Chúa tể của núi Tuyết - Tiểu luận của Nguyễn Chu Nhạc
tamvanvov 25.05.2010 17:42:43 (permalink)
                                                       Chúa tể của núi tuyết
 
                                                                                        Tiểu luận 
                                  
 
          Người ấy là Yasunari Kawabata, nhà văn hiện đại của xứ sở Mặt trời và hoa anh đào, người đầu tiên của Nhật Bản được trao giải Nobel văn chương vào năm 1968. Nói đến ông, dân hâm mộ văn chương đều biết đấy là tác giả của bộ ba tiểu thuyết nổi tiếng làm nên tên tuổi ông trên văn đàn thế giới : Xứ Tuyết- Ngàn cánh hạc- Tiếng rền của núi. Cùng với đó, còn kể đến  Cố đô, Vũ nữ It-zu và Người đẹp say ngủ, và biết bao nhiêu truyện vừa, truyện ngắn xuất sắc nữa ...
          Nói đến văn học hiện đại Nhật Bản,Y. Kawabata là chúa tể. Sau ông, người ta nhắc tên Kenzaburo Ôe, người Nhật thứ hai giành Nobel văn chương, và mới đây là Haruki Murakami , người được tiên đoán sẽ giành Nobel văn chương trong tương lai, song họ khó có thể lật được ngôi chúa tể của Y. Kawabata.
          Riêng với tôi, chính Kawabata cùng với những tác phẩm của mình là diện mạo văn chương, và cao hơn là văn hóa Nhật Bản. Shõ-gun tướng quân của tác giả James Clavell, một tác phẩm văn học sử, ít nhiều đã đưa đến mọi người hình ảnh một nước Nhật phong kiến xưa cũ, ở đó bản sắc văn hóa của đất nước mặt trời mọc hiện lên khá phong phú. Tuy nhiên, phải chờ đến  Kawabata, tinh thần văn hóa Nhật mới được khắc họa đậm nét.
          Bấy lâu nay, nói đến Nhật Bản, người ta tóm gọn trong mấy cụm từ như sau : Hoa anh đào- Núi Phú Sĩ- Động đất.- Samurai ( Võ sĩ đạo)- Trà đạo- Kịch Noh- Thơ Haiku- Trang phục Kimônô- Vật Su-mô- Rượu Sa-kê- Geisha. Theo tôi, nối dài thêm một gạch nữa - Y. Kawabata.
          Tại sao lại thế ? Đơn giản, bởi Kawabata khiến cả thế giới biết đến văn chương- văn hóa Nhật Bản, không chỉ thông qua các tác phẩm văn chương , mà qua cả chính cuộc sống và cái chết của mình. Tự thân, ông chỉ là một gạch nối, song ông đã chứa đựng trong cuộc sống mình những tố chất của nền văn hóa Nhật và đồng hóa thành các tác phẩm, mà bạn đọc khắp thế giới đều có thể tìm thấy từ đấy nhứng gạch nối kia ( hoa anh đào, động đất, núi Phú sĩ, trà đạo, kịch Noh, Geisha...). Câu chuyện về ông, xin bắt đầu từ kết cục là cái chết theo tinh thần Samurai, chỉ không lâu sau khi ông giành Nobel văn chương, vào đầu năm 1972 ...
          Mùa thu năm 2005, tôi sang Tokyo. Chỉ nửa ngày, tôi đã biết thế nào là động đất, khi chiếc giường tôi nằm trong căn phòng tầng 7 ngay trung tâm thành phố, rung nhẹ liền mấy đợt, và khi tôi hiểu ra thì động đất đã chấm dứt. Đúng một ngày sau, truyền hình Nhật Bản liên tục đưa tin hình ảnh Thủ tướng Nhật ( khi đó là  ngài Koizomi ) đi viếng ngôi đền Yosukoni, cùng những phản ứng của những quốc gia láng giềng. Sở dĩ người ta phản đối là vì trong ngôi đền ấy, không chỉ thờ các vị anh hùng, liệt sĩ từ nhiều đời đã hy sinh, tận tụy vì sự tồn vong và phát triển của đất nước Mặt trời mọc, mà còn có cả mấy chục vị tướng cùng vị thủ tướng Nhật bị quy là tội phạm chiến tranh khi đã cùng quân đội của mình xâm chiếm và tàn sát nhân loại ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2. Tôi đã tự hỏi và đến nay chưa có lời giải đáp, rằng liệu ở đó, có tên của Y.Kawabata không ? Hoặc giả ở nước Nhật, có nơi nào thờ các bậc danh nhân tư tưởng văn hóa để lưu tên tuổi của những vị như ông không, kiểu như điện Panthéon ở Paris ( Pháp ) quàn các danh hào ?
          Trở lại với mùa thu Tokyo năm 2005. Tôi đã được chiêm ngưỡng những cây phong dần ngả vàng, những hàng tơ liễu buông thướt tha dọc hè phố, và tôi nhớ đến Kawabata. Tôi đã đến thăm đền thờ Minh Trị Thiên hoàng xem đám rước tế, chơi ngắm triển lãm cúc hoa-một biểu hiện nhỏ của bon-sai Nhật, rồi lần giở từng chiếc thẻ cầu may của đám học trò trước mùa thi treo đầy dẫy ở đó, và sờ tay lên các vết xước lõm do những đồng chinh của người dân ném cầu phúc lộc thọ năm mới trên những cánh cửa gỗ cửa đền, tôi nhớ đến Kawabata. Tôi đã thẩn thơ dạo gót trong công viên hành chính Hibiya, lặng quan sát những họa sĩ cắm cúi trên giá vẽ và những người già ngả lưng mơ ngủ trên ghế đá, rồi quá bộ đi dạo ngang qua Lầu công chúa, qua rừng thông đến tận cổng Hoàng cung để chiêm ngưỡng vẻ cổ kính thâm nghiêm của cổng thành với cặp lính gác đứng im như tượng, tôi nhớ đến Kawabata. Tôi đã bỏ thời gian chui rúc hòa vào dòng người nhung nhúc tuôn chảy theo 13 tuyến metro chằng chịt ngang dọc trong lòng đất sâu, rồi cũng bỏ thời gian theo dõi bầy chim quạ chao liệng lúc chí chéo lúc não nề trên những ngọn cây cao, tôi nhớ đến Kawabata. Tôi đã dán mắt vào màn hình ti vi xem trọn màn kịch Noh dài lê thê mấy giờ đồng hồ buổi đêm, cũng như lang thang cùng đồng nghiệp ken vai chen chúc  nơi dốc phố có cửa hàng đồ lưu niệm Một trăm yên, nơi cách đấy vài trăm thước là quảng trường tụ hội của các cặp đồng tính trong trang phục kỳ quái đua nhau phô diễn, tôi nhớ đến Kawabata.Tôi đã được lên sân thượng của tòa nhà thị chính thành phố cao 45 tầng, để từ đó chụp ảnh và thoải mái phóng tầm mắt bao quát bốn phương tám hướng cái thủ đô hiện đại cỡ bậc nhất thế giới với chiều dài trải gần trăm cây số và chứa mười mấy triệu dân này, tôi nhớ đến  Kawabata... Cho đến khi chiếc Boeing của Vietnam Airlines từ sân bay quốc tế Narita cất mình bay bổng lên bầu trời rồi liệng nửa vòng trên vịnh Tokyo, nghiêng cánh chào rồi bay theo hướng tây nam, đưa du khách trở về với món mì lạnh kiểu Nhật trong bữa ăn trên máy bay, tôi nhớ về Kawabata. Tại sao lại thế, khi ông nhà văn này cứ như hình với bóng bám theo tôi từng bước chân, ám ảnh tôi trong mọi suy nghĩ ? Đơn giản là với tôi, Kawabata chính là vẻ đẹp Nhật, là tinh thần Nhật, là văn hóa Nhật, là sự hiển hiện của cả nước Nhật. Vâng, chỉ là một thôi mà cũng là tất cả !
          Tôi nhớ, trong buổi làm việc báo cáo kết quả chuyến đi và cũng là buổi làm việc chia tay với Ban lãnh đạo của Trung tâm y tế quốc tế Nhật Bản, trong ý kiến của mình, tôi dành phần nhiều để nói về đất nước và con người Nhật Bản thông qua những biểu hiện về văn hóa. Tôi nhắc đến tác phẩm Vô ảnh đăng của nhà văn Wantanabe viết về giới y học Nhật Bản, chỉ là mượn cớ để bắc cầu sang  Kawabata. Tôi đã thao thao không rõ bao lâu về văn hóa Nhật được thể hiện trong các tác phẩm nổi tiếng của nhà văn này làm cô phiên dịch tài giỏi cũng hết sức khó khăn trong việc tìm từ chuyển ngữ sang tiếng Anh, đến mức làm các vị tiến sĩ y khoa bạn phải ngạc nhiên không hiểu sao cái ông nhà báo Việt này lại biết lắm thứ về văn hóa Nhật đến vậy. Có lẽ, khi ấy, sự dồn tụ về Kawabata chứa chất trong tôi bao lâu không được giải tỏa, nên đến khi gặp dịp tôi đã tuôn ra trong sự kích động khó kìm nén, khiến mình có gì đó bất nhã bởi đáng lý phải nói về chuyện y học bệnh tật thì lại đi khen một ông nhà văn. Tôi còn nhớ, trong những phút giây như nhập đồng đó, tôi vẫn còn đủ tỉnh táo, lo phía bạn khó chịu vì sự lac đề của mình, nên đã viện diễn rằng, chính người cha thân sinh của Kawabata cũng là một bác sĩ. Sau này tôi rẩm riu, chắc là các vị trong giới y học Nhật Bản cũng không nỡ chê trách khi phải nghe một ông khách nói như phát cuồng về tinh thần, về vẻ đẹp, về văn hóa nước họ, cùng những lới khen ngợi dành cho một nhà văn của họ, người đầu tiên đã mang về cho đất nước họ niềm vinh hạnh, Nobel văn chương.
          Chắc chắn là các vị tiến sĩ y khoa Nhật hôm ấy không tài nào biết được tôi đã từng đọc ngấu nghiến, rồi nghiễn ngẫm bộ ba kiệt tác của Kawabata là Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Tiếng rền của núi, cùng truyện Vũ nữ It-zu, Người đẹp say ngủ , đó là những tác phẩm của ông sớm nhất được dịch ra tiếng Việt, và dạo ấy do đời sống xã hội khó khăn nên hầu hết ấn phẩm in bằng loại giấy xấu màu xám đen, xù xì và nét chữ không mấy rõ. Họ cũng không thể biết được là, đúng vào lúc tôi có dịp dạo chơi trên đất nước quê hương của Kawabata để nhìn ngắm mà chiêm nghiệm về những gì nhà văn này đã viết từ nửa đầu thế kỷ trước, và thao thao nói về Kawabata, thì ở Việt Nam, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây đang chuẩn bị cho ra đời Tuyển tập tác phẩm Y. Kawabata, dày hơn nghìn trang in trên giấy loại tốt trong kế hoạch Tủ sách Nobel văn học.
          Sau nữa, khi có điều kiện đọc thêm nhiều tác phẩm khác của Kawabata, nhất là Diễn từ Nobel của ông, kể cả bài giới thiệu giải Nobel văn chương năm 1968 của Tiến sĩ Anders-Sterling thuộc Viện hàn lâm Thụy Điển, tôi thấy những cảm nhận của mình về con người và giá trị văn chương của ông không mấy khác xa. Kawabata được trao Nobel văn chương bởi những lý do, như : " Người ta đặc biệt ca ngợi Kawabata như một người thấu hiểu một cách tinh tế tâm lý phụ nữ ." ; " Tác phẩm của Kawabata làm ta nhớ tới hội họa Nhật Bản; ông là kẻ tôn thờ cái đẹp mong manh và ngôn ngữ hình ảnh u buồn của hiện hữu trong cuộc sống của thiên nhiên và thân phận con người " , và " Kawabata , với tư cách nhà văn, đã phú cho một nhận thức văn hóa đầy tính đạo đức-thẩm mỹ một phẩm chất nghệ thuật độc sáng, vì vậy, bằng cách riêng của mình đóng góp vào việc bắc một nhịp cầu tinh thần giữa phương Đông với phương Tây ".
          Ngay chính Kawabata, Diễn từ Nobel của mình đọc tại buổi lễ trao giải cuối năm 1968, ông đã lấy tên " Sinh ra từ vẻ đẹp Nhật Bản ", như thế đủ rõ ông tự ý thức về giá trị văn chương của mình thế nào! Tôi dặc biệt thích, ông đã mở đầu diễn từ đó bằng việc viện dẫn bài thơ thiền của vị thiền sư người Nhật Bản là Dogen ở thế kỷ 13, bài thơ có tên là Bản lai diện mục : " Hoa thắm mùa xuân/ Cu gù tiết hạ/ Trăng thu óng ả/ Tuyết đông/ Giá lạnh, tinh khôi ".
          Tôi không dám sa đà vào diễn từ của Kawabata, đơn giản bởi tôi sợ mình sẽ không còn đủ sự khôn ngoan tỉnh táo để thoát khỏi mê cung cái đẹp mà ông giăng mắc. Còn bởi từ lâu nay, sau khi đọc những kiệt tác văn chương của ông, tôi bị đắm chìm vào đấy và thường hay mộng mị giữa ban ngày. Những người đàn bà đẹp với đủ thân phận, những xúc cảm tình dục mãnh liệt mà mong manh dễ vỡ, những phong cảnh thiên nhiên đẹp một cách u buồn , những sinh hoạt tôn giáo huyền bí, những phong cách quý tộc vừa trang nhã vừa suy đồi, những phong tục dân gian khác lạ, những bóng hình của nhân vật-tác giả lởn vởn đâu đây... Tất, tất cả vây hãm, luồn lách trong ta, ám ảnh ta !...
          Trong chục ngày ở Nhật Bản, tôi không có thời gian và điều kiện đi đâu xa ngoài thủ đô Tokyo và vùng phụ cận, song do đọc các tác phẩm của Kawabata, nên tôi thấy như mình đã được đi đây đó khắp nước Nhật rồi. Kể từ ngày Kawabata về cõi xưa, nước Nhật đã trải qua hơn ba chục năm, giàu có-đông đúc-hiện đại hơn lên nhiều lắm. Khi thong thả một mình dưới bóng liễu lúc chiều tối, hay khi ngửa mặt ngắm tán phong vàng ở bến xe buýt lúc đợi xe, tôi tự hỏi không biết Kawabata đã từng đi đứng ở chỗ này chưa? Rồi lúc hòa mình vào dòng người trên phố, nơi ga metro, chốn siêu thị đông đúc, tôi thường nhìn thẳng vào gương mặt người đối diện, bất kể đó là đàn ông hay đàn bà, già hay trẻ để xem có chút gì của Kawabata ẩn giấu ? Bởi người ta bảo ông là gương mặt của vẻ đẹp, tinh thần và trí tuệ Nhật Bản. Lớp trẻ Nhật ngày nay ham học, ham làm ăn lập nghiệp và cũng chơi tới bến. Tôi tin rất nhiều trong số họ không biết Kawabata là ai. Cũng có rất nhiều người trong số họ biết đến Kawabata và từng đọc tác phẩm của ông, song với họ ông không là tất cả. Không nói đến nhiều giá trị Nhật Bản khác trên trường quốc tế, ngay trong lĩnh vực văn chương thôi, thì Kawabata đã quá xa xôi, gần hơn là Ôê, mà Ôê thì cũng xa rồi, bởi mốt bây giờ là đọc Murakami, là Banana Yoshimoto, là những gỉ gì gì sau nữa...
          Gần đây, tôi có dịp tiếp xúc, trò  chuyện với một bạn gái trẻ Nhật Bản, cô Sachiko Asa, đạo diễn chương trình phát thanh Tiếng Việt thuộc Ban Phát thanh & truyền hình Đối ngoại Đài NHK Nhật Bản.Cô có đợt tìm hiểu và học việc tại cơ quan tôi, Đài Tiếng nói Việt Nam. Cô cắt nghĩa cho tôi hiểu cái tên Sachiko, âm Hán Việt là Tảo Tri Tử, tức là đứa trẻ thông minh sớm. Là một nữ nhà báo, tuổi chưa đến 30, Sachiko khá thông minh và hiểu biết. Vì không vướng rào cản ngôn ngữ, tôi giúp cô hiểu biết thêm nhiều về văn hóa phong tục Việt, và ngược lại, cô cũng giúp tôi hiểu thêm văn hóa Nhật. Tôi hỏi cô về Kawabata, cô sáng mắt à lên vui thích. Tuy nhiên, cô cũng không mấy hiểu về Kawabata, ngoài việc biết đó là một nhà văn nổi tiếng đã đem về Nobel văn chương cho tổ quốc song đã mất từ lâu rồi. Tôi nghe mà chạnh buồn. Ôi tinh thần và vẻ đẹp Nhật đâu rồi, khi con người hiện tại đã dần phai về Kawabata ?
          Tôi lại nhớ về hình ảnh của cặp vợ chồng già ngồi tựa lưng vào nhau mặt ngoảnh đi hai phía trước sân vườn ngôi nhà bên đường ngày ngày tôi ra ga Wakamatsu, những người già ngả lưng trên ghế đá công viên Hibiya và người già dạo chơi rồi ngủ lăn lóc dưới thảm cỏ vườn thông bên Lầu công chúa, hẳn trong ký ức họ có Kawabata ? Thế còn cánh nam thanh nữ tú kia, những người hằng ngay tranh thủ lúc ngồi trên metro vun vút trong lòng đất sâu Tokyo hoặc nhoay nhoáy chơi điện tử hoặc cắm phôn nghe nhạc từ điện thoại di động, hoặc ngủ gật vì quá mệt mỏi, họ có gì về Kawabata không ?
          Người ta bảo Kawabata tự sát vì bế tắc. Vậy xã hội Nhật Bản đầu những năm bảy mươi của thế kỷ trước có biến động gì lớn khiến ông bế tắc? Hay tự nội tâm ông ? Chỉ 3 năm sau giật Nobel văn chương, một đỉnh cao chói lọi mà hàng ngàn hàng vạn nhà thơ nhà văn trên khắp trái đất này nằm mơ cùng không thấy, thì điều gì khiến ông chọn kết cục như vậy ?
          Chẳng vì lẽ gì cả. Thực ra, câu kết của Diễn từ Nobel năm 1968, Kawabata đã bộc lộ : " Những câu thơ Bản lai diện mục ca ngợi vẻ đẹp bốn mùa của Dogen chính là Thiền ".
          Thế là đã rõ. Tự chấm dứt sự tồn tại về thể xác, với Y. Kawabata, chỉ là một cách Thiền !... ./.
         
<bài viết được chỉnh sửa lúc 05.10.2010 18:49:26 bởi tamvanvov >
#1
    clietc 31.05.2010 08:48:32 (permalink)
    Hi!
     
            Những bài viết tiểu luận của Nguyễn Chu Nhạc cực kỳ sắc, chắc đó là một người rất am tường văn học hoặc là một người đứng dạy trên bục giảng đường. Có lẻ mình chỉ gửi lên đây vài lời cảm phục, chứ không dám bình luận gì thêm. Mong sao, biết thêm về Nguyễn Chu Nhạc nhiều hơn.
          Mấy ngày nay đã đọc qua, nhưng tôi cảm nhận thôi chưa đủ mà chờ mong VNTQ đưa vào thư viện. Vấn đề là tôi cứ khen hoài thì như giữa hai người có "bà con" quá, cũng có thể vì những bài viết của Nguyễn Chu Nhạc đã đánh đúng vào sự cần thiết mà tôi cần có. Một nhà văn vĩ đại của châu Á và nhất là Đông Á, gần Việt Nam mấy giờ bay. Thế mà giờ đây tôi mới biết rằng, một người Nhật- người ấy tên là Yasunari Kawabata lãnh giải Nobel.
           Cám ơn bài viết cho tôi thấy thêm một cái tính khá phong lưu của tác giả và sự thanh thản khi đặt bút kể lại cảm xúc, sự cảm nhận hết mình về một con người, với đầy đủ ý tứ của văn chương, của một nhà phê bình văn học.
                                                                 NCL.
    #2
      tamvanvov 31.05.2010 14:06:26 (permalink)
      Gửi NCL
       
      Rất mong được làm quen với anh. Cảm ơn anh đã đọc và chia sẻ cảm xúc. Ngay trên VN thu quan này, anh có thể vào mục Sách truyện, vào tiếp phần N của tên tác giả, anh sẽ thấy tên Nguyễn Chu Nhạc và nếu có thời gian, anh đọc thử một số truyện ngắn của tôi ở đó.
      Chúc anh vui.
      #3
        tamvanvov 28.06.2010 09:21:45 (permalink)
        Sinh ra từ vẻ đẹp Nhật Bản.
                                                             
                                                Tạp bút của Nguyễn Chu Nhạc
                
                  Đấy là đề từ Diễn văn nhận giải Nobel văn học năm 1968 của nhà văn nổi tiếng Nhật Bản- Y. Kawabata.
                  Sinh ra từ vẻ đẹp Nhật Bản, tôi muốn kết phần Du ký đất nước Mặt trời mọc-xứ sở Hoa anh đào, bằng đề từ của bậc vĩ nhân. Và bằng cách kể lại vài ba câu chuyện đơn lẻ :
                  1. Tôi có người chị ruột là tiến sĩ nông nghiệp, và người anh rể, cũng tiến sĩ nông nghiệp, đôi vợ chồng tiến sĩ này hiện cùng công tác tại Bộ NN&PTNT. Họ giỏi tiếng Anh, quan hệ quốc tế rất rộng, đi nước ngoài thường xuyên như phụ nữ đi chợ. Lẽ dĩ nhiên, khách Tây Tàu đến ăn cơm với gia đình họ cũng khá thường xuyên. Trong số khách ngoại quốc ấy, tôi có chú ý đến mấy vị khách người Nhật Bản, đúng ra là ba lão nông Nhật Bản. Vậy thì, lão nông của một đất nước phát triển cỡ hàng đầu thế giới khác chi với lão nông dân Việt Nam ( thành thật mà tự nhận, nền nông nghiệp còn lạc hậu ) ?
                  Trước tiên, về xuất xứ của ba lão nông Nhật Bản này. Nguyên người anh rể tôi, cách đấy dăm năm, có một khóa học và thực tập quốc tế về quy trình công nghệ nông nghiệp sạch kéo dài tại Hokaido ( một đảo lớn ở miền bắc quanh năm giá lạnh Nhật Bản ). Anh đã từng đến ở nhiều ngày để tham khảo công nghệ nông nghiệp sạch tại trang trại của ba lão nông này. Mỗi lão nông là chủ của một trang trại cỡ hàng trăm héc-ta đất đai, canh tác bằng máy móc hiện đại, sử dụng máy bay nhỏ để phun thuốc. Rồi thành quen thân. Chẳng hiểu, qua anh, họ tìm hiểu được gì về Việt Nam, mà sau đó, hầu như năm nào họ cũng rủ nhau đi du lịch Việt Nam. Lạ một điều, năm nào họ cũng tới Việt Nam vào đúng dịp Tết Nguyên đán. Suốt mấy ngày tết ở Việt Nam, tuy nghỉ ở khách sạn, song họ đăng ký ăn ngày hai bữa sáng, tối ở nhà anh chị tôi. Món ăn, không sơn hào hải vị, chỉ yêu cầu thuần món ăn ngày tết của Việt Nam, như bánh chưng, giò các loại, nem, măng, miến, rồi ra là bún ốc, bún dọc mùng v.v… Lịch trình của họ, ngoài hai bữa sáng-tối ở nhà anh chị tôi , họ gọi ta-xi đi chơi bời thăm thú đâu đó cả ngày, trưa gặp đâu ăn đó, Hà Nội thì phố cổ, Văn Miếu, đền Ngọc Sơn, chùa Trấn Quốc, Trấn Vũ; xa hơn là Hà Tây ( chùa Tây Phương, chùa Mía, đền Và, làng cổ Đường Lâm, chùa Hương, chùa Thày ); hoặc Bắc Ninh ( chùa Dâu, chùa Bút Tháp, đền Lý Bát Đế, đền Bà Chúa Kho ); Nam Định ( đền Trần, chùa Cổ Lễ, chợ Viềng)…Hỏi kỹ, họ bảo, nước Nhật giờ ăn tết Tây ( Dương Lịch ), bỏ tết truyền thống ( tương đương tết Âm lịch như Trung Quốc, Việt Nam ), nên lớp người cũ như họ thấy thiếu, thấy thèm, nên sang Việt Nam để tìm lại không khí và cảm giác xưa cũ; thêm nữa, tuy giàu có đấy, song họ cảm thấy cô đơn ngay chính trên quê hương và mảnh đất của mình, bởi con cái họ đã phương trưởng và đều rời quê đi lập nghiệp, định cư ở các trung tâm thành phố lớn như Tokyo, Nagoya, Kyodo…Tiền nhiều để làm gì, khi bị con cái bỏ mặc ? Thế là họ tụ tập nhau, thành từng nhóm, năm đi du lịch một vài lần đâu đó khắp thế giới tùy thích, để được tiêu những đồng tiền do mình kiếm ra, và quan trọng, là để tìm lại cảm giác được sống !...
                  2. Thời gian ở Tokyo, đoàn chúng tôi ở trong một tòa nhà khách cao 9 tầng của Trung tâm Y tế quốc tế Nhật Bản. Hằng ngày, đi làm hay đi chơi, chúng tôi đều phải đi bộ chừng hơn nửa cây số để ra ga metro Kawamatsu. Đoạn phố này hơi dốc. Và chỉ một ngày sau, chúng tôi đã tìm được đường đi tắt, đi loanh quanh qua một ngõ nhở giữa khu dân cư. Lặng quan sát hai bên xem dân tình cái đất nước giàu có và hiện đại cỡ bậc nhất thế giới này, lại cũng dân mũi tẹt da vàng như dân mình, xem họ sinh sống ra sao? Song chỉ thấy ắng lặng, duy chỉ những sợi dây căng ngang trên hiên mỗi nhà thì cũng đày rẫy các cặp treo phơi quần áo. Để ý mãi mới thấy một nhà, dưới sân có đôi cụ già, một nam một nữ, cỡ tuổi 80-90, ngồi chung trên một băng ghế tựa dài, mỗi người ở chót một đầu, mặt ngoảnh ra hai phía ngược nhau, và hình như họ đều lẩm bẩm gì đấy. Tôi đồ là cặp vợ chồng già, và không biết họ đang nói chuyện với nhau hay lẩm bẩm tự nói chuyện với chính mình đây?  Suốt cả tuần sau đó, sáng chiều ngang qua, đều thấy vậy. Chắc hẳn cặp vợ chồng già này lẩm cẩm, lẫn cẫn cả rồi. Họ hẳn cũng bị con cái bỏ mặc, hằng ngày, đợi trời hửng nắng, ra sân ngồi hong nắng, trò chuyện với nhau và tự trò chuyện với quá khứ của mình ? Tự nhiên rùng mình, rồi trạnh lòng nghĩ, mai sau, nhờ trời cho thọ đến cái tuổi ấy, chẳng hiểu rồi mình có như thế không ? E rằng, còn tệ hơn nữa kia ?...
                  3. Khi đi thăm thú Tokyo, tôi đã ngang qua khu Lầu công chúa, đến tận cổng Hoàng cung Nhật Bản, ngắm nhìn, chụp ảnh. Lúc ấy, chộn rộn nhiều cảm xúc chen lấn nhau, sau về mới ngẫm nghĩ, xem cái mô hình Nhà nước Quân chủ lập hiến ( Chính phủ Hoàng gia ) Nhật Bản này nó ra sao ? Trên thế giới hiện nay, ngoài Nhật ra, còn có một số quốc gia theo mô hình này như : Anh, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Hà Lan, Đan Mạch, Thái Lan, Campuchia…Đáng lý ra, còn có cả Trung Quốc nữa, nếu như Triều đình nhà Thanh ( cụ thể là Từ Hy Thái Hậu) không bị Viên Thế Khải lừa một cú ngoạn mục. Lịch sử cận đại Trung Hoa, theo tôit biết, Viên Thế Khải đã cùng một lúc lừa dối cả Hoàng đế Quang Tự và Từ Hy Thái hậu. Họ Viên kia vờ liên kết với vua Quang Tự lật đổ Từ Hy và canh tân đất nước, song đến lúc khởi sự, họ Viên lại mật báo cho Từ Hy để bà này ra tay trước, bắt giam lỏng Quang Tự tại Di Hòa Viên cho đến khi vị hoàng đế này chết. Kẻ hưởng lợi không ai hết, ngoài họ Viên. Sau này, nhà Thanh đổ, Viên Thế Khải  đục nước béo cò, cướp quyền của những người dân chủ, lên làm tổng thống Trung Hoa dân quốc, và sau đó xưng Vua, cho đến khi bị giết . Thực ra, trước đó, khi Thanh triều còn, với sự dàn xếp của Viên Thế Khải ( có sự hậu thuẫn của Anh quốc và liên minh châu Âu ), Từ Hy Thái hậu đã thỏa hiệp với Tôn Dật Tiên và chính sách "Tam dân " của ông, đồng ý về quan điểm, nhằm tiến tới hình thành một nhà nước Quân chủ lập hiến ( hạt nhân là chính phủ hoàng gia nhà Thanh ).
                  Về sự ưu việt hay không của mô hình quản lý này, tôi không dám lạm bàn, bởi mình hiểu chưa thấu đáo và kiến thức còn nông cạn.
                  Thực ra, lịch sử Việt nam ta đã cho thấy, ta từng mô hình nhà nước kiểu tương tự từ rất sớm. Đó là bắt đầu từ thời kỹ Lê Trung Hưng, với mô hình song trị, Vua Lê-Chúa Trịnh. Trong mô hình nhà nước này, Vua Lê là chủ nhân đất nước, ra chiếu chỉ, ban hành phép nước, nhưng điều hành là Phủ Chúa ( cụ thể là Chúa Trịnh ). Với các vị chúa anh minh như Trịnh Tùng, Trịnh Cương, Trịnh Tráng, đất nước ta dưới triều Hậu Lê đã có một thời gian dài thịnh trị. Về việc này, tôi xin phép sẽ bàn riêng trong một bài viết khác. Nêu ra đây, để thấy rằng, trong lịch sử nước nhà, cha ông ta cũng đã sớm sáng tạo ra một mô hình quản lý đất nước khá tiên tiến.
                  4. Với ba câu chuyện vừa nêu, tôi không có ý định kiến giải gì. Chỉ càm nhận đôi điều nho nhỏ. Ấy là : Vẻ đẹp nào cũng có khiếm khuyết của riêng nó ( tỷ như : ngọc dù quý đến đâu cũng có vết, tấm huy chương danh giá nào cũng có mặt trái của nó ). Thứ nữa, hành trình đến Chân-Thiện-Mỹ thật gian khó làm sao !
                   Phải vậy không, thưa các bạn yêu quý của tôi ?
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 28.06.2010 09:24:23 bởi tamvanvov >
        #4
          Ct.Ly 20.07.2010 02:09:29 (permalink)
          #5
            tamvanvov 05.10.2010 18:46:08 (permalink)
                                                 Tạp văn Mạc Ngôn
             
                                                                  Tiểu luận của Nguyễn Chu Nhạc
             
                      Bạn đọc từng biết đến tiếng tăm của nhà văn Trung Quốc - Mạc Ngôn qua những tiểu thuyết khá nổi tiếng của ông như : Cao lương đỏ, Báu vật của đời, Đàn hương hình, Cây tỏi nổi giận, Rừng xanh lá đỏ,  và gần đây là Tửu quốc, Tổ tiên có màng chân, Sống đọa thác đầy... Song không chỉ có vậy, tạp văn cũng là một thế mạnh, một đặc sắc của Mạc Ngôn.
                      Bản thân tạp văn, là một thể loại nửa triết nửa văn, là một cách tu dưỡng tinh thần của các nhà hiền triết, nhà tư tưởng, nhà văn Trung Hoa từ lâu đời. Tự thân nó đã là một đặc sắc Trung Hoa. Viết tạp văn đến độ đặc sắc, khó gấp bội !
                      Viết tạp văn, với Mạc Ngôn cũng là một thách thức, bởi trước đó, nền văn học Trung Quốc đã có rất nhiều những nhà văn nổi tiếng đã từng viết tạp văn, cổ thì : Kim Thánh Thán, Mao Tôn Cương, Viên Mai…; kim thì những Lỗ Tấn, Lão Xá, Ba Kim; còn đương thời thì có Vương Sóc, Giả Bình Ao, Vương Mông v.v… Chắc chắn , sẽ có nhiều nhà văn đương đại khác cũng đều thử sức mình ở thể loại tạp văn, ngỡ dễ dàng nhưng thực ra lại vô cùng khó này…
                      Không rõ là khi viết tạp văn, Mạc Ngôn có chịu ảnh hưởng gì các bậc tiền bối và cả bạn văn cùng thời với mình không, song chắc chắn một điều, Mạc Ngôn đã sáng tạo ra một sắc thái tạp văn rất Mạc Ngôn. Điều ấy có nghĩa là nó không bị nhòa lẫn vào ai và về cách nghĩ cùng bút pháp khá nhất quán với một Mạc Ngôn tiểu thuyết.
                      Trở lại với tuyển tập tạp văn Mạc Ngôn, với 25 thiên tạp văn, tùy bút, ta có thể thấy rõ có mấy mảng đề tài, chủ đề lớn, đó là về quê hương, về sở thích, về mộng văn chương  cùng bóng dáng các văn nghệ sĩ và những tản mạn khác.
            Theo tôi, sâu đậm nhất và hay nhất là phần về quê hương. Trong mảng đề tài này, thì ngoài những kỷ niệm thời ấu thơ cùng con người và cảnh sắc vùng quê ( như Bức tường biết hát, Tắm nước nóng, Chó,chim và ngựa , Chuyện cũ quê hương), ấn tượng hơn cả lại nằm trong những trang viết về cái đói và miếng ăn, chẳng hạn như : Chuyện miếng ăn, Chuyện mộc tồn, Mười hai thiên tạp cảm…Ở đây, Mạc Ngôn đưa người đọc trở về dầu những năm 60 của thế kỷ 20, khi ấy kinh tế Trung Quốc còn rất khó khăn, và nó lại càng khốn khó hơn với vùng quê của tác giả-vùng Cao Mật, Sơn Đông thuộc đông bắc Trung Quốc sau mấy năm thiên tai, mất mùa liền. Sơn Đông vốn là một vùng địa linh nhân kiệt nổi tiếng, xưa kia vào thời Đông Chu liệt quốc thuộc Lỗ Tề, quê hương của nhà tư tưởng vĩ đại vào hàng bậc nhất  Trung Quốc và thế giới, đó là Khổng Tử. Vùng đất địa linh nhân kiệt này kề biển lớn, có núi Thái Sơn, một ngọn núi nổi tiếng còn hơn cả Khổng Tử. Một vùng đất hội tụ sự kiệt hiệt của cả Thiên-Địa-Nhân, ấy vậy mà lại đói. Đói khủng khiếp. Cao Mật quê của Mạc Ngôn đói lay đói lắt, đói rạc đói dài. Với cái đói, người bình thường đã khổ, với kẻ phàm ăn như Mạc Ngôn thì không biết khổ đến mức nào ? Dưới cái nhìn của những người dân quê đói kém, qua con mắt thèm thuồng của đứa trẻ phàm ăn là Mạc Ngôn, đến thứ rong rêu cỏ rả mà bình thường thì ngựa cũng chê, bỗng trở thành thứ rau ngon cứu đói. Đọc những dòng Mạc Ngôn viết tuyệt hay về cái đói, và miếng ăn cho vào miệng, tôi chợt ngộ ra ý nghĩa sâu xa của bức đại tự ở nhà thờ tổ một dòng họ nọ : " Thủy hữu dĩ ". Vậy nghĩa lý ra làm sao ? Thì ra, nguồn cội của bức đại tự ấy được lấy từ Kinh Thi. Trong Kinh Thi, quyển Hạ, phần Đại Nhã, bài số 250 là Văn vương hữu thanh có 6 chương đều ca ngợi công đức của Văn Vương, Vũ Vương nhà Chu. Chương thứ 6 theo thể hứng, nguyên văn là: "Phong thủy hữu dĩ/ Vũ vương khởi bất sĩ?/ Di quyết tôn mưu/ Dĩ yến dực tử/ Vũ vương chưng tai !" , dịch nghĩa là:  Sông Phong có cỏ dĩ. Vũ vương há lại không có công việc để lo lắng hay sao? Truyền một mưu kế lâu dài cho cháu. Để con được yên ổn hiếu kính. Vũ vương đáng là bậc làm vua thay.  Ở đây, chữ dĩ ( có bộ thảo đầu ) được chú giải là một loại cỏ rong, cỏ thơm, bình thường dùng làm thức ăn cho gia súc, song gặp khi giáp hạt, đói kém  thì con người có thể ăn thay rau cũng đỡ xót dạ. Nó quan trọng ở việc có thể làm thức ăn cứu người. Ấy là sự lo lắng cái đói mà phòng cơ tích cốc, tích cái ăn được, nghĩa sâu xa được hiểu như lời căn dặn con người ta luôn phải tính kế sinh nhai lâu dài, lo cho có nghề có nghiệp, lo mà dạy con  cháu biết kiệm ước, chuyên cần ... Rất có thể , từ xa xưa, chính những người nông dân vùng Cao Mật, Sơn Đông ấy đã sáng tác ra những bài ca dao như thế ? Ấy là tôi cứ liên tưởng và suy diễn thế thôi. Ở xứ nào cũng vậy, cái đói làm cho người ta khốn khổ, song cũng làm người ta sinh động hẳn lên. Ở xứ ta, Nam Cao và Ngô Tất Tố cũng đã viết rất tuyệt về cái đói đấy sao ! Ôi cái sự lo xa của người xưa ! Lo đi lo lại, lo lớn lo bé, loanh quanh rồi cũng quay về miếng ăn cả. Thế mới thấu hiểu đạo lý " Dân dĩ thực vi thiên ". Phần lớn sự thất đức, tội ác ở đời đều từ miếng ăn mà ra cả ?!
             Bằng lối viết tự sự, dí dỏm xen lẫn trữ tình, bi hài chen lấn nhau, Mạc Ngôn đã đưa người đọc đi từ những chuyện vụn vặt, những điều bình thường ở mức tận cùng của nó, với đầy bất ngờ, để rồi bật lên vẻ đẹp, cái cao thượng và sự trong sáng của con người.  
            Phần về sở thích với các tạp văn : Tôi và âm nhạc, Tôi và rượu, Tôi và cừu, Giấc mộng đại học của tôi, Đọc sách tuổi ấu thơ …đó là những dòng tự sự vừa thủ thỉ cam chịu, lại vừa tung hoành và đầy rẫy những khát khao chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức, cùng đam mê đến cháy lòng những điều bình thường, giản dị !...
            Ở phần viết về văn chương và các văn nghệ sĩ, ta lại thấy một Mạc Ngôn chững chạc, lọc lõi và hơi kẻ cả, nó khác hẳn với một Mạc Ngôn dại khôn, khôn dại và đam mê ở những trang viết kia. Phần viết này đánh dấu một chặng đời trưởng thành và thành đạt, một chặng đường văn chương thể hiện sự vượt trội của Mạc Ngôn trên văn đàn Trung Quốc và thế giới sau những bứt phá không biết mệt mỏi và có gì đó hơi rồ dại.    
            Nói tóm lại, đọc Mạc Ngôn tạp văn, ta thấy rõ thêm một Mạc Ngôn đa tài và giàu cá tính. Người ta đồ rằng, Mạc Ngôn sẽ tiến xa hơn nữa trên con đường văn chương. Thậm chí, có người đánh bạo mà đưa ra nhận định, rằng cái đích sẽ phải tới trong sự nghiệp văn chương của Mạc Ngôn là Nobel văn học. Sau Cao Hành Kiện với Linh Sơn, rất có thể cái tên tiếp theo sẽ là Mạc Ngôn. Song trước hết, và có lẽ quan trọng hơn, cái đích mong muốn chính là sự mến mộ, là tấm lòng của đông đảo bạn đọc trên khắp thế giới dành cho Mạc Ngôn !...
             
             
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 05.10.2010 18:47:12 bởi tamvanvov >
            #6
              tamvanvov 25.12.2010 15:58:01 (permalink)
              Gửi Ct.Ly
               
              Nhờ bạn đưa hộ bài viết " Tạp văn Mạc Ngôn " vào thư mục của tác giả Nguyễn Chu Nhạc trong Thư viện.
               
              Cảm ơn.
              #7
                Chuyển nhanh đến:

                Thống kê hiện tại

                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                Kiểu:
                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9