01.
Bia đá
_ Kính thưa quý khách, chuyến xe Hà Nội- Thanh Hóa chuẩn bị cập bến, xin quý khách kiểm tra hành lý cẩn thận trước khi xuống xe. Chân thành cám ơn quý khách đã sử dụng dịch vụ của công ty Mai Linh chúng tôi, chúc quý khách một ngày vui vẻ và tốt lành.
Ngọc Cát choàng tỉnh khi giọng nói dịu dàng của cô nhân viên trên xe cất lên qua một chiếc loa phát thanh cầm tay. Cô vén rèm nhìn ra cửa sổ. Khung cảnh bên ngoài vô cùng náo nhiệt. Từng chiếc xe bus cao lớn chậm chạp nối đuôi nhau vào bến. Những người bán hàng rong đầu đội thúng lạc, tay lủng lẳng hai ba bịch trứng cút tấp nập chào mời khi khách xuống xe.
“Vậy là đến Thanh Hóa”, Ngọc Cát nghĩ thầm. Sau hai tiếng đồng hồ ngủ vùi trên xe, khi Ngọc Cát mở mắt ra là đã thấy những rặng núi xanh xanh của Thanh Hóa ẩn hiển trong những dải mây. Ngọc Cát khoan khoái, cô quay sang đánh thức bố dậy. Lúc này ông vẫn còn ngủ, gọng kiếng xanh rời khỏi mắt, trễ xuống, đầu nghẹo sang một bên và hai tay khoanh lại với nhau. Ngọc Cát mỉm cười, cô lay vai ông, tay ôm chiếc balô đỏ và khoác chiếc giỏ xách màu hồng lên người.
Được con gái đánh thức, Hùng Ân bừng tỉnh. Nhác thấy xe đã cập bến, ông vươn vai khiến các khớp xương trong người kêu răng rắc, rồi thu dọn hành lý cùng Ngọc Cát bước xuống xe. Vừa đặt chân xuống, hai cha con đã bị một nhóm xe ôm vây quanh, kẻ chèo người kéo lao nhao với giọng xứ Thanh khó nghe. Quá quen với kiểu lôi kéo, giành giật khách của cánh xe ôm, Hùng Ân ngoắt một chiếc taxi đậu gần đó rồi cùng Ngọc Cát chui vào trong, bỏ mặc những cái nhìn thất vọng, xen lẫn tiếng chửi rủa của cánh xe ôm khi gặp phải khách cứng tay.
Sau khi nói tên khách sạn công đoàn cho người tài xế, Hùng Ân ngả người vào chiếc ghế bọc da êm ái, mắt lim dim. Ngồi bên cạnh ông, Ngọc Cát thích thú ngắm phố phường Thanh Hóa. Nhìn sự háo hức trong đôi mắt con gái, ông mỉm cười. Là một giáo sư khảo cổ, suốt mấy năm qua, Hùng Ân chỉ mải miết lên non xuống biển tìm kiếm di tích, khai quật những ngôi mộ cổ. Bạn thân ông là cuốc đất, cái xẻng. Mối quan tâm duy nhất của ông là khảo cổ, nên ông quên mất mình đã có gia đình, có một người vợ xinh đẹp và một đứa con ngoan. Đến khi nhớ ra, tất cả đối với Hùng Ân đã quá muộn. Người vợ xinh đẹp đã ngả vào vòng tay một người đàn ông khác, kết quả cuối cùng cho mười năm tay ấp gối kề là một lá đơn ly hôn.
Hùng Ân lặng lẽ thở dài, tiếng thở dài sâu trong tâm thức. Ông không trách vợ mà chỉ trách bản thân. Mái ấm tan vỡ, giờ đây, niềm an ủi lớn nhất của ông là Ngọc Cát, đứa con gái mà ông yêu thương.
Giống như ông, Ngọc Cát rất yêu thích khảo cổ, yêu thích đến mức đến mức cô đã quyết định năm sau sẽ thi vào đại học khoa học xã hội và nhân văn ngành lịch sử học, với ý muốn sẽ nối nghiệp cha tìm theo dấu vết tiền nhân. Ngọc Cát có một niềm say mê kỳ lạ với khảo cổ, dường như cô sinh ra để nối lại hiện tại với cổ xưa. Ngọc Cát đọc rất nhiều sách báo, cũng như đào sâu về thuật phong thủy để tìm ra các mộ huyệt chôn sâu dưới lòng đất cách đây hàng trăm năm. Đối với Ngọc Cát, những mảnh vỡ lọ, sành sứ hay chỉ đơn giản là một mũi tên, cũng có thể hé mở được sinh hoạt ngày xưa của tiền nhân thế nào.Theo chân Hùng Ân đi khai quật di tích, Ngọc Cát đã khiến các đồng nghiệp của cha khen ngợi vì kiến thức tích lũy, cũng như hiểu biết về lịch sử phong phú của cô, làm ông rất mực tự hào.
Vì hai cha con có cùng sở thích, cùng niềm đam mê, nên hai cha con tối ngày bàn luận không ngớt mỗi khi viện khảo cổ tìm thấy một cổ vật nào đó. Chuyến đi Thanh Hóa lần này theo lời ông Hùng Ân nói là để nghỉ xả hơi, nhưng Ngọc Cát biết ông lại hướng sự chú ý đến hàng nghìn tấm bia đá ở bãi đá cổ rộng, hay còn gọi là khu mộ cổ, nơi chôn cất nghĩa quân của Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam sơn.
Đối với mọi người, những tấm bia đá vô danh ấy có lẽ không tạo được sự quan tâm nhất định, nhưng đối với người say mê khảo cổ như Ngọc Cát, thì dưới một tất đất chính là cuộc sống thưở xưa của cha ông, dù là một phiến đá nhỏ hay một cái bát sành đã mẻ cô cũng không bỏ qua. Chính vì sự đam mê ấy, nên sau giờ nghỉ ngơi ăn uống lấy lại sức ở khách sạn, hai cha con Ngọc Cát không đi thăm thú động Từ Thức, núi Nga Mi hay suối cá thần Cẩm Lương, mà lại khăn gói đến thế miếu ở Lam kinh. Sau đó, cả hai lại lên đường đến xã Ngọc Phụng, huyện miền núi Thường Xuân để đến bãi đá cổ, với hy vọng sẽ tìm được một cổ vật nào đó qua những tấm bia đá bị bào mòn bởi thời gian.
oOo
Ngọc Cát đứng trên một phiến đá cao, ở đây, cô có thể nhìn bao quát xuống phong cảnh phía dưới. Trải dài trong mắt Ngọc Cát là đồng ruộng mênh mông, núi non bạt ngàn, con sông bạc lấp lánh trong tàn cây xanh, những dãy núi kề vai nhau ôm ấp, tạo thành một bức tranh thiên nhiên hoang sơ mà tuyệt đẹp. Cách đó không xa, ông Hùng Ân đang đi dọc theo bãi đá cổ để xem xét những tấm bia đá. Cách đây không lâu, dân ở xã Ngọc Phụng tìm thấy rất nhiều hiện vật cổ như kiếm, dao, ống trúc thư bằng gỗ, tương truyền còn sót lại từ thời Lam sơn dấy binh. Hùng Ân nở một nụ cười, khiến gương mặt ông như giãn rộng, dưới những lớp đất này có thật là xương cốt của những nghĩa binh Lam sơn khi xưa hay không, hay chỉ là một mối bùn đất, đến ngay cả một khúc xương cũng chẳng còn.
Có thể nói, đối với Hùng Ân, ông thích tìm thấy một ngôi mộ cổ hơn là những tấm bia đá vô danh này. Mang tiếng là giáo sư khảo cổ, nhưng thường lại chính người dân địa phương tìm thấy mộ rồi đánh tiếng lên viện, sau đó họ mới cử các ông xuống để tiến hành khai quật. Mơ ước của Hùng Ân là đích thân tìm thấy một ngôi mộ cổ xưa, thi thể bên trong vẫn còn nguyên vẹn như đang sống cùng bí ẩn thân thế của họ, đó mới là quả chín của cuộc đời làm khảo cổ như ông.
_ Bố ơi, bố nhìn xem con vừa tìm được cái gì nè!
Tiếng gọi lanh lảnh của Ngọc Cát khiến Hùng Ân dứt suy nghĩ. Sải những bước chân dài tiến về phía Ngọc Cát, Hùng Ân sửng sốt với những gì ông vừa nhìn thấy. Ngọc Cát đang ngồi xổm trên một đám cỏ, hai tay và chiếc áo thun trắng dính đầy đất cát, dưới chân là một phiến đá xanh. Do ngôi mộ nằm khuất trong rừng lại bị dây leo phủ kín, lẫn trong những bụi cây rậm rạp nên bình thường rất khó phát hiện ra.
Ban nãy, sau khi đi xem xét hết những bia đá trong bãi đá cổ, Ngọc Cát đã dấn sâu vào tận khu rừng phía sau bởi bản tích thích những nơi hoang dã, trong lành tự nhiên. Càng vào sâu, cảnh đẹp như càng trải dài ngút mắt, bóng cây xanh, luồn gió mát lành, tiếng chim hót ríu rít, tất cả khiến Ngọc Cát khoan khoái. Vì mải mê ngắm cảnh đẹp, Ngọc Cát không để ý dưới chân, kết quả là cô ngã uỵch xuống đất đau điếng, nhưng cũng vì thế mà phát hiện ra tấm bia đá này.
_ Tấm bia này tại sao lại lạc lõng ở đây? Sao nó không được chôn cùng với những tấm bia đá kia?
Vừa dùng tay nhổ những sợi dây leo bám trên tấm bia, Hùng Ân vừa thắc mắc. Cũng có suy nghĩ như cha, nhưng Ngọc Cát không lên tiếng vội. Lấy chiếc khăn ướt mang theo, Ngọc Cát lau chùi phiến đá một cách cẩn thận. Cô hy vọng đọc được những dòng chữ khắc trên phiến đá, qua đó sẽ hiểu rõ được nguồn gốc của nó, hoặc chí ít ra cũng biết sự kiện viết trên tấm bia là gì.
Hùng Ân như nằm rạp xuống mặt đất, ông chăm chú quan sát hình dạng tấm bia. Tấm bia này một nửa chôn sâu xuống dưới đất, một nửa lộ thiên, hai góc vuông vức, mỗi đầu chạm trổ hai cánh hoa mai, xung quanh viền hai con rồng đang ở thế chầu lưỡng long. Hùng Ân nhíu mày, ông sờ tay vào hình khắc đôi lưỡng long, cảm thấy nó thô ráp và sắc cạnh. Khác với hình tượng con rồng tròn lẳn thời Lý, thêm cặp sừng và đôi tay là rồng thời Trần, con rồng trên tấm bia này đầu to, bờm lớn ngược ra sau, mào lửa mất hẳn, thay vào đó là một chiếc mũi to. Mép trên của miệng rồng vẫn kéo dài nhưng được vuốt gần thẳng ra, bao quanh có một hàng vải răng cưa kết lại như hình chiếc lá, thông qua một số đặc điểm đó, Hùng Ân có thể xác định đây là con rồng từ thời hậu Lê.
Càng quan sát phiến đá, Hùng Ân càng cảm thấy lạ. Đây là một phiến đá xanh rất quý hiếm, là loại đá không có đường vân, không có màu sắc pha tạp. Những khối đá này phải khai thác bằng sức người, phải đục đẽo tách ra khỏi núi, sau đó cẩn thận vận chuyển nhẹ nhàng xuống chân núi. Trái ngược với những tấm bia bên ngoài bãi đá cổ, những nét chữ khắc trên tấm bia này không bị thời gian bào mòn, ông vẫn còn có thể xem rõ. Dò dẫm những chữ khải chân khắc trên tấm bia, Hùng Ân càng đọc càng ngạc nhiên, đây không phải là một tấm bia khai báo danh tính hay công trạng của người đã khuất, mà nội dung của nó lại liên quan đến tâm tư tình cảm của người đã khắc phiến đá này hơn.
“ Thuận Thiên năm thứ nhất, đất nước thanh bình, giặc Minh rút về nước, giang sơn thu về một mối, nhưng không có nụ cười của nàng thì ta có lấy cả giang sơn này cũng có được trọn vẹn đâu.
Nàng là người ta yêu nhất trên thế gian này, nàng là người luôn ở bên cạnh ta trong suốt bao năm nằm gai nếm mật, nàng là người ta luôn an giấc mỗi khi kề bên. Không có nụ cười của nàng, ta không thể tìm thấy niềm vui. Không có đôi mắt nàng, ta không biết hình dáng của ta ra sao. Không có bàn tay của nàng, giấc ngủ ta không thể tròn đêm. Nàng đã đi, nàng đã rời khỏi ta. Nàng biết rằng nàng rất quan trọng với ta, vô cùng quan trọng với ta, nhưng nàng vẫn đi, nàng vẫn muốn ra đi…”
Nội dung của tấm bia đá chỉ có như thế, nhưng Ngọc Cát chợt thấy cay nơi khóe mắt. Lời lẽ của người khắc những chữ này vô cùng tha thiết, tình cảm của người ấy đối với người con gái anh ta yêu vô cùng sâu nặng. Nó khiến Ngọc Cát cảm động, khiến Ngọc Cát cảm thấy ai mà được người này yêu, quả là một điều hạnh phúc nhất trên đời.
Trong khi Ngọc Cát đang ngẫm nghĩ, Hùng Ân tiếp tục đọc lại một lần nữa những chữ khắc trên tấm bia đá. Khi đọc hết những chữ cuối cùng, quai hàm ông trễ xuống vì sửng sốt. Cuối những dòng chữ khắc là một dấu khắc hình ấn triện. Cái ấn triện này Hùng Ân đã từng thấy trên văn bản thư tịch cổ khi tham dự những buổi thuyết giảng về hình tượng nghệ thuật thẩm mỹ thời hậu Lê. Nếu ông nhớ không lầm, cái ấn triện trên phiến đá này chính là ấn triện Thuận Thiên, và thêm ba chữ Lê thái tổ ngay bên cạnh dấu triện, khiến ông Hùng Ân càng không thể tin vào được những gì ông vừa khám phá ra
_ Ngọc Cát, con có nghĩ dưới tấm bia đá này là một ngôi mộ không?
_ Con nghĩ có đấy bố ạ!!
Tiếng Ngọc Cát từ xa vọng tới, Hùng Ân ngoảnh lại thì thấy con gái ông đang đứng trên một tảng đá lớn, mắt nhìn xung quanh, miệng lẩm bẩm, dường như đang suy tính một chuyện gì đó. Tụt xuống khỏi tảng đá, Ngọc Cát hăm hở tiến lại chỗ cha. Mắt cô lấp lánh, gương mặt rạng rỡ khác thường
_ Dưới tấm bia này chắc chắn có mộ bố ạ!
_ Sao con biết?- Hùng Ân đẩy gọng kính lên nằm ngay ngắn trên sóng mũi
_ Bố nhìn xem! Con đã quan sát kỹ càng hết xung quanh, đây chính là thế đất để đặt mộ. Dựa vào thuật phong thủy, hai yếu tố quan trọng để đặt một huyệt mộ chính là long mạch và đắc thủy. Bố thấy đấy, sau lưng tấm bia đá là một ngọn núi cao gọi là Huyền Vũ. Bên tả, hữu đều có hai ngọn núi, tả gọi là Thanh Long, hữu là Bạch Hổ, hai ngọn núi này đứng chầu huyệt mộ, tạo thành vòng tay ngai che chống những luồng ác phong, bảo vệ sinh khí không bị gió xua tan. Phía trước mặt huyệt mộ có một hòn núi nhỏ án ngữ gọi là Chu Tước, như người đứng khoanh tay, vái chào huyệt mộ. Trước mặt tấm bia này là một dòng sông, dòng nước chảy êm đềm quanh co, uốn khúc, bao bọc âm trạch. Tấm bia đá này vừa kết hợp được long mạch và đắc thủy, nếu không dùng làm mộ huyệt thì dùng để làm gì?
Hùng Ân nhìn Ngọc Cát, kiến thức của con gái ông cũng khiến ông phải ngạc nhiên. Chỉ mới mười bảy tuổi mà đã không thua kém một nhà khảo cổ học lâu năm nào, con gái ông sau này phải lấy người có chân mạng đế vương, hay một vị tướng dưới một người trên vạn người mới không uổng tài nó. Ý nghĩ lạ lùng ấy làm Hùng Ân cười phì, thời đại tự do dân chủ này làm gì có vua chúa cho con gái của ông.
Không biết được cha đang nghĩ về mình, Ngọc Cát lại tiếp tục quan sát tấm bia đá, theo như thuật phong thủy, phía dưới tấm bia đá chắc chắn có mộ cổ. Cô rất muốn khám phá xem chủ nhân của ngôi mộ là ai, nhưng ngặt nỗi trong tay lại không có xẻng hay cuốc để đào khối đất này lên. Cùng tâm trạng với Ngọc Cát, Hùng Ân cũng tò mò không kém. Hai cha con quyết định ra chợ mua những thứ cần thiết cho một cuộc khai quật. Lựa chọn đầu tiên của họ là hai chiếc xẻng bộ binh chuyên dụng, được làm theo nguyên bản của Liên xô trong những năm chiến tranh. Ba cạnh của xẻng đều sắc như dao, có thể dễ dàng gọt đẽo bất cứ khối đất nào. Có nó trong tay cộng thêm với lòng kiên trì nếu chẳng may đào trúng đá, Ngọc Cát và ông có hy vọng khám phá được bí ẩn của tấm bia đá bị người đời lãng quên.
Trong rừng sâu Thanh Hóa, huyện miền núi Thường Xuân, có hai bóng người không ngừng đào đất. Những khối đất nâu sẫm bay rào rào trên nền cỏ xanh thẫm, những giọt mồ hôi trắng đục thi nhau rơi xuống, thấm qua những khối đất, nhưng hai chiếc xẻng lấm đất vẫn nhịp nhàng lên xuống đều đặn không ngừng.
Hoàng hôn buông dần, mặt trời treo lưng chừng núi. Cùng lúc đó, một tiếng reo phấn khích vang lên, hai chiếc xẻng cắm phập xuống khối đất vun cao thành gò. Dưới ánh nắng sẫm vàng, một cánh cửa hầm bằng gỗ hiện ra trước sự mừng rỡ của Ngọc Cát và Hùng Ân. Quệt giọt mồ hôi chực rơi vào mắt, Hùng Ân loạng choạng ngồi phệt xuống thảm cỏ, hơi thở ông gấp rút, đứt đoạn do đã phải khổ lao suốt mấy tiếng đồng hồ.
Ngồi bên cạnh ông, Ngọc Cát lại xé thêm một bao khăn ướt để đắp lên mặt. Hai lòng bàn tay cô chai cứng, đỏ ửng do cầm xẻng quá lâu. Nhìn những chiếc móng tay cắt ngắn, Ngọc Cát mỉm cười. Cô không bao giờ để móng tay dài, cô luôn cắt sát chúng, tiện cho công việc đào bới, tìm tòi. Trên trường, Ngọc Cát luôn vùi đầu vào sách lịch sử, nghệ thuật. Phàm bất cứ tìm ra món cổ vật nào, người làm khảo cổ bao giờ cũng phải có những thẩm định sơ bộ trước khi tiến hành qua máy móc, thế nên Ngọc Cát phải năng đọc thật nhiều sách để nâng cao khả năng giám định của mình.
Trong lớp, Ngọc Cát có rất ít bạn, phần vì cô như một con mọt sách, phần vì cô là người sống nội tâm, ít ồn ào náo nhiệt như bạn bè đồng trang lứa. Bạn thân của cô suốt hai năm nay là Mật Nha, với lý lịch khá chuẩn mực cho một cô gái Hà thành, cha là cảnh sát, mẹ là giáo viên.
Ngoại hình của Mật Nha khá lạ, cô có làn da trắng đến bất thường, mái tóc dài đen nhánh và làn môi đỏ tươi, đỏ như quả bimbosota (*) huyền thoại của nước Ấn. Trái ngược với Ngọc Cát, bản tính Mật Nha thẳng thắn, rõ ràng. Mật Nha không phải người xã giao rộng rãi, nhưng khi đã kết bạn với ai thì cô sẽ hết lòng vì người đó.
Trong khi bạn bè trong lớp không hứng thú với khảo cổ, thì Mật Nha lại có vẻ thích thú với công việc của Ngọc Cát. Không dễ gì có bạn tri kỷ, Ngọc Cát dốc hết ruột gan truyền đạt lại kiến thức cho Mật Nha, cũng như những câu chuyện lý thú trong ngành khảo cổ. Bí mật các xác ướp Việt, những lời nguyền mộ cổ lạ lùng trong lịch sử và những kẻ trộm mộ- kẻ thù không đội trời chung của giới khảo cổ, Mật Nha nghe mà quai hàm trễ xuống, đủ hiểu rằng những câu chuyện Ngọc Cát bao giờ cũng là một sự hấp dẫn lớn đối với Mật Nha. Chuyến đi Thanh Hóa lần này vô tình Ngọc Cát phát hiện được một tấm bia đá cổ, và rất có thể dưới tấm bia là một ngôi mộ, lần này về, Mật Nha sẽ nghe được khối chuyện thú vị, cũng như những món quà nhỏ xinh mà Ngọc Cát mang từ xứ thanh về.
Trong khi Ngọc Cát hồi tưởng về Mật Nha, thì ông Hùng Ân cũng đang miên man suy nghĩ. Thủ đô Hà Nội đang tất bật đón chào ngàn năm Thăng Long, suốt tuần qua, báo chí một phen tốn giấy mực khi sở khoa học và công nghệ vớt được một thanh kiếm sắt nằm trên những khối bùn dưới lòng hồ Hoàn Kiếm. Nhân dân quanh vùng truyền miệng đó chính là kiếm thần Thuận Thiên mà vua Lê thái tổ đã trao trả cho rùa vàng. Nhận được chỉ thị của ủy ban nhân dân thành phố, viện khảo cổ học của ông vào cuộc. Sau bao ngày tốn công khảo cứu, căn cứ vào những hoa văn tinh xảo trên thanh gươm sắt, chất liệu sắt trên thanh kiếm tương tự như những vũ khí cổ được tìm thấy ở xã Ngọc Phụng, viện khảo cổ đã công bố kết quả, xác định thanh kiếm ấy có niên định cách đây năm trăm năm, tương đương với thời khởi nghĩa Lam sơn.
Kết quả vừa được công bố, thủ đô dậy lên một làn sóng phấn khích. Truyền thuyết gươm thần Thuận Thiên ngày càng lan rộng và trở nên sống động hơn bao giờ hết. Thanh kiếm hiện đang nằm trang trọng trong viện bảo tàng dưới sự giám sát chặt chẽ của hai viên bảo vệ, và sẽ xuất hiện trước hàng vạn ánh mắt chiêm ngưỡng, thần kính của dân chúng trong đại lễ Thăng Long.
Thanh kiếm thần năm nào Lê thái tổ trao trả cho rùa vàng bây giờ rất có đất dụng võ, với tốc độ phủ sóng chóng mặt của các phương tiện truyền thông, đâu đâu người ta cũng bàn tán về thanh kiếm ấy. Khách du lịch đổ đến Hà Nội đông hơn, người buôn bán tha hồ chặt chém, bảo tàng ngày nào cũng đông nghịt khách đến nỗi cháy vé, quả thật trăm năm mới có một lần.
Hùng Ân lại miên man suy nghĩ, chuyến đi Thanh Hóa lần này quả thật không uổng công, ông luôn mong muốn sẽ có một ngày chính tay khám phá môt hầm mộ chưa ai tìm thấy, mong muốn sẽ khai quật một ngôi mộ hợp chất(*) chứa thi hài người đã khuất bao năm, để tiếp cận gần hơn đời sống của người xưa, với hàng thiên niên kỷ đã lặng lẽ trôi qua. Nếu đây thực sự là một ngôi mộ cổ như con gái ông nói, thì mong ước của ông đã thực hiện được 50%, nhưng nếu đó chỉ đơn thuần là một tấm bia đá, bên dưới chỉ là một cái hố chôn rác bình thường mà không phải là một hầm mộ, thì ông thật sự sẽ rất thất vọng, và lại tiếp thục theo đuổi ước mơ của mình.
Hùng Ân thở phì một hơi, ông nắm chặt cái xẻng trong tay và bật dậy như một con rối bị giật dây, bao sức lực như hồi phục hoàn toàn. Nhìn nắp hầm rêu phong, xám xỉn đang đóng chặt, chứa đựng biết bao bí mật mà ông muốn khám phá, Hùng Ân phấn khích nói nhanh.
_ Nghỉ ngơi thế đủ rồi, bố con ta bắt đầu khám phá hầm mộ thôi!
-o-
(*) Bimbosota: Một loại quả chín, vỏ đỏ tươi, có hai ba hạt nhân đen ở trong. Người Ấn Độ cho rằng môi đỏ như quả bimbosota là rất đẹp.
(*) Mộ hợp chất: Theo giới khảo cổ học, là dành riêng cho một loại hình mộ táng rất đặc thù và “phải theo trong tục lệ triều đình” của vua quan phong kiến Việt của vài thế kỷ.