Chăm sóc sức khoẻ
NÀO, CHÚNG TA HÃY TẬP THỂ DỤC Các nhà nghiên cứu cho biết rằng càng tập thể dục nhiều thì cơ thể càng khoẻ mạnh hơn.Họ nói rằng người nào tập thể dục thường xuyên sẽ sống lâu hơn. Cho đến bây giờ các nhà nghiên cứu đã hiểu rằng tập thể dục có thể làm cho tim khoẻ hơn. Nhưng họ không đồng ý quan điểm cho rằng hiệu quả của việc tập thể dục thường xuyên sẽ ngăn chặn một số vấn đề của sự lão hoá. Họ bất đống với ý kiến cho rằng tập thể dục có thể chống lại sự suy nhược của cơ và xương về kích cỡ. Trung Tâm Bảo Vệ và Kiểm Soát bệnh tật của Liên Bang Mỹ khuyên mỗi người Mỹ nên tập thể dục ít nhất 30 phút mỗi ngày trong tuần. Nhiều chuyên gia đã đồng ý. Nhưng các nhà nghiên cứu tại Đại Học Stafort nói rằng tập thể dục nhiều hơn nữa sẽ có lợi cho cơ thể. Họ nói rằng hiệu quả của việc tập thể dục sẽ không ngừng làm tăng hoạt động thể chất mạnh mẽ hơn. Họ cũng nói rằng thể dục sẽ giúp giảm nguy cơ mắc bệnh tim.Tuy nhiên các nhà nghiên cứu nói rằng tập thể dục với cường độ mạnh như việc chạy bộ sẽ gây bệnh viêm khớp hoặc gây tai hại đến cơ thể. Bệnh viêm khớp làm căng phồng các khớp xương. Bác sĩ W.Paul sing tại trường Y Khoa thuộc Đại Học Stanfort đã dẫn đầu cuộc nghiên cứu về ảnh hưởng của thể dục đối với sự lão hoá. Bộ biên niên sử của Trung Tâm Nội Khoa đã ấn hành những kết quả này. Trong khoảng 8 năm các nhà nghiên cứu đã xem xét những ảnh hưởng của việc chạy bộ đường dài. Họ đã nghiên cứu hai nhóm người 500 thành viên chạy bộ được xếp vào một nhóm. Tất cả các thành viên của nhóm ít nhất khoảng 50 tuổi. Mỗi tuần mỗi người chạy khoảng 4 giờ. Có khoảng hơn 400 người không tham gia chạy bộ đã được xếp vào nhóm khác. Vào giai đoạn cuối của 8 năm thử nghiệm các nhà nghiên cứu đã xem xét sự khác nhau của hai nhóm này. Họ đã nhận thấy rằng những người chạy bộ thuộc phái nam sẽ chậm lão hoá hơn 40% so với những người không chạy. Sự khác nhau giữa hai nhóm thuộc phái nữ thì rõ ràng hơn nhiều. Những người chạy thuộc phái nữ sẽ chậm lão hoá hơn 89% so với những người không chạy. Các nhà nghiên cứu nói rằng cả hai nhóm người trên đều cho thấy rằng nếu tập nhiều thì dễ bị thấp khớp. tuy nhiên người nào chạy bộ thì chậm phát bệnh thấp khớp hơn. Bác sĩ Sing nói rằng những người chạy bộ vẫn bị tác hại về thể chất nhưng vẫn làm cho người ta khoẻ mạnh tim hoạt động tốt và cơ thể cường tráng. Dịch theo Comeon! Let’s exercise! – Polytechnic News – Science report- Voice of America
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.06.2010 09:10:49 bởi bunthang >
CUỘC CHIẾN CHỐNG LẠI CĂN BỆNH ALZHEIMER’S VẪN ĐANG TIẾP TỤC Các nhà khoa học Mỹ nói rằng cuộc nghiên cứu của họ có thể xác định được bệnh nhân mắc bệnh Alzheimer’s bằng một cuộc kiểm tra đơn giản. Cuộc kiểm nghiệm có liên quan đến việc sử dụng thuốc nhỏ mắt được sử dụng rộng rãi khi bác sĩ khám mắt người bệnh. Các nhà khoa học ở đại học Harvard đã dẫn đầu cuộc nghiên cứu này. Tạp chí khoa học gần đây đã cho đăng kết quả của cuộc nghiên cứu. Bệnh Alzheimer’s phá huỷ các tế bào thần kinh trung ương trong não của người già. Bệnh làm bệnh nhân dần dần mất cả các khả năng thuộc về thần kinh. Bệnh làm mất trí nhớ bệnh nhân. Sau cùng bệnh sẽ dẫn đến tử vong. Hiện chưa có thuốc chữa khỏi căn bệnh này. Khoảng một trong số 10 người Mỹ trên 65 tuổi và nhiều người trong độ từ 40 đến 50 bị bệnh. Các bác sĩ đang tiến hành một loạt các cuộc thử nghiệm để đo đạc xem xét các phản ứng não và các khả năng thần kinh tổng quát đối với các bệnh nhân bị nghi mắc bệnh. Các cuộc thử nghiệm như trên hết sức tốn kém. Phương pháp mới ít tốn kém hơn so với các cuộc thử nghiệm hiện thời. Trong suốt cuộc kiểm tra mắt một dạng loãng thuốc lỏng đươc nhỏ vào mắt. Chất lỏng này có ảnh hưởng tức thời đến điểm tròn màu đen được gọi là con ngươi nằm ngay giữa ở mỗi mắt. Chất thuốc lỏng này làm cho con ngươi mắt rộng ra thêm. Các nhà nghiên cứu đã thử loại thuốc này trên 19 người bị nghi mắc bệnh Alzheimer ‘s. Các đồng tử mắt của 18 trong số 19 người phình ra rất rộng. Các nhà nghiên cứu cũng kiểm tra 40 người khác không bị nghi mắc bệnh Alzheimer’s thì thấy rằng các đồng tử mắt của nhóm người này không phình ra nhiều. Cuộc kiểm tra mắt có khả năng nhận biết người nào sẽ phát bệnh trong nhiều tháng hoặc ngay cả trong nhiều năm trước khi họ bắt đầu mất hết khả năng thần kinh. Ở một trường hợp một cụ ông trong cuộc nghiên cứu có các đồng tử mắt rộng hoác sau khi cụ được tiêm thuốc. Tuy nhiên các khả năng thần kinh và não bộ của cụ tỏ ra rất bình thường. Chín tháng sau cụ được tái khám. Các cuộc thử nghiệm mới này chỉ ra rằng người đàn ông này đang bắt đầu mất hết trí nhớ. Các nhà nghiên cứu nói rằng phương pháp chẩn đoán bệnh sớm hết sức quan trọng khi các phương thức mới để chữa bệnh Alzheimer’s được tiến hành. Bất cứ cách chữa trị nào có thể đều được áp dụng ngay lập tức để ngăn chặn các tế bào thần kinh trung ương trong não bộ khỏi chết đi. Các nhà nghiên cứu hoàn toàn tin tưởng vào các cuộc thử nghiệm mới này đối với căn bệnh Alzheimer’s. tuy nhiên họ nói rằng họ cần phải kiểm tra thêm nhiều người nữa nhằm chứng minh rõ thêm cho khám phá mới này. Trung tâm nghiên cứu bệnh Alzheimer’s ở trường Đại học Penesylvania đang chuẩn bị tiếp tục cuộc nghiên cứu này. Dịch theo “The fight against Alzheimer’s disease is going on and on!” – Polytechnic News – Science report- Voice of America.
MỐI LIÊN QUAN GIỮA MÔI TRƯỜNG VÀ BỆNH UNG THƯ TUYẾN TIỀN LIỆT
Các nhà nghiên cứu ở Mỹ đã khám phá ra một rắc rối về gen mà họ tin rằng nó có thể gây ra ung thư tuyến tiền liệt. Các nhà khoa học nói rằng việc rắc rối gen này ngăn cản sự sản sinh một loại prôtêin có tên Enzyme. Chất Enzyme xuất hiện để bảo vệ chống lại các chất gây bệnh ung thư có trong môi trường. Các nhà khoa học nói rằng nếu đúng chính điều này là nguyên nhân gây bệnh thì các cuộc thử nghiệm sẽ được xúc tiến để xác định nguồn gốc bệnh ung thư tuyến tièn liệt trước khi phát bệnh. Các nhà nghiên cứu của trường Y Khoa John Hopkins ở Baltimore, Maryland đã tiến hành cuộc nghiên cứu . Kết quả được đăng trên các bài viết của Viện Hàn Lâm Khoa Học Quốc Gia. Cuộc nghiên cứu tiến hành trên 91 người mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Trong số 88 người này thì các nhà nghiên cứu đã không thể tìm thấy enzyme có khả năng chống lại ung thư được gọi là glutafyol estraferace. Nhưng họ lại tìm thấy số lượng lớn enzyme ở người khoẻ mạnh. Enzyme này chứa trong một phần của nhóm hoá chất sinh ra trong cơ thể giúp chống lại bệnh ung thư. Bác sĩ William Nelson dẫn đầu cuộc nghiên cứu. Ông nói rằng cuộc nghiên cứu trước đây đã cho thấy rằng việc ăn các loại rau quả sẽ làm tăng sự sản xuất các enzyme chống ung thư tương tự. Các lọai rau như bông cải, cải súp lơ và bắp cải. Tuy vậy các nhà nghiên cứu không chắc rằng việc thay đổi chế độ ăn uống có giúp tránh khỏi sự rắc rối về gen này hay không. Các cuộc nghiên cứu cho thấy rằng tỉ lệ tử vong do bệnh ung thư tuyến tiền liệt rất khác nhau ở mỗi vùng trên thế giới. Bác sĩ Nelson lưu ý rằng ở Mỹ tỉ lệ tử vong vì bệnh ung thư tuyến tiền liệt cao. Tỉ lệ tử vong này thấp ở những đàn ông Nhật và Trung Quốc sống ở Châu Á. Tuy thế ông còn nói rằng các cuộc nghiên cứu khác lại cho thấy tỉ lệ tử vong vì bệnh này gia tăng trong số đàn ông Nhật đến sống ở Mỹ. Điều này có nghĩa rằng chế độ ăn uống hay các ảnh hưởng khác của môi trường có liên quan đến bênh ung thư tuyến tiền liệt. Bác sĩ Nelson nói rằng các nhà khoa học đang làm việc với những mô thử nghiệm trong phòng thí nghiệm có thể sử dụng một loại thuốc làm cho gen bị rắc rối làm việc bình thường lại. Nhưng ông nói rằng không rõ là thuốc sẽ được tiến hành trên người hay không. Bệnh ung thư tuyến tiền liệt là bệnh ung thư thông thường nhất ở đàn ông Mỹ và nhiều nước công nghiệp khác. Hàng năm nó tác hại đến gần 200.000 đàn ông. Các nhà nghiên cứu hy vọng rằng việc khám phá sẽ giúp họ biết về cách thức mà môi trường ảnh hưởng đến sự phát triển của bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Dịch theo The Link between environment and prostate cancer – polytechnic news- Science report – voice of America
GIÁ TRỊ CỦA DƯỢC THẢO Trong các chương trình tiếng Anh đặc biệt trước đây chúng tôi đã bàn về các loại thuốc trong thiên nhiên. Chúng tôi đã nêu lên sự biến mất của các loại cây có tác dụng y học. Nhiều loại cây được sử dụng như những lọai dược liệu thiên nhiên đang biến mất vì những vùng đất mà chúng phát triển đang bị khai phá. Kiến thức về các lọai dược thảo bị mai một khi các thầy lang của bộ lạc qua đời. Nhiều phương pháp trị bệnh cổ truyền cũng đang dần dần bị lãng quên do ảnh hưởng của nền y học hiện đại. Vườn thực vật của Hoa Kỳ mong muốn lưu giữ những kiến thức này. Họ đã tổ chức một loạt các cuộc triển lãm về các loại cây có công dụng y học. Các quan chức thuộc Vườn thực vật này nói rằng họ muốn cho công chúng Hoa Kỳ thấy được người ta sử dụng những loại dược thảo này như thế nào trên khắp thế giới. Vườn thực vật này ở gần Toà nhà thủ đô ở Washington. Bên trong nhà kính có trồng các loại cây lớn và các loại thảo mộc sinh sống trong điều kiện ấm áp quanh năm. Vườn thực vật đã tổ chức những cuộc triển lãm đặc biệt thay đổi theo mùa về các loại hoa đủ màu sắc. Mới đây họ đã trưng bày thêm các loại dược thảo vì sự quan tâm của công chúng và của các nhà khoa học về các loại dược thảo này ngày càng gia tăng. Hầu hết các cuộc trưng bày là những cây mọc tự nhiên ở vùng Bắc Mỹ. Tuy nhiên có một cuộc trưng bày về các loại thuốc cổ truyền của Trung Hoa gồm cả cây tươi và khô. Nó mô tả cách thức sử dụng các loại cây này trong hệ thống y học Trung Quốc. Chẳng hạn như quả đỏ của cây táo ta được dùng để giúp ngủ ngon. Lá của loài cây fishwoad dùng để đắp lên chỗ rắn cắn. Lá này luộc chín và nước luộc dùng để hạ nhiệt và ngừa bệnh ung thư. Nấm, meo, mốc, men là các loại thực vật không có lá và không có diệp lục tố. Sitakê là một loài nấm có công dụng y học. Người Trung Hoa ăn nấm này để làm giảm huyết áp và nguy cơ gây ung thư. Thổ dân da đỏ ở Mỹ sử dụng rễ cây Cohosh đen đã được chà và phơi khô dùng giảm đau cho phụ nữ khi sinh nở. Người Mê hi cô dùng nước ép của cây Poinsettia để chữa trị những căn bệnh về da. Các quan chức thuộc vườn thực vật hy vọng rằng các cuộc triễn lãm sẽ giúp cho người dân thấy được giá trị của thực vật đối với con người và môi trường sống. Dịch theo “ The value of medical plants” - polytchnic news- Science report- Voice of America.
MỘT CHÂT MỚI CÓ THỂ THAY THẾ CHO MÁU Các nhà nghiên cứu tại trường đại học Illinois cho biết việc bào chế một chất hoá học có khả năng thay thế máu. Tại Hoa Kỳ trước đây chỉ có chất fluorescein mới được sử dụng thay thế máu. Chất này được tiếp vào máu trong suốt những ca phẫu thuật tim. Nhưng chất fluorescein không thể thay thế hoàn toàn cho máu. Bởi vì Fluorescein chỉ mang khoảng 50% số lượng oxygen so với số lượng oxygen của máu thật. Các nhà nghiên cứu tại illinois cho biết rằng chất mà họ nghiên cứu mang nhiều oxygen hơn máu thật là 50% và nó có thể được giữ bên ngoài cơ thể một cách an toàn trong khoảng thời gian lâu hơn. Chúng có thể giữ được đến sáu tháng còn máu thật chỉ có thể giữ được khoảng một tháng. Các nhà nghiên cứu đã tiến hành bào chế ra các tiểu cầu hemoglobin. Hầu như tình cờ họ khám phá phương pháp tạo ra chất này. Một số nhà nghiên cứu của trường đại học Illinois đã tiến hành thử nghiệm các loại protein máu còn gọi là chất hemoglobin. Một số khác nghiên cứu các ảnh hưởng hoá học của các âm thanh tầng số cao. Qua công trình nghiên cứu 2 dự án này, họ phát minh cách tạo ra ra các tiểu cầu hemoglobin. Khi các tầng số âm thanh cao xuyên qua thể lỏng hemoglobin và tách thể lỏng này ra nhiều thành phần các tiểu cầu. Điều này tạo ra những phân tử hemoglobin dạng cầu cực nhỏ và rỗng bên trong các tầng sóng âm thanh này cũng tạo ra sức nóng và áp suất cao. Sức nóng và áp suất này kéo dài khoảng 1 giây và tạo ra năng lượng cho các phân tử máu. Năng lượng này tạo ra sự liên kết hoa shọc giữa các phân tử. Chất acid amin trong protein giữ cho các tiểu cầu liên kết với nhau. Đây cũng là chất giữ liên kết phân tử tóc và móng tay. Các tiểu cầu hemoglobin nổi lên trên mặt thể lỏng vì chúng rất nhẹ. Sau đó chúng dễ dàng tách ra khỏi thể lỏng đó. Các nhà nghiên cứu cho biết công trình tạo ra chất hemoglobin rất tốn kém. Nhưng các nhà khoa học của bang Colorado có thể giải quyết vấn đề này bằng cách dùng vi khuẩn ADN để tạo ra chất hemoglobin. Cần phải tiến hành nhiều cuộc nghiên cứu sau đó trước khi sử dụng tiểu cầu hemoglobin để thay thế máu thật. Chẳng hạn như các nhà khoa học cần phải tìm ra thêm nhiều cách ứng dụng y học khác trong vấn đề thay thế máu. Dịch theo A NEW SUBSTANCE COULD REPLACE BLOOD Polytechnic news– science report- Voice of America
GDNF CÓ THỂ NGĂN NGỪA SỰ PHÁ HUỶ TẾ BÀO Các nhà nghiên cứu cho biết một hoá chất tự nhiên tìm thấy trong não có thể bảo vệ dây thần kinh khỏi bị huỷ hoại do những bệnh về não và khối dây thần kinh cột sống. Các bệnh này gồm bệnh Parkinson và ALS.Tế bào thần kinh của những người mắc bệnh này sẽ dần dần bị hư hỏng. Đối với bệnh Parkinson các tế bào não sản xuất hoá chất không cần thiết ngaỳ một ít. Kết quả là người bệnh không còn khả năng điều khiển cử động của họ. Nếu là bệnh ALS các tế bào trong não và nhóm dây thần kinh cột sống sẽ bị huỷ hoại. Điều này khiến cơ đánh mất khả năng cử động. Đã có bốn nhóm nghiên cứu riêng lẻ đang làm việc ở Hoa Kỳ và Thuỵ Điển. Họ tường trình kết quả trên tạp chí British Publication Nature. Họ nói rằng một chất được tìm thấy trong não hồi có thể ngăn ngừa sự phá huỷ tế bào. Nó được biết đến qua các ký tự GDNF. Các nhà nghiên cứu đã thử nghiệm GDNF nhân tạo trên các động vật nhỏ. Nhưng thú vật không sinh bệnh một cách tự nhiên. Vì thế các nhà khoa học phải chữa trị các con thú để ghi lại những ảnh hưởng của các căn bệnh. Ví dụ như các nhà nghiên cứu ở học viện Carolinska - Thuỵ điển sử dụng độc tố giết tế bào não của chuột sau đó họ đưa GNDF vào. Một số lớn các tế bào não bị ảnh hưởng đã sống lại. Một số chuột được cấy GDNF trước khi tiêm độc tố và các tế bào này đã không chết. Trong một thí nghiệm khác các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ ở California cắt các tế bào thần kinh chuột cống. Sau đó họ cấy GNDF vào 85 % tế bào sống sót trong khi đối với chuột cống không cấy GDNF thì chỉ 50%. Hai nhóm nghiên cứu khác của Hoa Kỳ dùng chất bảo vệ tế bào thần kinh được trích từ phôi thai gà con hoặc chuột cống vừa mới sinh. Vẫn còn nhiều vấn đề cần được làm rõ trước khi GNDF được thử nghiệm trên người. Một là cách cấy GNDF vào não. Các phân tử của nó quá lớn không thể đi vào não qua mạch máu. Thú vật trong các cuộc thí nghiệm nhận GNDF trực tiếp từ các ống. Các nhà khoa học đang nghiên cứu cách mà họ cấy gene bên trong cơ thể. Bằng cách đó cơ thể có thể sản xuất GDNF tự nhiên. Các nhà nghiên cứu vẫn chưa khẳng định được GNDF có thể thành công ở người hay không. Họ nói rằng một hoá chất khác cho thấy nhiều hứa hẹn từ các thử nghiệm ở thú vật nhưng lại gây quá nhiều vấn đề khi con người sử dụng. Dịch theo GDNF MAY PROTECT BRAIN CELLS AGAINST DAMAGE – Sience Report – Polytechnic News – Voice of America.
SỰ LO LẮNG SẼ GÂY RA ĐỘT TỬ Ở TIM Hiện có một bằng chứng cho thấy rằng mỗi năm có khoảng hàng ngàn người bị chết vì sợ hãi. Các khoa học gia đã phát hiện thấy rằng những người đàn ông lúc nào cũng cảm thấy lo lắng hoặc sợ hãi thì có nguy cơ chết vì đau tim gấp 4 lần người khác. Người ta gọi đó là tình trạng đột tử vì bệnh tim. Các khoa học gia tại trường Y KHOA HARVARD đã nghiên cứu một nhóm hơn 2000 đàn ông. Nghiên cứu này là một phần trong một cuộc kiểm tra được tiến hành cách đây 32 năm. Họ trong độ tuổi từ 21 đến 80. Vào lúc đó khi tham gia vào nghiên cứu tất cả trong số họ đều không có bệnh tật gì. Bác sĩ Istiro Kowachi là người đứng đầu cuộc nghiên cứu này. Họ nói các bằng chứng đáng ngạc nhiên là những người đàn ông lo lắng sợ hãi thì có nguy cơ chết đột ngột cao hơn cả những người hút thuốc lá. Bác sĩ Kowachi nói mỗi năm có khoảng 300.000 người Mỹ bị chết vì chứng đột tử ở tim. Các khoa học gia nói rằng họ không hoàn toàn hiểu mọi chuyện song họ nói rằng những căng thẳng tâm thần trầm trọng có lẽ gây nên các đột xung điện dữ dội ở tim. Tim bị đập quá nhanh hoặc quá chậm. Sự không kiểm soát nhịp đập của tim sẽ dẫn đến tử vong. Bác sĩ Kowachi nói các cơn đau tim thông thường là do sự tắc nghẽn các động mạch cung cấp dưỡng khí đến tim, được gọi là chứng nhồi máu cơ tim. Bác sĩ Kowachi nói rằng các nhà nghiên cứu phát hiện thấy không có bằng chứng cho thấy người hay lo lắng thì gặp nguy hiểm với chứng bệnh tim này. Khi nghiên cứu này bắt đầu vào năm 1961, những người đàn ông trong nghiên cứu này đã được hỏi để trả lời 5 câu hỏi về người, tình huống làm họ sợ hãi, căng thẳng. Gần đây, những người đàn ông đã được hỏi lại để tìm ra những người có nguy cơ bị tử vong do sợ hãi. Bác sĩ Kowachi nói rằng nghiên cứu này không cho rằng những người hay lo sợ sẽ bị chết vì đột tử ở tim. Nhưng ông nói các nhà nghiên cứu tin rằng có các bằng chứng thuyết phục về sự liên quan giữa hai chuyện này. Nhóm nghiên cứu hiện đang nghiên cứu các mức độ lo lắng trong số hơn 200.000 y tá trong một nghiên cứu về sức khỏe của phụ nữ. Bác sĩ Kowachi nói rằng có các bằng chứng cho thấy sự lo lắng và các khuyết tật thường có liên quan đến sức khỏe ở phụ nữ. Nhưng, ông nói rằng các nhà nghiên cứu đang hy vọng tìm kiếm khám phá xem có một mối liên quan giữa sự lo lắng và chết vì bệnh tim ở phụ nữ giống như ở đàn ông không. Dịch theo WORRY WILL CAUSE SUDDEN CARDIAC DEATH polytechnic news – science report- voice of AMERICA.
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu: