh lên thì lấn át tất cả, đến thần thánh linh thiêng, hay yêu ma quỷ quyệt đều bạt vía kinh hồn mà bay ráo!...
 
@
          Dọn lễ hóa vàng nơi phần mộ các cụ xong, trời vừa đứng bóng. Nghe ngóng, nơi đình làng, lễ hội đã tàn, đến phần tiệc tùng, cô bàn. Theo lệ, những nhà có giấy mời, đóng góp công đức, đều được dự tiệc cơm rượu. Tôi ngại, tránh việc ăn uống, vào cửa Nghè tiến sỹ, ngồi ghé, mở túi lấy gói xôi lạc muối vừng và chai nước do vợ chuẩn bị mang theo từ nhà, dùng bữa trưa. Nghỉ cho xuôi bụng, gọi điện báo vợ việc ở lại quê đến mai, tôi thả bộ một đoạn bờ sông làng, như tìm lại dấu vết kỷ niệm xưa thời đi học. Lưng chiều, đợt gió bấc tràn về, trời lắc rắc mưa rét, tôi trở vào làng, tìm đến nhà chú em họ Đăng.
Vẫn nhớ lối vào nhà Đăng, gần cuối làng, con ngõ cũ, chỉ khác là ngày trước lát gạch nghiêng long lở, nay được thay mới bằng mặt bê tông. Tôi dừng trước cổng, hơi ngờ ngợ. Ngôi nhà ngói xây theo kiểu đại khoa, ba gian hai trái xưa, nay thay mới tinh ngôi nhà ba tầng mái bằng. Riêng mấy cây cau thì vẫn cũ, vươn cao hơn thôi. Tôi đánh tiếng, Đăng đon đả ra mở cổng.
          - Bác đây rồi. Vinh dự cho em quá, hôm nay rồng đến nhà tôm đây. Bác không hứa, nhưng em biết thế nào bác cũng ghé em…Tối nay ngủ đây, em chuẩn bị mâm cơm rau dưa, mấy chén rượu nhạt rồi, anh em mình thoải mái bù khú, bao nhiêu là chuyện muốn thưa cùng bác đây…
          Đăng đưa tôi thăm vườn tược, giảng giải về bộ cây Phúc Lộc Thọ kỳ công của mình. Khi tôi có ý khen cơ ngơi thì Đăng cười bảo:
- Chắc bác biết, thằng cháu Thịnh nhà em làm trưởng thôn rồi. Có được cơ ngơi này, bố con em đã phải cật lực làm trang trại vườn ao chuồng gần chục năm đấy bác. Tiền mô hôi nước mắt, chứ không phải tiền tiêu cực, tham nhũng đâu bác nhé.- Đăng cười khoan khoái- Thằng Thịnh nhà em làm trưởng thôn vài năm nay, công xá thế nào em chẳng rõ, chứ khác gì mõ làng xưa đâu. Đúng các cụ ta xưa dạy, ôm rơm rậm bụng, việc nhà nhác việc chú bác siêng, cấm sai câu nào… Nhưng thôi, em bảo cháu, nhận chức rồi thì gắng mà làm, sao cho xứng vời lòng tin làng nước người ta đặt vào mình…Tiếc là, nhà em mất sớm, khi cháu nó chưa kịp xây nhà này, để cho bà ấy được mát mặt với làng xóm…
          Chuyện trò một hồi,… Chiều muộn, mâm cơm được dọn ra, đặt ngay bàn nước, để tôi và Đăng nhâm nhi trước. Đăng rót rượu ra chén, bảo tôi:
          - Mấy khi bác ăn cơm quê. Em làm mấy món quê để bác dùng cho đỡ nhớ. Lòng lợn, giả cầy, dưa cải nén, châu chấu rang bằng nước cà muối lá chanh. Lát nữa cơm, có canh cua và cá rô kho niêu đất.
          - Nhìn và nghe chú nói, tôi đã chảy nước miếng đây này-Tôi đùa, nhưng thực lòng là vậy.
          Thế là tôi và Đặng, cụng ly theo kiểu chén tạc chén thù. Câu chuyện cứ theo đà rượu mà nổ, cũng lúc thăng lúc trầm, khi vui khi buồn. Đặng vẫn hăng chuyện con trai mình được bầu làm trưởng thôn:
          - Bác biết đấy, thằng cháu Thịnh nhà em, tốt nghiệp phổ thông là nhập ngũ làm nghĩa vụ quân sự ngay, được kết nạp đảng trong quân ngũ. Xuất ngũ về, em khuyên theo học trường kỹ thuật nông nghiệp ngay tình nhà, có chút kiến thức, nhận khoán ruộng làm kinh tế trang trại. Thu nhập tốt, có tiền làm cho bố căn nhà khang trang này. Nó cũng nhiệt tình tham gia việc làng xã nên được bầu làm trưởng thôn… Bác ạ, em mừng là cháu nó vận động được bà con đóng góp khôi phục lại được đình làng, để bà con tuần rằm nhang khói, rồi xây mới ngôi Nghè tiến sĩ… Bác tân tiến thế nào em chẳng rõ, em thì cứ nghĩ, bao nhiêu năm dân mình bỏ bẵng, không thờ phụng gì, nên các bậc tiền nhân quở phạt, chẳng cho cái sự học của làng mình khá khẩm lên…
          - Nếu không nhầm, cụ Nghè Quân thuộc chi họ nhà chú, đúng không? Nay con trai chú hô hào việc xây Nghè là phải rồi- Tôi có ý đùa.
          - Bác nói vậy, lại thành ra thiên vị. Đành rằng, cụ Nghè thuộc chi phái bên em, nhưng xây Nghè là muốn cho cái sự học chung của cả làng mình thăng hoa, bác à.
          - Tôi nhớ, ngày nhỏ đi học, bố tôi hay lấy chuyện cụ Nghè Quân ra làm gương, răn dạy tôi gắng học. Là tôi, phải biết ơn cụ ấy mới đúng chứ.-Tôi cười, phân giải - Cụ Nghè là một trong 13 vị đậu đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân triều Lê Cảnh Hưng, khi chúa Trịnh Sâm quyền bính lẫy lừng đấy. Nghe đâu, khoa thi Kỷ Hợi năm 1779 ấy, chính chúa Trinh Sâm giám khảo cuộc Đình thí. Cụ Nghè mình khi ấy mới 26 tuổi, làng mình còn thuộc phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc kia.
          - Bác thạo quá-Đăng khoái, giục tôi cụng ly,- Em phải ghi lại điều bác vưa nói, để sau này còn nhắc nhở con cháu.
          - Chú Đăng này, làng mình xưa có người đậu tiến si, duy nhất trong vùng này đấy. Dẫu chẳng thể so với làng tiến sĩ Mộ Trạch, Hải Dương, hay một vài vùng đất khoa bảng ở Bắc Ninh, Nghệ An, thì cũng có thể xem là đất học rồi. Lại thêm, thành hoàng làng mình là cụ Lý Đạo Thành, một nhà khoa bảng lớn, quan đầu triều, thanh liêm đức độ, vậy cũng có thể xem là đất học. Có điều, ngày xưa, chỉ đỗ đạt làm quan mới có cơ lập thân lập nghiệp, thời đại mới, mở ra nhiều con đường, cách thức tiến thân, nên không nhất thiết phải đỗ đạt này nọ… Như cháu Thịnh nhà chú đây, tôi nghĩ cũng là một cách hay để lập thân đấy chứ….
          - Là bác động viên thế thôi – Đăng cười- vẫn là xó nhà, sân đình thôi… cứ phải đi ra ngoài, mở mang đầu óc, cống hiến cho xã hội cơ… Ít ra, cũng phải như bác, nói ra cho cả nước, thậm chí cả thế giới nghe, hay như bác Hạnh, chị lớn nhà bác, là tiến sĩ nông học, lai tạo, thuần dưỡng bao nhiêu là giống cây trồng cho cả nền nông nghiệp nước nhà… Đấy mới xúng là lập thân, thành đạt chứ…
          - Tôi lại nghĩ, học hành, lập thân lập nghiệp gì, nếu không đủ sức cải biến xã hội, thì chí ít cùng phải gặp thời để cống hiến cái sở học của mình, chú ạ…Tôi lầy mấy cụ ra để làm ví dụ nhé… Cụ Lý Đạo Thành, từng bị bà Hoàng thái hậu biếm quan vì thù riêng, nhưng khi được trọng dụng lại, cụ ấy mới có điều kiện đề xuất ban bố nhưng chính sách có lợi về quốc kế dân sinh… Còn cụ Nghè Quân, đỗ đạt vậy, tuy chẳng dám so với cụ kia, nhưng gặp phải thời cuộc nhiễu nhương, tranh quyền đoạt vị, loạn cả xã hội, nói chẳng ai nghe, cái sở học của cụ thành thừa, nên sự nghiệp không mấy kể gì…
          - Bác này,- Đăng có vẻ cung kính- Bác chuyện về các bậc tiền nhân, đành thế, nhưng tiện đây, em có điều này, muốn bác chỉ giáo cho. Sáng nay, bác ra đồng thắp hương các cụ, bác có để ý, hai giếng đất trước Nghè Tiến sĩ không? Bỏ hoang mấy chục năm nay thành ao tù, hôi thối. Ngày trước, sông làng mình hằng năm có nước sông Cái về đầy mỗi mùa mưa lũ, nước tràn vào thau rửa, mươi năm nay mùa nào sông cũng cạn ráo, nước thải các xí nghiệp quanh đây thải ra, đen ngòm tanh nồng. Cứ để vậy, nó ám vào con người. Long mạch làng mình từ đấy chứ đâu. Làng mình đã tôn tạo đình rồi, nghè tiến sĩ cũng xây rồi, nay còn hai giếng đất, mình khơi lại, bó bờ, giữ nước trong, trồng sen thả sung, dẫu không lấy nước ăn như xưa nữa thì cũng sạch sẽ phong quang, được đường phong thủy, long mạch mới phát chứ… Rồi nữa, cái quán Trảm cùng đổ nát cả, còn trơ mấy cột đá thôi. Mình cũng nên phục dựng lại bác nhỉ. Chí ít, với làng mình, cái quán ấy xứng đáng được coi là di tích lịch sử đấy, bác ?
          - Chú nói, tôi thấy có lý… Tôi nhớ, ngày nhỏ, khi nhà tôi chuyển từ Hà Nội về quê sinh sống, tôi ấn tượng với mấy công trình đó. Có lẽ, tôi không sinh ở quê, nhưng rất yêu quê, sau gắng học hành này nọ, là bởi tôi ấn tượng và lấy cảm hứng từ những câu chuyện quê có tính hoang đường xa xưa mà bố tôi từng kể… Việc này, rất nên làm, chú ạ.- Tôi thật lòng - À, chú có được nghe về chuyện tình tang loằng ngoằng giữa các vị thần thánh ma mị mà các cụ nhà mình kể lại không?     
          Đăng bảo biết lờ mờ thôi, tôi liền kể tóm tắt. Đăng khoái quá, cứ vỗ đùi đen đét, nắc nỏm:   
          - Chắc các cụ nhà mình bịa ra, nhưng em nghĩ là ít nhiều phải có căn cứ gì chứ? Vì việc còn liên quan đến những việc khác nữa... Ông cụ thân sinh em từng kể, và đưa cho em một cuốn gia phả cổ, từ ông nội em tìm thấy, em đã nhờ người thuê dịch từ Hán Nôm ra quốc ngữ, để em lấy bác xem sao.
          Rồi Đăng mở tủ lấy ra cuốn gia phả có phần chú giải quốc ngữ, lật giở chỉ cho tôi đoạn cần chú ý. Sách chép: “Xưa có việc thù oán, triệt phá lẫn nhau giữa mấy chi họ trong vùng. Trương Bính là một người giàu có nhất đẳng, mâu thuẫn với cụ Đức Chương,một nhà Nho chữ nghĩa. Trương Bính lén đào mộ mẹ cụ Đức Chương yểm mấy tạ than tàu, sau phát hiện đào bỏ đi, thế nhưng vẫn linh ứng, Vào cuối thời Lê Chiêu Thống, loạn ly, anh em nhà Tây Sơn là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ ra Bắc dẹp quân Mãn Thanh. Thời ấy, làng có người gọi Tú Nguyên, đã đỗ đạt làm quan, bị Kính Trương, con cháu nhà Trương Bính, giữ mối thù cũ, kết liên với tay Đỗ Hắc Long, vốn là tướng cướp khét tiếng trong vùng, gặp loạn chạy theo nhà Tây Sơn, vu cho Tú Nguyên theo giặc, tức là chung thành với vua Lê Chiêu Thống, đã bị quân Tây Sơn bắt xử tội chết, đưa về quê nhà, chém cổ tại Quán Trảm. Vết đao chém người bập cả vào cột đá quán, vết hằn còn về sau”.
          Đọc rồi, tôi phân vân, nghi hoặc. Tợp một hớp rượu, Đặng bảo:
- Em đọc, không mấy hiểu... Bác chữ nghĩa, kinh sử nhiều, thấy sao bác? Rõ là, cụ Đức Chương là thủy tổ chi họ nhà em. Mấy đời đến cụ Nghè Quân.. Vậy cụ Nghè có phải là cụ Tú Nguyên ghi trong gia phả này, hay Tú Nguyên là con cháu cụ Nghè?    
- Cứ như những gì tôi hiểu, cụ Nghè đậu tiến sĩ dưới triều Lê Cảnh Hưng. Sự nghiệp làm quan, thấy bảo làm tới chức Thị lang, lại có người dẫn nọ kia nói làm Hiến sát. Chẳng có gì rõ ràng, kể cả năm mất của quan Nghè, chuyện con cái thế nào cũng không thấy ghi....Theo tôi, quan Nghè không thể là Tú Nguyên như trong cuốn phả này đâu... Có thể là con cháu quan Nghè chăng?  
- Lẽ vậy chăng? – Đăng trầm ngâm- Người ta bảo, loạn dương với loạn âm, tương sinh tương khắc với nhau. Thời ấy, loạn dương kinh hoàng vậy, loạn âm chắc cũng ghê chẳng kém, bác nhỉ?  
- Tôi không rõ...mà chú dạo này cũng chữ nghĩa, nho y lý số nhỉ?  
- Thì em nghiên cứu đông y, cũng phải hiểu tý chút chứ bác… Bác không ở làng, nên không rõ đấy thôi. Mươi năm nay, thành phố nhà bác có tệ nạn gì thì quê mình có cả… Sòng bạc ngoài thị tứ tồn tại mấy năm trước, tiền bạc thua được vài trăm tỷ, nghe nói có bảo kê, phải đến công an Bộ về triệt phá mới xong. Quanh đây, đã có đứa nướng hết tiển góp định đi xuất khẩu lao động, càng gỡ càng thua đến mức phải tự tử. Rồi nữa, vỡ họ, giật tiền tín dụng đen, buôn ma túy tù tội, ‘cấm vận gái làng” đánh trai thiên hạ dập gan mật mà chết… Ui, nghĩ mà buồn bác ạ.  Còn cái sự học, thì kể từ thời cụ Nghè Quân đậu tiến sĩ, mấy trăm năm nay,  ở làng mình, đến bác Hạnh bên bác mới là người tứ hai có danh tiến sĩ đấy.
-Tôi có nghe, đây đó chuyện như chú kể, nhưng không nghĩ làng xã mình cũng vậy. Kể cũng buồn… Chị Hạnh tôi mang danh tiến sĩ  nhưng là chuyên ngành thôi, chứ đâu giống tiến sĩ cai trị xưa.
- Bác bảo, như thế là loạn dương ở ngay quê mình chứ đâu xa… Em nghe các cụ bảo, xưa nay, hễ các vị thần thánh ma quái gì dưới âm lục đục gây loạn âm là trên này làng xóm mình cũng vậy? 
- Tôi có nghe nói vậy – Tôi gật gù lấy lòng- song không tin. Nhưng có lẽ mình cứ suy ra  thế, lâu thành chuyện, vậy thôi…
Vừa khi ấy, Thịnh về. Chàng trưởng thôn chưa đầy bốn chục trang phục như dân phố. Thịnh xà vào mâm, chủ động rót rượu cho tôi và Đăng, rồi cung kính thưa gửi, chạm cốc. Đăng khoe với con rằng, hai người đã trao đổi, bàn bạc và cùng nhất trí với ý tưởng khơi lại đôi giếng đất cổ cuối làng và phục dựng nguyên trạng Quán Trảm. Việc còn lại là họp dân bàn bạc đồng lòng. Thịnh tỏ ra hào hừng, bày tỏ sự quyết tâm với việc này. Cậu ta cung kính tôi một chén rượu:
 - Bác ạ. Từ lâu rồi, cháu thực lòng kính trọng bác và bác Hạnh. Hai chị em bác, gắng vượt qua sự cản trả bởi định kiến thành phần này nọ, để học hành thành tài, đi đây đó, có những đóng góp nhất định cho xã hội. Nói vậy, có nghĩa là bố con cháu biết chuyện bác Hạnh ngày trước từng bị cán bộ xã ỉm giấy báo đỗ đại học… Nếu không thật sự có chí, có tài thì làm sao bác Hạnh lại thành nhà khoa học thành đạt… Cháu tiếc là học lực bình thường, nhưng cháu nghĩ, có chí có tâm, dù chỉ ở làng xã, cháu cũng làm được chút gì đấy, bác nhỉ?...
 - Đúng vậy. Bác thấy vai trò trưởng thôn, cháu đã làm được ối việc có ích rồi đấy- Tôi  động viên.
 - Thịnh ạ, bố thấy bác nói đúng đấy. Ở đâu cũng có chỗ cho mình, chỉ có điều, mình có biết tận dụng hay không thôi… Bác à, có một ý nữa, em muốn góp ý với bác đây…
 Tôi cười vui, rót rượu chạm cốc với Đăng - Chú muốn nói dến mảnh vườn tôi vẫn bỏ hoang bấy lâu nay chứ gì?...
 - Ôi bác, thánh quá, quả vậy bác ơi.- Em là em nuốn bác bỏ chút công sức, làm một nếp nhà, ở hay không thì tuy bác, nhưng lấy chỗ đi về… Bác biết rồi đấy, làng ta dáng con cò đứng bờ sông ngoảnh cổ lại, nên người dân làng mình dù có bay nhảy đến chân trời nào thì đến già cũng ngoảnh về quê. Xưa nay vẫn thế, cứ lấy chuyện ông thân sinh bác. Giàu có xưa làng mình thế nào, chứ cứ như  bố em kể, ông thân sinh bác có lẽ là người giàu nhất xưa nay ở làng. Bao nhiêu ruộng đất, đất ở gần mẫu, xậy cái nhà Tây hết những mấy chục vạn gạch, nghe nói ông còn định tậu cả một cái đồn điền chè trên Phú Thọ. Khi Tây càn, giật mìn phá cái biệt thự thì ồng xây lại thành cái nhà đại khoa, đến cải cách ruộng đất mất sạch nhà cửa ruộng vườn, nên tay trắng. Lúc già trở về quê, lại lập nghiệp bằng nghề làm mì gạo, nuôi dạy các bác học hành nên người. Thử hỏi, mấy ai được vậy? Bội phục, bội phục!...
- Thực lòng, mấy anh chị em chúng tôi cũng đã bàn bạc với nhau, đợi sang năm được tuổi, xây một ngôi thờ tự, trước lấy chỗ về quê thăm bà con họ hàng cho gần gặn, sau hương khói chăm sóc mồ mả các cụ, ông bà, cha mẹ…
- Vậy là tuyệt vời bác à. Rồi ra, bác hay về quê hơn, anh em có điệu kiện mạn đàm, sẽ ối việc hay bác ơi… Với lại, bác là trưởng chi họ, em biết, các ông bà bên ấy mong bác xây thờ tự, năng đi về gánh vác việc họ mạc đấy.
Đêm ấy, tôi khó ngủ, phần lạ nhà, phần tâm trạng chộn rộn vui buồn, lo nghĩ lẫn lộn. Bao ký ức tuổi thơ ở làng sống dậy. Rồi cuộc đời ông bà nội tôi, nhất là cuộc sống của cha mẹ tôi, gắn với họ hàng làng xóm, buồn nhiều hơn vui, đắng cay hơn ngọt bùi của cả một thời chiến tranh, tao loạn chưa xa, mà chính tôi từng chứng kiến ngày còn bé… Những ngày đầu về lại quê, phải ở nhà bà con trong căn nhà ngang chật chội, khi mà mươi năm trước, cũng trong cái làng này, nhà vườn mình mênh mông ở không hết; khi mà những người thân họ hàng bao năm mình đùm bọc đỡ đần lúc giáp hạt đói kém lại nhảy lên bàn độc chửi rủa bảo bị bóc lột thậm tệ; khi mà bị giam ở chuồng trâu, đói khát và ngày tết thèm một miếng bánh chưng không có... Tôi thương cha mẹ mình đã phải chịu đựng tháng ngày giông bão đó...
Bố tôi dắt con trâu đực cụt một sừng sứt mũi, cho nó gặm cỏ trên bờ giữa hai bên ruộng lúa xanh tốt. Con trâu sứt mũi gặm cỏ nhưng mắt nó lấc láo liếc ruộng lúa xanh non, chỉ rình để lia lưỡi táp lúa, còn bố tôi thì nhìn chăm chăm, chốc chốc lại gò người kéo căng dây thừng canh chừng không cho con trâu ăn lúa. Tôi đứng từ cầu sông cửa đình bên này gọi mãi mà bố tôi hình như không nghe thấy. Chợt giọng một người đàn bà khê nồng réo lên: “Đứa nào kia, sao lại chăn trâu vào bờ ruộng lúa thế? Định phá hoại sản xuất, cho trâu ăn hết lúa của bà con nông dân đấy à? Rõ là máu nhà địa chủ gian ác”. Bố tôi giật mình, gắng sức già lôi con trâu sứt mũi bướng bỉnh không chịu ra khỏi bờ ruộng lúa xanh non...
Choàng tỉnh. Thì ra tôi vừa mơ thấy bố tôi chăn trâu. Một chú gà cất tiếng gáy ngồ ngộ. Tôi định thần nhớ lại giấc mơ vừa rồi. Chuyện bố tôi chăn trâu bờ lúa là có thật. Bố tôi đã kể cho mẹ tôi nghe chuyện này và ông tỏ ra bực tức mãi trong lòng, hồi nhà tôi mới về lại quê sinh sống, được hợp tác xã giao nuôi trâu phiên. Khi ấy tôi vá các chị mình còn bé lắm, nên bố tôi phải đi chăn trâu. Tôi vừa đến tuổi đi học, còn chưa biết gì. Chỉ thấy bố tôi giận tím mặt khi kể lại chuyện ấy cho mẹ tôi...
Tôi tỉnh ngủ hắn. Người bị mất ngủ thường hay mơ vặt. Và cũng hay dậy sớm hơn thường ngày!...
Vậy là tôi đã ở quê một ngày rồi đấy... ./.
 
 

tamvanvov
  • Số bài : 807
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Dùng dằng phận cối, nhộ nhem phận nồi - 14.03.2020 09:05:38
Lại một mùa hoa gạo,...
 
Lại một mùa hoa gạo,...
Năm nay, tiết sớm, cuối tháng hai, đã chớp chới hoa gạo,
Mấy đứa bạn văn chúng tôi có một cái hẹn gặp nhau ở Chí Linh, để thăm chùa viếng đền Côn Sơn, nơi thờ danh nhân Nguyễn Trãi, rồi thăm đền Kiếp Bạc, nơi thờ tự Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Dọc đường đi, từ phố cổ Hà Nội, băng cánh đồng Bắc Ninh, hay chốn gò đồi Chí Linh, cứ thấp thoáng đâu đó những vòm hoa gạo đỏ. Mùa hoa gạo năm nay đến thật rồi,...


Nói thật, là bởi, mỗi khi nghĩ đến mùa hoa gạo, là tôi lại có cảm giác bồi hồi, rồi buâng khuâng như thực như mơ... Thực lòng, tôi cũng chẳng hiểu làm sao lại có cảm giác vậy?...
Có lẽ, ngược thời gian để trở về thuở ban đầu,...
Ấy là cuối năm 1964, gia đình tôi rời căn hộ ven hồ Trúc Bạch ở số nhà 50A ngõ Trúc Lạc, phố Phó Đức Chính, Hà Nội về quê sinh sống, theo chính sách thời chiến giảm dân số thủ đô của chính phủ ta khi cuộc chiến tranh chống Mỹ bắt đầu. Những ngày đầu ở quê, tôi rất tượng mỗi khi thấy hoa gạo nở. Nếu thấy những bông hoa gạo lác đác trên ngọn cao cây gạo cỗi đầu làng Chùa cho tôi cảm giác bình yên của người đi đâu xa được trở về nhà, thì vòm hoa đỏ ối cây gạo sau Quán Táo làng Khê lại cho tôi cảm thấy rờn rợn của sự bí ẩn cổ quái trong những câu chuyện kiếm hiệp mà cha tôi hay kể... Cứ vậy, mùa hoa gạo này sang mùa hoa gạo khác, thành ấn tượng đằm sâu trong trí óc non trẻ của cậu học trò nơi tôi...
Khi lớn khôn hơn, học hành đọc sách, tôi biết thêm hoa gạo là tên dân dã của cư dân đồng bằng, còn người miền núi phía Bắc gọi bằng tên chữ nghe rất gợi là hoa mộc miên, còn người dân Tây Nguyên lại gọi là hoa Pơ-lang. Nhưng đấy cũng chỉ là sự tò mò thú vị mà thôi.
Hoa gạo
đầu làng ngày xưa
cháy đỏ
tuổi thơ cặp sách mũ rơm
dọc đường đến trường
lỗ chỗ hố tránh bom
bất chấp
chiến tranh
cứ bừng bừng sắc lửa.

Sau này, công việc đó đây, mỗi mùa hoa gạo về, sau cảm giác bồi hồi, rạo rực và chút buâng khuâng nhớ những mùa hoa gạo cũ, thay vào đó là cảm xúc thôi thúc tôi lên đường... Và thế là, tôi lại đến những miền hoa gạo xa xôi. Tôi đã từng tần ngần ngắm những vầng hoa gạo soi bóng nước chùa Thầy, và những vầng hoa gạo dọc bờ suối Yến vào chùa Hương, hay ngửa mặt thảng thốt ngắm những bông hoa gạo xoay tròn từ ngọn cao cây gạo cổ thụ cổng chùa Keo Vũ Thư buông mình xuống đất...
Hoa gạo
trước ngôi cổ tự
từng bông rơi
rơi
thảm đỏ tam quan
hoa trên cây
cành chi chít
cành trơ
chuyện sắc không nhà Phật
bà cụ già
còng lưng
mỏi
nhặt
gom từng chiếc đời
đói no.

Tôi đã từng bổi hổi bồi hồi chiêm ngưỡng những cây gạo với vầng hoa đỏ rực đứng cô đơn bên bờ vực thẳm trên những cung đường cheo leo trên mây lên Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, hay các nẻo đường lên Sơn La, Điện Biên, Lai Châu của núi rừng bao la miền Tây Bắc... Rồi đó, những cây gạo chơ vơ dọc đường Hồ Chí Minh xuyên ngang rừng Cúc Phương ; hay đâu những cây gạo đơn côi ngả bóng mình xuống bến đò sông Mã gần cầu Cẩm Thủy, và dọc bờ đê sông Cầu Chày đường về Lam Kinh... Tôi đã có lần từ ngỡ ngàng đến say đắm chiêm ngưỡng một dòng sông hoa gạo nơi đất biển Hải Hậu, Nghĩa Hưng,...
Nơi ấy,
góc biển
ta đã từng qua,
những chóp nhọn nhà thờ
mỗi buổi chiều tà
trầm mặc
những hồi chuông...
Nơi ấy,
có dòng sông hoa gạo
đỏ ối mỗi độ hè sang
dập dềnh
chở nồng nàn ra cửa sóng,

Hoa gạo như một niềm vui, một nỗi ám ảnh mỗi tháng ba. Tôi thấy nó có mặt trong thơ nhiều người, như thế nào thì tôi chẳng rõ. Song với tôi, năm nào sự có mặt của nó cũng thức dậy trong tôi những tứ thơ, mà tôi hiểu, sẽ không bao giờ là chán,...
Hoa gạo
giăng hàng nỗi nhớ
tháng ba
người xa quê nơi phố
hoa gạo
buông mình
giỏ từng giọt son
nhuộm đỏ sông quê
đâu biết thượng nguồn
bập bềnh
kiếp hồng nhan
ra biển
có chăng cô bé
chèo thuyền mộng
là biết,
có tiếng chuông nhà thờ
có ngọn khói chiều hôm
hoa gạo
vô tình
nhuộm đỏ hoàng hôn.

Đã có lần dở hơi, tôi đi thương cho cây gạo lạc lõng giữa phố thị đông người, mỗi tháng ba, tự thân vẫn gắng đơm hoa đỏ hết mình
Có một cây gạo phổ
Tháng ba đỏ ối hoa
Giữa phố phường đông đúc,
Ngỡ chạnh lòng người ta,...

Sao về đây, hả gạo
Nhung nhúc dòng chúng sinh,
Kiếp bon chen phố thị
Thôi, cứ đỏ một mình!...

Chẳng thể nào nhớ hết mình đã bao lần bất ngờ bắt gặp, để lặng ngắm và nao lòng trước vẻ đẹp bừng cháy, giản dị, nhưng cũng thật cô đơn của hoa gạo !...
Ơi hoa gạo, tự thân như thế, hay vì ta chót yêu thích và say mê ngươi ngươi mà gan ghép vậy chăng?
 




 

tamvanvov
  • Số bài : 807
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Dùng dằng phận cối, nhộ nhem phận nồi - 04.04.2020 16:36:27
Củ khoai nướng,
cánh diều và ước mơ cháy bỏng,...
 
 "Chăn trâu đốt lửa trên đồng/ Rạ rơm thì ít gió đông thì nhiều/ Mải mê đuổi một con diều/ Củ khoai nướng để cả chiều thành tro" -
          Với riêng tôi, thì đây là bài thơ hay nhất của Đồng Đức Bốn. 
          Tất nhiên, tôi còn thích nhiều bài thơ, nhiều câu thơ khác của Đồng Đức Bốn, nhưng theo tôi, bài thơ ngắn chỉ vỏn vẻn bốn câu lục bát này, nhà thơ đã khái quát, thi vị hóa cái ước mơ bé nhỏ của hầu hết trẻ con nông thôn xứ Việt mình...
          Tôi đã từng bình bài thơ này trong chuyên mục của một tờ báo nọ, rồi cũng đã lấy câu thơ kết của bài thơ này làm tít cho một bài viết khác từ vài chục năm trước, khi Đồng Đức Bốn còn chưa mấy nổi và vẫn đang bước đường lang bạt của mình...
          Tôi kém nhà thơ Đồng Đức Bốn gần chục tuổi. nhưng có thể xem như cùng thế hệ, bởi hoàn cảnh xã hội nói chung và nông thôn Việt mình ở vào quãng thời gian ấy như nhau. Tôi đã có chục năm đi học ở quê và cũng đã từng một lần nếm mùi trượt đại học nên thấu hiểu và thấm thía thế nào là "mải mê đuổi một con diều/ củ khoai nướng để cả chiều thành tro"!?...
          Ngày đi học ở quê, tôi không mấy thạo việc đồng áng. Lỗi tại người gốc quê nhưng sinh ra ở phố, rồi chiến tranh lại phiêu dạt về quê, nên dở dang vậy. Mà đã ở quê, thì phải thạo việc nhà nông. Chuyện đồng áng đã có các chị gái tôi lo, việc của tôi là học, và cách hai ngày lại có một phiên trâu. Có phiên trâu nên phải chăn trâu thôi. Chăn trâu, phiền nhất là không để trâu ăn lúa hoặc phá hoại hoa mầu của HTX. Nhưng sau mỗi vụ gặt, tranh thủ lúc đồng chỉ còn rơm rạ, tha hồ mà thả trâu và chơi diều giấy. Chuyện chăn trâu, vơ rạ rơm, lá cây khô đốt lửa, nướng khoai, thả diều thì đúng như Đồng Đức Bốn đã viết. Song hàm ý sâu xa mà nhà thơ đã gửi gắm. ấy là ước mơ bay cao bay xa của đám trẻ quê, làm sao ra khỏi lũy tre làng, làm sao thoát khỏi chuyện chăn trâu, cày bừa, gặt hái, thoát khỏi việc chân lấm tay bùn, nắng lửa mưa giông, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, như bao kiếp cha ông, tổ tiên mình đã trải?...
           Ước mơ ấy, không sai, và cũng tội lỗi chi đâu. Chính đáng đấy chứ. Thế nhưng, khó khăn làm sao. Trẻ con ở nông thôn, những năm chiến tranh chống Mỹ, học hành được chăng hay chớ, ngoài giờ học ở trường, về nhà quẳng cặp ra đấy, còn giúp giập cha mẹ việc nhà nông nữa chứ. Cơ may, nhà nào khá giả chút, trẻ con đỡ đầu tắt mặt tối việc nhà, hoặc giả, trời cho đầu ông thông minh, học nhanh vào, chứ thời gian đâu mà học bài ở nhà. Buổi lên lớp, thầy cô giáo kiểm tra bài cũ, cả lớp rúm ró vào, sợ thầy cô gọi lên trả bài, chẳng biết gì mà nói. Sách giáo khoa chẳng đủ. học hành được chăng hay chớ. Ở làng, cố hết cấp 2 ( 7/10 ), trai phông phổng thì nhập ngũ, gái ở nhà giúp cha mẹ vài năm rồi lấy chồng. May ra, có dăm đứa thích học lên cấp 3 ( bậc THPT ), để có điều kiện thì trung học cao dẳng hay ước mơ đại học. 
           Tôi may mắn, bố mẹ cho cơ hội học lên, cũng có giúp thêm việc nhà nhưng chút ít thôi, vả lại, học lực khá, các lớp các cấp đầu diện đứng đầu, và năm nào cũng được chọn đi thi học sinh giỏi toán, hoặc văn, có năm cả hai. Ấy vậy, mà tôi trượt đại học, mới cay đắng làm sao?! 
Số là năm cuối cấp 3, lớp 10, tôi thi học sinh giỏi môn Văn cấp tỉnh và trúng vào đội tuyển của tỉnh Hải Hưng để tham dự kỳ thi Toàn miền Bắc (khi ấy chưa giải phóng miền Nam thông nhất đất nước). Sau gần hai tháng tập trung đội tuyển tại thị xã Hải Dương, hoàn thành kỳ thi, đội tuyển giải tán, tôi trở về trường học nốt và dự kỳ thi tốt nghiệp vào tháng 5 năm 1975. Năm ấy, ta giải phóng miền Nam, phấn khởi thế nào, thi tốt nghiệp 6 môn, nhưng tôi vẫn hoàn thành kỳ thi xuất sắc. Thi đại học, tôi chọn trường Kiến trúc với mong muốn theo nghề của bố tôi là kiến trúc sư. Tôi có phần chủ quan, nghĩ thế nào cũng đỗ, lại thêm tơ tưởng tình yêu được với một cô bạn gái chung đội tuyển học sinh giỏi. Chưa hết, trươc đó, tôi có tập tọng thơ phú, khi tham gia đội tuyển, gặp gỡ và học chung với thần đồng thơ Trần Đăng Khoa, lại thêm dính chuyện yêu đương, thế là thơ tuôn lai láng, sao nhãng ôn luyện toán, lý, hóa, nên kết quả, thiếu nửa điểm để đủ chuẩn vào Đại học kiến trúc. Lòng những tái tê, cay đắng. Hiểu thế nào là "Cười như thầy khóa hỏng thi"...
          Quyết chí thi lại năm sau, ở nhà giúp mẹ và tự ôn luyện. Giờ thi tôi thấm thía tình cảnh diều đứt dây là sao rồi. Vậy nên, sau này, đọc bài thơ Chăn trâu đốt lửa của Đồng Đức Bốn, tôi thấm lắm, thấy nhà thơ nói hộ lòng mình. Ngày ấy, dẫu bạch diện thư sinh, nhưng tôi đang ở cái tuổi sức dài vai rộng. Chẳng lẽ, ăn bám mẹ già, nên cũng phải chọn làm việc gì đó, giúp giập mẹ chứ. Ngoài phụ giúp mẹ, tuần vài buổi tráng bánh đa gạo, tôi nhận với Ủy ban xã đảm nhiệm việc kẻ khẩu hiệu trên các bức tường nơi công cộng, rồi nhận với HTX thôn việc đo lại ruộng. 
Chữ tôi vốn đẹp, kẻ khẩu hiệu có thể trình bày theo dăm ba kiểu chữ khác nhau, chân phương, vuông thành sắc cạnh cũng được, mà bay bướm hoa mỹ cũng khá. Thế là, vài tháng một lần, người ta đưa cho tôi mấy khẩu hiệu mang tính hô hào, cổ vũ thi đua sản xuất, hoặc chào mừng gì đó để tôi kẻ lên tường. Mực thì tự chế bằng cách lấy lõi than chì của pin đã dùng hết, đập ra rồi tán mịn, hóa với nước thành mực. Còn bút cũng tự chế nốt, bằng cách chặt đoạn tay tre, đập tòe một đầu để chấm mực kẻ vẽ. Khi viết lên tường phải kê ghế đứng lên, hoặc bắc thang trèo lên viết. Cái khó là chữ to, viết sao cho đều nét, cỡ chữ bằng nhau và tính khoảng cách chia số chữ ra cho đều, trình bày sao cho cân đối. Lúc đầu, có chút chệch choạc, sau rút kinh nghiệm, khá ổn.
           Còn đo ruộng, với tôi thì quá dễ. Chỉ phải tội, chang chang ngoài đồng gần nửa tháng mới xong. Tôi đội nóng lá, chỉ việc đứng trên bờ, chỉ đạo mấy cậu thanh niên lội ruộng cầm sào đo. Ruộng to nhỏ, hình thù méo mó, cạnh bờ lệch nhau bao nhiêu, đều xong tuốt. Tôi cứ theo nguyên tắc, chia ruộng ra, quy theo các hình vuông, chữ nhật, tam giác hoặc hình thang, tính diện tích từng phần, rồi tổng lại là xong. Vậy là, với hai việc lớn đó, năm ấy tôi giúp mẹ được xã trả cho một số công điểm kha khá. Thêm nữa, tôi cũng có được chút thiện cảm từ cán bộ thôn xã, làm nhạt đi cái suy nghĩ cố hữu về gia đình tôi vốn được quy là thành phần "không trong sạch" ở thời ấy, đặng có đỗ đại học thì người ta mới phê duyệt thành phần lý lịch  mà cho đi học.
           Có chút vất vả của việc nhà nông, có chút cay đắng của sĩ tử hỏng thi, tôi âm thầm ôn tập và kỳ thi năm ấy, tôi trúng tuyển với điểm khá cao. Tôi cũng không kén chọn trường này nọ, bởi khi ấy, mục tiêu của tôi là vượt ra khỏi lũy tre làng, còn học gì chẳng quan trọng. Chuyên ngành đào tạo là nông nghiệp, nhưng công việc sau này của tôi lại là báo chí. Và tôi thấy, nhưng năm tháng sống ở nông thôn và kiến thức khoa học kỹ thuật nông nghiệp, rất hữu ích cho việc làm báo chuyên nghiệp của tôi. Quan trọng, học cao lên, người ta học được cách nghĩ về mỗi sự việc, vấn đề, và để giải quyết nó thì có thể bắt đầu từ đâu. Hay nói cách khác là phép tư duy trên cơ sở góc tiếp cận... 
          Kể từ ấy, đã hơn bốn mươi năm qua, nông thôn Việt Nam thay đổi nhiều lắm. Bờ xôi ao mật, tiện giao thông đã bị các xí nghiệp vừa và nhỏ thôn tính, mà có doanh nghiệp thì chỉ lấy cớ sản xuất này nọ, thực ra là chiếm dụng đất, chờ cơ hội kinh doanh bất động sản, chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Sông ngòi thì ứ đọng và ô nhiễm. Đồng ruộng ít đi nhưng nhiều nơi bỏ hoang, không ấy hái hay trồng hoa màu gì. Người ta đổ lỗi cho sản xuất nông nghiệp ít lờ lãi, nông sản rẻ mạt. Nam thanh nữ tú thì nếu không ra được thành phố sinh sống thì cũng đi làm công ta quanh quất đâu đó, tháng kiếm lương dăm ba triệu, chứ chẳng ai muốn ở làng làm nghề nông, mặc dù bây giờ điều kiện đầu tư công nghệ và áp dụng cơ giới hóa thuận tiện. Ai cũng chê và buông bỏ nghề nông. Đồng ruộng chỉ dành cho những người già và người yếu thế không thể làm nghề gì khác. Sau vụ gặt, chẳng ai thèm gom rạ rơm, vì không nuôi trâu bò, còn đun nấu đã có bếp ga, bếp điện. Rạ rơm vun thành đống đốt khói bụi, ô nhiễm đầy trời... Lâu rồi, có đôi lần, tôi và nhà báo Trịnh Bá Ninh, nguyên Phó tổng biên tập Báo Nông nghiệp Việt Nam, đối thoại về nông thôn, trước tình trạng mất đất nông nghiệp, trong khi nhiều cơ sở doanh nghiệp bỏ không nhà xưởng, anh than thở: "Cứ đà này, rồi sẽ có ngày, người ta phải cậy bê tông đi mà lấy lại đất mà trồng trót thôi"... Tôi đồng tình với anh, và nghĩ, ngày ấy không xa đâu.
          Nếu ngày xưa, Đồng Đức Bốn kiếm rạ rơm đốt lửa, mót khoai nướng ăn đỡ đói lòng, thả diều là để nuôi nấng ước mơ vượt ra khỏi lũy tre làng, thì bây giờ, việc bỏ quê, bỏ đồng ruộng như một sự đương nhiên, một mục đích rõ ràng của trai gái làng,..
          Củ khoai nướng, cánh diều và ước mơ cháy bỏng một thời... Tôi đã vài ba lần gặp nhà thơ Đồng Đức Bốn, khi thì ở tòa soạn báo Nông nghiệp Việt Nam, lúc thì ở nhà của nhà thơ Trương Hữu Lợi. Có lần, Đồng Đức Bốn bắt tay tôi, vồn vã: "Mình có đọc những bài cậu bình thơ mình. Hay lắm, nhất là bình bài thơ Chăn trâu đốt lửa... Chưa biết cảm ơn sự đồng cảm của cậu thế này đây?...". Sau đó ít lâu, Đồng Đức Bốn nổi tiếng và trở thành hiện tượng thơ, cho đến lúc nhà thơ rời cõi tạm, tôi không gặp lại anh nữa...
        Nhà thơ ơi, thơ vẫn đấy, mà cảnh và người đã khác xa lắm rồi.
        Chẳng biết nên vui hay buồn đây!?...


 

tamvanvov
  • Số bài : 807
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Dùng dằng phận cối, nhộ nhem phận nồi - 12.04.2020 16:50:59
Vườn xưa,
 
Vườn xưa, ấy là cái vườn của gia đình tôi ở quê, thôn Khê, ở tả ngạn con sông Cái thuộc tỉnh Hưng Yên, cách thủ đô chừng vài chục cây số đường chim bay. Mảnh đất rộng chừng gần hai sào Bắc bộ, được bố mẹ tôi mua vào năm 1965, sau khi nhà tôi chuyển từ một căn hộ tại Ngõ Trúc Lạc, bên bở hồ Trúc Bạch, Hà Nội, về quê sinh sống theo chính sách thời chiến-giảm dân số ở thủ đô, khi xảy ra sự kiện Vịnh Bắc bộ mở đầu cho cuộc chiến bằng không quân của Mỹ ra miền Bắc. Sau này, được biết, cái chính sách "giảm dân số ở thủ đô" ấy chỉ thực hiện với đa phần gia đình có quê và thuộc diện "thành phần không trong sạch" theo chủ nghĩa lý lịch phổ biến vào thời ấy...
Về sống ở quê, quen dần, lại thấy được cái vẻ đẹp bình dị muôn thuở của thiên nhiên làng quê Việt mình. 
           Trên mảnh đất đầu làng ấy, bố mẹ tôi làm ngôi nhà 5 gian kiểu 3 gian 2 chái, tường đất vách rơm bùn, lợp rạ truyền thống ngàn đời của làng quê Bắc bộ. Cùng đó là căn nhà ngang gồm bếp, chuồng trâu, chuồng lợn và chỗ vệ sinh, cũng bằng chất liệu tre đất rơm bùn. Đất trống hai đầu hồi nhà thì một bên là chuồng gà, bên kia là đống rơm, đống rạ. Trước nhà, có mảnh sân hẹp lát gạch Bát Tràng cũ do mua lại. Vài cây cau vươn cao bên dưới có vài cây nhài và gốc lựu, mà quê tôi quen gọi là thừu lựu liền với sân gạch. Phần lớn đất phía ngoài sân để làm vườn tược trồng các loại rau theo kiểu tự túc, tự cấp. Các cây lưu niên có sẵn và được trồng thêm, loại ăn quả thì có na, mít, bưởi, chanh, hồng xiêm, ổi, nhãn và sấu. Góc vườn và sau nhà có mấy bụi chuối tây, tiêu đủ cả. Liền kề với vườn là miếng ao nhỏ hẹp có sẵn, được đào sâu thêm lấy đất đắp tường nhà và tường bao vườn. Gốc vườn nơi hay bị cớm nắng thì có ít dong giềng. Bốn xung quanh, giáp nhà hàng xóm và đường, ngõ làng là lũy tre, cùng dây mây gai là dăm cây ruối, cây màng dè, cây xoan và hoa dâm bụt, cùng khúc tần. Thế thôi, đã có hoa trái, rau cỏ ăn quanh năm rồi.
        Cuối Chạp hay sang Giêng, tùy tiết sớm muộn hàng năm, khai mùa là hoa chanh, hoa bưởi. Hoa bười nụ to, mùa sai hoa thì trĩu cả cành những nụ những hoa, cánh trắng nhụy vàng tinh khôi, thơm sực nức vườn nhà, Mẹ tôi hay hái hoa bười, chì vài ba chùm thôi, bày đĩa nhỏ đặt lên bàn thờ thắp hương. Thói quen này, là mẹ tôi học từ bà ngoại tôi. Bưởi sai hoa, nên ngắt bớt đi, để nhiều tự hoa cũng rụng rơi, bởi chỉ để vừa hoa thành quả thì cây mới đủ sức nuôi quả lớn. Nở cùng thời điểm, nhưng hoa chanh khác hẳn, khi nụ thì tím nhạt, lúc nở ra mới trắng ngà, hoa nhỏ và hương thơm dìu dịu. Thực lòng, tôi thích quan sát và mê hoa chanh hơn, vì tìm thấy ở đấy sự khiêm nhường mà vẫn tươi tắn sắc hương...
       Qua giêng hai, trời bắt đầu có dấu hiệu hè sang với những cơn giông chiều, đêm ì ầm tiếng sấm. Ấy là lúc cây lựu lấp ló nụ đỏ. Mỗi khi thấy hoa lựu, bố tôi hay ngân nga câu Kiều "Dưới trăng quyên đã gọi hè/Đầu tưởng lửa lựu lập lòe đâm bông"...Đây cũng là thời điểm cây nhà đua nụ hoa trắng. Nếu như lựu chỉ làm người ta ấn tượng với nụ hoa đỏ như ngọn đèn dầu hỏa thì hoa nhài lại trắng muốt thơm hương. Có lẽ vì quê tôi ít trồng hoa sen và thói quen sinh hoạt, bố tôi thích uống trà nhài hơn. Nên mỗi khi có hoa nhài, bố tôi thường dậy sớm, nhắt những bông nhài chớm nở còn đẫm sương mai, rồi tự ướp với trà, loại trà Thanh Hương giá ba hào hai xu một gói. Ngày ấy, uống trà cũng là một thú vui xa xỉ, và loại đắt tiền như Hồng Đào thì có nằm mơ, đơn giản vì không có tiền mua và có tiền cũng không mua được vì chỉ bán phân phối cho cán bộ thôi. Nhưng sau này, nghiện trà, tôi mới hiểu một thực tế và có thể xem như một đạo lý, ấy là trà ngon, tỷ như trà búp Thái Nguyên thì chỉ nên uống mộc, mới thấm được cái ngon của hương vị tự nhiên thổ ngơi của trà. Còn như trà ướp, dù là ướp gì, sen hay nhài hay loại hoa, hương liệu khác thì chỉ nên dùng trà loại nhì, loại ba mà thôi. Chính loại trà không phải là thượng thặng mới cần đến hương vị ngoại lai để tăng vị thơm ngon cho mình...
       Tháng ba, hoa gạo đỏ ối đầu làng, triền đê, nơi cổ quán, chùa chiền. Người chị gái lớn của tôi đi làm đồng về, nhặt theo mấy bông hoa gạo to tướng về bỏ lên mặt bể nước, vừa rửa chân tay nơi sân giếng, vừa khe khẽ hát "Mỗi khi qua rừng biên giới lại thấy hoa mộc miên. Mộc miên hoa ơi..."... Bỏ dở câu hát, chị bảo "Cái tên Mộc miên hay thế, mình lại gọi là hoa gạo... Có ăn được đâu cơ chứ...". Tôi nghe lời bái hát, lơ mơ hiểu là bài hát về tình hữu nghị hai nước Việt-Trung, chẳng mấy quan tâm nhưng tôi lại hình dung ra những cây hoa mộc miên đỏ ối nơi biên cương xanh ngút ngàn. Chỉ thế thôi, trong tôi đã nảy mầm nỗi khát khao được đi đây đó ... Rồi chị quay ra đố tôi "Em có biết ở miền Nam, Tây nguyên ấy, người ta gọi hoa gạo là gì không?" Hỏi rồi, chẳng đợi tôi trả lời, chị bảo: "Là hoa Pơ-lang đấy. Cái tên cũng thật hay...". Và chị lại hát bài hát về hoa Pơ-lang:"Tây nguyên ơi, hoa rừng bao nhiêu thứ, thứ hoa nào đẹp nhất rừng, Tây nguyên ơ ơi..." Tôi nghe chị hát mãi vẫn chưa thấy nhắc đến cái tên pơ-lang, nhưng tôi cũng không hỏi lại... Sau này lớn, tôi mới biết, chị gái tôi hát cho niềm mơ ước tuổi trăng tròn của chị, cho khát khao tình yêu đôi lứa thời lửa đạn, khi trai tráng làng quê ra trận hết cả, trong đó có chàng trai đã ngỏ lời yêu với chị, và không bao giờ trở về ... 
        Giờ cũng là lúc vườn nhà phủ một màu tím hoa xoan nở chạt ngọn cây. Lúc này, vẫn còn rơi rớt những trận gió mùa đông bắc, sân vườn ẩm ướt. Mỗi dịp vậy, mẹ tôi lắc đầu, ái ngại, bà thương bầy gà con cóm róm trong mưa lạnh, mắt lên mộng vì chứng cúm thời tiết, lò dò, ngơ ngác kiếm ăn mùa hoa xoan. Bầy gà con bị vậy, nhiều khi mất cả đàn, còn vài ba con sống sót là may. Mỗi khi gà bị cúm, bố tôi lại sai mấy chị em chúng tôi lấy tỏi giã chắt nước rỏ vào miệng cho chúng uống, rồi thóc đem ngâm với nước vôi trong cho gà ăn, mong cả đàn qua khỏi, còn có cái mà bán, có miếng mà ăn lúc giõ chạp. Cái mùa hoa xoan chẳng đem lại ích lợi gì, mùi hăng hắc , ngai ngái, ám ảnh, khó thoát, dù ngoài sân hay trong nhà, nhưng màu tím của nó trên vòm trời chiều thì rất chi ấn tượng.
         Đây cũng là lúc những mảnh đất trống lấm tấm lên mạ non. Tôi hay có cái trò câu công cống. Gọi là câu công cống hẳn nhiều người không hiểu là câu con gì. Thực ra, ấy là câu con sâu đất. Khi mặt đất se đi, quan sát kỹ sẽ thấy có những lỗ nhỏ như chôn kim lác đác đây đó. Tôi bứt những cọng mạ non, hoặc búp nõn tre, cắm xuống các lỗ đất chân kim ấy, khi thấy cọng mạ động đậy, ấy là chú sâu đất đang cắn mồi cọng mạ, bèn rút dần cọng mạ thật khẽ và khi gần lên mặt đất thì rút thật nhanh, kéo tuột con sâu lên, lấy sâu làm mồi bồi dưỡng cho bầy gà con đang bị ốm... 
       Mùa hạ sang, ấy là mùa của nhiều loài hoa vườn nhà. Trước hết là những loài hoa đỏ, như râm bụt, dong giềng. Hoa râm bụt thì chỉ có sắc, không hương, phá gam đỏ điểm tô cho bờ rào xanh, bởi khúc tần và dây tơ hồng vàng, còn hoa dong giềng không những sắc đẹp, nếu ai biết nó thì còn ăn được. Chẳng hiểu ai dạy, tôi đã biết tút lấy búp hoa trong cùng, mút chút dịch từ lõi búp, có vị ngọt là lạ. Thật thú vị. Biết chẳng béo bổ là mấy, nhưng lại có cảm giác của con ong đi tìm mật. Còn xương rồng nữa, những bụi xương rồng hàng rào hay trên mặt tường vườn rau cũng dày hoa. Mặc dù xương rồng là loại cây chịu khô hạn vô địch, nhưng mùa hạ mưa nhiều, xương rồng cũng mở màng hơn và vì thế sắc hoa đỏ hay vàng của nó cũng tươi tắn hơn, làm con người ta cũng thấy hưng phấn hơn lên...
         Chưa hết, chỉ riêng một cây sấu ven ao ngay lối cổng vào lấm tấm hoa, lẫn vào vòm lá xanh khiến người ta khó thấy. Và nó chỉ hiển hiện khi dưới gốc cây dát một thảm màu trắng ngà vàng,... Ấy là khi hoa sấu rụng, người ta mới biết đến sự có mặt của nó...
        Tiết cuối hạ, khi những đầm sen ngoài đồng đã vãn, mảnh ao nhỏ lại tím sịm hoa bèo Nhật Bản, làm góc vườn nhà đầy sinh khí. Loài hoa chẳng mấy ai để ý nên nó cứ vô tư hớn hở, như chỉ thể hiện sự có mặt cùa mình mà thôi. Song sự có mặt của nó làm cho mảnh ao nhỏ quanh năm cớm nắng bởi bóng tre và những cây lưu niên khác, bừng tươi tỉnh, nhất là mỗi chiều tà trời nổi cơn giông nổi, theo đó là những hạt mưa to lộp độp trên lá bèo. Dây mướp ven ao, được bắc dàn lán ra mặt ao đầy hoa vàng và bóng hoa in hình trên mặt nước, khiên đám rô ron tưởng nhầm, lao xao đớp bóng hoa, cho đến khi những bông hoa mướp đực héo rụng xuống, ấy là lúc bày cá con lau chau tranh ăn, quấy nước ao sủi bọt khí. Đám rau muống nước cũng chẳng chịu thua nở đầy hoa tím, kéo sang cả thu. Hình ảnh ấy in đậm trong tôi, để một ngày nào đó, bật ra mấy câu thơ nhớ quê "Quê nhà dường đã vào thu/ Hình như có tiếng chim gù đâu đây/ Ao vườn hoa tím nở đầy/ Có con săn sắt động dây muống chiều"...
         Rồi bỗng một ngày, khi len lỏi vào hàng rào vườn nhà để tìm ngắt những quả ruối chín vàng mọng bỏ vào miệng ăn, bỗng nhiên cẩm nhận một mùi hương là lạ. Hương gì nhỉ? Tự hỏi mà chẳng thể trả lời. Mùi hương ấy như có lại như không. Mỗi làn gió thổi, mùi hương lại dậy lên, từ sáng đến trưa, rồi chiều, càng rõ dần, và mùi hương ấy hiển hiện, như mùi chuối chín, hay dứa chín. Ở quanh quất đâu đây thôi. Bố tôi bảo: "Hoa dứa dại đấy. Cứ tìm đi, khắc thấy". Tôi căng mũi lần tìm, như chú khuyển vàng đánh mùi... Đây rồi, giữa bụi mây gai xen kẽ dứa dại hàng rào, từ nách lá, một bông hoa vàng nhạt nhô lên. Mùi hương lạ từ đấy tỏa ra, sực nức. Ai đã từng một lần ngửi hương hoa dứa dại sẽ chẳng thể nào quên, vì nó không lẫn với bất kỳ thứ hương nào khác. Tôi mách bố, ông bảo:''Dứa dại ít khi nở hoa, nên ai tìm thấy hoa dứa dại là may mắn lắm đấy". Chẳng biết thật hư, nhưng từ khi tìm thấy hoa dứa dại, tôi luôn chờ đón sự may mắn kỳ diệu nào đó sẽ đến với mình!...
         Mùa hạ qua đi. Tiết thu sang, sấu chín, lộp độp rụng mỗi khi trời chuyển gió. Bưởi cũng già quả, nhưng ăn vẫn còn he, phải đợi đến tiết Trung thu quả mới đủ nước vào ngọt. Đây cũng là thời kỳ oi nước lên. Lúc này, vườn nhà hầu như vắng màu hoa. Ấy là lúc, những bông hoa xương rồng nhỏ xíu vẫn kiên trì, túc tắc nở, đem lại chút màu sắc cho vườn. Khi ấy, mới thấy thương thấy quý loài cây hoa này làm sao!... 
           Ở tít trên cao, hoa cau nào ai biết. Chỉ những chú chim sẻ mùa hè là hay ríu rít, lách chách, chí chóe trên nách bẹ cau, để thòi ra những sợi rơm khô từ tổ của mình. Rồi một sáng, phảng phất đâu đây chút hương dịu nhẹ. Gì thế nhỉ? Lúc múc nước, chợt thấy mặt nước bể lấm tấm hoa cau. Mãi sau này, tồi hiểu, ấy là dấu hiệu  của tiết heo may, khi một thần đồng thơ đã viết những câu thơ "Nửa đêm nghe ếch học bài/ Lưa thưa vài hạt mưa ngoài hàng cây/ Nghe trời trở gió heo may/ Sáng ra vại nước rụng đầy hoa cau". Hay và tinh tế làm sao...
         Nhà tôi, có đào giếng khơi, bên giếng là bể nước. Bố tôi cầu kỳ để một chậu quỳnh. Ngay chân bể chứa nước là khóm giao. Bố tôi bảo: "Cây quỳnh phải có cành giao mới hợp". Ông mang câu thơ Kiều ra diễn giải, rằng chàng Kim Trọng gặp Thúy Kiều trong truyện của Nguyễn Du thì trời đất, quang cảnh cũng đều giao hòa, quấn quýt "một vùng như thể cây quỳnh cành giao"... Hàng năm, vào tiết cuối thu, may mắn thì khóm quỳnh đơm hoa. Từ lúc thấy quỳnh nhú nụ, bố tôi giao cho tôi theo dõi hàng ngày. Mỗi ngày, nụ quỳnh một lớn và nhú cao hơn. Hồi hộp lắm, mỗi khi chờ xem quỳnh nở. Hoa quỳnh thật lạ, chỉ nở vào đêm, và thường đêm có trăng sáng. Vì thế, cụ Nguyễn Du mới hạ bút: "Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên...". Ban chiều, quỳnh còn chúm chím, đầu nụ nứt hé lộ chút cánh trắng, tôi mừng lắm vội báo tin cho bố tôi. Tối ấy, xong công việc, sau bữa cơm tối, bố tôi cho bày chiếc bàn học của tôi và mấy chiếc ghế ra sân. Ngoài ấm trà, có chút hoa quả vườn nhà và mấy cái kẹo lạc. Cả nhà quây quần chờ xem quỳnh nở. Cho đỡ sốt ruột, bố tôi kể chuyện, những Tây Du Ký, Thủy Hử, Hồng Lâu Mộng... mấy chị em tôi mải nghe, quên cả hoa. Cho đến lúc bố tôi đột ngột dừng kể khi chuyện vào độ hấp dẫn nhất, chúng tôi còn ngơ ngác chưa hiểu sao lại vậy, thì bố tôi cười bảo: "Quỳnh nở rồi kìa! Mình xem quỳnh cow mà". Chúng tôi mời ở người. Quỳnh nở thật, cánh trắng nhị vàng nhạt, mỏng manh, tinh khiết và hương dịu nhẹ. Lúc ấy, nhớ tới câu thơ Kiều, tôi để ý, thấy cả một vòm trời bát ngát ánh trăng, dòng Ngân Hà mềm mại lấp lánh, vắt ngang bầu trời. Tôi ngợp đi và đêm ấy không tài nào ngủ được, không biết là do hưng phấn, hay do uống chén trà? Không ngủ, tôi nghĩ miên man, và chợt phát hiện thấy mình đổi khác... Tôi mơ màng nghĩ đến mấy đứa bạn gái đang tuổi phổng phao, ngực nhu nhú mầm...
         Quỳnh của mùa thu đã nở. Cả năm chờ đợi, duy có một lần, là lúc này đây. Nhanh lắm, đêm nở, sáng ra ánh trời, mọi sự huyền diệu ban đêm bay đi đâu hết. Quỳnh đã héo dần. Nhìn những cánh hoa quỳnh ỉu xìu trong nắng hanh, tư lự, tự hỏi lòng, sao loài hoa năm nở một lần, hiếm hoi, lại nhanh úa tàn làm vậy? Và tôi chợt sáng ra trong ý nghĩ, cũng như giấc mơ đêm qua ấy, bao hồi hộp bay bổng tuyệt vời của chút tình cảm luyến ái le lói, len lỏi, đầy hưng phấn đã vụt tan biến khi mình bừng tình dậy lúc ban mai. Vậy thì quỳnh chỉ là giấc mộng đêm thu mà thôi. Cũng như sau này, cuộc đời ban cho tôi bông quỳnh khác, nhưng rồi, vẫn như ngày thơ dại, mải nghe chuyện bố tôi kể, tôi lặn ngụp giữa những rối ren thị phi chuyện đời, nhãng đi và xảy mất phút bừng nở của quỳnh, để lúc tỉnh ra thì hoa không còn tươi nguyên nữa. Lại nhớ đến một bài thơ đời Đường của Đỗ Thu Nương "Khuyến quân mạc tích kim lũ y/ Khuyến quân tích thủ thiếu niên thì/ Hoa khai kham chiết trực tu chiết/ Mạc đãi vô hoa không chiết chi"... Thì ra, có một đạo lý, trời đất tạo hóa không cho phép sự tuyệt diệu dài lâu và vững bền, mà chỉ đến trong một chớp mắt, cho người ta cơ hội nắm bắt, còn ra, chỉ như ảo ảnh, lý tưởng về sự hoàn mỹ vĩnh hằng, để cho con người ta ý thức về sự gian khó, để khao khát sống, khao khát vươn lên, mà chẳng biết bao giờ đạt được !?...
          Những trận gió mùa đông bắc đầu tiên khe khẽ về vào lúc chiều hôm hay mãi nửa đêm. Cây vườn xào xạc. lắc cắc, rào rào những hạt mưa mau thưa, chợt có chợt không. Chỉ những ai tỉnh ngủ mới nhận biết được. Hoặc trong cơm mộng mị, thấy mưa rơi ở xứ mộng mơ xa lơ xa lắc nào đó. Sáng ra, rùng mình se lạnh, mới biết mùa đông đã bén mảng... Những loài cây mùa đông lác đác rụng lá. Mấy cây bàng ngoài bến sông cũng đã ngả màu lá sậm, chờ một ngày đỏ lựng. Chiều chiều, mẹ tôi hay quét lá vườn, mang về phơi để bếp đun dần. Phần lá vụn và rác rưởi còn lại, không đun được thì hun đống đốt thành đống rấm, khói lên thơm nồng, quện với sương chiều muộn phất phơ lên giời, tạo lên một quang cảnh hư ảo trời đất lẫn vào nhau ... Ngày bé, mỗi sâm sẩm tối, trong làn gió lạnh buốt, tôi mơ hồ thấy hồn tổ tiên nương bóng khói đống rấm mà về thăm con cháu... Liên tưởng, ớn mình, nhưng quả thực tôi không mấy sợ...
          Những tưởng, mùa đông thì chẳng mấy hoa. Song không, đây là thời điểm đám rau giữa vườn về già lại đơm sắc màu. Nổi bật, là những cây rau cải xanh, để già lấy hạt làm giống mùa sau, bừng lên sắc hoa vàng tươi rói. Hoa cải vàng rung rinh trong gió bắc khiến cả khu vườn mùa đông ngỡ ảm đạm lại tươi tắn phấp phới sắc màu, đủ sức lôi cuốn loài côn trùng hút mật đỡ lòng lúc ngày đông tháng giá... Và tôi lại thấy mẹ tôi cất giọng buồn buồn câu ca dao "Gió đưa cây cải về giời/ Rau răm ở lại chịu đời đắng cay". Sao lại thể nhỉ? Tôi chẳng dám hỏi mẹ nữa, nhưng cứ âm âm trong suy nghĩ câu ca dao buồn ấy. Sau này, biết ăn rau cải sống, rồi ăn món mù-tạt làm từ dầu cải, thấy vị cay nồng xộc thẳng vào mũi lên tận óc, lại nghĩ, còn hơn cả vị đắng của rau răm ấy chứ? Thật chẵng rõ người xưa hàm ý gì qua câu ca dao ấy?...
         Chưa hết, có một loài hoa gần như không mấy ai để ý, chính là hoa thì là. Nhà trồng vạt thì là, để khi thi thoảng nấu riêu cá, hoặc khi xào khoai tây với tóp mỡ, gia vị thì là làm dậy mùi món ăn. Dùng không nhiều nhưng lai rai cả năm. Bỗng một ngày thì là già cũng trổ hoa, màu vàng nhạt, thả chút hương ngai ngái là lạ. Sắc hoa thì là gần gam màu nhưng không lẫn vào hoa cải. khiến mảnh vườn mùa đông bừng sáng và ấm áp hẳn lên. Rìa rãnh nước chảy còn có hàng hương nhu, cuối năm lấy để đun nước tắm tất niên. Hoa hương nhu gam sẫm, thui thủi nở và tàn chẳng ai hay, bởi giá trị hương thơm cúa nó vào hết thân và lá rồi... Sự có mặt của loài hoa này chì mang ý nghĩa vòng tuần hoàn sinh tồn mà thôi...
          Cuối đông, gần tết Nguyên đán, xen kẽ giữa những trận gió bấc rét là những ngày tiết trời ấm lên, gió nồm đưa hơi ẩm từ biển vào, mỗi sáng sớm và chiều muộn hay sương mù, rồi quá mù thành mưa, lất phất mưa phùn. Mẹ tôi hay dùng thành ngữ "quá mù ra mưa" để chỉ những gì đi quá giới hạn chấp nhận của nó trong cuộc sống... Vậy là tiết xuân vừa chớm. Những khoảng đất trống trong vườn, xen với rau cỏ, để ý thấy những cụm cây dại, hoa nhỏ trắng xanh, chẳng biết gọi tên là gì. Tôi hỏi mẹ, thì bà bảo là hoa tầm xuân và ngân nga câu ca dao "Trèo lên cây bưởi hái hoa, bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân. Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc, em đi lấy chồng chẳng tiếc lắm sao?"... Sau này, tôi có tra cứu, hỏi han này nọ, nhằm kiếm tìm loài hoa tên tầm xuân, thì được mặc định cho cây trường xuân, là loại hoa hồng dây leo hàng rào, và giống này có nguồn gốc nước ngoài. Ngẫm nghĩ, thấy không phải vậy. cây hoa tầm xuân trong ca dao kia quyết không phải là loại trường xuân-hồng dây này. Tôi nghí, chiểu theo ca dao, dân gian. tầm xuân chỉ loại hoa cỏ dại nở hoang ruộng vườn vào lúc có mưa xuân, mà xưa kia các cô gái quê hay hái vào cái tuổi mộng mơ mới lớn, chớm biết yêu, nên tục gọi là tầm xuân mà thôi. Đơn giản vậy, mà cũng có vẻ phù hợp với văn cảnh câu ca dao "bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân" chứ?... 
        Mảnh vườn xưa, quanh năm bốn mùa hoa trái ấy không còn nguyên nữa. Sau khi bố tôi mất, mấy chị em chúng tôi, người về nhà chồng, người ra thành phố công tác. Tôi cũng hành phương Nam gần chục năm trời. Mẹ tôi theo ra thành phố chăm con cho chị gái tôi, bà nhượng nửa mảnh đất cho người bà con họ hàng. Phần còn lại bỏ hoang, ngôi nhà tranh tre tường đất xưa sinh dột nát, rồi bị phá bỏ đi. Gần đây, mấy chị em tôi hùn nhau, xây trên phần đất còn lại một ngôi thờ tự, trồng ít cây, hoa cho ấm bụi, đẹp nhà, nhưng chẳng thể như xưa... 
         Tôi nhớ lắm mảnh vườn xưa thương mến, trong ký ức bộn bề cuộc sống hiện tại. Nơi mà hàng năm, qua bốn mùa hoa trái, bố mẹ chỉ bảo, tôi đã nhận ra và dần thấu hiểu những triết lý nhân sinh. Và điều đó, đã dẫn dắt tôi ngang dọc đường đời... 
 
 

tamvanvov
  • Số bài : 807
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Dùng dằng phận cối, nhộ nhem phận nồi - 22.05.2020 10:49:35
Ghé làng nước mắm Nam Ô,  
Tôi là tín đồ của nước mắm. 
           Nếu có cái gọi là Đạo nước mắm, có lẽ tôi sẽ gia nhập?
           Là nói vui vậy thôi. Giả dụ thế, là để thấy sở thích ăn uống của tôi với nước mắm đến mức nào... Nó dường như không thể thiếu trong cuộc sống thường nhật của tôi. Mà nói luôn, nước mắm ở đây là nước mắm truyền thống từ nguyên liệu cá, chứ nhất quyết không phải là loại nước chấm công nghiệp, hoặc loại nước mắm giả cày, tức là cái loại nước được pha chế thêm vào nước mắm truyền thống để ra một thứ cũng được gọi là "nước mắm", mà người ta vẫn quảng cáo ầm ĩ trên các phương tiện thông tin đại chúng hiện nay. 
           Nghề làm báo, cho tôi điều kiện được đi đây đó khắp nước, nên cũng được nếm hầu như đủ các loại nước mắm ở các vùng miền, từ nước mắm Cát Hải (Hải Phòng), đến các loại ở Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An, rồi Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Tuy Hòa, Nha Trang, Phan Thiết, ... cho tới loại nước mắm tận cùng đất nước, ấy là Phú Quốc... Sở thích thì hợp với một vài loại, nhưng tựu chung, mỗi loại nước mắm làm theo phương pháp truyền thống ấy đều độc đáo riêng có. Tự nhận là tín đồ của nước mắm, ăn thì cứ ăn, thích thì cứ thích, mỗi bữa cơm hàng ngày, không thể thiếu nó, vậy mà, vừa mới đây, lần đầu tiên, tôi thị sát một làng nghề làm nước mắm, ấy là làng nước mắm Nam Ô, nằm kề mép biển dưới chân đèo Hải Vân, Đà Nẵng. Có lẽ là cơ duyên, cho tôi cảm hứng viết những dòng này....
           Trước khi tôi kể về những gì tôi thấy ở làng nước mắm Nam Ô, tôi lan man chút về cái sự nhớ và thèm nước mắm của mình, mỗi khi xa đất nước, đi học tập hay công tác ở nước ngoài. 
           Đầu tiên, ấy là chuyến sang Pháp học nghiệp vụ báo chí với thời gian gần hai tháng trời. Nhóm chúng tôi có năm người, thuê riêng căn hộ nhỏ của một Việt Kiều tại ngoại ô Paris, quận Montreuill. Chúng tôi tự nấu ăn với nhau, nên gia vị, thức ăn hàng ngày đều mua từ siêu thị. Gì cũng có nhưng nước mắm thì không. Thực ra, người ta bảo, muốn có nước mắm, phải mò đến quận 13, là nơi dân châu Á và người Việt Nam định cư nhiều, may ra kiếm được nước mắm Việt. Biết thế, nhưng trong 5 người, chỉ mỗi mình tôi nghiện nước mắm, nên ngại rồi cho qua. Đành kiếm tạm thứ nước mắm nhãn hiệu China có bán ở siêu thị, nhưng đây chỉ là loại nước chấm làm bằng đậu tương, cả mùi và vị đều nhạt toẹt, có còn hơn không thôi. Nhân đây, chuyện thêm, năm 2009, tôi tham dự một khóa học về chính trị xã hội tại Trường đảng trung ương Trung Quốc với thời gian tròn 2 tháng. Học ở Bắc Kinh, rồi đi thực tế ở Thượng Hải, Thiểm Tây và Vân Nam, phải nói chế độ ăn ở thuộc hạng sang trọng. Bữa ăn hàng ngày có nhiều món quý, bổ dưỡng như bào ngư, hải sâm tần thuốc bắc, nói chung là không thiếu thứ gì, song với tôi và mấy người thuộc diện nghiện nước mắm, thứ duy nhất cần mới ngon miệng là nước mắm Việt lại không có, nên ăn gì cũng chẳng thấy ngon, dù mâm cao cỗ đầy, sơn hào hải vị.... Sau này, tôi tham dự một khóa học về hành chính công chừng nửa tháng ở Trường Hành chính quốc gia Pháp, đã có kinh nghiệm hơn, tuy không được mang theo nước mắm, nhưng biết trước sang đấy sẽ có nguồn cung rồi. Nhóm mấy người chúng tôi chọn ở chung một căn hộ khách sạn, tự nấu ăn, và khoái nhất là các đồng nghiệp của tôi ở Văn phòng VOV Paris mang đến tặng một chai nước mắm Việt. Có nước mắm cốt, nấu gì, ăn gì cũng thấy ngon...
           Có một người quen của tôi, cũng thuộc diện tín đồ của nước mắm, trong một chuyến công du nước ngoài, khi mọi người đang dùng bữa ở một nhà hàng thuộc hạng sang do phía đối tác mời, bữa ăn đang xôm, chợt anh buông một câu hỏi: "Sang đây đã mấy hôm, mọi người trong đoàn có thấy thiếu gì không?". Mọi người ngơ ngác, rồi đưa ra cái này thứ nọ, kể cả chuyện tế nhị, anh vẫn lắc đầu cười, gọn lỏn : "Nước mắm". Mọi người ồ lên, nghĩ thấy đúng. Một người trong đoàn bảo: "Thảo nào... tôi cứ cảm thấy thiêu thiếu gì ấy, mà không nghĩ ra...". Thấy phía bạn ngơ ngác, chúng tôi giải thích, họ cười vui, bảo là, có lần sang Việt Nam, đã dùng thử nước mắm, cũng thấy thú vị đấy, nhưng còn chưa quen với mùi nằng nặng của nó... Chuyện thế, để thấy ai nghiện nước mắm, nhất là quen ăn thứ nước mắm cốt, thêm tỏi và ớt xanh nữa, khi thiếu nó thì nhạt mồm nhạt miệng làm sao....
          Với tôi, nước mắm là già nữa bữa ăn, có nước mắm ngon, ăn rau dưa gì cũng thấy ngon miệng. Tôi thích nước mắm đến mức, ăn các món như bún chả, nem, hay ốc luộc, tôi cũng dùng mắm cốt, chứ không ăn kiểu pha loãng thêm đường này nọ. Tôi biết, nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng mê nước mắm thuộc dạng này, thậm chí còn cực đoan hơn, tức là chỉ duy nhất mắm cốt, không cần chanh, tỏi, ớt, hạt tiêu gì cả, bữa ăn bày ra, thiếu nước mắm cốt là chưa dùng đũa... Mấy năm trước, trong một chuyến công tác Nhật Bản, đoàn chúng tôi bay sang Osaka, rồi ngược về Kyoto và Tokyo. Mấy ngày ăn uống, cũng ý thức thử nhiều món ăn của Nhật Bản, vì biết người Nhật ăn uống rất tinh tế và đặc biệt chú ý cân bằng dinh dưỡng. Biết thế, nhưng với tôi, thiếu nước mắm là giảm ngon. Đã có lần, tôi thử xin nhà hàng nước mắm Việt, song họ bảo không có sẵn, và còn nói rằng, nếu có thì họ cũng không cho, bởi theo họ, nước mắm Việt sẽ át hết mùi vị thức ăn của họ. Nói cho cùng, họ cũng cực đoan, như mình, thứ gì cũng phải nước mắm vậy... May sao, về đến Tokyo, cô phiên dịch bảo sẽ đến khu công nhân người Việt để xin nước mắm cho tôi, thì Bùi Hùng, trưởng cơ quan thường trú của Đài Tiếng nói Việt Nam tại Nhật Bản (VOV Tokyo), đã mang đến cho tôi chai nước mắm nhỏ để chúng tôi dùng bữa những ngày ở Tokyo. Thật quý làm sao. 
Trở lại với chuyện tôi thăm làng nước mắm Nam Ô ở Đà Nẵng. Thú thật, mươi năm trước, tôi đã sống ở thành phố này hai năm trời, vậy mà tôi chẳng ý thức gì đến làng nước mắm này. Lẽ dĩ nhiên, ngày ấy tôi ăn cơm tập thể cơ quan, hàng ngày, chị cấp dưỡng cho ăn loại nước mắm nào thì mình ăn loại đó, như mọi người thôi, khi ăn biết loại ngon loại không, nhưng chẳng đòi hỏi gì. Sau ra lại Bắc, mỗi lần vào công tác, hoặc khi anh em văn phòng cơ quan ở đây ra Bắc, tôi cũng hay nhờ mua hộ thùng nước mắm, phần nhà dùng dần, phần làm quà cho người thân. Anh em chọn cho loại nước mắm nhãn hiệu Dì Cẩn, ăn thấy hợp khẩu vị, ok, sau cứ vậy mà mua, chẳng truy nguyên nguồn gốc. Giờ đi thăm làng mắm Nam Ô, mới tự hỏi, không biết loại mắm nhãn Dì Cẩn nọ có thuộc lò nước mắm nào nhỉ? Đàn ông, đoảng vậy đấy. 
           Nhóm chúng tôi thăm làng mắm Nam Ô là theo lời hẹn, nhưng trục trặc nên thiếu người dẫn. Đường vào làng hẹp, lại bị che chắn bởi hàng rào tôn kẽm của một dự án sinh thái ven biển, nghe đâu đang bị treo đó. Từ đây, nhìn lên Hải Vân, cung đường phái nam đèo  gần ngay trên. Tôi nhiều lần qua lại cung đường đèo này, từ thời còn chưa có hầm Hải Vân, nhìn xuống thấy các làng mạc chân đèo bên mép vịnh biển, nhưng đâu có biết, những mái nhà lô xô kia là  làng Nam Ô... Đầu làng, gặp một người đàn ông ngồi trước cửa nhà, ghé hỏi thăm thì ông nhiệt tình nhận dẫn đường và giới thiệu. Thật may, người đàn ông họ Trần tên là Hà, hay Hòa gì đó (giọng nặng khó nghe khó phân biệt) lại là một người thạo việc này, khi dẫn chúng tôi đi thăm làng, ông còn mang theo một tập tài liệu hồ sơ để xin công nhận di tích cho làng Nam Ô. Loanh quanh một hồi, chúng tôi đến nhà ông Bùi Văn Phong, một gia đình làm nước mắm thuộc có tiếng ở làng. Ông Phong tỏ ra quen với việc tiếp xúc, giới thiệu cách làm mắm, PR sản phẩm nước mắm của nhà mình và lịch sử làng mắm Nam Ô với dân báo chí và khách tham quan. 
           Nghe nói, làng chài Nam Ô có lịch sử hình thành đến bảy trăm năm nay, từ thời Huyền Trân công chúa được nhà Trần gả bán vào dâu vương quốc Champa, thế kỷ 13, nhưng nghề làm nước mắm ở đây thì mới có chừng hơn trăm năm thôi. Chưa nói đến kỹ thuật làm mắm, riêng về nguyên liệu, cũng ít nhiều khác biệt, ấy là loại cá cơm than và muối hạt to mua từ Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), Cà Ná (Ninh Thuận)... Trước đây, cả làng có hàng trăm hộ làm nước mắm, nhưng thời cuộc biến thiên, giờ chỉ còn hơn ba chục hộ thôi. Nghe đâu, giờ nguồn nguyên liệu cá cơm cũng không dễ kiếm, thêm nữa, đô thị phát triển nhanh chóng, nhiều hộ nhỏ lẻ, không có khả năng phát triển, cạnh tranh thị trường lờ lãi thấp, nên bỏ nghề mắm theo nghề dịch vụ khác. Chỉ còn lại những hộ khá, phát triển thành công ty mới có đầu ra ổn định, nên giữ nghề... Rồi đây, làng mắm Nam Ô sẽ ra sao?
           Chúng tôi loanh quanh thăm thú, ra miếu thờ thần Nam Hải (cá Ông Voi), miếu bà, chùa làng, mộ tiền hiền làng được cho là xưa kia đã hy sinh khi giải cứu Huyền Trần công chúa... Bãi Rạn của làng ấp sát chân đèo Hải Vân có không gian khá đẹp, tuy nhiên dải đất mép biển án ngữ suốt chiều dài của làng bị bỏ không, như con trăn khổng lồ chềnh ềnh quấn chắt lấy làng, nên nhiều khu vực của dự án bị dân làng xé rào vào xả rác, cho thấy sự bất hợp lý trong quy hoạch, và sẽ còn là câu chuyện dài kỳ, khó giải quyết ...
           Thực ra, việc thăm làng nước mắm Nam Ô, chỉ là cái cớ, gợi cho tôi những suy nghĩ về các cung bậc cảm xúc của nước mắm cá, loại nước chấm "độc nhất vô nhị" của người dân Việt. Chúng ta đều biết, ẩm thực Việt có tên và thuộc tốp đầu trên bản đồ ẩm thực thế giới, bởi nó là bản hòa tấu của ba nền ẩm thực thượng thặng, bản địa-Trung Hoa-Pháp, trong đó, nước mắm chế biến từ cá biển là chỉ  tâm xuyên suốt, là linh hồn... Hết thảy những ai quan tâm đến ẩm thực Việt, đầu biết đến một đầu bếp trứ danh người Pháp, ấy là Didier Corlou. Ông có nhiều năm sống ở Việt Nam, là đầu bếp trưởng của khách sạn Sofitel Metropole Hà Nội, và là thành viên của Viện hàn lâm nấu ăn Pháp. Didier Corlou nổi tiếng với biệt danh "ông Tây nước mắm", bời ông đã phát hiện ra nước mắm là một thức đặc biệt không đâu có và sử dụng nó biến ảo như phù thủy trong các món ăn Việt và cả ẩm thực Tây... Hãy nghe "ông Tây nước mắm" này nói về nước mắm Việt: "Điều thú vị của nước mắm Việt Nam là tất cả vi khuẩn trong nước mắm đều thể hiện vai trò của nó, đều có lý do tồn tại và đều có lợi cho sức khỏe. Nó cũng giống như các loại vi khuẩn biến sữa thành phô mai vậy". 
           Là ông Tây nói thế đấy, các nhà sản xuất nước chấm công nghiệp xứ ta nghĩ sao, khi tìm cách tiêu diệt nước mắm sản xuất theo truyền thống, bằng cách mập mờ vận dụng bản dự thảo Tiêu chuẩn quốc gia về Qui phạm thực hành sản xuất nước mắm,khuếch đại sự độc hại của chất histamin trong cá biển và nước mắm truyền thống?... Đành rằng, chất histamin là amin sinh học, có vai trò như một chất của bạch cầu, có nhiều trong cá biển, và hàm lượng tăng trong quá trình ủ chượp làm nước mắm theo cách truyền thống... Câu chuyện ở đây, thực ra là một trò bẩn trong kinh doanh, sẵn sàng loại bỏ cả những gì thuộc về truyền thống và bản sắc Việt, miễn là có lợi cho mình?...
           Song, nói đi thì cũng phải nói lại. Dùng nước mắm truyền thống là thói quen của người Việt, nhưng nó sẽ chỉ quanh quẩn trong bếp nhà, dù có thêm nhiều người như "ông Tây nước mắm" quảng bá cho nước mắm Việt. Khi mà, bảng tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm của nhiều nước trên thế giới còn chặt chẽ, trong đó có hàm lượng histamin, thì các nhà sản xuất nước mắm, đặc biệt các nhà nghiên cứu về công nghệ sinh học, công nghệ thực phẩm hãy làm gì đi, để hạ hàm lượng chất histamin xuống? Câu chuyện nhỡn tiền về cá ngừ đại dương của ngư dân xứ ta không xuất khẩu được sang Nhật Bản nếu không giết thịt theo công nghệ của họ, cũng là vì vậy... 
           Ghé làng nước mắm Nam Ô chút thôi, vậy mà tôi thành người "nhiễu sự", chuyện nước mắm mãi không dứt. Riêng về làng nước mắm này, có được công nhận là di tích gì đó hay không, nghĩ cho cùng, chẳng mấy quan trọng, bằng một ngày nào đó, số hộ làm nghề nước mắm trong làng lại tăng lên. Ấy là khi những giọt tinh chất của biển cả dưới hình hài giọt nước mắm của làng, đã thực sự lên hương!...
 

tamvanvov
  • Số bài : 807
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Dùng dằng phận cối, nhộ nhem phận nồi - 31.05.2020 12:25:31
Những chiếc lá bồ đề.
 
Trong công viên Thống Nhất Hà Nội, có mấy cây bồ đề nằm rải rác bên lối đi quanh hồ Bảy Mẫu, gần góc tiếp giáp với đường Lê Duẩn. Chiều chiều, đi bộ thể dục trong khuôn viên, tôi thường đi dưới bóng râm mát của những cây bồ đề này mùa lá cây sum suê, còn khi mùa rụng lá, tôi lại giẫm chân lên thảm lá bồ đề rụng bời bời mặt đất... Rồi một ngày, đầu óc tôi nảy ra một sự so sánh,...
Cây bồ đề là một loài cây đặc biệt. Đặc biệt, không phải vì giá trị về chất liệu gỗ, hay hương thơm tinh dầu như nhiều loài thực vật cũng được cho là đặc biệt khác trên trái đất này!?...
Vậy thì điều gì làm nên sự đặc biệt của Bồ đề?
Theo dân gian, thì trước khi Phật giáo ra đời, bồ đề đã được một số nước châu Á xem như loại cây thiêng. Song phải đến khi bồ đề được gắn với truyền thuyết về sự giác ngộ thành chính quả của Thích-ca-mâu-ni (Phật Tổ) thì nó mới được coi là loài cây thiêng bậc nhất của Phật giáo và các tín đồ nhà Phật.
Có lẽ. nhiều người biết đến phát tích của Phật giáo. Kể rằng, hơn 500 năm trước Công nguyên, Hoàng tử Ấn Độ là Gautama Siddhartha khi đi khất thực đã đến ngôi làng nhỏ Sambodhi nằm bên bờ sông Falgu (nay là Bodh Gaya, bang Bihar, miền Bắc Ấn Độ). Tại đây, ngài đã ngồi dưới gốc một cây bồ đề, thiền định 49 ngày đêm và sau 3 ngày 3 đêm cuối triền miên của thiền định, ngài đạt được sự giác ngộ. Để rồi, sau đó 7 ngày, Ngài tời Sarnath và bắt đầu việc giảng đạo, từ đấy hình thành Phật giáo và lớn mạnh đến ngày nay. Một điều quan trọng nữa, ấy là gần ba trăm năm trước CN, tăng-ni Phật giáo đã làm được việc vô cùng quan trọng, là chiết lấy một nhánh cây từ cây bồ đề Đức Phật thiền định thuở ban đầu, mang đi trồng ở Sri Lanca, và cho đến tận bây giờ, cây bồ đề ấy vẫn tồn tại ở Annaradapura (Sri Lanca), đồng thời, trở thành cây bồ đề nổi tiếng và lâu đời nhất trên toàn thế giới. Từ đó, tín đồ Phật giáo đã nhân giống bồ đề cổ này mang đi trồng ở nhiều nơi thờ tự của Phật giáo trên khắp hành tinh chúng ta...
Người ta cho rằng, Bồ đề Đạo tràng hiện nay chỉ có tuổi đời 130 năm, là mầm nhánh của bồ đề từ gốc cũ cây bồ đề tổ mà Đức Phật đã ngồi dưới tán nhập thiền để thành chính quả, sau nhiều lần cây  bồ đề ở chính vị trí này bị phá hủy bởi thiên tai và nhân tai. Còn đại tháp Giác ngộ ở chùa Mahabodhi đã có tuổi đời 1.500 năm, kề bên gốc bồ đề tổ, cũng từng nhiều lần bị hư hại rồi được trùng tu, còn đến ngày nay...
Vậy là bồ đề (Bodhi, có nghĩa là Giác ngộ), cũng thăng trầm cùng lịch sử hình thành và phát triển Phật giáo, trải qua 2.500 năm, để hưng thịnh như ngày nay. Như vậy, bồ đề đã trở thành loài cây thiêng là bởi nó được xem như một biểu tượng của sự giác ngộ và trí huệ của Phật giáo.
Bồ đề được trồng ở khắp nơi trên trái đất này, tuy nhiên, các cây bồ đề cổ thụ hay cây mới được trồng ở các chùa chiền, nơi thờ tự của Phật giáo đều được cho là linh thiêng hơn ở những chỗ bình thường khác bởi Phật tính của nó...
Với tôi, cũng đã được các đồng nghiệp sau những chuyến công du sang Nepan, Sri Lanca và Ấn Độ về, tặng cho chiếc lá bồ đề đất Phật được ép khô bằng plastic như một vật quý, do người dân bản địa chọn làm thành sản phẩm mang tính souvernir. Dĩ nhiên, chiếc lá bồ đề đất Phật ấy, dù mang tính chất souvernir thì luôn được người ta trân trọng cất giữ, xem như hiện vật có Phật tính.
Thêm nữa, tôi cũng từng được cho là may mắn, đứng dưới tán của Bồ đề đất Phật, đặng hưởng phúc đức từ nhà Phật. Ấy là, năm 2012, tôi được cử làm trưởng đoàn công tác của Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) có chuyến công tác đến Yangon, Myanmar, làm việc với Đài Phát thanh & truyền hình quốc gia nước này. Phía bạn đã mời đoàn chúng tôi đến thăm viếng Chùa Vàng (Shwedagon Zedi Daw), một ngôi chùa nổi tiếng bậc nhất của Myanmar và là ngôi chùa có tuổi đời thuộc hàng cao nhất của Phật giáo thế giới. Chùa này linh thiêng bởi còn lưu giữ 8 sợi tóc của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (xá-lợi). Tương truyền, ngôi chùa này được xây dựng từ thời Phật Thích Ca vẫn còn sống trên thế gian này, và như vậy, cũng có nghĩa, ngôi chùa có lịch sử khoảng 2.500 năm tuổi. Không những thế, tháp chính của chùa cao 98m được dát vàng toàn bộ, đồng thời được nạm 5448 viên kim cương và 2317 viên hồng ngọc, búp kim cương trên cùng gắn một viên kim cương 76 ca-ra. Nghe nói, với việc lưu giữ 8 sợi tóc của Đức Phật tổ, chùa Vàng này là một trong mấy ngôi chùa trên thế giới có bảo vật linh thiêng, là xá-lợi của Phật tổ Thích Ca Mâu Ni. Tôi và đồng nghiệp đã được phía bạn bố trí vào chiêm bái tượng Phật ngọc quý hiếm, và đã chụp ảnh dưới tán bồ đề cổ thụ ở chùa này...
Trở lại chuyện các cây bồ đề trong công viên thành phố Hà Nội. Tôi đã chứng kiến vòng chu kỳ một năm của vô vàn chiếc lá bồ đề này. Khí hậu ở xứ ta, bồ đề vàng lá vào cuối đông và sang đầu xuân mới rụng, sau ít ngày thân cành trơ trụi, bồ đề nảy búp non và xanh lá tiết đầu hạ, rồi cứ xanh thế, già dần qua tiết thu, khi nhiều loài cây khác lá ngả vàng và rụng, thì lá bồ đề vẫn xanh cho đến tận tiết Đông chí mới dần ngả màu, mãi đến đầu xuân mời lác đác rụng... Và một vòng tuần hoàn mới bắt đầu...
Đạp chân lên thảm lá bồ đề bời bời trong công viên thành phố, có những ai suy ngẫm về những chiếc lá bồ đề này chăng? Nếu ở nơi Đất Phật, thì hẳn những chiếc lá bồ đề kia sẽ được người ta lượm hết để biến chúng thành vật mang Phật tính. Và như thế, mỗi chiếc lá bồ đề Phật tính sẽ được người đời lưu giữ lâu dài...
Song, như vậy, chắc gì đã hơn những chiếc lá bồ đề ở công viên kia và hết thảy những cây bồ đề nơi bình thường khác. Thiết nghĩ, chẳng cần triết luận mà làm gì... Đơn giản, theo vòng luân hồi, những chiếc lá bồ đề bình dị  kia nhanh chóng hoai mục tan vào trong đất, để rồi cuối mùa xuân sau đó, chúng sẻ lại hiện hình hài mới, những búp lá bồ đề non xanh?...
 

tamvanvov
  • Số bài : 807
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Dùng dằng phận cối, nhọ nhem phận nồi - 25.07.2020 19:30:37
Tản mạn về sách,...
 
Tản mạn về sách, tự thân cái tít đã nói lên, điều Chủ bút định viết gì ở đây. Thực ra, những câu chuyện về sách, tôi cũng đã viết từ lâu lắm rồi và những tản mạn đó tôi đã đăng tải trong vài ba tập sách trước của tôi, là Lên núi tầm mai, Những người thắp lửa... Tuy nhiên, những chuyện ấy từ hai chục năm trước và có thể nói, đã xưa lắm rồi, bởi thời đại 4.0 thì mọi sự đều nhanh chóng thuộc về quá khứ... Lâu nay, tôi rẩm riu, định viết thêm gì đó về sách, nhưng vì bận rộn lại thôi... Nay thời gian cũng rỗi rãi hơn, nên có thể nhẩn nha mà bàn luận dăm ba điều...
Chiều nay, đi bộ thể dục ở Công viên Thống Nhất, tình cờ thấy Hội sách đang mở. Trong cái nắng đầu hè 35 độ C, người chơi hội sách khá đông, mà phần lớn lại ở độ tuổi thanh thiếu niên. Có chút ngạc nhiên và mừng thầm, vậy ra, đâu phải giới trẻ quay lưng với văn hóa đọc... Là mừng thế thôi, chứ thực ra cùng phải xem mọi người đọc sách gì và đọc như thế nào đã ?...
 
1. Ngày xưa tôi đọc sách,
Có thể nói, ngày thơ bé, tôi đọc sách từ khi còn chưa biết nhận mặt chữ cái. Vô lý. Chưa biết chữ thì làm sao đọc sách được. Có đấy, đó là nghe người lớn kể chuyện sách. Cách đọc sách kiểu này, còn hiệu quả hơn là tự đọc. Bởi khi ấy, đầu óc không bị phân tán, tất cả nhăm nhăm như nuốt lấy từng lời kể, mà tình tiết câu chuyện còn được người kể diễn đạt, nhấn nhá khiến chuyện sinh động, hấp dẫn hơn. Vả lại, người giỏi kể chuyện còn biết thêm bớt cho câu chuyện hoàn thiện hợp lý hơn theo logic chuyện kể. Chình vì thế, người nghe chuyện một cách tập trung, nghe xong, có thể kể lại câu chuyện đó cho người khác được ngay... Nếu bạn không tin, bạn cứ thử mà xem, sẽ rõ điều tôi nói...
           Và người kể chuyện sách cho tôi ngày thơ bé, ấy là cha tôi. Ông vốn là một kiến trúc sư từ thời Tây, biết cả chữ Nho và Pháp ngữ, đọc khá nhiều sách, Đông Tây kim cổ, ở vào thời ấy, gọi đùa ông là mọt sách cũng được. 
           Khi tôi đến tuổi vào học lớp Vỡ lòng (hệ 10.10 ở miền Bắc trước đây), cũng là thời điểm đất nước bước vào cuộc chiến tranh chống Mỹ xâm lược, sau sự kiện Vịnh Bắc bộ-05.8.1964. Mặc dù lúc đó, gia đình tôi ở Hà Nội, nhưng sách vở cũng không dễ có. Có lẽ, để khơi dậy lòng yêu sách trong cậu con trai út nhỏ dại, bố tôi đã nghĩ ra một cách thích hợp và vô cùng hiệu quả. Ấy là, trước lúc ngủ, khi hai bố con đã yên vị trên giường, tranh thủ lúc mẹ tôi còn dọn dẹp nhà cửa, bố tôi kể cho tôi một câu chuyện nào đó, hoặc một đoạn, một chương trong truyện dài kỳ, như Ngàn lẻ một đêm, Ngụ ngôn La-phông-ten, Truyện cổ Grim....
           Sau đó, khi gia đình tôi chuyển về quê sinh sống theo lệnh giảm dân số ở thủ đô thực hiện chính sách thời chiến, thì việc đọc sách thành không tưởng. Ngày ấy, trường lớp bậc Tiểu học (cấp I) không có, toàn phải học nhờ chốn đình chùa. Trẻ con nhếch nhác. học hành chểnh mảng, chỉ muốn bỏ học, thử hỏi lấy đâu ra sách mà đọc, trong khi sách giáo khoa còn khan hiếm. 
           May thay, một chân trời tri thức mở ra trước mắt tôi, chuyện không tưởng lại thành hiện thức. Mấy khoa của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội sơ tán về quê tôi, và họ mang theo về một phần thư viện của nhà trường. Lại may, có vài đứa con cán bộ giáo vụ và hành chính của trường cũng theo về, học cùng lớp với tôi. Thế là chúng có sách gì đọc thì tôi có sách ấy đọc ké. Chẳng là, lúc ấy, tôi thuộc diện học giỏi của lớp, lại thêm gia đình cũng từ Hà Nội về, nên mấy đứa nhanh chóng chơi thân với nhau. Thậm chí, có sách chúng không đọc nhưng cũng mượn để mang cho tôi. Thế là, mới học lớp 3, lớp 4, tôi đã đọc Thần thoại Hy LạpNhững người khốn khổKhông gia đình , và khá nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng của nền  văn học Nga-Xô viết... 
            Lại tiếp, khi Trường Tổng hợp ra Hà Nội, thì chi vài ba năm sau, trong quãng thời gian không kích của Mỹ ra miền Bắc, một bộ phận của trường chính trị trung ương lại sơ tán về, và theo đó cũng là kho sách của họ. Lần này, sách khá nhiều, nhưng tôi có sách đọc, không phải là nhờ quen người ở trường, mà nhờ hai người chị gái. Lúc ấy, hai người chị tôi vào độ tuổi mới lớn, hinh thức khá xinh, nên là đối tượng để các chàng sinh viên để mắt, tăm tia... Các chàng hay đến nhà tôi chơi, lấy cớ uống trà đạm đạo chuyện văn chương chữ nghĩa với bố tôi, song thực ra là tìm cách tán tính các chị tôi. Các chàng mượn sách truyện mang đến cho hai chị tôi đọc, và chẳng biết các chị có nhòm ngó gì không, chứ thằng em tôi thừa nước đục thả câu, giành đọc ngốn ngấu tất cả sách gì đến tay... Thời kỳ này, tôi được tiếp cận những Tây Du ký, Thủy Hử, Hồng Lâu mộng thuộc hàng kinh điển của Trung Quốc, rồi Gia đình của Ba Kim, Rừng thẳm tuyết dày của Khúc Ba... Văn học Nga-Xô viết thì có Đội cận vệ thanh niênSông Đông êm đềm, Trong chiến hào Stalingrad, và cả Những linh hồn chết, Taras Bulba của Gogol, Sông Đông êm đềmĐất vỡ hoang của Solokhov, Cánh buồm đỏ thắm của Grin ... Tôi không nhớ xuể những tác phẩm thuộc hàng kinh điển của văn học thế giới mà tôi đọc ngày ấy... Ngày ấy, tôi cũng rất mê truyện Kiếm hiệp. Tôi nhớ, có một bộ sách kiếm hiệp xuất bản từ thời Pháp thuộc theo từng tay sách một, mỗi tay chỉ có một hồi, dầy cỡ nghìn trang, tên là Lục kiếm đồng, tôi mượn được, đọc đến thuộc lòng. Sau đó, tôi có thể kể loại toàn bộ tiểu thuyết kiếm hiệp đó từ đầu đến cuối, chính xác đến từng tình tiết, thế võ...
           Chỉ biết, những tác phẩm văn học dù đọc ké, đọc vội đó đã củng cố trong tôi lòng ham mê đọc sách và tình yêu văn chương...
           Và lòng đam mê sách ấy, đã cho tôi sự kiên nhẫn và khát khao tích cóp sách, xây dựng tủ sách cho riêng mình sau này...

           2. Tủ sách cá nhân
           Thú đọc sách, lòng đam mê sách khi hình thành và lớn dần trong tôi, thì tôi bắt đầu nảy sinh ý muốn lập tủ sách gia đình. Đọc sách ké, sách mượn cũng phải nhờ cơ may, vậy lấy đâu ra tiền để mua sách cơ chứ? Bản thân mới học cấp 2 (như bậc THCS bây giờ), được bố mẹ nuôi ăn học đã là phúc rồi, thời chiến tranh, thiếu thốn, đói kém đủ đường, miếng ăn cho vào miệng còn không đủ thì lấy đâu ra tiền mua sách. Hoặc giả, ngày ấy có tiền đi chăng nữa, cũng không biết mua sách ở đâu. 
          Để có tủ sách, thì cần có tủ và sách. Tủ thì tôi sử dụng ngăn chứa chính giữa chiếc tử chè bằng gỗ gụ cũ, kê chính giữa nhà, làm bàn thờ tổ tiên của gia đình. Bố tôi kể, chiếc tủ chè thuần gỗ gụ này là bố tôi mua lại của người ta, nghe đâu, cuộc chiến ở phổ phường Hà Nội giữa quân ta với quân Pháp vào mùa đông năm 1946, nó từng là vật dụng được người dân mang ra đường chất đống làm chường ngại vật và chiến lũy ngăn quân Pháp, thế nên toàn bộ cửa tủ và lèo hoa văn bị mất hết. Khi nhà tôi còn sống ở Ngõ Trúc Lạc, Hà Nội, chiếc tủ này đã dùng làm tủ thờ, lúc chuyển về quê, nó vẫn giữ công năng ấy. Vì mất hết cánh, mẹ tôi mua một viếng vải nhựa dầy nền kẻ ô khá đẹp phủ lên, vừa trang trí lại che được phần cánh tủ bị mất. Trong tủ để ít bát đĩa cổ, ít đồ thờ tự và những vỏ hộp nhôm sữa Gi-gô của Pháp đựng lặt vặt. Tôi xếp gọn số đồ đạc ấy vào một bên, còn cỗ trống thừa ra, cũng đủ chứa vài ba chục cuốn sách...
Vậy chỉ thiếu sách. Tính sao đây? Loanh quanh, tôi tìm được sổ sách giấy tờ của người chị gái, thấy có cuốn sách dạy về kỹ thuật nuôi bèo hoa dâu làm phân xanh (giờ gọi là phân hữu cơ) bón ruộng do Hợp tác xã nông nghiệp phát cho, và một cuốn sách Trong chiến hào Stalingrad, bìa dày giấy đẹp. bản tiếng Việt được xuất bản từ Liên Xô, đóng dấu thư viện đại học... Tôi biết cuốn này do một chàng sinh viên mượn từ thư viện nhà trường mang đến nịnh người đẹp (chị tôi), rồi quên không lấy lại, tôi đã đọc đi đọc lại mấy lần rồi. Vậy là có 2 cuốn làm lưng vốn ban đầu...
            Và bắt đầu cuộc tìm kiếm để thiết lập tủ sách riêng cho mình. Tiền không có, và nếu có, cũng không biết mua ở đâu. Trẻ con ở quê ngày xưa, rất ít khi cha mẹ cho con cái tiền bạc, Vậy mà, tôi có cách kiếm tiền đấy. Kiếm một cách chính đáng. Trời phú cho tôi tài chơi bi. Tôi bắn bi thuộc loại giỏi nhất xóm. Khoảng cách xa mấy, tôi bắn cúng trúng, rất ít khi trượt. Bọn học sinh, chơi bi một hồi với nhau, tôi ăn hết bi của chúng. Chúng nó nể tôi lắm. Được rồi, đứa nào có tiền mua, tôi bán lại cho chúng, giả thử, mua bi mới ở bà hàng xén, một hào mua được mười viên bi, còn nếu mua bi cũ của tôi, thì được những mười lăm viên. Bán lại cho chúng được tiền, trước sau, tôi sẽ lại ăn hết số bi của chúng. Có đứa, thấy tôi chơi thì không dám chơi nữa vì sợ tôi ăn hết. Bán bi được ít tiền, tôi không ăn quà, dành để hôm nào lên thị trấn, vào hiệu sách tìm mua truyện. Cứ thế, tủ sách của tôi có thêm các quyển Số phận của chú bé đánh trống của nhà văn Liên Xô, A, Gai-đa, Lá cờ thêu sáu chữ vàng của Nguyễn Huy Tưởng, Đội du kích thiếu niên Đình Bảng của Xuân Sách. Dế mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài...          
            Hồi học cấp 3, trường ngay thị trấn Bần Yên Nhân, vào kỳ nghỉ hè, các học sinh phải chia thành nhóm để trực trường. Đến phiên trực của tôi, mẹ tôi cho ít tiền để buổi trưa mua gì ăn. Tôi uống nước cầm hơi, nhịn ăn trưa, vào hiệu sách dốc hết tiền mua được một cuốn truyện, đọc ngấu nghiến đến chiều về nhà với cái bụng rỗng, người đói lả... 
           Cứ dần dà, cái tủ sách ngầm trong lòng bàn thờ ấy đầy lên, và theo đó, kiến thức sách vở và mơ ước mơ hồ về một ngày kia mình trở thành người cầm bút lớn lên, rõ hình hài... 

           3. Truy tầm và tích cóp.

           Vào đại học, tôi học ở Đại học Nông nghiệp Hà Nội, đóng tại Châu Quỳ, Gia Lâm. Cùng học, có anh bạn Trịnh Bá Ninh, người chung đội tuyển học sinh giỏi văn Hải Hưng, lại thêm người bạn cùng lớp quê Thái Bình là Hoàng Gia Trình. Trình cũng là người đọc nhiều. Ngày ấy, tôi và Trình có thể nói chuyện hàng ngày về Tây Du ký, Thủy Hử, Tam Quốc diễn nghĩa... Thích đọc sách, nên cũng thích tầm mua sách. Khốn nỗi, vẫn câu chuyện tiền đâu? Hồi đó, nhà nước ta vẫn duy trì chế độ học bổng cấp đại học. Sinh viên trúng tuyển vào trường, được cấp học bổng 18 đồng một tháng, khi ấy tiễn cũ giá trị lắm, số tiền học bổng chi vừa đủ cho 2 bữa ăn mỗi ngày, và ở thì ký túc xã nhà trường. Giáo trình nhà trường cho mượn, hết năm thu lại. Còn tiêu pha gì thêm, dĩ nhiên là tiền gia đinh cho. Như vậy thì cũng chẳng có tiền, tích cóp, lâu lâu mua được một cuốn. Đời sống sinh viên, ưa ca hát và thích thơ. Đấy là đời sống tinh thần chính của sinh viên, lại chẳng mất chút phí nào. Hát nhạc đỏ, rồi cũng biết nghêu ngao dăm bài hát nổi tiếng của Trịnh Công Sơn... Còn thơ thì Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Tố Hữu, cũng có một số người biết thơ Puskin, Lermantov, Nhekraxov, Chiutrev. Exenhin, Maiakovsky... Ngày ấy, tôi và Trịnh Bá Ninh chịu khó mua thơ lắm. Yêu thơ là chính, với lại, mua thơ rẻ hơn mua tiểu thuyết, nên đến khi tốt nghiệp, tôi mua được cả trăm tập thơ, chủ yếu là các nhà thơ Việt nam hiện đại.  May mà, đến năm thứ 3, nhà nước có chính sách, gia đình nào đang có từ 2 người đang học Đại học thì được một suất trợ cấp, giá trị 4 đồng. tháng. Nhà tôi, có 2 người, chị gái tôi học trên tôi một khóa, cùng trường, nên tôi được xét hưởng trợ cấp.Hằng tháng được nhận 4 đồng, cũng là một khoản kha khá, đỡ mẹ tôi một tiền tiêu vặt, tôi có đồng ra đồng vào, quà vặt lúc đói bụng và mua vài cuốn sách.
           Hầu như tuần nào, tôi cũng đảo qua hiệu sách nhân dân ở phố Châu Quỳ, đến thành thân quen chị bán hàng ở hiệu sách. Quen rồi, có cái lợi, dặn chị bán sách khi có sách văn học mới thì để dành cho mình, hoặc lúc tìm được sách hay nhưng lại không đủ tiền thì nhờ chị cất giữ đến lúc đủ tiền thì mua... Ngoài hiệu sách ấy, chúng tôi còn quen thân với mấy hiệu sách khác ở thị trấn Gia Lâm, thị trấn Bần Yên Nhân, thị trấn Nam Sách (quê Trịnh Bá Ninh). Lâu lâu sang Hà Nội, thế nào cũng phải lượn vào Hiệu sách Hà Nội-Huế-Sài Gòn ở góc cắt phố Tràng Tiền-Ngô Quyền. Vào đấy, thực ra chỉ thỏa mãn thú tầm sách thôi, chứ thực ra ít khi mua được sách. Tiếng là hiệu sách lớn nhất thủ đô, nhưng đa chủng loại, đông người mua, nên rất hiếm khi sách văn học hay, quý còn đến tay mình. Chính ở mấy hiệu sách nhỏ nhà quê kia, chúng tôi lại mua được sách hay vì có chân trong...
           Nói chung, hễ đi đến đâu, thấy có hiệu sách nhân dân là mò vào. Đến các thị trấn, thị xã nào, nếu có điều kiện là hỏi thăm, tìm hiệu sách. Sau này, tôi vào nhận công tác ở mãi tận huyện Tri Tôn, thuộc vùng Bảy Núi, biên giới thuộc tỉnh An Giang. Với gần bảy năm trời làm việc ở đây, cái hiệu sách nhỏ ở trung tâm phố huyện ấy đã cung cấp cho tôi nhiều sách hay và quý của các tác giả nổi tiếng thế giới, như Những người khốn khổNhà thờ Đức Bà Pariscủa V. Hugo, Bông hồng vàng của C. Paustovsky, Chuyện núi đồi và thảo nguyên của T. Aimatov, Đỏ và đen của Standal, Bà Bovary của G. Flobert, Anna Karenina của L. Tolstoi, Những vì sao của A. Đô-đê, Tuyển truyện ngắn của Sê-khốp, Truyện ngắn Turgeniev... Thời bao cấp, thiếu thốn đủ thứ, những cuốn sách hay ấy được in trên giấy đen, mặt nhẵn mặt xù xì, nhưng trẻ trung mắt tinh, khát khao hiểu biết, đọc ngấu nghiến, rồi đọc nghiền ngẫm. Mỗi chuyến đi phép ra Bắc, tư trang dồn đủ một ba-lô, để còn tha theo cả bao tải sách. Tàu xe cách rách, rong ruổi từ miền Tây lên Sài Gòn rồi đợi tàu ra Bắc, về Hưng Yên, mất cả tuần, nhưng không thấy vất vả, là vì có niềm vui, thỏa nối đam mê ...

           4. Loạn sách, biết chọn gì đây.

            Cuộc sống thay đổi thật nhanh. Khi có đủ cơm gạo, no cái bụng rồi, thì các phương tiện khác như radio, ti vi, tủ lạnh, xe máy cũng không mấy mà có. Sách cũng vậy, các nhà xuất bản, các đầu nậu làm sách nhanh chóng thỏa mãn nhu cầu của người đọc. Và theo đó, các hiệu sách nhân dân, thuộc hệ thống phát hành sách do nhà nước quản lý từng giữ vai trò quan trọng suốt một thời kỳ, lắt lay và thui chột, rồi biến mất, thay vào đó là các cửa hàng sách tư nhân. Loạn sách. Nhưng trước khi bàn về loạn sách, tôi kể chút chuyện về một việc làm dại dột của mình... 
           Ấy là khi, tôi làm việc ở Hà Nội, mẹ tôi cũng ra thành phố ở với một người chị gái của tôi, ngôi nhà gianh ở quê, nơi mà ngay đi học tôi đã bắt đầu lập tủ sách cá nhân với cái hộc tủ thờ mất cánh, bị bỏ không. Sợ thất lạc và ẩm mốc, tôi chuyển toàn bộ số sách có được đến vài trăm quyển đến để nhở nhà của một người chị gái khác ở quê. Thời ấy, trên văn đàn của ta bắt đầu xuất hiện một hiện tượng mà các nhà phê bình văn học ở ta gọi là nền văn học phải đạo.Báo chí văn nghệ bàn ra bàn vào, có y kiến là đã đến lúc cáo chung cho nên văn học phải đạo. Những sáng tác mới của nhà văn Nguyễn Minh Châu như "Phiên chợ Giát", "Mùa trái cóc ở miền Nam", "Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành", "Cỏ lau,"...  được người đọc khen ngợi này nọ... trong khi nhiều tác phẩm văn học khác, ngay cả tiểu thuyết Dấu chân người lính của chính ông, từng được khẳng định, lại bị coi nhẹ...Và đương nhiên, những điều đó ảnh hưởng đến tôi. Chẳng hiểu sao, tự nhiên tôi thấy những tập thơ mà tôi dày công tích cóp trở nên nhạt nhẽo, một chiều, rồi quy chung vào cái gọi là "nền văn học phải đạo". Khi tôi được cấp một gian nhà cấp bốn ở khu tập thể cơ quan, cùng với những vật dụng thiết yếu là giường tủ bàn ghế, tôi đặt đóng ngay một cái giá sách, bằng gỗ tốt bởi một thợ vườn. Tôi mang số sách gửi nhở nhà người chị ở quê lên trưng vào giá sách mới nhà mình. Ước mơ hai chục năm trời đã thành hiện thực. Nhưng, tôi đã cố tình bỏ lại gần trăm tập thơ ở quê, mặc người nhà chị gái sử dụng tùy ý. 
            Giờ nghĩ lại, thấy mình không phải. Cho dù có thế nào đi chăng nữa, thì đó cũng là công sức, sáng tạo của mỗi tác giả. Thật lòng, nghĩ mình có lỗi với sách, với  các nhà thơ ấy... 
            Trở lại chuyện loạn sách. Bắt đầu từ việc đổi mới kinh tế, kéo theo là các kiểu đổi mới. Các nhà xuất bản không còn tự chủ được nữa, dẫn đến việc phải liên doanh với các nhà đầu tư, mà ngày đó, người ta quen gọi là "đầu nậu". Riêng tôi, lúc ấy cũng có vài ba cuốn được in theo hình thức này. Ví như, tập truyện ngắn "Đêm nguyệt thực", tập sách đầu tay của tôi dự thi ở Nhà xuất bản Hà Nội, đã được một đầu nậu nhận in, phát hành ( 1993) và may mắn đoạt giải; hay như tập truyện ngắn "Hoa tầm xuân" (Nxb Văn học) thì do Công ty Phát hành sách liên doanh với đầu nậu in; hoặc tập "Những người thắp lửa" (Nxb Lao động) và tập tản văn "Lên núi tầm mai" (Nxb Văn học) do Trung tâm Văn minh văn hóa Đông Tây in, phát hành, rồi tập truyện ngắn "Tổ ấm chim câu" (Nxb Lao Động) do một tư nhân bỏ vốn in ấn, phát hành ... Người viết sách vui vì sách được xuất bản mà mình không phải bỏ vốn. Những tập sách khác và cho đến tận bây giờ, sách của tôi vẫn xuất bản, phát hành theo cách thức này... 
            Hà Nội giờ đây có nhiều nhà sách tư nhân, song nổi tiếng nhất vẫn là phố Nguyễn Xí, gần khu vực Bờ Hồ. Ở đây, người tìm sách, mua sách ngày nào cũng đông nghịt. Sở dĩ đông, là bởi trước hết gần trụ sở của Tổng công ty phát hành sách trung ương có từ thời bao cấp, lại ở trung tâm, tiện cho người mua sắm nói chung. Các nhà sách liền kề nhau, chủng loại đa dạng, giá cả phải chăng (luôn có chiết khấu, giảm giá)... Người yêu sách ở Hà Nội, ai cũng biết đến bà Mão. Có thể coi, bà là một trong số ít người đưa ra hình thức bán sách theo cách thức tại nhà, không cần cửa hàng. Ngày ấy, một số nhà mặt đường ở đây cho thuê kinh doanh sách, còn nhà bà Mão lại ở sâu trong ngõ hẹp, tít trên tầng hai. Bà Mão đã nghĩ ra cách, lấy mấy phòng ở của nhà mình, bày toàn sách, trên vách, dưới sàn xếp kín đặc, người mua bỏ giày dép, dầm cả lên sách mà chọn tìm, mua gì ra ngoài bàn ở hành lang tính tiền. Vậy mà khách đông nườm nượp, hơn cả cửa hàng cửa hiệu sang trọng... Cách thức này của bà, sau rất nhiều người học theo... Bà Mão nổi tiếng đến mức, mới năm trước, bà mất, một số báo và rất nhiều trang Facebook đã đưa tin, bởi có khá nhiều phóng viên, nhà báo từng là khách hàng của bà từ ngày họ còn là sinh viên nghèo... 
            Lâu lâu, nhớ thú tầm sách, hoặc mỗi khi đau đầu vì công việc, tôi hay chọn đi tầm sách để giải tỏa. Sách bây giờ in đẹp, bìa bắt mắt, gợi mở. Phải công nhận, việc thị trường lĩnh vực xuất bản, người làm sách phải cạnh tranh, cùng với sự lựa chọn đầu sách, in ấn đẹp, giá cả hợp lý, giới xuất bản có nhiều chiêu độc để sách bán chạy. Thói quen của tôi, bước chân vào bất kỳ một hiệu sách nào, cũng lướt mắt đáo qua một lượt, rồi xem kỹ và quyết định mua hay không. Tôi nhớ, có lần, tại một hiệu sách trên phố Bà Triệu, Hà Nội, tình cờ, tôi bắt gặp và mua một cuốn sách mỏng ở chỗ bày sách đại hạ giá, nhưng hóa ra lại được cuốn sách quý, ấy là tập thơ "Xem đêm" của nhà văn Phùng Cung. Có lẽ, nhiều bạn đọc không biết đến cuộc đời truân chuyên của nhà văn này. Ông bị dính án văn chương, nghe nói vì cái truyện ngắn "Con ngựa già của chúa Trịnh" bị quy kết này nọ, bị cho là cạnh khóe nhân vật cao cấp nào đó. Tập thơ "Xem đêm" là tập hợp cả đời thơ của Phùng Cung gồm mấy trăm bài ngắn dài, được ông viết phần lớn trong thời gian bị tù đày hơn chục năm gì đấy. Lại nghe nói, ông Nguyễn Hữu Đang, (người từng chịu trách nhiệm tổ chức việc dựng Lễ đài cho buổi ra mắt của Chính phủ Cụ Hồ, ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945 tại quảng trường Ba Đình), đã trích một phần tiền lương truy lĩnh sau khi ông này được phục hồi nhân phẩm, để Phùng Cung có tiền xuất bản tập thơ đó. Theo tôi, đây là tập thơ hay nhất trong vòng mấy chục năm nay ở ta. 
            Loạn sách, nhưng tôi vẫn mua sách theo cái kiểu của riêng mình...
            Ấy là, tìm mua loại sách thuộc hàng kinh điển, dùng làm tài liệu tra cứu khi cần thiết.
           Ấy là, sách bộ mới một số tác phẩm nổi tiếng của các tác gia văn học thế giới (ví như L. Tolstoi, V. Hugo, G. Maupassant, O. Balzac Y.Kawabata, Mạc Ngôn  ...).
           Ấy là, sách theo thú chơi của mình. Ví như, Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần, tôi có những mấy bộ bản in khác nhau, Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Đông Chu liệt quốc của  Phùng Mộng Long,  Thủy Hử của Thi Nại Am cũng có mấy bộ kiểu như vậy...
          Ấy là, một số tác phẩm thuộc các tác giả giật giải Nobel văn chương hằng năm, hoặc các tác phẩm được làng phê bình văn học đánh giá cao... 
Ấy là sách kiếm hiệp. Tôi mê sách kiếm hiệp từ nhỏ, nên mua đủ toàn bộ tiểu thuyết  võ hiệp của Kim Dung và một số tác phẩm của các tác giả kiếm hiệp khác cùng thời với ông.
          Cứ thế, dần dà, tủ sách của tôi lên đến vài ngàn cuốn.

          5. Ps 

         
Chiều muộn, đi bộ công viên, thủ túi quần có 100k. Ngang qua Hội sách đã tàn, hầu hết các quầy đã đóng thùng cho lên xe chở về. Còn ít quầy vẫn cố nán lại vì chiều khách, Ghé một quầy bán cả sách cũ và mới, hỏi "Có bộ BÀI CA SƯ PHẠM của Makarenko không?". Thưa rằng: "Cháu không có ở đây, nhưng ở quấy nhà cháu số... đường Giải phóng, cháu có đấy. Hôm nào chú qua, cháu bán cho"... 
          Lại ghé vào Nhà sách Nhã Nam, khách mua bán vẫn tấp nập. Lướt nhanh, nhặt ra 3 quyển này, thanh toán hết có 90k, vẫn thừa 10k bỏ túi. Trên đường về, giải thích cho cô con gái, sinh viên năm thứ 3 ĐH Kinh tế Quốc dân, rằng tại sao bố lại mua 3 cuốn này (HỒ.của Y., Kawabata, NGÀY XƯA của Nguyễn Nhược Pháp, vàĐIÊU TÀN của Chế Lan Viên, thuộc Tủ sách Vietnam Danh tác. Định mua cả Tập thơ THU của Lưu Trọng Lư nữa, nhưng không đủ tiền nên đành bỏ lại). Cô con gái gật gù, à ra thế. Cháu cũng hay đọc sách, nhưng sách nó chọn thường là sách học, sách tham khảo, và tiểu thuyết ngôn tình... Mua cuốn HỒ của tác giả người Nhật bản là Yasunari Kawabata, lòng có chút thích thú.     Trong các quốc gia châu Á, sau Trung Quốc và Ấn Độ, xét về văn chương (mở rộng ra lĩnh vực Triết học, Lịch sử, Địa lý...) thì đứng thứ 3 là Nhật Bản, theo tôi. Cho đến giờ, Nhật Bản đã có 3 tác giả được trao Nobel Văn chương, mà Yasunari Kawabata là người mở đầu và vĩ đại nhất... Tôi đã thích các tác phẩm của ông này, bộ ba tiểu thuyết XỨ TUYẾT, TIẾNG RỀN CỦA NÚI, NGÀN CÁNH HẠC. Các tác phẩm khác của ông cũng rất hay, là VŨ NỮ IT-ZU và NGƯỜI ĐẸP SAY NGỦ... Hy vọng cuốn HỒ này cũng sẽ thú vị... 
          Chính vì yêu vắn chương của ông, tôi đã có một Tiểu luận về nhà văn này và các tác phẩm chính của ông...
          Giờ thì tôi vẫn mua, nhưng chọn lọc rất kỹ. Đam mê sách thì vẫn còn, song phải biết san sẻ cho những thú vui, nghỉ dưỡng khác, phù hợp với lối sống chậm trong một xã hội công nghệ hối hả...
          Vả lại, còn phải dành thời gian cho viết nữa...
 
 

tamvanvov
  • Số bài : 807
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Dùng dằng phận cối, nhọ nhem phận nồi - 22.08.2020 09:37:22
 
Ơi con sông nuôi lớn tuổi thơ tôi,...
 
           Hôm sang chơi nơi ẩn cư của nhà báo  Nguyễn Trọng Huân ở làng Lại Đà, Đông Anh (Hà Nội), hai chúng tôi đã đèo nhau dọc bờ đê sông Đuống lên tận Xuân Canh, nơi có ngã ba Dâu, điềm nguồn sông Hồng chia nước cho sông Đuống. Ngang qua trạm thủy nông Xuân Canh có vẻ hoang vắng, Trọng Huân bảo: "Dăm ba chục năm trước, cái trạm thủy nông này quan trọng lắm đây... Nay vắng như chùa Bà Đanh, chẳng hiểu nó còn hoạt động không, hay để thành phế tích ?".  Trọng Huân thở dài. Ngắm dòng sông nối nguồn phía trong đê nước trong xanh, cây cối đôi bờ xanh um, đủ thấy, có chăng trạm cũng hoạt động cầm chừng...
           Những hình ảnh đó cứ đeo đuổi tôi. Tôi lại nghĩ về dòng sông quê tôi, cũng là một dòng chảy quan trọng của hệ thống thủy nông Bắc-Hưng-Hải từ hơn nửa thế kỷ trước, dẫn nước từ hạ lưu sông Hồng qua cống Xuân Quan thuộc Văn Giang (Hưng Yên), chảy cắt đầu thị trấn Bần Yên Nhân, ngang làng quê tôi thuộc Văn Lâm, tiếp xuôi về mạn Cẩm Giàng (Hải Dương), và cuối nguồn nhập vào đâu thì tôi không rõ. Nó cũng không có tên cố định, khúc qua Bần thì được gọi là sông Bần, đoạn ngang qua làng tôi thì dân mấy làng ở đây gọi là sông Khê, theo tên làng quê tôi là Thanh Khê... Thực ra, làng lấy theo tên sông đấy chứ, bố tôi bảo vậy. Thanh Khê tức là dòng sông trong xanh kia mà, Tôi nào ngờ, dòng sông này chảy mãi trong tôi, mặc dù, tôi chỉ gắn bó với nó chừng nươi năm tuổi đi học và sau đó tôi rời quê trở lại phố phường nơi tôi sinh đã hơn bốn chục năm rồi...
           "... Con sông tuổi thơ tôi/ dòng chảy quanh năm suốt tháng/ âm thầm nuôi những cội đa từ thời Lý/ ngày bé, những thằng tôi/ đập chân bám rễ tập bơi/ nhí nháu chuồn chuồn cắn rốn/ mùa lũ/ nước/ từ sông Cái về cuồn cuộn/ ngầu ngầu phù sa/ nuôi cây trái ruộng vườn/ vất vả kiếp người/ lam lũ xóm thôn/ thấm giọng ru khê nồng trưa hè oi ả/ ấp ủ đàn bà ngực bồng, hồng đôi má/ tẩm sinh lực đàn ông giữ giống nòi..."... Tôi đã viết thế trong trường ca Con sông tuổi thơ tôi như một nhận thức về dòng sông quê suôt thời thơ dại của mình ... Trong các sáng tác thơ văn từ ngày đầu cầm bút cho đến giờ, dòng sông quê này luôn ám ảnh tôi, và cái cầu sông trước cửa đình làng, đã được tôi gọi bằng cái tên hoa mỹ là Bến MộngBến MơBến Mê gì đó nữa ... Đến nỗi, mỗi khi nghĩ về quê là hình ảnh mảnh vườn xua có nếp nhà gianh ba gian hai chái tường đất vách rơm mà bố mẹ tôi làm những năm đầu chiến tranh chống Mỹ khi rời Hà Nội về quê, và sau đó chính là hình bóng con sông uốn lượn qua làng với nhũng bờ tre, dặng vối xanh um ngả bóng xuống mặt sông, lại  hiện ra trước mắt...
          Ngày ấy, con sông nên thơ lắm, một năm chia rõ hai mùa nước thay đổi. Từ đầu đông cho hết mùa xuân, nước cạn và trong, lặng lờ soi bóng tre, bóng vốí và mấy cây đa, cây bàng cổ thụ. Còn từ giữa hè cho đến trung thu, nước đầy ăm ắp, và năm nào mưa lũ nhiều thì nó nhận phân lũ từ sông Cái, qua cống Xuân Quan, nước về ngầu đỏ, chảy xiết dòng, mang theo phù sa màu mỡ và cá tôm về. Nước sông luôn được thau rửa vậy nên đến mùa cạn vẫn trong sạch.
         Cùng với con sông, còn có một hệ thống mương máng và cừ nước để điều tiết nước theo mùa vụ, và hơn thế, tạo ra một diện tích mặt nước đáng kể cùng hệ sinh thái phong phú của nó. Tính thời gian, từ ngày Thủ tướng Phạm Văn Đồng bổ nhát cuốc đầu tiên phát động chiến dịch thủy nông Bắc-Hưng-Hải, đến độ ấy chừng dăm, bảy năm, nên hệ thống mương máng tốt lắm. Con mương cái lừng lững, có đoạn chạy ngầm đáy sông với hệ thống cống xi-phông đóng mở tùy ý và một trạm bơm nước tầm trung. Sông có mấy khúc thu hẹp để bắc cầu qua. Nối mương cái là mương con như con lươn, con trạch chạy hút, len lỏi qua các cánh đồng, làng xã. Tôi nghĩ, cách làm thủy lợi ngày ấy rất hiệu quả về tính năng và sự đa dạng. Khi làm mương, người ta đào đất đắp mương nổi, hai bên tạo thành hệ thống cừ nước và các cừ nước này khá đắc dụng trong việc tiêu nước khi úng thủy, dự trữ và cấp nước khi hạn hán, lại là nơi dung dưỡng các loài thủy sản tự nhiên. Trong khi, các mương máng nổi hay chìm này thì ngoài chức năng chính là dẫn nước, thì nó còn được sử dụng là đường thủy, bộ, đó là chưa kể là nguồn cung cấp phù sa và thủy giống từ sông Cái về. Sườn đê còn là thảm cỏ tự nhiên để chăn thả trâu bò và nơi cư ngụ tạm cho các loài chim muông. Sau này, chẳng hiểu sao, người ta bỏ hệ thống mương máng nổi đắp đất, và trên chính hệ thống này, cho bê tông hóa, mang gạch, xi măng xây thành máng nước bé tin hin, bỏ các bờ mương nham nhở, triệt tiêu đường thủy bộ có từ mương máng và cừ nước xưa. Tôi đã suy nghĩ để lý giải chủ trương này. Phải chăng, do phát triển quá nhiều thủy điện (áp lực năng lượng), nên nước tự nhiên bị giữ lại các hồ thủy điện trên nguồn, xả nước nhỏ giọt theo thời tiết mưa lũ hay hạn hán, và mùa vụ theo nông lịch, nên ngay sông Cái cũng cạn dòng, còn đâu là nước phù sa đổ vào đất nông nghiệp thau rửa ruộng đồng như xưa. Nguồn nước ít, thì đương nhiên phải bê tông hóa kênh mương để tiết kiệm nước, cần chi mương máng to kềnh. Xin nhớ cho là, đồng bằng Bắc bộ mênh mông, hệ sinh thái của nó những ba tầng cơ đấy, mặt đất, bầu trời và mặt nước, chứ không phải là các nhà kính trồng trọt công nghệ cao mà ứng dụng tưới tiêu nhỏ giọt... Cái mất lâu dài và cay đắng là tính đa dạng của hệ sinh thái đồng bằng Bắc bộ, mà nhỡn tiền là ô nhiễm các dòng sông. Lẽ dĩ nhiên, còn tại sự phát triển bữa bãi và sự thiếu ý thức của doanh nghiệp, người dân trong việc xả thải nước và rác sản xuất, sinh hoạt. Thế nên, các con sông nhỏ và kênh mương nội đồng giờ đây chẳng khác gì ao từ nước đọng?...
          Tôi cho rằng, đã có đánh đổi và phải trả giá, khi lấy năng lương làm trọng, mặc nhiên bỏ quên sự biến đổi theo chiều hướng xấu của hệ sinh thái vùng hạ du khi phát triển thủy điện thái quá ở Bắc bộ. Nó chẳng khác gì sự trả giá khi đánh đổi việc tăng sản lượng lúa gạo ở đồng bằng sông Cửu Long để xuất khẩu, bằng cách be bờ đắp đập để tăng diện tích trồng lúa, giảm diện tích ngập nước tự nhiên của cả vùng Tây Nam bộ. Bây giờ, nhiều địa phương ở vùng này đã nhận thức được sự trả giá dắt này, nên cứu vãn khi cho phá bỏ bớt bờ be, đập ngăn, trả lại sinh thái ngập nước cho nhiều khu vực mà trước đó chính họ đã cố sống cố chết ngăn lại để làm lúa... Tây Nam bộ đã vậy, còn đồng bằng Bắc bộ thì sẽ sao đây, hỡi những nhà quản lý tam nông, các nhà thủy thủy hại kia, xin hãy lên tiếng trả lời?...
          Con sông quê tôi, hơn chục năm nay đã bị bức tử. Tôi đã đọc lời ai điếu cho nó khi viết thêm một chương tái bút trong trường ca Con sông tuổi thơ tôi của mình :"...Con sông tuổi thơ tôi/ rời quê/ tôi xa/ mấy chục năm trời/ vẫn loanh quanh một dòng sớm tối,/ cội đa xưa/ già thêm ngần ấy tuổi/ mùa mưa giông,/ chẳng còn nước tràn trề,/ chẳng phù sa mỡ màu/ theo con nước xuôi về/ nuôi dưỡng những đồng cao ruộng trũng./ mùa nước cạn. đáy sông thành thùng vũng,/ bốc hôi tanh/ tôm cá trốn sạch rồi,/ những ống khói lò cao/ mái tôn lạnh vòm trời/ cả một/ quãng bờ sông/ nay trờ thành bãi rác,/ cỏ bờ xưa/ hoang chiều xơ xác,/ những chân tre, những vòm vối đâu rồi?..."
          Mỗi lần về quê, ra đồng thắp hương cho ông bà, cha mẹ, tôi hay ra bờ sông, lặng nhìn dòng nước đèn ngòm, sủi bọt, lờ đờ rác trôi nổi, lại mường tượng về tuổi thơ những lần bơi vượt sông đuổi trâu ăn lúa, và những mùa nước lũ, đầy ắp, cuồn cuộn sắc phù sa; mường tượng những chiều hôm nhá nhem mấy chị em đi thả vó tôm ở các cừ nước ven mương, rồi những ngày mưa rào tháng sáu, nấm đất chồi trắng tinh, lổn nhổn như ở trứng gà đẻ lang nơi sườn bờ mương nổi: và những buổi chiều đám trẻ con, học sinh nghỉ hè chăn trâu, thả diều giấy; cả khi mùa mưa lũ tháng bảy đồng áng nước ngập trắng băng, bở mương máng trở thành độc đạo để ra đồng...
Chẳng lẽ, dòng sông quê tôi, theo thần phả các chùa chiền, đã có từ thời Lý. Trải qua các triều Trần, Lê, Nguyễn đều được nạo vét, tu bổ để để còn trong xanh và hữu ích cho cuộc sống con người đến giữa thế kỷ 20. Vậy mà, chỉ mấy chục năm thôi, nó đã ngoắc ngoải, thoi thóp ...
Và tôi lại nuôi dệt hy vọng cho nó: "...Sông của tôi xưa/ một dòng xa xanh/ chỉ sống động/ trong thẳm sâu ký ức.../ Ơi con sông,/ thao thiết nơi tiềm thức/ có bao giờ/ trờ lại tươi xanh,/ cứ chảy đi/ dù có loanh quanh,/ hãy sống lại/ những bậc cầu/ ngày trước,/ để chiều hè,/ dòng ăm ắp nước/ trai gái làng/ tắm nghịch trêu nhau,/ để chiều chèo sân đình/ nuôi dưỡng dòng sâu,/ để lịch sử chảy/ ngược mãi về thời Lý,/ để những mối tình/ của một thời vụng dại,/ thêu dệt làng quê./ nên những tấm hoa văn.../ để thằng tôi/ lại là trẻ lăng xăng,/ ước lớn lên/ để bơi ngang,/ bơi dọc,/ bến đời/ mỗi trẻ làng/ thỏa sức/ từ bến sông quê/ đến mọi bến chân trời,/ Ơi,... con sông/ nuôi lớn/ tuổi thơ tôi,,...". /.
 
 
 

tamvanvov
  • Số bài : 807
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Dùng dằng phận cối, nhọ nhem phận nồi - 13.09.2020 11:40:01
Nhàn đàm chuyện củi lửa, đốt lò,...
 
 Gần đây, chuyện củi lửa, đốt lò, mình cũng đọc để biết. Nhiều quá đâm nhàm, nên chẳng muốn bàn mà làm gì... Lâu nay, sách vở cũng đọc nhì nhằng này nọ, kể cả Khổng Tử, Mạnh Tử, Lão Tử từng ngó ngàng gọi là có. Mới đây, nhân người bạn mọt sách tiện mua tặng cho cuốn LÃO TỬ, ĐẠO ĐỨC KINH, của Nxb Hồng Đức, bản mới có đầy đủ nguyên văn chữ Hán, bản âm Hán Việt và dịch nghĩa, rõ ràng, mạch lạc, lại thêm hình vẽ, nhìn bắt mắt lắm. Dạo này, trời nắng nóng, nhàn việc, nên lấy ra túc tắc đọc chơii, và ngộ ra nhiều điều mà trước đây vẫn lơ tơ mơ... 
          Ngay như cái câu " Đạo khả đạo phi thường đạo/ Danh khả danh phi thường danh" mình cũng đã từng trích dẫn cho bài biết này nọ, giờ cũng sáng tỏ hơn nhiều, khi nhìn nhận đó là điểm khởi đầu của minh triết, là tư tưởng chủ đạo, xuyên suốt, hòa hợp nhuần nhuyễn trong sự tương quan vận hành của Trời Đất-Vạn vật-Con người, đặng tồn tại và phát triển,...
          Đến đoạn này, nhẩm đi nhẩm lại, thấy thú vị, chợt liên tưởng chuyện thế sự, củi lửa, đốt lò hiện tại  "... Thị dĩ thánh nhân hậu kỳ thân nhi thân tiên, ngoại kỳ thân nhi thân tồn. Phi dĩ kỳ vô tư tà. Cố năng thành kỳ tư. Thượng thiện nhược thủy. Thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh. Phù duy bất tranh, cố vô vưu. Xử chúng chi sở ác..." ( được dịch, hiểu nghĩa: Đối với mọi việc, thánh nhân thường để ngước khác đi trước Đối với việc của bản thân mình thường không suy tính đến mà vẫn đến trước. Đem bản thân đặt ra bên ngoài sự an nguy, khiến sinh mệnh bản thân được bảo toàn. Đó chính là không muốn thu được lợi ích cho bàn thân mình. Người phù hợp với đạo giống như nước vậy, nước khéo trợ giúp vạn vật nhưng không tranh đoạt ngắn dài với vạn vật. Do không tranh đoạt dài ngắn nên không phạm phải lỗi lầm, nó thường ở nơi thấp trũng nên mọi người không muốn tới...)
           Ôi, thì hẳn, mấy người đã và đang bị mang ra làm củi đốt lò, ắt không phải là thánh nhân rồi!...
Nhàn đàm chút, đặng có cái mà dõi theo dòng thế sự...
 
 
 

tamvanvov
  • Số bài : 807
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Dùng dằng phận cối, nhọ nhem phận nồi - 25.10.2020 10:44:03
Thương nhớ những chuyến phà.
 
Trong cuộc đời làm việc của mình, nhất là từ khi vào nghề làm báo chuyên nghiệp, những chuyến công tác đó đây, gần xa, tôi đã từng qua biết bao chuyến phà... Từ chuyến đò ngang sông quê đầu đời ngày nhỏ đi học, cho đến ngưỡng tuổi già, để xuôi chuyến đò dọc cuộc đời dần về cuối bến, làm sao nhớ nổi những lần đò phà ngang bến bãi cơ chứ ?,,, 
Có lẽ, ở xứ sở Việt mình, với mỗi người, tiếng hát ru của mẹ thời thơ ấu và tiếng gọi đò khi lớn khôn là gợi nhớ nhất, nó đi theo ta suốt cả cuộc đời !?...
"Đò ơi... đò ơ ơ ơ...i...", tiếng gọi đò lúc chiều buông bến vắng, của những ai từng lỡ đò, chờ đò mãi chẳng được, thả một nỗi buồn len vào lòng lữ khách và mãi không tan... 
           Ở xứ sở mình, nắng lắm mưa nhiều, sông ngòi giăng mắc như mạng nhện, ai đâu biết có bao nhiêu bến đò, phà?... Sông ngăn cách trở, vô tình cho những con đò, chiếc phà sứ mệnh nối liền hai bờ thương nhớ của mỗi đời người...
           Đã bao lần qua đò, qua phà, chẳng thể nhớ số chuyến, nhưng vẫn có những lần đò phà để nỗi nhớ khôn nguôi. Nỗi nhớ này nó không cồn lên như nỗi nhớ tình yêu đầu đời đánh mất, cũng chẳng khứa vào lòng như những trắc trở đường đời, mà nó chỉ man mác như có như không, chợt thấy chợt tan, mỗi khi ta ngang qua một dòng sông nào đó ...
Chuyến phà đầu tiên tôi mà tôi nhớ lại rất bình yên, Ấy là khi tôi đang học đại học. Cậu bạn cùng lớp Hoàng Gia Trình, rủ về thăm nhà bạn ở mãi tận Hưng Hà, Thái Bình. Tôi lai Gia Trình trên chiếc xe đạp Phượng Hoàng từ nhà tôi, gần Phố Nối, theo đường 39 đến thị xã Hưng Yên, rồi rẽ theo đường đê vài cây số đến bến phà Triều Dương thuộc địa phận Tiên Lữ. Dòng sông Luộc nước hiền hòa, đôi bờ xanh rờn ngô lúa. Ngoài con sông Hồng, sông Đuống, sông Thái Bình, thì đây là lần đầu tiên tôi biết sông Luộc. Anh bạn Gia Trình chỉ tay sang bờ bên kia bảo, qua phà đi thêm chục cây số nữa mới đến, ở phía ấy còn có sông khác là Trà Lý. Tôi nghe tên sông này hay hơn tên sông Luộc nên thích ngay. Không ngờ, sông Luộc còn có tên chữ là Phú Nông. Ngày xưa qua sông này về quê vợ Thái Bình, thi hào Nguyễn Du đã cảm tác thành thơ (Độ Phú Nông giang cảm tác). Xưa kia, Nguyễn Du gắn bó với vùng đất sông Luộc này. Ngay từ khi còn nhỏ, lúc gia đình ở Thăng Long bị loạn lạc, Nguyễn Du đã được Đoàn Nguyên Tuấn, bạn thân của Nguyễn Nghiễm (anh ruột Nguyễn Du) đưa về nhà mình ở Quỳnh Côi (Thái Bình) nuôi ăn học như người thân. Không những thế, sau Nguyễn Du lấy vợ là em gái Đoàn Nguyễn Tuấn, trở thành con rể của Hoàng giáp Đoàn Nguyễn Thục. Thái Bình trở thành quê vợ và nơi trú ngụ của Nguyễn Du, bởi sau này, dưới triều Tây Sơn, Đoàn Nguyễn Tuấn ra làm quan, nhưng Nguyễn Du vẫn giữ quan điểm trung với vua Lê chúa Trịnh, không muốn làm quan với nhà Tây Sơn, cũng lánh về đây ở ẩn một thời gian. Khi làm quan với triều Nguyễn, Nguyễn Du từng được bổ làm Tri huyện Phù Dung (thuộc Phù Cừ, Hưng Yên) liền kề vùng đất này. Vậy ra, một phần ba cuộc đời ông sống ở vùng sông Luộc này, bao nhiêu lần đò giang qua sông, nên có thơ cảm tác là phải thôi. Thời ấy, đôi bờ sông Luộc hẳn xanh tươi lắm, nên Nguyễn Du đã tả trong thơ mình "Du nhân vô hạn cảm/ Phương thảo biến thiên nhai" ( nghĩa là: Người lãng du dạ đầy thương cảm. Cỏ thơm rợn đến chân trời ).
          Trở lại chuyến đi ấy, Gia Trình qua lại đây nhiều nên khi yên vị trên phà, kể cho tôi nghe sơ lược lịch sử vùng đất quê mình, trấn Sơn Nam Hạ, xưa cũng là nơi phát nghiệp đế vương của nhà Trần (Hải Ấp, Lưu Xá, Hưng Hà, Thái Bình)... Chuyến đi ấy để lại cho tôi ấn tượng tốt về một vùng quê thuần nông thanh bình, yên ả. Để sau đó, trước khi cùng Gia Trình vào Nam nhận công tác, tôi về lại đây, một mình trên con ngựa sắt Phượng Hoàng, lốp nứt phòi cả săm, phải quấn tạm bằng dây chun, tôi phải vất vả vác xuống phà...
            Cùng với Gia Trình, chúng tôi vào Nam nhận công tác trên chuyến tàu hỏa bão táp vào đầu thu năm 1981, dọc đường phải nhiều lần tăng-bo, ngủ vạ vật ở nhà ga vì mưa bão miền Trung gây sạt lở chắn đường ở đèo Cù Mông, đèo Cả. Chia tay nhau ở Bến xe miền Tây, Sài Gòn, Gia Trình lên xe đi Bạc Liêu (Minh Hải), còn tôi về Long Xuyên (An Giang). Lần đầu chạm mặt đồng bằng sông Cửu Long bạt ngàn cò bay thẳng cánh, thấy Cửu Long giang sóng nước ra sao. Cho đến tận giờ, mỗi nhớ lại, tai tôi vẫn âm vang tiếng rao của những người bán hàng rong, đặc biệt là nem Lai Vung ở bến Bắc Mỹ Thuận qua sông Tiền. Tiếng rao cất lên đều đều, buồn buồn, gợi nỗi nhớ nhà da diết, dù mới đi xa nhà có một tuần. Người Nam gọi phà là bắc, lúc ấy tôi chưa hiểu, nên cứ nghĩ là bến phà Mỹ Thuận này ở phía Bắc, vậy còn bến phà nữa ở phía Nam. Nhưng rồi, xe đi trên đất huyện Lấp Vò (Đồng Tháp) đến bến phà nữa, là Bắc Vàm Cống, qua sông Hậu, bờ bên đã là đất Long Xuyên (An Giang) rồi. Tôi thắc mắc mà không dám hỏi ai, phần vì ngại, phần "sợ quê", để dần dà tìm hiểu sau. Miền Tây Nam bộ đang mùa lũ, năm ấy lũ lớn, đồng ruộng trắng băng, phân biệt ruộng với sông nhờ những hàng dừa nước xanh chớp chới. Con phà đầy nhóc ô tô, xe máy và người, lừng lững như dãy nhà hai tầng chênh chếch nương theo con nước mà sang bờ bên. Buồn vui chộn rộn, lạ lẫm xen chút lo lằng, không biết mình sẽ nhiệm sở ra sao. Đầu lởn vởn câu thơ Huy Cận "Lòng quê rờn rợn vời con nước/ Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà". 
            Khi về Bảy Núi, Tri Tôn công tác và ở đấy gần bảy năm trời, tôi bao lần qua lại mấy bến phà này (Vàm Cống, Cần Thơ, Mỹ Thuận) mỗi lần lên Sài Gòn,đi phép ra Bắc. Rồi đó, những chuyến đò dọc, chẳng khác chi dân thương hồ miền Tây, đi công việc tại những điểm xa như Ba Chúc, Lạc Quới, Vĩnh Gia, hay sang tận Hòn Đất, Hà Tiên...
            Sau này, anh bạn Gia Trình rời Bạc Liêu, về nông trường Đông Anh, Hà Nội làm việc, tôi cất công đến thăm bạn, lần mò hỏi đường, người ta bảo đừng theo đường vòng Cầu Đuống mà đi tắt qua bến phà Đông Trù, gần ngã ba Dâu, nơi sông Đuống lấy nước từ sông Cái. Sông không rộng nhưng nước xiết, nên cảm giác sờ sợ. Qua phà, đạp xe theo đường đê, ngang đất Mai Lâm, lại nhớ đến chuyện bố tôi hay kể rằng ngày xưa hay vỡ đê sông Cái hoặc sông Đuống, đâu quãng ấy, nên đời sống người dân trong vùng cơ cực lắm.  Năm nào mùa mưa lũ, cũng lo ngay ngáy, sợ vỡ đê, chẳng chết trôi thì cũng chết đói. Chẳng thế mà, cụ Ngô Tất Tố, người quê đây, chẳng cần đi đâu xa, cứ chất liệu thực tế ở vùng quê mình mà viết nên các tác phẩm kinh điển của văn chương xứ Việt là Việc làngTắt đènLều chõng... Nhờ thế, khi làm báo chuyên nghiệp, tôi đã trở lại vùng quê này, để thực hiện một chương trình phát thanh đặc biệt trong dịp Lễ Quốc khánh.
            Trong cuộc đời làm báo chuyên nghiệp, công tác liên miên, sông ngòi, đò phà là chuyện cơm bữa. Hầu như các phà lớn, tôi đều qua hết, như phà Tân Đệ, Đò Quan, Ninh Cơ (Nam Định), phà Bính, phà Gót, phà Đình Vũ (Hải Phòng), phà Bãi Cháy (Quảng Ninh), phà Đà Bắc (Hòa Bình), phà Bến Thủy (Nghệ An), phà Sông Gianh, bến đò Son (Quảng Bình), bến đò Vàng (Bắc Ninh), bến đò Ninh Xá (Hải Dương) ... 
Phà Bãi Cháy, ngày trước cắt ngang vịnh biển, rộng và luôn đông khách, mỗi lần qua chờ cả tiếng đồng hồ là chuyện thường. Những ngày mưa giông, thời tiết xấu, phải qua phà thật ái ngại. Tôi đã gặp những lần như thế, lần qua Hòn Gai công tác, nhân tiện ghé thăm gia đình nhà thơ Trần Nhuận Minh, và một lần khác, đúng khi có bão rớt, tìm gặp nhà văn Dương Hướng và nhà thơ Trần Ngọc Tảo, nhờ chỉ dẫn để xuống Cẩm Phả, tầm bằng được nhà văn Võ Huy Tâm, thực hiện cuộc phỏng vấn ông về tác phẩmVùng Mỏ. Ngồi trên phà mà cứ nơm nớp lo lắng, ngộ nhỡ... May là không có chuyện gì bất trắc. 
            Giờ thì những nơi ấy phần lớn có cầu cả rồi. Nhiều cây cầu mang tầm vóc thể kỷ, như cầu Bãi Cháy, cầu Mỹ Thuận, cầu Cần Thơ, và mới đây nhất là Vàm Cống cũng đã thông xe, bỏ lại đó bến Bắc Vàm Cống, nơi ghi dấu ấn đầu tiên cuộc đời công chức của tôi. Năm 2017, trước khi nghỉ hưu, tôi có dịp đi lại tuyến đường Lấp Vò (Đồng Tháp) qua Bắc Vàm Cống sang Long Xuyên, để đi tiếp Tri Tôn, nơi 37 năm trước, tôi qua đây đi nhiệm sở, bắt đầu cuộc đời công chức của mình. Con phà hai tầng rẽ nước sang bên, nhìn cây cầu xây dở vắt ngang sông mà lòng nao nao, nhớ lại ngày xưa ấy, nhìn những cụm lục bình, nhưng cành mục trôi dạt trên sóng nước, tự nhiên thương cảm cả con phà lẫn những thợ thuyền vận hành, rồi sẽ ra sao khi thông cầu. Giờ thì tất cả đã đi bến bờ khác cả rồi... Một con đò nhỏ chở tuổi thơ ta qua sông quê, hay con phà khủng thì cũng như nhau cả thôi, đều có thân phận, đều trôi chảy cùng dòng sông và dòng đời !...
             Có một bến đò mà tôi chưa nhắc đến. Đấy là bến đò Hàn qua sông Thái Bình, từ thị xã Hải Dương sang đất Nam Sách. Bến đò này một thời như bến đò tình yêu của tôi. Ngày đó, tôi và người bạn gái ấy, hay cùng nhau qua đò Hàn sang Nam Sách thăm nhà Trịnh Bá Ninh và Trần Đăng Khoa, là những bạn chung của hai tôi. Mối tình đầu vụng dại, chỉ biết yêu hết lòng, còn chẳng biết đoán ý của người bạn gái nữa. Đò giang, sóng nước, mây trời, và cả thơ phú, đều bồng bềnh, choi vơi, nương theo tâm trạng buồn vui của lòng mình và gương mặt tươi tắn hay đượm buồn của người ấy... Và hình như, ở vào tuổi mới lớn, trong tình yêu, con gái thường là người dẫn dắt thì phải? Tôi như con đò để người ấy cầm lái, chèo đi đâu cũng được... Mối tình đầu đánh mất, cầu qua sông cũng đã bắc đâu đó, người xưa đi lấy chồng, mình cũng đã yêu người khác, rồi lập gia đình. Nghe đâu bến đò ấy vẫn còn, vì cuộc đời luôn có người lỡ dở cần qua sông...
            Tôi và người bạn ấy, sau gặp lại nhau, trêu đùa như chưa từng có chuyện gì, cũng chẳng còn nỗi đau khứa lòng nào... Nhưng bóng dáng con đò và tiếng gọi đò ơi lan trên sống nước một thuở thì vẫn như đâu đó!... Cuộc sông không thể dừng lại, những cây cầu hiện đại thay thế cho đò phà là lẽ đương nhiên, không thể à ơ thương nhớ mãi được. Cũng biết vậy, nhưng con người ta, chẳng thể cứ bảo không là thôi ngay được, khi mà nỗi nhớ thương những bến bờ và những chuyến đò phà một thuở, không phài là tội lỗi gì !,,,
 

tamvanvov
  • Số bài : 807
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Dùng dằng phận cối, nhọ nhem phận nồi - 10.11.2020 10:43:01
 
                                     Từ nghệ thuật thực cảnh
nghĩ về chiếu chèo sân đình,
 
 Thật khó diễn tả nổi cảm giác trước sự tráng lệ của Thực cảnh Ký ức Hội An... Một sự choáng ngợp trong không gian ánh sáng và âm thanh cùng những cảnh vật, con người sống động, linh hoạt và đầy biểu cảm ...
Đó là những gì tôi mục sở thị  thực cảnh Ký ức Hội An. Thực tình, trước khi xem, tôi đã thử hình dung, nhưng quả thực, nó khác với mường tượng của tôi, về độ tráng lệ, về kỹ xảo ánh sáng, sắc màu, sự sống động, về số lượng người tham gia, về cảm xúc tức thì nơi tôi...
          Thực cảnh tái hiện lịch sử hơn bốn trăm năm hình thành của Hội An với sự pha trộn của văn hóa Việt-Champa, Nhật bản, Trung Quốc, Bồ Đào nha, Pháp... Thậm chí, có những hình ảnh tái hiện lại câu chuyện từ thời Huyền Trân công chúa nhà Trần vào làm dâu xứ sở Champa (đầu thế kỷ 14), và xa xưa hơn nữa, là những sinh hoạt của xứ sở Champa cổ từ thế kỷ thứ 10 ... 
           Đây là lần đầu tiên tôi xem nghệ thuật thực cảnh. Năm 2002, trong một lần công tác sang Trung Quốc, tôi đi dọc tuyến Nam Ninh-:Liễu Châu-Quế Lâm, và từ Quế Lâm, theo dòng Ly Giang tôi đi thị trấn Dương Sóc, một địa điểm du lịch nổi tiếng ở miền nam Trung Quốc. Dọc đường, du thuyền ghé bờ để du khách tham quan hang động Quan Mâu. Nghe nói, vài năm sau đó, người ta dựng sân khấu thực cảnh ngay gần đó để diễn vở thực cảnh Chuyện chị Ba Lưu, do Trương Nghệ Mưu làm tổng đạo diễn. Các đồng nghiệp sau tôi sang đó, được phía bạn mời xem, về kể lại, tôi cứ tiếc là không được mục sở thị. Nay được xem Ký ức Hội An thật đã mắt đã tai, thây với quy mô này, hẳn là hoành tráng hơn thực cảnh Chuyện chị Ba Lưu. 
Ở quy mô ngược lại, ấy là chiếu chèo sân đình. 
          Với người dân xứ Bắc, nhất là các tỉnh ở đồng bằng sông Hồng-sông Thái Bình, thì chèo là hình thức sân khấu phổ biến và được yêu thích nhất. Ngày nhỏ đi học, nhất là những năm chiến tranh về sống ở quê, tôi mới biết nhiều về chèo. Thời ấy, các địa phương hầu như đều có đoàn chèo chuyên nghiệp, nổi tiếng như chèo Thái Bình, Hà Tây, Hải Phòng, Hà Bắc, Nam Hà và Hải Hưng quê tôi. Nhưng được xem các đoàn chèo chuyên nghiệp diễn là rất hiếm, thì bù lại, các chuyên mục Dân ca và nhạc cổ truyền của Đài Tiếng nói Việt Nam phát các làn điệu chèo, hoạt cảnh chèo khá nhiều. Người ta biết đến tên tuổi của các nghệ sĩ hát chèo qua làn sóng như Minh Lý, Kim Đức, Minh Tâm, Như Hoa, Đỗ Xuân... Còn mỗi đoàn chèo, đều có những diễn viên gạo cội nổi tiếng của mình, và lâu lâu họ lại được mời thu thanh để phát trên đài nhằm phục vụ đông đảo thính giả. 
           Chuyện chiếu chèo sân đình, là một hình thức văn nghệ cộng đồng có từ xưa vào những dịp làng có hội, lễ tết gì đó. Hình thức biểu diễn này thường do một gánh chiều gia đình, hành nghề lưu diễn khắp nơi để kiếm sống, hoặc do những người yêu thích chèo tự biên tự diễn như một sinh hoạt tình thần vui làng xóm. Nghe cah tôi kể lại, ngày trước, hình thức chiếu chèo sân đình khá phổ biến, vì nghệ thuật sân khấu chưa mấy phát triển, vả lại đời sống thôn dã xưa thích hợp với hình thức diễn xướng kiểu này, biểu diễn các rích chèo cổ, các trích đoạn, chẳng hạn như: Súy Vân giả dại (Kim Nham), Thị Màu lên chùa (Quan âm Thị Kính), Tuần ty Đào Huế (Chu Mãi thần) v.v... Vừa giải trí gây cười vừa có tính giáo dục cao. Sau này, những năm chiến tranh ở miền Bắc, tuy đã có nhiều đoàn văn công, đoàn tuồng, chèo, cải lương nhưng lưu diễn địa phương khó khăn, vả lại còn sợ máy bay địch bắn phá, nên hình thức chiếu chèo sân đình trở nên phù hợp với hoàn cảnh và khá hữu dụng. 
           Quê tôi ngày ấy, tuy không phải là đất chèo, thì cũng có những người do nghe chèo trên Đài mà mê chèo. Chiến tranh, phim ảnh, văn nghệ hiếm nên làng xã khuyến khích các hoạt động văn nghệ quần chúng. Hầu như làng nào cũng thành lập đội chèo, thành viên thì hổ lốn, già trẻ, trung niên, thanh niên chưa có gia đình, lại có những ông bố và mẹ vài ba con, miễn là biết hát chèo sơ sơ và nhiệt tình là được. Hình thức thì cũng búa xua, hát đơn, hát đôi, hoạt cảnh, dựng trích đoạn chèo cổ đều được. Vui thì có nhưng buồn cũng chẳng phải không. Nhiều anh chị tập tành, biểu diễn chung mà bén duyên nên vợ chồng. Lại có những cặp có vợ chồng cả rồi. khi tập chung với nhau nảy sinh tình cảm, tình giả thành thật, rạn nứt hôn nhân. Buồn nữa, có nhưng chị vợ bộ đội, chồng xa nơi chiến trường, ở nhà lại có thai... Tôi nhớ, có nhà văn nào đó đã viết thành truyện, Thị Màu lại phải nuôi con riêng của Thị Kính ngoài đời, là chuyện hoàn toàn có thật... Thế mới là cuộc sống!?...
           Dù chiến tranh và thiếu thốn, nhưng vẫn có những đoàn văn công trung ương và địa phương đi lưu diễn. Quê tôi, cách Hà Nội vài chục cây số đường chim bay, nên năm đôi lần có đoán văn công chuyên nghiệp, tuồng, cải lương, kịch nói, chèo đến biểu diễn vài ba đêm. Đấy thực sự là ngày hội của làng quê. Tôi nhớ, các vở chèo cổ như Kim Nham, Trương Viên, Lưu Bình Dương Lễ, Quan âm Thị Kính, Tấm Cảm, Tống Trân Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa... được các đoàn dựng, đưa về biểu diễn. Cả xã có cái chợ Lạng, sân gạch rộng, dưới tán mấy cây bàng cổ thụ, gần trụ sở Ủy ban xã, lại vị trí trung tâm, được chọn là nơi dựng sân khấu biểu diễn. Mọi người nô nức mua vé đi xem, phải đi sớm để giành chỗ ngồi gần sân khấu. Vở nào cũng có đoạn hài cười nôn ruột, lại có đoạn cảm động rơi nước mắt. Làng xã hân hoan cả tuần, cả tháng, đi đâu người ta cũng bàn tán các tình tiết trong vở diễn. Giờ nghĩ lại, thấy những buổi biễu diễn sân khấu ngày ấy có sức mạnh tinh thần ghê gớm, một sự doping khó có gì bằng...
Có một thời kỳ, diễn ra sự đổi mới trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, thì lĩnh vực sân khấu cũng vậy. Ở ta, kịch Lưu Quang Vũ là một hiện tượng rầm rộ. Lặng thầm, sau hoạt cảnh chèo Đường về trận địa, ít nhiều mang tính thử nghiêm, soạn giả Tào Mạt tung ra bộ ba vở chèo Bài ca giữ nước lấy đề tài lịch sử nhưng lại có sự cách tân. của mình ( Lý Thánh Tông tuyển hiền, Nhiếp chính Ý Lan và Lý Nhân Tông kế nghiệp) đã để lại tiếng vang và dấu ấn sâu đậm trong hoạt động sân khấu cô truyền là sự phát triển của nghệ thuật chèo.
           Ấy là thời kỳ hoàng kim của nghệ thuật sân khấu và nghệ thuật biểu diễn nói chung. Đó cũng là niềm hạnh phúc của các nghệ sĩ. Giờ đây, con người ta có quá nhiều thứ giải trí, thời đại 4.0 thì nằm trên giường người ta cũng có thể lựa chọn được các hình thức giải trí mà mình yêu thích, chẳng cần phải bước chân ra. Sân khấu và nghệ thuật biểu diễn bị thu hẹp đất sống, và như vậy sẽ mai một, nếu không tìm cách biểu đạt mới, cách sống mới cho phù hợp với thời đại ? Đương nhiên, hiện nay, vẫn còn đó các nghệ sĩ hát và biểu diễn chèo sống chết với nghề như Quốc Anh, Thanh Ngoan, Thanh Hoài, Hồng Ngát, Văn Chương, Xuân Hinh, Thu Huyền v.v... nhưng cứu vãn chèo, mang lại sức sống cho chèo không chỉ có lòng yêu nghề là đủ?...
           Song tôi đã thấy sức sống mới của nghệ thuật biễu diễn ở Hội An. Người ta đã đưa nghệ thuật sân khấu ra đường phố, như dân ca bài chòi, cải lương vọng cổ, hát tuồng... và nghệ thuật thực cảnh (qua thực cảnh "Ký ức Hội An") là một cách làm mới hoàn toàn...
           Đương nhiên, Hội An có sự thuận lợi, ấy là điểm du lịch nổi tiếng ở Việt Nam và thế giới, mà không phải nơi nào cũng có. Hội An biết tạo ra sản phẩm du lịch mới và du khách đến Hội An đông là điểm mấu chốt cho nghệ thuật tìm được đất sống ở đây. Hội An biết cách nuôi dưỡng du khách và khách tiếp thêm sức sống cho Hội An...
            Và, chiếu chèo sân đình, đâu có chết. Hình thức này tự tìm được sức sống mới cho mình ở nơi làng xóm. Giờ đây, người dân tự biết cách nuôi dường hình thức này, bởi khi biễu diễn chiếu chèo sân đình, người ta đến xem, không đờn thuần là thưởng thức nghệ thuật, mà là được tham gia vào hoạt động và tạo sự gắn kết cộng đồng, là tình nghĩa xóm làng, những thứ không gian mạng chưa đem lại cho họ!?...
 
 

tamvanvov
  • Số bài : 807
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Dùng dằng phận cối, nhọ nhem phận nồi - 16.12.2020 18:20:04
 
 Lang thang chuyện gốm
 
 
          Tôi là người yêu gốm.
          Tôi vốn mệnh hỏa, nên tự thân yêu thích các vật dụng, vật trang trí bằng chất liệu gỗ và đất nung. 
           Riêng về gốm, vì yêu thích, nên hay sưu tầm, khi đi đâu, hễ biết và có điều kiện là tôi tìm đến, thăm thú các địa chỉ gốm, làng gốm...
           Ở miền Bắc, hầu như các vùng đất, các làng gốm nổi tiếng, như Bát Tràng, Chu Đậu, Thổ Hà, Phù Lãng, Hương Canh, Đông Triều... tôi đều mò đến, thăm thú, chọn mua vài ba sản phẩm gốm mỹ nghệ, bổ sung cho bộ sưu tập của mình...
           Nhưng với các làng gốm nổi tiếng của miền Trung và miền Nam thì quả thật tôi chưa thạo, Vậy nên, thời gian biệt phái vào miền Trung, mỗi chuyến công tác, tôi gắng thu xếp công việc để ghé các địa chỉ gốm. Đương nhiên, gốm Thanh Hà là ưu tiên số một, vì tiện đường sá, lại gần ngay Hội An nên dễ đi. Ngang qua trung tâm Hội An như cưỡi ngựa xem hoa, tôi tìm đến làng gốm Thanh Hà. 
           Vào làng gốm Thanh Hà, ở vào thời điểm ấy (2008), thú thực tôi có chút thất vọng. Thì ra, chỉ có ngần này thôi ư? Làng vắng vẻ, lèo tèo mấy nhà còn giữ nghề. Ghé vào một nhà gần đường, sản phẩm gốm đã nung và gốm mộc không nhiều, chủng loại cũng ít. Chỉ có hai người đàn bà, một trung tuổi đang làm đất, một bà già đang chuốt gốm trên bàn xoay. Hỏi chuyện bà già đang nặn gốm, giọng Quảng nặng, nghe câu được câu chăng, tuy nhiên tôi cũng hiểu được đại khái. Rằng, làng giờ chuyển làm nghề khác dễ kiếm sống hơn, chỉ còn ít nhà giữ nghề gốm cha ông như nhà bà...Lại hỏi về sản phẩm gốm bây giờ, bà già phảy tay về đống gốm ý chỉ có bấy nhiêu, có làm thêm gốm con giống bộ 12 con giáp bán cho khách du lịch thăm Hội An cũng tàm tạm...
           Thăm rồi, về cứ rẩm riu nghĩ, chả nhẽ, gốm Thanh Hà mai một dần và mất đi? Một làng gốm có lịch sử hình thành lâu đời, từ cuối thế kỷ 15, đến nay khoảng 500 năm tồn tại. Gốm Thanh Hà có cội nguồn từ một dòng gốm Thanh Hóa, di vào đàng trong theo chân tiên chúa Nguyễn Hoàng vô phương Nam mở cõi mà nên ở đất này. Chắc hẳn, khi ấy, dấu ấn của gốm Chăm vẫn còn đậm nét trong đời sống dân sinh, nên dòng gốm này có tiếp thu, pha trộn với gốm bản địa để nên dòng gốm Thanh Hà hiện còn? Gốm Chăm hiện chỉ còn và phát triển ở Bàu Trúc (Ninh Thuận) và Bình Thuận. Một thời, nhất là vào thế kỷ 17, cùng với sự hình thành và phát triển của đô thị Hội An, gốm Thanh Hà phát triển rực rỡ và có mặt ở hầu hết các thị trường suốt dải miền Trung, còn ra cả thị trường nước ngoài, cho đến khi thương cảng Hội An suy thoái, thì gốm Thanh Hà cũng mai một dần,... Dẫu là vậy, thì dòng gốm mộc, không men, từ chất liệu đất sét vẫn lưu giữ được vẻ riêng có của mình. Còn giữ nghề thì còn cơ hồi sinh, phát triển?!...
          Khi suy nghĩ về làng gốm Thanh Hà mai một còn chưa vơi, thì có đồng nghiệp của tôi ở Đà Nẵng giới thiệu, là trong vùng có một nghệ nhân, trên cơ sở dòng gốm Thanh Hà phát triển thành gốm nghệ thuật, ấy là Lê Đức Hạ. Nghe nói, nghệ nhân này có cửa hàng giới thiệu sản phẩm của mình ở thị trấn Điện Bàn (Quảng Nam).
Một ngày cuối tuần, tôi rủ vài đồng nghiệp đi thị trấn Điện Bàn. Hỏi thăm vòng vo tam quốc một hồi, chúng tôi tìm được cửa hàng gốm của nghệ nhân Lê Đức Hạ. 
          Ở gian hàng ngoài, tôi đảo qua lướt mắt thấy sản phẩm đất nung một số hình đơn giản và một số là tượng đất nung nhái các hình mẫu Châu Âu theo lô, nên không mấy ấn tượng. Nhưng bước chân vào gian trong, tôi sững người bởi các bình gốm cách điệu và nhìn biết là sản phẩm đơn chiếc. Mỗi bình một dáng vẻ, cách điệu, màu đất nung khác nhau cho thấy độ chín khác nhau, rồi ngay trên một sản phẩm, gốm lên màu khác nhau. 
         Quan sát kỹ, nâng tầng chiếc bình ra xem kỹ, và lại bao quát, tôi nhận thấy, tính folklor và chất phồn thực trong gốm của Lê Đức Hạ rất đặc trưng. Điều này, chỉ có thể thấy ở tín ngưỡng phồn thực của người Chăm, vốn được thể hiện trong các hình họa, điêu khắc trên các đền tháp Champa. 
          Cùng với gốm dân gian phồn thực, có một dạng gốm khác, ấy là gốm chân dung. Trên các bình, lọ gốm cách điệu, Lê Đức Hạ khắc họa các khuôn mặt người, và cũng có vài dạng khác nhau, ví như khuôn mặt hài, bi, mặt nạ nhân vật tuồng, Hoặc khắc họa chân dung, ví như chân dung thi sĩ cuồng Bùi Giáng. Nghe nói, Lê Đức Hạ từng khắc họa chân dung nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn với tâm trạng ca khúc "Tôi ơi, đừng tuyêt vọng"... 
           Với những gì tôi thấy ở đây, thực sự đã làm nên một tên tuổi "Gốm Lê Đức Hạ" rồi. Theo thiển ý, tôi thấy, có một gốm Lê Đức Hạ riêng biệt, với sự kết tinh nhuần nhuyễn của gốm Thanh Hà (chất liệu, kỹ thuật nung nói chung), chất phồn thực của gốm Chăm và sáng tạo riêng của Lê Đức Hạ với sự cách điệu kiểu dáng, tạo hình họa chân dung... Vậy là Lê Đức Hạ đã tạo nên một phong cách riêng biệt, không trộn lẫn với bất kỳ ai. 
Nghe mọi người đồn, nghệ nhân Lê Đức Hạ, từng lập lò gốm của mình ở làng Đông Khương, xã Điện Phương, bên bờ sông Thu Bồn, rồi phá bỏ vì không bán được hàng, đi kiếm sống bằng nghề khác. Nhưng trời đày ông bằng nghề gốm nên quay lại niềm đam mê nghịch đất, để rồi thành công, thành danh ngoài mong đợi. Tôi còn vài lần trở lại cửa hàng của Lê Đức Hạ cùng với bạn bè mình, để gom lấy những sản phẩm đơn chiếc của ông. Mỗi lần trở lại, thấy các sản phẩm gốm mỹ thuật ấy vơi đi mà không thấy bổ sung, khiến tôi sinh chút hoài nghi. Hoài nghi bởi, những sản phẩm hàng lô bán xi thì nhiều, còn sản phẩm đơn chiếc lại không mấy, phải chăng sự thành công đã khiến nghệ nhân mê mải với chuyện kinh doanh và xao nhãng việc sáng tạo? Tôi mong một ngày nào đó, được thấy những sản phẩm độc đáo của Lê Đức Hạ, khiến người ta phải ngỡ ngàng như ngày nào!... Dẫu sao, cũng mừng cho sự thành công của nghệ nhân này... 
           Cuối năm 2009, sau khi kết thúc nhiệm kỳ công tác ở Cơ quan Đài tiêng nói Việt Nam khu vực miền Trung tại Đà Nẵng, tôi ra Hà Nội nhận nhiệm vụ mới. Đi cùng có vài phóng viên kết hợp công tác Huế và Quảng Trị. Có người mách tôi, ở Huế, ông Hồ Tấn Phan là người có bộ sự tập gốm cổ thuộc cỡ "độc nhất vô nhị". Một gợi ý không thể bỏ qua, chúng tôi liền tìm đến nhà ông (phố Cao Bá Quát, Tp. Huế). Thật may, ông Hồ Tấn Phan có nhà. 
           Vừa bước chân vào ngõ, tôi sửng sốt bởi không thể ngờ, đồ gốm cổ lại nhiều đến thế, là liệt ra đến vườn cổng nhà. Sao lại không ngạc nhiên cơ chứ, khi đồ cổ quý hiếm có số lượng đếm không xuể và được bày la liệt, chẳng sợ bị trộm cắp. Biết chúng tôi là nhà báo, ông Hồ Tấn Phan vừa pha trà mời khách, vừa vui vẻ trả lời những câu hỏi của chúng tôi, không ngại giãi bày tâm tư của người sở hữu một khối lượng "khủng" cổ vật quý hiếm. Phần lớn, cổ vật trong "ngôi nhà gốm" của ông là gốm Sa Huỳnh (niên đại 2.500 trước) và gốm Chu Đậu, cùng đó, có cổ vật từ thời văn hóa Đông Sơn, các triều đại Lý Trần, Champa và nước ngoài...
Ông Hồ Tấn Phan cho biết, phần lớn số cổ vật mà ông có được là thu gom từ các vụ trục vớt những con tàu đắm ở vùng cửa sông Hương. Để làm được việc đó, cùng với sự hiểu biết và lòng say mê, ông đã bỏ bao công sức, tiền của cho bộ sưu tập khủng này. Tranh thủ lúc ông bận trả lời phỏng vấn của phóng viên VOV, tôi loanh quanh quan sát nơi bày cổ vật của ông...
           Cơ man là gốm, gốm trong nhà, tủ, bàn, kệ, bậu cửa, lỗ thông hơi, góc của, thềm nhà... nghĩa là nào bày được là bày... Ngoài sân vườn thì thành nhóm, thành kiêu, bên gốc cây, nơi thành giếng, mép sân, góc vườn...  Ở độ tuổi bảy mươi, khi ấy, ông còn khá khỏe, tuy thân hình gày guộc. Đối thoại với Hồ Tấn Phan, thấy niềm đam mê gốm cổ trong ánh mắt, trong giọng điệu, trong mỗi cử chỉ khi thuyết trình về gốm cổ nói chung và bộ sưu tập của mình... Ông còn là một người sưu tầm sách, sách cổ, sách quý, đặc biệt là những bộ sách về văn hóa-lịch sử-dư địa chí, tự vị, khảo cổ học... Ông lần giở cho chúng tôi xem một số bài báo viết về bộ sưu tập gốm cổ của mình...
           Chia tay, ông tiễn chúng tôi ra ngoài ngõ, rời chân đi mà tôi cứ ngoái lại nhìn đống gốm cổ bày tràn ra mép hàng rào... 
           Năm 2016, nghe tin nhà sưu tập Hồ Tấn Phan mất ở tuổi 77, và trước khi mất ít lâu, ông đã làm một việc đầy ý nghĩa. Ấy là hiến tặng Ủy ban Biên giới quốc gia bộ 'Đại Nam thực lục' của Quốc sử quan triều Nguyễn do Trường Đại học Keio, Nhật Bản thực hiện. Tôi hiểu, mình đã may mắn, dù chỉ một lần được đàm thoại và tận mắt chiêm ngưỡng bộ cổ vật, gốm cổ của Hồ Tấn Phan, nhà sưu tập-nghiên cứu văn hóa Huế... 
            Cùng trên mảnh đất Huế, nghe danh làng cổ Phước Tích đã lâu, bản thân qua lại vùng đất này không biết bao nhiêu lần, vậy mà đến năm 2014, tôi mới tìm đến thăm làng cổ vang danh gốm này...
            Làng Phước Tích năm bên bờ sông Ô Lâu êm ả, thanh bình thuộc huyện Phong Điền, cách thành phố Huê hơn ba chục cây số. Thời điểm tôi đến, trùng với Festival Huế 2014, nên đây cũng là một điểm tham quan cho du khách...
            Loanh quanh trên các nẻo đường làng, ít khi bắt gặp người dân, chỉ dăm ba đám khách thơ thẩn, ngó nghiêng. Nhà cổ, vườn rộng, hàng rào cây là đặc điểm chung, Bắt gặp một điểm trưng bày gốm, trương khẩu hiệu "Lễ hội hương xưa làng cổ 2014, điểm trưng bày và quảng diễn gốm Phước Tích", chúng tôi rẽ vào thăm. Chủ nhà tuổi trung niên, anh vui vẻ chào mời khách nhưng vẫn không ngừng bàn xoay tạo gốm. 
            Hỏi chuyện, biết làng hiện còn ít nhà theo nghề này, chủ yếu là lòng đam mê, muốn lưu giữ nghề truyền thống của một làng gốm danh tiếng xưa nay ở đất cố đô. Xem tấm bảng về lịch sử hình thành, biết làng Phước Tích có lịch sử lâu đời 500 năm nay, từ thời đầu chúa Nguyễn đi mở đất. Theo đó, nghề gốm dần hình thành. thịnh vượng mang lại danh thơm và nguồn sống cho làng.
            Cũng như nhiều làng gốm cổ truyền khác, Phù Lãng,Thổ Hà, Thanh Hà, Bàu Trúc, gốm Phước Tích là gốm mộc, không men từ chất liệu đất sét. Thời nhà Nguyễn, làng Phước Tích từng phải nộp một số lượng nhất định nồi đất nung cho triều đình dùng nấu cơm, thảo nào dân gian có câu ca "Om Phước Tích ngon cơm Hoàng đế..." là vậy. Nghe nói, Phươc Tích đã từng có sản phẩm gốm được bán sang Nhật Bản... 
Ngày nay, tuy số nhà làm gốm ít, nhưng chủng loại, kiểu dáng, tạo hình mỹ nghệ trên sản phẩm phong phú hơn xưa nhiều, và rõ ràng có sự chi phối của mỹ thuật công nghiệp hiện đại.
            Làng vẫn còn một số nghệ nhân, nhưng nghe đâu chỉ gia đình ông Lê Trọng Diễn là giữ được bộ sưu tập trưng bày cho thấy sự phong phú của làng gốm Phước Tích một thời. Bầu không khí làng tĩnh lặng, có gì đó buồn buồn, đó đây bắt gặp dấu tích vài ba lò gốm cổ, lò gốm cũ, bị bỏ hoang, không đỏ lửa từ lâu rồi, song là minh chứng cho một làng gốm Phước Tích từng thịnh vượng...
            Gốm cổ, mai một, rồi lại hồi sinh. Tôi đã thấy điều đó ở gốm Phù Lãng, gốm sứ Chu Đậu, Đông Triều,... và mới đây là dòng gốm Thanh Hà ở Hội An.
            Gần chục năm trước, lần đầu đến làng gốm Thanh Hà, tôi đã ít nhiều thất vọng, như đã kể cùng mọi người, nhưng giờ đây, gốm Thanh Hà đã hồi sinh với một sức sống mới. Một trung tâm trưng bày-một bảo tàng gốm quy mô và đẹp đẽ đã được dựng lên ở đây, mà người ta quen gọi là Công viên đất nung Thanh Hà. Công viên đất nung này là ý tưởng hiện thực của kiến trúc sư Nguyễn Văn Nguyên, thiết kế và là chủ nhân. Tổng thể, chia thành 2 khu vực, khu biểu trưng "lò úp" là để trưng bày lịch sử hình thành phát triển của gốm Thanh Hà, với ý nghĩa lưu giữ các giá trị truyền thống. Còn khu biểu trưng "lò ngữa" là nơi trưng bày các sản phẩm gốm Thanh Hà và một số dòng gốm khác như Phù Lãng, Bát Tràng, Vĩnh Long... 
            Tôi và mấy đồng nghiệp ở VOV miền Trung đến tham quan công viên đất nung này từ những ngày đầu khai trương. Quả thật, với phần trưng bày đất nung mới mô hình các công trình kiến trúc thuộc hàng kỳ quan thế giới (như Nhà thờ Đức Bà Paris, Tòa Bạch Ốc, đền Tajmahan, Tượng nữ thần Tự do, Nhà hát opera Sydney...), tôi không mấy thú, song khi bắt gặp những sản phẩm gốm Thanh Hà qua quá trình hình thành và phát triển thì vô cùng thích thú. Phần bày các dòng gốm khác cũng rất thú vị. Với quy mô như vậy, chủ đầu từ chắc phải bỏ ra nhiều chục tỷ để thiết kế xây dựng. Lỗ lãi thế nào chưa biết, song phải có lòng đem mê và ý chí khá lớn mới làm ra được. Điều đó thật đáng khâm phục. 
            Đáng bàn hơn nữa, là ý nghĩa xã hội, cộng đồng to lớn, khi mà vừa duy trì bảo tồn nghề truyền thống, vừa đem lại công ăn việc làm cho người dân làng gốm. Giờ đây, du khách về làng gốm Thanh Hà, ngoài việc thăm thú, vua sắm sản phẩm, còn được thỏa thú vui trải nghiệm tự tay nặn đất ra sản phẩm của mình... 
            Mong là, gốm Phước Tích cũng có ngày như thế...
            Lang thang chuyện gốm, rong chơi chút vậy... khi mà, đích tiếp theo của tôi là gốm Bàu Trúc, gốm Đồng Nai, gốm Vĩnh Long...
             Trong khi chưa đặt chân đến làng gốm Bàu Trúc  (Ninh Phước. Ninh Thuận), tôi có được xem một video về  quá trình làm gốm Bàu Trúc khá thú vị. Dòng gốm Chăm này, từ ngàn xưa đến nay dường như không thay đổi. Ta có thể thấy mấy đặc trưng của gốm Bàu Trúc, khiến nó khác biệt với các dòng gốm dân gian khác trên dải đất hình chữ S này.
            Ấy là, thợ làm gốm tất cả đều là phụ nữ. Phải chăng người Chăm theo chế độ mẫu hệ nên việc làm gốm là việc hệ trọng phải do người đàn bà làm? Và phải chăng, người đàn bà vốn được xem là khéo tay hơn trong các việc thủ công?
            Ấy là, nguồn nguyên liệu là đất sét nhưng được pha trộn thêm cát mịn theo một tỷ lệ phù hợp với từng loại và kích cỡ của gốm  .
            Ấy là, người đàn bà làm gốm không dùng bàn xoay, cho đến nay vẫn vậy, khi tạo dáng gốm, người làm xoay tay, xoay mông tròn quanh bệ gốm, có lẽ vậy mà dáng người đàn bà thợ gốm khá đẹp, ngực nở bụng eo, mông mở và bước chân uyển chuyển?
            Ấy là, cách tạo hoa văn trang tri trên gốm khá đơn giản, không cầu kỳ, hoa mỹ, nhưng rất ấn tượng, bắt mắt, mang sắc thái nghệ thuật dân tộc rõ ràng, làm nên sự độc đáo riêng. Dụng cụ tạo hoa văn trên gốm cũng đơn thuần từ các vật dụng trang sức của người đàn bà trong sinh hoạt đời thường. 
            Một sự đặc biệt nữa, ấy là kỹ thuật đốt gốm. Gốm Bàu Trúc không nung gốm trong lò mà nung trần ngoài trời. Lót củi xuống đáy, úp góm lên, phủ rơm và trấu lên trên cùng, rối đốt, thành gốm màu tự nhiên tùy mức độ tiếp xúc lửa.          
            Khi nào thăm làng gốm Bàu Trúc, tôi sẽ lại kể câu chuyện của mình ... 
 
 
 

tamvanvov
  • Số bài : 807
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Dùng dằng phận cối, nhọ nhem phận nồi - 12.01.2021 17:43:48
Đốt lên đống rấm,
tản văn 

Ngày đầu năm mới, về quê dự đám cưới đứa cháu, rồi ghé về thắp hương ngôi thờ tự của gia đình. Trời nắng hanh vàng óng. Đường làng đang đổ bê tông. Rồi đây rộng rãi, sạch sẽ và dễ đi đấy, nhưng sao lại thèm và nhớ con đường làng lát gạch nghiêng cổ rợp bóng tre xưa đến thế... Ngày ấy, nhà nào cũng có sân vườn rộng lắm, lũy tre um tùm, sân vườn rợp cau, xoan và cây ăn quá như nhãn, mít, ổi, na, hống xiêm, bưởi... Giờ thì toàn nhà hình ống kiểu phố, bao nhiêu ao chuôm, vườn đều bị lấp hết chia thành thổ cư. Buồn vui chộn rộn, bởi làng quê bay mất hồn vía cảrồi,... Nao lóng, nhớ mấy câu thơ cũ:

"... Chiều đông bàng bạc ngõ thôn,
đốt lên đống rấm gọi hồn ngày xưa,
cha về lại bến đò đưa,
mẹ thời nhóm lửa gió lùa vách quê,..."



tamvanvov
  • Số bài : 807
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Dùng dằng phận cối, nhọ nhem phận nồi - 06.02.2021 10:41:50

LẶNG LẼ NGUYỄN THÀNH LONG


1. Lặng lẽ Sa pa
Thời hoa niên, đọc truyện ngắn Lặng lẽ Sa- pa của nhà văn Nguyễn Thành Long, tôi đã khóc, như sau đó tôi từng rưng rưng trước những trang văn trữ tình và giàu tính nhân văn của Pautôpxky và Aimatốp. Truyện Trời xanh mênh mông, Nguyễn Thành Long viết về chuyến đi thực tế của một nữ thi sĩ đến với một đơn vị hải quân đang canh giữ vùng biển, vùng trời ở vịnh Bắc Bộ, càng làm cho tôi thêm yêu mến công việc của họ. Tôi thầm mong được gặp ông, chí ít là để nói với ông rằng tôi say cái chất thơ trong những truyện ngắn của ông chừng nào...
Một lần, khi nói chuyện với nhà thơ Trần Phương Trà (Trần Nguyên Vấn) tại sân 58 Quán Sứ, anh cho biết là anh và một vài người nữa đang định đến thăm nhà văn Nguyễn Thành Long và thế là tôi xin đi cùng. Nhà ông ở thuộc một biệt thự cổ theo kiến trúc Pháp, chung với mấy gia đình khác, theo kiểu tập thể. Chật hẹp, tối tăm, chung đụng và dễ va chạm trong sinh hoạt là đặc điểm chung của hầu hết các khu tập thể cán bộ viên chức Hà Nội một thời. Bước qua đống gạch vụ ngổn ngang trước cổng số nhà 9 phố Dã Tượng, chúng tôi lần bước theo chiếc cầu thang gỗ ọp ẹp lên tầng hai. Bà Nguyệt, vợ ông và một cô con gái của ông cũng có nhà. Nhà văn đã quá yếu sau gần 3 năm ốm liệt giường, nhưng để tỏ lòng mến khách, ông nhờ vợ đỡ cố ngồi dậy. Trong số những người đến thăm ông hôm ấy chỉ có tôi là lạ, nên ông hỏi tên tôi trước rồi mới hỏi thăm sức khỏe gia đình từng người. Một lượt như thế, ông mệt quá thở dốc, nhờ vợ đỡ nằm xuống. Tôi nhìn chăm chăm vào thân hình nhỏ thó xanh trong xanh bóng vì ốm lâu ngày và cớm nắng của ông mà thầm hỏi, cái duyên đằm thắm và chất thơ bay bổng mượt mà trong mỗi trang văn của ông ẩn chứa nơi nào ?...
Qua chuyện trò với vợ ông, mọi người được biết là chính cái đống gạch vụn ngổn ngang nơi cổng số 9 Dã Tượng kia là của gia đình ông. Đúng ra là, nhà ông và vài ba nhà khác hiện đang sống chung số nhà 9 Dã Tượng đã cùng nhau xây mỗi nhà một gian bếp con con dưới sân ngôi biệt thự ngay giáp với mặt đường, việc này bị xem là vi phạm nên Đội quy tắc quận dỡ bỏ. Ông nằm nghe mọi người nói chuyện căn bếp, chỉ lặng lẽ đưa mắt hết nhìn người này sang người khác, tuyệt nhiên không tham gia. Mấy hôm sau sẽ diễn ra Đại hội nhà văn, mấy anh đi cùng muốn nhà văn Nguyễn Thành Long đến dự, bởi các anh hiểu, rất có thể đối với ông thì đó là Đại hội nhà văn cuối cùng, bèn đùa bảo: “Anh cố tới dự. Nếu Hội nhà văn thiếu xe đến đón thì bọn em đưa anh đi bằng xe đạp. (vỗ vai tôi) Chú này đây còn trẻ khỏe, lại có xe Phượng Hoàng chắc, bọn em sẽ nhờ chú ấy giúp một tay, thế nào cũng thồ bác đến Đại hội được..”. Ông cười, nhìn mọi người với vẻ biết ơn...
Lẽ dĩ nhiên, tôi không phải giúp mấy anh ấy đưa nhà văn Nguyễn Thành Long bằng xe đạp, bởi Hội nhà văn rất quan tâm, trân trọng dành hẳn một chiếc ô tô chuyên đưa đón nhà văn Nguyễn Thành Long và một số văn nghệ sĩ khác già yếu suốt mấy ngày Đại hội. Sau lần ấy, tôi cùng đồng nghiệp còn trở lại nhà ông vài lần nữa, và tất nhiên không phải chuyện văn chương, mà là chuyện xung quanh căn bếp. Thực tình chuyện đơn giản song xét về lý tình thì khó xử. Nguyên gia đình nhà văn Nguyễn Thành Long cùng nhiều gia đình khác sống chung trong ngôi biệt thự thời Tây, hầu hết các nhà đều không có bếp riêng, mà phải đun nấu ngay phòng ở. Cảnh ấy thật bức bối khi ông ốm liệt giường hàng mấy năm trời, mà quanh năm suốt tháng, ngày vài ba lần phải ngửi mùi bếp dầu. Bà vợ và cô con gái thương ông quá, nên mới có chuyện cùng vài nhà khác cơi nới thêm căn bếp dưới sân chung giáp cổng. Nhà có, nhà không, sinh chuyện kiện tụng, vì thế Đội quy tắc buộc phải dỡ bỏ nhất là khi ấy thành phố còn chưa có phong trào nhà cơi nới, trổ cửa ra đường như sau này, nên sự việc thường thành chuyện vi phạm nghiêm trọng làm vậy. Một lần, chỉ có mình tôi với ông, nhà văn Nguyễn Thành Long bảo tôi, bằng giọng chân tình gần như thì thầm và đứt đoạn: “Nghe nói, em có viết văn... Hay lắm... nhưng khó lắm thay... Chân tình là điều cốt lõi... Còn chuyện căn bếp... Mình biết bà ấy thương mình nên mới làm thế... nhưng mà không sao, mình quen rồi... với lại, việc nước, việc xã hội thì phải lấy làm trọng... Nếu sai thì thôi... phải biết chấp hành pháp luật chứ... đúng không em?...”. Tôi rưng rưng xúc động trước sự chân thực, trong sáng của ông, và chỉ dám chạm nhẹ bàn tay mình vào cẳng tay gầy tóp, xương xẩu của ông, để bày tỏ sự đồng tình và lòng biết ơn, cảm phục!...
Rồi mọi chuyện qua đi. Sau một chuyến đi công tác dài ngày trở về Hà Nội, tôi được biết nhà văn Nguyễn Thành Long đã mất. Tôi tiếc không được tiễn biệt ông tới nơi an nghỉ cuối cùng. Chẳng biết ông có về chốn Lặng lẽ Sa Pa của ông không?...
2. Hiện thực Sa pa & Lý Sơn mùa tỏi

Ngày còn đi học, tôi cảm nhận địa danh Sa-pa thật xa xôi, lãng mạn và đầy chất sách vở, ấy là sự ảnh hưởng bởi truyện ngắn " Lặng lẽ Sa-pa " của nhà văn Nguyễn Thành Long. Cái bầu không khí se lặng và sương khói hư ảo của dãy Hoàng Liên Sơn; cái lạ lẫm kỳ bí của đời sống các dân tộc thiểu số sinh sống nơi đây; và thêm, sự nhiệt tình tận tâm với công việc của những con người miền xuôi lên đây, tất cả làm nên sự lôi cuốn, hấp dẫn của thiên truyện. Cái truyện ngắn ấy của Nguyễn Thành Long càng về sau càng trở nên nổi tiếng, thành tác phẩm kinh điển để các nhà văn, nhà lý luận phê bình văn học ở xứ ta đưa vào giảng dạy trong hệ thống văn học nhà trường, trong các khóa học dài hạn, hoặc lớp bồi dưỡng viết văn ở xưa ta...
Với riêng tôi, Lặng lẽ Sa-pa không ngoại lệ, và tôi cũng ao ước được đặt chân đến Sa-pa. Hơn thế nữa, được gặp gỡ hỏi chuyên nhà văn Nguyễn Thành Long, trong một hoàn cảnh trớ trêu như tôi đã nói ở trên. Bằng chất giọng Quảng Ngãi đặc sệt, tuy hơi khó nghe song nhỏ nhẹ thân thương, ông chỉ chen vào khi cần thiết trong câu chuyện của chúng tôi với bà Nguyệt, vợ ông. Thực ra, khi ấy, tôi và đồng nghiệp là những người được nhà văn Đặng Quang Tình ( khi đó là Trưởng ban Ban thính giả của VOV ), theo chỉ đạo của nhà văn Phan Quang, Tổng giám đốc VOV, cử đến nhà ông để hỏi chuyện, tìm hiểu thực tế, tìm cách giúp đỡ gia đình ông. Giờ thì là câu chuyện của cái lý, cái tình... Lẽ đương nhiên, được cả lý cả tình là tốt nhất, còn không, thì phải để cái lý thắng cuộc. Cũng trao đi đổi lại, song việc của gia đình ông lại thuộc về cái tình, rốt cuộc, cũng không thể làm gì khác được...
Còn Sa pa, mùa hè năm 2004 tôi mới lần đầu đặt chân đến. Lần đầu, lạ lẫm, thích thú, chộn rộn, nên ham nhìn, ham biết, song chẳng mấy nhớ... Sau này, tôi chỉ còn ấn tượng về ngôi nhà thờ cổ nơi trung tâm thị trấn trầm lặng trong cái lạnh và sương mù; rồi đó là những câu chuyện hóm hỉnh về chuyện sinh con đẻ cái và những bài thơ ngơ ngác, ngộ nghĩnh của nghệ nhân dân gian Giàng Seo Gà, người Mông, Trưởng phòng VHTT huyện Sa pa; rồi nữa là hai cô gái phóng viên trẻ trung xinh đẹp của VOV Tây Bắc, áo đỏ chói, đèo nhau bằng xe máy đổ dốc diệu nghệ theo các con dốc ngoằn ngoèo, cua tay áo từ Sa pa về thị xã Lào Cai trong trời mưa to đường trơn nhẫy...
Sau đó, thêm vài lần nữa tôi trở lại với Lào Cai và Sa-pa, song trong điều kiện công việc vội vàng. Nay mới trở lại Sa-pa thư thả hơn. May mắn được mấy ngày nắng đẹp xen kẽ giữa những đợt mưa triền miên do ảnh hưởng tư cơn bão số 9 đổ vào miền nam Trung quốc và cơn bão số 10 đang lăm le ngoài khơi miền Trung... Giờ thì nhà cửa đẹp đẽ khang trang hơn, nhiều khách sạn to nhỏ mọc lên, khách du lịch đông hơn, dịch vụ ăn uống cũng đầy đủ, sang trọng hơn. Ấn tượng nhất là những quán cafe Wifi theo kiểu Tây, na ná kiểu quán cafe phố nhỏ, thị trấn nhỏ ở phương Tây mà tôi từng thấy trong các chuyến công du nước ngoài. Lẽ dĩ nhiên, thoạt đầu là để phục vụ khách Tây, rồi đó, nó cũng phù hợp với nét sinh hoạt mới của giới chủ, giới trẻ xứ ta... Rồi đó, món ăn cá hồi sống kiểu Tây ( loại cá hồi được nuôi ngay tại Sa pa )... Nét văn hóa Tây pha trộn, song cơ bản vẫn là văn hóa bản địa của người Mông, người Tày Nùng, người Giáy... Cũng không thể không nhắc đến những phiên chợ Tình Sa pa tụ họp thường xuyên vào tối thứ bảy hằng tuần ngay trung tâm trước của nhà thờ cổ. Thay vì, chỉ thuần các cặp trai gái người dân tộc thủ thỉ bên nhau, còn có thêm các cặp gái Mông trai Tây thủ thỉ với nhau bằng tiếng Anh...
Ôi, một Sa pa vừa lạ vừa quen của thời mở cửa... Bầu trời trong đầy sao, phảng phất trong gió lạnh buổi khuya mùi ngô khoai nướng, trứng nướng, mùi thuốc tắm thảo mộc từ hai bên đường lan tỏa... Xa xa kia bên hổ nước, một cặp nam nữ đang đi nép bên nhau...
Lòng lại nhớ đến bầu không gian huyền hoặc của một Sa pa trong truyện ngắn " Lặng lẽ Sa-pa " của nhà văn Nguyễn Thành Long, nhớ đến từng chi tiết của câu chuyện, nhất là trạng thái hân hoan của chàng trai ở Trạm thủy văn, nhân vật chính, dùng thủ thuật lăn đá chặng đường ô tô, chỉ với mục đích dừng xe khách, để được nhìn thấy, được nói chuyện với khách miền xuôi của một thời khao khát, mộng mơ...
Với nhà văn Nguyễn Thành Long, Sa pa khiến ông thành danh, vậy còn Lý Sơn thì sao ?
Ông quê Quảng Ngãi, tập kết ra Bắc và trở thành nhà văn. Mặc dù, những truyện ông viết về miền Bắc ( cứ coi là quê hương thứ hai của ông đi ) đều đẹp và đậm chất thơ ( như : Lặng lẽ Sa pa, Trời xanh mênh mông... ), song trong ông vẫn đau đáu một nỗi niềm quê hương bản quán. Và điều đó, chỉ biến thành hiện thực khi giải phóng miền Nam, ông được về thăm lại quê hương Quảng Ngãi, được ra đảo Lý Sơn... Sau chuyến về quê ấy, ông cho ra đời tập sách “ Lý Sơn mùa tỏi “. Thực lòng mà nói, mặc dù nặng lòng với quê, nhưng về bút pháp và giá trị văn chương, theo tôi, “ Lý Sơn mùa tỏi “ không bằng những tác phẩm trước ông viết về miền Bắc. Phải chăng, với Lý Sơn, Quảng Ngãi, mảnh đất cha sinh mẹ đẻ, ông đã quá quen thuộc, nên khi chấp bút, ông sa vào tả thực, thấy sao viết vậy, như để thỏa nỗi nhớ mong những năm tháng ngày Bắc đêm Nam, nên nó mất đi chất thơ mộng, một thế mạnh vốn có của ông.
Song, khi tước bỏ bút pháp giàu chất thơ, Nguyễn Thành Long không còn là chính mình nữa. Người đọc, không bị ông dẫn dụ vào mê cung của mình, không còn bị cuốn theo cảm xúc thơ trong mỗi câu văn, trong từng tình tiết truyện từng làm nên không gian ảo mộng trong mỗi truyện ngắn trước đây của mình... Ngỡ như có một Nguyễn Thành Long khác vậy ...
Mùa hè vừa rồi, lần đầu tôi ra Lý Sơn trong đoàn công tác của VOV, mang quỹ ra đảo hỗ trợ cho tập đoàn nghề cá của đảo thuộc chương trình giúp ngư dân nơi đây vươn khơi, bám biển. Hình ảnh ví von của một phóng viên Đài Phát thanh truyền hình Quảng Ngãi trong các phóng sự của mình, rằng mỗi con tàu ngư dân trên biển Đông như những cột mốc khẳng định chủ quyền biển đảo thiêng liêng và sự toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc trên biển, cứ ám ảnh tôi. Điều ấy, khiến tôi mường tượng, cả đảo Lý Sơn này là một con tàu lớn kiêu hãnh thả neo giữa trùng khơi. Và mỗi nhánh tỏi mồ côi lớn lên trong cát dâng hương vị cay nồng như mỗi con người bám trụ nơi đây...
Và như vậy, Lý Sơn mùa tỏi, có giá trị riêng của nó...



tamvanvov
  • Số bài : 807
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Dùng dằng phận cối, nhọ nhem phận nồi - 14.02.2021 10:58:11
NGƯỜI XUA CẢNH CŨ GIỜ ĐÂU NHỈ ?
 
Dạo này, giáp tết, dịch dã (Covid 19) bùng phát ở một số nơi, hạn chế đi lại nên bó chân. Ngồi nhà, rỗi hơi thì hay nở máy vào mạng xã hội. Định viết này nọ, nhưng đâu có dễ. Ngay bài đang viết dở chừng, tiếp nối, cũng cạn ý từ, cảm xúc. Mỗi khi vậy, tôi thường giở xem lại trang riêng của mình trên nền tảng Blog Tiếng Việt (blogtiengviet.net)...
Vậy là, tính đến xuân này (Tân Sửu), tôi đã lập ngôi nhà trên mảnh vườn nhỏ có tên Ngẫm & Viết sang năm thứ 12 rồi đấy. Cái Xóm Lá thân thương, mà cư dân ở đây quen gọi nôm na, trên nền tảng mạng xã hội blogtiengvieet.net, cũng có nhiều phen thăng trầm. Thăng trầm, bởi nền tàng kỹ thuật còn yếu, nên lâu lâu lại "rớt mạng", thậm chí, mất bài, nhất là dạo mùa hè năm 2016. Khi ấy, bà con Xóm Lá kêu trời vì bị mất bài viết, có người trắng tay. Riêng mình, vì dân làm báo chuyên nghiệp, từng có kinh nghiệm qua những vụ mất bài này nọ, nên biết cách lưu trữ bài bằng USB, ổ cứng riêng lẻ, file mềm và trên các nền tảng vũng hơn, vì thế hầu như chẳng mất bài nào. Chính vì vậy, chuyên mục Thơ Đường của tôi vẫn nguyên vẹn, đủ tư liệu để tôi tập hợp, đề dẫn, chú giải, biên soạn thành cuốn sách Rong chơi miền Đường thi. Tuy vậy, với việc bị mất một năm bài đăng (tương đương 100 bài viết), tôi bị mất toàn bộ phần cảm nhận ở đó, mà thực sự, nhiều cảm nhận hay, rất hay, như những bình luận, tiểu luận văn chương thú vị... Sau vụ rớt mạng, làm mất bài của bloggers, nhà mạng có nỗ lực cứu vãn, nhưng không thành công, bản thân nền tảng kỹ thuật cũng trục trắc dài dài. Giờ khá hơn thì cư dân cũng bỏ đi vãn cả rồi. Nhiều trang blog, chủ nhân bỏ bê dăm năm nay không hề lai vãng. Làng Phây (Facebook) nền tảng kỹ thuật vững chắc (con nhà giàu mà), lại thêm nhiều tính năng, trò chơi, tính phổ cập cao, không phân biệt giới tính, tuổi tác, sắc tộc, tôn giáo, quốc gia, nên có sức hấp dẫn cực kỳ. Dân Xóm Lá rầm rầm kéo sang lập nhà tại Chợ Giời - Phây... Rồi đó, ở Xóm Lá cũng có những phiền hà, phần nhiều xuất phát từ sự hiểu nhầm, tranh luận hơi quá lời mà gây nên những xích mích này nọ, nhưng làng xóm cũng nhanh chóng giải tỏa, yên hàn trờ lại...
Tôi cũng thế, có mành vườn con con trong làng Phây, ngày ngày cuốc xới, rau cỏ...
Nhưng khác nhiều cư dân cũ của Xóm Lá, tôi vẫn mở cửa ngôi nhà, chăm bón mảnh vườn nhỏ của riêng mình nơi xóm cũ đìu hiu. Thực lòng, tôi yêu mến mảnh đất này, bởi nơi đây, lần đầu tôi biết đến mạng xã hội, cũng chính nơi đây đã tạo cho tôi cảm hứng sáng tác, để chục năm qua, tôi viết và xuất bản hàng chục đầu sách, thơ văn, tiểu luận, chân dung văn học đủ cả. Và quan trọng hơn, từ sự giao lưu trong không gian ảo, tôi đã làm quen với nhiều blogger trong đời thực, phần đông họ là những người tử tế, giỏi giang. Thậm chí, nhiều người trong số đó đã trờ thành những người bạn tâm giao, thân thiết, giúp đỡ lẫn nhau như ruột thịt...

tamvanvov
  • Số bài : 807
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Dùng dằng phận cối, nhọ nhem phận nồi - 22.02.2021 11:09:37
Khói đồng cay mắt....
Truyện ngắn 
          Ngày ấy, chị mới ngoài ba mươi tuổi thôi và còn trẻ đẹp, hấp dẫn lắm ... Vậy nên,...
          Chị đã là mẹ của ba đứa con, lít nhít trứng gà trứng vịt. Ngoài đôi mươi, chị đã lấy chồng và đẻ liền hai đứa. Chồng chị là một người Nam tập kết ra Bắc, hơn chị đến chục tuổi, làm nghề kỹ thuật cơ giới. Ngay sau giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, anh Sáu, chồng chị thuộc diện lớp cán bộ đầu tiên được chọn về Nam gây dựng cơ giới ở tỉnh quê nhà. Chị khăn gói đưa hai con nhỏ theo chống về sinh sống ở tỉnh lỵ quê anh thuộc miền biên giới Tây Nam bộ. Vào trong đó, chị chưa có việc làm, chỉ chợ búa, cơm nước, trông con nhỏ. Phấn khởi, chị sòn sòn thêm đứa nữa, thành ra chưa đến ba mươi tuổi đầu đã là mẹ nái sề với những ba đứa con,... Vậy là, cắm mặt chăm sóc con cái, chị có biết trời đất bên ngoài thế nào đâu. Rồi gia đình chị chuyển về huyện lỵ quê nhà, lại vướng bận thêm các mối quan hệ bên nhà chồng, hỏi han thưa gửi là cạn ngày hết tháng. Mấy mà già?... Thực ra, chị cũng từng có quãng ngắn ngày son trẻ, phơi phới thanh xuân, yêu đời,...
          Hồi đó, chị độ tuổi đôi mươi.
          Mẹ chị mất sớm, sau khi sinh đứa em trai được vài tuổi, nhưng cha chị không tục huyền, gà trống nuôi hai chị em, nên dù nghèo nhưng chị được sống trong cảnh thương yêu đùm bọc, ấm cúng. Cái Tấm, ngoài việc đi học cũng giúp giập được cha nhiều việc nhà và cả việc đống áng nặng nhọc. Chẳng hiểu sao, cha mẹ lại đặt cho chị cái tên Tấm. Chắc là muốn chị có hậu vận sung sướng như cô Tấm trong cổ tích?
          Tấm sớm phổng phao, nên khi học hết cấp hai, chừng mười lăm tuổi, đã là cô gái xinh xắn. May thay, thu hết các nét đẹp của cha mẹ, Tấm  có vóc người dong dỏng, da trắng môi đỏ, tóc dài óng, và khuôn mặt có nét Tây, mắt to, xống mũi cao, miệng hơi rộng và hàm răng trắng đều đặn, khác hẳn với đám con gái quê. Thế nên, người làng bảo Tấm như con lai Tây. Đang độ tuổi phơi phới thì mẹ mất sau một thời gian lâm bệnh chữa trị không qua khỏi. Tấm không học lên nữa, ở nhà giúp cha nuôi em. Những năm đất nước chiến tranh, con gái quê, học thế cũng là đủ. Trời phú cho Tấm giọng hát hay, thuộc và hát theo được hầu hết các làn điệu chèo nghe được từ đài phát thanh trong các chương trình dân ca nhạc cổ. hay học lỏm khi xem chèo. Có năng khiếu vậy nên ở xã gọi tham gia vào đội văn nghệ, cũng biểu diễn thi thố này nọ. Xinh xắn và có năng khiếu văn nghệ như vậy, nhưng ở làng chẳng đám trai nào đánh tiếng, ngoài sự trêu chọc tán tỉnh của mấy tay cán bộ xã và đám đàn ông đã có vợ, trong khi đám con gái mới lớn bình thường khác lại đắt như tôm tươi. Hình như người ta ngại cái vẻ đẹp khác người của Tấm. Tấm cũng chẳng cần, bởi thâm tâm cô vẫn chờ đợi cơ hội để theo nghề văn công chuyên nghiệp. Và cô hội ấy đã đến, khi đoàn chèo tỉnh nhà về địa phương tìm tuyển người. Vẻ đẹp hình thể và khả năng ca hát trời phú nên Tấm trúng tuyển ngay. Những tưởng may mắn thì cha cô đột ngột qua đời vì một cơn bạo bệnh ngay sau khi cô nhận được giấy gọi nhập đoàn chèo tỉnh. Thật tình, Tấm không đang tâm tìm cơ hội phát triển tài năng nghệ thuật cho mình mà để lại đứa em trai chưa đến mười tuổi ở nhà một mình. Tấm đã mấy đêm mất ngủ, nước mắt vắn dài, đắn đo để đi đến quyết định không vào đoàn chèo tỉnh mà ở nhà làm ruộng nuôi em.  
          Cho đến giờ, chị cũng chẳng rõ quyết định ngày ấy của mình là đúng sai thế nào. Chỉ biết, chị không cảm thấy hối tiếc hay ân hận gì, thi thoảng lúc lòng dạ yếu mềm càm thấy chạnh lòng. Theo chồng về quê, một vùng đất viễn biên Tây Nam bộ, người ta thuần cải lương, vọng cổ, vui cũng ca mà buồn cũng ca, chị ngỡ quên hết những làn điệu chèo mà trước đây chị thuộc nằm lòng. Vậy chứ, thi thoảng, những lúc ở nhà một mình, chạnh buồn nhớ quê ngoài Bắc, chị cất lời hát đôi làn điệu Đường trường thu không, Đường trường trong rừng man mác, đủ buồn. Trong đầu chị vẫn âm u làn điệu Sử rầuLần thảm, nhưng nó bi ai quá, chị không dám hát vì sợ vận vào thân. Có lần, lâu lắm rồi, ấy là sau lễ Thất tuần bố chị, cám cảnh thân phận mình, phải ở nhà nuôi em, từ bỏ ước vào văn công để trở thành nghệ sĩ hát chèo, chị đã hát Sử rầu. Là hát cho sự chua xót nỗi lòng, thân phận. Và kể từ đấy, thôi hẳn. Cũng có khi, nhà có nhậu, anh Sáu, chồng chị ngà ngà say, khoe với bạn nhậu bảo chị hát chèo, chị giữ thể diện cho chồng, cất lời điệu Lới lơ vui tươi gây không khí. Lời hát thì vui, nhưng ngừng lời, lòng người hát lại buồn, nhớ quê da diết. Cả tuổi thanh xuân, lớn lên ở một làng quê Bắc bộ, cách sông Cái không xa, chị thân thuộc với mái nhà tường đất mái rạ, với con đường làng quanh co lát gạch nghiêng long lở, với những hàng rào râm bụt hoa đỏ, mây gai, hoặc ô rô, hay cúc tần có dây tơ hồng quấn quýt. Vùng quê chị, ngoài lúa còn có đay và đất bãi trồng ngô, Vào đây, cảnh sắc đồng ruộng khác hẳn, chỉ có lúa, tràm và cỏ dại. Một năm chỉ có hai mùa, mùa mưa thì hầu như ngày nào cũng mưa, nước sông Hậu tràn về mênh mông, chỉ có những ngọn núi vùng biên ải này là nhô lên và các chòm ấp cùng những hàng thốt nốt phất phơ trên biển nước trắng xóa một màu... Còn mùa khô thì cơ khổ, nóng và bụi, ba bốn tháng trời không một giọt mưa. Nắng chang chang từ mờ sáng đến mờ tối. Khói đốt đồng lên mờ mịt cả bầu trời. Lại thêm những làn bụi đường cuộn lên mỗi khi có xe chạy, khiến người đi đường và nhà cửa cặp mé lộ ngập chìm trong làn bụi đất. Cái kiểu thời tiết đặc trưng vùng miền này chị mãi không quen...
          Vùng đất Thất Sơn, đồng bằng lầy thụt xen lẫn núi này thật chẳng đâu có trong cả xứ miền Tây này. Anh Sáu, chồng chị bảo, cả vùng có tới hơn ba chục ngọn núi có tên gọi, nhưng người ta chỉ chọn bảy ngọn núi làm biểu tượng chính ấy là các núi Cấm, Tượng, Dài, Tô, Sam, Két, Tà Biệt. Cũng nhiều người kể tên khác, nhưng với chị thì như nhau cả thôi. Nhà chị ở cách chân núi Nam Vi không xa, nên chị hay lên núi này kiếm củi, tìm cây thuốc và dọn chút rẫy trồng khoai mì. Quê anh Sáu gần chân núi Dài, mỗi khi rảnh rỗi anh hay cùng đám bạn và người bà con lên núi đốt than và đi săn thú rừng.
          Yên ổn gia đình sau chiến tranh biên giới Tây Nam, anh Sáu cậy nhờ xin cho chị vào làm người nấu ăn bếp tập thể liên cơ quan huyện gồm nông, lâm, thủy lợi, cơ giới. Khu liên cơ đóng trong một khu vườn rộng hàng chục công đất, dày xanhg cây cối, những xoài, dừa, mãng cầu, vú sữa. Đây là một khu tịnh xá cũ vô chủ được trưng dụng do người chủ cũ bỏ lại chay ra nước ngoài dịp giải phóng niềm Nam năm 1975. Cả thấy vài chục người ăn tập thể, mình chị xoay xở cũng vất, phụ cấp thấp nhưng có việc làm và thu nhập là vui rồi. Có điều tiền ăn ít nên việc đổi món thật khó bề. Cứ ngày ngày, mớ cá rô, chia ra, nửa đem kho tiêu, nửa nấu canh chua me rau súng. Ăn mãi cũng chán. Mùa nước nổi về thì đỡ hơn. Chị lọ mọ lội nước cánh đồng trũng ngay sau cơ quan nhặt được ít cua đồng và vài bó rau muống đồng, về nấu riêu cua và rau muống xào tỏi, ăn lạ miệng, ngon đáo để.
          Chị vui hơn khi bếp ăn cơ quan đông thêm khi có người bổ sung. Ấy là mấy cán bộ kỹ thuật, trong đó có một chàng kỹ sư nông học mới tốt nghiệp ra trường được điều từ ngoài Bắc vào. Bảo, chàng ký sư trẻ này lại là đồng hương hàng tỉnh với chị. Vậy là hai chị em nhanh chóng thân nhau. Chị coi Bảo như cậu em trong nhà, quý như cậu Vinh, em ruột chị vậy. Bảo dáng dấp thư sinh, kiểu người ít lao động chân tay, là con trai duy nhất và út trong nhà, bên trên có mấy chị đỡ hết việc nặng nhọc cho, nên cậu ta chỉ biết đôi việc lặt vặt như chăn trâu, tát nước. Tiếp xúc gần, chị thấy cậu chàng hiểu biết, thông minh và ăn nói cũng khá. Ngày chủ nhật, hễ nhà có món nhậu là anh Sáu chồng chị lại sai con đi mời cậu Bảo đến nhậu cho vui. Bảo khéo tay, hằng tháng, cậu chàng đến nhà chị hớt tóc cho mấy cha con anh Sáu. Những ngày đầu, Bảo háo hức, còn đòi theo chị lên núi hái cây thuốc và kiếm củi về đun.
          Mùa đốt đồng, nhằm chủ nhật, chỉ rủ Bảo đi đốt rơm rạ trên mấy công đất trồng lúa của gia đình. Hai chị em kẽo kẹt đèo nhau bằng xe đạp xa gần chục cây số. Rồi lại băng ruộng mệt nhoài mới tới nơi. Hai chị em ôm rơm rạ chất thành đống, Chị quen việc không sao, chứ Bảo sức vóc thư sinh, làm một lúc đã mồ hôi nhễ nhại. Châm lửa đốt, khói lên nghi ngút về trời. Hai chị em ngồi nghỉ uống nước, ăn bắp luộc. Nhắc chuyện quê ngoài Bắc, Bảo nói nhớ nhà, nhớ mẹ. Chị cũng thấy nhớ, cất lời hát điệu Đường trường thu không. Lâu không hát, giọng không nhuần nhưng vẫn đúng giai điệu. Man mác buồn. Làn điệu chèo giữa đồng quê Tây Nam Bộ nghe có gì đó là lạ. Chị dứt lời, hỏi Bảo bớt nhớ nhà chưa, thì cậu chàng chỉ cười nhẹ, rồi đọc nho nhỏ mấy câu thơ. Chị nghe câu được câu mất, cũng là nỗi nhớ quê, nhớ mẹ, nhớ người yêu chi đó... Để ý, thấy cậu chàng rụi tay đầy nước mắt. Chị đùa là khóc nhè nhớ người yêu, thì cậu chàng chối, bảo khói đồng vào cay mắt thôi. Mùa đốt đồng, khói gọi khói, các đồng rấm rải trác khắp đồng nghi ngút như mây, cuộn lơ lửng trong nắng quái hoàng hôn đỏ bầm, ma mị, ám ảnh. Lúc về, thấy cậu chàng mệt, chị nhận phần đạp xe. Bảo ngồi sau có vè ngượng vì để đàn bà đèo, nhưng do mệt quá, tựa đầu vào lưng chị, thiu thiu ngủ thì phải. Bàn tay cậu chàng bám nhẹ vào eo bụng chị, vô tình tạo cảm giác lâng lâng, chị đạp mải miết mà không thấy mệt...
          Thấm thoắt vài năm qua qua nhanh. Bếp tập thể liên cơ quan giải tán. Chị mất việc làm, ở nhà trông giữ con, nuôi thêm bày gà và mấy con heo thịt làm vui. Không còn bếp ăn tập thể, Chi lo cho Bảo ăn uống thất thường, nhưng cũng may, cậu ta quen thung quen thổ, có chỗ thân quen đi lại và cũng thêm bạn bè nhậu nhẹt. Chị vẫn giữ lệ, hễ nhà có mồi nhậu ngon ngon chút là sai con đi mời cậu Bảo đến nâng ly làm vui. Cậu Vinh, em trai chị về quê ngoài Bắc khi trở vào đưa theo một người con gái họ bên mẹ chị. Những tưởng vào chơi thăm thú tính kế làm ăn, nào ngờ cô nàng ở tịt nhà chị, rồi hai anh ả lằng ngoằng với nhau có thai. Chị cản không được, hai đứa lấy nhau và xin ở riêng. Chị giận em trai mà cũng thương cho cái thân mình, nuôi em lớn nhưng bảo em không được, để ra nông nỗi này. Nghĩ mà buồn, thấy uổng phí cái công mình đã hy sinh cả thanh xuân, tài năng bỏ đoàn chèo ở nhà làm lụng muôi em trai mà giờ nó đổ đón ra thế. Hai nhà cách nhau có một quãng thôi, nhưng ít qua lại, vì cô em dâu bất đắc dĩ kia e ngại, tránh mặt chị. Tình thương em trai, chị chuyển sang cho Bảo. Chị chịu khó nấu nướng các món ăn kiểu Bắc mời Bảo đến ăn...
          Mùa nước nổi về, thật thích. Cả  cánh đồng mênh mông dưới chân núi Dài trắng băng một màu nước, ngút ngàn đến tận mạn kinh Vĩnh Tế. Người ta chị còn nhận biết đâu là lộ bởi những làn khói bụi đường, khói xăng xe bay lên, và đó đây hàng cây thốt nốt và dừa để phân định bờ đất.  Con đường dài mấy chục cây số từ thị xã Châu Đốc đi Tịnh Biên, Tri Tôn mảnh như một sợi chỉ, những hòn núi to như Cấm Sơn, Nam Vi và những quả núi nhỏ khác nổi lổn nhổn trên đồng nước chẳng khác gì đám dừa điếc khô rụng rơi nổi lềnh bềnh. Xa xa, bờ kinh Tám Ngàn ngày đêm rộn ràng tiếng ghe xuồng, tắc-ráng phành phạch. Nước lên to, cùng với tôm cá theo về là cua và chuột đồng. Chị và hai thằng cu con đầu, má con rủ nhau đi nhặt cua và bẫy lưới bắt chuột đồng. Cua thì con nào con nấy to cộ bò lổm ngổm cắt ngọn lúa, còn chuột đồng thì từng đàn bám đuôi nhau bơi thành dây, đớp đọt cỏ non trên mặt nước rồi leo lên thân dừa, thân cây thốt nốt, thân tràm trú ngụ khi no bụng. Thế nên, người miền Tây mới gọi chuột đồng tránh đi là sóc tràm cho bớt ghê... Chị tha hồ trổ tài bếp núc làm các món ngon như chuột đồng quay, chuột bỏ lu, cua đồng rang xả ớt, cua đồng muối nặm, hay nấu riêu chua me, hay nấu rau đay rau dền cơm... Anh Sáu, cậu Bảo có mồi ngon nhậu, còn đám trẻ con thì thức ăn đãy bụng.  Cả nhà tuần nào cùng vài ba bữa tưng bừng.
          Một lần, Bảo nghỉ phép ra Bắc cả tháng, trở vào, dáng vẻ buồn buồn ít nói. Chị làm đồ nhậu, để anh Sáu và Bảo cụng ly mừng gặp lại sau chuyến đi phép của Bảo. Bữa nhậu, chị hỏi han luôn miệng, nhưng Bảo chỉ trả lời cầm chừng, mặt mũi vẫn không vui lên chút nào. Đoán có chuyện, nhưng chị không nài hỏi thêm. Thời gian sau, Bảo lăn ra sốt. Sốt rét. Vùng này nổi tiếng là vùng sốt rét. Những ai từ vùng khác đến đây sinh sống, dù có giữ gìn mấy thì không trước thì sau cũng nhiễm sốt rét. Chị và mấy người quen lo thuốc thang, cơm cháo cho Bảo. May mà cũng nhẹ nên nhanh qua khỏi. Nhưng sau trận sốt, Bảo gày và xanh xao, cử chỉ chậm chạp, tính tình mềm yếu hẳn đi. Chị thương Bảo nhiều, nhưng cũng chẳng thể giúp gì hơn. Chị luấn quấn với đám con đã mệt nhoài ra rồi, nay lại mới mang bầu đứa nữa, chẳng biết sẽ xoay xở ra sao đây. Mỗi chủ nhật, không phải đi làm, Bảo hay ra nhà chị, có việc vặt gì thì làm giúp. Chị cũng lấy đó làm vui.
          Mùa hè năm ấy, hai thằng cu lớn được nghỉ hè. Anh Sáu hứa cho chúng theo lên rãy làm khoan mì và dạy cách làm than củi. Bữa cơm trước khi lên rẫy, có mấy ký thịt nhím rừng do một người quen bẫy được gửi cho, chị trổ tài làm món xào lăn xả ớt và món cà ri ăn với bún. Anh Sáu và Bảo cụng lý liên tục. Chị ăn qua loa rồi ra xếp đồ đạc cho mấy cha con ở rãy cả tuần. Buổi chiều, anh Sáu đánh xe bò chở đầy nhóc đồ đạc lên rãy. Hai thằng cu con mừng vui gõ vung nồi hát váng lên. Chị dọn dẹp nhà cửa. Bảo quá chén, nằm bệt ở bộ ngựa gian ngoài ngủ ly bì. Chốc chốc cậu chàng lại ngóc đầu dậy thổ ra chiếc chậu chị đặt sẵn bến dưới. Rõ khổ, bữa nay quá chén, lại cảm gió chi đây nên mới như vậy. Chị lấy nước cho Bảo uống, rồi bắt cậu chàng nằm sấp để chị giác gió khắp lưng. Nghe chừng cũng đỡ nhiều, nên Bảo ngủ thiếp đi.
          Trời sẩm tối. Chị bắc nồi cháo lên bếp để lát cho Bảo ăn giã rượu. Tắm táp cho đứa bé và lấy cơm cho ăn, rồi chị đi tắm. Cái buồng tắm đơn sơ phía sau buồng trong và bếp, được quây bằng lá dừa khô, cũng chỉ để cho đàn bà con gái dùng thôi, chứ đàn ông thì khỏi cần. Là cách nhớ thế thôi, chứ lúc tối trời, chị ngồi cạnh lu, cởi bỏ áo múc nước dội lên người loáng chút là xong, lâu thành quen thế rồi. Dân miệt này các nhà đều vậy cả. Vừa dội nước, nhìn mảnh trăng non nhô đầu núi, tự nhiên vui miệng, chị nhớ đến một điệu chèo và cất tiếng khe khẽ hát. Bỗng cảm giác có gì là lạ, bèn ngoái nhìn, chị giật mình vì thấy Bảo đang đứng ở cửa bếp gần sau lưng chị lặng nhìn. Chị khẽ kêu ối. Bảo ấp úng: “Đang mơ ngủ, nghe như ai hát... Thì ra là... Chị hát chèo hay quá...”. Chị lúng túng, quờ tay lấy cái áo vắt nhanh lên bờ vai che ngực: “Ồ, cậu Bảo...  đã tỉnh rượu rồi ha? ... Chị xong rồi đây. Cậu vừa xỉn dậy, chớ có tắm mà cảm đó nghen...Lau người qua cho mát thôi,... để chị lấy cháo cho cậu ăn. Cháo ngon lắm...”.  Chị cũng cảm nhận giọng nói không bình thường của mình. Bảo vẫn đứng nguyên đấy, nhưng ý tứ nhìn nghiêng ra mé lộ: “Em vẫn mệt lắm... Bụng còn  nôn nao. Chỉ thấy khát nước thôi...”. Nói rồi Bảo trở lui, đi ra buồng ngoài. Chị vội vàng thay quần áo, luýnh quýnh thế nào, xỏ nhầm cả ống quần...
          Chị dọn mâm. Mâm cơm chỉ có hai người. Chị ăn những thức ăn cũ còn lại từ bữa trưa. Bảo ăn cháo, món cháo thơm ngon mùi gạo mới, có thịt nhím băm nhỏ, bỏ hành răm cho giải cảm. Bảo ăn uể oải, cố ăn hết tô cháo để chiều lòng chị. Bữa ăn kéo dài, vừa ăn vừa chuyện. Lúc này, chị mới lựa lời hỏi chuyện Bảo chuyến ra Bắc vừa qua. Bảo nói mẹ câu năm nay yếu nhiều, nên đang tính gắng ở lại đây một thời gian rồi ra Bắc xin việc. Chị chỉ biết nói lời động viên, nhưng thực lòng, nếu Bảo ra hắn ngoài Bắc, chị sẽ rất buồn, cảm như mình mất đi chỗ dựa tinh thần. Bảo định xin phép về khu liên cơ thì chị gàn, bảo ở lại đây ngủ, bởi sợ người còn yếu, sợ đêm hôm ngoài trời gió máy, ngộ nhỡ làm sao thì khổ. Không hiểu sao, chị muốn Bảo ngủ lại. Rồi chị xếp mềm gối bộ ngựa gian ngoài dọn chỗ ngủ cho Bảo. Cậu chàng chỉ còn biết nghe theo. Còn chị và đứa nhỏ ngủ buồng trong...
          Chị và Bảo lội bì bõm bắt cua trên đồng ngập nước mênh mông. Thảm lúa hè thu bị lướt đi bởi nước ngập tận ngọn. Cỏ năn nác mọc chen lẫn. Những con cua càng to kềnh càng chẳng sợ người, lổm ngổm trên ngọn co giơ càng nghiến cắt ngang ngọn lúa, thấy động thì lấc láo cặp mắt lồi thô lố ra nhìn và giương càng lên phong thù chứ không them bò chạy. Chị lựa chiều tay tránh càng. chộp ném vào chiếc thùng tôn. Bảo vụng về hơn nên thỉnh thoảng bị cua cắp tay đau kêu oai oái. Đang mùa mưa lũ, mây đen kéo lên rất nhanh rồi mưa xuống như trút. Chị em hò nhau chạy mưa lên bờ kinh, tìm chỗ trú mưa. Chạy vội, chị vấp chân trong bùn ngã rúi rụi xuống ruộng nước. Bảo vội chồm tới đỡ chị lên. Mưa ngập ướt, quần áo bết vào người, Bảo giúp chị gột bùn đất, chẳng hiểu vô tình hay hữu ý, tay Bảo quờ quạng đụng vào bầu ngực căng mẩy của chị...  ”Ấy đừng... đừng...”, chị buột miệng và bừng tỉnh. Thì ra chị vưa thiếp đi, mê ngủ vậy thôi. Đang ngẩn ngơ hư thực, trong ánh sáng mù mờ của ngọn đèn hãm nhỏ treo trên bếp, chị nhột người nhận ra Bảo đang ngồi ghé mép giường ngủ, Chị nhắm mắt vờ ngủ thì Bảo khẽ cúi người xuống, chạm nhẹ môi vào trán chị, rồi lướt khẽ chạm vào đầu mũi và dừng ở môi chị. Chị mơ màng êm ái tận hưởng sự đụng chạm. Rồi nữa, đôi bàn tay Bảo đặt vào hai bầu ngục chị đang căng mẩy lên. Và một bàn tay rời bầu vú trướt nhẹ xuống dưới thân, lập tức chị hiểu cái đích đến của bàn tay ấy nhưng khi nó lướt đến cái bụng bầu thai mấy tháng lùm lùm thì dựng lại... Bảo rút tay lên e dè... “Đừng...đừng...”. Chị khẽ đảy tay bảo, ngồi dậy. Phía trong giường, đứa bé vẫn ngủ say... Bảo lắp bắp: “Nước...khát nước”... Chị chỉ chỗ, Bảo chui ra khỏi mùng, rót nước ra cốc, uống ừng ực, thở hổn hển, tần ngần rồi trở ra buồng ngoài. Chị không tài nào ngủ lại được nữa, nghe tiếng Bảo lát lát trở mình, thở dài... Vắt tay ngang mày, suy nghĩ đắn đo một hồi, chị nhỏm dậy, nhìn đứa bé con vẫn say ngủ, nén thở, ra khỏi màn. Chị thổi tắt ngọn đèn dầu hãm nhỏ ở bếp, rồi nhẹ chân ra buồng ngoài. Ánh sáng sao đêm hắt qua cửa sổ sáng mờ. Chị rón rén đến ghé ngồi bên mép bộ ngựa nơi Bảo ngủ. Chị nghe rõ tiếng thở và nhịp tim mình đập mạnh. Như hồi chị con gái mới lớn lén ghé bên hàng rào nhìn trộm chàng trai trẻ hàng xóm sắp vào quân ngũ. Chị lưỡng lự, rồi đặt bàn tay khẽ vuốt mái tóc Bảo. Cậu chàng nằm co như con tôm, quay mặt vào trong, im thít như ngủ. Vuốt tóc Bảo một lát, chị mạnh bạo co chân vào trong mùng, xoay mình nhẹ nhàng nằm xuống bên cạnh, choàng tay ôm Bảo vào lòng. Nghe tiếng thở, chị biết Bảo thức nhưng nằm im không phải ứng. Tay chị vòng ôm bụng Bảo vừa khẽ kéo vào lòng vừa nhích mình để hai thân thể vừa khít cánh cung. Chị cảm nhận bầu ngực mình khẽ tì vào lưng Bảo. Im lặng . Chị đưa tay chạm khuôn mặt Bảo thì thấy ươn rướt. Vai Bảo khẽ rung và chị biết Bảo khóc. Chị lặng lẽ cởi cúc áo để bộ ngực trần chà nhẹ. Bảo nấc nhẹ, nhệu nhạo “Cô ấy không chờ đợi được nữa... bỏ... nhận lời với người khác rồi...”.  Chị không kìm mình được nữa, đột ngột xoay người Bảo và cậu nương theo ấp cả khuôn mặt mình vào bầu ngực chị. Bảo rụi rụi mặt, nức nở thành tiếng. Chị ghì đầu bảo vào bộ ngực trần của mình, cảm nhận nước mắt Bảo ướt dẫm hai bầu vú, vỗ về: “Thôi nào... Khổ thân... Tội nghiệp quá... Không sao đâu....”. Bảo cứ lắp bắp, chẳng rõ nói gì. Rồi đôi môi Bảo ngập ngừng chạm vào đầu vú chị đang mẩy căng của người đàn bà mang bầu, bên này rồi bên kia, như một kẻ tham lam, háu đói, lâu ngày... Tay Bảo lần sờ xuống thân dưới chị, bắp đùi, bẹn, lướt nhẹ qua vùng kín và dừng lại ở vòm bụng lùm lùm. Chị ý thức, đưa tay mình ấp lên bàn tay Bảo ở vòm bụng, giữ không cho bàn tay ấy di chuyển nữa. Bảo không dám nhúc nhích, nhưng người như căng lên như cánh cung đang kéo chờ buông dây... Chị nén mình thở trút ra thật nhẹ kiểu đánh úp, một tay chị vẫn giữ bàn tay cậu trên bụng mình, tay kia chị rờ nhẹ lướt từ bụng xuống dưới chạm chỗ phồng căng, dừng lại... Chị nhắm nghiền mắt, sợ mở mắt ra thì tỉnh cơn mê mà ý thức... Trong mê loạn, vô thức, bày tay chị làm trò ảo thuật, Bảo ngậm cả bầu vú chị đầy miệng, bên này, nhả, bên kia, lập bập, mê mẩn... Cả hai mê sảng, tê dại, lịm đi...
          Chị bừng tỉnh, ý thức. Bảo vẫn ngậm bầu vú ngủ lịm. Hai bàn tay trên vòm bụng vẫn ấp vào nhau, chị khẽ rút bàn tay kia dính dấp và cảm nhận mình ướt át. Lặng im, chị khẽ thở dài, nhích người rút bầu vú ra, ngồi dậy, cài khuy áo, nhẹ ra khỏi mùng. Hình như trời đã dần về sáng. Trở vào buồng trong, không dám thắp lại đèn, vì không muốn cơn mộng mị tan mất, lần mò bóng tối rút then, mở cửa sau, ra lu nước, rửa qua mình mẩy. Trở về giường, ghé nằm xuống cạnh con, chị vẫn lâng lâng. Tự hỏi lòng mình, tình cảm với Bảo như thế nào, rồi nhủ lòng, đương nhiên như cậu em quý mến rồi. Gì nữa? Chắc có chút tình cảm ngoài tình chị em, bởi không sẽ chẳng thể có chuyện này?... Thực ra, cả thời thanh xuân, xinh đẹp, chị đã từng yêu ai đâu, ngoài bóng dáng anh chàng hàng xóm có họ xa, điển trai, vừa kịp lớn đã vào lính rồi hy sinh. Với chồng chị, anh Sáu, ấy là sự cảm thông, tình thương dành cho một người đàn ông lớn tuổi, xa quê phải sống độc thân nơi đất Bắc, là sự đền bù cá nhân nhưng lại mang cái danh chung dành cho miền Nam còn trong cảnh chia cắt, là nghĩa vợ chống chung con chung của. Mang tiếng là ngấn ấy mặt con, ăn ở với nhau hơn chục năm trời, đêm đêm đầu gối tay ấp, nhưng chị luôn là người thụ động, nhiều khi là cam chịu. Đã bao giờ chị chủ động và quyết liệt trong bày tỏ tình cảm của minh đâu. Chị có băn khoăn, dẫu sao chị là gái có chồng, gần sắp bốn đứa con, nhưng chị mới ngoài ba mươi tuổi thôi mà, vẫn còn trẻ đẹp, hấp dẫn lắm .. Chẳng hiểu Bảo có ý thức tình cảm của chị không, hay là cậu ta chỉ nghĩ về cô người yêu cũ và coi chị như một kẻ thay thế chốc lát lúc cô đơn? Thôi kệ, nghĩ nhiều mà làm gì, chị tin vào sự thành thật của mình và sự đón nhận nồng nhiệt của Bảo, xem như một sự an ủi với cả hai. Chị thiếp đi...
          Cả nửa tháng sau đó, Bảo không qua nhà chị. Còn chị chút lăn tăn nhưng bận rộn quên đi. Anh Sáu và hai đứa lớn từ rãy trở về nhà. Nhịp sống thường ngày hối hả. Rồi không nén được, chị đi chợ thị trấn và tiện thể ghé qua căn phòng tập thể của Bảo ở khu liên cơ. Bảo có nhà, đang ôm ghi ta tập một bài gì đó. Chị chủ động: “Lâu lâu không thấy cậu ghé nhà, chị đi chợ, vào thăm sợ cậu đau yếu chi ?...” . Bảo cười gượng: “À không... em bận vừa đi xã mấy hôm mới về, chị...”. Chị em đôi câu chuyện không đầu cuối, chị để lại bịch vài chục trứng: “Cậu nhớ ăn, kẻo một mình ngại nấu, ăn qua loa là không đủ sức khỏe đâu... Cậu nhớ vừa  qua sốt rét đấy nha...”. Chị ra về, Bảo tiễn chị một đoạn đến cổng cơ quan, lúng búng: “Chị Tấm... em thật có lỗi...”. Chị nhìn Bảo, cười buồn: “Bữa nào rảnh qua nhà... lỗi chi đâu... là ở chị... Để chị bảo anh Sáu kiếm chút mồi, cậu qua nhậu cho vui... Anh Sáu lâu không thấy cậu, nhắc hoài đó... Đâu như anh có cái dạ dày nhím rừng mang ngâm rượu, nói là xớt cho cậu một phần dành để chữa bệnh đâu bao tử... Quý lắm đó... Nhớ qua chi nghe...”. Bảo gật đầu...
          Ít ngày sau, Bảo nói nhận thư nhà, rồi cậu chàng làm đơn xin nghỉ không lương ra Bắc chăm mẹ bệnh nặng. Chừng mấy tháng sau, Bảo trở vào, làm thủ tục chuyển công tác ra Bắc hẳn. Cậu chàng bận rộn thủ tục giấy tờ, chào hỏi, chia tay người quen bạn bè, nhậu liên miên cả tuần. Trước hôm đi, Bảo mới dành ăn bữa cơm chia tay với gia đình chị. Bữa cơm bùi ngùi, người đi kẻ ở. Chuyện đêm ấy, chị không nghĩ là mình dâng hiến, đơn thuần, có thể, đấy là lần cuối cùng ngọn lửa tình dục trong chị bùng cháy, để rồi dần tàn lụi. Bảo ít nói, trong khi anh Sáu liên thuyên đủ chuyện, say líu cả lưỡi. Chị phải gàn anh chớ ép rượu Bảo để cậu tỉnh táo sớm mai đi xe về Sài Gòn. Ánh mắt chị và Bảo thỉnh thoảng gặp nhau, soi rọi nỗi niềm riêng. Đêm ấy, anh Sáu tỉnh rượu, cứ vần vò này nọ, thây kệ cái bùng chềnh ềnh sắp sinh của chị...
          Bảo ra Bắc ít ngày thì chị sinh bé Út Hường. Vậy mà, cho đến khi, Út Hường học xong, đang lo xin việc làm thì Bảo trở lại mảnh đất này. Bảo đã là người đứng tuổi, chững chạc, và là người thành đạt, có con lớn đang học đại học rồi. Hơn hai mươi năm qua, chị không gặp lại, dù thi thoảng vẫn nghe được tin tức này nọ. Bảo già đi nhưng vóc dáng vẫn kiểu thư sinh xưa. Còn chị đã thành bà lão rồi. Gánh nặng gia đình đông con, chồng quanh năm say xỉn khiến khuôn mặt xinh đẹp nét Tây xưa đầy nếp nhăn, và đầu tóc rụng thưa vãn, thân hình dỏng cao thành gù xuống. Hai chị em khi thì tranh nói, lúc lại lặng thinh. Ngần ấy năm xa cách, chị rất sợ vầy mà đã vài lần phải hát điệu Sử rầu. Chị phải tiễn biệt anh Sáu và hai kẻ đầu xanh, đứa do tai nạn, đứa thì bệnh tật. Chị đứng vững trên cõi đời này đã là khó nhọc lắm rồi. Nhưng nay chị có chút niềm vui, vì sau lần trở về thăm chốn cũ, Bảo nhận lo việc làm cho Út Hường, và nhờ đấy, bé lập gia đình, làm chỗ dựa cho chị. Chị theo vợ chồng Út Hường lên thành phố giữ cháu. Ở thành phố, đông vui là thế, nhưng chiều chiều, chị lại bồng cháu ra ngõ, nhẩn nha hát ru, ngóng về miền Tây mà nhớ quay nhớ quắt ruộng đồng mênh mông, kinh rạch và bóng núi Dài, núi Cấm...
          Thấm thoắt, giờ thì cô Tấm xinh đẹp hát chèo hay nhất làng ngày xưa đã là một bà lão gần bảy mươi lưng còng xuống, sống ở căn nhà nhỏ trên nền đất cũ gần ngã ba lộ. Mùa đốt đồng, mỗi chiều bà lão hay kê ghế ngồi trước sân nhà hóng mặt về phía đồng xa, nơi những cuộn khói đốt đồng đùn lên quấn quện thành những dải mây. Mắt bà rớm nước, chắc không phải do khói đốt đồng cay mắt... ./.
( Nguyễn Chu Nhạc )

tamvanvov
  • Số bài : 807
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Dùng dằng phận cối, nhọ nhem phận nồi - 28.02.2021 14:40:21
Con trâu Ba Gông
                                                                   ( Truyện ngắn của Nguyễn Chu Nhạc )
xưa cô hàng xóm chưa chồng
hay sang giúp mẹ hay mong ta về...
 
 
          Ngày ấy,
          Việt dong trâu đi chăn. Cứ cách hai ngày, nhà có một phiên trâu. Hợp tác xã của làng giao một trâu cho hai hộ gia đình chăm nuôi theo hình thức luân phiên. Quy định chung, môi gia đinh nhận nuôi trâu phải có nghĩa vụ nuôi con trâu được giao hai ngày rồi mang trả cho nhà kia, cú thế xoay vần. 
          Ngày nhỏ, sống ở thanh phố, Việt đâu biết con trâu đầu cua tai nheo thế nào. Vậy mà, khi về quê ở, phải đi chăn trâu, khổ sở là thế. Thường thì những ngày có phiên trâu, bố mẹ Việt phải thay nhau đi chăn, hoặc nhốt trong chuồng cắt cỏ về cho ăn, bởi anh chi em Việt phải đi học. Riêng ngày chủ nhật, các chị bận giíp bố mẹ việc đồng áng thì Việt phải nhận việc nang trâu ra đồng chăn thả. 
          Thực ra, việc chăn thả trâu không mấy khó. Hiềm nỗi, con trâu hợp tác xã giao cho nhà Việt là một con trâu đực to khỏe, sứt mũi và có cặp sừng lệch, với một lai lịch hết sức bất bảo. Nó khỏe và hay gây sự với những con trâu đực khác của làng trong các cuộc chiến tranh giành con cái mùa động dục. Người chăn nuôi nó trước đây giằng kéo nó đến nỗi sẹo gỗ và dây thừng cứa đứt mũi nó, nên người ta phải tạo cặp nẹp tre gông hai bên mõm cổ buộc dây thừng vào đất mà dắt. còn một sừng bị gẫy bớt phần chôt nhọn do gãy sau một trận huyết chiến giành cái. Thế là, cái tên gọi Ba Gông dành cho nó từ đấy.
          Con Ba Gông cũng không phải lúc nào cũng gây sự. Thường thì, khi Việt dắt cho ăn cỏ dồng, nó khá hiền lành, gặm cỏ ngoan ngoãn. Nó chỉ giở quẻ, mỗi khi trong khu vực chăn thả có trâu cái, nó phất hiện qua việc ngửi mùi nước đái. Mỗi lúc vậy, nó bỏ ăn, hít hà mũi lần thro mùi tìm con cái. Việt khổ sở, gắng sức giăng co với nó để dứt nó khỏi cơn đam mê... Mà bận săn cái thì con đâu gặm cỏ. Đến lúc thấy đói thì nó sắn sàng băng qua ngòi bơi sang bờ bên kia sà vào ruộng lúa mà ngoạm lấy ngoạm để cho thỏa cơn đói thèm ăn.  Đã có lần, con ba Gông ăn vẹt cả vạt lúa lớn, bị người lớn bắt được, dong nó về làm bằng chứng, cán bộ hợp tác xã phạt nhà Việt cả trăm điểm công lao động. 
          Đám trẻ trâu trong làng hay dong trâu chăn thả với nhau có mươi đứa, toàn con trai, chỉ có Vân và Thân là con gái. Cái Thân nhỉnh hơn Việt một tuổi, khô gày và nói năng bỗ bã như con trai. Còn cái Vân thì hơn Việt những ba tuổi, nữ tính, người lớn nhất bọn. Những ngày mưa dầm, hoặc những ngày quá nắng, cả đám thả trâu trên bờ mương thủy lợi, rủ nhau vào quán Cổ Thạch ngồi tán gẫu, toán chơi ô ăn quan. Mới học lên cấp 2 mà Việt đã đọc hết truyện Tam Quốc nên thỉnh thoảng mang ra kể cho cả đám nghe. Chúng nó thích lắm. Thường thì Việt chỉ mang từng chương, hồi ra kể/ Trong khi đám con trai, thắng Chiến, thằng Đấu chỉ thích nhưng hồi như Lưu Quan Trương kết nghĩa vườn đào, Tam anh chiến Lã Bố, thì cái Vân chỉ thích nghe chuyện về Điêu Thuyền nghe lời Vương Doãn lập mưu để cha con Đổng Trác, Lã Bố hiềm khích hại lẫn nhau... Nó bảo, sao đàn ông thâm hiểm, độc ác thế, sao đàn bà lại khổ sở làm vậy, càng đẹp cáng khốn khổ...
Bọn trẻ trâu quen nghe Tam Quốc, nên hay giục Việt kể chuyện. Nhiều hôm Việt không có hứng, lờ đi thì chúng nó lén xua con trâu Ba Gông nhà Việt xuống sông, bơi sang bờ kia. Việt không biết bơi, đành chịu, phải nhờ chúng nó bợi sang dắt về bên này, và để trả công Việt phải kể một hồi Tam Quốc, hay Tay Du Ký, Thủy Hử gì đấy. Chuyện ấy, cái Thân thì hùa theo đám con trai, còn Vân lại không đồng tình. Nó bảo, Việt gày yếu thư sinh thế, phải giúp đỡ chứ ai lại chơi xấu kiếu ấy, gì cũng trong họ ngoài làng với nhau. Thật đúng cách nghĩ của người lớn, xứng đáng chị cả đám trẻ trâu.
          Riêng với Việt, xét về họ hàng xa cỡ 'bắn đại bác mới tới". cái Vân là vai em, nhưng trong lòng, Việt thích nó, kiểu trai gái thích nhau. Việt mười hai, Vân mười lăm, con gái vào tuổi bắt đầu dậy thì, vú và mông mây mẩy từng ngày. Hàm răng trắng đều đặn, cặp môi mỏng, nét cười duyên. Đã có đêm, Việt ngủ mê thấy cái Vân trần truồng tắm sông. Tỉnh ngủ, cứ tiếc mãi, mong mơ tiếp xem sao...
          Từ khi phát hiện, mình thích cái Vân, Việt mong đến ngày có phiên trâu chăn để thấy mặt Vân. Nhưng cái Vân lớn hơn, phải giúp nhà làm việc đồng áng khác, thinh thoảng mới đi thả trâu. Có lần, buổi chiều, Việt tranh thủ giúp bố mẹ mang trâu thả ăn cỏ ven bờ sông làng. Trời chiều muộn, dang định dắt trâu về thì máy bay giặc ập đến. Súng phòng không và tên lửa của ta giăng lửa bầu trời. Tiếng máy bay gầm rít, làm con trâu Ba Gông hoảng sợ, nó lội ào xuống sông, còn Việt sợ rum chúi vào một góc quán Cổ Thạch. Bom đạn chát chúa đâu đó. Đúng lúc ấy, cái Vân gánh cỏ về qua đấy, cũng quảng bỏ quang gánh chúi vào quán tránh. Hai đứa chíu chung một góc, cúi gằm đầu vào lòng, hai tay bịt chắt tay phong tiếng động lớn thủng màng nhĩ. Một ánh chớp léo sàng bừng kèm thei tiếng nổ lớp, Việt sợ quá ngã rúi rui vào cái Vân, vô tình rúc đầu vào lóng nó. Nó  cũng sợ phản sạ tự vệ khiến nó ôm cuộn chặt Việt vào trong lòng như quả bóng người quện lấy nhau. Trong cơn sợ hãi, Việt vẫn cảm nhận được cả khuôn mặt mình như úp gọn vào khoảng lũm giữa hai bầu vú mây mẩy của cái Vân. Qua cơn sợ, nhưng cả hai không buông nhau ra, Việt còn cố tính rụi rụi cà nhẹ lên đôi núm mẩy. Vân bớt sợ đưa một bàn tay lên khẽ xoa đầu Việt. Rồi choảng tỉnh, cái Vân khẽ nâng đầu Việt lên khỏi lòng nó. Việt chẳng rõ sợ, hay thích, hay cả hai, mắt rơm rớm nước. Cái Vân  cười nhỏ, hỏi trêu là Việt khóc đấy à. Hai đứa rời nhau ra,... Lúc ấy, Việt chợt nhớ đến con trâu Ba Gông, vôi nhìn ta, thì không hiểu sao, nó không bời qua bờ sông bên kia như bản tính mọi lần, mà lại tự lên, đừng ngay ngoài quán, khẽ nghiêng đầu, nghếch chiếc mũi sứt,tròn mắt nhìn hai đứa ôm nhau, cái mũi sứt trồng ngồ ngộ như cười. Trời nhá nhem tối, cái Vân gánh cỏ đi vội như chạy, còn Việt dắt con Ba Gông thũng thẵng theo sau cách xa một quãng dài. Nhìn cái bóng bước nhanh như chúi về phía trước, không hiểu sao Việt chợt nhớ tới lời mẹ nói, sau này lớn lên chớ lấy người đàn bà cps dáng đi như vậy, bởi số người ấy sẽ vất vả, long đong...
          Sau lần ấy, hai người ít chạm mặt nhau, bởi Vân không đi thả trâu nữa, mà phải làm việc chính đống áng của gia đình. Vắng bóng Vân, Việt thấy việc thả trâu thật tẻ nhạt, chán phèo. Việt cũng chẳng hứng thú gì với kể chuyện Tam Quốc, Tay Du, Thủy Hử nữa. Con trâu Ba Gông dường như cũng bớt quậy phá hơn,... Hình như nó cảm được sự thay đổi tâm tính, sự lớn dần lên thành người lớn trong con người Việt, nên không coi Việt là trẻ con để nó khinh thường, quậy phá,...
Chiến trường miền Nam ngày càng ác liệt. Học hết cấp 2, cái Vân phổng phao thiếu nữ, xinh hơn. Nó tình nguyện đi thanh niên xung phong. Việt vào cấp 3 phải đi trọ học xa nhà. Mỗi lần về nhà, Việt vẫn nghe ngóng, hỏi thăm về cái Vân. Thâm tâm, Việt còn thích nó, nhưng ở cấp 3, đám học sinh nữ trong huyện cũng nhiều đứa xinh, lại hàng ngày học hành bên nhau, gần gũi, nên hình ảnh cáo Vân không còn dâu đậm trong trí óc Việt nữa. Ngày ta bảo, xa mặt cách lòng cũng đúng. Với lại, hình thư, cái Vân chỉ quý và tôn trọng sự hiểu biết, trí óc của Việt hơn là cái thích về mặt thể xác của người khác giới, Hình như nó nhìn nhận Việt như một đứa trẻ hơn là chàng trai..
          Việt tốt nghiệp phổ thông đúng vào thời điểm chiến tranh kết thúc. Học tiếp lên đại học, thi thoảng về làng, gặp đây đó những trai làng nhập ngũ năm nào đã phục viên hoặc chuyển ngành, nhưng tuyệt không thấy bóng dáng cái Vân đâu, Dò hỏi thì có người bảo, ở chiến trường, Vân yêu một chàng bộ đội lãi xe và có thai với anh ta rồi sinh con. Sau giải phóng miền Nam, có lần, Vân về làng mang theo đúa con gái nhỏ. Ở quê độ mươi hôm rồi Vân mang con đi, bảo là tì vào quê bố đứa bé đâu mãi trong Thanh Nghệ Tình gì đó. Nghe tin, Việt có chút buâng khuâng, nghĩ ngợi, Là nghĩ về kỷ niệm cùa thời trẻ trâu với nhau, bời dẫu sao, ngày đó, chí ít Việt cũng quý nó hơn mức bình thường. Chiêm nghiệm lời mẹ bảo tướng Vân vất vả, đa đoan, thấy đúng cả.
          Nhớ đến cái Vân, lại nhớ thằng Chiến, thằng Đấu và con trâu Ba Gông. Hai thằng Chiến và Đấu đều nhập ngũ vào những đợt tuyển quân cuối cùng của cuộc chiến tranh và không đứa nào trở về khi chiến tranh kết thúc. Một đứa bị sốt rét ác tính chết, còn một, nghe đâu hy sinh trước cửa ngõ Sài Gòn. Còn con trâu Ba Gông, khi Việt vào cấp 3, nhà không có người chăn nên trả lại cho hợp tác xã, giao cho hộ khác ở cuối làng nhận nuôi. Sau nó già yếu, giảm sức kéo nên bị giết thịt. Việt nghe mẹ nói, bộ da nó dày tốt nên người ta đem thuộc và dùng để sửa mặt trống cái của làng. Vậy là linh hồn của con trâu Ba Gông vẫn còn theo tiếng trống mỗi khi làng có việc mang trống ra đánh,...
Có một thời gian dài, Việt ít về quê. Chuyện là, bố Việt ốm rồi mất. Mẹ thì ra thành phố trông con giúp mấy chị gái của Việt. Còn Việt thì sau khi tốt nghiệp được điều vào công tác ở miền Tây Nam bộ dăm năm, rồi xin chuyển về Sài Gòn làm việc, lập gia đình với một cô gái gốc Bắc và định cư luôn ở đó. Ngôi nhà trên mảnh vườn quê bỏ không một thời gian, do người chị cả lấy chồng làng bên trông nom. Hơn chục năm, mẹ Việt chán ở phố đòi về quê sống. Thế là mấy anh chị em góp vốn sửa lại căn nhà cũ cho khang trang, sạch sẽ để mẹ sống. Tiếng là bà cụ ở một mình nhưng họ hàng làng xóm ngay cạnh, và nhà chị cả cũng gần đấy, năng qua lại chăm nom. Ỏ thế, túc tắc vườn tược, cây cối nên mẹ Việt hơn chín chục tuổi đầu óc vẫn minh mẫn. Mẹ ở quê, thì dẫu xa xôi phương Nam, làm ăn bận bịu đến mấy thì năm ít nhất đôi ba lần Việt bay ra Bắc về quê ở với mẹ chừng tuần lễ.,mươi ngày. Có lần, Việt ở quê, mẹ bảo là đi xa nhiều năm, làng giờ sủa sang chùa cũ thành mới, nên qua chùa thắp hương lễ phật và công đức chút tiền của. Việt nghe lời mẹ, vào chùa làng, lòng vẫn nhớ hình ảnh ngôi chùa làng bé nhỏ cũ nát với sư già ngày xưa. Không ngờ, chùa làng giờ khang trang, bề thế. Lễ phật xong, Việt làm việc công đức thì nghe tiếng mô phật đằng sau, ngoảnh lại bắt gặp sư trụ trì. Vị ni sư trong nét mặt quen quen, ngờ ngợ nhưng không đoán ra ai người làng. Khi ni sử bảo "Ông đi xã lâu ngày về làng, công đức chùa, xin cảm tạ tầm lòng của ông dâng đức Phật". Lúc ấy, Việt mới nhận ra ni sư chính là Vân. Nhận ra nhau, uống chén trà, nói dăm ba câu chuyện mới vỡ lẽ về cuộc sống của Vân. Ngày ấy, Vân mang con tìm vào quê người lính lãi xe thì hay tin anh ta đã hy sinh, bèn tìm việc làm và ở lại vùng quê ấy sinh sống. Nhan sắc có, nên dăm năm sau, Vân lấy một người trong vùng chết vợ, còn đứa con được gia đình người bố xin nuôi vì cũng hiếm người. Cuộc hôn nhân đó chẳng ra gì, rồi đổ vỡ. Vân làm nụng kiếm tiền thêm thắt phụ giúp gia đình nhà họ nuôi con gái. Thấm thoắt ngày tháng con bé lớn khôn. Vân từ người giúp việc cho một ngôi chùa ở đó, xuất gia đầu phật làm ni sư. Trong một lần về quê, thấy ngôi chùa làng cũ nát, không sư trụ trì, các vãi làng phải cắt cứ nhau trông nom, bèn xin về đây trụ trì, bỏ công sức gây dựng nên cơ ngơi khang trang ngày hôm nay. Như vậy, cái Vân con gái làng xưa nay ni sư pháp danh Thích Diệu Vân chính là người có công với đời sống tâm linh của làng... 
Từ gần năm nay, mẹ Việt đổ bệnh, năm liệt một chỗ, phải ăn qua ống xông, nên lúc nào cũng phải có người trông nom bên cạnh. Các anh chị em trong nhà cắt cử, thay phiên nhau chăm mẹ. Nhà đông con nên cũng đỡ. Thế nhưng, vất vả nhất là người chị cả lấy chồng trong làng, rồi đến Việt. Dù xa xôi cách trở, nhưng Việt thu xếp ra chăm mẹ thường xuyên. Tết này, dịch covid bùng phát, Việt mắc kẹt ở quê, vì vùng quê của Việt có ca mắc dịch. Làng bị phong tỏa. Cổng làng bị rào kín, bịt tôn che hết. Người ta chỉ để một cái lỗ to như miệng thúng dưới chân để trong ngoài tiếp tế qua lô thủng đõ. Hai chị em Việt đánh vật trông nom mẹ. Khổ nỗi, người chị cả có con gái lấy chông ở Quảng Ninh, quảng con về cho bố mẹ trông, nên cũng kẹt ngoài đó không về quê ăn tết được. 
          Đêm giao thừa, người chị cả bận cỗ cúng giao thừa nhà mình, lại vướng cháu nhỏ không qua được. Một mình Việt, vừa cúng giao thừa vừa chăm mẹ. Mẹ Việt yếu lắm rồi, phải mở nọi khí quản để thở, Già lão, sức yếu, đờm dâng lên nghẹt thở, nên cứ vài tiếng Việt lại phải xốc mẹ dậy dùng máy hút đờm cho bà cụ thở. Loay hoay một mình, cực quá, tủi thân. Dẫu nam giới đấy nhưng muốn trào nước mắt. Nói dại, nhỡ cụ đi lúc này thì biết xoay xở sao đây. Quá giao thừa sang năm mới, Việt tựa ghế bên giường bệnh của mẹ, chợp mắt thiếp đi. Chợt choàng tình vì nghe tiếng ai gọi cổng. Việt vội vàng ra mở cổng thì ra ni sư Thích Diệu Vân chùa làng. Việt ngạc nhiên lắm, miệng bạch thầy nhưng không biết ứng xử thế nào cho phải phép.
          Ni sư Thích Diệu Vân chủ động bảo "Kìa, nhà ông mở công cho nhà chùa vào chứ... Nhà chùa biết tin bà cụ mệt nặng, lại biết nhà ông có một mình, nam giới chăm mẹ cực lắm... để nhà chùa đây giúp nhà ông một tay chăm cụ... Nhà chùa cũng đã xong việc giao thừa bên chùa rồi mà...". Mừng đấy, nhưng Việt vẫn lúng túng, đưa ni sư vào nhà...
          Ni sư bảo "Nhà ông cứ yên tâm... ngày trước, nhà chùa đã từng làm nghề chăm sóc người già bệnh tât rồi mà...". Miệng nói tay làm, ni sử nhẹ nhàng đỡ bà cụ lên để hút đờm... Việt thì cứ quanh quẩn chân tay như thừa... Ni sư vừa chăm vừa hỉu chuyện bệnh tình bà cụ...
          Có lúc, cả hai người như lặng đi, chẳng ai nói câu nào. Việc nhà chùa thì Việt không mấy biết nên chẳng dám hỏi thăm thế nào/ Chợt ni sư bảo "Này nhà ông... có còn nhớ con trâu Ba Gông xưa không đấy? Con trâu nhà ông nhận nuôi của làng ấy?...". Việt bảo nhớ, thậm chí nhớ như in nhiều chuyện trẻ trâu xưa, thì ni sư lại bảo "Sau này người ta lấy da nó thuộc đi, đem sửa trống làng... Khi về trông coi chùa làng, nhà chùa biết chuyện nên đã công đức làng một trống cái mới, xin đổi lại cái trống cũ ấy. Nhà chùa đem về, cất giữ cái trống ấy trong kho nơi Nhà tổ của chùa... Ra giêng ôn ổn, hôm nào nhà ông sang chùa thắp hương lễ Phật, rôi quá bộ xem cái trống ấy, ông ạ" Nghe vậy, Việt ngẫm nghĩ, triết lý nhà Phật, vàn vật chúng sinh theo vòng luân chuyển cửa trời đất đều biến hóa rồi siêu thoát cả, lưu giữ vật chất mà làm gì. Đến cuộc đời mình, Thích Diệu Vân còn chẳng màng sướng khổ nữa là, chẳng qua, đấy như hình bóng về làng mạc cửa một thời. Vừa chăm sóc bà cụ, vừa thủng thẳng chuyện, một người thì “bạch thầy”, một người lại “mô Phật”, cứ vậy, câu chuyện đứt quãng, không đầu không cuối...
          Việt chỉ biết vâng dạ... Tự nhiên, bao hình ảnh cả một thời trẻ trâu xua cũ ùa về như sóng cồn. Hình ảnh cái Vân, cái Thân, thắng Chiến, thằng Đấu và con trâu ba Gông hiện rõ môn một. Ấn tượng nhất là hình ảnh con trâu ba Gông hếch mũi, mắt tròn xoe nhìn cái Vân và Việt ôm chặt rúm ró vì sợ ở một góc quán Cổ Thạch trong buổi chiều bom đạn ngút trời ngày ấy... 
 
Mồng 4 tết Tân Sửu, 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.02.2021 14:42:03 bởi tamvanvov >

tamvanvov
  • Số bài : 807
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Dùng dằng phận cối, nhọ nhem phận nồi - 27.03.2021 15:42:28

   Đỏ như hoa gạo tháng ba,
   Tản văn của Nguyễn Chu Nhạc

    Thiên nhiên thật kỳ diệu,
    Tháng Giêng, chẳng gì bằng sắc hồng của hoa đào, sắc trắng thanh khiết của hoa mai.
    Tháng Hai, chẳng gì hơn sắc tím của hoa xoan, sắc trắng tinh khôi của hoa ban.
    Thì tháng Ba, không gì ấn tượng hơn sắc đỏ của hoa gạo,...
    Tháng ba hoa gạo, đã là thành ngữ, là câu cửa miệng dân gian,
    Ca dao có câu: "Bao giờ đom đóm bay ra. Hoa gạo rụng xuống thì tra hạt vừng", vừa là câu ca, vừa thành nông lịch
    Còn nhà thơ Hữu Thỉnh trong trường ca Sức bền của đất, đã mở đầu: "Đom đóm bay ta hoa gạo đỏ/ Mẹ ở nhà đã cất áo bông/ mẹ có ra bờ sông/ ra bến đò tiễn con dạo trước/ đường xuống bến có mười sáu bậc/ mẹ nhớ thương đã bạc mái đầu...". 
    Tôi đã viết về hoa gạo từ vài chục năm trước, thơ, truyện, tản văn. Nhưng giờ đây, tôi vẫn đầy cảm xúc và muốn viết tiếp về hoa gạo mỗi tháng ba về. 
    Cuối xuân này, tôi và những đồng nghiệp báo chí có chuyến du xuân thăm chùa Nôm ở Văn Lâm, Hưng Yên, vùng quê tôi. May mắn làm sao trúng mùa hoa gạo. Cây gạo cổ thụ trước cổng chùa Nôm đơm đầy hoa, rụng dát đỏ nền chợ, bậc thang lên chùa và thảm đỏ vòm cong mái ngói tam quan. Nhóm chúng tôi, người già nhất ngót nghét chín chục, còn trẻ nhất cũng ngoại năm mươi, ai nấy đều ngỡ ngàng trước quang cảnh kỳ ào này, mà làm nên tất cả là hoa gạo. Già trẻ, ai cũng muốn mình có bức ảnh trong quang cảnh kỳ diệu này. Cảm xúc trào dâng và lan tỏa, thật khó diễn tả và không có gì cưỡng nổi. Vài năm trước, xuân Kỷ Hợi (2019), chúng tôi thăm viếng chùa Thầy, cây gạo cổ trước sân đình Sài Sơn bên chùa Thầy cũng đỏ ối những hoa, soi bóng hồ nước lung linh hình bóng thủy đình... 
    Với riêng tôi, trước cảnh sắc như vậy, chỉ còn biết mê mải lựa góc máy, chon; khuôn hình mà bấm lia lịa, cứ cảm như mình chụp chậm thì cảnh sắc bay biến đi mất, không kịp....
    Về nhà, lựa chọn dăm bức ảnh ưng ý, đăng lên trang cá nhân trên mạng xã hội. Bạn bè vào cảm nhận lia chia, khen tuyệt vời, phổng cả mũi. Có người đùa, hỏi trêu rằng: "Gọi là hoa gạo sao lại màu đỏ nhỉ, đáng ra phải sắc trăng như hạt gạo chứ?". Biết là hỏi đùa, nhưng cũng ớ người ra/ Mà sao bấy lâu nay mình không tự phản biện thế nhỉ? 
    Rồi tự tìm cách lý giải. Trả lời cho bạn, cũng là cho mình. Cây hoa gạo có tên khoa học là Bombax ceiba, thuộc họ Gạo (Bombacaceae). Gọi cây gạo là cách gọi dân dã ở vùng đồng bằng trung du Bắc bộ và bắc miền Trung gồm Thanh Nghệ Tĩnh. Người dân miền núi phía Băc giáp biên giới Trung Quốc còn gọi là mộc miên, theo âm Hán Việt. Còn người dân Tây Nguyên gọi là pơ-lang.
 Tôi nghĩ, sở dĩ, người ta gọi loài cây hoa đỏ này là cây hoa gạo là bởi sự liên quan đến mùa màng. Theo nông lịch và tập quán canh tác lúa nước ở vùng Bắc bộ và bắc Trung bộ, một năm có hai vụ lúa luân phiên. Vụ chiêm xuân tính từ khi cấy sau tết nguyên đán cho đến cuối tháng tư, đầu tháng năm âm lịch là gặt, còn vụ mùa tính từ đầu tháng sáu đến đầu tháng mười âm thì gặt. Như vậy, quãng thời gian phòng cơ tích cốc một năm đủ 12 tháng, chia hai nhưng lệch nhau. Thóc gạo trữ ăn tính từ gặt vụ chiêm đến gặt vụ mùa  (tháng 5 đến tháng 10), chỉ có 5 tháng, còn từ gặt vụ mùa đến gặt vụ chiêm (tính từ tháng 10 đến tháng 5 năm sau) kéo dài những 7 tháng, nên có nguy cơ thiếu đói lương thực. Vậy nên người ta mới tranh thủ lấy chân ruộng cao làm thêm hoa màu vụ đông như như rau củ quả (khoai lang, khoai tây, cà chua, sư hào, các loại đậu ...) để thêm thắt bù vào lương thực thiếu hụt lại có thực phẩm cho bữa ăn. Ngày xưa, thường vào dịp trung tuần tháng ba đến trung tuần tháng tư hàng năm, quãng thời gian được gọi là giáp hạt, nhiều nhà hết lương thực, thiếu đói,... Có lẽ, những cây gạo, thưởng được trồng ở đầu làng, cuối bãi, nơi gò cao, quán xá. bồ sông, bờ mương, đường ra đồng. bừng nở phô  sắc đỏ tươi thắm, những bông hoa gạo to tướng, cánh hoa dầy dặn rung tơi bời dưới gốc, thẳm cỏ, nhắc nhở con người ta đang mùa giáp hạt, hãy gắng chịu đựng thêm chút nữa, rau dưa thêm thắt, chẳng mấy vụ lùa chiêm sẽ chín... Phải vậy chăng, mà người ta gọi loài cây hoa đỏ này là gạo, như một ẩn dụ, một phép tu từ, mang hàm ý cổ vũ, động viên tinh thần ?... 
     Là tôi cứ nghĩ thế thôi !...
    Nói đến cây hoa gạo, không thể không nhắc đến câu thành ngữ Việt "Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề". Ở đây, chỉ kiến giải cái phần "ma cây gạo" mà thôi. Thường thì ở thôn quê, cây hoa gạo hay được trồng ở đầu làng, cuối làng, đến miếu. gò đóng, quán nghỉ giữa đồng, bờ sông... những nơi hoang vắng, gay nhiều cây cối rậm rạp, theo quan niệm dân gian ma tìm đến trú ngụ, ẩn náu. Ma ở đây đều là các oan hồn, lang bạt phiêu dạt, đói khát vì không có người nhận thờ cúng. Tất cả tụ về nơi có cây hoa gạo hòng kiếm ăn. Ấy là quan niệm thế mà nên thành ngữ chăng ?...
    Đấy là chuyện xưa, còn thời nay, công nghệ 4.0,  mỗi mùa hoa gạo nở tháng ba. người ta chẳng còn sợ "ma cây gạo" nữa, mà thi nhau tìm đến chiêm ngưỡng vầng hoa gạo đỏ ối khung trời và thảm bông gạo rụng bời bời sắc đỏ dưới đất. Đẹp ngỡ ngàng, kỳ ảo,...
    Đỏ như hoa gạo tháng ba @... 


tamvanvov
  • Số bài : 807
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Dùng dằng phận cối, nhọ nhem phận nồi - 10.04.2021 16:13:52

CHÍNH DANH GỌI TỄU
( Chân dung nhà thơ Phạm Công trứ )

Ấy là một gã đặc biệt. Đặc biệt người, đặc biệt thơ. Cứ nhìn cách gã đặt tên cho những đứa con tinh thần của gã-các tập thơ là đủ thấy : Lời thề cỏ may I-II-III, rồi Cỏ may thi tập ; Phồn thi I-II và tới đây là Phồn thi III, để hoàn tất thành Phồn tập.
Tôi thì nhất quyết gọi gã là Tễu. Đơn giản bởi tôi thấy gã đã tự họa chân dung mình khá ấn tượng trong bài thơ Tễu :
Cởi trần đống khố múa chơi
Hát rằng, giữa đất và trời có ta
Đất là mẹ, trời là cha
Chính danh là Tễu, tự là Thảo Dân ...
Còn tên khai sinh do cha mẹ đặt cho là Phạm Công Trứ- Tiến sĩ Luật- Nhà thơ- Nhà báo.
Thật khốn khổ cho cái thân gã, sinh ra lớn lên đã phải mang vác những tên tuổi lớn trên thân xác cực kỳ quê mùa của mình.
Thoạt đầu là cái tên. Công Trứ, khiến người ta nhớ đến danh nhân Nguyễn Công Trứ- Doanh điền sứ, nhà thơ và nhà khẩn hoang lỗi lạc của đất Việt thời Nguyễn, đầu thế kỷ 19. Có lẽ cha mẹ gã, những nông dân của vùng đất biển bồi Hải Hậu ( Nam Định ) vốn là những người hiểu biết nên lấy tên Công Trứ đặt cho gã, một để tỏ lòng kính trọng với danh nhân Nguyễn Công Trứ, người đã có công sáng lập ra hai huyện nguyên là vùng đất mới bồi, Tiền Hải ( Thái Bình) , Kim Sơn (Ninh Bình ), hơn nữa, cũng là sự kỳ vọng vào tương lai của gã. Hẳn sau này, nếu tài danh không mấy nổi thì gã cũng có cớ để biện bạch rằng, vị danh nhân kia họ Nguyễn, còn gã họ Phạm.
Khốn nỗi, chẳng hiểu gã có biết rằng, trong lịch sử xa xưa, còn có một người trùng danh tính với gã, song lại rất nổi tiếng, ấy là Phạm Công Trứ, một nhà chính trị danh tiếng, nhà sử học thời Lê, đầu thế kỷ 17. Ông này sinh năm 1600, quê Liêu Xuyên, Đường Hào ( Hưng Yên ), đậu tiến sĩ năm 1628, làm quan to trải các chức Đô ngự sử, Thượng thư Bộ Lễ, Thượng thư Bộ Lại, Tham tụng phủ Chúa, tước Yến quận công, người từng được nhà vua giao trọng trách cùng với cộng sự đương triều sửa chữa và duyệt bộ quốc sử Đại Việt sử ký toàn thư .
Thôi rồi, gã hết đường biện bạch nếu chẳng may sự nghiệp không thành. May thay, gã không hổ danh đội tên danh sĩ, danh nhân, dù thân xác quê mùa, trí tuệ chú Tễu. đã từng và hiện vẫn đứng trên bục giảng của giảng đường đại học mà cao giọng giảng luật học, cũng tiến sĩ và thơ phú như ai, lại thêm cái danh nhà báo, dẫu chẳng dám so sánh với tiền nhân, thì cũng có thể tự hào mà đứng trong trời đất này !...
Tôi biết Phạm Công Trứ khi đã nổi danh với bài thơ Lời thề cỏ may, sau cả khi lấy bằng Phó tiến sĩ Luật từ Liên Xô về, làm việc tại Báo Pháp luật, và còn độc thân. Trứ tuổi Quý Tỵ, tôi tuổi Đinh Dậu, hơn kém những 4 tuổi, song chơi ngang hàng, xưng hô ông-tôi thân mật. Chúng tôi biết nhau nhờ cùng là cộng tác viên của Báo Nông nghiệp Việt Nam. Biết thì thế, song chơi được với nhau lại qua trung gian là Trần Đăng Khoa và Trịnh Bá Ninh ( hiện là Phó Tổng biên tập Báo NNVN ). Tiếng là thân, nhưng không gần. Cứ ai việc nấy, lâu lâu gặp nhau do hẹn hò hoặc tình cờ thì vẫn có chuyện để mà nói. Ngồi với nhau, lúc tại công sở, khi nhâm nhi tách cà-phê nơi quán xá, đủ độ thân để thật lòng chuyện nghề, chuyện thơ văn, chuyện gia đình, chuyện đời... Khi nghe nhau nói, lúc hăng lên cùng tranh nhau nói, một bộc trực to tát, một uyển chuyển nhỏ nhẹ hơn, và chưa bao giờ bất đồng hoặc gay gắt đến phát cáu, đến mức một ai đó phải bỏ đi trước.
Song le, nhắc đến Phạm Công Trứ, thì phải nói đến thơ của gã. Thơ lại dăm bảy loại, Phạm Công Trứ chỉ gắn với thơ lục bát thôi. Thế quả có thiệt cho gã, bởi thơ không lục bát gã cũng có ối bài hay, song người đời đã nghĩ thế, cho là thế, nên đành vậy, thanh minh mà làm gì .
Như một định mệnh, Phạm Công Trứ đến với người yêu thơ bằng lục bát Lời thề cỏ may, rồi cứ đà tiếp mạch nguồn tuôn chảy. Hễ đụng đến lục bát là ngòi bút của gã trơn tru, tung tẩy, uyển chuyển làm sao. Tôi biết, với ngần ấy tập thơ, Phạm Công Trứ đã được nhiều nhà phê bình thơ để mắt, săm soi, và trong số đó, đáng kể là Vũ Quần Phương, Trần Đăng Khoa, Vũ Nho và Chu Văn Sơn. Khen chê đủ mùi, có cả chuyện bảo gã ngồi vào chiếu của Nguyễn Bính. Dẫu vậy thì có sao đâu.
Quả thật, Phạm Công Trứ sở trường về thơ lục bát. Song le, khốn nạn thay cho gã, ngay cái tên đã đội danh nhân lên đầu, đến nghiệp thơ cũng không thoát khỏi kiếp con rùa vào chùa đội hạc ra đình đội bia , phải đội các bậc cao thủ tiền bối thơ lục bát là Nguyễn Du, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu và Nguyễn Bính. Là kẻ hậu sinh, dẫu chỉ bén gót các bậc danh tài tiền bối cũng chẳng có gì xấu hổ. Xét hiện tại, trong làng thi ca Việt mình, chiếu thơ lục bát có mấy người thành danh thì trong số ấy cũng có tên gã. Bốn người ngồi bốn góc : Nguyễn Duy-Lê Đình Cánh-Phạm Công Trứ-Đồng Đức Bốn, mỗi người riêng một vẻ hay.
Chơi với Phạm Công Trứ, cũng thích nhiều bài thơ của gã, tôi đã tự chọn và bình dăm ba bài, đăng báo chỗ này chỗ nọ. Lẽ dĩ nhiên, cũng na ná những bài viết của làng phê bình ta, khen một tý và chê một tý, rồi cộng thêm tham số hy vọng bằng kết quả bài thơ ( tập thơ ). Tôi không thông báo, cũng chẳng kể công gì với gã, song gã để ý và gom góp đủ cả. Lại còn tuyên bố, khi làm tuyển các bài giới thiệu phê bình thơ gã, thì gã sẽ chọn lựa đưa vào. Không rõ đến bao giờ gã mới làm cái tuyển đó? A ha, gã đã vậy thì sợ gì mà không biếm họa chân dung gã ?
Tôi từng viết một bài tạp văn Sân trăng ( in trong tập Lên núi tầm mai - NXB Văn học-2005 ), lấy cảm hứng từ mấy câu thơ của gã: " ... Vợ thì mặt khó đăm đăm/ Con thì ọ oẹ đái dầm cả đêm/ Mình thì ngồi xuống đứng lên/ Trăng thì cứ vãy đầy thêm như trêu ". Tôi gán chàng thi sĩ trong tạp văn ấy vào gã, và còn rủa khéo, bảo gã hãy bỏ cái chốn phồn hoa đô hội mà về quê cày cuốc cấy hái, để rồi tha hồ ngắm trăng. Gã biết, không giận bạn, mà lại cười hiền.
Thoạt trông tướng gã quê quê, lại thêm ẩm ương thơ phú, nhiều người lo không biết gã làm gì ra tiền để nuôi vợ con ( một vợ, hai con - đủ cả nếp tẻ ). Đùng một cái, gã mua đất xây nhà lầu ở Cầu Giấy. Xây nhà rồi, lại còn bắt chước người xưa đặt tên chữ nữa. Thảo am thì quyết không phải rồi, thế thì phải là hiên, hoặc các, lâu chi đó. Kể từ đấy, nhiều bài thơ, gã đề bên dưới là Quan Hoa các, hoặc giả Nghênh Phong hiên, hay Vọng Nguyệt lâu...cho thêm phần nho nhã. Vậy mà Tễu , một kẻ đặc quê mùa và láu cá lại được ra đời từ đấy.
Đa phần người yêu thơ, biết đến Phạm Công Trứ là nhờ Lời thế cỏ may. Hẳn tự thân gã cũng nghĩ vậy, thế nên mới có chuyện gã lấy tên một bài đặt cho cả tập, rồi không những một mà cả ba tập, lại còn thành tên tuyển. Tôi biết, trong cuộc đời, đã có bao nhiêu cô gái sướt mướt chùi nước mắt, bao kẻ ngậm ngùi nhớ về cái thuở " ngồi gỡ lời thề cỏ may ". Song chuyện gió trăng ấy chỉ là những phút thăng hoa ban đầu dễ làm người ta lầm tưởng, thực ra, không mấy hợp cái tạng của gã. Gã là fonklore , gã tưng tửng mang mình ra mà tự trào để rồi bông lơn, trêu ghẹo, châm chọc cả làng, cả tổng, cả thiên hạ.( Đâu kém cạnh gì các cụ Nguyễn Khuyến, Tú Xương cùng quê với gã ). Tôi lại cho rằng, sự nghiệp thi ca của gã là ở trâu với cỏ, là ở Bờm với Cuội, là ở Tễu kia.
Tễu sinh ra ở quê, đích thị nông dân. Ở quê, Tễu là đệ nhất, đếch sợ bố con thằng nào. Vậy nên, Tễu mới " cởi trần đóng khố múa chơi ". Hãy xem cái chú Tễu của gã tự bạch : " Đất là mẹ, trời là cha/ Chính danh gọi Tễu, tự là Thảo Dân/ Gia tài độc một chữ cần/ `Trọng thực thường lấy chữ ăn làm đầu / Bạn thì những chó cùng trâu... ". Nhưng đâu chỉ lầm lụi, hèn mọn, cần lao,Tễu bình thường cam phận là thế : " Ra trận đành phận tốt đầu/ Về làng thì lại cưỡi trâu ra đồng " , song lúc máu yêng hùng nổi lên thì nhất là bét nhé: " Kéo cày đã cực chai lỳ/ Khi giương sừng nhọn hổ thì ngán ta ". Gì thì gì, Tễu vẫn biết và trở về với thân phận giáo trò của mình.
Đấy là Tễu gốc. Biến tướng sang Tễu II , Tễu ta không còn chính hiệu nông dân nữa, mà đã nhuốm màu thị dân rồi. Nghĩ phận mình bèo bọt, cỏ rả " Độc một mảnh vải che thân/ Giấc mơ xuất ngoại đâu phần Tễu tôi ", Tễu đâu tài cán như Trạng tiên tri mà biết, chỉ là chó ngáp phải ruồi, há miệng chờ sung may sung rụng thôi: " Ai ngờ dân dã lên ngôi/ Thế rồi Tễu cùng được ngồi máy bay ". Tễu ta ngồi máy bay, nhòm xuống nhân gian thấy dân làng mình cấy cày vất vả, mới ô hay biết phận mình bấy lâu là thế. Rồi trải đất Tàu trời Tây, diễn trò đồng áng , thảo dân ma lanh hết xứ gà trống đến xứ sương mù, trở về quê, chợt thấy mình không còn là nông dân nữa. Vậy không là nông dân thì là ai ? Là thị dân chứ còn gì. Nhưng muốn thành thị dân thì cũng phải có điều kiện gì chứ? Đơn giản thôi, thì cứ " sống lâu ở phố/ hóa thành thị dân ".
Thế là thành Tễu III, thị dân, kiêm nghệ sĩ. Tễu-thị dân khác hẳn với Tễu-nhà quê hồi mới bén mảng ra phố " Nhà quê khí huyết tràn trề/ Tớ đi rung cả vỉa hè Đồng Xuân ". Thêm nữa, sau lần đầu xuất ngoại, Tễu ta quen mui. Bây giờ xuất ngoại với Tễu không còn là may, đã thành chuyện cơm bữa. Tễu biểu diễn chuyên nghiệp, mặc thì quen với gi-lê , mũ phớt, ăn thì quen xúc-xích, dăm-bông, màn-thầu, sủi-cảo, nói năng thì gút-bai, nỉ-hảo... Đấy là trước đám đông Tây Tàu bộ tịch thế thôi, chứ hễ xong việc trở về, Tễu ta chỉ dễ chịu khi là chính mình, với khố áo , với tre trúc ngõ quê, với ao bèo sân đình, với ối a điệu chèo và câu dân ca não buồn giã bạn đếm trăng.
Tễu ta đành lột xác, song chớ trêu thay, nỗi ám ảnh nông dân bám lấy Tễu, lẽo đẽo theo đi mọi lúc mọi nơi, trung thành và nhẫn nại. Kỳ thực, bước ra với đời thì cũng bộ tịch thế thôi, chứ sâu thẳm cõi lòng, nếp văn hóa làng quê Việt luôn ẩn chứa " Này nước tre trúc lung linh/ Này mây lồng bóng thủy đình gần xa ". Kỳ cùng cho đến một ngày kia, con cháu Tễu tiễn đưa Tễu về nằm lại nghĩa địa làng bằng một đám rước ra trò !... Song trước khi sắp đặt sẵn cho Tễu một kết cục bi hài, hãy xem Tễu ta sống ở phố thế nào, ăn ở với dân khối phố, đối xử với kẻ phường ra sao ?
Tễu ta, thị dân : " Thị dân trong mặc/ Váy áo ngắn dần/ Thị dân trong ăn/ Chán cơm có phở/ Thị dân trong ở/ Nhà ống mái tôn/ Thị dân phát ngôn/ Cám ơn! Hân hạnh/ Thích coi phim ảnh/ Thuê đĩa xi-đi/ Muốn uống cà phê/ Quán vườn mờ ảo/ Rất chăm đi dạo/ Vì ngại bụng to/ Cần gọi xích lô/ Thì ra đầu phố/ Thuê một tốp thợ/ Cứ đến chợ người/ Cả đến khóc cười/ Cũng có dịch vụ ...". Mọi việc dễ ợt, như là lẽ đương nhiên. Ở quê khó hơn nhiều.
Quanh đi quẩn lại, Tễu thấy mình chỉ có thể về quê, đánh bạn với trâu. Đấy là con vật luôn gần gũi, thân mật với mình, buồn vui chia xẻ cùng mình. Tễu nhận mình là Thảo Dân. Trâu lại là bạn của thảo dân : " Từ ngày về với thảo dân/ Trên thừng xiên mũi, dưới chân lội bùn/ Trưa hè nước bỏng như đun/ Chiều đông sương muối rét run từng hồi/ Vụ năm cho chí vụ mười/ Hạt vàng người hưởng, rơm mời trâu ăn/ Lòng riêng thoáng chút lăn tăn/ Vẫn thề đi với thảo dân trọn đời ".
Xin được nhắc lại, gã biết tuốt song giả ngây giả ngô, tưng tửng, chất chưởng, chẳng ngại gì và cũng không ngán ai . Thấy chướng tai gai mắt là phê, là trào lộng. Bây giờ thì gã quen với cái giọng điệu này rồi. Châm chọc, chê bai rồi gã cười. Cười chán cười chê, cười đến trào nước mắt. Rồi gã giật mình, tỉnh ngộ. Lại buồn, lại hoài cổ, hoài quê... Thân phận gã đâu khác thân phận Tễu kia chứ ?!
Khi ngồi với vài ba bạn bè thân mật, lúc ngồi riêng với tôi, Phạm Công Trứ không tiếc lời khen chúng bạn, rằng ông này nhàn, cậu kia thì sướng, tay nọ khôn ngoan...chỉ riêng gã là khổ. Cơ khổ. Rằng cái mặt gã ... ý muốn nói là khó coi, khó chơi, hãm tài ... ! Có phải vậy không ? Có lần tôi giở trò chữ nghĩa suy luận, mang tên gã ra chiết tự mà đoán : Trứ , có nghĩa là sự rõ ràng, còn chỉ sự soạn thuật, làm văn, làm sách ( theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh ), chữ này bao gồm chữ giả và bộ thảo đầu. Giả ở đây là chỉ người ( như học giả, hiền giả ), còn bộ thảo chỉ cây cỏ . Vậy là kẻ đội tên Trứ muốn thành giả ( như tác giả thi ca chẳng hạn ) là phải nhập vào cây cỏ. Chẳng trách, thoạt đầu gã thành danh là nhờ cỏ may. Rồi để nổi tiếng hơn lên, gã phải gắn với trâu, với cỏ, rồi hóa thân vào Bờm, vào Cuội, vào Tễu, toàn những loại gần gũi thân thuộc với thôn xóm, với chuyện cỏ rơm và công việc nông phu.
Phạm Công Trứ nghe. Gã gật gù cười ra chiều tán đồng, lại như nghi ngờ. Thì cũng là chuyện vui thôi mà. Định viết thêm về gã, song thấy chẳng hơn gì gã tự bạch rất ngắn gọn : " Đúng là/ Hồn gửi ngõ quê/ Xác chôn hẻm phố/ Chưa giây phút thăng thiên/ Đã đôi lần thất thố/ Nhờ câu thơ làm tin/ Lấy đức năng thắng số/ Sớm muộn trời gọi mình/ Việc chi mà lo sợ ".
Không những thế, ở phần V bài Thơ phú giao duyên , gã thẳng thắn tự giễu cợt mình : " Nửa kim nửa cổ/ Dăm câu trần tình/ Vừa thơ, vừa phú/ Chắp nhặt linh tinh/ Nếu có điều gì/ Xin được lượng thứ/ Hoặc nữa : chấp chi / Hắn-Phạm Công Trứ ! ".
Gã đã chơi bài ngửa, trắng phớ trước bàn dân thiên hạ.Trước tiên, gã lấy bản thân ra mà châm biếm cái đã ( kiểu như cụ Tú Xương, người cùng quê Nam Định với gã, tự rủa mình là kẻ cao lâu thường ăn quỵt, thổ đĩ lại chơi lường, rồi mới xỏ đổng thiên hạ ; hoặc như bạn thơ cùng thời là Trần Đăng Khoa, trước khi chê cả làng văn chương thì hạ mình tự nhận là kẻ vô tích sự ). Đến ngay cái thân mình cũng chẳng buồn nương tay, thề thì thương xót và nương nhẹ ai đây ?!...
Giờ thì gã đã nghỉ hưu. Riêng cái nghiệp làm thơ thì không nghỉ được, bởi nó ám vào thân rồi. Thi thoảng vẫn thấy thơ gã xuất hiện ở đâu đó. Mỗi dịp tết nhất, thơ gã vẫn bán đắt cho một số tờ báo lớn. Đủ thấy, tên tuổi gã vẫn có giá...



tamvanvov
  • Số bài : 807
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Dùng dằng phận cối, nhọ nhem phận nồi - 02.05.2021 19:07:21
Như sóng đập bờ đá ngàn năm.
Truyện ngắn của Nguyễn Chu Nhạc
Ở tuổi này khi ta được trần như nhộng và tại cái giây phút ấy, rất bất ngờ ta chợt nhận ra rằng tất tần tật những ngày tháng trước đó của ta cũng đã tuột trôi vĩnh viễn vào quá khứ; và một thế giới mới mở ra như xà lim phòng tối không hề ánh sáng!
- Đời như sóng đập bờ đá ngàn năm
- Tưởng tượng và ngẫm rằng: ta vừa thoát ra khỏi phòng tối sau một tháng trời cầm giam (thử xem...) - ta không thể nào nhận nối ra chính ta - ta đã thành người khác !… Cái đêm thứ năm tuần mới rồi mà hôm nay mới là thứ hai đầu tuần, bật thức và chưa tỉnh hẳn sao ta lại nghĩ đến chuyện khua bàn phím? 
Chỉ tại cái đêm thứ bảy ở Điền Lư ...; cái đêm cám sáng giật mình tội lỗi khi bước chân vào toilet lúc tinh mơ – trời ạ, bao nhiêu là xac chết thiêu thân... cả những thân tàn xác dại côn trùng vô thức ấy đang rẫy rụa rụng cánh nơi chân tường lạnh bẩn kia… Vâng! Chỉ tại ta thắp bóng sáng qua đêm… Ta đâu có nghĩ cửa sổ mở thoáng khí trong nhà vệ sinh… Cũng chẳng nghĩ quy luật sinh tồn, quy luật đào thải tự nhiên này nọ
Ôi ánh sáng nhân tạo… Ánh sáng của con người mà; ta là một dạng ánh sáng ấy ư(?)
Ôi ! Cái đêm Thứ Năm ấy; Sao em lại đến với ta …và nóng bỏng như vậy?.
         Ta chợt nghĩ rằng nếu ta có được năm mươi năm ở tù thì mình cũng trùng khớp ý nghĩ và khát khao của thằng già tù khổ sai kia! Đừng cho ta được mãn hạn khi ta không muốn ra ngoài; ta rất không muốn được sống trong ánh sáng phát minh của con người,
Chỉ mới một đôi lần cảm sáng như trên mà sao ta cứ quẩn quanh nghĩ ngợi lung tung như vậy.
Ta quả đúng không phải là thức dạng loại ánh sáng nhân tạo ấy! Em đừng lao vào ta như thế…Ta thật tâm xin em hãy cùng nghĩ như ta rằng cứ tồn sinh mà vui sống trong thứ ánh tự nhiên của trời đất như Hàn Thi-sĩ ngợi ca rằng Trăng là ánh sáng mãi thơm thơm và ngọt ngào. Em đây cũng là thứ ánh sáng ngọt ngào thơm thơm. Hãy cho ta thưởng hưởng từ xa…
Ta hứa yên tâm thụ hưởng… Một đời!...
Lão viết những như thế trên trang của mình ở mạng xã hội, khi lão ngồi lì cả tiếng đồng hồ trong toilet bởi căn bệnh táo bón cố hữu. Tối hôm trước, trong trạng thái bâng lâng của rượu, lão chát với người bạn gái vứa mới quen thì cô ả chỉ yên lặng trân trối nhìn cái đầu bạc như cước và cái miệng dẻo quẹo của lão hót như khiếu. Chán, lão ngủ trong cơn mộng mị. Choảng tình lúc hơn 4 giờ sáng. Lão vớ máy chát với cô ả, Hình như thị cũng không ngủ được, nhìn lão bằng cặp mắt thâm quầng, bợt bạt thiếu son phấn, không lên tiếng ngoài chút ầm ừ trong cổ họng. Lão thì thào dỗ ngon dỗ ngọt một hồi với cái hình chập chờn của thị trong màn hình, cho đến khi người bạn văn ngủ cùng phòng khách sạn trở mình càu nhàu "Bác có cho em ngủ không đấy?". 
Lão cụt hứng, tắt máy, tự nhiên thấy mót đại tiện,...
***
Chốt cổng cận thận. Dắt chiếc xe máy tay ga vào nhà. Bật điện sáng choang. Thấy lão vẫn ngơ ngác, ngó nghiêng nhin quang cảnh nhà vườn, thị giục lão:
- Kìa anh, vào nhà đi chứ. Đứng đấy để người ta thấy à. 
Lão như cậu bé con, bẽn lẽn bước vào nhà, cười biết lỗi. Thị khép cửa, chốt khóa, cẩn thận kiểm tra. Lão đứng giữa nhà, nhìn quanh quất, chưa biết phải làm gì. Căn nhà ba gian, ngăn nắp gọn gàng, một gian chia buồng, hai gian trống, giũa để thờ, gian bên để giường được ngăn cách bằng ri-đô. Kiểu nhà thường thấy ở nông thôn. Thoàng chút chấn chừ, thị tay nắm tay lão, tay kia mạnh dạn đặt lên vai lão, đi giật lùi dìu đến chiếc giường bên, thoắt trở người, ấn lão ngồi xuống mép giường. Thị ập vào ngồi lên hai đùi lão, vít đầu lão hôn cuống quýt tràn mặt lão. Lão thụ động, chiều theo, đầu thoáng nghĩ, cả đời lão từ trẻ trai đến tuổi thất thập lẻ, dày dạn tình trường nhưng chưa một người đàn bà nào lại chủ động táo bạo nhu thị với lão lúc này... Lão đảo mắt quanh, ý bảo thị là đèn nhà sáng choang thế không ngại à. Thị hiểu ý bảo:
- Cứ để đèn sáng... mới chập tối mà tắt đèn, hàng xóm họ nghi.... Với lại, lâu lắm rồi... em thèm nhìn thân thể của đàn ông...
Thị đẩy lão nằm ngửa xuống giường, khi lão còn chưa hết ngạc nhiên. Lão mò lên tận đây, thị ra điểm hẹn đón lão đưa về nhà thị, chốt kỹ cổng cửa, vật ngửa lão xuống giường, đương nhiên cả hai đều hiểu họ sẽ làm gì với nhau, nhưng sấn sổ thô bạo cỡ này thì lão mới thấy lần đầu. Lão nhe răng ngô nghê, hai chân còn vắt xuống đất, trân trân nhìn thị vội vàng cời bỏ áo quần trần truồng áp sát, tỳ hai chân thị vào hai chân lão. Lão ngắm thị lõa thể, như bức tượng thạch mĩ nữ lão từng thấy ở viện bảo tàng trong một lần lão đến Paris. Tự nhiên lão ớn người, cứ nguyên quần áo thế, bởi lão sợ mình không nên trò trống gì. 
- Kìa anh,... sao thế ?...
Thị nhắc lão bổn phận của mình. rồi không ngần ngại, thị cởi bỏ quần aao của lão. Lão làm theo như một cái máy. Khi trên người không còn mảnh vải, lão chợt nhìn những vết nhăn nheo điểm những mảng thâm đen di chứng xuất huyết dưới da, ngượng nghịu. Thị xoa khắp người lão, dỗ dành như dỗ trẻ con "Không sao đâu anh". Lão nhìn xuống bộ hạ của mình, cứ gật gù như gà bị cắt tiết, không ngỏng lên được, 
- Anh xin lỗi,...
- Để em giúp... tuổi như mình thế này là khá lắm đấy... Nào, từ từ thôi mình,...
Tay thị mân mê, xoa nắn bộ hạ của lão. Người lão nóng dần lên. Lão lập bập hôn từng bầu ngực thị. Vú thị kiểu bánh dầy, nên ngoại năm chục vẫn không bị chảy sệ, cương lên như vú con gái. Môi lão đánh vật với cặp vú bánh dầy một hồi, lão hăng hái lên, khiến đôi tay thô xương gân của lão nhậy cảm hơn, linh hoạt xoa lưng và phàn dưới của thị. Khác mọi lân, khi hăng tiết vịt, lão nổi máu yêng hùng làm chủ cuộc chơi, nhưng lần này lão lặng lẽ cam chịu để thị làm chủ dẫn dắt, bời lão biết, nếu mình không biết kiềm chế cảm xúc, lão sẽ nhanh tiết dương và như vậy cuộc chơi sẽ mãn nừa chừng, thị chưa tới đỉnh thì coi như lão thất bại thảm hại. Và như vậy, lần gặp đầu tiên sẽ là lần gặp cuối cùng của hai người... Lão thả lỏng, đầu óc thư giãn, mặc thị nắn bóp, cấu véo khắp người lão... Thị hực lên ngồi trên người lão chúi người, tự tay cầm cái chuôi búa cứng của lão chà vào lõm giữa hai bầu vú của thị một hồi, rồi ấn vào cái của thị. Lão nhìn lên trần nhà, đưa mắt tìm kiếm xem có cái mạng nhện nào không. Còn thị cứ oằn oại trên bụng lão, cố nén tiếng rên khoái cảm, song nó vẫn bật ra ứ hự... Cho đến khi, thị mệt nhoài, đổ ập xuống dán vào người lão, mặt áp mặt, thị thè lưỡi đấu vào lưỡi lão... và thầm thào kêu sướng quá... Lão nhoẻn cười, tinh quái nghĩ, thị đã bại dưới tay lão....
Lặng ắng chút. Lão nghe rõ tiếng thị thở mệt, nhịp thở của sự thoải mãn. Cả tiếng đập của tim thị lão cũng cảm nhận được thấy sự thỏa mãn. Chợt thị nhỏm phắt dậy, nhìn chằm chằm vào mặt lão, rồi nhìn xuống bụng dưới của mình, ngạc nhiên thấy cái cán búa của lão vẫn cắm sâu vào cái của thị...
- Ơ, anh vẫn chưa... sao à ?
- Sao là sao?... 
- Của anh vẫn y nguyên như ... chưa ấy....
- Thì y nguyên... ý em là... anh bị em dứt mất rồi à?...
Lão cười trêu thị. Thì ngồi xuống bên lão, vẫn giữ lão nằm ngửa, tay vuốt ve cái cán búa còn cứng của lão... khẽ cười,
- Ôi... của anh thật tuyệt,... Tuyệt quá, anh ơi...
- Em muốn nữa không ? Anh chiều,...
- Thôi anh... Em mệt... với lại, cũng sướng lắm rồi.... Để dành... còn cả đêm nay nữa mà anh... Giờ ăn cái đã. Em đói ngấu rồi... Chắc anh cũng đói,...
Thị vùng ra, mặc quần áo nhanh như lúc cởi ra. Lườm yêu lão, thị giực:
- Mặc quần áo nghiêm chỉnh đi anh. Đợi em mươi phút, em hâm nóng thức ăn rồi mình ăn, anh...
Lão mặc quần áo, vô tình để mắt vào tấm ảnh chồng thị trên bàn thờ, và lúc này lão mới cảm nhận được mùi hương nhang mới thắp... Dù đang lúi húi bên bếp, thị vẫn cảm nhận thấy, bảo:
- Anh ấy nhà em mất đã dăm năm nay, em cũng thờ chồng chăm con ngần ấy năm chu toàn... Giờ các cháu đã trưởng thành, cả ba đứa đều có gia đình, có công ăn việc làm cả... em mới dám nghĩ... này nọ... Chiều nay, được tin anh lên,... em sửa cái lễ khấn xin anh ấy thương tình lượng thứ cho... 
Bữa ăn được sắp ra. Hai người đối ẩm, nhấp chút rượu thuốc. Thị gắp thức ăn bỏ bát lão, giục ăn. 
- Rượu bổ thận tráng dương đấy... Ạnh uống đi... Dạo trước, anh nhà em yếu xìu, em phải tìm thuốc cường dương ngâm tẩm bổ cho anh ấy... dưng mà. chẳng ăn thua gì... Từ ngày anh ấy bỏ em mà đi, em bê cất luôn vào buồng kín... đã có lúc tính bỏ đi... nay vừa lôi ra đấy... Em biết, anh chẳng cần rượu bổ cũng hoành tráng lắm rồi....
Thị cười lục khục trong cổ. Lão vênh mặt tự đắc, cười kẻ chiến thắng. Thị có biết đâu, trước đó, lão đã ngầm uống mấy viên thuốc trợ lực đông y lão vẫn quen dùng mà bà vợ bác sĩ của lão kê cho, mỗi khi phải lâm trận
Thị luôn tay gắp thức ăn bỏ vào bát lão. Lão nhai, trệu trạo như bò nhai cỏ khô. Chẳng thấy ngon gi, chỉ thấy khát. Thị ăn chiếu lệ, buông bát, bảo:
- Anh cố ăn đi mà lấy sức... Em đủ rồi... nhìn anh đã thấy no... Chỉ thèm mỗi...của nợ anh thôi,... - Thị bụm miệng cười,...
***
Bàn ăn dọn đi. Hai người ngồi uống nước. Lúc này, lão mới ngắm kỹ gương mặt thị. Thị không xinh nhưng khuôn mặt dễ ưa với cách trang điểm nhẹ. Ở tuổi ngoài năm mươi, thị vẫn giữ được dáng người thon gọn. Trước đấy vừa đùng một tuần, hai người mới lần đầu làm quen với nhau qua ứng dụng hẹn hò của một mạng xã hội. Lão làm quen với ứng dụng này nửa năm nay, cũng đã thả tìm, tán tỉnh, à ới với vài ba người đàn bà nạ dòng, cao tuổi hơn thị, nhưng chằng đi đến đâu. Dẫu thế, lão có chút từng trải với loại hình mới này/ Còn thị, thị bảo, bạn bè bày cách nhưng thị ngại, sợ con cháu biết chê trách, sợ phiền hà này nọ, sợ hàng xóm làng giềng cười nhạo. Chồng chết dăm năm nay, thị nghĩ mình cũng đâu trẻ trung gì, an phận thờ chồng, giữ gìn không điều tiếng gì. Giờ hẹn hò kiểu này, chỉ là mốt thời thượng, đú theo đám đàn bà rửng mỡ, ngộ nhỡ sao thì mất toi công nênh "tiết hạnh khả phong" bấy lâu nay,  sao đành,... Nghĩ thế, nhưng rồi sự tò mò, bản năng lấn át, thị vào trang hẹn hò... Trong số hàng chục nhân sự dược hệ thống gợi ý, thị xem kỹ hình ảnh, giới thiệu tóm tắt, rồi quyết định thả tim cho lão. Thực tình, đã có vài ba người thả tim cho thị nhưng thị không đáp lại. Sở dĩ thị chủ động chọn lão, bởi lão có mái tóc bạc như cước, và khuôn mặt góc cạnh, đàn ông, vẻ cương trực, quyết đoán. Thị bị hấp dẫn bởi mẫu đàn ông như vậy, bởi cả đời thị đã phải sống với người chông bạc nhược, thụ động từ công việc đến chuyện tình dục. Thêm nữa, ở phần tự giới thiệu về mình, lão còn đề từ câu thơ "Đời như sóng đập bờ đá ngàn năm/ nhưng với em ta chẳng bao giờ nhàm chán/ dằng dặc đường đời dẫu bước chân ta nản/ em luôn kà bến đỗ của đời ta...".  Ôi, đọc và ngẫm nghĩ. thoạt cớ gì đó hơi sến, nhưng rồi mường tượng, thị thấy con người này ẩn chứa sự thú vị. Qua vài lần tâm sự, thị bị lão hấp dẫn, bởi những ấn ý trong mỗi lời lão nói, thật thật, ảo ảo, đầy khơi gợi. Thuận lợi nữa, tuy lão sống ở thủ đô, nhưng quê lão gần ngay quê thị, ngày nhỏ cùng uống nước một dòng sông, và lão cũng hay đi về. Nếu nên cơm cháo gì, cũng tiện đôi đường...
Mới đầu tuần, lão nhắn sẽ lên thăm thị. Thị thách, lão bảo "chớ thách nhà giàu húp tương". Thị hẹn đại cho xong, nhưng lão đến thật thì sao, bèn dặn, có đến thì cứ giữa tuần, bởi cuối tuần, con gái lờn thị lập gia đình sống ở thành phố, con gái út học đại học ở chung với chị, con gài giữa cùng gia đình nó sống ở thị xã, thường cuối tuần, thay nhau, có khi cả ba cùng về quê thăm mẹ. Phiền lắm. Hẹn đại, song thị cũng có ý chờ. Mấy ngày thị chẳng làm nổi việc gì cho ra hồn, tâm trạng ra vào mong ngóng, đợi chờ, rồi tự giễu mình vớ vẩn .... Sớm ngày thứ năm, khi thì còn oằn oài chưa muốn dậy bời đêm qua, đợt gió bắc cuối mùa, rét Nàng Bân, thì lão gọi, bảo lão ra bến xe về quê, chiều viếng đám hiếu người chị họ xong, lão tiện đường tìm nhà thăm thị, cần thị chỉ đường cụ thể. Đột ngột, thì từ chối thì lão bảo, sẽ lật tung cái xã nhà thị để tìm, thì chịu thua, dặn là, khi nào lão xong việc, alo, thị chỉ điểm hẹn gần đấy rồi phi xe ra đón. Thị vùng dậy, ra chợ, mua thực phẩm ý thức làm cơm đón lão. Bữa trưa, tiện bếp thị nấu nhiều hơn mọi khi, dành riêng thức ăn cho bữa chiều, ăn qua quít cho xong. Nằm ngả lưng mà chẳng sao ngủ nổi vì hồi hộp. Cả chiều, nghĩ quanh ra quẩn vào, vưa mong ngóng vửa mở tủ quần áo, lựa chọn ra mấy bộ. nhẩm tính, bộ nào mặc khi đi đón lão, bộ váy nào mặc ở nhà sao đẹp và gợi cảm. Chiều muộn, chưa thấy lão gọi, thị sốt ruột mấy lần bấm máy định gọi cho lão, nhưng ngại lại thôi. Lão không đến được cũng tốt thôi, vì thực tình, thị ngại phiền hà. mang tiếng. Lúc lão gọi. thị hơi hoảng vì trời còn sáng. Thị chỉ điểm đợi, dặn lão ở đấy thêm chút nữa, đợi trời nhá nhem tối. Khi nào thị bắt đầu đi đón thì nhắn để lão đi bộ ra là vừa. Thị trang phục kín mít, đeo kính đen, khẩu trang kín mặt, như ninja, phi ra điểm hẹn trong sự hồi hộp phấn khích. Dọc đường, thị quan sát ngõ lối và có ý tránh giáp mặt người quen. Gần đến điểm hẹn. thị thấy người đàn ông cao tuổi đứng đó, áo sơ mi hoa, khoác ngoài gi-lê kiểu ký giả, tóc bạc. kính đen. Thị nhận ra lão ngay, giảm ga rà xe máy tới gần. Lão cũng nhận ngay ra thị, hời "Có phải Lụa không em?". Thị mừng: "Vâng, em đây... anh ". Thị chụp chiếc mũ bảo hiểm lên đầu lão, cuống quýt giục lão ngồi lên xe, phóng nhanh đi. Dọc đường, lão hỏi han, thị bảo, đợi về nhà hãy nói, bởi thị còn tập trung quan sát đường, né nguồi quen. Thị không muốn bất cứ một ai trông thấy thị chở một người đàn ông lạ mặt dù đầu bạc trắng về nhà. May ngõ nhà thị gần đường, lại đúng tầm các nhà đang bữa tối, nên không gặp ai. Chốt cổng xong, thị thở phào bớt lo. Chuyện vụng trộm nên khổ thế....Tự nhiên, thị thấy rực người thèm muốn xác thịt... Bao kìm nén bấy lâu vỡ bục ra, lan khắp người, dâng đắng họng, ngợp thở ...
***
Tiết cuối xuân, đầu hạ, lại đợt gió mùa vớt nên trời se lạnh. Chuyện vãn một hồi. Lão quen chứng nói to vì nghễnh ngãng, khiến nhiều lần thị phải nhắc khéo hạ bớt volume bời sợ hàng xóm nghe thấy. Thị cẩn thận kiểm tra khóa cổng, cửa lần nữa, thắp nén nhang mới trên bàn thờ, rồi trở vào buồng trong. Lát bước ra diện chiếc váy ngủ màu xanh ngọc, ngượng nghịu. Lão ngắm thị đắm đuối. Lúc chập tối, hai người mải bập vào nhau, vội vàng quần thảo nhau nên lão chưa kịp ngắm kỹ. Giờ lão thấy thân thể người đàn bà ngoại năm mươi, mẹ của ba đứa con gái, bà ngoại của mấy cháu này vẫn hấp dẫn lắm. Da thịt trắng trẻo, béo lẳn, đang độ hối xuân rừng rực, cảm giác như gái nạ dòng tứ tuần thôi. Thị tắt đèn phòng ngoài, dắt lão vào buồng ngủ. Của phòng ngủ vừa khép, lão đã vòng tay ôm riết thị vào lòng, hôn hít từ tung. 
Lần này, lão chủ động, còn thị thả lỏng, hưởng thụ, mặc kệ lão. Đang cơn đê mê, thị chợt nghĩ, hăng quá không khéo chưa đến chợ lão đã hết tiền. Thôi thì cứ phương châm "năm xu hơn một hào" cho chắc ăn, bèn khẽ đẩy lão ra, nhắc khéo:
- Từ từ thôi nào... đêm còn dài mà, anh... 
Lời thị khiến lão tỉnh táo. Cả hai đứng sát người, giúp nhau cởi bỏ quần áo. Lão hà hít cảm nhận mùi nước hoa, mùi da thịt đàn bà lạ từ chăn nệm... Thị nằm ngửa, khẽ dạng cặp đùi, lim dim mắt tận hưởng sự vuốt ve của lão. Chợt nhớ, lão hỏi:
- Sao ban nãy, em khéo thế?... Anh tưởng đầu hàng... vậy mà em làm cho súng ống của anh ngỏng nòng được... lại dai... mãi không thèm nhả đạn nữa chứ... Oách.
Thị cười không thành tiếng, khuôn mặt rạng lên, ửng hồng. Tự nhiên, lão không ưa cái vẻ mặt đầy vẻ tự đắc của thị, và cảm thấy mình yếu thế:
- Em có vẻ thành thạo nhỉ?... Này em, anh là người thứ mấy của em rồi?...
- Sao anh? ... Ý anh là... em là loại đàn bà nay người này... mai kẻ khác?...
Thị nhỏm phắt dậy, hất tay lão khỏi người thị. Mặt thị hiện vẻ hằn dỗi. Lão biết mình nhờ lời:
- Ý anh không phải thế... là anh... khen em giỏi tâm lý ấy mà... Đừng hiểu sai thiện ý của anh... Thôi mà, anh ngàn lần xin lỗi ...
Lão chủ động làm lành, vòng tay ôm ghì lấy thị, bịt miệng thị bằng một cái hôn, rằn thị xuống, chồm lên người thị, phủ dụ bặng một trận hôn hít từ trên xuống dưới, loanh quanh một hồi, lại từ dưới lên. Thị rên lên sung sướng. Chợt thị vùng dậy...
- Khoan đã anh... đợi em chút đã,...
Thị với tay, mở ngăn kéo, lấy viên thuốc, bỏ miệng, chiêu nước uống... Cười.
- Em phải uống thuốc tránh thai cấp kỳ... tháng em vẫn đều... Cứ phòng thế cho chắc... ngộ nhỡ ễnh bụng ra thì chết... biết giải thích thế nào với con cháu... Điện nước đầy đủ cũng phiền hà thế,...
Lão chỉ biết nhìn thị cười nhăn nhó. Nhưng cũng may, sự giảm hưng phấn làm cho lão kéo dài cuộc chơi. Cả hai lâm trận, vầy vò, vật lộn nhau, lên xuống, xuôi ngược đủ kiểu, chăn đệm nhàu nát, mình đẫm mồ hôi, cho đến khi thị cong tớn người, ằng ặc, có kìm nén để không rú lêm. Lão rền rứ, vào ra chán, rồi dồn toa hùng hục liên hồi kỳ trận, rướn người, hổn hển, từ từ ập dán xuống người thị, nẳm im... Thị cũng lịm đi... 
- Anh... anh ơi... em chưa bao giờ thích như thế này... em biết ơn anh nhiều. nhiều lắm...
Lão vẫn nằm im, bất động trên người thị. tận hưởng cái sự thì thào bảy tỏ cảm xúc và lòng biết ơn của thị... Cũng lâu rồi, lão mới thống khoái như thế...
- Anh, anh ơi... anh mệt à... anh có sao không?
Nghe giọng thị có vẻ lo lắng, lão định giả vở xỉu để dọa thị, nhưng nghĩ lại thôi. Làm vậy thị sợ, nhỡ đâu thị hoảng rồi cụt hứng luôn thì toi cơm cháo...
- Không... không sao, em... là anh muốn nghe em nói thôi... Em nói hay quá... hay như đài ấy... - lão hài hước để thị bớt lo.
Lão nằm xuống bên cạnh thị, ấp người vào nhau. Lão cảm nhận chiếc lưỡi mềm ướt của thị lướt khắp mặt lão. Thị khẽ sụt sịt khóc vì sung sướng hạnh phúc. Cái giống đàn bà đến lạ, chỉ một cuộc làm tình cao trào thỏa mãn mà đã thấy hạnh phúc rồi. Lão nghĩ vậy, hỏi thị muốn nữa không. Thị cười, đụng nhẹ cái cái cán búa của lão đã mềm oặt bảo:
- Chỉ tinh tướng thôi, bố già của em ạ... Em đùa đấy, anh vừa mới, mệt chết... ngủ chút đi anh. 
Lão nịnh, bảo muốn nghe thị nói. Thế là thị kể, chồng thị trước đây sớm bệnh tật, dăm năm trước khi mất, sinh lý yếu lắm, ngại quan hệ với vợ Mỗi lần thị muốn, lại phải dỗ dành, trợ giúp đủ cách anh ta mới làm tình được chút Cứ vậy, thị đâm thành thạo cách vỗ về thằng nhỏ, chứ nào thị có biết người đàn ông khác ngoài chồng. Cho đến giờ duyên tình xui khiến thế nào cho thị gặp lão... Lão an ủi, giờ lão sẽ đền bù cho những thiệt thòi tỉnh cảm của thị những năm tháng qua. Thị cười biết ơn, ấn ngón tay vào trán lão đay:
- Nhớ đấy nhé...nói lời chớ có nuốt lời... Em sẽ cho anh biết tay. Em sẽ nuốt chửng anh... Nhưng mà, anh ơi... mình xa cách nhau thế này,... Anh đến đây với em là cả một sự phiền hà? Mà em thì chẳng dám về thành phố thăm anh đâu... Em sợ lắm... Lại còn vợ con anh chứ... Em thế này là đi cướp chồng người rồi đấy... 
Lão bịt miệng thị, xưa đi nỗi băn khoăn lo lắng của thị bằng một trận hôn túi bụi. Lão mút hai bầu ngực trắng ngần của thị như trẻ con khát sữa. Lão nâng đầu thị gối lên vầng ngực vẫn còn khá rắn chắc của mình. Lão mơ màng. Tự nhiên lão nhớ Tú Trinh. Mới chỉ mấy tháng trước thôi, lão cũng để nàng ta gối đầu vào ngực lão thế này...
***
Lão tình cờ biết Tú Trinh từ dăm năm trước, khi dự một đám cưới ở quê. Cưới đứa cháu gọi lão bằng ông, bố mẹ nó nằn nì nhờ lão dẫn chương trình lễ cưới, mà việc này là sở trường của lão. Ngoài khả năng ứng biến, lão hay cao hứng trích dẫn thơ tình của mình, của bạn bè mình vào những tình huống hợp lý nên nhiều người thích. Tan cuộc, có một nàng cỡ tứ tuần gặp lão, tự giới thiệu, làm quen, khen lão nói hay. Lão phổng mũi, tán dương nàng này nọ, rồi xin số điện thoại của nhau. Cô nàng nhan sắc bình thưởng nên lão không mấy để ý. Tưởng vậy thôi, không ngờ sau đó ít lâu, nàng ta nhắn tin cho lão. Nhắn qua nhắn lại, thành thân nhau. Thấy nàng bảo yêu thơ, lão bèn lập cho nàng trang cá nhân trên mạng blog, và còn chỉ dẫn nàng vào trang của nhà thơ này, nhà văn nọ là bạn mạng xã hội với lão. Nàng tập tọng làm thơ, lão chỉnh sửa giúp để nàng đăng trên trang của nàng. Một ngày đẹp trời,  nàng bày tỏ tình yêu với lão. Nàng là chủ một doanh nghiệp nhỏ, thuộc một doanh nghiệp lớn. Chồng nàng làm việc xa nhà, năm đôi ba lần đáo qua. Lâu ngày, chán nhau, li thân. Đứa con gái duy nhất của nàng sống với mẹ nàng là chính bởi nàng cũng đi suốt. Tình cảnh nàng vậy nên lão cám cảnh sinh tình, bời kinh tế khá giả đấy, nhưng đời sống tình cảm, tình dục thiếu thốn. Rồi một lần, lão nhận cú điện của nàng, hẹn lão đến gặp nàng tại một khách sạn hạng sang cách nhà lão không xa. Lão tìm đến và hai người lao vào cuộc mây mưa long trời lở đất. Nàng khát thèm lâu ngày còn lão say tình mới. Cứ thế, lâu lâu một trận theo tần suất công việc của nàng ở thành phố, thành bện hơi nhau. Cuộc tình vụng trộm nhát gừng kéo dài mấy năm nay. Lão ít nhiều nhàm chán, có phần mệt mỏi, và cảm thấy sợ sự đòi hỏi xác thịt quá mức của nàng. Nàng đang độ chín của tình dục. Mỗi lần gặp nhau, nàng chuẩn thị thuốc tăng lực cho lão, quần thảo lão lên bờ xuống ruộng. Sau một lần như vậy, lão mệt bã người cả tuần mới hồi sức. Nàng cảm nhận được điều đó nên có lần nàng an ủi bảo là nàng đã bóc lột tình dục lão. Lão nổi máu yêng hùng bảo không sao. Nàng cón muốn lão phải có một vài bài thơ nửa kín nửa hở bày tỏ tình yêu với nàng đăng trên trang của lão...  Lão chiều hết, nhưng cảm xúc và sức lực có hạn. Gần đây, nàng công du châu Âu và mắc nạn dịch Covid may mà không sao, thoát được về. Khi gặp lại, nàng như hổ đói lâu ngày, ngấu nghiến ăn gỏi lão. Lão cạn kiệt, ý nghĩ chợt thoáng. nếu mình thoát xác trên bụng nàng thì sao nhỉ? Mình thì chẳng sao, chó chết hết chuyện, nhưng vợ con mình hẳn chịu tai tiếng... Lão chùn nhụt, nhất là khi nàng nửa đùa nửa thật, rủ lão theo nàng ra nước ngoài...
Vài tháng thôi, giờ đây lão đã du ngoạn đào tiên với người đàn bà khác. Nghĩ, đàn ông tệ bạc thật. Nhưng đàn bà thời nay, cũng đâu có kém cạnh gì. Ngẫm, chuyện đực cái của con người ta, xưa như trái đất, cuộc đời như sóng đập bở đá ngàn năm, chẳng có gì mới mẻ, ức triệu con sóng xô bờ, thấy na ná nhau cả, nhưng chẳng có cái nào giống in hệt cái nào, chỉ cần li ti chi tiết khác thì cũng là cái khác rồi. Lão nhẩm tính, đã bao nhiêu đàn bà qua tay lão, ăn nằm với lão, na ná nhau đấy nhưng với mỗi người đều có sự khác biệt. Lão sắp xếp thành bộ sưu tập của mình,...
- Anh ngủ à?... Hay nghĩ gì đấy?
Thị chợt nhỏm đầu nhìn mặt lão, thấy lão vẫn mở to mắt nhìn đâu đó, thị cười. Rồi thị kéo chăn che phủ trạng thái nuy của mình, xoay lưng lại với lão ngủ. Lão nhắm mắt, suy nghĩ miên man,...
Một người đàn ông bước vào, nhìn chằm chằm vào mặt lão: "Chú em đấy à... Ta còn nhớ, chú em tên Vĩnh thì phải... Còn nhớ ta không?". Lão ú ớ "Anh là, là... Nhớ rồi, Nghĩa...". Người đàn ông cười nhẹ "Vậy là chú em vẫn nhớ tên ta... quên là ta phạt đấy,". Người đàn ông nhìn quanh quất: "Lâu quá rồi nhỉ.... ngày ấy, chú em trẻ măng.... Chú em sống thế nào? ... Ta hỏi chơi vậy thôi, cứ nhìn chú em lúc này ta biết... Đầu bạc trắng thế kia, mà tình duyên vẫn tràn trề... ". Lão rúm người lại. Người đàn ông cười bảo "Chằng bù cho ta, cưới vợ được mươi ngày thì đi... vừa biết mùi đời, bén hơi đàn bà đã biền biệt, trân mạc triền miên... cho đến lúc về nằm nghĩa trang quê nhà còn một nhúm xương tàn lẫn lộn...". Lão nhăm nhó "Tôi nhớ rồi, cái đêm ấy,... anh Nghĩa,,, tôi với anh nằm chung một giường bệnh...". Người đàn ông buồn: "Đêm ấy... Lúc ta đi... định chào và nhắn gửi chú em một câu... chú em ngủ say quá... ta không nỡ đánh thức... Người lính trận, có được một giấc ngủ ngon là quý vô cùng... Nay gặp lại chú thế thôi. Ta đi đây.... À, lời ta định nhắn chú cái đêm ấy, ... chưa kịp, nay tiện nói, đời con người ta ấy mà, cũ mèm, chẳng có gì lạ cả, nhưng cũng luôn mới... cười... cứ như ta đây, kể từ khi hai ta tình cờ gặp nhau ở binh trạm, ... Còn ta vẫn thế, không cũ mà chẳng mới...Người chết muôn năm chẳng đổi...". Người đàn ông quay người trở ra, thoảng mất hút... Lão còn chưa kịp chào... Choảng tỉnh giấc, định thần, thì ra lão vừa chợp mắt. Trong ánh đèn ngủ, thị vẫn nằm cạnh lão, mái tóc xoăn của thị xòa trên gối, chạm nhẹ vào má lão...
Trong bóng chiều chạng vạng, Vĩnh được đưa đến một trạm y tế ở vùng giáp ranh thuộc đất Quảng Bình biên giới Việt Lào. Vĩnh bị vết thương phần mềm, lại thêm sốt rét. Gian bệnh nhân có vài chục người, chật chột. Vĩnh được xếp nẳm chung với một bệnh binh sốt rét nặng, đoán chừng hơn Vĩnh vài tuổi. Anh ta sốt rét nặng. Lúc chập tối, anh ta còn tỉnh, hai người hỏi han tên tuổi, quê quán và gia đình của nhau. Đêm ngủ, Vĩnh nằm úp thìa, trong cơn thức ngủ chập chờn, quờ tay ôm lấy anh ta, rồi thiếp đi,,, Mờ sáng, nghe chim hót, tỉnh ngủ, thấy anh ta vẫn nằm nguyên tư thế cũ, lay gọi thì thấy người anh ta lạnh toát, đã mất từ lúc nào chẳng biết... Sau này, suốt chặng đường quân ngũ, cho đến thời bình mãi sau, Vĩnh vẫn nhớ về cái đêm ấy mình đã ôm người chết mà ngủ. Ngày ấy. chẳng biết sợ là gì, lạ thế !... Lão cho rằng mình may mắn hơn người lính tên Nghĩa kia vì được ở lại cõi đời này...
Lão thao thức không ngủ lại được. Bao hình ảnh thời lão là lính chiến hơn nửa thế kỷ trước chen nhau xuất hiện trong đầu lão, nhưng đều dồn tụ về cái đêm binh trạm lão ôm cái xác người bệnh binh tên Nghĩa mà ngủ. Sát cạnh lão, thị ngủ ngon lành sau cơn thỏa mãn xác thịt. Lão quờ tay chạm nhẹ và vuốt ve cái eo săn chắc và cặp mông nở của thị. Chợt lão cảm nhận hơi lạnh nơi bàn tay mình từ thân thể thị. Ý nghĩ chợt lóe, sao lạnh thế này, chẳng lẽ thị sướng quá mà đi luôn à?... Chỉ có người chết thì thân thể mới lạnh chứ. Lão ớn lưng, đưa ngón tay để hờ sát mũi thị, hình như hơi thở mong manh... Lão vội lay vai thị, thị ứ hự, trở mình. Lão mừng, thị vẫn sống nhăn, chỉ ngủ sâu thôi. Lão nhìn đồng hồ, mới hơn 2 giờ sáng, bèn nằm xuống. Thị tỉnh ngủ, xoay người úp mặt vào lão, tay luồn xuống, chạm vào hạ bộ của lão... Vuốt ve, xoa nắn,
- Anh muốn nữa à?... Em đang ngủ say,... sao lay em dậy? Muốn... em chiều,
- Ờ nãy anh muốn... nhưng giờ buồn ngủ rồi... Em ngủ thêm chút nữa đi... 
Thị giữ nguyên bàn tay ấp lên cái của lão khiến nó gật gù, lên xuống... Lão nằm yên trong khi thị thiếp đi... Ý nghi lại miên man quẩn quanh miền ký ức xa vời do giấc mơ vô tình đánh thức. Sáng năm ấy, lão như người vô hồn trân trân nhìn người ta khiêng thi thể nằm nghiêng cong như dấu hỏi của người bệnh binh ấy đi. Lão tự nhủ, đến khi nào thì người ta cũng khiêng thân xác lão như này... Vậy mà lão sống nhăn răng, qua trận này, trận khác, dằng đẵng thêm nữa thế kỷ trôi qua cho đến giờ phút này, vẫn còn sức hưởng lạc thú, đủ để ngộ ra cái triết lý cũ và mới của cuộc đời mỗi con người ta... 
Gà gáy sáng. Lão choàng tỉnh. Thị nửa nằm nửa ngồi, bàn tay lướt nhẹ mặt lão. 
- Chết, mấy giờ rồi em? ... Anh phải đi thôi, kẻo muộn, người ta thấy, lại phiền em.
- Mới hơn 4 giờ chút,... còn sớm mà anh... Em tính để anh ngủ thêm chút nữa, đỡ mệt. Chừng 5 giờ anh dậy ra bến xe là vừa chuyến đầu ngày... 
Lão nhìn thị vẻ biết ơn. Lần đầu lão nhìn thị đầy thiện cảm, không phải cái nhìn của kẻ chinh phục, chiến thắng. Khác với Tú Trinh, chỉ biết chiếm hữu, thị vừa chiếm hữu vừa dâng hiến. Lão cảm động và biết ơn thị vì điều đó. Cho dù nay mai thế nào, chốc lát hay dài lâu, thị vẫn là món quà mà trời đất ban tặng cho lão, lão phải biết quý trọng điều đó... 
Lão nhẹ nhàng đặt thị nằm xuống. Lại nhẹ nhàng trườn lên người thị, mặc dù thị chẳng dám đòi hỏi thêm. Thị nhìn lão, ánh mắt hàm ơn. Uyển chuyển và quyết liệt, lão làm cho thị oằn oại, rung chuyển, rưng rưng khoái cảm và cảm kích... Thị chẳng thể biết một bí mật, thời trai trẻ, lão từng bị chứng thiểu năng sinh lý, rất khó xuất tinh, may nhờ người vợ là nhân viên y tế có kinh nghiệm trong lĩnh vực này tận tình chữa trị cho lão. Khi thị và lão rời nhau ra, cả đôi cũng mệt lả, dù lão chẳng xuất gì nhưng sức già cũng đến thế là cùng. Cả đôi thiếp đi ,...
Thị đánh thức lão dậy. Chậu nước ấm thị bưng vào sẵn, lão lau rửa qua người. Quần áo chỉnh tế, lão theo thị ra phòng ngoài. Đĩa trứng gà chần và cốc sữa nóng.
- Anh ăn lót dạ, đỡ đói mệt.
Thị ngối đối diện nhìn lão ăn, gương mặt âu yếm và tràn đầy hạnh phúc. Lão chợt nhận ra, chỉ qua một đêm, thị như trẻ ra dăm tuổi. Lão dùng điểm tâm, vừa nghĩ, thị cho lão ăn uống kiểu này chẳng khác tiêu chuẩn suất ăn của lợn đực giống sau khi đi phối giống... Lão xuýt buột miệng đùa thế nhưng kịp nuốt lại, miệng cười nhẹ. Hình như thị cảm nhận được, suy đoán gì đấy,
- Anh cười gì đấy?... chớ trêu em nhé,...
- Thì... ngon bổ mà... Anh cảm ơn em nhiều lắm...về mọi nhẽ,...
Thị bảo, thị biết ơn lão mới đùng, cả đời con gái, đàn bà của thị, chưa bao giờ thị sung sướng, thỏa mãn, như lão vừa mang đến tận nhà ban tặng cho thị. Cứ đùn đấy, cuối cùng lão phán, cả đôi mạng niềm vui, hạnh ngộ cho nhau thị mới thôi. Con người ta, hễ đem niềm hạnh phúc cho nhau, đúng sai, phải trái hậu xét, là quý rồi,.. Cứ như lão và thị đây, dễ gì có được, chiến tranh ác liệt thế, mà không cướp được của lão sự sống, ấy là số phận, thì niềm hạnh ngộ với thị, ấy là duyên phận định trước...
Lão lách qua khe cổng mở hẹp nhà thị luồn ra ngoài lúc trời mờ mịt sương sớm. Thị vội khép lại cài theo đóng khóa ngay. Mặc dù thị làm rất nhẹ vì không muốn ai biết song lão vẫn nghe rõ cả tiếng khóa  bấm tách. May là ra khỏi ngõ, đến đường lớn, lão không gặp một ai. Vậy là không ai biết về sự có mặt của lão ở nhà thị suốt đêm qua. Thị vẫn có thể an tâm, không ngại điều tiếng gì. Lúc này, không biết thị đang làm gì? Có lẽ thị bận gấp gọn chăn gối, dấu tích của những trận mây mưa đêm qua, và rửa bất đĩa tồn từ tối qua. Thị có nghĩ đến lão không? Thị có chút băn khoắn là cho đến lúc ăn nằm với nhau, thị mới biết là lão vẫn đang sống cùng vợ. Như vậy, liệu thị có phải là "con giáp thứ mười ba" như cách nói ngoài đời hiện nay? 
Về câu hỏi, liệu lão và thị còn gặp gỡ nhau nữa không, cả hai đều né tránh, bời chẳng thể đoán định điều gì sẽ xảy ra với mỗi người...
Lão lững thững đi bộ trên con đường đê ra bến xe, lũ tiểu mãn đang về, nước sông lên to sau mấy trận mưa tàn xuân đầu nguồn,... ./.
 
 

tamvanvov
  • Số bài : 807
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( I ) - 23.05.2021 11:12:42
Có một nhà thơ tên là Ma Bích 
(hay Người thơ, ngơ ngác như thằng mất trâu,...)
 
 
Người thơ ấy là Ma Bích,
          Còn thơ Ma Bích thì tôi chỉ nhớ mỗi câu “Đồi xưa bẻ lá em nằm/Nay qua ngơ ngác như thằng mất trâu,”...
          Ma Bích tên thật là Hà Hồng Vanh, dân tộc Mường, quê xã Điền Quang, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa. Thông tin này, tôi lấy theo nguồn của nhà thơ Trương Thị Mầu, hội viên Hội Văn học nghệ thuật dân tộc thiểu số Việt Nam, Bác sĩ Ưu tú, giám đốc Phòng khám đa khoa Lương Điền, Bá Thước, Thanh Hóa.
          Tôi biết nhà thơ Ma Bích từ ngót chục năm nay, tại cuộc gặp gỡ, giao lưu thơ văn đầu xuân hằng năm tại gia nhà văn Trịnh Tuyên ờ Cẩm Thủy, Thanh Hóa. Những lần như thế, Ma Bích theo xe của nhà thơ Trương Thị Mầu xuống Cẩm Thủy. Thú thật, trong những cuộc vui như vậy, thơ văn hòa rượu tuôn ào ào, tôi không thuộc nổi câu thơ nào của Ma Bích, ngoài việc thuộc tên nhớ mặt nhau. Ấn tượng của tôi về ông kể từ ngày đầu gặp gõ, ấy là cách nói năng và những bài thơ ngắn ngẫu hứng đọc tại chỗ có giọng điệu đúng chất người dân tộc thiểu số...
          Cho đến mùa hạ năm 2019, nhóm chúng tôi có nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền, nhà văn Nguyễn Trọng Huân, họa sĩ Lã Minh Kính và một vài bạn hữu vào Bá Thước, rồi cùng Trương Thị Mầu, Ma Bích và vào bạn hữu du ngoạn Pù Luông, ngủ đêm lại đó trong nhà sàn homstay, tôi mới có điều kiện trò chuyện và nghe Ma Bích đọc nhiều thơ của ông.
          Chuyến ấy, theo lời mời từ mấy năm trước còn chưa thực hiện được của nhà thơ Trương Thị Mầu, chúng tôi đến thẳng Phòng khám đa khoa Lương Điền. Đây là phòng khám chữa bệnh Đa khoa do Trương Thị Mầu lập sau khi cô nghỉ hưu với chức danh giám đốc Bệnh viện đa khoa huyện Bá Thước. Khi còn làm việc, nữ nhà thơ này được phong Bác sĩ ưu tú, cô là một người giỏi chuyên môn và quản lý, sớm có y định xây dựng một trung tâm y tế nhằm phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh cho người dân địa phương bới đây là một huyện miền núi biên giới điều kiện giao thông khó khăn. Bữa đó, Mầu làm thịt cả một con lợn cắp nách để đãi bạn văn chương thủ đô. Lên mâm, chỉ thấy có Mầu và mấy nữ nhân viên y tế, tôi nhìn quanh. Mầu hiểu ý cười: “Các anh yên trí, em đã mời anh Ma Bíchm anh ấy nhận lời rồi”. Nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền vui đùa “Đến Bá Thước mà thiếu bạn thơ Ma Bích thì coi như vắng một nửa”. Dứt lời, đã thấy ngay Ma Bích xuất hiện ngoài cửa tay cầm chai rượu thuốc tự ngâm.
          Theo chương trình xếp trước, chiều ấy tất cả  đi Pù Luông. Xe dừng ngoài ngõ để Ma Bích tranh thủ ghé nhà báo cáo vợ và lấy thêm tư trang vì đoàn ngủ qua đêm ở Pù Luông. Đường lên Pù Luông quanh co những dốc, trong xe chuyện thơ văn rôm rả. Nhiều thửa ruông bậc thang của đồng bào Mường đã bắt đầu gặt Chốc chốc, dừng xe để mọi người chụp ảnh check in, nhất là nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền vốn say món tự sướng. Ma Bích chỉ cười hiền ngắm bạn thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền txoay chóng cả mặt.  Khi rẽ vào Bản Đôn thuộc xã Thành Lâm chiêm ngưỡng ruộng bậc thang thì trời cơn giông kéo lên đen ngòm, rồi mưa như trút. Mưa sầm sầm, trắng cả đất trời, khiến các đoàn xe của khách du lịch dồn ử cả đống. Cả vùng ruộng bậc thang mờ mịt trong mưa, nên chúng tôi chỉ có thể ngồi yên trong xe chụp ảnh qua cửa kính. Lúc quay ra, mấy cái đập tràn nước đã dâng lên nhanh mấp mé, may mà xe còn qua được. Khi lên đến khu nhà sàn homestay thì trời tạnh hẳn, mây quang quẻ, hửng chút nắng hoàng hôn rất đẹp,... Ma Bích ngắm hoàng hôn, miệng lẩm bẩm gì đó, hinh như nhẩm thơ...
          Tiệc tối, món ăn theo phong cách cơm Mường địa phương, hấp dẫn với món thịt vịt Cổ Lũng béo mềm và ốc đá hấp lá gừng, cá suối rán giòn. Rau thì toàn món rau rừng chúng tôi không rõ tên. Rượu nhắm cũng là thứ rượu ngâm trái rừng rất đặc biệt không đâu có. Rượu vào lời ra, Nguyễn Vĩnh Tuyền và Ma Bích thay nhau đọc thơ. Mâm bên có cặp vợ chồng trẻ người Mỹ cũng bị lôi vào cuộc... Đêm, khách ngủ chiếu sàn gỗ. Tôi thao thức mãi không ngủ được, phần vì lạ cảnh, vì tách cà phê đen lúc chiều và phần vì bên cạnh, Ma Bích ngủ ngáy khá to. Thêm nữa, tiêng nước suối đâu đó tạo thác đổ ầm ào suốt đêm. Tôi thiếp đi mộng mị. Trờ dậy tảng sáng, nhóm của Trương Thị Mầu và Ma Bích chào vội để về thị trấn Bá Thước vì Mầu phải dự một cuộc họp gì đó...
          Năm 2020, dịch covid bùng phát, lỗi hẹn với xứ Thanh,  đợi qua năm 2021. Lần này, vào Thanh đã chớp chới hè. Chúng tôi tả qua Cẩm Thúy thăm nhà văn Trịnh Tuyên rồi cùng anh ngược Bá Thước. Vẫn một Truong Thị Mầu ân tình và chu đáo, một Ma Bích hiền hòa ấm áp. Mọi người du ngoạn Duồng Cốc, một vùng hồ nước đúng chất sơn thủy hữu tình ẩn sâu trong rừng núi Bá Thước ít người biết. Bữa cơm tối tại đây theo kiểu cơm Mường, cá nướng măng tươi xôi nếp nương. Trần ngập rượu và thơ, ngẫu hứng thì đũa gõ bát làm nhịp mà hát/ Ma Bích đọc thơ, nhưng tồi chỉ nhớ mỗi câu thơ “Đồi xưa bẻ lá em nằm/nay qua ngơ ngác như thằng mất trâu” vì thấy thú vị. Sự thú vị ở đây là cái cách ví von giữa việc mất người yêu như việc mất trâu. Thoáng qua tưởng ví thế là thô. Nhưng với người dân tộc thiếu số, con trâu to lắm, gần như là thứ của cải lớn nhất trong nhà, nên mất trâu coi như mất cơ nghiệp, tiếc lắm chứ. Vậy mà, mất người yêu từ ngày còn trẻ, đến giờ thăm lại nơi tình tự ngày xưa vẫn “ngơ ngác như thằng mất trâu”, thì thử hỏi. ngày xưa đau đớn đến thế nào?... Cách diễn đạt như vậy, thật thà mà hài hước, đúng nếp nghĩ và lối diễn đạt của người dân tộc thiểu số. Ngẫm kỹ, rồi đem so sánh với trường hợp giả ngô ngọng thật thà mách qué trong một bài thơ về cái sự chửi vừa được trao giải cao, mà thấy buồn cười....
          Không ngờ, cái đêm giao lưu thơ nhạc ấy, là lần cuối cùng tất cả chúng tôi gặp Ma Bích. Non tháng sau, ngày 13.4. 2021, Ma Bích đột ngột ra đi vĩnh viễn sau một cơn đột quỵ khi đang khỏe mạnh bình thường, bời ngay trước đó, ông còn đi xe máy chở vợ đi khám bệnh ở Bênh viện đa khoa huyện và ngủ lại bệnh việc chăm vợ...
          Đọc tin báo và bài viết vội của nhà thơ Trương Thị Mầu về Ma Bích, mới thấy cái tình, người và thơ của ông để lại trong lòng và tâm trí những người thân thiết, không hề nhỏ !...
          ***
          Tôi lần giở lại toàn bộ trang cá nhân của Ma Bích trên Facebook, cả thông tin va bài viết không nhiều. Thơ cũng vậy. Ông cho thấy không phải là người thạo công nghệ, nên gặp khó khăn trong việc đăng bài viết và thơ phú của mình. Thế nhưng. với ngần ấy thôi, thêm hồi tưởng về những lần gặp gỡ Ma Bích, cũng đủ cho tôi phác thảo nên một người thơ Ma Bịch,...
          Có lẽ, Trương Thị Mầu là người cùng dân tộc Mường, lại là bạn thơ lâu năm thân thiết với Ma Bích, nên chị hiểu và thích thơ ông hơn chăng? Ngôn ngữ Mường cổ và cách diễn đạt rất Mường. Còn cảm tính, ấy là hồn vía Mường, không chỉ nằm trong ý tứ, câu chữ bài thơ mà ở cả trong cái cách ứng xử, trong biểu cảm khi Ma Bích đọc thơ và diễn giải nguồn gốc từ ngữ bắt nguồn từ phong tục dân tộc mình,...
          Cũng theo nhà thơ Trương Thị Mầu thì Ma Bích làm thơ muộn, khi đã lớn tuổi. Song cũng không vì thế mà sốt ruột, ào ạt cho nhanh, mà rỉ rả kể chuyện mình, chuyện phong tục dân tộc mình, trước hết cho chính minh, rồi ra có cái để mà chơi với thiên hạ. Với ý thức đó, ông không vội vàng là thế, chỉ lấy thơ nói hộ lòng mình khi cần phải vậy, nên số lượng thơ ông không nhiều, nhưng cũng vì thế mà thơ Ma Bích không đểnh đoàng, khá chắt lọc và quan trọng là có giọng điệu riêng. Cái chất Mường trong thơ Ma Bích cũng không giống chất Mường trong thơ của một vài nhà thơ người dân tộc Mường khác. Nó là của riêng ông. Ví như, bài thơ Lóng la, thì cùng với việc nói cái tình riêng, Ma Bích còn lục kho ngôn ngữ, lôi ra, đặng gột rửa cụm từ Mường cổ lóng la. Theo nhà thơ Trương Thị Mầu, trong tiếng Mường “lóng” là cây chuối rừng, nhưng “la” thì là một từ không cụ thể, song khi kết hợp thành “lóng la” thì người ta hiểu ấy là ngàn rừng, một khái niệm rộng lớn hơn nhưng không rõ ràng. Trở lại bài thơ:
          “Tôi về thăm Lóng La/ Mưa hoàng hôn tất tưởi/ Gió San mười chạm với/ Tìm mường hoa Lóng La/ Tìm vệt trăng bay xa/ Em xòe tay khung cửi/ Trập trùng hoa cỏ núi/ Thắm biếc tình hai ta/ Rồi hẹn không gặp hẹn’ Rồi thương gặp lũ ngàn/ Ta Lóng La trắc trở/ Nhịp cồng chùng lâu san/ Con chim kêu khản tiếng/ Sao bạn tình không lên/ Anh ở miền gió lửa/ Ôm vú cồng thức đêm/ Nhớ nhau Lóng La nhé/ Gọi nhau Lóng La ơi/ Cây chày anh lỡ nhịp/ Cối nương em đầy vơi...”
 
Vậy là, Ma Bích đã biến cụm từ lóng la thành địa danh, một nơi vữa xa vừa gần, nửa thật nửa ảo, mà ở đó, người thơ có cái tình với mộr bóng hình nào đó, trắc trở, không nên ngãi, để bây giờ nên nhớ thương, day dứt.
Hay như, bài thơ Tặc ven em cùng dạng thức như vậy:
 “Lâu rồi không gọi tặc ven/ Nỗi nhớ quên theo ngày tháng/ Dây rừng - chạng vạng/ Xập xoè tặc ven.../ Đừng đau tặc ven ơi/ Nếu như ngàn năm không gặp lại/ Đá lở non mòn, ruộng sâu đồng bãi/ Cha mẹ đi ta vẫy Tặc ven đi”.
Cũng theo ý nhà thơ Trương Thị Mầu, “tặc-ven” là một khái niệm không cụ thể trong tiếng Mường cổ, mà chỉ cho người ta hình dung là đám cỏ bợ, dây rợ lằng nhằng ven bờ, góc ruộng, xó rừng... Đưa “tặc ven” vào thơ, Ma Bích muốn gòi thành tên, đặng nhắc nhở mọi người, nhất là giới trẻ chớ quên từng có một xứ Mường nguyên bản, không pha tạp, và cho dù theo xu thế phát triển chung của thời đại mới. càng cần thiết gìn giữ bản sắc Mường trong đa dạng văn hóa Việt Nam.
Dường như, ý thức gìn giữ bản sắc văn hóa Muờng thường trực trong con người Ma Bích, nên thơ tình cũng là cái tình Mường của riêng ông: “Anh bây giờ không nhớ cả tên anh/ không biết mình năm nay bao nhiêu tuổi/ Mường nọ chòm kia mấy sông mấy suối.../còn mấy vần thơ gác bếp lửa hong phơi/ anh buộc lá Làn Ai gửi cho người tri kỷ/ Đá dựng thành lời, lá bay thành ý/ Ta mây bạc trắng trời lãng đãng phiêu du...” (Phiêu du). Hay như: “Sợ say ta trốn vào nhau/ Sợ câu xường lạc truông vầu không lên/ Xin đừng gọi vía kêu tên/ Mà đau võng bạc tre đền Mường Ai/ Chát nồng ăn lá giêng hai/ Neo trong suối lũ thung dài tìm xưa” (Tìm Xưa”... Ma Bích từng có gần chục năm sống ở Tây Nguyên, ông dần hòa nhập vào đời sống trên vùng đất mới, nhưng nỗi nhớ Mường vẫn canh cánh trong lòng: “Mẹ gùi câu khặp theo cha/ Đi làm người mường khác/ Câu Xường cũ sấm rền rung cuối thác/ Con nhặt về buộc lại vía ngày xa... (Thư gửi con) .
Ma Bích tạo được giọng điệu riêng, nên thơ ông làn về đề tài rừng có nhiều người đã làm, thi ông vẫn có cái của riêng mình, để không lẫn vào người khác:
Chiều nay qua Thành Nhà Hồ
Nhìn tan nát một cơ đồ mà đau!
Sân rồng ngập vết chân trâu
Đâu vườn Thượng Uyển, đâu cầu vua qua
Ngai vàng nắng táp mưa sa
Triều đình còn lại một ta giữa đường...
Liêu xiêu leo dốc ngược mường
Qua truông ra gặp người thương không chào...
(Qua thành Nhà Hồ)
 
Đến rồi đang giữa tháng ba
Sao mà ngồi nhớ người ta thế này
Nhớ mái tóc nhớ bàn tay
Và đôi ánh mắt những ngày còn xưa...
Xa xưa lay lá lay mưa
Người còn lên lại Pha Dùa hay thôi
Miền biên viễn nở hoa rồi
Sáo ai hổn hển đất trời đang yêu
Một mình ôm chiếc khăn piêu
Đùm cơm cháy lá dong chiều... Đêm buông?
(Tháng Ba)
 
Theo tôi, đây là những bài tho hay của Ma Bích. Bởi lẽ, nếu là người khác mà không phải là người Mường-Ma Bích, thì dễ gì có những câu kiểu này: “Triều đình còn lại một ta giữa đường.../ Liêu xiêu leo dốc ngược mường/ Qua truông ra gặp người thương không chào...”(Qua thành Nhà Hồ); Hay như: “Xa xưa lay lá lay mưa/ Người còn lên lại Pha Dùa hay thôi/ Miền biên viễn nở hoa rồi/ Sáo ai hổn hển đất trời đang yêu/ Một mình ôm chiếc khăn piêu/ Đùm cơm cháy lá dong chiều... Đêm buông?” (Tháng Ba), ...
Như một tiền định, mới gần đây thôi, ngày 20.11.2020, ngày Nhà giáo Việt Nam, Ma Bích làm thơ nhớ thầy giáo cũ, người ngày xưa từng dạy ông lúc còn đi học, ông đã viết: “Thầy giáo đi rồi còn lại mình em/ Lớp học ngày xưa không còn ai nhớ nữa/ Mái lá sàn tre rét run cánh cửa/ Em tìm về cách biệt âm dương.../ Chúng em lớn lên đứa lấy vợ gả chồng / Nay tóc trắng như tóc thầy ngày ấy/ Mỗi lần gặp nhau khi nào cũng vậy/ Hay nhắc về thầy, thầy có nghe không./ Còn riêng em thích luyện bút văn phong/ Ghét kẻ bất lương thương người nghèo khó/ Rồi một ngày kia em sẽ về dưới cỏ/ Lại đến tìm thầy xin đọc để Người nghe”. (Thầy giáo).Ma Bích mong rằng, đến một ngày kia nào đó, ở thế giới bên kia, ông được đọc thơ cho thầy giáo cũ của mình nghe...
Giờ thì Ma Bích đã toại nguyện, ông được “về dưới cỏ” để rồi “lại đến tìm thầy xin đọc để Người nghe” !... ./.
 
 
 
 

Ct.Ly

tamvanvov
  • Số bài : 807
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( I ) - 12.06.2021 16:26:40
Chân thành cảm ơn Hiệp sĩ Hào hoa đã quan tâm.
Chúc mọi sự an lành.
Có thêm truyện mới đăng bên Văn xuôi NGUYỄN CHU NHẠC II

Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 3 của 5 trang, bài viết từ 61 đến 90 trên tổng số 138 bài trong đề mục