VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( I )
Thay đổi trang: << < 789 > >> | Trang 7 của 10 trang, bài viết từ 91 đến 105 trên tổng số 138 bài trong đề mục
tamvanvov 14.06.2021 16:18:40 (permalink)
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.06.2021 16:20:33 bởi tamvanvov >
#91
    tamvanvov 20.06.2021 11:54:01 (permalink)
    Khói đồng cay mắt.... ( bản mới )
    Truyện ngắn
     
              Ngày ấy, chị mới ngoài ba mươi tuổi thôi và còn trẻ đẹp, hấp dẫn lắm ... Vậy nên,...
              Chị đã là mẹ của ba đứa con, lít nhít trứng gà trứng vịt. Ngoài đôi mươi, chị đã lấy chồng và đẻ liền hai đứa. Chồng chị là một người Nam tập kết ra Bắc, hơn chị đến chục tuổi, làm nghề kỹ thuật cơ giới. Ngay sau giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, anh Sáu, chồng chị thuộc diện lớp cán bộ đầu tiên được chọn về Nam gây dựng cơ giới ở tỉnh quê nhà. Chị khăn gói đưa hai con nhỏ theo chống về sinh sống ở tỉnh lỵ quê anh thuộc miền biên giới Tây Nam bộ. Vào trong đó, chị chưa có việc làm, chỉ chợ búa, cơm nước, trông con nhỏ. Phấn khởi, chị sòn sòn thêm đứa nữa, thành ra chưa đến ba mươi tuổi đầu đã là mẹ nái sề với những ba đứa con,... Vậy là, cắm mặt chăm sóc con cái, chị có biết trời đất bên ngoài thế nào đâu. Rồi gia đình chị chuyển về huyện lỵ quê nhà, lại vướng bận thêm các mối quan hệ bên nhà chồng, hỏi han thưa gửi là cạn ngày hết tháng. Mấy mà già?... Thực ra, chị cũng từng có quãng ngắn ngày son trẻ, phơi phới thanh xuân, yêu đời,...
              Hồi đó, chị độ tuổi đôi mươi.
              Mẹ chị mất sớm, sau khi sinh đứa em trai được vài tuổi, nhưng cha chị không tục huyền, gà trống nuôi hai chị em, nên dù nghèo nhưng chị được sống trong cảnh thương yêu đùm bọc, ấm cúng. Cái Tấm, ngoài việc đi học cũng giúp giập được cha nhiều việc nhà và cả việc đống áng nặng nhọc. Chẳng hiểu sao, cha mẹ lại đặt cho chị cái tên Tấm. Chắc là muốn chị có hậu vận sung sướng như cô Tấm trong cổ tích?
              Tấm sớm phổng phao, nên khi học hết cấp hai, chừng mười lăm tuổi, đã là cô gái xinh xắn. May thay, thu hết các nét đẹp của cha mẹ, Tấm  có vóc người dong dỏng, da trắng môi đỏ, tóc dài óng, và khuôn mặt có nét Tây, mắt to, xống mũi cao, miệng hơi rộng và hàm răng trắng đều đặn, khác hẳn với đám con gái quê. Thế nên, người làng bảo Tấm như con lai Tây. Đang độ tuổi phơi phới thì mẹ mất sau một thời gian lâm bệnh chữa trị không qua khỏi. Tấm không học lên nữa, ở nhà giúp cha nuôi em. Những năm đất nước chiến tranh, con gái quê, học thế cũng là đủ. Trời phú cho Tấm giọng hát hay, thuộc và hát theo được hầu hết các làn điệu chèo nghe được từ đài phát thanh trong các chương trình dân ca nhạc cổ. hay học lỏm khi xem chèo. Có năng khiếu vậy nên ở xã gọi tham gia vào đội văn nghệ, cũng biểu diễn thi thố này nọ. Xinh xắn và có năng khiếu văn nghệ như vậy, nhưng ở làng chẳng đám trai nào đánh tiếng, ngoài sự trêu chọc tán tỉnh của mấy tay cán bộ xã và đám đàn ông đã có vợ, trong khi đám con gái mới lớn bình thường khác lại đắt như tôm tươi. Hình như người ta ngại cái vẻ đẹp khác người của Tấm. Tấm cũng chẳng cần, bởi thâm tâm cô vẫn chờ đợi cơ hội để theo nghề văn công chuyên nghiệp. Và cô hội ấy đã đến, khi đoàn chèo tỉnh nhà về địa phương tìm tuyển người. Vẻ đẹp hình thể và khả năng ca hát trời phú nên Tấm trúng tuyển ngay. Những tưởng may mắn thì cha cô đột ngột qua đời vì một cơn bạo bệnh ngay sau khi cô nhận được giấy gọi nhập đoàn chèo tỉnh. Thật tình, Tấm không đang tâm tìm cơ hội phát triển tài năng nghệ thuật cho mình mà để lại đứa em trai chưa đến mười tuổi ở nhà một mình. Tấm đã mấy đêm mất ngủ, nước mắt vắn dài, đắn đo để đi đến quyết định không vào đoàn chèo tỉnh mà ở nhà làm ruộng nuôi em.  
              Cho đến giờ, chị cũng chẳng rõ quyết định ngày ấy của mình là đúng sai thế nào. Chỉ biết, chị không cảm thấy hối tiếc hay ân hận gì, thi thoảng lúc lòng dạ yếu mềm càm thấy chạnh lòng. Theo chồng về quê, một vùng đất viễn biên Tây Nam bộ, người ta thuần cải lương, vọng cổ, vui cũng ca mà buồn cũng ca, chị ngỡ quên hết những làn điệu chèo mà trước đây chị thuộc nằm lòng. Vậy chứ, thi thoảng, những lúc ở nhà một mình, chạnh buồn nhớ quê ngoài Bắc, chị cất lời hát đôi làn điệu Đường trường thu không, Đường trường trong rừng man mác, đủ buồn. Trong đầu chị vẫn âm u làn điệu Sử rầu, Lần thảm, nhưng nó bi ai quá, chị không dám hát vì sợ vận vào thân. Có lần, lâu lắm rồi, ấy là sau lễ Thất tuần bố chị, cám cảnh thân phận mình, phải ở nhà nuôi em, từ bỏ ước vào văn công để trở thành nghệ sĩ hát chèo, chị đã hát Sử rầu. Là hát cho sự chua xót nỗi lòng, thân phận. Và kể từ đấy, thôi hẳn. Cũng có khi, nhà có nhậu, anh Sáu, chồng chị ngà ngà say, khoe với bạn nhậu bảo chị hát chèo, chị giữ thể diện cho chồng, cất lời điệu Lới lơ vui tươi gây không khí. Lời hát thì vui, nhưng ngừng lời, lòng người hát lại buồn, nhớ quê da diết. Cả tuổi thanh xuân, lớn lên ở một làng quê Bắc bộ, cách sông Cái không xa, chị thân thuộc với mái nhà tường đất mái rạ, với con đường làng quanh co lát gạch nghiêng long lở, với những hàng rào râm bụt hoa đỏ, mây gai, hoặc ô rô, hay cúc tần có dây tơ hồng quấn quýt. Vùng quê chị, ngoài lúa còn có đay và đất bãi trồng ngô, Vào đây, cảnh sắc đồng ruộng khác hẳn, chỉ có lúa, tràm và cỏ dại. Một năm chỉ có hai mùa, mùa mưa thì hầu như ngày nào cũng mưa, nước sông Hậu tràn về mênh mông, chỉ có những ngọn núi vùng biên ải này là nhô lên và các chòm ấp cùng những hàng thốt nốt phất phơ trên biển nước trắng xóa một màu... Còn mùa khô thì cơ khổ, nóng và bụi, ba bốn tháng trời không một giọt mưa. Nắng chang chang từ mờ sáng đến mờ tối. Khói đốt đồng lên mờ mịt cả bầu trời. Lại thêm những làn bụi đường cuộn lên mỗi khi có xe chạy, khiến người đi đường và nhà cửa cặp mé lộ ngập chìm trong làn bụi đất. Cái kiểu thời tiết đặc trưng vùng miền này chị mãi không quen...
              Vùng đất Thất Sơn, đồng bằng lầy thụt xen lẫn núi này thật chẳng đâu có trong cả xứ miền Tây này. Anh Sáu, chồng chị bảo, cả vùng có tới hơn ba chục ngọn núi có tên gọi, nhưng người ta chỉ chọn bảy ngọn núi làm biểu tượng chính ấy là các núi Cấm, Tượng, Dài, Tô, Sam, Két, Tà Biệt. Cũng nhiều người kể tên khác, nhưng với chị thì như nhau cả thôi. Nhà chị ở cách chân núi Nam Vi không xa, nên chị hay lên núi này kiếm củi, tìm cây thuốc và dọn chút rẫy trồng khoai mì. Quê anh Sáu gần chân núi Dài, mỗi khi rảnh rỗi anh hay cùng đám bạn và người bà con lên núi đốt than và đi săn thú rừng.
              Yên ổn gia đình sau chiến tranh biên giới Tây Nam, anh Sáu cậy nhờ xin cho chị vào làm người nấu ăn bếp tập thể liên cơ quan huyện gồm nông, lâm, thủy lợi, cơ giới. Khu liên cơ đóng trong một khu vườn rộng hàng chục công đất, dày xanhg cây cối, những xoài, dừa, mãng cầu, vú sữa. Đây là một khu tịnh xá cũ vô chủ được trưng dụng do người chủ cũ bỏ lại chay ra nước ngoài dịp giải phóng niềm Nam năm 1975. Cả thấy vài chục người ăn tập thể, mình chị xoay xở cũng vất, phụ cấp thấp nhưng có việc làm và thu nhập là vui rồi. Có điều tiền ăn ít nên việc đổi món thật khó bề. Cứ ngày ngày, mớ cá rô, chia ra, nửa đem kho tiêu, nửa nấu canh chua me rau súng. Ăn mãi cũng chán. Mùa nước nổi về thì đỡ hơn. Chị lọ mọ lội nước cánh đồng trũng ngay sau cơ quan nhặt được ít cua đồng và vài bó rau muống đồng, về nấu riêu cua và rau muống xào tỏi, ăn lạ miệng, ngon đáo để.
              Chị vui hơn khi bếp ăn cơ quan đông thêm khi có người bổ sung. Ấy là mấy cán bộ kỹ thuật, trong đó có một chàng kỹ sư nông học mới tốt nghiệp ra trường được điều từ ngoài Bắc vào. Bảo, chàng ký sư trẻ này lại là đồng hương hàng tỉnh với chị. Vậy là hai chị em nhanh chóng thân nhau. Chị coi Bảo như cậu em trong nhà, quý như cậu Vinh, em ruột chị vậy. Bảo dáng dấp thư sinh, kiểu người ít lao động chân tay, là con trai duy nhất và út trong nhà, bên trên có mấy chị đỡ hết việc nặng nhọc cho, nên cậu ta chỉ biết đôi việc lặt vặt như chăn trâu, tát nước. Tiếp xúc gần, chị thấy cậu chàng hiểu biết, thông minh và ăn nói cũng khá. Ngày chủ nhật, hễ nhà có món nhậu là anh Sáu chồng chị lại sai con đi mời cậu Bảo đến nhậu cho vui. Bảo khéo tay, hằng tháng, cậu chàng đến nhà chị hớt tóc cho mấy cha con anh Sáu. Những ngày đầu, Bảo háo hức, còn đòi theo chị lên núi hái cây thuốc và kiếm củi về đun.
              Mùa đốt đồng, nhằm chủ nhật, chỉ rủ Bảo đi đốt rơm rạ trên mấy công đất trồng lúa của gia đình. Hai chị em kẽo kẹt đèo nhau bằng xe đạp xa gần chục cây số. Rồi lại băng ruộng mệt nhoài mới tới nơi. Hai chị em ôm rơm rạ chất thành đống, Chị quen việc không sao, chứ Bảo sức vóc thư sinh, làm một lúc đã mồ hôi nhễ nhại. Châm lửa đốt, khói lên nghi ngút về trời. Hai chị em ngồi nghỉ uống nước, ăn bắp luộc. Nhắc chuyện quê ngoài Bắc, Bảo nói nhớ nhà, nhớ mẹ. Chị cũng thấy nhớ, cất lời hát điệu Đường trường thu không. Lâu không hát, giọng không nhuần nhưng vẫn đúng giai điệu. Man mác buồn. Làn điệu chèo giữa đồng quê Tây Nam Bộ nghe có gì đó là lạ. Chị dứt lời, hỏi Bảo bớt nhớ nhà chưa, thì cậu chàng chỉ cười nhẹ, rồi đọc nho nhỏ mấy câu thơ. Chị nghe câu được câu mất, cũng là nỗi nhớ quê, nhớ mẹ, nhớ người yêu chi đó... Để ý, thấy cậu chàng rụi tay đầy nước mắt. Chị đùa là khóc nhè nhớ người yêu, thì cậu chàng chối, bảo khói đồng vào cay mắt thôi. Mùa đốt đồng, khói gọi khói, các đồng rấm rải trác khắp đồng nghi ngút như mây, cuộn lơ lửng trong nắng quái hoàng hôn đỏ bầm, ma mị, ám ảnh. Lúc về, thấy cậu chàng mệt, chị nhận phần đạp xe. Bảo ngồi sau có vè ngượng vì để đàn bà đèo, nhưng do mệt quá, tựa đầu vào lưng chị, thiu thiu ngủ thì phải. Bàn tay cậu chàng bám nhẹ vào eo bụng chị, vô tình tạo cảm giác lâng lâng, chị đạp mải miết mà không thấy mệt...
              Thấm thoắt vài năm qua qua nhanh. Bếp tập thể liên cơ quan giải tán. Chị mất việc làm, ở nhà trông giữ con, nuôi thêm bày gà và mấy con heo thịt làm vui. Không còn bếp ăn tập thể, Chi lo cho Bảo ăn uống thất thường, nhưng cũng may, cậu ta quen thung quen thổ, có chỗ thân quen đi lại và cũng thêm bạn bè nhậu nhẹt. Chị vẫn giữ lệ, hễ nhà có mồi nhậu ngon ngon chút là sai con đi mời cậu Bảo đến nâng ly làm vui. Cậu Vinh, em trai chị về quê ngoài Bắc khi trở vào đưa theo một người con gái họ bên mẹ chị. Những tưởng vào chơi thăm thú tính kế làm ăn, nào ngờ cô nàng ở tịt nhà chị, rồi hai anh ả lằng ngoằng với nhau có thai. Chị cản không được, hai đứa lấy nhau và xin ở riêng. Chị giận em trai mà cũng thương cho cái thân mình, nuôi em lớn nhưng bảo em không được, để ra nông nỗi này. Nghĩ mà buồn, thấy uổng phí cái công mình đã hy sinh cả thanh xuân, tài năng bỏ đoàn chèo ở nhà làm lụng muôi em trai mà giờ nó đổ đón ra thế. Hai nhà cách nhau có một quãng thôi, nhưng ít qua lại, vì cô em dâu bất đắc dĩ kia e ngại, tránh mặt chị. Tình thương em trai, chị chuyển sang cho Bảo. Chị chịu khó nấu nướng các món ăn kiểu Bắc mời Bảo đến ăn...
              Mùa nước nổi về, thật thích. Cả  cánh đồng mênh mông dưới chân núi Dài trắng băng một màu nước, ngút ngàn đến tận mạn kinh Vĩnh Tế. Người ta chị còn nhận biết đâu là lộ bởi những làn khói bụi đường, khói xăng xe bay lên, và đó đây hàng cây thốt nốt và dừa để phân định bờ đất.  Con đường dài mấy chục cây số từ thị xã Châu Đốc đi Tịnh Biên, Tri Tôn mảnh như một sợi chỉ, những hòn núi to như Cấm Sơn, Nam Vi và những quả núi nhỏ khác nổi lổn nhổn trên đồng nước chẳng khác gì đám dừa điếc khô rụng rơi nổi lềnh bềnh. Xa xa, bờ kinh Tám Ngàn ngày đêm rộn ràng tiếng ghe xuồng, tắc-ráng phành phạch. Nước lên to, cùng với tôm cá theo về là cua và chuột đồng. Chị và hai thằng cu con đầu, má con rủ nhau đi nhặt cua và bẫy lưới bắt chuột đồng. Cua thì con nào con nấy to cộ bò lổm ngổm cắt ngọn lúa, còn chuột đồng thì từng đàn bám đuôi nhau bơi thành dây, đớp đọt cỏ non trên mặt nước rồi leo lên thân dừa, thân cây thốt nốt, thân tràm trú ngụ khi no bụng. Thế nên, người miền Tây mới gọi chuột đồng tránh đi là sóc tràm cho bớt ghê... Chị tha hồ trổ tài bếp núc làm các món ngon như chuột đồng quay, chuột bỏ lu, cua đồng rang xả ớt, cua đồng muối nặm, hay nấu riêu chua me, hay nấu rau đay rau dền cơm... Anh Sáu, cậu Bảo có mồi ngon nhậu, còn đám trẻ con thì thức ăn đãy bụng.  Cả nhà tuần nào cùng vài ba bữa tưng bừng.
              Một lần, Bảo nghỉ phép ra Bắc cả tháng, trở vào, dáng vẻ buồn buồn ít nói. Chị làm đồ nhậu, để anh Sáu và Bảo cụng ly mừng gặp lại sau chuyến đi phép của Bảo. Bữa nhậu, chị hỏi han luôn miệng, nhưng Bảo chỉ trả lời cầm chừng, mặt mũi vẫn không vui lên chút nào. Đoán có chuyện, nhưng chị không nài hỏi thêm. Thời gian sau, Bảo lăn ra sốt. Sốt rét. Vùng này nổi tiếng là vùng sốt rét. Những ai từ vùng khác đến đây sinh sống, dù có giữ gìn mấy thì không trước thì sau cũng nhiễm sốt rét. Chị và mấy người quen lo thuốc thang, cơm cháo cho Bảo. May mà cũng nhẹ nên nhanh qua khỏi. Nhưng sau trận sốt, Bảo gày và xanh xao, cử chỉ chậm chạp, tính tình mềm yếu hẳn đi. Chị thương Bảo nhiều, nhưng cũng chẳng thể giúp gì hơn. Chị luấn quấn với đám con đã mệt nhoài ra rồi, nay lại mới mang bầu đứa nữa, chẳng biết sẽ xoay xở ra sao đây. Mỗi chủ nhật, không phải đi làm, Bảo hay ra nhà chị, có việc vặt gì thì làm giúp. Chị cũng lấy đó làm vui.
              Mùa hè năm ấy, hai thằng cu lớn được nghỉ hè. Anh Sáu hứa cho chúng theo lên rãy làm khoan mì và dạy cách làm than củi. Bữa cơm trước khi lên rẫy, có mấy ký thịt nhím rừng do một người quen bẫy được gửi cho, chị trổ tài làm món xào lăn xả ớt và món cà ri ăn với bún. Anh Sáu và Bảo cụng lý liên tục. Chị ăn qua loa rồi ra xếp đồ đạc cho mấy cha con ở rãy cả tuần. Buổi chiều, anh Sáu đánh xe bò chở đầy nhóc đồ đạc lên rãy. Hai thằng cu con mừng vui gõ vung nồi hát váng lên. Chị dọn dẹp nhà cửa. Bảo quá chén, nằm bệt ở bộ ngựa gian ngoài ngủ ly bì. Chốc chốc cậu chàng lại ngóc đầu dậy thổ ra chiếc chậu chị đặt sẵn bến dưới. Rõ khổ, bữa nay quá chén, lại cảm gió chi đây nên mới như vậy. Chị lấy nước cho Bảo uống, rồi bắt cậu chàng nằm sấp để chị giác gió khắp lưng. Nghe chừng cũng đỡ nhiều, nên Bảo ngủ thiếp đi.
              Trời sẩm tối. Chị bắc nồi cháo lên bếp để lát cho Bảo ăn giã rượu. Tắm táp cho đứa bé và lấy cơm cho ăn, rồi chị đi tắm. Cái buồng tắm đơn sơ phía sau buồng trong và bếp, được quây bằng lá dừa khô, cũng chỉ để cho đàn bà con gái dùng thôi, chứ đàn ông thì khỏi cần. Là cách nhớ thế thôi, chứ lúc tối trời, chị ngồi cạnh lu, cởi bỏ áo múc nước dội lên người loáng chút là xong, lâu thành quen thế rồi. Dân miệt này các nhà đều vậy cả. Vừa dội nước, nhìn mảnh trăng non nhô đầu núi, tự nhiên vui miệng, chị nhớ đến một điệu chèo và cất tiếng khe khẽ hát. Bỗng cảm giác có gì là lạ, bèn ngoái nhìn, chị giật mình vì thấy Bảo đang đứng ở cửa bếp gần sau lưng chị lặng nhìn. Chị khẽ kêu ối. Bảo ấp úng: “Đang mơ ngủ, nghe như ai hát... Thì ra là... Chị hát chèo hay quá...”. Chị lúng túng, quờ tay lấy cái áo vắt nhanh lên bờ vai che ngực: “Ồ, cậu Bảo...  đã tỉnh rượu rồi ha? ... Chị xong rồi đây. Cậu vừa xỉn dậy, chớ có tắm mà cảm đó nghen...Lau người qua cho mát thôi,... để chị lấy cháo cho cậu ăn. Cháo ngon lắm...”.  Chị cũng cảm nhận giọng nói không bình thường của mình. Bảo vẫn đứng nguyên đấy, nhưng ý tứ nhìn nghiêng ra mé lộ: “Em vẫn mệt lắm... Bụng còn  nôn nao. Chỉ thấy khát nước thôi...”. Nói rồi Bảo trở lui, đi ra buồng ngoài. Chị vội vàng thay quần áo, luýnh quýnh thế nào, xỏ nhầm cả ống quần...
              Chị dọn mâm. Mâm cơm chỉ có hai người. Chị ăn những thức ăn cũ còn lại từ bữa trưa. Bảo ăn cháo, món cháo thơm ngon mùi gạo mới, có thịt nhím băm nhỏ, bỏ hành răm cho giải cảm. Bảo ăn uể oải, cố ăn hết tô cháo để chiều lòng chị. Bữa ăn kéo dài, vừa ăn vừa chuyện. Lúc này, chị mới lựa lời hỏi chuyện Bảo chuyến ra Bắc vừa qua. Bảo nói mẹ câu năm nay yếu nhiều, nên đang tính gắng ở lại đây một thời gian rồi ra Bắc xin việc. Chị chỉ biết nói lời động viên, nhưng thực lòng, nếu Bảo ra hắn ngoài Bắc, chị sẽ rất buồn, cảm như mình mất đi chỗ dựa tinh thần. Bảo định xin phép về khu liên cơ thì chị gàn, bảo ở lại đây ngủ, bởi sợ người còn yếu, sợ đêm hôm ngoài trời gió máy, ngộ nhỡ làm sao thì khổ. Không hiểu sao, chị muốn Bảo ngủ lại. Rồi chị xếp mềm gối bộ ngựa gian ngoài dọn chỗ ngủ cho Bảo. Cậu chàng chỉ còn biết nghe theo. Còn chị và đứa nhỏ ngủ buồng trong...
              Chị và Bảo lội bì bõm bắt cua trên đồng ngập nước mênh mông. Thảm lúa hè thu bị lướt đi bởi nước ngập tận ngọn. Cỏ năn nác mọc chen lẫn. Những con cua càng to kềnh càng chẳng sợ người, lổm ngổm trên ngọn co giơ càng nghiến cắt ngang ngọn lúa, thấy động thì lấc láo cặp mắt lồi thô lố ra nhìn và giương càng lên phong thù chứ không them bò chạy. Chị lựa chiều tay tránh càng. chộp ném vào chiếc thùng tôn. Bảo vụng về hơn nên thỉnh thoảng bị cua cắp tay đau kêu oai oái. Đang mùa mưa lũ, mây đen kéo lên rất nhanh rồi mưa xuống như trút. Chị em hò nhau chạy mưa lên bờ kinh, tìm chỗ trú mưa. Chạy vội, chị vấp chân trong bùn ngã rúi rụi xuống ruộng nước. Bảo vội chồm tới đỡ chị lên. Mưa ngập ướt, quần áo bết vào người, Bảo giúp chị gột bùn đất, chẳng hiểu vô tình hay hữu ý, tay Bảo quờ quạng đụng vào bầu ngực căng mẩy của chị...  ”Ấy đừng... đừng...”, chị buột miệng và bừng tỉnh. Thì ra chị vưa thiếp đi, mê ngủ vậy thôi. Đang ngẩn ngơ hư thực, trong ánh sáng mù mờ của ngọn đèn hãm nhỏ treo trên bếp, chị nhột người nhận ra Bảo đang ngồi ghé mép giường ngủ, Chị nhắm mắt vờ ngủ thì Bảo khẽ cúi người xuống, chạm nhẹ môi vào trán chị, rồi lướt khẽ chạm vào đầu mũi và dừng ở môi chị. Chị mơ màng êm ái tận hưởng sự đụng chạm. Rồi nữa, đôi bàn tay Bảo đặt vào hai bầu ngục chị đang căng mẩy lên. Và một bàn tay rời bầu vú trướt nhẹ xuống dưới thân, lập tức chị hiểu cái đích đến của bàn tay ấy nhưng khi nó lướt đến cái bụng bầu thai mấy tháng lùm lùm thì dựng lại... Bảo rút tay lên e dè... “Đừng...đừng...”. Chị khẽ đảy tay bảo, ngồi dậy. Phía trong giường, đứa bé vẫn ngủ say... Bảo lắp bắp: “Nước...khát nước”... Chị chỉ chỗ, Bảo chui ra khỏi mùng, rót nước ra cốc, uống ừng ực, thở hổn hển, tần ngần rồi trở ra buồng ngoài. Chị không tài nào ngủ lại được nữa, nghe tiếng Bảo lát lát trở mình, thở dài... Vắt tay ngang mày, suy nghĩ đắn đo một hồi, chị nhỏm dậy, nhìn đứa bé con vẫn say ngủ, nén thở, ra khỏi màn. Chị thổi tắt ngọn đèn dầu hãm nhỏ ở bếp, rồi nhẹ chân ra buồng ngoài. Ánh sáng sao đêm hắt qua cửa sổ sáng mờ. Chị rón rén đến ghé ngồi bên mép bộ ngựa nơi Bảo ngủ. Chị nghe rõ tiếng thở và nhịp tim mình đập mạnh. Như hồi chị con gái mới lớn lén ghé bên hàng rào nhìn trộm chàng trai trẻ hàng xóm sắp vào quân ngũ. Chị lưỡng lự, rồi đặt bàn tay khẽ vuốt mái tóc Bảo. Cậu chàng nằm co như con tôm, quay mặt vào trong, im thít như ngủ. Vuốt tóc Bảo một lát, chị mạnh bạo co chân vào trong mùng, xoay mình nhẹ nhàng nằm xuống bên cạnh, choàng tay ôm Bảo vào lòng. Nghe tiếng thở, chị biết Bảo thức nhưng nằm im không phải ứng. Tay chị vòng ôm bụng Bảo vừa khẽ kéo vào lòng vừa nhích mình để hai thân thể vừa khít cánh cung. Chị cảm nhận bầu ngực mình khẽ tì vào lưng Bảo. Im lặng . Chị đưa tay chạm khuôn mặt Bảo thì thấy ươn rướt. Vai Bảo khẽ rung và chị biết Bảo khóc. Chị lặng lẽ cởi cúc áo để bộ ngực trần chà nhẹ. Bảo nấc nhẹ, nhệu nhạo “Cô ấy không chờ đợi được nữa... bỏ... nhận lời với người khác rồi...”.  Chị không kìm mình được nữa, đột ngột xoay người Bảo và cậu nương theo ấp cả khuôn mặt mình vào bầu ngực chị. Bảo rụi rụi mặt, nức nở thành tiếng. Chị ghì đầu bảo vào bộ ngực trần của mình, cảm nhận nước mắt Bảo ướt dẫm hai bầu vú, vỗ về: “Thôi nào... Khổ thân... Tội nghiệp quá... Không sao đâu....”. Bảo cứ lắp bắp, chẳng rõ nói gì. Rồi đôi môi Bảo ngập ngừng chạm vào đầu vú chị đang mẩy căng của người đàn bà mang bầu, bên này rồi bên kia, như một kẻ tham lam, háu đói, lâu ngày... Tay Bảo lần sờ xuống thân dưới chị, bắp đùi, bẹn, lướt nhẹ qua vùng kín và dừng lại ở vòm bụng lùm lùm. Chị ý thức, đưa tay mình ấp lên bàn tay Bảo ở vòm bụng, giữ không cho bàn tay ấy di chuyển nữa. Bảo không dám nhúc nhích, nhưng người như căng lên như cánh cung đang kéo chờ buông dây... Chị nén mình thở trút ra thật nhẹ kiểu đánh úp, một tay chị vẫn giữ bàn tay cậu trên bụng mình, tay kia chị rờ nhẹ lướt từ bụng xuống dưới chạm chỗ phồng căng, dừng lại... Chị nhắm nghiền mắt, sợ mở mắt ra thì tỉnh cơn mê mà ý thức... Trong mê loạn, vô thức, bày tay chị làm trò ảo thuật, Bảo ngậm cả bầu vú chị đầy miệng, bên này, nhả, bên kia, lập bập, mê mẩn... Cả hai mê sảng, tê dại, lịm đi...
              Chị bừng tỉnh, ý thức. Bảo vẫn ngậm bầu vú ngủ lịm. Hai bàn tay trên vòm bụng vẫn ấp vào nhau, chị khẽ rút bàn tay kia dính dấp và cảm nhận mình ướt át. Lặng im, chị khẽ thở dài, nhích người rút bầu vú ra, ngồi dậy, cài khuy áo, nhẹ ra khỏi mùng. Hình như trời đã dần về sáng. Trở vào buồng trong, không dám thắp lại đèn, vì không muốn cơn mộng mị tan mất, lần mò bóng tối rút then, mở cửa sau, ra lu nước, rửa qua mình mẩy. Trở về giường, ghé nằm xuống cạnh con, chị vẫn lâng lâng. Tự hỏi lòng mình, tình cảm với Bảo như thế nào, rồi nhủ lòng, đương nhiên như cậu em quý mến rồi. Gì nữa? Chắc có chút tình cảm ngoài tình chị em, bởi không sẽ chẳng thể có chuyện này?... Thực ra, cả thời thanh xuân, xinh đẹp, chị đã từng yêu ai đâu, ngoài bóng dáng anh chàng hàng xóm có họ xa, điển trai, vừa kịp lớn đã vào lính rồi hy sinh. Với chồng chị, anh Sáu, ấy là sự cảm thông, tình thương dành cho một người đàn ông lớn tuổi, xa quê phải sống độc thân nơi đất Bắc, là sự đền bù cá nhân nhưng lại mang cái danh chung dành cho miền Nam còn trong cảnh chia cắt, là nghĩa vợ chống chung con chung của. Mang tiếng là ngấn ấy mặt con, ăn ở với nhau hơn chục năm trời, đêm đêm đầu gối tay ấp, nhưng chị luôn là người thụ động, nhiều khi là cam chịu. Đã bao giờ chị chủ động và quyết liệt trong bày tỏ tình cảm của minh đâu. Chị có băn khoăn, dẫu sao chị là gái có chồng, gần sắp bốn đứa con, nhưng chị mới ngoài ba mươi tuổi thôi mà, vẫn còn trẻ đẹp, hấp dẫn lắm .. Chẳng hiểu Bảo có ý thức tình cảm của chị không, hay là cậu ta chỉ nghĩ về cô người yêu cũ và coi chị như một kẻ thay thế chốc lát lúc cô đơn? Thôi kệ, nghĩ nhiều mà làm gì, chị tin vào sự thành thật của mình và sự đón nhận nồng nhiệt của Bảo, xem như một sự an ủi với cả hai. Chị thiếp đi...
              Cả nửa tháng sau đó, Bảo không qua nhà chị. Còn chị chút lăn tăn nhưng bận rộn quên đi. Anh Sáu và hai đứa lớn từ rãy trở về nhà. Nhịp sống thường ngày hối hả. Rồi không nén được, chị đi chợ thị trấn và tiện thể ghé qua căn phòng tập thể của Bảo ở khu liên cơ. Bảo có nhà, đang ôm ghi ta tập một bài gì đó. Chị chủ động: “Lâu lâu không thấy cậu ghé nhà, chị đi chợ, vào thăm sợ cậu đau yếu chi ?...” . Bảo cười gượng: “À không... em bận vừa đi xã mấy hôm mới về, chị...”. Chị em đôi câu chuyện không đầu cuối, chị để lại bịch vài chục trứng: “Cậu nhớ ăn, kẻo một mình ngại nấu, ăn qua loa là không đủ sức khỏe đâu... Cậu nhớ vừa  qua sốt rét đấy nha...”. Chị ra về, Bảo tiễn chị một đoạn đến cổng cơ quan, lúng búng: “Chị Tấm... em thật có lỗi...”. Chị nhìn Bảo, cười buồn: “Bữa nào rảnh qua nhà... lỗi chi đâu... là ở chị... Để chị bảo anh Sáu kiếm chút mồi, cậu qua nhậu cho vui... Anh Sáu lâu không thấy cậu, nhắc hoài đó... Đâu như anh có cái dạ dày nhím rừng mang ngâm rượu, nói là xớt cho cậu một phần dành để chữa bệnh đâu bao tử... Quý lắm đó... Nhớ qua chi nghe...”. Bảo gật đầu...
              Ít ngày sau, Bảo nói nhận thư nhà, rồi cậu chàng làm đơn xin nghỉ không lương ra Bắc chăm mẹ bệnh nặng. Chừng mấy tháng sau, Bảo trở vào, làm thủ tục chuyển công tác ra Bắc hẳn. Cậu chàng bận rộn thủ tục giấy tờ, chào hỏi, chia tay người quen bạn bè, nhậu liên miên cả tuần. Trước hôm đi, Bảo mới dành ăn bữa cơm chia tay với gia đình chị. Bữa cơm bùi ngùi, người đi kẻ ở. Chuyện đêm ấy, chị không nghĩ là mình dâng hiến, đơn thuần, có thể, đấy là lần cuối cùng ngọn lửa tình dục trong chị bùng cháy, để rồi dần tàn lụi. Bảo ít nói, trong khi anh Sáu liên thuyên đủ chuyện, say líu cả lưỡi. Chị phải gàn anh chớ ép rượu Bảo để cậu tỉnh táo sớm mai đi xe về Sài Gòn. Ánh mắt chị và Bảo thỉnh thoảng gặp nhau, soi rọi nỗi niềm riêng. Đêm ấy, anh Sáu tỉnh rượu, cứ vần vò này nọ, thây kệ cái bùng chềnh ềnh sắp sinh của chị...
              Bảo ra Bắc ít ngày thì chị sinh bé Út Hường. Vậy mà, cho đến khi, Út Hường học xong, đang lo xin việc làm thì Bảo trở lại mảnh đất này. Bảo đã là người đứng tuổi, chững chạc, và là người thành đạt, có con lớn đang học đại học rồi. Hơn hai mươi năm qua, chị không gặp lại, dù thi thoảng vẫn nghe được tin tức này nọ. Bảo già đi nhưng vóc dáng vẫn kiểu thư sinh xưa. Còn chị đã thành bà lão rồi. Gánh nặng gia đình đông con, chồng quanh năm say xỉn khiến khuôn mặt xinh đẹp nét Tây xưa đầy nếp nhăn, và đầu tóc rụng thưa vãn, thân hình dỏng cao thành gù xuống. Hai chị em khi thì tranh nói, lúc lại lặng thinh. Ngần ấy năm xa cách, chị rất sợ vầy mà đã vài lần phải hát điệu Sử rầu. Chị phải tiễn biệt anh Sáu và hai kẻ đầu xanh, đứa do tai nạn, đứa thì bệnh tật. Chị đứng vững trên cõi đời này đã là khó nhọc lắm rồi. Nhưng nay chị có chút niềm vui, vì sau lần trở về thăm chốn cũ, Bảo nhận lo việc làm cho Út Hường, và nhờ đấy, bé lập gia đình, làm chỗ dựa cho chị. Chị theo vợ chồng Út Hường lên thành phố giữ cháu. Ở thành phố, đông vui là thế, nhưng chiều chiều, chị lại bồng cháu ra ngõ, nhẩn nha hát ru, ngóng về miền Tây mà nhớ quay nhớ quắt ruộng đồng mênh mông, kinh rạch và bóng núi Dài, núi Cấm...
              Thấm thoắt, giờ thì cô Tấm xinh đẹp hát chèo hay nhất làng ngày xưa đã là một bà lão gần bảy mươi lưng còng xuống, sống ở căn nhà nhỏ trên nền đất cũ gần ngã ba lộ. Mùa đốt đồng, mỗi chiều bà lão hay kê ghế ngồi trước sân nhà hóng mặt về phía đồng xa, nơi những cuộn khói đốt đồng đùn lên quấn quện thành những dải mây. Mắt bà rớm nước, chắc không phải do khói đốt đồng cay mắt... ./.
     
    #92
      tamvanvov 17.07.2021 17:06:38 (permalink)
      Bố bản Đặng Quang Tình ( phần I )
      ( Chân dung nhà văn Đặng Quang Tình )
       
                Dân báo chí ở Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), thế hệ sinh vào những năm tám mươi trở về trước, hễ nhắc đến nhà báo Đặng Quang Tình đều gọi ông bằng một cái tên dân dã trìu mến là Bố bản.
                Sở dĩ vậy, là bởi, nhà báo Đặng Quang Tình có rất nhiều năm làm công việc Phát thanh Dân tộc và từng là Trưởng ban Phát thanh Dân tộc đầu tiên kể từ khi ban biên tập này được thành lập. Hơn nữa, còn bởi, dáng vẻ bên ngoài giản tiện, phong cách sống của người đã có  nhiều năm sống và làm việc với người dân tộc thiểu số. Có thể nói, nhà báo Đặng Quang Tình là một trong số ít người ở xứ ta am hiểu và viết xuất sắc về cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam cả báo chí và văn chương. Bằng chứng, trong quá khứ. Khi còn sung sức, Đặng Quang Tình đã từng bốn lần đoạt giải cao trong các cuộc thi văn chương danh giá ở xứ ta với ba lần ở thể loại truyện ngắn và một lần ở thể loại bút ký và nội dung các sáng tác này của ông đều về đề tài miền núi dân tộc...
       
      1. 1.     Tư cách một nhà văn và những giải thưởng văn học,
       
                Mặc dù cho đến thời điểm hiện tại, Đặng Quang Tình ở độ tuổi gần chín mươi, ông vẫn chưa là hội viên của bất kỳ một hội nhà văn nào. Ông sống ở Hà Nội cùng các con, sau khi nghỉ hưu từ Đài Tiếng nói Việt Nám (VOV) đã hơn hai chục năm nay. Thường người cầm bút như ông, đều là hội viên của vài ba hội danh giá, ví như hội viên Hội Nhà văn Hà Nội, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam chẳng hạn. Nghe nói, lâu lắm rồi, Đặng Quang Tình từng có đơn gia nhập Hội Nhà văn Việt Nam và hiện hồ sơ công tác hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam vẫn còn lưu giữ lý lịch trích ngang của ông. Song hằng năm, mỗi đợt kết nạp, người ta dường như đã quên tên ông thì phải?...
                Đặng Quang Tình không hài lòng về việc này thì có, song ông không vì thế mà sốt ruột, hay tiếng bấc tiếng chì trách cứ. Với ông, đơn giản, khi còn cảm hứng và sức lực, viết được gì thì viết thôi. Chẳng vậy mà, trước lúc nghỉ hưu, ông mới chỉ có duy nhất một tập truyện ngắn là Hoa rừng (Nxb Tác phẩm mới, 1986) và một số truyện ngắn, bút ký in trong các tuyển tập của một số nhà xuất bản Hội Nhà văn, Giáo dục, Văn hóa, Dân tộc, Lao động và Hà Nội... cùng những sáng tác đăng tải rái rác ở các báo Văn Nghệ, Người Hà Nội, Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh v.v...
                Sau khi nghỉ hưu, Đặng Quang Tình cho xuất bản tập sách thứ hai, đó là tập truyện Trăn trở (Nxb Lao động, 2001), và rồi bất ngờ ông tăng tốc. Chỉ trong vòng mười lăm năm sau, ông cho ra đời các tiểu thuyết Hướng về Đông (Nxb Lao Đông 2009). Những cánh chim bạt gió (Nxb Hội Nhà văn 2011), Âm thầm (Nxb Lao Động 2015) và Tập truyên ngắn Một thời giông bão (Nxb Hội Nhà văn 2010). Như vậy, ông viết còn sung sức hơn thời kỳ còn công tác. Với ông, dường như khi nghỉ hưu, hàng ngày không phải bận rộn với công việc quản lý báo chí, những phẩm chất sẵn có trong mình, ấy là vốn tư liệu sống của một người nhiều năm lăn lộn làm báo và bút pháp văn phong cỉa một nhà văn đã được khẳng đình, chỉ cần ngồi vào bàn là nên tác phẩm. Quả là, một người từng trải, đi nhiều, hiểu nhiều, vốn sống ngồn ngộn mà thời gian lại thiếu, thì khi có, những đứa con tinh thần cứ theo nhau mà ra đời.... Nếu chỉ tính số đầu tác phẩm, thì quả là Đặng Quang Tính chưa phải là nhiều, nhưng dấu ấn văn chương của ông lại khá đậm nét...
                Cuộc thi truyện ngắn của Báo Văn nghệ (1974-1975), là cuộc thi viết kéo dài cả trước và sau giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, vậy mà Đặng Quang Tình đã đoạt giải Nhất với truyện ngắn “Trên vành chảo Điện Biên”. Kế tiếp, cuộc thi truyện ngắn của Báo Văn nghệ (1978-1979), thời gian đó xảy ra cuộc chiến trang biên giới phái Bắc chống quân bành trướng Trung Quốc, Đặng Quang Tình lại giành giải Nhất với truyện ngắn “Ông Thào”. Như vậy, ông liên tục đoạt giải cao nhất của hai cuộc thi văn học danh giá liền nhau, mà hiếm có, đúng ra, chưa có cây bút nào ở nước ta đạt được. Mảng đề tài cùng là miền núi và dân tộc thiểu số, nhân vật chính cùng là người Mông ở Việt Nam. Dù trong thời kỳ nào, làm cách mạng, kháng chiến chống thực dân Pháp, xây dựng bản làng phát triển kinh tế, chống giặc là những người đã từng là bạn bè anh em, thì người Mông nói riêng và người các dân tộc thiểu số nói chung đều nhận thức phân định rõ ràng, bản lĩnh vững vàng, hiểu rõ đúng sai và cương quyết đấu tranh bảo vệ làng bản, đất nước. Ở mảng đề tài này, thêm một lần nữa, Đặng Quang Tình khẳng định tài năng và sở trường của mình, ông lại thành công với truyện ngắn “Lính cối”  giành giải Ba cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội (1983).
                Có thể nói, ở thể loại truyện ngắn trong văn học hiện đại nước nhà, đặc biệt ở mảng đề tài về dân tộc và miền núi, Đặng Quang Tình đã khẳng định vị trí hàng đầu của mình và là một tên tuổi không thể không nhắc đến. Sở dĩ, Đặng Quang Tình gặt hái được nhiều thành công ở mảng văn học miền núi dân tộc như vậy, trước hết là nhở vốn sống, sự hiểu biết về mảng đề tài này nhở nhiều năm ông lăn lộn ở miền núi phía Bắc dù ở quân ngũ hay làm báo. Ông thạo địa lý, lịch sử vùng đất, hiểu tâm lý và phong tục, tập quán của các dân tộc thiểu số nơi đây. Cái chính, ông phải rất yêu con người và cuộc sống của họ ở vùng đất này thì mới thể hiện một cách chân thực và lãng mạn trong những tác phẩm văn học của mình.
       
       
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 17.07.2021 17:07:49 bởi tamvanvov >
      #93
        tamvanvov 29.07.2021 19:06:36 (permalink)
        Bố bản Đặng Quang Tình ( toàn phần )
        Chân dung nhà văn Đặng Quang Tình )
         
                  Dân báo chí ở Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), thế hệ sinh vào những năm tám mươi trở về trước, hễ nhắc đến nhà báo Đặng Quang Tình đều gọi ông bằng một cái tên dân dã trìu mến là Bố bản.
                  Sở dĩ vậy, là bởi, nhà báo Đặng Quang Tình có rất nhiều năm làm công việc Phát thanh Dân tộc và từng là Trưởng ban Phát thanh Dân tộc đầu tiên từ khi ban biên tập này được thành lập. Hơn nữa, còn bởi, dáng vẻ bên ngoài giản tiện, phong cách của người đã có  nhiều năm sống và làm việc với người dân tộc thiểu số. Có thể nói, nhà báo Đặng Quang Tình là một trong số ít người ở xứ ta am hiểu và viết xuất sắc về cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam cả lĩnh vực báo chí và văn chương. Bằng chứng, trong quá khứ, khi còn sung sức, Đặng Quang Tình đã từng bốn lần đoạt giải cao trong các cuộc thi văn chương danh giá ở xứ ta với ba lần ở thể loại truyện ngắn và một lần ở thể loại bút ký mà nội dung các sáng tác này của ông đều về đề tài miền núi dân tộc thiểu số...
         
        1.    Tư cách một nhà văn và những giải thưởng văn học,
         
                  Mặc dù cho đến thời điểm hiện tại, Đặng Quang Tình ở độ tuổi gần chín mươi, ông vẫn chưa là hội viên của bất kỳ một hội nhà văn nào. Ông sống ở Hà Nội cùng các con, sau khi nghỉ hưu tại Đài Tiếng nói Việt Nám (VOV) đã hơn hai chục năm nay. Thường người cầm bút như ông, đều là hội viên của vài ba hội danh giá, ví như hội viên Hội Nhà văn Hà Nội, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam chẳng hạn. Nghe nói, lâu lắm rồi, Đặng Quang Tình từng có đơn gia nhập Hội Nhà văn Việt Nam và hiện hồ sơ công tác hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam vẫn còn lưu giữ lý lịch trích ngang của ông. Song hằng năm, mỗi đợt kết nạp, người ta dường như đã quên tên ông thì phải?...
                  Đặng Quang Tình không hài lòng về việc này thì có, song ông không vì thế mà sốt ruột, hay tiếng bấc tiếng chì trách cứ. Với ông, đơn giản, khi còn cảm hứng và sức lực, viết được gì thì viết thôi. Chẳng vậy mà, trước lúc nghỉ hưu, ông mới chỉ có duy nhất một tập truyện ngắn là Hoa rừng (Nxb Tác phẩm mới, 1986) và một số truyện ngắn, bút ký in trong các tuyển tập của một số nhà xuất bản Hội Nhà văn, Giáo dục, Văn hóa, Dân tộc, Lao động và Hà Nội... cùng những sáng tác đăng tải rái rác ở các báo Văn Nghệ, Người Hà Nội, Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh v.v...
                  Sau khi nghỉ hưu, Đặng Quang Tình cho xuất bản tập sách thứ hai, đó là tập truyện Trăn trở (Nxb Lao động, 2001), và rồi bất ngờ ông tăng tốc. Chỉ trong vòng mười lăm năm sau, ông cho ra đời các tiểu thuyết Hướng về Đông (Nxb Lao Đông 2009). Những cánh chim bạt gió (Nxb Hội Nhà văn 2011), Âm thầm (Nxb Lao Động 2015) và Tập truyên ngắn Một thời giông bão (Nxb Hội Nhà văn 2010). Như vậy, ông viết còn sung sức hơn thời kỳ còn công tác. Với ông, dường như khi nghỉ hưu, hàng ngày không phải bận rộn với công việc quản lý báo chí, những phẩm chất sẵn có trong mình, ấy là vốn tư liệu sống của một người nhiều năm lăn lộn làm báo và bút pháp văn phong  một nhà văn đã được khẳng đình, chỉ cần ngồi vào bàn là nên tác phẩm. Quả là, một người từng trải, đi nhiều, hiểu nhiều, vốn sống ngồn ngộn mà thời gian lại thiếu, thì khi có, những đứa con tinh thần cứ theo nhau mà ra đời.... Nếu chỉ tính số đầu tác phẩm, thì quả là Đặng Quang Tính chưa phải nhiều, nhưng dấu ấn văn chương của ông lại khá đậm nét...
                  Cuộc thi truyện ngắn của Báo Văn nghệ (1974-1975), là cuộc thi viết kéo dài cả trước và sau giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, vậy mà Đặng Quang Tình đã đoạt giải Nhất với truyện ngắn “Trên vành chảo Điện Biên”. Kế tiếp, cuộc thi truyện ngắn của Báo Văn nghệ (1978-1979), thời gian đó xảy ra cuộc chiến trang biên giới phía Bắc chống quân bành trướng Trung Quốc, Đặng Quang Tình lại giành giải Nhất với truyện ngắn “Ông Thào”. Như vậy, ông liên tục đoạt giải cao nhất của hai cuộc thi văn học danh giá liền nhau, mà hiếm có, đúng ra, chưa có cây bút nào ở nước ta đạt được. Mảng đề tài cùng là miền núi và dân tộc thiểu số, nhân vật là người Mông, người sống ở vùng rùng núi nước ta. Dù trong thời kỳ nào, làm cách mạng, kháng chiến chống thực dân Pháp, xây dựng bản làng phát triển kinh tế, chống giặc là những người đã từng là bạn bè anh em, thì người Mông nói riêng và người các dân tộc thiểu số nói chung đều nhận thức phân định rõ ràng, bản lĩnh vững vàng, hiểu rõ đúng sai và cương quyết đấu tranh bảo vệ làng bản, đất nước. Ở mảng đề tài này, thêm một lần nữa, Đặng Quang Tình khẳng định tài năng và sở trường của mình, ông lại thành công với truyện ngắn “Lính cối”  giành giải Ba cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội (1983).
                  Có thể nói, ở thể loại truyện ngắn trong văn học hiện đại nước nhà, đặc biệt ở mảng đề tài về dân tộc và miền núi, Đặng Quang Tình đã khẳng định vị trí hàng đầu của mình và là một tên tuổi không thể không nhắc đến. Sở dĩ, Đặng Quang Tình gặt hái được nhiều thành công ở mảng văn học miền núi dân tộc như vậy, trước hết là có vốn sống, sự hiểu biết sâu rộng về mảng đề tài này nhở nhiều năm ông lăn lộn ở miền núi phía Bắc dù ở quân ngũ hay làm báo. Ông thạo địa lý, lịch sử vùng đất, hiểu tâm lý và phong tục, tập quán của các dân tộc thiểu số nơi đây. Cái chính, ông phải rất yêu con người và cuộc sống của họ ở vùng đất này thì mới thể hiện một cách chân thực và lãng mạn trong những tác phẩm văn học của mình. Ở đây, phải nhắc đến một thuận lợi riêng có của nhà văn Đặng Quang Tình.
        Ông quê Vụ Bản, Nam Định, nhưng gia đình ông sống ở Lào, ông được sinh năm 1934 tại Viên-chăn. Khi về nước, ông tham gia quân đội, nhiều năm sống ở vùng miền núi phía Bắc. Chuyển nghề làm báo, ông có nhiều năm là phóng viên của Đài phát thanh Tây Bắc (khi đó thuộc khu tự trị Thái Mèo) đóng tại Sơn La. Khi đài phát thanh này được sáp nhập vào Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) thì Đặng Quang Tình tiếp tục theo dõi và quản lý màng nội dung về miền núi, dân tộc thiểu. Việc am tường về một mảng nội dung, cộng thêm sự sâu sát địa bàn, chất nhanh nhậy của một người làm báo, không những giúp cho ông làm tốt công tác quản lý, biên tập mà thêm lần nữa, làm nên thành công trong sáng tác văn học. Nhà văn Đặng Quang Tình đã đoạt giải Nhì cuộc thi viết ký do Hội Nhà báo và Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp tổ chức năm 1995 với bút ký Ba lần lên Sa Dung, thêm phần khẳng định sự sát giải (cứ dự thi là đoạt giải) của ông.
                  Thời còn công tác, Đặng Quang Tình viết ít, khá chắt lọc, ông chỉ xuất bản tập truyện ngắn Hoa rừng (NXB Tác phẩm mới, 1986), và mãi nhiều năm sau, khi đã về nghỉ hưu, ông mới xuất bản tập truyện thứ hai của mình, Trăn trờ (NXB Lao Động, 2001). Rồi từ đó, có thời gian suy ngẫm, ông làm một mạch, lần lượt cho xuất bản 4 đàu sách, đó là các tiểu thuyết Hướng ve Đông (NXB Lao Động, 2000). Những cánh chim bạt gió (NXB Hội Nhà văn, 2011) và Âm thầm (NXB Lao Động, 2015), và tập truyện Một thời giông bão (NXB Hội Nhà văn, 2010).
                  Ào ạt với một sê-ri tiểu thuyết như vậy, tuy nhiên, chúng không để lại dấu vết gì đáng kể, nếu không muốn nói là lụt đi giữa biển sách xuất bản hàng năm. Tôi nghĩ, lý giải điều này, có vài ba lý do...
                  Trước hết, tự thân, sáng tác các tiểu thuyết này, nhà văn Đặng Quang Tình ý thức viết như một nhu cầu giải tỏa bản thân, khi có điều kiện về thời gian và sự từng trải vốn có. Sự thôi thúc viết ra không là phải là nuốn tìm tòi, đổi mới bút pháp, mà như thể, nếu ngần ngại hay đắn đo thì rất có thể, chúng sẽ chẳng bao giờ có mặt trên đời... Càm giác ông viết như sự trải lòng, kể lại những chuyện mình từng sống, đã trải qua, từng biết... Viết như sự tiết kiệm, tận dụng cho hết vốn sống, tư liệu mình có... Đơn giản vậy, nên khi ra sách, ông tặng bạn bè, người thân, không giới thiệu, quảng bá này nọ. Xem như mình đã làm xong công việc tự đặt ra cho mình,...
                  Góc độ khách quan, thời kỳ này, đã có sự chuyển biến cơ bản trong lĩnh vực xuất bản và sáng tác văn học nước nhà. Trước hết, việc tư nhân tham gia vào lĩnh vực xuất bản đã tác động mạnh đến thị trường và qua đó ít nhiều làm thay đổi nhu cầu và thị hiếu đọc sách của công chúng. Hàng năm, các đầu sách về lĩnh vực kinh tế, khoa học công nghệ, văn hóa nghệ thuật, tâm linh ra ào ạt, chiếm lĩnh thị trường, lấn át sách văn học. Và riêng mảng sách văn học, các tác phẩm thuộc diện kinh điển được tái bản tràn lan, khiến các tác giả trong nước, muốn được bạn đọc chú ý thật không dễ, vì ngoài nội dung đề cập phải thuộc vấn đề nóng, còn cần thêm các chiêu trò PR này nọ. Trong bối cảnh như vậy, các tiểu thuyết của nhà văn Đặng Quang Tình bị lút chìm là đương nhiên.
                  Còn một lý do nữa, theo tôi, sở trường của nhà văn Đặng Quang Tình là truyện ngắn. Ở đấy, ông chặt chẽ, dồn nén trong việc tạo không gian truyện, cài dặt chi tiết tài tình và ngôn ngữ hội thoại sắc sảo. Tiếc là, nhưng ưu điểm này ông chưa mang được sang tiểu thuyết,...
         
        2. Đặng Quang Tình, nhà báo – bố bản,
                 Tháng 10 năm 1987, tôi cầm quyết định về làm biên tập  viên của Ban Thính giả Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), thì khi đó Đặng Quang Tình làm Trưởng ban. Trước đó không lâu, ban biên tập Thính giả được thành lập vào ngày 13.8.1987, Đặng Quang Tình được điều từ Ban biên tập Đối nội sang làm trưởng ban mới. Như vậy, ở vào thời điểm ấy, ông là hạng sừng sỏ ở Đài rồi. Nhớ lại, khi đó, đất nước đang bước vào thời kỳ đổi mới. Tổng bí thư Đảng là đồng chí Nguyễn Văn Linh dẫn dắt công cuộc đổi mới với hàng loạt chủ trương và công việc cụ thể, trong đó có một việc nóng, ấy là Nói và Làm ( N & L ), được cập nhật trên báo chí (chủ yếu trên Báo Nhân dân và Đài Tiếng nói Việt Nam). Ban Thính giả Đài TNVN được thành lập nhằm đáp ứng nhu cầu này. Phòng tiếp dân của Đài luôn chật khách, họ là các thính giả từ khắp nước, qua gửi đơn thư, hoặc trực tiếp đến phòng tiếp dân, đưa đơn thư, yêu cầu, khiếu nại này nọ. Khi ấy, tiếp dân là công việc cực nhọc nhất, bởi lượng công dân hàng ngày đến rất đông. Người tiếp dân phải có tính kiên nhẫn, ôn hòa, sự hiểu biết cần thiết và quan trọng phải biết ứng xử nhanh trong các tình huống bức thiết nếu có, để giải thích và hạ hỏa, sao cho thình giả-công dân cảm thấy thỏa mái và được tôn trọng. Chỉ cần sơ suất trong nói năng rất có thể làm họ nổi nóng, to tiếng, thậm chí gây sự ngay tại chỗ. Đã từng xảy ra trường hợp thính giả mang đơn đến khiếu kiện, khi được nhà Đài giải thích sê là chuyển nội dung đơn thư đến cơ quan có thẩm quyền, thị vị thính giả nọ bức xúc, dọa nếu không được giải quyết ngay sẽ tự sát tại phóng tiếp dân. Là người từng có nhiều năm làm công tác đảng, nên trưởng ban Đặng Quang Tình trong các buổi giao ban luôn nhắc nhở các nhân viên thuốc cấp của mình hết sức lưu tâm, cẩn trọng lời ăn tiếng nói khi tiếp công dân. Ngày đó, tôi cũng phải trực tiếp dân, tháng một tuần nên thấu hiểu điều này... Thực tế, thời lượng phát sóng dành cho chuyện mục Tiếp chuyện bạn nghe đài chỉ hạn định trong khung chương trình hằng ngày, mà số lương đơn thư lại quá nhiều, nên Trưởng ban Đặng Quang Tình đã tìm ra một giải pháp khả quan và hữu hiệu khác. Ấy là trên cơ sở nội dung đơn thư của thính giả, lựa chon vấn đề, nội dung cụ thể đưa vào công văn gửi đến cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết và trả lời công văn của nhà Đài, để Đài trả lời thính giả. Như thê, hiệu quá công việc khá cao. Tôi không thể nhớ nổi hàng trăm, hàng ngàn những đơn thư được giải quyết bằng cách này trong những tháng năm ấy, song có một trường hợp thì tôi nhớ. Đó là trường hợp của nhà báo nọ. Anh ta bị xem xét trong một vụ việc cụ thể, bị quy tội và đã phải ngồi tù mấy năm, rồi được xem xét lại. và được  thả tù. Tuy nhiên, khi quay lại cơ quan cũ thì không được cơ quan này bố trí công việc. Anh ta mang đơn đến Đài, công văn gửi cơ quan cũ của anh ta do trưởng ban Đặng Quang Tình ký. Một thời gian sau, khi được cơ quan cũ xem xét, bố trí công việc, anh ta đã quay trở lại Đào báo tin vui và nói lời cảm ơn. Được biết, sau đó nhà báo này trở thành người làm báo giỏi. hanh thông trên con đường sự nghiệp tiếp theo của mình. Khi đã nghỉ hưu, có lần tôi kể lại chuyện này với nhà văn Đặng Quang Tình, ông cười bảo “Ngày ấy, thấy cậu ta ít nhiều bị oan, mình bênh vực được thì làm thôi...”. Lý lẽ đơn giản vậy.
                  Sau một thời gian ở Ban Thính giả, một ban biên tập mới được thành lập, Ban Phát thanh Dân tộc. Đặng Quang Tình được điều làm trưởng ban nay, bởi ở cơ quan thời điểm ấy, không ai cớ sự hiểu biết và kinh nghiệm về lĩnh vực dân tộc miền núi hơn ông. Đặng Quang Tình làm trưởng ban Phát thanh Dân tộc, càng củng cố thêm biệt danh Bố Bản, cho đến lúc nghỉ hưu. Tù ấy, mỗi khi nhắc đến Bố Bản, thì người nhà Đài hẩu như ai cũng hiểu đó là nhà báo, nhà văn Đặng Quang Tình.
         
        3. Chuyện vào Hội Nhà văn.
                  Nhà văn Đặng Quang Tình có đơn xin vào Hội Nhà văn Việt Nam từ thời ông còn làm việc và nổi danh làng văn ta với mấy giải thưởng liên tiếp về truyện ngắn. Nhưng không hiểu sao, danh sách hội viên được kết nạp vào Hội hàng năm không có tên ông. Mỗi khi có ai đó nói với ông về chuyện này, ông đều cười bảo “Nếu không là hội viên mà không viết được văn thì tớ mới buồn... chứ không là hội viên mà tớ vẫn viết đều thì có gì mà buồn...”.  Nói vậy thôi, chứ tôi hiểu, trong lòng, ít nhiều vẫn gợn lên những suy nghĩ .... Là tôi cứ nghĩ thế, bời cái tâm trạng “cuời như thầy khóa hỏng thi” vốn thâm căn trong con người ta, nhất là các quốc gia châu Á có bề dày khoa bảng như Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên và xứ Việt mình,... Miếng giữa làng kia mà!...
                  Khi nhà văn Đặng Quang Tình nghỉ hưu, chuyện ông vào Hội Nhà văn xem như bị lãng quên. Thi thoảng, mùa kết nạp hội viên, có người nhắc đến tên ông, không phải là sự quan tâm xem ông có vào Hội hay không, mà chỉ để mang ra so sánh với nhà văn này nhà văn kia, rằng cái tay ấy kém thế, có mà xách dép cho ông, thế mà cũng vào Hội đợt này.... Vậy đấy!...
                  Lâu rồi không ai nhắc đến ông nữa, xem như ông không tồn tại trong làng văn này. Thế mà, khi chẳng mấy ai nhớ đến ông thì Đặng Quang Tình lại được công nhận là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam!...
                  Số là, cách đây dăm năm, khi nhà thơ Trần Đăng Khoa còn tại vị chức danh Phó Bí thư Đẳng ủy Đài Tiếng nói Việt Nam, kiêm nhiệm Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nhà văn Nam, đôi ba lần trong câu chuyện văn chương, tôi nhắc ông rằng còn có một nhà văn tên Đặng Quang Tình với nhiều giải thưởng sáng tác văn học danh giá, từng công tác lâu năm ở Đài này, xứng đáng được kếp nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam. Trần Đăng Khoa gật gù công nhận điều đó, và quả thật. trong mấy kỳ kết nạp hội viên (2017, 2018), ông có nhắc đến trường hợp nhà văn Đậng Quang Tình bị bỏ quên, trong cuộc họp của Ban thường vụ Hội Nhà văn. Để nhấn mạnh, nhà thơ Trần Đăng Khoa còn nhắc đến các trường hợp đáng tiếc khác như nhà thơ Th, nhà thơ D, đã mất, mà đáng ra họ xứng đáng được kết nạp vào Hội khi còn sống...
                  Có lẽ vậy, mùa kết nạp năm 2019, nhà văn Đặng Quang Tình được Ban thường vụ Hội nhất trí công nhận là hội viên của Hội bằng quyết định số...  nhưng nhầm tưởng ông đã mất.
                  Cuối năm 2020, Đại hội Hội Nhà văn Việt Nam lần thứ 10 diễn ra, tài liệu xuất bản phục vụ đại hội, có tập NHÀ VĂN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI cấp cho các hội viên. Xem kỹ. phần về nhà văn Đăng Quang Tình, khi ra quyết định công nhận hội viên cho ông, người ta lầm tưởng ông đã mất. Rẩm riu nghĩ. không sao cả, có khi lại là may, thói đời biết đâu đấy, nếu biết chắc là ông còn sống, thì chưa chắc đã...
         Một hôm ông gọi điện cho tôi với tâm trạng vui vẻ. Dường như ông muốn chia vui cùng tôi, bảo “Rốt cuộc, thế cũng là được. .. Dẫu chẳng để làm gì, nhưng thế cũng là sự ghi nhận công sức lao động văn chương cả cuộc đời mình, cậu ạ”. Rồi ông nói về sự nhầm lẫn khi người ta tưởng rằng ông đã mất khi công nhần ông là hội viên Tôi cười cầu tài, còn ông lại cười rất chi là sảng khoái: “Tớ gần chín mươi rồi... rủa tớ chết à... còn lâu nhớ... Tớ sẽ sống đến trăm tuổi!...”  ./.
         
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.07.2021 12:44:11 bởi tamvanvov >
        #94
          tamvanvov 07.08.2021 12:51:00 (permalink)
          Nguyễn Hiếu, nhà văn người làng Chèm
          1, Dấu ấn làng Chèm.  
                 Nhà văn Nguyễn Hiếu luôn tự hào là người làng Chèm.
                 Vậy cài làng Chèm ấy là làng nào?
                 Làng Chèm có tên chữ là Thụy Phương, thuộc Từ Liêm, Hà Nội, kề bên đê hữu ngạn sông Hồng đoạn đầu cầu Thăng Long. Làng Chèm nổi tiếng bởi được liệt vào diện làng cổ Việt, với ngôi đình có lịch sử hơn ngàn năm, được công nhận là di sản văn hóa. Tương truyền, đình Chèm được xây dựng từ năm 715 sau CN và cho đến năm 866, Cao Biền, quan đô hộ xứ cũng là thầy địa lý giỏi đã cho tu sửa lại và tạc tượng Lý Ông Trọng (tên thật là Lý Thân), một vị võ tưởng tài giỏi thời An Dương Vương Thục Phán. có nhiều chiến công hiển hách, và còn được cử sang giup Nhà Tần chống giặc Hung Nô. Sau này, Lý Ông Trọng được người đời tôn  như vị Thánh, thờ phụng ở nhiều nơi cả Việt Nam và Trung Hoa. Đương nhiên, vì quê gốc Lý Ông Trọng ở làng Chèm, nên  được thờ phụng ở đình Chèm (nay gọi Đền Chèm) với tư cách Thần Hoàng làng, và có ý nghĩa hơn bất kỳ nơi thờ phụng ông nào khác. Vùng đất với bề dày trầm tích lịch sử văn hóa như vậy, Nguyễn Hiếu tự hào là người con của làng Chèm cũng phải thôi.
                 Tuy nhiên, Nguyễn Hiếu không phải gốc làng Chèm, quê nội ông là Phùng Khoang, cũng thuộc đất Từ Liêm, và sinh ra ở Vũ Ẻn, Phú Thọ, nhưng ngay từ thuở lọt lòng, đã về sống ở quê mẹ, làng Chèm và lớn lên từ đấy, rồi lấy làm quê vậy. Tuổi thơ, trẻ trâu, Nguyễn Hiếu hít thở bầu dưỡng khí, ăn cơm, uống nước làng Chèm, nên máu thịt ông cũng mang mùi vị làng Chèm vậy. Nhà văn Nguyễn Quang Huy, một đồng nghiệp cùng đơn vị công tác với Nguyễn Hiếu ở Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), khi còn sống, mỗi lúc cao hứng trà dư tửu hậu, cười đùa Nguyễn Hiếu mà rằng "Tay này, văn chương của hắn ngai ngái mùi cỏ và hoai hoai vị phân trâu làng Chèm. Viết lách, hắn vơ víu, nhặt nhạnh, cấm bỏ sót cái gì, từ bãi phân gà phân chó làng Chèm trở đi...". Nghe vậy, Nguyễn Hiếu chỉ cười khì, không giận, bởi ông hiểu, ngoài sự tếu táo, đùa cợt cửa miệng cho vui ấy, là một sự thật, ấy sự thấu hiểu ngọn ngành, chân tơ kẽ tóc, từ lịch sử văn hóa đến phong tục tập quán và đời sống dân sinh của làng Chèm, một làng mang tính điển hình cho làng quê Bắc bộ xưa nay. Và như thế, khác nào việc thấu hiểu văn hóa làng quê Việt cổ truyền vậy ?...
                 Trong văn chương của Nguyễn Hiếu, dường như để tránh những phiền toái không cần thiết, mà cũng dễ bề bịa chuyện trong sáng tạo, ông gán cho làng Chèm của mình cái tên làng Chiện. Vậy là, cái gì trong thực tế đời sống, làng Chèm có thì hầu như làng Chiện có cả, song bao nhiêu chuyện làng Chiện có, làng Chèm chưa hẳn đã có. Vây nên, làng Chèm chỉ là mảnh đất, là không gian cho sáng tạo của Nguyễn Hiếu mà thôi. 
                 Thế là cái làng Chiện ấy, khi thì hiện hữu bằng cái tên của mình, để Nguyễn Hiếu dàn trận, bày biện các sự kiện, con người thành các tuyến nhân vật này nọ, khi lại chỉ xuất hiện lẻ tẻ đâu đó, hoặc chỉ phảng phất bóng dáng trong các sáng tác của ông.   

          2. Nguyễn Hiếu, phu chữ,
                  Gọi Nguyễn Hiếu là phu chữ, hắn phải có bằng chứng để chứng minh cho cách ví này. Hiện tại, Nguyễn Hiếu là số ít trong các nhà văn Việt Nam thời hiện đại, lại là hội viên của ba cái hội danh giá, ấy là Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Nghệ sĩ Sân khấu và Hội Điện ảnh Việt Nam. Để trở thành hội viên của ba hội này, chắc chắn Nguyễn Hiếu phải có những đóng góp công sức, sáng tạo thể hiện bằng những tác phẩm cụ thể, đủ để đứng trong hàng ngũ của mỗi hội.
                    Trước khi điểm những tác phẩm Nguyễn Hiếu đóng góp cho hoạt động của mỗi hội mà ông là thành viên, tôi xin kể đôi chút về sức lao động sáng tạo văn chương của ông. Tôi nhớ, cách đây hơn hai chục năm trước, thời ông còn đang là phóng viên Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), cũng là thời gian ông sáng tác sung sức nhất, hơn một lần, Nguyễn Hiếu khoe với tôi và các đồng nghiệp cơ quan, rằng mỗi ngày, ồng “cày” ít nhất là 6 trang đánh máy. Thường là hằng ngày, ông thức dậy sớm, ngồi vào bàn, gõ máy chữ (sau là máy tính), cho đủ 6 trang rồi mới ăn sáng và đi làm. Nếu sáng nào không đủ thì tối về ông gắng gõ cho đủ, còn được nhiều hơn thì càng tốt. Nghe mà lè lưỡi. Sức viết vậy, nên Nguyễn Hiếu mới có một khối lượng khá lớn tác phẩm đã xuất bản. 
                    Năm 1984, Nguyễn Hiếu khởi đầu sự nghiệp văn chương của mình bằng tập truyện hài “Chuyện cái vòi nước”. Cho đến giờ, mỗi khi nhắc đến tập truyện đầu tay này, Nguyễn Hiếu vẫn nhó một cách đầy tự hào, rằng cuốn sách đó được nhà văn Hà Ân biên tập, danh họa Bùi Xuân Phái vẽ bìa và nhà văn Vũ Cao, giám đốc NXB Hà Nội khen là “đọc Nguyễn Hiếu thấy thích hơn vì cái cười của dân mình” ( ý so sánh với Những người thích đùa, của  nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ, Azit Nexin, xuất bản cùng thời điểm ấy) và năm đó, Hội nghị các cây bút trẻ tổ chức ở Nhà hát lớn Hà Nội, dựng pa-nô quáng bá vẽ bìa cuốn sách này...
                    Sau tập sách đầu tay, đến năm 1988, Nguyễn Hiếu xuất bản tập sách thứ hai của mình, ấy là tiểu thuyết “Người đàn bà quỷ ám”.  Kể từ đó, trong vòng 5 năm, đến 1992, Nguyễn Hiếu ào ạt xuất bản như mưa rào, những 13 tiểu thuyết, mà đến giờ tôi còn nhớ tên một số cuốn, như: Bụi đường, Vết xoáy trước ngực làng, Tôi bán mình, Chuyện tình người điên, Vầng trăng hững hờ, Biển toàn là nước, Con ngố, Quá cảnh, Bốn bước đến chân trời, Trưởng thôn xử án...  Tôi nhớ được vậy cũng là nhiều, bởi quyển đọc quyển không. Cũng trong khoảng thời gian này, cùng ngần ấy tiểu thuyết, Nguyễn Hiếu còn viết truyện ngắn, kịch bản sân khấu, kịch bản phim truyền hình, mỗi thứ đều hai. Đây là thời kỳ sung sức nhất của Nguyễn Hiếu, bời không những viết và xuất bản nhiều, ông còn thành công gặt hái được nhiều giải thưởng. Giải thưởng của các bộ ngành cho tiểu thuyết Bụi đườngTôi bán mình. Giải thưởng truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội cho truyện ngắn Nhãn lồng nhà Cả Đoạt, và Giải truyên ngắn của Báo Văn nghệ cho truyện ngắn Chuyện quan trọng của bà Cả Đào. Cho đến nay, nhà văn Nguyễn  Hiễu đã cho ra đời ngót nghét 30 tiểu thuyết. Kể ra, làm được như vậy, không dễ chút nào !...
                    Sàu quãng thời gian sung sức ấy, Nguyễn Hiếu vẫn viết đều tay, hầu như năm nào cũng ra sách. Các lĩnh vực, thể loại, hầu như ông không bỏ loại nào. Tiểu thuyết, truyện, tản văn, kịch bản sân khấu, kịch bản điện ảnh, tiểu luận, phê bình văn học, thồ luận.... Chẳng thế, Nguyễn Hiếu là hội viên của nhiều hội về văn học nghệ thuật (Hội Nhà văn Hà Nội, Hội Nhà văn Việt Nam, Hội nghệ sĩ sân khấu, Hội Điện ảnh VIệt Nam).
          Có điều này, Nguyễn Hiếu rất ham thích dự các Trạo sáng tác do các chuyên ngành văn học nghệ thuật mở. Có năm, ông dự trại quanh năm, đầu năm với hội này, giữa năm với hội nọ, cuối năm với hội kia. Mà đã dự trại là rất nghiêm túc, chứ không như ai đó, mượn cớ dự Trại sáng tác để tụ bạ, nhậu nhẹt hoặc du hí mua sắm. Năm 2020, xen kẽ giữa các đợt dịch covid19 bùng phát, Hội Nhà văn Việt Nam tranh thủ mở được 2 trại sáng tác ở Đại Lải và Đa Lạt. Tôi và Nguyễn Hiếu đều tham dự Trại Đà Lat, ở cùng phòng với nhau. Gần nửa tháng trời, để ý, dù có cà phê hay tranh thủ thăm thú, nhưng ngày nào, Nguyễn Hiếu cũng đủ sáng chiều gõ máy tính sáng tác. Cùng lúc, ông viết song hành hai kịch bản sân khấu, đều về đề tải lịch sử dân tộc.  
          Sức viết của nhà văn Nguyễn Hiếu thật đáng nể. Có lẽ, ở xứ ta, về sức viết, khỏe và bền bỉ theo năm tháng, và ngay cả cái sự “vơ bèo vạt tép” (nghĩa là không bỏ sót, hễ viết được gì là viết), thì Nguyễn Hiếu chỉ đứng sau cụ Tô Hoài ?!...
          Người ta bảo “quý hồ tinh bất quý hồ đa”, song tôi nghĩ, sức viết như  Nguyễn Hiếu, thật đáng nể!
           
          3. Chất hài, người và văn.
          Ở xứ Việt mình, văn chương có tính hài không nhiều, nếu không muốn nói là hiếm. Nhẩm tinh, văn học hiện đại Việt Nam, nhà văn Nguyễn Công Hoan thuộc hàng tiên chỉ, là đỉnh, không có ai so sánh được. Sau ngài tiên chỉ Nguyễn Công Hoan, thì nhà văn Vũ Trọng Phụng thuôc hàng thứ hai, trong hầu hết các tác phẩm của nhà văn này, sự hóm hình rất rõ nét Nghĩ tiếp, có nhà thơ Tú Mỡ, nhà văn Ngô Tất Tố (trong Việc làng), và nhà văn Nam Cao. Riêng với Nam Cao, chất bi hài xem lẫn nhuần nhuyễn, rõ nhất trong các tác phẫm Chí Phèo, Sống mòn, Tư cách mõ...
          Lóp trước là vậy, và có lẽ các nhà văn này ít nhiều chịu ảnh hưởng từ các tác giả phương Tây văn chương giàu yếu tố uy-mua như Moliere, Balxac. Cervantes .. Sau này, thời thế khác đi, các nhà văn xứ ta viết nghiêm túc quá, cứ nhăm nhăm lý tưởng này nọ, mà quên đi chất hài sẵn có trong cuộc sống hàng ngày, quên rằng sự hài hước là điều cần thiết giúp con người ta lấy lại cân bằng. Họ ngại viết hài, phần vì lo bị suy diễn là đùa cợt, chế giễu này nọ, phần vì viết hài không dễ chít nào..., Để ý, chỉ thấy vài ba cái tên như Tô Hoài, Lưu Nghiệp Quỳnh, Trần Đức Tiến và Nguyễn Hiếu ?...
          Thường thì, văn chương và con người thật của nhà văn không hắn giống nhau. Nhiều người, trong cuộc sống, điệu bộ, nói năng vẻ hài hước đấy, nhưng viết ra thì rất chi là nghiêm cẩn, hoặc không thì nhạt toẹt, chắng có gì đáng cười cả. Lại có người, bề ngoài nghiêm chỉnh lắm, song khi viết văn chương  hóm hình, giàu chất uy-\mua... Ít người, nói năng hài hước và văn chương cũng giàu chất hài. Nguyễn Hiếu là trường hợp con người nhà văn và văn chương khá tương đồng, giàu tính hài. Làm việc cùng cơ quan mấy chục năm trời, tiếp xúc với Nguyễn Hiếu, từ lúc ông chưa nhiều tuổi đến tận già, hầu như lúc nào cũng thấy ông vui đùa, bông lơn, từ ánh mắt, hàng ria, tiếng cười đến ngôn từ hội thoại đều hài hước. Dân nhà Đài (VOV) còn nhớ khá nhiều câu vè bông đùa mà Nguyễn Hiếu ứng khẩu trêu chọc người này người nọ ở cơ quan... ( Ví như: Ban ta có một em Đ,/ cái người thì ngắn cái lông thì dài/ HT bèn giả trăm hai/ Đ rằng không bán để dài quét Ban” “ hay như “C ơi anh mượn chiếc thìa/ ăn xong chốc nữa anh chìa sang cho”” hay như “Bút danh thì gọi VT/ nhưng trong lý lịch lại là thằng N.” v,v... ). Cảm giác như, chẳng bao giờ Nguyễn Hiếu nghiêm túc cả. Ngay cả khi ông lên chức danh trưởng phòng của một đơn vị biên tập, thì Nguyễn Hiếu cũng cười đùa rằng: “Làm trưởng phòng, sướng nhất là từ nay mỗ không phải đi chuyển trích băng nữa” ( chằng là, đây là một khâu kỹ thuật tỉ mỉ và đáng ngại trong quy trình sản xuất chương trình của nhà Đài)...
          Đấy là con người hài hước Nguyễn Hiếu, còn văn chương thì sao? Tập truyện đầu tay của Nguyễn Hiếu ‘Chuyện cái vòi nước” là truyện hài. Bẵng đi nhiều năm, ông mới cho ra  tập hài nữa là “Cười dành cho tất cả”. Như vậy, không có nghĩa là Nguyễn Hiếu bỏ hài. Tuy không chuyên tâm viết hài, song chất hài Nguyễn Hiếu ám vào hầu hết các tác phẩm của ông ở mọi thể loại, tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch sân khấu, kịch phim, tiểu luận, phê bình văn học, thậm chí cả thơ. Theo tôi, chất hài là một thế mạnh của Nguyễn Hiếu và chính sự hài hước ấy là chất kết dình vô cũng quan trọng giúp các tác phẩm của ông đứng được, thậm chí đúng vững, khi mà một số tác phẩm về  ý tưởng, hoặc kết cầu, còn non. Hài là yếu tố đắc địa trong nghệ thuật sân khấu, nên Nguyễn Hiếu vì thế mạnh vốn có này, đã chuyền dần sang địa hạt sâu khẫu và ông khá thành công. Kịch bản của ông không những được nhiều Đoàn chọn dựng vở mà còn đoạt được giải thưởng cao trong các hội diễn sân khấu. Trong các tiểu thuyết và truyện ngắn của ông, nhan nhản chi tiết, nhân vật, hội thoại đậm chất hài. Ở tiểu luận, phê bình văn học, cũng thấy Nguyễn Hiếu tinh quái, tung hừng hài hước. Đợt dự trại sáng tác văn học của Hội Nhà văn Việt Nam vào tháng 10.2020 tại Đà Lạt, trong những lúc trá dư tửu hậu tay đôi tay ba với nhau, Nguyễn Hiếu bàn luận sắc sảo, đưa ra nhiều nhận định về thơ ca, văn chương của nhà thơ này nhà văn nọ, khá chuẩn xác, ngắn gọn và rất chi ấn tượng, hài hước,...
           
          4. Lãng đãng thơ  
                    Làng đãng thơ, không có nghĩa là thơ Nguyễn Hiếu ít và mỏng, dăm ba chục bài cho vui, hay kiểu “kém miềng khó chịu” làm thơ cho có. Mặc dù là tác giả văn xuôi và kịch tác gia, song Nguyễn Hiếu vẫn bị Nàng thơ quyến rũ. Có thể nói, Nguyễn Hiếu đầy ý thức và khá dụng công trong thi ca. Trong tổng tập tác phẩm Nguyễn Hiếu được tài trợ xuất bản nhân dịp đại lễ 1000 năm Thăng Long-Hà Nội, năm 2010, gồm 19 tập thì  riêng một tập về thơ, dày gần 500 trang in với khoảng 300 bài thơ và cả kịch thơ, trường ca.  
                    Về thơ Nguyễn Hiếu, nhà thơ Hữu Thỉnh đã có hẳn một bài viết dài bàn luận “Tính công dân trong thoe Nguyễn Hiếu”. Riêng tôi nghĩ, phải chăng, con người làm báo và ngôn ngữ kịch đã làm nên tính công dân trong thơ ông?
                    Tôi đã nhiều lần nghe chính Nguyễn Hiếu nói về thơ của ông. Quả thực, nghe ông hùng biện về thơ mình, ra chiều hấp dẫn lắm. Những lúc như vậy, thưởng tôi chỉ lắng nghe, chốc chốc điểm một câu ngang, chọc ngoáy, để ông hăng tiết vịt mà thôi. Thực lòng, tôi ngại đọc thơ Nguyễn Hiếu, ngại vì dài dòng, loằng ngoằng, từ cái tít đến câu chữ bên trong. Thì đây, những cái tít: Nếu trái dất này không có các loại bom, Có những con người là con số không, Giữa Matsxcova này anh lại bỗng yêu em, Gửi cho một đoàn viên Công đoàn Đoàn kết, Tay đã tự do không thể đặt vào xiềng, Bài thơ có thể dùng làm tư liệu để viết văn xuôi, Gửi những mảnh đồng, cồn cát Quảng Bình-Vĩnh Linh... Đại khái vậy, nhiều lắm. Đọc thơ ông, một lần, ù tai, toát mồ hôi và chẳng nhớ gì. Nhưng đọc lại, thấy ông lập tứ rõ ràng đấy chứ. Nguyễn Hiếu khá nhất quán, từ tiểu thuyết đến thơ, ông đều lập tứ, ý đồ gửi gắm thông điệp này nọ, có điều, diễn đạt lại dài dòng, đôi khi rối rắm, và khá đại ngôn, khiến người đọc cảm nhận, bài thơ ấy, chỉ cần đọc mỗi cái tít là xong, là đủ hiếu ý rồi, nó toạc móng heo ra đấy, cần chi phài đọc hết cả bài cho mất công !?...
                    Cả bài thơ, cứ ngổn ngang rặm rạp như bày trận, nhưng rồi bất ngờ, đổ trữ tình, suy tư, ví von so sánh... Đọc kỹ,  mới à, thấy rất nhiều thứ để chê song cũng có cái đọng lại để khen.
                    Vài năm gần đây, để ý, thấy thơ Nguyễn Hiếu đã ít nhiều thay đổi, kiệm lời hơn, bớt đại ngôn, ý tứ và suy ngẫm hơn. Dường như, Nguyễn Hiếu dụng ý, gia tăng vị dân gian trong thơ mình, bằng cách sử dụng ca dao, tục ngữ, cách ngôn, thậm chí câu nói cửa miệng, làm cho bài thơ mang phong vị mới, đôi khi bất ngờ, khá thú vị. Và cũng bằng cách này, Nguyễn Hiếu tận dụng được cái hóm hỉnh, chất hài sở trường của mình, thơ têu tếu, vui vui, chấp nhận được. Những điều này thể hiện khá rõ nét trong chùm thơ 5 bài gần đây ông lựa chọn, giới thiệu ở trang Web của Hội nhà văn Việt Nam. Xin viện dẫn:
          Đầy suy tư: “...Trở lại căn nhà xưa của mẹ/ Nơi giếng đất trong veo nỗi nhớ đầu/ Khuya, nước điểm buồn rơi lặng/ Cành dương xỉ xanh trời khuôn tròn đáy mắt/ Gầu đu đưa bên má đỏ em/ Giếng xưa nay đã lấp/ Tình một thủa ai quên?... (Trở lại căn nhà xưa của mẹ); Hàng trăm năm/ Và đến cả bây giờ/ Ai đi qua đây cũng buông tiếng thở dài/ Mảnh đất này nghèo quá/ Loi thoi đụn nhà mái rạ/ Mái nhà hình lưỡi rìu/ Trọn đời xẻ đất kiếm ăn/ Con gái lùn đi vì gánh vì gồng/ Con trai lêu đêu vì đi kheo lội biển ... Con vịt cũng gày/ Con thuyền cũng mảnh/ Câu ru em núi chặn, biển ngăn/ Đất cằn không đủ tiếng ngân/ Ruộng cằn nụ cười cũng héo/ Câu ru ngắn không đủ trẻ ngủ ngon...”  (Gửi những mảnh đồng, cồn cát Quảng Bình-Vĩnh Linh)...
                    Hay têu tếu nhưng ý vị: “Đàn bà đi xa, về ngắn/ Một sương hai nắng/ Ruộng muống, vại cà/ Ngực tròn quả bưởi/ Tháng năm trôi…/ Mặt xạm, tóc xơ/ Vú mướp tồng tềnh quăng sau áo mỏng/ Lửa tắt, cơm sôi/ Con nguệch mặt đòi ti,. Chồng ngầy ngà tòm tem!/ Bố ho sù sụ khêu đèn,/ Lợn kêu eng éc.
          Lũ em gõ nồi!/ Quái chiều nắng nhạt đã rơi/ Hai mươi, trái hồng in gò má/ Ba mươi, bồ hóng xạm da/ Băm bèo, quên lưỡi liềm trăng/ Sàng gạo, lông mày cám đọng...”và “Làng tôi lũ lĩ đàn bà/ Hay làm, nhường ăn, khoẻ nói/ Một thời mớ bẩy mớ ba/ Tóc lả đuôi gà/ Dép cong cau sáu/ Cười duyên nhưng nhức hạt na/ Làm dâu nhịn bánh, nhịn quà/ Đói no không người tỏ/ Lời ru nửa câu hát cũ/ Ối à rồi lại ới a...” (Đàn bà làng tôi); Một thùa làng tôi/ Đàn ông nhiều vô kể/ Đầy đình, chật điếm, ngập đê./ Gà gáy canh tư đã rời hơi vợ/ Toòng teng điếu cày, nùn rơm/ Con trâu đi trước/ Thằng người chập choạng bước sau/ Áo tơi, nón lá./ Mẹ hĩm trên đồng cạn,/ Bố cu dưới đồng sâu...” “Một thời làng tôi/ Đàn ông vợi đi vô kể/ Tùng tùng trống gọi ra đi/ Áo màu đất đổi áo xanh rừng/ Mẹ cu cứng mồm hô câu “vắt, diệt”/ Yếu trâu hơn chán khoẻ bò/ Vắng bóng bố em. Mộng giường cọt kẹt/ Rô ron rán ròn không kẻ nhắm./ Ai bắc cầu ao, chiều bu nó tắm/ Thóc giống cắn chuột trong bồ...” (Đàn ông làng tôi); “Đứa nào trèo lên cây dừa ấy thế/ Nước dừa ngầu bọt cô ca/ Hoa mơ ngoẹo cổ cúm gà/ Tam quan chùa không chua vị khế/ Cung văn bận đi mát xa/ Đàn cò nằm dài ư ử/ Em hát đấy à? Em cứ hát/ Dây quai thao vương dải xu chiêng/ Sắp qua cầu hơi nhiều giọng bass/ Riêng ông chuếnh choáng nghiêng nghiêng...” (Nghe em hát);
                    Trong chuyến đi thực tế lên Lào Cai của đoàn Hội nhà văn dịp xuân Bính Thân, Nguyễn Hiếu viết bài thơ Rét ở Mường Khương, nỡm mọi người mà cũng nỡm nhà thơ Pừ Sào Mìn:Hai chăn dầy phủ lên/ Mắt vẫn hấp háy mở. Vì thiếu chăn 37 độ/ Tỏa ra từ người đàn bà của riêng mình/ Giấc ngủ ép nghiêng nghiêng/ Cơ chừng chực đổ” và đây nữaCó thứ cũng được gọi là chân/ Không có gì bọc bao/ Không chui vào lỗ nào/ Cả đêm chênh vênh thức/ Rạng sáng nhờ chút xuân tàn/ Ngóc nghểnh ngảng đôi chút/ Như đọt măng cằn...”, “Sướng nhất Phờ Sào Mìn?/ Đêm giá lạnh này/ Bụng rượu lão ấp vào
          Mông mẩy vợ/ Tôi mong giữa hai người/ Phọt ra ngọn lử/ Đốt thành tro cái buốt,/ Cái giá Mường khương”..
                    Mừng là Nguyễn Hiếu đã đổi mới thơ mình, chắt lọc hơn, đằm hơn, vẫn giữ mà còn phát huy được sự hóm hình vốn có. Giờ đọc thơ Nguyễn Hiếu, tôi bớt ngại, nhiều bài đọc thấy khoai khoái, bật cười một mình... /.
           
           
           
           
           
           
           
           
           
           
           
           
           
           
          #95
            tamvanvov 15.08.2021 13:06:32 (permalink)
            Nhà văn Trần Nguyên Vấn, cần mẫn và ân tính
             ( Chân dung nhà văn Trần Nguyên Vấn )
             
            Trong số các nhà văn, nhà thơ Việt Nam hiện đại, trừ nhà thơ Trần Đăng Khoa, tôi sớm biết vì chúng tôi cùng lứa học phổ thông và cùng nhau đứng trong đội tuyển giỏi Văn của tỉnh Hải Hưng tham gia kỳ thi học sinh giỏi văn lớp 10 (hệ 10/10) toàn miền Băc vào tháng 4.1075, thì Trần Nguyên Vấn là người tôi biết mặt đầu tiên. Tính từ lần đầu gặp Trần Nguyên Vấn, quãng năm 1982, 1983 gì đó, đến nay đã ngót bốn mươi năm quen biết. ấy vậy mà, mỗi khi viết gì về ông, tôi vẫn phân vân về danh xưng, Trần Nguyên Vấn hay Trần Phương Trà, nhà văn hay nhà thơ? Đắn đo vậy thôi, song không hiểu sao, tự nhiên tôi mặc định cách gọi, nhà văn thì Trần Nguyên Vấn, nhà thơ thì Trần Phương Trà. Đương nhiên, ông viết dều cả hai thì gọi thế nào chẳng được...
            Trở lại buổi ban đầu quen biết ông. Thời điểm ấy, tôi làm đúng công việc của một anh kỹ sư canh nông, ở tít mãi vùng biên giới Tây Nam, Bảy Núi, An Giang. Chẳng là, tốt nghiệp đại học khi thống nhất đất nước mới dăm năm, nên phần đông lứa kỹ sư nông nghiệp trẻ chúng tôi được lùa vào vùng đồng bằng sông Cửu Long, nơi mệnh danh là vựa lúa khổng lồ. Khi ấy, bà con ở đấy vẫn quen với lối canh tác quảng canh nên khó áp dụng các biện pháp kỹ thuật. Thời gian rảnh nhiểu, tôi tập tọng viết báo, viết văn, làm thơ. Cứ viết đại, gửi đại đến các tòa soạn báo qua đường bưu điện thế thôi. May thay, người bạn thân phổ thông và cả đại học của tôi, nhà báo Trịnh Bá Ninh khi ấy là phóng viên Báo Nông nghiệp, chỉ dẫn thêm. Nhở vậy, những bài báo của tôi được dăng rải rác trên báo Nông nghiệpNhân dân, rồi nữa, được phát sóng trong các chương trình phát thanh Đại gia đình các dân tộc Việt NamPhụ nữ của Đài Tiếng nói Việt Nam (TNVN-VOV). Thế nhưng, văn chương thì lại khác, các bút ký và truyện ngắn tôi gửi cho Báo Văn nghệ thì chẳng tăm hơi. Trịnh Bá Ninh mách tôi, anh quen biết nhà văn Trần Nguyên Vấn làm biên tập ở Ban Văn nghệ Đài TNVN, và khuyên tôi hãy gửi bài viết nhờ ông thẩm định, góp ý. Tôi làm theo và sau đó, Trịnh Bá Ninh thông báo lại cho tôi ý kiến nhận xét của nhà văn Trần Nguyên Vấn. Tôi viết lại và may mắn sao, bút ký Mênh mông đồng tràm được phát sóng trong chương trình Văn nghệ của nhà đài. Tôi mứng vui khôn xiết!...
            Hàng năm, mỗi lần đi phép ra Bắc, Trịnh Bá Ninh hay dẫn tôi cùng đây đó, nhớ thế mà tôi gặp và quen biết nhà văn Trần Nguyên Vấn. Rồi từ ông, tôi biết thêm các bạn vân của ông, nhà văn Vũ Đình Minh, nhà thơ Nguyễn Thái Vận, nhà thơ Võ Văn Trực, nhà thơ Ngô Quân Miện,... Cũng qua ông, lần đầu tôi bước chân ngó nghiêng ngôi nhà văn học của Đài TNVN ở 58 Quán Sứ, để biết mặt những tên tuổi mà bấy lâu tôi từng đọc và nghe những tác phẩm của họ như: Nguyễn Bùi Vợi, Trần Nhật Lam, Trần Mạnh Thường, Trúc Thông, Lê Đình Cánh,...
            Cho đến khi, cầm quyết định về nhận công tác tại Đài TNVN vào tháng 10/1987, thì ngoài những người cùng đơn vị với mình ở Ban Thính giả, người tôi hay lui tới chính là nhà văn Trần Nguyên Vấn. Dù hơn tôi hai chục tuổi (ông sinh năm 1937). Trần Nguyên Vấn coi tôi như đứa em út của mình. Tôi cũng hay đến chơi thăm ông tại nhà riêng, một căn hộ nằm trong khu tập thể số 1 Lê Phụng Hiểu, Hà Nội, và đó rời sang khu tập thể ở phố Tông Đản... Thành đàn em của ông, rỉ rả tháng năm, từng trang cuộc đời ông dần mở, ngỡ thuận buồm xuôi gió, nhưng không phải vậy,...
             
            1, Hành trình trờ thành nhà văn,
            Trần Nguyên Vấn sinh ở quê, làng Trúc Lâm thuộc thành phố Huế. Đi học hết lớp Đệ Tứ trường Trung học Khải Đinh (Quốc học Huê), đậu bằng trung học đệ nhất, tháng 7 năm 1954 hiệp định Genève có hiệu lưc, ông xin ra Bắc tiếp tục đi học, trường Phổ thông cấp 3 Huỳnh Thúc Kháng ở Nghệ An. Đây là ngôi trường nổi tiếng mà nhiều bậc trí thức hàng đầu của nước ta từng là học sinh và trưởng thành từ đây. Thời gian này, gặp nhiều khó khăn, trận lụt to tháng 9 năm 1954 do vỡ đê sông Lam, rất khổ vì Trần Nguyên Vấn là học sinh vượt tuyến không có học bổng phải lo dạy kèm trong hè để dồn tiền ăn đi học, giữa năm 1956 mới có học bổng. Nhung rồi, may mắn, năm 1958, thi đỗ vào khóa 3 (1958-1961) khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Ở vào thời điểm ấy, sau vụ Nhân văn Giai phẩm nên việc vào khoa văn rất ngặt nghèo, mấy trăm thí sinh chỉ lấy 24 người. thì 17 cán bộ đi học, chỉ có 7 học sinh toàn miền Bắc có Ngô Văn Phú, Võ Văn Trực, Nguyễn Gia Nùng, Trần Nguyên Vấn, Nông Thị Nhuận, Phạm Thị Hồng Thọ, Vũ Nguyên Ngữ. Ngay khi là sinh viên Tổng hợp Văn, đã có một nhóm gồm Lê Khâm, Hoàng Tiến, Ngô Văn Phú ,Võ Văn Trực, Nguyễn Gia Nùng và Trần Nguyên Vấn, tổ chức, động viên nhau sáng tác. Các thành viên trong nhóm tham gia viết truyện ký nhân dịp kỷ niêm kháng chiến chống Pháp của Thành Đội Hà Nội. Trần Nguyên Vấn viết ký Đánh sân bay Gia Lâm theo lời kể của một số chiến sĩ. Bài ký này cùng các truyện ký của Lê Khâm, Nguyễn Gia Nùng... được Thành đội Hà Nội tập hợp vào cuốn sách Trở về Hà Nội, do NXB Quân đội nhân dân ấn hành năm 1960. Như vậy, có thể nói, con đường sáng tác văn học của Trần Nguyên Vấn khời đầu thuận lợi, báo hiệu sự hanh thông trong sự nghiệp văn chương...
            Nhưng rồi, một sự hanh thông khác lại mở ra, năm 1961, tốt nghiệp Tổng hợp Văn, hai cử nhân văn trẻ là Trần Nguyên Vấn và Võ Văn Trực nhận quyết định phân công về Bộ Ngoại giao công tác, Tương lai trở thành một nhà ngoại giao mở ra, song dường như đinh mệnh an bài Trần Nguyên Vấn phải theo nghiệp cầm bút văn chương thơ phú, nên chàng cử nhân văn khoa này lại không hài lòng với nghề ngoại giao mà nhiều người mong chẳng được. Người bạn cùng lớp là Nông Thị Nhuân được phân công về làm biên tập ở mục Đọc truyện dêm khuya thuộc Phòng Văn nghệ Đài TNVN, mách Trần Nguyên Vấn là mục Tiếng thơ của Đài đang cần tuyển biên tập viên. Thế là Trần Nguyên Vấn báo cáo Bộ Ngoại giao rồi tự đi liên hệ, và kết quả. nhà ngoại giao tương lai trở thành biên tập thơ...
            Trần Nguyên Vấn bước chân vao môi trường làm báo chuyên nghiệp, vào mái nhà chung 58 Quán Sứ, trụ sở Đài TNVN từ tháng 11.1961 và kể từ đấy, ông gắn bó với địa chỉ này cho đến lúc nghỉ hưu, tuy quãng giữa chặng đường dài này nhiều biến cố, trắc trờ....
            Thời gian làm ở chuyên mục Tiếng thơ, ngoài công việc biên tập, Trần Nguyên Vấn viết bút ký và làm thơ. Đáp ứng nhu cầu của công việc, đặc biệt là phóng viên chiến trường, đến năm 1965, ông xin chuyển sang Phòng miền Nam làm ở Tổ thời sự để học thêm cách làm tin,,sử dụng tin tham khảo và viết các câu chuyện thời sự, sẵn sàng nhận nhiệm vụ đi chiến trường. Trần Nguyên Vấn còn hăng hái đến mức, đã tìm gặp một số cán bộ của tình Thừa Thiên mới từ chiến trường ra để bày tỏ nguyện vọng muốn được vào chiến trường. Tuy nhiên, ông vẫn phải chờ đợi đến tháng 4.1967 mới được đáp ứng, sau khi trờ lại làm việc ở mục Tiếng thơ. Trần Nguyên Vấn đi B cùng đợt với nhà báo Nguyễn Thành (sau này, nhà báo Nguyễn Thành làm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Phát thanh truyền hình Việt Nam) và nhà thơ Bùi Minh Quốc. Sau khi huấn luyện, Trần Nguyên Vấn lên đường đi chiến trường Thừa Thiên vào tháng 5.1967. Lúc ấy, vợ ông đang mang thai đứa con đầu được 5 tháng. Trần Nguyên Vấn làm báo Cờ Giải phóng của Thành ủy Huế, và từ đây, theo yêu cầu của Tiểu ban Văn nghệ miền Nam, ông lấy bút danh là Trần Phương Trà, Thời gian làm phóng viên ở địa bàn Trị Thiên Huế, Trần Nguyên Vấn cùng làm việc với nhà tho Thanh Hải, nhạc sĩ Trần Hoàn, thiếu tường Lê Chưởng... Chiến dịch Mậu Thân 1968, Trần Nguyên Vấn về Huế được mấy ngày. Theo dự tính, nếu chiến dịch thắng lợi, ta chiếm được Đài dịch ở Huế thi ông sẽ là một trong những người tiếp quản, sử dụng, nhung việc không thành, ông trở lại rừng tiếp tục công tác. Lần trở về Huế ấy, Trần Nguyên Vấn được gặp lại má của mình, còn vui mừng báo cho má biết việc vợ ông ở Bắc đã sinh con trai, đặt tên là... mà bằng mật ước nào đó, qua việc nghe chương trình Tiếng thơCa nhạc của Đài TNVN, các bạn bè ở Ban Văn nghệ Đài đã báo tin để ông nhận biết. Việc này, hơn một lần tôi nghe ông vui kể. xem như chuyện “làm ở Đài ăn lộc nhờ đài”...
            Năm 1969 chi hội Văn nghệ giải phóng Trị Thiên Huế được thành lập. Trần Nguyên Vấn được bầu vào Ban Chấp hành Chi hội do nhạc sĩ Trần Hoàn làm Chi hội trưởng,, nhà thơ Thanh Hải là Chi hội phó kiêm Tổng Thư ký, còn ông làm Tạp chí Sinh hoạt văn nghệ của Chi hội/ Thôi thi mặc sức mà viết, truyên ngắn, bút ký, thơ, vè, đủ loại, miễn sao phục vụ phong trào kháng chiến. Truyện ngắn Của tin ông viết năm 1970 gửi ra dự thi truyên ngắn báo Văn nghê (1970-1971) được tặng thưởng. Nói chung, ông hăng hái xuống đồng bằng, ghi chép, viết truyện ngắn, ký sự, thơ gửi ra cho Đài phát thanh Giải phóng. Đài TNVN và Tiểu ban văn nghệ miền Nam do nhà thơ Bảo Định Giang phụ trách. Đến 8.1973, Trần Nguyên Vấn được đưa ra Bắc chữa bệnh viêm gan do nhiều năm bị các trận sốt rét tàn phá.., Thời gian này, ông thuộc quyền quản lý của Ban Thống nhất miền Nam.
            Nhân đây, tôi thấy cần nói thêm về Đài Phát thanh Gải phóng, nơi nhà văn Trần Nguyên Vấn nhiều năm công tác, gắn bó máu thịt. Khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời vào cuối năm 1960, theo sự chỉ đạo của Bộ Chính trị và Trung ương Cục miền Nam, lãnh đạo Đài Tiếng nói Việt Nam đã chuẩn bị mọi việc để thành lập Đài Phát thanh Giải phóng. Và ngày 01/02/1962, tại cánh rừng Căn cứ Mã Đà, thuộc Chiến khu Đ, Đài Phát thanh Giải phóng, cơ quan của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam chính thức phát sóng buổi đầu tiên, đánh dấu bước phát triển vượt bậc của báo chí cách mạng trên chiến trường miền Nam. Đài Phát thanh Giải phóng đã phát bản tin đầu tiên bằng năm thứ tiếng Việt, Pháp, Anh, Hoa và Khmer, với lời xướng kiêu hãnh: “Đây là Đài Phát thanh Giải phóng, tiếng nói bất khuất, tiếng nói kiên cường, tiếng nói chính nghĩa của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.Đài Phát thanh Giải phóng phải thay đổi địa điểm phát sóng nhiều lần ở một số tỉnh và có điểm phát là cơ quan tuyệt mật ở Hà Nội, với các bí danh: Viz 1080 Bộ Tổng Tham mưu, C55 và CP90... Đài Phát thanh Giải phóng chấm dứt hoạt động vào ngày 31.8.1976, hoàn thành nhiệm vụ của mình sau khi đất nước thống nhất Bắc Nam một nhà.
            Sau giải phóng miền Nam, Trần Nguyên Vấn trờ về Đài Phát thanh Giải phóng, làm Phó trưởng phòng Văn nghệ ở Sài Gòn. Khi Đài Phát thanh giải phóng chấm dứt hoạt động, ông trở lại mái nhà xưa, Đài TNVN nhưng ở cơ quan Đài tại phía Nam, và mãi năm 1980 ông mới ra Hà Nội, tiếp tục công việc ở Phòng Văn nghệ. Ông nghỉ hưu với cương vị Chủ nhiệm chương trình phát thanh Văn học của Đài. Trần Nguyên Vấn trờ thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam vào năm 1983. Ông cũng là hội viên Hội Nhà văn Hà Nội.
            Hành trình để trở thành nhà văn của Trần Nguyên Vấn là hành trình dấn thân đầy gian khổ nơi chiến trường bom đạn ác liệt; là hành trình viết tạp mọi thể loại để phục vụ thông tin tuyên truyền thời chiến, để có sự lắng động, chắt lọc mà thành văn chương. Tôi nghĩ và thầm so sánh, nếu như Trần Nguyên Vấn không đổi nghề, vẫn làmviệc ở Bộ Ngoại giao thì sao nhỉ? Tất nhiên, là nhà ngoại giao mà có lòng say mê văn chương, hoàn toàn có thể trở thành nhà văn, song ông đã không lựa chọn vậy. Trần Nguyên Vấn đã chọn cho mình con đường cầm bút chuyên nghiệp, và ở thời điểm ác liệt nhất của cuộc chiến, ông đã tình nguyện dấn thân vào chiến trường thì hẳn, lý tưởng sống và lý tưởng văn chương hun đúc, cùng hòa quện trong ông. Khi ấy, ông biết rằng, vào mặt trận, rất có thể một ngày nào đó mình sẽ nằm lại chiến trường, như đồng nghiệp Tô Chức, hay như các bạn văn Dương Thị Xuân Quý, Chu Cẩm Phong. Nguyễn Mỹ, Lê Anh Xuân,... và bao chiến sĩ khâc,
            May thay, ông đã bình an đi qua chiến tranh để trờ thành nhà văn. Hơn thế, ông là một nhà báo, một chiến sĩ !
             
            2. Thơ văn Trần Nguyên Vấn,
            Đến nay, nhà văn Trần Nguyên Vấn đã xuất bản các tập sách:Trở về Hà Nội (truyện ký, in chung,1960):; Của tin (truyện ngắn,1981). Niềm vui thầm lặng (truyện ký, in chung 1987); Bốn mùa hoa trái (thơ, 2000); Trinh Đường trọn đời vì thơ (sưu tầm biên soạn, 2002); Nhớ Tuân Nguyễn (sưu tầm, biên soạn, 2008), Nặng lòng với Huế (chân dung văn nghê, 2017), Từ trường Quốc học Huế (thơ văn, 2017), Về giữa lòng quê (Ký, 2017)... Được biết, ông còn mấy tập sách đã xong bản thảo, dự định xuất bản nay mai.
            Biết ông nhiều năm nay, đọc và hầu chuyện ông, tôi hiểu, Trần Nguyên Vấn không hẳn là một người tài hoa, tinh thần và câu chữ toát ra ngoài, Trong nhóm văn chương ba người với nhau, Vũ Đình Minh tài hoa, hoa, hóm hỉnh; còn Nguyễn Thái Vận. lãng mạn mơ mộng, thì Trần Nguyên Vấn cần mẫn, cẩn trọng, chu toàn. Có lẽ, những đức tính ấy bổ sung cho nhau, khiến họ gắn kết, thân thiết, quý mến nhau. Giờ thì Nguyễn Thái Vận và Vũ Đình Minh đã theo cánh hạc về trời, còn lại mình Trần Nguyên Vấn. Vốn người hiền hoa, chu đáo và quảng giao, Trần Nguyên Vấn luôn biết cách tìm niềm vui trong gia đình và bầu bạn, Ông đặc biệt say mê việc làm sách, từ khâu tổ chức, tập hợp, biên soạn, đến in ấn phát hành... và đương nhiên, vẫn rỉ tả viết. Ông là người ghi chép cẩn thận, tỉ mỉ mọi sự việc thấy cần thiết và lưu trữ rất tốt, nên có cả kho tư liệu lớn. Tôi đã tứng ngó xem những cuốn sổ ghi chép tư liệu của ông, chữ nhỏ, khá đẹp, chú thích và thư mục đầy đủ. Ông cũng là người lưu trữ tư liệu ảnh đáng nể, Tôi biết, ông có những bức ảnh quý hiếm về các nhà văn, nhà thơ và văn nghệ sĩ Việt Nam nói chung, xứng đấng được lưu giữ trong bảo tàng.
            Trần Nguyên Vấn từng giao du, gặp gỡ nhiều thế hệ văn nghệ sĩ Việt Nam. Ông vốn ghi chép cẩn thận, lại thêm trí nhớ tốt. Chỉ vậy thôi, đã là một lợi thế không hè nhỏ để ông viết chân dung văn hay chuyện văn nghệ sĩ. Khi có cảm hứng, ông đã thành thơ, như bài Trong đêm vui cuối cùng với nhà văn Nguyễn Tuân,  và  bài Câu thơ cuối cùng về nhà thơ Thanh Tịnh... Thực lòng, tôi mong nhiều hơn thế ở ông !...
            Tôi nhớ, cũng khá lâu rồi, đã có lần, khi liếc qia kho tư liệu phong phú của ông, tôi đùa mà hỏi ông: “Bác có nhiều tư liệu quý thế... sao bác chưa chuyển hóa chúng thành tác phẩm văn học? ... Em thấy, bác đã sử dụng được bao nhiêu đâu?...”. Trần Nguyên Vấn cười hiền, bảo: “Ừ....mình cũng đang dùng dần đấy....”. Rồi ông say sưa nói về dự định viết cuốn này tập nọ, chủ đề tư tưởng và bố cục hẳn hôi. Tôi chờ mà chưa thấy, cũng ngại không dám hỏi lại. Dường như, có gì đó chưa thông suốt trong ông thì phải? Những năm gần đây, thỉnh thoảng anh em gặp nhau, chỉ thấy ông nói về việc làm sách, nhất là sách về trưởng Quốc học HuếTrường cấp 3 Huỳnh Thúc Kháng Nghệ An. Miễn sao, ông hào hứng và vui khỏe là được, khi đã ở độ tuổi ngoại tám mươi.
            Tôi vẫn có ý chở, Thâm tâm, tôi thèm và tiếc kho tư ;liệu, đặc biệt là tư liệu ghi chép về chiến tranh của ông.
             
            3. Cần mẫn và ân tình Trần Nguyên Vấn,
            Bút danh Trần Phương Trà thay cho tên thật Trần Nguyên Vấn chỉ có khi ông vào chiến trường Thừa Thiên Huế năm 1967, theo yêu cầu của Tiểu ban Văn nghệ miền Nam, nhằm đáp ứng bí mật thời chiến. Như vậy, bút danh này chủ yếu được dùng thời kỳ ông làm việc ở báo Cờ Giải phòngĐài Phát thanh Giải phóng nên chỉ bạn bè, đồng nghiệp biết rõ, tuy hai mà một. Sau này, ông ký tên thật là chính, song một số bạn bè đồng nghiệp vẫn trìu mến gọi ông bằng bút danh, như một cách để nhắc nhở và cùng nhớ về một thời chiến tranh gian khổ đã qua.
            Bản tính Trần Nguyên Vấn hiền hòa, cời mở và đầy nhiệt tình với mọi người. Gặp nhau, ông hay ân cần thăm hỏi và trí nhớ rất tốt, có thể nhắc lại những chuyện cũ đến từng chi tiết. Tự thân cần mẫn và cách sống ân tình, là bản chất của ông. Những năm bao cấp, kinh tế xã hội khó khăn, thiếu thốn, căn nhà của ông (ở khu tập thể số 1 Lê Phụng Hiểu và sau ở phố Tông Đản, Hà Nội), là nơi lui tới thường xuyên của các cây bút trẻ chúng tôi, các đồng nghiệp cùng cơ quan Đài TNVN và các bạn văn chương. Đặc biệt, các văn nghệ sĩ xứ Huế mỗi khi ra Hà Nội, đều ghé chơi nhà ông, có người ở lại vài ba ngày, thaamh chí cả tuần thay vì ở nhà khách. Tôi đã gặp ở đây những văn nghệ sĩ nổi danh của xứ Huế như Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Khoa Điểm, Hải Bằng, ... Thế nên, Trần Nguyên Vấn được bạn bè yêu quý tin cậy bầu vào các loại Ban liên lạc, giữ vai trò chủ chốt bởi ông đầy nhiệt huyết và có kinh nghiệm tổ chức các hoạt động chung.
            Tôi có anh bạn giỏi tử vi, tứ trụ, cũng là đàn em báo chí thân thiết với nhà văn Trần Nguyên Vấn. Nhớ lần anh bảo tôi, Trần Nguyên Vấn sinh năm 1937, tuổi Đinh Sửu, bên ngoài hiền hòa dễ chịu thế thôi, nhưng là người nghịch ngầm, khá bướng bỉnh, trọng danh dự, và khá quyết liệt, định làm việc gì là gắng bằng được. Phải chăng. mọi việc đến với ông ngỡ hanh thông nhẹ nhàng song  thực lại hay trắc trở. Có lẽ vậy, đường đời và sự nghiệp của ông chưa tương xứng với sự cống hiến của ông. Song ông không vì thế mà nản chí.
            Trần Nguyên Vấn cần mẫn, đặc biệt trong việc làm sách. Trong số ấy, phần lớn là tập hơp thơ văn, bài viết, hình ảnh, tư liệu của các tập thể, riêng có 2 cuốn về cá nhân, ấy là Trinh Đường trọn đời vì thơ (sưu tầm biên soạn, 2002); Nhớ Tuân Nguyễn (sưu tầm, biên soạn, 2008).
            Nhà thơ Trinh Đường là bậc huynh trưởng đáng kính trọng của nhóm “Văn nghệ sĩ Ong” thân nhau, gồm Trinh Đường, Ngô Quân Miện, Trần Nguyên Vấn, Nguyễn Thái Vận, Vũ Đính Minh, Trịnh Bá Ninh. vv,,, (Đây nhà nhóm văn nghệ sĩ, thời bao cấp, thường được Tổng công ty Ong mời đi thực tế để viết bài, sáng tác thơ văn về nghề nuôi ong).
            Còn Tuân Nguyễn, thì không nhiều người biết. Ông là nhà báo, nhà thơ đàn anh, biên tập viên hàng đầu ở chuyên mục Tiếng thơ của Đài TNVN, nơi Trần Nguyên Vấn về nhận việc thời chập chững bước chân vào nghề biên tập thơ. Đây xem như cái duyên cua hai người với nhau, bởi không chỉ đồng hương xứ Huế, đồng nghiệp cùng bộ phận làm việc, mà nãi sau này còn gắn tên với nhau. Nhân đây, nói thêm vê nhà thơ Tuân Nguyễn và mối lương duyên với Trần Nguyên Vấn,
            Tuân Nguyễn (tên thật là Nguyễn Tuân). sinh năm 1933, quê ở Phú Vang, Thừa Thiên Huế, là nhà báo, nhà thơ, nghệ sĩ ngâm thơ, dịch giả, từng làm việc ở chuyên mục Tiếng thơ của Đài TNVN từ năm 1960. Tuân Nguyễn tốt nghiệp Tú tài 2 ở Huế, giỏi tiếng Pháp, tiếng Anh và Hàn văn. Thời kháng chiến chống Pháp từng tham gia Vệ quốc đoàn, sau hóa bình xuất ngũ, theo học khóa 1 Văn khoa  Đại học Sư phạm Hà Nội. Tốt nghiệp, làm giáo viên dạy ở Trường học sinh miền Nam tại Hà Đông, một thời gian, trước khi về Đài TNVN làm biên tập thơ.  Tuân Nguyễn không may bị quy là “có ý tưởng đi ngược với đường lối chính sách” và bị bắt giam vào tháng 10. 1964, do một số cán bộ cức đoan suy diến, nghi ngờ, Gần 10 năm chịu giam giữ cải tạo, năm 1973, Tuân Nguyễn được trả về cuộc sống bình thường, nhưng không thể trở lại cơ qian cũ, mà lao động tự do. Ông lập gia đình với nhà thơ Phương Thúy, một giáo viên dạy đàn dân tộc ở Nhạc viện Hà Nội, và là con gái của nhà phê bình văn học Hoài Chân (người đòng tác giả với Hoài Thanh viết cuốn Thi nhân Việt Nam). Năm 1976, vợ chồng ông chuyển vào Tp. Hồ Chí Minh sinh sống. Tuân Nguyễn sống bằng việc dạy học và dịch sách. Còn vợ ông bán sách báo qua ngày. Tác phẩm Bim trắng tai đen nổi tiếng của nhà văn người Nga là G.Troyepolsky, Tuân Nguyễn là dịch giả. Năm 1983, ông mất vì một tai nạn giao thông.
            Những tưởng câu chuyện về một con người có tài có tâm những không may, chịu nhiều oan khuất, cay đắng sẽ chìm vào dĩ vãng, thì giở đây, những người yêu văn chương và bạn đọc biết đến tên tuổi Tuân Nguyễn. Trước hết, phải nói đến công đầu của nhà văn Phùng Quán, người đã viết một chân dung Tuân Nguyễn tuyệt hay in trong tập Ba phút sự thật của ông. Đặc biệt, khi tập Nhớ Tuân Nguyễn được NXB Hội Nhà văn ấn hành năm 2008 do Trần Nguyên Vấn tổ chức xuất bản, từ sưu tầm bản thảo, biên soạn, đến việc in ấn,... thì cuộc đời Tuân Nguyễn đầy dủ, rõ nét thêm. Ở đó tập hợp bài viết của các tác giả mà nhiều người là bạn hữu, đồng nghiệp, người quen của Tuân Nguyễn như: Ngọc Trai, Hoàng Phủ Ngọc Tường,, Băng Sơn, Thái Vũ, Dương Tường, Nguyễn Bùi Vợi, Lê Huy Quang. Đoàn Minh Tuấn, Xuân Đài, Vũ Từ Trang v.v... Đáng quý, trong tập sách này, tập hợp được 86 bài thơ của Tuân Nguyễn được sưu tầm từ sách báo cũ, qua trí nhớ của người thân, đồng nghiệp, thậm chí cả bạn tù,... Quan trọng hơn cả, qua tập sách này, bạn đọc hiểu đúng về con người Tuân Nguyễn và bao nỗi đắng cay gian truân mà ông đã trải qua, cũng xem như một sự minh bạch về cuộc đời ông, đặng minh oan cho nỗi oan khuất ma ông mắc phải!?...
            Để làm được việc này, nhà văn Trần Nguyên Vấn, người em xứ Huế, người đồng nghiệp của Tuân Nguyễn phải có tâm lâm lắm và bỏ nhiều công sức, cần mẫn, tận tụy mới làm nổi,
            Thay lời kết cho bài biết này, tôi kể một câu chuyện, thêm phần minh chứng cho mối lương duyên giữa hai người con của Thừa Thiên Huế, Tuân Nguyễn và Trần Nguyên Vấn. Áy là vào năm 2011, nhà thơ Phương Thúy, vợ của Tuân Nguyễn lâm vào tình trạng già yếu, không nơi nương tựa ở Tp. Hồ Chí Minh. vì ông bà lấy nhau nhưng không có con. Giải pháp tốt nhất là làm sao đưa bà Phương Thúy vào sống ở Nhà Dưỡng lào. Để làm được việc này không đơn giản, phải lập hồ sơ giấy tờ phiền hà. Nhà văn Trần Nguyên Vấn lại đứng ra lo một phần giấy tờ thủ tục. Khi ấy, tôi đang là Chánh văn phòng Đàu TNVN, nên có điều kiện giúp nhà văn Trần Nguyên Vấn phần giấy tờ liên quan đến Đài với tư cách Đài là cơ quan chủ quản cũ của nhà thơ Tuân Nguyễn khi ông bị nạn giam giữ cải tạo. Việc suôn sẻ, bà Phương Thúy được an cư ở Nhà Dưỡng lão từ đấy,... và nghe đâu bà mới mất vài năm gần đây. Với vợ chồng nhà thơ Tuân Nguyễn, lo toan như thế, tôi nghĩ, nhà văn Trần Nguyên Vấn thật trọn tình vẹn nghĩa. ./.
             
             
            #96
              tamvanvov 27.08.2021 16:36:29 (permalink)
              Trịnh Tuyên, lão chăn dê xứ Thanh.
              (Chân dung nhà văn Trịnh Tuyên)
               
                        Sở dĩ tôi đùa vui gọi nhà văn Trịnh Tuyên như thế, bởi truyện ngắn Chuyện tình lão chăn dê là truyện ngắn hay, một trong ba truyện mà tôi chọn để giới thiệu cùng chân dung nhà văn trên Website của Hội Nhà văn Việt Nam (vanvn.net). Sau đó, truyện ngắn này còn được nhà văn Nguyễn Văn Thọ chọn và nhà thơ Trần Đăng Khoa, Tổng biên tâp, phê duyệt đăng ở số 2 (bộ mới) Tạp chí Nhà văn & cuộc sống, Hội Nhà văn Việt Nam.
                        Nếu không nhầm, đây là một trong mấy truyện ngắn khới đầu nghiệp văn của Trịnh Tuyên. Tuy xuất hiện trên văn đàn muộn nhưng Trịnh Tuyên đã nhanh chóng khẳng định mình ở thể loại truyện ngắn và chỉ trong vòng gần chục năm, ông đều đặn xuất bản 4 tập truyên ngắn, đó là Những mảnh vỡ của số phận (2012), Hang cóc thần (2014), Giấc mơ lạnh (2016),  Nhớ đêm thời xa ấy (2018), và hiện đang xuất bản tập truyện  thứ 5 của mình- Trái tim bé bỏng. Trịnh Tuyên là hội viên  Hội văn học nghệ thuật tỉnh Thanh Hóa.
                        Mặc dù. Trịnh Tuyên viết đều cả văn và thơ, nhưng bạn văn chương và bạn bè nói chung chẳng ai gọi ông là nhà thơ cả, Phải chăng, truyện ngắn của Trịnh Tuyên nổi trội hơn thơ ông nên người ta ấn tượng một Trinh Tuyên văn? Song có lẽ, con người góc cạnh, tính cách quyết liệt, phản biện sẵc sảo, đã làm nên một Trịnh Tuyên-nhà văn?
               
              1. Trịnh Tuyên văn,
                        Trịnh Tuyên chào làng văn, chào bạn đọc bằng truyện ngắn Chuyện tình lão chăn dê, và gần như lập túc, ông ghi dấu ấn, khiến bạn đọc ngoài xứ Thanh biết đến tên ông. Tôi cùng vậy. Biết Trịnh Tuyên từ những ngày đầu tham gia mạng xã hội, trang của ông trên Blog Tiếng VIệt đăng đủ thứ, nhưng phài đến khi ông đưa truyện ngắn này lên (20.3.2012), sau khi mấy tờ báo, tạp chí địa phương cùng đăng, tôi mới nhìn nhận phẩm chất nhà văn ờ Trịnh Tuyên, khiến ông khác với nhiều người cùng tham gia viết ngày ấy. Quả nhiên, truyện ngắn này nâng vị thế của Trịnh Tuyên trong con mắt của các blogger ở Blog Tiếng Việt. Giờ đây, khi duyệt bài lên trang, nhà thơ Trần Đăng Khoa, Tổng biên tạp Tạp chí Nhà văn % cuộc sống , gật gù bảo: “Truyện này chằng khác gì chuyện Chí Phèo, Thị Nở thời nay”. Lẽ dĩ nhiên, với gần trăm truyện ngắn đã viết. Trịnh Tuyên còn có một số truyện ngắn khác khá chắc tay,
                        Hãy xem Trịnh Tuyên viết gì. Có thể thấy, các truyện của Trịnh Tuyên tập trung vào mấy mảng đề tài chính: chuyện chiến tranh và hậu chiến, chuyện về các loài vật, chuyện mang tính trinh thám, vụ án, chuyện màu sắc tâm linh, và chuyện đời sống xã hội, tình ái...
                        Nhìn chung, như phần đông các cây bút viết theo bản năng vốn có, khởi thủy thường chọn thủ pháp kể chuyện truyền thống, diễn biến câu chuyện theo trình tự thời gian, dù đan xen hồi tưởng, ký ức, với nhân vật kể chuyện ở ngôi thứ nhất (tôi), hoặc ngôi thứ ba (nó, hắn...), Trịnh Tuyrn cũng vậy. Hầu hết, các nhân vật của ông kể chuyện ở ngôi thứ nhất, số ít truyện ở ngôi thứ ba. Với thủ pháp vậy, tâc giả dễ bề điều hành nhân vật theo chủ quan của mình nên dễ nặng cảm tính hơn là theo logic của sự việc, vấn đề. Tuy nhiên, Trịnh Tuyên “bài binh bố trận” khá linh hoạt, đã biết cách thoát ra khỏi sự nhàm chán của lối kể chuyện bắng cách thay đổi kết cầu, khai mở gây sự chú ý, cài đặt chi tiết bất ngờ...
              Có lẽ, chuyện chiến tranh và hậu chiến là mảng đề tài Trịnh Tuyên để tâm khai thác. Mặc dù, bản thân không nhập ngũ, không trực tiếp tham gia chuến tranh, mà là chiến sĩ công an, song cũng là lực lượng vũ trang, vả lại, ban bè, người thân của ông tham gia quân ngũ rất nhiều nên ông hiểu chuyện binh nghiệp và những vấn đề xã hội thời hậu chiến... Ở mảng đề tài này, có các truyện Nhớ thời xa ấy, Tên lính ngụy, Hồi ức một cung đường,  Kẻ ném đá,...Nhưng có thể tháy, tác giả chỉ hoàn thành việc kể chuyện, các nhân vật như thiếu hồn vía nên chưa để lại dấu ấn đáng kể,
              Trái ngược, màng đề tài về đời sống xã hội và tình ái là thế mạnh thực sự của Trịnh Tuyên. Ông viết như không, như kê chuyện chơi vậy thôi nhưng hầu như truyện nào cũng sống động và khá ấn tượng, mà qia đó, ông gửi gắm ý tưởng, triết lý nhân sinh, hoặc tự thân truyện toát lên giá trị nhân văn và thông diệp về cuộc sống,... Cùng với Chuyện tình lão chăn dê, ở màng đề tài này, có thể nhặt ra một số truyện chắc tay, như: Những mảnh vỡ của số phận, Giọt máu rơi,  Đồng không mông quạnh, Ông kão câu cá, Cây bút máy mạ vàng, Liên, Thiếu nữ bên bãi biển chiều thu, Bà Thanh- kiu, Chuyện tình xóm núi, Nhừng mùa dưa đi qua...
              Cùng màng đề tài về đời sống xã hội, Trịnh Tuyên cũng khá thành công với những truyện về tâm linh như: Cây gậy của Lý Tước, Hang cóc thần, Giấc mơ lạnh, Thần cây, Bí mạt hang cá thần, Con rắn hổ lửa trên bàn thờ tổ, Con chuột trong nhà thờ họ, Cối đá quý, Ma học trờ, Anh ơi em chết mất,...Tử những giai thoại, chuyện kể mang màu sắc dân gian tâm linh, Trịnh Tuyên sưu tầm xây dựng nên cốt truyện rồi đắp thêm da thịt phù phép thành truyện, và ở đây, quan hệ nhân-quả được ông sử dụng thành triết lý nhân sinh, Vậy nên, yếu tố tâm linh không phải là chuyện mang ra để hù ma, dọa quả báo, mà như một sự nhắc nhở về đạo lý thiện lương, về nhân nghĩa ờ đới....
              Những chuyện vụ án, chuyện mang màu sắc trinh thám cũng là một điềm nhấn trong sáng tác của Trịnh Tuyên. Xuất thân ngành công an, nhiều năm là cảnh sát điều tra, Trịnh Tuyên có vốn kiến thức phong phú, óc suy đoán logic, sự nhanh nhậy của một chuyên viên phá án, nên ông khá chắc tay trong mảng đề tài này. Ở các truyện: Kể tự thú, Đánh ghen, Bóng đè, Ăn miếng trả miếng, Tiếng chó sủa đêm,  ông thỏa sức tung tẩy với kinh nghiệm cảnh sát điều tra của mình. Không chỉ thế, Trịnh Tuyên viết truyện như làm án, nên để dấu ấn nghiệp vụ điều tra trong hầu hết các truyện ngắn của ông về việc cài đặt tình tiết và tiết tấu câu chuyện,...
              Còn một mảng đề tài, khiến Trịnh Tuyên khác nhiều cây bút văn xuôi, ấy là về các loài vật. Để ý, các truyện của ông đều thấp thoáng bóng dáng các con vật, (hoăc cây cối, đồ vật), mà ở đó, chúng là các nhân vật phụ, có liên quan, và có tác dụng làm nổi nhân vật chính. Nhiều truyện, con vật trờ thành nhân vật chính, như: Đôi chim cu già, Sữa chó, Chó đẻ, Con mọt, Con khỉ, Con mèo tam thể, Con ngựa già, Con lợn nghĩa tình, Con gà tài nguyên, Con trâu bạc, Đốm ơi,... Ở đây, Trịnh Tuyên tỏ rõ sự hiểu biết tường tận về đặc tính sinh thái của từng loài vật, mối quan hệ đồng loại và mối quan hệ với con người. Dĩ nhiên, nói đây chết cây chỗ khác, ông mượn chuyện con vật là để nói con người, nhắn nhủ con người,..
              Vậy nên, đương nhiên, có một Trịnh Tuyên-truyện ngắn,
               
              2. Trịnh Tuyên thơ,   
              Cho đến thời điểm này, nhà văn Trịnh Tuyên vẫn chưa xuất bản tập thơ nào, song ông là tác giả của hàng trăm bài thơ rải rác nhiều năm qua. Dấn thâm vào nghiệp văn. Trịnh Tuyến có thế mạnh và chủ tâm theo văn xuôi, nhưng cũng như nhiều cây bút văn xuôi khác, thậm chí các lão làng (như Hà Minh Đức, Võ Huy Tâm, Đỗ Chi...), ông bị nang thơ quyên rũ và không thể làm ngơ. Thơ ông chủ yếu đăng trên mạng xã hội để bạn hữu đọc bàn chơi, hay lúc trà dư tửu hậu bình phẩm, thi thoảng gửi đăng báo này nọ,
              Là cây truyện ngắn vững, khi viết, chủ đề, ý từ, bố cục, chi tiết rõ, nên sang thơ, Trịnh Tuyên cũng theo đúng cách viết truyện ngắn mà làm. Nghĩa là, lập tứ, có cốt rồi lắp câu chữ cho bài thơ nên da thịt, sao cho diên đạt được ý từ là ổn, nên đôi khi khó tránh khỏi tình trạng ngượng ép, khiên cường, Ví như:“Đừng tìm người đi cấy anh ơi/ Phía trước, phía sau, đều không rõ mặt/ Cuộc mưu sinh gần đất nhất.../ Họ sẽ nhìn anh qua khung hình tam giác/ Mặt ruộng là gương, không cần tráng ni tơ rát bạc// Âm bản đen, ống kính chổng lên trời!!!” (Người đi cấy); hay như: “Người cả tin/ Biên giới hay xê dịch/ Người tâm thần/ Biên giới bỏ ngỏ/ Người tham lam/ Tự thu hẹp biên giới/ Người cuồng tín/ Biên giới thuộc địa hạt tư duy kẻ khác/ Người thông minh/ Biên giới chôn chìm...” (Biên giới). Đây nữa:  “Chúng rút ra rồi, em mới thấm đau/ Sóng cứ dào lên như là nức nở/ Có phải sông đâu mà trút vào bồi lở// Em - Biển kia mà... bạn của đại dương.../ Giấy kết hôn kia vò vứt cuối giường/ Em thuộc về anh sao để người ta cắm?/ Phút chúng khoan vào, em đau, đau lắm/ Anh - kẻ bạc tình biết đứng nhìn thôi!...” )Lời than của Biển Đông); Và đây “Bến lạnh lùng, con tim buốt sang ngang/ nước đã lạnh, lòng người còn lạnh nữa/thôi đừng khoắng thêm dòng sông tình tan vỡ/ Cho mái chèo mươn mướt những niềm đau! (Chằng còn mùa thu nữa đâu em); Rồi đây nữa: “Có anh đây rồi, em cứ vững niềm tin/ Biển là em, em thẳm xanh như biển/ Nếu chúng vắt vòi rồng, anh còn cố nhịn/ Nhưng khoan vào là anh băm xác chúng ra/ Nên chúng cứ thụt vào rồi kéo ra!” (Thơ tình cảnh sát biển)_
              Đại loại, những khổ thơ, câu thơ gượng ép, cố gò theo ý tưởng như thế không hiếm trong thơ Trịnh Tuyên, Như đã nói, thơ Trinh Tuyên, hầu như bài nào cũng ý tứ rõ ràng, nhiều khi lộ ý,  vấn đề là diễn đạt ra sao. Trịnh Tuyên luôn ý thức tạo sức nặng chi thơ mình, nên ông ưa triết lý, Một khi triết lý. thì năm ăn năm thua, rất có thể gượng và khô cứng, nhưng thành công thì lại được những câu thơ hay. Có thể tìm nhặt ra trong thơ Trịnh Tuyên những triết lý hay. Chẳng hạn, như: “Quên tên cây/ làm thuyền/ Tận cùng nỗi cô đơn-/ độc mộc!/ Khoét hết ruột/ Chỉ để một lần ngược thác/ bất chấp đời/ ênh đênh...” (Độc mộc); Hay như: “Chưa nở đã mang bầu thai quả/ Phận đau như gái chửa không chồng/ Buồng the nứt toác tình chưa thoả/ Cuối mùa trơ cuống với hư không.(Hoa chuối): Đây nữa: “Đêm tất niên một mình ra ngõ/ Say mèm húc phải đống rơm/ Hai kẻ cô đơn chợt tỉnh:/ Nhận ra xác những linh hồn!/ Ngươi: xác của mùa màng/ Ta: xác của thời gian/ Ngươi: Cháy lên còn chút lửa/ Ta: Một nhúm tro than..../ Ngươi đứng lù lù trước ngõ/ Ta thì lọm khọm trong nhà/ Ta buồn đắng tình thế thái/ Ngươi vui ngọt miệng trâu bò!” (Đêm tất niên): Và đây: “Nơi đây là mộ địa/ Chôn/ những mối tình đã chết từ lâu/ Đã vô duyên kiếp trước/ Mong gì gặp kiếp sau?  (Nghĩa địa tình yêu) v.v...
              Nếu chịu khó tòm kiếm, còn không ít những câu thơ triết lý thú vị như thế trong hàng trăm bài thơ của Trịnh Tuyên  Thực lòng, tôi thích thơ Trịnh Tuyên hơn truyện của ông, bời nhìn chung, thơ ông có ý tưởng lạ, khá hàm súc, câu chữ bất ngờ. Ví như bài thơ này: “Ta lại đến điểm đầu từ điểm cuối// đường tình ngắn chẳng tày gang/ Cưới lại đi em/ Ừ! Cưới lại!/ Cơm đã nguội rồi thì đổ ra rang.../ Đêm cưới lại/ tình nồng không trở lại/ chỉ có đôi môi/ lặng ngắt/ ưu sầu!/ Đêm cưới lại/ ái ân/ không trở lại/ chỉ tiếng thì thầm thoảng trong đêm mau/ Đêm cưới lại/ chẳng còn gì trở lại/ chỉ một lần khờ dại mãi trong nhau..” .(Cưới lại); Hay như: “Nghẹn ngào khói thoảng về mây/ Run run một nén tâm đầy con dâng...” (Thăm mộ cha);  “Khi anh yêu em/ Biên giới của người điên” (Biên giới); “Rằng nay đang tiết thanh minh/ Tôi đi viếng cái mộ mình mai sau...” (Tôi đi viếng mộ của tôi):  “Nơi đây là mộ địa/ Dưới đáy mồ không một khúc xương/ Chôn những mối tình đã chết! “ (Nghĩa địa tình yêu) v.v...
              Theo tôi, Trịnh Tuyên có một bài thơ hay, thuộc hàng hay nhất của ông, kiểu như Chuyện tình lão chăn dê trong truyện ngắn, ấy là bài Thành nhà Hồ.
              “Thành xưa đổ nát, hoang tàn
              Hồ vương rời bỏ ngai vàng ngự đâu(?)
              Thạch long, tuế nguyệt dãi dầu
              Bước chân khanh tướng công hầu vắng tanh
              Sông xưa đổ mé đông thành
              Mà nay đồng bãi , tươi xanh bốn mùa
              Đế vương mà ngỡ trò đùa
              Trẻ trâu kể mấy đời vua suy tàn .
              Cho hay thành quách, ngai vàng
              May ra còn lại mấy trang sách nhầu!
              Có gì vĩnh cửu mãi đâu
              Bao nhiêu lăng tẩm nhuốm mầu liêu hoang
              Bao đời áo mão xênh xang
              Mấy ai xây được ngai vàng- Lòng dân”
              Hơi thơ cổ, tứ hay, câu chữ chắt lọc, phong vị trầm bi, ý nghĩa sâu sắc và giàu sức gợi, Nghe đâu, bài thơ này có câu được các nhà bình chọn lấy để treo vào bóng thơ thả lên giời một Nguyên tiêu nào đó ở Văn Miếu-Quốc tử goám. Trịnh Tuyên cũng lấy đó mà tự hào.
              Đấy là sự ghi nhận về tính triết lý trong thơ Trịnh Tuyên.  Song cùng vì ham triết lý mà nhiều bài thơ của ông giảm sức gợi. Thơ hay, trước tiên cần sức gợi, rồi đến ý tứ, câu chữ, nhạc điệu... Có cả thì dĩ nhiên toàn bích rồi. Thế nên, làm thơ, dụng công quá thường hỏng. Nhiều khi buâng quơ, viết chơi chơi lại được. Trịnh Tuyên có những bài thơ như vậy, Ví như ờ Chiều trên bài ngô, ông tả cảnh đồng bãi, vô tình thấy môt em nào đó đang cắt cỏ trên bãi ngô ven sông Mã, để rồi buông một câu kết lửng lơ: “Xin em đừng gánh cỏ về lối cũ/ Kẻo vương vào phiền muộn của riêng anh...” thì bài thơ sống động hẳn lên, bồng có hồn và rất gợi... Hay đâu, những câu thơ đầy ngẫu hứng thú vị như “Biển oan, sóng mãi gầm gào/ Bao nhiêu trong đục đổ vào một tôi! “ (Em); “Lời thương/ em gửi cuối nguồn/ Lời yêu/ em gửi cánh chuồn chuồn bay” (Nhà em): “Đường chiều mây nhẹ đường mây/ Đường tình tôi nặng những đày đọa tôi” (Chiều quê);  “Thanh minh tôi viếng mộ tôi’Mai sau biết có ai người ghé thăm?”(Tôi viếng mộ tôi); “Một năm lửa đỏ để dành/ Đủ cho anh đốt cơm canh một ngày!” (Thơ ngày 8.3); “Tháng sáu thương phận cá trôi/ Đồng xa, nước ngập, bồng bơi ngả nào?. Con rô lách ngược mưa rào/ Con ếch nồng nỗng cầu ao đợi mồi/ Tháng sáu, em hẹn thăm tôi/ Ao sâu, nước cả, tôi ngồi câu suông!” (Tháng sáu); “Mặt trời thì ngã đằng tây/ Em thì ngã trọn vòng tay gã khờ/ Khi em ngã ngửa vào mơ/ Là tôi ngã sấp bơ phờ tóc sương” (Ngã) ...
              Những câu thơ này, dẫu không đến mức “tuyệt diệu hảo từ”, thì cũng không phải là những câu thơ dễ viết dễ có !... Và như thế, tôi nghĩ,, đủ có một Trịnh Tuyên-nhà thơ!...
               
              3.  & lão chăn dê xứ Thanh,
                        Năm nào cũng vậy, cứ sau tết nguyên đán, độ cuối tháng hai ta, Trịnh Tuyên lại rủ tôi vô Thanh, còn nhắn là nhớ rủ thêm nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền, nhà văn Nguyễn Trọng Huân, họa sĩ Lã Minh Kính và nhạc sĩ Phạm Qiamg Hiển. Chẳng là, từ nhiều năm nay, cứ vào độ này khi tiết xuân còn chưa vãn, cánh chúng tôi thường vô xứ Thanh, dổ bộ vào nhà Trịnh Tuyên ở Cẩm Tân, Cẩm Thủy. Nhóm văn bút xứ Thanh tụ hội ở nhà Trịnh Tuyên thường có Phạm Duy Đức, Ngô Xuân Tiếu, Lê Văn Sự, Trọng Nghĩa, Đào Phan Toàn, Cao Nguyên Quyền, và Trương Thị Mầu, Ma Bích từ Bá Thước xuống, cùng vài ba người khác... Đông vui, thân mật, ấm áp tình bạn bầu văn chương.
                        Tôi quen và thành thân với Trịnh Tuyên từ mươi năm nay, qua mang xã hội Blog Tiếng Việt mà cư dân ở đây nôm na gọi là Xóm Lá, Lúc ấy, mạng xã hội chưa phổ biến như giờ, nên những ai tham gia Blog Tiếng Việt chí ít cũng phải biết viết lách đôi chút, nếu không phải là cây bút chuyên nghiệp. Nhóm vài chục blogger ở Hà Nội gặp gỡ, giao lưu với nhau vui ;ắm, còn Trịnh Tuyên mãi vùng xa Cẩm Thủy xứ Thanh. Song Trịnh Tuyên nhanh chóng gây ấn tượng với nhóm chúng tôi, bời nhẽ, thứ nhất, các cảm nhận (comment) gây xốc, tưng tửng hoặc chọc ngoáy khó chịu,  thớ nữa, các bài viết của ông, truyện ngắn hay thơ đều khá chững chạc. Phàm dân viết, ngửi văn nhau thấy được là chơi với nhau ngay. Và rồi, những chuyến Trịnh Tuyên ta Hà Nội mỗi dịp Nguyên tiêu, hay những chuyên đổ bộ của chúng tôi vào xứ Thanh kết nối và gắn bó chúng tôi.
                        Gặp rồi nên thân mới thấy chơi được với Trịnh Tuyên không dễ chút nào. Ông tuổi Nhâm Thìn (sinh 1952), cầm tình còn rồng, mệnh Thủy-Trường lưu thủy (nươc chảy dài), lại sống bên bờ sông Mã, nên tính cách mạnh, linh hoạt, lấn lướt,... Thiên can Nhâm cỉa tuổi Nhân Thìn, tương hợp với Đinh, mà tôi tuổi Đinh Dậu (1957) nên Trịnh Tuyên với tôi, anh em hiểu nhau, dễ chia sẻ, bổ trợ thành hòa hợp,...Có mầy yếu tố làm nên tính cách con người Trịnh Tuyên, chất nam nhi xứ Thanh điển hình, cộng cái ngất ngưởng của kẻ có chữ, pha trộn thêm sự nhanh nhậy linh hoạt của nghề cảnh sát điều tra, Thường ra, thấu hiểu và dễ cảm thông, song khi cần, sắc lẻm phân minh, nhất bét tời cùng, không ngại va chạm mất lòng, Tôi nhớ, trong một lần vào xứ Thanh, tôi cảm hứng thành thơ, bài thơ Thăm bạn xứ Thanh, mang đọc lúc tiêc vui, có câu thơ “Xứ Thanh bề bộn nước non/ người một khoảnh, đất vuông tròn một khoanh”, mọi người đều không để ý, riêng Trịnh Tuyên nhận ra ngay ý tứ. Ông khoái, khen câu thơ ấy đã khái quát được cả vùng đất và tính cách con người xứ Thanh,
                        Cũng có thể kể thêm vài câu chuyện nữa, đặng khắc họa đậm nét tính cách con người Trịnh Tuyên, Trong quan hệ xã hội, Trịnh Tuyên không ưa những gì ông cho là mập mờ. Thế nên, đã tùng xảy ta chuyện, tờ báo này tạp chí nọ sử dụng bài viết của ông tùy tiện, thiếu minh bạch, khiến ông bực mình, lên tiếng phản ứng. Rồi nữa, chuyện ông mời khach đến chơi nhà cùng tiếp bạn văn chương thủ đô, chuyện phiếm lấn sang lĩnh vực điều tra, ông và cậu đàn em từng là thủ trưởng cơ qian điều tra cấp huyện, nổi hứng nghê nghiệp bàn về chuyện phá án, hăng lên tranh luận, mỗi người một lý, chủ khách thành to tiếng khiến tôi và nhà thơ Trần Đăng Khoa phải can ngăn, hạ hỏa đôi bên...
                        Trịnh Tuyên là vậy đấy, trực tính, yêu ghét rõ ràng, Ai chơi được với ông dễ thành chí cốt. Hễ cứ nghe Trịnh Tuyên phán về một au đó “Hắn chơi được lắm”  thì tôi không phải ngại, cứ yên tâm mà giao du. Chẳng thế mà, lão chăn dê xứ Thanh quy tụ được nhiều cây bút,  bạn bè yêu văn chương trong vùng, thưởng xuyên gặp gỡ, đông viên, chia sẻ cùng nhau không chỉ văn chương mà cả những vui buồn  cuộc sống...
              Mấy năm nay, bạn văn miền tây xứ Thanh của ông cứ vơi dần. mấy người vân du về cõi hạc (Trọng Nghĩa, Phạm Duy Đức, Ma Bích), riêng ông vẫn thủng thẳng sớm trà, chiều tửu, cần mẫn kể chuyện đời,..,
              Lão vẫn còn bầy dê thả chăn trên núi kia mà 
               
              #97
                tamvanvov 18.09.2021 11:47:54 (permalink)
                Nguyễn Huấn, kịch sĩ và nghề báo,...( 1 _
                 
                Vậy là. Nghệ sĩ Ưu tú Nguyễn Huấn đã diễn nốt vai diễn cuối cùng của mình trên sân khấu cuộc đời, ấy là sự ra đi vĩnh viễn của anh.
                O tuổi 66, không phải là trẻ nhưng cũng chưa là cao, nếu biết chăm sóc sức khỏe, hoàn toàn có thể thêm mươi, mười lăm nắm nữa, Nghe nói, Nguyễn Huấn đang ;ang thang đâu đó ở Huếm rồi đột ngột ngột bị đột quỵ, đưa về quê Vụ Bản, Nam Định rồi mất vào chiều ngày mồng một tháng chín. Với bạn bè và anh em cơ quan thì là đột ngột, song thực ra, Nguyễn Huấn đã sắp đặt cho sũ ra đi vình viễn của mình từ mấy năm trước, kh anh bỏ nhà lang bạt kỳ hồ,... Sống như thế, nghĩa là anh đã chọn cho mình cách sống những năm còn lại của mình, kể cả cái chết, có điều, ngày giờ sớm muộn thế nào là chuyện thiên cơ huyền bí mà thôi,...
                Cách đây khoảng 25 năm, đọ năm 1996, khi mấy chúng tôi làm việc chung phòng với nhau, tôi và Nguyễn Huấn, cùng Phamj Duy Hưng, Trần Nhật Minh. Nguyễn Thị Thu Liên là  phings viên chương trình Tạp chí  truyền thanh & Du ;ịch do nhà báo Thanh  Lịch phụ trách. Gần gũi. hay nghe Nguyễn Huấn kể chuyện đời mình, nhất là các cuộc phiêu lưu tình ái của anh,  tôi đã lấy chuyện tình của anh với một cố gái xứ dùa Bến Tre làm nguyên mẫu cho truyện ngắn “Bức tranh để lại”. Truyện in báo rồi vái sách, mọi người biết lấy ra trêu Nguyễn Huấn, anh vờ trách và còn khoái trí bịa thêm chi tiết cho ly kỳ. Cái kết của truyện ngắn ấy, nhân vật chính nôi máu giang hồ, bỏ việc đi biệt  tăm và nghe đâu bỏ mạng vì tai nạn ở một tỉnh miền Trumg.  Nguyễn Huần cười khì bảo :”Mày rủa tao nhá... cứ đợi đấy, tao sống nhăn răng cho chúng mày hay,...”. Quả là Nguyễn Huấn đã sống thêm một tứ thế kỷ, mặc dù qua mấy cơn bạo bệnh, để nối dài vai diễn cuộc đời mình. Lần này, thì anh diễn cố cho xong!...
                Nguyễn Huấn quê Kim Thái, Vụ bản, Nam Định, sinh naw,1956 tuổi Bính Thân. Anh hay vui miệng khie, tuổi Con Khỉ nên theo nghiệp diễn là đúng vai đúng  số. Nghe đâu, sơ sinh, Nguyễn Huấn nặng tới 4,3 kg, là chuyện hiếm hồi ấy. Bố là công an, mẹ là cán bộ phụ nữ, thuộc thành pjaan cơ bản, nhưng anh không theo nghiệp hpcj hành mà sớm trở thành công nhaa, vì bố mất sớm. Nguyễn Huấn làm công nhân ở Khu gang thép Thái Nguyên với nghề chính là láo xe goòng chở than và quảng. Sau này, những cuộc rượy vui, anh hay đùa về thời kỳ ấy, rằng hàng ngày cứ phải cầm lái điều khiển cái đầu tàu  kép dăm toa  xe chờ đầy than, quặng chạy đi chạy lại trên một đoạn đường cố dịnh faii vài ytwm mét, không khác gì phải diên một vai kịch phụ khô cứng và nhạtphèo. Có lẽ vì chán nghề, không cam chịu, Nguyễn Huấn tìm niềm vui trong hoạt động văn nghệ quần chúng. Anh có khiếu kẻ vẽ, cắt giấy, hát hò, diễn kịch nên trờ thành hạt nhân văn nghệ quần chúng ở Khu gang thép Thép Tháo Nguyên.  Và tôi cớ hội đến, Nguyễn Huấn được đơn vị mình cử đi dự tuyển đào tạo ở Trường Sân khấu Điện ảnh trung ương. Được đào tạp chính quy ở ngôi trường danh giá tạo thủ đii, Nguyễn Huấn bắt đầu làm quen và giao di với nhiều nhân vật có tiếng trong giối nghệ thuật biểu diễn ở trung ương, nên khi  tốt nghiệp, anh không muốn quay về chốn cũ, vì như thế, nghĩa là anh chấp nhận vau diễn nhỏ, chẩng biết đến bao giờ mặt mũi mới suit tăm lên được. Nhưng không quay về cơ quan cũ, cũng đòng nghĩa với bỏ vieecjm chấp nhận cuộc sống tự do, tự lo công ăn việc làm, cơm áo gạo tiền, mà thời bao cấp, những việc ấy còn quan trọng hơn cả sự nghiệp. Thế nhung, Nguyễn Huấn vẫn dẵn sàngchấp nhận, để đi tìm vai diễn lớn cho cuộc đời mình.  Ạm bước chân vào ngưởng cửa Nhà hát Tuổi trẻ khi đó có các tên tuổi lớn là Thùy Chi, Phạm Thị Thành, Đức Trung và cùng với lứa diễn viên trẻ đầy tài năng như Lan Hương, Chí Trung, Ngọc Huyền, Minh Hằng, Anh Tú, Lê Khanhv...
                Dương như, vận may chưa mìm cười với Nguyễn Huấn khi anh chỉ được giao thỉ các vai phụ, vao quần chúng, thậm chí không  có vai mà chỉ làm casv việc khiêng vác, bưng bê, kê dọn phông cảnh, kéo phông màn,..  Vài năm như thế. Nguyễn Huấn bỏ việc tời Nhà hát Tuổi trẻ, sống dặt dẹo, tá túc nhà bạn bè, người quen, ở Hà Nội,. Quãng thời gian này, Nguyễn Huấn may mắn bám được vào Đài TNBN (VOV) để theo nghiệp diễn bằng cách viết kịch bản, diễn xuất, đạo diễn kịch truyền thanh. Những năm ấy, ngoài các chương trình như Sân khấu truyền thanh, Văn nghệ quân đội sáng chủ nhật, kể chuyện cảnh giác tối thứ bày, thì nhiều chương trình khác của Đài TNVN có chủ trương sân khấu hóa bằng các tiết mục câu chuyện truyền thanh, như Công nghiệp, Nông nghiệp, Thanh niên, Phụ nữ, Đại gia đình các dân tộc  Việt Nam,.. Cứ loanh quanh, đeo đuổi  với ngần ấy, nhuận bút còm nhưng đó là nguồn sống và động lực để Nguyễn Huấn theo nghiệp diễn, vingf bới đó. Nguyễn Huấn còn tham nhập vào nhóm kịch sĩ nghiệp dư công tác ở Viện Kiểm sát nhân dân tối cao gồm Phạm Huỳnh Công, Nguyễn Tùng Lâm, Phạm Xuân Chiến,...lấy chỗ tá túc và niềm vui làm nghề,
                Tôi lần đầu biết Nguyễn Huấn vào năm 1988 lại là một kỷ niệm và ấn tượng xấu Tôi lần đầu biết Nguyễn Huấn vào năm 1988 lại là một kỷ niệm và ấn tượng xấu Khi ấy ttooi làm việc ở Phòng Tiếp dân và sử lú đơn thu của Ban Thình giả Đài TNVN do nhà báo Hoàng Đồng phụ trách và nhà văn Đặng Quang Tình làm trưởng ban,Nột  Phòng làm biệc của thuộc dãy nhà cấp 4 trong khu trụ sở 58 Quán Sứ, ngay phóa dưới tòa biệt thự  kiến trúc Pháp, mơi làm việc của Ban Băn nghệ với các phòng Văn học, Sân khấuVăn học thiếu nhi. Một chiều, nghe tiếng ồn ào bên ngoài, rồi tiếng chân người chạy, Tôi và nhà báo Hoàng Đồng ngó ra thì thấy một người to béo,mặt đỏ bự, tay cầm chiếc kéo đuổi theo một người già hơn có mái tóc bạc. Miệng anh chàng to béo lảm nha,r đe ddaanhs người kia. Nhà báo Hoàng Đồng nhận ra người đầu bạc là đạo diễn sân khấu truyền thanh Vũ Hà, bèn xồ ra chặn ngay trước mặt anh chàng béo. Người này khuengj kại, bằn mắt quát nhà báo Hoàng Đông bằng tiếng Nga: Kto? *Mày là ai?. MIệng hỏi tay lăm lăm chiếc kéo nhọn. May sao, vừa lúc ấy, biên taapj viên Hồ Nhật Quang chạy đến ki[j vòng tay ôm ngang ngươi chàng béo, vừa quát  vừa dỗ dành, ngăn được vụ ấu đả có thể đổ máu. Sàu đó, tôi biết được chàng béo say rượu quạy phá gây rồi hôm ấy là Nguyễn Huấn.Bữa đó, Nguyễn Huấn đến Đài lấy nhuận bít, rồi vui miệng rut Bũ hà và Hồ Nhật Quang đi nhậu. Quá chén rủ nhau về cơ quan, chuyện nọ dọ chuyên kia thành cãi nhau và thế là xảy ra xô xát. Cái tật say rượu hoặc mượn rượu để quậy ăn vào máu thịt Nguyễn Huần thành tính, mà sau này tôi hay phải chứng kiếm, thậm chí là nạn nhân của Nguyễn Huấn khi về chung phòng lam việc với nhau. Được cái, Nguyễn Huấn là người phũ thiện, khi tỉnh rượu, tĩnh tró, biết xin lỗi bạn bè nên mọi chuyện cũng qua.
                Lân la rồi chầng hiểu sao, Nguyễn Huấn xin được vào hpjc việc ở một phòng phát thanh mới thành lập là Nhà nước và Pháp luật di nhà báo Lê Thông phụ trách, cùng với mấy phóng viên mới là Đàm Hoa và Nguyễn Sĩ Lý. Nhà báo Lê Thông bản tính thân thiện, ôn hòa và bao dung nên ông dung nạp được con ngựa bất kham Nguyễn Huấn mà không để xảy ra chuyện gì đáng tiếng cả. Khi ấy, Đài dã bắt đầu tổ chức tuyển dụng theo hình thức thi tuyển và Nguyễn Huấn đã vượt qua được kỳ thi để trở thành phóng viên chính thức của nhà đài. Dau này, Nguyễn Huấn vui miệng kể, thực ra anh còn nợ miin ngoại ngữ (đăng ký thi tiếng Nga) nhưng không đạt điểm tuyển. Nhà báo Trần Quang Khải khi đó là Trưởng ban Ban Tổ chức cán bộ của Đài bảo, vì tiếc chất giọng vàng của Nguyễn Huấn mà chọ nợ ngoại ngữ. Quả là, vào Đài, Nguyễn Huấn đã phát huy được chất giong tốt trời phú và khả năng diễn xuất của mình cho làn sóng của Đàim không những thế đây còn là chiếc cần câu cơm khi anh làm thêm, diễn thuê, đọc quảng cáo thuê. Nguyễn Huấn vào Đài nọe môn tiếng Nga là thế, nhưng đã có kần, tôi chưng kiến, trong một chuyến công tấc, khi cần giao lưu với cơ sở, anh ngà ngà say, đã ông ghi ta hát bài Đôi Bờ vằng riếng Nga khá chuẩn xác, hay và đầt cảm xúc. Anh có khả năng bắt chước của một kịch sĩ và nhở khả năng này Nguyễn Huấn hóa giải nhiều chuyện không hat do anh gây nên để thoát hiểm. Tiiu và nhiều bạn bè đều biết vậy, bực đấy nhưng khó giận lâu được. THực ra, ẩn trong khả năng sự diễn của một kịch sĩ, là sự phục thiện của Nguyễn Huấn. Thời còn ở chung phong với Nguyễn Huấn, cuingf Phạm Duy Hưng và Trần Nhật Minh, mỗi khi tháy Nguyễn Huấn giả là nói cười cầu tài sau khi anh gây chuyện, mấy chúng tôi lại nháy mắt nhau hàm ý “lại diễn đấy”, tồi thì bỏ qua chi nhau cả.
                 
                #98
                  tamvanvov 04.10.2021 09:47:08 (permalink)
                  Tổ ấm bồ câu
                  Truyện ngắn
                   
                             Chín giờ sáng, Chiêm nhìn lên mặt chiếc đồng hồ quả lắc làm theo lối cổ sang trọng. lẩm bẩm trong miệng. Hôm nay là ngày chủ nhật. Đối với Chiêm thì ngày nào cũng vậy, cô chẳng phải làm gì cả. Sở dĩ cô vẫn nhận ra ngày chủ nhật chỉ bởi vẻ tĩnh lặng khác thường của các gia đình hàng xóm. Họ không phải dậy sớm tất bật như mọi ngày. Ngôi biệt thự của gia đình Chiêm lọt vào giữa một xóm thơ nằm rìa cảng. Trái với khung cảnh của xóm lao động luôn ồn ào, sôi động, ngôi biệt thự nhà Chiêm luôn tĩnh lặng, trừ những ngày Trịnh, chồng của Chiêm, ở nhà không phải theo tàu, còn đâu, ngôi biệt thự chỉ thấp thoáng bóng Chiêm và bà người ở già đi lại. Chiêm ăn xong bát phở tái do bà người ở ra phố mua về cho, cô ngả lưng trên xa lông uống nước, xỉa răng. Chán rồi cô uể oải đứng lên, đến bên tấm lịch lốc cẩn thận bóc từng tờ một và nhẩm tính. Thế là Trịnh theo tàu viễn dương đã được đúng một tháng bảy ngày. Chiêm bần thần, thở dài đi ra hiên. Cô nhìn lên chuồng chim bồ câu đặt trên cao ở góc vườn, con chim mái đậu một mình trên nóc chuồng, ủ rũ.Thương nó quá, Chiêm thầm nghĩ. Trịnh ra khơi được chừng nửa tháng thì con chim trống bị bệnh làm sao đó, nó không ăn mà chỉ uống nước mấy ngày liền rồi chết. Từ khi con chim trống chết đi, con chim mái luôn ủ rũ như thế. Nó như người mất hồn, thirng thoảng mới mổ đôi ba hạt đậu xanh như thể cầm hơi thôi. Chiêm từng nghe bố Chiêm giảng giải là bồ câu sống với nhau tình nghĩa lắm, nhiều khi còn hơn con người sống với nhau. Chiêm cất tiếng gọi: “U ơi, cho bồ câu ăn chưa? U ơi… Quái, lại đi đâu rồi? Chắc là đi chợ!”. Chiêm quay vào nhà, bật ti vi, rồi ngả người xuống xa lông. Màn hình hiện lên lố nhố đám ca sĩ ngoại quốc ăn vận hở hang, nhảy nhót và tiếng nhạc, tiếng gào thét om xòm. Chiêm chẳng thích gì những thứ đó nhưng cô cần có nó, sự hiện diện của những cái mà cô mờ tịt chẳng hiểu gì và còn cho là nhố nhăng nữa, để phá vỡ sự tĩnh lặng đến ngạt thở của ngôi nhà. Cô nhìn vào mặt ti vi song chẳng thấy gì ở đó bởi đầu óc cô để ở tận đẩu tận đâu… Thế là Chiêm trở thành bà chủ của căn biệt thự sang trọng này được hơn một năm rồi đấy, kể tự khi Trịnh cưới cô làm vợ. Hai người ở cùng một xã nhưng khác thôn. Trịnh hơn Chiêm đến chục tuổi và là bạn học cấp hai với người anh cả của cô. Hai người gặp nhau tình cờ tại một đám cưới của em họ Trịnh với đứa bạn cùng làng Chiêm. Trong đám cưới thì thường người ta chỉ chú ý đến cô dâu, chú rể bởi họ là nhân vật chính của buổi lễ. Nhưng ở đám cưới đó, cô dâu chú rể bị lép đi, bởi đám con trai chỉ chú ý đến sắc đẹp ẩn chứa nỗi buồn trên khuôn mặt Chiêm, còn cánh con gái lại bị vẻ sang trọng, lịch thiệp kiểu trí thức thành phố của Trịnh thu hút. Hôm ấy, Trịnh luôn để mắt đến cô, còn bản thân Chiêm, cô có loáng thoáng thấy Trịnh song cô không hẳn để ý đến anh ta lắm, bởi trong lòng cô còn chưa vơi nỗi đau mất người yêu. Trước đó hơn nửa năm, Khôi – người yêu của cô ở cùng làng bị cảm nhập tâm đột ngột mất. Nhà Khôi nghèo khó ở trong làng, bởi mẹ Khôi ốm đau bệnh tật liên miên còm chị gái Khôi tâm thần nên cũng chẳng làm lụng gì. Học hết cấp hai cùng với Chiêm, Khôi ở nhà làm ruộng cùng với mẹ và chị, còn Chiêm học hết cấp ba. Hai người để ý nhau đã lâu, những tưởng không thể bên nhau được nếu Chiêm thi được vào đại học hay trung học chuyên nghiệp. Song Chiêm học cũng chẳng giỏi gì cho lắm nên cô trượt, ở nhà làm ruộng. Hai đứa chính thức yêu nhau, nhưng gia đình Chiêm tỏ vẻ không đồng ý. Chiêm còn chưa ra ngô ra khoai làm sao thì Khôi chết đột ngột. Chết do ham làm. Hôm ấy là trưa tháng sáu, Khôi vừa cày về dọc đường, người còn mồ hôi mồ kê nhễ nhại thì bắt gặp úi cá ở trong ống xi phông, Khôi liền lao ngay xuống, lặn ngụp bắt cá, bị cảm bò lên bờ mương thì gục hẳn, người làm đồng đưa về đến nhà chưa kịp cấp cứu đã chết. Sau trận đấy, Chiêm ngỡ mình quỵ luôn nhưng sức khỏe làm cô chóng hồi phục và dần nguôi ngoai. Và Chiêm trở thành vợ Trịnh như một tất yếu của duyên phận.Trịnh học đại học hàng hải và trở thành thợ máy tàu, rồi lên chức máy trưởng. Con tàu của Trịnh mang tên Cánh chim xanh một năm đi vài ba chuyến, chuyến ngắn nhất cũng phải hơn tháng, còn bình thường từ ba đến bốn tháng. Trịnh theo tàu, làm ăn có tiền, mua đất ở mấy gia đình ở xóm lao động này rồi xây biệt thự. Xong xuôi hết mọi việc mới tính chuyện cưới vợ. Khi đồng ý lấy Trịnh, người làng bảo Chiêm là “chuột sa chĩnh gạo”. Thực tình, Chiêm cũng chẳng hám đống của nhà Trịnh, song cô nghĩ, người mình yêu thì không còn nữa, chờ yêu lại thì chẳng biết đến bao giờ, còn lấy người không yêu thì Trịnh còn gấp mấy đám trai làng lam lũ, tẻ nhạt. Sau ngày cưới một tuần ở quê, Trịnh đưa Chiêm về ngôi biệt thự này và khi đó Trịnh cho tổ chức lễ thành hôn lần nữa, mời toàn anh em bạn bè ở cảng và những người cùng tàu. Lễ cưới lại cực kì xa hoa. Ở nhà được một tháng, Trịnh lại phải theo tàu đi xa và trước khi đi, Trịnh về quê bên ngoại đón một bà già cỡ năm chục tuổi lên, nói là em họ mẹ mình, đến ở cùng với Chiêm cho vui và giúp việc nhà được nhận lương hàng tháng. Bà Lúa cũng gọi Trịnh là cháu, xưng dì. Còn Chiêm thì gọi bà Lúa là u, xưng con cho thân mật. Bà Lúa người xương xương, xởi lởi và cũng có vẻ hiền lành, và theo lời bà thì bà chưa một lần lấy chồng. Chiêm tuy có cảm tình với bà Lúa nhưng cô vẫn hỏi kháy Trịnh: “Anh hay đi vắng nên đưa dì mình về đây để giữ gian em đấy à?”. Trịnh vội phân bua: “Không, không… Em hiểu lầm anh rồi. Có dì Lúa, em có người đỡ đần, lại có người để chuyện trò đỡ buồn. Mới lại, nhà mình có của, em ở nhà một mình, kẻ gian lọt vào thì sao. Có thêm dì Lúa, dẫu gì cũng còn có người này người kia, bớt sợ hơn”. Cô thấy chồng nói mãi thì bảo: “Là em nói đùa vậy thôi, chứ em cảm thấy hợp và quý dì Lúa lắm”… Chiêm đang mơ màng thì có tiếng bước chân người và giọng bà Lúa vang lên: “Con ạ, con chim mái nó chẳng chịu ăn gì cả. Kiểu này thì cũng đến chết mất thôi… Thật nó cũng như con người ta, cứ vò võ một mình mãi thì làm gì mà chẳng héo hon”. Chiêm chạm tự ái gắt: “U thì chỉ được cái…”. Bà Lúa biết mình nhỡ lời: “Là tao nói cái thân tao ấy… Thôi để hôm nào tao đi chợ, xem có con chim trống nào mua về ghép đôi cho nó… Nhưng mà ghép người thì dễ chứ ghép bồ câu là khó lắm đấy”. Chiêm bâng quơ: “Con cũng thấy người ta bảo thế”…
                  *       *      *
                  Rồi bà Lúa cũng mua được một con chim trống. Con chim này màu nâu chứ không trắng như con chim mái, và trông nó có vẻ ngờ nghệch chậm chạp làm sao. Nhìn con chim, Chiêm không mấy cảm tình, bảo: “Sao u không mua con trắng mà lại mua con này?”. Bà Luá chửi yêu: “Cha bố cô, lấy đâu ra mà mua, bán chim bồ câu người ta bán cả đôi. May mà có một ông cụ bán con chim trống này, ông cụ bảo là con chim mái của nhà ông cụ chết, đành phải mang con trống đi bán cho người ta thịt. May mà nhà mình lại mất con trống chứ không thì cậu chàng này có mà chui vào nồi cháo”. Nghe bà Lúa phân giải, Chiêm cười. Bà Lúa nhốt hai con vào chuồng rồi chốt cửa chặt lại và giải thích cho Chiêm: “Phải nhốt thế này mấy ngày liền để anh chị chàng làm quen với nhau đã, rồi mới thả để anh chị đưa nhau đi kiếm mồi và trình diện làng xóm”. Chiêm thấy vui vui, ôm cổ bà Lúa: “U thạo ghê”. Rồi Chiêm cảm thấy trong lòng trào dâng niềm hứng khởi và cô lôi bà Lúa vào nhà, ăn ngồi xuống bên cô và líu ríu: “U biết không, anh Trịnh con hay đi xa, nên trước khi u đến ở với chúng con, anh ấy mua về đôi bồ câu trắng này và bảo là đôi bồ câu con thêu trên gối cưới được phù phép biến thành thật. Rồi nhà con lại nói là, bồ câu yêu nhau thắm thiết lắm, nên khi nhà con đi xa, ở nhà con cứ nhìn vào đôi bồ câu mà tưởng tượng là hai đứa chúng con vẫn đang ở bên nhau; rằng con ở nhà chung thủy chờ nhà con, và anh ấy ở nơi xa cũng chung tình và giữ gìn vì con”. Chiêm ngả đầu vào vai bà Lúa mơ màng. Bà Lúa vuốt tóc Chiêm và bảo: “Chiêm ơi, con nói hay cứ như hát ý. Dì mừng cho chúng mày”. Chiêm đỏ mặt chối: “Con có biết gì đâu, con là con bé nhà quê chưa được đi xa nhà, là con chỉ nói theo lời anh Trịnh con đấy thôi”. Bà Lúa vỗ về: “Ừ mà thằng Trịnh cũng giỏi”…Đêm ấy Chiêm mơ thầy chồng về và Trịnh âu yếm, tình tự với cô. Sáng hôm sau Chiêm dậy sớm và thấy sảng khoái lắm. Bà Lúa trêu: “Đêm qua con mơ thấy gì mà cười rúc rich mãi thế?”. Chiêm đỏ bừng mặt. Bà Lúa cười: “Tao biết rồi!...”.Thời gian sau, hai con chim quen nhau, nhưng để ý, Chiêm thấy con chim mái có vẻ gì gượng ép và nó không hề quấn quýt với con trống nâu. Còn con trống thì vẫn ngơ ngơ thế nào ấy. Một hôm, cho chim ăn, Chiêm phát hiện là hình như một bên mắt của con trống bị kém hay bị hỏng gì đó, còn một ngón chân nó lại bị cụt mất phần móng. Cô nghĩ: “Thảo nào, nàng mái chê ỏng eo nên không muốn gần gũi”. Chiêm tiếp tục quan sát đôi chim ngày ngày và cô phát hiện ra thêm là tuy chúng đi kiếm ăn cùng nhau nhưng bao giờ con mái cũng bay đi trước một lát  rồi con trống mới bay theo và khi về cũng vậy. Con mái cứ hễ về chuồng là chui tọt vào trong, còn con trống thì đậu ở cửa như ngần ngại một lát rồi mới chui vào.Rồi một lần, Chiêm thấy con trống bay đi một mình, cô bèn bắc ghế lên xem thì thấy con mái đang nằm ổ, cô nghĩ, thì ra là cô nàng sắp đẻ trứng. Cô vào nhà, lén nhìn qua cửa sổ chờ khi nào con mái bay ra thì sẽ leo lên xem quả trứng bồ câu nó thế nào. Nhưng cô chờ một lát thì cô chợt thấy một con chim lạ màu trắng từ phía nhà bên bay xoẹt sang đậu ngoài cửa rồi chui nhanh vào trong chuồng. Cô ngạc nhiên lắm nhưng không đuổi mà nhón chân ra ngoài, lắng nghe. Đúng là có tiếng chim gù nhau, rồi một lát con trắng lại chui ra, sau ít phút dùng dằng ở cửa nó bay sang nhà bên và biết mất, nhanh như lúc nó đến. Trông cái dáng to to của nó, Chiêm hiểu đây là bồ câu trống. Con chim mái nhà cô chui ra khỏi chuồng, đứng bên ngoài chờ đón gì đó, và chút sau con chim trống nâu bay về, miệng nó ngậm một cọng cỏ khô. Con mái có vẻ líu ríu khác ngày thường, và hai con chui vào bên trong. Chứng kiến toàn bộ cảnh ấy, tự nhiên Chiêm thấy nao người như phải cảm và cô bỏ vào nhà nằm. Khi bà Lúa đi chợ về, thấy cô nằm im tưởng cô ngủ, rồi không thấy cô động tĩnh lại ngỡ cô ốm bèn đến bên lay gọi, sờ trán. Nhưng không người Chiêm vẫn mát và mắt cô thì mở to nhìn đăm đăm lên trần nhà. Bà Lúa bảo: “Gớm, con nghĩ gì mà im lặng thế làm dì sợ hết hồn tưởng con làm sao. Mày nhớ thằng Trịnh phải không? Ừ nó đi cũng dễ đến ba tháng rồi nhỉ? Chắc là cũng sắp về thôi…Cứ biền biệt như vợ chồng ngâu thế này. Nó khổ mà mày cũng chẳng sung sướng gì con ạ!”.Chiều hôm ấy, Chiêm tắm sớm hơn mọi ngày. Khi còn con gái sống ở quê, cô quen tắm nước giếng khơi, hoặc tắm sông những đêm hè có trăng, nhưng từ ngày lấy chồng, cô toàn tắm nước ấm trong bồn có pha thêm hương liệu đặc biệt do Trịnh mua về từ nước ngoài. Chiêm nhanh chóng thích nghi với lối sống mới và tỏ ra thích thú, rồi có coi việc tắm như một lạc thú. Nằm khỏa thân trong bồn, đèn sáng choang và bốn mặt toàn là gương, Chiêm có thể ngắm thân mình từ mọi phía. Cô kỳ cọ và mân mê từng bộ phận trên cơ thể mình. Bàn chân cô hơi to, và đôi tay cũng thô vì lao động từ nhỏ, nhưng bù lại gương mặt cô xinh, dáng người cô đẹp, các đường cong uốn lượn rất gợi cảm. Nước da cô không trắng bóc mà hơi ngà. Hôm hai người mới đưa nhau về ngôi biệt thự này, đêm ấy Trịnh để đèn trong phòng sáng, cô thì sợ rúm và bắt Trịnh phải tắt đèn nhưng chồng cô kiên quyết không, bảo là một tuần tân hôn ở quê tối tăm rấm rúi, mọi rợ lắm, để sáng thế này mới thấy được thân thể nhau. Cô nằng nặc: “Nhưng mà da em đen lắm”. Chồng cô bảo: “Anh thích da em thế này, cứ như ngà voi tạc ấy. Con gái vùng Nam Thái Bình Dương cũng có nước da như vậy”. Đúng là chồng cô đã nói thế, ngày ấy cô còn non dại chưa biết gì chứ như bây giờ thì Trịnh chết với cô. Chiêm mơ màng, thiêm thiếp trong bồn tắm. Cô nghĩ về đôi bồ câu của nhà cô. Ồ.. ai cũng bảo là bồ câu là giống chung tình nhưng nay xem ra không hẳn thế. Phải, cô đã phát hiện ra mặt trái của điều đó. Mình phải theo dõi tiếp xem sao! Mà không biết khi nào Trịnh về, cô có nên kể chuyện này cho Trịnh không nhỉ?...  Chiêm bừng tỉnh nhỏm người khỏi bồn tắm vì tiếng đập cửa rầm rầm của bà Lúa. Cô đằng hắng mà miễn cưỡng rời bồn tắm, lau người, trước khi mặc quần áo, cô còn nấn ná ngắm thêm thân thể mình trong gương một lần nữa. Cô bước ra khỏi bồn tắm, rồi sang phòng ăn. Mâm cơm tươm tất đã bày sẵn, bà Lúa lại chửi yêu: “Cha cô, hôm nay cô làm sao mà từ sáng đến giờ mấy lần làm cho u hết cả hồn?”. Chiêm cười: “Hay lắm u ạ. Hôm nay con phát hiện ra một điều lạ lắm. Để rồi hôm nào con sẽ kể u nghe… Có thể u không tin, nhưng sự việc sờ sờ ra đấy, u có thể tự mắt mình chứng kiến”. Bà Lúa lên giọng: “Này… con làm sao đấy hả Chiêm? Mày học ai cái lối nói ỡm ờ thế… Mà này, con gái xinh đẹp như mày là phải cẩn thận, chớ có lớ xớ gì mà chết đấy nghe con”. Chiêm thấy vui vui trong lòng và cô đùa: “Này, u giữ gian cho cháu u đấy à?”. Hai dì cháu cùng cười rồi ăn cơm. Những ngày sau, Chiêm tiếp tục theo dõi động tĩnh của lũ bồ câu. Cô cảm thấy mình bớt chán, không những thế mà còn thích thú nữa là đằng khác. Hệt như các nhân vật trong mấy cuốn tiểu thuyết chữ to nửa tình ái nửa trinh thám mà chồng cô lôi về cho cô xem giải buồn, cô thấy như mình đang dấn thân vào một cuộc phiêu lưu đầy mạo hiểm. Việc này khác hẳn với công việc đồng áng cô vẫn làm ở quê trước đây nên cô càng thích thú hơn, trước hết bởi nó lạ lẫm, sau nữa, cô cảm nhận rằng mình đang khám phá chính bản thân mình. Chiêm chuyển từ ngạc nhiên sang say mê sự đột phá trong suy nghĩ của mình… Bà Lúa cũng nhận ra điều ấy ít nhiều song bà không sao diễn tả được, chỉ bảo Chiêm: “Dì thấy con dạo này vui vẻ, hoạt bát lên nhiều chứ không sầu não như hồi thằng Trịnh mới đi, dì mừng cho con, nhưng mà dì cũng lại lo lo thế nào ấy… Lo vì cái gì thì chịu”. Chiêm ôm ghì lấy người bà Lúa, cười bảo: “U ơi, lo con bò trắng răng”.Hằng ngày, con chim trống nâu vẫn đi kiếm ăn một mình, thi thoảng con mái mới đi cùng. Và mỗi khi con trống nâu bay đi thì một lát sau con chim trống trắng lạ đến ngay. Chiêm nghĩ, hẳn là chàng trống trắng phải rình ở đâu đó, để khi con trống nâu bay đi là tranh thủ đến ngay. Sau nhiều lần như vậy, Chiêm lén xem trong ổ song không thấy quả trứng nào. Thì ra là nàng ta chỉ vờ rạo rực tìm ổ đẻ nhõng nhẽo và lừa cho chàng trống nâu đi kiếm ăn một mình, ở lại chuồng chờ chàng trống trắng. Rồi một lần, sau một lúc lâu gù nhau ở trong chuồng, con trống trắng vừa mới thò ra cửa thì Chiêm thấy con mái cũng chui ngay ra theo, nó xu lông cổ, mổ lia lia vào đầu vào cánh con trống trắng khiến con này loạng choạng và không hiểu sao. Vừa ngay lúc đó, con trống nâu từ đâu bay về, miệng đang ngậm một cọng rác, nó liền nhả ra, xông vào trợ giúp con mái. Con chim trống trắng hình như đã hiểu ra, nó cũng xù lông gân cổ giữ thế rồi lùi dần và bay đi. Nàng mái rụi rụi đầu mỏ vào cổ vào âu cánh chàng trống nâu tỏ vẻ oan ức, giận hờn lắm. Và từ ngày ghép đôi với nhau, đây là lần đầu tiên, Chiêm thấy con trống nâu âu yếm con mái ngay trước cửa chuồng… Bẵng đi hàng tuần, tuy con trống nâu vẫn đi kiếm ăn một mình song không thấy con trống trắng đến nữa!...Rồi một hôm, trời có dông, sáng hôm sau, Chiêm dậy sớm ra ngoài sảnh, cô nhận thấy chuồng chim bồ câu bị gió xô đứt dây cột lệch hẳn sang một bên trên giá đỡ. Cô gọi bà Lúa ra xem. Bà Lúa bảo: “Dì cháu mình không làm gì được đâu, để dì nhờ cậu Chiến bên hàng xóm sang giúp cho”. Chiều hôm đó, khi Chiêm vừa ngủ dậy thì bà Lúa đưa vào nhà một thanh niên. Trông dáng vẻ bên ngoài thì có vẻ già dặn, nhưng nhìn kĩ thì Chiêm nhận thấy anh ta cũng chỉ chạc tuổi cô, cùng lắm là hơn cô vài tuổi. Chiêm mời Chiến vào nhà uống nước, nhưng Chiến bảo: “Để tôi làm trước đã. Xong xuôi rồi uống cũng chưa muộn”. Chiến nói rồi thọc tay vào túi lôi ra chiếc kìm, mở cuộn dây thép mang theo, bắc thang leo lên giá đỡ sửa chuồng chim. Thấy động, đôi bồ câu rủ nhau bay lên nóc biệt thự. Chiêm và bà Lúa lúi húi với nhau trong nhà chuẩn bị ít bánh ngọt và đồ uống. Bà Lúa vừa làm vừa nói chuyện: “Cậu Chiến này khá lắm đấy. Con trai có chí thì nên. Nhà cậu ấy nghèo. Học hết cấp ba rồi ở nhà đi làm. Mà có xin được vào đâu đâu. Cậu ấy đạp xích lô và nghe nói vẫn theo học đại học gì đấy. Gía mà… dì có được một đứa con trai như cậu ta nhỉ?”. Chiêm vô tư: “U khôn thế, không chịu lấy chồng, không phải làm dâu, mang nặng đẻ đau cũng không nốt, thế thì u lấy đâu ra con cơ chứ”. Bà Lúa hơi sững người: “Con rủa dì đấy hả Chiêm?... Nào đâu dì có muốn thế! Số phận nó vậy đành phải chịu…” – bà Lúa thở dài, Chiêm nhận thấy mình hơi ác, bèn nịnh: “U ơi, là con nhỡ lời chứ con đâu rủa u… Vợ chồng chúng con là con của u chứ đâu!... A này… hay u nhận cái anh Chiến này làm con nuôi. Đúng đấy u ạ”. Bà Lúa vui lại: “Cái con bé này hay nhỉ… Người ta có cha mẹ hẳn hoi, việc gì phải làm con nuôi ai, mới lại mình có nuôi nó ngày nào đâu…”. Chiêm hồn nhiên: “Thì con thấy u cứ ước ao mới nghĩ ra thế”… Chiến xong việc vào nhà cắt ngang câu chuyện của hai dì cháu. Chiêm mời: “Anh Chiến uống gì? Cam, chanh, Cooca hay bia?”. Chiến cười mạnh bạo: “Nếu có thể, cho tôi xin li bia”. Chiêm rót bia và lấy thuốc lá Malboro của chồng ra mời khách. Ngồi đối diện nhau, nhìn kỹ, Chiêm thấy Chiến rất ưa nhìn, dáng khỏe mạnh, da bánh mật, tóc xoăn tự nhiên, mắt hơi nâu, cằm chẻ… Còn Chiến, hình như chàng ta cũng bị hút mắt vào bờ vai để trần trong chiếc váy mặc ở nhà màu vành nhạt điểm những bông hoa lựu đỏ. Chiêm lấy thế chủ nhà hỏi han: “Nghe dì Lúa tôi khen anh Chiến giỏi lắm!”. Chiến cười: “Bà cụ quý mà khen đấy thôi, chứ tôi con nhà công nhân, bản thân đạp xích lô…”. “Hình như anh đang theo học đại học thì phải” – Chiêm ướm lời. Chiến cười to: “Chị suốt ngày ru rú ở nhà mà chẳng có chuyện gì không biết. Chắc là nhờ tai mắt bà cụ Lúa. Vẩng, tôi có theo học hệ đóng tiền nhưng mà vất vả lắm, chẳng hiểu rồi có nên cơm cháo gì không!”. Chiêm cười buồn: “Thì tôi cũng mới hết phổ thông”. Chiến bảo: “Chị cần gì phải học. Nhà có anh Trịnh giỏi giang là khá đủ rồi!... Chị Chiêm này, hình như chị không muốn ra ngoài thì phải, hàng xóm với nhau hơn năm nay rồi mà…”. Chiêm hiểu Chiến trách khéo mình không quan tâm đến hàng xóm, cô cười: “Thì anh cũng mới đến nhà tôi lần này là lần đầu đấy thôi”. Chiến chống chế: “Tôi lại khác… anh ấy thường xuyên vắng nhà, tôi sang không tiện… Nhưng sau lần này, nếu được anh chị và bà cụ đây cho phép thì tôi sẽ năng hơn. Hàng xóm láng giềng, tắt lửa tối đèn có nhau, nhà ta đây có việc gì cần đến cánh đàn ông đàng ang chúng tôi mà cho gọi, giúp được là tôi giúp ngay. Xin bà và chị đừng ngại!”. Chiêm chuyển hướng: “Nhà anh có nuôi chim bồ câu không?”. Chiến bảo: “Có. Tôi thích lắm. Đôi chim trước nhà tôi già cỗi, tôi thay bằng đôi con của chúng, nhưng gần đây không may, con chim mái bị bọn trẻ con nghịch bắn sung cao su làm gãy một bên chân, nay đã khỏi nhưng sinh tật, con chim trống dạo này cứ bỏ đi đâu ấy… Thôi tôi về”…Bà Lúa và Chiêm tiễn Chiến về, lúc đi ngang qua chuồng bồ câu, Chiêm lén để ý thì không thấy con trống nâu đâu, chỉ mình con mái cứ thập thò ở cửa, và hình như bên trong có tiếng chim gù. Chiêm nghĩ bụng, thì ra con chim trống màu trắng  này là của nhà anh ta. Lúc ở cổng, nhân lúc bà Lúa đứng ở xa, Chiến nói nhỏ: “Khi nào anh ấy về, chị cho tôi gửi lời thăm anh ấy”. Chiêm bảo: “Vâng, tôi sẽ chuyển… nhưng không biết khi nào anh ấy mới về, sợ để lâu quá lại quên mất”. Chiến cười: “Tôi nghĩ là chị sẽ không quên”.Chiều hôm ấy, Chiêm vào buồng tắm sớm hơn mọi ngày… Buổi tối, Trịnh gọi điện về từ nước ngoài báo rằng máy tàu của anh bị hỏng hóc gì đó, đang phải nhờ phía cảng bạn chữa giúp, Trịnh sẽ về muộn hơn lịch trình ít nhất là nửa tháng. Bà Lúa buồn bảo: “Khổ cho người chờ đợi!”. Chiêm khuấy động: “U ơi, con quen rồi. Nhà con cứ quanh năm suốt tháng như vậy, nếu cứ đợi chờ sầu não thì có mà chết non!”. Bà Lúa bảo: “Ừ, mà cũng phải thế… Mà này, dì thấy hai đứa chúng mày đều khỏe mạnh, cưới nhau hơn năm rồi mà chẳng thấy gì. Hay là chúng mày kế hoạch? Trời ơi, kế hoạch làm gì, đẻ ra một đứa, trai hay gái cũng vui bao nhiêu. Lúc ấy con sẽ bận bịu, không còn thời gian đâu mà đi ra đi vào đâu”. Chiêm khẽ cười: “Con cũng nghĩ thế!... U ơi, tối nay u ngủ chung với con nhé”. Khi hai dì cháu đã yên vị, Chiêm thủ thỉ: “Con muốn có con lắm nhưng mà anh Trịnh bảo con hãy khoan, để vài năm nữa. Anh ấy hay phải theo tàu, đẻ rồi con ở nhà xoay xở làm sao. Có bao nhiêu tiền anh ấy đổ vào xây nhà và mua tiện nghi gia đình hết rồi. Anh ấy bảo đi biển thêm vài năm nữa kiếm thêm chút tiền để dành, lúc đó xin thôi, lên bờ làm và ở nhà phục vụ vợ sinh con… con đành phải nghe theo”. Bà Lúa bảo: “Này con, thằng Trịnh là cháu tao thật, nhưng chỗ đàn bà con gái với nhau, dì dặn cháu là cứ phải cẩn thận, đàn ông nó như cái nơm ấy, bạ chỗ nào có cá nó cũng úp, vợ chồng ăn nằm với nhau là phải giữ gìn, kẻo thằng Trịnh nó rước cái bệnh gì chết người về nhà là khốn. Dân tàu bè là không thể tin được, con ạ”. Chiêm cười: “Con cũng dặn nhà con kỹ thế… Còn chuyện ấy… u đừng lo, nhà con toàn dùng OK”. Bà Lúa ngạc nhiên: “Cái gì?”. Chiêm cười to: “Thôi u ngủ đi, con có nói chắc u cũng không hiểu được… Con buồn ngủ lắm rồi”.XXXNgày chủ nhật sau đó, bà Lúa bảo với Chiêm là bà đi thăm một người làng sống ở thành phố này đến tối mới về. Buổi sáng, bà dậy sớm, đi chợ mua sẵn thức ăn về cho Chiêm. Buổi trưa, Chiêm ăn qua loa và ngả lưng ngủ. Chợt Chiêm nghe tiếng chuông, cô vội ra mở cổng tưởng Trịnh về, thì ra là Chiến. Chiến rào đón: “Bấm chuông lúc này có phiền chị và bà cụ không nhỉ?”. Chiêm cười, mở rộng cửa: “Mời anh vào! Không có gì phiền đâu. Hôm nay bà Lúa đi thăm người nhà trong phố đến tối mới về, tôi ở nhà một mình đang buồn, may có anh sang nói chuyện”. Khi đã yên vị ở phòng khách. Chiến lôi trong người ra mấy chiếc băng cát sét bảo: “Hôm nay tôi qua để xem cái chuồng chim có bị xộc xệch gì không thì sửa lại, nhân tiện mang cho chị mượn mấy cái băng học tiếng Anh theo giáo trình mới, hôm nọ để ý tôi thấy cái băng tiếng Anh bên chị đã cũ rồi”. Chiêm vui: “Anh Chiến chu đáo quá. Tôi có học tiếng Anh đâu, ở nhà nội trợ cần gì tiếng Anh tiếng em… Là nhà tôi ôn lại đó”. Chiến bảo: “Thế ạ, thật vô duyên cho tôi…Để tôi mang về vậy”. Chiêm gàn: “Ấy đừng, anh để đây cho nhà tôi mượn, chắc anh ấy mừng lắm”. Và rồi câu chuyện hai người bắt đầu, không biết bao giờ dứt. Hết chuyện nọ xọ chuyện kia. Chiêm mang cả chuyện làng nước ở nhà ra kể. Chiến bảo: “Ở quê vui nhỉ! Nhà tôi mấy đời ở thành phố này, không có quê. Bao giờ được theo chị Chiêm về quê chơi đây?”. Cô sung sướng: “Ừ nhé… Thế mà anh Trịnh nhà tôi chẳng thích về quê. Mấy lần tôi bảo về thăm cụ, anh ấy cứ kêu bận, tôi toàn phải đi một mình”. Chiến reo: “Vậy thì tôi sẽ làm hộ vệ cho chị về quê”…Mải vui, Chiến uống luôn miệng, hết bay ba hộp bia. Hình như chàng ta ngà ngà! Chiêm bảo: “Tôi thấy bức quá. Anh Chiến cứ ngồi đây uống bia, tôi đi lau người một lát”. Cô nói và đứng ngay dậy, nhưng không hiểu sao cô dẫm trượt guốc, ngã chúi người xuống, Chiến vội vùng ngay dậy đỡ lấy. Và thế rôi, Chiến ôm ghì lấy người cô, lắp bắp vừa nói gì đó, vừa hôn vào miệng, vào đôi bờ vai trần của cô. Chiêm lịm đi trong cánh tay Chiến, nhưng khi bàn tay Chiếng lần tìm trên chiếc váy của cô thì ý thức tự vệ của người đàn bà có chồng trỗi dậy trong cô và cô dùng sức đẩy Chiến, vùng người khỏi vòng ôm của anh ta. Chiến ngã ngồi xuống sa lông, mặt đỏ rự, miệng há ra không thành lời. Chiêm hổn hển: “Anh về đi, kẻo tôi kêu lên bây giờ… Mang theo cả mấy cái băng của anh nữa”. Chiến tái mặt: “Tôi, tôi… xin lỗi…”. Chiêm đanh mặt: “Anh không có lỗi gì cả… Tất cả là do tôi. Thôi anh về nhanh đi, và đừng bao giờ quay trở lại!”. Chiến nhìn cô chằm chằm một lát rồi bảo: “Xin vĩnh biệt! Tôi nhầm… Cô mở cổng cho tôi chứ”. Chiêm cầm chum chìa khóa đi nhanh ra cổng, cô vấp chân mấy lần. Khi Chiến ra khỏi, Chiêm đóng cổng lại rất nhanh, khóa vào và khi đó không gượng được nữa, cô tì lưng vào cánh cổng sắt, từ từ quỵ xuống. Người cô rung lên và những giọt nước mắt ứa ra. Cô thấy trước mặt mình một bóng người, không phải Trịnh mà là Khôi…Tối sẩm hôm ấy bà Lúa mới về đến nhà. Không thấy đèn sáng ở sảnh, bà mở cửa vào nhà, trong nhà cũng tối om. Bà Lúa bật điện và gọi. Thấy tiếng Chiêm hậm hự trong phòng ngủ, bà bổ vào sờ trán: “Thôi chết rồi, con sốt cao rồi… Khổ thế, dì đi vắng có một ngày… Biết làm thế nào bây giờ? Hay là con để dì đi gọi thằng Chiến mang xích lô chở con vào bệnh viện”. Chiêm gào lên: “Không! Con không cần! Con đã uống thuốc rồi, lát nữa sẽ hạ sốt… U nấu cho con nồi cháo”…Chiêm ốm đến hàng tuần mới khỏi hẳn. Suốt những ngày ấy cô không ra khỏi nhà. Bà Lúa cứ loanh quanh bên cô. Bà rền rĩ luôn miệng: “Lần này thằng Trịnh về, dì sẽ bảo nó, vứt cha nó tiền của đi. Thế là đủ rồi. Biết bao giờ cho vừa. Ở nhà mà sinh con đẻ cái”.  Chiêm phải gàn: “Thôi u ơi, u cứ ca cẩm thế con nhức đầu lắm. Bây giờ u chạy ra chợ mua cho con ít cam tươi. Con tự nhiên thèm nước cam lắm”. Bà Lúa mừng quá, vội xách làn ra chợ. Còn lại một mình, Chiêm ra sảnh ngồi. Cô nhìn lên chuồng chim bồ câu thấy vắng tanh, cô tự hỏi: “Không biết chúng nó đâu cả rồi”. Cô đang rẩm riu như vậy thì nghe thấy tiếng cánh vỗ, đôi chim bồ câu vút qua trước mặt cô đậu xuống bậu chuồng. Xem kìa, con mái trắng bay cùng con trống nâu. Thằng quỷ trống trắng đâu? Chắc nàng mái đoạn tuyệt hẳn với nó rồi. Bây giờ, đôi anh chị này bén hơi nhau rồi chắc?!Đôi chim lại rủ nhau bay đi. Chiêm nhìn theo cười lơ đãng. Cô nhớ về quê nhà. Không biết lúc này thầy u và các em ở nhà đang làm gì nhỉ? Rồi Chiêm tìm hướng đông, rõi mắt nhìn về chân trời phía xa, nơi ấy, ngoài những nóc nhà lô xô, xa xa nữa là biển…!
                  5/1996
                   
                  Đã đem vào thư viện
                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 04.10.2021 20:00:55 bởi Ct.Ly >
                  #99
                    tamvanvov 07.10.2021 11:01:42 (permalink)
                    Nhân gian vạn sự phi.
                    truyện ngắn của Nguyễn Chu Nhạc, 
                    1. 
                    Nhà báo Minh Trung đến tòa soạn. Một ngày làm việc bình thường như bao ngày. Ông khởi động máy tính để soạn bài giới thiệu chương trình câu lạc bộ cuối tuần. Chuông điện thoại máy bàn vang. Cô phóng viên trẻ nghe máy.
                    - Chú Trung ơi, máy của chú này... Có ai đó muốn gặp chú đấy ạ.
                    Ông cầm máy, trả lời theo thói quen lâu nay mỗi khi thính giả gọi đến,
                    - Tôi, Minh Trung đây,... Tôi có thể giúp được gì?...
                    Một giọng nam trẻ ở đầu máy bên kia rụt rè hỏi lại tên và nơi làm việc của ông. Lặng đi một chút, người đó thay đổi cách xưng hô từ xã giao thành thân mật, xung tên mình là Hiếu, con trai của mẹ Duyên... Ông nghe mà ắng giọng, thụ động trả lời thei mỗi câu hỏi của cậu ta. Rồi chỉ còn mỗi giọng cậu thanh niên, bời ông ù cả tai, loáng thoáng nghe câu được câu mất, nhưng mỗi lời của cậu ta làm ông thêm choáng váng. Ông linh cảm về một sự thật bấy lâu ẩn chứa trong lòng mình sẽ được hé lộ... và từ đây, cuốc sống của ông sẽ thay đổi...
                    Buông điện thoại, ông thẫn người, đầu ong ong, cám thấy huyết áp tăng lên... Cô phóng viên trẻ nhận ra điều ấy:
                    - Chú Trung... chú sao thế ạ” ... Người quen cũ hả chú?... – cô cười tinh quái đùa – Hay con rơi con vãi ngày xưa nhận bố?
                    - Ờ ờ... không... – Ông giật mình, chối.
                    Giờ thì đầu óc ông chỉ nghĩ về cuộc hẹn gặp với chàng trai kia vào chủ nhận tới. Bao ký ức xa cũ ùa về...
                    2.      
                    Một sáng một ngày cuối tuần,
                              Trung cắm cúi đạp xe. Trời sớm, hơi sương phảng phất không gian. Đường xá vắng teo. Trung mừng vì đường vắng người, bởi thâm tâm không muốn gặp bất cứ ai. Trên ghi đông xe đạp trei chiếc túi cũ, bên trong đựng cân đường và hai hộp sữa. Trung đi thăm gái đẻ, có cảm giác e sợ của người làm một việc vụng trộm và có gì đó khuất tất. Để đến được nơi Duyên làm việc phải vượt qua gần bốn chục cây số. Dọc đường, hình ảnh những lúc hai người gần gũi thân mật với nhau cứ chập chờn trước mặt, vô hình chung khiến anh quên mệt nhọc, gò lưng nhấn bàn đạp mải miết... Khi trạm truyền thanh huyện hiện ra trước mắt Trung thì trời đúng tầm trưa. 
                              Trung dừng xe gần đó, lặng lẽ quan sát, khi mấy nhân viên của Trạm người địa phương, tan tầm ca sáng, về nhà ăn trưa, anh mới dám vào. Duyên thuộc diện nhà xa, được Trạm bố trí cho ở tại Trạm, nhất là sau kỳ nghỉ sinh con đi làm trở lại, có con nhỏ theo mẹ. Vụng trộm, lại không hẹn trước, nên Duyên ngạc nhiên khi Trung xuất hiện. Duyên cứ nhớn nhác ngó quanh quất như sợ ai đó bắt gặp sự có mặt của Trung. Lưỡi anh như xoắn lại, lúng búng giải thích việc đến thăm mẹ con Duyên và món quà đường sữa của mình. Còn Duyên vừa mừng vừa lo. Cơm được dọn ra. Cơm gái đẻ, đơn sơ tôm rang, trứng luộc và canh rau ngót. Duyên ăn cầm chứng, còn Trung ăn cho phải phép, đỡ đói để còn lấy sức đạp xe về. Đứa bé ọ ẹ khóc ở gian trong. Duyên vỗ nựng cho nín, rồi cô cất tiếng gọi Trung vào. Duyên nâng đứa trẻ gần ngang mặt Trung nựng yêu "Con trai của bố Trung đây... Bố Trung nhìn... cái trán bướng này, cái môi mỏng này... rõ giống hệt bố Trung...". Duyên cười, mắt rưng rưng nước "À quên, cu tý phải gọi là cậu Trung thôi,... con nhỉ". Trung cười gượng gạo, lấy ngón tay day nhẹ lên trán, rồi khẽ đụng vào đầu mũi đứa bé: "Con giai mẹ Duyên kháu quá... hay ăn chóng nhớn nhé". Duyên nhìn Trung đăm đăm, cái nhìn như biết ơn, lại như có lỗi. Duyên bảo: "Thôi... thăm thế đủ rồi, mẹ con cu Hiếu cảm ơn bố Trung nhiều lắm ... Bố Trung về luôn đi.... sắp đến giờ làm việc ca chiều rồi, mọi người đến bây giờ... ngộ nhỡ ai nhìn thấy bố Trung ở đây... thì phiền... ". Trung nhận thấy vẻ ái ngại của Duyên trong ánh nhìn và câu đuổi khéo. Trung cúi người thơm nhẹ lên trán bé con: "Chào nhé... hai mẹ con giữ gìn cẩn thận... Bố Trung về đây". Duyên tiện đà: "Từ giờ... bố Trung không cần phải bận tâm về mẹ con nhà cháu nhé... Nhớ, chỉ là cậu Trung thôi đấy... Cu Hiếu đã có mẹ cháu và bố Kiên rồi...".
                              Trung đạp xe rời khỏi Trạm truyền thanh huyện, chốc chốc ngoái đầu nhìn lại. Duyên vẫn bế con đứng nhìn theo. Đến khúc quanh, trước khi khuất néo, Trung ngoái lại lần nữa, nhung đã không thấy bóng dáng mẹ con Duyên. Đường về thị xã với anh bỗng vời vợi làm sao !...
                              3. 
                              Trung là phóng viên báo tỉnh. Bố anh là một nhà báo, nhà văn, nên ông hướng anh theo con đường cầm bút. Thời ấy, cái thị xã vùng than Đông Bắc này được xem là công trường lớn của miền Bắc khi đất nước còn chiến tranh chia cắt. Là thanh niên, dù là công nhân cầm búa cầm choòng hay cầm bút thì ai cũng ước ao được sống và làm việc trên cái công trường khổng lồ này, một biểu tượng của nền công nghiệp miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Các văn nghệ sĩ cũng coi vùng đất đông bắc này là môi trường thực tế sinh động để họ thâm nhập, tìm đề tài và cảm hứng dáng tác. Bố anh xin cho anh ra làm báo ở đây, là muốn cho anh nhanh chóng trưởng thành trong môi trường làm báo thực tế. Còn có lý do riêng, ấy là bố mẹ anh trục trặc và ly hôn, rồi sau đó bố anh tục huyền với một người đàn bà khác vốn là con nhà quan lại nho giáo thất thế và nhanh chóng đẻ liền mấy đứa con. Mẹ anh theo quân ngũ, không thể chăm sóc anh chu đáo. Để yên tâm với gia đình mới của mình và không mang tiếng bỏ bê con vợ cả, anh được bố gửi ra vùng than khi mới học hết phổ thông. Vậy là anh sớm bước vào đời với cuộc sống công nhân tự lập. Mang gen di truyền của bố, anh tập viết báo và trờ thành phóng viên báo tỉnh. Lẽ di nhiên, có sự trợ lực của bố, từ việc bảo ban thêm về nghiệp vụ mẹo mực viết báo, đến sư nhờ cậy ban lãnh đạo báo tỉnh giúp đớ này nọ. Là phóng viên báo tỉnh khi mới ngoài hai mươi tuổi, oách lắm chứ. Mặt non choẹt, măng tơ, anh có thể đi đến bất cứ nơi nào trong vùng mỏ đông bắc này. Nhiều khi, người ta nhầm tưởng anh là cậu sinh viên thực tập, nhưng khi biết anh là phóng viên thì lập tức anh được đối xử trọng thị...
                              Trong một chuyến công tác, Trung đã gặp Duyên. Và đúng với cái tên của cô, hai người có duyên với nhau. Chuyến ấy, Trung đi cũng với Quang Chiến, một phóng viên đàn anh đến một huyện miền núi cách thị xã mấy chục cây số. Xong công việc, anh phóng viên đi cùng rủ Trung vào thăm người chị gái làm việc ở đài truyền thanh huyện. Hôm ấy, sắp đến buổi truyền thanh chiều thì máy trục trặc, hai chị em trực ca loay hoay một hồi không xử lý được. Hai người lo lắng, gọi điên tứ tung nhờ vả người sửa máy nhưng không được. Có gái trẻ cố mầy mò sửa. Tình thế vậy, Trung đề nghị được thử sửa. Anh vốn say mê lĩnh vực điện tử âm thanh nên có chút hiểu biết. Thật may, Trung chỉnh sửa một lúc thì được, máy lên sóng buổi phát thanh chiều vừa kịp. Cô gái trẻ tên Duyên cảm ơn Trung rối rít và nhìn anh đầy vẻ thán phục. Lúc trước mọi người đều cuống, chỉ chào hỏi xã giao. Xong việc rồi. mới để ý đến nhau kỹ hơn. Trung thấy cô gái trẻ tên Duyên khá xinh. Gương mắt bầu bĩnh thật hợp với mái tóc xoăn tự nhiên, mắt to đen, má lúm đồng tiền, mỗi khi cười khuôn mặt rạng rỡ hẳn lên. Trung bị Duyên hút hồn.
                    Sau lần ấy, hai người quen nhau, và tình yêu nảy nở. Yêu nhau rồi. nên hầu như chủ nhật nào Trung cũng đạp xe đến nơi Duyên làm việc thăm cô. Còn Duyên, mỗi khi về thị xã đều tranh thủ ghé tòa soạn thăm Trung. Tâm niệm yêu nhau rồi nên vợ chồng, Trung đã đưa Duyên lên Hà Nội giới thiệu với gia đình nhà mình, và cô cũng đưa Trung về quê cô ra mắt bố mẹ. Tuy nhiên, gia đình bên cô có ý không chấp nhận Trung, chê anh quá thư sinh, và còn một lý do khác, ấy là trước đó đã có một vị cán bộ theo đuổi Duyên, đánh tiếng với gia đình muốn lấy cô. Tình yêu vừa nảy nở đã gặp trắc trở. Linh cảm về mối tình không thành ám ảnh Trung. Một lần, Trung đến thăm Duyên đúng lúc áp thấp ập vào vùng than đông bắc. Chỉ có hai người với nhau ở trạm truyền thanh, không kìm nén được cảm xúc, hai người đã quấn chặt lấy nhau làm cuộc mây mưa khi ngoài trời mưa gió tơi bời mịt mùng tứ phía...
                              Sau lần ấy, những tưởng cuộc tình được cứu vãn, nhưng không, Duyên là người già giặn hơn anh nghĩ, cô vẫn nghiêng về sự tính toán thiệt hơn để đến với Kiên, vị cán bộ có thể đem lại cho cô một cuộc sống được đảm bảo trong thời buổi kinh tế khó khăn thiếu thốn. Sau này, suy ngẫm, Trung mới ngộ ra rắng, người đàn bà khi yêu, họ có thể dâng hiến tất cả cho người mình yêu, nhưng lập gia đình, họ lại chi li thiệt hơn khi lựa chọn người lấy làm chồng. Không giống đàn ông, khi yêu có thể bốc đồng thề hái sao trời cho người yêu và sẵn sáng chấp nhận cuộc sống kiểu “một túp lền tranh hai trái tim vàng”....Mối tình với Duyên, anh xem như bài học nhập môn về tình yêu và hôn nhân.
                              Rời bỏ thị xã vùng than đông bắc, Trung tự an ủi mình, rằng anh và Duyên có duyên mà không có phận. Và như những gì cô ấy cho anh biết, cùng cảm nhận của bản thân, thì anh vẫn còn một giọt máu rơi ở vùng đất này,...
                            4.
                            Trung rời cái thị xã vùng mỏ Đông bắc này về làm việc ở thủ đô. Thực ra, sau lần đến thăm Duyên và con, Trung vẫn dò tin xem mẹ con cô sống ra sao. Duyên có gia đình của mình, và trên danh nghĩa, chồng cô là Kiên, có nhà đàng hoàng ở thị xã, và mặc nhiên, anh ta là bố đứa bé. Câu chuyện tình giữa anh và Duyên  vừa mới đó, vết thương tình còn rớm máu, nỗi đau trong anh còn nguyên, đã là quá khứ rồi. Bố đứa trẻ đích thị ai cũng không có ý nghĩa gì, khi họ là một gia đình hạnh phúc,...
                        Về thủ đô, công việc mới đầy năng động và hấp dẫn, cuốn hút, choán hết thời gian của Trung, nên anh nhanh chóng hòa vào nhịp sống mới mà lãng quên nỗi đau tình  Bài học nhập môn về tình yêu và hôn nhân thật có ích, khi anh qua giới thiệu làm quen với cưới một cô thợ may nhan sắc bình thường nhưng chịu thương chịu khó, biết quán xuyến gia đình. Cô thợ may đảm đang sản xuất liền cho anh mấy đứa con đủ nếp tẻ. Anh sống chung trong căn hộ tập thể mẹ anh được cấp trong khu nhà binh. Hơi chật một chút nhưng ở vào thời buổi gạo châu củi quế như thế đã là hạnh phúc lắm rồi. Anh là phóng viên làm việc ở một cơ quan báo lớn, vợ công nhân may, chế độ tem phiếu cũng đủ sống. Khi kinh tế bắt đầu thời lỳ mở của, vợ anh tính toán nhận chế độ nghỉ việc, về thuê cửa hàng mở tiệm may đo, rồi phát triển lên vừa nhận may đo vửa mở lớp đào tạo nghề may. Có chút tiền. gom góp mua được căn nhà cấp 4, lấn đất lưu không làm vườn. Anh thì mua được chiếc xe máy, ngày ngày áo quần đóng hộp cưỡi xe đi làm, rất chi là oách. Khi mẹ anh mất. căn hộ của bà ở khu nhà binh thuộc diện giải tỏa, anh nhân được một khoản tiền đền bù kha khá, vợ chông bàn nhau mua một miếng đất ở làng hoa ngoại ô làm của để dành. Vậy là của ăn của để. Anh hài lòng với cuộc sống như thế, thoảng nghĩ đến người yêu cũ, thầm so sánh, chắc gì được như cuộc sống của anh hiện nay.
                              Cuộc đời cứ thế hanh thông, con cái lớn dần, đứa vào đại học, đứa đi xuất khẩu lao động nước ngoài, nhà cửa được xây dựng lại khang trang hơn, xe máy cũng được nâng cấp. Những tưởng cứ thế cho đến lúc nghỉ hưu, thanh nhàn tuổi già thì một biến cố xảy ra,...
                    5.
                    Sau cuộc gọi điện thoại đến tòa soạn, chuyện giập giạp. chàng trai xưng tên Hiếu là con mẹ Duyên ấy xin được gặp nhà báo Minh Trung. Ông cho thời gian địa điểm và rất nóng lòng được giáp mặt anh chàng mà giờ đây đã chín phần ông tin là đứa con rơi của mình.
                    Hai người gặp nhau tại một quán cà phê gần nhà ông. Câu chuyện cứ mở ra với nhiều tình tiết mà anh chàng nghe kể từ mẹ nói lại với ông và được ông xác nhận là đúng. Ông cũng nhận là đã biết mặt con từ khi vài ba tháng tuổi ở trạm truyền thanh huyện. Ông thanh minh với Hiếu rằng sở dĩ ngần ấy năm ông không trờ lại thị xã than đông bắc và ngó ngàng gì cuộc sống của họ là vì cậu ta đã có một người cha hơp pháp là ông Kiên, mà cho đến giờ về danh nghĩa vẫn được coi là bố đẻ của Hiếu. Qua câu chuyện, ông biết, ngoài Hiếu ra, Duyên còn sinh hai đứa con nữa với ông Kiên. Ông cũng được giải tỏa thắc mắc bấy lâu nay, liệu ông Kiên có biết Hiếu không phải là con đẻ của ông ta hay không? Hiếu bảo, khi mẹ cậu còn sống, những lúc vợ chống cơm chẳng lành canh chẳng ngọt, ông Kiên cũng cạnh khóe này nọ. song khi Duyên bị ung thư rồi mất, ông Kiên đã có lần nói thẳng vào mặt Hiếu, rằng nó không phải là máu mủ của ông ta mà là con rơi của một tay nhà báo nào đó, rằng ông ta nuôi nó như nuôi một con cửu ghẻ trong nhà, và khuyên nó hãy đi tìm cha thật của nó... Thực lòng, ngần ấy năm trời, Hiếu cũng lờ mờ cảm thấy tình yêu thương đặc biệt của mẹ dành cho mình, khác với mấy đứa em, và cả thái độ lạnh nhạt của bố Kiên. Hiếu còn kể, khi mẹ cậu đau yếu sắp mết, có lần hai mẹ con nghe giọng ai đó nói trên đài, bà lầm bầm bảo, “vẫn cái giọng mềm mỏng, ngon ngọt như ngày xưa, đến cua trong lỗ cũng phải bò ra.... mày cũng có cái giọng giống hệt cha mày đấy con ạ...”. Lúc ấy thì Hiếu chì ngờ ngợ, sau này mới hiểu mẹ mình nói vậy là ám chỉ mình giống bố đẻ, nhà báo Minh Trung cái tài ăn nói, chứ không phải ông Kiên, bố hờ... Hiếu còn cho ông biết, trước lúc mất, mẹ nó đã cho mời nhà báo Quang Chiến, người đồng nghiệp đàn anh của cả hai người đến nhà, nói chuyện, dặn dò và đưa cho ông ấy giữ một lá thư mật trong phong bì dán kín. Chuyện ấy khiến Hiếu suy luận, rằng mình không phải là con đẻ của ông Kiên, mà là con rơi của một ai đó tróng số bạn bè hay người yêu cũ của mẹ mình... Sau khi mẹ mất, Hiếu dò la manh mối, lặng lẽ theo dõi, tìm đọc các bài viết của nhà báo Minh Trung, hay đón nghe các chương trinh câu lạc bộ do ông đảm dẫn. Tự thâm tâm, cậu tin nhà báo Minh Trung chính là cha đẻ của mình.
                    Bố con nhận nhau, ông có lãi, được nhận cả cháu. Hiếu đã sớm lấy vợ và có con rồi. Gia đình riêng của nó yên ấm lắm.
                    Biết không thể giấu mãi chuyện này, ông kể với vợ và xin được nhận Hiếu làm con. Vợ ông đón nhận điềm tĩnh, bảo “Tôi không thể trách ông được, bởi chuyện xảy ta trước khi ông quen và lấy tôi... Có chăng, đáng trách ở việc ông giấu tôi đến giờ”. Ông biện bạch, thì chính ông cũng mới biết Hiếu là giọt máu rơi của mình với người yêu cũ. Vợ ông họp gia đình, chính thức thông báo sự tình cho các con và đám em của ông. Khóc cười có cả. Rồi vợ chồng ông kéo cả gia đình làm chuyến đi thị xã vùng than đông bắc để nhận Hiếu. Tuy có chút bỡ ngỡ, nhưng Hiếu tỏ ra hoạt bát, khéo léo làm hướng đạo, đưa gia đình bố đẻ đến gặp bố hờ, có lời thưa gửi, xin lỗi ông Kiên. Rồi nữa, gặp gỡ gia đinh thông gia, tức bố mẹ vợ của Hiếu. Đôi bên tỏ vẻ cảm thông với nhau, và sau cùng tất cả đi viếng mộ thắp hương cho Duyên, khấn xin người đã khuất phù hộ độ trì cho cuộc đoàn viên. Ông vui đến nỗi, đã dẫn Hiếu, mang hoa quả bánh trái đến cơ quan, giới thiệu, mời mọi người, mừng cho cha con ông.
                    Ông Trung hài lòng lắm. Mừng nhất là việc giải tỏa nỗi ẩn ức của ông và ông Kiên chừng ấy năm trời. Vui nữa là Hiếu biết cách ứng xử khiến mọi nhà đều không ai mất lòng. Kể từ đây, tháng đôi lần Hiếu lên thủ đô thăm bố đẻ. Hai bố con hàn huyên bao nhiêu là chuyện, nhờ thế, ông biết được, những năm tháng qua, cuộc sống vợ chống của Duyên Kiên cũng không dễ dàng gì, và Hiếu ít nhiều thiệt thòi vì phải chịu sự phân biệt đối xử từ phía người cha hơ.... Âm thầm suy nghĩ, ông muốn bù đắp sự thiệt thòi cho Hiếu mà chưa biết cách nào....
                    6.
                    Từ ngày nghỉ hưu, ông Trung hay sống ở ngôi nhà nhỏ dựng trong khu vườn xanh tươi ờ làng hoa ngoại ô. Ngoài thú chơi hoa lan và đồ gốm sứ, khi rảnh rỗi ông trồng thêm các loại hoa có thể dúng ướp trà như hồng, nhài, ngâu, mộc... Mỗi dịp cuối tuần, ông ở hẳn trên đó, đi chợ làng, tự nấu ăn, hẹn hò đám bạn già đến thưởng trà, ngâm vịnh thơ phú, đánh cờ. Hứng lên thì cụng đôi ba chén rượu... Ở đây, tiện và thích là mỗi khi Hiếu lên chơi, nó đến thẳng đấy với ông, cha con tha hồ tâm sự, không ngại vợ con biết chuyện này nọ. Đến ngôi nhà chung, dẫu sao còn có vợ ông và mấy đứa em, hành xử nói năng gì cũng ngại, phải ý từ xã giao. Mỗi năm, vào dịp hè, Hiếu đón ông về thị xã vùng than mươi hôm, để ông chơi với các cháu, gặp lại bạn bè cũ và tắm biển. Cứ thế, ông có vài ba năm sống trong niềm vui sum họp ấm cúng.
                    Thế rồi, cậu con lớn của ông lấy vợ. Vợ ông ấn định, cưới xong thì vợ chồng trẻ lên sống ở ngôi nhà nơi làng hoa ngoại ô. Thâm tâm, ông hiểu vợ mình biết chuyện ông và Hiếu hay gặp nhau ở ngôi nhà vườn ấy, nên thu xếp vậy để tránh việc này và có ý rằng sau này, vợ chồng nó sẽ nghiễm nhiên là chủ nhân của nhà vườn đó. Song thu xếp thế, ông cũng thấy hơp lý, tuy không hài lòng nhưng cũng phải bằng lòng vậy. Thấy thế, Hiếu bàn với ông, xây thêm một ngôi nhà nhỏ nữa trên mảnh vườn ấy. Rồi Hiếu nghỉ phép, lên chỉ huy việc xây dựng, tay bay tay dao xây chỉ đạo đám thợ phụ độ nửa tháng là xong. Việc này khiến vợ ông bực mình, cạnh khóe này nọ. Ông cảm nhận, mối quan hệ của Hiếu với vợ con ông bắt đầu rạm nứt.
                    Chưa hết, Hiếu tự tin, khẳng định vai trò con trai trưởng ngày càng rõ. Thân sinh của ông mất đã mươi năm, đưa về quê chôn cất còn chưa cải táng, nay mua được sinh phần nên mới cải táng. Hôm bốc mộ, cả gia đình ông không ai thạo việc, định thuê người làm thì Hiếu xin đảm nhận công việc. Nó rửa ráy, xếp xương cốt ông nội bài bản, gọn gàng, khiến mọi người ngạc nhiên thán phục. Còn ông thì mát lòng mát dạ, hãnh diện lắm. Thái độ hài lòng của ông như muốn nói với vợ con, các em và cả họ hàng ở quê rằng, đấy thằng con rơi của tôi xứng đáng là cháu trưởng trong nhà. Vợ ông, ngoài miệng cũng không ngớt lời khen Hiếu, nhưng ngấm ngầm để bụng, ủ mưu,...
                    Việc gì đến trước sau cũng phải đến. Một lần, Hiếu thưa chuyện với vợ chồng ông, muốn làm thủ tục pháp lý, chính thức là con trai của ông và đổi từ họ Lê của ông Kiên sang họ Hoàng của ông. Việc ấy là đương nhiên, nhưng trước hết phải qua giám định gen di truyền. chứng minh quan hệ huyết thống, đấy là thủ tục pháp lý và cũng là yêu cầu của vợ ông. Thâm tâm, ông tin chắc Hiếu là con ruột của mình, không cần phải chứng minh rườm ra, song yêu cầu là vậy nên đồng ý. Sớm muộng gì cha con cũng thuộc về nhau, ông khuyên Hiếu chấp thuận việc này. Hiếu hiểu lòng ông, động viên “Bố yên tâm... trăm phần trăm con là ruột thịt của bố mà”.
                    Dịp ấy, ông về quê, trông nom dọn dẹp ngôi nhà vườn bị đóng của bỏ hoang lâu ngày sau khi người mẹ kế của ông qua đời. Ông nhận cú điện thoại vợ ông gọi, báo tin kết quả giám định ADN của ông và Hiếu cho biết hai người không có quan hệ huyết thống với nhau. Ông đang vui với ý tưởng sau khi hoàn tất thủ tục pháp lý nhận con và đổi họ cho Hiếu, ông sẽ đưa nó về quê nội, sửa sang lại ngôi nhà này làm ngôi thờ tự của đại gia đình. Vậy mà... Ông choáng váng ngã quỵ, ngất xỉu, hồi lâu tỉnh lại, gọi điện báo người nhà ở quê đưa đi bệnh viện.
                    Có nhầm lẫn chăng, ông hy vọng thế. Song khi trờ về nhà, tự tay cầm tờ phiếu kết quả giám định gen, đọc dòng chữ kết luận ghi không có quan hệ huyết thống, thì ông không thể không tin. Đầu óc ông rối loạn, bời bời với bao ý nghĩ xung đột. Hiếu không phải con của Kiên, rõ rồi, cũng không phải con của ông, kết quả rành rành ra đấy... Vậy thì nó là con của ai? Khi đã tỉnh táo, tĩnh trí, ông nhớ lại, điểm qua hết các gương mặt đàn ông thời ấy từng theo đuổi, tán tình, hay là bạn, là người quen của Duyên, phỏng đoán này nọ... Hay là, anh trưởng phòng X, tay nhà báo Z, chàng nhà thơ N?... Ngày ấy, Duyên tự tin, rạng rỡ, xinh nổi tiếng trong vùng, khiến cánh đàn ông khát khao, thèm muốn chiếm hữu cô... Trong đám đàn ông cả tá ấy, có những người đã có vợ. say mê cô, sở dĩ ông chiếm được tình cảm của Duyên là bởi vẻ đẹp trai, hào hoa kiểu người thủ đô, lại con của nhà văn nổi tiếng nọ... Ý nghĩ ghen tuông ngợp lòng ông, chẳng lẽ, một thời điểm ấy, cô ấy cùng quan hệ với mấy người?... Nhưng sao, cô ta lại tin tưởng Hiếu là giọt máu của ông, mà trăng trối lại, khiến nó tìm ông? Sau khi cha con ông nhận nhau, ông cũng đã gặp lại nhà báo đàn anh là Quang Chiến, đọc lá thư Duyên gửi lại, khẳng định Hiếu là con ruột của ông? Hay là chính cố ấy cũng nhầm? Ông chẳng biết tin vào đâu nữa...
                    7.
                    Hiếu có đến thăm ông đôi lần sau khi ông đổ bệnh. Hai người an ủi lẫn nhau, bảo vẫn sẽ coi nhau như người thân. Là nói vậy thôi, chứ mặt nhìn nhau tẽn tò làm sao. Chiếu lệ đôi câu rồi ngẩn ra chẳng biết tiếp câu chuyện thế nào. Vợ con ông thì tỏ rõ thái độ lạnh nhạt, xã giao dăm câu ba điều cho phải phép. Hiếu biệt đi không đến nữa... Ông thì vẫn quanh quẩn với ký ức tình yêu xa xưa, ký ức vui vẻ của những ngày đầu cha con nhận nhau. Ông thêm lần tai biến và sức khỏe yếu dần, đi lại khó khăn, mắt kém nên muốn đọc sách cho khuây khỏa cũng khó...
                    Một lần, cô biên tập viên cùng phòng làm việc cũ với ông, đến chơi nhà, đem mấy bài thơ Đường luật nhờ ông cắt nghĩa, giàng giải ý tứ. Trong số đó có một bài thơ của Chu thần Cao Bá Quát “Khứ tuế nghinh xuân xuân dĩ quyKim niên xuân chí hựu như  phiXuân hoa khai tạ vô câu quảnKhẳng tín nhân gian vạn sự phi”. Ngẫm nghĩ thấy ý tứ bài thơ thật mênh mông vô tận, như một triết lý sắc không, rằng “năm ngoái vừa mới đón xuân, nay xuân đã quay trờ lại/ xuân đến thấy thời gian nhanh như bay/ hoa xuân nờ đấy rồi tàn ngay đấy. chẳng thể quản chế/ ai  tin thế gian này mọi sự đều là không”... Thấy ông cứ ngâm nga, ngẫm ngợi ý từ bài thơ, cô biên tập viên gợi chuyện, hỏi thăm, bấy lâu, ông có tin gì về Hiếu. Ông bảo không, rồi đồ đoán, nó chắc hận ông, hận mẹ nó lắm. Cô biên tập viên thương ông, bảo là mạng xã hội gtờ phát triển lắm, ông hoàn toàn có thể gặp lại và trò chuyện với Hiếu mà không cần phải đi đâu. Rồi cô thú nhận, rằng có có kết nối qua mạng xã hội và thỉnh thoảng biết tin về Hiếu. Rằng đã có lần, cô thấy Hiếu buâng quơ than thở trên trang cá nhân của mình là “Tôi có cha, rồi người đó bảo không phải cha của tôi. Rồi một ngày nọ tôi tìm được người cha đích thực của mình. Tôi vui lắm, nhưng ngày vui ngắn chẳng tày gang. Bỗng một hôm, người ta bảo người cha tôi tìm được lại không phải là cha mình... Vậy cha tôi là ai đây? Tôi biết tim cha ở đâu và bao giờ thì tìm thấy? Cha ơi, ông là ai?”. Đại khái vậy. Ông nghe bùi ngùi, chảy nước mắt... "Này cháu... Nghe đâu... người ta bảo... cái việc giám định di truyền ấy... người ta cũng có thể can thiệp... làm sai lệch kết quả... phải không?...".
                    Cô biên tập viên cảm động, không biết phải trả lời làm sao, lờ đi, và cô thấy không cần phải giấu ông, bảo bài thơ của Cao Bá Quát kia chính là cô đọc trên trang cá nhân của Hiếu. Cô  nói, Hiếu đã bình luận, câu thơ cuối “khẳng tín nhân gian vạn sự phi” ấy, rằng “ai tin nhân gian này mọi sự đều là không, thì hệ họ, tôi không tin,... ”.
                              Nghe vậy, ông mừng rỡ bảo cô biên tập viên:“Thơ phú, chữ nghĩa kiểu này, chắc chắn, nó giống y tôi... Tôi hiểu rồi, tôi tin nó... và chắc là... nó cũng tin tôi.. .phải thế không cháu? ” ./.
                     
                     
                    r
                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 12.10.2021 21:30:43 bởi Ct.Ly >
                    tamvanvov 14.10.2021 17:03:18 (permalink)
                    Miền xanh thẳm chân mây
                    Truyện ngắn
                    1.
                    Hoài lang biền biệt đêm trường
                    người đi bao nỗi dặm đường, sá chi
                    xông pha gươm giáo kể gì
                    sao đành, người ở chia ly cõi lòng,...
                            Những câu thơ váng vất trong ý nghĩ...
                            Chiều nay. Minh trĩu nặng tâm tư,
                            Thấm thoắt, anh vào vùng Bảy Núi này đã ngót năm,...
                           Cứ chiều chiều, lúc nhập nhoạng tối, khi đàn dơi loạng choạng chao trên vòm cao mấy cây xoài cổ thụ, thì dàn cát-xet của một gia đình trong khu tập thể cơ quan lại vang lên, hết ỉ eo những bài hát nhạc vàng rồi sang nỉ non vọng cổ. Nghe mãi, chẳng buồn để ý, vô thức mà thành thuộc. Minh sở thích chèo cổ, ghét cải lương vọng cổ, nhưng riêng bài Dạ cổ hoài lang thì anh không thể làm ngơ. Từng chữ từng lời, thấm dần vào anh từ lúc nào không hay "Từ là từ phu tướng/ Bảo kiếm sắc phong lên đàng/ Vào ra luống trông tin chàng/ Năm canh mơ màng/ Em luống trông tin chàng/ Ôi gan vàng quặn đau í a/ Như chim trời lẻ bạn... chim bay về... nơi vô định/ Trời xa đất lạ trong mây khói mịt mùng/ Kiếp giang hồ mỏi gót phong sương/ Một chiều qua bến lạnh bỗng nhớ tới một người...". 
                            Minh nhớ mẹ và nhớ Nguyệt. Sâm sẩm nhớ mẹ, khuya là nhớ em. Anh mang máng nhớ một câu thơ của ai đó vì nó đúng với tỉnh cảnh của mình . Nhập nhoạng, khói lam chiều khiến anh nao lòng nhớ mẹ. Nhớ bóng mẹ ra vào, dáng mẹ ngồi bên bếp lửa với chiếc que cời bếp rơm luôn tay. Nhớ hình bóng mẹ tựa của, rồi chậm rãi ra đóng cổng lúc sẩm tối, mẹ biết lại thêm một ngày nữa con trai mẹ mãi chân trời phương Nam chưa thể về với mẹ... Đêm khuya khó ngủ, anh cồn cào nhớ Nguyệt, nhớ những lời thầm thì và những cái hôn cháy bỏng của Nguyệt trước lúc chia tay, tiễn anh hành phương Nam. Anh thầm phỏng đoán, Nguyệt ngủ chưa hay vẫn đang cặm cụi soạn giáo án, hay mải chấm bài của học sinh. Anh lại thầm hỏi, Nguyệt có đang nhớ tới anh không khi cô cũng một mình ở ngôi trường giữa đồng chiêm trũng xa thủ đô hơn trăm cây số ấy.. Anh trằn trọc không ngủ được, vì nhớ, vì trời phương Nam mùa khô oi nóng. Cố nhắm mắt cưỡng ngủ thì đầu anh lại mường tượng cái nghĩa địa với mấy ngôi mả mới gần ngay cửa sổ phòng ở của anh, chỉ cách một hàng rào cây lá rậm rạp kia thôi. Anh vùng dậy, đóng chặt cửa sổ, nằm im, ý nghĩ miên man và chìm đi... 
                    2.
                    Một trông mong vạn chờ mong, 
                    chẳng thà cứ gái chưa chồng cho cam
                    sông kia dằng dặc trời Nam.
                    nước mây vời vợi ai làm cho đau,...
                    Minh nghe vẳng vằng một giọng nữ đọc thơ., không xa mà cũng chẳng gần, như đâu đó trong khu vườn thôi. Anh ngơ ngác "Ai dấy? Ai vừa đọc thơ đấy?". Giọng nữ cất lên rất gần khiến anh giật mình "Ta đây... ở gần ngươi thôi... nhưng ngươi không thấy đâu,... Ta cho ngươi mấy câu thơ ta vừa ngâm để chắp nối với câu thơ mà ngươi ngâm nga chiều nay...". Minh cố trấn tĩnh để không lộ vẻ sợ hãi "Nhưng bà... bà là ai? ... Sao lại biết tôi làm thơ?... Sao lại tặng thơ bà cho tôi?,...". Giọng nữ khẽ cười "Ngươi không biết ta đâu... Ta sống trước người những hơn hai trăm năm ... Thơ ta vừa đọc ngươi cứ nhận lấy. nối tiếp vào thơ ngươi cũng hợp cảnh hợp tình đó...". Nói rồi, giọng nữ cất lên đọc liền hai khổ thơ với nhau, câu cuối như nghẹn lại trong nước mắt. Minh nghe rưng rưng, quên cả sợ, tự cảm thân quen, muốn trò chuyện: "Thì bà ... cũng nên hiện hình tỏ dung nhan .. hay cho biết quý danh để mà thưa gửi chứ ạ ?...". Giọng nữ nhẹ nhàng, có chút ân cần "Ngươi thật biết phép tắc,... và cũng hết sợ rồi đấy nhỉ,". Cười ôn hòa "Cứ từ tốn, trước sau thì ngươi cùng biết thôi... Ta đến gặp ngươi thế này chẳng phải để chơi đâu ... ắt phải có chuyện để nói chứ...".
                            Minh cố căng mắt, ngó nhìn quanh quất hòng nhận diện ngươi đang nói chuyện với mình, nhưng chẳng thấy gì ngoài thứ ảnh sáng nhờ nhờ như sương đục, loáng thoáng hình bóng những cây xoài, cây dừa, vú sữa, mãng cầu vẻ quen quen. Không khí tĩnh lặng, Minh bỗng sợ, lên tiếng: "Bà... ba ở đâu rồi?". Giọng nữ cười nhẹ: "Ta vẫn ở đây... Ngươi nhìn kỹ chưa? Có thầy ta không? Thấy gì quen không?". Minh e sợ "Không thầy bà... chỉ thấy cây cối quen quen thôi...". Cười to "Đã bảo mà... thì cây cối trong vườn hàng ngày... người đi dạo, quét lá khô nấu bếp, rồi leo trèo hái quả cả năm nay. không nhận ra sao được... Ta cho người biết, cả khu vườn này có mười tám cây vú sữa, hai mươi bảy cây dừa và bảy mươi hai cây xoài các loại, thêm ít cây lặt vặt khác ta không tính...Ngươi không tin, mai đếm thử xem...". Minh vẫn nghi hoặc "Vậy là...ta vẫn đang ở trong khu vườn của cơ quan tôi hay sao?".  Hạ giọng "Thì đúng thế ... Thực ra, ta chính là chủ nhà. Ta ở đây từ hai thế kỷ rưỡi nay... còn ngươi mới là khách. Ta nhớ, ngươi đến sống ở đây còn chưa đầy năm kia mà...". Minh ú ớ vâng dạ. Giọng nữ khẽ cười: "À, ta nhớ... người có mấy lần giẫm lên nóc nhà ta để bám cành đu mình leo lên cây xoài cát cổ thụ ở vườn sau ấy...". Minh ớ người cãi "Nhà nào nhỉ ?... Có nhà nào ở vườn sau đâu? ... Tôi giẫm lên nóc nhà bà hồi nào? ". Cười trêu "Người cũng giỏi cãi nhỉ... Chẳng lẽ ta đổ oan cho ngươi sao.... Ngươi thử nhớ lại đi... Không tin, sáng mai, người ra gốc cây xoài cổ thụ vườn sau, tìm xem thấy ở đấy có gì không? Chớ vội cãi ngay thế... ". Minh nghi hoặc, chợt nhớ ra điều gì, vôi kêu lên "Bà này, tôi nhớ hình như là..." Giọng nữ cắt lời, nghe xa vọng lại "Ta có việc đi đây... Hẹn gặp ngươi sau... Cứ suy xét cho kỹ đã... Rồi ngươi cũng sẽ biết về ta thôi.". Minh níu lấy "Nhưng tôi đã mạo phạm... thì sao ạ"...". Cười xa xôi "Chớ lo... Ta tạm tha cho ngươi cái tội mạo phạm giẫm đạp lên nóc nhà ta... Yên tâm và đợi khi ta quay lại...". Minh vẫn chưa chịu "Nhưng bà cũng phải gợi chút... thì tôi mới biết lối mà tìm... chứ mù mịt thế này tôi chẳng biết manh mối ra sao,... tìm đến bao giờ? ", Lại cười "Ngươi thật nhiều chuyện... Dạ cổ hoài lang, ngươi rõ rồi đấy... nhà ông Cao Văn Lầu ấy nói hộ nỗi lòng của người vợ đợi chồng phu phen lính tráng thời tao loạn binh đao ở vùng đất này ,... Sống chết gan tấc biết khi nào về mà chờ đợi cơ chứ... Ta xưa cũng là người cùng cảnh ngộ... Chợt thấy ngươi thương cảm thành thơ mà hiện về nói với ngươi đôi ba câu... Ngươi là người đọc sách, hẳn biết về trận Rạch Gầm Xoài Mút năm xưa, quân Tây Sơn đại phá liên quân Xiêm Nguyễn... Thôi, ngươi chịu khó đọc lại sử sách tỉ tường... Đợi lúc ta quay lại còn có cái để mà nói chuyện. Ta đi đây....".
                            Minh choàng tỉnh, ngồi phắt dậy. Bàng hoàng, định thần. Người vã mồ hôi ướt đẫm. Nhìn ra cửa số phía trước nhà, lờ mờ. Trời sáng giăng suông,...
                    3.
                            Đêm ấy, Minh thấp thỏm không ngủ lại được nữa....
                            Nghĩ miên man, điểm lại từ ngày anh chào mẹ khoác ba lô hành phương Nam. Chuyến đi bị bão hoành hành, đường qua miền Trung ngập nước, rồi núi lở, làm đoàn tàu lúc chạy, lúc dừng, lúc tăng-bo, nhếch nhác cả tuần mới tới Sài Gòn. Nhóm mấy người cùng đoàn chia tay nhau ở Xa cảng Miền Tây, kẻ Bạc Liêu, Rạch Giá, Đồng Tháp, còn Minh và một người bạn nữa thì An Giang. Vất vưởng mấy ngày ở Long Xuyên rồi hai người bọn Minh được điều đi Bảy Núi, vùng xa xôi khó khăn nhất của tỉnh. Những tưởng có hai người với nhau đỡ buồn chán và đỡ đần nhau lúc khó khăn thì người bạn kia nhớ vợ con ngoài Bắc, thở ngắn than dài. được vài tháng bỏ cơ quan ra Bắc và không quay trở lại nữa. Còn lại một mình, Minh gắng cầm cự. Nửa năm qua đi, anh dần quen với nhịp sống vùng đất mới.
                            Cơ quan đóng tại một khu nhà vườn rộng chừng gần hec-ta, rợp xanh bóng dừa, xoài, vú sữa, mãng cầu xiêm... Nghe nói, chủ cũ của khu nhà vườn này chạy sang Mỹ định cư thời điểm kết thúc chiến tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước năm 1975. Khi chiến tranh biên giới Tây Năm xáy ra, quân Khmer Đỏ lấn sang gây ra vụ thảm sát Ba Chúc, quân ta dổn về đây, từng lấy khu nhà vườn này làm nơi đóng quân. Kết thúc chiến tranh biên giới, khu nhà vườn đổ nát hơn, Nhà nước trưng dụng làm cơ quan của huyện, xây thêm vài căn kiếu nhà tạm để có chỗ làm việc. Phía ngoài có vài hộ gia đình nhân viên ở. Phía trong, duy nhất Minh ở lại cơ quan và một cậu thủ kho vật tư người địa phương, tuần ngủ lại vài ba buổi lấy lệ. Ở đây, được cái, mùa nào cây trái ấy, Minh tha hồ ăn, thích gì lấy ăn. Lâu lâu, đám công nhân trạm máy kéo cơ khí hết mùa cày ruộng, về bảo dưỡng máy thì đông vui hơn chút. Thế nên, buổi tối cơ quan hoang vắng, khiến Minh thấy sờ sợ. Dân sống quanh đây đồn là khu nhà vườn có ma, khiến Minh ngại đi chơi tối.
                            Sáng trở dậy, Minh dạo quanh khu cơ quan, rồi lượn về vườn sau, nơi có mấy cây xoài cát cổ thụ. Nhìn quanh, vạch cỏ dại, anh tìm thấy đám đất mấp mô lẫn gạch xây chẳng ra hình thù gì. Minh gai người, nhẩm bụng, đoán mò nơi đây từng có một ngôi mộ hoặc miếu thờ cổ nào đó. 
                            Nhớ lời người đàn bà gặp trong mơ, Minh bắt đầu tìm hiểu về lịch sử vùng đất. Chuyện tiên chúa Nguyễn Hoàng xưa nghe lời khuyên của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân", xin chúa Trịnh Kiểm bỏ xứ Bắc vượt Đèo Ngang vào trấn thủ Thuận Hóa từ năm 1558 thì Minh biết, nhưng trải mấy trăm năm qua chín đời chúa Nguyễn đến Nguyễn Phúc Ánh, mở mang bờ coi phía Nam vào trấn Gia Định và châu thổ Cửu Long giang, Chân Lạp xưa thì anh không mấy tường. Việc tìm tòi sách vở và tra cứu tài  liệu cũng không dễ chút nào. Lần mò rồi Minh cũng tìm được nguồn tài liệu từ những cuốn sách sử in trước năm 1975 của một người quen ở Sài Gòn. Lịch sử triều Nguyễn mở ra trước mắt anh, nhất là thời kỳ cuộc khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra, công cuộc chinh phạt phương Nam của ba anh em nhà Tây Sơn và cả hành trình gian truân nguy hiểm để phục quốc của chúa Nguyễn Ánh. Minh chú tâm đọc kỹ phần viết về trận Rạch Gầm Xoài Mút, quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy tài ba của Nguyễn Huệ đại phá liên quân Xiêm-Nguyễn, xem có gì đặc biệt mà người đàn bà xuất hiện trong mộng mị. nhắc đến... 
                            Ngày xưa, tháng Chạp năm Giáp Thìn sang Ất Tỵ, giao năm 1784-1785, trên khúc sông Tiền, Mỹ Tho từ Rạch Gầm đến Xoài Mút, dài chừng 7 cây số, nơi lòng sông rộng, lại có cù lao. thích hợp cho việc ém quân để quân Tây Sơn bố trí trận địa. Liên quân Xiêm-Nguyễn mắc mưu quân Tây Sơn nhử đến trận địa này, bị phục binh Tây Sơn chặn cứng hai đầu, dồn ứ lại, làm mồi cho hỏa pháo Tây Sơn tiêu diệt. Chỉ trong  vòng một ngày, Nguyễn Huệ chỉ huy quân Tây Sơn phá tan và tiêu diệt gần 5 vạn liên quân Xiêm-Nguyễn. đông gấp đôi quân mình. Hai tướng Xiêm là Chiêu Tăng và Chiêu Sương cùng đám tàn quân thoát chết chạy ngược lên đất Quang Hóa (nay là Tây Ninh) sang đất Chân Lạp để về Xiêm La. Còn Nguyễn Ánh thì cùng đoàn tùy túng phò tá tháo chạy khổ sở đói khát, đến nỗi tướng Nguyễn Văn Thành phải đi cướp của dân lấy miếng ăn cầm hơi, đến nỗi bị dân đánh trả mà trọng thương. Gần năm ngàn quân còn lại chưa đây một ngàn, tan tác cả, phần chạy theo quân Xiêm, nhúm quân theo Nguyễn Ánh chạy dạt về cuối đất, trốn ra đảo Thổ Chu. May mà quân Tây Sơn đuổi theo bị bão biển đánh tan thuyền nên Nguyễn Ánh thoát nạn, bôn ba nhiều năm, chờ thời cơ nhà Tây Sớn có biến, lấy lại cơ đồ...
                            Minh cứ ngẫm nghĩ, mảnh đất khu nhà vườn này chắc liên quan gì đến quan quân chúa Nguyễn thời nhà Tây Sơn chinh phạt vùng châu thổ này. Nhưng lịch sử đâu có chi tiết đến mức có thể tra cứu rõ được. Đành chơ cơ duyên thôi. 
                    4.
                            Đầy năm, Minh nghỉ phép, ra Bắc. Lần đầu tiên, anh cảm nhận được niềm vui. niềm hạnh phúc của kẻ xa nhà về cả khoảng cách và thời gian  khi gặp lại mẹ và người yêu. Già nửa tháng. Minh tính toàn, phân bổ sao cho hợp lý để ở bên mẹ, giúp mẹ làm việc nhà với thời gian dành cho người yêu đang dạy học ở một trường xa dăm chục cây số. Trong niềm vui thường nhật những ngày bên mẹ và gần người yêu, nhưng ẩn chứa trong sâu xa, Minh lại thấy nhớ miền Tây sông nước, nhớ khu vườn xanh um cây trái, vắng vẻ và chập chờn ma mị ấy. Chẳng gì, anh cũng đã có bao chiều cô đơn, bao đêm hoang hoải, mất ngủ vì nhớ Bắc và sợ bóng tối. Con người ta lạ thế đấy, vui quá và sợ quá đều đem đến sự ám ảnh khôn cùng. Kỳ nghỉ gần hết, Minh bỗng thấy ngại khi nghĩ đến việc phải trở lại khu vườn ma mị sống tiếp những ngày khắc khoải, những đêm say để ngủ cho quên nỗi sự, những phút giờ hoang vắng đếm tiếng tắc kè tặc lưỡi bóng tối. Minh phân vân khi mẹ bảo ở lại thêm, còn người yêu thì nhắc nhở rằng chậm phép có thể bị cơ quan kỷ luật vì tội vô tổ chức... Nhưng rồi, Minh cũng dứt ra được, trả phép tuy có chậm ít ngày. Thấy anh ba lô trở vào, ông trưởng phòng người địa phương cười đùa "Tưởng cậu ở luôn ngoải... Vô lại thế này là được rồi... Có vợ chưa? Sao không đưa vô đây... tớ nói với Ủy ban huyện cấp cho miếng đất cập lộ, cất cái nhà tạm, chồng làm cơ quan, vợ mần buôn bán vặt. ... Sống khỏe à...".  Minh cười cầu tài cảm ơn. Không nhắc nhở, kỷ luật gì là ổn rồi. 
                              Mấy nhà người quen, diện chồng Nam tập kết lấy vợ Bắc, thấy Minh vào lại, hè nhau nhậu, bảo là để mừng anh không đào tẩu. Buồn vui lẫn lộn, Minh quá chén say đứ đừ, thập thõm gắng gượng  khuya về đến phòng, đổ ập xuống giường, say ngủ mê man... 
                           Dưới gốc dứa, hóng gió mát, Minh ôm cây ghi ta bập bùng. Anh lựa gạm thử mấy nốt theo một điệu vọng cổ, chợt nghe giọng đàn bà "Đàn này không hợp đâu, phải dùng đàn phím lõm kia.". Minh giật mình, ngừng bặt "Ôi, đúng là bà rồi... Tôi vẫn nhớ giọng bà mà...". Cười nhẹ "Vậy là người vẫn nhớ, khen cho ngươi... Về quê vui chứ?" Minh ngạc nhiên "Quê nào... Tôi vừa nghỉ phép ra Bắc ít ngày... ". Cười thành tiếng "Quê đấy chứ đâu... thăm mẹ thăm vợ thì hẳn vui lắm nhỉ". Minh cãi "Mẹ thì đúng rồi, nhưng ... bạn gái thôi, tôi đã cưới đâu mà vợ ?".  Giễu cợt "Ngươi chưa cưới vợ, ta biết.... nhưng ăn nằm với người ta thì cũng nên coi người ta là vợ... thế lấy của người ta cái ngàn vàng rồi định bỏ người ta à ?...". Minh cứng họng ú ớ "Sao... bà cũng biết à ?". Cười nhạt "Thì ta là ma... dương gian các người hay bảo, biết ma ăn cỗ lúc nào... nhưng ma lại biết rõ các ngươi ăn cỗ thế nào kia đấy". Cười ma mãnh, Minh ớn lạnh cả người "Tôi yêu cô ấy, muốn cưới làm vợ...". Vẻ chân thành "Ta tin ngươi thật bụng... nhưng đời còn dài mà... lòng người dễ thay đổi". Im lặng một lúc. Người đàn bà "Ta đến đây không phải để chuyện yêu đương của ngươi... Thế ngươi đã biết sử sách bao nhiêu rồi ?" . Minh hào hứng "Không nhiều, nhưng cũng đủ biết về trận Rạch Gầm Xoài Mút, nhà Tây Sơn đại phá 5 vạn quân Xiêm-Nguyễn,... biết chúa Nguyễn Phúc Ánh chạy dài trốn chui trốn lủi ra đảo Thổ Chu thế nào...". Mỉa mai "Người có vẻ đắc ý nhỉ...  Ai dạy dỗ ngươi mà cao giọng vậy... làm được vài câu thơ mà giọng đầy thiên kiến vậy... Lịch sử vốn không thiên vị ai...", Minh hăng lên "Tôi không thiên kiến, rõ ràng nhà Tây Sơn, nhất là Quang Trung Nguyễn Huệ, đệ nhất anh hùng, ra Bắc dẹp Trịnh, vào Nam đuổi Nguyễn, trước quét sạch quân Xiêm, sau đại phá  quân Thanh... Thử hỏi, trời Nam xưa nay có ai bằng? ...".  Cười mỉa "Ta phận đàn bà, không bàn việc nước... ôm nỗi lo riêng, ở nhà phụng dưỡng cha mẹ, chăm con trẻ, đêm đêm nghe mưa nhẩm thời khắc chợ đợi chồng mòn mỏi nơi chiến trận, nén lòng ham muốn giữ đạo phu phụ, khi chồng chết trận lại thủ tiết thờ chồng nuôi con khôn lớn... ngần ấy thôi đã khô héo thân xác, úa nẫu tâm hồn rồi... ngươi bảo dễ lắm à... vòm trời này sao lại đổ hết bao nỗi cơ cực lên đầu người đàn bà làm vậy ?...". Minh nghe lòng bùi ngùi "Bà nói cũng phải... hỏi ông giời  hà cớ  gì bắt tội người đàn bà... ? ". Cười to "Ta than thở với ngươi nhiều cũng phí  công. Người thích lý sự thì nghe ta bàn đây... Này nhé, ba anh em nhà Tây Sơn, khởi thủy là giặc cỏ, có thấy nhà Nguyễn ta từ tiên chúa Nguyễn Hoàng vâng lệnh vua Lê, vượt đèo Ngang trấn thủ xứ Thuận Hóa, rồi trải tám đời chúa. mở mang bờ cõi trời Nam, thu phục Chăm-pa, Chân Lạp, mở nửa giang sơn Đại Việt này, ấy là công lao to lớn.... Nhà Tây Sơn kia nổi lên, chẳng qua cũng là tham vọng tranh đoạt thiên hạ, người Việt tàn sát lẫn nhau.... Nhờ việc phá Xiêm, đuổi Thanh mà trời đất dung thứ, lòng người biết ơn nên sử sách ghi công đó... Ta nói vậy, chẳng hay ngươi có ý gì khác? ". Minh ầm ư "Bà nói thế cũng đúng... Chẳng hay, bà xưa kia cũng thuộc người nhà chúa nên mói gọi nhà Nguyễn ta...?".  Người đàn bà ôn tồn "Ngươi tinh ý đấy... Ta không phải người nhà chúa, chỉ là, chồng ta cùng họ với nhà chúa... vả lại nhà ta đôi bên đều gốc dân Thanh Nghệ cả. Ngày trước, Trịnh Nguyễn phân tranh, nhưng lần quân chúa Nguyễn vượt sông Gianh lấn đất Bắc, chiếm làng bắt dân vùng Thanh Nghệ cũng đâu có giết chóc ai, chỉ vì hiếm người mà đất lại rộng, bắt dân cả làng, cả tổng đưa vô trỏng an dân khai mở đất hoang dần về phương Nam. Dân lúc đầu không hiểu, có phần oán thán vì phải rời bỏ quê hương bản quán, nhưng ngẫm kỹ ra lại hóa hay, được yên ổn làm ăn nơi đất mới mà sinh ơn... Cái gì cũng có hai mặt, chắc ngươi hiểu rõ ?" Minh thỏa mãn "Bà cũng thấy được đạo lý của nhà Tây Sơn... thế còn bao việc khác nữa chứ ?...". Cười nhạo "Ta chỉ thấy có vậy thôi.... nhà Tây Sơn chưa thành, anh em đã nghi kỵ lẫn nhau... Nguyễn Nhạc là anh cả mà nhỏ nhen, hẹp hòi, nghi kỵ; Nguyễn Lữ hoài nghi và thiếu quyết đoán. Còn Nguyễn Huệ thì tài năng hơn cả, nhưng cũng mắc chứng ngông nghênh coi trời bằng vung, mục hạ vô nhân, chưa biết lắng nghe.... Đạo làm vua như thế cũng là non kém, sao thấu nổi lòng dân ?... Vậy nên, nhà Tây Sơn nổi lên như sấm rền chớp giật là thế, nhưng nhanh chóng lụi tàn, trước hết là do nghi kỵ, tàn sát lẫn nhau... cũng  là đúng đạo lý trời đất cả đấy ...". Minh buồn buồn "Điều này thì bà cũng có lý... Tôi thắc mắc, không họ hàng thân thích với chúa Nguyễn, gia đình của bà chắc cũng mắc mớ chi đó ?". Chậm rãi "Có chứ... Thư thả nghe ta đây... Tổ tiên hai nhà ta vô xứ Thuận Hóa, rồi theo thời gian mở đất của các đời chúa Nguyễn, dạt dần vào Gia Định trấn, cũng thuộc hàng khá giả, có máu mặt ở xứ này... Phu quân là thuộc hàng võ tướng, trước trận Rạch Gầm Xoài Mút, phu quân ta là tướng lĩnh dưới sự chỉ suy của đại đô đốc Châu Văn Tiếp, vâng lệnh nhà chúa mở màn đánh vào đất Mân Thít (Vĩnh Long). không may bại trận, đại đô đóc Châu Văn Tiếp bị Chưởng cơ Bảo quân Tây Sơn giết chết. Chúa Nguyễn Ánh lại cử tướng quân Lê Văn Quân thống lĩnh tiền quân tiến đánh trận Ba Lai (Bến Tre) và Trà Tân )Định Tường), nhưng rồi tướng Lê Văn Quân cũng bị trọng thương... Phu quân ta cũng tàn quân nhập vào đội quân chính phò tá nhà chúa...". Minh à lên "Vậy ra, gia thế của bà cũng ghê gớm đó... thuộc hàng công thấn của nhà Nguyễn rồi.". Cười đau khổ "Công thần, công trạng mà làm gì... khi hồn lìa khỏi xác ? ... Trong trận Rạch Gầm Xoài Mút, mấy vạn nhân mạng tiêu vong... Phu quân ta cùng đám tàn quân phò chúa Nguyễn tháo chạy rồi lên thuyên trốn ra đảo Thổ Chu... Dọc đường rút chạy, phu quân ta liều chết để bảo vệ nhà chúa... không may tử nạn... Người bảo sao ta không đau xót?..." Minh giọng chia sẻ "Thỉ ra vậy... rất tiếc... tôi hiểu lòng bà !...". Giọng buồn rượi "Khốn cho thân ta... ở nhà vò võ chờ chống... đợi ngày đoàn viên phu quân làm nên công trạng, mang vẻ vang cho gia tộc.... Có biết đâu, ổng bỏ ta mà đi mãi mãi như thế...". Minh cảm thông "Bà có nỗi đau riêng của bà... nhưng đấy cũng là nỗi đau chung của biết bao người mẹ, người vợ.... có người thân tử trận trong những cuộc chiến lên miên suốt mấy thế kỷ qua trên dải đất này". Cười mỉa  "Ngươi nói hay quá nhỉ,... may cho số phận ngươi không phải xông pha trận mạc, không biết hòn tên mũi đạn thế nào, nên người hót hay lắm... Ta còn biết cả chuyện mẹ đẻ của ngươi mừng chảy nước mắt khi ngươi vì thấp bé nhẹ cân không đủ sức khỏe vào lính... Thực lòng, ta mừng cho bà ấy không phải sống những tháng ngày thấp thỏm chờ mong con mình trở về lành lặn... Phúc đức là đấy, ngươi có hiểu không ? Vinh quang thì hay hớm gì khi không còn nữa ?". Minh cãi "Thế bao xương máu đổ xuống là vô ích à ? Tôi không được trực tiếp tham gia cuộc chiến, không bàn may rủi... Ấy là số phận. Có điều này, giờ đây, mỗi khi người ta bàn về cuộc chiến vừa qua. tôi mặc cảm của người ngoài cuộc... thấy mình chưa đóng góp gì cả... xấu hổ lắm chứ". Cười nhạt "Ngươi cũng sĩ diện nhỉ, nhưng nam nhi không có chút sĩ diện mới đáng buồn... Ta không học hành nhiều như ngươi...phận đàn bà, ta thấm nỗi đau ta, mọi lý tưởng cao siêu, mọi lý sự này nọ, với ta đều là suông hết. Chỉ nỗi đau ta từng chịu đựng là có thật !...Đừng lý sự nữa...Ta không muốn nghe đâu.". Minh cười cảm thông, lần đầu tiên anh cười trong cuộc đối thoại "Chiều ý bà, ta nói chuyện khác,.. Công lao cứu giá của phu quân bà như vậy, hẳn sai này chúa Nguyễn không quên chứ ?". Ôn tồn "Ngươi là người chu toàn khi hỏi ta chuyện này.... Quả là sau khi thành nghiệp lớn, nhà chúa thu phục cả giang san, lên ngôi vua đầu triều Nguyễn, ngài ngự đã không quên công lao của những người từng phò tá mình dựng nghiệp, cả kẻ sống và ngưởi chết... Phu quân ta được truy phong tước vị, nhà ta được ban thưởng hậu hĩnh, được cấp trang ấp nơi đây... Cầm lòng vậy, bằng lòng vậy... ta thay chồng cai quản cơ ngơi này, giàu có sản nghiệp ta đâu có màng khi phu quân ta không còn trên cõi đời để cùng ta và con cháu hưởng thụ... Chút an ủi cho  ta ấy là người dân trong vùng nhờ thế mà có công ăn việc làm, được miếng ăn no bụng, được áo quần lành lặn... Họ ơn nhà ta là vậy..." Minh cướp lời "Thế nên họ mới xây miếu thờ cúng bà chứ gì ?" Cười to "Ngươi đúng là kẻ láu cá'... Xây miếu thờ ta trên đất trang ấp nhà ta, ấy là từ con cháu ta... Có điều, dân trong vùng cũng nể trọng ta phần nào mà hương khói cho ta... Vậy thôi.". Minh đắc ý "Bà thấy không, đạo lý ở đời cũng công bắng lắm chứ... Ai làm phúc cho dân thì dân quý trọng...". Trầm ngâm "Điều này thì ta tin ngươi hiểu... rốt cuộc, chúa Nguyễn thắng làm chủ thiên hạ, nên nhà ta mới được hưởng lộc chúa.... Ngươi nghĩ xem, nếu nhà Tây Sơn giữ được cơ đồ, nhà ta đây không chừng thành tội đồ vì tội đi phó tá chúa Nguyễn, bị triệt hạ, tàn sát cũng nên...". Minh băn khoăn "Điều này thì tôi không dám chắc... Có thể là vậy". Cười nhạo "Ngươi cũng là kẻ công bằng đấy chứ....Úng xứ với kẻ thua cuộc ra sao, hoàn toàn phụ thuộc vào bản tính và tâm trạng của người thắng, hoan hỉ bao dung hay cay cú rửa hận... thôi thì, nói sai cho hết được tâm địa con người ta...". Minh chậc chậc "Có lẽ vậy chăng ?...". Cười nhẹ "Ta lại nói đúng tim người rồi... Ngươi bối rối là phải... Ta bàn thế là để so sánh ta với người đàn bà mới đến trú ngụ trên đất của ta,". Minh ngạc nhiên "Ai thế?... người đàn bà nào?". Buồn buồn "À, ngươi đi vắng về quê ít bữa, nên không biết đấy thôi... Có một đàn bà góa mới lìa trần xuống dưới này, đến gặp ta xin trú ngụ... Vậy người không để ý, cái nghĩa địa phía bên kia hàng rào cây nơi cửa sổ sau nơi người ở rồi?... Cái mả mới với những vòng hoa héo...". Minh khẽ rùng mình "Vậy sao?... Tôi chưa kịp để ý.",  Giải tỏa "Ngươi yên tâm... Có ta ở đây làm chủ, ngươi không phải sợ... Với lại, người đàn bà mới đến này vốn hiền lành. Ngươi không sợ bị quấy nhiễu đâu...". Minh vẻ yên tâm. cầu tài "Vậy người này đâu dám sơ với bà được ?" . Cười nhạo "Ngươi cũng khéo nịnh nhỉ... Ý ta là, người này từng chịu cảnh góa bụa như ta xưa... Có điều, khố kiếp đàn bà góa một phần, khốn thêm nỗi người chồng tử trận lại thuộc bên thua cuộc chiến... Nghe đâu, người chồng là sĩ quan cấp tá, tử trận ngay đầu chiến dịch quân Bắc tấn công Tây Nguyên chi đó.... Xác bị vùi lấp đâu đó chẳng rõ nữa..." Minh thở phào "Thì ra là vậy... nhưng biết làm sao được ! Chiến tranh mà, nó có chứa ai đâu". Cảm thông "Góa bụa đã khổ. lại bao năm sống trong nỗi sợ bị bên thắng trần trả thù, hành tội, o ép này nọ... May mà, bên thắng cuộc cũng không tệ..." Minh hào hứng "Đấy, bà thấy chưa.... Đạo lý công bằng mà. Ai làm người nấy chịu... Bà ta không liên quan gì đến việc chống bà ta làm, nên chẳng có gì phải sợ... Nhưng chồng bà ta, nếu còn sống thì tôi không dám chắc được đối xử như bà ta đâu... Chắc chắn ông ta sẽ phải học tập, lao động cải tạo này nọ... ". Mỉa mai "Nghe ngươi nói, thấy rõ cái lý của kẻ mạnh, thấy sự áp chế của bên thắng cuộc.". Minh lên giọng "Đương nhiên... Thời ấy, bà cũng thấy đấy, nhà Nguyễn đã thi hành một chính sách trả thù nhà Tây Sơn tàn khốc... truy lùng, giết chóc, quật mồ mả, phá từ đường, thôi thì không thiếu gì hành vi rửa hận...". Cay đắng "Ngươi thôi đi... ta không muốn nghe nữa....".  Minh tự ái "Vậy thì thôi,... xin phép bà dừng lời...". Vẻ buồn bã "Chuyện thế là nhiều rồi... ta thấy cũng là có íc ... À, ta nói trước điều này... có lẽ làm ngươi buồn.... người con gái của ngươi tên Nguyệt nhỉ.... Tên hai ngươi ghép vào hay lắm... Minh Nguyệt là giăng sáng, nhưng chỉ để mai sau mỗi đứa tháng tháng nhìn giăng sáng mà nhớ đến nhau thôi... Hai người có duyên mà không có phận... Ta đi đây..." Minh bàng hoàng khi nghe lời phán vậy "Kìa bà...cho tôi hỏi vài câu được không ?... Tôi còn chưa tường diện mạo bà kia mà...".  Giọng xa xăm "Thế đủ rồi... ngươi không thể tường diện mạo ta đâu... Ta đã siêu thoát từ lâu... Cho ngươi hay, người đã khuất mà còn để lại diện mạo trong tâm thức người sống, là người còn chưa siêu thoát... ".
                     
                    5. 
                            Minh tỉnh cơn mơ. Cảm nhận đầu đau nhức, nặng trịch. Hơi thở vẫn nồng mùi men. Chắc rượu uống lúc chiều là loại rượu kém chất lượng được lên men từ nguyên liệu ri đường. Ngọn đèn dầu hỏa đỏ cạch gió lùa cửa sổ sáng lay lắt. Người váng vất khó chịu. Anh lôi vội chiếc xô nhựa dưới gầm giường nôn thốc nôn tháo cả mật xanh mật vàng. Minh mệt lả người, nằm im, lần hồi nhớ lại giấc mơ ...
                            Minh những tưởng, giấc mơ ngày nào gặp người đàn bà tự xưng là chủ khu vườn từng có miếu thờ ngay trong vườn này sẽ không bao giờ lặp lại. Vậy mà anh lại mơ thấy bà ta, tiếp nối câu chuyện bỏ dở từ lần trước. Anh vẫn bị ám ảnh bởi bầu không khí bí ẩn của khu vườn và câu chuyện đằng sau nó.  Minh ngẫm nghĩ, có lẽ sự hoang vắng của khu vườn cộng hưởng với âm khí từ cái nghĩa địa ngay phía sau nhà anh ở đã ám thị anh thành mộng mị. Song những hiểu biết về lịch sử anh đọc ít nhiều được tái hiện vào câu chuyện với người đan bà trong mộng khiến anh nghi hoặc về nguồn gốc khu vườn này và những chủ nhân của nó qua máy thế kỷ. Những người quanh đây, cũng chỉ biết lơ mơ về người chủ bỏ xứ sang Mỹ định cử khi kết thúc chiến tranh phân miền, chứ không ai biết sâu xa hơn về nguồn gốc, liệu rằng các người chủ trước nữa có phải huyết thống trực hệ là nối nhau sống nhiều đời ở đây hay là đã sang nhượng thay tên đổi chủ. 
                            Riêng có chi tiết trong mộng mị của anh thì nhanh chóng xác định được ngay. Ngay hôm sau, anh theo lối mòn vạch rào ngó sang nghĩa địa phía sau thì quả nhiên thấy ngôi mả mới thật. Cũng không khó để xác định người nằm dưới mộ ấy là ai. Chị người quen cũng cơ quan sống kế bên chợ An Lạc xác nhận, thời điểm Minh đi phép Bắc, có một chị chuyên bán đồ khô ở chợ An Lạc bị cảm đột ngột rồi mất, và nghe nói chồng chị ta trước đây là sĩ quan Ngụy chết trận. Đối chiếu với giấc mơ của mình, Minh thấy không sai. Chi tiết này là có thật, thì câu chuyện dài trong mộng mị kia có cơ cở để tin... 
                            Sau lần ấy, Minh không hề mơ thêm gì nữa, mặc dù anh có ý trông chờ. Công việc, cuộc sống biến động, anh dần lãng đi, mặc dù đâu đó trong những đêm khó ngủ vì nhớ nhà, vì lo tính công việc, nó vẫn thảng về trong ý nghĩ của anh. Mối tình của anh và Nguyệt cũng không thành sau vài ba năm chờ đợi. Nguyệt chủ động chia tay anh vì lý do từ gia đình. Minh níu kéo không nổi đành buông tay... Nguyệt về Hà Nội theo khóa cao học, rồi xin việc mới, không trở lại trường cũ. Chuyện tình đổ vỡ, Minh không đổ lỗi cho việc anh đã vô tình tặng kéo cho Nguyệt, bởi một lần vì không biết, anh đã mua tặng cô chiếc kéo thợ may cùng bộ sách hường dẫn cắt may, thước vải, và dụng cụ may, gửi qua bưu điện để cô tập lúc rảnh rỗi. Sau anh mới biết, người ta bảo, người yêu nhau kỵ nhất việc tặng dao kéo và khăn tay, bởi dao kéo sẽ cắt đứt tơ duyên, còn khăn tay là để lau nước mắt chia tay, ly biệt... Minh có nghĩ đến lời tiên đoan của người đàn bà trong mộng về sự tan vỡ mối tình của anh với Nguyêt, chỉ cảm thấy buồn nhớ những năm tháng ở đấy... 
                            Nhưng cũng vì gắng níu kéo mối tình với Nguyệt mà anh quyết tâm ra Bắc. Anh bỏ lại quá khứ với khu vườn, bỏ châu thổ mênh mông sông nước cùng những điệu vọng cổ da diết buồn, bỏ Dạ cổ hoài lang sầu bi não nùng....
                            Hơn hai mươi năm sau, Minh mói có dịp trở lại vùng đất Bảy Núi, nhân chuyến công tác miền Tân Nam bộ. Anh tranh thủ thăm gặp những người quen cũ. Vài người trong số thân quen của anh ngày ấy đã khuất bóng. Biết tin cơ quan cũ của anh đã chuyển đi nơi khác, còn khu vườn ấy được huyện quy hoạch xây dựng thành trường dân tộc nội trú. Minh muốn thăm lại nơi cũ. Anh nói qua lý do và xin phép người bảo vệ được vào hẳn sân trường. Anh đứng tần ngần, quan sát khắp lượt, hình dung lại cảnh xưa, người cũ, đâu là hàng dừa, vườn xoài, đâu là căn nhà có phòng anh ở, và đâu từng là chỗ cây xoài  cát cổ thụ dưới gốc có đám gạch xây long lở, vết tích của một ngôi miếu cổ. Bao nhiêu chuyện cũ, hình ảnh xa mờ bỗng hiện về rõ nét trong đầu anh... Người bảo vệ đến bên anh, bảo "Chẳng còn dấu vết cũ, anh hỉ". Minh cười buồn, cảm ơn người bảo vệ... 
                            Minh còn trở lại vùng đất này nhiều lần. Anh cũng có thơ ghi lại cảm xúc của mình.  Giờ đây, mỗi khi nhớ về vùng đất ấy, anh thầm gọi tên miền xanh thăm chân mây... ./.
                     
                     
                    tamvanvov 17.10.2021 16:55:02 (permalink)

                    CHUYỆN NGÀY MƯA
                    Tản văn

                    Sáng nay trời mưa.
                    Mưa rả ríc như thế đã mấy ngày nay.
                    Đã tháng chín ta mà mưa như thể mưa ngâu,,,,

                    Mở máy tính làm việc mà người ngây ra chẳng biết viết gì. Chợt nhớ đến người bạn thân đang sống một mình ở quê Kinh Môn, Hải Dương, bèn gọi điện. Anh bạn từ Sài Gòn về quê chăm mẹ già ốm liệt giường từ trước tết Nguyên đán rồi kẹt lại do giãn cách xã hội vì dịch covid đến tận giờ,,,,

                    Chúng tôi nói với nhau nhiều lắm, đủ thứ chuyện. Chuyện nọ dọ chuyện kia, nhưng chung quy vẫn quanh quẩn chuyện nhà, chuyện quê huiwng bản quán và văn chương, Tiết mưa dầm dễ gợi, lại thêm chút gió mùa đem cái lạnh cuối thu đầu đông về càng khiến lò+ng người ta xao động.

                    Chuyện rằng, iwr xứ ta, phần đông người ra có nguồn gốc nông thôn, vi nước nông nghiệp mà, cên xái nông dâm ăn sâu bám rễ vào con người ta bền chặ tlắm, Lúc nhỏ ở quê thi cố thoát khỏi cái phận theo đít trâu, nhoi đi đây đó. Về sau thành bại ra sao cũng hướng về quê quan tìm đất cũ lấy nơi chốn hương khói tổ tông, hoặc giả tim đấy để mai sau gửi thân già để khỏi mang tiếng bỏ thân xác thiên hạ.Người khá giả vinh hoa thì muốn mũ áo xe pháo mỹ áo xênh xang về làngm,,,

                    Nhớ lời cha tôi baorm đất làng tôi mang dáng con cò đứng bờ sông ngoảnh cổ lại nên người làng đi đâu rồi sau cũng tìm về quê. Nghĩ chi cùng thì cũng tâm klý ấy mà ra cả thôi.,,,

                    Chuyện văn chương, thì cũng rõ cả đấy, phần lớn văn nghệ sĩ xứ mình đều nguồn gốc nông thôn, Trời cho năng khiếu cầm bút thoạt kỳ thủy cũng lấy ký ức tuổi thơ và mang chuyện quê hương ra mà kể cho thiên hạ nghe, rồi đó mới thoát ra để chuyện thiên hạ,...

                    Ngẫm kỹ, mà phục nhà thơ Hạ Tri Chương đời Đường thật tài khi khái quát tất cả điều ấy trong bài tứ tuyệt bất hủ của mình:

                    "Thiếu tiểu ly gia lão đại hồi



                    Hương âm vô cải mấn mao tồi

                    Nhi đồng tương kiến bất tương thức

                    Tiếu vấn khách tòng hà xứ lai ?"

                    Hiểu nôm na bài thơ là:

                    Khi trẻ rời quê, gìa quay trở về

                    Chất giọng quê chưa đổi thì tóc đã điểm bạc

                    Đám trẻ kàng nhìn mình chẳng biết là ai,

                    Cười hỏi mình là khách từ đâu đến ?

                    Chuyện vãn, cả hai đều bùi ngùi

                    Bạn bảo nơi quê bạn vẫn đang mưa lạnh... Phải nấu cơm ăn dù có một mình. Mảnh vườn và ngôi nhà cũ tuổi thơ dù nay cha mẹ đã vắng bóng. Nghe bạn lại nhớ ngôi thờ tự ở mình cũng đóng cửa im ỉm, gần nửa năm nay cũng có về hương khói được đâu !

                    Vậy mà có ai bỏ được đâu !...
                    @@@
                    Nguyễn Việt An Khi không còn trẻ, cảm giác về quê khác nhiều lắm, so với khi còn trẻ. Mỗi lần về quê lại thấy người quen cũ vơi đi. Những người cùng thế hệ lần lượt xa quê, còn rất ít người ở làng. Có nhiều người từ khi rời ghế nhà trường đến nay, tôi chưa một lần gặp lại. Thế hệ bố, mẹ tôi vắng dần, vắng dần, đi xa về cõi vĩnh hằng. Cảm giác về quê buồn vui lẫn lộn, sum họp, mất mát đan xen. Cảm giác đó đã có trong tôi từ nhiều năm trước. "Thoáng quê xưa", là bài tôi viết trong lần về quê vào cuối mùa thu, cách nay đã nhiều năm:

                    Mỗi lần về lại quê xưa
                    Thấy người quen cũ cứ thưa vắng dần
                    Bông hoa cúc nở tần ngần
                    Sắc vàng ngơ ngác tắt dần cuối thu

                    Đồng xa vẳng tiếng chim gù
                    Chuồn kim đá nước ao tù rêu xanh
                    Hoe vàng một chút nắng hanh
                    Tiếng gà xao xác bên mành dậu thưa

                    Quê nghèo cháy năng bạc mưa
                    Mới về lại thấy như chưa được về
                    Cải ngồng nhuộm nắng chân đê
                    Thoảng hương cốm mới bay về trong mơ

                    Sống ở phương nam, tôi nhớ quê với những kỷ niệm ấu thơ, những nét đặc trưng của vùng quê Bắc bộ mà miền nam không có được. Bây giờ lại sắp mùa đông. Hôm qua, tôi và NCN có nói với nhau về cái rét của mùa đông xưa. Hồi xưa mùa đông rét lắm, dường như còn rét đến bây giờ. Khi ở vùng nắng ấm, tôi lại nhớ mùa đông:

                    Ôi cái rét muốn run từng ngọn lửa
                    Tôi đốt lòng nhung nhớ gọi mùa đông



                    @@@


                    Nguyen Vinh Tuyen Đệ à… CHUYỆN NGÀY MƯA khiến Huynh ứa nước mắt về một nỗi nhớ vu vơ miền xa quê quán !
                    … Hà Nội sau mấy đợt dịch, sau đôi lần cách ly, giãn cách… rồi tháo khoán… ngẫm phận mình mòn sức khó vịn sự đời đặng khuyết lực xông pha tung tẩy thì chán nản cả chuyện thuốc thang dưỡng bệnh!…
                    Ngẫm rằng trò chơi trên Thiên Đình chắc chắn khác hẳn trò đời Hạ-Giới (?). Sắp Bốn Mươi Chín Ngày cho Mẹ Bạn (Việt An)… Rồi Ngẫm thêm nữa MẸ GiÀ của mỗi chúng ta đã lần lượt rủ nhau đi xa… xa-xôi quá Đệ ơi! Ngày Mẹ đi; tất cả chúng ta Hạ-huyệt một Thi-Thể: ĐÓ LÀ THI THỂ THỜI GIAN - còn Mẹ của Mỗi- Chúng-ta thi phía Xa-Kia… vẫn cứ đang lầm lũi, lẽo đẽo đang còn vượt sông suối leo dốc lên phía Thiên Đàng… Ngày tống chung cũng là ngày ta không được ở bên Mẹ. Người thì Sống Mãi để Ra-đi; còn ta thì ngồi lại hoặc loanh quanh bên nấm mộ thời gian…
                    …Có gì đó se thắt nỗi đời !



                    tamvanvov 29.10.2021 16:43:50 (permalink)

                    CHUYỆN NGÀY CŨ ( V )
                    THỜI GIAN KHÔNG TRỞ LẠI
                    Tản văn, Tạp bút)

                    @@@
                    Trong một đoản văn của mình, nhà thơ CTH đã trích dẫn một câu hát từ bài hát nền bộ phim truyền hình nhiều tập Phía trước là bầu trời : “ Nếu có ước muốn trong cuộc đời này, hãy nhớ ước muốn cho thời gian trở lại…”.

                    Bộ phim ấy làm về đề tài sinh viên, được ra mắt công chúng cách đây khoảng chục năm. Tôi đã xem một cách chăm chú và thích thú với các nhân vật và nhiều tình tiết của bộ phim… Tôi yêu thích , không hẳn vì sự thành công của bộ phim đó, hay sự xuất sắc của một vài vai diễn, nhân vật … mà vì ở đó, tác giả đã gửi gắm khát khao được sống-làm việc- yêu đương, được khẳng định mình, được cống hiến tuổi trẻ, sức sáng tạo… và cả được hưởng thụ với ý nghĩa đích thực của cuộc đời.

                    Tôi thích bài hát nền với ca từ và giai điệu giản dị, trong sáng, khát khao, da diết và có gì đó tiếc nuối …

                    Tôi thích nó, CTH ạ, còn đơn giản bởi, tôi đã thực sự cảm nhận được cái mất mát không tài nào lấy lại được của quãng thời gian đã qua trong cuộc đời mình và những người thân mà tôi yêu quý…

                    Ước muốn cho thời gian trở lại … Không đâu, CTH ơi, thời gian không trở lại…

                    Tôi nhớ đến sự mê dụ trong văn chương của Marcel Proust, thiên tùy bút "Xứ sở" - khúc ngẫu hứng của tiểu thuyết "Tìm lại thời gian đã mất"( Retrouvé le temp ), mà ở đó, tác giả bộc lộ khát vọng sống và sự tiếc nuối về thời gian gian đã mất …

                    Tôi lại nhớ đến một câu thơ của Ngô Tự Lập – “ Gió đã mang đi ngày hôm qua “ – bài thơ ấy lấy cảm hứng từ bài hát nổi tiếng Yesterday…

                    Tôi chia sẻ và đồng cảm với Việt An khi anh ghi cảm nhận : “ Với tôi, tôi vẫn muốn thời gian trở lại. Trở lại không phải cho tôi, mà cho cha mẹ tôi.Tôi ước gì cha mẹ tôi trở lại tuổi 60, để tôi có thể phá bỏ căn nhà cũ, xây căn nhà mới nhỏ xinh và đầy đủ tiện nghi dành cho cha mẹ”.

                    Tôi với Việt An chơi với nhau từ tuổi học trò. Khi là sinh viên, tôi cùng với người bạn đã đèo nhau trên chiếc xe đạp cà tàng lên tận Phủ Lỗ-Núi Đôi thăm Việt An vào một ngày chủ nhật. Việt An và bạn bè cùng lớp anh, khi đó, đã báo thêm mấy suất cơm nhà ăn, và còn dành tất cả những thứ gì ăn được để tiếp đãi chúng tôi một bữa cơm đạm bạc thời nghèo khó. Tôi còn nhớ như in bữa cơm quây quần ấy, trong căn phòng chật chội của ký túc xá tranh tre nứa lá trên vùng đất sỏi khô cằn miền trung du, đám sinh viên vừa ăn, vừa trò chuyện thân mật, trêu đùa nhau, bốc phét, kể chuyện yêu đương và đọc thơ ( thơ người, thơ mình , nói tóm lại là tất cả những gì mình thuộc )… Rồi đó, là những năm lập thân, lập nghiệp khổ ải và khao khát. Mấy đứa chúng tôi, Trần Đăng Khoa vào bộ đồi, đi chiến trường Campuchia và Trường Sa, Việt An cũng vào bộ đội và anh công tác ngay trong sân bay Tân Sơn Nhất. Tôi cầm tấm bằng kỹ sư canh nông và có đến 7 năm trời lang bạt khắp nẻo đồng bằng Tây Nam Bộ; một người bạn nữa thì làm báo, cũng lang thang đây đó… Những lần từ miền Tây Nam Bộ đi phép ra Bắc, tôi hay ghé thăm Việt An. Lại báo cơm nhà bếp đơn vị, nhưng lúc ấy, dù nghèo nhưng Việt An đã có đồng ra đồng vào, đã có thể chạy ù ra quán, mua thêm chút thức ăn tươi và xị đế , nhâm nhi với nhau để có cớ mà ngẫu hứng đọc thơ… Càng nghèo khó, gian khổ truân chuyên thì càng yêu thơ… Cũng là bởi, chỉ có thơ, ngoài thơ ra, không có gì khác, và mình biết lấy gì ra, để xoa dịu, an ủi lòng mình đây, để bộc lộ khao khát, để đau đáu văn chương và để tiếc nuối cơ chứ ? !... Cũng vì thiếu thốn, nên ngày ấy, Việt An đâu có thực hiện được mong muốn xây nhà mới cho cha mẹ anh, phải vậy không Việt An ?

                    Tôi lại nhớ, những ngày sống lầm lụi giữa đồng bằng bạt ngàn và cô quạnh nơi vùng đất biên giới Bảy Núi, An Giang, đêm đêm nghe tiếng muỗi bay và đâu đó tiếng vọng cổ não nề của khách thương hồ chạy tàu đò trên dòng kinh Tám Ngàn về miệt Hà Tiên … Lại cũng làm thơ. Thơ cho mình và thơ cho người yêu trong tâm tưởng, vô vọng mãi xứ Bắc, Hà thành …

                    Tôi lại nhớ, những ngày chạy đôn đáo xin việc, chuyển công tác, đêm về ăn đậu ngủ nhờ nơi gia đình người bạn, trong căn phòng có 9 mét vuông, như chuồng chim trên nóc chung cư P16 Thuỵ Khuê …

                    Tôi nhớ lắm và thấm thía ánh mắt buồn phiền của mẹ tôi, khi tôi vẫn cứ lang bạt đây đó, mãi chưa ổn định công việc và lập gia đình để mẹ yên lòng với tuổi già !...

                    Vâng. Và lẽ dĩ nhiên, tôi nhớ… những bóng hồng, những người phụ nữ đi ngang qua, lướt nhanh qua tuổi trẻ của mình…

                    Và nữa … Nữa …Tất cả còn trong tôi, chỉ có thời gian là mất đi vĩnh viễn mà thôi…

                    Ơi CTH và Việt An, “ nếu có ước muốn trong cuộc đời này, hãy nhớ ước muốn cho thời gian trở lại, bên nhau cháy bỏng …”. Các bạn của tôi ơi , thời gian không bao giờ trở lại .

                    Chỉ có ký ức là ở lại và mãi tươi nguyên. Vậy thì, sự tiếc nuối hẳn không vô ích, khi mà, "Gió đã mang đi ngày hôm qua "?!...
                    ###
                    Bình luận từ: Việt An [Bạn đọc] Email 30.05.10@20:20
                    @Nguyễn Chu Nhạc !

                    “Các bạn của tôi ơi , thời gian không bao giờ trở lại . Chỉ có ký ức là ở lại và mãi tươi nguyên. Vậy thì, sự tiếc nuối hẳn không vô ích, khi mà, Gió đã mang đi ngày hôm qua ?!...”(Nguyễn Chu Nhạc)
                    ---
                    Vâng ! đúng vậy ! Thời gian không bao giờ trở lại, chỉ có ký ức là mãi tươi nguyên. Thế hệ chúng tôi sinh ra và lớn lên vào thời gian khó. Bây giờ kể lại, lớp trẻ sẽ cảm thấy như nghe như chuyện cổ tích. Hình như một thời gian khó, làm người ta yêu quí nhau, và nhớ nhau nhiều hơn thì phải ?

                    Văn chương là cơ duyên, giúp cho chúng tôi trở thành bạn học của nhau, dù mỗi người ở mỗi huyện, rải rác khắp tỉnh Hải Hưng cũ (Nay tách làm 2 tỉnh là Hải Dương và Hưng Yên). Vào đời, tôi chọn cho mình con đường đi không còn bóng dáng văn chương. Đã mấy chục năm, tôi gần như không còn đọc các tác phẩm văn học. Cuối năm 2008, tình cờ khi lướt web, tôi đặt chân đến làng Blogtiengviệt. Nơi tôi ghé thăm đầu tiên là blog của Phạm Tâm An. Văn chương với tôi bây giờ, thực sự chỉ là những thoáng dạo chơi. Tôi viết cm tếu táo, với vài bài mang tính giao lưu. Việc đó mang lại cho tôi những người bạn mới, và cả những niềm vui nho nhỏ.

                    Tình cờ khi giao lưu blog, tôi gặp lại bạn tôi – nhà báo Nguyễn Chu Nhạc. Nhưng, người làm tôi hiện diện trước cộng đồng, lại là nhà báo Nguyễn Trọng Huân (người mà tôi cảm mến qua những bài viết của anh), khi anh đã hơn một lần công khai nhắn tìm tôi trên blog, như “tìm trẻ lạc”. Thế giới ảo xa mà gần. Đó là duyên cớ để tôi xuất hiện ở bài viết này của Nguyễn Chu Nhạc.

                    Những năm tuổi trẻ, có lẽ tôi và Chu Nhạc là khá long đong. Một chút sai lầm, đã làm việc học hành của tôi bị chia làm 2 khúc, trước khi có được mảnh bằng đại học. Chu Nhạc có thuận hơn, nhưng ra trường lại đi xa biệt, mãi vùng biên giới của tỉnh An giang. Lúc đó tôi đang trong quân ngũ. Muốn vào khu vực đóng quân phải đi qua ít nhất 2 trạm gác được kiểm soát khắt khe. Thật sự chúng tôi ít có dịp gặp nhau...nhưng, kỷ niệm về những năm tháng đã qua, vẫn còn nguyên vẹn.

                    Năm 2004, tôi ra Hà Nội, đến nhà Trịnh Bá Ninh (hiện là Phó tổng BT báo NNVN). Ninh nhấc máy điện thoại thông báo cho các bạn, rồi quay sang nói với tôi: “Bây giờ ko còn thiếu thốn gì, nhưng tóm được thằng bạn đến nhà nhậu cũng khó, vì ai cũng bận việc”. Ngoài trời rét đậm. Mưa nặng hạt. Nhìn các bạn khoác áo mưa, đi cả chục km đến, tôi xúc động chẳng biết nói gì.

                    Hôm sau, chúng tôi tụ họp tại nhà hàng Rambo, đường Nguyễn Chí Thanh Hà Nội. Đang vui, bỗng nhà thơ Trần Đăng Khoa trầm ngâm: “Kinh thật ! Ba mươi năm rồi đấy”! Vâng, chính xác lúc đó là 29 năm, kể từ khi chúng tôi rời ghế nhà trường phổ thông. Bây giờ (năm 2010) là 35 năm rồi ! 35 năm, mà như mới hôm qua !

                    Nhớ lúc Nguyễn Chu Nhạc xin được việc ở đài TNVN, Trịnh Bá Ninh hấp háy bảo tôi : “Thấy anh Nhạc về đài, các bà chưa chồng ngoài 40 mừng lắm ! Bà nào cũng nhủ thầm, khéo lần này đến lượt mình !??” Dù rằng lúc đó Nhạc mới chỉ 30 tuổi. Dân văn chương vốn hóm hỉnh. Có vô vàn câu chuyện chọc ghẹo nhau tương tự.

                    Lại nhớ, Trịnh Bá Ninh là người lấy vợ sớm hơn cả. Hai vợ chồng Ninh ở một phòng chỉ rộng 9m2, trên tầng 2, do báo NN cho mượn, hay cấp chẳng rõ. Khi tôi đến, Ninh ngồi giữa nhà, với tay lôi ra 1 bao lạc củ, miệng nói: “Quà “hối lộ” của nông trường , của hợp tác xã nông nghiệp đấy, ông ạ”! Chúng tôi ngồi bóc lạc để rang. Lại với tay, Ninh lôi từ gầm giường ra 1 cái bếp dầu, 1 can rượu trắng cùng mấy cái chén nhỏ, rồi nói: “Ở nhà chật, sướng thế đấy. Mình ngồi giữa nhà, mà “điều hành” được mọi việc” !?

                    Căn phòng nhỏ của vợ chồng nhà Báo Trịnh Bá Ninh, là kỷ niệm đáng nhớ một thời của không ít bạn bè, trong đó có Nguyễn Chu Nhạc. Nhạc và vài người bạn nữa, từng lưu trú tại căn phòng đó nhiều ngày, trước khi xin được việc làm. Tôi cứ thắc mắc, không biết tay Ninh “sáng tác” vào lúc “quái” nào, trong khi mấy thằng bạn chưa vợ “nằm phục” ngay cạnh giường ? Vậy mà “hắn” vẫn “sáng tác” được mới lạ !? Tác phẩm đầu tay là cậu con trai khôi ngô, tuấn tú, hiện đang làm luận án Tiến sĩ tại Mỹ. Trong hoàn cảnh khó khăn lúc ấy, tôi thật sự cảm phục tấm lòng của chị Mai (vợ anh Ninh), đối với mấy ông bạn “nửa văn thơ, nửa báo chí” của chồng.

                    Lại nhớ thời đi học “miếng cháy to hơn điểm 10”. Nhớ thời đạp xe đạp tìm đến thăm nhau, khi Nguyễn Chu Nhạc và Trịnh Bá Ninh còn học ở trường Đại học Nông Nghiệp I. Mỗi sáng dậy, chen nhau hứng nước đánh răng. Bao nhiêu con người xúm vào cái vòi nước chảy như thằn lắn đái. Câu “Nhất bát, nhì ca, thứ ba cà mèn” xuất phát từ đây.

                    Lại nhớ bài thơ đầu tay “Núi Đôi buổi sớm” của Nguyễn Chu Nhạc, đăng trên báo Văn nghệ, khi anh còn là sinh viên, được lấy cảm hứng từ chuyến đi cùng Ninh, đến vùng Núi Đôi thăm tôi…Lại nhớ, những lá thư viết bằng giấy học trò của bạn bè, với những bao thư tự chế…

                    Có vô vàn điều để nhớ…đã giúp chúng tôi luôn nhớ và biết sống một cách cố gắng. Tôi vui và tự hào về các bạn của mình. Thay cho lời cảm ơn, một lần nữa, tôi xin mượn lời của Nguyễn Chu Nhạc để kết lại cảm nhận này: “Các bạn của tôi ơi , thời gian không bao giờ trở lại . Chỉ có ký ức là ở lại và mãi tươi nguyên. Vậy thì, sự tiếc nuối hẳn không vô ích, khi mà, Gió đã mang đi ngày hôm qua ?!...”(Nguyễn Chu Nhạc)

                    ###
                    Bình luận từ: Chử Thu Hằng [Blogger] Email 31.05.10@10:35

                    @ Anh Chu Nhạc
                    @ Anh Việt An
                    Bài viết của hai anh đã làm sống lại trong tôi hồi ức của một thời. Hi vọng có lúc đưa ra chia sẻ.
                    Chợt nhớ câu "Cái gì mới cũng thích, nhưng tình bạn cũ thích hơn". Chúc tình bạn lâu năm của các anh bền mãi cùng năm tháng.

                    Bình luận từ: MÙA THU VÀNG [Blogger] l 31.05.10@15:11
                    Đọc bài viết của anh Nhạc + thêm những dòng chia sẻ của anh VA, em càng thêm cảm phục tấm lòng nhân hậu của người phụ nữ chủ nhân ngôi nhà 9m2 ở chung cư Thụy Khê. Cùng là phụ nữ nên em rất thấu hiểu, càng thấu hiểu lại càng thêm nể phục. Những người như vậy thật đáng trân trọng bởi vì đó thực sự là của hiếm. Các anh đã thật sự là những người giầu có và HP bởi vì đã có được những tình bạn tốt đẹp và trong sáng như vậy trong cuộc đời...

                    @@@
                    Bình luận từ: Lâm An [Blogger] Email 01.06.10@09:17

                    Là người sống hay hoài niệm về thời gian, quá khứ . Đọc Entry của tiên sinh, lại thấy trong người mình sao lại "nhớ' nhiều đến vậy. Có đôi khi ngồi tự vẫn lại mình về những sai lầm và mất mát đã qua lại nghĩ " giá như hồi đó là bây giờ ...chắc lẽ mình sẽ không hành động như vậy ". Đọc xong em cũng có ước muốn vậy đó " ước muốn để thời gian quay trở lại ..." .

                    @@@

                    Bình luận từ: buithibinh [Blogger] Email 02.06.10@08:09
                    @ Quan Văn !
                    Đọc xong bài này của Bạn ...mình khóc luôn !
                    Thời gian trôi đi và thời gian ko bao giờ trở lại ...
                    mà bao ký ức cứ dội về .
                    Việt An ơi
                    ...“ Với tôi, tôi vẫn muốn thời gian trở lại. Trở lại không phải cho tôi, mà cho cha mẹ tôi.Tôi ước gì cha mẹ tôi trở lại tuổi 60, để tôi có thể phá bỏ căn nhà cũ, xây căn nhà mới nhỏ xinh và đầy đủ tiện nghi dành cho cha mẹ”.
                    Riêng mình : 20 năm trước do không muốn Mẹ ở nhà một mình , do muốn Mẹ đi cùng con cái mấy chị em đã dại dột bán đi Ngôi nhà xưa ...
                    Hai mươi năm qua đi ...
                    và thời gian cũng nặng nề trôi theo ....
                    Mỗi lần về quê ko dám bước về thăm ngôi nhà xưa cũ . Nuớc mắt tràn mi với bao ký ức về Cha Mẹ ....
                    Hai mươi năm qua đi ...
                    May mắn : Cách đây 3 ngày mấy chị em đã chuộc lại được Ngôi nhà cũ ... thời gian dù ko trở lại nhưng hình bóng Mẹ cha vẫn còn nguyên đó với những kỷ niệm xưa ....

                    Cảm ơn Chu Nhạc - Việt An và Người bình thường đã chia sẻ để mình nhẹ lòng hơn với Thời gian !

                    @@@
                    Bình luận từ: tranhonggiang [Blogger] 29.05.10@19:04

                    Anh Chu Nhạc!
                    Em cho rằng tất cả mọi người đang sống trên thế gian này đều có chung một nỗi tiếc nuối, hoài niệm về quãng thời gian đã qua của mình. Tiếc nuối những kỷ niệm đẹp, những ước mơ dang dở, những cơ hội bị bỏ lỡ,... thì đã hẳn rồi; nhưng không chỉ thế, người ta còn nuối tiếc cả những ký ức đau buồn, những chia ly, mất mát... Cũng chả hiểu vì sao mà trời lại cứ bắt tội con người ta mãi như thế nữa!!!!


                    tamvanvov 02.12.2021 17:27:28 (permalink)


                    ĐỔT LÊN ĐỐNG RẤM,...
                    tản văn
                           
                           Ngày đầu năm mới, về quê dự đám cưới đứa cháu, rồi ghé về thắp hương ngôi thờ tự của gia đình. Trời nắng hanh vàng óng. Đường làng đang đổ bê tông. Rồi đây rộng rãi, sạch sẽ và dễ đi đấy, nhưng sao lại thèm và nhớ con đường làng lát gạch nghiêng cổ rợp bóng tre xưa đến thế... Ngày ấy, nhà nào cũng có sân vườn rộng lắm, lũy tre um tùm, sân vườn rợp cau, xoan và cây ăn quá như nhãn, mít, ổi, na, hống xiêm, bưởi... Giờ thì toàn nhà hình ống kiểu phố, bao nhiêu ao chuôm, vườn đều bị lấp hết chia thành thổ cư. Buồn vui chộn rộn, bởi làng quê bay mất hồn vía cảrồi,... Nao lóng, nhớ mấy câu thơ cũ:

                    "... Chiều đông bàng bạc ngõ thôn,
                    đốt lên đống rấm gọi hồn ngày xưa,
                    cha về lại bến đò đưa,
                    mẹ thời nhóm lửa gió lùa vách quê,..."
                    Bồi hồi nhớ chuyện xưa và tức cảnh thành thi:


                    Ước gì trở lại ngày xưa
                    Em ngồi hong tóc gió lùa giậu thưa
                    Thương em chín đợi mười chờ
                    Giờ thanh công cốc tôi hờ giận tôi

                    Tôi về nhìn bến sông trôi
                    Ngược miền ký ức rằng tôi vẫn buồn...
                    Thương người phận mỏng cánh chuồn
                    nghe đâu phiêu dạt ngọn nguồn ai hay,

                    Chiều đông nắng nhạt ngọn cây,
                    ngõ quê bóng dáng những ngày em qua,
                    mấy chục năm vẫn riêng ta,
                    thế nhưng... đã một gã già, nhớ em,...

                    tamvanvov 08.01.2022 15:23:59 (permalink)
                    THAY LỜI TIỄN BIỆT NHÀ THƠ TRÚC THÔNG
                    Chủ bút:
                    Nhà thơ Trúc Thông, tên thật là Đào Mạnh Thông, sinh năm 1940. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, từng công tác nhiều năm ở Ban Văn học nghệ thuật Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV). Ông qua đời ngày 26.12.2021 sau nhiều năm bị tai biến mạch máu não. Sinh thời, nhà thơ Trúc Thông đã có nhiều tìm tòi, thử nghiệm nhằm đổi mới thơ Việt,...
                     
                    LÁT SÔNG QUÊ & Lời bình

                    Bến từng quãng,
                    những đứa trẻ nghịch bơi tung toé nước.

                    Như mình vậy chiều hè bao năm trước.
                    tôi đang dọc sông quê tha thẩn.
                    Bóng từ ngõ sâu hiện dần ra mái tóc bạc.

                    Một bà cụ lưng còng gần rạp đất.
                    có phải bà từng hai tay hai lọ nước,
                    bến sông lên từng bậc...

                    Vẫn bà ư ngày xưa ấy về đây?
                    bên kia sông đã vợi nắng chiều.
                    In thẫm hai gác chuông nhà thờ làng Móng.
                    Nhịp chuông vọng qua sông theo bóng chiều đổ gấp.
                    cậu-bé-tuổi-thơ-xưa tim hơi loạn nhịp.

                    Mẹ ơi đi lâu thế, sắp tối rồi sao mẹ vẫn chưa về...
                    muốn sang đò ngang, ra giữa dòng,

                    ngắm và nghe những gì thật lắng.
                    của mẹ của cha của tuổi thơ xa lắc
                    sông Châu êm lặng thế thôi mà...

                    ( Trúc Thông )
                    ###
                    LỜI BÌNH CỦA NGUYỄN CHU NHẠC:
                    Đọc bài thơ Lát sông quê của Trúc Thông, tự nhiên tôi nhớ đến một câu triết lý cổ "Chẳng ai có thể tắm hai lần trên một dòng sông". Minh triết về dòng sông này khái quát qui luật vận động của vật chất được ẩn giấu bởi mối quan hệ vật thể (con người và dòng sông) trong không gian bốn chiều.
                    Tôi mường tượng, trong con người tác giả, luôn chập chờn hai cái bóng, một nhà thơ già lão luyện và một cậu bé thơ ngây ngơ ngác với đời... Nhà thơ già - cậu bé năm xưa từng vùng vẫy trên dòng sông và sợ sệt khi trời tối mà mẹ vẫn chưa về, nay lại có bao cậu bé cũng vậy. Bà già hiện ra từ ngõ sâu bây giờ đâu như là đã từng xuống sông lấy nước với đôi lọ trên tay chầm chậm lên từng bậc cầu sông mỗi ngày từ hơn nửa thế kỷ trước, ấy vậy mà, so với tiếng chuông nhà thờ bên kia sông vọng về, với nắng chiều vợi ngày ngày thì có thấm tháp là bao!... Con người sinh ra, lớn lên, già đi với bao vui buồn, sướng khổ, với bao khúc quanh, bước ngoặt trọng đại trong mỗi kiếp người, nhưng suy cho cùng thì cũng chỉ là dòng chuyển của vật chất theo quy luật qua những cung bậc giữa cõi vũ trụ mênh mang, vô thuỷ vô chung mà thôi!...
                    Đi tìm tuổi thơ trong dĩ vãng xa lắc xa lơ. Tác giả - nhà thơ của chúng ta muốn thế chăng? Dù có đò ngang ra giữa dòng, hay thậm chí có trần mình vẫy vùng trên sông như cậu bé thuở nào đi chăng nữa thì chẳng qua cũng chỉ là động thái cho nguôi nỗi nhớ, cho thoả lòng yêu quê hương, bản quán sau nhiều năm tha hương, lăn lộn với đời... Và dường như để ngộ ra một điều: "Vẫn sông Châu êm lặng thế thôi mà...". Dù dáng vẻ dòng sông nay vẫn thế, song nhà thơ hiểu rằng, mình chẳng thể về lại với dòng sông hệt xưa nữa rồi. Có chăng chỉ còn trong tâm tưởng...!?



                    Thay đổi trang: << < 789 > >> | Trang 7 của 10 trang, bài viết từ 91 đến 105 trên tổng số 138 bài trong đề mục
                    Chuyển nhanh đến:

                    Thống kê hiện tại

                    Hiện đang có 0 thành viên và 5 bạn đọc.
                    Kiểu:
                    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9