VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( I )

Thay đổi trang: << < 45 | Trang 5 của 5 trang, bài viết từ 121 đến 136 trên tổng số 136 bài trong đề mục
Tác giả Bài
tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( I ) - 02.01.2023 16:07:03

CUỘC ĐỜi NÀY VẪN ĐÁNG TIN ĐẤY CHỨ !?
(Tản văn)
###
Mới đây (ngày 22/12/2022), tôi cùng nhà báo Đoàn Quang (nguyên TBT Báo Tiếng nói Việt Nam, nguyên giám đốc văn phòng VOV Tây Bắc) và nhà báo Lê Hải, phóng viên Báo TNVN có chuyến đi Tây Bắc. Trời mùa đông hanh khô, háo nước, nên chúng tôi ghé vào một quán ven đường thuộc địa phận Tân Lạc, Hòa Bình tình làm tách cà phê cho tỉnh táo. Quán rộng, mặt tiền đủ chỗ cho dăm xe tai đỗ, nhưng dấng vẻ tuềnh toàng vắng khách. Phỏng đoán, quán này chắc trước đây đông khách nhưng giờ hoang vằng thế này hẳn do hậu quả của thời Covid 19 ngăn sông cấm chợ kéo dài năn. Đỗ xe vào quán, chủ khách tuyệt không thấy một ai. Bèn gọi to mấy câu cũng chẳng có người lên tiếng. Thôi thì giải quyết “nỗi buồn” cái đã. Quay ra ới chủ quán thêm vài lần nữa cũng không thấy bóng người. Quan sát quanh quất, bàn ghế cũ phủ bụi, bàn nước sơ sài, giường ngủ của chủ quán nơi góc nhà vẫn bề bộn chăn màn, kệ ti-vi, chai lọ nồi xoong, bát đĩa trơ trỏng kiểu không người ở. Nhìn ngắm một hồi, thấy trên chiếc bàn gỗ tiền sảnh quán bày vài chục quả cảm tươi. Nhẩm bụng chắc là để bán. Nhà báo Đoàn Quang bảo: “Thôi anh em mình cứ tự nhiên xơi như cái thời "quán tự giác" rồi tự nhiên trả tiền, kiẻu từng tồn tại ở miền núi xưa ấy”. Rồi nhặt dăm quả cam mang ra bàn, sẵn có dao, bổ cam mời nhau ăn. Chụp mấy bức ảnh làm kỷ niệm, cũng là bằng chứng tự giác mua cam, trả tiên để trên bàn.
Ăn xong, vừa định ra xe thì chợt một nam thanh niên phóng xe ào vào quán. Đoán là chủ quán, chúng tôi bèn giải thích việc tự tiện ăn cam khi vắng chủ và đã trả tiền cam để trên mặt bàn nước. Chàng thanh niên cười bảo: “Cháu không phải là chủ quán đâu. Chủ quán có việc đi Hà Nội vắng từ hôm qua chưa về. Nhà cháu ngay bên cạnh, họ nhờ cháu ngó giùm thôi. Các chú cứ tự nhiên ạ,...” Hỏi :”Thế không cầm tiền bán cam à?”. Cười tươi, bảo: “Các chú cứ để đấy ạ, cháu cầm sau”. Nói rồi cua xe một vòng phóng đi mất dạng.
Chúng tôi lên ô tô tiếp tục hành trình và chưa thôi bàn về kiểu bán hàng “quán tự giác” thời nay ở miền núi này,...
Lại nhớ, cuối hè đầu thu năm 2017 mấy nhà báo VOV (tôi, Nguyễn Trọng Huân, Nguyễn Văn Chí, Lê Ngọc Tuấn...) có chuyến lên Hà Giang, xuyên Bắc Quang, Quang Bình, Hoàng Su Phì, Xín Mần rồi vòng sang Simacai, Bắc Hà (Lào Cai) về yên Bái,... Khi đoàn đên thị trấn Quang Vinh của huyện Hoàng Su Phì, khát nước nghỉ chân. Xe chúng tôi dừng bên một quán nước mía đá bên đường phố ở trung tâm thị trấn. Định bụng mỗi người uống một ly mía đá cho mát lòng. Đợi một lát không thấy chủ quán đâu. Mấy cậu phóng viên trẻ bảo nhau tự lấy mía cho vào máy cán lấy nước rồi tự làm mía đá cho cả đoàn. Phố khá đông người, chủ quán đi đâu vắng, còn khách thì tự hò nhau làm nước mía đá uống mà những người mua bán xung quanh chẳng một ai hỡi hơi, hỏi han gì, cứ xem là chuyện đương nhiên ấy. Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên và bảo nhau, có lẽ chỉ ở vùng cao xa xôi nơi cư trú của bà con dân tộc thiểu số mới có kiểu bán hàng tin người thế này. Uống xong thì mới thấy chỉ quán về. Chúng tôi giải thích về sự tự ý của mình, chủ quán nhoẻn cười bảo: “Không sao ạ, các bác cứ tự nhiên”. Lúc tính tiền nước mía, chủ khách đùa nhau vui vẻ, rồi chào thân ái, lên đường. Dọc đường, chuyện rôm rả mãu về cái sự thân thiện, cả tin của người miền núi,...
Có lẽ, kiểu bán hàng và sự tin nhau nhứ thế, ngày nay, chỉ còn ở vùng miền núi xa xôi,...?
Cuộc sống vẫn đáng tin, đáng yêu đấy chứ !...


tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( I ) - 11.01.2023 15:53:55
Tranh TếtTản văn của Nguyễn Chu Nhạc
Cho đến bây giờ, tôi vẫn thuộc lời đề từ của bộ tranh dân gian Bốn mùa dán trên vách nhà, ố vàng vì thời gian. Bộ tranh được in trên giấy bìa theo lối công nghiệp, cha tôi đã mua về nhân một dịp tết Nguyên Đán và ngự trị ở đấy suốt những năm tuổi thơ đi học ở quê, mặc chiến tranh, mặc mùa màng thất bát… Theo thứ tự từng bức tranh, lời đề từ như một bài thơ âm Hán Việt:Xuân thiên mai nhị phô thanh bạch Nhật hạ hồng hoa đấu hảo kỳ Cúc ngạo thu tình hương vạn hộc Tùng lăng đông tuyết ngọc thiên chi
Cha tôi đã cắt nghĩa cho tôi hiểu, với bốn mùa của năm Xuân, Hạ, Thu, Đông thì lời đề từ ấy đại ý là: Mùa xuân hoa mai phô nhị trong trắng / Ngày hè hoa hồng khoe sắc thắm / Sang thu là lúc hoa cúc tỏa vạn hương thơm / Đông về nghìn cành tùng tuyết phủ như ngọc. Thiên nhiên, vạn vật cây cỏ đặc trưng, tuyệt vời theo từng mùa trong cảm nhận của người xưa. Tinh tế thay và cũng sâu sắc thay! Hình ảnh ấy, lời đề từ ấy, cứ ngày một ngày hai thấm vào tôi, đến mức, chỉ cần nhìn thật lâu vào tranh, hoặc chẳng cần nhìn nữa, nhắm mắt lại mà mường tượng, bốn bức tranh lớn lên và nhòa đi rồi hiện hình trở lại sinh động với cảnh sắc thiên nhiên thật…Ngày trước, bài thơ được tranh hóa này, tôi chỉ biết là cổ thi, mãi sau này mới rõ tác giả bài thơ ấy là Uông Thù, một nhà thơ, một nhà giáo dục thời Bắc Tồng (Trung Hoa phong kiến). Ông này là tác giả bộ sách Thần đồng thi, từng được xem là giáo khoa thư cho trẻ em đi học thời xưa.Cha tôi bảo, bộ tranh Bốn mùa chỉ là một trong vô số bộ tranh dân gian, và người kể cho tôi nghe về phong tục chơi tranh dân gian ngày trước. Quê tôi nằm ở tâm điểm tam giác văn hóa lớn của đồng bằng Bắc Bộ là Thăng Long-Phố Hiến-Kinh Bắc. Người dân nơi đây có phong tục chơi tranh Tết từ xa xưa và truyền mãi đến ngày nay. Trước đây, cứ từ độ một chạp (tức là tháng 11, 12 âm lịch) trở đi, mấy chợ phiên lớn trong vùng như chợ Bần, chợ Dầm, chợ Nôm, chợ Đậu đều có hàng bán tranh dân Đông Hồ. Người chính từ Đông Hồ sang bán, kẻ người địa phương buôn tranh Đông Hồ về. Những bộ tranh như Bốn mùa, Tứ quý (mai, thông, cúc, trúc), Hứng dừa, Chuột vinh quy, Đàn gà, Lợn âm dương, Mục đồng v.v.. được dựng trong những chiếc bồ nan tre nhỏ, theo tay người bán hàng xếp thành lớp phô trước mắt khách hàng. Người đi chợ Tết về, quang thúng đầy gạo nếp, đậu xanh, lá dong, ống giang… còn có những bức tranh Tết được bọc trong giấy điều.  Đấy là kể từ nửa đầu thế kỉ trở về trước, còn sau này, thời tôi đi học ở quê, chiến tranh cuốn đi tất cả. Tranh dân gian hiếm dần và hầu như không còn, bù vào đấy, người dân vẫn có tranh dân gian chơi Tết nhưng là tranh được in công nghiệp trên giấy bìa cứng bóng do một vài nhà xuất bản ấn hành bán ở Hiệu sách nhân dân. Tranh loại này tuy kém tranh dân gian in bản khắc màu tự nhiên trên giấy dó song được cái phù hợp với quảng đại người dân. Tranh giá rẻ, không cần khung, mua một lần dùng nhiều năm, hoặc mỗi năm mua một vài tấm nhiều năm thành cả bộ. Quê tôi thời chiến tranh ấy, có nhà xây mái ngói song phần đông tường vách rơm bùn, lợp rạ. Tuy thế, mỗi năm xuân về, kinh tế có eo hẹp, chỉ cần có bánh chưng, dăm bảy nhà đụng một con lợn ngả ra, giã giò chí chát, trẻ con có tấm áo mới, thêm tường nhà dán đầy tranh tết, thế là vui lắm rồi, lại đủ cả vật chất lẫn tinh thần. Ngày tết, đi chơi nhà chúc tụng nhau, cỗ bánh chưa thấy đâu, chỉ cần nhìn tranh tết là thấy xốn xang, thơ thới lòng dạ, ấm áp tình làng nghĩa xóm. Người Việt mình vốn trọng lễ nghĩa, giàu lòng bao dung, dạy rằng: “Đói ngày giỗ cha, no ba ngày Tết”, song lại thung thăng: “Nhiều no, ít đủ” và “Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”… Giàu nghèo gì thì Tết cũng chừng ấy thôi, bởi ngoài miếng ăn ngon miệng thì cao hơn là lễ nghi, và hơn nữa là tâm linh hướng về tổ tiên, nòi giống, hướng tới sự tốt lành ở cái ngày mai còn đợi phía sau lưng mình, thậm chí con cháu mình kia!...Sau này, thật buồn, có dạo người ta mải đôn đáo việc kiếm chác lãng quên nhiều phong tục đẹp, lẽ dĩ nhiên cả tục chơi tranh tết. Và dường như để khỏa lấp sự thiếu hụt trong đời sống tinh thần, tâm linh theo truyền thống dân tộc, bằng cách người ta mua thật nhiều vàng mã, bỏ tiền triệu mà thửa cái ti vi, tủ lạnh, xe máy mã, để đốt cho sướng tay. Làng làm tranh thì bán cả bản khắc cổ lấy tiền làm vốn sản xuất hàng mã. Tết về quê, đi thăm chú chúc tết họ hàng, mừng vì thấy nhà cửa khang trang nhưng buồn vì tường nhà nào cũng lất phất vài ba tờ lịch có hình hoa hậu, ca sĩ gì đó uốn éo trong trang phục của “người nguyên thủy”. Đối diện với mâm ngũ quả, với bàn thờ nghi ngút khói hương, chúng thật chướng!Thế rồi, một lần, tôi đã thầm reo lên giữa đám đông người khi tham quan triển lãm “Làng nghề, phố thợ Việt Nam”. Trước mắt tôi, đích thị là tranh dân gian Đông Hồ. Này đây, những Bốn mùa, Tứ quý, Chuột vinh quy, Lợn âm dương… trên giấy dó mà trước đây tôi chưa từng thấy. Tôi ngắm nghía, sờ tận tay. Người dân Đông Hồ phần đông người ta làm hàng mã, chỉ còn dăm ba nghệ nhân già vì yêu tranh, vì thấm đẫm hồn cốt dân tộc, vì tư tưởng nhân văn ẩn chứa trong tranh mà sống chết vì tranh. Thôi thì cứ như người đi câu, chẳng mong giàu có nhờ tranh, chỉ những muốn khơi gợi được hồn dân tộc ẩn chứa trong lòng mỗi người, làm sống lại nghề tranh, lưu truyền phong tục chơi tranh Tết của cha ông xưa!... Và hôm ấy, tôi cứ loanh quanh mãi nơi gian tranh Đông Hồ mà lòng mình những thắc thỏm, lo âu khi người xem đi ngang qua quầy một cách dửng dưng. Nhưng rồi, kìa một người… hai, ba người dừng chân… Đám đông tăng dần. Lúc đầu còn thầm thào, sau người ta trầm trồ khen ngợi thành tiếng…Đấy là chuyện của ngày hôm qua, dẫu chỉ vài năm trước thì cũng đã là quá khứ. Bây giờ thì không những tranh dân gian Đông Hồ, còn có tranh Hàng Trống, tranh trên quạt, tranh trúc chỉ… đều có những quầy bán riêng, tấp nập khách vào ra. Không chỉ nhà quê mà cả những salông sang trọng cũng treo tranh dân gian như một thứ souvenir (lưu niệm) đặc sắc Việt Nam. Tranh dân gian và tục chơi tranh Tết như một bằng chứng nhỏ thực sự về sức sống bền bỉ đang trỗi dậy của bản sắc văn hóa dân tộc!...
 
r
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.01.2023 18:02:19 bởi Ct.Ly >

Ct.Ly

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( I ) - 23.01.2023 17:27:47
Thân nến gửi bạn CT.Ly
 
Cảm ơn bạn đã luôn quan tâm, chọn lựa và đưa  các tác phẩm của tôi vào THƯ VIỆN 
Năm mới Quý Mão, chúc bạn sức khỏe dồi dào, công việc hanh thông, nhiều niên vui.
Trân trọng !

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( I ) - 12.02.2023 17:08:59

GIÊNG HAI TRỜI GIĂNG MƯA PHÙN
(Tản văn)
@@@

Giêng hai trời giăng mưa phùn
Muốn du xuân, ngại, lại chùn bước chân...
Năm rồi, mùa đông không mấy rét. Những ngày tết nguyên đán tuy không thật rét như mong muốn của nhiều người, song cũng đủ lạnh khô mỗi khi về đêm và buổi sáng, dù ban trưa ít nhiều có nắng ấm. Đến cuối tháng giêng, trời đã dày sương lúc chiều chạng vạng và buổi sớm mai, kiểu trời báo hiệu sắp có mưa phùn. Theo tự nhiên, kiểu này, sang tháng hai âm lịch, tiết trời sẽ âm u, mù sương, mưa phùn mưa bụi lây phây cả ngày, đến mấy ngày, thậm chí suốt cả tuần. Ai nấy, cũng kêu trời nồm ẩm khó chịu, nhất là những người mắc chứng hô hấp, hoặc xương khớp. Người khỏe thì cũng thấy ỉu xìu, ươn ươn, khó ngủ. Ấy vậy, kêu ca mà làm gì !...
Lâu rồi, tôi mới thấy tiết trời vùng Bắc bộ điển hình nồm ẩm giêng hai đến vậy. Kiểu tiết trời này, ngày xưa là thường, hầu như năm nào cũng na ná vậy. Có lẽ, tiết trời bất thường, không còn tuân theo hai mươi bốn tiểu tiết, trên cơ sở phân đoạn lịch âm điển hình, đã trở thành phố biến, và là sản phẩm của biến đổi khí hậu chăng? Ngày xưa, cũng có năm thất thường, có hiện tượng thời tiết cực đoan, quá nóng, quá rét, song cơ bản là hài hòa, tiết thuận, nghĩa là điển hình mùa nào ra mùa nấy. Chính vì thế, thiên nhiên theo mùa, vạn vật, cỏ cây hoa lá thuận theo tiết, con người lâu thành quen, nó ăn sâu bám rễ vào tiềm thức, trạng thái, tình cảm, tâm lý, cảm xúc...; rồi qua đó mà ảnh hưởng đến phong tục, văn hóa, nghệ thuật, xã hội nữa... Giờ thì thất thường và bất thường, thật là đáng lo ngại đấy chứ !...
Vâng, lại ngày xưa, tiết giêng hai nồm ẩm, với biểu hiện đặc trưng là dầy mây, sương mù, mưa bụi mưa phùn lây nhây... Nhưng đấy là mùa của hoa xoan tím ngát, mùa của hoa chanh, hoa cam thơm dìu dịu tinh khiết, mùa của hoa bưởi sực nức vườn quê; rồi nữa hoa mơ hoa mận, hoa lê trắng xóa sườn đồi... Nữa là, cỏ non tơ mơn mởn khắp chốn cùng quê. Lại nhớ câu thơ Nguyễn Du: "Cỏ non xanh rợn chân trời/ Cành lê trắng điểm một vài bông hoa/ Thanh minh trong tiêt tháng ba/ Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh...", rồi câu thơ cổ Việt là "Xuân du phương thảo địa...".
Tiết trời này, rau khúc đồng cũng lên xanh mỡ, tha hồ mà thu hái để làm món bánh khúc thơm ngon. Mùa thu cũng có rau khúc, nhưng khúc thu già và cỗi hơn khúc xuân.
Cho đến khi, chợt trời nổi cơn giông, bầu trời thấp thoàng lóe sáng lằng ngoằng những tia chớp mảnh, rồi thoảng đâu đó từ xa xôi ì ầm tiếng sấm, ấy là đã qua tiết tháng hai nồm ẩm, báo hiệu mùa hạ sắp đến. Cho đến khi, chớp chới vài ba bông gạo đỏ đầu làng, cuối xóm, đầu non sườn núi, và vườn nhà ai, hoa lựu đâm bông...

Cuối xuân bàng đã lá xanh,
Sót đôi chiếc đỏ trên cành ngẩn ngơ,
Thôi đừng, mùa đợi tháng chờ
Kìa bông hoa lựu thập thò lửa nhen,..



tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( I ) - 16.03.2023 15:42:13
NGƯỜI CẢ ĐỜI MẢI MÊ ĐUỔI MỘT CON DIỀU ...
 
Ấy là nhà thơ Đồng Đức Bốn,
Người yêu thơ xứ mình, hầu như đều thuộc vài ba câu thơ của Đồng Đức Bốn. Đó là may mắn và hạnh phúc của Đồng Đức Bốn trong thời buổi loạn thi ca này,...
Những câu thơ ấy, như: “Cành hoa sắc một lưỡi dao/ Vì yêu tôi cứ cầm vào như không”; “Mải mê đuổi một con diều/ Củ khoai nướng đẻ cả chiều thành tro”; “Chiều nay Hồ Tây có giông/ Tôi ngồi trên sóng mà không thấy chìm”; “Xong rồi chẳng biết đi đâu/ Xích lô Bà Triệu ra cầu Chương Dương”; “Đang trưa ăn mày vào chùa/ Sư ra cho một lá bùa rồi đi/ Lá bùa chẳng biết làm gì/ Ăn mày nhét túi lại đi ăn mày”; “Trở về với mẹ ta thô/ Lỡ mai chết lại mồ côi dưới mồ”; ‘Đừng buông giọt mắt xuống sông/ Anh về dẫu chỉ đò không cũng chìm”; “Đợi em ở trước cửa thiền/ Lá cây rụng một chiếc thuyền đang trôi” ... Đại loại vậy. Dẫu chỉ thế thôi những tưởng cũng là đủ với người làm thơ!?... Song không, Đồng Dức Bốn còn có nhiều hơn... Tôi nghĩ thế.
Trước tập thơ CHĂN TRÂU ĐỐT LỬA (NXB Lao động, 1993), Đồng Đức Bốn xuất bản tập thơ đầu tay, CON NGỰA TRẮNG VÀ RỪNG CÂY CỎ ĐẮNG (NXB Văn học, 1992), và sau đó, từ năm 2000 đến năm 2006, Đồng Đức Bốn còn xuất bản thêm 4 ấn phẩm nữa, nhưng riêng tập CHĂN TRÂU ĐỐT LỬA, với 112 bài thơ ở vào thời kỳ tác giả vừa độ chín sáng tạo, thiết tưởng cũng đủ để nhận diện một tài năng thơ Đồng Đức Bốn, đặc biệt thể Lục bát.
Quả thật, tập "Chăn trâu đốt lửa", thơ lục bát chiếm già nửa. mà hầu như bài nào cũng đọc được. Vậy là, lục bát viết được như như thế không phải dễ, không phải ai, nhà thơ nào cũng viết được.
Nào thử xem Đồng Đức Bốn làm gì với mớ lục bát của mình?

@ Trước hết, Đồng Đức Bốn sử dụng ngôn ngữ dân gian, câu cửa miệng, thản nhiên nói ra như chẳng có gì, mà lại có gì vậy.
Ví như, bài CUỐC KÊU, mở đầu: “Cuốc kêu như thể cuốc kêu/ Ngàn năm cái giọng vẫn đều thế thôi”, đúng là chẳng có gì thật, nói ra là để nói, thế thôi. Câu tiếp theo: “Bụi tre bụi dứa tan rồi/ Cuốc kêu ai biết cho lời cuốc đâu”, thấy như có cái gì đó rồi. Câu tiếp: “Đường đời còn lắm bể dâu/ Trắng đen còn một Mỵ Châu để buồn”, có chuyện lớn rồi đó, mà chuyện quốc gia đại sự, chuyện hưng vong của cả một dân tộc. Lại tiếp: “Thì cho chớp bể mưa nguồn/ Cuốc kếu vẫn giữ cái hồn cuốc kêu”, đã là sự suy ngẫm, triết lý sinh tồn rồi đấy. Câu tiếp nối: “Tôi nghe nẫu cả những chiều/ Câu thơ ngã xuống đổ xiêu quán chùa”, trở về với suy tư cá nhân về lẽ đời. Và bất ngờ: “Thoắt nghe dựng tiếng gươm khua”, kết để mở ra một chương mới,... Tôi thích bài thơ này, bởi tính giản dị như không của nó, mở đầu là nói một việc thường nghe thường thấy, ai cũng biết, song chẳng mấy người lưu tâm, ấy là tiếng cuốc kêu mỗi ngày, chẳng cần đao to búa lớn, rủ rỉ dẫn dắt đến việc đại sự, lẽ sinh tồn và bài học giữ nước cả cả dân tộc.
Hay như bài ĐỢI CHỜ THÁNG BA, mở đầu cũng bằng một việc hết sức bình thường: “Bây giờ chờ đợi tháng ba/ Tôi ra đứng ở cây đa đầu làng”. Đúng là chắng có gì, thậm chí là vu vơ vớ vẩn, cũng phải. Song câu tiếp theo: “Khói nhà ai cứ mọc ngang/ Con nhà ai cứ lang thang chợ chiều”, thì quả là bắt đầu có chuyện rồi. Nào xem có chuyện gì: “Lề dường trong những chiếc lếu/ Có cô hàng xén ngồi vêu cả ngày”, thấy chút lộ diện chút về một làng quê nghèo, chẳng mấy ai mua bán gì. Nhưng tiếp đến: “Ngả nghiêng mấy lão thợ cày/ Rượu say vác cả cối chày nện nhau”, thì rõ rồi, nghèo, không có việc làm, sinh “nhàn cư vi bất thiện”. Ai cũng biết, tháng ba là tháng giáp hạt, hay đói kém. Làng xóm giàu có, người dân của ăn của để thì đỡ, chứ vốn thiếu thốn triền miên thôi rồi. Vì nghèo nàn, đến thần phật cũng mất thiêng, bất lực, còn dân chúng lo thân chẳng xong, nghĩ gì đến thần phật, mà lễ bái: “Miếu thờ phật tượng ngồi đau/ Cửa thiền rêu đã lên màu cổ xưa”. Để rồi kết ở câu thơ khiến người ta phải suy nghĩ: “Tháng ba vẳng tiếng chuông chùa/ Bây giờ tôi đợi bóng vua về làng”. Bài thơ với một cái kết như vậy là tiếng chuông cảnh tỉnh, báo động. Vua quan gì đâu, ấy là lời thỉnh cầu khẩn thiết về một sự quan tâm của các nhà quản lý đất nước, cần phải làm gì đó để thay đổi cơ chế, đem lại công ăn việc làm cho người dân, thoát nghèo, làm giàu,...
Cái lối mở đầu cửa miệng thản nhiên như không ấy, để rồi gây sự, xưng mọc về những chuyện đâu đâu ấy, khá phổ biến trong thơ Đồng Đức Bốn. Có thể thấy như vậy trong các bài Cơn mưa dừng ở Sóc Sơn, Chợ buồn, Cái đêm em ở với chồng, Hoa dong riềng, Hội Lim, Sông Thương ngày không em, Đàn buồn lại mắc dây oan, Bờ sông, Nhà quê, và nhiều bài thơ khác của ông...

@ Thơ Đồng Đức Bốn nhìn chung là Gợi.
Trong lời Tựa thơ Đồng Đức Bốn, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, đã phân chia ra mấy loại người làm thơ (loại một là các thiên thần, loại hai là những người khởi nghĩa,...), và ông đưa ra nhận định “Đồng Đức Bốn là một nhà thơ, một người khởi nghĩa”. Tôi chẳng rõ, nói như vậy, Nguyễn Huy Thiệp định dạng Đồng Đức Bốn thuộc loại nào?
Tôi thì thấy, thơ Đồng Đức Bốn nhin chung là gợi.
Nhà nghiên cứu, phê bình văn học nổi tiếng đời Thanh là Viên Mai, trong cuốn sách "Tùy Viên thi thoại" của mình, đã nghiên cứu thơ ca Trung Hoa cổ đại để đưa ra quan điểm, thơ trước tiên ở gợi (sức gợi), và cùng với đó là ý tứ, ngôn từ, nhạc điệu,... Như vậy, thơ hay thì quan trọng ở sức gợi, rồi theo đó là ý,ngôn,nhạc. Tôi đồng tình với quan điểm này. Thế nên, cũng như nhà văn Nguyễn Huy Thiệp nhận định, tôi thấy thơ Đồng Đức Bón hay.
Lại xem thơ Đồng Đức Bốn gợi thế nào ?
“Khói nhà ai cứ mọc ngang/ Con nhà ai cứ lang thang chợ chiều” (Chờ đợi tháng ba), câu thơ thật gợi, khiến người ta cứ phải hình dung xem sao. Hay như, gợi làm sao: “Chăn trâu đốt lửa trên đồng/ Rạ rơm thì ít gió đông thì nhiều” (Chăn trâu đôt lửa): “Em như chim bay về ngàn/ Để rơi một cánh hoa tan nát chiều” (Sông Thương ngày không em): “Nhà em ở chỗ vòng quanh/ Sao tôi đi mãi không thành đường đi(Về Nhổn tìm em): “Cái đêm em ở với chồng/ Để ai hóa đá bên sông đợi đò/ Cái đêm hôm ấy gió mùa/ Tơ nhện giăng đến cổng chùa thì tan(Cái đêm em ở với chồng): “Chuông chùa tiếng đục tiếng trong/ Thảo nào cát bụi long đong thân cò” (Bờ sông): “Bây giờ tuổi đã hoàng hôn/ Tôi ra đứng gió đợi buồn trên sông” (Đợi buồn)...vv... Thơ Đồng Dức Bốn, rất nhiều nhưng câu thơ giàu sức gợi như thế,...
Tôi nghĩ, thơ Đồng Đức Bốn, nhờ sức gợi mà hấp dẫn người đọc.

@ Liên kết lỏng làm nên sức bền thơ Đồng Đức Bốn,
Thơ Đồng Đức Bốn, phần lớn cả bài không rõ ý tứ, liên kết các khổ thơ trong bài cũng lỏng, thậm chí, câu trước, khổ thơ trước như chẳng liên quan gì đến câu sau, khổ thơ sau. Ấy vậy, mỗi câu, mỗi khổ thơ lại có vai trò làm cọc tiêu cho các câu thơ trong bài nương tựa vào nhau mà đứng vững., đến mức, nếu lược bớt đi lại cảm thấy chống chếnh. Các bài thơ Chăn trâu đốt lửa, Cuốc kếu, Chờ dợi tháng ba là những bài thơ có ý tứ rõ ràng, liên kết khá chặt chẽ, chiếm số ít trong thơ Đồng Đức Bốn. Nhìn chung, thơ ông thuộc dang liên kết lỏng, đơn giản, bởi mỗi câu thơ đều mang ý tứ riêng và dường như hoàn thành xứ mệnh của nó rồi.
Này đây, bài Chợ buồn, cả thảy 4 cặp lục bát: “Chợ buồn đem bán những vui/ Đã mua được cái ngậm ngùi chưa em”, nếu chỉ ngắn gọn thì thế cũng thành bài thơ rồi. Nhưng tác giả vẫn thêm “Chợ buông bán nhớ cho quên/ Bán mưa cho nắng bán đêm cho ngày”, rồi lại thêm nưa “Chợ buồn bán tỉnh cho say/ Bán thương suốt một kiếp này cho yêu”, cũng không thừa, vẫn  thêm nữa để kết “Tôi giờ xa cách bao nhiêu/ Đem thơ đổi lấy những chiều tương tư”. Mấy câu sau, tách riêng ra, mỗi cũng thành câu đủ làm nên ý của nó, song tất cả xếp liền với nhau lại làm nên sự dày dặn cho cái kết chung, mà cũng là tâm trạng thực của nhà thơ.
Bài thơ Sông Thương ngày không em, cũng là một bài thơ như vậy. Câu đầu “Không em ra ngõ kéo diều/ Nào ngờ được mảnh trăng chiều trên tay”. Vậy thôi, cũng gợi và mở rồi, để cho người ta mặc sức liên tưởng. Nhưng vì muốn đi đến cái kết chở tâm tư của mình “Không em từ bấy đến giờ/ Bàn tay vẫn héo như cờ chịu tang” thi tác giả phải thêm “Sông Thương như gỗ hóa trầm/ Mùi hương để vết tím bầm trên da”, và “Sông Thương từ buổi em xa/ Tay anh quờ xuống hóa ra bị chàm”. Cảm thấy chưa đủ, tác giả dông dài thêm mấy cặp lục bát nữa, mà câu nào cũng đủ ý của mình “Em đi như chim về ngàn/ Để rơi một cánh hoa tan nát chiều”, “Tôi đi trên dòng sông gai/ Lối chân chim đâu trên vai thành hồ”. Có vẻ như chúng chẳng liên quan gì đến nhau, nhưng mỗi câu đều khá gợi, nên đứng được, riêng mình, hay nương tựa vào nhau thành bài thì vẫn ổn.
Nhiều bài thơ Đồng Đức Bốn là vậy, chiếm số đông, nhất là thơ lục bát. Có cảm giác, khi sáng tác, tác giả chắp nối các câu thơ riêng vào với nhau, hoặc tác giả không làm chủ được mình, mặc cho câu thơ dẫn dắt mình đi, lạc bước, để rồi khi giật mình tỉnh giác, ngơ ngác tìm đường trở về. Các bài Đàn buồn lại mắc dây oan, Thôi đừng hát nữa người ơi, Chiều mưa trên phố Huế, Em bỏ chồng về ở với anh không,... đều thuộcvdạng này.
Lối kết cấu lỏng, dựa vào các câu thơ cọc tiêu ấy làm nên sức bền cho thơ Đồng Đức Bốn. Tựu chung, bài có thể dông dài, hay lan man, khong rõ ý, thậm ý tứ tản mát đi chăng nữa, thì nhờ có một, đôi câu thơ hay, khiến bạn đọc thích thú mà thể tất, mà bỏ qua cho cái tội dông dài của tác giả. Bởi người ta, chỉ cần nắm bắt một câu thơ giàu sức gợi, ấn tượng, hay là thấy đủ, thuộc nagy được, đặng ngâm ngợi hay mang ra bình luận, tán thưởng vui bạn vui bầu lúc trà dư tửu hậu. Vậy là Đồng Đức Bốn làm được điều này, bởi thơ ông có nhiều câu như thế !...

@ Với lại, Đồng Đức Bốn có cái lối, cứ “xưng xưng mọc mọc”, cũng có thể cho là dùng phép “thậm xưng” nói ra cái ý của mình, đặt điều, nói quá lên, đem gán ghép cho người ta những thứ ấy, rồi lấy đó làm cái cớ, chỗ nương tựa, để mà buồn rầu, khổ ải, than vãn này nọ, kiểu bắt đền, ăn vạ,... Ở ngoài đời, nếu ai mà sống và ứng xử thế, cứ cường điệu, làm quá lên mọi chuyện thì thật không ổn chút nào, song trong thơ thì lại ổn, thậm chí là đắc địa, nếu biết tiết chế. Tôi nghĩ, Đồng Đức Bốn rất chi đắc địa và thật lợi hại với thủ pháp này.
Thì những đây: “Em đi từ hạ vào thu/ Gặp tôi ở chốn sương mùa chưa tan/ Em đi từ phái gian nan/ Gặp tôi ở chỗ cung dàn dứa dây” (Về phố Hàng Tre); “Một chiều về phố hàn Thuyên/ Sao em lại nỡ bỏ quên tôi rồi” (Về phố Hàn Thuyên); “Anh từ trong em bước ra/ Tiếng thương tiêng nhớ gấp ba chuông chùa/ Em từ anh ra lạ chưa/ Một ngày những có bốn mùa đổi thay” (Chuông chùa Quán Sứ); “Tôi ngồi làm thơ cho ma/ Và coi quỷ dữ như là tình nhân/ Chán chơi với các vị thần/ Tôi đi tìm cỏ mùa xuân đắp mổ” (Viết bên hồ Hai Bà); “Gọi em một tiếng tưởng xong/ Không ngờ ai nấp trong lòng trộm nghe” (Ở phố Bà Quẹo); “Có ai yêu gỉ bào giờ/ Để tội cái ngõ gọi ngờ Tạm Thương/ Tôi về ngày ấy nhiều sương/ Mà sao chỉ một giọt vương trong lòng” (Ngõ Tạm Thương); “Phố tình bạc bẽo bao nhiêu/ Mà sao tôi vẫn cứ yêu như thường(Nhà em ở sát chợ Mơ); “Ước gì mưa mãi chẳng tan/ Để cho sấm cứ râm ran khắp trời/ Để cho em nép vào tôi/ Ôm chung một giọt mưa rơi xuống lòng(Phố Nối mưa rào);  “Màu hoa đỏ một nụ cười/ Lặng im mà sóng luân hồi dâng cao(Hoa dong diềng); “Một mình đi với một đêm/ Một ddeeem đi với sấm rền trong mưa” (Ở phố Bà Quẹo); “Chiều nay Hồ Tây có dông/ Tôi ngồi trên sóng mà khong thấy chìm(Chiều nay Hồ Tây có dông)...vv... Nhiều làm những câu thơ như thế, nên có thể xem, “thậm xưng” là thủ pháp phổ biến được Đồng Đức Bốn dùng đạt hiệu quả cao.

@ Nếu như trong thơ, Trần Đăng Khoa và trong văn, Nguyễn Huy Thiệp đều chú trọng và rất tài tình trong nghệ thuật tạo dựng không gian truyện, thì trong thơ Đồng Đức Bốn, cái không gian nghệ thuật ấy lại lễnh loãng, thậm chí chẳng có không gian nào. Thế nhưng, gần như bài thơ nào, cũng có câu thơ hay và may sao, tự thân câu thơ ấy làm nên không gian riêng cho mình, hư ảo, ấn tượng, ám ảnh, để người đọc phải nhớ và vì thế cứu vớt cả bài thơ.
Ví như: Bài thơ Bờ sông, câu kết “Bờ sông có một con đò/ Gác chèo ông lão nằm lo trăng buồn”. Tự thân, tạo được không gian riêng có, chẳng cần đến mấy câu thơ trên “Bờ sông hoa cải hoa cà/ Ước chi áo tím như là ai mong”; “Chuông chùa chùa tiếng đục tiếng trong/ Thảo nào cát bụi long đong thân cò”. Hay như: “Tôi là một kẻ mồ côi/ Thế gian mất, tôi còn tôi một mình” (Nửa dêm Đà Lạt) ; Hay như bài Thăm mộ Nguyễn Du, tác giả luận đề “Đời Kiều sao lắm tái tê/ Đời tôi sao lắm đam mê chưa thành”, rồi những câu thơ tiếp nối cứ lan man mỗi câu một ý cho đến khi thấy cần thôi thì tác giả vội kết: “Tôi đi về vẫn dọc ngang/ Câu thơ thập thững nén nhang cho ngươi”,may  câu này lại khá ấn tượng ...Hay nữa, trong bài thơ Tôi là vua không có ngai, câu mở đầu tuyên bố thản nhiên như thế, tác giả triết luận bâng quơ theo cái kiểu “nói đại không chịu trách nhiệm”, là để đi đến cái kết bất ngờ, ngẫm ra mới thấy hay “Chìm trong vương quốc của thơ/ Không cho người được may cờ để treo”,...v.v...

@ Lại có cảm giác, cứ như tác giả sướng gì viết nấy, rồi đem chúng thả chung vào một cái ao và cố tình khoắng loạn lên cho các câu thơ riêng lẻ chao động, trô dạt, và quệt dan díu vào nhau mà thành. La tôi cứ hình dung vậy khi đọc thơ Đồng Đức Bốn, chẳng hay ?
Bài thơ Nhà quê, tác giả chia làm mấy khúc, là cách để đỡ phải mất công nhào luyện vo viên chúng với nhau, bởi nhà quê thì có cả ngàn vạn chuyện, biết nói sao cho hết, mà có nói ngày này sang ngày khác, năm này sang năm khác cũng không hết chuyện. Thế nên, tác giả chỉ buông vài câu “Nhà quê có cái giếng đình,”, rồi “Nhà quê chân lấm tay bùn,” đã thấy chẳng cần phải con cà con kê nữa, dẫu có mang chuyện Thị Màu ra bàn thì mãi cũng nhàm, nên thôi, túm chuyện vào một mớ cho xong “Bao nhiêu là thứ bùa mê/ Cũng không bằng được nhà quê của mình,...”, tự hào kiểu nhà quê, ra điều nhà quê của tớ còn ối chuyện để kể nhưng đây không thèm nhé,... Đây cũng là thói ma lanh, láu cá đầy chất “nhà quê” của Đồng Đức Bốn mà nhà thơ sử dụng trong thơ mình,...
Hay như, bài  Vu vơ chùa Hương, gồm mấy phần, mỗi phần một ý, ngưòi ta có thể quên, song sẽ khó quên câu thơ trong bài, như "Có gì trong tiếng chuông êm/ Quả mơ vẫn héo cả đêm lẫn ngày/ Chùa Hương nghi ngút hương bay/ Phật ngồi cũng héo cả ngày lẫn đêm,". Rồi như bài Qua nhà người yêu cũ, nhà thơ thấy gì nói đó, vu vơ cho có chuyện, nếu như thiếu đi câu hay “Vẫn còn thấy vướng trên môi/ Tóc em một sợi rong chơi lạc vào” thì bài thơ nhạt hoét. Nữa là bài thơ có cái tít rất kêu Thơ viết gửi người tình khi tôi đã chết, cũng đâu  có gì ghê gớm, to tát, chỉ vu vơ thôi, nếu như không có câu dỗi mình giân người “Chết rồi tôi vẫn làm người/ Để nhân những nỗi đau đời cho em”... Chịu khó tìm kiếm, nhặt nhạnh trong thơ ông, dạng thức này không hiêm. Tôi cho, đây cũng là một dạng thức hợp làm nên chất Đồng Đức Bốn.

Bình sinh lúc Đồng Đức Bốn còn chưa là gì cho đến khi trở thành nhà thơ nổi tiếng, được nhiều người biết đến tôi có gặp ông mấy lần. Đôi lần là ở tòa soạn Báo Nông nghiệp (nay là Nông nghiệp Việt Nam) năm trên phố Ngô Quyền, Hà Nội, và một lần đâu đó tại nhà riêng nhà thơ Trương Hữu Lợi. Ngày ấy, một dạo tôi cộng tác thường xuyên cho một chuyên mục của Báo Nông nghiệp, chuyên bình các bài thơ về đề tài nông thôn, nông dân, nông nghiệp ( 3N). Tôi đã chọn bài thơ Chăn trâu đốt lửa của Đồng Đức Bốn để bình. Tình cờ chạm mặt nhau ở đấy, Đồng Đức Bốn nói lời cảm ơn vì việc tôi đã làm, sau đó ông rủ tôi xuống quán chè chén lề đường cửa tòa soạn báo cho tiện nói chuyện. Ông lấy trong cặp tập thơ mới xuất bản ký tặng tôi, ấy là tập Chăn trâu đốt lửa (NXB Lao động, 1993), mà sau này, đọc lại thật kỹ, tôi cho rằng đây là tập thơ hay, nếu không muốn nói tập thơ ấy dồn tụ tinh túy thơ ca của Đồng Đức Bốn ở độ chín, tập hợp được những bài thơ hay, có nhiều câu thơ hay để bạn đọc, người yêu thơ xứ mình đến giờ vẫn nhớ và mang ra bình luận.
Nói như vậy, là để thấy, trước đó tập thơ đầu tay (Con ngựa trắng và rừng quả đắng), và sau đó là mấy tập thơ nữa, thì cái người ta nhắc đến (sẽ còn nhắc đến) phần lớn là những bài thơ, câu thơ nằm trong tập Chăn trâu đốt lửa. Ngay khi làm tập, Đồng Đức Bốn đã nhặt nhiều bài thơ trong tập thơ đầu tay (Con ngựa trắng và rừng quả đắng) mang sang tập Chăn trâu đốt lửa. Rồi sau đó, ông vẫn tiếp tục lựa chọn một số bài thơ hay, được người đọc yêu thích sang làm cốt cho tập thơ mới của mình. Đặc biệt tập thơ cuối cùng của Đồng Đức Bốn xuất bản năm 2006 vào năm ông mất, dày hơn nghìn trang, có thể xem là tuyển tập thơ Đồng Đức Bốn (Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc, NXB Hội Nhà văn). Lại cũng không có nghĩa, những tập thơ sau không có những bài thơ hay, câu thơ ấn tượng. Bởi dù có hay không những tập thơ khác của ông thì giờ đây trên không gian mạng, người ta có thể tìm đọc hàng trăm bài thơ được nhặt ra từ các tập thơ của ông, mà có thể xem đó là những bài thơ hay, hoặc được người đọc yêu thích trong toàn bộ thi cả của Đồng Đức Bốn.
Có điều, không may cho Đồng Đức Bốn là không mấy thọ, hưởng dương chưa đến tuổi lục tuần bởi căn bệnh hiểm ghèo, tuy  đã thành danh và thơ vừa độ chín. Giả sử, trời cho ông thọ thì nhà thơ vẫn có thể cho ra thi phẩm hay. Đáng tiếc là vậy. Song tôi nghĩ, với chất thơ này, cùng các thủ pháp sáng tác mà tôi đã nêu ở trên, Đồng Đức Bốn khó có thể tiến xa hơn nữa, hoặc giả chỉ để làm mới mình thôi. Còn như, vẫn tiếp tục giọng điệu ấy, chỉ càng thêm cũ, thêm nhàm, thậm chí, không khéo còn làm nhạt nhòa đi cái đặc sắc mình từng có. Bằng chứng, tính từ thời điểm Đồng Đức Bốn bắt dầu tập tọng thơ phú (khoảng năm 1980) cho đến lúc ông qua đời (2006), với mấy trăn bài thơ, thì đến nay, số bài thơ được người yêu thơ đọc nhiều nhất và thích nhất của ông cũng độ chừng đâu đó mươi bài (Trở về với mẹ ta thôi, Vào chùa, Chăn trâu đốt lửa, Em bỏ chống về ở với ta không, Đời tôi, Chợ buồn, Chờ đợi tháng ba, Nhà quê, Cái đêm em ở với chồng, Đêm sông Cầu, Bờ sông,...). Tất nhiên, nếu tính theo đơn vị câu, thơ Đồng Dức Bốn khá có nhiều câu thơ hay, gợi, được ngươi ta nhớ và thích,... Chí ít, ông có sự vinh hạnh vì mình đã gây được ảnh hưởng đến người khác.Và tôi tin thế, bởi đã thấy, những câu thơ gợi và hay của Đồng Đức Bốn thực sự ảnh hưởng đến nhiều cây bút thơ sau ông, cũng như một thời, ối cây bút văn xuôi xứ ta bị ảnh hưởng, chi phối bởi giọng điệu, khí chất Nguyễn Huy Thiệp, trong sáng tác của mình,...
Chuyện cuộc đời ông, tôi không mấy biết về Đồng Đức Bốn. Tuổi Mậu Tý, mệnh "Tích lịch hỏa" cùng với ông (sinh 1948), làng văn chương xứ Việt mình nhiều người có tài (Văn Chinh, Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Hiếu,... ). Bản thân Đồng Đức Bốn xuất thân con nhà nông dân nghèo ở An Hải (Hải Phòng), song ông lăn lộn qua nhiều loại nghề (Thanh niên xung phong thời chiến tranh chống Mỹ, rồi thợ cơ khí qua nhiều đơn vị, rồi nữa là thương nhân), nên có thể xem là người từng trải, giàu vốn sống. Đó là lợi thế của ông. Tôi cũng từng nghe người ta nói nhiều về đời thơ, việc xuất bản thơ và chuyện lang bạt đó đây, giao lưu bạn bè, làng văn chương,... hay nhiều mà dở cũng có, thành giai thoại cả, lại thật hư chẳng mấy rõ...!?...Nên không dám bàn.
Tôi nghĩ là, trong cái rủi lại có cái may, bởi rời bỏ dương thế, ông chẳng còn phải đau đời, vật vã với chuyện chữ nghĩa, thơ phú nữa. Kể từ khi dính cái bẫy thi ca, coi như ông đã vướng nghiệp, đánh cược đời mình, dại dột "mải mê đuổi một con diều" rồi. Song còn may mắn hơn nhiều người, cả  đời thu phú tay tắng vẫn hoàn tay trắng, còn ông, với ngần ấy thôi, nhất là thơ lục bát, Đồng Đức Bốn đã đủ để ngao du với đời rồi.
Hơn chục năm trước, trong một vài bài viết, khi bàn về thơ Việt Nam hiện đại, riêng thể lục bát, tôi đã mạo muội khi xếp bốn nhà thơ ngồi bốn góc chiếu Lục bát, ấy là Nguyễn Duy, Lê Đình Cánh, Phạm Công Trứ, và Đồng Đức Bốn. Giờ thì trong chiếu thơ Lục bát ấy, tôi nghĩ, vẫn còn cả bốn vị này, nhưng chẳng thể trấn giữ riêng mình mỗi người một góc chiếu, mà xin các ngài phải xê dịch đôi chút để nhường chỗ cho mấy người khác nữa cùng ngồi,...
Tôi muốn ngưng bài viết này, bằng câu thơ kết trong bài “Đời tôi” của Đồng Đức Bốn sáng tác năm 1986. nghĩa là khi ông mới tập tọng thơ phú, vậy mà đã mang tính tiền định: “Đời tôi giàu ở chiêm bao/ Bây giờ ngồi hút thuốc lào với trăng”,... ./.
R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 15.04.2023 01:51:19 bởi Thanh Vân >

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( I ) - 13.04.2023 16:54:31

NGUYỄN VĨNH TIẾN
Kiến trúc Chữ, Hội họa Chữ và Âm nhạc Chữ
         Chân dung văn học
                                                                                            
                 Thực lòng, tôi định viết về Nguyễn Vĩnh Tiến nhưng cứ lần lữa vì chưa biết bắt đầu vẽ chân dung anh như thế nào, bởi con người đa tài này thật khó nắm bắt, cứ như cánh nhạn bay xa mình vậy?...
Nhưng sao không bắt đầu chính bằng cái sự khó nắm bắt này nhỉ? Ấy là phương pháp khoanh một vòng tròn lớn. Rồi sao nữa? Là xem Tiến có cái gì hay thì nhặt bỏ chúng vào cái vòng tròn đó để quan sát và phân tích. Nào, kiến trúc sư, làm thơ, sáng tác nhạc, lại thêm vẽ nữa…
 
Trong khuôn khổ bài viết này, tôi sẽ không phân tích về nghề kiến trúc và cái tài hội họa của Nguyễn Vĩnh Tiến, mà chủ yếu bàn về nghệ thuật thơ của anh, cùng với đó là âm nhạc, yếu tố quan trọng làm nên tính chất dân gian đương đại trong thơ-nhạc của Nguyễn Vĩnh Tiến.
 
Ông, tờ mờ sáng ông đi về phía núi/ Đồi núi mở ra câu chuyện buồn trung du...” Có lẽ, tôi sẽ bắt dầu câu chuyện về anh chàng “bốn trong một” này bằng câu thơ, cũng là lời mở ca khúc “Ông tôi”, xuất phát từ một bài thơ của nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền, cha anh, bởi nó đúng với Nguyễn Vĩnh Tiến, chí ít từ buổi đầu tiên kế thừa, dấn thân vào kiếp thơ nhạc, cho đến lúc này.
 
Thi nhân sầu/ vì vạn sự đổi thay/ con người chẳng bao giờ đạt Đạo...”, một bài thơ đầy tính triết học, Nguyễn Vĩnh Tiến khai mở dòng triết luận man mát pha trộn giữa Phật giáo và Đạo giáo như thế, bởi anh ý thức được sự gian khó, cực nhọc song cũng đầy niềm vui và nỗi buồn trong hành trình Thi-Nhạc-Họa của mình, khi mà đã ở vào cái thế “cháu giờ tuổi giống triền đê/ chỉ thoải thoải dốc đổ về bến sông ”... Nhưng hãy khoan nói về chất triết lý trong thơ Nguyễn Vĩnh Tiến để trở về với thời tuổi thơ trong trẻo…
 
I. Chất đồng dao trong thơ Nguyễn Vĩnh Tiến.
 
Trước khi bàn riêng về chất đồng dao trong thơ Nguyễn Vĩnh Tiến, tôi khẳng định, chính chất đồng dao trong thơ anh là nền tảng, hồn cốt làm nên chất dân gian đương đại trong âm nhạc của anh. Chất đồng dao từ vùng đất trung du Phú Thọ hay nói rộng lớn hơn từ cả vùng châu thổ Sông Hồng trong hệ ngôn ngữ của anh vấn vít, xoắn xít vào nhau, quyện thành một khối, khó tách bạch ra được. Với Nguyễn Vĩnh Tiến, điều bất ngờ là khi một ca khúc ra đời, chẳng rõ lời thơ hay giai điệu, cái nào hình thành trước? Kể cả những bài thơ tồn tại dưới dạng một thi phẩm, thì có thể, một ngày đẹp trời nào đấy, nó được cất lời thành ca khúc, chỉ là sớm hay muộn, bởi thanh âm giai diệu đã có sẵn trong từng câu thơ rồi ... Thơ trong nhạc, nhạc trong thơ. Dòng chảy ấy trở nên cồn cào và độc đáo.
 
Nguyễn Vĩnh Tiến có cả sê-ri ca khúc về người thân trong gia đình, bà tôi, ông tôi, cha tôi, mẹ tôi.... mà ở đó, phần lời đều là thơ, đều xứng đáng là một thi phẩm độc lập. Này đây:”Nhớ làng tôi, từng dòng mương xanh bay bay bay bay... Nhớ bà tôi, một trăm năm rồi ngọn cỏ hóa mây trời... Cười cười một chuỗi, trời thử bụng ta, có mùa thóc lép lợp trên mái nhà, có mùa hoa cà tự nhiên tím tái, bà ví lông gà, vàng như vườn cải, ông ví mặt trời như lời mối lái, ai ví tình yêu như trò nghịch dại ?... Bà lên Kẻ Chợ có buồn được đâu, ra về lúc lắc, héo mòn một sâu...”. Cứ dắt dây, dung dăng dung dẻ, quanh co, lòng vòng như thế, Nguyễn Vĩnh Tiến đã vẽ lên một làng quê vô cùng ấn tượng ( rộng ra là một nông thôn miền Bắc Việt Nam điển hình) dân dã, dung dị, thân thương, gần gũi và đầy vất vả nghèo khó qua hình tượng người bà. Câu thơ tài tình “Một mình bà đội cả trời nắng to” trong bài thơ Nguyễn Vĩnh Tiến thực ra được viết từ năm 10 tuổi, nhân một lần về thăm bà, hồn nhiên, thật thà ngày ấy lại làm nên ngòi châm kích hoạt và chắp cánh cho ca khúc Bà tôi nổi tiếng sau này, được xem như sự khai mở sự nghiệp ca nhạc của anh, mang tính chất dân gian đương đại riêng biệt.
 
Hay như, những câu thơ đầy chất đồng dao từng làm Du Tử Lê say lòng, lấy làm thích thú, trích dẫn tròng bài viết của ông  “Nguyễn Vĩnh Tiến, tài hoa và lục bát”: “Quê tôi cả thẹn hay lo/ Dòng sông vắng khách con đò trầm ngâm/ Bụi tre thích đứng cười thầm/ Giàn bầu giàn bí thích cầm tay nhau/ Con chim sẻ nhớ bẹ cau/ Con chào mào lại nhớ màu ổi ương”(Tuổi tôi); 
Tháng tám đã sắp cạn rồi/ Ngoài song tháng chín đã ngồi trong sương/ Anh mơ hẻo lánh con đường/ Cánh đồng hoa dại nằm vương đôi mình”...
Có thể thấy, rất nhiều những câu thơ mang chất đồng dao và chất ca dao mới trong thơ Nguyễn Vĩnh Tiến, thơ đến tự nhiên như hơi thở:
“Bỗng dưng một cánh chuồn chuồn/ Lấy của tôi một nỗi buồn bay đi/ Để cho hoa lá ùa về/ Để tôi lạc giữa bốn bề là tôi ” (Một cánh chuồn chuồn); 
Có gì nặng trĩu đường trôi/ Một mùa xuân rót một lời đáy xuân/ Có quang gánh nỗi đồng lần/ Hồn kêu kẽo kẹt trên thân thể buồn” (Đáy xuân);
 “Ai trách con vịt trắng/ Ngủ lại đứng một chân/ Ai yêu con chuồn ớt/ Bay quanh ruộng rau cần‟ (Vỗ trống); 
Những đôi cánh chim se sẻ/ Vội vàng đôi bàn tay xinh/ Em mua bao nhiêu mới đủ/ Xổ tung cái chuyện chúng mình” (Se sẻ); 
          “Nâng lên những búp tay/ Mặt trời và nõn chuối/ Nắng vàng và lá bưởi/ Cánh cò và gai tre” (Thấy một mùa quen quen);
Đưa em đưa em qua cầu/ Anh mang con sông về làm dâu/ Xa nhau xa nhau bao năm rồi/ Hoa bèo xác phác dạt bờ nao/ Bóng tre đã mục, bóng cầu đã mục/ Rêu xanh lên mắt ngóng tin nhau” (Giữa con sông làng);
          “Những con chồn hoang/ Đêm mò về làng/ Mắt như sao rơi xuống đất/ Mỗi chiếc lông rụng mang theo một hạt bụi của núi đồi/’’... Chồn ơi chồn đứng ở đâu/ Ban ngày đang ngủ trên đầu ban đêm/ Chồn đi đá cứng chân mềm/ Về làng mà hát mà xuyên qua làng” (Chồn hoang);
          “Chòng chành đã đến canh tư/ Tay khô cánh cúc vàng dư gió lùa/ Tháng tám đã khép cổng chùa/ Tiếng chuông có vọng đến mùa thu sau/ Sen tàn những lúc xa nhau/ Anh như hạt cốm gói nhàu lá sen” (Canh tư);
          “Đêm qua núi lại kiễng chân/ Lại tô thẫm ngực những tuần cỏ xanh/ Lại bóng đè những mộng lành/ Lại mạch ngầm những suối quanh thuở nào(Đêm qua núi lại kiễng chân) ;
Mưa mùa thu, giọt mùa đông/ Như cầu không nhịp, như sông không phà/ Đong mưa bằng vạt cà sa/ Nhớ nhau mình lại thẩn tha cổng chùa/ Tháng chín hạc trắng nhớ vua/ Sông Hồng gió hát lạc mùa ngã ba/ Tháng mười, vườn đỗ ra hoa/ Một con sẻ nhỏ xa nhà, sang sông” (Mưa mùa thu); v.v...
 
          Với thủ pháp cơn mưa đồng dao và ca dao mới này, thơ Nguyễn Vĩnh Tiến cứ trườn đi một cách uyển chuyển, khó nắm bắt, mà hay gây bất ngờ bởi những câu thơ xuất thần. Bất ngờ, những điều tưởng như phi lý song lại chấp nhận được vì ở một tổng thể hợp cảnh hợp ý hợp tình. Ấy là cái nét rất riêng và là điểm mạnh của thơ Nguyễn Vĩnh Tiến. Lẽ dĩ nhiên, chất liệu đồng dao vô cùng linh hoạt này được nhào luyện bởi yếu tố kiến tạo hình họa chồng lớp màu sắc, sự nhòe trong câu chữ, độ loang của Màu Nước, mảng miếng của hội họa lập thể và cả sự hư ảo của hội họa trừu tượng. Đó chính là điểm mạnh riêng có trong thơ anh.
 
II. Thơ cấu trúc
 
Thực ra, đây chỉ là cách gọi rút gọn, khi tôi chưa tìm được cách gọi khác chuẩn hơn để diễn đạt yếu tố kiến tạo kiến trúc trong thơ Nguyễn Vĩnh Tiến mà thôi.
Bản thân là một kiến trúc sư, lại rất mạnh về thiết kế quy hoạch, nên có thể xem, Nguyễn Vĩnh Tiến mang chất nghề nghiệp (kiến tạo không gian hình họa) vào thi ca và cả âm nhạc của mình. Sự ảnh hưởng ấy là yếu tố tự thân, lâu thành quen, gần như bản năng, dần dà làm nên phong cách riêng, định dạng thơ Nguyễn Vĩnh Tiến, mà qua đó ngươi ta có thể phân biệt thơ anh với thơ người khác.
 
Trong lĩnh vực thiết kế quy hoạch kiến trúc, người ta phải thực hiện việc tổ chức sắp xếp từ tổng thể đến chi tiết, một cách khoa học, chính xác, tỉ mỉ nhưng vẫn vô cùng lãng mạn (lãng mạn trong không gian mở và gợi của những kiến trúc sư có tài) để tận dụng tối ưu không gian, thậm chí chiếm lĩnh không gian có thể phóng chiếu tối đa tâm hồn, tầm nhìn, khi mà con người trong kiến trúc bị hạn chế bởi yếu tố chịu lực của cấu trúc và vật liệu...
Còn ở đây, trong không gian nghệ thuật, người ta có thể làm được hơn thế, vượt qua được giới hạn thông thường. Tôi nghĩ, trong thơ ca và âm nhạc, kiến trúc sư Nguyễn Vĩnh Tiến đã làm được cái việc ‘vượt qua giới hạn thông thường”, làm phong phú thêm cấu trúc thi ca và âm nhạc của mình, với sự hỗ trợ đắc lực của chất liệu đồng dao. Lẽ dĩ nhiên, còn có những yếu tố khác cấu thành, tôi sẽ phân tích rõ hơn ở phần sau....
 
Hãy xem, cái gọi là “thơ cấu trúc” của Nguyễn Vĩnh Tiến ra sao?...
Tìm đọc những bài thơ cũ, cả những bài thơ được anh phổ nhạc thành ca khúc, và nữa, đọc các bài thơ Tiến đăng hàng ngày trên trang Facebook của mình, đều nhận diện phong cách này rất rõ:
Tôi như tảng đá ong nham nhở/ Khắc làm sao tên của tháng ngày em/ Chỉ mong sao nước chảy đá mềm/ Em đừng gọi tôi bằng tên bằng tuổi/ Em đừng ví tôi nỗi suối niềm sông/ Tôi là chòi hoang, chờ em nghỉ giữa đồng” (Lại trôi) ;
Anh đã lúng túng mùa gieo mạ/ Anh đã quá nắng ngày gieo mầm…Anh đã khói úa triền đê vàng/ Anh đã lỡ chuyến đò qua ngày/ Giờ chiều neo u ám .../ Anh vẫn nhớ rõ bàn tay mềm/ Lưng đã thắt đáy mùa Xuân tròn/ Em đã lấp loáng mùa vun trồng/ Tay em đã cấy từng hy vọng/ Mạ non ửng mầm/ Duyên thì tuỳ/ Thuyền thì sông/ Lòng sao giờ lại cách lòng ?...”  (Mạ non ửng mầm) ; 
Rồi có ngày/ Nàng bước ra/ Và ôm chầm lấy chàng thi sỹ/ Chàng ơi/ Có thể Yêu thương đậm sâu nhất là khi chàng yên nghỉ/ ... Em cần đủ chữ, đủ tứ mới lên hình/... Chờ nàng từ lúc bình minh/ Từ khi Tháng Một tưởng mình Tháng Ba/ Ngoài hiên, ngõ nắng lân la/ Hỏi thăm mới biết, mình qua đời rồi ... " (Đợi nàng Thơ);
Tôi lặn lội những nàng đêm/ Quấn quýt tay mềm/ Trong mơ và lụa/ Những mùa Xuân sến súa/ Những thập niên đổ vỡ/ Trong đêm nức nở môi nàng/ Tên em là hoa xoan/ Hẹn anh tháng Ba bờ đê xóm cũ/ Tên em là nụ/ Hẹn anh chúm chím bên dốc đá tháng Năm/ Tên em là rằm/ Hẹn anh ngày trăng non e ấp/ Các nàng xâm xấp/ Ấm ngực mùa đông/ Thì ra cây cải vừa ngồng/ Then cài sao để cõi lòng mở toang ... ?” (Những nàng đêm);
Chùng chình cũng đến tháng Tư/ Hoa vàng lại thấy đánh đu cành xoài .../ Nàng Bân nước mắt chưa ngoai/ Năm ngón tay dài lạnh mải miết đan/ Xa xa dãy núi xanh tràn/ Nhớ thương lẽo đẽo từng đàn phả sương/ Tháng Tư xuân cạn đầu giường/ Hệt như chai rượu thất thường đêm qua/ Đêm qua tôi gặp Tháng Ba/ Vừa đi vừa thả cánh hoa mịt mùng ...”  (Tháng Tư) ; 
Sông Thao réo ùng ục màu hồng xám/ lặn ngụp giữa dòng củi mục xác tuổi thơ trôi / Cây gạo đứng giữa bãi bồi, không lá / Tôi đáng lẽ ngồi chờ chuyến đò định mệnh.../Tôi đi chậm lại bỗng muốn khóc xối xả/ Muốn cõng về cho em một quả núi/ Rồi nằm thật dài như đường ray/ Tôi đáng lẽ đã thấy chuyến đò định mệnh/ Nếu không lạc vào những tiếng chuông trên mặt nước/ Rồi đuổi theo em áo vàng trong cánh đồng ngô...” (Trung du);
“Phú Thọ nằm khép nép / Ngay bên cạnh bờ sông / Chợ Mè tử thuở tôi lông bông / Đến giờ vẫn bán chổi và rế / Ông bà tôi hình như vẫn thế/  Chết lâu rồi vẫn đi dạo đâu đây / Này từng ruộng lạc củ gầy / Này đường dốc của những ngày nốc ao ... / Thị xã của tôi / Thị xã cồn cào... / Với mùi thịt da như triền đồi cháy nắng / Tôi càng trôi, chuyến đò càng nặng, Một phút chiêm bao đã gần hết đời người ...”  (Phú Thọ của tôi); v.v...
          Quả là, tôi không thể cứ sa đà lạc lối trong không gian “kiến trúc chữ” và “hội họa chữ” mà Nguyễn Vĩnh Tiến kiến tạo nên, bởi biết trích dẫn bao nhiêu cho vừa trong vô vàn những khúc thơ cấu trúc tầng tầng lớp lớp như vậy? Người ta có thể thấy, trong không gian hình họa được tác giả kiến tạo, có đủ không gian bốn chiều (rộng hẹp, cao thấp, dọc ngang và thời gian nữa), thấy sắc màu, giai tầng, ẩn hiện, thực ảo, ma mị, phân tâm ...
 
Có thể nói, Nguyễn Vĩnh Tiến đã chuyển hóa tất thảy những gì mình đang ấp ủ trong nghệ thuật kiến trúc mà ngoài đời còn chưa thực hiện được vào thơ ca và âm nhạc của mình. Trong không gian hình họa ấy, hay đúng hơn là trong thế giới của trí óc tưởng tưởng riêng mình, Nguyễn Vĩnh Tiến mặc sức thoải mái kiến tạo.... Và chính vì thế, nó ảnh hưởng đến hình thức thơ của anh.
 
Để ý, Nguyễn Vĩnh Tiến rất ít sử dụng các thể thơ truyền thống, như ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn, trừ lục bát. Dường như, các thể thơ truyền thống khá chật chội, bức bối với ý tưởng khó nắm bắt và ngôn từ tự nhiên của anh. Ngay trong thơ lục bát của mình, Nguyễn Vĩnh Tiến cũng không chịu bó buộc với luật vần sáu, tám nên hay thay đổi tiết tấu nhịp thơ bằng vần lưng ở câu tám. Và như thế, Nguyễn Vĩnh Tiến tránh được cái nhàm của thể thơ lục bát, lại có thể đột biến cho những câu lục bát xuất thần.
 
Nguyễn Vĩnh Tiến, chủ yếu, là thơ tự do. Thơ tự do theo quan niệm của riêng mình.
Nhân đây, tôi muốn nói thêm quan điểm của Nguyễn Vĩnh Tiến về “thơ tự do”. Xin phép không kiến giải thế nào là thơ tự do, bởi phàm người làm thơ, yêu thơ thì ai cũng biết, cũng hiểu thể thơ tự do. Tuy nhiên, Nguyễn Vĩnh Tiến lại có cái nhìn thể thơ tự do theo cách của mình. Theo anh, “Thơ tự do là muốn kết hợp thể thơ nào cũng được, miễn là mạch thơ, cảm xúc thơ, ý thơ, tứ thơ trở thành một cấu trúc hay, đẹp, và quyến rũ”. Vậy thôi. Quan niệm vậy, nên phần lớn trong hàng nghìn bài thơ của mình, Nguyễn Vĩnh Tiến lựa chọn thể thơ tự do kết hợp kiểu này để chuyển tải ý tưởng, bởi đây thực sự là chiếc túi càn khôn to nhỏ tùy thích có thể bao vây đặng chứa nổi không gian hình họa mà tác giả kiến tạo nên.
Xin trích một khúc trong bài thơ “Loài thi sĩ” làm ví dụ:
“... Thi sỹ không nên lấy vợ
Nhạc sỹ sống một mình cũng chẳng sao...
Nốt nhạc lúc thấp lúc cao
Thất thường nhịp phách, mưa rào nội tâm ...
Thi sỹ hồn mưa lâm thâm
Đôi khi thích bay lên bằng đôi cánh ướt
Rừng ý nghĩ thỉnh thoảng sầu thảm tê buốt
Mà chẳng hiểu nổi tại sao ...
Sống gì phần nửa chiêm bao
Lúc tỉnh thức, cũng lạc vào mộng mơ
Ai mà đợi, ai thèm chờ
Người tỉnh thì ghét người thơ, đúng rồi ...”
 
III. Thuyết về cái kết nốc –ao.
Đọc thơ Nguyễn Vĩnh Tiến, thích cả bài có, nhưng cũng có nhiều bài thích câu kết, đơn giản bởi câu kết thường hay và rất ấn tượng. Những tưởng, là ngẫu nhiên thôi, hoặc giả, thì cũng là người ưa cách dụng công vào câu kết. Song không hẳn thế, ấy còn là chủ trương của Nguyễn Vĩnh Tiến.
 
Có lần, Nguyễn Vĩnh Tiến mời tôi và nhà thơ Nguyễn Đình Hiển, cùng cha mình, nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền, du xuân miền trung du, lên chơi trang trại của gia đình anh ở Thôn Liêm, thị xã Phú Thọ. Lúc trà dư tửu hậu, nhà thơ Nguyễn Đình Hiển cao hứng đọc thơ, một bài thơ về mẹ. Bài thơ này cả thảy có 5 câu lục bát, câu lục bát thứ 3 khá hay “Mẹ giờ đã hóa thành chùa/ Ta như chú tiểu bốn mùa chạy quanh”. Nghe rồi, trong khi mọi người tấm tắc khen bài thơ hay, thì Nguyễn Vĩnh Tiến bảo: “Sao bài thơ không kết ở câu thứ 3 này?  Kết ở đấy, bài thơ ngắn gọn, hàm súc, mà là cái kết mở, có dư ba...”. Ngẫm nghĩ, ai cũng thấy đúng vậy, thêm vài cặp lục bát nữa, bài thơ chẳng thêm được ý gì mấy, mà cái kết là kết đóng, rất chi bình thường. Nhà thơ Nguyễn Đình Hiển mặt ngẩn ngơ, chẳng biết nói sao, nửa muốn nửa tiếc.
Thế rồi, Nguyễn Vĩnh Tiến cao hứng bảy tỏ quan điểm của mình, về cái kết nốc-ao (knock-out). Theo Tiến, khi làm một bài thơ, tác giả chẳng mấy khác võ sĩ lên sàn đấu. Khi hạ được đối thủ, không phải bằng cách tính điểm làng nhàng, mà hạ bằng knock-out thì trận đấu hay nhất và đúng luật là nên kết thúc thắng lợi ở đấy, chứ chẳng ai dại dột lại đi hà hơi tiếp sức rồi dựng đối thủ dậy, để đấu tiếp, mà rất có thể mình lại thua. Với hình dung như vậy, phàm người làm thơ được trời cho câu thơ hay, nếu thấy đủ, thì nên biết dừng bài thơ ở đấy. Chẳng nên ham và tham, kẻo mà?...
Thiết nghĩ, quan niệm vậy, cũng lạ và lý thú!...
May mắn thay, trong thực tiễn, thơ Nguyễn Vĩnh Tiến có rất nhiều cái kết nốc-ao:
Ngạo nghễ cái gì hả bướm/ Chỉ nên chập chờn thôi .../ Nơi xa vốn dĩ không lời/ Đạo là vô đạo, chôn nơi im lìm .... “(Thi nhân sầu);
Ngoài hiên, ngõ nắng lân la/ Hỏi thăm mới biết, mình qua đời rồi ...” (Đợi nàng Thơ) ;
Tự do lượn bốn phương trời/ Đến khi mỏi cánh thì rơi xuống hồ...” (Loài Thi sỹ);
”...Bây giờ tôi hiểu Ngày Xưa/ Chính là những thứ, mới vừa trôi qua ...” (Đêm nay ngủ ở Phú Thọ) ;
“...Sông Hồng khi tỉnh khi say/ Uống trăm năm nữa, cạn ngày nay không ...?” (Bố tôi Cẩm Khê, mẹ tôi Hoài Đức);
“... Tên em là rằm/ Hẹn anh ngày trăng non e ấp/ Các nàng xâm xấp/ Ấm ngực mùa đông/ Thì ra cây cải vừa ngồng/ Then cài sao để cõi lòng mở toang ... ?” (Những nàng đêm) ;
 
“...Bụi còn phủ cả lên lời/ Nghĩa trang chữ nghĩa nằm phơi bóng vàng .../ Trăm năm, mơ chửa sang trang/ Nội tâm cũng nát như hoàng thành xưa(Đêm nay ngủ ở Hà Nội) ;
 
“... Sống sao cho chạm mưa nguồn/ Sợi mưa rơi xuống, thích luồn lỗ kim .../ Chỉ còn lịch sử lim dim/ Xem lũ bọ gậy chết chìm đáy chum ...” (Lấp Lỗ Thủng) ;
 
“... À ơi, yêu đương trong lòng/ Ngủ đi với  nhớ và mong mệt nhoài/ À ơi, tới bến như lai/ Chữ như cò trắng bay đầy bến sông ..” (Thiền Thở Thiền Thơ) ;
 
“Chèo ơi chống mãi không xong/ Diễn viên luống cuống, rèm buông nhạc tràn/ Tô tô, vẽ vẽ, hỏi han/ Chỉ thấy nhân vật, đã toan bỏ bài.../ Anh ngồi uống sợi thở dài/ Uống luôn gió của những ngày tối tăm... “(Xem Chèo) ; v.v...
 
Rất nhiều những cái kết bài thơ như thế. Không hẳn đều hay, nhưng ấn tượng, khiến người đọc phải nghĩ ngợi. Ấy là kết mở, để lại dư ba. Một không gian mới lại mênh mang mở ra sau cái kết.
Thì cứ cho đây là một thử nghiệm của Nguyễn Vình Tiến, thì với anh, đến giờ, tôi nghĩ đó là một thành công.
 
 
IV. Dự cảm về một dương gian nhập nhoạng
 
Đọc thơ Nguyễn Vĩnh Tiến, không nhiều và cũng chưa rõ nét, nhưng người ta có thể nhận biết về một dương gian mà ở đó chập chờn âm dương, bóng hình chạng vạng. Trước khi bàn, thiết tưởng hãy xem một số bài thơ, câu thơ khơi gợi về dự cảm này:
Ngồi xem cửa sổ chia ô/ Mưa hôm nay lụt nước cờ hôm qua/ Tô viền cho những bóng ma/ Bằng ánh mắt sẫm như là chì than/ Tô xong, sót lại trên bàn/ Một con tốt nhỏ đang giàn giụa bơi... “(Bàn cờ);
Có gì nặng trĩu đường trôi/ Một mùa xuân rót một lời đáy xuân/ Có quang gánh nỗi đồng lần/ Hồn kêu kẽo kẹt trên thân thể buồn” (Đáy xuân)
“.... Sao lại cố bê tông nốt đồng cỏ?/ Sao lại muốn thiên nhiên thành những thành phố điên?/ Sao sân si tiếp tục sinh muộn phiền/ Và cổ suý cho những giá trị ảo?/ Đã bao thập niên ăn tạp và nói láo/ Sao không ngồi đốt lửa bập bùng ở quê/ Rồi tĩnh tâm tìm một lối về/ Với nông thôn đang xác xơ lạnh lẽo ...?/ Càng chạy sẽ càng đuối sức/ Càng bơi sẽ càng hụt hơi/ Bao nhiêu sâu lắng trên đời/ Có bao giờ đọng ở nơi ồn ào?/ Chuồn chuồn chết rụng giữa ao/ Gió đưa cái xác dạt vào bụi khoai ...” (Sao chúng ta không về nông thôn) ;
Trong một bữa tiệc/ Say rũ rồi óc tưởng tượng thôi.../ Mà sao lòng dạ tơi bời/ Lấy tiên không lấy, lấy người làm chi? / Trong một bữa tiệc/ Ma men len lỏi dẫn lối thôi.../ Mà sao lòng dạ tơi bời/ Lấy ma không lấy, lấy người làm chi ...?” (Tưởng tượng trong một bữa tiệc);
Nhưng tôi một giận mười thương/ Dẫu không tin, vẫn chôn xương chân giường/ Còn tin cá chết để xương/ Thì còn châu báu trong rương cho nàng...” (Đêm nay ngủ ở Việt Trì);
Nàng bay về phía tự do/ Và nàng thích lấp lánh/ Của cải và kinh nghiệm của tôi/ Đều lần lượt trôi vào cống rãnh .../ Nhưng nàng không đỏng đảnh/ Lúc nào cũng ẩm ướt thiết tha/ Nàng hoá ra chỉ là ảo ảnh/ Của hồn tôi phản chiếu hồn hoa...” (Nàng Thơ-02);
 “Anh vẫn thế.../ Chạy từ bờ đê chạy về dốc Tỉnh/ Chẳng có ngọn đồi nào bình tĩnh/ Nếu tính từ nội tâm tính ra/ Nhưng vẻ ngoài thì nghìn năm hiền hoà/ Chỉ cọ cháy những bàn tay vụng dại ../ Chả lẽ lại về chết ở đây/ Chứ không phải một ngọn núi kiêu bạc/ Một đỉnh cao thế giới? / Cũng để làm gì đâu?/ Chết là hoa cải phai màu/ Từ vàng rực đổ sang nhàu vàng thư/ Từ sắn khô đến khoai nhừ/ Chỉ là bếp lửa hình như ... bập bùng ...” (Đêm nay ngủ ở Phú Thọ);
Việt Trì - Phú Thọ - Lâm Thao/ Anh về nơi nào, hạc trắng cũng bay/ Xót xa thời những kẽ tay/ Run run mộ biếc cỏ may vướng gì? / Sông Hồng thở khói vô vi/ Hồn hồi hộp nấp bên rìa miếu hoang/  Hỏi han đến cuối đường làng/ Mới hay đò cuối ngày sang sông rồi.../ Việt Trì - Phú Thọ - Lâm Thao
“Ngược xuôi trong cõi hão huyền/ Nhiều khi tỉnh thức là miền vô vi... / Thế rồi giấc mộng tô chì/ Chân dung giấy nháp cũng đi như người ...” (Trầm cảm-01) ;
          “Anh trồng cây tỏi/ Nó nở hoa hành .../ Yêu đương một thuở tanh bành/ Học hành lởm khởm không thành núi cao.../ Rồi cuối Xuân có mưa rào/ Có hồn lành lạnh nhập vào hồn anh ...” (Đêm trung du); v.v...
 
Những bóng hình chập chờn âm dương này tuy không nhiều, nhưng dường như thường trực, ám ảnh tâm trí Nguyễn Vĩnh Tiến. Cảm giác như, có sự phân thân hay phân tâm nào đó trong con người tác giả? Không thật rõ, những tôi linh cảm vậy. “Ông bà tôi hình như vẫn thế/ Chết lâu rồi vẫn đi dạo đâu đây” (Phú Thọ của tôi). Nếu theo quan niệm của người xưa, dương sao âm vậy, thì cảm giác như Nguyễn Vĩnh Tiến ở nhiều thời khắc, sống chung với cả hai thế giới, nói chuyện thản nhiên với cả người dương và người âm ...
 
Chúng ta đều biết, “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ và “Liêu trai chí dị” của Bồ Tùng Linh là truyện lạ, truyện ma. Thế nhưng, ở “Truyền kỳ mạn lục” thì ma rõ ma, sợ sợ là, đọc rồi nhát đi đêm, song ở “Liêu trai chí dị” thì ma lẫn với người dương, hành xử như người dương, không mấy sợ. Tôi nghĩ, chất âm dương trong thơ Nguyễn Vĩnh Tiến gần với chất “Liêu trai chí dị” hơn.
 
V. Tính triết luận, mạnh và yếu.
 
Triết học đã là sự đam mê từ thuở tuổi 20 của chàng sinh viên Kiến trúc khi bắt đầu đọc theo hệ thống triết học Hy Lạp, triết học Pháp và Triết học Đức. Về sau, sang tuổi 30, Tiến thổ lộ mới đủ tuổi ngấm dần triết học Phật giáo và Đạo giáo. Bên cạnh đó, anh còn say mê các sách Tâm lý học và Lịch sử :
 
“Anh chẳng thích lỗ thủng lịch sử/ Anh thích lỗ thủng của em/ Ẩm ướt, hồi hộp và đầy hải sản.../ Và lịch sử cũng chẳng có lỗ thủng/ Lịch sử được lấp đầy bởi linh hồn và xác chết/ Và sự man rợ tàn sát của tất cả chủng loài.../ Chỉ có lỗ thủng của em là tuyệt vời /Chỉ có lỗ thủng của em là sinh sôi / Sinh ra cả một chân trời / Ngày xưa thi sỹ có người từng bay .../ Cứ loạn xạ lên Triết lý, giãi bày/  Rồi ăn thịt, ăn rau, và nói đạo nghĩa” (Lấp Lỗ thủng);
Chúng ta nên nuôi nấng sự khinh bỉ/ Và để chúng mọc lên như dương sỉ nóc nhà/ Chúng ta nên oà như rêu biếc/ Phủ phù du lên mọi tiếng ngợi ca/ Chúng ta nên nuôi những lời câm nín/  Trong lồng son của máu và hoa/  Rồi chúng ta nên ra bờ sông vắng/  Ngủ chông chênh như một mỏ neo phà .....” (Nên nuôi nấng sự khinh bỉ);
Chúa trởi hỏi viên kim cương : -Mày là gì mà kiêu căng quá vậy?/ Kim cương trả lời : Vì tôi siêu cứng/ - Thế mày không biết sức mạnh của dòng nước mềm mại à?/ Kim cương trả lời : Nhưng tôi lấp lánh/ - Thế mày ko biết sức mạnh của vật chất tối à/ Kim cương trả lời : Tôi còn đắt giá nữa ?/ - Thế mày không biết kinh tế duy tâm và tiền ảo là gì à?/ Kim cương khóc oà : Thế ngài không thương cái đẹp?/ Thượng đế bỏ đi, vì theo lẽ công bằng, con bò và cỏ dại cũng đẹp.”  (Cái đẹp);
“Đừng leo cao/ Lại rơi xuống vực thẳm của sự thờ ơ/ Đừng xuống thấp/ Lại bị âm hồn năm cũ làm chật giấc mơ .../ Dân gian sinh sôi/ Dân gian rượm lời/ Như hoa mỗi loài mỗi vẻ .../ Anh thôi không kẻ vẽ/ Chỉ để thời gian phác thảo hộ tương lai .../ Tương lai, không đúng, không sai/ Nối sợi thở dài đan áo nàng Bân .../ Kìa em, sau Tết, là Xuân/ Tình anh nước lã hoà dân gian rồi ...”  (Xuân dân gian);
“Giật mình lại thấy trống không/ Vừa hình hài thế, đã bong bóng rồi ... / Ven am Ao nhỏ/ Lá tre rụng bời bời/ Hỏi sao có tình huynh đệ ?/ Huynh đệ là khi mọc rễ/ Còn nhường tăm tối cho nhau/ Ngọn cỏ rầu/ Núi thích sâu/ Còn khe ẩm ướt lại ngước bóng núi/ Tháng ngày lúi húi/ Không dám đi vào lối cửa Từ Bi/ Cửa Từ Bi chẳng mạng nhện gì/ Chỉ tò vò khóc than vì thương thôi ... / Thương cho vạn dặm xa xôi / Cứ huênh hoang mãi những thời vô minh”  (Nhìn cánh nhạn);
Tôi chưa kịp lạc trong những khúc rẽ/ Thì mưa vết thương đã phủ những ngày lành .../ Tôi có những ngọn cỏ màu xanh/ He hé nhú bên rìa niềm hy vọng/ Và cũng ở bên rìa những chuyển động/ Một lũ thời gian ngu ngốc ngẩn ngơ trông ...” (Vết thương và lũ thời gian);
“... Bạn thơ chết ở nẻo thơ/ Bạn tình chết ở bơ vơ cuộc tình ../. Sáng ra, đã thấy thương mình/ Thương bong bóng vỡ những hình bóng hoa/ Hoa gì lại nở đường xa/ Nở vô danh cả chuyến phà vô hương .../ Sáng ra, hạnh phúc đứng đường/ Dưới chân, sóng của thất thường, thành sông ...” (Sáng ra hạnh phúc đứng đường);
Bấy lâu chẳng đếm thời gian/ Tháng ba chưa hết mà toàn tháng tư / Đêm năm canh mà lại như/ Trống không bàn tiệc, tàn dư cuộc cờ .../ Bấy lâu cơn lũ ngủ mơ/ Thành mặt nước sấp tràn bờ lan đi.../ Bấy lâu hơi thở đeo chì/ Chỉ hoa gạo đỏ những khi đêm tàn..”. (Hoa gạo đỏ);
“Hết rồi ngày tháng mộng mơ/ Đời còn nhặt rác trên bờ tháng năm/ Cũng chẳng vĩnh cửu ăn nằm/ Sống là hơi thở ghé thăm nhẹ nhàng/ Lá lành hay rách, đều vàng/ Đều rơi rụng ở dưới hàng mi cong/ Ô kìa đêm đã thành dòng/ Sao anh vá cái Trống Không làm gì ?”  (Vá víu)  v.v...
 
Với hàng ngàn bài thơ, từ những năm Nguyễn Vĩnh Tiến  hồn nhiên, tươi tắn, sau này, hàm lượng triết luận ngày càng tăng, nhất là mươi năm trở lại đây, hầu như bài thơ nào cũng có tính triết học. Nếu như, tính triệt luận là hệ quả tất yếu của ngôn ngữ dân gian đương đạikhông gian kiến trúc trong thơ Nguyễn Vĩnh Tiến, thì đương nhiên, yếu tố này dần trở thành chủ đạo và nó làm nên sắc thái, diện mạo, định dạng thơ Nguyễn Vĩnh Tiến, làm người ta nhận ra anh giữa những nhà thơ khác.
Quả vậy, chất triết luận là một điểm mạnh tạo nên tính khái quát và sức nặng cho thơ Nguyễn Vĩnh Tiến. Nó làm bài thơ thoát khỏi sự tẻ nhạt, chàng màng, à ơi thường thấy. Mỗi bài, người ta đều cảm nhận được tác giả khái quát một điều gì đấy, hay gửi thông điệp nào đó, mặc dù chưa hẳn đã đúng, đã hay hoặc mang tính phổ quát, song rõ ràng là có ý tưởng.
Tuy vậy, cái gì cũng có tính hai mặt của nó. Ở một liều lượng đủ và hợp lý sẽ mang đến hiệu quả tích cực, còn như nặng về triết học hay xã hội học quá liều sẽ khiến Thơ trở thành khô cứng, giảm đi sức gợi, phai đi sắc màu và giai điệu. Điểm lại thơ
Nguyễn Vĩnh Tiến nói chung, với những đoạn trích trên đây, tuy có nhiều khúc triết luận khá nhuần nhuyễn, uyển chuyển về giai điệu. song không khó để nhận thấy, tính triết luận đồng thời, vừa là điểm mạnh và điểm yếu trong thơ anh.
 
VI. Tâm thế thơ chở  “nỗi buồn trung du
 
Ngay  đầu bài viết này, tôi đã mượn câu thơ trong một bài thơ của nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền, thân sinh của Nguyễn Vĩnh Tiến, mà anh mượn để làm lời cho ca khúc” Ông tôi” của mình : “Tờ mờ sáng ông đi về phía núi. Đồi núi mở ra câu chuyện buồn trung du...”. Cho đến giờ, nhận thấy, gần như toàn bộ sự nghiệp thi ca-âm nhạc của Nguyễn Vĩnh Tiến, nói chung, mang đậm âm hưởng này. Dường như, nó ám ảnh, thường trực trong ý nghĩ của Nguyễn Vĩnh Tiến và dần ngấm vào tâm thế anh, rồi được biểu hiện trong thi ca cùng âm nhạc của anh....
 
 “Tôi lao như mũi tên/ mê theo quả bàng chín ẩn hiện trong lá tim/ Tuổi tôi bao giờ cắn ngập những làn hương?/ Phố xá im lặng chồn chân/ Cánh cửa màu trắng phía ngày xa rộng toác/ Vẫn ít người trở về/ Tôi quen trò trốn tìm sắc ngày nhạt/  Khi chán lại tìm trùng điệp những ngọn đồi chơi trò cánh cung mây/ Tôi chạy xa rồi cái bến đợi chuyến đò định mệnh/ Nhưng Sông Thao lẽo đẽo chảy trong người”.  (Trung du ) ;
Tôi là một con chim, bay qua dòng sông/ Tôi nghiêng đôi cánh,... Mặt sóng soi tôi thành một con sóng/ Dòng nước soi tôi thành một chiếc lá/ Trôi dạt...trôi dạt.../ Tôi bay đi tìm .... bóng tôi/ Bờ lau hình như hình như ai che tiếng nói/ Bờ lau hình như hình như ai gom tiếng sóng/ Sóng vỗ, nghe như câu chuyện về dòng sông/ Bỏ quên mất bóng cho đôi bờ/ Gửi bao héo hắt cho đôi bờ/ Tôi chao, chao đi chao lại cùng sương khói/ Tìm đâu thấy bóng tôi trôi ngày/ Tìm đâu trí nhớ tôi sương mù..../ Cuối chân trời, mây lững thững bay/ Cuối một ngày, sông lững thững trôi...” (Chim bông lau tìm bóng) ;
Tôi chỉ bị quyến rũ bởi cội nguồn/ Và nỗi buồn chó ăn đá gà ăn sỏi/ Nên tôi không đứng về phe tài giỏi/ Tôi trôi theo từng thân cọ luống chè xanh.../ Đêm nay ngủ ở Việt Trì/ Tôi ngóng về Cầu Phong Châu Đỉnh Hùng Lĩnh/ Chắc vua Hùng sống lại cũng không thể bình tĩnh/ Trước những ngọn đồi như da thịt rách bươm.../ Nhưng tôi một giận mười thương/ Dẫu không tin, vẫn chôn xương chân giường...” (Đêm nay ngủ ở Việt Trì);
Mộng về xóm núi lân la/ Hỏi thăm, lạnh lẽo đã qua nửa lòng?/ Nhớ trái na nặng đầu đông/  Lá na rơi ở vườn không lặng lờ/ Nửa đêm lau lách nằm mơ/ Nồm lên hơi ẩm nương nhờ ngón tay/ Lang lang lớp lớp mây mây/ Nỡ lòng nào lỡ phút giây hoạ hoằn/ Nước nôi từ thuở gối chăn/ Nửa lòng lạnh ngắt, nửa rần rật reo ...” ( Xóm núi) ;
Ngày mai lại đến giỗ bà/ Trung du xanh thẫm nhạt nhoà mưa xưa/ Thạch Đê đồng lạnh gió mùa/ Cẩm Khê xoan cũng mới vừa tháng ba.../ Mười mấy năm cháu xa bà/ Hồn phảng phất mãi hiên nhà, đồi xưa/ Cây mít giờ đã lên chùa/ Bụi tre đã đốn, rễ trơ góc vườn/ Nhà xưa giờ đã trống trơn/ Cháu con mê mải chập chờn xa quê.../ Cháu giờ tuổi giống triền đê/ Chỉ thoai thoải dốc đổ về bến sông ... (Giỗ Bà nội);
Chết là hoa cải phai màu/ Từ vàng rực đổ sang nhàu vàng thư/ Từ sắn khô đến khoai nhừ/ Chỉ là bếp lửa hình như ... bập bùng .../ Sầu thì riêng chẳng sầu chung/ Người cứ bừng bừng cháy cõi người thôi/ Trung Du đêm vắng lặng rồi/ Tôi nằm tôi nếm từng thời khắc qua.../ Có chang chang nắng nhớ phà/ Có đêm khóc những người già mộng du../ Bây giờ tôi hiểu Ngày Xưa/ Chính là những thứ, mới vừa trôi qua ....” (Đêm nay ngủ ở Phú Thọ);
 
Vậy là con sông Thao cứ lẽo đẽo chảy theo chân, theo cái bóng của cậu bé Nguyễn Vĩnh Tiến từ thuở lon ton cho đến khi giật mình nhận ra mình đã ở vào cái “tuổi giống triền đê, chỉ thoai thoải dốc đổ về bến sông”. Người xưa bảo “ngũ thập tri thiên mệnh”, giờ chớm đến tuổi này, Nguyễn Vĩnh Tiến đã ngộ ra, cái gọi là “ngày xưa” đâu có xa xôi gì, mà chính là “những thứ mới vừa trôi qua”. Nhanh thế, mau vậy, nhưng đâu có thể vội vàng.
 
Cùng với cuộc sống bộn bề chảy xiết ngày hôm nay, Nguyễn Vĩnh Tiến đã biết cách tổng hợp, kéo dài, vẽ những bức tranh thơ khổ lớn, du hành ngược dòng thời gian về quá khứ,...
 
Bố tôi Cẩm Khê, Mẹ tôi Hoài Đức/ Hai vùng quê ròng ròng ký ức/ Hai vùng quê rã rời đổi thay/ Trước cò bay/ Giờ bụi bay/ Trước mỏi cánh/ Giờ sa lầy/ Tôi lớn lên từng ngày/ Người thân mất đi từng cụ/ Trẻ con lớn lên từng đứa/ Cho đến một ngày khoé mắt cay cay/ Có bao nhiêu khế chín cây/ Có bao thành quách lung lay bóng hồ/ Còn bao nhiêu thứ hồ đồ/ Còn bao nhiêu gió mơ hồ vẫn bay...(Bố tôi Cẩm Khê, mẹ tôi Hoài Đức);
“...Phía Nam là Trung du thở/ Phía Bắc là mây âu lo/ Nhà tôi nằm ở trên đồi/ Có cây mít mật quả rơi kiến bò/ Tối qua tôi uống rượu ngô/ Ăn xôi ngũ sắc đến giờ vẫn say/ Thương nhau thì mới cầm tay/ Từng sợi hơi ấm thành dây tơ hồng /... Quê nội tôi ở đó, giờ vẫn chiêm bao/ Tôi mơ thấy mình thành viên đá ở Thẩm Thoóng...” (Yên Bái); v.v...
 
Tôi ngại, cứ mãi lan man trong dòng ký ức của Nguyễn Vĩnh Tiến thì e rằng sẽ lạc lối sa lầy chẳng biết đường ra... Với tâm thế này, những câu chuyện buồn trung du sẽ vẫn như dòng sông Thao cứ lẽo đẽo trôi chảy, mang theo cái bóng của Nguyễn Vĩnh Tiến cho đến ngày nào đó anh cảm thấy quá mệt mỏi mà buông bỏ chăng.?...
Giờ thì chưa, trong dòng chảy ký ức của mình, Nguyễn Vĩnh Tiến đã bày tỏ thái độ của một trí thức, thẳng thắn và dứt khoát, khi mà nông thôn xứ mình, cả miền quê trung du và làng quê của anh, đang trong cơn lốc “đô thị hóa” với nhiều bất cập, lo nhiều hơn mừng...
Sao chúng ta không về nông thôn?/ Cùng quây quần bên nồi cơm nóng/ Vườn ao chuồng, đi dưới trăng thấy bóng/ Tre, Lúa, Sông còn nghe thấy tiếng reo .../ Sao chúng ta cứ chê nông thôn nghèo ?” (Sao chúng ta không về nông thôn);  
“... Anh hãy phơi áo ra nắng/ Để áo thơm mùi nắng/ Hôm nay anh về thôn vắng/ Dân làng bán hết cây to/ Để nhường cho các dự án/ Để tầng lớp trung lưu mới/ Được kiến trúc xanh và chất lượng sống mộng mơ .../ Ơ hơ.../ Ruộng khô hết cả bờ/ Cá chết vì nhiễm độc/ Người dân lởi xởi với một số người đi mua đất...(Phơi áo sau Xuân);
 
Lẽ dĩ nhiên, đô thị hóa nông thôn là một tất yếu cuả cuộc sống và phát triển. Nông thôn cũng không thể cứ mãi nghèo đói cũ kỹ lạc hậu để bây giờ chúng ta lấy cớ mà thương nhớ nỉ non này nọ.... Song rõ ràng, hiện tại, nhiều cảnh sắc và những giá trị truyền thống tốt đẹp của làng quê Việt bị mai một, mất đi trong khi các giá trị văn hóa mới chưa hình thành, hoặc dang dở không thể hiện được tính tích cực. Ấy là điều đáng lo.
 
Thế nên, Nguyễn Vĩnh Tiến, con người Thơ chất chứa “bốn trong một” ấy không lo âu sao được? Khi mà, còn chưa thực hiện được những dự án lớn quy hoạch tổng thể và bảo tồn di sản làng quê Việt thời hiện đại, thì việc bày tỏ trong thi ca và âm nhạc của mình là cần thiết. Hãy cứ cất lên những lời cảnh tỉnh, âu cũng là tiếng nói thiết thực, thể hiện trách nhiệm công dân và nghệ sĩ của mình.
 
Nguyễn Vĩnh Tiến, kể từ buổi ban đầu, cái ngày mà tôi mường tượng về anh “một con sẻ nhỏ xa nhà, sang sông”, rời mảnh đất trung du Phú Thọ về Thủ đô học hành, rồi sang Pháp du học, lại trở về Việt nam, thì đến giờ, cũng đã hơn 30 năm trôi qua, anh thực sự trở thành một con đại bàng giang đôi cánh rộng bay lượn giữa bầu trời thơ ca nhạc họa!...
 
Vẽ xong vòng tròn để phác thảo chân dung Nguyễn Vĩnh Tiến, tôi hy vọng sẽ có một cách tiếp cận để hiểu, cảm và thưởng thức những tác phẩm mới tiếp tục dồi dào sức sáng tạo của Tiến. Và kìa, con đại bàng ấy đã lại tiếp tục giang rông đôi cánh tự do bên ngoài cái vòng tròn tôi vẽ…
Có lẽ, đó mới chính là Nguyễn Vĩnh Tiến ?!... ./.
 
                                                          Hà Nội, tháng 4/ 2023
                                                             Nguyễn Chu Nhạc.
 
 

<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.04.2023 00:52:27 bởi Thanh Vân >
Attached Image(s)

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( I ) - 05.06.2023 17:48:34
TẢM MẠN XUNG QUANH 3 BỨC ẢNH
(Tản văncủa Nguyễn Chu Nhạc)
 
Vào ngày mồng 1 tháng 6 ( thứ 6, 2023), tôi xem mạng xã hội,  thấy có 3 bức ảnh khiến mình phải suy nghĩ.
Bức thứ nhất, mình họa cho bài viết của mình trên trang của nhà văn Tô Hoàng, ấy là ảnh chụp hai nhà văn nổi tiếng của văn học Nga là Lev Tolstoi và nhà văn Makxim Gỏky tại trang trai Iasnaia Poliana. Hình dáng của hai người thật đối lập, Lev Tolstoi thì thấp đậm với chòm râu dài như ông già tuyết, còn Makxim Gorky thì cao gày cứng như thanh củi. Hai con người vĩ đại này, còn đối lập ở thành phần xuất thân, L. Tolstoi quý tộc, bá tước, giàu có, nhà trang ấp rộng lớn, còn M.Gorky thì xuất thân nông dân, nghèo khó, phải làng thang đó đây, kiếm sống bằng đủ thứ nghề, tự học để viết văn. Duy có một điều, giống nhau ở hai con người khác nhau về mọi phương diện, ấy là tư tưởng tiến bộ, yêu nước Nga, yêu dân Nga và cùng mong muốn giải phóng ách nô lệ cho dan nghèo nước Nga. Tư tưởng thì chung đúc, nhưng cách thức thì khác nhau, trong khi L. Tolstoi theo chủ nghĩa dân túy đơn thuần, tự hoàn thiện mình trên tinh thần Cơ đốc giáo thì M.Gorky ngả hẳn về tư tưởng cách mạng bôm-sê-vich, lật đổ chế độ Sa-hoàng, thay thế bằng chế độ dân chủ. Cũng đúng thôi, thành phần nào thì cachs nghĩ, cách giải quyết ấy. Thế nên, với ngài quý tộc L. Tolstoi, theo churt nghĩa dân túy, muốn giải phóng nông nô, nhưng bản thân ông vấp phải tư tưởng bảo thủ và sự kháng cự ngay trong chính gia đình mình, cụ thê là người vợ của ông, vẫn muốn duy trì chế độ nông nô... Khác với ông, nhà văn M. Gorky (tác giả của Thời thơ ấu, Kiếm sống, Những trường đại học của tôi, Bài ca chim ưng, Người mẹ...) quyết liệt đi theo tư tưởng các mạng bôn-sê-vich của lãnh tụ V.I Lenin, song ông cũng có những cấn cá khác.  Nghe nói, giữa ông và V.I Lenin tuy yêu quý và rất tôn trọng nhau, nhất trí với nhau về cơ bản, song cũng khác nhau về một số luận điểm học thuyệt mà họ cùng theo đuổi, nên hễ mỗi khi họ có cơ hội  bên nhau là  dễ xay ra btranh luận...
Bức ảnh thứ 2, tôi lấy từ trang mạng Hà Nội, ảnh chụp Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngồi bên nhạc sĩ Văn Cao (Không rõ tài nhà vị đại tướng hay nhà Văn Cao, sau lưng họ có một bức thư pháp Hán tự rất đẹp. Nhưng với chai rượu để trước mặt  và bức thư pháp Hán tự mà theo đồ đoán của tôi có thể do Tào Mạt, hoặc Nguyễn Văn Bách thủ bú, thì cuộc gặp gỡ này là tại nhà Văn Cao?). Hai tài danh Đất Việt ở thế kỷ 20. Khác nhau về vị trí công việc, về thân phận chính trị và sự ảnh hưởng xã hội..., song cả hai con người này đều đi đến thành công, tuy gặp những trắc trở và mang nỗi đau đời riêng có ,...
Bức ảnh thư 3, tôi lấy từ trang cá nhân của Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Namm chụp cảnh DDaonf nhà văn Việt Nam ngồi ở phòng chờ trên đất thổ Jordani để làm thủ tuvcj nhập cảnh vào lãnh thổ Palestin. Trong ảnh là vị chủ tịch Hội nhà văn Paletin cũng các thành viên trong đoàn (nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà thơ Trần Hữu Việt, nhà văn Bích Ngân và nhà văn Nguyễn Bình Phương).
Họ đều là các cây bút có tiếng ở Việt Nam, đều đang làm báo, nên mỗi người có suy nghĩ riêng và thể hiện bằng tác phẩm của mình ngay trong và sau chuyến đi. Mọi người sẽ được đọc, Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã chớp nhoáng chia sẻ một số hình ảnh và phần nào hé lộ suy nghĩ của ông bằng các tút ngắn trên Facebook cá nhân. Song le, đây là vùng đất đặc biệt, và có lẽ đặc biệt từ thởi mở đầu Công lịch với sự xuất hiện của Đức Chúa Jesus. Hơn hai ngàn năm qua, vùng đất này hầu như chẳng mấy yên hàn bởi các cuộc chiến liên miên nguyên do từ tôn giáo, sắc tộc và nguồn nước,...
Chẳng hiểu, các nhà văn xứ ta nghĩ gì, chứ Trần Đăng Khoa, tôi biết, cùng với nhyuwxng gì mắt thấy tai nghe ở vùng đất đặc biệt này, ông còn bận lòng bởi quá khứ, ấy là mấy cuộc chiến mà mình từng tham gia, chiến trường Campuchia và cuộc chiến bảo vệ chủ quyền biển đảo trên Biển Đông,...
Bởi ngay trước đó, trong cả chuyến đi, trên đường ông cùng Đoàn Nhà văn Việt Nam sang thăm Palestin, Trần Đăng Khoa và tôi (Nguyenx Chu Nhạc) bàn luận quanh bài viết của tôi- “Đảo Chìm của Trần Đăng Khoa, chuyện ngoài truyện”., khi mà ký ức của ông bừng sống dậy!?...
 
 

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( I ) - 24.06.2023 13:10:24
RƯỢU NÚI AI RÓT MÀ SAY,...
( Chân dung nhà thơ Lò Cao Nhum)
NGUYỄN ChU NHẠC
 
Thế là nhà thơ Lò Cao Nhum. Người con của Bản Lác, Mai Châu  đã ra đi vì căn bệnh trọng.
Biết đến tên và thơ Lo Cao Nhum thì từ lâu nhưng phải đến năm 2011 tôi mới giao du với ông qua mạng Blog Tiếng Việt.
Tôi đi du lịch Bản Lác cũng nhiều, nhưng cũng chỉ có một lần ghé thăm chơi nhà Lò Cao Nhum. Ấy là khoảng mươi năm trước, vào dịp xuân, tôi cùng nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà thơ Nguyễn Thanh Vân, nhà văn Nguyễn Trọng Huân và nhạc sĩ Phạm Quang Hiển vô  xứ Thanh chơi, thăm nhà của nhà văn Trịnh Tuyên ở Cẩm Thủy, rồi quá bộ lên Bá Thước thăm nhà thơ Trương Thị Màu. Tôi post ảnh lên mạng, nhà thơ Lò Cao Nhum biết tin bèn gọi điện nhắn là khi về thì tiện đường vòng qua Bản Lác, Mai Châu ghé nhà ông chơi. Thế là đoàn chúng tôi sang Mai Châu, đến Bản Lác ghé nhà Lò Cao Nhum. Có trà có rượu nên không khí cuộc gặp thêm phần ấm áp, rôm rả, thơ phú dạt dào,...
Những lần sau, ghé bản Lác, thì hoặc ông chơi xa vắng nhà, hoặc chúng tôi vội nên chỉ í ới qua điện thoại dăm câu ba điều vậy thôi.
Trang cá nhân của nhà thơ Lò Cao Nhum trên Blog TV lấy tên Rượu Núi, tôi đọc thơ ông chủ yếu ở đây. Thi thoảng thấy tên ông trên báo này báo nọ thì bài đọc bài không, nên chẳng dám bàn nhiều, sòng qua đó cũng đủ để nhận diện, thấy được chất văn hóa bản địa (Thái và Mường) và dấu ấn bản tính nhỏ nhẹ rủm rỉm riêng có của Lò Cao Nhum.
Lần giở từng trang của nhà thơ Lò Cao Nhum trên Blog TV mà ông bỏ lửng gần chục năm nay, ngược thời gian để nhận diện một Lò Cao Nhum, thơ và người. Trang cá nhân của ông lấy tên RƯỢU NÚI, thì hẳn ông phải tâm đắc với bài thơ này và xem đó như sự đại diện hay một tuyên ngôn về thơ, về quê hưởng bản quán và con người mình...
Hãy xem cái cách Lò Cao Nhum, hay rộng ra là người Thái Bản Lác mời rượu bạn bè: “Rượu núi/ Bạn đến/ Mời ngồi xếp bằng tròn giữa chiếu/ Chiếu đan bằng tia mặt trời/ Bát rượu trăng rằm/ Mong hồn vía bạn đừng thất lạc/ Cầu cụ ông, cụ bà, cây si, cây đa/ Gái bản nụ hoa, trai mường cây nghiến/ Ngửa bàn tay cũng da/Úp bàn tay cũng thịt...”. Vậy thì đâu còn xa lạ nữa, dù bạn là người Thái, người Mường, người Mông, người Kinh hay dân tộc nào đi nữa thì bàn tay cũng da cũng thịt như nhau cả thôi.
Có thẻ nói, chỉ bằng một bài thơ “Rượu núi” Lò Cao Nhum đã xóa nhòa đi khoảng cách sắc tộc. giàu nghèo, gần xa, cũ mới,... Đấy là cái khéo riêng có của nhà thơ, ấy còn là văn hóa ứng xử của người Thái và một số dân tộc thiểu số vùng cao...
Cảm giác chung, Lò Cao Nhum cũng như các nhà thơ người dân tộc thiểu số vùng cao khác (Pơ Sảo Mìn, Lò Ngân Sủn, Mã A Lềnh...) yếu tố dân tộc bản địa rất rõ. Tất nhiên, mỗi dân tộc thiểu số vùng cao bản sắc văn hóa khác nhau đôi chút, song tựu chung, văn hóa ứng xử lại khá giống nhau, ấy là sự hiếu khách và lòng tin ở người. Người Thái người Mường vùng Tây Bắc đều khá tinh tế và khéo léo trong ứng xử với khách. Bản thân, tôi có nhiều năm ngang dọc Tây Bắc nên hiểu điều này. Giờ hãy xem Lò Cao Nhum thưởng trà với bạn hữu ra sao: “Hương trà thơm thao thức/ Quyện vấn vít mãi thôi/ Em nâng lời chén nước/ Sóng sánh vỗ lòng tôi/ Nhấp một ngụm thành hai/ Nhấp hai ngụm thành mười/ Một đêm trà gió thức/ Chung chiêng lá trọn đời”.(Hương trà). Với cái phép nhân của lòng người “một thành hai, hai thành mười” ấy, mới thấy Lo Cao Nhum khéo và cũng ngoa  làm sao.
          Nét văn hóa của người miền núi đồng rừng, tục “bắt vợ” cũng được Lò Cao Nhum thi vị hóa: “...  Nghiêng lòng rình khe vách/ Ngả tim ngóng buồng trong/ Đâu là trời, là đất/ Đâu là vuông, là tròn./ Tiếng khèn hổn hển/ Khua lạo xạo con đường đá sỏi/ Bỗng lách qua khe liếp/ Vồ dốc núi
Chộp rừng rú/ Bế bổng thiên thần/ Nhẹ nhõm hòa vào sương ban mai
” (Bắt vợ).

          Văn hóa ứng xử của người Thái, người Mường vốn tính tế, phả vào người thơ rủm rỉm Lò Cao Nhum nên đã khéo càng thêm khéo. Chuyện gia đình, có khéo ăn ở đâu cũng chẳng thể tránh được giận hờn sứt mẻ. Nhưng với  Lo Cao Nhum những lúc thế này: “Hơi tí em bỏ về bên ngoại/ Làm cơm canh, ấm chén rối lên/ Bậu cửa vào vấp chân/ Khung cửa ra đụng trán/Thương cái bếp nguội lạnh...”. Để vợ giận thì chỉ có thua và thiệt, nên người thơ nhủ lòng lòng, cũng là cách lây lòng vợ: “Thôi cũng vì cái vung trót méo/ Cũng vì nắng quá mà mưa/ May mà vung còn dẻo/ May mà vẹo lại tròn/ Bữa cơm trưa một mình/Anh còn so thêm đũa” (Mưa nắng nhà mình). Đến nước này thì gỗ đá cũng tan thành nước, người vợ nào cũng đành cầm lòng, giận dỗi chi nữa. Nịnh vợ giỏi thế, khó có ai hơn được Lò Cao Nhum. Thường ngày  là vậy,nhà thơ nịnh đầm theo quán tính, nhưng hễ có dịp thì tội gì mà không giả vờ có chút tị nạnh với chị em : “Làm phụ nữ thích thật/ Có ngày vui tháng ba/ Có ngày hoa tháng mười/ Làm phụ nữ vui thật.../  Làm phụ nữ sướng thật/ Bao nhiêu là tiếng khen/ Bao nhiêu là lời tán/ Ngọt thơm suốt cả đêm..”, nhưng rồi nửa thương nửa răn: “Ngày vui ngắn chẳng tày/ Về còn lo con nhỏ/ Còn trăm ngày giặt giũ/ Còn nghìn đêm khóc thầm./ Phụ nữ vốn rộng lòng/ Đàn ông đừng hẹp bụng/ Phụ nữ đáng thưởng lắmNgày nào cũng ngày hoa” (Thơ vui ngày hoa tặng cánh mày râu). Tỵ nạnh như thế thì cũng là một cách lấy lòng người thôi. Khôn thế, có mà khôn hết cả phần thiên hạ...
          Những tưởng chỉ vui bàn chuyện văn hóa dân tộc, ứng xử cộng đồng làng bản, gia đình vậy thôi, chứ thực ra, nhà thơ cũng thích bàn chuyện thế sự. Song chuyện thế sự có thế nào đi chăng nữa thì cũng nhìn từ bản thân mình, từ người thân mà ra chuyện thiên hạ. Hãy xem Lò Cao Nhum bàn chuyện thế sự ra sao?
          “Họ bảo tôi đi đường ngược chiều/ Bị phạt là điều cầm chắc/ Chợt hiểu đấy là phép tắc/ Giống bản mình giăng bủa Ta leo... / Ngôi nhà ta có nóc, có sàn/ Làm người không thể không phép tắc/ Phép tắc không thể không chòi gác/ Cuộc đời có ngã ba, ngã bảy/Trong ta có đèn đỏ hay không...” (Ngược chiều). Vậy thì lệ làng, phép nước cũng nhìn nhận từ mình mà ra. Bố bản hay ai cũng thế cả thôi, cứ phải khép mình mà tuân thủ thì xã hội mới có trật tự.
Căn phòng tôi một góc khói bay/ Tôi ngấu nghiến chợ chiều ùa đến/ Nhịp đời thường cà chan nước mắm/ Không góc đêm chạm cốc bon che./ Căn phòng tôi chiếu rải thênh thênh/ Ríu ran tiếng giao lưu đồng loại/ Nhịp nhàng tiếng đưa nia sàng sảy/ Nụ cười thơm lọt sàng xuống nia” (Căn phòng tôi). Cái riêng đã thành chung rồi, chuyện của mình thành chuyện làng xã, chuyện xã hội. Thế sự với Lò Cao Nhum cứ thủ thỉ vậy thôi.  Chẳng hơi đâu phải đao to búa lớn cả, chuyện thế sự đơn giản là lời dăn con:  “Rồi ngày mai con xuống núi/ Gặp phố phường ngã bảy, ngã mười/ Gặp lòng người đỏ, vàng, đen, trắng/ Mỗi lần vấp, một bước đi/ Sẽ sực nhớ người thầy trên núi.../ Ngày mai con xuống núi/ Cùng tay nải hành trang đầu tiên/ Đi như suối chảy về với biển Chớ quên mạch đá cội nguồn.” (Ngày mai con xuống núi)...: Hay đâu như chuyện ăn bát phở dưới phố: “Người Núi xa bản Mỗ, bản Lác/ Đi phố xa cải tổ cái đầu?/ Sau hội Thơ, hội Văn, hội Bè, hội Bạn/ Muốn về lắm rồi/ Nhớ gà đồi…/ Thế là xong/ Người Núi làm sao biết được/ Mấy trăm tấn gà mắc dịch om, lưu/ Bột rượu cồn nhập của Tàu pha nước/ Thơm lừng môi – trôi xuống ruột: ngọt lừ!/ Ngon lỗ miệng – bụng đứ đừ/Ung thư, tắc ruột coi như xong đời...” (Đau cái sự phở gà): Hay đơn giản là nghe tiếng chim ngoại thành: “Lật chăn bên này/ Trở gối bên kia/ Tiếng chim cuốc
Ven đầm sậy một khu đô thị/ Đêm không vắng/ Mà thăm thẳm/ Chim gù đôi/ Như khoan vào đáy ruột.../ Lặng nghe đêm sâu/ Tiếng chim đôi khi như nấc/ Tiếng chim thảng thốt/ Giữa chói chang sức nén/Ngàn tấn bê tông...
’ (Tiếng chim cuốc been đầm ngoại thành): Hay là chút cảm xúc khi về Điện Biên thăm Mường Phăng: “Chín sẽ quên và mười sẽ quên// Nhưng không quên Pú Thẩu (*) Đại tướng/ Mùa hoa vông đếm hoa vông ngồi đợi/ Mùa hoa bưởi ngắt hoa bưởi chờ mong./ Về Mường Phăng câu ca còn ngân/ Sáu mươi mùa ve sôi chín núi/ Ngày noọng sao hát lời buộc trói/ Pú Thẩu về sợi chỉ về theo...” (Câu hát Mường Phăng); Rồi nữa, như  nhìn thấy cây thốt nốt bên bờ biên giới: “Cây thốt nốt lắc lư vô tư nghiêng ngả./ Rễ chùm uống nước ruộng này/ Uống nước ruộng kia/ Cỏ xanh cũng không chia/ Phương này phía nọ./ Chàng trai Căm Pu Chia ruộng bên buông cày/ Cô gái Nam Bộ bên này ngơi tay gieo sạ/ Dưới vòm râm thốt nốt/ Rôm rả mùa màng” (Cây thốt nốt giữa bờ biên giới); v.v... Cứ rủ rỉ tâm sự như tự nói với chính mình, Lò Cao Nhum suy ngẫm và  kể chuyện thế sự theo cách riêng của mình, chẳng khác mấy việc  ông tìm lối mòn lên núi hay đi nương rãy,...

          Như thế, cũng không có nghĩa mọi việc phả vào nhà thơ đều đơn giản cả, không đa sự song ông cũng ưa triết lý: “Ừ đời người mới đó buổi mai/ Dăm chén rượu đã chạm chiều chạng vạng/ Nồng say mối tình không biết ngán/ Chẳng khỏa đầy nỗi hoảng hốt bâng quơ./ Ừ thì trời cho ta làm thơ/ Phơi phới đi từ thiếu thời cắp sách/ Nhưng cũng khoác cho ta áo rách.../ Sáu mươi năm còn vá đụp vá chằn...” (Những con giáp di); “Ở trên núi có bấy nhiêu hộ/ Một phần ba giầu có đỏ rừng,... / Một phần ba mới giầu nửa chừng/ Vừa ăn vừa dụm sinh dè sẻn,.../ Còn lại một phần ba liêu xiêu/ Gió tháng tám tốc cả lên rừng/ Đã thế sự nghèo đuổi tận cùng/ Cáo hay bắt trúng gà kẻ khó” (Trên núi có ba loại người); “”Pù Bin có sấm rền bất chợt/ Dội lên giấc ngủ giữa trưa mù/ Giấc mơ không thể mơ trọn giấc... / Người Pù Bin lầm lỳ như núi/ Cao xanh trên sương gió, nắng mưa/ Người rẻo cao tình bền củi lửa/ Râm ran cháy nỏ suốt bốn mùa (Ở đèo cao Pù Bin),... v.v...
          Quả thật, đọc thơ  Lò Cao Nhum, những khi bắt gặp ông triết lý, tôi cứ cười thầm, nghĩ bụng và hình dung, khi viết ra những câu thơ mang tính triết luận như vậy, hẳn nhà thơ nhẩm bụng hay lẩm bẩm một mình “này, đừng có nghi là người vùng cao chúng tớ ai cũng thật thà như đếm đâu nhớ,...?”. Song rõ là, cái kiểu triết lý như vậy. chẳng giống người miền xuôi tẹo nào, vì nó vẫn rất chi là “thật thà đáng yêu”, hay chăng  giả vờ “thật thà đáng yêu ?...
          Nhà thơ, ai mà chẳng đa sự, đa tình. Âu cũng là cái cách nhà thơ tự đo-ping, gây cảm xúc?... Thứ tình cảm  mà  nhà thơ Thuận Hữu đã buột miệng nói hộ thiên hạ chúng sinh ấy, chút ý nghĩ  “ngoài chồng ngoài vợ”. Giờ thì xem Lò Cao Nhum sóng sánh ra sao?
Lần giở thơ ông, bắt gặp một bài thơ của một bạn thơ giấu tên thật, ký bút danh THỊ NỞ tặng thơ Lò Cao Nhum: “Quả cuối năm ngọt đậm/ Hoa cuối mùa vẫn hương/ Nắng cuối chiều như mật/ Đỏ thêm nét môi hường./ Thời gian ào suối lũ/ Cuốn mưa nắng từng ngày/ Muối đã mặn vẫn mặn/ Gừng đã cay thêm cay./ Từ ngàn xưa đến nay/ Tình yêu là phép lạ/ Chỉ một giọt trong ngần/ Cũng sánh ngang biển cả./ Cơn mưa rào mùa hạ/ Dào dạt ướt vai anh/ Giấc mơ trưa có thật/ Một bờ vai xanh xanh”.  Lại lần hồi cho rõ nguồn cơn, có một bài thơ của Lò Cao Nhum, trước đó không lâu gửi  tặng một "người hôm qua" nào đó, đọc rồi thì hiểu đây là bài thơ khởi thảo từ phía nhà thơ khơi nguồn cho bài thơ hồi đáp của người bạn thơ giấu tên kia: “Không thể gọi người xưa/ Vì ngày mai còn nhớ/ Không thể gọi ngày cũ/ Bởi tình nào đã xa./ Mà thời hoa là hoa/ Đến mùa nở cứ nở/ Hương chắt chiu cho quả/ Ai hái trái vườn xưa?/ Kể gì thủa bâng quơ/ Gì nên ở còn ở/ Thời gian ào thác lũ/ Cuốn mưa nắng từng ngày./ Chỉ lạ điều xưa nay/ Tiêu nghìn vàng không nhớ/ Hoa buổi đầu chớm nở/ Gió day dứt trọn đời” (Thơ gửi người hôm qua),.... Có lẽ, chỉ là võ đoán, song tôi thấy thấp thoáng đâu đó bóng dáng cái người mà nhà thơ gọi là “người hôm qua” ấy, khi bắt gặp đôi ba lần nhà thơ giới thiệu thơ của một “nàng thơ” trên trang cá nhân của mình. Sự việc đó khiến tôi cứ liên tưởng, sâu chuỗi,... rồi suy luận vậy thôi,... Âu cũng là, nên con người thơ Lo Cao Nhum thi vị hơn ?...
Nhớ về Lò Cao Nhum, không thể không nhớ đến bài thơ Rượu núi của ông. Nhưng Lò Cao Nhum còn có những bài thơ khác, ta không thể bỏ qua để thêm phần rõ cái triết lý về nguồn cội sắc tộc, dấu ấn văn hóa bản địa, chất Thái Mường hòa quện nhuần nhị trong con người và thơ ca của Lò Cao Nhum (ông có cha người Thái mẹ người Mường) : “Nhận ra anh em/ Nhận ra họ hàng/ Nhận ra đồng tộc/ Khi nóc nhà có hoa khau cút/ Đấy là tin hiệu vui/ Tín hiệu máu mủ/ Anh có thể cởi dép/ Rửa chân lên thang/ Tìm chỗ ngồi của mình nơi góc chiếu,.../ Rồi anh ra đi/ Ngoái nhìn ngọn hoa mưa nắng/ Thơm thảo nơi mái lá nhà sàn/ Văng vẳng níu chân lời hát/ Người ta chỉ muốn gần nhau thôi” (Nóc nhà ta có hoa khau cút);  “Ông nội tôi khai sinh miền đất/ Bắt đầu là gồng gánh núi non/ Ở trong núi có mồ hôi của đá/ Trong đá kết tinh nỗi khổ/ Nỗi khổ ủ niềm khát khao/ Rồi ông vung dao phạt quang mầm đói/ Ông chọc lỗ gieo hạt củ no/ Sự sống ấm chân trời hoang sơ,...” (Ông nội tôi khai sinh miền đất); “Tao có chồng, mày đi bắt vợ/ Bao mùa vụ cắm cúi đời nương,.../ Giờ mày năm chân, tao bảy tay/ Chuyện chồng vợ còn giấu vào núi/ Tao nhớ mày gùi lưng lủi thủi/ Nén mũi kim thêu áo cho chồng,.../ Chợ tình tâm sự mấy mươi phiên/ Yêu thương gập ghềnh còng dáng núi,...”  ( Lời chợ phiên). v.v....
Vậy đấy, văn hóa bản địa, sắc tộc tháng ngày lẽo đẽo theo chân  nhà thơ mang dấu ấn đời sống thường nhật, từ nét hoa văn nhà sàn, chuyện cha ông khai sơn lập bản, nét ẩm thực bát rượu nắm xôi, đến phong tục chợ phiên chợ tình,... với Lò Cao Nhum mà nên thơ cả.
Cũng như một số nhà thơ dân tộc thiểu số khác, có thể nói, Lò Cao Nhum ít nhiều góp phần công sức làm phong phú văn hóa dân tộc mình.
           Hơn cả, người ta ghi nhận nhà thơ Lò Cao nhum ở điểm này.
Những ai, đã ít nhất một lần,  như tôi, nâng bát rượu núi nơi sàn nhà Lò Cao Nhum ở Bản Lác, thì hãy thêm lần nâng bát rượu núi trên tay, bởi Lò Cao Nhum từng mời: “... Rượu nhà tôi// Rượu buộc chỉ cổ tay/ Thắp lửa tình chiêng, tình trống/ Đã uống vắt kiệt chum mà uống/ Đã say đổ tràn tình mà say
Nào bạn ơi/ Cụng bát cùng rẻo cao muôn đời/ Chụm bền ngọn núi
Giữa chiếu đan bằng tia mặt trời.”...

Giờ đây thì, .... Rượu núi ai rót mà say?...
Khi mà, Lò Cao Nhum đã rời bỏ mọi người, vĩnh viễn ngủ lại nơi Xứ Mường đồng vàng, núi xanh, mây trắng,...thả cho thơ mình mặc sức thung thăng !... ./.
 

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( I ) - 09.07.2023 11:44:06
CHÍNH DANH GỌI TẾU...
( Chân dung nhà  thơ Phạm Công Trứ )
          
            1.     Chính danh gọi Tễu,
 
          Đấy là một gã đặc biệt. Đặc biệt người, đặc biệt thơ. Cứ nhìn cách gã đặt tên cho những đứa con tinh thần của gã-các tập thơ là đủ thấy : Lời thề cỏ may I-II-III, rồi Cỏ may thi tập ; Phồn thi I-II và tới đây là Phồn thi III, để hoàn tất thành Phồn tập.
          Tôi thì nhất quyết gọi gã là Tễu. Đơn giản bởi tôi thấy gã đã tự họa chân dung mình khá ấn tượng trong bài thơ Tễu :
                    Cởi trần đống khố múa chơi
                   Hát rằng, giữa đất và trời có ta
                   Đất là mẹ, trời là cha
                   Chính danh là Tễu, tự là Thảo Dân ...       
          Còn tên khai sinh do cha mẹ đặt cho là Phạm Công Trứ- Tiến sĩ Luật- Nhà thơ- Nhà báo.  
          Thật khốn khổ cho cái thân gã, sinh ra lớn lên đã phải mang vác những tên tuổi lớn trên thân xác cực kỳ quê mùa của mình.
          Thoạt đầu là cái tên. Công Trứ , khiến người ta nhớ đến danh nhân Nguyễn Công Trứ- Doanh điền sứ, nhà thơ và nhà khẩn hoang lỗi lạc của đất Việt thời Nguyễn, đầu thế kỷ 19. Có lẽ cha mẹ gã, những nông dân của vùng đất biển bồi Hải Hậu (Nam Định) vốn là những người hiểu biết nên lấy tên Công Trứ  đặt cho gã, một để tỏ lòng kính trọng với danh nhân Nguyễn Công Trứ, người đã có công sáng lập ra hai huyện nguyên là vùng đất mới bồi, Tiền Hải (Thái Bình) , Kim Sơn  (Ninh Bình), hơn nữa, cũng là sự kỳ vọng vào tương lai của gã. Hẳn sau này, nếu tài danh không mấy nổi thì gã cũng có cớ để biện bạch rằng, vị danh nhân kia họ Nguyễn, còn gã họ Phạm.
          Khốn nỗi, chẳng hiểu gã có biết rằng, trong lịch sử xa xưa, còn có một người trùng danh tính với gã, song lại rất nổi tiếng, ấy là Phạm Công Trứ, một nhà chính trị danh tiếng, nhà sử học thời Lê, đầu thế kỷ 17. Ông này sinh năm 1600, quê Liêu Xuyên, Đường Hào (Hưng Yên), đậu tiến sĩ năm 1628, làm quan to trải các chức Đô ngự sử, Thượng thư Bộ Lễ, Thượng thư Bộ Lại, Tham tụng phủ Chúa, tước Yến quận công, người từng được nhà vua giao trọng trách cùng với cộng sự đương triều sửa chữa và duyệt bộ quốc sử Đại Việt sử ký toàn thư .
          Thôi rồi, gã hết đường biện bạch nếu chẳng may sự nghiệp không thành. May thay, gã không hổ danh đội tên danh sĩ, danh nhân, dù thân xác quê mùa, trí tuệ chú Tễu. đã từng đứng trên bục giảng của giảng đường đại học mà cao giọng giảng luật học, cũng tiến sĩ và thơ phú như ai, lại thêm cái danh nhà báo, dẫu chẳng dám so sánh với tiền nhân, thì cũng có thể tự hào mà đứng trong trời đất này !...
          Tôi biết Phạm Công Trứ khi đã nổi danh với bài thơ Lời thề cỏ may, sau cả khi lấy bằng Phó tiến sĩ Luật từ Liên Xô về, làm việc tại Báo Pháp luật, và còn độc thân. Trứ tuổi Quý Tỵ, tôi tuổi Đinh Dậu, hơn kém những 4 tuổi, song chơi ngang hàng, xưng hô ông-tôi thân mật. Chúng tôi biết nhau nhờ cùng là cộng tác viên của Báo Nông nghiệp Việt Nam. Biết thì thế, song chơi được với nhau lại qua trung gian là Trần Đăng Khoa và Trịnh Bá Ninh  (khi ấy là Phó Tổng biên tập Báo NNVN). Tiếng là thân, nhưng không gần. Cứ ai việc nấy, lâu lâu gặp nhau do hẹn hò hoặc tình cờ thì vẫn có chuyện để mà nói. Ngồi với nhau, lúc tại công sở, khi nhâm nhi tách cà-phê nơi quán xá, đủ độ thân để thật lòng chuyện nghề, chuyện thơ văn, chuyện gia đình, chuyện đời... Khi nghe nhau nói, lúc hăng lên cùng tranh nhau nói, một bộc trực to tát, một uyển chuyển nhỏ nhẹ hơn, và chưa bao giờ bất đồng hoặc gay gắt đến phát cáu, đến mức một ai đó phải bỏ đi trước. 
          Song le, nhắc đến Phạm Công Trứ, thì phải nói đến thơ của gã. Thơ lại dăm bảy loại, Phạm Công Trứ chỉ gắn với thơ lục bát thôi. Thế quả có thiệt cho gã, bởi thơ không lục bát gã cũng có ối bài hay, song người đời đã nghĩ thế, cho là thế, nên đành vậy, thanh minh mà làm gì .
          Như một định mệnh, Phạm Công Trứ đến với người yêu thơ bằng lục bát Lời thề cỏ may, rồi cứ đà tiếp mạch nguồn tuôn chảy. Hễ đụng đến lục bát là ngòi bút của gã trơn tru, tung tẩy, uyển chuyển làm sao. Tôi biết, với ngần ấy tập thơ, Phạm Công Trứ đã được nhiều nhà phê bình thơ để mắt, săm soi, và trong số đó, đáng kể là Vũ Quần Phương, Trần Đăng Khoa, Vũ Nho và Chu Văn Sơn. Khen chê đủ mùi, có cả chuyện bảo gã ngồi vào chiếu của Nguyễn Bính. Dẫu vậy thì có sao đâu.
          Quả thật, Phạm Công Trứ sở trường về thơ lục bát. Song le, khốn nạn thay cho gã, ngay cái tên đã đội danh nhân lên đầu, đến nghiệp thơ cũng không thoát khỏi kiếp con rùa vào chùa đội hạc ra đình đội bia , phải đội các bậc cao thủ  tiền bối thơ lục bát là Nguyễn Du, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu và Nguyễn Bính. Là kẻ hậu sinh, dẫu chỉ bén gót các bậc danh tài tiền bối cũng chẳng có gì xấu hổ. Xét hiện tại, trong làng thi ca Việt mình, chiếu thơ lục bát có mấy người thành danh thì trong số ấy cũng có tên gã. Bốn người ngồi bốn góc : Nguyễn Duy-Lê Đình Cánh-Phạm Công Trứ-Đồng Đức Bốn, mỗi người riêng một vẻ hay.
          Chơi với Phạm Công Trứ, cũng thích nhiều bài thơ của gã, tôi đã tự chọn và bình dăm ba bài, đăng báo chỗ này chỗ nọ. Lẽ dĩ nhiên, cũng na ná những bài viết của làng phê bình ta, khen một tý và chê một tý, rồi cộng thêm tham số hy vọng bằng kết quả bài thơ (tập thơ). Tôi không thông báo, cũng chẳng kể công gì với gã, song gã để ý và gom góp đủ cả. Lại còn tuyên bố, khi làm tuyển các bài giới thiệu phê bình thơ gã, thì gã sẽ chọn lựa đưa vào. Không rõ đến bao giờ gã mới làm cái tuyển đó? A ha, gã đã vậy thì sợ gì mà không biếm họa chân dung gã ?
          Tôi từng viết một bài tạp văn Sân trăng ( in trong tập Lên núi tầm mai - NXB Văn học-2005 ), lấy cảm hứng từ mấy câu thơ của gã: " ... Vợ thì mặt khó đăm đăm/ Con thì ọ oẹ đái dầm cả đêm/ Mình thì ngồi xuống đứng lên/ Trăng thì cứ vãy đầy thêm như trêu ". Tôi gán chàng thi sĩ trong tạp văn ấy vào gã, và còn rủa khéo, bảo gã hãy bỏ cái chốn phồn hoa đô hội mà về quê cày cuốc cấy hái, để rồi tha hồ ngắm trăng. Gã biết, không giận bạn, mà lại cười hiền.
          Thoạt trông tướng gã quê quê, lại thêm ẩm ương thơ phú, nhiều người lo không biết gã làm gì ra tiền để nuôi vợ con (một vợ, hai con - đủ cả nếp tẻ). Đùng một cái, gã mua đất xây nhà lầu ở Cầu Giấy. Xây nhà rồi, lại còn bắt chước người xưa đặt tên chữ nữa. Thảo am thì quyết không phải rồi, thế thì phải là hiên, hoặc các, lâu chi đó. Kể từ đấy, nhiều bài thơ, gã đề bên dưới là Quan Hoa các, hoặc giả Nghênh Phong hiên, hay Vọng Nguyệt lâu...cho thêm phần nho nhã. Vậy mà Tễu , một kẻ đặc quê mùa và láu cá lại được ra đời từ đấy.
          Đa phần người yêu thơ, biết đến Phạm Công Trứ là nhờ Lời thế cỏ may. Hẳn tự thân gã cũng nghĩ vậy, thế nên mới có chuyện gã lấy tên một bài đặt cho cả tập, rồi không những một mà cả ba tập, lại còn thành tên tuyển. Tôi biết, trong cuộc đời, đã có bao nhiêu cô gái sướt mướt chùi nước mắt, bao kẻ ngậm ngùi nhớ về cái thuở "ngồi gỡ lời thề cỏ may". Song chuyện gió trăng ấy chỉ là những phút thăng hoa ban đầu dễ làm người ta lầm tưởng, thực ra, không mấy hợp cái tạng của gã. Gã là folklore , gã tưng tửng mang mình ra mà tự trào để rồi bông lơn, trêu ghẹo, châm chọc cả  làng, cả tổng, cả thiên hạ.(Đâu kém cạnh gì các cụ Nguyễn Khuyến, Tú Xương cùng quê với gã). Tôi lại cho rằng, sự nghiệp thi ca của gã là ở trâu với cỏ, là ở Bờm với Cuội, là ở Tễu kia.
          Tễu sinh ra ở quê, đích thị nông dân. Ở quê, Tễu là đệ nhất, đếch sợ bố con thằng nào. Vậy nên, Tễu mới "cởi trần đóng khố múa chơi". Hãy xem cái chú Tễu của gã tự bạch : "Đất là mẹ, trời là cha/ Chính danh gọi Tễu, tự là Thảo Dân/ Gia tài độc một chữ cần/ Trọng thực thường lấy chữ ăn làm đầu / Bạn thì những chó cùng trâu...". Nhưng đâu chỉ lầm lụi, hèn mọn, cần lao,Tễu bình thường cam phận là thế : "Ra trận đành phận tốt đầu/ Về làng thì lại cưỡi trâu ra đồng" , song lúc máu yêng hùng nổi lên thì nhất là bét nhé: "Kéo cày đã cực chai lỳ/ Khi giương sừng nhọn hổ thì ngán ta". Gì thì gì, Tễu vẫn biết và trở về với thân phận giáo trò của mình.
          Đấy là Tễu gốc. Biến tướng sang Tễu II , Tễu ta không còn chính hiệu nông dân nữa, mà đã nhuốm màu thị dân rồi. Nghĩ phận mình bèo bọt, cỏ rả "Độc một mảnh vải che thân/ Giấc mơ xuất ngoại đâu phần Tễu tôi", Tễu đâu tài cán như Trạng tiên tri mà biết, chỉ là chó ngáp phải ruồi, há miệng chờ sung may sung rụng thôi: "Ai ngờ dân dã lên ngôi/ Thế rồi Tễu cùng được ngồi máy bay". Tễu ta ngồi máy bay, nhòm xuống nhân gian thấy dân làng mình cấy cày vất vả, mới ô hay biết phận mình bấy lâu là thế. Rồi trải đất Tàu trời Tây, diễn trò đồng áng , thảo dân ma lanh hết xứ gà trống đến xứ sương mù, trở về quê, chợt thấy mình không còn là nông dân nữa. Vậy không là nông dân thì là ai ? Là thị dân chứ còn gì. Nhưng muốn thành thị dân thì cũng phải có điều kiện gì chứ? Đơn giản thôi, thì cứ  "sống lâu ở phố/ hóa thành thị dân ".
          Thế là thành Tễu III, thị dân, kiêm nghệ sĩ. Tễu-thị dân khác hẳn với Tễu-nhà quê hồi mới bén mảng ra phố "Nhà quê khí huyết tràn trề/ Tớ đi rung cả vỉa hè Đồng Xuân".  Thêm nữa, sau lần đầu xuất ngoại, Tễu ta quen mui. Bây giờ xuất ngoại với Tễu không còn là may, đã thành chuyện cơm bữa. Tễu biểu diễn chuyên nghiệp, mặc thì quen với gi-lê , mũ phớt, ăn thì quen xúc-xích, dăm-bông, màn-thầu, sủi-cảo, nói năng thì gút-bai, nỉ-hảo... Đấy là trước đám đông Tây Tàu bộ tịch thế thôi, chứ hễ xong việc trở về, Tễu ta chỉ dễ chịu khi là chính mình, với khố áo , với tre trúc ngõ quê, với ao bèo sân đình, với ối a điệu chèo và câu dân ca não buồn giã bạn đếm trăng.
          Tễu ta đành lột xác, song chớ trêu thay, nỗi ám ảnh nông dân bám lấy Tễu, lẽo đẽo theo đi mọi lúc mọi nơi, trung thành và nhẫn nại. Kỳ thực, bước ra với đời thì cũng bộ tịch thế thôi, chứ sâu thẳm cõi lòng, nếp văn hóa làng quê Việt luôn ẩn chứa "Này nước tre trúc lung linh/ Này mây lồng bóng thủy đình gần xa". Kỳ cùng cho đến một ngày kia, con cháu Tễu tiễn đưa Tễu về nằm lại nghĩa địa làng bằng một đám rước ra trò !... Song trước khi sắp đặt sẵn cho Tễu một kết cục bi hài, hãy xem Tễu ta sống ở phố thế nào, ăn ở với dân khối phố, đối xử với kẻ phường ra sao ?
          Tễu ta, thị dân : "Thị dân trong mặc/ Váy áo ngắn dần/ Thị dân trong ăn/ Chán cơm có phở/ Thị dân trong ở/ Nhà ống mái tôn/ Thị dân phát ngôn/ Cám ơn! Hân hạnh/ Thích coi phim ảnh/ Thuê đĩa xi-đi/ Muốn uống cà phê/ Quán vườn mờ ảo/ Rất chăm đi dạo/ Vì ngại bụng to/ Cần gọi xích lô/ Thì ra đầu phố/ Thuê một tốp thợ/ Cứ đến chợ người/ Cả đến khóc cười/ Cũng có dịch vụ ...". Mọi việc dễ ợt, như là lẽ đương nhiên. Ở quê khó hơn nhiều.
           Quanh đi quẩn lại, Tễu thấy mình chỉ có thể về quê, đánh bạn với trâu. Đấy là con vật luôn gần gũi, thân mật với mình, buồn vui chia xẻ cùng mình. Tễu nhận mình là Thảo Dân. Trâu lại là bạn của thảo dân : "Từ ngày về với thảo dân/ Trên thừng xiên mũi, dưới chân lội bùn/ Trưa hè nước bỏng như đun/ Chiều đông sương muối rét run từng hồi/ Vụ năm cho chí vụ mười/ Hạt vàng người hưởng, rơm mời trâu ăn/ Lòng riêng thoáng chút lăn tăn/ Vẫn thề đi với thảo dân trọn đời”
          Xin được nhắc lại, gã biết tuốt song giả ngây giả ngô, tưng tửng, chất chưởng, chẳng ngại gì và cũng không ngán ai . Thấy chướng tai gai mắt là phê, là trào lộng. Bây giờ thì gã quen với cái giọng điệu này rồi. Châm chọc, chê bai rồi gã cười. Cười chán cười chê, cười đến trào nước mắt. Rồi gã giật mình, tỉnh ngộ. Lại buồn, lại hoài cổ, hoài quê... Thân phận gã đâu khác thân phận Tễu kia chứ ?!
          Khi ngồi với vài ba bạn bè thân mật, lúc ngồi riêng với tôi, Phạm Công Trứ không tiếc lời khen chúng bạn, rằng ông này nhàn, cậu kia thì sướng, tay nọ khôn ngoan...chỉ riêng gã là khổ. Cơ khổ. Rằng cái mặt gã ... ý muốn nói là khó coi, khó chơi, hãm tài ... ! Có phải vậy không ? Có lần tôi giở trò chữ nghĩa suy luận, mang tên gã ra chiết tự mà đoán : Trứ , có nghĩa là sự rõ ràng, còn chỉ sự soạn thuật, làm văn, làm sách (theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh), chữ này bao gồm chữ giả và bộ thảo đầu. Giả ở đây là chỉ người (như học giả, hiền giả), còn bộ thảo chỉ cây cỏ . Vậy là kẻ đội tên Trứ muốn thành  giả (như tác giả thi ca chẳng hạn) là phải nhập vào cây cỏ. Chẳng trách, thoạt đầu gã thành danh là nhờ cỏ may. Rồi để nổi tiếng hơn lên, gã phải gắn với trâu, với cỏ, rồi hóa thân vào Bờm, vào Cuội, vào Tễu, toàn những loại gần gũi thân thuộc với thôn xóm, với chuyện cỏ rơm và công việc nông phu.
          Phạm Công Trứ nghe. Gã gật gù cười ra chiều tán đồng, lại như nghi ngờ. Thì cũng là chuyện vui thôi mà. Định viết thêm về gã, song thấy chẳng hơn gì gã tự bạch rất ngắn gọn : "Đúng là/ Hồn gửi ngõ quê/ Xác chôn hẻm phố/ Chưa giây phút thăng thiên/ Đã đôi lần thất thố/ Nhờ câu thơ làm tin/ Lấy đức năng thắng số/ Sớm muộn trời gọi mình/ Việc chi mà lo sợ".
          Không những thế, ở phần V bài Thơ phú giao duyên , gã thẳng thắn tự giễu cợt mình : "Nửa kim nửa cổ/ Dăm câu trần tình/ Vừa thơ, vừa phú/ Chắp nhặt linh tinh/ Nếu có điều gì/  Xin được lượng thứ/ Hoặc nữa : chấp chi / Hắn-Phạm Công Trứ !".         
          Gã đã chơi bài ngửa, trắng phớ trước bàn dân thiên hạ.Trước tiên, gã lấy bản thân ra mà châm biếm cái đã (kiểu như cụ Tú Xương, người cùng quê Nam Định với gã, tự rủa mình là kẻ cao lâu thường ăn quỵt, thổ đĩ lại chơi lường, rồi mới xỏ đổng thiên hạ ; hoặc như bạn thơ cùng thời là Trần Đăng Khoa, trước khi chê cả làng văn chương thì hạ mình tự nhận là kẻ vô tích sự). Đến ngay cái thân mình cũng chẳng buồn nương tay, thề thì thương xót và nương nhẹ  ai đây ?!...   
 
          2. Tự là Thảo Dân
 
          Có một dạo Phạm Công Trứ  được giao phụ trách chuyên tở Pháp luật cuối tháng. Trong đó có nhiều chuyên mục, khó nhất là một chuyện mục ửa báo nửa văn, chuyện pháp luật, xã hội, đời sống, hầm bà làng, độ dưới nghìn từ. Bí bài, Phạm Công Trứ cầu cứu đến tôi. Chẳng là, ngày ấy, tôi là Phó trưởng ban Văn hóa xã hội Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), nội dung công việc hàng ngày liên quan đến các vấn đề văn hóa-xã hội, đời sống-pháp luật mà Phạm Công Trứ  đang cần. Các thể loại ngắn như tản văn, tạp bút, câu chuyện là nghề của tôi. Vậy là tôi nhận lời giữ mục cho Phạm Công Trứ cầm cự vài năm. Lẽ dĩ nhiên, còn có thêm bài viết của người khác để chuyên mục đa dạng, nhiều giọng điệu, đỡ nhàm, và phòng khi tôi quá bận việc hoặc bí đề tài... Nhân đây, tôi cũng phải cảm ơn Phạm Công Trứ, bởi nhờ giữ mục cho tờ báo của gã, tôi buộc phải vắt óc để viết bài đặng kịp ngày ra báo. Những bài viết tạp bút, tản văn đó, sau này tôi nhuận sắc được tập sách khá dày dặn sạch sẽ (Lên núi tầm mai, NXB Văn học, 2005).
  Vì cộng tác cùng nhau, nên tôi và Phạm Công Trứ hay gặp gỡ, chuyện trò. Đây cũng là thời kỳ Phạm Công Trứ sung sức nhất. Cùng với các tác phẩm thơ xuất bản Phạm Công Trứ tặng, tôi còn được nghe gã đọc thơ và chiếm phiếm về thi ca mình và làng thơ nói chung nên tôi có nhiều tư liệu để viết phần đầu chân dung ông (Chính danh gọi Tễu). Sau này, tôi đăng bài viết chân dung Phạm Công Trứ trên mạng xã hội (blogtiengviet.net), nhiều người vào dọc, thích thú, cảm nhận và còn cung cấp thêm một số chuyện mà họ biết hoặc nghe nói về gã. Ví như, một người sống ở Vũng Tàu, bảo là rất thích câu thơ hay của Phạm Công Trứ “Mướp tàn sen cũng đi tu/ Lá tre đã thả một mùa heo may/ Con sông không ốm mà gày/ Mắt em chưa tối đã đầy hoàng hôn”. Khi ấy tôi mới giật mình tự trách  sao mình lại bỏ sót câu thơ rất gợi này. Lại có người thóc mách chuyện thời Phạm Công Trứ sang Liên Xô làm nghiên cứu sinh ngành Luật, vì chuyện cơm áo đã cùng người ta  buôn hàng này nọ, rồi cả chuyện nuôi chó Nhật theo phong trào, mua phải một con bị mùa mắt, bán lỗ vốn, xót tiền cay đắng than giễu chỉ vào con chó mà rằng “Giời ơi là giời, sao giời không để tao mù lại bắt mày mù cho khổ thân tao”. Có người lại kể chuyện Trần Đăng Khoa (khi ấy đang là sinh viên Trường viết văn Gorky) trêu Phạm Công Trứ xuất khẩu thành thi rằng: “Đã Nguyễn Công rồi... lại Phạm Công/ Tưởng là Thi sĩ hóa ra không/ Sang Tây nghiên cứu không mang sách/ Đầy bụng si ngực với si mông”. Ôi, ngày ấy, nhãng học đi buôn là chuyện của nhiều người chứ đâu mình Trứ. Nghĩ mà thương gã một thì tủi cho trí thức xứ ta mười. bươn chải kiếm ăn một thời nghèo khó.
          Trở lại, chuyện thơ ca Phạm Công Trứ, những thứ làm nên một tên tuổi làng Lục bát Việt Nam hiện đại.
          Tôi nhớ, có một dạo, đâu như quãng những năm đầu thế kỷ 21, sau những thành công ở thể loại thơ lục bát ngắn (chủ yếu in trong Phồn thi), Phạm Công Trứ có vẻ chán, và ông bắt đầu thử sức mình ở dạng dài hơi, mà điển hình là Làng phố giao duyên. Có thể gọi đây là trường ca. Mà gã Thảo Dân này cũng chẳng cần di đâu xa, cứ lấy nguyên mẫu là cái làng quê lão thuộc vùng Hải Hậu, Nam Định ra mà tả, mà kể, mà giễu cợt, mà thương nhớ xót xa,... thì đã thành thơ rồi. Cũng như cái làng Đại Hoàng thời Nam Cao hoa thân thành làng Vũ Đại, đại diện cho làng quê Bắc bộ Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20, thì nay làng quê của Phạm Công Trứ ở chốn Hải Hậu có thể thay mặt cho làng quê xứ Việt mình buổi cựa mình, đổi mới vươn lên thoát nghèo. Bề bộn và nham nhở lắm, biết bao chuyện dở khóc dở cười với hiện trang “làng nửa phố, phố nửa làng”,... Làng phố giao đuyên của Phạm Công Trứ ra đời tròng hoản cảnh ấy,...
Chẳng cần phải kiếm tìm ở đâu vì tất cả có sẵn trong li ti huyết mạch của gã “chính danh gọi Tễu, tự là Thảo Dân” này rồi. Thì đây: “Từ trong bụng mẹ sinh ra/ Chẳng dòng quý tộc chỉ là thường dân/ Thường dân thân tự lập thân/ Chẳng mơ có được quý nhân độ trì”....Mặc dù, già nửa đời người, những Tây học, tiến sĩ, triết gia này nọ, sống ở phố, làm báo đi đây đó khắp thế gian, nhưng sểnh ra cái, gã lại hiện nguyên hình là một tay nhà quê, với cỏ rả, bùn đất đồng áng: “Cỏ may, sao lại cỏ may/ Không hương, không sắc dựng đầy bờ đê/ Nhớ đồng, nhằm biển anh về/ Gỡ cỏ sống lại lời thề ngày xưa”, rồi chuồn chuồn bươm bướm từ thuở trẻ trâu: “Rón rén là rón rén ơi/ Chú chuồn ớt mới đậu rồi, tóm ngay/ Rón rén là rón rén này/ Nàng bướm trắng lại vút bay mất rồi”...
         Rồi cũng Tự bạch, Trích ngang đủ kiểu, song khi cần phải tự hào thì gã chẳng có gì, ngoài cái mà gã gọi bằng tên chữ nghĩa mỹ miều, ấy là hồn quê: “Hồn quê vi vút phiêu diêu / ấy là mộng ước trẻ nghèo thả lên/ Nghèo là nghèo bạc, nghèo tiền/ Dưng mà giăng gió thiên nhiên chẳng nghèo”. Rõ là buồn cười, nhưng gã đâu có ngại ai cười chê là nhà quê, thậm chí còn thấy hả hê, hào hứng rất chi là cùn: “Tắm truồng thú của trẻ quê/ Ra phố là hết đam mê tắm truồng/ Về quê tìm lại cội nguồn/ Hòa cùng lũ trẻ “diễn tuồng” trên sông”...Lấy các mỹ từ “hồn quê”, “hồn hậu”  ra để biện minh cho vẻ chất phác, thật thà, và cả những thứ “thiếu văn minh” như tắm truồng là trò láu cá của gã....
Là trường ca thì cũng phải có chương hồi chứ, nên gã đành bày đặt băm chặt ra cho đủ (nào những Mở, Ngày xưa, Tự bạch, Trích ngang, Làng, Đáng sinh thành, Viết cho con, Phố, Hà Thành hồi cổ, Hai khúc sông Tô, Làng trong phố, Phố nửa làng... và kết thúc ở Khép). Và một khi là trường ca thì kiểu gì phải kể chuyện rồi. Mà kể thì khó tránh khỏi “con cà con kê”, “ngồi lê đôi mách”, thế nên, dù có chữ nghĩa đến mấy, tác giả cũng dễ sa đà, sơ sẩy, câu độn chữ thừa. Phạm Công Trú không phải là một ngoại lệ. Ở trường ca Làng phố giao duyên, ngươi ta bắt gặp một Phạm Công Trứ kể lể, nhưng bằng một giọng điệu hóm hỉnh nên bớt nhàm. Thêm nữa, Phạm Công Trứ là người lắm chiêu trò, nhiều khi hóa thân thành gã dân quê mượn đồng dao mà kể. Ví như: “... Ngày xưa/ Kéo cưa lừa xẻ/ Chẳng hám cơm Vua / Chỉ mong được thua/ Về bú tí mẹ (!)/ Ngày xưa/ Mặc quần thủng đít/ Chi chi chành chành/ Quả ổi quả chanh/ Gốc na gốc mít/ Ríu ra ríu rít/ Ngày xưa/ Đung đưa hoa bìm/ Lim dim hoa khế/ Sao mẹ đi chợ lâu thế?/ Ngày xưa/ Đi trốn / Đi tìm/ Đống rơm, đống rạ/ Góc bếp, cánh cửa / He hé mắt nhìn/ "ù oà", "ù ập"/ Thế là ú tim!/ Ngày xưa rất bướm/ Ngày xưa rất hoa/ Nào thuyền gấp giấy/ Nào trâu lá đa/ Ngày xưa rất bạn/ Ngày xưa rất ta/ Lăn tăn cỏ chỉ/ Rung rung cỏ gà/ Ngày xưa rất sâu/ Ngày xưa rất xa/ Quanh quanh bể nước/ Men men thềm nhà...”.
Rồi nữa, Phạm Công Trứ kể chuyện,  lúc mượn giọng điệu phú, khi lai lối hát văn biền ngẫu, miên man, khiến người ta mất phương hướng, lạc lối mà sa vào trận đồ chữ nghĩa của mình:  “Tháng chín bước sang tháng mười/ Cốm mới thơm mùi mời gọi/ Rải đồng chim ngói từng đàn/ Thôn xóm bước vào mùa cưới/ Cô dâu nửa khóc nửa cười/ Chú rể mong trời chóng tối/ Lúa chiêm cấy hái xong xuôi/ Tết Ta cũng vừa kịp tới/ Nhà nhà gói bánh, đồ xôi/ Giồng nêu, quét lại tường mới/ Sân đình náo nức cờ người/ Ao làng om thòm diễn rối/ Thôn nữ váy ngắn nhún đu/ Các cụ ngước nhìn không nói,... / Cảnh quê bao đời tiếp nối/ Trâu bò gặm cỏ triền đê/ Lông mượt vo ve ruồi muỗi/ Nối đuôi từng đàn chiều về/ Thậm thịch chìm vào ngõ tối/ Mục đồng tóc gió vàng hoe/ Sáo trúc lưng trâu nhẹ thổi/ Bập bùng ánh lửa bên hè/ Mùi cơm quyện vào mùi khói/ Lấp ló trên đầu ngọn tre/ Trăng non cong hình lưỡi hái/ Dưới trăng trai gái nguyện thề/ Thầm thì bãi dâu, ruộng cói/ Vi vu suốt cả đêm quê/ Sáo diều rót vào tận cửa/ Làm tắt những tiếng ve ve/ Xua tan một ngày nắng lửa / Đuổi nhau đom đóm nhập nhoè/ Ôm nhau ếch nhái sấp ngửa/ Cót két gió vặn thân tre/ Tưởng tiếng dân nghèo than thở/ Lấp loáng cánh dơi đi về/Mèo hoang từng hồi nức nở/ Lửa chài thấp thoáng ven đê/ Bờ bụi nhọc nhằn tiếng c/ Kẽo kẹt bên sông vó bè/ Ma trơi trên cồn nhảy múa/ Say rượu giọng ai lè nhè/ Vu vơ đôi tiếng chó sủa/ Đều đều mẹ kể con nghe/ Cái thời ngày xưa ngày xửa./ Bến sông trăng ném thia lia/Thôn xóm chìm vào giấc ngủ/ Ngoài ngõ sương giăng đầm đìa/ Trong nhà tiếng người nói mớ/ Mảnh mai tiếng hạc về khuya/ Chém màn đêm thành hai nửa/ Thoạt tưởng tinh cầu đang rơi / Sau ngỡ bình vàng chợt vỡ…”.
Quả thật, đọc những khúc như thế, người ta sây sẩm mặt mày như bị thôi miên  mà lạc lối trong trận đồ chữ nghĩa giăng mắc. Những khúc miên man li bì như vậy không hiếm trong trường ca này, nó gây nên cảm giác bất bình thường, ru rín, mê dụ, như tự kỷ ám thị mà không biết lối thoát ra. Về tình thần, ví như lối hát hầu đồng trong tín ngưỡng thờ mẫu của người Việt  ở Phủ Giầy, Đền Trần và một số đền phủ khác... Nói theo ngôn ngữ hiện đại, Phạm Công Trứ mượn các dạng thức dân gian đặng “thao túng tâm lý” khiến người đọc bị mê dụ dẫn dắt. Song như thế cũng đáng, bởi bức tranh quê mà gã họa nên bằng ngôn từ, nhạc điệu mê đắm lòng người. Tôi nghĩ, đó là điểm mạnh, khác biệt riêng có của Phạm Công Trứ.
         Về cấu trúc, trường ca Làng phố giao duyên không có gì mới. Từ mấy chục năm trước, nhà thơ Trần Đăng Khoa, khi đang còn tuổi thiếu niên, viết trường ca Khúc hát người anh hùng, tác giả đã dùng ngôn ngữ thơ để kể trong không gian truyện, và để thâu tóm chủ để tư tưởng của từng khúc, từng chương, đồng thời làm cọc tiêu, điểm nối và thay đổi tiết tấu đã sử dụng những khúc hát theo thể lục bát đầy tài tình. Ở đây, trường ca Làng phố giao duyên của Phạm Công Trứ, ta cũng bắt gặp thủ pháp này, tuy ý thức không rõ ràng. Bởi các khúc lục bát của Phạm Công Trứ đa  phần là để thay đổi tiết tấu chứ không giữ vai trò cô đọng ý từ và sâu chuỗi mạch thơ. Có điều, khi sáng tác Làng phố giao duyên, Phạm Công Trứ đã bước vào tuổi trưởng lão, nên ngôn ngữ  thơ kể chuyện già giặn, ma mãnh, với nhiều chiều trò, như đã phân tích,...
Vậy những khúc lục bát ra sao?
Không sắc lại cũng không hương/ Chân cắm xuống đất, ngọn dương lên trời/ Nhỏ nhoi cọng cỏ, kiếp người/ Vẫn mong đứng thẳng dù đời đạp lên” ; “Người quê nhân hậu bao đời/ Đền miếu cho cả cõi người âm ty/ Ai bảo đã chết còn gì/ Họ rằng xác chết hồn thì thăng hoa” ; “Hồn quê vi vút phiêu diêu / ấy là mộng ước trẻ nghèo thả lên/ Nghèo là nghèo bạc, nghèo tiền/ Dưng mà giăng gió thiên nhiên chẳng nghèo”; “Khe khẽ là khe khẽ thôi/ Xin người chầm chậm để tôi theo cùng/ Hiếm hoi một giấc phiêu bồng/ Nữa rồi tỉnh dậy lại không có gì!”; “Ghé vai vào cuộc chiến tranh/ Tổ tiên đã trải, cha anh đã tường/ Mịt mù đạn lửa chiến trường/ Vững lòng bởi có “đồng hương”… đồng hành” ; “Mỗi người chỉ có một quê/ Khi đi để nhớ, khi về có nơi/ Hài hoà như đất với trời/ Như sông với biển, như người với nhau” ; “... Tóc giờ sắp trắng như mây/ Bao giờ cho đến cái ngày… hơn xưa?” ; “Làng quê nguồn cội bao đời/ Ông bà cha mẹ nằm ngoài tha ma/  Nay người mai đến lượt ta/ Bao giờ trời gọi ấy là… phải vâng.
          Vậy thì qua trường ca này, Phạm Công Trứ có đóng góp vgì về nghệ thuật? Ý tưởng, nội dung thì quá rõ. Một thời kỳ chuyển đổi từ làng quê canh tác nông nghiệp lạc hâu lên làng phố sản xuất hàng hóa thương mại mại dịch vụ và trong quá trình chuyển mình ấy, làng quê và người quê đã bị phố hóa, rồi người quê lên ở phố lại mang theo nếp sông quê, biến phố nhuốm màu làng. Thương và cũng bực mình lắm thay bởi cái sự chuyển đổi còn dang dở. Ý tưởng thế, được Phạm Công Trứ chuyển tải trong trường ca này và thơ ca của mình những năm gần đây. Tuy nhiên, cấu trúc còn rối và thiếu liền mạch, nếu đem tách ra từng trường đoạn, từng khúc, nhìn nhận như  một bài thơ độc lập, lại thấy nhuyễn và hay. Điều ấy, cho thấy, xét về tổng thể, Phạm Công Trứ chưa thật cao tay ấn, còn vụng trong bài binh bố trận và điều khiển quân tướng chữ nghĩa của mình.
          Điều đáng ghi nhận ở gã phù thủy Phạm Công Trứ là qua trường ca Làng phố giao duyên, cùng một số bài thơ khác, dấu ấn về LÀNG rất đậm nét, mặc dù gã không xướng tên một làng quê cụ thể nào. Ấy là cái tài của gã, biến cai riêng thành cái chung, nâng cái cụ thể lên thành khái quát  Mà điều ấy, thật không dễ chút nào và nhà thơ nào cũng làm được ?!
 
           3. Nhuốm màu thiền lão.
           Ở vào cái tuổi chấp chới thất thập niên lão, Phạm Công Trứ  lượng sức mình, chẳng thể dương oai tự kiêu “nhà quê khí huyết tràn trề/ tớ đi rung cả vỉa hè Đồng Xuân” được nữa,  nên bế quan luyện công đặng nâng cao tuổi thọ, kéo dài tuổi thi. Mấy năm liền, không thấy gã ọ ẹ ở đâu,  thơ phú nơi nào. Sống thì chắc rồi nhưng sống ra sao thì chẳng rõ. Hỏi thăm vài ba người thân với gã thì họ bảo “Vẫn sống nhăn răng đấy dưng mà yếm thế lắm”.  Hỏi tiếp “Thế thơ phú gì không?”. Lại bảo “Chắc là có đấy. Lão này còn ngọ nguậy thì còn thơ. Bắt lão ấy cai thơ khéo lão thăng luôn”.
                                                                Rồi một hôm, thấy Phạm Công Trứ ngồi thù lù nơi phòng khách Hội Nhà văn, số 9 Nguyễn Đình Chiểu. Quần áo, mũ len khăn cổ xùm xụp, thêm một cái gậy chống bên cạnh và thẻ xe buýt dây đeo trước ngực. Giá gặp ngoài đường dễ ngỡ lão hành khất. Râu tóc bờm xờm bạc cả, riêng ánh mắt thì vẫn ánh lên sư minh triết pha chút tinh nghịch vốn có. Ngẫm, thế là ổn rồi, gã chính danh gọi Tễu tự là Thảo Dân ơi.
          Thơ gã lại đăng lác đác đây đó. Tôi biên tập một bài viết bình thơ Nguyễn Bính gửi đến Tạp chí Nhà văn & cuộc sống. Đọc mà ngờ ngợ, tên tác giả bài viết lạ hoắc. Hỏi ra, nhà thơ Trần Đăng Khoa, Tổng biên tập cười toét miệng “Lão Phạm Công Trứ đấy. Tớ bắt đề tên thật rồi”. Tôi ngớ người “Thảo nào, giọng văn quen quen ...”. Thời gian sau, mỗi lần đến Hội Nhà văn, gã đều ghé vào Tạp chí chuyện phiếm. Đã bỏ được chiếc gậy chống, chuyện cũng rôm rả hơn. Lại hiện nguyên hình một gã tiến sĩ nửa nhà quê, độ lượng và từng trải, thật thà mà tinh ranh,...
          Thực ra, suốt quãng thời gian bế quan, hay tự kỷ gì đấy, gã vẫn làm thơ đều. Có điều, điềm tĩnh, thâm trầm hơn về cách nhìn nhận cuộc sống, và giọng điệu đã hạ tông, nhưng vẫn lộ rõ sự tinh quái, hóm hỉnh vốn có. Về ngôn ngữ, vẫn nguyên đó một Phạm Công Trứ biến hóa, giàu thanh sắc, hình ảnh, nhạc điệu,... Riêng về thơ lục bát, gã không lẫn bất cứ một ai trong số các thủ về thể thơ này (như Nguyễn Duy, Lê Đình Cánh, Trần Đăng Khoa, Đồng Đức Bốn). Cùng giàu chất uy-mua, nhưng ở Nguyễn Duy quãng thời gian sau là chủ ý bông đùa và đẩy lên thành nghệ thuật; Còn Lê Đình Cánh thì chủ thể luôn đứng hẳn một phía để rồi quan sát, tủm tỉm cười mà cảm thông đôi chút;  Riêng  Phạm Công Trứ là sự tự thân, tự giễu, lấy chính mình làm đối tượng rồi ra chuyện người nên có sự đồng cảm, chia sẻ,...
Chẳng hiểu do rỗi rãi hay ý thức phân định, gã lẩn thẩn sắp xếp thơ mình theo từng chủ đề: Cỏ, Lão, Linh, Luật, Mùa, Nhi, Triết ... và kỳ công viết luận giải cho từng phần. Hẳn diễn lại trò xưa trong cách chơi chữ đặt tên như thời Cỏ may, Phồn thi...? Kể cũng thú vị. Song ở đây, tôi chỉ chọn mấy chữ L của gã để bàn thôi.
          Thơ Luật, thực ra là cái cách Phạm Công Trứ quan sát sự vật, hiện tương, thói đời ... và rút ra bài học, mà nên thơ :“Để tồn tại phải luôn thích ứng/ Ấy là quy luật của muôn đời/ Khủng long tuyệt diệt vì to lớn/ Kiến giun bé nhỏ mãi sinh sôi(Luật đời);  “Sông có khúc / Người có thời/ Xong thì đi chỗ khác chơi/ Nếu không muốn bị ông giời nhấc ra” (Luật chơi); “Nếu đời là một cuộc chơi/ Ai người làm luật, ai người cầm cân?/ Ai người gác cổng, dọn sân/ Ai chờ vào cuộc ai dần bắn ra?” (Một cuộc chơi); “Chữ “quan” ([link=file:///C:/Users/admin/Desktop/CHAN%20DUNG%20M%E1%BB%9AI/DRONG%20CH%C6%A0I%20V%E1%BB%9AI%20B%E1%BA%A0N%20V%C4%82N/8C%22%E5%80%8C]倌[/link]) có một cái ô/ Giương ra là để che cho nhiều mồm/ Mồm ăn, mồm nói, mồm hôn/ Mồm tụng kinh sách, mồm chôn sống người” (Chữ quan); “Sinh ra vốn đã có rồi/ Ấy là quyền của ông Giời ban cho/ Cung đình mấy cụ Tân Nho/ Phán rằng có cái còn to hơn Giời!” (Quyền tự nhiên); “Học hàm là phó giáo sư/ Học vị tiến sĩ cũng như bao người / Gặp em thành kẻ dở hơi/ Trăng lên lẳng lặng ra ngồi bờ đê…” (Dở hơi) v.v...
          Phạm Công Trứ triết luận thế đấy. Với gã, quy luật của cuộc sống, nhìn ra chúng để mà sống, chấp nhận và chia sẻ và ứng xử cho phải đạo. Diễn đạt nôm na mà tinh quái làm sao.
          Thơ Lão của Phạm Công Trí, cứ theo luận giải của gã thì mệt lắm, viện dẫn Đông Tây Kim Cổ đủ cả, nhưng  là gã lấy tuổi tác (Thọ lão) ra để bàn. Tóm lại, ở vào tuổi cao, người ta từ ý thức về bản thân nên nhìn nhận cuộc đời có khác đi,...: “Ngày nào ngồi sau lưng cha/ Cha đùa thường bảo: “Cu là cái đuôi!”/ Thoắt thôi con đã đôi mươi/ Sau lưng giờ lại một người là cha/ Trạnh lòng song chẳng nói ra:/ “Biết đâu nó nghĩ mình là... cái đuôi?” (Đuôi); “ Tuổi trẻ dễ nhớ dễ quên/ Hồi hưu mới thấm cái duyên bạn già/ Vùi ba thước đất thành ma/ Tìm đâu ra bạn để mà… cãi nhau!” (Bạn già); “Hồi bé sợ nhất là ma/ Lớn lên thì sợ người ta hơn mình/ Lấy vợ sợ vợ kém xinh/ Lấy chồng thì sợ chồng rình đấm cho/ Con sợ láo, vợ sợ hư/ Giờ thì sợ chết mà chưa thành gì/ Thôi thì cứ vô tư đi/ Sợ thì cứ sợ, ta thì cứ ta” (Sợ); “Phải có cái gì để đọc/ Phải có cái gì để nghe.../ Hãi nhất là không gì cả/ Thiu thiu là bị bóng đè/ Chỉ mong một đêm an giấc/ Thế mà cũng khó người ơi,...” (Hãi); “Vẫn biết thân là cõi tạm/ Bạc tiền là của phù vân/ Thế mà vẫn “tham” vẫn “hận”/ Thế mà vẫn “si” vẫn “sân”/ Vẫn biết đời là bể khổ/ Trốn sao khỏi kiếp luân hồi/ Thế mà vẫn “con xin Bụt”/ Thế mà vẫn “lậy Chúa tôi”/ Vẫn biết sống là để chết/ Trời gọi chẳng thể chạy làng/ Thế mà vẫn tập vẫn luyện/ Thế mà vẫn thuốc vẫn thang/ Vẫn biết thơ là thơ thẩn/ No-ben còn chẳng ăn ai/ Thế mà vẫn ra thi tập/ Thế mà vẫn muốn khen tài/ Vẫn biết ừ thì vẫn biết/ Thế mà vẫn cứ thế mà/ Càng sống lại càng nặng “nghiệp”/ Cả làng đâu phải riêng ta!” (Vẫn biết); “Tr. ơi!... lạnh toát cả người/ Tên mình ai gọi từ nơi vô hình/ Chắc là dở chứng thần kinh?/ Vừa mới ngả mình lại đã... Tr. ơi!/ Lần trước còn ngỡ xa xôi/ Lần này gần gặn ngay nơi đầu giường/ Phía đầu giường nửa sương, nửa gió/ Chỗ cuối giường nửa tỏ, nửa mờ/ Mình thì nửa tỉnh nửa mơ/ Vô hình trời gọi hay ngờ rằng ai/ Bần thần dụi mắt, bứt tai/ Buông ra một tiếng thở dài... rồi im” (Tiếng gọi), v.v...
          Thơ Lão là một cái nhìn kha minh triết về sự vận động của vật chất, con người và bản thân. Nhận thức rồi để biết sợ, biết trân trong cuộc sống, những mình đang có,... Với Phạm Công Trứ, Thiền là một cách chấp nhận,...
Thơ Linh, Phạm Công Trứ luận giải, thực ra là gã định gọi là thơ Thiền, tức thiền thi, song ngai người ta suy luận này nọ nên tránh đi. Thế nhưng, tôi nghĩ, chẳng việc gì phải ngại ai, mà đã ngại thì sao Thiền được. Song thôi, hãy xem gã luận giải sao? “Tâm linh là một khái niệm rộng, biểu hiện như là một thế giới - thế giới tâm linh. Linh cảm, linh giác, linh nghiệm, phiêu linh… đều thuộc họ nhà “linh”, đậm chất huyền hoặc. Hiện nay, tâm linh được xem như một khoa học, rất được giới học giả quan tâm và cũng đã đạt được những thành tựu nhất định. Quan điểm hai thế giới (vật chất và tinh thần) dưới cái nhìn duy vật cổ điển đang dần nhường chỗ cho quan điểm ba thế giới (vật chất, tinh thần và tâm linh). Tâm linh có họ hàng gần gũi với tinh thần nhưng không đồng nhất với tinh thần...”
           Thơ Linh của gã đây: “Hạt ngọc cuộn tròn ôm lá sen/ Bí ẩn nào như bí ẩn đêm/ Đừng tiếc ngày về tan mất ngọc/ Sớm mai sen ngọc lại ngời lên” (Sen ngọc); “Chờ cho dương thế lịm say/ Gác Quan-Hoa mới thoảng bay hương quỳnh/ Cõi quỳnh trắng, mộng quỳnh trinh/ Chỉ vành trăng khuyết nghiêng mình tiễn hoa!” (Quỳnh hoa);  “Ngại lấm bụi trần nơi dương thế/ Dạ hoa hương chỉ thoảng về đêm/ Trắng trinh khai nở đen huyền bí/ Thưởng hoa đâu cứ phải cần đèn.” (Dạ hoa); “Đêm mùa hè ngắn/ Đời quỳnh hoa ngắn hơn/ Khép rồi búp trắng/ Lặn rồi trăng đơn/ Hoa dẫu tạ tàn không cánh rụng/ Xác hoa tự hoá chẳng mồ chôn/ Trăng – hoa/ lặn - nở/ vô-thường-mộng/ Phù thế người ơi!/ Một/ Đoá/Hồn.” (Một đóa hồn); “”Vô ngã” là chân ngã/ “Vô ngôn” là chân ngôn/ Nếu như biết mình dại/ Thì nghĩa là đã khôn?” (Ngộ) ; “Đã coi trời đất là nhà/ Ai chủ ai khách phân ra làm gì/ Đã tin sống gửi thác về/ Trắng tay thì có khác chi tay đầy” (Khác gì); "bây giờ và ở đây"/ An lạc nằm trong mấy chữ này/ Đọc chi muôn quyển, đi muôn dặm/ “Ngay bây giờ và ở chính đây”/ Thở/ Chấm hết!” (Lạc); ...v.v...
          Thú thật, cứ sa đà vào Thơ Linh của Phạm Công Trứ, dễ có cảm giác mình được hóa thân thành chàng quý tử họ Giả (Giả Bảo Ngọc) vui vầy cùng đám tiểu thư khuê các nơi Vinh phủ, Ninh phủ uống rượu vịnh thơ trong Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần. Ai ngờ, gã tiến sĩ luật nặng chất nông phu này thơ thanh thoát đến thế. Linh hay Thiền gì đó hơi nhạt màu Phật song đậm phong vị  Lão. Mải mê, khéo rồi có ngày gã đắc đạo mà thành Tiên cũng nên ?!...
 
        Thay cho lời kết:
                    Mai sau, ... Người ta  thấy, khi trên hè phố thủ đô, lúc chốn ngõ quê vùng Hải Hậu, Nam Đinh đây đó, một ông già râu tóc bạc phơ, ăn vận nửa quê nửa tinh, chân đi chậm rãi với cây ba-tông trong tay, ánh mắt nhìn còn tinh ranh, hay ngó nghiêng, miệng lẩm nhẩm gì đó nghe như đọc thơ. Người đi đường chi chỏ, phỏng đoán, bảo lão già này hâm đơ hay sao ấy. Chẳng hiểu lão có nghe được lời thiên hạ hay không nhưng chỉ cười, nụ cười độ lượng, cất tiếng nghêu ngao:  “Nước nước nước/ Non non non/ Thoảng nghe trong gió như còn tiếng kêu/ Đói đói đói/ Nghèo nghèo nghèo/ Áo cơm nặng nợ bám theo đến giờ/ Mộng mộng mộng/ Mơ mơ mơ/ Ai là kẻ sĩ ngóng chờ No-ben/ Yếu yếu yếu/ Hèn hèn hèn/ Nghe đi nghe lại dần quen mất rồi/ Bác bác bác/ Tôi tôi tôi/ Tôi đi hỏi bác bác thời hỏi ai/ Nhanh như chớp mắt đời người/ Ngắn như một tiếng thở dài,”...
 
        Lai có người vẻ tỏ tường : “Lão ấy là một nhà thơ nổi tiếng đấy” ,..../.
 
                                                                                         Hạ, 2023
R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.07.2023 04:36:45 bởi Thanh Vân >

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( I ) - 02.08.2023 17:17:50
Giấc mộng lầu hồng của con người (toàn phần)
 
         
HỒNG LÂU MỘNG &
Giấc mộng lầu hồng của con người.
 
          1.
          Sáng thế kỷ 21, các nhà nghiên cứu văn học và khoa học xã hội nhân văn hàng đầu thế giới, nhận thấy sự cần thiết nên đã nhóm họp, bàn bạc và bỏ phiếu để đi đến việc nhất trí chọn ra 20 tác phẩm văn học bất hủ mọi thời đại của thế giới. Người ta thấy trong danh sách có những cái tên rất xứng đáng như : Homèrre với  Odysee, Cervantes với Don Quixote, Gustav Flaubert với Bà Bô-va-ry , William Shekespeare với Hamlet, Vua Lia, Marcel Proust với Đi tìm thời gian đã mất, Fedor Dostoiesky với Tội ác và trừng phạt, Gabriel Garcia Márquez với Trăm năm cô đơn v.v...
          Tất  nhiên là thế, bởi những cái tên đó đều thật đích đáng, song tôi chỉ ngạc nhiên, sao lại thiếu vắng cái tên Tào Tuyết Cần với Hồng Lâu Mộng ? Theo tôi, nó không những xứng đáng, thậm chí còn được xếp trên tất thảy những tác phẩm đã  được kể tên kia.
Vâng, một câu hỏi có tính nghi ngờ độ chuẩn xác và cả công tâm trong việc bình chọn kia. Phải chăng, cái hội đồng hàng mấy trăm con người, mà toàn những người thông thái nọ, lại có quá ít thuộc châu Á nên số phiếu đã không đủ để đưa Hồng Lâu Mộng vào danh sách ấy ? Hoặc giả, tiêu chí bình chọn không phù hợp để người ta bỏ phiếu cho nó ? Hoặc nữa, nó chưa được chuyển ngữ sang tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha ? Nhân chuyện này, tôi lại nghĩ đến một việc khác còn lớn hơn, đó là sự lo ngại của dân Trung Hoa khi quá ít người biết sử dụng internet để làm cái việc bỏ phiếu cho Vạn Lý Trường Thành của họ lọt vào danh sách 7 kỳ quan  thế giới mới do một tổ chức đứng ra bình chọn, trong khi bình thường ra chỉ cần nhắc đến tên thôi ta cũng thấy nó quá xứng đáng rồi. May rồi chuyện cũng qua, khi mà Vạn Lý Trường Thành đã có tên trong số 7 kỳ quan thế giới mới được bình chọn. Nhưng , Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần lại không, trong khi nó thực sự là một "Vạn Lý trường thành" của  thế giới văn chương đông tây cổ kim.
          Với cá nhân tôi, nếu ai đó hỏi rằng thích tác phẩm văn học nào nhất, tôi không ngần ngại mà trả lời : Hồng Lâu Mộng.
          Tôi thích viết tên tác phẩm này với mọi chữ cái đều viết hoa. Viết hoa theo cách tu từ. Nghĩa là nó xứng đáng để viết hoa, như khi người ta muốn nhấn đến Con Người với phẩm chất cao đẹp nhất trong thế giới muôn loài !
          Không phải ngẫu nhiên mà Trung Quốc có cả một hội mang tên Hồng học (hội của những người yêu thích và nghiên cứu Hồng Lâu Mộng). Chúng ta đều biết, Trung Hoa có lịch sử văn tự đến mấy ngàn năm, với biết bao tác phẩm nổi tiếng gồm triết học, sử ký, địa dư, bách khoa thư và văn học..., song chỉ có mỗi một “Hồng học”, bao gồm hàng vạn những con nhang đệ tử của Hồng Lâu Mộng, mà không riêng ở trong biên giới Trung Quốc, còn ở nước ngoài. Đấy là chưa kể đến hàng triệu độc giả say mê Hồng Lâu Mộng ở khắp thế giới. Như thế đủ biết Hồng Lâu Mộng nổi tiếng và hấp dẫn, kỳ thú đến độ nào. Trong tứ đại kỳ thư của nền văn học Trung Hoa, Hồng Lâu Mộng không có sự kỳ vĩ hoành tráng của Tam Quốc diễn nghĩa, không có sự mãnh liệt đến sảng khoái và bi tráng của Thuỷ Hử, và cũng không có chất phiêu dạt ly kỳ của Tây Du Ký, song bù lại, nó có sự tinh tế, mơn trớn đến ảo diệu và mộng mị hút hồn người. Không những vậy, Hồng Lâu Mộng còn đánh dấu sự ra đời của một nền tiểu thuyết Trung Hoa đích thực xét về tính thể loại văn học.
          Quả đúng với mệnh danh, đấy là “giấc mộng lầu hồng” của con người, mà không ai không thấy và không muốn. Ở đây, tôi không bàn, nếu không muốn nói là loại trừ việc hiểu hai từ hồng lâu là để nhằm đến loại gái lầu hồng  (ám chỉ kỹ nữ). Giấc mộng lầu hồng, mà cũng là tất thảy những gì được Tào Tuyết Cần tả trong bộ sách của mình là cuộc sống cực kỳ vương giả, xa hoa nơi lầu son gác tía của thế gia quyền quý. Cuộc sống của các chàng công tử và những tiểu thư khuê các trong Đại Quan Viên của đại gia đình họ Giả đất Kim Lăng dù có đạt đến đỉnh điểm vinh hoa phú quý, cũng sẽ trở thành bình thường nếu như tác giả không lồng vào đấy những triết lý, mà thực ra chính là bản chất vốn có của cuộc sống đời người. Những mối quan hệ chân-giả, phúc-họa, tĩnh -động, thực-ảo... đan xen khôn lường, lẩn vào mỗi tính cách và số phận hàng mấy trăm con người, cho ta thấy mọi phương diện, ngóc ngách của cuộc sống từng cá nhân đến gia đình, cộng đồng, xã hội, quan trường, triều chính... Tầm triết lý sâu sắc và ảo diệu của bộ sách còn ở tên chính nó là Thạch đầu ký. Hòn đá trên đỉnh núi Thanh Ngạch có linh tính bới mấy ngàn năm lắng khí thiên nhiên, vì nghe lén chuyện đời mà nảy sinh thèm muốn được hưởng phúc phận nơi trần thế với đủ các cung bậc ái, ố, hỉ, nộ... Phiêu lãng cao siêu lắm thay mà cũng chân thực đến tận cùng .
          Cứ thế, cuộc sống như dòng Trường Giang, đoạn thẳng khúc quanh, nơi dốc nơi bình, khi cuồn cuộn hung dữ lúc hiền hòa sâu lắng, mùa đục mùa trong, chảy hoài ra biển Đông- sóng vui dập hết anh hùng. Tưởng chừng, cuộc sống chốn vinh hoa phú quý tột bậc ấy, ngày đêm, tháng năm chỉ biết có yến tiệc cùng phong hoa tuyết nguyệt sẽ êm đềm, vô lo vô nghĩ, song thực ra lại là nơi ẩn giấu của những yêu thương-thù hận, vui vẻ-sầu não, ngây thơ-mưu mô, chân thành-lừa lọc gian manh, mưu cầu thành-bại...tất thảy chồng chất lên nhau và lặn sâu vào trong, tạo thành những lớp lang, thường ra nào thấy được ... Đấy, chính những lớp lang ấy làm nên đặc sắc ảo diệu cho Hồng Lâu Mộng. Người đọc, mỗi bận mỗi hay, mỗi lần mỗi khám phá, càng đọc càng mê mẩn và không khỏi ngạc nhiên vì những vỉa tầng ý nghĩa trầm lắng dần phát lộ!...
          Về mỹ cảm đã vậy. Hơn nữa, về sự thâm trầm sâu lắng, như trầm tích, như vật chất quý báu  là những tư tưởng Nho, Phật, Lão hòa quyện, ẩn chứa. Ấy là nền tảng tư tưởng của xã hội Trung Hoa mấy ngàn năm, nó chi phối tư tưởng xã hội nhiều nước phương Đông và khiến phương Tây hết sức nể trọng, thích thú khám phá. Hồng Lâu Mộng còn là tiếng chuông thức tỉnh tâm cam con người trong sự mê muội chìm đắm phù hoa, đồng thời mang tính dự báo, chế độ phong kiến mấy ngàn năm của Trung Hoa bắt đầu suy tàn, dần đi đến sự cáo chung,...
          Từ thuở học trò cho đến bây giờ, tôi đã đọc đi đọc lại Hồng Lâu Mộng chẳng rõ bao nhiêu lần rồi. Mỗi khi đọc xong dòng cuối, buông sách xuống, tôi lại như người mất cảm giác. Hình như đó là trạng thái của người ý thức được sự mất phương hướng của mình chăng ?!...
          Tôi đã hơn một lần lưỡng lự khi cầm trên tay cuốn Hậu Hồng Lâu Mộng do Lưu Trợ Thủ hiệu điểm. Đọc hay không ? Tôi sợ sự thất vọng như khi đọc Hậu Tam Quốc, Hậu Thủy Hử...Song dẫu sao, với truyện Tam Quốc hoặc Thủy Hử thì phần nhiều là lịch sử, là chiến tranh, là sự kiện, nên ít nhiều có chất hấp dẫn riêng của nó. Vậy mà còn thế, nữa là chuyện nhàn tản phong hoa tuyết nguyệt, nếu không khéo sẽ nhạt thếch và tẻ ngoét.
          Biết là thế, nhưng rồi sự cuốn hút từ Hồng Lâu Mộng bắt tôi phải đọc cuốn Hậu . Đọc rồi sinh ngẩn ngơ. Không phải ngẩn ngơ vì sự tiếp nối thành công của câu chuyện mà lại chính từ sự non kém của tác phẩm. Một kiệt tác thì không cần chi thêm nếm. Hồng Lâu Mộng đã làm trọn sứ mệnh của mình là xây nên giấc mộng lầu hồng cho con người. Tự mình mộng giấc mộng của riêng mình triền miên ngàn năm, nhiều ngàn năm. Và bất kỳ lúc nào, hễ ai dây vào rồi thì ngẩn ngơ cả đời với nó !... Thế thì Hậu, có hay không cũng vậy thôi. Hay, hay không hay, đó là một câu chuyện khác. Tôi đã xem Hậu Hồng Lâu Mộng với ý nghĩ như thế.
          Trở lại với Hồng Lâu Mộng, một kiệt tác trong Tứ đại kỳ thư của Trung Hoa tự cổ chí kim. Có chuyện cho rằng, Tào Tuyết Cần viết phần lớn bộ sách, phần sau là do Cao Ngạc viết. Cho dù thế đi chăng nữa, về cơ bản, bộ sách vẫn là một chỉnh thể khá nhất quán, mà người đời khó tìm ra dấu vết của sự lắp ghép, tiếp nối. Sự hòa quyện nhuần nhuyễn về mạch chuyện, hơi văn, tính cách nhân vật, tình tiết từng câu chuyện và sự biến hóa mỗi tuyến chuyện của bộ sách, đã làm nên một lâu đài văn chương. Có ý kiến, phần đầu do Tào Tuyết Cần, văn đẹp mộng mị và chữ nghĩa nuột nà hơn, phần chấp bút của Cao Ngạc thì văn hiện dại và tốc độ hơn, mà kết cục số phận các nhân vật cũng gia tăng ý nghĩa thức tỉnh và tính hiện thực cho tác phẩm,...?. Ngẫm ra thấy cũng có lý.
Tác phẩm điện ảnh ăn theo tuy khó theo kịp nguyên tác, song cũng đã thành công vang dội khắp thế giới, bởi nó đã hỗ trợ và vun đắp cho lâu đài Hồng Lâu Mộng thêm lung linh huyền diệu. Sự thành công ấy của bộ phim Hồng Lâu Mộng, bản dựng năm 1987, không những đem vinh quang đến cho đạo diễn mà cả cho các diễn viên chính như Âu Dương Phấn Cường (vai Giả bảo Ngọc), Trần Hiểu Húc (vai Lâm Đại Ngọc), Đặng Tiệp (vai Vương Hy Phượng) v.v... Niềm vinh quang ấy kéo dài cho đến 20 năm sau, khiến các nhà làm phim trẻ tiếp tục nuôi tham vọng dựng Hồng Lâu Mộng bản mới hoành tráng hơn, và hy vọng sẽ thành công không kém bản dựng trước. Người ta sẵn sàng chi hàng chục triệu USD để làm Đại quan viên 2 cũng ở ngay Bắc Kinh để làm phim trường. Thế nhưng, khó khăn lại ở việc lựa chọn diễn viên, rồi đó là cảnh quay và diễn xuất ra sao để mang đến sắc thái mới và không làm “mất hồn vía” của bộ tiểu thuyết này...? Lại càng thấy rõ tầm vóc của Hồng Lâu Mộng lớn đến mức nào !...
          Lại nữa, có chuyện rằng Tào Tuyết Cần viết Hồng Lâu Mộng như viết tự truyện. Gia sản nhà họ Tào thời cha ông là Tào Luyện Đình trở về trước vốn giàu sang quyền quý, qua niên hiệu Khang Hy đến niên hiệu Ung Chính nhà Thanh thì bị tội ( án văn tự ?) mà mất hết gia sản, tan tác cửa nhà, nên Tào Tuyết Cần viết Hồng Lâu Mộng như trút một hơi thở dài đầy những luyến tiếc...
          Cũng có chuyện khác, sách Tùy Viên thi thoại của Viên Mai , một nhà thơ, nhà nghiên cứu và phê bình văn học xuất sắc của Trung Hoa đời Thanh, trong một thiên sách của mình, ông có nói đến Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần. Viên Mai cho rằng, Đại Quan Viên trong bộ Hồng Lâu Mộng thực ra là mô tả  theo Tùy Viên (vườn nhà họ Tùy) nơi cư ngụ của gia đình Viên Mai. Sách này còn dẫn chuyện, rằng Tào Tuyết Cần có lần đến chơi Tùy Viên, thấy có cô gái hồng lâu (gái lầu hồng) tuyệt đẹp, đã cảm động mà tặng bài thơ, đó là : " Bệnh dung tiều tuỵ thắng đào hoa/ Ngọ hạn triều hồi nguyệt chuyển gia/ Do khủng ý trung nhân khán xuất/ Cưỡng ngôn kim nhật hiệu sai ta " (được dịch  là : Dung nhan tiều tụy quá hoa đào/ Trưa sốt quay về nóng trở cao/ Còn sợ người yêu nhìn thấy rõ/ Gượng rằng nay đã bớt phần nào). Thực hư ra sao, chẳng cần truy nguyên mà làm gì. Chỉ rõ thêm một điều, tâm ý thương hoa tiếc ngọc, nâng niu trân trọng đàn bà con gái, bất kể thân phận cao sang hay bình dân, con ở, kỹ nữ của chàng Giả Bảo Ngọc trong sách kia đích thị của Tào Tuyết Cần.
          Riêng chỉ ngần ấy thôi, cũng khiến người đời phải ngẩn ngơ rồi ! ?...
 
          2.
          Buộc người đời sau khi đọc phải ngẩn ngơ vì luyến tiếc giấc mộng lầu hồng ngắn ngủi giữa dòng đời dằng dặc những truân chuyên, buồn tủi,... đó là cái tài của tác giả Hồng Lâu Mộng. Tài là thế, song cái tài ấy cụ thể là những gì?
          Là trường thiên tiểu thuyết, với hàng ngàn nhân vật lớn nhỏ, nên việc “bài binh bố trận” sao đây, khi mà người ta chơi cờ có mấy chục quân thôi đã khó?
          Nửa thế kỷ đọc Hồng Lâu Mộng và không ngừng nghĩ ngợi về nó, cho đến nay, tôi mới vỡ lẽ ra cái tài của Tào Tuyết Cần mà trước đây chỉ cảm nhận không nói ra được, ấy là cách tạo dựng không gian truyện và nghệ thuật khắc họa hình hài,  tính cách nhân vật.
          Thực tình, từ mấy trăm năm trước, khi loài người chưa biết Điện ảnh là gì thì Tào Tuyết Cần đã biết dùng các thủ pháp nghệ thuật  Điện ảnh để sáng tạo nên Hồng Lâu Mộng. Đọc tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng, có thể nhận biết, tác giả đã sử dụng các thủ pháp hình ảnh Toàn, Trung, Cận và nghệ thuật chồng mờ, những đặc trưng cơ bản của điện ảnh.
          Trong một không gian không quá rộng, chủ yếu ở hai phủ Ninh, Vinh với bà chủ quyền uy là Giả mẫu, rồi không gian được khoanh về mỗi phủ với các không gian nhỏ hơn là gia đình riêng trong quan hệ máu mủ ruột rà, họ hàng hang hốc và hẹp nữa là qui thành không gian riêng biệt mỗi cô cậu chủ đơn thân trong Đại Quan Viên, từ không gian chật hẹp nhất ấy lại tiếp tục mở ra, phân nhánh chia rễ sang đám người hầu con ở,... Dây mơ rễ má, rắc rối là thế, với hàng trăm nhân vật, hàng ngàn mối quan hệ thì giải quyết sao đây? Tài tình thay, tác giả (Tào Tuyết Cần và sau đó Cao Ngạc) đã biết cách sử dụng phương pháp chồng mờ về tổng thể (nghệ thuật điện ảnh, những hình ảnh thay thế nhau liên tiếp theo trình tự mờ-đậm-mờ), nghĩa là đem các không gian to nhỏ, rộng hẹp ấy chồng liên tiếp lên nhau, để kể chuyện, rồi tùy từng hoàn cảnh cụ thể  mà dụng cảnh toàn, trung, cận. sao cho phù hợp. Với thủ pháp này, người đọc nhận biết được sự việc, hiện tượng, hình ảnh, tính cách nhân vật ,... theo logic câu chuyện và trí tưởng tượng của mình, mà không bị rối.
Có thể, so sánh không gian truyện giữa Hồng Lâu Mộng & Chiến tranh và hòa bình để thêm rõ nghệ thuật không gian chồng mờ.
Cùng dạng trường thiên tiểu thuyết, với nhiều nhân vật, ở tác phẩm Chiến tranh và hòa bình của L.Tolstoi, không gian truyện trải rộng bao la, tản mạn, tuy chung quy về mấy gia đình quý tộc, nhưng không gian  khá riêng biệt, mối quan hệ với nhau thông qua những nhân vật đại diện, chứ không chằng chịt, chật hẹp và chồng lấn như ở Hồng Lâu Mộng. Thêm nữa, mối quan hệ họ tộc, gia đình ở xã hội Phương Tây mang tính độc lập tương đối, khác với xã hội và họ tộc phương Đông vấn vít, nương tựa, dựa dẫm vào nhau. Thế nên, việc khắc họa nhân vật đậm nét, nổi bật trong mớ bòng bong quan hệ ở Hồng Lâu Mộng thực khó. Điều này càng cho thấy cái tài của tác giả Tào Tuyết Cần.
Nghệ thuật không gian truyện về tổng thể là vậy, nhưng chuyện kể sẽ nhạt nhẽo, vô bổ nếu như tác giả không giỏi việc khắc họa cảnh vật, con người, tình tiết chuyện...
          Ở đây, mỗi nhân vật chính (hay phụ) lại được khắc họa theo trình tự cấu trúc: trước hết là vị trí và vai trò của nhân vật, rồi theo đó là hình dáng dung nhan, tính cách con người, quang cảnh nơi ở, quan hệ với họ hàng-bè bạn-kẻ hầu người hạ... Cứ theo cái trục đó mà đan cài, khâu nối hay bóc tách mà ra  hết,... Thật tài tình lắm thay,... Cứ xem các nhân vật chính như Giả mẫu, Vương Hy Phượng, Giả Bảo Ngọc, Lâm Đại Ngọc, Tiết Bảo Thoa, Sử Tương Vân, Lý Hoàn, Nghênh Xuân, Tích Xuân, Thám Xuân... mỗi người mỗi vẻ hay. Các nhân vật phụ: gia đình, họ hàng, quan hệ dây mơ rễ má (như Giả Chính, Giả Xá, Vương phu nhân, Hình phu nhân, Dì Triệu, Nguyên Xuân, Giả Trân, Giả Liễn, Giả Hoàn, Giả Dung, Tần Khả Khanh, Tiết Bảo Cầm, Giả Thụy, Tiết Bàn, Tần Chung, Ba chị em Vưu thị ...); những a hoàn, người hầu (như Bình Nhi, Uyên Ương, Kim Xuyến, Tập Nhân, Tình Văn, Tử Quyên, Xạ Nguyệt, Dính Yên....); đám người ngoài có quan hệ bạn bè quen biết  (như Già Lưu, Ni cô Diệu Ngọc, Hương Lăng, Hình Tụ Yên, Tưởng Ngọc Hàm, Liễu Tương Liên, Hạ Kim Quế, ạ Kim QUế, Cô Đa,...) cứ thấp thoáng đâu đó song rất sắc nét, đầy cá tính... có thân phận rõ ràng, và mỗi kết cục của nhân vật đều khiến người ta phải cảm thông, day dứt, thương cảm, suy nghĩ mãi không thôi !...
          Với đặc trưng đậm chất điện ảnh như vậy, nên khi dựng thành phim, đạo diễn Vương Phù Lâm và các nhà làm phim rất thuận lợi khi chuyển thể Hồng Lâu Mộng thành phim truyền hình (Bản dựng năm 1987). Điều này phần nào lý giải, vì sao đây là một trong số ít tác phẩm văn học chuyển thể điện ảnh thành công nhất trên quy mô thế giới. Từ quang cảnh, phục trang, chọn diễn viên, diễn xuất, hội thoại, âm nhạc đều tuyệt vời... đến mức độ, ngỡ như cụ Tào Tuyết Cần sống lại trực tiếp tham gia đạo diễn với Vương Phù Lâm vậy. Thiết nghĩ, điều ấy chỉ có thể là đạo diễn tài ba Vương Phù Lâm đã đọc ra và tận dụng hiệu quả nhất tố chất điện ảnh có sẵn trong tác phẩm văn học này mà thôi. Nhờ sự thành công vang dội của bộ phim mà điện ảnh Hoa đán trình diện hàng loạt gương mặt diễn viên trẻ có tài, cùng với Đặng Tiệp (vai Phượng Thư), Âu Dương Phấn Cường (vai Giả Bảo Ngọc), Trần Hiểu Húc (vai Lâm Đại Ngọc), là Trương Lợi (vai Tiết Bảo Thoa), Quách Tiêu Trân (vai Sử Tương Vân), Đông Phương Văn Anh (vai Giả Thám Xuân), An Văn (vai Tình Văn) v.v...
          Một đặc sắc nữa của Hồng Lâu Mộng mà hiếm có tác phẩm Đông Tây Kim Cổ nào có dược, ấy là Thơ.
          Thơ ngâm vịnh, trêu ghẹo, đùa rỡn hay tự thán của các nhân vật trong Ninh-Vinh phủ, Đại Quan Viên (Lý Hoàn, Bảo Ngọc, Đại Ngọc, Bảo Thoa, Tương Vân, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân, Ni cô Diệu Ngọc, Bảo Cầm...), hay cả đám a hoàn (Tình Văn, Tập Nhân, Xạ Nguyệt, Tử Quên...), đều hay, hợp cảnh hợp tình,... có những bai thuộc hàng xuất sắc.
Ví như: Đại Ngọc chôn hoa, tự thán: “Giờ hoa rụng có ta chôn cất/ Chôn thân ta chưa biết bao giờ/ Chôn hoa người bảo ngẩn ngơ/ Sau này ta chết ai là người chôn?”; Rồi cũng Lam Đại Ngọc: “Chiều hôm quyên lặng tiếng rồi/ Vác mai về đóng cửa ngoài buồn tênh/ Ngả người trước ngọn đèn xanh/ Ngoài song mưa tạt bên mình chăn đơn” (Táng hoa từ); và  “Ngoài rèm hoa vẫn nở đầy/ Mà trong rèm lại người gày hơn hoa” (Đào hoa hành);... Hay đâu: “Tỉnh giấc nỗi niềm ai đã tỏ/ Cỏ khô khói lạnh ngổn ngang lòng” (Cúc mộng)...
Hay như Sử Tương Vân với bài thơ Đối cúc :”... Sổ khứ cánh vô quân ngạo thế/ Khán lại duy hữu ngã tri âm/ Thu quang nhẫm nhiễm hưu cô phụ/ Tương đối nguyên nghi tích thốn âm”. (nghĩa: ở đời mấy ai xa được thói thô tục/ may thì có nổi một kẻ tri âm/ bóng thu loáng vụt trôi đi mất/ khi ấy ngẩn ngơ mà tiếc lòng)...
Hây đâu, Nam Kha từ của Giả Bảo Ngọc :”Rơi xuống chàng đừng tiếc/ Bay về thiếp biết thôi/ Tiết muộn màng ong bướm bùi ngùi/ Sang xuân dù gặp, cách một năm rồi
Hay như, đêm Trung thu thưởng nguyệt ở Ao Tinh quán, trăng sáng rỡ khi sen dần tàn, Lâm Đại Ngọc và Sử Tương Vân riêng ngẫm thân phận mình tức cảnh sinh tình đã thay nhau nối vận mà thốt ra câu thơ hay đến tái tê rợn người :” ... Cò rò bóng hạc bên ghềnh/ Hồn hoa chôn chặt dưới vành trăng trong”.
Không chỉ những cô cậu chủ ở Đại Quan Viên, trong Ninh phủ, Vinh phủ, mà các a hoàn cũng lây cái bệnh  ngẩn mơ thơ phú của chủ mình. Hàng ngày hầu hạ các cô cậu chủ, khi tiệc tùng, lễ lạt, khi gặp hội uống rượu đề thơ, đố thơ, đám a hoàn hóng chuyện, hoặc bị lôi vào cuộc vui... và những lúc an ủi, chia sẻ nỗi ưu tư phiền muộn của chủ... lâu thành quen, bị ngấm khi nào chẳng hay, mà sinh mơ tưởng hão huyền (Tập Nhân, Tình Văn, Kim Xuyến, Tử Quyên...).
Dĩ nhiên, thơ vịnh, thơ đối trong Hồng Lâu Mộng đều do Tào Tuyết Cần sáng tác cả, nhưng khi gán cho từng nhân vật lại phải hợp cảnh, hợp tình, hợp tính với mỗi người. Ở đây, tôi không sa đà phân tích sâu phần thơ phú, nhưng có thể thấy, Tào Tuyết Cần tài văn-thơ thật song toàn. Văn tuyệt vời đã đành, còn Thơ thì dẫu chưa đến hạng kinh điển nhưng cũng rất chi là hay. Cái tài của Tào Tuyết Cần là hóa thân vào từng nhân vật, lúc hội đố thơ thì linh hoạt ứng biến, còn khi tâm trạng tự thán ngâm vịnh lại trầm lắng sâu xa phù hợp với cảnh ngộ thân phận từng người,...
Trong Hồng Lâu Mộng, ngâm vịnh, đối thơ vừa là cách để gây không khí choviệc tạo dựng không gian truyện, vừa là phương tiện giao đãi và cũng là sự bày tỏ nỗi niềm tâm can của mỗi nhân vật. Thêm nữa, dưới thời nhà Thanh, văn học Trung Hoa không mạnh về thơ mà phát triển văn xuôi tiểu thuyết. Thế nên, thơ phú trong Hồng Lâu Mộng có thêm vai trò ấy là phần nào phản ánh diện mạo, mặt bằng thơ Trung Hòa thời đó ra sao.  Thật là “nhất cử, đa tiện”. Vì thế, đó cũng là một đặc trưng, góp phần làm nên thành công của tác phẩm này và cùng với những đặc sắc khác, biến Hồng Lâu Mộng thành một kiệt tác, đôn nó lên đầu bảng đông tây kim cổ văn chương thế giới.
Còn với riêng tôi, mỗi lần đọc lại, nghiền ngẫm, đặng thấu hiểu mà thêm lần bóc tách  một gia tầng của tác phẩm để vẻ đẹp tiềm ẩn lộ ra,... Hy vọng là thế !
Thực lòng, mỗi lần như vậy, tôi sa vào cảm thức mất cân bằng, như mộng mị phiêu du trong Đại Quan Viên cùng các nhân vật, mà tôi không biết gọi cảm thức ấy là gì ?!... ./.
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 05.08.2023 10:54:42 bởi tamvanvov >

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( I ) - 21.08.2023 16:58:07
Yasunari Kawabata
CHÚA TỂ CỦA NÚI TUYẾT 
(Tiểu luận của Nguyễn Chu Nhạc)
 
 
          1. Ngôi vị chúa tể.
Người ấy là Yasunari Kawabata, nhà văn hiện đại của xứ sở Mặt trời và hoa anh đào, người đầu tiên của Nhật Bản được trao giải Nobel văn chương vào năm 1968. Nói đến ông, dân hâm mộ văn chương đều biết đấy là tác giả của bộ ba tiểu thuyết nổi tiếng làm nên tên tuổi ông trên văn đàn thế giới : Xứ Tuyết- Ngàn cánh hạc- Tiếng rền của núi. Cùng với đó, còn kể đến  Cố đô, Người đẹp say ngủ, Hồ, Đẹp và buồn, Vũ nữ It-zu và biết bao nhiêu truyện vừa, truyện ngắn xuất sắc nữa ...
          Nói đến văn học hiện đại Nhật Bản, với riêng tôi và tin rằng còn bao người khác nữa, Y. Kawabata giữ ngôi vị chúa tể. Sau ông, người ta nhắc tên Kenzaburo Ôe, người Nhật thứ hai giành Nobel văn chương, và mới đây là Haruki Murakami , người được tiên đoán sẽ giành Nobel văn chương trong tương lai, song dẫu thế thì họ cũng khó có thể lật được ngôi vị chúa tể của Y. Kawabata.
          Riêng với tôi, chính Y. Kawabata cùng với những tác phẩm của mình là diện mạo văn chương, và cao hơn là văn hóa Nhật Bản. Shõ-gun tướng quân của tác giả James Clavell, một tác phẩm văn học sử, ít nhiều đã đưa đến mọi người hình ảnh một nước Nhật phong kiến xưa cũ, ở đó bản sắc văn hóa của đất nước mặt trời mọc hiện lên khá phong phú. Tuy nhiên, phải chờ đến  Kawabata, tinh thần và văn hóa Nhật mới được khắc họa đậm nét, được tôn lên hàng đầu.
          Bấy lâu nay, nói đến Nhật Bản, người ta tóm gọn trong mấy cụm từ như sau : Hoa anh đào- Núi Phú Sĩ- Động đất.- Samurai (Võ sĩ đạo)- Trà đạo- Kịch Noh- Thơ Haiku- Trang phục Kimônô- Vật Su-mô- Rượu Sa-kê- Geisha. Theo tôi, nối dài thêm một gạch nữa - Y. Kawabata.
          Như vậy, Y. Kawabata là một đặc sắc của Nhật Bản rồi. Song tại sao lại thế? Đơn giản, bởi Y. Kawabata khiến cả thế giới biết đến văn chương- văn hóa Nhật Bản, không chỉ thông qua các tác phẩm văn chương , mà qua cả chính cuộc sống và cái chết của mình. Tự thân, ông chỉ là một gạch nối, song ông đã chứa đựng trong cuộc sống mình những tố chất của nền văn hóa Nhật Bản và đồng hóa nên các tác phẩm, mà bạn đọc khắp thế giới đều có thể tìm thấy từ đấy nhứng gạch nối kia (hoa anh đào, động đất, núi Phú sĩ, trà đạo, kịch Noh, Geisha...). Câu chuyện về ông, xin bắt đầu từ kết cục là cái chết theo tinh thần Samurai, chỉ không lâu sau khi ông giành Nobel văn chương, vào đầu năm 1972 ...
          Mùa thu năm 2005, tôi sang Tokyo. Chỉ nửa ngày, tôi đã biết thế nào là động đất, khi chiếc giường tôi nằm trong căn phòng tầng 7 ngay trung tâm thành phố, rung nhẹ liền mấy đợt, và khi tôi hiểu ra thì động đất đã chấm dứt. Đúng một ngày sau, truyền hình Nhật Bản liên tục đưa tin hình ảnh Thủ tướng Nhật (khi đó là  ngài Koizomi) đi viếng ngôi đền Yosukoni, cùng những phản ứng của những quốc gia láng giềng. Sở dĩ người ta phản đối là vì trong ngôi đền ấy, không chỉ thờ các vị anh hùng, liệt sĩ từ nhiều đời đã hy sinh, tận tụy vì sự tồn vong và phát triển của đất nước Mặt trời mọc, mà còn có cả mấy chục vị tướng cùng vị thủ tướng Nhật Bản bị quy là tội phạm chiến tranh khi đã cùng quân đội của mình xâm chiếm và tàn sát nhân loại ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2. Tôi đã tự hỏi và đến nay chưa có lời giải đáp, rằng liệu ở đó, có tên của Y.Kawabata không? Hoặc giả ở nước Nhật, có nơi nào thờ các bậc danh nhân tư tưởng văn hóa để lưu tên tuổi của những vị như ông không, kiểu như điện Panthéon ở Paris (Pháp) quàn các danh hào ?
          Trở lại với mùa thu Tokyo năm 2005. Tôi đã được chiêm ngưỡng những cây phong dần ngả vàng, những hàng tơ liễu buông thướt tha dọc hè phố, và tôi nhớ đến Y. Kawabata. Tôi đã đến thăm đền thờ Minh Trị Thiên hoàng xem đám rước tế, chơi ngắm triển lãm cúc hoa-một biểu hiện nhỏ của bon-sai Nhật, rồi lần giở từng chiếc thẻ cầu may của đám học trò trước mùa thi treo đầy dẫy ở đó, và sờ tay lên các vết xước lõm do những đồng chinh của người dân ném cầu phúc lộc thọ năm mới trên những cánh cửa gỗ cửa đền, tôi nhớ đến Y. Kawabata. Tôi đã thẩn thơ dạo gót trong công viên hành chính Hibiya, lặng quan sát những họa sĩ cắm cúi trên giá vẽ và những người già ngả lưng mơ ngủ trên ghế đá, rồi quá bộ đi dạo ngang qua Lầu công chúa, qua rừng thông đến tận cổng Hoàng cung để chiêm ngưỡng vẻ cổ kính thâm nghiêm của cổng thành với cặp lính gác đứng im như tượng, tôi nhớ đến Y. Kawabata. Tôi đã bỏ thời gian chui rúc hòa vào dòng người nhung nhúc tuôn chảy theo 13 tuyến metro chằng chịt ngang dọc trong lòng đất sâu, rồi cũng bỏ thời gian theo dõi bầy chim quạ chao liệng lúc chí chéo lúc não nề trên những ngọn cây cao, tôi nhớ đến Kawabata. Tôi đã dán mắt vào màn hình ti vi xem trọn màn kịch Noh dài lê thê mấy giờ đồng hồ buổi đêm, cũng như lang thang cùng đồng nghiệp ken vai chen chúc  nơi dốc phố có cửa hàng đồ lưu niệm Một trăm yên, nơi cách đấy vài trăm thước là quảng trường tụ hội của các cặp đồng tính trong trang phục kỳ quái đua nhau phô diễn, tôi nhớ đến Y. Kawabata.Tôi đã được lên sân thượng của tòa nhà thị chính thành phố cao 45 tầng, để từ đó chụp ảnh và thoải mái phóng tầm mắt bao quát bốn phương tám hướng cái thủ đô hiện đại cỡ bậc nhất thế giới với chiều dài trải gần trăm cây số và chứa mười mấy triệu dân này, tôi nhớ đến  Kawabata... Cho đến khi chiếc Boeing của Vietnam Airlines từ sân bay quốc tế Narita cất mình bay bổng lên bầu trời rồi liệng nửa vòng trên vịnh Tokyo, nghiêng cánh chào rồi bay theo hướng tây nam, đưa du khách trở về với món mì lạnh kiểu Nhật trong bữa ăn trên máy bay, tôi nhớ về Kawabata. Tại sao lại thế, khi ông nhà văn này cứ như hình với bóng bám theo tôi từng bước chân, ám ảnh tôi trong mọi suy nghĩ? Đơn giản là với tôi, Y. Kawabata chính là vẻ đẹp Nhật Bản, là tinh thần Nhật Bản, là văn hóa Nhật Bản, là sự hiển hiện của cả nước Nhật. Vâng, chỉ là một thôi mà cũng là tất cả!
          Tôi nhớ, trong buổi làm việc báo cáo kết quả chuyến đi và cũng là buổi làm việc chia tay với Ban lãnh đạo của Trung tâm y tế quốc tế Nhật Bản, trong ý kiến của mình, tôi dành phần nhiều để nói về đất nước và con người Nhật Bản thông qua những biểu hiện về văn hóa. Tôi nhắc đến tác phẩm Vô ảnh đăng của nhà văn Wantanabe viết về giới y học Nhật Bản, chỉ là mượn cớ để bắc cầu sang  Y. Kawabata. Tôi đã thao thao không rõ bao lâu về văn hóa Nhật được thể hiện trong các tác phẩm nổi tiếng của nhà văn này làm cô phiên dịch tài giỏi cũng hết sức khó khăn trong việc tìm từ chuyển ngữ sang tiếng Anh, đến mức làm các vị tiến sĩ y khoa bạn phải ngạc nhiên không hiểu sao cái ông nhà báo Việt này lại biết lắm thứ về văn hóa Nhật đến vậy. Có lẽ, khi ấy, sự dồn tụ về Y. Kawabata chứa chất trong tôi bao lâu không được giải tỏa, nên đến khi gặp dịp tôi đã tuôn ra trong sự kích động khó kìm nén, khiến mình có gì đó bất nhã bởi đáng lý phải nói về chuyện y học bệnh tật thì lại đi khen một ông nhà văn. Tôi còn nhớ, trong những phút giây như nhập đồng đó, tôi vẫn còn đủ tỉnh táo, lo phía bạn khó chịu vì sự lac đề của mình, nên đã viện diễn rằng, chính người cha thân sinh của Kawabata cũng là một bác sĩ. Sau này tôi rẩm riu, chắc là các vị trong giới y học Nhật Bản cũng không nỡ chê trách khi phải nghe một ông khách nói như phát cuồng về tinh thần, về vẻ đẹp, về văn hóa nước họ, cùng những lới khen ngợi dành cho một nhà văn của họ, người đầu tiên đã mang về cho đất nước họ niềm vinh hạnh, Nobel văn chương.
          Chắc chắn là các vị tiến sĩ y khoa người Nhật hôm ấy không tài nào biết được tôi đã từng đọc ngấu nghiến, rồi nghiễn ngẫm bộ ba kiệt tác của Y. Kawabata là Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Tiếng rền của núi, cùng truyện Vũ nữ It-zu, Người đẹp say ngủ , Cố đô, Đẹp và buồn,...đó là những tác phẩm của ông sớm nhất được dịch ra tiếng Việt, và dạo ấy do đời sống xã hội khó khăn nên hầu hết ấn phẩm in bằng loại giấy xấu màu xám đen, xù xì và nét chữ không mấy rõ. Họ cũng không thể biết được là, đúng vào lúc tôi có dịp dạo chơi trên đất nước quê hương của Y. Kawabata để nhìn ngắm mà chiêm nghiệm về những gì nhà văn này đã viết từ nửa đầu thế kỷ trước, và thao thao nói về Y. Kawabata, thì ở Việt Nam, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây đang chuẩn bị cho ra đời Tuyển tập tác phẩm Y. Kawabata, dày hơn nghìn trang in trên giấy loại tốt trong kế hoạch Tủ sách Nobel văn học.
          Sau nữa, khi có điều kiện đọc thêm nhiều tác phẩm khác của Kawabata, nhất là Diễn từ Nobel của ông, kể cả bài giới thiệu giải Nobel văn chương năm 1968 của Tiến sĩ Anders-Sterling thuộc Viện hàn lâm Thụy Điển, tôi thấy những cảm nhận của mình về con người và giá trị văn chương của ông không mấy khác xa. Y. Kawabata được trao Nobel văn chương bởi những lý do, như : "Người ta đặc biệt ca ngợi Kawabata như một người thấu hiểu một cách tinh tế tâm lý phụ nữ." ; "Tác phẩm của Kawabata làm ta nhớ tới hội họa Nhật Bản; ông là kẻ tôn thờ cái đẹp mong manh và ngôn ngữ hình ảnh u buồn của hiện hữu trong cuộc sống của thiên nhiên và thân phận con người" , và "Kawabata , với tư cách nhà văn, đã phú cho một nhận thức văn hóa đầy tính đạo đức-thẩm mỹ một phẩm chất nghệ thuật độc sáng, vì vậy, bằng cách riêng của mình đóng góp vào việc bắc một nhịp cầu tinh thần giữa phương Đông với phương Tây".
          Ngay chính Y. Kawabata, Diễn từ Nobel của mình đọc tại buổi lễ trao giải cuối năm 1968, ông đã lấy tên "Sinh ra từ vẻ đẹp Nhật Bản", như thế đủ rõ ông tự ý thức về giá trị văn chương của mình thế nào! Tôi dặc biệt thích, ông đã mở đầu diễn từ đó bằng việc viện dẫn bài thơ thiền của vị thiền sư người Nhật Bản là Dogen ở thế kỷ 13, bài thơ có tên là Bản lai diện mục : "Hoa thắm mùa xuân/ Cu gù tiết hạ/ Trăng thu óng ả/ Tuyết đông/ Giá lạnh, tinh khôi".
          Tôi không dám sa đà vào diễn từ của Y.Kawabata, đơn giản bởi tôi sợ mình sẽ không còn đủ sự khôn ngoan tỉnh táo để thoát khỏi mê cung cái đẹp mà ông giăng mắc. Còn bởi từ lâu nay, sau khi đọc những kiệt tác văn chương của ông, tôi bị đắm chìm vào đấy và thường hay mộng mị giữa ban ngày. Những người đàn bà đẹp với đủ thân phận, những xúc cảm tình dục mãnh liệt mà mong manh dễ vỡ, những phong cảnh thiên nhiên đẹp một cách u buồn , những sinh hoạt tôn giáo huyền bí, những phong cách quý tộc vừa trang nhã vừa suy đồi, những phong tục dân gian khác lạ, những bóng hình của nhân vật-tác giả lởn vởn đâu đây... Tất, tất cả vây hãm, luồn lách trong ta, ám ảnh ta !...
          Trong chục ngày ở Nhật Bản, tôi không có thời gian và điều kiện đi đâu xa ngoài thủ đô Tokyo và vùng phụ cận, song do đọc các tác phẩm của Kawabata, nên tôi thấy như mình đã được đi đây đó khắp nước Nhật rồi. Kể từ ngày Y. Kawabata về cõi xưa, nước Nhật đã trải qua hơn ba chục năm, giàu có-đông đúc-hiện đại hơn lên nhiều lắm. Khi thong thả một mình dưới bóng liễu lúc chiều tối, hay khi ngửa mặt ngắm tán phong vàng ở bến xe buýt lúc đợi xe, tôi tự hỏi không biết Y. Kawabata đã từng đi đứng ở chỗ này chưa? Rồi lúc hòa mình vào dòng người trên phố, nơi ga metro, chốn siêu thị đông đúc, tôi thường nhìn thẳng vào gương mặt người đối diện, bất kể đó là đàn ông hay đàn bà, già hay trẻ để xem có chút gì của Kawabata ẩn giấu? Bởi người ta bảo ông là gương mặt của vẻ đẹp, tinh thần và trí tuệ Nhật Bản. Lớp trẻ Nhật Bản ngày nay ham học, ham làm ăn lập nghiệp và cũng chơi tới bến. Tôi tin rất nhiều trong số họ không biết Kawabata là ai. Cũng có rất nhiều người trong số họ biết đến Kawabata và từng đọc tác phẩm của ông, song với họ ông không là tất cả. Không nói đến nhiều giá trị Nhật Bản khác trên trường quốc tế, ngay trong lĩnh vực văn chương thôi, thì Kawabata đã quá xa xôi, gần hơn là Ôê, mà Ôê thì cũng xa rồi, bởi mốt bây giờ là đọc Murakami, là Banana Yoshimoto, là những gỉ gì gì sau nữa...
          Sau này, tôi có dịp tiếp xúc, trò  chuyện với một bạn gái trẻ Nhật Bản, cô Sachiko Asa, đạo diễn chương trình phát thanh Tiếng Việt thuộc Ban Phát thanh & truyền hình Đối ngoại Đài NHK Nhật Bản.Cô có đợt tìm hiểu và học việc tại cơ quan tôi, Đài Tiếng nói Việt Nam. Cô cắt nghĩa cho tôi hiểu cái tên Sachiko, âm Hán Việt là Tảo Tri Tử, tức là đứa trẻ thông minh sớm. Là một nữ nhà báo, tuổi chưa đến 30, Sachiko khá thông minh và hiểu biết. Vì không vướng rào cản ngôn ngữ, tôi giúp cô hiểu biết thêm nhiều về văn hóa phong tục Việt, và ngược lại, cô cũng giúp tôi hiểu thêm văn hóa Nhật Bản. Tôi hỏi cô về Y. Kawabata, cô sáng mắt à lên vui thích. Tuy nhiên, cô cũng không mấy hiểu về Kawabata, ngoài việc biết đó là một nhà văn nổi tiếng đã đem về Nobel văn chương cho tổ quốc song đã mất từ lâu rồi. Tôi nghe mà chạnh buồn. Ôi tinh thần và vẻ đẹp Nhật Bản đâu rồi, khi con người hiện tại đã dần phai mờ về Y. Kawabata, một giá trị đặc sắc của văn hóa Nhật Bản ?
          Tôi lại nhớ về hình ảnh của cặp vợ chồng già ngồi tựa lưng vào nhau mặt ngoảnh đi hai phía trước sân vườn ngôi nhà bên đường ngày ngày tôi ra ga Wakamatsu, những người già ngả lưng trên ghế đá công viên Hibiya và người già dạo chơi rồi ngủ lăn lóc dưới thảm cỏ vườn thông bên Lầu công chúa, hẳn trong ký ức họ có Y. Kawabata? Thế còn cánh nam thanh nữ tú kia, những người hằng ngay tranh thủ lúc ngồi trên metro vun vút trong lòng đất sâu Tokyo hoặc nhoay nhoáy chơi điện tử hoặc cắm phôn nghe nhạc từ điện thoại di động, hoặc ngủ gật vì quá mệt mỏi sau một ngày làm việc cật lực, họ có gì về Y. Kawabata không? Hay chính ông cùng các tác phẩm tuyệt vời của mình đã thuộc về quá khứ, một quá khứ vừa mới đây?
          Người ta bảo Y. Kawabata tự sát vì bế tắc. Vậy xã hội Nhật Bản đầu những năm bảy mươi của thế kỷ trước có biến động gì lớn khiến ông bế tắc? Hay tự nội tâm ông? Chỉ 3 năm sau giật Nobel văn chương, một đỉnh cao chói lọi mà hàng ngàn hàng vạn nhà thơ nhà văn trên khắp trái đất này nằm mơ cùng không thấy, thì điều gì khiến ông chọn kết cục như vậy ?
          Chẳng vì lẽ gì cả. Thực ra, câu kết của Diễn từ Nobel năm 1968, Y. Kawabata đã bộc lộ : "Những câu thơ Bản lai diện mục ca ngợi vẻ đẹp bốn mùa của Dogen chính là Thiền ".
          Thế là đã rõ. Tự chấm dứt sự tồn tại về thể xác, với Y. Kawabata, chỉ là một cách Thiền !...
 
 
2. Tiếng rền của núi tuyết
Cho đến thời điểm này, tôi đã có ba lần đặt chân đến xứ sở Mặt trời mọc, lần đầu vào mùa thu năm 2005. Các lần sau, 2014 và 2017, tình cờ cũng đều vào mùa thu. Tôi đã thấy một nước Nhật đẹp huyền ảo và mông mị trong tấm áo choàng thiên nhiên lá vàng lá đỏ. Tôi cũng thấy tuyết trắng lấp lánh trên đỉnh núi Phú Sĩ dưới bầu trời trong xanh mùa thu... Và tôi lại nghĩ về các tác phẩm của Y. Kawabata, vị chua tể của văn chương Xứ Tuyết,...
Gần đây, tôi đọc thêm một tác phẩm nữa trong số các kiệt tác của ông, tiểu thuyết “Hồ”. Khác với các tác phẩm kia, chuyên săn tìm cái đẹp, ở tác phẩm này, nhân vật chính của ông là một con người bị coi là xấu xí. Song bi kịch là ở chỗ, con người xấu xí ấy lại đam mê cái đẹp, mà cụ thể là vẻ đẹp khác giới-đàn bà. Nhân vật chính của câu chuyện, Momoi Gimpei, một người đàn ông luôn mặc cảm vì sự xấu xí về hình thể và tuổi thơ không mấy tốt đẹp của mình, nên phần sau cuộc đời, gã ta bị mặc cảm chi phối thành vô thức mà bám theo bóng hình đàn bà đẹp bất kỳ cho dù họ chỉ thấp thoáng lướt qua gã trên đường đời. Người ta cho rằng, nhà văn cố tình lựa chọn và tạo dựng một nhân vật đầy khiếm khuyết, đang vùng vẫy tìm lại cái tôi, tìm lại bản tính như những người Nhật bước ra từ chiến tranh. Có thể là vậy, song tôi nhận thấy còn hơn thế, Y. Kawabata còn gửi gắm những thông điệp lớn lao hơn,... Đó là gì vậy?
Tôi thấy ở đây, hình bóng đàn bà đẹp hay là hình bóng của một tinh thần văn hóa Nhật Bản tốt đẹp một thời đang dần bị phôi pha, mai một, bị chen lấn xô đẩy, chèn ép bởi văn hóa ngoại lai? Phải chăng, Y. Kawabata đã sớm nhận thấy và tiên đoán về sự sa sút và xô bồ của tinh thần văn hóa Nhật Bản khi bước vào thời kỳ công nghiệp phát triển và toàn cầu hóa?
Rất có thể, gã trai xấu xí và một quá khứ tuổi thơ không mấy tốt đẹp kia chính là hình ảnh của một nước Nhật ngày nay, dần bị xô bồ và lệch lạc bởi sức ép từ chính sự phát triển quá lố của mình và áp lực từ việc toàn cầu hóa, từ sự ô nhiễm và biến đổi khí hậu, từ dịch bệnh với quy mô toàn cầu,...? Thế nên, sự vô thức (hay ý thưc) đi tìm vẻ đẹp kia, sự tốt đẹp hiện tại còn sót lại đâu đó (và cả vẻ đẹp trong quá khứ) của nhân vật Momoi Gimpei, chính là sự cần thiết, sớm ngộ ra để khôi phục vẻ đẹp tinh thần văn hóa Nhật Bản từng có,...? Đương nhiên, ở vào thời nhà văn sống và sáng tác, thì đây là sự suy luận thiên tài mang tính tiên tri. Vậy theo tôi, đây là một thông điệp cơ bản ẩn chứa của tiểu thuyết này.
Tìm hiểu về văn hóa và tinh thần Nhật Bản, dường như mọi hiện tượng đều được nâng lên một giá trị nào đó và có ý nghĩa biểu tượng khi mà nó chứa đựng chất nhân văn, như một triết lý sống, ngay cả với cái chết. Không giống tinh thần Phật giáo, mọi sự đều bé nhỏ và vô ưu trước Đức Phật, tinh thần Nhật Bản nặng yếu tố Thần Đạo, ít nhiều mang một ý nghĩa nào đó, gần với cuộc đời.
Người dân Nhật Bản có tuổi thọ rất cao. Nhưng khi cuộc sống không còn ý nghĩa và giá trị nào đó, nghĩa là sống chỉ là sự kéo dài thời gian tồn tại trên mặt đất thôi, người ta sẽ tìm cách chấm dứt. Khác với cái chết theo tinh thần võ sĩ đạo (samurai), người già cô đơn ở Nhật Bản đã từng diễn ra khá phổ biến, ấy là cách bỏ lại tất cả, một mình đến xứ tuyết, cứ thế đi sâu vào vùng trắng lạnh mênh mông cho đến khi cạn hơi kiệt sức mà gục ngã vùi mình trong tuyết giá. Một kết cục đẹp và buồn làm sao ?!
Hay đâu, một giá trị từng được nâng lên thành triết lý đầy chất nhân văn, mà Y. Kawabata thuật trong tác phẩm "Người đẹp say ngủ" của mình. Người ta bỏ tiền ra để thuê dịch vụ ngắm (chỉ được ngắm bằng mắt, không có hành vi nhục dục) đàn bà đẹp khỏa thân trong trang thái say ngủ (là loại hình dịch vụ, bị dùng thuốc mê ngủ, không bị cưỡng bức mà là sự thỏa thuận). Đó là một cách hưởng thụ về tính dục cho những ai có nhu cầu, nhưng cũng có thể nhìn nhận đó như một sự cảm thụ cái đẹp theo tinh thần mỹ học....
Những triết lý sông-chết như vậy chỉ có ở Nhật Bản, và cũng chỉ qua cái nhìn đầy mỹ cảm và nhân văn, sâu săc, cùng bút pháp điêu luyện của Y. Kawabata mới trở nên tuyệt vời như vậy!...
Trong xã hội Nhật Bản hiện tại, tức là hơn nửa thế kỷ đã qua so với thời gian Y. Kawabata sống và viết, những cách thức như vậy không còn nữa (hoặc giả vẫn tồn tại cá biệt trên đất nước Nhật?), thì những triết lý ấy vẫn không mất đi, bởi ý nghĩa nhân văn của nó. Chí ít, nó tồn tại trong ký ức của một lớp người, hay trong các tác phẩm tuyệt vời của Y. Kawabata, với sự lan tỏa trên phạm vi toàn cầu...
Sau cùng, không thể không nói đến bút pháp, văn phong của Y. Kawabata. Lựa chọn ông để trao Nobel văn chương năm 1968, Hội đồng giải Nobel đã nhận xét: "... Kawabata , với tư cách nhà văn, đã phú cho một nhận thức văn hóa đầy tính đạo đức-thẩm mỹ một phẩm chất nghệ thuật độc sáng, vì vậy, bằng cách riêng của mình đóng góp vào việc bắc một nhịp cầu tinh thần giữa phương Đông với phương Tây". Dĩ nhiên, không có gì bàn cãi, khi tô đậm mấy đặc điểm chính của văn chương Kawabata, đạo đức-thẩm mỹ-nghệ thuật độc sáng.
Khi đã là một gạch nối, một đặc sắc của văn hóa Nhật Bản, tôi nghĩ, cùng với các đặc điểm cơ bản làm nên giá trị văn chương của Y. Kawabata (đạo đức-thẩm mỹ-nghệ thuật độc sáng) thì chắc chắn còn những giá trị khác nữa từ cội nguồn văn hóa dân tộc xem như chất “phụ gia” để ông hòa quên, nhào nặn thành chất kết dính các giá trị cơ bản kia? Vậy đó là những gì?
Thường là, mỗi nền văn hóa đều chịu ảnh hưởng, nếu không muốn nói lấy tôn giáo, tín ngưỡng gốc làm nền tảng. Với người dân xứ sở Mặt trời mọc, tôn giáo gốc (từ trước Công nguyên) là Thần đạo (Shinto). Truy nguyên, tư tưởng của Thần đạo Nhật Bản khác với những tôn giáo khác ở chỗ không cấm hay buộc con người làm gì, mà chỉ khuyên nên hướng tới sự trong sáng và tránh điều ác. Giết chóc đối với Thần đạo là điều ác và không nên giết sinh vật trừ khi vì sự sống còn của con người, nên trước khi ăn người ta thường phải nói câu Itadakimasu (戴きます) để cảm ơn những sinh linh đã phải chết để trở thành thức ăn, và đến ngày nay điều này đã trở thành một phong tục. Như thế, có thể nhận thấy, tư tưởng Thần đạo Nhật Bản với ý nghĩa cơ bản của nó khi khuyên “con người ta hướng tới sự trong sáng và tránh điều ác” đã là nên giá trị đạo đức trong các tác phẩm của Y. Kawabata.
Thẩm mỹ, tôi nghĩ, đặc điểm nổi trội nhất trong văn chương của ông, nếu không muốn nói Y. Kawabata là nhà văn theo “chủ nghĩa duy mỹ”. Là người đắm đuối, tôn thờ cái đẹp, song Y. Kawabata không đơn thuần duy mỹ đến mức độ coi “cái đẹp” là duy nhất mà tách rời nó khỏi nội dung xã hội và đạo đức cuộc sống. Thẩm mỹ, trong con người và văn chương Kawabata, mang đúng nghĩa của khái niệm này, sự cảm thụ và hiểu biết về cái đẹp hòa quện trong sự cảm thông sâu sắc của tâm hồn. Mỹ cảm của ông mang thiên hướng đàn bà, pha trộn ẩn ức tình dục mơ hồ, đơn giản vì họ là biểu tượng của cái đẹp. Những nhân vật nữ của ông dù ở tầng lớp và thuộc loại người nào, đều được nâng niu và ít nhiều ông dành cho họ sự ưu ái. Chính điều này, theo tôi, đã làm nên “đặc sắc Kawabata”, khiến ông khác lạ với các nhà văn Nhật Bản khác, chẳng những thế, sự khác lạ và đặc sắc ấy lại giàu năng lượng và có sức nâng, góp phần tôn vinh văn học, văn hóa Nhật Bản, khiến Hội đồng văn chương Nobel không thể làm ngơ mà quyết định trao giải cho ông, người Nhật đầu tiên và người châu Á thứ ba được vinh danh. Vinh quang này cho cá nhân Y. Kawabata và văn chương Nhật Bản.
Song Y. Kawabata cần gì ở điều ấy? Chẳng phải ngẫu nhiên, ông đã mở đầu diễn từ Nobel năm 1968 bằng việc viện dẫn bài thơ thiền của vị thiền sư người Nhật Bản là Dogen ở thế kỷ 13, bài thơ có tên là "Bản lai diện mục" : "Hoa thắm mùa xuân/ Cu gù tiết hạ/ Trăng thu óng ả/ Tuyết đông/ Giá lạnh, tinh khôi". Thực ra, đọc kỹ các tác phẩm của ông, người ta đã nhận thấy sự thiền định thấm đẫm trong mạch văn, câu chữ. Điều này cho thấy, chất thiền cũng là một đặc trưng văn chương của Kawabata. Hầu như, các nhân vật của ông (hay chính bản thân) không mấy nổi giận và nếu có thì cũng ít khi đến mức mất kiểm soát... Tìm hiểu sự ảnh hưởng của tôn giáo đến tinh thần Nhật Bản, mặc dù tôn giáo gốc là Thần đạo, nhưng càng về sau, sự lan tỏa và sức ảnh hưởng của Phật giáo càng mạnh, chi phối tinh thần văn hóa Nhật Bản. Đây cũng là cách lý giải yếu tố Thiền trong văn chương của Kawabata, cũng như tâm thế và sự hành xử của các nhân vật trong tác phẩm của ông. Lấy trạng thái an tĩnh và sự tập trung cao độ trong cách nhìn nhận, vận động, hành xử là cốt lõi của “thiền định”, và đó cũng chính là tâm thế Y. Kawabata. Vậy xem như, bài thơ thiền “Bản lai diện mục” cho thấy sự tiếp nối trạng thái động-tĩnh, thực -ảo, hiện tại-ký ức thay nhau luân chuyển với vẻ đẹp điển hình của thiên nhiên bốn mùa là căn cốt cảm hứng sáng tạo văn chương của Y. Kawabata. Các tác phẩm của ông là minh chứng sống động cho phương châm và cảm hứng sáng tạo này.
Trở lại với nhận định của Hội đồng Nobel văn chương năm 1968, về sự đóng góp của Y. Kawabata cho sự phát triển của văn học thế giới, ấy là “nghệ thuật độc sáng”. Vậy hiểu nhận định này ra sao? Phải chăng, nếu không phải là sự độc đáo và sáng láng thì đó là gi?
Người Nhật Bản tự hào về Haiku (俳句), một loại thơ độc đáo, một đặc sắc ngôn ngữ, văn chương của họ. Khởi phát từ đầu thế kỷ 17 và nhanh chóng phát triển cực thịnh trong thời kỳ Edo (1603-1867). Sắc thái trào phúng sơ khởi cũng dần chuyển sang âm hưởng sâu lắng và thanh tịnh của Thiền tông và âm hưởng ấy đến giờ vẫn là chủ đạo của loại thơ này. Haiku Nhật bản độc đáo là bởi độ ngắn gon (thường không vượt quá 17 âm tiết tiếng Nhật) và sự hàm súc đầy gợi mở của nó. Kinh điển thể Haiku, người ta hay viện dẫn bài thơ “Con ếch” của Matsuo Bashō: “Ao xưa;/ con ếch nhảy vào/ vang tiếng nước xao.”... Vì sự giới hạn số từ và âm tiết nên Haiku chỉ tả sự việc ngay trước mắt (nhãn tiền) nhưng nội hàm lại nhiều nên phải có sự tương quan các ý tưởng với nhau. Tôi thấy, thơ Haiku thú vị ở chỗ, vì độ ngắn gọn, hàm súc và gợi mở của nó nên người đọc không đơn thuần chỉ cần đọc hiểu mà còn có thể liên tưởng, suy luận ngầm, đi tìm ý tứ sâu xa của bài thơ gốc đặng diễn đạt bài thơ ấy theo ý mình. Điều đó có nghĩa, mỗi người đọc đều có thể trở thành đồng sáng tạo với tác giả bài thơ. Đó là cái hay và sự độc đáo riêng có của Haiku. Chính sự độc đáo của Haiku nên văn chương Nhật Bản dễ bị ảnh hưởng và sự chi phối của thể thơ này,... Dĩ nhiên, Y. Kawabata, dù ở ngôi vị chúa tể, cũng không ngoại lệ.
Thậm chí, theo tôi nghĩ, văn phong của Y. Kawabata chịu ảnh hưởng khá sâu sắc phong vị và tính chất của Haiku. Chính xác hơn, Y. Kawabata biết cách đồng hóa tính chất và sắc thái của Haiku để làm nên phong vị riêng mình – “đặc sắc Kawabata”. Ấy là thứ nghệ thuật mà Hội đồng Nobel văn học năm 1968 gọi là “nghệ thuật độc sáng”.
Đọc tác phẩm của Y. Kawabata, dù tiểu thuyết hay truyện ngắn đều thấy rõ điều này. Mỗi tác phẩm của ông đều ẩn chứa vô vàn những bài thơ Haiku. Đơn cử, điển hình là tiểu thuyết “Người đẹp say ngủ”, cả tác phẩm là một bài Haiku lớn. Hình ảnh nhân vạt chính, ông già bảy mươi đắm đuối ngắm người đàn bà đẹp ở trạng thái khỏa thân say ngủ, là hiện thực nhãn tiền, còn những dòng suy tưởng miên man, chập chờn hồi ức, hiện tại, mộng mị đan xen của nhân vật chính là các ý tưởng tương quan với nhau làm nên bài Haiku toàn vẹn, khiến người đọc suy ngẫm, liên tưởng,... Và trong bài Haiku lớn ấy, lại chứa đựng rất nhiều bài Haiku khác, dường như mỗi chương, mỗi đoạn đều mang dáng dấp của bài Haiku, cứ thể nhân lên, vô vàn những bài Haiku nhỏ, cái nọ lồng trong cái kia, đan cài, bao bọc... Bởi thế, đọc tác phẩm của Y. Kawabata, không thể đọc nhanh, mà phải đọc chậm, thật chậm rãi, những mong tìm lời giải cho từng bài Haiku mà tác giả đặt ra. Văn của Y. Kawabata tốc độ chậm là vậy. Điều này khiến cho một số bạn đọc ưa tốc độ nhanh, thích hiệu ứng sốc, cảm thấy sốt ruột và sinh ngại chăng ?... Có lẽ, đây cũng là lý do mà các tác phẩm của ông thường ngắn, kể cả tiểu thuyết ?
Kể từ ngày Y. Kawabata hóa thân theo “ngàn cánh hạc” xải cánh trắng bay về “xứ tuyết” tinh khôi để đêm đêm nghe “tiếng rền của núi”, chớp mắt đã nửa thế kỳ trôi qua. Khởi nguồn, sinh vào năm cuối cùng của thế kỷ 19 ở Osaka miền nam nước Nhật, hàng năm linh hồn ông vẫn cùng bầy hạc trắng từ xứ tuyết phương Bắc trở về thăm cố hương, ngang qua vùng “hồ”, thăm “cố đô”, nơi ông đã để lại những kỷ niệm “đẹp và buồn”, từng say ngắm “người đẹp say ngủ”,.. đã,... từng,...và từng,...
Với các tuyệt phẩm của mình, thực ra, nửa thế kỷ qua, Y. Kawabata vẫn đang ở đây, cùng mọi người đấy chứ ?!..../.
 
 

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( I ) - 28.09.2023 10:55:34
THÁI SINH -
Chưa bao giờ ta lại thèm viết như lúc này...
 
Đây là những dòng tâm sự nghẹn lòng của nhà văn Thái Sinh trên giường bệnh trong thời gian ông chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo, ung thư mật giai đoạn cuối. Khi sức lực đã yếu, một lần ông để lộ sự ngã lòng viết trên trang cá nhân: “Chưa bao giờ ta lại thèm viết như lúc này. Đầu óc đầy ắp tư liệu, nhưng bàn tay không chịu sự điều khiển. Muốn khóc mà không khóc được. Ông trời còn hành ta dến bao giờ?”. Ngã lòng vậy, đương nhiên, khi một người thấy cái chết dần đến gần mình mỗi ngày, nhưng rồi Thái Sinh lại tự vực mình dậy, khi dẫn lời bạn bè báo chí văn chương đến thăm ông động viên: “.... Hoàng Anh bảo, Thái sinh là người không sợ trời không sợ đất thì chiến thắng bệnh tật là chuyện bình thường” ...
                                               Lần giở những ngày tháng Thái Sinh giành gật với cái chết mỗi ngày khi ông gắng gượng gõ máy tính trên giường bệnh, rút ruột gan viết những trang văn cuối đời mình, chân dung bạn bè văn nghệ sĩ từng một thời gian khó cùng ông,...
                                               Tôi nhớ, vào quãng giữa năm 2021, khi dịch Covid 19 còn mù trời, Tạp chí Nhà văn & cuộc sống (Hội Nhà văn Việt nam) phát động cuộc thi viết Chân dung cuộc sống, tôi gọi điện thông báo và đặt bài Thái Sinh, ông hào hứng nhận lời nhưng rồi  ỉu xìu ngay, bảo “Tôi đang có vấn đề về sức khỏe ông ạ.... Nhưng tôi sẽ gắng,... dự thi chỉ là một chuyện thôi, song viết được gì cũng là viết cho mình, cho anh em bạn bè nữa ...”.
Bẵng đi, rồi tôi nhận bài viết của Thái Sinh, kèm ảnh, về nhà thơ dân tộc Pa Dí, Pờ Sảo Mìn. Tôi đọc thấy thích, chuyển bộ phận biên tập chung nhưng lâu không thấy xếp số (có lẽ do bài về nhiều quá), tôi đành phải khiếu đến nhà thơ Trần Đăng Khoa, Tổng biên tập, nhắc nhở, bài mới vào số. Ít lâu sau, tình cờ mục sở thị nhà thơ Pờ Sảo Mìn về xuôi, ghé thăm tòa soạn, tôi gặp ông nhà thơ này, ngẫm chân dung Thái Sinh phác họa Pờ Sảo Mìn, thấy thú vị làm sao,...
                                               Tôi biết tên tuổi nhà văn Thái Sinh lâu rồi, thời Thái Sinh mới về đầu quân báo Nông nghiệp Việt Nam (NNVN), còn tôi khi ấy cũng là cộng tác thưòng xuyên của tờ báo này. Rồi chạm mặt, gặp loáng thoáng vài ba lần ở Trụ sở tòa soạn trên phố Ngô Quyền, Hà Nội mỗi dịp họp hành hay tổng kết cuối năm gì đấy. Thú thật, khi đó tôi chưa mấy đọc văn Thái Sinh, nên không bàn chuyện văn thơ, tuy nhiên, những bài phóng sự, ký sự về miền núi Tây Bắc của Thái Sinh gây ấn tượng tốt với tôi. Tôi nể Thái Sinh, trước hết bởi sự dấn thân, từng trải, hiểu biết vùng đất và con người Tây Bắc, còn bởi tính nghiêm trọng của vấn đề đặt ra, cùng hái độ, trách nhiệm cảu người cầm bút. Cùng là dân làm báo chuyên nghiệp với nhau, đọc dăm bài báo của nhau là “ngửi” ra ngay cái chất của người viết, để rồi nể trọng hay không. Thế đấy. Và tôi thực sự nể trọng Thái Sinh với tư cách người làm báo. Tôi có tìm hiểu thêm về Thái Sinh, qua người bạn học của tôi, nhà báo Trịnh Bá Ninh (Phó Tổng biên tập Báo NNVN), biết Thái Sinh từng làm việc ở Hội Văn học nghệ thuật Hoàng Liên Sơn (Lào Cai, Yên Bái), rồi báo Lào Cai trước khi về đầu quân giữ chân thường trú Báo NNVN khu vực Tây Bắc. Xa hơn nữa, khi còn trẻ, Thái Sinh là giáo viên lên vùng núi Than Uyên, Lai Châu dạy học, dù quê ở Phúc Thọ, Hà Tây,...
                                               Ngày ấy, Thái Sinh thuộc những người cầm bút trẻ, như tôi, vả lại người viết văn chưa đông như bây giờ, nên mỗi khi ngó thấy trên báo chí có cái tên mới là dọc kỹ, đặng thầm so sánh với mình, với người này kẻ nọ, hoặc học lỏm của nhau,... Năm 1993, tôi xuất bản tập truyện ngắn đầu tay “Đêm nguyệt thực” (NXB Hà Nội,1993) vào giải cuộc thi truyện ngắn về đề tài Hà Nội, thì Thái Sinh bắt đầu nổi lên khi giật giải Nhì cuộc thi truyện ngắn (dưới 1.000 từ) của Thế Giới Mới với truyện Thuyền Lá. Tôi nhớ không nhầm, kỳ yhi ấy Phan Thị Vàng Anh (ái nữ của nhà thơ Chế Lan Viên và nhà văn Vũ Thị Thường) giành giải Nhất với truyện Hoa Muộn thì phải. Thú thật, cuộc thi ấy tôi lưỡng lự muốn dự thi, nhưng rốt cuộc lại thôi. Thế nên, tôi đọc kỹ mấy tác phẩm giải cao ấy lắm, bụng thầm nể trọng. Cái tên Thái Sinh in vào đầu tôi từ đấy,...
                                               Cuộc sông bận mải, tôi có thấy đâu đó truyện củaThái Sinh trần báo, nhưng cũng ít đọc, ngoài những phóng sự, ký sự đăng trên báo NNVN nơi ông là phóng viên thường trú, biết ông vẫn túc tắc viết văn (truyện ngắn, tiểu thuyết) và làm thơ. Mãi đầu năm 2018, trong một đám cưới ở Hà Nội, tình cờ, chúng tôi ngồi cùng mâm với nhau, tôi giữa Thái Sinh và nhà văn Văn Chinh. Vài lần cụng ly câu chuyện của chúng tôi thêm phần cởi mở. Sau cuộc gặp mặt mấy, tôi và Thái Sinh kết bạn “mạng xã hội” và kể từ đó, hai người đọc nhau khá đều, ghi comment, thích thì chat messinger, lâu lâu lại alo buôn chuyện này nọ. Thái Sinh có hai trang trên Facebook, một tên Thái Sinh và một tên Thao Dan Nguyen và chịu khó lên bài đều cả hai. Điều này cho thấy ông rất tích cực sử dụng mạng xã hội và hiểu rõ công dụng của chúng. Cùng về hưu, nhưng cả hai cùng làm thêm, Thái Sinh vẫn bám trụ vùng Tây Bắc cho Báo NNVN, còn tôi thì làm cho VTC (Đài truyền hình kỹ thuật số), rồi trang Web và Tạp chí Nhà văn & cuộc sống của Hội Nhà văn Việt Nam. Cùng với văn chương, chúng tôi có nhiều chuyện khác để nói . Quãng thời gian này, Thái Sinh túc tắc đăng tải “Chuyện làng Tào” trên trang cá nhân. Ở đó, các câu chuyện được kể bằng giọng văn châm biếm, hài hước và chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau, tạo nên bức tranh rất sinh động về một làng quê Bắc bộ, đâu như làng Ngọc Tảo quê ông chẳng hạn... Đọc ông nhiều, tôi dần nhận ra và thêm hiểu chất văn, chất người Thái Sinh,...
                                                
1. Khát vọng văn chương & Sự dấn thân,
                                               Rời quê, Ngọc Tảo. Phúc Thọ, Hà Tây, một vùng đất trù phú đậm đặc trầm tích văn hóa đồng bằng Bắc bộ. chàng trai trẻ Nguyễn Đình Sinh (tên thật của Thái Sinh) lên Than Uyên, Lai Châu xa tít mù, làm nghề gõ đầu trẻ, hẳn khi ấy, chẳng bao giờ chàng trai trẻ này nghĩ mình trở thành nhà văn, nhà báo chuyên nghiệp.
                                               Để nên một Thái Sinh, như chúng ta biết, con người và tác phẩm, tôi nghĩ, có hai yếu tố cơ bản, khát vọng văn chương và sự dấn thân. Thái Sinh đã đi theo con đường, cái cách mà các bậc đàn anh lớp trước đã đi, những thầy giáo miền xuôi lên vùng cao dạy học, như Vũ Đình Minh, Bùi Nguyên Khiết, Nguyễn Thái Vận,... Dạy học, đương nhiên là một nghề cao quý, xã hội xư nay vẫn tôn vinh. Nếu chỉ đơn thuần lập thân, lập nghiệp, vậy là ổn, song khát vọng văn chương (lập ngôn) lại thôi thúc tâm can. Chẳng đành lòng và thế là thầy giáo trẻ Nguyễn Đình Sinh cầm bút. Dấn thân thôi. Nuôi mộng văn chương, ấy là khao khát nội tâm, nhưng với Thái Sinh khi đó còn là chiếc cầu duy nhất nối người thầy giáo trẻ miền xuôi lên miền ngược này với đời sống xã hội bên ngoài,... Chỉ có viết văn, bằng  cách này, thầy giáo tiểu học Nguyễn Đình Sinh mon men dần sang nghiệp văn chương, báo chí. Quả nhiên, chang ta đạt được mục đích. Chẳng rõ, Thái Sinh có yêu nghề gõ đầu trẻ hay không, nhưng chắc chắn không ghét nó. Chẳng qua, công việc đó ít nhiều bó buộc chân cẳng, không thể đi xa, nên đành rời bỏ thôi. Người ta có thể quên những truyện ngắn thuở ban đầu của cây bút trẻ Thái Sinh như “Con sáo biết nói”, “Người ngồi trước tôi hai hàng ghế”, “Rừng có nhiều hoa cúc dại”... song khó có thể quên “Thuyền lá”, cái truyện ngắn dưới một ngàn từ đoạt giải cao một cuộc thi truyện ngắn đặc biệt, khiến độc giả biết đến tên Thái Sinh. Thông điệp của truyện ấy thì đã rõ, cái ước mơ mong manh hão huyền ấy thì trẻ con ai cũng từng có, nhưng chuyển hóa nó thành một hình tượng văn học thì chẳng dễ chút nào. Vậy mà Thái Sinh đã làm được chỉ bằng ngần ấy chữ... Tôi đã quên không hỏi ông, mà tốt nhất là không nên hỏi, rằng cái thời đương trai gõ đầu trẻ con ở nơi thâm sơn cùng cốc Than Uyên (Lai Châu) ấy, thầy giáo Nguyễn Đình Sinh có bày cho lũ học sinh nhãi ranh của mình chơi trò thả thuyền lá xuống suối cùng những kời ước hay không? Rất có thể lắm chứ. Để rồi sau này, Thái Sinh ký thác vào truyện ngắn Thuyền lá. Mà đâu chỉ trẻ con, cả người lớn đấy chứ. Viết truyện gửi đăng báo, gửi dự thi, Thái Sinh đã làm cái việc thả những chiếc thuyền lá mong manh, và một trong số ấy đã mang mơ ước của chủ nhân ra tận cửa sóng để hòa vào biển cả bao la,... Hình dung này của tôi về buổi ban đầu Thái Sinh đến với văn chương càng được củng cố thêm khi mà mới đây tôi đọc một status của nhà văn Đỗ Bích Thúy. Ở đấy, Thúy kể câu chuyện rất hay về thời mình bé con đi học trường bản ở vùng cao Vị Xuyên, Hà Giang, rằng những xúc cảm văn chương đầu đời mình có được là từ một cô giáo tên Nhuần gieo mầm,... Với Thái Sinh ngày ấy, tôi nghĩ, không chỉ gieo chữ, giao mơ ước, khát khao cuộc sống cho học trò mà cho cả chính bản thân mình ?!
                                               Dấn thân, là bước tiếp theo để Thái Sinh chuyển hẳn sang con đường báo chí, văn chương. Rời bỏ một cuộc sống tương đối ổn định, tĩnh tại nhưng lâu ngày dễ sinh nhàm chán, chuyển hẳn sang nghiệp viết lách, lênh phênh nay đây mai đó đầy bất trắc, ngày đó với Thái Sinh đã là một sự dấn thân rồi. Song thú vị là cái chắc. Với một người đầy sức vóc, ham đi, ham tìm tòi, ham viết lách như Thái Sinh, nhưng ngày làm ở Văn nghệ ở Hoàng Liên Sơn hẳn là những ngày tháng thoải mái nhất. Được tiếp xúc hàng ngày, cùng ăn cùng ở, cùng những chuyến đi dài ngày với các văn nghệ sĩ có tiếng mà mình quý trọng, ngưỡng mộ bấy nay thì thú vị lắm chứ. Nhưng rồi, đau chỉ yên vui, song gió cũng không ít, nhất là thời điểm chia tách tỉnh, tan đàn xẻ nghé, mỗi người một nơi,... Những chuyện ngày ấy, bao tâm sự buồn vui dồn nén, để sau này, Thái Sinh trút hết gan ruột vào ngòi bút khi ông khắc họa chân dung các văn nghệ sĩ cùng ông thời gian khó, Pờ Sảo Mìn, Lò Ngân Sủn, Mã A Lềnh, Lâm Quý, Dương Soái, Ngọc Bái,... Chuyện người mà ra cả chuyện mình, thân phận mình.
                                               Song le, dấn thân cho văn nghệ chưa thấm đâu nỗi cực nhọc của nghề làm báo. Để có những phóng sự điều tra, phanh phui vụ tiêu cực này tiêu cực nọ thì gian khổ cực nhọc đã đành mà còn nguy hiểm đến tính mạng không chừng.... Tất cả những cái ấy, Thái Sinh từng trải qua hết khi chuyển sang làm báo (Báo Lào Cai, Báo Nông nghiệp Việt Nam).  Dõi theo mấy chục năm nghiệp báo của Thái Sinh, người ta có thể thấy được nạn phá rừng, nạn buôn bán lâm thổ sản, nạn khái thác và buôn bán trái phép khoáng sản qua biên giới đến mưc nào. Báo thôi chưa đủ, Thái Sinh đi bằng hai chân, đưa các vấn đề nóng ấy vào tiểu thuyết của mình. Có thể nói, mấy chục năm qua, Thái Sinh ngang dọc khắp các nẻo đường Tây bắc, không chỗ nào vắng dấu chân ông. Dấn thân gian nan là thế nhưng gặt hái được thành quả  xứng đáng cũng bõ công sức lắm chứ ?!...
 
2. Một Thái Sinh nặng nỗi niềm thơ
Người ta rõ ngay diện mạo một nhà báo, nhà văn Thái Sinh mạnh mẽ, xông xáo, sắc sảo, đầy bản lĩnh và trung thực, mà không biết hoặc quên đi một Thái Sinh cũng nặng nỗi niềm thơ,...
Quả là, tôi cũng không mấy biết về thơ Thái Sinh, nên không lạm bàn, suy diễn. Chỉ bạn bè văn chương nghe nói, hồi còn trẻ, khi mới chạm ngõ văn chương, Thái Sinh yêu thơ và từng là một người biên tập thơ có hạng ở Hội văn nghệ tỉnh. Vậy thôi là để thấy Thái Sinh khônghề  thơ ơ với thơ. Để ý, các cây bút văn chương xứ ta, hầu hết khởi đầu từ thơ, rồi sau họ mới lựa chọn và theo đuổi thế mạnh riêng của mình.... Tôi tin, Thái Sinh cũng không nằm ngoài quy luật chung đó. Thơ là ngôn ngữ của cõi lòng, là chiếc thuyền chở nỗi buồn con người ta mà, đôi khi còn là phép tu tâm dưỡng tính... Thế nên,  một thầy giáo trẻ miền xuôi lên mạn ngược, tuổi tráng niên thừa sức lực và đầy khao khát lại bị bó chân trong môi trường dạy học, như Thái Sinh, kiểu gì chàng ta cũng thả hồn vào thơ... Thơ Thái Sinh đây: “Nỗi buồn đổ xuống giếng khơi/ Giếng không lấp được em lôi lên bờ/ Trách cho người ấy hững hơ/ Buồn em, em bán, bây giờ ai mua?” (Buồn). Rất có thể, khi đã chọn văn xuôi (bút ký, truyện ngắn, tiểu thuyết) là chủ lực, lại công thêm công việc làm báo bận rộn hàng ngày, Thái Sinh tạm để thơ lắng lại nơi đáy lòng mình,...chờ cơ hội mà bột phát.
Cuộc đời nhiều đổi thay, thăng trầm, có thời gian Thái Sinh tưởng chừng mất việc, những lúc lòng trịu năng nỗi đau đời như vậy, hẳn chỉ có thơ là chỗ bấu víu để vực mình vậy. Tiếc là, tôi chưa được đọc thơ Thái Sinh những năm tháng ấy. Có điều này, chăc chắn Thái Sinh không hề thơ ơ với thơ. Ông quan tâm đến thơ bạn bè, mặt bằng thơ nói chung. Dăm năm trước, tôi viết về nhà thơ Vũ Đình Minh, trích nhiều thơ ông, Thái Sinh đọc bài, bị cuốn hút bởi những bài thơ, câu thơ của Vũ Đình Minh hồi nhà thơ này còn dạy học ở Cao Bằng. Thái Sinh ham bàn, bình luận thơ, rồi nhân đó góp chuyện kể thời mình dạy học ở Than Uyên. Có lẽ, thơ Vũ Đình Minh đã vô tình thức dậy trong lòng Thái Sinh ký ức quá vãng,khơi  gợi cảm xúc về một thời lam thầy giáo vùng cao của mình,...
Có một dạo, vài ba năm trước, tôi đăng tải liền mấy trường ca của tôi trên trang cá nhân. Thái Sinh đọc kỹ, tỏ ra thích thú, nhất là các trường ca viết về miền núi là Tây Bắc thương nhớĐất nước nơi đầu núi. Ông hết alo cho tôi, lại chát bảo, rất thú vị. Nếu có chăng, ông chỉ không đồng tình mỗi chi tiết, là tôi có ý chê người vùng cao uống quá nhiều rượu và mòn mỏi vì điều điều Ông bảo, không phải vậy, gần năm chục đi khắp mọi nẻo núi rừng Tây Bắc, từng nhiều năm ăn ở với người đồng rừng, ông nhận thức, người miền núi họ không uống rượu mà làm bạn với rượu, họ chỉ nương vào đó để tự vỗ về an ủi mà vượt qua cuộc sống dầy khó khăn bất trắc hàng nagy, vậy thôi. Ngẫm ra, thấy Thái Sinh có lý. Ông cũng rất thích trường ca Con sông tuổi thơ tôi, bởi chăng, Thái Sinh tìm thấy bóng dáng tuổi thơ của chính mình qua trường ca này của tôi? Chưa hẳn, được Thái Sinh khen thơ mà tôi thích ông, còn bởi tôi có thêm người hiểu, đồng cảm và chia sẻ cùng mình. Là người trực tính, ưa nói thật, một khi Thái Sinh đã khen là thực lòng, bởi chưng ông cần và không quen thói xã giao lấy lòng ai bao giờ ,...
Quãng năm 2021, khi phát bệnh và biết mình mang trọng bệnh,  bằng linh cảm, Thái Sinh ý thức được thời gian sống hữu hạn của mình, chữa bệnh đấy nhưng ông bắt đàu tăng tốc. Với ông, lúc này, viết được cái gì kịp cái ấy... Ở vào thời điểm ấy, Thái Sinh đã ý thức về nơi an nghỉ vĩnh viễn của mình. Đêm 06.9.2021, ông viết bài thơ Nếu: “Nếu ngày mai tôi từ giã cỗi trần/ hãy chôn tôi bên mẹ mình trên quê cha đất tổ/ Nơi cái núm rốn của tôi mẹ chôn dưới gốc khế, gốc đa/ Cuộc đời bể dâu gốc khế, gốc đa cũng không còn nữa/ Cái núm rố của tôi đã hóa đất lâu rồi/ Muốn tìm lại tôi cái thời trèo me trèo sấu/ Đã hóa thành mái tóc phôi pha/ Nay tôi đã già lại muốn về nằm bên mẹ/ Để nghe mẹ kể chuyện ngày xửa ngày xưa... Mẹ dặn chúng tôi- sống gửi thác về/ Sống nhân nghĩa đừng làm điều ác/ Tôi đã sống như điều mẹ dặn/ Nếu tôi mất muốn về với mẹ/ Tôi là con của mẹ, mẹ ơi”. Giờ thì ông được toại nguyện, về bên mẹ mình.
Khi sức lực đã yếu, Thái Sinh vẫn gắng gượng. Khi Tạp chí Nhà văn & cuộc sống in bài viết của Thái Sinh về nhà thơ Pừ Sảo Mìn, tôi chụp ảnh bài viết gửi cho Thái Sinh qua Messinger, hôm sau đọc trang cá nhân của ông, Thái Sinh viết: “Hôm qua đang năm thở vì quá mệt do benhj tật hoành hành, thì nhận được bài viết của mình đăng trên Tạp chí hà văn & cuộc sống viết về Pờ Sảo Mìn. Đã hứa với Chunhac Nguyen (Nguyễn Chu Nhạc) sẽ viết về những nhafg văn mình từng sống và làm việc cùng; Nguyễn Ngọc Bái, Lò Ngân Sủn, Mã A Lềnh, Dương Soái,... Đêm qua, đã hình thành bài viết về Lò Ngân Sủn với nhiều chi tiết rất đời c ủa nghệ sĩ nhưng ốm quá lại không mang máy tính, đành cất trong đầu. Về già thường hay nhớ về bạn bè, những người còn sống và những người đã mất”. Thật thương và nghẹn lòng làm sao. Lúc muốn được viết nhất thì Ông Giời lại chẳng cho. Nghẹn lòng hơn, lúc Thái Sinh bất lực, dùng phép thắng lợi tinh thần, ông đã cầu xin làm người quét đèn các Vua Hùng: “Con tên là Nguyễn ĐÌnh Sinh (Thái Sinh) .... xin các Vua Hùng cho làm người quét đền...
May mà, Thái Sinh còn kịp để lại đôi ba chân dung văn nghệ sĩ bạn bè một thời !...
Tôi tin, cùng với “Thuyền lá” và một số sáng tác khác, các chân dung văn nghệ sĩ anh em bạn bè mà Thái Sinh kịp phác họa trước khi ông rời cõi tạm, sẽ là những chiếc đinh ghim văn chương của ông lại với cuộc đời này !...
 

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( I ) - 23.10.2023 18:04:52
NHỚ MIỀN TÂY,
(Tản văn của Nguyễn CHu Nhạc)

 
 

Sáng chủ nhật, cuối thu, trời se se lanh, nắng nhẹ vàng ươm trên những ngọn cây bằng lăng bên ngoài ban công đã điểm đôi ba mảng lá ngả vàng. Tiết trời đẹp nhất trong năm là đây. Nhâm nhi tách trà Thái ướp hương nhài, thứ trà mà nhà thơ Trần Đăng Khoa đặc biệt thích, đã kỳ công thửa.
Ngó ti vi, tình cờ đang phát sóng một phim tài liệu về mùa Len trâu ở miền Tây Nam bộ. Thật cuốn hút. Ký ức về mùa nước nổi đồng bằng sông Cửu Long sống dậy trong tôi. Dẫu phim còn chưa nuột song những hình ảnh về mùa nước nổi làm tôi nghẹn lòng, vì nhớ...
Nhớ quá đi thôi. Ôi miền Tây xa xưa của tôi ơi. Ơi vùng đất đã lấy đi tuổi trẻ đầy khao khát một thời của tôi ơi.
Khi ấy tôi vừa bước vào tuổi 24, tốt nghiệp đại học chưa lâu, cầm tờ quyết định vào An Giang, để lại sau lưng người mẹ già sống một mình và người bạn gái dạy học ở một trường xa... Chiếc ba lô quân đội của người anh rể phục viên cho, đựng căng những sách và từ điển, chỉ vài bộ quần áo đơn sơ, lên tàu đường sắt Thống Nhất giữa mùa mưa bão miền Trung dữ dội. Nhớ làm sao lần đầu chạm mặt Sài Gòn hoa lệ,... Nhớ làm sao chuyến phà Mỹ Thuận ngang sông Tiền, tiếp đó là đồng nước nổi mênh mông đầu mùa lũ khi ngang qua Cao Lãnh, Lấp Vò, rồi phà Vàm Cống vượt sông Hậu về Long Xuyên,...
Nhớ làm sao chuyến xe đò cà tàng lao xao tiếng Khmer chen lẫn tiếng Kinh từ thị xã Châu Đốc, đi Núi Sam, ngang Nhà Bàng, thị trấn Tịnh Biên đến Tri Tôn. Con đường mảnh như sợi chỉ căng ngang đồng nước với những chòm núi lô nhô nổi như đám dừa điếc khô rụng,...
Nhớ làm sao những bữa cơm tập thể gạo đỏ lẫn đầy tóc ăn với cá rô đồng nửa kho xổi lõng bõng nước hàng, nửa nấu canh chua me bông súng do chị đầu bếp Tư Nái nấu cho ăn,...
Nhớ làm sao những đêm mất ngủ, mông mị vì sợ bóng tối hoang vu bí hiểm từ vườn cây dừa xoài rậm rạp và những bức tường long lở dấu vết ngôi chùa cũ,...
Nhớ làm sao những đêm hè ngột ngạt không điện, hãm hạt đỗ chiếc đèn dầu hỏa đỏ quạch, cửa đóng chặt sợ ma vì bên ngoài hàng rào cây căn phòng mình ở là nghĩa địa có vài ba ngôi mộ mới chôn,...
Nhớ làm sao những trận rượu say mụ mị người đi không vững sau cuộc nhậu ở nhà anh Sáu Tươi hay anh Tư Chọn,...
Nhớ làm sao những đêm bị cảm sốt hay sốt rét gì đó, nằm co ro một mình, chốc chốc lại cố bò dậy uống nước đỡ khát, vò khăn mặt ướt đắp trán giảm sốt,...
Nhớ làm sao những đêm nhớ mẹ và nhớ bạn gái, để bật ra câu thơ “chập tối nhớ mẹ, đêm là nhớ em”...
Nhớ làm sao niềm vui khấp khởi khi chuẩn bị được đi phép ra Bắc,... và nỗi chán chường sau mỗi chuyến đi phép trở vào nơi cũ,...
Nhớ làm sao những ngày chủ nhật, cùng Dũng, Minh, Liên đi chợ mùa đồ về tự nấu nướng, uống rượu say khật khừ, vỗ ghi ta nghêu ngao hát hết bài này sang bài khác.
Nhớ làm sao mùa nước nổi, cua càng bò nghênh ngang cắp nát ngọn lúa ngoi, hay từng đàn chuột đồng bơi lóp ngóp ăn lá lúa rồi lúc nhúc leo lên trú chân ngủ trên cây tràm hay cây thốt nốt,...
Nhớ làm sao mùa cá linh cơ man rẻ rề đến mức thành câu cửa miệng của mấy bà chợ búa ví von- "rẻ như cá linh",... Còn mình thì bữa nào cũng xơi món chế từ cá linh, tẩm bột chiên ròn, lẩu và cá linh hấp rau kim thất ở nhà chị Tư Bề, ngán đến tận óc,...(giờ thèm cũng chẳng có mà ăn vì cá linh hiếm thành đặc sản, ...
Nhớ làm sao món bún thịt trăn ở chợ An Lạc, ăn vì tò mò,vvừa ăn vừa dè chừng, nghe ngóng,...
Nhớ làm sao những lần đi địa bàn Ba chúc, Lạc quới, Vình Gia, hay Ô Lâm, An Phước,...
Nhớ làm sao những lần đón bạn xa đến chơi, nhà báo Sỹ Bình từ Sài Gòn, hay anh bạn Gia Trình từ Bạc Liêu,...
Nhớ làm sao những buổi tối tán gẫu với anh chàng Chau Von, thủ kho thuốc người Khmer, để mình lấy tư liệu về văn hóa Khmer, đặng âm thầm nuôi hy vọng viết lách theo đòi nghiệp báo chí, văn chương,...
Nhớ và nhớ, cứ vậy đằng đẵng gần 7 năm trời. Có lẽ nỗi cô đơn, khát vọng đổi đời đã thôi thúc mình viết. Bất kể là gì, báo chí, thơ, truyện, tạp bút,...
Nhớ làm sao niềm vui, niềm hạnh phúc khi biết bài viết của mình được đăng báo Nông nghiệp, báo Nhân dân, rồi phát trên Đài Tiếng nói Việt Nam,...
Cứ thế, chúi đầu vào viết,... Nhờ thế mà mình trở thành nhà báo, nhà văn chăng ?...
Ừ giờ là mùa nước nổi, qua rồi lại đến mùa đốt đồng,... Ngày ấy đếm mùa để giết thời gian, xem mình đã ở mảnh đất này bao lâu? Giờ thì đếm mùa lũ, mùa khô để nhớ,...
Ngày xưa khổ và buồn như thế, chỉ mong nó nhanh qua,... Còn bây giờ muốn quay lại thời gian khó ấy cũng chẳng được, bởi đấy là tuổi trẻ, mà thời gian thì không trở lại bao giờ,... Chỉ còn lại ký ức mà thôi.
Vậy là già rồi đấy. Nhiều khi những hình ảnh bất chợt hay vu vơ cũng dễ gợi nhớ về thời xưa cũ. Nhớ thì đành viết thôi,...
Nhẽ chăng, không có những ngày ấy mình không theo nghề viết và chẳng trở thành nhà văn?...
 

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( I ) - 13.01.2024 10:14:54
BIÊN VIỄN MÙA HOA ĐÀO NỞ
Tản văn của Nguyễn Chu Nhac
 
 
“Đã qua mùa tam giác mach/ mưa xuân đá cũng lên xanh/ cao nguyên đang mùa tươi trẻ/ địa tầng bỗng hóa mỏng manh/ Đào rừng năm nay nở muộn/ bung trời Quản Bạ, Yên Minh/ khoe sắc Sủng Là, Phó Cáo/ phơi hồng Lũng Cú, Đồng Văn...",
         Đó là những câu thơ đầu của bài thơ "Cao nguyên đá đương xuân" tôi sáng tác vào một mùa xuân lên Hà Giang.
         Lần ấy, trước rằm tháng Giêng, đoàn công tác của Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) lên Hà Giang, công bố chương trính phát sóng phát thanh Dân tộc (VOV4) tại Đài Phát sóng FM Quản Bạ, Sau buổi lễ, chúng tôi ghé thăm mô hình du lịch homstay ở làng người Dao (Nặm Đăm), rồi cũng mấy cán bộ của tỉnh Hà Giang ngược núi lên Đồng Văn dự lễ chào cờ đầu năm trên Cột cờ Lũng Cú.
          Thực lòng, khi bắt gặp những cây đào chi chít nụ hoa dọc lối từ trực đường chính lên Trạm phát sóng, tôi đã ngõ ngàng, thích thú. Lúc vào thăm bản người Dao, vườn nhà gõ lối trong bản cũng lác đác đào hoa, song đến khi vượt qua Yên Minh, băng dốc Thẩm Mã vào đất Sủng Là, cửa ngõ Đồng Văn, cảnh sắc mới thực sự huy hoàng. Ôi chao, những đào là đào. Ngỡ ngàng đến bàng hoàng, cảm giác không tin vào mắt mình, tưởng như đang lạc vào chốn Đào nguyên không có thật, hơn cả lão Bật Mã Ôn lạc đào nguyên trong phim Tây Du Ký. Xe băng băng ngược dốc, tôi ngó hai bên đường, cảnh đẹp thần tiên mà lòng những tiếc vì không thể dừng lại chụp dăm ba kiểu ảnh. Đến phố xã Sủng Là, dừng vài phút dừng lại nhà người quen cũ, chàng lãng tử Vạn Lý thơ báo nghiệp dư,  tặng mấy cuốn sách. Chụp vội một kiểu ảnh lưu niệm, thấy tôi luôn miệng than tiếc, chàng Vạn Lý gợi ý "Tiếc, thì lúc về chú dừng lại chụp...". Nghe chừng có lý. Nhưng phải tăng tốc bám theo đoàn đã. Với lại, lịch trình đường về không qua lại đây, mà vòng sang Mèo Vạc rồi theo lối khác...
         Vùng chân Cột cờ Lũng Cú, vườn nhà dân cũng có đào, nhưng không nhiều và đẹp như ở Sủng Là. Sau lễ chào cờ ngay chân cột cờ, trời đã tối, đoàn công tác vội về thị trấn Đồng Văn dự tiệc chiêu đãi và giao lưu thơ nhạc. Bầu không khí xuân đầy hơi men và niềm hứng khởi, chằng thể đẩy khỏi đầu óc tôi những cảnh sắc đào hoa lúc chiều. Đêm ấy, trời đổ mưa xuân, khu phố cổ và chợ Đồng Văn nhếnh nháng ướt, đẫm hơi xuân. Tiếng khèn Mông và hương vị cháo nóng ban đêm khiến không gian thêm huyền ảo, ấy vậy, trong tôi vẫn chớp chới, lấp lóa cảnh sắc đào nguyên như cuốn phim quay lướt...
         Sáng ra, dậy sớm tranh thủ bát phố Đồng Văn. Trời xuân quang quẻ, từng tốp gái người dân tộc thiểu số áo váy xúng xính, sặc sỡ, ríu ríu xuống phố chợ. Ngó quanh, lác đác đây đó những cây đào đơm hoa, nhưng chẳng có thời gian mà ngắm vì còn phải theo đoàn công tác lên Mã-pì-lèng. Từ đỉnh cao, nhìn hút theo con sông Nho Quế mùa cạn nước, trơ trụi, lại thêm nham nhở vì những đập thủy điện đang xây dở dang. Lộ trình tiếp sang Mèo Vạc, tôi và anh bạn cùng xe, một phóng viên cựu VTC, cũng là một tay máy xịn đam mê nhiếp ảnh, nháy nhau quay đầu xe về lại Đồng Văn, xuôi Súng Là.  Cảm giác sắp được tha thẩn, chọn khuôn hình, góc độ, nâng ống kính thu hình những cảnh sắc xứ sở hoa đào đá mà lòng tôi chộn rộn
         Đây rồi, những dãy đào cây giăng lối hai bên đường, hàng rào nhà dân nối nhau, miên man như bất tận. Bấm máy liên tục. Không ngờ, anh chàng lái xe cũng là một tay máy xịn, đam mê ảnh ót. Xe chúng tôi cứ di chuyển vài chục mét, lại dừng và cả ba nhao xuống chụp. Đâu cũng đào, đâu cũng đá, cũng vòm cổng, mái nhà nâu xỉn ngả màu thời gian. Đẹp mê hồn, trước mặt đẹp, nhìn ngang đẹp, quay lại sau lưng cũng tuyệt vời không kém. Ba người chúng tôi mất gần hai giờ đồng hồ mà vẫn chưa qua được vài cây số khu vực Sủng Là. Ngang qua nhà anh chàng Vạn Lý, ngó thấy cửa nửa khép nửa mở, nhưng không dám đánh tiếng, e mất thời giờ vì còn dành cho việc săn ảnh...
         Cứ thế, cả ba người đều mê mải tìm tìm, chụp chụp. Dẫu có mê đắm thì khi ngó mặt đồng hồ,cũng giật mình, í ới gọi nhau về xe, cắm đầu cắm cổ mà chạy thật nhanh, kịp về thành phố dự một tiệc chiêu đãi. Chậm cả tiếng, tiệc chừng quá nửa. Lúc ngồi trên xe chạy vội về đây, cảm xúc dâng trào xen lẫn sự tiếc nuối vì không có thời giờ để săn thêm ảnh, tôi đã chớp nhoáng làm bài thơ “Cao nguyên đá đương xuân”. Uống liền ba rượu taj lỗi chậm giờ, tôi ngà say cao hứng đọc bài thơ này làm không khí bữa tiệc thêm tưng bừng...
Đã mấy mùa xuân qua, tôi chưa có dip trở lại cao nguyên đá. Nhớ vùng đất địa đầu miền biên viễn Hà Giang nhiều lắm, nhất là mấy địa danh Phó Báng, Phó Cáo, Sùng Là... Nhẩm lòng, xuân này, ra giêng, gắng thu xếp ngược nguồn trờ lại cao nguyên đá, theo lời nhắn gửi của anh chàng Vạn Lý,...
Xuân sắp về rồi đấy, ơi Sủng Là, Phó Bảng, Phó Cáo, Lùng Phìn,... hoa đào đã bung sắc tươi hồng?...
 

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( I ) - 21.03.2024 15:45:47
Một người  là “bà đỡ văn chương”,...
 
 
        Người ấy là nhà báo Trịnh Bá Ninh, nguyên Phó Tổng biên tập Báo Nông nghiệp Việt Nam.
          Tôi từng có bài viết về ông, bài“P16 Thụy Khê có một căn phòng” in trong tập bút ký, ký sự “Nơi tận cùng xứ sở” (NXB Hội Nhà văn, 2018). Ở bài viết đó, tôi đã kể tên hàng loạt nhà văn, nhà thơ, cây bút, có cả những người rất nổi tiếng, một thời  bao cấp khốn khó từng lui tới, ta túc tại căn phòng rộng 9 m2 của nhà báo Trịnh Bá Ninh tại khu tập thể Bộ Nông nghiệp ở P16 phố Thụy Khuê, Hà Nội. Giờ xin phép không nhắc lại chuyện cũ đó, tuy nhiên, theo thiển nghĩ của tôi, việc đó chứng tỏ một điều, nhà báo Trịnh Bá Ninh và vợ ông (bà Trần Thị Mai) không khác gì việc đỡ đầu cho nhiều tác phẩm văn học của các nhà ấy thai nghén và ra đời,...
          Thực ra, cách ví này chưa chuẩn. Khi ấy, nhà báo TRịnh Bá Ninh chỉ là phóng viên đơn thuần, mà đời sống xã hội lại cực kỳ thiếu thốn, làm được  như vậy cũng  thật đáng nể trọng bởi không dễ mấy ai làm nổi. Về sau, khi nhà báo Trịnh Bá Ninh giữ cượng vị Phó Tổng biên tập báo Nông nghiệp Việt Nam chuyên trách mảng nội dunng, ông đã làm  người thúc đẩy và  có thể nói là đỡ đầu cho nhiều tác phẩm văn học có giá trị của một số nhà văn ra đời,  đến với công chúng . ...
          Trước hết, với nhà thơ Trần Đăng Khoa. Với thần đồng thơ nổi tiếng này, lại là bạn học cùng trường phổ thông ở quê, sau cùng đội tuyển học sinh giỏi văn tỉnh Hải Hưng, ở thời điểm đầu những năm chín mươi của thế kỷ trước, gia tài văn chương, ngoài tập thơ Góc sân và khoảng trời, cùng một số bài thơ sáng tác thời tham gia chiến tranh biên giới Tây Nam và bộ đội Hải quân ra Trường Sa, thì Trần Đăng Khoa vẫn chưa có gì nhiều đẻ làm dày dặn thêm gia  tài của mình. Chỉ đến khi, xuất bản tập phê bình văn học, Chân dung và đối thoại, thêm làn nừa nữa tên tuổi Trần Đăng Khoa nổi như cồn. Tập sách này, cùng một số chân dung văn học được Trần Đăng Khoa viết khi làm việc ở Tạp chí Văn Nghệ quân đội, giữ chuyên mục Đối thoại tháng, thì nhiều bài viết khác do Trịnh Bá Ninh gợi ý và đặt hàng, chẳng hạn như những bài viết về các nhà văn Phù Thăng, Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường...  Đây thực sự là những chân dung văn học hay, trước hết là về người được khắc họa, tính cách và sự đóng góp của người đó cho văn học. Thứ đến, là bút pháp, phong cách, giọng điệu “rất Trần Đăng Khoa” về thể loại chân dung văn học. Theo tôi, những chân dung văn học của Trần Đăng Khoa mà Trịnh Bá Ninh gợi ý đặt hàng là những bài viết hay, góp phần làm nên thành công cho tập Chân dung và đối thoại,  tiêu biểu về thể loại chân dung văn học trong tiến trình phát riển văn học Việt Nam  hiện đại.
          Riêng với nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, trước hết, nhà báo Trịnh Bá Ninh biết đến với tư cách là một đọc giả yêu thích truyện ngắn của tác giả này. Tôi nhớ, hồi Nguuyễn Huy Thiệp mới nổi sau những truyện ngắn xuất sắc đăng trên Báo Văn Nghệ, đã có lần, Trịnh Bá Ninh rủ tôi tìm đến nhà ông này ở Khương Hạ, Thanh Trì, Hà Nội. Hôm ấy, Nguyễn Huy THiệp vắng nhà nên chúng tôi chỉ ngó nghiêng quanh quất khu nhà vườn tuềnh toàng và chuyện xã giao dăm ba câu với người vợ của ông. Quan trọng là, từ sự yêu thích văn chương và ngưỡng mộ con người nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, sau này, khi có cơ hội, Trịnh Bá Ninh đã dám làm và có công trong việc đăng các truyện ngắn của ông.
          Ngày Nguyễn Huy Thiệp  mất (tháng 4.2021), trong một bài viết ngắn vĩnh biệt nhà văn đăng trên trang cá nhân, nhà báo Trịnh Bá Ninh đã kể lại  chuyện ông và các đồng nghiệp ở Báo Nông nghiệp Việt Nam tìm cách cho xuất hiện lại truyện của Nguyễn Huy Thiệp. Số là sau khi đăng hàng loạt truyện ngắn lấy đề tài lịch sử, người ta cho rằng ông “hạ bệ thần tượng”, rồi cơ quan quản lý sờ đến, cho ý kiến nọ kia,... Thế là, các tờ bao9s ngán ngẩm, engaij, thậm chí từ chối đăng truyện của ông. Cứ thế, mấy năm liền văn đài vắng bóng truyện Nguyễn Hu Thiệp, như ông “mất tích” đâu đó.
          Rồi đến một mùa xuân, trong vô vàn báo tết báo xuân, bạn đọc bỗng thấy truyện ngắn Thiên văn của Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện trên số tết báo Nông nghiệp Việt Nam. Chuyện là, trước tết năm ấy, Trịnh Bá Ninh với cương vị Phó Tổng biên tập, cùng phong viên-nhà văn Văn Chinh tìm đến tận nhà ông đặt bài xin truyện.  Chính Nguyễn Huy Thiệp cũng không tin cũng không tin là tờ báo này dám phợt lờ lệnh trên mà đăng truyện của mình. Trịnh Bá Ninh kể rằng, ông và đồng nghiệp cũng dè chừng, rất có thể sẽ có chuyện chẳng lành và nghĩ cách phòng thủ, bóc bài khi cần thiết.  Ấy là việc in  truyện của Nguyễn Huy Thiệp thành một tay báo riêng, để khi có biến là gỡ bỏ thày truyện khác vào vẫn kịp phát hành trước tết. May mà, mọi sự êm xuôi, lãnh đạo Bộ chủ quản còn khen báo tết  hay, truyện cảu Nguyễn Huy Thiệp hay. Nghe ngóng dư luaajun chung, cũng không thấy ban này bộ kia nhắc nhở  chuyện ấy. Tòa soạn thở phào, nhưng có lẽ mừng nhất, chẳng kém gì tác giả truyện, là Trịnh Bá Ninh, người đề xuất và sẵn sàng nhận trách nhiệm  nếu bị cho là sai sót từ việc ấy. Kể từ đấy, nhiều tờ báo khác bắt đầu cho đăng các sáng tác mới của Nguyễn Huy Thiệp. Đương nhiên, hầu như tết nào, Nguyễn Huy Thiệp cũng dành riêng một tryện ngắn cho báo Nông nghiệp Việt Nam., tờ báo ông  quý trọng từ nội dung đến nhân cách người làm báo. Cũng  vì thế, lúc còn sống, nhiều lúc Nguyễn Huy Thiệp cà phê Hàng Hành hay bát phố cổ thi thoảng ghé Tòa soạn báo Nông nghiệp Việt Nam uống trà chuyện phiếm cùng Trịnh Bá Ninh...
          Nâng niu, chăm nhà cây bút  thượng thặng là Trần Đăng Khoa và Nguyễn Huy Thiệp, Trịnh Bá Ninh cùng các đồng nghiệp của mình ở báo Nông nghiệp Việt Nạ cũng rất biết cách chiêu dung nhân tài, vì thế mà nhiều cây bút nổi tiêng xứ ta như Mà Văn Kháng, Bảo Ninh, hay những cây bút nổi tiếng gai góc như Tạ Duy Anh, Trần Huy Quang, Dạ Ngân ... đều góp mặt ở đây. Thời kỳ Trinhju Bá Ninh quản lý nội dung tờ báo cùng là thời kỳ có nhiều nhà văn đầu quân làm phong viên bản báo như Văn Chinh, Đỗ Bảo Châu, Vũ Hữu Sự, Thái Sinh,...
Báo  Nông nghiệp Việt Nam là một tờ nhật báo chuyên ngành của Bộ Nông nghiệp, nội dung chính chủ yếu các vấn đề về Tam nông (Nông nghiệp, nông thôn, nông dân) nên Trịnh Bá Ninh và ban biên tập tờ báo chủ trương bám sát các vấn đề thời sự về Tam  nông, lấy tiêu chí phục vụ cho các lợi ích của nông dân la hàng đầu, tuy nhiên, khi ra các số báo nhân dịp lễ te4ets, kỷ niệm này nọ, có điều kiện làm văn thì hàm lượng và chất lượng văn chương ở đây không kém một số tờ báo chuyên về văn chương, thậm chí chất lượng bài còn cao hơn, theo đánh giá của bạn đọc, bởi có nhiều bài viết hay, rất hay của các cây bút và nhà văn hàng đầu của Việt Nam. Có một điều quan trọng nữa là, phong cách làm báo của ông, tôi tạm gọi là là “phong cách báo Trịnh Bá Ninh” làn truyền sang thế hệ đàn em và để lại dấu ấn đậm nét đến giờ, kể cả  thái độ ứng xử, sự tôn trọng và độ tinh tế văn chương.
Là dân làm báo với nhau, biết nhau, hiểu nhau cả, Làm được như Trịnh Bá Ninh không dễ chút nào. Giờ nghỉ hưu, ông vẫn được một  số kênh truyền thông mời tham gia tư vấn trực tiếp về tam nông và nhiều vấn đề văn hóa xã hội khác.
Riêng về văn chương, không còn  là những khát khao cháy bỏng thuở nào, mà là độ đằm sâu đầy trách nhiệm.
Cùng với những bút ký đoạt giải các cuộc thi bút ký văn hijc từ những năm 80-90 thế kỷ trước, nhà báo Trịnh Bá Ninh còa hàng trăm bài thơ. Song đưa thơ mình ra với công chúng thế nào, là quyền của riêng ông ,..../.
 
 

Thay đổi trang: << < 45 | Trang 5 của 5 trang, bài viết từ 121 đến 136 trên tổng số 136 bài trong đề mục